Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
21/09 Đứng dậy – đi theo Chúa
- Viết bởi Mt 9, 9-13
Đứng dậy – đi theo Chúa.
Thứ Hai tuần 25 thường niên – THÁNH MÁTTHÊU, TÔNG ĐỒ, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG. Lễ kính.
"Hãy theo Ta". - Và ông ấy đứng dậy đi theo Người.
* Thánh nhân là một nhân vật quen thuộc trong số các Tông Đồ. Câu chuyện người thu thuế ở Ca-phác-na-um là một trong những đoạn văn quen thuộc nhất trong phần nói về sứ vụ của Đức Giêsu ở Galilê. Người đã biên soạn sách Tin Mừng bằng tiếng Híp-ri.
Sách Tin Mừng hiện nay mang tên thánh nhân cho thấy sự liên tục giữa Cựu và Tân Ước. Tương truyền người đã đi giảng ở Đông Phương.
Lời Chúa: Mt 9, 9-13
Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông ấy đứng dậy đi theo Người.
Và xảy ra khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?"
Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải hy lễ. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Đứng dậy đi theo
Suy niệm:
Thầy Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên khi họ đang làm việc.
Người thì đang quăng lưới ngoài khơi,
kẻ thì đang vá lưới trong thuyền (Mt 4, 18-22).
Khi Thầy gọi Matthêô, anh cũng đang làm việc ở trạm thu thuế.
Anh đang ngồi, vững vàng trong nghề nghiệp của mình,
dù nghề của anh thường bị coi là nghề rất xấu.
Thầy Giêsu như tình cờ đi ngang qua bàn làm việc của anh.
Ngài chỉ nói một câu rất ngắn: “Anh hãy theo tôi!”
Matthêô không đáp lại, nhưng anh trả lời bằng hành động.
Từ vị thế đang ngồi, anh bỏ dở công việc để đứng lên và theo Thầy.
Từ vị thế vững vàng, anh bắt đầu bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh.
Từ vị thế của tội nhân, anh trở thành người môn đệ thân thiết.
Matthêô nằm trong danh sách nhóm Mười Hai (Mt 10, 3).
Thầy Giêsu không sợ mất tiếng khi nhận anh vào nhóm.
Nhóm của Thầy không chỉ gồm những người thánh thiện,
nhưng có cả những tội nhân giàu lòng hoán cải.
Matthêô có đóng góp gì cho nhóm Mười Hai không?
Nghề thu thuế với giấy bút có giúp gì cho các ngư phủ ít học không?
Hôm nay chúng ta mừng lễ Tông đồ Matthêô,
người thu thuế trở nên Tác giả sách Tin Mừng.
Matthêô làm nghề bị đồng bào của ông khinh miệt,
vì nghề này dễ dẫn người ta đến chỗ lạm thu, bỏ tiền vào túi riêng.
Nghề này còn là một sỉ nhục vì cộng tác với ngoại bang bóc lột dân,
đụng chạm đến đồng tiền ô uế và tiếp xúc với dân ngoại.
Khi trở nên môn đệ của Thầy, Matthêô đã trở nên người phục vụ đồng bào.
Ông dùng khả năng của mình mà viết sách Tin Mừng.
Đây là Tin Mừng lớn mà ông loan báo: Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia.
Không phải chờ gì nữa, Đấng Mêsia đã đến rồi!
Ngài làm trọn những lời đã được loan báo trong Cựu Ước.
Matthêô đã tìm ra ngôn ngữ để nói với Dân Chúa, sao cho họ hiểu được.
Ông đã trình bày dung mạo Đức Giêsu cho người cùng thời với ông.
Chúng ta cũng phải có khả năng giới thiệu Đức Giêsu cho người thời nay,
nghĩa là biết, hiểu và nói được ngôn ngữ của thế giới,
để thế giới nghe và hiểu được.
Chúng ta vẫn phải tiếp tục viết các sách Tin Mừng cho thời đại hôm nay,
phù hợp với não trạng và tâm thức của họ, với nền văn hóa đương đại.
Đâu là khuôn mặt Đấng Cứu độ mà con người hôm nay ngóng chờ?
Con người thời nay khỏe mạnh về nhiều mặt,
nhưng vẫn là người đau ốm cần đến thầy thuốc (c. 12).
Họ mong mình được giải phóng khỏi điều gì?
Đức Giêsu Kitô có thể đáp ứng được những khao khát đó không?
Lời rao giảng và cuộc sống của chúng ta phải cho thấy
Đức Giêsu có thể chữa lành và đem lại một thế giới hạnh phúc.
Ước gì chúng ta có lòng nhân và sự bao dung như Đức Giêsu,
dám đồng bàn với con người hôm nay để dẫn họ đến bàn tiệc thiên quốc.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát. Amen.
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
SUY NIỆM 2: Vị Thánh Là Ai?
Ngày kia một em bé được theo mẹ đi chợ. Từ nhà đến chợ, hai người phải đi qua một thánh đường nguy nga, to lớn. Em bé ngước mắt nhìn thánh đường, chợt em giơ tay chỉ cho mẹ và nói: "Mẹ xem kìa, những cửa kiếng màu bị đóng đầy bụi, xem thật dơ bẩn và không đẹp tí nào".
Bà mẹ không nói không rằng về nhận xét của con, nhưng tiếp tục nắm lấy tay dẫn em tiến vào bên trong nhà thờ. Tại đây, những cửa kiếng bên ngoài xem ra dơ bẩn, xấu xí lại trở nên sáng chói và rực rỡ nhiều màu sắc lộng lẫy.
Em bé ngạc nhiên mở to đôi mắt nhìn những cửa kiếng màu diễn tả nhiều hình ảnh đẹp mắt. Bỗng mắt em dừng lại ở cửa kiếng sau bàn thờ diễn tả hình của bốn thánh sử viết Phúc Âm trong lúc ánh mặt trời đang chiếu rọi qua. Em bé hỏi mẹ đó là những thánh nào và được mẹ giải thích vắn tắt về từng vị thánh.
Vài ngày sau, trong một lớp giáo lý, tình cờ giáo lý viên hỏi các em: "Này, trong các em có ai trả lời được: một vị thánh là ai?" Trước một câu hỏi có vẻ không có ý nghĩa, cả lớp giáo lý thinh lặng, chỉ có em bé được mẹ dẫn vào bên trong nhà thờ để nhìn ngắm các cửa kiếng giơ tay xin trả lời. Em nói: "Vị thánh là một người để cho ánh sáng mặt trời chiếu thấu qua".
Kinh nghiệm và câu trả lời của em bé trên có lẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn phần nào về cuộc đời của thánh Matthêu, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay, trước và sau khi được Ðức Giêsu kêu gọi, như được chính thánh nhân vắn tắt thuật lại như sau: Ði khỏi đấy, Ðức Giêsu thấy một người ngồiở bàn thâu thuế, tên là Matthêu. Chúa bảo ông rằng: "Hãy theo Ta". Ông Matthêu liền đứng dậy và đi theo Chúa.
Một tiếng gọi và một hành động đáp trả được diễn tả vắn gọn trong những dòng trên đây có thể nói được chỉ là bề mặt của trận chiến nội tâm diễn ra từ lâu nơi ông Matthêu. Một trận chiến giằng co để suy tính thiệt hơn, để cân nhắc cái lợi và cái bất lợi, để đắn đo nhưng cái mình phải mất với những cái mình sẽ đạt được, khi ông bỏ mọi sự để theo Chúa:
- Ông phải mất một nghề hái ra bạc nhưng tìm được một số mệnh và sứ mệnh thật sự có giá trị vĩnh viễn.
- Ông phải mất một gia tài to lớn nhưng tìm lại được danh dự.
- Ông phải mất sự bảo đảm xây dựng trên của cải vật chất để đi theo Ðức Giêsu trong một cuộc hành trình dẫn đến sự sống mà trước đó ông chưa bao giờ mơ ước.
Về phần Ðức Giêsu, khi chọn lựa và kêu gọi ông Matthêu, một người hành nghề thâu thuế, bị các người đồng hương thời đó coi như là người phản quốc, nối giáo cho giặc, bóc lột đồng bào để làm lợi cho dân ngoại xâm, cũng như bị lên án là kẻ tội lỗi, biển thủ, gian lận và bị nhóm biệt phái kết án là kẻ tội lỗi, Ðức Giêsu không nhìn những lỗi lầm, những vết nhơ bên ngoài, nhưng Ngài nhìn sâu thẳm tận tâm hồn, nhìn tận bên trong và nhất là Ngài đã lấy ánh sáng của tình yêu thương, lòng nhân hậu, quảng đại và tha thứ của Thiên Chúa để chiếu sáng và chiếu thấu, biến ông Matthêu từ một người thâu thuế thành một tông đồ và một thánh sử viết Phúc Âm.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Kêu gọi người tội lỗi
Người làm công lau kiếng mà chỉ nhận lau những tấm kiếng sạch thì quả là một người đãng trí, một cơ quan từ thiện bác ái mà chỉ đi giúp cho những người giàu có thì quả là một trò hề đáng trách; một nhà thương mà chỉ nhận săn sóc cho người mạnh khỏe thì quả thật là một nhà thương không thể nào chấp nhận được.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi người thu thuế tội lỗi tên là Lêvi (sau này là tông đồ Mátthêu) theo Chúa nhắc chúng ta nhớ lại sự thật: Chúa Giêsu không còn là Chúa, là Ðấng cứu thế nữa, nếu Ngài chỉ muốn tiếp xúc với những con người tự phụ cho mình là công chính không cần đến Thiên Chúa.
Lời xác nhận của Chúa Giêsu không ngừng vang dội và mang lại hy vọng cho con người. Ai là kẻ công chính hoàn toàn vô tội trước nhan Thiên Chúa đến độ không cần tới ân sủng của Thiên Chúa, không cần đến Thiên Chúa. Thiên Chúa là Ðấng nhân từ hay thương xót, giàu lòng từ ái, chậm bất bình và hết sức khoan dung nhưng chúng ta đừng vì đó mà lạm dụng và ngồi lì trong tật xấu, trong những tội lỗi của mình.
Chúa Giêsu kêu gọi người tội lỗi để chữa lành, để đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ tội lỗi, được sống trong tự do thật của những con cái Thiên Chúa. Chỉ mình Chúa là Ðấng yêu thương vô cùng và quyền năng vô biên mới có thể đối xử đại lượng được như vậy với những tật xấu, những tội lỗi của con người.
Lạy Chúa,
Con cảm tạ Chúa vì đã thương con, đã cho con nhiều dịp canh tân đời sống. Xin cho con khiêm tốn mở rộng tâm hồn đón nhận sự tha thứ của Chúa và cũng đừng có thái độ giả hình hẹp hòi muốn Chúa trừng phạt thẳng tay những tội lỗi của anh chị em chung quanh, không phải vì con sốt sắng muốn bảo vệ Chúa nhưng có thể là vì con ganh tị muốn trả thù anh chị em, không muốn anh chị em được ơn ăn năn trở lại và nhận sự tha thứ của Chúa. Xin cho con có tâm hồn quảng đại như Chúa, biết vui mừng với Chúa vì người anh chị em đã xa lìa Chúa nay ăn năn trở về.
Lạy Chúa,
Xin tình thương đầy sức mạnh tha thứ của Chúa tác động nơi con và nơi mọi anh chị em.
SUY NIỆM 4: Hãy theo Ta: Thánh Matthêu Tông Đồ
Matthêu người thâu thuế. Một nghề mang tiếng xấu, người bị coi là ô uế, không nên lui tới.
Hãy theo Ta.
Đức Giê-su đã cắt đứt quan niệm xấu về một người: “Hãy theo Ta”. Người không quan tâm đến hình ảnh xã hội của ông. “Ông đứng dậy và đi theo Người”. Thế là Matthêu đã bỏ cuộc sống ngày thường và lao vào cuộc phiêu lưu theo Tin Mừng. Mạo hiểm thế nào: Đức Giê-su ăn uống với người tội lỗi. Do cách làm đó, Đức Giê-su làm cho những kẻ sống thủ cựu vấp phạm nhưng Người tuyên bố do đó có ơn tha thứ của Chúa Cha. Đức Giê-su đã làm đảo lộn thế gian, Đức Giê-su đã lật ngược những vị thế truyền thống của chúng ta. Đức Giê-su đổi mới tận gốc.
Hãy theo Ta.
Không bắt ép làm những việc lớn, mà chỉ mời theo ơn gọi khác thường. Rất giản dị, hãy chia cơm bánh với người khác, đem một chút niềm vui của tôi, một nụ cười, giải trí cho bầu không khí nơi làm việc, giúp tập một nghề cách lương thiện.
Đối với mỗi người chúng ta, cần thực hiện tiếng gọi tại địa chỉ của mình, nơi chúng ta ở, trong tình trạng của những người tội lỗi. Ngày nay, từng bước từng bước theo Đức Ki-tô như người ta đồng hành với bạn thân, rất đơn giản.
Hãy theo Ta.
Như một bạn hữu! không nói sẽ đi đến đâu, chỉ đề nghị ta đồng hành, không nói tại sao mời gọi ta hơn là người khác. Vâng! không cần biết vì chúng ta yêu mến Người! không cần biết vì chúng ta tín nhiệm Người, để chúng ta theo Người, để chúng ta đặt trọn đời sống chúng ta vào đời sống của Người, theo ân huệ của Người, vì Người đã thương gọi chúng ta, với niềm tin vững chắc chắn rằng Người yêu thương chúng ta!
Một cách rất thật nào đó, chúng ta dám nói với Đức Ki-tô rằng, xin theo con! chúng ta xin Người đồng hành với chúng ta, làm cho chúng ta tin cậy vào chúng ta như Đức Ki-tô đã làm thế từ mãi mãi cho đến nay rồi.
Tình bạn tươi sáng đòi hỏi tất cả, cho tất cả, dâng tất cả và nhận tất cả. Không phải thế sao? để đồng hành, nhưng cũng để tiến lên phía trước.
J.M
SUY NIỆM 5: Thánh Matthêu tông đồ, thánh sử
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Lêvi là tên gọi của thánh Matthêu tông đồ, thánh sử. Tin Mừng thuật lại khi Chúa Giêsu đi ngang qua bàn thuế, Người gọi Lêvi. Lêvi không chần chừ, không do dự, ông đứng dậy khỏi bàn thu thuế mà đi theo Chúa Giêsu. Ơn gọi của Lêvi thật là huyền diệu! Chúa Giêsu không nói nhiều, Người chỉ nói một câu vỏn vẹn, ngắn ngủi: "Hãy theo Ta".
Ðường Chúa chọn khác với cách cất nhắc của người đời thường làm. Chúa chọn ai tùy ý Người. Chúa cất nhắc ai là do ơn huệ nhưng không của Chúa. Không ai có quyền đòi Chúa phải thế này thế kia. Không ai được phép buộc Chúa phải gọi người này, không được gọi và chọn người khác. Ðó là mầu nhiệm đức tin. Con người phải có đôi mắt đức tin, con tim hiến tế mới nhận ra sự lạ lùng, kỳ diệu đó, vì ơn gọi của mỗi người là một mầu nhiệm.
Như mọi tông đồ khác trong nhóm 12 mà Chúa đã kêu mời. Chúa chỉ gọi họ, sau khi Chúa đã kết hiệp thân thân tình lâu giờ với Chúa Cha bằng lời cầu nguyện và sau khi Chúa đã hỏi ý Chúa Cha. Thái độ, cử chỉ, hành động của Chúa trong mọi lần mời gọi tông đồ đều làm nổi bật ý nghĩa quan trọng của mầu nhiệm ơn gọi. Lêvi, người thu thuế, một hạng người được coi làm tay sai cho ngoại bang, làm tay sai cho Ðế Quốc La Mã thời đó, một hạng người mang tiếng ăn bẩn, tội lỗi và không tốt. Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người. Biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật luôn nghĩ xấu cho người khác. Chúa nói với họ: "Ta đến không để gọi những người công chính mà là gọi những người tội lỗi" (Mt 9, 13) và "Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần" (Mt 9, 12).
Chúa đã mời gọi các tông đồ. Chúa đã sai họ đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cứu độ. Các tông đồ của Chúa sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, đã trở thành những chứng nhân hiên ngang làm chứng cho Chúa. Tất cả các tông đồ đã nhất loạt giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người, dù rằng họ phải trả giá rất đắt bằng chính mạng sống của họ cho việc làm chứng Chúa Kitô phục sinh. Thánh Matthêu đã không ra khỏi con đường này. Ngài đã đi truyền giáo ở Êthiopi, Ba Tư, Parthes. Ngài đã nói lên sự thực này: "Chúa Giêsu chính là Ðấng cứu thế mà Cựu Ước hằng mong đợi. Lời chứng của thánh nhân được coi là đầy đủ nhất trong Tin Mừng của Ngài. Ngài đã được phúc tử đạo tại Tarium nước Êthiopi. Chúa đã trao cho Ngài triều thiên công chính.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn bắt chước gương của Thánh Tông đồ: đón tiếp mọi người với tất cả tình thương mến.
Xin cho chúng con biết nhìn nhận tội lỗi của mình mà sớm trở về với Chúa.
Xin cho chúng con đừng bao giờ loại trừ bất cứ một ai.
SUY NIỆM 6: Thánh Matthêu tông đồ, thánh sử
(Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý)
Ít có ai chuộng người thu thuế. Vào thế kỷ thứ I tại Palestine điều này còn rõ hơn nữa, khi mà họ thủ lợi được nhờ dọa dẫm và gian dối. Nhưng dù có lương thiện đi nữa nhân viên thu thuế cũng không được cấp lãnh đạo Do thái chấp nhận vì họ làm việc cho lương dân. Họ là người nhơ uế theo luật pháp và bị loại khỏi xã hội. Khi nhận một người thu thuế vào môn đồ của Người, Chúa Giêsu quả đã khinh thường tiên kiến của dân chúng.
Điều cần ghi nhận là Matthêô không phải đi từ cửa nhà này tới cửa nhà khác để thu thuế. Ông có một văn phòng tại Capharnaum, thành phố quê hương của Phêrô và đại bản doanh của Chúa Giêsu khi thi hành sứ vụ tại Galilê.
Đi ngang qua, Ngài thấy Lêvi con của Alphê ngồi nơi sở thu thuế và Ngài nói: "Hãy theo Ta" và ông đứng dậy đi theo Ngài" ( Mc 2, 14).
Đó là lời mời gọi làm tông đồ, rất giống lời gọi dành cho Simon và Anrê (Mc 1, 16t). Dầu vậy Lêvi không có tên trong danh sách mười hai (Mc 3, 16; Mt 10, 3; Lc 6, 14t; Cv 113). Ơn gọi người thu thuế được ghi lại trong Tin Mừng thứ nhất, trong đó ông được gọi là Matthêô (Mt 9, 9t). Như vậy tông đồ đồng hoá mình với Matthêô có trong danh sách các tông đồ. Lời giải thích tự nhiên được tiếp nhận rộng rãi là Matthêo với Lêvi chỉ là một người với hai tên gọi khác nhau. (Chẳng hạn anh em Macabê, 1Mcb 2, 2-5). Cũng có thể chính Chúa Giêsu đã đặt tên cho Matthêô như đã đặt tên Phêrô cho Simon (Mattai theo tiếng Aramêô có nghĩa là ấn bản của Thiên Chúa).
Từ đó Matthêô bỏ sổ sách và học theo hoa đồng và chim trời, những thứ không thể tính toán cho đời sống mình (Mt 6, 25t). Chủ nhân của ông không còn là Antipas, con cáo gian xảo (Lc 13, 32) mà là một Đấng khác hẳn loài cáo, lại chẳng có lấy một căn nhà (Mt 8, 20). Sự thay đổi đã hủy diệt trọn tương lai trần gian của Matthêô. Simon và Andrê còn có thể trở lại với nghề chài lưới, còn Matthêô bị tống khứ khỏi nghề cũ và không thể trở lại được nữa. Trong cộng đoàn tông đồ không phải ông mà là Giuda giữ quĩ của nhóm (Ga 13, 29).
Sau khi được gọi, Matthêô biến dạng khỏi Tân ước và chỉ còn để lại tên trong danh sách các vị tông đồ. Ngài đã ra thế nào ? Chúng ta có được một câu văn của Giám mục Papias trong cuốn giải thích Lời Chúa (khoảng năm 125) :
"Matthêô viết một tường thuật có thứ tự về lời Chúa, theo năng khiếu của ngài" (Eusebiô lịch sử Giáo hội III, 39). Cuốn Tin Mừng Matthêô viết bằng tiếng Aramêô cho người Do thái trở lại. Khi thời thế đòi hỏi, con người Matthêô bị xã hội loại bỏ ấy đã cầm lấy viết để trước tác cuốn "Tin Mừng theo thánh Matthêô".
Theo bản văn tiếng Hy lạp còn lại, chúng ta thấy tính khí theo toán học với những con số rõ rệt : 7 dụ ngôn về nước trời, 7 lời nguyền rủa bọn biệt phái, 7 lời cầu trong kinh Lạy Cha và có lẽ 7 mối phúc thật. Cả con số 5 nữa : 5 cuộc tranh luận với biệt phái, 5 chiếc bánh, 5 lượng vàng, nhất là 5 phần của cuốn sách. Sau cùng như chúng ta mong đợi có dấu chỉ về sự hiểu biết tinh tường về phương diện tài chánh như đồng bạc nộp thuế thay vì đồng "denarius" trong Mc và Lc hay như thuế đền thờ, với những loại thuế gián thu, thuế phân ...
Như vậy Matthêô đã chuyển nghề nghiệp cũ vào một việc phụng sự mới, từ người kế toán thành người viết Tin Mừng. Thật không ngạc nhiên gì khi một mình ngài ghi lại lời này của Chúa :
"Phàm ký lục nào đã được thụ giáo về nước Trời thì cũng giống như gia chủ biết rút từ trong kho của ông ra điều mới và điều cũ" (Mt 13, 52).
Không có khí cụ hèn hạ nào của chúng ta mà lại không được dùng một cách hoàn hảo và xứng đáng vào việc phụng sự Chúa.
Cuốn Tin Mừng thứ nhất là một kỷ vật của thánh Matthêô được Giáo hội ưa chuộng. Nhưng công cuộc tông đồ sau này của Ngài lại bị mai một. Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho người Do thái tại Palestina có lẽ trong 15 năm (Eusebiô, Lịch sử Giáo hội III, 24, 265) nhưng sự lầm lẫn giữa tên Ngài với thánh Matthias (Cv 1, 26) làm chúng ta luõng lự giữa những truyền thống khác nhau. Ethiopia, Parthia, Macedonia và cả những xứ của những kẻ ăn thịt người đều được ghi nhận là nơi thánh nhân đã làm việc tông đồ.
Thường người ta cho rằng: Ngài chịu tử đạo, nhưng ý kiến cũng không được đồng nhất. Điều chắc chắn là ngài đã sống đời của một vị tử đạo và thế là đủ.
Đối với chúng ta ngài luôn luôn là một người đã biết được tiền của là gì, lẫn việc không có tiền của là gì.
SUY NIỆM 7: Thánh Matthêu tông đồ
(ditimchanly.org)
1) Lêvi là tên gọi của thánh Matthêu tông đồ, thánh sử. Tin Mừng thuật lại khi Chúa Giêsu đi ngang qua bàn thuế, Người gọi Lêvi. Lêvi không chần chừ, không do dự, ông đứng dậy khỏi bàn thu thuế mà đi theo Chúa Giêsu. Ơn gọi của Lêvi thật là huyền diệu! Chúa Giêsu không nói nhiều, Người chỉ nói một câu vỏn vẹn, ngắn ngủi :" Hãy theo Ta ".
2) Ðường Chúa chọn khác với cách cất nhắc của người đời thường làm. Chúa chọn ai tùy ý Người. Chúa cất nhắc ai là do ơn huệ nhưng không của Chúa. Không ai có quyền đòi Chúa phải thế này thế kia. Không ai được phép buộc Chúa phải gọi người này, không được gọi và chọn người khác. Con người phải có đôi mắt đức tin, con tim hiến tế mới nhận ra sự lạ lùng, kỳ diệu đó, vì ơn gọi của mỗi người là một mầu nhiệm.
3) Như mọi tông đồ khác trong nhóm 12 mà Chúa đã kêu mời. Chúa chỉ gọi họ, sau khi Chúa đã kết hiệp thân thân tình lâu giờ với Chúa Cha bằng lời cầu nguyện và sau khi Chúa đã hỏi ý Chúa Cha.
4) Lêvi, người thu thuế, một hạng người được coi làm tay sai cho ngoại bang, làm tay sai cho Ðế Quốc La Mã thời đó, một hạng người mang tiếng ăn bẩn, tội lỗi và không tốt. Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người. Biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật luôn nghĩ xấu cho người khác, nên Chúa nói với họ:" Ta đến không để gọi những người công chính mà là gọi những người tội lỗi "(Mt 9, 13) và "Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần " (Mt 9, 12).
5) Chúa đã mời gọi các tông đồ. Chúa đã sai họ đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cứu độ. Các tông đồ của Chúa sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, đã trở thành những chứng nhân hiên ngang làm chứng cho Chúa. Tất cả các tông đồ đã nhất loạt giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người, dù rằng họ phải trả giá rất đắt bằng chính mạng sống của họ cho việc làm chứng Chúa Kitô phục sinh.
6) Thánh Matthêu đã không ra khỏi con đường này. Ngài đã đi truyền giáo ở Êthiopi, Ba Tư, Parthes. Ngài đã nói lên sự thực này:" Chúa Giêsu chính là Ðấng cứu thế mà Cựu Ước hằng mong đợi. Lời chứng của thánh nhân được coi là đầy đủ nhất trong Tin Mừng của Ngài. Ngài đã được phúc tử đạo tại Tarium nước Êthiopi. Chúa đã trao cho Ngài triều thiên công chính .
7) Thánh Matthêu sinh quán tại Capharnaum. Khi được Chúa gọi vào nhóm Mười Hai, ngài đang là một người thu thuế. Truyền thống tin rằng ngài đã viết Phúc Âm thứ nhất, nguyên bản tiếng Aramaic, nhưng sau đó đã được dịch sang tiếng Hy lạp. Thánh nhân đã chịu tử đạo tại Ba Tư.
8) Các thánh sử của Phúc Âm Nhất Lãm đều kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi thánh Matthêu xảy ra ngay sau khi Chúa chữa người bất toại tại Capharnaum. Khoảng một ngày sau phép lạ ấy, Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển, có đám đông dân chúng đi theo Người. Chúa đến đó từ một thành phố cảng nhỏ nằm giáp miền đất Perea, trên bờ bên kia sông Giođan. Trên đường, Chúa đã đi ngang qua bàn thu thuế của Matthêu.
9) Matthêu khi ấy đang làm việc trong ngành thuế vụ của vua Hêrôđê. Mặc dù không phải là một quan chức chính thức, nhưng ngài đã mua quyền được thu thuế. Chức vụ thu thuế không được người Do Thái kính nể, thậm chí còn bị nhiều người khinh bỉ. Tuy nhiên, đó lại là một chức vụ rất hấp dẫn, vì đem lại của cải giàu sang. Người thu thuế dường như có địa vị cao trong xã hội, vì khi Matthêu khoản đãi Chúa Giêsu trong nhà, có rất đông người thu thuế và những người vị vọng khác đến đồng bàn.
10) Chúa kêu gọi Matthêu làm môn đệ khi Người đi ngang qua bàn thu thuế của ông. Matthêu đã chỗi dậy và đi theo Người. Sự đáp ứng của Matthêu rất mau mắn và quảng đại. Có lẽ ngài đã nhiều lần được gặp Thầy Chí Thánh, và chỉ chờ đợi cơ hội quan trọng này mà thôi. Ngài đã không chần chừ trong việc từ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu. Chỉ một mình Thiên Chúa biết tại sao Người lại tuyển chọn Matthêu, và cũng chỉ một mình thánh nhân mới có thể cho chúng ta biết ngài đã nhận thấy điểm gì nơi Chúa Giêsu đến nỗi đã lập tức rời bàn thu thuế để đi theo Người.
11) Thánh Matthêu trở thành một chứng nhân đặc biệt cho đời sống và cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Ngài được tuyển chọn vào nhóm Mười Hai để theo Chúa đi khắp nơi. Ngài lắng nghe lời Thầy Chí Thánh, dõi theo sứ mạng của Người, và được tham dự bữa Tiệc Ly. Thánh nhân hiện diện khi Chúa lập bí tích Thánh Thể, đích thân được nghe Chúa tuyên bố về giới luật yêu thương, và đồng hành đến vườn Cây Dầu với Người. Cùng các Tông Đồ khác, ngài cũng đau khổ vì đã bỏ rơi Chúa trong hồi Thương Khó. Tuy nhiên, chỉ sau đó ít lâu, ngài đã cảm được niềm vui Chúa Phục Sinh. Trước khi Chúa thăng thiên, thánh Matthêu là một trong những người được nhận lệnh truyền đem Tin Mừng cho khắp trần thế. Cùng với Đức Maria, thánh nhân đã được đón nhận linh ân Chúa Thánh Thần trong ngày hiện xuống.
12) Chúa Giêsu đã đến nhà Matthêu dự tiệc. Có lẽ Chúa vui mừng và nhân dịp ấy muốn thu phục cả những bè bạn của người môn đệ mới của Người. Chúa Giêsu đã đáp lại lời phê bình của những người biệt phái một cách khôn ngoan mà giản dị: “Không phải những người khỏe mạnh cần đến thầy thuốc, nhưng là những người yếu bệnh”. Nhiều thực khách hôm ấy đã cảm thấy được Chúa thân ái đón nhận. Sau đó, chắc chắn họ đã được chịu phép rửa và trở nên những tín hữu trung thành.
13) Trong khi viết Phúc Âm, chắc chắn thánh Matthêu đã bồi hồi nhớ lại nhiều kỷ niệm được sống gần gũi bên Chúa Giêsu, bởi vì cuộc sống bên cạnh Chúa thật là cao quí. Giả như ngài đã ngồi lại tại chiếc bàn thu thuế, có lẽ đời ngài đã khác xa biết bao. Chúng ta biết rằng cuộc đời sẽ trở nên giá trị nếu chúng ta sống hợp nhất với Chúa Kitô và hằng ngày trung thành đáp lại ơn Người. Chúng ta cũng sẽ trở nên những chứng nhân đắc lực cho Chúa nếu chúng ta biết vui mừng và mau mắn đáp lại tiếng Người
14) Chúa dùng những đồng nghiệp, những liên hệ gia đình, hoặc các liên lạc xã hội để tỏ ra mục đích của Người. Cùng với ơn soi sáng cho chúng ta nhìn thấy ơn gọi, Chúa còn ban ơn sức mạnh giúp chúng ta mau mắn đáp lại và trung thành cho đến cùng. Nếu linh hồn không đáp lại tiếng Chúa mời gọi, có thể họ sẽ không còn một cơ hội nào khác nữa. Hơn nữa, có thể Chúa sẽ không trở lại gõ cửa lần thứ hai. Mọi sự lơ là với ân sủng đều làm cho tâm hồn ta ra chai đá.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn bắt chước gương của Thánh Tông đồ: đón tiếp mọi người với tất cả tình thương mến. Xin cho chúng con biết nhìn nhận tội lỗi của mình mà sớm trở về với Chúa. Xin cho chúng con đừng bao giờ nghĩ xấu và loại trừ bất cứ một ai. Amen
SUY NIỆM 8: Thánh Matthêu tông đồ
(https://tonggiaophanhanoi.org // Enzo Lodi)
1. Ghi nhận lịch sử - phụng vụ
Việc tôn kính thánh Matthêu ở Roma lên tới thế kỷ V. Hồi đó người ta mừng lễ Ngài trong nhà thờ lớn đường Merulana, và đến thế kỷ VIII lễ kính được thiết lập, có cả lễ vọng. Lễ ngày 21 tháng 9 như hiện nay là theo sổ tử đạo của thánh Jérôme, nhưng ở phương Đông mỗi nơi định mỗi khác tùy theo họ thuộc nghi lễ Byzance và Syrie (16 tháng 9) hay Coptes (9 tháng 9).
Các sách phúc âm trình bày thánh Matthêu như một nhân viên thuế vụ hay người thu thuế (Mt 9,9), con ông Alphée (Mc 2,14), có lẽ gốc người Capharnaum (Mc 27,14; Lc5,27) và là anh em với Giacôbê, vì ông này cũng là “Con ông Alphée”. Tên Matthêu (tiếng Hy lạp là Matthaios) có nguồn gốc Hébreu, có nghĩa là “Ơn của Chúa”. Ngài cũng được gọi là Lévi (Mc 2,14; Lc 5,27). Trong danh mục Nhóm Mười Hai, Ngài xếp thứ bảy hoặc thứ tám (Mc 3,18; Lc 6,15; Cv 1,13). Lời thú nhận của Mat-thêu trước khi được Đức Giêsu gọi, cho mình là một người “Không sạch”, bị phạt theo luật đạo Do Thái. Lời gọi của thầy, Đấng không đến kêu gọi người công chính, nhưng kêu mời người tội lỗi để họ cải hối (Lc 5,22) đã tạo nên nơi Lévi một câu trả lời tức thì và quảng đại: Bỏ tất cả, ông đứng dậy, đi theo thầy (Lc 5,28). Lòng quảng đại và lương thiện của người môn đồ mới được Luca đề cao:
Lévi dọn đại tiệc trong nhà để đãi Chúa Giêsu, tới dự có rất đông những người thuộc nhóm thuế vụ (5,29).
Đức giám mục Hiérapolis (ở Tiểu Á) tên là Papias, vào khoảng năm 125 kể lại rằng Matthêu đã xếp đặt các “ngôn từ” (Logia) của Chúa bằng thể ngữ Hébreu (tiếng Araméen) còn theo Eusêbe, Origène(+khoảng 254), xác nhận Matthêu là tác giả phúc âm thứ nhất, viết gửi đến những Kitô hữu gốc Do Thái. Thánh Irénée (tiền bán thế kỷ III) viết rằng Matthêu đã viết phúc âm nơi nhà những người Do Thái bằng ngôn ngữ của họ.
Theo một số truyền thuyết, thánh Matthêu đã rời Palestine sang truyền giáo nhiều miền khác nhau, ở Ba Tư, Syrie, Macédoine và Ethiopie, rồi tử đạo tại đây. Từ Éthiopie hài cốt Ngài được đưa về Paestum (Campanie), rồi Salerne, thế kỷ X, như Đức Giáo Hoàng Grégoire VII làm chứng, năm 1080. Theo một truyền thuyết khác, di hài Ngài được thánh nữ Hêlêna chuyển từ Jérusalem về Trèves (Đức) tại tu viện thánh Matthêu.
Ảnh tượng thường biểu diễn thánh Matthêu dưới dạng một thiên thần có cánh, tượng trưng cho phả hệ Đức Kitô ở đầu phúc âm Ngài. Các giai thoại về cuộc đời thánh Matthêu, ngoài những nơi khác, còn thấy nơi một loạt các bức họa của Caravage trong nhà thờ thánh Louis des Francais ở Roma.
2. Thông điệp và tính thời sự
Các kinh nguyện thánh lễ lấy từ sách lễ Paris năm 1738.
Lời nguyện trong ngày ca tụng lòng “Nhân từ sâu thẳm” của Chúa đã chọn “Matthêu người thu thuế đã làm thành tông đồ Chúa”. Trong phụng vụ bài đọc, thánh Bêđa khả kính nhận định rằng Chúa nhìn thấy Matthêu ngồi bàn thu thuế “Không phải bằng con mắt phần xác cho bằng cái nhìn nội tâm của lòng thương xót”. Giải thích ơn gọi dành cho Lévi, thánh nhân khẳng định ý nghĩa và bản chất lời gọi của Đức Kitô: “Khi yêu cầu ông theo Chúa, Chúa không kêu gọi ông đi theo Người cho bằng sống như Người”.
Lời nguyện trên lễ vật nhấn mạnh đề tài chính theo phúc âm Matthêu là Giáo hội: “Lạy Chúa xin yêu thương nhìn đến Giáo hội Chúa, vì Giáo hội đã được chính Chúa nuôi dưỡng đức tin bằng lời giảng dạy của các tông đồ”. Từ Giáo hội (Ekklèsia) được sử dụng từ một trăm lần trong Tân ước, đặc biệt là trong các thư thánh Phaolô, nhưng trong các phúc âm chỉ ba lần, chỉ có trong phúc âm Matthêu (16,18; 18,17). Trong 16,18: “Con là Phêrô, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh Thầy”. Từ Hội Thánh ở đây chỉ cộng đồng Chúa sắp thành lập xây dựng trên Phêrô. Trong 18,18: “Nếu kẻ ấy chối không chịu nghe họ, hãy nói với Giáo hội”, ở đây từ Giáo hội chỉ nghị viện của các tín hữu tức là đoàn tông đồ. Giáo hội cũng là cộng đoàn mới do Chúa Giêsu thiết lập, được xây dựng quanh Phêrô và các tông đồ, được mời gọi rao giảng phúc âm khắp thế giới (24,14; 26,13) và mọi dân tộc (28,19).
Nước Trời (thành ngữ xuất hiện có tới năm mươi lần trong Matthêu) là điều mới lạ do Chúa Giêsu lập nên. Đây là nước Thiên Chúa hiện hữu “Trên trời”, nhưng thực hiện ở trần gian bằng hình ảnh và việc tham dự, và sẽ kết thúc “Trên trời” vào ngày thế mạt. Hiến chương của Nước Trời là “Bài giảng trên núi” (5,3-11).
Thánh Matthêu vui mừng được đón Chúa vào nhà (lời nguyện tạ lễ) không ngần ngại mời nhiều bạn hữu, thu thuế, người tội lỗi cùng đến dự tiệc với Chúa Giêsu và các đồ đệ của Chúa (9,10). Trong thế giới Palestine, bữa ăn là giây phút cao điểm của lễ hội và gặp gỡ. Đức Giêsu khi nhận lời mời đến nhà một người “không sạch” muốn nhấn mạnh lời mời gọi nhân từ của Thiên Chúa đang mở cửa Vương Quốc của Chúa cho người tội lỗi.
Sau hết chúng ta hãy nhớ lời thánh Bêđa khả kính trong một bài giảng về thánh Matthêu: “Đấng sau này sẽ là Tông đồ và thầy dạy lương dân, lúc cải hối, đã kéo theo mình, cả một đám đông những người tội lỗi trên đường cứu rỗi” (Phụng vụ bài đọc).
SUY NIỆM 9: Thánh Matthêu Tông Đồ
Thánh Matthêu sinh quán tại Capharnaum. Khi được Chúa gọi vào nhóm Mười Hai, ngài đang là một người thu thuế. Truyền thống tin rằng ngài đã viết Phúc Âm thứ nhất, nguyên bản tiếng Aramaic, nhưng sau đó đã được dịch sang tiếng Hy lạp. Thánh nhân đã chịu tử đạo tại Ba Tư.
Thánh Matthêu đáp lại tiếng Chúa. Ơn gọi của chúng ta.
Các thánh sử của Phúc Âm Nhất Lãm đều kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi thánh Matthêu xảy ra ngay sau khi Chúa chữa người bất toại tại Capharnaum. Khoảng một ngày sau phép lạ ấy, Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển, có đám đông dân chúng đi theo Người. Chúa đến đó từ một thành phố cảng nhỏ nằm giáp miền đất Perea, trên bờ bên kia sông Giođan. Trên đường, Chúa đi ngang qua bàn thu thuế của Matthêu.
Matthêu khi ấy đang làm việc trong ngành thuế vụ của vua Hêrôđê. Mặc dù không phải là một quan chức chính thức, nhưng ngài đã mua quyền được thu thuế. Chức vụ thu thuế không được người Do Thái kính nể, thậm chí còn bị nhiều người khinh bỉ. Tuy nhiên, đó lại là một chức vụ rất hấp dẫn, vì đem lại của cải giàu sang. Người thu thuế dường như có địa vị cao trong xã hội, vì khi Matthêu khoản đãi Chúa Giêsu trong nhà, có rất đông người thu thuế và những người khác đến đồng bàn.
Chúa kêu gọi Matthêu làm môn đệ khi Người đi ngang qua bàn thu thuế của ông. Matthêu đã chỗi dậy và đi theo Người. Sự đáp ứng của Matthêu rất mau mắn và quảng đại. Có lẽ ngài đã nhiều lần được gặp Thầy Chí Thánh, và chỉ chờ đợi cơ hội quan trọng này mà thôi. Ngài đã không chần chừ trong việc từ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu. Chỉ một mình Thiên Chúa biết tại sao Người lại tuyển chọn Matthêu, và cũng chỉ một mình thánh nhân mới có thể cho chúng ta biết ngài đã nhận thấy điểm gì nơi Chúa Giêsu đến nỗi đã lập tức rời bàn thu thuế để đi theo Người. Thánh Gioan Kim Khẩu nói, Chúng ta thấy vì sự vâng phục mau mắn và trọn vẹn mà Matthêu đã tức khắc từ bỏ tất cả tài sản thế gian để đi theo Chúa khi được kêu mời đúng lúc.
Thời gian và địa điểm Chúa lên tiếng mời chúng ta hiến thân trọn vẹn đã được Người quan phòng từ đời đời, vì thế thời gian và địa điểm ấy rất quan trọng. Nhiều người được Chúa mời gọi khi còn niên thiếu. Đối với những người ấy, đó là lúc thuận tiện nhất để đáp lại tiếng Chúa. Một số người được Chúa tỏ cho biết ơn gọi khi đã lớn khôn. Chúa dùng những đồng nghiệp, những liên hệ gia đình, hoặc các liên lạc xã hội để tỏ ra mục đích của Người. Cùng với ơn soi sáng cho chúng ta nhìn thấy ơn gọi, Chúa còn ban ơn sức mạnh giúp chúng ta mau mắn đáp lại và trung thành cho đến cùng. Nếu linh hồn không đáp lại tiếng Chúa mời gọi, có thể họ sẽ không còn một cơ hội nào khác. Hơn nữa, có thể Chúa sẽ không trở lại gõ cửa lần thứ hai. Mọi sự phản kháng ân sủng đều làm cho tâm hồn ra chai đá. Thánh Augustine đã mô tả rất súc tích sự khẩn thiết phải đáp lại ơn Chúa, khi Người đi ngang qua cuộc đời của chúng ta: Timeo Jesus praetereuntem et non redeuntem, ‘Tôi sợ Chúa Giêsu có thể đi qua và không quay lại nữa.’
Chúa Giêsu Kitô đến bên từng người chúng ta – cho dù chúng ta đang sống trong độ tuổi hoặc hoàn cảnh nào – và ánh nhìn của Chúa tiếp xúc với ánh mắt chúng ta một cách cá biệt. Người mời gọi chúng ta bước theo. Trong hầu hết các trường hợp, Chúa để chúng ta lại giữa trần gian, công việc, và gia đình. Hãy suy nghĩ về điều Chúa Thánh Thần đã phán, và hãy để bạn biết sợ hãi và tri ân: ‘Elegit nos ante mundi constitutionem’ – Người đã tuyển chọn chúng ta trước khi tạo dựng thế gian, ‘ut essemus sancta, in conspectu eius!’ – để chúng ta nên thánh thiện trước mặt Người.
Nên thánh thiện không phải là điều dễ, nhưng cũng chẳng quá khó. Nên thánh là sống đúng Kitô hữu, là nên giống Chúa Kitô. Ai càng nên giống Chúa Kitô, họ càng là Kitô hữu; ai càng thuộc về Chúa Kitô, họ càng thánh thiện.
Chúng ta có những phương thế gì để nên thánh? Chúng ta có những phương thế như các tín hữu thời sơ khai, khi họ đích thân tiếp xúc Chúa Giêsu hoặc thoáng nhận ra Người trong các lời giảng của các thánh Tông Đồ và các thánh sử.
Niềm vui trong ơn gọi.
Để ghi nhớ và tạ ơn vì được ơn gọi, Matthêu đã tổ chức một bữa tiệc và mời bạn hữu đến dự. Nhiều người trong số đó bị coi là hạng tội lỗi. Thái độ của vị tân Tông Đồ nói lên tấm lòng biết ơn của ngài vì nhận được ơn gọi. Ơn gọi là một hồng ân lớn lao, chúng ta cần phải luôn luôn cám tạ.
Chúng ta phải biết coi trọng những thành quả tuyệt vời Thiên Chúa sẽ thực hiện qua ơn thiên triệu Người ban cho chúng ta. Nếu chỉ nhìn phương diện từ bỏ mà lời mời gọi nào cũng đòi buộc, chúng ta sẽ buồn sầu như trường hợp người thanh niên giàu có không dám từ bỏ những của cải. Anh ta chỉ nghĩ đến những gì phải từ bỏ. Anh ta không hiểu được niềm hạnh phúc tuyệt vời được sống với Chúa Giêsu và trở nên công cụ của Người để thực hiện những việc lớn lao trên thế gian. Có thể hôm qua bạn vẫn là một trong số những người có các ý tưởng lầm lạc, những người bị tham vọng nhân loại đánh lừa. Nhưng hôm nay, vì Thiên Chúa đã đi vào cuộc sống của bạn – lạy Chúa, xin cám tạ Chúa! – bạn vui tươi, ca hát, và bạn đem nụ cười, tình yêu, và hạnh phúc của mình đến bất cứ nơi nào bạn đi qua.
Cuộc sống của người được mời gọi theo Chúa Kitô, như tất cả chúng ta đều thấy, không thể giống như cuộc sống của người anh trong dụ ngôn người con hoang đàng. Anh ta trung thành sống bên cha, làm việc chăm chỉ, và không phung phí tài sản của cha. Tuy nhiên, anh ta thiếu niềm vui và đức ái đối với em trai mới sám hối trở về của anh. Anh ta là biểu tượng rõ nét của loại người công chính nhưng không hiểu được niềm vui được sống bên Chúa và tình thân với tha nhân. Phụng sự Chúa tự thân là một phần thưởng đúng nghĩa, bởi vì phụng sự Chúa là được cùng Người cai trị. Thiên Chúa muốn chúng ta phụng sự trong vui tươi, chứ không miễn cưỡng, bởi vì Thiên Chúa yêu thương người hiến dâng vui tươi. Lúc nào cũng có rất nhiều lý do để vui tươi, tạ ơn và hạnh phúc khi chúng ta được hiến thân cho Chúa và tích cực đáp lại tiếng gọi của Người.
Thánh Matthêu trở thành một chứng nhân đặc biệt cho đời sống và cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Ngài được tuyển chọn vào nhóm Mười Hai để theo Chúa đi khắp nơi. Ngài lắng nghe lời Thầy Chí Thánh, dõi theo sứ mạng của Người, và được tham dự bữa Tiệc Ly. Thánh nhân hiện diện khi Chúa lập bí tích Thánh Thể, đích thân được nghe Chúa tuyên bố về giới luật yêu thương, và đồng hành đến vườn Cây Dầu với Người. Cùng các Tông Đồ khác, ngài cũng đau khổ vì đã bỏ rơi Chúa trong hồi Thương Khó. Tuy nhiên, chỉ sau đó ít lâu, ngài đã cảm được niềm vui Chúa Phục Sinh. Trước khi Chúa thăng thiên, thánh Matthêu là một trong những người được nhận lệnh truyền đem Tin Mừng cho khắp trần thế. Cùng với Đức Maria, thánh nhân đã được đón nhận linh ân Chúa Thánh Thần trong ngày hiện xuống.
Trong khi viết Phúc Âm, chắc chắn thánh Matthêu đã bồi hồi nhớ lại nhiều kỷ niệm được sống gần gũi bên Chúa Giêsu, bởi vì cuộc sống bên cạnh Chúa thật là cao quí. Giả như ngài đã ngồi lại tại chiếc bàn thu thuế, có lẽ đời ngài đã khác xa biết bao. Chúng ta biết rằng cuộc đời sẽ trở nên giá trị nếu chúng ta sống hợp nhất với Chúa Kitô và hằng ngày trung thành đáp lại ơn Người. Chúng ta cũng sẽ trở nên những chứng nhân đắc lực cho Chúa nếu chúng ta biết vui mừng và mau mắn đáp lại tiếng Người.
Ơn gọi tông đồ của chúng ta.
Nhiều thân nhân bè bạn đã đến tham dự bữa tiệc của thánh Matthêu tổ chức để mừng Chúa. Trong số đó có một số người thu thuế, nên các ký lục và biệt phái đã xầm xì với nhau và thắc mắc với các môn đệ Chúa: Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và tội lỗi như thế? Thánh Jerome đã dí dỏm chú thích rằng đó là một bữa tiệc quây quần của những người tội lỗi!
Chúa Giêsu đã đến nhà Matthêu dự tiệc. Có lẽ Chúa vui mừng và nhân dịp ấy để thu phục cả những bè bạn của môn đệ mới của Người. Chúa Giêsu đã đáp lại lời phê bình của những người biệt phái một cách khôn ngoan mà giản dị: Không phải những người khỏe mạnh cần đến thầy thuốc, nhưng là những người yếu bệnh. Nhiều thực khách hôm ấy đã cảm thấy được Chúa thân ái đón nhận. Sau đó, chắc chắn họ đã được chịu phép rửa và trở nên những tín hữu trung thành.
Qua tấm gương ấy, Chúa dạy chúng ta biết rộng mở với mọi linh hồn. Như thế, chúng ta mới có thể đem nhiều người về với đức tin. Cuộc đối thoại về ơn cứu độ không dựa trên những công trạng hay những thành quả cá nhân. Chúa dạy: ‘Không phải những người khỏe mạnh cần đến thầy thuốc…’ Cuộc đối thoại về ơn cứu độ mở rộng cho mọi người, không phân biệt một ai. Tương tự, những cuộc đối thoại của chúng ta cũng hãy mở rộng và bao trọn mọi người… Chúng ta đừng lạnh nhạt với một ai. Một người càng cùng khốn, nỗ lực tông đồ của chúng ta phải càng lớn hơn, càng phải dùng những phương thế tự nhiên và siêu nhiên hầu truyền bá cái nhìn của đức tin. Trong giờ cầu nguyện, chúng ta hãy xét lại tính cách những tương giao xã hội của chúng ta. Chúng ta có đối xử với tha nhân - kể cả với những người dường như đã xa rời đức tin - bằng sự nồng nhiệt và cảm tình hay không?
Bạn có lý. Bạn đã viết cho tôi, ‘Những đỉnh cao xa xăm che khuất cả bầu trời miền quê, tuy nhiên không một đỉnh nào mà ta không nhìn thấy được,’ hết ngọn núi này đến ngọn núi kia. Nhiều khi, quang cảnh dường như đã rõ ràng, nhưng rồi sương mờ tan đi và hiện ra một rặng núi khác trước đó đã bị che khuất.’
Bầu trời tông đồ của bạn cũng như thế, và đúng ra phải như thế. Ta phải đi qua thế giới này. Nhưng không có những con đường làm sẵn cho bạn. Chính bạn sẽ phải làm ra con đường băng qua những dãy núi, san bằng chúng bằng những bước chân của chính bạn.
SUY NIỆM 10: Thánh Matthêu Tông Đồ
Ðây là sách Phúc Âm xuất hiện trước nhất, được viết khoảng giữa năm 70 và 75 sau công lịch. Thánh Matthêu có ý viết cho những người Do Thái trở lại để củng cố đức tin họ. Người nhấn mạnh rằng:
- Chúa Giêsu thực hiện nơi bản thân Chúa mọi lời tiên tri đã chép trong sách Cựu Ước. Người Do Thái trở lại đạo Chúa Kitô không phải từ bỏ kho tàng thiêng liêng của dân được chọn, người ấy vẫn tìm được trong Phúc Âm những gì làm cho mình thêm vinh quang, trong sạch và hoàn hảo.
1. Thánh Matthêu là ai?
- Matthêu là một trong nhóm 12 tông đồ. Ngài là nhân viên thu thuế, được Chúa Giêsu gọi lúc ngồi ở bàn thu thuế. Theo Pa-pi-as (Giám Mục thành Hieropôlis khoảng năm 138) thì Matthêu cũng được gọi là Lêvi, đã soạn Phúc Âm bằng tiếng Aram, nhưng bản đó đã bị thất lạc. Hiện người ta chỉ tìm được những bản bằng tiếng Hy Lạp.
2. Thánh Matthêu nhắm mục đích gì và nhắm vào thành phần thính giả nào khi viết Phúc Âm?
- Thánh Matthêu trích dẫn Cựu Ước rất nhiều trong Phúc Âm của ngài, nhằm mục đích chứng minh Chúa Giêsu Nagiarét chính là Ðấng Messia Thiên Chúa đã hứa: và như thế ngài nhắm vào số thính giả người Do Thái.
3. Phúc Âm của ngài được viết khoảng năm nào?
- Khoảng năm 75 sau Chúa Giáng Sinh.
4. Thánh Matthêu viết Phúc Âm tại đâu?
- Theo truyền tụng thì thánh Matthêu đã rao giảng và làm việc tại Antioch, có lẽ tại đây ngài đã soạn Phúc Âm.
5. Thánh Matthêu đã dùng Cựu Ước để minh chứng Ðức Giêsu là Ðấng Messia như thế nào?
- Ngài chứng minh Chúa Giêsu là con vua Ða-vít, thuộc dòng dõi Abraham, đến để tái lập vương quốc Ða-vít mà thánh vịnh 72 đề cập tới việc các vua chúa trần gian tới bái lạy Chúa Hài Ðồng. Mãi sau này, vào thế kỷ thứ 8 tên ba vị đó mới được xác định là Gasparê, Melchior và Balthazar.
- Gia đình thánh gia trốn qua Ai Cập để ứng nghiệm lời tiên tri Hôsêa: "Từ Ai Cập ta đã gọi con Ta về."
- Việc Giuđa ném trả 30 đồng tiền bán Chúa vào đền thờ, các thượng tế và niên trưởng đã lấy bạc ấy mà tậu ruộng của người thợ gốm, là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giêrêmia: “Họ đã lượm lấy ba mươi đồng bạc, tức là cái giá mà một số con cái Itraen đã đặt khi đánh giá Người. Và họ lấy số bạc đó mà mua “Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm”, theo những điều Đức Chúa đã truyền cho tôi.”
6. Trình bày vắn tắt bố cục nội dung Phúc Âm Thánh Matthêu?
- Phúc Âm Thánh Matthêu co thể được chia ra thành 4 phần:
- Chương 1-2 nói về Tin Mừng thời niên thiếu của Chúa Giêsu.
- Chương 3-18 đề cập tới sứ vụ của Chúa Giêsu tại Galilê.
- Chương 19-25 nói về sứ vụ của Chúa Giêsu tại Giêrusalem.
- Chương 26-28 tường thuật về cuộc thương khó và phục sinh của Chúa Giêsu.
7. Thánh Matthêu nói gì về cuộc thương khó và sống lại của Chúa Giêsu?
- Trong ba chương 26-28 ngài đề cập tới một số điểm riêng biệt như:
- Cái chết của Giuđa, môn đồ bội phản.
- Sự kiện vợ của tổng trấn Philatô can gián chồng trong việc kết án Chúa Giêsu.
- Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, nhiều vị thánh đã an nghỉ sống lại vào thành...
- Việc mua chuộc lính canh mộ...
8. Phúc Âm theo Thánh Matthêu có những đặc điểm nào?
- Ngài trình bày giáo huấn qua năm bài diễn từ.
- Ngài trình bày theo cặp ba và cặp bảy.
- Minh chứng những gì Cựu Ước đã nói đều được thực hiện.
- Phúc Âm ngài mang nhiều chiều kích Hội Thánh.
9. Kể 5 bài diễn từ của Chúa Giêsu mà Thánh Matthêu đã ghi lại?
- Bài giảng trên núi (chương 5-7)
- Sứ vụ trao cho 12 tông đồ (chương 10)
- Các dụ ngôn về nước trời (chương 13)
- Ðịa vị cao nhất và sự tha thứ (chương 18)
- Diễn từ chung luận (chương 24-25)
10. Lễ Thánh Matthêu được Giáo Hội mừng kính vào ngày nào?
- Ngày 21-9 dưới tước hiệu tông đồ thánh sử.
SUY NIỆM 11: Thánh Matthêu Tông Đồ
(Nhóm Châu Kiên Long)
Thánh Matthêu còn gọi là Lêvi, con ông Alphê. Một hôm đi qua sở quan thuế thành Capharnaum gần bờ hồ Tibêriat, Chúa Giêsu thấy Matthêu ngồi ở bàn thu thuế, Ngài liền bảo ông: "Hãy theo Ta". Không do dự, ông liền đứng lên, bỏ mọi sự mà theo Chúa. Và sau đó, ông thiết tiệc tại nhà để khoản đãi Chúa Giêsu, các môn đệ và các bạn hữu, trong số đó có cả những người biệt phái. Họ thắc mắc khi thấy Chúa hiện diện giữa những người mà họ cho là tội lỗi. Chúa Giêsu đã giải thích cho họ: "Ta không đến để gọi những người công chính nhưng để gọi người tội lỗi...".
Trước khi rời Giuđêa để đi giảng đạo, thánh Matthêu đã soạn thảo Phúc Âm đầu tiên bằng tiếng Do Thái vào khoảng năm 50. Vì viết cho người Do Thái nên ngài nhấn mạnh đến kiểu nói và quan niệm riêng họ. Ngài nhắc cho họ biết rằng: "Phúc Âm hoàn tất luật cũ". Ngài chứng minh Chúa Giêsu chính là Ðấng Cứu Thế mà Cựu Ước hằng mong đợi. Có thể nói Phúc Âm của ngài được coi là đầy đủ nhất.
Theo nhiều văn kiện lịch sử để lại thì thánh Matthêu đã đi truyền giáo ở Êthiopi, Ba Tư, Parthes và sau cùng ngài đã được lãnh phúc tử đạo tại Tarium thuộc Êthiopi.
Thánh Matthêu thường coi như vị thánh quan thầy của những nhà trí thức Công Giáo.
SUY NIỆM 12: Thánh Matthêu Tông Đồ
(http://giesu.net// Phó Tế JB Huỳnh Mai Trác)
“Bỏ nơi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mát Thêu đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: “Anh hãy theo thôi ! Ông đứng dậy đi theo Người.”
Câu văn ngằn ngủi trên cho chúng ta biết về người môn đệ tên là Matthêu Thánh sử. Có phải thật Matthêu là người thu thuế như Thánh Marcô và Luca đã viềt trong Tin Mừng không? Nếu đúng như vậy thì Matthêu chắc chắn bị những người Do thái khinh bỉ và ghét bỏ vì là người cộng tác với quân La Mã. Những người thu thuế là kẻ thù của nhân dân và là người tội lỗi mà họ oán trách Chúa Giêsu đã đi lại và dùng bữa với họ.
Dù sao đi nữa thì Matthêu đã bỏ dĩ vãng lại trong quá khứ mà đi theo Chúa Giêsu. Nhiều học giả nghi ngờ là sách Tin Mừng Matthêu có thể là do một trong những môn đồ của Chúa Giêsu vào cuối thế kỷ đầu tiên vì dường như là sách Tin Mừng Matthêu đưọc viết bởi một Kitô hữu Do thái thông thạo tiếng Hy lạp và quả quyết Chúa Giêsu là Đấng Messiah, Đấng đã hoàn tất những tiên báo trong Cựu Ước mang đến một luật lệ và một kỷ nguyên mới.
Đường như thánh Matthêu viết sách Tin Mừng dành nhiều cho người Do Thái và người giàu có. Phúc Âm thánh Matthêu ca ngợi sự nghèo khó và thuyết phục người đọc là ơn cứu độ tùy thuộc nhiều vào lòng thương xót những kẻ nghèo khó. Điều này nói lên lòng ăn năn hối cải của người thu thuế. Matthêu kể lại những lời giảng dạy của Chúa Kitô và tóm tắt điều căn bản trong Bài giảng trên Núi về các Mối Phúc Thật.
Matthêu ghi lại dụ nguôn về cuộc Phán Xét Cuối Cùng khi “Đức Chúa Con trở lại trong vinh quang” để tách ra “chiên và dê”. Chúa phán với những người được Chúa ân thưởng: “Vì khi Ta đói các người đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc, Ta đau ốm các ngươi dã thăm viếng, Ta ngồi tù các ngươi đã hỏi han.” Họ bèn hỏi: “Chúng tôi đã làm những việc ấy lúc nào? Chúa bèn phán: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”
Thánh Matthêu là dấng phù trợ các sứ vụ của Giáo Hội. Được ơn gọi đi theo Chúa Giêsu, thánh Matthêu kết thúc Tin Mừng lời thúc dục người theo Chúa như sau: “Vậy anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, “ và lời cuối cùng cho chúng ta và cho mọi thời đại: “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
20/09 Thợ làm vườn nho
- Viết bởi Mt 20, 1-16a
Thợ làm vườn nho.
Chúa Nhật 25 Thường Niên năm A.
"Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng".
Lời Chúa: Mt 20, 1-16a
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông.
Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng". Họ liền đi.
Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
Đến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: "Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng: "Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta". Đến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết."
Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn, nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng.
Đang khi lãnh liền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao"? Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?" Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng? Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Is. 55, 6-9; Pl. 1, 20c-24.27a; Mt. 20, 1-16a
1. Tôi đâu có bất công.
(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Trong dụ ngôn người cha nhân hậu (Lc 15),
chúng ta đã từng thấy thái độ của người con cả nổi giận không chịu vào nhà,
vì anh thấy cha tỏ ra quá bao dung đối với đứa em hư đốn,
chẳng những cha tha thứ mà còn mở đại tiệc ăn mừng.
“Đã bao năm con hầu hạ cha? thế mà chưa bao giờ?
còn thằng con của cha đó... Vậy mà...”
Anh thấy mình bị cha đối xử bất công!
Trong dụ ngôn trên đây, người làm sớm cũng cằn nhằn
vì ông chủ trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng.
Cả hai dụ ngôn đều phản ánh một căng thẳng có thực
do việc Đức Giêsu thường giao du với tội nhân.
Ngài quý trọng từng con chiên lạc,
đem đến cho họ niềm vui sống và sự tự tin.
Ngài mời họ hoán cải và hứa ban cho họ Nước Trời.
Như thế, rốt cuộc những người Do Thái tội lỗi
cũng được hưởng hạnh phúc như các ông Pharisêu suốt đời tuân giữ chi li Lề Luật.
Người Pharisêu bị sốc vì thái độ của Đức Giêsu.
Họ cảm thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm.
Khi nhìn thái độ bực bội của người làm từ sớm,
chúng ta hiểu được thế nào là ghen tỵ.
Người làm sớm cằn nhằn ông chủ vườn nho
không phải vì ông đã đối xử bất công đối với họ (họ vẫn được trả đủ tiền lương mà),
nhưng vì ông đã trả cho người làm sau ngang hàng với họ,
là những kẻ vất vả suốt ngày.
Nếu ông trả cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu.
Người ghen tỵ không vui được với người vui vì họ không biết yêu thương.
Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không phải là bạn,
nên sự thành công của ai đó trở thành nỗi đe dọa.
Đức Giêsu mời chúng ta đổi cái nhìn về Thiên Chúa.
Ngài công bình, nhưng không cứng nhắc trong luật lệ.
Ngài có trái tim để tự do yêu, có lòng tốt để bất ngờ trao tặng,
Thiên Chúa là Thiên Chúa của người trộm lành,
là chủ của người thợ chỉ làm có một tiếng.
Thiên Chúa công bình lại là người cha đầy yêu thương.
Đức Giêsu cũng mời ta đổi cái nhìn về tha nhân,
bớt tự hào về mình, thêm trân trọng người khác,
phá bỏ những hàng rào của nhỏ mọn, ghen tương.
Đến khi nào người con cả mới chịu vào nhà
để niềm vui của cha, của em là của anh?
Đến khi nào người làm từ sáng sớm biết chia vui cùng người mới làm buổi chiều?
Đến khi nào tôi mới thật sự vui với người kế bên
chỉ vì người ấy là bạn tôi?
Gợi Ý Chia Sẻ
Cain vì ganh tỵ đã giết em là Aben. Người ganh tỵ vừa hủy diệt người khác, vừa huỷ diệt chính mình. Có khi nào bạn nuôi lòng ganh tỵ, ghét ghen không? Làm sao để ra khỏi thái độ đó?
Bạn thấy “vui với người vui” dễ hay khó? Có khi nào bạn vui trước thành công của một người bạn hay của một người mà bạn không ưa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa vươn lên cao,
vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
2. Mướn thợ làm vườn - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Đài Hà Nội đưa tin lúc 07g15 sáng ngày 21/09/1987 như sau: “Nước Hoa Kỳ vẫn còn 9.500.000 người thất nghiệp, hơn 4 triệu người ăn xin, hơn 300.000 người tự tử hàng năm”. Vấn đề tạo công ăn việc làm cho người dân là một việc khó khăn, làm đau đầu các nhà cầm quyền trên thế giới.
Dụ ngôn Tin mừng hôm nay đề cập đến một ông chủ giúp nhiều người thất nghiệp có công ăn việc làm. Ông đã đối xử với họ rất công bằng và bác ái.
Công bằng vì ông đã trả lương cho thợ đúng với sự thỏa thuận giữa chủ và thợ, đúng với thời giá thích hợp với hoàn cảnh công nhân: Công mỗi ngày một đồng đủ nuôi sống họ và gia đình cho chi phí tiêu dùng cả ngày.
Ông còn thực thi công bằng xa hơn ở điểm là ông tự cho mình có trách nhiệm phải tìm giúp các kẻ thất nghiệp có công ăn việc làm. Đây là bổn phận của chủ đối với thợ, của cha mẹ đối với con cái, của chính quyền đối với người dân. Họ phải chịu trách nhiệm tạo công ăn việc làm xứng đáng với phẩm giá con người, phải lo tổ chức xã hội phân chia quyền lợi và nghĩa vụ tương đối đồng đều, không ai bị thiệt thòi quá và không ai hưởng lợi quá.
Hiến Chế Giáo Hội trong thế giới ngày nay của Công Đồng Vatican II đã xác định: “Trong những hoàn cảnh cụ thể. Chính xã hội có bổn phận góp phần giúp người công nhân có công ăn việc làm” (số 67).
Từ thực thi công bằng cá nhân và xã hội, ông chủ vươn lên thực thi bác ái. Bác ái ở đây là ông chủ đã thương những người thợ, trả cho những người chỉ làm ít giờ cũng được lãnh một đồng như người làm cả ngày. Phải chăng ông đã thấy hoàn cảnh gia đình nghèo khổ của họ? Ông đã thấy họ cũng phải khổ sở suốt ngày đi tìm việc làm. Ông đã hỏi: “Sao các anh đứng đây suốt ngày vô công rỗi nghề thế? Họ đáp: Vì không có ai thuê chúng cháu cả”. Câu đáp thật tội nghiệp! Cả ngày trông chờ có người mướn, cả ngày lo lắng làm sao có tiền nuôi gia đình đây!
Lòng bác ái của ông chủ dẫn ông xa hơn nữa: Giờ nào ông cũng chăm lo đi tìm tất cả những kẻ thất nghiệp, giúp họ có công ăn việc làm. Ông biết rằng: “Nhờ việc làm, con người giúp nuôi sống mình và gia đình, liên kết với anh em và phục vụ lẫn nhau, có thể thực thi bác ái và góp phần vào công cuộc sáng tạo kiệt tác của Thiên Chúa. Hơn nữa, nhờ việc làm con người cộng tác vào chính công cuộc cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã nâng cao giá trị của việc làm với chính hai bàn tay của mình tại Nagiaret” (Gaudium et Spes 67).
Thời thượng cổ có tiếng là chuyên chế bóc lột, thế mà ông chủ này lại có quan niệm công bình bác ái thật lạ lùng! Dù thời nay có tiếng là văn minh dân chủ tiên tiến, thế mà chưa thấy một chế độ nào thực hiện được như vậy! Chế độ nào cũng đầy dẫy những bất công, bóc lột, bất nhân. Những tệ nạn chiến tranh, khủng bố, đảo chánh, biểu tình là những hiện tượng hậu quả của các xã hội bất công.
Ông chủ trong Tin mừng hôm nay thật là siêu việt, ông đã thực thi và đề ra chính sách công bằng, bác ái vượt thời gian và không gian. Ông chủ đó chính là Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế đã đặt ra giải pháp cứu con người và truyền dạy con người phải biết sống công bằng và bác ái, như thế mới mong xây dựng được một xã hội tuyệt hảo.
Thế nhưng, con người từ bao nhiêu ngàn năm vẫn đố kỵ, ghen ghét lẫn nhau. “Họ lẩm bẩm kêu trách chủ rằng: bọn sau chỉ làm một giờ mà ông trả bằng chúng tôi sao?”. Ông buộc lòng phải sửa trị thói ghen tị đó bằng vạch cho họ thấy lòng bác ái cao cả của ông: “Chẳng lẽ tôi không có quyền cho của cải của tôi sao? Hay vì bạn thấy lòng tốt của tôi, mà bạn ghen tức ư!”
Năm 1987, nhiều nước tư bản phản đối các công ty tư nhân của Nhật hợp tác phát triển kinh tế Việt Nam. Đó là thói ghen tị bất công, bất nhân. Mình không được ăn thì đạp đổ và muốn dìm cả dân tộc nghèo đói vì chiến tranh bất nhân.
Ông chủ không trả tiền thêm cho bọn thợ làm cả ngày! không phải vì ông keo kiệt, bóc lột. Nếu ông keo kiệt bóc lột, ông chẳng hậu đãi các thợ làm ít giờ. Nhưng ông phải giữ đúng công bằng vì không cho phép lòng tham của họ vơ vét thêm, làm dịp cho họ ăn chơi hoang phí.
Lạy Chúa, “trời cao hơn đất bao nhiêu, thì đường lối của Chúa cao hơn đường lối của con người bấy nhiêu” (Is. 55,9). Lạy Đức Kitô là ông chủ muôn đời, xin bày tỏ đường lối cao cả của Người nơi con như Người đã thực hiện nơi thánh Phaolô, để sinh hoa kết quả cho anh em con và cũng là mối lợi bội phần cho con lúc chết. Amen. (Pl. 1, 20-24).
3. Do con người hay do Thiên Chúa
Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường nẻo của Ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo của các ngươi bấy nhiêu.
Như chúng ta đã biết Thiên Chúa là Tình yêu. Chính tình yêu đó đã thúc đẩy Ngài thực hiện những hành động mà tâm trí loài người chúng ta cho là nghịch lý. Thực vậy, nghịch lý của một Thiên Chúa vô cùng mà lại làm người hèn mọn. Nghịch lý của cội nguồn sự sống mà lại chấp nhận cái chết tức tưởi. Nghịch lý của Đấng thánh tuyệt vời mà lại gánh lấy tội lỗi của nhân loại và còn nhiều điều nghịch lý khác nữa được tìm thấy trong Phúc Âm. Chẳng hạn cả Nước Trời vui mừng vì một kẻ tội lỗi trở lại hơn là 99 người công chính không cần sám hối ăn năn. Hoặc những kẻ tội lỗi cùng với phường đĩ điếm sẽ vào Nước Trời trước cả những luật sĩ và biệt phái, vốn được coi là hàng đạo đức trong dân Do Thái. Hoặc ai vả ngươi má này thì hãy đưa cả má kia. Ai lấy áo trong hãy cho cả áo ngoài. Ai muốn làm lớn, hãy trở nên đầy tớ. Chính vì thế thánh Phaolô đã thốt lên: Thiên Chúa đã dùng sự điên rồ của loài người để mạc khải sự khôn ngoan của Ngài.
Và qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta cũng thấy: Không phải chỉ có những người thợ vào giờ đầu ban sáng mới có những thắc mắc với ông chủ, mà hầu như ai trong chúng ta rơi vào trường hợp ấy, cũng đều có chung một phản ứng tương tự. Làm sao có thể chấp nhận được lối cư xử nghịch lý như thế? Vậy mà tình thương của Thiên Chúa đã mang lại lời giải đáp khiến chúng ta đi từ chỗ ngỡ ngàng đến khâm phục, vì ai mà chẳng trông mong được hưởng nhờ tình thương ấy. Chính tình thương ấy đã vượt lên trên sự công bằng phải lẽ và đã xoá tan đi hố ngăn cách giữa người lành và kẻ dữ. Thiên Chúa không muốn xoá sổ một ai cả, Ngài sẵn lòng kêu gọi sự hợp tác của con người, từ kẻ làm giờ thứ nhất đến người làm giờ sau cùng, hoàn toàn không phải do công lao của con người, nhưng là khởi nguồn từ sáng kiến đầy lòng thương xót của Ngài.
Không ít người trong chúng ta cũng tự hào vì đã đóng góp nhiều tiền của vào việc xây cất thánh đường, thức khuya dậy sớm tham dự những việc đạo đức, nhưng lại không muốn thấy ai hơn mình và lấy làm vui khi người khác thấp kém hơn ta. Chính vì mối ganh tỵ hẹp hòi đó mà con người sẵn sàng dốc toàn lực để mưu tìm cho bản thân chỗ đứng vững chắc trong xã hội, những mánh mung làm ăn đem lại nhiều lợi nhuận, cho dù phải giẫm lên người khác để mà tiến tới. Và cho đó là khôn ngoan, là hợp lý. Chúng ta có ngờ đâu chính cái khôn ngoan và hợp láy ấy lại đi ngược lại với đường lối đầy tình thương của Thiên Chúa. Thật đáng tiếc khi chúng ta đã làm méo mó bộ mặt của Thiên Chúa. Đã đến lúc chúng ta phải tự vấn xem chúng ta suy nghĩ như thế nào về Thiên Chúa, về tha nhân, về chính mình.
4. Sự công bằng của Chúa
Qua tiên tri Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định: tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường nẻo của Ta cũng không phải là đường nẻo của các ngươi. Với dụ ngôn những người thợ giờ thứ mười một, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa đường lối và cách cư xử của Chúa.
Thật vậy, một người chủ thuê thợ vào làm trong vườn nho của mình. Những người thợ này được thuê vào những giờ giấc khác nhau. Những người được thuê vào sáng sớm với giá thoả thuận là một quan tiền một ngày. Những người thợ khác thì được thuê vào giờ thứ ba, giờ thứ sáu và giờ thứ chín. Nhưng cũng có những người được thuê vào giờ thứ mười một, nghĩa là vào một thời điểm rất muộn. Tuy được thuê vào các giờ khác nhau, nhưng họ lại kết thúc công việc trong cùng một lúc. Như thế, số giờ làm việc có khác nhau, nhưng số tiền mọi người lãnh được lại bằng nhau, kẻ đến sớm cũng như người tới muộn, mỗi người đều nhận được một quan tiền, theo sự thoả thuận giữa ông chủ và những người thợ được thuê sớm nhất. Cách đối xử của ông chủ đã làm cho những người đến muộn vui mừng, nhưng lại tạo nên sự bất mãn nơi những kẻ được thuê từ sáng sớm. Bất mãn vì không được hơn người tới muộn, mà cũng có thể là bất mãn vì người tới muộn cũng được lãnh như mình. Và ông chủ đã trả lời cho những kẻ bất mãn về lý do hành động của ông như sau: Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn hay sao?
Những ám chỉ của dụ ngôn thật rõ ràng: Ông chủ tượng trưng cho Thiên Chúa. Những người thợ được thuê từ sớm là những người Do Thái. Còn những người thợ giờ thứ mười một là tất cả các dân tộc khác, được gọi là dân ngoại. Dụ ngôn là câu trả lời của Chúa Giêsu cho những người biệt phái và Do Thái, từng kêu trách về sự ưu đãi của Chúa đối với những người họ gọi là dân ngoại. Đồng thời qua đó Chúa Giêsu còn cho chúng ta thấy rõ lòng nhân từ của Thiên Chúa thì vượt lên trên tất cả những loại trả công của nhân loại. Tuy nhiên, không phải vì thế mà hành động của Ngài lại mang tính cách tuỳ tiện và bất chấp sự công bằng. Đối với Nước Trời, không có vấn đề buôn bán hay trả giá, mà hoàn toàn chỉ vì lòng nhân từ và thương xót của Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Là những người thuộc về một gia đình đạo gốc và bản thân vốn lại là người siêng năng sốt sắng, trung thành tuân giữ mọi điều răn, có thể là từ nhỏ cho tới lớn, chúng ta nhiều khi tự cho mình cái quyền được hưởng những ân huệ của Chúa hơn những người khác, nhất là những người chẳng hề biết đạo và thực hành đạo như chúng ta. Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý một điều: Thiên Chúa là Đấng yêu thương và Ngài đối xử với mỗi người chúng ta quá lượng chúng ta có thể mong ước và mường tượng ra được. Bởi đó thái độ căn bản sẽ là cõi lòng biết ơn và vui mừng trước những gì Thiên Chúa ban cho người khác, cũng như ban cho chính bản thân chúng ta.
5. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: Lòng tốt của Thiên Chúa
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Nếu chúng ta tìm hiểu kỹ về Thiên Chúa, chúng ta sẽ gặp nhiều bất ngờ. Thiên Chúa mà ta tưởng rằng đã hiểu rất rõ lại không như ta tưởng; suy nghĩ của Ngài nhiều khi không giống suy nghĩ của chúng ta; cách đối xử của Ngài cũng lắm bất ngờ.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu Ngài hơn, và nhất là biết suy nghĩ và cư xử như Ngài.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta ít lo tìm hiểu Chúa nên đã không sống như Ngài.
Cách chúng ta đối xử với người khác dựa trên quyền lợi bản thân hơn là dựa trên lòng tốt.
Nhiều khi thấy một người khác được điều gì tốt, thay vì vui mừng, chúng ta lại khó chịu.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 55,6-9):
Kẻ có tội thường sợ Thiên Chúa trừng phạt nên trốn lánh Ngài. Mà càng trốn lánh Thiên Chúa thì càng lún sâu trong tội.
Qua lời ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa khuyến khích họ cứ an tâm trở về. "Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi": Ngài không nghĩ đến trừng phạt mà chỉ nghĩ đến cứu vớt, Người không bắt tội mà chỉ thứ tha.
2. Ðáp ca (Tv 144):
Tv này ca tụng sự vĩ đại của Thiên Chúa, sự vĩ đại này chính là tấm lòng của Ngài: nhân hậu, từ bi, kiên nhẫn, xót thương và tốt lành với tất cả mọi người.
3. Tin Mừng (Mt 20,1-16a):
Dụ ngôn này phản ảnh hai cách suy nghĩ:
Cách suy nghĩ của đám thợ làm vườn nho là suy nghĩ theo công bằng: kẻ làm ít giờ lẽ ra phải được lãnh ít hơn người làm nhiều giờ. Ðây cũng là suy nghĩ của loài người chúng ta.
Cách suy nghĩ của ông chủ vườn nho: vẫn trả đủ lương cho những người làm nhiều giờ, nhưng vì lòng tốt nên cũng trả cho người thợ làm giờ cuối cùng đủ một đồng. Ðây là cách suy nghĩ của Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (Pl 1,20c.24-27) (Chủ đề phụ):
* Trong các Chúa nhựt XXV-XXVIII, bài đọc II được trích từ thư Phaolô gởi tín hữu Philipphê.
Ðây là bức thư Phaolô viết trong khi bị cầm tù. Trong thời gian Phaolô ở từ, tín hữu Philipphê đã thường xuyên thăm viếng, trợ giúp và còn phái người tới chăm sóc cho Phaolô.
Trong đoạn thư này, Phaolô nghĩ đến hai tình huống:
Một là ông sẽ được tha tự do: khi đó ông sẽ tiếp tục rao giảng Tin Mừng Ðức Giêsu Kitô, và Ngài sẽ được vẻ vang.
Hai là ông bị xử tử: cái chết của ông vì Tin Mừng cũng sẽ làm vẻ vang Ðức Kitô.
Vì thế Phaolô kết luận: "Dù tôi sống hay tôi chết, Ðức Kitô cũng sẽ được vẻ vang nơi tôi"
IV. Gợi ý giảng
1. Tư tưởng của Thiên Chúa không giống tư tưởng loài người
Loài người chúng ta suy nghĩ giống như một người buôn bán: món hàng trị giá thế nào, vậy phải mua thế nào, bán thế nào? bao nhiêu thì đúng, bao nhiêu thì sai?
Chúng ta áp dụng suy nghĩ ấy chẳng những trong đối xử với người khác, mà còn cho cả Thiên Chúa nữa: tôi đã làm gì và làm bao nhiêu, cho nên Thiên Chúa phải ban cho tôi ơn gì và ban bao nhiêu. Chúng ta cho rằng như thế là công bằng.
Nhưng Thiên Chúa không muốn làm người bán cũng không muốn làm người mua. Ngài chỉ muốn làm người Cha, yêu thương chúng ta là con. Ngài chỉ có thương yêu và chỉ dùng lòng tốt để đối xử. Ðối với từng đứa con, Ngài không xét xem nó đã làm được gì, nó đáng được bao nhiêu. Ngài chỉ nghĩ nó cần được chăm sóc như thế nào, ban cho nó cái gì là tốt nhất
Khi lẩm bẩm trách, những người thợ làm nhiều giờ muốn lấy suy nghĩ của mình áp đặt lên suy nghĩ của ông chủ, họ muốn ông đừng làm người cha yêu thương mà hãy làm một người buôn bán vô tình.
2. Công bình và thương xót
Nhiều người đọc xong dụ ngôn này đã nghĩ rằng Thiên Chúa đối xử không công bình vì Ngài đã trả cùng một đồng cho những người làm việc suốt ngày và người chỉ làm có một giờ.
Thực ra chẳng có gì là không công bình cả: Vì ông chủ đã thỏa thuận với thợ về tiền công mỗi ngày là một đồng, nên nếu ông trả không đủ một đồng thì mới bất công. Nói cho đúng hơn: đối với những người làm suốt ngày thì ông chủ công bình; còn đối với người làm chỉ có một giờ thì ông chủ đã đối xử hơn mức công bình: ông đối xử theo lòng thương xót.
Xem ra, đòi hỏi công bình là điều hợp lý. Nhưng xét theo thực tế, chúng ta không chịu nổi nếu Chúa cứ theo công bình à đối xử với chúng ta, đúng như lời Thánh vịnh "Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được". Cho nên, xét cho cùng thì chúng ta cần đến lòng thương xót của Chúa hơn là đến đức công bình của Ngài.
Vả lại, đối xử công bình là đối xử bằng lý, còn đối xử với lòng thương xót là đối xử theo tình. Mỉa mai thay, bất chính như con người thì hay đòi đối xử bằng lý, còn công chính như Thiên Chúa lại thích đối xử bằng tình.
Flor McCarthy đã chứng kiến một cảnh tượng tương tự với dụ ngôn này và cho biết ông đã thay đổi cách suy nghĩ ra sao sau khi chứng kiến nó: có lần ông đến Cape Town nước Nam Phi. Ðó là một buổi sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài đường không làm gì cả. Ban đầu ông nghĩ rằng đó là những kẻ lười biếng, đang khi những người khác lo làm ăn thì những người này đứng đó chẳng làm gì cả. Ðến trưa ông vẫn còn thấy đám người ấy vẫn đứng đó, mồ hôi đã nhễ nhại ướt đẫm lưng áo. Hỏi kỹ thì mới biết họ là những người thất nghiệp. Họ đứng chờ ngoài nắng, hy vọng có ai đến thuê họ đi làm chăng. Mãi tới chiều ông vẫn thấy đám người đó. Và khi hết ngày, họ lủi thủi ra về, trông rất tội nghiệp. Hôm đó McCarthy rất hối hận vì đã vội kết án những con người tội nghiệp ấy. Và ông đã soạn một lời cầu nguyện như sau:
"Tư tưởng của Ta không giống tư tưởng các ngươi
và đường lối Ta không giống đường lối các ngươi"
"Như trời xanh cao hơn đất bao nhiêu
thì đường lối Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu"
Lạy Chúa
Tư tưởng chúng con rất nông cạn, đường lối chúng con rất hẹp hòi
Bởi vì trí óc chúng con nghèo nàn và con tim chúng con chật chội.
Xin Chúa mở rộng trí óc và con tim chúng con
để chúng con suy nghĩ giống Chúa hơn, và hành động giống Chúa hơn.
Xin giúp chúng con đừng bực bội vì lòng tốt của Chúa đối với người khác
Xin giúp chúng con ý đừng cho rằng chúng con đáng được Chúa thưởng công
Xin giúp chúng con ý thức rằng chúng con cần đến lòng thương xót hơn là đức công bình của Chúa. Amen.
3. Giờ thứ 11
Cuối đoạn Tin Mừng này có một câu bất ngờ: "Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".
Trong Tin Mừng có nhiều thí dụ minh họa: Một chàng thanh niên giàu có và đạo đức hỏi Ðức Giêsu: tôi đã giữ các giới răn từ thuở nhỏ, vậy tôi phải làm gì thêm để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Lần kia Phêrô áy náy trình với Chúa: Thưa Thầy, này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy thì sao? Bồn chồn hơn nữa, hai người con Ông Dêbêđê nghĩ rằng mình thuộc số môn đệ đi theo Thầy trước hết cho nên xin Thầy dành cho mình hai chỗ tả hữu trong Nước của Ngài. Nhưng, đối với những "kẻ trước hết" ấy, Ðức Giêsu đã không dành hai chỗ tả hữu ưu tiên, Ngài lại ban chúng cho hai tên trộm cướp. Ðúng vậy, hai "kẻ sau hết" này đã ở hai bên tả hữu của Thập giá.
Nói "trước hết" và "sau hết" là tính theo thời gian. Nhưng liên hệ với Chúa không tính bằng thời gian mà bằng sự gắn bó tình yêu.
4. Hãy có một não trạng mới
Ðiểm sâu sắc nhất của dụ ngôn những người thợ vườn nho là đặt đối lập nhau hai não trạng:
a/ Não trạng của những thợ làm nhiều giờ là óc tính toán: làm gì cũng là để tính công, công càng nhiều thì phải được hưởng càng nhiều.
Ðây là não trạng của đa số tín hữu chúng ta. Chúng ta tính toán mình đã giữ đạo bao nhiêu năm, đọc kinh dự lễ bao nhiều lần, làm việc lành phúc đức bao nhiêu việc v.v.
Với não trạng ấy, chúng ta chăm chăm nhìn đến những việc mình đã làm và cứ bo bo nhìn vào sổ thu của mình. Chúng ta nghĩ rằng khi đến cuối đời (hết ngày làm việc), trình quyển sổ thu đó cho Chúa thì chắc chắn Ngài sẽ mở kho tàng ơn cứu độ và thanh toán sòng phẳng cho chúng ta.
Nhưng trong não trạng ấy, ta là ai, Thiên Chúa là ai, liên hệ giữa Thiên Chúa và ta là gì? Ta chỉ là người làm công, Thiên Chúa là người thuê mướn, liên hệ hai bên là hợp đồng làm ăn.
Sống đạo theo não trạng này thật là nặng nhọc và vô tình vô nghĩa.
b/ Thực ra, Thiên Chúa đâu có tự coi là người thuê mướn và cũng đâu có coi chúng ta là người làm công.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta theo hoàn cảnh của mỗi người chúng ta. Người thì hoàn cảnh này (đứng trước vườn nho từ sáng sớm), người thì hoàn cảnh khác (đứng trước vườn nho khi đã gần hết ngày), nhưng người nào cũng được Thiên Chúa thương và ban cho ơn cứu độ (được vào vườn nho, được lãnh một đồng).
Não trạng thoải mái và hạnh phúc nhất là cảm nhận tình thương ấy và đáp lại tình thương bằng cách tận tâm tận lực canh tác vườn nho, không tính toán làm lâu hay làm mau, làm được nhiều hay làm được ít, chịu cực khổ nhiều hay ít.
Cần phải thay đổi não trạng: sống đạo không bằng tính toán mà bằng cả tấm lòng.
5. Chuyện minh họa
Ðây là diễn tiến một cuộc chạy đua 3000 mét.
Lúc bắt đầu, những tay đua chạy san sát nhau thành một nhóm rất đông. Một lúc sau, một nhóm nhỏ đã tách rời đám đông và chạy phía trước. Còn vài chục mét nữa thì một người vọt lên rất nhanh và tới đích.
Khán giả vỗ tay hoan hô nồng nhiệt. Một số người ôm những bó hoa tới tặng nhà vô địch. Các phóng viên xách Camera và máy chụp hình tới, vừa bấm máy, vừa thu hình, vừa phỏng vấn. Những người hâm mộ tới xin chữ ký. Một số hãng thương mại đến đề nghị ký hợp đồng với nhà vô địch.
Cuối cùng, ông chủ tịch Ban Tổ chức xuất hiện. Người ta mời nhà vô địch lên đứng trên một chiếc bục cao, người hạng nhì đứng trên bục bên phải thấp hơn một chút, và người hạng ba bục bên trái thấp hơn chút nữa. Người ta mang đến 3 chiếc huy chương để ông chủ tịch đeo vào cổ họ.
Nhưng ông chủ tịch ngỏ ý muốn gặp 3 người tới đích cuối cùng. Ban tổ chức không hiểu, nhưng vẫn làm theo lời ông. Khi họ tới, ông tươi cười trao chiếc huy chương vàng cho người hạng chót, chiếc huy chương bạc thuộc về người áp chót, và chiếc huy chương đồng cho người kế tiếp.
Nhà vô địch bực bội phản đối:
- Như thế là không công bình!
- Tại sao? Ông chủ tịch hỏi lại.
- Tôi hạng nhất, tôi phải được thưởng.
- Thì anh đã được thưởng rồi. Này nhé khán giả đã vỗ tay hoan hô anh, báo chí đã chụp hình anh, những người hâm mộ đã tặng hoa cho anh, những hãng thương mại đã ký hợp đồng với anh. Anh đã được thưởng quá nhiều rồi. Bây giờ anh hãy nghĩ tới những người chạy sau chót: họ cũng cố gắng như anh, vất vả không kém gì anh, và cũng chạy hết đoạn đường 3000 mét như anh. Anh thử nghĩ xem có công bình không khi anh thì được tất cả còn họ thì chẳng được gì?
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là tình yêu. Người yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1. Chúa Giêsu đã giao cho hàng Linh mục sứ mạng rao giảng Tin Mừng / và cử hành các bí tích mà phục vụ dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các ngài luôn trung thành / khôn ngoan và nhân hậu.
2. Trên thế giới ngày nay / hình như lòng khoan dung không còn ngự trị trong các sinh hoạt trần thế / do đó con người vẫn còn điên cuồng tàn sát lẫn nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng khoan dung ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt trong đời sống con người.
3. Hiện tại có biết bao người đang âm thầm hy sinh cả cuộc đời trên cánh đồng truyền giáo / để giới thiệu Chúa cho những anh chị em chưa nhận biết Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa giữ gìn / và nâng đỡ những anh chị em ấy / giữa muôn vàn thử thách trong đời sống chứng nhân của mình.
4. Tính ganh tị làm cho con người trở nên mù quáng / hẹp hòi / ích kỷ / thậm chí vu khống để bôi nhoi danh dự / để hạ người khác xuống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết can đảm sửa chữa tận gốc tật xấu kinh niên này.
CT: Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết sống như Chúa: luôn cư xử quảng đại và khoan dung với hết thảy mọi người, nhờ đó chúng con sẽ nên hoàn thiện như Chúa Cha trên trời. Chúa hằng sống và hiển trị...
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta đây, kẻ thì biết Chúa vào giờ thứ nhất, người thì chỉ mới biết Ngài vào giờ thứ 11. Nhưng Chúa đã thương tất cả chúng ta, cho tất cả chúng ta làm con trong nhà Ngài. Vậy tất cả chúng ta hãy trìu mến dâng lên Ngài lời kinh mà chính Chúa Giêsu đã dạy.
VII. Giải tán
Thiên Chúa đối xử với mọi người bằng lòng tốt. Xin Chúa giúp anh chị em ra về cũng đối xử bằng lòng tốt với mọi người.
6. Chúa xót thương
(Suy niệm của Huệ Minh)
Tin Mừng Mt 20, 1-16: Nếu như Chúa xử công bằng thì: Chắc có lẽ, con đã chết từ lâu rồi! Và có một cái lời Thánh Vịnh rất là hay : Chúa là Đấng từ bi hay thương xót, không chấp nhất nhưng chỉ có xót thương...
***
Kính thưa cộng đoàn,
Một lần kia, đang ngồi uống cà phê với mấy bạn ở ngoài quán. Một đứa bé nó bán vé số đến gần, và nó mời, thì con mới chọc nó:
- Con ơi, con bán cái gì?
Thì bé mới nói rằng: - Dạ thưa chú, con bán Mơ Ước.
Hỏi: Tại sao vậy con?
- Bởi vì, rõ ràng chú thấy rằng, tới chiều, ai cũng muốn mình được trúng số. Và đó chính là Mơ Ước của mọi người.
Mơ Ước đó, hình như ai cũng mơ ước cả. Bởi vì, ai cũng ước mơ mình được giàu sang phú quý, có thật là nhiều tiền, vợ đẹp, con khôn trên cuộc đời này.
Như, có một cái câu chuyện kia kể rằng:
Có một chàng thanh niên đi lên núi và gặp vị thiền sư và xin vị thiền sư cho bửu bối để làm sao thỏa mãn ước nguyện của mình. Và rồi vì tình thương, vị thiền sư đã cho chàng thanh niên ước mơ đó. Để khi trở về với cuộc đời, sau chốc lát, chàng thanh niên mơ ước có vợ đẹp con khôn. Và chỉ trong chốc lát thôi!
Thì anh ta có một ngôi biệt thự, và anh ta có một người vợ đẹp, và anh ta ước mơ rằng anh ta được là người giàu có. Và cũng chỉ trong chốc lát thôi! Anh ta đã được giàu có.
Thế nhưng, có một điều đáng nói rằng, vị thiền sư trao cho anh cái bửu bối đó và nói rằng: ma quỷ sẽ làm theo tất cả những điều mà anh muốn, anh ước mơ.
Nhưng mà nếu, mà anh không làm theo ước mơ đó, anh không ước mơ điều khiển được cho ma quỷ không có giờ nghỉ, thì ma quỷ sẽ quật lại anh. Và rồi đầy đủ rồi. Xong rồi, chỉ cần trong chớp nhoáng: vợ đẹp, con khôn, nhà lầu, biệt thự.
Và, hết giờ rồi nhanh quá! Và còn lại một thời gian rất dài anh ta mới sợ quá và đi lên núi gặp lại vị thiền sư anh ta hỏi rằng:
Thiền sư ơi! Bây giờ có cách nào làm cho quỷ nó không thất nghiệp, nó có việc làm? Để nó đừng quật lại tôi.
Vị thiền sư mới nói rằng: -Bây giờ ngươi hãy đi nói với con quỷ rằng, hãy đi lấy cái lông con chó mực, mà vuốt lại cho nó thẳng.
Thế rồi, chàng thanh niên đó đi xuống núi và gặp con quỷ và quỷ hỏi: - Bây giờ muốn làm gì cho anh nữa, tôi sẽ làm?
Chàng thanh niên nói rằng: ngươi hãy đi vuốt cái lông của đuôi con chó đó cho nó thẳng. Và quỷ hoàn toàn bó tay, bởi vì quỷ làm không được!
***
Và rồi, chúng ta lại thấy đó là ước mơ của con người. Bởi vì, ai ai cũng ước mơ: tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, đó là chuyện bình thường. Bởi vì, là con người trong cái phận người mình có cái ước mơ của mình.
Và Chúa Giêsu, Chúa Giêsu lại khác! Chúa Giêsu cũng có một cái Ước Mơ nhưng mà, không phải một cái ước mơ để mà giàu có, giàu sang, phú quý, quyền lực.
Mà ước mơ của Chúa Giêsu đó là gì?
“Thầy những ước mơ ném lửa vào trần gian, và lửa trần gian này cháy bùng lên.”
Nghe thấy sợ quá, hoảng quá! chính người Tin Lành đã bắt bẻ cái câu Kinh Thánh này!
Thực sự ra, không phải người Tin Lành mà cả người Công giáo, nếu nghe chưa có rõ, hiểu chưa tường, thì sẽ cảm thấy rất khó chịu và thấy Chúa Giêsu là một người rất gian ác. Bởi vì ước mơ gì? Ước mơ của Chúa Giêsu đó là: Nén lửa vào thế gian.
Mà lửa là gì? Lửa là thiêu rụi, là đốt cháy! Vậy mà Chúa Giêsu lại ước mơ đem lửa vào thế gian.
Cái lửa ước mơ của Chúa Giêsu đem vào thế gian không phải là cái lửa của sự chết, của sự cháy, của sự thiêu rụi mà đó chính là Tình Yêu.
Chúa Giêsu mang tới tình yêu của Thiên Chúa Cha vào trong cuộc đời mình và Chúa Giêsu muốn chuyển cái tình yêu đó cho nhân loại, cho anh chị đồng loại. Chúa Giêsu ước mơ làm sao cho cái Tình Yêu đó thắp sáng lên trong cuộc đời mỗi người Kitô Hữu.
Hôm nay chúng ta nghe một câu chuyện rất là vui. Khi mà trong cái hành trình đi rao giảng của mình, Chúa Giêsu lấy cái hình ảnh của Nước Trời có khi là tiệc cưới, có khi là lưới cá, có khi là viên ngọc quý. Và hôm nay, chúng ta lại được nghe, chúng ta bắt gặp hình ảnh của một Nước Trời như là một ông chủ Vườn kia, thuê người đi làm vườn nho nhà mình.
Và cái nét đặc biệt là: Trước khi thuê thợ vào làm vườn nho thì ông chủ đã thỏa thuận lương bổng cho tất cả những người làm với ông.
Và đặc biệt, có những người đến trễ nhưng ông vẫn vui vẻ để đón nhận vào làm công việc của ông. Thế nhưng, tưởng chừng rằng người chủ này rất là tốt bụng và rất vui vẻ. Khi đã mời gọi những người thậm chí đi làm giờ trễ vào làm. Người ta gọi câu chuyện này là câu chuyện giờ thứ 11.
Và ông chủ này rất là bất công, ông chủ này làm cho người ta khó chịu! Khi ông chủ kêu những người đến sau cùng và những người đến trễ đó để trả lương và điều đặc biệt hơn nữa làm cho những người đến làm trước nổi khùng lên.
Bởi vì, những người mới vào làm có một chút thôi thì ông chủ vẫn trả lương, và trả đúng 1 đồng như thỏa thuận. Và cái lòng ganh tị của những người đến trước đã bùng bùng lên.
Và rồi họ đã quở trách ông chủ và rồi ông chủ nói với những người mà ông chủ thuê giờ đầu:
- Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu? Chớ thì, bạn đã không thỏa thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy một đồng của bạn đi và hãy đi về. Bởi vì, tôi muốn trả cho ai hết là quyền của tôi.
Chúng ta thấy căn tính và nét đẹp của đời Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đến cho trần gian này. Chúa Giêsu đến mang tình yêu đến cho trần gian này.
Và Chúa Giêsu lắp đầy trên cuộc đời của những con người, và đặc biệt những con người tội lỗi.
Những người công chính thì thường huênh hoang. Và nghĩ rằng mình chẳng cần đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.
Còn những người tội lỗi họ biết mình, ý thức được mình là những con người tội lỗi và họ xin Lòng Thương Xót Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu không xử với chúng ta theo sự công bằng. Nếu mà Chúa Giêsu xử chúng ta theo sự công bằng thì chắc kẹt.
Ngay bản thân con, nhìn lại cuộc đời của mình: bốn mươi mấy năm trời, mười năm linh mục. Nhìn lại, không phải là nói lý thuyết, không phải là nói để được Chúa thương, không phải là nói để cho anh chị em thương hại đâu. Nhưng diện đối diện với lòng mình, thấy mình đặt mình trước mặt Chúa, thì mình thấy mình ngược lại với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu càng tuổi càng thêm nhân đức trước mặt Thiên Chúa và người đời.
Còn bản thân của mỗi người chúng ta và cách riêng bản thân của con, con cảm thấy rằng mình là con người quá tội lỗi. Vì nhiều lần, nhiều lúc, mình cũng nghĩ rằng, mình sẽ làm điều này, điều kia cho Chúa và anh chị em đồng loại của mình. Những người sống gần với mình, những người thân với mình đừng buồn. Thế nhưng chỉ vì cái tôi của mình, nhiều lần nhiều lúc mình đã làm cho những người đó buồn.
Và rồi, nếu! nếu như Chúa xử công bằng thì: Chắc có lẽ, con đã chết từ lâu rồi! Và có một cái lời Thánh Vịnh rất là hay: Chúa là Đấng từ bi hay thương xót, không chấp nhất nhưng chỉ có xót thương.
Căn tính của cuộc đời của Chúa Giêsu là chỉ xót thương thôi, Ngài quên đi những lỗi lầm của chúng ta, Ngài quên đi những yếu đuối của chúng ta và Ngài thương xót chúng ta như trong bài đọc thứ nhất:
Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi. Đường lối của các ngươi và đường lối của Ta cách xa nhau.
Tư tưởng của chúng ta là như thế.
Chúng ta vẫn sống công bằng với anh chị em. Nhiều khi cái công bằng đó đến nghiệt ngã! Nếu nhìn đến sự công bằng đi! chúng ta có công bằng không?
Khi xung quanh chúng ta có quá nhiều người kém may mắn hơn chúng ta. Những người khuyết tật, những người mù, và những người câm điếc. Liệu rằng, tất cả những gì chúng ta có, chúng ta có can đảm để chia sẻ cho những người bất hạnh đó một cách công bằng hay không?
Trong khi đó thực tế của cuộc đời chúng ta là những con người yếu đuối Chúng ta là những con người tội lỗi vậy mà CHÚA thương chúng ta nhiều. Chúng ta là những người thợ giờ thứ 11, làm ít thưởng nhiều nhưng trong lòng của chúng ta vẫn mặc lấy, mang lấy sự hơn thua, sự ích kỷ.
Nước Trời chắc có lẽ, không có trò của những người ganh tị. Nước Trời, chắc có lẽ, không có chỗ cho người hơn thua. Nước Trời, chắc có lẽ, không có chỗ cho người giành giật. Nước Trời là Nước mà nơi đó, chỉ có tình yêu, và tình yêu mà thôi!
Vẫn là những con người yếu đuối sống trong dòng chảy của xã hội. Ngày hôm nay kinh tế thay đổi nhiều, mà lòng người cũng thay đổi nhiều, khiến cho người ta ích kỷ nhiều hơn, ghen tuông nhiều hơn, đấu đá nhiều hơn.
Và xin Chúa cho mỗi người chúng ta, dành thời gian nhiều hơn với Chúa. Đặt mình trước mặt Chúa, để luôn luôn chúng ta ý thức rằng: Chúng ta là những con người tội lỗi. Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương. Để rồi, chúng ta cũng lấy tình yêu thương, mà Chúa yêu thương chúng ta đó mà chúng ta yêu thương anh chị em đồng loại.
Bởi lẽ, Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Chúa yêu thương chúng ta hơn chúng ta tưởng. Và khi cảm nhận được lòng thương xót đó, chúng ta sẽ yêu thương anh chị em đồng loại và chúng ta sẽ bớt đi những hờn ghen, những ganh tị. Bởi vì, Chúa là người quá yêu thương chúng ta trong khi chúng ta còn là tội nhân. Như Thánh Phaolô nói: Chúa đã yêu thương chúng ta khi chúng ta đều là tội nhân, Ngài đã chết, đã chết cho ta.
Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta, để chúng ta nhìn lên Thập Giá, chúng ta cảm nhận được một lòng yêu thương, một lòng thương xót vô bờ mà Chúa đã dành cho chúng ta. Để rồi, chúng ta đừng bao giờ ganh tị với anh chị em đồng loại chúng ta như những người trong trang Tin Mừng ngày hôm nay. Amen.
7. Chủ vườn nho.
Chúa Giêsu có thói quen dùng những sự kiện cụ thể xuất phát từ đời sống để xây dựng những câu chuyện có tính cách giáo huấn: Nào là mùa nho tới cần phải hái mau. Nào là những người thất nghiệp không có công ăn việc làm. Nào là số tiền lương một đồng tươi xứng với mức sống tối thiểu. Từ đó, Chúa Giêsu đã kể lại câu chuyện dụ ngôn ngày hôm nay, và qua câu chuyện này Ngài muốn làm cho chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ theo kiểu các ông chủ trên trái đất này. Họ có bổn phận giữ sự công bằng với thợ thuyền. Còn Thiên Chúa, Ngài không có một bổn phận như thế đối với loài người vì Ngài đứng ở bên kia sự công bằng của loài người, một sự công bằng được giới hạn bởi những gì chúng ta mắc nợ.
Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có một số tiền công tương xứng của một ngày và không có gì hơn. Đồng thời với sức cố gắng của một giờ, lẽ công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương xứng với một giờ, và cũng không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng nhân từ. Và lòng nhân từ thì không có giới hạn nào hơn là khả năng ban phát.
Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, Ngài có khả năng vô biên. Lòng nhân từ thì đi xa hơn lẽ công bằng. Và lòng nhân từ của Chúa còn đi xa hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa cần tới các tay thợ để hái quả trong vườn nho của Ngài. Một sự công bằng tối thiểu được bảo đảm nếu họ quyết tâm ở lại trên bình diện ấy. Nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm nữa nếu họ có tấm lòng rộng lớn.
Dụ ngôn này nhắc cho chúng ta tránh đi cách suy nghĩ về Thiên Chúa theo cách thức của loài người, nhất là trong thời buổi hiện nay, một thời buổi đang cố gắng kéo Phúc Âm xuống ngang hàng với những tư tưởng của loài người. Sứ điệp của Tin Mừng là tình yêu, là lòng nhân từ, và khía cạnh chính yếu của nó là sự tự do. Trong khi đó sự công bằng thì bị ràng buộc bởi bổn phận và những gì chúng ta mắc nợ người khác.
Thực vậy, tình yêu và lòng nhân từ thì không bị ràng buộc bởi kết ước. Điều chính yếu đó là ban phát mà không cần đáp trả, một sự ban phát hoàn toàn có tính cách nhưng không. Chỉ cần chúng ta biết đón nhận mà thôi. Hơn nữa, sứ điệp của Phúc Âm đã làm xáo trộn cách thức suy nghĩ cũng như nếp sống của con người. Dụ ngôn trước hết làm cho bọn biệt phái sửng sốt vì nó đặt người ngoại giáo, những kẻ đến sau, ngang hàng với con cái Israel trong Nước Trời. Đồng thời dụ ngôn cũng làm cho chính chúng ta phải ngạc nhiên, bởi vì chính chúng ta cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình công nghiệp, quyền lợi, và nhiều đòi hỏi. Hãy khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản duy nhất của lòng nhân từ Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta cũng như cho những anh em ngoại giáo, không phải những gì tương xứng với sự công bằng, mà còn những gì do lòng nhân từ của Chúa gợi ra.
8. Ghen tị một trong Bảy Mối Tội Đầu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang)
Ghen là một trạng thái cảm xúc tâm lý của con người được thể hiện qua hành động hay lời nói. Chúng ta thường có thói ghen tị và ghen tương. Hai tính cách này chúng ta tưởng là giống nhau nhưng khác nhau. Ghen tị (hay đố kỵ), tức là không bằng lòng về kết quả, thành tích, hoạt động hoặc sự hạnh phúc, thành công của người khác thể hiện qua thái độ không vui, khó chịu, tức tối, bực bội, hậm hực, bất mãn... Tại sao chúng ta hay ghen tị bởi vì mình nghĩa rằng những cái này tại sao họ có mà mình không có? Ví dụ, trong dụ ngôn Chúa Giêsu kể hôm nay: Những người làm trước hết mà lãnh bằng những người sau hết, sao được? Những người trước hết ghen tị vì đáng lẽ ra họ được nhiều hơn chứ. Còn ghen tương là không bằng lòng, không chấp nhận trước những thành công, hạnh phúc đáng lẽ mình có nhưng mình không có, mà người khác lại có. Ví dụ, tôi cũng học cùng lớp với anh ta mà anh ta làm lớn hơn tôi, hay là hai người buôn bán như nhau, tại sao chị kia mua may bán đắc hơn tôi.
Ghen tị là một mầm giống tội nằm trong bản tính con người cho nên nó là một trong bảy mối tội đầu của con người. Từ nguyên thủy đã có ghen tị. Eva ghen tị với Chúa muốn ngang hàng với Chúa nên nghe lời con rắn ăn trái cấm. Cain vì ghen tị với em mình nên giết Aben, bởi vì em cậu đẹp lòng Thiên Chúa. Các anh em con của tổ phụ Giacóp ghen tị với Giuse vì em được cha thương nên bán em qua Ai cập làm nô lệ. Vua Saolê ghen tị với Đavít vì dân chúng tín nhiệm Đavít, nên Saolê hai lần lấy đao phóng đòi đâm Đavít. Đavít ghen tị với Uria vì ông có vợ đẹp nên Đavít đã hãm hại Uria để chiếm đoạt vợ của ông. Quả thực có những hành vi ghen tị làm mất tính người: "Không ăn được thì đạp đổ". Lòng ghen tị sẽ đánh mất tình liên đới với tha nhân, không chấp nhận người khác hơn mình và càng không chấp nhận người khác có mà mình lại không có cho nên ông bà có câu: "Trâu buộc ghét trâu ăn". Người ghen tị không hề nghĩ tới trách nhiệm về lời mình nói, việc mình làm có tổn hại đến tha nhân hay không? Người ghen tị càng không có công lý và tình thương, họ chỉ mưu toan hạ bệ, chà đạp và làm hại người khác. Cho nên, ghen tị có thể biến người hiền thành kẻ ác nhân, biến người thật thà thành kẻ giả hình. Bề ngoài niềm nở tay bắt mặt mừng... nhưng trong lòng lại "một bồ dao găm", chỉ toan tính hại người.
Qua Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng đừng có ghen tị mà sinh ra tham lam ích kỷ. Hãy tập "có sao hưởng vậy" và tốt nhất là hãy vui mừng vì sự thành công của tha nhân. Đây là cách để chiến thắng lòng tham lam, sự bất mãn, càm ràm than phiền vô cớ của chúng ta. Hãy tập nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan, vui tươi hơn là soi mói, tọc mạch chuyện người khác, rồi bất mãn đời, bất mãn người mà nguyên nhân chính chỉ vì ghen tỵ. Hãy coi người thợ làm từ đầu giờ và người thợ được mời vào giờ cuối cùng, ai ai xứng đáng được thưởng một quan tiền bởi vì người thợ từ giờ đầu chịu nắng nôi vất vả, cực nhọc, còn người được gọi vào giờ cuối thì âu lo thất nghiệp, vợ con cằn nhằn cả ngày. Ai cũng có nỗi khổ riêng, không ai giống ai. Điều quan trọng Chúa muốn chúng ta là hãy nhìn vào tình thương của Chúa đang dành cho anh chị em và cho tôi. Mỗi người Chúa ban một khả năng riêng, mỗi nén bạc riêng. Mỗi người một hoàn cảnh, một cuộc sống khác nhau nhưng hãy biết nhận ra ân huệ và tình thương của Chúa đang che phủ trên cuộc đời chúng ta. Đừng than thân trách phận, trách Chúa bởi vì một người có một nhân phẩm và có giá trị trước mặt Chúa, và “Cha của chúng ta, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18,14).
Thực tế trong cuộc sống, người ta không muốn cho người khác trội hơn mình và thậm chí không muốn cho người khác được bằng mình. Ai cũng muốn mình nổi bật hơn, chói sáng hơn, vinh quang hơn người khác. Khi khát vọng nầy không được thoả mãn, và nhất là khi thấy người khác thành công, thắng lợi hơn mình, thì lòng ghen tị phát sinh. Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè hay người thân trong gia đình. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau. Làm sao dập tắt được lòng ghen tị? Muốn thoát ra khỏi sự khống chế của lòng ghen tị, qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta cần sáng suốt nhận thức rằng: Thứ nhất, sự may lành hay sự thành công của người khác luôn mang lại lợi ích cho chúng ta vì nếu ai cũng chỉ có khả năng bằng chúng ta thì làm gì có máy bay, có TV, có Iphone, Ipad và máy tính! Nếu ai cũng nghèo hết thì có ai mà làm việc bác ái, giúp đỡ sẻ chia cho tha nhân được nhờ. Nếu ai cũng thông minh hết thì thế giới này sẽ ra sao? Rồi ngay cả trong gia đình cũng vậy, “Chồng giận thì vợ bớt lời - Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê” hay là “Thế gian được vợ hỏng chồng. Mấy khi lại được cả ông lẫn bà”. Còn con cái trong nhà thì "con hơn cha thì nhà có phúc; hậu sinh khả uý là điều hiển nhiên”.
Thánh Phaolô nói: "Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể" ( 1Cr 12, 12-13). "Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể" (1Cr 10, 17). Vâng, mỗi người chúng ta là một bộ phận trong thân mình nhân loại. Người nầy là tim, người khác là gan, người kia là phổi... Nếu trong thân thể nầy, quả tim mạnh lên thì các bộ phận khác phải mừng cho tim và mừng cho toàn thân, hà cớ gì phải buồn, vì nhờ tim mạnh mà toàn thân được khoẻ. Tim suy yếu hay ngừng đập thì toàn thân còn gì? Tương tự, người kia thánh thiện, thì cộng đoàn hay gia đình chúng ta phải mừng, sao lại ghét ghen, vì nhờ thế mà cả cộng đoàn hay gia đình được tiến tốt, danh Chúa được rạng rỡ chứ, hà cớ gì ghen tị. Vì thế, thay vì ghen tị trước những thành công của người khác, ta hãy vui mừng hân hoan, vì sự thành công của họ đem lại nhiều lợi ích cho ta và cho toàn thể mọi người; thay vì buồn phiền khi có nhiều anh chị em trong cộng đoàn hay gia đình chúng ta thánh hơn, thiện hơn, thì chúng ta hãy thành thật chúc mừng họ vì nhờ thế cộng đoàn hay gia đình nhân loại chúng ta hạnh phúc hơn và danh Chúa được sáng hơn.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay xin cho mỗi người chúng ta biết sống theo Lời Chúa dạy: Đừng ghen tị để ăn ở cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô. Đó là “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt. Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người” (Rm 12,14-18).
9. Ganh tỵ, căn bệnh mãn tính của con người.
(Suy niệm của Anmai, CSsR)
Nếu có giờ, mỗi người chúng ta mở lại trình thuật ông bà nguyên tổ trong sách Sáng Thế Ký xem, thật là hay. Trong trình thuật đấy, tác giả Sáng Thế Ký cho chúng thấy một mối tình thật tuyệt vời, thật đẹp, thật nên thơ giữa Thiên Chúa và hai ông bà nguyên tổ. Trình thuật ấy kể lại rằng: "Chiều chiều gió hiu hiu thổi, Thiên Chúa cùng đi dạo với hai ông bà trong vườn địa đàng!". Thế đấy! Cứ mỗi buổi chiều, thì mối tình thắm thiết giữa Thiên Chúa và hai ông bà cứ tái diễn. Thiên Chúa cho hai ông bà được thừa hưởng tất cả những cây trái trong vườn nhưng chỉ trừ một cây biết lành biết dữ.
Một ngày kia, khi Thiên Chúa chưa đến, vì tò mò, người đàn bà nguyên tổ của chúng sinh, đã mon men đến cái cây biết lành biết dữ đấy để tìm hiểu. Cay đắng thay khi bước đến, bỗng dưng con rắn trên cái cây biết lành biết dữ đã ngon ngọt dụ dỗ bà rằng: "Nếu bà ăn vào thì bà sẽ ngang bằng Thiên Chúa!". Chắc có lẽ, bà cảm thấy được hưởng trái cây trong vườn địa đàng là chưa thoả mãn, chưa bình an và phải tìm mọi cách sao cho ngang bằng Thiên Chúa. Không chỉ ăn một mình, bà còn rủ rê thêm ông chồng của mình ăn nữa. Ăn xong rồi thì quả thật quá cay đắng cho cuộc đời. Kết quả, không phải như lòng mong ước là bằng Thiên Chúa nhưng bi đát thay là bất tuân lệnh Chúa truyền. Kể từ ngày đó, hai ông bà đã vi phạm "hợp đồng" tình cảm, tương quan giữa Thiên Chúa và hai ông bà nên hai ông bà đã phải bị phạt!
Tội căn bản của sự vi phạm hợp đồng ấy chính là do tính kiêu căng, lòng ganh tỵ, ghen ghét muốn làm sao mình phải bằng Thiên Chúa mới chịu. Nếu như không bằng Thiên Chúa thì tìm đủ mọi cách cho bằng Thiên Chúa, nhưng làm sao mà bằng Thiên Chúa được khi Thiên Chúa là Đấng Tạo Hoá còn mình chỉ là thụ tạo nhỏ nhoi trong lòng bàn tay của Ngài.
Lòng ganh tỵ ấy như là chứng bệnh di truyền, ăn vào máu của con người mỗi khi con người cất tiếng khóc chào đời. Bằng chứng là: cái tội bất tuân, cái tội ganh tỵ, cái tội kiêu ngạo ấy tưởng là bài học kinh nghiệm xương máu cho thế hệ mai sau, nhưng cứ đặt chân bước vào trần gian thì con người lại nhiễm trong mình dòng máu của ông bà nguyên tổ.
Lòng ganh tỵ nổi lên khi một người ý thức được rằng mình không có được những điều mà người khác có. Tại sao chúng ta ganh ghét một người nào đó? Nó không dính dáng gì đến người đó cả. Tại sao người đó phải chịu khiển trách vì cuộc sống chúng ta không được như ta mong muốn, hay sự không vừa lòng hay sự không biết ơn của chúng ta? Đâu có phải là lỗi của họ đâu, tuy nhiên họ phải gánh chịu những bức xúc, áp lực vì sự không vừa ý, hay bực bội của chúng ta gây ra bởi lòng ích kỷ về lợi ích cá nhân hay lòng tham lam của mình.
Lòng ganh tỵ phát sinh khi chúng ta không bằng lòng cái tính chất đặc biệt mà mỗi chúng ta có được, vì không có một ai giống một ai về hành động hay suy nghĩ cả. Lòng ganh tỵ phát sinh khi chúng ta từ chối, không chấp nhận sự thật rằng mỗi một cá nhân, có hoàn cảnh khác nhau, phản ảnh đúng với những ơn lành mà Chúa ban cho chúng ta. Vì thế hoàn cảnh của chúng ta sẽ có cái gì đó không bằng người khác. Lẽ ra, chúng ta nên vui vẻ đón nhận nhưng chúng ta lại ganh tỵ.
Mỗi lần lòng ganh tỵ nổi lên, chúng ta nên tự nhìn vào chính mình và nhắc nhở chúng ta về những gì mà mỗi một chúng ta có được, và bằng lòng với những thứ đó thay vì ganh tỵ với người khác về những điều mà mình không có.
Tâm trạng ganh tỵ ấy ngày hôm nay bộc lỗ rõ nét nhất ở trang Tin Mừng, mà chúng ta vừa nghe thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta đậm nét về lòng ganh tỵ mà Chúa Giêsu muốn dạy mỗi người chúng ta. Nói quá một chút là sự vô duyên và vô lý! Đã thoả thuận với nhau mức lương từ ban đầu khi vào nhận việc. Đến trưa, đến chiều thấy có người vào làm việc thì đó là chuyện giữa ông chủ và người làm thuê chứ mắc mớ gì đến anh mà anh phải bận tâm?
Tưởng chừng như dụ ngôn này quá quen thuộc, quá cũ với chúng ta nhưng thật sự ra nó vẫn cứ mới và cứ mãi mới trong cuộc đời chúng ta. Chẳng hiểu sao trong chúng ta đa phần mang trong mình cái tâm trạng của người làm công vào giờ thứ ba vậy! Thử nhìn lại thấy nó lộ lên làm sao ấy cái tính xấu, cái tính ganh tỵ ấy trong lòng chúng ta.
Nhìn vào người xung quanh chúng ta, thấy họ hơn chúng ta một chút về tri thức là chúng ta điên tiết lên, chúng ta tìm đủ mọi cách để nói này nói nọ để hạ danh dự của họ nhưng rồi có hạ được đâu? Tại sao không cố gắng học hành, nghiên cứu, nghiền ngẫm để có kiến thức bằng họ mà chúng ta cứ loanh quanh, luẩn quẩn trong sự ganh tỵ, hơn thua!
Đời sống vật chất cũng thế. Ngày nay hơn lúc nào hết, con người ta cứ mãi bận tâm vào chuyện vật chất. Người ta thành công trong cuộc đời, người ta làm lụng vất vả thì người ta được hưởng là chuyện đương nhiên. Ấy thế mà khi chúng ta nhìn vào những người ấy chúng ta lại lườm, lại nguýt họ vì họ sang trọng hơn chúng ta.
Bi hài nhất mà chúng ta không bao giờ nói ra cho người khác biết đó là chúng ta không bao giờ muốn ai bằng chúng ta cả. Chúng ta là nhất! Còn thiên hạ chẳng là gì cả. Thật lòng mà hỏi tận đáy lòng, tận đáy lương tâm của ta thử xem một người nào đó trong gia đình, họ hàng, dòng tộc hay cộng đoàn tu của chúng ta đang sống xem. Mấy ai chung vui thật lòng với người thành công trong gia đình hay trong cộng đoàn tu? Có chăng là những lời đầu môi chót lưỡi chúc mừng cho sự thành công của thành viên trong gia đình, trong cộng đoàn nhưng bên dưới lời chúc mừng ấy là cả một sự ganh tỵ, hơn thua với người ấy. Sự ganh tỵ, hơn thua này khó mà kiểm chứng được.
Thử hỏi trong một vụ kiện nào đó, nếu nó thất bại thì mọi người quay lưng lại trách nhau rằng do người này người kia đã gây cho sự thất bại đó. Còn nếu như thành công thì lại mỗi người, chẳng ai bảo ai cứ cố tranh cho được một phần danh dự là do công lao của tôi.
Chúng ta quên rằng, tất cả những danh dự, những thành công đấy trong cuộc sống rồi cũng sẽ qua đi. Tại sao chúng ta lại cứ mãi đi tìm hư danh để mà cắn xé, để mà ghen ghét, để mà giận hờn, để mà ganh tỵ anh chị em đồng loại. Tại sao chúng ta không cố tìm một chỗ đứng trong lòng Thiên Chúa mà chúng ta cứ mãi miết đi tìm chỗ đứng phù vân trong lòng người đời.
Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philipphê vừa nói với chúng ta: "Và tôi biết chắc rằng tôi sẽ lưu lại và ở bên mà giúp anh em hết thảy tiến tới và được sự vui mừng của lòng tin, ngõ hầu anh em được tràn đầy vinh quang trong Đức Kitô Yêsu, vì cớ tôi, nhân dịp tôi được tái ngộ với. Chỉ có điều này là anh em hãy cư xử sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô, ngõ hầu - hoặc tôi đến và được thấy, hoặc tôi vắng mặt mà được nghe biết - anh em cứ đứng vững trong một Thần khí, cùng nhau chiến đấu, với một tâm hồn, vì đức tin do Tin Mừng đem đến" (Pl 1, 25-27). Ngài dặn chúng ta là hãy cư xử sao cho xứng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô chứ không phải chúng ta cư xử theo cảm nghĩ, tình cảm xác phàm của chúng ta. Ngôn sứ Isaia trong bài đọc thứ nhất đã khẳng định cho chúng ta điều ấy: "Tư tưởng của Ta không phải tư tưởng của các ngươi!".
Thế đấy! Chúng ta vẫn cứ cư xử với nhau theo cái thói của người đời, những người không biết Chúa.
Đoạn cuối trang Tin Mừng mà chúng ta nghe: "Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn về của cải của tôi sao? Hay mắt bạn lườm nguýt vì tôi tốt lành?" Đau đớn lắm nếu như Chúa Giêsu nói với chúng ta như vậy. Chúng ta vẫn thường lườm nguýt sự tốt lành, sự nhân hậu của người khác để rồi chúng ta chúng ta đi nói hành nói xấu và lên án họ. Con mắt thể xác chúng ta vẫn nhìn thẳng nhưng con mắt lòng của chúng ta luôn luôn bị cái chứng bệnh là lườm nguýt khi người khác hơn chúng ta. Chúng ta phải xin Chúa để Chúa chữa con mắt lòng chúng ta bớt đi cái thói xấu là lườm nguýt, là ganh tỵ với anh chị em đồng loại.
Hôm nay, nhân dịp Chúa nhắc nhớ cho chúng ta về thái độ sống của những người ganh tỵ, chúng ta bỏ chút thời gian để lòng nhủ lòng, dạ hỏi dạ trước mặt Chúa thái độ sống của chúng ta. Chúng ta có vui với người vui, có khóc với người khóc hay không? Hay là chúng ta bực bội, ganh tức với người vui còn với người hoạn nạn, đau đớn khóc than ta lại mỉm cười?
Chuyện căn cốt như Thánh Phaolô mời gọi chúng ta đó là thái độ sống hợp với Tin mừng, hợp với những gì Chúa dạy và chúng ta nên nhớ rằng tư tưởng của chúng ta khác Chúa nhiều lắm. Chúa thì yêu thương, bao dung, rộng rãi còn chúng ta thì ghen ghét và ganh tỵ.
Nguyện xin Chúa Giêsu là ông chủ tốt bụng trong câu chuyện mà Chúa Giêsu kể hôm nay, luôn yêu thương và thông chuyển lòng tốt bụng của Chúa đến với mỗi người chúng ta, để lòng chúng ta bớt đi một chút ganh tỵ, bớt đi một chút hơn thua và tăng thêm một chút lòng mến, tăng thêm một chút tình yêu, tăng thêm một chút lòng bao dung với anh chị em đồng loại. Amen.
10. Thiên Chúa- Đấng khác con người
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Con người hay càm ràm than trách Thiên Chúa về những gì con người nghĩ Thiên Chúa làm cho mình, nhưng thật sự Thiên Chúa là Đấng rất khác con người. Ngài tuyệt vời hơn những gì con người có thể suy tưởng về Ngài.
1. Suy nghĩ của con người
Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người làm vườn nho vào giờ thứ nhất những tưởng họ sẽ được lãnh tiền lương nhiều hơn người làm công giờ thứ mười một, bởi vì họ đã phải nắng nôi vất vả và tốn nhiều công sức. Ngày nay nhiều người đồng ý với họ, và cho rằng Thiên Chúa không công bằng, vì Ngài đã đối xử với những người lao cực nhiều bằng người chỉ tốn ít công sức.
Dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ông chủ đã sòng phẳng theo lời thuận thảo; ông không lỗi đức công bằng khi trả một đồng lương cho người vào làm giờ thứ nhất. Ông chủ khi trả cho người làm công giờ thứ mười một bằng người làm công giờ thứ nhất, vì ông chủ là người tốt và nhân hậu, ông thông cảm với tình trạng của một người phải làm việc để nuôi sống chính mình và người thân, nên ông muốn giúp đỡ họ. Ông chủ đã cho người làm công giờ thứ mười một nhiều hơn điều họ đáng. Điều này diễn tả tình thương của ông chủ đối với người làm công giờ cuối cùng.
Tại sao người làm công giờ thứ nhất lại càm ràm than trách ông chủ? Phải chăng họ lấy chính họ làm tiêu chuẩn, họ muốn hơn người khác, và không muốn người khác được hơn họ. Họ cho rằng người khác được đối xử bằng họ, là họ được đối xử công bằng; và khi người khác được hơn họ, là họ bị đối xử bất công. Thực ra, công bằng đòi phải trả cho người khác điều họ được quyền hưởng; và tình yêu làm người ta được hơn điều người ta được quyền hưởng. Con người vẫn thường hay suy nghĩ và hành xử như người làm công giờ thứ nhất. Chúng ta vẫn thường ích kỷ và không muốn người khác được hơn mình.
2. Đường lối của Thiên Chúa
Một số người muốn Thiên Chúa phạt kẻ gian ác, bắt kẻ gian ác phải đền tội chúng đã gây ra cho người khác. Tuy nhiên Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn họ ăn năn sám hối và được sống. Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn đối với tội nhân, Ngài mong chờ họ trở lại như người cha nhân từ chờ đợi người con hoang trở về. Thiên Chúa hành xử như thể bất lực đối với tội nhân, như thể Ngài cam chịu để người ta hành hạ và giết Con của Ngài trên thập giá. Thiên Chúa như thể đã hành xử rất vô lý khi thương kẻ tội nhân hơn cả Con Một Ngài.
Cách hành xử của Thiên Chúa đối với kẻ gian ác, cho thấy Thiên Chúa không hành xử như con người thường nghĩ và đòi hỏi. Không phải là Thiên Chúa không công bằng đối với những người bị kẻ gian ác hãm hại, nhưng Ngài trổi vượt trên những suy nghĩ bình thường của con người. Ngài là Đấng công bằng để thưởng mỗi người, để không ai bị “lỗ”, nhưng lại là Đấng nhân từ đối với kẻ gian ác. Ngài muốn kẻ ác nhân bỏ đường lối của họ, Ngài muốn kể dữ bỏ những tư tưởng bất chính, Ngài muốn con người trở lại với Ngài. Cách hành xử của Thiên Chúa đối với người tội lỗi, giúp con người biết hơn về Thiên Chúa. Ngài là Đấng tuyệt vời khi tha thứ và tái tạo con người sa đọa.
Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của Thiên Chúa cũng vượt trên tư tưởng của con người bấy nhiêu. Thiên Chúa là Đấng tuyệt vời, và Ngài tuyệt vời hơn cả điều mà con người có thể suy nghĩ được.
3. Thiên Chúa ở gần những ai kêu cầu Người
Nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa ở trên trời, Ngài ở xa con người đến nỗi không nghe được tiếng cầu khẩn của con người. Thật sự, Thiên Chúa luôn ở gần những ai kêu cầu Người. Ngài luôn yêu thương và cứu giúp con người.
Với những người siêng đi dự lễ và đến cầu nguyện nơi nhà thờ, Ngài hiện diện đặc biệt trong nhà nguyện, nơi giờ kinh và trong Thánh Lễ. Với những người bận công việc và không có thời gian và cơ hội tới nhà thờ, Ngài hiện diện với họ trong từng giây phút sống của đời họ. Với tất cả mọi người, Ngài hiện diện ở khắp nơi, trong cung lòng mỗi người. Ngài ở gần con người hơn cả người thân yêu nhất của mỗi người. Ngài luôn lắng nghe và tiếp cứu mỗi người trong những lúc khốn cùng nhất của họ; Ngài ban Thánh Thần an ủi và hướng dẫn để mỗi người đi trong đường lối của Ngài.
Thiên Chúa là Đấng Thánh. Ngài trổi vượt trên những gì phàm tục, và chỉ mình Ngài là Đấng Thánh. Ngài mời gọi con người trở nên con cái của Ngài, suy nghĩ và hành xử như Ngài. Ngài là nguồn sự sống và sung mãn. Nơi Ngài con người tìm được bình an và hạnh phúc.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn hay kêu trách Thiên Chúa về điều gì nhất? Tại sao?
2. Theo bạn, Thiên Chúa là Đấng công bằng hay Đấng thương xót? Tại sao?
3. Suy nghĩ và hành xử giống Thiên Chúa, con người được gì và mất gì?
11. Chiến thắng lòng ghen tị – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Cuối ngày, những người thợ vườn nho đi làm từ sáng sớm, đã được lãnh tiền công đúng như đã thoả thuận với chủ từ đầu, thế nhưng họ vẫn không hài lòng, lại còn lẩm bẩm kêu trách chủ vườn đã cho những người đến làm sau được hưởng đồng lương bằng họ. Họ tỏ ra bất bình và ghen tị với các đồng nghiệp chỉ vì những người nầy ít tốn mồ hôi hơn mà cũng được hưởng tiền lương bằng mình.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Cain ghen tị với Aben là người em yêu quý của anh chỉ vì lễ vật của Aben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật của anh thì bị Thiên Chúa khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Ca-in đánh chết em.
Theo sách Samuen, Đavít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh liệt, cứu nguy cho dân quân Israel bằng cách giao chiến một-chọi-một với tên Gô-li-át khổng lồ thuộc phe Phi-li-tinh, hạ gục y chỉ bằng một phát ná bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Israel thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Phi-li-tinh thù nghịch.
"Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Israel kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát rằng: "Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn".
Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un, khiến nhà vua phóng giáo vào Đavít đang khi Đavít gảy đàn cho vua nghe. May thay Đavít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua lùng sục Đavít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (Samuen I, chương 17-18)
Qua trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu ám chỉ đến lòng ghen tị của những người biệt phái đối với những người thu thuế và tội lỗi vì những người nầy được Chúa Giêsu yêu thương và tiếp đón.
Người ta không muốn cho người khác trội hơn mình và thậm chí không muốn cho người khác được bằng mình. Ai cũng muốn mình nổi bật hơn, chói sáng hơn, vinh quang hơn người khác. Khi khát vọng nầy không được thoả mãn, và nhất là khi thấy người khác thành công, thắng lợi hơn mình, thì lòng ghen tị phát sinh.
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển.
Làm sao dập tắt được lòng ghen tị? Nó vẫn chế ngự và tiếp tục khống chế con người cho tới khi nhắm mắt tắt hơi.
Muốn thoát ra khỏi sự khống chế của lòng ghen tị, chúng ta cần sáng suốt nhận thức hai điều nầy:
1. Sự may lành của người, sự thành công của người khác luôn mang lại lợi ích cho chúng ta.
Thế giới nầy cần phải có nhiều người tài giỏi hơn bạn và tôi, càng nhiều càng tốt. Nếu ai cũng chỉ có khả năng bằng bạn và tôi thôi thì làm gì có máy bay, có TV, có điện thoại di động và máy tính!...
Xã hội nầy cần phải có nhiều người giàu có hơn bạn và tôi. Nếu ai cũng nghèo như bạn và tôi thì lấy đâu ra vốn để đầu tư và phát triển và thế là quốc gia còn lâu mới thoát cảnh lạc hậu nghèo nàn.
Đất nước nầy cần có nhiều người trí thức hơn, thông thái hơn, khôn ngoan hơn bạn và tôi. Nếu ai cũng nông cạn và thiển cận như tôi thì làm gì có văn minh và tiến bộ.
Vậy thì hãy cầu mong cho có nhiều người trỗi vượt hơn ta về nhiều phương diện chứ đừng cầu mong người khác thua ta hoặc bằng ta, bởi vì: "con hơn cha thì nhà có phúc; sau hơn trước thì nước văn minh".
2. Tất cả mọi người làm nên một thân thể.
Qua Thánh Phaolô, Thiên Chúa bày tỏ cho nhân loại biết rằng muôn người trên thế gian cũng chỉ là một:
"Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể" I Cr 12, 12-13)
"Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể" (I Cr 10, 17)
"Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người biết mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa." (Ep 3, 5-6)
Xin cho mọi người hiểu rằng mỗi người là một tế bào trong cùng một thân thể lớn lao là nhân loại. Nói khác đi, mỗi người chúng ta là một bộ phận trong thân mình nhân loại. Người nầy là tim, người khác là gan, người kia là phổi... Nếu trong thân thể nầy, quả tim mạnh lên thì các bộ phận khác phải mừng cho tim và mừng cho toàn thân, hà cớ gì phải buồn, vì nhờ tim mạnh mà toàn thân được khoẻ. Tim suy yếu hay ngừng đập thì toàn thân còn gì?
Tương tự, nếu như phổi mạnh lên thì toàn thân phải mừng cho phổi, sao lại ghét ghen, vì nhờ thế mà cả cơ thể khoẻ mạnh an lành; chứ nếu phổi lủng, phổi nám thì toàn thân cũng phải liên quan.
Vì thế, thay vì ghen tị trước những thành công của người khác, ta hãy vui mừng hân hoan, vì sự thành công của họ đem lại nhiều lợi ích cho ta và cho toàn thể mọi người;
Vì thế, thay vì buồn phiền khi có nhiều anh chị em bè bạn chung quanh vượt lên khỏi ta mà tiến tới, ta hãy thành thật chúc mừng vì nhờ thế đất nước nầy sẽ được tiến bộ, văn minh hơn.
12. Tin vào tình yêu - Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Chuyện xảy ra vào thế kỷ thứ 16 tại Ấn Độ. Trong triều đình có hai vị sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tỵ, một người thì tham lam.
Ngày kia, nhà vua có sáng kiến rất độc đó để sửa đổi những tính xấu ấy. Ông cho triệu tập hai viên sứ quan vào giữa triều đình, loan báo sẽ tưởng thưởng họ vì đã phục vụ trong nhiều năm qua. Họ có thể xin gì tùy thích, xong người đầu tiên mở miệng xin chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Nhiều phút trôi qua, không ai mở miệng nói trước. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tỵ lý luận: thà tôi không được gì còn hơn mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi. Vì thế, không ai muốn lên tiếng trước.
Cuối cùng, vua yêu cầu người ganh tỵ nói trước. Người này lại nghĩ, thà không được gì còn hơn để tên tham lam được gấp đôi. Hắn liền tuyên bố: “tôi xin được chặt đứt một cánh tay…”. Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
***
Người ghen tỵ thà chịu mất một cánh tay còn hơn nhìn thấy người kia được của cải gấp đôi mình. Người ghen tỵ trước khi tiêu diệt kẻ khác, họ đã tụ hủy diệt chính mình.
Dụ ngôn trong Tin mừng hôm nay kể lại, người đi làm vườn nho từ sáng sớm ghen tỵ với người chỉ làm mộ tiếng, mà cũng được trả một quan như mình. Giá như ông chủ trả cho người làm một tiếng ít tiền hơn, thì người làm từ sáng sớm đâu có bực tức khó chịu. Chúng ta thấy ông chủ đâu có xử bất công, vì ông đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền. Ông trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng, là vì ông tốt bụng, ông có quyền làm điều đó chứ!
Qua dụ ngôn “Ông chủ vườn nho”, Đức Giêsu muốn mời gọi chúng ta nhìn sâu vào cõi lòng của Thiên Chúa. Người không chỉ là Thiên Chúa công bình, mà còn là một người Cha đầy yêu thương. Người đã không hành xử theo luật lệ, nhưng lại dựa trên tiêu chuẩn của tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta đổi mới cái nhìn về Thiên Chúa. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra Người là Thiên Chúa tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được lòng tốt của Thiên Chúa nơi bản thân mình, chúng ta mới không còn ghen tỵ với anh em.
Chúng ta nhớ lạ lời ông chủ vườn nho nói với người ghen tỵ: “Hay vì thấy tối tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20,15). Anh ta ghen tỵ vì anh ta chỉ thấy lòng tốt của ông chủ nơi người khác. Sao anh ta không nghĩ rằng ông chủ tốt bụng này đã thuê anh làm và trả lương cho anh xòng phẳng không thiếu một xu. Sao anh ta không nghĩ rằng anh đã rất an tâm vì chắc chắn đến cuối ngày là anh có một tiền; còn người kia vì không có ai thuê làm nên phải chờ đợi cả ngày trong lo âu chán chường, vì tối nay vợ con anh sẽ phải lên giường mà không có gì cho vào bụng.
Cứ nghĩ đến muôn ngàn phúc lộc Chúa đã ban cho chúng ta, cứ nhìn xem bao niềm đau nỗi khổ của anh em, chúng ta sẽ không còn lý do nào để mà ghen tỵ. Chính vì không cảm nghiệm được Thiên Chúa yêu thương, không nhận ra hồng ân của Người trong cuộc đời mình, mà Cain đã ghen tỵ và giết chết Aben, người anh cả ghen tỵ với đứa em đi hoang nên không nhìn nhận người em lỡ lầm, người Pharisiêu ghen tức với người tội lỗi được Chúa tha thứ, ngươì làm sáng sớm ghen tỵ với kẻ làm chỉ một giờ.
Ai cứ nghĩ mình xứng đáng được Chúa ban ơn, mà đi ghen tỵ với những ơn lành Chúa ban cho người tội lỗi, chính là kẻ bất hạnh nhất. Họ hãy nghe lại lời Kinh Thánh: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hang đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót” (Mt 20,16a). Thông điệp của dụ ngôn hôm nay muốn loan báo rằng: nước Trời là phần thưởng nhưng không của Thiên Chúa, hoàn toàn do long quảng đại yêu thương của Người, chứ không do công nghiệp của chúng ta. Thiên Chúa ban ơn cho con người chỉ vì lòng yêu thương của Người mà thôi.
Đừng bao giờ ghen tỵ, đố kỵ nhỏ nhen khi thấy kẻ khác được nhiều ơn, mà muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Đừng bao giờ tính toán sòng phẳng theo lẽ công bình giao hoán: có công thì được hưởng, có tội thì bị phạt. Vì nếu Thiên Chúa tính toán lại, chắc chắc số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc, và người thiệt thòi nhất không ai khác chính là chúng ta.
***
Lạy Chúa, Chúa là một người Cha đầy yêu thương, luôn ban ơn cho mọi con cái, cả những đứa con không đáng thương, vì Chúa không muốn một ai phải hư mất.
Xin cho chúng con một tâm hồn quảng đại như Chúa, không hẹp hòi ghen tỵ với những ai được Chúa ban nhiều ơn, nhưng luôn biết “vui với kẻ vui”, để chúng con được nên giống Chúa nhiều hơn. Amen.
13. Thợ làm vườn nho - Lm. Trầm Phúc
Chúa Giê-su dùng nhiều dụ ngôn để giúp chúng ta hiểu Nước Trời là gì. Nước Trời đã được Ngài ví như: kho tàng chôn giấu trong thửa ruộng, như viên ngọc quí, như men trong bột, như hạt cải… Đó là những dụ ngôn mà chúng ta đã nghe nói đến suốt mấy tuần nay. Hôm nay, chúng ta hãy suy nghĩ đến một hình ảnh Nước Trời trong dụ ngôn ông chủ mướn nhân công vào làm vườn nho cho ông.
Sáng sớm, mướn người làm vườn nho là một chuyện thường ngày, nhưng mướn nhân công vào lúc bốn giờ chiều là một việc không ai làm, hơn nữa trả tiền cho những nhân công cuối cùng, chỉ làm có một giờ đồng hồ, bằng những người làm từ sáng sớm lại là một chuyện lạ thường hơn. Nhưng Nước Trời là như thế… Nước Trời là hành động lạ thường của một ông chủ quảng đại, là chính ông chủ đầy nhân ái đó, là chính Đấng là Tình Yêu.
Ngài mời gọi mọi người, không trừ ai, vào làm vườn nho của Ngài.
Có những người Ngài gọi từ sáng sớm, và cũng có những người Ngài gọi vào lúc xế chiều. Những nhân công vào xế chiều nói: “Không ai thuê mướn chúng tôi”. Ông chủ cũng không loại trừ họ: “Hãy vào làm vườn nho cho tôi”.
Đối với Thiên Chúa, mọi người đều được mời gọi. Chỉ có những người từ chối mới tự loại mình.
Cuối cùng, đến lúc trả tiền công mới thấy rõ, ai rộng rãi, ai hẹp hòi. Những người làm từ sáng sớm đã thỏa thuận một đồng bạc tiền công. Ông chủ đã bảo ông quản lý trả tiền cho những người đến sau hết bằng tiền công của người đến trước hết. Mọi người đều lãnh một đồng.
Những người đến trước tưởng rằng mình sẽ được nhiều hơn vì họ làm trước, nhưng họ thất vọng, họ chỉ lãnh một đồng. Họ phàn nàn phản đối ông chủ: “Chúng tôi lao lực suốt cả ngày mà ông trả công cho chúng tôi bằng những người đến sau hết!” Ông chủ trả lời: “Tôi có bất công với mấy anh đâu! Mấy anh đã thỏa thuận với tôi là một đồng một ngày, thì tôi đã trả đủ cho mấy anh rồi. Tôi muốn trả cho những người đến sau bằng các anh thì có can gì đến các anh? Hay là các anh ganh tị vì tôi rộng rãi?”
Dụ ngôn cho thấy sự hẹp hòi của họ. Đáng lý ra, họ phải mừng cho những người đến sau, vì họ may mắn gặp được một ông chủ rộng lượng. Họ lại nhăn nhó vì lòng thương của ông chủ đối với những người đến sau.
Nhiều người trong chúng ta cũng hẹp hòi như thế. Không biết “khóc với người khóc, vui với người vui”.Lòng dạ chúng ta không giống Cha trên trời.
Nhiều người tưởng rằng, họ có quyền đòi hỏi, khi họ chỉ là những người làm công. Nhiều người trong chúng ta mang tâm trạng Pha-ri-sêu, tưởng rằng thờ phượng Chúa, giữ luật Chúa từ lâu, họ phải được ưu tiên, được đặc quyền đặc lợi. Gặp khó khăn, thử thách họ lại kêu trách Chúa.
Chúa Giê-su dạy chúng ta xem mình như “những tôi tớ vô dụng” mà thôi. Chúng ta chỉ có quyền đón nhận hồng ân của Chúa với lòng biết ơn, vì Chúa luôn từ ái và rộng lượng hơn những công nghiệp nhỏ bé của chúng ta.
Tất cả là hồng ân. “Có gì mà anh em không lãnh nhận?” Hãy bằng lòng với những gì Chúa ban và hãy tôn vinh Chúa.
Hơn nữa, chúng ta không có quyền phê phán Thiên Chúa. Ngài là chủ tuyệt đối trên mọi sự. Chúng ta được gọi vào vườn nho của Chúa là một hồng phúc, Và Ngài sẽ không bất công đối với chúng ta. Ngài sẽ thưởng công xứng đáng cho bất cứ ai đã “chịu nắng nôi khó nhọc” trong vườn nho của Ngài. Vườn nho của Chúa chính là thế giới phải phát triển, là xã hội phải kiện toàn. Vườn nho chính là gia đình, con cái phải nuôi dưỡng giáo dục, là bổn phận nghề nghiệp phải chu toàn, là những công việc hằng ngày của chúng ta.
Tất cả những khó nhọc, những giọt mồ hôi, những cố gắng của chúng ta đều mang lại lợi ích cho vườn nho Chúa. Bất cứ ai, bất cứ giờ nào, Chúa vẫn gọi công nhân lo vườn nho của Ngài. Chúa mời gọi mọi người cộng tác với Chúa để làm đẹp cuộc đời, góp phần vào việc sáng tạo. Nhưng vườn nho Chúa trao cho con người, họ đã làm gì?
Vườn nho Chúa hôm nay đã trở thành một nơi tranh chấp ghê sợ, những bãi chiến trường đẫm máu, những bãi tha ma khổng lồ…
Những công nhân, thay vì cùng nhau chăm sóc để vườn nho sai trái và mọi người cùng hưởng trong thanh bình và hạnh phúc, họ đã tranh giành nhau, tàn phá… Sau cùng vườn nho Chúa chỉ còn những cây nho trơ cành và mọi người đều khốn khổ.
Thay vì cùng nhau làm việc cho chủ, họ tước quyền của chủ, không cần biết ông chủ là ai, người đã trao cho họ vườn nho. Họ tưởng rằng họ là chủ của trái đất. Vũ trụ họ không tạo nên, họ đòi làm bá chủ. Sự sống họ lãnh nhận từ lòng mẹ, họ tưởng rằng đó là ngẫu nhiên. Không khí họ thở, ánh sáng họ hưởng nhờ họ tưởng là của họ… Thật đáng ngạc nhiên!
Những công nhân vào xế chiều, họ nghĩ gì?
Chúa Giê-su không nói, nhưng chúng ta cũng có thể đoán rằng, họ ngỡ ngàng và vui mừng biết bao khi cầm trong tay đồng bạc tiền công mà họ không thể ngờ! Họ không thể tưởng tượng được rằng ông chủ tốt đến như thế! Và họ trở về với lòng biết ơn tràn trề.
Đây mới là hình ảnh của Nước Trời.
Nước Trời chính là hạnh phúc, tình yêu vượt mức những gì có thể tưởng được. Chúng ta là gì? Tại sao chúng ta được yêu thương như thế? Chúng ta lãnh nhận nhưng không những gì chúng ta không xứng đáng lãnh nhận.
Những người công nhân vào xế chiều làm sao quên được hình ảnh của ông chủ quảng đại đã thương giúp họ, đã kêu gọi họ vào giờ chót và đã cho họ đồng lương vượt trên ước mơ của họ?
Chúng ta có ngỡ ngàng vì những hồng ân Chúa ban mỗi ngày không? Chúng ta có nhớ đến khuôn mặt nhân ái của ông chủ lạ lùng đó không?
Hơn thế nữa, ông chủ đó lại nhận chúng ta làm con của ông. Làm sao để hiểu được tình thương của Ngài? Tình thương không ranh giới, nhất là tình thương của Đấng là Nguồn Yêu Thương.
Hãy mãi mãi tạ ơn vì kho tàng tình thương vẫn rộng mở, và chúng ta dù hèn kém vẫn được mời gọi vào tình thương.
Hãy đến! Thiên Chúa vẫn chờ đón đoàn con dấu yêu của Ngài, nhất là trong giờ phút linh thiêng nầy. Ngài ban cho chúng ta hồng ân trên hết mọi hồng ân: Người Con yêu quí của Ngài, Chúa Giê-su. Ngài sẽ đến với chúng ta nơi bàn thờ để chứng tỏ tình yêu của Cha trên trời đối với chúng ta. Hãy đến ăn lấy tấm bánh tình thương để con tim chúng ta rộng mở như con tim của Ngài và khi ra về, vào vườn nho, chúng ta hãy ra công chăm sóc để “mang nhiều hoa trái cho Nước Cha”.
14. Vui với người vui
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một lần người thầy của tôi đã nói: “Nếu ai có tính ghen tỵ là tự hành hạ và tự đầy đọa chính mình. Nó giống như có một con rắn độc trong tim, nên không bao giờ có thể yên vui để thưởng thức mọi niềm vui và hạnh phúc trên đời”
Đó cũng là nỗi đau của bà dì ghẻ của nàng Bạch Tuyết năm xưa. Bà đã sống trong đau khổ khi cố dùng mọi mưu trí hèn hạ để hại người, nhưng rút cuộc “gậy ông lại đập lưng ông”, chính bà nuốt nỗi khổ đau của sự thất bại suốt đời.
Nhưng đáng tiếc, sự ghen ghét, đố kỵ hầu như có mặt ở mọi nơi. Sự ghen ghét có thể ở trong mọi thành phần, mọi giai cấp. Sự ghen ghét thể hiện rất rõ trong những lần trà dư tửu hậu. Trong các quán café. Trong những quán cóc ven đường. Khi có vài người tụ tập thường là có sự ghen ghét nảy sinh. Vì dường như ai cũng có tính ghen ghét người khác hơn là khâm phục, khích lệ lẫn nhau.
Khi ai đó bàn luận về một người nào đó vừa đẹp, vừa tài năng lại vừa hạnh phúc, thì sẽ có ngay kẻ phán rằng, hạnh phúc đó là tạm thời, giả tạo. Và rồi, là tìm hiểu, moi móc, rêu rao khiếm khuyết của họ.
Sự ghen ghét khiến chúng ta không muốn người khác bằng mình và đương nhiên không bao giờ chấp nhận người khác hơn mình. Đôi khi còn đạp đổ để ai đó không có cơ hội phát triển thêm.
Sự ghen ghét còn ẩn chứa trong cả lời cầu nguyện khi không muốn người khác gặp may lành, và điều tệ hại là còn muốn anh em gặp sự dữ như câu chuyện vui sau:
Chuyện kể rằng có người đàn ông rất may mắn, được Trời cho ước gì được nấy. Tuy nhiên, đi kèm với sự may mắn đó là điều kiện: Bất cứ điều gì ông ta ước, người hàng xóm sẽ có gấp đôi. Thế là khi ông ta sở hữu ngôi nhà đẹp, người hàng xóm liền có một dinh thự lỗng lẫy. Ông ta ước mình giàu có, người hàng xóm có hẳn một mỏ vàng… Không chịu được sự "bất công" đó, người đàn ông may mắn liền ước mình bị mù một mắt để người hàng xóm bị mù cả hai!
Chính lòng đố kỵ đã tạo nên sự nhỏ nhen, biến thành cảm giác hận thù và suy nghĩ mù quáng cho ông ta: thà kém may mắn hơn một chút để người khác đau khổ hơn mình thay vì chọn điều ngược lại.Hôm nay, Chúa trách những người làm công vườn nho: “chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay là các ông vì thấy tôi tốt bụng mà đâm ra ghen ghét?
Chúa trách là đúng. Vì ai Chúa cũng ban cho có phần, nhưng lại không muốn người khác được phần bằng mình. Khi tính ích kỷ ghen ghét đã lấn át. Cái tôi ngự trị, người ta chỉ còn nghĩ đến mình, thu vén mọi lợi ích cho mình mà quên đi nhu cầu của tha nhân. Ai cũng cần cuộc sống được khá hơn, được thoải mái hơn, nhưng chúng ta lại không chúc phúc cho họ mà còn dèm pha và đạp đổ họ.
Thiên Chúa thì không như vậy. Tình yêu của Chúa vượt qua mọi tính toán thiệt hơn theo kiểu con người. Ngài không ban phát theo lẽ công bằng thường tình mà do lòng thương xót bao la của Chúa. Ngài ban phát cho người thợ giờ thứ nhất cũng bằng người thợ thứ mười một, miễn là họ đã hoàn thành công việc được giao, với tất cả trách nhiệm và thiện chí của mình.
Điều này còn là dấu chỉ cho tình thương cứu rỗi của Thiên Chúa. Ngài sẽ cứu độ mọi người. Ngài dành tình thương cho mọi người. Tuy nhiên, không phải ai cũng được cứu rỗi. Tình thương Chúa vẫn dành cho mọi người, nhưng điều quan yếu là họ đã đáp lại lời Chúa. Họ đã sống lời Chúa. Dù chỉ là thời gian ngắn thì họ vẫn được Chúa ban phúc thiên đàng cho họ như bao người tín hữu khác. Họ phải luôn khoác trong mình chiếc áo của ân sủng, chiếc áo của hiệp nhất trong Chúa thì không bị loại ra khỏi bàn tiệc.
Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào tình thương của Chúa để ăn năn trở về với Chúa. Ước gì chúng ta cũng nhận ra tình thương của Chúa vẫn dành cho chúng ta, dù rằng chúng ta không xứng đáng để nhờ đó mà sống tâm tình tạ ơn Chúa. Ước gì chúng ta cũng biết vui với người vui, khóc với người khóc trong tinh thần tương thân tương ái thay cho tính ghen tương, ích kỷ nhỏ nhen thường tình. Amen.
15. Ganh tỵ – Lm. Vũ Đình Tường
Dường như ganh tị xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo lứa tuổi mà ganh tị biến đổi. Nó biến đổi mà không phải là biến mất. Nó lui vào hậu trường nằm chờ cơ hội để cho mối ganh tị khác chiếm hữu trên sân khấu cuộc đời. Bằng chứng rõ ràng là có những ganh tị xảy ra lúc còn nhỏ, sau này thành người lớn nó lại xuất hiện và ngay cả tuổi cao niên nó vẫn còn tái diễn, trình làng. Nhiều vụ kiện cáo vì tranh nhau miếng cơm, manh áo. Nhiều người ham quyền cố vị vì ganh nhau ăn trên, ngồi trên, có cơ hội đọc diễn văn, tuyên bố, phát ngôn.
Cuộc sống Đông Tây đều có những điểm giống nhau như lúc nhỏ hay ganh ăn. Lớn hơn chút ganh chơi. Tuổi thiếu niên ganh nói. Tuổi thanh niên ganh xe mới. Tuổi sắp sửa lập gia đình ganh bồ nhí. Tuổi vào đời ganh nhà cao, cửa rộng, ganh chức tước, ganh tiền, hám danh. Có đủ ăn mặc, ganh đi đây đó. Khi về già ganh viện dưỡng lão và khi chết ganh đám táng lớn, mồ cao, mả rộng.
Ganh về tâm lí phát xuất do tự kiêu. Cho là mình hơn người mà không được trọng dụng. Cờ không đến tay không được phất. Chỉ trích, phê bình cho tài người xuống đề cao tài mình lên. Ganh trong trường hợp đó thường hay có phản ứng ngược vì càng cố khoe tài càng vạch ra nhiều kẽ hở bất tài.
Về của cải vật chất ganh tị nói lên điều không hài lòng, còn thiếu. Nếu hài lòng đã không ganh. Ganh vì tự thấy còn thiếu, muốn có hơn, nhiều hơn. Ganh vì lòng tham cũng có mà vì nghĩ về mình cũng nhiều. Nhiều người vay công, mượn nợ để trang hoàng nhà cửa, trưng đeo trên người để tỏ ra mình cũng như người hoặc hơn người.
Ganh ăn chính là trường hợp của người công nhân phàn nàn với ông chủ sau khi đã thoả thuận tiền công nhật là một đồng. Ông ta than phiền là phải vất vả nắng nôi suốt ngày. Người thợ thuê giờ sau hết cũng chịu nắng nôi giữa chợ suốt ngày. Cộng thêm cái lo lắng gia đình lấy của đâu ra cho bữa ăn tối. Đang lúc anh tuyệt vọng thì ông chủ đến cứu vớt anh. Không phải chỉ mình anh được ấm no, hạnh phúc mà cả gia đình anh, chung bữa cơm tối, được tụ họp xum vầy. Điều này cho thấy thực thi bác ái cho người nào đó thì không phải mình người đó hưởng mà cả người thân được hưởng nhờ việc tốt lành.
Nhóm thợ thuê buổi sáng sớm còn được bàn thảo giá cả thuê mướn công nhật. Nhóm thợ thuê vào giờ sau cùng không hề dám hé môi đặt vấn đề lương bổng. Có người thuê là mừng rồi. Còn đâu cơ hội để bàn định giá cả. Làm nguyên ngày có bữa cơm ngon; làm nửa ngày mong chén cháo lỏng. Dẫu thế, có vẫn hơn không. Nhóm thợ đầu tiên biết tiền công nhật một đồng một ngày. Nhóm thợ thứ hai nhận lời hứa được trả công xứng đáng. Nhóm thợ thứ ba không được hứa gì cả chỉ biết thế nào cũng được trả công. Ít nhiều hoàn toàn tuỳ thuộc vào tốt của chủ vườn nho. Chủ vườn nho thuê thợ không phải vì cần mà vì lòng thương họ bơ vơ, không công việc làm nuôi thân. Chính ông xác định điều này. Nếu cần thợ cho vườn nho có lẽ ông đã thuê sáng sớm. Ông thuê vào giấc giữa trưa, gần tối vì thấy thợ chờ suốt ngày không ai thuê nên ông thuê. Thuê vì thương hại hơn là nhu cầu. Như thế việc ít, thợ nhiều. Nếu tính lợi người ta đã chọn thợ giỏi, lành tay nghề. Ông chủ vườn nho không tính lợi cho mình mà nghĩ đến an sinh của thợ nhiều hơn. Làm như thế ông thiệt về tài chánh nhưng lợi về đàng nhân đức, đàng nhân lành.
Người thợ lên tiếng phàn nàn nếu có lòng thương người hẳn phải nhìn biết ông chủ là người tốt và mang lòng cám ơn. Đàng này điều anh ước mong không thoả nên anh lên tiếng phàn nàn. Anh thấy lòng tham của anh mà không thấy lòng tốt của ông chủ vườn nho. Cách nhìn này khá thông dụng giữa các Kitô hữu. Chúng ta hay than phiền về cuộc sống, về đau khổ, về bệnh tật, về rủi ro mà không nhìn thấy Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu. Chúng ta cũng hay ghen với người này, bì với người khác mà không biết đem lòng cảm tạ những ơn Chúa ban. Chúng ta không dùng khả năng phát triển tài năng Chúa ban mà phí phạm tài năng vào việc tìm tòi, để ý phê bình, ghen với người khác. Người mình phê bình thường là người quen, người từng làm ơn hay là bạn chân tình. Chúng ta thử áp dụng câu ông chủ vườn nho nói với chính mình. Đặt mình vào chỗ người ghen tị với bạn bè, bà con để xét xem việc mình ganh tị xứng đáng hay mình đang chê trách lòng nhân từ của ông chủ.
Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?
16. Ghen tương – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ca dao Việt Nam có câu:
"Ớt nào mà ớt chẳng cay
Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng"
Ghen tương, tị hiềm là một mầm giống bệnh tật nằm trong bản tính con người. Từ nguyên thủy đã có ghen tị. Cain vì ghen mà giết Aben, bởi em cậu đẹp lòng Thiên Chúa. Các anh em con của Giacob ghen với Giuse vì em được cha thương nên bán em qua Ai cập làm nô lệ. Vua Saolê ghen với Đavít vì dân chúng tín nhiệm Đavít, nên Saolê hai lần lấy đao phóng đâm vào Đavít. Đavít ghen với Uria. Vì ông có vợ đẹp nên Đavít đã hãm hại Uria để chiếm đoạt vợ của ông.
Có nhiều người ghen và cũng có nhiều chuyện để ghen. Ghen tương thường đi đến kết thúc thật bi thảm. Thù oán, giận hờn và đôi khi giết hại lẫn nhau mà vẫn không áy náy lương tâm.
Chắc hẳn chúng ta còn nhớ vụ kiện hai bà mẹ giành nhau đứa con trước tòa của Salômôn. Một bà nói: Hai chúng tôi ở cùng một nhà, nhưng con của bà ta bị chết vì bà nằm đè phải đứa con nên nó bị chết. Nửa đêm bà này thức dậy đánh tráo con tôi". Nhà vua vung gươm sáng loáng ra lệnh chặt đôi bé còn sống để chia cho mỗi bà một nửa. Nghe vậy, người mẹ thứ hai thưa rằng: "Xin bệ hạ trả cháu nhỏ cho bà kia, đừng giết cháu tội nghiệp". Bà thứ nhất thưa: "Cháu bé không phải của chị cũng không phải của tôi. Cứ phân đôi là công bằng". Nhà vua liền trao cho người mẹ xin đừng giết đứa bé, vì đó là người mẹ thật.
Quả thực lòng ghen đánh mất tính người: "Không ăn thì hắt đổ đi". Lòng ghen tương cũng mất tình liên đới với tha nhân, không chấp nhận người khác hơn mình. Và càng không chấp nhận người khác có mà mình lại không có."Trâu buộc ghét trâu ăn" là thế. Kẻ ghen tị không hề nghĩ tới trách nhiệm về lời mình nói, việc mình làm có tổn hại đến tha nhân hay không? Kẻ ghen tị càng không có công lý và tình thương, họ chỉ mưu toan hạ bệ, chà đạp và làm hại người khác. Với cá nhân, ghen tị biến thành kẻ ác nhân, nơi đoàn thể biến thành kẻ giả hình. Bề ngoài niềm nở tay bắt mặt mừng... nhưng trong lòng lại "một bồ dao găm", chỉ toan tính hại người.
Ở Ấn Độ có dụ ngôn như sau: Trong triều đình có hai vị quan. Một người thì ganh tị, một người tham lam.
Để chữa trị những tật xấu ấy, vua cho triệu vời cả hai vào triều đình. Nhà vua loan báo sẽ thưởng công xứng đáng cho cả hai người vì đã có công phục vụ nhà vua nhiều năm qua. Họ xin gì được nấy. Tuy nhiên người nào mở miệng trước thì sẽ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Cả hai viên sĩ quan lặng thinh ngẫm nghĩ. Kẻ tham lam thầm nghĩ rằng. Nếu tôi nói trước thì sẽ được ít hơn, còn người ganh tị thì lý luận, tội vạ gì mà mình xin trước để tên kia lãnh gấp đôi. Cứ như thế chẳng ai dám xin trước. Cuối cùng nhà vua phải yêu cầu người ganh tị nói trước. Hắn bèn dõng dạc tuyên bố: "Nếu thế thì xin vua cho tôi được chặt đứt một cánh tay để tên kia bị gấp đôi". Sự ganh tị đã đánh mất tình người. Con người dễ dàng trở thành kẻ thù của nhau chỉ một miếng ăn, một chén gạo...
Dụ ngôn hôm nay muốn nói với chúng ta rằng đừng có ganh tị tham lam ích kỷ. Hãy tập "có sao chịu vậy" và tốt nhất là hãy vui mừng vì sự thành công của tha nhân. Đây là cách chiến thắng lòng tham lam, bất mãn, càm ràm than phiền vô cớ. Hãy tập nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan, vui tươi hơn là soi mói, tọc mạch chuyện người khác, rồi bất mãn đời, bất mãn người mà nguyên nhân chính chỉ vì ghen tương.
Hãy coi người thợ làm từ đầu giờ và người thợ được mời vào giờ cuối cùng ai xứng đáng được thưởng một quan tiền. Người thợ từ giờ đầu chịu nắng nôi vất vả, cực nhọc, còn người được gọi vào giờ cuối thì âu lo thất nghiệp, vợ con cằn nhằn. Ai cũng có nỗi khổ riêng. "Thuyền càng to sóng càng lớn". Mỗi người đều có mối lo lắng riêng. Điều quan yếu Chúa muốn chúng ta là hãy nhìn vào tình thương của Chúa đang dành cho bạn, cho tôi. Mỗi người Chúa ban một khả năng. Mỗi người một hoàn cảnh. Mỗi người một cuộc sống khác nhau hãy biết nhận ra ân huệ và tình thương của Chúa đang che phủ trên cuộc đời chúng ta. Amen.
17. Lý người và Tình Chúa – AM. Trần Bình An
Vào tối ngày thứ hai, 20/11/2006, khá đông giáo dân ở các giáo xứ lân cận đã đến nhà thờ Chí Hòa để tham dự giờ cầu nguyện do nhóm cầu nguyện Đức Mẹ Mễ Du thực hiện. Đặc biệt có một linh mục ở Châu Đốc và nghệ sĩ Lê Vũ Cầu chia sẻ về ơn của Đức Mẹ đã ban.
Chưa tới 19 giờ 00 mà giáo xứ đã đặc kín người, rất trật tự và nghiêm trang. Mở đầu chương trình là phần dâng hoa lên tượng Đức Mẹ Mễ Du được đặt giữa khán đài. Trong phần chia sẻ, linh mục Giuse Bùi Trung Châu, chính xứ Châu Đốc, đã nói về một cô gái theo đạo khi lập gia đình, trong khi cầu nguyện cô cảm nghiệm được lời báo của Đức Mẹ cho biết sẽ bị liệt và cô được Đức Mẹ cứu chữa giữa sự chứng kiến của nhiều người.
Sôi nổi và sinh động nhất là phần chia sẻ của nghệ sĩ Lê Vũ Cầu. Trước khi chia sẻ, anh đã nói lên những lời cảm tạ Chúa vì Người đã ban cho anh đức tin và nhiều hồng phúc. Anh thấy Chúa đã đồng hành với anh qua một tình yêu thương hoàn hảo; anh thấy Đức Giêsu là vị lương y tuyệt vời nhất và anh còn thấy có một người mẹ hiền là Đức Maria đã đến bên cuộc đời của anh.
Nghệ sĩ Lê Vũ Cầu đã bị bệnh viêm gan siêu vi, sơ gan cổ chướng thời kỳ thứ ba, bị hôn mê, không ăn uống, không vệ sinh được. Ở bệnh viện, người ta coi như đã chết lâm sàng, nhiều người chuẩn bị cái chết cho anh khi thấy bụng sưng to, chân bị phù. Song anh được đẩy xe lăn đến trước tượng Đức Mẹ mà khấn xin cho được sống hoặc cho chết không đau đớn, an lành. Khấn xong, anh về nhà vào phòng vắng trốn tránh báo chí và cả những người thân quen.
Có một nhóm anh chị em Công giáo đến thăm, đặt tay lên người anh cầu nguyện; rồi anh được đưa đến nhà thờ cầu nguyện; được linh mục và nhiều anh chị em thiện chí nâng đỡ. Bỗng dưng anh ăn được, ngủ được, bụng và chân trở lại bình thường. Anh phấn khởi, năng lui tới nhà thờ và xin đăng ký học đạo. Khi buổi cầu nguyện này diễn ra thì chỉ còn ít ngày nữa là anh được trở thành người Kitô hữu.
Nhưng đáng phục nhất là lời cầu nguyện đầu tiên của anh với Chúa: “Chúa ơi, xin ban cho con đức tin. Con muốn được ơn tin vào Chúa! ” Quả thực, đây là lời cầu nguyện rất chân thành và đáng khâm phục vì những ai chưa biết Chúa mà có được niềm tin thật sự từ sâu thẳm trong lòng là rất khó. Và anh còn tâm nguyện từ nay đến cuối cuộc đời sẽ làm nhiều việc lành phúc đức. (Theo VietCatholicNews 22/11/2006)
Hai năm sau, cơn bệnh tái phát, anh Anrê Dũng Lạc Lê Vũ Cầu về với Chúa tảng sáng ngày 23/9/2008. Lm Anmai, DCCT, đã khéo léo ví von anh là người thợ giờ thứ mười một, đã vinh dự hưởng đồng lương khá hậu hĩnh của Chủ Vườn.
Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay tường thuật dụ ngôn tuyển thợ làm vườn nho. Những người thợ được tuyển từ sáng sớm bất bình với chủ vườn, đã trả lương hậu hĩnh những người thợ vào làm chiều muộn. Thường lòng đố kỵ, ganh tương, ghen tỵ, hiềm khích luôn xuất hiện, khi thấy kẻ khác được trọng đãi, hay thành đạt, giàu có, giỏi giang hơn mình.
Tình Yêu Thiên Chúa nhân ái, bao dung, quảng đại vô bến bờ, tựa như vòng tròn bất biến vĩ đại bao phủ lên lý lẽ vuông vắn, sắc cạnh, nhỏ nhen, thấp kém của con người. Trong khi thiên hạ lại thường áp dụng cái lý lẽ phiến diện, hà khắc và bất định lồng ra bên ngoài cái tình cá nhân tủn mủn, hạn hẹp, tồi tệ.
Lý người
Lý lẽ, luật lệ, phong tục, tập quán đều là những quy ước của nhân gian dễ thay đổi, dễ biến dạng, thậm chí trái ngược nhau tùy theo dân tộc, thời gian và không gian. Nay hợp lệ, mai thành bất hợp lệ. Xưa cấm đoán việc này, nay xả láng cho tự do. Thế mà thiên hạ cứ cố chấp viện ra lý lẽ, luật lệ nhất thời mà vô tư lên án tha nhân, thoải mái đấu tố, hoặc ném đá vô tội vạ.
Bất bình, ganh tỵ, chấp nhất khi thấy người khác được ưu ái hơn mình, thành đạt hơn, tài giỏi hơn, nổi tiếng hơn, con người còn hay viện dẫn đến sự công bằng mơ hồ, do chính mình áp đặt, mà loại trừ đi tình người, sự thông cảm, bao dung, độ lượng. Thánh Phaolô đã tìm ra căn nguyên sự bất khoan dung: “Vì anh em còn là những con người sống theo tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao?” (1Cor 3, 3)
Con người thường nô lệ vào bản ngã, cái tôi ích kỷ, nên tầm nhìn lý lẽ, quan niệm, suy xét chỉ quanh quẩn bảo vệ, quy hướng lợi ích phục vụ cho chính mình. Do vậy, các lý lẽ, nhận xét, phê phán thường khó tránh khỏi chủ quan, lệch lạc, phiến diện. Chính vì thế, có sự khác biệt tương phản, sâu xa, rõ ràng giữa phàm nhân với Thiên Chúa, như lời khẳng định của ngôn sứ Isaia: "Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi và đường lối các ngươi không phải là đường lối Ta... Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các người chừng ấy.” (Is 55, 8-9)
Tình Chúa
Thiên Chúa dào dạt yêu thương tạo vật, con người. Dù con người đã bất nghĩa, bất tín, bất trung, nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương, đã ban Con Một nhập thể cứu chuộc nhân loại. Tình Yêu Thiên Chúa vượt xa giới hạn lý luận của con người. Khi bỏ lại 99 con chiên, đi tìm một con chiên lạc mất, Ngài đã bất chấp sự khôn ngoan trần thế, vượt qua lý luận toán học, vượt qua sự tính toán nhỏ mọn, hơn thiệt của con người, chỉ vì Tình Yêu.
Thánh Phaolô đã lý giải sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn, để hạ nhục những kẻ hùng mạnh, những gì thế gian cho là hèn mạt, không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người” (1 Cr, 1, 28-29)
Khi tha thứ cho người tử tội cùng chịu đóng đinh, Đức Giêsu chẳng hề tra hỏi về qúa khứ, chẳng hề tính toán bao nhiêu lần vấp phạm. Người quên hết mọi tội lỗi chồng chất, khi phạm nhân biết sám hối, biết trở về Lòng Thương Xót. “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng!” (Lc 23, 43)
Khi trả công cho những người thợ giờ thứ 11, Chủ Vườn chẳng tính toán hơn thiệt, làm được nhiều hay ít, mà căn cứ vào tấm lòng chân thành, thiện chí, mà hoan hỷ trả công.
Đừng nói nhiều, làm ít, hoạt động dài, cầu nguyện vắn, nhận rộng rãi, cho hẹp hòi, khoan dung cho mình, khắt khe với người. (Đường Hy Vọng, số 304)
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con luôn biết tôn trọng, yêu mến tha nhân, dù họ đức độ, tài năng giỏi giang, giàu có hơn chúng con. Xin cất đi khỏi lòng chúng con sự tỵ hiềm, ganh ghét, đố kỵ, chia rẽ, mà biết sống hòa đồng, chan hòa yêu thương, cùng biết cảm tạ Chúa đã ban cho họ và cho chúng con biết bao hồng ân, nhất là được biết Chúa, tin Chúa và theo Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là mẫu gương khiêm nhường và nhân ái, xin dạy chúng con luôn biết quan tâm, gần gũi, hòa nhã với tất cả mọi người, kể cả những người trổi vượt hơn chúng con nhiều mặt, để chúng con xứng đáng làm con Chúa. Amen.
18. Lòng quảng đại của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh)
Tin Mừng Mt 20, 1-16: Dụ ngôn người thợ làm vườn nho của Chúa Nhật 25 thường niên cũng đặt trong ý nghĩa trên. Qua dụ ngôn này chúa Giêsu muốn dạy cho ta biết về lòng quảng đại của Thiên Chúa, cũng như Chúa đang nhắn nhủ chúng ta phải có cách sống rộng lượng giống như Thiên Chúa....
***
Để dân chúng hiểu rõ hơn những lời dạy của Chúa, đôi khi Chúa Giêsu cũng dùng dụ ngôn để làm sáng tỏ giáo huấn mà Chúa trao ban cho mọi người. Vì thế, dụ ngôn người thợ làm vườn nho của chúa nhật XXV thường niên cũng đặt trong ý nghĩa trên. Qua dụ ngôn này chúa Giêsu muốn dạy cho ta biết về lòng quảng đại của Thiên Chúa, cũng như Chúa đang nhắn nhủ chúng ta phải có cách sống rộng lượng giống như Thiên Chúa.
1. Lòng quảng đại của Thiên Chúa:
Khi nghe đoạn Tin mừng có lẽ không ít người thắc mắc về cách làm của ông chủ vườn nho. Thắc mắc là phải, bởi vì từ người đầu tiên ra làm vườn nho lúc trời vừa tảng sáng, tiếp theo là người làm lúc giờ thứ ba, kế đến người làm lúc giờ thứ sáu, rồi tiếp người làm đến giờ thứ chín, sau cùng là người làm giờ thứ mười một, tất cả những người này từ người làm giờ sau hết đến giờ trước nhất, chỉ nhận lương từ tay ông chủ có một quan tiền mà thôi. Như vậy ý của ông chủ trong việc này là như thế nào? Chỉ khi nào chúng ta giải thích và tìm hiểu ý nghĩa của dụ ngôn, chúng ta sẽ dễ chấp nhận và sẽ kính nể cách ứng của ông chủ vườn nho với hết mọi hạng người.
Trước hết ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê làm vườn nho là tất cả mọi người, dĩ nhiên trong số này còn có anh chị em lương dân. Vườn nho là Nước Trời là Giáo Hội. Tiền lương là phần thưởng trong Nước Trời. Những người được kêu gọi làm vườn nho từ giờ trước nhất cho đến giờ cuối cùng trong ngày, nghĩa là Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người gia nhập Nước Trời qua mọi ngày tháng và mọi thời khác nhau.
Nhờ những giải thích trên đây chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn mà Chúa mạc khải cho chúng ta. Trong dụ ngôn Chúa Giêsu dạy chúng ta biết về Thiên Chúa Cha là người Cha tuyệt vời. Đó là người Cha luôn chủ động tìm kiếm những đứa con để đón nhận Nước Trời. Một người Cha luôn thao thức đi tìm con không biết mệt mỏi. Tìm mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Một khi đã gặp được con thì người Cha ấy không đặt vấn đề thời gian, không đặt nặng kết quả của công việc. Vì bản chất là quảng đại, nên người Cha ấy luôn thúc bách con của mình hãy mau tiến vào vườn nho, để khi thời gian làm việc kết thúc thì người con ấy cũng sẽ nhận phần thưởng giống như mọi người.
Chúa Giêsu đến trần gian để dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu. Vì là Cha chúng ta, nên Thiên Chúa mong muốn hết mọi người được đón nhận ân huệ nhưng không của Chúa, được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc và bình an trong Nước Chúa. Vì ơn cứu rỗi được khơi nguồn từ tình thương của Thiên Chúa nên chúng ta hãy hết lòng tạ ơn Chúa. Và lời tạ ơn chỉ đẹp lòng Chúa khi chúng ta có những cách sống giống như Chúa.
2. Lòng quảng đại của chúng ta:
Nếu như người làm vườn nho vào giờ trước nhất cằn nhằn ông chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng thiêu đốt” (Mt 20, 12), thì đến chúng ta, một khi mong cuộc đời mình được sống quảng đại như Chúa, tất nhiên chúng ta không được phép kêu trách lòng từ bi của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người. Chúng ta là anh em với nhau. Không lẽ chúng ta được Chúa ban hạnh phúc, còn anh chị em khác cũng được Chúa ban hạnh phúc giống như ta thì mình lại khó chịu chăng? Lòng quảng đại của chúng ta chỉ thực sự lớn lên, khi chúng ta xem niềm vui của người khác là niềm vui của mình, hay những khát vọng hạnh phúc của người khác cũng là khát vọng của mình. Lòng quảng đại của chúng ta sẽ phát triển, khi chúng ta đừng bao giờ xem thất bại của người khác là trò giải trí vui chơi của mình, hay thành công của người khác là nuôi lòng căm ghét thù hận và khó chịu trong mình. Lòng quảng đại của chúng ta sẽ không có chỗ dừng, khi chúng ta có cùng thao thức giống như Chúa, nghĩa là mong muốn cho mọi người được gia nhập vườn nho của Chúa, hăng say tìm kiếm mọi người để họ được sống trong Hội Thánh của Chúa, luôn cầu nguyện cho mọi người sớm tìm gặp Nước của Thiên Chúa là hạnh phúc viên mãn. Sau cùng lòng quảng đại của chúng ta sẽ trở nên vô biên, khi đời sống của chúng ta thuộc về Chúa, tình yêu của chúng ta không bao giờ lìa xa tình yêu của Chúa. Chính tình yêu Chúa sẽ biến đổi chúng ta trở nên một con người mới, đó là người luôn thao thức dấn thân giới thiệu Nước Trời và làm cho người khác đón nhận Nước Trời. Ước gì chúng ta đừng bao giờ tách rời khỏi tình yêu của Chúa. Ước gì cuộc sống của chúng ta sẽ là chuỗi ngày được hiệp thông trọn vẹn với Chúa. Ước gì tâm tình của Thánh Phaolô trong bài đọc hai hôm nay được ứng nghiệm trong cuộc đời của chúng ta: “Anh em thân mến, dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô sẽ được vẻ vang trong thân xác tôi” ( Pl 1, 20).
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu cùng Chúa cho chúng con. Amen.
19. Chúa Nhật 25 Thường Niên A
Có lẽ ai trong chúng ta cũng ngạc nhiên trước cách ứng xử của ông chủ vườn nho mà Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho nay không ai khác hơn là hình ảnh của chính Chúa Giêsu mà Đức Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta. Thiên Chúa không chỉ công bằng nhưng mà còn là Thiên Chúa xót thương.
Người chủ vườn nho thật hào phóng, ông ta vượt lên trên lẽ công bằng mà đúng hơn ông ta muốn thể hiện lòng xót thương. Ông ta xót thương cho số phận người ta, số phận của người thất nghiệp. Ông ta xót thương người ta nên đã thuê những người thợ. Vì xót thương nên ông ta quảng đại thuê luôn kẻ làm giờ thứ mười một, một người có thể gọi là thất nghiệp. Đối với người thất nghiệp này, ông chủ không hề tính toán so đo, không hề nghĩ ngợi lợi ích công việc cho mình, ông xót thương số phận người thất nghiệp, thương người thất nghiệp nhiều hơn, vì chiều nay rất có thể người thất nghiệp sẽ trở về nhà với đôi bàn tay trắng, không có tiền thì gia đình anh có thể sẽ chết đói, vợ con sẽ lên giường ngủ với cái bụng cồn cào vì không có tiền mua thức ăn.
Giống các người được thuê theo giá thoả thuận vào giờ thứ nhất, chúng ta cũng có lý không đồng ý với lòng xót thương của chủ vườn nho. Chúng ta có lý khi mình đã đến sớm và thoả thuận công việc và tiền công với ông chủ. Chúng ta có lý vì chúng ta đã vất vả đến sớm, nhọc nhằn vì công việc suốt ngày không mấy dễ dàng... chúng ta dễ so đo tính toán hơn thua với người thợ làm vào giờ thứ mười một, chúng ta không mấy thiện cảm cho những người bê trễ, lười biếng thậm chí ghét luôn với những người vào giờ chót ăn năn trở lại, vào giờ chết mới vào đạo, xin được rửa tội... lắm khi chúng ta vừa làm việc vừa than trách, kêu ca công việc nặng nhọc, vừa giữ đạo vừa phàn nàn Chúa, than thở các vị mục tử...không đáp ứng theo ý mình. Giữ đạo nhưng chúng ta dễ quên thậm chí không nhận ra Chúa đang thương chúng ta, nâng đỡ, che chở, chúc lành và thậm chí chúng ta quên ngay việc Chúa quá thương chúng ta nên tha thứ tội lỗi cho chúng ta, quên luôn không còn nhớ lỗi lầm dĩ vãng. Nếu chịu khó nhìn lại một chút, nhìn lại cuộc đời mình, chắc chắn chúng ta sẽ giật mình khi thấy mình giống người thợ làm vườn nho vào các giờ đầu tiên, đến sớm hễ đói thì được nuôi cơm sáng, có khi còn có bánh lót dạ thêm, rồi còn có càfê, có thuốc lá mà hưởng...Khi đến buổi trưa nếu đã làm cho chủ này thì ắt hẳn phải có được bữa cơm no nê, chưa kể hưởng thêm chế độ nước trà và bánh ngọt nữa chứ. Thế mà giống như những người này kêu ca, chúng ta ở trong Hội Thánh, hưởng nhờ ân sủng Chúa qua Hội Thánh, đón nhận nhiều thật nhiều hồng ân của Chúa, mỗi bí tích chúng ta lãnh nhận, mỗi Thánh lễ mà chúng ta cùng nhau cử hành, mọi phước lành của Chúa qua tay Mục tử mà chúng ta đang hưởng nhờ, tình yêu và lòng thương xót của Chúa mà chúng ta đang thụ hưởng, sự nhiệt tình và lòng quảng đại của Hội Thánh trao ban cho chúng ta hằng ngày,..và còn rất rất nhiều thứ khác nữa mà chúng ta không kể xiết. Chúng ta có biết trân trọng và biết ơn về điều đó không?
Đang khi chúng ta có còn những người khác thì chưa chắc họ có được như chúng ta. Nếu một người ăn năn trở lại vào giờ chót, hay một người mới biết Chúa rồi chết, một người vừa được rửa tội rồi qua đời...thử hỏi xem họ được đón nhận như chúng ta không. Từ cái nhìn, lối suy nghĩ dẫn chúng ta đi đến một thái độ ứng xử thiếu tình thương, thiếu tình người, thiếu tình của Chúa yêu thương chúng ta.
Quả thật, chúng ta nhìn nhận lòng thương xót của ông chủ này vô bờ bến. Hẳn nhiên, nếu người ta làm ăn theo kiểu này thì thất bại là cái chắc, và việc "phá sản" công ty là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, lòng ông chủ thương xót người, lo cho mọi người bằng chứng là ông trả tiền công nhật đúng theo như đã thoả thuận, ông lo cho ăn uống chu đáo bằng chứng là họ không phàn nàn gì hết mà họ chỉ thắc mắc lòng thương xót của ông chủ đối với người thợ làm vào giờ chót.
Chúng ta cũng hiểu được phần nào ông chủ này là hình ảnh mà Chúa Giêsu muốn nói đến chínhn là Thiên Chúa. Thiên Chúa đối xử không giống con người nhưng Ngài đối xử theo lòng thương xót và tình yêu vô biên của Ngài. Vì thế chúng ta cũng không lạ gì Isaia đã nói về Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta: "Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu".
Nếu cứ theo lẽ công bằng thường tình của loài người chúng ta: người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều thì người làm một giờ cuối trong câu chuyện trên có đủ lương nuôi sống cả gia đình không, hay con cái của họ đang túng thiếu, nghèo đói,...Chính vì lòng thương xót, vì thông cảm hoàn cảnh nghèo đói của người ta, hơn nữa vì muốn cho mọi người có công ăn việc làm mà ông chủ đã mời gọi mọi người thất nghiệp vào làm vườn nho cho mình vào bất cứ giờ nào và trả tiền cho họ bằng nhau, người đến sau cũng bằng với người đến trước. Rõ ràng ông chủ không muốn đối xử với người ta theo tương quan mua bán, tính toán nhưng theo tương quan tình thươn và lòng nhân hậu. Điều này cũng nhắc nhở chúng ta cũng hãy bắt chước để đối xử với đồng loại như chính ông đã đối xử.
Chúng ta không mong mình là người đến sau. Chúng ta đã là người đến trướcnên chúng ta hãy biết cảm tạ ơn Chúa và quyết tâm làm tròn bổn phận của mình đối với Chúa và cũng biết thể hiện tình yêu, lòng thương xót và sự chia sẻ cho tha nhân của mình.
Cách ứng xử của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn chính là cách ứng xử của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta hành động như thế đó. Thật là rộng lượng, nhân từ! Ngài mời gọi những người thu thuế, những người bị xã hội loài người khinh chê, loại trừ, những người tội lỗi vào Nước Trời một cách rộng rãi, cho không, chẳng phải vì công trạng gì xứng đáng cho họ. Người công chính đạo đức, đừng vì thế mà ganh tị và kêu trách Chúa bất công, giống như những người Biệt Phái Pharisêu đã kêu ca trách móc Chúa. Lòng thương xót của Chúa đón nhận tất cả mọi người không trừ một ai, vì bản chất của Ngài là Tình Yêu.
Thiên Chúa chúng ta thật là rộng lượng, nhân từ. Quả thật đường lối của Ngài khác hẳn đường lối nhỏ bé, hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta hay so đo, tính toán, đánh giá từ sự so sánh của chúng ta. Chúng ta nhìn người khác với những cái họ có hơn mình hay cài mình không có, để bực tức ghen ghét. Nhiều khi chúng ta nhân danh công bằng để đối xử hẹp hòi, khắt khe, độc ác với kẻ khác. Công bằng là mức độ thấp nhất của bác ái. Công bằng mà không có bác ái là tàn nhẫn, là vô nhân đạo. Phải vượt trên mức tối thiểu của công bằng, chúng ta mới có thể đối xử bác ái, tình nghĩa với nhau được, cuộc sống mới chan hoà tình người, đầy niềm vui và hạnh phúc.
Với những ai rộng rãi, biết thương xót người, thì sẽ được Ngài xét xử theo lòng nhân từ xót thương. Thiên Chúa luôn luôn tuyệt vời hơn những gì con tim nghèo nàn của chúng ta có thể tưởng tượng. Ước gì con tim nghèo nàn của chúng ta trở nên giống như trái tim của Thiên Chúa Tình Thương. Chính trong tình thương, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có trái tim của Chúa, biết xót thương mọi người và sống yêu thương mọi người. Amen.
20. Ca tụng hay kêu trách
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc – SJ.)
Dụ ngôn của Đức Giêsu, về những nhóm thợ khác nhau được mời gọi đi vào làm việc trong vườn nho, mặc khải cho chúng ta một cách tuyệt vời về cung cách hành động của Thiên Chúa, và về khó khăn sâu xa có nơi mỗi người chúng ta, khi đối diện với cung cách hành động này.
1. “Nước Trời giống như chuyện chủ nhà kia…”
Trước hết, Thiên Chúa được ví như ông chủ vườn nho, hành động giống như bao ông chủ vườn nho khác: sáng sớm ra khỏi nhà để đi tìm thợ, thỏa thuận về thời gian và tiền công (mỗi ngày một quan tiền) và sai họ đi vào làm việc trong vườn nho của mình. Ở bước này, cho dù là tương quan giữa ông chủ vườn và người làm công xem ra rất bình thường và công bằng, nhưng những người làm công vẫn được mời gọi nhận ra việc làm của mình là một điều may mắn, thậm chí là một ơn huệ, và nhất là nhận ra lòng tốt của ông, khi ông đich thân ra khỏi nhà để đi tìm người thợ, thay vì người thợ đi tìm ông chủ đề “xin việc”.
Chúng ta có nhận ra hiện hữu, cuộc đời, ơn gọi gia đình hay tu trì của chúng ta là một ơn huệ không? Chúng ta có nhận ra lòng tốt của Chúa để luôn tạ ơn và ca tụng Ngài không? Và để sống và làm việc trong tâm tình tạ ơn và ca tụng không? Hay chúng ta coi tất cả những ơn huệ nhưng không này như một thứ “quyền lợi”, để đòi hỏi Thiên Chúa, để so bì và ganh tị với nhau? Nhưng khi đòi hỏi và ganh tị, chúng ta dựa vào điều gì, phải chẳng là công lao hay thành tích của chính chúng ta?
2. “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho” (c. 3-7)
Thực vậy, phần tiếp theo của dụ ngôn, mỗi lúc một mạnh mẽ và vượt quá cách hành động thông thường của một người chủ, có thể có trong kinh nghiệm sống của chúng ta, nhấn mạnh đặc biệt đến chiều kích ơn huệ và lòng tốt khác thường của ông chủ: giờ thứ ba (9 giờ sáng), ông lại ra khỏi nhà đi tìm thợ; giờ thứ 6 (12 giờ trưa), ông lại đi nữa; rồi giờ thứ 9 (3 giờ chiều), ông lại đi nữa; và đây là tột đỉnh của sự khác thường, vào giờ thứ 11 (5g chiều), ông vẫn ra khỏi nhà đi tìm thợ làm việc!
Nếu trong những trường hợp trước, ông chủ chỉ hứa trả công một cách hợp lí: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng”, thì trong trường hợp sau cùng, ông chỉ mời gọi đi làm việc: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho”. Như thế, được hiện diện trong vườn nho là một ơn huệ hoàn toàn nhưng không, diễn tả lòng tốt của ông chủ; và điều này cũng đúng với những trường hợp trước và phải được nhận ra và được ngợi khen bởi những người thợ đi vào trước, và kể cả những người vào làm việc đầu tiên nữa.
Tuy nhiên, câu chuyện của dụ ngôn, vốn diễn tả sự thật về chính chúng ta, lại diễn biến theo hướng lòng ghen tị và lời kêu trách, thay vì theo hướng chúc mừng và ca tụng. Dân Chúa đã kêu trách và ghen tị trong sa mạc (x. Ds 21,4-9, bài đọc I của ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá); và loài người và mỗi người chúng ta được mời gọi nhận ra bản thân mình nơi Dân Chúa.
Như thế, đúng ra những trường hợp trước phải được hiểu dưới ánh sáng của trường hợp sau cùng, để nhận ra lòng tốt của ông chủ được thể hiện từ đầu đến cuối. Vì, nếu hiểu ngược lại, nghĩa là các trường hợp sau được hiểu dưới ánh sáng của trường hợp đầu tiên, người ta sẽ hiểu lệch lạc về ông chủ và về người khác: từ đó, phát sinh thái độ kêu trách và ganh tị.
3. “Bắt đầu từ những người vào làm sau chót…”
Và dường như ông chủ cố ý làm cho lòng ghen tị và lời kêu trách lộ diện, khi ông trả công, đúng hơn là ban phát, cách quảng đại cho người đến làm việc sau cùng, trước mắt mọi người:
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.
Bởi vì, làm cho cái xấu lộ diện, chính là cách tốt nhất để chữa lành. Thực vậy, khi đến lượt nhóm thợ đầu tiên đến lãnh tiền công, họ được nhận đúng với lời thỏa thuận của ông chủ và của họ và điều này làm bật lên sự khác biệt giữa họ và những người khác. Nhưng thay vì họ chúc mừng những người đến sau (vì họ làm ít hơn mình, nhưng lại nhận được nhiều như mình) và ca ngợi lòng tốt của ông chủ (ông chủ không chỉ trà công sòng phẳng, nhưng còn ban phát rộng rãi cho người khác, theo lòng tốt của mình), họ vừa lãnh công và vừa cằn nhằn:
Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.
Trong lời này, hàm chứa hai thái độ: so sánh mình với người khác: “mấy người sau chót này”, và kêu trách ông chủ: “thế mà ông lại…”. Lời kêu trách của họ dựa trên những sự kiện rất khách quan và rất đúng: họ làm việc nhiều hơn và vất vả hơn người khác; nhưng người khác lại được hưởng bằng họ! Nhưng rất tiếc, những điều rất đúng và rất khách quan này lại được nhìn bằng con mắt ghen tị! Và vì ghen tị, nên trở nên mù quáng, không mở ra để nhận ra những sự kiện lớn hơn và đúng hơn: người khác thật may mắn và ông chủ thật tốt lành, để chúc mừng họ và ca ngợi ông chủ, đê đi vào trong niềm vui của người ban phát và của người lãnh nhận. Và vì ghen tị, nên cũng mù quáng với chính những gì mình đang có, bởi lẽ điều mình dang có không phải là quyền lợi, nhưng là ân huệ, và vì người lãnh nhận không chỉ là người khác, nhưng cũng là chính bản thân mình. Mình có niềm vui, nhưng lại tự biến niềm vui của mình thành nỗi buồn, gây chết chóc, cho mình và cho người khác.
* * *
Xin cho Lời Chúa, là Lời sẽ dẫn chúng ta đến “Lời Thập Giá” (x. 1Cr 1,18) chữa lành đôi mắt của chúng ta, khi chúng ta “nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19,37); bởi vì nơi Thập Giá, chúng ta vừa nhìn thấy hệ quả khủng khiếp của thái độ ghen ghét (nhìn thấy để được chữa lành), và vừa nhận ra tình yêu đến cùng của Chúa dành cho loài người và từng người chúng ta (để ca tụng Chúa, thay vì kêu trách).
21. Niềm vui nẩy sinh từ sự xẻ chia
(Suy niệm của Lm Antôn Hà Văn Minh)
Tin Mừng Mt 20, 1-16: Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. (Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.)...
***
SUY NIỆM
Anh chị em thân mến,
Mấy ngày qua ở Việt Nam chúng ta người ta đang bàn tán nhiều về hình thức đầu tư BOT, và gần đây nhất là Hội phụ huynh học sinh như là nhóm lợi ích, và đang gây ra bao bất bình trong xã hội. Nhóm lợi ích đã tạo ra một thế lực để chi phối chính quyền, lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực. Lợi ích nhóm chỉ nhắm quyền lợi của mình, họ không quan tâm đến thiện ích của người khác, và cũng chẳng màng chi đến nhu cầu của tha nhân. Họ sống ích kỷ và lòng ngập đầy sự tham lam. Nhóm lợi ích đó không chỉ xuất hiện trong thời đại hôm nay, nhưng nó đã hiện diện lâu đời, đó là điều mà Tin Mừng hôm nay muốn nói tới: lợi ich nhóm trong cộng đoàn Giáo Hội, điều mà Đức Giáo hoàng Phanxicô nói đó là “tệ nạn xấu nhất đập vào Giáo Hội ngày nay”.
Được ông chủ mướn vào làm vườn nho, họ nghĩ rằng họ có đặc quyền được hưởng lương bổng theo ý họ, chứ không theo điều đã thoả thuận. Việc thoả thuận ban đầu chỉ là điều kiện để họ hình thành nhóm, và khi đã bước được vào vườn nho họ muốn thao túng, vì thế họ không chấp nhận việc ông chủ trả lương cho người đến sau bằng họ, và điều đó cũng có nghĩa, họ chỉ nghĩ đến lợi ích của họ và không muốn chia sẻ lợi ích cho ai. Họ đã giết chết khả năng tương giao với tha nhân, tâm hồn trở nên khô cứng để có thể nhận ra rằng, cuộc đời chỉ tràn đầy ý nghĩa khi cuộc sống biết xẻ chia, biết quan tâm đến người khác. Một lối sống ích kỷ như thể chỉ có thể đem đến cho họ sự cô đơn cùng cực. Bởi cuộc đời chỉ có niềm vui khi cuộc đời biết kiến tạo mối tương giao với tha nhân.
Quả thật, Giáo Hội cũng đang nhức nhối bởi những thái độ ích kỷ, thiếu cởi mở và xẻ chia của những người con của Giáo hội, những người con luôn tự hào về công trạng đóng góp của mình trong việc xây dựng Giáo hội, họ đang bóp nghẹt sức sống của Tin Mừng, một sức sống đến từ lòng bao dung độ lượng của Thiên Chúa. Trong chuyến tông du của Đức Phanxicô đến Philippines vào trung tuần tháng 1-2015, một em bé đã hỏi Đức Thánh cha: Tại sao Chúa lại để xảy ra sự dữ như thế, và tại sao ít có ngừơi giúp chúng ta? Một câu hỏi đắng lòng, tại sao lại có quá nhiều người chịu khổ đau vì bất công trong một thế giới bước vào kỷ nguyên với nhiều thuận lợi và tiện ích cho con người? Thưa, bởi vì chủ nghĩa hưởng thụ, thực dụng đang khuynh đảo và làm xói mòn những giá trị nhân văn trong mối tương quan giữa người với người. Người ta chỉ còn quan tâm đến quyền lợi cá nhân và dần hình thành một lối sống vô cảm trước người khác. Sự vô cảm đó đang làm cho cuộc sống xã hội mất đi mối thâm giao và trái tim con ngừoi đang dần hoá đá. Nhà văn Helen Adams Keller đã nhận xét: “Chúng ta có thể đã chữa trị được hầu hết thói xấu xa, nhưng chúng ta vẫn chưa tìm ra liều thuốc cho thói xấu tồi tệ nhất, đó là sự vô cảm của con người”.
Vì lợi ích của một nhóm, của một cá nhân, chúng ta đang đánh mất dần mối tương giao để nối vòng tay lớn. Khi chủ trương toàn cầu hoá người ta có tham vọng đưa con người lại gần với nhau, chia sẻ thiện ích cho nhau, thì điều ngược lại đã xảy ra thay vì mang đến cho nhau những cái hay tốt, thế giới lại ngập tràn một lối sống vô cảm và làm cho thế giới này đang khép dần các con đường dẫn tới sự gặp gỡ để xẻ chia, để yêu thương, và điều tệ hại nhất là con đường dẫn tới để gặp gỡ Thiên Chúa cũng bị bịt kín . Đó chính là nguyên nhân để sự dữ hoành hành khắp thế giới, và cuộc sống con người bất an.
Vâng, chỉ nơi Thiên Chúa chúng ta mới có thể kiến tạo được sự bình an, bởi Ngài là Đấng giàu lòng từ bi và nhân ái, Ngài đã không để một ai đứng thất nghiệp ngoài đường. Ngài thấu hiểu nỗi lòng của những con người đang đới diện với nhiều âu lo. Kìa là người cha đang lo kiếm cơm gạo nuôi sống gia đình, kìa là ngừoi mẹ đang bươn chải để lo cho con có được cuộc sống ấm no, kìa những người khốn khổ đang lo âu cho cuộc sống… Tất cả đều được Chúa quan tâm, mỗi ngừoi đều được Chúa đói xử như nhau, kẻ làm từ giờ thứ ba tới giờ thứ 11, Người không tính sổ chúng đã làm bao nhiêu giờ, Ngài chỉ tính toán làm sao cho chúng ta có được một cuộc sống hạnh phúc. Thiên Chúa là thế đó, và vì thế chỉ có nơi Ngài chúng ta mới có thể tìm thấy được bình an. Một sự bình an được nẩy sinh từ tình yêu hướng tha, không quy ngã , một tình yêu biết chia sẻ, chứ không thu quén cho riêng mình. Và như thế sự bình an luôn được đâm chổi nẩy lộc trong mối tương giao đầy ắp tình người, từ con tim đến con tim.
Có câu chuyện kể rằng, ở một ngôi làng nọ có tục lệ khi một người trong làng tổ chức lễ cưới và người được mời khi đi dự tiệc cưới không cần mang gì hết ngoài một xị rượu, Tại cửa tiệc cưới người ta đặt sẵn một cái chum để khách dự tiệc cưới đổ rượu mà họ mang tới vào đó. Và khi tiệc cưới bắt đầu chum rượu được bưng vào, và khách dự tiệc sẽ uống rượu mà họ đã mang tới và đã được đổ chung vào với nhau. Thật tuyệt vời về sự chung chia niềm vui tiệc cưới. Nhưng thật kỳ lạ, khi mọi người cùng nếm rượu thì chẳng thấy mùi rượu đâu cả, mà chỉ toàn là nước lạnh. Điều gì đã xảy ra, thưa bởi vì khách được mời đều nghĩ rằng cả chum rượu thì một xị nước lã của mình thì ăn thua gì. Và thay vì mang rượu, họ đều mang nước lã, và kết quả là tiệc cưới không còn có niềm vui, không có nụ cười và chỉ còn là những tiếng hờn trách giận dỗi.Thật buồn, phải không anh chị em. Đó là hậu quả của thói ích kỷ, thiếu sự hiệp thông xẻ chia.
Lạy Chúa, chúng con khao khát có được cuộc sống bình an, xin dạy cho chúng con biết tìm kiếm sự bình an đó trong sự quan tâm đến tha nhân, biết sống quảng đại và bao dung, để không tị hiềm ganh tương. Vâng, lạy Chúa xin cho chúng con biết hành động như Chúa để chúng con biết kiếm tìm niềm vui trong sự xẻ chia. Amen.
22. Đấng nhân lành
"Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa" (Lc 18,19). Thiên Chúa là Đấng Nhân Từ và tốt lành vô cùng, Ngài đối xử khoan hồng với con người, không tính thiệt hơn cho mình như loài người thường làm. Vì yêu thương nhân loại, Ngài vui lòng trao ban cho loài người ngay cả người Con Một yêu dấu của mình. Loài người chỉ có thể đáp trả bằng tấm lòng biết ơn và vâng giữ lời Ngài dạy.
Trong cuộc sống hằng ngày, quan niệm "tiền trao cháo múc", "bánh ít đi bánh qui mới lại", công khó phải được đo lường là bình thường. Thiên Chúa thì khác, Ngài đối xử rất tốt với con người. Ngài luôn tỏ ra quãng đại, cho đi nhưng không, không chấp lỗi loài người một chỉ muốn loài người được những điều tốt đẹp nhất. Ngài muốn cho loài người điều quí giá nhất là sự sống đời này và đời sau, Ngài ghi nhận mọi việc làm tốt của chúng ta ở đời này để thưởng công cho. Tuy nhiên, Ngài rất nhân từ, một người vừa mới được Rửa tội, hoặc mới trở lại cũng được Chúa hứa ban cho nước Thiên Đàng vì thực ra Chúa ban phần thưởng thiên đàng vì lòng thương chứ không phải vì công trạng của chúng ta.
Chúa biết rõ lòng mỗi người chúng ta chứ không theo lẽ bề ngoài mà xét đoán. Thật ra, tôi giữ đạo bao nhiêu năm nay nhưng đức tin, cậy mến đã tiến triển bao nhiêu? Tôi thường tự hỏi mình: tôi có làm mọi việc vì yêu mến Chúa chưa hay chỉ cậy sức mình. Sau khi làm xong việc gì, tôi có nhận ra tất cả là nhờ ơn Chúa hay tôi lại qui mọi thành quả về mình. Khi tôi làm việc lành, Chúa có phải nói với tôi câu: con đã được thưởng công rồi! (Mt 6,2.5)
Thiên Chúa muốn cho chúng ta được cộng tác vào công việc của Ngài: thăng tiến xã hội loài người, phát triển bản thân và chinh phục vũ trụ này. Chúa không cần chúng ta ca ngợi hay làm cho Chúa điều gì nhưng vì Chúa muốn con người càng ngày càng trở nên giống chúa hơn, xứng đáng hơn trong địa vị làm con Chúa và được ơn cứu độ.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào Giáo hội cũng vì thương chúng ta, không phải vì bản thân Ngài, cũng không phải công lao của chúng ta nhiều hay ít. Chúng ta không có quyền đòi Chúa phải cho mình nhiều hơn những người khác nhưng biết phục vụ và Chúa sẽ ban phần thưởng xứng đáng. Chúa rất nhân từ nhưng cũng rất công bằng, không để ai phải thiệt thòi. Ông chủ trong dụ ngôn đã làm đúng theo thoã thuận với những người làm công. Sở dĩ chủ trả cho người đến sau ngang bằng những người kia vì Chủ có lòng nhân hậu chứ không bỏ lời đã hứa với những người đến trước. Chúa muốn dạy chúng ta học biết lòng nhân từ của Chúa, đừng dùng suy đoán của loài người mà đánh giá công việc Chúa làm.Vấn đề không phải chúng ta làm trước hay sau nhưng là làm đúng lúc Chúa mời, khi chúa gọi chúng ta có đáp trả hay không?
Trong cuộc sống, chúng ta thường phải chịu đựng tật xấu của người khác nhưng đôi khi những ưu điểm hay những đặc ân và sự may mắn của những người khác cũng làm chúng ta khó chịu đến ghen tương. Chúng ta phải loại bỏ tật xấu này và rèn luyện tâm hồn mình trở nên nhân từ quãng đại theo gương Thiên Chúa của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống quãng đại, tha thứ yêu thương, phục vụ theo gương Ngài, biết sống vui tươi với mọi người, không ganh tỵ, so đo nhưng biết cho đi bản thân vì lòng yêu mến Chúa.
23. Sự công bằng trong Nước Thiên Chúa
(Suy niệm của Barbara E. Reid OP – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn” (Mt 20,13)
Thoạt nghe qua, chúng ta dễ có cảm tưởng rằng dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay có vẻ không được hợp tình hợp lý cho lắm. Những người thợ làm việc lâu giờ hơn, vất vả hơn, vẫn không được trả lương cao hơn. Tại sao ông chủ vườn nho lại trả lương đồng đều cho tất cả các thợ, khi họ bắt đầu làm việc vào những thời khắc khác nhau. Theo lẽ thường tình, điều này xem ra có vẻ như ông chủ chơi không đẹp, không “fair play” chút nào.
Vấn nạn này chắc chắn sẽ được khơi lên, nếu chúng ta ở vào vị thế của những người thợ đã cực nhọc nắng nôi suốt cả ngày mà cũng chỉ nhận được một đồng giống như những người khác. Xét theo lô gíc thông thường, ông chủ đã sử xự một cách bất công.
Trong đám tang của ông ngoại tôi, lần đầu tiên, tôi được nghe giải thích ý nghĩa của dụ ngôn. Vị linh mục nói về người đã chết, một tân tòng mới gia nhập đạo Công giáo trên giường bệnh trước khi ông nhắm mắt xuôi tay, giống hệt như người thợ được mướn làm vườn nho lúc xế chiều. Vị linh mục đó cũng vay mượn một hình ảnh khác rất giản đơn để so chiếu. Ví dụ như nhiều người đi xe lửa đã đặt vé từ trước khá lâu, và họ đã có chỗ. Một số khác lại mua vé vào phút chót, cuối cùng cũng có chỗ dành cho họ, và họ cũng đến được nơi giống những người đã đặt vé rất lâu từ trước. Ông của tôi cũng vây, ông cũng đã đạt đến quê trời vào những giây phút muộn màng trong cuộc đời mình. Điều này khiến chúng tôi là những lớp trẻ hàng con cháu cảm thấy rất an lòng.
Thiết nghĩ, điểm nhấn của dụ ngôn, là Đức Giêsu muốn những người được gọi mướn đầu tiên, phải biết quảng diễn lòng thương cảm đối với những thợ khác được gọi mướn trễ hơn. Nhưng làm cách nào để có thể khơi dậy lòng yêu thương này, vẫn còn là một vấn đề nhức nhối và khó chịu đối với chính cá nhân tôi.
Một phụ nữ cùng học Kinh Thánh với tôi trong nhiều năm, đã giúp tôi hiểu dụ ngôn dưới một góc cạnh khác. Chị ta là một phụ nữ đơn độc, một mình nuôi 3 đứa con nhỏ sau khi ông chồng bỏ rơi chị. Chị ta ít học, lại không có kinh nghiệm quán xuyến gia đình và ít khả năng giao tiếp. Ngày này sang ngày khác, tại văn phòng xin việc làm, chị ta vẫn kiên nhẫn xếp hàng đợi chờ, mặc dù hy vọng của chị rất mong manh.
Khi đọc dụ ngôn hôm nay, chị ta mới khám phá ra một điều, là những người thợ đứng đó suốt cả ngày để chờ được thuê mướn, không phải là những con người biếng lười. Họ sẵn lòng đi làm nếu có người đến thuê họ. Nhưng họ phải chịu đứng không và vẫn chờ, vẫn đợi, có lẽ vì họ già yếu, không đủ sức khỏe, lại ít khả năng, và không thể đảm nhận những công việc nặng nhọc như những người khỏe mạnh khác. Những người thợ đứng đội nắng cả ngày không tìm được việc làm, giống như trường hợp của chị ta, một con người đã trải nghiệm sự nghiệt ngã khi cứ phải lặng lẽ đứng xếp hàng rồng rắn tại văn phòng xin việc làm, hết ngày này sang ngày khác, đầy kiên nhẫn.
Khi suy tư phần cuối của dụ ngôn, chị ta nghiệm ra rằng nếu ông chủ vườn có trả công cho người thợ đợi chờ suốt cả ngày, đồng đều như những người khác, điều đó cũng rất hợp lý. Như trường hợp của chị, làm sao chị có tiền để nuôi 3 đứa con? Những người thợ đã làm suốt cả ngày từ sáng đến chiều, họ cũng hài lòng vì họ đã được trả lương sòng phẳng để họ có đủ tiền trang trải chi phí, nuôi sống gia đình. Sự công bằng trong trật tự Nước Trời, chị ta suy luận, chính là ở chỗ tất cả mọi người vào giây phút cuối cùng trong ngày, đều có tiền để sống, không cần xem khả năng của họ ra sao. Sự công bằng của Thiên Chúa không phải là điều chúng ta đắc thủ được do công cán hay sức lực, và việc Thiên Chúa thưởng công cũng không phải được cân đo theo khả năng làm việc của từng người.
Cách giải thích này, xem ra gần sát với cái nhìn của những khán giả khi nghe Đức Giêsu giảng dạy. Họ là những con người đang đói, đang khát, đang phải đấu tranh để được sống. Lời khẳng định của ông chủ vườn nho, là ông ta đã không hành xử bất công đối với những người thợ đầu tiên, là một thách đố đối với những ai đang giữ những vị thế đặc quyền trong xã hội bấy giờ, để giúp họ giám định lại cảm thức của họ về sự công bằng xem như thế nào. Những người thợ làm từ sáng đâu có thiệt thòi gì, đâu có lỗ lã gì, nếu những người làm sau hết cũng được trả lương giống như họ.
Câu hỏi của ông chủ vườn nho trong câu 15 của bài Tin mừng hôm nay, đã nêu bật sự ghen tương, chính là đầu mối gây ra biết bao đổ vỡ trong đời sống cộng đoàn. Ông chủ đã nêu câu hỏi “ Hà cớ gì mà mắt bạn ghen tị khi thấy tôi đối xử tốt lành (agathos) như thế? Câu hỏi đó gợi nhắc lòng nhân hậu của Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên mọi người cách đồng đều, không loại trừ ai. Nó cũng đá động đến khó khăn thường xảy ra nơi chúng ta, vì con người chúng ta bản tính hay ghen tị khi thấy người khác cũng được hưởng nhận sự tốt lành từ nơi Thiên Chúa, ngay cả khi cuộc sống chúng ta đã đầy ắp ân huệ được Thiên Chúa ban trao một cách nhưng không, chỉ do lòng tốt của Ngài mà thôi. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng, sự công bằng mà Thiên Chúa thực thi hoàn toàn không theo nguyên tắc quy phạm và đường lối xét định của con người. Thiên Chúa yêu thương con người, không phải vì con người xứng đáng hưởng nhận tình yêu ấy. Nhưng tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa yêu thương, chỉ vì Thiên Chúa muốn yêu thương con người.
24. “Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?”
(Suy niệm của Lm Thái, Trích báo Hiệp Nhất tháng 9-2014)
Có lẽ bài học đầu tiên chúng ta biết về lẽ công bình đã xảy ra ở trên bàn ăn khi người mẹ phân chia những miếng bánh cho các con mình. Con mắt ganh tị của chúng ta đã phân biệt từng chi tiết nhỏ xem miếng nào lớn hơn, ngon hơn, và đáng giành hơn, rồi than phiền: “Mẹ, mẹ cho em miếng bánh lớn hơn miếng của con!” Chúng ta đã không biết nhiều về lẽ công bình, nhưng chỉ biết đến nó khi nhận phần bánh nhỏ hơn. Nếu khôn ngoan, người mẹ có thể giải thích: “Con ơi, sớm muộn gì con cũng sẽ phải học để biết rằng cuộc đời không luôn luôn công bằng đâu!” Điều này trẻ con chưa thể hiểu được, nhưng sau này lớn lên chúng sẽ hiểu.
Đúng như vậy! Cuộc đời không luôn luôn công bằng. Và nhận ra được điều này cũng không phải là dễ. Có lẽ phải mất một thời gian khá lâu trước khi chúng ta biết được rằng người mẹ hay Thiên Chúa có những lý do chính đáng để hành động, và những lý do này thường căn cứ trên tình yêu , lòng nhân từ, và quảng đại (Rm 9:14-16).
Trước hết, người mẹ đã làm ra chiếc bánh và có thể cho theo ý người mẹ muốn. Thứ đến, nếu người em của tôi có vẻ bệnh – đây là điều khi còn bé tôi không bao giờ nghĩ đến – người mẹ có thể cho nó thêm một tí nữa để có sức khoẻ, mau khỏi bệnh. Nhưng chắc chắn một điều là người mẹ hay Thiên Chúa, Đấng đã làm nên mọi sự , không bắt buộc phải cắt nghĩa cho chúng ta biết lý do. Khi chúng ta lớn lên, chúng ta sẽ nhận ra rằng người mẹ và Thiên Chúa thường có những lý do riêng dựa trên tình yêu. Các ngài nhìn thấy điều chúng ta cần.
Điều này được diễn tả trong bài phúc âm hôm nay, Mat 20:1-16, dụ ngôn thợ làm vườn nho. Đối với công đoàn lao động, việc người chủ vườn trả tiền mướn cho các công nhân làm việc chỉ một giờ hay vài giờ cùng số tiền lương trả cho những người làm việc suốt ngày từ sáng đến tối là điều bất công. Nhưng trước khi chúng ta nói người chủ hay Thiên Chúa bất công, xin hãy đọc kỹ những lời người chủ nói với những người than phiền trong Phúc âm: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thỏa thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?” (Mt 20:13-15).
Tại sao người chủ đã trả cho những người đến sau cùng số lương bằng với những người làm việc suốt ngày? Thưa vì tình thương! Tất cả các công nhân đều có gia đình, cần tiền để nuôi vợ con. Thứ đến, người chủ biết những người đến vào giờ phút cuối đã đi tìm việc làm suốt ngày mà không có. Đối với người chủ cả hai lý do đều tốt lành để hành động và không ai có lý do gì để phê bình ông cả. Nhưng không may, những con mắt ganh tị do lòng ích kỷ đã làm họ trở nên bất mãn (Gc 3:14-16).
Cuốn phim “Amadeus” kể về cuộc đời của thiên tài âm nhạc, Wolfgang Amadeus Mozart (1756-1791). Câu chuyện diễn tả Mazart như một con người khá kỳ dị, gần như bị bệnh loạn thần kinh, nhưng lại là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác rất tài ba. Một trong những nhân vật đáng chú ý nhất trong cuốn phim, bên cạnh Mozart, là nhạc sĩ Solieri đã khinh ghét và coi Mozart chỉ là một tên trẻ con, suồng sã, kiêu căng và khả ố. Tại sao Mozart lại có thể là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác tài ba như vậy được trong khi tư cách của Mozart không xứng đáng? Trái lại, Solieri là đầy tớ của Thiên Chúa, vân phục đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Chính ông mới là con người tốt hơn và xứng đáng hơn, vậy tại sao Thiên Chúa đã không ban cho ông món quà tài năng này mà lại ban cho Mozart?
Ngoài tính nết trẻ con, Mozart còn quá lố hơn nữa, dám vượt ra ngoài những giới hạn cổ truyền có thể chấp nhận được. Tuy vậy, Vua Joseph II Áo Quốc vẫn thích Mozart. Mozart xin phép vua được sáng tác một vở nhạc kịch bằng tiếng Đức. Vào lúc đó, chưa có ai được phép sáng tác nhạc kịch bằng tiếng Đức cả. Tất cả nhạc kịch đã được sáng tác và trình diễn đều bằng tiếng Ý. Solieri, một người Ý, vừa bị sỉ nhục về tài năng, vừa bị đe dọa về chức nghiệp vì vở nhạc kịch bằng tiếng Đức của Mozart. Solieri rất ganh tị và buồn bực vì bản nhạc kịch của Mozart đã thành công rực rỡ. Khắp nơi đều vang lên những lời ca ngợi về nhạc của Mozart cho đến nỗi chính Solieri cũng phải yêu thích nó. Tuy nhiên ông lại muốn là chính ông đã sáng tác nó. Solieri biết rằng Thiên Chúa đã ban cho Mozart một thiên tài âm nhạc mà chính ông mới xứng đáng chứ không phải Mozart. Trong giây phúc phẫn uất và tuyệt vọng, Solieri cảm thấy Thiên Chúa đã bỏ rơi ông, ông gỡ ảnh Thánh Giá treo trên tường xuống, đem đi đốt. Ông muốn không có sự thiên vị và đòi hỏi sự công bằng. Ông muốn được Thiên Chúa ban cho tài năng để làm việc phục vụ ngài. Tuy nhiên như chúng ta thấy trong bài Phúc âm hôm nay, tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa rất khác với những nguyên tắc của con người về lẽ công bằng!
Pascal đã nói: “con tim có lý lẽ riêng của nó.” Khi yêu ai người ta dám hi sinh tất cả moi sự, ngay cả mạng sống mình cho người mình yêu. Sự kiện Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi đã ban Con Một Người xuống trần gian, chịu chết trên thập giá vẫn là một mầu nhiệm khó hiểu của tình yêu Thiên Chúa.
Trong cuốn tiểu thuyết được soạn thành nhạc kịch “những kẻ khốn cùng” (Les Miserables), của Victor Hugo, nhân vật chính là Jean Valjean, đã được thả ra sau 19 năm chịu khổ sai trong tù. Anh bị tù vì tội ăn cắp một ổ bánh mì cho những người con của bà chị ăn qua cơn đói. Sau khi được tự do, anh bước đi lang thang cả ngày để tìm thức ăn và chỗ ngủ qua đêm, không một ai trong làng dám chứa chấp một người đã có án tù ở trong nhà. Sau cùng, một vị giám mục tốt lành đã mở cửa đón tiếp Valjean với một bữa ăn tối và chỗ ngủ qua đêm. Tại bữa ăn tối, bà gíup việc cực lực phản đối giám mục đã ra lệnh cho bà phải dọn bàn ăn với bộ muỗng dĩa bằng bạc mà tòa giám mục thường dùng để tiếp khách. Đêm hôm đó, Valjean đã ăn cắp toàn bỗ muỗng dĩa bằng bạc, rồi trốn ra khỏi nhà.
Ngày hôm sau trên đường tẩu thoát, anh nói dối với cảnh sát rằng Đức Giám Mục đã cho anh những món đồ quý giá làm kỷ niệm. Nghi ngờ, cảnh sát đem anh trở lại tòa giám mục với những món đồ đã bị ăn cắp. Khi họ vừa đến tòa giám mục, Đức Giám Mục đã nói ngay rằng ngài rất vui mừng gặp lạị Valjean, vì ngài muốn tặng thêm cho anh những cái chân đèn bằng bạc nữa. Hành động tha thứ và nhân từ đáng kính phục này đã gây ảnh hưởng lưón lao trên cuộc đời của Valjean tới nỗi anh đã thay đổi hoàn toàn, và trở thành một con người mới. Sau cùng anh đã dâng hiến cuộc đời còn lại để phục vụ tha nhân với lòng nhân từ hơn là lẽ công bằng.
Người chủ vườn nho đã cư xử với các công nhân theo định luật của tình yêu, và lòng nhân từ, không phải luật lệ của kinh tế, hay toán học nhắm vào tư lợi (Rm 9:20-23).
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo ZENIT ngày 3 tháng 12 năm 2000, Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã diễn tả những kinh nghiệm của ngài về 13 năm tù tội. Với những bạn tù không Công giáo, tọc mạch muốn biết làm cách nào ngài có thể giữ vững niềm hy vọng của ngài, ngài trả lời: “Tôi đã bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu, bởi vì tôi yêu những khuyết điểm của Chúa Giêsu.” Tổng Giám Mục, lúc đó, nói: “Trong lúc hấp hối trên thánh giá, người trộm cướp xin Chúa nhớ đến hắn khi Chúa vào Vương Quốc của Người. Nếu là tôi, tôi sẽ trả lời: “Tôi sẽ không quên anh, nhưng anh phải đền cắc tội ácc ủa anh trong luyện ngục.” Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi.” Chúa đã quên tội lỗi của người này. Cũng một việc đã xảy ra với bà Mary Magdalene, và với người con trai phung phí. Chúa Giêsu không nhớ tí nào, Người tha thứ cho toàn thế giới.”
“Chúa Giêsu không biết toán học”, ngài nói thêm: “Điều này được thấy rõ trong dụ ngôn người mục tử tốt lành. Người có 100 con chiên, một con bị thất lạc và không ngần ngại Người đi kiếm nó, để 99 con khác trong chồng, đối với Chúa Giêsu, một con có giá trị bằng 99 con, hay là có khi hơn nữa.” (Đức Ông Nguyễn Quang Sách, vietcatholic news – 18/9/2002).
Dụ ngôn người thợ làm vườn nho được bắt đầu bừng chữ “nước Trời”. Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa và luật lệ của nước Trời. Trong cuốn “the Divine Trap”, trang 78, Richard Hoefler, nối rằng: “Trước hết Thiên Chúa là người chủ tuyệt đối. Theo như dụ ngôn nói với chúng ta, Người làm điều mà Người muốn làm với cái gì thuộc về Người. Vương Quốc Thiên Chúa không phải là một nền dân chủ nơi mà chúng ta quyết định cái cách thức những sự việc sẽ được làm bởi một đa số phiếu bầu cử.”
Chúa Giêsu đã nói dụ ngôn này không những với các môn đệ của Ngài, mà còn cho các người Biệt Phái , là những ngươì đã có quan niệm rằng Vương Quốc Thiên Chúa thuộc quyền sở hữu chủ của họ. Richard Hoeffer đã nhận xét:
“Những người Biệt Phái đã quên điều này. Vương Quốc Thiên Chúa thuộc về Thiên Chúa. Chúa Giêsu đối chất với họ rằng các ông đã khoe mình là những người đạo đức, có phải vậy không? Mọi người đều biết và kính trọng các ông vì điều này. Đó là tiền công các ông đã được trả. Đó là điều Thiên Chúa thưởng cho các ông. Còn đối với những người khác, những người tội lỗi và nghèo khó, họ có sự liên hệ độc đáo của họ với Thiên Chúa. Ngài sẽ cư xử với họ theo như Ngài muốn, vì tất cả đều chỉ là những công nhân trong vườn nho của Ngài. Trong vườn nho này, Thiên Chúa là chủ, Ngài có quyền tuyệt đối phân phát tiền lương và phần thưởng tùy theo ý của Ngài và chỉ có Thánh Ý Ngài mà thôi.” (The Divine trap, trang 79).
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã viết: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các người chừng ấy” (Is. 55:8-9).
Hãy cảm tạ Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta đến làm việc trong vườn nho của Ngài. Hãy bằng lòng với những ơn lành Ngài thay vì đòi hỏi, và ganh tị. Hãy dâng lên Thiên Chúa tâm tình phó thác như lời cầu nguyện của ĐHY John Henry Newmann: “Chúa đã ủy thác cho tôi vài công việc mà Ngài không ủy thác cho kẻ khác. Tôi có sứ mệnh của tôi. Có thể tôi không bao giờ biết được nó trong cuộc sống này nhưng trong cuộc sống mai hậu ắt tôi sẽ rõ. Vì thế, tôi tin vào Ngài. Ngài không làm điều gì vô ích. Ngài có thể kéo dài hay rút ngắn cuộc sống của tôi; Ngài biết rõ điều ngài định làm. Ôi lạy Chúa, con xin hiến dâng trọn vẹn toàn xác hồn con trong tay Ngài.”
25. Chúa công minh trong mọi đường lối Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Sao tôi lại làm người trong thân phận này? Vóc dáng không cao, khuôn mặt không dễ nhìn, sắc tộc vào hàng thiểu số, gia cảnh thì nghèo hèn, hoàn cảnh xã hội quá khó khăn...Rất nhiều nổi băn khoăn, đúng hơn là nổi bất bình cho số phận mình, số phận bị chiếu bởi ngôi sao xấu nào đó. Chập chửng vào tuổi thanh niên, nhiều bạn trẻ không ít lần phiền trách số phận bản thân với hiện trạng đang là của họ. Nhiều giấc mơ xuất hiện như một sự giải tỏa khát mong thầm kín: giá như tôi là thế này, giá như tôi được như kia...Trời xanh có công mình chăng khi có kẻ sinh ra đã là con vua, còn rất nhiều kẻ lại mang kiếp con nhà chùa?
Cùng với những người làm vườn nho từ sáng sớm hay gần cả ngày, chúng con lắm khi tự hỏi rằng chúng con cum cúp giữ đạo, chịu nhiều thua thiệt ở đời này so với rất nhiều bà con khác đạo và bà con không tôn giáo để rồi lại cũng sẽ lãnh mỗi người một đồng tiền lương sao? Nói gì đến bà con lương dân hay bà con khác đạo sống ngay lành, người thu thuế Chúa kể chuyện chỉ đấm ngực và xin: Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội, chưa hết, cái anh tử tội năm nào bị treo trên thập giá cạnh Chúa, chỉ với lời cầu xin: "lạy Ngài khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi" thì đều được công chính hóa, được phúc thiên đàng. Thế thì sự công bình ở đâu?
"Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối của các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi chừng ấy." (Is 55,8-9).
Tư tưởng của Ta: Mọi người đều là hình ảnh của Ta, đều là con cái của Ta. Tất cả mọi người, ngươi và người khác đạo hay người chưa biết Ta, thậm chí người đang không nhận Ta, hết thảy không phải là cái gì xa lạ nhưng chính là hình ảnh của Ta, hết thảy không phải là là người nô lệ, kẻ làm thuê nhưng là con cái của Ta. Ta là người Cha nhân hậu, thiện toàn, cho mưa rơi đều xuống trên người con lành thánh lẫn đứa con bất lương, cho mặt trời mọc lên soi người con công chính lẫn đứa con tội lỗi. Ta chẳng hề muốn một đứa con nào phải hư mất. Ta kiên nhẫn và tạo dịp thuận lợi để những đứa con hư hỏng biết ăn năn sám hối và được sống. Đã là con cái, thì với Ta, đứa nào cũng là quý giá và không có gì sánh được, thậm chí Ta vui mừng vì tìm được đứa con lạc đường, xa nhà, hơn là chín mươi chín đứa con đang ở trong gia đình.
Vấn đề là ngươi cố tìm hiểu tư tưởng của Ta, tấm lòng của Ta. Hiểu được lòng trí của Ta thì ngươi sẽ nhận ra người đồng loại, dù đó là người tội lỗi, người khác niềm tin, người khác chính kiến...họ thảy đều là anh chị em của ngươi. "Anh em như thể tay chân". Ước gì ngươi cảm nhận được chân lý này.
Đường lối của Ta: Ta xử với con cái không như chúng đã làm, mà như chúng đang là. Ông chủ vườn nho đã đối xử với với đám nhân công không như họ đã làm được những gì, mà như họ là công nhân của ông ta. Có thế thôi. Vậy, Ta vốn là người Cha giàu lòng thương xót lại không đối xử với đàn con như chúng là con của Ta, những đứa con mà ta đã nhận làm dưỡng tử qua chính Con Một Ta hay sao?
Chính các ngươi là người cha, người mẹ trần gia,n còn vương nhiều điều gian ác mà còn biết lấy của tốt mà trao cho con cái, còn biết lo lắng cho đứa con trong nôi chưa làm được sự gì, một lẽ tất yếu là vì chúng là con cái các ngươi. Thế thì sao các ngươi lại bực mình khi Ta tỏ lòng nhân hậu với những người hèn kém, những người tội lỗi...vì chúng nó là con cái của Ta, cũng như các ngươi.
Tư tưởng của các ngươi và đường lối của các ngươi tuy có bị tội lỗi làm sai lệch nhưng tiên vàn vẫn là do Ta đặt để ngay từ đầu buổi tạo dựng. Chính vì thế, tư tưởng của Ta và đường lối của Ta tuy có cao xa hơn tưởng và đường lối các ngươi nhưng vẫn có nét nào đó nơi tư tưởng và đường lối các ngươi, dĩ nhiên là chúng cần phải được chỉnh hướng.
Một vài cách thế chỉnh hướng tư tưởng và đường lối của các ngươi: Hãy mở lòng đế lắng nghe lời Con Một của Ta, Giêsu Kitô:
1. Lạy Cha chúng con ở trên trời (Mt 6,9): Lời kinh nguyện duy nhất mà Con Một của Ta chỉ dạy các ngươi khi cầu nguyện, nhắc nhở các ngươi hãy xác định đúng vị thế các ngươi trước mặt Ta và trước tha nhân, bất kể họ là người thế nào. Ta là người Cha duy nhất và tất cả các ngươi đều là anh chị em với nhau cùng với người anh cả là Con Một của ta nhập thể làm người, Giêsu Kitô. Các người đừng quên rằng sự thường trong các buổi cử hành Phụng vụ, các người đều có cất lên lời kinh nguyện này: Lạy Cha chúng con ở trên trời...
2. Những gì các ngươi muốn người ta làm cho mình thì hãy làm những điều ấy cho người ta (Mt 7,12). Không dừng lại ở thái độ tiêu cực là đừng làm cho tha nhân những gì mình không muốn tha nhân làm cho mình mà cần phải tích cực làm những điều tốt đẹp cho tha nhân. Vì tất cả lề luật và lời Ngôn sứ đều quy về đó. Điều này sẽ thành hiện thực khi các ngươi chân nhận tha nhân là huynh đệ nghĩa thiết của các ngươi.
Đã là huynh đệ nghĩa thiết, tình như thủ túc, như chân tay mình, như chính bản thân mình thì chuyện ganh tị, đố kỵ sẽ chẳng còn lý do gì để tồn tại.
Trở lại với sự băn khoăn hay nổi bất bình về số phận xem ra chẳng may của nhiều người thì thú thật sẽ khó có lời giải thích thỏa lòng. Cùng tốt nghiệp cử nhân hạng ưu như nhau, nhưng một bạn trẻ xuất thân từ gia đình nghèo hèn, thiếu điều kiện, sẽ có niềm vui khác xa một bạn trẻ con nhà giàu có, đủ đầy điều kiện. Một thực tế của cuộc sống, hy vọng có thể giúp nhiều người thoạt sinh ra đã ở trong hoàn cảnh thiếu may mắn, xét dưới nhãn quan nhân loại. Dù Hy Lạp hay Do Thái, dù nô lệ hay tự do thì cái đích đến là được làm con cái Chúa, được hưởng hạnh phúc Nước Trời, thì đều ở trong tầm tay của mọi người. Hơn nữa dưới nhãn quan Tin Mừng thì những người xem ra kém may mắn, lại có nhiều thuận lợi để đạt đến hạnh phúc Nước Trời hơn. Chúa Kitô đã khẳng định chân lý này qua các mối phúc, cũng như các mối họa (x. Lc 6,20-26).
Dù ta ở trong hoàn cảnh thuận lợi hay không thuận lợi theo nhãn quan nhân loại hay theo nhãn quan Tin Mừng thì mọi sự tốt đẹp đều là có thể, nếu như chúng ta xem nhau như anh chị em. Xin được kết thúc những dòng chia sẻ này bằng câu chuyện sau: Trong một cuộc thi điền kinh môn chạy đường dài (Maraton), có hai anh em ruột cùng tham gia thi chạy với nhiều người khác. Còn khoảng một trăm mét là đến đích, về nhất. người anh ngoái đằng sau thấy em mình cũng bỏ đoàn chạy phía sau khá xa, nhưng dường như đạng bị chấn thương nào đó nên phải khập khểnh trên đoạn đường cuối. Người anh dừng lại chờ người em đến và dìu người em chạy nốt đoạn ngắn còn lại. Đứng trước vạch đích, hai anh em cùng hô một hai ba: chạm đích. Ban tổ chức hôm ấy đã phải trao hai huy chương vàng, dù không thể tiên liệu. Mọi sự đều là có thể trong tình yêu, vì "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1 Ga 4,8).
26. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Ngày xưa, có hai người hàng xóm ghen ghét nhau. Người này ước mong người kia gặp hoạn nạn. Người kia ước mong người này chết. Vì thế, họ ăn không ngon, ngủ không yên khi ước mong xấu xa của họ chưa được toại nguyện.
Một hôm, hai người đang cãi vã, ẩu đã lẫn nhau, thình lình Quỷ Vương hiện ra và bảo rằng: “Ta cho chúng bay mỗi đứa một điều ước với điều kiện như sau: Điều ước ấy sẽ ứng cho mình và cùng lúc ứng gấp đôi cho người kia. Nhanh lên! Ta không có thì giờ để chờ đợi đâu”. Vì ganh ghét nhau, không ai muốn cho người khác hơn mình, cho nên người láng giềng thứ nhất ước: “Xin Quỷ Vương cho tôi đui một con mắt”. Thế là điều ước được thỏa mãn. Người này liền đui một con mắt. Và người kia đui cả hai con mắt. Người kia tức quá, liền ước trả đũa: “Xin Quỷ Vương cho tôi gãy một chân”. Lập tức anh ta gãy một chân. Và dĩ nhiên người láng giềng gãy luôn hai chân. Hậu quả: Người này bị đui một mắt và gãy hai chân. Người kia bị đui hai mắt và gãy một chân.
Trong xã hội chúng ta đang sống, nhiều người vẫn có cách cư xử tương tự như hai người trong câu chuyện trên đây: Thà chấp nhận mình “đui một mắt, gãy một chân” để người khác “đui hai mắt, gãy hai chân” chứ không muốn người khác hơn mình. Vì sao người ta lại cư xử với nhau như thế? Vì người ta ghen tị nhau. Người ta có thể ghen tị nhau đủ mọi phương diện: ghen tị vì thấy người khác giàu có hơn mình; ghen tị vì thấy người khác giỏi giang hơn mình; ghen tị vì thấy người khác đẹp hơn mình; ghen tị vì thấy người khác đạo đức hơn mình; ghen tị vì thấy người khác thành công hơn mình; ghen tị vì thấy người khác hát hay hơn mình; ghen tị vì thấy người khác được yêu mến hơn mình…Vì ghen tị nên sinh ra nói xấu, dèm pha, hạ bệ và thậm chí ẩu đã, chém giết lẫn nhau.
Chúng ta vẫn thấy điều này xảy ra trong Kinh Thánh: Khi Đức Chúa chấp nhận lễ vật của Abel mà không chấp nhận lễ vật của mình, vì lòng ghen tị, Cain đã giết chết Abel (x. St 4, 2-26); Khi dân chúng ca tụng “Đavít giết giặc được hàng vạn còn Saul chỉ giết được hàng ngàn”, vì lòng ghen tị, Saul tìm cách làm hại Đavít (x. 1 Sm 18, 6-9); Khi thấy dân chúng mến mộ, đi theo Đức Giêsu ngày càng đông, vì lòng ghen tị, những người lãnh đạo Do Thái tìm cách bắt bẻ, hạch sách, làm hại và cuối cùng đã giết chết Đức Giêsu.
Bài Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy, những người thợ làm vườn nho đến trước vì ghen tị nên không chấp nhận ông chủ trả công cho người đến sau cũng một đồng lương như mình: “Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20,11-12). Hơn thế nữa, khi kể dụ ngôn này Đức Giêsu còn nhắm tới việc dân Do Thái ghen tị cả về ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho dân ngoại. Thật vậy, người Do thái quan niệm rằng: Họ là dân riêng của Chúa, là con cái Abraham, là những người trung thành với lề luật của Môsê, được thể hiện ở giáo ước Sinai giữa Israel với Giavê. Vì thế, chỉ có họ mới xứng đáng được lãnh nhận ơn cứu độ, còn dân ngoại là dân đáng bị hủy diệt, không xứng đáng lãnh nhận ơn cứu độ. Đức Giêsu đã phá quan niệm sai lầm của người Do Thái và sửa trị thói ghen tị của họ bằng cách cho họ thấy lòng bác ái cao cả của Thiên Chúa thể hiện nơi ông chủ vườn nho: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20, 15). Thật vậy, Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho dân Do Thái. Đồng thời, Ngài cũng ban ơn cứu độ cho dân ngoại. Nước Trời không chỉ dành riêng cho người Do Thái mà còn cho cả dân ngoại. Vào Nước Trời không phải do bởi tiền lương hay do một đặc ân nhưng là do tình thương và lòng quảng đại của Thiên Chúa. Hay nói cách khác, vào Nước Trời là ơn ban nhưng không của Thiên Chúa.
Như vậy, chúng ta mới hiểu câu nói của tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất: Tư tưởng của Thiên Chúa khác xa với tư tưởng của con người (x. Is 55,8). Thật vậy, cách cư xử của con người chỉ ở mức công bằng: Người làm ít sẽ lãnh lương ít, người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều. Còn cách cư xử của Thiên Chúa thì vượt xa sự công bằng. Đó là tình thương và lòng quảng đại. Vì thế, Ngài đã trả cho người đến sau hết nhiều hơn so với lương anh ta được hưởng.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay, mời gọi chúng ta thực hiện những điều sau đây:
Thứ nhất, phải loại bỏ tính ghen tị ra khỏi cuộc sống chúng ta. Bởi vì, ghen thường đi liền với ghét. Ghét thường đi liền với nói xấu, dèm pha, làm hại nhau. Người ghen tị thường sống trong sự bất an, khó chịu, buồn phiền vì thấy người khác hạnh phúc, thành công hơn mình. Cho nên, ghen tị không những gây ra hậu quả vô cùng tai hại cho đối phương mà còn cho cả chính bản thân mình nữa. Nhà văn Balzac từng nói: “Người có tính ghen tị đau khổ hơn bất cứ một người bất hạnh nào, bởi hạnh phúc của người khác cộng với sự bất hạnh của mình làm cho ta đau khổ gấp nhiều lần”. Thánh Cyprian nói: “Những tội khác thì còn có giới hạn, còn tội ghen tị thì không!”. Vì vậy, hãy loại bỏ tính ghen tị ra khỏi cuộc sống chúng ta.
Thứ hai, hãy tập sống khiêm nhường vì trước mặt Chúa chúng ta là thụ tạo bất toàn. Hãy vượt lên trên sự công bằng để sống yêu thương, quảng đại với mọi người vì những gì chúng ta có đều do hồng ân nhưng không của Thiên Chúa. Hãy vui khi thấy người khác gặp may mắn, thành công. Hãy vui khi có nhiều người tội lỗi trở về với Chúa, nhiều người ngoại đạo gia nhập Giáo hội…Hãy chia sẻ sự rủi ro, hoạn nạn, đau khổ của những người xung quanh. Thánh Phaolô dạy: “Hãy vui với người vui, hãy khóc với người khóc” (Rm 12,15).
Thứ ba, hãy làm việc vì lòng mến Chúa chứ không phải để tính toán với Ngài. Chúa không muốn chúng ta là kẻ làm thuê để Ngài trả tiền lương. Chúa không muốn chúng ta tính toán với Ngài về số lượng công việc chúng ta làm nhưng Ngài muốn chúng ta sống với Ngài giống như người con hiếu thảo đối với cha mẹ mình.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết loại bỏ tính ghen tị ra khỏi cuộc sống, xin cho chúng con biết đối xử với nhau bằng tình yêu thương và lòng quảng đại như Chúa. Amen.
27. Đừng so sánh.
Tại các thành phố hiện nay, cơn sốt về nhà đất mỗi ngày một gia tăng. Một mảnh đất hôm qua chẳng có giá trị gì, thế mà hôm nay có thể trở thành tài sản lớn.
Có một bác nông dân sống ở ven đô, bác nhẩm tính trong đầu rằng: Theo thời giá, miếng đất của bác có thể bán được hai mươi cây vàng. Nhưng rồi có người đến trả cho bác những hai mươi lăm cây. Bác mừng rỡ bán vội.
Liền sau đó, người bên cạnh bán miếng đất chỉ bằng nửa miếng đất của bác mà cũng được hai mươi lăm cây. Bác tiếc ngẩn tiếc ngơ và lên tiếng cự lại người mua hai miếng đất ấy. Và người mua đã trả lời bác:
- Này bác, bộ tôi phỉnh gạt bác à. Bác đã chẳng thỏa thuận với tôi hai mươi lăm cây sao? Hay là bác ganh tị vì tôi đã rộng lượng.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay và tự hỏi: Chúa Giêsu muốn đưa ra bài học nào? Và trong cuộc sống, đám thợ trước được sánh ví với ai? Còn đám thợ sau được tượng trưng cho hạng người nào?
Chúng ta có thể trả lời: Những kẻ được thuê sau là những kẻ tội lỗi vào thời Chúa Giêsu, họ đã lắng nghe lời Chúa và đã sám hối ăn năn. Còn những người được thuê trước là bọn Biệt phái. Họ giận dữ vì thấy những kẻ tội lỗi sám hối được vào nước trời, và cũng lãnh nhận phần thưởng y như họ. Thái độ của họ có thể sánh ví với thái độ của một ai đó đã lên tiếng chỉ trích Chúa, vì Ngài đã tha thứ cho tên trộm lành trên thập giá vào những giây phút cuối cùng:
- Hôm nay anh sẽ lên thiên đàng cùng Ta.
Từ thái độ của bọn Biệt phái, chúng ta nhận thấy: rất nhiều lần chúng ta cũng đã cư xử với những người chung quanh giống như họ. Chúng ta cảm thấy bực bội tức tối khi người khác giàu hơn chúng ta, đẹp hơn chúng ta, giỏi hơn chúng ta và gặp nhiều may mắn hơn chúng ta. Chúng ta đã ghen tị với họ.
Khi cư xử như thế, chúng ta đã phạm phải một sai lầm lớn là đã xét đoán họ theo những tiêu chuẩn thế gian, chứ không phải theo những tiêu chuẩn của Chúa. Đường lối của Chúa không giống với đường lối của thế gian, như lời thánh Phaolô diễn tả:
- Thiên Chúa đã cố ý chọn những gì thế gian xem là vô nghĩa để làm bẽ mặt đám người thông thái, và Ngài đã chọn những gì thế gian cho là yếu nhược để khiến đám thế lực phải hổ thẹn. Ngài đã chọn điều thiện họ chê bai, khinh bỉ để tiêu hủy những gì thiên hạ cho là quan trọng.
Trong bàn tay của Thiên Chúa, thì một chiếc màng nhện cũng có thể trở nên một bức tường thành bảo đảm an toàn cho chúng ta ẩn náu. Và như thế, đoạn Tin mừng mời gọi chúng ta đừng so sánh mình với người khác mà hãy chấp nhận hiện trạng của mình, như lời thánh Phaolô:
- Mỗi người nên suy xét về cách cư xử của mình. Nếu là tốt thì có thể hãnh diện về điều mình làm, nhưng chớ nên so sánh với điều người khác đã làm. Xét cho cùng, điều quan trọng trong cuộc sống hiện tại không phải là những gì thiên hạ nghĩ về chúng ta, hoặc chúng ta đã làm việc thế nào trong vườn nho của Chúa, nhưng điều quan trọng đó là, Thiên Chúa sẽ nghĩ gì về chúng ta và nhất là về tình yêu mà chúng ta đã dành cho Ngài trong suốt dọc cuộc đời chúng ta.
28. Lý lẽ của trái tim – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Khi nghe dụ ngôn này có nhiều người thắc mắc: Chúa có công bằng không khi ban thưởng cho người làm ít cũng bằng người làm nhiều? Hỏi như thế là chưa hiểu rằng đây chỉ là một dụ ngôn. Dụ ngôn không phải là một chuyện có thật. Nhưng chỉ là một câu chuyện dùng làm hình ảnh để giải nghĩa giáo lý của Chúa. Trong dụ ngôn, Chúa không có ý dạy về những kiến thức trần gian, nhưng muốn nói về những chân lý Nước Trời. Những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua dụ ngôn ‘Người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một’ này là:
1) Chúa yêu thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ. Vườn nho tượng trưng cho Nước Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê là người được mời gọi vào Nước Chúa. Tiền lương là sự sống trong Nước Chúa. Hình ảnh ông chủ ngày ngày ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh của Chúa yêu thương. Không phải ta đi tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm ta. Không phải tìm một lần mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người, thì những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Việc Chúa thuê hết mọi người từ sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, tất cả nói lên lòng yêu thương của Chúa. Chúa muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.
2) Hạnh phúc Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể được vào vườn nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban hạnh phúc Nước Trời thì chẳng ai có thể tự mình chiếm lấy được. Việc Chúa ban thưởng cho những người được thuê mướn cuối cùng trước những người được thuê mướn đầu tiên làm nổi bật chân lý này: Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Ân huệ phát xuất từ tình thương của Chúa chứ không do công đức của ta. Vì thế chẳng ai có quyền đòi hỏi. Hơn nữa, ơn Chúa ban vượt quá sức, quá lòng mong ước của ta. Hiểu biết điều này, ta sẽ không ngừng tạ ơn Chúa.
3) Chúa yêu thương và mong ta biết yêu thương như Chúa. Những người thợ làm từ sáng sớm không có gì để kêu trách Chúa về tiền lương, vì đã được thỏa thuận từ trước. Họ chỉ kêu trách vì thấy người làm ít cũng được như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ của Chúa. Đó là điều vô lý. Và Chúa đã nêu rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách vì tôi tốt bụng? Phần mình đã được rồi, tại sao không vui mừng vì những anh em kém cỏi, kém may mắn cũng được ân huệ vào phút chót. Qua điều này Chúa muốn dạy ta hãy biết yêu thương những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn. Một xã hội muốn tốt đẹp phải biết giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội chỉ thực sự văn minh khi biết quan tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật đẹp đẽ vì chan chứa tình người.
Qua dụ ngôn này ta thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng của con người. Cách cư xử của Nước Trời khác hẳn cách cư xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Không tìm lợi lộc cho bản thân nhưng lo tìm hạnh phúc cho người khác. Không trọng sang khinh hèn, nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của con tim, một con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người. Chúa mong con cái Chúa cũng hãy có tư tưởng của Chúa, cư xử như Chúa và yêu thương như Chúa. Như thế mới có thể làm cho Nước Chúa mau lan rộng.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu được đường lối Chúa và cho con luôn đi trong đường lối của Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Công bình tuyệt đối có làm cho con người hạnh phúc không, hay là còn cần tới bác ái nữa?
2) Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy tôi điều gì?
3) Nếu bạn là người tàn tật, yếu ớt, thất bại, bạn mong chờ điều gì nơi xã hội: công bình hay bác ái?
29. Suy niệm của Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
TA CÓ CHẤP NHẬN ĐỂ CHO
PHÚC ÂM LÀM TA SỬNG SỐT HAY KHÔNG?
Chúa Giêsu theo thói quen thường dùng dữ kiện trực tiếp có sẵn trước mắt các môn đệ để xây dựng một câu chuyện. Những dữ kiện đó là mùa nho chín cần phải hái mau, là hiện tượng thất nghiệp trong một xã hội đang gặp khủng hoảng kinh tế, là số tiền lương một đồng tương xứng với mức sống tối thiểu. Bắt nguồn từ đấy, Chúa Giêsu tưởng tượng ra một dụ ngôn và qua đó Chúa muốn luồn vào một lời giáo huấn. Ngài muốn làm cho người ta hiểu rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ theo kiểu các chủ nhân trên trái đất này. Những người này có bổn phận giữ sự công bằng đối với thợ thuyền. Còn Thiên Chúa, Người không tự nhận là có một bổn phận như thế đối với loài người, vì Người đứng ở bên kia sự công bằng của loài người. Sự công bằng được giới hạn ở những gì chúng ta mắc nợ. Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có một số tiền công tương xứng của một ngày, không có gì hơn. Và với sức cố gắng của suốt một giờ, lẽ công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương xứng với một giờ, cũng không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng nhân từ. Và lòng nhân từ không có giới hạn nào hơn là khả năng ban phát. Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, Người có khả năng vô biên, Người không có giới hạn. Lòng nhân từ đi xa hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa muốn cần tới các tay thợ để hái quả trong vườn nho của Người. Một sự công bằng tối thiểu được bảo đảm, nếu họ quyết tâm ở trên bình diện ấy, nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm nữa nếu họ có tấm lòng khá rộng lớn. Dụ ngôn này nhắc lại cho ta là phải tránh suy nghĩ về Thiên Chúa theo kích thước của loài người. Sự nhắc lại này thích đáng một cách đặc biệt ở thời đại ta, lúc mà những khối óc cho mình là Kitô hữu đang cố gắng lôi kéo Phúc âm xuống ngang hàng với tư tưởng của loài người trong lúc cần phải nâng cao nhân tính lên tới trình độ của Phúc âm.
1) Trình độ của Phúc âm là trình độ của Tình yêu, mà một trong những dấu hiệu bên ngoài là lòng nhân từ. Dụ ngôn nhấn mạnh ở một khía cạnh chính yếu của lòng nhân từ, đó là sự tự do. Chớ thì tôi không được sử dụng của cải như sở thích của tôi sao? Sự công bằng không được tự do, nhưng bị ràng buộc do bổn phận và những gì ta nợ người khác. Lòng nhân từ, trái lại, không bị ràng buộc bởi khế ước. Nó chỉ biết một điều tất yếu duy nhất, phát xuất từ chính lòng nhân từ và thúc giục phải ban phát, nó không muốn tạo ra nơi người thụ hưởng của ban phát bổn phận phải đền trả. Nó ban phát nhưng không. Điều này không có nghĩa là nó không chờ đợi một sự đáp ứng nào. Nó chờ đợi người ta nhìn nhận, nghĩa là chờ đợi ở con người một hành động ý thức và tự do là nhận biết từ đâu và do kẻ nào mà có những ân huệ mà con người đang thụ hưởng, một lòng biết ơn được diễn tả cách thông thường qua những lời cám ơn lòng tri ân và những lời ca ngợi. Lòng nhân từ của Chúa nói lên sự tự do của Chúa lúc ban phát và sự tự do của con người lúc đón nhận.
2) Trình độ Phúc âm còn làm xáo trộn cách thức suy nghĩ của loài người. Dụ ngôn làm người Biệt phái phải sửng sốt vì nó đặt người ngoại giáo, những kẻ đến sau, ngang hàng với con cái Israel trong Nước Trời. Mục đích của dụ ngôn là làm cho cả ta cũng phải ngạc nhiên, bởi lẽ trong cộng đoàn Kitô giáo và ngay cả trong sự cố gắng hàng ngày của ta để sống trung thành, có lẽ ta cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình công nghiệp, quyền lợi và nhiều đòi hỏi. Hãy để ý và khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản độc nhất của lòng nhân từ Thiên Chúa. Hãy xin Chúa ban cho ta cũng như cho anh em ngoại giáo không phải những gì tương xứng với sự công bằng, nhưng những gì mà lòng nhân từ của Người gợi ra.
30. Lòng nhân từ
Anh chị em thân mến.
Sự ích kỷ và lòng ghen tỵ, làm cho con người mất hết lý trí nên đưa đến sự tàn ác. Câu chuyện cổ tích Tấm và Cám nói lên điều đó.
Trong một gia đình, đôi vợ chồng trẻ có được một người con gái xinh đẹp, nhưng người vợ không may mất sớm. Người chồng kết hôn với một người đàn bà khác, bà ta cũng có một người con gái. Tưởng rằng con mình có người để chơi đùa vui vẻ, nhưng không ngờ, những ngày gian khổ đến với tuổi thơ quá sớm. Người cha lo bận rộn công việc bên ngoài không biết con mình cực khổ như thế nào. Còn đứa con thì không dám nói điều gì: trước hết vì thương cha, không muốn cho cha phải lo lắng, đồng thời cô cũng bị hai mẹ con của nhà kia răn đe, nếu cho cha biết, họ sẽ hành hạ trả thù.
Việc gì đến cũng phải đến. Sự ích kỷ, lòng ghen tỵ thì lãnh phần của sự ích kỷ ghen tỵ. Sự nhẫn nại ngay thẳng thì được phần thưởng xứng đáng với những gì đã làm. Hai người làm điều ác hại người thì lãnh phần những gì mình gây ra. Còn người con gái nhân hậu thì lãnh phần thưởng xứng đáng của lòng nhân hậu.
"Nầy bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy lãnh phần của bạn mà đi về".
Những người đã thoả thuận, nhưng giờ đây họ muốn hơn những gì mình thoả thuận, họ muốn hơn những gì mình đáng được. Họ nhìn vào người khác và họ tự cho mình có công hơn người khác. Họ nhìn vào những gì người khác được, nên họ muốn mình phải hơn những gì người khác có, vì họ cho mình có quyền như thế. Khi họ không được những gì mình muốn, họ tự cho mình quyền phê bình, chỉ trích, phán đoán người khác, ngay cả người có quyền trên họ mà họ cũng không hay biết. Khi đó họ chỉ còn nhìn thấy có bản thân mình, đòi hỏi lợi lộc riêng tư cho mình mà không cần biết đến người khác như thế nào. Họ phê bình người khác không công bình theo như họ muốn. Những gì họ thoả thuận, họ không còn biết đến. Họ muốn hơn cái mình đáng được, họ cũng muốn mình được hơn những gì người khác được, mà không cần biết mình có xứng đáng hay không.
"Nầy bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy lãnh phần của bạn mà đi về. Hay mắt bạn ghen tỵ vì tôi nhân lành chăng?"
Lời phiền trách của ông chủ trong dụ ngôn đối với những người ghen tỵ, cũng là lời phiền trách chung cho mọi người của mọi thời đại. Sự ích kỷ và lòng ghen tỵ vẫn tồn tại mãi trong con người, cả chúng ta nữa cũng không bị loại trừ ra cái thường tình của con người như thế.
Mỗi người trong chúng ta tự nhìn vào chính mình, nhìn qua những gì mình đã được, những gì chưa được mà đang ước muốn, nhìn vào cả những thực tại mà mình đang toan tính để đạt được. Có những điều mà mình quyết tâm đạt cho được những lợi nhuận, danh dự, những điều để thoả mãn tính tự phụ, nên dùng mọi thủ đoạn, mọi hành vi bất chính để đạt kết quả. Những lúc đó chúng ta có nói đến sự công bình trong cuộc sống không? Hay chúng ta không dám nói đến. Những lúc nhìn thấy người khác thành công mà mình thất bại, chúng ta cảm thấy khó chịu, bực mình. Càng khó chịu hơn khi thấy người khác không đạo đức, không tài năng, không có công trạng bằng mình, mà họ lại được ưu đãi hơn thì không thể nào chấp nhận được. Những lúc đó nếu chúng ta chịu bình tâm suy nghĩ và nhìn lại để đừng thốt nên những lời kêu ca phiền trách, thì thật là phúc cho chúng ta. Nếu chúng ta phiền trách thì coi chừng sẽ nhận được lời nói cứng rắng như trong dụ ngôn: "Nầy bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, bạn hãy nhận phần của bạn mà đi về".
Những lúc chúng ta nhận được hồng ân Chúa, được thành công, đươc niềm vui bất ngờ, nếu chúng ta cảm nhận được mà biết tạ ơn Chúa thì thật là hạnh phúc cho chúng ta. Nếu chúng ta nhận ra được con người của chính mình không đáng là chi với những hồng ân Chúa ban, thì chắc là trong cuộc đời chúng ta không bao giờ dám kèo nài, trả giá và phiền trách Thiên Chúa của chúng ta được. Những lúc chúng ta không đạt được những gì như ý muốn, nếu chúng ta biết nhìn lại để cố gắng hơn với tất cả lòng chân thành, thì Thiên Chúa không bao giờ từ chối những gì phát xuất từ lòng chân thành.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết vui lòng chấp nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời.
31. Tình yêu, tiêu chuẩn của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn Hương)
Theo quan niệm thông thường, thì ai làm nhiều sẽ hưởng tiền lương nhiều, ai làm ít thì hưởng ít. Thế nhưng câu chuyện trong Tin mừng hôm nay không như vậy. Người làm suốt ngày chỉ nhận được một đồng và người làm chỉ một giờ thôi cũng nhận được một đồng. Xem ra có vẻ bất công! Chủ vườn nho đó lại là chính Thiên Chúa. Điều này làm cho chúng ta ngạc nhiên. Ngay cả những người thợ làm từ giờ thứ nhất cũng đã lẩm bẩm trách chủ như thế là không đúng. Nhưng đó là cách thức hành động của Thiên Chúa. Thiên Chúa hành động khác với con người. Nói như ở bài đọc I là: "Vì tư tưởng của ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của ta".
Vậy thì dụ ngôn chủ vườn nho nói với chúng ta điều gì?
Trước hết dụ ngôn muốn nói với chúng ta rằng: - Thiên Chúa hành xử với chúng ta phải dựa trên sự công bằng nhưng là dựa trên tình yêu. Những người làm giờ thứ nhất được trả một đồng là theo tiêu chuẩn công bằng mà họ đã thỏa thuận. Nhưng những người làm giờ cuối cũng nhận được một đồng là theo tiêu chuẩn tình yêu.
- Dụ ngôn còn muốn nhận mạnh rằng: Nước Trời, Ơn cứu độ và ân sủng không phải là phần thưởng, là công trạng do công sức chúng ta làm nên, nhưng là quà tặng, là hồng ân của Thiên Chúa cho tất cả không có loại trừ ai.
Những người do thái thời Chúa Giêsu nghĩ rằng họ là những người thợ đầu tiên đáng hưởng một đồng, nghĩa là ơn cứu độ, còn những người khác thì không xứng đáng. Chúa Giêsu mang đến một sự mới mẽ qua dụ ngôn này là: Nước Trời, ơn cứu độ được ban tặng cho tất cả, kể cả những kẻ đến sau cùng, những kẻ tội lỗi và cả những người nhỏ mọn nhất nếu họ biết lắng nghe lời mời gọi trở về và cộng tác với Thiên Chúa.
Sự "vô lý" của Thiên Chúa là cơ hội cho chúng ta
Như thế, cách thức hành động của Thiên Chúa có vẽ là ngược đời, là vô lý, khác với lí luận của chúng ta. Hay như Đức Hồng Y Thuận nói cách dí dõm là: Thiên Chúa không biết tính toán! Nhưng chính sự "vô lý" của Thiên Chúa lại là cơ hội, là lối vào đưa chúng ta tới Thiên Chúa.
Nếu Thiên Chúa chỉ xét xử chúng ta theo sự công bằng thì chắc chắn chúng ta phải chết rồi vì chúng ta đã đắc tội với Ngài, chúng ta chẳng được quyền hưởng gì, vì chúng ta chẳng có công trạng gì với Ngài.
Nhưng nếu Thiên Chúa hành xử với chúng ta theo tiêu chuẩn tình yêu và lòng từ bi của Người, thì đó lại là hy vọng, là cơ hội cho chúng ta được cứu độ.
Vì thế, bất kỳ lúc nào, dù là giờ cuối cùng, bất kỳ hoàn cảnh nào, Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta trở về, cộng tác với Ngài trong vườn nho của Ngài, và dù làm nhiều hay làm ít Thiên Chúa cũng ban ơn cứu độ, ân sủng cách dồi dào cho chúng ta theo lượng từ bi nhân hậu của Ngài.
Tất cả chúng ta cũng được mời gọi đi vào logic của Thiên Chúa, logic của Tinh Yêu, của lòng quảng đại. Nghĩa là hãy vươn tới tầm nhìn của Thiên Chúa, hãy mặc lấy tâm tình và cách cư xử của Đức Kitô, như thánh Phaolô hôm nay nói: "Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô", để lượng giá cuộc đời, để nhìn đời và để đối xử với nhau cách lạc quan và vui tươi, hơn là dựa theo tiêu chuẩn tính toán, hẹp hòi ích kỷ, như những người thợ đầu tiên, thấy người khác thành công, được ưu đãi, may mắn là sinh ra ghanh tị và tìm cách đạp đổ. Vì bác ái là biết vui với người vui và khóc với người khóc.
32. Thiên Chúa quảng đại – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Ngày nay có một điều khẳng định lớn lao mà mọi người thợ, dù là nam hay nữ, nếu họ cùng làm một công việc như nhau, cùng một chất lượng như nhau sẽ được trả bằng nhau. Đó chỉ là sự công bằng. Ngay cái nhìn đầu tiên vào người chủ nợ trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, người đã trả cho các người thợ cùng một mức lương dù có người chỉ làm có nửa giờ. Bạn sẽ trả cho những người thợ cùng một mức lương nếu bọn họ làm cùng một thời gian.
Một cách để cắt nghĩa hành động lạ lùng của người chủ này, không hề có sự bất công trong việc trả lương cho những người thợ, từ lúc bắt đầu cho đến khi chấm dứt, họ đã đồng ý chấp nhận mức lương công nhật rồi. Không có sự bất công khi trả lương cho những người thợ làm đầu tiên vì họ nhận đúng những gì họ đã đồng ý. Và phần lớn chúng ta đều không cảm thấy thoải mái về dụ ngôn này. Chúng ta đã không thấu đáo vấn đề.
Một bước nữa để chúng ta nhận ra mình phải thích ứng thế nào với dụ ngôn này. Không có lý do nào để chúng ta nghĩ rằng, chúng ta là những người đã làm việc lâu giờ và nhiệt thành cho Chúa mà chúng ta lại được giới thiệu như những người làm giờ thứ nhất, khi họ nói: “Chúng tôi đã làm suốt cả ngày dưới cái nóng gay gắt”. Thật sự chúng ta đã làm gì cho Chúa nếu chúng ta so sánh chúng ta với những vị thánh lớn trong suốt nhiều thế kỷ vừa qua? Và như vậy chúng ta sẽ không có gì phàn nàn về dụ ngôn này nữa.
Vẫn còn có nhiều ý nghĩa hơn ẩn chứa trong dụ ngôn này, hơn những gì chúng ta có thể khiêm tốn và thận trong áp dụng cho chính mình. Ý nghĩa đó được tỏ lộ qua những lời của vị chủ vườn. Khi người thợ làm vào giờ thứ nhất phàn nàn với ông. Ông đã trả lời cách mạnh mẽ “Tôi không hề để cho anh bị thiệt hại”. Và tiếp đó ông thêm một câu hỏi khó trả lời: “Không phải tôi được tự do sử dụng tiền theo ý tôi sao?” Đối với câu hỏi này, những người công nhân sẽ không có cách trả lời nào khác ngoài việc gật đầu xác nhận. Nhưng người chủ vườn còn nói thêm một câu tỏ lộ điều cốt yếu của dụ ngôn này: “Hay là anh ghen tị vì tôi quảng đại chăng?”
Tóm lại, dụ ngôn này nói về sự quảng đại của Thiên Chúa. Thật sự là tất cả những người thợ, ngoại trừ người cuối cùng, không biểu thị cho một nhóm người nào trong dân chúng. Chúa Giêsu bao gồm những người thợ làm sớm trong dụ ngôn chẳng qua vì người muốn nhấn mạnh rằng, Thiên Chúa luôn luôn công bình nhưng quan trọng hơn là Người rất quảng đại. Thiên Chúa quảng đại với hết thảy mọi người cuối cùng vào vườn nho biểu thị cho hết thảy chúng ta.
Thiên Chúa ban phát ân sủng của Người cho mọi người. Chúng ta không cần phải cố gắng tìm hiểu tại sao một số người có vẻ như coi thường ân sủng của Thiên Chúa. Nỗ lực của chúng ta sẽ đặt vào việc nhận biết những ân sủng quảng đại của Thiên Chúa ban xuống trên chúng ta. Người đã ban cho chúng ta đời sống, gia đình, thế giới mà chúng ta đang sống và Người đã ban cho chúng ta đức tin công giáo. Tất cả những điều này đều là ân sủng, là đặc ân đến từ Thiên Chúa. Không có gì dù đơn sơ mặc lòng mà chúng ta có thể làm để đáng được hưởng phúc lành của Thiên Chúa.
Sự quảng đại của Thiên Chúa được biểu lộ trong suốt phụng vụ hy tế Thánh Thể. Người nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt và Máu của người con Thần linh của người. Chúng ta thú nhận sự bất xứng của mình: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con”, những vị thánh cao cả nhất cũng không xứng đáng với Thánh Thể, và các ngài còn không được hưởng dồi dào bí tích ấy như chúng ta. Sau khi chúng ta thú nhận sự bất xứng của mình. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến với Người để lãnh nhận Mình và Máu Người trong đức tin.
Và nhờ đức tin đó mà chúng ta không bao giờ phàn nàn với Thiên Chúa như những người thợ đã làm đầu tiên, nhưng luôn luôn biết dâng lời tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa, Đấng cao vượt hơn cả trí tưởng cuả chúng ta là sự quảng đại của người dành chúng ta.
33. Đường lối của Thiên Chúa
(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta” (Is 55,8).
Đường lối của Thiên Chúa là gì? Suy tư về câu hỏi này, chúng ta thấy có hai nguy cơ trước mắt. Nguy cơ đầu tiên, là nhiều người sẽ cảm thấy khó chịu và không lý giải được, khi họ muốn biết xem Thiên Chúa hành xử thế nào, hoặc đòi hỏi điều gì nơi họ. Từ đó dễdẫn họ đến thái độ vô tín, không còn tin vào Thiên Chúa nữa. Bởi lẽ, nếu đường lối của Thiên Chúa đưa ra nhằm đánh đố con người, hay để lừa lọc những kỳ vọng nơi con người chúng ta, thì thử hỏi, còn tin vào Thiên Chúa để làm gì nữa. Nguy cơ thứ hai, là nhiều người khác lại quá cứng nhắc để dấn bước, tuyệt đối tin tưởng rằng đường lối Thiên Chúa đã vạch dẫn một cách quá rõ ràng qua mạc khải của Thánh Kinh, qua truyền thống của Hội Thánh, hoặc qua những chỉ huấn của Giáo hội. Họ không cần phải khám phá và tìm tòi. Họ cũng chẳng cần phải thắc mắc làm gì, vì đường lối của Thiên Chúa đã quá hiển nhiên và rõ ràng.
Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta đang toan tính quay lưng lại với Thiên Chúa, chúng ta vẫn bị cám dỗ muốn tinh giản đường lối Ngài qua một vài điều mà chúng ta nghĩ rằng chắc chắn Thiên Chúa sẽ thực hiện thánh ý Ngài giống như vậy. Khi chúng ta xác tín là mình đã thấu tỏ đường lối của Thiên Chúa một cách rõ ràng, chúng ta thường dễ dị ứng với ý tưởng cần phải sáng tạo hoặc cần mở lòng để Thiên Chúa có thể thực hiện một điều gì đó mới mẻ nơi chúng ta. Đồng thời, chúng ta hay có khuynh hướng giản lược mối thân tình của chúng ta với Ngài bằng một vài định thức có sẵn, chẳng cần phải phát huy sáng kiến hay tìm tòi. Ngôn sứ Isaia đã khuyên mời các đọc giả hãy sửa đổi quan niệm này. Ông nói “Hãy tìm Đức Chúa khi Ngài còn cho gặp, hãy kêu cầu Chúa khi Ngài còn ở gần bên. Kẻ gian ác hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương hãy bỏ tư tưởng mình đang có”. Trong mạch văn này, vị ngôn sứ có dụng ý nói về kế hoạch của Thiên Chúa muốn cứu Israel, và Thiên Chúa khẳng định “Tư tưởng của Ta, không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta”.
Khi đề cập đến việc đừngnên biến tướng đường lối của Thiên Chúa, và đừng cố tìnhlàm méo mó ý định của Ngài, Isaia muốn nhắc nhở dân Israel năm xưa, cũng như nhắn gửi chúng ta hôm nay một điều rất quan trọng. Đó là, khi chúng ta không thấu hiểu được cách thức Thiên Chúa hành động trong thế giới hay trong cuộc cuộc sống hiện sinh của chúng ta hôm nay, đan xen giữa bao hỗn độn và mơ hồ, chúng ta vẫn phải tin tưởng tuyệt đối rằng Thiên Chúa đang lèo lái, và dẫn dắt cuộc đời củachính chúng ta. Ngài vẫn đang thực hiện những kế hoạch mang lại thiện ích cho thế giới, và kéo mọi sự dữ ra khỏi cuộc sống của ta. Liệu chúng ta có xác tín như thế không? Đối với tất cả những ai nắm bắt được Thiên Chúa, đấng là căn nguyên mọi sự, thì họ sẽ cảm nhận ra Ngài luôn hiện diện và hành động trong cuộc đời này, ngay cả khi chúng ta không am hiểu đường lối Ngài.
Thánh Phaolô đã bị tống ngục, và chúng ta cũng không biết chính xác Ngài bị giam cầm ở đâu. Ở trong tù, Ngài đã viết một lá thơ cho giáo đoàn Philip. Trong thơ, Ngài đối diện với vấn đề là phải luôn tin tưởng vào Thiên Chúa, ngay cả khi Ngài không hiểu Thiên Chúa muốn dẫn dắt Ngài đi đâu và đi như thế nào. Việc Ngài ngồi tù rồi sẽ ra sao, Ngài không biết. Những hành hạ và khổ nhục chốn lao tù xảy ra khiến Ngài có thể phải chết, nhưng Ngài vẫn tin tưởng rằng cái chết đối với Ngài là cửa ngõ dẫn đưa Ngài vào sự thông hiệp trọn vẹn với Đức Kitô, nên Ngài đã diễn tả “ Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”. Tuy vậy, dù Ngài mong muốn “chết để được nên một với Đức Kitô”, Ngài vẫn hy vọng “còn ở lại trong thân xác”, và Ngài thấy điều đó “cần thiết hơn, vì thiện ích của anh em”. Mong ước sâu xa nhất của Thánh Phaolô là Ngài muốn hoàn toàn quy thuận đường lối của Thiên Chúa, cho dù Ngài không hề biết thánh ý của Thiên Chúa muốn thánh nhân phải dấn bước theo nẻo đường nào.
Đặc biệt giữa cơn khủng hoảng và chao đảo trong tù ngục, sự khôn ngoan của Thánh Phaolô lại càng trổi trang hơn.Ngài đã nhắn nhủ giáo đoàn Philip một phương thức sống rất giản đơn, là“Anh em hãy ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng Đức Kitô” (Phil 1,27). Để thực hiện điều đó, chúng ta phải chuẩn bị hầu biết chấp nhận dấn bước trên những nẻo đường dẫn đến những nơi mà chúng ta không muốn đến, nhưng những nơi đó vẫn luôn vang vọng lời mời gọi của Thiên Chúa gửi trao cho chúng ta.
Tin mừng Matthêu kể lại dụ ngôn về Nước Trời, qua hình ảnh ông chủ vườn nho đi tìm thợ đến làm vườn cho mình. Vài người thợ được mướn vào buổi sáng từ 6 giờ, hay từ 9 giờ. Một số khác được mướn trễ hơn, vào ban trưa, hoặc xế chiều, lúc 3 hoặc 5 giờ chiều. Tất cả đều được trả công đồng đều, giống hệt nhau, cho dù họ bắt đầu làm việc vào nhữngthời điểm khác nhau. Dụ ngôn có đá động đến việc Thiên Chúa đối xử không công bằng. Lời cằn nhằn của những người thợ được mướn từ sáng sớm, nêu bật ý nghĩa trọng yếu của dụ ngôn: Đó là, lòng quảng đại của Thiên Chúa trao ban cho những người thợ bắt đầu làm việc vào lúc muộn giờ, không tương hợp với cách xử trí thông thường theo kiểu cách người đời. Nhưng nếu đọc kỹ dụ ngôn, chúng ta có thể trách cứ những người thợ đến làm từ sáng sớm. Họ ghen tỵ không đúng cách, vì những người thợ được mướn rất muộn màng, cho dù hầu như suốt cả ngày họ không làm gì, song thực chất họ vẫn đứng đó để chờ đợi trong sẵn sàng. Họ xứng đáng được thưởng công, bởi vì họ vẫn chăm chú đợi chờ, ngay cả khi niềm hy vọng của họ chỉ còn rất mong manh.
Đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người. Tư tưởng của Thiên Chúa không phải là tư tưởng của chúng ta. Tuy nhiên, nếu chúng ta luôn biết sẵn sàng trải lòng mình ra để Thiên Chúa thực hiện những điều mới mẻ, theo cách thế của Ngài, chúng ta sẽ tìm ra được lối bước mà Thiên Chúa muốn dẫn đưa chúng ta đi vào.
34. Chân dung gia chủ tốt lành... - Dã Quỳ
Giữa một xã hội đề cao lợi nhuận và chú trọng đến năng suất, người ta chỉ ưa của chuộng công, muốn lợi cho bản thân mà chẳng cần quan tâm đến người khác! Chúng ta, những Kitô hữu luôn được mời gọi đi theo đường lối của Thiên Chúa, suy nghĩ và hành động theo Tin Mừng. Vì Nước Trời chỉ dành cho những công dân biết hành xử đầy tình nghĩa và tốt bụng như Gia Chủ trong "Dụ ngôn thợ làm vườn nho" mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta.
Chắc chắn Chúa không muốn ủng hộ thực tế bất công của xã hội đã không trả cho những người thợ theo công việc họ làm, và Người cũng chẳng muốn xác định một mức lương độc đoán hoàn toàn theo cách của chủ nhân. Nhưng Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng gia chủ trong dụ ngôn không phải là một ông chủ bình thường theo thói đời. Bởi vì người ta không bao giờ thuê những người thợ chỉ làm 1 giờ trước khi kết thúc công việc của họ. Ở đây, mở đầu dụ ngôn, Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết "Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình."(20,1) Vâng, đây là dụ ngôn về Nước Trời, thế nên "Vườn nho" này đã cho chúng ta nhớ lại "Bài ca vườn nho" biểu tượng mà Cựu ước và cả những thính giả của Chúa Giêsu đều hiểu rõ "Vườn nho" của Thiên Chúa, đó là Israel-dân được chọn, được ký kết Giao ước (x. Is 5,1.7)
Chính vì Thiên Chúa đã muốn dẫn dắt dân vào trong lãnh địa của Ngài, muốn họ được hạnh phúc và chung hưởng niềm vui của Ngài. Vì thế, mà gia chủ vẫn lại trở ra tìm mướn thợ dù đã 9 giờ, giữa trưa, 3 giờ hay 5g chiều "Gia chủ kia vừa tảng sáng đã ra mướn thợ...Khoảng giờ thứ ba ông lại trở ra. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín ông lại trở ra... Khoảng giờ mười một, ông trở ra và..." (20,1-6) Chúng ta biết rằng việc thuê những người thợ này không phải là cho lợi ích của chính gia chủ, nhưng đây là một ông chủ đã hết sức bận tâm về tình trạng của những người thợ thất nghiệp "Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?" Thiên Chúa- Gia chủ vườn nho là Đấng trung thành, Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta trong tình trạng sầu khổ, nghèo nàn. Thiên Chúa yêu thương và quan tâm chúng ta với một tình yêu vô tận, ngay cả chúng ta yếu hèn tội lỗi cũng không ngăn cản Ngài yêu chúng ta và tìm kiếm chúng ta. Dẫu cho bao lần chúng ta cảm thấy như Ngài quên chúng ta khi ta đau khổ và bơ vơ, nhưng Chúa ở đó, vẫn đến và tìm gặp chúng ta, dẫn chúng ta vào trong vườn nho của Ngài dù cho có muộn màng.
Thực tế cuộc sống sẽ chẳng bao giờ có chuyện ông chủ đi tìm thuê thợ như vậy, và hơn nữa lại tốt lành tính công 1 giờ bằng một ngày "Những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền." (20,9) Oái oăm thay những người vào làm sau cùng cũng lãnh một đồng như người vào làm trước nhất! Gia chủ này thật lạ, tấm lòng ông đầy nhân hậu, ông ưu tiên những người nghèo khổ, ông đặt những người cuối lên hàng đầu... Và điều đó chỉ có nơi Thiên Chúa Nhân Lành. Còn con người thì ngược lại, tư tưởng và hành động chất chứa đầy ganh tị. Nhìn ai hơn mình là khó chịu, là hằn học. Thậm chí chẳng liên quan đến mình hoặc mình không thua thiệt mà vẫn ghen tương "Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ..." (20, 9-11) Đối với Thiên Chúa, không có chuyện đặc quyền, đặc lợi. Đã được mời gọi, thỏa thuận và đồng ý thì sao lại phải so bì tính toán khi mình đã được lãnh nhận đủ phần của mình?
Trong Lịch Sử Cứu Độ, dân Israel là dân đã được mời gọi và hưởng ân huệ của Vườn Nho Thiên Chúa sớm nhất, còn những dân tộc ngoại bang là những người cuối cùng được mời đến, cũng được đối xử bình đẳng với Dân của Chúa. Chính vì vậy, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhiều lần làm nổi bật lên hình ảnh của những người nghèo, những người bị gạt ra lên xã hội và tôn giáo, những người "đứng chót". Thiên Chúa- Chủ Vườn Nho đã đối xử với chúng ta như người Cha đầy tình nghĩa yêu thương, quảng đại vô cùng với tất cả mọi người "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao?Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho những người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?" (20,13-15) Đây là bài học trọng tâm của dụ ngôn này. Và đây cũng là bức chân dung tuyệt vời mà Chúa Giêsu mô tả cho chúng ta về Chúa Cha:
- Một Thiên Chúa, Đấng yêu thương cả những kẻ đứng đầu và đứng chót, muốn dẫn đưa tất cả vào trong hạnh phúc của Ngài... Một Thiên Chúa, Đấng tuôn đổ ân huệ của Ngài trên tất cả và không ngừng mời gọi họ... Một Thiên Chúa, Đấng khoan dung và nhân hậu, không bao giờ bị chi phối vì lỗi lầm của chúng ta, nhưng Ngài trao ban một cách rộng rãi, không tính toán... Một Thiên Chúa, Đấng loại bỏ bất cứ ai đòi quyền lợi bằng cách ngăn cản người khác hưởng lợi ích...
Dụ ngôn này giúp chúng ta khám phá ra một điều cốt yếu: Ơn Cứu Độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta hoàn toàn nhưng không và chẳng cân xứng với công trạng nghèo nàn của nhân loại chúng ta. Chúng ta sẽ làm được gì hay hy vọng vào điều gì nếu ta chỉ cậy dựa vào tài sức của mình? Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi vào trong Vườn Nho Giáo Hội, chúng ta đã đón nhận hết ơn này đến ơn khác và chờ đợi tất cả nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng luôn yêu thương và muốn chúng ta được hưởng hạnh phúc với Người. Vậy Chúa cũng mời gọi và muốn chúng ta mặc lấy tâm tình từ bi nhân hậu, mang lấy cung cách hành xử theo văn hóa của Nước Trời là sống tình nghĩa yêu thương bao bọc nhau, quảng đại đón nhận mọi người như anh chị em con cùng một Cha. Có như thế, chúng ta dù là kẻ đứng chót sẽ được trở nên hàng đầu và được trở thành công dân của Nước Trời- Nước Tình yêu. Xin Chúa giúp chúng ta biết cộng tác trong sứ mệnh mở rộng Nước Chúa ngay tại quê hương Việt Nam thân yêu này mới chỉ có hơn 7% người Công Giáo, bằng cách chúng ta giới thiệu, mời gọi, dẫn dắt anh chị em đến với Chúa là Gia Chủ để rồi họ cũng được nhận vào Vườn Nho của Chúa và được hưởng ân phúc cứu độ mà Chúa luôn dành sẵn cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến tìm và sai chúng con vào vườn nho của Chúa. Xin ban cho chúng con ánh nhìn yêu thương và tấm lòng nhân hậu, để chúng con biết "ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Chúa" và thực sự trở nên con cái của Thiên Chúa Tình Yêu. Amen.
35. Công bằng hay bác ái?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong cuốn sách mang tựa đề: “Người đó, chính là bạn”, cha Louis Evely đã kể một câu truyện sau đây:
Trong một vở kịch, nhà đạo diễn Jean Anouilb đã dàn dựng cảnh ngày phán xét chung theo như ông tưởng: Những kẻ lành đang đứng trước cửa vào thiên đàng, chật ních, chen lấn để vào, chắc chắn thế nào cũng có chỗ sẵn. Hồi hộp, sốt ruột… Nhưng, bỗng nhiên, người ta bắt đầu xì xầm với nhau: “Hình như Thiên Chúa cũng tha thứ cho mấy người đứng bên kia nữa”. Thế là họ lại phải một mẻ ngẩn người ra. Họ nhìn nhau, không thể hiểu được. Họ la ó, phản đối. Họ bất mãn… “Vậy thì cần gì phải hy sinh khó nhọc cả đời…”. “Tôi mà biết vậy thì tôi đã ăn chơi cho đã đời…”. Gan mật họ sôi lên. Họ bắt đầu kêu la trách móc Thiên Chúa và cũng chính lúc đó, họ bị đày xuống hỏa ngục.
Cha Louis Evely giải thích: ‘Giờ phán xét đã điểm: họ đã tự xét xử lấy họ, đã tự tách mình ra khỏi hạnh phúc của Chúa. Tình yêu đã biểu hiện cho họ, nhưng họ đã từ chối không nhận tình yêu: “Tôi từ chối không chấp nhận cái thứ thiên đàng mà người ta vào như chợ. Tôi phản đối Thiên Chúa đã tha cho hết mọi người. Tôi không thích Thiên Chúa yêu thương cách mù quáng như thế”. Vì họ không thích Tình Yêu nên họ không nhận ra được Tình Yêu. Chỉ có Tình Yêu mới làm những chuyện như thế. Với Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng để đón nhận những chuyện bất ngờ như vậy”.
Cũng thế, thưa anh chị em, có lẽ ai trong chúng ta cũng bị chưng hửng trước cách ứng xử của ông chủ vườn nho mà Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta. “Tại sao ông chủ lại trả công cho mọi người bằng nhau, người chỉ làm có một giờ cuối ngày cũng được lãnh tiền bằng người đã làm trọn ngày nắng nôi nặng nhọc? Có phải ông chủ bất công hay không?”. Câu trả lời của ông chủ làm cho những công nhân và chúng ta phải ngạc nhiên thán phục: “Này anh, tôi đâu có xử bất công với anh. Anh đã chẳng thỏa thuận với tôi công nhật là một đồng sao? Cầm lấy phần của anh mà đi đi! Tôi không muốn cho người làm sau chót cũng được bằng anh. Tôi không có quyền làm thế sao? Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi tốt lành với những người khác?”. Quả thật, Thiên Chúa hành xử không theo sự công bằng của con người, nhưng theo lòng thương xót và tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Qua đó, chúng ta khám phá được một điều quan trọng là suy nghĩ và hành động của Thiên Chúa khác xa với suy nghĩ và hành động của chúng ta. Ngôn sứ Isaia đã nói rõ: “Chúa phán: tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta: Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu”.
Thưa anh chị em,
Nếu cứ theo lẽ công bằng thường tình của loài người chúng ta: người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều, người làm ít sẽ lãnh lương tí, thì hỏi rằng, người làm một tiếng đồng hồ sẽ được bao nhiêu tiền để đủ nuôi sống gia đình, con cái, đang túng thiếu, nghèo đói? Chính vì thương xót, thông cảm cảnh nghèo đói, thất nghiệp của các công nhân và vì muốn cho mọi người có công ăn việc làm, mà ông chủ đã mời gọi mọi người thất nghiệp vào làm việc bất cứ giờ nào, và đã trả lương cho mọi người bằng nhau, người đến sau cũng như người đến trước. Câu trả lời của ông chủ vườn: “Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi, tốt lành với người khác?”đã vạch ra tâm địa ích kỷ, hẹp hòi của nhóm công nhân làm từ đầu ngày. Lời đó cho thấy chính họ mới là kẻ bất công, vì không chấp nhận cho người khác có quyền sống hạnh phúc như họ. Tâm địa xấu xa của họ càng làm nổi bật lòng nhân nghĩa cao vời của ông chủ. Ông không đối xử với người ta theo tương quan buôn bán, tính toán, nhưng theo tương quan tình nghĩa và mời gọi người ta bắt chước cách đối xử tình nghĩa của ông.
Anh chị em thân mến,
Cách ứng xử của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn chính là cách ứng xử của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta hành động như thế đó. Thật là rộng lượng, nhân từ! Ngài mời gọi những người thu thuế, những người bị xã hội loài người khinh chê, loại trừ, những người tội lỗi, vào Nước Trời một cách rộng rãi, cho không, chẳng phải vì công trạng gì xứng đáng của họ. Người công chính, đạo đức, đừng vì thế mà ganh tị kêu trách Chúa bất công, giống như những người Biệt Phái Pharisêu đã kêu ca trách móc Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa đón nhận tất cả mọi người không trừ mộ ai, vì bản chất của Ngài là Tình Yêu. Chúng ta thường làm ngạc nhiên và bị “sốc”trước cách hành xử Thiên Chúa. Đôi khi chúng ta cũng có những phản ứng như những công nhân làm việc giờ đầu tiên hoặc như những kẻ lành trước cửa Thiên Đàng trong vở kịch Ngày phán xét chung của nhà đạo diễn Jean Anouilh: “Sao! Những tên đã sống một cuộc đời bừa bãi, bê bối, lung tung kia cũng được Chúa tha sao? Thậm chí những kẻ đã bách hại đạo Chúa, nếu sau này ăn năn hối cải, cũng xứng đáng được hưởng Nước Trời như người Kitô hữu nhiệt thành cả đời sao? Tên gian phi bị treo trên thập giá bên cạnh Chúa Giêsu cũng được vào Thiên Đàng sao?” (x.Lc 23,43).
Thiên Chúa chúng ta như thế đó! Thật rộng lượng, nhân từ. Quả thật đường lối của Ngài khác hẳn đường lối ti tiện, hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta hay so đo, tính toán, đánh giá từ sự so sánh của chúng ta. Chúng ta nhìn người khác với những cái-họ-có-hơn-mình hay cái-mình-không-có, để bực tức, ghen ghét. Nhiều khi chúng ta nhân danh công bằng để đối xử hẹp hòi, khắt khe, độc ác với kẻ khác. Công bằng là mức độ thấp nhất của bác ái. Công bằng mà không có bác ái là tàn nhẫn, là vô nhân đạo. Phải vượt hơn mức tối thiểu của công bằng, chúng ta mới có thể đối xử bác ái, tình nghĩa với nhau được, cuộc sống mới chan hòa tình người, đầy niềm vui và hạnh phúc.
Với những ai hay so đo, tính toán với anh em, Thiên Chúa sẽ cứ theo luật công bằng mà xét xử; còn những ai rộng rãi, biết thương xót người, thì sẽ được Ngài xét xử theo lòng nhân từ xót thương. Thiên Chúa luôn luôn tuyệt vời hơn những gì con tim nghèo nàn của chúng ta có thể tưởng tượng. Ước gì trái tim chúng ta trở nên giống như trái tim của Thiên Chúa Tình Thương. Chính trong tình thương, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa.
36. Suy niệm của Lm. Augustine, SJ.
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Ðức ái không có biên giới
Sinh năm 1929 trong một gia đình trung lưu Nhật Bản, tương lai của cô Satôcô như đã được sắp đặt sẵn. Là một người nhất mực bảo thủ với các truyền thống trong gia đình Nhật, cha của Satôcô, cũng là một tiến sĩ nông học, đã muốn giáo dục cô theo tiêu chuẩn của các thiếu nữ con nhà thượng lưu thời ấy: trung thành với Nhật hoàng; tòng phục cha mẹ; học những phong cách và lễ nghi quý phái để sau này phục dịch một đức lang quân do cha mẹ sắp xếp. Thế nhưng cha cô có ngờ đâu rằng, một ngày kia, con gái ông sẽ vượt ra khỏi khuôn khổ gia đình ấy.
Năm 1941, Nhật khai chiến với Mỹ. Cha của Satôcô bị động viên vào quân đội; còn cô và em trai bị ép buộc vào làm việc ở một hãnh chế tạo máy bay. Năm 1945, khi chiến tranh kết thúc, cô ngã bệnh lao vì kiệt lực; còn em trai cô đã chết trước đó cũng vì lao lực. Năm 1946, cô vào học trường Dược ở Tôkyô. Một ngày nọ, đang lúc đi dạo ngoài bãi biển, Satôcô bị cuốn hút chú ý đến hai Nữ Tu Thừa Sai Bỉ. Tuy không là người công giáo, nhưng một động cơ nào đó đã thúc đẩy cô theo chân hai nữ tu vào trong một nhà thờ. Vẻ đẹp của gương mặt bức tượng Ðức Nữ Ðồng Trinh như xoáy vào tim cô. Trở về nhà, cô đã học đạo với các Nữ Tu Thừa Sai và được rửa tội năm 1949. Ðó cũng là năm cô đậu bằng dược sĩ.
Thời ấy, có một thừa sai Phanxicô người Ba Lan tên là Thầy Ðô (Deno Sebroski), hoạt động nổi tiếng cho người nghèo ở khu ổ chuột Annê, ngoại ô Tôkyô. Cùng với một nhóm tu sĩ Ba Lan do thánh Maximilianô Kôlbê (sau tử đạo trong trại tập trung Ðức quốc xã) hướng dẫn, Thầy Ðô đã đến Nagasaki từ năm 1930. Vì những hoạt động nhân đạo nổi tiếng của Thầy, Thầy là người ngoại quốc duy nhất không bị bắt giữ trong chiến tranh, mà còn được chính Nhật hoàng ban thư giới thiệu, kêu gọi mọi người hãy giúp đỡ Thầy. Khi nghe biết về Thầy Ðô, Satôcô đã nói với cha cô: "Nếu những người Ba Lan từ xa xôi đến Nhật để tận hiến cuộc đời phục vụ người nghèo, tại sao các tín hữu Nhật không thể làm như thế?" Thế là Satôcô đã đến gặp Thầy Ðô và xin đi thăm khu Annê. Ðêm hôm đó, cô không sao chợp mắt vì đầu óc miên man với hình ảnh những con người bất hạnh cô gặp ở Annê. Hơn nữa, gương mặt cũa vị tu sĩ già, lúc nào cũng ánh lên lòng thương xót và ý chí sắt đá phục vụ người nghèo, trở nên một thách thức đối với cô.
Sống chết với người nghèo
Khi thức giấc sáng hôm sau, Satôcô đi đến một quyết định táo bạo là phục vụ người nghèo mà không cần biết hậu quả sẽ ra sao. Công việc đầu tay của cô ở Annê là tổ chức lễ Giáng Sinh năm 1950 cho trẻ em. Sau đó cô vẫn tiếp tục sinh hoạt đều đặn với các em: dạy học, chăm sóc, nghe các em tâm sự về hoàn cảnh gia đình. Tuy thế, người dân Annê chưa tin tưởng cô. Họ nghĩ rằng cô tiểu thư nhà giàu ấy không sống cho họ, nhưng chỉ vì Chúa; cô yêu Chúa chứ thương yêu gì họ. Hơn nữa, người dân Annê tuy nghèo nhưng luôn hãnh diện về khả năng sinh sống nhờ thu lượm đồ phế liệu chứ không muốn nhận của bố thí. Ðể chứng tỏ lòng thành thật của mình, Satôcô bắt đầu đi lượm ve chai và đồ phế liệu, để kiếm quĩ tổ chức các sinh hoạt cho trẻ. Dần dần, cô đã cảm hóa được những người lớn nhờ sự đơn sơ, vui vẻ và nhờ tình thương chân thành cô dành cho con em họ. Chính người lãnh đạo cộng đoàn Annê tặng cô chiếc xe đẩy để công việc thu lượm phế liệu của cô được dễ dàng hơn. Mỗi lần cần món tiền lớn để tổ chức những sinh hoạt đặc biệt như đi nghỉ hè, Satôcô thường cầu khẩn Mẹ Maria và luôn kiếm được số tiền cần thiết. Những hoạt động từ thiện của cô đã gây tiếng vang, đến độ tên tuổi cô xuất hiện cả trên báo chí và truyền hình.
Một lần nọ, cộng đoàn Annê muốn mua lại của thành phố một thửa đất lớn để qui hoạch lại khu phố với một trung tâm hướng nghiệp, một nhà thờ và một công viên. Tuy nhiên số tiền 25 triệu yên vượt quá sức của cộng đồng. Nhân cuộc họp thương lượng lần cuối của lãnh đạo cộng đồng với chính quyền thành phố, Satôcô đã trao cho phía chính phủ cuốn sách "Những trẻ em ở khu ổ chuột Annê" mà cô viết 4 năm trước đó; đồng thời cô cầu nguyện cật lực cho dự án này. Sau này khi cân nhắc lại, chính quyền đã đồng ý nhượng khu đất với giá 15 triệu, trả góp trong 5 năm.
Vì làm việc quá sức, lại ăn ngủ thất thường, nên chứng bệnh lao mang lúc 15 tuổi nay quay lại đòi mạng Satôcô. Cô đã dâng căn bệnh cho Chúa để cầu nguyện cho người dân Annê có được cuộc sống tươi đẹp hơn. Ngày 20.1.1958, khu phố mới Annê được khánh thành. Ba ngày sau, "Satôcô của khu ổ chuột Annê" qua đời ở tuổi 29. Trong những ngày cuối đời, cha mẹ cô đã đem cô trở lại Annê, để cô qua đời tại nơi cô hằng yêu mến (viết theo Mẫu Gương Thánh Thiện, trang 131-142)
Thiên Chúa giàu lòng thương xót
Tấm gương của cô Satôcô và Thầy Ðô hẳn làm chúng ta phải cảm phục. Ðể có thể làm những cử chỉ bác ái như thế, ắt các vị phải có một lòng thương cảm con người sâu xa và một đức tin mạnh mẽ vào Chúa. Thật ra, chính Thiên Chúa đã đi bước trước và là mẫu gương cho nhân loại về lòng thương xót vượt qua mọi rào cản; Ðấng ban Thánh Thần trong con tim mọi người, đã khơi dậy nơi họ lòng yêu thương, xả kỷ, hướng đến tha nhân. Dụ ngôn ông chủ vườn nho hôm nay là một mạc khải của Ðức Giêsu về Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót.
Thật vậy, ông chủ vườn nho ấy đã cư xử với lòng thương xót chứ không theo lối "công bằng sòng phẳng" như người đời. Với lòng thương xót, ông đã đi tìm những con người khốn khổ để giúp họ có được những thứ cần thiết cho cuộc sống. Trong dụ ngôn, những người khốn khổ đó là những người thợ không kiếm được việc làm. Không như những chủ vườn khác chỉ ra kêu đủ số thợ một lần vào sáng sớm, ông đã ra ngoài kiếm họ những 5 lần. Ðiều khó hiểu là mãi đến giờ thứ 11 ông còn ra kêu thợ vào làm chỉ một giờ; trong khi dụ ngôn không có dấu chỉ nào cho thấy có công việc đột xuất cần thêm thợ. Ðiều đó chỉ có thể được cắt nghĩa như sau: đích nhắm của ông chủ không là những công việc, nhưng là, những con người khốn kho堣ần bán sức lao động để kiếm sống hàng ngày. Chính vì vậy mà ông bận tâm nhiều đến những người thợ mà mãi đến giờ thứ 6, 9, 11 hãy còn thơ thẩn ngoài chợ, chưa được ai tuyển dụng; và ông đã ra ngoài những 5 lần.
Hơn thế, việc ông trả lương đồng đều: một quan tiền cho mọi người thợ [số tiền cần thiết để nuôi sống một gia đình trong một ngày], càng cho thấy rõ nét hơn rằng việc tuyển dụng chỉ là "cái cớ" để ông chủ nhân hậu giúp đỡ những người thợ ít mau mắn. Tuy nhiên, lối cư xử đầy thương xót của ông đã vấp phải những lời dị nghị của những con người vốn chỉ quen với thứ công bằng gắt gao đầy vị kyhứ công bằng này thẳng tay gạt ra ngoài những kẻ yếu thế, không đạt điều kiện của luật chơi "tiền có trao, cháo mới múc". Trong khi đó, lòng thương xót thì vượt xa lẽ công bằng: nó không chiết tính sự tương xứng giữa "cái cho" và "cái nhận", cũng không nghĩ đến chuyện thiệt hơn; nhưng nhìn thẳng vào sự khốn cùng của con người, rồi lao mình cứu giúp họ một cách nhưng không, hoàn toàn vô điều kiện, bất chấp lời đàm tiếu, bất chấp mọi rào cản. Tóm lại, lòng thương xót là hình thức công bằng thượng đẳng, vì nó nhằm đem đến cho mọi người, từ những người bé mọn nhất, một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con cái Thiên Chúa.
Ðó chính là cách thức mà Thiên Chúa đã hành xử với toàn thể nhân loại, khi Người ban Con Một đến chịu chết để cứu độ mọi người, bất kể họ là Do Thái hay dân ngoại; đạo đức hay tội lỗi; bất kể họ trở lại với Chúa vào thời điểm nào của cuộc đời họ: dù là "rất sớm" như một số vị thánh, hay chỉ vào giờ phút cuối cùng; giờ thứ 11, như trường hợp người trộm lành.
Nước Trời giống như gia chủ kia,... đã cư xử với lòng thương xót đối với tất cả mọi người, từ người sau hết đến người trước hết. Ðể được thuộc về Nước Trời đó, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi theo gương ông chủ, và những người đi trước như Thầy Ðô và cô Satôcô, cư xử với mọi người bằng một lòng nhân từ thương xót, vượt trên mọi rào cản sắc tộc, tôn giáo, chính kiến, giai cấp xã hội... và đôi lúc, phải vượt xa cả những nguyên tắc luân lý thông thường.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Theo bạn, ông chủ vườn nho có bất công hay thiên vị không? Bạn có thể bào chữa cho ông như thế nào?
2. Tại sao sống công bằng là cần thiết, nhưng chưa đủ? Tại sao cần phải có cả lòng thương xót?
3. Bạn có biết mẫu gương nào về lòng thương xót tại Việt Nam, tương tự mẫu gương của Thầy Ðô và cô Satôcô không?
37. Công bằng hay lòng thương xót?
Anh chị em thân mến,
Bài dụ ngôn chúng ta vừa nghe, kể lại chuyện ông chủ vườn nho sáng sớm ra chợ để mướn người vào làm cho ông. Một chuyện khá lạ là: không phải tất cả thợ đều được gọi vào làm ngay từ sáng sớm. Có nguời vào lúc giữa trưa; có người đến xế chiều mới vào làm, chỉ làm một giờ trước khi kẻng báo giờ nghỉ thôi. Vậy mà mọi người đều được lãnh như nhau: một đồng. Ta phải nói rõ: lương một ngày công của thợ là tương đương một đồng. Vậy nên những người làm ít giờ vừa khỏe lại có lợi, vì vẫn được một đồng. Còn nguời làm quần quật từ sớm cũng chỉ được như vậy. Do đó họ cằn nhằn cho là ông chủ không công bằng. Thực ra ông chủ cắt nghĩa thế nào? Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Có hai hạng người chúng ta cần lưu ý:
* Ông chủ mướn công thợ: Bài dụ ngôn cho thấy, ông chủ rất quan tâm chuyện kêu gọi thợ đến làm vườn nho cho mình. Rõ ràng từ sáng sớm, ông đã ra đón thợ, mời họ vào làm vườn nho cho ông. Ông đã thỏa thuận với họ lương một ngày công là một đồng. Sau đó, lúc trưa, lúc xế ông lại ra, và gặp ai ông cũng mời họ vào làm cho ông. Rồi lúc 5g chiều, ông lại ra nữa, cũng thấy có mấy người đứng không đó, không có công ăn việc làm. Ông ngạc nhiên hỏi: Sao các anh ở không nhưng cả ngày như vậy? Họ trả lời: vì không ai mướn chúng tôi cả. Nghe vậy ông lại mời họ vào làm cho ông, dù họ chỉ làm có một giờ mà thôi. Cuối cùng khi hết giờ làm việc, ông cho phát tiền công; mỗi người đều được một đồng như nhau. Chính vì chuyện trả tiền công đồng đều như thế mà ông chủ bị phàn nàn...
Ở đây ta lại nhận thấy việc này: điều ông chủ quan tâm không phải là công việc, mà là những người khốn khổ, những người thiếu sống. Rõ ràng ông chủ quan tâm họ, vì họ không có việc làm, và ông sợ họ không kiếm đuợc tiền hàng ngày, để nuôi sống gia đình họ. Chuyện gọi họ vào làm công cho ông, chỉ là cái cớ, để ông trợ giúp kẻ thất nghiệp không công ăn việc làm. Như vậy ông chủ vườn nho cư xữ theo lòng thương xót, không phải theo lối công bằng sòng phẳng ở đời....
* Các người làm công ganh tị: Như trên đã nói, vì ông chủ thương xót nguời thất nghiệp, nên đã trả công cho một đồng, bằng lương cả ngày công lao động; tuy họ chỉ làm có một giờ thôi. Lối cư xử đầy lòng thương xót này đã vấp phải lời dị nghị của những con người chỉ quen thứ công bằng gắt gao, vị kỷ, sẵn sàng loại trừ kẻ yếu thế, cô thân. Rõ ràng lòng thương xót của ông chủ vượt xa lẻ công bằng; nó không cần đong đo xem có tương xứng không, giữa cái cho và cái nhận, cũng không cần nhìn đến sự thiệt hơn, chỉ nghĩ đến sự khốn cùng của con người, để cứu giúp không so đo tính toán...
b/. Chúa Giêsu muốn nói gì qua dụ ngôn này?
Dĩ nhiên, ông chủ ở đây chính là hình ảnh của Thiên Chúa; các người làm công ganh tị, là hình ảnh các pharisêu, luật sĩ. Họ đang phẩn nộ vì Chúa quan tâm đến hạng thu thuế, gái điếm, dân ngoại, đó là những người bị họ liệt vào hạng tội lỗi; trong khi xem ra Chúa đánh giá các luật sĩ, biệt phái thấp quá... Qua dụ ngôn này, Chúa nhắc khéo họ như lời Thánh vịnh: "Chúa công minh trong mọi đường lối, đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm". Thiên Chúa không phải là ông quan tòa thưởng phạt chính xác, cũng không phải ông chủ tính toán chi li, cũng không phải ông thầu trả lương sòng phẳng, mà Người là Thiên Chúa lấy tình thương mà đối xử với con cái. Con cái nào Chúa cũng thương, nhưng đứa con Chúa thương hơn chính là vì nó bệnh tật, yếu ớt, đần độn...Cha thương con vì đó là con của Cha, không vì con đã làm cho Cha điều này điều nọ. Đứa con bệnh hoạn tật nguyền, Cha lại yêu hơn... Dụ ngôn này là một mạc khải sâu xa về lòng nhân hậu của Thiên Chúa, vì "tình yêu thì vượt xa lẽ công bằng..."
Câu chuyện: Có một người giáo dân hỏi cha sở: Thưa cha, con phân bì với anh trộm lành, người cùng chết với Chúa trên đồi Golgotha đó, vì Chúa hứa cho anh ta về thiên đàng ngay ngày hôm đó với Chúa. Anh trộm lành rõ ràng là một tên cướp với đủ thứ tội. Vậy mà Chúa hứa cho anh ta lên thiên đàng ngay với Chúa. Con không phục đâu. Cha sở cười hỏi lại: Vậy có phải nếu anh là Chúa, anh sẽ nói với anh trộm lành: "Tôi không quên anh đâu; nhưng còn vào thiên đàng hả? Chắc còn lâu quá! Vì anh phải đền tội trong luyện ngục cái đã chứ! Rồi sau đó mới lên thiên đàng đuợc." Có phải anh muốn nói thế không?: - Anh giáo dân cười nói: "Dạ phải vậy chứ! Anh ta là tay cướp khét tiếng, tội nào mà không có.." Cha sở nói: "Vậy rõ ràng anh không phải là Chúa rồi, cho nên anh đâu hiểu được đường lối của Chúa. Người ta thì đòi công bằng, nhưng Thiên Chúa lại cư xử bằng tình yêu. Chính tôi cũng không hiểu được Chúa nhiều về điểm này; nhưng tôi chỉ biết tình yêu và lòng thương xót của Chúa thì vượt xa lẽ công bằng mà thôi...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Mỗi người kitô hữu chúng ta đều được Chúa mời gọi vào làm cùng chung một việc là: làm trong vườn nho của Chúa, vào các thời điểm khác nhau. Thực ra Chúa không cần ta làm nhiều hay ít; điều quan trọng là ta có sẵn lòng làm cho Chúa trong tin yêu, khiêm tốn, quảng đại không ganh tị, cộng tác với mọi người không?
38. Công bằng của lòng từ nhân
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
“Mấy người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”.
Câu nguyện dụ ngôn về tiền công trả cho các người làm vườn nho, nói gì thì nói, vẫn khó nuốt trôi, nhất là khi ta tự đặt mình vào tư thế các lao động nhóm một đã làm lụng vất vả suốt 12 tiếng ròng. Lời ông chủ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn…” xét về diện pháp lý thì không ai chối cãi được, nhưng vẫn còn đó một điều gì không mấy ổn, đăng đắng trong ruột gan… Ít nhiều ta vẫn còn thấy lời phàn nàn của đám thợ làm sớm có phần nào chính đáng. Nếu Nước Trời giống như câu chuyện này thì quả thật nó hàm chứa một điều gì quá bất thường và có phần nào khó hiểu lắm đấy.
Hầu như mọi tôn giáo đều tuân thủ cặn kẽ qui luật nhân quả, có nguyên nhân thì phải có hậu quả, ai làm thiện thì gặp lành, còn ai làm ác thì phải gặp dữ. Kể cả người Công giáo cũng thường được dạy, và đi tới xác tín như đinh đóng cột: nếu làm việc lành phước đức nhiều thì công phúc trên thiên đàng sẽ rất lớn, còn nếu sống tội lỗi và làm điều dữ thì sẽ bị trầm luân trong hỏa ngục đến muôn đời muôn kiếp. Đó là lẽ công bằng, đó là luật nhân quả quá hợp lý đã in sâu vào tâm khảm không dễ gì xóa nhòa; ngay cả đôi lúc nếu có xuất hiện một vài luật trừ ra ngoài định luật này, ta cũng còn thấy khó chấp nhận.
Khi kể câu chuyện dụ ngôn về ông chủ trả lương các người làm công theo cách thức đó, chắc hẳn Đức Giêsu chủ tâm cho thấy: một đàng công bằng vẫn được tôn trọng, “Tôi đâu có xử bất công với bạn…”, trong khi đó có một yếu tố ‘cào bằng’ rất lạ xuất hiện để trở thành nét đặc trưng của Nước Trời đang đến; “Tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng bằng bạn đó…” Thoạt tiên ‘cào bằng’ xem ra như đạp đổ tính công bằng của luật nhân quả, thưởng phạt, và đó là lý do của sự giận dữ kêu trách của những kẻ lẽ ra phải được coi trọng hơn. Tuy nhiên chính sự vô lý đó lại mời gọi ta khám phá ra nét độc đáo có một không hai đứng đàng sau Tin Mừng: “Tôi tốt bụng”, Thiên Chúa nhân lành, Ông Chủ đầy từ tâm.
Qua câu chuyện dụ ngôn Đức Giêsu đang vẽ lên hình ảnh một Thiên Chúa - Cha của Người khác xa hình ảnh Đức Chúa của Cựu Ước, khác xa với Ngọc Hoàng truy xét con người với tầm sét Thiên Lôi. Sự công bằng của Tin Mừng là công bằng của lòng từ nhân và thương xót. Nếu không thấu hiểu và chấp nhận sự công bằng này, sự công bằng mà chỉ một mình Đức Giêsu mới có thể mạc khải bằng cả cuộc sống và cái chết của Người, thì có thể cả tôi nữa cũng sẽ phải cằn nhằn ghen tức Thiên Chúa mà thôi: “Mấy người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. Và nếu Nước Trời chính là công bằng của lòng từ ái (tốt bụng) thì đúng là lúc đó tôi sẽ bị liệt vào hạng ‘những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót…’ Thật đáng tiếc, những người thợ của giờ thứ nhất đã không khám phá ra điều này để phải cằn nhằn với chủ và ghen tức với đồng bạn. Lẽ ra họ đã phải rất tự hào và sung sướng vì đã được diễm phúc làm lụng cho Ông Chủ tốt bụng suốt 12 tiếng, trong khi tiếc cho các bạn khác vì chỉ được gần gũi phục dịch Ngài trong một thời gian quá ngắn ngủi như thế.
Nếu không khám phá ra Thiên Chúa ‘tốt bụng’ của Đức Ki-tô, niềm tin và việc giữ đạo của Ki-tô hữu chúng ta cũng có nguy cơ trở thành một chuỗi những ‘công việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt”. Chúng ta cũng sẽ rất dễ dàng phàn nàn và ghen tức khi thấy rằng mình, bất chấp các nỗ lực sống luân lý cách gương mẫu, cũng chẳng được ưu đãi hay nhận được ân huệ gì hơn những kẻ ‘tội lỗi và dân ngoại’ khác.
Khi áp dụng qui luật này vào chính mình, nhiều khi tôi cũng cảm thấy vui sướng và hãnh diện tạ ơn vì nhận được các ân huệ đặc biệt như trở thành tu sĩ, linh mục... vì cho rằng đó là phần thưởng xứng đáng cho những cố gắng tu luyện của mình; đồng thời những khi gặp thử thách gian nan tôi cũng dễ dàng chao đảo và mất lòng trông cậy. Thi thoảng khi thoáng nhận ra Thiên Chúa tốt bụng với kẻ khác... tôi cũng rơi vào tình trạng “hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” Chính vì thế mà tôi vẫn thấy rất lý thuyết và xa vời cái tâm tình tạ ơn không ngừng của Ki-tô hữu; ‘tất cả đều là hồng ân’ không gì hơn một khẩu hiệu đầu môi chóp lưỡi… vì nhiều lúc tôi đâu có tìm thấy một lý do nào để mà cảm tạ. Ôi thật đáng thương cho tôi nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài, và Tin Mừng tôi sống sẽ chỉ là một nửa dang dở!
Lạy Chúa từ nhân, con không muốn là người thợ ‘đứng hàng đầu sẽ phải xuống hàng chót’. Xin ban cho con ơn huệ vĩ đại là không ngừng nhận biết Chúa là Ông Chủ công bằng giầu lòng xót thương, nhờ đó con sẽ có khả năng cảm tạ Chúa không ngừng trước bất cứ điều gì xảy ra trong đời sống mình; và vui mừng vì nhận ra Chúa xót thương hết thảy mọi người, nhất là những kẻ thấp hèn và tội lỗi. Xin hãy giúp con luôn biết khiêm tốn dâng lời ca khen lòng nhân hậu Chúa không ngừng. Amen.
39. Đồng lương xứng đáng
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật này, tác giả Tin Mừng muốn tiếp tục quảng diễn cho chúng ta giáo huấn của Chúa Giêsu về Nước Trời. Sứ điệp sâu xa chính là ý muốn cứu độ phổ quát cả và nhân loại của Chúa Cha, nên mọi người đều được mời đến làm vườn nho của Chúa.
Điểm nổi bật trong dụ ngôn này là cuộc nổi loại của những người đến làm việc trước. Những người (thợ làm vườn nho) sống và làm việc vì Nước Trời, nhưng coi đó như một trách nhiệm nặng nề ("chúng tôi chịu đựng nắng nôi khó nhọc suốt cả ngày" Mt 20,12) chứ không phải là hồng ân đến từ Thiên Chúa, tự coi mình như những tên đầy tớ xấu.
Bước vào trong sự thân tình của Chúa
Tất cả chúng ta đều được Chúa mời gọi đi làm vườn nho của Chúa. Trong Kinh Thánh, cây nho có một ý nghĩa sâu sắc. Nó là biểu tượng của giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài (Is 5, 1-7; Gr 2, 21; Ez 15, 4). Câu "hãy đi làm vườn nho ta" (Mt 20, 4) được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại trong ba dụ ngôn, theo truyền thống câu này muốn nói: "Hãy đi vào trong Giao ước… Hãy đến chia sẻ Giao ước với ta".
Đi làm vườn nho của Chúa, được sẻ chia công việc với Chúa, có ý nói, chúng ta dù sớm hay muộn cũng bước vào trong thân tình với Chúa, sống với Chúa. Chúa Giêsu tự khẳng định mình: "Thầy là cây nho thật" (Ga 15, 1-5). Nên câu "Hãy đi làm vườn nho ta" còn có nghĩa là "hãy vào hưởng niềm vui của chủ ngươi" (Mt 25, 21). Từ đây chúng ta mới hiểu được một đồng mà ông chủ trả cho người đến trước cũng như người đến sau là đồng nào.
Đồng lương yêu thương
Dụ ngôn những người làm thuê được mướn làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau, tất cả lãnh lương giống như nhau là một đồng bạc, đã gây nên một khó khăn cho những người đọc Tin Mừng. Chúa nói với những người làm công: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng" (Mt 20, 4). Có người hỏi: Xứng đáng ở đây là xứng với cái gì? Khi có hai cái bằng nhau, hoặc cái này xứng với cái kia được coi là xứng đáng. Vậy đâu là tiêu chuẩn để Chúa Giêsu trả công xứng đáng? Nhiều người không khỏi ngạc nhiên, nhất là những người đến làm việc trước hết vì tiêu chuẩn trả công của ông chủ. Cách hành xử của ông chủ có chấp nhận được không? Không xúc phạm đến nguyên tắc đền bù xứng đáng sao?
Khó khăn phát xuất từ một sự sai lầm. Vấn đề đền bù được qui chiếu về sự đời đời, Thiên Chúa "sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm" (Rm 2, 6). Thiên Chúa nhân lành, Ngài có cách tính không giống chúng ta: "Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta" (Is 55, 8). Thiên Chúa ban cho con người cái mà Ngài cho là tốt nhất. Tiêu chuẩn của Ngài là tấm lòng, tiêu chuẩn của chúng ta thường là lý trí, và dĩ nhiên không luôn luôn đúng.
Trong dụ ngôn, mức lương được trả là một đồng. Đây là đồng đracmơ; hay đồng đờ nhê, là thuế mà mỗi Người Do Thái phải nộp vào Đền Thờ Giêrusalem mỗi năm cho việc bảo trì, hoặc đồng "xtate" tiền cổ Hy lạp là đồng được thánh Phêrô dùng để nộp thuế Đền thờ, phần của ngài và của Chúa Giêsu. Mỗi người nhận được một đồng, có ý nói đến mức lương của một ngày làm việc, một cái gì đó để sống trong ngày như bánh mì chẳng hạn.
Để nhận ra "điểm chính" trong dụ ngôn, chúng ta phải để ý đến qui chiếu của Chúa Giêsu về một tình huống cụ thể. Đồng bạc duy nhất được trả cho tất cả là nước Chúa, Chúa Giêsu đã mang xuống thế vì yêu thương thế gian. Dụ ngôn bắt đầu: "Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình" (Mt 20, 1). Như vậy, Nước Trời là chủ đề chính và là bối cảnh của dụ ngôn.
Đồng lương ơn cứu độ phổ quát
Một lần nữa, vấn đề về ơn cứu độ của người Do thái và dân ngoại, hay của kẻ lành và những người tội lỗi được đặt ra, trước ơn cứu rỗi do Chúa Giêsu mang đến. Mặc dầu chỉ vì nghe huấn giáo của Chúa Giêsu mà người dân ngoại (những kẻ tội lỗi, những người thu thuế, những người đĩ điếm, v.v.) quyết định theo Chúa, trong khi trước lúc đó họ còn đứng đàng xa (nhàn rỗi). Vì ý định theo Chúa mà họ sẽ không có chỗ bậc hai trong vương quốc. Họ cũng sẽ ngồi cùng một bàn như những người khác và hưởng đầy đủ những của cải thời cứu thế.
Chúa Giêsu không cung cấp chúng ta một bài học về đạo đức xã hội, nhưng là bài học về tình yêu của Thiên Chúa với hết mọi người: "Từ sáng sớm, cho đến giờ thứ ba, giờ thứ sáu và thứ chín".
Không có ai là quá muộn để vào Nước Trời. Tất cả những ai chưa khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa vẫn được Ngài mời gọi mọi người nam nữ trong mọi giờ và ở mọi lứa tuổi đi làm vườn nho của Chúa! Đây là lời kêu gọi phổ quát. Đó là vấn đề kêu gọi hơn là vấn đề thưởng. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về ơn cứu độ đời đời của chúng ta.
Có nhiều người cần cù, chịu khó, luôn sẵn sàng làm việc nhưng "không ai thuê"; họ nhàn rỗi vì thiếu việc làm và không có người mướn, lòng nhiệt thành đang có sẵn, có tiếng gọi thuê, họ lên đường mà không có sự mặc cả giá tiền như những người trước. Ông chủ đánh giá công việc của họ cách khôn ngoan và trả công cho họ bằng những người khác. Ý muốn nói, dù hoán cải vào "buổi sáng, giờ thứ ba … và thứ mười một giờ " đi chăng nữa, thì hết thảy mọi người đều được đón nhận … anh trộm lành được lên Thiên đàng " vào giờ thứ mười một" anh thực sự là người được mời gọi vào giờ sau hết và trở thành người đầu tiền vào Nước Trời: "Thật hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng với ta" (Lc 23, 43). Chúa không kết án kẻ trộm, Chúa bày tỏ lòng nhân lành của mình; họ đi làm, nhưng "không ai thuê" (Mt 20, 7), nếu người ta không thuê anh, anh "hãy đi làm vườn nho ta" (Mt 20, 4).
Điều mà chúng ta gán cho Thiên Chúa là không xứng đáng với Thiên Chúa, và điều Thiên Chúa ban cho chúng ta vượt quá công trạng của chúng ta: "từ người đến sau hết tới người đến trước hết đều lãnh mỗi người một đồng". Chúng ta không thể trách lòng tốt của ông chủ, vì không thấy gì sai trái trong cách ông hành xử. Ông trả cho mỗi người theo như thỏa thuận và thể hiện lòng thương xót như ông muốn: "Nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao?"
Một huấn giáo khác có thể rút ra từ dụ ngôn. Ông chủ biết rằng những người làm thuê giờ cuối cũng có những nhu cầu như bao người khác, họ cũng có con cái phải nuôi ăn, như những nguời làm thuê giờ thứ nhất. Khi trả cho mọi người đồng lương y nhau, ông chủ chứng tỏ rằng ông không xét theo công trạng cho bằng theo nhu cầu. Ông chứng tỏ rằng ông không những công bằng, mà còn "tốt lành," quảng đại và nhân đạo.
40. Tất cả đều lãnh mỗi người một đồng
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm nay chúng ta bắt đầu chu kỳ ba dụ ngôn về vườn nho của Chúa Giêsu. Chúa nhật 25, những người thợ sẽ vào làm vườn nho. Chúa nhật 26, hai người con trai được cha sai đi làm vườn nho, và Chúa nhật 27, những người tá điền muốn giết con ông chủ vườn nho.
Bước vào trong sự thân tình của Chúa
Trong Kinh Thánh, cây nho có một ý nghĩa sâu sắc. Nó là biểu tượng của giao ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài (Is 5, 1-7; Gr 2, 21; Ez 15, 4). Câu "hãy đi làm vườn nho ta" (Mt 20, 4) được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại trong ba dụ ngôn, theo truyền thống câu này muốn nói: "Hãy đi vào trong Giao ước…Hãy đến chia sẻ Giao ước với ta".
Chúa Giêsu tự khẳng định mình là cây nho: "Thầy là cây nho thật" (Ga 15, 1-5). Chúng ta được mời gọi vào làm vườn nho của Chúa, được sẻ chia công việc với Chúa, có ý nói, chúng ta dù sớm hay muộn cũng bước vào trong thân tình với Chúa, sống với Chúa. "Hãy đi làm vườn nho ta" còn có nghĩa là "Hãy vào hưởng niềm vui của chủ ngươi" (Mt 25, 21). Từ đây chúng ta mới hiểu được một đồng mà ông chủ trả cho người đến trước cũng như người đến sau là đồng nào.
Đồng lương yêu thương
Dụ ngôn những người làm thuê được mướn làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau, tất cả lãnh lương giống như nhau là một đồng bạc, đã gây nên một khó khăn cho những người đọc Tin Mừng. Chúa nói với những người làm công: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng" (Mt 20, 4). Có người hỏi: Xứng đáng ở đây là xứng với cái gì? Khi có hai cái bằng nhau, hoặc cái này xứng với cái kia được coi là xứng đáng. Vậy đâu là tiêu chuẩn để Chúa Giêsu trả công xứng đáng? Nhiều người không khỏi ngạc nhiên, nhất là những người đến làm việc trước hết vì tiêu chuẩn trả công của ông chủ. Cách hành xử của ông chủ có chấp nhận được không? Không xúc phạm đến nguyên tắc đền bù xứng đáng sao?
Khó khăn phát xuất từ một sự sai lầm. Vấn đề đền bù được qui chiếu về sự đời đời, Thiên Chúa "sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm" (Rm 2, 6). Thiên Chúa nhân lành, Ngài có cách tính không giống chúng ta: "Tư tưởng Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta" (Is 55, 8). Thiên Chúa ban cho con người cái mà Ngài cho là tốt nhất. Tiêu chuẩn của Ngài là tấm lòng, tiêu chuẩn của chúng ta thường là lý trí, và dĩ nhiên không luôn luôn đúng.
Trong dụ ngôn, mức lương được trả là một đồng. Đây là đồng đracmơ; hay đồng đờ-nhê, là thuế mà mỗi Người Do Thái phải nộp vào Đền Thờ Giêrusalem mỗi năm cho việc bảo trì, hoặc đồng "xtate" tiền cổ Hy-lạp là đồng được thánh Phêrô dùng để nộp thuế Đền thờ, phần của ngài và của Chúa Giêsu. Mỗi người nhận được một đồng, có ý nói đến mức lương của một ngày làm việc, một cái gì đó để sống trong ngày như bánh mì chẳng hạn.
Để nhận ra "điểm chính" trong dụ ngôn, chúng ta phải để ý đến qui chiếu của Chúa Giêsu ở đây về một tình huống cụ thể. Đồng bạc duy nhất được trả cho tất cả là nước Chúa, Chúa Giêsu đã mang xuống thế vì yêu thương thế gian. Dụ ngôn bắt đầu: "Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình" (Mt 20, 1). Như vậy, Nước Trời là chủ đề chính và là bối cảnh của dụ ngôn.
Đồng lương ơn cứu độ phổ quát
Một lần nữa, vấn đề về ơn cứu độ của người Do thái và dân ngoại, hay của kẻ lành và những người tội lỗi được đặt ra, trước ơn cứu rỗi do Chúa Giêsu mang đến. Mặc dầu chỉ vì nghe huấn giáo của Chúa Giêsu mà người dân ngoại (những kẻ tội lỗi, những người thu thuế, những người đĩ điếm, v.v.) quyết định theo Chúa, trong khi trước lúc đó họ còn đứng đàng xa (nhàn rỗi). Vì ý định theo Chúa mà họ sẽ không có chỗ bậc hai trong vương quốc. Họ cũng sẽ ngồi cùng một bàn như những người khác và hưởng đầy đủ những của cải thời cứu thế.
Chúa Giêsu không cung cấp chúng ta một bài học về đạo đức xã hội, nhưng là bài học về tình yêu của Thiên Chúa với hết mọi người: "Từ sáng sớm, cho đến giờ thứ ba, giờ thứ sáu và thứ chín".
Không có ai là quá muộn để vào Nước Trời. Tất cả những ai chưa khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa vẫn được Ngài mời gọi mọi người nam nữ trong mọi giờ và ở mọi lứa tuổi đi làm vườn nho của Chúa! Đây là lời kêu gọi phổ quát. Đó là vấn đề kêu gọi hơn là vấn đề thưởng. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về ơn cứu độ đời đời của chúng ta.
Có nhiều người cần cù, chịu khó, luôn sẵn sàng làm việc nhưng "không ai thuê"; họ nhàn rỗi vì thiếu việc làm và không có người mướn, lòng nhiệt thành đang có sẵn, có tiếng gọi thuê, họ lên đường mà không có sự mặc cả giá tiền như những người trước. Ông chủ đánh giá công việc của họ cách khôn ngoan và trả công cho họ bằng những người khác. Ý muốn nói, dù hoán cải vào "buổi sáng, giờ thứ ba … và thứ mười một giờ" đi chăng nữa, thì hết thảy mọi người đều được đón nhận … anh trộm lành được lên Thiên đàng "vào giờ thứ mười một" anh thực sự là người được mời gọi vào giờ sau hết và trở thành người đầu tiền vào Nước Trời: "Thật hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng với ta" (Lc 23, 43). Chúa không kết án kẻ trộm, Chúa bày tỏ lòng nhân lành của mình; họ đi làm, nhưng "không ai thuê" (Mt 20, 7), nếu người ta không thuê anh, anh "hãy đi làm vườn nho ta" (Mt 20, 4).
Điều mà chúng ta gán cho Thiên Chúa là không xứng đáng với Thiên Chúa, và điều Thiên Chúa ban cho chúng ta vượt quá công trạng của chúng ta: "từ người đến sau hết tới người đến trước hết đều lãnh mỗi người một đồng". Chúng ta không thể trách lòng tốt của ông chủ, vì không thấy gì sai trái trong cách ông hành xử. Ông trả cho mỗi người theo như thỏa thuận và thể hiện lòng thương xót như ông muốn: "Nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao?"
Một huấn giáo khác có thể rút ra từ dụ ngôn. Ông chủ biết rằng những người làm thuê giờ cuối cũng có những nhu cầu như bao người khác, họ cũng có con cái phải nuôi ăn, như những nguời làm thuê giờ thứ nhất. Khi trả cho mọi người đồng lương y nhau, ông chủ chứng tỏ rằng ông không xét theo công trạng cho bằng theo nhu cầu. Ông chứng tỏ rằng ông không những công bằng, mà còn "tốt lành", quảng đại và nhân đạo.
41. Vì tôi tốt bụng – Lm Nguyễn Cao Siêu.
Suy niệm:
Sau khi anh thanh niên giàu có từ chối lời mời của Đức Giêsu
ông Phêrô đã đại diện anh em hỏi Thầy:
“Chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?”
Thầy Giêsu đã đáp lại bằng một câu trả lời khá dài.
Họ sẽ được xét xử các chi tộc Israel, được gấp trăm về mọi sự,
và nhất là được hưởng sự sống đời đời (Mt 19, 27-30).
Như thế ở đây Nước Trời được coi như một phần thưởng,
một sự trả công Chúa dành cho những ai dám từ bỏ hy sinh.
Các môn đệ cho đi, và rồi họ sẽ được lại.
Bài Tin Mừng hôm nay nằm ngay sau câu chuyện trên.
Dưới một góc độ nào đó thì cả hai có nội dung rất khác nhau,
nhưng bổ túc cho nhau, để ta có một cái nhìn quân bình về Thiên Chúa.
Thiên Chúa không phải chỉ là Đấng công bằng,
thưởng công cho những gì chúng ta đã vất vả cố gắng.
Người còn là Đấng quảng đại, tốt lành và giàu lòng xót thương.
Dụ ngôn về “người thợ giờ thứ mười một” cho thấy điều đó.
Thật ra phải gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về “Ông chủ độ lượng”.
Trong thế giới thời Đức Giêsu, người ta mướn thợ buổi sáng
và trả công cho thợ buổi chiều theo lề luật (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15).
Lương công nhật là một quan tiền (denarius),
tiền này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản.
Dụ ngôn hôm nay có nhiều nét khác thường mà không có lời giải thích.
Ông chủ vườn nho tự mình ra chợ mướn người, thay vì viên quản lý.
Những người thợ đứng suốt ngày ngoài chợ (c.6)
lại không được ông chủ thấy và mướn từ đầu, dù ông ra chợ nhiều lần.
Chỉ nhóm thợ đầu tiên mới được thuê với tiền công rõ ràng,
còn ba nhóm sau chỉ được hứa sẽ trả “hợp lẽ công bằng” (c.4).
Cuối cùng ba nhóm giữa bị bỏ rơi, để chỉ tập trung vào nhóm đầu và cuối.
Dụ ngôn này trở nên hết sức khác thường
với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước.
Những người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều)
cả ngày làm có một tiếng, được trả một quan tiền.
Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã làm từ sáng sớm,
“đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại bị nắng nôi thiêu đốt” (c.12).
Nhưng rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền.
Chúng ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ
để xem họ sẽ sửng sốt, thất vọng, buồn bực, tức giận và cằn nhằn ra sao.
Có lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện như vậy.
Phản ứng này cũng là phản ứng giận dữ của người anh cả
khi biết cha mình đã tiếp đón linh đình sự trở về của đứa con hư hỏng.
Đối với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất công.
Bất công nằm ở chỗ làm nhiều, làm ít, nhận lương như nhau.
Nhưng ông chủ không cho đây là một sự bất công,
vì ông đã trả cho nhóm thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.
Những câu cuối của dụ ngôn là những câu đẹp nhất,
những câu nói lên bản chất sâu xa của tấm lòng Thiên Chúa.
“Tôi muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c. 14).
Tôi muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh, tôi muốn họ bằng anh:
đó là ước muốn, là chọn lựa của Thiên Chúa.
Tình thương của Người phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối,
người làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít.
“Chẳng lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn
với tài sản của tôi sao?” (c. 15).
Thiên Chúa giàu sang nên có quyền rộng rãi thi ân cho kẻ Người muốn.
Chẳng ai có thể bắt Người phải đối xử công bình theo kiểu con người.
Chẳng ai có quyền hạch hỏi Người vì Người quá sức độ lượng (c.12).
“Hay mắt của anh xấu xa vì tôi tốt lành” (c. 15).
Con mắt xấu xa là con mắt khó chịu vì kẻ khác bằng mình, dù không đáng,
ghen tỵ với may mắn và hạnh phúc bất ngờ của người khác.
Đức Giêsu khẳng định mình là người tốt lành,
đặc biệt trong cách cư xử của Người đối với những tội nhân.
Anh trộm lành trên thập giá cũng là người thợ giờ thứ mười một.
Anh được hưởng những gì mà người khác phải nỗ lực cả đời.
Nói cho cùng, vấn đề không phải là đáng hay không đáng.
Chẳng ai xứng đáng để vào thiên đàng, kể cả các thánh.
Hạnh phúc Nước Trời là một ơn ban
hơn là một sự trả công hay phần thưởng.
Thiên Chúa vượt lên trên sự sòng phẳng có tính mua bán của con người.
Người không phải là nhà buôn, nhưng là người cha tốt lành.
Cha thương cả hai con, cả đứa ở nhà phục vụ lẫn đứa bỏ đi bụi đời.
Thậm chí đứa hư hỏng hay tật nguyền lại được quan tâm hơn.
Ông chủ vườn nho thương cả những người
đứng ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn.
Có thể vì họ kém khả năng, kém may mắn hơn những người khác chăng?
Người thợ giờ thứ mười một đã làm được gì cho vườn nho của ông chủ?
Chắc chẳng được bao nhiêu.
Nhưng anh ấy đã đứng chờ suốt ngày.
Thế giới này lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một,
“những người không được ai mướn” (c.7),
những người cứ đứng chờ vậy thôi, suốt ngày, suốt đời,
những người được nhận trễ, chẳng biết mình sẽ được trả lương ra sao.
chỉ biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.
Những người này khác với những người làm từ sáng,
biết chắc mình sẽ được trả công một quan tiền.
Dụ ngôn không nói đến việc người làm cuối reo lên vì được trả công hậu hĩ.
Nhưng chắc là đã có những tiếng reo.
Thiên đàng đầy ắp những tiếng reo như thế,
kinh ngạc, ngỡ ngàng, thán phục, tri ân…
Chẳng có ai vào thiên đàng mà lại không reo lên
vì thấy những gì gọi là công đức của mình chỉ là chuyện nhỏ,
quá nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng.
Người ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của những người
mà ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được.
Thiên Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho.
Người còn thấy cả thời gian chờ.
Nhiều khi chờ còn mệt hơn làm việc.
Đừng cằn nhằn! hãy vui với niềm vui của Thiên Chúa,
Đấng hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ,
vì lòng tốt của Ngài không sao hiểu được.
Hãy vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá khứ của họ.
Chúng ta không có quyền buồn như người con cả, khi cha đang vui.
Hãy đổi cái nhìn của mình về Thiên Chúa.
Như thế chúng ta cũng sẽ thay đổi cách cư xử với anh em.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
42. Lòng tốt của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
1. 2 sự kiện.
Báo Người Lao Động số 23.1993 có đăng bài: Chợ Người Hà Nội.
Người Hà Nội bấy lâu nay đua nhau xây nhà. Nếu thiếu nhân công lặt vặt là có thể ra ngay chợ người mua sức lao động. Đội quân từ các tỉnh về Hà nội thường xuyên có đến hai ba chục ngàn người. Rỗi việc nhà nông, ở quê không có người phụ...không việc làm, họ ra Hà nội, tụ tập nhiều nhất là dọc đường đôi Giảng võ, trục đường dài theo đê Đại la, xuống Láng... đến chợ Mộc... Công việc có nhiều giá. Việc lặt vặt như dọn đất đá, khuân gạch tô vôi, quét vôi lóc thì khoán từ A đến Z, hoặc là cơm chủ hai bữa cộng tiền công ba, bốn ngàn, hoặc là tự lo bữa ăn..thì 5,6 ngàn một ngày. Tiền công như vậy là rẻ mạt. Cũng đành vậy thôi. Họ chỉ có đôi tay. Và còn hơn là không có việc.
Người thuê cũng có ít. Vì ngại, vì sợ người làm công quen cửa quen nhà mình rồi, làm xong biết đâu người ta “xin đểu”,”trộm cắp, nhờ vả”... rách việc thêm.
Báo Tuổi trẻ ngày 4.4.1996 có đăng bài: Chợ Người Ở Định Quán.
Nếu như ở Hà nội, dòng người xuất phát từ nông thôn đổ xô về thành thị “nhóm chợ’ tìm việc làm thì tại Định Quán (Đồng nai), một khu chợ mới đã hình thành trên quốc lộ 20 với những đặc trưng của nó. Đó là những người lao động hình thành từ những làn sóng “di dân tự do’ it đất, không có tư liệu sản xuất, đành phải bán sức lao động kiếm sống...Vùng này là vùng có nhiều đất, có nhiều đá lộ đầu nên việc dùng cơ giới trong nông nghiệp bị hạn chế. Do đó nhu cầu về lao động rất cao.Từ tháng tư đến tháng mười hai, thời gian diễn ra vụ trồng, ngày ngày có hàng trăm lao động tụ tập ở “chợ” chờ đợi. Những ngày cao điểm, vào vụ lên đến bốn năm trăm người. Những chiếc xe cải tiến, xe máy xới chạy ì ạch, chở đầy những lao động từ “chợ người” đi về các vườn cây, các nương rẫy. Mỗi lao động được từ 15.000 – 20.000đ /ngày. Những ngày cao điểm có thể đến 30.000 – 40.000đ. Hôm sau, mờ mờ sáng chợ lại đông.
2. Trọng tâm dụ ngôn
“Quả thế, về Nước Trời thì cũng như một gia chủ kia, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông...” Giữa một “chợ người” thời Chúa Giêsu ở đất nước Do Thái, tương tự như “Chợ người Hà nội” hay “Chợ người Định quán” bây giờ, một xã hội ít việc nhiều người, các ông chủ ra thuê thợ làm việc và trả công nhật.
Chúa Giêsu đã quan sát và lấy hình ảnh cụ thể này ở Do thái để mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Người kể dụ ngôn ông chủ vườn nho với các thợ làm việc các giờ khác nhau trong ngày.
Tiền công nhật là 1 đồng, giá thỏa thuận như một ngày công lao động 15.000đ – 20.000đ
Gia chủ thuê thợ làm vườn nho vào các giờ giấc khác nhau.
Ở Do thái một ngày bắt đầu từ lúc 6 giờ chiều:
- 3 giờ là 9 giờ sáng
- 6 giờ là 12 giờ trưa
- 9 giờ là 3 giờ chiều
- 11 giờ là 5 giờ chiều
Theo lệ thường công nhật sẽ chấm dứt lúc 12 giờ tức là 6 giờ chiều. 5 giờ chiều ông chủ còn ra thuê nhân công. Những người làm từ giờ 11, họ chỉ làm việc 1 giờ là nghĩ. Trong khi đó người làm từ sáng, lao động 12 giờ. Vậy mà cuối ngày khi trả lương, ông chủ lại trả bắt đầu từ người sau hết là 1 đồng. Những người làm trước tưởng là được nhiều hơn, nhưng cũng chỉ 1 đồng mà thôi. Họ phản đối, họ trách móc vì họ bị hai thiệt thòi: kẻ khác làm 1 giờ mà họ 12 giờ, kẻ khác làm lúc trời đã mát mẻ, họ làm cả ngày dưới trời nắng gió nóng của miền Địa Trung Hải. Họ hụt hẫng và khó chịu với chủ. Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc là họ vui vẻ và biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và ghen tị. Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không là bạn. Vì vậy, sự thành công của ai đó đã trở thành nổi đe dọa, ghen tức.
Vậy thì ông chủ có bất công không? Chắc chắn là không. Vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận tức là 1 đồng. Chính ông chủ trả lời: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao? Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức ?
Đây là điểm chính của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông ta bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành.Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng. Trọng tâm của dụ ngôn là việc phân phát lương bổng lúc cuối ngày.
3. Ý nghĩa dụ ngôn
Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài ngươì nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau. Thợ làm giờ thứ 11 là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thực thi luật pháp nước Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pharisiêu, Luật sĩ. Họ ghen tương vì Chúa Giêsu đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, ngày hôm nay là công dân Nước Trời.
1 đồng là vé vào Nước Trời. Kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Đức Giêsu nhấn mạnh là Thiên Chúa rộng rãi vô cùng. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người. Đặc biệt đối với dân ngoại là những người được gọi vào Giáo hội qua những giờ sau hết. Đối với những người này Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái là những kẻ được gọi từ đầu. Thiên Chúa thì nhìn nhận sự việc theo lòng lân tuất của Ngài. Con người thì nhìn theo quyền lợi, tính toán hơn thiệt. Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo lòng tốt của Ngài. Sự trả công của Ngài không làm thiệt hại ai, vẫn luôn bảo đảm tính công bằng.
Qua dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng: trong cách thức hành động của mình, Thiên Chúa không đi theo những qui tắc lề luật của sự công bình hạn hẹp, khô cứng, Ngài chỉ thực thi theo sự tốt lành của mình, theo thúc đẩy bởi tình yêu của mình. Ngài hào phóng trong tình thương xót và hoàn toàn tự do trong các việc thiện hảo.
4. Sứ điệp
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đối xử nhân hậu với người khác. Hãy tránh xa lối nhìn thiển cận theo cảm tính, theo tính vị kỷ, theo quyền lợi cá nhân. Không nên ghen tị khi người khác có tài đức hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn. Hãy bằng lòng với cái mình đang có và cố gắng phát triển nó lên. Ai cũng được Chúa ban cho những khả năng khác nhau. Người 5 nén, người 2 nén, người 1 nén. Ngày ra trước mặt Chúa, Chúa không hỏi: con đã làm những gì, ông này hay bà nọ. Chúa chỉ hỏi về lòng mến, mến Chúa và yêu thương tha nhân. Con đã yêu mến Thầy và tha nhân không ? Chính tình yêu trong công việc là thước đo mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta.
Những người thợ được thuê làm vườn nho vào những giờ khác nhau, đó là hình ảnh những người được mời vào Giáo hội qua Bí Tích Rửa Tội vào những tuổi đời khác nhau. Sống trong Giáo hội mọi người đều là con cái của Chúa, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Ai cũng được Thiên Chúa thương xót. Đã là thương xót thì không còn đứng trong ranh giới công bình.Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy lòng tốt của Ngài. Cùng nhau làm việc Tông Đồ Truyền Giáo là bổn phận mỗi người Kitô hữu. Phần thưởng là do lòng tốt Chúa ban. Như thế chúng ta sẽ xây dựng được Nước Trời giữa trần gian.
43. Lòng tốt của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Mt 20, 1-16: Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” với hình ảnh ông chủ vườn nho năm lần đi kiếm người làm vườn vào những thời điểm khác nhau chứa đựng một huấn giáo thiêng liêng: lòng quảng đại vượt trên lẽ công bình,Thiên Chúa kêu gọi mọi người vào hưởng hạnh phúc là do lòng tốt của Ngài...
***
Thánh Gioan Phaolô II đã viết trong Tông huấn “Christi Fideles Laici” về ơn gọi và và sứ vụ của người giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới: “Những thành phần giáo dân trong dân tín hữu Chúa Kitô… hình thành nên Dân Chúa có thể được so sánh với những người làm trong vườn nho được nhắc tới trong Tin Mừng Matthêu…“Anh cũng đi vào vườn nho”…Tiếng gọi là một quan tâm không những cho các Mục tử, các giáo sĩ, những người nam và nữ tu sĩ. Tiếng gọi được gởi tới mọi người; những người giáo dân thường cũng được Chúa kêu gọi đích danh, từ Người họ nhận lãnh một sứ vụ vì Giáo Hội và vì thế giới” (số 1-2).
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho” với hình ảnh ông chủ vườn nho năm lần đi kiếm người làm vườn vào những thời điểm khác nhau chứa đựng một huấn giáo thiêng liêng: lòng quảng đại vượt trên lẽ công bình,Thiên Chúa kêu gọi mọi người vào hưởng hạnh phúc là do lòng tốt của Ngài.
“Quả thế, về Nước Trời thì cũng như một gia chủ kia, ngay vừa tảng sáng, đã ra thuê thợ cho vườn nho của ông...”. Giữa một “chợ người” ít việc nhiều người, các ông chủ ra thuê thợ làm việc và trả công nhật.
Chúa Giêsu đã quan sát và lấy hình ảnh cụ thể này ở Do thái để mạc khải mầu nhiệm Nước Trời. Người kể dụ ngôn ông chủ vườn nho với các thợ làm việc các giờ khác nhau trong ngày.
Tiền công nhật là 1 đồng, giá thỏa thuận đôi bên.Gia chủ thuê thợ làm vườn nho vào các giờ giấc khác nhau.
Ở Do thái một ngày bắt đầu từ lúc 6 giờ chiều:
- 3 giờ là 9 giờ sáng
- 6 giờ là 12 giờ trưa
- 9 giờ là 3 giờ chiều
- 11 giờ là 5 giờ chiều
1. Lòng ghen tị
Theo lệ thường, công nhật sẽ chấm dứt lúc 12 giờ tức là 6 giờ chiều. 5 giờ chiều ông chủ còn ra thuê nhân công. Những người làm từ giờ 11, họ chỉ làm việc 1 giờ là nghĩ. Trong khi đó người làm từ sáng, lao động 12 giờ. Vậy mà cuối ngày khi trả lương, ông chủ lại trả bắt đầu từ người sau hết là 1 đồng. Những người làm trước tưởng là được nhiều hơn, nhưng cũng chỉ 1 đồng mà thôi. Họ phản đối, họ trách móc vì họ bị hai thiệt thòi: kẻ khác làm 1 giờ mà họ 12 giờ, kẻ khác làm lúc trời đã mát mẻ, họ làm cả ngày dưới trời nắng gió nóng của miền Địa Trung Hải. Họ hụt hẫng và khó chịu với chủ. Nếu ông chủ trả lương cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu. Nếu họ không hay biết số tiền mà ông chủ trả cho người làm sau chắc là họ vui vẻ và biết ơn khi trở về nhà. Nhưng vì biết được nên họ giận dữ và ghen tị. Rõ ràng người ghen tị không vui được với người vui, vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không là bạn. Vì vậy, sự thành công của ai đó đã trở thành mối đe dọa, ghen tức.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Cain ghen tị với em trai là Aben chỉ vì lễ vật của Aben được Chúa thương chấp nhận, còn lễ vật của Cain bị khước từ. Lòng ghen tị đã xui khiến Cain giết em. Đavít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập được chiến công oanh liệt, cứu nguy cho dân quân Ítraen bằng cách giao chiến một chọi một với tên Gôliát khổng lồ thuộc phe Philitinh, hạ gục y chỉ bằng một phát ná bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân Ítraen thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân Philitinh thù nghịch. "Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của Ítraen kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Saun, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát rằng: "Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn". Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Saun, khiến nhà vua phóng giáo vào Đavít đang khi Đavít gảy đàn cho vua nghe. May thay Đavít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua lùng sục Đavít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (1Sam 17-18).
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội chậm tiến và kém phát triển.
2. Lòng tốt
Ông chủ trả lương như vậy có bất công không? Chắc chắn là không vì ông trả đủ số tiền đã thỏa thuận là 1 đồng. Vì người ghen tị lầm bầm than phiền nên ông trả lời: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn, bạn chẳng thỏa thuận với tôi là 1 đồng hay sao? Cầm lấy phần bạn mà về đi, còn tôi, tôi muốn cho ai là tùy tôi, chẳng lẽ tôi không có quyền tùy ý định đoạt là những gì của tôi sao? Hay vì tôi tốt bụng mà bạn ghen tức?
Đây là điểm chính của dụ ngôn. Hành động của ông chủ không phải là do ông bất thường, bất công, nhưng do ông chủ tốt lành.Tốt ở chỗ là không muốn ai phải thua thiệt sút kém. Ông muốn ai cũng may mắn, ai cũng có tiền về nuôi gia đình. 1 đồng ông phát cho người làm giờ 11 không phải là do công bình. Đồng bạc ấy là do lòng tốt của ông ban tặng.
Gia chủ là Thiên Chúa. Các tay thợ là loài người nhận ra Thiên Chúa qua nhiều thời kỳ khác nhau. Thợ làm giờ thứ 11 là người tội lỗi. Làm vườn nho là vào Nước Trời và thực thi luật pháp Nước Trời. Các thợ cằn nhằn là nhóm Pharisiêu, Luật sĩ. Họ ghen tương vì Chúa Giêsu đối xử khoan dung với người tội lỗi, yêu thương dân ngoại. Các thợ làm ít lãnh nhiều là các người ngày hôm qua sống trong tội lỗi, ngày hôm nay là công dân Nước Trời.
1 đồng là vé vào Nước Trời. Kẻ làm trước người làm sau, tất cả đều được Thiên Chúa ban cho Nước Trời. Thiên Chúa ban cho ai là do lòng tốt của Ngài. Yếu tố chính Đức Giêsu nhấn mạnh là Thiên Chúa rộng rãi vô cùng. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đối xử rất nhân từ với mọi người. Đặc biệt đối với dân ngoại là những người được gọi vào Giáo hội qua những giờ sau hết. Đối với những người này, Thiên Chúa cũng ban cho mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái là những kẻ được gọi từ đầu. Thiên Chúa nhìn nhận sự việc theo lòng lân tuất của Ngài. Con người nhìn theo quyền lợi, tính toán hơn thiệt. Thiên Chúa ân thưởng, trả công cho ai tùy theo lòng tốt của Ngài. Thiên Chúa trả công không làm thiệt hại ai, luôn công bằng.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng: trong cách thức hành động của mình, Thiên Chúa không đi theo những qui tắc lề luật của sự công bình hạn hẹp, cứng nhắc. Ngài chỉ thực thi theo sự tốt lành của mình, theo thúc đẩy bởi tình yêu của mình. Ngài hào phóng trong tình thương xót và hoàn toàn tự do trong các việc thiện hảo.
3. Sứ điệp
Dụ ngôn “thợ làm vườn nho”, cho thấy rõ sự trái ngược giữa lòng tốt của gia chủ và lòng ghen tị của những người thợ vào vườn nho từ sáng sớm. Thiên Chúa mở rộng vòng tay đón nhận mọi người, còn chúng ta thì khép chặt lại không muốn tiếp nhận ai. Thiên Chúa nhìn thấy sự đáng thương của những người chưa được làm con cái Ngài, còn chúng ta chỉ nhìn những người anh chị em này một cách tiêu cực và vênh vang cho rằng mình tốt hơn họ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đối xử nhân hậu với người khác. Hãy tránh xa lối nhìn thiển cận theo cảm tính, theo tính vị kỷ, theo quyền lợi cá nhân. Không nên ghen tị khi người khác có tài đức hơn, giàu có hơn, xinh đẹp hơn. Hãy bằng lòng với cái mình đang có và cố gắng phát triển nó lên. Ai cũng được Chúa ban cho những khả năng khác nhau. Người 5 nén, người 2 nén, người 1 nén. Ngày ra trước mặt Chúa, Chúa không hỏi: con đã làm những gì, làm ông này hay bà nọ. Chúa chỉ hỏi về lòng mến, mến Chúa và yêu thương tha nhân. Con đã yêu mến Thầy và tha nhân không? Chính tình yêu trong công việc là thước đo mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta. Đó là cung cách sống đạo đền đáp hồng ân.
Hồng ân là một ơn ban dựa vào lòng tốt của người ban ơn. Hồng ân làm cho người lãnh nhận tràn đầy lòng biết ơn. Công lao là tính toán dựa trên công sức người làm việc. Công lao thì cần phải đòi lại điều gì tương xứng bằng tiền lương, bằng đền bù, bằng trả lại theo lẽ công bằng.
Như thế, có một sự khác biệt lớn giữa kiểu sống đạo dựa trên hồng ân và kiểu giữ đạo nhằm vào công trạng. Người ta có thể chấp nhận "giữ đạo" để được "lên thiên đàng". Nhưng người ta cũng có thể "sống đạo" chỉ vì muốn đền đáp một chút nào hồng ân bao la của Thiên Chúa. Kiểu giữ đạo theo công trạng sẽ làm cho người Kitô hữư trở thành "nô lệ", thành "kẻ làm công". Cách sống đạo như một hồng ân làm cho người Kitô hữu trở thành con cái hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Nhờ đó Kitô hữu sẽ nhận ra hồng ân của Chúa nơi mọi sự, khắp mọi nơi, trong mọi lúc, tràn ngập cuộc đời, để biết hân hoan ca tụng Chúa, biết vui mừng vì hồng ân Chúa nơi anh chị em của mình.
Những người thợ được thuê làm vườn nho vào những giờ khác nhau, đó là hình ảnh những người được mời vào Giáo hội qua Bí Tích Rửa Tội vào những tuổi đời khác nhau. Sống trong Giáo hội, mọi người đều là con cái của Chúa, không phân biệt giàu nghèo sang hèn. Ai cũng được Thiên Chúa yêu thương. Đã là yêu thương thì không còn đứng trong ranh giới công bình.Thiên Chúa thưởng công cho ai là tùy lòng tốt của Ngài. Cùng nhau làm việc Tông Đồ Truyền Giáo là bổn phận mỗi người Kitô hữu. Phần thưởng là do lòng tốt Chúa ban. Như thế chúng ta sẽ xây dựng được Nước Trời giữa trần gian.
44. Người thợ giờ thứ mười một
(Suy niệm của Lm Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Mt 20, 1-16: Dụ ngôn này trở nên hết sức khác thường với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước. Những người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều) chỉ làm có một tiếng, được trả một quan tiền. Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã đi làm từ sáng sớm, nhưng rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền...
***
Vào thời Đức Giêsu, người ta mướn thợ buổi sáng và trả công cho thợ buổi chiều (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15). Lương công nhật là một quan tiền (denarius), tiền này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản.
Dụ ngôn này trở nên hết sức khác thường với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước. Những người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều) chỉ làm có một tiếng, được trả một quan tiền. Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã đi làm từ sáng sớm, nhưng rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền.
Chúng ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ để xem họ tức giận và cằn nhằn ra sao. Có lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện như vậy. Đối với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất công. Bất công nằm ở chỗ làm nhiều, làm ít, nhận lương như nhau. Nhưng ông chủ không cho đây là một sự bất công,vì ông đã trả cho những người thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.
Những câu cuối của dụ ngôn là những câu đẹp nhất, những câu nói lên tấm lòng quảng đại của Thiên Chúa. “Tôi muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c. 14). Tôi muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh, tôi muốn họ bằng anh:đó là ý muốn của tôi.
Tình thương của Thiên Chúa phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối, người làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít.“Chẳng lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn với tài sản của tôi sao?” (c. 15). Thiên Chúa không phải là một nhà kinh doanh, nhưng là người cha tốt lành.
Ông chủ vườn nho thương cả những người đứng ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn. Có thể vì họ kém khả năng, kém may mắn hơn những người khác chăng?
Người thợ giờ thứ mười một đã làm được gì cho vườn nho của ông chủ?
Chắc chẳng được bao nhiêu, nhưng anh ấy đã phải đứng chờ suốt cả ngày.
Thế giới hôm nay lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một, “những người không được ai mướn” (c.7), những người cứ đứng chờ, đứng chờ suốt ngày, đứng chờ suốt đời. Họ chỉ biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.
Dụ ngôn không nói đến việc người làm cuối reo lên vì được trả công hậu hĩ. Nhưng chắc là đã có những tiếng reo. Thiên đàng đầy ắp những tiếng reo như thế, những tiếng reo kinh ngạc, những tiếng reo ngỡ ngàng, những tiếng reo tri ân…Chẳng có ai vào thiên đàng mà lại không reo lên vì thấy những gì gọi là công đức của mình chỉ là chuyện nhỏ, quá nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng. Người ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của những người mà ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được.
Thiên Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho. Người còn thấy cả thời gian chờ đợi. Nhiều khi chờ đợi còn mệt mỏi hơn cả làm việc nữa. Đừng cằn nhằn! hãy vui với niềm vui của Thiên Chúa, Đấng hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ, vì lòng tốt của Ngài không sao hiểu nổi. Hãy vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá khứ của họ.
Flor McCarthy đã chứng kiến một cảnh tượng tương tự với dụ ngôn này và cho biết ông đã thay đổi cách suy nghĩ sau khi chứng kiến: có lần ông đến Cape Town nước Nam Phi.
Đó là một buổi sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài đường không làm gì cả.
Ban đầu ông nghĩ rằng đó là những kẻ lười biếng, đang khi những người khác lo làm ăn thì những người này đứng đó chẳng làm gì hết.
Đến trưa ông vẫn còn thấy đám người ấy vẫn đứng đó, mồ hôi nhễ nhại ướt đẫm cả áo. Hỏi kỹ thì mới biết họ là những người thất nghiệp. Họ đứng chờ ngoài nắng, hy vọng có ai đến thuê họ đi làm. Mãi tới chiều ông vẫn thấy đám người đó. Và khi hết ngày, họ lủi thủi ra về, trông rất tội nghiệp.
Hôm đó MaCarthy rất hối hận vì đã kết án những người thất nghiệp vô tội này.
Và ông đã có một lời cầu nguyện như sau: “Tư tưởng của Ta không giống tư tưởng các ngươi và đường lối Ta không giống đường lối các ngươi”. “Như trời xanh cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu”.
Lạy Chúa, tư tưởng chúng con rất nông cạn, đường lối chúng con rất hẹp hòi và con tim chúng con chai cứng.
Xin Chúa mở rộng lòng trí chúng con để chúng con suy nghĩ giống Chúa, và hành động giống Chúa hơn.
Xin gúp chúng con đừng bao giờ bực bội vì lòng tốt của Chúa đối với người khác.
Xin giúp chúng con đừng cho rằng chúng con đáng được Chúa thưởng công.
Xin giúp chúng con ý thức rằng chúng con cần đến lòng thương xót hơn là đức công bình của Chúa. Amen.
45. Nếu bạn yêu thương bạn sẽ biết Thiên Chúa
Làm sao không ghét ông chủ là người nhạo báng những người thợ can đảm khi trả công (trước mặt họ!) cùng một số tiền với những người chỉ làm việc có một tiếng đồng hồ được? May thay các nhà chú giải giúp chúng ta nhận ra hai bài học của dụ ngôn khó hiểu nhưng đẹp đẽ này.
Trước tiên dụ ngôn này cho thấy lòng tốt của Thiên Chúa, một lòng tốt vô cùng, không tính toán và làm cho phỉ nguyện. Thiên Chúa muống trao ban Tin Mừng cho tất cả mọi người, Ngài muốn mở rộng cuộc sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người. Thí dụ cuối cùng về người thợ vào giờ thứ mười một chính là ngươì trộm lành trên thánh giá nhận được mức lương rất lớn: “Hôm nay ngươi sẽ được ở cùng ta trên thiên đàng”.
Nhưng dụ ngôn cũng nhằm vào chúng ta: “Bạn hãy coi chừng khi người ta nói rằng Thiên Chúa tốt lành đến mức đó. Nếu bạn khó hiểu thì có lẽ chính bạn là người không tốt”.
Cốt lõi của dụ ngôn này nằm ở câu hỏi của ông chủ nói với kẻ không bằng lòng: “Có phải anh ganh tỵ hay không?”. Cái nhìn của người thợ lành nghề đối với những người bạn quá may mắn thì không có thiện cảm: “Đừng đối xử với những người đến trễ như đối xử với chúng tôi”.
Một lần nữa, Chúa Giêsu muốn thay đổi những người Pharisêu. Ngài biết họ nghĩ rằng: “Chúng tôi làm việc nhiều vì Thiên Chúa”. Điều đó không sai, nhưng từ trên sự tin chắc này họ xét rằng việc Chúa Giêsu quan tâm đến những kẻ xấu xa, những người thu thuế và những người mại dâm là điều không thể chịu đựng được. “Làm sao ngài dám đối xử với họ cũng tốt và thậm chí còn hơn cả chúng ta nữa? Một luât sĩ hay lui tới với hạng người này thì có gì để nói với chúng ta về Thiên Chuá cơ chứ? Người đó biết gì về Thiên Chúa?”
Này nhé, thật sự kẻ nào đó biết đến lòng tốt của Thiên Chúa thì biết tất cả về Ngài. Chúa Giêsu muốn mạc khải lòng tốt này và Ngài đụng chạm với những người nói với Ngài: “Không, không phải hiểu Thiên Chúa như thế đâu”. Có lẽ có điều gì đó kỳ lạ trong phản ứng này, nhưng nếu chúng ta suy nghĩ về thái độ của chúng ta thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng tin vào lòng tốt tuyệt vời và phổ quát của Thiên Chúa thì khó hơn là chúng ta nghĩ.
Không gì ngăn nổi, nhúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa yêu thương những người tốt lành nhiều nhất, ghét những người hoài nghi, và thế là chúng ta xét đoán nhân danh Ngài vị linh mục này hoặc người nọ thì độ lượng. “Quan tâm đến những người liêm chính tốt hơn là lân la trong gia đình này hoặc nơi những kẻ vô lại kia”.
Một người ly dị tái hôn nói với tôi: “Trong những cộng đoàn Kitô giáo chúng ta không có nhiều tình thương bao nhiêu”. Một phụ nữ đã lập gia đình với một linh mục không thể chịu đựng nổi: “Nếu bạn biết được tôi bị ruồng bỏ như thế nào”. Và trong chính trị, có cái nhìn kỳ cục về những “người không suy nghĩ cho đúng đắn” biết bao!
Một số người sẽ nói hoan hô, chúng ta sẽ chấp nhận bất cứ cái gì. Hoan hô những người đến vào giờ thứ mười một và những tên trộm lành! Thiên Chúa yêu thương mọi người chứ? Thế thì chúng ta đừng mất công tuân giữ đạo đức làm cái gì nữa.
Còn phải bỏ công sức, cần phải có những người thợ vào giờ thứ nhất. Họ thật may mắn đã được Thiên Chúa nhanh chóng tuyển dụng một cách bình thản. Nhưng Ngài yêu thương những người đến cuối cùng làm sao! Họ sẽ chứng tỏ rằng việc luôn luôn ở gần Chúa đã làm cho họ nhận biết Ngài và tình yêu của Ngài. Than ôi! nếu họ cứng rắn đối với những người đến trễ và những người lầm lạc, họ cố gắng không bao giờ bỏ lễ, thì họ vẫn ở xa Thiên Chúa. Thánh Gioan nói: “Ai không yêu thương, kẻ ấy không nhận biết Thiên Chúa”.
46. Ông chủ quảng đại
"Có qua có lại mới toại lòng nhau hay bánh ích đi thì bánh quy lại". Đó là cách cư xử bình thường của con người với nhau. Nói vắn gọn là công bằng và sòng phẳng. Đây là điều mà những người chủ cần biết quan tâm nhiều hơn với người của họ. Một người chủ sáng suốt và tài giỏi sẽ biết trả lương đúng với thực lực nhân viên của mình.
Với cái nhìn này, chúng ta sẽ thấy ông chủ trong dụ ngôn của đoạn Tin mừng hôm nay thật lạ lùng. Trước nhất là thông thường việc đi kiếm người làm thì do người quản gia. Còn ở đây chính ông chủ lại đi kiếm người làm. Chẳng những ông đi kiếm một lần trong ngày mà nhiều lần.
Lạ thứ hai là cách trả lương của ông chủ. Ông chỉ giao kèo với những người được mướn từ những giờ đầu. Còn những người vào làm những giờ gần cuối ngày thì không. Đến khi trả lương, ông lại trả cho những người vào làm cuối ngày trở lên. Lạ nhất là tất cả mọi người đều được hưởng lương như nhau. Do đó họ mới phàn nàn: "Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt." (Mt 20, 12). Nếu như với thời buổi hiện nay, chắc chắn những người làm này sẽ tổ chức đình công ngay.
Hình ảnh ông chủ trong dụ ngôn này có lẽ chúng ta sẽ hiểu ngay Chúa Giêsu muốn nói về ai. Đó chính là Thiên Chúa của chúng ta. Không phải chúng ta đi tìm Thiên Chúa mà chính Người đi tìm chúng ta. "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Người Con" (Dt 1, 1 - 2)
Ơn cứu độ mà chúng ta được nhận lãnh là ơn ban hoàn toàn nhưng không chứ chẳng phải do công sức của chúng ta. Vì thế, Thiên Chúa có toàn quyền ban phát tuỳ theo ý muốn của Người. Thiên Chúa bao giờ cũng muốn cho mọi người đều được hạnh phúc. Thánh Phaolô đã nói: "Hãy vui với người vui và khóc với người khóc" (Rm 12, 15). Cho nên lẽ ra khi thấy anh chị em cùng được hạnh phúc thì chúng ta phải vui lên chứ không được phân bì. Phần chúng ta khi cảm nhận được mình đang được hưởng những ân huệ nhưng không thì hãy biết sống tốt hơn nữa. Có như thế chúng ta mới thật sự là những đứa con có hiếu.
47. Biết ơn Chúa - Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR
Hôm nay Chúa Giêsu kể dụ ngôn “Thợ Làm Vườn Nho”, nói về một ông chủ đi kêu thợ đến làm vườn nhà mình vào những giờ khác nhau, nhưng cuối cùng ai cũng được trả lương bằng nhau, từ kẻ nhập cuộc lúc 5 giờ chiều cho đến người làm từ 6 giờ sáng.
Nghe qua dụ ngôn, không ít người cảm thấy ưng ức: tại sao Chúa có vẻ thiên vị, quá nhân ái với người này và chỉ công bình với người kia? Giả như Chúa công bình với hết mọi người thì chắc là không ai thắc mắc. Mấy anh là full time thì trả cho lương full time; mấy anh làm part time thì cứ tính giờ trả tiền thì êm thôi. Với lại mấy anh làm nhiều giờ tất có kinh nghiệm hơn những người làm ít, cứ trả thêm cho người có nhiều experience một tí thì đâu có sinh so sánh ganh tị thế kia.
Lối cư xử của Chúa quả không giống ai! Chẳng trách gì có người không ưa Chúa, và rồi họ ghen ghét, vu cáo, sỉ nhục, đóng đinh, giết chết.
Nhưng phải chăng vì Chúa đã làm sai? Ngài phải bước theo tiêu chuẩn và ý muốn của con người hay con người phải sống theo tinh thần và quyết định của Tạo Hoá? Phải chăng cái chết của Chúa là do Ngài làm trái ý người ta hay người ta đi xa đường lối của Thiên Chúa?
Một nhà tư tưởng đã trả lời: tại vì con người và cũng tại vì Chúa. Tại con người quá hẹp hòi ích kỷ và tại Chúa quá nhân ái từ tâm.
Vì hẹp hòi ích kỷ nên con người không muốn kẻ khác hơn mình. Bao xúc phạm nhân phẩm, tổn thương tình người, xào xáo phân ly cũng phát xuất từ tính chất ghen tuông, tiểu tâm và đố kỵ đó.
Kinh thánh ghi nhận không ít những tình trạng như thế. Các luật sĩ biệt phái đã bất bình uất ức khi thấy Chúa Giêsu ngồi ăn với những người thu thuế. Họ cũng càm ràm khó chịu khi thấy Chúa xử sự khoan dung với người phụ nữ tội lỗi nhất trong châu thành. Chưa hết, mười hai tông đồ thân tín của Đức Kitô cũng không tránh khỏi tâm địa con người. Bỏ tất cả mọi sự theo Chúa, bất chấp nắng mưa, cực nhọc, túng thiếu. Ăn ở với nhau rất đề huề. Bỗng, một người đàn bà đến xin cho hai ông Gioan và Giacôbê được ngồi hai bên tả hữu Chúa khi Ngài khải hoàn vinh quang.
Thế là sinh chuyện. Mười ông còn lại phẫn uất với anh em con nhà Giêbêđê khiến Chúa Giêsu phải ra tay can thiệp, dạy các ông bài học khiêm nhường, yêu thương, và quên mình vì người khác.
Dụ ngôn “Người Con Hoang Đàng” cũng là một minh họa cho bản chất ích kỷ nơi con người. Đức em ăn chơi phung phí, phá tan sản nghiệp, giao du với đàng điếm, làm bại hoại gia phong, nhưng dường như người anh không bận tâm. Nó đi bụi đời, sống chết mặc nó! Đời mình cứ êm trôi.
Bỗng nhiên, đứa em trở về. Được đón tiếp linh đình. Anh phẫn uất. Nỗi bất bình gia tăng đến mức anh cắt đứt quan hệ cha con, anh em. Anh tuyên bố: “Thằng con của ông”. “Ông” chứ không phải “cha”, “con của ông” chứ chẳng còn “em của tôi” nữa. Tình người bị cắt đứt.
Khi tình người bị cắt đứt, người ta đâu còn nghĩ đến chuyện thương nhau: lo cho nhau khi gặp rủi ro, mừng với nhau khi được may mắn. Thiếu tình người nên kẻ làm vườn từ sáng sớm không sao hình dung được hoàn cảnh thê lương của người thất nghiệp hay thiếu việc.
Không hiểu được tâm trạng lo lắng của người phải kiếm miếng ăn cho vợ con. Không chia sẽ được niềm vui của những gia đình có bữa cơm chiều hân hoan đầm ấm.
Nhưng tại sao người ta lại thiếu “tình người” như thế? Thiết tưởng, câu trả lời đúng nhất là vì họ vô ơn, không nhận ra được tình Chúa. Như trong bài Phúc âm tuần trước, vì không rung cảm sâu xa tình thương của đức vua khi tha trắng món nợ kếch xù, nên anh đầy tớ độc ác đã vô tình, vô tâm, và đối xử mất hết chất người với kẻ khác. Anh tóm lấy, bóp cổ, bắt giam, và đòi cho được số tiền nhỏ nhoi.
Cũng thế, không nhận thức được ơn phúc chủ ban khi kêu mình vào vườn nho từ sáng sớm, tránh được biết bao lắng lo, khổ tâm của một kẻ chờ chực đầu đường cuối chợ, nên hạng thợ buổi sáng đã không cảm thông xót thương cho hạng thợ buổi chiều. Nếu họ được trả một đồng, còn mấy người vào sau chỉ được 25 hay 50 cents thôi thì chắc hài lòng lắm. “Nếu bọn kia được một đồng thì ta phải được một đồng hơn,” nghĩ thế nên họ bất an khi người khác được như mình.
Đúng là thiếu nhận thức tình Chúa, sẽ chẳng có tình người. Khi vô ơn thì cũng dễ vô tình vô tâm.
Thế nên, để sống hạnh phúc hơn trong đời, tôi phải ngước nhìn để khám phá tình Chúa yêu tôi: không nhìn lên với phân bì so đo, nhưng nhìn xuống với cảm thương san sẻ. Có người đã viết: “Tôi cứ buồn mãi vì mình không đẹp như tiên, xinh như hoa, cho đến khi gặp một gương mặt bị phỏng không còn đôi mắt, không còn cặp môi. Từ đó, tôi biết yêu mình và yêu người hơn.”
Và dưới đây là lời cầu nguyện của một cô gái mắc bệnh phong cùi tên Véronique. Trong nỗi đau tột cùng vẫn ánh lên niềm tin yêu tha thiết. Ước gì lời cầu nguyện chân tình đó cũng là tâm tự của bạn và tôi, với Chúa và với tha nhân:
“Lạy Chúa, Chúa đã đến và xin con tất cả, và con cũng đã hiến dâng cho Chúa mọi sự. Xưa kia, con ưa thích đọc sách, và Chúa đã mượn cặp mắt của con. Ngày trước, con thích chạy nhảy trong rừng thưa, và Chúa đã mượn đôi chân của con. Mỗi độ Xuân về, con tung tăng hái lượm những cách hoa xuân, và Chúa lại xin đôi bàn tay. Bởi vì con là một phụ nữ, con thích ngắm nhìn suối tóc óng ả, ưa nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của con.
Thế mà bây giờ, đầu con như chẳng còn sợi tóc nào, chẳng còn đâu những ngón tay xinh xinh, chỉ còn lại một vài “que củi” khô queo, nhám nhúa.
Chúa ơi, Chúa hãy nhìn con, cái thân thể kiều diễm của con đã bị hủy hoại đến mức nào. Thế nhưng con không thể nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn.
Vâng, lạy Chúa, muôn đời con sẽ dâng lên hai chữ “Tạ Ơn”. Bởi vì hôm nay nếu Chúa truyền cho con phải vĩnh biệt cõi đời, con sẽ chẳng tiếc hận gì.
Đời con đã được quá ư đầy tràn, đến kỳ diệu tột độ: sống đắm mình trong tình yêu. Cuộc đời con được Chúa lấp đầy chan chứa, vượt quá những gì mà tim con hằng mong ước.
Ôi lạy Cha, Cha đã đối xử quá đẹp với bé gái Véronique của Cha, và chiều nay, ôi Tình Yêu của con! Con xin dâng lời nguyện tha thiết cho tất cả mọi người cùi trên mặt đất. Xin Cha thương cách đặc biệt những ai đang bị “bệnh cùi tâm hồn”, đang đạp đổ, đè bẹp, và hủy hoại.
Con yêu thương đặc biệt những con người bất hạnh ấy. Và chiều nay trong âm thầm, con xin tận hiến, chính mình con cho họ, bởi vì họ là những anh chị em. con.
Ôi Tình Yêu của con, con xin dâng Cha căn bệnh phong cùi nơi thân xác con để những người kia đừng bao giờ biết đến cái đắng cay, lạnh lẽo kinh hồn của “bệnh cùi tâm hồn”. Như mẹ hiền ấp ủ con thơ, Cha hãy ôm con vào lòng và nhận chìm con xuống đáy tim Cha. Xin cho con được mãi mãi ở đó cùng bao người thân yêu cho đến muôn đời. Amen.”
Tôi tự nhủ: nếu hôm nay mình còn chưa thoả mãn với cuộc đời, nếu mình còn bất an với sự may mắn của bao người, nếu mình còn vô tình trước ơn Chúa, thì mình còn phải đọc đi đọc lại lời cầu nguyện trên đây nhiều lần nữa.
48. Phi cơ & cái kẹp giấy – Lm. Mark Link, SJ.
Chủ đề: "Ðiều quan trọng trong cuộc sống không phải là những gì chúng ta sắm được mà chính là tình yêu ở trong công việc chúng ta làm. "
Hãy tưởng tượng trên căn phố bạn ở có 4 căn nhà. Bạn là chủ căn nhà ở góc đường trị giá 300 ngàn đô, nhà thứ ba trị giá 200 ngàn đô và nhà cuối cùng trị giá 100 ngàn đô. Hãy tưởng tượng đứa con bạn nói với bạn: "Bố ơi nếu có ai đó chịu mua căn nhà mình với giá 500 ngàn đô thì bố có bán không?" hẳn bạn sẽ trả lời: "Nếu thế thì may quá bố sẽ bán ngay tức khắc". Một tiếng đồng hồ sau chuông điện thoại vang lên. Bạn bước tới máy để trả lời và rồi không thể nào tin nổi vào tai mình! Có một người đề nghị mua nhà bạn với giá 500 ngàn đô. Bạn thật là vui mừng và đồng ý bán ngay.
Ngày hôm sau, bạn nghe nói rằng chủ căn nhà bên cạnh cũng đã bán nhà họ cho chính người đã mua nhà của bạn. Và thật là tin sét đánh! Mỗi người trong họ cũng đã bán được căn nhà mình với giá 500 ngàn đô.
Nghe thế, bạn liền giận dữ đến nỗi gọi điện cho người mua nhà và phiền trách ông ta về việc ấy. Ông ta liền trả lời: "Bộ tôi phỉnh gạt anh à? Hay là anh ganh tị vì tôi đã rộng lượng".
Câu chuyện này ứng dụng vào dụ ngôn của Chúa Giêsu nêu ra bài Phúc âm hôm nay một cách hiện đại hơn.
Ðể đánh giá được tính chất độc đáo dụ ngôn của Chúa Giêsu, chúng ta nên nhớ rằng những kẻ đến làm vườn nho vào những giờ cuối, không hề là những kẻ biếng nhác. Họ là những người thợ làm công cần việc làm. Sự kiện họ vẫn chờ đợi mãi cho đến năm giờ chiều cho thấy họ khẩn thiết cần việc làm biết bao.
Trong thời Chúa Giêsu, nếu trong ngày người ta không kiếm ra việc làm thì ngày hôm sau gia đình người ấy thường không có gì ăn. Vì thế người nào kiếm được việc làm từ buổi sáng thì sẽ vui vẻ cả ngày và gia đình người đó cũng thế.
Tại sao Chúa Giêsu kể ra câu chuyện trên? Ngài muốn nêu ra bài học gì đây? Trong cuộc sống thực tế, ai được ví là đám thợ được thuê sớm và ai là đám thợ được thuê muộn? Những kẻ được thuê muộn là những kẻ tội lỗi trong thời Chúa Giêsu. Những người này lắng nghe lời Chúa giảng và ăn năn thống hối. Còn đám thợ thuê sớm là những người biệt phái. Ðám người này giận dữ vì thấy những người tội lỗi ăn năn trở lại để rồi sau đó cũng được vào nước Chúa, và cũng nhận được phần thưởng y như họ.
Thái độ của đám biệt phái có thể so sánh với thái độ của một ai đó chỉ trích Chúa Giêsu vì Ngài đã tha thứ cho tên trộm lành trên thập giá qua câu nói: "Hôm nay anh sẽ lên thiên đường cùng Ta" (Lc 23: 43).
Ðiều thú vị đáng ghi nhận là giả sử đám thợ được thuê sớm không hay biết số tiền người chủ trả cho đám thợ đến sau thì hẳn họ đã vui vẻ biết ơn khi trở về nhà rôi. Nhưng vì biết được, nên họ đã trở về nhà lòng đầy giận dữ và ghen tị.
Ðiều này gợi lên một vấn nạn.
Tại sao đám thợ được thuê sớm lại ganh tị với sự may mắn của những kẻ được thuê muộn? Cũng như tại sao bạn lại ganh ghét với phận may của bà chủ nhà trên cùng con phố ấy khi những người này cũng bán được nhà của họ với giá 500 ngàn đô? Tại sao quá nhiều người cảm thấy hạnh phúc hay buồn bã vì ý nghĩ của mình về người láng giềng khá hay tệ hơn?
Chúa Giêsu ám chỉ đến câu trả lời cho vấn nạn trên khi Ngài để cho chủ vườn nho nói với đám thợ được mướn sớm: "Bộ ta đã phỉnh gạt các người sao?. Hay là các người ghen tị vì thấy Ta quảng đại?"
Chúng ta thường ghen tương với phận may của kẻ khác bởi vì chúng ta ganh tị với họ. Nhưng điều gì khiến chúng ta ganh tị với họ? Lý do là vì chúng ta nghĩ rằng họ khá hơn chúng ta, họ có nhiều tiền hơn chúng ta, họ xinh đẹp dễ coi hơn chúng ta, họ tài năng hơn chúng ta.
Thật rủi thay! Khi chúng ta nghĩ thế là chúng ta đã phạm phải sai lầm lớn trong việc xét đoán thiên hạ theo những tiêu chuẩn trần gian chứ không phải theo tiêu chuẩn của Chúa. Nếu chúng ta xét đoán theo tiêu chuẩn của Chúa thì có lẽ chúng ta sẽ khám phá ra mình cũng khá giống như kẻ khác vậy.
Ai hiểu được điều này? Trong kế hoạch của Chúa, tài năng của chúng ta có thể còn đáng giá hơn tài năng của một kẻ nào đó mà thiên hạ đánh giá là thông thái hay quyền uy. Thánh Phaolô đã nêu rõ điểm này trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô đoạn 1 câu 27-28: "Thiên Chúa đã cố ý chọn những gì mà thế gian xem là vô ý nghĩa để làm bẽ mặt đám người thông thái, và Ngài đã chọn những gì thế gian cho là yếu nhược để khiến đám thế lực phải hổ thẹn. Ngài đã chọn điều mà thiên hạ chê bai, khinh bỉ, liệt vào hạng không ra gì, để tiêu huỷ những gì thiên hạ cho là quan trọng".
Tôi xin minh họa điều thánh Phaolô muốn nói:
Cách đây vài năm, một chiếc hoả tiễn thử nghiệm đắt tiền đang sắp đậu xuống căn cứ không quân Edwards ở Califonia. Khi viên phi công định hạ thấp cần số vào vị trí cho hạ cánh thì bỗng nó không hoạt động nữa. Viên phụ tá liền xem xét chớp nhoáng và khám phá ra vấn đề là do nơi mạch "rờ le" bị trục trặc. Thế là anh ta vội chạy đi kiếm một cái gì đó tạm sửa cái "rờ le" (mặt tiếp điện) để làm cho cần số hoạt động trở lại -- và anh ta đã tìm được một cái kẹp giấy, uốn cong nó lại, nhờ đó giải quyết được khó khăn và làm cho cần số hoạt động trở lại được. Cái kẹp giấy đó khác nào tấm bùa cứu cho chiếc phản lực đắt tiền khỏi bị đâm sầm xuống đất. Vào lúc đó, xét theo nhiệm vụ đặc biệt ấy, cái kẹp giấy tầm thường này còn quan trọng hơn toàn bộ dụng cụ trên chiếc máy bay.
Kế hoạch của Thiên Chúa cũng thường như thế đó. trong bài đọc thứ nhất hôm nay, tiên tri Isaia đã nhân danh Chúa nói rằng: "tư tưởng của Ta - không giống tư tưởng các ngươi, và đường lối của Ta khác với đường lối của các ngươi. Trời cao hơn đất thế nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối và tư tưởng của các ngươi như thế".
Bài Phúc âm hôm nay mời gọi chúng ta nghe theo lời khuyên của thánh Phaolô gởi tín hữu Galata. Thánh Phaolô nói: "Mỗi người chúng ta nên suy xét về cách cư xử của mình. nếu là tốt thì có thể hãnh diện về điều mình đã làm nhưng chớ nên so sánh với điều kẻ khác đã làm" (Gl 6: 4).
Xét cho cùng, điều quan trọng trong cuộc sống này không phải là những gì thiên hạ nghĩ về chúng ta, hoặc chúng ta đã làm việc chăm chỉ như thế nào trong vườn nho của Chúa. Ðiều quan trọng là những gì Thiên Chúa nghĩ về chúng ta và tình yêu thôi thúc chúng ta làm việc.
Có câu chuyện về một nhà giảng thuyết trứ danh nọ. Ông ta biết mình là một diễn giả xuất sắc nên thường dùng các bài giảng gây danh tiếng cho mình. Vào cuối đời khi ông sắp chết thì có một điều gì đó rõ ràng đang quấy nhiễu ông. Bề trên dòng trông thấy và nói; "Thưa cha Matthêu, xin hãy bình an. Khi ngài ra trước Chúa Giêsu để chịu xét xử, ngài chỉ cần nhắc cho Chúa về những bài tuyệt hảo ngài từng giảng thuyết." Cha Matthêu liền đáp lại: "Nếu Chúa Giêsu không để ý đến chúng, thì chắc hẳn con sẽ không nhắc cho Ngài nghe về chúng đâu".
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện của Ðức Hồng Y Newman:
"Chúa đã uỷ thác cho tôi vài công việc mà Ngài không uỷ thác cho kẻ khác. Tôi có sứ mệnh của tôi. Có thể tôi không bao giờ biết được nó trong cuộc sống này nhưng trong cuộc sống mai hậu ắt tôi sẽ rõ.
Vì thế, tôi tin vào Ngài. Ngài không làm điều gì vô ích. Ngài có thể kéo dài hay rút ngắn cuộc sống của tôi; Ngài biết rõ điều Ngài định làm…
Ôi lạy Chúa, con xin hiến dâng trọn vẹn toàn xác hồn con trong tay Ngài."
49. Tự do Thiên Chúa
Dụ ngôn nói lên một tính chất chung giữa chủ nhà và Chúa tể vũ trụ: Đó là sự tự do tối thượng.
1) Đây là sự tự do của chủ vườn nho: Ông đã gọi vì ông muốn, khi ông muốn và gọi những ai ông muốn, sau khi đã quyết định phần thưởng và phân công.
Thiên Chúa cũng thế. Ngài hoàn toàn tự do khi lên tiếng kêu gọi. Không một tạo vật nào tự hào có quyền trước mặt Chúa. Mà khi nói đến ơn gọi là nói đến tự do. Giáo hội là một cộng đồng ơn sủng. Sau khi phạm tôi, tạo vật lại được nghe thấy tiếng gọi ân sủng mà đáng lẽ tạo vật đã bị vất bỏ: Tạo vật không hy vọng trở lại nữa: Đó là chân lý hiển hiện trong hình ảnh sứ thần cầm gươm canh cửa vườn địa đường. Thánh Phaolô cũng daỵ như thế trong thư gửi giáo đoàn Roma: Không có gì tuỳ thuộc vào ý chí hay hành động nhân loại, nhưng tất cả đều tuỳ thuộc vào lòng từ ái Thiên Chúa.
Thiên Chúa có thể tự do gọi những kẻ Ngài muốn. “Ta thương Giacob và ghét Esau”. Thánh Phaolô so sánh hành động của Thiên Chúa với người thợ gốm muốn tuỳ ý nặn nên một vật gì tầm thường hay quí giá. Người thợ hoàn toàn tự do. Thiên Chúa cũng thế. Ngài gọi kẻ nào Ngài muốn: Người thì được gọi từ trong lòng mẹ như gọi một Tiên tri, người khác được gọi từ buổi thiếu thời, người khác khi đã đứng tuổi hay về già. Thiên Chúa quyết định thời gian.
Thiên Chúa tự do chọn lựa nơi nào Ngài muốn. Đức Kitô tuyên bố với Phêrô: “Người khác thắt lưng con, rồi dẫn con đến nơi mà con không muốn”. Mức độ ân sủng khác nhau tuỳ theo từng người. Người thì được gọi vào giờ đau khổ để được cứu rỗi. Kẻ khác được gọi để nên thánh. Người thì được gọi cứu linh hồn mình. Kẻ khác được gọi để cứu tha nhân. Những người khác nữa nhất là các thánh nhân được Thiên Chúa uỷ thác một sứ mệnh giữa Giáo hội chẳng hạn, các vị lập dòng, những người tiên phong, khởi xướng phong trào canh tân và các nhà tư tưởng…
Thiên Chúa tự do thưởng công: Ta chỉ nói về công nghiệp và phần thưởng theo cách bất toàn, và chính Đức Kitô theo sự tự do tuyệt đối của Ngài đã gọi phần thưởng là ân huệ được tham dự vào vinh quang Thiên Chúa.
Tất cả những tính toán, những dự liệu pháp lý, những đòi hỏi, những tham vọng, phải tan biến trước oai nghiêm và tự do của Tạo hoá.
Các tông đồ của Chúa Giêsu phải học biết điều đó bằng kinh nghiệm riêng. Nếu họ đã không được gọi, họ đã sống cuộc đời vô nghĩa giống như các ngư phủ khác và bọn thu thuế tại Galilêa. Ngay cả sau khi đã được gọi làm môn đệ, họ cũng chỉ như những người vô danh khác, nếu Đức Kitô không phân biệt họ khỏi những người khác. Trong số các môn đệ, Simon đã chẳng trở thành Phêrô nếu Chúa không tự ý thánh hiến ông thành vị thủ lãnh. Mặt khác, dù ngã quỵ trước cơn thử thách nặng nề ngày thứ sáu tuần thánh, tất cả đã đánh mất ơn gọi, nếu sau khi sống lại, Chúa đã không tụ tập lại, và sai đi truyền giáo, nhất là đối với Phêrô; vì ba lần chối Chúa, ông đã đánh mất chức vụ thủ lãnh, nếu Chúa không ban lại sau ba lần tuyên xưng lòng mến. Nhờ ba lần tuyên xưng lòng mến này, Ngài lại trao cho ông quyền chăn dắt đoàn chiên. Đức Kitô hừa cho họ ngồi trên mười hai toà xét xử mười hai chi họ Israel. Đó là phần thưởng đổi lại lấy những gì họ đã từ bỏ vì Chúa. Tất cả đều là ơn huệ nhưng không. Nếu tất cả Kitô hữu ý thức về những ân huệ đã nhận được do Thiên Chúa tự ý ban cho, thì mười hai tông đồ và những ai sống giữa cộng đồng được lựa chọn, đã thụ hưởng một ơn gọi đặc biệt, là phải nhận biết ơn huệ Thiên Chúa và không ngừng nhớ tới.
2) Dụ ngôn này còn có một giá trị giáo huấn nữa. Thiên Chúa dùng tự do của Ngài để thực thi lòng nhân hậu. Thêm vào lời quyết đáp: “Ta lại không được quyền làm điều ta muốn ư?” Ngài nói: “Mắt các ngươi xấu vì thấy ta tốt ư?”.
Thiên Chúa tỏ ra nhân hậu và tự do, khi mời gọi tất cả moị người. Trước kia chỉ có một dân tộc duy nhất, một dân tộc nhỏ bé và được tuyển chọn. Nay nhờ Tin Mừng được loan báo cho tất cả các tạo vật, tất cả mọi quốc gia trở thành môn đệ Ngài (Mt 28, 16-20). Những tội nhân cũng sẽ được gọi đúng như lời Thánh Phaolô dạy: “Thiên Chúa đã để mọi người phạm tội để có thể thương xót mọi người”.
Lòng thương xót của Chúa thực là cao cả. Mọi người đều được mời gọi chung hưởng. Suốt đời, con người được tham dự vào vinh quang Thiên Chúa. Được nâng lên bên trên bản tính tự nhiên, con người sẽ trở thành hình ảnh đích thực của Thiên Chúa, bước đi trong ánh sáng của Ngài, tiến nhanh nhờ sức mạnh của Ngài, tham dự vào bản tính thần linh của Ngài. Do đó, tội nhân được gia nhấp cộng đoàn thánh nhân.
Lòng nhân hậu tự do của Thiên Chúa thực là cao cả, nên mới quyết giữ ơn gọi được miên trường. Ơn gọi không phải là một dịp tốt duy nhất, sẽ mất đi, nếu người ta không đáp lại. Ơn goị của Thiên Chúa theo dõi con người không ngừng và con người có thể đáp lại bất cứ lúc nào.
Như thế, chỉ khi nào ý thức về ơn sủng, con người mới hiểu được sự cao trọng của Thiên Chúa. Mỗi người có thể xử dụng tự do tuỳ ý. Thiên Chúa cũng sử dụng tự do để tha thứ, vì muốn thể hiện trọn vẹn tình yêu. Thiên Chúa ban phát mà không tính toán. Đến lượt con người họ cũng không được tỏ ra là người ganh tị hay ti tiện, trái lại, hãy mở rộng lượng của Đấng Tối cao. Các tông đồ đã nhận được nhiều sứ mệnh nặng nề. Phải ý thức điều đó để hoan hỉ trao ban những gì đã nhận lãnh. Những công nhân bất mãn đã cằn nhằn vì chịu khó nhọc nóng nực cả ngày mà không nhận được vào nước Chúa. Khi bắt chước Đức Kitô, những thử thách này là một đặc ân chứ chưa phải là một việc đền tội, một ơn huệ hơn là một bổn phận. Đó là cơ hội để chứng tỏ lòng yêu mến sâu xa và ưu tiên. Vì ta đã được gọi từ sớm để làm việc nhiều hơn. Con người phải từ bỏ tiêu chuẩn nhân loại để học biết suy nghĩ và phán đoán cách khác. Từ đây, mức độ là chính tình yêu. Nhưng tình yêu không bao giờ tính toán. Ai biết phó thác cho thánh ý Thiên Chúa theo tình yêu Ngài, sẽ tình nguyện tận hiến tình yêu cho Ngài. Vậy dụ ngôn này có một giá trị đặc biệt để giúp Kitô hữu suy nghĩ đúng đắn. Dụ ngôn này dạy ta phải hiểu biết cách hành động của Thiên Chúa, Ngài dùng tự do để bày tỏ tình yêu của Ngài.
50. Khiêm tốn và vâng phục - Lm Nguyễn Bình An
Năm 1979, ông Earl Hamilton, một thượng sĩ chánh Hải quân Hoa kỳ, đã mua 2 ngôi nhà tại Oxnard, California với gidi 23 ngàn dollars một căn. Vì lạm phát và cơn lốc leo thang, hai ngôi nhà ấy hôm nay trị giá khoảng 500 ngàn Mỹ kim, nghĩa là ông có lời gấp 10 lần. Khi đề cập đến vấn đề nay, ông mỉm cười “Chúa thương tôi, nên tôi khấm khá hơn khi tại ngũ”. Nhiều người thấy gương của ông, cũng vội vã đầu tư. Nhưng cơn lốc chim cút hết thời! kinh tế bất ổn, việc làm bếp bênh, hãng xưởng đóng cửa. Ngôi nhà mới mua vì thế bị mất giá năm, sáu chục ngàn. Họ trách và hận trời thiên tư nên không được may mắn như ông Hamilton!
Sống trên đời ai cũng mong có một cuộc sống ấm êm, sung túc, tiện nghi và thành công. Ai cũng muốn có mảnh bằng, một nghề nghiệp vững chắc, và ráng thử thời vận hên xui. Nhưng thành công hay thất bại còn lệ thuộc vào ba yếu tố Thiên Thời, Địa Lợi và Nhân Hoà hay “mưu sự tại nhân thành sự tại thiên”. Hiểu theo đức tin thì Chúa có ban, chúng ta mới có.
Nhiều người đọc kinh “tràng giang đại hải”. Nhiều nhà trưng dọn bàn thờ, hương nến nghi ngút. Nhiều nhóm sốt sắng với việc tôn vương và chia sẻ Lời Chúa. Rồi tự thoả mãn với cái thánh thiện và đạo đức bề ngoài ấy. Họ chỉ trích, sống lập dị, chống đối, và tranh giành chức tước. Tệ hơn thế, họ còn muốn lướt quyền thánh hoá, quản trị và dậy dỗ của các chủ chăn. Bằng mọi giá họ đòi được kính trọng và chào hỏi. Bằng mọi cách, họ phải được ghi danh trong sổ vàng và bực bội nếu có ai chẳng may nổi danh và được nể vì hơn họ.
Thiển nghĩ cách sống đạo hời hợt này không được Chúa chúc lành và dù có cố gắng cả đời thì họ vẫn lẹt đẹt về cuối. Cái sáng giá mà Chúa chờ đợi là một tâm hồn tan nát khiêm cung, và một lòng sám hối thành thực của người trộm lành. Anh bị án treo bên cạnh Chúa. Anh ngó sang Chúa cầu xin ơn tha thứ vào giờ thứ 24 và phần phước anh được là “hôm nay, anh vào Thiên quốc với Ta”. (Lk 23,43).
Dụ ngôn “Thợ làm vườn nho” Chúa dậy hôm nay không khích lệ tín hữu chờ đến phút chót, rồi chớp nhoáng đổ bộ chiếm cửa trời. Điều Chúa mong mỏi là mỗi tín hữu có một phận sự, một nghĩa vụ, một tài khéo, một sứ mệnh và một ơn gọi đặc thù. Hãy phát triển năng khiếu, thực thi sứ mệnh, chia sẻ ơn gọi và dấn thân phục vụ. Đừng nhìn tha nhân và phân bì. Không dò xét so đo và khinh khi người. Chẳng tự ti khi thua, không tự tôn lúc thắng. Nếu không, chúng ta sẽ là “những chú khỉ giỏi bắt chước và đầy tị hiềm”.
Chúng ta theo Chúa với thiện chí, ý thức và trưởng thành. Đức tin là đèn dẫn lối. Khiêm tốn là tinh thần phục vụ. Vâng phục là phương thế cộng tác. Thương yêu là tôn chỉ hành sự và Nước trời là cùng đích. Với một quan niệm đúng đắn, với một đời sống thiêng liêng vững chắc và với những nhân đức tuyệt vời như trên, chúng ta màng chi đến những vinh quang phù du nay còn mai mất, cũng chẳng ham gì những lời khen chê xã giao và vô bằng. Thiên Chúa sẽ không bao giờ quên bỏ và bạc đãi những ai thành tâm, rộng lượng và tha thiết với việc nhà trời.
Trong kỳ Đại hội Giáo Sĩ và Tu Sĩ tại Houston năm 1983, một vị đáng kính đã công khai khen thưởng một đồng nghiệp vì không hút thuốc, chẳng nhắm rượu: “thế thì cha thánh thiện quá!” Lời phán đoán nông cạn này có phải là thước đo mức độ thánh thiện không? Nếu đúng thì từ Chúa Kitô đến nay, Giáo hội không có một ai thánh thiện! vì đã hút thuốc và uống rượu!
Sống trưởng thành thiêng liêng là không kênh kiệu và tự đắc như phàm phu tục tử nhận xét “một cha dòng thánh thiện gấp hai cha triều”. Sống khiêm tốn và vâng phục không phải là cúi đầu “trồng cây ngược”. Sống nghèo khó và đơn sơ không có nghĩa là than thở để vơ vét, kèo nài sống sượng và vô duyên.
Trái lại, chúng ta vâng phục mà cương quyết, lắng nghe mà không mù quáng, bất đồng nhưng không đả phá, rộng lượng mà chẳng đòi công, kính phục song không nịnh bợ, giầu có mà không dâm dật, nghèo hèn mà lòng thẳng ngay, thành công mà vẫn khiêm tốn.
Với triết lý vững chắc và thần học thánh thiện này, chúng ta vui khi tha nhân được ơn lành và thành công. Chúng ta cảm tạ Chúa và hài lòng với hiện tại. Chúng ta không sẽ là những Cain, tra tay giết em vì ghen, vì tị nạnh, vì thua kém!
51. Đeo mặt nạ
Sự giả dối dường như mỗi ngày một gia tăng và con người dường như thích đeo mặt nạ trong cuộc sống. Thực vậy, mặt nạ là cái mà người ta dùng để che dấu bộ mặt đích thực của mình.
Vậy thì công dụng của nó như thế nào? Với mặt nạ, trước hết người ta muốn lừa gạt kẻ khác. Đúng thế, bề trong có khi thù oán, tức tối, nhưng bề ngoài lại tỏ ra hòa nhã, dễ chịu. Mặt nạ của chúng ta thường thì không xấu, nhưng có những nét đẹp và lôi cuốn, để nhờ đó tìm được những cảm tình và lợi lộc nào đó. Người đeo mặt nạ đạo đức để dối gạt kẻ khác, thì tư tưởng không đi đôi với lời nói và lời nói lại không đi đôi với việc làm. Nói một đàng làm một nẻo như tục ngữ vốn diễn tả: Miệng nam mô bụng bồ dao găm. Khẩu phật tâm xà. Bề ngoài thì thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không gươm. Trong khi đó Chúa đòi chúng ta phải thành thực: có nói có, không nói không, thêm ra bớt vào là do ma quỉ.
Tiếp đến, với mặt nạ, chúng ta lừa dối chính bản thân chúng ta. Thực vậy, chúng ta cố gắng tạo ra cho mình những ảo tưởng. Chúng ta bao quanh mình những huyền thoại, tưởng rằng mình có nhân đức này, nhân đức kia như một đám mây rực rỡ bao phủ. Để rồi từ đó, chúng ta lên mặt kênh kiệu. Chúng ta tưởng rằng mình kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, nhưng vào giây phút cuối cùng ta sẽ vô cùng sửng sốt khi thấy sự thật không phải là như thế. Chúng ta tô vẽ cho Thiên Chúa theo như những ý tưởng và ước muốn riêng tư của chúng ta. Và lúc đó Thiên Chúa trở nên một tượng thần nhảm nhí do tay người phàm làm nên như Kinh Thánh đã trách cứ. Đang khi chúng ta phải trở nên giống Ngài thì chúng ta lại bắt Ngài trở nên giống chúng ta. Miệng chúng ta không ngừng đọc lời kinh Chúa dạy: Vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời, nhưng trong thực tế, chúng ta lại luôn tìm thỏa mãn cho những ước muốn và dục vọng riêng tư. Chúng ta bằng lòng với những dáng bộ đạo đức bên ngoài, nhưng một khi chiếc mặt nạ bị rớt xuống, chúng ta sẽ phải bẽ bàng như lời Chúa phán với bọn biệt phái: chúng giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng toát, nhưng bên trong thì lại đầy dòi bọ cùng mọi thứ hôi thối. Nhưng nguy hiểm hơn là chúng ta lại muốn dùng chiếc mặt nạ ấy để dối gạt chính Thiên Chúa. Đây quả thực là một việc làm điên khùng và dại dột, đây cũng là một việc làm xưa như trái đất mà con người luôn cố gắng thực hiện.
Adong Eva ngay sau khi phản bội cùng Thiên Chúa, liền ẩn náu nơi bụi rậm. Ngày nay chúng ta cũng ẩn náu dưới nhiều danh hiệu khác nhau. Nào là vẻ hào nhoáng bề ngoài, nào là những ý thức hệ đạo đức, nào là những hành động khua chiêng gõ mõ ầm ỉ. Phải chăng đó cũng là cái moden của thời đại. Tuy nhiên chúng ta cần phải nhớ rằng, có một cặp mắt thấu suốt mọi điều bí ân, đó là cặp mắt của Thiên Chúa. Ngài đòi chúng ta phải chịu trách nhiệm về những hành động của mình. Mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm dù bí ẩn đến đâu cũng không thể qua khỏi tầm mắt của Ngài. Trong ngày thẩm phán cuộc đời chúng ta như một trang sách mở rộng trước tôn nhan Ngài. Hãy chấm dứt trò chơi đeo mặt nạ để lừa gạt kẻ khác, bản thân và Thiên Chúa. Hãy sống thành thực, kẻo chúng ta phải bẻ bàng, khi cuộc sống giả tạo ấy bị phanh phui…
52. Suy niệm của Lm JB. Nguyễn Minh Hùng
Năm 1980, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II công bố một thông điệp mang tên: Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa được trình bày ở nhiều khía cạnh. Trong đó trọn số 12 nói về sự công bằng của Thiên Chúa. Chẳng hạn: Không phải vô cớ mà Đức Kitô đã trách những kẻ nghe Người về việc họ trung thành với giáo thuyết Cựu Ước mà giữ cái thái độ được bày tỏ trong những lời này: Mắt thế mắt, răng đền răng (Mt 5, 38). Cách làm biến chất sự công bằng vào thời ấy là như thế và các hình thức hiện đại tiếp tục rập khuôn theo đó. Thật vậy, điều hiển nhiên là nhân danh một cái gọi là công bằng, đôi khi người ta tiêu diệt tha nhân, người ta giết hại, người ta tước đoạt tự do, người ta lột mất những quyền sơ đẳng nhất của con người. Kinh nghiệm quá khứ và thời chúng ta chứng tỏ rằng chỉ có công bằng thôi thì không đủ, và thậm chí công bằng có thể dẫn tới chỗ tự phủ nhận và hủy diệt chính nó, nếu người ta không để cho sức mạnh sâu xa hơn là tình thương có thể uốn nắn đời sống con người trong các kích thước khác nhau của đời sống này (Dives in Misericordia- số 12).
Đọc Lời Chúa hôm nay, ý nghĩa của lòng thương xót mang chiều kích công bằng đó càng được diễn tả sâu đậm hơn. Những người làm vườn nho trách ông chủ vì ông chỉ trả mỗi người một đồng, bất kể người đó làm từ sáng tới chiều, hay chỉ mới làm có một giờ. Trả tiền lương như vậy, phải chăng ông chủ là người không công bằng, và hình như những người làm vườn nho trách ông chủ là đúng?
Ông chủ này ám chỉ Thiên Chúa. Thiên Chúa ban ơn cứu rỗi cho mọi người. Ơn cứu rỗi không phân biệt thứ bậc. Dù cho người giữ đạo từ nhỏ đến lớn, hay người theo Chúa ở lúc cuối đời đều chỉ nhận một ơn cứu rỗi do Chúa Kitô thực hiện mà thôi. Như vậy có phải Thiên Chúa bất công? Nếu Thiên Chúa không công bằng, thì lời khẳng định vừa mới đây của tôi: Lời Chúa hôm nay diễn tả sâu đậm Thiên Chúa giàu lòng thương xót, mà lòng thương xót này mang chiều kích công bằng đúng là lời thiếu suy nghĩ thấu đáo? Sự thật Thiên Chúa có công bằng không?
Bài đọc một trích sách tiên tri Isaia trả lời rất rõ: Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta. Rất đúng! Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa, còn con người, dù có giỏi đến đâu, trước sau vẫn chỉ là con người. Tư tưởng, đường lối, suy nghĩ và cách hành động của con người mãi mãi chỉ là một thứ tư duy quanh quẫn trong mức độ của một thụ tạo, một con người không hơn, không kém.
Công bằng mà những người thợ làm vườn nho trách ông chủ là một thứ suy nghĩ của con người, một thứ công bằng theo nghĩa sòng phẳng: tôi làm một giờ thì phải trả lương đúng một giờ cho tôi; còn anh kia chỉ làm nửa giờ, anh ta chỉ có quyền nhận mức lương nửa giờ mà thôi. Một thứ công bằng hoàn toàn không có lòng thương xót. Vậy phải chăng, chỉ có công bằng là đủ? Là Kitô hữu, điểm qui chiếu cho ta vẫn phải là Lời Chúa: Đường lối các ngươi không phải đường lối của Ta. Công bằng mà con người áp dụng không là công bằng theo kiểu của Thiên Chúa. Thứ công bằng ấy cần nhưng chưa đủ. Công bằng của Thiên Chúa đòi phải có lòng thương xót. Nếu ngày nào Thiên Chúa chiếu theo công bằng của con người, khi con nbgười phạm tội, Thiên Chúa cứ việc trừng phạt xứng tội của họ là xong. Nhưng Thiên Chúa không làm thế. Để cứu rỗi loài người, lòng thương xót của Thiên Chúa đã nhập thể. Chúa Kitô là lòng thương xót của Thiên Chúa trở thành người để thực hiện lẽ công bằng, một thứ công bằng của tình yêu, công bằng của lòng thương xót mà một người Cha dành cho những đứa con phản nghịch. Công bằng của lòng thương xót nơi Thiên Chúa là: tội vẫn cứ là tội, vẫn là điều xấu cần lên án, nhưng tội nhân thì không bao giờ bị loại trừ. Người nhận biết Thiên Chúa cả một đời vẫn có một giá trị lớn lao, cộng với một bề dày công nghiệp do sự trung thành sống đức tin của họ. Nhưng người chỉ tôn thờ Thiên Chúa trong một giây phút cuối đời nào đó, thì chính vì đức tin, họ được cứu rỗi, nhưng bề dày công nghiệp của họ thì đâu phải là cả một đời sống đức tin!
Nước Trời là vậy đó. Như ông chủ thuê người làm vườn nho, Thiên Chúa cũng mời gọi bạn và tôi, kẻ trước người sau cùng lãnh nhận ơn cứu rỗi do chính Chúa Kitô thực hiện. Nhưng để đạt được ơn cứu rỗi đó, Thiên Chúa đòi ta phải xây dựng Nước Trời ở trần gian bằng sự công bằng của lòng thương xót chứ không phải công bằng theo nghĩa sòng phẳng, không phải ăn miếng trả miếng.
Tôi đã từng chứng kiến cảnh một bà mẹ bán chè nuôi hai đứa con học đại học, bị chủ nợ nhiếc mắng vì không trả nổi món nợ 500.000 đồng. Người mẹ tội nghiệp đó đứng khóc ngon lành như một đứa trẻ mà không biết phải làm gì hơn. Chắc không ai mà không nghĩ rằng, người chủ nợ kia đòi nợ là đúng lẽ công bằng. Nhưng công bằng đó không có lòng thương xót. Bởi tôi cũng biết người chủ nợ này cho vay chuyên nghiệp. Tin rằng bạn và tôi sẽ thực thi Lời Chúa mà xây dựng Nước Trời ở trần gian này theo lẽ công bằng của lòng thương xót, như Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, để nhờ đó chúng ta lãnh nhận ơn cứu rỗi Chúa ban.
53. Ghen tị
Câu chuyện dụ ngôn thuê mướn thợ làm vườn nho hình như có vấn đề gây thắc mắc: làm sao ông chủ có thể trả công đồng đều cho tất cả những người thợ làm việc ở các thời điểm khác nhau? Ông chủ có công bằng chăng khi đối xử với những người chỉ làm một giờ ngang bằng với những người làm vất vả cả ngày?
Thật ra ông chủ đã đối xử sòng phẳng với những người làm việc từ sáng sớm. Ông ta đã trả mỗi người một đồng đúng như đã thoả thuận. Ông ta không bóc lột sức lao động của ai cả: có làm có trả lương tương xứng, nếu ông ta không gọi thêm thợ thì mọi chuyện bình thường, chẳng có vấn đề gì, nhưng vì có nhóm thợ làm ít giờ hơn cũng được trả lương bằng mình, nên có việc ganh tị, và nhất là đánh giá tiêu cực về ông chủ.
Câu chuyện này chúng ta thấy nổi bật hai vấn đề: Cách đối xử của ông chủ và phản ứng của những người thợ. Ông chủ vườn nho đây là hình ảnh Thiên Chúa, Ngài tốt lành vô cùng, lòng nhân từ của Ngài vượt lên trên tất cả những thứ trả công mà người đời sử dụng với nhau trong cuộc sống, Ngài rất công bằng và thương yêu vô tận. Vì vậy, ngoài sự công bằng, Ngài còn yêu thương chúng ta theo tự do và tình yêu của Ngài. Trước lời phàn nàn của những người thợ làm từ sáng sớm mà cũng lãnh công như những người làm sau, Ngài đã khẳng định quan điểm của Ngài, Ngài hoàn toàn tự do làm theo ý định của mình, Ngài muốn làm cách nào, lúc nào, chọn ai đều tuỳ ý Ngài mà không phải lệ thuộc ai cả. Tuy có quyền tự do của mình, nhưng Thiên Chúa không dùng tự do đó mà làm thiệt hại cho người khác: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn”. Thiên Chúa luôn công bằng, chỉ có con người mới đối xử bất công với nhau vì thiếu lòng nhân từ, vì cách nhìn ghen tị của mình.
Quả thật, ông chủ vườn nho được tự do dùng tiền của mình, thì tại sao Thiên Chúa lại không được tự do trong việc yêu thương? Ông chủ trả lương rộng rãi với nhóm người này mà vẫn giữ công bằng với nhóm kia, thì Thiên Chúa trải rộng tình thương của Ngài đến mọi người mà không cần theo tính toán của người đời. Cách xử sự của Thiên Chúa khác xa với cách xử sự của mọi người. Có lẽ khó gặp được chuyện này trong cuộc sống hằng ngày, nhưng lại xảy ra hằng ngày trong đời sống thiêng liêng: Thiên Chúa ban ơn nhiều hơn lòng mong đợi của con người.
Thiên Chúa rất nhân từ và tốt lành, Ngài ban ơn cho mỗi người và mọi người mà không tính toán thời điểm, tuổi tác. Chỉ có con người là hẹp hòi, ích kỷ đối với nhau qua hình ảnh những người thợ làm vườn nho. Những người làm từ đầu, làm nhiều giờ hơn, không vui mừng khi thấy ông chủ trả lương cho những người vào làm sau, làm ít giờ hơn cũng bằng họ, họ đã ghen tị đến đấu tranh với ông chủ, đó là tâm trạng chung của con người chúng ta: hay so đo, tính toán, thắc mắc, phân bì, ghen tị, ganh ghét.
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội nặng. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những thành công của người khác. Người ta ghen tị về đủ mặt: của cải, tài ba, nhan sắc, thành công, nhân đức. Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị những gì mình có, không thoả mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế của mình, lúc nào cũng thấy núi khác cao hơn. Người ta ghen tị nhau vì kiêu ngạo, vì ích kỷ, không muốn ai thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ hơn mình. Càng liên hệ thân thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới ghen tị nhau, chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt, hàng cá… ghen tị nhau.
Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ ghen tị và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con, nhưng chính chúng ta cũng nên phản tỉnh lại xem: chúng ta có hơn trẻ con không? Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi, giúp đỡ họ. Cho nên, thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là đi chia vui. Có ai vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn, thành công chăng? Hay là chúng ta tủi thân, rồi mỉa mai, bôi bác họ?
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen tị sinh ra ghen ghét, ghen ghét sinh ra oán thù. Ghen tị thường đi đến chỗ nói xấu, nói hành, dèm pha, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm mất tình bác ái và gây nên bao gương mù gương xấu. Vì thế, chúng ta phải tốp ngay, phải ngưng ngay cái tật xấu ghen tị này. Chúng ta phải biết đánh giá trị đúng của anh em mà vui cùng kẻ vui. Chúng ta phải tránh sự ghen tị như tránh rắn độc.
Tóm lại. Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, chúng ta phải luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không là gì cả, lúc nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là do Chúa ban, Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Thứ hai, mỗi người hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và gây nên những gương mù gương xấu. Xin Chúa cho chúng ta biết đánh giá trị đúng về mình và về anh em, để chúng ta không phân bì, kể công với ai và cũng không phân bì, ghen tương ai.
54. Ganh tị
Có lẽ bài học đầu tiên chúng ta biết về lẽ công bình đã xảy ra ở trên bàn ăn khi người mẹ phân chia những miếng bánh cho các con mình. Con mắt ganh tị của chúng ta đã phân biệt từng chi tiết nhỏ xem miếng nào lớn hơn, ngon hơn, và đáng giành hơn, rồi than phiền: “Mẹ, mẹ cho em miếng bánh lớn hơn miếng của con!” Chúng ta đã không biết nhiều về lẽ công bình, nhưng chỉ biết đến nó khi nhận phần bánh nhỏ hơn. Nếu khôn ngoan, người mẹ có thể giải thích: “Con ơi, sớm muộn gì con cũng sẽ phải học để biết rằng cuộc đời không luôn luôn công bằng đâu!” Điều này trẻ con chưa thể hiểu được, nhưng sau này lớn lên chúng sẽ hiểu.
Đúng như vậy! Cuộc đời không luôn luôn công bằng. Và nhận ra được điều này cũng không phải là dễ, Có lẽ phải mất một thời gian khá lâu trước khi chúng ta biết được rằng người mẹ hay Thiên Chúa có những lý do chính đáng để hành động, và những lý do này thường căn cứ trên tình yêu, lòng nhân từ và quảng đại.
Trước hết, người mẹ đã làm ra chiếc bánh và có thể cho theo ý người mẹ muốn. Thứ đến, nếu người em của tôi có vẻ bệnh – đây là điều khi còn bé tôi không bao giờ nghĩ đến – người mẹ có thể cho nó thêm một tí nữa để có sức khoẻ, mau khỏi bệnh. Nhưng chắc chắn một điều là người mẹ hay Thiên Chúa, Đấng đã làm nên mọi sự, không bắt buộc phải cắt nghĩa cho chúng ta biết lý do. Khi chúng ta lớn lên, chúng ta sẽ nhận ra rằng người mẹ và Thiên Chúa thường có những lý do riêng dựa trên tình yêu. Các ngài nhìn thấy điều chúng ta cần.
Điều này được diễn tả trong bài Phúc âm hôm nay, dụ ngôn thợ làm vườn nho. Đối với công đoàn lao động, việc người chủ vườn trả tiền mướn cho các nhân công làm việc chỉ một giờ hay vài giờ cùng số tiền lương trả cho những người làm việc suốt ngày từ sáng đến tối là điều bất công. Nhưng trước khi chúng ta nói người chủ hay Thiên Chúa bất công, xin hãy đọc kỹ những lời người chủ nói với những người than phiền trong Phúc âm: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?”
Tại sao người chủ đã trả cho những người đến sau cùng số lương bằng với những người làm việc suốt ngày? Thưa vì tình thương! Tất cả các công nhân đều có gia đình, cần tiền để nuôi vợ con. Thứ đến, người chủ biết những người đến vào giờ phút cuối đã đi tìm việc làm suốt ngày mà không có. Đối với người chủ cả hai lý do đều tốt lành để hành động và không ai có lý do gì để phê bình ông cả. Nhưng không may, những con mắt ganh tị do lòng ích kỷ đã làm họ trở nên bất mãn.
Cuốn phim “Amadeus” kể về cuộc đời của thiên tài âm nhạc, Wolfgang Amadeus Mozart (1756 – 1791). Câu chuyện diễn tả Mozart như một con người khá kỳ dị, gần như bị bệnh loạn thần kinh, nhưng lại là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác rất tài ba.
Một trong những nhân vật đáng chú ý nhất trong cuốn phim, bên cạnh Mozart, là nhạc sĩ Solieri. Solieri là nhạc sĩ của hoàng cung đã nổi giận với Mozart vì ông tự cho mình là xứng đáng và giỏi hơn Mozart. Solieri đã khinh ghét và coi Mozart chỉ là một tên trẻ con, suồng sã, kiêu căng và khả ố. Tại sao Mozart lại có thể là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác tài ba như vậy được trong khi tư cách của Mozart không xứng đáng? Trái lại, Solieri là đầy tớ của Thiên Chúa, vâng phục Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Chính ông mới là con người tốt hơn và xứng đáng hơn, vậy tại sao Thiên Chúa đã không ban cho ông món quà tài năng này mà lại ban cho Mozart?
Ngoài tính nết trẻ con, Mozart còn quá lố hơn nữa, dám vượt ra ngoài những giới hạn cổ truyền có thể chấp nhận được. Tuy vậy, vua Joseph II Ao Quốc vẫn thích Mozart. Mozart xin phép vua được sáng tác một vở nhạc kịch bằng tiếng Đức. Vào lúc đó, chưa có ai được phép sáng tác nhạc kịch bằng tiếng Đức cả. Tất cả nhạc kịch đã được sáng tác và trình diễn đều bằng tiếng Ý. Solieri, một người Ý, vừa bị sỉ nhục về tài năng, vừa bị đe doạ về chức nghiệp vì vở nhạc kịch bằng tiếng Đức của Mozart.
Solieri rất ganh tị và buồn bực vì bản nhạc kịch của Mozart đã thành công rực rỡ. Khắp nơi đều vang lên những lời ca ngợi về nhạc của Mozart cho đến nỗi chính Solieri cũng phải yêu thích nó. Tuy nhiên, ông lại muốn là chính ông đã sáng tác ra nó. Solieri biết rằng Thiên Chúa đã ban cho Mozart một thiên tài âm nhạc mà chính ông mới xứng đáng chứ không phải Mozart. Trong giây phút phẫn uất và tuyệt vọng, Solieri cảm thấy Thiên Chúa đã bỏ rơi ông, ông gỡ ảnh thánh giá treo trên tường xuống, đem đi đốt. Ông muốn không có sự thiên vị và đòi hỏi sự công bằng. Ông muốn được Thiên Chúa ban cho tài năng để làm việc phục vụ Ngài. Tuy nhiên như chúng ta thấy trong bài Phúc âm hôm nay, tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa rất khác với những nguyên tắc của con người về lẽ công bằng!
Pascal đã nói: “Con tim có lý lẽ riêng của nó”. Khi yêu ai người ta dám hy sinh tất cả mọi sự, ngay cả mạng sống mình cho người mình yêu. Sự kiện Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi đã ban Con Một Người xuống trần gian, chịu chết trên thập giá vẫn là một mầu nhiệm khó hiểu của tình yêu Thiên Chúa.
55. Quảng đại - Lm Louis Minh Nhiên, CRM
Một công ty thuê một cái tàu du ngoạn trên biển để thưởng công cho các nhân viên làm việc giỏi và chăm chỉ. Đến ngày đi, các nhân viên ngày xuống tàu và đi tìm phòng của mình. Chỉ vài phút sau, một người chạy vội lên văn phòng muốn gặp vị thuyền trưởng. Một trong nhựng viên chức phụ trách hỏi: “Ông muốn gặp thuyền trưởng để làm gì?” Người đó đáp: “Tôi cũng làm việc giỏi và chăm chỉ như người bạn của tôi, thế mà tại sao anh ta lại được căn phòng xinh đẹp hơn căn phòng của tôi?” Vị phụ trách trả lời: “Thưa ông, căn phòng nào cũng giống nhau cả”. Người đó nói: “Phải, nhưng phòng của anh ta nhìn ra biển khơi, còn căn phòng của tôi chỉ nhìn thấy bến tàu, trông chẳng hấp dẫn chút nào?”
Thật là tội nghiệp. Một khi tàu rồi bến ra ngoài khơi thì hai bên đều nhìn thấy biển giống nhau. Một con chim sẻ phàn nàn với Chúa: “Chúa cho con công nhiều màu sắc rực rỡ xinh đẹp, còn cho chim hoàng anh thì hót thật hay trong khi con chẳng được gì và còn bị quên lãng. Tại sao Chúa lại dựng nên con chỉ để cho con đau khổ?” Chúa nhẹ nhàng trả lời: “Con không được tạo dựng để chịu đau khổ. Con đau khổ vì con phạm vào một lỗi làm giống hệt như con người, đó là con so sánh mình với người khác. Hãy bằng lòng với chính mình, vì không có so sánh thì cũng không có đau khổ”.
Phải chăng nếu để ý sẽ thấy rằng chúng ta thường hài lòng với những gì chúng ta có cho tới khi chúng ta so sánh những gì mình có với những gì người khác có?
Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến dụ ngôn thuê người làm vườn nho, thuê người làm từ sáng sớm cho đến người chỉ làm được một giờ trước khi nghỉ và tối đến tất cả đều lãnh được một đồng, khiến cho người làm từ sáng sớm bất mãn kêu ca ông chủ bất công.
Để hiểu rõ thêm về dụ ngôn nầy, chúng ta cần phải hiểu về bối cảnh hoàn cảnh của xã hội Palestine thời Chúa Giêsu sinh sống. Theo William Barclay, một nhà chú giải thánh kinh, ở Palestine mùa hái nho chính vào cuối tháng Chín. Sau đó là mùa mưa. Nếu không hái nho kịp trước khi mùa mưa đến thì nho sẽ hư, vì vậy người ta phải chạy đua với thời giờ để kịp thu hoạch.
Tiền công trả cũng bình thuờng, một đơniê là tiền công một ngày bình thường của một người làm mướn. Những người đứng chợ không phải là những người biếng nhác ở đầu đường xó chợ, hạng ăn không ngồi rồi. Ở xứ Palestine, chợ là nơi trao đổi lao động. Người ta đến đó vào sáng sớm, mang theo dụng cụ lao động của mình và chờ ở đó cho đến khi có người đến mướn. Họ ở đó chờ công việc, bằng chứng là trong số họ có người chờ đến năm giờ chiều, chứng tỏ họ muốn làm việc như thế nào.
Những người này là những nhân công làm thuê, thuộc tầng lớp lao động thấp nhất, đời sống của họ luôn bấp bênh, trong đe dọa bị đói. Họ hoàn toàn sống nhờ vào sự thương xót, vào cơ hội làm việc. Nếu họ thất nghiệp một ngày, thì con cái sẽ bị đói. Giống như ở Việt Nam bây giờ, lương công nhân khoảng một hai đô la, và gia đình nào có thể để dành với đồng lương một hai đô la chứ? Do đó, đối với họ một ngày thất nghiệp là một tai họa.
Phải chăng ông chủ bất công? Không, ông chủ không bất công, vì lẽ người làm từ sáng sớm đã đồng ý đã thoả thuận về tiền công nhật là một đồng và họ lãnh nhận được một đồng. Họ lãnh nhận đủ tiền lương của một ngày cho một ngày trọn làm việc. Nhưng khi họ thấy người làm sau cũng được một đồng, mà thật sự đó không phải là vấn đề của họ (it was really none of their business), họ đâm ra tức giận phàn nàn kêu ca. Có lẽ người làm sớm sẽ bằng lòng an tâm nếu họ không chơi trò so sánh. Họ so sánh những gì họ được trả với người khác được trả khiến họ bất mãn để rồi bị lãnh nhận một câu hỏi tuy thành thực nhưng đầy đau đớn: “Phải chăng các người ghen tị vì tôi quảng đại?”
Với dụ ngôn này, một nhà chú giải Thánh kinh đã thêm rằng, người chủ bày tỏ cả sự công bằng lẫn quảng đại. Công bằng với người làm sớm và quảng đại với người làm sau. Ông biết người làm sớm có đủ tiền lo cho nhu cầu sinh sống thường ngày, và quan tâm đến người làm sau. Ông biết rằng một đơniê một ngày không phải là số lương lớn, và nếu người làm công trở về nhà với một số tiền ít hơn nữa, vợ họ sẽ lo lắng và con họ sẽ bị đói, vì vậy người chủ vườn đã vượt qua lẽ công bằng và trả cho họ nhiều hơn số tiền họ đáng được.
Tuy hiểu như vậy nhưng chúng ta vẫn không thoải mái với dụ ngôn bởi lẽ thông thường người chủ không trả lương bổng cho nhân viên theo lòng thương xót vì nếu làm như vậy chắc thương mại của ông chẳng tồn tại lâu dài, thứ đến, nếu tất cả người thợ đều lãnh nhận lương bằng nhau với số giờ làm việc nhiều ít khác nhau thì chắc sẽ có chuyện đình công hay ít nhất cũng có cuộc biểu tình chứ chẳng chơi! Dụ ngôn này tuy không thực tế trong cuộc sống, nhưng đã nói lên sự khác biệt giữa Thiên Chúa và con người: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta,” cũng như làm nổi bật lòng quảng đại nhân lành của Thiên Chúa.
Tất cả đều là ân sủng. Trước mầu nhiệm cứu chuộc, một nhà chú giải Kinh thánh nói rằng, chỉ có Chúa Giêsu là người thợ làm từ sáng sớm, còn tất cả chúng ta chỉ là người đến sau làm muộn. Tất cả những gì chúng ta đã đang lãnh nhận cũng như ơn cứu chuộc đều là quà tặng do lòng rộng rãi của Thiên Chúa nhân lành. “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho đi nhưng không”, chúng ta được mời gọi làm sứ giả đem lại niềm vui cho con người. Thay vì đặt mình là người làm vườn nho, chúng ta hãy đặt mình vào vai trò người được chọn để phân phát tiền cho người làm, phải chăng chúng ta thấy niềm vui mừng sung sướng hiện trên khuôn mặt của người thợ chỉ làm được một giờ khi lãnh nhận tiền công và phải chăng chúng ta cũng đã đang muốn đem những niềm vui giống như thế đến cho tha nhân?
Một buổi sáng nọ, người đàn bà đã làm một cử chỉ lạ thường: dừng xe lại để đóng thuế đường, bà nói với người thâu ngân: “Tôi đóng thuế cho tôi và cho sáu chiếc xe phía sau tôi”. Thế là lần lượt đến phiên mình, sáu chiếc xe đều dừng lại và nghe người thâu ngân giải thích: “Ông không cần phải trả tiền nữa, người đàn bà lái chiếc xe phía trước đã trả thế cho ông rồi.” Tuy bỡ ngỡ, nhưng tài xế của sáu chiếc xe ấy không khỏi lộ niềm vui trên khuôn mặt.
Ông chủ vườn nho trong bài Tin mừng hôm nay và người đàn bà trả tiền thế đã mang lại niềm vui hạnh phúc cho tha nhân, còn mỗi người chúng ta?
56. Ganh tị
Trong cuốn tiểu thuyết được soạn thành nhạc kịch “Những Kẻ Khốn Cùng” (Les Miserables), của Victor Hugo, nhân vật chính là Jean Valjean, đã được thả ra sau 19 năm chịu khổ sai trong tù. Anh bị tù vì tội ăn cắp một ổ bánh mì cho những người con của bà chị ăn qua cơn đói. Sau khi được tự do, anh bước đi lang thang cả ngày để tìm thức ăn và chỗ ngủ qua đêm, không một ai trong làng dám chứa chấp một người đã có án tù ở trong nhà. Sau cùng, một vị giám mục tốt lành đã mở cửa đón tiếp Valjean với một bữa ăn tối và chỗ ngủ qua đêm. Tại bữa ăn tối, bà giúp việc cực lực phản đối giám mục đã ra lệnh cho bà phải dọn bàn ăn với bộ muỗng dĩa bằng bạc mà toà giám mục thường dùng để tiếp khách. Đêm hôm đó, valjean đã ăn cắp toàn bộ muỗng dĩa bằng bạc, rồi trốn ra khỏi nhà.
Ngày hôm sau trên đường tẩu thoát, anh nói dối với cảnh sát rằng Đức giám mục đã ban cho anh những món đồ quý giá làm kỷ niệm. Nghi ngờ, cảnh sát đem anh trở lại toà giám mục với những món đồ đã bị ăn cắp. Khi họ vừa đến toà giám mục, Đức giám mục đã nói ngay rằng ngài rất vui mừng gặp lại Valjean, vì ngài muốn tặng thêm cho anh những cái chân đèn bằng bạc nữa. hành động tha thứ và nhân từ đáng kính phục này đã gây ảnh hưởng lớn lao trên cuộc đời của Valjean tới nỗi anh đã thay đổi hoàn toàn, và trở thành một con người mới. Sau cùng anh đã dâng hiến cuộc đời còn lại để phục vụ tha nhân với lòng nhân từ hơn là lẽ công bằng.
Người chủ vườn nho đã cư xử với các công nhân theo định luật của tình yêu và lòng nhân từ, không phải luật lệ của kinh tế hay toán học nhắm vào tư lợi.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo ZENIT ngày 3/12/2000, Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận đã diễn tả những kinh nghiệm của ngài về 13 năm tù tội. Với những bạn tù không Công giáo, tọc mạch muốn biết làm cách nào ngài có thể giữ vững niềm hy vọng của ngài, ngài trả lời: “Tôi đã bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu, bởi vì tôi yêu những khuyết điểm của Chúa Giêsu”. Tồng giám mục, lúc đó nói: “Trong lúc hấp hối trên thánh giá, người trộm cướp xin Chúa nhớ đến hắn khi Chúa vào Vương Quốc của Người. Nếu là tôi, tôi sẽ trả lời: “Tôi sẽ không quên anh, nhưng anh phải đền các tội ác của anh trong luyện ngục”. Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi”. Chúa đã quên tội lỗi của người này. Cũng một sự việc đã xảy ra với bà Mary Magdalene, và với người con trai phung phí. Chúa Giêsu không nhớ tí nào, Người tha thứ cho toàn thế giới”.
“Chúa Giêsu không biết toán học”, ngài nói thêm: “Điều này được thấy rõ trong dụ ngôn người mục tử tốt lành. Người có 100 con chiên, một con bị thất lạc và không ngần ngại Người đi kiếm nó, để 99 con khác trong chuồng, đối với Chúa Giêsu, một con giá trị bằng 99 con, hay là có khi hơn nữa.
Dụ ngôn người thợ làm vườn nho được bắt đầu bằng chữ “Nước Trời”. Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa và luật lệ của Nước Trời. Trong cuốn “The Divine Trap”, Richard Hoefler nói rằng: “Trước hết Thiên Chúa là người chủ tuyệt đối. Theo như dụ ngôn nói với chúng ta, Người làm điều mà Người muốn làm với cái gì thuộc về Người. Vương Quốc Thiên Chúa không phải là một nền dân chủ nơi mà chúng ta quyết định cái cách thức những sự việc sẽ được làm bởi một đa số phiếu bầu cử”.
Chúa Giêsu đã nói dụ ngôn này không những với các môn đệ của Ngài, mà còn cho các người Biệt phái, là những người đã có quan niệm rằng Vương Quốc Thiên Chúa thuộc quyền sở hữu chủ của họ. Richard Hoeffer đã nhận xét:
“Những người Biệt phái đã quên điều này. Vương Quốc Thiên Chúa thuộc về Thiên Chúa. Chúa Giêsu đối chất với họ rằng các ông đã khoe mình là những người đạo đức, có phải vậy không? Mọi người đều biết và kính trọng các ông vì điều này. Đó là tiền công các ông đã được trả. Đó là điều Thiên Chúa thưởng cho các ông. Còn đối với những người khác, những người tội lỗi và nghèo khó, họ có sự liên hệ độc đáo của họ với Thiên Chúa. Ngài sẽ cư xử với họ theo như Ngài muốn, vì tất cả đều chỉ là những công nhân trong vườn nho của Ngài. Trong vườn nho này, Thiên Chúa là chủ. Ngài có quyền tuyệt đối phân phát tiền lương và phần thưởng tuỳ theo ý của Ngài và chỉ có thánh ý Ngài mà thôi”.
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã viết: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các người, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy”.
Hãy cảm tạ Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta đến làm việc trong vườn nho của Ngài. Hãy bằng lòng với những ơn lành của Ngài thay vì đòi hỏi và ganh tị. Hãy dâng lên Thiên Chúa tâm tình phó thác như lời cầu nguyện của Đức Hồng Y John Henry Newmann:
“Chúa đã ủy thác cho tôi vài công việc mà Ngài không ủy thác cho kẻ khác. Tôi có sứ mệnh của tôi. Có thể tôi không bao giờ biết được nó trong cuộc sống này nhưng trong cuộc sống mai hậu ắt tôi sẽ rõ. Vì thế, tôi tin vào Ngài. Ngài không làm điều gì vô ích. Ngài có thể kéo dài hay rút ngắn cuộc sống của tôi; Ngài biết rõ điều Ngài định làm. Ôi lạy Chúa, con xin hiến dâng trọn vẹn toàn xác hồn con trong tay Ngài”.
57. Chúa quá nhân từ - Br Minh Trân, CRM
Một buổi sáng đi ngang qua con đường Euclid vùng Nam California, thấy đầy dẫy những người Mễ đứng dọc bên lề đường, tôi thắc mắc hỏi bác tài xế ở vùng đấy, và được bác cho biết là họ đang đứng chờ người thuê đi làm. Bác còn thêm: “Ở đây thuê Mễ rẻ lắm”. Tôi hỏi tiếp: “Vậy rẻ là bao nhiêu vậy bác?” Bác trả lời:”Có người trả họ hai đồng một giờ, có người thuê ba đồng, có người bốn hoặc năm đồng. Nhưng mà bốn năm đồng thì hiếm lắm. Tụi nó... hả... trả bao nhiêu nó cũng làm hết”. Thấy cảnh tượng nhân công nhiều mà người thuê nhân công thì ít, tôi chợt nghĩ có người sẽ được thuê đi làm, được năm ba đồng nuôi sống gia đình (nghĩ thấy xã hội cũng bất công...) và cũng có người sẽ đợi, đợi mãi rồi lủi thủi trở về nhà chờ sáng mai ra đứng đợi tiếp. Cuộc sống của họ thật bấp bênh. Nghĩ thật đáng thương!
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu diễn tả Nước trời qua hình ảnh một gia chủ gọi các người thợ vào làm vườn nho của ông. Nhưng khác với những người nhân công Mễ trong câu chuyện trên, những người thợ làm vườn nho trong bài Phúc âm đều được gia chủ gọi đi làm và được trả công cân xứng.
Theo một số nhà chú giải Thánh kinh thì ở đây Chúa có ý muốn nói cho dân Do Thái (những người được Chúa tuyển chọn, được mạc khải cách riêng) hay dân ngoại (những người chưa nhận biết Chúa), người công chính (những người ngày đêm hằng tuân giữ luật Chúa) hay người tội lỗi, nếu sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa mời gọi thì đều được Chúa thương đồng đều cả, bất kể trước sau. Chúa vẫn mãi nhân từ, hằng thương yêu hết mọi người, mọi thời, và thương như nhau- có người được Chúa gọi ngay từ tảng sáng, có người từ trưa, và có người mãi đến chiều; và tất cả đều được một đồng tiền lương. Chúng ta không rõ giá trị một đồng thời đó so với một đồng ngày nay thế nào, nhưng chúng ta biết chắc một điều là những người được gọi đi làm từ tảng sáng đã đồng ý ngay với giá lương ấy, và những người được gọi đi là về sau thì cũng không chút phàn nàn khi lãnh lương.
Mỗi người chúng ta, sau khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, hằng ngày đón nhận biết bao ơn phúc và tình thương của Chúa. Hôm nay là dịp để chúng ta cùng nhau nhìn lại ơn gọi cao quý mà Chúa đã kêu gọi mỗi người chúng ta vào làm vườn nho Chúa. Chúng ta tin rằng cho dầu chúng ta được nuôi dưỡng và lớn lên trong gia đình đạo hạnh ngay từ tấm bé, hay cho dầu suốt cả đời sống xa tình Chúa và nay được ơn nhận biết Chúa trong những ngày tháng cuối đời, chúng ta đều có quyền tin chắc rằng Chúa luôn yêu thương chúng ta và yêu thương như chính mình Ngài.
Lạy Chúa, chúng con cám ơn Chúa vì Chúa đã gọi, đã chọn, và đã trao cho chúng con mỗi người mỗi việc trong vườn nho Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con được luôn rộng mở cõi lòng đón nhận ơn Chúa. Chúng con muôn đời cảm tạ ơn Chúa. Xin Chúa thương đến những người vẫn còn “vô công rỗi nghề đứng nơi đầu chợ”, ban cho họ được nhận ra tiếng Chúa mời gọi và sẵn sàng quảng đại thưa tiếng Xin Vâng.
58. Dụ ngôn ‘Những người làm vườn nho’
Thường thích nói cầu xin Chúa ban ơn. Để Chúa ban ơn phải sám hối và được Chúa tha tội để có ơn thánh hoá. Hôm nay nói rõ thêm: Phải làm việc "làm vườn nho Chúa" mới được trả công xứng đáng. Là củng cố cho khẳng định "ngoài Giáo Hội không có cứu độ".
Vườn nho là Nước Trời. Ông Chủ là Thiên Chúa. Thuê người làm là Thiên Chúa mời gọi. Gặp ai Người cũng đều mời gọi. Có làm vườn nho, có công mới có thưởng. Thiên Chúa thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự đáp lại lời Người mời gọi và tuỳ theo việc làm của mỗi người (theo sự đánh giá của Ngưòi). Thiên Chúa biết việc Người làm (chúng ta làm sao biết!). Phải hiểu bài Phúc âm theo những áp dụng trên.
CHÚ GIẢI
- Thuê người làm vườn nho: Thiên Chúa mời gọi mọi người mà Người gặp gỡ đi làm vườn nho là gia nhập và làm việc trong nước của Người là Giáo Hội.
- Thoả thuận với họ là mỗi ngày một đồng: hợp đồng "Làm việc" để được Nước Trời. Được hay không được. Không có ít hay nhiều.
- Ông sai họ đi làm vườn nho: Đức Giêsu, các tông đồ, Giáo Hội rao giảng ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ai tin, chịu phép rửa, gia nhập Giáo Hội, làm việc "những điều Đức Giêsu dạy....."
- Giờ thứ ba, ông trở ra chợ thấy có những người ở không, ông bảo "hãy đi làm vườn nho Ta, Ta sẽ trả công xứng đáng: Gặp là gọi và hứa "trả công xứng đáng (tuỳ theo việc họ làm, không hợp đồng cụ thể). Không gặp thì không gọi được. Phải cho Chúa gặp.
- Giờ thứ sáu, giờ thứ chín, giờ thứ mười một..: Sao các anh "không làm gì hết", hãy đi làm vườn nho cho Ta: Không có giờ thứ 12 hay 13. Làm việc một giờ cũng là có làm. Giờ 12 thì có làm gì để đánh giá và thưởng. Chờ giờ 12, mới gặp (không gọi). Có người tính toán "để gần chết hãy xin rửa tội được lên thiên đàng ngay"? Không biết ai bày chuyện nầy?
- Chiều đến, trả công.. bắt đầu từ người đến sau hết: Nếu bắt đầu từ người trước hết cho họ về trước thì không có cãi cọ. Câu chuyện được sắp đặt (chứ không tự nhiên) để nói vế những người được mời gọi trước hết là Israel (nhất là biệt phái và luật sỉ) cằn nhằn, trở nên sau hết, bị loại trừ (như đã xảy ra mà không cằn nhằn được!). Muôn dân được mời gọi sau là do ý định của Thiên Chúa sắp xếp và rõ ràng họ "làm việc" tốt hơn người Do thái. Họ xứng đáng ơn cúư độ. Và chúng ta thấy không có vấn đề "cằn nhằn" vì Thiên Chúa trả công cho mọi người "xứng với việc họ làm" (theo đánh giá của Thiên Chúa).
- Những kẻ trước hết thì trở nên sau hết....: bị loại hết thì những kẻ sau hết tự nhiên được đôn lên trước hết. Do thái bị loại hết thì còn dân ngoại thôi. Sau trở thành trước.
- Được gọi thì nhiều mà được chọn thì ít: Có điều kiện như qui định thì mới chọn. Không có "nhưng không". Không đủ điều kiện thì bị loại là lẽ đương nhiên. Những kẻ được gọi phải "cho" điều kiện để được chọn. Không thể xấu tốt gì cũng chọn.
Thiên Chúa nhân hậu và công bình. Là sự công bình của con tim (chứ không phải của lý trí vô cảm). Thiên Chúa phải như vậy mới là Thiên Chúa toàn thiện, vừa công bình mà cũng vừa nhân hậu. Cằn nhằn vì không hiểu cách hành xử của Thiên Chúa.
Thiên Chúa gặp ai cũng gọi. Gặp trước gặp sau là do ý định của Người trừ khi người ta trốn tránh Thiên Chúa, cố tình từ chối Thiên Chúa, không chịu đi làm vườn nho.
Có công mới có thưởng. Vô công bất thụ lộc. Người chân chính không có công không nhận lộc. Con người thường xin Chúa ban "nhưng không". Làm vườn nho Chúa thì mới có công. Không chịu giữ đạo Chúa mà muốn lên thiên đàng hoặc đợi gần chết mới chịu phép rửa hoặc chịu phép rửa mà không giữ đạo đợi giờ chết nhờ người ta rước cha xức dầu. Muốn vào thiên đàng vào giờ thứ 25. Không làm vườn nho Chúa, Chúa đâu phải trả công "Nước Trời".
Thiên Chúa rất nhân từ nhưng cũng công bình vô cùng. Nhân từ có lý do. Nhưng lý do của Thiên Chúa chúng ta không biết nổi vì chúng ta hẹp hòi, ích kỷ. "Ta tốt bụng còn bạn thì hẹp hòi" cằn nhằn.Thiên Chúa không hề hà, hệt hạt, tuỳ tiện. Thiên Chúa thấy tường tận, chí lý khi hành động còn chúng ta chỉ thẩy phiến diện vì chúng ta bị giới hạn "thụ tạo".
Hãy nhân từ như Cha trên trời là Đấng nhân từ. Ngưòi muốn lòng nhân từ hơn của lễ.
59. Thợ làm vườn nho – Radio Veritas Asia
Kể từ ngày Mẹ Têrêsa Calcutta qua đời, chúng ta đã biết không đầy hai năm sau khi Mẹ qua đời, hồ sơ phong chân phước cho Mẹ đã được khởi sự. Đây quả là một kỷ lục trong Giáo Hội, nhưng Mẹ Têrêsa Calcutta không chỉ là một vị thánh của Giáo Hội mà còn là một vĩ nhân của thế giới. Mẹ không chỉ là một mẫu gương thánh thiện cho các tín hữu Kitô, nhưng Mẹ còn để lại một gia sản tinh thần chung cho cả thế giới, gia sản đó là người ta không thể giải quyết mọi vấn đề đau khổ của nhân loại chỉ bằng tiền của vật chất, kỹ thuật, mà bằng trái tim rộng mỡ, bằng tấm lòng quảng đại.
Trước dư luận cho rằng, Mẹ Têrêsa không chủ trương giải quyết vấn đề nghèo đói tại Ấn Độ một cách tận căn. Mẹ đã trả lời:
“Tôi cảm thấy mình là người Ấn Độ cho đến tận đáy tâm hồn tôi. Những chiếc aó dòng cho phép các nữ tu cảm thấy mình nghèo với những người nghèo, được đồng hóa với những người tàn tật, những trẻ em, những người già cả và những người kém may mắn. Với cách ăn mặc như thế, các nữ tu thừa sai bác ái đã chia sẻ cuộc sống của những người nghèo khổ nhất trên thế giới. Dĩ nhiên, Ấn Độ cần có các chuyên viên, những nhà chuyên môn, các kinh tế gia, các y sĩ, các y tá để phát triển. Ấn Độ cần có một chương trình hoạt động rộng rãi được phối hợp chặt chẽ, nhưng chúng ta phải chờ đợi cho đến bao giờ các chương trình ấy được thực hiện? Chúng tôi không biết, nhưng trong khi chờ đợi thì dân chúng cần phải sống, cần phải có của để ăn, cần phải được săn sóc. Địa bàn hoạt động của chúng tôi tại Ấn Độ hiện nay là, bao lâu người dân còn cần những nhu cầu ấy thì chúng tôi còn tiếp tục công việc của mình”.
Quả thực, trong trái tim đơn thành, khiêm tốn, trong sạch của Mẹ Têrêsa Calcutta không hề có những chương trình vĩ đại, Mẹ chỉ thấy sự cần thiết trước mắt là sự nghèo đói khốn khổ của người đồng loại. Nhưng tấm lòng cảm thông và thông cảm ấy không chỉ thấy người dân đói khổ về vật chất, nhưng đôi mắt từ ái của Mẹ Têrêsa còn nhìn thấy một nỗi khổ khủng khiếp hơn của người đồng loại, đó là nỗi khát khao được yêu thương. Mẹ Têrêsa không chỉ trao ban một miếng bánh, một chén cơm, không chỉ trùm trên thân xác đói lạnh một tấm chăn, không chỉ băng bó một vết thương trên thân xác, nhưng món quà quí giá nhất mẹ ban chính là tình thương.
Đây vốn là nhu cầu cơ bản và thiết yếu nhất của mỗi con người, dù con người ấy sống trong một nước nghèo khổ như Ấn Độ hay trong một đất nước phồn thịnh như Hoa Kỳ. Mẹ đã tóm tắt chương trình hành động của Mẹ trong câu nói: “Tôi không bao giờ săn sóc cho các đám đông, tôi chỉ săn sóc cho một người mà thôi”. Quả thực, trong ánh mắt từ ái của Mẹ không có đám đông vô danh, không có con số trong đám đông mà chỉ có từng cá nhân trước mắt cần được yêu thương mà thôi. Trong trái tim đầy yêu thương của Mẹ không có chương trình hành động vĩ đại, mà chỉ có những cử chỉ cụ thể mà con người có thể làm cho từng đồng loại của mình mà thôi.
Thế giới ngày càng làm ra nhiều của cải vật chất, thế giới ngày càng có nhiều chuyên viên kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý. Dĩ nhiên, thế giới ngày càng có nhiều chương trình vĩ đại hơn, xóa bỏ bất công và xóa đói giảm nghèo, thế nhưng bất công và đói khổ vẫn còn đó. Như vậy, trong lịch sử nhân loại, chương trình vĩ đại nhất để xóa bỏ bất công, san bằng xã hội, hẳn phải là một số chế độ độc tài. Kết quả của chương trình hành động vĩ đại này thật là thảm khốc, người ta xóa bỏ một bất công để tạo nên những bất công mới, người ta đạp đổ một nhà tù để xây thêm nhiều nhà tù mới, người ta nại đến nhân quyền để chà đạp nhân quyền.
Thật ra, loài người muốn xóa bỏ mọi thứ bất công bằng tiền của và các phương tiện kỹ thuật, xét cho cùng trong sự tính toán của loài người thì tiền của vẫn là điểm quy chiếu tối hậu, đó là tư tưởng và cách giải quyết của loài người chúng ta. Còn tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa như chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất (x.Is 55,6-9), đường lối và cách giải quyết của Thiên Chúa thì hoàn toàn khác với loài người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đi vào tư tưởng, đi vào sự tính toán và cách giải quyết của Ngài. Thiên Chúa dựa trên một tiêu chuẩn khác với tiêu chuẩn và các phương tiện kỹ thuật, tiêu chuẩn đó là tình yêu, lòng độ lượng khoan dung, sự tha thứ cách quảng đại, tinh thần phục vụ dấn thân cách đắc lực. Đây là việc làm mà Chúa Giêsu luôn mời gọi mọi người thực hành đức công bình bác ái với mọi người: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Đây là tiêu chuẩn mà Chúa Giêsu muốn làm nổi bật qua dụ ngôn được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, chúng ta sẽ ngạc nhiên về cách giải quyết của Thiên Chúa, là người thợ chỉ làm có một giờ cũng lãnh bằng những người thợ làm quần quật suốt ngày. Với cách cư xử của ông chủ vườn nho, Thiên Chúa muốn cho chúng ta thấy cách cư xử độ lượng của Thiên Chúa đối với tất cả mọi người. Ngài cho chúng ta thấy rằng, bất công trong xã hội và tất cả mọi khổ đau của con người chỉ có thể giải quyết được bằng tình thương mà thôi. Sự thật hiển nhiên là thế giới không bao giờ thiếu của cải, có thiếu chăng chỉ là thiếu tình thương, thiếu lòng quảng đại, thiếu sự chia sẻ mà thôi. Thiếu tình thương thì không những người nghèo quằn quại trong đói khổ và cả người giàu cũng héo hắt trong vỏ ốc ích kỷ của mình.
Chúng ta được diễm phúc dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể, Tấm Bánh được bẻ ra để chia cho tất cả mọi người. Chúa Giêsu đến với chúng ta qua dấu chỉ ấy để mời gọi chúng ta quảng đại chia sẻ với mọi người. Xã hội sẽ không bao giờ hết những bất công và đau khổ, nhưng bất công và đau khổ sẽ vơi đi biết bao nếu mỗi người biết lấy tình thương, lòng quảng đại và sự chia sẻ đối với nhau. Đó phải là niềm xác tín của chúng ta trong cuộc sống mỗi ngày.
60. Hãy bằng lòng với những gì mình có
Bằng lòng hay chấp nhận cho dù mình được bất cứ điều gì, đó là điểm chính yếu của bài phúc Âm hôm nay. Trong sâu thẳm cõi lòng mỗi người chúng ta, ai cũng mong muốn được một cuộc sống trọn vẹn, đầy đủ: như là một người hoàn toàn; có tất cả mọi sự; có sự bình an trong tâm hồn; không vướng mắc những bận tâm và những thất bại trong cuộc sống. Chúa Giêsu đã phán “Sự bình an của Ta là quà tặng cho các con.” Qua và trong Chúa Kitô, Thiên Chúa ban sự bình an cho chúng ta, không phải sự bình an của thế trần ban cho chúng ta. “Ta không cho ban cho các con theo như cách thức của thế gian ban cho.” Chúa Giêsu nói với chúng ta sự bình an mà thế gian ban tặng chỉ là sự bình an tạm thời giữa những lúc yên lặng và chống đối. Sự bình an của Chúa Giêsu là món quà “Shalom.”
“Shalom” có nghĩa là: Trọn vẹn cuộc sống của bạn hoàn toàn có mục đích; có tất cả từ tinh thần cũng như vật chất. Bạn cảm nghiệm được bạn là một con người được Thiên Chúa tạo nên trong chương trình cứu rỗi của Ngài. Sự cao cả đó thì vượt quá khả năng của con người, ngay trong tư tưởng cũng không thể có được. Vì, những sự đó chính là sự kết hợp liên lỉ không ngừng được phát xuất từ chính Mầu Nhiệm nơi Thiên Chúa.
Thánh Phaolô viết trong thư thứ nhất gởi cho các tín hữu Corintô như sau: “Chúng tôi giảng dậy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển...điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã định sẵn cho những ai yêu mến Người.” (I Cor 2:7-9). Do đó hãy luôn bằng lòng!
Linda là sinh viên đại học năm thứ nhất. Cô ta quyết định không liên lạc với những người con trai đang dùng mọi cách để quen với cô ta. Sau khi nghe cô ta than phiền về những chàng trai đó, người bạn cùng phòng với Linda tìm cách giới thiệu cho Linda một người bạn trai. Cô ta hỏi Linda muốn có người bạn trai miền Bắc hay miền Nam. Lấy làm lạ vì câu hỏi đó, Linda hỏi lại rằng “Họ có gì khác biệt? Người bạn giải nghĩa, “Trai miền Nam thì hiền hoà dễ thương, hay mơ mộng. Còn trai miền Bắc thì thích hoạt động, thích đi chỗ này chỗ kia và nhất là những nơi có nhiều niềm vui.” Linda suy nghĩ một lúc thật lâu về những sự khác biệt đó rồi hỏi: “Có thể tìm cho tôi người bạn trai miền Nam, nhưng thật khác biệt với người con trai miền Bắc hơn nữa được không?”
Chúng ta thường hay tìm những cách thức này hay cách khác để mặc cả với cuộc sống. Chúng ta không chấp nhận mầu nhiệm Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta qua Chúa Giêsu và cuộc sống của chính mình qua cặp mắt nhân loại. Sau cùng chúng ta khám phá ra chúng ta đã rơi vào sự mù tối đó.
Một vài người trong chúng ta cảm thấy tìm kiếm sự hoàn hảo của cuộc sống là chạy trong vòng tròn không lối ra. Như, thấy mình không thua kém ai. Và có những người nghĩ rằng sự hoàn hảo của cuộc sống bình thường như một màn biểu diễn thời trang và nhan sắc. Chúng ta thường tìm nhiều mánh khoé để chiếm được sự hoàn hảo đó, nhưng sau cùng, khi chúng ta đứng trước sự thật thì những mánh khoé không giúp gì cho chúng ta.
Khi trải qua những khó khăn đó, chúng ta mới cảm nghiệm được Thiên Chúa đang cố đem đến cho chúng ta nguồn gốc của sự sống hoàn hảo, chính là tình yêu đã được mạc khải cho chúng ta trong Chúa Kitô. Cho đến khi nhận được sự thật đó, thì chúng ta đã uổng công phí sức vì thấy chính những sự thoả mãn tạm bợ đã kéo chúng ta vào hố sâu.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, chủ vườn nho thuê những người làm công và đồng ý trả công cho họ. Sau khi họ làm được vài giờ, ông chủ vườn cũng mướn những người khác vào làm như họ. Sau ngày làm việc, ông chủ trả tiền lương cho những người thợ như đã thỏa thuận. Người làm trước cũng bằng người làm sau. Những người thợ làm trước không cảm thấy hài lòng nên nói với chủ vườn: “Ông trả cho họ bằng chúng tôi sao?” Chủ vườn nói với họ, “Tại sao lại ghen tỵ, vì tôi rộng lượng chăng?” Chúa Giêsu kết thúc dụ ngôn như sau: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết.” (Mt 20:16).
Một người quảng cáo kể một câu chuyện về một người trong nhóm họ treo một bảng hiệu trước nhà mình như sau: “Tôi sẽ tặng mảnh đất này cho những ai cảm thấy mình thật sự thỏa mãn, có đủ mọi sự.” Một chủ nông trại giàu có đi ngang qua, đọc thấy, nên đến với chủ nhà và nói: “Tôi là người thích hợp nhất để được mảnh đất của ông, vì tôi có đủ điều kiện mà ông muốn: Tôi rất giầu có. Tôi có tất cả mọi sự tôi muốn. Tôi rất thoả mãn mọi sự.” Người quảng cáo hỏi người đó: “Có thật sự là ông thỏa mãn mọi sự không?” Người giầu có đáp: “Đúng như vậy, tôi có mọi sự tôi cần nên tôi rất là thỏa mãn.” Chủ nhà cười và nói với người kia: “Này ông bạn, nếu bạn đã thỏa mãn rồi thì sao lại muốn mảnh đất này?”
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng viết cho chúng ta một tờ quảng cáo như sau: “Ta sẽ ban sự bình an trong tâm hồn, trí lòng và sẽ ban sự mãn nguyện cho tất cả những ai tuyên xưng chân lý Phúc Âm của Chúa. Hãy bằng lòng với chính mình và sống với những gì mình có.”
61. Lòng quảng đại của Thiên Chúa
Douglas được cả nước biết như là người sáng tạo ra giầy dép. Trong những năm đầu, ông bị thất nghiệp lâu dài đến nỗi chỉ còn một đồng tiền cuối cùng. Tuy nhiên, ông đã bỏ một nửa đồng đó – tức là 50 xu – vào giỏ xin tiền ở nhà thờ. Sáng hôm sau, ông nghe biết có một công việc ở thành phố bên cạnh mà vé đi xe lửa là một đồng. Xem ra nếu giữ lại 50 xu kia thì thật là khôn ngoan. Tuy nhiên, ông đã mua vé với 50 xu còn lại và đi nửa đường tới nơi gần đến. Ông bước ra khỏi xe lửa và bắt đầu đi bộ qua thành phố.
Trước hết ông đi tới một khu nhà lớn, ông nghe rằng có xí nghiệp ở một quãng đường nữa – đang cần thuê công nhân. Trong vòng 30 phút, ông có được một việc làm với tiền lương là 5 đô la một tuần, còn hơn số lượng ở thành phố khác. Tiền lương tuần lễ đầu tiên của ông đã gấp 10 lần số tiền ông giúp cho công việc của Chúa.
Chúa Giêsu cũng vừa nói với chúng ta về một số người thất nghiệp khác. Người chủ nhà cho họ làm việc vào những giờ khác nhau trong ngày. Một ít người làm trọn ngày, những người khác chỉ làm vài giờ, và số người khác nữa làm việc có một giờ thôi. Vậy mà đến chiều ông chủ chỉ trả tiền công cho họ bằng nhau. Những người làm việc trước tự nhiên than phiền, nhưng người chủ trả lời: “Sao các anh lại ghen tỵ về lòng quảng đại của tôi?”
Bài học chính này là Thiên Chúa luôn quảng đại, Nước Trời không hoạt động như nước trần gian, và đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của loài người, như bài đọc I nói với chúng ta. Phải, Thiên Chúa rất quảng đại. Bắt đầu với lòng quảng đại, Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, chia sẻ cho chúng ta sự sống và hạnh phúc của Ngài. Dĩ nhiên, với lòng quảng đại, Thiên Chúa ban cho chúng ta ý chí tự do để chúng ta có thể quyết định yêu mến Thiên Chúa hay không, lãnh nhận phần thưởng Nước trời hay không.
Thiên Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta nhiều phúc lành về thể xác và tâm hồn. Ngài cung cấp cho ta dồi dào thực phẩm. Sự thiếu thốn ngày nay là do tính tham lam và quản lý tồi của con người.
Con Thiên Chúa là chính lòng quảng đại: Khi Chúa Giêsu biến nước thành rượu, Người bảo những người giúp việc đổ nước đấy chum “cho tới miệng”, với mẻ cá lạ lùng “họ chất đầy hai thuyền”. Ngài hóa bánh ra nhiều với vô số đến nỗi bánh dư lại “còn 12 thúng”. Ngài rộng rãi khen ngợi đồng tiền quảng đại của bà góa. Ngài ban rộng rãi thời gian, sức mạnh và mối thương cảm. Và sau hết, Ngài đã đổ ra đến giọt máu châu báu cuối cùng mà cứu độ chúng ta. Ngài còn tiếp tục ban Mình và Máu Ngài trong Thánh lễ này cũng như mỗi thánh lễ trên khắp cả thế giới trong mọi lúc.
Đấng Thiên Chúa làm người quảng đại dạy ta rằng: “Hãy cho, người ta sẽ cho lại, và họ sẽ đong cho anh em những đấu lớn, lắc chặt và đầy tràn, vì anh em đong đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Người anh hùng trong câu chuyện, Douglas, một thợ đóng giày đã kinh nghệm điều này.
Ước gì tất cả chúng ta kinh nghiệm được những kết qủa của lòng quảng đại. Ước gì chúng ta quảng đại với Thiên Chúa vì Ngài luôn quảng đại với ta.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
62. Minh Họa Lời Chúa - Chúa Nhật 25 TN Năm A
Thiên Chúa nhân hậu với mọi người
1. Giá bốn căn hộ bằng nhau
Một dãy phố nọ có bốn căn hộ. Căn một trị giá 40 ngàn đô, căn hai 30 ngàn đô, căn ba 20 ngàn đô và căn tư 10 ngàn. Bạn là chủ căn một. Một hôm có người gọi đến xin mua căn hộ của bạn là 50 ngàn đô. Thế là bạn vui mừng và đồng ý bán ngay, vì thực giá căn hộ của bạn chỉ có 40 ngàn đô thôi. Nhưng hôm sau, bạn nghe tin người mua căn hộ của bạn cũng mua hết ba căn hộ kia, và mỗi căn cũng với giá 50 ngàn đô. Thật là một tin sét đánh! Bạn giận dữ, gọi điện kêu trách người mua. Ông ta trả lời:
- Tôi đâu có đối xử bất công với bạn, bạn đã thỏa thuận với tôi với giá 50 ngàn đô. Hay là bạn ganh tị vì tôi rộng lượng đối với ba người kia.
Câu chuyện trên đây minh họa câu chuyện của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay.
Thời Chúa Giêsu, những người được thuê mướn vào làm vườn nho chỉ những kẻ tội lỗi. Họ nghe lời Chúa kêu gọi mới ăn năn thống hối trở lại với Chúa. Còn đám thợ được thuê từ sáng sớm là những người Biệt Phái. Họ giận dữ ganh tức vì thấy những kẻ tội lỗi mới ăn năn trở lại mà cũng được vào nước Chúa, được thưởng như họ.
Tại sao những người được thuê làm vườn nho từ sáng sớm ganh tức với đám thợ được thuê muộn?
Chúa Giêsu đã trả lời cho chúng ta: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao?... Hay là vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức". (Mt. 20, 13-15).
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đừng so sánh mình với kẻ khác, mà hãy chấp nhận hiện trạng của chúng ta, theo lời khuyên của Thánh Phaolô: "Mỗi người hãy xem xét việc làm của chính mình, và bây giờ sẽ có lý do hãnh diện vì chính mình, chứ không phải vì so sánh với người khác... Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt, thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời" (Gl. 6, 4.7-8)
Điều quan trọng trong cuộc sống không phải là những gì người khác nghĩ về chúng ta hoặc chúng ta nghĩ gì về người khác, mà là những gì Thiên Chúa nghĩ về chúng ta. (Theo "Sunday homilies").
2. Những cử chỉ lạ thường
"Hãy thực thi sự tử tế một cách gàn dở và những cử chỉ đẹp một cách vô nghĩa".
Đây là một khẩu hiệu đã được rất nhiều người ở khắp nước Mỹ hiện nay.
Một buổi sáng mùa đông nọ, trên chiếc xe chất đầy quà giáng sinh, một người đàn bà đã làm cử chỉ lạ thường. Khi dừng xe lại để đóng thuế cầu bắc qua vịnh San Francisco, bà đưa tiền thuế và nói:
- Tôi đóng thuế cho xe tôi và 6 chiếc xe sau tôi.
Bà hành động cách khác thường như thế vì đã đọc trên tủ lạnh của người bạn.
"Hãy thực thi sự tử tế một cách gàn dở và những cử chỉ đẹp một cách vô nghĩa".
Tại New Jersey, ngày nọ người ta thấy 12 người dọn dẹp sân cỏ của những người già. Tại Chicago, có cậu thiếu niên cào tuyết cho chỗ đậu xe của người hàng xóm...
Và không biết bao nhiêu những hành động tử tế như thế được thực thi cách gàn dở và những cử chỉ được làm cách vô nghĩa như thế.
Trong Kinh Thánh có rất nhiều hành động hết sức bất thường như thế, như Con Thiên Chúa vô cùng cao cả sinh ra nghèo hèn, chết nhục nhã trên khổ giá. Bất thường quái lạ đến nỗi người Do Thái cho là điên rồ, người Hy Lạp gọi là yếu đuối. Thánh Phaolô cũng gàn dở không kém khi ông tuyên bố: "Vinh dự của tôi là chính thập giá Đức Kitô". Nhưng với Thiên Chúa, đó chính là kẻ khôn ngoan và sức mạnh, là tình yêu và trao ban vô vị lợ, quảng đại, khoan dung như trong Tin Mừng hôm nay, những người làm vườn nho giờ chót cũng được lãnh lương bằng những kẻ vào làm từ sáng sớm "Phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt" (Mt. 20. 12).
Nhưng đó chính là hành động của Thiên Chúa: Trao ban mà không tính toán, cho không cần cho lại, hành động mà không kể gì khen chê, không chỉ yêu thương bạn hữu mà cả kẻ thù. Đó chính là cách hành xử của Chúa khi nhập thể cứu chuộc nhân loại. Và người Kitô hữu cũng được mời gọi hành xử theo cung cách và lối suy nghĩ đó của Chúa, là vượt lên cái bình thường, bước vào cõi sống siêu nhiên, cõi sống của những người con sống nhân từ quảng đại như Cha trên trời. (Theo "Tin vui mùa đông").
3. Thiên Chúa công bình
Một hôm Thiên Chúa đi vào thiên đàng. Ngài ngạc nhiên thấy tất cả những người chết đều được vào đó cả, không ai bị sa hỏa ngục. Ngài suy nghĩ phải chăng Ngài không phải là Đấng công bình vô cùng. Ngài gọi sứ thần Gáp-rien đến và bảo:
- Con hãy tập trung mọi người đến trước mặt Ta. Đọc cho họ nghe 10 giới răn của Ta.
Sứ thần đọc giới răn thứ nhất và Chúa phán bảo:
- Những kẻ nào phạm giới răn thứ nhất đó, hãy xéo khỏi mặt Ta, đi vào hỏa ngục ngay.
Một số người từ từ rời khỏi đám đông và buồn bã khóc lóc đi vào hỏa ngục. Và sứ thần đọc tiếp các giới răn khác, cứ sau mỗi giới răn đều có số người rời khỏi đám đông và than khóc đi xuống hỏa ngục. Sau cùng chỉ còn lại có một người, người đó là một ẩn sĩ già.
Thấy vậy, Thiên Chúa hỏi sứ thần:
- Chỉ có một người này được vào Thiên Đàng hay sao?
Nói xong, Ngài bảo sứ thần gọi đám đông lại và cho họ trở vào thiên đàng. Thấy đám đông tội lỗi xấu xa thế mà Chúa lại tha thứ cho trở lại thiên đàng, vị ẩn sĩ tức giận nói với Chúa:
- Chúa không phải là Đấng công bình!...
Thiên đàng chính là ngôi nhà của tha thứ, của quảng đại khoan dung. Tha thứ khoan dung của Thiên Chúa dành cho con người và tha thứ bao dung của con người dành cho nhau.
Thiên Chúa đã ví thiên đàng như một bữa tiệc, trong đó từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc, địa vị, giàu nghèo, nhất là không phân biệt bạn thù đều đồng bàn với nhau. Thiên đàng ấy không chỉ ở đời sau mà bắt đầu ngay tại đời này. Mỗi khi con người biết tha thứ nhân hậu với nhau, mỗi khi họ chấp nhận đồng hành với nhau, sống khoan dung rộng lượng với nhau là lúc thiên đàng được rộng mở...
Chúa Giêsu đã mở cửa thiên đàng đó cho những người làm vườn nho trong Tin Mừng hôm nay. Những người sau chót chỉ làm có một giờ, thế mà Chúa cũng cho họ vào thiên đàng như những kẻ đã làm việc nặng nhọc cả ngày. Như thế làm sao khỏi bị ganh tức.
Nhưng Chúa Giêsu còn mở cửa thiên đàng khi Người đồng bàn với những người thu thuế, những người tội lỗi, những người bị xã hội loại bỏ, và nhất là khi Người tha thứ cho những kẻ đã giết treo Người trên thập giá. Vì ngôn sứ Isaia đã xác quyết: "Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu" (Is. 55,9) (Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày, tập III).
4. Bất hạnh vì ganh tỵ
Traund là một kiến trúc sư nổi tiếng và rất thành công trong sự nghiệp. Anh có vợ là Êlisabét và hai đứa con ngoan. Gia đình sống rất đầm ấm hạnh phúc. Và công việc làm ăn của anh ngày càng phát triển đến nỗi một mình làm không hết , phải hợp tác với Đavít mới đáp ứng hết nhu cầu của khách hàng.
Lúc đầu mọi việc êm xuôi tốt đẹp. Tình bạn đôi bên cùng sâu đậm. Nhưng sau một thời gian, Traund nhận thấy khách hàng quý chuộng Đavít hơn, nhờ anh đứng thầu nhiều dự án xây cất hơn. Thế là Traund nổi ghen lên, kiếm chuyện xích mích với bạn mãi, làm cho mối quan hệ giữa hai người ngày càng căng thẳng, lôi kéo luôn số nhân viên chia rẽ kình địch nhau.
Nhưng tai hại hơn cả là tình cảnh gia đình Traund. Mỗi khi đi làm về, anh cáu gắt với vợ con. Đời sống gia đình trở nên địa ngục sầu thảm. Rồi bàn tay phải của anh bắt đầu bị sưng khớp đau nhức, bắt buộc anh phải bỏ công việc, vào bệnh viện chữa trị. Khi xuất viện về nhà, anh như con sư tử bị giam trong củi.
Buồn khổ quá, vợ anh gọi điện thoại đến Cha Micae Pacli là một linh mục chuyên chữa bệnh tâm linh. Cha tới gặp anh, khuyên anh bỏ lòng ghen tuông, làm hòa với Đavít, để mọi việc được trở lại tốt đẹp an vui. Anh không đồng ý mà còn giận dữ. Nhưng sau một lúc cầu nguyện chung với anh, cha Micae đã khuyên bảo được anh viết thư xin lỗi Đavít.
Và lạ thay, từ đó ghen tuông của anh tan biến, tay anh không còn bị sưng khớp nữa. Gia đình anh trở lại êm ấm hạnh phúc, công việc làm ăn trở nên niềm vui cho anh như trước.
Ganh tỵ là mãnh lực có sức tàn phá lớn lao, nó phá hủy khả năng yêu thương. Chính sự ghen tuông đã thúc đẩy các Biệt Phái sát hại Chúa Giêsu, họ coi Ngài là kẻ thù không đội trời chung với họ.
Trong Tin Mừng hôm nay, cũng chính vì ganh ghét mà nhóm người làm vườn nho từ sáng sớm phê bình chỉ trích ông chủ bất công, khi ông chủ trả lương họ bằng những người chỉ vào làm lúc năm giờ, vì họ thấy ông chủ "tốt bụng với những người này mà họ đâm ra ganh tức".
Qua câu chuyện của kiến trúc sư Traund và dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta là tín hữu của Người sống quảng đại như Người, luôn yêu thương tha thứ cho nhau. Tình thương phá tan ganh tức. Nhất là khi chúng ta quảng đại yêu thương tha thứ thì chúng ta được sống an bình hạnh phúc. (Theo "Thiên đàng là thế đó).
5. Lòng quảng đại chân chính
Một hôm Chúa Giêsu bảo Phêrô và Gioan cùng leo núi với Ngài. Dọc đường Ngài bảo mỗi ông hãy mang theo một hòn đá. Ông Phêrô nhặt một hòn đá nhỏ bỏ túi, còn ông Gioan vác cả một tảng đá to. Do đường xa vác nặng, ông Gioan thở hổn hển và đến nơi sau hết. Còn ông Phêrô bước đi nhẹ nhàng thảnh thơi nên đến nơi trước. Chúa Giêsu cho hai ông ngồi xuống, rồi đọc lời chúc tụng, biến hai viên đá thành bánh. Dĩ nhiên chiếc bánh của ông Phê rô nhỏ bé, không đủ thỏa mãn cơn đói cồn cào của ông. Còn ông Gioan thì ăn no nê dư dật.
Lần khác, Chúa gọi hai ông leo lên núi với Ngài nữa. Rút kinh nghiệm lần trước, Phêrô mang theo một tảng đá to, phải cố gắng hết sức mới vác nổi lên núi. Đến nơi, Chúa Giêsu bảo hai ông ngồi xuống. Ông Phêrô trông đợi Chúa làm phép lạ nhưng Chúa bảo các ông ngồi lên tảng đá mà các ông đã vác theo. Phêrô cảm thấy xấu hổ trách Chúa, nhưng Chúa bảo:
- Lòng quảng đại đích thực không phải là lòng quảng đại tính toán.
Chúng ta thường nói: "Có qua có lại mới toại lòng nhau". Chúng ta cho là để được cho lại, chúng ta làm ơn là để được trả ơn. Chúng ta lập công là để được thưởng công. Chúng ta làm việc là để được lãnh lương như các người làm vườn nho trong Tin Mừng hôm nay.
Óc vụ lợi chi phối tất cả mọi quan hệ của chúng ta với tha nhân cũng như đối với Thiên Chúa.
Qua dụ ngôn những người làm vườn nho trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đảo lộn quan niệm thông thường của chúng ta. Qua toàn bộ cuộc sống và cái chết của Ngài, Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta một Thiên Chúa quảng đại đến độ trao ban cách nhưng không cho chúng ta Con Một của Ngài. Qua cách cư xử của Ngài, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta, Ngài yêu thương mà không mong đền đáp nào của chúng ta.
Lòng quảng đại đích thực không phải là lòng quảng đại tính toán. Tình yêu đích thực là trao ban cách nhưng không.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời, sống quảng đại, sống san sẻ, sống yêu thương cho đến cùng, như chính Ngài đã chết trao trên khổ giá. Tình yêu ấy mời gọi chúng ta tin tưởng phó thác hoàn toàn vào Người, tình yêu ấy mời gọi chúng ta thanh luyện tình yêu ích kỷ, vụ lợi của chúng ta.
(Theo "Chờ đợi Chúa").
63. Thợ làm vườn nho
Có lẽ nhiều người đã biết đến chuyện nhà triệu phú của một người Mỹ, ông là chủ những tiệm giầy bên Hoa Kỳ. Lúc còn thanh niên nghèo sơ nghèo xác. Có tần vào nhà thờ dâng lễ, trong túi chỉ còn một đồng duy nhất, ông đã không ngần ngại dâng cho Chúa nửa đồng, còn lại nửa đồng.
Sáng hôm sau, khi đọc trên báo thấy nơi thành phố bên cạnh có hãng cần người làm việc, anh ra mua vé xe, nhưng rủi thay vé xe một đồng mà bây giờ anh chỉ còn lại nửa đồng, cứ mua vé xe đi nửa đoạn đường và chủ trương sẽ đi bộ nửa đoạn đường còn lại. Nhưng khi đến nhà ga nửa đường, anh xuống xe và khi vừa bước đi bộ vài trăm thước thì anh thấy cạnh đường có xưởng đang cần người làm việc vôi số lương cao hơn với số lương của công việc mà anh định đến xin nơi thành phố bên cạnh.
Như thế, có thể nói: Anh đã đóng góp cho Chúa nửa đồng, Chúa đã cho lại anh góp trăm tần, nhiều hơn cũ. Và chúng ta cũng nhớ chuyện dụ ngôn của Tagore, thi sĩ Ấn Độ về người ăn mày chỉ cho Chúa một nắm gạo, nhưng Chúa cho lại một cục vàng Những người thợ chỉ đóng góp cho Chúa vào giờ cuối cùng, chỉ có một, hai giờ đồng hồ làm việc, thế mà được Chúa trả công gấp mấy tần, bằng những kẻ mệt nhọc cả ngày.
Bài dụ ngôn không chú trọng đến việc đóng góp của con người, nhưng đến thái độ quảng đại của Thiên Chúa là chủ vườn nho, hơn quá sức tưởng lượng của con người, hơn quá sức tưởng tượng của những người thợ. Thái độ của những người Pharisiêu nghe Chúa nói dụ ngôn này, thái độ của một số anh chị em Kitô đầu tiên từ Do Thái giáo hay những người Kitô giáo đến từ dân ngoại, và ngày hôm nay thái độ của mỗi người chúng ta, thái độ ỷ lại vào công nghiệp trước mặt Chúa hay vào sự đóng góp của mình cho Chúa, rồi sinh ra ganh tị, khinh dể những anh chị em khác mà mình cho là không có công khó gì đối với Chúa.
Trong Nước Chúa, tất cả đều là ân sủng, tất cả đều do Thiên Chúa bắt đầu trước, phần con người chỉ đáp trả công vào ân sủng Chúa ban mà thôi. Vì thế, không nên có thái độ ganh tị, ỷ lại, không nên tự phụ, tự kiêu vì những công việc của mình, nhưng hãy khiêm tốn đón nhận, tin thắng vào lòng nhân từ của Chúa là Đấng luôn sẵn sàng ban ơn cho mỗi người chúng ta vượt quá lòng chúng ta mong ước.
Nơi bài đọc II, thánh Phaolô trình bày cho các tín hữu Philipphê và cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay một bí quyết để sống, đó là không nhìn để so sánh mình với người anh em bên cạnh rồi ganh tị.
Nhưng hãy nhìn lên mẫu gương của Chúa, quyết tâm sống như Chúa Kitô, sống kết hiệp mật thiết với Ngài.
Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Philipphê mà chúng ta đã đọc trong bài đọc II là “dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ vang trong thân xác tôi, đó là sống kết hiệp với Chúa Kitô, chúng ta chỉ nhắm đến một mục đích duy nhất mà thôi “sống như Chúa Kitô, sống kết hiệp với Chúa”, để rồi từ đó chúng ta có thể đem cuộc sống của mình, lài năng của mình mà phục vụ cho anh chị em xung quanh. Dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ vang trong thân xác tôi qua những việc làm tốt, những việc bác ái mà chúng ta thực hiện hằng ngày.
Điểm thứ hai chúng ta có thể lưu ý trong bài Phúc âm hôm nay, đó là phản ứng của con người trước lòng quảng đại của Thiên Chúa. Con người hay những người thợ được ông chủ vườn nho mướn vào làm vườn nho cho có thái độ hẹp hòi, ganh tị, đặt giới hạn cho lòng quảng đại nhân từ của Thiên Chúa: “Ta không có quyền phân phát theo ý Ta hay sao? Hay vì Ta quá quảng đại mà các người lại ganh tị hẹp hòi”.
Đó là bài học mà Chúa Giêsu muốn ghi khắc vào tâm trí các tông đồ qua bài dụ ngôn trên. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đối với con người vượt quá sự con người có thể nghĩ đến, nhưng không vì thế mà lỗi luật công bằng. Tình thương của Chúa vượt quá mức độ công bằng, nhưng không hủy bỏ sự công bằng. Sự công bằng của Thiên Chúa không như sự công bằng mà con người chúng ta tưởng nghĩ: “Há anh đã chẳng đồng ý với Ta tiền lương mỗi ngày một đồng như vậy hay sao? Ngoài ra, Ta muốn thêm cho những kẻ đến sau bằng những người đến trước, há Ta chẳng làm được như vậy hay sao?”
Qua lòng tốt của Chúa, xem ra như là Thiên Chúa thiên vị, nhưng sự thật lòng tốt vô biên ấy đã phơi bày tật xấu, lòng ganh tị của những kẻ đến trước ỷ lại vào công nghiệp riêng của họ, làm việc cực mệt, nhọc nhằn suốt ngày để yêu sách Thiên Chúa phải thế này, thế nọ, phải cho họ hơn những người khác, những kẻ đến sau, những kẻ không có công trạng gì, những người tội lỗi, những người thấp kém trong xã hội. Tựu trung tất cả chỉ vì ganh tị với anh em xung quanh mà họ đã có thái độ phân bì như vậy.
Sự ganh tị làm cho con người mất đi lòng biết ơn đối với kẻ thi ân. Thiên Chúa là Đấng thi ân cho con người theo chương trình Ngài muốn, Ngài ban cho mỗi người chúng ta biết bao nhiêu hồng ân, những nén bạc khác nhau, người thì năm nén, người thì hai nén, người thì một nén, nhưng nếu chúng ta ghen tị thì thay vì chúng ta cảm lạ Thiên Chúa, vì những hồng ân mình đã nhận được; thì chính lúc đó chúng ta quay lại trách móc Thiên Chúa bất công, thiên vị.
Lạy Chúa, xin giúp cho mỗi người chúng con biết vượt qua được những thái độ ganh tị này. Xin Ngài mở rộng tâm hồn chúng con, để chúng con được sống khiêm tốn và quảng đại như Chúa, luôn biết nhìn ra những hồng ân của Chúa ban cho chúng con mà cảm lạ tri ân, chúc tụng Ngài. Xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
64. Lòng tốt của Thiên Chúa
(Trích trong ‘Hạt Giống Nảy Mầm’ – Những gợi ý suy niệm của Lm Trọng Hương)
1. Tư tưởng Của Thiên Chúa không giống tư tưởng loài người
Loài người chúng ta suy nghĩ giống như một người buôn bán: món hàng trị giá thế nào, vậy phải mua thế nào, bán thế nào? bao nhiêu thì đúng, bao nhiêu thì sai?
Chúng ta áp dụng suy nghĩ ấy chẳng những trong đối xử với người khác, mà còn cho cả Thiên Chúa nữa: tôi đã làm gì và làm bao nhiêu, cho nên Thiên Chúa phải ban cho tôi ơn gì và ban bao nhiêu. Chúng ta cho rằng như thế là công bằng.
Nhưng Thiên Chúa không muốn làm người bán, cũng không muốn làm người mua. Ngài chỉ muốn làm người Cha, yêu thương chúng ta là con. Ngài chỉ có thương yêu và chỉ dùng lòng tốt để đối xử. Đối với từng dứa con, Ngài không xét xem nó đã làm được gì, nó đáng được bao nhiêu. Ngài chỉ nghĩ nó cần được chăm sóc như thế nào, ban cho nó cái gì là tốt nhất.
Khi lẩm bẩm trách, những người thợ làm nhiều giờ muốn lấy suy nghĩ của mình áp đặt lên suy nghĩ của ông chủ, họ muốn ông đừng làn người cha yêu thương mà hãy làm người buôn bán vô tình.
2. Công bình và thương xót
Nhiều người đọc xong dụ ngôn này đã nghĩ rằng Thiên Chúa đối xử không công bình vì Ngài đã trả cùng một đồng cho những người làm việc suốt ngày và người chỉ làm có một giờ.
Thực ra chẳng có gì là không công bình cả: Vì ông chủ đã thỏa thuận với thợ về tiền công mỗi ngày là một đồng, nên nếu ông trả không đủ một đồng thì mới bất công. Nói cho đúng hơn: đối với những người làm suốt ngày thì ông chủ công bình; còn đối với người làm chỉ có một giờ thì ông chủ đã đối xử hơn mức công bình: ông đối xứ theo lòng thương xót.
Xem ra, đòi hỏi công bình là điều hợp lý. Nhưng xét theo thực tế, chúng ta không chịu nổi nếu Chúa cứ theo công bình mà đối xừ với chúng ta, đúng như lời Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được”. Cho nên, xét cho cùng thì chúng ta cần đến lòng thương xót của Chúa hơn là đến đức công bình của Ngài.
Vả lại đối xử công bình là đối xử bằng lý, còn đối xử với lòng thương xót là đối xử theo tình. Mỉa mai thay, bất chính như con người thì hay đòi đối xử bầng lý, còn công chính như Thiên Chúa lại thích đối xử bằng tình.
Flor McCarthy đã chứng kiến một cảnh tượng tương tự với dụ ngôn này và cho biết ông đã thay đổi cách suy nghĩ ra sao sau khi chứng kiến nó: có lần ông đến Cape Town nước Nam Phi. Đó là một buổi sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài đường không làm gì cả.
Ban đầu ông nghĩ rằng đó là những kẻ lười biếng, đang khi những người khác lo làm ăn thì những người này đứng đó chẳng làm gì cả. Đến trưa ông vẫn còn thấy đám người ấy vẫn đứng đó, mồ hôi đã nhễ nhại ướt đẫm lưng áo. Hỏi kỹ thì mới biết họ là những người thất nghiệp. Họ đứng chờ ngoài nắng, hy vọng có ai đến thuê họ đi làm chăng. Mãi tới chiều ông vẫn thấy đám người đó.Và khi hết ngày, họ lủi thủi ra về, trông rất tội nghiệp. Hôm đó MaCarthy rất hối hận vì đã kết án những người vô tội thất nghiệp ấy. Và ông đã soạn một lời cầu nguyện như sau:
“Tư tưởng của Ta không giống tư tưởng các ngươi và đường lối Ta không giống đường lối các ngươi”
“Như trời xanh cao hơn đất bao nhiêu
thì đường lối Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu”
Lạy Chúa,
Tư tưởng chúng con rất nông cạn, đường lối chúng con rất hẹp hòi, chúng con nghèo nàn và con tim chúng con chật chội. Xin Chúa mở rộng trí óc và con tim chúng con để chúng con suy nghĩ giống Chúa hơn, và hành động giống Chúa hơn.
Xin giúp chúng con đừng bực bội vì lòng tốt của Chúa đối với người khác
Xin giúp chúng con đừng cho rằng chúng con đáng được Chúa thưởng công
Xin giúp chúng con ý thức rằng chúng con cần đến lòng thương xót hơn là đức công bình của Chúa. Amen.
3. Giờ thứ 11
Cuối đoạn Tin Mừng này có một câu bất ngờ: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết “
Trong Tin Mừng có nhiều thí dụ minh họa: Một chàng thanh niên giàu có và đạo đức hỏi Đức Giêsu: tôi đã giữ các giới răn từ thuở nhỏ, vậy tôi phải làm gì thêm để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Lần kia Phêrô áy náy trình với Chúa: Thưa Thầy này chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy thì sao? Bồn chồn hơn nữa hai người con ông Dêbêđê nghĩ rằng mình thuộc số môn đệ đi theo Thầy trước hết cho nên xin Thầy dành cho mình hai chỗ tả hữu trong Nước của Ngài. Nhưng, đối với những “kẻ trước hết” ấy, Đức Giêsu đã không dành hai chỗ tả hữu ưu tiên, Ngài lại ban chúng cho hai tên trộm cướp. Đúng vậy, hai “kẻ sau hết” này đã ở hai bên tả hữu của Thập giá.,
Nói “trước hết” và “sau hết là tính theo thời gian. Nhưng liên hệ với Chúa không tính bằng thời gian mà bằng sự gắn bó tình yêu.
4. Hãy có một não trạng mới
Điểm sâu sắc nhất của dụ ngôn những người thợ vườn nho là đặt đối lập nhau hai não trạng:
a/ Não trạng của những thợ làm nhiều giờ là óc tính toán: làm gì cũng là để tính công, công càng nhiều thì phải được hưởng càng nhiều.
Đây là não trạng của đa số tín hữu chung ta. Chúng ta tính toán mình đã giữ đạo bao nhiêu năm, đọc kinh dự lễ bao nhiều lần; làm việc lành phúc đức bao nhiêu việc v.v.
Với não trạng ấy, chúng ta chăm chăm nhìn đến những việc mình đã làm và cứ bo bo nhìn vào sổ thu của mình. Chúng ta nghĩ rằng khi đến cuối đời (hết ngày làm việc), trình quyển sổ thu đó cho Chúa thì chắc chắn Ngài sẽ mở kho tàng ơn cứu độ và thanh toán sòng phẳng cho chúng ta.
Nhưng trong não trạng ấy, ta là ai, Thiên Chúa làm ai, liên hệ giữa Thiên Chúa và ta là gì? Ta chỉ là người làm công, Thiên Chúa là người thuê mướn, liên hệ hai bên là hợp đồng làm ăn: sống đạo theo não trạng này thật là nặng nhọc và vô tình, vô nghĩa.
b/ Thực ra, Thiên Chúa đâu có tự coi là người thuê mướn và cũng đâu có coi chúng ta là người làm công. Thiên Chúa yêu thương chúng ta theo hoàn cảnh của mỗi người chúng ta. Người thì hoàn cảnh này (đứng trước vườn nho từ sáng sớm), người thì hoàn cảnh khác (đứng trước vườn nho khi đã gần hết ngày), nhưng người nào cũng được Thiên Chúa thương và ban cho ơn cứu độ (được vào vườn nho, được lãnh một đồng).
Não trạng thoải mái và hạnh phúc nhất là cảm nhận tình thương ấy và đáp lại tình thương bằng cách tận tâm tận lực canh tác vườn nho, không tính toán làm lâu hay làm mau, làm được nhiều hay làm được ít, chịu cực khổ nhiều hay ít.
Cần phải thay đổi não trạng: sống đạo không bằng tính toán mà bằng cả tấm lòng.
5. Chuyện minh họa
Đây là diễn tiến một cuộc chạy đua 3000 mét.
Lúc bắt đầu, những tay đua chạy san sát nhau thành một nhóm rất đông. Một lúc sau, một nhóm nhỏ đã tách rời đám đông và chạy phía trước. Còn vài chục mét nữa thì một người vọt lên rất nhanh và tới đích.
Khán giả vỗ tay hoan hô nồng nhiệt. Một số người ôm những bó hoa tới tặng nhà vô địch. Các phóng viên xách Camera và máy chụp hình tới, vừa bấm máy, vừa thu hình, vừa phỏng vấn. Những người hâm mộ tới xin chữ ký. Một số hãng thương mại đến đề nghị ký hợp đồng với nhà vô địch.
Cuối cùng, ông chủ tịch Ban Tổ chức xuất hiện. Người ta mời nhà vô địch lên đứng trên một chiếc bục cao, người hạng nhì đứng trên bục bên phải thấp hơn một chút, và người hạnh ba bục bên trái thấp hơn chút nữa. Người ta mang đến 3 chiếc huy chương để ông chủ tịch đeo vào cổ họ.
Nhưng ông chù tịch ngỏ ý muốn gặp 3 người tới đích cuối cùng. Ban tổ chức không hiểu, nhưng vẫn làm theo lời ông. Khi họ tới, ông tươi cười trao chiếc huy chương vàng cho người hạng chót, chiếc huy chương bạc thuộc về người áp chót, và chiếc huy chương đồng cho người kế tiếp.
Nhà vô địch bực bội phản đối:
- Như thế là không công bình!
- Tại sao? ông chủ tịch hỏi lại.
- Tôi hạng nhất, tôi phải được thưởng. Thì anh đã được thưởng rồi. Này nhé khán giả đã vỗ tay hoan hô anh, báo chí đã chụp hình anh, những người hâm mộ đã tặng hoa cho anh, những hãng thương mại đã ký hợp đồng với anh. Anh đã được thưởng quá nhiều rồi. Bây giờ anh hãy nghĩ tới những người chạy sau chót: họ cũng cố gắng như anh, vất vả không kém gì anh, và cũng chạy hết đoạn đường 3000 mét như anh.
Anh thử nghĩ xem có công bình không khi anh thì được tất cả còn họ thì chẳng được gì?
65. Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn có đồng ý với cách xử sự của ông chủ vườn nho không? Tại sao? Lý do khiến bạn đồng ý hay không đồng ý dựa trên lòng ích kỷ của con người hay dựa trên lòng yêu thương?
2. Bạn nghĩ sao về chủ trương “Làm theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu”? Bạn có áp dụng chủ trương này trong gia đình bạn không?
3. Bạn có phân biệt 2 thứ công bằng: công bằng có tình thương, và công bằng không có tình thương không? Bạn thích thứ công bằng nào?
Suy tư gợi ý:
Theo cách giải thích truyền thống, bài Tin Mừng này muốn nói tới tính “nhưng không” của Nước Trời: người ta được vào Nước Trời hoàn toàn do ân sủng của Thiên Chúa ban nhưng không, chứ không phải do công lao của họ, mặc dù người ta vẫn phải có sự cộng tác của riêng mình. Vì thế, sẽ có những người theo Chúa từ khi vừa chào đời, những người này được cứu rỗi là một điều dễ hiểu. Nhưng cũng sẽ có những người đã sống suốt cả một cuộc đời tội lỗi hoặc không biết Chúa, mãi tới cuối đời mới giác ngộ, mới biết Chúa và theo Chúa. Cuộc đời họ chỉ theo Chúa vào những giây phút cuối cùng, có thể một vài năm, mà cũng có thể chỉ một vài phút trước khi chết (như trường hợp người trộm lành cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu trong Lc 23,39-43). Những người này cũng được ơn cứu rỗi y như những người đã theo Chúa suốt cuộc đời. Rất có thể những người sống đạo tốt đẹp suốt cả đời sẽ ganh tỵ với những người ấy. Dụ ngôn này trả lời cho những người ganh tỵ ấy.
Tuy nhiên, ta có thể giải thích dụ ngôn này theo một kiểu khác, để áp dụng tinh thần yêu thương một cách vô vị lợi, ít vị kỷ và bớt tính toán, so đo, hơn thiệt với mọi người. Nhất là để tập quan niệm, suy nghĩ theo cách của Thiên Chúa, cách vị tha, khách quan, không qui về mình.
1. Hai thứ công bằng: của trần gian và của Nước Trời
Mới đọc bài Tin Mừng, ai cũng cảm thấy ông chủ làm vườn nho đối xử như thế với những người làm thuê là không công bằng: người làm ít cũng như người làm nhiều đều nhận một mức lương bằng nhau. Vì theo suy nghĩ bình thường của người đời, người làm nhiều phải hưởng lương cao hơn người làm ít. Nghĩ như thế là hoàn toàn đúng và hợp lý. Nhưng với tình thương, người ta có thể suy nghĩ khác, cao hơn, mà vẫn hoàn toàn hợp lý.
Thật vậy, nhân loại sau này có một lý tưởng rất cao cả mà cho tới nay vẫn chưa thực hiện được, đó là làm theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu. Nghĩa là hưởng lương nhiều hay ít tùy theo nhu cầu của mình nhiều hay ít, chứ không tùy theo mình đã làm nhiều hay ít. Lý tưởng này ai cũng cho là hợp lý và đầy tình thương hơn lối hành xử thường tình là làm và hưởng thụ theo khả năng. Biết bao người đã say mê và sống chết cho lý tưởng ấy: Làm theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu. Trong lịch sử con người, nếu lý tưởng này có được thực hiện, thì nó đã được thực hiện trong cộng đồng Kitô hữu nguyên thủy, một cộng đồng hữu kiểu mẫu cho mọi cộng đồng Kitô hữu về sau.
2. Công bằng của Nước Trời: công bằng có tình thương
Dụ ngôn này diễn tả Nước Trời, vì nó khởi đầu bằng câu: “Nước Trời giống như…”, chứ không phải nó áp dụng cho thế gian này. Nước Trời là nước của tình thương, trong đó mọi người đều đối xử với nhau bằng tình thương, và có như thế Nước Trời mới là nước của hạnh phúc. Do đó, sự công bằng ở trong Nước Trời là một thứ công bằng có tình thương, chứ không phải là thứ công bằng vô tâm như ở trần gian. Sự công bằng kiểu trần gian này nếu được thực hiện thì cũng là phúc cho trần gian, nhưng ngay cả thứ công bằng này nhiều xã hội cũng chẳng thực hiện được.
Tuy nhiên, dẫu được thực hiện, sự công bằng trần gian vẫn gây nên biết bao nhiêu chênh lệch. Những người có tài năng, có sức khỏe thì luôn luôn làm được nhiều hơn nên được hưởng lương cao hơn những người yếu đuối, kém tài năng, bất chấp những người yếu đuối này có thể có nhu cầu lớn hơn hay nhiều hơn. Vì thế, người có tài có sức thường giàu có, còn người ít tài kém sức thường nghèo khổ. Như thế, nhu cầu của tôi dù có lớn đến đâu, nhưng nếu tôi làm được ít, thì tôi chỉ được hưởng ít, cho dù hưởng ít như thế thì tôi sẽ rất thiếu thốn và đau khổ. Còn nhu cầu của anh dù rất ít, nhưng nếu anh làm được nhiều, thì anh vẫn được hưởng nhiều, cho dù hưởng nhiều như thế anh sẽ dư thừa một cách vô ích. Đó là điều hợp lý theo lẽ thường của trần gian, và ở trần gian này dường như không thể nào làm khác hơn được.
Còn công bằng theo kiểu có tình thương kia, nếu áp dụng ở trần gian đầy ích kỷ này thì sẽ có cái dở là làm cho nhiều người đâm ra lười biếng: vì có làm chăm thì cũng chỉ được hưởng bằng người lười. Cứ nghĩ như thế thì sẽ chẳng còn ai hứng thú trau giồi tài năng của mình làm gì, vì có tài thì chẳng ích lợi gì cho mình hơn không có tài. Ai cũng có tính ích kỷ, không ai muốn hy sinh một cách vô vị lợi cho ai cả. Ai cũng muốn dùng tài năng hay những lợi thế mình có được để phục vụ mình, để làm lợi cho mình trước đã, không mấy ai muốn ưu tiên cho tha nhân, cho những kẻ hèn kém, yếu thế, dù họ có nhu cầu nhiều hơn mình. Nếu có tài năng mà không đem lại ích lợi cho mình, thì tài năng để làm gì?
Nhưng Nước Trời không phải là nước trần gian, hay ít ra không phải là trần gian như đang có trong hiện tại. Nước Trời được định nghĩa như một xã hội hoàn hảo, trong đó mọi người đều được hạnh phúc. Để được hạnh phúc như thế thì mọi người phải yêu thương nhau, và yêu thương một cách cụ thể là phải quên mình đi để lo cho tha nhân. Khả năng hay tài năng của mỗi người là để phục vụ tha nhân, để lo cho lợi ích chung, chứ không ai dùng tài năng chỉ để vun quén cho mình.
Một gia đình hạnh phúc – vì mọi người trong nhà đều yêu thương lo lắng cho nhau – là một hình ảnh rất cụ thể và sống động về Nước Trời. Những người lớn, có nhiều khả năng, thì đi làm kiếm tiền nuôi gia đình. Những em nhỏ tuy không đi làm, nhưng vẫn phải ăn, học, và do đó phải tiêu một món tiền không nhỏ. Nếu trong nhà có một người đau yếu, bệnh tật, thì người bệnh này có thể không làm ra được một đồng nào, nhưng lại có thể tiêu một số tiền lớn nhất trong nhà vì tiền thuốc, tiền bác sĩ rất mắc. Trái lại, người làm ra nhiều tiền nhất trong nhà có thể lại tiêu xài tiền ít nhất, vì có ít nhu cầu nhất. Nhưng anh ta vẫn không lấy thế làm bất công, mà cảm thấy như thế là hợp lý. Anh cho rằng số tiền trong gia đình phải được chia tỷ lệ với nhu cầu của mỗi người chứ không phải tỷ lệ với số tiền mà mỗi người kiếm được.
Chỉ những gia đình sống theo tiêu chuẩn hưởng thụ theo nhu cầu mới có hạnh phúc. Còn những gia đình chủ trương theo tiêu chuẩn hưởng thụ theo số tiền mình làm ra thì sẽ phát sinh nhiều đau khổ ê chề.
3. Bạn thích sống theo thứ công bằng nào?
Trong dụ ngôn người chủ vườn nho trả tiền theo nhu cầu chứ không theo giờ làm thật là hợp lý nếu xét theo lý luận của tình thương. Những người làm từ sáng sớm hay những người chiều mới vào làm, người nào cũng đều có vợ con phải nuôi, một gánh gia đình phải cưu mang. Người vào làm sau, sở dĩ họ vào làm trễ chỉ vì họ không có may mắn có việc để làm từ sáng sớm, cho dù họ rất muốn có. Trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn cho thấy một đặc tính của Nước Trời, cũng là lý tưởng của mọi xã hội trần gian, là tình thương. Sự công bằng trong Nước Trời không dựa trên tính vị kỷ của con người, mà dựa trên tình thương phải có đối với nhau. Và sự công bằng dựa trên tình thương ấy mới là sự công bằng đẹp lòng Chúa, sự công bằng mà Chúa muốn làm gương mẫu cho chúng ta trong xã hội.
Đương nhiên sự công bằng ấy chưa thể áp dụng một cách phổ biến trong một xã hội mà các thành viên còn quá ít tình thương. Nhưng ít ra nó có thể áp dụng và cần phải áp dụng trong các gia đình Kitô hữu, trong các cộng đoàn Kitô giáo, nhất là trong các cộng đoàn cơ bản. Gia đình bạn, cộng đoàn Kitô hữu nhỏ bé của bạn đã nỗ lực trở thành một nước trời nho nhỏ chưa? Sự công bằng được áp dụng trong đó là thứ công bằng nào? Của thế gian hay của Nước Trời?
Cầu nguyện
Lạy Cha, thế giới này chưa thể áp dụng một cách đại trà thứ công bằng có tình thương theo kiểu Nước Trời được. Nhưng trong những cộng đoàn Kitô hữu nhỏ bé như gia đình Kitô hữu của con, trong cộng đoàn cơ bản của con, trong đó mọi người coi nhau như anh chị em ruột thịt, con sẽ cố gắng cổ võ việc áp dụng sự công bằng ấy, để mọi người trong đó phần nào hưởng nếm trước hạnh phúc của Thiên Đàng, một thứ hạnh phúc được xây dựng trên tình thương và do tình thương tạo nên. Amen.
66. Tình yêu
Chuyện xảy ra vào thế kỷ thứ 16 tại An Độ. Trong triều đình có hai vị sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tỵ, một người thì tham lam.
Ngày kia, nhà vua có sáng kiến rất độc đáo để sửa đổi những tính xấu ấy. Ông cho triệu tập hai viên sĩ quan vào giữa triều đình, loan báo sẽ tưởng thưởng họ vì đã phục vụ trong nhiều năm qua. Họ có thể xin gì tùy thích, xong người đầu tiên mở miệng xin chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Nhiều phút trôi qua, không ai mở miệng nói trước. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tỵ lý luận: Thà tôi không được gì còn hơn mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi. Vì thế, không ai muốn lên tiếng trước.
Cuối cùng, vua yêu cầu người ganh tỵ nói trước. Người này lại nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên tham lam được gấp đôi. Hắn liền tuyên bố:”Tôi xin được chặt đứt một cánh tay…”. Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
Người ghen tỵ thà chịu mất một cánh tay còn hơn nhìn thấy người kia được của cải gấp đôi mình. Người ghen tỵ trước khi tiêu diệt kẻ khác, họ đã tự hủy diệt chính mình.
Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay kể lại, người đi làm vườn nho từ sáng sớm ghen tỵ với người chỉ làm một tiếng, mà cũng được trả một quan như mình. Giá như ông chủ trả cho người làm một tiếng ít tiền hơn, thì người làm từ sáng sớm đâu có bực tức khó chịu. Chúng ta thấy ông chủ đâu có xử bất công, vì ông đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền. Ông trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng, là vì ông tốt bụng, ông có quyền làm điều đó chứ!
Qua dụ ngôn “Ông chủ vườn nho”, Đức Giêsu muốn mời gọi chúng ta nhìn sâu vào cõi lòng của Thiên Chúa. Người không chỉ là Thiên Chúa công bình, mà còn là một người Cha đầy yêu thương. Người đã không hành xử theo luật lệ, nhưng lại dựa trên tiêu chuẩn của tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra Người là Thiên Chúa tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được lòng tốt của Thiên Chúa nơi bản thân mình, chúng ta mới không còn ghen tỵ với anh em.
Chúng ta nhớ lại lời ông chủ vườn nho nói với người ghen tỵ: “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”. Anh ta ghen tỵ vì anh ta chỉ thấy lòng tốt của ông chủ nơi người khác. Sao anh ta không nghĩ rằng ông chủ tốt bụng này đã thuê anh làm và trả lương cho anh sòng phẳng không thiếu một xu. Sao anh ta không nghĩ rằng anh đã rất an tâm vì chắc chắn đến cuối ngày là anh có một quan tiền; còn người kia vì không có ai thuê làm nên phải chờ đợi cả một ngày trong lo âu chán chường, vì tối nay vợ con anh sẽ phải lên giường mà không có gì cho vào bụng.
Cứ nghĩ đến muôn ngàn phúc lộc Chúa đã ban cho chúng ta, cứ nhìn xem bao niềm đau nỗi khổ của anh em, chúng ta sẽ không còn lý do nào để mà ghen tỵ. Chính vì không cảm nghiệm được Thiên Chúa yêu thương, không nhận ra hồng ân của Người trong cuộc đời mình, mà Cain đã ghen tỵ và giết chết Aben, người anh cả ghen tỵ với đứa em đi hoang nên không nhìn nhận người em lầm lỡ, người Pharisêu ghen tức với người tội lỗi được Chúa tha thứ, người làm sáng sớm ghen tỵ với kẻ làm chỉ một giờ.
Ai cứ nghĩ mình xứng đáng được Chúa ban ơn, mà đi ghen tỵ với những ơn lành Chúa ban cho người tội lỗi, chính là kẻ bất hạnh nhất. Họ hãy nghe lại lời Kinh thánh:”Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”. Thông điệp của dụ ngôn hôm nay muốn loan báo rằng: Nước Trời là phần thưởng nhưng không của Thiên Chúa, hoàn toàn do lòng quảng đại yêu thương của Người, chứ không do công nghiệp của chúng ta. Thiên Chúa ban ơn cho con người chỉ vì lòng yêu thương của Người mà thôi.
Đừng bao giờ ghen tỵ, đố kỵ nhỏ nhen khi thấy kẻ khác được nhiều ơn, mà muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Đừng bao giờ tính toán sòng phẳng theo lẽ công bình giao hoán: có công thì được hưởng, có tội thì bị phạt. Vì nếu Thiên Chúa tính toán lại, chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc, và người thiệt thòi nhất không ai khác chính là chúng ta.
67. Ghen tị – Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Câu chuyện dụ ngôn thuê mướn thợ làm vườn nho hình như có vấn đề gây thắc mắc: làm sao ông chủ có thể trả công đồng đều cho tất cả những người thợ làm việc ở các thời điểm khác nhau? Ông chủ có công bằng chăng khi đối xử với những người chỉ làm một giờ ngang bằng với những người làm vất vả cả ngày?
Thật ra ông chủ đã đối xử sòng phẳng với những người làm việc từ sáng sớm. Ông ta đã trả mỗi người một đồng đúng như đã thỏa thuận. Ông ta không bóc lột sức lao động của ai cả: có làm có trả lương tương xứng, nếu ông ta không gọi thêm thợ thì mọi chuyện bình thường, chẳng có vấn đề gì, nhưng vì có nhóm thợ làm ít giờ hơn cũng được trả lương bằng mình, nên có việc ganh tị, và nhất là đánh giá tiêu cực về ông chủ.
Câu chuyện này chúng ta thấy nổi bật hai vấn đề: Cách đối xử của ông chủ và phản ứng của những người thợ. Ông chủ vườn nho đây là hình ảnh Thiên Chúa, Ngài tốt lành vô cùng, lòng nhân từ của Ngài vượt lên trên tất cả những thứ trả công mà người đời sử dụng với nhau trong cuộc sống, Ngài rất công bằng và thương yêu vô tận. Vì vậy, ngoài sự công bằng, Ngài còn yêu thương chúng ta theo tự do và tình yêu của Ngài. Trước lời phàn nàn của những người làm sau, Ngài đã khẳng định quan điểm của Ngài, Ngài hoàn toàn tự do làm theo ý định của mình, Ngài muốn làm cách nào, lúc nào, chọn ai đều tùy ý Ngài mà không phải lệ thuộc ai cả. Tuy có quyền tự do của mình, nhưng Thiên Chúa không dùng tự do đó mà làm thiệt hại cho người khác: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn". Thiên Chúa luôn công bằng, chỉ có con người mới đối xử bất công với nhau vì thiếu lòng nhân từ, vì cách nhìn ghen tị của mình.
Quả thật, Ông chủ vườn nho được tự do dùng tiền của mình, thì tại sao Thiên Chúa lại không được tự do trong việc yêu thương? Ông chủ trả lương rộng rãi với nhóm người này mà vẫn giữ công bằng với nhóm kia, thì Thiên Chúa trải rộng tình thương của Ngài đến mọi người mà không cần theo tính toán của người đời. Cách xử sự của Thiên Chúa khác xa với cách xử sự của mọi người. Có lẽ khó gặp được chuyện này trong cuộc sống hằng ngày, nhưng lại xảy ra hằng ngày trong đời sống thiêng liêng: Thiên Chúa ban ơn nhiều hơn lòng mong đợi của con người.
Thiên Chúa rất nhân từ và tốt lành, Ngài ban ơn cho mỗi người và mọi người mà không tính toán thời điểm, tuổi tác. Chỉ có con người là hẹp hòi, ích kỷ đối với nhau qua hình ảnh những người thợ làm vườn nho. Những người làm từ đầu, làm nhiều giờ hơn, không vui mừng khi thấy ông chủ trả lương cho những người vào làm sau, làm ít giờ hơn cũng bằng họ, họ đã ghen tị đến đấu tranh với ông chủ, đó là tâm trạng chung của con người chúng ta: hay so đo, tính toán, thắc mắc, phân bì, ghen tị, ganh ghét.
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội nặng. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những thành công của người khác. Người ta ghen tị về đủ mọi mặt: của cải, tài ba, nhan sắc, thanh công, nhân đức. Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị những gì mình có, không thỏa mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế của mình, lúc nào cũng thấy núi khác cao hơn. Người ta ghen tị nhau vì kiêu ngạo, vì ích kỷ, không muốn ai thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ hơn mình. Càng liên hệ thân thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới ghen tị nhau, chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt hàng cá...ghen tị nhau.
Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ ghen tị và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con, nhưng chính chúng ta cũng nên phải tỉnh lại xem: chúng ta có hơn trẻ con không? Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi, giúp đỡ họ. Cho nên, thường thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là đi chia vui. Có ai vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn, thành công chăng? Hay là chúng ta tủi thân, rồi mỉa mai, bôi bác họ?
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen tị sinh ra ghen ghét, ghen ghét sinh oán thù. Ghen tị thường đi đến chỗ nói xấu, nói hành, dèm pha, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm mất tình bác ái và gây nên bao gương mù gương xấu. Vì thế, chúng ta phải tốp ngay, phải ngưng ngay cái tật xấu ghen tị này. Chúng ta phải biết đánh giá trị đúng của anh em mà vui cùng kẻ vui. Chúng ta phải tránh sự ghen tị như tránh rắn độc.
Tóm lại, Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, chúng ta phải luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không là gì cả, lúc nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là do Chúa ban, Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Thứ hai, mỗi người hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và gây nên những gương mù gương xấu. Xin Chúa cho chúng ta biết đánh giá trị đúng về mình và về anh em, để chúng ta không phân bì, kể công với ai và cũng không phân bì, ghen tương ai.
68. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Về Nước Trời thì cũng in như một gia chủ”: Bây giờ ta đã quen với loại công thức này rồi. Thực vậy, Nước Trời không giống như gia chủ, nhưng giống như toàn thể câu chuyện trong đó gia chủ đóng vai trò chính.
“Sau khi đã thuận giá với thợ là một quan tiền”: Quan tiền tương đương với một phật lăng vàng và lượng trưng tiền công bình thường của một ngày làm việc thời Chúa Giêsu. Việc ghi nhận hợp đồng tiên quyết giữa chủ và thợ đây sẽ thấy là quan trọng vào cuối dụ ngôn: khi chỉ nhận một quan tiền, toán thợ đầu tiên không hề bị thiệt thòi gì cả, vì đó là tiền lương đã thỏa thuận với nhau.
“Giờ thứ ba, ông ra.. “: Dù theo qui định, một ngày bắt đầu từ lúc hoàng hôn (xem “việc thánh hóa hưu nhật” bắt đầu từ chiều thứ 6), người ta vẫn chỉ tính giờ kể từ lúc mặt trời mọc. Như thế giờ thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ 11 tương ứng với 9 giờ, 12 giờ trưa, 15 giờ và 17 giờ; ngày làm việc chấm dứt lối 18 giờ.
“Tôi sẽ tính phải chăng cho các anh”: Qua câu nói đó, các người thợ sau phải hiểu rằng tiền công của họ sẽ là một phần quan tiền.
“Khởi từ cuối hết cho đến đầu hết”: Đây là một việc dị thường đối với tập tục đương thời, nhưng trình thuật cố ý kết cấu như vậy để làm cho ra vẻ thực các lời kêu trách của những người thợ chứng kiến lòng tốt lạ lùng của gia chủ đối với những kẻ lãnh đầu tiên.
“Đã vác nặng cả một ngày trường, với nắng nôi thiêu cháy”: Theo toán thợ giờ thứ nhất, họ đã bị thiệt thòi trong hai chuyện: vất vả suốt 12 giờ, trong lúc các kẻ khác chỉ làm việc có một tiếng, và hơn nữa đã phải hái nho dưới cơn gió nóng cháy trong lúc những kẻ đến sau lại được hưởng khí trời mát mẻ ban chiều. Thời hạn và điều kiện làm việc khó khăn cho họ quyền được trả lương cao hơn.
“Này bạn”: Toán thợ giờ thứ nhất đã chẳng xưng hô với gia chủ bằng tên hay tước hiệu của ông, và đây ông ta làm cho họ hổ ngươi khi bắt đầu câu trả lời của mình như thế (x. Lc 15, 31). Người ta vẫn thường dùng lối gọi này lúc nói với kẻ không biết tên; ở đây nó vừa đầy nhân hậu vừa đầy trách móc: “bồ ơi...”. Trong 3 đoạn Tân ước có lối gọi này (Mt 20,13; 22,12; 26, 50), kẻ mà người ta nói với là kẻ có phạm lỗi gì đó.
“Hay bạn ghen tương (Nguyễn Thế Thuấn: hay mắt bạn lườm nguýt) vì tôi tốt lành”: Câu này là kết luận thật sự của dụ ngôn, như ta sẽ thấy dưới đây, do đó phải nặc cho nó tất cả tầm quan trọng. Quả thế, thường thì câu kết luận của dụ ngôn là chìa khóa để hiểu dụ ngôn. Chữ “ghen tương”, nếu dịch cho sát sẽ là: “mắt ác cảm”, “mắt dữ tợn”, một thành ngữ cổ xưa của Kinh Thánh thường xuất hiện trong Châm ngôn và Huấn ca, để diễn tả, như ở đây, cơn tức giận và ghen tương của cả con người. Nếu đặt thành ngữ “mắt dữ tợn” vào lại trong nguyên bản, thì sự tương phản giữa các hạn từ mới nổi bật, và bài học của dụ ngôn trở nên rõ ràng hơn: “Hay mắt bạn dữ lợn vì tôi tốt lành?”. Cách cư xử của gia chủ chẳng phải là hậu quả của một tính khí chướng kỳ, một bất công hữu ý, nhưng chỉ là kết quả của tâm địa tốt lành nơi ông: chính đó mới quan trọng. ông không muốn gây thiệt hại cho người này, ông chỉ muốn làm điều thiện cho người kia.
“Thế đó, những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết, và kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết”. Vài tác giả xem châm ngôn này như một phần tất yếu hay hơn nữa, như mộ phần chủ yếu của dụ ngôn. Nghĩ như thế tất nhiên buộc lòng phải ép lối giải thích dụ ngôn sao cho ăn khớp với câu kết luận đó. Thánh Gioan Kim Khẩu đã tỏ ra sáng suốt hơn khi tuyên bố trong bài giảng thứ 64 của ngài: “Chúa Giêsu không diễn dịch châm ngôn này từ dụ ngôn đâu. Những người đầu tiên chẳng trở thành kẻ cuối hết; trái lại tất cả đều được thướng như nhau” (PG 58,614). Khiếu chú giải của ngài đã chỉ cho ngài giải pháp đích thực: châm ngôn không phát xuất từ dụ ngôn, nhưng đã được thêm vào do loại suy mà thôi.
Thực vậy, nếu thử liên kết câu tục ngữ với dụ ngôn mà nó được coi như là lại giải thích. Ta thất ngay rằng câu tục ngữ không thể nào phát xuất từ dụ ngôn, và cả hai chẳng có thể đi không với nhau được. Theo châm ngôn, thì các kẻ cam kết phải thực sự nên đầu hết và những kẻ đầu hết phải trở nên rốt cùng. Thánh Gioan Kim Khẩu ghi nhận một cách chí lý là bản văn hiện thời không thỏa mãn hai yêu sách ấy. Cùng lắm và theo một nghĩa nào đó, ta có thể chấp nhận rằng các người cuối hết đã nên đầu hết vì họ là những kẻ đầu tiên được gọi đến nhận tiền lương. Nhưng việc xếp hạng này chỉ có tính cách bề ngoài. Kỳ thực, tất cả đám thợ, lãnh cùng một phần thướng, đều ngang hàng như nhau. Đối với họ, chỉ có tiền mới đáng kể. Trẻ em có thể hưởng lợi lộc hơn khi được kêu đầu, nhưng người lớn lại xem việc trả lương trước hay sau cũng chả ăn thua. Vì thế, nếu dụ ngôn xem ra biện minh cho câu tục ngữ, thì đó chỉ là bề ngoài và theo lối chơi chữ mà thôi, chứ thực tế không phải vậy. Tục ngữ nói đến sự đảo ngược vị trí, còn dụ ngôn lại nói về việc đối xử đồng đều.
Chính bản văn giúp ta xác quyết lối giải thích vừa nêu. Các người thợ đầu tiên, khi tỏ ra ghen tương về quyền lợi đến độ căm tức, đã phàn nàn về chuyện gì? Về việc lãnh lương sau cùng ư? hay về chuyện bị đẩy lui vào hàng cuối? Chắc chắn là không! Chẳng thay họ phàn nàn, chống đối gì điểm này. Xin nói lại điều đó không ăn thua gì với họ cả; họ chỉ cần được trả lương đầy đủ, còn trước hay sau đôi chút không quan trọng. Họ phàn nàn ở chỗ là: dù đã lao công nhiều hơn kẻ khác, họ vẫn lãnh cùng một đồng lương như những kẻ đến làm việc sau cùng.
Trước giọng phàn nàn ấy, gia chủ đã đưa ra câu trả lời duy nhất thích hợp: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn, bạn đã chẳng thuận giá một quan với tôi sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi. Còn việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế. Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn về của cải tôi sao?”. Tất cả ý nghĩa của dụ ngôn đều nằm nơi câu nói ấy của ông chủ vườn nho. Thế mà trong đó chẳng có vấn đề ngôi thứ, mà chỉ là sự bình đẳng trong đồng lương. Các chữ dứt khoát thật rõ ràng: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn...Việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế... Há tôi lại không được phép.... sao?”
Thành thử dụ ngôn không ăn khớp với câu châm ngôn cuối cùng. Câu này chẳng có tương quan nào khác với dụ ngôn ngoài một tương tự (loại suy) có tính cách ngôn từ về đề tài mà thôi. Đó là một câu kết luận bề ngoài. Như trong nhiều trường hợp tương tự, kết luận bề ngoài này hẳn đã được thêm vào câu chuyện, có lẽ do chính Chúa Giêsu, hoặc do chính tác giả Tin Mừng hay do truyền khẩu bằng cách vay mượn câu nói đó ở một văn mạch khác. Dù sao, các câu kết luận bề ngoài phải được giải thích dưới ánh sáng dụ ngôn (chứ không ngược lại?), nhưng với sự tự do uyển chuyển phù hợp với một loại văn thể như thể. Vì đã được gắn vào phần cuối câu chuyện (19, 16), nên có lẽ câu kết luận đó cũng được ghi lại ở đầu (19, 30) để làm khung văn chương cho dụ ngôn và để thay thế cho câu nhập đề lịch sử.
KẾT LUẬN
Mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa thuộc bình diện ân sủng. Đó là đối tượng đích thực, là giáo huấn căn bản của dụ ngôn. Thật vậy, dụ ngôn đưa ra một mặc khải chủ yếu về Thiên Chúa và cách Ngài nhìn xem sự vật, hay như dụ ngôn người mắc nợ bất nhân (18, 23-33). Trong lúc đó, các giáo sĩ thường tính toán phần thưởng mà người ta có quyền lãnh nhận, xác định phần thưởng mà Thiên Chúa ban cho mỗi việc lành. Cách quan niệm sự vật này hoàn toàn bị dụ ngôn đạp đổ. Ta còn có thể hy vọng gì khi phần thưởng tương ứng với công nghiệp của ta? Trái lại, nếu ta chờ đợi tất cả từ lòng tốt của Thiên Chúa và không nại tí gì vào sự công bằng của Ngài, thì đó chẳng phải là niềm hy vọng của ta sao?
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Ta không thể dựa vào trình thuật này để kết luận rằng Thiên Chúa chẳng ân thưởng cho mỗi người tùy theo công việc của họ. Như thế sẽ đi ngược với Thánh Kinh. Nhưng đúng hơn phải kết luận rằng: ngay cả lúc Thiên Chúa ân thưởng mỗi người tùy theo công việc của họ, Ngài cũng chỉ làm vì lòng tốt chứ không vì bất cứ một sự công bình giao hoán nào cả. Mỗi liên hệ của ta với Thiên Chúa chẳng phải là một cái gì khả dĩ đo lường được cũng như giản lược được vào thứ ngôn ngữ công bằng. Hai cái đều là ân sủng.
2) Đó là một sự thật trước tiên có tính cách hạ con người xuống vì nó bảo với con người rằng: ngươi không phải là kẻ có thể thực sự nói tay đôi với Thiên Chúa vĩnh cửu, nhân danh quyền lợi mà ngươi đã chiếm hữu nhờ sức mạnh của riêng ngươi, không phải là kẻ có thể tính sổ với Ngài được. Vì theo sự thật đó, tất cả đều được bao phí bởi lòng nhân ái tự do của Thiên Chúa, bởi những ý định khôn dò của Ngài. Nhưng đối với chúng ta, đó cũng là một sự thật đầy an ủi phấn khích, một sự thật giải phóng ta khỏi một gách vô cùng nặng nề. Vì nếu ta đòi tính sổ với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa cũng sẽ đòi tính sổ với ta, và bấy giờ chắc chắn ta là kẻ thiệt thòi. Tốt nhất là phó mặc tất cả vào lòng nhân ái của Thiên Chúa! Vì nếu như vậy, thì dù bắt đầu phục vụ Thiên Chúa sớm hay muộn, dù khi có cảm tưởng như Giáo Hội đòi hỏi nhiều ở ta, ta vẫn có thể luôn luôn an tâm và nói: Chúa là Thiên Chúa của mọi niềm an ủi và từ bi, Chúa là Thiên Chúa thi ân và trả cho mỗi người một quan tiền mà bản thân họ không thể tự sức mình làm ra được, Chúa là Thiên Chúa ân thưởng chúng con, ngay cả lúc chúng con thực sự chỉ là những tôi tớ mọn hèn và tội nhân nghèo khó.
3) Ta không được phẫn uất nếu, ngay từ đời này, ta nhận thấy những kẻ là la coi như là những đại tội nhân (nhưng ta có được quyền phê phán giá trị thiêng liêng của họ không?) được mạnh khoẻ, thông minh hơn, giàu có hơn ta v.v... Thiên Chúa ban ơn cho những ai Ngài muốn. Ngài thích tỏ ra nhân hậu ngay cả đối với những kẻ vô ơn với Ngài.
4) Chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn toàn yêu thương, tha thứ con người, yêu thương trên hết mọi sự và như thế làm đảo lộn mọi tính toán đê tiện của con người. Ngài là Đấng yêu thương một cách sung sướng vì Ngài chẳng để ý đến các công nghiệp nhỏ bé của ta cho bằng đến tình yêu bao la của Ngài.
5) Nếu nhìn kỹ hơn thì những kẻ được ưu đãi thực sự trong dụ ngôn có lẽ là những người thợ giờ thứ nhất. Dĩ nhiên, họ đã “vác nặng cả một ngày thường với nắng nôi thiêu cháy”, song chủ đã làm họ khỏi nỗi sợ thất nghiệp, khỏi mối lo về cơm bánh là những thứ hẳn từng dày vò các người khác, những kẻ mà buổi chiều mới được mướn làm công. Cũng vậy các tín hữu đã anh dũng trung thành với đức tin suốt đời là những người được ưu đãi so với những kẻ chỉ đến với Chúa vào cuối cuộc sống, những kẻ có lẽ chưa bao giờ kinh nghiêm được sự bình thản nội tâm, kinh nghiệm được niềm vui và sự an lòng vì biết mình ở trong tay Thiên Chúa.
69. Chú giải của Fiches Dominicales
TÌNH YÊU VƯỢT XA CÔNG LÝ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Bảo vệ quyền lợi và đặc quyền
Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin tại Xêsarê Philipphê, Đức Giêsu trước khi lên Giêrusalem, đã loan báo lần đầu tiên về cuộc khổ nạn sắp tới, Ngài không quên cảnh báo các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy”. Tại Caphanaum, Ngài đã phác hoạ khuôn mặt của cộng đoàn mà Ngài sáng lập phải có, nếu cộng đoàn ấy muốn phản ánh hình ảnh của “Cha trên trời”. Một cộng đoàn biết quan tâm tới “những kẻ bé mọn”; một cộng đoàn huynh đệ biết giúp đỡ thương xót và tha thứ cho nhau.
Hôm nay Ngài đến Giuđêa, bên kia sông Giođăng (19,1) tại đó Ngài bắt đầu dạy cho những kẻ theo Ngài biết sự đảo nghịch mà họ phải đi tới. Sự đảo nghịch có trong mọi lãnh vực đời sống, đời sống vợ chồng, thái độ với trẻ em, mối liên hệ với của cải vật chất (19, 3-39). Dụ ngôn những người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một -Phúc âm Chúa nhật XXV Thường niên- cho ta một minh hoạ về sự đảo nghịch Phúc âm này. Thoạt tiên, dụ ngôn này gây phẫn nộ nơi công chúng quen có mặt trong các buổi quy tụ ngày Chúa nhật, vẫn nhạy cảm với việc bảo vệ quyền lợi xã hội và với vết thương do nạn thất nghiệp gây ra. Đức Cha L. Daloz tự hỏi: “Dụ ngôn đó không chống lại tất cả những quy tắc về công bình phân phối và về quản lý tốt đẹp đó sao. Ai đời đi thuê mướn thợ vào các giờ giấc khác nhau rồi cuối cùng trả lương cho người cuối cùng cũng bằng người đầu tiên! Tự nhiên ta dễ đồng ý với những người mong được trả nhiều hơn, lẩm bẩm kêu trách chủ: “Những người đến sau cùng chỉ làm việc có một giờ mà ông đối xử cũng thư chúng tôi, trong khi chúng tôi phải chịu vất vả, nóng nực suốt ngày”. Nếu dụ ngôn muốn dạy ta rằng đó là cung cách hành xử của Thiên Chúa, thì chúng ta phải thất vọng. Trong Phúc âm, có những lời của Đức Giêsu rất bí hiểm, nếu không nói là gây vấp phạm ta cảm thấy đồng ý với phản ứng của người anh của đứa con phung phá khi nó trở về, người cha dọn tiệc ăn mừng, dù nó đã phung phí hết tiền bạc. Ta không hiểu làm sao những phường trộm cắp, đĩ điếm lại vào Nước Trời trước chúng ta. Ta khó mà chấp nhận cung cách hành xử của người chủ vườn nho. Để kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đã rút ra, một kết luận: “Vậy những kẻ sau cùng sẽ trở lên trước hết, và những kẻ trước hết sẽ trở lên sau cùng”. Ta muốn la lên: không công bình! Vậy thì trung tín, chung thuỷ có ích gì? Tội gì mà chịu cực giữ luật Thiên Chúa, nếu Ngài ban Nước Trời cho những kẻ đến sau cùng, chẳng chịu nắng nôi khó nhọc gì, ta cần phải tìm hiểu dụ ngôn này.”
Việc quan trọng nhất là phải xác định cử tọa mà dụ ngôn nhằm nói với. Ở đây Đức Giêsu nói với người Do Thái, đúng hơn, với những thành phần ưu tuyển trong tôn giáo của họ: những biệt phái và luật sĩ vừa tức giận vì thái độ của Đức Giêsu đối với những người thu thuế, những người tội lỗi, vừa ghen tương vì sự quan tâm mà Đức Giêsu bày tỏ với họ. Một bối cảnh rất gần với dụ ngôn người cha và hai con trai ở Lc 15 mà dụ ngôn này có nhiều điểm tương đồng. Đức Giêsu không hề muốn đụng chạm tới lãnh vực công bình xã hội. Điều Ngài tìm kiếm là, qua dụ ngôn nghịch lý này, dẫn các thính giả tới chỗ tự tra vấn về mối tương quan của họ với Thiên Chúa và với anh em: cả họ nữa, họ đã chẳng bị cám dỗ co lại trong đặc quyền đặc lợi của họ, không còn biết kinh ngạc trước lòng quảng đại kỳ diệu của Thiên Chúa đối với mọi người và hoa trái của ân sủng Người nơi anh em họ đó sao?
Câu chuyện khởi đầu rất bình thường. “Nước Trời giống như ông chủ vườn nho sáng sớm ra chợ thuê người làm...”? ông chủ vườn nho này “ra đi” nhiều lần (cũng như người cha. trong dụ ngôn của Luca 15 ra nhiều lần) vào những giờ khác nhau để nhắc lại lời mời gọi: “Hãy vào làm vườn nho cho ta”, chẳng có gì đặc biệt khiến ta phải chú ý, cho tới lúc, bất chấp những luật lệ sơ đẳng về lợi nhuận, ông còn ra chợ “vào lúc 5 giờ chiều”, trong khi mặt trời sắp lặn nhường chỗ cho bóng đêm? Ta vẫn còn chưa hết ngạc nhiên! Vào lúc chiều tối, thay vì trả công cho người làm sớm nhất và để cho họ ra về, ông chủ lại ra lệnh cho viên quản lý trả lương 'bắt đâu từ những người làm sau hết và kết thúc bằng những người làm đầu tiên”, họ sẽ là chứng nhân cho cử chỉ của ông? Những người được thuê vào lúc 5 giờ chiều tiến đến và nhận “mỗi người 1 đồng bạc”. Những người đầu tiên, đã chịu cực khổ suốt ngày, tò mò quan sát cảnh tượng và hy vọng sẽ được trả “nhiều hơn”. Nhưng khi đến phiên họ, họ cũng chỉ nhận được một đồng bạc như hợp đồng lúc thuê mướn. Từ im lặng, ngạc nhiên đến “lẩm bẩm kêu trách”: “Họ lẩm bẩm kêu trách ông chủ”. Những tiếng lẩm bẩm khiến ta nhớ lại tiếng lẩm bẩm của đứa con trưởng khi cha long trọng đón tiếp đứa con phung phá trở về (Lc 15). Những tiếng lẩm bẩm hoà nhịp với tiếng lẩm bẩm của con cái Israel suốt thời gian băng qua sa mạc, và tiếng lẩm bẩm của bọn biệt phái và luật sĩ khi nhìn thấy thái độ của Đức Giêsu đối với nhưng người thu thuế và tội lỗi họ lẩm bẩm kêu trách Ngài: “Người này tiếp đón kẻ tội lỗi là ăn uống với họ” (Lc 15). Điều khiến những người thợ đầu tiên bất mãn đó là thấy những kẻ “chỉ làm việc một giờ” lại được đối xử ngang hàng với họ: “ông đối xử với họ cũng như chúng tôi”. Việc làm đã xong, những điều kiện trong đó họ làm việc chẳng đem lại cho họ đặc quyền đặc lợi nào, so với những người khác, “những người cuối cùng này” mà họ nói đến với sự khinh miệt y như đứa con trưởng trong dụ ngôn ở Luca 15: “Thằng con trai cha đó” (Lc 15,30) hoặc người biệt phái trong Luca 18: “tên thu thuế kia”.
2) … hay ngây ngất vì ơn Thiên Chúa ban nhưng không cho mọi người.
Ông chủ vườn nho nói với người phát ngôn của những người thợ bất mãn: “Hay là bạn bất bình vì tôi nhân lành”. Giống như anh cả của đứa em hoang đàng, những người thợ làm giờ đầu tiên là biểu tượng cho tất cả những ai nhân danh quyền lợi tự cho là nhận được từ Thiên Chúa, nhân danh cái gọi là đặc quyền, ngạc nhiên và vấp phạm vì thái độ của Đức Giêsu đối với những người tội lỗi: đó là những người biệt phái và luật sĩ của hôm qua… và cả hôm nay nữa. Làm như ơn cứu độ không phải là ân huệ ngoại thường và nhưng không, vượt xa sự xứng đáng của ta muôn trùng. Đức Giêsu tự đứng về phía ông chủ vườn nho cũng như về phía người cha đón tiếp đứa con trai đã mất mà nay lại tìm thấy. Thái độ của hai nhân vật này phản ánh lối sống của họ, lối sống bị người ta chê trách. Với những người phản đối thái độ của Ngài đối với người tội lỗi Ngài dám tuyên bố: Thiên Chúa không hành động khác hơn! Thiên Chúa giống như người Cha ăn mừng đứa con trở lại, như ông chủ vườn nho trả lương cho người thợ làm sau cùng cũng bằng người thợ làm đầu tiên. Chắc chắn khi thuật lại dụ ngôn này của Đức Giêsu, Matthêu muốn áp dụng nó vào Giáo Hội thời đó: “Những người đầu tiên” là những người Do Thái; “những người cuối cùng”, dân ngoại đã nhận được cái mà Israel coi như đặc quyền. Claude Tassin kết luận: Vậy, dụ ngôn nhắm tới những người có phản ứng giống như phản ứng của đứa con trai cả trong truyện người con phung phá. Thiên Chúa đã quyết định tỏ sự âu yếm đối với những người tội lỗi đó là lý do tại sao Đức Giêsu, sứ giả của Ngài, lại thích gần những người này đến thế, điều đó gây phẫn nộ cho một số người công chính vì họ tự coi mình có quyền được Thiên Chúa quan tâm hơn những phường chẳng ra gì kia, đâu quan tâm gì đến phục vụ Trời - làm như thể khi cứu vớt những người tội lỗi, Thiên Chúa đã lấy đi điều gì của những kẻ trung thành. Trái với bài học mà tác giả Phúc âm rút ra. Dụ ngôn không hạ “những người đầu tiền” xuống hàng “những người sau cùng”, nhưng dụ ngôn chỉ nhấn mạnh đến sự bình đẳng làm phát sinh ơn phúc lạ thường cho người tội lỗi.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Công bình kỳ cục (G. Boucher, La terre parle au ciel) Công bình! Ta gọi ngươi bằng tất cả khát vọng. Ta đấu tranh vì một thế giới công bình hơn. Ta phát động cách mạng để đập tan bất công. Thậm chí ta còn nói tới thật là ghê tởm- cuộc chiến tranh chính nghĩa. Các toà án của ta đó để thực thi công bình. Lời cầu nguyện của ta kêu lên tới Chúa để cho người nghèo, người bị bóc lột được lắng nghe. Niềm vinh dự của các xã hội, các quốc gia là tạo lập được một hiến pháp, nhưng luật lệ và những cơ chế giúp cho trật tự công bình tiến bộ. Do đâu dụ ngôn Phúc âm bắt ta làm ngược lại? Do đâu khi đọc dụ ngôn lần đầu ta khó chịu như những người thợ làm đầu tiên dã khó chịu, họ tự cho mình và nạn nhân của một sự bất công. Đối với con người, thực thi công bình không phải là trả cho mỗi người điều gì thuộc về họ, theo sức lao động và giả trị của họ sao? Nhưng trong khuôn khổ Nước Trời lại là chuyện khác: có một Đấng tên là Thiên Chúa, là sự viên mãn? ban cho mọi người những gì chính đáng. Thiên Chúa công chính hoá những ai mong muốn. Ngay từ giờ đầu tiên. Ngay từ phút khởi đầu. Nhưng cũng có khi ở nữa đời người, thâm chí cả ở phút chót của cuộc đời nữa. Thiên Chúa kêu mời mọi người hãy đến để được công chính hoá như người ta nhận một quà tặng, một ân ban. Có người trả lời ngay tức khắc từ lúc rạng đông. Có kẻ chỉ nghe được lời đề nghị ở giữa ngày. Đôi khi mãi đến cuối ngày có người mới nhận ra cơ may Chúa ban mà theo ngôn ngữ bác học, ta gọi là ân sủng. Thiên Chúa làm cho nên công chính như ta trở nên trong suất khi ta ở trong ánh sáng. Thiên Chúa biến ta nên công chính như chính Ngài là Đấng công chính, điều đó không có gì giống với những mô hình nhân loại. Bởi vậy ai nhận biết mình được Thiên Chúa công chính hoá sẽ chỉ có thể mừng vui khi thấy ân phúc đó đến với người láng giềng, người đối thủ, người đối địch... vì lối sống của Thiên Chúa đã thấm nhập đời anh. Thời giờ chẳng có gì quan trọng. Ta chỉ có thể cầu mong cho mọi người biết nắm lấy cơ may của mình, những người cùng sống trong chung cư những bạn đồng nghiệp, những người thân và cả những người không thân nữa. Sự công bình theo nghĩa của Thiên Chúa chỉ được thực hiện khi ta biết nắm bắt cơ may của mình, như người thợ giờ thứ 11 đã chọn đi làm việc. Và qua kinh nghiệm, ta biết rằng, để lãnh được lô độc đắc của Thiên Chúa, không có gì bằng một biến cố thúc bách ta, một chứng từ chất vấn ta, phần ta hãy biết đón nhận ân sủng mà Thiên Chúa ban cho và sống sao cho mọi người chung quanh ta khao khát được ân sủng ấy, lương bổng ấy.
2. Một ví dụ khiêu khích bắt ta phải tự vấn (MGT. L. Daloz, Le Règne des cieux siest approché DDB).
Đức Giêsu lấy làm gương thái độ của người chủ đối với thợ của mình, thực là một ví dụ khiêu khích, chứng minh điều Thiên Chúa không là, không giống như ta tưởng. Ngài hành động không theo cách ta làm. Ngài tốt lành vượt xa các ông bố trần gian muôn trùng. Nhờ đó, Đức Giêsu cho ta chứng nghiệm được tình yêu của ta hẹp hòi biết bao: “Bạn bất bình vì tôi nhân lành ư?”. Dụ ngôn này dạy ta biết Thiên Chúa, nhưng cũng biết chính mình. Nếu ta thấy đồng tình với những người thợ lẩm bẩm kêu trách, không phải vì ta đã tưởng tượng Thiên Chúa theo thước đo của ta, và muốn đóng khung Ngài trong những quan niệm chật hẹp của tình yêu giới hạn của ta sao? Dụ ngôn của Đức Giêsu trước hết là nói với dân Do Thái, họ là những người được kêu gọi trước hết, rồi mới tới dân ngoại. Dụ ngôn soi sáng tình trạng các cộng đoàn đầu tiên, trong đó những người từ đa thần giáo tới sau cũng có cùng quyền lợi như các tín hữu gốc Do Thái. Ngày nay, vấn đề vẫn còn đó, tuy hoàn cảnh có khác Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn luôn có cùng mục đích, cùng hiệu quả: Ngài mạc khải sự cao thượng của tình yêu Thiên Chúa “chiều cao, chiều rộng và chiều sâu của tình yêu ấy”. Tình yêu ấy thay đổi đường lối của ta, mở rộng lòng ta. Phản ứng của ta thường là giới hạn tình yêu ấy theo khuôn thước của ta. Nhưng “giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn”! Sau cùng, sứ điệp của dụ ngôn phải chăng không nằm trong những từ ngữ đơn sơ này, chúng nói với ta về Thiên Chúa: “Ta nhân lành”. Hơn cả lương bổng, điều quan trọng là tiếng gọi, luôn luôn đổi mới từng ngày, từng giờ, ở mọi thời trong lịch sử cũng như ở mọi lứa tuổi của đời người, tiếng gọi này không gạt ai ra ngoài lề đó là ân sủng cho những người đầu tiên cũng như cho những người cuối cùng, tiếng gọi của Thiên Chúa nói với con người mà Ngài yêu thương không mỏi mệt và Ngài muốn rằng không ai bị bỏ quên: “Nào, cả anh nữa, hãy đến làm vườn nho cho tôi”.
70. Chú giải của Noel Quesson
NHỮNG NGƯỜI THỢ LÀM VƯỜN NHO
Dụ ngôn “những người thợ làm vườn nho vào giờ sau hết” rất nổi tiếng. Người ta thường phê bình dụ ngôn này, đưa ra những phán đoán chỉ trên bình diện con người theo sự công bằng xã hội và theo kinh tế. Về phương diện này, thái độ của vị Thầy chí thánh ít ra cũng rất kỳ lạ và khác thường. Một ông chủ xí nghiệp sẽ nói với bạn rằng theo gương ông chủ vườn nho chỉ có nước làm phá sản xí nghiệp. Một “công nhân” sẽ nói với bạn rằng không tôn trọng một tháng lương hợp lý căn cứ vào công việc thực tế được hoàn thành là việc không bình thường; và một ông chủ độc đoán như thế thật là bất xứng. Nhưng tất cả những lời giải thích này thì quá phiến diện chưa đạt đến sự thật. Rõ ràng Đức Giêsu không đề cao sự bất công xã hội. Phải có một cách đọc khác trang Tin Mừng nổi tiếng này, xứng đáng là một Tin Mừng!
Chúng ta hãy nhớ rằng “dụ ngôn” là một thể loại văn chương rất xác đáng mà người ta không thể đọc bằng bất cứ cách nào cũng được. Trong một dụ ngôn, khác với lối văn phúng dụ, mọi chi tiết cụ thể không chứa đựng bài học: Phải tìm kiếm cao điểm của câu chuyện, ý nghĩa trung tâm của nó. Những chi tiết còn lại chỉ để tạo ra sự mạch lạc trong câu chuyện, tô điểm cho câu chuyện thêm thú vị đôi khi với sự hóm hỉnh khiến người ta phải chú ý, quan tâm.
Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.
Giờ đây, mọi sự bắt đầu như một câu chuyện có thật. Chúng ta đang ở Pa-lét-tin trời vừa tảng sáng. Những “thợ làm công nhật” trên quảng trường của ngôi làng chờ đợi người ta đến thuê làm công nhật, ngày này qua ngày khác. Tình trạng sống lây lất qua ngày ấy thật thảm hại. Chúng ta phải ghi nhận điều đó nơi những con người không có việc làm ổn định: tình trạng này vẫn còn là tình trạng của hầu hết các người cha trong gia đình ở các nước thế giới thứ ba.
Tuy nhiên, dù phần mô tả đoạn đầu có thực tế đến đâu thì chúng ta cũng được báo cho biết ở đây điều quan trọng không phải là một bài học xã hội, nhưng là một mạc khải về Nước Trời. Vậy chúng ta hãy coi chừng.
Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc Khoảng giờ thứ ba ông lại trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một ông trở ra và thấy còn có những người khác đang đứng đó, ông nói với họ: “Sao các anh đứng đấy suốt ngày không làm gì hết?”. Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho!”
Nếu tính ra giờ hôm nay ông chủ đi ra tìm thợ từ sáng sớm, rồi lúc 9 giờ sáng lúc giữa trưa, lúc 3 giờ và lúc 5 giờ chiều. Vì thế chúng ta phải đoán ra rằng đây không phải là một ông chủ bình thường: không ai lại đi thuê thợ làm vườn trước lúc nghỉ việc chỉ có một giờ! Đây là một “ông chủ” quan tâm sâu sắc đến bi kịch của những kẻ thất nghiệp ấy: “Tại sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?”. Câu chuyện mà Đức Giêsu kể lại nhắc chúng ta rằng vấn đề thất nghiệp trầm trọng, than ôi, không chỉ là vấn đề của ngày hôm nay. Và nếu chúng ta dừng lại ở phần đầu của dụ ngôn này không để cho các thiên biến của ý thức hệ chi phối, thì chúng ta thấy Đức Giêsu mô tả một người đã nhân từ một cách tuyệt vời rồi: năm lần trong một ngày, ông không mệt mỏi, lo lắng đem lại việc làm, đồng lương, nhân phẩm, cho những người nghèo bị rơi vào cảnh khốn cùng.
Chúng ta không quên ghi nhận điệp khúc được nhắc lại: “Hãy đi vào vườn nho” trong toàn bộ Cựu Ước, và do đó đối với các thính giả đầu tiên của Đức Giêsu, vườn nho là biểu tượng của “Dân Thiên Chúa” (Is 5,1-7; Gr 2,21; Ed 17,6; Hs 10,1; Tv 78, 9-16). Theo nghĩa này, vườn nho là nơi hạnh phúc, nơi Giao ước với Thiên Chúa, nơi mà Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta bước vào. “Hãy đi vào vườn nho của tôi... Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (x. Mt 25, 21-23).
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất”.
Nói theo kiểu của con người thì chỉ bắt đầu từ lúc này trở đi, câu chuyện xem ra không có thật. Đây là dấu chỉ chúng ta phải đến gần “cao điểm” của dụ ngôn. Một cách rõ ràng hơn, ông chủ rất kỳ lạ này muốn rằng những người có công nhiều nhất với vườn nho phải làm chứng nhân cho điều mà ông sắp làm cho những người vào sau hết: họ sẽ chứng kiến việc ông chủ trả lương cho những người khác. Tại sao? Sẽ rất đơn giản nếu như ông chủ trả công cho người làm nhiều trước và để họ ra về trước.
Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một (5 giờ chiều) tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt!”
Bản văn Hy Lạp dùng một chữ có nghĩa chính xác: “họ lẩm bẩm”. Đó là từ ngữ trong Kinh Thánh nói về những tiếng lẩm bẩm, cằn nhằn của dân Israel trong sa mạc (Xh 16,9; Tv l06,25), nó diễn tả thái độ rất thường gặp của chúng ta khi chúng ta không hiểu những thử thách đang ập xuống chúng ta; khi chúng ta phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt; khi chúng ta lên án Thiên Chúa. Những kẻ lẩm bẩm, cằn nhằn ấy trong dụ ngôn này vào thời Đức Giêsu, rõ ràng là các kinh sư và biệt phái
Họ không ngừng lẩm bẩm chống lại Đức Giêsu khi Người tiếp đón những “kẻ thu thuế, kẻ tội lỗi và gái điếm”. Vào thời của Matthêu, những người “sau cùng” được đặt ngang hàng với những người “đầu tiên”, đó là những dân ngoại được đưa vào trong Giáo hội ngang hàng với những người Do Thái bản địa. Ngày nay cũng thế, chúng ta còn nghe Đức Giêsu nói lại với chúng ta một cách mạnh mẽ rằng với Thiên Chúa, không có những người được ưu đãi, có đặc quyền. Những “người thợ của giờ sau cùng” được đối xử bình đẳng với những người đầu tiên hưởng nhờ vườn nho của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu thường đề cao giá trị của những người nghèo, những kẻ bị loại trừ, những người sau hết, những người tội lỗi! Đối với những người cảm thấy khó chịu, lẩm bẩm, Đức Giêsu nói rằng đó chính là thái độ của Thiên Chúa “giàu lòng thương xót” ‘dives in miséricordia’ theo một tước hiệu đẹp của một Thông điệp của Đức Gioan Phaolô II.
Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”
Không, chúng ta không còn ở trong một hoàn cảnh bình thường để rút ra những nguyên tắc về công bình xã hội chúng ta lắng nghe một ‘mạc khải thần học về những thái độ của Thiên Chúa’. Đây là một chân dung tuyệt vời mà Đức Giêsu vẽ lại Cha Người cho chúng ta:
Một Thiên Chúa yêu mến mọi người, đặc biệt những người bị bỏ rơi, và muốn đưa họ vào “Vườn nho” của Người, trong hạnh phúc của Người.
Một Thiên Chúa tuôn đổ những ân huệ một cách dồi dào, Người “mời mọc” và “kêu gọi” mọi lúc, mọi tuổi, trong mọi hoàn cảnh.
Một Thiên Chúa mà lòng “nhân từ” không bị giới hạn bởi công nghiệp của chúng ta, và Người cho chúng ta nhiều hơn cái mà chúng ta có được bởi những nỗ lực của riêng mình. Một Thiên Chúa gạt bỏ người nào cho rằng mình đặc quyền và ngăn cản người khác được hưởng những quyền lợi ấy.
Như thế Tin Mừng hôm nay công bố với chúng ta một chân lý chủ yếu của đức tin chúng ta mà Thánh Phaolô đã triển khai rộng ra trong các thư Rôma và Galát: “Tất cả những ai tin đều được như thế… Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không. Vậy thì hãnh diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện... Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì luật dạy (Rm 3, 22-31).
“Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?”
Dụ ngôn này phải đem lại một niềm hy vọng lớn lao cho biết bao bậc cha mẹ hôm nay nhìn thấy con cái họ từ bỏ đức tin. Đối với Thiên Chúa, không có gì mất đi mãi mãi, Người còn đi ra thuê thợ cho đến phút chót. Không bao giờ Người đến quá muộn. Vả lại, chúng ta, hãy nhớ rằng Đức Giêsu không chỉ bằng lòng với việc “kể lại” câu chuyện này. Người còn áp dụng câu chuyện này vào cuộc sống khi ban Thiên đàng vào giây phút chót cho người trộm bị đóng đinh với Người.
Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.
Thay vì giữ chặt chúng ta trên vẻ bề ngoài bất công, giờ đây chúng ta được mời gọi hãy vui mừng chỉ vì lòng nhân từ tuyệt vời của Cha chúng ta. “Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em trên trời là Đấng xót thương”. Từ vài thập kỷ, yêu sách về sự công bình hay công lý trên thế giới đã có nhiều tiến bộ. Dĩ nhiên là không có vấn đề quay lại đàng sau. Nhưng việc thế giới tiến bộ về hướng tình yêu thương và tấm lòng há chẳng cần thiết sao? Đó là một chủ đề mà Đức Giáo Hoàng diễn tả trong một thông điệp của ngài:
“Trong thế giới hiện đại, ý thức về công lý trên bình diện rộng đã trỗi dậy... và Giáo Hội chia sẻ với nhân loại ở thời đại chúng ta ước muốn mãnh hệt, sâu xa và một đời sống công bằng ở mọi phương tiện. Tuy nhiên, người ta dễ dàng nhận ra những chương trình xây dựng trên ý tướng công bằng khi đem ra thực hiện nhiều khi phải chịu sự biến dạng... bởi lòng oán hận, thù nghịch mà cả sự tàn ác. Kinh nghiệm của quá khứ và của thời đại chúng ta chứng tỏ chỉ có công lý mà thôi không đủ, nếu người ta không cho phép một sức mạnh sâu xa hơn là tình yêu thương xây dựng đời sống con người.
Thế thì, chúng ta được trả về với sự chiêm ngắm lòng thương xót của Thiên Chúa: “Lòng nhân hậu là một sức mạnh đặc biệt của tình yêu còn mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung. Trong một nghĩa nào đó, lòng nhân hậu ở vị trí đối lập với công lý của Người, và trong nhiều trường hợp tỏ ra mạnh hơn, căn bản hơn công lý” (Gioan Phaolô II).
71. Đếm từng ngày – Lm Xuân Nguyên.
Có lần Cha Nguyễn Tầm Thường gặp tôi. Chúng tôi tâm sự về cuộc đời: Tất cả xem ra qua đi mau quá! Mới vào tiểu chủng viện ngày nào ở Châu Đốc, ngài nói, mà giờ đây đời tụi mình đã bắt đầu đếm từng ngày. Chúng tôi cười thoải mái. Tôi trả lời: Mình đã bắt đầu đếm từng ngày khi ở tù Cộng Sản rồi, vì trong tù hôm nay còn sống sót thì biết có hôm nay, ngày mai rao sao chỉ là bóng tối thấp thoáng của tử thần. Mình đã đếm và vẫn tiếp tục đếm từng ngày..., và sẽ đếm cho tới ngày sau cùng cuộc đời xem có xứng đáng lãnh được một đồng công như Chúa Giêsu phán trong dụ ngôn đón thợ vào làm vườn nho trong Tin Mừng hôm nay không!
Có lẽ ít người muốn đếm từng ngày đời mình, vì vừa mất giờ, nhưng có thể vừa bi quan vì thấy đời lúc nào cũng trôi nhanh như giấc mơ qua mau, để rồi in trên đời niềm sầu tủi yếm thế phí lý. Tôi thiết nghĩ nếu có đủ can đảm đếm từng ngày đời mình, qủa thực là một cái thú hết sức kỳ diệu, bởi từng ngày từng ngày qua trong đời luôn ẩn hiện những kỳ diệu của bàn tay an bài Thượng Đế. Càng đếm càng thấy con đường đi đời mình chẳng giống ai, chỉ riêng cho mình trong tương quan quan phòng của Thiên Chúa. Như thế, ngay cả những khổ đau nhất mà đời cho là xui, lại trở thành ân huệ quí giá Thiên Chúa ban tặng. Chẳng hạn bạn thử ngồi đếm lại từng ngày đời mình lúc vượt biên và ở trại tỵ nạn. Ai cũng cho là khổ, nhưng giờ đây có muốn sống lại dù chỉ một ngày như thế cũng chẳng còn, vì cái khổ lúc đó đã dệt nên những niềm vui khôn tả cho đời mình hôm nay ở đất nước thứ ba này. Biết bao người đã thành công giàu có, hoặc đã ung dung nhìn đàn con đang hạnh phúc trong những ước mơ đã thành sự thật...
Như thế đếm đời mình từng ngày trước hết là để ca tụng tình thương vô biên của Chúa, lúc nào cũng sẵn sàng trả công bội hậu cho chúng ta như cái giá Ngài đã mặc cả để cứu chuộc nhân loại. Nếu tôi được Chúa trả một đồng công cứu độ thì đã hạnh phúc lắm rồi, vì tôi chắc chắn sẽ được Chúa rước vào Nhà hạnh phúc bất diệt của Ngài. Điều quan trọng là tôi có dám nhận làm trong vườn nho của Chúa không, cho dù tôi đã thất nghiệp lang thang cả nửa đời, hoặc ba phần tư, hoặc ngay cả lúc chỉ còn vài phút cuối ngày cuộc đời. Chúng ta hãy bắt đầu đếm đời mình đi, chắc chắn sẽ nhận ra tình thương kỳ diệu và vô biên của Chúa. Nhờ tình thương ấy, mình sẽ không còn ganh tỵ với tha nhân, dù họ bắt đầu làm vườn nho Chúa từ lúc nào không biết, nhưng tất cả sẽ ca ngợi đồng công tình thương và ơn cứu độ của Chúa vào hạnh phúc cuối ngày. Nào: Một, hai, ba: Đếm!
LÀ CÔNG BẰNG HAY LÒNG NHÂN LÀNH!
Chúng ta chẳng hề biết thật rõ về cách ông chủ cư xử với những người làm công trong vườn nho của ông, nếu chỉ nhìn dưới khía cạnh công bằng được tính theo thời gian làm việc từ ba, sáu, chín, mười một giờ, nghĩa là bắt từ sáng sớm, từ sáu giờ, vv... mà tiền lương vẫn được lãnh như nhau! Thế nên họ mới thắc mắc, và chắc chắn đã không được thỏa mãn với câu trả lời của ông chủ. Với họ, xem ra ông chủ luôn luôn thiên tư, cho dù ông có giàu có, nhân từ và quảng đại.
Đến lượt chúng ta khi đọc và nghiệm lại cuộc sống của mình, cũng sẽ thắc mắc thật nhiều về cách thức Thiên Chúa đối xử xem ra không công bằng với con người, bởi vì có quá nhiều người giàu có, nhiều tài năng, nhiều may mắn; có quá nhiều quốc gia thịnh vượng xung túc, tràn đầy quyền lực, trong khi biết bao người và rất nhiều nước đang sống trong lầm than cơ cực nghèo khó, bị thống trị, vv… Bức tranh cuộc đời mình còn thê thảm hơn khi chính mình trực tiếp hỏi Chúa tại sao mình đã nhiệt tình làm việc và dùng hết thì giờ vào các cố gắng xây dựng đời sống gia đình, xã hội, vv… mà vẫn không khá hơn; ngược lại luôn gặp những rủi ro, đàn áp, bỏ vạ cáo gian, vẫn thua kém hơn những người xem ra lười biếng, nhiều chuyện và ngay cả gian ác! Sự công bằng như không hề có ở đời này. Lạy Chúa, tại sao vậy?
Đây là những trả lời chính xác của Chúa Giêsu: Vườn nho là của Chúa. Thời gian là của Chúa. Sự sống con người có là quà tặng, cho dù tính theo thời gian dài hay ngắn, nó vẫn luôn là qùa tặng quí giá nhất. Sự hiện hữu và cách thức hiện hữu dài hay ngắn theo ý Chúa đều trọn vẹn trước mặt Chúa, nên mới có canh ba, canh sáu hoặc chín... Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu nhìn sự hiện hữu này như những chiếc ly chứa đầy nước ở trên trời. Ly nào cũng tràn đầy cả, không thể đổ thêm dù chỉ một giọt.
Người ta quan niệm công bằng dựa trên tiền công theo giờ lao động. Nói cách khác, càng được nhiều của cải vật chất, tài năng, danh vọng ở đời này thì càng công bằng hơn. Còn Chúa Giêsu bảo sự công bằng ấy đã được định đoạt bằng giao kèo trước khi vào vườn nho làm việc. Ai cũng được trả bằng nhau. Nên cuối ngày cuộc đời, chẳng ai có quyền đòi được trả, nghĩa là chẳng ai tự mình được định đoạt cuộc sống bằng các giá trị vật chất, nhưng là sự mặc cả giá trị thiện chí làm việc đúng với thời gian mình có như ý ông Chủ muốn. Dĩ nhiên dụ ngôn không nói rõ từng người làm công được phân định làm việc gì và làm việc thế nào, nhưng chắc chắn mỗi người tuỳ theo tài năng và sức lực của mình mà ông chủ thuê vào từng thời điểm khác nhau trong ngày, để chu toàn những việc ngổn ngang trong vườn nho của ông. Sự công bằng này xác định rõ hơn điều mà Chúa Giêsu trả lời cho người làm công thắc mắc: Hãy cầm lấy tiền của bạn mà đi, tôi không làm bạn thiệt hại đâu. Hay mắt bạn ganh tị vì tôi nhân lành chăng?
Đến đây chúng ta khám phá ra ánh sáng cho sự công bằng, tức sự nhân lành của ông Chủ, Thiên Chúa vườn nho vũ trụ và vườn nho cuộc đời chính là thước đo công bằng tuyệt đối. Chính nhờ sự nhân lành của Thiên Chúa mà vũ trụ và muôn loài hiện hữu, trong đó có đời sống từng người chúng ta. Cách thức hiện hữu của vũ trụ và con người nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Riêng với con người thì Ngài ban cho tự do để điều khiển và đáp lại tiếng gọi hiện hữu trong vườn nho của Ngài. Cuối ngày cuộc đời, một đồng công được trả cho chúng ta bằng sự nhân lành của Chúa, bởi vì chúng ta tự sức riêng không thể vượt qua giới hạn của sự chết để vào miền đất sống vĩnh cửu vườn nho Thiên Chúa. Vì thế tốt nhất hãy biến sự ganh tỵ hôm nay thành lòng nhiệt thành làm việc theo thánh ý Chúa. Người ta sẽ mãi mãi không thể giải đáp được bí mật sau khi chết và cách thức trả một đồng công của Thiên Chúa, bao lâu vẫn còn trên hành trình đức tin trong vườn nho của Thiên Chúa hôm nay.
Chúng ta hãy học bài ca tạ ơn của muôn tạo vật khi bình mình thức giấc, ca ngợi hồng ân diệu kỳ mà Thiên Chúa tặng ban cho mình, để mỗi ngày sống sẽ nối tiếp trong niềm vui nhờ lòng nhân lành bao la và vô cùng quảng đại của Thiên Chúa. Và mỗi người sẽ cảm nghiệm sự công bằng của Thiên Chúa chính là lòng nhân lành của Ngài bao phủ qua mọi biến cố cuộc đời: lúc nhàn rỗi canh ba; lúc thất vọng, lúc thất nghiệp, lúc cô đơn canh sáu; lúc đau khổ, lúc đối diện với bóng tối, lúc chơi vơi giữa giòng đời canh chín; hay lúc hầu như rã rời muốn rời xa sự hiện hữu vào giờ mười một;... và nhất là lúc vui mừng lãnh đồng công sau cùng cuộc đời do Thiên Chúa trao tặng trong vườn nho vĩnh cửu của Ngài. Xin tạ ơn và tạ ơn muôn đời lòng nhân lành của Thiên Chúa, Đấng có tên là Tình Yêu muôn thuở.
72. Phải chăng Thiên Chúa quá bất công?
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)
Tin Mừng Mt 20, 1-16: Bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một nghịch lý khi Đức Giêsu kể dụ ngôn ông chủ vườn nho trả lương cho những người làm công: ông chủ này không tính đến chuyện thợ làm thuê có chuyên môn hay nghiệp dư, cũng không kể đến chuyện giờ giấc của người làm...
***
Tại Việt Nam chúng ta không có những cách đồng nho như bên Dothái. Có chăng thì ở khu vực Cam Ranh Nha Trang, nhưng cũng không nhiều. Còn đại đa số là những cánh đồng lúa; hoặc những khu rừng cao su, tiêu, cà phê hay điều... Vì thế, hình ảnh vườn nho có vẻ hơi xa lạ trong tâm thức đối với đại đa số người dân Việt.
Nhưng dù biết hay không thì cách thức chi trả lương cho những người làm thuê cũng có nhiều điểm tương đồng với những người làm công trong vườn nho của người Dothái.
Tuy nhiên, bài Tin Mừng hôm nay lại đưa ra một nghịch lý khi Đức Giêsu kể dụ ngôn ông chủ vườn nho trả lương cho những người làm công: ông chủ này không tính đến chuyện thợ làm thuê có chuyên môn hay nghiệp dư, cũng không kể đến chuyện giờ giấc của người làm. Vì thế, dù chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, kinh nghiệm hay mới vào nghề, và tham gia làm vườn giờ nào...! Nhưng chiều đến, khi lĩnh lương, tất cả họ đều giống nhau. Tại sao vậy? Ông chủ có bất công không?
Để hiểu được vấn đề này, chúng ta cùng nhau tìm hiểu nguyên nhân tại sao? Và Đức Giêsu có lý gì khi kể dụ ngôn này?
Tại sao Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn thợ làm vườn nho?
Trước tiên, chúng ta cần hiểu ý nghĩa của vườn nho mà Đức Giêsu muốn nói tới ở đây.
Vườn nho được Đức Giêsu kể trong dụ ngôn chính là hình ảnh của Giáo Hội. Vườn nho ấy đến mùa thu hoạch, chính là sứ mạng truyền giáo đang cấp bách, điều này được bổ túc thêm khi Đức Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặp lại ít”.
Thứ đến, người mời gọi là chính Thiên Chúa. Người gọi hết mọi người, không phân biệt tốt xấu, giỏi hay dốt, thành phần nào, già hay trẻ... Nhưng Người gọi bất cứ ai Người muốn! Cách thức này Đức Giêsu muốn thay đổi quan niệm nơi người Dothái, họ chỉ coi là mình họ được cứu độ, còn những dân tộc khác thì không, họ tỏ ra khinh bỉ hay ghen tức với cách hành xử của Đức Giêsu với những người không thuộc Dothái, vì thế, Đức Giêsu mới nói: "Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao?"; “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”. Thật vậy, Thiên Chúa không chỉ dành ơn cứu độ cho dân Dothái, nhưng là cho muôn dân muôn nước không trừ ai. Hơn nữa, Người còn tỏ lòng thương xót đặc biệt hơn đối với những ai bị coi là hèn kém.
Tiếp theo, cách thức trả lương. Người không trả lương theo kết quả công việc. Cũng không trả lương theo kiểu làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu. Mà Người trả lương cách đồng đều theo sự thỏa thuận lúc ban đầu. Tức là một đồng cho tất cả mọi người. Người đến sớm cũng kẻ đến muộn, người giỏi cũng như dốt, người già cũng như trẻ... Cách thức này cho thấy lòng nhân từ, thương xót và bao dung của Thiên Chúa dành cho hết mọi người chứ không phải chỉ dành cho một số người đặc tuyển. Điều Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là: “Thiên Chúa để ý đến tinh thần của người tham gia vào công việc của vườn nho”.
Hiểu và thực hành sứ điệp Lời Chúa
Qua Lời Chúa hôm nay, Đức Giêsu không muốn ai phải thất vọng, mọi người đều có chỗ đứng trong Giáo Hội và đều có trách nhiệm tham gia vào sứ mạng truyền giáo. Thật vậy, tính phổ quát của của ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho chúng ta người Công Giáo, nhưng là cho muôn dân muôn nước, không trừ ai. Đồng thời, Đức Giêsu cũng mặc khải về lòng bao dung, quảng đại và thương xót của Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, trung thành, yêu mến và dấn thân vào làm vườn nho của Chúa, bằng cách sống tốt và chu toàn bổn phận của mình theo thánh ý Chúa dựa trên tình yêu. Vì thế:
Trước tiên, cần loại bỏ thái độ tự tôn, kiêu hãnh và coi thường người khác vì nghĩ rằng mình thuộc thành phần đương nhiên được cứu độ, còn người khác, họ chỉ là đám dân thường, tội lỗi, dốt nát, nên không cần quan tâm. Cũng cần có sự cảm thông, cộng tác để cùng nhau làm việc thiện thay vì ganh đua, ghen tỵ khi thấy người khác tốt lành hơn mình, hoặc người ta làm được nhiều điều hữu ích hơn chúng ta.
Tốt hơn là hãy ý thức mình chỉ là đầy tớ bất tài, vô dụng, nhưng lại được Chúa thương chọn và gọi để đi làm vườn nho cho Người. Vì thế, hãy dâng lời tạ ơn Chúa và cố gắng với khả năng của mình, làm sinh lợi nén bạc Chúa trao trong sự yêu mến với lòng nhiệt huyết tông đồ.
Thứ đến, hãy kiên trung, tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa, đừng thất vọng vì thấy mình không giỏi giang hay tội lỗi. Hãy nhớ rằng: Thiên Chúa luôn để ý đến những người “đứng chót”. Phần còn lại là của chúng ta, nếu chúng ta biết cộng tác với ơn Chúa trong sự khiêm tốn, ắt Chúa sẽ trả công hậu hĩnh và Người sẽ làm những điều kỳ diệu khi: “Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”.
Hiểu được tình thương của Thiên Chúa như thế, hẳn chúng ta thấy Thiên Chúa rất công bằng do lòng nhân từ của Người chứ không phải bất công như những người Dothái và ngay cả chúng ta đã lầm tưởng!
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khiêm tốn và yêu mến Chúa tha thiết. Biết gắn bó với sứ mạng truyền giáo trong Giáo Hội. Luôn tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa và trung thành với bổn phận của mình. Amen.
73. Lòng quảng đại của Thiên Chúa
Dụ ngôn Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài cho dân chúng được các nhà chú giải xếp thành hai loại: tỷ dụ và dụ ngôn. Loại tỷ dụ là thể văn mà toàn bộ những chi tiết đều mang ý nghĩa nòng cốt, còn các chi tiết phụ chỉ làm cho câu truyện thêm thú vị và khiến người đọc quan tâm chú ý đến ý chính mà thôi.
Câu truyện về những người thợ vào làm vườn nho của chủ là một dụ ngôn. Chủ đề chính của dụ ngôn là mối liên hệ của con người với Thiên Chúa trên bình diện ân sủng.
Trong lúc các Rabbi Do thái thường tính toán phần thưởng Thiên Chúa ban cho mọi việc lành, thì cách tính toán sòng phẳng theo công bình giao hoán này hoàn toàn bị dụ ngôn làm đảo lộn, vì nếu chúng ta tính với Chúa, Ngài sẽ tính với chúng ta, và chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc và chúng ta sẽ là kẻ thiệt thòi.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để cảnh cáo người Do thái không nên so đo, phân bì với người tội lỗi hay người ngoại giáo được ơn Chúa trở lại và thừa hưởng Nước Trời, bởi vì Nước Trời là phần thưởng nhưng không do lòng quảng đại của Chúa, chứ không do lòng đạo đức hay công nghiệp của con người. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho những kẻ phàn nàn kêu trách nêu bật lòng quảng đại của Thiên Chúa: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một quan sao; cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn, tôi không có quyền được tùy ý sử dụng của cải tôi sao?". Thiên Chúa đối xử tốt với mọi người, Ngài ban ơn cho mọi người chỉ vì lòng thương của Ngài mà thôi. Còn con người thì dễ bị cám dỗ, ghen tỵ, hẹp hòi, muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy xét xem mình đã có thái độ nào đối với người khác, nhất là khi thấy họ được sự lành? Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tính ghen tỵ và cho chúng ta sống quảng đại với mọi người.
74. Cảm thông với tha nhân – Lm Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Dụ ngôn thợ làm vườn nho
Bài Tin Mừng hôm nay ví Nước Trời Đức Giêsu sắp thiết lập giống như câu chuyện một ông chủ vườn nho đi kêu người làm vao làm việc trong vườn nho của mình. Có 4 tốp người được kêu vào làm vào 4 thời điểm khác nhau trong ngày: giờ thứ nhất, giờ thứ ba, giờ thứ sáu, và cả giờ thứ mười một. Khi trả lương, chủ vườn lại trả lương từ người làm giờ thứ mười một tới người làm từ giờ thứ nhất. Mỗi người đều được trả lương bằng nhau là một quan tiền. Khi có người thắc mắc ông chủ đã cho biết ông không bất công khi trả lương sòng phẳng theo thỏa thuận ban đầu là một đồng. Còn việc ông trả cho người sau bằng người đầu là do lòng nhân hậu của ông. Cũng vậy, sau này Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ chung cho mọi người gia nhập vào Hội Thánh. Dù là dân ngoại vào trễ hay dân Do Thái vào từ ban đầu, đều được hưởng ơn cứu độ như nhau, miễn là phải có đức tin thể hiện qua đức cậy và đức mến.
CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc: Bên Do Thái vào mùa hái nho, ngay từ sáng sớm, các chủ vườn thường ra ngã ba đường hay ra chợ người để thuê người hái nho cho mình. Chủ vườn nho tượng trưng Thiên Chúa. Ngài mời gọi mọi dân tộc đều vào làm vườn nho, nghĩa là được gia nhập vào Nước Trời là Hội Thánh. + thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền: Vào thời Đức Giêsu, chủ vườn nho thường trả lương công nhật cho thợ làm vườn là một quan tiền. Ở đây ông chủ đã hứa trả lương công nhật là một quan tiền ngay từ khi thuê họ vào làm việc.
- C 3-7: + Giờ thứ ba: Bấy giờ người Do thái tính thời gian một ngày từ lúc mặt trời lặn dựa vào lời tường thuật trong Sách Sáng Thế Ký: “Thiên Chúa gọi ánh sáng là “ngày”, bóng tối là “đêm”. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: Đó là ngày thứ nhất…” (St 1,5). Vì thế luật qui định ngày Sa-bát bắt đầu từ 18g00 chiều thứ sáu. Còn về việc tính giờ, người Do Thái lại tính từ lúc mặt trời mọc vào buổi sáng. Thời gian từ mặt trời mọc đến mặt trời lặn được chia làm 12 giờ. Vậy giờ thứ nhất, thứ ba, thứ sáu, thứ chín và thứ mười một tương đương với 6 giờ, 9 giờ, 15 giờ và 17 giờ như ngày nay. Giờ lao động của người Do thái mỗi ngày bắt đầu từ 6 giờ sáng và kết thúc vào lúc 18 giờ chiều. + Ông chủ vườn mời người đi làm vườn nho: Thiên Chúa muốn cho mọi người đều được ơn cưu độ, và người ta có thể gia nhập Nước Trời là Hội Thánh vào nhiều thời điểm khác nhau. + Tôi sẽ trả công cho các anh hợp lẽ công bằng: Trả lương công bằng, nghĩa là người làm thuê sẽ không bị thiệt thòi về tiền công. + Khoảng giờ thứ sáu rồi giờ thứ chín, ông lại ra và cũng làm y như vậy: Ông chủ nôn nóng đi kêu thợ làm vườn nho cho ông vào nhiều thời điểm khác nhau trong ngày mà không cần tính toán thiệt hơn cho mình. Điều này cho thấy lòng bao dung nhân hậu của Thiên Chúa. Ngài không muốn cho kẻ có tội phải chết, nhưng muốn họ ăn năn sám hối để được sống. + Khoảng giờ mười một: Giờ thứ mười một tương đương với 17 giờ chiều, là giờ cuối cùng trong một ngày làm việc. Thợ chỉ phải làm một tiếng nữa là hết giờ lao động. + Vì không ai mướn chúng tôi: Những người đứng không suốt ngày do không được ai thuê mướn. + Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!: Ông chủ kêu thợ vào làm vườn nho vào giờ cuối cùng là do lòng thương muốn giúp đỡ người thất nghiệp, chứ không do nhu cầu của công việc đòi hỏi. Điều này cho thấy ơn cứu độ là một ơn ban không, hoàn toàn do tình thương của Thiên Chúa, chứ không do công khó của con người.
- C 8-10: + Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót cho tới những người vào làm trước nhất: Việc trả lương này khác thường. Vì thứ tự trước sau bị đảo lộn và tiền lương đều là một quan tiền cho các người thợ làm việc nhiều ít khác nhau. Khi sắp xếp việc trả lương như vậy, ông chủ muốn tạo cho người làm việc từ sáng sớm tưởng rằng mình sẽ được trả nhiều hơn. Vì thế họ đã thắc mắc khi được lãnh bằng với người mới vào làm việc từ giờ thứ mười một. Qua việc phát lương này, ta thấy người bị thiệt là ông chủ chứ không phải người thợ làm từ giờ thứ nhất. Điều này cho thấy tình thương của Thiên Chúa đối với hết mọi người. Bất cứ ai dù là Do thái hay dân ngoại, dù theo đạo từ khi mới sinh hay vào lúc sắp chết, nếu thành tâm tin yêu Thiên Chúa thì đều được Người cho hưởng hồng ân cứu độ.
- C 11-13: + Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: Họ trách móc ông chủ hai điều: Một là họ phải làm việc vất vả suốt từ sáng sớm đến chiều tối, đang khi những người vào làm giờ thứ mười một chỉ làm một giờ. Hai là họ phải chịu sự nắng nôi khó nhọc, đang khi những người làm sau ban chiều khi mặt trời sắp lặn không bị nắng gắt nóng bức. Họ muốn được chủ trả lương cao hơn những người đến làm việc sau. + Này bạn: Đây là kiểu xưng hô của ông chủ với những người thợ chưa rõ tên. Kiểu xưng hô này vừa khoan dung vừa trách móc nhẹ nhàng để mong họ nghĩ lại. Giống như Đức Giêsu đã nói với Giu-đa khi anh ta dẫn dân quân Đền thờ đến bắt Người trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x. Mt 26,50). + Tôi đâu có xứ bất công với bạn?: Việc trả lương một quan tiền cho những người thợ đến sau không gây thiệt hại gì cho những người làm trước. Những người làm từ giờ thứ nhất đã nhận đủ một quan tiền, đúng như đã thỏa thuận từ lúc vào làm việc.
- C 14-16b: + Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt: Việc trả lương cho người đến làm sau cũng được trả một quan tiền là do lòng tốt của ông chủ, chứ không phải do công khó của họ. Qua đó Đức Giêsu muốn dạy: Dân Do thái đừng ganh tị khi Thiên Chúa cũng ban cho lương dân thừa hưởng lời hứa ban ơn cứu độ giống như họ. Người tín hữu đạo đức cũng đừng ganh tị với các tội nhân hay người lương khi thấy Chúa đối xử nhân từ cho họ được gia nhập đạo vào lúc cuối đời. + Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức: Ông chủ vạch rõ tâm địa ganh ghét xấu xa của nhóm thợ làm từ lúc sáng sớm. Họ không muốn người làm sau được trả lương bằng hay hơn họ. Đức Giêsu muốn các tín hữu chúng ta hãy noi gương lòng nhân từ của Thiên Chúa và đừng suy nghĩ hẹp hòi khi phê phán công việc của Ngài như người ta hay nói: “Lấy dạ tiểu nhân để đo lòng quân tử!”. + Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu. Còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót: Theo Thánh Gio-an Kim Ngôn thì câu này không bắt nguồn trực tiếp từ dụ ngôn, cũng như không phải là câu tóm kết về bài học của dụ ngôn. Nó được thêm vào, vì có một sự tương tự nào đó xét theo câu chuyện. Câu này nói đến sự đảo lộn về việc phát lương trước sau, đang khi trọng tâm của dụ ngôn nhấn mạnh đến việc trả lương đồng đều giữa những người thợ làm trong thời gian dài ngắn khác nhau. Có lẽ tác giả khi viết thêm câu này để đóng khung dụ ngôn mà thôi.
CÂU HỎI:
1) Ông chủ vườn nho trong dụ ngôn ám chỉ ai? Việc ông chủ vườn nho đi mời người vào làm vườn nho cho ông ở nhiều thời điểm khác nhau trong ngày có ý nghĩa gì? 2) Người Do thái thời xưa tính ngày mới bắt đầu lúc nào? Mỗi ngày có bao nhiêu giờ lao động và thời giờ ấy tương đương thế nào với giờ hiện nay? Giờ thứ mười một là mấy giờ hiện nay? 3) Ông chủ hứa trả lương công nhật bao nhiêu và trả theo phép công bằng nghĩa là gì? 4) Việc ông chủ đi kêu thợ làm vườn nho vào nhiều thời điểm khác nhau trong ngày, nhất là vào giờ thứ mười một cho thấy ông là người thế nào? 5) Việc trả lương thợ của ông chủ vườn nho khác thường ở điềm nào? Điều này nhằm nói lên điều gì về tình thương cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta? 6) Những người làm từ giờ thứ nhất trách móc ông chủ những gì? 7) Qua câu trả lời, ông chủ cho thấy việc ông trả lương bằng nhau cho những người làm trong thời gian nhiều ít khác nhau có bất công như họ đã kêu trách không? 8) Ông chủ phê phán thái độ của bọn thợ vào làm vườn nho từ giờ đầu tiên ra sao?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền hay sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” (Mt 20,13-15).
2. CÂU CHUYỆN: Ông vua nhân từ và quảng đại
Tại nước Tây Ban Nha có một ông vua tên là An-phong-sô rất nhân từ và quảng đại. Ngài thường cải trang làm thường dân rồi vi hành đi đó đây để tận mắt chứng kiến những nỗi đau khổ và oan ức của nhân dân do bọn quan lại địa phương gây ra, để kịp thời chấn chỉnh sửa sai. Ngày nọ, đức vua cải trang đến một tỉnh kia và thuê một phòng trọ trong một nhà nghỉ bình dân. Sáng hôm sau, nhà vua yêu cầu bồi phòng mang đến cho ông một chiếc gương để cạo râu. Khi đem chiếc gương cho vị khách, anh bồi phòng thấy khuôn mặt ông khách rất dễ mến, nên đã chủ động bắt chuyện: “Này ông, tôi có cảm tưởng ông không phải là loại khách du lịch xoàng”. Nhà vua tò mò muốn biết anh bồi phòng nghĩ gì về mình, nên hỏi lại: “Sao anh lại nói như vậy?” Người bồi phòng trả lời rằng: “Vì tác phong và vẻ bề ngoài của ông có cái gì đó khác với những người bình thường. Chắc ông phải là người thuộc triều đình nhà vua tại thủ đô Ma-trit (Madrid) cũng nên”. Nhà vua chỉ đáp lại cách mập mờ: “Một cách nào đó anh nói cũng đúng đó!” Anh bồi phòng lại hỏi thêm: “Vậy hẳn ông phải là một quan chức luôn hầu cận bên đức vua?” Nhà vua trả lời: “Anh đoán thật chẳng sai chút nào”. Người bồi phòng càng tò mò hơn và hỏi tiếp: “Phục vụ đức vua thì thông thường phải làm những việc gì hả ông?” Nhà vua mỉm cười hóm hỉnh đáp: “Ồ, làm nhiều việc lắm, đại loại như bây giờ tôi sắp phải cạo râu cho ngài”.
Người bồi phòng trong câu chuyện trên đã gặp được chính đức vua và được ngài hé mở cho biết phần nào sự thật về ngài. Các câu đối đáp giữa đức vua và người bồi phòng là minh họa sống động về long nhân từ và bao dung của ông chủ vườn nho, tượng trưng cho Thiên Chúa trong Tin Mừng hôm nay. Những người đi làm sau ám chỉ dân ngoại và những kẻ tội lỗi. Họ đều được Thiên Chúa mời gia nhập Hội Thánh vào các giờ khác nhau, đặc biệt vào giờ thứ mười một là lúc cuối đời. Đây cũng là trường hợp của người trộm lành cùng chịu đóng đinh trên cây thập giá bên cạnh Đức Giêsu. Nhờ lòng tin và thành tâm sám hối mà anh trộm lành đã được Người tha tội và ban hạnh phúc đời đời: “Tôi bảo thật anh: hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (x. Lc 23,42-43).
3. SUY NIỆM:
1) So sánh người con cả với bọn thợ làm vườn nho đầu tiên:
Trong dụ ngôn về người cha nhân hậu, anh con cả đã bất mãn với cha khi thấy cha tỏ lòng bao dung tha thứ tội lỗi của đứa em hư hỏng đã đi hoang trở về. Không những cha không trừng phạt tội bất hiếu của nó, mà còn truyền cho gia nhân giết bê béo ăn mừng khi thấy nó vẫn mạnh khỏe. Người con cả đã bày tỏ thái độ ganh ghét khi không thèm vào nhà và lên tiếng phiền trách cha: “Cha ơi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê nhỏ để con vui vẻ với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về, thì cha lại giết dê béo ăn mừng nó!” (Lc 15,28-30). Trong Tin mừng hôm nay, những người đi làm từ sáng sớm cũng cằn nhằn ông chủ vườn nho khi thấy ông trả lương cho người chỉ làm một tiếng đồng hồ cuối ngày cũng được trả một quan tiền, bằng với họ là những người phải chịu nắng nôi khó nhọc suốt cả ngày.
Khi Đức Giêsu ra giảng đạo, các kinh sư và người Pha-ri-sêu đều khó chịu khi thấy Người đối xử thân tình với bọn thu thuế, gái điếm và những kẻ tội lỗi nói chung. Người là mục tử tốt lành đi tìm từng con chiên lạc. Người mang lại cho những người bất hạnh niềm vui và hạnh phúc. Người luôn mời gọi những người tội lỗi mau sám hối và hứa ban Nước Trời cho họ. Như vậy, người tội lỗi cũng được hưởng hạnh phúc ngang bằng với các kinh sư và những người Pha-ri-sêu. Những người này vốn tuân giữ từng điều khoản nhỏ mọn của luật Mô-sê và tự coi mình là người công chính. Trước thái độ nhân từ và khoan dung đối với các tội nhân của Đức Giêsu, các đầu mục này đã tỏ ra ganh ghét vì cho rằng mình đã không được Đức Giêsu tôn trọng hơn bọn người nghèo khổ tội lỗi kia.
2) Thế nào là thái độ ganh ghét đố kỵ?
Ngay từ thuở bình minh của nhân loại, sau khi nguyên tổ loài người phạm tội, sự dữ đã lọt vào thế gian. Ca-in đã có thái độ ganh tị khi thấy Thiên Chúa chấp nhận lễ vật của A-ben và bỏ qua lễ vật của anh ta. Anh ta đã coi A-ben là kẻ thù và ra tay giết em, nên cuối cùng anh ta đã bị trừng phạt. Như vậy người có tính ganh tị là kẻ vừa huỷ diệt người khác, lại vừa hủy hoại chính mình. Những người thợ làm việc từ sáng sớm cũng cằn nhằn ông chủ vì đã trả lương cho người vào làm sau cũng được một quan tiền bằng với họ. Đang khi họ phải chịu nắng nôi vất vả suốt cả ngày. Giả như ông trả cho người làm sau số tiền lương ít hơn thì chắc họ đã không cảm thấy khó chịu như thế.
Kẻ ganh ghét đã không “vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15), vì họ thiếu tình yêu thương. Họ không coi các người kia là bạn, nhưng là đối thủ cạnh tranh với mình. Họ coi sự thành công của người khác là mối đe dọa cho họ. Ở đây, Đức Giêsu mời gọi các tín hữu chúng ta phải thay đổi cách nhìn về Thiên Chúa: Người là Đấng công bình, nhưng không cứng nhắc trong khuôn khổ Lề luật. Người hoàn toàn tự do thể hiện tình thương bao dung. Người giàu lòng từ bi nhân ái và luôn muốn ban ơn cứu độ cho loài người chúng ta. Thiên Chúa chứng tỏ Người là Chúa tể của kẻ trộm lành biết hồi tâm sám hối, là ông chủ của người thợ đi làm vườn nho vào giờ thứ mười một, nhưng Ngài cũng là cha đầy lòng từ bi nhân hậu với hết mọi người chúng ta.
3. Chúa muốn ta phải làm gì?
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi mọi người chúng ta đừng quá tự hào về bản thân. Người kêu gọi chúng ta đổi mới cách nhìn về người khác, để ngày càng thêm lòng kính trọng tha nhân, phá bỏ hàng rào ngăn cách như sự ganh ghét ích kỷ và sự trả thù ti tiện. Biết đến bao giờ người con cả mới chịu bước vào nhà cha để chia sẻ niềm vui với cha khi tìm thấy đứa con thất lạc trở về? Biết đến khi nào những người thợ đi làm từ sáng sớm mới sẵn lòng chia sẻ niềm vui với những người vào làm giờ thứ mười một lúc cuối ngày? Biết đến khi nào chúng ta mới cảm thấy niềm vui thật sự với những người hàng xóm gần bên, vì chúng ta đã nhận ra họ không phải là đối thủ, nhưng là anh em của chúng ta?
4. THẢO LUẬN:
1) Trong đời sống hàng ngày chúng ta thường hay ganh ghét kẻ khác vì những nguyên nhân nào? Ta phải làm gì để bỏ đi thói xấu ganh tị này? 2) Thánh Phao-lô dạy: “Vui với người vui, khóc với người khóc” có dễ thực hành không? 3) Bạn thường cảm thấy thế nào khi thấy người khác trổi vượt hơn mình như: họ thi đậu còn ta bị rớt; Họ có tài hát hay được nhiều người tán thưởng và làm việc hiệu quả hơn ta? Họ được nhiều người khác tín nhiệm hơn ta?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Thiên Chúa Cha từ bi nhân hậu. Tuy chúng con chỉ là những đầy tớ vô dụng (x. Lc 17,10), nhưng chúng con cũng xin hứa quyết: sẽ hết lòng phục vụ Hội Thánh, để làm cho Hội thánh trổ sinh nhiều hoa trái công bình và yêu thương. Xin cho chúng con biết cộng tác với Cha mời gọi nhiều người vào làm vườn nho Nước Trời. Xin cho chúng con biết chung vui với Cha khi có thêm tội nhân và anh chị em lương dân trở về làm con cái Cha trong gia đình Hội Thánh, để họ cũng được chia sẻ ơn cứu độ với chúng con. Vì chúng con biết rằng: “Cha muốn cho hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ”.
- Lạy Cha. Xin hãy ban cho chúng con trái tim bao dung dịu dàng của Chúa Giêsu và trái tim đầy tình mẫu tử của Mẹ Ma-ri-a. Xin cho trái tim con không ích kỷ luôn khép lại để chỉ yêu mình và những người thân của mình, nhưng biết mở ra để đón nhận người khác. Xin uốn nắn trái tim sơ cứng của con nên giống trái tim nhân hậu bao dung của Chúa. Xin cho trái tim con vượt lên mọi tranh chấp nhỏ nhen và mọi trả thù ti tiện. Xin cho tâm hồn con luôn bình an, không giận hờn tranh chấp hoặc để bụng ganh ghét với những ai hơn mình. Xin giúp tình cảm của con luôn quân bình: không quá vui khi thành công, mà cũng chẳng chán nản khi thất bại. Xin cho con biết khiêm tốn bình tĩnh nghe những lời phê bình của kẻ khác. Xin cho trái tim con đủ lớn để yêu thương hết mọi người, kể cả những kẻ không ưa con và những người con không ưa họ. Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để đón nhận cả thế giới, để không có ai là kẻ thù, nhưng sẵn sàng yêu thương tha thứ để biến kẻ thù thành bạn của con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
75. Bằng lòng với của Chúa ban
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Chiều kích của thế giới mà người ta đang sống, tuỳ thuộc vào cái nhìn của mỗi người. Người ta có thể mở rộng hay thu hẹp thế giới lại trong đầu óc mình. Khi người ta thu hẹp cái nhìn đời, là người ta chọn sống trong thế giới nhỏ bé. Và khi người ta càng chọn cái nhìn hẹp hòi, người ta càng mất hạnh phúc. Đó là cách thế cắt nghĩa cho việc bất mãn của những người làm vườn nho cả ngày từ sáng sớm tinh sương trong Phúc âm hôm nay.
Thợ làm vườn nho từ sáng sớm đã thỏa thuận với chủ về đồng tiền lương (Mt 20:2), nhưng rồi họ lại cằn nhằn vì chủ trả cho những người đến sau cũng bằng họ. Xét về một vài khía cạnh, thì dụ ngôn hôm nay cũng giống dụ ngôn người cha nhân lành đối xử khoan hậu với người con phung phá. Khi người con phung phá trở về thì người cha cho mở đại tiệc ăn mừng khiến người con trưởng nổi ghen. Đó cũng là phản ứng tiêu biểu của loài người.
Giới học giả Thánh kinh coi những người được gọi trước để làm vườn nho tượng trưng cho dân được chọn trong Cựu ước. Họ là những người được gọi trước để sửa soạn cho việc Đấng Cứu thế đến. Khi Đấng Cứu thế đến, họ lại từ khước Người. Còn những người dân ngoại được gọi sau này đã chấp nhận lời mời gọi của Chúa và họ được trở nên hàng đầu (Mt 20:16a). Dụ ngôn còn ám chỉ rằng bất cứ ai đáp lại tiếng gọi của Chúa và sống theo đường lối của Người thì cũng được đối xử khoan dung và nhân hậu. Đó là trường hợp những người thu thuế và gái điếm được vào nước Trời trước các thượng tế và kì mục như Chúa bảo (Mt 21:31). Người thu thuế và gái điếm mà Chúa nói đến cũng là người Do thái nhưng họ biết hối cải và thi hành ý Chúa.
Bài học có thể được rút tỉa trong Thánh kinh hôm nay là lời mời gọi sống đức tin vào Chúa đến với mỗi dân tộc hay mỗi cá nhân khác nhau vào những thời điểm khác nhau. Có người được gọi đến đời sống đức tin từ nhỏ qua Bí tích Rửa tội. Có người lớn lên mới được gọi vào đời sống đức tin. Chính lúc mà người ta đặt tin tưởng vào Chúa và gia nhập đạo Chúa qua Bí tích Rửa tội thì họ trở nên thành phần ngang hàng với nhau trước mặt Chúa. Gia nhập nước Chúa sớm hay trễ, trước hay sau không có khác biệt. Và tất cả những người được gọi làm vườn nho của Chúa để gia nhập nuớc Trời đều phải ghi ơn lòng quảng đại của Chúa.
Dụ ngôn nhấn mạnh đến điểm là trong việc cứu độ, Thiên Chúa sẽ quyết định những gì là công bình, những gì là bác ái trong việc thưởng công cho con cái loài người. Đường lối của Chúa là đường nẻo công chính, nhưng sự công chính của Chúa luôn nằm trong bối cảnh nhân từ và lòng xót thương của Người. Chính vì thế mà ngôn sứ Isaia trong bài Thánh kinh Cựu ước hôm nay đã ca tụng lòng nhân hậu của Chúa: Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi (Is 55:8).
Trong việc trả lương cho những người đến làm sau hết cùng một số tiền như những người đến trước, người chủ đã không làm thiệt hại, cũng không lỗi đức công bình với những người đến làm từ sáng sớm vì họ đã thỏa thuận với chủ về số tiền lương mỗi ngày một quan tiền. Đó là mức lương của một người thợ thời bấy giờ. Việc trả lương cho những người đến sau cùng một số tiền bằng thợ đến từ sáng sớm là do lòng đại lượng của chủ. Nói cách khác, đối với những người đến trước, thì chủ thi hành luật công bình, nghĩa là không lỗi giao kèo. Còn đối với những người đến sau, chủ thi hành luật bác ái.
Theo mạch văn trong Phúc âm hôm nay thì những người đứng không ở ngoài chợ, không phải là những người nhàn cư, ăn không ngồi rồi, nhưng vì không ai mướn họ (Mt 20:7). Ra chợ tìm việc làm và đợi tới giờ mười một1 - tức là năm giờ chiều, đến sáu giờ thì nghỉ việc - có nghĩa là họ cần việc làm. Tại đất Paléttin thời bấy giờ, chợ là nơi người thất nghiệp đến tìm việc và nhận việc, giống như tiệm 7-Eleven hay tiệm giải khát nào đó tại Hoa kỳ là nơi mà người thất nghiệp tụ họp đợi người khác đến thuê làm công vào thời gian hai mươi năm cuối thế kỉ hai mươi và cũng chừng hai mươi năm đầu thế kỉ hai mươi mốt. Theo nhà chú giải Thánh kinh William Barclay, cao độ của mùa hái nho tại Patéttin nhằm vào tháng Chín. Theo sau là mùa mưa. Vì thế chủ cần hái nho trước khi mùa mưa tới để nho khỏi bị ủng, nên ông cần càng nhiều thợ làm càng lợi ích. Như vậy xét theo kế hoạch kinh tế nông nghiệp, ông chủ là người quản lý tài sản giỏi. Còn xét theo Học thuyết Xã hội Công giáo, người ta phải khen ông chủ vườn nho có đầu óc xã hội, chứ không thể tố cáo ông mang óc thiên vị: nhất bên trọng, nhất bên khinh. Ông trả lương theo nhu cầu vật chất của thợ, chứ không dựa trên thời giờ làm việc của họ.
Khi nghĩ rằng ta tốt lành và siêng năng hơn người khác, mà người khác lại hơn ta về của cải vật chất và địa vị xã hội, ta sinh ra ganh tị, và còn hận Chúa. Do đó ta muốn đặt giới hạn cho lòng đại lượng và khoan dung của Chúa. Đó chính là điều thắc mắc của ông chủ vườn nho: Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?(Mt 20:15). Đáng lẽ những người làm vườn nho từ sáng sớm phải vui mừng với thợ đến sau vì họ cần tiền để độ thân hoặc nuôi gia đình. Khi đặt nặng về giá trị vật chất, mà thấy người khác hơn mình về của cải, việc làm, nhà ở thì người ta nổi máu ghen. Mà ghen tương lại làm cho người ta mất hạnh phúc. Mất hạnh phúc làm người ta khổ. Vậy thì ghen làm chi cho khổ? Còn nếu coi nhẹ giá trị vật chất thì khi thấy người khác hơn mình về những khía cạnh trên, người ta cũng không màng. Hôm nay mỗi người cần nhắc nhở cho mình rằng mọi sự ta có đều là của Chúa ban. Vì thế ta cần học để sống trong tâm tình biết ơn.
Lời cầu nguyện xin cho được bằng lòng với của Chúa ban:
Lạy Chúa, Chúa là Đấng công minh và đại lượng
Chúng con cảm tạ Chúa về lượng công minh
và lòng đại lượng đối với loài người tuỳ theo nhu cầu cá nhân.
Xin ban cho con một tâm hồn khiêm tốn
để con bằng lòng đón nhận những của lớn nhỏ Chúa ban.
Cũng xin cho con một tâm hồn quảng đại
để con hiểu được những đặc ân mà Chúa ban cho người khác
thay vì ganh tị với họ và kêu trách Chúa.
Và xin cho những người đến sau
cũng được mời vào làm việc trong vườn nho của Chúa. Amen.
19/09 Dụ Ngôn Người Gieo Giống
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Dụ Ngôn Người Gieo Giống.
Thứ Bảy tuần 24 thường niên.
"Hạt rơi trong đất tốt, là những người giữ lấy lời và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".
Lời Chúa: Lc 8, 4-15
Khi ấy, có đông dân chúng tụ họp lại, và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa Giêsu. Người dùng dụ ngôn mà nói rằng: "Người gieo hạt giống ra đi gieo hạt giống mình. Và đang khi gieo, có hạt rơi xuống bên vệ đường, bị người ta chà đạp và chim trời đến ăn đi. Hạt khác rơi trên đá sỏi, vừa mọc lên liền héo đi, vì không có đất ẩm. Hạt khác rơi vào bụi gai, và gai góc cùng mọc lên, bóp nghẹt nó. Hạt khác rơi vào đất tốt, đã mọc lên và kết quả gấp trăm".
Khi nói những lời đó, Người kêu lên rằng: "Ai có tai để nghe thì hãy nghe!". Bấy giờ các môn đệ hỏi Người dụ ngôn đó ý nghĩa thế nào. Người nói rằng: "Phần các con, thì cho các con biết những mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; đối với người khác, thì dùng dụ ngôn, để chúng xem mà không thấy, nghe mà không hiểu. Dụ ngôn đó có nghĩa thế này: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những hạt rơi bên vệ đường, tức là những người đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp lời khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Những hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi nghe thì vui vẻ đón nhận lời Chúa, nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng nhất thời, và khi đến giờ thử thách, thì tháo lui. Hạt rơi vào bụi gai, là những người đã nghe, nhưng khi đi đường, những mối lo nghĩ, sự giàu có và thú vui của đời sống bóp nghẹt và họ không sinh hoa kết quả. Còn như hạt rơi trong đất tốt, là những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Với tấm lòng cao thượng
Suy niệm:
Đức Kitô hào phóng gieo vãi lời của Thiên Chúa khắp nơi.
Ngài như người gieo hạt giống, tung gieo trong gió,
có vẻ như chẳng để ý đến chuyện có hạt rơi vào đất cằn khô,
và một số hạt không bao giờ sinh huê lợi.
Các Kitô hữu sơ khai đã đọc dụ ngôn này và thấy nơi đó một lời nhắn nhủ.
Họ thấy mình chính là người đã nhận được hạt giống lời Chúa.
Nhưng không phải hạt giống nào cũng thành cây lúa trĩu hạt.
Có những hạt giống bị thui chột bởi những lý do bên ngoài và bên trong.
Làm sao để mọi hạt giống được gieo trong tim ta, đều sinh hoa trái?
Câu hỏi của Giáo hội sơ khai cũng là câu hỏi của Giáo hội bây giờ.
Thửa đất là trái tim con người xưa nay vẫn thế.
Hạt giống Lời Chúa hôm xưa và hôm nay cũng vẫn là một.
Cả bốn hạng người trong dụ ngôn đều đã nghe (cc. 12. 13. 14. 15),
nghĩa là đều đã đón nhận Lời Chúa vào trái tim, vào trung tâm đời mình.
Nhưng có Lời bị đánh cắp.
Quỷ đến và lấy Lời đã gieo ra khỏi trái tim người nghe
vì sợ họ tin mà được cứu độ (c. 12).
Quỷ giống như chim trời đến ăn mất hạt giống rơi xuống vệ đường (c. 5).
Tại quỷ hay tại trái tim con người như đất vệ đường quá cứng?
Hạt giống nằm chơ vơ, trở thành mồi ngon cho bao tấn công đe dọa.
Nhưng có Lời không mọc rễ.
Nghe Lời và vui vẻ đón nhận vẫn chưa đủ.
Hạt giống cần có nhiều đất để mọc rễ nuôi sống cây.
Đất nhiều sỏi đá chỉ cho một lòng tin nhất thời, khi mọi sự dễ dàng,
nhưng không đủ sức đứng vững khi thử thách ập tới.
Đã và đang có những Kitô hữu quỵ ngã trước những thách đố cam go,
vì Lời Chúa chưa bao giờ mọc rễ trong tim họ.
Thử thách của đời Kitô hữu làm lộ ra tình trạng “không rễ” của ta,
và đòi ta tránh gặp gỡ Lời Chúa một cách hời hợt, nông cạn.
Nhưng có Lời bị chết ngộp.
Ngộp vì những thứ trói buộc của cuộc đời phù vân này,
những lo âu trăn trở, những thèm muốn khoái lạc, giàu sang.
Cây lúa có mọc lên cũng bị chết ngộp bởi bụi gai ở ngay nơi tim tôi.
Cuối cùng có Lời được nắm giữ.
Dù thửa đất tốt là trái tim cao thượng và quảng đại,
Nhưng nắm giữ Lời Chúa cũng đòi một nỗ lực không ngừng.
Bất chấp những tấn công từ bên ngoài, hay thèm muốn bên trong,
cần có thái độ kiên trì để vượt qua những khủng hoảng không tránh khỏi.
Xin được trân trọng nghe Lời Chúa trong thánh đường và trong cuộc sống.
Xin được khiêm tốn nghe Lời Chúa qua các bậc thầy và qua trẻ thơ.
Ước gì Lời Chúa giúp ta làm cho đất của tim mình xốp hơn và mềm lại,
bớt đá sỏi, thêm đất màu, bớt bụi gai, thêm ẩm ướt.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin chiếu tỏa trên con ánh sáng của Chúa
và dạy con bước đi
ngay trong đêm tối cũng như giữa ban ngày.
Xin truyền cho con sức mạnh của Người.
Ước gì những cánh tay rã rời vì thất bại của con
tìm lại được sức trẻ
để gieo trồng hàng ngàn cây xanh
cho một thế giới mới
Ước gì mồ hôi con
pha lẫn mồ hôi của Chúa trong Vườn Cây Dầu.
Ước gì máu con
hòa lẫn với Máu Chúa trên Núi Sọ
để tưới gội cho mảnh đất đã bị khô cằn
vì bất công và ích kỷ.
Chúc tụng Chúa là Cha,
đã dẫn con đi đến cùng,
đến tận Emmaus, nơi Chúa hiển dung
với tràn trề bình an và niềm vui. (ĐHY Roger Etchegaray)
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
SUY NIỆM 2: GIEO VÀ GẶT
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thật lạ lùng quá trình gieo và gặt. Quá trình mất và được. Từ bỏ và lấy lại. Chết và sống. Quá trình nảy sinh sự sống. Sự sống mới. Phong phú dồi dào. Và cao vượt. Mầu nhiệm sự sống tự nhiên đã kỳ diệu. Mầu nhiệm sự sống siêu nhiên còn kỳ diệu gấp bội.
Chúa Giê-su là người đi gieo Tin mừng. Thiên Chúa kiên trì gieo Lời Người xuống trần gian. Trải qua bao đời. Qua bao thất bại. Đến lúc phải gieo chính Ngôi Lời. Chúa Giê-su gieo chính mình. Người trở thành hạt giống. Mục nát đi để trổ sinh một mùa gặt mênh mông. Một nhân loại mới mọc lên từ Người. Giống như Người.
Nhưng để trở thành mùa gặt con người phải trở thành đất tốt. Phải cầy bừa con đường đi đã chai cứng. Phải nhặt đá sỏi. Phải nhổ bụi gai. Phải từ bỏ con người cũ. Con người của xác thịt. Con người của hời hợt nông cạn. Con người của dục vọng đam mê. Để sống theo Thần Khí. Phải gieo chính mình như Chúa Giê-su.
Đó là điều thánh Phao-lô mời gọi ta trong thư Cô-rin-tô. Ta cũng phải gieo chính mình. Phải trở thành hạt giống mục nát như Chúa. Phải từ bỏ con người cũ. Ta sẽ sống lại thành con người mới. Ta sẽ có mùa gặt mới: “Gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí”. Và thánh nhân giải nghĩa con người có sinh khí là con người của A-đam, con người theo xác thịt. Con người có thần khí là con người giống A-đam mới, là Chúa Ki-tô: “Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến” (năm chẵn).
Đây là một quá trình khó khăn. Phải mục nát đi. Phải từ bỏ chính mình. Vì thế phải quảng đại và kiên trì như lời Chúa giải thích: “Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả”. Theo thánh Phao-lô từ bỏ và kiên trì đó là: “hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, xuất hiện” (năm lẻ).
Mùa gieo hạt như thế sẽ kéo dài suốt cả cuộc đời. Ta còn phải cầy bừa những con đường. Nhặt đá sỏi nông nổi hời hợt. Nhổ bụi gai đam mê xác thịt. Để hoàn toàn chết đi cho con người mới. Rồi mới có mùa gặt trong Chúa Ki-tô.
SUY NIỆM 3: Dụ Ngôn Người Gieo Giống
Dụ ngôn, theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là so sánh, là thí dụ. Trong Tin Mừng, là những câu truyện Chúa Giêsu đưa ra dựa trên những hình ảnh quen thuộc trong đời sống hằng ngày của người nghe, để giúp họ hiểu ý nghĩa những sự thật có liên quan đến niềm tin mà Ngài muốn trình bày.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta dụ ngôn về người gieo giống.
Trước hết, cần lưu ý đến sự khác biệt giữa dụ ngôn và những lời giải thích dụ ngôn. Khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu xem ra nhấn mạnh đến sự hiệu nghiệm của hạt giống hay đúng hơn sự thành công của người gieo giống: có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá, có hạt rơi vào bụi gai, nhưng cũng có hạt rơi trên đất tốt và sinh hoa kết quả gấp trăm. Còn khi giải thích dụ ngôn cho các môn đệ, Chúa Giêsu như muốn nhấn mạnh đến thái độ cộng tác của con người để làm cho Lời Chúa được sinh hoa kết quả. Thật ra, hai khía cạnh này không đối nghịch nhau, nhưng được tổng hợp để diễn tả thực tại phong phú của mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa chắc chắn được phát triển, nhưng phần cộng tác của con người trong việc phát triển Nước Chúa cũng không thể bỏ qua được.
Hạt giống Lời Chúa là yếu tố chính của dụ ngôn. Hạt giống này tự nó có sức trổ sinh hoa trái, nhưng khi được gieo vãi thì gặp những hoàn cảnh đối nghịch tùy vào thái độ chấp nhận cộng tác của con người lãnh nhận Lời Chúa. Người gieo giống ở đây là chính Thiên Chúa, Ngài gieo vãi khắp nơi, trao ban nhưng không ơn cứu rỗi cho mọi người. Thiên Chúa có sáng kiến trước, nhưng con người cũng cần cộng tác vào: hai yếu tố này không thể bỏ qua được.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta canh tân đời sống, cộng tác với ơn Chúa ban để trở thành những mảnh đất tốt đón nhận và làm phát triển hạt giống Lời Chúa. Xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín đó.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Mảnh Ðất Tốt
Mỗi người đồ đệ cần phải cộng tác vào việc làm cho Nước Chúa được ngự đến, và trước hết là nơi chính bản thân mình. Chúa Giêsu giảng giải điều này cho các môn đệ qua dụ ngôn về người gieo giống được Giáo Hội nhắc lại trong ngày hôm nay.
Chúng ta có thể lưu ý đến một chút khác biệt giữa dụ ngôn và những lời giải thích về dụ ngôn. Khi kể về dụ ngôn Chúa Giêsu xem ra như nhấn mạnh tới sự hiệu nghiệm của hạt giống hay đúng hơn sự thành công của người gieo giống chắc chắn thu được thành quả. Có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá, có hạt rơi trong bụi gai, nhưng có những hạt rơi trên đất tốt và trổ sinh hoa trái gấp trăm. Còn khi giải thích dụ ngôn cho các môn đệ thì xem ra như Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến thái độ cộng tác của con người để làm cho Lời Chúa sinh hoa trái tốt. Thật ra hai khía cạnh này không đối nghịch nhau mà ngược lại cả hai cùng được tổng hợp để diễn tả thực tại phong phú của mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa chắc chắn được phát triển nhưng phần cộng tác của con người trong việc phát triển Nước Chúa cũng không thể nào bỏ qua được.
Chính hạt giống Lời Chúa là yếu tố chính của dụ ngôn, hạt giống Lời Chúa này tự nó có sức mạnh để trổ sinh hoa trái, nhưng khi được gieo vãi, được rao giảng cho mọi người thì liền gặp phải hoàn cảnh đối nghịch, gai góc, đá sỏi tùy thuộc vào thái độ chấp nhận cộng tác của người lãnh nhận Lời Chúa. Người gieo giống ở đây được hiểu là chính Thiên Chúa. Ngài gieo vãi khắp nơi, trao ban nhưng không cho tất cả mọi người ơn cứu rỗi.
Thiên Chúa đã có sáng kiến ứng trước cho con người nhưng phần con người thì cũng cần cộng tác đáp lại. Hai yếu tố không thể bỏ qua được. Thiên Chúa không áp đặt nhưng kính trọng tự do của con người. Những trở ngại không cho hạt giống Lời Chúa sinh hoa trái là thái độ hời hợt, xu thời, không kiên trì, lo lắng tích trữ giàu sang vật chất, say mê đi tìm thú vui.
Mỗi người chúng ta cần canh tân đời sống cộng tác với ơn Chúa ban, cố gắng sao để trở thành mảnh đất tốt đón nhận hạt giống Lời Chúa. Một tâm hồn cao thượng, quảng đại và kiên trì giữa những gian nan thử thách của cuộc đời, đó là điều Thiên Chúa hằng mong ước gặp được nơi mọi người đồ đệ của Ngài, nơi mỗi người chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa,
Xin ban cho con được trở nên mảnh đất tốt hàng ngày đón nhận và suy niệm Lời Chúa cũng như sống thực hành những gì Chúa truyền dạy.
Lạy Chúa, xin hãy phán, này tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Sinh hoa kết quả nhờ kiên trì
“Người gieo giống ra đi gieo hạt giống của mình, trong khi người ấy gieo, thì có hạt rơi xuống vệ đường, người ta giẫm lên và chim trời ăn mất. Hạt khác rơi trên đá, và khi mọc lên, lại héo đi vì thiếu ẩm ướt. Có hạt rơi vào giữa bụi gai, gai cũng mọc lên làm nó chết nghẹt. Có hạt lại rơi nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết quả gấp trăm. Nói xong, Người hô lên rằng: “Ai có tai nghe thì nghe”
Các môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì. Người đáp: “Anh em thì được ơn hiểu biết các mầu njiệm Nước Thiên Chúa; còn đối với người khác, thì dùng dụ ngôn, để chúng xem mà không thấy, nghe mà không hiểu” (Lc. 8, 5-9)
Chức vụ Đức Kitô ở Galilê đến hồi kết thúc. Người muốn cho đông đảo dân chúng tụ họp chung quanh hiểu về mầu nhiệm nước trời bằng một dụ ngôn mang ý nghĩa vừa cụ thể vừa cao siêu. Dụ ngôn không có sức gắn liền với trí tuệ, tự nó không bao giờ minh hiển. Nó dự báo chân lý và phải nhờ đường lối của Thiên Chúa mới làm cho tâm hồn nắm bắt được chân lý và trở về với chân lý.
Pascal đã viết: trong tư tưởng của Chúa “Có đủ rõ ràng để soi cho những người được tuyển chọn, và khá tối tăm để giúp họ khiêm hạ. Có đủ tối tăm để làm kẻ thách thức mù quáng, và khá rõ ràng để kết án họ và làm cho họ không thể chối cãi”. Những dụ ngôn của Đức Giêsu chứa đựng vừa sáng vừa tối để họ không thể chiến thắng bằng sức riêng của mình, nhưng cũng để tôn trọng tự do của mỗi người. Đối với dụ ngôn người gieo giống trong Tin Mừng hôm nay cũng thế.
Người gieo ra đi gieo giống, cũng gặp nhiều tai họa: có hạt rơi trên vệ đường bị người và vật dày đạp và sau cùng bị chim trời đến ăn. Có hạt chết khô đét trên đá vì thiếu ẩm ướt. Có hạt bị chết nghẹt trong bụi gai không vươn lên được. Sau cùng rơi vào đất tốt sinh hoa kết quả.
Ai có tai thì hãy nghe.
Sứ điệp Tin Mừng trải qua bao nhiêu thời gian đã bị rơi vào những con tim tin ma thờ quấy, hay nông nổi nhất thời hay ham mê danh lợi thú. Chỉ có những con tim chân thành, khiêm tốn, kiên trì, cao thượng mới sinh hoa kết quả cho những mùa gặt phong phú. Lòng yêu mến của họ sẽ giúp họ nắm giữ và thực hành được lời Chúa, dầu gặp những thất bại, thử thách, đau khổ, chống đối, bắt bớ và phải chết, họ vẫn an tâm vững chí kiên trì cho đến tận cùng. Ngày qua ngày, khiêm tốn họ sống thực hiện những điều đã khám phá do Thiên Chúa ban ơn, họ dần dần đi vào cuộc sống thân mật của Thiên Chúa.
GF
SUY NIỆM 6: MỞ RỘNG TÂM HỒN... NHƯ THỬA ĐẤT TỐT (Lc 8, 4-15)
Xem lại CN 15 TN A - và thứ Tư tuần 16 TN
Nói đến gieo giống, người ta nghĩ ngay đến ai là người gieo? Gieo gì? Và gieo vào đâu? Hạt giống mọc lên ra sao? Sinh hoa kết quả thế nào...?
Hôm nay Đức Giêsu đã kể dụ ngôn người gieo giống và mặc khải cho biết: người gieo giống là Thiên Chúa. Hạt giống là Lời của Người qua các tổ phụ, tiên tri và sau hết là chính Đức Giêsu. Tuy nhiên, thân phận hạt giống thì khác nhau, vì thế, có hạt bị quên lãng, bỏ ngoài tai hay vô tâm, chỉ ¼ là được đón nhận. Lý do thân phận của hạt giống bị hư hoại nhiều là vì sự chai cứng trên lối mòn hay bởi gai góc, đá sỏi cằn khô. Chỉ một ¼ số hạt gieo vãi được may mắn rơi vào đất tốt, đủ điều kiện để hạt giống nảy mầm, đơm bông kết trái.
Hình ảnh này cho thấy thực trạng của xã hội chúng ta hôm nay cũng đang bị đủ thứ gai góc, sỏi đá và lối mòn đe dọa đến hạt giống của Lời Chúa.
Những thứ đó là: lối sống sa đọa, nhu nhược, vô luân, không có tự trọng... tham nhũng, bóc lột, lừa gạt, dẫn đến tình trạng: “Ai làm sao, tôi làm vậy. Ai làm bậy, tôi cũng làm theo”, nên Lời Chúa không sinh ích cho người đón nhận.
Thực vậy, biết bao con người hôm nay cứ trố mắt và lao mình vào những con đường tội lỗi mà không hề có chút ưu tư. Họ sống như không có gì xảy ra vậy.
Nơi giới trẻ ngày nay, tình trạng thượng tôn tình dục, văn hóa đồi trụy đang là mốt rất “hót”, dẫu vẫn biết rằng văn hóa phẩm đồi trụy là nguyên nhân nguy hiểm, tác hại khôn lường đến đời sống đạo đức gia đình, xã hội và làm băng hoại Lương Tâm, dẫn đến tình trạng mù quáng và đi vào con đường chết! Nhưng vì đồng tiền và bản năng “hạ đẳng” của con người, họ vẫn ngang nhiên cung cấp và thỏa sức sử dụng... như loài không có lương tri, không có linh hồn...!
Quả thật, những người đó, và đôi khi có cả chúng ta, là những người có tai mà không nghe, có mắt mà không thấy. Lời Chúa đến với họ chẳng khác gì "đàn gảy tai trâu" hay như "nước đổ đầu vịt, lá khoai".
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết lắng nghe Lời Chúa, sống Lời Chúa, và trung thành với giáo huấn của Chúa, ngõ hầu như hạt giống tốt gặp được thửa đất màu mỡ là tâm hồn ngay thẳng để trổ sinh nhiều bông hạt tốt tươi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con là thửa đất tốt để hạt giống của Lời Chúa luôn triển nở trong tâm hồn chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
18/09 Vai trò người phụ nữ trong Tin Mừng
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Vai trò người phụ nữ trong Tin Mừng.
Thứ Sáu tuần 24 thường niên.
“Có mấy phụ nữ đi với Người và họ đã lấy của cải mình mà giúp Người”.
Lời Chúa: Lc 8, 1-3
Khi ấy, Chúa rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa.
Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: là bà Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy quỷ ám, bà Gioanna vợ của Chusa, viên quản lý của Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác; những bà này đã lấy của cải mình mà giúp Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Mấy người phụ nữ cùng đi
Suy niệm:
Nhóm Mười hai cùng đi với Thầy Giêsu qua các thành phố, làng mạc,
để rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa (c. 1).
Chuyện các môn đệ nam giới đi theo Thầy
là chuyện bình thường trong xã hội Do Thái.
Chuyện lạ ở đây là chuyện cùng đi với Thầy còn có các phụ nữ.
Các bà đi theo Thầy, rong ruổi trên những nẻo đường của vùng Galilê.
Họ như thuộc cùng một nhóm với các môn đệ.
Vào thời Đức Giêsu, chuyện phụ nữ đi chung như thế quả là gây sốc.
Nếu một phụ nữ cứ tiếp xúc với nam giới ở ngoài họ hàng,
thì bản thân chị ấy và gia đình sẽ phải mang tiếng xấu.
Vả lại chẳng ông chồng nào chịu để cho vợ mình làm như vậy.
Những phụ nữ đã đi theo Thầy Giêsu từ Galilê.
Câu này nói lên căn cước của nhóm phụ nữ.
Họ đã theo Thầy đến chỗ Thầy chịu đóng đinh (Lc 23, 49).
Họ đã theo Thầy đến chỗ Thầy được mai táng (Lc 23, 55).
Họ là những người đầu tiên ra thăm mộ vào sáng sớm (Lc 24, 1-3).
Theo Tin Mừng Mátthêu (28, 9-10), Máccô (16, 9) và Gioan (Ga 20, 18),
chính họ là những người đầu tiên được thấy Đấng phục sinh
Hai môn đệ Emmau tuy không tin lời chứng của các phụ nữ về Phục sinh,
nhưng hai ông đã gọi họ là những phụ nữ trong nhóm chúng tôi (Lc 24, 22).
Những phụ nữ này còn có mặt cùng với nhóm Mười Hai,
để cầu nguyện chung, sau khi Thầy Giêsu được cất về trời (Cv 1, 13-14).
Như thế nhóm phụ nữ này đã kiên trì và can đảm đi theo Thầy Giêsu,
từ Galilê đến Núi Sọ, và từ Núi Sọ đến cộng đoàn Giáo Hội sơ khai.
Một cách nào đó, họ xứng đáng được gọi là người môn đệ.
Đức Giêsu đã không chỉ thu hút được các môn đệ nam theo Ngài.
Qua việc trừ quỷ và chữa bệnh, Ngài đã làm cho nhiều cuộc đời tươi trở lại.
Một nhóm phụ nữ khi được chữa lành, đã muốn tỏ lòng biết ơn,
trong đó có bà Gioanna, là người đã lập gia đình, giàu có và quyền quý.
Họ quyết định đi theo Đức Giêsu và các môn đệ như những trợ tá.
Họ dùng của cải mình có để phục vụ các ngài (c. 3).
Không nên coi việc phục vụ của nhóm phụ nữ là thấp kém,
vì các môn đệ cũng được mời gọi làm người phục vụ anh em (Mc 10, 43).
Và chính Thầy Giêsu cũng đã sống như một người phục vụ (Lc 22, 27).
Không thấy nói đến việc các phụ nữ này được Thầy Giêsu sai đi rao giảng.
Có lẽ vì vào thời đó ở nước Do Thái, người ta còn coi thường phụ nữ,
và không coi các phụ nữ như những chứng nhân đáng tin.
Khi nhìn Nhóm Thầy Giêsu cách đây hai mươi thế kỷ,
chúng ta thấy Thầy đã táo bạo, dám đi ngược với nền văn hóa thời đó.
Ngài mở rộng thế giới của phụ nữ, vốn chỉ giới hạn trong gia đình.
Phụ nữ hôm nay được mời gọi tham gia vào những công việc chung.
Chúng ta cần thấy sự hiện diện tích cực của các phụ nữ lo việc bác ái,
dạy giáo lý, làm việc cho giáo xứ, hay ở trong các tổ chức của giáo phận.
Làm sao có được nhiều phụ nữ thánh thiện và năng động như Mẹ Têrêsa?
Cầu nguyện:
Giữa một thế giới
đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
SUY NIỆM 2: CỦA CẢI VÀ NƯỚC TRỜI
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Của cải trần gian chẳng có giá trị gì trong Nước Trời. Nhưng của cải lại là phương tiện minh chứng, xây dựng và đạt tới Nước Trời. Các phụ nữ theo Chúa Giê-su đã cảm nghiệm được điều đó. Các bà đã trải qua quá khứ bị ma quỉ và bệnh tật trói buộc. Đã cảm nghiệm được sự mong manh của kiếp người. Nhất là đã cảm nghiệm được Nước Trời. Đã nhận được ơn cứu độ của Chúa. Nên các bà coi thường của cải trần gian. Quảng đại góp phần vào việc loan báo Tin Mừng Nước Trời. Để Chúa Giê-su và các môn đệ có phương tiện đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Các bà đã được hạnh phúc. Và muốn chia sẻ hạnh phúc cho mọi người.
Từ bỏ tiền của. Điều này không dễ dàng. Đó là thế lực trần gian mạnh nhất. Đó là cơn cám dỗ ngọt ngào nhất. Đó là sợi giây trói buộc chặt chẽ nhất. Đó là kẻ thù sau cùng đối địch với Chúa. Thánh Phao-lô ý thức được điều đó. Nên hết sức khuyên nhủ người môn đệ Ti-mô-thê phải tránh xa tiền bạc. vì “cội rễ sinh ra mọi điều ác là long ham muốn tiền bạc”. Hãy chống lại tiền bạc bằng một đời sống công chính. Công chính là hoàn toàn tin tưởng vào Chúa chứ không cậy dựa vào tiền bạc. Đó là một trận chiến. Cần phải thi đấu hết mình mới mong thắng được. Vì ta sinh ra trần truồng. Ta chết cũng trần truồng. “Chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được”. Thế nhưng tiền bạc cứ bám lấy ta. Ám ảnh ta. Trói buộc ta. Phải dứt nó ra. Nếu ta thua, tiền bạc sẽ trở thành ông chủ. Ta trở thành nô lệ. Nó sẽ ném ta vào lửa hoả ngục. Nếu ta thắng. Nó sẽ trở thành nô lệ. Sẽ giúp ta đạt tới Nước Trời (năm lẻ).
Ta thắng được tiền bạc và những cám dỗ đời này nhờ niềm tin vào Chúa Ki-tô phục sinh. Ta sẽ sống lại với Người trong Nước Trời. Trong đời sống mới. Đời sống ấy không có tiền bạc. Không cần tiền bạc. Nếu ta thực sự có đức tin. Ta sẽ không gắn bó với tiền bạc. Với đời này. Tiền bạc là một con dao hai lưỡi. Nếu ta luỵ phục nó. Nó sẽ tiêu diệt ta. “Nếu ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người”. Nếu ta sử dụng nó. Nó sẽ là một phương tiện tốt. Là ông chủ, nó ngăn cản ta đến Nước Trời. Là đầy tớ, nó giúp ta mua được Nước Trời (năm chẵn).
Vậy ta hãy noi gương các phụ nữ, quảng đại dâng hiến tiền bạc để làm việc truyền giáo. Siêu thoát của cải. Ta làm chứng cho Nước Trời. Dứt lìa khỏi những của cải đời này. Ta không còn thuộc trần gian. Nhưng thuộc về Nước Trời.
SUY NIỆM 3: Sự Bình Ðẳng Của Phụ Nữ
Vào thế kỷ 14, người ta vẫn còn xem người phụ nữ như một thứ nguy hiểm, một cám dỗ triền miên, một tạo vật thấp hèn, hay cùng lắm chỉ là phương tiện để bảo tồn nòi giống. Một quan niệm và đối xử như thế với phụ nữ vẫn còn rơi rớt trong thời đại chúng ta: trong biết bao xã hội, người phụ nữ vẫn còn bị đối xử như chưa bình đẳng với nam giới. Thời Chúa Giêsu, dĩ nhiên cách đối xử với nữ giới còn tệ hơn. Chúa Giêsu quả thực đã làm một cuộc cách mạng khi đảo lộn quan niệm về nữ giới nơi những người đồng thời với Ngài.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy cách đối xử của Chúa đối với nữ giới. Những người phụ nữ mà thánh Luca nhắc đến có người đã từng bị quỉ ám, bởi vì họ là đối tượng của những sức mạnh huyền bí gây xáo trộn trong cuộc sống và chức năng của họ: không những họ phải mang nặng đẻ đau mà còn bị nguyền rủa khi son sẻ. Mối quan tâm của Chúa Giêsu đối với nữ giới, nhất là việc Ngài chữa lành cho họ, là dấu chỉ cho thấy họ đã được tự do, không những được giải phóng khỏi sức mạnh tăm tối, mà còn trở nên bình đẳng trước mặt mọi người.
Ðể nói sự bình đẳng ấy, Chúa Giêsu cho các phụ nữ được tham gia vào sinh hoạt của Nhóm Mười Hai. Sự hiện diện và phục vụ của họ bên cạnh Chúa Giêsu và Nhóm Mười Hai chứng tỏ rằng trong Giáo Hội của Ngài không hề có sự phân biệt phụ nữ. Sự kiện những phụ nữ đi theo Chúa Giêsu ngay từ lúc Ngài bắt đầu sứ vụ công khai chứng tỏ rằng họ là những người đồng hàng với các Tông Ðồ trong việc loan báo Tin Mừng của Ngài. Có sứ mệnh và trách nhiệm loan báo sứ điệp Tin Mừng, đây là thể hiện cao độ nhất của sự bình đẳng của nữ giới.
Chúa Giêsu đã đến để giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội lỗi. Ngài tái lập con người trong tước phẩm cao trọng của con cái Chúa. Chính tước phẩm ấy là nền tảng sự bình đẳng của con người: nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, tất cả đều có một phẩm giá cao trọng như nhau. Thánh Phaolô đã diễn tả chân lý ấy trong thư Galata: "Không còn Do thái hay Hy lạp, không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ, bởi vì tất cả là một trong Chúa Giêsu Kitô".
Chúa Giêsu đã khẳng định sự bình đẳng của nữ giới không bằng tuyên bố suông, Ngài đã chứng minh điều đó khi để cho các phụ nữ gia nhập vào nhóm mười hai Tông đồ của Ngài. Sự bình đẳng, hay đúng hơn, phẩm giá của con người được thể hiện trước tiên qua hành vi phục vụ: càng phục vụ, con người càng chứng tỏ phẩm giá cao trọng của mình. Thật ra, đây cũng chính là nghịch lý chạy xuyên suốt Tin Mừng: càng đi tìm bản thân, con người càng đánh mất bản thân; trái lại, càng quên mình phục vụ, con người càng tìm lại bản thân và chứng tỏ phẩm giá cao trọng của mình.
Xin Chúa ban đức tin để chúng ta luôn biết tôn trọng phẩm giá nơi mỗi người, nhất là biết cố gắng thể hiện phẩm giá của mình bằng cuộc sống quảng đại phục vụ và yêu thương.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Vai Trò Của Người Phụ Nữ
Thánh nữ tiến sĩ Hội Thánh Edith Stein trước khi trở lại công giáo đã từng là một triết gia nổi tiếng. Thánh nữ đã trở lại công giáo sau khi đọc tiểu sử của thánh nữ Têrêsa Avila. Và mười hai năm sau khi chịu phép rửa đã vào tu trong dòng Kín. Không giống như thánh nữ Têrêsa, Edith Stein vốn là người đàn bà vụng về trong công việc nội trợ trong nhà dòng. Tuy nhiên, theo chứng từ của những người còn sống sót trở về từ các trại tập trung Ðức quốc xã, thánh nữ Edith Stein đã luôn giữ vững được tinh thần và là người đứng ra chăm sóc cho các thiếu nhi cùng bị giam giữ với mẹ chúng trong các trại tập trung Ðức quốc xã.
Bí quyết để thánh nữ có thể giữ vững được tinh thần và nâng đỡ những người chung quanh chính là luôn sống giây phút hiện tại và đặt cả niềm phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Cũng giống như thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu, thánh nữ Edith Stein luôn sống một cách sung mãn từng giây phút hiện tại.
Tin Mừng hôm nay nhắc tới tên của một số người phụ nữ đã được Chúa Giêsu chọn làm cộng tác viên của Ngài trong công cuộc rao giảng Tin Mừng, đây không phải là một sự tình cờ hay phụ thuộc trong chương trình của Ðấng cứu thế. Tuy không được chọn làm tông đồ nhưng sự hiện diện và công việc âm thầm của những người phụ nữ này cũng quan trọng chẳng kém gì công tác tông đồ. Vai trò của họ lại càng quan trọng và nổi bật hơn nữa bởi vì trong những giây phút đau thương nhất của Chúa Giêsu họ là những người duy nhất đứng kề bên Ngài. Sự hiện diện của một số người phụ nữ trong công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu và nhất là trong những giây phút cuối đời của Ngài cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của chứng tá âm thầm của cuộc sống đức tin. Chứng tá ấy nói với chúng ta rằng trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô dù có âm thầm và vô danh đến đâu mỗi người đều có một chỗ đứng quan trọng và không thể thay thế được.
Nguyện xin Chúa ban đức tin để chúng ta luôn biết tôn trọng phẩm giá con người, nhất là thể hiện phẩm giá của mình bằng cuộc sống quảng đại, phục vụ và yêu thương.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Những người giúp vô vị lợi
Sau đó Đức Giêsu rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người có nhóm mười hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la người đã được giải thoát bảy quỷ. (Lc. 8, 1-2)
Người ta nói, không tiền và không giúp đỡ, chẳng làm được gì. Ngay trong việc rao giảng Tin Mừng cũng thế. Đó là lý do chung quanh Đức Kitô để giúp việc truyền giáo, ngoài các tông đồ ra, còn có các bà tận tâm đi theo giúp đỡ, một thứ giúp đỡ vô vị lợi. Nhờ đó Chúa rảnh tay hoàn toàn hiến thân cho công việc cốt yếu nhất. Những người giúp đỡ này chính là các phụ nữ.
Thánh Lu-ca hơn các Thánh viết Tin Mừng khác, nói đến vai trò các bà đóng góp vào việc chung quanh Thầy chí thánh và trong đoàn truyền giáo đầu tiên của Giáo Hội. Thánh Lu-ca nhấn mạnh đến công việc nặng nhọc của các bà đã lấy của cải mình giúp đỡ các Ngài. Thánh Lu-ca chắc hẳn lưu tâm đến thời cựu ước và trong nhiều nền văn minh khác, phụ nữ bị coi là thứ cấm kỵ, đối tượng của sức mạnh bí ẩn, bị khuất phục dưới thảm trạng bi đát bên lề. Người phụ nữ Samaria kêu lên ngạc nhiên khi Đức Kitô dám nói chuyện với mình. Tận nền vấn đề, Đức Kitô là Người bảo vệ đầu tiên vĩ đại, là người khởi động đầu tiên thăng tiến giải phóng phụ nữ. Các thầy khác thời Người đã loại bỏ phụ nữ khỏi ảnh hưởng các đồ đệ của họ, và tổ chức Do-thái giáo lúc đó không chấp nhận phụ nữ tham dự cộng đồng. Chỗ đứng của phụ nữ ở giữa dân ngoại và dân Is-ra-el!
Vậy mà truyền thống kể lại những lần hiện ra đầu tiên của Đức Giêsu sống lại là hiện ra với các bà. Đức Giêsu rất tín nhiệm các bà, và các bà đã chứng tỏ lòng trung thành đặc biệt đối với Người, như: cung cấp nuôi dưỡng các Ngài suốt thời gian truyền giáo, các bà theo Chúa trên đường vác thánh giá lên đồi Can-vê, đứng dưới chân thánh giá, đi ra thăm mồ từ sáng sớm.
Khi người ta nhớ đến vai trò mà Đức Giêsu đã dành cho phụ nữ, và so sánh với Giáo Hội xuyên suốt các thời đại, người ta ngạc nhiên thấy rằng vai trò của phụ nữ bị chìm vào quên lãng, khác hẳn với cách cư xử của Đức Kitô đối với phụ nữ.
GF
SUY NIỆM 6: ÂN SỦNG CỦA CHÚA LUÔN Ở VỚI NGƯỜI MÔN ĐỆ (Lc 8, 1-3)
Những người được gọi và chọn để thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, thường hay có những lý giải như: mình còn trẻ, không biết ăn nói; hay tôi là người tội lỗi, thấp cổ bé họng...; hoặc tôi là dân quê mùa, ít học, nghèo nàn, dốt nát...
Tuy nhiên, nhìn lại hành trình rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu, chúng ta thấy rất rõ những người đi theo Ngài đâu có mấy người thế giá trong dân? Điển hình như các Tông đồ là những người nhà quê, ít học, vụng về hoặc tội lỗi khét tiếng...! Nói chung là lý lịch thuộc hạng bất hảo! Bên cạch đó, cũng có một số phụ nữ đi theo, các bà là những người cũng không mấy tốt lành nguyên thủy. Điển hình như Maria Madalena, bà là người đã từng bị quỷ ám. Còn bà Gioanna thì lại là vợ viên quản lý của vua Hêrôđê…
Tuy xuất phát điểm khác nhau, nhưng khi được Đức Giêsu mời gọi, cuộc đời của các Tông đồ và những phụ nữ này đã “buông theo ân sủng” để gặp nhau cùng một mẫu số chung, đó là: gặp được Đức Giêsu, cảm nghiệm được tình thương của Ngài, đặt niềm tin nơi Ngài, sẵn sàng sám hối, biến đổi, quảng đại để đi theo Ngài và phục vụ Ngài cách trung thành.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm ra đi làm chứng cho Chúa, mặc dù cuộc đời ta có bất hảo, kém cỏi về tri thức, vụng về trong cách ăn nói hay tội lỗi có ngập đầu và vẫn còn những tham sân si... Nhưng trong sự thống hối, tin tưởng và yêu mến Chúa, chúng ta có quyền tin tưởng Ngài sẽ làm được những chuyện lớn lao do tình thương và ân sủng của Ngài trong cuộc đời và sứ vụ của chúng ta.
Điều quan trọng là chúng ta có sẵn sàng ra đi, dấn thân, quảng đại cho sứ vụ Nước Trời hay không mà thôi!
Mặt khác, hình ảnh những phụ nữ đi theo và phục vụ Đức Giêsu trong sứ vụ Thiên Sai của Ngài cho thấy: Đức Giêsu không hề chê bỏ bất cứ ai, dù họ thuộc thành phần nào trong xã hội.
Do đó, không ai có mặc cảm vì mình vô dụng hoặc kém cỏi, nhưng chúng ta phải không ngừng cảm tạ tình yêu và lòng thương xót của Chúa đã dành cho chúng ta bằng cách mỗi ngày cố gắng sống xứng đáng hơn, yêu thương hơn để cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, xin thánh hóa chúng con, để chúng con trở thành Tông đồ của Chúa trong môi trường và xã hội hôm nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
17/09 Yêu mến nhiều, tha thứ nhiều
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Yêu mến nhiều, tha thứ nhiều.
Thứ Năm tuần 24 thường niên.
"Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".
Lời Chúa: Lc 7, 36-50
Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn.
Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm.
Thấy thế, người biệt phái đã mời Người, tự nghĩ rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai, và thuộc hạng người nào chứ: là một đứa tội lỗi (mà)!" Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói".
"Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng". Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít". Rồi Người bảo người đàn bà: "Tội con đã được tha rồi". Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người đàn bà: "Đức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Chị hãy đi bình an
Suy niệm :
Chỉ Luca mới nói đến chuyện các người Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa.
Họ mời Đức Giêsu dự tiệc ba lần (7, 36; 11, 37; 14, 1).
Họ còn báo cho ngài biết về việc Hêrôđê toan ám hại ngài (13, 31).
Xem ra không phải mọi người Pharisêu đều có ác cảm với Đức Giêsu.
Hôm nay Đức Giêsu là khách mời của ông Simon.
Ngài chẳng ngại đáp lại lời mời của một người thuộc phái Pharisêu,
cũng như ngài đã chẳng sợ làm bạn với người thu thuế và tội lỗi (Lc 7, 34).
Khi ăn tiệc lớn ở xứ Palestine thời đó,
các vị khách thường ngả người nằm trên những chiếc ghế dài, có gối,
chân đưa ra ngoài, tay trái dùng để tựa, còn tay phải để lấy thức ăn.
Khi nhà có đại tiệc, người ngoài được tự do ra vào.
Bất ngờ có một phụ nữ mạnh dạn bước vào phòng tiệc.
Người ta nhận ra chị là một người tội lỗi sống trong thành phố,
nhưng không chắc chị có phải là một cô gái điếm không.
Chị cố ý đến đây vì biết Đức Giêsu đang có mặt trong bữa tiệc.
Đây là người mà chị đã từng gặp và đã nhận được ơn tha thứ.
Chị đã chuẩn bị khá kỹ và biết rất rõ việc mình sắp làm cho Ngài.
Chị đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm (c. 37).
Đứng ở gần chân Đức Giêsu, chị bật khóc nức nở.
Nước mắt chị làm ướt chân Ngài.
Những giọt nước mắt ăn năn vì tội lỗi quá khứ,
hay vui sướng vì biết mình đã đựoc thứ tha ?
Sau đó chị cởi khăn choàng đầu và xõa tóc để lau khô chân Đức Giêsu.
Cuối cùng, chị còn hôn lên chân và xức dầu thơm nữa.
Nói chung, những cử chỉ táo bạo của chị thật hết sức chướng mắt
đối với những người dự tiệc trong xã hội thời đó (và bây giờ cũng vậy !).
Xõa tóc trước công chúng là điều phụ nữ Do Thái không được phép làm,
vuốt ve và hôn chân một người đàn ông hẳn là những cử chỉ khêu gợi.
Hơn nữa, chị lại là một người tội lỗi có tiếng trong thành.
Một con người nhơ uế như chị khi đụng chạm sẽ làm người khác nhơ uế.
Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông Simon nghĩ thầm:
“Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn ông phải biết
người phụ nữ đang đụng vào mình là ai, vì chị ta là một người tội lỗi.”
Đức Giêsu có biết không? Nếu không, thì Ngài không phải là ngôn sứ.
Nhưng nếu Ngài biết, mà ngài lại cứ để chị làm như vậy,
thì còn gì là danh dự của ông Simon và của chính Ngài nữa!
Đức Giêsu biết chị là ai, biết cả điều Simon thầm nghĩ (x. 5, 21-22; 6, 7-8).
Ngài không phản ứng gì vì ngài hiểu ý nghĩa điều chị làm.
Đó không phải là cử chỉ khêu gợi của một cô gái làng chơi,
nhưng là những hành vi diễn tả lòng biết ơn của người được tha thứ.
Đức Giêsu hiểu những giọt nước mắt của chị, vừa hối hận, vừa hạnh phúc.
Ngài hiểu cả những cử chỉ có vẻ quyến rũ của chị trên đôi chân mình:
rửa chân bằng nước mắt, lau chân bằng tóc, hôn chân và xức dầu thơm.
Ngài đọc thấy trong đó lòng trân trọng và biết ơn.
Đó là sự trào dâng không thể cưỡng lại được của tâm tình yêu mến.
Tuyệt đối không có chút nhơ uế nào nơi những cử chỉ ấy.
Và Đức Giêsu đã đón nhận tất cả với trái tim thanh khiết của mình.
Để soi sáng cho ông Simon hiểu về hành động của người phụ nữ,
Đức Giêsu kể cho ông nghe một dụ ngôn kèm theo một câu hỏi (cc. 41-42)
Hai người cùng mắc nợ, một người 500 quan tiền, một người 50.
cả hai cùng được chủ nợ tha vì họ không có gì để trả.
“Vậy trong hai người đó, ai sẽ yêu mến chủ nợ hơn ?”
Câu hỏi chẳng có gì khó đối với Simon và ông đã trả lời đúng.
Ta nên lưu ý: yêu mến ở đây có nghĩa là biết ơn.
Tự nhiên người được tha nhiều thì sẽ biết ơn nhiều, kẻ được tha ít sẽ biết ơn ít.
Dụ ngôn đơn giản của Đức Giêsu được áp dụng vào thực tế.
Rõ ràng là chị phụ nữ đã yêu mến Đức Giêsu hơn ông Simon.
Đức Giêsu làm một so sánh giữa cách tiếp đón của hai người (cc.44-46).
Simon đã chẳng cho Ngài nước để rửa chân, chẳng hôn, chẳng xức dầu trên đầu.
Dĩ nhiên đó chẳng phải là những đòi hỏi bắt buộc khi tiếp khách,
nhưng dù sao cách tiếp khách của Simon cũng nhạt nhẽo hơn so với chị kia.
Câu 47 là một câu quan trọng để hiểu đúng ý của đoạn Tin Mừng này.
Câu này trước đây thường được dịch như sau:
“Tội của chị ấy tuy nhiều, nhưng đã được tha, vì (hoti) chị đã yêu mến nhiều.
Còn ai được tha ít thì yêu mến ít,”
Dịch như thế dễ gây hiểu lầm rằng vì yêu nhiều nên chị được tha nhiều.
Thật ra phải hiểu ngược lại mới đúng.
Chính vì chị được tha nhiều nên chị mới yêu mến biết ơn nhiều.
Lòng yêu mến là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của sự tha thứ.
Lòng biết ơn đến sau khi nhận ơn.
Hiểu như thế sẽ hợp với ý nghĩa của dụ ngôn (cc. 41-42),
và hợp với vế sau của câu 47: còn ai được tha ít thì yêu mến ít.
Chẳng rõ ông Simon có nhận ra mình là ai chưa.
Ông đúng là người yêu ít hơn chị phụ nữ tội lỗi kia,
vì ông được tha ít hơn, vì ông có ít tội hơn !!!
Nhưng có thật ông ít tội hơn người phụ nữ tội lỗi này không?
Hay vì tự hào mà ông không thấy cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa?
Tự hào về đạo đức vẫn là một vật cản khiến người ta khép lại và vô ơn.
Người phụ nữ tội lỗi là người yêu hơn (c. 42) và yêu nhiều (c. 47).
Tội quá khứ, khi được tha, lại tạo nên một hứng khởi mới để người ta yêu hơn.
Những vấp ngã khi được chữa lành lại trở nên một khởi đầu cho cuộc sống mới,
can đảm hơn, quảng đại hơn và nồng cháy hơn.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã quay lại nói chuyện với người phụ nữ.
Ngài khẳng định lại ơn mà chị đã lãnh nhận trước khi chị bước vào phòng tiệc:
“Tội của chị đã được tha rồi”, Ngài nhắc cho mọi người biết chuyện đó.
Như thế Đức Giêsu không phải chỉ là một ngôn sứ như Simon nghĩ.
Ngài còn lớn hơn một ngôn sứ nữa khi dám tha tội cho chị.
Cuối cùng, Đức Giêsu lại ca ngợi lòng tin của chị.
Lòng tin thắm đượm tình yêu, hay tình yêu thắm đượm lòng tin.
Cả hai quyện vào nhau giúp chị đón lấy ơn cứu độ, ơn bình an:
“Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (c. 50).
Chúng ta có thể học được nhiều điều nơi người phụ nữ:
lòng tin mãnh liệt vào sự tha thứ, lòng mến táo bạo của sự biết ơn,
Chúng ta cũng cảm nghiệm được sức mạnh của ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Sức mạnh ấy có thể làm mới lại cuộc đời một phụ nữ hư hỏng,
và dạy chị biết yêu như yêu lần đầu.
Chẳng rõ ông Simon có học được điều gì từ biến cố này không?
Cầu nguyện :
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện :
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. (R. Tagore)
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
SUY NIỆM 2: NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ông Si-mon, một thủ lãnh Pha-ri-sêu, một trí thức phải tâm phục khẩu phục thái độ và lời giải thích của Chúa Giê-su. Tuy hai hướng nhìn khác nhau. Ông nhìn bề ngoài. Chúa nhìn bề trong. Ông nhìn hình thức. Chúa nhìn nội dung.
Về hình thức xã hội thì ông Si-mon hơn hẳn người phụ nữ. Ông trí thức. Người phụ nữ bình dân. Ông nghiêm chỉnh giữ Lề Luật. Người phụ nữ lỗi lề luật. Ông thuộc tầng lớp lãnh đạo, dạy dỗ người khác. Người phụ nữ thuộc tầng lớp cần được dạy dỗ. Ông được mọi người kính trọng. Còn người phụ nữ bị mọi người khinh miệt.
Nhưng thật bất ngờ khi Chúa Giê-su đánh giá người phụ nữ cao hơn ông Si-mon. Vì “chị yêu mến nhiều”. Đạo không phải là bề ngoài nhưng là bề trong. Đạo không là hình thức nhưng là nội dung. Và thật lạ lùng: đạo không là lề luật nhưng là tình yêu.
Thánh Phao-lô là người cảm nghiệm được điều đó. Ông được tha nhiều. Nên ông yêu mến nhiều: “Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi” (năm chẵn).
Vì thế thánh Phao-lô khuyên người môn đệ Ti-mô-thê-ô đừng chú ý đến hình thức. Hãy chú ý đến nội dung. Đừng chú ý đến bề ngoài. Hãy chú ý đến bề trong. Về hình thức bề ngoài thì Ti-mô-thê-ô kém cạnh. Vì ông còn quá trẻ so với chức vị giám mục. Thánh Phao-lô khuyên nhủ người con thiêng liêng hãy vượt qua bằng trau dồi nội dung bên trong. “Hãy chuyên cần đọc Sách Thánh trong các buổi họp. Đừng thờ ơ với đặc sủng đang có nơi anh, đặc sủng Thiên Chúa đã ban cho anh nhờ lời ngôn sứ, khi hàng kỳ mục đặt tay trên anh. Anh hãy tha thiết với những điều đó, chuyên chú vào đó, để mọi người nhận thấy những tiến bộ của anh” (năm lẻ).
Đó cũng là lời khuyên dành cho tôi. Để tôi chăm lo trau dồi nội dung tình yêu bên trong hơn là chú ý đến hình thức chức vị bên ngoài. Để tôi yêu thật nhiều. Và làm tất cả vì tình yêu. Đó là cốt lõi của đạo. Đó cũng là bí quyết giúp tôi thăng tiến về Chúa Ki-tô. Và được hạnh phúc nơi Người.
SUY NIỆM 3: Lòng Sám Hối
Tin Mừng hôm nay ghi lại một phiên tòa; phiên tòa này không có luật sư biện hộ, không có bản án được đọc lên, nhưng kẻ được ân xá ra về với bình an trong tâm hồn.
Có được bình an trong tâm hồn là điều quí giá nhất Chúa Giêsu mang lại cho con người. Nhưng để có được bình an ấy, điều kiện tiên quyết là con người phải có lòng sám hối. Sám hối vốn là nội dung chủ yếu trong sứ điệp của Chúa Giêsu. Lời đầu tiên của Ngài khi bắt đầu sứ vụ công khai là: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Ngài đến là để khơi dậy lòng sám hối của con người; Ngài đến là để hòa giải tội nhân với Thiên Chúa. Cái chết của Ngài trên Thập giá không phải là cái chết của nhà cách mạng hay chính trị gia, mà thiết yếu là để đền bù tội lỗi con người.
Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay đã nhận ra sự cần thiết của sám hối. Bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người xung quanh, bà đã thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình. Chúa Giêsu đã nói lên ý nghĩa hành động của người phụ nữ này như sau: "Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều". Càng cảm nhận được ơn tha thứ, con người càng được thôi thúc thể hiện lòng yêu mến nhiều hơn.
Lịch sử Giáo Hội được tô điểm bằng lòng sám hối thể hiện qua tình mến. Cuộc đời của bất cứ vị thánh nào cũng đều bắt đầu bằng lòng sám hối, nghĩa là ý thức sâu xa về tội lỗi của mình. Nhưng sám hối không chỉ là ý thức về tội lỗi của mình. Có lẽ không ai ý thức được hành động phản bội của mình cho bằng Yuđa, nhưng ý thức ấy chưa hẳn là sám hối. Phêrô cũng đã chối Thầy, nhưng nơi ngài lòng sám hối không chỉ dừng lại ở ý thức tội lỗi, nhưng đã biến thành tình yêu thương; Phêrô đã nói lên lòng sám hối bằng ba lần thưa với Chúa: "Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa".
Người ta thường nói đến cuộc khủng hoảng về đức tin. Trong thực tế, khủng hoảng đức tin cũng chính là khủng hoảng về lòng sám hối. Khi con người đánh mất ý thức về tội lỗi, con người cũng không còn cảm nhận được thế nào là ơn tha thứ của Chúa, và dĩ nhiên cũng đánh mất sự cảm thông và tha thứ đối với người khác. Thái độ khoan nhượng của con người chỉ xuất phát từ ý thức về nỗi bất toàn và sự tha thứ mà mình cảm nhận được. Xét cho cùng, bác ái chính là hoa trái của lòng sám hối: càng cảm thấy mình được yêu thương và tha thứ, con người càng được thúc đẩy để tha thứ và yêu thương.
Nguyện xin Chúa nung nấu tâm tình sám hối đích thực nơi chúng ta và ban cho chúng ta niềm an bình nội tâm, để chúng ta cũng biết chia sẻ niềm an bình ấy với mọi người bằng cảm thông, tha thứ, và những thể hiện của bác ái.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Tinh Thần Khoan Nhượng
Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta một vài suy nghĩ về tinh thần khoan nhượng đích thực. Chúa Giêsu là hiện thân của tinh thần ấy. Trong những quan hệ xã hội của Ngài, Ngài vốn dành ưu tiên cho người nghèo, những người tội lỗi, những kẻ bị xã hội đẩy ra bên lề. Ngài tìm đến với họ và nhất là ngồi đồng bàn để ăn uống với họ, nhưng Chúa Giêsu không khơi dậy cuộc đấu tranh giai cấp. Ngài không bao giờ đi với người nghèo để kêu gọi chống lại những người giàu có. Ngài đến với những người nghèo và những kẻ tội lỗi nhưng không loại trừ những người giàu có và những người đạo đức thánh thiện. Ngài chia sẻ cơm bánh với những người tội lỗi nhưng cũng không ngại ngồi đồng bàn với những người công chính. Người biệt phái Simon được Tin Mừng hôm nay nhắc tên là một người giàu có và đạo đức, ông có thể là đại biểu cho những người giàu có và thánh thiện mà Chúa Giêsu không hề muốn loại trừ ra khỏi những quan hệ xã hội của Ngài. Chúa Giêsu kết thân với những người nghèo khổ và tội lỗi nhưng không xa cách những người giàu có và đạo đức.
Cuộc gặp gỡ được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay là điển hình của thái độ khoan nhượng của Chúa Giêsu. Chính trong một bữa tiệc được một người giàu có và đạo đức khoản đãi mà Chúa Giêsu đã gặp gỡ một người đàn bà tội lỗi nổi tiếng trong thành phố, Ngài luôn có thái độ khoan nhượng đối với mọi người.
Sự khoan nhượng là thái độ cần thiết cho mọi người bởi vì xã hội nào cũng gồm những thành phần khác biệt nhau bởi vì nhân loại gồm những con người khác biệt mà họ cần đối xử với nhau bằng thái độ khoan nhượng. Hai chìa khóa để mở cánh cửa của khoan nhượng là sự chấp nhận và cảm thông. Chấp nhận thường đi trước sự cảm thông. Chấp nhận sự khác biệt nơi người khác để dễ dàng cảm thông với họ hơn, nhưng dĩ nhiên khoan nhượng không hề đồng nghĩa với đồng lõa. Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông và tha thứ với những người tội lỗi nhưng Ngài không bao giờ nhân nhượng trước tội lỗi; Ngài khoan dung tha thứ bao nhiêu với tội nhân thì lại càng cương quyết bấy nhiêu với tội lỗi. Chính vì thế mà sự tha thứ của Ngài luôn đi kèm với mệnh lệnh: "Con hãy đi về và đừng phạm tội nữa". Với người biệt phái tên là Simon, Ngài đã kêu gọi với thái độ khoan nhượng khi để cho người đàn bà tội lỗi đến thể hiện lòng sám hối của mình bằng việc xức dầu thơm cho Ngài. Với người đàn bà tội lỗi, Ngài cho cảm nhận được ơn tha thứ. Ngài kêu gọi chúng ta: "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng". Lời ấy bảo đảm cho chúng ta ơn tha thứ và sự bình an của Ngài, đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy sống khoan nhượng và tha thứ đối với mọi người.
Ước gì chúng ta luôn cảm nhận được ánh mắt nhân từ tha thứ của Chúa để cũng biết sống cảm thông và tha thứ với mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Yêu nhiều, được tha nhiều
Vì thế tôi nói cho ông hay: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.”Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi.” (Lc. 7, 47-48)
Lòng quảng đại không phải là một nhân đức ai cũng có thể biết được và luyện tập được. Nó cũng chính thứ tình yêu, không thể đặt giới hạn và thời hạn vì nó quá mạnh. Đức Kitô đã thực hiện tình yêu này không ngừng và Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một gương sáng trong nhiều gương khác.
Đức Giêsu đang dự tiệc tại nhà một người biệt phái đã mời Người đồng bàn, Thánh Lu-ca nói đến ba lần những người biệt phái tiếp đón Người tại nhà họ. Chứng tỏ có những người biệt phái ít hiềm khích Người, họ cũng mong hiểu biết Người hơn.
Đang bữa ăn, một đàn bà tội lỗi trong thành bước vào. Cô mang theo một bình dầu thơm quý giá và khóc nức nở quì xuống lấy nước mắt tưới ướt chân Người, lấy tóc mình mà lau chân Người và xức dầu thơm vào chân Người. Trước cảnh tượng chướng tai gai mắt này, người biệt phái cảm thấy tức giận và xúc phạm nặng nề, ông nói thầm trong lòng rằng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai!”. Nếu biết rõ nó, Giêsu không được ngây ngất như thế.
Đức Kitô biết ý nghĩ của chủ nhà và đề cập đến một dụ ngôn nhỏ để biến đổi con tim của ông: “Một chủ nợ có hai con nợ, một kẻ nợ năm trăm quan tiền, một kẻ nợ năm mươi. Vì họ không có gì trả nên chủ nợ thương tình đã tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó ai mến chủ nợ hơn? Ông Simon đáp: Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn. Đức Giêsu bảo: Ông suy xét đúng lắm”. Giữa biệt phái trong sạch và bà này, nhơ bẩn chất chứa tội lỗi chắc là không giống nhau: tội bà này chất đống nhiều hơn, biẹt phái ít hơn, nhẹ hơn. Vậy rõ ràng bà được tha thứ nhiều hơn biệt phái. Đức Giêsu kết luận: điều đáng kể đối với tôi không nhất thiết là tội lỗi nhưng chính là tình yêu để được ơn thương xót: “Tội của chị rất nhiều, nhưng được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều!”.
Ồ vâng, yêu đi thì không còn phạm tội nữa!
GF
SUY NIỆM 6: YÊU MẾN NHIỀU VÌ ĐƯỢC THA THỨ NHIỀU (Lc 7, 36-50)
Xem lại CN 11 TN C
Đoạn Tin Mừng hôm nay trình thuật việc cô Mađalêna xức dầu thơm cho Đức Giêsu và lấy tóc mình mà lau. Sự trở lại của cô đã làm cho nhiều người kinh ngạc và hành động của cô cũng gây nên không ít sự tò mò cho mọi người xung quanh!
Tưởng cũng nên nhắc lại, Mađalêna là một cô gái điếm chuyên nghề, nhưng cô đã được Đức Giêsu giải cứu khỏi cái chết trước sự hằm hằm của các người Pharisêu khi họ dẫn giải cô đến để xin Ngài xét xử.
Cô đã được quý nhân phù trợ, Đức Giêsu đã giải thoát cô khỏi chết và phục hồi tinh thần cho cô bằng tình thương xót của Ngài.
Vì thế, cuộc đời của Mađalêna đã thay đổi từ đó.
Nếu trước kia đôi mắt của cô là đôi mắt đa tình, thì nay đôi mắt đó đã đẫm lệ ăn năn.
Nếu trước kia mái tóc là vật để trang điểm thân xác và tạo sự chú ý của các chàng trai khát tình, thì giờ đây đã dùng để lau chân Chúa.
Nếu đôi môi là nơi diễn ra những nụ hôn nồng thắm phục vụ cho những cuộc ăn chơi trác táng, thì giờ đây cô đã dùng vào việc hôn chân Chúa.
Nếu trước kia dầu thơm là mồi câu khách làng chơi, thì giờ đây, cô đã dùng vào việc xức chân Chúa.
Tất cả những hành vi đó của cô đã biểu lộ một đức tin tuyệt đối và lòng yêu mến nồng nàn với Đức Giêsu, Đấng đã giải thoát cô khỏi tội lỗi và khỏi chết.
Thật vậy, cuộc đời của mỗi con người đều có một quá khứ và tương lai, các thánh là những người cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó! Điển hình là Mađalêna, cuộc đời của ngài từ tội nhân trở thành thánh nhân nhờ ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa. Từ lòng bao dung tha thứ của Đức Giêsu, Mađalêna đã được phục hồi giá trị làm người và làm con Thiên Chúa. Bây giờ cô có quyền ra đi trong cuộc sống với một tâm hồn bình an vì đã yêu nhiều nên được tha nhiều.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chạy đến với lòng thương xót của Thiên Chúa trong tâm tình thống hối ăn năn.
Hãy tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa. Vì tội chúng ta có đỏ như son, có thẫm tựa vải điều, thì Thiên Chúa cũng tẩy cho trắng như bông, sạch như tuyết.
Muốn đạt được điều đó, chúng ta phải quay trở về với Chúa trong sự khiêm tốn, ăn năn, tin tưởng. Tất cả được xây dựng trên lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu, xin cứu chúng con khỏi tội lỗi, và ban ơn giúp sức để chúng con được ơn trở về với Chúa cách trọn vẹn và trung thành như thánh nữ Mađalêna khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
16/09 Thái Ðộ Thiếu Nhất Quán
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Thái Ðộ Thiếu Nhất Quán.
Thứ Tư tuần 24 thường niên. – Thánh Cornêliô, giáo hoàng, và thánh Cyprianô, giám mục, tử đạo. Lễ nhớ.
"Chúng tôi đã thổi sáo mà các anh không nhảy múa, chúng tôi đã hát những điệu bi ai mà các anh không khóc".
* Thánh Cornêliô làm giám mục giáo phận Rôma năm 251. Người đã chống lại giáo phái Novaxianô. Chưa được bao lâu, người bị hoàng đế Ganlô bắt đi đầy ở Xivitavéckia và đã qua đời ở đây (253). Người đã được thánh Síprianô kính trọng và quý mến. Chính vì thế, ngay từ thế kỷ IV, Hội Thánh Rôma đã mừng lễ thánh Conêliô trong chính hang mộ của người vào ngày lễ thánh Síprianô.
Thánh Xíprianô sinh tại Cácthagô quãng năm 210, trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận đức tin, làm linh mục, rồi làm giám mục năm 249. Trong cuộc bách hại dưới thời hoàng đế Valêrianô, người bị lưu đày, rồi ngày 14 tháng 9 năm 258, người chịu chết để làm chứng cho Chúa Kitô. Các thư từ và các tác phẩm của người viết ra cho thấy người có tâm hồn của một vị mục tử đích thực, luôn đứng ở chỗ nguy hiểm nhất để nâng đỡ các anh em đang phải chịu bách hại và để duy trì sự hiệp nhất trong Hội Thánh. Trong mọi việc, người lo nêu gương sáng về lòng trung thành với Chúa Giêsu Kitô.
Lời Chúa: Lc 7, 31-35
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống ai đây? Họ giống ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói với nhau rằng: "Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa. "Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc".
Bởi vì khi Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo: "Người bị quỷ ám".
Khi Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: "Kìa con người mê ăn tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi".
Nhưng sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Lũ trẻ ngồi ngoài chợ
Suy niệm :
Đức Giêsu ví những người thuộc thế hệ của Ngài
với lũ trẻ ngồi chơi ngoài chợ (cc. 31-32).
Các nhóm chơi với nhau, í ới gọi nhau.
Một nhóm bày ra trò chơi đám cưới,
thổi sáo, thổi kèn để mong nhóm kia nhảy múa.
Nhưng nhóm kia đã không tham gia.
Sau đó nhóm này bèn chơi trò đám ma, hát những bài ca buồn não nuột.
Nhưng nhóm kia vẫn chẳng khóc than thương tiếc.
Hẳn là chẳng vui gì khi có sự thụ động, lạnh nhạt như vậy.
Dụ ngôn trên đây nói đến một số người khó chiều, bướng bỉnh.
Dù thế nào thì họ cũng đứng ngoài, không chịu nhập vào cuộc chơi.
Họ chẳng thích cả trò đám ma lẫn đám cưới.
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn nói đến những người ở thời của Ngài.
Họ có nét tương tự như lũ trẻ ngồi ngoài chợ.
Khi Gioan Tẩy giả đến mời gọi họ sám hối ăn năn,
đời sống khổ hạnh của vị ngôn sứ này đã khiến họ từ khước (Lc 7, 30).
Đơn giản vì họ không thích khóc than hay hoán cải.
Gioan ăn chay nên không ăn bánh, không uống rượu (c. 33).
Lối sống của ông phù hợp với lời ông giảng về việc Nước Trời gần đến.
Nhưng lối sống khác thường ấy lại bị xem là một triệu chứng tâm thần.
Người ta đã coi ông là bị quỷ ám,
nên ít người tin vào lời giảng của một người như thế.
Khi Đức Giêsu đến với thế hệ này,
Ngài đã không mang dáng dấp của một ẩn sĩ nơi hoang địa.
Ngài đã sống như một người bình thường, ăn uống bình thường.
Lối sống của Ngài phản ánh Tin Mừng Ngài rao giảng,
một Tin Mừng đem lại niềm vui và sự giải phóng.
Những bữa ăn trong đời Ngài đóng một vai trò quan trọng.
Ngài ngồi ăn với những người bị xã hội loại trừ như người thu thuế.
Ngài đón nhận vào bàn ăn cả những tội nhân cần tránh xa.
Chính trong bầu khí vui tươi, ấm áp của bữa ăn
mà họ cảm nhận được tình thương tha thứ của Thiên Chúa.
Tiếc thay, Ngài cũng bị từ khước như Gioan,
bị coi là kẻ chỉ biết ăn với nhậu (c. 34).
Cả Gioan lẫn Đức Giêsu đều bó tay trước sự cố chấp của thế hệ này.
Cả hai người, với hai lối sống nghịch nhau, cũng không chiều được họ.
Khi sợ thay đổi chính mình, ai cũng có thể tìm ra được lý do để biện minh.
Khi cố chấp và ngụy biện để khỏi phải đối diện với chân lý,
con người chẳng được tự do.
Nguy cơ của con người mọi thời vẫn là ở lại trong tình trạng trẻ con ấu trĩ.
Làm sao để con người hôm nay có thể nghe được tiếng kêu của Gioan,
mời gọi người ta thay đổi cuộc sống bằng cách chia sẻ (Lc 3, 10-14)?
Làm sao thái độ bao dung của Đức Giêsu
ảnh hưởng trên một thế giới còn nhiều hận thù, chia rẽ, loại trừ nhau?
Cầu nguyện :
Lạy Cha,
xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau
trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.
Xin cho chúng con đến với nhau
không chút thành kiến,
và tin tưởng vào thiện chí của nhau.
Khi cộng tác với nhau,
xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện,
nhờ đó chúng con vượt qua
những tự ái nhỏ nhen,
những tham vọng ích kỷ
và những định kiến cằn cỗi.
Ước gì chúng con dám từ bỏ mình,
để tìm kiếm chân lý
ở mọi nơi và mọi người,
nhất là nơi những ai khác quan điểm.
Lạy Cha,
xin sai Thánh Thần đến trên chúng con,
để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim,
và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.
Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác,
xin cho chúng con được triển nở không ngừng
và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
SUY NIỆM 2: TRẺ THƠ VÀ TRẺ CON
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su khen ngợi trẻ thơ. Mời gọi ta phải nên như trẻ thơ. Để được vào Nước Trời. Nhưng Chúa dạy ta đừng cư xử như trẻ con. Trẻ con tính khí thất thường. Đòi hỏi theo ý mình. Không vừa ý là phá bĩnh. Không đón nhận người khác. Không cần lý lẽ. Chỉ theo cảm tính. Không hoà hợp với mọi người. Không thích trò chơi đám cưới thì nhất định không nhảy múa, dù bạn bè đã trổi đàn cất hát. Không chịu chơi trò đám ma thì nhất định không than khóc, dù cuộc chơi đã khởi sự tấu bài chia ly buồn thảm.
Người lớn mà cư xử như trẻ con thường hỏng việc. Hỏng cả đời. Nhưng nguy hại nhất là hỏng đời đời. Người Do thái bao năm chờ đợi Đấng Cứu Thế đến. Nhưng Chúa sai Gio-an đến dọn đường họ cũng không chấp nhận. Chính Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa đến họ cũng chối từ. Vì họ không muốn theo ý Chúa. Vì họ theo ý riêng. Không có lý lẽ gì hết. “Thật vậy, ông Gio-an Tẩy giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: “Ông ta bị quỷ ám”. Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo: “Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi”.
Thư Cô-rin-tô mời gọi ta phải lớn lên. Đặc biệt trong đời sống thiêng liêng. Đừng mãi mãi là trẻ con: “Khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con”. Thành người lớn là biết phân định điều gì là quan trọng, cốt thiết trong đời sống. Như thánh Phao-lô dạy: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”. Đức mến sẽ giúp ta gặp được Chúa. Và sống hài hoà với anh em. Vì thế phải ưu tiên thực hành đức mến (năm chẵn).
Nhưng điều quan trọng nhất là nhận biết Chúa Giê-su Ki-tô. Đây là “mầu nhiệm cao cả của đạo thánh”. Nhưng việc nhận biết Chúa Giê-su thật khó khăn.Vì “Đức Ki-tô xuất hiện trong thân phận người phàm”. Sinh sống, ăn uống, giao tiếp với mọi người và như mọi người. Vì thế khó được chấp nhận như một Đấng Cứu Thế. “Người được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính; được các thiên thần chiêm ngưỡng”. Vì thế để nhận ra Người cần có ơn Chúa Thánh Thần. Để có ơn Chúa Thánh Thần, cần có tâm hồn trẻ thơ. Tâm hồn trẻ thơ như thiên thần. Sẽ được chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Sẽ nhận ra Đức Ki-tô (năm lẻ).
Cần phải lớn lên. Thoát khỏi thói trẻ con bướng bỉnh. Để có tâm hồn trẻ thơ ngoan ngoãn. Biết mở lòng ra với ơn thánh.
SUY NIỆM 3: Thái Ðộ Thiếu Nhất Quán
Ngày nay, nhân danh dân chủ, tự do ngôn luận, nhiều người muốn có một Giáo Hội của mình, một Giáo Hội được định đoạt theo những suy nghĩ của mình, chứ không là giáo lý do Chúa mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội nữa. Muốn là Kitô hữu, nhưng lại không muốn chấp nhận giáo huấn của Chúa Kitô được ủy thác cho Giáo Hội, đó là một thái độ thiếu nhất quán. Chúng ta có thể thấy được một thái độ như thế trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu mượn hình ảnh nhóm trẻ chơi ngoài phố chợ để nói lên thái độ ấy. Chấp nhận cuộc chơi, nhưng khi tiếng sáo thổi lên thì lại không nhảy múa; chấp nhận diễn kịch, nhưng khi bài hát đưa đám được cất lên thì lại không khóc theo. Những người Do thái thời Chúa Giêsu cũng có phản ứng đối với Ngài không khác nào đám trẻ chơi ngoài phố chợ này. Họ mong chờ Ðấng Cứu Thế, Gioan Tẩy Giả loan báo về Ngài, nhưng họ không chấp nhận nếp sống khổ hạnh của ông, họ bảo ông bị quỉ ám; Chúa Giêsu khai mạc thời cứu thế bằng yêu thương, phục vụ, tha thứ, thì họ lại bảo rằng Ngài là tên ăn nhậu, hòa nhập với phường thu thuế và tội lỗi.
Mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng không chấp nhận những thể hiện của thời cứu thế; trông đợi Ðấng Cứu Tinh, nhưng phải là Vị Cứu Tinh do mình tạo ra, đó là thái độ của những người Do thái thời Chúa Giêsu. Thái độ ấy cũng là cơn cám dỗ triền miên của các Kitô hữu thời đại chúng ta. Chúa Giêsu đã nói: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta". Chúng ta mang danh hiệu Kitô, chúng ta muốn làm môn đệ Ngài, nhưng có lẽ chúng ta chưa từ bỏ chính mình để chấp nhận và sống theo giáo huấn của Ngài.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mặc lấy sự khôn ngoan của con cái Chúa, đó là sự khôn ngoan của trẻ thơ luôn biết sống khiêm tốn và tin tưởng. Xin Ngài củng cố chúng ta trong tâm tình ấy, để chúng ta luôn được trung thành với giáo huấn mà Ngài đã ủy thác cho Giáo Hội.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Bất tín kinh niên
“Vậy tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống ai?
Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi nhau mà nói:
Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa;
tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không khóc than.” (Lc. 7, 31-32)
Dù là ai, dù làm thế nào cũng luôn luôn có những kẻ chối bỏ mọi thứ, chối bỏ tất cả. Đó là trường hợp một số những kẻ đồng hương của Đức Kitô, họ mang bệnh kinh niên không tin gì hết, chối bỏ mọi chứng cớ hiển nhiên tới cùng. Đức Kitô gọi họ là “Dòng giống này”, một từ ngữ mang tính chất phán xét. Họ vẫn có ảo tưởng về một dân tộc được tuyển chọn, nhưng trong bốn mươi năm vượt sa mạc dầu được hưởng bao nhiêu phép lạ họ chứng kiến rõ ràng, họ vẫn không muốn theo Chúa.
Đức Giêsu so sánh họ với lũ trẻ ranh con quậy phá cứng đầu ngoài chợ. Chúng chơi dỡn để làm cho nhiều người múa nhảy, mà không ai theo, chúng hát bài đưa ma để làm cho người ta khóc, mà không ai thèm khóc. Chắc hẳn Đức Kitô muốn nói quá về những quậy phá của hạng người tai to mặt lớn quá ngu muội trong dụ ngôn nực cười này.
Khi kém lòng tin, không gì có thể mở tai mở mắt cho họ được. Ngôn sứ Gio-an Tẩy Giả đến và sống khắc khổ đến nỗi không ăn bánh, không uống rượu, họ xử với ông như kẻ bị quỷ ám. Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu Thế đến ăn uống như mọi người, không phải để hùa theo kẻ mê ăn uống, nhưng họ coi Người là tay ăn nhậu và họ xỉ nhục tố cáo Người là bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi. “Bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi” đó là điều Đức Kitô muốn và đó là lý do Người đến trần gian: để cứu chữa những người tội lỗi và tật xấu. Người không ngừng nhắc đi nhắc lại điều đó, nhất là bằng việc làm. Điều đó làm cho kẻ chống đối và bất tín kinh niên giận dữ cho đến tận thế, những ai muốn theo Đức Kitô trên con đường này, đều vấp phải tâm thức trẻ con cố chấp này. Họ không bao giờ có lòng thương xót tha thứ. Giáo Hội biết rõ thế và đã quyết chí trở về với con đường của Đức Giêsu.
GF
SUY NIỆM 5: HÃY TÔN TRỌNG SỰ THẬT (Lc 7, 31-35)
Xem lại thứ Sáu tuần 2 MV
Gioan Tiền Hô là một người cao trọng hơn hết mọi người nam. Đây chính là lời khen ngợi của Đức Giêsu dành cho ông. Tuy nhiên không phải ai cũng là người nghe ông, cụ thể là các người Pharisêu và Luật sĩ đã khước từ lời của Gioan.
Trước tình trạng đó, Đức Giêsu đã nhận định về lập trường và thái độ của các người Pharisêu và Luật Sĩ như sau: họ giống như lũ trẻ ngồi ở ngoài phố chợ, gọi nhau mà bảo:
"Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa!”.
"Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc"!.
Hình ảnh của lũ trẻ và lời nói của Đức Giêsu, hẳn cho chúng ta thấy Ngài lên tiếng khiển trách nặng nề về sự mập mờ, gian dối và hay đổi trắng thay đen, nói một đàng làm một nẻo của các người Pharisêu và Luật Sĩ. Họ giống như lũ trẻ nơi phố chợ. Vì thế, những lời họ nói chẳng đáng tin tưởng vì không có giá trị.
Hình ảnh của các người Pharisêu và Luật Sĩ hẳn cũng còn đầy dẫy trong xã hội của chúng ta hiện nay. Khi thì chỗ này, lúc chỗ kia, vẫn còn đó những con người luôn tìm mọi cách bóp méo sự thật, bẻ cong ngòi bút để chụp mũ người lương thiện, công chính. Họ thuộc hạng nói dối chuyên nghề, nên đâu còn chỗ cho Lương Tâm lên tiếng!!! Vì thế, chúng ta không lạ gì khi vẫn thấy xuất hiện những hạng người “nổ” rất lớn với những lời lẽ “đao to búa lớn”; “rất kêu”, nhưng thực ra những lời đó chẳng khác gì lời nói của con nít, không đáng để chúng ta tin tưởng, bởi lẽ họ “nói mà không làm”; hay “nói một đàng, làm một nẻo”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống và làm chứng trong sự thật, có thế, chúng ta mới được người khác tôn trọng, bằng không, chúng ta chỉ như bọn trẻ nơi phố chợ mà thôi!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con đừng rơi vào tình trạng của các người Pharisêu và Luật Sĩ khi xưa là: cố chấp, bảo thủ, lập lờ và gian dối. Xin cho chúng con biết sử dụng trí tuệ Chúa ban để phục vụ cho công lý và sự thật. Amen.
Ngọc Biển SSP
15/09 Đứng gần thập giá
- Viết bởi Ga. 19, 25-27
Đứng gần thập giá.
Thứ Ba tuần 24 thường niên – Đức Mẹ sầu bi. Lễ nhớ.
"Bà mẹ hiền nhìn xem nỗi khổ hình của người con chí thánh mà đau lòng thổn thức tâm can"
* Đức Maria đã hiệp thông sâu xa với cuộc thương khó của Chúa Con. Vì thế, Mẹ cũng được liên kết một cách độc nhất vô nhị với cuộc phục sinh của Người. Chính vì thế, sau ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá, chúng ta mừng lễ Đức Maria cùng chia sẻ cuộc thương khó của Đức Giêsu.
Lễ này nhắc cho chúng ta nhớ rằng: dưới chân thánh giá, tình mẫu tử của Đức Maria đã trải rộng ra khắp Thân Thể nhiệm mầu của Chúa Kitô, tức là Hội Thánh.
PHÚC ÂM: Ga. 19, 25-27
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, đứng gần thập giá Chúa Giêsu có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria vợ ông Cơ-lô-pát, và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: "Thưa Bà, này là Con Bà". Rồi Người lại nói với môn đệ: "Này là Mẹ con". Và từ giờ ấy, môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình.
Đó là lời Chúa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Đứng gần thập giá
Suy niệm :
Chúng ta thường suy ngắm bảy nỗi đau của Đức Mẹ,
khi Mẹ nghe lời tiên tri của cụ Simêôn về Con, đưa Con trốn qua Ai Cập,
mất Con nơi Đền thờ, cùng Con lên đỉnh Canvê,
khi đứng bên Con chịu đóng đinh, hạ xác Con xuống khỏi thập giá,
và chôn táng Con trong mộ.
Những nỗi đau này đi dọc theo đời của người đã thưa tiếng Xin Vâng.
Những nỗi đau trong lòng người Mẹ, đau vì Con và với Con.
Ngoài bảy nỗi đau này, còn có bao nỗi đau khác không được kể tới.
Chỉ ai yêu mới biết đau.
Khi vẽ hay điêu khắc hình Đức Mẹ,
các nghệ sĩ thường trình bày một Đức Mẹ với khuôn mặt rất vui tươi.
Lễ Đức Mẹ sầu bi nhắc cho ta thấy đời Mẹ cũng có khi buồn.
Vui buồn ở đời là chuyện mấy ai tránh khỏi.
Cần ngắm nhìn khuôn mặt lo lắng của Mẹ khi mất Con hay đem con đi trốn.
Cần chứng kiến khuôn mặt đớn đau của Mẹ khi đứng bên Con trên núi Sọ.
Chính khuôn mặt buồn khổ của Mẹ lại làm chúng ta thấy gần Mẹ hơn.
Khi chia sẻ mọi đau khổ của kiếp người long đong,
Mẹ cảm thông với cái nặng nề của phận người mà ta gánh chịu.
Chúng ta vẫn thường nghĩ đau khổ là hậu quả của tội lỗi.
Điều đó đúng, nhưng không luôn luôn đúng.
Mẹ được Thiên Chúa gìn giữ khỏi vết nhơ của tội nguyên tổ,
và Mẹ đã đáp lại ơn Chúa bằng việc luôn trung tín, vẹn tuyền.
Nhưng điều đó không làm Mẹ tránh được mọi đau khổ.
Thánh giá đã phủ bóng trên đời Mẹ ngay từ tiếng Xin Vâng đầu tiên.
Khi chấp nhận làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ đã bắt đầu phải trả giá.
Mẹ yêu mến Người Con mà Thiên Chúa ban cho mình,
nhưng đôi tay Mẹ không đủ sức giữ kho tàng quý giá ấy.
Mẹ hy sinh để Con Mẹ bước đi trên con đường khúc khuỷu gập ghềnh.
Nhưng trong đau khổ của hy sinh, Mẹ bình an vì biết mình sống theo ý Chúa.
Hãy đến với Núi Sọ chiều hôm ấy để thấy Mẹ đứng gần thập giá treo Con.
Mẹ đã có mặt trong tiệc cưới Cana khi Con khởi đầu sứ vụ (Ga 2, 1-12).
Bây giờ Mẹ lại có mặt khi Con hoàn tất sứ vụ ấy (Ga 19, 30).
Dù không theo Đức Giêsu trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng,
nhưng Mẹ là môn đệ của Ngài còn hơn những môn đệ khác.
Mẹ không chạy trốn, nhưng muốn nếm trọn nỗi đau của Con để sẻ chia.
Chính vào giây phút này, Đức Giêsu hấp hối làm điều không ai ngờ.
Ngài nối kết Mẹ Ngài và người môn đệ Ngài dấu yêu,
đặt Mẹ làm mẹ người môn đệ ấy: Thưa Bà, đây là con của Bà (c. 26).
và muốn người môn đệ ấy làm con của Mẹ: Đây là mẹ của anh (c. 27).
Chính dưới chân thập giá, Đức Giêsu đã lập một gia đình mới.
Mẹ là Mẹ của Đức Giêsu ở Cana, bây giờ thành Mẹ của người môn đệ.
Nơi người môn đệ này, các Kitô hữu thấy hình ảnh của chính mình.
Chúng ta cũng muốn đón Mẹ về nhà và nhận Mẹ làm Mẹ.
Mẹ sẽ là người lo cho chúng ta trong ngôi nhà của gia đình mới.
Cầu nguyện :
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
SUY NIỆM 2: Ðức Mẹ Sầu Bi
(GM Gioan Baotixita Bùi Tuần)
Trong tháng 9 có lễ kính Đức Mẹ sầu bi (15/9).
Dịp này Hội Thánh nhắc cho chúng ta nhớ vai trò của đau khổ trong cuộc đời Đức Mẹ, để chúng ta cũng hiểu vai trò của đau khổ trong cuộc đời chúng ta.
I. Vai trò của đau khổ trong cuộc đời Đức Mẹ
Đức Mẹ phải đau khổ. Đau khổ vì con mình là Chúa Giêsu. Đau khổ vì nhân loại là đàn chiên Chúa muốn cứu chuộc.
Thực vậy, Chúa Giêsu là Tin Mừng đặc biệt cho Đức Mẹ. Nhưng Người cũng là nguyên nhân khiến Đức Mẹ phải đau đớn. Đau đớn vì cảnh nghèo nàn thiếu thốn, khi sinh con trong hang đá Bêlem. Đau đớn vì cảnh đi trốn nhọc nhằn, khi đem con lánh nạn sang Ai Cập. Đau đớn vì cảnh lạc mất con, khi từ đền thánh trở về. Đau đớn vì cảnh lao động lầm than mấy chục năm giữa xóm nghèo ở Nadarét. Đau đớn vì cảnh Chúa Giêsu bị bắt bớ và bị tử hình trên thánh giá ở núi Golgôta.
Những đau đớn đó phải được cắt nghĩa vì lý do cứu chuộc nhân loại. Nhân loại được Chúa đoái thương cứu chuộc. Nhiều người đã đón nhận ơn đó. Nhưng nhiều người đã từ chối ơn đó. Không những thế, họ còn xỉ vả, bắt bớ và kết án chính Đấng Cứu chuộc.
Khi thấy như thế, Đức Mẹ rất đau lòng. Mẹ nhận ra lời tiên tri Simêon xưa đã ứng nghiệm. Chúa Giêsu vừa là duyên cớ cho nhiều người được chỗi dậy, và cũng là duyên cớ cho nhiều người phải vấp ngã (x. Lc 2,34).
Đức Mẹ đã đau đớn thế nào? Tiên tri Simêon tả đau đớn đó bằng một câu rất tượng hình: "Còn chính Bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà" (Lc 2,35).
Khi trái tim bị gươm vật chất đâm thâu, người ta cảm thấy đau đớn như phải chết dữ dằn. Khi tâm hồn bị gươm vô hình đâm thâu, người ta cảm thấy đau khổ cũng như một thứ chết khốn cực.
Để có một cái nhìn đúng đắn về đau khổ nơi Đức Mẹ, chúng ta nên nhớ mấy điều sau đây:
a) Đau khổ của Đức Mẹ là tiếng nói sâu thẳm của tình yêu
Tâm hồn nào càng mến Chúa nhiều, càng cảm thấy đau nhiều, khi thấy tình yêu Chúa bị xúc phạm. Tâm hồn nào càng yêu người nhiều, càng cảm thấy khổ nhiều, khi thấy người khác rơi vào cõi khổ.
Đức Mẹ mến Chúa hết tâm hồn, và yêu thương nhân loại hết lòng. Nên Đức Mẹ dễ nhạy cảm trước bất cứ sự gì xúc phạm đến Chúa và làm hại cho phần rỗi loài người.
Nhạy cảm, nhạy bén là đặc tính cao độ của trái tim Mẹ. Lúc đó, đau khổ nơi Mẹ sầu bi là một tiếng nói sâu thẳm nhất của tình yêu.
Được mến yêu Chúa nhờ ơn Chúa ban, Đức Mẹ cảm thấy một thế giới mới. Xưa thánh Phaolô quả quyết: "Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi" (Pl 3,7-8).
Thánh Phaolô còn cảm thấy thế. Phương chi Đức Mẹ. Đức Mẹ được ơn hiểu thế nào là tình yêu thương xót Chúa, nên Đức Mẹ sẽ rất đau khổ, khi thấy tình yêu thương xót ấy bị người ta dửng dưng, xa tránh, chối từ, chống đối.
b) Đau khổ của Đức Mẹ là tiếng nói của người được ơn hiểu biết ý nghĩa sự tội
Sẽ là ảo tưởng, nếu nghĩ rằng học hỏi giáo lý về tội, nghiên cứu các sứ điệp về sám hối của những lần Đức Mẹ hiện ra, là sẽ hiểu biết thấu đáo ý nghĩa sự tội. Không đâu, ý nghĩa về tội sẽ chỉ hiểu được sâu sắc nhờ ơn Chúa ban, do cầu nguyện, tĩnh tâm, đổi mới tâm hồn thực sự. Thánh Gioan Baotixita xưa đã dành cả đời rao giảng về sự sám hối. Ngài nói: "Anh em hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối" (Lc 3,8). Ngài đã răn đe những ai coi thường tội lỗi. Vì Ngài hiểu biết rất rõ tội lỗi sẽ đưa con người xuống cõi khổ cực ghê gớm đời sau.
Chắc chắn Đức Mẹ còn hơn thánh Gioan Tiền Hô, nên Người phải rất đau đớn khi thấy bao người nhởn nhơ đi vào đàng tội.
c) Đau khổ của Đức Mẹ là tiếng nói của người biết sự quan trọng trong tuyệt đối của phần rỗi
Xưa cũng như nay, nhân loại để sự tự do lôi kéo mình vào những gì nguy hiểm cho phần rỗi. Phần rỗi không phải là một hạnh phúc trả bằng giá rẻ. Nhưng thực tế cho thấy vô số người không quan tâm đủ đến phần rỗi. Trước cảnh đó, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Nếu người ta được cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?" (Mt 16,26).
Với cái nhìn đó, Chúa Giêsu khuyên người có trách nhiệm hãy cố gắng đi tìm một con chiên lạc, hơn là quây quần với 99 con chiên ngoan (x. Mt 16,12-14).
Đức Mẹ rất hiểu thế nào là thiệt mất phần rỗi, nên Người đã rất đau khổ trước cảnh bao người không quan tâm đến phần rỗi.
Như thế, nói chung, đau khổ nơi Đức Mẹ đã giữ một vai trò hết sức quan trọng, đó là làm chứng cho tình yêu xót thương của Chúa. Đức Mẹ sầu bi vì thế sẽ là một an ủi lớn cho chúng ta, khi chính chúng ta cũng bị đau khổ trong cuộc đời.
II. Vai trò của đau khổ trong cuộc đời chúng ta
Đời là bể khổ. Riêng những người con Chúa sẽ gặp trong đời mình không thiếu nỗi đau như gươm đâm thấu tâm hồn mình.
Ở đây, tôi chỉ xin chia sẻ đôi chút kinh nghiệm.
Tiên vàn, chúng ta phải có một ý hướng tốt lành này về những đau khổ của ta. Ý hướng tốt lành đó là muốn những đau khổ ta chịu sẽ có sức làm chứng cho tình yêu Chúa.
Để được như vậy, hằng ngày chúng ta dâng mọi thứ đau khổ của ta cho Đức Mẹ sầu bi, xin những đau khổ của Mẹ thanh luyện những đau khổ của ta. Bởi vì rất nhiều đau khổ của ta phát xuất từ tính kiêu ngạo, ghen tương, ham hố và ích kỷ muốn theo ý riêng mình.
Khi đau khổ, chúng ta dễ có khuynh hướng đổ trách nhiệm cho người khác. Nên coi đó là nghịch với đức ái khiêm nhường, tự nó lại gây đau khổ cho chính mình và cho người khác. Ở đây xin phép nhắc lại ba lời khuyên của thánh Augustinô:
a) Chớ tự coi mình là quan toà xét xử kẻ khác.
b) Xét đoán tội người khác thì phải khiêm tốn và trọng sự thật. Rất nhiều lần ta đổ cho người khác những lỗi lầm người ta thực sự không có.
c) Nếu người ta có tội, thì cũng nên nhận người ta có thể có nhiều công phúc, công khai và âm thầm.
Để đào tạo thường xuyên trái tim ta, ta nên để ý xét mình về việc ta có chia sẻ những đau khổ đủ thứ xảy đến cho đồng bào xung quanh không? Nhất là ta có hỏi Chúa về việc Chúa cùng đau khổ với bao người. Chúa đau khổ với họ, mà ta không để ý.
Đức Mẹ sầu bi sẽ cho ta thấy: Thánh giá là duyên cớ của sự vấp ngã, nhưng cũng là căn nguyên của sự vinh quang. Mẹ sầu bi sẽ làm cho những vết thương lòng của ta trở thành dòng sông thiêng liêng chuyển ơn cứu độ đến các linh hồn.
SUY NIỆM 3: Ðây sẽ là niềm an ủi của con
Một trong những hình ảnh thánh thiện nhất về đời sống Kitô có lẽ là hình ảnh của những người hấp hối trên tay cầm thánh giá.
Người ta kể về một người đạo đức nọ như sau: Trong một cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ còn một phương thế duy nhất có thể hy vọng cứu sống bà đó là tiến hành cuộc giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận cuộc giải phẫu, bà yêu cầu cho con trai bà được chứng kiến giờ phút đau khổ của bà. Vào thời buổi mà thuốc tê mê chưa có, thì bệnh nhân thường phải trải qua những cơn đau khủng khiếp. Mặc dù đau đớn vô cùng, nhưng người đàn bà vẫn cứ cắn răng chịu đựng. Nhưng đến cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà rùng mình kêu lên: "Lạy Chúa tôi". Chứng kiến cảnh đau đớn của người mẹ, người con trai không làm chủ được những cảm xúc, anh đã buột miệng thốt lên những lời phàn nàn phạm đến Chúa. Lúc bấy giờ người mẹ liền nghiêm nghị bảo con: "Con ơi, con hãy im đi, con làm mẹ đau đớn hơn các bác sĩ này nhiều. Con đã làm sỉ nhục Ðấng đã ban sức mạnh và an ủi mẹ". Nói xong, bà ta mở bàn tay ra, và giơ cho mọi người xem một tượng chuộc tội nhỏ bà nắm chặt trong tay suốt giờ mổ. Và đó chính là thứ thuốc tê mê đã xoa dịu cơn đau đớn của bà.
Sau mấy tháng quằn quại trong đớn đau, người đàn bà đã yên nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà đã trao lại cho cậu con trai tượng ảnh chuộc tội và căn dặn: "Con hãy giữ lấy tượng chuộc tội này. Ðây sẽ là niềm an ủi của con".
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ Ðức Mẹ Ðau Khổ, hay cũng thường được gọi là 7 sự thương khó của Ðức Mẹ.
Suốt cuộc đời trần thế, Mẹ Maria quả thực là một người đàn bà đau khổ. Nhưng cũng giống như người đàn bà can đảm trong câu chuyện trên đây, Mẹ luôn có Chúa bên cạnh. Còn nỗi đớn đau nào bằng khi ôm lấy xác Chúa được tháo gỡ từ thập giá? Nhưng đó cũng là bí quyết của Mẹ. Mẹ luôn có Chúa trong lòng, từ lúc cất giữ mọi sự trong lòng để suy niệm cho đến lúc ôm lấy xác Chúa: từng phút giây của cuộc sống, Mẹ đau khổ nhưng luôn có Chúa trong lòng. Sự hiện diện của Chúa trong lòng đã giúp Mẹ đi hết cuộc hành trình Ðức Tin.
Là mẫu mực trong cuộc hành trình Ðức Tin, Mẹ cũng muốn trao gởi Ðấng Cứu Thế cho mỗi người chúng ta. Mang lấy Ðức Kitô chịu đóng đinh trong mình, chúng ta sẽ cảm thấy được sự nâng đỡ trong muôn nghìn thử thách đớn đau trong cuộc sống.
Mẹ Maria đã đảm bảo cho chúng ta điều đó. Chúng ta hãy kết hiệp với thập giá của Ðức Kitô. Trong mọi đau khổ, chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá của Ngài. Chúng ta hãy thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi chỉ biết có mỗi Ðức Kitô chịu đóng đinh".
(Trích trong ‘Lẽ Sống’)
SUY NIỆM 4: Ðức Mẹ Sầu Bi
Liền sau lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa được mừng hàng năm vào ngày (14/09) là lễ kính Ðức Mẹ Sầu Bi (15/09), chúng ta không thể nào tách rời Mẹ Maria ra khỏi thập giá Chúa. Danh gọi lễ kính Ðức Mẹ Sầu Bi có thể làm chúng ta dễ hiểu lầm chỉ nghĩ đến khía cạnh sầu bị, đau buồn mà quên đi khía cạnh tích cực được tham dự vào sự đau khổ có sức mạnh cứu rỗi của Thiên Chúa. Mẹ Maria âm thầm dâng hiến chính mình cùng với hy tế của Con, được lãnh nhận đặc ân là tham dự vào cuộc cứu rỗi trở nên người Mẹ của toàn thể nhân loại.
Ðoạn Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến khía cạnh Mẹ Maria đứng bên thập giá Chúa và lãnh nhận lời Chúa trăn trối làm Mẹ của Gioan, làm Mẹ của toàn thể nhân loại. Ðoạn Phúc Âm không nhắc tới nỗi sầu bi của Mẹ khi đứng dưới chân thập giá Chúa. Trong số các sách Phúc Âm thì chỉ có Phúc Âm theo thánh Luca có nhắc tới lời loan báo trước của cụ già Simêon, nói về một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua tâm hồn Mẹ (Lc 2,35). Chắc lúc đứng dưới chân thập giá Chúa hơn mọi lúc khác Mẹ Maria đã đau khổ, niềm đau của một người mẹ nhìn thấy con mình đang hấp hối sau khi đã phải chịu những tra tấn, khổ hình và sỉ nhục. Thái độ của Mẹ đáng chúng ta bắt chước. Mẹ đã không tự ý đi tìm vinh quang được ngồi bên hữu bên tả Chúa như một người nọ đã đón đường Chúa lên Giêrusalem để xin đặc ân này cho hai người con của mình. Mẹ Maria không tránh né đau khổ nhưng sẵn sàng đứng bên cạnh con cùng dâng hiến với con trong âm thầm và như vậy được thông phần vào ơn cứu rỗi. Mẹ đã âm thầm nhưng rất mực trung thành hành trình bên cạnh Con Mẹ luôn luôn trong mọi lúc, lúc Con Mẹ mới bắt đầu công việc rao giảng, trong khi rao giảng Tin Mừng và giờ đây kết thúc quan trọng trên thập giá, trên đồi Golgotha.
Lạy Mẹ Maria,
Xin Mẹ hãy đồng hành bên cạnh con như Mẹ hiện diện bên cạnh Con Mẹ. Chúng con cần đến Mẹ nhất là khi gặp những gian nan thử thách. Xin Mẹ giúp chúng con trung thành với ơn gọi và với Chúa Giêsu Con Mẹ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Đức Mẹ đau khổ
Mẹ đứng kề Thánh Giá ! Mẹ đứng đó với Gioan và với cả hai tên trộm cướp ! Mẹ đứng đó, trên đồi Gôlgôtha, không xa mấy, dưới chân đồi, đám dân, những người tò mò, những người vô can, những người kêu khóc, những người sợ hãi đang đứng dưới bóng cây thánh giá, bóng Đức Mẹ và Con Ngài, họ cảm thấy mình hoàn toàn không chịu trách nhiệm về cái chết này. Còn những kẻ thi hành án và những kẻ có quyền thì sao ? Họ không cúi đầu, lại chê cười thất vọng và chua chát !
Đứng kề !
Đức Mẹ không lo nghĩ đến bị rơi vào bất tỉnh trước những sỉ nhục, những kết tội của kẻ thù, những la ó, Mẹ đứng đó, đứng thẳng ! Điều quan trọng hơn đối với Mẹ là Con Ngài là xương là thịt của xương thịt Ngài, Kìa đang bị treo trên thánh giá, Người là sự hy vọng cùng đích bảo đảm cho tất cả, nhờ sự hiện diện của Mẹ, nhờ bà Mẹ này, mọi sự ước muốn và yêu dấu được toại nguyện !
Mẹ đứng đó, đứng thẳng vững chắc, trong thái độ xin vâng ! Mẹ luôn luôn sẵn sàng tiếp tục ơn gọi suốt đường đời, ơn gọi tới tận chân thánh giá. Chỉ một mình Thiên Chúa xứng đáng trọn đời trên thập giá ! vượt trên mọi lượng định nhân loại của Đức Mẹ. Mẹ không được chọn vì cây thập giá, nhưng được chọn cùng với các con cháu loài người để đón nhận vào cuộc sống của Mẹ như bình thánh đựng máu tình yêu của con Ngài mới có sức tắm rửa, thanh tẩy và làm sống lại.
Chăm chú
Đức Mẹ dâng tiến lên Thiên Chúa và cho thế nhân con của Mẹ, đồng thời Mẹ chăm chú lắng nghe con Ngài, Mẹ chú ý lắng nghe tiếng con Mẹ và đã nghe thấy nguyện vọng sau cùng của Người thốt lên.
Ma-ri-a lúc truyền tin, đã chú ý lắng nghe Đấng Messia của Israel, và đã thành bà mẹ.
Bây giờ Mẹ đang chú ý ! Mẹ đoán mọi sự chưa hoàn tất đối với Mẹ ! Ước chi cuộc sống Mẹ còn tiếp tục ! Mẹ sẽ nhận được lời nguyện cuối cùng của Con Mẹ, Mẹ bắt đầu lắng nghe mọi người bởi vì Mẹ đang lắng nghe Thiên Chúa !
Là chứng nhân về tình yêu Con Mẹ, Mẹ được chia sẻ với Người sống đến tột đỉnh của đức tin.
J.M.
SUY NIỆM 6: Lễ Đức Mẹ sầu bi
Chúng ta đặc biệt tưởng nhớ bảy niềm đau lớn lao trong cuộc đời của Mẹ. Niềm đau thứ nhất là khi Mẹ dâng Chúa Hài Nhi Giêsu trong đền thánh. Tại đây, cụ tiên tri Simêon nói với Mẹ rằng một lưỡi gươm đau khổ sẽ đâm thấu tâm hồn của Mẹ.
Vì là Mẹ của Đức Chúa Giêsu, Mẹ Maria có rất nhiều niềm vui nhưng Mẹ cũng phải chịu nhiều đau khổ. Tình yêu quảng đại đối với Con chí thánh đã khiến Mẹ Maria phải đau khổ khi nhìn thấy Đức Chúa Giêsu bị các kẻ thù đối xử tàn bạo. Mẹ là Nữ Vương các thánh tử đạo vì Mẹ đã trải qua những đau khổ tinh thần mà những đau khổ này khủng khiếp hơn rất nhiều so với những khổ hình thể xác của các thánh tử đạo. Trái tim Mẹ ví tựa bàn thờ khi Mẹ dâng Con yêu quý của Mẹ là Đức Chúa Giêsu để cứu độ chúng ta trên ngọn đồi Canvê. Thật là đau khổ biết bao khi một người mẹ rất mực đáng yêu phải chứng kiến cảnh tượng con mình chịu chết trên thập giá.
Chúng ta đặc biệt tưởng nhớ bảy niềm đau lớn lao trong cuộc đời của Mẹ. Niềm đau thứ nhất là khi Mẹ dâng Chúa Hài Nhi Giêsu trong đền thánh. Tại đây, cụ tiên tri Simêon nói với Mẹ rằng một lưỡi gươm đau khổ sẽ đâm thấu tâm hồn của Mẹ. Việc đó sẽ xảy ra khi Đức Chúa Giêsu bị lên án tử. Niềm đau thứ hai là Đức Mẹ và thánh Giuse phải chạy trốn sang Ai Cập với Đức Chúa Giêsu vì quân lính của vua Hêrôđê đang tìm giết Người. Niềm đau thứ ba xảy ra lúc Đức Mẹ tìm kiếm Đức Chúa Giêsu suốt ba ngày tại đền thánh Giêrusalem. Sau cùng, Mẹ đã tìm thấy Chúa trong đền thờ. Niềm đau thứ tư của Mẹ là khi Đức Chúa Giêsu bị quân dữ đánh đòn và đội mão gai. Niềm đau thứ năm là khi Mẹ xem thấy Đức Chúa Giêsu bị treo trên cây thập giá, nơi Chúa tắt thở sau ba giờ hấp hối. Niềm đau thứ sáu của Mẹ là lúc thân xác bất động của Đức Chúa Giêsu được trao phó trong vòng tay Mẹ. Và niềm đau thứ bảy mà Mẹ phải chịu là lúc Đức Chúa Giêsu chịu mai táng trong mồ.
Mẹ Maria đã chẳng hối tiếc hay phàn nàn gì khi phải chịu đau khổ quá nhiều trong suốt cuộc đời Mẹ. Thay vào đó, Mẹ dâng lên Thiên Chúa những thống khổ của Mẹ vì chúng ta. Mẹ chính là Mẹ thật của mỗi người chúng ta. Bởi quá yêu thương chúng ta, Mẹ đã vui sướng cùng chịu đau khổ với Đức Chúa Giêsu Con Mẹ để một ngày kia chúng ta cũng được chia sẻ niềm vui của Mẹ cùng với Đức Chúa Giêsu trên thiên đàng.
Để tỏ lòng tôn kính Đức Mẹ sầu bi, hôm nay chúng ta hãy dâng lên Mẹ vài hy sinh nhỏ mà không phàn nàn chi. Chúng ta cũng hãy suy ngắm từng niềm đau của Mẹ và cảm ơn Mẹ về tình yêu cao cả mà Mẹ đã dành cho mỗi người chúng ta.
SUY NIỆM 7: Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có Thân Mẫu Người
(Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ.)
1. Đức Mẹ Sầu Bi
Hôm nay, chúng ta cử hành lễ nhớ “Đức Mẹ Sầu Bi”. Như thế, trong đời sống của Đức Mẹ, cũng có những điều sầu bi, như trong đời sống của tất cả mọi người chúng ta. Trong suốt năm phụng vụ, chúng ta có nhiều lễ tôn vinh Đức Maria, Mẹ của chúng ta, nhưng hầu như luôn luôn là vì những ân huệ lớn lao Thiên Chúa ban cho Mẹ (chẳng hạn ơn vô nhiễm, ơn lên trời, ơn làm Nữ Vương…), hay là vì những biến cố đặc biệt trong cuộc đời của Mẹ (chẳng hạn Sinh Nhật, Truyền Tin, Thăm Viếng…). Chính vì thế mà, lễ Đức Mẹ Sầu Bi là một ngày lễ rất đặc biệt, bởi vì lễ này mời gọi chúng ta tôn vinh Đức Mẹ, với một khuôn mặt rất đời thường, và vì thế rất gần gũi với chúng ta : Đức Mẹ Sầu Bi, và chúng ta cũng sầu bi, không phải một lần, nhưng nhiều lần trong cuộc đời !
Vậy chúng ta đã có và đang có những sầu bi nào ? Tuy nhiên, trong ngày lễ hôm nay, chúng ta được mời gọi hướng về Đức Mẹ và “suy chiêm” những đau khổ của Mẹ. Bởi vì, những đau khổ của Mẹ sẽ làm cho chúng ta hiểu biết Mẹ hơn và như thế, yêu mến Mẹ nhiều hơn. Ngoài ra, những đau khổ của Mẹ còn soi sáng và dẫn dắt chúng ta trong cuộc sống đầy khổ đau này.
2. Bảy sự đau khổ của Đức Mẹ
Như chúng ta đều đã biết, Truyền Thống của Giáo Hội thích dựa vào các Tin Mừng, để kể ra những đau khổ của Đức Mẹ, và Giáo Hội kể ra được bảy đau khổ; vì thế, ngày lễ hôm nay, còn được gọi là lễ “Đức Mẹ Bảy Sự”. Con số “bảy” cũng thật là ý nghĩa, bởi vì số 7 đối với người Do Thái, là con số hoàn hảo, cũng giống như số 9 đối với chúng ta. Điều này làm cho chúng ta nhớ lại các con số bảy của bài một Tin Mừng theo thánh Mát-thêu: bảy lần ; bảy mươi lần bảy (x. Mt 18, 21-35) ; bảy giỏ (x. Mc 8, 8). Sau đây là “bảy sự” của Đức Mẹ:
Lời của cụ ngôn sứ Simêon về Đức Maria (Lc 2, 25-35), là bài Tin Mừng chúng ta có thể đọc trong ngày lễ hôm nay, theo sách Phụng Vụ các bài đọc.
Trốn sang Ai-cập (Mt 2,13-15)
Lạc mất Đức Giê-su (Lc 2,41-52)
Đức Mẹ nhìn Đức Giê-su vác thập giá (Lc 23,27)
Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25-27), là bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay.
Đức Mẹ đón nhận thân xác đã chết của Đức Giê-su (Ga 19,38-40)
Đức Mẹ ở bên mộ Đức Giê-su (Ga 19,41-42)
Điều phải đánh động chúng ta, khi đọc qua danh sách bảy sự đau khổ của Đức Mẹ, đó là mọi sự đau khổ của mẹ đều có liên quan đến Đức Giê-su, con của Mẹ; một cách cụ thể, những đau khổ của Mẹ đến từ biến cố Giáng Sinh, đến từ đời sống ẩn dật, đến từ sứ mạng rao giảng Nước Trời, đến từ cuộc Thương Khó, đến từ Thập Giá, và sau cùng đến từ cái chết của Ngài.
Như thế, chính khi Đức Mẹ thưa “xin vâng”, đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, để đón nhận Đức Giê-su, Con Thiên Chúa vào trong cuộc đời của mình, và chính khi Đức Mẹ sống lời xin vâng của mình mỗi ngày và sống cho đến cùng, đến tận chân Thập Giá và cho đến hết cuộc đời, thì tất yếu đau khổ xẩy ra cho Mẹ. Bởi vì, như chúng ta có thể nhận ra trong bảy đau khổ của Mẹ: Đức Mẹ sinh ra Đức Giê-su, nhưng Đức Mẹ lại được mời gọi không nuôi nấng và dưỡng dục Ngài theo ý riêng của mình, theo chương trình hay kế hoạch riêng của mình, nhưng là để cho Ngài lớn lên theo chương trình của Thiên Chúa; Đức Mẹ đón nhận Đức Giê-su vào cung lòng và vào cuộc đời mình, nhưng Mẹ lại được mời gọi, như tất cả chúng ta cũng được mời gọi, đi theo Đức Giê-su trên con đường của Ngài ; mà con đường của Đức Giê-su là con đường dẫn đến Thánh Giá.
Những đau khổ của Mẹ đến từ việc Mẹ đi theo Đức Ki-tô, Mẹ gắn bó thiết thân với Đức Ki-tô, Mẹ trở nên một với Đức Ki-tô, nhất là với “Đức Ki-tô chịu đóng đinh”. Và tất cả chúng ta đều có cùng một kinh nghiệm này, giống như Đức Mẹ. Thật vậy, từ khi chúng ta trở thành Ki-tô hữu, và nhất là từ khi chúng ta đáp lại tiếng gọi đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình hay trong ơn gọi dâng hiến, và cố gắng sống ơn gọi của chúng ta mỗi ngày, chúng ta phải cho đi chính mình, cho đi thời gian, cho đi tất cả những gì rất thiết thân đối với chúng ta, đó là quyền làm chủ, giới tính và tình cảm, ý muốn… , thì tất yếu sẽ có nhiều đau khổ. Nhưng tại sao chúng ta lại mang vào mình những đau khổ, nếu không phải là muốn noi gương Đức Mẹ ?
Thật vậy, như Đức Mẹ, vì tình yêu đối với Đức Ki-tô, chúng ta ước ao trở nên nữ tì, trở nên tôi tớ của Ngài, chúng ta ước ao sống theo Lời của Ngài. Và chính tình yêu và lòng ước ao này làm cho chúng ta hạnh phúc bất chấp những đau khổ, và ngay trong những đau khổ, bởi vì có một niềm hạnh phúc đặc biệt, đó là hạnh phúc đau khổ vì tình yêu. Như thánh Augustino nói : “Trong tình yêu không có đau khổ, và nếu có đau khổ, thì đau khổ này đã được yêu rồi”.
3. Đau khổ thứ năm : Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá
Hình ảnh Đức Mẹ đứng dưới chân Thập Giá, mà bài Tin Mừng mời gọi chúng ta chiêm ngắm trong ngày lễ hôm nay, nói lên sự nghịch lí này của Tin Mừng và của mầu nhiệm Vượt Qua.
Dưới chân thập giá, Mẹ sầu bi, nhưng Mẹ vẫn đứng vững chứ không ngã quị. Chúng ta nên đi lại hành trình của Mẹ Maria, từ biến cố truyền tin, để hiểu được tại sao Mẹ đứng vững. Chúng ta cũng cần đi theo Đức Kitô như Mẹ, để có thể đứng vững dưới chân thập giá. Và không cần phải đợi đến biến cố phục sinh, nhưng ở tột đỉnh của sự trao ban, nghĩa là trao ban đến không còn gì, chúng ta được mời gọi nhận ra sự sống mới phát sinh, phát sinh thật đồi dào, phát sinh từ Lời sự sống của Đức Giêsu được thốt lên ngay nơi chết chóc và lúc Ngài đang chết đi. Thật vậy, ngay trong đau khổ của sự chết, một Gia Đình mới phát sinh : Đức Giê-su, nhìn Mẹ, và nói: Thưa Bà, đây là con của Bà. (c. 19, 26)
Như thế, chính lúc Mẹ đang mất đi người con này, mẹ trở thành Mẹ của người con khác; và từ người con này, dưới sức mạnh của Đấng Phục Sinh, sẽ trở thành đông đúc, trong đó có cả con trai lẫn con gái. Chính lúc Mẹ bình an dâng hiến người con Duy Nhất, Mẹ nhận lại gấp trăm, nơi Người Môn Đệ Đức Giê-su thương mến. Và Mẹ cũng không mất đi Người Con Duy Nhất của Mẹ, vì Ngài sẽ hiện diện ở nơi anh chị em mới của Ngài.
Từ hi sinh thập giá, giữa cơn thử thách, ngay trong sự chết, một nhân loại mới phát sinh: những gì của con là của Mẹ; những gì của Thầy là của anh. Cái chết của Đức Giêsu đã làm phát sinh sự sống: Mẹ trở thành Mẹ của Người Môn Đệ Đức Giêsu yêu mến, đại diện cho tất cả các môn đệ thuộc mọi thời; khi dâng hiến người con duy nhất, Mẹ không mất đi, nhưng nhận lại Ngài nơi các môn đệ, nơi cả một đàn con đông đúc. Bởi vì, Đức Giêsu sẽ đi vào sự sống mới và hiện diện bên cạnh, ở giữa và bên trong các môn đệ nam nữ.
Xin Chúa cũng ban cho chúng ta có cùng một kinh nghiệm của Đức Mẹ: dưới chân thập giá đau thương của cuộc đời, của hành trình ơn gọi, xin chúng ta cảm nhận với niềm vui và hạnh phúc, sự sống mới của Đức Ki-tô đang phát sinh ngay hôm nay, và phát sinh thật dồi dào.
SUY NIỆM 8: Đức Mẹ sầu bi
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
A. Hôm qua chúng ta mừng lễ Suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu. Hôm nay chúng ta mừng lễ “Mẹ Sầu Bi” Mẹ đau khổ với Chúa Giêsu con của Mẹ. Khi cho con cái mình mừng lễ này, Giáo Hội cho chúng ta thấy có một sự liên kết hết sức chặt chẽ giữa những sự đau khổ của Đức Maria và đau khổ của Chúa Giêsu trên cây Thánh Giá. Việc làm như thế cũng là một điều dễ hiểu. Chính vì thế mà ngày xưa người ta mừng lễ Đức Mẹ Sầu Bi vào thứ sáu trước lễ Lá. Hai cuộc đau khổ phải được nối kết với nhau cách chặt chẽ; cũng như cuộc đau khổ của chúng ta cũng phải được nối kết với đau thương của Chúa Giêsu.
Bảy sự đau thương của Đức Mẹ được liệt kê theo bản văn phụng vụ như sau:
1. Lời tiên báo của ông Simêon (Lc 2,3435)
2. Trốn sang Ai Cập (Mt 2,1315)
3. Ba ngày đi tìm Chúa trong Đền Thờ (Lc 2,4152)
4. Con đường lên Golgotha
5. Cuộc đóng đinh
6. Hạ xác Chúa xuống
7. Chôn xác Chúa trong mồ. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
B. Khi mô tả Đức Mẹ dưới chân Thánh Giá Chúa Giêsu, Thánh Gioan viết: Mẹ đứng sát cạnh cây Thánh Giá.
Mẹ không rũ rượi như những người mẹ khác khi thấy con mình đang chết đau đớn, nhưng người “đứng”, trong một tư thế rất kiên vững. Thế “đứng” của Đức Mẹ đã là đề tài cho bao người chiêm ngưỡng và suy gẫm: Stabat Mater dolorosa!
Đức Mẹ dưới chân Thập giá để được đồng công cứu chuộc, có nghĩa là Mẹ kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu con Mẹ để trở thành nguồn ơn cứu chuộc cho loài người.
Đức Mẹ đứng gần bên thánh giá. Cuộc tử đạo này của Đức Trinh Nữ Maria đã được báo trước nhờ lời tiên báo của ông già Simêôn, cũng như chính bài tường thuật cuộc Thương Khó của Chúa. Về Hài Nhi Giêsu, ông già nói rằng: "Cháu sẽ là dấu hiệu bị người đời chống báng, còn bà - ông nói với Đức Maria - bà sẽ bị nát ruột nát gan như bị lưỡi gươm đâm thâu" (Lc 2,34-35).
Vâng! Một lưỡi gươm đã đâm thâu lòng Mẹ. Lưỡi gươm ấy không thể đâm vào thân con của Mẹ mà một trật không đâm thâu lòng Mẹ. Thật đúng như vậy, Chúa Giêsu, Con của Mẹ tuy là của tất cả mọi người, nhưng đặc biệt là riêng của Mẹ. Lưỡi gươm đó không tha cho một người đã chết mà nó không còn làm hại được nữa, nhưng nó đã mở sườn Người ra; và chính lúc đó, nó lại đâm thâu lòng Mẹ. Lòng Mẹ đã bị đau khổ đâm thâu, vì vậy, chúng ta thật có lý mà tuyên bố rằng Mẹ còn hơn cả vị tử đạo, bởi vì nỗi đau do việc Mẹ cùng chịu khổ chắc chắn đã vượt quá sự đau khổ trong thân xác.
Thánh Bênađô viện phụ nói: "Thưa anh em, anh em đừng ngạc nhiên khi Đức Maria được gọi là vị tử đạo trong tâm hồn. Có ngạc nhiên chăng là kẻ đã quên lời thánh Phaolô nói rằng, một trong những tội tày trời của dân ngoại là vô tâm bạc tình. Một tội như thế thật xa lạ đối với lòng dạ Đức Maria. Ước gì tội đó cũng xa lạ đối với lòng dạ các tôi tớ mọn hèn của Mẹ.
Biết đâu lại có kẻ chẳng nói: Nào Mẹ lại không biết trước Chúa Giêsu phải chết sao? – Dĩ nhiên là biết. Nào Mẹ chẳng hy vọng Người sẽ sống lại ngay sao? – Dĩ nhiên, với tất cả lòng tin. Và dù vậy, Người cũng đau khổ khi thấy Con mình bị đóng đinh, phải thế không? – Phải, và đau khổ ghê gớm. Này người anh em, bạn là ai? Khôn ngoan của bạn ở đâu mà bạn lại ngạc nhiên vì Đức Maria cùng chịu thương khó hơn là vì Đức Giêsu, Con của Người chịu thương khó? Về phần xác, Con của Mẹ đã chết, còn Mẹ, Mẹ đã chẳng chết trong tâm hồn với Con sao? Chính tình thương đã khiến Chúa Kitô chịu thương khó, và không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của Người. Và kể từ đây, không có tình thương nào sánh nổi với tình thương đã khiến Đức Maria cùng chịu thương khó với Con của Người."
Nino Salvaneshi đã thật có lý khi viết “Sung sướng kéo tâm hồn xuống đất, khổ đau nâng tâm hồn lên trời”
Hãy tin tưởng nơi Mẹ. Mẹ đã cùng đồng công cứu chuộc với Chúa Giêsu thì hôm nay trên Thiên Đàng chắc chắn Mẹ cũng được chia sẻ vinh quang quyền uy với Chúa Giêsu con của Mẹ.
Mẹ Têrêsa kể: "Khi hội dòng Thừa Sai Bác ái vừa được thành lập, chúng tôi khẩn thiết cần một ngôi nhà để làm nhà mẹ, thế là tôi khấn xin Đức Trinh Nữ một căn nhà và hứa sẽ dâng cho Đức Mẹ 85.000 kinh Hãy Nhớ:
Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người này chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời. Nhân vì sự ấy con lấy lòng trông cậy than van chạy đến sấp mình xuống dưới chân Đức Mẹ, là nữ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh. Xin Đức Mẹ đoái đến con, là kẻ tội lỗi. Lạy Mẹ là Mẹ Chúa cứu Thế, xin chớ bỏ lời con kêu xin, một rủ lòng thương và nhận lời con cùng. Amen.
Hồi ấy con số các dì chưa đông. Làm sao để trả nợ cho Mẹ Maria đây?
Cuối cùng tôi nghĩ ra cách: tập trung tất cả các trẻ em và những người đau yếu, chúng tôi đang chăm sóc tại Nirmal Hriday và Shishu Bhavan. Tôi dạy họ kinh Hãy Nhớ đó và tất cả chúng tôi cùng hứa đọc.
Chẳng bao lâu tòa nhà trở thành của chúng tôi.
14/09 Phải được giương cao
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Phải được giương cao.
Thứ Hai tuần 24 thường niên – SUY TÔN THÁNH GIÁ. Lễ kính.
“Con Người phải bị treo lên”.
* Lễ Suy Tôn Thánh Giá được cử hành sau lễ Cung Hiến Thánh Đường Phục Sinh, được xây ở Giê-ru-sa-lem trên mồ thánh (335). Từ cõi chết phục sinh, Chúa Kitô đã chiến thắng sự chết.
Thánh giá của Người tiêu biểu cho cuộc chiến thắng này. Truyền thống còn thấy ở đây dấu chỉ của Con Người, Đấng sẽ xuất hiện trên trời để loan báo ngày Người trở lại.
Lời Chúa: Ga 3, 13-17
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.
“Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Phải được giương cao
(‘Manna’)
Nhiều người ngoài Kitô giáo cảm thấy sợ khi vào nhà thờ,
nhìn lên thánh giá, thấy một người bị đóng đinh, máu chảy đầm đìa.
Tại sao lại thờ một người khủng khiếp như vậy?
Một số nơi đã đặt tượng Chúa Phục Sinh trên thánh giá.
Hẳn nhà thờ sẽ tươi hơn, ít gây sốc hơn, mầu nhiệm phục sinh được nổi bật hơn...
Nhưng chúng ta vẫn không được quên Chúa chịu đóng đinh.
Không có cái chết ấy thì cũng chẳng có ơn cứu độ.
Không có thánh giá thì cũng chẳng có phục sinh.
Khi suy tôn thánh giá, chúng ta không suy tôn hai thanh gỗ xếp hình chữ thập.
Chúng ta suy tôn chính Đấng đi đóng đinh vào thánh giá.
Ngài là Đấng vô tội, là Con Thiên Chúa làm người,
là "Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi" (Gl 2, 20).
Chúng ta cũng không suy tôn đau khổ và cái chết,
nhưng chúng ta suy tôn Tình Yêu:
Tình Yêu của Cha dám trao cho thế gian người Con Một,
Tình Yêu của Con dám sống hết mình cho Cha và anh em.
Đau khổ và cái chết là cái giá phải trả cho một tình yêu.
Tình yêu lớn nhất là tình yêu hiến mạng.
Thập giá là một thất bại của Tình Yêu.
Quà tặng của Cha bị loài người từ khước:
Người Con yêu dấu bị làm nhục và đóng đinh.
Quà tặng của Con bị loài người rẻ rúng:
Con chẳng đáng giá bằng tên sát nhân Baraba.
Thiên Chúa thất bại vì Ngài khiêm tốn.
Ngài để cho con người có tự do chối từ.
Ngài đau đớn lặng thinh khi Con Ngài hấp hối...
Nhưng thập giá lại là một thành công của Tình Yêu.
Nơi thập giá, tội ác con người lên đến cao điểm.
Cũng nơi thập giá, Tình Yêu Thiên Chúa lên đến tột cùng.
Và Tình Yêu đã thắng tội ác, sự sống thắng sự chết,
ánh sáng thắng bóng tối, tha thứ thắng hận thù.
Cha không đưa Đức Giêsu xuống khỏi thập giá,
nhưng đưa Ngài ra khỏi nấm mồ hiu quạnh.
Thất bại của thập giá đã biến thành chiến thắng.
Thập giá trở thành Thánh Giá đem lại sự sống đời đời.
Thánh Giá đã trở nên biểu tượng của Kitô giáo.
Thánh Giá có mặt cả trên nến phục sinh.
Thánh Giá ở trên thân xác ta, mỗi lần ta làm dấu,
nhưng Thánh Giá còn ở với người Kitô hữu suốt đời:
"Ai muốn theo Tôi hãy vác thánh giá mình mà theo Tôi".
Đừng sợ hãi tránh né dù đau đớn xót xa.
Đừng kéo lê, bạn sẽ thấy thánh giá nhẹ hơn và sinh trái.
Hãy hôn kính Thánh Giá của mình, của quê hương, của Giáo Hội,
dù chúng ta chẳng bao giờ hiểu hết được mầu nhiệm.
Ước gì chúng ta thấy được ý nghĩa của khổ đau nhờ tin tưởng nhìn lên Thánh Giá Chúa Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đứng trước những thất bại và khổ đau trong cuộc sống, bạn thường có thái độ nào (chán nản, bực tức, nổi loạn, đón nhận, phấn đấu vượt qua...)? Có khi nào nhờ thất bại và khổ đau mà bạn thấy mình lớn lên không?
Có khi nào bạn chấp nhận một chút hy sinh, một chút đau khổ, để người khác được hạnh phúc không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh Giá của Con Cha trong mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh Giá, bao lâu tuỳ ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát
nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ
và lòng khát khao nóng bỏng có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau.
Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ của những người đã yêu mến Cha,
đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ, tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con nói lên lòng tin của con vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha, và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân, và yêu Cha chỉ vì Cha,
chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh Giá trở nên mẫu gương cho con, là ánh sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy con đang thuộc về Cha mãi mãi. (Karl Rahner)
Suy Niệm 2: Ba cuộc đời - ba cách chết
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trên đồi Golgotha cách đây hơn hai ngàn năm, có 3 tử tội trên thập giá. Ba con người đều chết trên thập giá với ba thái độ khác nhau. Đó chính là Thầy Giêsu ở giữa. Một người bên hữu được gọi là trộm lành. Một người bên tả truyền thống vẫn gọi là trộm dữ. Tại sao cùng một hoàn cảnh mà cách thức đón nhận lại khác nhau? Đâu là điểm khác biệt giữa ba con người?
Trước hết đó là Thầy Giêsu, một con người đã tự nguyện vác thập giá để cứu độ chúng sinh. Ngài chấp nhận đi vào cái chết không phải do tội của mình mà vì tội của nhân gian. Ngài đã chết để thí mạng vì bạn hữu. Cả cuộc đời của Ngài đã sống vì người khác. Ngài đã sống một cuộc đời để yêu thương và yêu thương cho đến cùng. Ngài đã đi đến tận cùng của yêu thương là thí mạng mình vì bạn hữu. Cái chết của Ngài là bằng chứng cho tình yêu. Đau khổ Ngài chịu cũng vì yêu thương nên Ngài không than vãn, không uất hận vì đời đen bạc. Không nguyền rủa cuộc đời vì những gánh nặng đang đè trên vai. Vì yêu đối với ngài không chỉ là tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, mà còn dám chết cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Thế nên, đau khổ đối với Ngài là niềm vui. Và ngài đã đi vào cái chết trong thanh thản vì đã hoàn thành sứ mạng đời mình: "yêu thương và phục vụ cho" người mình yêu. Ngài không hối tiếc về cuộc sống đã qua. Ngài không hối hận vì việc mình đã làm. Ngài rất vui vì đã đi trọn con đường của tình yêu. Ngài đã trút hơi thở cuối cùng trong an bình khi Ngài nói cùng nhân loại "mọi sự đã hoàn tất" và nói cùng Chúa Cha "Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha".
Người thứ hai là anh trộm lành. Anh là một tội nhân. Anh đón nhận hình phạt và cái chết vì chính tội của mình. Nhưng anh là một con người biết phải trái. Anh biết việc mình làm là đáng tội, là đáng phải chịu hình phạt. Cuộc đời anh chưa làm điều gì tốt cho tha nhân. Anh đã sống một cuộc đời chỉ làm hại người khác. Thế nên, anh đã nói với Chúa: "Tôi đã bị như thế này là xứng đáng với tội của tôi". Anh đón nhận thập giá để đền bù những lầm lỗi đã qua. Anh chấp nhận cái chết nhục nhã như là hình phạt đích đáng vì tội của mình. Anh đã tìm được bình an trong giờ phút cuối cùng của đời người. Anh cũng biết rằng anh không xứng đáng chung phần hạnh phúc thiên đàng với Thầy Giêsu, anh chỉ mơ ước Thầy Giêsu nhớ tới anh khi Thầy về thiên đàng. Đối với anh thập giá là cơ hội để anh để anh đền bù lầm lỗi. Thập giá là nhịp cầu đưa anh vào thiên đàng. Thế nên, anh đón nhận thập giá với lời xin vâng theo mệnh trời. Anh không oán trời, oán đất. Anh đi vào cái chết với tâm hồn thanh thản vì anh đã đền bù những lầm lỗi của quá khứ cuộc đời.
Người thứ ba là anh trộm dữ. Anh lao vào cuộc đời như con thú đang tìm mồi. Cuộc đời anh chỉ tìm hưởng thụ cho bản thân. Vì ham muốn danh lợi thú anh đã sẵn sàng hạ thấp nhân phẩm mình và chà đạp phẩm giá của tha nhân. Anh đang có nhiều toan tính để hưởng thụ. Thế nên, anh không chấp nhận thập giá trên vai anh. Anh không chấp nhận kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thảm trên thập giá. Anh đòi quyền sống. Sống để hưởng thụ. Anh nổi loạn vì đời anh còn quá trẻ, còn quá nhiều tham vọng nên anh không thể chấp nhận cái chết đến với mình. Thế nhưng, anh vẫn phải chịu hình phạt vì tội của mình. Công lý đòi buộc anh phải thi hành, dầu anh không muốn. Thập giá làm cho anh đau khổ. Cái chết làm cho anh nổi loạn. Anh nguyền rủa trời, nguyền rủa đất và xúc phạm cả đến Thầy Giêsu, một con người đang phải chịu cái chết vì đã liên đới với anh. Anh đã chết trong sự hoảng loạn và khổ đau.
Mỗi người chúng ta đang sống một cuộc đời cho chính mình. Mỗi người chúng ta đang đón nhận thập giá với thái độ khác nhau. Có người chấp nhận thập giá để đền tội. Có người chấp nhận thập giá vì lòng yêu mến tha nhân. Và cũng có người đang từ chối thập gía trong cuộc đời. Hạnh phúc hay đau khổ tuỳ thuộc vào việc chọn lựa sống của chúng ta. Nhưng dù con người có muốn hay không? Thập giá vẫn hiện diện. Thập giá của bổn phận. Thập giá của hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những ham muốn tội lỗi, những ích kỷ tầm thường. Đón nhận thập giá sẽ mang lại cho ta tâm hồn bình an vì đã sống đúng với bổn phận làm người. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta đền bù những thiếu sót trong cuộc sống của mình và của tha nhân. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta tiến tới vinh quang phục sinh với Chúa trên thiên đàng.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã vui lòng đón nhận thập giá vì chúng ta, nâng đỡ và giúp chúng ta vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Xin giúp chúng ta biết sống một cuộc đời hy sinh cao thượng để chúng ta không hối hận vì quá khứ, nhưng luôn bình an vì đã sống chu toàn bổn phận của mình với lòng mến Chúa, yêu người. Amen.
Suy Niệm 3: Suy tôn Thánh Giá
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Tuần báo Thế Kỷ Kitô, xuất bản bên Hoa Kỳ có kể lại kinh nghiệm sau đây của một vị linh mục công giáo tại bang Carolina vào Tuần Thánh.
Để giúp các tín hữu trong giáo xứ suy niệm về mầu nhiệm thập giá, linh mục này cho dựng một cây thập giá cao to, bằng gỗ sơn đen ngay trong sân nhà thờ. Chẳng may trong ngày hôm đó, có người xưng mình là đại diện cho hãng du lịch trong vùng gọi điện thoại đến khiếu nại. Lý do như sau: khách du lịch đi qua trước nhà thờ không thích nhìn thấy cây thập giá đen thui này, họ muốn xem những gì vui tươi hơn. Đó là câu chuyện của đời này ở bên Hoa Kỳ. Nhiều người đã quên hay cố quên mầu nhiệm thập giá trong đời sống đức tin, nhưng không phải chỉ là chuyện đời này mà thôi, ngay từ thời xa xưa, thời các thánh tông đồ cũng đã xảy ra như thế. Thánh Phaolô đã thốt lên rằng: "Nhiều người sống nghịch lại thập giá Chúa. Họ chỉ sống theo cái bụng, chạy theo lợi lộc, ham vui". Thập giá Chúa còn có ý nghĩa gì đối với người Kitô hôm nay chăng?
Trước khi mạc khải về ý nghĩa của mầu nhiệm thập giá, Chúa Giêsu nhắc lại cho ông Nicôđêmô về nguồn gốc thần linh từ trời xuống của chính mình như là Con Thiên Chúa: "Không ai đã lên trời, ngoài trừ Con Người, Đấng từ trời xuống". Tự nó, thập giá là chặng dưới đất và thực tại đau buồn do con người tạo ra, nhưng để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của nó thì cần phải đóng đinh Con Thiên Chúa vào đó, cần phải hiểu mầu nhiệm thập giá trong cái nhìn từ trên cao, trong cái nhìn của Thiên Chúa, Đấng muốn và đã sai Con Một mình xuống trần gian và chịu chết treo trên thập giá, để biến dấu chỉ của sự trừng phạt trở thành dấu chỉ của tình yêu cứu rỗi. "Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, như con rắn đồng của Môsê, để ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời". Chúa muốn ông Nicôđêmô nhìn về thập giá từ trên cao theo cái nhìn của chính Chúa, và lúc đó con người sẽ khám phá ra rằng Thiên Chúa dùng thập giá để mạc khải tình yêu thần linh, để hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau.
Như lời mời gọi của Chúa cho ông Nicôđêmô, cần phải đặt Con Thiên Chúa vào thập giá, cần phải treo Con Thiên Chúa lên thập giá, con người chúng ta có hiểu được ý nghĩa của thập giá? Thập giá mạc khải cho con người biết tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là dấu chỉ của sự khước từ của con người đối với Thiên Chúa, là dấu chỉ của sự thù ghét của con người đối với con người, của con người say mê quyền hành và danh vọng, muốn làm mọi cách để loại bỏ đối thủ của mình như những người biệt phái Pharisiêu ngày xưa đã dùng thập giá để loại bỏ Chúa Giêsu, Đấng đang lôi kéo dân chúng bỏ họ mà theo Chúa.
Mỗi người Kitô chúng ta hôm nay, nhân ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá, hãy kiểm điểm lại thái độ của mình đối với thập giá Chúa. Phải chăng thập giá Chúa đã bị tục hóa, bị chúng ta biến trở thành món trang sức để khoe của, để củng cố địa vị, để lường gạt anh chị em? Chúng ta làm dấu thánh giá trên mình, chúng ta mang dấu thánh giá trên áo, trên cổ nhưng chúng ta đã sống ý nghĩa của thập giá như Chúa đã mạc khải như thế nào?
Lạy Chúa,
Xin thương dạy con hiểu biết, đón nhận và sống mầu nhiệm thập giá trong chính đời sống của con. Xin cho con một tâm hồn quảng đại, không chạy trốn trước lời mời gọi của thập giá Chúa, nhưng sẵn sàng để cho cuộc đời con được đóng đinh vào thập giá với Chúa, trở thành của lễ hy sinh, giúp anh chị em nhận ra tình yêu Chúa.
Suy Niệm 4: Học yêu Thánh Giá
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tình cờ tôi nghe bài hát “học yêu Thánh Giá”, từ web: mp3.zing.vn/bai-hat/Hoc-yeu-Thanh-Gia.
Lời ca ngắn gọn mà sâu sắc, giai điệu nhẹ nhàng cho tôi cảm nhận sâu lắng về tình yêu Thánh Giá Chúa Giêsu.
Thánh Giá là chữ T.
Người nằm giang tay chữ Y.
Là tình yêu, yêu đến tận cùng.
Yêu nhân gian chiều ngang.
Yêu đời mình chiều sâu.
Yêu Chúa là chiều cao.
Để tình yêu luôn mãi nhiệm mầu.
Thập giá là chữ T được tạo nên do hai thanh gỗ. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Trên thập giá, Chúa Kitô chịu đóng đinh dang tay thành chữ Y. Tình yêu là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống. Cả ba chiều kích ngang, sâu, cao của thập giá đều quy tụ nơi tình yêu của Đấng chịu đóng đinh. Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh. Tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt đến nỗi Chúa Cha “đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một hy lễ dâng lên Chúa Cha, cũng là sự tự hiến cho loài người trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.
Thánh Phaolô nhấn mạnh sự tương phản chưa từng thấy trong mầu nhiệm Thập giá. Sự hạ mình sâu thẳm của Đức Giêsu Kitô “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người, tặng ban Danh hiệu vượt trên mọi Danh hiệu. Và khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, mọi gối phải bái quỳ để tôn vinh Chúa Cha và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa” ( Pl 2,6-11).
Theo cái nhìn của Phaolô cũng như của Gioan, Chúa Giêsu chịu đóng đinh cũng chính là Chúa Giêsu được tôn vinh. Đó là sự tôn vinh Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, và Tình Yêu ấy đã biểu lộ rõ ràng nhất nơi Thập giá Chúa Kitô. Không nơi nào Tình Yêu của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn như nơi “con người Chúa Giêsu chịu đóng đinh”.
Ca nhập lễ ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá đã mượn lời của Thánh Phaolô trong thư Galat 6,14 để hân hoan hát lên: “Niềm vinh dự của chúng ta chính là Thập Giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ Người, chúng ta được cứu độ, được sống và được phục sinh; chính Người cứu độ và giải thoát chúng ta”.
Kinh Tiền Tụng đã chú giải: “Thật vậy, xưa vì cây trái cấm, loài người chúng con phải tử vong, nay nhờ cây thập giá lại được sống muôn đời; và ma quỷ xưa chiến thắng nhờ cây trái cấm nay thảm bại vì cây thập giá của Đức Kitô, Chúa chúng con”.
Thánh Bonaventura viết: “Thánh Giá là cây tòan hảo, được thánh hóa bởi Máu Chúa Kitô, mang đầy trái thơm ngon“. Cây Thánh giá còn được phong phú hóa như là một loài cây quý hiếm và tươi thắm diễm lệ, hoa trái tràn đầy trong lời trong kinh ‘A Rất Thánh Giá’: “Khen cây thánh giá ở giữa rừng phàm, nên giống báu lành, nên cây sang trọng, nên đơn linh nghiệm, nên tàu vượt qua biển hiểm thế nầy….Cây thánh giá tốt lành rất mực dìm dà êm mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình. Cội rễ, nhành lá, búp bông, hoa quả. Từ xưa đến nay, cây nào dám ví bằng cây thánh giá, từ cây thánh giá chở mình Chúa Cả đóng đinh trên cây thánh giá”.
Tại bãi biển Copacabana tối thứ sáu 26-7-2013 đi Đàng Thánh Giá, Đức Thánh Cha Phanxicô diễn giảng Thập giá là: “Một tình yêu tuyệt vời khi đi vào tội lỗi của chúng ta và tha thứ cho nó, đi vào đau khổ của chúng ta và cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng. Đó là một tình yêu đi vào cái chết để chiến thắng nó và cứu vớt chúng ta. Thập giá của Chúa Kitô chất chứa tất cả tình yêu của Thiên Chúa, lòng thương xót vô biên của Ngài. Đây là một tình yêu mà chúng ta có thể đặt vào đó tất cả niềm tin của chúng ta, nơi chúng ta có thể tin tưởng. Các bạn trẻ thân mến, chúng ta hãy phó thác cho Chúa Giêsu, chúng ta hãy phó thác vào Người một cách trọn vẹn! (x. Ánh Sáng Đức Tin, 16). Chỉ trong Chúa Kitô chịu đóng đinh và phục sinh, chúng ta mới có thể tìm thấy phần rỗi và ơn cứu độ. Với Ngài, sự dữ sự đau khổ và cái chết không còn quyền thế, bởi vì Ngài cho chúng ta hy vọng và sự sống: Ngài đã biến Thập giá từ một công cụ của sự thù ghét, sự thất bại và sự chết thành một dấu chứng của tình yêu, sự khải hoàn và sự sống”.
Đức Thánh Cha nhắc lại sự kiện vào cuối Năm Thánh Cứu Độ 1984, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã muốn tín thác Thập Giá Chúa cho người trẻ và ngài nói: “Các con hãy đem Thánh Giá vào trong thế giới như dấu chỉ tình yêu thương của Chúa Giêsu đối với nhân loại, và loan báo cho tất cả mọi người rằng chỉ nơi Chúa Kitô chết và phục sinh, mới có sự cứu rỗi và ơn cứu độ” (Diễn văn với giới trẻ, 22 tháng 4 năm 1984). Kể từ đó, Thập Giá đã rong ruổi qua mọi đại lục, và đi qua các thế giới khác nhau nhất của cuộc sống con người, hầu như được thấm nhập bởi các tình trạng sống của biết bao nhiêu người trẻ đã trông thấy và đã mang Thập Giá đó. Không có ai đụng tới Thập Giá Chúa Giêsu mà không để lại một cái gì đó của chính mình, và không đem một cái gì đó của Thập Giá Chúa Giêsu vào trong cuộc sống của mình.
Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Bởi vì “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25). Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Giá là biểu tượng của Tình Yêu cứu độ. Thánh giá là niềm tự hào và vinh quang của người tín hữu.Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Chúa Giêsu chết trên thập giá, muốn minh chứng rằng Người yêu thế gian hơn yêu chính mình. Nơi thập giá, Chúa Giêsu chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là một tình yêu ở dạng thức cao nhất: Tình Yêu đến mức tận cùng, một Tình Yêu tự hiến trọn vẹn của Thiên Chúa. Yêu là hiến tế, là hy sinh chính mình. Hiến dâng chính mình vì thiện ích của kẻ khác. Chúa Giêsu hiến dâng chính mình trên thập giá như là sự đền bù vì ơn cứu độ nhân loại.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Chúng ta yêu mến, tôn thờ Chúa Giêsu trên Thánh Giá.Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Đức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn tình yêu, sự sống của Chúa Kitô.
Suy Niệm 5: Suy niệm của ĐGM. Phaolô M. Cao Đình Thuyên
Một nhà thông thái nằm mơ thấy mình để cả cuộc đời đi tìm một cuốn sách hay nhất gồm tóm mọi sự trên đời, cuốn sách đó chỉ tóm gọn trong một trang hay nhất, rồi trang ấy gồm trong một dòng hay nhất, rồi dòng ấy trong một chữ hay nhất. Ông giật mình tỉnh dậy, trên bàn ông có một chữ to tướng: Crux, Thánh Giá.
Phải, Thánh Giá là chữ hay nhất gồm tóm những bài học hay nhất, của một dòng chữ hay nhất, của một trang hay nhất, của một cuốn sách hay nhất. Vậy Thánh Giá là gì? Chắc chắn ta không nhìn và giải thích về mặt thể lý: 2 thanh gỗ, sắt, đồng, chì, vàng, bạc đóng vào nhau thành hình chữ thập, dù có gắn ảnh chuộc tội hay không.
Thánh Giá là tình thương vô biên của Thiên Chúa qua Chúa Kitô, đã tỏ cho loài người bằng cách hứng chịu mọi đau khổ trên thập giá để cứu độ chúng ta, và ngược lại, Chúa muốn chúng ta cũng qua Thánh Giá đóng góp phần mình vào ơn cứu độ để cứu mình và anh em, để tất cả được sống lại vinh quang với Chúa. Chỉ một vài dòng đơn sơ, nhưng nói đến Thánh Giá là động chạm đến bao vấn đề hết sức quan trọng và sâu sắc.
Trước hết, Thánh Giá là tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Thánh Gioan viết: “Tình yêu Thiên Chúa cốt tại điều này là không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước nhưng chính là Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Tình yêu của Thiên Chúa biểu hiện qua việc Ngài đã sai Con Một Ngài vào trong thế gian để làm của lễ đền tội chúng ta”. Như thế, tình yêu Thiên Chúa là một tình yêu nhưng không, vô vị lợi. Chúa yêu chúng ta không phải vì chúng ta tốt hay vì Ngài cần chúng ta, nhưng chỉ vì Chúa tốt lành vô song. Tiên tri Giêrêmia đã nói rất cảm động: “Ta đã yêu con bằng tình yêu muôn đời, bởi thế Ta đã giữ bền ân nghĩa với con” (Giêrêmia 31,3). Thánh Augustin cũng nói: “Nguồn nước có được lợi gì khi kẻ khát nước đến uống ở đó, mặt trời có lợi gì khi con mắt được ánh sáng chiếu tới”. Nhà thần học Don Scot dòng Phanxicô, vào thế kỷ 14 còn nói mạnh hơn: “Giả thiết loài người không phạm tội thì vì yêu ta Chúa cũng có thể làm người và chịu nạn chịu chết”. Giả thiết vậy để kích thích ta thêm lòng đạo đức, đào sâu thêm huyền nhiệm tình yêu, chứ thực tế loài người đã phạm tội và Chúa đã sai con Ngài xuống thế gian thật để cứu chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài, mà cao điểm là cuộc khổ nạn và chết trên thập giá. Trước một tình yêu cao cả và vô vị lợi như thế sao ta lại dễ thất vọng chán nản mỗi khi gặp thử thách? Là con cái Chúa, là tu sỹ, nhất là tu sỹ Mến Thánh Giá lại ngã lòng mỗi khi Chúa muốn chúng ta chia sẻ Thánh Giá với Ngài? Phải chăng ta còn quá ích kỷ trong việc mến yêu Chúa? Ta yêu Ngài chỉ vì ta cần đến Ngài chẳng khác gì coi Ngài như cái vòi nước, khi cần thì đến vặn dùng, xong lại đóng sập lại ngay.
Một nhà mục sư Tin Lành giảng về câu Kinh Thánh của Thánh Gioan trên rất hay: 2 gia đình, 1 Công giáo, 1 Tin lành đi lại với nhau rất thân, gia đình Công giáo có 5 người con, ông bà Tin lành đã già mà không có con. Họ quý mến nhau lắm và mọi sự thông cảm chia sẻ với nhau rất quảng đại. Một hôm ông bà Tin lành mạnh dạn nói với ông bà Công giáo: Cả 2 ta cùng thờ một Chúa Giavê, một Chúa Kitô, tuy là 2 Hội Thánh nhưng chúng ta vẫn quý mến nhau vì cũng gặp ở một Chúa. Chúa cho gia đình bác nhiều cô cậu, còn tôi trong cảnh già nua buồn bã, tôi muốn xin bác cho chúng tôi 1 cô hoặc 1 cậu để ông bà làm vui. Tôi hứa sẽ yêu thương giáo dục cháu hết sức! Ông bà Công giáo cảm động quá về bàn với nhau xem nên cho đứa nào.
- Con cả là một cậu trai tuấn tú, thông minh, ngoan ngoãn, nhất định không được. Vả ai lại cho trưởng nam đi.
- Con thứ là một cô gái xinh đẹp đạo đức lại vừa đính hôn với một thanh niên xứ bạn, ai lại cho đi đứa con chỉ vài ba tháng nữa sẽ về nhà chồng.
- Con thứ ba là cậu trai tàn tật, què chân. Hai vợ chồng buồn bã cho số phận hẩm hiu của con nên càng đem lòng ưu ái con để bù thiệt cho nó, thì sao có thể cho nó đi và lại cho bạn một đứa con tàn tật, làm sao coi được.
- Con thứ tư là một cô thiếu nữ 10 tuổi. Vừa nói tới bà đã khóc tru trếu vì bà coi cô như hòn ngọc. Bà coi cô là hình ảnh sống động của mình vì lời ăn tiếng nói, nụ cười, cả dáng đi đều giống hệt như bà.
- Con thứ 5 là cậu trai út, 4 tuổi, suốt ngày nói nói cười cười, khi ngồi trên gối mẹ, lúc lại nằm trên tay cha. Đi nhà thờ, đi dạo chơi luôn kèm theo mẹ cha sao có thể rời được. Rút cuộc đành phải báo lại cho ông bạn Tin lành là không thể cho ông bạn được đứa nào cả
Nhà mục sư cao giọng: Con người thân thiết nhau đến thế mà người có 5 con không thể cho ông bạn 1 đứa. Thế mà Thiên Chúa và nhân loại có thân thiết nhau được như thế không? Tội lỗi đã làm con người nên tử thần với Chúa, Chúa Cha lại chỉ có 1 người con vô cùng quý hóa, ấy mà Ngài lại cho con mình xuống trần gian tội lỗi chịu trăm ngàn đau khổ mà cao điểm là Thánh Giá để loài người được an vui.
Chúng ta nghĩ sao về tình yêu Chúa đối với ta và tình mến ta với Chúa. Lạy Chúa, xin tha thứ cho nỗi vong ân bội nghĩa của chúng con!
Cũng vì thế mà đứng trước Thánh Giá chúng con vẫn không một chút mủi lòng. Vì không cảm hết được tình yêu Chúa đã tự triệt tiêu mình vì chúng con. Chúng con mang Thánh Giá trong mình mà chúng con lại mau mắn xua đuổi Thánh Giá đi xa dù chỉ là một Thánh Giá nhỏ nhẹ – một chút nhức đầu sổ mũi, một lời nói đùa cợt, một sự góp ý xây dựng đã đủ làm con phản ứng gay gắt, đỏ mày đỏ mặt, cử chỉ thô bạo, lắm lúc còn ấm ức tìm cách báo thù.
Ôi thật là lạ lùng! Thế mà con còn dám hãnh diện vì mình là người yêu Thánh Giá. Lạy Chúa, nghĩ lại chúng con thật đáng xấu hổ thẹn thùng. Thật đáng Chúa quở trách: Bọn này thờ ta bằng môi bằng miệng. Chúng con thật đáng liệt vào hạng ngoại giáo, thu thuế và bọn Biệt phái trong Phúc Âm.
Cũng vì không cảm hết được tình Chúa yêu con đến triệt tiêu mình cho con, nên con thường mắc bệnh chủ quan và luôn nhìn và phóng đại đau khổ mình mà không biết nhìn đến những thánh giá kẻ khác. Đau khổ mình thì dùng kính hiển vi mà phóng đại để tủi thân, để phàn nàn, để than trách. Còn đau khổ kẻ khác thì lại coi nhẹ, cho là việc nhà giàu đứt tay, không đáng kể. Ôi thật là ích kỷ! Sao con không nhìn lên Thánh Giá với những đau khổ dữ dằn hồn xác của Chúa đã gánh chịu cho con và cho tha nhân con. Tự hào là những người yêu Thánh Giá hơn ai, mến Chúa hơn ai mà con lại không biến cải những Thánh Giá chúng con thành những cây Thánh Giá để nên giống Chúa, để biểu lộ tình yêu Chúa yêu tha nhân? Thánh Têrêxa Avila thì nói: “Hoặc đau khổ hoặc chết”. Thánh Mađalêna de Passi: “Không chết nhưng xin đau khổ mãi mãi”. Thánh Rosa Lima: “Lấy vòng gai có mũi nhọn đội lên đầu, vác cây khổ giá nặng lâu giờ trong một ngày, ban đêm tự treo 2 tay lên khổ giá để kết hợp với Chúa hấp hối trên thánh giá xưa. Thế mà con, tu sỹ Thánh Giá thì lại khiếp sợ Thánh Giá, chê chối tránh né Thánh Giá. Thật dân này chỉ mến ta bằng môi bằng miệng. Nhà văn Montalenebat viết trong cuốn “Các đan sỹ Phơng Tây” miêu tả lời than của cây gỗ Thánh Giá rất cảm động như sau: Từ năm xửa năm xưa, lâu lắm rồi, tôi không còn nhớ nữa, lúc đó tôi mọc ở khu rừng, họ đã hạ tôi xuống đất, cưa chặt và mang tôi đi. Những kẻ thù thô lỗ đã chiếm lấy tôi để thành một trò hề. Họ đem tôi lên một ngọn núi và chôn tôi xuống đất. Ở đó tôi thấy Chúa tể loài người trong uy quyền đi tới trèo lên tôi. Để khỏi bất tuân với người tôi không dám gẫy cũng không dám cong, tôi cảm thấy đất run rẩy dưới chân tôi. Tôi cũng run khi thấy vị anh hùng ôm lên lấy tôi, nhưng tôi không dám cúi mình xuống, cũng không dám lún sâu xuống đất. Dù sao tôi cũng phải đứng thẳng và vươn lên để dương cao trên dân chúng Đấng là vua cao cả, là Chúa trời đất. Họ xuyên thủng tôi bằng những cái đinh màu xám, những vết thương còn biểu hiện trên mình tôi ngày nay. Cả Ngài lẫn tôi đều bị chửi rủa. Máu từ cạnh sườn Ngài loang đổ trên mình tôi. Mặt trời tối sẫm, cả vũ trụ than khóc vua họ bị ngã xuống. Trong cuộc thương khó trên Núi Sọ, cây gỗ giá đã đồng hóa mình với Chúa Giêsu, đã góp phần vào ơn cứu chuộc – Cây gỗ giá đã tuyên bố không dám gãy không dám cong mà cứ đứng thẳng và vươn lên. Còn ta, những người tự hào mình là kẻ hợp tác với ơn cứu độ, chuyền thông ơn cứu độ lại không dám đồng hóa với Chúa Kitô, không dám vươn lên, không dám vươn cao cho thế giới biết Đấng chịu đóng đinh là Chúa Trời Đất yêu thương ta vô cùng sao? Lạy Chúa, xin cho con can đảm như Cha Charle de Foucauld: Khi tôi ôm lấy Thánh Giá thì một trật tôi ôm lấy Chúa Kitô chịu đóng đinh vào đó.
Suy Niệm 6: Sùng kính hay là vác thập giá
Tôi không rõ việc sùng kính thập giá Đức Kitô khởi sự từ đâu và vào thời gian nào, nhưng chắc chắn việc đó phải có từ thời hoàng đế Constantin, hay nói rõ hơn từ năm 335 là năm mà truyền thuyết cho rằng đã tìm lại được thập giá Đức Kitô; và nhân biến cố đó, hoàng đế đã cho xây một thánh đường ngay chính nơi mộ Đức Kitô, ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 là để kỷ niệm ngày cung hiến ngôi thánh đường này.
Như vậy, việc sùng kính thập giá quả đã có từ lâu đời, nhưng cũng không phải là một truyền thống có từ ban đầu. Vậy thì từ ban đầu thập giá có ý nghĩa gì?
Tôi xin thưa, ngay từ ban đầu thập giá đã là dấu chỉ của hồng ân cứu độ:
- Như Maisen treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Ngài thì được sống đời đời.
Đồng thời thập giá còn là dấu chỉ của một tình yêu to lớn mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Cũng như thập giá là dấu chỉ của người môn đệ Chúa:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Đối với người môn đệ Đức Kitô thì không có gì là vinh dự ngoài thập giá, bởi vì nhờ thập giá mà chúng ta được giải thoát, được cứu độ. Nhưng vinh dự vì thập giá nghĩa là gì? Phải chăng, là vì chúng ta có thập giá như là một kỷ vật châu báu, quí giá hơn vàng bạc. Nếu thế thì chẳng lẽ Đức Kitô lại làm giàu cho chúng ta với cây thập giá của Ngài sao?
Hẳn là không. Nhưng phải nhìn nhận rằng, chúng ta nhiều khi đã lợi dụng thập giá Chúa để làm giàu. Thánh giá trở nên một đồ vật cho người ta buôn bán: Nào thánh giá vàng, thánh giá bạc và như thế thánh giá trở thành phương tiện để người ta khoe khoang, vinh dự khi ấy không còn là vinh dự được Đức Kitô cứu chuộc bằng giá máu của Ngài. Làm như thế thánh giá trở nên một đồ vật quí giá chứ không phải là một kỷ vật nhắc nhở cái chết của Chúa. Và kẻ đeo thánh giá đó không cần phải tin Đức Kitô, lại càng không thể làm môn đệ của Ngài vì người môn đệ chân chính của Ngài là phải luôn vác thập giá trên vai, và nhất là phải chịu đóng đinh vào đó vì yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Đã hơn hai ngàn năm nay, người ta đã tạo ra biết bao kiểu thánh giá, to có nhỏ có và thánh giá đã có mặt ở khắp mọi nơi, nhưng càng ngày càng ít người chịu vác thánh giá trên vai và càng ít người hơn nữa chịu đóng đinh vào đó. Đáng buồn nhất là có những kẻ không ngần ngại đóng đinh người khác hay bắt kẻ khác vác những thánh giá nặng nề, đang khi chính mình vẫn đưa miệng hôn kính thánh giá.
Đức Kitô mời gọi chúng ta tình nguyện vác thập giá đi theo Ngài, nhưng chính Ngài cũng vác thập giá của mình mà đi trước chúng ta. Không bao giờ Ngài chất thập giá trên vai kẻ khác. Còn chúng ta, nhiều khi đã không chịu vác thập giá của mình thì chớ, mà lại còn chồng chất trên vai những người nghèo khổ và bé mọn, những người mà bình thường thập giá của họ đã nặng nề, mà không một ai giúp đỡ như Simong, mà không ai lau mặt cho như Veronica thuở trước.
Nay đã đến lúc phải đặt thập giá vào đúng vị trí của nó, nghĩa là trên vai mỗi người chúng ta. Bởi đó, việc hôn kính thánh giá không quan trọng bằng việc vác thập giá, và việc suy tôn thánh giá cũng chẳng lợi ích gì nếu không sẵn sàng chịu đóng đinh mình vào thập giá.
Suy Niệm 7: Thập Giá, con đường về trời
Chúa ban cho chúng ta mỗi người một khuôn mặt, bất kỳ lúc nào cũng có thể ngước nhìn lên trời. Khi thức cũng như khi ngủ, và ngay cả khi đã bị chôn vùi trong lòng đất, mặt chúng ta cũng vẫn còn hướng lên trời. Vậy hướng lên trời để làm gì? Tôi xin thưa là để chúng ta nhớ rằng chúng ta còn có một người Cha đang mong chờ chúng ta, cũng như để chúng ta xác tín rằng Nước Trời mới chính là quê hương đích thực của chúng ta. Vậy thì để tìm về với Chúa, để đạt tới quê hương Nước Trời, chúng ta phải làm gì?
Hẳn chúng ta còn nhớ có lần Chúa đã xác quyết: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Thế nhưng con đường ấy như thế nào? Phải chăng là một con đường ngợp những cánh hoa. Tôi xin thưa không phải là như thế, nhưng là một con đường vừa khúc khuỷ, vừa nhỏ bé mà ít người muốn đặt chân vào. Và cụ thể hơn nữa, đó là con đường đau khổ, con đường thập giá như lời Người đã xác quyết: Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Đó là con đường duy nhất, rẽ ngang vào một lối khác, chắc chắn thế nào chúng ta cũng bị lạc.
Thực vậy, muốn được vào Nước Trời, chúng ta phải có công nghiệp, mà muốn có công nghiệp, chúng ta phải vác lấy thập giá mình. Công nghiệp của chúng ta mặc dù là nhỏ bé nhưng lại là một sự cộng tác cần thiết cho chính bản thân chúng ta được cứu rỗi. Bởi đó chúng ta đừng vội lẩm bẩm kêu trách mỗi khi gặp phải những gian nguy thử thách. Trái lại hãy coi đó là một diễm phúc vì được làm chính việc của Chúa, vì được cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ. Hơn nữa những khổ đau chúng ta phải chịu trong cuộc sống hiện tại, sẽ không thể nào sánh ví được với hạnh phúc trường tồn vĩnh cửu mà chúng ta sẽ được đón nhận trên quê hương Nước Trời.
Có một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng vắng, ngày đêm không lúc nào ra khỏi chiếc lều ẩm thấp và chật hẹp. Ấy là chưa kể đến những hình khổ mà thầy dùng để đánh tội. Ngày kia có mấy người quý phái đến thăm, họ hết sức ngạc nhiên khi thấy thầy hãm mình một cách nghiêm ngặt. Họ hỏi thầy làm sao mà thầy có thể chịu đựng nổi. Thầy bèn chỉ vào một kẽ nứt bằng bàn tay trên vách núi và nói: Chính cái đó đã giúp đỡ tôi. Vì mỗi khi thân xác tôi muốn nổi loạn, thì qua kẽ nứt ấy tôi nhìn thấy bầu trời, và qua bầu trời tôi nhớ tới quê hương vĩnh cửu và đích thật của tôi.
Thực vậy, những giọt nước mắt ngày hôm nay nhỏ xuống, thì ngày mai sẽ kết thành những trái chín của hạnh phúc Nước Trời, bởi vì nhờ những giọt nước mắt khổ đau ấy mà chúng ta trở nên giống Đức Kitô. Hay như lời thánh Phaolô đã nói: Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô thì chúng ta cũng sẽ được sống lại với Người. Bởi vì chính Ngài đã long trọng công bố: Phúc cho những ai than khóc, vì họ sẽ được ủi an.
Suy Niệm 8: Thập Giá và cuộc sống
Thập giá nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống mỗi người chúng ta?
Chúng ta thường thấy: nơi bản thân, Thập giá được dùng làm đồ trang sức chúng ta đeo trên tai, trên cổ. Trong mỗi gia đình đều có một bàn thờ. Và trên bàn thờ ấy, chính giữa thường là cây thập giá, vì đó là vị trí chúng ta lấy làm ưng ý nhất. Tại giáo xứ, chúng ta nhìn thấy thập giá trên tháp chuông, trên cung thánh hay trên những phần mộ.
Thập giá đã quá quen thuộc với chúng ta ngày từ hồi còn tấm bé. Chúng ta không thể diễn tả niềm tin Kitô giáo mà không cần đến cây Thập giá. Thế nhưng, còn trong cuộc sống thì sao?
Phải thành thật mà nói: nhiều khi Thập giá đã làm cho chúng ta run sợ và chúng ta đã tìm mọi cách để lẩn tránh. Thập giá dường như đã trở nên một cái gì thù địch, trái ngược với bản tính và niềm hạnh phúc của chúng ta.
Thế nhưng, kinh nghiệm cho thấy: chúng ta không thể nào lẩn tránh khỏi Thập giá, bởi vì Thập giá là một cái gì nằm sẵn trong thân phận con người. Sự chọn lựa của chúng ta không phải là có hay không có Thập giá, nhưng là có biết vác Thập giá mình cho nên hay không mà thôi. Bởi vì Thập giá sẽ đem lại nhiều lợi ích nếu chúng ta biết vác lấy vì lòng yêu mến Chúa.
Thực vậy, đứng trước thập giá, Chúa Giêsu đã có một thái độ hoàn toàn khác biệt với chúng ta. Phúc âm kể lại rằng:
Bấy giờ Chúa Giêsu và các môn đệ đang ở Giêricô, cách thủ đô Giêrusalem khoảng bốn mươi cây số, mà ngày lễ Vượt qua thì lại sắp tới, từng đoàn người hành hương hát vang những câu thánh vịnh. Và rồi một lần nữa Chúa Giêsu nói trước cho các ông về cuộc tử nạn của Ngài:
- Này Ta lên Giêrusalem, Con người sẽ bị nộp trong tay kẻ ngoại. Họ sẽ khạc nhổ, đánh đòn và sẽ giết chết Ngài.
Các môn đệ không muốn tin vào điều ấy. Lên Giêrusalem giữa một tình hình căng thẳng như lúc này, thì quả là một việc điên khùng và dại dột, nếu không muốn nói đó là một hành động tự sát, bởi vì đã từ lâu, bọn biệt phái và luật sĩ tại đó đã quyết định giết Chúa Giêsu.
Thế nhưng, các ông lại không đủ can đảm can ngăn Chúa Giêsu, bởi vì đã một lần Phêrô lên tiếng:
- Ước gì Thày không phải như vậy đâu.
Và ông đã bị Ngài quở trách nặng lời:
- Hỡi Satan hãy xéo đi, vì ngươi chỉ biết những việc thuộc về thế gian, mà chẳng biết chi đến những việc thuộc về Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước những khổ đau và cái chết nhục nhã Ngài sẽ phải chịu, thế mà Ngài vẫn cương quyết đi lên Giêrusalem.
Cuộc hành trình đi lên Giêrusalem phải chăng chính là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Còn thái độ của các môn đệ, phải chăng cũng chính là thái độ của chúng ta.
Thực vậy, cuộc đời chúng ta thì chất đầy những khổ đau và lo lắng: nào đau ốm bệnh tật, nào hận thù chiến tranh, nào nghèo túng khổ cực… Chúng ta cảm thấy như bất lực, không thể nào giải quyết được. Trong khi đó, Chúa Giêsu đã can đảm bước đi và Ngài đã bước đi cho tới cùng, bởi vì sau thập giá sẽ là vinh quang phục sinh.
Có hai bà già mắc bệnh lao, nằm bên cạnh nhau trong một căn phòng bệnh viện. Họ biết rằng cơn bệnh của họ không còn phương cách nào cứu chữa, chỉ còn chờ ngày được nghỉ yên dưới lòng đất lạnh mà thôi.
Một bà thì cô độc, chỉ có một mình, bởi vì gia đình và những người thân đều đã chết vì trúng đạn pháo kích. Còn bà kia thì đã có chồng, nhưng ông chồng này đã bỏ bà từ lâu và hiện đang sống với người vợ lẽ. Bà biết rõ điều ấy.
Trước những nỗi đớn đau và bất hạnh như thế, mọi lời an ủi và khích lệ dường như đã trở nên thừa thải, nếu không muốn nói là đã trở nên lẩm cẩm và ngu ngốc. Thế nhưng, mỗi lần viếng thăm, tôi đều thấy hai bà cầm cây Thánh giá và nói với tôi:
- Cuối cùng chỉ còn lại cây Thập giá. Bởi vì chính tại Thập giá, Chúa Giêsu đã đau khổ trước chúng tôi và hơn chúng tôi bội phần. Cây Thập giá của Chúa đã nói với chúng tôi nhiều điều và đã đem lại cho chúng tôi niềm an ủi tuyệt vời nhất giữa những đắng cay chua xót của cuộc đời.
Hôm nay, chúng ta không phải chỉ suy tôn Thánh giá trong lời kinh tiếng hát hay trong những nghi thức phụng vụ, mà còn phải biết suy tôn Thánh gía trong chính cuộc sống chúng ta, bằng cách chấp nhận những hy sinh gian khổ mà chúng ta gặp phải vì lòng yêu mến Chúa, bởi vì đó chính là cây thập giá đời thường Ngài muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
Bên trên những gai nhọn là cánh hồng nở thắm. Bên trên thập giá đời đời thường là vinh quang phục sinh chờ đón.
Suy Niệm 9: Thập giá: Quyển sách cao siêu nhất
Người ta thường mượn câu chuyện sau đây để nói đến tinh thần hy sinh, chấp nhận trong cuộc sống.
Có một người kia cứ phàn nàn trách Chúa vì đã gửi đến cho mình một thập giá quá nặng... Chúa bèn đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa. Người đó hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường. Người đó tự nhủ trong lòng: "Đây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức cẩn thận". Thế là anh ta đi rảo khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác.
Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng... Anh lại tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng ý nhất. Anh mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: "Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy". Khi anh vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: "Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng".
Hôm nay Lễ Suy Tôn Thánh Giá, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu Mầu Nhiệm Thập Giá trong đời sống Đức Tin của chúng ta.
Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars bên Pháp, đã nói: "Thập giá là quyển sách cao siêu nhất... Chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là người thông thái".
Thập giá Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất của Tình Yêu. "Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng vì người mình yêu".
Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng của Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến cho nhân loại...
Suy tôn Thánh Giá Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào Mầu Nhiệm Tình Yêu của Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặng của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa: đó là ý nghĩa của Tình Yêu.
Suy Niệm 10: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ XVII đó là bức tranh “Ba thập giá.” Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét. Tác giả như muốn nói rằng không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt.
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đang đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông.
Rembrandt muốn thú nhận rằng chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một:
Loài người càng tội lỗi Chúa càng yêu thương, yêu thương đến nỗi trao ban hết những gì thuộc về mình là Người Con duy nhất. Tình thương ấy được cụ thể hóa bằng việc Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá. Trên thập giá Chúa đã giải nghĩa yêu thương. Một tình yêu quá cao vời vượt quá sức mường tượng của con người. Thế nên chỉ có hành động, những hy sinh cụ thể mới cảm hóa được lòng người hầu mong cứu họ thoát khỏi cảnh tội lỗi. Chính vì thế, thập giá đã trở thành Thánh Giá; Thánh Giá trở thành biểu tượng tình yêu cứu độ, biểu tượng của sự sống, của vinh quang. Vì thập giá được đón nhận trong tình yêu thì thập giá sẽ trở thành Thánh Giá.
Mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá là dịp nhắc nhớ mỗi chúng ta hãy tạ ơn tình Chúa cao vời. Đồng thời nhắc chúng ta cũng biết sống hy sinh cho tha nhân, hy sinh vì những lý tưởng cao đẹp, hy sinh chịu thiệt thân để bảo vệ đức tin. Và nhất là hãy biết yêu người như Chúa yêu ta.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xưa Chúa đã dùng thập giá để cứu chuộc chúng con. Chúa cũng có thể cứu chúng con bằng những phương thế khác. Nhưng Chúa đã không chọn cách nào khác ngoài việc chết trên thập giá. Và như thế chúng con mới hiểu được Chúa yêu chúng con đến cùng. Chúa đã mang lại cho thập giá một ý nghĩa mới: ý nghĩa của tình yêu trọn hảo. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con cũng biết đón nhận thập giá của bản thân với tron vẹn tâm tình yêu thương: Yêu Chúa và yêu mọi người, để tình Chúa luôn mãi ở trong con. Và cuộc đời con luôn diễn tả tình yêu Chúa. Amen.
SUY NIỆM 11: Lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Giêsu
Chúng ta hết thảy đều biết, hôm Ðức Giêsu chịu chết trên Thập giá, chỉ có mấy bạn hữu nghĩa thiết của Người đứng gần. Họ là những người yếu đuối nghèo khó. Chẳng ai biết phải làm gì! May thay có các ông Giuse và Nicôđêmô đi xin Philatô cho phép hạ xác Chúa xuống và táng trong huyệt. Còn thập giá của Người thì chẳng ai để ý đến. Sau ngày Phục sinh, các môn đệ cũng chỉ bận đầu với việc Chúa sống lại. Và với ơn trợ giúp của Thánh Thần, họ bắt đầu đi rao giảng ở mọi nơi. Người ta quan tâm đến việc xây dựng các giáo đoàn và lo nhớ lại giáo huấn cũng như cuộc đời của Chúa Giêsu chứ những di vật và kỷ niệm vật chất của Người, không ai để ý.
Cho đến khi có nhiều người ở xa Ðất Thánh đã tòng giáo và muốn cũng như có điều kiện hành hương những nơi Chúa đã sinh sống, việc thu lượm những di vật kỷ niệm về Chúa trở thành một cuộc săn tìm. Chính trong hoàn cảnh ấy người ta nghĩ rằng đã tìm lại được cây Thập giá mà Chúa đã vác và đã nằm trên khi bị đóng đinh. Lập tức hình cụ ấy đã trở thành vật thánh; thập giá trở thành Thánh giá; và người ta suy tôn kính mến.
Lễ hôm nay muốn nhắc lại kỷ niệm này. Hội Thánh thúc giục con cái đến với Thánh giá, bắt chước các tín hữu khi mới tìm lại được cây gỗ đã đóng đinh Chúa Giêsu, để nơi cây Thánh giá mà hằng ngày vì quá quen không còn ý nghĩa bao nhiêu, chúng ta được dịp khám phá lại giá trị vinh quang cao cả của nó. Phụng vụ giúp chúng ta ba bài đọc để suy nghĩ. Ba bài thường thôi nhưng hàm chứa biết bao sự thật!
A. Câu Truyện Rắn Ðồng
Bài sách Dân số kể lại một câu truyện, mà nếu không có bài Tin Mừng hôm nay, thì hầu chắc đã chẳng được mấy ai để ý. Ðó là truyện con cái Israel hồi đó đang đi loanh quanh trong sa mạc để hướng về Ðất Hứa. Một hôm họ bị rắn lửa cắn quá nhiều; Môsê theo lệnh Chúa dựng lên một con rắng đồng để chữa họ.
Câu truyện vắn tắt quá! Ai tin thì nghĩ đây là một phép lạ. Còn ai không tin, có thể cho rằng tác giả sách Thánh đã bịa đặt. Nhưng một chữ viết ở thời xưa vẫn có giá trị. Và thường ý nghĩa của nó không hiện ra tức khắc. Các khoa học lịch sử, địa dư, văn minh, tôn giáo có thể cung cấp cho chúng ta ngày nay nhiều yếu tố quý giá để hiểu câu truyện này.
Việc có nhiều rắn lửa trong sa mạc là điều có thật. Ðó là loại rắn độc cắn chết người. Nhưng đồng thời ở các mỏ đồng gần đó, người ta cũng bới tìm được nhiều hình rắn đồng. Ðó là hình ảnh một vị thần của dân ngoại, nổi tiếng có sức chữa lành bệnh tật. Như vậy chắc chắn ngày xưa khi bị rắn lửa cắn, người ta đã khẩn cầu vị thần này, cũng như ngày nay khi mắc bệnh người ta đi tìm dược liệu; và nhiều tiệm bào chế vẫn trình bày hình một con rắn.
Môsê dẫn con cái Israel đi qua nhiều dân ngoại. Chắc chắn họ đã thấy các dân này thờ thần rắn để được khỏi bệnh. Và chắc chắn khi bị đau yếu con cái Israel cũng bị cám dỗ chạy đến với vị thần nổi tiếng này. Môsê coi đó như là một nguy hiểm cho tôn giáo độc thần. Ông thấy có bổn phận phải mở mắt và dạy dỗ Dân. Có lẽ khi nhiều người trong họ bị rắn lửa cắn là dịp để ông giải quyết vấn đề.
Chúng ta hãy đọc câu truyện của bài sách Dân số trong viễn tượng ấy. Rõ ràng có nhiều bài học tôn giáo trong câu truyện này. Và phải nói đây là Lời Chúa dạy dỗ Dân về mặt đạo đức đi từ một câu truyện chứ không phải là bài chỉ muốn tường thuật câu truyện ấy.
Trước hết chúng ta được biết vì sao con cái Israel bị rắn lửa cắn. Họ muốn bỏ Chúa, bỏ con đường đi tới tự do để trở về mảnh đất nô lệ. Họ phàn nàn đã nghe Môsê và Chúa để đi tìm Ðất Hứa. Giả như họ cứ ở lại Aicập thì làm gì phải cảnh ngộ này: gối mỏi chân chồn, nước uống thiếu hụt, thức ăn chán ngấy! Họ đã quên ơn giải phóng, tỏ ra bạc nhược trước khó khăn và bất trung, thất tín đối với Giao ước. Ðã đành có khó khăn, vất vả; nhưng Chúa không toàn năng và đáng tin tưởng sao? Vì sao không phấn đấu để cứ tin Người và Môsê, vị Ngôn sứ của Người? Phàn nàn, trách móc là điều không tốt; muốn bỏ Chúa để trở về đời sống cũ là phản bội. Rắn lửa bò ra cắn những kẻ kêu trách là hình phạt Chúa gửi đến. Bệnh tật và các sự dữ ở đời đều do tội lỗi: Ðó là bài học thứ nhất của câu truyện hôm nay.
Nhưng tội lỗi và sự chết không có tiếng nói cuối cùng. Con cái Israel đã nhận ra bài học Chúa dạy. Họ đến với Môsê, thú nhận tội lỗi và nhờ ông khẩn cầu lòng Chúa tha thứ. Họ để lại cho hậu thế bài học sám hối ăn năn.
Chúa rộng lòng tha thứ, dạy Môsê làm hình một con rắn đồng treo lên một cây sào để ai bị rắn cắn, nhìn vào sẽ được khỏi. Như vậy rắn đồng không phải là thần thánh mà chỉ là dấu hiệu hoặc khí cụ Thiên Chúa dùng. Chính Người chữa lành người ta, khi họ ăn năn hối cải trở về với Người.
Con cái Israel đã hiểu như vậy. Về sau mỗi lần có khốn khó ập tới, các ngôn sứ của Chúa chỉ cần kêu gọi thống hối ăn năn, chứ không cần treo lên một dấu hiệu nào nữa. Chẳng bao giờ người Dothái thờ thần Rắn như nhiều lân bang. Câu truyện con rắn đồng hầu như không còn được nói đến nữa. Ngược lại dần dần người ta cảm thấy rằng chẳng có gì có thể chữa dứt được thứ bệnh của con cái Israel, thứ bệnh "tội lỗi" mà các ngôn sứ làm cách nào cũng không ngăn ngừa nổi. Các lễ thiêu và kinh nguyện sáng chiều không sao rửa sạch tội lỗi của Dân cứng đầu hay kêu trách. Cuối cùng người ta chỉ còn biết đợi cánh tay uy hùng của Chúa. Chính Người phải ra tay cứu độ mới được. Bất cứ người Dothái đạo đức nào cũng nghĩ như vậy. Và Nicôđêmô, khi đến với Ðức Giêsu ban đêm, cũng chỉ muốn được hiểu biết thêm về kế hoạch cứu độ này. Chúng ta hãy nghe Chúa dạy dỗ trong bài Tin Mừng.
B. Ý Tưởng Về Thập Giá
Nicôđêmô là một Biệt phái. Ông còn là một đầu mục trong Dân, tức là có chân trong Hội đồng tối cao. Nhưng ông không nghĩ như đồng bạn về Ðức Giêsu. Ðối với Người, ông có lòng tôn kính và muốn được Người chỉ dẫn đường lối cứu độ. Người bảo ông: muốn nhìn thấy Nước Thiên Chúa, người ta phải sinh lại. Ông bỡ ngỡ và lo sợ. Già như ông làm sao có thể sinh lại được? Thấy vậy Ðức Giêsu phải cắt nghĩa rõ hơn cho ông về đường lối cứu độ của Thiên Chúa.
Người nói: "Như Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ bị giương cao như vậy". Có thể Nicôđêmô đã bắt được ý của Chúa, ông là người học rộng biết nhiều. Ông là bậc làm thầy của Israel, nên không những ông đã biết câu truyện Rắn đồng trong sách Dân số, mà có thể ông còn nhớ cả lời bàn của sách Khôn ngoan về câu truyện ấy (16,6-10). Sách viết: kẻ nào quay lại nhìn thì được cứu, không phải nhờ điều nó thấy nhưng là nhờ Người là Ðấng cứu chữa mọi người. Phải, ơn cứu độ thì bởi Chúa, nhưng con rắn đồng kia cũng là dấu hiệu độ sinh. Dấu hiệu này, bây giờ Ðức Giêsu nói, sẽ là Con Người khi bị giương cao. Và đó là mạc khải hôm nay Người ban cho Nicôđêmô.
Chắc chắn ông đã không thắc mắc gì về từ ngữ "Con Người". Ðã nhiều lần Ðức Giêsu dùng kiểu nói ấy để ám chỉ mình. Nhưng việc Con Người sẽ bị giương cao là điều mới lạ hoàn toàn đối với ông. Nó còn là điều mầu nhiệm nữa. Chúng ta có thể chắc chắn rằng: hôm đó ra về ông đã chẳng hiểu bao nhiêu. Và luôn luôn nó sẽ là một tư tưởng ám ảnh ông cho đến ngày sự thật ấy xảy ra.
Quả vậy, cho dù ông thông thạo Kinh Thánh và biết những đoạn Isaia về Người Tôi Tớ đau khổ, hoặc lời sấm của Zacarya viết rằng: chúng sẽ nhìn lên Người chúng đã đâm, hôm nói chuyện với Ðức Giêsu, Nicôđêmô vẫn chưa hình dung được sự thật. Còn Ðức Giêsu, Người đã không tiếc lời với ông. Người đã gieo vào lòng ông những điều cần thiết để sau này sẽ giúp ông hiểu.
Người muốn nói với ông rằng: dấu hiệu độ sinh sau này sẽ là Con Người khi bị treo trên Thập giá. Nhưng ông chưa mang nổi một sự thật như vậy; giống như Phêrô khi nghe nói cũng không chịu được và xin Chúa từ nay đừng nói như vậy nữa. Tuy nhiên đó vẫn là sự thật cứu độ, sự thật duy nhất có thể cứu độ người ta. Ðức Giêsu đã phải làm cho mọi người hiểu. Và hôm nay Người cố gắng giúp Nicôđêmô. Người cho ông biết: đứng trước Thập giá của Người sau này chỉ ai tin mới được sự sống đời đời. Không gì có thể giải thích được đường lối cứu độ của Thiên Chúa đâu! Chỉ có lòng tin mà thôi. Lòng tin sẽ là ánh mắt nhìn vào dấu hiệu độ sinh. Không có lòng tin này, người Dothái đi qua sẽ thấy Thập giá là cớ vấp phạm và người Hylạp sẽ bảo là điên rồ; duy đối với ai được kêu gọi thì đó là khôn ngoan của Thiên Chúa (1C 1,23).
Quả vậy, đức tin sẽ bảo cho người ta biết: Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế đó, đến nỗi đã thí ban Con Một Người để ai tin vào Ngài... được có sự sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã không sai Con của Người đến để xử án thế gian nhưng để cứu độ. Người ta đừng chờ Con của Người đến lẫm liệt oai phong khiến mọi người phải sợ hãi. Vì thế đừng ai hiểu việc Con của Người được giương cao theo nghĩa được hiển vinh ở đời này và theo cách thức trần gian. Ngài đến để cứu sống nên muốn được giương cao lên như rắn đồng nơi sa mạc. Lúc đó mọi người sẽ thấy quả thật Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi thí ban Con Một Người chịu chết đền tội chúng ta. Ðó là dấu hiệu của tình yêu lớn nhất, mà không tình yêu nào sánh được. Ðó là dấu chỉ Thiên Chúa đã yêu thương thì Người muốn yêu thương chúng ta đến cùng. Mầu nhiệm cứu độ là mầu nhiệm yêu thương. Yêu thương sẽ sáng chói trong hy sinh đổ máu. Thế thì Con Người trên Thập giá vừa bị giương cao vừa được lên cao. Thập giá của Ðức Kitô chỉ bị ô nhục bề ngoài; chứ bên trong, quả là khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Ðó là cây gỗ Chúa leo lên để làm sáng chói tình yêu lớn nhất. Các vết thương của Người đầy vinh quang. Ai tin thì thấy đó là dấu hiệu độ sinh và Thập giá đã trở nên Thánh giá.
Hôm nay, một cách đặc biệt chúng ta tin như vậy, thì phụng vụ mời chúng ta tung hô Thánh giá theo bài thư Phaolô dưới đây:
C. Ca Tụng Thánh Giá Chúa Giêsu
Có lẽ Thánh Tông đồ đã chỉ có công chép lại một ca vãn lưu hành trong các cộng đồng Kitô giáo thời bấy giờ. Nó là đức tin của Hội Thánh ở trước Thánh giá Chúa Giêsu. Ðức tin ấy tuyên xưng rằng: Ðấng nằm trên cây gỗ là một vị Thiên Chúa; Ngài không nghĩ phải đòi cho được tôn trọng đồng hàng cùng Thiên Chúa; nhưng Ngài đã muốn hủy mình ra không, tức là lột bỏ những vẻ uy nghi cao cả, để mặc lấy thân phận và hình thức tôi đòi; vì quả thực Ngài đã sống rất bình dị ở giữa mọi người và có khi còn muốn đóng vai trò người tôi tớ. Ðặc biệt trong cuộc tử nạn, Ngài đã hạ mình thấp hèn vâng phục ý định của Thiên Chúa cho đến chết và chết trên Thập giá!
Nhưng chính vì vậy, Thiên Chúa đã suy tôn Ngài trong việc phục sinh, đặt Ngài làm Chúa để bất cứ thụ tạo nào cũng phải quỳ gối bái lạy...
Hôm nay chúng ta cũng đặc biệt bái lạy Thánh giá Chúa Giêsu; Chúng ta sẵn sàng tuyên xưng niềm tin của tất cả Hội Thánh như các tín hữu tiên khởi đã viết ra trong bài thánh ca này.
Nhưng nếu chỉ có thế thì vẫn chưa đạt được ý của thánh Phaolô. Người đã chép lại bài thánh ca để gửi cho giáo dân Philip. Họ đang có nhiều bất hòa và cãi cọ, mà nguyên nhân là những sự kèn cựa không chịu nhịn nhục nhau. Thế nên, chép bài thánh ca gửi cho họ, thánh Phaolô muốn họ nhìn vào gương Chúa Giêsu mà đừng ganh tị vì hư danh nữa, nhưng hãy khiêm nhượng và vâng lời.
Lời khuyên này đối với chúng ta nhiều khi hãy còn thức thời và thiết thực. Nếu chúng ta muốn cho các tương quan xã hội tốt đẹp hơn, há chẳng phải trở về gương Chúa Giêsu trên Thập giá sao? Hơn nữa mỗi khi muốn tiếp tục công việc cứu thế, thiết tưởng chúng ta phải trở về với Thánh giá Chúa Giêsu. Ðó là dấu hiệu độ sinh duy nhất đã được Thiên Chúa mạc khải từ đầu trong sách Dân số cũng như các sách Tiên tri. Chúng ta phải nhìn vào với lòng tin. Chúng ta phải nhìn vào để bắt chước. Chắc chắn chúng ta sẽ được cứu độ và có thể cứu thế.
Mầu nhiệm Thánh giá giờ đây được cử hành trong Thánh lễ. Ðức Giêsu không nghĩ phải giằng cho được vinh dự của một Thiên Chúa. Người chấp nhận hình bánh rượu tầm thường để nên lương thực nuôi sống chúng ta. Người dùng hình thức thập giá này để thông ban tinh thần của Người cho chúng ta.
Ðó là tinh thần yêu mến vâng phục Thiên Chúa; nhưng đồng thời cũng là tinh thần yêu thương đồng loại cho đến cùng đến nỗi thí ban cả mạng sống mình để mọi người được cứu độ. Chúng ta hãy học và đem ra thi hành trong đời sống cả hai mặt của tinh thần yêu thương đó, tức là vừa mến Chúa vừa thương người, không phải chỉ bằng tư tưởng hay môi miệng nhưng bằng cả việc làm và sự sống. Chắc chắn như vậy có khổ, có thiệt thì cũng chỉ là những hy sinh vinh quang nói lên mầu nhiệm Thánh giá là dấu hiệu độ sinh, mà chúng ta suy tôn hôm nay.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
SUY NIỆM 12: Lễ suy tôn Thánh Giá
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Suy tôn Thánh giá. Thánh giá là một nghịch lý trong đạo Thiên Chúa giáo nói chung và đạo công giáo nói riêng. Một đàng thánh giá là nguyên nhân thất vọng, tai họa và sự chết. Ðàng khác Thánh giá mang lại nguồn hy vọng, toàn thắng và sự sống. Trước khi Ðấng Cứu thế đến, thánh giá là hình phạt khiếp sợ cho tội nhân. Bị coi là một tội nhân nên Ðức Giêsu phải chịu đóng đinh trên thánh giá với hai người trộm cướp. Ngày nay Thánh giá đã trở nên dấu hi vọng và toàn thắng cho người Kitô giáo. Ðó chính là điều mà thánh Phaolô đã khẳng định: Rao giảng Ðức Kitô chịu đóng đanh, điều mà người Do thái coi là ô nhục, không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hi lạp, Ðấng ấy chính là Ðức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1Cr 1,23-24).
Phúc âm hôm nay nhắc đến một việc khủng khiếp xẩy ra cho dân Chúa trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân chúng phàn nàn, kêu trách Chúa vì họ thiếu đồ ăn, nước uống, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến cắn. Rồi với lòng thương xót, Chúa lại truyền cho ông Môsê làm cây gậy đồng để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn cắn, mà nhìn lên con rắn đồng thì được chữa khỏi (Ds 21,4b-9). Ðức Giêsu coi việc treo con rắn đồng trong sa mạc là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để những ai tin vào Người thì được sống muôn đời (Ga 3,15). Thánh Phaolô cũng đã rao giảng về Ðức Kitô chịu đónh đanh cho tín hữu Phi-líp-phê: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Pl 2,8).
Như vậy theo Thánh kinh thì ơn cứu độ đến với loài người qua thánh giá và phục sinh. Thánh giá và phục sinh của Ðức Kitô không thể nào tách rời được. Không có thánh giá, không thể có phục sinh. Không có phục sinh, không thể có sự sống vĩnh cửu. Ðó là lý do tại sao Giáo Hội có thể nói đến sự toàn thắng của thánh giá trong nền tảng thần học của thánh giá.
Người Kitô giáo không thể tin vào Ðức Kitô mà lại chối bỏ thánh giá. Người Kitô giáo không thể chối bỏ thánh giá, mà phải tôn vinh Thánh giá như phương tiện cứu rỗi. Họ phải hãnh diện về biểu hiệu của Thánh giá. Tuy nhiên họ không được dừng lại ở thánh giá mà phải vượt qua thánh giá và tìm cho ra ý nghĩa của việc mang vác thánh giá. Vì có sự liên hệ giữa thánh giá và phục sinh mà Ðức Giêsu mời gọi người môn đệ vác lấy thánh giá để theo Người (Mt 16,24; Mc 8,34; Lc 9,23). Tại một một tiểu chủng viện kia trong quá khứ, các chủng sinh được ban giáo sư tập cho thói quen đặt thánh giá bên gối đầu giường để khi chưa ngủ được thì suy niệm về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh. Sau khi chịu chức linh mục, có linh mục kia vẫn giữ thói quen để thánh giá bên gối đầu giường. Khi không thấy thánh giá, linh mục đó cảm thấy như thiếu thốn một báu vật gì khiến cho linh mục đó cảm thấy khó ngủ.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay nhắc nhở người tín hữu về nền tảng của đức tin: qua thánh giá thì có triều thiên, triều thiên cứu rỗi, triều thiên đợi chờ những ai chạy tới cùng đích. Ðối với người tín hữu, Thánh giá đã trở nên biểu hiệu của tình yêu thương bao la mà Thiên Chúa dành cho loài người. Do đó mà thánh Gioan Newman đã có thể đặt bút viết: Thập giá Chúa Kitô đã khiến cho những giá trị nhân bản phải được xét lại, bằng cách bầy tỏ một tình yêu mạnh đến nỗi đã san bằng hố sâu giữa sự sống và chết.
Nhìn quanh, người ta thấy biết bao người đang phải mang vác thánh giá về đau yếu, bệnh hoạn và tật nguyền về thể lý, tâm lý và tinh thần. Có những người uống thuốc chữa trị nhiều năm mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Có những người đi bác sĩ, nằm nhà thương liên tiếp, mà bệnh tật vẫn còn đó. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh băn khoăn, lo âu, sợ hãi và hiểu lầm trong suốt cả cuộc sống.
Nhiều người còn phải mang vác thánh giá của cảnh nghèo túng và đói khát, ta cầu xin Chúa cho đất đai của họ trở nên mầu mỡ để họ có thể sản xuất thực phẩm. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh kì thị, ta cầu xin Chúa là sức mạnh và nguồn hi vọng của họ. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh bách hại vì tin vào Chúa ngay cả trong thời đại ta đang sống ở những miền đất khác nhau trên thế giới, ta cầu xin Chúa là nguồn an ủi và là sức mạnh của họ, ban chọ họ lòng can đảm, cậy trông. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh chia li, ta cầu xin Chúa cho họ được đoàn tụ với người thân yêu. Nhiều người khác phải mang vác thánh giá của cảnh li dị, ta cầu xin Chúa hàn gắn những vết thương lòng của họ.
Cuối cùng ta cầu xin Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho những người phải mang vác những thánh giá khác nhau của cuộc sống để họ có thể biến đổi thánh giá thành dụng cụ của sự toàn thắng và ơn cứu độ.
Lời cầu nguyện cho những ai đang phải mang vác thánh giá của cuộc sống:
Lậy Ðức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người!
Vì yêu thương nhân loại,
Chúa đã chịu đau khổ và vác thánh giá vì tội lỗi loài người
gồm tội lỗi của chính con.
Xin Chúa ban sức mạnh và niềm an ủi cho những ai
đang phải vác thánh giá của cuộc sống
về bệnh tật, đau khổ phần hồn, phần xác và tinh thần.
Xin Chúa làm vơi nhẹ những thánh giá của họ
và biến đổi thánh giá của họ thành dụng cụ cứu rỗi. Amen.
SUY NIỆM 13: Suy tôn Thánh Giá
Thập giá nhắc đến một nghịch lý này : Chính lúc hạ mình xuống cùng cực, Con Người được nâng lên, được tôn vinh. Lúc Người bị kết án tử hình, thế gian lại được cứu độ.
Bài ca của Thánh Phaolô
Thập giá tới độ thấp nhất trong âm điệu của bài ca trong thơ gởi giáo đoàn Philíphê. Âm điệu của Con Thiên Chúa đời đời tự hạ mình xuống làm người, rồi lại tiến hành được tôn vinh trở về với vinh quang Thiên Chúa. Trung tâm thập giá là phụng vụ, khổ hình là dụng cụ tối cao đem ơn cứu chuộc đến cho loài người. Thập gía mang nặng ý nghĩa sự dữ cùng cực của chúng ta và vì Đức Giê-su đã chịu treo vào nó là dấu chỉ ơn cứu độ chúng ta.
Tôn vinh
Thánh Gioan dùng hình ảnh con rắn đồng Môsê treo lên, những ai bị rắn độc cắn nhìn lên rắn đồng sẽ được chữa khỏi. Đức Ki-tô bị treo lên thánh giá đem lại ơn cứu độ cho những người nhìn lên Người với lòng cậy trông, sẽ nhận biết Người là con Thiên Chúa. Người trộm lành, môn đệ Gioan, viên sĩ quan Rôma, ông biệt phái Nicôđêmô, ông Giuse Arimathia, nghị viện hội đồng, đây là những vị được vây quanh Thánh Giá Đức Giê-su, mọi sự đã lìa những vị này, chỉ có một người liên kết với các vị ấy là Đức Giê-su trên thập giá.
Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết những mầu nhiệm của Thiên Chúa : Đức Giê-su là Người tôi tớ đã chiếu tỏa vinh quang Thiên Chúa. Vinh quang xuất hiện từ thập giá, một nghịch lý của mặc khải Kitô giáo tại thế này. Thiên Chúa đã hạ mình thấp hèn trong Đức Giê-su, để mặc khải những sự lạ lùng hơn tất cả mọi quyền năng của thế gian này và nhờ thế đã giải thoát chúng ta khỏi thế gian này.
Trong khi nhìn lên thánh giá, chúng ta cảm tạ Chúa Cha, Ngài đã ban Con Ngài cho chúng ta, và chúng ta nhận ra ý nghĩa đời sống của chúng ta :
Mỗi lần chúng ta cầu nguyện, chúng ta biết đặt mình trước mặt Đức Ki-tô trên thánh giá. Chúng ta muốn chiêm ngắm Chúa, thì hãy nhìn lên thánh giá, Ngài sẽ hiện ra cho chúng ta nhìn ngắm, nhờ cái nhìn này chúng ta được cứu độ.
J.M
Suy Niệm 14: Từ thập giá đến Thánh Giá
(Lm Vũ Xuân Hạnh)
Suy niệm lễ Suy tôn Thánh Giá, tôi nghe Chúa nói với tôi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Thập giá đâu phải chuyện đùa, đâu phải cứ muốn vác là kê vai vác. Muốn vác phải bỏ mình! Chính vì thế, lời ấy trở thành một thử thách, còn hơn thế, là một thách thức lớn trong đời ta. Từ bỏ đã khó, từ bỏ chính mình lại càng khó. Nhưng Chúa không dừng ở đó, Người mời gọi ta đi xa hơn để theo Người: Từ bỏ chính mình vác thập giá. Lời Chúa quả là một đòi hỏi quyết liệt.
Suy nghĩ về lời mời gọi “Ai muốn theo Ta…” như thế, tôi lại đọc sứ điệp Giới trẻ lần thứ XV. Ngay từ đầu số 1 của sứ điệp, bằng những lời lẽ của một người cha đầy tình cảm, thân thiện và trìu mến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết cho các bạn trẻ: “Các bạn trẻ thân mến, cách đây 15 năm (trong những ngày Đại Hội Giới Trẻ lần thứ I năm 1985), cha đã trao cho các con cây Thánh Giá lớn bằng gỗ và mời gọi các con đem đi khắp thế giới như DẤU CHỈ TÌNH YÊU của Chúa Giêsu đối với nhân loại, và để loan báo cho mọi người rằng chỉ nơi Đức Giêsu tử nạn và phục sinh mới có ơn cứu độ và cứu chuộc, kể từ ngày đó, nhờ những cánh tay và những tâm hồn quảng đại, cây Thánh Giá này đã trải qua một cuộc hành hương dài không ngưng nghỉ qua các lục địa, hầu chứng tỏ rằng Thánh Giá luôn đồng hành với người trẻ và người trẻ luôn đồng hành với Thánh Giá”.
“DẤU CHỈ TÌNH YÊU”! Đúng vậy, có hình tượng nào là biểu tượng của tình yêu lớn lao bằng Thánh Giá, có lý lẽ nào là bằng chứng hùng hồn của tình yêu cho bằng Thánh Giá. Chỉ có Thánh Giá mới là dấu chỉ tình yêu đúng nghĩa nhất, trọn vẹn nhất: Tình yêu của một người chết thay cho muôn người qua muôn thế hệ. Hơn thế nữa, tình yêu của một vì Thiên Chúa quyền năng đã làm người chết thay cho loài người.
Vì thế, chỉ có thánh giá mới là lẽ sống và hướng sống mà con người phải học lấy để sống và yêu. Cũng chính vì thế, chỉ có Thánh Giá, không chỉ cây Thánh Giá của Đức Thánh Cha trao - đúng hơn, cây Thánh Giá ấy là biểu trưng cho một tình yêu Thánh Giá mà Chúa Kitô thắp lên trong lòng người - mới xứng đáng được các bạn trẻ lãnh nhận và mang đi khắp thế giới, loan báo cho mọi người: “Chỉ nơi Chúa Kitô Tử nạn và Phục sinh mới có ơn cứu độ và cứu chuộc”.
Cũng vậy, chỉ có Thánh Giá Chúa Kitô, chỉ có tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô thắp trong tâm hồn, mới đồng hành với người trẻ trên mọi nẻo đường cuộc sống, và người trẻ đồng hành với Thánh Giá để hô to trên khắp trần gian về một tình yêu Thánh Giá bằng lời và bằng đời chứng tá, thậm chí cả mạng sống để làm chứng tá. Hiểu lời Đức Thánh Cha như thế, tôi cũng muốn ngỏ với bạn dù ở lứa tuổi nào: Tình yêu Thánh Giá là một tình yêu mà chúng ta có được nhờ lãnh nhận từ nơi Chúa Kitô. Tình yêu ấy phải được thắp trong cuộc đời bằng cả cuộc đời của bạn, của tôi. Nếu được Thánh Giá đồng hành, can đảm chấp nhận để Thánh Giá đồng hành và cùng đồng hành với Thánh Giá, ấy chính là lúc bạn và tôi đang hướng về Chúa Kitô để làm trọn lời mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”.
Bởi vậy, dẫu Lời Chúa là một đòi hỏi quyết liệt, và quyết liệt đến mức tưởng như vượt quá sức, thì Giáo Hội một khi lãnh nhận Lời ấy, qua vị Cha chung, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vẫn tiếp tục mời gọi ta tháp nhập thập giá cuộc đời mình vào Tình yêu của Thánh Giá Chúa Kitô để không chỉ Thánh Giá Chúa Kitô, mà chính ta từ nay phải là dấu chỉ của tình yêu Thánh Giá sau khi được tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô thánh hóa. Trở nên dấu chỉ, ta sẽ nói cho mọi người rằng: Dẫu lời mời gọi bước theo Chúa có quyết liệt đến đâu, ta vẫn có thể vượt qua, vẫn có thể trung thành, miễn là ta chấp nhận đức tin, chấp nhận phó thác chính mình nơi tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô. Chỉ có đức tin mới làm cho ta đủ sức gánh lấy thập giá cả đời mình. Đức tin chính là đôi mắt của tâm hồn để nhìn Chúa Kitô đi trước trên đường thập giá mà bước theo sau.
Nếu hiểu thập giá là nỗi chông chênh, là nước mắt, là bệnh tật, là đớn đau trong đời, là tình yêu vắng bóng và cô đơn, buốt giá lên ngôi…, thì dẫu cho người có đức tin hay không có đức tin, đều phải chấp nhận vác lấy trong từng ngày sống của mình. Nhưng nếu tôi tin, tôi sẽ yêu mến cây thập giá của đời mình hơn. Đức tin sẽ cho tôi cảm nhận thập giá dễ chịu hơn , vừa sức hơn. Nếu tôi tin, tôi sẽ hiểu rất rõ rằng, cùng với Chúa Kitô, Đấng đã dùng Thánh Giá để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, sẽ làm cho thập giá đời tôi thành Thánh Giá. Và thập giá cuộc đời chỉ là giới hạn, sẽ được tình yêu Thánh Giá của Chúa Kitô thánh hóa, để những gì chỉ là giới hạn trong cuộc đời mang lấy giá trị vĩnh cửu. Khi tin vững như thế, khi yêu mến Thánh Giá Chúa Kitô, và chấp nhận bước theo Người như thế, thái độ chấp nhận ấy, chính là câu trả lời cho lời mời gọi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình…”.
Tắt một lời: Khi chấp nhận đồng hành cùng Thánh Giá, là đang hướng tới lời mời gọi của Chúa: “Ai muốn theo Ta...”. Nhưng khi lòng chấp nhận tin nơi tình yêu Thánh Giá và dám phó thác cho tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô, để từng ngày sống ta bước đi với Người, để tình yêu Thánh Giá của Người thánh hóa thập giá đời ta, biến thập giá ấy thành Thánh Giá mang ơn cứu độ và cứu chuộc, lúc ấy ta không chỉ hướng tới lời mời gọi của Chúa nhưng là đang thực thi lời mời gọi ấy. Vì lúc ấy chính là lúc ta chấp nhận vác Thánh Giá với Người cách dứt khoát nhất. Và khi chấp nhận vác Thánh Giá như thế, cũng chính là lúc ta chấp nhận từ bỏ mình cách triệt để nhất.
Suy Niệm 15: Nhờ Thánh Giá hướng dẫn.
Phi trường mới ở Pittsburgh, Penssylvania, là một trong những phi trường lớn nhất và được trang bị đầy đủ nhất ở Hoa Kỳ. Chỉ một vài giây trong thời gian bay từ phi trường là nhà thờ Hiệp Nhất, trên đường thẳng với một trong những đường bay bận rộn nhất của phi trường. Một vài phản lực cơ bay quá thấp trên nhà thờ đến nỗi giáo dân sợ ngọn tháp nhà thờ bay đi mất. Người ta quyết định đặt một Thánh giá cao 3m bằng đèn điện quang ngay ở ngọn tháp là điểm cao nhất của khu vực.
Một phi công đã nhìn nhận rằng: “Hầu hết chúng tôi đều dùng ánh sáng Thánh giá làm biển chỉ đường tới phi trường”.
Hôm nay, chúng ta cử hành điều được gọi là chiến thắng của Thánh giá. Hãy lưu ý là chúng ta tôn vinh Thánh giá hơn là tượng chiụ nạn. Thánh giá không còn thân xác Chúa Kitô treo trên đó, còn tượng chịu nạn thì có mang thân xác Ngài. Tại sao chúng ta tôn vinh thánh giá hơn là tượng chịu nạn? Bởi vì các Kitô hữu tiên khởi chỉ tôn vinh thánh giá, họ muốn đưa ra chân lý cao cả là Chúa Kitô đã chiến thắng nhờ thánh giá, Ngài không còn bị đóng đinh vào đó nữa, bởi sự phục sinh, không những Ngài chỗi dậy khỏi mồ mà còn làm cho thánh giá thành dấu chỉ chiến thắng.
Trong năm thế kỷ đầu của Kitô giáo, Chúa Kitô rất ít được tiêu biểu trên thánh giá, và không còn đau khổ, chết chóc và thất bại, nhưng là chiến thăng, sinh động, vinh quang. Cánh tay Ngài giang rộng ra, nhưng không còn đinh sắt để mời gọi mọi người, và cầu nguyện cho tất cả chúng ta.
Còn lý do khác nữa chúng ta tôn vinh thánh giá là các Kitô hữu tiên khởi quay mặt về hướng Đông khi cầu nguyện, vì đó là hướng mà họ mong đơi Chúa Kitô trở lại. Dần dần thay vì quay mặt về hướng đông, họ quay về thánh giá là biễu tượng ơn cứu độ chúng ta, và họ cảm thấy là họ quay về đúng hứơng. Và họ thực hành như vậy.
Thánh giá là cột trụ chỉ dẫn cho họ và cũng là cho chúng ta. Thánh giá chiếu sáng của ngọn tháp nhà thờ Hiệp Nhất ở Pittsburgh là cột trụ hứơng dẫn cho các phi công khởi hành và trở lại phi trường. Thánh giá cũng hứơng dẫn cho bạn và cho tôi khi chúng ta khởi sự và hoàn tất bất cứ côngviệc nào dù nhỏ hay lớn.
Khi thánh giá hứơng dẫn chúng ta, thì chúng ta có thể chắc chắn là mình ở trên đường ngay thẳng, để chúng ta thật là đang “ở trên con tàu thiêng liêng”. Hãy khởi sự và kết thúc mọi công việc với Thánh gía chiến thắng và rồi mỗi phận sự sẽ là một chiến thắng, thành công. Chúng ta bắt đầu Thánh lễ này với dấu thánh giá, chúng ta sẽ kết thúc thánh lễ này với dấu thánh giá. Chúng ta dâng lên Thiên Chúa mọi sự chúng ta làm trong và nhờ lễ vật hiến tế này của Chúa Kitô. Ngài đã chiến thắng nhờ thánh giá đó. Chúng ta sẽ chiến thắng nhờ thánh giá đó, biểu tượng vẻ vang cho những thành công của chúng ta hôm nay và vào ngày tận cùng.
Đó là tinh thần của các Kitô hữu tiên khởi, tinh thần của công đồng Vatican II, mà muốn chúng ta làm nổi bật sự phục sinh. Trong tinh thần đó, chúng ta có thể làm mọi sự. Chúa Kitô chiến thắng ở với chúng ta.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Suy Niệm 16: Thái độ của ta đối với Thánh Giá (Ga 3: 13-17)
(Lm Huệ Minh)
Theo Thánh kinh thì ơn cứu độ đến với loài người qua thánh giá và phục sinh. Thánh giá và phục sinh của Đức Kitô không thể nào tách rời được. Không có thánh giá, không thể có phục sinh. Không có phục sinh, không thể có sự sống vĩnh cửu. Đó là lý do tại sao Giáo Hội có thể nói đến sự toàn thắng của thánh giá trong nền tảng thần học của thánh giá.
“Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Thập giá đâu phải chuyện đùa, đâu phải cứ muốn vác là kê vai vác. Muốn vác phải bỏ mình! Chính vì thế, lời ấy trở thành một thử thách, còn hơn thế, là một thách thức lớn trong đời ta. Từ bỏ đã khó, từ bỏ chính mình lại càng khó. Nhưng Chúa không dừng ở đó, Người mời gọi ta đi xa hơn để theo Người: Từ bỏ chính mình vác thập giá. Lời Chúa quả là một đòi hỏi quyết liệt.
Chúa Giêsu nhắc lại cho Nicôđêmô một biến cố đã xảy ra trong cuộc Xuất Hành, biến cố này Người biết rất rõ, vì là “vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến”: con rắn đồng Môsê đã đúc và giương cao trong sa mạc (x. Ds 21,4-9), và Người bình luận tích đó rằng tích đó tượng trưng cho những gì sắp xảy ra cho Người. Con Người sắp được giương cao trên thập giá để tất cả những ai nhìn lên Người thì sẽ được cứu.
Muốn được vào Nước Trời, chúng ta phải có công nghiệp, mà muốn có công nghiệp, chúng ta phải vác lấy thập giá mình. Công nghiệp của chúng ta mặc dù là nhỏ bé nhưng lại là một sự cộng tác cần thiết cho chính bản thân chúng ta được cứu rỗi. Bởi đó chúng ta đừng vội lẩm bẩm kêu trách mỗi khi gặp phải những gian nguy thử thách. Trái lại hãy coi đó là một diễm phúc vì được làm chính việc của Chúa, vì được cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ. Hơn nữa những khổ đau chúng ta phải chịu trong cuộc sống hiện tại, sẽ không thể nào sánh ví được với hạnh phúc trường tồn vĩnh cửu mà chúng ta sẽ được đón nhận trên quê hương Nước Trời.
Người Kitô giáo không thể tin vào Đức Kitô mà lại chối bỏ thánh giá. Người Kitô giáo không thể chối bỏ thánh giá, mà phải tôn vinh Thánh giá như phương tiện cứu rỗi. Họ phải hãnh diện về biểu hiệu của Thánh giá. Tuy nhiên họ không được dừng lại ở thánh giá mà phải vượt qua thánh giá và tìm cho ra ý nghĩa của việc mang vác thánh giá. Vì có sự liên hệ giữa thánh giá và phục sinh mà Đức Giêsu mời gọi người môn đệ vác lấy thánh giá để theo Người (Mt 16,24; Mc 8,34; Lc 9,23).
Nicôđêmô đã không hiểu điều Đức Giêsu ám chỉ khi Người nói “ông cần được sinh lại bởi trên”, bây giờ lại càng ngỡ ngàng khi nghe nói đến việc “giương cao Con Người”. Ông ngạc nhiên và có lẽ cũng buồn nữa. Ông im lặng lắng nghe, chứ không biết hỏi thế nào nữa. Ông chưa được soi sáng bởi ánh sáng Phục Sinh, nên những gì ông đang được nghe lúc này là mầu nhiệm không sao dò thấu đối với ông.
Ông chưa hiểu được rằng “Tin vào Đấng được giương cao” có nghĩa là đưa mắt nhìn lên “Đấng Chịu đóng đinh”, là Chúa Kitô bị đóng đinh trên thập giá, và dựa vào Người mà đo lường mọi quyết định của ông, để cho Người hướng dẫn các quyết định của ông. “Đưa mắt nhìn lên Đấng Chịu đóng đinh” chính là coi Người là biểu tượng của ơn cứu độ, là nguồn mạch đưa tới sự sống. “Đưa mắt nhìn lên Đấng Chịu đóng đinh” như thế cũng có nghĩa là phải từ bỏ nhiều thứ, hy sinh nhiều chuyện. Tác giả Tin Mừng Gioan nói rằng một ngày nào đó người ta “sẽ nhìn lên Đấng họ đã dâm thâu” (Ga 19,37). Vào ngày đó, Nước Thiên Chúa sẽ được thiết lập trên trần gian.
Như lời mời gọi của Chúa cho ông Nicôđêmô, cần phải đặt Con Thiên Chúa vào thập giá, cần phải treo Con Thiên Chúa lên thập giá, con người chúng ta có hiểu được ý nghĩa của thập giá? Thập giá mạc khải cho con người biết tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là dấu chỉ của sự khước từ của con người đối với Thiên Chúa, là dấu chỉ của sự thù ghét của con người đối với con người, của con người say mê quyền hành và danh vọng, muốn làm mọi cách để loại bỏ đối thủ của mình như những người biệt phái Pharisiêu ngày xưa đã dùng thập giá để loại bỏ Chúa Giêsu, Đấng đang lôi kéo dân chúng bỏ họ mà theo Chúa.
Thánh Phaolô nhấn mạnh sự tương phản chưa từng thấy trong mầu nhiệm Thập giá. Sự hạ mình sâu thẳm của Đức Giêsu Kitô “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người, tặng ban Danh hiệu vượt trên mọi Danh hiệu. Và khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, mọi gối phải bái quỳ để tôn vinh Chúa Cha và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa” ( Pl 2,6-11).
Theo cái nhìn của Phaolô cũng như của Gioan, Chúa Giêsu chịu đóng đinh cũng chính là Chúa Giêsu được tôn vinh. Đó là sự tôn vinh Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, và Tình Yêu ấy đã biểu lộ rõ ràng nhất nơi Thập giá Chúa Kitô. Không nơi nào Tình Yêu của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn như nơi “con người Chúa Giêsu chịu đóng đinh”.
Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Bởi vì “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Giá là biểu tượng của Tình Yêu cứu độ. Thánh giá là niềm tự hào và vinh quang của người tín hữu.Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Tại một một tiểu chủng viện kia trong quá khứ, các chủng sinh được ban giáo sư tập cho thói quen đặt thánh giá bên gối đầu giường để khi chưa ngủ được thì suy niệm về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh. Sau khi chịu chức linh mục, có linh mục kia vẫn giữ thói quen để thánh giá bên gối đầu giường. Khi không thấy thánh giá, linh mục đó cảm thấy như thiếu thốn một báu vật gì khiến cho linh mục đó cảm thấy khó ngủ.
Nhìn quanh, người ta thấy biết bao người đang phải mang vác thánh giá về đau yếu, bệnh hoạn và tật nguyền về thể lý, tâm lý và tinh thần. Có những người uống thuốc chữa trị nhiều năm mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Có những người đi bác sĩ, nằm nhà thương liên tiếp, mà bệnh tật vẫn còn đó. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh băn khoăn, lo âu, sợ hãi và hiểu lầm trong suốt cả cuộc sống.
Những giọt nước mắt ngày hôm nay nhỏ xuống, thì ngày mai sẽ kết thành những trái chín của hạnh phúc Nước Trời, bởi vì nhờ những giọt nước mắt khổ đau ấy mà chúng ta trở nên giống Đức Kitô. Hay như lời thánh Phaolô đã nói: Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô thì chúng ta cũng sẽ được sống lại với Người. Bởi vì chính Ngài đã long trọng công bố: Phúc cho những ai than khóc, vì họ sẽ được ủi an.
Ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá, hãy kiểm điểm lại thái độ của mình đối với thập giá Chúa. Phải chăng thập giá Chúa đã bị tục hóa, bị chúng ta biến trở thành món trang sức để khoe của, để củng cố địa vị, để lường gạt anh chị em? Chúng ta làm dấu thánh giá trên mình, chúng ta mang dấu thánh giá trên áo, trên cổ nhưng chúng ta đã sống ý
Suy Niệm 17: Ý nghĩa của việc suy tôn Thánh Giá Chúa
(Antôn Hoàng Văn Phúc, OP)
Nếu chữ Vạn được xem như là biểu tượng của Phật giáo, thì Thánh Giá chính là biểu tượng của Kitô giáo. Vì sao? Ắt hẳn đó không phải vì vẻ đẹp của biểu tượng này, cũng không phải vì sự đơn giản của nó, nhưng chính vì Đấng nằm trên cây gỗ đó đã dang rộng vòng tay để cứu chuộc nhân loại khỏi mọi tội lỗi. Nói cách khác, vì giờ đây “Thánh Giá trở thành biểu tượng của chính Đức Kitô”.
Như vậy, chính nhờ Đức Kitô mà cây Thánh Giá đã trở nên một biểu tượng linh thánh và là một phương dược linh nghiệm cho người Kitô hữu, như Công Đồng Vatican II đã nói “Nhờ Chúa Kitô, Thiên Chúa đã hoàn toàn nguôi lòng để chúng ta được giao hoà với Ngài và cho chúng ta được phụng thờ Ngài một cách hoàn bị.” Nói như thế để thấy được rằng Thánh Giá là một cái gì đó rất thiêng liêng và quan trọng đối với người Kitô hữu vì sự quy hướng về Đức Kitô. Để biểu thị sự thiêng liêng và tầm quan trọng của Thánh Giá, Hội Thánh không ngừng nhắc nhở con cái mình trân trọng và yêu mến Thánh Giá, đặc biệt qua các nghi thức Phụng vụ. Cụ thể Giáo Hội dành ngày 14 tháng 9 hàng năm để cử hành Thánh lễ Suy tôn Thánh Giá và cách riêng cử hành nghi thức suy tôn Thánh Giá vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh. Vậy suy tôn Thánh Giá là gì và có ý nghĩa như thế nào?
Theo tác giả Dom Robert Le Gall, suy tôn Thánh Giá là “việc tôn kính Thánh Giá, khí cụ đem lại ơn cứu độ và tôn vinh Đức Kitô”. Bên cạnh đó, Ban Từ vựng Công Giáo trực thuộc Uỷ ban Giáo lý Đức tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng đưa ra một định nghĩa xem ra đầy đủ và chính xác hơn “Suy tôn Thánh Giá là nghi thức thờ lạy và hôn kính Thánh Giá vào chiều thứ Sáu Tuần Thánh nhằm tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu.” Như vậy, với định nghĩa này ít nhiều chúng ta cũng đã hiểu được ý nghĩa của việc suy tôn Thánh Giá.
Thực thế, việc suy tôn Thánh Giá không đơn thuần chỉ là một nghi thức Phụng vụ được Giáo Hội cử hành hàng năm vào ngày 14/9 hay chiều thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng ẩn sâu trong đó là cả một ý nghĩa thánh. Quả thật, trong ngày lễ suy tôn Thánh Giá, ca nhập lễ được cất lên như sau “Chúng ta phải hãnh diện về Thập Giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại. Chính Người giải thoát và cứu độ ta.” Như vậy, việc suy tôn Thánh Giá là một sự hãnh diện và là một lời tuyên xưng của người Kitô hữu vào Thánh Giá. Hãnh diện và tuyên xưng vào Thánh Giá vì giờ đây Thánh Giá là “một sự khẳng định về cuộc chiến thắng của Đức Giêsu Kitô”. Cuộc chiến thắng mà Ngài đã dành được trước quyền lực sự dữ.
Nếu như hình phạt đóng đinh vào thập giá là dấu chấm hết cho một sự sống, cho một tình yêu thì giờ đây Đức Giêsu đảo ngược hoàn toàn giá trị ấy. Ngài biến cây thập giá khổ hình thành cây mang lại sự sống. Ngài biến cây thập giá hận thù thành cây mang lại tình yêu vĩnh cửu. Thế nên Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu và sự sống. Thánh Giá trở thành biểu tượng của Tình Yêu cứu độ. Như vậy suy tôn Thánh Giá còn có ý nghĩa là suy tôn một tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho con người qua Đức Giêsu Kitô.
Với cái chết của Đức Giêsu trên Thánh Giá, loài người giờ đây được giao hoà với Thiên Chúa. Với cách hiểu này, một cách nào đó chúng ta có thể nói nếu không có cái chết của Đức Giêsu thì loài người vẫn đang mãi xa cách Thiên Chúa, chưa được giao hoà với Người. Như vậy việc suy tôn Thánh Giá là một hành động nói lên lòng biết ơn của chúng ta đối với Chúa Giêsu, vì Ngài đã chịu chết và đã mở cho ta con đường dẫn tới sự sống đời đời. Không những thế hành động suy tôn Thánh Giá còn là một sự biểu lộ niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô, và cũng là dịp để bày tỏ mối thân tình, sự khăng khít của ta với Ngài.
Đức Giêsu đã dùng cây Thánh Giá để kéo nhân loại lên với Thiên Chúa, như lời Ngài nói “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” Như vậy, nếu năm xưa nhờ cây Thánh Giá, Chúa Giêsu đã kéo mọi người lên với Thiên Chúa thì nay suy tôn Thánh Giá như là hành động để quy tụ mọi người tản mác khắp nơi về dưới chân Thánh Giá trong cùng một niềm tin vào sự phục sinh của Ngài.
Bên cạnh đó, lời tuyên bố của chủ sự và lời đáp của cộng đoàn trong nghi thức Suy Tôn Thánh Giá vào chiều thứ Sáu Tuần Thánh: “Đây là cây Thánh Giá, nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian” – “Chúng ta hãy đến thờ lạy” cũng cho ta một ý nghĩa thâm sâu về việc suy tôn Thánh Giá. Lời tuyên bố của chủ sự “Đây là cây” như muốn nói lên sự đau đớn tàn bạo và là một hình phạt ghê sợ nhất cho kẻ trọng tội. Qua đó, việc suy tôn Thánh Giá nhằm cho mọi người thấy một cách công khai, rõ ràng rằng Đức Giêsu đã chấp nhận chịu những đớn đau và hình phạt dù rằng Ngài không phạm tội gì. Thế nhưng, Giáo Hội không dừng lại ở đó. Giáo Hội muốn mọi người thấy rằng cây gỗ, “nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian” giờ đây đã trở thành biểu tượng chiến thắng, biểu tượng cứu độ. Giáo Hội như muốn nhấn mạnh thêm ý nghĩa chiến thắng khi mời gọi mọi người: “Chúng ta hãy đến thờ lạy”.
Trên đây là ý nghĩa của việc suy tôn Thánh Giá. Có thể với nhiều người, việc tôn thờ Thánh Giá là một việc làm ngu xuẩn và điên rồ, như thánh Phaolô đã từng nói về người Do thái và dân ngoại.
Trái lại, với người Kitô hữu, đó lại là một hành động thánh, một hành động diễn tả đức tin. Và với người Kitô hữu, thiết nghĩ cuộc sống chỉ thực sự ý nghĩa khi hành động thánh này không bị giới hạn chỉ trong ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá hay trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh nhưng được cử hành liên tục trong suốt cuộc đời.
Suy Niệm 18: Con Người cũng phải bị treo lên (Ga 3, 13-17)
Thập giá đã từng là hình phạt, là thứ khổ hình dành cho các nô lệ hay tử tội nguy hiểm. Hình phạt Thập giá không những đem đến một cái chết thảm khốc cho tử tội, mà còn là một sự hổ thẹn và nhục nhã nhất cho người bị kết án. Thế nhưng, Đức Giêsu Kitô, Con Chúa Trời hằng sống đã chịu đóng đinh và chịu chết trên Thập Giá. Thập Giá giờ đây không còn là một sự nhục nhã nữa, nhưng trở thành một phương thế cứu chuộc con người cách hữu hiệu, trở thành một đòi buộc cho những ai muốn bước vào cõi sống vinh quang theo gương Thầy Chí Thánh Giêsu. Thập giá giờ đây trở thành vinh quang và niềm tự hào cho những người Kitô hữu đích thật.
Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan cho chúng ta thấy Thập giá không phải là một đau khổ hay nhục nhã mà là vinh quang của Thiên Chúa đã đến. Khi nói đến Thập Giá, Thánh Gioan luôn gợi lên sự vinh quang của Đức Giêsu chiến thắng. “Khi nào các ông giương cao Con Người lên” (Ga 8, 28) đã ám chỉ việc tôn vinh Đức Giêsu trên trời. Gỗ
Thánh giá và cây Thánh giá trở thành cây sự sống (x. Kh 22, 2.14). Mỗi khi chiêm ngắm thập giá Đức Kitô, chúng ta cần nhận ra rằng: Thập giá là phương thế cứu độ tuyệt vời cho con người. Thập giá chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ mà Ngài đã thực hiện vì yêu thương cho con người. Thập giá phải trở thành niềm tự hào của những người tín hữu đích thực của Đức Kitô. Thập giá là chìa khóa mở cửa Thiên đàng cho những ai trung thành bước theo Đức Kitô trên con đường tiến về Quê trời.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, xưa Chúa đã dùng thập giá để cứu chuộc chúng con. Chúa cũng có thể cứu chúng con bằng những phương thế khác. Nhưng Chúa đã không chọn cách nào khác ngoài việc chết trên thập giá. Và như thế chúng con mới hiểu được Chúa yêu chúng con đến cùng. Chúa đã mang lại cho thập giá một ý nghĩa mới: ý nghĩa của tình yêu trọn hảo. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con cũng biết đón nhận thập giá của bản thân với tron vẹn tâm tình yêu thương. Yêu Chúa và yêu mọi người, để tình Chúa luôn mãi ở trong con. Và cuộc đời con luôn diễn tả tình yêu Chúa. Amen.
Suy Niệm 19: Lạy Chúa, Chúng Con Tôn Thờ Thánh Giá Chúa (Ga 3, 13-17)
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Phụng vụ Giáo hội hàng năm, dành ngày 14 tháng 9 để mời gọi con cái mình cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Giêsu với niềm vui vì được ơn cứu độ. Ngày này, Thánh Giá được trình bày không phải dưới khía cạnh khổ đau, hay nặng nề thiết yếu của cuộc sống cần phải vác theo Đức Kitô, nhưng dưới khía cạnh vinh quang, như cái cớ để những người tin vào Chúa Giêsu tự hào và không có khóc lóc.
Cử Hành Với Niềm Vui
Thánh Giá, một khí cụ man rợ và khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại người Do thái dùng làm hình khổ để đóng đanh Chúa Giêsu, nhưng Người đã biến nó thành phương thế để cứu độ thế gian. Từ đó, Thánh Giá trở nên Niềm Hy Vọng độc nhất trong Vinh Quang toàn thắng của Đức Kitô, ban tặng cho con ngươi hồng ân tha thứ và mọi phúc lành. Vì thế, “chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại; chính Người giải thoát và cứu độ ta” (Ca nhập lễ).
Điều này được phản ánh trong các bài đọc. Thánh Phaolô coi Thánh Giá là động lực lớn lao để “tán dương” Chúa Giêsu: “Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” (Pl 2, 8-11). Còn theo thánh Gioan thì Thánh Giá như là khí cụ để cứu độ con người: “Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời” (Ga 3, 14). Nên hôm nay Giáo hội cử hành lễ suy tôn Thánh Giá với niềm vui vì được ơn cứu độ.
Nhìn ngắm Thánh Giá, chúng ta sẽ khám phá ra câu chuyện của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại nói chung và cách riêng mỗi người chúng ta.
Câu chuyện tình yêu
Khi suy tôn Thánh Giá, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn lên Thánh Giá nơi treo Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa với tất cả tình yêu, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá. Bởi theo thánh Ambrosiô, lúc Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà thế nào, thì lúc Chúa Giêsu chết nằm trên Thánh Giá, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu như vậy, và Giáo hội tưởng nhớ đến tình yêu dâng trào ấy.
Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào: “Yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16), mặc dù biết trước Con mình sẽ bị đóng đinh, được giương lên cao khỏi đất như “Con Rắn Đồng” trong sa mạc. Thật là một sự hy sinh lạ lùng, không thể nào hiểu thấu, mà thánh Phaolô phải diễn tả bằng một cách khác để bổ sung: “Thiên Chúa đã không tha cho chính Con Một của mình, nhưng phó nộp Người vì chúng ta hết thảy." (Rm 8,32). Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi “sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,17).
Đây chính là câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta, câu chuyện tình của Chúa Cha, chuyện tình của Chúa Con, câu chuyện của Thánh Giá. Giảng trong Thánh lễ sáng thứ ba ngày 15/03/2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói : "Nếu muốn biết ‘câu chuyện tình’ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta phải ngắm nhìn Thánh Giá, nơi ấy có một vị Thiên Chúa đã hoàn toàn ‘trút bỏ vinh quang’, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn’ bởi tội lỗi con người để cứu con người khỏi chết. Vị Thiên Chúa ấy sẽ hủy diệt vĩnh viễn cái tên xấu xa đích thực của sự dữ mà Sách Khải huyền gọi là ‘con rắn xưa’. Tội lỗi là việc làm của Satan. Nhưng Đức Giêsu đã chiến thắng Satan. Ngài đã tự hạ mình xuống, trở thành hiện thân của tội để nâng con người lên".
Mầu nhiệm Thánh Giá diễn tả tình yêu vô bờ bến, tình yêu không thể nào mô tả được của Thiên Chúa đối với nhân loại. Trong lịch sử cứu độ, con rắn được nhắc đến lần đâu tiên trong Sách Sáng Thế và lần cuối cùng là trong Sách Khải Huyền. Rắn là loài vật mà theo Kinh Thánh mang một biểu tượng mạnh mẽ của sự nguyền rủa, của tội lỗi (x.St 2,) và một cách mầu nhiệm cũng là biểu tượng của sự cứu chuộc. Trong hành trình sa mạc. Dân chúng không muốn đi trong cảnh lương thực ít ỏi như thế nữa. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Chúa cho rắn bò ra làm hại những kẻ cứng lòng không tin, để gieo rắc sự sợ hãi và cái chết cho đến khi dân chúng biết chạy đến nài xin Môsê sự tha thứ. Thiên Chúa lại truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên cây gỗ, để tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống. Thật là mầu nhiệm, mầu nhiệm ở chỗ: Khi dân hối hận, Thiên Chúa không giết chết các con rắn, nhưng Ngài để chúng đó. Nếu có con rắn nào làm hại dân chúng, chỉ cần họ nhìn lên con rắn đồng thì sẽ được cứu. Giương cao con rắn lên.
Con rắn tượng trưng cho tội lỗi. Con rắn giết hại người ta nhưng nó cũng chữa lành. Và đó chính là mầu nhiệm của Đức Kitô. Thánh Phaolô nói: "Đức Giêsu là Đấng chẳng biết tội là gì, thì Thiên Chúa lại biến Người thành hiện thân của tội." Như vậy cách nào đó, Đức Giêsu chính là con rắn được giương cao lên. Bài đọc I ngày lễ chất chứa cái nhìn có tính tiên tri: Chúa Giêsu như là hình ảnh con rắn," hiện thân của tội lỗi", đã được giương cao lên để cứu độ con người. (x. Trích bài giảng lễ thứ ba n 15/03/2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô).
Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa, vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà cứu chuộc trần gian. Amen.
Suy Niệm 20: Thánh Giá Chúa (Ga 3, 13-17)
(Lm. Hiền Lâm)
Triết học cổ đại Hi-lạp, đặc biệt Socrate, Platon và Aristote, thường sử dụng lối văn đối thoại để chuyển tải tư tưởng. Tin Mừng Gioan cũng từng sử dụng lối văn đối thoại này, khi kể lại cuộc trò chuyện giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô, hầu chuyển tải ý nghĩa về ơn cứu độ.
“Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”. Sứ mạng thiên sai của Chúa Giêsu đến là để dùng thập giá mà cứu chuộc thế gian:
* Phải bị “giương cao lên”.
Điều Chúa Giêsu mặc khải thật rõ ràng: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.
Có lẽ đây là nét độc đáo nhất chỉ gặp thấy nơi Tin Mừng thứ IV, con đường linh đạo này có một mức độ quyết liệt hơn, vì trong khi 3 Tin Mừng Nhất Lãm nói đến việc muốn đạt đến Ơn Cứu Độ phải vác lấy thập giá, còn đối với Tin Mừng thứ IV đòi phải được “giương cao lên” nghĩa là không chỉ vác mà còn phải bị treo lên, chịu đóng đinh vào khổ giá.
Khác với ba lần nơi các Tin Mừng Nhất Lãm tiên báo cái chết một cách rõ ràng là Chúa Giêsu sẽ lên Giêrusalem chịu khổ nạn, thì Tin Mừng Thứ IV cũng tiên báo ba lần với cách nói: “Con Người được “giương cao lên” (x.Ga 3,14; 8,28; 12,32).
Con Người được giương cao lên, nghĩa là Chúa Giêsu sẽ phải bị treo lên trên thập giá, để nhờ công ơn Cứu Chuộc qua khổ giá, mà Người nâng mọi người lên cao khỏi thế gian, nâng cao lên cõi Trời với Người.
Theo chiều ngang, với cách nói nơi Tin Mừng Nhất Lãm rằng ai muốn theo Chúa thì hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo. Còn theo chiều dọc, Tin Mừng Thứ IV lại nói theo chiều đi lên, không chỉ vác mà còn phải được treo lên, nghĩa là phải cùng đóng đinh chính mình vào thập giá như Chúa Giêsu.
Như vậy, dù “đi theo” hay “treo lên”, thì Kitô hữu cũng chung một phương thế duy nhất là phải qua thập giá mới đạt đến Ơn Cứu Độ.
* Luận phạt hay cứu độ ?
Trong cách nhìn nhân loại, ai trong chúng ta nếu chỉ có một đứa con trai duy nhất, thì chúng ta sẽ coi nó như là tất cả của đời mình, của cả cuộc sống mình, của cả giống nòi mình, nên chúng ta sẽ hết sức cung phụng nâng niu, bằng mọi giá phải bảo vệ nó, và chỉ chấp nhận san sẻ khi cho đứa con xây dựng gia đình với một người con gái để duy trì dòng tộc.
Trong mầu nhiệm Thiên Chúa: Chúa Cha đã đản sinh ra Chúa Con, và Chúa Con là đứa Con Duy Nhất của Chúa Cha từ đời đời. Vì yêu thương con người, Chúa Cha đã cho đứa Con Duy Nhất của mình đến với thế gian. Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể hiểu được “văn Chương Gioan” coi Chúa Giêsu như là Tân Lang và Giáo Hội là hiền thê của Người, bởi Chúa Giê-su qua công trình cứu chuộc đã cưới “cô dâu nhân loại” về cho Thiên Chúa Cha.
Nhân loại là con Thiên Chúa theo nghĩa sáng tạo, chứ không theo tử hệ đản sinh như Chúa Con. Nhân loại đó đã ra hư hỏng, nên Chúa Cha đã sai Con mình đến để cứu chứ không phải đến để phạt.
“Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”. Thật vậy, sứ mạng thiên sai của Chúa Giêsu đến là để dùng thập giá mà cứu chuộc thế gian. Đó là niềm hy vọng lớn lao của nhân loại.
Trong Tin Mừng Gioan, ngay từ đầu đã nhắc tới “Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1,29). Trần gian hay thế gian được nói tới ở đây có thể là toàn thể tạo thành, mà tạo thành thì tốt bởi vì là công trình của Thiên Chúa. Nhưng trọng tâm của công trình này là con người – đã trót đặt mình dưới ảnh hưởng của Satan (x.Ga 8,34.44); nghĩa là một sự xuống cấp sa đoạ, con người chịu ảnh hưởng của cái xấu, cái tội, bị cái xấu lợi dụng và làm biến dạng đi. Do đó mà Thiên Chúa “sai Con của Người đến để thế gian được cứu độ”.
Con đường cứu độ của Con Thiên Chúa là thập giá, nên ai muốn được cứu độ thì cũng phải chấp nhận “được treo lên” trên thập giá với Chúa Giêsu. Thế nhưng, giống như hai người con, một người lo làm việc vì yêu thương bố, một người bất đắc dĩ phải làm cho bố vì sợ bố đánh, kết quả là một người đạt được niềm vui nhẹ nhàng còn người kia cảm thấy nặng nề chán nản. Cũng thế, khi đón nhận thánh giá Chúa vì niềm tin vào Ơn Cứu Độ thì thánh giá sẽ trở nên nhẹ nhàng và con người vui vẻ vác đi theo Chúa; ngược lại, nếu ai vác thánh giá vì sợ luận phạt thì thánh giá sẽ nên nặng nề và tuyệt vọng.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa được sai đến thế gian là để cứu độ thế gian chứ không phải lên án thế gian, xin cũng sai chúng con đến với mọi người, đem đến cho họ sự cứu vớt, chứ không phải đến để lên án đồng loại. Xin cho chúng con biết chấp nhận được “giương cao lên”, là chấp nhận đóng con người tội lỗi của mình vào thập giá Chúa, để sau khi chết đi cho tội lỗi, chúng con được trở nên con người mới. Amen.
13/09Tha thứ như Chúa dạy.
- Viết bởi 18, 21-35
Tha thứ như Chúa dạy.
Chúa Nhật 24 Thường Niên năm A.
"Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy".
Lời Chúa: Mt 18, 21-35
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.
"Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả". Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.
"Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: "Hãy trả nợ cho ta". Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh". Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong.
"Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ đòi y đến vào bảo rằng: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?" Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.
"Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Hc 27,33 – 28,9; Rm 14, 7-9; Mt 18, 21-35
1. Hết lòng tha thứ.
(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
"Và bạn nữa, người bạn của giây phút cuối cùng.
Bạn không hiểu điều bạn đã làm.
Cầu xin cho hai chúng ta là những người trộm lành
được gặp lại nhau trên Thiên quốc,...
Chúa là Chúa của hai chúng ta."
Đó là lời trối của cha Christian de Chergé
viết cho người Hồi giáo nào đó sẽ ám sát mình,
bởi cha biết cái chết là điều không sao tránh khỏi.
Ta không thấy có chút hờn oán nào.
Cha coi kẻ giết mình như một người bạn,
một người trộm lành như cha, và cha mong được sống với anh trên trời.
Tha thứ một cách phi thường và hồn nhiên,
đó là thái độ của người thấm nhuần Kitô giáo.
Các tôn giáo đều dạy sự tha thứ.
Tha thứ để làm cho oán tiêu tan,
để phá vỡ cái vòng oan nghiệt trói buộc con người.
Kitô giáo mời gọi tha thứ vì một lý do khác:
Tôi phải tha thứ cho anh em tôi vì Chúa đã liên tục tha thứ cho tôi.
Đời tôi là một chuỗi những vấp ngã,
được đan kết với bao thứ tha.
Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời tôi,
nếu bị ngăn lại, nó sẽ thành ao tù,
nó chỉ trong lành khi được chảy đến tha nhân.
Tha thứ là khả năng của Thiên Chúa.
Tự sức riêng, ta không ra khỏi được vòng oán thù.
Chẳng ngày nào thế giới không có tiếng súng.
Luật mắt đền mắt là luật công bằng,
nhưng có thể làm cả thế giới hoá mù.
Chỉ sự tha thứ mới đem lại bình an.
Dám tha thứ là dám chịu thiệt thòi,
dám tin rằng cuối cùng tình thương sẽ thắng.
Qủa tim chai đá phải tan chảy trước tình thương.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta tha thứ, không phải 7 lần, mà là 70 lần 7,
nghĩa là tha thứ như Thiên Chúa, tha vô giới hạn.
Cần biết chạnh lòng thương như Thiên Chúa,
để sẵn sàng tha cho bạn mình một món nợ nhỏ,
vì Chúa đã tha cho mình món nợ khổng lồ.
Chúng ta chỉ biết chắc mình đã được Chúa tha,
khi chúng ta không giữ ơn tha thứ cho riêng mình,
khi chúng ta mang quả tim thương xót của Đấng hay tha thứ.
Cha Chergé đã bị giết cũng với 6 đan sĩ khác.
Chắc nay cha hiểu rõ hơn câu này:
"Vì chính khi thứ tha, là khi được tha thứ."
Gợi Ý Chia Sẻ
Tha thứ cho người xúc phạm đến danh dự, tài sản, quyền lợi của bạn, bạn thấy điều đó có khó không? Bạn làm gì để vượt qua được ước muốn trả thù?
Ở Angiêri đã có 19 tu sĩ và giáo sĩ Công giáo bị nhóm Hồi giáo quá khích giết hại. Bạn có nghĩ rằng những cái chết hiền lành này sẽ khiến ai đó phải nghĩ lại không?
Cầu Nguyện
Xin hãy dẫn dắt con đi từ cõi chết đến sự sống, từ lầm lạc đến chân lý.
Xin hãy dẫn dắt con đi từ thất vọng đến hy vọng, từ sợ hãi đến tín thác.
Xin hãy dẫn dắt con đi từ ghen ghét đến yêu thương, từ chiến tranh đến hoà bình.
Xin hãy đổ đầy bình an trong trái tim chúng con, trong thế giới chúng con, trong vũ trụ chúng con.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
2. Hết lòng tha thứ cho nhau - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Lịch sử Việt Nam kể lại một cuộc tha thứ cho hàng vạn quân Minh như sau: “Lê Lợi sai tướng đem chiến lợi phẩm thu được ở trận Chi Lăng vào tận doanh trại của chủ tướng Tàu là Mộc Thạch. Mộc Thạch biết Liễu Thăng bị chết, đại quân bị bại, hoảng sợ chạy về Tàu. Vương Thông đóng quân ở Đông Quan, khiếp đảm, xin cầu hòa - Lê Lợi đồng ý, còn cung cấp lương thực, thuyền bè, sửa chữa cầu đường tạo điều kiện cho quân Minh nhanh chóng rút về nước. Nhờ sự tha thứ cho hàng vạn kẻ thù, dân nước được sống hòa bình thịnh vượng. Đó là kết quả của sự tha thứ trong lịch sử Việt Nam.
Còn một sự tha thứ vĩ đại hơn nữa trong lịch sử loài người, là sự tha thứ của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa xuống thế làm người được Gioan tẩy giả giới thiệu: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga. 1, 29).
Ngài là Đấng xóa tội trần gian, nên Ngài nói với người phụ nữ tội lỗi: “Tội chị đã được tha rồi” (Lc. 7, 48).
Ngài cũng tha tội cho người bại liệt: “Này con, cứ yên tâm, con đã được tha tội rồi” và cho anh đứng dậy vác chõng về (Mt. 9, 2). Dù các kinh sư và Pharisiêu dựa vào luật Môisê kết án người phụ nữ ngoại tình, Ngài vẫn tha thứ cho chị: “Tôi không lên án chị đâu, chị cứ về và từ nay đừng phạm tội nữa”. Thế là Ngài đã tha tội, tha chết cho chị, và không ai có quyền lên án chị nữa (Ga. 8, 11).
Ngài đã tha thứ, và Ngài dậy chúng ta phải tha thứ như người cha tha thứ và vui mừng đón rước đứa con phung phá (Lc. 15, 11-32). Ngài dậy chúng ta phải cầu nguyện để biết tha thứ cho kẻ có nợ chúng ta như Chúa Cha đã tha nợ cho chúng ta (Mt. 6, 9-15).
Nhưng lòng con người quá hẹp hòi, cứng cỏi, cùng lắm chỉ tha được đến ba lần: “quá tam ba bận” hoặc hơn chút nữa như luật sĩ tha đến bốn lần. Phêrô tưởng mình tha đến bảy lần thì đã xứng đáng làm tông đồ của Thầy rồi. Không ngờ, Thầy dậy phải tha đến bảy mươi lần bảy: một con toán khổng lồ hàng tỉ lần, thời đó không thể đếm được. Cụ thể hơn nữa, cho ông và mọi người hiểu một cách thấm thía, lòng thương yêu tha thứ vô cùng của Thiên Chúa đối với con người, và lòng độc ác dã man của con người với con người. Qua câu chuyện đầy xúc động sau: Một đầy tớ nợ ông chủ 10.000 nén vàng, nếu bán hết vợ con, tài sản và y đi, cũng không trả đủ. Thế mà, y xin tha, chủ tha luôn. Nhưng bạn y, chỉ nợ y có 100 đồng bạc, chẳng đáng chút nào cái nợ y nợ ông chủ, thế mà bạn y xin khất ít lâu sẽ trả. Y không tha, lại túm lấy, bóp cổ, đánh đập, bỏ tù bạn y.
Không còn cái cảnh bi đát nào tả được lòng độc ác của con người không biết tha thứ cho nhau nữa!
Phêrô nghĩ sao? Chúng ta nghĩ sao? Khủng khiếp đến chừng nào khi không biết tha thứ cho anh em?
Hình như Phêrô cũng như chúng ta chẳng thay lòng đổi dạ gì khi nghe câu chuyện có thực trăm phần trăm đó. Vì chính Phêrô vừa mới rước Mình và Máu thánh Thầy đổ ra cho muôn người được tha tội, thế mà, ông đã hăng tiết rút gươm ra chém đứt tai kẻ đến bắt Thầy (Mt. 26, 27-51). ông không thể tha thứ được. Chỉ khi ông được Thầy tha tội chối Thầy (Mt. 26, 74-75), chỉ khi ông thấy Thầy bị treo trên Thập giá mà vẫn cầu nguyện xin tha cho kẻ thù của Thầy: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết” (Lc. 23, 34) và nhất là khi thấy Thầy sống lại đầy uy quyền mà Thầy vẫn không trách cứ ông, và không hề trả thù đứa quân dữ nào; chỉ khi đó Phêrô mới thấm thía sâu sắc: “Phải hết lòng tha thứ cho anh em”, chỉ khi đó Phêrô mới thực sự thuộc về Chúa Kitô, mới sống cho Chúa Kitô và cùng chết với Người (Rm. 14, 7-9 - Bài đọc II)
Lạy Chúa, xin cho con nhớ rằng: “Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy sự báo thù của Chúa. Kẻ nuôi lòng hờn giận, thế mà dám xin Chúa ban ơn lành, nó chẳng biết thương đồng loại, mà lại dám xin ơn tha tội cho mình” (Hc. 27, 30-28. 1-5 và Mt. 6, 14-15). Lạy Cha, xin cho con luôn luôn tụng niệm lời cầu xin của Đức Kitô: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết”, để con được Cha tha tội cho con. Amen.
3. Tha thứ
Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy Chúa Giêsu đã dùng nhiều câu chuyện để xác quyết rằng: Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không. Đúng thế, khi người con hoang đàng đang kéo lê những bước chân mệt mỏi trở về, thì cha cậu, thoạt nhìn thấy, đã vội chạy tới, ôm choàng lấy cậu mà hôn, rồi lại còn truyền cho gia nhân đem áo cho cậu mặc, nhẫn cho cậu đeo, giày cho cậu đi, rồi giết con bê báo mở tiệc ăn mừng. Người cha đã tha thứ cho cậu một cách nhưng không.
Cũng thế qua đoạn Tin Mừng chiều hôm nay, tên đầy tớ mắc nợ ông chủ một món nợ khổng lồ. Hắn không có gì để trả. Thế nhưng ông chủ đã xoá bỏ tất cả cho hắn, để hắn được tự do trở về gia đình. Ông chủ đã tha cho hắn một cách nhưng không.
Trong cuộc sống của Chúa Giêsu, chúng ta cũng thấy Ngài đã tha thứ rất nhiều lần. Ngài đã tha thứ cho Madalena, cho người thiếu phụ ngoại tình, cho Phêrô và cho tên trộm vào những giây phút cuối cùng trên thập giá.
Tuy nhiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta một điều kiện rất nhỏ mọn đó là chúng ta cũng phải biết tha thứ cho nhau. Trong kinh Lạy Cha, chúng ta vốn thường đọc: Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Trong câu chuyện hôm nay chúng ta thấy ông chủ đã xử trí như thế nào đối với tên đầy tớ độc ác? Vì hắn không tha cho bạn hắn món nợ cỏn con là 100 đồng, lại còn tống giam người bạn khổ sở ấy. Thì bây giờ ông chủ cũng sẽ đối xử với hắn như thế, nghĩa là tống hắn vào ngục cho đến khi trả xong món nợ kếch xù ấy. Và Chúa Giêsu đã kết luận: Thiên Chúa cũng sẽ đối xử với các ngươi như thế nếu các ngươi không biết tha thứ cho nhau. Nếu chúng ta không biết tỏ ra khoan dung tha thứ cho người khác, thì chúng ta sẽ chẳng được hưởng nhờ lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa.
Trong cuộc nội chiến xảy ra tại Tây Ban Nha vào năm 1936, có một vị linh mục bị bắt và bị tống giam. Trước khi ra mặt trận, đoàn quân muốn giết tất cả những tù binh mà họ giam giữ. Thế là một tốp lính được lệnh giải ngài tới một nghĩa trang để xử bắn. Thế nhưng trước khi hành quyết, ngài đã xin một đặc ân cuối cùng đó là được ôm hôn tất cả tốp lính sẽ bắn ngài. Hành vi này muốn nói lên một sự chân thành tha thứ, khiến cho một tên lính đã xúc động và sau này anh ta đã trở về với Giáo Hội. Cũng như Chúa Giêsu, trên thập giá Ngài đã tha thứ cho tất cả bọn lý hình đã nhúng tay vào máu Ngài: Lạy Cha xin Cha tha cho chúng vì chúng chẳng biết việc chúng làm.
Hãy tha thứ cho nhau để rồi Thiên Chúa mới sẽ tha thứ cho chúng ta.
4. Học tha thứ với Chúa Giêsu – Lm Ignatiô Trần Ngà
Khi bị người khác xúc phạm, có người cảm thấy bị tổn thương nghiêm trọng, nên lồng lên dữ dội như con thú bị trúng thương; có người cảm thấy máu sôi lên trong huyết quản, người nóng bừng lên, hơi thở dồn dập, mặt đỏ gay.
Trong hoàn cảnh đó, phản ứng thông thường của đa số là tìm cách trả đũa thật đích đáng. Thậm chí có người cho rằng thà chịu chết còn hơn chịu nhục. Thế là giông tố sẽ bùng lên, những trận đòn thù như vũ bão sẽ ập đến, hậu quả không biết đâu mà lường!
Trong khi đó, Chúa Giêsu, trong thân phận con người, và nhất là trong cuộc thương khó của Người, đã bình thản đón nhận mọi sỉ nhục, nhạo cười, lăng mạ, phỉ nhổ, chịu hành hạ, chịu đánh đòn, chịu đội mão gai, chịu vác thập giá, chịu chết trần truồng, chịu vô vàn đau thương chồng chất và chịu chết tủi nhục trên thập giá mà không hề oán hận hay nguyền rủa những con người bội bạc xúc phạm đến mình, trái lại còn đem lòng thương xót và cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ. (Luca 23, 33)
Đối mặt với vô vàn xúc phạm đủ mọi hình thức, Chúa Giêsu sẵn sàng tha thứ và kêu mời mọi người hãy tha thứ cho nhau, tha thứ liên tục không ngừng.
"Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" Đức Giêsu đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy." Nói như thế có nghĩa là Chúa dạy hãy tha thứ liên tục không ngừng.
Quả là một đòi hỏi vượt quá sức người. Làm sao con người đầy sân hận lại có đủ bản lãnh và khí phách để thực hiện lời truyền dạy của Chúa Giêsu?
1. Con người mắc phải lầm lỗi vì mù quáng, vì thế họ đáng thương chứ không đáng trách.
Chúa Giêsu không những tha thứ mà còn yêu thương những kẻ kết án và đóng đinh Người vì Người biết họ hành động cách mù quáng, mà mù quáng thì đáng thương hơn là đáng trách. Họ mù quáng nên không nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Họ tưởng rằng khi kết án Chúa Giêsu là họ bảo toàn vinh quang Thiên Chúa, không để cho uy danh Thiên Chúa bị xâm phạm bởi một người phàm làng Nadarét ngạo mạn xưng mình là Con Thiên Chúa.
Charlie Charplin nhận định: "người ta mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình. Thế nên người ngu thì lên án họ; người khôn thì thương xót họ."
Không giống như bao nhiêu người thiếu hiểu biết thường vội vàng kết án người khác căn cứ vào hành vi lầm lỗi bên ngoài của tội nhân, Chúa Giêsu là Đấng khôn ngoan thấu suốt lòng dạ con người; Người biết rằng phần lớn những tội người ta phạm là do mù quáng, do thiếu hiểu biết mà ra, vì thế, thay vì lên án, Người thương xót những kẻ mắc phải lỗi lầm và tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ. "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." (Lc 23, 33)
2. Không ai cố tình làm điều ác.
Ngoài ra, nhà hiền triết Socrate cũng có cùng quan điểm như thế. Ông nhận định rằng: "không ai cố tình làm điều ác" và "sở dĩ người ta làm điều ác là vì mù quáng, thiếu hiểu biết"
Dale Carnegie, một học giả trứ danh người Mỹ nổi tiếng với nhiều tác phẩm bán chạy nhất thế giới quả quyết rằng: "Tôi đã bỏ ra gần 70 năm trong đời để khám phá ra chân lý nầy là dù người ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi, thì có đến 99 lần người ta tự cho là mình vô tội." Phần lớn các phạm nhân cho rằng mình vô tội vì nghĩ rằng những hành động họ làm được thúc đẩy bởi lòng tốt chứ không phải bởi ác tâm.
Xét lại bản thân mình, chúng ta thấy rằng dù mỗi người chúng ta đã từng phạm nhiều lầm lỗi trong cuộc sống, nhưng chưa bao giờ chúng ta hành động vì ác tâm. Từ đó suy ra, trong phần đông nhân loại, không mấy ai cố tình làm điều ác. Vì thế chẳng nên kết tội người khác nhưng hãy sẵn sàng thứ tha cho họ.
Tóm lại, để có thể tuân giữ lời mời gọi tha thứ liên lỉ, tha thứ không ngừng của Chúa Giêsu, chúng ta cần xác tín như nhà hiền triết Socrate rằng: "Không ai cố tình làm điều ác", "sở dĩ con người phạm phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình".
Và hãy ghi tâm lời nhận định của Charlie Charplin: "con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình. Thế nên, người khôn thì thương xót họ, người ngu thì lên án họ."
Và nhất là học theo gương Chúa Giêsu, cảm thông sâu sắc với người tội lỗi, cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ vì họ mù quáng, "không biết việc họ làm" (Lc 23,33).
5. Thông cảm để thứ tha
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?"
Khi đặt vấn đề như thế, Phêrô tưởng chừng như vậy là tốt lắm rồi, đáng được Chúa hài lòng rồi. Nào ngờ Chúa Giêsu lại nói: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” Nói như thế có nghĩa là Chúa dạy hãy tha thứ liên tục không ngừng.
Làm sao mà tha thứ cho nổi khi người khác cứ mãi xúc phạm đến ta?
Làm sao có đủ bản lãnh và lòng bao dung để thực hiện lời truyền dạy thứ tha không ngừng của Chúa?
Để có thể tha thứ cho người khác, trước hết ta nên biết rằng: sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của họ, vì thế họ đáng thương hơn là đáng trách.
Người lầm lỗi thì đáng thương hơn đáng trách
Khi thấy một người mù quờ quạng dò đường đi mà không có ai dẫn dắt, nên có khi thì sa xuống hố bị trặc chân; khi thì xông vào bụi rậm bị gai nhọn châm chích khắp người; khi thì vướng vào hàng rào nên bị kẽm gai móc rách cả thịt da, quần áo… thì những người chung quanh có thái độ nào?
Trong hoàn cảnh đó, chỉ có những người ngu dốt, thiếu đạo đức mới la mắng nhiếc móc người đó; còn bất cứ ai có lương tri đều tỏ lòng thương xót và sẽ ân cần dìu dắt người ấy bước đi an toàn.
Tương tự như thế, khi có người vì bị mù, không phải là mù mắt, nhưng là mù tâm trí, còn gọi là mù quáng, nên không thấy đường ngay nẻo chính; vì thế phải sa xuống hố sâu lầm lạc hoặc phải đắm chìm trong vũng bùn tội ác, thì ta nên có thái độ nào?
Trong hoàn cảnh đó, chỉ có những người thiếu hiểu biết với tầm nhìn hạn hẹp mới lên án hay oán ghét người ấy; còn những ai có lương tri, hiểu biết và khôn ngoan đều tỏ lòng thương xót và sẵn sàng tha thứ cho người vì mù quáng mà phạm lỗi, vì người mù quáng còn đáng thương hơn kẻ mù lòa.
Con người mắc phải lầm lỗi là vì mù quáng.
Triết gia Socrate nhận định một cách chắc nịch rằng: “Không ai cố tình làm điều ác. Sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là vì không hiểu biết”, nghĩa là vì mù quáng.
Nếu tôi có đôi mắt tinh tường, tôi sẽ thấy rõ đường đi nước bước và tôi sẽ cứ đường ngay nẻo chính mà đi. Nhất định tôi không dại gì để cho mình bị sa xuống hầm, sập xuống hố, đâm vào bụi gai hay lội xuống sình lầy tanh hôi.
Tương tự như thế, nếu tôi không bị mù quáng, tức đôi mắt tâm trí tôi còn sáng suốt, thì tôi sẽ thấy điều hay lẽ phải và chắc chắn tôi sẽ không để cho mình sa vào hố sâu tội lỗi hoặc đâm vào bờ bụi sai lầm.
Chỉ khi nào đôi mắt tâm trí tôi bị mù quáng bởi lòng tham, bởi ích kỷ, bởi dục vọng đê hèn, bởi kiêu căng tham vọng… thì tôi mới phải rơi vào những hố sâu tội lỗi mà thôi.
Vì thế, người lầm lỗi cần được thương xót và thứ tha.
Diễn viên kiêm đạo diễn bậc thầy người Mỹ tên là Charlie Charplain nhận định: “Sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của họ. Vì thế, người khôn thì thương xót họ, còn người ngu thì lên án họ.”
Chúa Giêsu cũng nhận định như thế nên khi bị hành hình đau đớn và nhục nhã, Người thừa biết những kẻ đóng đinh Người đều hành động vì mù quáng, không ai trong họ biết Người là Con Thiên Chúa mà lầm tưởng Người chỉ là người phàm tự xưng mình là Con Thiên Chúa… nên mới kết án Người. Vì thế, Chúa Giêsu không hề oán trách họ; trái lại còn hết lòng yêu thương họ nên đã khẩn khoản nài xin Chúa Cha tha thứ cho họ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” (Lc 23, 34)
Lạy Chúa Giêsu,
Thật là độc ác khi con lên án người mù vì mang đôi mắt mù lòa mà phải sa hầm sập hố hay sa xuống chỗ sình lầy.
Và cũng thật là thiếu khôn ngoan và bác ái nếu con lên án những người khác vì họ mù quáng, tức mù lòa trong tâm trí, mà gây ra những vấp phạm đối với những người chung quanh.
Xin cho con luôn nhớ rằng: “Sở dĩ con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình. Thế nên người khôn thì thương xót họ, còn người ngu thì lên án họ” để nhờ đó, con biết cư xử như một người khôn ngoan, biết thương xót và tha thứ cho những người lỗi phạm như Chúa đã nêu gương cho con. Amen.
6. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: Hãy tha thứ để được thứ tha (Mt 18,22)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu đã nói: "Khi con đi dâng lễ vật trên bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang bất hòa với con, thì hãy để lễ vật lại, trở về làm hòa với người anh em ấy trước đã, rồi mới trở lại dâng lễ vật sau". Ðó là một cách nói mạnh, nhằm khuyến khích chúng ta tha thứ cho người khác.
Chắc hẳn hiện giờ trong lòng anh chị em, ai cũng có một ít điều gì đó không vui đối với một vài anh chị em của mình. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta thêm lòng quảng đại để có thể tha thứ cho những người ấy. Ðây thực là một việc cần thiết phải làm trước khi chúng ta dâng Thánh lễ.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta hẹp lòng hẹp dạ không chịu tha thứ cho người khác.
Nhiều chuyện buồn rất lâu rồi mà chúng ta cữ giữ mãi trong lòng.
Chúng ta không tạo cơ hội cho kẻ có lỗi hòa giải với mình.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Hc 27,30-28,7)
Ðể khuyến khích người ta tha thứ, Ben Sira đưa ra nhiều lý lẽ:
Có tha thứ cho người khác thì khi ta cầu nguyện ta mới đáng được Chúa thứ tha.
Ðang tích lòng giận ghét người ta mà dám xin Chúa cứu chữa mình sao?
Chẳng thương xót người đồng loại mà còn cầu xin Chúa thương xót mình sao?
Người phàm xác thịt mà tích lòng thịnh nộ thì dám xin Chúa tha thứ sao?
Hãy nghĩ đến điều sau hết, tức là cái chết, để chấm dứt hận thù.
Hãy nghĩ đến giao ước của Chúa, tức là giao ước yêu thương, để bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.
2. Ðáp ca (Tv 102)
Tv này ngợi khen tấm lòng từ bi bao la của Chúa: Ngài đã tha thứ tội lỗi cho ta, Người không xử với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta...
3. Tin Mừng (Mt 18,21-35)
Ðức Giêsu đưa ra một dụ ngôn về hai con nợ:
Một ông quan mắc nợ nhà vua một món tiền rất lớn (10 ngàn nén vàng), nhưng đã được nhà vua tha hết.
Khi ông quan này trở ra gặp một người bạn chỉ thiếu mình có 100 nén bạc (chỉ bằng 1 phần triệu số nợ đối với nhà vua) và đã khẩn thiết van xin bằng chính những lời lẽ mà ông quan đã xin với vua, ông quan ấy nhất định không tha.
Ðược biết việc ấy, nhà vua bắt giam ông quan cho tới khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Dụ ngôn này muốn so sánh cho chúng ta thấy tội của chúng ta đối với Thiên Chúa nặng gấp triệu lần tội người khác phạm tới ta; đồng thời cũng muốn cho biết rằng nếu ta không tha cho người khác để đưa đến kết quả là Chúa không tha cho ta, thì quả là ta rất ngu dại.
4. Bài đọc II (Rm 14,7-9)
Văn mạch: Chương 14 của thư Phaolô đề cập đến hai trường hợp khiến các kitô hữu rôma hay xét đoán nhau: 1/ có người sợ ăn lầm nhằm đồ cúng nên không dám ăn thịt mà chỉ ăn rau, có người khác nghĩ rằng lương tâm mình vững vàng nên dám ăn mọi thứ, rồi người này chỉ trích người kia; 2/ Có người tin dị đoan nên cho rằng ngày này tốt ngày kia xấu, người khác không tin cho rằng ngày nào cũng tốt, rồi hai bên lại chỉ trích nhau.
Thánh Phaolô dạy: đừng để ý đến người khác, cũng đừng để ý đến mình, nhưng tất cả hãy quy chiếu vào Chúa, vì "không ai sống cho chính mình, cũng không ai chết cho chính mình... Chúng ta sống hay chết thì đều thuộc về Chúa".
IV. Gợi ý giảng
1. "Nợ" và "trả nợ"
Theo nguyên tắc, mắc nợ thì phải trả nợ, cho mượn nợ thì có quyền đòi nợ. Nợ - đòi - trả: đó là cách cư xử công bình.
Nhưng trên thực tế, có rất nhiều thứ nợ không thể trả nổi: chẳng hạn con nợ đã sạt nghiệp trắng tay, con nợ thiếu nhiều quá sức chi trả v.v. Gặp những trường hợp ấy, ngay cả tòa án cũng đành phải bó tay: cùng lắm là tịch thu tài sản bán được bao nhiêu trả bấy nhiêu, rồi bắt người thiếu nợ phải ngồi tù. Các chủ nợ dù muốn hay không cũng đành phải chịu mất hoặc nhiều hoặc ít. Trường hợp thứ hai này là: Nợ - không đòi được - đành bỏ: đây là cách cư xử không theo phép công bình.
Nghĩa là ngay cả trên bình diện cư xử tự nhiên, có nhiều trường hợp không thể xử công bình được. Huống chi trên bình diện đạo đức, siêu nhiên.
Nói cụ thể hơn, thiếu tiền nhau ("nợ" đúng nghĩa) thì còn có thể đòi nhau theo công bình, còn có tội, có lỗi với nhau ("nợ" theo nghĩa rộng hơn) thì khó tính toán công bình với nhau được.
Bài Tin Mừng này đề cập đến thứ "nợ" theo nghĩa rộng, nghĩa là những tội lỗi người ta phạm đối với Chúa và đối với nhau. Ðối với loại này, chỉ có cách là tha thứ.
Bài Tin Mừng đưa Thiên Chúa ra làm gương tha thứ trước: Tội lỗi chúng ta phạm đến Chúa là thứ nợ không thể nào trả hết được. Như lời Thánh vịnh "Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được". Bởi vậy Thiên Chúa đã tha thứ.
Và bài Tin Mừng khuyến khích ta noi gương Chúa, đồng thời cho biết làm như thế chỉ có lợi cho ta mà thôi.
2. Những dây chuyền phản ứng khác nhau
Con người quen sống theo dây chuyền trả đũa: Mắt đền mắt, răng thế răng, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng, mạng đền mạng... Thứ dây chuyền này sẽ kéo theo hết mắt này đến mắt khác, răng này đến răng khác, mạng này đến mạng khác...
Trong Tin Mừng, có một dây chuyền ngược lại: Xin Cha tha cho chúng con - như chúng con cũng tha cho kẻ mắc nợ chúng con; Hãy tha - thì sẽ được tha lại; Hãy cho - thì sẽ được cho lại dư đầy . Thứ dây chuyền này dẫn đến tình nghĩa, tình yêu ngày càng đậm đà, nồng ấm.
Ðức Giêsu muốn các môn đệ mình đừng theo dây chuyền thứ nhất, mà hãy theo dây chuyền thứ hai.
3. "Hãy nhớ đến điều sau hết, và chấm dứt hận thù"
Ðó là một câu của Ben Sira, người có công sưu tập kho tàng khôn ngoan ngàn đời của nhân loại. Câu này rất chí lý.
Ta hãy ra nghĩa địa mà nhìn: những con người đã một thời ăn thua đủ với nhau nay đều nằm cạnh nhau, bất lực, im lìm - còn làm chi nhau được nữa!
Và nếu ta có thể nhìn lên cao, để thấy lúc những người ấy ra trình diện trước tòa phán xét của Chúa. Người nào người nấy cũng đầy nợ với Chúa nhưng đồng thời vẫn khư khư nắm chặt tờ giấy ghi nợ của người khác đối với mình. Quan toà nói sao? "Hỡi tên ác độc kia, Ta đã tha hết nợ cho ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như Ta đã thương ngươi", rồi quan toà tống giam kẻ ấy vào ngục cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Sau đó ta hãy nhìn lại những nấm mồ ấy, và tự hỏi: Họ đã trả hết đồng xu cuối cùng chưa?
Bởi thế, Ben Sira khôn ngoan đã khuyên: "Hãy nhớ đến điều sau hết, và chấm dứt hận thù".
4. Xin lỗi
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến một việc chúng ta cần làm trong mùa Chay, đó là tha thứ. Nhưng tha thứ là một việc song phương, nghĩa là không phải việc của một người mà của cả hai người: người tha và người xin tha. Trong những va chạm thường xuyên của cuộc sống chung, có khi chúng ta là người bị xúc phạm cho nên tư thế của chúng ta là người tha, có khi chính chúng ta là người gây xúc phạm nên tư thế là người phải xin tha.
Tha và xin tha, việc nào khó hơn? Thiết nghĩ, trong những tập thể khá đạo đức như một giáo xứ chẳng hạn thì tha là việc dễ hơn: mình bị một anh chị em nào đó xúc phạm. Nếu anh chị em đó tới xin lỗi mình thì chắc là mình tha liền. Việc khó hơn chính là việc xin tha. Vậy chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ về việc này. Xin bắt đầu bằng một câu chuyện xảy ra ở nước Ba lan:
Trên một chuyến xe lửa chạy về Varsava có 3 thương gia ở chung một toa đang chơi đánh bài. Ðến một trạm nọ, thêm một người bước lên nữa. 3 thương gia thấy có thêm người liền rủ người ấy cùng chơi cho đủ 4. Nhưng người khách từ chối khéo. Họ cố mời mãi nhưng người khách vẫn cương quyết từ chối. Thế là họ nổi giận và chửi rủa nặng lời. Người khách cũng làm thinh. Khi tàu đến ga cuối, mọi người đều xuống. 3 thương gia thấy một đám người rất đông cầm hoa đến đón người khách ấy. Họ hỏi một trong những người đó: Ông ta là ai mà được nhiều người hâm mô thế? Người khách trả lời: Ðó là Rabbi Salomon, một Rabbi nổi tiếng khắp nước về lòng nhân từ và đạo đức. Khi ấy 3 thương gia mới hối hận vì những lời chửi rủa của mình. Một người tiến đến Rabbi Salomon ngỏ lời xin lỗi. Nhưng vị Rabbi quay mặt đi, chẳng chịu tha. Các tín đồ của ông ngạc nhiên quá, hỏi: "Thầy vốn là một người nhân từ và đạo đức. Nhưng sao thầy không tha cho một kẻ đã biết lỗi và xin lỗi thầy?". Vị Rabbi giải thích: "Kẻ mà anh ta đã chửi không là một hành khách tầm thường. Còn người mà anh ta xin lỗi là Rabbi Salomon. Anh ta đã xin lỗi lầm người rồi".
Câu chuyện có ý nói rằng: người ta dễ xin lỗi đối với những người có địa vị cao, có quyền lực lớn. Nếu thương gia nọ không biết người mình đã chửi là một nhân vật nổi tiếng thì chắc chắn anh ta không xin lỗi đâu.
Câu chuyện trên cũng dạy chúng ta bài học này là: muốn xin lỗi thì ta phải khiêm tốn, hạ mình:
Nhiều khi chúng ta không thể mở miệng xin lỗi được đối với những người nhỏ hơn mình. Ta cho rằng chỉ có người nhỏ xin lỗi người lớn chứ không bao giờ ngược lại.
Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì chúng ta còn tự ái, cho rằng làm như thế là nhục.
Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì cho rằng như thế là tự nhận rằng mình sai.
Ta tưởng rằng như thế là tự trọng. Nhưng đó là sự tự trọng không đúng chỗ và là biểu hiện của tính xấu kiêu ngạo. Satan chống lại Chúa. Sau đó nó biết lỗi nhưng nó không bao giờ xin lỗi. Giuđa sau khi bán Chúa cũng biết lỗi nhưng cũng không xin lỗi.
Cách đây vài năm, ÐGH Gioan Phaolô II đã ngỏ lời xin lỗi với cả thế giới về những lầm lỗi của Hội Thánh trong quá khứ. Trước khi ÐGH làm việc này, nhiều người trong Hội Thánh đã cản ngăn ngài vì nghĩ rằng làm như thế là hại đến uy tín của Hội Thánh. Tuy nhiên sau khi ÐGH làm việc đó thì lạ thay, người ta chẳng những không che cười, trái lại còn khen ngợi ngài; uy tín của Hội Thánh chẳng những không giảm mà còn tăng thêm.
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay bảo chúng ta tha thứ. Nhưng Lời Chúa cũng bảo chúng ta làm một việc khác khó hơn, đó là biết xin lỗi. Muốn thế, chúng ta phải khiêm tốn hạ mình. Chúng ta nên biết rằng hạ mình xin lỗi không phải là nhục nhã, trái lại sẽ sinh nhiều kết quả rất tốt: đối với bản thân, nó làm tăng uy tín của mình, đối với cuộc sống chung, nó hàn gắn những vết thương do những va chạm gây ra và giúp cho cuộc sống chung được ấm êm hạnh phúc hơn.
5. Chuyện minh họa
a/ Tha thứ
Ngày nọ, Ðức giám mục John Selwyn thấy một cậu con trai người bản xứ cư xử thô bạo với các trẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị giám mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trân. Nhưng vị giám mục không cho họ làm gì. Rồi ngài quay lưng và lặng lẽ bỏ đi.
Nhiều năm sau, một nhà truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp: "Xin đặt là John Selwyn, vì chính ngài đã dậy cho tôi biết Ðức Kitô là ai khi tôi đánh ngài."
b/ Xin tha
Satan phàn nàn với Chúa: "Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời." Chúa nói: "Ðã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa?".
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Cha nhân từ hay thương xót, lúc nào Ngài cũng sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho những ai thật lòng sám hối ăn năn. Luôn tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1. Hội Thánh là một bà mẹ hiền / đầy lòng bao dung đối với lỗi lầm của con cái mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / biết luôn quảng đại tha thứ mọi xúc phạm / mọi đau khổ do kẻ khác gây ra cho mình.
2. Trong cuộc sống thường ngày / người ta vẫn còn có khuynh hướng ăn miếng tả miếng / sẵn sàng chém giết nhau / chỉ vì chưa tha thứ cho nhau như Chúa đã dạy / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cho tinh thần tha thứ của Ðức Kitô / tác động đến mọi sinh hoạt thường ngày của xã hội.
3. Tha thứ / nhất là tha thứ luôn luôn / trong thực tế là một việc làm con người không thể thực hiện được / nếu không có ơn Chúa trợ giúp / Vậy Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban ơn giúp sức cho hết thảy các kitô hữu / để họ có thể tha thứ được như Chúa đã dạy.
4. Ðức Giêsu nói / "Hãy tha thứ để được thứ tha" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết sẵn sàng tha thứ lỗi lầm của người khác / hầu xứng đáng lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa.
CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con phải tha thứ cho nhau, nếu muốn được Chúa tha thứ mọi lỗi lầm. Nhưng lạy Chúa, nói tha thứ thì dễ, còn thực hành tha thứ thì rất khó. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống như Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị...
VI. Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay chúng ta hãy hết sức thật lòng khi đọc câu "Xin Cha tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Chúc bình an: Qua cử chỉ chúc bình an, chúng ta hãy thật lòng tha thứ cho những kẻ làm mất lòng chúng ta, dù đang có mặt hay vắng mặt trong Nhà thờ này.
VII. Giải tán
Tuần này, chúng ta hãy cố gắng hòa giải với những người đã bất hòa với mình, và tha thứ cho những kẻ xúc phạm đến mình.
7. Lòng thương xót – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
Thiên Chúa là Đấng nhân từ và giầu lòng thương xót. Xưa nay Kitô-hữu biết như vậy, và thường dựa vào đó để nài xin Thiên Chúa nhân hậu tha thứ tội lỗi cho mình, nhưng ít khi ao ước khao khát trở nên nhân hậu theo mẫu tuyệt hảo là Thiên Chúa. Một khi con người sống nhân hậu thì họ trở nên hoàn hảo và sống hạnh phúc hơn.
1. Hận thù ghen ghét
Hận thù và ghen ghét, muốn làm hại người khác, muốn người khác khổ, muốn những tai họa đổ xuống trên đầu người mình thù ghét và những người thân của họ, không muốn người khác sung sướng hạnh phúc, điều này làm người khác và chính mình sống trong buồn bực lo lắng bất an.
Người hận thù cưu mang, nuôi dưỡng tư tưởng làm hại người khác trong lòng họ. Những giây phút họ thoải mái là những giây phút họ quên ý định hận thù, nhưng khi họ nhớ tới, là họ bị nung nấu và họ không thoải mái hạnh phúc. Có những người luôn nghĩ xấu cho người khác, cho rằng người khác luôn suy nghĩ và tìm cách làm hại mình, muốn điều xấu cho mình; khi cưu mang suy nghĩ như vậy, chính người đó cũng bất an cực khổ. Dưới một khía cạnh nào đó có thể nói, ai sống trong thù hận ghen ghét, luôn nghĩ xấu cho người khác, đã phần nào sống trong hoả ngục rồi, nếu hiểu hoả ngục là tình trạng không hạnh phúc, luôn bị dày vò day dứt đau khổ. Và cũng trong ý nghĩa này người ta nhận ra, Thiên Chúa không tạo nên hoả ngục, nhưng chính con người tạo ra hoả ngục cho chính mình.
Yêu thương là muốn điều tốt cho người khác, muốn người khác trở nên tốt lành hầu họ nhìn nhận đúng thực tại, để họ bình an và hạnh phúc hơn. Khao khát cho mình và cho người khác trở nên trọn lành, ngay cả những người không ưa hay ghét mình, là khởi đầu của tình yêu đối với tha nhân và đối với Thiên Chúa.
2. Không thương xót là không yêu thương
Trong Tin Mừng ngày hôm nay, Đức Yêsu cho chúng ta nghe một dụ ngôn về lòng thương xót. Một người mắc nợ chủ, không có gì để trả, đáng lẽ phải bị bán làm nô lệ để trả nợ; anh ta van xin và nhận được lòng thương xót của chủ, và anh ta đã không bị bán nữa mà còn được tha cả món nợ. Thế nhưng anh ta đã không thương xót người bạn, khi người bạn chỉ nợ anh ta một chút xíu so với cái nợ to lớn của anh ta đối với chủ mà anh ta đã được tha “nhưng không.” Anh ta đưa người bạn ra tòa, để rồi người bạn phải vào tù vì “thiếu công bằng,” vì đã không hoàn trả nợ khi đến thời hạn. Theo “luật” công bằng, anh ta có thể làm như vậy, vì ai mắc nợ thì phải trả; tuy nhiên khi làm như vậy, anh ta đã không có lòng thương xót như anh ta đã van xin lòng thương xót của chủ.
Không lòng thương xót, không động lòng trước nỗi khổ của người khác, không động lòng trước sự bất lực của người khác, đòi phải “công bằng” khi người ta không thể trả nợ được, là điều bất nhân. Công bằng đúng nghĩa, phải luôn luôn hàm chứa yêu thương. Nếu không có yêu thương, không có công bằng. Con người là một giá trị “tuyệt đối” theo một nghĩa nào đó. Lòng thương xót đòi phải thông cảm ngay cả những giới hạn yếu đuối của con người, ngay cả khi họ “sa ngã” phạm tội. Khi nói sa ngã, hàm chứa lúc yếu đuối họ làm như vậy nhưng bây giờ họ không muốn như vậy nữa. Thông cảm và tha thứ, là dấu chỉ của tình yêu. Ai không tha thứ, là không yêu thương, và như vậy không hành xử giống như Thiên Chúa, không là con của Thiên Chúa.
Thánh Yoan nói, Thiên Chúa là Tình Yêu. Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương. Ai yêu thương là sống như Thiên Chúa, ai không yêu thương là không sống như Thiên Chúa, là không sống như con cái Thiên Chúa. Kitô giáo là đạo yêu thương, chính vì vậy thánh Phaolô nói: yêu thương là chu toàn tất cả lề luật. Đức Yêsu nói: “Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Cái mới của giới răn Đức Yêsu dạy các môn đệ của Ngài, là hãy yêu thương như Ngài đã yêu thương. Ngài đã yêu thương đến hiến mạng sống cho người khác, cho tất cả mọi người bao hàm cả chúng ta; và đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.
3. Tình thương và hạnh phúc
Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài tạo dựng con người để cho con người chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm.2, 4). Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ tất cả lỗi lầm cho con người, mỗi khi con người trở lại với Ngài. Hơn nữa, chính Thánh Thần Thiên Chúa đang hoạt động nơi lòng mỗi người, mời gọi con người sống yêu thương, mời gọi thúc đẩy tội nhân sám hối trở lại với Thiên Chúa.
Thiên Chúa muốn tất cả được cứu độ, nhưng tuỳ con người. Ngài mời gọi, và con người có tự do. Ngài liên lỉ mời gọi con người hãy sống trong tình yêu của Ngài và với người khác, Ngài kiên nhẫn với con người, với tội nhân cho tới giây phút cuối đời mỗi người. Nếu ai cố tình từ chối lời mời gọi tình yêu, nếu ai cố tình sống trong thù hận như ma quỷ là những thần linh thù ghét Thiên Chúa và không muốn con người sống hạnh phúc, thì những người đó mới phải vào hoả ngục thôi. Và hoả ngục, cũng chính là do họ chứ Thiên Chúa không muốn con người đau khổ. Thiên Chúa không muốn ai đau khổ và bất hạnh.
Yêu thương là khởi đầu của một đời sống hạnh phúc. Yêu thương, thông cảm với nỗi khổ và yếu đuối của người khác, tha thứ khi họ xúc phạm đến mình, muốn cho người khác những điều tốt lành, tìm cách làm cho người khác được vui hơn, hạnh phúc hơn, đỡ cô đơn hơn, là cách hành xử của những người đang sống như con cái Thiên Chúa, đang sống trong yêu thương. Và chắc chắn những người sống như vậy, họ cảm nghiệm hạnh phúc, hạnh phúc khi làm cho người khác vui và hạnh phúc hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tha thứ, hệ tại điều nào?
2. Thiên Chúa có sẵn sàng tha thứ cho kẻ ngoan cố không? Tại sao?
3. Không yêu thương là bất hạnh. Bạn nghĩ sao về quan điểm này?
8. Tha thứ.
Ở bên Nhật, có một tên sát nhân khét tiếng đã từng giết hại nhiều người, hắn chẳng may bị bắt và bị tống giam trong ngục, chờ ngày lãnh nhận bản án tử hình. Thế rồi có hai phụ nữ đạo đức đã tới thăm viếng và trò truyện với hắn, nhưng hắn đã đáp lại bằng một cái nhìn hằn học. Trước khi ra về, họ đã để lại cho hắn cuốn Phúc âm với hy vọng mong manh là hắn sẽ đọc.
Quả thật, vì chẳng có việc gì làm, nên hắn đã tò mò mở ra, và rồi hình như có một sức thu hút nào đó, khiến hắn tiếp tục đọc, đọc mãi cho đến lời cầu của Chúa Giêsu trên thập giá:
- Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.
Hắn đã dừng lại và nói:
- Sự kiện trên đã làm cho tôi xúc động và tôi cảm thấy dường như sự hung dữ và tàn bạo của tôi đã tan biến, bởi vì tôi đã tin.
Câu chuyện trên làm cho chúng ta nhớ tới người trộm lành trên thập giá. Mặc dù quãng đời dĩ vãng chồng chất những tội lỗi, nhưng rồi anh đã được Chúa tha thứ. Chính Ngài đã nói với anh:
- Ta bảo thật, ngay hôm nay anh sẽ được ở trên thiên đàng với Ta.
Tên sát nhân ở Nhật Bản, cũng như người trộm lành đều là những kẻ tàn bạo, thế mà Chúa đã xót thương, cho ăn năn sám hối vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời, thì tự hỏi làm sao chúng ta lại khước từ, chẳng tha thứ cho nhau.
Chính Ngài đã khẳng định qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay:
- Thầy không bảo các con phải tha thứ đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy lần, có nghĩa là phải tha thứ cho nhau mãi mãi.
Và để xác minh cho sự thật trên người ta đã đưa ra một câu chuyện cụ thể đó là câu chuyện về tên đầy tớ độc ác. Như chúng ta thấy, khi mắc nợ ai, chúng ta phải hoàn trả cho họ, đó là bổn phận của đức công bằng.
Cũng vậy, tên đầy tớ mắc nợ nhà vua mười ngàn nén bạc, mà hắn thì không có gì để trả, vì thế, nhà vua cứ dựa theo sự công bằng để ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con và tài sản mà trả nợ. Thế nhưng, nhà vua đã không hành động như thế. Ông đã không cư xử với hắn theo sự công bằng, mà theo lòng thương xót, bởi thế ông đã tha bổng cho y, và đòi y cũng phải thương xót đối với những người chung quanh:
- Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, thì đến lượt ngươi, ngươi cũng phải thương xót bạn ngươi như ta đã thương xót ngươi.
Trong mối liên hệ giữa người với người, chúng ta thấy công bằng phải đi trước bác ái và làm nền tảng cho bác ái, bởi vì nếu không có công bằng thì cũng chẳng có bác ái. Thế nhưng nhiều lúc chúng ta phải vượt lên trên cái nền tảng công bằng này để biểu lộ một tình yêu thương và tha thứ.
Còn chúng ta thì sao, liệu chúng ta có sẵn sàng tha thứ cho anh em để rồi bản thân chúng ta sẽ được hưởng nhờ lòng thương xót của Chúa hay không?
9. Hai người lính - Lm. Mark Link, SJ.
Chủ đề: "Khi nào chúng ta thấy khó lòng tha thứ cho kẻ khác thì chúng ta nên quay về Chúa Giêsu, cầu xin Ngài giúp đỡ.".
Corri ten Boom sống tại Amsterdam (Hoà Lan) trong thế chiến thứ hai. Gia đình cô làm một cửa tiệm đồng hồ. Khi bọn Ðức Quốc Xã xâm chiếm Hoà Lan, gia đình cô bắt đầu giúp đỡ dân Do Thái đang bị truy nã có hệ thống và bị đem đi đến các trại tử thần. Cuối cùng có kẻ đã tố cáo gia đình cô. Thế là gia đình cô bị gởi đến trại tập trung. Corrie và em gái cô là Betsy bị gởi đến trại Ravens ô nhục. Cả gia đình Corrien chỉ mỗi mình cô còn sống sót sau cơn thử thách. Sau chiến tranh, cô đi du lịch khắp Aâu Châu rao giảng về sự tha thứ và hoà giải. Sau một cuộc nói chuyện ở Munich thuộc Ðức, một người đàn ông đã tiến đến cám ơn cô về bài nói chuyện. Corrie không thể nào tin nổi vào mắt mình. Gã này chính là một trong những tên lính gác Quốc xã từng có nhiệm vụ coi sóc phòng tắm vòi sen của phụ nữ tại trại Ravensbruck. Gã ta tiến tới tính bắt tay Corrie. Corrie như đông cứng người lại không thể nào giơ tay ra bắt được. Sự ghê tởm trại tập trung kèm theo cái chết của người em gái chợt trở lại trong ký ức của cô. Lòng cô tràn ngập nỗi oán hờn và ghê tởm. Corrie không thể tin được cách trả lời của cô. Chính cô vừa mới giảng một bài thật cảm động về lòng tha thứ, thế mà bây giờ cô lại không thể nào tha thứ được. Cô bị xúc động quá đến nỗi không thể nào bắt tay gã lính gác nọ được.
Thỉnh thoảng trong cuộc sống, tất cả chúng ta đã từng cảm nghiệm đôi điều tương tự như Corrie. Chúng ta cảm thấy mình không thể nào tha thứ cho một kẻ nào đó. Chúng ta thấy tình cảm mình như bị chận đứng lại đối với một kẻ nào đó đã từng gây đớn đau thương tích cho chúng ta.
Ðiều này nêu ra một vấn nạn xốn xang đau đớn. Làm sao chúng ta có thể xử lý một vấn đề như thế? Chúng ta phải làm gì đây khi không thể nào tha thứ cho một ai đó? Làm thế nào để thoát ra khỏi sự bế tắc tình cảm đang bít kín mọi nỗ lực tốt nhất của chúng ta nhằm để tha thứ? Làm thế nào thi hành giáo huấn về sự tha thứ mà Chúa Giêsu đưa ra trong phúc âm hôm nay? Thái độ của chúng ta phải như thế nào trước những lời cảnh cáo trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Lời cảnh cáo đó là: nếu chúng ta từ chối không xót thương anh chị em mình, thì đừng mong Thiên Chúa sẽ thương xót chúng ta.
Hãy trở lại với câu chuyện của chúng ta về Corrie. Hãy xem cô ta xử lý trường hợp của mình thế nào. Trong lúc người cô như bị đông lạnh co cứng. Corrie liền im lặng cầu nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, con không thể tha thứ cho người này. Xin ban cho con sự tha thứ của Chúa". Ngay lúc đó, Corrie nói hình như có một sức mạnh của ai khác đẩy tới, tay cô bỗng nắm lấy tay gã lính gác trong niềm tha thứ thực sự. Và ngay lúc đó cô chợt khám phá ra một chân lý vĩ đại. Không phải dựa trên sự tha thứ của riêng chúng ta mà thế giới quanh ta được chữa lành mà chính là dựa trên sự tha thứ của Chúa Giêsu. Khi truyền bảo chúng ta yêu kẻ thù, Chúa Giêsu cũng trao cho chúng ta ân sủng cần thiết kèm theo để tha thứ cho họ. Như thế, phương cách thứ nhất để xử lý vấn đề không thể thứ tha cho một ai đó là cầu xin Chúa Giêsu ơn tha thứ. Phương cách thứ hai để xử lý vấn đề trên được nhắc đến trong bài phúc âm hôm nay, đó là làm điều mà viên chức nọ đã không làm, là tự mình ngồi xuống trước mặt Chúa Giêsu và nhớ lại Chúa đã tha thứ cho chúng ta không biết bao nhiêu lần. Ngài đã tha thứ cho chúng ta vô cùng nhiều hơn Ngài yêu cầu chúng ta tha thứ cho kẻ khác. Ðiều nhỏ nhất chúng ta có thể đáp lại là giơ tay ra tha thứ cho anh em mình. Và phương cách thứ ba để xử lý vấn đề trên là cố gắng nhìn kẻ thù mình trong một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ, tức là nhìn họ không phải như kẻ thù mà là những con người đang đau khổ giống như chúng ta. Tôi xin cắt nghĩa rõ hơn điều tôi muốn nói:
Trong cuốn tiểu thuyết nhan đề "Mặt trận phía tây hoàn toàn yên tĩnh" (All quite on the Westem) có một cảnh đầy cảm động. Lúc đó cuộc chiến đang xảy ra dữ dội giữa đám lính Pháp và Ðức. Một chú lính Ðức trẻ nằm dưới một hầm đạn để tránh đạn pháo. Bỗng nhiên một người lính Pháp cũng nhảy vào cùng hầm ấy để tránh đạn pháo. Trước khi người lính Pháp kịp ra tay, thì chú lính Ðức đã đâm ngay người ấy vài nhát. Tuy nhiên người lính Pháp không chết liền mà nằm thoi thóp ra đó. Chàng lính Ðức, trẻ măng như một chú bé, chăm chú nhìn cặp mắt hãi hùng của người lính Pháp. Chú ta thấy miệng người lính Pháp này há hốc ra, đôi môi khô và nứt nẻ. Chú ta bèn động lòng thương và rút chai nước của mình ra cho người lính thù địch ấy uống. Cuối cùng khi người lính thù này qua đời, chú lính trẻ người Ðức cảm thấy ân hận sâu xa. Ðây là người đầu tiên bị chú ta giết. Chú thắc mắc không hiểu tên người này là gì. Trông thấy chiếc ví trong túi người chết, chú ta liền kính cẩn rút ra xem chiếc ví đựng vài tấm ảnh gia đình, một tấm có hình một người đàn bà và một đứa bé gái.
Chú lính Ðức vô cùng cảm động. Bỗng dưng, chú nhận thấy người lính đã chết không phải là kẻ thù, mà là một người cha, người chồng -- tức là một người biết yêu và được yêu y hệt như chú vậy. Ðộng lòng thương xót, chú liền lấy một miếng giấy và ghi vào đó địa chỉ người đã chết. Chú tính sẽ viết một lá thư cho vợ ông ta.
Ðiều gì đã xảy ra trong chiếc hầm đạn ấy? Phải chăng chú lính Ðức bất ngờ nhận ra bổn phận phải yêu thương đồng loại và chú tự bắt mình phải yêu thương người lính vừa mới chết? Không phải thế đâu!
Sự việc xảy ra như thế này: chú lính Ðức chợt nhìn thấy người từng bị xem là kẻ thù của chú bằng một ánh sáng hoàn toàn mới mẻ. Và chính sự thay đổi cách nhìn này là đã thay đổi thái độ của chú đối với người ấy.
Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các kẻ hành hình Ngài bằng một ánh sáng khác hẳn chúng ta nhìn nhiều. Ngài nhìn vượt lên trên vẻ bề ngoài của họ. Ngài nhìn ra bản chất thực sự của họ là những đứa con lạc đường của Cha Ngài.
Nếu muốn tha thứ cho kẻ thù, chúng ta phải bắt đầu nhìn thấy họ bằng một ánh sáng mới. Chúng ta phải bắt đầu nhìn họ giống như Chúa Giêsu nhìn thấy họ.
Tóm lại để xử lý cho trường hợp không thể tha thứ cho kẻ thù.
Thứ nhất chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu ơn tha thứ giống như Corrie đã làm.
Thứ hai, hãy nhớ lại Chúa Giêsu đã tha thứ cho chúng ta vô cùng nhiều hơn là Ngài đang đòi chúng ta tha thứ.
Thứ ba, hãy cố gắng nhìn kẻ thù mình theo cách Chúa Giêsu nhìn quân thù Ngài, nghĩa là xem họ như những anh em đang lầm đường lạc lối.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta khám phá lại tương giao của mình với kẻ khác. Ðặc biệt với các thành viên trong gia đình mình. Bài phúc âm ấy mời gọi chúng ta tự vấn xem tương giao nào trong số này cần được cải thiện đồng thời mời gọi chúng ta khởi sự tiến trình chữa lành tương giao nào bị trục trặc.
Chúng ta hãy kết thúc với lời kinh cầu của thánh Phanxicô:
"Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem tin kính vào nơi nghi nan, đem hy vọng vào nơi thất vọng, đem ánh sáng vào nơi tăm tối, đem niềm vui đến chốn u sầu.
Xin hãy dạy con: tìm an ủi người hơn được người ủi an,
Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết
Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu.
Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh.
Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ.
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời".
10. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Từ những mâu thuẫn có khi rất nhỏ nhặt dẫn đến trả thù nhau ngày càng diễn ra ở mọi tầng lớp và mọi môi trường sống của con người: nơi gia đình, nơi học đường và ngoài xã hội. Hậu quả của những cuộc trả thù là: bị thương tổn về tinh thần cũng như thể xác, thậm chí có những cuộc trả thù gây ra án mạng.
Cách đây không lâu do những mâu thuẫn nhỏ nhặt theo kiểu học sinh và sự “tinh tướng” của lứa tuổi mới lớn, nhóm học sinh cùng trường thuộc huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang đã gây ra cái chết cho chính một người bạn học của mình. Nếu chúng ta gõ trên google chữ “trả thù” thì nó sẽ hiện ra những hàng tít như: Đi ‘báo thù’ cho em, đánh nhau loạn xạ, người anh trai bị đâm chết; Dùng 6 xe tải chở 120 côn đồ đi trả thù; Đi trả thù, con chết cha nhập viện; Anh vác dao đi đánh nhau, trả thù cho em rồi bị đâm chết: Biết trách ai?...
Lối sống và cách cư xử trên đây đi ngược lại với đời sống và lời dạy của Đức Giêsu. Thật vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu là bài học về sự tha thứ. Trong ba năm rao giảng Tin mừng, Ngài đã từng tha thứ cho những kẻ tội lỗi như ông Lêvi, ông Giakêu, người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Ngài từng bị chống đối và bách hại bởi các luật sĩ, biệt phái...Đặc biệt vào những ngày cuối đời, Ngài bị bắt, bị đánh đập, bị xỉ nhục, bị đội mão gai, chịu vác thập giá và đóng đinh trên thập giá…nhưng Ngài không một chút oán hận những kẻ làm hại mình, trái lại Ngài còn cầu nguyện cùng Chúa Cha rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 33). Chỉ một lời cầu nguyện với lòng sám hối của kẻ trộm lành, Ngài đã tha thứ và cho anh ta vào Thiên đàng ngay ngày hôm đó. Sau khi sống lại, Ngài đã không nhớ đến tội của các môn đệ, nhất là tội chối Thầy của ông Phêrô. Ngài còn lập bí tích Giao hòa để tha thứ tội lỗi cho con người mãi cho đến tận thế.
Ngài không những sống tha thứ mà còn dạy các môn đệ và mỗi người chúng ta biết tha thứ cho mọi người. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, khi Phêrô đến hỏi Ngài: Phải tha thứ mấy lần, có phải bảy lần không? Ngài đã trả lời với Phêrô rằng: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22). Tha thứ bảy mươi lần bảy không có nghĩa là 490 lần, mà là tha thứ không có giới hạn, tha thứ mãi mãi. Để quảng diễn tư tưởng đó, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn “Tên mắc nợ không biết thương xót” (x. Mt 18, 23-35). Trong dụ ngôn này, nhà vua chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa “là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân” (Tv 102,8). Ngài không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn thống hối để được sống (x. Ez 18,23). Trong thời Cựu Ước, dân Do thái đã bao lần phạm tội, lỗi giao ước, bội thề…nhưng hễ họ ăn năn sám hối trở về, Thiên Chúa lại tha thứ cho họ. Cùng với tâm tình đó, Đức Giêsu khẳng định: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5,32). Đức Giêsu còn kể nhiều dụ ngôn để nói về lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa, trong đó có ba dụ ngôn (Lc 15): Con chiên bị mất, đồng bạc bị đánh mất và người cha nhân hậu. Đức Giêsu không chỉ dạy tha thứ cho kẻ thù mà còn dạy cho chúng ta phải cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù nữa. Ngài nói: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44).
Vì sao Đức Giêsu sống tha thứ và dạy cho chúng ta bài học về sự tha thứ?
Thứ nhất, vì con người là bất toàn, hay sai lỗi như thánh Gioan nói: “Ai nói mình vô tội đó là kẻ nói dối” (x.1Ga 1,10). Có tội thì cần được tha. Tôi có tội cần sự tha thứ của anh em. Anh em có tội cần sự tha thứ của tôi. Chúng ta có tội cần sự tha thứ của Thiên Chúa. Như vậy, tha thứ rất cần thiết giữa con người với nhau và con người cần sự tha thứ của Thiên Chúa.
Thứ hai, khi thực hiện sự tha thứ là chúng ta nên giống Thiên Chúa, nên con cái của Cha chúng ta là Đấng ngự trên trời “vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45).
Thứ ba, tha thứ là điều kiện để Chúa nhận của lễ chúng ta dâng: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24).
Thứ tư, tha thứ là điều kiện để được Chúa thứ tha: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”(Mt 6,14-15). Trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cũng dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12). Sách Huấn Ca cũng dạy: “Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ khác, thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn sẽ được tha” (Hc 28,2).
Thứ năm, tha thứ sẽ đem lại bình an cho con người. Trái lại, hận thù sẽ làm cho con người mất bình an. Đúng như người ta nói: “Lấy oán báo oán, oán oán chập chùng, lấy đức báo oán, oán ấy tiêu tan.”
Như vậy, qua mẫu gương và lời dạy của Đức Giêsu, và vì những lý do trên, nên mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực hiện sự tha thứ trong gia đình, trong cộng đoàn và mỗi môi trường chúng ta sống. Tuy nhiên, để thực hiện sự tha thứ không phải là chuyện dễ dàng. Vì thế, chúng ta hãy noi gương bắt chước Đức Giêsu. Ngoài mẫu gương của Đức Giêsu chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của các đấng bậc trong đạo ngoài đời: Gương của Thánh Stêphanô tha thứ cho Saolê và những kẻ giết mình; Gương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tha thứ cho kẻ sát thủ Mehmet Ali Agca; Gương của Thánh Maria Goretti tha thứ cho Alessandrô là kẻ làm hại mình; Ông Gandhi vị anh hùng dân tộc Ấn Độ cũng chủ trương rằng: “Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết tha thứ cho anh chị em mình như Chúa đã tha thứ cho chúng con. Amen.
11. Tha thứ nét độc đáo nhất của người Công Giáo
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang)
Trong Cựu Ước, tội nhân là con nợ được Thiên Chúa tha thứ cho nhờ ơn tha thứ của Ngài. Thiên Chúa tha thứ sạch hết mọi tội, xem như Ngài vất ra sau lưng, đúng như Lời Chúa trong Thánh vịnh đáp ca chúng ta vừa mới đọc: “CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà, ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc, khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng” (Tv 103,3-5).
Vâng, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống thế làm người đã không ngừng loan báo sự bao dung, và kêu gọi tha thứ và chính Ngài đã thực hiện trước để chúng ta noi theo. Qủa thế, trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu chịu biết bao nhiêu là khổ nhục: chửi mắn, sỉ vả, đánh đập, khinh khi... nhưng Ngài vẫn không thù vặt, sống không để bụng, chết cũng chẳng mang theo hay trả đủa dù Ngài làm được. Qủa thế, trên cây Thánh giá, trước khi tắt thở, Chúa Giêsu nói rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Lời nói chưa đủ, Ngài đã đổ máu mình ta để tha tội cho con người (Mc 14,24). Vì vậy, Chúa Giêsu là Tôi Tớ đích thực của Thiên Chúa, Người làm cho những kẻ được Người gánh tội trở nên công chính (1Pr 2,24).
Tha thứ của Chúa Giêsu là thế đó, tha vô điều kiện, tha vô hạn nên hôm nay Ngài dạy: "Thầy không bảo là tha thứ đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy" (Mt 18,22). Tiếc thay, chúng ta rất đỗi nhỏ nhen! Chúng ta thể hiện sự nhỏ nhen ấy ngay trong cách sống của mình: thù vặt, bất bao dung, giận hờn cay đắng hay từ nhau... Cho nên, trong cuộc sống biết bao nhiêu chuyện cay đắng, nghiệt ngã xảy ra từ trong gia đình ra xã hội: cha con chém giết nhau, vợ chồng ly dị, con cái đánh đập cha mẹ, anh chị em đánh đập nhau, bạn bè đánh nhau, đồng nghiệp chơi xấu nhau, rồi ngay cả trong tình yêu trai gái cũng chẳng chịu tha thứ cho nhau cho nên dù tình yêu đầu hay tình cuối thắm thía đến mấy cũng chia tay để rồi tuyệt vọng tự tử. Cho nên mới có chuyện: "Tình đầu hay tình cuối? khi một ngày một người đã ra đi... Tình đầu hay tình sau? khi cơn đau không biết đến bao lâu? Một ngày ta được yêu, rồi một ngày một mình ta buồn thiu. Biết trống vắng, biết thức trắng, và biết nếm trái đắng. Mà đời thì như chiêm bao, khi yêu nhau biết ra sao ngày sau? Tình đầu thường lên men đau, nên đôi khi trái tim như nhỏ máu. Đường tình nào biết đến phút cuối, bẽ bàng rồi lòng chất ngất tiếc nuối. Thì tình đầu chỉ còn trong kỷ niệm mà thôi... Em ơi! Em ơi, em đâu rồi... làm sao anh hôn dòng tóc rối? Em ơi! Em ơi, em đâu rồi... làm sao... làm sao ta có đôi? Em ơi! Em ơi, em đâu rồi... mộ bia đề tên em đó sao? Em ơi! Em ơi, em đâu rồi... để tình đầu là tình cuối đau lòng nhau?" (Lời bài hát Tình Đầu và Tình cuối)
Yêu nhau mà không tha thứ cho nhau dẫn đến cái chết đau thương thì cuộc đời còn gì là ý nghĩa, hạnh phúc và đáng sống. Vì vậy, hôm nay, Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta hãy sống nét độc đáo nhất của đạo Công Giáo đó là sự tha thứ, tha thứ cho hết mọi người kể cả kẻ thù chúng ta. Nhưng không ai trong chúng ta lại không cảm nhận nỗi khó khăn khi phải tha thứ cho người khác. Thế thì động lực độc đáo nhất của Kitô giáo thúc đẩy chúng ta dám tha thứ cho nhau là gì? Thưa đó là khi chúng ta cảm nhận chính mình được tha thứ, mình sẽ dễ dàng tha thứ cho người khác.
Cụ thể, hôm nay Chúa Giêsu dùng câu chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách... mà chúng ta vừa mới nghe để dạy chúng ta biết lòng bao dung, tha thứ vô điều kiện của Thiên Chúa với con người và sự độc ác nhỏ nhen của con người với nhau. Chúng ta được Thiên Chúa tha thứ cho món nợ rất lớn như thế, nhưng ngược, lại mình vẫn không chấp nhận tha thứ món nợ nhỏ cho anh em mình. Tai sao?
Thứ nhất, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói rằng vì con người ngày hôm nay đang dần dần đánh mất cảm thức về tội lỗi. Cho nên mình ăn gian nói dối, trộm cắp, phá thai, giết người... mà lương tâm mình bình thương không có gì là cắn rứt, không cần Chúa tha thứ (Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium Vitae, số 63). Thứ hai, con người quá yêu cái tôi của mình, cho nên những nhân đức của mình thì phóng cho to, còn những nét xấu giảm đến mức tối thiểu. Ngược lại, với người khác thì phóng đại cái tội lỗi người ta và giảm thiếu nhân đức của họ. Rồi, khi có lỗi với anh em, chúng ta chạy đến Chúa xưng tội, Chúa tha thứ hay là chúng ta chạy đến người mình phạm thôi, xin họ tha thứ; ngược lại họ lỡ phạm đến mình, chúng ta hậm hực không thể bỏ qua, “sống để bụng, chết mang theo”, hoặc bằng mặt chứ không bằng lòng. Hai lý do đó làm cho chúng ta mất cảm giác mình được Chúa tha thứ và cũng mất cảm giác bao dung tha thứ cho người khác.
Vậy phải làm gì? Lời Chúa trong bài đọc hai, Thánh Phaolô nói: “không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; vì Đức Ki-tô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết” (Rm 14,7-9). Vâng, sống cho Chúa nghĩa là sống với Chúa trong cầu nguyện. Chính trong cõi thinh lặng ấy ta có thể lắng nghe tiếng Đấng đã nói với ta trước khi ta nói lên lời, Ngài đã chữa lành ta trước khi ta có thể giơ tay kêu cứu, đã giải thoát ta trước khi ta có thể giải thoát kẻ khác và đã yêu thương ta trước khi ta yêu thương tha nhân. Vì vậy, khi cầu nguyện với Thiên Chúa càng sâu xa bao nhiêu, chúng ta càng cảm nhận sự thánh thiện của Thiên Chúa bấy nhiêu, và ngược lại càng thấy mình khiếm khuyết và tội lỗi, chính lúc ấy chúng ta mới nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa, để rồi “cũng tha cho kẻ mắc nợ với chúng con” (Mt 6,12).
Bình thường chúng ta đối xử với nhau bằng sức mạnh: bạo lực, chính trị, đồng tiền, toan tính thủ đoạn; nếu ai tha thứ thì cho là kẻ hèn nhát. Di sản tinh thần lớn nhất trên thế gian không phải là sức mạnh của bạo lực, tiền bạc mà là tình thương, tha thứ, vì tha thứ là chất xi măng xây dựng tình hiệp nhất, “tứ hải giai huynh đệ”. Hơn thế nữa, Lời Chúa dạy: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, thánh hiến và yêu thương. Vì thế anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà, nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em, người này có chuyện phải trách móc người kia, Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3,12-13). Đó chính là chất keo tuyệt vời nhất kết dính mối tình chúng ta với nhau hiệp nhất với Chúa Cha trên trời, trong Chúa Giêsu Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần. Với đức tin ấy, mời quý ông bà và anh chị em đứng lên tuyên xưng đức tin.
12. Giá trị cục tẩy
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một cậu bé hỏi cha: Tại sao bút chì có tẩy?
Người cha ôn tồn trả lời: để xóa đi những chữ viết sai, viết chưa đẹp hoặc để xóa đi những gì không đúng trên trang viết!
Quả thực, cục tẩy thật cần thiết. Nếu không có nó thì trên trang giấy sẽ bề bộn những gạch xóa lem luốc. Cục tẩy sẽ làm mới lại những gì đã viết lên trang giấy không đúng. Cục tẩy sẽ chỉnh lại những lỗi viết sai hay ẩu thả của chủ nhân.
Cuộc đời con người cũng cần có một cục tẩy. Một cục tẩy của lòng bao dung và sự tha thứ. Một cục tẩy có khả năng xóa đi những sai lầm của người khác và của chính bản thân ta! Nếu cuộc đời chúng ta không dám sử dụng cục tẩy để xóa đi những bất hòa ghen tương, những hận thú tranh chấp, những lỗi lầm tội lỗi sẽ làm cho những trang giấy cuộc đời nhem nhuốc những dòng gạch và xóa! Muốn cuộc đời mình đẹp thì phải biết xóa đi những gì không đúng, không đẹp để trang giấy cuộc đời rạng rỡ hơn. Nhưng đáng tiếc, có rất nhiều người cho tới lúc tuổi già vẫn để cục tẩy của mình còn nguyên vẹn vì chúng ta ít can đảm xóa đi những hận thù.
Có một lần sau khi giảng về lòng bao dung tha thứ, vị linh mục hỏi các giáo dân của mình ai sẽ sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù. Khoảng một nửa trong số họ giơ tay lên. Chưa hài lòng, ông giảng thêm 20 phút nữa và hỏi lại câu hỏi cũ. 80% giáo dân giơ tay. Vẫn chưa hài lòng, ông giảng thêm 15 phút nữa và lặp lại câu hỏi trên. Nôn nóng về bữa ăn trưa tuyệt vời của ngày chủ nhật, tất cả giáo dân đều đưa tay lên trừ một ông lão.
- Ông Jones, ông không sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù à?
- Tôi không có kẻ thù nào.
- Thật lạ lùng. Thế ông bao nhiêu tuổi rồi?
- 86.
- Ông Jones này, ông hãy vui lòng lên đây và cho mọi người biết bí quyết để một người sống đến 86 tuổi mà không có một kẻ thù nào cả.
Ông lão bước lên phía trước rồi từ từ quay lại:
- Dễ ợt. Chẳng qua là tôi sống lâu hơn chúng nó thôi
Hôm nay Chúa bảo chúng ta phải tha thứ cho nhau không phải là bảy lần mà là bảy mươi lần bảy, nghĩa là rất nhiều và mãi mãi. Nếu chúng ta không tha thứ nghĩa là chúng ta vẫn để cục tẩy còn nguyên vẹn, đó là lý do khi nhìn vào trang giấy cuộc đời mình thì lắm lem luốt bởi hận thù chua cay. Con người chúng ta “nhân vô thập toàn”. Chúng ta lớn lên trong sự tha thứ của người khác thì chính chúng ta cũng phải học tha thứ cho tha nhân. Thế nên, hãy sống bao dung. Hãy biết tha thứ để cục tẩy của chúng ta mòn dần theo năm tháng, đừng bao giờ để cực tẩy của mình ở mãi trong kho. Bởi vì nếu không sử dụng đến nó cuộc đời của chúng ta sẽ chi chít những vết gạch xóa sau những lần mắc sai lầm! Một tờ giấy như vậy chắc chẳng có gì tốt đẹp phải không?
Chúa Giêsu dạy ta biết tha thứ. Ngài đã sống điều đó. Ngài luôn cảm thông với những lầm lỗi của tha nhân. Ngài dùng tình thương tha thứ để sửa lại lỗi lầm con người. Tình thương ấy Ngài đã mang lại cuộc đời mới cho Gia-kêu, cho Ma-da-lê-na, cho Phao-lô... Ngài đã dùng cục tẩy của sự tha thứ một cách quảng đại. Ngài đã xóa đi những vết nhơ tỗi lỗi của con người. Ngài đã xóa đi những bụi đời trong thân phận yếu đuối của con người. Ngài đã đi đến tận cùng của sự tha thứ là tha cho kẻ đã hành hạ và kết án Ngài.
Là người ky-tô hữu chúng ta phải sống tình thương tha thứ. Tha thứ để sửa đổi anh em. Tha thứ để xóa đi những vết hận thù trong lòng chúng ta. Tha thứ để ta nên hoàn thiện hơn như Cha là Đấng hoàn thiện luôn cho mưa thuận gió hòa trên mọi người.
Tuy nhiên, tha thứ để rồi cũng biết nhìn nhận tội lỗi của bản thân. Không phải bao giờ mình cũng đúng mà có khi chính chúng ta là kẻ gây ra đau khổ cho tha nhân, thế nên, trong nhiều trường hợp chính chúng ta là người cần đến sự tha thứ của người khác.
Có một câu chuyện kể rằng:
A nói với B: "Khu nhà tôi vừa dọn về một ông hàng xóm bất lịch sự. Tối hôm qua, đã gần một giờ sáng rồi mà ông ta còn qua đập cửa nhà tôi rầm rầm". B hỏi: "Thế anh có báo cảnh sát không?". A trả lời: "Không, tôi mặc kệ ông ta, xem ông ta như thằng điên vì lúc ấy tôi đang tập thổi kèn saxophone".
Chuyện gì cũng có nguyên nhân, nếu biết trước lỗi của mình thì hậu quả sẽ khác đi. Tuy nhiên, chúng ta lại thường ít khi thấy mình sai, nhưng lại dễ dàng thấy người khác sai.
Xin cho chúng ta luôn biết hoàn thiện mình như Cha chúng ta. Hoàn thiện con người không làm điều gì tổn thương với tha nhân. Hoàn thiện còn để lòng mình xóa đi những ghen tương, đố kỵ để sống hòa hợp với nhau. Amen.
13. Bài học tha thứ
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bác nông dân đã quá khổ sở vì sự thiếu trách nhiệm của những người hàng xóm. Mặc dù nhà không nuôi gà nhưng gà hàng xóm lại bới nát và phá hoại hoa màu của bác. Vốn bản tính hiền lành luôn "dĩ hòa vi quý", không muốn ăn miếng trả miếng như thói thường người đời. Bác đã nhiều lần van xin láng giềng vui lòng nhốt gà lại. Nhưng chẳng ai chú ý đến lời yêu cầu của bác. Bầy gà cứ thản nhiên sang vườn bác bới móc tìm mồi. Thế rồi, một buổi sáng đẹp trời, Bác ra chợ mua một ít trứng gà để vào một cái giỏ, rồi cứ vài ngày lại đưa sang cho những người láng giềng và giải thích rằng đó là trứng mà bầy gà của họ đã đẻ trong vườn của bác. Bác làm như thế liên tiếp ba lần. Quả thực kết quả đã diễn ra rất nhanh chóng. Chỉ trong một tuần lễ, người láng giềng nào cũng tự động rào dậu thật kỹ để giữ cho gà của mình không sang đẻ ở nhà bác nông dân nữa.
Vâng, Bác nông dân chỉ mất tiền mua ít trứng gà mà bác đã tránh được một cuộc tranh chấp vô ích có thể làm sứt mẻ tình hàng xóm. Cuộc sống chung là vậy, nếu biết nhịn nhục và kiên nhẫn một chút là ta có thể tìm ra nhiều giải pháp tốt nhất để gìn giữ sự hòa thuận, êm đềm cho gia đình, cho xóm làng chúng ta.
Trong cuộc sống chung đụng thường phải có va chạm với nhau. Chén bát để bên nhau, vô tình vẫn có những va chạm bể nát ra huống chi con người. Hôm nay Chúa muốn chúng ta hãy biết tha thứ cho nhau không phải là để cho qua chuyện hay nhịn đi cho xong, mà tha thứ cho nhau, là điều kiện để chúng ta được Thiên Chúa thứ tha. Vì chưng, tất cả chúng ta đều là con nợ của Chúa. Chúng ta nợ Chúa sự sống, nợ Chúa ân tình. Đã nhiều lần chúng ta khất lần khất lượt với Chúa, van xin Chúa hãy tha thứ, cứu giúp mình tai qua nạn khỏi sẽ trả nợ Chúa, sẽ dành vốn sống của mình để làm theo ý Chúa, để phụng thờ Chúa. Hứa đó rồi quên. Quyết tâm rồi lại thất hứa. Thế mà Chúa vẫn yêu thương và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta. Dụ ngôn người con hoang đàng là một bằng chứng về lòng bao dung của Chúa. Người cha đã không cần hỏi mày dùng số vốn của tao làm gì? Bây giờ còn bao nhiêu? Chỉ cần thấy người con quay về là người cha đã quên hết quá khứ lỗi lầm của người con.
Hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta: anh em đã lãnh nhận sự tha thứ của Chúa, thì cũng hãy tha thứ cho nhau. Không phải là một lần hay chỉ "quá tam ba bận" mà là tha thứ mãi mãi. Như vậy, tha thứ đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên nhẫn để cho người xúc phạm đến ta có cơ hội, có thời giờ sửa đổi và làm lại cuộc đời. Đừng như ông quan độc ác kia đã đối xử quá khắt khe với những con nợ của mình. Ông đòi tính sổ với các con nợ và đòi cho đến đồng bạc cuối cùng. Đó cũng là cách đối xử chung của con người hôm nay. Người ta đòi công lý phải được báo thù. Người ta đòi mắt đền mắt răng đền răng. Người ta khó chấp nhận một sự bao dung tha thứ đối với kẻ thù của mình.
Mahatma Gandhi, người đã giải phóng Ấn Độ khỏi ách nô lệ của người Anh bằng cuộc tranh đấu bất bạo động, đã bị một thanh niên Ấn Giáo hạ sát, chỉ vì anh ta không thể chấp nhận được sự kiện Gandhi lại yêu thương và tha thứ cho người Hồi Giáo.
Khi loan báo tình yêu Thiên Chúa cho mọi người, Chúa Giêsu đã không loại trừ một hạng người nào. Được sai đến trước tiên cho người Do thái, Chúa Giêsu cũng đi đến với cả nhân loại. Chúa Giêsu chính là hiện thân lòng khoan dung của Thiên Chúa, một Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả mọi người, và muốn qui tụ mọi người vào trong gia đình của Ngài. Cả cuộc đời của Ngài là một chuỗi dài sự tha thứ. Ngài đã tha thứ cho lầm lỗi của người phụ nữ ngoại tình. Ngài đã tha thứ việc làm của Giakêu. Ngài đã tha thứ quá khứ tội lỗi của người trộm lành. Ngài đã đi đến tận cùng của sự tha thứ, là tha thứ cho kẻ làm nhục và giết hại Ngài.
Là con cái của Cha yêu thương và khoan dung, nguyên tắc sống của chúng ta cũng phải là yêu thương và khoan dung. Giữa một thế giới mà sự thù hận luôn đòi loại trừ nhau bằng khủng bố, bằng súng đạn, người kytô hữu phải thể hiện cho người ta thấy lòng bao dung và tha thứ vẫn còn tồn tại trên trần gian. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể làm điều ấy. Vì Chúa chúng ta vẫn có thể tha thứ cho nhau. Tha thứ để được sự bình an tâm hồn. Vì nếu không tha thứ thì "oán báo oán, oán lại chập chùng". Tha thứ cho nhau để được nên nghĩa tử và là môn đệ chính danh của Chúa, vì người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là "hãy yêu thương nhau". Một tình yêu đích thực luôn bao hàm sự bao dung và tha thứ vì "Yêu nhau củ ấu cũng tròn - Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa".
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta luôn can đảm tha thứ cho nhau, luôn can đảm quên đi mọi hận thù, oán ghét, ghen tương để sống trong vòng tay thân ái giữa người với người và trong tình yêu tha thứ thẳm sâu của Chúa. Amen.
14. Tha thứ đến vô tận - Barbara E. Reid OP
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Con phải tha thứ bao nhiêu lần” (Mt 18,21)
Một phụ nữ, đã từng hứng chịu bạo hành trong gia đình, chia sẻ với tôi kinh nghiệm của chị khi phải đấu tranh với chính mình để thực hiện giáo huấn của Chúa trong Tin Mừng hôm nay. Chị ta nói “Là một tín hữu Công giáo, tôi thấy có trách nhiệm và bổn phận phải tha thứ cho chồng tôi, khi anh ta dùng bạo lựcnhư thể muốn giết tôi. Tôi tin rằng tôi phải bắt chước hành vi yêu thương của Đức Giêsu trên Thập giá, trước khi Ngài dang tay đón nhận cái chết. Tôi phân vân tự hỏi, có lẽ thay vì tha thứ, tôi đã có cảm giác thù hận từ sâu tận trong tâm hồn, và tôi đã tự nguyền rủa chồng tôi, mong anh ta chết quách đi cho xong. Tôi sợ rằng tôi đã không tha thứ hoàn toàn cho anh ta trước khi tôi chết, và như vậy tôi sẽ bị trầm luân mãi mãi”.
Giáo huấn của Đức Giêsu hôm nay dạy chúng ta phải tha thứ đến vô tận. Có một điều khá gay go, là nếu chúng ta không thể tha thứ thì sao? Cái gì sẽ xảy ra, khi chúng ta muốn tha thứ, nhưng kẻ xúc phạm đến chúng ta lại không hối lỗi và không chịu đền bù thiệt hại. Có những khi, ví dụ trong trường hợp bạo hành xảy ra nơi gia đình, sự tha thứ còn là cớ giống như đổ thêm dầu vào lửa, sẽ phản tác dụng và không đem lại sự hòa giải và an bình thật sự. Tiến trình thực hiện việc tha thứ và hòa giải quả khá gian nan, và chúng ta không thể giản lược trong một vài chiêu thức giản đơn.
Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, tiếp nối với đoạn Tin mừng của tuần trước, trong đó Chúa Giêsu vạch dẫn một lộ trình khởi đầu cho việc hòa giải, khi có những xúc phạm xảy ra trong cộng đoàn. Lộ trình này bắt đầu bằng việc cá nhân đến gặp gỡ cá nhân, rối tiếp theo là có thêm những trung gian, và bước cuối cùng là có sự tham gia của cả cộng đoàn. Đứng trước những chỉ huấn này, Phêrô đã hỏi tiếp Đức Giêsu, thế ông phải phải tha thứ bao nhiêu lần. Ông thấy ngay những khó khăn và trở ngại khi thực hiện tiến trình hòa giải như thế. Để trả lời, Chúa Giêesu đã khẳng định, việc tha thứ phải thực hiện một cách vô tận, không có một giới hạn nào cả. Có những sự việc gây nên nỗi đau triền miên và dai dẳng, vì thế cũng cần phải biết tha thứ vô giới hạn, đồng thời người phạm lỗi cũng cần phải hối lỗi một cách chânthực. Chúng ta phải luôn sẵn sàng thực hiện công việc đầy khó khăn này, để hóa giải những tan vỡ, và thực hiện việc giao hòa với nhau.
Trong dụ ngôn tiếp theo về người đầy tớ mắc nợ một số tiền lớn đã được nhà vua tha cho, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến món nợ khổng lồ như một gánh nặng. Món nợ đó biểu trưng cho những khó khăn trong việc hòa giải, và nó đã được cất đi khỏi tên đầy tớ. Điều này,Chúa cũng kêu mời chúng ta ý thức rằng: Sự hòa giải ở đây là một quà tặng được trao ban một cách nhưng không. Khi đón nhận món quà này, không phải do công lao của mình, chúng ta cũng phải ban trao lại một cách nhưng không giống như vậy. Tên đầy tớ không thể trả món nợ cho nhà vua, nhưng anh ta có thể sao chép lại cách thức mà nhà vua đã đối xử với anh ta, bằng cách cũng tha cho kẻ mắc nợ mình. Tuy nhiên anh ta đã không hành xử như thế. Anh ta làm ngược lại. Thế rồi nhà vua tức giận, đổi thay tình thế, rút lại sự tha thứ đã ban bố trước đây. Điều làm chúng ta cảm thấy chới với, đó là Thiên Chúa sẽ hành xử giống như thế. Ngài sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài nếu như chúng ta không muốn thứ tha một cách sâu xa tận đáy lòng. Câu nói này của Chúa Giêsu gợi nhắc đến lời kinh Lạy Cha mà chính Ngài đã dạy các môn đệ cầu nguyện “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con (Mt 6,12). Lời kinh đó đi kèm theo lời khuyến cáo: Chúng ta chỉ được tha thứ khi chúng ta biết thứ tha cho nhau (Mt 6, 14-15).
Điểm nhấn ở đây, không phải là Thiên Chúa lật lọng, đổi thay thái độ, rút lại sự tha thứ đã trao ban, khi chúng ta không hành xử giống như Ngài đã nêu gương. Cũng không phải Thiên Chúa sẽ làm phương hại đến chúng ta, khi chúng ta không tuân theo lối bước của Ngài. Dụ ngôn chỉ muốn khuyến cáo một cách khá cứng rắn, để con tim chúng ta đừng trở nên xơ cứng khi không có lòng bao dung và phải luôn biết sẵn lòng tha thứ cho nhau. Một tâm hồn chai lỳ trong hận thù, dễ làm cho bạo lực tái bùng phát và tiếp diễn. Dụ ngôn chỉ muốn diễn tả một cách thái mà chúng ta phải chọn lựa để làm sao sự tha thứ luôn được chúng ta tâm đắc và thực hành. Chúng ta phải nỗ lực thứ tha, và cầu nguyện để tâm hồn chúng ta luôn biết trải rộng, sẵn lòng tha thứ cả khi việc thứ tha này chưa thực hiện được. Chúng ta khẩn cầu để xin Chúa giúp chúng ta biết mở toang cõi lòng hầu có thể nếm cảm lòng thương xót dịu dàng của Chúa đổ tràn trên chúng ta, giúp chúng ta cũng dễ dàng dàn trải lòng thương xót và sự đồng cảm giống như thế đến cho mọi người. Không cái gì có thể cất khỏi sự tha thứ của Chúa nơi chúng ta. Tuy nhiên,trong cách cư xử thường ngày, nhiều động thái chúng ta thực hiện làm cản che hiệu quả của lòng thương xót đó đang tuôn đổ xuống trên mỗi người chúng ta.
15. Hào quang của tha thứ - Thiên Phúc
Theo ABC News, ông Yigal Cohen, một người Itraen bị đau tim nặng vừa nhận được trái tim của một người Palestin trong cuộc phẫu thuật ngày 5-6-2000, Gia đình ông Mazen Joulani, người hiến tặng tim, cho biết ông vừa bi lnhững người Do Thái bắn hãi tại một tiệm cà phê ngoài trời.
Gia đình này quyết định hiến tim của Joulani vào thứ sáu tuần qua, ngay trong ngày mà cuộc nổ bom ở Tel Aviv làm thiệt mạng 21 người. Những phần nội tạng khác của Joulani cũng sẽ được ghép cho một số người Itraen khác.
Bác sĩ Lavie, người thực hiện ca mổ, nói khi ông cầm hai trái tim trong tay, ông nhận ra rằng tất cả những mâu thuẫn sắc tộc là hoàn toàn vô nghĩa.
***
Nếu chúng ta biết rõ mối thù truyền kiếp giữa người Itraen và người Palestin, nếu chúng ta nhìn thấy những cuộc xung đột đẫm máu thường xuyên xảy ra giữa hai dân tộc này trên truyền hình, báo chí, chúng ta mới thấy nghĩa cử hiến tặng trái tim để cứu sống kẻ thù, mới thật là nghĩa cả vô cùng cao đẹp. Không những anh chỉ tha thứ cho kẻ thù đã bắn chết mình, mà còn trao ban luôn trái tim và các phần nội tạng khác để cứu sống những kẻ đã sát hại dân tộc mình. Đối với những người không có tấm long khoan dung tha thứ thì đây là hành động điên rồ, thậm chí còn là việc ngu xuẩn. Nhưng với những người có niềm tin thì đó lại là bằng chứng hùng hồn của người môn đệ Đức Kitô: “Anh em phải thương yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét anh em” (Lc 6,27).
Tin mừng hôm nay thuật lại:
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần” Có phải bảy lần không? “Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bẩy” (Mt 18,21-22).
Điều đó có nghĩa là phải tha thứ hoài, tha thứ mãi tha thứ đến vô cùng. Đó là nét mới trong dung mạo của Đức Giêsu. Mọi quốc gia, đảng phải, phong trào đều chống lại điều xấu, đề phòng kẻ gian ác, tiêu diệt kẻ thù, duy chỉ mình Đức Giêsu dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù”. Người đã chiếu tỏa nét cao quý ấy ngay trên thập giá, khi các kẻ thù hành hạ, chế nhạo, và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
16. Tha thứ - Lm. Trầm Phúc
Sau khi Chúa Giê-su dạy về việc sửa lỗi cho nhau, Phê-rô hỏi thêm: “Thưa Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần, có phải đến bảy lần không ?” Có lẽ nhiều người ngạc nhiên không biết tại sao Phê-rô lại đặt vấn đề con số.
Đối với Luật Do Thái, mấy chuyên viên luật đã cho một bảng kê khai phải tha cho ai mấy lần tùy trường hợp đối với gia đình hay người ngoài. Thông thường thì tha ba lần là tối đa, do đó đối với Phê-rô, tha bảy lần là vượt mức. Đối với Chúa Giê-su, tha thứ không có hạn chế, không có ranh giới. Bảy mươi lần bảy có nghĩa là không biên giới và vô điều kiện.
Để minh họa điều đó Chúa Giê-su dùng dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe đọc. Dụ ngôn không khó hiểu, nhưng câu kết lại rất nghiêm trọng và như là một lời cảnh báo: “Nếu anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình thì Cha Thầy ở trên trời cũng cư xử với anh em như vậy.” Như thế, Chúa Giê-su cho chúng ta thấy rằng, thái độ của chúng ta đối với anh em đồng loại thế nào, thì Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế.
“Lấy đấu nào đong cho người khác thì Chúa sẽ đong lại cho chúng ta bằng đấu ấy.” Lời của Chúa Giê-su hôm nay sẽ trở nên án phạt cho chúng ta, nếu chúng ta không khoan dung đối với anh em chúng ta.
Thánh Phao-lô bảo: “Đừng theo thói thế gian.” Chúng ta thường thấy đời sống xã hội hôm nay là “ăn miếng trả miếng,” cũng như thời Mô-sê, luật báo oán vẫn được áp dụng: “Mắt đền mắt, răng đền răng.”Chúa Giê-su đòi buộc chúng ta vượt lên trên sự hèn hạ xấu xa của con người.
Trong dụ ngôn, Chúa Giê-su chứng tỏ lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với chúng ta vượt xa mọi tính toán của con người. Chúng ta lỗi phạm. Khối tội của chúng ta là một món nợ khổng lồ không thể trả được. Có ai trong chúng ta có thể lượng giá tất cả tội lỗi của chúng ta đối với Chúa không? Thánh vịnh nói: “Nếu Chúa tôi nhớ hoài tội lỗi, nào ai đứng vững được chăng?”
Thế nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ. Còn chúng ta, chúng ta lại bắt lỗi anh em từng lời nói, chúng ta trách phiền người nầy người nọ và có lúc lại hiềm khích hận thù. Món nợ của chúng ta với Chúa to lớn như thế nào, anh em chỉ lỗi phạm một vài điều nhỏ nhặt, chúng ta không đủ can đảm tha thứ. Chúng ta xin Chúa thứ tha thế nào?
Bắt lỗi nhau, hiềm khích nhau để được gì? Ích lợi gì cho chúng ta? Chúng ta chỉ gặt hái sự bực bội, khó chịu và cáu gắt mà thôi. Thỏa mãn một chút tự ái, chúng ta đánh mất sự bình an, và đánh mất cả hạnh phúc.
Hãy nhìn Chúa Giê-su. Ngài thanh thản nhẹ nhàng. Ngài yêu thương những người tội lỗi: Gia-kêu, Maria Ma-đa-lê-na, người phụ nữ ngoại tình… Chúa Giê-su cũng đối xử với chúng ta như thế. Ngài “tìm kiếm những gì đã hư mất,” Ngài phục hồi những tâm hồn hoen ố. Cũng như trên đỉnh đồi Can-vê, trong nỗi thống khổ tột cùng, Ngài nhìn thấy những kẻ thù của Ngài hả hê đắc thắng, ngạo nghễ, vui cười trên đau khổ của Ngài. Ngài xin Cha tha cho họ… Như vậy, thái độ của Chúa không đủ làm cho chúng ta suy nghĩ hay sao?
Chúng ta cần được Chúa thứ tha, vì trước mặt Chúa, chúng ta là những kẻ tội lỗi, những người không thể trả nợ, sao chúng ta lại có thể chứa chất trong lòng những tự ái, ích kỷ, ghen tỵ? Sao chúng ta không thể rộng lượng như Cha trên trời?
Đối với chúng ta việc tha thứ đôi khi rất khó, nó đòi hỏi ta phải có lòng yêu thương nhiều, đòi hỏi quên mình và khiêm tốn. Phải, đôi khi nó đòi hỏi chúng ta thật nhiều, nhưng đó cũng là điều kiện tiên quyết để được tha thứ.
Chúa Giê-su dạy chúng ta quên mình để tha thứ như Ngài: “Xin Cha tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…” Chúng ta là con của Thiên Chúa Tình Thương, nên chúng ta hãy cố sống yêu thương và học bài học hiền lành và khiêm nhượng của Chúa Giê-su, thì chúng ta sẽ dễ tha thứ và tạo bầu khí xung quanh trong lành và hạnh phúc.
Thế gian đầy dẫy hận thù, tranh chấp. Chúng ta không thể rót vào biển lửa hận thù đó một chút yêu thương sao? Chúng ta không thể xoa dịu những vết thương hận thù giữa anh em chúng ta, xây dựng một tình huynh đệ chân thành giữa anh em đang chung sống với chúng ta trong cuộc sống cam go nầy sao?
Chúng ta mơ tìm hạnh phúc, nhưng hạnh phúc không ở nơi hận thù ghen ghét. Hạnh phúc thật chỉ đến trong tình yêu. Thánh Phao-lô, trong nhiều bức thư đã khích lệ giáo dân của ngài sống yêu thương, tha thứ. Hôm nay, chúng ta vừa nghe trong đoạn thư gửi giáo đoàn Rô-ma những lời rất đặc biệt mà nhiều khi chúng ta không để ý: “Không ai sống cho chính mình cũng không ai chết cho chính mình. Sống là sống cho Thiên Chúa, và chết là chết cho Thiên Chúa”. Điều đó có nghĩa gì?
Nếu sống cho mình là sống theo bản năng và ý muốn của mình, thì chúng ta chỉ gieo rắc khốn khổ thôi. Sống cho Thiên Chúa là mở rộng Vương Quốc Tình Yêu của Ngài; nơi đó, chúng ta mới tìm được điều chúng ta mong ước là Hạnh Phúc.
Hôm nay, trong hiến lễ tình yêu nầy, chúng ta sẽ cùng với Chúa Giê-su cầu xin cho “Nước Cha trị đến”. Và Nước Cha chính là Nước Tình Yêu và tha thứ.
Chúng ta sẽ ăn lấy Đấng đã yêu thương chúng ta, tha thứ và liều mạng cho chúng ta, chúng ta hãy đem tình yêu vào gia đình, làng xóm và trong môi trường chúng ta đang sống…
Xin cho con biết:
“…đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
đem an hòa vào nơi tranh chấp,…
đem niềm vui đến chốn ưu sầu”.
*******
Nhiên liệu để đi xa hơn:
Tha thứ
Mục sư Richard Wurmbrand, người Rumani, đã bị giam 14 năm vì danh Chúa. Ông đã ghi lại nhiều câu chuyện về bác ái của những Ki-tô hữu bị bách hại. Trong trại giam chung với ông có một linh mục; không hiểu vì sao ông ấy bị đem ra hành hạ và đánh đập một cách dã man nhiều lần. Một hôm, sau khi bị hành hạ dã man và bị đẫy vào phòng giam dở sống dở chết, những bạn tù tức tối chửi rủa những anh lính kia; Nhưng vị linh mục nầy khoát tay bảo họ im đi và lấy hết sức còn lại, nói với anh em bạn tù: “Đừng chửi rủa họ vì họ không biết họ đang làm gì. Hãy thương họ là đúng hơn. Hãy cầu nguyện cho họ.”
Tha thứ
Cha Franz Stock là một linh mục người Đức và là tuyên úy lao xá trong thời Pháp bị nước Đức chiếm đóng. Trong thời kỳ ấy, Chính phủ Đức đã ra lệnh xử bắn nhiều tù nhân khác khi có một đồn quân Đức bị đánh, hay một lính Đức bị ám sát để trả đũa. Cha F.Stock luôn có mặt nơi pháp trường. Có những ngày ngài phải chứng kiến hàng trăm người bị xử bắn. Trước khibị bịt mắt, các tử tội được phép gặp cha tuyên úy để xưng tội, hay tạo những gì cho gia đình và thân nhân. Ngài kể lại, có lúc ngài thật cảm kích trước thái độ bác ái và bao dung của những người tù. Có người trao cho ngài một tấm giấy nhỏ cho thân nhân trong đó viết: “Hãy an tâm. Anh chết vì Tổ Quốc, vì Chúa. Xin đừng hận thù một ai”. Có người trước khi bị bắn, họ hô to: “Hoan hô Nước Pháp muôn năm! Lạy Chúa, con xin dâng mạng sống con cho Chúa, cho Tổ Quốc, cho những người xử bắn con. Xin tha cho họ”.
Một sĩ quan Pháp, trước khi bị xử bắn đi đến bắt tay từng người trong tiểu đội lý hình. Anh nói: “Các anh hãy làm nhiệm vụ của các anh. Nhiệm vụ của tôi đến đây là hết. Cám ơn các anh. Không hận thù. Giả từ tất cả”.
17. Tha thứ.
Thiên Chúa là Đấng tha thứ cho con người mọi tội lỗi, do đó, con người cũng phải biết tha thứ lẫn cho nhau.
Qua câu chuyện của Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta thấy được hai thái độ khác nhau của hai chủ nợ. Người chủ nợ thứ nhất tượng trưng cho Thiên Chúa. Còn người đầy tớ mắc nợ mười ngàn nén vàng, tượng trưng cho con người tội lỗi. Mười ngàn vàng là một con số quá lớn, vượt khỏi trí tưởng tượng của người nghe. Ý muốn ám chỉ một món nợ mà con nợ sẽ không bao giờ trả hết. Cam kết trả hết nợ chỉ là một lời hứa liều khi bị dồn vào bước đường cùng, không còn lối thoát nào khác. Biết vậy, nhưng người chủ nợ lại là người nhân ái, đã động lòng thương trước lời van xin của tên đầy tớ. Và người chủ nợ đã một việc hết sức bất ngờ, đó là trả tự do và tha hết nợ cho anh ta trong khi anh ta chỉ dám xin khất nợ mà thôi.
Cũng thế, tội lỗi của con người đối với Thiên Chúa quả thực là một món nợ khổng lồ. Bình thường thì chẳng tài nào xoá đi được. Nhưng Thiên Chúa đã chạnh lòng thương. Ngài đã tha thứ không chỉ bằng một lời phán hết nợ, mà còn bằng cách cho Con Một của Ngài xuống thế làm người, rao giảng Tin Mừng cứu độ và sau cùng đã chịu chết trên thập giá để giải thoát chúng ta.
Nếu như Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, thì bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta cũng có bổn phận phải tha thứ một cách nhưng không cho người khác. Món nợ của con người đối với nhau, quả thật là nhỏ bé, là tầm thường, so với món nợ đối với Thiên Chúa. Một nén vàng là mười ngàn đồng bạc. Như thế, một vạn nén vàng vị chi là một trăm triệu đồng. Một trăm triệu đồng mà đem so với một trăm đồng thì quả là một trời một vực.
Nhưng cách cư xử của tên đầy tớ vừa mới được tha hết nợ đối với bạn hắn thì lại hoàn toàn trái ngược với thái độ của người chủ nợ đối với hắn. Cũng một lời van xin, nhưng hắn không hề nhớ tới điều hắn đã được hưởng. Người mắc nợ hắn đã bị tống giam vào ngục cho đến khi trả nợ xong. Chủ nợ của hắn buộc lòng phải đối xử với hắn như hắn đã đối xử với bạn hắn. Có điều một trăm đồng bạc thì còn có khả năng trả được, chứ mười ngàn nén vàng thì vô phương cứu chữa. Người đầy tớ không phải chỉ là một kẻ vụng tính mà còn là một con người độc ác, không có được một chút tình thương đối với người bạn của mình.
Trong kinh Lạy Cha chúng ta vốn đọc hằng ngày: Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Phải chăng đó chính là lời Chúa mời gọi chúng ta hãy biết sống khoan dung và nhân ái đối với những người chung quanh để rồi chúng ta sẽ được hưởng nhờ lòng khoan dung và nhân ái của Chúa.
18. Tha thứ thật thà - Huệ Minh
Tin Mừng Mt 18, 21-35: Trang Tin Mừng hôm nay phải nói rằng đúng là: Trong cuộc đời của mỗi ngày chúng ta hai chữ thôi! Nhưng rất khó làm đó là: Hai chữ tha thứ...
***
Kính thưa Cộng Đoàn
Phải nói rằng, ngày hôm nay, như ngôn ngữ của tuổi teen là chơi game gài. Trang Tin Mừng hôm nay phải nói rằng đúng là: Trong cuộc đời của mỗi ngày chúng ta hai chữ thôi! Nhưng rất khó làm đó là:
Hai chữ gì?
- Hai chữ tha thứ. Bởi vì, một người nào đó mà xúc phạm đến mình: vợ xúc phạm chồng, chồng xúc phạm vợ, khó tha thứ! Nó chỉ là lý thuyết thôi.
Bạn bè hay hàng xóm xúc phạm đến mình, mình còn tha thứ được, nhưng mà còn với người ruột thịt hay người thân mà xúc phạm thì khó lắm! “Thương nhau lắm, cắn nhau đau” mà! Bởi vì, tha thứ không phải đơn giản.
Người ta vẫn thường đi theo cái lối sống công bằng. Công bằng thôi! Ai mà vi phạm tới mình, thì mình trả thù.
Còn nếu mà trong cuộc sống mà cái sự ganh đua nó càng mạnh, thì cái sự tha thứ nó càng khó! Bởi vì không ai chấp nhận sự tha thứ, nhưng mà sự tha thứ đó sẽ làm cho con người được sự bình an.
Nếu như không tha thứ, thì người đó, đánh mất căn tính người Kitô hữu của mình. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Côlôxê, ngài nhắc nhở chúng ta: Anh em hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau. Như Đức Kitô đã tha thứ cho anh em, thì anh em hãy tha thứ cho nhau.
Nếu ai nào đó không tha thứ, thì không còn là mang trong mình căn tính của người Kitô hữu nữa.
Chúng ta thấy bài học của sự tha thứ nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không những nói nhưng Chúa Giêsu đã làm gương cho sự tha thứ.
Trên đỉnh đồi Canvê, không còn nỗi nhục nào bằng cái nỗi nhục nào! Không còn đòn roi nào kể xiết. Sự đau đớn mà người ta đánh cho một thân mình tội lỗi. Một thân mình đau đớn.
Đau quá! Đau Thể xác thì ít, mà đau phần hồn thì nhiều. Bởi vì, chính những con người mà mình làm phép lạ, chính những con người mình trao ơn cho họ, hóa bánh ra nhiều nuôi họ, lại là những người: Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào thập giá đi!
Chúng ta thấy, Chúa Giêsu ở trong Tin Mừng thánh Máccô đã dạy cho chúng ta về sự tha thứ, về sự hòa giải:
- Nếu anh em chuẩn bị đi đến mà dâng lễ vật, mà có sự bất bình với ai đó, thì hãy tha thứ đi.
Ở chương 5 thì thánh Maccô cũng dạy: - Anh em nếu có sự bất bình thì đi làm hòa đi!
Cái bầu khí mà hòa bình, tha thứ đó! Chúa Giêsu không chỉ rao giảng, mà Ngài thực hiện.
Còn nhớ đến Tin Mừng theo Thánh Mátthêu: - Tha cho anh em, thầy bảo anh em tha cho anh em.
Và ở chương 18 này, Chúa Giêsu nói: - Anh em hãy tha thứ.
Khi mà thánh Phêrô đã đưa ra vấn nạn tha thứ: “Cha thầy ở trên trời sẽ đối xử với anh em như là, anh em đối xử với người khác”.
Và nếu xét cho bằng cùng, tha thứ chính là tiêu chuẩn cần thiết, để được vào thiên đàng.
Bởi vì, nếu không tha thứ mà còn giận hờn có nghĩa là không yêu thương nhau. Mà không yêu thương nhau, thì làm sao sở hữu được nước thiên đàng.
Và điều này, thánh Phêrô, chúng ta cho thấy, một người xem ra rất là phóng khoáng. Con số 7 là con số tròn đầy của người Do Thái. Và thánh Phêrô rất là mạnh miệng: Con tha thứ 7 lần rồi!
7 lần là kinh khủng lắm! Nhưng mà, chúng ta thấy, Chúa Giêsu không chỉ 7 lần, mà là 70 lần 7.
Trên thánh giá người ta chế giễu mình, nhục mạ mình. Nhưng rồi: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”
Tha thứ có khi không phải chỉ là cái hành động nhất thời, nhưng mà phải là tha thứ mỗi ngày. Mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm và cái tiến trình tha thứ đó, nó phải được kéo dài trong cuộc đời của ta.
Mà nhiều lần, nhiều lúc trong cuộc đời, có khi, có người này, có người kia từ chối và khước từ sự tha thứ. Bởi vì, họ nghĩ rằng người khác sai và đáng trừng phạt như thế là do lỗi của họ.
Và có những người đặt mình ở chiếu trên, có quyền tha thứ, nhưng người kia không đáng được tha thứ, để rồi họ không tha thứ cho nhau.
Có những người có khả năng xin được tha thứ, nhưng người khác lại không tha, từ chối trách nhiệm không tha. Và khi đó người đó mặt lấy tâm tình của một con người kiêu ngạo.
- Làm trai phải đáng nên trai. Thực sự ra, có những con người đàn ông làm biếng và yếu nhược, nhưng rồi tự cao tự đại và không bao giờ cho mình sai. Và sau một thời gian sống, họ nhận ra sự thật. Và khi đó, họ cảm thấy con người họ thiếu sót và họ lại dễ tha thứ cho người khác. Còn nếu, họ nghĩ, họ là người chủ trong gia đình và họ sống theo kiểu “Chồng chúa, vợ tôi”, thì cái sự tha thứ đó rất khó.
Tha thứ cho vợ chồng, con cái, cha mẹ không phải dễ đâu!
Khi chúng ta muốn tha thứ, thì chúng ta phải xin cái ơn khiêm nhường. Để rồi, chúng ta thấy, chúng ta cũng là những con người tội lỗi, cũng là những con người yếu đuối, để xin cho chúng ta được khiêm nhường.
Và rồi, chúng ta, cái chuyện quan trọng nhất đó là:
Chúng ta phải đi làm hòa với nhau. Mà, Chúa mời gọi đó: “ Hãy đi làm hòa và hòa giải vô điều kiện.”
Gia đình nào cũng có nỗi khổ riêng.Gia đình nào cũng có những cái riêng của mình. Để rồi, không phải dễ, để mà tha thứ cho nhau.
Nhưng rồi, chúng ta thấy: Nếu chúng ta tha thứ cho anh chị em đồng loại, chúng ta sẽ đón nhận được sự bình an.
Và rất khó tha thứ, bởi vì chúng ta cứ phải bắt lỗi người này, người khác. Đừng bao giờ kể lỗi của người khác, thì chúng ta sẽ được tha thứ, và chúng ta tha thứ dễ dàng.
Chúng ta còn nhớ đến hình ảnh của Gia Kêu, Gia Kêu trèo lên cây sung và lòng chạm lòng mắt chạm mắt. Gia kêu đã thấy Chúa Giêsu và Chúa Giêsu không hề hạch tội. Tha thứ là tha thứ cho đến tận cùng. Và chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã tha thứ cho Gia Kêu đến tận cùng, khi không kết án ông. Dẫu rằng, người ta vẫn dán nhãn cho ông là một người thu thuế đầy tội lỗi.
Trong Kinh Hòa Bình, chúng ta thấy, lời Kinh Hòa Bình rất là hay:
Lạy CHÚA, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù. Đem thứ tha vào nơi lăng nhục. Đem an hòa vào nơi tranh chấp... vì chính khi thứ tha, là khi được tha thứ.
Đó là hai vế của một phần mệnh đề: Nếu chúng ta tha thứ cho anh chị em đồng loại chúng ta, thì chúng ta cũng được tha thứ từ Chúa Giêsu. Bởi vì: Con người là lầm lỗi, lầm lỗi là con người.
Tha thứ là thần thánh, thần thánh là tha thứ.
Khi chúng ta mặc lấy con người yếu đuối, chìm trong cái con người, thì chúng ta không bao giờ nhận ra được lỗi của mình và khó tha thứ cho người khác. Còn khi chúng ta nhận ra yếu đuối của mình, để chúng ta tha thứ cho người khác, thì cái tiến trình làm thánh nó gần hơn con người của chúng ta. Con người mang trong mình căn tính là thánh thì dễ tha thứ cho người khác lắm. Còn nếu mình là con người thì mình sẽ không bao giờ chịu tha thứ cho người khác.
Tôi nói rằng tôi không tha họ, bởi vì tôi kiêu ngạo. Tôi nói rằng tôi không tha họ, bởi vì tôi thành toàn, tôi đạo đức hơn người khác.
Và nói tới đây, con nhớ đến một câu nói rất hay:
- Người đầu tiên biết xin lỗi là người dũng cảm nhất.
- Người đầu tiên biết tha thứ là người mạnh mẽ nhất.
- Người biết quên đi quá khứ đau buồn, đó là người hạnh phúc nhất.
Cầu chúc cho mỗi người chúng ta đặt mình trước mặt Chúa như Chúa Giêsu đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta phải yêu thương và tha thứ cho anh chị em đồng loại. Đặc biệt, người biết quên đi quá khứ đau buồn, là người hạnh phúc nhất!
Cầu chúc cho mỗi người chúng ta là người hạnh phúc nhất! Bởi vì, chúng ta sẵn sàng, chúng ta quên đi những cái quá khứ đau buồn trong cuộc đời của chúng ta. Amen.
19. Phải tha thứ – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Gandhi nói: “Nếu áp dụng luật mắt đền mắt, thế giới sẽ chỉ toàn người mù”. Sẽ không thể sống được nếu thiếu sự tha thứ. Tha thứ cần thiết cho con người như khí trời. Kể dụ ngôn hôm nay, Chúa Giêsu cho ta thấy tính cách cần thiết và cấp thiết của tha thứ.
Phải tha thứ vì con người là bất toàn. Có những xúc phạm cố ý. Nhưng rất nhiều khi xúc phạm chỉ là vô tình, thiếu ý thức. Chỉ cần một chút cảm thông, hiểu biết, tôi sẽ dễ bỏ qua, không chấp nhất. Nếu cứ mỗi lần bị xúc phạm tôi không thể nào nguôi ngoai thì chính tôi là người khổ nhất, vì tâm hồn mang nặng oán hờn sẽ không bao giờ bình an. Nếu tôi loại trừ tất cả những ai xúc phạm, thì sau cùng tôi sẽ chẳng còn sống với ai được. Tôi sẽ mất hết bạn bè. Thế giới sẽ chỉ toàn kẻ thù. Và tôi sẽ trở thành cô đơn.
Phải tha thứ vì chính ta cần được thứ tha. Tôi cần sự tha thứ của chính mình vì bản thân tôi có biết bao lầm lỗi. Nếu tôi không tự tha thứ cho mình thì lương tâm sẽ cắn rứt dày vò khiến tôi suốt đời buồn phiền. Tôi cần sự tha thứ của người khác vì tôi đã xúc phạm nhiều đến anh em. Nếu mọi người không tha thứ cho tôi thì tôi đã bị khai trừ khỏi xã hội. Tôi cần sự tha thứ của Chúa vì tôi đã lỗi phạm đến Chúa rất nhiều. Nếu Chúa thẳng tay trừng phạt những tội xúc phạm đến Người thì tôi đã chết từ lâu. Biết bản thân mình yếu đuối, nhiều lỗi lầm, cần được tha thứ, tôi sẽ dễ cảm thông tha thứ cho anh em.
Phải tha thứ vì đó là điều kiện để được thứ tha. Trong Tin Mừng, Chúa nhấn mạnh điều này rất nhiều lần. Khi dạy ta đọc kinh Lạy Cha, Chúa bắt ta phải hứa tha thứ cho anh em khi xin Người tha thứ lỗi lầm của ta. Ở cuối kinh Lạy Cha, thánh Matthêu còn thêm: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15).
Dụ ngôn hôm nay không những nhắc lại điều đó, mà còn cho thấy, tội ta xúc phạm đến Chúa muôn ngàn lần nặng nề hơn anh em xúc phạm đến ta. Thế mà Chúa vẫn sẵn sàng tha thứ cho ta một cách mau chóng, nhẹ nhàng, chỉ với một điều kiện là ta cũng phải tha cho anh em những lỗi lầm ít ỏi anh em xúc phạm đến ta.
Sau cùng ta cần tha thứ để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là người Cha rất nhân từ và rất hay tha thứ. Chúa Giêsu đã khắc họa rất rõ nét chân dung nhân từ của Thiên Chúa Cha trong dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”. Và Người không ngừng mời gọi ta hãy nên hoàn thiện như Chúa Cha.
Chúa Giêsu xuống trần gian cho ta được chiêm ngưỡng khuôn mặt hiền hậu nhân từ hay tha thứ của Chúa Cha. Suốt cuộc đời trần thế, Người không ngừng tha thứ cho kẻ tội lỗi. Nhất là những kẻ đã xúc phạm đến Người. Còn cảnh tượng nào đẹp hơn cảnh tượng Người bị treo trên thập giá mà trái tim vẫn mở rộng yêu thương tha thứ. Còn lời nào đẹp hơn lời Người cầu nguyện trong lúc đau đớn tột cùng mà vẫn nhớ đến người khác, không phải nhớ đến người làm ơn mà là nhớ đến những người xúc phạm, làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Và khi từ cõi chết sống lại, Người đã tha thứ cho Phêrô dù môn đệ thân tín này đã chối Người. Người đã tha thứ cho các môn đệ dù các ông đã bỏ mặc Người trong lúc gian nan.
Sự tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn con người. Vẻ đẹp tự chế. Vẻ đẹp khoan dung. Vẻ đẹp của tâm hồn vượt lên trên chính mình. Vẻ đẹp đề cao giá trị con người.
Sự tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới. Một thế giới cảm thông, chan hòa. Một thế giới chứa chan tình huynh đệ. Một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa.
Lạy Chúa xin thương xót chúng con.
20. Hãy tha thứ vì ta cần được Chúa tha thứ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày câu hỏi nổi tiếng của Phêrô dành cho Thày Giêsu: “Lạy Thày, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bẩy lần không?” (Mt 18, 21). Ông hỏi Chúa Giêsu như thế vì ông tự nghĩ rằng: Theo các Thầy dạy luật, các Rabbi, thì những người công chính nên tha thứ cho những người xúc phạm tới mình 3 lần, sự bất quá tam. Đến lần thứ IV thì không buộc phải tha thứ cho họ nữa! Do đó, ông tự nghĩ: Tha cho anh em đến bẩy lần là điều quá sức, quá quảng đại và đã chứng tỏ rằng mình thực thi như thế là anh hùng và đáng Chúa khen ngợi rồi!
Thế nhưng, câu trả lời của Chúa làm cho ông chưng hửng, cảm thấy hổ thẹn khi so sánh đề nghị của ông với sự đòi hỏi của Chúa thì thấy mình còn quá xa sự trọn lành, xa đòi hỏi của Tin Mừng, Chúa trả lời: “Thầy không bảo con phải tha đến bẩy lần, nhưng đến bẩy mươi lần bẩy” (Mt 18, 22)
Để giải thích cho Phêrô tại sao cần phải luôn tha thứ, Đức Giêsu kể lại dụ ngôn những kẻ mắc nợ. Người đầu tiên được ông chủ tha hết nợ mặc dầu anh nợ ông chủ một số tiền lớn. Nhưng chính anh chỉ sau đó ít lâu lại không biết thương xót và tha cho người khác là kẻ chỉ mắc nợ anh một số tiền nhỏ.
Chúa Giêsu tuyên bố: “Cha Ta trên trời sẽ xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18, 35).
Tha thứ là một hành vi nghiêm chỉnh, nếu có thể thì rất khó đối với con người nhưng không phải không làm được. Tha thứ cho người khác vì lợi ích của chính ta, chính ta được tha thứ, điều ấy sẽ làm ta hạnh phúc hơn. Người ta không thể nói về sự tha thứ cách nông nổi, khi yêu cầu người bị xúc phạm tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình. Các tôn giáo đều dạy sự tha thứ. Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất. Tha thứ để làm cho oán tiêu tan, để phá vỡ cái vòng oan nghiệt trói buộc con người. Đức Phật cũng đã để lại một châm ngôn “Không phải với sự oán giận mà sự oán giận được xoa dịu; với sự không oán giận, sự oán giận mới được xoa dịu”. Tha thứ trong Kitô giáo vượt xa sự không bạo tàn và sự không oán hận. Kitô giáo mời gọi tha thứ vì một lý do khác: “Ngươi này tích lòng giận ghét người kia, mà dám xin Chúa cứu chữa sao? Nó chẳng thương xót người đồng loại với nó, mà còn cầu xin tha thứ tội lỗi nó làm sao?”(Sir 27, ). Tôi phải tha thứ cho anh em tôi vì Chúa đã liên tục tha thứ cho tôi. Ðời tôi là một chuỗi những vấp ngã, được đan kết với bao thứ tha. Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời tôi, nếu bị ngăn lại, nó sẽ thành ao tù, nó chỉ trong lành khi được chảy đến tha nhân. Tha thứ một cách phi thường và hồn nhiên, đó là thái độ của người thấm nhuần Kitô giáo.
Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu nguyện: “Xin tha nợ cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: Đây là một phương trình phải luôn đi đôi với nhau. Nếu bạn không thể tha thứ, thì làm sao Thiên Chúa có thể tha thứ cho bạn? Ngài muốn tha thứ cho bạn, nhưng nếu bạn đóng cửa lòng, thì lòng thương xót không thể bước vào. Có người sẽ hỏi rằng: ‘Thưa cha, con tha thứ nhưng con chẳng thể quên được điều tồi tệ mà người đó làm cho con…’. Đây lại là một vấn đề khác. ‘Hãy khẩn cầu Thiên Chúa để Ngài giúp bạn quên điều đó đi.’ Thật vậy, người ta có thể tha thứ nhưng để quên đi lỗi lầm thì không luôn luôn thành công. Đôi khi chúng ta nói rằng tôi tha thứ cho bạn nhưng thật ra ý tôi là muốn bắt đền bạn; bạn phải trả giá. Tha thứ kiểu này thật sự không được. Hãy tha thứ như Thiên Chúa tha thứ: đó là tha thứ đến tận cùng.
Ước gì mỗi người chúng ta, để đón nhận sự tha thứ của Thiên Chúa. Nhận lãnh sự tha thứ và rồi chúng ta cũng phải tha thứ cho người khác nữa - tha thứ thật lòng. Có lẽ bạn sẽ không bao giờ chào tôi khi gặp nhau trên đường nữa, nhưng tự thâm tâm tôi đã tha thứ cho bạn rồi. Và như thế chúng ta xích lại gần điều vĩ đại của Thiên Chúa, đó chính là lòng thương xót. Khi tha thứ, chúng ta mở tâm hồn ra để lòng thương xót của Thiên Chúa đi vào và tha thứ cho chúng ta, vì tất cả chúng ta đều cần phải khẩn nài sự tha thứ. Tha thứ và rồi chúng ta sẽ được thứ tha. Chúng ta hãy có lòng thương xót người khác, và chúng ta sẽ cảm nhận được lòng thương xót đó nơi Thiên Chúa, là Đấng một khi đã tha thứ thì hoàn toàn quên hết lỗi lầm của chúng ta.
Lạy Thiên Chúa là Đấng Xót Thương và hay tha thứ, xin dạy con bài học nhân ái, độ lượng và thứ tha, để con không giữ lòng hiềm thù, oán hờn và ghen ghét bất cứ ai đã xúc phạm, gây ra đau khổ cho con, xin giúp con luôn tha thứ cho mọi người vô tình hay hữu ý xúc phạm tới con. Amen.
21. Một Tin Mừng khó giữ – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Sau lúc đem ra một số lời giáo huấn về đời sống cộng đồng, Chúa đã nhấn mạnh đến bổn phận tha thứ. Bài Phúc âm tự nó đã rõ ràng. Tuy thế cũng cần phải nói rõ thêm một vài điều. Ta biết rằng danh từ “bảy mươi bảy lần” của Phúc âm có nghĩa là vô cùng. Hơn nữa còn phải đọc thêm dụ ngôn người đầy tớ tàn nhẫn để tìm ra bài học chính yếu mà Chúa Giêsu muốn dạy ta, mà không dừng lại ở các chi thiết của câu chuyện để tìm cho cái chi tiết ấy một ý nghĩa. Bài học chính yếu để sự tha thứ của loài người liên quan với sự tha thứ của Thiên Chúa. Các chi tiết của câu chuyện tả lại cho chúng ta một khía cạnh của triều đình Đông phương vào thời Chúa Kitô, nhất là những gì liên quan đến quyền tùy nghi quyết định của nhà vua trên thường dân. Chúa Giêsu đi từ một sự thực có sẵn trong óc của mọi người để xây dựng câu chuyện và rút ra một bài học: Chúa Cha ở trên trời sẽ hành động giống như ta suy nghĩ và hành động với các anh chị em khác. Lúc suy nghĩ về sự tha thứ Phúc âm, ta thấy Thiên Chúa có tham vọng nâng chúng ta lên ngang hàng với sự cao cả riêng Ngài. Sau đây là một vài điểm dùng làm mốc để suy nghĩ.
1) Không nên giam hãm một ai trong sự xúc phạm đã qua. Khi chúng ta phải tha thứ, thì thường là liên quan đến một sự xúc phạm nằm trong quá khứ. Nhưng kẻ xúc phạm, tác giả của sự xúc phạm, đang sống trong hiện tại. Con người ấy trong giây phút hiện tại không cùng là một con người như lúc xúc phạm nữa. Do đó chúng ta phải nhìn người ấy một cách khác. Tha thứ là chấp nhận kẻ khác như họ đang sống bay giờ, chứ không phải là xua đuổi họ, như họ đã đối xử trong quá khứ.
2) Người ta sẽ bảo rằng: nếu kẻ ấy lại quay làm thiệt hại ta như trước, nếu kẻ ấy tái phạm ta phải đối xử như thế nào? Phúc âm trả lời: vẫn tha thứ. Điều này không có nghĩa là ta khỏi phải đề phòng. Tuy nhiên Phúc âm cấm ta không được làm hại họ, hơn nữa lòng ta còn phải đi xa tới chỗ lấy ân đền oán. Có lẽ sẽ bảo là muốn làm được như thế phải có chí anh hùng. Thiên Chúa đã hành động với chúng ta như thế nào? Chúng ta là những người có tội hay sa đi ngã lại mà Thiên Chúa vẫn luôn luôn tha thứ khi có dấu hiệu mảy may là chúng ta hối cải. Thiên Chúa không ngớt mong muốn điều lành cho chúng ta.
3) Người ta thường nói: tha thứ thì được mà bỏ quên thì không. Sự tha thứ mới là đối tượng của giới răn chứ đâu phải là sự bỏ quên. Bỏ quên lỗi của kẻ khác nằm ngoài quyền hạn của ý chí và phải chăng đó là điều đáng mong ước? Khi chúng ta nhớ lại một ân huệ đã lãnh nhận, chúng ta có thể lợi dụng đó để khơi dậy lòng biết ơn và đó là điều rất tốt. Khi nhớ lại một sự thiệt thòi đã chịu, chúng ta lợi dụng đó để tha thứ một lần nữa và làm cho sự tha thứ càng lớn mạnh. Trong cả hai trường hợp trí nhớ có thể giúp chúng ta làm điều thiện. Khả năng nhớ lại đặt chúng ta gần với tư tưởng của Chúa vì Người thu gọn tất cả quá khứ của thế giới trong cái hiện tại vĩnh viễn nhưng là để yêu mến.
4) Sự tha thứ mà Phúc âm đề xướng là một món quà cho không, ngay cả với những người không xứng đáng. Điều này cũng có nghĩa là phải cầu nguyện, để kêu cầu ơn Chúa là sức mạnh phi thường và linh thiêng khiến lòng người có khả năng lướt thắng chính mình, đến nỗi thực hiện được những công việc quá sức loài người.
22. Tha thứ là được thứ tha
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Liền sau Thế chiến thứ hai chấm dứt, bà Corrie-Ten-Boom, với những vết thẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình mà bà phải chịu trong trại tập trung Đức Quốc Xã, đã dấn thân đi khắp các nước Âu Châu để rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình. Bà rao giảng sứ điệp tha thứ với niềm xác tín là chính mình đã thực sự tha thứ cho tất cả những ai đã hành khổ bà trong trại tập trung.
Nhưng vào trong một ngày Chúa Nhật kia, sau khi đã kêu gọi mọi người tha thứ cho nhau trong nhà thờ của thành phố Munich, ở Đức, bước ra ngoài, bà Corrie-Ten-Boom bất ngờ đối diện với một gương mặt quen thuộc, đó là dung mạo của người lính đã hành khổ bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung Đức Quốc Xã. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn phút chốc xuất hiện trong tâm trí bà. Những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí bà. Người đàn ông tiến lại gần khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt lấy tay bà vừa nói: “Thưa bà, tốt rất cảm ơn những lời đẹp đẽ bà đã kêu gọi cho sự tha thứ, xin bà tha thứ cho tôi”.
Lúc đó, bà Corrie-Ten-Boom như chết điếng người, vì trước đây nhiều lần bà đã cầu nguyện và đã nhất quyết với Chúa là đã tha thứ thật sự cho kẻ hành khổ mình, nhưng giờ đây phải đối diện với một người cụ thể đã từng tra tấn mình, bà Corrie-Ten-Boom đứng lặng im, hai bàn tay không thể nào đưa ra bắt lấy đôi tay của người đến xin bà tha thứ.
Sau này, vào năm 1971, khi kể lại biến cố trong tập sách có tựa đề: “Nơi ẩn trốn”, bà Corrie-Ten-Boom đã cho biết như sau: “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa một lời cầu nguyện thầm: “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó, bà đã hiểu là con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình thương yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến,
* Tại sao phải tha thứ cho nhau?
Không phải chỉ bây giờ chúng ta mới đặt ra câu hỏi này. Khi Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng của tình thương và sự tha thứ, thì các môn đệ cũng đã đặt ra câu hỏi tương tự như vậy.
* Tại sao phải tha thứ và tha thứ bao nhiêu lần?
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay đã trả lời cho câu hỏi chúng ta vừa đặt ra: Tại sao phải tha thứ và phải tha thứ bao nhiêu lần? – Chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Chúng ta cần tha thứ luôn luôn cho anh em, vì Thiên Chúa luôn luôn tha thứ cho chúng ta.
Như thế, tha thứ là sống noi gương Thiên Chúa Cha, Đấng đầy lòng nhân từ và giàu lòng thương xót. Tình thương tha thứ là một phát minh tuyệt vời của Thiên Chúa để giúp con người sống hiệp thông với Ngài và hiệp thông với nhau, để xây dựng tốt đẹp cộng đoàn xã hội.
Nếu như từ đầu, khi con người phạm tội xa cách Ngài mà Thiên Chúa đã không có biện pháp tha thứ, thì chắc chắn sẽ không có tương lai gì tốt đẹp cho con người, nhưng kể từ giây phút có sáng kiến thực hiện chương trình tha thứ cho con người, thì từ giây phút đó nhân loại có thể hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn, nếu nhân loại biết vâng phục lắng nghe lời dạy của Ngài mà tha thứ cho nhau.
Vậy mỗi lần ta tha thứ cho anh chị em là mỗi lần ta để tâm hồn mình hòa điệu với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng nhân từ và hay tha thứ. Mỗi lần ta tha thứ cho anh chị em là mỗi lần ta thoát ra khỏi cảnh nô lệ cho những giới hạn ích kỷ của con tim mình, để hòa mình với những tâm tình yêu thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa.
Trong câu chuyện dụ ngôn, Chúa cho thấy món nợ của con người với Chúa thật to lớn, đời đời không trả được. Nhưng Chúa là tình yêu, Ngài sẵn sàng tha thứ tất cả. Còn món nợ giữa con người với tha nhân tương đối nhỏ, có thể hoàn trả được, thế nhưng con người không biết chờ đợi, không biết yêu, nên không tha thứ cho nhau được.
Con người không biết tha thứ cho anh em, đối xử với anh em tàn tệ là tự chuốc lấy cho mình cơn thịnh nộ của Thiên Chúa: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì người đã van xin ta; con ngươi, sao không chịu thương hại bạn ngươi như ta đã thương hại ngươi?”và Chúa kết luận: “Vậy Cha Ta trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu anh em không hết lòng tha thứ cho nhau”. Như thế, từ chối tha thứ cho anh em là ngăn chặn ơn tha thứ đang dào dạt tuôn chảy vào tâm hồn mình vậy. “Vì chính khi thứ tha là khi chúng ta được Thiên Chúa tha thứ”.
Thưa anh chị em,
Trong đời sống thực tế, muốn biết thật lòng tha thứ thì hãy biết quên đi những lỗi lầm của anh em. Đừng nhắc đi nhắc lại, đừng nhớ dai, đừng tích chứa trong lòng. Chuyện ngày xửa ngày xưa, ba bốn đời… khi vui, thuận vợ thuận chồng, thì không nói, khi không bằng lòng nhau thì lôi chuyện cũ xào nấu lại làm cho nhau đau khổ. Còn Chúa, đã tha thứ thì Ngài tha luôn, vì “nếu Chúa tôi nhớ hoài tội lỗi, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 129).
Chúng ta hãy cầu nguyện như Bà Corrie-Ten-Boom khi thấy mình không thể tha thứ được: “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ được cho anh em con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Amen.
23. Chính khi thứ tha là khi được tha thứ – Anmai
Trang Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe tiếp liền với ý nghĩa của trang tin mừng Chúa nhật 23 thường niên tuần trước. Tuần trước, Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta một cách hết sức tế nhị khi sửa lỗi với anh chị em đồng loại. Hôm nay, Chúa mời gọi mỗi người chúng ta tha thứ cho anh chị em đồng loại nếu như anh chị em đồng loại xúc phạm đến chúng ta.
Thánh Phêrô vốn dĩ là một con người mang trong mình dòng máu nóng, tính bộc trực nên vừa khi nghe nói vấn đề gì đó Ngài không chịu suy xét, Ngài không trầm lắng đủ để giải quyết vấn đề. Ruột của Ngài thẳng như ruột ngựa vậy, bụng nghĩ sao là nói vậy ngay chứ không hề suy tính thiệt hơn. Nói về việc anh em đồng loại xúc phạm đến mình, Ngài rất hào phóng, rất rộng rãi. Tha một lần đã là quá đáng lắm rồi, theo như cách suy nghĩ của nhiều người. Ngài hào phóng, Ngài nói với Chúa Giêsu là Ngài tha bảy lần tưởng chừng là được Thầy Giêsu khen nhưng đáng tiếc Thầy Giêsu đã nói với Ngài không phải là tha bảy lần nhưng lại là bảy mươi lần bảy. Bảy mươi bảy lần: có bản ghi là 77 lần 7, trong câu trả lời này, Chúa Giêsu đã đưa vào bài ca báo thù của Lamek nơi sách sáng thế 4,24 "Cain được báo thù gấp 7, nhưng Lamek tới 70 lần 7". Nhưng thay vì nói báo thù thì Chúa Giêsu lại nói tha thứ. Cả hai cách nói đều có ý nói số lần là vô hạn vì thế ở đây Chúa dạy là phải tha thứ luôn.
Luật xưa dạy người ta mắt đền mắt răng đền răng nhưng Chúa Giêsu đến Chúa Giêsu đã sửa luật cũ đó. Sự tha thứ cho đồng loại để được Chúa nghe lời cầu xin được đề cao. Chúng ta được sinh ra và sống thời Tân Ước - thời của Chúa Giêsu - khác với những gì Cựu Ước đã dạy nhưng lòng chúng ta cứ xử với anh chị em đồng loại như thời Cựu Ước vậy. Chúng ta vẫn mang trong mình cái máu đòi nợ máu của anh chị em đồng loại khi anh chị em đồng loại xúc phạm đến chúng ta.
Một câu chuyện có thật, nó mang đầy tính nhân đạo, đầy tình người trong phòng xử án của Tòa Án Nhân Dân Thành phố HCM: Người đàn ông khoảng hơn 70 tuổi, mái tóc bạc trắng, lững thững bước lại chiếc bàn dành cho đại diện hợp pháp của người bị hại. Đưa ánh mắt đau xót, khắc khoải nhìn bị cáo đang cúi gằm mặt trước vành móng ngựa một hồi lâu, rồi ông cất giọng chậm rãi: "Ngày con tôi chết, tôi bồng con trên tay, điếng người". Cả phòng xử im lặng lắng nghe. Không gian như ngưng đọng. Tôi có cảm giác phạm nhân đang gồng mình chờ đợi, một cách cam chịu, những lời lẽ trách cứ đầy oán giận từ người nhà nạn nhân. Hít một hơi thở thật sâu, cha của nạn nhân khó nhọc nói tiếp: "Hôm nay tôi đến đây để xin tha tội chết cho kẻ đã giết con tôi. Tôi không muốn có thêm một người cha, người mẹ phải đau khổ khi chứng kiến cái chết của con mình". Nhiều tiếng thì thầm từ phía bạn bè, người thân của phạm nhân. Họ đang hy vọng.
Cách nay không lâu, Tòa Án Nhân Dân Thành phố HCM đã đưa vụ án giết người của kẻ thủ ác ra xét xử sơ thẩm. Lần ấy, Phạm nhân bị tuyên án tử hình. Mẹ phạm nhâà nội ngất lịm, tưởng như có thể chết cùng đứa con trai duy nhất. Bạn bè phạm nhân khóc vì thương người bạn hiền lành, tốt bụng, tài năng. Còn 15 ngày kháng cáo, họ chạy ngược xuôi mong tìm kiếm những tình tiết có thể xin giảm nhẹ hình phạt cho phạm nhân. Bản thân phạm nhân, nghĩ đến ngày phải vĩnh viễn ra đi khi nhiều mơ ước vẫn chưa thực hiện bỗng thấy yêu da diết cuộc sống. Phạm nhân làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đứng trước Tòa Phúc thẩm Tối cao, phạm nhân không nói gì nhiều để biện minh cho hành vi tàn nhẫn của mình. Lời nói sau cùng, phạm nhân xin lỗi gia đình nạn nhân, cám ơn những người đã vì phạm nhân mà chịu nhiều đau khổ, vất vả. Trong trường hợp không được khoan hồng, phạm nhân xin hiến toàn bộ nội tạng cho ngành y và bộ xương cho Trường Đại Học Mỹ thuật Thành phố HCM. Nghe phạm nhân nói, nhiều người bạn của phạm nhân đã bật khóc. Cuối cùng, phạm nhân đã trở về con người thật của mình. Yêu nghề, yêu trường và sống vì người khác.
Tâm sự với tôi, cha của nạn nhân nói: "Vì tình thương yêu đối với con, tôi không bao giờ tha thứ cho kẻ đã giết con gái mình. Con tôi chết, bao nhiêu tiền bồi thường cũng không thể trả lại mạng sống cho nó, huống chi số tiền gia đình phạm nhân đưa không đủ để tôi nuôi con tôi học trong một năm. Nhưng một lần nói chuyện với mẹ phạm nhân qua điện thoại, bà ấy nói: "Không có người mẹ nào có thể chịu được hình ảnh người ta cột con mình vào một cái cây để bắn. Như thế, thà tôi chết trước còn hơn". Vậy là tôi quyết định, dù điều đó thật không dễ với tình cảm của tôi cùng sự phản đối quyết liệt của gia đình". Để có thể dự phiên tòa hôm nay, từ 3 giờ sáng, ông phải một mình đi xe máy từ miền quê nghèo miền sông nước lên Thành phố HCM. Tôi bảo, ông có thể viết một lá đơn xin miễn tội chết cho phạm nhân đến tòa vẫn được. Ông lắc đầu: "Giúp người phải giúp cho trót. Tôi phải lên đây nói cho rõ, may ra Hội đồng Xét xử mới tin mà xem xét cho nó. Mong là nó biết hối lỗi, biết thương mẹ mà sống có ích".
Cuối cùng, Hội đồng Xét xử cũng chấp nhận kháng cáo của phạm nhân, tuyên phạt án chung thân. Phạm nhân sẽ tiếp tục được sống để sửa chữa sai lầm và để có cơ hội cống hiến tài năng của mình cho nghệ thuật. Nghe xong bản án, cha của nạn nhân vội vã ra bãi gửi xe. Trước mắt ông là quãng đường về nhà dài dằng dặc cùng nỗi đau mất con không dễ nguôi ngoai dù thời gian có trôi qua...
Câu chuyện thật giữa đời thường và hết sức thường này gợi lên cho chúng ta về lòng bao dung, về tình người, về lòng nhân đạo, về sự tha thứ... Người cha trong câu chuyện này ắt hẳn là người không phải là người Công giáo nhưng ông mang trong mình tâm tư của người Công giáo và ông đã sống theo lời Chúa Giêsu dạy dù ông không biết Chúa Giêsu là ai. Người cha trong câu chuyện này đã sống tột đỉnh của lòng bao dung của sự tha thứ. Ông cũng không ngại bộc bạch rằng sự tha thứ ấy không dễ chút nào với tình cảm của ông cũng như sự phản đối quyết liệt của gia đình về quyết định tha thứ của ông. Sự tha thứ của ông tưởng chừng như đơn giản nhưng thử hỏi mỗi người chúng ta khi đứng vào vị thế của ông, chúng ta dẫu là người Công giáo, thấm nhuần lời giáo huấà nội của Chúa chúng ta có can đảm tha thứ cho kẻ đã giết đứa con thân yêu của chúng ta không? Hay là chúng ta đòi người khác phải đền nợ máu cho chúng ta, người khác phải trả cho chúng ta đến đồng xu cuối cùng.
Trở lại với trang tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu phải nói là người có biệt tài về dùng ví dụ cũng như phóng đại tính chất nghiêm trọng trong ví dụ của mình. Dừng lại một chút chúng ta sẽ thấy khập khiễng làm sao ấy giữa hai món nợ. Một bên thì nợ vua mười ngàn nén vàng, một bên thì người bạn nợ một trăm quan tiền. So sánh giá trị giữa một trăm quan tiền và mười ngàn nén vàng chúng ta thấy một khoảng cách xa vời vợi. Điều này Chúa Giêsu muốn nói rõ cho mỗi người chúng ta là chúng ta nợ Chúa quá nhiều và Chúa tha cho chúng ta còn anh chị em chúng ta nợ chúng ta quá ít mà chúng ta lại đòi anh em chị chúng ta trả cho bằng hết như trong ví dụ của Chúa Giêsu.
Đừng nói gì đến lòng mến, lòng bác ái. Chỉ cần nói đến sự công bằng thôi thì chúng ta thấy chúng ta sống quá ư là bất công. Bất công không chỉ với Chúa mà con bất công với anh chị em đồng loại. Kinh Lạy Cha chúng ta vẫn thường râm ran: Xin tha cho chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Miệng thì đọc thế nhưng lòng có thật sự tha hay không? Hay là miệng thì đọc nhưng lòng cứ muốn đòi nợ máu anh chị em đồng loại của mình.
Lời Chúa trong thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Rôma chúng ta vừa nghe nhắc nhớ mỗi người chúng ta: không ai trong chúng ta được sống cho mình... chúng ta có sống là sống cho Chúa, chết là chết cho Chúa... Dù sống dù chết chúng ta thuộc về Chúa vì chưng Chúa đã sống, đã chết là để làm chúa kẻ sống và người chết. Chúa là Chúa của mỗi người chúng ta vậy mà nhiều lúc chúng ta tước đoạt quyền làm Chúa trên cuộc đời chúng ta. Tước đoạt quyền làm chúa của Chúa là chuyện hết sức là bi hài. Chỉ có Chúa mới làm chúa, làm chủ cuộc đời mỗi người chúng ta vậy mà chúng ta muốn làm chúa, làm chủ cuộc đời người khác và bắt người khác phải làm tôi, phải trả nợ cho chúng ta.
Nếu đọc thêm một câu của đoạn thư Thánh Phaolô gửi cho tín hữu Rôma nữa chúng ta sẽ thấy Ngài nói: "Còn ngươi, tại sao ngươi xét đoán anh em ngươi? - Hay ngươi, tại sao ngươi khinh anh em ngươi? Vì ta hết thảy sẽ ra trước tòa Thiên Chúa". (Rm 14,10). Chúng ta thường mang cái bệnh xét đoán anh em, kết án anh em và ra hình phạt với anh em. Và thường hơn nữa trong cuộc sống thường nhật chúng ta hay mang trong mình chứng bệnh khinh thường anh chị em đồng loại khi họ nghèo hơn chúng ta, khi họ khổ hơn chúng ta, khi họ bất hạnh hơn chúng ta, khi họ yếu đuối hơn chúng ta, khi họ vấp phạm điều gì đó mà cộng đoàn đều biết. Thế nhưng Thánh Phaolô nhắc chúng ta rằng: hết thảy chúng ta sẽ ra trước toà Thiên Chúa. Khi và chỉ khi ra trước toà Thiên Chúa thì khuôn mặt thật của chúng ta, tấm lòng thật của chúng ta sẽ phải bị phanh phui ra trước mặt Chúa thôi. Hiện giờ thì chúng ta còn lấp liếm, còn giấu những sự ác, những sự gian tà, những hận thù, ghen ghét anh chị em đồng loại nhưng khi ra trước toà Chúa chúng ta không thể nào giấu được.
Vậy, phải chăng qua trang tin mừng ngắn ngủi, qua ví dụ nhỏ nhoi nhưng đầy ý nghĩa của Chúa Giêsu hôm nay chúng ta liệu liệu mà tha thứ cho những người mắc nợ chúng ta có một trăm quan tiền để hầu mong Chúa Giêsu tha cho chúng ta là những con nợ đang mắc nợ Chúa với số nợ quá lớn là cả ngàn nén vàng. Chúng ta muốn Chúa tha thứ cho chúng ta thì điều kiện cần, điều kiện trước hết là chúng ta phải biết tha thứ cho anh chị em đồng loại. Nếu chúng ta bắt đền, đòi nợ anh chị em đồng loại thì nào Chúa lại tha cho chúng ta. Chúng ta cứ ngẫm nghĩ thử xem có phải là chính lúc chúng ta thứ tha là lúc mà chúng ta được tha thứ hay không?
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng bao dung, chậm bất bình và giàu ân sủng thương xót và tha thứ cho chúng ta những món nợ mà chúng ta nợ Chúa cũng như nợ anh chị em đồng loại. Nguyện xin Chúa Giêsu mở lòng mỗi người chúng ta để chúng ta cũng biết tha thứ cho anh chị em đồng loại để hầu mong Chúa cũng dễ dàng tha thứ những món nợ mà chúng ta nợ Chúa. Amen.
24. Tha thứ cho nhau – Lm JB. Nguyễn Minh Hùng
Chúa nhật 23 thường niên, Chúa Giêsu dạy: Hãy đi sửa lỗi cho nhau. Chúa nhật tuần này, Chúa nhật 24 thường niên Chúa dạy Hãy tha thứ cho nhau. Nếu việc sửa lỗi là một khía cạnh, một khuôn mặt của tình yêu, thì tha thứ những lỗi lầm của nhau lại là một khuôn mặt khác của tình yêu. Tình yêu tha thứ theo Chúa Kitô, phải là một tình yêu không giới hạn. Thánh Phêrô, trong câu hỏi của mình, đã vô tình để lộ ra cái ý muốn giới hạn tình yêu của mình. Ngài đưa ra con số 7 mà hỏi Chúa: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần, có phải đến bảy lần không?" Có lẽ thánh Phêrô nghĩ rằng mình đã tha thứ đến 7 lần như vậy, đã là nhiều lắm rồi, đã là không thể tưởng rồi. Nhưng thánh Phêro lầm. Đối với Thiên Chúa, đối với Chúa Kitô, giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn.
Câu trả lời của thánh Phêrô: "Thầy không bảo các con hãy tha 7 lần, nhưng 70 lần 7", trở thành điểm qui chiếu cho tình yêu tha thứ của chúng ta. Tha thứ đến 70 lần 7 nghĩa là tha thứ không giới hạn, tha thứ vô cùng, tha không tính toán, không đếm bằng những con số. Vì khi đếm là đã giới hạn lòng yêu thương của mình.
Trong cuộc sống đời thường, chắc ai cũng từng nghe những kiểu nói: Nó với tôi không đội chung trời, hoặc sống để bụng, chết đem theo, có khi những kiểu nói đó còn xuất hiện trên chính môi miệng của mình. Là người Công giáo, bạn và tôi đã có ai ý thức những kiểu nói đó đi ngược Tin Mừng, đi ngược Lời Chúa dạy không?
Thầy không bảo các con hãy tha 7 lần, nhưng 70 lần 7. Hãy nghe Lời Chúa dạy để đừng đặt giới hạn của lòng tha thứ, mà hãy tha thứ không giới hạn. Có những chuyện ta tưởng chừng rất nhỏ nhặt trong cuộc sống, lại sinh ra oán thù lớn. Ví dụ: hai đứa bé đánh nhau, thì vì chỉ bảo chúng, hai người hàng xóm, vì bênh vực con, lại mắn chửi nhau, rồi không thèm nhìn nhau.
Có khi chỉ là một câu nói lỡ lời, chạm tự ái, dẫn đến chuyện trách móc, phàn nàn nhau. Tệ hại hơn, không thể tha thứ cho nhau, nên dẫn tới chỗ hạ nhục nhau, chửi bới hoặc tìm cách trả thù nhau, chí ít thì cũng nói xấu nhau. Những điều đó đã là xấu đối với những người không có quan hệ họ hàng. Vậy mà những điều xấu đó lắm lúc lại xảy ra trong dòng tộc, trong gia đình: vợ chồng, cha mẹ, anh chị em. Những người thân của nhau mà còn không thể tha thứ cho nhau, thì huống hồ là người dưng.
Hàng ngày chúng ta đọc kinh Lạy Cha. Ngay trong từng thánh lễ, bạn và tôi cũng sẽ đọc kinh Lạy Cha: Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha cho những người có nợ chúng con. Hãy ý thức hơn nữa mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, để lời cầu nguyện ấy trở nên sự thật trong cuộc đời mình. Hãy nhớ rằng, Cha tha nợ cho ta khi ta hết lòng tha cho anh em mình. Bởi thế mỗi lần đọc kinh Lạy Cha, ta xin Chúa ban cho ta và cho từng người khả năng tha thứ. Tha thứ không phải bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy. Nghĩa là tha thứ liên tục, tha thứ không giới hạn.
25. Vì sao phải quảng đại tha thứ?
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Tha thứ là một chủ đề không có gì mới lạ. Đã là con người thì phải biết tha thứ. Đây là một trong những đức luân lý nhân bản. Và tôn giáo nào cũng dạy con người sống phải biết đại lượng, khoan dung, tha thứ cho người lỗi phạm đến mình. Sự oán ghét, hận thù thỉnh thoảng có mặc chiếc áo của sự công bình làm con người thấy hả hê khi kẻ có tội phải bị đền nợ nhưng rồi chẳng thể thực sự “có hậu” như Phật pháp nhận định: lấy oán trả oán thì oán oán chồng chất. Vấn đề đặt ra là vì sao chúng ta phải quảng đại tha thứ cho nhau và cần phải tha thứ liên lĩ như Chúa Giêsu khẳng định với Phêrô là đến bảy mươi lần bảy?
Phụng vụ Lời Chúa ngày Chúa Nhật XXIV TN A, đặc biệt bài trích Sách Huấn ca và bài trích Tin Mừng thánh Matthêu đã nêu rõ nguyên nhân khiến chúng ta phải tha thứ cho nhau cách quảng đại và liên lĩ đó là vì chúng ta cũng là kẻ có tội và đã được Thiên Chúa tha thứ cách liên lĩ và quảng đại. Đồng thời việc tha thứ cho nhau còn là điều kiện như tất yếu để nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Chúng ta đều là kẻ có tội. Đã là người ít có ai dám to gan khẳng định mình vẹn sạch, không vương bẩn tội nhơ. Cha ông chúng ta cảm nghiệm rằng: Đa thọ đa nhục, đa phú đa ưu. Cũng như càng giàu có thì càng thêm nhiều mối lo thì càng thêm tuổi thì tội lỗi càng chất chồng. Mọi thứ tội mà chúng ta phạm đến Thiên Chúa đều to lớn và nặng nề như món nợ không bao giờ có thể trả được. Mười ngàn nén vàng mà anh đầy tớ mắc nợ nhà vua theo câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể là một minh họa. Mức độ nặng nhẹ của tội mà chúng ta phạm không nguyên chỉ căn cứ vào loại tội gì mà còn căn cứ vào người mà chúng ta xúc phạm. Mọi tội lỗi của chúng ta đều xúc phạm đến chính Thiên Chúa, vì chúng ta đã cố tình đi ngược với đường lối Người chỉ dạy, làm trái với giới răn Người ban truyền. Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành đã dựng nên muôn vật muôn loài và dựng nên chúng ta từ hư vô. Người còn là Người cha chí ái đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban chính Con Một cho chúng ta. Chính vì thê phải khẳng định rằng bất cứ thứ loại tội nào dù lớn hay bé, dù mặt này hay khía cạnh kia, khi đã xúc phạm đến Đấng Toàn Năng và Toàn Thiện thì đều đáng “tru di cửu tộc”.
Một thực tế không thể chối cãi đó là Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu, lòng khoan dung nhân hậu với chúng ta không bút nào tả xiết. Người đã yêu thương nhân loại chúng ta đến nỗi trao ban chính Người Con Một để chúng ta được thứ tha, được hòa giải với Người và dĩ nhiên là để cho chúng ta được hưởng gia tài là hạnh phúc vĩnh cửu. Thánh Gioan Tông đồ quả quyết chính Thiên Chúa đã đi bước trước trong việc yêu thương chúng ta. Thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại cũng đã khẳng định rằng Chúa Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Anh đầy tớ mắc món nợ kếch xù trong câu chuyện dụ ngôn, không xin tha mà chỉ xin cho khất nợ một kỳ hạn, thì đức vua lại chạnh lòng thương cho y về và xí xóa luôn cả món nợ kếch xù ấy. Lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa là thế đó. Đức Bênêđictô XVI trong Thông Điệp đầu triều đại Giáo hoàng của Ngài, Thông điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” đã nhận định: Tình yêu của Thiên Chúa như chống lại sự công minh của Người (số 10).
Một định luật tất yếu: Nước trên nguồn tuôn đổ dạt dào thì nó cần phải được chảy xuôi về hạ lưu. Đã đón nhận tình yêu tha thứ cách dồi dào và nhưng không, thì chúng ta phải biết yêu thương tha thứ cho nhau cách quảng đại và liên lĩ. Tuy nhiên một thực tế dường như không thể chối, đó là dòng suối ân tình tha thứ đã từng bị chặn đứng bởi tấm lòng hẹp hòi, nhỏ nhen của chúng ta trước lầm lỗi của tha nhân. Cần xác định rằng mọi lỗi lầm mà tha nhân phạm đến chúng ta đều chỉ là món nợ lẻ, không đáng kể. Chúng ta cũng chỉ là thọ tạo như tha nhân không hơn không kém. Chúng ta đồng thời cũng là những tội nhân đầy hạn chế và bất toàn. Chính vì thế những lỗi lầm mà tha nhân xúc phạm đến chúng dù mức nào đi nữa thì chẳng đáng là bao. Thế mà như người đầy tớ vừa được tha một món nợ kếch xù trong chuyện dụ ngôn, chúng ta nhiều khi lại kim gút lỗi lầm của tha nhân đến độ có hành vi nhẫn tâm và tàn ác dường như không thể tưởng.
Một định luật tất yếu thứ hai: Khi dòng chảy bị chặn thì nguồn nước sẽ trào lênh láng ra ngoài. Dù Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ nhưng chúng ta sẽ không nhận được hồng ân ấy, nếu chúng ta khép lòng từ tâm của mình trước tha nhân. Xin cùng nhau ngẫm nghĩ Lời chúa trong Sách Huấn ca: “Người với người cứ nuôi lòng hờn giận, thế mà lại xin Đức Chúa chữa lành! Nó chẳng biết thương người đồng loại, mà lại dám xin tha tội cho mình! Nó chỉ là người phàm mà để tâm thù hận, thì ai sẽ xin tha tội cho nó?”(Hc 28,3-5). Chúa Giêsu kết thúc câu chuyện dụ ngôn bằng những lời sau: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế (tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông), nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18,35). Trước đó, khi dạy các môn đệ cầu nguyện với Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu cũng đã khẳng định điều tương tự: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 14-15).
Là Kitô hữu Công giáo, chúng ta đã từng nhiều lần đến tòa cáo giải. Căn cứ vào lời khẳng định của Chúa Giêsu thì vẫn có đó nhiều người dù đã xưng thú tội lỗi, đã nhận được lời xá giải: “Cha tha tội cho con…” , nhưng tội họ vẫn còn đó, nghĩa là chưa nhận được hồng ân tha thứ của Thiên Chúa, tất thảy chỉ vì họ chưa thực lòng tha thứ cho tha nhân, những người đã lỗi phạm đến họ.
26. Thiên Chúa là vị thẩm phán tốt nhất của chúng ta.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Hãy tưởng tượng ra ngày ấy, cái ngày mà các bạn phải chết. Toàn bộ cuộc sống sẽ diễn ra trước mặt bạn. Trước hết, bạn sẽ thấy những gương mặt quen thuộc, người phối ngẫu của bạn, những đứa con, ông chủ, bạn bè thân thiết, cha mẹ. Bạn nhận ra rằng nếu bạn muốn, bạn có thể chọn một trong những người ấy làm quan toà xét xử bạn.
Đầu tiên bạn nghĩ: “Dĩ nhiên tôi chọn người phối ngẫu của mình rồi, chúng tôi yêu nhau thật sự mà”. Nhưng kế đó các bạn nhớ lại bao nhiêu lần cãi cọ, bao nhiêu lần đánh nhau nên các bạn sẽ sợ họ bây giờ vẫn chưa quên đâu. Còn con cái của bạn? Bọn chúng nghĩ rằng các bạn quá khó đối với chúng. Còn những người bạn thân thiết? Các bạn sợ họ biết quá nhiều về bạn.
Vậy bạn chọn cha mẹ khi nhìn thấy những gương mặt già nua. Nếu được chọn bạn sẽ chọn Thánh Phanxico de Salesio, người nổi tiếng là hiền lành và hay thương người. Đó là một chọn lựa không tồi. Hay bạn sẽ chọn thánh Vinh Sơn, một cng nổi tiếng về đức ái khó tìm thấy trong thế giới này. Bạn nghĩ, ông thánh này quá tốt rồi. Và rồi những vị thánh khác liên tiếp xuất hiện trước bạn. Sau hết bạn thấy Đức Trinh Nữ Maria, bạn liền nghĩ: “Dĩ nhiên mình sẽ chọn được phán xét bở người mẹ dịu dàng, tử tế và đáng yêu của mình và cũng là người mẹ đời sống thiêng liêng của mình nữa”.
Nhưng trước khi bạn kịp nói điều gì, Đức Trinh Nữ Maria đã đẩy bạn vào tay Con Mẹ. Chúa Giêsu dẫn bạn đến trước một cái ngai chỉ cho bạn thấy trên ngai đó, Người đó là Đức Chúa Cha. Chúa Giêsu nói: “Đây là Đấng phán xét con, đừng chọn một ai khác”.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu nói đúng. Tự nhiên chúng ta hy vọng rằng những người gần gũi với chúng ta trong suốt đời sống sẽ nhân từ với chúng ta trong phán xét hơn. Chúng ta cũng tin rằng Mẹ Maria rất nhân từ và thương yêu chúng ta. Nhưng Mẹ Maria và tất cả các thánh chỉ được thông dự vào sự nhân từ và thương xót của Thiên Chúa, không những Thiên Chúa sở hữu sự nhân từ trong một mức độ vô biên nhưng Thiên Chúa còn thật sự là sự nhân từ nữa. Thiên Chúa là sự nhân từ và là sự thương xót.
Vị Vua trong dụ ngôn của Chúa Giêsu là Cha của Người. Khi các bạn của vua xin vua hãy khoan giãn cho y và cho y một thời hạn để trả hết số nợ, vị vua đã tha hết số nợ đó, Người xoá sạch số nợ ấy và Người không còn nhớ gì đến nó nữa. Dĩ nhiên là một vị vua nhân loại sẽ không làm một điều như thế bởi vì con người rất giới hạn. Bạn có thể chắc chắn rằng thẻ tín dụng của bạn sẽ không xoá số nợ của bạn cho dù các bạn có năn nỉ hay nài xin thế nào đi nữa. Nhưng chúng ta không thể minh hoạ bức tranh về Thiên Chúa theo kinh nghiệm của con người nhân loại được. Chúng ta chỉ biết lòng nhân từ của Thiên Chúa qua Người Con của Người.
Dù đã xoá hết nợ nần là tội lỗi của chúng ta, Thiên Chúa Cha vẫn trao ban Con của Người cho cái chết vì chúng ta và để cứu độ chúng ta. Chúng ta đừng bao giờ quên hành động quảng đại tuyệt vời của Thiên Chúa. Hãy chăm chú lắng nghe những lời thánh hiến trên rượu. Qua miệng của vị linh mục, Chúa Giêsu nói với chúng ta trong mỗi Thánh Lễ: “Đây là chén Máu Ta…”. Và Người đã tha thứ cho tội lỗi chúng ta, xoá sạch… Khi chúng ta làm đầy đủ điều kiện của Thiên Chúa, đó là cố gắng tha thứ cho người khác như Người đã tha thứ cho chúng ta. Chúng ta phải nói cách can đảm: “Xin tha thứ cho chúng tôi như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng tôi”. Điều này phải hiện hữu trong trái tim chúng ta, khi chúng ta làm một hành động tha thứ. Khi chúng ta xin tha thứ trong suốt hy tế Thánh Thể, khi chúng ta cử hành nghi thức Sám hối. Sách Khôn ngoan nhắc nhở chúng ta: “Hãy nhớ đến ngày cuối cùng của bạn, bỏ sự thù địch qua một bên. Hãy nhớ đến cái chết và đừng phạm tội nữa”. Nhưng sự phong phú của khôn ngoan thì vui mừng với Thiên Chúa và chính Người chứ không phải ai khác sẽ phán xét chúng ta.
27. Bảy mươi lần bảy!
Phêrô rất bị đụng chạm do những lời khuyên về cuộc sống huynh đệ. Ông đã nghe các luật sĩ tranh luận về việc tha thứ. “Đối với vợ, ngươi có thể tha thứ cho vợ một lần... Đối với anh em, ngươi phải tha thứ co anh em năm lần”. Còn quan điểm của Chúa Giêsu thì sao?
- Tôi phải tha thứ bảy lần phải không?
- Ngươi hãy tha thứ bảy mươi lần bảy.
Đứng trước câu trả lời này, một trong những câu trả lời điên rồ nhất của toàn bộ Tin Mừng, lúc này đây chúng ta có thể ở trong một tình trạng bi đát hết sức an bình. Bi đát: Chúa đang yêu cầu chúng ta một sự tha thứ rất khó khăn và tất cả đảo lộn trong ta khi nghĩ đến điều đó. An bình: cuộc sống của chúng ta thanh thản đến độ sự đòi hỏi của Chúa Giêsu đối với chúng ta dường như rất dễ: chắc chắn là phải luôn luôn tha thứ.
Lý thuyết! Chúng ta hãy nhìn chung quanh chúng ta mà xem! Ai tha thứ? Thậm chí ngươì ta nghĩ rằng tha thứ sẽ khuyến khích những gì không thể tha thứ được. “Nào xin bạn cứ tự nhiên!”. Việc nghe theo Chúa Giêsu yêu cầu có một sự đảo ngược.
Tôi lấy lại hai hoàn cảnh trên. Nếu tôi hoàn toàn bị đảo lộn đứng trước một điều gần như không thể tha thứ được (nhưng người ta vẫn luôn luôn nói là sự tha thứ), Chúa Giêsu kêu gọi tôi tha thứ ngay lập tức, mặc dầu những thương tổn và những phản kháng của tôi. Ngay lập tức. Chúng ta huỷ diệt Tin Mừng và sự sống của chúng ta khi chúng ta chờ thời, khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta không có khả năng thực hiện điều mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta. Làm cho chúng ta có khả năng, đó là công việc của Ngài, công việc của Thánh Linh. Phần chúng ta là phải đối diện với lơì kêu gọi đó và kêu xin Chúa Giêsu: con muốn, nhưng con không thể làm được, xin Chúa giúp con!
Nếu tôi không có vấn đề gì cả, sự đòi hỏi của Chúa Giêsu là một liều thuốc phòng ngừa. Sự đòi hỏi đó lôi kéo tôi đi ngược dòng một thế giới kiêu ngạo từ chối tha thứ.
Bởi vì đây đúng là một cuộc chiến chống lại sự kiêu ngạo, luôn luôn sẵn sàng bi kịch hoá các điều sỉ nhục và dựng lên những bức tường trước những ý tưởng hoà giải. Lòng kiêu ngạo rất biết cách nguỵ trang thành danh dự, thành lương tri, thành công bằng, thành sự tự vệ hợp pháp, thành lo lắng không tạo thuận lợi cho những kẻ xấu, đến nỗi trước tiên cần phải loại bỏ lòng kiêu ngạo đó đi đã: “Lòng kiêu ngạo ơi, đừng có mà len lỏi vào đó”.
Trong bầu không khí trong sạch hơn, chúng ta có thể xem xét ý tưởng cho rằng có những sự tha thứ xấu. Khi tôi chấp nhận mỉm cười và giơ tay ra bởi vì điều đó thu xếp ổn thoả cho tôi, thì đó là tôi không tha thứ, mà là tôi dùng mánh lới. Khi tôi tha thứ cho một tay độc tài áp bức những người yếu kém, thì đó là tôi không tha thứ, mà là tôi sợ. Nếu đó là những sự tha thứ thật sự có giá trị, thì có hai điều có thể làm cho mỗi người trong chúng ta trở thành một người sẵn sàng tha thứ và đấu tranh chống lại nhiều cái “Không thể tha thứ được!” đang đầu độc bất cứ cuộc sống chung nào.
Trước hết, nghĩ đến một người mà chúng ta biết rõ và đã có lần từ chối tha thứ. Đo lường tình trạng lộn xộn của cuộc sống. Sự nghiền ngẫm nội tâm của người đó dồn cho bạn những chi tiết về sự lầm lẫn mà người ta đã làm cho người đó, về người đã xúc phạm hoặc phản bội người đó. Trong khi suy nghĩ về tất cả những điều đó, người ta thề thốt sẽ không bao giờ rơi vào trong sự mất khả năng lật một trang mới nữa.
Tin Mừng cống hiến cho chúng ta một cách khác để vun trồng nơi chúng ta khả năng hoà giải với nhau rất nhanh: đặt những sự tha thứ của chúng ta trong sự tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta không bao giờ là một người công chính sẽ làm cho lòng khoan dung của Ngài rơi xuống trên một kẻ phạm lỗi đáng thương. Cả hai chúng ta đều là những người được tha thứ, được mơì gọi đi vào trong cùng một quỹ đạo của sự tha thứ.
Đó là quỹ đạo của Kinh Lạy Cha “Xin tha thứ cho con như thể người ta tha thứ cho một người con bởi vì trong khi tha thứ, con cố gắng trở thành con của Ngài”. Tự bảo: “Tôi sẽ không bao giờ từ chối tha thứ”, tương đương với: “Tôi muốn vẫn thuộc về gia đình của Thiên Chúa”.
28. Tha thứ, mùa xuân tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Mt 18, 21-35: Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu dạy hãy sửa lỗi cho nhau. Tin Mừng tuần này, Chúa dạy hãy tha thứ. Góp ý xây dựng là một nét đẹp của tình yêu. Tha thứ là mùa xuân của tình yêu...
***
Văn hào Nga, Lêon Tolstoi kể câu chuyện ngụ ngôn.
Có một người hành khách đến trước cửa nhà một người giàu có để xin bố thí. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu đựng đựơc những lời van xin đó, thay vì bố thí, người giàu có đã lấy đá ném vào người hành khất. Con người khốn khổ ấy lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: ta sẽ mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi.
Năm tháng trôi qua, lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất cũng chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu có vào ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng, ông đi theo đoàn người áp giải, tay không rời hòn đá mà người giàu có đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên mình. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tuỵ đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này giờ đây chỉ là một kẻ khốn khổ như ta mà thôi.
Có hai thứ mùa xuân. Xuân đất trời và xuân tâm hồn. Xuân đất trời, mầm non nẩy lộc, cây cối xanh tươi. Xuân tâm hồn, bình an thanh thản. Người hành khất đã tìm lại mùa xuân tâm hồn. Vì biết tha thứ nên tâm hồn mang nặng hờn căm oán ghét giờ đây đã hồi sinh, nảy mầm. Từ đây, cuộc sống trở nên tươi đẹp. Mới mẻ của mùa xuân tâm hồn con người là sự tha thứ.
Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu dạy hãy sửa lỗi cho nhau. Tin Mừng tuần này, Chúa dạy hãy tha thứ. Góp ý xây dựng là một nét đẹp của tình yêu. Tha thứ là mùa xuân của tình yêu.
Trang Tin Mừng thuật lại cuộc đàm đạo về ơn tha thứ.
Phêrô đến gần Chúa Giêsu hỏi rằng: Thưa Thầy, nếu anh em con xúc phạm đến con thì con phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không?. Đối với người Do thái là “quá tam ba bận”. Có tha chỉ tha ba lần thôi, đến lần thứ tư phải trừng phạt. Họ suy luận:Thiên Chúa trừng phạt kẻ ác khi nó lỗi phạm lần thứ tư; người phàm không thể nhân lành hơn Thiên Chúa nên con người không thể tha thứ cho nhau quá ba lần. Trước lời suy luận và giảng dạy như thế của các kinh sư, Phêrô chắc mẫm sẽ được Thầy khen ngợi khi đề nghị tha bảy lần. Vì tha thứ bảy lần là đã gấp đôi truyền thống Do thái và còn cộng thêm một lần nữa. Phêrô đến với Chúa bằng tâm thức của luật dân Chúa đang tuân giữ "Thiên Chúa luôn tha thứ cho người công chính bảy lần" (Cn 24,16). Tha thứ bảy lần là tha thứ có giới hạn. Thế nhưng, câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm bàng hoàng người nghe: Không phải chỉ bảy lần nhưng là bảy mươi lần bảy. Tha thứ đến 490 lần. Ở đây không thể hiểu theo nghĩa đen với công thức toán học để tìm ra con số lần phải tha thứ cho anh em mà là tha thứ không giới hạn, tha hoài, tha mãi.
Để các môn đệ hiểu bài học tha thứ không giới hạn này, Chúa Giêsu đã cụ thể hoá bằng câu chuyện. Một người đầy tớ mắc nợ vua mười ngàn nén bạc, có giá trị tương đương một trăm triệu, một số nợ khổng lồ vì một ngày công chỉ một đồng (x. Mt 20,9). Vua ra lệnh bán y, vợ con, tài sản của y để trả nợ. Người đầy tớ liền sấp mình, van lơn xin khất nợ. Nhà vua động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.Tên đầy tớ được tha hết mọi nợ nần, được trả tự do, không còn làm nô lệ nữa. Trớ trêu thay, vừa được tha về, tên đầy tớ gặp một người bạn chỉ mắc nợ y một trăm đồng, một món nợ rất nhỏ so với món nợ khổng lồ y vừa được vua tha bổng, y tóm lấy, bóp cổ đòi trả nợ ngay. Người bạn sấp mình dưới chân y, van lơn xin khất nợ, nhưng y không nghe, bắt bạn tống giam vào ngục. Chuyện chướng tai gai mắt này đến tai vua, vì những người bạn của anh không thể nhắm mắt làm ngơ được. Kết cục, tên đầy tớ ác độc bị vua ra lệnh hành hạ. Kết thúc câu chuyện, Chúa Giêsu khẳng định: “Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
Tha thứ cho nhau là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ. Chúa Giêsu cho thấy tính cấp thiết và cần thiết của ơn tha thứ.
- Phải tha thứ vì ai cũng lỗi lầm.
“Nhân vô thập toàn”, không ai hoàn hảo cả. Là con người, ai cũng có những sai trái, những lầm lỗi. Xét lại bản thân, sẽ thấy chính mình cũng có nhiều sai trái, lắm khiếm khuyết và lầm lỗi. Vô ý và hữu ý, cố tình và vô tình xúc phạm nhau. Chỉ cần một chút cảm thông, một ít hiểu biết sẽ dễ dàng bỏ qua, không chấp nhất. Người mang nặng oán hờn là người không bao giờ bình an. Như người hành khất mang hòn đá căm hờn mười mấy năm nặng nề. Trong các thứ khổ hạnh, giữa những thứ đắng cay, có một thứ rất cay đắng, đó là thiếu vắng thông cảm, là tâm hồn mang hận thù. Khi thù ai, tâm hồn tôi không còn phẳng lặng. Khi tôi bị người khác thù hận, tôi sống trong đề phòng sợ hãi. Cả hai đều là ngục tối. Cả hai đều đánh mất bình an tâm hồn.
Tha thứ là việc vô cùng khó. Tha thứ vượt qua khả năng tự nhiên của con người, nhất là đối với người Việt Nam chúng ta “sống để bụng, chết đem theo”. Câu nói đó cho thấy người Việt Nam giận dai, thù dai, nhớ dai những xúc phạm của người khác như thế nào. Cần phải tha thứ cho nhau. Thánh Phaolô đã khuyên bảo: “Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4,32). Đức Phật cũng dạy lấy ơn trả oán chứ đừng lấy oán trả oán: Lấy oán trả oán, oán chập chùng. Lấy đức trả oán, oán tiêu tan.
- Mỗi người cần được thứ tha.
Mỗi người trong đời có biết bao lỗi lầm. Đời người là một chuỗi những vấp ngã được đan kết với bao thứ tha. Ơn tha thứ như dòng suối chảy vào đời người, nếu bị ngăn lại sẽ thành ao tù, nó sẽ trong lành khi chảy đến anh em. Luật “mắt đền mắt răng đền răng” là luật công bằng, nhưng ơn tha thứ mới đem lại mùa xuân cho cuộc đời. Thánh Phanxicô Assidi cũng đã xác định: vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ.
- Tha thứ để được Chúa thứ tha.
Chúa Giêsu nhấn mạnh điều này rất nhiều lần. Khi dạy kinh Lạy Cha, Chúa mời gọi mỗi người phải hứa tha thứ cho anh em khi xin Người tha thứ lỗi lầm cho mình. Ở cuối kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu căn dặn: Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,14-15). Thánh Phaolô sống Lời Chúa dạy và đã tha thiết mời gọi: “Anh em hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em, người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau”(Col 3,13).
- Tha thứ là hồng ân của Thiên Chúa.
Trả thù là khuynh hướng nhân loại, tha thứ là hồng ân Thiên Chúa. Quan toà có thể không tha thứ cho tội nhân, nhưng Thiên Chúa luôn tha thứ cho người tội lỗi, nếu họ thực lòng ăn năn hối cải.
Trong lúc đau đớn tột cùng trên thập giá, Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại, lăng nhục, cáo gian và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23,34).
Thế giới hôm nay đang bị thống trị bởi bạo lực và oán thù. Những cuộc chiến tranh dai dẳng giữa các quốc gia; những hiềm thù giữa các bộ tộc anh em; những xung đột giữa những người khác màu da, khác tôn giáo, khác quan điểm chính trị; những thảm kịch vô phương hàn gắn trong gia đình. Con người để cho hận thù lôi kéo và không sao thoát ra khỏi cái vòng ân oán nghiệt ngã. Cần phải có những người dám chịu thiệt thòi, dám bẻ gãy oán thù bằng tha thứ, dám tin rằng tình thương có thể biến đổi quả tim chai đá của con người. Giáo hội vẫn luôn kêu gọi xây dựng một nền văn minh tình thương, vì chỉ khi ấy trái đất này mới có cơ may tồn tại.
Tha thứ là lời mời gọi duy nhất để tình yêu lớn lên. Tha thứ đem về mùa xuân cho tâm hồn đâm chồi yêu thương, nảy lộc bình an. Chúa đã tha thứ cho Phêrô, tình yêu bùng cháy, Phêrô đã sống hết mình cho sứ vụ Thầy trao. Phaolô đựơc ơn tha thứ, biến đổi cuộc đời, thành sứ giả lừng danh rao truyền Đức Kitô cho thế giới.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của tâm hồn, vẻ đẹp của lòng khoan dung. Thế giới có “Ngày khoan dung quốc tế” (International day of tolerance) do Liên Hiệp Quốc thiết lập vào ngày 16.11.1995. Người khoan dung độ lượng là người không chấp nhất, nhưng thông cảm với những lầm lỗi của kẻ khác. Lòng khoan dung độ lượng được xây dựng trên ý thức về những yếu đuối, về khả năng phạm lỗi của chính bản thân mình, và của người khác. Mình cũng phạm lỗi sao mình lại kết án người khác? Thế giới có ngày khoan dung, người Kitô hữu cần cả đời khoan dung.
Ơn tha thứ làm nên vẻ đẹp của thế giới, một thế giới cảm thông chan hoà, một thế giới chan chứa tình huynh đệ, một thế giới mang vẻ đẹp của dung nhan Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã khẳng định điều ấy: Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ.
Chúa Giêsu vì yêu thương đã hiến dâng chính mình trên hy tế thập giá đễ ban ơn cứu độ cho nhân loại. Với hiến tế Thánh Thể, Người vẫn tiếp tục tuôn đổ ơn cứu độ. Đón nhận Thánh Thể là nguồn sức mạnh, nguồn tình yêu để chúng ta biết tha thứ cho nhau.
29. Tha thứ không biên giới - Lm Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin Mừng Mt 18, 21-35: Tin Mừng hôm nay thuật lại: “Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”...
***
Tin Mừng hôm nay thuật lại: “Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”.
Điều đó có nghĩa là phải tha thứ hoài, tha thứ mãi, tha thứ không giới hạn. Đó là nét mới trong dung mạo của Đức Giêsu. Người đã chiếu tỏa nét cao quý ấy ngay trên thập giá, khi các kẻ thù hành hạ, chế nhạo, và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.
Nhưng tại sao phải tha thứ? Phải tha thứ cho anh em vì đó là điều kiện để được Chúa thứ tha. Đức Giêsu đã nói: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em”.
Tha thứ là một lệnh truyền khó thực hiện nhất nhưng cũng là nghĩa cử cao cả nhất. Chúng ta có thể cho đi tiền của, trao ban thì giờ, hiến dâng mạng sống. Nhưng các điều đó xem ra còn dễ hơn là tha thứ cho kẻ thù, yêu thương kẻ ngược đãi mình, và làm ơn cho kẻ oán ghét chúng ta.
Tha thứ là một điều rất dễ nói nhưng lại rất khó thực hành.
Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, gia đình của cô Coritanbum sinh sống ở Amsterdam, Hòa Lan, sống nhờ cửa tiệm làm và bán đồng hồ. Khi quân đội Đức Quốc Xã chiếm Hòa Lan thì gia đình cô dấn thân trợ giúp người Do Thái, và hậu quả là có người chỉ điểm làm cho toàn gia đình cô bị bắt vào trại tập trung, chỉ còn một mình cô sống sót.
Sau thế chiến thứ hai, cô đi khắp Âu Châu để giảng thuyết về sự tha thứ và hòa giải. Một hôm sau buổi thuyết trình tại Munich, Miền Nam nước Đức, một người đứng lên cám ơn cô về bài thuyết trình thật hay, nhưng cô chết điếng người khi nhận ra người đàn ông đó chính là người lính Đức Quốc Xã trước kia đã giam giữ cô và gia đình cô. Bỗng chốc cô nhớ lại tất cả những hành động bỉ ổi của người lính đã xúc phạm đến con người, nhất là phẩm giá của những nữ tù nhân trong trại mà anh lính này đã làm trước mắt cô ngày trước. Cô Coritanbum lúng túng không kịp đưa tay ra bắt tay người đã hành hạ mình, và lúc đó cô mới hiểu thấm thía nói dễ nhưng làm khó. Chính lúc bấy giờ cô khám phá ra mình cũng chưa thật sự tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình trước đây.
Kinh nghiệm của cô Coritanbum cũng chính là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta hôm nay, dù hình thức có thể khác, nhưng tựu trung nội dung vẫn giống nhau. Khi nói về sự tha thứ, thường thì khuyên kẻ khác tha thứ rất dễ, nhưng khi trực tiếp đối diện với kẻ xúc phạm đến mình, phải thực hành một việc tha thứ cách cụ thể cho người đang đứng trước mặt mình thì quả thật khó khăn vô cùng. Có thể chúng ta cũng khó vượt qua được những cảm xúc như cô Coritanbum. Nhưng nếu chúng ta không tha thứ thì chính chúng ta sẽ tự làm khổ chúng ta như văn hào Nga Leon Tolstoi kể câu chuyện như sau:
Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi”.
Đi đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù. Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục, ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch nỗi nhục hằng đeo đẳng. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiểu tụy đáng thương của kè đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta”.[1]
Tha thứ là điều khó khăn nhất nhưng cũng là điều cao cả nhất mà Kitô giáo đã cống hiến cho con người. Trao ban tiền của, trao ban thì giờ, trao ban chính mạng sống mình là điều xem ra dễ làm hơn trao ban lòng tha thứ. Nhưng tha thứ lại là của lễ đẹp lòng Chúa nhất, bởi vì qua đó, con người được nên giống Thiên Chúa hơn cả. Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta là Thiên Chúa tha thứ và tha thứ không ngừng. Và chỉ có một Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy mới có thể đòi hỏi con người phải tha thứ không ngừng. Tha thứ là nét cao đẹp nhất của con người, bởi vì càng tha thứ con người càng nên giống Thiên Chúa. Amen.
--------------------
[1] Câu chuyện người ăn xin trích trong R.VERITAS, Lẽ Sống, trg.176-177
30. Tha thứ
Tha thứ là một hành vi cao cả của đức ái. Tha thứ là quên đi lỗi điều phiền toái người khác gây cho mình, tha thứ những thái độ xúc phạm đối với mình, tha thứ những điều người khác gây ra trái ý mình. Tha thứ là không hề nhớ, không kể lại, không nhắc tới lỗi lầm của người khác. Là Kitô hữu, chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Như thế, tha thứ không chỉ là hành vi nhân bản mà còn là hành vi nhân linh.
Người Do Thái xưa được dạy cho biết phải tha thứ cho nhau. Phêrô đã thắc mắc và hỏi Chúa: "Con phải tha đến mấy lần". Theo sự giảng dạy của các thầy Rabbi, một người phải tha thứ cho anh em mình ba lần. Phêrô đã đi xa hơn luật của các thầy Rabbi bằng cách nhân lên gấp đôi, và cộng thêm một lần cho chắc ăn để cho thấy tinh thần hào hiệp, ông đề ra cho Chúa Giêsu con số bảy: "Có phải đến bảy lần không". Tha thứ đến bảy lần là hoàn hảo, là vĩ đại, là hào phóng và thậm chí là tuyệt đối rồi. Ông nghĩ rằng đề nghị như thế là được Chúa Giêsu tán thành ngay thậm chí là còn khen ông nữa kìa. Thế nhưng, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu đã trả lời: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy". Nghĩa là Chúa dạy: Hãy tha thứ cho nhau, hãy quên hết lỗi lầm, hãy tha thứ thật lòng, hãy tha thứ tất cả, hãy tha thứ luôn luôn, hãy tha thứ mãi mãi. Sao thật khó quá!
Để làm sáng tỏ vấn đề cũng như để học trò hiểu rõ và nhớ kỹ bài học này, Chúa minh hoạ thêm bằng một dụ ngôn rất hay để đối chiếu lòng Thiên Chúa đối với con người và lòng con người đối với nhau. Nơi Thiên Chúa là một lòng đại lượng xót thương vô bờ bến, chỉ cần con người lên tiếng khẩn nài, Chúa liền nhìn đến thân phận khốn khổ và nghèo nàn của chúng ta. Thiên Chúa Cha, Đấng đầy lòng nhân từ và giàu lòng thương xót. Tình thương tha thứ là một phát minh tuyệt vời của Thiên Chúa để giúp con người hiệp thông với Ngài và hiệp thông với nhau, để xây dựng tốt đẹp cộng đoàn xã hội.
Khi chúng ta phạm tội, chúng ta van xin Chúa, Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện, tha thứ trọn vẹn, không đòi hỏi gì nơi chúng ta cả. Ngược lại, lòng con người đối xử với nhau thì lại thật là quá nhỏ bé, hẹp hòi, chúng ta hay chấp nhất nhau từng ly từng tý. Chúng ta dễ tức giận nhau, để lòng oán hờn nhau, chúng ta nhất định không tha thứ. Thậm chí người ta hết lời và hết lòng xin lỗi, chúng ta vẫn cương quyết không tha, không bỏ qua, có người còn khẳng khái tuyên bố: "Sống để dạ, chết mang theo". Thật là mỉa mai, chua chát, đáng trách! Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải sẵn lòng tha thứ, tha thứ luôn mãi bao lâu người anh em còn xúc phạm đến chúng ta, bởi vì Chúa đã tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau. Chúng ta thấy ngay từ đầu, khi con người phạm tội nếu Thiên Chúa đã không tha thứ thì con người sẽ không có tương lai tốt đẹp gì như ngày hôm nay. Mỗi lần tha thứ cho tha nhân là mỗi lần ta để tâm hồn mình hoà điệu với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng nhân từ và hay tha thứ. Mỗi lần ta tha thứ cho tha nhân là mỗi lần ta thoát ra khỏi cảnh nô lệ cho những giới hạn ích kỷ của con tim mình, để hoà mình với những tâm tình yêu thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa. Tính cách tha thứ của Kitô giáo là tha thứ như mình đã được tha thứ, phải thương xót tha nhân như mình đã được Chúa xót thương. Sự tha thứ không những là một nhiệm vụ luân lý mà còn là một đòi hỏi của lương tâm, một nhân đức đối thần, kéo dài tới tha nhân ơn tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ai trong chúng ta cũng có sai sót, nhiều khuyết điểm, tật xấu. Chúng ta cần được tha thứ, vì vậy chúng ta phải khiêm tốn xin lỗi Chúa và xin lỗi nhau.
Trong câu chuyện dụ ngôn, chúng ta thấy món nợ của con người với Chúa thật to lớn, đời đời không trả được. Nhưng Chúa là tình yêu, Ngài sẵn sàng tha thứ tất cả. Còn món nợ giữa con người với tha nhân tương đối nhỏ, có thể hoàn trả được, thế nhưng con người không biết chờ đợi, không biết yêu nên không tha thứ cho nhau được. Trong đời sống thực tế, muốn biết thật lòng tha thứ thì hãy biết quên di những lỗi lầm của anh em. Đừng nhắc đi nhắc lại, đừng nhớ dai, đừng trích chứa trong lòng.
"Nếu Chúa tôi nhớ hoài tội lỗi, nào có ai đứng vững được chăng?"
Trước mặt Chúa có ai là người vô tội? Chúng ta được tha một món nợ không thể nào trả nổi: vì tội lỗi của con người đã gây ra cái chết cho Con Thiên Chúa. Do đó, chúng ta phải tha thứ cho những người khác để chính mình được Thiên Chúa tha thứ. Tha thứ đổi mới tâm hồn, làm phát sinh sự sống mới, gây thêm lòng can đảm, để bắt đầu con đường sống mới. Tha thứ là lời mời gọi để tình yêu lớn lên. Tha thứ là cửa ngõ để mọi người có cơ hội làm lại mối giây liên hệ đã dập gẫy. Tình thương và mọi mối giây liên hệ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa cha xứ và giáo dân, giữa những phần tử trong một nhóm, được phong phú hoá bởi tha thứ. Sự tha thứ phản ánh đời sống ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. Sự tha thứ là vẻ đẹp của những tâm hồn cao thượng, những con người nhân bản và những con cái của Thiên Chúa. Sự tha thứ mang lại hoà bình cho thế giới, tạo nên một thế giới hiệp thông và yêu thương. Mỗi Kitô hữu cũng là một ơn tha thứ mà Thiên Chúa muốn trao tặng cho người khác. Mỗi ơn tha thứ là một cuộc biến đổi, Chúa Giêsu kêu mời chúng ta cùng với Ngài thực thi sứ mệnh trao ban ơn tha thứ hầu biến đổi anh chị em chúng ta nên người con thật tốt lành và đáng yêu của Chúa Cha, cũng như chính chúng ta đã được tha thứ và biến đổi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy cho chúng con có tâm tình của Chúa để chúng con có thể tha thứ cho anh em như Chúa đã tha thứ. Amen.
31. Tha thứ
Có bao giờ chúng ta đã giành lấy một vài giây phút để suy nghĩ về lời cầu xin trong kinh Lạy Cha: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con hay không? Tội lỗi của chúng ta thì nặng nề và chồng chất, làm cho Thiên Chúa phải buồn lòng. Và theo một ý nghĩa nào đó, tội lỗi ấy được sánh ví như là một món nợ khổng lồ chúng ta thiếu hụt cùng Thiên Chúa. Đồng thời trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng gặp phải những khổ đau, những bất công do anh em gây nên.
Thế nhưng, trong kinh Lạy Cha, chúng ta dám thưa lên cùng Thiên Chúa: Xin Ngài tha thứ cho chúng ta những lỗi lầm quá lớn, nếu như chúng ta biết quên đi những vấp phạm nhỏ bé của anh em. Đúng là một tỷ lệ không cân xứng và chẳng có ý nghĩa chi cả… Và đó cũng chính là ý nghĩa của câu chuyện dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe.
Ông vua muốn tính toán nợ nần với những bầy tôi của mình. Ông vua chính là Thiên Chúa còn bầy tôi chính là chúng ta. Món nợ khổng lồ lên tới 10 ngàn nén bạc, chính là những tội lỗi của chúng ta khi đứng trước một vị Thiên Chúa nhân từ, thánh thiện và công bằng vô cùng. Còn món nợ nhỏ nhoi 100 đồng là những vấp phạm của anh em đối với chúng ta. Và như thế chúng ta nhìn thấy sự sai biệt giữa hai món nợ là như thế nào.
Trước lời van xin của tên đầy tớ thứ nhất, nhà vua đã thực sự xúc động, ông đã tha thứ và xóa bỏ món nợ kếch xù của hắn. Còn hắn, hắn lại tỏ ra hà khắc đối với bạn hắn, là người chỉ mắc nợ hắn một số tiền nhỏ bé. Khi hay tin, nhà vua đã vô cùng sửng sốt, ông đã đối xử với tên đầy tớ theo như mức độ nhân từ mà họ đối xử với nhau… Và phần kết luận, hẳn chúng ta đã rõ. Lý hình chính là những sự trừng phạt ở đời này cũng như ở đời sau. Đoạn Tin Mừng không phải chỉ kêu gọi chúng ta tha thứ cho một người anh em hay kẻ bạn hữu, mà còn tha thứ cho tất cả những bất công mà kẻ thù gây nên.
Tới đây, tôi xin kể lại một mẩu chuyện có thật xảy ra vào thời đệ nhị thế chiến. Bấy giờ quân Đức chiếm đóng nước Pháp và bắt nhiều người đi làm tù binh, trong số đó có Đức Giám mục Théas. Ngày kia các bạn tù xin ngài giảng phòng. Ngài bèn cho ngay đề tài: yêu thương kẻ thù. Các bạn tù có vẻ không bằng lòng và nói với ngài: Tại sao chúng ta lại phải tha thứ cho bọn Đức Quốc xã, là bọn mỗi ngày đã giết hại biết bao nhiêu bạn hữu của chúng ta. Đức cha đã trả lời: Cha chỉ có thể lặp lại giới luật của Chúa Giêsu: Hãy yêu thương kẻ thù. Rồi ngài cất cao giọng đọc kinh Lạy Cha và nhấn mạnh tới lời van xin: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Ngày hôm sau được phép cử hành thánh lễ, ngài quyết định dâng thánh lễ cầu cho những người Đức. Và cũng từ ngày đó, ngài có một ý tưởng manh nha thành lập phong trào Pax Christi, một phong trào quốc tế tranh đấu cho hòa bình. Sau khi chiến tranh kết thúc, ngài được cử làm Giám mục Lộ Đức, và chính ngài đã tổ chức cuộc hành hương quốc tế của phong trào Pax Christi. Trong cuộc hành hương này người ta nhìn thấy những người trước đây vốn là thù địch của nhau như Đức, Pháp, Anh, Ý… cùng chắp tay cầu nguyện cho nhau, và quên đi cái dĩ vãng đen tối. Là người Công giáo chúng ta có bổn phận phải tha thứ cho nhau, chứ không được giữ mãi sự thù oán.
Cách thức bảo đảm nhất để thoát khỏi sự công thẳng của Thiên Chúa và kéo được lòng thương xót của Ngài đó là hãy tha thứ cho nhau.
32. Tha thứ
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về sự tha thứ. Người Do Thái xưa được dạy cho biết phải tha thứ cho nhau, nhưng các tôn sư không đồng ý với nhau là phải tha thứ đến lần thứ mấy thì thôi. Do đó, thánh Phêrô đã thắc mắc và hỏi Chúa. Chúa đã trả lời: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”. Nghĩa là Chúa dạy: hãy tha thứ cho nhau, hãy tha thứ thật lòng, hãy tha thứ tất cả, hãy tha thứ luôn luôn, hãy tha thứ mãi mãi.
Để làm sáng tỏ vấn đề cũng như để chúng ta hiểu rõ và nhớ kỹ bài học này, Chúa minh hoạ thêm bằng một dụ ngôn rất hay để đối chiếu lòng Thiên Chúa đối với con người và lòng con người đối với nhau. Nơi Thiên Chúa là một lòng đại lượng xót thương vô bờ bến, chỉ cần con người lên tiếng khẩn nài, Chúa liền nhìn đến thân phận khốn khổ và nghèo nàn của chúng ta. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta van xin Chúa, Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện, tha thứ trọn vẹn, không đòi hỏi gì nơi chúng ta cả. Ngược lại, lòng con người đối xử với nhau thì lại thật là quá ti tiện, nhỏ nhen, chúng ta hay chấp nhất nhau từng ly từng tý, chúng ta tức giận nhau, chúng ta để lòng oán hờn nhau, chúng ta nhất định không tha thứ. Thậm chí người ta hết lời và hết lòng xin lỗi, chúng ta vẫn cương quyết không tha, không bỏ qua, có người còn khẳng khái tuyên bố: “Sống để bụng, chết mang đi”. Hỏi mang đi đâu? Mang xuống hoả ngục chăng? Thật là mỉa mai, chua chát, đáng trách. Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải sẵn lòng tha thứ, tha thứ luôn mãi bao lâu người anh em còn xúc phạm đến chúng ta, bởi vì Chúa đã tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau.
Tính cách tha thứ của Kitô giáo là tha thứ như mình đã được tha thứ, phải thương xót người khác như mình đã được Chúa xót thương. Như vậy, sự tha thứ không những là một nhiệm vụ luân lý mà còn là một đòi hỏi của lương tâm, một nhân đức đối thần, kéo dài tới tha nhân ơn tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ai trong chúng ta cũng có nhiều sai sót, những khuyết điểm, những tật xấu. Chúng ta cần được tha thứ, vì vậy chúng ta phải khiêm tốn xin lỗi Chúa và xin lỗi nhau. Có như thế lời kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” mới trở thành một lời kinh quý giá và cụ thể.
Trong một căn nhà lụp xụp tại một xóm nghèo thuộc vùng ngoại ô thành phố, một người đàn bà đáng thương phải sống những ngày hẩm hiu với đàn con thơ dại. Chồng bà là một người cha tục tằn thô bạo, chỉ biết ăn chơi nhậu nhẹt và cờ bạc, không thiết chi đến bổn phận đối với gia đình. Ông vắng nhà suốt ngày, các con của ông chỉ thấy ông trở về mỗi buổi tối trong cơn say mèm hoặc trong trận lôi đình đập đánh, chửi rủa. Những lúc như thế, bà vợ chỉ biết đem các con giấu đi để bảo đảm tính mạng cho chúng. Ngày ngày bà cực nhọc vá may, hoặc vất vả giặt giũ từ nhà này sang nhà khác để kiếm tiền nuôi con. Trong thinh lặng, bà nhẫn nhục cam chịu mọi bạc bẽo và những trận đòn oan ức của chồng.
Vào một buổi tối kia, ông trở về nhà muộn hơn thường lệ, nhưng tỉnh táo và ít say sưa hơn. Vừa bước tới hè nhà, ông nghe tiếng thì thầm từ trong nhà vọng ra. Một nỗi nghi ngờ xâm chiếm tâm hồn ông. Máu ghen bừng bừng nổi dậy và nghĩ rằng: “thật vô phúc cho kẻ nào rơi vào tay ta”. Ông đứng lại trước cửa và ghé tai vào vách, trố mắt nhìn qua khe hở: quanh ngọn đèn dầu leo lét, ông thấy các con nhỏ quây quần bên cạnh vợ ông, ông nghe rõ tiếng bà nói với các con: “Các con hãy đọc thêm một kinh Lạy Cha để cầu nguyện cho người cha tốt lành của các con”.
Trước khung cảnh đầm ấm tình mẫu tử đó, bỗng chốc lửa hung ác trong trái tim ông như tắt ngúm, tâm hồn cứng cỏi của ông trở nên như sáp ong mềm ra trước hơi nóng, mắt ông như bừng sáng sau một cơn mê ngủ dài, ông đã nhận ra tấm lòng tốt và tình yêu quảng đại của vợ ông, người mà từ trước đến nay ông vẫn ngược đãi. Vợ ông không những đã tha thứ mà còn tìm cách xoá bỏ hình ảnh xấu về ông bằng cách in vào tâm trí các con mình hình ảnh tốt lành của ông như một người cha. Ông cảm thấy như có cục than hồng đốt cháy trên đầu ông, và từ ngày đó ông nhất quyết trở nên một người cha tốt lành, người chồng chung thuỷ và có tinh thần trách nhiệm như vợ con ông hằng nghĩ tốt về ông.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy đâu là sức mạnh của lòng tha thứ. Tha thứ đổi mới tâm hồn, làm phát sinh sự sống mới, gây thêm lòng can đảm, để bắt đầu con đường sống mới. Tha thứ là lời mời gọi để tình yêu lớn lên. Tha thứ là cửa ngõ để mọi người có cơ hội làm lại mối giây liên hệ đã dập gẫy. Tình thương và mọi mối giây liên hệ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa cha xứ và giáo dân, giữa những phần tử trong một nhóm, được phong phú hoá bởi tha thứ.
Lòng tha thứ quảng đại và vô điều kiện của người vợ trong câu chuyện trên là phản ánh lòng thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa được mạc khải cho chúng ta qua Kinh thánh, nhất là nơi bản thân Chúa Giêsu, là hồng ân mà Thiên Chúa ban cho con người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta chia sẻ sứ mệnh của Ngài. Mỗi Kitô hữu cũng là một ơn tha thứ mà Thiên Chúa muốn trao tặng cho người khác. Mỗi ơn tha thứ là một cuộc biến đổi, Chúa Giêsu kêu mời chúng ta cùng với Ngài thực thi sứ mệnh trao ban ơn tha thứ hầu biến đổi anh chị em chúng ta nên người con thật tốt lành và đáng yêu của Chúa Cha, cũng như chính chúng ta đã được tha thứ và biến đổi.
33. Tha thứ mà không cần so đo tính toán
(Suy niệm của Lm. Phêrô Trần Minh Đức)
Đức quốc xã đã giết hàng triệu người Do thái trong đệ nhị thế chiến. Sự việc này đã xảy ra trên 50 năm nhưng cho đến nay thành phần lãnh đạo và giới trí thức của hai quốc gia nói chung rất dè dặt trong mối quan hệ ngoại giao, rất nhạy cảm mỗi khi đề cập, đá động đến chuyện xưa. Người Do thái thường nói: Chúng tôi có thể tha thứ, nhưng chúng tôi không thể nào quên tội ác của dân tộc Đức trong quá khứ!
Chúng ta phải tha thứ cho kẻ khác bao nhiêu lần? Tất cả đều có giới hạn của nó. Một lần là đủ rồi. Nếu không thì chúng ta sẽ đi về đâu? Chúng ta sẽ bị kẻ khác lợi dụng từng bước. Chúng ta nghĩ như thế, những người chung quanh cũng vậy. Thánh Phêrô cũng đã nghĩ như thế, và bởi vì nghĩ như thế cho nên ông cảm thấy mình khoan dung độ lượng, rất tự hào đến hỏi Đức Giêsu: "Nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải đến bảy lần không?"
Lẽ dĩ nhiên ai cũng biết: làm việc thiện thì tốt hơn làm điều xấu. Để nhận biết sự khác biệt giữa nhân đạo và vô nhân đạo con người chưa cần nại đến đức tin hay tôn giáo. Tha thứ, làm hoà: đó là kinh nghiệm mà mỗi người trong chúng ta đã từng trải. Nhưng chắc chắn ai cũng phải nhìn nhận rằng, tha thứ không phải là chuyện dễ dàng. Nếu như có ai lần đầu tiên vô tình hay hữu ý xúc phạm đến chúng ta, chúng ta có thể nhường nhịn, xí xoá bỏ qua. Thôi thì "chín bỏ làm mười", hãy cho kẻ ấy một cơ hội. Nhưng được một lần thì lại có lần thứ hai, thứ ba! Khi chó bị dồn vào chân tường thì sẽ cắn quái! Đến một lúc nào đó chúng ta sẽ nổi giận và nói: Hắn đã xúc phạm đến tôi, tôi không thể nào dung thứ cho hắn. Tất cả đã quá trớn!
Đúng như thế, nếu nhìn sự việc theo những khía cạnh thuần tuý con người thì tất cả có lẽ đã quá trớn, nhưng cãi cọ xung khắc là lẽ thường tình của đời sống con người. Mỗi một mối quan hệ là một cuộc phiêu lưu. Ai muốn kết giao với kẻ khác đều phải chấp nhận mạo hiểm. Buổi ban đầu tất cả đều đẹp đẽ, đầy hứa hẹn. Nhưng nếu không biết trân trọng giữ gìn thì một ngày nào đó những vui thú hứng khởi lúc đầu thành tẻ nhạt, xung khắc bất đồng nảy sinh. "Không ưa thì dưa có giòi!" Chúng ta trở thành ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, sẽ rút lui vào vỏ ốc của mình, rào giậu, xây tường lũy chung quanh, bởi vì nỗi phập phồng lo sợ đã đi vào tận xương tủy. Nhưng "tức nước vỡ bờ", những đè nén trong lòng sẽ nổ tung, khi chúng ta cảm thấy mình bị đe dọa tứ bề. Chúng ta sẽ tìm cách bảo vệ chính mình bằng mọi giá, nếu cần sẵn sàng bước qua xác chết!
Hơn lúc nào hết, ngày hôm nay chúng ta chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc tranh tụng bùng nổ trong gia đình cũng như trong Giáo hội. Ly dị ngày càng nhiều! Chúng ta đã tìm đủ cách để làm thay đổi môi trường sống cũng như quan hệ của chúng ta. Nhưng dựa vào sức lực tự nhiên chúng ta không đủ khả năng để tha thứ cho kẻ khác mãi mãi, cho nên chúng ta đặt tiêu chuẩn, giới hạn. Chúng ta cần sự trợ giúp. Chúng ta cần một người sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, để chúng ta có khả năng tha thứ. Câu trả lời của Đức Giêsu đã làm sáng tỏ một điều: Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta ơn tha thứ. Câu chuyện mà Ngài kể giống như một tấm gương. Nếu như chúng ta có can đảm nhìn vào thì chúng ta sẽ khám phá hình ảnh của chính mình trong đó. Không phải chúng ta mà là chính Thiên Chúa đã thực hiện bước đầu tiên. Thiên Chúa đã tự giao hoà chúng ta với Người qua Đức Giêsu và đã sai phái chúng ta đi làm hoà với người khác. Dù chúng ta đã phạm tội gì đi nữa, dù chúng ta có phạm bao nhiêu lần đi nữa, Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ. Như Thiên Chúa, chúng ta hãy tha thứ cho nhau.
34. Tha thứ
Phêrô không phải là không tính toán kỹ lưỡng khi hỏi Chúa Giêsu phải tha thứ cho anh chị em bao nhiêu lần, có phải bẩy lần không? Theo sự giảng dạy của các thầy Rabbi, một người phải tha thứ cho anh em mình ba lần. Phêrô đã đi xa hơn luật của các thầy Rabbi bằng cách nhân lên gấp đôi, và cộng thêm một lần nữa cho chắc ăn. Ông hy vọng sẽ được Chúa khen ngợi; không ngờ câu trả lời của Chúa là “bẩy mươi lần bẩy”, có nghĩa là phải tha thứ không giới hạn!
Rồi Chúa Giêsu nói về dụ ngôn tên đầy tớ mắc nợ không biết thương xót. Sự so sánh món nợ lớn lao của anh với nhà vua là “mười ngàn nén vàng” và số tiền của người bạn nợ anh là “một trăm quan tiền” đã làm nổi bật lên lòng nhân từ của Thiên Chúa. Có tác giả đã so sánh một quan tiền là một ngày lương của người lao động. Người bạn nợ anh 100 ngày lương. Còn một nén vàng tương đương với 6000 quan tiền. Mười ngàn nén vàng là 60 triệu quan tiền. Nếu một người lao động làm việc năm ngày một tuần, 50 tuần một năm, phải mất 280 ngàn năm mới trả đủ số tiền nợ nhà vua. Không thể nào trả nổi!
William Barclay đã viết như sau: “A.R.S. Kennedy đã vẽ ra bức hình sống động này để đối chiếu những món nợ. Giả sử họ trả bằng tiền bảng Anh. Món nợ 100 quan tiền có thể được mang trong một cái túi áo hay túi quần. Món nợ 10 ngàn nén vàng phải được một đội quân 8,600 người mang, mỗi người mang một cái túi nặng 60 cân Anh – khoảng 27 kg; và nếu họ đứng sắp hàng, mỗi người cách nhau chừng 80 cm, làm thành một hàng dài 5 dặm – khoảng 8 cây số”.
Trước mặt Chúa có ai là người vô tội? Chúng ta đã được tha một món nợ không thể nào trả nổi: vì tội lỗi của con người đã gây ra cái chết của Con Thiên Chúa. Do đó, chúng ta phải tha thứ cho những người khác để chính mình được Thiên Chúa thứ tha.
Sự tha thứ mang lại ích lợi cho người tha thứ và người được tha thứ: Shakespear xưa kia đã nói: “Tha thứ là hai lần phúc lành”. Nó mang lại phúc lành cho người tha thứ và người được tha thứ.
Khi cựu tổng thống Bill Clinton gặp cựu tổng thống Nam Phi Nelson Mandela lần đầu tiên sau khi được thả ra khỏi tù, ông Clinton nói: “Khi ông được thả ra khỏi nhà tù, tôi đã đánh thức con gái tôi dậy vào lúc 3 giờ sáng. Tôi muốn cô bé chứng kiến biến cố lịch sử này”. Rồi ông Clinton chuyển sang một câu hỏi đã in trong tâm trí từ lâu: “Khi ông bước ra khỏi khu nhà tù, băng ngang qua cái sân tới cổng nhà tù, máy thu hình đã tập trung vào khuôn mặt của ông. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy sự giận dữ và hận thù trên khuôn mặt của bất cứ một người nào được diễn tả như trên khuôn mặt của ông vào lúc đó. Đó không phải là Nelson Mandela mà tôi biết hôm nay”, Clinton nói. “Điều gì đã làm ông thay đổi?”
Mandela trả lời: “Tôi ngạc nhiên rằng ông đã nhìn thấy điều đó, và tôi tiếc rằng những chiếc máy thu hình đã chộp được cơn giận của tôi. Khi tôi bước qua sân nhà tù ngày hôm đó tôi tự nghĩ rằng họ đã tước đoạt đi tất cả mọi sự của tôi. Sự nghiệp đã chết. Gia đình đã mất. Bạn bè đều bị giết. Bây giờ họ thả tôi ra, nhưng chẳng còn gì nữa cả. Và tôi thù ghét họ vì cái họ đã tước đoạt cuộc đời của tôi. Nhưng rồi, tôi tự cảm thấy một tiếng nói tự bên trong ngỏ với tôi: “Nelson! Ông là tù nhân của họ 27 năm, nhưng ông đã luôn luôn là một người tự do! Đừng để họ thả ông ra làm một người tự do, rồi lại biến ông thành tù nhân của họ qua sự hận thù”.
Henri Nouwen đã so sánh cuộc đời của chúng ta với những cái ly phải được làm trống rỗng đi để được đổ đầy trở lại. Nếu chúng ta đổ cay đắng, hận thù và trái ý đầy vào ly, Thiên Chúa không thể tuôn đổ ân phúc của ngài vào được.
35. Tại sao không tha? - Lm. Nguyễn Hùng
Trong ngày Tết Âm Lịch, người ta chúc nhau một câu vui đùa: "Chúc cho năm mới làm ăn phát tài, tiền vào như nước, tiền ra nhỏ giọt". Nghĩ cho kỹ, câu chúc này không thích hợp với định luật tự nhiên nếu không muốn nói là... "có trục trặc bệnh lý". Một người ăn uống thả cửa, món ngon món dở thầu chở ráo trọi mà không có chuyện giải quyết... "hậu sự", thì chắc chắn trong vòng 24 tiếng sẽ phải nộp đơn xin nhập bệnh viện gấp. Có "input" mà không "output" thì chắc chắn sẽ bị dồn ép và bùng nổ. Con người muốn sống lành mạnh phải theo định luật tự nhiên ra vào đều hoà.
Tuy nhiên theo tâm lý tự nhiên con người lại có chiều hướng bệnh hoạn, chỉ có vô mà không cho ra. Người ta muốn chìa tay xin xỏ, nhận lãnh, nhưng không muốn ban phát. Trong bài Phúc Âm, thánh Phêrô hỏi Chúa Giêsu: "Nếu anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải bảy lần không?" Thánh Phêrô nghĩ rằng con số bảy là quá rộng rãi. Chúa Giêsu trả lời bằng dụ ngôn người chủ tha nợ cho đầy tớ nhưng hắn lại không tha nợ cho bạn hắn. Cuối cùng tên đầy tớ phải chịu hành hình cho đến khi trả nợ xong.
Tội nguyên tổ đã làm cho con người nên hư hỏng hẹp hòi, ích kỷ, chỉ muốn vơ vào, tích lũy, không chịu cho đi, ban phát. Đó chính là cái bệnh làm cho cuộc sống con người trở nên bất hạnh. Của cải vật chất, tiền bạc người ta ôm vào cho thật nhiều để rồi lo lắng, không ăn không ngủ vì sợ mất. Những khó chịu, giận dỗi, hận thù, ganh tỵ với tha nhân là những viên thuốc độc giết chết con người dần mòn, nhưng người ta cứ khư khư ôm lấy để sống trong buồn sầu bất hạnh.
Một người ăn xin đến gõ cửa nhà một người giầu có. Người giầu không cho gì mà còn đuổi đi và ném theo một cục đá vào lưng người ăn xin thật đau điếng. Người ăn xin nhặt cục đá bỏ vào trong bao đeo trên mình với lời thề nguyền để ghi nhớ suốt đời mối hận này. Năm tháng trôi qua người ăn xin già đi và cảm thấy cục đá để trong bao mỗi ngày một nặng hơn, và lòng ông cũng nặng chĩu với mối hận ghét người nhà giàu ác tâm ném đá ông. Một ngày kia ông già ăn xin cảm thấy mệt mỏi vì mang trên mình cục đá đó, ông đã thò tay vào bao lấy cục đá ra và ném xuống đất. Người ông cảm thấy thật nhẹ nhàng, dễ chịu. Từ đó ông không còn để lòng hận ghét và nhớ đến người nhà giàu kia nữa.
Qua bài Phúc Âm Chúa muốn dạy chúng ta, tha thứ là con đường tự giải thoát chính mình. Muốn lãnh nhận ơn tha thứ, ta hãy mở lòng tha thứ cho người khác. Ơn tha thứ Thiên Chúa sẵn sàng ban phát, nhưng chúng ta chỉ có thể lãnh nhận ơn tha thứ khi mở cửa lòng ra để tha thứ cho người khác. Ngược lại, nếu chúng ta khư khư ôm mối căm hờn khép kín cửa lòng lại với tha nhân, ơn tha thứ của Thiên Chúa không thể đến với ta được.
36. Tha thứ
John Huffman đã nói: “Con người thống khổ nhất trên thế giới là người sẽ không tha thứ. Không có gì có thể vặn cổ linh hồn mau lẹ hơn nó. Nói đúng ra, nếu tôi có một kẻ thù mà tôi muốn phạt, tôi sẽ dạy nó thù ghét một người nào đó”.
Sự tha thứ của Đức Hồng Y Bernadin đã chúc lành cho anh Steven Cook một cách rất kỳ diệu. Anh là người đã vu oan cho Đức Hồng y về tội quấy rối tình dục. Nhưng Đức Hồng y đã tha thứ khi anh xin lỗi và anh đã nói: “Sau khi hoà giải, một cái ách nặng nề lớn lao đã được cất đi khỏi người tôi. Tôi đã cảm thấy được chữa lành và an bình”. Cuối cùng anh đã chết bình an sau khi trở về với Giáo Hội và Thiên Chúa.
Sự tha thứ mang lại ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa đến cho hối nhân – người sám hối được tha thứ. Đó là lý do tại sao Giáo Hội khuyên chúng ta nên thường xuyên lãnh Bí tích Hoà giải.
Một buổi chiều trời mưa tầm tã, bà mẹ đón con đi học về đang lái xe trên đại lộ chính của thành phố. Bà phải để hết chăm chú vào việc lái xe vì đường phố rất ướt và trơn trượt. Thình lình, cậu con trai ngồi thoải mái bên cạnh mẹ nói lớn: “Mom, con đang suy nghĩ điều này”. Hành động này đối với bà mẹ thường có nghĩa là cậu con trai 7 tuổi của bà đang muốn xin một điều gì đó và bây giờ sẵn sàng lên tiếng. “Con đang nghĩ gì vậy?” Người mẹ hỏi. “Trời mưa”. Nó nói, “giống như tội, và những cái gạt nước giống như Thiên Chúa quét sạch tội lỗi của chúng ta đi”. “Con giỏi quá, Matthew”. Rồi tò mò người mẹ muốn biết đứa con trai của bà hiểu được điều mạc khải này sâu xa như thế nào. Bà mẹ hỏi: “Con có để ý thấy mưa cứ tiếp tục rơi như thế nào không?” Mưa rơi nói với con điều gì không?” Matthew không do dự, trả lời: “Chúng ta đã phạm tội, và Thiên Chúa vẫn cứ tiếp tục tha thứ cho chúng ta”.
Sự tha thứ phản ảnh đời sống ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. Sự tha thứ là vẻ đẹp của những tâm hồn cao thượng, những con người nhân bản và những con cái của Thiên Chúa. Sự tha thứ mang lại hoà bình cho thế giới, tạo nên một thế giới cảm thông, và yêu thương. Nhân ngày tưởng niệm các nạn nhân vô tội trong những vụ khủng bố vào ngày 11/9/2001, tại Hoa Kỳ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi: “Thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ”.
37. Sự tha thứ – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Điểm đặc biệt trong đời sống Kitô hữu là mỗi người được Lời Chúa trong Chúa Nhật 24 nhắc nhở rõ ràng là sự tha thứ cho nhau. Bài đọc thứ nhất trích từ sách Huấn Ca (Hc 27,33-28,9), loan báo trước giáo huấn của Chúa Giêsu trong Phúc Âm, giáo huấn về sự tha thứ cho những lỗi phạm của anh em: "Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Bài Phúc Âm thánh Mátthêu cho chúng ta biết sự tha thứ cho anh em được Chúa nói rõ ràng trong câu trả lời cho Thánh Phêrô đến hỏi Chúa: "Tôi phải tha thứ bao nhiêu lần, đến bảy lần chăng?". Phêrô đến với Chúa bằng một tâm thức câu nệ hình thức, tâm thức của luật dân Chúa đang tuân giữ và ông nghĩ rằng, tha thứ đến bảy lần là đã làm trọn luật Chúa dạy. Noi gương của Thiên Chúa như đã được kể lại trong sách Cách Ngôn: "Thiên Chúa luôn tha thứ cho người công chính bảy lần" (Cn 24,16). Tha thứ bảy lần là tha thứ có giới hạn, nhưng Chúa Giêsu đã trả lời không phải bảy lần mà là bảy mươi lần bảy. Cách nói bảy mươi lần bảy cũng là cách nói được dùng trong sách Sáng Thế Ký (x. St 4, 24), có nghĩa là tha thứ luôn luôn, không có giới hạn, không có tính toán.
Đoạn Phúc Âm thánh Mátthêu được trích lại nằm trong toàn bộ chương XVIII nói về những đặc điểm nếp sống mới của những đồ đệ Chúa Kitô, và nền tảng cho nếp sống mới là căn cứ theo mẫu gương của Thiên Chúa Cha: "Chúng con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành" (Mt5,48). Mỗi một thái độ sống của người đồ đệ Chúa đều được Chúa qui hướng về việc bắt chước theo mẫu gương của Thiên Chúa Cha.
Chính vì thế mà để làm nổi bật khía cạnh đặc điểm tha thứ cho anh em, Chúa Giêsu đã kể một dụ ngôn để diễn tả thái độ của Thiên Chúa Cha như ông chủ tha thứ cho người tôi tớ vì tình thương hơn là chính người tôi tớ tha thứ cho bạn của mình, vậy chúng ta cũng phải luôn luôn tha thứ cho anh em mình, cho những người xúc phạm hay làm tổn thương đến chúng ta bằng cách này hay cách khác.
Đặc điểm thứ hai cần lưu ý là mối liên quan giữa nếp sống Kitô và lời cầu nguyện. Điều này được nhắc đến trong bài đọc thứ nhất, đó là sự liên kết giữa cuộc sống hàng ngày và đời sống cầu nguyện, vì tha thứ cho kẻ làm hại đến mình thì con người sẽ được tha thứ như vậy. Không thể không có tha thứ đích thực nếu không tuân giữ luật Chúa dạy. Các tiên tri nhiều lần đã lên tiếng cảnh cáo những thái độ sống giả hình, đó là dâng lễ vật lên Thiên Chúa mà vẫn hà hiếp, áp bức anh chị em xung quanh: "Thiên Chúa muốn tình thương hơn là lễ vật" (Mt12,7). Và: "Khi các con đến dâng của lễ mà nhớ có điều gì bất bình với anh em thì hãy bỏ của lễ lại mà đi làm hòa với anh em con trước đã, rồi hãy đến dâng lễ vật" (Mt5,23-24). Giáo huấn này được Chúa Giêsu nhấn mạnh hơn nữa khi Ngài đưa nó vào lời kinh Lạy Cha mà Ngài đã dạy cho các Tông Đồ: "Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con".
Tha thứ là một điều rất dễ nói nhưng lại rất khó thực hành. Vào thời hậu thế chiến thứ hai bên Âu Châu, cô Coritanbum, người sống sót từ trại tập trung Đức Quốc Xã đã đi khắp nơi để giảng thuyết về sự tha thứ và hòa giải. Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, gia đình của cô Coritanbum sinh sống ở Amsterdam, Hòa Lan, sống nhờ cửa tiệm làm và bán đồng hồ. Khi quân đội Đức Quốc Xã chiếm Hòa Lan thì gia đình cô dấn thân trợ giúp người Do Thái, và hậu quả là có người chỉ điểm làm cho toàn gia đình cô bị bắt vào trại tập trung, chỉ còn lại một mình cô sống sót tại trại tập trung mà thôi.
Sau thế chiến thứ hai, cô đi khắp nơi bên Âu Châu để giảng thuyết về sự tha thứ và hòa giải. Một hôm sau buổi thuyết trình tại Munich, Miền Nam nước Đức, một người đứng lên cám ơn cô về bài thuyết trình thật hay, nhưng cô chết điếng người khi nhận ra người đàn ông sắp đưa tay ra bắt lấy cô chính là người lính Đức Quốc Xã trước kia canh trại tập trung, đã giam giữ cô và gia đình. Cô bỗng chốc nhớ lại tất cả những hành động bỉ ổi của người lính đã xúc phạm đến con người, nhất là phẩm giá của những nữ tù nhân trong trại mà anh lính này đã làm trước mắt cô ngày trước. Cô Coritanbum lúng túng không kịp đưa tay ra bắt lấy tay người đã hành hạ mình, và lúc đó cô mới hiểu thấm thía nói dễ nhưng làm khó. Chính lúc bấy giờ cô khám phá ra mình cũng chưa thật sự tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình trước đây.
Kinh nghiệm của cô Coritanbum cũng chính là kinh nghiệm của mỗi người chúng ta hôm nay, dù hình thức có thể khác đi nhưng tựu trung nội dung vẫn giống nhau. Khi nói về sự tha thứ, thường thì khuyên kẻ khác tha thứ rất dễ, nhưng khi trực tiếp đối diện với kẻ xúc phạm đến mình, phải thực hành một việc tha thứ cách cụ thể cho người đang đứng trước mặt mình thì quả thật khó khăn vô cùng. Có thể chúng ta cũng không vượt qua được về những cảm xúc đó như cô Coritanbum. Ông Alexande Box đã có lần nói: "Lầm lỗi là chuyện thường tình của con người, nhưng tha thứ phải là chuyện của Thiên Chúa". Cần có sức mạnh của Thiên Chúa chúng ta mới có thể tha thứ cho nhau được.
Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy rõ vấn đề, không phải chỉ giữ luật tha thứ như Phêrô nghĩ là tha thứ đến bảy lần, vì luật Môisen chỉ dạy tha thứ có bảy lần mà thôi, nhưng hệ ở chỗ là tâm hồn luôn luôn tràn đầy tình yêu thương để tha thứ cho anh em mình. Tha thứ đến bảy mươi lần bảy, nghìa là tha thứ luôn luôn, chúng ta cần phải có tâm hồn như Chúa, tha thứ như Chúa, không tính toán số lượng, số lần theo luật định, nhưng phải với tâm hồn đã được ơn Chúa biến đổi là tha thứ vô hạn định.
Xin Chúa đến với chúng con ngày hôm nay trong Bí Tích Thánh Thể, đặc biệt khi chúng con rước Chúa vào tâm hồn, chúng con xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con được trở nên giống như Chúa, tâm hồn tràn đầy tình thương của Chúa để chúng con tha thứ cho tha nhân như Chúa, xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà chúng con tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
38. Nên tha hay không? – Phillip Bình Khả
Aba Gayles kể lại một khúc quanh của đời bà như sau: bà nhớ lại khi nhận được hung tin là con gái yếu dấu của bà bị kẻ sát nhân, ông Mickey, đâm tới chết, bà đã bàng hoàng và cảm thấy đau đớn tột cùng. Trong những ngày tháng sống trong đau buồn vì mất người con gái yêu dấu và giận ghét đối với kẻ giết con mình, bà rất muốn trả thù cho con gái bà, bà muốn kẻ sát nhân phải chết. Chính vì sống trong tâm trạng đó, bà Aba Gayles đã sống xa cách mọi người, bà mất đi cuộc sống vui tươi. Nhưng rồi qua học hỏi lời Chúa và cầu nguyện, bà đã tìm lại được cuộc sống thật của bà và cuối cùng bà đã tha thứ cho kẻ đã giết con gái của bà. Hơn thế nữa, bà còn thường xuyên đi thăm viếng người hãm hại con gái bà đang ở trong tù để nâng đở tinh thần ông ta. Đây là sự tha thứ mà chúng ta không dễ tìm thấy, nhưng đó là điều mà Lời Chúa trong hai bài đọc hôm nay mong muốn nơi mỗi người.
Bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm ngày hôm nay cùng khuyên chúng ta trong việc tha thứ cho người khác. Lời Chúa đến với chúng ta trong bài đọc thứ nhất khuyên rằng đừng giận ghét kẻ khác; hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha thứ. Trong bài Phúc Âm, ông Phêrô cũng nhận thức được sự cần thiết của sự tha thứ, chỉ có điều là ông thắc mắc đến việc tha bao nhiêu mới đủ. Đối với ông việc tha cho kẻ xúc phạm đến ông đến bảy lần là quảng đại lắm vì các thầy Do Thái dạy rằng tha cho người xúc phạm đến ta ba lần là quá lắm rồi. Nhưng Chúa Giêsu dạy rằng không phải là tha đến bao nhiêu lần mà là phải luôn sống trong sự tha thứ. Đây là điều mà chúng ta cảm thấy rất khó thực hiện, phải không các bạn. Tuy nhiên, đây là việc mà chúng ta nên và phải làm. Vì sao?
Xét về khía cạnh tâm lý tự nhiên thì việc thứ tha là một cách giải thoát đi nỗi đau đớn, lòng hận thù trong chính con người mình khi người khác xúc phạm đến ta. Việc chúng ta giận ghét người khác không làm cho người khác đau khổ nhưng ngược lại chính chúng ta là người phải chịu sự dằn vặt tâm hồn, mất bình an, ngủ không yên và nhiều xáo trộn khác. Chính chúng ta hại bản thân. Bà Aba Gayles trong câu chuyện ở trên mất đi cuộc sống vui tươi khi bà còn giữ hận thù trong lòng. Nhưng khi bà biết tha thứ thì cuộc sống của bà trở nên có ý nghĩa. Mỗi người đều có cảm nghiệm này. Như vậy việc chúng ta tha thứ làm ích không cho người nào khác hơn là cho chính chúng ta trước nhất. Nó mang lại sự bình an tâm hồn, cuộc sống tươi vui.
Hơn nữa, xét theo mối tương quan giữa ta với Thiên Chúa và với tha nhân, chúng ta cũng cần sự tha thứ của người khác thì tha thứ là việc phải làm. Dụ ngôn người đầy tớ bất lương trong bài Phúc âm hôm nay nói rất rõ. Chúng ta cứ tính toán torng việc tha thứ cho người khác, trong khi chính Thiên Chúa hằng tha cho chúng ta bao nhiêu tội lỗi. Bài đọc thứ nhất khuyên: "Hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha thứ." Chúng ta qua kinh Lạy Cha cũng thường xin Chúa "tha nợ chúng con cũng như chúng con tha kẻ có nợ chúng con." Chúng ta chỉ mong muốn Thiên Chúa hay người khác quên đi lầm lỗi của chúng ta hoặc tha cho chúng ta trong khi đó chúng ta lại quên đi việc chúng ta cũng phải tha thứ cho người khác.
Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay đang thách đố mỗi người hãy luôn sống trong sự tha thứ. Đây cũng là điều mà Chúa Kitô đã cầu nguyện khi bị đóng đinh trên cây thập tự: "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm." Bà Aba Gayles cũng đã thực hiện đúng tinh thần tha thứ của Chúa Giêsu đối với kẻ giết con gái yêu dấu của bà la dứt khoát tha và tha hết; hơn nữa bà nâng đỡ tinh thần ông trong khi đang ở trong tù và mong muốn cho ông sống tốt hơn.
Mỗi người cũng nên tự hỏi nơi chính mình rằng còn người nào đó mà chúng ta cần tha thứ không? Cha mẹ? Vợ chồng? Con cái? Họ hàng? Hàng xóm? Những người làm cùng hãng? Và chính bản thân chúng ta?
39. Tha thứ – Lm. Bùi Quang Tuấn
Quá tam ba bận. Có tha chỉ tha ba lần mà thôi. Đến lần thứ tư là phải trừng phạt. Đó là truyền thống của người Do thái. Sách Tiên tri Amos có ghi một loạt các lời phán quyết: “Vì ba tội ác của (Đama, Gaza, Tyrô, Edom...) và vì bốn tội...Ta sẽ không hối lại... Ta sẽ phóng hoả tường thành” (Am 1). Từ đó người ta suy luận: Thiên Chúa sẽ trừng phạt kẻ ác khi nó lỗi phạm đến lần thứ tư, và người phàm thì không thể nhân lành hơn Thiên Chúa, thế nên con người không thể tha thứ cho nhau quá ba lần.
Trước lối suy luận và giảng dạy như thế của các kinh sư, Phêrô chắc mẫm sẽ được Đức Giêsu khen ngợi khi đề nghị tha đến bảy lần. Bởi vì tha như thế là đã gấp đôi truyền thống Do thái, và còn cộng thêm một lần. Đây quả là lời đề nghị quảng đại, đầy tính cách mạng.Thế nhưng, câu trả lời của Đức Giêsu đã làm bàng hoàng người nghe: "Không phải chỉ tha 7 lần nhưng là 70 lần 7." Như vậy, vị chi là 490 lần. Thế thì có khác nào bảo người ta tha thứ không ngừng. Mà tha kiểu đó thì có khác gì tạo cớ vấp phạm: được đàng chân, họ lân đàng đầu thì sao?
Lắm khi tôi cũng tính toán như thế. Và không ít lần tôi chẳng muốn thứ tha người khác. Tôi tìm cách báo thù cho thoả lòng tự ái. Tôi tìm cách lật tẩy lỗi lầm tha nhân để nó đừng tái phạm. Tôi cố gắng thi hành chính sách "mắt đền mắt, răng đền răng" cho hợp lẽ công bằng. Tôi đưa ra nhiều lý do rất "kêu" để biện minh cho hành vi của mình. Nhưng thử hỏi có lý do nào phát xuất từ tình mến thương chăng?
Chúa Giêsu đã kể một dụ ngôn đáng cho tôi suy nghĩ: Có vị vua kia muốn tính toán sổ sách với các con nợ. Một kẻ thiếu ngài 10 ngàn nén vàng. Đổi ra cũng được 100 triệu đồng, tương đương với 60 triệu ngày làm công. Sử gia Flavius Gioseph cho biết: vào năm thứ tư trước công nguyên, số tiển thuế hai tỉnh Galilê và Pêrê nộp cho Rôma là 2 trăm nén vàng. Như thế 10 ngàn nén vàng là một món nợ vô cùng lớn.
Kẻ mắc nợ bị điệu đến trước mặt vua. Nhưng vì y không có gì trả nên vua ra lệnh bán y củng vợ con để bù vào. Chắc chắn số tiền đó chẳng đáng là bao. Nhưng đâu còn biệp pháp nào khá hơn.
Trước viễn cảnh gia đình tan nát, thân xác sẽ mang kiếp nô lệ ngựa trâu, tên mắc nợ sấp mình nài van đức vua cho thêm thời gian xoay sở. Thấy con nợ than khóc khẩn cầu, vua chạnh lòng thương. Tình thương ấy dâng cao đến nỗi vua cho y về, thậm chí còn tha luôn nợ.
Không phải xa vợ con, không bị đoạ đày khổ sai, lại còn được xoá đi món nợ khổng lồ. Ôi, có niềm hạnh phúc nào to lớn hơn!
Anh hân hoan nhịp tung chân bước. Lòng phơi phới, miệng hát ca. Từ nay sẽ không còn bồn chồn lắng lo. Khung trời tự do như rộng thêm dưới từng nhịp bước. Nhưng chân anh bỗng khựng lại vì chợt thấy bóng người hàng xóm. Tên này đang thiếu nợ anh. "Hắn mượn mình 100 đồng từ lâu mà chưa chịu trả," anh nghĩ bụng, "ta phải cho nó biết tay." Thế rồi, anh tóm lấy, bóp cổ, đòi nợ, và tống giam kẻ ấy sau khi hắn van xin anh cho thêm chút thời gian xoay sở mà không được.
Vụ việc đến tai vua. Nhà vua đã trừng trị hắn đích đáng.
Tôi tự hỏi: tại sao anh kia lại đối xử với tha nhân thiếu tình người như thế. Hà cớ gì anh lại ra tay vũ bạo với con nợ bé tí thế kia?
Câu trả lời sẽ là vì anh ta mau vô ơn. Tham chút lợi nhỏ trước mắt mà quên mất hồng phúc lớn lao trong đời. Mau vô ơn, cũng mau vô tình vô tâm. Thế nên để sống có tâm, có tình, con người cần phải nhìn lại chính mình luôn luôn. Nhìn lại để thấy tình Chúa chứa chan. Nhìn lại để biết chia ban ân phúc cho người.
Thiên Chúa luôn quảng đại thứ tha. Ngài không thích trừng phạt ai. Thế nhưng con người sẽ tự trừng phạt chính mình khi đóng cửa lòng với người khác. Mở ra là điều kiện tất yếu để đón nhận. Càng biết tha thức càng được Thiên Chúa thứ tha. Tha nhân nợ tôi, dù có nặng nề mấy, cũng chẳng đáng là gì khi so với việc tôi nợ Chúa. Thế thì dại chi khi không bỏ một vốn để được bốn vạn lần lời.
"Hãy cho đi để được cho lại. Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã lắc, đầy tràn toé ra mà đổ vào vạt áo các ngươi. Vì các nguơi đong bằng đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy.' (Lc 6,38).
Người ta kể: trong cuộc nội chiến tại Tây Ban Nha trong những năm 1930, các phiến quân triệt hạ giáo xứ, đốt phá nhà thờ, và giết hại nhiều linh mục, giáo dân.
Một ngày nọ, bọn phiến loạn trói giật cánh khuỷu một linh mục già và đem ra pháp trường xử bắn. Trước khi bị hành hình, vị linh mục thều thào với viên chỉ huy:
- "Xin anh cởi trói cho tôi".
- "Chết đến nơi rồi thì cần gì cởi trói", viên chỉ hay quát lại.
- "Tôi muốn ban phép lành lần sau cùng cho các anh".
Nghe thế viên chỉ huy vô thần tức giận vung chiếc rìu lên, chém đứt không chỉ sợi dây trói, nhưng còn luôn cả đôi bàn tay linh mục.
Mặc dù đau đớn cùng cực, vị linh mục vẫn giơ cổ tay đầy máu lên cao, vẽ thành hình Thánh Giá như dấu hiệu ban phép lành. Ngài nói trong hơi thở đứt đoạn: "Tôi tha thứ cho các anh. Tôi xin Chúa tha thứ và chúc lành cho các anh."
Một loại đạn vang lên, xác vị cha già đổ xuống. Đầy máu.
"Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ... Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó ăn; nó khát, hãy cho nó uống. Làm thế ngươi sẽ chất than hồng trên đầu nó. Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ" (Rm 12,14,20-21)
Biết cầu nguyện cho kẻ làm khổ mình - đó có thể là vợ tôi, chồng tôi, con chiên tôi, các đồng nghiệp của tôi... - là biết sống tinh thần bác ái Kitô Giáo. Và như thế, tôi đang giúp họ cũng như chính mình tiến đến đỉnh cao kiện toàn.
Một nhà tư tưởng đã viết: "Nắm bắt chân lý để rao giảng về nó là một cuộc chiến khó khăn; sống theo chân lý lại là một cuộc chiến gay go gấp bội; nhưng chỉ những ai chú tâm cầu nguyện mới mong nắm được phần thắng" (Jack McArdle).
Liệu tôi đã biết cầu xin để có thể tha thứ cho nhau hay chưa?
40. Anh em tha thứ cho nhau - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu bạn chợt nhận ra mình cũng yếu đuối và dễ lầm lỗi như người mà bạn đang kết án, thì bạn có còn muốn kết án họ không?
2. Bạn có dễ dàng tha thứ lần nữa cho người mà bạn đã từng tha cho một món nợ lớn, nhưng chính người ấy lại không chịu tha cho con cái bạn một món nợ rất nhỏ không?
3. Khi bạn mang trong mình một nỗi hờn giận, tâm hồn bạn có bình an không? Cách tốt nhất và khôn ngoan nhất để giải quyết nỗi hờn giận ấy là gì?
Suy tư gợi ý:
1. Sống trên đời, ai cũng lầm lỗi. Chính ta cũng biết bao lầm lỗi
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật trước, Đức Giêsu đòi hỏi ta phải biết sửa lỗi cho tha nhân. Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài lại yêu cầu ta phải sẵn sàng tha thứ cho họ một cách vô điều kiện. Như vậy, ta vừa phải sửa lỗi, lại vừa phải tha thứ.
“Nhân vô thập toàn”, trên đời, không ai hoàn hảo cả, ai cũng có những sai trái, lầm lỗi. Xét lại bản thân, ta thấy chính ta cũng có nhiều sai trái, khiếm khuyết, lầm lỗi: vô ý có, mà hữu ý hay cố tình cũng có. Đó chính là lý do khiến ta nên tha thứ cho người khác.
2. Ta luôn thấy lầm lỗi của ta đáng được thông cảm và tha thứ
Khi bị ai trách cứ, hầu như lần nào trong thâm tâm ta cũng có lý do để chống chế, để biện hộ cho sai trái của mình. Điều đó có nghĩa là dù ta có lỗi, ta vẫn luôn thấy lỗi mình đáng được thông cảm và tha thứ. Vì chỉ có ta mới hiểu được nguyên nhân và hoàn cảnh khiến ta phạm lỗi. Người ngoài sở dĩ kết án ta là vì họ không hiểu được thế kẹt của ta, nên họ không thông cảm được sự sai trái của ta. Tất cả mọi người đều vậy cả, ai cũng thấy lầm lỗi của mình đáng được thông cảm.
Theo Dale Carnegie trong cuốn Đắc Nhân Tâm của ông, thì không ai tự nghĩ xấu về mình. Ai cũng tự nghĩ tốt cho mình dù là kẻ xấu nhất trong nhân loại. Ai cũng nghĩ rằng mình đúng cho dù là kẻ sai nhất trong nhân loại. Ai cũng có nhiều lý lẽ để cho rằng mình là người tốt, người đúng. Ông đã chứng minh điều ấy bằng những sự kiện cụ thể mà ông thu thập được trong đời sống của ông. Theo ông, ngay cả những tên cướp giết người không gớm tay vẫn có lý do bào chữa cho những hành động gớm ghiếc của chúng, mà chúng nghĩ do thực tâm chứ không phải để ngụy biện. Tuy dù không hoàn toàn đồng ý với Dale Carnegie, tôi cũng phải công nhận ông có lý phần nào, và đó chính là lý do để tôi thông cảm hơn với những người tôi muốn kết án.
3. Đức Giêsu khuyên ta luôn tha thứ, và tha thứ vô điều kiện
Đức Giêsu là một con người y như chúng ta, Ngài cũng cảm nghiệm được sự yếu đuối của con người y như chúng ta, chính Ngài cũng bị cám dỗ phạm tội như chúng ta. Vì thế, mặc dù Ngài không hề phạm một lầm lỗi nào, Ngài vẫn cảm thấy mọi tội lỗi của con người đều đáng được tha thứ. Lý do mà Ngài đưa ra cho chủ trương tha thứ vô điều kiện là: Chính bản thân ta có lỗi với Thiên Chúa nhiều gấp bội ai đó có lỗi với ta. Nếu ta không tha thứ cái lỗi nhỏ bé ấy cho người ấy, thì Thiên Chúa làm sao tha cho ta cái lỗi tầy trời của ta được? Mà nhất là người ấy lại là hiện thân của chính Thiên Chúa ở bên ta, vì Ngài tự đồng hóa với tha nhân của ta.
Hãy tự đặt mình vào địa vị của Thiên Chúa, tương tự như hoàn cảnh sau đây, ta sẽ thấy sự cần thiết phải tha thứ: Có người nợ ta rất nhiều mà ta sẵn sàng tha cho tất cả, nhưng chính người ấy lại không chịu tha nợ cho con của ta, cứ nằng nặc đòi nợ với đủ mọi đẹ dọa, dù con ta chỉ nợ họ một số tiền nhỏ. Trường hợp đó ta sẽ làm gì với người ấy? Nếu không tha thứ cho người khác, ta cũng làm một hành động phi lý và vô ơn tương tự như người ấy. Nghĩ cho cùng, không tha thứ cho người khác, chính là một hành động vô ơn đối với Thiên Chúa là người đã tha thứ cho mình. Thiên Chúa tuy không có lỗi gì với ta, nhưng ta phải trả ơn cho hành động tha thứ của Thiên Chúa bằng cách tha thứ cho những hiện thân của Thiên Chúa ở bên ta, tức những người sống chung quanh ta.
4. Lòng khoan dung độ lượng
Một trong những đức tính cần thiết để trở nên hoàn hảo là lòng khoan dung độ lượng. Người khoan dung độ lượng là người không chấp nhất, mà trái lại thông cảm với những lầm lỗi của kẻ khác. Lòng khoan dung độ lượng được xây dựng trên ý thức về những yếu đuối, về khả năng phạm lỗi của chính bản thân mình, và sau đó, của người khác. Mình cũng phạm lỗi thì mình kết án người khác thế nào được? Nếu mình cũng phạm lỗi mà lại đi kết án người khác, thì đó đúng là một hành động vô liêm sỉ. Trong chuyện người đàn bà ngoại tình bị bắt quả tang (x. Ga 8,3-11), tuy không phục những người Pha-ri-siêu vì họ thích giả hình, nhưng tôi phục họ vì họ còn có liêm sỉ. Khi Đức Giêsu nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”, “Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi”. Họ không dám ném đá kẻ ngoại tình chính vì họ ý thức mình cũng có tội, như thế là họ còn liêm sỉ. Như vậy, kết án người khác, không tha thứ lầm lỗi cho họ là do ta không ý thức được lầm lỗi của chính mình. Nếu ý thức được lầm lỗi của mình mà vẫn kết án, không tha thứ thì chẳng phải là ta thiếu liêm sỉ sao?
Con người có một mẫu số chung như nhau là rất yếu đuối, rất dễ lầm lỗi. Xét lại chính bản thân, ta thấy mình vẫn sai lỗi hằng ngày. Nếu tôi ít sai lỗi hơn người khác, rất có thể vì tôi không phải sống trong một hoàn cảnh có nhiều cám dỗ thúc đẩy tôi sai lỗi như họ. Nếu tôi cũng sống trong hoàn cảnh y như thế, liệu tôi có khá hơn họ, hay tôi còn tệ hơn họ nữa? Không chỉ có yếu tố hoàn cảnh khiến họ dễ phạm tội hơn tôi, mà còn nhiều yếu tố khác nữa. Hãy tự hỏi: Khi mình ở độ tuổi ấy, liệu mình đã suy nghĩ chín chắn được như người ấy không? Nếu mình chỉ được học hành hay được giáo dục như họ thôi, mình có hành động khá hơn họ không? Nếu mình bẩm sinh có thể chất hoặc tâm lý yếu đuối như họ, nếu mình chỉ suy nghĩ được như họ, liệu mình có hành động khác hơn không? v.v…
5. Tha thứ làm tâm hồn ta nhẹ nhõm, thảnh thơi
Kinh nghiệm cho tôi thấy khi nào bực bội ai điều gì, khi nào để trong lòng nỗi buồn bực giận hờn ai, thì tâm hồn tôi không được bình an. Lúc đó, trong tâm hồn tôi có một xung lực thúc đẩy tôi phải làm một cái gì đó, chẳng hạn chửi bới người ấy, nói một câu gì hạ nhục người ấy, hoặc làm một điều gì khiến người ấy phải đau khổ… Lúc ấy tôi có cảm tưởng rằng: có hành động theo sự thúc đẩy của xung lực ấy, tôi mới nguôi ngoai cơn giận, và tâm hồn tôi mới tìm lại được bình an. Nhưng trong thực tế, sau khi thỏa mãn cơn giận bằng những hành động ấy, tôi chỉ được nguôi ngoai phần nào, và sau đó lại tiếp tục mất bình an hơn nữa vì phải đối phó với sự trả thù của người kia. Vì khi người kia bị tôi hạ nhục hay gây đau khổ, thì trong lòng họ lại phát sinh một xung lực y như tôi trước đó, và họ quyết thỏa mãn xung lực ấy. Thế là cái vòng lẩn quẩn được thiết lập, vì: “Lấy oán trả oán, oán chập chùng” (Đức Phật).
Nhưng nếu tôi đặt mình vào địa vị người ấy, tôi sẽ dễ dàng thông cảm và hiểu được những lý do thúc đẩy họ hành động như vậy, nhờ đó tôi dễ dàng tha thứ cho họ. Khi tôi vừa quyết định tha thứ, lập tức tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhõm. Xung lực thúc đẩy tôi phải trả thù biến mất. Tích cực hơn nữa, nếu tôi có tinh thần yêu thương của Đức Giêsu, thay vì trả oán, tôi quyết định làm một điều gì tốt cho người ấy. Lúc ấy thường có điều lạ lùng xảy ra, là người ấy nhận ra ngay sai lầm của mình và ngỏ lời xin lỗi (Điều lạ lùng này rất khó xảy ra khi tôi trả đũa). Từ đó tình cảm giữa hai người thắm thiết hơn, vì qui luật này vẫn luôn luôn đúng: “Ai được tha nhiều sẽ mến nhiều, ai được tha ít sẽ mến ít” (x. Lc 7,47b). Đó cũng là chủ trương “lấy đức trả oán, oán tiêu tan” của Đức Phật.
CẦU NGUYỆN
Tôi nghe Chúa nói với tôi: “Nếu con tha thứ cho mọi người vô điều kiện, dù họ lỗi nặng đến đâu, thì làm sao Cha có thể kết án con được? Chẳng lẽ lòng bao dung của Cha lại thua con sao? Vả lại con vẫn thường xin Cha: "Xin tha nợ cho con giống như con tha nợ cho người khác". Con tha nợ cho người khác vô điều kiện, Cha cũng phải "như con" mà tha cho con vô điều kiện, dù con lỗi nặng đến đâu. Ai cầu xin như con mà không chịu tha thứ là tự họ bắt Cha kết án họ, vì họ xin Cha làm "như họ"“.
41. Tha thứ, hoà giải – Lm. Nguyễn Bình An
"Lậy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không rõ việc chúng làm" (Lc 23,34) đã được Đức Gioan Phaolô II thực thi, khi ngài thân hành đến khám đường thăm viếng, hoà giải và an ủi Ali Agca, kẻ hành thích ngài tại công trường Thánh Phêrô ngày 13 tháng 8 năm 1981. Chúa Kitô luôn khuyến khích tín hữu cởi trói mọi ràng buộc, giải toả các uẩn ức, giao hoà các bất đồng và hợp tác trong tình thương. Tha 70 lần lũy thừa 7 là tiêu chuẩn của ơn tha thứ hoà giải. Tích cực hơn, Chúa dậy các tín hữu phải yêu thương các địch quân và nguyện cầu cho họ. Đối với nhân loại thì đây quả là một vấn đề khó khăn.
Tình tiêu cực theo lý thuyết tương đối rất dễ. Chúng ta cần trưng Lời Chúa và chủ trương yêu thương và tha thứ. Tình nầy đã được ứng cử viên tổng thống Dukhakis xướng họa năm 1988. Nhưng khi được hỏi "ông sẽ làm gì khi vợ ông bị hiếp tối hôm qua?" thì ông ấp úng không lối thoát. Tình tích cực với hành động minh chứng thật nhiêu khê. Đích danh ông bà, anh chị gặp hắn, kẻ vừa giết con gái, hãm hiếp vợ, bán đứng anh và bêu xấu ông, quí vị sẽ làm gì?
Đưa giới lệnh tha thứ và hòa giải vào đời, Thiên Chúa muốn các tín hữu học, hiểu và sống cái Đức, cái Nhân và cái Dũng của chính Chúa, Đấng ban ơn mưa móc xuống trên người lành lẫn kẻ dữ. Không như Khômêni treo giải thưởng 1 triệu Dollars cho chặt được đầu của Ruskee. Cũng không như đám đạo tặc ăn mừng khi Ngô Đình Diệm bị bức tử. Nhưng phải như bà Cornie, người sống sót duy nhất của gia đình Boom ở Amsterdam, Hoà Lan. Gia đình bà vì bác ái đã che chở, chứa chấp và nuôi sống những người Do Thái trong nhà hồi đệ nhị thế chiến. Bị kẻ thủ lợi báo cáo, cả gia đình đã bị bắt giam và chết trong trại tập trung Ravensback. Bà Cornie thuyết trình về ơn tha thứ và hoà giải, đã gây chấn động. Lời bà phát xuất từ con tim rướm máu, bằng cảm nghiệm thương đau và với tâm hồn sần sùi vết thẹo. Sau bài diễn thuyết, một người Đức đến cám ơn và xin bắt tay. Nhìn lên, bà Cornie bỗng chết trân, miệng há hốc, vì chính hắn, kẻ đã giết gia đình bà. Trong cơn giận, tay bà không sao đưa tay lên nổi để tha thứ và hòa giải. Bỗng từ đấy lòng, tâm tình thiêng liêng khơi động "Giêsu ơi, con thật không tha thứ nối, xin giúp con." Một thần lực bao phủ, bà đưa tay lên. Chính lúc đó ơn tha thứ và hoà giải đã tràn ngập tâm hồn bà và anh lý hình ngày trước.
Trong tâm tình khiêm tốn, thành thật và nghiêm chỉnh, Chúa muốn mỗi chúng ta tự đặt mình dưới ánh sáng đức tin và trong tình yêu Chúa. Hãy can đảm nhận diện những lỗi lầm, bội ước, đểu cáng, bất nhân chúng ta đã thực hiện. Hãy cám tạ Chúa vì Ngài luôn tha thứ, khoan nhân, độ lượng, chờ đợi và tạo cơ hội cho chúng ta trở về. Hãy xin ơn thông cảm để như Phêrô chúng ta biết "hồi tâm và nâng dậy anh em" và nhất là nhìn mọi người theo khía cạnh nhân loại. Họ có thất tình, lục dục như chúng ta. Họ ngày đêm bị sức ép của đam mê, cám dỗ và yếu đuối dằn vặt. Họ cần được cảm thông và hòa giải như chúng ta cần Chúa thương xót và tha thứ. Và cùng với họ, chúng ta đứng lên làm lại cuộc đời.
Chồng chị mèo chuột, gạt gẫm, cờ bạc, hút sách và hung hãn, làm sao chị sống đời tha thứ và tìm ra những điểm tích cực dễ thương nơi anh đây? Anh là hình ảnh Thiên Chúa vô hình! Anh cần được nâng dậy! Anh phải sống đời mới! Chị là tâm Chúa từ nhân, là bàn tay dịu dàng nâng đỡ, chị có trách nhiệm giúp anh trở về! Vợ anh chua chát, điêu ngoa, giả dối và làm tan gia bại sản, làm sao anh tha thứ và thông cảm đây! Đức tin cho sức mạnh, sức mạnh nối lại tình thương, tình thương đem ơn tha thứ và tha thứ là phương tiện cho Chúa hiện diện.
Đó là thực cảnh, là thách đố, là gương vỡ lại lành và là nhân cách của đời Kitô hữu. Bạn ông, chồng chị, vợ anh, con cháu chúng ta vì nông nổi và nhẹ dạ, vì hiếu kỳ và ương ngạnh, vì yếu đuối và đam mê đã một thời bị ma dẫn lối quỉ đưa đường, không lẽ chúng ta ngồi nhìn họ chết mà không chút động lòng trắc ẩn! Hối nhân sẽ trở về và ngã gục trong lòng những ai tràn đầy thân thương, nhân ái và tha thứ như Đức Kitô. Ngài nhỏ nhẹ, thông cảm và yêu thương nhìn người phụ nữ trắc nết và hoang đàng "con hãy về và đừng tái phạm nữa".
42. Tha thứ
Ông Yigal Cohen, một người Israel bị đau tim nặng nhận được trái tim của một người Palestine trong cuộc phẫu thuật ngày 5-6-2000. Gia đình ông Mazen Joulani, người hiến tặng tim, cho biết ông vừa bị những người Do thái bắn hại tại một tiệm cà phê ngoài trời.
Gia đình này quyết định hiến tim của Joulani vào thứ sáu tuần qua, ngay trong ngày mà cuộc nổ bom ở Tel Aviv làm thiệt mạng 21 người. Những phần nội tạng khác của Joulani cũng sẽ được ghép cho một số người Israel khác. Bác sĩ Lavie, người thực hiện ca mổ, nói khi ông cầm hai trái tim trong tay, ông nhận ra rằng tất cả những mâu thuẫn sắc tộc là hoàn toàn vô nghĩa.
Nếu chúng ta biết rõ mối thù truyền kiếp giữa người Israel và người Palestine, nếu chúng ta nhìn thấy những cuộc xung đột đẫm máu thường xuyên xảy ra giữa hai dân tộc này trên truyền hình, báo chí, chúng ta mới thấy nghĩa cử hiến tặng trái tim để cứu sống kẻ thù, mới thật là nghĩa cử vô cùng cao đẹp. Không những anh chỉ tha thứ cho kẻ thù đã bắn chết mình, mà còn trao ban luôn trái tim và các phần nội tạng khác để cứu sống những kẻ đã sát hại dân tộc mình. Đối với những người không có tấm lòng khoan dung tha thứ thì đây là hành động điên rồ, thậm chí còn là việc ngu xuẩn. Nhưng với những người có niềm tin thì đó lại là bằng chứng hùng hồn của người môn đệ Đức Kitô: “Anh em phải thương yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét anh em”.
Tin Mừng hôm nay thuật lại:
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy”.
Điều đó có nghĩa là phải tha thứ hoài, tha thứ mãi, tha thứ đến vô cùng. Đó là nét mới trong dung mạo của Đức Giêsu. Mọi quốc gia, đảng phái, phong trào đều chống lại điều xấu, đề phòng kẻ gian ác, tiêu diệt kẻ thù, duy chỉ mình Đức Giêsu dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù”. Người đã chiếu tỏa nét cao quý ấy ngay trên thập giá, khi các kẻ thù hành hạ, chế nhạo, và đóng đinh Người: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.Nhưng tại sao phải tha thứ? Phải tha thứ cho anh em vì đó là điều kiện để được Chúa thứ tha cho chúng ta. Đức Giêsu đã nói: “Nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em”.
Phải tha thứ cho anh em vì chính Chúa luôn tha thứ cho chúng ta, và Người còn liên tục tha thứ mãi, như kinh Lạy Cha Đức Giêsu đã dạy: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con”. Phải tha thứ cho anh em vì đó là một nghĩa cử yêu thương tuyệt đỉnh mà Chúa luôn đòi hỏi và coi trọng hơn cả việc thờ phượng Người: “Nếu khi sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”.
Tha thứ là một lệnh truyền khó thực hiện nhất nhưng cũng là nghĩa cử cao cả nhất. Chúng ta có thể cho đi tiền của, trao ban thì giờ, hiến dâng mạng sống. Nhưng các điều đó xem ra còn dễ hơn là tha thứ cho kẻ thù, yêu thương kẻ ngược đãi mình, và làm ơn cho kẻ oán ghét chúng ta. Vâng, chỉ có sức mạnh của Thiên Chúa chúng ta mới có thể tha thứ cho nhau được.
Đúng như lời Alexande Pope có nói: “Lỗi lầm là của con người, và tha thứ là của Thiên Chúa”.
Khi chúng ta quyết định tha thứ là chúng ta đang vượt lên bản tính tự nhiên, đang trở nên giống Thiên Chúa, đang nâng mình lên tới tột đỉnh của nhân đức.
Khi chúng ta quyết định tha thứ là chúng ta đang thi ân cho kẻ thù. Nhờ sự tha thứ của chúng ta mà họ được an tâm, không sợ báo thù. Cuộc đời họ lại nhẹ nhàng, thư thái, bình an.
Khi chúng ta quyết định tha thứ thì lòng chúng ta được tràn ngập niềm vui: vui vì mình đã làm được một nghĩa cử cao đẹp cho anh em, vui vì biết chắc rằng mình sẽ được Chúa thứ tha.
Từ chối tha thứ cho anh em là nói rằng chúng ta không cần thứ tha. Chỉ có kẻ công chính mới không cần được tha thứ. Nếu ai cho mình không cần được thứ tha, thì họ là kẻ kiêu ngạo đáng thương. Họ tự khóa chặt cánh cửa tâm hồn để lòng mình rêu phong ẩm mốc. Chính sự tha thứ đem lại cho tâm hồn mùa xuân mới, để kẻ tha thứ và người được thứ tha lại nở rộ mùa hoa nhân ái, cho lá vẫn xanh, cho hoa vẫn nở, trong mưa hiền hòa, trong nắng thênh thang.
43. Hãy tha thứ để được thứ tha
GỢI Ý
1. “Nợ” và "trả nợ"
Theo nguyên tắc, mắc nợ thì phải trả nợ. Cho mượn nợ thì có quyền đòi nợ. Nợ - đòi - trả: đó là cách cư xử công bình. Nhớ rằng trên thực tế có rất nhiều thứ nợ không thể trả nổi: chẳng hạn con nợ đã sạt nghiệp trắng tay, con nợ thiếu nhiều quá sức chi trả v.v. Gặp những trường hợp ấy ngay cả tòa án cũng đành phải bó tay: cùng lắm là tịch thu tài sản bán được bao nhiêu trả bấy nhiêu, rồi bắt người thiếu nợ phải ngồi tù. Các chủ nợ dù muốn hay không cũng đành phải chịu mất hoặc nhiều hoặc ít Trường hợp thứ hai này là: Nợ - không đòi được - đành bỏ: đây là cách cư xử không theo phép công bình.
Nghĩa là ngay cả trên bình diện cư xử tự nhiên, có nhiều trường lợp không thể xử công bình được. Huống chi trên bình diện đạo đức, siêu nhiên.
Nói cụ thể hơn, thiếu tiền nhau ("nợ" đúng nghĩa) thì còn có thể đòi nhau theo công bình, còn có tội, có lỗi với nhau ("nợ" theo nghĩa rộng hơn) thì khó tính toán công bình với nhau được.
Bài Tin Mừng này đề cập đến thứ "nợ" theo nghĩa rộng, nghĩa là những tội lỗi người ta phạm đối với Chúa và đối với nhau. Đối với loại này, chỉ có cách là tha thứ.
Bài Tin Mừng đưa Thiên Chúa ra làm gương tha thứ trước: Tội lỗi chúng ta phạm đến Chúa là thứ nợ không thể nào trả hết được. Như lời Thánh vịnh "Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được". Bởi vậy Thiên Chúa đã tha thứ.
Và bài Tin Mừng khuyến khích ta noi gương Chúa đồng thời cho biết làm như thế chỉ có lợi cho ta mà thôi.
2. Những dây chuyền phản ứng khác nhau.
Con người quen sống theo dây chuyền trả đũa: Mắt đền mắt, răng thế răng, phỏng đền phỏng, bầm đền bầm, sưng đền sưng, mạng đền mạng... Thứ dây chuyền này sẽ kéo theo hết mắt này đến mắt khác, răng này đến răng khác, mạng này đến mạng khác.
Trong Tin Mừng, có một dây chuyền ngược lại: Xin tha cho chúng con - như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con; Hãy tha - thì sẽ được tha lại; Hãy cho - thì sẽ được cho lại dư đầy. Thứ dây chuyền này dẫn đến tình nghĩa, tình yêu ngày càng đậm đà, nồng ấm.
Đức Giêsu muốn các môn đệ mình đừng theo dây chuyền thứ nhất"mà hãy theo dây chuyền thứ hai.
3. "Hãy nhớ đến điều sau hết và chấm dứt hân thù”
Đó là câu của Ben Sira, người có công sưu tập kho tàng khôn ngoan ngàn đời cuả nhân loại.Câu này rất chí lý.
Ta hãy ra nghĩa địa mà nhìn: Những con người đã một thời ăn thua đủ với nhau dều nằm cạnh nhau, bất lực, im lìm... Còn làm chi nhau được nữa!
Và nếu ta có nhìn lên cao, để thấy lúc những người ấy ra trình diện trước tòa phán xét của Chúa. Người nào người nấy cũng đầy nợ với Chúa nhưng đồng thời vẫn khư khư nắm chặt tờ giấy ghi nợ của người khác đối với mình. Quan toà nói sao? “Hỡi tên án độc kia. Ta đã tha hết nợ cho ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như Ta đã thương ngươi” Rồi quan toà tống giam kẻ ấy vào ngục cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Sau đó ta hãy nhìn lại những nấm mồ ấy, và tự hỏi: Họ đã trả hết đồng xu cuối cùng chưa? Bởi thế Ben Sira khôn ngoan đã khuyên: "Hãy nhớ đến điều sau hết, và chấm dứt hận thù”
4. Xin lỗi.
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến một việc chúng ta cần làm trong Mùa Chay. Đó là tha thứ. Nhưng tha thứ là một việc song phương, nghĩa là việc không phải của một người mà là của hai người: người tha và người xin tha. Trong những va chạm thường xuyên của cuộc sống chung, có khi chúng ta là người bị xúc phạm cho nên tư thế của chúng ta là người tha, có khi chính chúng ta là người gây xúc phạm nên tư thế là người phải xin tha.
Tha và xin tha, việc nào khó hơn? Thiết nghĩ, trong những tập thể khá đạo đức như một giáo xứ chẳng hạn thì tha là việc dễ hơn: mình bị một anh chị em nào đó xúc phạm. Nếu anh chị em đó tới xin lỗi mình thì chắc là mình tha liền. Việc khó hơn chính là việc xin tha. Vậy chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ về việc này. Xin bắt đầu bằng một câu chuyện xảy ra ở nước Ba lan:
Trên một chuyến xe lừa chạy về Varsava có 3 thương gia ở chung một toa đang chơi đánh bài. Đến một trạm nọ, thêm một người bước lên nữa. 3 thương gia thấy có thêm người liền rủ người ấy cùng chơi cho đủ 4. Nhưng người khách từ chối khéo. Họ cố mời mãi nhưng người khách vẫn cương quyết từ chối. Thế là họ nổi giận và chửi rủa nặng lời. Người khách cũng làm thinh. Khi tàu đến ga cuối, mọi người đều xuống. 3 thương gia thấy một đám người rất đông cầm hoa đến đón người khách ấy. Họ hỏi một trong những người đó: ông ta là ai mà được nhiều người hâm mô thế? Người khách trả lời: Đó là Rabbi Salomon, một Rabbi nổi tiếng khắp nước về lòng nhân từ và đạo đức. Khi ấy 3 thương gia mới hối hận vì những lời chửi rủa của mình. Một người tiến đến Rabbi Salomon ngỏ lời xin lỗi. Nhưng Vị Rabbi quay mặt đi, chẳng chịu tha. Các tín đồ của ông ngạc nhiên quá, hỏi: "Thầy vốn là một người nhân từ và đạo đức. Nhưng sao Thầy không tha cho một kẻ đã biết lỗi và xin lỗi Thầy?" Vị Rabbi giải thích: "Kẻ mà anh ta đã chửi không là một hành khách tầm thường. Còn người mà anh ta xin lỗi là Rabbi Salomon. Anh ta đã xin lỗi lầm người rồi".Câu chuyện có ý nói rằng: người ta dễ xin lỗi đối với những người có địa vị cao, có quyền lực lớn. Nếu thương gia nọ không biết người mình đã chửi là một nhân vật nổi tiếng thì chắc chắn anh ta không xin lỗi đâu.
Câu chuyện trên cũng dạy chúng ta bài học này là: muốn xin lỗi thì ta phải khiêm tốn, hạ mình.
- Nhiều khi chúng ta không thể mở miệng xin lỗi được đối với những người nhỏ hơn mình. Ta cho rằng chỉ có người nhỏ xin lỗi người lớn chứ không bao giờ ngược lại.
- Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì chúng ta còn tự ái, cho rằng làm như thế là nhục.
- Nhiều khi chúng ta không mở miệng xin lỗi được vì cho rằng như thế là tự nhận rằng mình sai. Ta tưởng rằng như thế là tự trọng. Nhưng đó là sự tự trọng không đúng chỗ và là biểu hiện của tính xấu kiêu ngạo. Satan chống lại Chúa. Sau đó nó biết lỗi nhưng nó không bao giờ xin lỗi. Giuđa sau khi bán Chúa cũng biết lỗi, nhưng cũng không xin lỗi.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã ngỏ lời xin lỗi với cả thế giới về những lầm lỗi của Giáo Hội trong quá khứ. Trước khi Đức Giáo Hoàng làm việc này, nhiều người trong Giáo Hội đã cản ngăn Ngài vì nghĩ rằng làm như thế là hại đến uy tín của Giáo Hội. Tuy nhiên sau khi Đức Giáo Hoàng làm việc đó thì lạ thay, người ta chẳng những không chê cười? Trái lại còn khen ngợi Ngài; uy tín của Giáo Hội chẳng những không giảm mà còn tăng thêm.
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay bảo chúng ta tha thứ. Nhưng Lời Chúa cũng bảo chúng ta làm một việc khác khó hơn, đó là biết xin lỗi. Muốn thế, chúng ta phải khiêm tốn hạ mình. Chúng ta nên biết rằng hạ mình xin lỗi không phải là nhục nhã, trái lại sẽ sinh nhiều kết quả rất tốt đối với bản thân, nó làm tăng uy tín của mình đối với cuộc sống chung, nó hàn gắn những vết thương do những va chạm gây ra và giúp cho cuộc sống chung được ấm êm hạnh phúc hơn..
5. Chuyện minh họa
a/ Tha thứ
Ngày nọ, Đức giám mục John Selwyn thấy một cậu con trai người bản địa cư xử thô bạo với các trẻ khác, ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị giám mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trân. Nhưng vị giám mục không cho họ làm gì. Rồi ngài quay lưng và lặng lẽ bỏ đi.
Nhiều năm sau, một nhà truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được Rửa tội.
Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp: "Xin đặt là John Selwyn, vì chính ngài đã dậy cho tôi biết đức Kitô là ai khi tôi đánh ngài?
b/ Xin tha
Satan phàn nàn với Chúa: "Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời? Chúa nói: "Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa?".
44. Sự hoàn hảo dựa trên lòng khoan nhân
Trong sách, "Bản Tính của Thế Giới Vật Chất," Tiến Sĩ Arthur Eddington diễn tả tiến trình của sự bước vào một căn phòng như sau: "Tôi đang đứng nơi ngưỡng cửa sắp bước vào phòng. Nó là một sự việc phức tạp. Trước tiên, tôi phải chống lại sức đẩy của không khí với sức mạnh của mười bốn trọng lượng trên mỗi thước vuông của thân hình tôi. Mỗi lần đặt chân trên sàn, tôi phải biết là tôi đáp xuống trên một tấm ván đang di chuyển với tốc độ hai mươi dặm một giây chung quanh mặt trời..." Phân tích một sự việc thường như đi bộ trong phòng, các nhà khoa học cũng thấy thật hấp dẫn. Nhưng hầu hết chúng ta chỉ đơn giản mà đi vào. Và chúng ta nghe là không khí rất cần cho chúng ta thở và không có nó chúng ta sẽ chết. Nhưng trước khi chúng ta biết điều đó, thì chúng ta đã thở.
Hãy đọc đoạn đầu của Kinh Thánh, "Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất..." (St 1:1). Thánh Kinh không bắt đầu với một lý do căn bản sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng sự hiện hữu của Thiên Chúa đã được thừa nhận.
Trong thư gửi cho Roma, Thánh Phaolô viết, "Không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình" (Rm 14:7). Hết thảy đức tin bắt đầu với ý nghĩa của sự lệ thuộc vào Một Đấng, phẩm chức cao cả hơn chính chúng ta. Thường gọi là bản năng, trực giác, khôn ngoan bẩm sinh, gọi là gì tùy theo bạn, nhưng nó là một phần của chúng ta. Tại vì chúng ta là chính chúng ta, ý nghĩa lệ thuộc vào một đấng siêu việt khác đã ăn sâu tận gốc rễ của con người chúng ta. Con người đã dùng nhiều cách thế thật khéo léo để tạo nên chiến tranh chống lại tôn giáo, để xóa bỏ ý tưởng về Thiên Chúa trong tâm trí của loài người, nhưng tất cả đều bị thất bại, vì Thiên Chúa đã được khắc ghi trong con người. Bạn không thể tẩy xóa Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống bạn vì không có Thiên Chúa, thì không có sự sống.
Martin Scott, đã để lại câu chuyện mà ông ta đã kinh nghiệm trong lúc đi săn bắn ở miền Arkansas như sau:
Tôi rất là khoẻ mạnh, rất sành ghề cỡi ngựa, đuổi bắt bò, khi tôi đã dẫn bò đến đồng cỏ rộng để cho các súc vật chạy nhảy. Con bò đã đi trước, và tôi cỡi ngựa đi theo sau, ngẩng cổ lên để nhận biết đồng cỏ rộng bao nhiêu. Vào ngay lúc đó, con bò đã quay lại húc tôi; con ngựa tự nhiên phản ứng quay bánh xe. Sự thay đổi bất thường này đã ném tôi xuống khỏi yên ngựa, cả người tôi đã bị ném xuống, nhưng chân tôi vẫn treo một bên cổ ngựa. Chân thì đang treo mắc lại còn cổ thì dọc thẳng xuống đất. Con bò lại húc vào xương sườn của con ngựa ngay chổ tôi đang bị treo, và con ngựa đã lúng túng vì sức nặng của tôi, trong tư thế đó con bò đã tấn công con ngựa.
Cuối cùng, tôi đã bị kiệt sức; tôi cảm thấy tôi có thể bám thêm một hai giây nữa: nhưng đầu con bò đã đến quá gần tôi, đến nỗi tôi có thể cảm được những hơi gió từ mũi con bò thổi vào mặt tôi. Tôi đã tuyệt vọng; tất cả lời cầu xin tôi có thể làm được ngay lúc đó là tôi đọc lại Thánh Vịnh từ thuở xưa tôi hay đọc: "Bây giờ con xin phó thác để được nghỉ yên;" và tôi đã đọc đi đọc lại hai ba lần. May mắn thay, con ngựa đã quay đầu, tấn công con bò. Húc vào con bò một cái, làm cho tôi tí nữa té xuống đất, tung tôi lên lại trên yên ngựa, thế là tôi đã lấy lại được thế chỗ ngồi trên lưng ngựa.
Trong mỗi một người, đều có một bí nhiệm mà họ không thể nào hiểu. Nó có thể chất chứa lâu năm hầu như đã bị quên lãng; hoặc có thể đã bị đè nén cho đến chết. Nhưng vào một đêm nào đó, khi họ một mình trong sa mạc dưới bầu trời đầy sao, họ sẽ đứng lên cúi đầu, với một đôi mắt ướt đẫm, hoặc có lúc khi họ bám víu vào những chiếc thuyền đang bị gió bão xô đẩy trong nỗi thất vọng; hoặc họ nắm chặt bánh xe trong lúc xe đang bị xoay chiều, và thình lình, từ sự bị quên lãng của chính họ, bí nhiệm này sẽ được bộc lộ ra qua lời cầu xin. Không ai sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình.
Đức tin Kitô hữu trưởng thành có nghĩa hơn là chấp nhận tính chất của Đấng cao cả. Nói rằng, "Tôi tin Thiên Chúa" trong một cách người Kitô hữu trưởng thành là "Tôi tin cậy vào Thiên Chúa và tôi sẽ sống theo huấn giới của Ngài. Thánh ý của Thiên Chúa đã được thực hiện và tỏ ra cho tôi qua Chúa Giêsu." Trong bài học Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mặc khải ý định của Thiên Chúa cho đời sống của bạn và tôi trong sự kiện tha thứ. Thánh Phêrô hỏi Chúa rằng, "Lạy Thầy, khi anh em con xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải bảy lần không?" "Không," Chúa Giêsu đáp, "Không phải bảy lần, nhưng 70 lần bảy" (Mt 18:21-22). Đây là cách nói của Chúa Giêsu là tha thứ không giới hạn trong sự thương yêu. Nước Trời, Chúa Giêsu giải thích cho Thánh Phêrô, được xây dựng trên nền móng của sự thương yêu và tha thứ vô giới hạn.
Thiên Chúa chính là Tình Yêu. Thiên Chúa đang đòi hỏi chúng ta tin cậy ở Ngài. Chúa nói với ta rằng, để trở nên con người trọn vẹn như Chúa muốn, để được hạnh phúc đích thật, chúng ta phải học biết tha thứ cho anh chị em vô điều kiện, không phải chị bảy lần, nhưng bảy mươi lần bảy.
45. Luôn tha thứ
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về sự tha thứ. Người Do Thái xưa được dạy cho biết phải tha thứ cho nhau, nhưng các tôn sư không đồng ý với nhau là phải tha thứ đến lần thứ mấy thì thôi. Do đó, thánh Phêrô đã thắc mắc và hỏi Chúa. Chúa đã trả lời: "Thầy không bảo là đến bảy lần nhưng là đến bảy mươi lần bảy". Nghĩa là Chúa dạy: hãy tha thứ cho nhau, hãy tha thứ thật lòng, hãy tha thứ tất cả, hãy tha thứ luôn luôn, hãy tha thứ mãi mãi.
Để làm sáng tỏ vấn đề cũng như để chúng ta hiểu rõ và nhớ kỹ bài học này, Chúa minh họa thêm bằng một dụ ngôn rất hay để đối chiếu lòng Thiên Chúa đối với con người và lòng con người đối với nhau. Nơi Thiên Chúa là một lòng đại lượng xót thương vô bờ bến, chỉ cần con người lên tiếng khẩn nài, Chúa liền nhìn đến thân phận khốn khổ và nghèo nàn của chúng ta. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta van xin Chúa, Ngài sẵn sàng tha thứ vô điều kiện, tha thứ trọn vẹn, không đòi hỏi gì nơi chúng ta cả. Ngược lại, lòng con người đối xử với nhau thì lại thật là quá ti tiện, nhỏ nhen, chúng ta hay chấp nhất nhau từng ly từng tí, chúng ta nhất định không tha tứ. Thậm chí người ta hết lời và hết lòng xin lỗi, chúng ta vẫn cương quyết không tha, không bỏ qua, có người còn khẳng khái tuyên bố: "Sống để bụng, chết mang đi". Hỏi mang đi đâu? Mang xuống hỏa ngục chăng? Thật là mỉa mai, chua chát, đáng trách. Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải sẵn lòng tha thứ, tha thứ luôn mãi bao lâu người anh em còn xúc phạm đến chúng ta, bởi vì Chúa đã tha thứ cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau.
Tính cách tha thứ của Kitô giáo là tha thứ như mình đã được tha thứ, phải thương xót người khác như mình đã được Chúa xót thương. Như vậy, sự tha thứ không những là một nhiệm vụ luân lý mà còn là một đòi hỏi của lương tâm, một nhân đức đối thần, kéo dài tới tha nhân ơn tha thứ mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ai trong chúng ta cũng có nhiều sai sót, những khuyết điểm, những tật xấu. Chúng ta cần được tha thứ, vì vậy chúng ta phải khiêm tốn xin lỗi Chúa và xin lỗi nhau. Có như thế lời kinh Lạy Cha: "Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" mới trở thành một lời kinh quý giá và cụ thể.
Trong một căn nhà lụp xụp tại một xóm nghèo thuộc vùng ngoại ô thành phố, một người đàn bà đáng thương phải sống những ngày hẩm hiu với đàn con thơ dại. Chồng bà là một người cha tục tằn thô bạo, chỉ biết ăn chơi nhậu nhẹt và cờ bạc, không thiết chi đến bổn phận đối với gia đình. Ông vắng nhà suốt ngày, các con của ông chỉ thấy ông trở về mỗi buổi tối trong cơn say mèn hoặc trong trận lôi đình đập đánh chửi rủa. Những lúc như thế, bà vợ chỉ biết đem các con giấu đi để bảo đảm tính mạng cho chúng. Ngày ngày bà cực nhọc vá may, hoặc vất vả giặt giũ từ nhà này sang nhà khác để kiếm tiền nuôi con. Trong thinh lặng, bà nhẫn nhục cam chịu mọi bạc bẽo và những trận đòn oan ức của chồng.
Vào một buổi tối kia, ông trở về nhà muộn hơn thường lệ, nhưng tỉnh táo và ít say sưa hơn. Vừa bước tới hè nhà, ông nghe tiếng thì thầm từ trong nhà vọng ra. Một nỗi nghi ngờ xâm chiếm tâm hồn ông. Máu ghen bừng bừng nổi dậy và nghĩ rằng: "thật vô phúc cho kẻ nào rơi vào tay ta". Ông đứng lại trước cửa và ghé tai vào vách, trố mắt nhìn qua khe hở: quanh ngọn đèn dầu leo lét, ông thấy các con nhỏ quây quần bên cạnh vợ ông, ông nghe rõ tiếng bà nói với các con: "Các con hãy đọc thêm một kinh Lạy Cha để cầu nguyện cho người cha tốt lành của các con".
Trước khung cảnh đầm ấm tình mẫu tử đó, bỗng chốc lửa hung ác trong trái tim ông như tắt ngúm, tâm hồn cứng cỏi của ông trở nên như sáp ong mềm ra trước hơi nóng, mắt ông như bừng sáng sau một cơn mê ngủ dài, ông đã nhận ra tấm lòng tốt và tình yêu quãng đại của vợ ông, người mà từ trước đến nay ông vẫn ngược đãi. Vợ ông không những đã tha thứ mà còn tìm cách xóa bỏ hình ảnh xấu về ông bằng cách in vào tâm trí các con mình hình ảnh tốt lành của ông như một người cha. Ông cảm thấy như có cục than hồng đốt cháy trên đầu ông, và từ ngày đó ông nhất quyết trở nên một người cha tốt lành, người chồng chung thủy và có tinh thần trách nhiệm như vợ con ông hằng nghĩ tốt về ông.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy đâu là sức mạnh của lòng tha thứ. Tha thứ đổi mới tâm hồn, làm phát sinh sự sống mới, gây thêm lòng can đảm, để bắt đầu con đường sống mới. Tha thứ là lời mời gọi để tình yêu lớn lên. Tha thứ là cửa ngõ để mọi người có cơ hội làm lại mối giây liên hệ đã dập gãy. Tình thương và mọi mối giây liên hệ trong gia đình, giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ chồng, giữa cha xứ và giáo dân, giữa những phần tử trong một nhóm, được phong phú hóa bởi tha thứ.
Lòng tha thứ quảng đại và vô điều kiện của người vợ trong câu chuyện trên là phản ánh lòng thương tha thứ vô biên của Thiên Chúa được mặc khải cho chúng ta qua Kinh Thánh, nhất là nơi bản thân Chúa Giêsu, là hồng ân mà Thiên Chúa ban cho con người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta chia sẻ sứ mệnh của Ngài. Mỗi Kitô hữu cũng là một ơn tha thứ mà Thiên Chúa muốn trao tặng cho người khác. Mỗi ơn tha thứ là một cuộc biến đổi, Chúa Giêsu kêu mời chúng ta cùng với Ngài thực thi sứ mệnh trao ban ơn tha thứ hầu biến đổi anh chị em chúng ta nên người con thật tốt lành và đáng yêu của Chúa Cha, cũng như chính chúng ta đã được tha thứ và biến đổi.
46. Tại sao tha thứ?
(Giải thích Tin Mừng Chúa Nhật của Lm Cantalamessa - Người giảng Phủ Giáo Hoàng giải thích về Tin Mừng Chúa Nhật)
Trong bài giải thích của ngài về các bài đọc Chúa nhật, Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, người giảng Phủ Giáo Hoàng, giải đáp câu hỏi tha thứ bao nhiêu lần mới coi là quá nhiều:
* * *
NHƯNG NGƯỜI TA PHẢI THA THỨ BAO NHIÊU?
Tha thứ là một sự nghiêm chỉnh, nếu có thể thì rất khó đối với con người. Người ta không phải nói về sự tha thứ cách nông nổi, khi yêu cầu người ấy tha thứ mà không nhận thức những gì người ta xin với một người bị xúc phạm.. Cùng với lệnh phải tha thứ, con người cũng phải được cho một lý do để làm như vậy.
Đó là điều Chúa Giêsu đã làm với dụ ngôn ông vua và hai tên đầy tớ của vua. Dụ ngôn nói rõ tại sao người ta phải tha thứ: bởi vì Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta trong quá khứ và tiếp tục tha thứ cho chúng ta!
Thiên Chúa xóa một món nợ của chúng ta vô cùng to lớn hơn món nợ mà người anh em có thể nợ với chúng ta. Sự khác biệt giữa món nợ mắc với nhà vua (10 ngàn nén) và món nợ mắc với người đồng nghiệp (100 đồng) tính theo giá hiện tại bằng 3 triệu euros và một vài xu ($3.7 million)!
Thánh Phaolo đã nói: "Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau" (Colossians 3:13). Luật Cựu Ước, "mắt đền mắt, và răng đền răng," đã bị khắc phục. Không còn tiêu chuẩn này nữa: "Hảy làm cho kẻ khác điều nó làm cho anh", nhưng, "Điều Thiên Chúa đã làm cho anh, anh hãy làm cho kẻ khác." Nhưng, Đức Giêsu không hạn chế mình vào sự ra lệnh cho chúng ta phải tha thứ, nhưng chính Người đã làm vậy trước. Đang khi Người bị đóng đinh trên thập giá Người đã cầu nguyện rằng: "Lạy Cha,xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm!" (Lc. 23:34}. Đó là điều phân biệt giữa đức tin Ki tô hữu với bất cứ tôn giáo nào khác.
Đức Phật cũng đã để lại một châm ngôn " Không phải với sự oán giận mà sự oán giân được thoa dịu; với sự không-oán giận, sự oán giận mới được thoa dịu." Nhưng Chúa Kitô không hạn chế mình trong việc chỉ rõ con đuờng trọn lành; Người ban sức mạnh để theo sự trọn lành. Người không chỉ ra lệnh chúng ta phải làm, nhưng Người làm với chúng ta. Ân sủng hệ tại là ở chỗ này. Sự tha thứ Kitô hữu vượt xa sự không-bạo tàn và sự không-oán hận.
Có người thắc mắc: việc tha thứ bảy mươi lần bảy không có nghĩa là khuyến khích sự bất côn g và bật đèn xanh cho lạm dụng sao? Không, sự tha thứ Kitô hữu không loại trừ sự kiện, trong đôi truờng hợp, anh cũng có thể phải tố giác một người và đưa họ ra tòa án, nhất là khi điều bị đe dọa là những quyền lợi và cũng là ích lợi của kẻ khác. Xin nêu lên một ví dụ gần chúng ta: sự tha thứ Kitô hữu không ngăn cấm những người phụ nữ của một số nạn nhân bị góa bụa do sự khủng bố hay do mafia, đã theo đuổi chân lý và công lý cách kiên trì liên quan cái chết của chồng mình.
Nhưng, không chỉ có những hành vi cả thể tha thứ mà còn những hành vi tha thứ hằng ngày, trong đời sống vợ chồng, lúc lao động, giữa những thân nhân, bạn bè, đồng nghiệp và những người quen thuộc. Điều gì người ta có thể làm khi người ta khám phá rằng mình bị chính bà vợ mình phản bội? Tha thứ hay phân ly? Đó là một câu hỏi hết sức tế nhị, không luật nào có thể được áp đặt từ bên ngoài. Cá nhân phải khám phá trong mình phải nên làm gì.
Nhưng tôi có thể nói một sự. Tôi biết những trường hợp mà bên bị xúc phạm đã tìm được, trong tình yêu đối với kẻ khác, và nhờ sự trợ giúp đến từ sự cầu nguyện, đã có sức mạnh tha thứ cho kẻ đã lầm lạc, nhưng chân thành sám hối. Hôn nhân được tái sinh như từ đống tro, nó có một thứ bắt đầu mới. Dĩ nhiên, không ai có thể chờ đợi điều nảy có thể xảy ra trong đời sống vợ chồng "bảy mươi lần bảy."
Chúng ta phải cảnh giác để khỏi phải mắc bẫy. Cũng có nguy hiểm trong việc tha thứ. Nguy hiểm đó tùy thuộc vào tâm trạng của những người tưởng rằng họ luôn luôn có một cái gì phải tha thứ cho kẻ khác-- nguy hiểm vì tin rằng người ta luôn là chủ nợ sự tha thứ và không bao giờ là người mắc nợ.
Nhưng nếu chúng ta suy tư kỹ nhiều lần, khi chúng ta sắp nói: "Tôi tha thứ cho anh!", chúng ta đáng lý sẽ làm tốt hơn để thay đổi thái độ và những lời nói, và nói với người đối diện chúng ta: "Xin tha thứ cho tôi!" Lúc đó chúng ta phải công nhận chúng ta cũng có cái gì người khác phải tha thứ. Trên thực tế, còn quan trọng hơn việc tha thứ là sự khiêm tốn xin tha thứ.
47. Tha thứ không giới hạn – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Với ch. 18 của TM Mt, chúng ta đi vào Bài Diễn từ thứ tư, đề cập đến đời sống huynh đệ trong lòng Hội Thánh, cộng đoàn Kitô hữu. Bài Diễn từ được chia thành hai phân đoạn, phân đoạn thứ nhất đề cập đến "những kẻ bé mọn" (18,1-14) và phân đoạn thứ hai liên hệ đến người anh em phạm tội (18,15-35). Mỗi phân đoạn kết thúc với một dụ ngôn: con chiên lạc (18,12-14), và ông vua và người đầy tớ (18,21-35).
Sau đây là bố cục chung cho cả bài Diễn từ:
I. Mối quan tâm đến những kẻ bé mọn (18,1-14):
A. Người lớn và kẻ bé mọn (cc. 1-5),
B. Đừng khinh những kẻ bé mọn (cc. 6-10),
C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Quan tâm đến những kẻ lầm đường lạc lối (cc. 12-14);
II. Kỷ luật và Tha thứ (18,15-35):
A. Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô (cc. 15-20),
B. Tha thứ không giới hạn (cc. 21-22),
C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (cc. 23-35).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Nguyên tắc: Tha thứ không giới hạn (18,21-22);
2) Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (18,23-35):
a) Phần 1: Ông vua và người đầy tớ (18,23-27),
b) Phần 2: Người đầy tớ và anh bạn (18,28-30),
c) Phần 3: Ông vua và người đầy tớ (18,31-34);
3) Kết luận của Đức Giêsu (18,35).
3.- Vài điểm chú giải
- Con phải tha đến mấy lần (21): Truyền thống kinh sư Do Thái thường nói đến con số 4 như là con số tối đa. Phêrô nâng lên tới 7, tưởng đã hợp ý Thầy! Đức Giêsu nói: "Bảy mươi bảy lần (hepdômêkontakis hêpta)", vì Người lấy lại bài ca báo thù của Laméc trong St 4,24 ("Cain sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng Laméc thì gấp bảy mươi bảy"), nhưng lật ngược lại theo chiều hướng sự tha thứ. Có bản dịch đọc là "bảy mươi lần bảy", hoặc "bảy mươi lần bảy lần". Mọi cách đều có ý nói: phải tha thứ không giới hạn.
- đầy tớ (23): Doulos có thể là bất cứ hạng nô lệ nào, vì không phải là chuyện lạ khi có những nô lệ được giao cho công việc tài chánh.
- Mắc nợ mười ngàn yến vàng... một trăm quan tiền (24.28): Nếu dựa theo lượng định của sử gia F. Giôxép, cùng thời với Đức Giêsu, một yến vàng vào thời đó trị giá mười ngàn quan (lương công nhật là một quan). Vậy mười ngàn yến vàng trị giá một trăm triệu quan: tỷ lệ giữa hai món nợ là 1/1.000.000. Thật ra, đây là một con số phóng đại, bởi vì thuế cống nạp của một tỉnh trong đế quốc Rôma cũng không vượt quá vài trăm yến vàng. Đức Giêsu có ý nói rằng đây là một con số lớn tối đa (10.000 là con số lớn nhất vẫn được sử dụng và yến vàng là đơn vị tiền tệ to nhất thời ấy).
- Tôn chủ ra lệnh bán y, vợ con y (25): Luật Do Thái chỉ cho phép bán một người Israel nếu người này đã ăn trộm mà không thể bồi hoàn. Thế mà ở đây bản văn không hề nói là người đầy tớ đã trộm cắp, nhưng chỉ nói là anh ta không thể trả nợ. Đàng khác, luật Do Thái lại triệt để cấm bán phụ nữ. Như thế, truyện giả thiết là vị vua cũng như các đầy tớ là những người ngoại giáo.
- buồn lắm (31): Động từ lypeomai có thể diễn tả một tổng hợp giữa buồn phiền, giận dữ và nhờm tởm, chứ không chỉ là nỗi buồn phiền.
- trình bày đầu đuôi câu chuyện (31): Động từ diasapheô có nghĩa là "nói toạc ra hết; làm sáng tỏ".
- thương xót (33): Ở đây là động từ eleeô của truyền thống Kinh Thánh, tương tự động từ splanchnizomai của đời thường.
- trao y cho lính hành hạ (34): Hành hạ những con nợ đã bị bán làm nô lệ là một cách để thúc đẩy bà con và bạn bè bỏ tiền ra mà mua tự do cho người bị hành hạ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Đức Giêsu thường nói về sự cần thiết phải tha thứ cho những người đã xúc phạm đến chúng ta. Cứ mỗi lần Người lại lưu ý rằng ơn tha thứ của Thiên Chúa mà chúng ta muốn nhận, vì cần thiết cho việc cứu độ của chúng ta, lệ thuộc thái độ chúng ta sẵn sàng tha thứ. Mối Phúc thứ năm (Mt 5,7) đặc biệt đề cập đến lòng từ bi thương xót khi tha thứ và loan báo rằng Thiên Chúa sẽ tha thứ cho những ai biết tha thứ (x. 18,33; Kinh Lạy Cha: 6,12).
Đến cuối bài Diễn từ thứ tư, nói về cách xử sự trong cộng đoàn các môn đệ, Đức Giêsu đã trở lại mà nói chi tiết hơn về sự tha thứ.
* Nguyên tắc: Tha thứ không giới hạn (21-22)
Câu hỏi của Phêrô dẫn tới đề tài "sự tha thứ". Đối với ông, đã rõ ràng là các môn đệ của Đức Giêsu buộc phải tha thứ cho kẻ "phạm tội chống lại con" ([h]amartêsê eis eme), nhưng ông muốn biết là phải thi hành bổn phận này như thế nào. "Bảy lần" mà ông gợi ra không hề không đáng kể. "Bảy" là con số truyền thống nói về sự hoàn hảo. Như thế, Phêrô gợi ý là tha bảy lần không hề có nghĩa là ông chỉ muốn ban cho người anh em một sự tha thứ giới hạn. Câu hỏi của ông thật ra có nghĩa là: "Phải chăng con được chờ đợi tha thứ hoàn hảo?".
Đức Giêsu có thể chỉ cần trả lời "đúng thế", nhưng Người cho một câu trả lời dài hơn để nói rằng còn phải hoàn hảo hơn thế nữa. Ông cứ phải tha thứ cách hoàn hảo nhất, liên tục, vô biên, không biên giới, không tính toán. Câu trả lời của Đức Giêsu đã đưa đến mức cùng cực. Đây là một chương trình, chứ không chỉ là chuyện thực tế. Rất có thể tác giả đang nghĩ đến St 4,24; nếu không, chúng ta không có cách nào khác để giải thích công thức lạ lùng là "bảy mươi lần bảy". Đức Giêsu cho Phêrô biết rằng sẽ không bao giờ đến cái lúc mà chúng ta có thể nói: Bây giờ tôi đã tha thứ đủ rồi; bây giờ tôi không còn bị buộc phải tha thứ nữa; đối với tôi mức độ tha thứ đã đạt rồi! Với công thức "bảy mươi lần bảy", Người không muốn nêu ra một khối lượng các trường hợp đo lường được, nhưng nhắm khẳng định rằng bổn phận tha thứ không hề có một giới hạn nào.
* Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (23-35)
Với dụ ngôn "Tên mắc nợ không biết thương xót", Đức Giêsu nới rộng chân trời, cung cấp lý do và thức tỉnh sự hiểu biết lý do tại sao chúng ta phải tha thứ không mức độ. Hình ảnh một vị "vua" dễ dàng khiến độc giả và thính giả Do Thái nghĩ đến Thiên Chúa. "Thanh toán sổ sách" (synairô logon) cũng là một ẩn dụ quen thuộc để nói về phán xét. Trong Kinh Thánh, từ ngữ "đầy tớ" mang sắc thái tôn giáo, để chỉ những người "phụng sự" Thiên Chúa.
Trong câu hỏi của Phêrô, rồi trong cách xử sự của tên đầy tớ không biết thương xót (18,28-30), cái nhìn thu hẹp lại và chỉ nhắm đến quan hệ giữa tôi và người mắc nợ tôi: vì có gì mà tôi cứ phải liên tục chịu đựng những thiệt thòi? Đức Giêsu nhắc ta nhớ đến Thiên Chúa và sự tha thứ ta đã nhận được từ nơi Ngài. Như vậy, quan hệ là giữa Thiên Chúa, tôi trong tư cách là con nợ của Người và người thân cận của tôi đã trở thành con nợ của tôi. Dụ ngôn muốn cho chúng ta thấy rằng chúng ta mắc nợ Thiên Chúa thế nào và Ngài đã xử chúng ta với lòng thương xót thế nào. Trên bối cảnh này, ta thấy rõ cách phải theo mà lượng định cách xử sự không thương xót đối với người thân cận nay đã thành con nợ.
Phần đầu của dụ ngôn (18,23-27) giới thiệu đức vua (Thiên Chúa) và con nợ của ngài. Người đầy tớ thứ nhất mắc nợ nhà vua mười ngàn yến vàng. Đây là một con số quá lớn chắc chắn khiến thính giả phải sửng sốt. "Con nợ" và "mắc nợ" là những từ ngữ dễ dàng gợi ra những sắc thái tôn giáo. Đối với các thính giả của Đức Giêsu nói tiếng A-ram, từ ngữ khôva' có cả hai nghĩa, món nợ về tiền bạc và tội.
Nếu nhà vua nhất định đòi lại nợ, tức là yêu cầu công bình phải được tôn trọng, người đầy tớ sẽ mất hết những gì làm nên cuộc sống của anh. Anh sẽ phải thanh toán món nợ bằng chính bản thân, tự do, gia đình và gia sản của anh: anh sẽ mất tất cả mọi thứ ấy và cuối cùng sẽ rơi vào tình cảnh khốn quẫn hết sức thê thảm, anh sẽ rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng. Theo Jeremias, giá của một nô lệ vào khoảng năm trăm đến một ngàn quan. Đứng trước số phận như thế, người đầy tớ đã khẩn cầu nhà vua cho khất một thời gian. Ai cũng biết rằng đây là một món nợ không thể thanh toán. Tuy nhiên, nhà vua biết rõ hoàn cảnh tuyệt vọng của người đầy tớ và đã động lòng thương: ông không ưng thuận cho triển hạn như anh xin, nhưng ông xóa hoàn toàn món nợ cho anh; "ông tha": động từ aphiêmi cũng có nhiều nghĩa, và có thể gợi ra sắc thái tôn giáo. Như thế, người đầy tớ không những được giải thoát khỏi món nợ, nhưng còn thoát nỗi bất hạnh và cảnh khốn quẫn vẫn đe dọa anh lâu nay, và có thể nói, anh được hồi phục sự sống. Hẳn là anh phải có lòng biết ơn vô hạn đối với nhà vua và sẵn sàng noi gương ông, có một con tim như ông, mà tỏ ra từ bi thương xót với người khác (x. 5,48; 18,33).
Trong phần thứ hai của dụ ngôn (18,28-30), con nợ vừa được ân xá gặp một người đầy tớ đồng bạn (syndoulos), từ này gợi ý là hai người thuộc về cùng một giai cấp, thì lẽ ra phải có tình liên đới với nhau. Người bạn này chỉ nợ anh một món nhỏ, một trăm quan. Bằng cách đó, Đức Giêsu đánh giá tương quan giữa món nợ chúng ta mắc với Thiên Chúa và món nợ mà người thân cận mắc với chúng ta. Người đầy tớ vừa được tha thứ đã quên hết mọi sự. Cách xử sự của hắn hoàn toàn ngược lại với tấm gương mà hắn đã nhận từ chủ. Hắn tỏ ra ác độc và tàn nhẫn, hắn muốn thu hồi khoản nợ. Hắn nhào vào con nợ và bóp cổ; điều này cho hiểu là hắn mất tự chủ. Người bạn phản ứng đúng y như hắn đã xử sự trước mặt nhà vua; thật ra trả món nợ này là việc hoàn toàn có thể làm. Nhưng hắn không thèm nghe lời thỉnh cầu của người ấy. Hắn không chấp nhận triển hạn. Hắn vận dụng những phương tiện to lớn nhất, hắn bỏ người kia vào tù. Hắn không bán người bạn để có tiền, không phải vì hắn thương xót anh ta, nhưng bởi vì số tiền nợ ít hơn là giá bán một nô lệ, nên theo luật Do Thái, hắn không được bán người bạn. Hắn không quan tâm đến con người, hắn chỉ quan tâm đến món nợ thôi. Thật ra, cách xử sự này, tuy có thô bạo, nhưng không phải là khác thường. Nếu độc giả cảm thấy rất khó chịu về lối cư xử này, là vì đã được nghe biết sự tha thứ vô tiền khoáng hậu ở cc. 24-27. Vì những gì đã xảy ra trước, sự thô bạo thông thường trong đời sống bị coi như là điều hết sức xúc phạm. Vậy các sự cố ở cc. 24-27 đã thay đổi cái nhìn của các độc giả.
Phần thứ ba (18,31-34) lại mở ra hoạt cảnh ông vua và các đầy tớ với con nợ của ông, kẻ đã tỏ ra thiếu lòng thương xót. Các đầy tớ khác thấy như thế, cảm thấy vừa buồn phiền, vừa tức giận, vừa nhờm tởm, đã đi tường trình rõ ràng mọi sự với nhà vua. Bây giờ vua nổi cơn thịnh nộ, ông không yêu cầu giải thích nữa, ông gọi hắn là "đầy tớ độc ác" (doule ponêre). Độc giả hiểu là án xử đã được quyết định. Nhà vua nhắc cho tên đầy tớ món nợ lớn ông đã tha hoàn toàn cho hắn và bổn phận truyền đạt lòng thương xót đã nhận bằng một thái độ từ bi thương xót. Nay nhà vua lại yêu cầu hắn phải trả trọn món nợ (pan to opheilomenon); nhà vua bỏ hắn vào ngục và gia tăng những hình khổ.
Tuy nhiên, những câu quan trọng nhất của cảnh cuối cùng là cc. 32-33, bởi vì ở đây tác giả nói gián tiếp với các độc giả qua miệng nhà vua. Ở đây tác giả cho thấy sợi chỉ đỏ xuyên suốt dụ ngôn. Người đầy tớ lẽ ra đã phải bắt chước nhà vua mà tỏ lòng thương xót.
* Kết luận của Đức Giêsu (35)
Kết luận của Đức Giêsu thật rõ ràng, thuyết phục. Thiên Chúa sẽ xử như thế với những ai không thật lòng tha thứ cho "anh em" (adelphos) mình. Ở đây ta gặp lại ý tưởng của Bài Giảng trên núi (x. 5,7; 6,14-15; 7,1-2) về sự tha thứ và xét đoán lẫn nhau. Chỉ khi biết tha thứ cho nhau, ta mới khám phá ra chiều sâu của lời xin trong Kinh Lạy Cha: "Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" (6,12), đồng thời nhận ra được chân lý của Mối Phúc thứ năm: "Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương" (5,7). Nói về "anh em", tức là nói về Hội Thánh. Án xử được tuyên bố trên Hội Thánh khi Hội Thánh không thực hành sự tha thứ giữa các thành viên với nhau.
+ Kết luận
Qua bài dụ ngôn, Đức Kitô mạc khải lòng thương xót bao la của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta mắc nợ Thiên Chúa chồng chất, nên chúng ta giống như người đầy tớ đầu tiên. Nếu Thiên Chúa có tha nợ cho chúng ta, chúng ta vẫn là những đầy tớ hoàn toàn sống nhờ lòng đại độ và từ bi của Ngài.
Người nào đã hưởng nhờ lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, thì không bao giờ được khép lại trên chính mình và tỏ ra cứng cỏi với người anh em. Người nào đã được Thiên Chúa tha cho những món nợ khổng lồ thì không còn có thể coi người nào khác như mắc nợ với mình nữa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Thiên Chúa tha nợ cho chúng ta, chỉ bởi vì chúng ta xin Ngài tha. Món nợ chúng ta mắc với Ngài quá lớn, vượt mọi giới hạn loài người, nên chắc chắn chúng ta không thể thanh toán nổi. Nhưng Thiên Chúa tha hết, bởi vì lòng nhân lành của Ngài vô biên. Đàng khác, chúng ta lại cần đến sự tha thứ này để có thể đứng vững trước nhan Ngài, để có thể sống. Do đó, nếu Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta, chúng ta vẫn là tôi tớ của Ngài, sống hoàn toàn nhờ lòng quảng đại và lòng từ bi thương xót của Ngài.
2. Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta đọc: "Như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" (6,12). Chúng ta phải liên kết vào lời xin Thiên Chúa tha thứ các lỗi lầm của chúng ta điều kiện sau đây: cầu mong Thiên Chúa (chỉ) tha thứ cho chúng ta trong mức độ chúng ta đã tha thứ cho các người có lỗi với chúng ta. Bổn phận tha thứ có tính đòi hỏi và cốt yếu đến mức dường như Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện như sau: Xin đừng tha thứ cho chúng con, nếu chúng con đã không tha thứ cho người ta! Lời xin này của Kinh Lạy Cha cũng là lời xin duy nhất sau đó đã được nhắc lại. Không phải chỉ một lần mà hai lần, Đức Giêsu xác nhận dây liên kết bất khả phân ly giữa việc tha thứ của chúng ta và sự tha thứ của Thiên Chúa: nếu chúng ta không tha thứ, chúng ta không thể trông mong vào sự tha thứ của Ngài (x. 6,14t).
3. Chúng ta thiên về chỗ ghi nhớ các xúc phạm, các khinh bỉ, các thiệt hại chúng ta đã phải chịu do người anh em, chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại. Kiểu ghi khắc các món nợ như thế có thể đi sâu vào trong trái tim chúng ta và làm nhiễm độc các quan hệ của chúng ta. Thông thường, khó mà tha thứ, do đó Đức Giêsu thường xuyên khuyến cáo. Trong tương quan với các anh em mắc nợ chúng ta, chúng ta không bao giờ được quên tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
4. Theo tầm nhìn của Mt 18, không thể phân biệt giữa một tội phạm đến người anh em chị em, nghĩa là phạm đến công đoàn, và một tội phạm đến Thiên Chúa. Các tương quan giữa con người với nhau không thể lại kém giá trị hơn là tương quan của con người với Thiên Chúa. Cũng như ở Mt 5,21-48, chính là do yêu thương mà thấy được sự hoàn thiện, ở Mt 18, chính là vì khinh bỉ những kẻ bé mọn và từ chối tha thứ cho các anh chị em mà người ta chuốc lấy án xử của Thiên Chúa.
48. Bài học tha thứ - Lm Trần Bình Trọng.
Đọc Thánh Kinh ta thấy tha thứ là một đề tài thường xuyên được lặp đi lặp lại. Thiên Chúa tha thứ cho dân Người, bởi vì Người là Thiên Chúa hay tha thứ, chứ không phải là vì tội nhân đáng được thứ tha. Cũng có những khi ta thấy Thánh Kinh nhắc đến việc Chúa nỗi cơn thịnh nộ và quyết định sửa phạt dân Người. Tuy nhiên ở đây, Thánh Kinh nói về những trường hợp mà người ta đã tử khước tình yêu và ơn tha thứ của Chúa.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dạy ta không những về việc Thiên Chúa tha thứ cho loài người, mà còn nói đến bổn phận loài người phải tha thứ lẫn cho nhau.
Trong Phúc Âm Chúa nêu lên trường hợp người đầy tứ được tha thứ nhiều nợ nần, nhưng lại không tha thứ cho người khác chỉ nợ anh ta phần nhỏ. Chúa dùng cơ hội này để kêu gọi loài người hãy tha thứ và làm hòa với nhau. Đó cũng là cơ hội để ta học cái bài học của người đầy tớ không chịu tha thứ. Cái điều mà người ta hy vọng nơi người đầy tớ đã được tha thứ thật là hiển nhiên. Anh ta đã được tha thứ nhiều, khiến ta nghĩ rằng anh ta cũng phải đền đáp bằng việc tha thứ cho người chỉ mắc nợ anh ta một phần nhỏ.
Cái điều làm cho việc tha thứ trở nên khó khăn là khi ta bị xúc phạm và thiệt thời nặng nề. Đó có lẽ là điều khó nhất trong các giới răn của Chúa. Có những nỗi khổ tâm và đau đớn về tinh thần như xuyên vào tâm can mà người ta không dám nói ra. Ai đã bị bạn bè hay người yêu phản bội mới cảm nghiệm được nỗi đắng cay đó. Nó làm tê liệt đời sống tình cảm của con người. Vì thế mà có những người đàn bà bị phản bội khiến họ không còn muốn gặp và tin tưởng vào bất cứ người đàn ông nào khác.
Ta muốn tha thứ để cất gánh nặng đang đè nặng trên tâm hồn. Tuy nhiên ta cảm thấy thật khó lòng. Nhưng đó là lúc ta phải làm quyết định và lựa chọn. Hoặc là ta tiếp tục mang hận thù giận ghét như trong Bài Sách Đức Huấn ca ghi lại, hay là tha thứ để được tự do, để tâm hồn được thanh thoả. Ngay cả sau khi đã quyết định tha thứ, cái cảm giác đau lòng vẫn còn đó. Trong trường hợp này, điều ta có thể làm là cầu nguyện cho người đã súc phạm đến mình. Rồi cái cảm giác đau lòng sẽ dần dần biến đi với thời gian. Và tâm hồn ta lại được bình an thư thái.
Trong Phúc Âm, Chúa dạy ta phải tha thứ 70 lần bảy, nghĩa là phải tha thứ vô hạn định, vô giới hạn. Với những người mà thỉnh thoảng ta mới gặp thì tha thứ là việc dễ dàng. Còn đối với những người mà ta chung sống hàng ngày, những người làm cùng sở, thì việc tha thức lại càng khó lòng, nhưng là điều cần thiết để duy trì bầu khí an hoà. Ai có thể đếm được bao nhiều lần vợ chồng phải tha thứ cho nhau, nếu muốn hôn nhân kéo dài suốt cả cuộc sống?
Bài Thánh Kinh Cựu Ước hôm nay cảnh giác ta báo thù là dấu chỉ của tội lỗi. Người để lòng báo thù và ghen ghét đã quên đi cái giao ước với Thiên Chúa. Cái ngụ ý của Bài Phúc Âm hôm nay là giận ghét sẽ thống trị con người khi người ta quên đi cái liên hệ của mình với Chúa là Đấng tạo dựng và cứu chuộc.
Tha thứ là hồng ân của Thiên Chúa. Người quan toà có thể không tha thứ cho tội nhân, nhưng Chúa sẽ tha thứ cho người tội lỗi, nếu họ thực lòng ăn năn hối cải. Chúa hiểu sự yếu đuối của loài người và sẳn sàng tha thứ. Chính Chúa Giêsu cầu nguyện xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ bách hại, lăng nhục, cáo gian và đóng đinh Người: Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm (Lc 23,34).
Nhận thức rằng con người là bất toàn cho nên ta phải sẳn sàng tha thứ, vì chính ta có thể là nguyên nhân, gây đau khổ cho người người khác. Tha thứ là chấp nhận người thống hối để tái lập tình bạn và tình thân hữu. Là người Công giáo ta bắt đầu thánh lễ với cầu xin tha thứ. Ở đây, ta có cơ hội thú tội trước cộng đồng, trước khi dâng của lễ lên bàn thờ. Cái việc tha thứ giữa người với người là điều kiện để được Chúa thứ tha cho loài người.
Vậy hôm nay, ta hãy cầu nguyện, xin Chúa tha thứ khi ta đọc kinh Lạy Cha: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ mắc nợ chúng con và khi chúng ta chúc bình an cho nhau.
49. Hãy tha thứ cho người khác
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Không ai trong chúng ta là người hoàn toàn trong sạch trước mặt Chúa. Không ai dám tự hào nói mình không hề lỗi phạm đến Chúa. Trái lại, phải thành thực mà nói, ai cũng đã phạm đến Chúa rất nhiều, nhưng Chúa lại rộng lòng tha thứ cho sự yếu đuối của chúng ta.
Nếu Chúa đã tha thứ cho chúng ta thì, như Chúa dạy, chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau. Chúa Giêsu đã nói:”Khi con đi dâng lễ vật trên bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang bất hoà với con, thì hãy để lễ vật lại, trở về làm hòa với người anh em ấy trước đã, rồi mới trở lại dâng lễ vật sau”. Đó là cách nói mạnh, nhằm khuyến khích chúng ta tha thứ cho người khác như Chúa đã tha cho chúng ta.
Hơn nữa, nếu chúng ta có tha thứ cho người khác thì Cha trên trời mới tha thứ cho chúng ta, đó là một điều kiện bắt buộc phải có khi chúng ta cầu nguyện:”Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Hc 27, 30 – 28.7.
Ông Ben Sira, tác giả sách Huấn ca, khuyên người ta phải biết tha thứ. Ông đưa ra những lý do bênh vực cho sự tha thứ:
- Ai báo thù phải chuốc lấy báo thù của Chúa.
- Ai bỏ qua điều sai trái cho người khác, Chúa sẽ tha tội cho.
- Nếu nuôi lòng oán thù thì làm sao dám xin Chúa tha thứ cho mình.
- Hãy nghĩ đến điều sau hết, tức là cái chết, để chấm dứt hận thù.
- Và sau cùng, hãy nghĩ đến giao ước của Chúa, tức là giao ước yêu thương, để bỏ qua sự lầm lỗi của kẻ khác.
+ Bài đọc 2: Rm 14,7-9.
Thánh Phaolô nhận thấy tín hữu Roma hay phê bình chỉ trích nhau vì họ không có cùng một quan niệm về nhiều vấn đề, ví dụ như ăn của cúng hay là tin vào ngày tốt xấu... Ngài cho họ biết là mọi người chỉ có Đức Kitô là đối tượng duy nhất để tin theo. Chúng ta có sống hay chết cũng là sống chết cho Chúa. Cũng như chỗ khác Ngài khẳng định: Sống của tôi là Đức Kitô. Như vậy Ngài có ý khuyên: đừng để ý đến người khác, cũng đừng để ý đến mình, nhưng tất cả hãy qui chiếu vào Chúa Kitô.
+ Bài Tin mừng: Mt 18,21-35.
Ông Phêrô tỏ ra hào hiệp khi hỏi Chúa Giêsu: khi anh em xúc phạm đến mình, thì phải tha tới mấy lần? Có đến 7 lần không? Đối với ông, con số 7 là con số tròn đầy, con số quá lớn đối với ông, vì theo thói quen người ta chỉ: “quá tam ba bận” thôi.
Để trả lời, Chúa Giêsu đưa ra một dụ ngôn: Một ông quan nợ vua 10 ngàn nén vàng, nhưng không có gì trả, xin khất một kỳ hạn. Vua thương tha ngay, tha hết nợ cho.
Khi ra đường, ông quan này gặp một người bạn nợ có 100 nén bạc (quá nhỏ đối với 10 ngàn nén vàng). Anh này xin khất nợ nhưng quan không chịu, tống anh ta vào ngục cho đến khi trả hết nợ.
Sự việc đến tai vua, nhà vua thịnh nộ ra lệnh bắt ông quan tống ngục cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng.
Dụ ngôn trên có ý khuyên chúng ta hãy tha thứ cho anh em vì nếu chúng ta có tha thứ cho anh em thì Thiên Chúa mới tha cho chúng ta. Lỗi của chúng ta thì nặng nề vô cùng mà Chúa còn tha thứ cho ta, phương chi anh em chỉ lỗi đến ta có một chút, tại sao ta lại không biết tha thứ
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tha thứ thì được thứ tha.
I. Thiên Chúa là Đấng tha thứ.
1. Trong Cựu ước.
Chính lúc đối diện tội lỗi mà Thiên Chúa hay ghen (Xac 20,5) tỏ ra là Thiên Chúa đầy lòng tha thứ. Việc chối bỏ Thiên Chúa sau khi đã ký giao ước, đáng lý ra khiến Thiên Chúa hủy diệt toàn dân (Xac 32,30tt), lại trở nên cơ hội để Thiên Chúa tự xưng là “Thiên Chúa dịu dàng và hay thương xót, chậm bất bình, giầu ân sủng và trung tín... dung thứ lẫm lẫn, sai phạm và tội lỗi, tuy nhiên Ngài sẽ không bỏ qua sự gì mà không sửa phạt...”. Thế nên Maisen mới có thể yên tâm cầu nguyện với lòng tin tưởng:”Thật là một dân cứng đầu cứng cổ. Nhưng xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con và cho chúng con trở thành gia nghiệp Ngài” (Xac 34,6-9).
Xét theo khía cạnh nhân bản và pháp lý, sự tha thứ tự nó không thể biện minh được, Thiên Chúa thánh thiện đã không phải bầy tỏ sự thánh thiện của Ngài bằng sự công bình của Ngài (Is 5,16) và gia phạt những ai khinh thường Ngài đó sao? Làm sao vị hôn thê bất trung với Giao ước lại có thể ỷ lại vào lòng tha thứ khi nàng không biết xấu hổ vì mình đã gian dâm (Gr 3,1-5)? Tuy nhiên lòng Thiên Chúa không như lòng loài người và đấng thánh không thích hủy diệt, thay vì muốn cho tội nhân phải chết, Ngài muốn cho họ hoán cải (Ez 18,23) để có thể đổ tràn ơn tha thứ của Ngài , vì đường lối của Ngài vượt xa tư tưởng của chúng ta một trời một vực.
Sau cùng, Thiên Chúa thực hiện ơn tha thứ một cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu. Ngài đã tuyên bố Tin mừng cứu độ, Ngài kêu gọi hoán cải tất cả những ai cần trở lại (Lc 5,32t) và Ngài thúc đẩy họ trở lại bằng cách mạc khải cho biết Thiên Chúa là một người Cha chỉ vui khi tha thứ (Lc 15) và Ngài không muốn ai bị hư mất (Mt 18,12t).
2. Trong Tân ước.
Chúa Giêsu đến không phải phá hủy lề luật nhưng để kiện toàn. Các lề luật trong Đạo Cũ đều tốt nhưng chưa được hoàn hảo. Vì thế khi ai phạm đến ta thì người ấy trở nên kẻ thù của ta. Do đó, theo Đạo Cũ, người ta không cần thương yêu kẻ thù, chỉ cần thương yêu thân nhân thôi, còn kẻ thù thì phải chịu luật công bình. Ta hãy nghe Chúa nói:”Các ngươi có nghe lời truyền rằng: hãy yêu thương thân nhân, mà ghét thù địch mình. Song Ta dạy các ngươi rằng: hãy yêu thương kẻ thù, cứ làm ơn cho kẻ ghét mình, lại cầu nguyện cho những người bắt bớ vu vạ cho ngươi nữa, để các ngươi nên con cái Cha các ngươi ở trên trời: vì Ngài cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ tốt cũng như người xấu, và làm mưa trên người chính trực cũng như kẻ bất luơng” (Mt 5,43-45).
Theo với luật yêu thương, ta thấy cần có luật tha thứ đi kèm, vì nếu không có luật tha thứ thì luật thương yêu sẽ bị giới hạn rất nhiều.Nên Chúa Giêsu đã phán:”Nếu khi nào ngươi dâng của lễ trên bàn thờ. mà ngươi sực nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, hãy để của lễ ngươi trên bàn thờ, hãy đi làm hòa cùng anh em đã, rồi ngươi mới đến dâng của lễ”(Mt 5,23-24). Hoặc chỗ khác Chúa cũng nói:”Nếu các ngươi tha thứ cho người ta, thì Cha các ngươi trên trời cũng sẽ tha thứ cho các ngươi”(Mt 6,14).
II. Con người phải tha thứ.
1. Thực hiện lời Chúa dạy.
Người ta thường nói:”Quá tam ba bận”, nghĩa là chỉ tha có 3 lần thôi, quá 3 lần thì không tha nữa. Thánh Phêrô cũng theo chủ trương đó nhưng có phần rộng rãi hơn. Ông tin rằng tha thứ 7 lần đã là quá nhiều, vì số 7 là con số tối đa theo quan niệm của Kinh thánh, nói lên tính chất dư dật đúng mức.
Vì thế, ông Phêrô mới hỏi Chúa Giêsu rằng:”Lạy Thầy, nếu anh em con lỗi phạm đến con, con phải tha cho họ mấy lần, đến 7 lần không”? Chúa Giêsu đáp:”Thầy không bảo đến 7 lần đâu, mà đế 70 lần 7”(Mt 18,21-22; Lc 17,4). Chúa bảo không tha chỉ tới 7 lần nhưng phải 70 lần 7, nghĩa là tha thứ đến 490 lần. Chúa trả lời như thế không có nghĩa chỉ tha 490 lần, rồi sang lần 491 thì không tha nữa, nhưng Chúa có ý nói rằng: phải tha luôn mãi không có giới hạn (x. Mt 18,22; Lc 17,4).
Để quảng diễn tư tưởng ấy, Chúa Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn: một người nợ vua 10.000 nén vàng mà không có gì trả, vua đã quảng đại tha nợ cho; nhưng chính người được tha nợ lại không tha cho người bạn chỉ nợ có 100 quan tiền. Nghe được câu truyện đó, nhà vua phải nổi cơn thịnh nộ mà phạt tên bất nhân đó.
Để hiểu thêm số tiền nợ này cách nhau thế nào, theo các nhà chú giải Thánh kinh, thì một nén vàng tương đương 10.000 quan tiền. Vậy tên đầy tớ nợ ông chủ 60.000.000 quan tiền, một số tiền quá lớn. Trong khi người bạn chỉ mượn anh ta một số tiền là 100 quan, như thế tỷ lệ chênh lệch là 1/600.000.
Dụ ngôn này nói lên cách đầy đủ một thực tại khác. Mặc dầu giữa những con người có những khác biệt, nhân loại vẫn có vẻ ngang hàng với nhau và những bất công gây ra cho con người không đến nỗi qúa trầm trọng nếu so với những bất công đối với Thiên Chúa. Đối với con người tất cả đều giới hạn. Dù con người có tỏ ra đòi hỏi nghiêm khắc, họ cũng chỉ cốt nhằm bảo vệ quyền lợi nên không muốn tha thứ.
Vì thế, chúng ta nói rằng nhân danh con người, các bất công gây nên những tranh luận và kiện tụng. Nhưng nếu nhân danh Thiên Chúa và căn cứ theo ân sủng hơn là quyền lợi, con người sẽ tỏ lòng thương xót đối với anh em. Trước mặt Thiên Chúa, con người phải điều chỉnh tương quan của mình với tha nhân. Thái độ đối với Thiên Chúa sẽ xác định thái độ đối với anh em. Ngược lại, tương quan giữa con người với anh em sẽ xác định lối cư xử của họ đối với Thiên Chúa.
Người tín hữu khi đã biết Thiên Chúa đối xử với họ tốt lành, mà còn tới gần anh em với tinh thần khắc nghiệt, họ cũng sẽ bị điều mà Đức Kitô nhấn mạnh khi tuyên bố:”Cha Ta cũng đối xử như thế đối với các con, nếu các con không tha thứ cho nhau”. Lòng quảng đại của Thiên Chúa sẽ thắng vượt tính hèn kém của con người, và lòng từ ái của Ngài sẽ biến cải thái độ khắc nghiệt của họ.
(R. Gutwiller, Suy niệm Tin mừng Matthêu, tập 2, tr 78)
2. Người đời và sư tha thứ.
Tha thứ không phải là một giáo thuyết xây trên không tưởng, hay chỉ dành cho những người theo giáo lý cuả Chúa Giêsu, mà dành cho mọi người. Có những người đã xuất hiện trước Chúa Giêsu mà họ cũng đã đề cập đến vấn đề này. Chúng ta thử rảo qua xem:
* Nhận xét của nhân gian.
Người đời chia con người làm hai loại xung khắc nhau, đó là hiền nhân quân tử và kẻ tiểu nhân. Trong xã hội bị ảnh hưởng Nho giáo, con người hiền nhân quân tử được đề cao, coi là bậc thầy, coi như mẫu mực của con người; còn tiểu nhân là những người tầm thường, bề tôi và nếu hiểu theo tinh thần Kitô giáo, thì lại hiểu tiểu nhân là những kẻ tội lỗi. Vì thế, người đời mong ước được trở nên các hiền nhân:”Sĩ hy hiền, hiền hy thánh, thánh hy thiên “: người học mong ước trở nên hiền nhân, hiền nhân mong được trở nên thánh nhân, và thánh nhân được ví như trời.
Những kẻ tiểu nhân, những kẻ vũ phu có những hành động vụt chạc, thiếu suy nghĩ, không cầm mình được, khi bị xỉ nhục là tuốt gươm xông đánh kẻ thù giống như trường hợp chàng Tân Ti Tụ; còn người quân tử hiếu dũng không thèm chấp nhặt những sỉ nhục ấy, họ bình thản đón nhận như không có sự gì xẩy ra, lại còn đón nhận một cách vui vẻ như hiền triết Soccrates. Vì thế, người đời coi tha thứ là đặc tính của bậc trượng phu, anh hùng:
Đấng trượng phu đừng thù mới đáng,
Đấng anh hùng đừng oán mới hay.
* Chủ trương của hiền nhân quân tử.
Các hiền nhân quân tử luôn đề cao sự tha thứ, đặc biệt các vị sáng lập các tôn giáo, trong đó ta thấy có hai khuôn mặt dạy sự tha thứ nổi bật nhất là Phật Thích Ca và Đức Giêsu. Nhưng về phương diện thực hành thì Đức Kitô là một tấm gương sáng chói.
. Nhà Nho dạy thế nào? Trong vấn đề cư xử, học thuyết của Đức Khổng Phu Tử còn giống với luật báo oán của Cựu ước, ngài dạy học thuyết:”Dĩ trực báo oán”. Nhưng sau này, các đồ đệ của ngài muốn đi xa hơn, họ thêm vào học thuyết của ngài câu:”Dĩ đức báo oán”.
. Ông Gandhi nói:”Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”. Chính ông đã dùng thuyết bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn độ khỏi ách thống trị của người Anh.
. Ông Tertullien nói:”Kẻ bị nhục, dùng sỉ nhục để báo thù, có khác gì người sỉ nhục họ không? Chẳng qua là những kẻ cùng làm quấy như nhau, nhưng chỉ kẻ trước người sau mà thôi”.
. Hiền triết Marc Aurèle nói:”Biết yêu kẻ đã xúc phạm mình, đó là hạnh phúc của quân tử. Muốn được vậy, phải biết nghĩ rằng: những kẻ ấy là họ hàng thân thích mình – Những kẻ ấy phạm lỗi, là vì không biết, chớ không phải cố ý – Những kẻ ấy rồi chẳng bao lâu cũng cùng với ta mà chết – mà thứ nhất, những kẻ ấy, không có làm thiệt hại cho mình chút nào cả, bởi họ không từng làm cho tâm tính mình hư đi được”.
. Hiền triết Épictète có một lối suy nghĩ khác, vượt trên lối suy nghĩ của mọi người. Ông tìm cách qui lỗi vào mình và không oán giận kẻ khác nữa. Nhà ông có một chiếc đèn khá qúi, bị thằng ăn trộm lấy mất. Ông tự trách mình có chiếc đèn qúi đã khêu gợi lòng tham của kẻ ăn trộm, chứ ông không trách lòng tham của đứa ăn trộm ấy. Ông cho rằng chính người gây ra căn cớ cho sự ăn trộm mới là đáng trách, và như vậy chính ông là thủ phạm.
Truyện: Hoàng đế Trung hoa trả thù.
Một hoàng đế Trung hoa nói:”Một khi chinh phục quốc gia ấy rồi, ta sẽ tiêu diệt tất cả các địch thù của ta”.
Ông đã chinh phục nước ấy, và cả đình thần của ông chờ đợi một cuộc thảm sát địch quân. Họ mong cho những địch thủ đó sau khi bị hành hình thì đem chém đầu. Họ rất bỡ ngỡ khi thấy tất cả các địch thù ngồi ăn với vua và lại nói cười vui vẻ nữa.
Họ tâu vua:
- Muôn tâu hoàng thượng, hoàng thượng nói hoàng thượng sẽ tiêu diệt tất cả địch thù kia mà.
Hoàng đế trả lời:
- Ta đã tiêu diệt bọn họ rồi đó, tiêu diệt bằng cách tha thứ cho họ và biến họ thành những người bạn của ta (Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 166).
* Cách trả thù hay nhất.
Có những người có tâm hồn cao thượng, họ không thèm đếm xỉa gì đến những xúc phạm người khác làm cho mình, vui vẻ đón nhận tất cả. Và cách trà thù cho người khác tức là tha thứ cho họ. Sở dĩ họ làm như thế vì họ muốn làm người trên chứ không ngang hàng với người làm sỉ nhục họ. Khi tha thứ là mình đã đứng trên người được tha thứ.
Ông Swift nói:”Bị người ta làm nhục mà hận, là đem cái lỗi của người mà hành hạ báo thù mình”.
Marc Aurèle nói:”Không có cách nào báo thù những kẻ làm ác với mình hay bằng cách này: đừng giống họ”.
Người ta ở đời, đối với loài người mà gặp phải kẻ xử với mình một cách ngang ngược, thì nên coi như mình đi trong bụi rậm, vướng phải gai, chỉ nên thong thả đứng lại, gỡ dần ra mà thôi. Gai góc kia có đáng gì đâu mà giận? Xử được như thế, thì tâm hồn không phiền não, mà bao nhiêu nỗi oán hận cũng tiêu tan.
Mạnh Tử nói:”Ta nên coi những sự ngang ngược phạm đến ta như chiếc thuyền không lỡ đâm phải ta, như cơn gió dữ lỡ tạt nhằm ta, ta nghĩ cho cùng thì có gì đáng giận”.
Truyện: Trọng danh dự
Một thi hào Ý danh lừng bốn bể, ông Le Tasse, tác giả cuốn “Thành Giêrusalem được giải cứu” có thời bị bao nhiêu quân thù ganh tị âm mưu ám hại. Người ta loan tin xấu về ông. Các lời lăng mạ, vu khống đổ về ông như mưa bấc có ý cho ông ở tù. Có người thân tín cho ông biết tên đầu sỏ của vụ vu oan cáo ông đã phạm một tội nhục nhã tầy trời và yêu cầu ông phổ biến điều ấy ra để trả đũa.
Le Tasse nghiêm trang trả lời:
- Tôi không muốn làm mất danh dự và sinh mệnh của người ta. Tôi chỉ muốn bài trừ ở họ ý muốn hành ác thôi: đó là sự phục thù độc nhất của tôi.
(Hoàng Xuân Việt, Thuật sống dũng, 1970, tr 200)
Vì thế, nhà hùng biện trứ danh nước Pháp, cha Lacordaire, đã khuyên bảo ta:”Anh muốn vui sướng trong chốc lát: cứ trả thù. Anh muốn yên ủi mãi mãi: nên tha thứ”.
III. Chúng ta cũng phải tha thứ.
Với tất cả những tư tưởng được trình bầy ở trên, chúng ta thấy rằng tha thứ là một điều cao thượng và cần thiết. Không những người Kitô phải biết tha thứ theo lời Chúa dạy, mà cả những người ngoại giáo cũng đã thực hiện. Trong bài giảng tên núi, Đức Giêsu đặc biệt lưu ý chúc phúc cho ai hiếu hoà, một cách gián tiếp Chúa bảo những kẻ hiếu hòa là kẻ biết tha thứ cho nhau để tạo bầu không khí hoà thuận giữa mọi người (x. Mt 5,9). Còn nhiều phần thưởng được dành cho người biết tha thứ, như ta thấy có hai phần thưởng được Chúa ban trực tiếp khi ai biết tha thứ và cũng là điều kiện “sine qua non” của lời cầu nguyện:
. Được Chúa tha thứ tội lỗi cho (Mt 6,14-15; Mc 11,25; Lc 11,4).
. Được Chúa nhận của lễ ta dâng (Mt 5,23-24); Mc 11,25).
Ta còn phải tha thứ cả bề trong lẫn bề ngoài. Tha thứ cho người khác những xúc phạm đến mình, tha thứ thật trong lòng đã là một điều đáng khen ngợi,và đấy là điều kiện căn bản và khởi điểm để đi xa hơn nữa. Tha thứ bề trong mà thôi, chưa đủ, còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa. Tại sao lại chưa đủ? Vì ta dựa vào lời Chúa khi Ngài nói:”Hãy để của lễ ngươi trước bàn thờ, hãy đi làm hoà cùng anh em đã, rồi ngươi mới đến dâng của lễ”(Mt 5,23-24). Chúa dạy phải đi làm hoà cùng anh em đã. Chữ “đi làm hoà” gợi lên trong đầu óc ta một hành động cụ thể. Chúa đòi ta phải thực hiện sự tha thứ bằng việc làm bên ngoài, nếu không thì Chúa chỉ bảo “hãy để của lễ trên bàn thờ, tha thứ cho anh em đã rồi hãy dâng của lễ”. Như vậy ta có thể kết luận rằng: không những Chúa đòi ta tha thứ trong lòng, mà còn đòi ta phải thực hiện sự tha thứ ấy ra bên goài, bằng một hành động cụ thể.
Tại sao sự tha thứ cần được biểu lộ ra bên ngoài bằng những hành động cụ thể? Sở dĩ cần có những hành động bên ngoài vì chính những hành động ấy phá tan tình trạng lạnh lùng, khẩn trương, phá tan một cuộc chiến tranh lạnh bao trùm cuộc sống giữa hai người. Nhiều khi trong lòng đã thực sự tha thứ, nhưng vẻ lạnh lùng bên ngoài khiến người khác tưởng rằng mình không tha thứ hoặc coi như họ khinh mình.
Văn hào Goethe đã nói:”Sự tha thứ chỉ có thể là một trạng thái trung gian. Nó phải đưa đến sự kính trọng. Tha thứ là làm nhục”.
Và còn tệ hơn nữa, như P.J. Poulet nói:”Sự tha thứ có khi chỉ là một bộ mặt của sự trả thù”.
Đã nhiều lần chúng ta đọc kinh Lạy Cha, chúng ta có để ý đến câu này không:”Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”? Có lẽ chúng ta chỉ chú ý đến phần trên “và tha nợ chúng con”, mà lại bỏ quên phần sau “như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Nếu trong chúng ta có sự xích mich với nhau thì hãy tha thứ đi đã rồi hãy dâng lễ, nếu không Chúa sẽ không nhận lễ vật chúng ta dâng.
Truyện: Hoàng đế Othon tha thứ
Dưới thời hoàng đế Othon I, các vương hầu nổi lên làm loạn nhiều lần. Đặc biệt chính bá tước Henri, em ruột của hoàng đế lại là kẻ cầm đầu quân phản loạn. Nhiều lần bị hoàng đế đánh bại, ba lần bị lên án tử hình, nhưng được ân xá nhờ lời cầu khẩn của hoàng thái hậu Mathilde. Lần thứ tư Henri lại nổi loạn, bị bắt, lại bị xử tử hình. Hoàng đế nổi giận không muốn nghe sự thỉnh cầu của bất cứ ai. Mặc dầu biết mất hết mọi hy vọng, nhưng Henri cố gắng lần cuối.
Đó là hôm áp lễ Noel năm 945, hoàng đế và các vương hầu khanh tướng đến dự lễ tại nhà thờ chính toà Quellimbourg. Đến phần phụng vụ lời Chúa, bá tước Henri mặc áo nhặm xuất hiện trong nhà thờ, tiến đến và xấp mình dưới chân hoàng đế xin tha mạng, nhưng Othon nhìn bá tước nghiêm khắc và nói:”Ba lần ta đã tha chết cho ngươi mà ngươi vẫn cố tình, đừng xin xỏ nài nỉ gì nữa, ba ngày tới đầu ngươi sẽ rơi. Đúng lúc đó vị chủ tế mở sách Phúc âm và đọc đoạn thánh Phêrô hỏi Chúa:”Lạy Thầy, con phải tha cho anh em bao nhiêu lần? Có phải 7 lần chăng “? Chúa đáp:”Ta không nói với con là 7 lần mà là 70 lần 7”.
Nghe lời đó, hoàng đế rúng động tâm can đến phát khóc và không những nhà vua tha mạng cho đứa em phản loạn, mà còn ôm vào lòng rồi ban cho em lãnh thổ Bavier nữa (Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 113-114).
50. Hãy sẵn sàng tha thứ để được Chúa thứ tha
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu không chấp nhận giới hạn tha thứ bẩy lần do Phêrô đề nghị, nhưng Người đòi môn đệ phải tha bảy mươi lần bảy, nghĩa là phải tha luôn luôn cho anh em mình. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu dạy các môn đệ phải sẵn lòng tha thứ những tội nợ của anh em mình vì ba lý do như sau: Một là vì ta đã được Thiên Chúa tha thứ vô điều kiện. Hai là vì số nợ của anh em đối với ta chẳng là gì so với số nợ ta mắc đối với Thiên Chúa. Ba là nếu ta đòi anh em tính sổ sòng phẳng thế nào, thì ta cũng sẽ bị Thiên Chúa tính sổ nợ sòng phẳng như vậy.
CHÚ THÍCH:
- C 21-22: + Ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi…: Phêrô muốn biết phải xử trí thế nào đối với những kẻ đã xúc phạm đến mình? + Con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?: Các Ráp-bi Do thái xưa dạy "quá tam ba bận" nghĩa là tha tối đa 3 lần. Tông đồ Phêrô thì đưa ra số 7 lần là một con số hoàn hảo. Nhưng Đức Giêsu còn đòi các môn đệ phải đi xa hơn nhiều. + Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy: Có chỗ ghi là bảy mươi bảy lần bảy. Ông La-méc xưa đã đòi vợ con phải trả thù cho ông: “Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, còn La-méc thì gấp bảy mươi bảy” (x. St 4,24). Ở đây, thay vì đòi báo thù, Đức Giêsu lại đòi môn đệ phải tha thứ bảy mươi lần bảy, nghĩa là: Phải tha luôn luôn, không giới hạn số lần và phải tha vô điều kiện. Lý do để tha không phải do kẻ có lỗi đã biết ăn năn sám hối, cũng chẳng phải vì kẻ bị xúc phạm muốn tỏ ra sự quảng đại của mình, nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã đối xử cách quảng đại và bao dung đối với mọi con nợ của mình.
- C 23-25: + Ông vua kia: Trong Kinh Thánh, vua thường ám chỉ Thiên Chúa, Đấng có quyền tối thượng trên mọi phàm nhân, là vị thẩm phán tối cao và có quyền ra án lệnh cuối cùng. + Đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách: Ở đây là tính sổ theo phép công bình. + Các đầy tớ: Trong Thánh Kinh, đầy tớ vừa ám chỉ thuộc hạ hay nô lệ mà cũng ám chỉ bề tôi hay cận thần của nhà vua, là những người có đầy thế lực (x. 1 Sm 8,14; 2 V 5,6). + Một kẻ mắc nợ vua mười ngàn nén vàng: Mỗi nén vàng thời đó giá sáu ngàn quan tiền, tương đương với sáu ngàn ngày công. Mười ngàn nén vàng tương đương với 60.000.000 (sáu mươi triệu) quan tiền + Y không có gì để trả: Không trả được vì món nợ quá lớn. Cũng vậy, tội lỗi của con người phạm đến Thiên Chúa nặng nề vô cùng, không bao giờ người ta có thể trả hết được. + Chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ: Trong Kinh Thánh có những trường hợp người mắc nợ không trả được món nợ, nên đã bị chủ bắt con cái người ấy phải làm nô lệ để trừ nợ (x. 2 V 4,1). Ở đây cho thấy cả vợ con cũng phải liên đới chịu trách nhiệm trong việc trả nợ. Như vậy tội lỗi gây ra hậu quả nghiêm trọng không những đối với người phạm tội, mà còn đối với cả những người thân trong gia đình nữa.
- C 26-27: + Sấp mình xuống bái lạy: Người đầy tớ biểu lộ thái độ khiêm nhường luỵ phục bằng việc sấp mình xuống trước tôn chủ mà bái lạy. + Xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết: Anh ta không dám xin tôn chủ tha nợ, vì anh biết số nợ kia quá lớn, và anh không đáng được tha món nợ ấy. Anh chỉ dám xin thêm thời gian để lo thu xếp trả nợ. Cũng giống như đứa con hoang đàng thấy mình không còn đáng được Cha tiếp nhận làm con giống như trước đó, mà chỉ dám xin cha cho anh được làm công cho cha để đền tội mà thôi (x. Lc 15,19). + Tôn chủ của tên đầy tớ liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ: Cho dù món nợ quá lớn, nhưng thấy người đầy tớ có thái độ khiêm nhường xin được khất nợ, thì tôn chủ đã động lòng thương. Ông không những cho khất mà còn sẵn sàng tha hết số nợ lớn lao cho anh ta. Cũng vậy, dù tội chúng ta phạm đến Chúa nặng đến đâu đi nữa, nhưng nếu ta ăn năn và quyết tâm chừa cải, thì Thiên Chúa cũng sẽ tha thứ cho ta tất cả, và còn ban thêm nhiều ơn hơn cả những điều ta dám cầu xin Người.
- C 28-30: + một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền: Người bạn này chỉ mắc nợ y một trăm quan tiền, tương đương với một trăm ngày công lao động. Ở đây so sánh hai món nợ chênh lệch nhau quá nhiều nhằm diễn tả tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Thiên Chúa thật quá nặng nề, nếu so với tội anh em phạm đến ta. Vì Thiên Chúa thánh thiện và uy quyền vô cùng, nên tội ta dù nhỏ bé, cũng trở nên nặng hơn nhiều lần. Giống như khi ta dùng một lời nào đó để chửi bạn bè nặng một, nhưng nếu ta cũng dùng lời đó để chửi cha mẹ hay người bề trên thì sẽ thành nặng hơn gấp mười. + Y túm lấy, bóp cổ mà bảo: “Trả nợ cho tao !”: Câu chuyện này diễn tả thái độ khắc nghiệt của tên đầy tớ đối với một người bạn là con nợ của hắn ta. Thái độ này tương phản với thái độ bao dung độ lượng của tôn chủ đối với anh ta. + Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh: Thái độ và lời năn nỉ của người đồng bạn cũng giống như thái độ và lời cầu xin của tên đầy tớ đối với tôn chủ trước đó. Cả hai con nợ đều không dám xin tha nợ, mà chỉ xin khất một kỳ hạn. Đức Giêsu cố ý trình bày sự tương đồng giữa thái độ của hai con nợ, để làm nổi bật sự tương phản, một bên là lòng quảng đại bao dung của Thiên Chúa tha nợ vô điều kiện, và bên kia là sự hà khắc độc ác của phàm nhân chúng ta đòi xử lý tới cùng. + Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ: Khi bắt con nợ vào ngục, chủ nợ cưỡng bức lao động để trừ dần số nợ, hoặc để người này phải nhờ thân nhân bán đồ đạc nhà cửa, hay đi vay mượn để lấy tiền trả nợ. Ở đây cho thấy lòng dạ tên đầy tớ này thật hẹp hòi và thiếu lòng khoan dung độ lượng.
- C 31-33: + Các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ: Họ bất mãn trước cách cư xử vô nhân đạo và độc ác của tên đầy tớ với bạn hắn ta. Thái độ ấy trái với lòng quảng đại bao dung mà hắn đã nhận được từ nơi tôn chủ. Vì thế những người này đã đi tố cáo hành động bất nhân của hắn để yêu cầu tôn chủ xử lý hắn. + Tên đầy tớ độc ác kia: Tôn chủ la rầy sự độc ác mà hắn đã xử với con nợ của hắn, trái với lòng khoan dung của ông đối với hắn. + Ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?: Tôn chủ đã hạch tên đầy tớ về thái độ thất nhân ác đức đối với đồng bạn của hắn. Trong kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cũng dạy các môn đệ phải tha thứ tội nợ cho anh em để xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ tội nợ cho mình.
- C 34-35: + Tôn chủ nổi cơn thịnh nộ: Việc tên đầy tớ không chịu tha thứ cho đồng bạn khiến hắn đã bị tôn chủ nổi giận. Ông đã xử lý với hắn theo phép công bình là giam hắn vào ngục tối cho đến khi trả hết số nợ, đúng như hắn đã xử lý với người bạn là con nợ của hắn trước đó. + Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế: Lời kết luận nhằm áp dụng cụ thể bài học: Nếu các môn đệ muốn được Thiên Chúa đối xử khoan dung tha thứ tội lỗi cho mình, thì cũng phải sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm cho anh em.
CÂU HỎI:
1) Phân biệt về số lần đòi báo thù của ông La-merk thời các Tổ phụ, lời dạy về số lần tha thứ của các rab-bi Do thái, lời đề nghị về số lần tha thứ cho anh em của Tông đồ Phêrô và lới dạy về số lần phải tha thứ của Chúa Giêsu khác nhau thế nào? 2) Trong dụ ngôn về hai con nợ, kẻ mắc nợ mười ngàn nén vàng đã cư xử thế nào đối với con nợ chỉ mắc nợ anh ta có một trăm quan tiền?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18, 35).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Người hành khất có lòng khoan dung tha thứ:
Văn hào Nga LÊ-ÔNG TÔN-TOI (Léon Tolstoi) có kể một câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Có một lão hành khất kia đứng trước cửa nhà của một người phú hộ để xin bố thí. Nhưng thay vì bố thí cho kẻ nghèo, người phú hộ kia lại nhặt một hòn đá ném vào lão ăn mày để xua đuổi đi. Bị hòn đá ném trúng vào mặt, máu chảy đầm đìa, lão hành khất tức giận lắm, nhưng không làm gì được. Sau khi băng tạm vết thương, lão ta đã nhặt lấy cục đá ném mình cho vào bị, rồi tự nhủ: “Ta sẽ mang theo hòn đá này cho đến ngày mi bị sa cơ thất thế. Bấy giờ ta sẽ dùng chính nó để ném trả vào mặt mi”. Nhiều năm sau, lời chúc dữ của lão hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận công quỹ, nên người phú hộ đã bị bắt và còn bị tịch biên toàn bộ tài sản. Trong lúc lính đến vây bắt ông ta, thì lão hành khất kia cũng có mặt ở đó. Lòng căm hận ngày xưa giờ đây lại có dịp bùng phát trở lại. Lão ta cứ bám theo đám người áp tải kia, tay nắm chắc hòn đá năm xưa để chờ cơ hội ném tên phú hộ rửa hận. Nhưng đến khi nhìn thấy gương mặt tiều tụy hốc hác của người này, thì một sự thương cảm lại nổi lên trong lòng lão. Lão tự nhủ: “Bây giờ thì tên phú hộ này cũng chỉ là một kẻ khố rách áo ôm còn khổ hơn ta. Hắn vừa mất hết tài sản, lại còn bị cùm trong ngục tối không biết đến khi nào. Như vậy là ông Trời đã trả báo điều dữ xưa hắn đã làm cho ta rồi. Vậy ta cần chi phải báo oán nữa?”. Nghĩ thế rồi, lão hành khất buông tay ra cho hòn đá rơi xuống đất và bỏ đi nơi khác.
2) Xây dựng một tình yêu đại đồng:
Trong cuốn tiểu thuyết “MẶT TRẬN PHÍA TÂY VẪN YÊN TĨNH” (All quite on the Western), tác giả đã thuật lại câu chuyện cảm động về hai người lính Đức và Pháp như sau:
“Lúc đó cuộc chiến đang diễn ra rất ác liệt giữa quân đội hai nước Đức và Pháp. Một chú lính Đức còn trẻ đang nằm sát dưới một cái hố để tránh đạn pháo. Bỗng nhiên chú ta thấy một người lính Pháp cũng nhảy vào trong hố để tránh đạn đang nổ ầm ầm chung quanh. Trước khi người lính Pháp nhận ra kẻ thù, thì chú lính Đức kia đã đâm anh ta một nhát trúng bụng, khiến anh ta ngã ra bất tỉnh. Bấy giờ chú lính Đức kia chăm chú vào cặp mắt thất thần của kẻ thù. Chú ta thấy người này do máu ra nhiều nên đang há miệng thở hắt ra rất gấp. Môi anh ta bị khô như sắp nứt nẻ. Chú lính Đức liền động lòng trắc ẩn, chú ta lấy ra bình nước đang đeo bên mình cho kẻ thù sắp chết kia uống. Sau khi uống xong mấy ngụm nước thì người lính Pháp tắt thở. Cái chết của anh ta khiến chú lính Đức đột nhiên cảm thấy hối hận vì đã giết chết anh ta. Đây là lần đầu tiên chú nhúng tay vào máu. Chú ta tò mò muốn biết tên của kẻ kia. Khi lần túi quần người chết, chú ta lôi ra một chiếc ví da, trong đó có gắn hình người phụ nữ khá đẹp đang bế một bé gái khoảng ba bốn tuổi, mà chú ta đoán là vợ con của người lính Pháp này. Chú ta chợt nhận ra anh ta không phải là kẻ thù của chú, nhưng là một người chồng và một người cha, là một người cũng biết yêu và muốn được yêu, giống như chú vậy. Chú liền lấy ra một quyển sổ tay để ghi địa chỉ của người chết, và giữ lại tấm hình kia, mà chú định viết thư cho vợ con anh ta để bày tỏ lòng hối tiếc, đồng thời xin lỗi vợ con của người bị chú giết chết”.
Chính nhờ biết thay đổi cách nhìn, mà chú lính Đức đã nhận ra người lính Pháp không phải là kẻ thù, nhưng là một người anh em giống như chú, một người chồng và người cha đang mong sớm chấm dứt chiến tranh để được trở về sống hạnh phúc bên vợ con.
3) Sẵn sàng tha cho kẻ thù ghét giết hại mình:
Cha KÍT-XI-ĂNG XÉC-GHÊ (Christian de Chergé) và 6 tu sĩ đã được bề trên phái đi truyền giáo tại một nước Hồi giáo xa xôi. Các nhà lãnh đạo tôn giáo ở đây đã làm đủ cách để hạ uy tín và trục xuất các ngài. Nhưng các tu sĩ không nao núng và vẫn kiên trì với ơn gọi thừa sai. Cuối cùng các người lãnh đạo quyết định giết các ngài. Khi được mật báo mình sắp bị giết, cha Xéc-ghê đã viết một bức thư để sẵn trong túi áo. Ngài viết để gửi cho những kẻ thù ghét đang kéo đến giết hại mình. Nội dung bức thư có đoạn viết như sau: “Và cả bạn nữa, một người bạn giây phút cuối cùng cuộc đời tôi. Bạn đã không hiểu biết việc bạn đang làm. Tôi cầu xin Chúa cho hai chúng ta đều là những kẻ trộm lành. Chúng ta hy vọng sẽ được gặp nhau trên quê trời. Nơi đó chúng ta sẽ được ở với Thiên Chúa là Cha chúng ta”. Lời lẽ trong bức thư không chút hờn oán.
Cha Xéc-ghê đã coi kẻ sắp giết mình như là một người bạn, một người trộm lành giống như cha, và cha mong ước sau này sẽ gặp được anh ta ở trên trời. Thật là một sự tha thứ phi thường giống như Đức Giêsu đã xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đã giết hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Đó cũng phải là thái độ và là nội dung lời cầu của mỗi tín hữu chúng ta.
4) Để dễ tha thứ cần khiêm tốn nhận mình cũng bất toàn:
Một hôm gà con cứ theo bám riết lấy gà mẹ. Nó vừa khóc vừa kể cho mẹ nghe về nỗi uất ức ma nó đang phải chịu. Nó nói: “Mẹ ơi, tụi thỏ dám nhạo con rằng tai con chỉ bằng một góc tai của chúng”. Gà mẹ trả lời: “Con đừng để tâm đến những lời bọn thỏ nói làm chi, và hãy tha thứ cho chúng, con nhé!”. Gà con chưa chịu thua tiếp tục tố cáo: “Nhưng bọn cò lại bảo con rằng: con chỉ cao bằng một phần năm cẳng chân của chúng!” Gà mẹ lại an ủi con: “Con ơi! Đừng chấp với chúng làm chi!” Nghe mẹ nói thế, gà con uất ức khóc to lên và nói: “Mẹ! Lúc nào mẹ cũng nói là phải tha cho chúng, đừng thèm chấp với chúng. Còn con thì cứ phải chịu đựng bị bọn chúng cười nhạo chế diễu hoài! Tại sao vậy hả mẹ?” Bấy giờ gà mẹ mới ôn tồn nói với gà con: “Tại vì bọn chúng nói đúng mà con!”. Gà con hỏi tiếp: “Sao lại đúng hả mẹ?”. Gà mẹ trả lời: “Tại vì con thật ra cũng chỉ là một con gà mà thôi!”.
Giống như chú gà con kia, chúng ta thường cảm thấy bị xúc phạm và khó lòng tha thứ cho những kẻ dám cười nhạo khinh thường chúng ta, chỉ vì chúng ta không dám chấp nhận sự thật yếu đuối hèn kém của mình. Lòng khiêm tốn là điều kiện giúp chúng ta dễ dàng chấp nhận bỏ qua những lời nói hành nói xấu hay lời chế nhạo của kẻ khác đối với chúng ta.
5) Mau quên các lỗi phạm và luôn ghi nhớ công ơn của tha nhân:
Sự tha thứ và biết ơn luôn là những cách giúp chúng ta yêu quý cuộc sống, tránh được sự muộn phiền và lòng tràn ngập yêu thương. Nhưng để làm được điều ấy thật không dễ. Bài học về tha thứ và biết ơn từ câu chuyện của cát và đá sau đây sẽ mang đến cho chúng ta niềm vui tâm hồn.
Có hai người bạn thân cùng nhau đi trên sa mạc hoang vắng. Trong suốt cuộc hành trình, họ đã tranh cãi với nhau nhiều lần, đến một lúc, có một người trong phút nóng giận đã tát vào mặt anh bạn của mình. Khi đó, người bị tát dù cảm thấy rất buồn, nhưng anh ta chỉ lẳng lặng dùng ngón tay viết lên bãi cát bên cạnh: “Anh bạn đồng hành với tôi hôm nay đã đánh tôi”. Sau đó hai người tiếp tục đi.
Khi hai người đến một ốc đảo và quyết định nghỉ chân tại đây. Chẳng may, người bị đánh khi nãy bước vào chỗ đầm lầy bị lún, mà càng cố thoát ra thì lại càng bị lún sâu hơn. Rất may sau đó anh đã được người bạn kia cứu thoát khỏi chỗ lầy.
Sau khi đã bình tĩnh lại, anh đã dùng con dao đeo bên mình khắc lên phiến đá gần đó như sau: “Cám ơn anh bạn thân, vì đã cứu sống tôi khỏi vũng lầy”.
Anh bạn đã đánh và sau đó đã giúp đỡ ngạc nhiên hỏi: “Tại sao khi tôi đánh anh thì anh viết lên cát, còn bây giờ khi tôi cứu anh thì anh lại khắc lên đá? ”.
Người kia cười và trả lời như sau: “Mỗi khi chúng ta bị đối xử tệ bạc hoặc bị người khác làm tổn thương, chúng ta chỉ ghi sự tức giận lên cát, để với thời gian, gió cát sẽ xóa nhòa điều ấy. Còn khi chúng ta được giúp đỡ, chúng ta hãy trân trọng sự giúp đỡ đó và ghi khắc nó lên đá để sau này luôn nhớ đền đáp công ơn của họ. Chính điều này sẽ gia tăng nhân cách nơi chúng ta.
3. SUY NIỆM:
1) Tại sao phải tha thứ?:
+ Tha thứ để đáng được thứ tha: Đức Giêsu dạy các môn đệ phải sẵn lòng tha thứ các lỗi lầm của anh em, để xứng đáng được Thiên Chúa tha thứ tội nợ lớn lao cho mình: Câu chuyện về tên đầy tớ độc ác vừa được tôn chủ tha cho số nợ vô cùng lớn lao là 10.000 nén vàng đang khi hắn chỉ dám xin ông cho khất nợ. Nhưng hắn đã không đối xử bao dung nhân ái như thế với một người bạn chỉ nợ hắn có 100 quan tiền. Hắn đã đòi xử lý để yêu cầu tống giam người kia vào tù, cho đến khi trả hết số nợ. Tôn chủ của hắn nghe biết đã nổi giận và đã xử lý với hắn giống như hắn đã làm cho người bạn kia. Ông yêu cầu tống giam hắn vào ngục, cho đến khi trả hết số nợ lớn lao, mà lẽ ra hắn đã được chủ tha vô điều kiện.
+ Đàng khác, tha thứ cũng là một cách để hóa giải thù hận như Đức Phật đã dạy: “Lấy oán báo oán, oán thù chồng chất. Lấy ơn báo oán, hóa giải oán thù”.
2) Phải tha thứ bao nhiêu lần?:
+ Phải tha luôn luôn: Về số lần tha thứ thì các Ráp-bi Do thái đã dạy chỉ tha thứ tối đa 3 lần: “Quá tam ba bận”. Ông Phêrô đề nghị với Thầy tha tới bảy lần và nghĩ rằng sẽ được Thầy khen ngợi. Nhưng ông thật bất ngờ khi Thầy đòi ông không những phải tha bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy. Nghĩa là phải tha luôn luôn, không có giới hạn và tha vô điều kiện (x. Mt 18,22).
+ Phải tha vô điều kiện: Qua bài dụ ngôn trong Tin Mừng: Đức Giêsu đòi các môn đệ phải sẵn sàng tha thứ, không phải vì kẻ có tội đã biết nhận lỗi, cũng chẳng phải để các ông có dịp lập thêm công đức, nhưng chỉ vì lòng xót thương. Chúa muốn các môn đệ hãy luôn tha thứ vì mình đã được Thiên Chúa tha cho món nợ khổng lồ là các tội đã phạm đến Chúa, nên cũng phải biết noi gương Chúa để sẵn sàng tha lỗi cho anh em mình.
3) Điều kiện để dễ tha thứ:
+ Theo bản tính tự nhiên, mỗi người chúng ta khó thoát khỏi cái vòng lẩn quẩn tranh chấp và báo oán. Luật “mắt đền mắt, răng thế răng” tuy có giúp chúng ta trả oán công minh, nhưng chính nó lại là nguyên nhân khiến thế giới này lâm vào tình trạng chiến tranh hận thù liên miên. Chỉ khi con người sẵn sàng tha thứ thì họ mới có thể sống chung hòa bình và được hạnh phúc thực sự.
+ Tha thứ đồng nghĩa với chịu thiệt thòi. Khi chấp nhận tha thứ là ta công nhận tình thương sẽ đánh tan băng giá. Tình thương sẽ làm cho trái tim chai đá của chúng ta biến đổi nên mềm mại để tiếp tục rung động và chạnh lòng xót thương những kẻ đau khổ tội lỗi noi gương Chúa Giêsu.
4) Làm gì để thực hành sự tha thứ?
Việc tha thứ cho kẻ thù không dễ dàng, đòi mỗi chúng ta phải quyết tâm áp dụng các phương thế giúp chúng ta dễ tha thứ cho kẻ đã xúc phạm đến chúng ta như sau:
+ Một là kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cành nho tháp nhập vào thân cây nho như lời Đức Giêsu: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
+ Hai là nhớ lại chúng ta đã được Chúa tha cho bao tội lỗi, nên chúng ta cũng phải sẵn sàng tha thứ cho những xúc phạm của kẻ khác, như ông chủ đã trách con nợ trong Tin Mừng: “Tên đầy tớ độc ác kia. Ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin Ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao? “ (Mt 18,32-33).
+ Ba là coi kẻ có lỗi đang bị lầm lạc, như Đức Giêsu đã cầu xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ hành hạ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
+ Bốn là hãy năng nhắc lại lời Chúa dạy tha thứ kèm theo lời cầu nguyện như sau: “Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6,37), “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12).
4. THẢO LUẬN:
1) Mỗi người hãy tự xét mình: Bây giờ tôi đang có kẻ thù nào không? Tôi có làm gì sai lỗi đáng bị thù ghét không? Tôi cần làm gì để loại bỏ nguyên nhân ấy? 2) Theo lời Chúa dạy, tôi sẽ làm gì để quảng đại tha thứ cho những kẻ đã xúc phạm đến mình, và sẽ làm gì cụ thể để biến thù thành bạn?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Xin hãy giúp chúng loại bỏ đi sự thù oán để chứa đầy tình thương bao dung, bỏ đi những tranh chấp chiến tranh để chấp nhận sống chung hòa bình. Xin hãy đổ đầy bình an của Chúa vào trái tim khô cằn của chúng con, để sự bình an ấy sẽ chảy tràn sang những người thân trong gia đình, lan ra ngoài xã hội và đi đến khắp nơi trên thế giới.
- Lạy Chúa. Xin cho chúng con trở nên khí cụ bình an của Chúa. Xin cho chúng con học tập nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường, sự quảng đại tha thứ và lòng bao dung nhân hậu, để chúng con luôn biết quan tâm phục vụ mọi người, nhất là cầu nguyện cho những kẻ đang thù ghét bách hại chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ trở nên con ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, Đấng giàu lòng từ bi thương xót, và nên anh chị em của mọi người chung quanh để làm chứng cho Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
12/09 Nhà xây trên đá = khôn ngoan
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Nhà xây trên đá = khôn ngoan.
Thứ Bảy tuần 23 thường niên.
“Tại sao các con gọi Thầy 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà không thi hành điều Thầy dạy bảo?”
Lời Chúa: Lc 6, 43-49
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu, và cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái trái vả nơi bụi gai, và người ta cũng không hái trái nho nơi cây dâu đất. Người tốt phát ra điều tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, và kẻ xấu phát ra điều xấu từ kho tàng xấu của nó, vì lòng đầy thì miệng mới nói ra.
Tại sao các con gọi Thầy: 'Lạy Chúa, lạy Chúa', mà các con không thi hành điều Thầy dạy bảo? Ai đến cùng Thầy, thì nghe lời Thầy và đem ra thực hành. Thầy sẽ chỉ cho các con biết người ấy giống ai. Người ấy giống như người xây nhà: ông ta đào sâu và đặt nền móng trên đá. Khi có trận lụt, dù nước ùa vào nhà, cũng không làm cho nó lay chuyển, vì nhà đó được đặt nền trên đá. Trái lại, kẻ nghe mà không đem ra thực hành, thì giống như người xây nhà ngay trên mặt đất mà không có nền móng. Khi sóng nước ùa vào nhà, nó liền sụp đổ, và nhà đó bị hư hại nặng nề”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Nghe mà không thực hành
Suy niệm
Có nhiều cách để nhận biết sự thật về một người.
Chúng ta có thể bị hấp dẫn bởi những lời giảng hùng hồn.
Chúng ta cũng có thể bị đánh lừa bởi thái độ khôn khéo giả tạo.
Đức Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn để nhận ra con người thật :
“Xem quả thì biết cây” (c. 44).
Quả ở đây là đời sống thực sự của người đó, là những việc họ làm.
Nếu nhìn kỹ công việc của một người, chúng ta có cơ may biết họ là ai.
Đức Giêsu nói lên một luật tự nhiên của cây cỏ.
Cây tốt sẽ sinh trái tốt, cây bị sâu sẽ sinh ra trái không ngon.
Người công chính được nhận biết qua đời sống tốt lành của họ,
qua những thử thách họ đã vượt qua, qua những hy sinh họ dâng hiến.
Người bất chính sẽ lộ ra qua đời sống xấu xa.
Đời sống và hành động của một người phản ánh con người thật của họ.
Bụi gai không sinh được trái vả, bụi rậm không cho được trái nho.
Bụi gai và bụi rậm chẳng thể nào sinh hoa trái tốt đẹp.
Đời sống là tiêu chuẩn để nhận ra người môn đệ thật của Đức Giêsu.
Không phải chỉ là tuyên xưng đức tin vào Thầy
bằng cách kêu lên : “Lạy Chúa! lạy Chúa !”
Vấn đề là làm điều Thầy dạy (c. 46).
Đức Giêsu đặt câu hỏi tại sao đầy ngạc nhiên với các môn đệ:
Tại sao tin vào Thầy mà lại không sống điều Thầy truyền dạy?
Kitô hữu chân chính là người đến với Chúa Giêsu,
lắng nghe những lời của Ngài và thi hành những lời ấy (c. 47).
Nghe thôi thì chưa đủ.
Lời của Chúa Giêsu phải thấm nhuần vào đời sống của ta,
chi phối mọi hành động, quyết định và lựa chọn.
Đức Giêsu kết thúc Bài Giảng của mình bằng dụ ngôn về hai người xây nhà.
Nhiều người đã nghe Bài Giảng này, đã cảm thấy hay,
nhưng có bao nhiêu người sẽ thực hành những giáo huấn trong đó ?
Người thực hành Lời Chúa được ví như người xây nhà có nền vững chắc.
Còn người không thực hành thì giống như người làm nhà không nền.
Bề ngoài có vẻ hai căn nhà không khác nhau.
Chỉ khi nước lụt dâng lên, và dòng nước ùa vào nhà, mới thấy sự khác biệt.
Một căn đứng vững vì có nền tử tế, căn kia bị sụp đổ tan tành.
Chúng ta thích xây nhà cao, nhưng lại ít để ý tới nền móng.
Chúng ta đã được nghe quá nhiều đoạn Lời Chúa,
nhưng vẫn chỉ dừng lại ở việc suy niệm, cầu nguyện.
Lời Chúa chưa thực sự bám rễ trong hành động và cuộc sống,
vì điều đó đòi một sự trả giá mà chúng ta muốn quay lưng.
Chính vì thế căn nhà tâm linh của chúng ta vẫn không vững.
Xin Chúa cho chúng ta can đảm để làm lại nền cho căn nhà đời ta.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu
Con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
Vì chỉ biết thích thú nghe lời Chúa dạy,
Nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
Đừng hời hợt khi nghe lời Chúa,
Đừng để nỗi đam mê làm lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mãnh đất đời mình,
Để hạt giống lời Chúa được tự do tăng trưởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
Được xây trên nền tảng vững chắc,
Đó là lời Chúa
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Suy Niệm 2: NGHE VÀ THỰC HÀNH LỜI CHÚA
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thời gian là lời phán xét chính xác. Thời gian sẽ cho biết cây nào xấu cây nào tốt khi chúng ra quả. Cứ xem quả thì biết cây. Thời gian sẽ cho biết ai thật ai giả.Người thật hay người giả. Đừng tin ngay vào lời nói, cứ chờ xem họ làm thế nào. Thời gian sẽ chứng nghiệm công trình xây dựng. Công trình xây dựng có giá trị hay không, mưa nắng sẽ chứng nghiệm chất lượng. Chúa Giêsu cũng căn cứ vào kết quả để biết rõ ai là môn đệ thật. Người môn đệ thật là cây tốt sinh trái tốt. Người môn đệ tốt là người không chỉ nói ngoài miệng nhưng tin thật trong lòng. Người môn đệ trung tín là người thực hành niềm tin đã lãnh nhận được. Khó khăn thử thách là tự nhiên trong đời sống. Cũng như bão lụt là hiện tượng không thể tránh khỏi. Nhà xây vững chắc sẽ bền vững qua thời gian. Người nghe và thực hành Lời Chúa đứng vững trong mọi gian nan thử thách. Người ấy đã chọn Chúa thì trung tín suốt đời.
Nhưng chọn lựa không chỉ một lần mà trải dài suốt cuộc đời. Có bao nhiêu năm tháng là có bấy nhiêu chọn lựa. Để trung tín với Chúa và với chính mình, với niềm tin, với lời tuyên xưng, người môn đệ phải chiến đấu không ngừng. Chúa mời ta dự tiệc Lời Chúa và Thánh Thể. Nhưng thế gian cũng có những bàn tiệc hấp dẫn. Ma quỉ cũng biết bày ra những bàn tiệc lạc thú thịnh soạn, cũng biết nâng những chén rượu danh vọng hấp dẫn mời mọc. Lại còn thêm thói đời, người đời thân thiết lôi kéo. Nhất là khi chung quanh ta ai cũng làm giống nhau. Ta sống khác được sao? Ta phải cảnh giác để giữ lòng trung tín như thánh Phao-lô khuyên dạy: “Anh em không thể vừa uống chén của Chúa, vừa uống chén của ma quỉ được; anh em không thể vừa ăn ở bàn tiệc của Chúa, vừa ăn ở bàn tiệc của ma quỉ được” (năm chẵn).
Một cách giữ lòng trung tín với Chúa là nhớ lại thuở ban đầu. Thánh Phao-lô luôn nhắc nhở về thời chìm đắm trong tội lỗi để thấy ơn Chúa thương xót hoán cải ngài, tuyển chọn ngài và ban cho ngài được làm môn đệ Chúa. Vì thế ngài luôn nhớ ơn Chúa, luôn tận tâm phục vụ Chúa, sẵn sàng hi sinh tính mạng vì Chúa. Hãy chọn lựa Chúa. Vì chỉ có Người thương yêu ta. Hãy tạ ơn Chúa. Vì chính Người hạ cố đến cứu độ ta. Hãy thờ lạy Chúa. Vì chỉ có Người là vua thật thống trị vũ trụ. Hãy noi gương thánh Phao-lô mà xưng tụng: “Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình và duy nhất, kính dâng Người danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời. Amen” (năm lẻ).
Suy Niệm 3: Căn Nhà Ðức Tin
Một người giàu có nọ muốn thưởng cho người quản lý của mình. Ông cho biết ông sắp đi xa và giao cho người quản lý đứng ra xây cho một căn nhà sang trọng, với những vật liệu đắt giá và những nhân công tài giỏi nhất. Người quản lý xem đây là cơ hội để làm giàu: ông tính toán từng đồng trong việc mua sắm vật liệu cũng như chỉ mướn những thợ xoàng nhất với giá rẻ mạt. Dĩ nhiên, căn nhà cũng được hoàn thành một cách tương đối tốt đẹp.
Khi người giàu có trở về, người quản lý đem tất cả chìa khóa của căn nhà đến cho ông và báo cáo đã làm đúng như chỉ thị của ông. Ông chủ hài lòng, khen người quản lý và thưởng cho ông căn nhà đó. Trong những năm kế tiếp, khi phải chi tiền để tu sửa căn nhà, người quản lý không ngừng hối tiếc: giả như tôi biết trước, đây căn nhà ông chủ tặng cho tôi, thì tôi đã không xây cất nó một cách xoàng xĩnh như thế.
Ðức tin có thể ví như một căn nhà Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho con người. Tuy nhiên, đón nhận và xây dựng căn nhà ấy là phần của con người; căn nhà ấy có bền vững và đẹp đẽ hay không là tùy ở con người; căn nhà ấy có làm cho con người được hạnh phúc hay không là tùy ở việc xây dựng của con người. Chúa Giêsu đã nói: Ngài đến để con người được sống và sống dồi dào. Sự sống dồi dào ấy không chỉ ở đời sau; hạnh phúc thật không chỉ được hứa hẹn cho mai sau, nhưng ngay từ đời này, khi con người đón nhận và sống đức tin một cách sung mãn, con người sẽ cảm nếm được hạnh phúc. Chính Chúa Giêsu đã hứa cho các môn đệ và những ai từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài sẽ được gấp trăm ngay từ đời này. Và nhận được gấp trăm ngay từ đời này là gì, nếu không phải là niềm vui và bình an trong tâm hồn. Niềm vui và bình an ấy, con người chỉ có được khi sống cho đến tận cùng những cam kết của niềm tin.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt lại câu hỏi nền tảng: Chúng ta có thực sự an vui, hạnh phúc và hãnh diện vì được làm môn đệ Chúa Kitô không? Niềm tin của chúng ta có được diễn tả cụ thể bằng những hành động bác ái yêu thương chưa? Những giá trị của Tin Mừng có thực sự thấm nhập vào tâm hồn và hướng dẫn cuộc sống chúng ta không?
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Thách Ðố Của Người Tín Hữu
Một nhóm truyền đạo của một giáo phái đến ngay trước cửa một nhà thờ để chiêu dụ các tín đồ, họ giảng thao thao bất tuyệt về giáo lý của họ. Vị mục sư cai quản nhà thờ rất kiên nhẫn, ông đứng nghe giảng một hồi lâu rồi đưa tay ra hiệu và nói với các nhà truyền đạo:
- Thưa quí ông, tôi xin được đưa ra một đề nghị: tôi hiện đang có một ly thuốc độc, nếu các ông uống ly thuốc độc này mà vẫn còn sống thì không những tôi mà tất cả mọi người giáo dân đang có mặt ở đây cũng sẽ bỏ đạo của chúng tôi để gia nhập vào giáo phái của các ông; nhưng nếu các ông không uống ly thuốc độc này thì tôi chỉ có thể kết luận là các ông chỉ là những nhà truyền đạo giả hiệu của Tin mừng bởi vì các ông không tin tưởng ở Chúa là Ðấng, như các ông vừa mới loan báo, sẽ không bao giờ để các ông phải chết.
Nghe thế, các nhà truyền đạo không biết phải làm như thế nào. Họ liền kéo nhau đến một góc và bàn bạc với nhau: Chúng ta phải làm sao đây?
Cuối cùng, sau một lúc họ đã quyết định, họ trở lại trước mặt vị mục sư và nói: chúng tôi vừa nghĩ ra một kế hoạch, xin mời ông cứ uống thuốc độc, chúng tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông sống lại.
Giữa những điều chúng ta tuyên xưng và những gì chúng ta sống; giữa những gì chúng ta rao giảng và những gì chúng ta làm chứng luôn có khoảng cách. Ðạt được thống nhất giữa lời nói và hành động, giữa tin và sống, giữa nhà thờ và cuộc sống không phải là chuyện dễ. Mỗi ngày chúng ta vấp phạm đến bao nhiêu lần, mỗi ngày chúng ta chối bỏ đức tin của chúng ta biết bao nhiêu lần.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta điều ấy, mượn hình ảnh của cây và trái, của ngôi nhà và nền móng Ngài kêu gọi chúng ta sống điều chúng ta tin, thực hành điều chúng ta rao giảng. Thánh Giacôbê tông đồ đã diễn đạt một cách tuyệt hảo lời dạy của Chúa Giêsu khi ngài nói: "Ðức tin không có thực hành là đức tin chết". Tin mà không sống điều mình tin thì cũng chẳng khác nào không có đức tin.
Trong thông điệp Rao Giảng Tin Mừng, ban hành vào năm 1975, Ðức Cố Giáo Hoàng Phaolô VI đã trình bày giáo huấn của Giáo Hội về việc rao giảng Tin Mừng. Trong số 14 của thông điệp, ngài viết: "Rao giảng Tin Mừng là ân sủng và ơn gọi riêng của Giáo Hội, là bản sắc sâu xa của Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu là để rao giảng Tin Mừng, nghĩa là để rao truyền và giảng dạy để trở thành máng thông ân". Như vậy, mục đích của rao giảng Tin Mừng là thay đổi tấm lòng của con người, việc công bố Tin Mừng phải được thực thi trước tiên bằng chứng từ của cuộc sống. Ðức Phaolô VI khẳng định: "Con người thời đại thích nghe các chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này là các chứng nhân".
Chúng ta đang sống trong thời đại của bùng nổ thông tin. Con người thời đại đang choáng ngộp vì lượng thông tin, họ mệt mỏi vì những lời nói suông. Thời đại của thông tin cũng là thời của khủng hoảng về lời nói, đây chính là thách đố của người tín hữu Kitô. Nếu cuộc sống của họ không là một thể hiện của niềm tin của họ, nếu cuộc sống đời thường của họ hoàn toàn cách biệt và xa lạ với những gì tuyên xưng trong nhà thờ thì cộng đồng của họ dù có được tập trung trong một nhà thờ dù nguy nga đồ sộ đến đâu cũng vẫn là một đám ma buồn tẻ hơn là một cộng đồng có sức sống.
Sống đạo và truyền đạo là một ơn và là một nghĩa vụ của người tín hữu Kitô. Chúng ta cảm tạ Chúa đã trao phó cho chúng ta một nhiệm vụ cao cả như thế.
Nguyện xin Ngài ban ơn giúp sức cho cuộc sống mỗi ngày của chúng ta trở thành lời tuyên xưng và rao giảng sống động cho mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Nói hay làm dở
Tại sao anh em gọi Thầy: Lạy Thầy, Lạy Chúa! mà anh không làm điều Thầy dạy?
“Ai đến với Thầy, và nghe những điều Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em người ấy ví được như ai. Người ấy được ví như một người khi xây nhà, đã cuốc đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây cững chắc. Còn ai nghe mà không thực hành, thì ví được như người xây nhà ngay trên mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào, nhà sụp đổ ngay và bị phá hủy tan tành.” (Lc. 6, 46-49)
Những bài thuyết trình càng hay, càng đáng thở dài, hứa nhiều làm ít: Lạy Chúa, lạy Chúa, kêu dễ dàng và bao nhiêu cũng được, nhưng vào việc lại chậm trễ ươn hèn chẳng làm điều cam kết chi cả. Đức Kitô phải khó chịu khi nói ra điều này và không nhịn được nên kêu gọi người ta phải chú ý đến nó.
Nói hay làm dở, ai trong chúng ta cũng không nhiều thì ít, rất đơn giản, có đầy trong thực tế hằng ngày. Chúa đã chỉ cho chúng ta thấy rõ điều đó khi so sánh nói mà không làm giống như xây nhà trên cát không có nền chắc chắn. Mưa sa lũ lụt và bão làm nhà sụp đổ. Nói và làm, thì như người xây nhà trên đá, nước dâng lên, sóng vỗ, nhà vẫn không lay chuyển. Cũng như trồng cây trên đất tốt, sẽ gặt được mùa bội thu hoa trái tốt đẹp.
Chỉ đến nghe Đức Kitô giảng thì không đủ. Phải sống lời Chúa. Cầu nguyện nhiều không đủ, phải cải tạo cách nghĩ và cách làm. Chỉ chấp nhận những đòi hỏi vác thập giá Đức Kitô xuông chưa đủ. Phải biết kết hiệp với Người khi gặp gian nan, thử thách, gặp đau khổ, nghịch cảnh. Phải biết đón nhận những đau khổ trong mầu nhiệm sự chết để hy vọng tràn trề được sống lại vui mừng.
Chỉ nhận biết cần thiết phải hy sinh vì lý do đức tin đòi chấp nhận sự vô lý, thì không đủ, còn phải sẵn lòng hy sinh liên lỉ, dầu phải chiến đấu cam go để giải thoát những tấn công của những khuynh hứng xấu xa tàn bạo.
Chỉ kêu gào công lý và bác ái không đủ, phải chính mình đương đầu với những bất công, bất nhân, dù biết rằng mình không luôn luôn chiến thắng. Như thế, chúng ta có thể nuôi hy vọng trở nên người không nói hay, nhưng làm hay.
Suy Niệm 6: NGƯỜI KHÔN XÂY NHÀ TRÊN ĐÁ (Lc 6, 43-49)
Người xưa thường coi việc: “Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà” là ba việc hệ trọng trong đời người. Thật vậy, nếu không kinh nghiệm về việc xem trâu, người nông dân dễ bị mua phải con trâu lười hay không biết làm việc. Cũng vậy, nếu không tìm hiểu cho kỹ, không chừng khi lấy vợ, chúng ta lấy phải cô vợ “cảnh” thì thật là tai họa cả đời. Tương tự như hai việc trên, công việc làm nhà cũng rất quan trọng. Nếu không biết tính toán, suy xét và nhất là nơi chốn, chúng ta dễ bị hậu quả nặng nề là căn nhà siêu vẹo do sức nặng và độ lún chênh lệch nên dễ làm cho căn nhà bị đổ nát, hoặc không đón được hướng gió tốt, sẽ dễ dàng gây nên sự ngột ngạt ...
Hôm nay, Đức Giêsu nói đến việc xây dựng cuộc đời của mỗi người ngang qua hình ảnh xây dựng căn nhà.
Không ai dám cả gan để xây nhà trên nền cát! Cũng vậy, không có người nào dại dột đến độ phó dâng cuộc đời của mình cho kẻ chẳng hơn mình là bao? Hay đi tin một người mà do chính mình tưởng tượng rồi bịa ra để tôn thờ!
Khi Đức Giêsu nói đến độ bền chắc của đá, hay xây nhà trên nền móng bằng đá, Ngài muốn nói đến sự bền vững nơi những ai biết đặt đời mình trong bàn tay của Chúa, biết xây dựng cuộc sống trên nền tảng Tin Mừng.
Thật vậy, những người đón nhận, lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa thì được ví như người khôn ngoan xây nhà trên nền đá vững chắc. Ngược lại, những người nghe rồi bỏ bê không thực hành thì được ví như người ngu xây nhà trên cát và hệ quả là bị nước cuốn trôi và tòa nhà sẽ sụp đổ tan tành.
Mong sao, mỗi người chúng ta luôn biết khát khao lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Sẵn sàng để Lời Chúa chi phối và là kim chỉ nam cho cuộc đời mình. Được như thế, chúng ta mới thực sự trở thành người khôn ngoan vì đã xây căn nhà cuộc đời của mình trên nền tảng vững chắc là chính Lời Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở nên những viên đá sống động nhờ biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Xin cũng cho chúng con luôn ý thức mình cũng cần phải chung tay cộng góp để xây dựng tòa nhà Giáo Hội bằng chính những gương sáng của mình trong đời sống. Amen.
Ngọc Biển SSP