Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
10/08 Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt
- Viết bởi Ga 12, 24-26
Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt.
Thứ hai tuần 19 thường niên – THÁNH LÔRENXÔ, PHÓ TẾ, TỬ ĐẠO. Lễ kính.
"Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó".
* Phó tế Lôrenxô chịu tử đạo tại Rôma ngày 10 tháng 8 năm 258, sau đức Xít-tô II bốn ngày. Chuyện kể rằng người phải chịu cực hình lửa thiêu trên một chiếc giường sắt sau khi người đã phân phát cho người nghèo tài sản của cộng đoàn. Ngay từ thế kỷ IV, lòng tôn kính người đã phổ biến trong Hội Thánh.
Lời Chúa: Ga 12, 24-26
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thật, Ta nói thật với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Mang nhiều hoa trái
Suy niệm:
Khi nghĩ đến cái chết sắp đến của mình,
Đức Giêsu lại nghĩ đến thân phận hạt lúa mì.
Ngài nói một điều mà ai cũng biết như một định luật tự nhiên,
một điều chẳng làm ai ngỡ ngàng kinh ngạc.
Nếu một hạt lúa rơi xuống đất và không chết đi, nó trơ trọi một mình;
nhưng nếu nó chết đi, nó mới mang nhiều hoa trái” (c. 24).
Đức Giêsu ví mình như hạt lúa đem gieo.
Điều kiện để đời Ngài đơm bông kết trái, đó là cái chết.
Không chấp nhận chết đi, hạt lúa vẫn chỉ là hạt lúa trơ trọi.
Đức Giêsu không muốn mình là thứ hạt lúa ấy,
được bao bọc vững chắc bởi lớp vỏ, cố giữ cho mình được nguyên vẹn,
vì thế cũng chẳng chịu vươn ra khỏi mình,
chẳng dám đánh mất chính mình để nảy mầm sinh hạt.
Đức Giêsu đã đón lấy cái chết như con đường để sự sống sinh sôi.
Cái chết của Ngài trên thập giá có khả năng kéo được mọi người lên (Ga 12, 32),
và thu hút cả vũ trụ về với Thiên Chúa.
Có một hạt lúa mang tên Giêsu.
Hạt lúa ấy đã chấp nhận chịu mục nát,
để cả thế giới trở thành đồng lúa thơm trĩu hạt.
Mỗi Kitô hữu cũng là một hạt lúa, được mời gọi để sống như hạt lúa Giêsu.
“Ai yêu mạng sống của mình, thì sẽ mất nó;
còn ai ghét mạng sống của mình ở trần gian này,
thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (c. 25).
Vấn đề là yêu hay ghét cuộc sống ở đời này.
Kitô hữu không phải là những kẻ chán đời hay khinh rẻ cuộc đời tại thế.
Ghét mạng sống ở đây chỉ có nghĩa là không đặt nó lên chỗ cao nhất,
không để nó chiếm chỗ của Thiên Chúa.
Chính khi nhận ra giá trị tương đối của cuộc đời trần thế này,
chúng ta mới có hy vọng giữ được nó mãi mãi.
Ngược lại, thái độ bám chặt vào đời này, gắn bó với nó một cách lệch lạc,
lại dẫn đến việc đánh mất hạnh phúc, cả đời này lẫn đời sau.
Thánh Laurensô đã bị thiêu sống ở Rôma trên một chiếc giường sắt,
sau khi ngài đã phân phát tài sản của cộng đoàn cho người nghèo.
Thầy phó tế Laurensô đã sống như người phục vụ cho Đức Kitô (c. 26)
bằng cuộc sống và cái chết tử đạo năm 258.
Được ở bên Thầy Giêsu mãi mãi và được Cha Thầy quý trọng,
đó là điều Laurensô được hưởng và cũng là hy vọng của chúng ta.
Cầu nguyện:
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người,
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. (R. Tagore)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
SUY NIỆM 2: Tài sản của Giáo Hội
Hôm nay, Giáo Hội kính nhớ một vị thánh được tôn kính rất nhiều trong những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo: đó là thánh Lôrenxô.
Thật ra, người ta biết rất ít về vị thánh này...
Theo tương truyền, thì Lôrenxô là một vị phó tế người Roma phục vụ Giáo Hội dưới thời Ðức Giáo Hoàng Sixtô II, và có lẽ cũng đã chịu tử đạo trong thời kỳ bách hại của Hoàng đế Velerianô vào thế kỷ thứ 3.
Chuyện kể lại rằng, cũng như các phó tế trong giai đoạn tiên khởi của Giáo Hội, Lôrenxô được giao phó trách nhiệm quản lý tài sản của Giáo Hội và trợ giúp người nghèo. Ngày nay chúng ta gọi là hoạt động xã hội của Giáo Hội.
Sau khi Ðức Sixtô II bị bắt giữ, phó tế Lôrenxô cũng đã nghĩ ngay đến số phận chờ đợi mình mà Giáo Hội phải trải qua. Ngài tập trung lại tất cả những người nghèo, các bà góa và các em cô nhi tại Roma. Tất cả tài sản của Giáo Hội, ngài phân phát cho họ. Ðể cung cấp đủ cho số người túng thiếu quá đông, ngài đã cho bán cả các chén thánh dùng trong phụng tự...
Hoạt động bác ái quá rầm rộ này không mấy chốc đến tai viên thị trưởng Roma. Ông cho rằng, Giáo Hội phải có rất nhiều kho tàng. Thế là Lôrenxô đã bị điệu đến để cung khai về tất cả tài sản của Giáo Hội. Vị phó tế khôn ngoan này đã xin hoãn lại một thời gian để xếp đặt mọi sự và lập danh sách của cải của Giáo Hội. Trong suốt ba ngày, ngài cho triệu tập những người tàn tật, đui mù, góa bụa, cô nhi... và cho họ xếp hàng đứng trước dinh viên thị trưởng. Rồi ngài dõng dạc tuyên bố: "Ðây là tất cả tài sản của Giáo Hội".
Viên thị trưởng đã cho lời tuyên bố này là một thách thức ngạo mạn. Ông truyền lệnh cho thiêu sống Lôrenxô trên một chiếc giường sắt được nung đỏ. Các lý hình thay phiên nhau để quay trở thân xác của thánh nhân như một con thú...
Câu chuyện trên đây có thể chỉ là sản phẩm của một lòng tôn kính cao độ mà các tín hữu thời sơ khai dành cho một vị thánh. Nhưng, dù không biết nhiều về vị thánh này, chúng ta vẫn có thể xác quyết một điều: ngài đã chết vì Ðức Kitô. Sự thánh thiện ở thời đại nào cũng được định nghĩa như một sự đáp trả hoàn toàn đối với lời mời gọi bước theo Ðức Kitô.
Sống và chết cho Ðức Kitô: đó là ơn gọi từng ngày của người Kitô. Có nhiều hình thức bắt đạo khác nhau: từ những sắc lệnh cấm đạo công khai cho đến những hạn chế tự do tín ngưỡng một cách tinh vi.
Có nhiều hình thức tử đạo khác nhau: từ cảnh đầu rơi, máu đổ cho đến những cái chết dần mòn trong nơi lao tù, cũng như những khước từ hy sinh từng ngày mà mỗi người Kitô đang phải trải qua.
Sống trọn vẹn ơn gọi của người Kitô cũng là một hình thức tử đạo từng ngày. Quyết trí trung thành lắng nghe tiếng nói của lương tâm để không chạy theo những cám dỗ của quyền lực, của tiền bạc, của gian dối, của lường gạt: đó cũng là một cuộc tử đạo dai dẳng.
Quyết trí trung thành với Giáo Hội dù phải chịu những phân biệt đối xử, dù phải bị tước đoạt quyền lợi: đó cũng là một cuộc tử đạo dai dẳng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Hy Sinh Và Phục Vụ
Văn sĩ Robert Jordan Mayer đã viết tập sách có tựa đề Tạ Ơn Chúa. Trong đó ông chia ra ba loại cho đi: cho đi vì tức, cho đi vì bổn phận và cho đi vì lòng biết ơn.
- Kẻ cho đi vì tức thường nói: “Tôi không thích cho đi, vì kẹt quá nên đành phải làm như vậy”. Cho đi vì tức thì cho đi rất ít, vì món quà mà không có người cho thì không giá trị.
- Người cho đi vì bổn phận thì nói: “Tôi phải cho đi”. Cho đi vì bổn phận thì cho đi nhiều hơn là cho đi vì tức, nhưng món quà không hấp dẫn, không màu sắc.
- Người cho đi vì lòng biết ơn thì nói: “Tôi muốn cho đi”. Cho đi vì lòng biết ơn thì cho đi mọi sự và làm cho thế gian nhìn thấy hình ảnh Thiên Chúa.
Chúng ta hãy xét xem mình thuộc loại người nào trong ba mẫu người vừa nêu trên: cho đi vì tức, cho vì bổn phận và cho đi vì lòng biết ơn.
Bài Phúc Âm hôm nay dùng hình ảnh hạt giống phải chết đi mới trổ sinh nhiều hoa trái để nhắc cho môn đệ Chúa Giêsu phải biết sống hình ảnh cao cả nhất của việc cho đi là biết chấp nhận chết đi nơi bản thân, biết hy sinh chính mạng sống mình như thánh Laurensô vì tình yêu Chúa.
Ðịnh luật chết đi để trổ sinh hoa trái đã được Chúa Giêsu Kitô, Thầy chúng ta, thi hành nêu gương trước. “Không ai có tình yêu lớn hơn kẻ hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”, nếu không có mẫu gương đi kèm theo lời dạy đầy cương quyết của Chúa thì có lẽ chúng ta không màng chi đến việc phải chết đi, phải hy sinh chính mạng sống mình để phục vụ điều thiện hảo của anh chị em. Không hy sinh thì sẽ không có phục vụ đích thực và không phục vụ đích thực thì ta chưa phải là đồ đệ đích thực của Chúa.
Lạy Chúa,
Xin hãy khắc ghi thật sâu vào tâm trí con Lời Chúa dạy về hy sinh và phục vụ. Vì công nghiệp của thánh Laurentio tử đạo, xin ban cho con ơn can đảm và trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh và ngay cả khi phải hy sinh mạng sống vì Chúa và vì anh em.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Thánh Laurensô
Ca nhập lễ, lễ thánh Laurensô viết rằng: “Đây là thánh Laurensô, Người đã hiến thân phục vụ Hội Thánh: vì thế Người được phúc tử đạo, để hân hoan tiến lên gặp Chúa Kitô”.
Thánh Laurensô đã kiên cường phục vụ Giáo Hội, phục vụ dân Chúa bất chấp những gian nan, thử thách khó nguy, Ngài đã xứng đáng lãnh nhận triều thiên nước trời.
CON NGƯỜI KIÊN CƯỜNG:
Thánh Laurensô sinh ra trong một gia đình đạo đức: cha mẹ của Ngài là những người rất mực đạo hạnh. Ngài được cha mẹ hạ sinh tại miền Huescô, nước Tây Ban Nha. Vì cha mẹ Ngài rất sùng đạo, luôn ở trung tín với Thiên Chúa, với Hội Thánh và yêu thương mọi người, thánh nhân đã sớm được cha mẹ cho đi du học bên Roma và Ngài sống suốt cuộc đời tại đây. Thánh nhân học giỏi, chuyên cần và siêng năng đạo đức, trau dồi kiến thức, nên chẳng bao lâu tiếng tăm của Ngài đã vang dội khắp nơi. Đức Giáo Hoàng Sixtô liền triệu vời Ngài và đặt Ngài làm phó tế giúp việc cho tòa thánh. Thời GiáoHội sơ khai, chức phó tế không quá 7 người và chỉ có chức đó mới được chọn làm Giáo Hoàng. Cuộc bách đạo lúc đó nổi lên, Giáo Hội gặp sóng gió lớn, các kẻ thù tìm cách bắt vị thủ lãnh Giáo Hội để làm cho đàn chiên tan tác. Thánh Laurensô luôn kiên cường đi thăm viếng các tín hữu nơi các hang toại đạo, giảng dậy và ban các bí tích. Thánh nhân có tấm lòng yêu thương các người nghèo nàn, nhất là những người ốm đau, bệnh tật. Thánh nhân bị bắt, bị tra tấn dã man, nhưng Ngài vẫn một mực trung thành với Thiên Chúa, với Giáo Hội, Ngài cảm nghiệm sâu xa lời Chúa “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”(Ga 12,26)
THÁNH NHÂN LÃNH PHÚC THIÊN ĐÀNG:
Nhà vua đã tìm mọi cách để dụ dỗ thánh nhân bỏ đạo, nhưng thánh Laurensô đã một mực trung thành với Chúa và nhất quyết không bao giờ bỏ đạo. Vua căm phẫn vì không thuyết phục nổi thánh nhân, nên đã hạ lệnh cho lý hình nung đỏ giường sắt và đặt ngài trên đó. Thánh nhân đã vui cười chịu đựng và sau cùng đã ra đi về với Chúa trong bình an ngày 8 tháng 8 năm 258.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chính vì được tình yêu Chúa nung nấu, thánh phó tế Laurensô đã trung thành phục vụ và đạt tới phúc tử đạo vinh quang. Xin cho dân Chúa biết thực hành những điều Người dậy và noi gương Người mà yêu mến Chúa và anh em (Lời nguyện Nhập lễ, Lễ thánh Laurensô, phó tế, tử đạo).
Lm. Nguyễn Hưng Lợi
SUY NIỆM 5: Thánh Laurensô (+258)
Thánh Laurensô là vị thánh tử đạo Roma được biết đến nhiều nhất. Từ thế kỷ thứ IV, một mình Ngài ngoài các thánh tông đồ, được kính nhớ với thánh lễ vọng. Sách nghi thức Đức giáo hoàng Lêô thế kỷ VI có không dưới 14 lễ kính Ngài. Trời Trung Cổ đã có ít là 34 thánh đường ở Roma dâng kính thánh nhân. Ngài là vị thánh bổn mạng thứ ba của thành Roma.
Tại sao thánh Laurensô được tôn kính cách đặc biệt như vậy? Thật khó mà trả lời được. Nếu bản tường thuật về cuộc tử đạo của Ngài là đúng sự thật, câu trả lời ấy sẽ rõ rệt.
Sau đây là tóm lược bản tường thuật ấy:
Là tổng phó tế của thánh Xystô, Laurensô gặp Đức giáo hoàng đang bị bắt giữ và trách Ngài đã không cho mình được chia sẻ triều thiên tử đạo với Ngài. Đức giáo hoàng hứa rằng trong vài ngày nữa, Laurensô sẽ được lãnh phúc tử đạo, đau đớn hơn nhiều. Ngài còn truyền cho vị tổng phó tế của mình hãy phân phát tài sản Giáo hội cho người nghèo. Khi những lời này tới tai hoàng đế Đêciô, ông truyền bắt giam Laurensô. Thánh nhân cải hóa được viên gác ngục Hippolytô. Bị điệu tới trước viên tổng trấn Valrianô, Ngài được lệnh phải nhượng lại các tài sản của Giáo hội. Được dành cho ba ngày để thâu thập của cải, Ngài đã mang tất cả tài sản phân phát cho kẻ nghèo. Hết hạn Ngài dẫn họ tới trình với tổng trấn Valêrianô, như là tài sản của Giáo hội. Viên tổng trấn nổi giận, buộc thánh nhân phải dâng lễ tiến các thần minh.
Từ khước, thánh nhân phải chịu mọi cực hình, bị nướng trên sắt nung đỏ. Trên giường chết lạ lùng này, Ngài còn chế nhạo Dêciô, người đích thân ngồi ghế chánh án rằng: - Một bên đã chín rồi hãy chiên bên kia nữa mà ăn.
Bản tường thuật khó tin nổi. Tác giả đã lẫn lộn hai vị hoàng đế Dêciô và Valêrianô khi coi ông này là tổng trấn dưới quyền ông kia. Hơn nữa, Đức Xystô không bị xử mà bị chặt đầu khi bị giam.
Một cách tổng quát, người ta công nhận rằng: thánh Laurensô là một trong bảy vị phó tế của Đức Xystô và chịu tử đạo vào năm 158. Nhưng nếu Ngài chỉ bị chặt đầu như các bạn thì chắc không đủ lý do để được tôn kính đặc biệt như vậy.
(Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý – Theo Vết Chân Người)
SUY NIỆM 6: Thánh LAURENSÔ Phó Tế Tử Đạo (...258)
(Enzo Lodi)
Thánh nhân phải chịu mọi cực hình, bị nướng trên sắt nung đỏ. Trên giường chết lạ lùng này, Ngài còn chế nhạo Đêciô, người đích thân ngồi ghế chánh án rằng : - Một bên đã chín rồi hãy chiên bên kia nữa mà ăn.
1. Lịch sử - phụng vụ
Theo Depositio Martyrum trong lịch thánh Jérôme, thánh Lôrensô đã tử đạo tại Rôma, trên đường Tiburtina ngày 10 tháng 8 năm 258, bốn ngày sau các phó tế khác bị xử tử cùng với Đức giáo hoàng Sixte II, lễ kính ngày 7 tháng 8 (xem Cyprien, Ep 80). Từ thế kỷ thứ IV, người ta đã mừng lễ kính Ngài với một đêm canh thức trọng thể và từ Roma, việc tôn kính Ngài đã lan khắp Giáo hội rất sớm. Các thánh Ambroise ở Milan, Augustin ở Châu Phi và Maxime ở Turin đều có lưu lại những bài giảng về lễ kính thánh nhân. Và sau thánh Ambroise, thánh Prudence cũng kể lại cuộc tử đạo của thánh nhân (công vụ của Polychrone và các bạn, khoảng năm 550). Mặc dầu nhiều chi tiết trong cuộc khổ nạn đó mang tính huyền thoại, nhưng lại là nguồn gốc cho các điệp ca trong thần vụ. Thánh Ambroise khi kể lại cuộc tử nạn đó một thế kỷ sau nói rằng thánh Laurent bị thiêu trên một giàn sắt. Xác Ngài được an táng trên đường Tiburtina, nửa thế kỷ sau, hoàng đế Constantin cho xây một thánh đưòng trên mộ Ngài: Đây chính là đại giáo đường thánh Laurent ngoại thành, một trong bảy nhà thờ lớn ở Roma, và là nhà thờ chính trong tám nhà thờ của thành phố Rôma dâng kính thánh nhân.
2. Thông điệp và tính thời sự
Các lời nguyện thánh lễ cũng như các bản văn khác trong phụng vụ Giờ kinh tô điểm hình ảnh phó tế Lôrensô, vị tử đạo nổi tiếng nhất của Giáo hội Rôma.
Lời nguyện trong ngày nhắc lại lòng bác ái nồng nhiệt của vị thánh phó tế luôn trung thành với việc phục vụ đến nổi được vinh quang tử đạo, như lời thánh Augustin đã mô tả rất xác đáng: “Anh em biết đấy, trong Giáo hội ở Rôma, Ngài thi hành chức năng phó tế. Chính tại đây Ngài trình bày về Máu thánh Đức Kitô, và chính tại đây Ngài đổ Máu mình vì thánh danh Đức Kitô” (phụng vụ bài đọc: bài giảng của thánh Augustin)
Chuyện về các hành vi trong cuộc khổ nạn của thánh Laurent kể rằng thánh nhân bị bắt vì không tuân luật thuế quan buộc nộp các tài sản Giáo hội cho chính quyền hoàng đế. Sau khi xin khất lại, Ngài tập hợp những người nghèo khó, ốm đau lại và hai ngày sau, Ngài đưa họ đến trước mặt quan quyền và thưa: “Đây là tài sản của Giáo hội!”. Thánh nhân liền bị bắt và tra khảo nhiều lần. Ngài đã trả lời các lý hình: “Tôi tôn thờ Thiên Chúa của tôi, tôi chỉ phụng sự một mình Chúa, nên tôi đâu sợ cái tra khảo của các ông”. Bị đặt trên một vỉ sắt dưới để than cháy, Ngài còn quay lại phía lý hình, đùa: “Anh trở tôi được rồi đấy, bên này chín rồi”. Đức giáo hoàng Damase cho khắc trên mộ ngài: “đòn roi, lý hình, lửa thiêu, hình khổ, xích xiềng, tất cả điều thua đức tin của Lôrensô”.
Niềm tin và lòng bác ái của thánh Laurent cũng như đức can đảm anh hùng của Ngài qua nhiều thế kỷ là nguồn cảm hứng cho lời cầu nguyện của Giáo hội, lòng đạo đức của giáo dân, rất nhiều tranh ảnh, thậm chí cả kiến trúc ... Quả thế, Philippe II, để thực hiện lời hứa với thánh Lôrensô, đã xây Escorial trong tỉnh Madrid, theo dạng thiết kế một giàn sắt nhắc nhớ dụng cụ tra tấn thánh phó tế Lôrensô xưa. Còn thánh Bênado thế kỷ XII thì dâng tu viện Thoronet vùng Var để kính thánh nhân. Thánh Lôrensô được nhắc tới trong lời nguyện Thánh Thể và có tên trong kinh cầu các thánh.
SUY NIỆM 7: Thánh LAURENSÔ Phó Tế Tử Đạo
(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Suy niệm 7.1 Ca nhập lễ, lễ thánh Laurensô viết rằng: "Đây là thánh Laurensô, Người đã hiến thân phục vụ Hội Thánh: vì thế Người được phúc tử đạo, để hân hoan tiến lên gặp Chúa Kitô”. Thánh Laurensô đã kiên cường phục vụ Giáo Hội, phục vụ dân Chúa bất chấp những gian nan, thử thách khó nguy, Ngài đã xứng đáng lãnh nhận triều thiên nước trời.
CON NGƯỜI KIÊN CƯỜNG:
Thánh Laurensô sinh ra trong một gia đình đạo đức: cha mẹ của Ngài là những người rất mực đạo hạnh. Ngài được cha mẹ hạ sinh tại miền Huescô, nước Tây Ban Nha. Vì cha mẹ Ngài rất sùng đạo, luôn ở trung tín với Thiên Chúa, với Hội Thánh và yêu thương mọi người, thánh nhân đã sớm được cha mẹ cho đi du học bên Roma và Ngài sống suốt cuộc đời tại đây. Thánh nhân học giỏi, chuyên cần và siêng năng đạo đức, trau dồi kiến thức, nên chẳng bao lâu tiếng tăm của Ngài đã vang dội khắp nơi. Đức Giáo Hoàng Sixtô liền triệu vời Ngài và đặt Ngài làm phó tế giúp việc cho tòa thánh.
Thời Giáo Hội sơ khai, chức phó tế không quá 7 người và chỉ có chức đó mới được chọn làm Giáo Hoàng. Cuộc bách đạo lúc đó nổi lên, Giáo Hội gặp sóng gió lớn, các kẻ thù tìm cách bắt vị thủ lãnh Giáo Hội để làm cho đàn chiên tan tác. Thánh Laurensô luôn kiên cường đi thăm viếng các tín hữu nơi các hang toại đạo, giảng dạy và ban các bí tích. Thánh nhân có tấm lòng yêu thương các người nghèo nàn, nhất là những người ốm đau, bệnh tật. Thánh nhân bị bắt, bị tra tấn dã man, nhưng Ngài vẫn một mực trung thành với Thiên Chúa, với Giáo Hội, Ngài cảm nghiệm sâu xa lời Chúa: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12,26).
THÁNH NHÂN LÃNH PHÚC THIÊN ĐÀNG:
Nhà vua đã tìm mọi cách để dụ dỗ thánh nhân bỏ đạo, nhưng thánh Laurensô đã một mực trung thành với Chúa và nhất quyết không bao giờ bỏ đạo. Vua căm phẫn vì không thuyết phục nổi thánh nhân, nên đã hạ lệnh cho lý hình nung đỏ giường sắt và đặt ngài trên đó. Thánh nhân đã vui cười chịu đựng và sau cùng đã ra đi về với Chúa trong bình an ngày 8 tháng 8 năm 258.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chính vì được tình yêu Chúa nung nấu, thánh phó tế Laurensô đã trung thành phục vụ và đạt tới phúc tử đạo vinh quang. Xin cho dân Chúa biết thực hành những điều Người dậy và noi gương Người mà yêu mến Chúa và anh em (lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Laurensô, phó tế, tử đạo).
Suy niệm 7.2 x. Ga 12,24-26
“Nếu hạt lúc mì rơi xuống đất không thối đi thì nó không sinh hoa kết quả”. Ðây là hình ảnh nói về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu: chết mới nói lên lời, chết mới được tôn vinh. "Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta" "Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu" (Ga 15, 13). Ðức Giêsu đã khải hoàn đi vào Giêrusalem như một vị vua hiền lành và khiêm tốn, cỡi trên mình lừa. Cuộc khải hoàn vinh thăng đưa Chúa Giêsu vào bữa tiệc ly và Ngài loan báo về cuộc tôn vinh sắp tới của Ngài (Ga 12,20-36). Chính lúc chết đi, Chúa Giêsu được Cha của Ngài tôn vinh. Giờ khổ nạn và cái chết thập giá của Chúa Giêsu là giờ Ngài được tôn vinh (Ga 12, 23).
Ðiều này rất phù hợp với cuộc đời của thánh Lô-ren-xô phó tế, vì rằng Ngài được sinh ra ở nước Tây Ban Nha, miền Huescô trong một gia đình đạo đức, thánh thiện. Ngài sống quãng đời niên thiếu với sự ấp ủ yêu thương của cha mẹ. Ngài được cha mẹ uấn nắn, giáo dục trong sự kính sợ Chúa, tuân theo ý Chúa. Thánh nhân sớm rời bỏ gia đình, nước Tây Ban Nha để du học bên Roma và sống trọn quãng đường trần thế ở Roma.
Thánh nhân luôn chứng tỏ là người ham học, tìm tòi và trau dồi tài đức. Ngài có cuộc sống trí thức và đạo đức trổi vượt. Danh tiếng Ngài lan tỏa khắp nơi, vì thế chẳng bao lâu Ðức Thánh Cha biết và cất nhắc Ngài. Ðức Giáo Hoàng Sixtô triệu Ngài và đặt Ngài làm phó tế giúp việc Tòa Thánh. Vào thời thánh nhân, chức phó tế thuộc giáo triều không được quá 7 người và chỉ có những vị này mới có cơ may lên ngôi Giáo Hoàng.
Thánh Lô-ren-xô luôn nêu gương đời sống thánh thiện cho nhiều người. Ngài sống sự sống của Chúa như lời thánh Phaolô nói: "Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Ðức Kitô sống trong tôi". Thánh nhân đã hoàn toàn lột bỏ con người cũ và mặc lấy chính Ðức Kitô. Cuộc sống của Ngài hoàn toàn thuộc về Chúa. Thánh nhân hăng say làm việc tông đồ. Ðiều Ngài lãnh nhận nơi Chúa: "Các con đã lãnh nhận nhưng không, phải cho nhưng không", thánh Lô-ren-xô đã trao ban lại tình yêu cho nhiều người khác, nhất nhất để tôn vinh Ðức Kitô. Ngài ý thức mãnh liệt: "Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi", nên trước những thử thách, trước phong ba bão táp của cuộc đời, thánh nhân vẫn luôn đặt tin tưởng vào Chúa: "Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế". Thánh Lô-ren-xô cảm nghiệm sâu xa lời của Chúa Giêsu: "Thầy đây đừng sợ".
Thánh nhân luôn kiên cường trước cơn bách đạo khốc liệt thời Valerius. Ðánh chủ chiên, chiên sẽ tan nát. Ðó là chủ trương của những kẻ cấm đạo. Thánh nhân đã miệt mài, siêng năng thăm viếng các kitô hữu đang trú ẩn trong các hang toại đạo, khuyến khích, động viên họ kiên cường giữ đạo, giảng dậy cho họ và ban bí tích cho họ. Thánh nhân có tấm lòng yêu thương những người nghèo, những người cùng khổ, những người bệnh hoạn tật nguyền. Hăng say với sứ mạng loan truyền ơn cứu độ và giới thiệu Ðức Kitô cho người khác, miệt mài, cần cù với công việc, Ngài không sợ hiểm nguy vì Ngài xác tín Chúa luôn hiện diện và Thánh Thần luôn hướng dẫn chỉ bảo. Ngài cứ xông xáo với công việc cứu thế. Ðể cho vinh danh Chúa được chiếu tỏa mãnh liệt, Chúa đã gửi thánh giá cho Ngài. Ngài bị bắt, bị tra tấn dã man và vì không lay chuyển được lòng tin của thánh Lô-ren-xô bỏ đạo, nhà vua đã căm tức cho nung đỏ giường sắt và đặt Ngài nằm trên giường đã được nung đỏ. Ngài quyết một lòng trung thành với Ðức Kitô. Thánh nhân tuy đau đớn thân xác tột độ, nhưng Ngài vẫn tươi cười chịu đựng những cực hình không sao diễn tả nổi. Thánh nhân đã an nghỉ trong Chúa ngày 10/8/258 trong tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Thánh nhân được đặt làm bổn mạng của những người nghèo và là quan thầy của những quản thủ thư viện, quan thầy của phòng cháy chữa cháy và những nghề nghiệp có liên quan tới lửa.
Mừng lễ thánh Lô-ren-xô phó tế, ta hãy xin Người cầu thay nguyện giúp ta để ta luôn cảm nghiệm sâu xa lời Chúa: "giả như hạt lúa gieo xuống đất không chết đi, thì nó trơ trọi một mình".
Xin Chúa ban cho chúng ta luôn biết noi gương bắt chước thánh nhân yêu thương người nghèo và nhiệt tình với sứ mạng mỗi người đã được Giáo Hội trao phó.
Xin thánh Lô-ren-xô thắp lên trong lòng chúng con ngọn lửa yêu mến Chúa.
SUY NIỆM 8: CHẾT VÌ TIN MỪNG MỚI SỐNG THỰC
(http://phaolomoi.net // Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH)
Phó tế Laurensô Tử Đạo vào ngày 10 tháng 8 năm 258, vào đầu thế kỉ IV các tín hữu rất sùng kính Ngài. Ngay tại Roma, có tới 35 nhà thờ mang tên Laurensô. Suốt năm phụng vụ có 25 lễ kính, trong đó có thánh lễ kính thánh Laurensô và có Kinh Chiều I. Ngài là một trong bảy Phó tế sống bên cạnh Đức Giáo hoàng. Thời ấy, Phó tế được bầu làm Giáo hoàng, nhiệm vụ của Phó tế là giữ tài sản của Giáo Hội do giáo dân dâng cúng để chia sẻ vào việc từ thiện. Đêxyô, vua Rôma đã ra lệnh chặt đầu Đức Giáo Hoàng Sistus II và các phó tế đang dâng lễ với Đức Giáo Hoàng trong hang toại đạo. Riêng có phó tế Laurensô được tha mạng nhằm bắt ông phải hiến tất cả tài sản của Giáo Hội cho vua, vì Laurensô hứa với vua là 3 ngày sau sẽ dâng tất cả. Trở về nhà, Laurensô lấy tất cả tài sản đang quản lý chia cho mọi người nghèo, rồi ông dẫn những người nghèo ấy đến trước mặt vua, thưa: “Đây là tài sản của Hội Thánh, tôi dâng hết cho ngài”. Vua căm phẫn trước cử chỉ ngạo ngược ấy của Laurensô, nên sai nung lửa tấm sắt đỏ rực, rồi trói Laurensô quăng trên đó, nằm trên tấm sắt Laurensô còn khôi hài nói với vua: “Thưa ngài, phía này chín rồi, ngài có thể ăn được!”
Như vậy, Laurensô đã thực thi Lời Kinh Thánh: “Mỗi người hãy cho tùy theo ý định của lòng mình, không buồn phiền, không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương” (2 Cr 9,7: Bài đọc). Laurensô không chỉ rộng tay chia sẻ của cải do giáo dân đóng góp, mà đặc biệt ông đã chia chính mạng sống mình vì Tin Mừng, để làm cho Lời Đức Giêsu nói về những kẻ theo Ngài được ứng nghiệm: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35).
Đó là định luật tất yếu phải xảy ra cho những ai theo Đức Giêsu để sinh nhiều hoa trái việc lành, như Ngài nói: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24: Tin Mừng). Hạt giống vật chất nếu chết đi là thối luôn, không thể mọc lên được. Do đó, ta phải hiểu Lời Đức Giê-su nói “hạt lúa mì chết đi” là ám chỉ chính Ngài sẽ bị giết và được ông Nicôđêmô lãnh xác Ngài an táng trong lòng đất, chưa trọn ba ngày, thì “hạt giống” này đã mọc lên (Chúa Giêsu Phục Sinh), để rồi Ngài sai các Tông Đồ đi khắp thế giới tập họp môn đệ cho Ngài bằng hai việc: ban Thánh Tẩy cho họ, và dạy họ mọi điều Đức Giê-su đã truyền cho các ông (x Mt 28,19-20), và cứ như thế cho tới ngày cánh chung, thì từ “hạt lúa mì” ấy đã chết sinh ra biết bao hạt khác, mà thánh Gioan được Chúa cho nhìn thấy trước: “Con Chiên đứng trên núi Sion và với 144 ngàn người, mang danh của Ngài và danh của Cha Ngài viết trên trán họ. Ngoài 144 ngàn người ấy, những người đã được mua chuộc từ cõi đất, họ là những kẻ không bị dây dớm với phụ nữ vì họ trinh khiết; họ được tháp tùng theo Chiên Con bất cứ Ngài đi đâu; họ đã được mua chuộc giữa loài người, làm tiên thường hiến dâng Thiên Chúa và Con Chiên” (Kh 14,1.3b-4).
Những người được Chúa cứu độ đã diễn tả người tôi trung Thiên Chúa mà ngôn sứ Isaia đã nói : “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ. Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53, 10-12).
Người tôi trung gương mẫu nhất của Thiên Chúa chính là Đức Giêsu, Ngài muốn chúng ta giữ được mạng sống mình, thì phải đi trên con đường Ngài đã đi (x 1 Ga 2,6). Chính vì vậy mà Đức Giêsu kêu gọi: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy,Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy”( Ga.12,26 Tin Mừng).
“Đức Giêsu ở đâu, người phục vụ Ngài cũng ở đó” nghĩa là muốn hưởng vinh quang trong Nước Thiên Chúa, thì trước đó phải phục vụ giống Đức Giêsu ở đồi Sọ. Tuy nhiên chưa phải chết khổ nhục như Ngài, thì ít ra lúc ở với Chúa Giêsu trong Thánh Lễ, phải quảng đại dâng nhiều thời giờ để nghe, tìm hiểu và suy gẫm Lời Chúa, dù có ngăn trở công ăn việc làm, có tổn thương đến cơ thể làm mỏi mệt, nhưng vì yêu lại thích sự khó nhọc đó. Kìa cô cậu yêu nhau cả ngày làm việc vất vả mỏi mệt, thế mà tối hẹn nhau nơi vắng trò chuyện tới khuya, nói nói, nghe nghe, quên hết cả thời gian. Tại sao người Công Giáo biết rằng vì yêu Chúa mà dự Lễ mới được Chúa ban nhiều ơn, thế mà không muốn nghe giảng nhiều điều, chỉ thích càng vắn càng tốt, 10 phút là dài. Nếu chủ chăn và giáo dân ai cũng nghĩ như thế, thì hỏi rằng có còn yêu Chúa hay là bất hòa, vì cô cậu lúc bất hòa thì chẳng nghe nhau nữa, cực chẳng đã nói mấy điều cho xong việc!
Vậy chỉ những người vì tin yêu Chúa Giêsu mà đến dự Lễ, thì mới được Ngài hứa: “Thầy sẽ đi dọn chỗ cho anh em và khi Thầy trở lại, Thầy sẽ đem anh em đi với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng được ở đó” (Ga.14,3), như Ngài đã xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng được ở đó với Con, để chúng được chiêm ngưỡng vinh quang của Con mà Cha đã ban cho Con” (Ga 17,20). Đó là “phúc lộc Chúa dành cho người biết thương xót và cho vay mượn” (Tv 112/111, 5a: Đáp ca). Vì vậy Đức Giêsu quả quyết: “Ai theo Tôi, sẽ không đi trong bóng tối nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga.8,12bc Tung hô Tin Mừng)
THUỘC LÒNG
-Hc. 29,12-13: Rộng tay chia sẻ là con chất đầy kho lẫm, và con sẽ thoát mọi nỗi gian nguy. Của chia sẻ sẽ nên vũ khí giúp con chống địch thù, lợi hại hơn cả khiên dầy giáo nhọn.
-Tb. 4,10-11: Việc chia sẻ cứu cho khỏi chết và không để rơi vào cõi âm ty. Vì trước nhan Đấng Tối Cao, của chia sẻ là một lễ vật quý giá.
-2Cor. 9,6-8: Ai gieo ít thì gặt ít, ai gieo nhiều thì gặt nhiều. Mỗi người hãy cho tuỳ theo quyết định của lòng mình, không buồn phiền, cũng không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương. Vả lại, Thiên Chúa có đủ quyền tuôn đổ xuống trên anh em mọi thứ ân huệ, để anh em vừa được luôn đầy đủ mọi mặt, vừa được dư thừa mà làm mọi việc thiện.
-2Cor .9,9: Người rộng tay ban phát cho kẻ túng nghèo, đức công chính của họ tồn tại muôn đời.
-1Ga .3,17: Đừng ai yêu bằng đầu lưỡi, nhưng yêu bằng việc làm thật sự.
-Cv. 20,35: Cho thì có phúc hơn là lấy.
-Giáo sư Alfred Adler nói: Kẻ nào không quan tâm đến người khác, chẳng những nó gặp nhiều khó khăn trên đời, mà còn là kẻ gây tác hại cho xã hội.
-Linh mục Carlyle nói: Muốn biết lòng nhân ái của ai, chỉ cần xem cách người đó đối xử với các tôi tớ.
-Nhà tâm lý học Ive nói: Phần lớn nỗi thống khổ của người nghèo là họ nhìn thấy cách dùng tiền của phung phí, vô ý thức của người giàu.
SUY NIỆM 9: Thánh LAURENSÔ Phó Tế Tử Đạo
(http://tinvuixuanloc.vn//Nt. M. Anh Thư OP)
Sự sống con người vốn đáng quý, bởi nó bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Trong sự vâng phục Chúa Cha, Chúa Giêsu đã được sai đến để yêu thương cứu chuộc con người khỏi mọi tội lỗi, và cho con người sự sống vĩnh cửu. Noi gương Chúa Giêsu, có những người đã dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu bất diệt vượt trên mọi đau khổ và cả cái chết. Đó chính là thánh Laurensô tử đạo mà hôm nay Giáo hội mừng kính.
Thánh Laurensô sinh tại một thị trấn ở Aragon, nước Tây Ban Nha. Ngay từ khi còn trẻ, Laurensô đã được gửi đi du học ở Rôma. Tại đó, ngài đã được Đức Giáo hoàng Xíttô II trao chức phó tế để phục vụ trong nhà thờ và giúp đỡ những người nghèo như “tài sản của Giáo hội”.
Vào tháng 8 năm 258, Hoàng đế Valerianô ra lệnh cấm đạo, Đức Giáo hoàng Xíttô II bị kết án tử hình cùng với sáu phó tế, trong đó có Laurensô. Khi bị bắt, viên tổng trấn Roma yêu cầu Laurensô giao tất cả tài sản của Giáo hội cho đế chế. Tuy nhiên, theo lời chỉ dạy của Đức Giáo Hoàng, trước khi ra pháp trường, Laurensô đã phân phát hết tiền của, tài sản của Giáo hội cho người nghèo, ngài còn bán cả các phẩm phục quý giá để có thêm tiền phân phát.
Khi tổng trấn chất vấn về số tài sản ấy thì Laurensô đã khẳng định những người nghèo, những người khuyết tật, người mù lòa và đau khổ mới là những thực sự là ‘tài sản của Giáo hội’. Viên tổng trấn nổi giận, buộc Laurensô phải dâng lễ tiến các thần minh. Vị phó tế Laurensô đã từ khước dù phải chịu mọi cực hình, bị nướng trên giàn sắt nung đỏ và đã lãnh phúc tử đạo vào ngày 10 tháng 8 năm 258 tại Rôma. Trước khi chết, ngài đã cầu xin cho mọi tín hữu trong thành phố Rôma được ơn trở lại với Ðức Kitô, và cho Ðức Tin Công Giáo được lan tràn khắp thế giới.
Thánh Laurensô là vị thánh tử đạo được các tín hữu ở Rôma yêu mến một cách đặc biệt. Thời Trung Cổ, đã có ít là 34 thánh đường ở Rôma được dâng kính thánh nhân. Ngài cũng là vị thánh bổn mạng thứ ba của thành Roma.
Thánh Laurensô đã sống triệt để Lời Chúa dạy, như hạt lúa mì chịu chôn vùi dưới đất, thánh nhân đã chịu mục nát trong thân phận con người để trỗi dậy mạnh mẽ trong sức sống mới của Thiên Chúa. “Người được lãnh nhận Đấng trao ban chính mình tại bàn tiệc thánh thế nào, thì người cũng trao hiến chính mình làm của ăn cho người khác như vậy. Khi sống người yêu mến Đức Kitô, thì lúc chết người cũng bắt chước Đức Kitô. Các thánh tử đạo đã đi theo Đức Kitô đến nỗi chịu đổ máu, chịu đau khổ như Người. Các thánh tử đạo đã đi theo Đức Kitô, nhưng không phải chỉ có các ngài thôi. Quả thế, các ngài đi qua, cầu vẫn chưa sập; các ngài uống nước, suối vẫn chưa khô. Thưa anh em, vườn của Chúa có đủ các loại hoa: không phải chỉ có hoa hồng tử đạo, mà còn có hoa huệ khiết trinh, có dây trường xuân hôn nhân, có hoa tím góa bụa”. [1]
Mỗi người chúng ta dù ở bậc sống nào cũng được mời gọi góp hương sắc cho vườn hoa của Giáo hội. Chúng ta đừng bao giờ thất vọng về chính mình khi gặp những đau khổ thử thách, đó chính là trường đào luyện để chúng ta nên giống Đức Kitô “Người vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6-8). Chúng ta dễ dàng theo Chúa khi được những điều may lành, nhưng cũng dễ dàng bỏ Chúa khi gặp khó khăn thử thách. Vì thế chúng ta phải tha thiết xin Chúa ban ơn để chúng ta đủ sức đón nhận những nghịch cảnh trong niềm tín thác. Các thánh cũng là những con người yếu đuối như chúng ta, nhưng các ngài biết dựa vào sức mạnh của Chúa và quy hướng mọi sự về Chúa.
Cuộc sống xã hội hôm nay luôn cần những con người biết yêu mến và bảo vệ Giáo hội, nhất là những người nghèo khổ. Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảm nhận rằng “Khi đời sống nội tâm tự khép kín trên những hứng thú riêng tư, thì sẽ không còn chỗ cho kẻ khác, người nghèo không tìm được lối vào; người ta không còn nghe được tiếng của Thiên Chúa; không còn hưởng được niềm vui êm ái tình yêu của Người, không còn hứng thú làm việc thiện” (EG 2). Vì thế, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta hãy canh tân việc gặp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu Kitô để có được sức bật mới mẻ tràn đầy niềm vui, biết ra đi trao tặng yêu thương, sự quan tâm chia sẻ với những người nghèo khổ và những ai đang đói khát tình thương cứu độ.
Ngày hôm nay, chúng ta không còn phải tử đạo qua gươm giáo hay lửa nung thiêu đốt, nhưng chúng ta có thể làm chứng cho Tin Mừng bằng thái độ sống công bằng bác ái, bằng lòng thương cảm đối với những người nghèo khổ, người bị gạt ra bên lề xã hội, những con người bị tước mất quyền sống và quyền được hưởng tự do là con cái Chúa. Noi gương thánh Laurensô, chúng ta hãy cùng nắm lấy tay nhau tạo nên một vòng tròn yêu thương, lan tỏa và tiếp thêm sức mạnh của Chúa cho thế giới đang từng ngày nghèo đi và thiếu vắng tình thương.
Lạy Chúa Giêsu là Đấng đã đến thế gian để yêu thương và cứu chuộc nhân loại nghèo khổ, xin cho chúng con biết đón nhận những điều trái ý trong cuộc sống, biết thánh hóa những đau khổ trở thành ân phúc thiêng liêng mang lại cho chúng con niềm hạnh phúc đích thực.
Thánh Laurensô đã một lòng vì Chúa, vì Giáo hội và những người nghèo, xin cho chúng con cũng có được tâm tình và lòng quảng đại như thánh nhân, trung kiên làm chứng cho Chúa dù phải chịu đau khổ bách hại. Amen.
09/08 Chúa Giêsu đi trên mặt biển
- Viết bởi Mt 14, 22-33
Chúa Giêsu đi trên mặt biển
Chúa Nhật 19 Thường Niên năm A.
"Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy".
Lời Chúa: Mt 14, 22-33
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Đến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa!", và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!" Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán: "Hãy đến!" Phêrô xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: "Lạy Thầy, xin cứu con!" Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?" Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: 1V. 19, 9a.11-13a; Rm. 9, 1-5; Mt. 14, 22-33
1. Xin cho con đi trên mặt nước.
(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Giữa lúc dân chúng định tôn Đức Giêsu làm Vua,
sau khi đã được no nê bánh và cá, thì Ngài lại giải tán họ,
và buộc các môn đệ phải chèo thuyền qua bờ bên kia.
Yên lặng trở lại với nơi hoang vắng.
Chỉ còn một mình Đức Giêsu, cầu nguyện.
Ngài chìm sâu trong gặp gỡ Cha, Đấng sai Ngài.
Nhưng Đức Giêsu không quên các môn đệ.
Ngài biết họ đang vật lộn với sóng gió, một mình.
Kinh nghiệm cam go này thật cần cho họ.
Mãi gần sáng, Ngài mới đi trên mặt nước mà đến.
Các môn đệ tưởng là ma, nên kêu la sợ hãi.
Đức Giêsu trấn an họ: "Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ."
Tuy còn ngờ vực, Phêrô đã dám liều đề nghị:
"Nếu quả là Thầy, thì xin cho con
được đi trên mặt nước mà đến với Thầy."
Thật là một lời đề nghị làm ta kinh ngạc.
Phêrô có thể chỉ cần nói:
Nếu quả là Thầy, thì xin cho sóng gió yên lặng.
Nói như thế dễ hơn nhiều, ít nguy hiểm hơn nhiều.
Nhưng Phêrô đã chấp nhận dấn thân nghiêm túc.
Nếu không phải là Thầy, thì thật là dại dột.
Nhưng nếu đúng là Thầy, thì ông tin
mình cũng đi được trên mặt nước như Thầy.
Đức Giêsu chấp nhận đề nghị của Phêrô: "Cứ đến."
Thế là Phêrô bước ra, đi trên mặt nước, đến với Đức Giêsu.
Thật không thể tưởng tượng nổi,
mặt nước trở nên cứng như đá,
hay con người có đức tin trở nên nhẹ bổng.
Phêrô đi được bao xa, ta không rõ,
nhưng lòng ông thì cứ reo lên sau mỗi bước đi:
"Đúng là Thầy rồi!"
Phải tin thì mới dám xin đi trên mặt nước,
nhưng phải dám đi trên mặt nước, thì mới tin trọn vẹn.
Cần ngắm nhìn những bước chân của Phêrô,
những bước chân của lòng tin mạnh mẽ.
Nhưng khi gió lồng lên dữ dội, nỗi sợ hãi ùa vào,
lòng tin bị chao đi với sóng, lúc đó Phêrô thấy mình bị hút xuống lòng biển.
Ông chỉ kịp kêu lên: "Lạy Thầy, xin cứu con".
Bàn tay Chúa đưa ra nắm lấy ông và đưa ông về thuyền.
"Người kém tin, tại sao lại hoài nghi!"
Hoài nghi và sợ hãi đã làm Phêrô trở nên nặng nề, và nhận chìm ông xuống.
Chúng ta chỉ bắt đầu hiểu tin là gì
khi phải chịu lênh đênh giữa sóng gió và đêm tối
chỉ vì Chúa buộc phải ra đi, khi dám xin đi trên mặt nước
dù Chúa chỉ là cái bóng trước mặt.
Gợi Ý Chia Sẻ
Qua đoạn Tin Mừng trên đây, bạn có thấy Đức Giêsu là một nhà huấn luyện giỏi để cho các môn đệ trưởng thành hơn trong đức tin không?
Thánh Phêrô đã có kinh nghiệm đi trên mặt nước. Trong đời bạn, bạn có một kinh nghiệm kinh khủng tương tự như thế không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy
sống đức tin giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
2. Lạy Thầy xin cứu con - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Khi thấy ai gặp nhiều gian nan khốn khó, người ta nói: “Đời anh sóng gió nhiều quá” hay nói: “anh phong trần quá” - phong là gió, trần là cát bụi. Thực ra, cuộc đời con người ở trần gian, không nhiều thì ít, ai cũng gặp sóng gió bão táp. Những cơn lốc của thiên tai gây sập nhà nát cửa như lụt lội, hạn hán, giông tố, động đất...
Những cơn lốc của hận thù, tham lam bất công, bóc lột đàn áp con người còn gây ra những tai họa như chiến tranh, khủng bố ma túy, cờ bạc, đàng điếm, sida...
Những cơn lốc của chính mình, của lười biếng, kiêu căng, mù quáng, bệnh tật, cố chấp gây ra cho mình bao nhiêu thảm họa. Đến nỗi Napôlêon đã thắng hàng vạn quân địch, nhưng lại bị thua chính mình: Ông đã thua tính kiêu căng và tính mê đắm giai nhân.
Lời Chúa hôm nay nêu rõ ba nguyên nhân đã làm cho con người phải điêu đứng.
Nguyên nhân thứ nhất là thiên nhiên như sóng gió, lụt lội, động đất, các môn đệ hầu hết là dân chài lưới, thế mà giữa biển khơi sóng gió đã làm các ông hoảng hồn đến nỗi thấy bóng Thầy đi trên mặt biển, các ông đã la hét sợ hãi tưởng thủy quái.
Nguyên nhân thứ hai là người khác: Người khác đây là dân tộc Do thái. Họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được thấy vinh quang Chúa, được ban tặng Lời Chúa là chính Con Một Thiên Chúa xuống thế làm người là Đức Giêsu Kitô cùng huyết thống nòi giống với họ, là anh em, là đồng bào của họ (Bài II) thế mà họ không đón Người, không đón nhận vinh quang Thiên Chúa. Điều đó làm Phaolô vô cùng đau khổ, đau khổ đến nỗi Phaolô dù phải gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo không thể tách Phaolô ra khỏi tình yêu Đức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ Phaolô sẵn sàng chịu nguyền rủa, xa lìa Đức Kitô để cho anh em đồng bào ông trở về với Đức Kitô (Rm. 8, 35 và 9, 1-5).
Êlia cũng chịu đau khổ như thế vì đồng bào ông. Ông đã phải liều mạng đến kéo họ về với Thiên Chúa, giải thoát họ khỏi gông cùm tà thần, dù một mình phải thách thức với cả ngàn sư sãi thờ thần Baal của hoàng hậu và nhà vua. Dù thắng cuộc và sư sãi thần Baal bị tiêu diệt, ông vẫn phải trốn thoát tay hung tàn của hoàng hậu lùng bắt (Bài I).
Nguyên nhân thứ ba là chính mình gây nên khốn khó cho mình. Phêrô được Chúa cho đi trên mặt biển đến với Ngài, khi đang được hưởng ơn lạ như thế; ông lại hoài nghi, đâm lo sợ, thế là ông bị biển cả nhận chìm ông. May mắn ông đã vội vã kêu lên: Lạy Thầy, xin cứu con.
“Lạy Thầy, xin cứu con”. Chính con nhiều lần cũng bị nhận chìm trong biển trần gian do nhiều hoàn cảnh éo le của cuộc đời và do chính con đã gây ra...
Lời cầu nguyện: “Lạy Thầy, xin cứu con” phải là lời cầu nguyện liên tục của con hàng ngày, từng giây từng phút trong đời con. Xin cho con biết luôn luôn kêu lên: “Lạy Thầy, xin cứu con” vì từng giây từng phút không có Thầy cứu giúp, không có ơn Thầy gìn giữ, không có ơn Thầy soi sáng, không có ơn Thầy cứu độ, chắc chắn con bị nhận chìm dưới đáy vực thẳm tội lỗi, dưới đáy địa ngục tử thần. “Lạy Thầy, xin cứu con”.
3. Thầy đây! Đừng sợ! - Huệ Minh
Với cái nhìn của nhiều người, cảnh ngộ Đức Giêsu đi trên mặt biển có thể chỉ có vẻ như một câu chuyện thần tiên, một giai thoại tuyệt vời chỉ tốt cho trẻ em và những kẻ ngây thơ. Phải nói rằng rất khác với các phép lạ chữa bệnh mà chúng ta tưởng lập tức hiểu hết ý nghĩa bởi vì những phép lạ ấy “có ích”, thoạt tiên ta ngạc nhiên về những cử chỉ bề ngoài xem ra vô ích: tại sao Đức Giêsu lại không gặp trực tiếp các bạn hữu của mình? vì rất hay quên rằng các phép lạ của Đức Giêsu trước hết là những “dấu chỉ”: Đó là những cử chỉ nói được, hoặc có một điều gì nói với ta. Bên ngoài chỉ là tượng trưng cho dấu chỉ, giá trị thật nằm bên dưới những dấu chỉ đó và chỉ bằng con mắt đức tin mới khám phá ra được giá trị thật của từng biến cố, từng phép lạ.
Trang Tin Mừng hôm nay, ta thấy hai khía cạnh: trước hết, Chúa Giêsu cầu nguyện trên núi, xem ra như Ngài xa cách không còn quan tâm gì đến những nguy hiểm mà các Tông Đồ đang gặp sóng to gió lớn trên mặt biển hồ Galilêa. Mặt hồ của toàn cảnh là cảnh tượng các Tông Đồ đang trên thuyền và phải tận lực chiến đấu với những nguy hiểm. Các ngài là những ngư phủ trên biển hồ Galilêa này, và có thể nói là đã quen thuộc với những cơn sóng to gió lớn. Hai khía cạnh này xem ra như không có gì liên hệ với nhau; Thiên Chúa xem ra như hoàn toàn xa lạ, vắng mặt khỏi hoàn cảnh sống của con người, xa lạ, lạnh lùng với những thử thách của con người đang gặp phải.
Và, rõ nét hơn cả ta thấy chuyến vượt “biển” (cũng như truyện Dẹp sóng gió) là một dụ ngôn với cái nền lịch sử, nhằm nêu bật mộtphương diện mới và có mộtkhông hai trong ý nghĩa của bản thân Đức Giêsu: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo nghĩa là Đấng được Thiên Chúa trang bị cho quyền lực thần linh tuyệt đối để cứu độ dân Người.
Matthêu trình bày một cuộc thần hiện dành riêng cho “các kẻ ở trong đò”, nghĩa là cho Giáo Hội của Đấng Phục Sinh: trong Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa Cứu Thế của thời Xuất Hành tiếp tục giải thoát Israel mới khỏi những luồng nước khủng khiếp hằng rình chực nuốt lấy họ (x. Xh 14 và 15). Sự hiện diện đáp cứu của Người giữa cơn bão táp là nền tảng niềm tin của các tín hữu và cho phép họ nói lên cách vững lòng: “Ngài thật là Con Thiên Chúa”.
Các môn đệ đang ra sức chèo chống con thuyền trong cơn bảo tố giữa biển khơi trong đêm vắng. Vì thế, các ông hốt hoảng khi thấy một bóng người trong đêm tối đang đạp trên sóng biển dữ dội mà tiến đến con thuyền của mình. Trước tiếng kêu hoảng hốt của các môn đệ, Đức Giê-su đáp trả:“Thầy đây, đừng sợ”. “Thầy đây” theo nguyên bản Hy lạp “Ego Eimi”. Chúa Giê-su khẳng định thần tính của Ngài. Với những lời khẳng định đó, ta thấy quy chiếu đến việc Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê (Xh 3, 13-15).
Sự kiện Đức Giêsu với quyền lực của Người, không những cứu các môn đệ khỏi bị sóng hành hạ trên biển, mà còn cứu cả Phêrô khỏi chìm xuống biển (14,28-31), chuẩn bị cho chúng ta đón lấy lời tuyên xưng của Phêrô nói rằng Đức Giêsu là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (16, 16). Mặt khác, việc biểu lộ quyền năng thần linh tuyệt đối của Đức Giêsu khi cứu các môn đệ và Phêrô bằng cách đi trên mặt biển cũng giúp nhận mạc khải nói rằng Đức Giêsu là Đấng có thể xây dựng và che chở Họi Thánh Người trên “tảng đá” là Phêrô (16,18-19).
Khi Phêrô tin và phó thác vào Thầy, ông mới có thể đi trên mặt nước. Ông bị chìm xuống lúc ông nghi ngờ. Thấy gió mạnh, ông sợ, sự sợ hãi trước tai ương của thế gian này lại giúp cho ông tin vào quyền năng của Thầy. Chính lúc ông thôi tin vào Chúa, ông mất quyền đi trên biển, và chìm xuống. Khi đi được trên mặt nước chứng tỏ Phêrô tin, lúc chìm xuống cho thấy ông không tin. Thật là đức tin ngược đời, vì chính lúc ông không cậy dựa vào Chúa, ông bị chìm, ông lại kêu Chúa cứu.
Phêrô, được Chúa Giêsu mời gọi bằng kinh nghiệm đức tin. Ông xin Thầy cho được đi trên mặt nước (Mt 14, 28). Chúa Giêsu đã ban cho ông quyền đi trên biển. Biển, tượng trưng cho mãnh lực của sự dữ và sự chết ; Chúa Giêsu đi trên mặt biển, là đi trên sự chết, thể hiện sự chiến thắng của Người trên sự dữ và sự chết. Toàn bộ mầu nhiệm Phục sinh là ở chỗ Chúa Giêsu chiến thắng sự chết và biển cả. Theo quan niệm của người Do thái, biển là sào huyệt của sự chết. Đi trên biển là liều chết. Chính sự rủi ro này mà khi Phêrô đáp lại lời gọi của Chúa Giêsu, “xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước” (Mt 14, 29), là ông giẫm chân trên sự chết. Nên không có lạ, khi ông nghi ngờ.
Trước lời kêu cứu của Phêrô: “Lạy Thầy, xin cứu con!” (Mt 14, 30) Chúa Giêsu đáp lại bằng cử chỉ và lời. Người giơ tay nắm lấy ông và trách: “Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?” (Mt 14, 31) Khi gió thổi mạnh, nỗi sợ hãi và nghi ngờ về quyền năng của Chúa đột nhập vào Phêrô, một con người yếu lòng tin. Cứu ông lên khỏi nước, Chúa Giêsu dạy ông rằng, tình thầy trò không phải là đức tin của người môn đệ, nhưng là lòng trung thành của Thầy. Cảnh tượng trên phơi bày sự cao cả cũng như thấp hèn của người môn đệ. “Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa” (Mt 14, 32-33). Quả thật, niềm tin vào Con Thiên Chúa chỉ có được sau một hành trình dài của đau khổ, chết và phục sinh của Đức Giêsu Con Thiên Chúa.
Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trên biển: “Thầy đây, đừng sợ. Ma đâu có xương có thịt như Thầy có đây“, cũng là lời Chúa nói với các ông sau khi Chúa phục sinh “Tại sao các con run sợ, tại sao các con nghi ngờ… chính Thầy đây, hãy xem tay chân Thầy đây“. Hai khung cảnh khác nhau về thời gian nhưng đều có một điểm chung là run sợ, kém lòng tin và nghi ngờ, cả hai lần Chúa Giêsu đều khẳng định “chính Thầy đây mà” (Lc 24 ; Mt 14).
Người Kitô hữu hôm nay cũng đã có những bước khởi đầu đi theo Chúa gặp thử thách gian nan. Rồi năm tháng trải qua, gió ngược nổi lên, và bắt đầu nhen nhúm những nghi ngờ khiến lòng hoang mang lo sợ. Và thế là, con người nặng dần và muốn chìm nghỉm giữa biển đời sóng gió. Ngày xưa Phêrô chối bỏ đức tin chỉ vì một đứa tớ gái nhà Cai-pha, ai cũng cho là “nhát gan như thỏ đế”, lòng tin mong manh như “chỉ mành treo chuông”; nhưng ngày nay còn hơn thế nữa kia
Phần ta, rồi một ngày nào đó ta phải đương đầu với các cơn cám dỗ không thể tránh được, hãy nhớ rằng Chúa Giêsu buộc chúng ta xuống thuyền ; từ bờ bên này sang bờ bên kia không thể không có sóng gió. Và khi chúng ta thấy những khó khăn, vất vả, mệt nhọc giữa đời vây quanh ta, thuyền của chúng ta đang ở giữa đại dương mênh mông, với những cơn sóng đang tìm cách nhấn chìm đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy vững tin rằng, Con Thiên Chúa sẽ đi trên mặt nước đến gần chúng ta, giơ tay kéo chúng ta lên; Chúa chỉ mong đợi chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.
Tưởng nghĩ hành trình đức tin của người Kitô hữu cũng có những lúc khốn khó lao đao. Dù là người nhiệt tâm và can đảm cách mấy cũng không tránh khỏi tình trạng bị thế gian săn đuổi, đe doạ, và bao chước cám dỗ tấn công. Lắm lúc tưởng như sắp chìm sâu trong bão tố của hận thù, ích kỷ, đam mê. Ngay như thánh Phêrô, vị tông đồ năng nổ và xông xáo nhất trong hàng ngũ các tông đồ, cũng đã từng bị sóng gió làm đảo điên đến nỗi “sắp chìm xuống” (Mt 14, 30). Nhưng khi ông thốt lên lời kêu van, “Lạy Thầy, xin cứu con”, thì bàn tay đỡ nâng của Thiên Chúa đã giải thoát và đem lại bình an ngọt ngào.
Cuộc đời của ta ai cũng đều là một cuộc bể dâu, ba chìm bảy nổi, chín bấp bênh, chẳng ai có thể nắm tay qua đêm. Mọi thứ đều có thể xảy ra trong đêm tối giông tố cuộc đời. Nhưng giữa bão bùng, gió thét gầm hú, tưởng chừng sắp bị nhận chìm vào ba đào, thì Đức Giêsu vẫn luôn thương yêu quan tâm, mà âm thầm, lặng lẽ tìm đến an ủi, che chở, cứu giúp. “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” Nếu tỉnh táo, sốt mến liền nhận ra Người, hân hoan mừng rỡ và bình an ngay lúc hiểm nguy đó. Nếu không, chắc chắn buông xuôi chìm nghỉm, vì thất vọng ê chề, ngỡ là ma quái gọi hồn, sợ hãi la lên: “Ma đấy!” Vậy cứ vững lòng phiêu lưu cùng Chúa Giêsu trên hành trình Nước Trời, dù bao thử thách phong ba bão táp đe dọa.
Phải, bị thử thách và chịu thử thách nhưng không bị đè bẹp, Chúa để cho các Tông Đồ phải chiến đấu với thử thách trong một thời gian mãi đến ba giờ sáng rồi Chúa mới đến với các ngài. Sau biến cố, sau kinh nghiệm và có thể nói được là hai kinh nghiệm, tập thể các Tông Đồ đi trên thuyền và Phêrô muốn đi trên mặt nước đang nổi sóng. Sau kinh nghiệm đó, Chúa Giêsu rút ra bài học cho các ông: “Tại sao các con kém tin thế?”, tại sao không tin rằng Chúa hằng hiện diện bên cạnh, Ngài không xa vắng, Ngài không ngủ quên hay bỏ mặc những kẻ Ngài đã chọn.
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi.”(Ga 14, 27) Đừng bao giờ quên lời dặn ân cần chan chứa tình yêu nồng thắm của Đức Giêsu, Người là Đức Chúa, là Thầy, cùng là Bạn, và là Anh của chúng con.
4. Con thuyền Giáo Hội
Phải chăng đoạn Tin Mừng sáng hôm nay phản ảnh cho một kinh nghiệm sống đức tin của Giáo Hội thời sơ khai? Thực vậy, như một con thuyền tròng trành giữa biển khơi dậy sóng, Giáo Hội chỉ là một cộng đoàn nhỏ bé và yếu đuối giữa một thế gian đối nghịch và không ngừng áp đảo...
Trong cuốn chuyện Quo vadis, tác giả Sienkievich đã đặt Phêrô, người chài lưới già nua và dốt nát trong thế đối diện với Néron, một hoàng đế hùng mạnh, chủ tể của trần gian. Phêrô đã run rẩy, ngẩng mái đầu bạc trắng của mình lên trời cao mà thầm thĩ kêu xin: Lạy Chúa, con biết làm gì với thành phố mà Chúa sai con tới. Của y nào là biển cả và đất liền. Của y nào là muông thú trên mặt đất cũng như thuỷ tộc dưới lòng đại dương. Của y nào là những vương quốc, thành quách và 30 chiến đoàn đang canh giữ. Còn con, lạy Chúa, con chỉ là một tên ngư phủ, sống quanh quẩn trên các mặt sông hồ. Con biết làm gì đây. Làm sao con thắng được sự dữ mà y đã gieo rắc.
Quả là mong manh, bé bỏng và yếu đuối, thế nhưng Giáo Hội vẫn không ngừng đi tới vì tin rằng Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện như lời Ngài xác quyết: Thầy đây, đừng sợ. Cho dẫu đó chỉ là một sự hiện diện vô hình, tưởng chừng như ảo ảnh. Thế nhưng cộng đoàn nhỏ bé ấy đã làm đảo lộn cả lịch sử. Néron đã biến đi như một cơn mộng dữ đẫm máu. Còn Phêrô, người chài lưới già nua và dốt nát vẫn còn đấy, đã chiếm lĩnh đến muôn thuở cả trần gian.
Cũng chính vì thế mà câu chuyện của 2.000 năm về trước luôn là nguồn suy tư và sức mạnh cho Giáo Hội, đặc biệt trong những giai đoạn phải đối diện với những khó khăn và thử thách, với những phong ba và bão táp, để ở đó, Giáo Hội hâm nóng lại niềm tin của mình và can đảm tiến bước.
Trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Pháp vào năm 1989, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đã lấy đoạn Tin Mừng hôm nay làm chủ đề để khai triển suy tư và tăng cường sức mạnh cho một Giáo Hội đã từng có thời kỳ vàng son đáng nhớ, nhưng hôm nay đang phải đối đầu với những vấn đề được xem là bi quan và nan giải.
Đồng thời, nếu hình ảnh Phêrô đi trên sóng biển được nhìn với tư cách người lãnh đạo Giáo Hội, thì Phêrô ấy cũng còn là hình ảnh tượng trưng cho từng người Kitô hữu đang sống trong lòng cuộc đời. Với niềm tin bên cạnh những giây phút nghi nan và ngờ vực. Với những niềm vui mừng xen lẫn những âu lo và sợ hãi. Với quyết tâm giữa những ngả nghiêng và chao đảo. Chính nơi con người Phêrô ấy mà mỗi người chúng ta sẽ nhận ra thân phận mỏng manh và yếu đuối của bản thân. Và nhất là nơi con người Phêrô ấy, chúng ta cần hun nóng lại niềm cậy trông và kêu cầu: Lạy Chúa, xin cứu vớt con.
5. Biển đời.
Có một cậu bé xin đi biển để học nghề làm thuỷ thủ. Ngày nọ trời dông bão, người ta bảo cậu leo lên cột buồn. Leo được nửa phần đầu thì dễ dàng vì cậu cứ đưa mắt ngước lên trời. Nhưng đến lưng chừng, cậu phạm phải một sai lầm, đó là cậu nhìn xuống mặt biển dậy sóng. Thế là cậu bị chóng mặt như muốn ngã xuống. Thấy vậy, một thuỷ thủ già bèn la lên: Này cậu bé, hãy nhìn lên trời. Nghe theo lời chỉ dẫn trên, cuối cùng cậu bé đã leo tới đỉnh cột buồm một cách an toàn.
Lỗi lầm của cậu bé giống hệt lỗi lầm của Phêrô qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Cậu bé đã rời mắt khỏi bầu trời và đã nhìn xuống mặt biển dông bão như Phêrô đã rời mắt khỏi Chúa và nhìn xuống những ngọn sóng.
Điều này cũng thường xảy đến với mỗi người chúng ta. Thực vậy, có những lúc trong cuộc đời, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện đầy quyền năng và yêu thương của Chúa, nhất là những lúc chúng ta được may mắn và những thành công như mỉm cười với chúng ta. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng sóng yên biển lặng. Trái lại cuộc đời của chúng ta cũng có những ngày phong ba và bão táp. Chính trong những giờ phút đen tối này, chúng ta dễ dàng rời xa Chúa, chúng ta dễ dàng từ bỏ Ngài để đi tìm những sự vật khác, để rồi bản thân chúng ta bị chao đảo, mất thăng bằng và chìm xuống.
Đoạm Tin Mừng sáng hôm nay mời gọi chúng ta hãy thẳng thắn kiểm điểm lại đời sống của mình. Nếu lúc này, chúng ta không cảm nhận được sự bình an, niềm vui mừng và hy vọng thì chắc chắn đó là vì chúng ta đã lìa xa Chúa. Nếu như lúc này chúng ta đang chao đảo và như muốn chìm xuống đáy nước, thì chắc hẳn đó là vì chúng ta đã không còn tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa. Hãy quay trở về cùng Chúa và hãy kêu lên như thánh Phêrô: Lạy Chúa, xin cứu vớt con. Chắc chắn Ngài sẽ ra tay phù trợ, bởi vì Ngài không phải chỉ là một Thiên Chúa quyền năng, có thể làm được những sự chúng ta kêu van, mà hơn thế nữa, Ngài còn là một người cha đầy lòng thương xót, luôn sẵn sàng cứu vớt và nâng đỡ chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc. Có Chúa cùng đi với chúng ta trên vạn nẻo đường đời, chúng ta sẽ không còn sợ hãi trước những phong ba và bão táp, chúng ta sẽ không còn lo lắng trước những gian nan và thử thách như lời thánh vịnh đã viết: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công, thành trì Chúa chẳng giữ trông, hùng binh kiện tước cũng không ra gì.
Và để kết luận, chúng ta cùng nhau ghi nhớ tư tưởng sau đây của một câu danh ngôn: Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Trái lại, nếu không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
6. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Có một người nọ ví cuộc đời của mình như một người lữ hành đang đi trên một bãi biển đầy cát. Khi nhìn lại cuộc hành trình, anh nhận ra hai điều kỳ lạ:
Điều thứ nhất: Khi anh thành công, hạnh phúc, vui sướng... anh thấy có bốn dấu chân trên cát. Đó là hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Thiên Chúa đồng hành để chia sẻ niềm vui với anh.
Điều thứ hai: Khi anh thất bại, đau khổ, buồn sầu...anh chỉ thấy có hai dấu chân trên cát. Và anh nghĩ đó là hai dấu chân của mình. Thiên Chúa đã bỏ rơi khi anh thất bại. Thiên Chúa đã vắng bóng khi anh đau khổ.
Sau đó, anh thắc mắc với Chúa: “Khi con thành công, hạnh phúc thì Chúa lại đồng hành với con, đi với con. Nhưng khi con thất bại, đau khổ là những lúc con cần Chúa nhất thì Chúa lại bỏ rơi con. Tại sao Chúa lại đối xử với con như thế?”
Chúa trả lời: “Khi con vui thì Ta đi bên cạnh con, đi với con, song hành cùng con. Còn khi con buồn, đau khổ, thất vọng thì Ta lại vác con trên vai của Ta. Cho nên dấu chân trên cát là của Ta chứ không phải của con.” (Câu chuyện sưu tầm trên Internet).
Trong cuộc sống, có lẽ những lúc thất bại, đau khổ, buồn sầu chúng ta cũng có cảm giác bị Chúa bỏ rơi như người đàn ông trong câu chuyện trên đây. Nhưng trong thực tế, Ngài không bỏ rơi chúng ta, Ngài luôn ở với chúng ta, đồng hành với chúng ta trong mọi nẻo đường của cuộc sống. Ngài không chỉ đồng hành khi chúng ta hạnh phúc, thành công mà còn đồng hành với chúng ta, ở bên cạnh để an ủi và nâng đỡ mỗi khi chúng ta gặp khó khăn đau khổ. Các bài Lời Chúa hôm nay cũng chứng minh cho chúng ta thấy điều đó.
Bài đọc 1, trích từ sách Các Vua quyển thứ nhất: khi Êlia bênh vực cho dân Chúa, kéo dân Chúa khỏi sự thống trị của tà thần. Ông đã thắng được cả ngàn sư sãi thờ thần Baal của hoàng hậu và nhà vua. Nên ông bị bà hoàng hậu I-de-ven truy bắt. Ông đã phải chạy trốn lên núi Kho-rép. Trong quảng đường chạy trốn đó, có những lúc ông không còn tha thiết với cuộc sống nữa, nhưng Thiên Chúa luôn ở cùng ông. Thiên thần đã dọn bánh cho ông ăn khi đói và nước cho ông uống khi khát (x. 1V 19,1-8). Tại núi Kho-rép, ông còn được Thiên Chúa hiện ra với ông qua làn gió hiu hiu. Sau đó, Thiên Chúa sai ông đi xức dầu cho một số người làm vua và làm ngôn sứ: xức dầu phong Kha-da-ên làm vua A-ram; xức dầu Giê-hu con của Nim-si làm vua Ít-ra-en; xức dầu Ê-li-sa con Sa-phát, người A-vên Mơ-khô-la, làm ngôn sứ (x. 1V 19, 9-18).
Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước. Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua. Nhưng ý muốn của họ không phù hợp với sứ mạng của Ngài. Vì thế, Ngài đã giải tán dân chúng. Trước khi giản tán họ, Ngài đã bảo các môn đệ xuống thuyền đi sang bờ bên kia. Còn Ngài thì lên núi cầu nguyện một mình. Nhưng khi thuyền các môn đệ đi ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió. Cùng lúc đó, Đức Giêsu đi trên mặt nước mà đến với họ. Nhưng các môn đệ tưởng rằng đó là ma và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Ngay lập tức, Đức Giêsu trấn an các ông: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!” Nghe vậy, Thánh Phê-rô đã xin Đức Giêsu “nếu thực sự là Thầy, xin truyền cho con đi trên mặt nước để đến với Thầy. Đây là một lời cầu xin đầy táo bạo và mang tính thách thức. Dầu vậy, Đức Giêsu vẫn chấp nhận lời cầu xin của ông. Phê-rô đã bước xuống khỏi thuyền và đi trên mặt nước. Đó là hành động của niềm tin. Bởi vì, nếu không có niềm tin chắc chắn không ai hành động như thế. Nhưng khi đi được nữa chừng, thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: “Lạy Thầy, xin cứu con!” (Mt 14,30). Đức Giêsu đưa tay cứu lấy ông, đồng thời trách nhẹ ông rằng: “Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?” Sau đó, Đức Giêsu đã làm cho sóng gió yên lặng.
Câu chuyện của tiên tri Êlia và câu chuyện của Phê-rô cho chúng ta thấy phảng phất hình ảnh của Giáo hội, của mỗi người kitô hữu chúng ta trong đó. Thật vậy, lịch sử Giáo hội và cuộc đời mỗi người kitô hữu chúng ta giống như con thuyền chòng chành trên biển khơi. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, Giáo hội bị bách hại một cách khốc liệt và kéo dài suốt 300 năm. Hầu hết các Tông đồ đều chịu Tử đạo. Vô số các kitô hữu bị giết chết. Từ đó tới nay có lẽ không giây phút nào mà Giáo hội không bị bách hại. Lịch sử cuộc đời mỗi người kitô hữu chúng ta cũng vậy: Có những khi chúng ta phải chạy trốn “ba thù” như tiên tri Êlia. Có những khi chúng ta bị nhận chìm xuống tận đáy của vực thẳm như Phê-rô bị nhận chìm xuống biển. Đúng như lời Đức Giêsu tuyên bố: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mỗi ngày mà theo Ta.”(Lc 9,23). Thập giá đó là những sự bắt bớ, tù đày, đòn vọt đến từ những người chống đối Giáo hội. Thập giá đó là khi chúng ta chống chọi với những cám dỗ của thế gian, ma quỷ, xác thịt. Ngoài ra, thập giá cũng có thể là những đau khổ thể xác như bệnh tật, đói khát do thiên nhiên hay do người khác gây nên.
Nhưng cho dù trong hoàn cảnh nào, Giáo hội và các kitô hữu vẫn có thể vượt qua nếu biết nhìn lên Chúa, biết kêu cầu Ngài giúp đỡ. Vì thế, lời kêu cầu của Thánh Phê-rô “Lạy Chúa, xin cứu con,” cũng là lời kêu cầu của mỗi người chúng ta trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Hãy xin Chúa cứu giúp khi chúng ta gặp thử thách đau khổ về thể xác cũng như tinh thần. Hãy xin Chúa cứu giúp khi chúng ta gặp thử thách trong đời sống đức tin. Hãy xin Chúa cứu giúp khi chúng ta gặp những thất bại trong cuộc sống. Trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, nếu chúng ta biết nhìn lên Chúa, kêu cầu Ngài, chắc chắn Ngài sẽ nắm lấy tay chúng ta và bảo rằng: “Cứ yên tâm, Thầy đây đừng sợ.”
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của chúng con nhiều khi cũng cảm thấy hoang mang lo sợ như tiên tri Êlia và Thánh Phê-rô ngày xưa. Xin cho chúng biết cảm nhận được Chúa ở bên cạnh, để luôn biết kêu cầu Chúa và xin Chúa hãy ra tay cứu giúp chúng con. Amen.
7. Một điểm tựa duy nhất trên cõi đời
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Đang chèo thuyền giữa khơi trong bóng đêm dày đặc, các môn đệ bỗng phát hiện một bóng ma chập chờn trên sóng nước. Mọi người hốt hoảng la lên. Nào ngờ đó lại là Chúa Giêsu. Ngài trấn an họ: "Chính Thầy đây! Đừng sợ!". Biết vậy, Phêrô hăm hở đòi đi trên nước như Thầy: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài thì xin truyền cho con đi trên mặt nước và đến cùng Ngài".
Được Chúa chấp thuận, Phêrô bước ra khỏi thuyền, bước chân chao đảo trên sóng nước như người say. Thế rồi một cơn gió mạnh thổi đến, nước xô ập vào người làm Phêrô chới với. Ông hoảng hốt la lên: "Lạy Thầy, xin mau cứu con!".
Lập tức, Chúa Giêsu nắm lấy tay Phêrô, kéo ông lên rồi đưa ông vào thuyền bình an vô sự.
Sống trên đời nầy, chúng ta cũng như Phêrô đi trên mặt biển. Mọi sự chung quanh đều chao đảo, bấp bênh, hỗn độn. Mới đây còn đang vui đùa, nhảy múa reo cười đùng một cái, bỗng hoá ra người thiên cổ! Mạng người quá đỗi mong manh. Kiếp người như ngọn đèn lung linh trước gió, như một giấc chiêm bao!
Cuộc đời đầy dẫy tai ương
Những thiên tai xảy ra dồn dập khắp nơi trên thế giới: bão tố, lũ lụt, động đất, sóng thần, lốc xoáy... đã gây ra tổn thất khủng khiếp về nhân mạng cũng như về tài sản.
Bên cạnh đó, những tai hoạ do con người gây ra cũng khủng khiếp và tàn bạo không kém: chiến tranh, bạo lực, khủng bố, đàn áp, bóc lột, bệnh tật, đói nghèo...
Trước những tai ương hoạn nạn đó, con người biết tìm đâu nơi nương tựa vững bền? Biết bám víu vào ai để bảo toàn mạng sống? Biết dựa vào sức mạnh nào để đương đầu?
Chẳng có chi vững bền
Trên cõi đời nầy, tìm đâu ra một điểm tựa vững bền?
Tựa vào tiền của ư? Tiền của không mua được sức khoẻ và sự sống. Những tỷ phú giàu nhất thế giới cũng không thoát khỏi bệnh tật và chết chóc.
Tựa vào địa vị, chức quyền ư? Những tổng thống, vua chúa quyền lực nhất thế gian cũng chỉ được ngồi trên ngai trong thời hạn ngắn rồi bị truất phế và tất cả không trừ ai đã vùi thây dưới mộ.
Chẳng có gì kiên cố
Toà tháp đôi ở Newyork cao đến 110 tầng (417- 425 mét) đứng uy nghi sừng sững giữa trời, vượt hẳn lên các công trình kiến trúc hoành tráng chung quanh, ngạo nghễ thách thức với cả những cơn địa chấn mạnh nhất, nằm ở trung tâm một đất nước phồn vinh và hùng mạnh nhất thế giới, nhưng có ai ngờ: nó đã bị tấn công, bị bốc cháy ngùn ngụt và sụp đổ tan tành trước sự kinh hoàng của hàng tỉ người trên thế giới, chôn vùi ngót năm ngàn nạn nhân dưới khối bê tông khổng lồ của nó trong một biến cố gây chấn động thế giới vào ngày 11 tháng 9 năm 2001.
Mọi thứ đều bấp bênh
Hành trình của con người trên dương gian không khác chi hành trình của Phêrô trên mặt nước; nhìn trước, nhìn sau, nhìn lui, nhìn tới, mọi thứ đều chao đảo, tất cả đều bấp bênh, chẳng có gì vững bền.
"Ôi nhân sinh là thế: như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao" (Khuyết danh)
Biết nương tựa vào đâu
Con người không thể dựa vào người khác vì tất cả những người khác cũng đang ở trong tư thế bấp bênh, chao đảo như mình. Một chiếc tàu sắp đắm không thể cứu vớt chiếc tàu khác cũng đang chìm đắm như mình.
Cần phải có một "quyền lực" nào đó ở bên trên, ở một bờ bến vững vàng, mới có thể cứu vớt những ai đang chìm đắm trong biển đời chao đảo.
Hãy nắm lấy bàn tay Chúa Giêsu
Duy chỉ có bàn tay Chúa Giêsu mới có đủ quyền năng cứu vớt mọi người trên dương thế và bàn tay ấy luôn đưa tay ra để nâng đỡ, dìu dắt, cứu vớt bao người.
Bàn tay Chúa Giêsu đã đẩy lùi bệnh tật ra khỏi kiếp người: chạm đến những người phong hủi khiến những người nầy được sạch (Mt 8,3); đặt lên "những người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn và họ được chữa lành" (Lc 4, 40)
Bàn tay Chúa Giêsu trả lại ánh sáng cho người mù tối: chạm đến mắt người mù khiến y được sáng. (Mt 9,29. 20, 34)
Bàn tay Chúa Giêsu đã lôi kéo con người ra khỏi cõi chết: nắm lấy bàn tay bé gái đã chết và trả lại sự sống cho em. (Mt 9,24)
Và cũng chính bàn tay ấy đã đưa ra nắm lấy tay Phêrô đang chới với giữa sóng gió hãi hùng, kéo ông khỏi bị chìm đắm và đưa ông vào trong thuyền bình an vô sự. (Mt 14, 31).
Lạy Chúa Giêsu,
Chỉ có Chúa và duy chỉ có một mình Chúa mới là điểm tựa duy nhất cho nhân loại đang chơi vơi, chao đảo giữa biển đời tăm tối hãi hùng.
Bàn tay Chúa vẫn đưa ra và sẵn sàng nắm lấy bàn tay yếu đuối của con người đắm chìm giữa biển đời tối đen đầy sóng gió, nhưng tiếc thay, người đời không chịu để cho Chúa nắm lấy tay mình.
Chúa yêu mến con người và sẵn sàng cứu vớt họ, nhưng đồng thời Chúa cũng luôn tôn trọng tự do của họ.
Xin soi sáng cho nhân loại hôm nay khám phá ra bàn tay đầy quyền năng của Thiên Chúa Tình Yêu đang luôn vươn ra để che chở và cứu vớt mọi người.
Xin cho chúng con được trở thành bàn tay nối dài của Chúa, sẵn sàng đưa ra nắm lấy những bàn tay khác đang gặp sóng gió gian nan.
8. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: Sống trước sự hiện diện uy quyền của Thiên Chúa. (Mt 14,27)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Cuộc sống của chúng ta rất tất bật, bon chen, cực nhọc... Chúng ta cảm thấy mình như bị cuốn hút vào một dòng chảy liên tục, không ngơi nghỉ. Vì thế, có một khoảng thời gian bình lặng như Thánh lễ mỗi ngày Chúa nhựt như thế này thì thật là bổ ích: chúng ta vừa có dịp bình tâm lại, vừa được nghe Lời giáo huấn của Chúa, lại vừa được múc lấy nghị lực từ nơi Chúa, như lời Ngài đã nói "Hỡi những ai lao nhọc, hãy đến với Ta, các ngươi sẽ tìm được sự ngơi nghỉ".
Chúng ta đã đến với Chúa. Xin Chúa cho chúng ta được nghỉ ngơi và bồi dưỡng.
II. Gợi ý sám hối
Chúa luôn hiện diện bên cạnh chúng ta, nhưng rất ít khi chúng ta nhớ tới Ngài.
Chúa sẵn sàng giúp đỡ ta, nhưng ít khi chúng ta xin Ngài giúp.
Nhiều lần chúng ta làm những điều xấu ngay trước mặt Chúa khiến Chúa phải buồn.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (1 V 19,9.11-13)
Thời vua Acáp đang trị vì vương quốc Israel, hoàng hậu Giêsaben một mặt đem việc thờ phượng các thần Baal vào nước, mặt khác tích cực bách hại các ngôn sứ của Yavê. Ngôn sứ Êlia vì dám đương đầu với bà cho nên bị bà truy nã ráo riết. Ông phải chạy trốn lên núi Horép. Ở đó Thiên Chúa đã hiện ra với ông và thêm sức cho ông.
Ðoạn trích này mô tả Thiên Chúa như là Ðấng vô hình nhưng rất gần gũi và hùng mạnh: Êlia không nhìn thấy Ngài, nhưng ông biết Ngài đang hiện diện bên cạnh ông qua một làn gió hiu hiu.
2. Ðáp ca (Tv 84)
Thiên Chúa hiện diện gần gũi con người qua lời giáo huấn, qua ơn cứu độ, qua lòng từ bi của Ngài.
3. Tin Mừng (Mt 14,22-33)
Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều (Tin Mừng Chúa nhựt tuần trước), Ðức Giêsu giục các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia Biển Hồ. Còn Ngài thì ở lại giải tán dân chúng, rồi lên núi cầu nguyện một mình.
Ðến chiều, thuyền các môn đệ gặp bão lớn, các ông vô cùng sợ hãi.
Chính lúc đó Ðức Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các ông. Ban đầu các ông tưởng là ma nên càng sợ hơn nữa. Nhưng khi đã nhận biết đó là Thầy mình thì các ông bình an trở lại và tuyên xưng "Thật Thầy là Con Thiên Chúa".
4. Bài đọc II (Rm 9,1-5) (Chủ đề phụ)
Phaolô là một nhà truyền giáo nhiệt thành. Tuy nhiên ông cảm thấy hầu như bất lực trong việc làm cho những đồng bào Do Thái của ông tin vào Ðức Giêsu Kitô: "Tôi buồn phiền quá đỗi, lòng tôi hằng đau đớn".
Vì yêu thương đồng bào và tha thiết với sự cứu rỗi của đồng bào, ông dám hy sinh tất cả: "Chính tôi đã ao ước được loại khỏi Ðức Kitô vì phần ích của anh em tôi".
Nhưng dù sao ông vẫn hy vọng rằng cuối cùng dân Do Thái sẽ tin, bởi vì dù sao họ cũng "được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang giao ước, lề luật, việc phượng tự và lời hứa".
IV. Gợi ý giảng
1. Tin lúc an bình và khi gặp sóng gió
Hai hình ảnh về một lòng tin đã được thánh Mátthêu nối kết với nhau, như một đối trọng, nói lên sự hiện diện của "Thiên Chúa ở cùng" luôn là điều cần thiết cho các môn đệ năm xưa, cũng như cho mỗi người chúng ta hôm nay. Lòng tin của chúng ta vào Thiên Chúa như một mặt hồ phản chiếu. Có những lúc phẳng lặng trong suốt soi rõ những vẻ đẹp thiên nhiên. Nhưng nhiều khi chỉ một làn gió nhẹ làm gợn sóng, mặt hồ liền xao động, bao nhiêu vẻ đẹp đều tan biến.
Nhìn lại những thăng trầm cuộc đời, mỗi khi chúng ta được sống trong bầu khí an vui, được hài lòng với mọi sở nguyện, chúng ta dễ dàng xác tín và cảm nhận mạnh mẽ sự quan phòng của Chúa. Thế nhưng khi gặp phải những khó khăn thử thách, những điều bất ưng, những nghịch cảnh - như các môn đệ xưa giữa cơn sóng gió - chúng ta cũng dễ dàng hoang mang lo sợ và không nhận ra Ngài. Bởi lẽ chúng ta đã quá lo lắng về cuộc sống và chỉ biết tự lo liệu lấy một mình. Nhưng "Phúc thay ai bước đi không phải nhờ cái nhìn, mà nhờ sự phó thác của niềm tin" (Sh Roger). Quả thật, lòng tin của chúng ta đã nhiều lúc yếu ớt, mong manh - một khi chúng ta không biết tín thác vào Ðức Kitô để có sự bình an, không cùng chia xẻ con đường thập giá, như một phương tiện để hưởng nhờ vinh quang với Ngài.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết đón nhận thử thách như những cơ hội để trưởng thành lòng tin. Và xin cho chúng con luôn suy gẫm lời dạy của Thánh Bênađô: "Khi bạn được tràn đầy ơn phúc thì chớ có nói 'Không gì làm tôi nao núng'. Như thế bạn sẽ không phải rên siết: Chúa vừa giấu tôn nhan, lòng tôi đã bàng hoàng" (Mai Chi, báo CgvDt, số đặc biệt Giáng sinh '95, trang 228-229)
2. Sợ và Tin
Tâm trạng và cảm xúc của Phêrô trong bài Tin Mừng này cho ta thấy liên hệ giữa Sợ và Tin:
Ban đầu khi thuyền gặp bão và không có Ðức Giêsu trong thuyền thì Phêrô và tất cả các môn đệ khác đều sợ.
Ðến khi nhận ra cái bóng kia đang đi trên mặt nước là Ðức Giêsu thì Phêrô tin, dám xin Thầy cho mình cũng bước trên mặt nước được như Thầy.
Nhưng khi thấy sóng to gió lớn, đức tin của ông suy giảm, ông liền sợ và bắt đầu chìm.
Lúc đó ông nhớ tới Chúa, giục lòng tin lại và kêu xin "Lạy Thầy, xin cứu con". Ðức Giêsu đưa tay nắm lấy ông. Ông không còn sợ nữa.
Cuối cùng khi Thầy trò đã ở trên thuyền, Phêrô và các môn đệ không sợ nữa, họ tuyên xưng đức tin "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa".
Bài học ở đây là: Chúng ta sợ khi chúng ta không tin hay khi đức tin yếu kém; nhưng khi tin thì không còn sợ nữa.
3. Những người đi trên mặt nước
Ðức tin không bảo đảm cho người tin khỏi gặp sóng gió, nhưng thêm sức cho người ấy có thể bước đi trên mặt nước giữa sóng gió tơi bời.
Hiểu như thế thì không phải chỉ một mình Phêrô, mà còn rất nhiều người có thể đi trên mặt nước:
A là một sinh viên sống xa gia đình và ở nhà trọ. Sáng Chúa nhật, trời lạnh, chăn ấm. A không muốn ngồi dậy đi lễ. Vả lại anh cũng ngại bị những bè bạn ngoại đạo thấy anh đi lễ và chê cười anh còn mê tín dị đoan. Sau vài phút dằng co, A cương quyết tung chăn ngồi lên chuẩn bị đi lễ. Nghĩa là A bắt đầu bước đi trên mặt nước, bất chấp sóng gió của cơn mê ngủ và sự dị nghị của bạn bè.
B là một cô gái độc thân, sau một lần nhẹ dạ đã phải mang thai. Nếu gia đình hay được, nếu hàng xóm biết được thì... ôi thôi, cô không dám nghĩ tiếp. Cô định đi phá thai. Nhưng rồi cô can đảm giữ lại bào thai ấy. B cũng đang bước đi trên mặt nước bất chấp bao sóng gió phũ phàng của dư luận.
C là một cảnh sát. Một tên bán ma túy hứa cho anh một số tiền lớn, chỉ cần anh làm ngơ cho việc làm của hắn; nếu không hắn sẽ sai đồng bọn đến tính sổ với anh. Nhưng anh cương quyết chối từ. C cũng đang đi trên mặt nước, đi ngược với sức quyến rũ của đồng tiền và sóng gió của đe dọa.
Chúng ta còn có thể nghĩ ra thêm rất nhiều thí dụ khác, trong đó có thí dụ hợp với hoàn cảnh của chính mình. Quả thật, nếu có đức tin sống động, ai cũng có thể bước đi trên mặt nước giữa bao sóng gió của cuộc đời.
4. Chúa hiện diện trong làn gió hiu hiu
Cách viết của tác giả bài đọc I (1V 19,9a.11-13a) hàm chứa một bài học sâu sắc về sự hiện diện của Chúa: Khi ngôn sứ Eâlia đứng trong một hốc núi Horép, ông thấy một luồng gió mạnh xé núi xé non, nhưng Chúa không ở trong đó; ông lại thấy một cơn bão rất mạnh làm cho đất bị động, nhưng Chúa không ở trong bão; ông còn thấy lửa, nhưng Chúa cũng không ở trong lửa. Cuối cùng ông thấy một làn gió hiu hiu, ông được soi sáng cho biết có Chúa ở trong đó, ông liền cung kính lấy khăn che mặt lại để bước ra khỏi hang diện kiến Thiên Chúa.
Bài học là: Thiên Chúa không thích hiện diện trong những thứ ồn ào, uy phong, vĩ đại. Ngài thường hiện diện cách êm ả, âm thầm và nhẹ nhàng trong cái rất bình thường của đời thường.
Chúng ta không nhận ra được sự hiện diện của Chúa bởi vì chúng ta cứ mãi tìm Ngài trong những sự phi thường.
5. Chuyện minh họa
a/ Nếu tin, hãy buông tay ra
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế la lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: "Lạy Chúa". Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: "Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa." Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: "Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế." "Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất." Tiếng ấy trả lời: "Ðược lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra." Người vô thần thất vọng thốt lên: "Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!" (Trích "Món quà giáng sinh")
b/ Ðức tin lớn lao
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:
- Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?
- Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Cha hay thương xót. Người luôn trợ giúp chúng ta dang lúc chúng ta cần. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1. Con thuyền Hội Thánh thường gặp nhiều phong ba bão táp / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho con thuyền Hội Thánh / luôn được an toàn giữa biển trần gian.
2. Hiện nay / có biết bao kẻ chịu thiệt thòi do nạn kỳ thị chủng tộc / màu da / ngôn ngữ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / biết tôn trọng quyền lợi / và phẩm giá của những anh chị em ấy.
3. Ðời sống khó khăn / lại gặp nhiều thất bại hay đau khổ / khiến một số kitô hữu chán nản thất vọng / mất niềm tin vào Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những t1in hữu đang gặp thử thách luôn hiểu rằng / chỉ có Chúa mới giúp họ đạt được thành công và hạnh phúc.
4. Ðức Giêsu đã nói / "Anh em đừng xao xuyến / nhưng hãy tin vào Thầy" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa / giữa muôn vàn thử thách gian nan trong cuộc sống thường ngày.
CT: Lạy Chúa, cuộc sống chúng con thường ngày có quá nhiều buồn phiền và đau khổ, khiến lắm khi chúng con ngã lòng trông cậy. Vậy xin Chúa thương ban ơn trợ giúp, để dù gặp nghịch cảnh đến đâu đi nữa, chúng con vẫn luôn gắn bó và tin yêu Chúa. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Thiên Chúa là Cha luôn hiện diện bên cạnh ta, lúc nào Ngài cũng thấy ta và nghe tiếng ta. Vậy chúng ta hãy cùng nhau dâng lên Ngài lời kinh Lạy Cha.
- Sau kinh Lạy Cha: "... xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được luôn bình an, thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."
VII. Giải tán
Thực là sung sướng khi được biết Chúa yêu thương luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Chúng ta hãy sống với Ngài, làm việc với Ngài và kết hợp tâm tình cùng Ngài trong mọi việc, mọi lúc và mọi nơi.
9. Đừng sợ
(John.W. Martens - Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Hãy can đảm lên. Thầy đây, đừng sợ” (Mt 14,27)
Chỉ đảo qua những bản dịch Kinh Thánh cổ xưa chuyển sang Anh Ngữ, ví dụ bản dịch của Douay-Rheims hay của King James, chúng ta sẽ thấy hạn từ ma (ghost) xuất hiện hơn cả một trăm lần ở mỗi bản dịch. Các bản dịch này chuyển ngữ từ hạn từ Hy Lạp hagios pneuma thành thuật ngữ “Holy ghost” (ma thánh). Trong các bản dịch hiện hành, các dịch giả thường sử dụng từ “Holy Spirit” (thần khí). Từ ngữ “ghost” (ma) trong các văn bản hiện nay chỉ dùng để chuyển ngữ từ tiếng Hy Lạp Phantasma và hạn từ này chỉ xuất hiện trong trình thuật kể lại việc Chúa Giêsu đi trên mặt nước, như được thuật lại trong Mt 14,26. Tuy nhiên, từ ngữ ghost trong bản dịch của Douay-Rheims và King James không ám chỉ ý niệm ma quái, mà nói về một cuộc thần hiện (apparition) hoặc về sự xuất hiện của thần khí (spirit), thì có lẽ chính xác hơn.
Điều này lý giải lý do tại sao ý niệm của từ ngữ này dần dần được chuyển đổi. Ngày nay, người ta dang dần dần loại bỏ những hình ảnh ma quái trong các phim hoạt hình, trong các câu chuyện cho trẻ em, hay trong các hóa trang ngày lễ Halloween (trước lễ các Thánh). Vì thế, thuật ngữ holy ghost (ma thánh thiêng) không còn biểu thị cho 2 khía cạnh “thánh thiện và thiêng liêng” nữa. Ám ảnh sợ hãi không nhất thiết phải gắn liền với hình ảnh ghost (ma). Dẫu sao, khi người ta dùng từ ngữ phantasma với ý niệm về ma quái, hoặc về thần hiện, hoặc nói về thần khí, rõ ràng từ ngữ này không nhắm đến một con người bằng xương bằng thịt bình thường xuất hiện trước mặt các môn đệ. Cho nên, sự liên tưởng khi nhìn thấy một phantasma (có vẻ giống như ma quái) đang đi trên mặt nước khiến các ông khiếp sợ. Họ la toáng lên “ma kìa” và rất kinh khiếp.
Khi có một người lạ hay một người chúng ta không hề quen biết xuất hiện, thường chúng ta sợ. Đây là phản ứng tự nhiên của chúng ta cũng như của các tông đồ. Tuy nhiên, trong lần gặp gỡ này, Đức Giêsu muốn vén mở đôi điều về thần tính của Ngài cho các học trò mình. Thoạt đầu, Chúa đi trên mặt nước cách lạ thường không phải nhằm khải thị thần tính của Ngài, cho dù sự kiện đó rõ ràng biểu hiện năng quyền của Ngài có thể thống trị thiên nhiên. Điều sâu xa Chúa Giêsu muốn truyền đạt cho các môn đệ , giữa lúc các ông đang khiếp hãi, là lời trấn an “Hãy can đảm lên, Thầy đây, đừng sợ”. “Thầy đây” là thuật ngữ dịch từ tiếng Hy Lạp “egô eimi” có nghĩa “Ta là”. Đây cũng là lời bày tỏ căn tính của Đức Chúa Giavê trong cựu ước, được sách xuất hành 3,14 thuật lại. Chúa nói với Môisen: “Ta là (Đấng) Ta Là” – Ego sum qui sum. Đức Giêsu muốn phá tan nỗi khiếp sợ của các môn đệ bằng cách khẳng định sự hiện diện của Ngài giữa cơn giông bão, và sâu xa hơn, đó chính là sự hiện diện của Thiên Chúa nơi hữu thể của Đức Giêsu. Thiên Chúa đang hiển hiện nơi thân xác của chính Đức Giêsu.
Phêrô xuất hiện, và ông đã đáp trả lời trấn an của Thầy mình. Ông tin rằng đây không phải là một bóng ma, một phantasma, nhưng là chính Đức Giêsu Đấng đang gọi mời ông và các môn đệ. Phêrô bắt đầu bước xuống biển và đi trên mặt nước. Nhưng một lần nữa, ông lại sợ khi sóng to gió lớn nổi lên. Quyết tâm của ông bị chao đảo. Ông từ từ lún chìm trong dòng nước. Cho dù Đức Giêsu có nói hay không nói với Phêrô “ Sao kém tin thế”, thì Phêrô cũng đã gào lên với Chúa “Thưa Thầy, xin cứu con”. Đây là một động thái tổng hợp cả hai mặt: vừa nghi ngờ khiến ông bị chìm, vừa bày tỏ lòng tin như một phương sách cuối cùng. Lòng tin đó khởi dẫn ông tìm đến ơn cứu độ giữa lúc bị chìm dưới biển. Không phải chỉ Phêrô, nhưng tất cả những ai lúc đó đang ở trên thuyền, chứng kiến những sự kiện nói lên sự trọng thị đối với Đức Giêsu - chính xác hơn là sự tôn phục Ngài, chúng ta cũng như các tông đồ sẽ phải thốt lên “ Đúng Ngài là con Thiên Chúa”. Đức Giêsu đã mặc khải uy quyền của Ngài vượt trên sức mạnh thiên nhiên và khuất phục cả những mãnh lực làm chúng ta chảo đảo sợ hãi. Nhưng quan trọng hơn hết, Ngài khải thị cho chúng ta chính thần tính của Ngài và biểu tỏ sức mạnh có thể cứu lấy những gì đã hư mất.
Đa phần chúng ta chưa từng có kinh nghiệm về sự hiện diện linh thánh của Thiên Chúa sâu xa như các môn đệ, và trải nghiệm đức tin giống như các ngài đã kinh qua khi thắng vượt được sự nghi ngờ và nỗi sợ hãi. Các ngài e rằng, mình có thể rơi vào những ảo giác bên ngoài nhằm đánh lừa , và cái họ thấy trước mắt chỉ là một bóng ma đầy kinh khiếp. Vì thế, đây là mấu chốt khiến câu chuyện ma trong trình thuật Tin Mừng hôm nay trở nên khá thú vị. Không phải lúc nào Thiên Chúa cũng đến với chúng ta trong hình hài thân xác, hoặc giữa cơn bão tố, hay trong lúc chúng ta chao đảo đức tin. Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta trong muôn vàn cách thái khác nhau. Ngôn sứ Elia đã đến một cái hang trên núi Horeb, ngọn núi của Chúa, để gặp Chúa. Nhưng Chúa không hiện diện trong cơn giông bão. Ngài không có mặt trong cơn động đất, trong núi lửa, nhưng Chúa đến trong “tiếng gió hiu hiu nhè nhẹ”. Sau khi Elia nghe những âm thanh nhẹ nhàng này, ông tiến ra đứng trước cửa hang để đón gặp Chúa. Trong sự thanh vắng sau cơn bão tố, Chúa đã xuất hiện , hoàn toàn tĩnh lặng giữa núi rừng. Thần khí của Chúa đã đến với Elia dưới một một dạng thức thiêng liêng. Người ta có thể sánh ví , Ngài đến giống hệt như một bóng ma vậy.
10. Kêu cầu Danh Thánh Chúa Giêsu
Thánh Phêrô đã kêu lên: "Lạy Ngài, xin cứu giúp con". Lời kêu xin thật ngắn gọn, và khẩn thiết để giúp Phêrô thoát khỏi sóng to gió lớn. Lời kêu cầu đó, Phêrô nhắm vào chính Chúa Giêsu. Vì thế, chúng ta hãy noi gương Phêrô mà kêu cầu Chúa Giêsu, để Ngài ban ơn giúp ta đứng vững trước mọi khó khăn ở đời này và hưởng hạnh phúc ở đời sau.
"Lạy Ngài, xin cứu giúp con". Lời của Phêrô đã thốt lên trong sợ hãi, để xin Chúa Giêsu cứu giúp. Trong hoàn cảnh "ngàn cân treo sợi tóc" Phêrô lo sợ, khi thấy mình nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng! ngay lúc đó Phêrô ý thức Chúa Giêsu đang hiện diện trước mặt ông và sẵn sàng cứu giúp ông. Cho nên, Phêrô đã kêu cầu Danh Thánh Chúa Giêsu một cách dứt khoát và trông cậy vào Ngài. Nhờ đó, Phêrô được Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy và đưa lên ông thuyền bình an. Cho dù, đức tin Phêrô còn yếu kém, như Chúa Giêsu đã khiển trách ông: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi".
Trong xã hội Do Thái thời bấy giờ, Danh Thánh Chúa Giêsu luôn vang lên mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh qua môi miệng của mọi hạng người khi gặp Ngài. Lời kêu cầu của họ thật ngắn gọn: như các thánh Tông đồ đã kêu cầu ngài cứu giúp khi thấy thuyền sắp chìm: "Lạy Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất". Hay người mù ăn xin nài nỉ: "Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy". Ngay khi Chúa Giêsu bị treo trên Thánh giá, danh Thánh của Ngài cũng vang lên qua anh trộm lành: "Lạy Ngài, khi vào Nước của Ngài, xin nhớ đến tôi". Những lời kêu cầu đó, đôi khi chỉ vì sợ sệt hay muốn Ngài chữa lành bệnh mà thôi. Nhưng, tất cả đều tin rằng ChúaGiêsu sẽ giúp đỡ họ. Đối với Chúa Giêsu thì không từ chối một ai, sẵn sàng đón nhận và giúp họ nhận ra giá trị đích thực của cuộc sống tại thế cũng như đời sống mai sau.
Chính Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã cảm nhận đều này. Thánh nữ luôn kêu cầu danh Thánh Chúa Giêsu mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh: khi gặp gian nan thử thách, đau khổ bệnh tật hay an vui hạnh phúc. Đặc biệt, khi đối diện với cái chết thánh nữ thân thưa: "Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa". Những lời kêu cầu đó như là một sức mạnh giúp ngài chấp nhận tất những gì xảy ra trong cuộc đời của thánh nữ. Cho nên, sau khi từ giã thế gian, nụ cười vẫn rạng rỡ trên môi ngài như lúc còn sống.
Có thể nói, Danh Thánh Chúa Giêsu nằm ở trung tâm kinh nguyện Kitô giáo. Tất cả những lời nguyện trong phụng vụ đều kết thúc bằng công thức: "nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con". Cũng như, tột đỉnh của Kinh Kính Mừng Maria là câu "và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ". Đối với chúng ta, nhiều khi chưa nhận ra giá trị của việc kêu cầu Danh Thánh Chúa Giêsu. Thực tế cho thấy nhiều người khi gặp thất bại, đau khổ, đã kêu Danh Thánh Ngài để trách móc: "Lạy Chúa Giêsu, tại sao để cho con đau khổ, bệnh tật" hay có người đã thốt lên: "Giêsu ơi! Tao đã thua mày". Đây là dịp chúng ta hãy xác tín rằng. Chúa Giêsu luôn hiện diện bên cạnh ta và sẵn sàng giúp đỡ ta trong mọi lúc mọi nơi, nếu chúng ta kêu cầu danh Thánh Ngài, cho dù đức tin của chúng ta con yếu kém: như Ngài đã phán: " Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Vì vậy, khi gặp gian nan thử thách, đau khổ, bệnh tật. Chúng ta hãy bày tỏ: "Lạy Chúa Giêsu, xin cứu giúp con. Xin chữa lành con". Chắc hẳn Ngài sẽ cứu chúng ta như đã từng đưa tay nắm lấy Phêrô; Ngài sẽ chữa lành cho chúng ta như từng chữa lành cho người cùi được sạch, người mù được sáng mắt. Đối Chúa Giêsu, Ngài luôn mở rộng bàn tay đón nhận những người tội lỗi biết ăn năn thống hối trở về, như đón nhận Giakêu hay hứa ban cho anh trộm lành được ở với Ngài. Như thế, khi chúng ta tội lỗi, xúc phạm đến Ngài hãy nói với cả con tim mình: "Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con". Cụ thể hơn, một chút nữa, trước khi rước lễ ta hãy ý thức những lời ta sẽ kêu cầu: "Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh". Hơn nữa, khi ta làm việc, khi ăn uống, hay khi nghỉ ngơi...Chúng ta hãy thân thưa: "Lạy Chúa, xin làm việc cùng con,..."
Lời kêu cầu vào Danh Thánh Chúa Giêsu là con đường đơn giản nhất của việc cầu nguyện. Nếu chúng ta thường xuyên lặp đi lặp lại danh Thánh Ngài mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh với một tâm hồn khiêm tốn, tin tưởng, phó thác vào Chúa Giêsu, thì lời kêu cầu này không biến thành những lời lãi nhãi, những giúp chúng ta nắm giữ được Lời Chúa và nhờ lòng kiên nhẫn mà sinh hoa kết quả. Vì, Chúng ta đã ý thức Ngài đang hiện diện và sẵn sàng giúp đỡ ta. Tôi tin chắc rằng Ngài sẽ giúp ta luôn đứng vững trước sống to gió lớn của cuộc đời. Và khi nhắm mắt lìa đời, chúng ta sẽ rạng rỡ môi cười như Thánh nữ Têsêsa: một nụ cười mãn nguyện. Đồng thời, Chúa Giêsu sẽ nói với mỗi người chúng ta như nói với anh trộm lành: "Ngày hôm nay con sẽ ở trên Thiên đàng với Ta". Amen.
11. Suy niệm của Lm. Trầm Phúc
Câu chuyện Tin Mừng chúng ta vừa nghe rất thích hợp với mỗi người chúng ta. Cuộc đời thường được ví như một chiếc thuyền đang đi giữa biển, bị sóng gió tròng trành. Nhất là trong xã hội hôm nay, một xã hội bị đảo lộn từ trong ra ngoài. Con người trở thành nạn nhân của chính mình. Một xã hội mạnh được yếu thua. Một xã hội gần như không có con tim, chỉ có lợi nhuận, quyền thế, tiện nghi. Đua nhau kiếm tiền, bất cần lương tâm. Công bằng bác ái như một thứ xa xỉ dành cho một hạng người nào đó dại khờ còn đeo đuổi mộng mơ đạo đức.
Đời sống đạo đức chúng ta phải phải chống chọi với những làn sóng vô đạo, đang đe dọa đắm chìm chúng ta.
Các tông đồ, theo lệnh Chúa, xuống thuyền để sang bờ bên kia. Nếu có gió thuận họ sẽ căng buồm, nếu không phải chèo. Lần nầy thì gió ngược sóng to họ phải chèo chống và khoảng cách đôi bờ có thể hơn mười cây số, và Chúa Giê-su không cùng đi với họ.
Vì gió ngược sóng to, họ phải hết sức cực khổ mới không bị trôi dạt theo chiều gió.
Biển hồ Galilê như một đứa trẻ tinh nghịch, là một biển hồ rất nguy hiểm, vì những cơn gió lốc thường từ sa mạc thổi về, không báo trước. Những cơn giận bất ngờ của Biển hồ là một mối đe dọa thường xuyên cho các ngư phủ.
Chúa Giê-su biết các môn đệ đang khó nhọc chèo chống, Ngài đến với họ. Ngài đã chứng tỏ quyền uy của Ngài khi Ngài ra tay cứu giúp những người bệnh hoạn tật nguyền, Ngài đã có lần ra lệnh cho sóng biển lặng im, Ngài xua trừ ma quỉ…
Môsê xưa kia chỉ cần giơ gậy lên truyền cho Biển Đỏ tách ra làm hai cho dân đi qua. Êlia cũng không kém uy quyền.
Chúa Giêsu vượt xa những khuôn mặt thần thoại ấy của Cựu Ước. Bóng dáng Ngài đơn thường như mọi người, lời nói Ngài uy nghiêm quyền phép, bàn tay Ngài vun vãi những việc diệu kỳ.
Ngài đến với các môn đệ trong đêm tối. Bằng cách nào?
Ngài xuất hiện từ xa, và lúc ấy độ canh ba. Giữa trời với nước, các môn đệ nhìn thấy một bóng hình xuất hiện, và dần dần, bóng hình cứ lớn thêm và gần hơn…
Giữa trời với nước, đêm khuya, bóng hình đó là gì? Đối với các môn đệ lúc bấy giờ thì chỉ có thể là ma. Họ la hoảng lên và càng cố la to trông cậy có thể làm cho bóng ma hoảng sợ và không đến gần.
Tại sao Chúa không dùng một hình thức nào dễ chấp nhận hơn?
Chúng ta không thể biết được ý định của Ngài. Có lẽ Ngài muốn cho các môn đệ và cả chúng ta hiểu rằng, chúng ta không thể nhận ra Ngài dễ dàng, mà phải qua nhiều giai đoạn, chậm rãi và đôi khi phải sợ sệt. Ngài cho chúng ta cảm nhận rằng chúng ta nhỏ bé trước cuộc sống, phải chống chọi để sống còn, để khỏi phải lún chìm, nhưng Ngài không để chúng ta một mình. Ngài đến với chúng ta qua nhiều hình thức.
Khởi đầu, chúng ta không nhận ra Ngài, nhưng dần dần, Ngài cho chúng ta khám phá ra Ngài, ngay giữa những cơn bão tố.
Đó là hồng ân tuyệt diệu Ngài dành cho chúng ta.
Hơn nữa, Ngài muốn chúng ta liều với Ngài. Chúng ta thấy thái độ của Phêrô:
“Nếu là Thầy thì xin cho đi trên mặt nước đến với Thầy…”
“Đến đây!”
Lời mời gọi của Thầy làm Phêrô vững dạ, bước ra khỏi thuyền không e ngại… Nhưng chỉ một vài giây sau: “Xin Thầy cứu con với!”
Chúng ta luôn có nguy cơ đắm chìm và sa ngã. Chỉ một giây phút nghi ngờ, chúng ta có thể lún sâu.
Muốn giữ vững niềm tin, phải phấn đấu và, trên hết: cậy tin.
Phêrô dám liều, khi đã nhận ra Thầy. Bất chấp mọi sự, Phêrô bước đi trên mặt nước. Đúng là con người liều mạng. Điều đó chứng tỏ niềm tin của Phêrô thật vững chắc và vô điều kiện. Có Chúa đó thì mọi sự đều có thể.
Chúng ta dám tin vô điều kiện như thế không?
Chúng ta đòi điều kiện mới tin. Chúng ta không dám liều. Chúng ta đòi có những bảo đảm cần thiết. Đời sống yên ổn mới có thể lo việc thờ phượng.
Không! Chúa là bảo đảm duy nhất, vì Ngài là Thiên Chúa, là Đấng nắm quyền trên trời dưới đất, là chủ của lịch sử. Ngài đã bỏ mọi sự để đến trong trần gian nầy, không phải để làm trò cười cho thiên hạ.
Các thánh đã tin và không bao giờ thất vọng.
Thánh Phaolô đã tin mãnh liệt và ngài đã thắng tất cả mọi trở lực trên con đường truyền giáo.Thánh Clêmentê Hopbauer, nuôi một đám trẻ mồ côi. Bà bếp báo cáo là không còn gì để ăn… Thánh nhân bình tỉnh đáp: “Cứ tin thôi.” Ngài vào trước nhà tạm cầu nguyện, và đến trưa, một chiếc xe chở đủ thứ đồ ăn vào và mọi người được ăn no… Thánh Gioan Boscô cũng nuôi một bầy thiếu niên bụi đời, bị đuổi từ nơi nầy sang nơi nọ, không ai chấp nhận lũ trẻ tinh nghịch của Ngài, Ngài chỉ tin vào sự quan phòng của Chúa, và mọi sự được giải quyết ổn thỏa. Mẹ Têrêxa Calcutta cũng thế. Bị xua đuổi, gặp đủ thứ gian nan, Mẹ chỉ tin và hôm nay, Mẹ đã mang lại cho thế giới một làn sóng yêu thương không ai ngờ.
Chúng ta không dám tin, chúng ta chẳng làm gì được. Thế giới quanh ta vẫn sa đọa, gia đình chúng ta kém yêu thương…
Chúng ta hãy tin vững chắc rằng, Chúa không bao giờ thua chúng ta, nếu chúng ta tin.
Dù muốn dù không, chúng ta đã đã bước vào con thuyền của Phêrô, nghĩa là chúng ta đã dấn thân vào con đường Nước Trời, chúng ta không còn thuộc về thế gian. Chúng ta là của Chúa: “Thế gian sẽ ghét các con vì nó đã ghét Thầy trước.”
Bão tồ của thế gian sẽ vây bọc chúng ta. Chúng ta cứ chèo chống, Chúa Giêsu sẽ đến trong bão tố.
Còn Chúa, chúng ta còn hy vọng. Ngài cho Phêrô đi trên mặt biển, Ngài cũng gọi chúng ta liều mạng như thế. Dù chúng ta có sợ sệt, hồ nghi, chúng ta vẫn có thể kêu đến Ngài.
Điểm tựa vững chắc của chúng ta là Chúa Giêsu mà thôi: “Ngoài Chúa ra, chúng con không tìm đâu được hạnh phúc”. Thánh vịnh luôn dạy chúng ta cầu nguyện như thế.
Tất cả trên trần gian nầy không có gì vững chắc cả. Cá nhân chúng ta lệ thuốc mọi thứ: môi sinh, xã hội, kinh tế… Gia đình chúng ta cũng bấp bênh. Giáo Hội cũng tròng trành vì những cuộc tấn công của ma quỉ, của những trào lưu vô đạo, vì sự yếu đuối của con cái mình. Nguy hiểm bên ngoài, nguy hiểm bên trong. Thế nhưng Giáo Hội vẫn tin tưởng vào Đấng đã tạo lập nên mình trên nền đá Phêrô. Chỉ có niềm tin bảo vệ chúng ta.
Chúa Giêsu bước lên thuyền. Tất cả đều thay đổi. Sự yên lành trở lại. Sóng gió im lặng. Thầy trò gặp nhau. Các môn đệ đến thờ lạy Ngài: “Thầy thật là Con Thiên Chúa”.
Chúa Giêsu hôm nay và mãi mãi vẫn ở với chúng ta nhờ tấm Bánh Hằng Sống. Hãy đến với Ngài, thờ lạy Ngài, đưa Ngài vào con thuyền nhỏ bé của chúng ta. Thờ lạy và yêu mến Ngài, mặc cho bão tố thế gian vẫn đe dọa. Ngài vẫn mãi mãi là bảo đảm vững chắc cho chúng ta.Ngài đến và: ”Bình an cho chúng con”.
12. Hướng nhìn lên Chúa - Jos. Hồng Ân
Chính Đức Giêsu đã xa lánh đám đông, "đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng biệt" (Mt 14, 13) để nghỉ ngơi, cầu nguyện và hướng nhìn về lên Chúa Cha, lý do là vì dân chúng đã nhận ra Chúa là đấng Mesia và kéo đến với Người để được Người chữa bệnh và nghe lời Người giảng dạy. Trình thuật bài Tin Mừng cho thấy rằng, sau khi chữa bệnh, giảng dạy và cho dân chúng ăn no nê, "Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình" (Mt 14, 22-23). Chỉ còn một mình Đức Giêsu, Ngài chìm sâu trong cầu nguyện, hướng nhìn lên Chúa Cha, gặp gỡ thân tình với Chúa Cha.
Đức Giêsu chìm sâu trong cầu nguyện, nhưng Ngài không quên các môn đệ. Ngài biết họ gặp sóng to, gió lớn, đang vật lộn, đang phải lao đao, vất vả chèo chống với sóng gió trên biển. Nên Chúa xuất hiện kịp thời để cứu giúp các ông. "Vào khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: 'Ma đấy!', và sợ hãi la lên" (Mt 14, 25-26). Các môn đệ lo lắng, sợ hãi, trước phong ba bão táp, lại nhìn thấy Chúa Giêsu đi trên mặt nước trong đêm tối, tưởng là ma, các ông càng hoảng sợ hơn. Các ông sợ hãi, hoảng hốt, vì kém tin, nên các ông tưởng Chúa là ma và vô cùng sợ hãi. Đức Giêsu liền lên tiếng trấn an các ông: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" (Mt 14, 27).
Khi nghe Chúa nói: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" (Mt 14, 27). Ông Phêrô liền mạnh dạn thưa với Chúa: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài" (Mt 14, 28). Ông là người duy nhất trong nhóm môn đệ dám xin điều mà không ai dám xin. Đức Giêsu nhận lời cầu xin của Phêrô, nên đã bảo ông: "Cứ đến. Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu" (Mt 14, 29). Ông Phêrô bước ra khỏi thuyền mà đi trên mặt nước để đến với Chúa. Nhưng sau đó: "thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với" (Mt 14, 30). Đi trên mặt nước là một điều không tưởng, nhưng có Chúa thì có thể đi trên mặt nước một cách dễ dàng, có thể làm được những việc phi thường hơn thế nữa. Nhờ vào Chúa, ông Phêrô đã làm được điều đó. Nhưng quả thực ông đã mắc phải một sai lầm lớn là vì "thấy gió thổi thì ông đâm sợ", vì ông nghi ngờ, đức tin của ông bị chao đảo, ông đã nhìn xuống mặt biển giông tố, ông không nhìn lên Chúa, ông quên rằng Chúa đang đứng bên cạnh ông, nên ông bị chìm xuống nước. Đáng lẽ khi gặp phong ba, báp táp, ông phải hướng lòng lên Chúa, mắt nhìn về Chúa, luôn tin tưởng phó thác trong vòng tay yêu thương và quan phòng của Chúa. Ông cần gạt bỏ hết những lối suy nghĩ trần tục, những lo lắng, sợ hãi, bối rối, loại bỏ những "vật cản" để tiến bước.
Có một câu chuyện kể rằng vào lúc mới có thuyền buồm, một cậu bé nọ xin đi biển để học làm thủy thủ. Một hôm biển có bão, người ta bảo cậu leo lên trên cột để hạ cánh buồm xuống. Leo được nửa phần đầu thì dễ dàng vì cậu đưa mắt nhìn lên bầu trời. Nhưng đến lưng chừng cậu phạm phải một sai lầm. Cậu nhìn xuống mặt nước biển trong cơn bão, thế là cậu bị chóng mặt và muốn ngã xuống. Thấy thế, một thủy thủ già la to: "Này nhóc, ngước nhìn lên bầu trời đi! Nhìn lên bầu trời đi". Cậu bé nghe theo lời chỉ dẫn, cậu ngước nhìn lên trời và cuối cùng đã leo lên được an toàn.
Lỗi lầm của cậu bé, giống lỗi lầm của Phêrô trong bài Tin mừng hôm nay. Cậu ta đã rời mắt khỏi đích nhắm, nhìn xuống mặt biển giông tố, cậu đã bị choáng, có thể rơi xuống và bị chìm, bị vùi dập trong lòng biển, nhưng sau đó cậu nhìn lên bầu trời và cậu tiếp tục chèo lên an toàn, như Phêrô đã rời mắt khỏi Chúa Giêsu và nhìn xuống mặt biển giông tố, nên đã bị chìm xuống. Nhưng khi Phêrô bị chìm ông đã nhìn lên Chúa, cầu xin Chúa, nên ông đã được Chúa nắm tay và kéo ông lên. Quả thật, trong những phút thất bại, ông Phêrô luôn biết cầu cùng Chúa. Điều kỳ diệu là cứ mỗi lần vấp ngã, ông lại trỗi dậy, những thất bại đó đem ông đến gần Chúa hơn. Sự thất bại của ông Phêrô được Chúa cứu, đã làm ông càng thêm yêu mến Chúa hơn.
Trong đêm tối cuộc đời, nhiều khi chúng ta gặp sóng gió, bão táp, gặp gian nan khốn khó, mất bình an, bị nhận chìm xuống là vì chúng ta cậy sức riêng của mình, không nhìn lên Chúa, không tin tưởng phó thác nơi Chúa. Để đứng vững mỗi khi gặp sóng gió, bão táp trên biển đời, chúng ta hãy nhớ rằng, Chúa không bỏ rơi ta, Chúa luôn ở bên ta, như Ngài đã đến bên các môn đệ trong đêm tối trên biển, khi các ông gặp sóng to, gió lớn, khi các ông phải vất vả chèo chống. Mỗi khi ta bị gió thổi, bị sóng đánh chìm, ta hãy nhìn lên Chúa, cầu xin Người cứu giúp, như xưa Phêrô đã cầu cùng Chúa "thưa Ngài xin cứu con với" (Mt 14, 30).
Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta hướng lòng lên Chúa, mắt nhìn về Chúa, tin tưởng phó thác trong vòng tay yêu thương và quan phòng của Chúa. Chúng ta biết rằng ở đâu có Chúa thì ở đó có bình yên, như xưa các môn đệ được bình yên khi có Chúa ở cùng: "Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay" (Mt 14, 32).
13. Uy quyền – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Êlia xuất hiện và làm nhiều việc phi thường tại miền Bắc Kinh Thành nước Israel dưới thời vua Ahab, vào thế kỷ thứ 9, trước Công Nguyên. Theo sách Các Vua, Êlia đã bảo vệ việc tôn thờ Thiên Chúa Yavê chống lại thần Baal thuộc xứ Canaan. Êlia đã thực hiện một số việc lạ lùng như cho kẻ chết sống lại, cho lửa từ trời xuống và được cất nhắc lên trời trong xe lửa. Trong sách Malachi, nói về sự trở lại của Êlia trước ngày Chúa quang lâm. Trong Tân Ước, có nhắc đến tên Êlia, khi người ta so sánh tiên tri Êlia với Chúa Giêsu và Gioan Tẩy Giả. Ông Êlia xuất hiện cùng với Môisen trong sự kiện Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê.
Chúng ta không biết nhiều về tiểu sử đời tư của tiên tri Êlia. Tên Êlia có nghĩa là Chúa của tôi là Yavê. Tại Israel, khi vua Ahab và hoàng hậu Jezebel tôn thờ các thần dân ngoại và xây dựng đền thờ kính thần Baal. Baal là thần xứ Canaan, họ tin rằng thần này chịu trách nhiệm về việc làm sấm chớp, mưa bão và sương sa. Jezebel nhập cư các thầy tư tế và các tiên tri của thần Baal vào đất Canaan. Êlia cảnh cáo và thách thức vua Ahab và các đồ đệ của thần Baal là sẽ có hạn hán trong ba năm. Êlia cũng đã thách đố quyền lực của thần Baal trên của lễ toàn thiêu. Kết qủa thần Baal chỉ là hư danh. Êlia đã toàn thắng trước mặt chư dân, nhưng vì ghen tương, bà hoàng hậu Jezebel tìm cách trả thù, nên ông phải trốn chạy lên núi. Chúa đã nâng đỡ an ủi ông trong cơn khốn cùng: Chúa phán cùng ông Êlia rằng: Hãy ra đứng trên núi trước tôn nhan Chúa. Bỗng Chúa đi qua; có một cơn gió mạnh xẻ núi non và nghiền nát đá trước mặt Chúa. Nhưng Chúa không ở trong gió bão. Sau trận gió bão thì đất động; Chúa cũng không ở trong cơn động đất (1Vua 19, 11).
Bài phúc âm hôm nay, sau khi Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều để nuôi dân, Chúa ở lại trong hoang địa để cầu nguyện. Thánh Matthêô viết: Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông (Mt 14, 25). Chúa Giêsu đi trên mặt nước. Một sự kiện lạ lùng. Con người bình thường với sức nặng khi bước xuống nước sẽ bị chìm xuống. Ở miền Nam Do-thái, vùng Giuđêa có Biển Chết, nước rất mặn. Khi xuống nước tắm, chúng ta có thể nằm ngửa và thân xác sẽ nổi trên mặt nước và không cần phải cựa quậy chân tay. Khi đứng thì nhẹ nhàng nhưng nằm thì thân xác có thể nổi. Không ai có thể đi trên mặt nước. Trong một vài cảnh lạ quảng cáo trên truyền hình, đôi khi chúng ta cũng thấy có người đi trên mặt nước, nhưng phải cẩn thận quan sát vì có sự dàn dựng phía sau để che mắt thiên hạ. Cũng giống như tất cả các nhà ảo thuật, họ đều có kỹ năng chuyên môn để qua mắt bà con. Chúng ta có thể tìm hiểu về nguồn ngọn của các sự việc cách cụ thể trên sách vở báo chí.
Chúa Giêsu đi trên mặt nước và đến với các tông đồ vào ban đêm: Chúa Giêsu nói với các ông rằng: Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ (Mt 14, 27). Các tông đồ là những người chài lưới rất quen thuộc với khung cảnh sóng biển. Khi thấy sự kiện lạ, các ông hoảng sợ. Đúng thế, ai mà không sợ chứ! Một phản ứng rất tự nhiên của con người. Các sự kiện lạ vượt ra ngoài qui luật của không gian và thời gian. Chúa Giêsu củng cố đức tin của các ông bằng các dấu lạ, để các ông nhận ra uy quyền của Thiên Chúa. Chúng ta thấy các tông đồ được chứng kiến nhiều phép lạ mà Chúa đã thực hiện, nhưng tới lúc nguy nan và khó khăn, đức tin của các tông đồ cũng vẫn bị lung lay và sợ hãi.
Ông Phêrô tính tình rất thật thà và nhiệt thành. Ông đã xin Chúa cho đi trên mặt nước, Chúa chấp nhận, nhưng: Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sấp mình xuống nên la lên rằng: Lạy Thầy, xin cứu con (Mt 14, 30). Phêrô là dân chài lưới. Ông sống trên sông nước và tắm lội hằng ngày, vậy mà khi gió thổi mạnh, ông chìm xuống và vội la lên, xin Chúa cứu. Đứng trước Đấng có quyền phép vô cùng, Phêrô cảm thấy mình quá nhỏ bé và yếu đuối. Ông cậy dựa vào tình thương của Chúa để xin cứu vớt. Có Chúa, con còn sợ chi ai. Tính tình của ông Phêrô rất bộc trực nhưng chân thành. Chúa Giêsu đã yêu thương và trao cho ông quyền trên các tông đồ. Chúa còn trao quyền cho ông cai quản Giáo Hội mà Chúa thiết lập. Chúa hỏi ông và ba lần ông đã tuyên xưng: Lạy Thầy, con mến yêu Thầy.
Cuộc đời của mỗi người chúng ta cũng đối diện với năm chìm bảy nổi. Nhưng các khó khăn và thất bại trong cuộc sống là những bài học giúp chúng ta sống trưởng thành hơn. Mới đây, trong một cuộc họp hàng tháng, chúng tôi đã chia sẻ về các vấn đề gây sự ưu tư trong cuộc sống đạo. Một linh mục chia sẻ rằng: Mỗi ngày cha đều dâng lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa, vậy mà sau ba mươi năm linh mục, cũng chẳng thay đổi được bao nhiêu. Tính nào vẫn tật đó. Các tính xấu cứ lập đi lập lại. Lời chia sẻ rất chân tình. Hầu như ai trong chúng ta cũng thế. Tội đó đã xưng mười năm trước, nay vẫn còn tái phạm. Đôi khi chúng ta muốn sửa đổi và chừa tội, nhưng chỉ thay đổi và chừa cải được chút chút. Sau vài suy nghĩ, tôi tự an ủi rằng: Dù sao chúng ta cũng còn tiếp tục ở lại trong ơn nghĩa Chúa cho tới ngày hôm nay. Cũng giống như thức ăn thức uống giúp nuôi dưỡng chúng ta qua tháng ngày, nhờ từng bữa ăn bổ sức mà chúng ta còn sống khỏe tới ngày hôm nay. Tạ ơn Chúa.
Mỗi ngày sống là một ngày mới hoàn toàn. Chúng ta cùng dâng lời tạ ơn Chúa. Sống ngày hôm nay cho trọn vẹn. Ngày hôm qua có bị ngã, bị chìm thì sự việc cũng đã qua. Chúng ta không thể làm gì được với quá khứ. Bình sành đã bể là đã bể. Hàn gắn lại là việc của ngày hôm nay. Chúng ta không nên ngồi đó để phiền trách về quá khứ đã qua. Cái đã qua giúp chúng ta học hỏi nhiều kinh nghiệm để tiến thân và sống tốt hơn. Đừng chìm đắm trong qúa khứ, nhưng hãy vui sống giây phút hiện tại mà chúng ta đang có đây. Phêrô đã chìm xuống nước và vội la lên, xin Thầy cứu con. Nếu có khi nào chúng ta bị rơi chìm, thất bại và chán nản, hãy nhớ rằng chúng ta có Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng có uy quyền trên hết mọi tạo vật. Hãy thân thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin cứu con!.
Phần thưởng của cuộc sống là sự an vui và hạnh phúc. Khi con người nhận rõ vai trò, sứ vụ và cùng đích của cuộc đời, thì không còn phải lắng lo nhiều. Niềm tin sẽ dẫn dắt chúng ta hoàn thành sứ mệnh của con người trong cuộc lữ hành. Hãy tránh dần sự tranh chấp vô thưởng vô phạt để duy trì tình thân ái. Bỏ bớt cái tôi cao ngạo và dễ ghét, để cùng hòa đồng xây dựng sự hài hòa trong an bình. Tất cả mọi sinh hoạt đều qui hướng tạo niềm an vui hôm nay và ngày mai. Niềm vui lớn lao nhất của chúng ta là được làm nghĩa tử của Thiên Chúa. Trong niềm tin sống đạo và ân sủng của các Bí tích trong Giáo Hội, chúng ta được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô, để đồng thừa hưởng gia nghiệp đã hứa ban. Không riêng gì dân Do-thái mà tất cả mọi người tin vào Chúa Kitô: Họ đều là người Israel, họ được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang, giao ước, lề luật, việc phụng tự và lời hứa (Rm 9, 4). Chúng ta sẽ được thừa kế gia sản ơn cứu độ mà Thiên Chúa dành sẵn cho loài người qua Con Chúa Nhập Thể và cứu chuộc.
Lạy Chúa, Chúa là chủ của muôn loài muôn vật. Chúa có quyền sáng tạo, biến hóa và tái tạo. Xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con trở thành những mảnh đất phì nhiêu sinh hoa kết trái nhân đức tốt lành trong cuộc sống. Xin cho chúng con can đảm tin tưởng và dõi theo lối bước của Chúa. Hãy lắng nghe lời của Thầy Chí Thánh: Thầy đây, các con yên tâm, đừng sợ!
14. Lạy Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con
(Suy niệm của Lm. Anmai, DCCT)
Liệu người ta có sống được không khi không có lòng tin? Câu trả lời dường như quá dễ dàng, người ta chết vì thiếu cơm thiếu gạo, thiếu chất dinh dưỡng hay thuốc men chứ có ai chết vì thiếu lòng tin!
Nhưng cứ thử hình dung, một đứa trẻ nếu không có lòng tin vào tình thương, vào trách nhiệm của cha mẹ mình thì dù có ăn ngon mặc đẹp, được hưởng thụ mọi tiện nghi, thậm chí được học hành thì đứa trẻ ấy cũng chẳng bao giờ được sung sướng. Nếu sống như vậy nó chỉ là một đứa trẻ vất vưởng mồ côi, có lẽ trong số những trẻ bỏ nhà đi bụi đời nhiều em đã mang theo cõi lòng tan hoang như thế. Bình thường, ra khỏi cái thế giới của gia đình, một thiếu niên có thêm lòng tin mới, tin vào thầy cô bạn bè, nhà trường. Chúng đau khổ khi bị bạn bè chơi xấu, và đâu đó nhà trường đã biến thành thị trường, người dạy không vì chúng mà vì túi tiền của cha mẹ chúng nên chúng đã hỗn láo, hư hỏng hoặc lớn lên ra trường đi làm, chúng tìm mọi cách để tận thu lại với đời.
Vợ chồng mà không tin nhau thì dù nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm thì cũng chỉ là một sự "liên hiệp", và những cuộc hành lạc hợp pháp. Không niềm tin thì không thể có tình yêu, còn hạnh phúc càng là chuyện hoang tưởng.
Một cuộc sống thiếu lòng tin thì đó không phải là cuộc sống...
Chẳng hiểu làm sao mà ngày hôm nay con người sống trong một thế giới thiếu vắng lòng tin để rồi từ thiếu vắng lòng tin nó đã gây ra cho con người biết bao nhiêu là xáo trộn, biết bao nhiêu à bất an. Ngày hôm nay người ta phải đối diện với quá nhiều sự giả trá, sự gian tà để rồi không còn tin vào nhau như xưa nữa.
Nhan nhản, sách báo, tivi, các chương trình truyền thông đại chúng cho chúng ta thấy một cuộc đời thật ê chề, thật chán chường. Tất cả chỉ là những lời hứa hão huyền, những lời hứa cuội. Mới đây thôi, tuần qua, một sự kiện đáng nhớ của người dân Sài Gòn: cơn mưa chiều ngày 1 tháng 8 đã biến Sài Gòn thành một dòng sông. Do đâu? Do người ta hứa hẹn, người ta thiếu trách nhiệm để ma lo cho dân. Ngân sách rót ra cho chuyện sửa chữa cầu cống, ngập lụt đổ ra bạc tỷ, tiền ấy gom góp từ mồ hôi nước mắt của dân, vậy mà sau những trận mưa thì người dân hoàn toàn chịu trận. Chịu riết rồi chẳng còn ai tin vào lời hứa là sẽ lo cho dân, sẽ phục vụ dân nữa. Một lần, hai lần, ba lần người ta còn cố gắng chờ đợi để mà tin nhưng nhiều lần quá chẳng ai còn can đảm để mà tin.
Ngoài đường là như vậy, còn trong nhà thì sao? Trong nhà hình như cũng nhuốm một cái màu đen tối của sự mất niềm tin vào nhau. Ai cũng sợ sống sự thật, đối diện với sự thật để rồi người ta không còn đến với nhau thật lòng nữa. Chắc có lẽ từ cái lối sống "làm láo báo cáo hay" nó nhen nhúm vào trong con người ta khi nào mà người ta không hay để rồi ai cũng báo cáo, cũng "nổ" cũng tô son trát phấn về mình. Vì sao? Vì sợ người đối diện biết cái bộ mặt thật của mình nên người ta phải làm như vậy. Và khi làm như vậy đến một lúc nào đó cũng xuất đầu lộ diện thì thử hỏi còn ai dám tin vào nhau nữa?
Cay đắng, bi đát ở chỗ là con người, ai ai cũng thấy và cần sống với những người có niềm tin vào nhau nhưng rồi người ta cư xử với nhau làm sao đấy. Cứ thật thật giả giả lẫn lộn để rồi đi tìm một lòng tin nguyên vẹn hơi bị hiếm.
Đứng trước vấn nạn của lòng tin, chúng ta có lòng tin như thế nào với người xung quanh và người xung quanh chúng ta có tin chúng ta hay không? Cách riêng, người kitô hữu, người có Chúa thì sống lòng tin như thế nào?
Bài tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ về lòng tin. Phêrô, là người đã từng theo Thầy mình đi rao giảng nhưng đụng chuyện Phêrô cũng chưa tin vào Chúa, vẫn ngờ vực Chúa. Qua thái độ ngờ vực của Phêrô, Chúa Giêsu đã thẳng thắn trách móc ông. Chúng ta nhìn lại đời mình, chúng ta theo Chúa nhiều năm lắm, có người hai chục, có người ba chục, có người bốn chục... được Chúa yêu thương nhiều, được Chúa ủ ấp nhiều nhưng hình như chúng ta vẫn mang trong mình thái độ ngờ vực như Phêrô thì phải. Thế nhưng chuyện hay nơi Phêrô là sau bao nhiêu lần ngã lên vấp xuống nhưng cuối cùng Phêrô đã tin và sống chết với Thầy. Còn chúng ta, chúng ta sẽ sống sao với Thầy của chúng ta?
Ngày hôm nay, cơ hội để chúng ta đặt lại niềm tin của chúng ta vào Chúa. Chúng ta đã theo Chúa nhiều năm nhưng hiện giờ lòng tin của chúng ta vào Chúa như thế nào? Chúng ta tin vào người đời hay tin vào Thiên Chúa.
Chúa vẫn nhắc nhở chúng ta trong các thánh vịnh:
Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời
Thì hơn tin cậy ở người trần gian
Tin vào thần thế vua quan
chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời (Tv 117, 8.9)
Cuộc đời mỗi người chúng ta vẫn bị giằng co, vẫn đứng giữa cái ngã ba đường là dựa vào Chúa hay dựa vào thần thế vua quan, tin vào Chúa hay tin vào của cải vật chất? Đây không phải là chuyện đơn giản mà là chuyện chúng ta phải đối diện mỗi ngày trong cuộc sống thường nhật.
Nhìn lại cuộc đời mỗi người chúng ta, nhìn lại tất cả các biến cố lớn bé từ khi cất tiếng khóc chào đời đến ngày hôm nay chúng ta thử hỏi xem ai đã quan phòng cho cuộc đời chúng ta? Ai yêu thương chúng ta? Ai là thành luỹ đời chúng ta? Ai là cùng đích đời chúng ta? Vậy mà chúng ta đã không dựa vào tình yêu, vào đấng quan phòng, vào thành luỹ, vào Chúa của đời chúng ta mà chúng ta cứ quanh quẩn mãi trong cái thế giới vật chất, trong cái thế giới mau qua chóng tàn này.
Tuần trước, khi đang giúp cho một đôi hôn phối do một cha trong Dòng nhờ bỗng dưng cô bé nói với tôi rằng: "Mẹ bạn trai con đi coi thầy rồi, phải là trong tháng 10 này phải cưới vì tuổi của con và tuổi của anh ấy chỉ cưới trong tháng 10. Nếu không thì chúng con phải đợi đến 3, 4 năm nữa mới cưới được!".
Tôi nghe xong tôi ngạc nhiên vì tôi biết rằng hai bên đều là đạo gốc, được học hành giáo lý nghiêm túc ở một giáo xứ lớn hẳn hoi mà nói với tôi như thế! Hoá ra là mẹ của chú rễ dù là người có đạo nhưng hình như chẳng còn tin vào Chúa mà tin vào ông thầy bói. Tôi bèn nói với hai bạn trẻ rằng tôi cảm ơn mẹ của chú rễ. Và, nếu được xin kính mời bà mẹ của chú rễ đến đây, dẫn tôi đến với ông thầy bói nào đó đã coi cho hai bạn. Tôi nói rằng:
Thứ nhất: tại sao ông thầy bói coi cho hai bạn được mà sao không coi tương lai cho ông như thế nào? Tại sao ông phải đi lượm bạc cắc từ những người nhẹ dạ và thiếu lòng tin vào Chúa? Nếu giỏi, sao ông không coi chiều nay xổ số ra số mấy để ông mua nguyên tập vé số để có nhà lầu xe hơi mà phải đi coi bói thế này?
Thứ hai: nếu được nhờ ông coi xem tương lai tôi có làm giám mục hay không? Nếu tôi làm giám mục tôi mời ông về ở trong "Toà" với tôi? Làm gì mà ông coi được? Ngay cái bản thân của ông ông không biết ông sống ngày nào, chết ngày nào sao mà coi được cho ai?
Và còn nữa về chuyện thiếu lòng tin vào nhau, thiếu lòng tin vào Chúa nên đến với bói toán. Nhất là các cô các chị. Đôi khi chồng mình mệt mỏi hay có vấn đề gì không chịu hỏi, chạy tới hỏi ông thầy bói và khi mở bài lên con đầm bích. Ông phán ngay cho một câu là chồng chị có một người nước da ngăm ngăm theo đuổi! Thế là về nhà mặt nặng mày nề với ông chồng mà không chịu hỏi thực hư!
Thời buổi ngày hôm nay người ta thường nói đùa với nhau là "lên cung trăng" rồi mà người ta còn tin vào bói toán. Thật ra số người tin vào bói toán ngày nay còn nhiều chứ không phải là ít, cách riêng là nữ giới. Vì nhẹ dạ, vì thiếu lòng tin và nhất là thiếu lòng tin vào Thiên Chúa nên họ dựa vào bói toán là điều dễ hiểu. Lẽ ra trong những cơn gian nan thử thách của cuộc đời họ tìm đến Chúa, họ cậy vào Chúa nhưng không, họ đã tìm đến những con người tầm thường của thế gian.
Và như đã nói ở trên, cuối đời Phêrô hối hận về tất cả những gì mình làm buồn phiền Thầy mình nên Ngài đã làm lại tất cả những gì có thể được để minh chứng cho tình yêu của Ngài đối với Thầy Chí Thánh. Và với lời nguyện xin quen thuộc của Ngài khi Chúa Giêsu hiện ra sau khi Phục Sinh với mẻ cá lạ, mỗi người chúng ta trong từng phút từng giây của cuộc đời cũng biết thưa như Phêrô: "Lạy Ngài ơi thương đến! Xin củng cố giúp con! Này lòng tin con đây còn mỏng dòn non yếu! "Lạy Ngài ơi thương đến! Xin củng cố giúp con! Này lòng tin con đây hầu đã vỡ tan rồi" (bài Con tin thưa Thầy - linh mục Thành Tâm)
Khi và chỉ khi ta đặt niềm tin của ta vào Chúa như Phêrô thì cuộc đời ta mới bình an giữa muôn sóng sóng gió của cuộc đời này được.
Nguyện xin Chúa là nguồn mạch của sự sống, nguồn mạch tình yêu, nguồn mạch của lòng tin đến và ở lại trên cuộc đời của mỗi người chúng ta để chúng ta luôn trao phó cuộc đời của chúng ta vào trong bàn tay của Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào, môi trường nào mà chúng ta đang sống.
15. Giá của một ly sữa
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hình ảnh Chúa Giêsu đi trên mặt nước cho chúng ta thấy tình thương của Chúa dành cho các môn đệ thật cao sâu. Dù đêm tối. Dù giông bão. Điều đó không cản bước để Ngài tiến đến với các môn đệ. Ngài đã đến thật đúng lúc, thật kịp thời. Ngài đến để phá tan giông bão. Ngài đến trả lại sự bình yên cho biển cả và cho cả các tông đồ đang hú hồn bạc vía!
Cuộc sống là bước đi trên biển đời. Có sóng gió. Có giông tố. Có những khó khăn khiến biết bao người chao đảo. Họ đang cần chúng ta làm điều gì đó để cứu giúp họ. Hằng ngày có biết bao bàn tay đang xòe ra cầu cứu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có dám thoát ra khỏi sự bình yên của mình để đến với anh em và giúp họ vượt qua khó khăn hay không?
Có thể chúng ta nghĩ mình sẽ chẳng làm được những chuyện phi thường như Chúa Giêsu, điều này cũng chẳng sai, nhưng chúng ta lại có thể làm những chuyện bình thường với trái tim phi thường hết mình vì tha nhân. Những chuyện bình thường thật dễ làm nhưng lại đòi hỏi phải có tình yêu mới có thể tìm được hạnh phúc trong từng điều nhỏ nhặt bình thường.
Người ta kể rằng: Trưa hôm đó, có một cậu bé nghèo bán hàng rong ở các khu nhà để kiếm tiền đi học. Bụng đói cồn cào mà lục túi chỉ còn mấy đồng tiền ít ỏi, cậu liều xin một bữa ăn tại một căn nhà gần đó. Nhưng cậu giật mình xấu hổ khi thấy một cô bé ra mở cửa. Và thay vì xin gì đó để ăn, cậu đành xin một ly nước uống. Cô bé trông cậu có vẻ đang đói nên bưng ra một ly sữa lớn.
Cậu bé uống xong, hỏi "Tôi nợ bạn bao nhiêu?".
"Bạn không nợ tôi bao nhiêu cả. Mẹ dạy rằng chúng tôi không bao giờ nhận tiền khi làm một điều tốt."
Cậu bé cám ơn và đi khỏi. Lúc này, Howard Kelly thấy tự tin hơn nhiều, mạnh mẽ hơn nhiều.
Nhiều năm sau, cô gái đó bị căn bệnh hiểm nghèo. Các bác sĩ trong vùng bó tay và chuyển cô lên bệnh viện trung tâm thành phố để các chuyên gia chữa trị. Tiến sĩ Howard Kelly được mời khám. Khi nghe tên địa chỉ của bệnh nhân, một tia sáng loé lên trong mắt ông. Ông đứng bật dậy và đi đến phòng bệnh nhân và nhận ra cô bé ngày nào ngay lập tức. Ông đã gắng sức cứu được cô gái này. Sau thời gian dài, căn bệnh của cô gái cũng qua khỏi. Trước khi tờ hoá đơn thanh toán viện phí được chuyển đến cô gái, ông đã viết gì đó lên bên cạnh.
Cô gái lo sợ không dám mở ra, bởi vì cô chắc chắn rằng cho đến hết đời thì cô cũng khó mà thanh toán hết số tiền này.
Cuối cùng cô can đảm nhìn, và chú ý đến dòng chữ bên cạnh tờ hoá đơn....
"Đã thanh toán đủ bằng một ly sữa."
Ký tên
Tiến sĩ Howard Kelly.
Nước mắt vui mừng cứ thế dâng trào và lời từ trái tim cô gái thốt lên trong nước mắt: "Cảm ơn ông!."
Đây là câu chuyện có thật. Dr. Howard Kelly là một nhà vât lý lỗi lạc, đã sáng lập ra Khoa Ung thư tại trường Đại học John Hopkins năm 1895.
Cuộc sống luôn mời gọi chúng ta hãy làm điều gì đó có ích cho tha nhân. Bởi chung quanh chúng ta có biết bao mảnh đời bất hạnh lầm than. Cuộc sống luôn đưa đến cho chúng ta biết bao bàn tay đang cần chúng ta dìu họ đi qua những khó khăn, hay giúp họ đứng dạy bước tiếp sau những lần vấp ngã. Việc làm này tưởng chừng như chỉ là một việc tốt nhỏ bé rồi sẽ trôi qua, nhưng thực ra nó sẽ được đền bù khi chúng ta gặp khó khăn. Đó là trường hợp của cô gái đã tặng người bạn nghèo một ly sữa để làm động lực cho câu ta tiến thân và thành danh mai sau.
Vâng, chúng ta có thể không có khả năng đi trên mặt nước, nhưng chúng ta có thể nâng đỡ, dìu dắt anh em qua những khó khăn của cuộc sống. Vì cuộc sống chung quanh chúng ta có quá nhiều những hoàn cảnh đang cần chúng ta thi ân giúp sức.
Chúng ta có thể không có khả năng hô phong hoán vũ nhưng chúng ta có thể xoa dịu những đau thương cho anh em bằng sự chia sẻ, bằng cảm thông liên đới.
Chúng ta có thể không có khả năng ngăn gió chống bão nhưng chúng ta có thể giúp anh em làm lại cuộc đời sau những thất bại làm ăn.
Vâng, chúng ta không cần phải làm những chuyện cao siêu, chỉ cần cho một ai đó ly nước với một tấm lòng chân thành là được. Cuộc sống của chúng ta chỉ cần có tấm lòng như dẫn người già qua đường, nhịn chút quà sáng để cho các em học sinh khó khăn, biết an ủi động viên người đang đau bệnh hay thất bại, tủi hờn... Đó là những việc chúng ta đang làm cho cuộc sống này tốt đẹp hơn.
Cuộc đời ai mà không cần sự nâng đỡ, bao bọc của người khác. Thật không ngoa khi nói rằng chúng ta đều lớn lên trong tình thương giúp đỡ của người khác cụ thể là cha mẹ, là thầy cô, bạn bè... Thế nên, hãy sống có ích cho tha nhân. Hãy làm điều gì đó tốt đẹp cho tha nhân. Hãy đến với tha nhân để xoa dịu nỗi đau cho họ, để dìu họ đi qua những khổ đau, để giúp họ đứng dậy làm lại cuộc đời.
Xin Chúa cho chúng ta có đôi chân nhẹ nhàng, thanh thoát để đến với tha nhân trong tinh thần phục vụ mà không mong đền đáp. Amen.
16. Dìu nhau tiến bước – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Khi đối diện với đau khổ chúng ta thường hỏi: Chúa ở đâu? Và khi đứng trước những nghi nan chúng ta thường đặt điều kiện: "Nếu có Thiên Chúa xin hãy cứu con?". Thế nhưng, đau khổ vẫn cứ tiếp diễn trên thế gian. Mỗi ngày trôi qua chúng ta phải chứng kiến biết bao cái chết đau thương, biết bao những bất hạnh rủi ro đến với con người chúng ta. Nhìn vào cuộc đời khiến nhiều người bi quan bảo rằng: "Đời là bể khổ", hay 'Cây xanh thiếu lá nó xanh xanh - Biết mình thế này thà đừng sinh ra". Quả thực, nếu sinh ra trong cuộc đời để rồi chịu cực, chịu khổ, chịu nhiều đắng cay đoạ đầy là một bất hạnh cho kiếp người chúng ta. Nhưng thực ra, trong cuộc sống vẫn có những niềm vui. Niềm vui của tình liên đới, của sự chia sẻ, của lòng bác ái, của tinh thần hy sinh dấn thân phục vụ vì lý tưởng và vì đồng loại...
Trong giáo xứ Bình Lâm có một em bé 6 tuổi tên là K' Thủ Lĩnh. Em vừa lọt lòng mẹ đã bị bỏ đi. Điều tệ hại là chính người vứt em đi đã bẻ gãy đôi chân của em thành tàn phế rồi mới bỏ em bên vệ đường. Em đã được một gia đình người dân tộc Châu Mạ đón về nuôi. Mỗi ngày em đi học phải có người bồng ẵm đi, nếu đi một mình phải đi bằng khuỷ chân thật tội nghiệp! Thấy cảnh thương tâm, giáo xứ đã quyết định đưa em đi bệnh viện để chữa trị đôi chân. Tại trung tâm chấn thương chỉnh hình ơn Chúa đã đến với em và giáo xứ. Vì đã có nhà tài trợ sẵn lòng trả toàn bộ chi phí cho ca mổ và suốt thời gian điều trị cho em. Đây là một món quà quá bất ngờ đối với gia đình mẹ nuôi của em và với giáo xứ. Chúng ta cùng tạ ơn Chúa vì trên thế gian này vẫn còn đó những tấm lòng quảng đại được trao ban một cách quảng đại và vô vị lợi.
Thực vậy, nếu không có tấm lòng nhân ái được trao ban thì những bất hạnh rủi ro đến với nhân loại sẽ mãi mãi không bao giờ nguôi ngoai, nhưng nếu có nhiều tấm lòng nhân ái, biết chia sẻ cho nhau, thì những đau thương mất mát sẽ sớm được hàn gắn và chữa lành. Vì có ai đó đã nói rằng:
"Có một đường đi, đi chung Đường sẽ vui hơn,
Có một quặn đau, đau cùng sẽ sớm nguôi ngoai".
Trở lại với bài phúc âm của Chúa nhật 18 thường niên, thánh Matthêu đã nhấn mạnh với chúng ta một điều: nếu không có lòng nhân ái của em bé dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và hai con cái, có lẽ đã không có phép lạ hoá bánh ra nhiều để chia sẻ với hơn 5 ngàn người đang đói vào buổi chiều hôm đó. Bài phúc âm hôm nay, Chúa còn khẳng định với chúng ta: sự dữ luôn có mặt ở quanh ta. Cuộc đời không thiếu những sóng gió nghi nan. Nhưng, Chúa có thể làm những điều tốt hơn từ trong những bất hạnh này. Em K' Thủ Lĩnh từ trong bất hạnh nhưng hôm nay em đã học được bài học về nhân ái khi đôi chân của em đang được chữa trị. Và Chúa Giêsu Ngài đã làm phép lạ từ lòng tốt của người dâng cho Chúa bánh và cá. Phải chăng, Chúa muốn dạy chúng ta bài học, khi đứng trước khổ đau của anh em mình, chúng ta phải tự hỏi: chúng ta đang ở đâu khi khổ đau ập xuống anh em? Chúng ta đã làm gì cho anh em mình khi chứng kiến những cảnh tang thương và bất hạnh của anh em? Sự dữ vẫn đang hoành hành. Quyền lực của ác thần vẫn làm cho con người sợ hãi, đôi khi đánh mất niềm tin. Nhưng Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta: Anh em đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian. Thầy đã thắng thế gian, đó cũng là tiếng mời gọi các môn đệ của Chúa là chúng ta, hãy cũng với Chúa để chiến thắng sự dữ, để đẩy lùi cái ác ra khỏi thế gian, để xoa dịu những đau thương mất mát trong cuộc đời. Đồng thời Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy đưa tay cho Ngài dìu chúng ta bước qua những khó khăn của dòng đời. Thánh Phê-rô đã có thể đi trên mặt nước, đi qua hiểm nguy khi ông nhận ra Chúa đang đến với ông. Cuộc đời chúng ta cũng chỉ bình an trước gian nan khi chúng ta tin tưởng rằng: Chúa vẫn đang đồng hành với chúng ta. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy trao vào tay Chúa những khó khăn của cuộc đời để Chúa sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi hiểm nguy.
Và hôm nay với biết bao khổ đau của tha nhân, Chúa cũng muốn chúng ta hãy là chứng nhân cho tình thương và lòng nhân ái của Chúa, khi chúng ta cùng cầm tay nhau vượt qua những thăng trầm của cuộc đời. Khi chúng ta biết chạnh lòng thương xót trước những bất hạnh của tha nhân. Khi chúng ta không phủi tay trốn tránh trách nhiệm trước những nhu cầu của thời đại. Vâng cuộc đời sẽ ấm áp hơn nếu mỗi người biết liên đới và chia sẻ cho nhau để làm vơi đi những khổ dau, những lắng lo trong cuộc sống.
Chúng ta có thể không có khả năng làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, nhưng chúng ta có khả năng trao vào tay Chúa một chút lương thực ít ỏi, để Chúa có thể nhân rộng cho hàng ngàn người hưởng dùng.
Chúng ta có thể không có khả năng đi trên mặt nước, nhưng chúng ta có thể nâng đỡ, dìu dắt anh em qua những khó khăn của cuộc sống.
Chúng ta có thể không khiến cho sóng gió ba đào im lặng, nhưng chúng ta có thể góp phần đầy lùi sự dữ và xoa dịu những đau thương bằng lòng quảng đại và nhân ái của chúng ta.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta lòng mến nồng nàn để chúng ta trở nên khí cụ mang tình yêu và lòng nhân ái đến cho anh chị em chung quanh. Nguyện xin Chúa ban thêm đức tin và đức cậy để chúng ta luôn biết cậy dựa vào ơn trợ giúp của Chúa và an bình sống trong sự quan phòng của Chúa. Amen.
17. Khi hành trình đức tin có sóng gió
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Vào khoảng năm 860 trước công nguyên, vương quốc Israel bị ảnh hưởng bởi tà giáo. Vua Ahab và hoàng hậu Izabel nuôi dưỡng hàng ngàn tiên tri Baal. Nhiều đền thờ thần thoại được xây lên. Dân chúng cũng hùa theo việc cúng bái Baal. Nhưng tiên tri của Giavê Thiên Chúa là Êlia vẫn can đảm đương đầu với đám đông phản trắc để bênh vực chính giáo.
Một mình ông dám thách thức 450 tiên tri Baal hãy chứng minh cho toàn dân biết đâu là Chúa thật. Êlia bảo người ta bắt hai bò tơ để đôi bên cùng xẻ thịt, đặt lên củi, và khẩn cầu. Thần linh nào đáp lời nguyện xin, cho lửa xuống thiêu cháy đống củi cùng của lễ, thì đó chính là Đấng mọi người phải tôn thờ.
Sau khi giết bò và chất lên bàn thờ, 450 tiên tri và tư tế Baal bắt đầu kêu khấn: “Lạy thần Baal, xin đáp lời chúng tôi.” Nhưng không một tiếng trả lời! Họ bắt đầu nhảy nhót như kiểu lên đồng. Nhưng cũng chẳng thấy ai đáp lại! Êlia mới chế nhạo: “Các ngươi phải kêu lớn lên nữa. Không chừng thần linh đang suy tính hay bận rộn chuyện gì; cũng có thể ngài đi vắng hoặc đang ngủ. Đánh thức ngài dậy đi!” Các môn đệ thần Baal ra sức kêu gào, lại còn rạch mình cho máu chảy lai láng như kích động lòng trắc ẩn của thần linh. Nhưng vẫn không thấy gì.
Lúc này Êlia mới giơ tay cầu nguyện: “Lạy Giavê Thiên Chúa của Abraham, Isaac và Israel, ước gì hôm nay người ta nhận biết chính Người… xin nhậm lời tôi” (1 V 18,36-37), và lập tức Giavê cho lửa từ trời thiêu cháy hết mọi của lễ của Êlia. Thấy vậy, toàn dân tung hô Thiên Chúa. Thế rồi, khi được lệnh của Êlia, họ đem các tiên tri và tư tế Baal xuống núi giết sạch.
Chuyện sảy ra quá bất ngờ khiến hoàng hậu Izabel bàng hoàng căm tức. Bà thề sẽ lấy mạng Êlia bằng mọi giá. Khi biết thế, vị tiên tri tức tốc lên đường lánh nạn. Sau một ngày trốn chạy vất vả trong vùng sa mạc khô khan, ông cảm thấy mệt mỏi chán chường. Con người can đảm và nhiệt thành hôm nào bây giờ lại rơi vào tình trạng hoang mang cực độ đến nỗi muốn chết cho yên. Ông thốt lên: “Nay đã đủ rồi, lạy Giavê, xin cất mạng tôi đi, tôi cũng không hơn gì các bậc tổ tiên”.
Người hùng của Thiên Chúa mà cũng có lúc đảo điên như thế thì huống chi là tôi! Thế nhưng câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó. Kinh thánh kể tiếp:
Chính trong giây phút giao động và chán nản đó của người hùng, sứ thần Thiên Chúa đã đến nâng đỡ ông bằng bánh và nước. Êlia đã ăn và uống. Sau đó tiếp tục hành trình 40 ngày đêm đến núi Sinai. Tại đây ông đi vào cuộc gặp gỡ và đối thoại với Thiên Chúa. Cuộc gặp gỡ sảy ra không phải trong bão tố, đất động hay lửa chớp, nhưng trong làn gió thoảng đưa.
Từ trong làn gió thoảng ấy, Thiên Chúa cất lời nâng đỡ và chỉ dẫn Êlia. Cuộc gặp gỡ thân tình với Giavê đã kéo ông khỏi hố sâu của lao đao thất vọng. Kết quả, Êlia tìm lại được bình an và sức mạnh nội tâm, tiếp tục ra đi chu toàn sứ mạng làm chứng cho Thiên Chúa.
Thiết tưởng hành trình đức tin của người Kitô hữu cũng có những lúc khốn khó lao đao như Êlia vậy. Dù là người nhiệt tâm và can đảm cách mấy cũng không tránh khỏi tình trạng bị thế gian săn đuổi, đe doạ, và bao chước cám dỗ tấn công. Lắm lúc tưởng như sắp chìm sâu trong bão tố của hận thù, ích kỷ, đam mê. Ngay như thánh Phêrô, vị tông đồ năng nổ và xông xáo nhất trong hàng ngũ các tông đồ, cũng đã từng bị sóng gió làm đảo điên đến nỗi “sắp chìm xuống” (Mt 14,30). Nhưng khi ông thốt lên lời kêu van, “Lạy Thầy, xin cứu con”, thì bàn tay đỡ nâng của Thiên Chúa đã giải thoát và đem lại bình an ngọt ngào.
Cho đến hôm nay, những người theo Đức Kitô vẫn chưa hết bị sóng gió trần gian bủa vây, không chỉ là những truân chuyên trong cuộc sống, nhưng còn là những cám dỗ tinh vi của quỉ ma. Nhưng liệu trước các phong ba dữ dằn đó, tôi có nghe được tiếng nói đỡ nâng và nhắc nhở của Thiên Chúa chăng? Lắm khi tiếng nói của Ngài rất nhẹ nhàng như “gió hiu hiu thổi” chứ không phải như tiếng đất động, bão tố hay hoả hào.
Thử hỏi: nếu là một thanh niên hay thiếu nữ đang tuổi lớn lên, trước những lời réo gọi của đam mê xác thịt, liệu tôi có nghe được tiếng nhắc nhở “phúc cho ai có lòng trong sạch” nơi lương tâm để vượt thoát cạm bẫy dục tình và tiến lên núi cao với Chúa không?
Nếu vì nhẹ dạ mà sa ngã hay mang thai, trước những sóng gió của từ khước khinh bỉ, hay giòng xoáy phá thai của thời đại muốn nhận chìm sự sống, liệu tôi có nghe được tiếng bảo thì thầm trong lương tâm rằng “phá thai là giết người”, và rồi hướng nhìn lên Chúa, kêu nài một sự đỡ nâng an ủi không?
Nếu là người mẹ có đứa con hư dại hay người vợ có ông chồng hủ bại, liệu tôi có nghe được lời nhắc nhở “hãy vững tin” của Đức Giêsu để tiếp tục hành trình làm nhân chứng cho đạo Chúa không?
Nếu là người cha phải lao đao vì trách nhiệm gia đình, bị giong tố của xã hội tấn công, bị chèn ép, hiểu lầm, khích bác…, liệu tôi có nghe được tiếng nói “Đừng sợ, có Ta đây”, và rồi đưa tay cho Đức Giêsu để Ngài kéo lên không?
Cuộc đời người Kitô hữu được ví như hành trình tiến lên núi Thánh giữa sa mạc nắng cháy, hay như chiếc thuyền đang tìm về bến bờ giữa bao sóng gió to và gió ngược. Không có ơn Chúa đỡ nâng, chắc chắn con người sẽ ngã gục. Cũng như nếu không có những chiếc bánh và ấm nước Thiên Chúa trao cho, Êlia đã bỏ cuộc giữa đường; hay nếu không có bàn tay Đức Giêsu giơ ra kéo lên, Phêrô đã chìm sâu trong sợ hãi và hoang mang.
Song khi có Chúa, bình an và sức mạnh sẽ đến. Dù giông tố và thách đố trần gian cứ sảy ra, con thuyền đời tôi vẫn thẳng tiến, vì có Thiên Chúa đồng hành.
Nhưng để được như thế, có lẽ tôi phải không ngừng kêu lên: “Lạy Chúa, xin cứu con” (Mt 14,30).
18. Chúa Giêsu đi trên mặt biển
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 14,22-33) là một trình thuật được viết theo thể văn “thần hiện”, trong đó, các yếu tố văn chương được sắp xếp để làm nổi bật một cuộc tỏ hiện lạ thường và bất ngờ của một hữu thể thần linh, dành cho một số đối tượng đặc biệt, nhằm mục tiêu mặc khải một phẩm chất hay một hành động thần linh.
Hôm ấy, sau khi dân chúng ăn no nê bởi phép lạ hóa bánh ra nhiều (14,13-21), “Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng” (c.22). Đức Giêsu thúc giục, thậm chí là ép buộc, các đồ đệ xuống thuyền. Người muốn các ông mau chóng rời xa khung cảnh “huy hoàng” của một phép lạ cả thể, và rời xa đám đông đang phấn khích vì phép lạ đó. Chính Người đảm nhận việc giải tán đám đông dân chúng này.
“Giải tán xong, Người lên núi riêng một mình mà cầu nguyện. Tối đến, Người vẫn ở đó một mình” (c.23). Đây là lần đầu tiên Mt nói về việc Đức Giêsu cầu nguyện, cho dù, như Lc cho thấy, đây là một việc làm rất thường xuyên của Người. Lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng Mt kể về việc Đức Giêsu cầu nguyện sẽ là trong câu chuyện ở vườn Ghếtsêmani (26,36tt). Điều này kín đáo cho chúng ta hiểu nội dung lời cầu nguyện của Đức Giêsu tối nay trên núi, khi Người ở riêng một mình, còn các môn đệ thì đang ở trong thuyền lênh đênh trên biển. Quả thực, sự kiện Người vội vã bắt buộc các môn đệ rời xa đám đông sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, và sự song song của cảnh tượng cầu nguyện này với trình thuật Ghếtsêmani, cho phép chúng ta nghĩ rằng lời cầu nguyện của Đức Giêsu ở đây có liên quan đến cám dỗ về lý tưởng Mêsia hiển thắng mà các môn đệ của Người (và Hội Thánh mọi thời) phải đối diện. Nói cách khác, sự kiện Đức Giêsu buộc các môn đệ xuống thuyền khi Người giải tán đám đông, đề nghị một cách hiểu Đức Giêsu cầu nguyện suốt đêm cho các môn đệ, để họ không bị sa vào chước cám dỗ về một Đấng Mêsia quyền năng, hiển hách, “hoành tráng”.
Khi Đức Giêsu đang cầu nguyện một mình trên núi, thì chiếc thuyền của các môn đệ “đã ra xa bờ cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió” (c.24). Trong Mt, con thuyền là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,23-27). Các môn đệ đang ở trong con thuyền ấy, còn con thuyền thì đang lênh đênh giữa biển.
Trong tư duy Thánh Kinh (x. Is 27,1; 51,9t; Đn 7; G 7,12…), biển là nơi cư ngụ của các mãnh lực tà thần. Khi con thuyền đã ra xa bờ “cả mấy cây số” (dịch sát: nhiều stađiôs; mỗi stađiôs = 185m), tức là con thuyền đang ở giữa vùng cư ngụ và hoạt động của các mãnh lực đó. Cộng đoàn các môn đệ, như thế, đang ở trong tình trạng bị đe dọa bởi các mãnh lực của bóng tối và quyền lực tà thần.
Con thuyền của các môn đệ đang bị sóng đánh vì ngược gió. Trước đây, ở 8,24, tác giả Mt đã từng dùng một lối nói đặc biệt hơn nhiều để mô tả hoàn cảnh của cộng đoàn Hội Thánh: con thuyền bị tra tấn (basanizô) bởi các cơn sóng. Khi viết về tình trạng con thuyền ở 8,24 cũng như ở 14,24, có lẽ tác giả Mt liên tưởng đến những hoàn cảnh đau khổ mà Hội Thánh phải trải qua khi thi hành sứ mạng. Nhưng có sự khác biệt giữa hai hoàn cảnh. Một bên là những cơn sóng “tra tấn” con thuyền, như thể có “động đất” (seismos) trên biển (x. 8,24), tức là những khó khăn đến từ xã hội bên ngoài, từ những hoàn cảnh biển đời nổi sóng “hành hạ/tra tấn” con thuyền Hội Thánh. Còn bên kia, trong 14,24, là một nguyên nhân bên trong: trạng thái tâm linh và tinh thần không đúng đắn của các môn đệ. Đức Giêsu sai các môn đệ xuống thuyền để “sang bờ bên kia” (c.22), là nơi mà các ông đã từng đến với Người (x. 8,28), tức là trong một vùng dân ngoại. Ngọn gió thổi ngược (c.24) ngăn cản các môn đệ thi hành lệnh truyền của Đức Giêsu, có lẽ chính là phản ứng của các ông khi phải rời bỏ nơi chỗ vừa diễn ra một biến cố hoành tráng cả thể, rời bỏ nơi chỗ trong đó vừa bùng lên niềm hy vọng về một sự chiến thắng hiển hách, tức là niềm hy vọng rằng Đức Giêsu sẽ trở thành một thủ lãnh huy hoàng của đám đông dân chúng đang phấn khích vì được ăn no nê sau một phép lạ cả thể. Chính trạng thái tâm hồn không muốn rời xa niềm hy vọng đó đã làm cho con thuyền của các môn đệ tròng trành: con thuyền bị ngược gió.
“Vào khoảng canh tư, Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ” (c.25). Trong sách Gióp, Thiên Chúa “đi trên mặt nước” (G 9,8: “Duy mình Người trải rộng các tầng trời, đạp lên trên ba đào biển cả”; x. 38,16). Bằng cách lướt đi trên mặt biển, Đức Giêsu cho thấy Người là Đấng được Thiên Chúa ban cho quyền lực thần linh tuyệt đối.
Nhưng phản ứng của các môn đệ lúc này là phản ứng của sự không tin vào quyền năng và phẩm giá thần linh đó. Trong cái trạng thái tâm linh không thích hợp như đã nói trên kia (“ngược gió”), khi được nhìn thấy sự thể hiện phẩm tính và quyền lực thần linh của Đức Giêsu qua việc Người đi trên mặt biển mà đến với họ, các môn đệ đã không có lòng tin vào quyền năng và phẩm giá thần linh đó. “Thấy Người đi trên mặt biển, các môn đệ hoảng hốt bảo nhau: ‘Ma đấy!’ và sợ hãi la lên” (c.26). Họ không nhận ra nơi Đức Giêsu vị “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. 1,23). Và vì thế, họ từ khước chấp nhận mọi tính cách hiện thực trong sự hiện diện của Người bên cạnh họ. Họ nghĩ đó là ma! Họ từ chối thực tại Người – Chúa nơi Ngài.
“Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (c.27). Đối diện với phản ứng tiêu cực và sợ hãi của các môn đệ, Đức Giêsu tự giới thiệu mình. Mệnh đề “cứ yên tâm” nhằm trấn an các môn đệ khỏi nỗi sợ mà các ông đang trải qua vì thiếu lòng tin. Ứng với lời kêu gọi đó là một khẳng định quan trọng “chính Thầy đây!”. Lời khẳng định này trước hết nhằm mục tiêu điều chỉnh: chính là Thầy đây chứ không phải là ma như anh em lầm tưởng. Nhưng đồng thời, lời khẳng định này lại trùng khít với biểu thức mà Thiên Chúa đã dùng để tự mặc khải về chính mình trong Cựu Ước (x. Xh 3,14; Is 43, 1.3.10t).
“Ông Phêrô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (c.28). Ông Phêrô có vẻ tin vào Đức Giêsu. Nhưng đó là lòng tin vào quyền năng làm những sự lạ lùng của Đức Giêsu chứ không phải là lòng tin vào tình yêu của Người. Ông muốn được “đi trên mặt nước” tức là muốn được tham dự vào cái điều kiện và thân phận thần linh của Đức Giêsu. “Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!” (c.29a). Chúa không từ chối ông Phêrô, trái lại, còn mời ông thực hiện ước muốn của ông. Vấn đề không phải là Người sẵn sàng thỏa mãn tham vọng của ông Phêrô. Thực ra, mọi kẻ đi theo Người đều được mời gọi đón nhận và sống trong tư cách và thân phận của người con Thiên Chúa (x. 5,9). Vì thế, Đức Giêsu không ngần ngại bảo ông Phêrô đi trên mặt nước mà đến với Người. Vậy “ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu” (c.29b).
“Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ” (c.30a). Ông mong được hưởng một điều kiện thần thiêng không có bất cứ chướng ngại vật nào. Ông vẫn mang tâm tính của một người mong phép lạ. Ông vẫn ước mong một cuộc “đến với Thầy” theo một cách thức lạ thường, huy hoàng và không khó khăn. Ông đã quên mất rằng người ta trở nên con Thiên Chúa là giữa những chống đối, bách hại và khó khăn mà thế gian gây ra, như chính Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (5,10-11).
“Khi bắt đầu chìm, ông Phêrô la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (c.30b). Nỗi sợ hãi của ông Phêrô ở đây cũng giống như nỗi sợ hãi của các môn đệ trước đây trong câu chuyện con thuyền của các ông bị “tra tấn” bởi các con sóng lớn trên biển (x. 8,23tt). Trong câu chuyện đó, cũng như trong câu chuyện hôm nay, các môn đệ hoặc ông Phêrô đều kêu cầu với Đức Giêsu, xin Người can thiệp trong những hoàn cảnh khó khăn. Thái độ và cách hành xử này, xét theo một khía cạnh, là thái độ đáng khen. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng lời xin của ông Phêrô ở Mt 14,30 phảng phất thái độ và quan niệm được diễn tả trong Tv 18,5-18 và Tv 144,5-7, theo đó, người cầu xin mong chờ một sự can thiệp ngoại thường của Thiên Chúa từ trời cao để giải quyết tình trạng bi đát và tuyệt vọng của con người.
“Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” (c.31). Tất nhiên Đức Giêsu sẵn sàng can thiệp trong những hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, điều cốt yếu không phải là những can thiệp ngoại thường, mà là sự ở với của Người. Khi có Người ở với, người ta có thể làm được mọi sự (x.19,26) và chắc chắn sẽ được cứu.
“Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng” (c.32). Sự đối nghịch và thậm chí là phản kháng của các môn đệ đối với lệnh truyền phải rời xa tham vọng về một vương quốc Mêsia huy hoàng chiến thắng, bây giờ chấm dứt: “Gió lặng”. Cơn gió thổi ngược ấy vốn là sự kiếm tìm sự vẻ vang phàm trần.
Bấy giờ, “những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” (c.33). “Những kẻ ở trong thuyền” tức là cộng đoàn Kitô hữu ở trong Hội Thánh. Cộng đoàn ấy bây giờ tin thật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và tuyên xưng lòng tin ấy.
Lời tuyên xưng này được đặt ở cuối trình thuật, tức là sau khi Đức Giêsu đã lướt đi trên mặt biển đồng thời tự mặc khải về mình bằng cách sử dụng chính biểu thức mà Thiên Chúa tự nói về Người trong Cựu Ước (“Ta là”), và sau khi Đức Giêsu đã can thiệp để cứu ông Phêrô khỏi tình trạng bị chìm xuống biển. Vì thế tước hiệu “Con Thiên Chúa” được áp dụng cho Chúa Giêsu ở đây vừa mang giá trị Kitô học, vừa mang ý nghĩa cứu độ học. Đồng một trật, Đức Giêsu chứng tỏ Người có quyền lực thần linh tuyệt đối (phương diện Kitô học) và quyền lực ấy được thi thố để cứu các môn đệ (phương diện cứu độ học).
Đó chính là xác tín đức tin vĩ đại mà Hội Thánh muốn công bố với chúng ta hôm nay, và đồng thời cũng là xác tín đức tin làm nền tảng cho cuộc sống của mỗi tín hữu và của tất cả Hội Thánh trong hiện tại.
Gợi ý suy niệm và chia sẻ
1. Hơn một lần Đức Giêsu mời gọi các môn đệ rời xa lý tưởng Do Thái về một vương quốc Mêsia đắc thắng kiểu thế gian. Trong bài Tin mỪng hôm nay, Người bắt các ông xuống thuyền sang bờ bên kia trước, tránh xa cám dỗ tận dụng phép lạ hóa bánh ra nhiều để mơ tưởng về một phong trào Mêsia hoành tráng… Ngày nay, hình như Người vẫn thường phải yêu cầu chúng ta xuống thuyền ngay và sang bờ bên kia như vậy, thay vì mơ tưởng về một Hội Thánh bách chiến bách thắng bề ngoài với hàng loạt lễ hội không có thực chất Tin Mừng.
2. Sẽ có gió ngược làm cho con thuyền Hội Thánh tròng trành, và gió ngược đó trước hết là ngược với hướng mà Chúa Giêsu yêu cầu các mộ đệ nhắm tới. Chính những mơ tưởng về một Hội Thánh đắc thắng ngược với lý tưởng của Đức Giêsu sẽ là một trong những ngọn gió ngược đó. Rồi biết bao toan tính, biết bao chương trình, biết bao tham vọng ngược với bản chất và sứ mạng đích thật của Hội Thánh…
3. Lướt đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ trong đêm, sử dụng chính biểu thức “Ta là” của mặc khải Cựu Ước về Thiên Chúa để tự trình bày về chính mình, Đức Giêsu cho thấy Ngài là Con Thiên Chúa và nắm trong tay quyền lực thần linh tuyệt đối. Và Ngài đến với con thuyền Hội Thánh trong tư cách Con Thiên Chúa có quyền linh tuyệt đối đó. Đó không chỉ là chuyện xưa, mà còn là chuyện của ngày hôm nay nữa. Chúng ta có tin thế không? Chúng ta có cảm nghiệm về thực tại đó không?
4. Chấp nhận cho ông Phêrô tham gia vào thân phận Con Thiên Chúa (= đi trên mặt nước) của mình, cứu ông khi ông chìm xuống biển vì thiếu lòng tin, cùng ông lên thuyền và khiến gió ngược phải yên lặng, Đức Giêsu cho thấy chính Người, trong tư cách là Con Thiên Chúa có quyền lực thần linh tuyệt đối, là Đấng cứu độ nhân loại. Chúng ta trải nghiệm quyền năng cứu độ đó như thế nào?
19. Những cơn sóng
Thiên Chúa tạo dựng con người. Ngài ban cho họ tự do. Ngài luôn tôn trọng tư tưởng, dự định của con người, nhưng với thời gian và qua dòng lịch sử, Ngài thanh lọc, kiện toàn những gì không phù hợp với Nước Trời. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người cũng đi theo đường lối đó, như chúng ta thấy trong bài phúc âm hôm nay.
Sau khi cho dân chúng ăn no nê (Mt 14, 13 - 21) Chúa Giêsu buộc các môn đệ lên thuyền sang bờ bên kia. Giải tán dân chúng xong, Chúa Giêsu để các môn đệ lên thuyền rời khỏi đó; còn phần mình, Ngài lên núi cầu nguyện một mình. Chúa Giêsu phải thúc giục các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia. Chúa Giêsu muốn dạy họ rằng: tránh quan niệm sai lầm của dân chúng muốn tôn Người lên làm vua theo kiểu trần thế. Đàng khác, Người muốn dạy các môn đệ bài học: "phục vụ không phải để được danh vọng, quyền uy".
Vâng lời Thầy nên các môn đệ ra đi, nhưng có lẽ các ông không được hài lòng, các ông không vui vì họ ít ra đã đóng góp trong phần thành công của bữa tiệc no nê hôm nay mà chỉ vỏn vẹn có "năm chiếc bánh và hai con cá" (Mt 14, 17). Phép lạ hoá bánh ra nhiều này là một chiến tích lẫy lừng. Một chiến tích mang lại cho họ những thành công mà họ đang mong mỏi đợi chờ. Một thành công làm cho họ phấn khích. Một thành công xứng với niềm mong mỏi mà các ông đã bỏ công đi theo Thầy Giêsu. Các ông đã hết sức kiên nhẫn chờ đợi ngày Chúa Giêsu làm Vua, cơ hội đó hôm nay đã đến nhưng Chúa lại từ chối. Không những bỏ lỡ cơ hội mà Chúa còn ra lệnh cho các ông lập tức rời bỏ nơi đó, bỏ lại những thành công trước mắt mà không phải hối tiếc. Bỏ lại tất cả để đi vào sứ vụ mới. Đó là ý Chúa Giêsu muốn. Đứng trước lời mời gọi này, các ông hết sức ngỡ ngàng, nuối tiếc; nuối tiếc đã dẫn các ông đến chỗ bất mãn, chán nản. Chán nãn, bất mãn gây cho các ông mệt nhọc. Mệt nhọc làm cho các ông ngã lòng. Các ông đã bước đi nhưng bàn chân rã rời. Chân bước đi nhưng lòng mình còn bị níu kéo. Từng bước đi đang nặng trĩu cõi lòng. Nhịp đập con tim vẫn mãi dan díu. Ánh mắt con người ngoái lại đắng sau.
Hơn ai hết, Chúa Giêsu biết rất rõ tâm trạng của học trò mình. Không những Ngài biết họ bằng ánh mắt và bằng cả cõi lòng khi Ngài cầu nguyện trên triền núi. Bởi vì Ngài là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn mà! Các môn đệ chèo chống vất vả bởi lẽ thuyền các ông đi ngược với sóng gió và hơn nữa chính các ông còn gặp trở ngại lớn hơn là gặp ngược lại với cả ý muốn. Ý muốn của Chúa Giêsu lại ngược lại với ý muốn, ngược lại với sở thích của mình. Tư tưởng, ước muốn làm cho các ông cứ ở mãi trong vòng lẫn quẫn. Con thuyền đang gặp phải sóng gió chòng chành. Sóng trên biển cả. Sóng trong cõi lòng. Sóng dâng trong ước muốn. Sóng cứ mãi vỗ về. Sóng cứ mãi nhấp nhô. Từng đợt sóng cứ di chuyển. Sóng sau xô sóng trước. Sóng sau cao hơn sóng trước. Sóng đánh mất phương hướng. Sóng làm cho lòng người thêm rối rắm. Sóng vỗ tan vỡ tình người. Sóng vỗ tan tình hiệp thông. Sóng làm lạc xa niềm tin. Sóng làm cho lòng người nôn nao. Sóng càng da diết thì càng làm cho lòng người càng nuối tiếc! Sóng vô hình và hữu hình đang sánh đôi. Sóng vô tình ly tán. Ôi con sóng xôn xao!
Chính lúc đó, Ngài đi trên mặt biển để đến với các ông. Ngài vẫn hiện diện. Ngài đến gần hơn. Ngài làm như thế để các ông hiểu rằng Ngài có quyền năng trên các tạo vật, Ngài có quyền trên bánh ăn no nê, Ngài có quyền trên cơn sóng, Ngài có quyền năng trên biển cả. Ngài có quyền năng chế ngự thiên nhiên. Ngài có quyền năng và thấu suốt từng cơn sóng trong cuộc đời mỗi người. Ngài có chương trình của Ngài và Ngài sẽ thực hiện chương trình ấy. Đi trên sóng nước, Chúa Giêsu cũng để chuẩn bị cho các môn đệ tin vào thiên tính của Người. Vì chỉ có mình Thiên Chúa mới có được quyền năng như thế. Điều này mời gọi chúng ta tin tưởng vào tình thương và quyền năng cứu sống của Chúa khi chúng ta phải đương đầu với những sự dữ do thiên nhiên hay những sự dữ bởi ma quỷ.
Nếu trong Cựu Ước, Môisen dẫn dân Do Thái đi qua Biển đỏ một cách an toàn thì trong Tân Ước, Thánh sử Matthêu cho chúng ta thấy Chuá Giêsu là Môi sen mới. Đấng nuôi dưỡng dân chúng nơi hoang địa cũng chính là vị Thiên Chúa giải phóng dân Do Thái khỏi ách Aicập: "Con đường Người nằm trên sóng biển" (Tv 77, 20). Và sự chiến thắng trên sóng nước tử thần này thuộc về Chúa Phục Sinh, vì Chúa chế ngự sóng biển là cách diễn tả Chúa tỏ uy quyền trên thiên nhiên, trên sự dữ và như vậy Người cũng là Đấng chiến thắng sự chết. Ngài đầy quyền năng, có khả năng đem dân Chúa qua biển cuộc đời còn an toàn hơn nhiều và an toàn đến Thiên đàng vĩnh cửu.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt tất cả tin tưởng vào quyền năng của Chúa. Ngài có chương trình cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, chúng ta hãy đặt hết tin tưởng vào Chúa. Ngài vẫn hiện diện để sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Hãy phó thác vào quyền năng yêu thương của Ngài và như thế tâm hồn chúng ta sẽ được bình an.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tin tưởng mạnh mẽ vào Chúa để Chúa làm nên cuộc đời chúng con như ý Ngài muốn. Xin dẹp tan những con sóng xô vô tình đang làm xon xao cõi lòng chúng con. Xin cho chúng con một niềm tín thác vào Chúa. Amen.
20. Hãy an tâm vì luôn có Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật vừa qua, chúng ta nghe thánh Matthêu thuật lại phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều (x. Mt 14, 13-21), tiếp theo là biến cố Chúa biến hình trên núi (x. Mt 17, 1-9) và hôm nay chúng ta nghe tiếp Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (x. Mt 14, 22-33).
Êlia và Phêrô là hai nhân vật nổi bật của tuần này. Êlia chứng kiến ba sự kiện trên trái đất là gió bão, động đất và lửa, Thiên Chúa đều không hiện diện ở đó. Giữa sức mạnh của vũ trụ với tiếng gió hui hui, Êlia phải học phân định để nghe thấy lời trong thinh lặng, hay trong chính bản thân mình (x. 1V 19, 9a. 11-13a).
Trước khi đề cập đến Phêrô, chúng ta không thể không nói đến các môn đệ được Chúa Giêsu "giục xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước" (14, 22), còn dân chúng, những người Do thái được giải tán, theo một nghĩa nào đó, họ là "những người ở bên này". Việc các môn đệ phải "sang bờ bên kia", nghĩa là các ông phải vượt qua những thực tại hữu hình, tạm thời của thân xác, bước sang sự vĩnh cửu vô hình. Dĩ nhiên, các ông không thể cập bờ bên kia trước Chúa Giêsu; các ông phải trải qua kinh nghiệm không có Thầy, họ không thể tới bến bình an.
Có chuyện gì mà Chúa Giêsu buộc các môn đệ phải xuống thuyền? Phải chăng là để chống lại cơn cám dỗ và các tình huống khó khăn? Chắc chắn có một cơn giống tố trong lòng các ông và ở biển hồ Galilêa. Vì chưa hiểu dấu chỉ phép lạ hóa bánh ra nhiều, nên các ông đã theo dân chúng muốn tung hô Chúa làm vua! Giờ đây họ cảm thấy thế gian sợ hãi và xao xuyến biết bao!
"Người lên núi cầu nguyện một mình" (Mt 14, 23). Người cầu nguyện cho ai? Chắc chắn là cho dân chúng vừa giải tán, sau khi đã được ăn bánh no nê, họ không biết phải làm gì. Chúa Giêsu cũng cầu cho các môn đệ, ở giữa biển khơi đang bị kiệt sức bởi sóng đánh vì ngược gió khỏi mọi sự dữ. Chính nhờ lời cầu nguyện của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha mà các môn đệ không bị chìm vì sóng to gió lớn.
Còn Phêrô, được Chúa Giêsu mời gọi bằng kinh nghiệm đức tin. Ông xin Thầy cho được đi trên mặt nước (x. Mt 14, 28). Chúa Giêsu đã ban cho ông quyền đi trên biển. Biển, tượng trưng cho mãnh lực của sự dữ và sự chết; Chúa Giêsu đi trên mặt biển, là đi trên sự chết, thể hiện sự chiến thắng của Người trên sự dữ và sự chết. Toàn bộ mầu nhiệm Phục sinh là ở chỗ Chúa Giêsu chiến thắng sự chết và biển cả. Theo quan niệm của người Do thái, biển là sào huyệt của sự chết. Đi trên biển là liều chết. Chính sự rủi ro này mà khi Phêrô đáp lại lời gọi của Chúa Giêsu, "xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước" (Mt 14,29), là ông giẫm chân trên sự chết. Nên không có lạ, khi ông nghi ngờ.
Chỉ khi Phêrô tin và phó thác vào Thầy, ông mới có thể đi trên mặt nước. Ông bị chìm xuống lúc ông nghi ngờ. Thấy gió mạnh, ông sợ, sự sợ hãi trước tai ương của thế gian này lại giúp cho ông tin vào quyền năng của Thầy. Chính lúc ông thôi tin vào Chúa, ông mất quyền đi trên biển, và chìm xuống. Khi đi được trên mặt nước chứng tỏ Phêrô tin, lúc chìm xuống cho thấy ông không tin. Thật là đức tin ngược đời, vì chính lúc ông không cậy dựa vào Chúa, ông bị chìm, ông lại kêu Chúa cứu.
Với lời kêu cứu của Phêrô: "Lạy Thầy, xin cứu con!" (Mt 14, 30) Chúa Giêsu đáp lại bằng cử chỉ và lời. Người giơ tay nắm lấy ông và trách: "Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?" (Mt 14, 31) Khi gió thổi mạnh, nỗi sợ hãi và nghi ngờ về quyền năng của Chúa đột nhập vào Phêrô, một con người yếu lòng tin. Cứu ông lên khỏi nước, Chúa Giêsu dạy ông rằng, tình thầy trò không phải là đức tin của người môn đệ, nhưng là lòng trung thành của Thầy. Cảnh tượng trên phơi bày sự cao cả cũng như thấp hèn của người môn đệ. "Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa" (Mt 14, 32-33). Quả thật, niềm tin vào Con Thiên Chúa chỉ có được sau một hành trình dài của đau khổ, chết và phục sinh của Đức Giêsu Con Thiên Chúa.
Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trên biển: "Thầy đây, đừng sợ. Ma đâu có xương có thịt như Thầy có đây", cũng là lời Chúa nói với các ông sau khi Chúa phục sinh " Tại sao các con run sợ, tại sao các con nghi ngờ… chính Thầy đây, hãy xem tay chân Thầy đây". Hai khung cảnh khác nhau về thời gian nhưng đều có một điểm chung là run sợ, kém lòng tin và nghi ngờ, cả hai lần Chúa Giêsu đều khẳng định "chính Thầy đây mà" (x. Lc 24; Mt 14).
Ở cuối trình thuật, các môn đệ được mô tả là những người tin khi sấp mình xuống thờ lạy Chúa. Còn Phêrô, mỏng giòn, yếu đuối, Chúa Giêsu lại trao Giáo hội cho ông. Chúa Giêsu sẽ đồng hành cùng Giáo hội. Như Phêrô, người yếu tin, chúng ta cần có bàn tay của Chúa kéo chúng ta lên, bước vào con thuyền Giáo hội để sang bờ bên kia.
Phần chúng ta, nếu một ngày nào đó chúng ta phải đương đầu với các cơn cám dỗ không thể tránh được, hãy nhớ rằng Chúa Giêsu buộc chúng ta xuống thuyền; từ bờ bên này sang bờ bên kia không thể không có sóng gió. Và khi chúng ta thấy những khó khăn, vất vả, mệt nhọc giữa đời vây quanh ta, thuyền của chúng ta đang ở giữa đại dương mênh mông, với những cơn sóng đang tìm cách nhấn chìm đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy vững tin rằng, Con Thiên Chúa sẽ đi trên mặt nước đến gần chúng ta, giơ tay kéo chúng ta lên; Chúa chỉ mong đợi chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.
Lạy Mẹ Maria, gương mẫu về lòng tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, xin giúp chúng con vững tin vào Chúa, để giữa bao bận tâm, lo lắng, khó khăn giữa biển cả cuộc đời đang làm chúng con giao động, chúng con vẫn nghe thấy lời trấn an của Chúa Giêsu, Con Mẹ: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!" (Mt 14,27). Amen.
21. Thầy đây, đừng sợ
Sau phục sinh, Chúa Giêsu hứa ở lại với các môn đệ cho đến ngày tận thế. Ngài đã thực hiện lời hứa đó trong Hội thánh, trong Bí tích Thánh thể để ở với từng người chúng ta cách đặc biệt và luôn nâng đỡ chở che cho chúng ta mọi nơi mọi lúc trong cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Trong đức tin, chúng ta được gặp gỡ Chúa và nhận được sự trợ giúp của Ngài. Xưa kia thánh Phêrô và các Tông đồ trong đêm tối chống chọi với sóng gió, họ sợ hãi vì không cảm thấy Chúa đang ở với mình. Ngay khi Chúa xuất hiện và tiến đến gần, họ cũng không nhận ra vì lòng còn bối rối. Thế nhưng, Chúa Giêsu không muốn các Tông đồ phải sợ hãi quá nhiều. Ngài đã lên tiếng xoá tan nỗi hoảng hốt của các ông: "Hãy yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" Phêrô là người đầu tiên đáp lại lời Thầy nói, ông tỏ niềm tin vào Đức Giêsu và không còn sợ hãi những cơn sóng to gió lớn còn đang bạt vào thuyền: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài" (Mt 14,28). Trước niềm tin và sự hăng hái của Phêrô, Đức Giêsu đã ban cho ông đặc ân đi trên mặt biển. Tuy nhiên, khi đối diện với thực tế vượt quá sức phàm nhân, Phêrô bắt đầu sợ hãi, không ý thức vững vàng vào sự trợ giúp của Thầy. Chính lúc đó, thân phận phàm nhân của ông đã theo quy luật tự nhiên bắt đầu chìm xuống nước. Nhưng Phêrô đã biết kịp thời nài xin Chúa cứu giúp cho lòng tin còn non kém của ông. Lòng tin đó chỉ vững vàng sau ngày Chúa Phục sinh. Tuy nhiên, sau sự kiện đó, lòng tin của các môn đệ dần dần tiến triển và hiểu rằng Đức Giêsu là Mêssia Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại.
Ngày nay, nhiều lúc chúng ta cũng gặp những trường hợp giống như Phêrô, có những lúc cuộc đời gặp gian nan sóng gió, chúng ta hay quên rằng Chúa vẫn yêu thương và sẵn sàng trợ sức cho chúng ta, chúng ta dễ lo lắng, không nhận ra Chúa đang tiến lại gần chúng ta, không nhận ra Chúa đang nhắn nhủ hay nhắc nhở chúng ta. Thường khi, lúc gặp hoạn nạn chúng ta hay phiền trách người xung quanh không giúp đỡ, nhưng khi Chúa cho cuộc sống khá lên, chúng ta lại quên giúp đỡ những anh em kém may mắn hơn mình về vật chất và tinh thần. Thật ra, nhiều lúc Chúa cũng để cho chúng ta gặp khó khăn để thanh luyện chúng ta. Xưa kia, Chúa Cha cũng để cho Con mình gặp khó khăn vất vả đến chết vì muốn cứu độ chúng ta, Ngài đã vui lòng đón nhận những hình phạt mà loài người chịu trên Thánh giá. Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết Ngài là Mêssia đau khổ đến cứu loài người khỏi nô lệ tội lỗi chứ không phải một vị vua trần thế đem lại lợi lộc vật chất theo ý loài người! Nếu chúng ta thật lòng yêu mến Chúa thì chúng sẽ đón nhận tất cả những gì Chúa gởi đến, dù là thánh giá hay hoa hồng, miễn là trong đó có dấu hiệu tình yêu của Chúa đối với chúng ta.
Chúa đến để nâng cao đời sống tinh thần, cho chúng con thoát khỏi sự lệ thuộc vật chất chóng qua chóng tàn này và hướng về sự thật vững bền. Đời này là đời tạm. Chúng ta không bỏ những bổn phận đời này nhưng biết hoàn thành bổn phận cho thật tốt: bổn phận kính Chúa và phục vụ anh em trong tình bác ái để xứng đáng nhận phần thưởng của Chúa trao, được kết hợp với Chúa và nên con Chúa đời đời trên Thiên đàng hạnh phúc.
Chúng ta hãy mạnh dạn xin Chúa cho mình vượt qua những khó khăn sóng gió cuộc đời như thánh Phêrô hôm nay. Những lúc gặp khó khăn như Phêrô đang bước đi trên mặt biển là lúc chúng ta kiểm chứng được niềm tin của mình: Chúng ta còn hoài nghi tình yêu của Chúa hay đã vững tin, chúng ta có thật là chứng nhân của Chúa chưa hay hoài nghi khi gặp thử thách gian nan? Chúng ta có mạnh dạn chèo thuyền để vượt qua những khó khăn hay buông xuôi và đổ thừa Chúa không giúp sức!
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến trợ giúp niềm tin yếu kém của chúng con. Xin cho chúng con ngày một trưởng thành trong đời sống đức tin, ý thức nhiệm vụ và bổn phận cải thiện cuộc đời mình, gia đình mình, xã hội mình đang sống theo sự hướng dẫn của Chúa trong Kinh thánh, qua Giáo huấn của Giáo hội, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong lương tâm của mình.
22. Yêu mến và tín thác vào Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong cuộc xuất hành của dân Do thái từ Ai Cập về Đất Hứa, có một phép lạ lớn lao trên biển. Đó là phép lạ vượt qua Biển đỏ. Khi dân Do Thái rời bỏ Ai Cập đến Biển Đỏ thì quân Ai Cập đuổi theo sát phía sau lưng. Được lệnh Thiên Chúa, ông Môsê giơ tay trên biển làm cuồng phong nổi lên, nước biển liền rẽ ra làm hai để lộ đất khô ráo, dân Do thái đi vào lòng biển khô cạn, quân Ai cập đuổi theo. Đến sáng, khi người Do thái cuối cùng đi sang bờ bên kia. Thiên Chúa ra lệnh cho Môsê giơ tay trên biển, nước trở lại như cũ. Quân Ai Cập bị nhấn chìm trong biển, chết không còn một ai sống sót. Ngày đó, Thiên Chúa đã cứu dân Do thái thoát khỏi dân Ai Cập. Đó là một phép lạ lớn lao Thiên Chúa đã làm trên biển. Phúc Âm hôm nay kể một phép lạ Chúa Giêsu làm trên biển. Đó là biển hồ Galilê. Trong dịp hành hương Đất Thánh vào Mùa Chay vừa rồi, tôi có đi thuyền ngắm trời mây sông nước trên Biển hồ Galilê.
Biển hồ Galilê có hình bầu dục dài 21km rộng 12km, còn được gọi là hồ “Giênêzarét” (Lc5,1). Thánh kinh cựu ước gọi là biển “Kinnerét” (Ds 34,11; Gs 12,13) hay còn gọi là “biển Tibêria” (Ga 6,1). Tibêria hiện nay là một thành phố sầm uất ở Galilê, nằm trên bờ tây nam biển hồ. Nằm về hướng bắc Giêrusalem 100Km, biển hồ Galilê là nơi mà dòng sông Jordan đổ vào trước khi chảy qua biển Chết. Thung lũng và sông Jordan mang một sắc thái địa lý rất đặc biệt, duy nhất trên thế giới vì thấp hơn mực nước biển:208 mét tại biển hồ Galilê và 300 mét tại biển Chết. Thực vật ở đây thuộc dạng nhiệt đới, chung quanh biển hồ núi non bao phủ, lẫn vào con sông Jordan, thời tiết bất thường ở miền đất từ miền nam đến biển Chết, đó là những yếu tố hình thành những vùng gió giật và giông bão xảy ra bất ngờ trên biển hồ (Mt 8,23-27; 14,22-23).
Đối với Tân ước, biển hồ Galilê được nói đến nhiều vì là một trong những trung tâm hoạt động của Chúa Giêsu. Rất nhiều biến cố đã xảy ra tại đây: Bão tố ngừng lại (Mt 8,24-26), Mẻ lưới kỳ diệu (Lc 5,4-14), Đức Giêsu rảo trên thuyền (Mc 4,1), đi trên biển (Ga 6,16-21). Những thành ven bờ hồ như Khôrazin, Bếtsaiba, Caphanaum, Magđala là những nơi Chúa Giêsu thường lui tới, qua nhiều thế kỷ, biển hồ Galilê được gọi dưới nhiều tên: Hồ Kinnêzét, hồ Giênêsarét, và biển hồ Tibêria.
Biển hồ và những vùng lân cận, có rất nhiều di tích liên hệ đến cuộc đời của Chúa và các môn đệ Ngài. Galilê là vùng có núi đồi khô cằn, nhưng các thung lũng phì nhiêu trải dài từ biển Địa trung Hải cho đến biển hồ Galilê. Chính trong các thung lũng này đã hình thành nhiều đồn điền trái cây nổi tiếng đem lại nguồn lợi xuất khẩu. Vào năm 1960, biển hồ là điểm xuất phát cho ngày quốc gia tưới tiêu, chính quyền Israel cho đào một con kênh lớn dẫn nước từ tận biển hồ đến sa mạc Negew. Công trình thuỷ lợi mang lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho một nước mà địa dư, khí hậu đa phần được xem là không mấy thuận lợi. Nhiều nước trên thế giới đã gởi người tới học tập.
Trở lại bài Phúc âm, Thánh Matthêu kể chuyện: trên Biển hồ Galilê, khi có trận cuồng phong từ thung lũng Baka thổi vào thì tất cả các ngư phủ vốn quá quen đi thuyền ngang dọc trên biển hồ cũng phải sợ hãi. Các ngài là những ngư phủ trên biển hồ Galilêa này, và có thể nói là đã quen thuộc với những cơn sóng to gió lớn. Vậy mà đêm hôm đó họ đã trải qua một phen hải hùng, sóng to nổi lên, gió lớn thổi ngược, phải chống chèo rất vất vả các ông mới giữ vững được con thuyền. Và rồi đã xảy ra một sự kiện bất ngờ. Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến với các môn đệ. Vốn đã khiếp đảm vì biển động sóng gió, các môn đệ nay hoảng sợ la lên vì họ tưởng là gặp ma. Thế nhưng khi nghe tiếng nói quen thuộc trấn an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”, các ông mới nhận ra Chúa, lập tức Phêrô xin phép đi trên mặt nước đến gặp Chúa. Chúa bằng lòng. Phêrô bước ra khỏi thuyền đến với Chúa, nhưng đức tin của ông còn yếu kém, ông hồ nghi và lo sợ nên bị chìm dần xuống và kêu xin Chúa cứu giúp. Chúa đưa tay cầm lấy tay ông và trách nhẹ: “Người đâu mà kém tin vậy, sao lại hoài nghi?”. Khi Chúa và Phêrô đã lên thuyền, sóng gió liền yên lặng và mọi người tuyên xưng: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa”.
Tuần vừa rồi, tôi đi thăm các gia đình giáo dân trong giáo xứ. Tôi đi với hai ông trong hội đồng mục vụ. Đến cổng một gia đình, có con chó to sủa lớn xông ra như muốn vồ lấy. Chúng tôi hoảng sợ đứng im. Bé Hoa 6 tuổi từ trong nhà chạy ra, bé nạt con chó: lu lu, đi vô mau. Con chó to hung dữ bỗng ve vẫy đuôi, trở lại hiền lành chạy vào nhà. Con chó to vậy mà nghe lời cô gái nhỏ vì bé Hoa là chủ của nó. Còn tôi và mấy ông tuy to con nhưng không phải chủ nó nên nó chẳng sợ mà còn định nhảy vào cắn. Hôm đó tôi miên man nghĩ về câu chuyện Phúc âm Chúa nhật này. Các môn đệ sợ hãi trước sóng to gió lớn bão tố sấm sét. Chúa Giêsu ra lệnh: hãy im đi, tức thì sóng yên biển lặng. Chúa Giêsu có quyền trên mọi sức mạnh thiên nhiên vì Người là Thiên Chúa sáng tạo, là chủ muôn loài.
Cả hai phép lạ: vượt qua Biển đỏ, Chúa Giêsu đi trên biển có một điểm giống nhau, đó là quyền năng Thiên Chúa trên mọi sức mạnh thiên nhiên. Tin vào Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng vũ trụ và muôn loài là chúng ta sống bình an trước mọi giông bão cuộc đời.
Lời Chúa gởi đến hai sứ điệp, yêu mến và tín thác nơi Chúa Giêsu.
1. Sự hiện diện của Chúa Giêsu, nguồn bình an: Sau khi Chúa Giêsu lên thuyền, gió bỗng yên lặng. Sự hiện diện của Người đủ sức mang lại yên tĩnh và chế ngự phong ba bão táp. Biển theo nghĩa Kinh thánh tượng trưng cho quyền lực của sự ác. Đi trên biển chứng tỏ quyền năng và sự chiến thắng của Chúa Giêsu trên sự dữ, nguồn gốc của bất an, chia rẽ, đau khổ. Nơi đâu có Chúa Giêsu, ở đó có bình an. Cuộc đời người Kitô hữu không thể tránh khỏi những phong ba giông bảo của cuộc sống. Cần phải đến với Chúa Giêsu. Nếu biết đặt Người ở trung tâm đời mình thì sẽ tìm kiếm được an bình nội tâm, cho dù có gặp biết bao gian truân thử thách. Chúa Giêsu hiện diện ngay trong cuộc sống của Kitô hữu nếu mọi người biết đến với Người qua việc nghe, thực thi lời Người, đón nhận Mình Máu Thánh Người và siêng năng cầu nguyện với Người.
2. Tín thác cuộc đời trong tay Chúa Giêsu: Các môn đệ vì sợ hãi sóng gió bủa vây nên không nhận ra Chúa Giêsu, ngộ nhận Người là ma. Chúa Giêsu trấn an họ: “Thầy đây, đừng sợ”. Hơn cả một lời trấn an, đây còn là một mạc khải: sự hiện diện của Chúa sẽ xua đi mọi nỗi sợ hãi; hãy tín thác cuộc đời trong tay Người. Khi Người xuất hiện thì gió yên biển lặng; khi Người có mặt thì có sự bình an. Chính vì thế mà các môn đệ đã thờ lạy Người: Thầy quả thật là Con Thiên Chúa. Lời tuyên xưng này đồng thời cũng là lời biểu lộ một sự tín thác nơi Người. Tất cả mọi người trên thuyền cùng tuyên xưng một đức tin, cùng chung một lòng trông cậy. Trong cuộc sống của mỗi người, niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô cần được thanh luyện và minh chứng qua thử thách gian nan. Nếu biết yêu mến và tín thác vào Chúa, thì càng khó khăn vất vả, thì càng vươn lên mạnh mẽ trong đức tin, luôn có được bình an nội tâm.
Lạy Chúa Giêsu,
Con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin
giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen (Mana).
23. Xin cứu con
Đời người từ khi sinh ra cho đến khi kết thúc cuộc đời là một chuỗi dài của những tiếng kêu: kêu xin, kêu cầu, kêu cứu, kêu gọi... tiếng kêu ấy được biểu lộ với nhiều hình thức khác nhau: kêu khóc, than thở, nhờ vả, sợ hãi... điều này muốn nói lên rằng: con người không thể tự lo cho mình, không thể tự cứu lấy mình. Vì thế, con người cần phải sống liên đới với nhau, nhất là phải biết hướng lòng mình lên một Đấng siêu vượt trên mình để làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc đời của mình và đảm bảo cho cùng đích của mình.
Trong đời sống tôn giáo, khi con người biết mở miệng kêu xin lên Đấng mình tôn kính thì có nghĩa là họ đã có đức tin và đã biểu lộ đức tin của mình. Nhưng bất hạnh thay cho những ai kêu xin với Đấng mà mình không biết và không yêu mến.
Người Kitô hữu là người có Chúa Kitô trong mình và tin tưởng vào Chúa Kitô cũng như tin tưởng vào Thiên Chúa mà Đức Kitô đã mạc khải. Chúng ta cần nhận ra sự thật căn bản này là: Thiên Chúa là Đấng tạo hóa, là Đấng dựng nên muôn loài và nuôi sống chúng, trong đó có chúng ta; còn chúng ta là tạo vật của Ngài. Chúng ta cần đến Ngài để được thương yêu và chăm sóc. Vũ trụ này là một bản trường ca tình yêu được viết lên nhằm thông truyền rằng: Thiên Chúa là tình yêu. Ngài yêu thương mọi loài nói chung và yêu thương con người nói riêng.
Hãy kêu cầu Chúa trong mọi nơi mọi lúc. Đừng ngại mở lời kêu xin Ngài. Không phải Thiên Chúa không thấy trước những nhu cầu của chúng ta, nhưng Thiên Chúa muốn chúng ta tự do bày tỏ tấm lòng của mình với Ngài. Nếu Thiên Chúa chỉ ban cho con người những gì họ kêu xin mà thôi, thì có lẽ rất nhiều người của chúng ta đã ra tro bụi lâu rồi. Bởi lẽ, những gì là căn cốt làm nên sự sống cho con người và vũ trụ đã được Thiên Chúa ban cho và gìn giữ liên tục. Có nhiều điều con người đã không hề thấy để xin nhưng Chúa vẫn ban cho vì chúng cần cho sự sống của con người. Còn những điều khác, Chúa muốn con người kêu cầu lên Chúa với mục đích duy nhất là biểu lộ sự gần gũi, thân tình và gắn bó giữa con người với Thiên Chúa, cũng như biểu lộ sự tín thác trọn vẹn của con người vào Thiên Chúa. "Ta muốn tình thương chứ không phải hy hy lễ". Quên kêu cầu Chúa và quên tạ ơn Ngài là thái độ vô tâm, vô ơn nhất của con người.
Khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với mình, các môn đệ hốt hoảng la lên. Đó là một tiếng kêu trong cơn bối rối và Chúa Giêsu đã đáp lời họ ngay "cứ yên tâm, Thầy đây, đừng sợ". Rồi khi thấy mình sắp chìm xuống biển sâu, Phêrô lại kêu la: "Thưa Thầy, xin cứu con", và Chúa Giêsu đã đáp lời ông. Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu đã ở gần các môn đệ thế nào, thì ngày nay, Ngài cũng ở kề bên chúng ta và cứu giúp chúng ta y như vậy. Có khác chăng là cách thức Ngài hiện diện với ta mà thôi. Chúng ta đừng dùng lối suy nghĩ của con người để suy đón về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Trong bài đọc 1, tiên tri Êlia cảm thấy hết sức buồn bã và đau khổ khi ông quyết tâm chống lại việc thờ ngẫu tượng mà bị nữ hoàng Dezebel tìm sát hại ông. ông đã chạy trốn vào sa mạc và trú ẩn trong một cái hang. Con người đau khổ ấy đã kêu xin Chúa và cầu mong cho mình được chết đi. Nhưng chính trong hoàn cảnh đó, ông đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúa luôn ở gần bên ông để giúp sức cho ông và cứu thoát ông. Cũng chính khi đó, ông khám quá ra rằng: đường lối của Thiên Chúa không giống với đường lối của con người. Thiên Chúa đến với ông trong một cơn gió nhẹ chứ không đến với ông trong cơn giông bão hay động đất kinh hoàng như ông nghĩ tưởng. Khi Chúa đến với ông thì ông tìm được sức mạnh để tiếp tục hành trình của mình.
Cuộc đời của người Kitô hữu chúng ta chắc chắn cũng có những khoảnh khắc đau buồn và chán nản khi hết lòng sống cho niềm tin mà mình đã lãnh nhận nhưng lại bị người đời chống đối, bắt bớ và vu khống. Chúng ta hãy vững tin vào Chúa và không ngừng kêu cầu Ngài. Chính Ngài đang ở kề bên chúng ta và sẽ giải thoát chúng ta. Vì thế, ta đừng để mình lạc mất lòng tin nhưng hãy thành tâm kêu cầu Chúa.
Có người đến hỏi vị linh mục:
"Thưa cha, có nhiều lần con cầu nguyện với Chúa, nhưng sao con cảm thấy chán nản và thất vọng quá. Lời cầu của con không được Chúa đáp lại. Hơn nữa, những biến cố không may lại cứ dồn dập đến với con. Hầu như con không thấy Chúa can thiệp vào những sự kiện này cho con. Đôi lúc, con thấy Chúa ở thật xa. Thậm chí con còn thấy nghi ngờ sự hiện diện của Chúa nữa".
Vị linh mục lắng nghe và nhỏ nhẹ: "Này con, cha hằng cảm nhận rằng Chúa luôn ở với chúng ta. Nhưng vì con chưa thật sự phó thác vào Chúa, chưa kiên trì trong việc cầu nguyện và chờ đợi Chúa ban ơn; chưa kiên trì để khám phá ra ý Chúa trong cuộc sống của con. Vì con chỉ muốn nhìn thấy những thành quả ấy trước mắt con ngay mà lại không muốn chấp nhận thử thách trong đời sống của con. Con hãy kiên nhẫn và chờ đợi Chúa".
Rất nhiều người trong chúng ta cũng có những tâm trạng tương tự như thế trong cuộc sống của mình. Nhưng chúng ta hãy xác tín một điều là Chúa đang ở bên cạnh ta và không hề bỏ quên một lời kêu xin nào của chúng ta. Những gì Chúa chưa ban cho ta là vì chúng chưa cần thiết hoặc nguy hại cho đời sống đức tin của chúng ta mà thôi. Nhưng chắc chắn một điều là "Chúa sẽ kiếp giải oan cho những ai thành tâm tìm đến với Ngài".
24. Cùng phiêu lưu theo Chúa - AM Trần Bình An
Anh Maciek Kozierski, 26 tuổi, người Ba Lan, là người có thể chạy trên mặt nước dễ dàng như chạy trên mặt đất. Trước khi thực hiện màn chạy trên nước, anh Maciek Kozierski đã sử dụng một con diều và bay với tốc độ tối đa, sau đó anh đứng trên ván lướt và thả con diều ra, cách làm này để anh "cảm giác" được những bước đi trên mặt nước.
Để làm được như này, anh Maciek Kozierski đã phải tập luyện rất nhiều lần. Anh đã mất 4 ngày để "làm quen" với con sông Galilee ở Israel. Trong 4 ngày tập luyện này, anh mất tới 50 lần thử nghiệm mà không thành công, anh đã gặp phải không ít khó khăn như gió quá mạnh hay trời mưa… nhưng cuối cùng mọi việc cũng đã ổn.
Ngoài vấn đề về cách chạy, anh Maciek Kozierski còn phải chọn lúc biển lặng và gió không quá mạnh thì mới có thể thực hiện màn trình diễn của mình. Anh tự hào nói: “Những gì tôi làm hoàn toàn không có một chút thủ thuật gì.” (Zing)
Dù rất cố gắng tập luyện, anh Maciek Kozierski chỉ chạy bộ trên hồ Galilê theo quán tính, rồi cuối cùng cũng chìm lỉm, khi hết đà. Làm sao sánh nổi với Đức Giêsu nhẩn nha, bình tĩnh đi bộ trên biển hồ Galilê trong cơn bão?
Tin Mừng hôm nay, Thánh Matthêu thuật lại phép lạ thật bất ngờ. Trong khi vật lộn với bão tố trong đêm tối, các môn đệ nhìn thấy Đức Giêsu đi trên mặt nước. Họ sợ hãi vì nghĩ đó là ma, nhưng Người bảo họ đừng sợ mà hay vững tâm. Người ra tay dẹp tan cơn bão, bước đến lên thuyền và cùng họ vào bờ.
Một chi tiết đáng chú ý trong câu chuyện này, vốn chỉ được chép trong Phúc âm Mátthêu, khi thấy Đức Giêsu, ông Phêrô bước ra khỏi thuyền, đi trên mặt nước để đến với Người, nhưng đang khi đi thì ông Phêrô bỗng sợ hãi và bắt đầu chìm xuống nước, Đức Giêsu đã cứu ông.
Thiên Chúa luôn an nhiên tự tại. Ngài là chủ tể vũ trụ, nên mọi loài, mọi vật, thời gian và không gian đều quy hướng về Ngài. Theo cảm nhận của ngôn sứ Êlia: Ngài không ở trong bão táp mưa sa gầm hú, chẳng ở động đất kinh khủng, cũng chẳng ở trong lửa đỏ nóng bỏng, mà hiện diện êm ái bình an trong cơn gió hiu hiu. (1V 19, 9A, 11- 13A)
Bình an trước cám dỗ
Sau phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều gấp vạn lần, có lẽ các môn đệ đã xuất sắc trở thành những “dư luận viên,” tác động dân chúng vừa được no thỏa, đồng lòng tôn vinh Đức Giêsu lên ngôi hoàng đế. “Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.”(Ga 6, 15)
Chẳng phải lần đầu Đức Giêsu chịu cơn cám dỗ háo danh, ham hố quyền lực, phú quý, sang giàu, mà ngay trước khi đi rao giảng, Người đã thấm thía trải qua, khi Satan hứa hẹn trao cho tất cả vinh hoa lợi lộc các nước trên thế gian, nếu bái lạy, tùng phục quỷ vương.
Vũ khí chống lại dục vọng kiêu căng, tham sân si, mà Đức Giêsu sử dụng hiệu quả, chính là mũi giáo cầu nguyện và tấm khiên lao động, hãm mình, hy sinh. Người cách ly ngay các môn đệ khỏi đám đông, lệnh cho các ngài ra khơi. Còn chính Người giải tán dân chúng, rồi lên núi cầu nguyện. Như thế mới vững vàng bình an trước cơn thử thách cám dỗ thế gian.
Đức Giêsu hẳn muốn nhắn nhủ các môn đệ: Hãy quên ngay đi chút vinh quang phù phiếm, quên đi những thành công ngoạn mục, quên đi những công trình giáo đường nguy nga mới kiến thiết, quên đi những thành quả rao giảng rực rỡ. Bởi vì tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa, mà con người chỉ có vinh dự tiếp tay hoàn thành. Bởi vì sự kiện, sự việc đó chỉ để vinh danh Thiên Chúa, chứ không phải tôn vinh bản thân, cá nhân bất cứ ai, vốn đều chỉ là tạo vật thừa hành. Diệt được dục vọng tham quyền cố vị, háo danh, háo lợi, thoát khỏi thói kiêu căng, hợm hĩnh, trở nên khiêm nhường, nhu mì con người mới được bình an đích thực trong Chúa.
Bình an trong bão tố cuộc đời
Cuộc đời ai cũng đều là một cuộc bể dâu, ba chìm bảy nổi, chín bấp bênh, chẳng ai có thể nắm tay qua đêm. Mọi thứ đều có thể xảy ra trong đêm tối giông tố cuộc đời. Nhưng giữa bão bùng, gió thét gầm hú, tưởng chừng sắp bị nhận chìm vào ba đào, thì Đức Giêsu vẫn luôn thương yêu quan tâm, mà âm thầm, lặng lẽ tìm đến an ủi, che chở, cứu giúp. “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” Nếu tỉnh táo, sốt mến liền nhận ra Người, hân hoan mừng rỡ và bình an ngay lúc hiểm nguy đó. Nếu không, chắc chắn buông xuôi chìm nghỉm, vì thất vọng ê chề, ngỡ là ma quái gọi hồn, sợ hãi la lên: “Ma đấy!” Vậy cứ vững lòng phiêu lưu cùng Chúa Giêsu trên hành trình Nước Trời, dù bao thử thách phong ba bão táp đe dọa.
Ngay trong bài giảng khai mạc sứ vụ Tông đồ Phêrô ngày Chúa nhật 22-10-1978, tại quảng trường Thánh Phêrô, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi toàn thể Hội Thánh và mọi người trên thế giới “Đừng sợ”:
“Anh chị em đừng sợ đón lấy Chúa Kitô và nhận lấy quyền năng của Người!”.
“Anh chị em đừng sợ! Hãy mở ra, mở toang mọi cánh cửa đón lấy Chúa Kitô! Hãy mở mọi biên giới các quốc gia, các hệ thống chính trị, những lãnh vực bao la của nền văn hóa, văn minh, phát triển cho quyền năng cứu độ của Chúa bước vào”.
“Đừng sợ! Chúa Kitô biết rõ “mọi điều trong lòng người”! Và chỉ một mình Người biết rõ” (Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II – Bài giảng lễ khai mạc sứ vụ Tông đồ Phêrô).
Bình an trong Tin Cậy Mến
“Khi Thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” (Mt 14, 32-33) Khi có Chúa đồng hành, cư trong tâm hồn, khi tràn đầy lòng Tin Cậy Mến, thì lập tức có bình an, sự dữ bị khuất phục, đẩy lui. Tà thần sóng dữ, gió gầm đành bó tay, tan biến.
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14, 27) Đừng bao giờ quên lời dặn ân cần chan chứa tình yêu nồng thắm của Đức Giêsu, Người là Đức Chúa, là Thầy, cùng là Bạn, và là Anh của chúng con.
“Đường con đi có hoa thơm, cảnh đẹp, có chông gai, có hùm beo, có bạn hiền, có trộm cướp, lúc mưa sa, lúc nắng cháy, chuyện không thể tránh được. Con cứ đi, miễn lòng con đầy Chúa, đi như Phanxicô, đi như Cyrillô, Anathasiô,… Đừng mất thì giờ đứng lại, đừng sợ tiếng chửi, đừng ăn mày tiếng khen.” (Đường Hy Vọng, số 693)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đưa tay cho ông Phêrô nắm lấy, thoát chết, xin Chúa tiếp tục nắm lấy tay chúng con, cứu chúng con khỏi sa chước cám dỗ, khỏi cạm bẫy ma quỷ, khỏi hiểm họa, tai ương trần thế, để được mãi bình an của Chúa trao ban.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu, che chở, giúp đỡ và ban sức mạnh chúng con chiến đấu khải hoàn những mưu ma chước quỷ, những cạm bẫy thế gian và những ham muốn dục vọng thấp hèn của chúng con, để chúng con được bình an trong Chúa. Amen.
25. Đã tin và chưa tin - Lm Phêrô Nguyễn Hương
Như có lần chúng ta đã nói: Sống là một hành trình tìm kiếm liên lĩ, tìm kiếm hạnh phúc và ý nghĩa tối hậu cuộc đời. Có bao nhiên con người thì có bấy nhiêu cuộc hành trình. Với người kitô hữu, hành trang cuộc đời không gì khác hơn là Đức Tin. Đức tin là kim chỉ nam, là bảng chỉ đường hướng dẫn chúng ta đi tới mục đích.
Vậy thì tin có nghĩa là gì? Sách Giáo lý Công Giáo mới có một đĩnh nghĩa rất vắn gọn: "Tin là lời con người đáp trả lại Thiên Chúa, Đấng tự mặc khải và hiến mình cho con người, khi ban ánh sáng chứa chan cho con người đang đi tìm ý nghĩa tối hậu của cuộc đời mình" (s. 26).
Tin không phải là tin vào một cái gì, vào một học thuyết, một ý thức hệ, một số lề luật, nhưng tin chính là gắn bó, là gặp gỡ, là bước theo một Con Người, và để Con Người đó hướng dẫn ta, chỉ cho ta biết đâu là hạnh phúc đích thực và ý nghĩa tối hậu cuộc đời. Con người đó có tên là Đức Giêsu Nazareth. Như thế tin là sống với, sống như, sống cho Đức Kitô và cùng với Người bước đi trong cuộc đời này.
Những sóng gió của Đức tin
Nhưng sống niềm tin vào Đức Kitô đó trong bối cảnh của ngày hôm nay đang gặp sóng gió mà Lời Chúa hôm nay nói tới với những hình ảnh đầy tính biểu tưởng.
Nếu "biển" là biểu tượng của cuộc đời này, thì sóng gió là những thử thách và trở ngại của con thuyền Đức tin.
Tin Mừng cho chúng ta thấy rằng: Các môn đệ và nhất là Phêrô là những người "đã tin mà vẫn chưa tin", đã tín thác mà vẫn còn hoài nghi ngờ vực, khi họ phải đối diện với sóng gió cuộc đời. "Thấy Chúa đi trên biển, họ hoảng hồn mà nói rằng: Ma kìa"! Đúng là những người kém tin, nên mới "nhìn gà hóa cáo" thôi. Trước những khó khăn, họ không còn nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Chúa nữa!
Nhìn vào các tông đồ để chúng ta cũng soi bóng mình và thấy mình ở trong đó. Các tông đồ và Phêrô chính mỗi người chúng ta, những người đã tin mà vẫn còn chưa tin.
Ngày hôm nay chúng ta đang bị thử thách bởi một nền văn hóa vắng bóng Thiên Chúa (nhiều người thấy Chúa tưởng là ma, thấy ma tưởng là thiên thần, thấy thiên thần tưởng là quỉ dữ!), một nền văn hóa đề cao tiền bạc, tính dục, và hưởng thụ cá nhân. Sự hấp dẫn của chúng đã khiến nhiều người bỏ Chúa để chạy theo những lối sống dễ dãi, thực dụng và vì cái lợi trước mắt mà quên nhân phẩm và đạo lý của mình.
Cũng như các môn đệ, khi bình an, thành công, thì chúng ta dễ dàng tin Chúa, đến với Chúa, nhưng những khi hoạn nạn, thất bại thì chúng ta thất vọng, bỏ Chúa, không cầu nguyện và đến nhà thờ nữa, như bài thơ Dấu Chân Trên Cát diễn tả: khi bình an yên ổn thì con nhận ra dấu chân Chúa bên cạnh dấu chân con, lúc con đau buồn lẫn cô đơn. Con chỉ thấy một dấu chân trên cát. Nhưng Chúa trả lời, chính lúc đó lúc Ta đang ẳm bồng con!
Phải có một Đức Tin mang tính cá vị để khám phá sự hiện diện của Chúa
Trước những thử thách của cuộc sống, mỗi người chúng ta phải có một Đức Tin mang tính cá vị vào Đức Kitô. Có nghĩa là Đức Tin đó phải dựa trên một xác tín, một chọn lựa và dấn thân riêng của tôi để sống gắn bó với Chúa mỗi ngày. Dù có nhiều lối rẽ, cám dỗ mời mọc hấp dẫn, tôi vẫn xác tín rằng: Chỉ có Chúa mới mang lại cho tôi ý nghĩa cuộc đời và hạnh phúc bền vững. Dù có bị thử thách, bị chao đảo, nhưng tôi xin chọn "Chúa là gia nghiệp của riêng mình" (Tv 32, 12b), tôi vẫn bám lấy Chúa, trung thành với Chúa cho đến cùng. Đức tin như thế là cuộc gặp gỡ mang tính cá vị với Đức Giêsu, chỉ có đức tin đó mới giúp chúng ta vững vàng trước sóng gió cuộc đời và chỉ có Đức Tin đó mới giúp chúng ta khám phá sự hiện diện, dấu chân và cánh tay yêu thương của Chúa trong cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa, con thuyền đức tin của Chúng con đang bị sống gió cuộc đời vùi dập, xin Chúa ban cho chúng con có một Đức tin sống động, mang tính cá vị và biết tĩnh thức, để dù có phải trải qua những thử thách, chúng con vẫn trung kiên theo Chúa đến cùng. Xin cho cặp mắt đức tin của chúng con luôn sáng ngời để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời chúng con. Amen!
26. Tương quan giữa con người và Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Cần nhau, tin vào nhau, yêu thương nhau, là những nét diễn tả tương quan giữa con người. Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài đi tìm con người, Ngài có những chương trình và sáng kiến tuyệt vời trong tương quan với con người.
1. Thiên Chúa đi tìm con người
Trong bài đọc sách Các Vua hôm nay, người ta nhận thấy Thiên Chúa muốn tỏ mình cho Elia. Ngài đã truyền cho Elia ra khỏi hang động nơi tiên tri đang trú ẩn và đứng chờ vì Thiên Chúa sắp ngang qua. Thiên Chúa không ở trong cơn giông, không ở trong cơn động đất, không ở trong ngọn lửa… Thiên Chúa không muốn đến với con người qua những gì làm con người sợ hãi.
Không phải Elia chủ động đi tìm Thiên Chúa nhưng chính Thiên Chúa đã có ý muốn tỏ mình cho Elia. Thiên Chúa muốn có tương quan với con người. Khi Adam và Evà không tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, nên đã nghe lời ma quỷ bất tuân lệnh Thiên Chúa mà ăn trái cây Ngài cấm ở vườn Eden, thì chính Thiên Chúa đã chủ động đi tìm con người, gọi con người, bắt chuyện với con người. Khi con người không còn tin vào Thiên Chúa, muốn trốn Thiên Chúa, không muốn nói chuyện, không muốn có tương quan với Ngài nữa, thì Thiên Chúa vẫn muốn nối lại tương giao với con người bằng đối thoại. Mỗi người khi phạm tội là chối bỏ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn tiếp tục tác động nơi lòng mỗi người, làm mỗi người nhận ra lỗi lầm của mình, ăn năn sám hối để bắt đầu lại.
Thiên Chúa là nguồn bình an. Cơn giông, động đất, lửa, là những dấu chỉ Thiên Chúa sắp đi ngang qua, nhưng bình an nhẹ nhàng thanh thản là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện. Bình an là một dấu chỉ đặc biệt cho người ta thấy mình đi đúng đường, cho thấy Thiên Chúa đang hiện diện cách đặc biệt với con người.
2. Khiêm tốn chấp nhận chương trình của Thiên Chúa
Thánh Phaolô có một tình yêu đặc biệt đối với đồng bào của ngài. Với Phaolô, Đức Yêsu là tất cả, và thánh nhân sẵn sàng đánh đổi tất cả để được Đức Yêsu. Khi Phaolô thấy dân Do Thái, đồng bào của ngài, không nhận biết Đức Yêsu thì ngài buồn biết bao. Nói theo ngôn ngữ con người, ngài sẵn sàng và ao ước các anh em của Ngài nhận biết Đức Yêsu, và nếu ngài bị những tai ương bất hạnh mà đổi lại các anh em Do Thái của ngài nhận biết Đức Yêsu, thì ngài sẵn sàng và muốn được điều đó.
Chắc chắn Thiên Chúa không yêu dân riêng của Ngài thua thánh Phaolô. Chắc chắn Thiên Chúa luôn làm điều tốt nhất cho dân riêng của Ngài. Thánh Phaolô cũng tin như vậy. Thánh Phaolô biết mình không hiểu chương trình của Thiên Chúa về dân riêng của ngài; và thánh nhân đã phải chấp nhận sự thực như nó đang là trong niềm phó thác vào Thiên Chúa: đa số người Do Thái không tin nhận Đức Yêsu.
Trên thế giới hiện tại có bao nhiêu người chưa tin nhận Đức Yêsu. Kitô-hữu phải tin rằng Thiên Chúa yêu thương họ, như Thiên Chúa vẫn yêu thương dân Do Thái. Kitô-hữu phải có thái độ đối với họ như thánh Phaolô có thái độ đối với đồng bào Do Thái của ngài. Yêu thương, tôn trọng dân Do Thái. Không than trách Thiên Chúa tại sao lại để chuyện đó xảy ra, nhưng khiêm tốn nhận biết rằng chương trình của Thiên Chúa thật cao sâu vô cùng mà mình không thể hiểu thấu được.
3. Đức tin được diễn tả qua cầu nguyện, phó thác và yêu thương
Đức Yêsu cầu nguyện với Thiên Chúa sau một ngày làm việc. Đức Yêsu, một người luôn kết hiệp với Thiên Chúa nhưng vẫn cần có thời gian đặc biệt để cầu nguyện. Nếu Đức Yêsu còn cần cầu nguyện, thì mỗi người chúng ta còn phải cần cầu nguyện hơn nữa. Cầu nguyện là ý thức Thiên Chúa đang hiện diện với mình và yêu thương mình. Cầu nguyện là nhìn lại tất cả những gì mình làm trong tương quan với Thiên Chúa. Cầu nguyện để mình là mình hơn, để mình tự do với bạc tiền danh vọng tình duyên, để mình bình an và hạnh phúc hơn.
Đức tin vào Thiên Chúa và thái độ phó thác tất cả cho Thiên Chúa phải đi với nhau. Phêrô đã có thể đi trên mặt nước; nhưng một khi thiếu tin tưởng vào Đức Yêsu và vào Thiên Chúa thì ông bị chìm. Cuộc sống như con thuyền trên bể đời, không thiếu những sóng gió như thể làm chìm thuyền đến nơi. Các tông đồ cũng đã thiếu tin tưởng trên hồ Galilê nên đã phải đánh thức Chúa dậy. Phêrô cũng đã xin Chúa cứu khi thấy mình hầu chìm. Đức tin rất quan trọng để có tương quan thân tình với Thiên Chúa và đứng vững trong mọi nghịch cảnh.
Không ai thấy Thiên Chúa bằng mắt trần, nhưng Thiên Chúa vẫn hiện diện đó. Với đức tin, người ta như thể thấy được Thiên Chúa là Đấng Vô Hình. Với niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu, người ta có thể chịu đựng và vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống, để có thể bình an trong mọi hoàn cảnh. Cũng nhờ đức tin vào Thiên Chúa, con người có thể tin tưởng vào nhau; vì tin rằng con người luôn có thể được Thiên Chúa biến đổi. Chính nhờ tin vào Thiên Chúa, mà con người có thể tin tưởng và yêu thương nhau. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với con người liên hệ mật thiết với nhau. “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối; vì nếu anh em là những người hữu hình mà người đó không yêu thương thì làm sao người đó có thể yêu mến Thiên Chúa là Đấng vô hình được” (1Ga. 4, 20).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có tin Thiên Chúa yêu thương bạn không? Đâu là bằng chứng?
2. Theo bạn, cầu nguyện thì được lợi ích gì?
3. Theo bạn, “Thiên Chúa cần con người” hay “con người cần Thiên Chúa” hơn?
27. Con tưởng! – Lm. Gioan B. Phan Kế Sự
Bài hát “Con tưởng rằng con vững tin…” của Linh Mục nhạc sĩ Nguyễn Duy quả là suy niệm thật thích hợp cho chủ đề Lời Chúa của tuần 19 thường niên năm A. Câu chuyện “Chúa đi trên mặt biển” và sự kiện “chìm nghỉm” của Phêrô đã nói lên thực tại thân phận con người khi phải đối diện với những sức ép của mãnh lực thiên nhiên,thế lực trần gian và cả chính sự yếu đuối tự thân của mỗi người. “Con tưởng rằng con vững tin, khi đời sống tòan những hoa hồng”. Nhiều khi, chúng ta tưởng rằng mình đã đủ lớn,lớn cả thể xác, lớn cả chức vị nhưng thực ra chúng ta cũng chỉ là một tạo vật thật tầm thường, bé nhỏ và yếu đuối giữa biển đời mênh mông, đầy bão tố.
Sức ép của những cơn gió ngược đến từ thiên nhiên. Những đợt sóng dữ, dồn dập vỗ tứ bề, con thuyền thì chòong chành sắp chìm, bầu trời phủ một màu đen tối, chẳng thấy đâu là bến bờ. Tất cả làm nên sức mạnh của thiên nhiên khiến cho con người phải hỏang sợ và mất hết phương hướng, mặc cho những kinh nghiệm từng trải của đời ngư phủ. Sức ép về tâm lý đã làm cho các môn đệ cảm thấy chới với, mệt mỏi và buông xuôi, hỏang hốt bảo nhau “Ma đấy!” Mất hết niềm tin!
Sức ép của những cơn gió ngược đến từ con người. Những cơn bão tố đến từ quyền lực, trù dập, phe cánh xem ra thời nào cũng tràn ngập xã hội và cả ngay trong lòng giáo hội, làm mất “lửa tông đồ” và gây tác hại mất cả niềm tin. Biết đâu là chân lý, còn đâu là tình anh em huynh đệ hay chỉ là chập chùng thử thách và đêm tối. Chẳng còn ai có nhuệ khí mà chống chèo, chẳng còn ai nhiệt tâm phục vụ, trước những cơn bão quyền lực, hay cái tôi nội bộ làm thui chột tính chiến đấu. Hoảng hốt và sợ hãi là tâm trạng chung của các tông đồ ngày xưa và cả ngày nay trước sức ép ngược gió đến từ con người! Mất hết niềm tin!
Sức ép của những cơn gió ngược đến từ chính bản thân: Bệnh tật, yếu đuối và cả những cơn “cám dỗ ngọt ngào” của xác thịt, quyền lực, tình cảm đang làm cho mọi người ngày càng mất hết phương hướng giữa chợ đời đầy dẫy những cạm bẫy. Giá trị của con người đang bị đảo lộn bởi những thách thức của nếp sống văn minh hưởng thụ, bởi trào lưu chạy theo thành tích bề ngoài, “yêu cuồng sống vội, đầy thác loạn”. Con người cứ luôn phải đối diện với những “cơn sóng ngược” khi sống niềm tin của mình. Mất hết niềm tin!
Không có Chúa trên thuyền cùng đồng hành, các môn đệ một mình đương đầu với những cơn sóng dữ. Cảm giác bị bỏ rơi và cô độc, lẻ loi sẽ mãi là những cơ hội làm cho các tông đồ cảm thấy hỏang hốt, sợ hãi và đánh mất hết phương hướng. Con người đang dần dần tự đánh mất hết niềm tin vào những giá trị tôn giáo và chỉ cần những thử thách nho nhỏ, những khó khăn hay những đòi hỏi hy sinh, con người sẽ bị chao đảo, và chìm nghỉm trong vực thẳm của đam mê dục vọng.
“Sao con lại hoài nghi”. Chúa đang tra hỏi từng người chúng ta về sự tín thác, tin cậy vào Ngài. Trong mọi nơi mọi lúc, Thiên Chúa, Ngài vẫn luôn ở bên cạnh, đồng hành với kiếp người, bởi Ngài hiểu rất rõ thân phận con người thật mong manh và yếu hèn của chúng ta. Chúa đã từng trấn an Phêrô “cứ yên tâm, Thầy đây, đừng sợ” nhưng rồi “ông vẫn sợ”
“Sao con lại hoài nghi”. Đó chính là thực tại của con người chúng ta hôm nay khi mà trước mắt bầy ra biết bao cơn “cám dỗ ngọt ngào” khiến chúng ta không còn vững tin vào Chúa. Tiền bạc, dục vọng, quyền lực đang ngày càng làm lu mờ con mắt đức tin của chúng ta.
Lời cầu nguyện:
“Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chết mất”. Mang thân phận con người với sự giới hạn vì “gió ngược”, niềm tin của chúng con dễ tròng trành giữa biển đời với biết bao thử thách. Xin Chúa hãy là “núi đá” là “điểm tựa” để chúng con cậy trông và tín thác. “Thưa Thầy, xin cứu con với” …..“Vì lạy Chúa, Chúa biết con yếu đuối và đổi thay.
Con đang cần đến Chúa từng phút giây, khi an vui cũng như khi sầu đầy”…. Amen.
28. Con đường của Chúa – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người ăn uống no nê, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia. Rồi Người một mình lên núi cầu nguyện suốt đêm. Tại sao Chúa có thái độ kỳ lạ như thế? Tại sao Chúa Giêsu bắt ép các môn đệ ra đi? Tại sao giữa lúc dân chúng đang phấn khởi tinh thần, giữa lúc uy tín của Người dâng cao như núi, Người lại bỏ đi? Trong Phúc Âm, thánh Marcô và thánh Matthêu không nói rõ lý do. Nhưng Phúc Âm thánh Gioan thì nói rõ: “Chúa Giêsu bỏ đi vì Người biết dân chúng muốn tôn Người lên làm vua” (Ga 6,14-15). Thật là một quyết định khác thường. Theo thói thường, ta sẽ khuyên Chúa Giêsu lên ngôi làm vua rồi đi khắp nơi làm phép lạ nuôi người ta ăn uống no nê, mọi người sẽ theo Chúa và chịu phép rửa tội, cả thế giới sẽ thuộc về Chúa, khỏi mất công truyền giáo khổ cực.
Không, con đường của Chúa thì khác với con đường của ta.
Con đường của ta là con đường kiêu ngạo trong khi con đường của Thiên Chúa là con đường khiêm nhường. Ta luôn tìm cách nâng mình lên, còn Thiên Chúa luôn tìm cách hạ mình xuống. Ta muốn xưng mình là Chúa trong khi Thiên Chúa lại muốn xuống làm người. Không chỉ làm một người bình thường, nhưng còn mặc lấy thân phận nghèo hèn, yếu ớt, thậm chí bị coi như một người tội lỗi nữa. Khi nâng mình lên, ta thường hạ người khác xuống. Còn Thiên Chúa tự hạ mình xuống để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Con người và Thiên Chúa đều sử dụng bậc thang, nhưng theo những mục đích khác nhau. Con người sử dụng bậc thang để leo lên cao. Ai cũng muốn lên cao trong đời sống vật chất. Ai cũng muốn leo cao trong địa vị xã hội. Ai cũng muốn leo cao trong bậc thang danh vọng. Còn Thiên Chúa lại sử dụng bậc thang để đi xuống. Từ trời Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Từ một người bình thường, Chúa còn xuống làm một người nghèo hèn, một người tội lỗi, một người thất bại.
Con đường ta chọn là con đường rộng rãi, dễ dãi. Còn con đường của Chúa là con đường chật hẹp khó khăn. Ta luôn tìm sự dễ dãi: làm sao cho đời sống đỡ vất vả, làm sao cho có những tiện nghi phục vụ đời sống, làm sao cho cuộc đời thành công tốt đẹp. Còn Thiên Chúa lại chọn con đường chật hẹp, bé nhỏ, khiêm nhường. Trong nghệ thuật quảng cáo, người ta hứa hẹn cho khách hàng mọi sự tiện nghi thoải mái. Còn Chúa Giêsu thì hứa với những kẻ muốn theo Người rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16, 24). Trong các trường đại học người ta quảng cáo: ai học trường này sẽ thành công, sẽ lên chức, sẽ lên lương. Còn Chúa Giêsu lại dạy các môn đệ: “Trong anh em, ai lớn nhất thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22,26).
Chính Chúa Giêsu không đi vào con đường rộng rãi thênh thang, nhưng đã chọn con đường bé nhỏ, chật hẹp. Người không chọn cứu chuộc con người bằng những thành công lẫy lừng, những phép lạ kinh thiên động địa. Nhưng Người đã chọn cứu chuộc nhân loại bằng con đường đau khổ, con đường thập giá, con đường tử nạn. Chính vì thế, hôm nay, vì sợ đám đông tôn Người lên làm vua, đi xa con đường khiêm nhường bé nhỏ, Người đã bỏ đám đông mà đi. Người sợ các môn đệ bị nhiễm thói kheo khoang, phô trương, quyền lực, nên thúc giục các ông xuống thuyền sang bờ bên kia trước.
Đây không phải lần đầu tiên Chúa gặp cơn cám dỗ loại này. Trong sa mạc ma quỉ đã xui giục Người bỏ con đường khiêm nhường, đau khổ để đi vào con đường vinh quang, dễ dãi. Đây cũng chưa phải là cơn cám dỗ cuối cùng. Cám dỗ sẽ còn trở lại với lời khuyên của Phêrô khi ông ngăn cản Thầy ra đi chịu chết (x. Mt 16,23). Cơn cám dỗ khốc liết tiếp tục trong vườn Giệt-sê-ma-ni khiến Người nao núng hầu như muốn tháo lui (x. Mt 26, 39). Cơn cám dỗ không buông tha cả khi Người đã bị treo trên thánh giá với lời thách thức của mọi người: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin” (x. Mt 27, 42). Nhưng Người đã chiến thắng tất cả những cám dỗ của ma quỉ, kiên quyết đi vào con đường thánh ý Chúa Cha, con đường khiêm nhường, vâng lời, hi sinh gian khổ.
Bản thân ta và Hội Thánh, nếu muốn trung thành với Chúa, không thể có chọn lựa nào khác ngoài con đường của Chúa đã đi.
Quá khứ đã minh chứng: Chính khi giàu sang, quyền thế, thì Hội Thánh sa sút, khủng hoảng. Trái lại những khi gặp khó khăn, nghèo khổ, bắt bớ, Hột Thánh lại phát triển mạnh mẽ, vì đang đi vào con đường của Chúa.
Là môn đệ Chúa, ta hãy mạnh dạn bước theo Chúa vào con đường khiêm nhường bé nhỏ, vào con đường chật hẹp từ bỏ mình, vào con đường thánh giá đau khổ. Tuy khó khăn, đau đớn, nhưng đó mới là con đường dẫn ta đến với Chúa, ơn cứu độ của ta.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chúa bỏ đi, Chúa thúc giục các môn đệ bỏ đi vì sợ người ta tôn làm vua. Tôi có lựa chọn nào khiến Chúa phải bỏ đi không?
2) Tôi mong muốn Hội Thánh có khuôn mặt nào: uy quyền giàu sang hay nghèo khó, khiêm nhường?
3) Tôi có sẵn sàng đi vào con đường của Chúa không?
29. Trên sóng biển
Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu đã bảo các môn đệ rời bỏ đám đông để qua bờ bên kia, còn Ngài thì lo việc giải tán dân chúng.
So sánh hai đoạn Tin Mừng ấy chúng ta ghi nhận được một chi tiết thú vị. Đó là giữa lúc các môn đệ muốn giải tán dân chúng thì Chúa Giêsu lại yêu cầu các ông giữ họ lại và lo cho họ ăn. Còn bây giờ khi các ông muốn ở lại với họ thì Ngài lại buộc các ông phải rời bỏ họ mà đi nơi khác. Chúa Giêsu xem ra muốn chất dứt niềm hứng khởi của các ông giữa một đám đông vừa mới được thưởng thức phép lạ Ngài làm. Qua đó Chúa Giêsu như muốn dạy các ông một bài học về tinh thần phục vụ đích thực: Hãy phục vụ người khác nhưng đừng tìm cách hưởng thụ hay khai thác những kết quả do việc phục vụ đem lại. Hãy giúp đỡ vì tình trạng cần giúp đỡ của người khác chứ không thể dựa vào lòng biết ơn của họ để tạo thêm uy tín, thanh danh hay ảnh hưởng của riêng mình.
Người môn đệ của Chúa phải luôn ở trong tư thế sẵn sàng từ bỏ nơi của phép lạ hoá bánh ra nhiều, nơi của sự thành công, nơi của những cơ sở đã được gầy dựng, nơi của một chỗ đứng đã được bảo đảm, để đến một nơi xa lạ, một nơi khởi sự làm quen với những bất trắc và những khó khăn có thể gặp phải. Cũng như trên đỉnh Taborê, giữa lúc Phêrô đang tính chuyện dựng lều thì Ngài lại giục các ông phải xuống núi và tiếp tục con đường lên Giêrusalem, là nơi bản án tử hình của Ngài đang được chuẩn bị.
Công cuộc rao giảng Tin Mừng của các môn đệ không phải là không có những bất trắc, những xáo trộn và những hiểm nguy, như xưa trên mặt biển, các ông đã gặp phải phong ba bão táp. Nhưng nếu chỉ nhìn vào những bất trắc, thì người ta dễ thất vọng và thối lui. Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn có đó trong đêm tối của phong ba bão táp. Ngài có đó để nói với chúng ta rằng: Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ.
Vấn đề là trong những lúc bất trắc xảy đến, chúng ta phải biết nhận ra sự hiện diện của Ngài để can đảm và vững tâm bước tới. Giữa những âm thanh của biển gầm sóng vỗ, chúng ta phải biết nhận ra tiếng nói của Ngài. Và như thế niềm tin của chúng ta phải là một niềm tin, không xuất phát từ lý luận, từ sách vở, nhưng xuất phát từ việc nhận biết Chúa và tiếng gọi yêu thương của Ngài giữa những sự kiện xảy đến trong cuộc sống của chúng ta.
30. An toàn trên biển cả.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Lịch sử hàng hải chắc không bao giờ quên thảm họa đắm tàu Titanic xảy ra hồi 2 giờ 20 phút sáng ngày 15 tháng 4 năm 1912. đó là con tàu lớn nhất và sang trọng nhất thời đó. Nó được thiết kế để không thể bị đắm, thế mà đã bị đắm ngay trong chuyến vượt biển đầu tiên từ Anh sang Mỹ Châu!
Tàu Titanic với bụng tàu chia đôi thành 16 gian bít kín để nước không vào được. Theo đúng kỹ thuật thì cho dù 4 trong 16 gian bít kín ấy bị ngập nước, tàu vẫn nổi, nên kể như không thể bị đắm. Nhưng bất ngờ, tàu Titanic đang chạy thì bị đụng vào một núi băng trôi cách bãi ngầm của phần đất Tân Phần Lan (New Foundland) 150km, nay thuộc Canađa. Vì đụng mạnh, bên phải tàu bị toạc ra một vết dài 91 mét khiến 3 gian bít kín ở bụng tàu bị nước tràn vào. Kết quả là chiếc tàu với khối lượng khổng lồ là 46.000 tấn bị chìm từ từ xuống biển, mang theo số phận của 1.513 người trên tàu bị chết đuối.
Năm 1913 Hội Nghị quốc tế đầu tiên về an toàn cho sinh mạng trên biển cả được triệu tập tại Luân Đôn. Hội nghị này đã soạn một số qui định đòi mọi tàu đi biển phải có đầy đủ phương tiện cứu đắm cho mọi người trên tàu.
Thưa anh chị em,
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng bàn về an toàn cho sự sống con người trên biển cả. Đối với các môn đệ của Chúa Giêsu cũng như đối với dân Do Thái nói chung, biển cả tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ. Sức mạnh ấy chính Thiên Chúa đặt dưới quyền năng vô song của Ngài (Tv 88,9-11). Và quyền năng vô song này cũng được tỏ hiện nơi Đức Giêsu, khi Ngài dẹp yên biển động hay khi Ngài đi trên biển sóng gió đến với các môn đệ đang hoảng sợ.
Riêng với biến cố Đức Giêsu đi trên mặt biển, điều được nhấn mạnh là: muốn được an toàn, các môn đệ phải hoàn toàn tin tưởng vào Thầy Giêsu. Nhưng trong Nhóm 12, người được chú ý hơn cả là Phêrô. Phêrô không những phải đặt niềm tin hoàn toàn nơi Thầy Giêsu mà còn phải duy trì niềm tin đó, không nao núng, không nghi ngờ. Thiếu niềm tin mạnh mẽ hơn sóng gió để đối phó với thử thách, thì cả đến Phêrô là người sốt sắng nhiệt thành đối với Thầy hơn mọi người trong Nhóm, cũng không thể đứng vững được, mà phải bị đắm chìm. Trái lại, bao lâu Phêrô vững vàng trong niềm tin, ông được tham dự vào quyền năng siêu việt của Thầy Giêsu.
Qua biến cố này, chúng ta thấy điểm chủ yếu là lòng tin. Lòng tin từ tình trạng yếu đuối tiến đến việc tuyên xưng mạnh mẽ, nhờ cảm nghiệm được sự hiện diện đầy quyền năng của Chúa Giêsu trong chính hoàn cảnh thách đố lòng tin của các môn đệ. Điều này gợi lên cho chúng ta vài suy nghĩ về lòng tin của chúng ta và sự dấn thân với lòng tin trong những hoàn cảnh sống khó khăn, thử thách. Lòng tin của chúng ta là gì, nếu không phải là tin vào Thiên Chúa toàn năng và ơn cứu độ của Ngài. Đức tin còn phải được những khó khăn, thử thách rèn luyện mới lớn mạnh trưởng thành. Đức tin nằm yên một chỗ, không phải đương đầu, đối chọi với sóng gió của cuộc đời, đức tin ấy sẽ luôn yếu mềm, ấu trĩ. Tin là phải như Phêrô, nhảy vào khoảng trống, phải bước ngay xuống nước để đến với Chúa. Con người không thể đi trên nước, và niềm tin cũng không tiêu diệt được sóng gió. Nhưng có Chúa đứng đó, cũng trên mặt nước và sóng gió, nên ông không ngần ngại nhảy ngay xuống nước để đến với Ngài. Tin là một sự liều lĩnh, nhưng không phải là sự liều lĩnh tuyệt vọng: nhảy xuống nước để tự tử! Trái lại, tin là một liều lĩnh tràn đầy hy vọng, vì nắm chắc sẽ gặp được Chúa đang đứng ở bên kia bờ tuyệt vọng: Ngài là Đấng Cứu Độ, là sự sống.
Nếu giữa gian nguy, thử thách, chúng ta sợ hãi thì càng nguy hiểm hơn, vì chính nỗi sợ hãi sẽ nhấn chìm chúng ta, khiến chúng ta buông xuôi, thất vọng. Khi Phêrô chỉ nghĩ đến Chúa, chỉ dựa vào sức mạnh của Chúa, thì ông mạnh, ông nổi lên mặt nước. Nhưng khi ông nghi ngờ, chỉ nghĩ đến mình, chỉ co rút vào bản thân, thì ông bị chìm xuống. Khi ông hướng về Chúa, kêu cứu: “Lạy Chúa, xin cứu con!”Chúa Giêsu liền nắm lấy tay ông. Chúng ta yếu đuối, bất lực trước những hoàn cảnh khó khăn, thử thách, nhưng nếu chúng ta nghĩ đến Chúa, dựa vào sức mạnh toàn năng của Ngài và kêu cầu Ngài, thì Ngài sẽ kéo chúng ta lên. Cuộc sống chúng ta giống như đi trên mặt nước nổi giông bão. Chúng ta hãy kêu đến Chúa Giêsu. Trước những cơn sóng gió dù khủng khiếp đến mấy cũng đừng quên hướng về Người có thể cứu chúng ta được, đó là chính Chúa Kitô.
Để tiến đến một lòng tin đích thực, chúng ta phải sống sự hiện diện của một Thiên Chúa vắng mặt. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện mà chúng ta không thấy. Người Kitô hữu sống trong lòng Giáo Hội lắm khi bị chao đảo ghê gớm vì “con thuyền Giáo Hội”có lúc như sắp bị chìm và biến mất. Còn thân phận người Kitô hữu thì bị giằng co, giữa nỗi sợ hãi và niềm tin, giữa bất ổn và bình an. Trong những lúc ấy, người Kitô hữu phải sống kinh nghiệm của một Thiên Chúa vắng mặt. Vì hoảng hốt và sợ hãi, các môn đệ khó có thể tưởng tượng hay tin rằng Chúa vẫn hiện diện, nên khi Chúa đến, các ông đã không nhận ra Ngài mà còn tưởng là bóng ma.
Trong thực tế, đức tin của chúng ta không thể chỉ gói trọn nơi những lời tuyên xưng, những tham dự lễ nghi phụng tự, những lãnh nhận bí tích, nhưng đức tin đó phải đi vào cuộc sống thực của chúng ta với mọi hình thức sinh hoạt của xã hội loài người. Tin Chúa là phải dấn thân vào thực tại, sống chung đụng với mọi người, chấp nhận đi vào những cực nhọc, vất vả, khó khăn, nguy hiểm… để cùng với Chúa hoạt động biến đổi bộ mặt thế giới. Đó chính là sứ mạng của mỗi Kitô hữu đối với thế giới ngày nay mà Công đồng Vaticanô II đã khẳng định.
Hãy luôn tin rằng Chúa luôn hiện diện và liên đới với chúng ta trong mọi nỗi gian truân, để từ bên trong, Ngài giúp chúng ta vượt qua mọi sóng gió bão táp của cuộc hành trình về quê hương vĩnh hằng, mà không phải đắm chìm như các nạn nhân của con tàu Titanic năm xưa, nhưng được bảo đảm an toàn trên biển cả như con thuyền của các Tông đồ, vì trong đó có Chúa Giêsu đang hiện diện.
31. Nơi ẩn náu duy nhất – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Phép lạ bước đi trên mặt nước xảy ra sau phép lạ hoá bánh ra nhiều. Chúng ta con nhớ những gì thánh Gioan tường thuật về các phản ứng của đám đông: họ muốn tôn Chúa Giêsu làm vua. Có lẽ các môn đệ không phải là không đồng ý với phản ứng của dân chúng… Vì thế Chúa Giêsu, để kéo họ khỏi sự lôi cuốn ấy, buộc họ sang bên kia hồ. Về phần Ngài, Ngài lui vào nơi hoang vắng để cầu nguyện. Tàn đêm, giữa 3 giờ và 6 giờ, Ngài trở lại với các môn đệ trong những điều kiện lạ lùng, làm nổi bật một trong những ý tưởng chính của đoạn Phúc Âm này: các môn đệ còn lại một mình với những cơn gian nguy chỉ có một chỗ ẩn náu: Chúa Giêsu. Chúng ta ghi nhận vài trò nổi bật dành cho Phêrô. Ông nhảy xuống nước để đi đến Chúa Giêsu, nhưng đức tin của ông chưa được vững chắc như sau này khi Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho ông. Nó chưa đủ sức để ‘củng cố đức tin anh em’, nó vẫn còn yếu đuối, nhưng vừa đủ để Đức Kitô đưa tay nắm lấy ông. Chúng ta hãy để ý các điểm này:
1) Chúa Giêsu bày tỏ trước mắt các môn đệ một quyền phép dành riêng cho Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa có quyền năng sai khiến thiên nhiên. Kinh Thánh thường nhắc nhở việc này, từ bài tường thuật việc tạo dựng cho đến nhiều đoạn Thánh Vịnh qua biến cố vượt Biển Đỏ. Tâm lý của các môn đệ được đào tạo bởi tinh thần Kinh Thánh, nên tự nhiên sau phép lạ có khuynh hướng nhìn nhận nơi Chúa Giêsu, Đấng làm chủ thiên nhiên, một vị được nhuần thấm hoàn toàn sự hiện diện của Thiên Chúa. Thực sự đức tin của họ vào Đức Giêsu – Thiên Chúa chỉ phát triển hoàn toàn nhờ tác động của Thánh Thần nơi họ. Nhưng ngay từ lúc này họ phục lạy và thưa: Ngài thực là con Thiên Chúa.
2) Phải lượng định làm sao cách hành động của các môn đệ và của Phêrô? Trước hết người ta hiểu việc các ông hoảng sợ khi thấy hiện ra trong ánh sáng nhợt nhạt lúc trời mới rạng đông, điều mà các ông tưởng là ma. Từ lúc Chúa Giêsu nói với họ và trấn an họ, đức tin của các ông được khích động. Khi ấy người ta thấy Phêrô lẫn lộn vừa hăng hái vừa tin tưởng. Lòng hăng hái thúc đẩy ông nhảy xuống nước và lòng tin không giữ vững ông đủ; vì thế ông chìm xuống. Nhưng, với một phản ứng có tầm quan trọng tối cao, ông kêu cầu Chúa Giêsu đưa tay nắm lấy ông. Việc này chẳng tiêu biểu cho một vài lúc trong cuộc sống Kitô hữu chúng ta sao? Bài học cần ghi nhớ: khi cuộc sống Kitô hữu chúng ta xem ra giống như đi trên mặt nước nổi giông bão, hãy kêu đến Đức Kitô. Đức tin là một ân sủng, một quà tặng. Vậy phải là điều chúng ta cầu xin. Bắt chước thánh Phêrô trong một trường hợp khác, chúng ta phải thưa nhiều lần: ‘Lạy Chúa con tin, nhưng xin tăng thêm đức tin cho con’ sao?
3) … tại sao lại ngờ vực? Câu Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô đáng cho chúng ta sy nghĩ. Tại sao có lúc chúng ta ngờ vực? Chúng ta có thể thưa với Chúa mọi khó khăn đang bủa vây đức tin chúng ta. Đáng lẽ chúng ta phải nói với Ngài sự yếu đuối và các đòi hỏi của tâm trí chúng ta, các xao động của lòng chúng ta, các nỗi đau khổ đầy ứ của chúng ta. Nhưng có một cách hỏi không có ý nghĩa, đó là cách hỏi mang ẩn ý rằng Chúa Kitô xa cách chúng ta hay Ngài không hiện diện. Chúa Giêsu nói với Phêrô: Tại sao lại ngờ vực, nghĩa là tại sao có giây phút ngươi sinh lòng sợ hãi làm như thể Ta không có ở đó? Nếu có một nỗi ngờ vực trổi lên trong lòng chúng ta, chớ gì nó giống như bàn tay chúng ta đưa lên Chúa Kitô và đừng ngờ vực mà chắc chắn rằng Chúa Kitô có ở đó để nắm lấy.
32. Phép lạ.
Sau khi đương đầu và trừng phạt bọn tiên tri Baal tại núi Carmel, tiên tri Elia bị hoàng hậu Giêxabel đòi mạng. Thất vọng, ông tìm đường trốn lên núi Horeb miền. Thiên Chúa hiện đến và Ngài đã mạc khải cho ông, như xưa Ngài đã mạc khải cho Maisen, nhưng không còn là trong bão táp sấm chớp, cũng không trong tiếng rung chuyển của trái đất, hay trong lửa hồng bừng cháy, nhưng trong cơn gió nhẹ hiu hiu thổi.
Qua biến cố này chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa vượt trên mọi sức mạnh thiên nhiên, nhất là sự hữu hiệu của lời Ngài rất đơn sơ và xem ra cũng rất nhẹ nhàng. Sự hữu hiệu ấy nói lên lòng thương xót và dịu hiền của Ngài vượt trên sự công bình và sợ hãi. Và giờ đây, những phép lạ của Đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể, còn kỳ diệu hơn cả thời Elia, đã làm rạng rỡ cho lòng thương xót và dịu hiền vô bờ của Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đã phán:
- Tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa thì khác xa tư tưởng và đường lối của con người.
Vậy ai dám giới hạn Ngài trong một phạm trù, đặt để Ngài trong một hệ thống và hạn chế Ngài trong chính hành động của Ngài. Từ chối không chấp nhận phép lạ chính là từ chối tự do của Thiên Chúa, Đấng quyền năng và nhân hậu.
Thánh vịnh cũng nói: Mọi vật được tạo dựng nhờ Ngài… Đúng thế, khắp nơi các nhà bác học khám phá ra những định luật thiên nhiên. Những định luật này họ không hề sáng chế hay ẩn định, thế mà không lề luật nào mà lại không có người làm luật.
Vậy ở đây phải chấp nhận một Đấng làm luật toàn năng và vĩnh cửu. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và làm chủ mọi sự. Nếu có đấng nào ở trên mọi lề luật, thì đấng ấy chỉ có thể là Ngài. Ngài luôn có thể hành động không cần nhờ trung gian. Một sự can thiệp trực tiếp được gọi là phép lạ, hành động của Thiên Chúa.
Qua Phúc Âm chúng ta thấy Chúa Giêsu đã thực hiện rất nhiều phép lạ, chúng ta thử đưa ra một vài trường hợp tiêu biểu để khám phá ra ý nghĩa và mục đích của sự can thiệp này, bởi vì Đức Kitô thường giảng dạy chúng ta qua những hành động và ngôn từ, qua việc làm và lời nói của Ngài.
Trước hết là tại tiệc cưới Cana. Bữa tiệc đang tiếp diễn thì Mẹ Maria đến nói nhỏ với Chúa: ‘Họ hết rượu rồi’. Chúa Giêsu sai đổ đầy nước vào các chum rửa tay chân và dạy múc đưa đến cho chủ nhà. Phép lạ được thực hiện. Chỉ với ý muốn, Chúa Giêsu thực hiện được một phép lạ, mà chẳng cần đến một phương tiện nào cả. Hành động của Ngài vượt quá mọi mơ tưởng của các nhà khoa học, không cần gì chất hóa học hay giòng điện để biến đổi.
Tiếp đến là nơi hoang địa, với năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài đã nuôi sống năm ngàn người, không kể đàn bà và con nít. Và lần khác, với bảy chiếc bánh, Ngài đã cho bốn ngàn người được ăn no nê. Và hôm nay, Ngài đã vớt Phêrô lên thuyền và làm cho sóng yên biển lặng.
Trong cuộc sống thường ngày, mọi hành động của Thiên Chúa đều mang tính cách phép lạ, nhưng vì quá quen thuộc nên chúng ta không nhận ra. Chẳng khác chi trước sự tận tâm của người mẹ, nào có mấy đứa con cảm nhận sâu xa được, cho dù thực tế đó là những hành động thật phi thường.
Tuy nhiên, đôi khi Thiên Chúa cũng làm những phép lạ như một phương tiện thay đổi tùy thời, tùy nơi, tùy nhu cầu và não trạng. Nhưng mục đích Ngài nhằm tới đó là củng cố niềm tin, giúp chúng ta thay đổi cuộc sống và con người của mình.
Gặp thời thuận tiện, cũng như không thuận tiện, chúng ta hãy tin tưởng cậy trông vào Chúa, Ngài sẽ đến cứu giúp và nâng đỡ chúng ta.
33. Thầy đây mà! Đừng sợ!
Anh chị em thân mến,
Đức Piô thứ IX, khi vừa mới lên ngôi Giáo hoàng, có một anh họa sĩ trẻ mới học nghề, anh ta muốn được nổi tiếng và vừa để kiếm tiền, anh họa hình Đức Tân Giáo hoàng. Hình họa không giống, không đẹp lắm! Anh đem bức họa vào để xin Đức Piô 9 ký tên bên dưới. Đức Piô 9, vẫn vui vẻ nhận lời. Bên trên chữ ký, ngài ghi lại câu Phúc âm này, Matthêu 14, 27: "Cứ bình tĩnh, Cha đây, đừng sợ." Ý Đức Thánh Cha cũng hơi hài hước. Ngài muốn nói: hình họa vừa xấu vừa không giống nữa... Nhưng anh chàng họa sĩ xem ra không hiểu, vẫn đem bức họa in ra và đi bán... Kính mời anh chị em cùng suy niệm câu chuyện Chúa Giêsu đi trên mặt nước và lời nói của Chúa, chúng ta vừa nêu ở trên...
a/. Nguồn gốc câu chuyện phép lạ Chúa đi trên mặt biển: Câu chuyện phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hơn 5000 người ăn no nê, chúng ta nghe trong tuần trước. Câu chuyện này xảy ra, vị trí ở phía bên kia bờ biển hồ Tibêriađê; tức là phía bên hoang địa; bên này bờ hồ là thành Capharnaum. Như vậy Chúa giảng dạy rồi hóa bánh ra nhiều cho họ ăn là ở phía bờ bên hoang địa. Ăn xong trời muốn tối; dân chúng lại muốn tôn Chúa Giêsu lên làm vua. Người không đồng ý, nên bảo các môn đệ xuống thuyền mau về bên kia bờ là Capharnaum; còn Chúa, Người lại lên núi một mình. Canh tư đêm đó, lối quá nửa đêm, Chúa Giêsu đi trên mặt nước, đi đến thuyền của các ông. Khi Chúa đi gần tới họ tưởng là ma nên la hoảng lên. Chúa Giêsu đã trấn an họ: "Bình tĩnh, Thầy đây, đừng sợ."
b/. Qua câu chuyện này Chúa muốn dạy chúng ta điều gì?
Trên đời này, nếu không có niềm tin, con người sợ nhiều thứ lắm: sợ chết - sợ bệnh tật - sợ bị thua kém - sợ người khác (sợ ma, quỉ)... Con người sợ những thứ đó, cũng phải thôi, vì trong vũ trụ này, thực ra con người là một tạo vật xem ra khá bé nhỏ. Bài tin mừng của chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu lại dạy mỗi người kitô hữu chúng ta: "đừng sợ", đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác, nhưng không giết được linh hồn...chỉ sợ Đấng đã giết rồi, lại còn ném vào hỏa ngục nữa (Lc 12, 4 - 5) - đừng lo cho mạng sống, lấy gì mà ăn, lấy gì mà mặc (Lc 12, 22) - Tóc trên đầu anh em đã được đếm cả rồi (Lc 12, 7). Con người lo sợ cũng phải, vì con người thấy mình thua kém, và không có chổ nương tựa. Ở đây Chúa dạy: "đừng sợ", nhất là "hãy tin cậy nơi Chúa"
Câu chuyện sau đây, minh chứng cho lòng tin mến vững vàng, không sợ hãi, của một người cùi, lại mù lòa nữa. Chị Vêrônica, một người Pháp, vào năm 1979, chị đã ngoài 58 tuổi. 55 năm mắc bịnh cùi, 20 năm bị mù lòa, chị vẫn làm việc trong một xí nghiệp sản xuất đồ dùng của người cùi tại nước Cameruon, châu Phi. Trong tập nhật ký của chị có ghi một lời kinh đầy niềm tin, không sợ hải như sau:
"Lạy Chúa, Chúa đã đến và đã xin con tất cả. Phần con, con cũng hiến dâng cho Chúa tất cả. Xưa kia, con thích đọc sách, rồi Chúa muốn mượn đôi mắt của con. T rước đây con thích chạy nhảy trong khu rừng thưa, và Chúa đã mượn đôi chân của con... Mỗi khi xuân về, con tung tăng hái những cánh hoa tươi, và Chúa lại xin đôi tay của con...
Con là một phụ nữ, con ưa ngắm nhìn suối tóc óng ả của con, ưa ngắm nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của con. Thế mà giờ đây, đầu con hầu như chẳng còn một sợi tóc nào! Cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng xinh xinh nữa! Chỉ còn lại vài que củi... khô queo nhám nhúa...!
Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem thân thể kiều diễm của con đã bị hủy hoại đến độ nào rồi... Thế nhưng con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn...Vâng lạy Chúa, muôn đời con sẽ xin thưa hai chữ tạ ơn...Bởi vì nếu đêm nay, Chúa truyền cho con phải vĩnh biệt cỏi thế, con cũng sẽ chẳng hối tiếc điều gì. Đời con đã đầy tràn hồng ân kỳ diệu: đó là vì con được đắm mình trong Tình Yêu vô bờ của Chúa... Lạy Chúa là Cha của con, Cha đã đối xử tốt với bé gái Vêrônica của Cha... Chiều nay, con xin dâng lên lời nguyện thiết tha, cho tất cả mọi người cùi trên mặt đất. Xin Cha thương đặc biệt đến những người cùi tâm hồn, đang đè bẹp hủy hoại họ. Chiều nay, trong âm thầm con xin tận hiến đời con cho họ, vì họ cũng là anh chị em của con...
Con là bé gái thân thương của Cha. Cha ơi, hãy nắm lấy bàn tay đã tàn phế của con để dẫn con đi, như người mẹ hiền dắt tay đứa con gái cưng của mình. Hãy nhận chìm con, sâu xuống tận đáy trái tim Cha, cho con được ở đó với mọi người thân yêu của con, bây giờ và cho đến mãi muôn đời. Amen..."
Chúng ta vừa nghe một lời kinh tràn đầy niềm tin yêu, không hề sợ hải, như chính những gì Chúa Giêsu muốn dạy qua bài TM chúa nhật hôm nay. Rõ ràng đây là một lời kinh nói lên chân lý: Tình yêu mạnh hơn sự chết...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Qua bài Tin mừng này, Chúa Giêsu dạy chúng ta: hãy tin vững vàng nơi Chúa mà không sợ hải. Là người kitô hữu, ta có đủ tin vào lời Chúa không? Câu chuyện của Chị Vêrônica ta vừa nghe, có đánh động ta không? Ta có muốn cầu xin Chúa cho ta biết sống niềm tin vững vàng, không sợ hải trước mọi thử thách, khổ đau trong cuộc sống không?
34. Có dừng chân nhưng không dừng lại
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Là Kitô hữu, chúng ta thường nghe cụm từ “hành trình đức tin”. Tin là một quá trình bước đi không ngừng, tiến mãi về phía trước để gặp Đấng vô hình. Thỉnh thoảng có dừng chân nhưng không bao giờ đứng lại.
Sau khi hỉ hoan về phép lạ cả thể mà Thầy đã thực thi cho gần vạn người no nê, các tông đồ lại phải chưng hửng lần nữa vì lệnh của Thầy: Hãy lên đường! Hãy xuống thuyền mà qua bờ bên kia! Cám dỗ dừng chân đứng lại và nghỉ ngơi trên thành công, trên chiến thắng vẫn luôn có đó với phận người. Sau khi khánh thành một công trình hoành tráng, sau khi hoàn thành một cuộc lễ hay một cuộc tổ chức lớn bé, thì dừng chân, ngồi lại để lượng giá, kiểm thảo để rút kinh nghiệm là điều cần thiết, nhưng để đứng lại chiêm ngắm vinh quang là một cám dỗ triền miên và thật khó lường hậu quả. Ròng rã hơn mười mấy năm trong vai trò thầy giúp xứ cũng như hơn mười mấy năm đời linh mục, bản thân nghiệm thấy chính mình và các đấng khi xây dựng một công trình nào đó thì chuyện hay đi lui đi tới ngắm nghía công trình là chuyện như cơm bữa. Ai lại không thích ngắm nghía vinh quang của mình. Ai lại không nghe người ta trầm trồ về cái gọi là thành công của mình. Hễ có khách đến thăm thì phải tìm dịp giới thiệu cho được những gì mình đã “ra tay”.
Các tông đồ năm xưa chẳng hơn gì chúng ta hôm nay. Dù chỉ là những người giúp phân phát bánh – cá, nhưng các ngài làm như chính tay mình thực thi kỳ công “phép lạ hóa bánh”. Theo Tin mừng thánh Gioan thì việc người dân muốn tôn Chúa Giêsu làm vua có thể là do dân chúng tự phát cũng có thể là bởi sự gợi ý có chủ đích của nhóm mười hai vị rất tham “ngồi bên hữu, bên tả Thầy trong vinh quang” (x. Mc 10,35-40). Đêm đã về. Dân chúng đã no nê. Chúng mình cũng đáng được hả hê nghe bao lời chúc tụng chứ. Chuyện bất ngờ đã đến, dù không ai thích thú chút nào. Thầy ra lệnh tất cả xuống thuyền ngay. Còn Người thì giải tán dân chúng và lên núi cầu nguyện một mình.
Bỏ vinh quang, bỏ thành công rực rỡ để ra đi là một điều không dễ chút nào. Cảnh đời phía trước mịt mùng khó tiên liệu và sóng gió ba đào là chuyện dường như khó tránh. Các tông đồ hôm ấy đã phải đương đầu với hiện thực ấy. Sóng thì to, gió thì lớn. Thuyền đang chơi vơi nghiêng ngã. Lòng các ngài cũng ngã nghiêng theo gờ cạnh con thuyền. Tâm trạng của tiên tri Êlia năm nào cũng không khác gì. Sau chiến tích oanh liệt hạ gục những 450 sư sãi thần Baal, Êlia đã phải trốn chạy sự truy đuổi, tìm diệt của hoàng hậu Giêdabel. Sau vinh quang thì tai họa liền kề.
“Ra đi là chết trong lòng một ít”. Chẳng có sự dứt bỏ nào mà chẳng có xót xa hay đau đớn, nhất là phải từ bỏ những thành công huy hoàng hay những hạnh phúc êm ả cho dù chúng là hữu hạn của đời thường. Hạnh phúc đích thực vẫn ở phía trước. Đó là Thiên Chúa, Đấng không chỉ chờ đợi mà đang tiến tới để đón gặp chúng ta.
Tin là bước đi, là ra đi, tiến về phía trước, về nơi chưa hề biết như Abraham ngày nào. Bỏ quê hương, xứ sở, bỏ cả gia tộc thân yêu để lên đường. Xót dạ khi ra đi và bâng khuâng khi tiến về phía trước. Nào là sóng gió cuộc đời, nào là phong ba tình người, tất thảy như đang chờ đợi để dập vùi, đánh đắm con thuyền đời ta. Một Phaolô hết lòng hết dạ với người đồng hương Do Thái, ngài đã khẳng định: “Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và lìa xa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng” (Rm 9,3). Hiểu cho đúng thì Phaolô không quay lưng với tôn giáo tổ tiên mà tiến lên một tầm cao mới trong hành trình đức tin khi đã được diện kiến Đức Kitô phục sinh, Đấng Thiên Sai mà tổ tiên ông hằng mong đợi, thế mà ngài vẫn mãi bị người đồng hương xem là phản đạo, bội giáo, bỏ đạo để rồi luôn tìm cách bắt giết. Một khi đã ra đi, tiến về phía trước thì cái giá cần trả không chỉ là gian nguy, khốn khó mà cả sự lo âu, phiền muộn. Ngài thú nhận: “Thưa anh em, có Đức Kitô chứng giám, tôi xin nói sự thật. tôi không nói dối, và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn cũng làm chứng cho tôi rằng: lòng tôi rất đổi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi” (Rm 9,1-2).
Với Êlia, với Phaolô hay với các tông đồ khi ở trên thuyền chòng chành giữa biển đầy sóng gió, Thiên Chúa không bao giờ để các ngài cô đơn một mình. Người hằng ở với họ. Người luôn đồng hành với họ. “Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14,27). “Ơn Ta đủ cho con” (2Cor 12,9). “Thầy sẽ không để các con mồ côi” (Gio 14,18). Dù giữa biển khơi hay giữa đêm tối của cuộc đời, Đấng làm người mãi ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20). Chỉ một điều là hãy nhắm đích và tiến thẳng trong niềm tin.
Thỉnh thoảng cũng nên biết dừng chân để tự kiểm để định hướng hay chỉnh hướng, nhưng không được phép đứng lại. Đứng lại là một trong những thái độ tự hài lòng về thành công của chính mình. Từ chỗ hài lòng đến chỗ tự cao tự đại là một khoảng cách không mấy xa. Và hậu quả của sự tự kiêu, tự mãn như đã nhãn tiền. Chưa tính đến chuyện Chúa hạ kẻ tự kiêu và nâng cao người phận nhỏ (x. Lc 1,52), thì chính kẻ cao ngạo, họ đã tự đặt mình vào vị thế cheo leo và sẽ ngã không biết lúc nào.
Đứng lại cũng là một hành vi tỏ dấu sự nghi ngờ. Khi thiếu niềm tin hay khi lòng tin yếu kém thì ta rất dễ bị cám dỗ dừng lại, không can đảm tiến lên. Những cái sợ như sợ khó, ngại khổ, sợ thất bại… nhiều khi nhấn chìm chúng ta trong các trở ngại khách quan vốn dĩ không thể tránh của kiếp người.
Không ai là không một lần gặp chông gai, sóng gió. Không ai là không đã từng nhiều lần ngã quỵ vì gian truân, khốn khó. Chuyện ngã, chuyện té là chuyện bình thường của phận người. Điều quan trọng là biết chỗi dậy và tiến lên. Trong niềm tin vào tình yêu của Đấng đã tự nguyện làm bạn đời của ta là Đức Giêsu, ước gì chúng ta được như thánh tông đồ dân ngoại là “quên đi những gì phía sau để lao mình về phía trước” (Pl 3,13).
35. Hãy lưu lại trên thuyền – Charles E. Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Nước bao phủ hai phần ba bề mặt trái đất. Chúng ta biết rằng chúng ta không thể sống nếu không có nước, nhưng đôi khi chúng ta không thể sống với nước. Nước là một sức mạnh quyền năng và bí nhiệm mà có thể nói là sống hay chết.
Các tông đồ hiểu nước rất rõ. Họ là những người đánh cá, nên nước là chính cuộc sống của họ. Đối với họ, nước có nghĩa là sự sống. Nhưng rồi vào một đêm kia, với những ngọn gió gào thét trên họ và nước gầm rú dưới chiếc thuyền của họ, họ biết bây giờ nước có nghĩa là chết. Họ kinh ngạc xiết bao khi thấy Chúa Giêsu hướng về phía họ mà lại đi trên mặt hồ! Khi họ nhận biết rõ đó chính là Chúa Giêsu chứ không phải là ma, họ mới như trút được nỗi sợ hãi, nhưng sự bốc đồng của Phêrô chưa thoả mãn. Ông ước ao một điều gì đó hơn là những gì ông đã thấy nữa kia. Ông trông mong Chúa Giêsu hành động một cách kỳ lạ hơn nữa kia: “Ông thật sự muốn Chúa Giêsu ban quyền cho ông đi trên mặt nước”.
Phêrô cầu xin: “Xin cho con đi trên nước để đến với Thầy”. Ngạc nhiên Chúa Giêsu đáp: “Hãy đến”. Những điều đó không thành công. Phêrô bắt đầu chìm xuống biển vì thiếu lòng tin. Có lẽ Chúa Giêsu không muốn đáp ứng đòi hỏi không đúng của Phêrô vì Người muốn dạy cho ông và cho tất cả chúng ta một bài học, hãy bằng lòng với cách thế mà Chúa đã thực hiện chứ đừng đòi hỏi Người làm theo cách của ta.
Đó là một bài học ngay với tiên tri cao cả là Êlia cũng phải học. Êlia đã làm chứng cho quyền năng tuyệt hảo của Thiên Chúa, Đấng đã đáp lời cầu nguyện của ông, đã mang lửa từ trời xuống thiêu rụi con bò tơ như một của lễ hy sinh. Điều này đã xảy ra khi những lời cầu nguyện của các tiên tri, các thần ngoại giáo đã được minh chứng là vô dụng. Nữ hoàng Giêzebel, kẻ thù không đội trời chung với Êlia, đã giận dữ vì sự thành công của vị tiên tri. Bà đã thề là bà sẽ giết ông cho kỳ được. Êlia đã chạy trốn để cứu lấy mạng sống. Chúng ta thấy ông đang trốn trong một cái hang bài đọc hôm nay. Chắc chắn ông đã hy vọng một sự tỏ hiện kỳ diệu của Thiên Chúa qua một cơn gió lớn mạnh tiếp đó là trong cơn động đất, rồi là lửa, nhưng Chúa không ngự trị trong những hiện tượng này. Nhưng Êlia đã thấy Chúa ngự trong ngọn gió nhẹ rì rào. Êlia học biết rằng chúng ta phải bằng lòng với cách thế mà con Thiên Chúa chọn để hành động.
Chúng ta có thể muốn Thiên Chúa hành động nhân danh chúng ta bằng những phương cách bất thường, như cho phép chúng ta đi trên nước mà đến với Người. Nhưng chúng ta vẫn ở lại trên thuyền, thuyền đây biểu trưng là Giáo Hội. Giáo Hội sẽ không bị chìm cho dù sóng to gió lớn đến mức nào, đó là những gương mù gương xấu trong Giáo Hội đã làm chúng ta phải bực tức. Giáo Hội sẽ không bị lật úp bởi những ngọn cuồng phong, đã đe doạ dập tắt đức tin của chúng ta và làm cho chúng ta phải cực lòng. Dù cho bất cứ điều gì khác có xảy đến, chúng ta biết rằng ở nơi con thuyền Giáo Hội chúng ta sẽ luôn luôn tìm gặp Thiên Chúa.
Trong Giáo Hội, Thiên Chúa hành động theo cách riêng của Người. Chúng ta sẽ run sợ và không nghi ngờ gì khi chúng ta thấy Thiên Chúa hiện diện trong ngọn lửa hồng xuống thiêu rụi lễ vật hy sinh và tiên tri Êlia dâng tiến nhưng cung cách của Chúa Giêsu đơn giản hơn, giống như ngọn gió thổi hiu hiu. Người chọn cách nói với chúng ta, không hề ồn ào trong ngọn cuồng phong nhưng trong âm vang của con người qua những lời trong Thánh Kinh. Người chọn cách đến với chúng ta không phải trong cơn run rẩy lúc động đất, nhưng dưới những hình thức đơn giản của bánh và rượu.
Trong mọi trường hợp, qua mọi nhu cầu của cuộc sống, chúng ta sẽ tìm thấy Thiên Chúa nhưng chúng ta phải ở lại trong con thuyền, để trở nên những môn đệ trung thành trong Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền.
36. Hãy nhìn lại bầu trời - Lm Mark Link, SJ
Chủ đề: "Nếu chúng ta cảm thấy khó sống phúc âm,
có lẽ do chúng ta đã rời mắt khỏi Chúa Giêsu."
Có một ông nọ nói: "Tôi cứ nghĩ là càng về già tôi sẽ càng ít bị cám dỗ, nhưng thực tế tôi lại bị cám dỗ nhiều hơn." Có một phụ nữ kia nói: "Tôi cứ ngỡ là khi các cháu bé lớn lên tôi sẽ kiên nhẫn hơn, thế mà ngược lại tôi thấy mình nóng tính hơn trước". Một thiếu niên nói: 'Trước đây tôi cứ nghĩ vâng phục luật Chúa là dễ dàng. Bây giờ thì tôi lại thấy càng ngày càng khó ".
Bạn có lời nói nào tương tự như vậy không? Bạn có thấy bị cám dỗ thường xuyên không? Bạn có thấy mất kiên nhẫn với những kẻ thân yêu không? Bạn có cảm thấy càng ngày càng khó vâng theo luật Chúa không? Nếu có, thì bài Phúc Aâm hôm nay chắc chắn là một sứ điệp quan trọng đối với bạn.
Câu chuyện trên đây minh hoạ điều đó. Nó giống hệt câu chuyện trong Phúc Âm hôm nay.
Vào lúc mới có thuyền buồm, một cậu bé nọ xin đi biển để học làm thuỷ thủ. Một hôm biển có bão, người ta bảo cậu leo lên trên cột buồm. Leo được nửa phần đầu thì dễ dàng vì cậu cứ đưa mắt gắn chặt vào bầu trời. Nhưng đến lưng chừng cậu lại phạm một sai lầm. Cậu nhìn xuống mặt nước biển trong cơn bão thế là cậu bị chóng mặt và sắp sửa ngã xuống.
Thấy thế, một thuỷ thủ già liền la to lên với cậu: "Này nhóc, ngước nhìn lên lại bầu trời đi! Nhìn lên lại bầu trời đi!". cậu bé nghe theo lời chỉ dẫn và cuối cùng đã leo lên được an toàn. Lỗi lầm của cậu bé, giống hệt lỗi lầm của Phêrô trong Phúc âm hôm nay. Cậu ta đã rời mắt khỏi đích nhắm của mình và đã nhìn xuống mặt biển giông tố giống như Phêrô đã rời mắt khỏi Chúa Giêsu và nhìn xuống mặt biển giông tố.
Và điều này thường xảy ra cho bạn cũng như cho tôi. Lúc đầu chúng ta khởi sự cuộc sống thật tốt đẹp, đôi mắt đăm đăm nhìn vào Chúa Giêsu, nhưng rồi một điều gì đó xảy đến khiến chúng ta rời xa mắt Ngài. Chúng ta không còn nhìn vào Chúa Giêsu nữa; thế là chúng ta bị mất thăng bằng, chúng ta bắt đầu chìm xuống. Tôi xin nêu một ví dụ cụ thể.
Trong cuốn sách tựa đề "The Taste of New Wine" (Hương rượu mới), Keith Miller có mô tả một biến cố thay đổi cuộc đời ông. Biến cố này xảy ra vào mùa hè ngay sau năm thứ nhất đại học của ông. Ðêm hôm ấy, Keith bị thương nặng vì một tai nạn xe hơi. Cậu nằm sõng soài bên vệ đường suốt một tiếng rưỡi chờ xe cứu thương. Khi tâm trí hoàn toàn tỉnh táo, cậu bắt đầu cầu nguyện. Ðang khi nằm đó cầu nguyện trong bóng đêm, một cảm giác an bình xâm chiếm con người cậu. Keith viết: "Tôi nghĩ thật xấu hổ biết bao khi khám phá ra quá trễ trong cuộc đời có loại an bình thực sự như thế. Lần đầu tiên, tôi không biết sợ chết". Keith cho biết, lúc đó cậu nhận thức được rằng dầu có chết cậu cũng sẽ chết trong khi biết mình đã được tiếp xúc với một điều gì đó thân mật và có thực. Dù điều ấy là gì đi nữa, điều quan trọng là mãi cho đến bây giờ cậu mới khám phá ra điều ấy trong cuộc sống của mình.
Thế rồi Keith đã thoát được tai nạn đó và bình phục trở lại. Cậu trở lại đại học và được bầu làm chủ tịch hội huynh đệ của lớp đại học năm thứ hai. Chẳng bao lâu cậu lại bị khích động bởi đời sống hào nhoáng ở đại học. Nghĩa là, Keith đã quay mặt khỏi Chúa Giêsu, Ðấng mà cậu đã từng gặp bên vệ đường.
Sau khi tốt nghiệp, Keith lập gia đình và làm việc cho một hãng xăng dầu ở Texas. Nhưng cậu đã không được hạnh phúc như cậu từng mơ ước. Một hôm, Keith buồn quá, cậu chui vào chiếc xe hơi của công ty rồi vọt đi. Chạy được một lúc cậu cho xe lên vệ đường, tắt máy rồi ngồi thừ ra đó. Trước đây, Keith luôn luôn tin tưởng rằng luôn luôn có lối thoát cho buồn sầu, chẳng hạn uống vài ly Martini và ngủ một giấc thật say là có thể khởi sự lại vào sáng sớm hôm sau. Thế nhưng hiện giờ không còn có sáng hôm sau nữa. Cậu ta đã đến bên bờ vực thẳm rồi. Cậu nhìn lên trời cao và la to lên với Chúa: "Nếu Chúa muốn điều gì nơi con thì Ngài hãy lấy đi, con thực tình muốn như thế!".
Câu chuyện trên xảy ra cách đây đã nhiều năm. Tuy nhiên điều xảy ra trong đời Keith vào ngày đó đã không bao giờ rời cậu ta nữa. Hôm đó, không có những tiếng nói mầu nhiệm. Hôm đó Keith chỉ nhận ra những điều Thiên Chúa muốn nơi chúng ta. Chúa không cần tiền bạc, thời giờ của chúng ta. Ngài chỉ cần ý muốn của chúng ta và nếu chúng ta dâng cho Ngài ý muốn này, Ngài sẽ chỉ cho chúng ta cuộc sống mà từ trước đến giờ chưa bao giờ chúng ta thấy, và có thể nói đây là một cuộc tái sinh thực sự.
Một lần nữa, Keith lại hướng đôi mắt nhìn vào Chúa Giêsu, và ngay lúc đó, cậu lại tìm được sự bình an thâm sâu mà nhiều năm trước đây cậu đã khám phá ra trong lúc nằm sõng soài bên vệ đường.
Tất cả chúng ta đều đã từng có những cảm nghiệm giống như Keith. Nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta đã cảm nghiệm sự hiện diện quyền năng của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, giống như Keith, chúng ta đã rời mắt mình khỏi Chúa Giêsu, đã bỏ Ngài để đi tìm những sự vật khác. Và cũng như Keith chúng ta đã bị mất thăng bằng.
Bài phúc âm hôm nay mời gọi chúng ta thẳng thắn nhìn vào cuộc sống của mình. Nếu chúng ta không cảm nhận được sự bình an là niềm vui thiêng liêng mà ta đã từng cảm nhận, thì chắc hẳn là vì chúng ta đã rời mắt khỏi Chúa Giêsu. Nếu chúng ta đang sắp bị bão tố cuộc đời nuốt trửng, thì có lẽ là vì chúng ta đã rời mắt đi xa Chúa Giêsu. Bài phúc âm hôm nay mời gọi chúng ta quay mắt trở lại nhìn vào Chúa Giêsu. Bài Phúc âm hôm nay mời gọi chúng ta cùng nói với thánh Phêrô: "Lạy Chúa, xin cứu vớt con!". Nếu chúng ta chấp nhận lời mời gọi của Phúc âm thì tôi có thể dám chắc với các bạn chúng ta sẽ cảm nghiệm được giống như thánh Phêrô, chúng ta sẽ cảm nhận được bàn tay Chúa Giêsu giơ ra biểu lộ tình yêu đối với chúng ta.
Chúng ta không thể cảm nhận điều ấy ngay lập tức và một cách nhiệm mầu, tuy nhiên chúng ta cứ tiếp tục kêu cầu chúng ta sẽ thực sự cảm nghiệm điều ấy, để rồi chúng ta sẽ nói như thánh Phêrô: "Lạy Ngài, Ngài thực sự là Con Thiên Chúa".
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, Keith Miller đã gặp được Chúa lúc nằm sõng soài bên vệ đường trong một tai nạn xe hơi.
Tiên tri Êlia đã gặp được Ngài trong tiếng thầm thì nơi cửa hang.
Thánh Phaolô đã gặp được Ngài trong chớp sáng trên đường đi Ðamas.
Và Thánh Phêrô đã gặp được Ngài giữa cơn bão biển.
Xin hãy giúp chúng con gặp lại Ngài,
Xin hãy giúp chúng con biết chạy đến với Ngài.
Xin hãy giúp chúng con lại cảm nghiệm được sự hiện diện cứu độ của Ngài trong cuộc sống chúng con.
37. Xin cứu tôi.
Bài học của Phêrô bước đi trên biển đến với Chúa, và khi nghi ngờ sợ hãi ông đã bị chìm xuống cũng là bài học đức tin cho tất cả mọi người Kitô hữu. Khi nào không tập trung nhìn thẳng vào Chúa Giêsu mà chỉ nhìn vào những đối tượng khác, chúng ta sẽ bị khủng hoảng.
Một nam tu sĩ trong tu hội của Mẹ Têrêsa Calcutta đã đến than phiền với mẹ về luật lệ của một vị bề trên đã ban ra, mà ông cảm thấy rằng nó đã cản trở việc mục vụ của ông. “Ơn gọi của tôi là làm việc cho những người cùi”, ông nói với Mẹ Têrêsa, “tôi muốn sống cho những người cùi”. Mẹ Têrêsa nhìn thẳng vào mắt vị tu sĩ một lúc rồi mỉm cười và nhẹ nhàng nói:“Thưa sư huynh, ơn gọi của sư huynh không phải là làm việc cho những người cùi, nhưng ơn gọi của sư huynh là thuộc về Chúa Kitô”.
Khi nào chúng ta không nhìn thẳng lên trời, không nhìn vào những điểm tích cực và lạc quan mà chỉ nhìn xuống, nhìn vào những hoàn cảnh đe dọa xung quanh, vào điều tiêu cực với lòng bi quan yếm thế, chúng ta sẽ bắt đầu chìm xuống.
Cha Mark Link đã dùng câu chuyện sau đây để minh họa cho điều này. Một con tàu đang gối sóng trên đại dương. Những cơn gió mạnh thổi ngược vào những cánh buồm làm chúng có thể bị rách bươm. Một chàng thủy thủ trẻ được lệnh phải trèo lên cột những cánh buồm lại. Anh chưa bao giờ trèo lên cột buồm chính vào thời tiết khắc nghiệt như vậy bao giờ. Anh bắt đầu trèo, và dường như muốn tụt xuống vì sự gầm thét của gió bão làm cho anh quá sợ hãi khi nhìn xuống. Trong kinh hoàng, anh tê cóng người lại, không thể leo lên hay tụt xuống được. Hoảng sợ anh la to:“Tôi sẽ ngã. Tôi sẽ ngã”. Viên chỉ huy hét lên thật lớn trong cơn gầm thét của bão tố:“Hãy nhìn lên!Hãy nhìn lên sẽ không bị ngã!” “Người đâu mà kém tin vậy!Sao lại hoài nghi?” (Mt 14,31)
Khi vượt biên đến trại tị nạn Thái Lan, tôi đã học thêm được hai từ Anh ngữ mới:“boat people and land people”, người đến bằng đường biển đã được Cao Uy Liên Hiệp Quốc áp dụng chính sách tị nạn cho đi định cư dễ dàng hơn. Sau khi vượt biên bằng đường bộ sang Campuchia, tôi đã xuống tàu vượt qua Vịnh Thái Lan. Con tàu chúng tôi sử dụng chỉ là chiếc tàu chở hàng nông sản trên dòng sông Cửu Long, chứ không phải chiếc tàu đánh cá ngoài biển khơi. Nó nhỏ bé và mong manh giống như chiếc lá trôi trên mặt đại dương bao la. Vào một đêm giông bão, trời tối đen như mực, ghé tai vào mạn thuyền có thể nghe tiếng gió kêu rít bên ngoài. Con thuyền cũ kỹ và bé nhỏ cố gắng trồi lên trên những ngọn sóng cao rồi lại lao đầu xuống vực thẳm đen tối. Sóng đập vào mạn thuyền kêu răng rắc. Mọi người trong thuyền chỉ còn nhắm mắt, bịt tai và cầu xin Thiên Chúa cùng Mẹ Maria cho qua được cơn khủng khiếp này. Bây giờ nghĩ lại kinh nghiệm này, tôi có cảm nghiệm giống như Phêrô. Ở trên một chiếc thuyền mỏng manh trôi trên biển cả, có khác nào Phêrô bước đi trên nước. Một kinh nghiệm vô cùng sợ hãi nhưng cũng tràn đầy ơn phúc!Tôi đã được cứu thoát là nhờ niềm tin và ơn phúc. Nếu bây giờ lập lại biến cố này, tôi sợ rằng sẽ chìm, vì sợ hãi đã càng ngày càng lớn và niềm tin lại suy yếu dần. Tôi đã nghi ngờ giống như Phêrô. Và chắc chắn cũng sẽ chìm giống như Phêrô!Trong lúc các môn đệ cần đến Chúa Giêsu, Ngài đã đến với họ. Khi có gió ngược và cuộc đời trở nên trắc trở khó khăn, Chúa Giêsu đã ở đó để giúp đỡ. Ngay khi chúng ta cần đến Ngài, Ngài đã ở ngay đó để giải cứu chúng ta.
William Barclay chia sẻ như sau:“Trong cuộc đời gió thường thổi ngược. Có những lần khi chúng ta đi ngược gió, và cuộc đời là một sự phấn đấu tuyệt vọng với chính mình, với những hoàn cảnh, những nỗi buồn và quyết định của mình. Những lúc đó, không ai phải phấn đấu một mình, bởi Chúa Giêsu đến với họ qua những sóng gió cuộc đời, với cánh tay đưa ra để cứu vớt và với giọng truyền êm ái ra lệnh cho chúng ta phải an tâm, đừng sợ hãi”. Thực ra câu chuyện Chúa Giêsu đi trên mặt nước không phải là một biến cố tình cờ xảy ra cho các môn đệ. Đây là dấu hiệu và biểu tượng của tình yêu và quyền năng của Chúa Giêsu đối với dân Ngài khi gặp bão tố gian nguy. Tất cả chúng ta sẽ cảm nghiệm điều này nếu chúng ta kêu cầu với Ngài như Phêrô khi xưa: “Lậy Thầy, xin cứu con!”.
38. Gió trở nên yên lặng.
Trong Giáo Hội cũng như trong mỗi một cuộc đời người Kitô hữu, tất cả mọi sự đều diễn ra giữa niềm tin và sự sợ hãi. Đó là Tin Mừng của việc đi trên mặt nước.
Nỗi sợ hãi. Một chiếc thuyền ở xa bờ và lênh đênh giữa sóng gió. Đêm tối. Và có một con ma nữa chứ! Một nỗi sợ hãi làm cho những người mặc dầu ghê gớm cũng phải la lên.
Tin tưởng. Đêm dần tàn và người ta nhận ra Chúa Giêsu. Ngài bước đi trên biển! Ngài nói: “Thầy đây, các con đừng sợ”. Và nói với Phêrô: “ Cứ đến đây”.
Đây là ván bài của niềm tin và sự sợ hãi. Phêrô bắt đầu bước đi trên mặt nước. Nhưng ông sợ và chìm xuống: “Xin Thầy cứu con!” Chúa Giêsu nắm lấy tay ông và nói: “Tại sao ngươi lại hoài nghi?”. Đây là câu hỏi chính của bài suy niệm hôm nay. Câu trả lời sẽ là nhiệt tình tin tưởng hoàn toàn mà toàn bộ bài đọc hướng về đó: “Thầy là Con Thiên Chúa!”
Phép lạ này gây phiền nhiễu. Nó dường như vô ích (các phép lạ khác là để chữa bệnh) và theo kiểu khổ hạnh, nhưng trái lại phải thấy trong đó một bài học quan trọng đó là một phép-lạ–mạc-khải. Phép lạ này biểu thị những nỗi sợ hãi lớn lao của chúng ta và những đỉnh cao của niềm tin tưởng của chúng ta, khi chúng ta sống đức tin như là một kinh nghiệm “Thầy thật sự là Con Thiên Chúa!”
Tôi có nói về biểu tượng để ám chỉ rằng phép lạ đã không xảy ra và phép lạ chỉ là một điều giảng dạy hình tượng về niềm tin hay không? Không, những người này đã thấy rõ Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước. Họ đã thấy gió lặng yên. Chúa Giêsu đã làm điều đó vì họ, để làm cho niềm tin của họ vững mạnh: “Thầy đây, các con đừng sợ!”
Giờ đây, được chúng ta đọc lại, cũng chính biến cố này làm cho chúng ta suy nghĩ về niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu. Trong cuộc sống yên ổn, tin vào Chúa Giêsu chính làTin Mừng hy vọng: chúng ta thích điều Ngài nói, chúng ta muốn làm điều Ngài yêu cầu, nhất là khi Ngài nói về yêu thương.
Bão tố, đêm đen của những đau khổ thể xác, đêm đen của những thất bại, của phản bội, của tuổi già đang đến. Tin rằng Chúa Giêsu sẽ kéo chúng ta ra khỏi những làn nước này như thế nào?
Phép lạ xưa kia có thể trở thành phép lạ cho chúng ta. Cũng chính Chúa Giêsu ở đó và nói: “Đừng sợ”. Và Ngài nói: “Hãy đến đây!”. Nghe và hiểu được tiếng hãy đến đây chính là cảm thấy trong ta một ngọn lửa tin tưởng giống như canxi trong các mạch máu của chúng ta. Chúng ta hỏi Ngài chúng ta có thể đi tới Ngài, đi tới sự vững vàng và an bình, và Ngài nói với chúng ta: “Hãy đến đây!”. Nếu cuộc chiến chống lại sự sợ hãi rất gay go, chúng ta cảm thấy Ngài nhìn chúng ta với vẻ nghiêm khắc dịu dàng: “Kém tin thế, tại sao ngươi hoài nghi?”
Ngài nói với chúng ta và với Giáo Hội như thế. Con thuyền tượng trưng cho Giáo Hội. Giáo Hội bị sóng gió vây bủa, nhưng Ngài hiện diện ở đó.
Khi chúng ta lắng nghe được tiếng nói này “đừng sợ”, sự việc có thay đổi hay không? Không hẳn, mặc dầu điều này vẫn có thể xảy ra. Nhưng chắc chắn chúng ta thay đổi, chúng ta mang cái dường như chúng ta không thể mang được. “Thầy là Con Thiên Chúa. Có Thầy con sẽ tiến bước trên các làn nước sợ hãi và đau khổ này”.
Tôi không thể đi xa hơn được, duy chỉ kẻ nào đã có kinh nghiệm về niềm tin mới biết câu “và gió trở nên lặng” có nghĩa là gì.
39. Lạy Chúa, ngài là nơi con nương ẩn
Anh chị em thân mến.
Anh chị em có dịp nhìn một đứa trẻ nhỏ ung dung bước đi trên đường, nó bước đi rất nhanh mà không cần nhìn hay quan sát chung quanh. Những bước chân của nó hết sức tự tin. Dẫu cho con đường có gồ ghề hay đầy những vũng nước, nó cũng không lo sợ gì hết. Nó vẫn bước đi và vẫn an toàn. Nhìn kỹ lại, thì ra những bước chân của nó vẫn bước, nhưng còn có đôi tay của người cha luôn bảo vệ cho nó. Đứa bé đã hoàn toàn tin tưởng nơi cha mình, nên nó không lo sợ gì trên bước đường nó đi qua vì nó được bảo vệ thật sự. Có những lúc nó không cần phải bước nữa vì nó đã mệt, những lúc đó nó cũng được an toàn trên đôi tay của người cha, hơn nữa nó còn được người cha ôm vào lòng. Chính vì biết đặt trọn niềm tin vào cha mình nên đứa bé không còn lo âu sợ sệt điều gì nữa. Niềm tin của nó được đền đáp xứng đáng.
"Lạy Thầy xin xứu con".
Lời kêu cứu của Phêrô khi thấy mình sắp bị những cơn sóng biển nhận chìm. Phêrô đã được cứu và được an toàn, nhưng ông phải nhận lời quở trách: "Kẻ hèn tin, sao mà nghi ngờ".
Phêrô và các Tông Đồ xuống thuyền vượt biển trong đêm tối. Đối với các ông đây là những công việc hết sức bình thường, các ông rất thành thạo, không phải lo sợ gì hết. Các ông tự tin vào tài năng và sức lực của mình. Nhưng những gì các ông tin tưởng không đem lại bình an thật sự. Các ông phải chống chọi với gió bão. Màn đêm tăm tối như góp phần làm cho các ông thêm vất vả hơn. Càng vất vả càng cố gắng, nhưng các ông đã quên mất Chúa Giêsu. Những lúc như thế Ngài vẫn ở bên cạnh các người mà Ngài yêu thương, nhưng các ông vẫn không nhận ra, nên mới hốt hoảng. Phêrô nhanh nhẹn nhưng trong lúc nhất thời, ông chỉ làm theo cảm tính, chưa tin tưởng phó thác, nên ông càng hốt hoảng hơn khi thấy biết bao sự nguy hiểm chung quanh. Khi đó ông càng nhìn thấy rõ sự bất lực của con người, chỉ còn biết trông cậy vào Chúa, nên ông la lên: "Lạy Thầy xin cứu con". Mặc dù bị quở trách là kém tin, nhưng ông đã được bình an khi có Chúa bên cạnh.
Con người đứng trước những khó khăn thì lo âu sợ sệt, nhất là khi nhìn thấy được sự bất lực của chính mình. Càng lo sợ hơn khi sự nguy hiểm càng đến gần mà mình không biết làm sao để thoát khỏi. Đó là tâm trạng của Phêrô ngày xưa, cũng là tâm trạng chung của con người qua mọi thời đại. Chúng ta, những con người của thời đại mới cũng không thoát khỏi cái thường tình của con người như thế.
Những lúc an bình thư thái, những lúc được thành công trong cuộc sống, những lúc sức khoẻ con người trong tình trạng bình thường không có vấn đề gì; những lúc đó, Thiên Chúa có hiện diện hay không cũng không cần thiết, vì chúng ta chưa cần đến. Nhưng khó khăn từ đâu lại tuôn đến, làm cho chúng ta vất vả, bao nhiêu toan tính giờ đây không thể thực hiện được, những gì đã dự trữ, giờ đây cũng bay đi mất, thế giới hoàn toàn sụp đổ. Những lúc đó nếu chúng ta biết la lên như Phêrô: "Lạy Thầy xin cứu con", chắc chắn chúng ta sẽ được cứu và những lời trách nhẹ nhàng cũng sẽ đến để làm thức tỉnh và làm cho mìmh nhận ra rằng: Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ không phải chỉ là nhu cầu khi cần thiết, để giải quyết những khó khăn, rồi sau đó không biết gì đến Ngài nữa.
Phêrô đã nhận ra, nên ông biết tin tưởng phó thác, ông đã được trao cho trách nhiệm và hoàn thành. Như đứa trẻ hoàn toàn tin tưởng nơi người cha, nên được bao bọc chở che khi cần thiết.
Chúng ta có dám đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa chúng ta? Hay Thiên Chúa chỉ là nhu cầu trong những lúc nào cần cho chúng ta sai khiến, ngoài ra Thiên Chúa không hiện diện trong cuộc sống đời thường của chúng ta. Như thế thì lời quở trách với Phêrô ngày xưa cũng vẫn là lời cho chúng ta hôm nay: "kẻ hèn tin, sao mà nghi ngờ". Nhưng Phêrô đã tin và sống trọn niềm tin của mình. Còn chúng ta, bao giờ chúng ta mới biết quay trở lại như Phêrô, chừng nào chúng ta mới nhận ra quyền năng Chúa trong đời sống, để biết quỳ gối xuống mà cảm tạ Hồng Ân.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết nhận ra Chúa trong cuộc sống đời thường, để biết tin tưởng và phó thác cho trọn vẹn.
40. Chúa ở đâu khi chúng ta đau khổ?
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Mới mấy tuần trước đây, trong một tai nạn, một người mẹ mất một lúc ba đứa con, vì bị đuối nước. Trong đám tang ấy, người mẹ vật vã gào lên: Ông Trời ơi! Ông ở đâu? Sao ông để như thế này? Tôi có tội tình gì mà sao ông đối xử với tôi như thế?
Thưa quý OBACE, trong lúc người ta đau khổ tột cùng, dù là người có đạo hay không có đạo, họ vẫn như muốn trách móc Thiên Chúa trách Ông Trời, và muốn Thiên Chúa trả lời ngay cho những đau khổ của họ, hoặc là muốn Chúa phải ra tay giải thoát ngay. Trong lúc đau khổ đó người ta thấy dường như Chúa vẫn im lặng trước những nỗi đau của họ? Phải chăng Chúa làm ngơ trước đau khổ của con người?
Các bài đọc của chúa nhật XIX hôm nay trả lời cho chúng ta rằng: Thiên Chúa không im lặng, nhưng Thiên Chúa vẫn đang nói, đang ở kề bên đưa tay ra để nâng đỡ an ủi chúng ta, có điều là chúng ta có nhận ra sự hiện diện an ủi của Ngài, có tin vào quyền năng của Ngài, có đưa tay ra để Ngài kéo ta lên hay không mà thôi?
Bài đọc một kể lại tâm trạng của Elia, sau khi đương đầu với các sư sãi của hoàng hậu Giêzabel, đã bị hoàng hậu trả thù, ông phải trốn lên rừng, chịu đói chịu khát. Trong lúc khốn khổ vì bị lùng bắt như thế, ông cũng cảm thấy như Thiên Chúa không còn ở với ông, Thiên Chúa bỏ rơi ông, ông nghĩ rằng: Dù sao ông cũng đã chiến đấu cho Thiên Chúa, đã hết mình bênh vực giới răn lề luật của Thiên Chúa, tại sao Chúa lại cư xử với ông như thế? Trong lúc ông băn khoăn oán trách Thiên Chúa như thế, thì Thiên Chúa đã hứa cho ông được gặp Ngài. Tuy nhiên Isai lại muốn chờ đợi một vị Thiên Chúa oai hùng như sấm sét giông bão, vì thế ông ra cửa hang để mong gặp Chúa, nhưng Chúa đã không ở trong sấm sét. Rồi ông lại chờ đợi gặp một Thiên Chúa có sức mạnh làm rung chuyển trời đất núi lửa, song ông cũng không gặp được ngài. Mãi đến buổi chiều khi làn gió hiu hiu thổi nhẹ, ông nghe được tiếng Chúa và lấy áo choàng che mặt rồi ra ngoài cửa hang và ông đã gặp được Chúa. Điều đó cho thấy rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện bên ông một cách nhẹ nhàng, mơn man như cơn gió nhẹ ban chiều. Chúa vẫn ở bên ông dưới những hình thức rất đỗi bình thường, song ông đã không nhận ra Ngài. Chỉ khi ông bình tâm, ông mới có thể cảm nhận được sư hiện diện nhẹ nhàng của Ngài trong cuộc đời ông.
Thánh Phaolô trong bài đọc hai cũng chia sẻ cùng một kinh nghiệm như tiên tri Isai, khi ông đã miệt mài rao giảng về Chúa Giêsu, song đổi lại, ông đã phải chịu bao nhiêu đau khổ vì những anh em đồng đạo, vì những kẻ đã thụ ơn ông gây ra, ông đã tâm sự: Có Thiên Chúa chứng giám: Lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi khôn nguôi, vì anh em đồng bào đã gây ra cho tôi. Song Phaolô đã nhận ra rằng: Thiên Chúa là Đấng hiểu lòng ông và Ngài chứng giám cho sự nhiệt thành của ông và Ngài chính là nguồn an ủi cho ông.
Thánh Mátthew đã kể lại câu chuyện của Phêrô và các tông đồ đương đầu với sóng gió một mình. Câu chuyện này xảy ra sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hơn năm ngàn người đàn ông ăn no và còn dư. Trong lúc các tông đồ như đang say mê trong thành công, trong sự nể phục của dân chúng, thì Chúa Giêsu đã làm các ông mất hứng khi Ngài bắt các ông phải xuống thuyền để qua bên kia bờ hồ. Lúc đó có lẽ các tông đồ cũng đang ảo tưởng vì nghĩ rằng các ông đã góp phần vào sự thành công này, thì giờ đây các ông phải xuống thuyền mà không có Chúa đi cùng.
Chính lúc các ông đang còn như tiếc nuối sự thành công, thì đêm tối đã bao phủ lấy thuyền của các ông, và sóng gió bắt đầu nổi lên. Tin Mừng cho thấy, con thuyền và các tông đồ đang chèo chống chính là hình ảnh của Giáo Hội, bóng đêm là những thế lực của thế gian và ma quỷ, sóng gió là những thử thách đang muốn nhấn chìm cả con thuyền của Giáo Hội. Qua chi tiết này kinh Thánh còn cho thấy rằng, một khi không có Chúa Giêsu trong tâm hồn, trong Giáo Hội, thì chắc chắn bóng tối của sự dữ sẽ xâm chiếm tâm hồn và xâm chiếm cả Giáo Hội.
Trong lúc các tông đồ đang phải đương đầu với sóng gió như thế, thì chính Chúa Giêsu đã xuất hiện. Tuy nhiên ngay đến các tông đồ là những người đã bao năm sống với Chúa, chứng kiến bao phép lạ Chúa làm, vậy mà vào lúc gặp sóng gió này, họ cũng không nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu. Khi thấy Ngài đi trên mặt nước mà đến với các ông, các ông hoảng sợ và nghĩ đó là ma. Trong lúc thấy học trò của mình hoảng loạn như thế, Chúa Giêsu đã trấn an các ông: Thầy đây, đừng sợ. Khi sự sợ hãi đi đến tuyệt vọng, thì dường như lời trấn an của Chúa Giêsu lúc đó đã không được các tông đồ đón nhận cách tin tưởng.
Chính vì chưa hoàn toàn tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu, nên Simon Phêrô mới lên tiếng: Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Ngài. Một lời cầu xin trong hồ nghi! Với lời xin này, Phêrô như muốn đặt cho Chúa một điều kiện, mà là một điều kiện vượt khỏi lẽ thông thường, hay nói đúng hơn, Phêrô đang muốn thử thách sự hiện diện của Chúa, khi ông đòi đi trên mặt nước để đến cùng Chúa Giêsu.
Đòi đi trên mặt nước, là đòi hỏi một phép lạ, đòi được như Chúa, tức là có thể giẫm đạp trên các sự dữ và thế lực của ma quỷ. Trước một đòi hỏi như thế, Chúa Giêsu vẫn chiều lòng Phêrô và ra lệnh cho ông bước trên mặt nước mà đến cùng Ngài. Tuy nhiên, Phêrô vẫn không đủ đức tin để hưởng đặc ân này, ông hồ nghi và đã để mình bị chìm trong sợ hãi. Nhưng rất may, trong lúc ông như bị chìm ngập trong sóng to gió lớn của thử thách như thế, ông vẫn còn tin vào sự hiện diện và lời mời gọi của Chúa Giêsu, vì thế ông đã kêu lên: Thầy ơi! Xin cứu con với! Thế là Chúa đã đưa tay ra kéo ông lên thuyền và sóng yên biển lặng. Điều đó cho thấy, dù trong hoàn cảnh dường như tăm tối không lối thoát, nếu chúng ta tin tường và kêu lên như Phêrô: Chúa ơi xin cứu con, thì Chúa sẽ đưa tay ra để đỡ chúng ta chỗi dậy.
Thưa quý OBACE, Trong cuộc sống đã nhiều lần chúng ta phải đương đầu với đau khổ, và cũng nhiều lần, những đau khổ ấy làm cho đức tin của chúng ta bị chao đảo, có những đau khổ và thử thách liên tục vùi dập khiến chúng ta có cảm tưởng như Thiên chúa đã không còn hiện diện. Đã nhiều lần chúng ta trách Thiên Chúa: Tại sao tôi vẫn đi nhà thờ vẫn đi lễ, tại sao tôi vẫn sống tốt, tôi có gian dối tội lỗi gì đâu mà Chúa lại để cho sự khốn khó xảy ra với gia đình tôi thế này? Có những lúc dường như ngã lòng, chúng ta còn đặt vấn đề Thiên Chúa ở đâu? Thiên Chúa có nhìn thấy tôi đau khổ không mà sao Ngài không ra tay cứu giúp tôi?
Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta, Ngài không bao giờ đứng ngoài sự đau khổ của chúng ta, và càng không bao giờ muốn chúng ta phải đau khổ thử thách. Tuy nhiên đau khổ sự dữ vẫn xảy ra là do ma quỷ, do con người đã lạm dụng tự do Chúa ban để rồi quay lại gây đau khổ cho anh em. Những lúc đau khổ như thế, Thiên Chúa vẫn đang ở bên ta, nhẹ nhàng như cơn gió chiều để an ủi đỡ nâng. Ngài hiện diện bên ta qua sự yêu thương của cha mẹ, qua sự nâng đỡ của người thân và của bạn bè, và nhất là Ngài đã cùng chung vai để chia sẻ gánh nặng của cuộc sống với chúng ta, và đã dám chấp nhận cái chết để cho chúng ta được sống và ban ơn trợ lực để chúng ta có thể đương đầu với sóng gió thử thách của cuộc đời.
Đừng bao giờ để cho cuộc đời chúng ta thiếu vắng Chúa, vì một khi thiếu vắng Chúa trong cuộc đời, thì sự dữ và ma quỷ sẽ xâm nhập và tấn công chúng ta. Những khi gặp thử thách đau khổ, đừng bao giờ chúng ta oán trách Chúa, vì qua những thử thách ấy chúng ta sẽ nhận ra được sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa và nhận ra bàn tay tình yêu của Ngài. Trong mọi thử thách của cuộc sống, đừng ngại kêu lên như Phêrô: Thầy ơi, cứu con với. Chúa sẽ đưa tay ra để kéo chúng ta lên và trả lại cho chúng ta sự bình an trong tâm hồn.
Thầy đây, đừng sợ! Đó chính là lời khích lệ an ủi cho chúng ta. Đừng bao giờ tuyệt vọng khi đối diện với đau khổ, cũng đừng tuyệt vọng về chính mình, vì cuối đường hầm tăm tối, luôn có một tia sáng hy vọng, giữa nhưng tăm tối của cuộc đời Thiên Chúa vẫn hiên diện, những lúc chán nản mệt mỏi muốn buông xuôi, hãy tin tưởng để nói với Chúa Giêsu rằng: Thầy ơi, xin cứu con, Chúa sẽ trả lời cho mỗi chúng ta: Thầy đây, đừng sợ.
Xin cho mỗi chúng ta dù trong mọi hoàn cảnh sóng gió của cuộc sống, xin cho chúng ta biết tin tưởng đưa tay ra để cho Chúa nâng chúng ta chỗi dậy, vì Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Amen.
41. Chúa đi trên biển – R. Veritas.
Đứng bên cạnh con đang chuẩn bị qua cơn giải phẫu nguy hiểm, người cha không ngừng trấn an con mình với những lý luận dựa trên tài năng nổi tiếng của nhóm bác sĩ giải phẫu với những phương tiện tối tân, ông còn trấn an con là sẽ hiện diện bên cạnh để cung ứng mọi nhu cầu cho con.
Nghe xong lời cha khuyên, người con trả lời cho cha:
Xin cha đừng lo lắng nhiều, con không sợ đâu, con tin tưởng phó thác mọi sự cho Chúa Giêsu, Người hiện diện bên con và giúp con chịu đựng, hy sinh âm thầm trong tâm trí.
Người cha cảm phục lòng tin của con, vừa hổ thẹn vì mình không có được thái độ tin Chúa như con mình.
Chúng ta cũng thường hành xử như vậy khi gặp những thử thách xảy ra cho anh chị em xung quanh, cũng như và nhất là cho chính chúng ta. Phản ứng tự nhiên trước những thử thách, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phương thế, những tài năng riêng của con người mà quên đi phần đóng góp tích cực và quan trọng của Chúa.
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật 19 mùa thường niên năm A, trích từ Phúc Âm Thánh Mátthêu hôm nay trình bày cho chúng ta một toàn cảnh thật ý nghĩa. Ở đây chúng ta thấy hai khía cạnh: trước hết, Chúa Giêsu cầu nguyện trên núi, xem ra như Ngài xa cách không còn quan tâm gì đến những nguy hiểm mà các Tông Đồ đang gặp sóng to gió lớn trên mặt biển hồ Galilêa. Mặt hồ của toàn cảnh là cảnh tượng các Tông Đồ đang trên thuyền và phải tận lực chiến đấu với những nguy hiểm. Các ngài là những ngư phủ trên biển hồ Galilêa này, và có thể nói là đã quen thuộc với những cơn sóng to gió lớn. Hai khía cạnh này xem ra như không có gì liên hệ với nhau; Thiên Chúa xem ra như hoàn toàn xa lạ, vắng mặt khỏi hoàn cảnh sống của con người, xa lạ, lạnh lùng với những thử thách của con người đang gặp phải.
Là môn đệ của Chúa Giêsu, các ngài cũng có thể bị cám dỗ có những suy nghĩ như vậy. Chúa ở đâu mà tôi không nhìn thấy Ngài đâu cả? Nhưng thật sự không phải như vậy. Thiên Chúa không vắng mặt, không rời xa con người. Các Tông Đồ đang gặp sóng to gió lớn là vì tuân lệnh Chúa Giêsu mà chèo thuyền vượt biển cực khổ giữa ban đêm để qua bên kia bờ. Ban đêm thường có sóng to gió lớn, các Tông Đồ biết như thế, vì là những ngư phủ trong vùng.
Thông thường các ngài có thể lý luận với Chúa để ở lại với Chúa chờ qua ngày hôm sau đi lại ít nguy hiểm hơn, và cũng để được nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc vì bận rộn lo cho hơn năm ngàn người ăn uống khi nghe Chúa giảng dạy. Thế nhưng lý do gì mà Chúa ra lệnh cho các Tông Đồ lên thuyền chèo qua bên kia bờ biển hồ và giữa đêm khuya như vậy?
Các Tông Đồ gặp thử thách nguy hiểm kia là vì tuân lệnh Chúa, và chúng ta thấy Chúa không để cho những người vâng phục Chúa bị thiệt hại. Phải, bị thử thách và chịu thử thách nhưng không bị đè bẹp, Chúa để cho các Tông Đồ phải chiến đấu với thử thách trong một thời gian mãi đến ba giờ sáng rồi Chúa mới đến với các ngài. Sau biến cố, sau kinh nghiệm và có thể nói được là hai kinh nghiệm, tập thể các Tông Đồ đi trên thuyền và Phêrô muốn đi trên mặt nước đang nổi sóng. Sau kinh nghiệm đó, Chúa Giêsu rút ra bài học cho các ông: "Tại sao các con kém tin thế?", tại sao không tin rằng Chúa hằng hiện diện bên cạnh, Ngài không xa vắng, Ngài không ngủ quên hay bỏ mặc những kẻ Ngài đã chọn.
Đó là bài học cho các Tông Đồ sau này khi lãnh nhận sứ mạng chính thức sau khi Chúa phục sinh: "Thầy đã được mọi quyền năng trên trời dưới đất, chúng con hãy ra đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân". Đây không phải là lời hứa suông, mà là một bảo đảm mạnh hơn mọi thứ bảo đảm do con người đặt ra trong xã hội hôm nay. Những bảo hiểm của con người sẽ vô ích nếu như không có sự bảo đảm của Thiên Chúa, dù con người không chấp nhận hay không biết đến sự bảo đảm này, hơn ai hết, sau khi đã trải qua kinh nghiệm trên biển hồ nổi sóng, các Tông Đồ sẽ xác tín hơn sau này cho sứ mạng làm chứng cho Chúa: "Không gì có thể tách rời tôi ra khỏi tình yêu Chúa".
Mọi gian nan thử thách đều trở nên tốt đẹp, hữu ích cho những ai yêu mến Chúa. Chúng ta hãy nhìn lại xem mình đã có kinh nghiệm sống như bài học của Phúc Âm hôm nay Chúa đã dạy các Tông Đồ chưa? Cùng với các ngài vâng lệnh Chúa vào thuyền, và sau cơn giông tố chúng ta tuyên xưng: "Thầy là Con Thiên Chúa", Chúa sống với chúng ta thì chúng ta còn lo sợ chi nữa.
42. Đi trên mặt biển.
Sự kiện xảy ra qua đoạn Tin Mừng vừa nghe không có chi là khó hiểu, thế nhưng đâu là mục đích mà Chúa Giêsu định nhắm tới.
Đi trên mặt nước và làm cho sóng gió im lặng, mục đích của Chúa Giêsu là muốn làm cho các tông đồ vững tin và cậy trông ở Chúa. Thực vậy, sau phép lạ bánh hóa nhiều Ngài truyền cho các ông lên đường. Lúc bấy giờ trời đã về chiều mà nước thì lại ngược và gió đã nổi lên, các tông đồ cảm thấy nặng nề và không mấy hứng khởi. Vượt biển trong tình trạng đó sẽ không thể nào tránh khỏi vất vả và mệt nhọc. Đang lúc vật lộn với sóng gió, Chúa Giêsu thân hành hiện đến để an ủi và giúp đỡ. Trông thấy Chúa, lúc đầu các ông tưởng là ma. Nhưng Chúa đã lên tiếng để trấn an, rồi lại truyền cho sóng gió yên lặng và con thuyền yên hàn cặp bến.
Trước hết đối với Phêrô, phép lạ này có tính cách quan trọng, ông đã tỏ ra yêu mến và nhiệt thành đối với Chúa, nhưng việc xin phép lạ vô cớ đã tỏ ra ông là người hấp tấp thiếu suy xét, nhiệt thành không phải lúc khi xin phép lạ được đi trên mặt nước. Trong trường hợp này cũng như trong nhiều trường hợp khác, ông đã nói trước và làm trước các tông đồ. Để đem lại cho ông một bài học, Chúa đã để ông lảo đảo đến sắp chìm và sau này Chúa còn để ông sa ngã… song nhờ lòng tin mạnh mẽ, trong lúc nguy cơ ông đã kêu cầu Chúa và Chúa đã giơ tay cho ông nắm lấy, rồi đưa ông lên thuyền với Ngài. Như thế, Chúa muốn bảo ông hãy tin tưởng vào Chúa và chỉ nhờ một mình Ngài, ông mới được đứng vững. Ông chỉ được cứu thoát nếu biết nắm chặt vào bàn tay Chúa.
Tiếp đến là đối với Giáo Hội. Con thuyền của các tông đồ là một hình ảnh tượng trưng cho Giáo Hội, trong đó Phêrô là người đứng đầu, vì Chúa đã thiết lập Giáo Hội trên nền tảng Phêrô… Đúng thế, Giáo Hội không khác gì một con thuyền của các tông đồ, vượt biển giữa cảnh bão táp. Có những khó khăn từ bên ngoài, khác nào những trận cuồng phong thổi ngược, đồng thời cũng có những khó khăn tự bên trong khác nào những ngọn sóng ngầm không kém phần nguy hiểm. Các tông đồ đã phải cực nhọc chèo chống, mà đôi khi còn có cảm giác chìm mất, đến nỗi phải thốt lên: “Lạy Thầy, xin hãy cứu chúng con kẻo chúng con chết mất”.
Tuyệt vọng mà không mất niềm tin, trong lúc không đợi chờ, thì Chúa Giêsu đã đến, Ngài khiến sóng gió phải yên lặng và đưa con thuyền tới bến bình an. Bao giờ Chúa cũng bảo vệ Giáo Hội Ngài khỏi đắm chìm cho dù cuồng phong và sóng gió có thổi mạnh.
Và sau cùng là đối với mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta là một phần tử của Giáo Hội, cũng thường gặp phải những khó khăn, những giông tố từ bên trong cũng như bên ngoài, làm cho chúng ta có cảm giác bị bỏ rơi và chìm mất. Tuy nhiên, cũng như Giáo Hội, Chúa luôn nâng đỡ và cứu giúp, miễn là chúng ta biết tin tưởng chạy đến với Ngài. Bão táp sẽ qua, cuồng phong sẽ dứt, trời quang mây tạnh sẽ trở lại và chúng ta sẽ được sống trong tình thương và sự an bình của Chúa. Trong những ngày hạnh phúc, chúng ta đã dễ dàng lãng quên Chúa và chỉ trong giờ phút đen tối, chúng ta mới nhớ đến Ngài, đó là dấu chỉ của một đức tin thiếu trưởng thành, mang nặng tính chất vị kỷ và cầu an. Chính vì thế mà hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ và đặt lại vấn đề niềm tin của chúng ta đối với Chúa hiện giờ như thế nào? Đức tin chân chính sẽ giúp chúng ta nhận ra dấu chỉ của Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, trong sáng cũng như đen tối, vui sướng cũng như đau khổ để rồi chúng ta sẽ xử sự đúng với tinh thần Phúc Âm.
Bởi vì, trong giây phút này, chúng ta hãy thành tâm kêu lên: “Lạy Chúa, xin hãy thêm đức tin cho chúng con…”
43. Đức tin trưởng thành – Lm Vũ Đình Tường
Sau khi giải tán đám đông Đức Kitô sai các môn đệ xuống thuyền qua bên kia còn Ngài ở lại một mình cầu nguyện. Khoảng gần sáng Ngài đi trên mặt nước đến với các ông. Các tông đồ vất vả chèo chống, đương đầu với sóng to, gió cả, vất vả đến đứt hơi. Giữa biển sóng chập trùng sao như có bóng người đang đi trên sóng, vững vàng như đi trên đất bằng. Có mơ không, có mệt quá nhìn cá hoá sóng, hay phần hồn át phần xác? Xoa mặt, dụi mắt nhìn vẫn thấy hình ảnh đó. Rõ ràng bóng người đang đi đến, mỗi lúc một gần hơn. Đã sợ còn sợ hơn. Bỗng nhiên bóng đó lên tiếng trấn an, dù gió lớn nhưng nghe giọng rất quen thuộc. Dẫu thế lúc hoảng hốt vẫn không nhận rõ giọng của ai: Đừng sợ, Thầy đây. Phêrô, nửa tin, nửa ngờ, lấy hết can đảm lên tiếng nếu là Thầy xin cho con đến với Thầy. Phêrô bước ra khỏi thuyền, lạ thay, sóng gió thế mà ông bước trên đầu sóng, bình yên,đến cùng Thầy. Cái cảm giác lâng lâng đang diễn ra bỗng thấy con sóng khổng lồ ập đến che khuất Thầy, Phêrô đâm hoảng vội la lớn xin Thầy cứu. Đức Kitô nắm tay ông dẫn đi trên sóng cả. Cả hai vào thuyền an toàn. Đức Kitô nhẹ nhàng nhắc Phêrô hãy tin vào sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa. Bão táp, sóng cả, biển gầm sóng vỗ đều qui phục quyền năngThiên Chúa.
Để được cùng đồng hành với Đức Kitô cần đặt trọn tin tưởng vào Ngài. Ngài là người bạn đường, luôn sóng vai, kề bên, mặc dù không nhìn thấy, nhưng Ngài luôn cùng đồng hành với ta khi an vui cũng như khi hoạn nạn. Ta không thấy Ngài nhưng Ngài thấy ta và cùng đi với ta trên đường đời. Mỗi bước chân ta bước đều có bước chân Ngài bước theo nhưng ta không thấy, không nhận biết bởi Ngài luôn theo sát ta như bóng với hình giữa trưa ánh sáng chan hoà. Bởi không thấy Ngài nên khi gặp hoạn nạn ta hay bối rối quên có Ngài hiện diện. Bởi quên và bối rối nên ta không tìm nương tựa nơi Ngài nhưng lại tin vào những gì nhìn thấy, sờ chạm được vì thế nỗi sợ càng tăng, cô đơn càng đặm và thất vọng chập trùng. Phêrô nơi biển khơi, sóng cả đã có kinh nghiệm đó. May mắn cho Phêrô ông đã lên tiếng kêu cầu và đã nhìn thấy bàn tay Thầy dơ ra cho ông nắm lấy. Bao lần trên đời ta cũng kêu cầu, bàn tay Thầy cũng dơ ra cho ta nắm nhưng ta lại không nhận ra bàn tay thần diệu đó, lại đi nắm bàn tay nhân loại và đặt hi vọng vào bàn tay giới hạn của con người nên vấn nạn đã không được giải quyết thấu đáo mà nhiều khi còn gây phức tạp hơn. Cũng là bàn tay nhưng bàn tay Thầy có thần lực giải quyết mọi khó khăn, trong khi đó bàn tay con người bị tiền tài giới hạn thường làm hỏng chuyện lớn. Bao lần trong đời Thiên Chúa đã ban cho ta nhiều ngạc nhiên. Ngạc nhiên đến độ không ngờ và cũng không ai đoán được. Vì thế khi gặp hoạn nạn, gian nan hãy làm sống lại những ngạc nhiên đó, hãy nhớ lại những lần Thầy cùng đồng hành với ta để chạy đến với Thầy, nắm chặt tay Thầy để được kéo lên thuyền an toàn.
Cuộc sống không thể tránh khỏi bão tố trong đời. Khi bão tố đến đừng tự một mình chống đỡ, đừng đặt trọn niềm tin vào bàn tay thế nhân. Nhờ họ giúp sức, an ủi nhưng cần đặt trọn niềm tin vào lòng Chúa xót thương bởi Ngài không bỏ rơi ta bao giờ. Phêrô trong cơn gió bão đã tự tin vào sức mình và đã bị chìm đắm trong khi bạn ông trên thuyền dù thương tiếc nhưng bất lực. May mắn cho Phêrô trong lúc nguy nan ông nhớ đến và xin Thầy kéo khỏi hố sâu bão táp. Thầy không bao giờ ngờ vực ta chỉ có ta ngờ vực Thầy. Thầy luôn đồng hành với ta và luôn trung tín trong lời Thầy hứa. Thầy sẽ ở lại với các con mọi ngày cho đến tận thế.
Sóng gió cuộc đời nhiều khi to lớn đến độ che phủ cái nhìn của ta, làm ta lầm tưởng tin là sóng gió cuộc đời mãnh liệt đến độ không gì ngăn cản được. Không phải thế, tình yêu và lòng Chúa xót thương lớn hơn sóng to, gió cả, mạnh hơn bão tố có sức tiêu diệt lửa rừng, thác lũ. Khi cứu Phêrô ra khỏi cơn sóng Đức Kitô cũng mời gọi chúng ta hãy vượt qua sóng to, bão tố. bước qua lửa đến với Chúa. Chỉ cần chúng ta dám nhích chân bước tới Thầy sẽ cứu chúng ta khỏi cơn nguy biến. Nhích chân bước đến với Thầy chính là hành động của lòng tin và hành động của lòng tin giúp đức tin triển nở, lớn lên trong tình yêu Thầy.
44. Lội nước – Lm Vũ Đình Tường
Dân miền quê ai cũng có kinh nghiệm lội nước. Trong thời kì chiến tranh người ta dùng từ 'xe lội nước' để chỉ xe thiết giáp, đi trên khô cũng được mà lội nước cũng được. Tôi muốn nói về trường hợp người không bơi lội trong nước mà đi bằng hai chân hẳn hoi. Lội nước rất gần với đi mà không thấy đường bởi nước không sâu lắm nhưng nước đục che mất tầm nhìn. Ngay cả trường hợp nhìn thấy cũng không chính xác vì nước như lớp kiếng dầy, thay đổi nhãn quang. Đi trong nước là đi trong mò mẫm, dự đoán, phỏng chừng để bước tới. Nếu có hụt hẫng toàn thân chìm sâu vào nước lúc đó phải tận dụng đến bơi lội. Có khi bước vào chỗ trũng toàn thân xiêu nghiêng ngả như người say rượu. Lội nước luôn tiến tới mà không bao giờ đi giật lùi. Lội một mình cần cẩn trọng hơn vì khi gặp nguy không có ai cứu mà tự mình xoay xở thoát hiểm. Người lội nước thường phó mặc cho may rủi. Ai biết dưới sâu kia có miểng chai, cành gai, khúc cây, vỏ tôm, xương cá. Đạp trúng là máu hoà trong nước. Nhiều khi không biết, tối đến thấy đau mới biết bàn chân bị xẻ lúc nào.
Khi biết được người đi trên mặt biển ban đêm là Thầy. Thánh Phêrô mừng lắm, xin Thầy Kitô cho lội nước để đến với Thầy vì lòng mến, vì khát khao được là người trước hết đến với Thầy. Lời yêu cầu được chấp thuận Phêrô nhảy tòm xuống biển, thế mà người không chìm, ông bắt đầu bước đi, được bao xa không rõ, thấy cơn sóng lớn ập đến, Phêrô đâm hoảng, cơn sóng dường như lớn mạnh che phủ, lấn át che khuất tầm nhìn của Phêrô. Trong khoảng khắc ngăn cách ngắn ngủi không nhìn thấy Thầy. Phêrô hoảng sợ, bối rối hoảng hốt, la lớn,
Lậy Thầy, xin cứu con
Đức Kitô đã giơ tay cứu Phêrô. Ngài mắng yêu,
Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?
Hình ảnh Phêrô bước đi trên sóng nước cũng là hình ảnh của mỗi người trong chúng ta bước đi trong sóng nước cuộc đời. Phêrô thực sự chìm sâu trong nước hay con sóng lớn bao bọc che phủ thân hình ông. Điều chắc chắn là Phêrô chưa sặc nước, ông còn đủ tỉnh táo bám víu lấy Thầy. Cuộc đời mỗi chúng ta cũng nhiều khi tưởng ngập chìm trong đau khổ nhưng thực ra đau khổ chỉ bao bọc thân ta, vây quanh như bức tường tù hãm khiến ta cảm thấy mình ngụp lặn trong khổ đau. Những lúc như thế hãy cố nhớ lại việc làm của Phêrô. Lậy Thầy, xin cứu con. Cũng hãy nhớ lại lời Chúa nói cùng Phêrô. Người hèn tin, sao mà nghi ngờ. Quả thế vì yếu tin, vì kém lòng mến cho nên nghi ngờ tình yêu Chúa là điều không thể tránh. Biến cố xảy đến trong đời cách nào đó giúp chúng ta nhận biết tình yêu ta dành cho Chúa mạnh yếu, nhiều ít. Biến cố là thước đo đức tin vào Chúa.
Qua màn đêm, Phêrô nhận ra hình bóng người lướt trên sóng nước. Ông không nhìn rõ đó là hình bóng nào. Mãi cho đến khi Đức Kitô lên tiếng ông mới nhận ra đó là Thầy. Bao lần trong đời chúng ta bỏ qua, làm lơ hình bóng chập chờn, mập mờ trong đầu, nhất là những hình bóng khuyên chúng ta làm việc lành, ngăn cản chúng ta làm sự dữ. Những hình bóng đó như giấc mộng, giấc chiêm bao, không rõ nét nhưng khá thật và khá mạnh bạo. Phải chăng đó cũng là hình ảnh Chúa lúc ẩn, lúc hiện trong cuộc sống mỗi người chúng ta. Đi theo Chúa cũng phải mò mẫm, cũng dò dẫm từng bước để tiến tới. Điều may mắn nếu có vấp ngã Chúa không bắt lỗi nhưng sẵn sàng tha thứ và đến nắm tay trợ giúp.
Chúa đến một cách thanh thiên bạch nhật nhưng hình ảnh Ngài lại mờ ảo. Vì sao? Thưa sóng gió cuộc đời che lấp tầm nhìn. Thưa sóng nước cuộc đời bủa quanh khiến ta lo sợ trong cô đơn. Thưa vì ý định ta đã quyết, định trước cho nên ta từ chối tất cả các ý định khác. Tiếng lương tâm rõ ràng, quyết liệt nhưng không cuỡng bức. Vì sao? Vì Chúa ban cho ta tự do và tôn trọng quyền tự do cá nhân mỗi người. Ngài không định thay ta hay cưỡng ép ta theo ý Ngài. Ta hoàn toàn tự do quyết định và chịu trách nhiệm về hậu quả quyết định ta chọn.
Tiên tri Elia diễn tả sự hiện diện của Chúa trong đời bằng hình ảnh rất dễ thương. Thiên Chúa phán cùng ông hãy đứng trên đỉnh núi đón Chúa đi ngang. Cơn gió mạnh đi qua, cơn bão táp thổi đến, động đất tiếp theo, lửa cháy ào ào. Elia chờ đón mãi mới gặp Ngài trong cơn gió hiêu hiêu thổi. Chúa đến trong đời ta cũng nhẹ nhàng như thế. lời Ngài ban sự sống, đầy sinh động cũng đến nhẹ nhàng như gió thoảng. Chúng ta cầu xin ơn khôn ngoan biết nhận ra Chúa trong những hình ảnh, hoàn cảnh khác nhau trong đời.
45. “Lạy Thầy, xin cứu tôi” – Lm. Nguyễn Thái
Nhà văn Mark Twain cùng đi với vợ viếng thăm Đất Thánh. Họ đến Capharnaum, nơi Chúa Giêsu khởi sự đời sống mục vụ công khai và trải qua nhiều biến cố quan trọng ở đây. Thị trấn nằm trên bờ biển Galilêa. Vào một đêm trăng, hai vợ chồng bước đi dọc theo bờ biển và quyết định mướn một chiếc thuyền chèo ra biển hóng gió. Mark Twain hỏi một người đàn ông đang ngồi trên thuyền phải trả bao nhiêu tiền để đưa họ ra biển. Mark Twain thường mặc bộ com-plê trắng, giầy trắng và đội mũ cao bồi rộng vành của người Texas. Với phong cách và kiểu ăn mặc như vậy, người chủ thuyền nghĩ Mark Twain phải là một người Mỹ giàu sang nên ra giá 25 đôla cho một chuyến du thuyền. Nghe vậy, Mark Twain đành cám ơn ông chủ thuyền rồi bỏ đi. Đi được vài bước ông quay sang nói với vợ: “Bây giờ tôi mới biết tại sao Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước!” Có phải ý ông muốn nói vì đi thuyền đắt quá, Chúa Giêsu không có tiền, nên phải bước đi trên mặt nước không?
Mark Twain đã nghĩ ra một cách cắt nghĩa khôi hài về phép lạ Chúa Giêsu bước đi trên biển trong bài Phúc Âm hôm nay. Một sự hiểu biết đầy đủ về ý nghĩa của câu chuyện Chúa Giêsu bước đi trên biển, ắt phải nói về con người Chúa Giêsu là ai, về Giáo Hội và về đời sống đức tin của mỗi người Kitô hữu.
1. Về Chúa Giêsu:
Câu chuyện phép lạ Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước biển, kết hợp với câu chuyện hóa bánh ra nhiều trong bài Phúc Âm tuần trước, chứng tỏ rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa và Ngài có quyền hành trên tất cả mọi sức mạnh tự nhiên và siêu nhiên.
Người Do Thái tin tưởng rằng biển cả thuộc lãnh vực của các quyền lực ma quỉ siêu nhiên, chẳng hạn bọn quỉ nhập vào bầy heo, rồi lao xuống biển (Mt 8,32). Một trận cuồng phong bão tố ở biển khơi được coi là công việc của những thần thù nghịch. Bằng việc bước đi trên những ngọn sóng thần hung dữ và làm yên lặng biển động, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài là Đấng có quyền lực và hoàn toàn làm chủ trên những sức mạnh thù nghịch này.
Rất nhiều người Kitô hữu thờ lạy Thiên Chúa nhưng vẫn còn lo lắng, sợ hãi tà thần, ma quỉ, và có khi lại còn tin vào bùa ngải nữa. Phúc Âm hôm nay mang lại cho chúng ta một niềm tin tưởng rằng những quyền lực của bóng tối không có gì đáng sợ khi Chúa Giêsu đã hiện diện và hoạt động trong đời sống và công việc làm của chúng ta.
2. Về Giáo Hội:
Con tàu trên đại dương là một trong những biểu tượng của Giáo Hội mà những người Kitô hữu tiên khởi đã sử dụng để ám chỉ cuộc hành trình đức tin trên trần gian. Giống như con tàu nghiêng ngả trên sóng nước, Giáo Hội cũng bị tấn công từ mọi phía bởi những quyền lực trần gian như thánh Augustinô đã nói: “Lữ hành giữa cơn bách hại của thế gian và trong niềm an ủi của Thiên Chúa”. Ở giữa những khủng hoảng, Chúa Giêsu đến mang lại sự bình an và hòa khí êm dịu trong Giáo Hội. Thế nhưng, Ngài lại đến dưới một hình thức và cách thế làm nhiều người Kitô hữu sợ hãi và la lên: “Ma kìa!” Họ muốn Ngài tránh xa khỏi họ. Nếu biết lắng nghe, trong bão tố chúng ta sẽ nhận ra tiếng Ngài thì thầm trong gió: “Hãy an tâm. Thầy đây, đừng sợ!” Nếu chúng ta tin tưởng vào lời Ngài hứa, sự hiện diện của Ngài sẽ làm bão tố êm dịu và khủng hoảng được giải quyết (Pl 4,13).
3. Về Phêrô và các người Kitô hữu:
Bài học của Phêrô bước đi trên biển đến với Chúa, và khi nghi ngờ sợ hãi ông đã bị chìm xuống cũng là bài học đức tin cho tất cả mọi người Kitô hữu. Khi nào không tập trung nhìn thẳng vào Chúa Giêsu mà chỉ nhìn vào những đối tượng khác, chúng ta sẽ bị khủng hoảng.
Một nam tu sĩ trong tu hội của Mẹ Teresa Cancutta đã đến than phiền với Mẹ về luật lệ của một vị bề trên đã ban ra, mà ông thấy rằng nó đã cản trở việc mục vụ của ông. “Ơn gọi của tôi là làm việc cho những người cùi,” ông nói với Mẹ Teresa, “tôi muốn sống cho những người cùi”. Mẹ Teresa nhìn thẳng vào mắt vị tu sĩ một lúc rồi mỉm cười và nhẹ nhàng nói: “Thưa sư huynh, ơn gọi của sư huynh không phải làm việc cho những người cùi, nhưng ơn gọi của sư huynh là thuộc về Chúa Kitô.
Khi nào chúng ta không nhìn thẳng lên trời, không nhìn vào những điểm tích cực và lạc quan mà chỉ nhìn xuống, nhìn vào những hoàn cảnh đe dọa xung quanh, vào điều tiêu cực với lòng bi quan yếm thế, chúng ta sẽ bắt đầu chìm xuống. (Pl 4:12b).
Cha Mark Link đã cùng câu chuyện sau đây để minh họa cho điều này. Một con tàu đang gối sóng trên đại dương. Những cơn gió mạnh thổi ngược vào những cánh buồm làm chúng có thể bị rách bươm. Một chàng thủy thủ trẻ được lệnh phải trèo lên cột những cánh buồm lại. Anh chưa bao giờ trèn lên cột buồm chính vào thời tiết khắc nghiệt như vậy bao giờ. Anh bắt đầu trèo, và dường như muốn tụt xuống vì sự gầm thét của gió bão làm cho anh quá sợ hãi khi nhìn xuống. Trong kinh hoàng, anh tê cóng người lại, không thể leo lên hay tụt xuống được. Hoảng sợ anh la to: “Tôi sẽ ngã. Tôi sẽ ngã.” Viên chỉ huy hét lên thật lớn trong cơn gầm thét của bão tố: “Hãy nhìn lên! Hãy nhìn lên sẽ không bị ngã!”
Khi vượt biên đến trại tị nạn Thái Lan, tôi đã học thêm được hai từ Anh ngữ mới: “boat people and land people”, người đến bằng đường biển và bằng đường bộ. Người đến bằng đường biển đã được Cao Ủy Liên hiệp quốc áp dụng chính sách tị nạn cho đi định cư dễ dàng hơn.
Sau khi vượt biên bằng được bộ sang Campuchia, tôi đã xuống tầu vượt qua Vịnh Thái Lan. Con tàu chúng tôi sử dụng chỉ là chiếc tàu chở hàng nông sản trên dòng sông Cửu Long, chứ không phải chiếc tàu đánh cá ngoài biển khơi. Nó nhỏ bé và mong manh giống như chiếc lá trôi trên mặt đại dương bao la. Vào một đêm giông bão, trời tối đen như mực, ghé tai vào mạn thuyền có thể nghe tiếng gió kêu rít bên ngoài. Con thuyền cũ kỹ và bé nhỏ cố gắng trồi lên trên những ngọn sóng cao rồi lại lao đầu xuống vực thẳm đen tối. Sóng đập vào mạn thuyền kêu răng rắc. Mọi người trong thuyền chỉ còn nhắm mắt, bịt tai và cầu xin Thiên Chúa cùng Mẹ Maria cho qua được cơn khủng khiếp này.
Bây giờ nghĩ lại kinh nghiệm này, tôi có cảm nghiệm giống như Pherô. Ở trên một chiếc thuyền mỏng manh trôi trên biển cả, có khác nào Phêrô bước đi trên nước. Một kinh nghiệm vô cùng sợ hãi nhưng cũng tràn đầy ơn phúc! Tôi đã được cứu thoát là nhờ niềm tin và ơn phúc. Nếu bây giờ lập lại biến cố này, toi sợ rằng sẽ chìm, vì sợ hãi đã càng ngày càng lớn và niềm tin lại suy yếu dần. Tôi đã nghĩ ngờ giống như Phêrô. Và chắc chắn cũng sẽ chìm giống như Phêrô!
Trong lúc các môn đệ cần đến Chúa giêsu, Ngài đã đến với họ. Khi có gió ngược và cuộc đời trở nên trắc trở khó khăn, Chúa Giêsu đã ở đó để giúp đỡ. Ngay khi chúng ta cần đến ngài, Ngài đã ở ngay đó để giải cứu chúng ta (Gc 4:8).
William Barclay chia sẻ như sau: “Trong cuộc đời gió thường thổi ngược. Có những lần khi chúng ta đi ngược gió, và cuộc đời là một sự phấn đấu tuyệt vọng với chính mình, với những hoàn cảnh, những nỗi buồn và quyết định của mình. Những lúc đó, không ai phải phấn đấu một mình, bởi Chúa Giêsu đến với họ qua những sóng gió cuộc đời, với cánh tay đưa ra để cứu vớt và với giọng truyền êm ái ra lệnh cho chúng ta phải an tâm, đừng sợ hãi.”
Thực ra câu chuyện Chúa Giêsu đi trên mặt nước không phhai là một biếnc ố tình cờ xảy ra cho các môn đệ. Đây là dấu hiệu và biểu tượng của tình yêu và quyền năng của Chúa Giêsu đối với Ngài khi gặp bão tố gian nguy (Mt 16:18). Tất cả chúng ta sẽ cảm nghiệm điều này nếu chúng ta kêu cầu với Ngài như Phêrô khi xưa: “Lạy Thầy xin cứu con!” (14:30).
46. Quyền phép.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, như vậy chính Ngài đã tạo dựng vũ trụ, vạn vật, muôn loài, vì thế Ngài có toàn quyền trên thiên nhiên. Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những bằng chứng để chúng ta quả quyết điều trên: Chúa đi trên mặt biển nổi sóng và gió yên lặng ngay khi có lệnh của Ngài hoặc khi có sự hiện diện của Ngài. Hoàn cảnh của phép lạ: Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, dân chúng phấn khởi quá muốn suy tôn Chúa làm vua, nhưng Chúa thì không đồng tình như vậy, nên Ngài bảo các môn đệ xuống thuyền ra khơi đi trước và đợi Ngài ở phía bên kia Biển Hồ, Ngài giải tán dân chúng rồi một mình lên núi cầu nguyện. Các môn đệ ra đi được khoảng vài cây số thì gặp sóng to gió lớn. Thánh Luca ghi lại: gió ngược thổi mạnh dữ dội, thánh Matthêu cho biết: lúc ấy vào khoảng canh tư, nghĩa là vào khoảng ba giờ sáng, như vậy lúc đó các môn đệ đã rất mệt mỏi sau mấy tiếng đồng hồ chèo chống. Giữa lúc ấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ, hình như Ngài muốn đi ngang qua các ông. Vừa mệt mỏi, vừa đêm tối, các môn đệ thấy có bóng người đi trên mặt biển, tưởng là ma quái hiện hình, nên hoảng sợ, nhưng khi nghe tiếng nói quen thuộc trấn an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”, các ông mới nhận ra Chúa, lập tức Phêrô xin phép đi trên mặt nước đến gặp Chúa. Chúa bằng lòng. Phêrô bước ra khỏi thuyền đến với Chúa, nhưng đức tin của ông còn yếu kém, ông hồ nghi và lo sợ nên bị chìm dần xuống và kêu xin Chúa cứu giúp. Chúa đưa tay cầm lấy tay ông và trách nhẹ: “Người đâu mà kém tin vậy, sao lại hoài nghi?”. Khi Chúa và Phêrô đã lên thuyền, sóng gió liền yên lặng và mọi người tuyên xưng Chúa: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa”.
Qua bài Tin Mừng này, chúng ta ghi nhận được ba bài học: Bài học thứ nhất, việc Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ cho chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa. Đối với Chúa, việc này không có gì là khó khăn, và đối với chúng ta, cũng chẳng có gì là khó hiểu, vì Ngài là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng vũ trụ, Ngài quyền phép vô cùng. Chính Ngài cầm quyền trên mọi định luật vật lý, nên việc Ngài đi trên sóng nước không có gì là phản khoa học hay vô lý, nhưng lại minh chứng quyền năng Thiên Chúa của Ngài. Các môn đệ hôm ấy được chứng kiến tận mắt và ghi nhận sự kiện tỏ tường Chúa có quyền trên sóng biển, đi trên sóng, truyền cho chúng yên lặng. Vì thế, lòng tin của các môn đệ càng gia tăng. Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: Chúng ta phải tin Chúa Giêsu tuyệt đối và thể hiện niềm tin ấy bằng cách sống theo những lời Chúa dạy, bởi vì như thánh Giacôbê nói: đức tin không có việc làm là đức tin chết.
Bài học thứ hai, đang khi các môn đệ gặp bão táp, sóng gió thì Chúa xuất hiện để cứu giúp ho. Trong khoảnh khắc mọi sự đều thay đổi vì có Chúa. Điều này cho chúng ta biết: Ở đâu có Chúa là có bình an. Cuộc đời chúng ta cũng vậy, có giông tố bão táp, có thử thách khó khăn, nhưng chúng ta đừng bao giờ thất vọng nghĩ rằng Chúa bỏ rơi chúng ta, Chúa ở xa chúng ta hay không để ý gì đến chúng ta. Không, Chúa luôn ở với chúng ta, Chúa luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường, Chúa luôn sẵn sàng trợ giúp chúng ta. Chúng ta có thể nói: trong những giờ phút khó khăn, nguy hiểm, khổ đau, chẳng những Chúa đi bên cạnh chúng ta, mà Chúa còn bồng bế chúng ta trên cánh tay toàn năng của Ngài.
Bài học thứ ba, thánh Phêrô thấy Chúa đi trên sóng nước ngon lành nên đã phản ứng khá mau lẹ, có thể nói quá vội vàng trước khi kịp suy nghĩ, là xin Chúa cho ông cũng đi trên sóng nước như Chúa. Chúa bằng lòng ngay, nhưng vì yếu lòng tin, lo sợ nên Phêrô đã bị chìm xuống. Ông lại vội vàng kêu xin Chúa và Chúa cũng cứu giúp ngay. Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: một quyết định hay một hành động vội vàng thường dễ sai lầm và gặp khó khăn. Vì thế, cần suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định một điều gì hay làm một việc gì, cần phải xác định được nên làm hay không nên làm và làm lúc nào. Đó là hai vấn đề: chúng ta phải cầu nguyện nhiều trước khi làm, một khi đã làm thì làm cho đến nơi đến chốn. Nếu chẳng may thất bại thì cố gắng làm lại, đừng chán nản thất vọng. Thánh Phêrô đã làm như thế: đã tin cậy Chúa, rồi càng yêu mến Chúa hơn trước và được Chúa tín nhiệm nhiều hơn.
47. Đừng sợ, hãy tin tưởng! - Lm. M. Gioan Nghi,CRM
Vào một buổi tối nọ, một căn nhà bị cháy. Mọi người trong nhà đều đã chạy thoát được ra ngoài, chỉ trừ một em trai ở trên lầu. Nhìn chỗ nào cũng có lửa, em liền chạy đến cửa sổ để xem có cách thoát thân không. Ông bố đứng dưới nhìn lên thấy con đứng bên cửa sổ, biết là không còn cách nào khác hơn là phải nhảy xuống, nên mới gọi lên giục con: “Con nhảy xuống đi, bố đang chờ ở đây.” Đứa con ở trên nhìn xuống, chỉ thấy toàn là khói dầy đặc, nên sợ không dám nhẩy. Ông bố lại giục: “Nhảy mau đi con.” Chú bé ở trên la xuống: “Con không dám nhẩy, vì không thấy bố ở đâu hết.” “Không sao. Bố thấy con mà. Nhảy mau đi.”
Vì thiếu lòng tin tưởng, nên sống trong lo sợ, đó là một hiện trạng chung của con người. Ngay từ thời khởi thủy của lịch sử nhân loại, vì không tin tưởng vào Thiên Chúa, ông bà nguyên tổ đã phạm tội, và vì đó, ông bà đã trốn tránh Thiên Chúa vì sợ hãi. Trải dài lịch sử nhân loại, vì không tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa, con người sợ nhau, sợ cho tương lai, sợ vì quá khứ, sợ thiên tai, và sợ cả Thiên Chúa nữa: sợ Ngài oán phạt, sợ Ngài bỏ mặc con người.
Mới đây, tờ báo USA Weekend đã làm một cuộc thăm dò xem người Mỹ có những mối lo sợ nào:
54% sợ bị đụng xe.
53% sợ bị ung thư.
50% sợ hết quỹ An Sinh Xã Hội.
49% sợ không đủ tiền khi về hưu.
35% sợ bệnh già.
33% sợ là nạn nhân của những vụ hành hung.
32% sợ không đủ khả năng để trả nợ.
Trước những sợ hãi đó của con người, một trong những sứ điệp của Thiên Chúa trong Cựu Ước là: Đừng sợ. Với Abraham: “Đừng sợ, vì Ta là thuẫn bảo vệ ngươi.” Với dân Do Thái, qua Môsien: “Đừng sợ, và các ngươi sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.” Sang tới thời Tân Ước, với Đức Mẹ Maria, qua sứ thần Gabrien: “Đừng sợ, vì Bà đã được ơn nghĩa với Thiên Chúa.” Đừng sợ!
Bài Phúc âm hôm nay thuật lại câu chuyện các môn đệ phải khó khăn để trèo chống con thuyền khi bị sóng đánh. Đang khi đó, thì Chúa Giêsu đi trên mặt hồ đến với các ông, khiến các ông tưởng là gặp ma. Chúa Giêsu đã liền chấn an các ông: “Thầy đây. Đừng sợ!”
“Thầy đây. Đừng sợ!” Đó cũng là lời Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta hôm nay, khi chúng ta đang phải đối đầu với cuộc khủng hoảng kinh tế, khi sức khoẻ của chúng ta đang suy giảm, khi một người thân đang bị dày vò vì bệnh tật, hay khi con cái ở tuổi niên thiếu đang khiến chúng ta phải điên đầu. Đừng sợ! Hãy vững dạ, vì giữa những sóng gió ba đào của cuộc sống, chúng ta có Chúa Kitô đang ở với chúng ta. Cũng như em bé trong câu chuyện ở trên, chúng ta hãy vững tâm gieo mình vào cánh tay đầy quyền năng và yêu thương của Thiên Chúa. Hãy vững tin và hãy nắm chắc lấy Chúa Giêsu. Chắc chắn Chúa sẽ không để chúng ta phải thất vọng.
48. Suy niệm của John Nguyễn
1. Cầu nguyện có cần thiết không?
“Giải tán họ xong, Người lên núi một mình cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình”. Bài Tin Mừng cho thấy: cuộc đời Đức Giê-su có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động và cầu nguyện. Nghĩa là Ngài không chỉ hoạt động cũng không chỉ cầu nguyện, mà cả hai luân phiên nhau. Nhưng cầu nguyện để làm gì? Vì hoạt động thì rõ ràng đem lại lợi ích cho mọi người, còn cầu nguyện có vẻ như chẳng làm gì cả, như vậy thì lợi ích cho ai? Các sách Tin Mừng cho thấy Đức Giê-su cầu nguyện một mình rất nhiều lần (x. Mc 1,35; 6,45; Lc 5,16; Mt 26,36-44), và Ngài cũng khuyên các tông đồ cầu nguyện như Ngài (x. Mt 26,41; Lc 21,36). Chắc chắn cầu nguyện phải rất cần thiết và đem lại nhiều ích lợi thì Đức Giê-su mới cầu nguyện nhiều và khuyên các tông đồ hãy cầu nguyện như vậy.
2. Cầu nguyện, một hình thức “sạc pin” tâm linh
Một vài minh họa giúp ta hiểu được vai trò của cầu nguyện:
a) Mục đích của bình ắc-quy là để phóng điện hầu làm sáng bóng đèn, làm động cơ quay, tạo nên những phản ứng hóa học, khởi động máy, v.v… nói chung là sinh một lợi ích nào đó. Nhưng ắc-quy không thể cứ phóng điện hoài, vì điện phóng một thời gian là hết, không phóng được nữa. Nếu muốn tiếp tục phóng điện để sinh lợi ích, thì phải “sạc điện”. Sạc điện xem ra vô ích, chẳng tạo ích lợi trực tiếp, nhưng hết sức cần thiết để ắc-quy có thể tiếp tục hoạt động.
b) Khi đóng đinh, người ta phải nâng búa lên và đập xuống, rồi lại nâng búa lên và đập xuống nữa. Cứ vậy cho đến lúc chiếc đinh lún xuống hoàn toàn. Chỉ động tác đập xuống mới làm đinh lún, còn động tác nhấc lên có vẻ như hoàn toàn vô ích, nhưng phải nói rằng nó tuyệt đối cần thiết. Nếu không nhấc búa lên, không ai có thể đập búa xuống lần thứ hai, và như thế đinh chỉ lún xuống một chút xíu, và như thế là không đạt yêu cầu.
Cầu nguyện xem ra chẳng lợi ích gì cả, nhưng quả thật nó là một điều tối cần thiết cho những ai muốn hoạt động hữu hiệu cho Thiên Chúa, cho nhân loại, cho tha nhân, và cho sự phát triển tâm linh của bản thân. Cầu nguyện chính là tiếp xúc với Thiên Chúa, nguồn của mọi năng lực, nhất là sức mạnh tâm linh để yêu thương và mạnh dạn dấn thân cho Thiên Chúa và tha nhân, để củng cố đức tin vào Thiên Chúa và tự tin vào chính mình, để được khôn ngoan, sáng suốt, nhận định chính xác điều nào điều nào đúng điều nào sai, điều nào chính điều nào phụ trong mọi lãnh vực hoạt động (tâm linh cũng như trần thế), để tâm hồn được bình an và tràn ngập niềm vui, v.v Thiếu sức mạnh tâm linh ấy, con người giống như một bình ắc qui hết điện, hay như những bóng đèn và động cơ không nhận được nguồn điện, khiến mọi hoạt động của họ chỉ còn được thúc đẩy bởi những động lực tự nhiên như: “đói thì đầu gối phải bò”, ham được tiếng khen, muốn được danh vọng, v.v Những động lực này vẫn cần thiết và có ích cho sự sống tự nhiên, nhưng không ích lợi cho sự sống siêu nhiên hay tâm linh. Nói tới đây, thiết tưởng mỗi người chúng ta cần tự xét xem sự sống siêu nhiên hay tâm linh của mình thế nào? có phát triển hay còn èo ọt?
3. Cầu nguyện đích thực tất nhiên phải nhận được sức mạnh từ Thiên Chúa
Bản chất của cầu nguyện là tiếp xúc thật sự với Thiên Chúa, và nhờ đó tiếp nhận được năng lực (tâm lực, trí lực, thể lực, sự an vui) từ nơi Ngài. Cầu nguyện không phải chỉ là đọc kinh, dự thánh lễ, lãnh nhận các bí tích, rước lễ. Tất cả những cách thức cầu nguyện vừa kể chỉ là một số trong rất nhiều phương tiện hay cách thức để tiếp xúc với Thiên Chúa. Tuy nhiên, vẫn có thể có những người đọc kinh, dự thánh lễ, thậm chí rước Mình Máu Thánh Đức Giê-su vào lòng mà không phải là cầu nguyện, vì họ không thật sự gặp gỡ hay tiếp xúc với Thiên Chúa. Trái lại, cũng có những trường hợp người ta thật sự gặp gỡ hay tiếp xúc với Thiên Chúa mà không cần phải dùng những cách thức vừa kể.
Muốn biết mình có thật sự cầu nguyện, nghĩa là có thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay không, ta chỉ cần xem mình có nhận được sức mạnh từ nơi Ngài hay không, và đời sống có biến đổi thật sự sau khi cầu nguyện không. Vì càng tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa, thì càng nhận được sức mạnh tâm linh của Ngài. Nhờ đó, đời sống tâm linh của ta tất yếu phải thay đổi, chẳng khác gì một người nghèo càng nhận được nhiều tiền thì đời sống vật chất hay kinh tế của người ấy tất nhiên phải thay đổi. Không thể khác được! Chính Đức Giê-su cũng được biến đổi khi cầu nguyện (x. Lc 9,29). Rất nhiều người đã được biến đổi tâm hồn khi tiếp xúc với Đức Giê-su: như Mát-thêu, Gia-kêu, Ma-đa-lê-na, người phụ nữ Sa-ma-ri, v.v. Vì thế, không thể có trường hợp thật sự gặp gỡ hay tiếp xúc với Ngài một thời gian mà lại không nhận được sức mạnh của Ngài, và không được Ngài biến đổi nên tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Nếu sau cả một thời gian cầu nguyện mà không thấy mình được biến đổi về tâm linh, không nhận được sức mạnh, bình an và niềm vui sâu xa, thì ta cần phải nghiêm túc xét lại xem cách thức cầu nguyện của ta có thật sự giúp ta tiếp xúc với Thiên Chúa không.
4. Đừng quan niệm Thiên Chúa là một bóng ma theo tưởng tượng của ta
Trở lại với bài Tin Mừng, ta thấy thoạt đầu các tông đồ tưởng Đức Giê-su là ma. Điều ấy cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ. Rất nhiều khi chúng ta tưởng Thiên Chúa là một bóng ma, hay là một cái gì đấy mà bản chất không phải là Ngài. Có người tưởng Ngài là một bức tượng, hiện diện trước mặt mình một cách vật chất; họ đã vật chất hóa Ngài. Những người trí thức thì lại tưởng tượng Ngài, phác họa chân dung của Ngài theo những quan niệm riêng của mình, hoặc của nền văn hóa dân tộc mình. Vì thế, thay vì gặp được Ngài, ta chỉ gặp được một bóng ma, một Thiên Chúa do chính ta tạo dựng nên theo quan niệm hay sức tưởng tượng của mình.
Để đề phòng chuyện này, Thiên Chúa đã cấm người Do Thái không được tạc tượng Ngài, vì Ngài có hình dáng đâu mà tạc, nên tạc thế nào cũng chẳng bao giờ là tượng của Ngài được (x. Xh 20,4; Đnl 5,8; 27,15). Nhưng con người từ thời cổ đại đến giờ luôn luôn bị cám dỗ tạc tượng Ngài. Người bình dân tạc theo kiểu bình dân, tạc bằng gỗ, đá Người trí thức tạc theo kiểu trí thức, tạc bằng những ý niệm. Nhà thần học tạc theo kiểu thần học, bằng những tư tưởng thần học. Nhưng Thiên Chúa vốn vượt khỏi mọi kinh nghiệm, mọi ý niệm và ngôn ngữ của con người, nên không thể diễn tả hay quan niệm Ngài bằng bất kỳ một ý niệm hay ngôn ngữ nào của con người. Thiên Chúa không thể diễn tả hay quan niệm được ấy đã bị con người biến thành một Thiên Chúa diễn tả được, quan niệm được, thậm chí được xác định và mô tả dứt khoát bằng vô số chi tiết nhỏ nhặt. “Thiên Chúa” do con người tạo dựng nên ấy làm sao đem lại sức mạnh tâm linh đích thật cho ta? “Thiên Chúa” ấy có thật sự là Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người, và là Thiên Chúa của Đức Giê-su không?
5. Vai trò của đức tin khi cầu nguyện
Khi các tông đồ nhận ra Đức Giê-su, Ngài liền nói: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” Một trong những đặc tính căn bản của Đức Giê-su là, khi ta gặp được Ngài, Ngài làm cho tâm hồn ta được bình an, Ngài tiêu hủy mọi nỗi sợ hãi của ta. Khi gặp các tông đồ, Ngài hay nói: “Bình an cho anh em!” (Lc 24,36; Ga 20,19; 20,21; 20,26). Và bình an của Ngài là thứ bình an “không ai lấy mất được” (Ga 16,22).
Khi gặp được Đức Giê-su, Phê-rô tin tưởng rằng nếu đó chính là Thầy mình thật, ắt Ngài có thể cho mình đi trên mặt nước giống như Ngài. Và quả thực ông đã đi được trên mặt nước. Nhưng đức tin của ông vào Ngài không vững, nên khi thấy gió thổi, ông sợ, và lập tức bị chìm xuống nước. Thì ra việc ông đi trên nước được là do quyền năng của Đức Giê-su, nhưng cũng do đức tin của ông vào Ngài nữa. Tin Mừng cho biết: tại Na-da-rét, “Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin” (Mt 13,58). Khi chữa ai khỏi bệnh, Ngài thường nói: “Đức Tin của anh đã cứu anh” (Mt 9,22; Mc 5,34; Lc 8,48; 17,19). Để được cứu rỗi cũng vậy, chính Đức Giê-su cứu ta, nhưng chính ta cũng phải tin vào Ngài thì Ngài mới cứu ta được. Đó chính là điều kiện tối yếu về phía ta. Tương tự, đức tin của ta vào Thiên Chúa cũng đóng một vai trò không thể thiếu được khi cầu nguyện để Ngài có thể làm điều gì đó cho ta, như ban bình an, ban sức mạnh, hay biến đổi ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin dạy con biết cầu nguyện đích thực, nghĩa là dạy con tiếp xúc với Cha thật sự, để nhờ đó nhận được sức mạnh của Cha. Rất nhiều khi con đọc kinh, dâng lễ, rước lễ chẳng khác gì một cái máy, trí óc con không hề nghĩ đến Cha mà chỉ tập trung vào những nhu cầu mà con muốn xin Cha thỏa mãn. Con chỉ có vẻ cầu nguyện, chứ không phải là cầu nguyện đích thực. Xin Cha hãy dạy con cầu nguyện đích thực.
49. Sự hiện diện của Chúa Giêsu - Nguồn bình an
(Suy niệm của Sao Mai)
Hình ảnh Chúa Giêsu đi trên mặt nước cho chúng ta thấy tình thương của Chúa dành cho các môn đệ thật cao sâu. Dù đêm tối, dù giông bão, cũng không cản bước để Ngài tiến đến với các môn đệ. Ngài đã đến thật đúng lúc, thật kịp thời. Ngài đến để phá tan giông bão. Ngài đến trả lại sự bình yên cho biển cả và cho cả các tông đồ đang hú hồn bạt vía!
Đoạn Tin Mừng này cũng mời gọi chúng ta hãy thẳng thắn kiểm điểm lại đời sống của mình. Nếu hiện giờ chúng ta không cảm nhận được sự bình an, niềm vui mừng và hy vọng thì chắc chắn đó là vì chúng ta đã lìa xa Chúa. Nếu như lúc này chúng ta đang chao đảo và như muốn chìm xuống đáy nước, thì chắc hẳn đó là vì chúng ta đã không còn tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa. Hãy quay trở về cùng Chúa và hãy kêu lên như thánh Phêrô: Lạy Chúa, xin cứu vớt con. Chắc chắn Ngài sẽ ra tay phù trợ, bởi vì Ngài không phải chỉ là một Thiên Chúa quyền năng, mà hơn thế nữa, Ngài còn là một người cha đầy lòng thương xót, luôn sẵn sàng cứu vớt và nâng đỡ chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc. Có Chúa cùng đi với chúng ta trên vạn nẻo đường đời, chúng ta sẽ không còn sợ hãi trước những phong ba và bão táp, chúng ta sẽ không còn lo lắng trước những gian nan và thử thách như lời Thánh Vịnh đã viết:
Ví như CHÚA chẳng xây nhà,
thợ nề vất vả cũng là uổng công.
Thành kia mà CHÚA không phòng giữ,
uổng công người trấn thủ canh đêm. (Tv.127:1)
Sau khi Chúa Giêsu lên thuyền, gió bỗng yên lặng. Sự hiện diện của Người đủ sức mang lại yên tĩnh và chế ngự phong ba bão táp. Biển theo nghĩa Kinh Thánh tượng trưng cho quyền lực của sự ác. Đi trên biển chứng tỏ quyền năng và sự chiến thắng của Chúa Giêsu trên sự dữ, nguồn gốc của bất an, chia rẽ, đau khổ.
Nhiều người Kitô hữu thờ phượng Thiên Chúa nhưng vẫn còn lo lắng, sợ hãi tà thần ma quỉ, mê tín dị đoan. Hãy tin tưởng rằng: quyền lực của bóng tối không có gì đáng sợ khi Chúa đã hiện diện và hoạt động trong đời sống và công việc làm của chúng ta. Nếu biết lắng nghe, trong giông bão cuộc đời, chúng ta sẽ nhận ra tiếng Chúa “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ”. Nếu chúng ta tin tưởng vào lời Chúa hứa thì sự hiện diện của Chúa sẽ làm bão tố êm dịu và khủng hoảng được giải quyết (Pl 4,13).
Xưa có một ông vua tổ chức một cuộc thi tìm ra người nào vẽ được bức tranh yên bình nhất. Nhiều họa sĩ đã tham gia và nộp bài. Nhà vua xem xét tất cả các bức tranh và ông chọn ra hai bức ông thích nhất. Nhưng ông vẫn phải chọn ra một bức tranh đạt giải.
Bức tranh thứ nhất vẽ một hồ nước tĩnh lặng đến mức có thể thấy những ngọn núi cao vút xung quanh soi bóng dưới hồ. Bên trên là bầu trời trong xanh, mây trắng. Đó là một bức tranh mà ai nhìn vào cũng phải mê mẩn.
Bức tranh thứ hai cũng vẽ cảnh núi, nhưng nó mấp mô và trần trụi. Bên trên là bầu trời u ám, vần vũ như sắp có mưa bão, sấm chớp. Phía dưới một ngọn núi là thác nước đổ xuống ào ào. Nhưng khi nhà vua nhìn kỹ, ông thấy bên cạnh thác nước là một bụi cây nhỏ nằm trong một kẽ đá. Trong bụi cây, một con chim mẹ đang làm tổ. Giữa thác nước đang gào thét, chim mẹ ngồi yên bình trong tổ.
Nhà vua đã chọn bức tranh thứ hai và giải thích: “Bởi vì yên bình không có nghĩa là bạn ở một nơi không có tiếng ồn, không gặp rắc rối, không phải làm việc vất vả. Yên bình là khi sống giữa tất cả những thứ đó, bạn vẫn cảm thấy bình an trong tim. Đó mới là yên bình thực sự”
Nơi đâu có Chúa Giêsu, ở đó có bình an. Cuộc đời người Kitô hữu không thể tránh khỏi những phong ba giông bão của cuộc sống. Cần phải đến với Chúa Giêsu. Nếu biết đặt Người ở trung tâm đời mình thì sẽ tìm kiếm được an bình nội tâm, cho dù có gặp biết bao gian truân thử thách.
Chúa Giêsu hiện diện ngay trong cuộc sống của chúng ta nếu chúng ta biết đến với Người qua việc lắng nghe, thực thi lời Người, đón nhận Mình Máu Thánh Người và siêng năng cầu nguyện với Người.
Lạy Chúa, đứng trước phong ba bão táp của thần dữ, chúng con cảm thấy lao đao vất vả, xin Chúa luôn giúp sức và nâng đỡ sự yếu hèn của chúng con, để chúng con vững tâm tiến bước trong niềm tin tưởng.
50. Hãy tìm gặp Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Trong cuộc sống ai cũng muốn cho mình có một đời sống an toàn, được bảo đảm, không gặp những thử thách, những trở ngại làm cho mình phải lo sợ. Đấy là ước vọng chung của mọi người. Nhưng trong thực tế, không ai có một cuộc đời tươi đẹp như thế, bao lâu còn ở trên trần thế này. Cuộc đời không thiếu gì chông gai, không thiếu gì những gian nan thử thách làm cho nhiều người có thể vươn lên và có thể làm cho nhiều người bị tụt xuống.
Phép lạ Chúa Giêsu đi trên mặt nước và cứu ông Phêrô cho khỏi bị chìm nói lên quyền năng vô biên của Chúa. Trong cuộc sống bình yên cũng như trong những lúc gặp gian nan thử thách, Thiên Chúa luôn ở bên cạnh con người. Chúa sẵn sàng ban ơn phù trợ và cứu giúp khi chúng ta kêu cầu. Để bảo đảm cho cuộc sống, chúng ta hãy luôn ngước mắt nhìn lên Chúa, đừng nhìn xuống, đừng cậy dựa vào mình hay vào người khác mà chỉ cậy nhờ ơn Chúa phù giúp, kêu cầu Chúa như thánh Phêrô đã làm:”Lạy Thầy, xin cứu con”. Tin tưởng phó thác vào Chúa như vậy con người sẽ có một cuộc sống an toàn.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: 1V 19,9a.11-13.
Thời vua Akháp đang trị vì nước Israel, hoàng hậu Zébabel đem việc thờ phượng thần Baal vào nước, tiên tri Elia phải liều mạng đến kéo đồng bào ông về với Thiên Chúa, giải thoát họ khỏi gông cùm của tà thần, dù một mình phải thách thức với cả ngàn sư sãi thờ thần Baal của hoàng hậu và nhà vua. Dù thắng cuộc và sư sãi thần Baal bị tiêu diệt, ông vẫn phải trốn thoát tay hung tàn của hoàng hậu lùng bắt.
Ông phải chạy trốn lên núi Horeb trong một quãng đường dài mệt mỏi. Nơi đây Thiên Chúa đã hiện ra với ông, không phải trong tiếng sấm sét ầm ĩ của một thiên nhiên giận dữ như khi hiện ra với ông Maisen, nhưng hiện ra với ông một cách êm dịu trong sự tĩnh mịch của miền rừng núi. Elia không nhìn thấy Ngài, nhưng ông biết Ngài đang hiện diện bên cạnh ông qua một làn gió hiu hiu.
+ Bài đọc 2: Rm 9,1-5.
Thánh Phaolô giãi bầy tâm sự với tín hữu Rôma: Ngài rất đau buồn khi thấy đồng bào Do thái của Ngài không tin nhận Đức Kitô. Ngài muốn nói lên tình yêu của Ngài đối với dân Do thái, dân Chúa chọn, mà trong những thế kỷ trước đã được đầy tràn hồng ân của Chúa. Vì tình yêu thắm thiết ấy, thánh Phaolô sẵn sàng chịu cho người ta nguyền rủa, ngay cả việc xa rời Chúa Kitô, nếu mãi mãi sự hy sinh này cứu được dân Do thái
Nhưng dù sao, Ngài cũng hy vọng rằng cuối cùng dân Do thái cũng sẽ tin, bởi vì dù sao họ cũng “được quyền làm con, được cho thấy vinh quang, nhận giao ước, lề luật, phụng tự và lời hứa”.
+ Bài Tin mừng: Mt 14,22-33.
Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, dân chúng hào hứng, muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua. Điều đó không phù hợp với sứ mạng Messia của Ngài. Có lẽ Ngài không muốn cho lòng hăng hái lệch lạc này tác động lên các Tông đồ, nên đã vội vã bảo các ông lên thuyền sang bên bờ kia.
Sáng sớm Ngài đã đi trên mặt nước mà đến với các ông. Họ tưởng Ngài là ma nên đã kêu rú lên. Nhưng Chúa Giêsu đã trấn an họ. Ông Phêrô muốn rời thuyền đi trên mặt nước mà đến với Chúa. Được sự đồng ý của Chúa, ông mạnh dạn bước đi, nhưng vì sóng lớn, ông sắp bị chìm, đã kêu lên:”Lạy Thầy, xin cứu con”. Chúa Giêsu đưa tay ra đỡ ông lên thuyền và trách ông thiếu lòng tin. Sau biến cố này, các môn đệ đã thốt lên:”Quả thật, Ngài là Con ThiênChúa”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Có Chúa trong cuộc đời.
I. CUỘC ĐỜI CON NGƯỜI TRÊN TRẦN THẾ.
Trên trần gian này ai cũng muốn được hạnh phúc, còn hạnh phúc đời sau thì tùy ở mỗi người, có đức tin hay không. Sống trên đời, con người ai cũng muốn được an toàn may mắn, gặp những điều tốt đẹp... nên họ chúc nhau: vạn sự như ý. Thế nhưng những trang lịch sử của toàn thế giới, của các dân tộc và của riêng bao con người, đã cho thấy rằng các điều tốt đẹp trên nếu có đạt được thì rất giới hạn và mau qua. Ngay trong đời sống của các thánh hiền hay của những người có đức Kitô hiện diện cũng không có nghĩa là họ thoát khỏi những khó khăn không ngờ xẩy đến.
Tuy nhiên, nếu như xưa Đức Kitô ở bên cạnh các Tông đồ, giúp đỡ các ông thắng vượt những khó khăn trên mặt biển, thì sự hiện diện của Đức Kitô nơi chúng ta sẽ giúp chúng ta dễ dàng chấp nhận và vượt qua những khó khăn hằng ngày trong cuộc sống như vậy vì “ngày nào có sự khó cho ngày ấy”. Chính trong các hoàn cảnh này, niềm tin của chúng ta mới phát triển và trưởng thành hơn.
Kinh nghiệm cho hay những người có đức tin hay những người chẳng có đức tin đều bị chi phối bởi những luật lệ thiên nhiên mà không ai chống lại được. Không thiếu gì những thiên tai do thiên nhiên đưa đến như bão lụt, động đất, hạn hán, sóng thần... hoặc do con người gây ra như chiến tranh, loạn lạc, hận thù chia rẽ, khủng bố, nghèo đói...
Nữ sĩ Đoàn thị Điểm đã nói lên nhận xét của mình về một xã hội chứa đầy những đau khổ loạn ly trong phần mở đầu cuốn “Chinh phụ ngâm khúc”:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiêu nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng không,
Nào ai gây dựng nên nông nỗi này ?
Thi sĩ Nguyễn Du cũng gửi gấm tâm sự của mình trước những cảnh nhiễu nhương của xã hội thời ông, trong cuốn “Đoạn trường tân thanh”:
Trăm năm trong cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Theo nhận xét của Nguyễn Du đời người là một cuộc bể dâu, thay thay đổi đổi không ngừng, không có gì là vững chắc. Trong những thay đổi ấy thi sĩ thấy có biết bao nhiêu cảnh đoạn trường xẩy ra làm cho mình đau đớn. Chính những điều thay đổi ấy không làm cho thi sĩ được yên ủi, nhưng ngược lại làm cho thi sĩ phải buồn sầu đối với “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Thi sĩ Xuân Diệu thì có cái nhìn bi quan về sự thay đổi của sự vật, nghĩa là chỉ nhìn thấy cái mất mà không thấy cái còn:
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt.
Một thi sĩ khác cũng phát biểu như thế:
Hoa nở để mà tàn,
Trăng tròn để mà khuyết,
Mây hợp để mà tan,
Nước đầy để mà vơi.
Có rất nhiều người trên đời đã phải vật lộn với biết bao gian nan thử thách để mà sống. Có người đã vượt qua, có người bị đắm chìm, nên người ta đã gửi kinh nghiệm sống ấy vào câu tục ngữ: Ba chìm bảy nổi chín lênh đênh: nghĩa là số phận của con người, hoặc cuộc sống long đong gặp nhiều gian truân vất vả.
II. NHỮNG THỬ THÁCH TRONG CUỘC ĐỜI.
1. Trong đời sống vật chất và tinh thần.
Đối với những người yếu đuối tinh thần, những người nhu nhược thì sự gian nan khốn khó làm cho họ nản lòng rủn chí. Trái lại, đối với những người có ý chí vững mạnh, gian nan khốn khó càng là động lực thúc đẩy họ tiến lên.
Ông Baden Powell, ông tổ của Hướng Đạo, đã nói:”Đời sẽ thành vô vị nếu toàn là đường mật , muối sẽ mặn chát nếu ta nhấm một mình nó, nhưng khi bỏ nó vào đồ ăn, nó là một thứ gia vị ngon lành. Khó khăn, trở ngại đều là những hạt muối trong đời”.
Người Đông phương thường truyền lại một câu chuyện mang tính chất ngụ ngôn như thế này: Ngày xưa có chàng nông phu theo truyền thống lâu đời của gia đình, năm nào cũng chăm chỉ cầy bừa đào xới đất ruộng, dù mười hai năm liền trời không mưa.
Ngày nay phần đông chúng ta chỉ cần một năm trời hạn hán là đâm ra chán nản, không muốn tiếp tục cầy ruộng nữa. Chúng ta thường là những người thiếu ý chí, quên lời dạy của cổ nhân:”Ở đời không có con đường nào bước một bước mà đến nơi bao giờ”.
Người ta cho gian nan thử thách là một điều cần thiết để đề cao giá trị con người không biết mỏi mệt, không chịu đầu hàng trước những khó khăn:
Có gió lung mới biết tùng bá cứng,
Có ngọn lửa hừng mới biết thức vàng cao.
(Tục ngữ)
Hoặc một nhận xét rất thực tế của một danh nhân:
“Những cây mạnh nhất, cao nhất, mọc trên những mảnh đất cằn cỗi nhất”.
Bời vì kinh nghiệm của một thi sĩ đã cho biết:
Chiến đấu có gian nan
Khải hoàn mới vinh quang.
(Corneille)
2. Trong đời sống thiêng liêng.
Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta về sự chấp nhận và biết thánh hoá những gian nan thử thách trong đời sống hằng ngày. Thánh Phaolô đã diễn tả trong một bài Thánh ca:
“Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Tc Pl 2, 6-8).
Kinh thánh cũng cho biết gian nan thử thách là cần vì nhờ đó mà vàng thau không còn lẫn lộn nữa. Nhờ thử thách vàng ròng sẽ được tinh luyện:”Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Vì thế người ta nói:
Vàng vào lửa hoá vàng y
Rác rơm vào lửa biến đi đàng nào.
Thánh vịnh 90 cho biết cuộc đời con người vắn vỏi chỉ như cơn gió thoảng qua, nhưng trong đó có biết bao đau khổ con người phải chịu:
Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục
Mạnh giỏi chăng là được tám mươi
Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ
Cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.
(Tv 90,10)
Thánh Phaolô đã bị đau khổ dằn vặt vì những khó khăn xẩy ra nơi mình. Ngài đã phải chiến đấu khổ sở. Ngài đã tiết lộ cuộc chiến đấu cam go của ngài cho tín hữu Côrintô:”Để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi đã bị như một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi:”Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2Cr 12,7-9).
Truyện: Chỉ bán hạt giống.
Cha Antony de Mello kể lại giấc mơ của Paquita như sau: Nàng rảo quanh các quầy hàng của một trong những cửa tiệm lớn nhất hành tinh. Bỗng nhiên nàng nhận ra Thiên Chúa sau một quầy hàng:
- Lạy Chúa, Ngài bán gì vậy ?
- Tất cả những gì mà lòng con mong ước.
- Con muốn mua sự bình an trong tâm hồn, tình yêu, sự khôn ngoan, những liều thuốc chữa trị mọi thứ sợ hãi.
- Tốt lắm, nhưng ở đây không bán trái mà chỉ bán hạt giống thôi.
(André Sève, Sương mai, tr 51-52)
III. THÁI ĐỘ CỦA TA TRƯỚC GIAN NAN THỬ THÁCH.
Ta có thể coi trần gian là một biển rộng mênh mông, con người chỉ là một chiếc thuyền trên mặt biển. Mặt biển có lúc phẳng lặng, con thuyền có thể lướt qua mặt nước một cách an toàn. Nhưng cũng có lúc mặt biển nổi sóng to gió lớn như biển Tibériade mà các Tông đồ đang gặp phải trong bài Tin mừng hôm nay thì con thuyền sẽ chao đảo, phải chèo chống mạnh mẽ. Trong những lúc con thuyền đời ta đang gặp sóng gió trên biển cả, ta phải làm gì ? Một mình chèo chống chưa đủ vì sức người yếu đuối, sóng gió lại dữ dội. Ngoài sức chèo chống của mình, chúng ta còn phải kêu cầu Chúa đến giúp đỡ như các Tông đồ đã làm:”Xin cứu con với”!
1. Ta phải tin cậy Chúa.
Trong cơn gian nan thử thách ta hay thất bại, nản lòng vì chỉ tin vào sức mình hay vào người khác. Để vượt qua những khó khăn ấy, Chúa đòi chúng ta phải có lòng tin vào Chúa. Thánh Phêrô đã chứng minh điều đó: khi bước xuống khỏi thuyền đi trên mặt nước đến với Chúa: ông tin. Khi sắp bị chìm, ông sợ hãi kêu cứu: ông mất tin. Khi Chúa kéo ông lên thuyền: ông tin. Tại sao ông Phêrô cũng như chúng ta sợ ? Vì thiếu lòng tin. Chúa khuyên:”Đừng sợ”.
Truyện: Đức tin lớn lao.
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tĩnh trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:
- Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ?
- Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là một người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao (Trích ở Góp nhặt).
Hai hình ảnh về một lòng tin đã được thánh Matthêu nối kết với nhau, như một đối trọng, nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa ở cùng, luôn là điều cần thiết cho các môn đệ năm xưa. Lòng tin của chúng ta vào Thiên Chúa như một mặt hồ phản chiếu. Có những lúc phẳng lặng trong suốt soi rõ những vẻ đẹp thiên nhiên. Nhưng nhiều khi chỉ một làn gió nhẹ làm gợn sóng, mặt hồ liền xáo động, bao nhiêu vẻ đẹp đều tan biến.
Nhìn lại những thăng trầm của cuộc đời, mỗi khi chúng ta được sống trong bầu khí an vui, được hài lòng với mọi sở nguyện, chúng ta dễ dàng xác tín và cảm nhận mạnh mẽ sự quan phòng của Chúa. Thế nhưng khi gặp phải những gian nan thử thách, những điều bất ưng, những nghịch cảnh – như các môn đệ xưa ở giữa sóng gió - chúng ta dễ dàng hoang mang lo sợ và không nhận ra Ngài. Bởi lẽ chúng ta đã quá lo lắng về cuộc sống và chỉ biết tự lo liệu lấy một mình. Nhưng “Phúc thay ai bước đi không phải nhờ cái nhìn, mà nhờ sự phó thác của niềm tin” (Sh Roger). Quả thật, lòng tin của chúng ta đã nhiều lúc yếu ớt, mong manh – một khi chúng ta không biết tín thác vào Chúa Kitô để có sự bình an, không còn chia sẻ con đường thập giá như một phương tiện để hưởng nhờ vinh quang với Ngài.
(Mai Chi, CG và DT, số Giáng sinh 95, tr 228)
2. Ta phải nỗ lực.
Chúa luôn yêu thương ta, Chúa không bao giờ “đem con bỏ chợ”. Nhưng thương yêu không có nghĩa là lúc nào Ngài cũng âu yếm ôm ta vào lòng, chiều chuộng như một đứa con nít, nhưng Chúa muốn ta phải trưởng thành, phải chịu gian nan thử thách để thành nhân.
Tuy Chúa để ta phải chịu thử thách, Ngài đã đo lường sức chịu đựng của chúng ta, không bao giờ chúng ta phải chịu thử thách quá mức. Chúa chỉ đòi chúng ta cộng tác một nửa hay ít ra một phần, còn bao nhiêu thì để phần cho Chúa, giống như trường hợp các Tông đồ chỉ cung cấp cho Chúa có 5 cái bánh và 2 con cá, nhưng Chúa đã làm cho 5000 người đàn ông ăn no không kể đàn bà con trẻ, lại còn thu được 12 thúng bánh vụn.
Muốn thành công, Chúa đòi chúng ta phải cộng tác, Chúa không chịu làm một mình. Thánh Augustinô đã có kinh nghiệm về chân lý ấy khi viết trong cuốn “Tự thuật”:”Lạy Chúa, khi dựng nên con Chúa không cần có con, nhưng Chúa không thể cứu con nếu con không cộng tác’.
Truyện: Phải kiên trì
Ông Paden Powell kể: Có hai con ếch té nhào vào trong một lu sữa to lớn. Cả hai dẫy dụa và mệt lử. Một con nản lòng và chết đuối. Con kia cũng thất vọng, nhưng mà điều đó càng khiến nó vùng vẫy đến nỗi nó trèo được lên đỉnh một khối bơ, vì nhờ vậy mà nó thoát chết.
3. Ta phải cầu nguyện.
Trong cuộc sống chúng ta gặp phải nhiều khó khăn, những ngăn trở làm cho chúng ta hoang mang. Chúng ta có thể tham khảo ý kiến của những người khôn ngoan, hiểu biết hơn, nhưng những hiểu biết đó chỉ có hạn ; hơn nữa những khó khăn ấy vượt khả năng của chúng ta, chỉ còn một lối thoát là hãy chạy đến với Chúa, xin Ngài giúp đỡ. Hãy theo gương thánh Phêrô kêu xin Chúa giúp:”Lạy Thầy, xin cứu con”. Hãy nhìn thẳng vào Chúa, đừng rời Chúa. Bao lâu con mắt ta rời Chúa là ta thất bại vì chỉ biết nhìn vào chính mình hoặc vào người khác.
Truyện: Hãy nhìn lên.
Vào lúc mới có thuyền buồm, một cậu bé nọ xin đi biển để học làm thủy thủ. Một hôm biển có bão, người ta bảo cậu leo lên trên cột buồm. Leo được nửa phần đầu thì dễ dàng vì cậu cứ đưa mắt gắn chặt vào bầu trời. Nhưng đến lưng chừng cậu lại phạm một sai lầm. Cậu nhìn xuống mặt nước biển trong cơn bão, thế là cậu bị chóng mặt và sắp sửa ngã xuống.
Thấy thế, một thủy thủ già la to lên với cậu:”Này nhóc, ngước nhìn lên lại bầu trời đi! Nhìn lên lại bầu trời đi”. Cậu bé nghe theo lời chỉ dẫn và cuối cùng đã leo lên được an toàn.
Lỗi lầm của cậu bé, giống hệt lỗi lầm của Phêrô trong bài Tin mừng hôm nay. Cậu ta đã rời mắt khỏi đích nhắm của mình và đã nhìn xuống mặt biển giông tố giống như Phêrô đã rời mắt khỏi Chúa Giêsu và nhìn xuống mặt biển giông tố.
(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 242)
Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta thẳng thắn nhìn vào cuộc sống của mình. Nếu chúng ta không cảm nghiệm được sự bình an là niềm vui thiêng liêng mà ta đã từng cảm nhận, thì chắc hẳn là vì chúng ta đã rời khỏi mắt Chúa Giêsu. Nếu chúng ta đang sắp bị bão tố cuộc đời nuốt trửng, thì có lẽ là vì chúng ta đã rời mắt đi xa Chúa Giêsu.
51. Cam kết cho đến chết.
"Đấng Cứu Thế? -- Ai Cần Đấng Cứu Thế?" chính là tựa đề của một chương trong cuốn "Những Dụ Ngôn của Peanuts”. Chương bao gồm những mảnh hoạt họa mà trong đó Linus và Lucy đang theo dõi một em bé đang bò trên sàn nhà. "Mày nghĩ coi còn bao lâu nữa thì Sally mới biết đi?" Linus hỏi. "Lạy Chúa tôi!" Lucy nói, "vội vàng làm gì? Cứ để nó bò vòng vòng một thời gian nữa! Đừng thúc nó làm gì! Nó còn có nhiều ngày giờ mà." Lucy ngừng để suy tư trong giây lát. Rồi cô nói: "Một khi mà mày đứng dậy, và khởi đầu bước đi, thì mày đã phải cam kết cho đến chết!"
Hành động trong câu chuyện Phúc Âm hôm nay khởi đầu liền ngay sau khi Chúa Giêsu đã nuôi 5 ngàn ăn no nê qua phép lạ hóa mấy chiếc bánh và mấy con cá ra nhiều. Giờ đây, Chúa Giêsu nói các môn đệ hãy xuống thuyền trước Ngài sang bên kia bờ hồ Galilê. Thế nhưng sóng gió nổi lên trong khi họ vượt hồ. Rồi họ thấy một hình bóng đang đi trên mặt nước. Đấy chính là Chúa Giêsu, đang tiến đến để giúp họ. Các môn đệ thì đang khiếp sợ. Mặc dầu họ mới được chứng kiến "Phép Lạ của Bánh và Cá" của Chúa Giêsu, đức tin chưa hoàn toàn cam kết và ngay cả trí óc nhỏ nhen hẹp hòi sẽ không thừa nhận trình trạng có thể rằng Chúa Giêsu có thể làm được việc này. Đi trên mặt nước? Họ nói: "Ma đấy!" và họ "hoảng hốt la lên." Ngay cả sau khi Chúa Giêsu trấn tĩnh sự sợ hãi của họ, thế mà đức tin của Phêrô vẫn còn quá nhỏ nhen. Chúa Giêsu ra lệnh cho ông đi trên mặt nước. "Ông Phêrô liền từ thuyền bước xuống đi trên mặt nước mà đến với Chúa Giêsu", Matthêu nói với chúng ta. Thế nhưng ngay khi ông cảm thấy sóng gió nổi lên, ông đã run sợ và cảm thấy mình bị chìm xuống. "Thầy ơi, xin hãy cứu con," ông la lên (Mt 14, 30). Ông bị chìm xuống bởi vì ông từ chối tin rằng Chúa Giêsu có quyền tạo dựng các kinh nghiệm ngoại thường này trong cuộc sống của ông. Chúa Giêsu muốn Phêrô thôi "bò quanh" với đức tin của ông. Chúa Giêsu muốn Phêrô đứng dậy trong đức tin, và tập đi. Chúa Giêsu muốn Phêrô hoàn toàn cam kết với Ngài, trong đức tin, cho đến chết!
Có nhiều lúc khi mà nỗ lực của bạn để làm việc đúng, làm tốt bất kể việc gì mà bạn được kêu gọi để thi hành, dù khó khăn và thất vọng như là đi trên mặt nước: cố là người cha hay người mẹ tốt; cố làm cho cha mẹ hiểu mình; cố không giữ lòng thù hằn; cố loại trừ đi những tập tục xấu; cố không uống miếng rượu đầu tiên đấy hay hút điếu thuốc đầu tiên đấy; cố tiếp tục kiêng cữ ăn uống cần thiết; cố chấm dứt sự cô đơn và buồn rầu sau khi mất đi người thân yêu. Đấy giống như cố đi trên mặt nước vậy. Bạn cảm thấy không có gì vững chắc dưới chân cả. Bạn có cảm giác khủng khiếp như bị hút vào hố sâu đen tối.
Phêrô đã cảm nghiệm cảm giác này trong khi ông đi trên mặt nước đến với Chúa Giêsu. Phêrô đã để chính ông bị chìm vào vực sâu bởi vì ông đã mất lòng tin. Khi mọi sự dường như hợp với ý hướng của ta, và khi gánh nhẹ nhàng, thì Hành Vi Đức Tin chính là lúc dễ dàng nhất. Thế nhưng khi sự thể bắt đầu đi ngược ý ta, khi gánh trở nên nặng nề, và chúng ta cảm thấy tinh thần sa sút, thì Hành Vi Đức Tin đi đến chỗ khó khăn nhất. Các môn đệ đã học biết thực thi những công tác dường như bất khả mà Thiên Chúa trao cho họ để thực hành, dưới ánh sáng Đức Tin. Họ phải học biết rằng họ không bao giờ cô đơn lẻ loi, không bao giờ bị ruồng bỏ, dù tình thế khủng khiếp cảm thấy đến đâu, dù cái chết vì chính Chúa Giêsu đã chết cho ta.
Có những người nói với ta rằng thật vô ý nghĩa khi nói về cái chết của Chúa Giêsu. Có phải sự sống của Ngài mới là quan trọng đấy sao? Nó chả có nghĩa lý gì bao lâu chúng ta nhận thức rằng chính trong sự chết, trong Cuộc Đóng Đinh, tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta được tỏ rõ nhất, mạnh liệt nhất, nồng nhiệt nhất, và trực tiếp nhất. Đấy chính là vì sao Thập Giá trở nên trung tâm cho Đức Tin Kitô Giáo từ ngay lúc khởi đầu. Đấy chính là tột đỉnh của mọi sự mà Chúa Giêsu đã nói và đã làm để mạc khải tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta.
Có một người đàn ông bị lôi cuốn bởi Phúc Âm Chúa Giêsu và ông đã đi Nhà Thờ trong vòng vài tháng nay. Khi ông được hỏi là tại sao ông chưa tiến bước nữa để chịu phép Rửa Tội, ông nói rằng toàn bộ kinh nghiệm đi Nhà Thờ cũng giống như lên tàu lửa và hỏi ông tài xế: "Bao nhiêu tiền?" Và ông tài xế trả lời: "Cuộc sống của ông." "Khi tôi nghe thấy điều đó, tôi cảm thấy run sợ và tôi đã trốn cho đến giờ." Chúa Giêsu kêu mời chúng ta lên xe và tiến vào sứ mệnh mục vụ của người Kitô hữu đã chịu phép Thánh Tẩy.
Trong đoạn kết bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu và Phêrô lên thuyền và gió bão liền ngừng. Chúa Giêsu làm lặng biển cả. Các môn đệ phủ phục trước Ngài, và tuyên xưng, "Thầy là Con Thiên Chúa" (Mt 14, 33).
52. Hình ảnh về một Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm Nguyễn Ngọc Long)
Chúng ta tin vào Thiên Chúa, nhưng không nhìn thấy Ngài. Kinh sách dạy ta và ta vẫn hằng ôm ấp trong tâm hồn cùng mường tượng đến một Thiên Chúa uy quyền toàn năng. Niềm tin vào Ngài vẫn thế. Nhưng hình ảnh về Ngài không phải lúc nào cũng giữ nguyên như ta đã học, đã nghe. Nó biến đổi theo với thời đại cuộc sống.
Vậy đâu là hình ảnh một Thiên Chúa mà ta hằng tôn kính, yêu mến tin thờ?
Khi cuộc sống xã hội thời kỳ nông nghiệp, hình ảnh về một Thiên Chúa trong tâm trí người tín hữu có nhiều nét tương hợp với đời sống lúc đó: một Thiên Chúa phù hộ cho mưa thuận gió hòa, để mùa màng, hoa quả, ruộng nương vườn tược tười tốt, hoa trái được mùa bội thu.
Vào thời kỳ này niềm tin, niềm trông cậy vào Thiên Chúa còn đậm nét tình nghĩa ân đức Cha con, Đấng Tạo Hóa với tạo vật. Vì thế chúng ta gọi Ngài bằng một danh xưng thân mật tình nghĩa con người: Ông Trời.
Nhưng khi cuộc sống xã hội bước sang thời kỹ nghệ biến chế phát triển, kỹ nghệ thông tin biến đổi đa dạng ngày nay ở những xã hội tân tiến, hình ảnh về một Thiên Chúa cũng khác đi nhiều. Thiên Chúa bây giờ phải là một Thiên Chúa của trí tuệ thông minh sáng chế ra điều gì mới lạ.
Niềm tin vào Ngài lúc này không còn đậm nét tương quan cá nhân Đấng tạo Hóa và tạo vật hay tình nghĩa cha con nữa. Khối óc phát minh làm ra sản phẩm. Phương thức chế tạo ra hàng hóa, tìm ra nguyên nhân kết quả hay chế ngự được khó khăn chướng ngại, là đỉnh cao tối thượng.
Tiên tri Ê-li-a ngày xưa đã sống trải qua nhiều giai đoạn cuộc sống khi thì trong giông bão, khi thì qua nạn động đất, khi thì giữa ngọn lửa cháy tràn lan. Tin vào Thiên Chúa, nhưng ông toàn nhìn thấy những đau thương tàn phá. Ông không còn biết thế nào là hình ảnh đích thật một Thiên Chúa của lòng tin nữa. Thất vọng, ông lẩn trốn vào một hang động. Thiên Chúa không để ông yên trong đó, Ngài kéo ông ra khỏi nơi đó và cho ông biết: Đó không phải là hình ảnh Thiên Chúa với sức mạnh tàn phá chém giết đâu. Ngài là Thiên Chúa của lòng nhân lành.
Còn với chúng ta thì sao?
Mỗi cuộc đời con người có những giai đoạn khác biệt và có những cảm nghiệm về Ngài cũng rất khác biệt. Khi cuộc đời trải qua giai đoạn lầm than cực khổ, thất vọng hay bị đe dọa, tưởng chừng như đến cùng đường. Chính lúc như thế Thiên Chúa âm thầm trong thinh lặng tỏ lòng nhân lành của Người cho con người, bằng cách phấn chấn tinh thần, giúp can đảm sống vươn lên.
Khi đời sống đức tin lâm vào cơn khủng hoảng hồ nghi vào chính Thiên Chúa của niềm tin. Những lúc đó Thiên Chúa không bỏ mặc ai, Người hằng đồng hành với trong tâm hồn và tỏ bày hình ảnh Người qua những dấu chỉ trong thiên nhiên, trong thời đại.
Cả khi sống trong lầm lạc tội lỗi, chối bỏ xa lạc Ngài, Ngài cũng không xa lánh. Ngài vẫn chờ đợi rộng vòng tay chào đón, khi trở về với Ngài, như dụ ngôn người con hoang đàng trở về nhà diễn tả hình ảnh lòng nhân lành của Thiên Chúa và muốn cùng bắt đầu đời sống mới: cuộc sống niềm tin và niềm hy vọng.
53. Hành trình đức tin – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Chuyện kể rằng: Một gia đình quý tộc nước Anh đưa con về nghỉ mát ở miền quê. Trong khi nô đùa, cậu con trai ngã xuống một suối nước sâu.
Nghe tiếng kêu thất thanh, một chú bé lem luốc, con bác nông dân, đã chạy đến tiếp cứu. Và số phận của cậu bé thượng lưu, không biết bơi kia tưởng như ngàn cân treo sợi tóc, giờ đã được cứu sống.
Nhà quý tộc vô cùng biết ơn chú bé nhà quê nghèo. Ông hỏi chú có mơ ước gì không. Chú trả lời: “Cháu muốn được đi học để trở thành bác sĩ cứu người”.
Sau này, cậu bé ngày xưa không biết bơi đã được cứu sống, nay trở thành vĩ nhân của thế giới, thủ tướng nước Anh, Winston Churchill. Và chú bé nhà quê, nhờ sự giúp đỡ của nhà quý tộc, cha của Churchill bây giờ đã là bác sĩ danh tiếng, và là ân nhân của cả nhân loại, người đã tìm ra thuốc Penicilin. Tên của ông Fleming.
Có ai ngờ, khi thủ tướng nước Anh lâm trọng bệnh, các bác sĩ nổi tiếng đều bó tay, thì chính Fleming, lại cứu sống ông một lần nữa.
Fleming đã cứu vớt sinh mạng của Churchill khỏi dòng nước oan nghiệt, để rồi sau này Churchill trở thành thủ tướng lừng danh, niềm hãnh diện và tự hào của cả nước Anh. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã cứu thoát các môn đệ khỏi cơn cuồng phong của biển cả, đã kéo ông Phêrô lên khi ông đang chìm xuống dòng nước sâu.
Đức Giêsu đi trên mặt biển, kéo Phêrô lên khỏi mặt nước, và dẹp yên sóng gió không phải là để làm trò biểu diễn cho vui mắt, nhưng là để bày tỏ quyền năng của Thiên Chúa trên biển cả, bão tố, tượng trưng cho thế lực của sự dữ. Đồng thời, để củng cố niềm tin của các môn đệ, nhất là Phêrô, để sau này Người sẽ trao cho ông làm thủ lãnh con thuyền Giáo Hội.
Thực vậy, con thuyền Giáo Hội ngay từ đầu, đã không giương cao cánh buồm đức tin mà lao thẳng về phía trước, nhưng cũng phải vật lộn với phong ba bão táp, “bị sóng đánh vì ngược gió”.
Các môn đệ, cột trụ của Giáo Hội cũng hốt hoảng, sợ hãi, phải có Đức Giêsu bên cạnh để trấn an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”.
Phêrô thủ lãnh số một của Giáo Hội, năng nổ, hăng hái, liều lĩnh xin “đi trên mặt nước mà đến với Thầy”. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm. Ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với”.
Cho dù là đá tảng, Phêrô cũng đã bị Đức Giêsu mắng: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”.
Đó là hành trình Đức tin của Phêrô, của các môn đệ, và của mỗi người tín hữu chúng ta. Đức tin ban đầu nhỏ bé, kém cõi, nhưng nhờ lời khích lệ của Đức Giêsu “cứ đến”, mà chúng ta bước đi trên vực thẳm, sóng gió. Rồi hoài nghi làm chúng ta chao đảo, sợ hãi làm chúng ta hụt chân. Để cuối cùng, chính Đấng nắm lấy tay chúng ta kéo lên sẽ củng cố đức tin của chúng ta thêm vững mạnh.
Có một điều đáng làm mẫu mực cho những kẻ tin, là chính khi lòng tin bị chao đảo theo sóng gió, thì Phêrô đã cầu nguyện: “Thưa Ngài, xin cứu con với”.
Có một thước phim mà người xem chớ vội bỏ qua, là “Khi Thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay”. Chính Đức Giêsu và Phêrô đã cứu con thuyền trong cơn sóng gió.
Có một lời tuyên xưng mà người tín hữu Kitô không ngừng thốt lên trong các cơn giông tố của cuộc đời: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa”.
Người tín hữu như chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Muốn đưa đời mình về với trùng khơi hãy xác tín như thánh Phanxicô Salêsiô: “Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa”.
***
Lạy Chúa, sóng gió cuộc đời luôn làm chúng con chao đảo, vực thẳm lòng đời luôn làm chúng con sợ hãi.
Xin cứu lấy chúng con khi chúng con sắp chìm, xin nắm tay chúng con lúc chúng con hụt chân. Xin cùng lên thuyền với chúng con, vì thuyền đời chúng con có Chúa là có bình an. Amen.
54. Lạy Thầy, xin cứu con.
Khi thấy ai gặp nhiều gian nan khốn khó, người ta nói: “Đời anh sóng gió nhiều quá” hay nói: “anh phong trần quá” - phong là gió, trần là cát bụi. Thực ra, cuộc đời con người ở trần gian, không nhiều thì ít, ai cũng gặp sóng gió bão táp. Những cơn lốc của thiên tai gây sập nhà nát cửa như lụt lội, hạn hán, giông tố, động đất...
Những cơn lốc của hận thù, tham lam bất công, bóc lột đàn áp con người còn gây ra những tai họa như chiến tranh, khủng bố ma túy, cờ bạc, đàng điếm, sida...
Những cơn lốc của chính mình, của lười biếng, kiêu căng, mù quáng, bệnh tật, cố chấp gây ra cho mình bao nhiêu thảm họa. Đến nỗi Napôlêon đã thắng hàng vạn quân địch, nhưng lại bị thua chính mình: Ông đã thua tính kiêu căng và tính mê đắm giai nhân.
Lời Chúa hôm nay nêu rõ ba nguyên nhân đã làm cho con người phải điêu đứng.
Nguyên nhân thứ nhất là thiên nhiên như sóng gió, lụt lội, động đất, các môn đệ hầu hết là dân chài lưới, thế mà giữa biển khơi sóng gió đã làm các ông hoảng hồn đến nỗi thấy bóng Thầy đi trên mặt biển, các ông đã la hét sợ hãi tưởng thủy quái.
Nguyên nhân thứ hai là người khác: Người khác đây là dân tộc Do thái. Họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được thấy vinh quang Chúa, được ban tặng Lời Chúa là chính Con Một Thiên Chúa xuống thế làm người là Đức Giêsu Kitô cùng huyết thống nòi giống với họ, là anh em, là đồng bào của họ (Bài II) thế mà họ không đón Người, không đón nhận vinh quang Thiên Chúa. Điều đó làm Phaolô vô cùng đau khổ, đau khổ đến nỗi Phaolô dù phải gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo không thể tách Phaolô ra khỏi tình yêu Đức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ Phaolô sẵn sàng chịu nguyền rủa, xa lìa Đức Kitô để cho anh em đồng bào ông trở về với Đức Kitô (Rm. 8, 35 và 9, 1-5).
Êlia cũng chịu đau khổ như thế vì đồng bào ông. Ông đã phải liều mạng đến kéo họ về với Thiên Chúa, giải thoát họ khỏi gông cùm tà thần, dù một mình phải thách thức với cả ngàn sư sãi thờ thần Baal của hoàng hậu và nhà vua. Dù thắng cuộc và sư sãi thần Baal bị tiêu diệt, ông vẫn phải trốn thoát tay hung tàn của hoàng hậu lùng bắt (Bài I).
Nguyên nhân thứ ba là chính mình gây nên khốn khó cho mình. Phêrô được Chúa cho đi trên mặt biển đến với Ngài, khi đang được hưởng ơn lạ như thế;ông lại hoài nghi, đâm lo sợ, thế là ông bị biển cả nhận chìm ông. May mắn ông đã vội vã kêu lên: Lạy Thầy, xin cứu con.
“Lạy Thầy, xin cứu con”. Chính con nhiều lần cũng bị nhận chìm trong biển trần gian do nhiều hoàn cảnh éo le của cuộc đời và do chính con đã gây ra...
Lời cầu nguyện: “Lạy Thầy, xin cứu con” phải là lời cầu nguyện liên tục của con hàng ngày, từng giây từng phút trong đời con. Xin cho con biết luôn luôn kêu lên: “Lạy Thầy, xin cứu con” vì từng giây từng phút không có Thầy cứu giúp, không có ơn Thầy gìn giữ, không có ơn Thầy soi sáng, không có ơn Thầy cứu độ, chắc chắn con bị nhận chìm dưới đáy vực thẳm tội lỗi, dưới đáy địa ngục tử thần. “Lạy Thầy, xin cứu con”.
55. Đức Giêsu đi trên mặt biển Hồ
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chúng ta nên đặt đoạn văn này vào trong ngữ cảnh của nó là toàn khối từ cuối chương 13 đến chương 17 của Tin Mừng Matthêu. Đọc khối này, chúng ta nhận ra những ý tưởng quan trọng:
1) Chương 13 cho hiểu rằng Nước Trời đang tăng trưởng và bất cứ người nào hiểu rằng mình được kêu gọi đi vào đấy, thì phải lựa chọn dứt khoát. Kể từ nay, chúng ta thấy cộng đoàn của Đức Giêsu xuất hiện rõ nét dần, được củng cố dần, mở ra dần với đức tin (x. 14,33; 16,16), đào sâu dần mầu nhiệm Đức Giêsu. Chính là nơi cộng đoàn này mà người ta nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện diện và ngày càng rõ nét. Chúng ta có thể đặt tên cho toàn khối ch. 13-17 này: "Tiến tới việc loan báo Giáo Hội"hoặc "Giáo Hội, hoa quả đầu mùa của Nước Trời" hoặc "Hành trình đức tin trong Giáo hội", bởi vì qua các chương này, tác giả Mt đề cập đến việc đào tạo tiệm tiến cộng đoàn Giáo Hội.
2) Khối này mở ra với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu (13,53-58) và kết thúc với câu chuyện cho thấy Phêrô được Đức Giêsu cho gắn bó với Người (17,24-27). Xuất hiện gương mặt đe dọa của vua Hêrôđê, người đã giết Gioan Tẩy Giả (14,13). Nhóm Pharisêu ngày càng tỏ rõ thái độ hiềm thù đối với Đức Giêsu (15,1tt.12; 16,1.4). Những thái độ đe dọa thù nghịch khiến Đức Giêsu lo sợ, Người rút lui về những nơi an toàn hơn hoặc tách biệt hơn (14,13; 15,21).
3) Toàn khối này được xây dựng quanh hai điểm: đức tin và hiểu biết:
- Tác giả nói đến những người kém tin trong câu truyện Phêrô đi trên mặt nước (14,31) và câu truyện các môn đệ bàn tán về việc quên bánh (16,8). Trong câu truyện Đức Giêsu chữa đứa trẻ bị kinh phong, có một lời than: "Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin..." (17,17). Mt là tác giả duy nhất xác định rằng các môn đệ không chữa lành được em bé vì họ kém tin. Người cũng là người duy nhất ghi nhận đức tin mạnh của bà Canaan (15,28).
- Ngài đã sử dụng động từ hiểu 9 lần trong các chương này. Ở 15,10, các đám đông được mời gọi nghe và hiểu. Ở 15,16, các môn đệ bị gọi là ngu tối (= không hiểu). Và cũng chỉ một mình Mt đã ghi nhận rằng các môn đệ khi ấy mới hiểu ra (16,12; 17,13) những gì cho tới nay họ vẫn không hiểu.
Các ghi nhận này cho thấy, dọc theo các chương này, tác giả Mt đặc biệt quan tâm đến đức tin, nhất là đức tin của các môn đệ, nhìn như một hành trình và như một nỗ lực đào sâu và củng cố đức tin.
Về thể văn, truyện Đức Giêsu đi trên mặt biển thường được gọi là thể văn "hiển linh" (épiphanie. Xem truyện Dẹp sóng gió, Mt 8,23-27). Thể văn này được định nghĩa là: Một cách bố trí các yếu tố văn chương để tường thuật một cuộc tỏ mình bất ngờ và lạ thường của một hữu thể thần linh hoặc thiên quốc, được một số người chọn lọc trải nghiệm, trong đó, hữu thể thần linh mạc khải một phẩm tính, một hành động hoặc một mạc khải thần linh. Đặc điểm của thể "hiển linh" là nó cho thấy một vài phương diện của hoạt động Thiên Chúa nhằm cứu độ dân Ngài.
Ở bên trong tác phẩm Mt, truyện Đi trên mặt biển (14,22-33) đóng các vai trò sau đây: (1) Trả lời cho câu hỏi về chân tính và tính cách của Đức Giêsu đã được truyện Dẹp sóng gió (8,23-27) gây ra và được ngữ cảnh gần trước đó ở 13,53–14,21 tiếp nối; (2) Cung cấp một lời tuyên xưng mào đầu của các môn đệ, chuẩn bị cho lời tuyên xưng cao đỉnh của Phêrô ở 16,13-20; (3) Góp phần với TM I để minh họa bản tính và ý nghĩa của quyền lực thần linh của Đức Giêsu trong tư cách là Con Thiên Chúa.
2- Bố cục
Bản văn này có thể chia làm bốn phần, theo cấu trúc chuyển hoán:
A - Hoàn cảnh của các môn đệ trước sóng gió (14,22-24):
a) (22)
b) (23a)
b') (23b)
a') (24)
B - Đức Giêsu đi trên mặt biển (14,25-27):
a) (25)
b) (26)
a') (27)
B'- Phêrô đi trên mặt biển (14,28-31):
a) (28-29a)
b) (29b)
b') (30)
a') (31)
A'- Hoàn cảnh của các môn đệ sau sóng gió (14,32-33):
a) (32)
b) (33)
3.- Vài điểm chú giải
- cây số (24): Từ ngữ Hy Lạp gốc là stadion, "dặm" (NTT) = 192 m. Hồ Ghennêsarét có chu vi khoảng 53 km (33 miles), dài khoảng 21 km (13 miles), và rộng khoảng 13 km (8 miles). Diện tích khoảng 166 km2 (64 sq mi), và sâu tối đa khoảng 43 m (141 feet). Hồ thấp hơn mặt biển 214 m (702 ft).
- Chiếc thuyền bị sóng đánh vì ngược gió (24): Trong Tin Mừng Matthêu, "con thuyền" là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,23-27). Biểu tượng này càng được xác nhận khi tác giả viết rằng con thuyền bị "tra tấn (hành hạ)" (basanizô) bởi các con sóng (chứ không nói như Mc 6,48: "các ông phải vất vả chèo chống"). Kiểu nói này cũng lạ thường như khi tác giả bảo có "động đất" (seismos) trên biển (8,24). Trong cả hai trường hợp, có thể cho rằng tác giả đang nghĩ đến các đau khổ Hội Thánh sẽ phải trải qua khi thi hành sứ mạng.
Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, "biển" là nơi có các sức mạnh tà thần cư ngụ và hoạt động (x. G 7,12; Is 27,1; 51,9t; Đn 7...). Nói rằng "đang ở trên mặt biển" có nghĩa là đang ở trong tình trạng bị các sức mạnh của bóng tối đe dọa. Vậy "biển" ở đây là một trở ngại ngăn cách các môn đệ với Đức Giêsu.
- canh tư (25): Canh (phylakê) tư ở vào khoảng từ 3g đến 6g sáng.
- đi trên mặt biển (25): Cụm từ epi tên thalaasan có thể có nghĩa là "về phía biển". Do đó, có những tác giả cho rằng Đức Giêsu đứng trên bờ mà làm yên sóng gió (Paulus; Jeremias; J. Duncan Derrett). Tuy nhiên, theo ngữ cảnh, phải hiểu là "trên biển".
- hoảng hốt (26): Đây là phản ứng của con người khi tiếp cận với thần linh (x. Xh 19,16; Ed một,4...).
- Chính Thầy đây (27): Trước tiên, egô eimi là một lời để điều chỉnh, với nghĩa là: chính là Thầy, chứ không phải là ma như anh em tưởng. Nhưng công thức này cũng là tên mà Thiên Chúa dùng dể tự giới thiệu với Môsê (Yhwh: x. Xh 3,13-15). Mt kín đáo gợi ý là có một sự song đối giữa Đức Giêsu và Yhwh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh của các môn đệ trước sóng gió (22-24)
Vừa cho đám đông ăn no xong, Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền. Chúng ta nhớ đến 8,23; nhưng lần này Đức Giêsu không đi với các ông. Tác giả Mt không nói là các môn đệ đi Bếtxaiđa như Mc (6,45), vì biết rằng Bếtxaiđa không gần Ghennêsarét. Ngài sửa một sai lầm của Mc mà không quan tâm đến địa lý. Đức Giêsu lên núi một mình để cầu nguyện. Cũng như ở 17,1-8, "núi" là nơi đặc biệt gần kề Thiên Chúa. Lúc này, trời đã tối.
Thuyền của các môn đệ đã xa bờ nhiều stadia và đang bị sóng "tra tấn" (basanizomenon). Hẳn là tác giả chủ ý dùng từ thuộc thế giới con người cho con thuyền. Nước, bão, và đêm là những biểu tượng của tình trạng cùng quẫn, sợ hãi và chết chóc, rất quen thuộc với Hội Thánh, được rút ra từ các Thánh vịnh (nước: Tv 18,16-17; 32,6; 69,2-3.15; đêm: Tv 91,5; 107,10-12; bão: Tv 107,23-32; Gn 1–2).
* Đức Giêsu đi trên mặt biển (25-27)
Canh tư, từ 3g đến 6g sáng, cũng là giờ mà theo Kinh Thánh, Thiên Chúa can thiệp để cứu trợ Dân Ngài (x. Xh 14,24; Tv 46,6; Is 17,14), và theo truyền thống Kitô giáo, là giờ Đức Giêsu sống lại (x. 28, 1). Vào giờ này, Đức Giêsu băng qua hồ, bước trên mặt nước, mà đến với các môn đệ (c. 25). Thấy một dáng người di chuyển trên mặt biển, dễ hiểu vì sao các môn đệ nghĩ đây là một hữu thể siêu nhiên, một bóng ma, và các ông hốt hoảng.
Nhân vật thần linh bắt đầu lên tiếng: egô eimi không kèm theo một túc từ nào cả. Đức Giêsu không nói rằng Người là cái này hay cái kia, nhưng chỉ nói: "Là Thầy". Ở bề mặt, đây là cách người nói quy về chính mình. Vậy Đức Giêsu đã đánh đổ "bóng ma" bằng cách chỉ vào chính bản thân Người, và các môn đệ thì biết Người. Tuy nhiên, ở bề sâu, công thức egô eimi (Híp-ri: 'aný hu') nhắc lại lời Đức Chúa (Yhwh) tự giới thiệu mình trong Kinh Thánh (x. Đnl 32,39; Is 41,4; 43,10; 45,18-19; 48,12; 51,12). Đức Giêsu bảo: "Chính Thầy đây, đừng sợ!". Ở trong Kinh Thánh, Thiên Chúa ngỏ lời với các tổ phụ và Israel bằng câu: "Đừng sợ, Ta là..." (St 15,1; 26,14; 28,13; 46,3; Is 41,13. x. c. 10; 43,1.3). Vậy lời nói của Đức Giêsu là một bản văn đa chiều kích: Với câu "Là Thầy", ở bề mặt, các môn đệ được quy hướng về con người Giêsu mà họ biết. Còn bên trong, họ trải nghiệm một điều thuộc vị Thiên Chúa của Kinh Thánh.
* Phêrô đi trên mặt biển (28-31)
Đức Giêsu chưa làm yên sóng gió. Thay vào đó, Phêrô trả lời Người. Ông thưa với Đức Giêsu bằng công thức của người môn đệ, "Thưa Ngài (kyrie)", và xin vị Chúa này truyền lệnh cho ông đến với Người. Thế là thay vì vị "thần", Giêsu, thì lại là con người, Phêrô, muốn bước đi trên mặt nước. Ai cũng biết rằng việc này không thể làm được, cũng như không thể xê dịch núi non (x. 17,20). Lời thỉnh cầu này nhắm đến một điều không thể được cho thấy đức tin của Phêrô, nghĩa là niềm tin tưởng ông đặt vào con người có mọi quyền trên trời dưới đất (Mt 28,18). Tuy nhiên, câu nói "nếu quả là Ngài" lại báo trước sự hoài nghi sẽ xuất hiện trong nỗi sợ hãi của ông khi bước đi trên mặt nước. Đức Giêsu ban lệnh truyền như Phêrô xin ("Cứ đến"). Đây là nền tảng trên đó ông có thể hành động. Lệnh truyền của Đức Giêsu là nền tảng để con người có thể hoạt động. Vậy, nếu có đi được trên mặt nước, Phêrô cũng chẳng phải là một thầy phù thủy hay một siêu nhân; ông chỉ vâng lời Chúa của ông thôi.
Nhưng ông đâm sợ. Không phải là nỗi sợ hãi do gặp một nhân vật thiên giới, nhưng là sợ bão, sợ bị đe dọa, sợ không được an toàn. Tác giả Mt dùng các từ của Tv 69,2-3 (x. cc. 15-16): Khi bước đi trên mặt "nước", "nhìn vào gió" (blepôn ton anemon) thay vì nhìn vào Chúa của ông, ông bắt đầu "chìm" (c. 30), ông liền "kêu" lên: Thưa Ngài, "xin cứu con" (các từ trong ngoặc đều trích từ Tv 69).
Đức Giêsu đưa tay ra nắm lấy Phêrô và nói với ông. Ở bề mặt, cử chỉ này của Người là cần thiết để cho Phêrô khỏi bị chìm. Nhưng ở một chiều sâu khác, hẳn là tác giả Mt nghĩ đến Tv 143,7: Đức Giêsu cung cấp sự che chở của Thiên Chúa. Đối với tác giả, điều quan trọng là sự hiện diện cứu độ này của Thiên Chúa không có nghĩa là không còn bão tố, nhưng là ta trải nghiệm được sự hiện diện này ngay trong gió bão. Những ai dám vâng lời và di chuyển ra bên ngoài sự an toàn của mình sẽ trải nghiệm được sự hiện diện này. Một lần nữa, Phêrô vẫn chỉ là "người có đức tin nhỏ bé" (= người kém tin, oligopistos), và đức tin là một sự pha trộn giữa can đảm và sợ hãi, vâng nghe Chúa và nhìn vào gió, tin tưởng và hoài nghi, và đây là đặc tính căn bản của đời Kitô hữu (x. 28,17).
* Hoàn cảnh của các môn đệ sau sóng gió (32-33)
Câu chuyện kết thúc rất nhanh. Đức Giêsu và Phêrô cùng lên thuyền với nhau và gió lặng ngay (c. 32). Một lần nữa, phép lạ Đức Giêsu làm xảy ra sau khi đức tin đã được chấn chỉnh.
Các môn đệ quỳ xuống (= thờ lạy): Cung cách này dễ hình dung hơn nếu ở trên "con thuyền Hội Thánh", chứ không phải trên một con thuyền trên hồ vừa ra khỏi sóng gió. Họ tuyên xưng: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa". Đây là danh hiệu Kitô học quan trọng nhất đối với tác giả Mt, đồng thời hầu chắc cũng là lời tuyên xưng trung tâm nhất của Hội Thánh. Cách nào đó, ngược lại với Mc, tác giả Mt muốn phác vẽ ra các môn đệ như là những con người có lòng tin và hiểu biết, dù có lúc họ đã tỏ ra thất vọng và dù vẫn cần học hỏi thêm nữa.
+ Nhận định & Kết luận
Có thể nói bài tường thuật chuyến vượt "biển" (cũng như truyện Dẹp sóng gió) là một dụ ngôn với cái nền lịch sử, nhằm nêu bật một phương diện mới và có một không hai trong ý nghĩa của bản thân Đức Giêsu: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo nghĩa là Đấng được Thiên Chúa trang bị cho quyền lực thần linh tuyệt đối để cứu độ dân Người. Sự kiện Đức Giêsu với quyền lực của Người, không những cứu các môn đệ khỏi bị sóng hành hạ trên biển, mà còn cứu cả Phêrô khỏi chìm xuống biển (14,28-31), chuẩn bị cho chúng ta đón lấy lời tuyên xưng của Phêrô nói rằng Đức Giêsu là "Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (16,16). Đàng khác, việc biểu lộ quyền năng thần linh tuyệt đối của Đức Giêsu khi cứu các môn đệ và Phêrô bằng cách đi trên mặt biển cũng giúp nhận mạc khải nói rằng Đức Giêsu là Đấng có thể xây dựng và che chở Hội Thánh Người trên "tảng đá" là Phêrô (16,18-19).
Chiều kích cứu độ học của bài tường thuật quả là hiển nhiên, được diễn tả qua việc đi trên biển. Khi đi trên biển, Đức Giêsu không những tỏ ra mình là Thiên Chúa chế ngự biển mà còn đi qua biển, và cứu các môn đệ bằng cách làm cho họ cũng có thể đi qua biển. Như thế, cùng một trật, Đức Giêsu chứng tỏ Người sở hữu quyền lực thần linh tuyệt đối (phương diện Kitô học), và quyền lực ấy là để cứu vớt các môn đệ (phương diện Cứu độ học).
Tuy nhiên, phương diện Cứu độ học phải được cứu xét trong tương quan hữu cơ với chiều kích Kitô học. Cho dù các môn đệ được cứu, mối bận tậm không phải chỉ là việc cứu hộ, nhưng là điều mà cuộc cứu hộ lạ lùng này nói về bản thân Đức Giêsu. Điều này nổi rõ lên trong câu nói của các môn đệ: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!" (14,33; x. 8,27). Như thế, chiều kích Kitô học vượt quá truyện cứu hộ, và tập trung vào quyền lực và bản thân của Đấng cứu hộ. Khi cứu các môn đệ bằng cách vận dụng quyền năng thần linh tuyệt đối để mà bước đi trên biển, Đức Giêsu đã cho thấy không những Người có thể cứu khỏi bất cứ trận giông bão nào trên biển, mà còn có thể cứu dân Người khỏi mọi tình cảnh khốn quẫn. Nói cách khác, nếu Đức Giêsu có thể cứu các môn đệ Người bằng cách siêu vời là đi trên biển nổi sóng, thì Người cũng có đầy đủ quyền năng cần thiết mà thực hiện ý muốn của Thiên Chúa là cứu độ dân Người.
Phương diện Giáo hội học được diễn tả qua các vai trò của các môn đệ và Phêrô. Nhờ nhớ lại các kinh nghiệm đã trải qua khi sống các hoàn cảnh túng cực, các độc giả có thể hiểu được hoàn cảnh của các môn đệ và của Phêrô. Các môn đệ và Phêrô, do đã trải nghiệm quyền năng phi thường của Đức Giêsu và do đã tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì nhắc các độc giả nhớ rằng không những họ phải tin vào Đức Giêsu như Đấng có thể cứu hộ họ khỏi các hoàn cảnh đen tối nhất, nhưng còn phải hiểu rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo nghĩa Người là Đấng duy nhất có quyền năng Thiên Chúa để cứu được cộng đồng những kẻ tin vào Người. Cử tọa Mt tin tưởng rằng Hội Thánh gồm những ai tin và đi theo Đức Giêsu thì được che chở bởi chính quyền lực của Thiên Chúa.
Có thể nói hoạt cảnh cuối cùng (cc. 32-33) giới thiệu Hội Thánh mới của Đức Kitô, đã vượt thắng thử thách, nay vây quanh Đức Kitô là Chúa tể của họ. Hoạt cảnh này báo trước cuộc quy tụ các Kitô hữu để cử hành mầu nhiệm Đức Kitô, trong đó nhắc lại sự hiệp nhất và hiệp thông đặc biệt của Người với Thiên Chúa, nay được bày tỏ ra qua các hành vi quyền lực và cũng đầy nhân ái.
Tác giả Matthêu trình bày một cuộc thần hiển cho "những người đang ở trong thuyền", nghĩa là Hội Thánh của Đấng Phục Sinh: trong và qua Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, chính Thiên Chúa cứu độ của cuộc Xuất Hành tiếp tục giải thoát Israel mới khỏi những làn nước đang đe dọa nuốt trửng họ (x. Xh 14 và 15). Sự hiện diện của Đức Giêsu giữa lòng bão tố là nền tảng cho đức tin của các tín hữu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khác với Lc, Mt hiếm khi cho thấy Đức Giêsu cầu nguyện (c. 23). Đây là một đòi hỏi thông thường của tinh thần Người, một nhu cầu có thực là được hiệp thông với Chúa Cha và tìm sự trợ giúp, sự an toàn và nâng đỡ. Nhất là vào lúc này, thời gian quyết liệt, hành trình đã trở nên cam go hơn và các đòi hỏi làm sáng tỏ đã trở nên cấp bách hơn. Đây là lần đầu tiên, Mt nhấn mạnh rằng Người ở một mình; một sự cô độc không chỉ về thể lý, mà dường như là một báo trước sự cô độc ở Ghếtxêmani. Đức Giêsu cầu nguyện cho mình, cho các nhu cầu của cá nhân mình. Rồi Người cũng mau chóng đi cứu giúp các môn đệ, nhưng sức mạnh và sự an toàn Người cung cấp phát xuất từ tương quan với Chúa Cha. Người là Đấng cứu độ họ, nhưng cũng là điển hình cho họ về đời sống đức tin.
2. Đối với tác giả Mt, con thuyền là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,24). Các môn đệ đang ở trên đó, và có thể Phêrô là người cầm lái (x. c. 28). Không có mặt Thầy, tinh thần của các ông hẳn không cao mấy; đã thế, hoàn cảnh lại thêm gay go vì gió ngược (c. 24). Con thuyền bị "tra tấn" vì cơn giông trên biển. Lúc này là "đêm tối" (c. 25), là giờ của thử thách, của "quyền lực bóng tối" (x. Lc 22,53). Tuy nhiên, Đức Giêsu vẫn không vắng mặt, dù là Người còn ở cách xa họ. Nếu có đức tin, hẳn là họ phải cảm thấy Người vẫn có mặt, vẫn ở gần. Quả thật, các khoảng cách không thể ngăn cản Đức Giêsu hiệp thông với các môn đệ Người (x. 18,20). Người đến với họ cách bất ngờ, từ trên cao, vào những lúc không ngờ.
3. Đáng tiếc là các môn đệ lại thường quên mất Người. Phản ứng kinh hoàng của các ông khi thấy Thầy đi trên biển cho ta hiểu như thế (c. 26). Đây là một hình ảnh báo trước cuộc Hiển Dung và các cuộc hiện ra sau Phục Sinh. Đức Giêsu tiến đi ngay giữa lòng đêm tôi chính là lời loan báo về Đức Kitô Phục Sinh.
4. Phêrô là cái nhiệt kế đo đức tin của Hội Thánh. Ông phản ứng nhân danh mình và tất cả các môn đệ khác. Đòi hỏi các dấu lạ, các bằng cớ chứng tỏ lòng tốt cũng như sự toàn năng của Thiên Chúa là một đòi hỏi không thể bỏ qua của loài người. Các nhân vật Kinh Thánh đều cần những dấu chỉ, để có thể dấn thân đi theo nẻo đường Thiên Chúa đề nghị. Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh đang hiện diện trong lòng Hội Thánh, cũng cần có những bằng cớ mới, nhưng ta không có bằng cớ nào chắc chắn hơn lời của Đức Giêsu: "Chính Thầy đây" (= Ta là), "Cứ đến!" (cc. 27-29).
5. Bước đi vững vàng trên mặt nước có nghĩa là chấp nhận một chiều kích hiện sinh khác với chiều kích lịch sử, hoặc chiều kích thể lý, là mở tâm hồn ra với thế giới của thực tại vô hình, của thực tại siêu nhiên. Đây là vượt lên trên những luật lệ của cuộc hiện sinh này. Muốn thế, cần tin vượt quá cái hữu hình và cái đụng chạm đến được; cần phải chấp nhận "hỏng chân". Khi Tôma tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" (Ga 20,28), ông cũng phải chấp nhận bỏ mọi điểm tựa vững chắc kiểu loài người.
6. Các độc giả Tin Mừng, rất quen với Tv 69, cùng cầu nguyện với Phêrô. Họ nhận ra mình nơi Phêrô và thấy nước chính là tất cả những mối đe dọa trong đời họ: cái chết, tình trạng thiếu an toàn, sự thù nghịch, bệnh tật, tội lỗi... Họ biết rằng nếu chỉ "nhìn vào" gió chứ không nhìn vào Chúa, họ sẽ không đứng vững được.
56. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
CHÚA GIÊSU ĐI TRÊN MẶT BIỂN VỚI PHÊRÔ
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Người bắt buộc": Một thành ngữ dị thường! Tại sao Chúa Giêsu phải ép các môn đồ ra đi? Phải chăng vì họ không muốn để Người một mình trong đêm vắng? Hay vì Người sợ các môn đồ nhiễm lây sự kích thích muốn tôn Người làm vua của đám đông phấn khởi trước phép lạ hóa bánh ra chiều (x Ga 6,14-15).
"Còn đò thì... lắc lư với sóng": Matthêu nói về con đò như nói về một thực thể cộng đồng mà ta có thể coi là biểu tượng của Giáo Hội ở câu 33 cũng thế, tác giả không bảo là các môn đồ mà là "những kẻ ở trong đò”.
"Canh tư' đêm tối, người đi trên biển đến cùng họ": Canh tư tương ứng với khoảng thời gian 3-6 giờ sáng. Phép lạ được kể ở đây gợi nhớ nhiều đoạn Cựu Ước cũng nói Thiên Chúa đi trên biển (G 9, 8; 38, 16; Tv 77, 20; Hb 3, 15; Hc 24, 5), nhưng theo một ngôn ngữ ẩn dụ. Thành ra có sự song song giữa Chúa Giêsu và Giavê vậy.
"Chính là Ta": Qua kiểu nói đây, chắc hẳn Chúa Giêsu trước tiên muốn sửa sai ngộ nhận của các môn đồ (Người không phải là ma) và đồng thời trấn an họ, vì họ chẳng nhận ra đó chính là Người. Nét này gặp lại trong các trình thuật diễn tả Đấng Phục sinh hiện ra dưới một hình dạng khác lạ(x. Lc 24, 36tt). Nhưng vì ở đây Chúa Giêsu tỏ mình qua việc thi thố một quyền năng siêu phàm trên vũ trụ, nên cần phải nối kết với các cuộc thần hiển của Cựu Ước, trong đó Giavê vẫn thường giới thiệu mình bằng một thành ngữ tương tự: ‘Chính là Ta’ hay ‘Ta là’ (St 17, 1; 26, 24; 28, 13; 35, 11; 46, 3; Xh 3, 6. 14). Một lần nữa, Matthêu kín đáo nhấn mạnh rằng có một tương hợp giữa Chúa Giêsu và Giavê.
"Và Phêrô bắt đầu đi trên nước": Người môn đồ được một quyền lực thần thông như Thầy, đó là chi tiết làm nổi bật hơn nữa ý nghĩa Giáo Hội học của đoạn văn. Đây là một đặc điểm của thần học Matthêu, theo đó Chúa Giêsu cũng san sẻ quyền tha tội (9, 6) cho các môn đồ Người (9, 8; 16, 19; 18, 18). Tuy nhiên Phêrô chỉ đi được trên nước nhờ niềm tin của ông. Thánh sử còn nhấn mạnh ở nhiều đoạn khác quyền năng ấy của đức tin cùng hiệu lực lạ lùng và tức khắc của nó. Như với viên sĩ quan đến xin người chữa bệnh cho tên đầy tớ, Chúa Giêsu đã trả lời rằng: "Ông hãy đi, ông đã tin sao, thì sẽ được như vậy". Và ngày giờ ấy tên đầy tớ đã được khỏi (8, 13). Vì đối với người có lòng tin thì "không có gì mà không làm được" (17, 20).
"Lạy Ngài, xin cứu tôi": Như tiếng kêu của những người đi đò gặp cơn bão tố ("Lạy Ngài, xin mau cứu, chúng tôi chết mất": 8, 24), tiếng kêu của Phêrô làm vang vọng nhiều lời cầu khẩn của nhiều Thánh Vịnh, trong đó người tín hữu xin Thiên Chúa đến giúp mình khỏi luồng nước đang dọa đe (Tv 69, 2 và 15; 144, 7; xem thêm Tv 18, 17; 32, 6; Is 43, 2- 3). Thành thử đây là một lời cầu nguyện nói lên niềm tin vào Chúa Giêsu dù với chút ít nghi ngờ.
"Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa": Như các chỗ khác trong Tin Mừng, lời tuyên tín này chắc hẳn không có giá trị như việc các môn đồ nhìn nhận tử hệ tự bản tính của Chúa Giêsu; song là nhìn nhận tử hệ theo nghĩa rộng; đây chỉ là lời công bố về thiên sai tính của Người. Tuy nhiên, có thể cộng đoàn Kitô hữu hậu-phục-sinh sau đó dùng lại lời tuyên tín của Phêrô và thêm vào ý nghĩa đầy đủ là Thánh Thần soi sáng. “Những kẻ ở trong đò" nghĩa là ở trong Giáo Hội, theo gương Phêrô và các môn đồ, tuyên xưng Chúa Giêsu thực là Người Con duy nhất của Thiên Chúa tối cao.
KẾT LUẬN
Matthêu trình bày một cuộc thần hiện dành riêng cho "các kẻ ở trong đò", nghĩa là cho Giáo Hội của Đấng Phục Sinh: trong Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa Cứu Thế của thời Xuất Hành tiếp tục giải thoát Israel mới khỏi những luồng nước khủng khiếp hằng rình chực nuốt lấy họ (x. Xh 14 và 15). Sự hiện diện đáp cứu của Người giữa cơn bão táp là nền tảng niềm tin của các tín hữu và cho phép họ nói lên cách vững lòng: "Ngài thật là Con Thiên Chúa".
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Điều đã xảy đến cho Phêrô, thủ lãnh các sứ đồ, sẽ mãi là kiểu mẫu và gương soi cho mọi kẻ tin. Ở đây, Phêrô đại diện toàn thể Giáo Hội đang đứng trước mặt Thầy mình. Giáo Hội biết rằng mình được bảo đảm vượt thắng mọi thử thách nguy biến, rằng mình sẽ chẳng bao giờ đắm chìm, mất hút trong giòng lịch sử, với điều kiện cương quyết giữ vững đức tin. “Nếu không gắn bó với Ta, các ngươi sẽ chẳng đứng vững được" (Is 7, 9). Điều này có giá trị đối với dân Giao ước mới như đối với dân Giao ước cũ.
2) Sau khi Chúa Giêsu lên thuyền, gió bỗng lặng yên. Người không cần ra lệnh như đã làm trong cơn bão táp (8, 26). Sự hiện diện của Người đủ sức đem lại yên tĩnh và chế ngự ngũ hành cuồng điên. Trong đời ta cũng thế. Nếu biết đặt Chúa Giêsu ở trung tâm đời mình như một hiện diện đích thực và sinh động, ta sẽ được an bình nội tâm, dù bên ngoài phải tư bề sóng gió.
3) Chúa Giêsu ra nơi vắng vẻ để cầu nguyện, một lối cầu nguyện thật đặc biệt như giòng sông êm ả giữa Chúa Cha và Người. Không phải Người chẳng thích lối cầu nguyện phụng vụ hay cầu nguyện công khai đâu (ta đã thấy Người cầu nguyện trước đám đông lúc hóa bánh ra nhiều: 14,19), nhưng thỉnh thoảng Người cảm thấy cần có một lối cầu nguyện đơn sơ và cá nhân như thế. Trong việc này cũng như trong mọi chuyện khác của đời Người, Người là gương mẫu cho ta: không thể tưởng tượng ra một môn đồ Chúa Giêsu không biết bắt chước Người trong việc cầu nguyện.
4) Tin là nhảy xuống nước để đi gặp Chúa Giêsu. Nếu lúc ấy ta sợ, thế của ta sẽ trở nên nguy hiểm hơn lúc ta bằng lòng ở lại trên đò với các kẻ khác. Một khi đã liều, thì phải liều cho đến cùng tận. Nếu không nỗi sợ hãi sẽ nhận chìm ta. Tuy nhiên, dù bấy giờ sợ hãi, dù không còn sức tin tưởng trước cơn bão hoài nghi và chướng ngại, ta vẫn còn có thể kêu lên: "Lạy Chúa, xin cứu con". Và Người sẽ không bỏ lỡ cơ hội để nói với ta: “Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ!”.
5) Phêrô bắt đầu chìm xuống "lúc thấy gió mạnh" (c.30), ông đã chia trí không nhìn đến sự hiện diện trấn an của Chúa Giêsu. Nhưng ông lại được cứu một khi quay nhìn về Người.
6) Thử thách, khổ đau, thất bại không vùi dập nhận chìm Kitô hữu, nhưng cảnh tỉnh, thanh luyện niềm tin.
57. Sức mạnh của đức tin
Vào cuối năm 2007, một tai nạn chìm đò đã lấy đi sáu mạng người trong đó có một người vợ ông lái đò và năm học sinh. Câu chuyện xảy ra vào một buổi trưa như thường lệ, ông lái đò và vợ ông vẫn ngày ngày chở các em học sinh qua sông để đưa đi học và đi về. Nhưng hôm nay ông lại chở khẩm hơn mọi hôm và tại nạn đã xảy ra; chiếc thuyền bất ngờ bị lật úp tất cả những người đi trên thuyền mà phần lớn là các em học sinh đều bị té nhào, nhưng trong đó có một số em không biết bơi nên đã bị chết đuối, các em chết vì không có người đưa cánh tay ra cứu. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã cứu thoát các môn đệ khỏi cơn cuồng phong của biển cả, Ngài đã đưa cánh tay cứu ông Phêrô lên khi ông đang chìm xuống dòng nước sâu.
Chắc chắn những người thân của các em cũng rất muốn có một ông Giêsu như ngày hôm nay để cứu vớt các em như Ngài đã từng cứu Phêrô. Cho nên việc Đức Đức Giêsu làm phép lạ đi trên mặt biển, kéo Phêrô lên khỏi mặt nước, và làm cho biển yên gió lặng không phải là để làm trò tiêu khiển cho vui mắt, nhưng là để bày tỏ quyền năng của Thiên Chúa trên biển cả, bão tố, tượng trưng cho thế lực của sự dữ. Đồng thời, để củng cố niềm tin của các môn đệ, nhất là Phêrô, để sau này Người sẽ trao cho ông làm thủ lãnh con thuyền Giáo Hội.
Từ thời Giáo Hội sơ khai, không ít lần các tông đồ phải sợ hãi lo lắng, có lúc chao đảo như muốn chìm đi giữa phong ba bão táp. Khi mà con người ta không còn gì để bám víu, thì lúc đó Đức Giêsu lại ở bên cạnh để trấn an: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ".
Hôm nay, Phêrô thủ lãnh số một của Giáo Hội, năng nổ, hăng hái, liều lĩnh xin "đi trên mặt nước mà đến với Thầy". Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm. Ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với". Và cùng là ông bị Đức Giêsu mắng cho là kẻ yếu lòng tin. Bị Thầy mình mắng thật sự không oan tí nào, trên đường đến với Thầy mà ông còn nghi ngờ. Tuy bên ngoài thì mạnh dạn, năng nổ, nhưng đó chỉ là hành động tức thời chứ chưa phải là tin, nhưng hành trình Đức tin của Phêrô có điểm hay là ông đã để cho nó lớn lên rất nhanh. Để đượclớn nhanh như vậy thì sức người không thể nào làm được nhưng phải nỗ lực bản thân cộng thêm với ơn Chúa. Tiêu biểu như Phêrô, ban đầu đức tin ban đầu nhỏ bé, kém cõi, nhưng nhờ lời khích lệ của Đức Giêsu "cứ đến", mà ông đã bước đi được trên mặt biển. Trong cuộc sống mỗi người cũng vậy, khi niềm tin vững mạnh sẽ giúp ta vượt qua được mọi giông bão của cuộc đời. Ngược lại, khi hoài nghi làm chúng ta chao đảo, sợ hãi, hụt chân. Nhưng khi đã đặt được niềm ti vững mạnh nơi Chúa thì cho dù chúng ta hụt chân vẫn không sợ hãi vì có Chúa đang đưa cánh tay nâng mình lên.
Con thuyền Giáo Hội vượt qua bai chông gai thử thách, qua biết bao thăng trầm nhưng với niềm tin vững mạnh vẫn băng băng tiến về đích. Con thuyền Giáo Hội chính là con thuyền mẹ gồm nhiều con thuyền tính hữu hợp lại. Do đó, con thuyền Mẹ chỉ có thể tiến nhanh về đích khi các con thuyền của mỗi người chúng ta có một đưc tin vững mạnh, đức tin của mỗi người chúng ta chính là động lực để thúc đẩy con thuyền Giáo Hội càng tiến nhanh hơn.
Lạy Chúa, trong cuộc hành trình về quê trời chắc chắn đời con còn gặp rất nhiều phong ba bão táp, xin cho con biết luôn phó thác tin tưởng vào Chúa vì chỉ có đức tin mới có thể cứu vớt chúng con về bến bình an. Amen.
58. Chú giải theo Fiches Dominicales.
NGƯỜI KÉM TIN, SAO NGƯƠI LẠI NGHI NGỜ?
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.
Nỗi sợ hãi của các môn đệ cô đơn giữa cơn bão táp
Đoạn văn tường thuật việc Đức Giêsu đi trên mặt nước, ta đọc thấy cả trong Mt, Mc (6,45-52 và Ga (6,16-21). Cả ba tác giả đều đặt hiến cố này sau phép lạ hoá bánh ra nhiều. Tường thuật của Matthêô gồm 4 phần nối kết chặt chẽ với nhau: 1. Tương quan với việc hoá bánh ra nhiều; 2. Việc Đức Giêsu rút lui lên núi; 3. Việc Đức Giêsu đi trên mặt nước; 4. Việc Phêrô bước đi trên mặt nước và tuyên xưng đức tin.
1/ Tương quan với phép lạ hoá bánh. J.Potin coi như tương quan thần học. Trong sa mạc Sinai, Thiên Chúa đã nuôi dân bằng manna và đã dẫn dắt họ đi qua Biển Đỏ. Cũng vậy, Đức Giêsu nuôi dân chúng và bước đi trên biển để dẫn dắt các môn đệ tới bến bờ bên kia. (Jésus, llhistoire vrai Centurion 1999 trang 257). Thánh Matthêô thuật lại: "Ngay sau khi đã nuôi dân trong sau mạc, Đức Giêsu bắt buộc các môn đệ lên thuyền và cho qua bờ bên kia trước". Tại sao phải lên thuyền vội vã và bị bắt buộc như vậy. Cả hai tác giả Matthêô và Maccô đều không giải đáp câu hỏi này. Trái lại, Gioan cho ta biết: dân chúng quá cuồng nhiệt về phép lạ hoá bánh, nên muốn ép buộc Ngài làm vua (Ga 6,15). Phải chăng Đức Giêsu muốn ngừa môn đệ khỏi ô nhiễm bởi cám dỗ về một thành công hão huyền.
2/ Sau khi đã giải tán đám đông, Đức Giêsu rút lui lên núi một mình để cầu nguyện. Núi là khung cảnh của bài giảng Bát Phúc, và cũng là nơi diễn ra biến cố Hiển Dung (17,1) và cuối cùng là nơi hẹn của Đức Giêsu phục sinh với các môn đệ ở Galilê (28,16). Đọc qua Thánh Kinh, ta thấy núi là một địa điểm thần học hơn là một địa điểm địa lý; núi là nơi được chọn để Thiên Chúa tỏ mình ra và để ta găp gỡ Thiên chúa (xem bài đọc I Chúa nhật này), là nơi ưu tiên dành cho việc cầu nguyện.
G. Gaide giải thích: Đức Giêsu hướng về Cha của Người. Dự kiến của quần chúng là một thử thách đối với Đức Giêsu, một cơn cám dỗ lôi kéo về thành công dễ dãi; cơn cám dỗ số hai (Mt 4,5-7) là muốn lôi kéo quần chúng theo mình bằng những hành động kỳ diệu, trong khi Chúa Cha muốn cho Người lôi kéo mọi người lên với Người bằng việc chịu treo lên thập giá (rồi lên ngự bên hữu Chúa Cha, Ga 12,32). Trong cơn cám dỗ này, Đức Giêsu hướng về Đấng đã sai phái mình, để hiếu rõ ý nghĩa sứ mạng của mình (Assemblee du Seigneur", trang 25-26).
“Chiều đến" Đức Giêsu ở đó, múc lấy sức mạnh trong cuộc đàm thoại với Cha Người, sức mạnh để đẩy lui cơn cám dỗ, dụ dỗ Người chiều theo ý kiến cứu chuộc bằng cách thức loài người. Người "cô đơn" giống như vào một buổi tối hấp hối sau này trong khi các môn đệ của Chúa bất lực, thiếp nghỉ vì buồn sầu.
3/ Đức Giêsu bước đi trên mặt biển. Matthêô thuật tiếp: "Thuyền bị sóng dập vùi bởi vì gió ngược". Trong khi Đức Giêsu ở cách xa họ để cầu nguyện, thì con thuyền của các môn đệ-tượng trưng cho Hội Thánh - phải đương đầu với đêm tối bão táp, vào canh tư đêm tối, Đức Giêsu đến với họ, bước đi trên mặt biển". Cuộc đi bộ trên biển trong đêm tối không chỉ biểu dương một phép lạ suông, xét theo cách diễn tả của tác giả Tin Mừng, nhưng nó hàm ngụ nhiều ý nghĩa khác: Biển đối với người am hiểu Thánh Kinh, tượng trưng cho quyền lực của sự ác; biển rẽ ra hai bên dưới cây gậy của Môsê, mở một con đường cho Dân Chúa đi về tự do. Thánh Vịnh 77 ca ngợi: "Trên biển cả là đường Chúa đi, khắp nẻo trùng dương là lối của Chúa". Đi trên biển, Đức Giêsu tỏ mình ra là Đấng chiến thắng sự dữ, Người đến để mở cho dân của Giao ước mới lối đi từ sợ hãi qua tin yêu. Chính "vào lúc đêm tàn" giống như buổi bình minh của ngày phục sinh, Đức Giêsu đến: cách nói điển hình chỉ cuộc hiển linh phục sinh (xem Ga 20). Cuộc tỏ mình này, thánh ký Tin Mừng trình bày như báo hiệu và như tiền trưng của cuộc toàn thắng phục sinh của Đức Giêsu đối với biển cả chết chóc.
Vì, “xao xuyến" nên các môn đệ không nhận ra Người. Họ sợ hãi kêu lên: "Ma kìa". Lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ lúc đó còn hơn là một lời trấn an: “Hãy vững tin. Đừng sợ. Thầy đây mà”. Đây là một sự mạc khải: Đức Giêsu có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, họ không phải sợ hãi. “Thầy đây mà". J.Potin đã giải thích: Đàng sau câu nói quả quyết này, các môn đệ được mời gọi cảm nghiệm câu định nghĩa mà Thiên Chúa đã phán với Môsê về chính mình, khi Người xuất hiện đột ngột với ông ở núi sinai: “Ta là Ya-vê: Đấng Tự hữu”.
Tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu “Con Thiên Chúa”.
4/ Và cuối cùng là việc Phêrô đi trên biển, việc này cũng mang ý tượng trưng, cùng với việc tuyên xưng đức tin. "Lạy Chúa, nếu thực là Chúa thì xin truyền cho con đi đến với Ngài trên mặt nước”. Nơi Maccô, tường thuật chấm dứt lúc Đức Giêsu bước lên thuyền với các môn đệ và lúc đó sóng gió lắng dịu. Nơi Matthêô tường thuật còn nối dài với cảnh tượng báo trước thái độ mà Phêrô sẽ xử sự sau này: một buổi chiều kia, sau khi đã tuyên xưng lòng tin không hề lay thuyền của mình, Phêrô sẽ té nhào cách thảm hại. Ông còn cần phải gặp gỡ Đấng phục sinh để bước qua thử thách ngày thứ sáu đau thương, mà tới được bến bờ lòng tin vào Chúa Phục sinh. Lúc này Phêrô liều mình bước đi trên mặt nước để đến gặp Đức Giêsu, đó là một hình ảnh sống động về thân phận của người tín hữu. Bị giằng co bởi một bên là lòng tin, lòng tin đem ông đến với Chúa, và bên kia là sự nghi ngại, nghi ngại khiến ông chìm xuống nước. Ông kêu lên: Chúa ơi, cứu con với? Và Đức Giêsu giơ tay ra để cứu ông. "Và khi đã lên thuyền, sóng gió lắng dịu”. Lúc này Phêrô đã lên thuyền với Đức Giêsu. Gió lắng dịu. Mọi người trên thuyền, con thuyền Hội Thánh, đều sấp mình để tung hô lời tuyên xưng đức tin đầu tiên mà ta thấy được trong sách Tin Mừng: "Thầy thật là Con Thiên Chúa”.
BÀI ĐỌC THÊM:
1) “Đi từ mạc khải đến nhận biết” (L.Montoubou, trong "Evangile de Matthieư', Salvator trang 198-199).
Chính vào lúc con thuyền của các tông đồ bị bóng đêm vây kín vào canh tư đêm tối (khoảng 4 giờ sáng), lúc thuyền bị những đợt sóng lớn nhồi đập dữ dội, bị cản trở bởi gió ngược, thì chính lúc đó Đức Giêsu đến với họ, bước đi trên mặt biển. Đó là kiểu nói quen thuộc của Kinh Thánh, Thiên Chúa bước đi trên biển cả. Ta đọc trong Thánh vịnh 77: “Trên biển cả là đường Chúa đi, khắp nẻo trùng dương là lối của Người, không ai biết được đường lối Chúa". Các môn đệ ngạc nhiên, vì họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng vạch lối đi trên biển cả, họ nghĩ đó là một bóng ma. Họ cần đến câu nói của Chúa: “Thầy đây mà!” mới nhận ra Người. Nhận ra Chúa trong khi tuyên xưng Người là Đấng nào. Thành ngữ "Ta đây" là một cách chuyển dịch câu: "Ta là Ta: Ya-vê". Mà câu "Ta đây" nói ở giữa biển cả là câu nói, theo Matthêô, công bố thần tính. Đây là thuật ngữ mà Thiên Chúa đã tự mạc khải cho ông Môsê, rồi sau đó cho dân Israel, trong quá trình một cuộc phiêu lưu lịch sử, ở đó biển đóng một vai trò quan trọng, Thiên Chúa Ya-vê dùng để tỏ ra quyền lực vô biên của Người. Nhưng mạc khải này đây không đi sâu vào nội tâm của các môn đệ, như thái độ của Phêrô chứng tỏ. Ông còn cần cảm nghiệm bản thân và trực tiếp sự phũ phàng của cơn bão táp, cảm nghiệm sự nguy hiểm mà ông phải đương đầu, sau đó ông mới tìm được tận thâm sâu con người ông một thái độ sẵn sàng để tin. Ông kêu lên: "Chúa ơi, xin cứu con!". Kìa Đức Giêsu được Phêrô kêu bằng danh hiệu "Đức Chúa" (KUTRIOS, chuyển ngữ Hy Lạp của danh Chúa YAHVE), có nghĩa là Thiên Chúa ở gần, Thiên Chúa hiệu năng, Thiên Chúa cứu độ. Giờ đây bão táp đã chấm dứt, gió đã lắng dịu, các môn đệ mới hiểu rằng Đức Giêsu là "Con Thiên Chúa”.
Trước hết Người là Đấng mà họ tìm đến, bởi vì khi Người xuất hiện giữa lúc họ gặp nguy nan, Người có dáng vẻ hấp dẫn, nên đã khiến cho Phêrô kêu lên: xin Ngài truyền cho tôi đến với Ngài. Lúc này, Người là Đấng mà họ phục lạy và tuyên xưng: "Thầy thật là Con Thiên Chúa. Những người ở trong cùng một con thuyền đã có được sự đồng nhất trong đức tin, cùng có một thái độ trước Đức Giêsu và tuyên xưng cùng một đức tin.
2) Chúng ta cũng giống như các môn đệ trong thuyền. (Mgr Daloz trong cuốn "Le Règne de Dieu s'est approché" Desclée de Brouwer, trang 222).
Các môn đệ hoảng sợ khi thấy Đức Giêsu đi trên mặt biển tiến đến với họ, và họ tưởng Người là ma. Chính họ đã hoạt động với Người để phục vụ dân chúng, thế mà giờ đây họ không nhận ra Người. Chỉ Đức Giêsu cho người khác thì dễ hơn là nhận ra Người trong giờ phút gian nan của cuộc sống của chính bản thân ta. Trong những giờ phút đó, đức tin của ta bị thử thách, đức tin với những bóng tối của nó. Lúc đó chính Chúa phải tự tìm cách tỏ cho ta biết Người. Khi ta tuyên xưng đức tin, khi ta chia sẻ hoặc giáo huấn đức tin, khi ta hoạt động rao giảng Tin Mừng, đức tin được ta coi như một của sỡ hữu yên tĩnh, một hiểu biết êm vui giúp sống và hoạt động. Nhưng những thời điểm quan trọng nhất, quyết liệt nhất của đức tin thì không êm ả chút nào: đó là những lúc ta gặp thử thách, như một tai họa lớn, một sự đe dọa liên quan đến mạng sống, đe dọa cho lẽ sống của ta, đe dọa những người thân nhất của ta, hoặc có thể là một hoàn cảnh hay một ý nghĩ thúc giục ta tự vấn sống để làm gì, hoặc khi công việc mà ta đang làm gặp thất bại, ta cảm thấy mình yếu đuối, bệnh tật, tội lỗi vv... Bấy giờ đức tin không còn là của sở hữu yên tĩnh nữa, ta không cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa nữa. Ta giống như các môn đệ ở trên thuyền. Cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu có thể gây ngộ nhận, nó khác với điều mà ta tưởng tượng hoặc ta giảng giải cho người khác. Ta không nhận ra Người nữa, giống như các môn đệ nghĩ rằng mình thấy ma… Tuy nhiên, phải chăng những lúc này mới là giờ phút ta có được đức tin tinh tuyền hơn. Phải chăng đến gần Thiên Chúa thường làm ta mất phương hướng, chăng là chuyện thường tình sao? Người là Đấng khác, hoàn toàn khác, làm sao ta có thể nhận biết Người, nếu Người không tỏ mình cho ta? Những giờ phút ta bị lạc hướng bởi sự hiện diện mầu nhiệm của Chúa, chính là những thời điểm nền tảng cho đức tin. Đó là lúc Chúa nói với trái tim ta, là lúc ta nhớ đến một trong những lời của Chúa để ta đoán biết Người ở đó: “Hãy an tâm, Thầy đây mà. Đừng sợ!”.
59. Chúa cần lòng tin
Một trong những yếu tố quan trọng để gìn giữ hạnh phúc gia đình là những thành viên trong gia đình cần tin tưởng nhau. Mỗi người phải luôn biết tạo niềm tin cho nhau. Nhất là những người lớn, là người trước hết tạo cần tạo niềm tin cho con cái, cho những người nhỏ hơn.
Cũng thế, vì muốn cho các cho các Tông đồ được sống hạnh phúc nên Chúa Giêsu luôn luôn làm mọi cách để tạo niềm tin và củng cố niềm tin cho họ. Dầu vậy, dù đi theo và sống gần gũi với Chúa Giêsu nhưng các ông vẫn còn chưa thật sự tin vào Người. Cụ thể, hôm nay khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với mình thì các ông đã hoảng sợ la lên: "Ma đấy". Chúa Giêsu bảo các ông: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ! " (Mt 14, 27).
Như thế, ta có thể thấy được là với phép lạ hoá bánh ra nhiều nuôi hơn năm ngàn người ăn no nê chưa là yếu tố để cho các Tông đồ tin vào Chúa Giêsu. Nhưng đó chỉ là để củng cố lòng tin của các ông vào Người. Nếu như lần giở những trang Tin mừng chúng ta cũng sẽ thấy hầu hết trước khi chữa lành cho ai Chúa Giêsu đều nói "lòng tin của con đã cứu chữa con" hay "con tin thế nào thì được như vậy"...
Đặt niềm tin của mình vào Chúa là điều cần thiết cho đời sống đức tin của người kitô hữu. Tin tưởng vào Chúa ta mới dám phó thác tất cả đời sống cho Người. Tin tưởng vào Chúa ta mới dám can đảm sống theo lời dạy của Người.
Ngày 4. 8 vừa qua, Giáo hội cho chúng ta mừng lễ thánh Gioan Maria Vianney. Đây là một trong những mẫu gương cho ta về đời sống tin tưởng vào Chúa. Mặc dù bị những người hướng dẫn đánh giá là "ngu như lừa" nhưng ngài vẫn tin tưởng vào Chúa. Quả thật, với sự tin tưởng ấy Thiên Chúa đã làm nên công trình vĩ đại nơi ngài. Sự tin tưởng ấy được thể hiện nơi cách sống đơn sơ, khiêm tốn và tinh thần phó thác qua việc siêng năng cầu nguyện. Nhờ đó qua ngài rất nhiều anh chị em được trở về với Chúa.
Hãy xin Chúa Giêsu tiếp tục gia tăng lòng tin của mỗi người chúng ta vào Người. Đó là điều mà Chúa Giêsu đang cần nơi mỗi người chúng ta.
60. Chú giải của Noel Quesson.
Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán đám đông.
Tại sao Đức Giêsu bắt buộc các môn đệ xuống thuyền? đi trước? Tại sao Đức Giêsu giờ đây giải tán đám đông sau khi đã nói rằng đám đông không cần đi đâu cả (tức vào các làng mạc mua thúc ăn)? Những chi tiết này không phải là không quan trọng. Chúng có một ý nghĩa và được Matthêu và Máccô thuật lại, nhưng chỉ có Gioan đem lại cho chúng ta một lời giải thích: Việc ban bánh trong sa mạc có một ý nghĩa chỉ về Đấng Mêsia đã làm cho nhiệt tình của đám đông bốc cao lên, họ hoàn toàn cuồng nhiệt bởi sự xuất hiện rất nhiều vị thiên sai ở thời kỳ lịch sử này của Israel.
Các đám đông, với những cảm nghĩ mơ hồ thường thấy và những động tác không kiềm chế lúc đó đã muốn kéo Đức Giêsu trong một cuộc phiêu lưu chính trị tôn giáo như đã có nhiều trong những quốc gia bị La Mã đô hộ và sau cùng tất cả đều kết thúc trong sự đàn áp đẫm máu. "Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên người lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6,15). Đức Giêsu cũng biết rất rõ các môn đệ của Người, còn gắn bó với quan điểm về một Đấng Mêsia trần thế ". Họ dễ dàng buông mình theo sự say sưa muốn biểu dương ấy Đức Giêsu buộc họ phải xuống thuyền đi trước.
Vâng Đức Giêsu đôi lúc thấy mình phải đương đầu với những kiểu vấn đề như thế. Một mình người đối phó với mọi người.
Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện.
Người ta có thể thử tưởng tượng Đức Giêsu tranh luận tay đôi với những kẻ ngoan cố nhất và cuồng nhiệt nhất không muốn giải tán: không tôi không đến để làm chính trị: nước tôi không thuộc về thế gian này… tôi đâu có trách nhiệm cho các ông ăn mỗi ngày… các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát nhưng để có lương thực thường tồn" (Ga 6,27).
Mệt mỏi vì những cuộc tranh luận ấy, khi còn lại một mình, Đức Giêsu cảm thấy nhu cầu cần phải cầu nguyện. Và chúng ta tưởng tượng Người giờ đây trong màn đêm buông xuống, bước theo con đường sỏi đá để lên núi. Bài đọc đầu tiên của Chúa nhật này nhắc nhở chúng ta nhớ rằng “núi” trong Kinh Thánh là nơi ưu việt để "gặp gỡ Thiên Chúa" (1V 19,9) Đó là một chủ đề mà Matthêu ưa thích một cách đặc biệt: núi của các mối Phúc Thật (5,1)… núi của sự cám dỗ (4,8)... núi của sự biến hình (17,1)... núi của Đấng sống lại (28,16)... Trong những tháng hè này, một số người đi nghỉ hè ở trên núi. Khi chúng ta có cơ hội lên núi, chúng ta có biết tranh thủ để cầu nguyện trong cô tịch và sự im lặng hay không?
Chiều đến, Người vẫn ở đó một mình...
Phải để cho hình ảnh ấy thâm nhập vào tâm hồn chúng ta thật lâu: Đức Giêsu trên đỉnh núi trong bóng đêm, trong sự im lặng từ trái tim đến trái tim đơn độc, trong sự hiệp nhất với Chúa Cha.
Người ta dễ dàng đoán ra Người đọc kinh nào, đêm hôm đó. Người ta đã thử lái Người ra khỏi sứ mạng chủ yếu. Nhưng như một bản năng Người trở lại sứ mạng của mình: Vai trò của Người thuộc về tinh thần dù vai trò ấy có những hậu quả quan trọng trong lãnh vực vật chất. Một lần nữa, Đức Giêsu phải chiến đấu chống lại ma quỷ của thứ chủ nghĩa Mêsia quốc gia đã "hứa hẹn cho Người tất cả các nước thế gian" (Mt 4,8-10). Một sự cám dỗ khủng khiếp, ám ảnh gần gũi; và lặp lại mãi. Sự quyến rũ của sự thành công tức thời mà Đức Giêsu can đảm đẩy lui bởi sự cầu nguyện. Không, người sẽ không là vị "vua" vinh quang và được tôn vinh. Người sẽ là Đấng Mêsia nghèo khó, sống tróng bóng tối, bị đau khổ và cái chết đánh gục. Chiến thắng của Đức Giêsu sống lại từ cái chết chỉ dành cho những ai tin.
Đức Giêsu cũng cầu nguyện nhiều cho các "môn đệ" Người vừa sai đi trước. Người phải nghĩ về Giáo Hội mà người thành lập, và cơn cám dỗ thường xuyên muốn đưa những phương tiện của con người lên hàng đầu. Phần tôi, tôi có tin vào giá trị cầu nguyện không? Nếu xét về bề ngoài và theo tính chất của con người, thời gian mất đi ấy lại vô cùng quan trọng về mặt tâm linh. Thỉng thoảng tôi có cầu nguyện một mình không?
Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ nhiêu dặm, bị sóng đánh vì ngược gió.
Trong động tác bất ngờ của máy quay phim, cũng như trong một phân cảnh tài tình của phim ảnh. Matthêu đi từ hình ảnh Đức Giêsu trên núi qua hình ảnh chiếc thuyền trên mặt biển. Đạo diễn trước tiên tập trung chú ý trên “chiếc thuyền” bằng việc sử dụng bút pháp dị thường: trong lúc Máccô nói các môn đệ phải vất vả chèo chống (Mc 6,48)... thì Mátthêu cũng bằng những chữ ấy nói rằng chiếc thuyền bị sóng đánh vật vã. Tất cả những nhà chú giải từ những giáo phụ đầu tiên của Giáo Hội đã nhìn thấy trong chiếc thuyền ấy là biểu tượng của Giáo Hội. Vào thời thánh Mátthêu, các cộng đoàn Kitô hữu trong thực tế chỉ là những chiếc thuyền mong manh chèo chống khó khăn trên mặt biển đầy sóng gió của ngoại giáo và đi ngược gió!
Vào khoảng canh tư Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ.
Cảnh trước đó (Đức Giêsu cầu nguyện trên núi… chiếc thuyền bị sóng đánh) như thế đã kéo dài suốt đêm!
Đối với nhiều người, cảnh Đức Giêsu đi trên mặt biển có thể chỉ có vẻ như một câu chuyện thần tiên, một giai thoại tuyệt vời chỉ tốt cho trẻ em và những kẻ ngây thơ. Khác với các phép lạ chữa bệnh mà chúng ta tưởng lập tức hiểu hết ý nghĩa bởi vì những phép lạ ấy "có ích", chúng ta ngạc nhiên về những cử chỉ bề ngoài xem ra vô ích: tại sao Đức Giêsu lại không gặp trực tiếp các bạn hữu của mình? vì chúng ta rất hay quên rằng các phép lạ của Đức Giêsu trước hết là những "dấu chỉ": Đó là những cử chỉ nói được, hoặc có một điều gì nói với chúng ta. Tính chất tượng trưng của chúng đứng hàng đầu, không vì thế mà chối bỏ giá trị sự kiện lịch sử của chúng. Các tác giả Tin Mừng rõ ràng đã đọc lại các biến cố, từ ba yếu tố dùng để giát thích: 1. Sự sống lại của Đức Giêsu… 2. Truyền thống của Cựu Ước... 3. Những nhu cầu của các cộng đoàn mà họ kể lại.
Trong toàn bộ Kinh Thánh, biển là hiện thân của sức mạnh thù địch với con người. Những người Do thái, như nhiều dân tộc sống trong đất liền đặt vào biển mọi nỗi sợ hãi lâu đời dưới hình thức những quái vật huyền thoại như: Lêviathan; Raháp (Tv 104,5-9-26; 106, 9 - 74,13-14; Is 51,9-10). Bão tố, trong mọi ngôn ngữ không chỉ được xem như một hiện tướng tự nhiên như một biểu tượng của những sức mạng xấu nhưng mạnh hơn con người. Còn Thiên Chúa được giới thiệu như Đấng “thống trị biển cả", Đấng "đi trên mặt biển" (Ga 9,8; Tv 77,20; Kb 3,15). Như thế Đức Giêsu đi trên mặt biển chứng tỏ Đức Giêsu làm được điều mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm: đó là một "biểu hiện của Thiên Chúa", một sự thần hiện, hình ảnh của sự sống lại…
Những cộng đoàn Kitô hữu HÔM NAY và nói riêng mỗi người chúng ta cần chiêm ngắm Đức Giêsu thống trị sự ác với tất cả quyền Chủ Tể của Người.
Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: "Ma đấy!" và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây đừng sợ!”.
Khẳng định: "Đừng sợ!" đối chiếu cảnh này lúc Người đi trên những vực thẳm của sự chết với cảnh trong lễ Vượt Qua lúc: Người biến hình (Mt 17,7) và sống lại (Mt 28,5-10)...
Mỗi lần một người đến gần Thiên Chúa, trong Kinh Thánh, có một cử chỉ điển hình gồm hai khía cạnh: "sự sợ hãi" chiếm lấy con người... "lời mời gọi đừng sợ" mà Thiên Chúa luôn lặp lại..' (St 21,17; Is 7,4; Dn 10,19; Lc 1,13; Cv 18,9; Kh 1,17). Than ôi, trong cả một đời người không thiếu bão tố. Biết bao lần chúng ta lại không cảm thấy mình như bị buồn nôn khủng khiếp vì say sóng tưởng trút linh hồn (Tv 107,25-27). Chúng ta không chọn lựa cho mình biển hồ và thời tiết xấu... cũng không chọn bão tố, bóng đêm... cũng không chọn những cơn cám dỗ, những cơn thử thách. Và nỗi sợ hãi chiếm lấy chúng ta!
Giờ đây như các môn đệ của biển hồ Galilê, chúng ta được mời gọi cảm nhận sự "hiện diện của Đấng Vắng Mặt". Lạy Chúa, Chúa ở đây với chúng con trong cơn bão tố này và Chúa lại nói với chúng con: "Chính Thầy đây, hãy cậy trông! Đừng sợ!".
Ông Phêrô liền thưa với Người: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài". Đức Giêsu bảo ông: "Cứ đến!". Ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu.
Trong Tin Mừng của Thánh Matthêu, Phêrô được giới thiệu như người đứng đầu các tông đồ, "người phát ngôn" của họ (Mt 10,2; 15,15; 16,16-17; 17,24-27; 18, 21).
Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài xin cứu! con với!". Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”
"Người đâu mà kém tin vậy!” Chủ đề “đức tin nhỏ bé” là một trong những chủ đề mà Matthêu không ngừng nhấn mạnh (6,30; 8,26; 14,31; 16,8; 17,20). "Người có đức tin quá nhỏ bé... bước đầu của đức tin... đức tin không hoàn hảo..." chúng ta nhận thấy mình trong cách diễn tả đức tin không phải là một đồ vật làm sẵn, có được một lần là xong. Đúng hơn đó là một "sự sống" đang tăng trưởng hoặc đang suy thoái. Đó là một "lịch sử" đang vận hành và vì là quan hệ giữa hai người nên không ngừng biến đổi.
Đức Giêsu chấp nhận sự yếu đuối đức tin của chúng ta nhưng nmời gọi chúng ta tiến bộ. Và chính trong thử thách, trong bão tố mà “đức tin nhỏ bé, kém cỏi" của chúng ta được thẩm định và thực hành.
Ở đây đức tin được trình bày trong một bối cảnh bi đát như một cuộc chiến đấu chống lại sự hồ nghi và sợ hãi. Phêrô người tín hữu đầu tiên không được đặt lên hàng đầu vì những phẩm chất cá nhân. Chúng ta thấy ông đã hụt chân, như buổi tối mà ông đã chối Chúa ba lần sau khi hung hăng lớn tiến tuyên bố lòng trung tín (Mt 26,35.69.75)
Tuy nhiên giữa lúc hoài nghi, ông cầu nguyện: "Thưa Ngài, xin cứu con với! Kyrie eleison!”.
Vậy sơ đồ của đức tin chúng ta là gì: một lời kêu gọi của Đức Giêsu bảo chúng ta "Hãy đến.!" một cuộc hành trình trên những vực thẳmcủa sự phi lý bề ngoài của đức tin..sự hoài nghi làm chao đảo... sự chỉnh đốn hoàn toàn của Đấng cầm tay chúng ta.
Khi Thầy trò lên thuyền, thì gió yên lặng ngay.
Một nhận xét đơn giản bề ngoài không quan trọng đối với người đọc quá nhanh.
Một lần nữa, đây là một chi tiết tượng trưng mà hình ảnh đã lên tiếng: "Thầy trò” cả hai đã lên thuyền, và gió lặng. Đức Giêsu và Phêrô cứu chiếc thuyền này trong cơn tai biến.
Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!"
Trong sách Tin Mừng Matthêu, đây là sự tuyên xưng đức tin đầu tiên. Chúng ta phải giữ lại trang Tin Mừng này cho cơn bão tố sắp tới của chúng ta. Phêrô suốt đời sẽ nhớ lại điều này, khi ông sẽ bước vào những cơn giông tố khác trầm trọng hơn ở Rôma vào thời của Vua Nêrôn.
*****************
61. Kiên vững trong đức tin và cầu nguyện
Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Chúa Giêsu. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ và khi bắt đầu chìm, ông la lên: Lạy Thầy, xin cứu con! Chúa Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: người đâu mà kém tin vậy? Tại sao con nghi ngờ, hỡi kẻ kém lòng tin? (Mt 15,29-31)
Chúng ta vừa đọc lại đoạn trích từ phúc âm theo thánh Mathêu, chương 15, câu 29-31, nói về phép lạ Chúa Giêsu đi trên mặt nước biển hồ Galilêa và cho phép Phêrô chia sẻ quyền năng đi trên mặt nước đến với Ngài. Biến cố nầy xảy ra trong thời điểm khoảng một năm, sau khi Phêrô và các bạn, đã từ bỏ mọi sự mà theo Chúa. Phêrô và các bạn đã lắng nghe những Lời Chúa giảng, đã chứng kiến những phép lạ Chúa thực hiện và đã được chiêm ngưỡng vinh quang Chúa và được Chúa giải thích đặc biệt hơn về Mầu Nhiệm Nước Trời. Hơn nữa, Phêrô và các bạn vừa mới được Chúa chọn riêng ra kết thành nhóm 12, và Phêrô đã được Chúa đặt đứng đầu nhóm. Tóm lại, vào thời điểm nầy, Chúa Giêsu đã mạc khải, tuy chưa trọn vẹn tất cả, cho Phêrô và các bạn biết thực thể thần linh của Chúa và ý định của Ngài về cuộc đời,và về tương lai của Phêrô. Hơn nữa, biến cố "đi trên mặt nước" xảy ra liền sau một phép lạ cả thể khác nữa, mà Phêrô và các tông đồ không những được chứng kiến, mà còn được tham dự vào nữa, đó là biến cố Chúa làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều và trao cho các tông đồ phân phát cho hàng ngàn người ăn no.
Sau phép lạ nầy, dân chúng hồ hởi muốn tôn vinh Chúa lên làm Vua. Nhưng Chúa Giêsu không chiều theo như vậy. Ngài ra lệnh cho các tông đồ xuống thuyền đi sang bên kia bờ hồ, còn Ngài thì ở lại giải tán dân chúng rồi lên núi cầu nguyện. Thuyền các tông đồ bị sóng to gió lớn cản trở. "Vào khoảng canh tư, tức khoảng 3 giờ sáng, Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. Thấy Nguời đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: Ma đấy, và sợ hải la lên. Chúa Giêsu liền bảo các ông: Hãy yên tâm. Thầy đây. Đừng sợ! Phêrô liền thưa với Nguời: thưa Thầy, nếu quả là Thầy thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Thầy. Chúa Giêsu bảo ông: Cứ đến! Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Chúa Giêsu. Nhưng thấy gió thổi, thì ông đâm ra sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: Lạy Thầy, xin cứu con! Chúa Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: nguời đâu mà kém tin vậy? Sao lại hoài nghi?
Lạy Thầy, nếu là Thầy, thì xin cho con được đến với Thầy. Vài nhà chú giải cho đây là một lời nói đầy tự phụ của Phêrô muốn kiểm chứng, thử thách quyền năng Chúa. Nhưng, một số khác thì giải thích theo hướng tích cực hơn, cho rằng đây là mong ước tự nhiên của Phêrô, đang phải chiến đấu với cảnh sóng to gió lớn, đang phải đương đầu với những nguy hiểm. Sau nghi nghe được chính giọng nói trấn an của Chúa, và đã biết là Chúa rồi chớ không phải là "bóng ma", thì ao ước tự nhiên của Phêrô là được đến với Chúa, không phải để thử Chúa, mà để được mau ở gần bên Chúa, thoát ra khỏi cảnh nguy hiểm. Phêrô được thôi thúc bởi tình yêu đối với Chúa, và không nghĩ là mình vừa lên tiếng xin Chúa một điều nghịch lại với định luật vật lý tự nhiên: là được đi trên mặt nước. Chúa đáp lại tình yêu nồng nhiệt của Phêrô. Nhưng sau đó, ta có thể nói là Phêrô không còn kiên vững trong Niềm Tin và Tình Yêu đối với Chúa nữa. Vì thế Ông bị nguy, và phải kêu lên: Lạy Thầy xin cứu con.
Đây là điều có thể xả#y ra cho mỗi người đồ đệ của Chúa. Chúa Giêsu đã thực hiện những dấu lạ trong cuộc đời chúng ta. Hay nói cách khác, Chúa cho phép chúng ta được tham dự vào quyền năng thần linh của Ngài, làm chủ trên mọi biến cố thiên nhiên. Nhưng những nguy hiểm, thử thách được Chúa cho phép xảy ra, làm cho chúng ta lung lay trong niềm Tin và Tình Yêu, như Phêrô ngày xưa. Chúa không trách Phêrô dám to gan xin Chúa dấu lạ, nhưng trách, hay đúng hơn, chỉ cho Phêrô nhìn thấy nguyên nhân của nguy hiểm đang tấn công, làm cho ông bị chìm xuống nước, đó là: thiếu tin tưởng vào Chúa. Sao kém tin thế? Tại sao con do dự, hỡi kẻ kém tin? Đức Tin và Tình Yêu kiên vững sẽ cung cấp cho chúng ta sức mạnh để vượt qua được những thử thách nguy hiểm. Nhưng, là con người, có những lúc chúng ta bị lung lay, bị cám dỗ ngã lòng. Đó là những lúc chúng ta cần mau kêu cầu Chúa, như Phêrô: Lạy Thầy, xin cứu con. Đây là lời cầu nguyện đầy ý nghĩa trong cơn thử thách. Chúng ta đừng quên cầu nguyện trong lúc thử thách. Đừng quên Chúa hằng hiện diện bên cạnh và lúc nào cũng sẵn sàng giúp ta khỏi bị chìm. Nơi thơ do thái chương 12, câu 1-2, thánh Phaolô khuyên: "Chúng ta hãy nhìn về Chúa Giêsu. Và hãy chạy tới. Hãy kiên trì trong cuộc đua sức chúng ta đã bước vào". Đời chúng ta là một cuộc đua giữa hai lực tốt và xấu đang tranh nhau chiếm lấy con người chúng ta. Hãy nhìn lên Chúa. Hãy kiên vững trong Đức Tin và Tình Yêu. Hãy cầu nguyện chân thành luôn, lời cầu của Phêrô, của kẻ khiêm tốn chỉ biết đặt niềm tin vào Chúa mà thôi: Lạy Thầy, xin cứu con.
Lạy Chúa, Chúa đã ra lệnh cho con làm công việc của Chúa. Xin đừng để con phải một mình giữa hiểm nguy. Lạy Thầy xin cứu con. Xin đừng để con sa chước cám dỗ. Nhưng xin hãy cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.
62. Chúa Đi Trên Biển
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Thiên Chúa tỏ ra là một nhà giáo dục đại tài: Ngài luôn tôn trọng tư tưởng, dự định của con người, nhưng với thời gian và qua dòng lịch sử, Ngài thanh lọc, kiện toàn những gì không phù hợp với Nước Trời. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người cũng đi theo đường lối đó, như chúng ta có thể thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sau khi cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu buộc các môn đệ lên đò sang bờ bên kia. Giải tán dân chúng xong, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện một mình. Các môn đệ vâng lời Thầy ra đi, nhưng có lẽ các ông không được hài lòng. Các ông đã hết sức kiên nhẫn chờ đợi ngày Chúa Giêsu làm vua, cơ hội đó hôm nay đã đến, nhưng Chúa lại từ chối. Không những bỏ lỡ cơ hội, Chúa còn ra lệnh cho các ông lập tức rời bỏ hiện trường. Bất mãn, chán nản và mệt nhọc làm cho các ông ngã lòng. Chúa Giêsu biết rõ tâm trạng của các ông, không những bằng ánh mắt và bằng cả cõi lòng khi Ngài cầu nguyện trên triền núi. Ngài thấy các ông chèo chống ngược với sóng gió và ngược với cả ý muốn. Chính lúc đó, Ngài đi trên mặt biển để đến với các ông. Ngài đã làm như thế để các ông hiểu rằng Ngài có quyền năng trên các tạo vật, Ngài có chương trình của Ngài và Ngài sẽ thực hiện chương trình ấy khi giờ của Ngài đến.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt tất cả niềm tin vào quyền năng của Chúa. Ngài có chương trình cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, chúng ta hãy đặt hết tin tưởng vào Chúa, Ngài vẫn hiện diện để sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Hãy phó thác vào quyền năng yêu thương của Ngài và như thế tâm hồn chúng ta sẽ được bình an.
63. Thầy ơi! cứu con.... - Lm Francis Lý Văn Ca
Bài Tin Mừng Chúa nhật 19 Năm A này cũng mang cùng một tư tưởng như Chúa Nhật 18. Đó là: Chúa Giêsu đã can thiệp kịp thời trước nỗi bất lực cửa các môn đệ.
Sau khi dân chúng mải mê nghe Lời giảng dạy của Chúa Giêsu mà quên đi trời đã về chiều với cái bụng rỗng. Các môn đệ muốn phục vụ bữa ăn cho họ nhưng trong tay chỉ có 5 chiếc bánh và 2 con cá. Nhưng Chúa Giêsu đã dùng cái khả năng nhỏ bé của các ông mà làm phép lạ cả thể nuôi 5 ngàn dân chúng ăn no.
Chúa nhật 19: Trong lúc các môn đệ đang bất lực trước sóng gió bão táp, họ tưởng như chết tới nơi, nhưng Chúa Giêsu đã xuất hiện truyền cho sóng yên biển lặng và kéo thuyền các ông vào bờ. Theo như Tin Mừng tường thuật thì khi xẩy ra cơn bão Chúa Giêsu không ở trên thuyền với các ông, thế nhưng Ngài không để các ông cô độc một mình, Ngài vẫn ở với các ông…
Thật vậy, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện một mình, còn các môn đệ bị bắt buộc phải lên đò qua bờ bên kia trước Ngài. Chúa Giêsu muốn tránh cho các môn đệ cơn cám dỗ về quyền bính, vì ngay lúc ấy theo Jn.6,15 thì họ muốn tôn Chúa Giêsu lên làm vua, nên chính Ngài cũng phải lên núi cầu nguyện để khỏi rơi vào cơn cám dỗ phục vụ áo cơm, và như thế sẽ đi trệch đường Thiên Sai mà Thiên Chúa Cha đã định.
Nhưng trên đò, các môn đệ đã gặp sóng cả gió ngược, Chúa Giêsu biết điều ấy nên giữa đêm tối Ngài đã đến với họ, nhưng họ không nhận ra Chúa và họ sợ hãi. Chúa đến với các môn đệ vào canh tư đêm tôi, canh tư là thời điểm cuối cùng của một đêm, nghĩa là vào thời cuối của công cuộc cứu độ. Ngài đến và tỏ uy quyền trên sóng biển, không những đi trên mặt biển mà còn truyền lệnh cho gió phải yên, đồng thời thông chia quyền hành với Phêrô, cho ông đi trên mặt biển.
Phêrô đòi đạp trên sóng mà đến với Chúa, nhưng khi nhìn thấy sóng ông sợ quá và chìm nghỉm, Chúa Giêsu phải đến với ông. Phêrô đạp trên sóng khi ông làm theo lệnh Chúa Giêsu, nhưng thấy gió ông chìm xuống. Chúa Giêsu đánh giá “ quân hèn tin”. Câu mắng của Chúa cho thấy Phêrô có tin nhưng đức tin của ông còn yếu. Như thế, nếu “vâng lời Thầy” thì mọi sự đều có thể làm được, còn khi tự mình mà đối đầu với sự dữ thì sẽ chìm.
Hội Thánh được ví như con thuyền vượt qua những thế lực xấu, vượt qua biển là sào huyệt của quyền lực sự ác, nó họat động mạnh mẽ và thuyền phải đội sóng mà đi, nghĩa là phải chiến đấu với ác thần và đôi khi Ngài phải vắng mặt để cho Hội Thánh chiến đấu một mình, như đã để cho các môn đệ phải đấu trí với lực lượng sự ác là cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Thế nhưng Ngài cũng đã đến với các ông, nhưng các ông không nhận ra Ngài đó là cuộc Phục Sinh, Ngài hiện đến với các ông, các ông không nhận ra. Qua kinh nghiệm ấy Hội Thánh tất yếu phải gặp sóng gió, nhưng nếu cứ theo lệnh Chúa, dựa vào lệnh Chúa thì sẽ đạp sóng mà đi thôi! Nếu nhìn vào những khó khăn, nghĩa là nhìn vào sóng gió thì Hội Thánh sẽ chìm. Có nghĩa là ngưng dựa vào Chúa, ngưng lắng nghe tiếng Chúa thì sẽ chìm, sẽ mất can đảm.
Khi được chứng kiến phép lạ, các môn đệ đã tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa vì việc bước trên nước là biểu hiệu của Đấng hòan thành công cuộc tạo dựng. Đó là một dấu hiệu báo bình minh của ngày Giavê (Is. 51,9-10). Đi trên nước là một cách hiển linh của quyền năng Thiên Chúa ở trong Đức Kitô.
Qua bài Tin Mừng, mẹ Hội Thánh muốn dạy chúng ta: Biển, sóng gió là những lực lượng của sự dữ đang hòanh hành trên thế giới, nỗi sợ của các môn đệ cũng là nỗi sợ của chúng ta. Chúng ta sợ vì thiếu đức tin và thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa. Chúng ta nhận ra gương mặt Ngài trong sự thiện nhưng chúng ta không tin được lại gặp Ngài trong sự dữ, chúng ta sợ phải lựa chọn.
Hôm nay Chúa muốn mời gọi chúng ta lên thuyền như đã mời gọi các môn đệ và Ngài cũng sẽ để chúng ta chống lại sóng gió, chèo ngược gió, nhưng chính Chúa Giêsu cũng sẽ bước đi trên mặt nước của những lực lượng sự dữ. Chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt nhưng thực sự Ngài đang hiện diện, Ngài tin tưởng chúng ta và Ngài đi trước chúng ta.Lạy Chúa Giêsu, trong đời họat động tông đồ của chúng con, nhiều khi chúng con gặp những thất bại, nhưng chúng con quên đi rằng Chúa đang hiện diện ở đó. Xin cho chúng con qua bài học của các tông đồ, chúng con cảm nghiệm rằng chính Chúa đang ở bên trong sự dữ và đang đi trước chúng con. Nhờ tin tưởng như thế chúng con sẽ thành công trong sứ vụ được trao phó.
64. Tôi tin - JM
Thấy Người đi trên mặt biển các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!”, và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm chính Thầy đây đừng sợ!” Ông Phê-rô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!” Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt. 14, 26-30)
Phêrô
Mọi chú ý đổ dồn vào một nhân vật: Phêrô. Ông là tông đồ thứ nhất. Ông nói, làm nhân danh các bạn khác. Hơn nữa, ông là người thứ nhất trong các kẻ tin. Ông tỏ vẻ rất linh hoạt và diễn xuất niềm tin xuất sắc. Ông mạnh mẽ và hiên ngang tuyên bố những lời kêu gọi và lôi cuốn con người. Đó là khát vọng sâu xa hướng về mình, ở bên mình, ở với mình. Đó là bước đường dẫn tới hố sâu vì được người ta tin cậy và yêu mến. Thế rồi, khi lòng tin cậy yếu đuối, lập tức kéo theo sự mất sức căn bản và những nguy khốn tứ bề ập tới làm mình run sợ mất lòng trông cậy. Lúc đó mình là mồi ngon cho các thế lực đe dọa, nếu mình không tìm ngay đến bàn tay của Thầy đến cứu vớt. Có lòng trông cậy, có lòng tin, nhưng quá hèn mọn, quá yếu ớt thì đừng bo bo cậy mình. Chỉ có đức tin vô điều kiện mới mong dẫn dắt các bạn một cách chân chính mà thôi. Điều xảy ra với tông đồ thứ nhất là Phêrô, luôn là gương mẫu cho tất cả những kẻ tin tưởng.
Giáo Hội
Giáo hội toàn thể luôn luôn ở trước tôn nhan Đức Giêsu. Giáo hội đã được bảo đảm thắng vượt mọi gian nan thử thách, có đủ khả năng thoát khỏi mọi nguy biến. Giáo hội biết mình được bảo đảm không bao giờ bị đắm chìm tan biến theo chiều dài của lịch sử ở điều kiện nắm vững đức tin.
Một đức tin đơn sơ
Những câu cuối cùng của đoạn Tin mừng này nhắc nhở chúng ta bài học về Phêrô bước đi trên mặt biển: một bài học về đức tin đơn sơ, không giải thích. Một đức tin biểu lộ bằng cử chỉ, bằng chỉ cần động đến gấu áo Chúa, nhưng đã diễn tả mọi rung động của con tim. “Nếu anh không trở nên trẻ nhỏ…”. Nếu đức tin không như thế, chúng ta phức tạp hóa đức tin của chúng ta, đức tin sẽ mất sức mạnh, mất sức sống! Ước chi chúng ta hãy hết lòng nói với Chúa: “Lạy Chúa, con tin”.
65. Lạy Thầy! Xin cứu con – R. Veritas
Giữa lúc dân chúng định tôn Đức Giêsu làm Vua, và sau khi mọi người đã được no nê bánh và cá, thì Ngài lại giải tán họ, và buộc các môn đệ phải chèo thuyền qua bờ bên kia. Yên lặng trở lại với nơi hoang vắng. Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, Ngài chìm sâu trong cầu nguyện. Ngài gặp gỡ trong thân mật với Thiên Chúa Cha. Nhưng Đức Giêsu không quên các môn đệ. Ngài biết họ một mình đang vật lộn với sóng gió. Mãi gần sáng, Ngài mới đi trên mặt nước mà đến với họ. Các môn đệ tưởng Ngài là ma, nên kêu la sợ hãi. Đức Giêsu trấn an họ: "Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ."
Tuy còn ngờ vực, Phêrô đã dám liều lĩnh đề nghị: "Nếu quả là Thầy, thì xin cho con được đi trên mặt nước mà đến với Thầy." (Mt 14,28). Thật là một lời đề nghị làm ta ngạc nhiên. Thật là một đề nghị đầy nguy hiểm. Nhưng Phêrô đã chấp nhận nguy hiểm, đã dấn thân nghiêm túc để được gần Thầy mình. Nếu đó không phải là Thầy mình, thì thật là dại dột. Nhưng nếu đúng là Thầy, thì ông tin mình cũng đi được trên mặt nước như Thầy.
Đức Giêsu nói với Phêrô: "Cứ đến". Thế là Phêrô bước ra khỏi thuyền, ông đi trên mặt nước mà đến với Đức Giêsu. Thật không thể tưởng tượng nổi, mặt nước trở nên cứng như đá, hay con người có đức tin trở nên nhẹ bỗng. Phêrô đi được bao xa, ta không rõ, nhưng lòng ông thì cứ reo lên sau mỗi bước đi: "Đúng là Thầy rồi!" Phải tin thì mới dám xin đi trên mặt nước, nhưng phải dám đi trên mặt nước, thì niềm tin mới được trọn vẹn.
Cần ngắm nhìn những bước chân của Phêrô, những bước chân của lòng tin mạnh mẽ. Nhưng khi gió lồng lên dữ dội, nỗi sợ hãi ùa vào, lòng tin bị chao đảo với sóng gió, lúc đó Phêrô thấy mình bị hút xuống lòng biển. Ông chỉ kịp kêu lên: "Lạy Thầy, xin cứu con." Bàn tay Chúa đưa ra nắm lấy bàn tay của ông và đưa ông về thuyền. "Người kém tin, tại sao lại hoài nghi!" (Mt 14,31). Hoài nghi và sợ hãi đã làm Phêrô trở nên nặng nề, và nhận chìm ông xuống. Phêrô hăng say đó, nhưng lại xìu đó và tỏ ra nhát đảm vì thiếu tin tưởng vào Chúa Giêsu.
Cuộc đời của mỗi người là một cuộc vượt biển đầy cam go, cho dù đi bằng thuyền hay bằng tàu, không ai có thể nói là tuyệt đối bằng an. Còn bơi trong sóng nước thì vô phương. Phêrô, một người sành sỏi về bơi bội, sông nước là nghề nghiệp của ông. Thế mà khi bị thụp xuống, lại cuống cuồng la lên: "Lạy Thầy! Xin cứu con".
Muốn vượt biển đời bình an, thơ thới, chỉ có một cách là cậy trông vào Đức Giêsu Kitô, chỉ mình Ngài mới có quyền năng đạp sóng, và làm bão tố tan biến đi. Đưa tay cho Ngài dắt, chúng ta sẽ đi trên bão tố đường đời như đi trên thảm cỏ xanh êm dịu tươi mát.
***
Lạy Chúa Giêsu! Sống đức tin giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước:
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn. Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu. Sự nặng nề của thân xác cũng kéo ghì con xuống. Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con gần chìm. Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã. Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ nhàng mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
66. Xin cứu con – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay là một loạt những kinh nghiệm thiêng liêng.
Có thể chúng ta ít nhiều đều đã có những kinh nghiệm này.
Thầy Giêsu là một nhà giáo nhân từ và cương quyết.
Ngài giáo dục các môn đệ bằng cách đưa họ vào những kinh nghiệm.
Kinh nghiệm bị Thầy bắt buộc phải qua bờ bên kia (c. 22),
dù họ rất muốn ở lại bờ bên này để nếm dư vị của thành công vừa rồi.
Sau phép lạ nhân bánh, người ta định tôn Thầy lên làm vua (Ga 6, 15).
Chỉ cần Thầy gật đầu là trò được chia sẻ tiếng tăm và quyền lực.
Các môn đệ đã bị ép lên thuyền, ngay lập tức, lúc chạng vạng tối.
Kinh nghiệm bị sóng đánh vì ngược gió.
Thuyền đã xa bờ mấy cây số, tiến tới không được, lùi lại cũng không xong.
Vào lúc khó khăn ấy lại không có Thầy ở trong thuyền.
Hầu như suốt đêm các môn đệ phải vất vả chèo chống với sóng gió.
Họ phải tập chiến đấu trong đêm tối khi không có Thầy ở bên.
Họ có nghĩ quyết định của Thầy là sai lầm, vội vã không?
Kinh nghiệm hốt hoảng, sợ hãi và được trấn an.
Mãi đến lúc gần sáng, Thầy Giêsu mới đi trên biển mà đến với các môn đệ.
Ngài đến khi họ chưa thấy rõ mặt Ngài.
Ngài đến vào lúc bất ngờ và đến theo cách bất ngờ, khiến họ khiếp kinh.
Ngài đến đem bình an mà họ tưởng là ma quái đe dọa (c. 26).
Quả thật có những lúc không dễ nhận ra là Chúa đang đến với mình.
Chúa đến làm các môn đệ sợ hãi hơn cả sóng gió.
Nhưng “Cứ yên tâm, chính Thầy đây. Đừng sợ!” (c. 27).
Kinh nghiệm tự đưa mình vào một thách đố của lòng tin.
Một mặt Phêrô vẫn chưa tin trọn vẹn khi nói câu: Nếu quả là Thầy…(c. 28).
Nhưng mặt khác ông lại rất táo bạo khi dám xin ơn đi trên mặt nước.
Ông coi đó là cách thức chắc chắn nhất để biết có phải là Thầy không.
Nếu đúng là Thầy thì Thầy cũng có thể cho mình làm được như Thầy.
Chỉ cần Thầy truyền lệnh là đủ, Phêrô tin như thế.
Kinh nghiệm đi trên mặt nước và kinh nghiệm bị chìm.
Khi được Thầy cho phép, Phêrô đã dám từ thuyền bước xuống biển động.
Và ông đã đi được một quãng không rõ bao xa (c. 29).
Mặt nước cứng như đá hay người ông trở nên nhẹ bổng?
Bây giờ thì đúng là Thầy rồi, chỉ Thầy mới cho mình làm được như Thầy.
Phêrô sung sướng tiến về phía Thầy với lòng tin đang lớn lên.
Nhưng khi gặp gió thổi mạnh thì ông lại sợ, lại hoài nghi, yếu tin.
Ông mất tập trung vào sự hiện diện quyền năng của Thầy và bị chìm.
Người ta có thể bị chìm ngay khi biết Chúa ở trước mặt.
Kinh nghiệm được Thầy nắm tay mà dắt vào thuyền.
Khi Phêrô kêu cứu, Thầy Giêsu đã giữ ông khỏi bị nước nuốt chửng.
Sau đó hẳn hai Thầy trò đã cùng nhau đi trên sóng mà về thuyền.
Khi cả hai lên thuyền thì gió lặng, chẳng cần Thầy phải dẹp yên sóng gió.
Các kinh nghiệm môn đệ vừa trải qua thật kinh khủng và gần gũi với ta.
Buồn bực, sợ hãi, căng thẳng, bình an, nghi ngờ, chới với, hạnh phúc.
Đời Kitô hữu là một chuỗi những kinh nghiệm như thế.
Chúng ta tưởng Chúa bỏ rơi, Chúa vắng mặt, Chúa là ma làm ta sợ hãi.
Đơn giản Chúa là Thầy biết cách làm ta trưởng thành qua kinh nghiệm.
Cuối cùng chúng ta sẽ nhìn nhận: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa” (c. 33).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy
sống đức tin giữa lòng cuộc đời
chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con
cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
in cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh
mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
67. Đừng Sợ
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Biến cố Chúa đi trên mặt biển cũng được tường thuật nơi Phúc Âm thánh Maccô chương 6 và nơi Phúc Âm thánh Gioan chương 6, nhưng nơi Phúc Âm thánh Mátthêu thì có thêm chủ ý hành văn của tác giả và ý định trình bày một cái nhìn. Các nhà chú giải đồng ý có ba phương diện giúp dễ hiểu đoạn Phúc Âm này hơn:
- Bình diện thứ nhất là bình diện của biến cố khi được tường thuật.
- Bình diện thứ hai là bình diện thần học về việc Chúa mạc khải Thần Khí của Người.
- Bình diện thứ ba là ý nghĩa xã hội học của biến cố.
Trước hết, về bình diện tường thuật biến cố thì câu chuyện được kể đơn sơ, dễ hiểu: "Sau biến cố bánh hóa nhiều, Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ xuống thuyền sang bờ bên kia. Còn Người thì ở lại giải tán dân chúng, rồi lên núi cầu nguyện. Đến khuya, Chúa đi trên mặt biển đang bị động để đến với các tông đồ".
Nhưng nếu nhìn biến cố trong viễn tượng việc Chúa mạc khải chính mình thì biến cố mang một đặc điểm mới. Chúa Giêsu có quyền trên mọi biến cố thiên nhiên. Câu nói của Chúa: "Thầy đây, đừng sợ!" nhắc lại công thức Thiên Chúa mạc khải chính mình bằng lời quả quyết: "Ta là Đấng Ta là".
Ý nghĩa xã hội học được trình bày qua hình ảnh con thuyền tượng trưng cho Giáo Hội Chúa. Thuyền gặp bão, Giáo Hội Chúa gặp thử thách. Nhưng Chúa Giêsu không để cho các tông đồ một mình chống lại với bão táp, không thể để cho Giáo Hội một mình gặp thử thách: "Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Chúa muốn cho các tông đồ luôn kiên trì trong đức tin, đừng lo sợ mê man. Chúa đến với các tông đồ, Chúa đến với Giáo Hội trong cơn thử thách. Chúng ta hãy để cho Chúa đến với chúng ta và hiện diện với chúng ta mãi mãi.
Lạy Chúa, Đấng đã kêu gọi mọi người "Đừng sợ".
Xin thương củng cố đức tin chúng con trong những lúc gặp gian nan thử thách.
68. Hãy an tâm vì luôn có Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật vừa qua, chúng ta nghe thánh Matthêu thuật lại phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều (x. Mt 14, 13-21), tiếp theo là biến cố Chúa biến hình trên núi (x. Mt 17, 1-9) và hôm nay chúng ta nghe tiếp Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (x. Mt 14, 22-33).
Êlia và Phêrô là hai nhân vật nổi bật của tuần này. Êlia chứng kiến ba sự kiện trên trái đất là gió bão, động đất và lửa, Thiên Chúa đều không hiện diện ở đó. Giữa sức mạnh của vũ trụ với tiếng gió hiu hiu, Êlia phải học phân định để nghe thấy lời trong thinh lặng, hay trong chính bản thân mình (x. 1V 19, 9a. 11-13a).
Trước khi đề cập đến Phêrô, chúng ta không thể không nói đến các môn đệ được Chúa Giêsu "giục xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước" (14, 22), còn dân chúng, những người Do thái được giải tán, theo một nghĩa nào đó, họ là "những người ở bên này". Việc các môn đệ phải "sang bờ bên kia", nghĩa là các ông phải vượt qua những thực tại hữu hình, tạm thời của thân xác, bước sang sự vĩnh cửu vô hình. Dĩ nhiên, các ông không thể cập bờ bên kia trước Chúa Giêsu; các ông phải trải qua kinh nghiệm không có Thầy, họ không thể tới bến bình an.
Có chuyện gì mà Chúa Giêsu buộc các môn đệ phải xuống thuyền? Phải chăng là để chống lại cơn cám dỗ và các tình huống khó khăn? Chắc chắn có một cơn giống tố trong lòng các ông và ở biển hồ Galilêa. Vì chưa hiểu dấu chỉ phép lạ hóa bánh ra nhiều, nên các ông đã theo dân chúng muốn tung hô Chúa làm vua! Giờ đây họ cảm thấy thế gian sợ hãi và xao xuyến biết bao!
"Người lên núi cầu nguyện một mình" (Mt 14,23). Người cầu nguyện cho ai? Chắc chắn là cho dân chúng vừa giải tán, sau khi đã được ăn bánh no nê, họ không biết phải làm gì. Chúa Giêsu cũng cầu cho các môn đệ, ở giữa biển khơi đang bị kiệt sức bởi sóng đánh vì ngược gió khỏi mọi sự dữ. Chính nhờ lời cầu nguyện của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha mà các môn đệ không bị chìm vì sóng to gió lớn.
Còn Phêrô, được Chúa Giêsu mời gọi bằng kinh nghiệm đức tin. Ông xin Thầy cho được đi trên mặt nước (x. Mt 14, 28). Chúa Giêsu đã ban cho ông quyền đi trên biển. Biển, tượng trưng cho mãnh lực của sự dữ và sự chết; Chúa Giêsu đi trên mặt biển, là đi trên sự chết, thể hiện sự chiến thắng của Người trên sự dữ và sự chết. Toàn bộ mầu nhiệm Phục sinh là ở chỗ Chúa Giêsu chiến thắng sự chết và biển cả. Theo quan niệm của người Do thái, biển là sào huyệt của sự chết. Đi trên biển là liều chết. Chính sự rủi ro này mà khi Phêrô đáp lại lời gọi của Chúa Giêsu, "xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt nước" (Mt 14, 29), là ông giẫm chân trên sự chết. Nên không có lạ, khi ông nghi ngờ.
Chỉ khi Phêrô tin và phó thác vào Thầy, ông mới có thể đi trên mặt nước. Ông bị chìm xuống lúc ông nghi ngờ. Thấy gió mạnh, ông sợ, sự sợ hãi trước tai ương của thế gian này lại giúp cho ông tin vào quyền năng của Thầy. Chính lúc ông thôi tin vào Chúa, ông mất quyền đi trên biển, và chìm xuống. Khi đi được trên mặt nước chứng tỏ Phêrô tin, lúc chìm xuống cho thấy ông không tin. Thật là đức tin ngược đời, vì chính lúc ông không cậy dựa vào Chúa, ông bị chìm, ông lại kêu Chúa cứu.
Với lời kêu cứu của Phêrô: "Lạy Thầy, xin cứu con!" (Mt 14, 30) Chúa Giêsu đáp lại bằng cử chỉ và lời. Người giơ tay nắm lấy ông và trách: "Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?" (Mt 14,31) Khi gió thổi mạnh, nỗi sợ hãi và nghi ngờ về quyền năng của Chúa đột nhập vào Phêrô, một con người yếu lòng tin. Cứu ông lên khỏi nước, Chúa Giêsu dạy ông rằng, tình thầy trò không phải là đức tin của người môn đệ, nhưng là lòng trung thành của Thầy. Cảnh tượng trên phơi bày sự cao cả cũng như thấp hèn của người môn đệ. "Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa" (Mt 14, 32-33). Quả thật, niềm tin vào Con Thiên Chúa chỉ có được sau một hành trình dài của đau khổ, chết và phục sinh của Đức Giêsu Con Thiên Chúa.
Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trên biển: "Thầy đây, đừng sợ. Ma đâu có xương có thịt như Thầy có đây", cũng là lời Chúa nói với các ông sau khi Chúa phục sinh “Tại sao các con run sợ, tại sao các con nghi ngờ… chính Thầy đây, hãy xem tay chân Thầy đây". Hai khung cảnh khác nhau về thời gian nhưng đều có một điểm chung là run sợ, kém lòng tin và nghi ngờ, cả hai lần Chúa Giêsu đều khẳng định "chính Thầy đây mà" (x. Lc 24; Mt 14).
Ở cuối trình thuật, các môn đệ được mô tả là những người tin khi sấp mình xuống thờ lạy Chúa. Còn Phêrô, mỏng giòn, yếu đuối, Chúa Giêsu lại trao Giáo hội cho ông. Chúa Giêsu sẽ đồng hành cùng Giáo hội. Như Phêrô, người yếu tin, chúng ta cần có bàn tay của Chúa kéo chúng ta lên, bước vào con thuyền Giáo hội để sang bờ bên kia.
Phần chúng ta, nếu một ngày nào đó chúng ta phải đương đầu với các cơn cám dỗ không thể tránh được, hãy nhớ rằng Chúa Giêsu buộc chúng ta xuống thuyền; từ bờ bên này sang bờ bên kia không thể không có sóng gió. Và khi chúng ta thấy những khó khăn, vất vả, mệt nhọc giữa đời vây quanh ta, thuyền của chúng ta đang ở giữa đại dương mênh mông, với những cơn sóng đang tìm cách nhấn chìm đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy vững tin rằng, Con Thiên Chúa sẽ đi trên mặt nước đến gần chúng ta, giơ tay kéo chúng ta lên; Chúa chỉ mong đợi chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.
Lạy Mẹ Maria, gương mẫu về lòng tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, xin giúp chúng con vững tin vào Chúa, để giữa bao bận tâm, lo lắng, khó khăn giữa biển cả cuộc đời đang làm chúng con giao động, chúng con vẫn nghe thấy lời trấn an của Chúa Giêsu, Con Mẹ: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!" (Mt 14,27) Amen.
69. Tin cậy vào quyền năng của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Đức Giêsu bày tỏ quyền năng qua việc đi trên mặt biển:
Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Mt 14,13-21), dân chúng hào hứng, muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua. Do không muốn cho các môn đệ hiểu lệch lạc về sứ mạng Thiên Sai theo nghĩa thế tục như dân Do thái đang mong đợi, nên Đức Giêsu đã ra lệnh cho các ông lên thuyền sang bờ bên kia trước, đang khi Người ở lại giải tán đám đông. Khoảng 3 giờ sáng, Người đã đi trên mặt biển tiến đến gần thuyền các môn đệ. Các ông sợ hãi la hoảng tưởng mình thấy ma, nên Người đã lên tiếng trấn an. Sau đó Người đã cho Phê-rô đi trên mặt nước đến với Người và đã lập tức cứu ông khỏi bị chìm xuống khi ông kêu cầu. Sau biến cố này, các môn đệ đã tin Đức Giêsu và tuyên xưng đức tin: ”Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa”.
CHÚ THÍCH:
- C 22-24: + Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền: Sau phép lạ nhân bánh, dân chúng phấn khởi muốn tôn Đức Giêsu làm Vua Thiên Sai và các môn đệ cũng bị phấn khích không kém. Để tránh cho các ông ảo tưởng về sứ mạng Thiên Sai trần thế của Người, nên Đức Giêsu đã giục các ông mau xuống thuyền sang bờ bên kia (x. Ga 6,14-15). + Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện: Đức Giêsu thường dành thời gian yên tĩnh ban đêm để cầu nguyện với Chúa Cha (x. Lc 6,12), nhất là khi sắp phải giải quyết những công việc quan trọng (x. Mt 26,36; Lc 9,27). + Chiều đến, Người vẫn ở đó một mình: Ở một mình là không có người nào bên cạnh, trừ ra Chúa Cha hằng ở với người (x. Ga 8,29). + Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ nhiều dặm: Đây là Biển hồ Giê-nê-sa-rét hay cũng gọi là Ti-bê-ri-a hoặc Ga-li-lê (x. Ga 6,1). Biển Hồ này có hình bầu dục dài 21 km, rộng 12 km, mực nước thấp hơn Địa Trung hải 208 mét. Vì quá lớn, nên Biển Hồ thường hay có sóng to gió lớn (x. Mt 8,23). + bị sóng đánh vì ngược gió: Bấy giờ thuyền các môn đệ đã ra giữa biển hồ và đang bị sóng đánh chập chờn không thể tiến xa vì ngược gió. Sự kiện này tượng trưng cho con thuyền Hội thánh giữa biển trần gian luôn phải đương đầu với những nghịch cảnh.
- C 25-27: + Khoảng canh tư: Vào thời Đức Giêsu, dân Do Thái cũng như người Rô-ma: chia ngày thành 12 giờ từ 6 giờ sáng đến 18 giờ chiều, và chia đêm thành 4 canh, mỗi canh kéo dài 3 giờ. Canh tư tức vào khoảng từ 3 đến 6 giờ sáng. + Người đi trên mặt biển: Cựu Ước nhiều lần nói tới Đức Chúa đi trên biển (x. G 9,8; Tv 77,20). Đức Chúa đã từng tỏ uy quyền trên sự hỗn mang khi tạo dựng trời đất, khống chế Biển Đỏ khi giải thoát dân Do thái khỏi ách nô lệ của người Ai cập. Ở đây Đức Giêsu muốn ám chỉ Người là Thiên Chúa, có quyền trên sức mạnh của biển khơi. + Các ông hoảng hốt bảo nhau: “ma đấy!” và sợ hãi la lên: Các môn đệ thấy bóng Đức Giêsu đi trên mặt nước đến gần thuyền thì sợ hãi kêu la vì tưởng mình thấy ma. + “Cứ yên tâm, đừng sợ!”: Là lời Đức Giêsu trấn an các ông. + Chính Thầy đây: Trong Cựu Ước Đức Chúa nhiều lần xưng mình: “Chính là Ta”, “Ta là Gia-vê”, “Ta là Đấng Có” … khi hiện ra với các tổ phụ (x. St 46,3; Xh 3,14). Ở đây, khi xưng mình: “Chính Thầy đây”, Đức Giêsu ngầm mặc khải Người chính là Thiên Chúa.
- C 28-31: + “Nếu quả là Ngài”: Phê-rô vẫn còn nghi ngờ không biết có thực là Thầy Giêsu không. + “Thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”: Câu này cho thấy Phê-rô tính khí bốc đồng, ăn nói bộc trực. + “Cứ đến!”: Phê-rô được Đức Giêsu chia sẻ quyền năng siêu nhiên đi trên mặt nước, nhờ biết đặt trọn niềm tin vào Người. + Thấy có gió thổi thì ông đâm sợ: Đức Giêsu có lần đã ban quyền chiến thắng quyền năng âm phủ cho Phê-rô (x. Mt 16,18b), nhưng ông có nhận được quyền năng ấy hay không là tuỳ vào đức tin của ông mạnh hay yếu. Bao lâu Phê-rô còn tập trung chú ý vào Đức Giêsu, thì ông còn khống chế được sức mạnh của biển cả. Nhưng khi bắt đầu hoài nghi, ông đâm ra nhát sợ và lập tức bị chìm xuống nước. + “Thưa Ngài, xin cứu con với”: Câu này tương tự câu của các Tông đồ cầu cứu Đức Giêsu khi thuyền của các ông bị gió bão sắp bị chìm (x. Mt 8,25). Trong Thánh Vịnh cũng có nhiều lời cầu nguyện của dân Do thái xin Chúa giúp vượt qua sức mạnh của biển cả đe dọa (Tv 69,15-16; 144,7). + Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông: Trước lời cầu xin khẩn thiết của Phê-rô, Đức Giêsu đã mau mắn đáp lại bằng cách đưa tay ra nắm lấy ông. + “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”: Lời Đức Giêsu vừa trách đức tin yếu kém của ông, vừa khích lệ ông hãy tín thác cậy trông vào Người.
- C 32-33: + Gió lặng ngay: Sự hiện diện của Đức Giêsu đã đánh tan sóng gió và đem lại bình yên cho con thuyền của các môn đệ. + Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!: Đây là lời tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa quyền năng. Tin Mừng Mát-thêu đã mượn lời tuyên xưng này để cho thấy đức tin của Hội thánh Sơ Khai như sau: “Đức Giêsu Ki-tô là Con Một Thiên Chúa, đồng bản tính với Đức Chúa Cha!”.
CÂU HỎI:
1) Tại sao Đức Giêsu lại truyền cho các môn đệ mau xuống thuyền sang bờ bên kia trước? 2) Đức Giêsu lên trên núi để làm gì? 3) Bạn biết gì về Biển hồ được đề cập trong Tin mừng hôm nay? 4) Tại sao con thuyền các môn đệ bị chập chờn không tiến xa được? 5) Canh tư tương đương với mấy giờ sáng hiện nay? 6) Ý nghĩa của việc Đức Giêsu đi trên mặt biển là gì? 7) Thái độ của các Tông đồ ra sao khi thấy bóng người đi trên biển đến gần thuyền và Đức Giêsu đã làm gì để trấn an các ông? 8) Qua câu nói: "Chính Thầy đây", Đức Giêsu ngầm mặc khải Người là ai? 9) Phê-rô đã biểu lộ tính khí ra sao khi mau miệng xin được đi trên mặt nước đến cùng Thầy? 10) Tại sao Phê-rô đang đi trên mặt biển lại bị chìm và ông đã làm gì để được Thầy ra tay cứu giúp?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!”. Phê-rô thấy gió thổi thì ông đâm sợ và khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt 14,30).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Hãy ngước nhìn lên cao
Vào lúc mới có thuyền buồm, một cậu bé nọ xin được đi biển để học làm thủy thủ. Một hôm biển nổi cơn giông bão, thuyền trưởng đã ra lệnh cho cậu bé leo lên cột buồm cột lại một sợi dây buồm bị gió làm tuột ra. Cậu bé đã dễ dàng leo lên phân nửa cột buồm vì cậu luôn hướng mặt lên cao. Nhưng khi leo đến lưng chừng thì cậu đã mắc phải một sai lầm lớn là quay mặt nhìn xuống mặt biển đang dậy sóng. Do đó cậu bị chóng mặt và sắp bị té ngã. Thấy vậy, một thủy thủ già nhiều kinh nghiệm đã la to nhắc cậu: ” Này nhóc, hãy ngước mặt lên cao! Hãy mau nhìn lên trời!”. Cậu bé đã nghe theo lời chỉ dẫn khôn ngoan ấy và đã leo được tới đỉnh thi hành lệnh của thuyền trưởng một cách an toàn.
Lỗi lầm của cậu bé nói trên giống như lỗi lầm của ông Phê-rô trong Tin mừng hôm nay. Cũng như cậu bé đã rời mắt khỏi đích nhắm để nhìn xuống mặt nước nên có nguy cơ bị té ngã, thì ông Phê-rô do rời mắt khỏi Thầy để nhìn xuống mặt biển nên đã bị chìm xuống.- (M. Link)
2. SỰ CẦU NGUYỆN ĐEM LẠI BÌNH AN CHO TÂM HỒN:
Két Miu-Lơ (Keith Miller) tác giả cuốn sách tựa đề “Hương rượu mới” (The taste of new Wine), đã thuật lại một biến cố làm thay đổi cuộc đời của ông như sau:
Vào một đêm nọ, trên đường đi bộ về nhà, Két đã bị một chiếc xe hơi từ phía sau tông phải làm anh bị té bất tỉnh bên lề đường suốt hơn một tiếng đồng hồ khi chờ xe cứu thương. Lúc tỉnh dậy và ý thức về tình trạng của mình, anh đã cầu nguyện với Chúa. Sau khi cầu nguyện xong, anh cảm thấy tâm hồn thật sự được bình an. Két viết: “Tôi cảm thấy xấu hổ về việc tại sao mãi đến lúc này tôi mới biết được giá trị của sự cầu nguyện. Ngay lúc đó, dù đang phải đối diện với cái chết, nhưng tôi không còn cảm thấy sợ chút nào. Tôi có cảm giác Chúa đang hiện diện bên tôi và sẵn sàng ra tay cứu giúp tôi”. Sau đó, Két đã được các bác sĩ kịp thời cứu sống và mau chóng bình phục. Anh trở lại đại học được bầu làm chủ tịch lớp sinh viên năm thứ hai. Nhưng về sau, do bị các hoạt động xã hội của trường đại học lôi cuốn, anh lại thôi, không còn đến nhà thờ nữa và tiếp tục lún sâu vào các đam mê tội lỗi như trước.
Sau khi tốt nghiệp đại học, anh lập gia đình và được nhận vào làm việc cho một hãng xăng dầu ở tiểu bang Tếch-sớt (Texas). Cuộc sống gia đình và công việc không suông sẻ. Một hôm Két chơi bài bị thua đậm. Bao nhiêu tiền bạc dành dụm bấy lâu giờ bị thua trắng tay! Anh đã bị vợ nặng lời mạt sát và đòi làm đơn ra tòa ly hôn. Anh buồn chán đánh xe chạy đi khỏi nhà mà không biết phải đi về đâu? Sau khi chạy được một lúc, anh tấp xe vào bên lề đường, tắt máy rồi ngồi đó im lặng vừa hút thuốc vừa suy nghĩ. Trước đây mỗi lần gặp phải điều gì buồn phiền, anh chỉ cần uống vài ly rượu mạnh rồi nằm vật ra giường ngủ một giấc đến sáng là hết. Thế nhưng bây giờ sự thể lại không đơn giản như thế. Anh đã bị dồn đến bờ vực phá sản sau một phút lỡ lầm! Anh nhìn lên trời và la to: “Nếu Chúa muốn gì nữa thì xin hãy lấy tất cả đi. Con thực sự muốn như vậy đó!” Ngay lúc ấy, đột nhiên anh cảm thấy tâm hồn thư thái bình an trở lại, một cảm giác mà cách đó mười mấy năm anh đã từng trải qua khi bị thương bất tỉnh bên lề đường. Ngay lúc đó, anh đã hạ quyết tâm phải thay đổi đời sống. Dù không có những tia sấm chớp trên trời, cũng chẳng có tiếng nói mầu nhiệm nào của Thiên Chúa trong lòng, nhưng Két đã nhận biết rõ điều Chúa muốn anh phải làm là hiến toàn thân phụng sự Người. Người không cần tiền bạc, thời giờ hay sức lực của anh mà chỉ cần anh quyết tâm thay đổi lối sống, để Người ban bình an cho anh và giúp anh trung thành phụng sự Người. Có thể nói: Két đã thực sự được tái sinh nên một người mới thuộc trọn về Chúa.
3. SUY NIỆM:
Câu chuyện Phê-rô đi trên mặt biển và được Đức Giêsu cứu khỏi bị chìm gợi lên cho chúng ta bài học về đức Tin: Mỗi khi cảm thấy tâm hồn bất an là lúc chúng ta đã quên Chúa, đã không còn tập trung vào Người. Khi bị chìm vào các đam mê tội lỗi, là lúc chúng ta đã hoài nghi về tình thương cứu độ của Chúa và bỏ làm các việc đạo đức. Bấy giờ chúng ta cần noi gương thánh Phê-rô để kêu cầu với Chúa Giêsu. Chắc chắn Người sẽ nắm lấy chúng ta và trả lại bình an cho tâm hồn chúng ta.
1) “Cứ yên tâm. Chính Thầy đây. Đừng sợ!”:
Đôi khi Chúa để chúng ta gặp phải các tai ương, bệnh tật và đau khổ là Người muốn thử thách đức tin của chúng ta như người ta thường nói: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Cũng như dù đang cầu nguyện trên núi, nhưng Đức Giêsu vẫn dõi mắt theo con thuyền của các môn đệ đang lênh đênh trên biển cả và Người đã đi trên mặt nước để đến cứu giúp các ông, thì ngày nay Người cũng luôn quan tâm đến con thuyền Hội Thánh trong cơn phong ba bão táp hầu kịp thời ứng cứu khi cần. Nếu thực sự tin vào quyền năng của Đức Giêsu, thì chúng ta cũng sẽ không hoảng sợ khi phải đương đầu với các nghịch cảnh, vì tin rằng Chúa vẫn luôn dõi theo chúng ta và sẽ kíp thời cứu giúp chúng ta khi cần. Hãy luôn ý thức: “Có Chúa cùng đi với chúng ta, chúng ta sẽ không còn sợ chi và chắc chắn sẽ đạt đến bến bình an”.
2) “Thưa Ngài, xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài”:
Qua việc bước ra khỏi thuyền đi trên mặt nước đến với Đức Giêsu cho thấy Phê-rô có một đức tin hành động hơn là lý thuyết suông. Như vậy đức tin thực sự sống động phải được thể hiện qua hành động cầu nguyện và thực hành Lời Chúa dạy như lời thánh Gia-cô-bê: “Đức Tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17).
Thực vậy, cũng như một học viên học vi tính hay học bơi lội. Ngoài việc nghe hướng dẫn viên trình bày bài học để có một kiến thức căn bản, học viên còn phải biết ngồi vào máy tính để tập thao tác cho thuần thục, hoặc phải lội xuống nước sông hồ để tập từng động tác mới có thể bơi được… Cũng vậy, để đạt được một đức tin trưởng thành, ngoài việc học giáo lý thánh kinh, người tín hữu còn phải cầu nguyện và áp dụng Lời Chúa qua lối ứng xử với tha nhân giữa đời thường. Nếu không chịu thực hành Lời Chúa, thì dù có bằng tiến sĩ thần học, đức tin của nhà thần học này có thể vẫn yếu đuối hơn một tín hữu bình dân nhưng lại năng cầu nguyện với Chúa. Các gian nan thử thách gặp phải chính là thước đo đức độ của một con người như câu người ta quen nói: ”Lửa thử vàng, gian nan thử đức”. Thánh Phao-lô cũng từng trải qua nhiều cuộc chiến đấu cam go như ngài đã viết: ”Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả quyết với tôi: Ơn của Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối” (2 Cr 12,7-9).
3) “Thưa Ngài, xin cứu con với!”:
Khi nhìn vào Đức Giêsu, ông Phê-rô đã có thể đi trên mặt nước như thầy mình. Nhưng khi cơn gió mạnh ào đến, đức tin của ông bị suy giảm thì ông lập tức bị chìm. Phê-rô trong cơn nguy biến đã tín thác cậy trông qua lời kêu cứu: “Thưa Ngài, xin cứu con với!”. Bàn tay của Đức Giêsu đã kịp nắm lấy ông và đưa ông lên thuyền bình an kèm theo lời trách nhẹ: “người đâu mà kém tin như vậy! Sao lại hoài nghi?“.
Ngày nay nhiều khi chúng ta có cảm tưởng như bị Chúa bỏ rơi khi chúng ta liên tiếp gặp phải những tai nạn rủi ro và những điều trái ý cực lòng. Nhưng thực ra đó là phương cách Chúa thường dùng để huấn luyện đức tin của chúng ta. Khi gặp tai ương hoạn nạn mà chúng ta sợ hãi, bỏ cầu nguyện dự lễ và tìm đến với các trò mê tín như bói toán, bùa ngải… là dấu cho thấy đức tin của ta đã suy yếu trầm trọng hoặc đã chết rồi. Trái lại, nếu chúng ta biết dâng lời cầu xin: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” rồi làm theo lời Chúa chỉ dạy, thì mới chứng tỏ đức tin của ta vững mạnh.
4) Năng cầu nguyện kết hiệp với Chúa:
Về việc cầu nguyện, nhiều người thường bỏ cầu nguyện với lý do: “Tôi bận quá không có thời giờ rảnh để cầu nguyện với Chúa”... Nhưng thật ra Chúa luôn ở bên ta, ngay trong lòng ta. Chỉ cần ta ý thức sự hiện diện của Chúa Giêsu và thưa chuyện với Người bằng một lời nguyện tắt. Tại sao mỗi ngày chúng ta có nhiều giờ đi uống cà phê tán gẫu với chúng bạn hay ngồi hàng giờ xem truyền hình… mà lại không thể bớt ra ít phút để vào sa mạc của lòng mình cầu nguyện với Chúa. Mỗi ngày chúng ta có khá nhiều cơ hội để gặp gỡ Chúa, mà vì không ý thức về sự cần thiết của việc cầu nguyện, nên ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội gặp gỡ Người. Chẳng hạn: Những lúc cửa hàng vắng khách, khi chờ đèn xanh đèn đỏ, khi bị kẹt xe hay bất ngờ nhà bị cúp điện… Thay vì bực bội khó chịu, chúng ta hãy ý thức sự hiện diện của Chúa và thưa chuyện với Người về những điều làm ta lo lắng hay đang phải đối phó.
4. THẢO LUẬN: 1) Chúng ta cần học tập thánh Phê-rô điều gì về sự cầu nguyện? 2) Nên cầu nguyện những lúc nào trong ngày? 3) Khi gặp thất bại hay rủi ro trái ý, ta cần làm gì để noi gương thánh Phê-rô?
5. CẦU NGUYỆN:
- Lạy Chúa Giêsu. Hội Thánh ngày nay cũng đang gặp rất nhiều khó khăn trở lực nên không thể thăng tiến được. Xin cho các mục tử trong Hội Thánh luôn tin cậy vào tình thương quan phòng và quyền năng của Chúa. Xin cho chúng con biết chu toàn sứ vụ làm chứng cho Chúa bằng lối sống quên mình vị tha và yêu thương phục vụ tha nhân. Xin cho chúng con sẵn sàng góp công góp của để cộng tác vào sứ vụ loan Tin Mừng của Hội Thánh.
- Lạy Chúa. Chúa muốn chúng con luôn vững tin vào Chúa mỗi khi gặp thử thách gian nan. Ngày nay vẫn có những cơn sóng gió làm chúng con hoài nghi và không còn tin cậy vào Chúa, khiến chúng con ngày một chìm sâu vào các đam mê tội lỗi. Mỗi khi con sắp chìm đắm, xin Chúa hãy động viên con như đã động viên các môn đệ trong Tin Mừng hôm nay: “cứ yên tam. Chính Thầy đây, đừng sợ!”. Xin hãy cầm lấy tay con khi con sắp quỵ ngã, và hãy nâng đỡ đức tin yếu hèn của con, giúp con đứng vững trước bao sóng gió cuộc đời. Nhất là xin cho con biết luôn ngước nhìn lên Chúa là nguồn hy vọng và là sự trông cậy độc nhất của con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
70. Suy niệm của Nguyễn Chính Kết
ĐỨC TIN THỰC NGHIỆM CẦN THIẾT CHO ĐỜI SỐNG KITÔ HỮU
Câu hỏi gợi ý:
1. Sự hiểu biết có hai thứ: thứ lý thuyết và thứ thực nghiệm. Đức tin có gì tương tự như thế không? Đức tin lý thuyết và đức tin thực nghiệm khác nhau thế nào? Đức tin của bạn thuộc loại nào?
2. Niềm tin vào Đức Giêsu của Phêrô khi ông đi được trên mặt nước khác với niềm tin của các tông đồ khác còn lại trong thuyền ở chỗ nào? Muốn có một đức tin thực nghiệm như Phêrô, ta phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
1. Hai thứ kiến thức
Sự hiểu biết có hai thứ: hiểu biết như là kiến thức, và hiểu biết như là kinh nghiệm. Chẳng hạn trước khi ra Hà Nội lần đầu, tôi đã nghiên cứu nhiều về thành phố này, bản đồ của Hà Nội như được chụp hình trong tâm trí tôi. Cái biết ấy chỉ là kiến thức, là biết cách lý thuyết. Về sau tôi có dịp ra Hà Nội nhiều lần, sống, làm việc và tiếp xúc với nhiều người ở đây trong nhiều tháng. Tôi có dịp tham quan các hồ, các công viên, các di tích lịch sử… tại đây. Những gì tôi thấy, cảm nghiệm bây giờ đều đúng như những gì tôi biết cách lý thuyết trước khi ra đây. Nhưng cái biết của tôi bây giờ khác với cái biết hồi trước, vì cái biết của tôi bây giờ về Hà Nội là kinh nghiệm, là cái biết thực nghiệm.
Để hiểu biết như là kiến thức, hay hiểu biết cách lý thuyết thì chỉ cần học ở trường, đọc sách, nghe đài, coi truyền hình là có được. Còn hiểu biết như là những kinh nghiệm, hay hiểu biết cách thực nghiệm thì phải từng sống, từng tiếp xúc, từng hưởng thụ hay từng chịu khổ vì người hay vật ta biết. Cái biết sau là cái biết thâm sâu, cái biết đi vào chính hữu thể của đối tượng biết.
2. Hai thứ đức tin
Một cách tương tự, có hai loại niềm tin: tin cách lý thuyết và tin cách thực nghiệm. Tin cách lý thuyết là tin rằng đúng, là chân thật điều mình nghe nói, học hỏi, đọc trong sách báo hay trông thấy qua hình ảnh, tivi… Còn tin cách thực nghiệm là niềm tin đã được sống, đã được kinh nghiệm trong thực tế, nhờ đó ta tin một cách thâm sâu và xác tín. – Khi học giáo lý, ta được dạy rằng Thiên Chúa luôn quan phòng, yêu thương bảo vệ ta. Ta tin vì cho rằng đó là những điều Thiên Chúa mặc khải qua Đức Giêsu, được Giáo Hội lưu truyền lại, và người dạy ta (linh mục, giáo lý viên) không hề nói dối hoặc nói sai. Vì thế, khi gặp nhiều nguy hiểm, khó khăn trong cuộc đời, ta áp dụng niềm tin đó vào thực tế bằng cách phó thác mọi sự cho Chúa, thì thấy lần nào Ngài cũng bảo vệ ta thoát khỏi hiểm nguy, giúp ta giải quyết những khó khăn một cách thật kỳ diệu. Lúc ấy niềm tin của ta vào sự quan phòng yêu thương của Thiên Chúa là một niềm tin thực nghiệm.
Trong Tin Mừng, khi đọc câu chuyện Đức Giêsu đi trên mặt nước thì ta tin như vậy. Đó là tin cách lý thuyết. Nhưng các tông đồ được thấy tận mắt Ngài đi trên mặt nước đến với mình, riêng Phêrô còn đích thân đi trên mặt nước đến với Ngài, thì niềm tin của các ông vào việc Ngài có khả năng đi trên mặt nước là một niềm tin thực nghiệm. Tuy nhiên, tin rằng chính mình có thể đi trên mặt nước được thì tất cả các tông đồ đều tin như vậy, nhưng vẫn chỉ là tin trên lý thuyết; chỉ riêng Phêrô, người đã thật sự đi trên mặt nước, thì niềm tin của ông về điều này mới là niềm tin thực nghiệm. Ông kinh nghiệm rằng chính niềm tin vững chắc của ông vào khả năng ấy khiến ông làm được điều ấy, vì khi ông nghi ngờ về khả năng ấy, lập tức ông bị chìm xuống.
3. Đời sống tâm linh vững mạnh dựa trên đức tin thực nghiệm
Dường như người Kitô hữu nào sau khi học giáo lý cũng đều tin có Thiên Chúa, tin Ngài có ba ngôi, tin Đức Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, tin có thiên đàng, tin có hỏa ngục… Các nhà thần học thì còn tin cả hàng ngàn tín điều được ghi trong sách Enchiridion Symbolorum dày cả 5,6 trăm trang, do nhà thần học Heinrich Denzinger đã thu thập lại thành sách. Nhưng đức tin ấy đối với phần đông Kitô hữu chỉ là đức tin lý thuyết, cho dù họ có thể tuyên xưng ra ngoài rất mạnh mẽ, và ai tuyên xưng khác với họ thường bị họ kết án hoặc tẩy chay. Tuy nhiên chỉ khi gặp thử thách trong thực tế đời sống, họ mới nhận ra đức tin của mình rất yếu kém, đôi khi có vẻ như chẳng tin gì cả.
Chẳng hạn người Kitô hữu nào cũng tin có thiên đàng, hỏa ngục, luyện ngục, nhưng biết bao người có thể phạm tội một cách dễ dàng dù họ tin rằng phạm tội thì có thể sa hỏa ngục hay phải đền tội ở luyện ngục. Nhiều khi họ phạm tội một cách dễ dàng hơn là phạm một sai lầm về kinh doanh khiến việc làm ăn của họ có thể bị lỗ hay thất bại. Biết bao người sẵn sàng phạm tội chỉ để được một lợi lộc rất chóng qua ở đời này! Điều đó chứng tỏ họ chỉ tin một cách rất lý thuyết chứ không phải tin một cách thực tế! Vì thế, đời sống tâm linh của họ không tiến triển được bao nhiêu suốt bao năm sống đạo, đôi khi còn thụt lùi nữa.
Một người thật sự tin vào tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa thì khó có thể yếu đuối được! Vì đức tin làm nên sức mạnh. Đức Giêsu nói: «Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được» (Mt 17,20). Vụ lạm dụng tình dục vừa bùng nổ ở Mỹ trong năm qua cho thấy ngay cả những thầy dạy về đức tin vẫn có nhiều người chẳng tin bao nhiêu những điều mình dạy người khác tin. Nhiều hiện tượng khác cũng chứng minh điều ấy.
4. Muốn có đức tin thực nghiệm, phải thật sự sống những điều mình tin
Phêrô thấy Đức Giêsu đi trên mặt nước, ông liền tin rằng Ngài cũng có thể cho ông đi trên mặt nước như Ngài. Nếu ông không thật sự bước ra khỏi thuyền để đi trên mặt nước, thì niềm tin ấy mãi mãi chỉ là tin cách lý thuyết. Nhưng ông thử nghiệm ngay điều ông tin xem sao, và ông thấy chính ông đã đi trên mặt nước được. Thế là niềm tin ấy đã trở thành niềm tin thực nghiệm. Khi thử nghiệm những điều tin khác nữa, ông cũng sẽ thấy nó thật sự đúng. Từ đó, đức tin của ông ngày càng vững chắc hơn vì nó mang tính thực nghiệm.
Cũng vậy, không ai có được đức tin thực nghiệm nếu không thử sống thật, sống đúng như những điều mình tin. Khi đem những điều mình tin cách lý thuyết ra để sống trong thực tế, ta sẽ dần dần chứng nghiệm được những điều mình tin ấy là đúng thật. Cứ tiếp tục như thế, đức tin của ta ngày càng vững mạnh hơn. Sở dĩ ta chưa có đức tin thực nghiệm, là vì ta chưa thật sự dấn thân cho niềm tin của mình. Nếu ta đã tin cách lý thuyết vào sự quan phòng của Thiên Chúa, thì ta hãy thử sống niềm tin ấy cách cụ thể khi gặp thử thách xem: chẳng hạn khi lương tâm ta đòi hỏi phải làm một điều gì có thể nguy hiểm cho bản thân mà ta vẫn dám dấn thân, thì chỉ khi ấy ta mới thực nghiệm được sự quan phòng bảo vệ thật sự của Thiên Chúa đối với ta. Hay ta hãy thử dấn thân theo Chúa bằng việc từ bỏ mình và từ bỏ mọi sự cách triệt để, ta sẽ cảm nghiệm lời Chúa nói hoàn toàn chính xác: «Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau» (Mc 10,29-30). Vấn đề cuối cùng là ta có dám thử sống đúng như ta tin hay không!
Việc thử nghiệm đức tin cũng tương tự như có ai chỉ cho ta một phương pháp rất dễ dàng để tăng cường sức khỏe. Ta nghe và biết rất thấu đáo những chỉ dẫn ấy. Đó là cái biết lý thuyết. Nếu ta tin người ấy, thì niềm tin ấy cũng chỉ là niềm tin lý thuyết. Nhưng nếu ta thử thực hành điều người ấy chỉ dẫn để xem phương pháp ấy có hiệu quả không, và ta thấy nó có hiệu quả thật sự, thì niềm tin của ta vào phương pháp ấy là niềm tin thực nghiệm. Để đời sống tâm linh phát triển, ta cần có những kinh nghiệm thật sự và phong phú về Thiên Chúa, về tình yêu và quyền năng của Ngài. Nếu không có kinh nghiệm về Thiên Chúa, dù ta có là tiến sĩ thần học, thông thạo mọi lý thuyết về Thiên Chúa, thì đời sống tâm linh ta vẫn có thể nghèo nàn hơn một bà cụ ít học nhưng luôn cảm nghiệm rõ ràng sự hiện diện cụ thể của Thiên Chúa và tình yêu đầy quyền năng của Ngài trong đời sống bà.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu đã dạy con rất nhiều điều, con đều chấp nhận và tin hết. Nhưng đời sống con sao vẫn yếu đuối, vẫn buồn phiền, vẫn đau khổ. Đúng ra Tin Mừng của Ngài phải làm con mạnh mẽ và an vui hạnh phúc mới phải, bất chấp những nghịch cảnh xảy tới. Đọc bài Tin Mừng về việc Phêrô đi trên mặt nước đến với Đức Giêsu, con nhận ra rằng con chỉ tin cách lý thuyết, chứ chưa hề thử nghiệm niềm tin ấy như Phêrô, bằng cách thật sự bước ra khỏi thuyền để đi trên mặt nước như mình đã tin rằng mình làm được. Vì thế, con vẫn là kẻ ấu trĩ về tâm linh, cho dù con đã tin và hiểu rõ cả hàng ngàn điều Đức Giêsu và Hội Thánh dạy. Đức tin của con vẫn chỉ là đức tin bằng lời nói, chưa phải là đức tin bằng hành động. Xin Cha cho con dám can đảm áp dụng những gì con tin vào đời sống, để con có kinh nghiệm về Cha, về sự hiện diện thật sự và quyền năng của Đức Giêsu trong đời sống của con. Có thế, đời sống tâm linh con mới mạnh mẽ lên và phát triển được. (JK)
71. Chúa Giêsu quyền phép
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, như vậy chính Ngài đã tạo dựng vũ trụ, vạn vật, muôn loài, vì thế Ngài có toàn quyền trên thiên nhiên. Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những bằng chứng để chúng ta quả quyết điều trên: Chúa đi trên biển nổi sóng và sóng gió yên lặng ngay khi có lệnh của Ngài hoặc khi có sự hiện diện của Ngài.
Hoàn cảnh của phép lạ: Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, dân chúng phấn khởi quá muốn suy tôn Chúa làm vua, nhưng Chúa thì không đồng tình như vậy, nên Ngài bảo các môn đệ xuống thuyền ra khơi đi trước và đợi Ngài ở phía bên kia Biển Hồ, Ngài giải tán dân chúng rồi một mình lên núi cầu nguyện. Các môn đệ ra đi được khoảng vài cây số thì gặp sóng to gió lớn. Thánh Luca ghi lại: gió ngược thổi mạnh dữ dội, thánh Mát-thêu cho biết: lúc ấy vào khoảng canh tư, nghĩa là vào khoảng ba giờ sáng, như vậy lúc đó các môn đệ đã rất mệt mỏi sau mấy tiếng đồng hồ chèo chống.
Giữa lúc ấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ, hình như Ngài muốn đi ngang qua các ông. Vừa mệt mỏi, vừa đêm tối, các môn đệ thấy có bóng người đi trên mặt biển, tưởng là ma quái hiện hình, nên hoảng sợ, nhưng khi nghe tiếng nói quen thuộc trấn an: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ", các ông mới nhận ra Chúa, lập tức Phêrô xin phép đi trên mặt nước đến gặp Chúa. Chúa bằng lòng. Phêrô bước ra khỏi thuyền đến với Chúa, nhưng đức tin của ông còn yếu kém, ông hồ nghi và lo sợ nên bị chìm dần xuống và kêu xin Chúa cứu giúp. Chúa đưa tay cầm lấy tay ông và trách nhẹ: "Người đâu mà kém tin vậy, sao lại hoài nghi?". Khi Chúa và Phêrô đã lên thuyền, sóng gió liền yên lặng và mọi người tuyên xưng Chúa: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa".
Qua bài Tin Mừng này, chúng ta ghi nhận được ba bài học:
Bài học thứ nhất, việc Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ cho chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa. Đối với Chúa, việc này không có gì là khó khăn, và đối với chúng ta, cũng chẳng có gì là khó hiểu, vì Ngài là Thiên Chúa, là đứng tạo dựng vũ trụ, Ngài quyền phép vô cùng. Chính Ngài cầm quyền trên mọi định luật vật lý, nên việc Ngài đi trên sóng nước không có gì phản khoa học hay vô lý, nhưng lại minh chứng quyền năng Thiên Chúa của Ngài. Các môn đệ hôm ấy được chứng kiến tận mắt và ghi nhận sự kiện tỏ tường Chúa có quyền trên sóng biển, đi trên sóng, truyền cho chúng yên lặng. Vì thế, lòng tin của các môn đệ càng gia tăng. Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: Chúng ta phải tin Chúa Giêsu tuyệt đối và thể hiện niềm tin ấy bằng cách sống theo những lời Chúa dạy, bởi vì như thánh Giacôbê nói: đức tin không có việc làm là đức tin chết.
Bài học thứ hai, đang khi các môn đệ gặp bão táp, sóng gió thì Chúa xuất hiện để cứu giúp họ. Trong khoảnh khắc mọi sự đều thay đổi vì có Chúa. Điều này cho chúng ta biết: ở đâu có Chúa là có bình an. Cuộc đời chúng ta cũng vậy, có giông tố bão táp, có thử thách khó khăn, nhưng chúng ta đừng bao giờ thất vọng nghĩ rằng Chúa bỏ rơi chúng ta, Chúa ở xa chúng ta hay không để ý gì đến chúng ta. Không, Chúa luôn ở với chúng ta, Chúa luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường, Chúa luôn sẵn sàng trợ giúp chúng ta. Chúng ta có thể nói: trong những giờ phút khó khăn, nguy hiểm, khổ đau, chẳng những Chúa đi bên cạnh chúng ta, mà Chúa còn bồng bế chúng ta trên cánh tay toàn năng của Ngài.
Bài học thứ ba,Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên sóng nước ngon lành nên đã phản ứng khá mau lẹ, có thể nói quá vội vàng trước khi kịp suy nghĩ, là xin Chúa cho ông cũng đi trên sóng nước như Chúa. Chúa bằng lòng ngay, nhưng vì yếu lòng tin, lo sợ nên Phêrô đã bị chìm xuống. Ong lại vội vàng kêu xin Chúa và Chúa cũng cứu giúp ngay. Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: một quyết định hay một hành động vội vàng thường dễ sai lầm và gặp khó khăn. Vì thế, cần suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định một điều gì hay làm một việc gì, cần phải xác định được nên làm hay không nên làm và làm lúc nào. Đó là hai vấn đề: chúng ta phải cầu nguyện nhiều trước khi làm, một khi đã làm thì làm cho đến nơi đến chốn, nếu chẳng may thất bại thì cố gắng làm lại, đừng chán nản thất vọng. Thánh Phêrô đã làm như thế đã tin cậy Chúa, rồi càng yêu mến Chúa hơn trước và được Chúa tín nhiệm nhiều hơn.
72. Lưỡi dao cạo
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
Có một nhà văn Anh (Somerset Maugham) viết cuốn tiểu thuyết mang tựa đề: “Lưỡi dao cạo” (The Razor"s Edge, năm 1944), nhưng suốt trong mấy trăm trang của cuốn truyện không hề thấy một chữ “lưỡi dao cạo” nào. Ý của tác giả muốn diễn tả con đường mà nhân vật chính trong câu chuyện (Larry Darell) phải trải qua là một con đường khó khăn, y như bước đi trên cạnh sắc của lưỡi dao cạo vậy. Bài Tin Mừng hôm nay không có cạnh sắc của lưỡi dao cạo nào -ngược lại là đàng khác, dịu êm như đệm nước- nhưng ý nghĩa là tương đương như cạnh sắc của lưỡi dao: tức là cũng rất khó khăn để bước trên đó: đi trên mặt nước. Chúa Giêsu đi trên mặt nước. Các môn đệ tưởng là ma. Ngài nói: Hãy yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ. Phêrô nghe vậy liền nói: Lạy Thầy, nếu là Thầy thì xin truyền cho con đi trên mặt nước đến với Thầy. Đi trên mặt nước, chứ không phải bơi trong nước, không dễ, nên Phêrô đã chìm, phải cầu cứu thầy Giêsu: Lạy Thầy xin cứu con.
1. Cuộc sống Kitô hữu ở trần gian này ví như cuộc đi trên mặt nước.
Không phải chỉ một mình Phêrô mới đi trên mặt nước để đến với Thầy Giêsu, mà hầu như mọi người đệ tử của Thầy Giêsu là chúng ta đây đều được truyền hãy đi trên mặt nước để đến với Thầy: Lạy Thầy, nếu là Thầy thì xin truyền cho con đi trên mặt nước đến với Thầy. Ta thử tưởng nghĩ ra một số trường hợp không xa lạ gì:
- An là một sinh viên sống xa gia đình và dĩ nhiên phải ở nhà trọ trên thành phố để đi học. Sáng Chúa nhật, trời lạnh, chăn ấm. An không muốn trỗi dậy đi lễ. Vả lại anh cũng ngại bị những bè bạn ngoại đạo cùng trọ thấy anh đi lễ và chê cười anh còn mê tín dị đoan. Sau vài phút dằng co, An cương quyết tung chăn ngồi lên chuẩn bị đi lễ. Nghĩa là An bắt đầu bước đi trên mặt nước, bất chấp sóng gió của cơn mê ngủ và sự dị nghị của bạn bè.
- Bình là một cô gái độc thân, sau một lần nhẹ dạ đã mang thai. Nếu gia đình hay được, nếu hàng xóm biết ra thì... ôi thôi, Bình không dám nghĩ tiếp! Cô định đi phá thai. Con đường thật đơn giản, giống như ai đó ăn xong chùi mép. Nhưng rồi cô can đảm giữ lại bào thai ấy. Bình cũng đang bước đi trên mặt nước bập bình, nhưng lại an bình vì dám bất chấp bao sóng gió phũ phàng của dư luận, và bão bùng của muôn khó khăn không lường trước được.
- Công là một cảnh sát. Một tên buôn bán ma túy hứa cho anh một số tiền lớn, chỉ cần anh làm ngơ cho việc làm của hắn; Làm ngơ sẽ có tiền to, để mắt lo vào, coi chừng mất cả mạng sống. Đám tay chân đâm thuê chém mướn sẽ đến tính sổ với Công. Nhưng anh cương quyết chối từ. Công cũng đang đi trên mặt nước, đi ngược với sức quyến rũ của đồng tiền và dám đương đầu với sóng gió của đe dọa.
- Chính là nhà buôn. Nhà buôn nào chẳng muốn mau giàu. Giàu mau thật mau chỉ có một con đường là con đường tắt. Tắt trong thương trường mang nhiều nghĩa lắm, nào là bỏ qua con đường thuế má; nào là bỏ qua công đoạn phức tạp để có được một mặt hàng nhanh, rẻ giá thành, nhưng cứ bành trướng giá bán. Chính không muốn đi con đường tắt đó. Anh đang đi trên mặt nước, giữa sóng gió những lời chê bai của dòng họ bạn đời mình: “Mầy lấy phải một thằng chồng chẳng biết làm ăn gì cả.”
Chúng ta còn có thể nghĩ ra thêm rất nhiều thí dụ khác trong đó có thí dụ phù hợp với hoàn cảnh của chính mình. Mỗi người, bất kể ai, miễn là đệ tử của thầy Giêsu, đều được truyền đi trên mặt nước mà đến với Thầy.
2. Làm sao để đi trên mặt nước mà không chìm
Phêrô khi thốt lên lời xin: Lạy Thầy, nếu là Thầy thì xin truyền cho đi trên mặt nước đến với Thầy. Chúa nói: Cứ đến. Và Phêrô đã từ thuyền bước xuống đến với Đức Giêsu. Ta không biết Phêrô bước trên mặt nước được mấy bước. Một bước, hai, hay ba bước. Matthêu không nói (Marcô và Luca không thuật Phêrô đi trên nước, mặc dầu có thuật Chúa Giêsu đi trên mặt biển), nhưng chắc chắn Phêrô có đi được một số bước. Nếu không đi được bước nào, nhảy xuống là chìm liền, thì Tin Mừng Matthêu đã không ghi như thế này: Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu (Mt 14,29). Chỉ khi thấy gió thổi, sóng nổi, ông mới sợ và bắt đầu chìm, vội la lên cầu cứu. Không phải ông đi được mấy bước rồi, mới có gió thổi lên, sóng to trở lại, mà sóng vẫn to, gió vẫn lớn, như Mt ghi trước đó, trước khi Chúa đi trên mặt nước đến với họ:“Thuyền đi xa bờ cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. Khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển đến với họ.” Vậy cái gì khiến Phêrô đi được mấy bước trước khi bị chìm? Chắc chắn không phải vì biển êm đột ngột, gió lặng hiu hiu làm Phêrô đi trên nước dễ dàng. Vì biển chỉ im khi Chúa cùng Phêrô lên thuyền. “Khi Thầy trò đã lên thuyền thì gió lặng” (Mt 14,32). Các nhà chú giải Kinh Thánh lẫn các nhà giảng thuyết lừng danh vẫn đồng ý với nhau là Phêrô bước đi được là do Tin vào Thầy, mắt dán chặt vào Thầy. Khi hạ mắt xuống nhìn sóng to, ông lo sợ và bắt đầu chìm lỉm ngay. May mà Phêrô nhanh miệng kêu cứu, đúng lúc, đúng người. Kêu Thầy, chứ không phải “Gioan ơi, Giacobê hỡi cứu ta với.” Vậy khi ta tin vào Chúa, nhìn vào Ngài, ta sẽ đi trên mặt nước được.
Vào thời kỳ mới có thuyền buồm, một thiếu niên kia được vị thuyền trưởng cho đi thuyền vượt biển để học tập làm thủy thủ. Một hôm gió bão nổi lên làm mặt biển dậy sóng. Viên thuyền trưởng ra lệnh cho cậu ta phải leo lên cột buồm để tháo các cánh buồm ra, tránh cho con thuyền khỏi bị gió bão vùi dập. Khi cậu ta vừa leo vừa ngước mặt lên trời thì mọi sự đều suông sẻ. Chỉ thoắt cái là cậu đã leo đến lưng chừng cột buồm. Nhưng khi cậu bắt đầu nhìn xuống mặt biển đang nổi sóng trong cơn gió bão, thì cậu lập tức bị chóng mặt như sắp bị té xuống đến nơi. Bấy giờ một thủy thủ già nhiều kinh nghiệm đã la to lên rằng:"Này chú bé, mau ngước mặt lên trời đi chứ đừng nhìn xuống! Hãy tiếp tục nhìn lên trời đi!" Cậu bé làm theo lời chỉ dẫn đó và đã leo lên tới đỉnh cột buồm và cậu đã hoàn thành nhiệm vụ là tháo được sợi dây để thả cánh buồm xuống.
Lỗi của cậu thiếu niên cũng giống như lỗi của Phê-rô trong Tin Mừng hôm nay: Cậu ta đã bỏ đích nhắm là bầu trời để nhìn xuống mặt biển nổi sóng, giống như Phê-rô đã rời mắt khỏi Đức Giê-su để nhìn vào mặt biển đầy giông tố. Vì thế ông đã bị chao đảo và bắt đầu chìm xuống.
Cuộc đời các tín hữu chúng ta cũng vậy: Bao lâu chúng ta còn nhìn vào Chúa Giê-su thể hiện qua việc siêng năng dự lễ và rước lễ. Bao lâu chúng ta còn năng nhớ đến Chúa, thì ta còn sống đạo tốt. Nhưng ngày nào chúng ta bỏ những việc đạo đức kia, thì tâm hồn chúng ta bắt đầu chìm đắm dưới quyền lực của ma quỷ, sa đà vào các thói hư tật xấu và các đam mê bất chính khác. Nói theo chủ đề của bài giảng hôm nay, chúng ta không đi trên mặt nước được.
Mặc dầu không xao nhãng các công việc trần thế, như lời dạy của CĐ Vatican 2, nhưng chúng ta cần phải tâm niệm lời thánh Phaolô trong thư Cô-lô-xê 3,1: Anh em đã được sống lại cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Nói theo kiểu nói của Tin Mừng hôm nay: hãy dán mắt vào Đức Kitô, hãy tin vào Ngài, thì anh em sẽ dễ dàng lướt đi được trên mặt nước, tức vượt qua được những khó khăn thử thách ở đời này. Ước gì được như vậy. Amen.
73. Thầy đây, đừng sợ – Lm Trần Bình Trọng
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay ghi lại những cảnh tượng sợ hãi mà dân Chúa phải đương đầu chứng kiến.
Bài sách Các Vua cho thấy tiên tri Êlia bỏ chạy trốn trong hang khi bà hoàng hậu Isabel cho truy nã giết ông vì ông quả quyết chỉ có mình Thiên Chúa là Đấng đáng tôn thờ và là Đằng điều hành vũ trụ.
Bài Phúc âm ghi lại các Tông đồ trở nên khiếp sợ khi gặp sóng to bão lớn. Thường thì biển hồ Galiêa rất phẳng lặng. Nếu bạn có dịp du lịch với nhóm qua Đất Thánh, quê hương Chúa Giêsu, nhóm bạn có thể thuê tàu ra giữa biển hồ Tiberia vào lúc nhá nhem tối. Rồi một người trong nhóm đọc bài Phúa Âm hôm nay. Bạn sẽ thấy cảm động thế nào khi suy niện cảnh Chúa đi trên mặt nước, việc Chúa làm phép lạ cho sóng gió yên lặng, việc Chúa cứu Phêrô khỏi chìm và lời Chúa trấn an các tông đồ: Thầy đây, đừng sợ (Mt 14,22). Trong một bầu khí linh thiêng trên mặt hồ phẳng lặng, lời Chúa sẽ trở nên sống động thế nào trong tâm hồn bạn.
Hôm nay khi các tông đồ vừa chèo thuyền ra khơi thì mặt hồ nổi sóng dữ dội. Rồi có người đi trên mặt nước tiến về phía các tông đồ làm các ông sợ hú vía, tưởng ma quái hiện hình trêu chọc. Chúa Giêsu liền lên tiếng trấn an các ông. Thánh Phêrô là loại người nóng tính, hăng say. Khi vừa nghe tiếng Chúa, ông đòi được đến gần. Lúc này ông cảm thấy sóng gió thổi mạnh. Sợ chìm, ông kêu lên: "Xin Thầy cứ con với" (Mt 14,30). Chúa Giêsu dang tay cứu ông với giọng trách móc: "Hỡi người hèn tin! Sao lại nghi ngờ" (Mt 14, 31). Đến đây bạn có thể nhớ lại bao nhiêu cảnh tượng kinh hoàng trong cuộc chiến tại quê nhà vào thập niên 60 và đầu thập niên 70. Rồi trong cuộc hành trình đi tìm tự do ngoài biển khơi, nhìn thấy người thân nhân chết đói, chết khát, chết chìm mà lòng xót xa nghẹn ngào. Trong chuyến đi tìm tự do, bạn còn ôm ấp nhiều mối lo sợ: sợ thuyền bị hết nhiên liệu, sợ sóng to bão lớn, sợ thiếu thực phẩm, nước uống, sợ bị hải tặc rượt bắt hãm hại. Bạn đã tựa vào niềm tin nào để bám víu?
Đứng trước những khổ trạng đó, bạn tự hỏi tại sao Chúa lại để những gian nguy khốn khó xẩy đến cho bạn và gia đình bạn? Và đâu là quyền phép của Chúa? Bạn có thể mất đức tin nếu bạn không tìm được câu trả lời thỏa đáng. Không ai có thể trả lời được tại sao, không ai biết được đường lối của Chúa, mà chỉ có thể chấp nhận bằng đức tin. Nếu nhìn kỹ vào đời sống, bạn sẽ thấy rằng những hoàn cảnh trắc trở có thể trở thành những cơ hội được chúc phúc, những cơ hội Chúa dùng để dẫn đưa bạn tiến lại gần Chúa, những cơ hội giúp bạn tìm đến và trở về với Chúa. Bạn sẽ thấy lòng từ bi và nhân hậu của Chúa đến với bạn sau những khủng hoảng của tâm hồn, và bạn sẽ tìm lại được sự bình an.
Nếu gặp sóng gió ngoài biển cả, bạn cũng có thể gặp sóng gió trong tâm hồn. Sóng gió trong tâm hồn có thể xẩy đến cho bất cứ ai, người lành cũng như người dữ. Người có đức tin sắt đá cũng có thể gặp sóng gió trong tâm hồn: những cơn cám dỗ nặng nề, những giằn vặt trong lương tâm, những nghi ngờ về sự hiện diện của Chúa. Để đối phó với những sóng gió trên biển cả, các tông đồ kêu cầu đến Chúa, một việc xem ra là cần thiết phải làm. Tuy nhiên Chúa lại trách móc họ, vì họ thiếu lòng tin. Điều Chúa muốn nói ở đây là các ông phải có lòng tin vào Chúa một cách liên tục trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, chứ không phải chỉ kêu cầu đến Chúa khi gặp nguy hiểm, thất bại, bệnh tật mà thôi.
Hôm nay Chúa dạy bạn bài học là lời cầu nguyện tín thác của bạn vào Chúa phải là lời cầu xin, một tâm trạng phải có thường trực trong đời sống, trong tất cảmọi hoàn cảnh của cuộc đồi, chứ không phải chỉ khi gặp khó khăn trắc trở, khi bị dồn thế bí mới kêu cầu Chúa.
74. Hãy vững tin vào Chúa!
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Bài Tin Mừng Chúa Nhật trước, trình thuật việc Đức Giêsu giảng dạy dân chúng, chữa lành bệnh tật và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi họ. Sau đó là việc Đức Giêsu biến hình để củng cố lòng tin nơi các môn đệ và mặc khải cho các ông biết về hành trình theo Chúa thì phải trải qua đau khổ rồi mới đến vinh quang. Hôm nay, thánh Mátthêu cho biết Đức Giêsu truyền cho các ông sang bờ bên kia trước, còn Ngài ở lại giải tán dân chúng và sang sau. Đến rạng sáng thì Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến cùng các môn đệ.
Tại sao Đức Giêsu ở lại và các môn đệ phải đi trước? Sao không để các ông cùng giải tán và thu dọn… rồi thầy trò cùng xuống thuyền…? Và sao Đức Giêsu không đến, hiện diện ở trên thuyền ngay mà lại phải đi trên mặt nước…?
1. Ý nghĩa bài Tin Mừng
Thưa, vì quá thương xót dân chúng, nên Đức Giêsu đã tìm mọi cách để giúp dân được thỏa mãn cơn đói thể xác và chữa lành sự đau đớn thể lý cho những ai đang mang trên mình bệnh tật, đui hủi, què quặt…, đồng thời ban cho họ lương thực thần thiêng chính là những lời giáo huấn.
Vì thấy Đức Giêsu là một người: “văn võ song toàn”, từ trước đến giờ chưa có trong lịch sử, họ không hiểu được vai trò của Đức Giêsu trong chương trình cứu chuộc mà Thiên Chúa Cha muốn. Vì thế, dân chúng có ý định tôn Ngài lên làm vua.
Việc họ muốn đây không có gì khác ngoài động lực thực dụng. Họ thấy Đức Giêsu đem lại cho họ cuộc sống ấm no, làm được những chuyện phi thường, và hy vọng giúp họ thống lãnh các miền phụ cận. Đây chính là động lực duy nhất của dân khi muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua.
Họ nghĩ rằng điều họ muốn sẽ được Đức Giêsu chấp thuận. Tuy nhiên, dân chúng đâu có biết rằng lối suy nghĩ của họ đã bị sai lầm, vì sứ mạng Thiên Sai của Đức Giêsu không phải vậy. Sứ mạng của Ngài đến để cứu và chuộc những gì đã mất bằng chính cái chết chứ không phải quyền lực theo kiểu binh đao, cho nên, mọi hành vi, lời nói của Ngài phải hiểu trong vai trò là người Tôi Trung của Giavê.
Cảm và thấy được trước những điều mà dân chúng muốn nơi mình, nên Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ sang bờ bên kia trước. Phần vì muốn các ông nghỉ ngơi sau một ngày mệt nhọc, phần vì muốn các ông không bị cuốn theo lối suy nghĩ của dân chúng mà sai đường trật lối trong chương trình cứu độ mà Đức Giêsu muốn các ông tiếp bước.
Khi được lệnh, các ông vâng lời và trèo thuyền để sang bờ bên kia. Tuy nhiên, hành trình của các ông lần này không được suôn sẻ lắm.
Khi thuyền đã ra giữa biển thì bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió. Các ông đang phải vật lộn với hiểm nguy. Gần sáng, Đức Giêsu đi trên mặt biển để đến với các môn đệ. Nhưng khi vừa thấy Ngài, các ông tưởng là ma nên kêu la: "Ma kìa!".
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã trấn an các ông: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!".
Thật ra thì các môn đệ cũng là những người trần mắt thịt như chúng ta thôi. Các ngài cũng đâu thoát ra được cảnh yếu đuối mặc dù đã từng được Thầy của mình dạy dỗ, căn dặn và củng cố đức tin. Vì thế, không lạ gì khi khó khăn xảy đến, họ đâu còn nhớ gì đến quyền năng của Thầy, nên đâu có thể tin được là Thầy đang đi trước dẫn đường cho mình! Điều này chúng ta thấy rất rõ khi được Đức Giêsu trấn an, Phêrô đã thử Đức Giêsu bằng cách xin với Ngài: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Nhưng khi vừa được đến với Đức Giêsu để đi trên mặt biển, thì đức tin của ông đã bị thử thách, và ông đã không còn tin vào quyền năng của Thầy mình tuyệt đối nữa, vì vậy ông đã bị nhấn chìm dưới nước.
Lý do tại vì ông và ngay cả các môn đệ khác không có đủ nhạy bén để nhận ra và tin vào Chúa, bởi vì lòng các ông còn nặng trĩu những “tham, sân, si” không kém gì dân chúng.
Đó là ý nghĩa nội dung bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Nhưng điều mà chúng ta cùng nhau suy nghĩ, khám phá ra sứ điệp của Lời Chúa và đem ra thực hành mới là quan trọng.
2. Hiểu và sống Sứ Điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta 5 điều:
Thứ nhất, cuộc sống trên trần gian của chúng ta chỉ là tạm bợ, vì thế, trước tiên hãy tìm kiếm Nước Trời, còn mọi sự khác Chúa sẽ lo cho sau. Sẵn sàng khước từ hết tất cả những gì đi ngược lại với ơn cứu độ và khẳng khái từ bỏ những điều bất chính, quyền hành, nếu những điều đó không có ích lợi cho phần rỗi của chúng ta và niềm hy vọng của tha nhân. Cần can đảm vứt bỏ những rào cản làm chậm trễ hành trình thi hành sứ vụ của chúng ta trong cuộc sống đức tin. Noi gương Đức Giêsu, khi dân chúng tìm cách tôn mình lên làm vua, Ngài đã từ bỏ vì đó không phải là con đường cứu độ mà Chúa Cha muốn.
Thứ hai, khi thấy những nguy hiểm đến phần rỗi của anh chị em, chúng ta phải khôn khéo để giúp cho anh chị em mình thoát ra khỏi những cạm bẫy đang rình chờ. Biện pháp này đã được Đức Giêsu sử dụng khi nhìn thấy viễn cảnh không tốt cho các môn đệ khi các ông phải chứng kiến cảnh dân chúng tôn mình lên làm vua.
Tiếp theo, phải tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, vì Chúa đã nói: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!". Tin Chúa lúc vui cũng như lúc buồn, lúc thành công cũng như khi thất bại. Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta, chỉ có điều chúng ta không nhận ra hay cố tình lãng quên Ngài mà thôi.
Bên cạnh đó, hãy noi gương Đức Giêsu trong việc phục vụ. Càng làm lớn, càng phải phục vụ. Hình ảnh Đức Giêsu ở lại giải tán đám đông cho thấy, Ngài sẵn sàng phục vụ mọi người, trong khi công việc này lẽ ra phải là của các môn đệ.
Cuối cùng, Đức Giêsu nêu gương trong việc kết hợp giữa hoạt động và chiêm niệm. Nếu chỉ có hoạt động thì sẽ có nguy cơ xảy ra tình trạng “ngôn hành bất tất” và hiệu quả của công việc không cao, mặt khác rất dễ rơi vào tình trạng kiêu ngạo tự phụ và khoe khoang. Khi cầu nguyện, ta biết tìm ra thánh ý Chúa và chỉ thực hành điều Chúa muốn mà thôi. Khi cầu nguyện, ta biết mình yếu đuối và cần đến ơn Chúa.
Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết sống khiêm tốn, quên mình để phục vụ anh chị em. Amen.
75. Suy niệm của Lm Augustine, SJ.
Năm 1974, một nhà quí tộc Ba Lan - linh hoạt và có quan điểm thế giới chủ nghĩa - bước vào phòng làm việc của vị hồng y giáo chủ, tin tưởng rằng bà đã tìm được người có quan điểm gần gũi về mặt triết học. Tên bà là Thùy Minh Kha (Anna - Teresa Tymiennecka). Trong bốn năm tiếp theo đó, bà và hồng y giáo chủ đã lao vào một cuộc đối thoại triết học độc nhất vô nhị, đưa tới một ấn bản tiếng Anh rõ ràng và có sửa chữa của tác phẩm quan trọng nhất của hồng y giáo chủ, là cuốn Con Người và Hành Động.
Hãy triệu tập cho Ta những người trung hiếu (Tv 49,5)
Hồng y giáo chủ ấy, chính là Đức Gioan Phaolô II. Bà Thùy Minh Kha đánh giá như sau về Đức Giáo Hoàng đương kim: Sức mạnh lớn nhất ở Giáo Hoàng, sức hấp dẫn đặc biệt này, là giống như Chúa Giêsu. Nó bao hàm những gì? Ông gặp ai đó lần đầu tiên trong đời, ông cũng có thể mở ra cho người ấy cái kho báu được giấu kín của tình anh em. Bản thân Giêsu cũng không làm hơn thế được. Đó là vì sao mà người ta bị quyến rũ bởi ông. Với nụ cười của mình, thái độ tình cảm nồng ấm thật quyến rũ, Giáo Hoàng đã gởi gắm hết mình như thể người kia là anh em gần gũi nhất, người bà con thân thiết nhất. Đây không còn là vấn đề giả bộ hay thực tế nữa. Đó là bản chất.
Mọi người xung quanh ông thấy ở ông một con người nồng hậu nhất, khiêm nhường nhất. Họ không bao giờ thấy cái ý chí sắt đá ở đàng sau đó. Đó chính là Giáo Hoàng. Phong cách của ông hoàn toàn thoải mái. Những gì không thể tin nổi đang diễn ra trong đầu ông, người ta không nhìn thấy. Thái độ thông thường của ông với những người khác là mềm mỏng. Ý chí sắt đá của ông được tôi luyện với sự mềm mỏng này và sự thận trọng lớn lao. Nó không bộc lộ mình cách trực tiếp. Ở một mức độ nào đó, điều này là giả tạo. Nhưng đó là bản chất thứ hai, hoàn toàn không phải là giả tạo. Có thể là ông đã luôn luôn như thế này. Người ta nhìn những tấm ảnh của ông thời niên thiếu: Một cậu bé rất đáng yêu, rất suy tư, thậm chí hơi đa cảm.
(-) Sự kiên trì là một đặc tính chủ yếu khác. Ông không bao giờ thấy một trở ngại. Không có gì là một trở ngại cả. (Đức Giáo Hoàng John Paul II và lịch sử bị che đậy trong thời đại chúng ta, Nhà Xuất Bản Công An Nhân Dân Hà Nội 1997 trg 254-255)
Trên đây là lời mô tả về sức hấp dẫn đặc biệt của Đức Gioan Phaolô II. Bà Thùy Minh Kha muốn tóm tắt bằng cách nói rằng Đức Giáo Hoàng như vậy đã nên giống Chúa Giêsu. Nhưng để nhấn mạnh hơn nữa sức hấp dẫn đó, bà nói rằng gặp ai, dẫu là lần đầu tiên trong đời, Giáo Hoàng cũng có thể tỏ ra gần gũi nhất, thân thiết nhất dựa vào tình huynh đệ có sẵn nơi Giáo Hoàng, điều ấy theo bà, bản thân Giêsu cũng không làm hơn thế được
Lời khẳng định của bà Thùy Minh Kha liên quan tới Đức Giêsu đòi ta, một cách gián tiếp, phải định hướng đúng về ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu tỏ ra sức hấp dẫn phi thường nhưng Người không qui hướng mọi người và mọi sự xung quanh về với Người như đích điểm. Người luôn qui hướng tất cả về Thiên Chúa là Cha. Đó chính là hướng huấn luyện Đức Giêsu áp dụng với các môn đệ.
Trước đây (Mt 4,12) khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị bắt, Người lánh đi... Nay nghe biết ông bị giết, Người rút lui vào hoang địa (Mt 14,3-12). Chính nơi hoang địa, Đức Giêsu tỏ ra là Môsê mới của dân Thiên Chúa. Hơn nữa, Người là hiện thân của Giavê Thiên Chúa thân hành tới chăm sóc đoàn chiên như ngôn sứ Edêkien từng loan báo (chương 34)
Những người đã giao ước với Ta bằng hy lễ (Tv 49,5)
Song song với bài Tin Mừng này của Mátthêu, ta có Tin Mừng Máccô soi sáng cho thấy cách Đức Giêsu huấn luyện các môn đệ. Cả Mátthêu và Máccô đều cho thấy Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trong lúc Người giải tán dân chúng (Mt 14,2; Mc 6,45). Tại sao lại có vụ cưỡng ép này? Ta thấy các môn đệ đã tỏ ra quan tâm về nhu cầu cơm bánh của dân nên Đức Giêsu mới làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hơn năm ngàn người ăn no. Chính các môn đệ đã dọn đồ ăn cho dân chúng. Vậy thì tại sao về cuối bữa ăn lại có sự can thiệp để chính Đức Giêsu lo việc giải tán dân chúng, còn các môn đệ buộc phải xuống thuyền sang bờ bên kia trước.
Lời rao giảng đầu tiên của Đức Giêsu cũng như trước đó của Gioan Tẩy Giả là Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần (Mt 3,2; 4,17). Nước Thiên Chúa chẳng phải là lãnh thổ nhưng chính là quyền uy Thiên Chúa được nhìn nhận nơi tạo thành và Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, được phái đến để thực hiện công trình đó. Giữa tạo thành, con người luôn được mời gọi tham gia Nước Thiên Chúa với tất cả tự do được ban cho mình. Theo cách đó bốn môn đệ đầu tiên đã được mời gọi, gồm hai anh em là Anrê và Simon tức Phêrô; và hai anh em nữa là Giacôbê và Gioan (Mt 4,18-22). Cả bốn người này đều từ bỏ mọi sự để theo Đức Giêsu.
Các môn đệ được huấn luyện kỹ lưỡng. Bài huấn luyện đầu tiên theo thánh Mátthêu dành ưu tiên cho các môn đệ. Đức Giêsu như Môsê mới lên núi và khi ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người mở miệng dạy các ông về các mối phúc thật (Mt 5,1-12). Các ông được dạy để sống nghèo, hiền lành, nhận lấy những an ủi của Thiên Chúa ngang qua đau khổ, khao khát sống công chính, thương người, giữ tâm hồn trong suốt, xây dựng hoà bình, chịu bách hại vì sống đời công chính. Tất cả những lời Đức Giêsu dạy dân chúng, các môn đệ đều được nghe và được kèm thêm khi thầy trò sống tách biệt khỏi dân chúng.
Các môn đệ không những được Đức Giêsu dạy dỗ, họ còn được Người phái đi thực tập trong tác vụ rao giảng (Mt 10). Đề tài rao giảng sẽ là Nước Thiên Chúa đã đến. Sự hiện diện của Thiên Chúa là điều hiện thực tới mức sự dữ như bệnh tật hoặc quỉ ám đều được khắc phục. Tin tưởng vào Thiên Chúa, các môn đệ chẳng còn gì phải sợ. Chính các ông cần nhận lấy Nước của Thiên Chúa thay thế mọi sự khác: Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống vì Thầy thì sẽ tìm thấy được. (Mt 11,38-39).
Trong bài Tin Mừng Máccô việc phái các môn đệ đi thực tập được đề cập ở chương 6(6-13) rồi được tiếp nối giữa hai trình thuật phép lạ hoá bánh ra nhiều (Mc 6,30-44) và phép lạ Đức Giêsu đi trên mặt nước (Mc 6,45-52). Ở đây, Đức Giêsu không những dạy các môn đệ, Người còn nêu gương sáng để các ông thấy rõ thế nào là đặt ưu tiên cho Nước của Thiên Chúa.
Rất sớm trong Tin Mừng Máccô, Đức Giêsu đã tỏ ra là một nhân vật hấp dẫn quần chúng. Người chữa lành bệnh nhân và trừ quỉ hữu hiệu đến nỗi, theo Máccô, cả thành như xúm lại trước cửa nơi Đức Giêsu tá túc (Mc 1,33). Thế mà sáng sớm hôm sau, lúc trời còn tối, Đức Giêsu đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó (Mc 1,35). Rồi khi được cho biết rằng mọi người tại Caphácnaum đang tìm Người, Đức Giêsu trả lời rằng: Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó (Mc 1,38).
Ai sống đời hoàn hảo, ta cho hưởng ơn cứu độ Chúa Trời (Tv 49,23)
Một sự dứt bỏ tương đương như vậy được thấy giữa hai trình thuật hoá bánh ra nhiều và đi trên mặt nước. Ta được cho biết: Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán đám đông. Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên núi mà cầu nguyện (Mt 14,22-23).
Các môn đệ cần phải dứt bỏ đám đông, dứt bỏ mọi ảo tưởng mà xã hội có thể tạo nên cho mình, nhờ đặt mình trước cảnh bao la của biển hồ Galilê sóng gió. Các ông cần phải noi gương Đức Giêsu là luôn tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Chính từ bối cảnh cầu nguyện, Đức Giêsu đến với các ông, mang lại cho các ông ơn bình an. Tuỳ ở mức độ tin vào Đức Giêsu, ông Phêrô đi trên mặt nước để đến với Đức Giêsu. Ngược lại, giảm bới niềm tin đó, ông liền bắt đầu chìm. Chính nhờ quyền năng của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giêsu, nên các môn đệ nhìn nhận Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa. Một lần nữa, ta thấy Đức Giêsu dùng quyền năng để qui người ta về Thiên Chúa thay vì qui về bản thân mình.
08/08 Lòng tin lớn bằng hạt cải
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Lòng tin lớn bằng hạt cải.
Thứ bảy tuần 18 thường niên. – Thánh Đaminh, linh mục. Lễ nhớ.
"Nếu các con có lòng tin, thì chẳng có gì các con không làm được".
* Thánh nhân sinh quãng năm 1170, tại Ca-lê-ru-ê-ga, Tây Ban Nha. Người học thần học tại Pa-len-xi-a rồi làm kinh sĩ giáo phận Ốt-ma. Trước hết, người quy tụ một số phụ nữ về sống tại Pơ-rô-vin-lơ (Pháp), theo một tu luật, rồi sau người lập Dòng Anh Em Thuyết Giáo tại Tu-lu-dơ để đối lại lạc giáo Ca-tha.
Chính người đã chiến đấu với lạc giáo bằng lời giảng thuyết, bằng gương sáng và đã thu hoạch được kết quả khả quan. Người muốn các anh em trong Dòng phải sống khất thực, và lời giảng dạy phải xuất phát và được nuôi dưỡng bằng chiêm niệm. Người đã đặt trung tâm Dòng ở Rôma trước khi qua đời ở Bô-lô-nha ngày 6 tháng 8 năm 1221.
Lời Chúa: Mt 17, 14-19
Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: "Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được". Chúa Giêsu đáp: "Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Hãy đem nó lại đây cho Ta". Chúa Giêsu quát mắng quỷ và quỷ liền ra khỏi đứa bé. Và nó được lành ngay trong lúc ấy.
Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: "Tại sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Vì các con yếu lòng tin! Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia', thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tại anh em kém tin
Suy niệm:
Thầy Giêsu và ba môn đệ xuống từ trên núi, nơi Thầy mới hiển dung.
Bốn Thầy trò gặp ngay một đám đông.
Một người cha chạy đến, quỳ xuống trước mặt Đức Giêsu.
Ông xin Ngài thương xót đứa con trai của ông bị kinh phong nặng lắm.
Những mô tả của ông về bệnh tình của con đúng là triệu chứng kinh phong.
Cậu bé không làm chủ được mình, dễ ngã vào nước, vào lửa.
Tính mạng cậu lúc nào cũng bị đe dọa (c. 15).
Điều đáng lưu ý ở đây là chín môn đệ khác đã bó tay.
“Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài,
nhưng các ông không chữa được” (c. 16).
Chính những người đã được Thầy trao quyền để chữa bệnh và trừ quỷ
lại không thể giải quyết được trường hợp này.
Phải chăng vì không có sự hiện diện của Thầy, hay vì đám đông cứng lòng,
hay vì cơn bệnh quá nặng khiến các môn đệ không đủ tự tin và mạnh mẽ?
Dù sao Thầy Giêsu cũng phải ra tay, để làm điều cần làm.
Với thái độ hơi mất kiên nhẫn, Ngài đã trách móc đám đông (c. 17).
Ngài gọi họ là một thế hệ không tin và gian tà.
Đức Giêsu thấy mình vẫn còn phải ở lại với họ và chịu đựng họ (c. 17)
“Đem cháu lại đây cho tôi”
Đức Giêsu quát mắng quỷ, quỷ liền xuất, và cậu bé được khỏi lập tức.
Các môn đệ hẳn bối rối và xấu hổ vì không đuổi được quỷ.
Chắc họ cũng ngạc nhiên vì thấy mình thất bại trong trường hợp này,
tuy họ đã thành công trong nhiều trường hợp khác (x. Lc 10, 17).
Họ chờ lúc riêng tư giữa Thầy trò để hỏi lý do tại sao (c. 19).
Câu trả lời của Thầy Giêsu ở đây là khá rõ ràng.
“Tại anh em kém tin!” (c. 20).
Kém tin là một từ đặc biệt chỉ có trong Tin Mừng Mátthêu.
Từ này được dùng nhiều lần (6, 30; 8, 26; 14, 31; 16, 8).
Người kém tin là người có lòng tin nhỏ bé (oligopistia),
chứ không phải là hoàn toàn không tin chút nào (apistia).
Nhưng lòng tin nhỏ bé này thật sự cũng chẳng đem lại hiệu quả gì.
Nó chưa đáng được gọi là tin theo đúng nghĩa.
Một lòng tin đúng nghĩa thì dù nhỏ bé như một hạt cải
cũng có thể chuyển núi dời non (c. 20b; 1 Cr 13, 2).
Chỉ với lòng tin nhỏ như vậy, sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.
Dĩ nhiên, câu này không có nghĩa là họ làm được mọi sự.
Các môn đệ chỉ làm được những gì liên quan đến việc loan báo Nước Trời,
như chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền và trừ quỷ (Mt 10).
Họ chỉ làm được phép lạ khi người bệnh có lòng tin,
và khi việc họ làm nằm trong ý định của Thiên Chúa.
Những thừa tác viên của Giáo Hội nhiều khi thấy mình bất lực trước sự dữ.
Chúng ta cần xin Chúa thêm cho ta đức tin để có thể chuyển được
những đồi núi nơi lòng con người hôm nay.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thưong của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: SỐNG ĐỨC TIN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thế giới nhiễu nhương. Ma quỉ và bạo chúa thống trị thế giới. Sự ác và sự dữ đè bẹp con người. Nếu không có đức tin con người không thể sống nổi.
Thời Mô-sê dân Ít-ra-en chỉ là một nhóm người nô lệ. Không tổ chức. Không lực lượng. Nhưng họ có đức tin. Họ tin vào Chúa. Họ đi theo Mô-sê. Và Chúa đã làm những việc vượt quá sức tưởng tượng của họ. “Anh em được những thành lớn và đẹp mà anh em đã không xây, những nhà đầy mọi thứ của cải mà anh em đã không tích trữ, những bể nước có sẵn mà anh em đã không đào, những vườn nho và vườn ô-liu mà anh em đã không trồng”. Vì thế Mô-sê khuyên nhủ họ “đừng quên Đức Chúa, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ…anh em phải kính sợ…phải phụng thờ…và nhân danh Người mà thề” (năm lẻ).
Thời Kha-ba-cúc, mặc dù Ít-ra-en bị Can-đê đặt ách thống trị tàn ác, chỉ vì Ít-ra-en tội lỗi phản bội Chúa. Nhưng Chúa khuyên nhủ dân hãy cứ tin tưởng và chờ đợi. Vì ngày Chúa giải thoát dân rồi sẽ đến: “Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ, vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu”. Trong khi chờ đợi phải giữ vững đức tin. Vì “ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình” (năm chẵn).
Thời Chúa Giê-su ma quỉ hoành hành ác liệt. Khống chế con người. Các tông đồ cũng đành chịu thua. Nhưng khi Chúa đến, Chúa dùng quyền năng chế ngự và bắt ma quỉ phải vâng phục. Giải phóng con người khỏi ách nô lệ ma quỉ. “Đức Giê-su quát mắng tên quỷ, quỷ liền xuất, và đứa bé được khỏi ngay từ giờ đó”. Chúa cho biết ma quỷ hoành hành vì con người thiếu niềm tin. Chúa than phiền vì thế hệ thiếu niềm tin: “Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và gian tà! Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa”? Ngài cho các tông đồ biết mọi việc trên thế giới có thể giải quyết dễ dàng với người có lòng tin: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘Rời khỏi đây, qua bên kia! Nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được”.
Thời đại chúng ta bị biết bao ngọn núi ngăn trở khiến ta nản lòng. Tưởng không có gì có thể xê dịch được những ngọn núi ngăn chặn đời sống. Nhưng ta hãy an tâm. Nếu có đức tin một chút thôi, ta có thể giải quyết vấn đề cộng đoàn thật dễ dàng. Và thế giới ổn định. Vì khi có đức tin ta sống nhờ Chúa. Ta làm việc bằng sức mạnh của Chúa. Và mọi việc sẽ tốt đẹp.
SUY NIỆM 3: Ðức Tin Rất Cần Thiết
Thánh Augustinô nói: "Thiên Chúa dựng nên con người không cần con người, nhưng để cứu chuộc con người, thì Ngài cần đến sự cộng tác của con người". Sở dĩ như vậy là vì Thiên Chúa dựng nên con người có tự do, và tự do bao hàm sự lựa chọn tin nhận hoặc khước từ Thiên Chúa. Ðức tin cần thiết cho con người, không những để được cứu rỗi, mà còn để biết vui tươi đón nhận những biến cố trong đời sống theo thánh ý Chúa.
Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chữa một đứa bé bị kinh phong. Có thể nói, không có gì đặc biệt, nếu phép lạ được thực hiện do Chúa Giêsu, bởi vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng làm được mọi sự. Nhưng điều quan trọng là phép lạ có thể xẩy ra là do đức tin của con người. Thật thế, trong bất cứ phép lạ nào, Chúa Giêsu cũng đòi hỏi con người phải tin, hoặc chính đương sự hoặc cha mẹ hay người bảo trợ. Là Ðấng Cứu Thế, Chúa Giêsu yêu thương và muốn cứu chữa con người khỏi mọi tật bệnh; nhưng mỗi khi thực hiện phép lạ để cứu chữa một người nào, Ngài cũng đòi phải có đức tin. Nếu việc cứu chữa riêng lẻ đó chỉ là hình ảnh lu mờ của việc cứu chữa tối hậu mà Chúa còn đòi hỏi đức tin, thì để được cứu rỗi trong thời cứu độ viên mãn, đức tin còn cần thiết biết chừng nào.
Kết thúc bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì chẳng có gì các con không làm được. Ðức tin làm cho chúng ta từ con người tội lỗi trở thành con cái Thiên Chúa; đức tin giúp cho những việc tầm thường trong đời sống trở thành có giá trị vĩnh cửu; đức tin cho chúng ta có cái nhìn lạc quan tin tưởng vào mọi biến cố cuộc sống; đức tin giúp con người làm được những điều mà người không có đức tin không hiểu nổi: các thánh tử đạo can đảm chấp nhận cái chết đau thương, các thánh hiển tu đã từ bỏ tất cả để hoàn toàn sống theo Chúa.
Nguyện xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta để nhận ra bàn tay Chúa luôn dẫn dắt chúng ta và luôn sống trong bình an dưới sự chăm sóc của Ðấng Toàn Năng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Lòng tin thật
Bây giờ các môn đệ đến gần hỏi riêng Đức Giêsu rằng: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” Người nói với các ông: “Tại sao anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “Rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được. [Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện]. (Mt. 17, 19-21)
Nếu người ta nhìn bề ngoài theo nghĩa đen, thì có lòng tin vào Đức Kitô đã đủ làm những điều phi thường: Chữa khỏi các bệnh tật.
Chớ gì có niềm tin vô điều kiện vào Thiên Chúa và Đức Kitô, tôi hoàn toàn đồng ý! Lời dạy của Đức Kitô được chép lại rõ ràng, cần phải đọc lại các sách Tin Mừng, đặc biệt của thánh Gio-an, để xác tín điều đó. Lòng tin là điều kiện cần cho lời cầu nguyện biết bao, nhất là lời cầu nguyện cầu xin.
Nhưng chưa đủ.
Nhưng cần thiết lời cầu nguyện phải hợp với kế hoạch của Thiên Chúa, Đức Giêsu, lúc sống ở trần thế, đã không chữa mọi bệnh tật cho dân Ít-ra-en, các tông đồ cũng thế. Vì nếu đánh giá lòng tin bằng được khỏi bệnh thì lòng tin đó chỉ như một thứ tiền trả cho việc chữa bệnh. Lòng tin như thế có đủ không? Đó không phải là thứ lòng tin sống động, không phải là thứ lòng tin của thứ phần tử trong Giáo Hội, của thân thể Đức Kitô. Lòng tin như thế là của những người không tín ngưỡng.
Tôi nghĩ những đoạn Tin Mừng này có thể sẽ bị hiểu lầm và sẽ gây ra những quá đáng đạo đức.
Vâng: Một lòng tin sâu sắc.
Lòng tin trong sáng và nhiệt thành ăn rễ sâu vào tâm hồn siêng năng hơn là hành động nhất thời. Nếu người ta không thường xuyên sống với tâm tình yêu mến và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì làm sao tránh khỏi không nghi ngờ. Chỉ khi nào có một chút niềm tin hoàn hảo mới mong phát sinh ra những công cuộc kỳ diệu hữu hình và vô hình.
Có những Đấng Thánh có lòng tin, một lòng tin sâu xa, sống động! đã xẩy ra và còn xẩy ra nơi các Đấng một đức tin trọn vẹn để thực hiện ơn gọi đặc biệt trong Hội Thánh.
J.M
SUY NIỆM 5: KIÊU NGẠO SẼ THẤT BẠI (Mt 17, 14-20)
Xem thêm thứ Hai tuần 7 TN.
Một sự cám dỗ lớn lao nhất thường đến với con người, đó là cơn cám dỗ về sự kiêu ngạo.
Thật vậy, sự kiêu ngạo nó thường trực trong con người, và mức độ nguy hiểm của chúng là rất cao. Có thể ví rằng: sự kiêu ngạo luôn nhăm nhe bừng phát, chúng giống như bình xăng còn ma quỷ như bó đuốc. Nếu không cẩn thận và đề phòng bằng sự khiêm nhường, ắt không sớm thì muộn, chúng cũng làm cho bình xăng bốc cháy!
Đọc lại lịch sử cứu độ, chúng ta thấy, từ xa xưa, người ta vẫn bị mắc vào cám dỗ này.
Khởi đi từ Nguyên Tổ loài người là Ađam và Evà; rồi câu chuyện tháp Babel, đến hành động của Môsê, Aharon, Đavít, và ngay cả đến các môn đệ, tất cả đều bị ngã gục trước sự cám dỗ của ma quỷ dưới lưỡi hái của sự kiêu ngạo.
Thật vậy, cậy vào sức riêng của mình là chuyện bình thường. Tuy nhiên, vì tự tin đến độ không cần đến Thiên Chúa thì lại là kẻ bất thường, vì thế, thất bại là lẽ đương nhiên.
Hôm nay, bài Tin Mừng cho thấy việc các môn đệ thất bại trong việc trừ quỷ. Nguyên do chính là do các ông tự mãn và cậy vào khả năng riêng của mình chứ không phải là niềm tin vào Thiên Chúa.
Tin Mừng thuật lại, sau khi Đức Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor, số môn đệ còn lại ở dưới núi, vì thế người ta mang đến cho các ông một đứa trẻ bị quỷ ám mắc kinh phong. Các ông đã trừ mà không được. Nên thấy Đức Giêsu xuống, dân chúng đã xúm lại và xin Ngài chữa lành. Sau khi Ngài chữa cho bé gái khỏi quỷ ám. Các môn đệ tiến lại gần và hỏi: "Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?". Đức Giêsu mặc khải cho họ biết: "Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘rời khỏi đây, qua bên kia!’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được".
Sau khi các ông nhận ra sự thất bại của mình và hiểu rõ về sức mạnh của niềm tin, Đức Giêsu muốn dạy các ông sự khiêm nhường và gắn bó với Thiên Chúa cách trọn ven thì mới có thể thi hành được sứ vụ.
Trong cuộc sống đức tin của chúng ta, có lẽ không cần phải xin Chúa cho được chuyển núi dời non theo nghĩa đen. Nhưng điều mà chúng ta cần chuyển dời chính là ngọn núi của kiêu căng, tự ái, ghen ghét. Có thế, chúng ta mới để cho đức tin mà Thiên Chúa ban cho chúng ta được lớn mạnh.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết gắn bó với Chúa để được Chúa yêu thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
07/08 Theo Chúa, hãy vác thập giá
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Theo Chúa, hãy vác thập giá.
Thứ sáu tuần 18 thường niên.
"Người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình".
Lời Chúa: Mt 16, 24-28
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?
"Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm. Thật, Thầy bảo các con: trong những kẻ đang đứng đây, có người sẽ không nếm sự chết trước khi xem thấy Con Người đến trong Nước Người".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Từ bỏ chính mình
Suy niệm:
Con đường của người môn đệ Thầy Giêsu là con đường không êm ả.
Ngay sau khi Thầy Giêsu loan báo lần đầu về số phận sắp đến của mình,
Ngài đã nói đến số phận của các môn đệ (cc. 24-28).
Họ được mời chia sẻ cùng một thân phận với Thầy và như Thầy.
Thầy trò sẽ phải đi qua con đường hẹp, con đường của khổ đau và cái chết.
Nhưng cuối cùng con đường ấy dẫn đến phục sinh (Mt 16, 21).
Phục sinh, sự sống, niềm vui, sẽ chiến thắng.
Chiến thắng ấy chỉ mua được bằng khổ đau và cái chết tự nguyện.
Như thế điều kiện để giữ được sự sống đời sau là dám mất sự sống đời này.
Đây thật là một liều lĩnh của đức tin,
vì nếu không thực sự tin vào đời sau, thì chẳng ai muốn thả mồi bắt bóng.
Cuộc đời này có nhiều điều chân thiện mỹ, có nhiều giá trị đáng trân trọng.
Nhưng lắm khi cũng phải hy sinh chúng cho những giá trị lớn hơn,
cho Đấng là Chân Thiện Mỹ viết hoa, là Giá Trị của mọi giá trị.
Cái tôi của tôi là một giá trị lớn, là quà tặng độc đáo Chúa ban cho tôi.
Chẳng có hai cái tôi giống nhau dưới mắt Chúa.
Cùng với cái tôi, Chúa ban cho tôi tự do, lý trí, trái tim, thân xác…
Chúa còn ban cho tôi vũ trụ vật chất với bao tài nguyên để tôi sống nhờ,
và cả một thế giới với bao cái tôi khác, để tôi sống với như anh em.
Cái tôi là món quà quý nhất Chúa ban cho tôi.
Cái tôi cũng là món quà quý nhất tôi có thể dâng lại cho Chúa.
Nhiều tôn giáo nói đến từ bỏ cái tôi, phá chấp ngã.
Đức Giêsu cũng mời bất cứ ai muốn bước theo Ngài phải từ bỏ chính mình,
không phải vì cái tôi của mình là xấu xa, đáng ghét,
nhưng chỉ vì nó chỉ là thụ tạo trước mặt Đấng Tạo Hóa đã dựng nên nó.
Từ bỏ chính mình là đặt mình ở dưới Thiên Chúa, không coi mình là trung tâm,
và để cái tôi của mình trọn vẹn tùy thuộc vào ý muốn của Ngài.
Thầy Giêsu đã sống từ bỏ mình như vậy trong suốt cuộc đời trần thế.
Ngài luôn sống như một người con thảo, một người được Cha sai.
Lạ thay, chính lúc từ bỏ mình, múc cạn chính mình, hủy mình ra không,
thì Ngài lại được phục hồi chính mình và được siêu tôn trên mọi sự (Pl 2, 9).
Trong Kitô giáo, cái tôi được thanh luyện, nhưng không bị loại bỏ.
Cái tôi ấy cũng không bị Thiên Chúa nuốt chửng hay hòa tan.
“Ai mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (c. 25).
Như thế từ bỏ mình là cách duy nhất để giữ mình cho toàn vẹn.
Chẳng thể nào yêu mến và phục vụ lại không gắn liền với việc từ bỏ mình.
Có khi từ bỏ một định kiến hay tự ái, một quyền lợi hay ảnh hưởng riêng,
cũng khó như một hy sinh mạng sống.
Vác thập giá của mình là vác gánh nặng của bổn phận mỗi ngày,
vác yếu đuối của người anh em mỗi ngày, vác cuộc đời mình mỗi ngày.
Thầy Giêsu đòi chúng ta vác thập giá của mình mà theo Thầy cho đến chết.
Vì Thầy là Con Thiên Chúa, vì Thầy đã lấy lại được sự sống,
nên chúng ta tin tưởng vác thập giá bước đi sau Thầy.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
trước khi con tìm Chúa, Chúa đã đi tìm con.
Trước khi con thấy Chúa, Chúa đã nhìn thấy con.
Trước khi con theo Chúa, Chúa đã đi theo con.
Trước khi con yêu Chúa, Chúa đã mến yêu con.
Trước khi con thuộc về Chúa, Chúa đã thuộc về con.
Trước khi con phụng sự Chúa, Chúa đã phục vụ con.
Trước khi con từ bỏ mình vì Chúa, Chúa đã nộp mình vì con.
Trước khi con sống và chết cho Chúa, Chúa đã sống và chết cho con.
Trước khi con đặt Chúa lên trên hết,
Chúa đã coi con là hạnh phúc tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con,
Chúa luôn đi trước con.
Chúa làm trước khi Chúa dạy.
Con hiểu rằng mọi điều Chúa đòi hỏi nơi con
đều chỉ vì lợi ích vĩnh cửu của con mà thôi.
Xin cho con đón nhận những cắt tỉa của Chúa
với lòng biết ơn và rất nhiều tình yêu. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
SUY NIỆM 2: ĐƯỢC VÀ MẤT
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ai cũng muốn được. Không ai chịu mất. Nhưng thế nào là được và thế nào là mất thì không phải ai cũng hiểu. Nhất là vì con người có hai đời sống. Đời này và đời sau. Trong hai đời sống hai cách được và mất khác nhau. Được ở trần gian là thực tế trước mắt nên nhiều người tìm kiếm. Được ở Nước Trời xa vời nên nhiều người không thấy. Tuy nhiên được ở trần gian mau qua như trần gian. Được trên Nước Trời là vĩnh viễn. Được ở trần gian không bao giờ thoả mãn. Được trên Nước Trời là hạnh phúc trọn vẹn. Khác biệt lớn lao và khó khăn nhất là cách chiếm đoạt rất khác nhau. Được ở trần gian do vun quén cho bản thân. Được trên Nước Trời lại thủ đắc bằng từ bỏ hết những gì ở trần gian, kể cả bản thân và mạng sống mình. Như lời Chúa phán: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Cái được ở trên Nước Trời là sự sống vĩnh cửu, dù cả trần gian cũng không so sánh được. “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình”? chính Chúa mới là Chúa Tể trời đất, có quyền xét xử định đoạt số phận chúng ta. Trần gian chỉ chiếm được đời này. Phải bó tay trước đời sau. Thiên Chúa làm chủ cả đời này lẫn đời sau. Ai bỏ Chúa theo trần gian chỉ được một chút đời này. Ai bỏ trần gian mà theo Chúa chỉ bị thiệt thòi một chút đời này. Nhưng sẽ được đời sau vô cùng phong phú sung mãn không gì sánh được. Thiên Chúa làm chủ. Điều đó được chứng tỏ qua dòng lịch sử.
Thời Mô-sê Thiên Chúa đã cứu người Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai cập. Ít-ra-en đang nô lệ bỗng thành tự do. Đang tản mát bỗng thành một dân tộc. Đang bơ vơ bỗng được đất chảy sữa và mật. Đang yếu ớt bỗng chiến thắng quân đội Ai cập hùng mạnh nhất thế giới thời ấy. Đó chính là vì Chúa là Thiên Chúa của họ (năm lẻ).
Ít-ra-en phản bội nên bị Chúa phạt. Phải làm nô lệ cho Ni-ni-vê. Nhưng rồi đến ngày Chúa phục hồi dân Chúa. “Phải, đức Chúa khiến cho Gia-cóp và Ít-ra-en lấy lại sức kiêu hùng”. Ngài cho Ni-ni-vê hùng mạnh một thời gian. Rồi trừng phạt vì họ không tuân hành thánh ý. “Bấy giờ, hễ ai nhìn thấy ngươi cũng đều phải tránh xa và nói: “Ni-ni-vê đã bị phá tan hoang!” Ai còn cảm thương nó? Ta tìm đâu cho ngươi những người an ủi”? (năm chẵn).
Hôm nay Chúa mời gọi tôi. Hãy khôn ngoan đừng khờ dại. Hãy biết chọn Thiên Chúa chứ đừng chọn thế gian. Hãy biết bỏ đời này để được đời sau. Được chính Chúa. Là hạnh phúc muôn đời.
SUY NIỆM 3: Giá Trị Của Khổ Ðau
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ về những điều kiện để được làm môn đệ Ngài: từ bỏ mình, vác Thập giá, và đi theo Chúa Giêsu. Cả ba kiểu nói đều đồng nghĩa với nhau, và đều nói lên cái cốt yếu của đời sống Kitô hữu, đó là đón nhận đau khổ như chính Chúa Giêsu đã đón nhận cuộc khổ nạn và cái chết dành cho Ngài.
Chúa Giêsu đã đưa ra những điều kiện trên đây liền sau khi Ngài loan báo về cuộc tử nạn của Ngài: Ngài sẽ bị đau khổ và bị treo trên Thập giá. Thập giá vốn là cái giá mà Chúa Giêsu phải trả vì cuộc sống và giáo lý của Ngài. Như vậy tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài đều phải trải qua con đường Thập giá ấy. Thật ra, đau khổ vốn là phần số chung của mọi người: đã mang tiếng khóc vào đời là mang lấy cả thân phận khổ đau, có khác chăng là thái độ của con người trước đau khổ mà thôi.
Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta một thái độ mẫu mực. Ngài không bao giờ lý giải về nguồn gốc của khổ đau, nhưng Ngài đón lấy khổ đau và biến nó thành cội nguồn của yêu thương. Thập giá vốn là tận cùng sự bỉ ổi của con người, nhưng đã được Chúa Giêsu biến thành biểu tượng của tình yêu. Chúa Giêsu chịu treo trên Thập giá, không phải để đề cao đau khổ, mà chính là để biểu lộ tình yêu của Ngài. Như vậy, chính trong mầu nhiệm Thập giá, chúng ta đón nhận khổ đau; chính trong mầu nhiệm Thập giá Chúa Giêsu mà thái độ đón nhận đau khổ của chúng ta mang lấy ý nghĩa.
Bức tượng Mẹ Maria bồng xác Chúa Giêsu trên tay, do danh họa Michel-Angelo thực hiện và hiện được đặt tại Ðền thờ thánh Phêrô ở Rôma, là một trong những kiệt tác về sự đau khổ. Mẹ Maria ôm xác Chúa Giêsu trong vòng tay Mẹ, không gì buồn thảm bằng; thế nhưng đó cũng là một trong những kiệt tác về yêu thương. Tất cả đều tùy thuộc thái độ của con người trước khổ đau. Con người có thể trốn chạy khổ đau, con người có thể suốt một đời phàn nàn về khổ đau. Nhưng con người cũng có thể biến khổ đau thành một hành động yêu thương; đó là thái độ của Chúa Giêsu và cũng phải là thái độ của tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài.
Nơi nào có Thập giá, nơi đó có Thiên Chúa. Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức để nhận ra sự hiện diện yêu thương của Ngài ngay trong khổ đau, để giữa những giờ phút tăm tối và thử thách, chúng ta vẫn còn thấy được ý nghĩa của cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Cần Phải Yêu Tôi
Rồi Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? hoặc người ta lấy gì mà đổi mạng sống mình? (Mt. 16, 24-26)
Đây là vấn đề lớn được Đức Kitô nói với mỗi người chúng ta! Bạn có yêu tôi không? Bạn có yêu tôi hơn những người kia không? tình yêu của bạn đối với tôi tới mức nào? bạn yêu tôi thì hiến trọn vẹn tình yêu của bạn, ai yêu như thế thì không còn là mình nữa, nhưng hoàn toàn là người mình yêu!
Yêu…
Bạn thấy không: Đức Kitô yêu chúng ta trọn vẹn. Người hiến thân trọn vẹn cho chúng ta và hỏi chúng ta có yêu Người trọn vẹn không? chúng ta hãy hiến dâng mình để sống được cảm nghiệm được tình yêu biết yêu mến độc nhất ấy! Hãy hỏi mình xem đã yêu bao nhiêu. Có giống Người không? có yêu đến cực điểm của con người mình không? có như Người yêu chúng ta đến giọt máu cuối cùng không?
Không phải chúng ta đã làm Đức Kitô chết, nhưng chính Người đã tự hiến mạng sống Người cho mỗi người chúng ta. Và Người có quyền hỏi chúng ta bằng câu cốt yếu độc nhất này: bạn có yêu tôi không?
Dù ở hoàn cảnh nào, nghề nghiệp nào, Đức Giêsu đều hỏi: bạn có yêu tôi không?
Không có thể so sánh với người khác. Đây là câu hỏi cho chính bản thân mình, mỗi cá nhân hãy tự hỏi và tự trả lời một cách tự do, một câu trả lời hợp với khả năng yêu mến của mình.
Ngày nay.
Phải nói rằng Thiên Chúa gần chúng ta một cách kỳ lạ, hằng ngày trong đời sống chúng ta, kích thích từng tiếng nói của chúng ta để lời Ngài 2000 năm được hiện tại hóa vào nếp sống con người chúng ta ngày nay.
Tình yêu không biên giới, không già, khắc phục mọi xa cách không gian và thời gian!
“Thiên Chúa của tôi nói với tôi,
Con ơi! cần phải yêu Cha…” (Verlaine)
J.M
SUY NIỆM 5: TỪ BỎ MÌNH ĐỂ ĐI THEO CHÚA (Mt 16, 24-28)
Xem lại CN 22 TN A.
Ngày nay, khi đi phỏng vấn để xin việc, người ta thường đòi hỏi những điều kiện về sức khỏe và chuyên môn, đồng thời tùy một số công việc đặc thù, cần phải có sự thỏa thuận cụ thể hơn. Cũng vậy, khi được gọi để trở thành môn đệ, Đức Giêsu cũng đòi hỏi người môn sinh phải hội đủ những điều kiện cần thiết để chu toàn bổn phận của người thừa sai, hầu những ai được gọi và chọn thì đều cảm thấy hạnh phúc khi thi hành sứ vụ của người sai đi.
Hôm nay, bài Tin Mừng kể lại việc Đức Giêsu đòi hỏi những người Ngài muốn gọi và chọn để ra đi thi hành sứ vụ cần phải “từ bỏ mình và vác thập giá theo Ngài”.
Thoạt nghe, chúng ta cảm thấy buồn cười và có sự mâu thuẫn! Tuy nhiên, nhìn dưới khía cạnh của Kinh Thánh, thì sự đòi hỏi này của Đức Giêsu mang tính tự do cho người đón nhận chứ không phải vì ép buộc. Tức là tự nguyện từ bỏ một cuộc sống dễ dãi, an nhàn, hay ăn trên ngồi trước, để lựa chọn một cuộc sống thiếu thốn, khổ hạnh vì ích lợi và niềm vui của kẻ khác.
Từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo, tức là chấp nhận đi trên con đường mà chính Đức Giêsu đã đi. Con đường đó là một con đường hẹp. Con đường của hy sinh, thiệt thòi. Con đường của tự hủy. Con đường khiêm tốn và là con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha hoàn toàn.
Thật vậy, từ bỏ chính mình quả là điều khó nhất, bởi vì: “Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước” (Đường Hy Vọng, số 3). Nhưng nhiều người lại có suy nghĩ là: bỏ tất cả, nhưng từ bỏ mình thì nhất quyết không, bởi vì họ từ bỏ cái tôi thì phải chăng họ không còn là họ nữa!
Tuy nhiên trong hoàn cảnh này, Đức Giêsu muốn các môn đệ ra khỏi sự ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo, để ý Chúa rợp bóng trên cái tôi của mình, và chính từ đó, tôi được trở thành tôi đúng nghĩa trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết an vui khi chọn Chúa làm gia nghiệp. Xin cũng cho chúng con được từ bỏ mọi sự, vác thập giá để theo Chúa trên con đường cứu độ mà Chúa muốn chúng con thi hành. Amen.
Ngọc Biển SSP
06/08 Vinh Quang Phục Sinh
- Viết bởi Mt 17, 1-9
Vinh Quang Phục Sinh.
Thứ năm đầu tháng, tuần 18 thường niên. – CHÚA HIỂN DUNG năm A. Lễ kính.
“Mặt Người chiếu sáng như mặt trời”.
* Bốn mươi ngày trước lễ Suy Tôn Thánh Giá, lễ Hiển Dung nhắc cho các tín hữu nhớ rằng Chúa Kitô đã muốn ‘chuẩn bị tâm hồn các môn đệ khỏi vấp phạm vì khổ hình thập giá’. Nhưng đồng thời lễ này cũng loan báo cho mọi tín hữu biết mình được nhận làm con cái Thiên Chúa, nhờ Con Thiên Chúa là Đức Giêsu, và loan báo ánh sáng diệu kỳ một ngày kia sẽ rạng ngời trên toàn thân thể nhiệm mầu, tức là Hội Thánh.
Lời Chúa: Mt 17, 1-9
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao. Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết. Và đây ông Môsê và Êlia hiện ra và đàm đạo với Người.
Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống và hết sức sợ hãi. Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: “Các con hãy đứng dậy, đừng sợ”. Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu.
Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng: “Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM LỄ CHÚA HIỂN DUNG - A
Lời Chúa: Đn. 7, 9-10.13-14; 2Pr. 1, 16-19; Mt. 17, 1-9
1. Vinh quang Thập Giá
Sáu ngày trước khi biến hình vinh quang trên đỉnh Taborê, Chúa Giêsu đã chính thức loan báo cho các tông đồ biết về những khổ đau Người sẽ phải chịu. Thế nhưng, Phêrô đã lên tiếng can ngăn Ngài, để rồi Ngài đã thẳng thắn quở trách: Hỡi Satan hãy lui đi.
Qua đó chúng ta thấy mơ ước của các tông đồ là một mơ ước nặng nùi xôi thịt, được bao phủ bằng những quyền lực trần thế. Thực vậy, khi dân chúng có ý định tôn Chúa Giêsu lên làm vua sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, các tông đồ đã khấp khởi mừng thầm, vì sẽ được chia chác ghế nọ, ghế gia trong thành phần nội các của Ngài, nhưng rồi các ông đã thất vọng khi Chúa lên thuyền và đi ngay. Mãi cho đến những ngày cuối cùng của Chúa, các ông vẫn còn tranh cãi xem ai được làm lớn nhất dưới triều đại của Ngài. Và giờ đây, trước ánh quang vinh, các ông lại càng khó chấp nhận thập giá hơn nữa. Maisen và Elia đang nói chuyện với Chúa về vấn đề thập giá mà Ngài sẽ phải chịu. Các ông tai nghe mắt thấy nhưng không một mảy may chú ý. Các ông chỉ thấy có ánh sáng và vinh quang, cho nên đã định dựng lều tại Tabo, chứ không thấy được sứ mạng của Thầy mình ở Canvê.
Đó cũng chính là tâm trạng của mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta không nguyền rủa thập giá, thì cũng chỉ chấp nhận nó như một tai ương không thể lẩn tránh chứ không như một sứ mạng cao cả và có tính cách cứu độ. Chúng ta không ngừng xây dựng thiên đàng ngay ở dưới thế, cũng như không ngừng phóng đại những hạnh phúc trần gian, coi đó như cùng đích phải theo đuổi, để rồi cuối cùng xin chọn trần gian này làm quê hương vĩnh cửu.
Chúng ta không biết rằng: thiên đàng là tình yêu chứ không phải là những thú vui vị kỷ hay nói đúng hơn, thiên đàng là chính Thiên Chúa. Giữa vinh quang, các tông đồ không thể tin nổi rằng Chúa có thể chết và chết cách nhục nhã. Đã bao lần Chúa đã nối kết cái chết của Ngài vào với sự phục sinh, nhưng các ông không thể hiểu nổi sợi dây nối kết ấy. Vì thế khi Chúa bị bắt, các ông bị tan tác như bầy chiên trước sói rừng. Nếu có theo thì chỉ dám theo xa xa, để rồi sau cùng đã chối bỏ Chúa. Ngay cả sau khi Chúa đã sống lại mà các ông vẫn còn không tin, vẫn còn tuyệt vọng.
Với chúng ta cũng vậy, biết bao lần chúng ta đã nhìn thử thách cuộc đời qua cặp kính màu xám, chúng ta kéo lê thập giá chứ không tự mình vác lấy. Còn Chúa Giêsu thì khác, chính lúc Người nộp mình trong tay kẻ thù lại là lúc Người được quang vinh như Người đã nói: Ta đã thắng thế gian, ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất...
Là môn đệ của Chúa, chúng ta không có con đường nào khác ngoài con đường thập giá như lời thánh Phaolô: Tôi chỉ biết có Đức Kitô chịu đóng đinh, nhưng Ngài đã phục sinh để chúng ta được sống. Cho nên mặc dù vai vác thập giá, cặp mắt chúng ta vẫn luôn hướng về trời cao. Trời cao và sự sống, đó là kết thúc của con đường thập giá.
Bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới sự phục sinh.
2. Nhỏ bé và tầm thường
Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại rằng: Chúa Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao và tại đó, Ngài đã biến hình trước mặt các ông. Mặt Ngài chiếu sáng như mặt trời. Áo Ngài trở nên trắng tinh như tuyết. Rồi lại có Môisê và Elia hiện ra và trò chuyện với Ngài.
Trước cảnh tượng huy hoàng ấy, Phêrô đã thốt lên:
- Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy muốn, con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Elia.
Qua sự việc kể trên, chúng ta nhận ra một khuynh hướng chung cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Đó là chúng ta vốn ưa thích những sự việc lạ lùng và khác thường.
Đúng thế, dân làng Nadarét đã khâm phục sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, thế nhưng vì không thấy Ngài làm một phép lạ nào, nên họ đã tỏ ra bực bội tức tối và muốn xô Ngài xuống vực thẳm.
Dân Do Thái nhiều người đã muốn suy tôn Ngài lên làm vua, vì Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi sống họ trong hoang địa. Thế nhưng, sau khi nghe Chúa Giêsu nói về một thứ của ăn thiêng liêng là Mình và Máu Ngài, thì họ đã lấy làm chướng tai gai mắt, nên đã bỏ Ngài mà đi. Và cũng chính họ trước tòa án Philatô, khi nhìn thấy vóc dáng thiểu não và thân hình tiều tụy của Ngài, đã không ngần ngại kêu gào:
- Đónh đanh nó đi, đóng đanh nó vào cây thập giá.
Hêrôđê cũng vậy, ông ta muốn gặp Ngài chỉ vì tính hiếu kỳ, chỉ vì óc tò mò, mong được xem Ngài biểu diễn những trò ngoạn mục. Thế nhưng, khi thấy Ngài giữ thái độ yên lặng, thì ông đã cười nhạo và khoác cho Ngài một chiếc áo trắng để nói lên rằng Ngài chỉ là một tên điên khùng, mà trao trả Ngài lại cho Philatô.
Thái độ của Phêrô hôm nay cũng vậy. Trên đỉnh Tabôrê, ông đã say mê ngất ngây trướ cảnh tượng huy hoàng và ánh vinh quang của Chúa Giêsu. Thế nhưng, khi nghe Ngài nói về cuộc thương khó sắp xảy ra, thi ông đã lấy làm bực bội và lên tiếng can ngăn, khiến Ngài đã phải quở trách nặng lời:
- Hỡi Satan, hãy xéo đi, vì ngươi chỉ biết những việc của người đời, mà chẳng biết chi đến những việc của Thiên Chúa.
Rồi chính Phêrô trong sân nhà thầy cả thượng phẩm đã chối Chúa ba lần. Không hiểu trong lúc chối Chúa như vậy, ông có nhớ tới vinh quang Tabôrê nữa hay không?
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta nhận thấy cách thức hoạt động của Thiên Chúa thật khác xa với cách thức hoạt động của chúng ta, đúng như lời Ngài đã nói:
- Tư tưởng và đường nẻo của Ta không giống với tư tưởng và đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo của Ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo của các ngươi bấy nhiêu.
Thực vậy, đang khi chúng ta đi tìm những sự vinh quang và những việc lạ lùng khác thường, thì Chúa lại dùng chính những cái nhỏ bé, những cái tầm thường và ngay cả những khổ đau, những thất bại và ngay cả cái chết tủi nhục của mình để cứu độ chúng ta.
Lịch sử đã cho chúng ta hay biết về sự thật này. Có ai tầm thường cho bằng Đavít, một cậu bé chăn chiên, thế mà Thiên Chúa đã dùng cậu bé này để thiết lập một triều đại mới, dẫn đưa dân Do Thái tới một thời đại hoàng kim và phồn vinh.
Có ai khiêm nhường cho bằng Maria, một thôn nữ âm thầm, thế mà Thiên Chúa đã dùng Mẹ để khởi đầu cho chương trình cứu thế.
Có ai đã thất bại cho bằng Chúa Giêsu với cái chết ê chề và nhục nhã trên thập giá, thế mà Ngài lại dùng chính khổ đau của thập giá để cứu chuộc chúng ta.
Và ngày hôm nay, Chúa vẫn còn tiếp tục nói với chúng ta qua những sự việc nhỏ bé, tầm thường và khiêm tốn như thế. Tuy nhiên, điều quan trọng đó là chúng ta có biết lắng nghe và thực thi ý định của Ngài được tỏ lộ qua những sự việc nhỏ bé, tầm thường và khiêm tốn ấy hay không?
3. Vinh quang Phục Sinh
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta suy niệm hôm nay ghi lại biến cố hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabo. Biến cố này diễn ra sáu ngày sau khi Chúa loan báo về cuộc tử nạn và sự phục sinh của Ngài. Các môn đệ và ngay cả những người môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Gioan và Giacôbê, không thể hiểu và không muốn chấp nhận cuộc tử nạn của Ngài. Cho các ông chứng kiến sự hiển dung, Chúa Giêsu muốn lặp lại dưới một hình thức khác lời loan báo về cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Lần này Ngài muốn xác quyết với các ông rằng để đi vào vinh quang Phục Sinh cần phải đi qua bóng tối của sự chết.
Với những ai đang trải qua bóng tối của thập giá, biến cố hiển dung của Chúa Giêsu là một nguồn nâng đỡ vô biên. Dietrick Bonhoffer, vị mục sư người Đức đã bị giam tù vì can đảm lên tiếng chống lại chủ trương dã man độc ác của Đức Quốc Xã. Trong tám tháng bị giam giữ, ông đã không ngừng suy nghĩ về biến cố hiển dung của Chúa Giêsu và tìm thấy được ánh sáng ngay giữa những đêm dài vô tận trong một nhà tù ở Berlin. Ngay chính buổi sáng bị đem ra hành quyết, ông đã thốt lên: "Thế là hết! Cuộc sống đã khởi đầu đối với tôi". Trong bài thơ có tựa đề Những Tiếng Thì Thầm Trong Đêm Tối, ông đã kêu gọi: "Hỡi những người anh em, sau những đêm dài, bao lâu ngày của chúng ta chưa đến, chúng ta hãy chiến đấu".
Ba người môn đệ thân tín của Chúa Giêsu đã ngây ngất khi chiêm ngắm vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, nhưng ánh sáng phục sinh ấy chỉ kéo dài trong giây lát; bóng đêm đã trở lại, nhìn chung quanh, họ thấy lại Chúa Giêsu cũng như mọi người và nhất là như một tên tử tội đang tiến ra pháp trường. Nhưng chắc chắn ánh sáng phục sinh ấy đang chiếu rọi trong tâm hồn các ông.
Tất cả những ai đang sống trọn cho niềm tin của mình, tất cả những ai đang thực thi cho đến cùng sứ mệnh của các ngôn sứ đều có trong mình ánh sáng phục sinh ấy. Chính ánh sáng phục sinh ấy mang lại cho họ niềm hy vọng và can đảm để tiến tới trong đêm đen của hận thù, dối trá và đặt niềm tin tưởng mãnh liệt vào Chúa, họ có đủ lý do để có thể thấy trước sự chiến thắng của ánh sáng, của chân lý và tình yêu.
Nguyện xin Chúa nâng đỡ cho tất cả những ai đang sống cho đến cùng sứ mệnh ngôn sứ cho chân lý.
4. Lễ Hiển Dung
(Phêrô Dương Hải Văn, SDB)
Cả ba Phúc Âm nhất lãm đều đề cập đến biến cố biến đổi hình dạng của Chúa Giêsu tại núi Tabor. Với một sự tương đồng đáng chú ý, cả ba đều kể lại biến cố này sau khi ông Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, và sau lần đầu tiên Đức Giêsu nói về sự thống khổ và cái chết của Ngài.
Đức Giêsu đem ông Phêrô, Giacôbê và Gioan cùng đi với ngài lên trên một núi cao, tại đó Ngài biến đổi dung nhan trước sự ngỡ ngàng của các ông. Sự chiếu sáng rạng ngời của Ngài phát xuất từ thần tính của Ngài. Bằng việc tỏ hiện vinh quang của mình, Ngài nhằm củng cố lòng tin của cả ba môn đệ đi theo Ngài và chuẩn bị cho họ đối diện với những thử thách sắp tới, bằng cách ban cho họ nếm hưởng trước vinh quang và niềm vui thần linh qua những đau khổ trong đời sống của người môn đệ.
Sự hăng hái của Phêrô trong việc dựng lều nơi Chúa hiển dung đưa ra giả sử rằng, biến cố đó xảy ra trong dịp lễ lều kéo dài một tuần lễ trong mùa thu.
Mặc dù cả ba văn bản đều rất giống nhau, theo các học giả Kinh Thánh, thật khó để diễn lại cảm nghiệm của các tông đồ. Chắc chắn là Phêrô, Giacôbê và Gioan đã thoáng nhìn thấy được thiên tính của Đức Giêsu, nhưng ấn tượng ấy đủ mạnh để tạo nên sự sợ hãi in sâu trong tâm hồn họ. một cảm nghiệm như vậy không thể nào diễn tả được, do đó các ngài dùng cách diễn đạt thông thường trong kinh sách để diễn tả. Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng đã cảnh báo họ về sự vinh hiển và sự thống khổ của Ngài liên hệ mật thiết với nhau một cách chặt chẽ.
Ngay từ thời các tông đồ, truyền thống đã coi núi Tabor là nơi Chúa hiển dung. Chính vì thế, trong thế kỷ thứ 4 một nhà thờ đã được dựng nên ở núi Tabor. Vào ngày 22 tháng 7 năm 1456, thập tự quân đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ ở Belgrade. Tin tức về cuộc chiến thắng được đưa về Rôma vào ngày 06 tháng 8, và năm sau, Đức Giáo Hoàng Callistus III đã đưa ngày lễ này vào niên lịch phụng vụ của Rôma.
Lạy Chúa Giêsu, qua ánh sáng của sự hiển dung, Chúa đã tỏ lộ vinh quang của mình cho các tông đồ nhằm củng cố đức tin cho các ngài. Xin cho chúng con luôn biến tin tưởng và tín thác vào tình yêu của Chúa trong mỗi biến cố vui buồn của cuộc sống chúng con, và xin cho chúng con cũng biết "hiển dung" đời sống của mình cho những người sống chung quanh chúng con. Amen.
5. “Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi”
(Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc SJ)
1. Ngọn núi cao (c. 1)
“Sáu ngày sau”, từ lúc Đức Giêsu hỏi các môn đệ: “Còn anh em, anh em nói Thầy là ai?” (16, 15) và mời gọi các môn đệ đón nhận Ngài vào cuộc đời của mình, bằng cách đi theo Ngài trên con đường Thập Giá: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (16, 24). Chúng ta có thể hình dung ra tâm trạng của các môn đệ trong sáu ngày qua.
Các tông đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan được chọn để đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Trong Kinh Thánh, núi là nơi Thiên Chúa tỏ hiện và con người đi lên núi để gặp gỡ Ngài. Núi có ý nghĩa như thế, vì đó là hình ảnh diễn tả việc giữ khoảng cách với những vấn đề của cuộc sống, vốn hay trói buộc con người, để có thể hướng về trời cao và những gì thuộc về trời cao. Chính vì thế, Đức Giêsu hay lên núi cầu nguyện, giảng ở trên núi (Bài Giảng Trên Núi trong Mt 5-7), và đặc biệt lần này, Ngài bày tỏ căn tính thần linh của Ngài trong tương quan với Thiên Chúa Cha và lịch sử cứu độ cũng ở trên núi, “một ngọn núi cao”.
Trong đời sống ơn gọi của chúng ta, chúng ta cũng được Chúa mời gọi, và phải nói mạnh hơn, được Chúa chọn, đi riêng ra một chỗ, tới “ngọn núi cao” biểu tượng, nghĩa là tới nơi Thiên Chúa tỏ hiện và ngỏ lời với chúng ta, để lắng nghe Lời của Ngài, để nhận ra ân huệ Ngài ban và cảm nếm được sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của chúng ta, qua đó, có thể ca tụng và tạ ơn Chúa, và cũng để xin Ngài chữa lành, soi sáng, thêm sức và tái tạo chúng ta, và có khi một cách đơn sơ, để ở với Ngài một cách nhưng không. Cuộc sống của chúng ta vốn đầy thách đố đủ loại, vì thế, chúng ta cần biết bao, cùng với Chúa, đi riêng ra một nơi, lên ngọn núi cao.
Thật ra, những lúc đi riêng ra một nơi với Chúa, vẫn được ban cho chúng ta đấy thôi, nhưng chúng ta lại thường không đón nhận cách quảng đại như một ơn huệ Chúa ban.
Đó là thời gian cầu nguyện cá nhân hằng ngày.
Đó là thời gian chúng ta dâng Thánh Lễ, đọc kinh Phụng Vụ, thời gian chúng ta cầu nguyện chung với nhau.
Đó là thời gian tĩnh tâm, tĩnh tâm tháng, tĩnh tâm năm hay những lúc chúng ta khao khát và sắp xếp được để sống cho và với một mình Chúa.
Ước gì trong những lúc “đi riêng ra một nơi” với Chúa, Chúa ban cho chúng ta có cùng kinh nghiệm thiêng liêng như các tông đồ, đó là cảm nếm căn tính chói ngời của Chúa, để có thể nói: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!”.
2. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời (c. 2-6)
a. Nhìn ngắm dung nhan chói lọi của Đức Giêsu
Chính lúc Đức Giêsu biến đổi hình dạng, là lúc có sự hiện diện của ông Mô-sê và ông Elia, tượng trưng cho lịch sử cứu độ. Chúng ta hãy lắng nghe các ngài đàm đạo. Theo thánh sử Lu-ca, các vị đàm đạo về cuộc Xuất Hành Người sẽ hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (Lc 9, 31). Như thế, lịch sử cứu độ (Lề Luật và ngôn sứ) loan báo mầu nhiệm Vượt Qua và mầu nhiệm Vượt Qua hoàn tất lịch sử cứu độ. Mà lịch sử cứu độ là gì? Là lịch sử kể lại sự hiện diện, sự quan phòng và cách dẫn đưa của Thiên Chúa giầu lòng thương xót hành trình làm người của những cuộc đời, của một dân tộc, đầy thăng trầm và tội lỗi, bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ, không chỉ từ khởi đầu của dân tộc Israel, nhưng ngay từ khởi của loài người (x. St 3). Chúng ta hãy chiêm ngắm Đức Giêsu trở nên chói lọi như mặt trời, như bản văn Tin Mừng tường thuật: “Dung nhan người chói lọi như mặt trời, và y phục người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17, 2). Như thế, chính khi lịch sử cứu độ được hoàn tất nơi ngôi vị của Đức Giêsu, dung nhan của Ngài trở nên Mặt Trời, Mặt Trời ban ánh sáng, sức nóng và sự sống: “Chẳng có chi tránh được ánh dương nồng” (Tv 19, 7).
Dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ được hiểu như trên, chúng ta được mời gọi đọc lại và nhận ra cuộc đời chúng ta cũng là một “lịch sử cứu độ”, như kinh nghiệm thiêng liêng của hai môn đệ trên đường Emmau (x. Lc 24, 13-35), tuy đầy thăng trầm, tội lỗi và bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ, nhưng hướng tới Mầu Nhiệm Vượt Qua và được Mầu Nhiệm Vượt Qua hoàn tất, như thánh sử Gioan mong ước: “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Ga 20, 31). Chính khi nhận ra hành trình làm người và hành trình ơn gọi của chúng ta, quá khứ, hiện tại và tương lai của cuộc đời chúng ta hướng tới và được hoàn tất nơi ngôi vị của Đức Kitô, đó sẽ là lúc chúng ta sẽ có được kinh nghiệm chiêm ngắm Dung Nhan chói ngời của Đức Kitô.
Vậy, trên hành trình đi theo Đức Kitô trong ơn gọi gia đình và nhất là trong đời sống dâng hiến, chúng ta hãy ước ao và xin Chúa ban cho chúng ta kinh nghiệm thiêng liêng nền tảng này: Đức Kitô trở nên chói ngời trong cuộc đời và ơn gọi của chúng ta; và ước gì cuộc sống hằng ngày của chúng ta với những đòi hỏi của ơn gọi, là lời diễn tả tâm tình vui sướng: “Lạy Chúa, chúng con ở đây, thật là hay!” Bởi vì, ánh sáng chói lòa của Đức Giêsu trên đỉnh núi muốn nói cho chúng ta về kinh nghiệm niềm vui và hạnh phúc của lựa chọn cho đi sự sống của mình, đánh liều cuộc đời mình trong một ơn gọi, vì Đức Kitô và vì Tin Mừng, như chính Ngài đã nói sáu ngày trước (Mt 16, 24-26).
b. Nhìn ba môn đệ và nghe lời của ông Phê-rô
Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của các môn đệ để hiểu hết lời nói này của ông Phê-rô: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều…”. Có người hiểu lời này của ông Phê-rô là: “rất may, có chúng con ở đây để phục vụ các Ngài…”. Nhưng chúng ta cũng có thể hiểu, đó đơn giản là lời diễn tả “ơn an ủi thiêng liêng”, diễn tả niềm hạnh phúc khôn tả được chiêm ngắm vĩnh cửu; và ông Phê-rô muốn duy trì hạnh phúc này mãi mãi, bằng cách dựng lều cho các vị. “Lều” là biểu tượng của sự an nghỉ cánh chung. Và đối với ông Phê-rô, cánh chung là đây!
Chúng ta hãy ước ao có được kinh nghiệm này khi chiêm ngắm các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Giêsu, và nhất là Cuộc Thương Khó của Ngài, vì có một lúc nào đó, Ngài sẽ trở lên chói ngời đối với chúng ta. Và chính với kinh nghiệm chiêm ngắm Đức Kitô chói ngời trong Tin Mừng và trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta có thể nhận ra Chúa rạng ngời, ngay trong đời sống dâng hiến đầy thách đố của chúng ta.
c. Nhìn ngắm đám mây sáng ngời và lắng nghe Lời từ đám mây
Đám mây thần linh bao phủ các ông, là hình ảnh thật đẹp diễn tả tình yêu Thiên Chúa bao bọc, mời gọi con người đi vào trong kế hoạch cứu độ của Người. Hình ảnh đám mây còn diễn tả là điều Chúa Chúa muốn, đối lại với lòng ước ao “dựng lều” của ông Phê-rô. Bởi vì, khi ông còn đang nói, có đám mây sáng ngời bao phủ các ông. Đám mây là hình ảnh của sự di động, không thể làm chủ hay nắm bắt được, thay vì cố định, dễ làm chủ và nắm bắt như căn lều; và từ đám mây, Thiên Chúa Cha lên tiếng:
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời người.
Như thế, chính khi chúng ta vâng nghe Đức Giêsu, và đi theo Ngài trên con đường Thập Giá, trong ơn gọi của chúng ta với tâm tình biết ơn và yêu mến, chúng ta sẽ có được niềm hạnh phúc thần linh của Thiên Chúa. Và khi đó chúng ta có thể nói: “Lạy Chúa, chúng con ở đây thật là hay !”
d. Nhìn ba môn đệ
Khi chiêm ngắm dung nhan rạng ngời của Đức Giêsu, ba môn đệ chìm ngập trong niềm vui. Nhưng khi nghe lời này từ đám mây: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”, thì các ông kinh hoàng. Chúng ta vừa chiêm ngắm và vừa tìm hiểu tại sao các môn đệ lại kinh hoàng, “ngã sấp mặt xuống”. Chúng ta cần lưu ý, lời của Chúa Cha nói về Đức Giêsu trong biến cố biến hình cũng là cùng một lời trong biến cố phép rửa (x. Mt 3, 17). Nhưng Người thêm một lời mời gọi đầy ý nghĩa, nhưng cũng thách đố nữa: “Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”.
3. «Chỗi dậy đi đừng sợ» (c. 7-8)
Chúng ta hãy nhìn ngắm và đọc ra ý nghĩa hình ảnh: Đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!” Trên đường đi theo Chúa, và trong mọi hoàn cảnh, kể cả hoàn cảnh tận căn nhất và tận cùng nhất, Chúa vừa đụng chạm đến chúng ta (chứ không phải chúng ta cố đụng chạm được Chúa) và vừa nói Lời Hằng Sống: “Hãy chỗi dậy, đừng sợ”.
Nhưng chính lúc ấy, các môn đệ lại phải trở về “bờ bên này” và lát nữa phải “xuống núi”, nghĩa là đời thường: “Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi.” Nhưng, trong tâm hồn các ông, Đức Giêsu mà các ông nhìn thấy, không còn là Đức Giêsu trước mầu nhiệm Biến Hình. Và sâu xa hơn, các ông được mời gọi vẫn nhận ra Dung Nhan Rạng Ngời của Người ngay trong lời nói và hành động hằng ngày của Người, và nhất là nơi mầu nhiệm Vượt Qua, và sau đó, trong chính cuộc đời của mình, với những thăng trầm, thách đố và khổ đau, nhưng được đảm nhận dưới ánh sáng của mầu nhiệm Vượt Qua.
6. Biến Hình để được Hiển Dung
Hàng năm vào ngày 6 tháng 8, Giáo Hội mừng lễ Kính Chúa Giêsu Hiển Dung, còn được gọi là Kính Chúa Giêsu Biến Hình Trên Đỉnh Núi Taborê. Trên đỉnh núi Taborê Chúa đã cho ba môn đệ ‘thân tín’ nhất của Ngài là Phêrô, Giacôbê và Gioan ‘nếm một chút’ và ‘cảm nghiệm một phần nào’ niềm vui sướng và hoan lạc của Nước Chúa Hằng Sống. Mới ‘chỉ nếm một chút’ thôi và mới ‘cảm nghiệm một phần nào’ thôi niềm hoan lạc hạnh phúc của Nước Chúa Hằng Sống mà Phêrô đã cảm thấy ngất ngây tột đỉnh, đến nỗi đã không ngần ngại và cũng không cần phải suy nghĩ lâu gì, và đã thốt lên rằng: Lạy Thầy, ở lại trên núi luôn được không? Nếu được, con sẽ dựng ngay ba lều: một cho Thầy, một cho Môisen và một cho Êlia.
Nhưng muốn được hưởng niềm hoan lạc sung sướng của Nước Chúa, chúng ta phải ‘hiển dung’, phải ‘biến hình’, phải ‘thay đổi’ nếp sống nên tốt hơn. Đó là ý nghĩa chính yếu của Thánh Lễ Kính Chúa Giêsu Hiển Dung mà Hội Thánh kêu gọi con cái mừng kính trọng thể hàng năm.
Như một cây cảnh hay cây ăn trái chúng ta trồng chẳng hạn. Để cây có thể lớn lên, lớn lên nữa, lớn lên hơn nữa, cây đó cũng phải ‘thay hình’ và ‘đổi dạng’. Phải đau đớn nứt nẻ thân cây, và ngay cả ‘lột xác’, bỏ rơi lại dưới đất những vỏ cây khô. Có như thế, cây mới lớn lên cao, lớn lên cao mãi được. Cuộc đời chúng ta cũng vậy, muốn lớn lên, lớn lên mãi trong tình nghĩa tử làm con cái của Chúa, chúng ta cũng phải như thân cây. Chúng ta phải can đảm hy sinh chấp nhận mọi đớn đau trong sự ‘biến hình’ và “đổi dạng” trút bỏ lại những cằn cỗi, già nua của những vỏ cây là hiện thân của những tham sân si, ghen ghét, hận thù, bất công, vu oan, cáo vạ...
Hơn nữa, để có thể leo lên tới đỉnh Núi Thánh của Chúa trong niềm vui hoan lạc, chúng ta cũng phải bỏ xuống khỏi đôi vai, thân xác và ra khỏi lòng chúng ta những cồng kềnh, lỉnh kỉnh của mọi điều gian trá bất nhân. Bằng không chúng ta sẽ khó lòng leo lên tới được đỉnh núi Taborê. Mà sợ còn gẫy gánh dọc đường khi chỉ mới ngang lưng sườn núi vì bị những cồng kềnh, lỉnh kỉnh đó đè bẹp chúng ta ngã quỵ.
Mừng Kính Lễ Kính Chúa Giêsu Hiển Dung hàng năm, Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm và sống ý nghĩa của sự cần thiết ‘Hiển dung’ và ‘biến đổi’ cuộc sống hàng ngày của chúng ta nơi dương thế. Nghĩa là, Chúa thách đố chúng ta ‘biến hình’ để rồi được ‘hiển dung’ với Chúa trên Núi Thánh. Ước chi mỗi người chúng ta luôn biết cố gắng thanh luyện và biến đổi đời sống của chúng ta nên tươi tốt và đẹp đẽ hơn trong mọi hoàn cảnh. Đồng thời trút bỏ mọi cồng kềnh và lỉnh kỉnh vô ích hầu chúng ta có thể nhẹ nhõm bước đi và lên đến đỉnh Núi Thánh trên Nước Chúa Vĩnh Hằng.
7. Những sự việc bình thường
“Này là con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài.”
Vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Ngài đã được giới thiệu như là Người Con chí ái và là Đấng cứu độ của nhân loại. Tại nơi chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã lãnh lấy chức vụ người Tôi Tớ đau khổ, nhưng lại được Thánh Thần hướng dẫn. Còn trong cuộc biến hình hôm nay, Ngài đã được giới thiệu trong tư cách một vị tiên tri mà mọi người phải vâng nghe.
Tiếng bởi trời đã tỏ cho các tông đồ và qua các tông đồ, cho mỗi người chúng ta nhận biết về Đức Kitô. Thế nhưng sau những giây phút bàng hoàng và sợ hãi, các tông đồ chỉ còn thấy Chúa Giêsu trở về với vóc dáng cua một con người bình thường, quang cảnh huy hoàng với Môsê và Elia đã biến mất. Đấng mà các ông vừa mới được chiêm ngưỡng sự vinh quang, Đấng mà các ông vừa mới được kêu gọi vâng phục chính là Chúa Giêsu nhưng trong điều kiện làm người của Ngài.
Chúng ta rất dễ bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi những cái ngoạn mục, những cái vượt ra ngoài ranh giới thông thường. Trong Tin Mừng chúng ta thấy ông Phêrô, sau khi được thấy mặt Thầy chiếu sáng như mặt trời và áo Thầy trở nên trắng như ánh sáng, rồi Thầy lại còn đàm đạo cùng Môsê và Elia, đã vội vàng đề nghị: Chúng con được ở đây thì tốt lắm, nếu Thầy muốn, chúng con xin làm ba lều, một thầy Thầy, một cho Môsê và một cho Elia.
Nhưng hiện tại vẫn phải là con đường xuống núi, tiếp tục tiến về Giêrusalem, đối diện với cái chết. Hiện tại chưa phải là lúc dừng lại trong vinh quang. Cuộc sống vẫn phải là cuộc hành trình của niềm tin, của sự gắn bó với Chúa Giêsu, dù rằng Ngài đang tiến đến thập giá. Vinh quang chỉ có thể đến ngang qua đau khổ.
Với sự kiện Chúa biến hình trên núi, các tông đồ như được thêm sức mạnh để cùng đi với Ngài trong đoạn đường còn lại. Nhiều người trong chúng ta rất dễ dàng đón nhận những lời nói của ông thánh này bà thánh nọ phán dạy qua những lần hiện ra ở chỗ này, chỗ khác, như những lời nói đáng tin cậy nhất với những việc lạ lùng kèm theo. Thế nhưng trong chương trình của Chúa, Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta, Ngài đã giảng dạy bằng những hình ảnh hết sức bình thường và quen thuộc, chẳng hạn hình ảnh chim trời, cây vả, mẻ lưới, tiệc cưới... Chính Ngài cũng đã sống những điều ngài giảng dạy một cách thật bình thường, cho dù Ngài đủ khả năng lôi cuốn dân chúng bằng những việc lạ lùng. Chẳng hạn như sau khi làm phép lạ cho bánh hoá nhiều, thì dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã dứt khoát từ khước.
Ngày hôm nay, Chúa vẫn tiếp tục nói với chúng ta qua những sự việc thật bình thường của cuộc sống, điều quan trọng là chúng ta có biết lắng nghe và vâng phục thánh ý Ngài hay không?
8. Biến hình
Cách đây vài năm khi đang đi bộ lang thang khu siêu thị, tôi để ý thấy đám đông chăm chú nhìn vào một cái gì đó trong tủ kính trưng bày của một cửa tiệm. Tò mò, tôi bước tới nhìn xem. Người ta ngắm một bức tranh. Bức tranh vẽ đủ mọi màu sắc sáng với những biểu tượng và hình thù chẳng có ý nghĩa gì. Ban đầu tôi chợt nghĩ: “Chắc là một loại nghệ thuật trừu tượng. Và mình sẽ không bao giờ có thể hiểu được loại nghệ thuật này!”
Tình cờ, một trong những người khách chỉ vào bức tranh và nói: “Tôi thấy Ngài rồi! Tôi thấy Ngài rồi!” “Thấy cái gì? Thấy ai?” một vài người đứng đó hỏi. “Thủng thẳng đã, tôi không chắc chắn lắm, và tôi cũng không muốn quấy rầy quí vị”. Sau đó một người khác cũng la lên: “Rồi, tôi cũng thấy Ngài nữa!”
Một vài người lắc đầu bỏ đi. Và chỉ còn vài người chúng tôi ráng đứng lại nhìn. “Xin lỗi, bà có thể nói lại cho tôi biết cái gì vậy?” Tôi hỏi một trong những người đã nói rằng bà trông thấy “Ngài”. Bà cắt nghĩa: “Đây là một bức hình ba chiều, nếu nhìn vào bức hình khi có ánh sáng phù hợp vào đúng góc cạnh, sẽ nhìn thấy một bức hình ở đó”. Thế hả? Tôi đáp lại nhưng vẫn còn nghi ngờ. “Nhưng nó không dễ nhìn thấy đâu!” Bà nói thêm. “Tôi phải mất gần ba chục phút mới nhìn ra đấy. Nhưng kìa thấy rồi”. Bà chỉ ngón tay vào bức hình: “Bộ không thấy sao?” Bà hỏi. Tôi cố gắng nhìn tập trung vào bức tranh muốn chóng cả mặt. “Tôi chẳng trông thấy gì cả”, tôi phải tự thú như vậy, “Hay là tưởng tượng đấy?” Bà mỉm cười, rồi quay mặt bước đi, nhưng vẫn không quên khích lệ tôi: “Đừng bỏ cuộc! Cố nhìn thêm chút nữa!”
Tôi đã phải nhìn vào bức hình đó hằng chục lần nữa mà cũng không thấy gì. Trên đường trở ra bãi đậu xe, tôi quyết định trở lại để thử nhìn thêm một lần nữa. Khi tôi nhìn vào bức tranh, hơi cúi khom đầu xuống một chút, những đường nét trang trí bắt đầu mờ nhạt, và một khuôn mặt xuất hiện. Một cách rất khoan khoái tôi nhận ra đây là khuôn mặt của Chúa Giêsu. “Tôi đã trông thấy Ngài! Tôi đã trông thấy Ngài!” Rồi mất thêm một tiếng đồng hồ nữa để giúp cho những người xung quanh cũng nhìn thấy Ngài. Thật là thú vị trông thấy khuôn mặt của họ tươi sáng hẳn lên khi nhận diện ra khuôn mặt của Chúa Giêsu lần đầu tiên sau những nỗ lực vất vả.
Hôm nay, Lễ Chúa Hiển Dung, bài Phúc âm thánh Matthêu nói về cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi. Phêrô, Giacôbê và Gioan đã nhìn thấy khuôn mặt vinh quang của Con Thiên Chúa lần đầu tiên. Họ đã ở với Chúa Giêsu hằng ngày trong khoảng thời gian ba năm. Họ đã nhìn thấy Ngài, lắng nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến những phép lạ Ngài làm, nhưng họ vẫn chưa thực sự nhận ra Ngài là ai.
Trong cuốn “Jésus: A Fait De Moi, Un Témoin”, “Chúa Giêsu Đang Sống Qua Nhân Chứng”, cha Emiliano Tardif chia sẻ như sau: “Một sứ giả Tin Mừng trước tiên phải là một chứng nhân có một kinh nghiệm cá nhân về sự chết và Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô và là người truyền đạt cho kẻ khác, không chỉ là một đạo lý, mà một Đấng-Vẫn- Sống đang ban sự sống dồi dào”. “Không ai có thể trở thành sứ giả đích thực của Tin Mừng, nếu người đó không có kinh nghiệm đời sống mới mà Chúa Giêsu ban cho”.
Chúa Giêsu đã cho ba môn đệ trải qua kinh nghiệm về hình ảnh vinh quang của Ngài để giúp họ học hỏi và sống đời sống chứng nhân sau này.
1. Thiên Chúa nâng chúng ta lên.
Trong Cựu ước, ngọn núi cao thường là nơi mô tả sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa đã mời gọi Môsê đi lên núi để lãnh nhận Mười điều răn. Phêrô, Giacôbê và Gioan là những người Chúa Giêsu tuyển chọn, được đưa lên núi cao để hưởng đặc ân của Thiên Chúa. Họ đã chứng kiến một điều sẽ ảnh hưởng sâu xa trong cuộc đời chứng nhân sau này như Phêrô đã thú nhận: “Là chứng nhân những đau khổ của Đức Kitô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai”.
Ngài cũng có chương trình riêng cho mỗi người chúng ta. Bằng những cách gọi rất cá nhân và khác nhau, Thiên Chúa đã mời gọi mỗi người và nâng chúng ta lên. Chúng ta sẽ cảm nghiệm được điều này nếu biết cầu xin và đón nhận với lòng biết ơn. Cha Emiliano Tardif đã chia sẻ kinh nghiệm cá nhân của ngài: “Chúng ta có thể gặp được chính Tin Mừng là Chúa Giêsu Kitô, Đấng hôm qua và hôm nay vẫn là thế, và hằng sống muôn đời”.
Sách Giáo lý Công giáo, số 556 cũng đã viết: “Sự biến hình cho ta nếm trước ngày quang lâm vinh hiển của Chúa Kitô, “Đấng sẽ biến đổi thân xác khốn khổ của chúng ta, để hóa nên giống như thân xác vinh hiển của Ngài”.
2. Thiên Chúa đem chúng ta xuống.
Sau kinh nghiệm cực kỳ sung sướng vừa thấy Chúa Giêsu biểu lộ vinh quang sáng ngời của Ngài, thì có tiếng từ trong đám mây phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất”. Vừa mới lên cao đến tột đỉnh sáng ngời, liền bị hạ sấp mặt xuống đất trong kinh hãi. Thiên Chúa nâng họ lên cao và hạ họ xuống thấp. Đây là những chi tiết thú vị của câu chuyện.
Dân gian Việt Nam gọi cái thăng trầm, và thử thách của cuộc đời là: “Lên voi xuống chó”, “Lên bổng xuống trầm”, “Lên ngàn xuống bể”, “Lên thác xuống ghềnh”. Những thành ngữ rất gợi hình này nói lên một phần thực tại của cuộc sống lữ hành.
Thánh Kinh cũng thường diễn tả việc Thiên Chúa hạ những kẻ cao sang và kiêu căng xuống. Tiên tri Isaia đã viết: “Vì Đức Chúa, các đạo binh đã dành sẵn một ngày để trị tất cả những gì kiêu căng ngạo nghễ, trị tất cả những gì tự cao tự đại: chúng sẽ bị hạ xuống”. Sách 1 Samuel nói: “Đức Chúa bắt phải nghèo và cho giàu có, Người hạ xuống thấp, Người cũng nhấc lên cao”. Thánh vịnh 75 nói rằng: “Chỉ Thiên Chúa mới là thẩm phán, Chúa hạ bệ người này, cất nhắc kẻ kia”. Trong bài ca “Ngợi Khen”. “Kinh Magnificat” xác định: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”.
Thánh Phaolô đã trải qua kinh nghiệm này, đang “hằm hằm những lời đe dọa và giết chóc…” thì “bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói…”. Và chính Chúa Giêsu cũng đã bước qua những thăng trầm này: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con?”
3. Tin tưởng vào Chúa Giêsu và tiếp tục cuộc sống:
Thiên Chúa đã đưa ba tông đồ lên núi, làm họ ngã sấp mặt xuống đất, thì cũng chính Ngài, qua Đức Giêsu Kitô lại nâng họ lên: “Các con hãy đứng dậy, đừng sợ”. Rồi cùng với họ đi xuống núi. Trên đường đi xuống núi lòng họ hoang mang, đầy những câu hỏi, nghi vấn, nhưng Chúa Giêsu đã nói với họ rằng: “Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Bí mật của cuộc biến hình này tạo nên sự tin tưởng cho các tông đồ khi phải đối diện với đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu trên thập giá và của chính các ông sau này.
9. Biến hình
Họa sĩ người Ý, Raphael (1483 – 1520), khi chết mới 37 tuổi, nhưng đã để lại một số lượng tác phẩm tuyệt vời cho hậu thế. Một trong những tác phẩm danh tiếng của ông có tên là “Cuộc Biến Hình”, “Transfiguration”. Trong tang lễ, bức tranh này đã được đặt trên đầu quan tài của ông. Bức tranh vẽ có hai phần. Phần trên, diễn tả cảnh Chúa Giêsu biến hình trong sự sáng láng và vinh quang của Ngài, mặt Ngài chiếu sáng, áo Ngài trắng như tuyết. Bản tính Thiên Chúa ngời sáng qua nhân tính của Ngài. Ở bên phải là Môsê, đại diện cho luật cũ, và bên trái là tiên tri Elia, đại diện cho các tiên tri của Cựu ước. Ở dưới chân của Chúa Giêsu là ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan trong sự sửng sốt và kinh ngạc khi thấy vinh quang thiên quốc của Ngài.
Trái lại, phần dưới của bức tranh tối tăm u buồn. Trong cái u tối đó có một bé trai bị bệnh, đang đau đớn quằn quại trên chiếc giường nhỏ, gia đình qui tụ xung quanh, cùng với chín tông đồ còn lại. Một tông đồ đang chỉ tay vào em bé bị bệnh, và một tông đồ khác chỉ tay hướng về Chúa Giêsu đang trên đường đi xuống núi. Các tông đồ không thể chữa được cơn bệnh ngặt nghèo của em bé, chỉ có Chúa Giêsu mới có thể chữa được. Em bé trai phải hướng về Chúa Giêsu và tin tưởng vào Ngài.
Đau khổ và thập giá là sự kiện hiển nhiên trong cuộc sống. Chúng xuất hiện dưới nhiều hình thức. Không ai có thể tránh khỏi. Sách Giáo lý Công giáo cũng xác định rằng: “Muốn vào chốn vinh quang của Ngài”, “Ngài phải trải qua thập giá tại Giêrusalem”.
Sự biến hình của Chúa Giêsu trong vinh quang chính là niềm hy vọng và tăng cường sức mạnh cho chúng ta đang khi cố gắng trung thành với Ngài giữa những cám dỗ, đau khổ và thử thách. Giống như em bé trai thống khổ trong bức tranh vẽ của Raphael, chúng ta không bao giờ thất vọng khi nhìn ngắm vào thập giá của Chúa Giêsu, mà phải luôn tìm kiếm Ngài trong vinh quang. Chỉ qua Ngài, với Ngài, và ở trong Ngài chúng ta mới chiến thắng được thế gian và ma quỉ.
10. Người biến đổi hình dạng
Trong các hình ảnh người ta vẽ Đức Giêsu, ta thường thấy Ngài có vòng hào quang trên đầu. Thật ra Con Thiên Chúa đã nên giống chúng ta. Ngài mang khuôn mặt bình thường như ta. Chính nơi khuôn mặt này mà ta thấy Thiên Chúa.
"Ai thấy Ta là thấy Cha" (Ga 14,9).
Khuôn mặt con người có thể phản ánh khuôn mặt Thiên Chúa.
Nơi khuôn mặt Đức Giêsu, khuôn mặt như mọi người, ta có thể gặp thấy Thiên Chúa vô hình, Đấng ngàn trùng thánh thiện và vô cùng siêu việt.
Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm của con người. Chính vì thế họ ngây ngất hạnh phúc khi thấy khuôn mặt ấy rực sáng vinh quang. Họ muốn dựng lều để ở lại tận hưởng.
Tiếng từ đám mây phán ra như một lời giới thiệu và nhắn nhủ: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, các ngươi hãy vâng nghe lời Người."
Thầy Giêsu vừa là Con, vừa là Người Tôi Trung (Is 42,1), vừa là vị ngôn sứ đã từng được Môsê loan báo (Đnl 18,15).
Phêrô không quên được kỷ niệm độc đáo này. Ông viết: "Chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người... Chúng tôi đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người" (2Pr 1,16-18).
Đức Giêsu được biến hình sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn, sau khi thắng được cơn cám dỗ của Phêrô (Mt 16,23), và kiên quyết đi trên con đường Cha muốn.
Biến hình là một bừng sáng ngắn ngủi, bất ngờ, báo trước vinh quang phục sinh sắp đến.
Thân xác Đức Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu lăng nhục và đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.
Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong ngần.
Chúng ta cần có lần lên núi cao, thanh vắng, để nhìn thấy khuôn mặt ngời sáng của Đức Giêsu, nhờ đó chúng ta dễ đón nhận khuôn mặt bình thường của Ngài khi xuống núi, và khuôn mặt khổ đau của Ngài trên thập tự.
Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ có thể cảm nghiệm được phần nào khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng.
Sám hối là đổi tâm hồn, đổi khuôn mặt để chính tôi và cả Hội Thánh mang một khuôn mặt mới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về khuôn mặt của bạn, đâu là những điểm sáng và điểm tối? Bạn có dám xin một người khác góp ý về những điểm bạn chưa rõ về bạn không?
Bạn nghĩ gì về khuôn mặt giáo xứ của bạn, nhóm của bạn, gia đình của bạn? Bạn có thể làm gì để khuôn mặt ấy ngời sáng hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con rạng ngời hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
11. Đức Giêsu biến đổi hình dạng
(Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt câu truyện Hiển Dung vào cùng một chỗ, tiếp sau lời tuyên xưng của Phêrô (Mc 8,27-30; Mt 16,13-20; Lc 9,22) và những lời Đức Giêsu nói về số phận của môn đệ và vinh quang của Con Người (Mc 8,34–9,1; Mt 16,24-28; Lc 9,23-27).
Riêng Tin Mừng Matthew đóng khung cuộc đời công khai của Đức Giêsu giữa hai ngọn núi:
- Khi chuẩn bị ra đi thi hành sứ vụ: trên “một ngọn núi rất cao” (Mt 4,8), quỷ đã cám dỗ Đức Giêsu nhận quyền bính và quyền hành trên toàn thế giới từ tay nó: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (Mt 4,9). Nhưng Người đã dứt khoát từ chối.
- Khi kết thúc sứ mạng của Người và khởi đầu sứ mạng của các môn đệ, Đức Giêsu gặp Nhóm Mười Một “tại ngọn núi Người đã truyền cho các ông đến” (Mt 28,16). Tại đây Người tuyên bố là Người “đã được [Thiên Chúa] trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18) và dựa trên nền tảng này, Người sai phái các ông đi loan báo Tin Mừng “cho muôn dân”.
Vì Người đã từ chối nhận mọi quyền hành từ tay quỷ mà bây giờ Người nhận được mọi quyền hành từ tay Thiên Chúa.
- Giữa hai biến cố nêu trên, có một biến cố khác cũng xảy ra trên một ngọn núi cao: Đức Giêsu biến đổi hình dạng, Người có vinh quang Thiên Chúa: cuộc khải hoàn Phục Sinh đã được giới thiệu trước. Và biến cố này đã xảy ra sau khi Đức Giêsu gạt bỏ đề nghị của Satan qua miệng Phêrô là đừng đi theo đường lối của Chúa Cha.
Theo văn cảnh xa, có thể nói bản văn chứa đựng biến cố Hiển Dung vừa tóm lại các cám dỗ vừa đón trước cuộc diện kiến trên núi giữa Đấng Phục Sinh và các môn đệ; chúng ta thấy ở đây có các yếu tố của hai tình trạng ấy của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa vinh quang và Đấng Messiah phải chịu đau khổ; nổi bật lên như một gạch nối là sự chọn lựa dứt khoát, thái độ cương quyết của Đức Giêsu để đi theo thánh ý Chúa Cha. Điểm này được minh chứng theo văn cảnh gần: cuộc Hiển Dung được đóng khung giữa hai lời loan báo về Khổ Nạn (Mt 16,21-23; 17,22-23).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành phần:
1) Mở (17,1);
2) Thị kiến (17,2-8):
a) Mở đầu: Đức Giêsu biến đổi hình dạng,
b) Các tình huống: Moses và Elijah hiện ra đàm đạo; Phêrô đề nghị làm lều; tiếng Thiên Chúa phán,
c) Kết: các môn đệ sợ hãi; Đức Giêsu trấn an; mọi sự trở lại như cũ;
3) Kết (17,9).
3.- Vài điểm chú giải
- Sáu ngày sau (1): Theo Xh 24,13-16, Thiên Chúa tỏ mình ra cho Moses trên núi Sinai sau sáu ngày; và theo Đnl 16,13-15, đay là ngày cuối cùng của Lễ Lều.
- Phêrô, Giacôbê và Gioan (1): Ba môn đệ này cũng lại được thấy xuất hiện tại khu vườn Gethsemane (Mt 26,37).
- Một ngọn núi cao (1): Một quả núi là biểu tượng cho nơi Thiên Chúa mạc khải. Ở đây hẳn quả núi này là một Sinai khác tại Galilee. Truyền thống vẫn cho rằng đây là núi Tabor, mà Tabor thật ra chỉ là một quả đồi. Nhưng hợp lý hơn, có lẽ là núi Carmel hay Hermon. Đặc biệt trong Tin Mừng Matthew, khi Đức Giêsu sắp làm một việc gì quan trọng, Người thường lên núi: cuộc cám dỗ xảy ra trên núi cao (Mt 4,8); các Mối Phúc được công bố trên núi (Mt 5,1); bánh được nhân ra nhiều trên núi (Mt 15,19); và Nhóm Mười Một gặp Đấng Phục Sinh trên một ngọn núi (Mt 28,16).
- Biến đổi hình dạng (metemorphòthé; 2): Sự cố biến đổi hình dạng (= sự hóa thân) này là điều rất quen thuộc đối với ngoại giáo. Có lẽ vì thế mà Luca đã tránh dùng từ ngữ này.
- Moses và Elijah (3): Đây là hai nhà linh thị trứ danh của Cựu Ước, cả hai đều có liên hệ với núi Sinai-Horeb. Moses thường được coi là đại diện cho Lề Luật và Elijah đại diện cho các Ngôn Sứ; nhưng có thể coi cả hai vị vừa là những nhà lập pháp vừa là những ngôn sứ. Và nói chung, các ngài đại diện cho thiên giới.
- Ba cái lều (4): Hẳn chi tiết này nhắc dến hoàn cảnh thực là Lễ Lều (sukkốt: Lv 23,42; Nkm 8,14-18).
- Đám mây sáng ngời bao phủ các ông (5): Đám mây là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Động từ episkiazein, “bao phủ; rợp bóng” là động từ cổ điển để lưu ý về sự hiện diện (Hipri: shekinah) của Đức Chúa (Yhwh) trong đời sống và trong các tình huống của dân Ngài (x. Xh 40,34-35; 1V 8,10-12; Ed 10,3-4; Tv 18,12).
- Tiếng từ đám mây phán (5): Trong Cựu Ước, “tiếng nói” thường xuất hiện trong các bài tường thuật về ơn gọi, chẳng hạn: St 12,1-3; 15,1; Xh 3,4; 19,16-24; 1Sm 3,4; Is 6,8; Gr 1,11;...
- Đây là Con yêu dấu của Ta (5): Câu này là một tổng hợp Tv 2,7; Is 42 và có lẽ cả St 22,2. Từ ngữ “con” trước tiên diễn tả quan hệ gia đình, rồi cũng có sắc thái thân tình, kết hợp và hiệp thông.
- Nghe vậy, các môn đệ rất đỗi sợ hãi (6): Matthew cho thấy là nỗi sợ hãi của họ là do nghe lệnh Thiên Chúa truyền, chứ không phải do thấy thị kiến (Marco).
- Đức Giêsu lại gần (7): Động từ proserchomai, “đi đến, đến gần”, là một động từ Matthew thích dùng (52 lần; 5 lần trong Marco và 10 lần trong Luca), nhưng chỉ có hai lần được áp dụng cho Đức Giêsu (ở 17,6-7 và 28,18 riêng của Matthew). Trong cả hai bản văn, Đức Giêsu đến gần các môn đệ với mục tiêu là trợ giúp những kẻ đang sợ hãi hoặc hoài nghi:
Mt 17,6-7
6 Khi các môn đệ nghe vậy
họ ngã sấp mặt xuống đất
và hết sức kinh hoàng
7 Bấy giờ Đức Giêsu lại gần
chạm vào các ông và bảo:
“Trỗi dậy đi, đừng sợ”
Mt 28,16-20
16 Mười một môn đệ…
17 Khi thấy Người,
các ông bái lạy Người,
nhưng có mấy ông hoài nghi.
18 Đức Giêsu đến gần
nói với các ông:
19 “…toàn quyền…”
20 Thầy ở cùng anh em mọi ngày”
- Thị kiến (9): Hoạt cảnh này vừa là “thị kiến” ([h]orama do động từ [h]oraô) kiểu khải huyền vừa là một cuộc thần hiển (có thể so sánh với các bản văn Khải Huyền: Đn 10,1-10 [Kh 1,13-15]; 12,4.9 và các yếu tố thần hiển trong: Xh 19,16; 24,15-16; 40,34-35). Từ ngữ mang tính khải huyền này hàm ý là nhìn thấy Đức Giêsu hiển vinh là một “thị kiến” được Thiên Chúa ban cho.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bản văn chúng ta đọc hôm nay có phần khó hiểu. Nếu tác giả muốn kể cho chúng ta biêt về một biến cố đặc biệt xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu, thì hẳn là mọi sự sẽ đơn giản và rõ ràng; nhưng tác giả lại đi xa hơn việc cung cấp thông tin. Ngài muốn nói cho chúng ta biết Đức Giêsu là ai, và ngài đã dùng một ngôn ngữ đầy hình ảnh và biểu tượng dễ hiểu và rõ ràng cho người thời đại ngài, nhưng lại khó cho chúng ta hôm nay.
* Mở (1)
Chi tiết xác định thời gian “sáu ngày sau” muốn nói là sau chuyện gì? Tại sao tác giả lại ghi nhớ một chi tiết không đáng kể như vậy? Và làm sao ngài có thể còn nhớ được chi tiết này 50 năm sau, khi bắt đầu viết?
Tại sao Đức Giêsu chỉ đưa ba môn đệ đi với Người? Tại sao Người lên một ngọn núi?
Chi tiết “sáu ngày sau” hẳn là muốn đưa độc giả về với Xh 24,16, trong đó kể rằng “sau sáu ngày”, mây bao phủ quả núi và đến ngày thứ bảy, Thiên Chúa gọi Moses. Tác giả hướng độc giả chú ý vào một kinh nghiệm siêu nhiên. Nơi ấy hẳn là vắng vẻ, bởi vì Đức Giêsu đưa các môn đệ “đi riêng với mình, lên một ngọn núi cao”, bởi vì theo một cái khung quen thuộc theo linh đạo Kinh Thánh, người ta không thể có kinh nghiệm về Thiên Chúa (Đức Kitô) trong sự hỗn độn và ồn ào náo nhiệt. Đức Giêsu chính là vị hướng dẫn đoàn dân mới, được đại diện bởi ba môn đệ.
* Thị kiến (2-8)
Sau phần mở, tác giả giới thiệu Đức Giêsu vinh quang, bằng cách vận dụng các yếu tố quen thuộc của những thị kiến khải huyền (ánh sáng mặt trời, y phục trắng tinh). Sau này, khi mô tả trang phục của vị sứ thần báo tin Phục Sinh, tác giả Matthew cũng cho thấy các yếu tố này (Mt 28,3-4). Họi Thánh gọi cuộc Phục Sinh là một sự “biến hóa; biến thái” (metamorphein) để cho thấy sự thay đổi xảy ra nơi nhân tính Đức Giêsu. Từ ngữ này dị nghĩa vì có thể làm chúng ta nghĩ đến sự hóa trang của các thần linh Hy Lạp, cho dù đây là một dữ kiện không được các Kitô hữu Siri và Paléttina biết đến. Từ ngữ này cũng hời hợt nữa, vì không phác họa được tất cả mầu nhiệm Phục Sinh mà các tác giả Tin Mừng còn gọi là “sự tái sinh”, “sự công chính hóa”. Ánh sáng, màu sắc, sự “biến hóa” nơi bản thân Đức Giêsu, tất cả cho thấy rằng Người là một nhân vật thuộc thế giới khác, là “Con Người” mặc lấy uy quyền và vinh quang (x. Đn 7,13-14). Đây là một thị kiến về Đức Kitô trong vinh quang tương lai của Đấng Phục Sinh.
Đức Kitô biến đổi hình dạng (và phục sinh) là đích điểm của Lề Luật và các Ngôn Sứ (x. Mt 5,17). Sự xuất hiện của Moses và Elijah (ngược lại với Mc 9,4) cho thấy các niềm chờ mong của dân Israel, các lời hứa thiên sai, nay đã nên hiện thực nơi bản thân Đức Giêsu (x. Lc 24,27; Rm 3,21). Chúng ta không được biết là hai ngài đàm đạo với Đức Giêsu về chuyện gì, nhưng dựa theo Lc 9,31, các ngài nói về “cuộc xuất hành” Đức Giêsu sắp hoàn thành tại Jerusalem, thì hẳn là các ngài trao đổi cuộc Khổ Nạn Đức Giêsu sắp đi vào. Moses và Elijah tượng trưng cho truyền thống Cựu Ước mà Đức Giêsu đến để hoàn tất (Mt 5,17). Khi chỉ một mình ngài ghi nhận là “dung nhan Người chói lọi như mặt trời”, hẳn là tác giả Matthew muốn ám chỉ Đức Giêsu là Moses mới, còn Moses ngày xưa chỉ có “da mặt sáng chói” mà thôi (x. Xh 34,30).
Phản ứng của Phêrô khi đề nghị dựng ba cái lều lại nêu bật một lần nữa sự tương phản giữa các khát vọng của loài người và kế hoạch của Thiên Chúa. Mới trước đây ít lâu, ông đã lấy lòng thành mà ngăn cản Đức Giêsu đi lên Jerusalem, và đã bị Đức Giêsu mắng là “Satan”. Nay khi đề nghị dựng ba lều, ông đã hiểu sai ý nghĩa của quang cảnh nên đã tìm cách hưởng lấy chiến thắng vinh quang mình không đáng hưởng. Cả ở đây cũng vậy, Phêrô là đại diện cho “thịt và máu” (Mt 16,17), tức người không suy nghĩ theo Thiên Chúa, nhưng theo cách của loài người (Mt 16,23), nên lại ngáng trở thay vì cộng tác với Thiên Chúa. Lần này, không phải là Đức Giêsu mắng Phêrô là “người kém tin” (Mt 14,31) hoặc là liên minh Satan (Mt 16,23), nhưng chính Chúa Cha can thiệp để điều chỉnh các ước vọng và quan niệm của ông. Đám mây sáng ngời bao phủ cả các tông đồ. Như thế, các ông đã được tiếp xúc với chính vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa, để được đón nhận một sứ điệp trực tiếp từ Thiên Chúa. Khi Chúa Cha giới thiệu Con của Ngài, lời lẽ của Ngài không còn dè giữ, không giới hạn nữa (x. Mt 11,25-27). Lời giới thiệu Đức Kitô (Phục Sinh) là một tổng hợp giữa các “bản văn thiên sai” (Tv 2,7 và Is 42,1). Cũng như tại phép rửa, “tiếng nói” từ trời làm sáng tỏ và xác nhận cả sứ mạng lẫn ơn gọi của Đức Giêsu. Phêrô đã muốn xóa đi một phần chương trình thiên sai; Chúa Cha đến nhắc rằng chương trình này không phải là một công trình của loài người, nhưng là một kế hoạch của Ngài. Chính Ngài đã phác ra cho Đức Giêsu con đường phải theo (người tôi tớ đau khổ chứ không phải là một vị vua thuộc dòng dõi David).
Tác giả hoàn tất khung cảnh với những yếu tố thuộc quy ước: ngã xuống đất, sợ hãi, im lặng. Đây là những mẹo văn chương mà các tác giả văn chương khải huyền thường dùng để diễn tả một kinh nghiệm siêu phàm đang xảy ra. Đức Giêsu can thiệp như vai trò thiên thần trấn an. Các lời “Đừng sợ” thường được nói lên trong các thị kiến tương tự (x. Đn 8,16-17; 10,9-12.16-19; Kh 1,17; Lc 1,12-13.29-30).
Câu cuối của hoạt cảnh có một tầm mức biện giáo và Kitô học. Sau khi “hóa thân”, Đức Giêsu trở lại với tình trạng bình thường. Từ nay, “chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi”, bởi vì Người là phát ngôn nhân duy nhất của Thiên Chúa, mà loài người phải quy chiếu về và quy phục. Lời nhắc này được gửi đến mọi người, nhưng đặc biệt được gửi đến những người còn tin vào Moses và chờ đợi Elijah trở lại (x. Mt 17,10).
* Kết (9)
Từ trên núi xuống, lời nhắc “giữ bí mật” xác nhận rằng bản văn này song song với các mạc khải kiểu khải huyền (x. Đn 12,9) và gợi lại các tình huống phức tạp (chính trị–ái quốc) mà các lời loan báo về Đấng Messiah đã và sẽ gặp. Lời xác định “cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy” cho thấy con đường đúng để hiểu được ý nghĩa bài tường thuật này. Thực tại của Đức Giêsu chỉ sẽ nên sáng tỏ và ta chỉ sẽ hiểu được dưới ánh sáng của cuộc Phục Sinh của Người.
+ Kết luận
Cuộc Hiển Dung là cuộc tôn vinh được sống trước của Đức Giêsu. Người đã xuất hiện trong tất cả những phẩm tính của Người: Con Người, tôi trung của Đức Chúa, Messiah, Con Thiên Chúa, và với tất cả các liên hệ của Người trong lịch sử cứu độ. Cuộc Hiển Dung vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của Đức Giêsu vừa củng cố quyền bính của các tông đồ. Nếu quyền hành của Phêrô (16,18) và của Nhóm Mười Hai (Mt 18,18) lên tới trời là bởi vì ở dưới thế này, Đức Kitô đã đăng quang, nhằm xác nhận các quyết định của các ông.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Muốn có một kinh nghiệm nào đó về Thiên Chúa, muốn gặp gỡ Ngài, nhất thiết chúng ta phải ra khỏi đời sống thường ngày xô bồ náo nhiệt và được chính Ngài dẫn dắt. Người ta vẫn nói rằng có thể và phải gặp Thiên Chúa giữa lòng cuộc sống này. Điều này không sai, và còn cần thiết cho chúng ta là những người thường xuyên sống và dấn thân giữa lòng xã hội với những vấn đề và biết bao cuộc gặp gỡ với người khác. Nhưng để có thể gặp Chúa trong cuộc đời và cộng tác với Ngài, chúng ta đã phải thường xuyên gặp Ngài trong nơi cô tịch, trong thinh lặng, riêng tư: chúng ta đã thường xuyên được Ngài bao phủ “trong đám mây sáng chói”.
2. Phêrô đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Ngài (= Chúa)”, nhưng rất có thể theo nghĩa là đế vương, vị thống lãnh, hơn là Messiah vinh quang. Đức Kitô mà Chúa Cha (và hôm nay, Hội Thánh) giới thiệu là Chúa Tể, nhưng đặc biệt là ngôn sứ, là nhà lập pháp được ủy nhiệm của thời đại mới, Đấng mà loài người phải lắng nghe, nghĩa là vâng phục. Quan niệm của Phêrô không do Thiên Chúa hướng dẫn, nên sai lạc; các đề nghị của Chúa Cha, trong đó có hàm chứa cả những lời loan báo về số phận cuối cùng, trần thế và thiên quốc, của Đức Kitô, mới là những đề nghị đúng đắn mà loài người phải đón nhận.
3. Tất cả những gì Israel vẫn ước mong nay đã trở thành hiện thực. Điều mới mẻ là nhân vật được biến đổi hình dạng. Người không từ trời xuống đất, mà chính là trời xuống với đất. Người không nói, mà chính tiếng nói từ trời lên tiếng. Cuối cùng, điều chính yếu là kể từ nay, Đấng mà ta phải lắng nghe (vâng phục) không còn phải là Đức Chúa (Yhwh) mà là Đức Giêsu, Đấng đang ở đó. Con người này là Đấng mạc khải, là chính Đức Chúa.
4. Sự biến hình Thánh Thể của Chúa Giêsu đối với Người hệ tại không phải là tỏ vinh quang của Người ra bên ngoài, nhưng là che giấu vinh quang ấy đi dưới những hình bí tích. Tuy nhiên, vì đã trung thành lắng nghe lời của Con yêu dấu để được Người dạy dỗ về mầu nhiệm này, chúng ta nhạn ra Người đang hiện diện dưới dạng bánh thánh và Phêrô có thể kêu lên: “Lạy Chúa, ở đây thật là hay!”. Sau đó, cần có can đảm mà phụng sự Người trong nếp sống khiêm tốn mỗi ngày.
5. Hội Thánh đang dấn thân thi hành sứ mạng Đức Giêsu đã giao phó cho Nhóm Mười Một trên núi (x. Mt 28,16-20). Để có thể tiếp tục chu toàn sứ mạng, Hội Thánh luôn nhớ bài học Đức Giêsu để lại trên núi kia, khi Người từ chối các gợi ý của Satan, cũng như lời giới thiệu của Chúa Cha trên núi nọ, khi Người giới thiệu Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người, là điển hình cho chúng ta, là Đấng sẽ ban cho chúng ta những giáo huấn giúp chúng ta trở thành gia đình đích thực của Thiên Chúa.
12. Đỉnh cao hôm nay – Đỉnh cao ngày mai
(Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Bên kia những thực tại hữu hình
Bản văn của thánh Mát-thêu trình bày một kinh nghiệm thần bí vượt trên những thực tại hữu hình, qua những con người và biểu tượng. Bản văn là một mặc khải về một mầu nhiệm: căn tính của Đức Giêsu.
Nơi chốn: "một nơi riêng", "một ngọn núi cao". Đây không phải là một địa điểm cụ thể về địa dư. Có thể lấy làm tiếc vì một truyền thống muôn thời đã muốn xác định về một nơi rõ ràng, bởi vì việc Tin Mừng không nói rõ nơi chốn có thể có nghĩa là mặc khải này sẽ xảy ra ở mọi nơi.
Đàng khác, "ngọn núi cao" luôn luôn là một nơi đặc biệt; tại đó đất dường như nối liền với trời, và cũng tại đó, con người vừa cảm nghiệm được sự bé nhỏ của mình, đổng thời vừa muốn vươn mình tới những chiều kích bao la của vũ trụ.
Thời gian: đã được xác định rõ là 6 ngày sau khi Đức Giêsu báo trước cho các Tông Đổ về cuộc Khổ Nạn. Tuy nhiên, cuộc Hiển Dung còn có ý nghĩa lớn lao hơn: nối kết giữa quá khứ (Môsê + Êlia) và tương lai (Đức Kitô phục sinh). Đây là một thời gian vượt-thời-gian.
Các nhân vật: thái độ của các môn đệ (theo Đức Giêsu, muốn ở lại, sự kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất) cho thấy một sự đảo lộn, một ý thức do một nhận biết không thể diễn tả nổi về thực tại nơi Đức Kitô. Con đường này trở thành con đường của các môn đệ sau khi Đức Kitô phục sinh, đổng thời cũng là con đường của tất cả mọi Kitô hữu.
Một bức tranh để chiêm ngắm
Việc Đức Giêsu biến đổi hình dạng không phải chỉ là một trình thuật để nghe, nhưng còn là một bức tranh để chiêm ngắm, tựa như hình ảnh ngắn ngủi về một thế giới thần thiêng và bí nhiệm, rất gần gũi mà cũng rất xa xăm. Trên dung nhan của con người đang bị bóng tối tử thần đe dọa, đã bừng lên ánh sáng chói lòa của ngày Phục Sinh.
Biến cố Hiển Dung xảy ra sau khi Đức Giêsu báo trước cuộc Khổ Nạn của Người cũng như việc dự phần của các môn đệ: biến cố này nhằm củng cố lòng tin của ba vị tông đổ sẽ có mặt vào những giờ phút cuối cùng của Đức Giêsu tại vườn cây Dầu (Mc 14,33). Thật ra, đây không phải là lần đầu tiên ba vị này được "đi riêng" với Đức Giêsu; ba vị đã từng được chứng kiến việc Đức Giêsu làm cho con gái ông trưởng hội đường sống lại (Mc 5,37).
Tuy vậy, sự kiện này còn có ý nghĩa quan trọng hơn với mỗi vị. Trước hết, với Phêrô, người sẽ được trao quyền lãnh đạo Giáo Hội: từ đây, ông sẽ phải học ý nghĩa đau khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh. Thứ đến, với Gia-cô-bê, vị tử đạo tiên khởi: ông sẽ hân hoan đỗ máu để làm chứng vì ông đã tận mắt nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Cuối cùng, với Gio-an, người môn đệ được Đức Giêsu yêu dấu: ông sẽ phải học biết rằng, đau khổ là bằng chứng của tình yêu.
Như vậy, ba vị cột trụ trong sinh hoạt của Giáo Hội thời đầu, nhờ kinh nghiệm sâu xa về vinh quang Thiên Chúa, sẽ làm chứng một cách sống động về Đức Giêsu, Đấng đã đi qua con đường đau khổ để bày tỏ lòng yêu mến và đem lại ơn cứu độ.
Thình lình, các ông đã được chứng kiến Đức Giêsu biến đổi hình dạng. Tác giả đã dùng thuật ngữ khải huyền để mô tả vinh quang Thiên Chúa xuất hiện trên dung nhan Đức Giêsu. Điều đáng nói ở đây là ánh sáng vinh quang mà các môn đệ nhìn thấy nơi Đức Kitô, không phải là điều gì đến từ bên ngoài, nhưng là sự biểu lộ bình thường của vẻ đẹp vẫn gắn liền với "Đấng từ trời xuống". Do đó, điều gây ngạc nhiên không phải là ánh sáng rạng ngời đó đã bao phủ Đức Giêsu trong chốc lát, nhưng là sự che giấu ánh sáng đó trong những lúc khác. Như vậy, Đức Giêsu đã che giấu vinh quang của Người, và giờ đây, trong một khoảng thời gian ngắn, Người rời bỏ nhân tính để con người có thể chiêm ngắm vinh quang của Người; và nhờ đó, họ nhận ra căn tính đích thực của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa.
Đang khi Đức Giêsu bày tỏ Thiên tính của Người, thì Môsê, vị anh hùng của Lề Luật, và Êlia, thủ lãnh các ngôn sứ, đã đến đàm đạo với Người. Sự hiện diện của hai chứng nhân thời Cựu Ước cho thấy tính siêu việt của thời đại cuối cùng, đổng thời loan báo Vị Ngôn Sứ thiên hạ vẫn mong chờ, nay đã xuất hiện.
Ngoài ra, nội dung cuộc đàm đạo giữa Đức Giêsu với Môsê và Êlia không phải là những điều Người đã giảng dạy, nhưng là cuộc Khổ Nạn của Người. Đó chính là nhiệm vụ của Người, Đấng hoàn tất Lề Luật và lời loan báo của các Ngôn sứ. Việc loan báo đã kết thúc, và Đấng phải đến đã đến để thực hiện công cuộc cứu độ.
Cuối cùng, sự hiện diện của Chúa Cha qua đám mây và tiếng nói là một xác nhận rõ ràng và dứt khoát về sứ mệnh của Đức Giêsu.
Ở đây, cũng như trong biến cố phép Rửa, vẫn là sự giới thiệu sâu sắc về Đấng phải đến để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa dành cho dân Người. Lời giới thiệu này cho thấy mối hiệp thông sâu xa và bất khả phân ly giữa Chúa Cha và Chúa Con. Tuy thế, lời giới thiệu trong biến cố Hiển Dung còn thêm lệnh truyền "hãy vâng nghe lời Người". Hãy nghe lời Đức Kitô, hãy đón nhận tất cả những gì Người sẽ thực hiện, cả vinh quang và đau khổ, cả sức mạnh lẫn yếu đuối, cả sự chết lẫn sự phục sinh. Đó là ơn cứu độ.
Hãy rời ngọn núi, tiếp tục con đường
Một tuần lễ trước khi xảy ra biến cố này, Phêrô đã thử tìm một con đường dẫn đến vinh quang mà không có Thập giá. Giờ đây, ông nghĩ rằng việc Hiển Dung có thể là con đường tắt để thực hiện ơn cứu độ. Ông hiểu đôi chút về điều đang xảy ra, có một cái gì đó rất lớn lao, và một lần nữa, ông cố gắng thuyết phục Đức Giêsu đừng đi Giêrusalem, bằng cách xin dựng lều ở trên núi này. Với Đức Giêsu, vinh quang hôm nay chỉ là chốc lát, chỉ là khởi đầu, chỉ là lời báo trước cho vinh quang vĩnh cửu sau cuộc Khổ Nạn. Còn với Phêrô, đây là vinh quang của ơn cứu độ, và ông phải dấn mình vào: ông tưởng rằng không cần có thập giá vẫn có vinh quang. Mãi đến sau này, sau biến cố Phục Sinh, ông mới hiểu rõ và thuật lại toàn bộ sự kiện (xem 2 Pr 1,16-20).
Bởi vậy, trước khi đạt đến vinh quang đích thực, Đức Giêsu phải rời ngọn núi để tiếp tục con đường lên Giêrusalem. Ngài còn phải đến vườn cây Dầu, còn phải lên đồi Gôn-gô-tha. Mặc dù bóng tối của đổi Gôn-gô-tha có che khuất khuôn mặt vinh quang, như là chẳng còn nhìn thấy gì, chẳng còn chi hi vọng; nhưng điều đó chỉ xảy ra trong giây lát, trong một thời gian ngắn. Ánh sáng đã một lần bừng lên thì không phải là điều ảo tưởng, điều đã xảy ra trên núi không phải là giấc mơ. Biến cố Phục Sinh sẽ cho thấy rằng sự sống có thể nảy sinh từ sự chết.
Biến cố Hiển Dung của Đức Giêsu thực là một kinh nghiệm cho tất cả những ai muốn cùng được tham dự vào vinh quang của Người: Chính kinh nghiệm này là chìa khóa, là sức mạnh giúp chúng ta dám chấp nhận những hi sinh, những từ bỏ để càng lúc càng gắn bó hơn với Đức Kitô. Biến cố này thực là một cuộc xuất hành tiến về Đất Hứa, xuyên qua những thử thách. Ai không chấp nhận xuất hành, không cùng đi với Đức Giêsu trên con đường lên Giêrusalem, người ấy sẽ không được tham dự vào vinh quang vĩnh cửu. Mỗi người sẽ có thể có một kinh nghiệm nào đó về Đức Giêsu, nhưng đó chưa phải là tất cả. Đỉnh cao này còn chờ một đỉnh cao nữa.
13. Biến đổi
Cuộc sống của con người và vũ trụ vạn vật là một sự biến đổi liên lỉ. Có những biến đổi tích cực nhưng cũng có những biến đổi tiêu cực. Những biến đổi tích cực là khi con người hay sự vật chuyển từ một tình trạng xấu sang một tình trạng tốt hơn do nỗ lực của chính bản thân con người hay do trợ lực từ bên ngoài (Ơn Chúa, tha nhân, vũ trụ vạn vật, những biến cố . . . ) Điển hình cho sự biến đổi này có thể kể đến hình ảnh của một Giakêu, của Phaolô, của các Tông đồ sau ngày lễ Ngũ tuần . . . Nhưng cũng có những biến đổi mang tính tiêu cực khi con người chọn lựa cho mình một thái độ sống ích kỷ, tham lam và kiêu căng. Khi đó, họ đang chuyển từ một tình trạng tốt sang một tình trạng xấu. Đó là hình ảnh của một vua Saul - vị vua đầu tiên của Israel, của một Giuđa Iscariot . . .Những cuộc biến đổi thật cần thiết biết bao trong cuộc sống dương thế của con người, nhưng phải là những cuộc biến đổi tích cực. Khi con người không còn biến đổi nữa thì có thể nói là họ đã chết rồi, hay có sống cũng chỉ là một sự hiện hữu vô hồn và không có ích gì cho chính mình cũng như cho người khác.
Bài đọc một hôm nay tường thuật cho chúng ta về việc Ápraham nghe theo tiếng Chúa gọi để ra đi đến một miền đất mà Ông không hề biết trước đó. Ông đang ở trong một quá trình biến đổi, nói đúng hơn là ông đang được biến đổi. Bởi lẽ tác nhân biến đổi cuộc đời của ông chính là Thiên Chúa , nên cuộc đời của ôn g và tương lai của ông thật huy hoàng và vững chắc.
Tin mừng hôm nay cũng tường thuật cho chúng ta nghe về việc Chúa Giêsu biến đổi dung mạo của Ngài trên núi trước mặt ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Cuộc biến đổi mà Ngài đang thực hiện mang một ý nghĩa tích cực, tiên báo vinh quang phục sinh huy hoàng sau khi Ngài chu toàn thánh ý của Chúa Cha trong chương trình cứu chuộc con người sự biến đổi tuyệt vời này làm cho các môn đệ ngây ngất trước vẻ đẹp của một Thiên Chúa vốn là Chân, Thiện, Mỹ.
Cuộc biến đổi tích cực nào cũng đòi buộc con người phải hy sinh, phải công tác vào phần của mình một cách chủ động vào trong đó. Như hạt lúa muốn trở thành cây lúa thì phải chấp nhận một sự biến đổi âm thầm trong đau đớn vì sự mục nát và thối đi của mình. Vinh quang phục sinh và phần thưởng trọng đại trên thiên quốc cũng dành cho những ai biết hy sinh quên mình, biến chấp nhận được biến đổi và thanh lọc bởi Lời của Chúa và giáo huấn của Hội thánh.
Biết trước sự yếu đuối và nhát đảm của các môn đệ, Đức Giêsu đã cho các ông thấy và chiêm ngấm trước vinh quang của Ngài, vinh quang mà Ngài sẽ lấy lại sau khi đi vào cuộc tử nạn nhằm cứu chuộc con người khỏi vòng nô lệ của tội lỗi. Vinh quang đó cũng sẽ dành cho các môn đệ và cho tất cả chúng ta nếu chúng ta tích cực và chủ động góp phần vào chương trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đã và đang thực hiện vì con người và cho con người .
Chúa Giêsu biến đổi dung nhan của Ngài trước nhằm biểu lộ vinh quang vốn có của Ngài trước mặt các môn đệ và cũng là nhằm biến đổi các môn đệ để các ông trở nên can đảm hơn tin tưởng hơn và biết tín thác hơn vào Thiên Chúa.
Chúng ta đang sống trong những ngày Chay thánh. Giáo hội tha thiết mời gọi chúng ta hãy làm một cuộc biến đổi tích cực cho cuộc đời của mình. Nếu chúng ta đang ở trong một tình trạng xấu hay một tình trạng tội lỗi, chúng ta hãy can đảm và mạnh dạn biến đổi và cầu xin ơn được biến đổi để cuộc đời của chúng ta được nhẹ nhàng thư thái và đảm bảo cho tương lai của chúng ta được huy hoàng như tổ phụ Abraham của chúng ta. Hay nếu chúng ta đang ở trong một tình trạng không có gì tệ hại cho lắm, thì chúng ta cũng cần làm một cuộc biến đổi tích cực để có một tình trạng tốt hơn, và tiếp nhận một sức sống tốt hơn. Hãy làm cho cuộc đời của chúng ta trở thành một dòng sông không ngừng chảy về Biển cả và tiếp nhận nguồn nước sạch tinh từ Biển cả là chính Thiên Chúa của chúng ta.
14. Thiên Chúa vẫn còn hiển dung
(‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nếu bạn là một người từ hành tinh khác vừa mới đáp xuống địa cầu lần đầu tiên, ắt bạn sẽ thấy trái đất nầy quá đỗi nhiệm mầu: ngay cả mỗi chiếc lá, mỗi chiếc vỏ sò, mỗi cánh bướm, mỗi bông hoa... đều có một sắc thái riêng, một vẻ đẹp riêng thật quyến rủ, thật nhiệm mầu và bạn cảm thấy tâm hồn ngây ngất vì vẻ đẹp lạ lùng của chúng.
Thế nhưng trong thực tế, không mấy ai có thể cảm nhận được vẻ đẹp nhiệm mầu của những tạo vật như thế. Tại sao?
Vì mỗi lần nhìn vào những sự vật chung quanh, chúng ta không nhìn chúng bằng cặp mắt đầy ngạc nhiên của trẻ thơ, bằng ánh mắt của người mới thấy sự vật lần đầu; chúng ta không nhìn chúng y như chúng là, nhưng chúng ta để cho những hình ảnh ta có về chúng (vốn có sẵn trong tâm trí ta) phóng hiện ra bên ngoài và bao phủ lên những vật đó.
Thế là vạn vật chung quanh ta trở thành cũ rích và nhàm chán, vẻ đẹp tinh khôi nhiệm mầu của chúng đã bị hình ảnh ta có về chúng phóng rọi ra che phủ nên không còn hiển dung ra được nữa. Một trong những nổ lực của thiền nhân là thanh tẩy cái nhìn mang tính chủ quan của mình về ngoại giới để có thể cảm nhận được vạn vật đúng với bản chất của nó. Lúc đó, sự kỳ diệu của thế giới sẽ hiện nguyên hình.
Trong cuốn sách The Golden String, văn sĩ người Anh Bede Griffiths mô tả lại một khám phá diệu kỳ của ông khi còn là một cậu học sinh.
Một buổi chiều hè, Bede Griffiths ung dung thư thái dạo chơi ở bìa rừng. Trong lúc thơ thẩn một mình bỗng dưng cậu nhận ra tiếng hót líu lo của đàn chim trên tàng cây mới tuyệt vời làm sao! Cậu rất ngạc nhiên vì từ hồi nào đến giờ chưa bao giờ được nghe chúng hót hay đến thế.
Đang lúc tiếp tục bước tới, cậu gặp thấy những đoá hoa của những bụi táo gai như đang mỉm cười niềm nở chào đón cậu trông dễ thương lạ lùng và đang toả hương trong gió. Bede cũng rất ngạc nhiên vì từ trước tới nay cậu đã từng thấy những bông hoa như thế nở rộ cả trăm lần mà không hề nhận ra vẻ đẹp tinh khôi và hương thơm dịu dàng của chúng.
Sau cùng cậu tìm đến một nơi yên tĩnh, đứng tựa vào thân cây, lặng ngắm vầng kim ô đang dần dần chìm xuống sau rặng núi lam cuối chân trời. Bỗng chốc cậu cảm thấy trời đất vô cùng huyền diệu và bất giác cậu nghiêng mình quì gối xuống biểu lộ một niềm cảm xúc rất thánh thiêng: cậu vừa trải nghiệm được sự hiện diện rất nhiệm mầu của Thiên Chúa trong tạo vật của Ngài.
* * *
Theo Tin Mừng Matthêu được trích đọc hôm nay, chiều hôm ấy trên núi cao, ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng có những trải nghiệm tuyệt vời về Chúa Giêsu. Cũng vẫn là Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt mà các ông vẫn thường gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, nhưng lần nầy, các ông lại nhìn thấy Ngài dưới một dung mạo mới: thật sáng ngời, thật hấp dẫn và đầy uy nghi, lại có cả Môi-sê và tiên tri Êlia hiện ra đàm đạo với Ngài.
Lòng đầy hoan lạc, các ông không muốn cho giây phút mầu nhiệm đó trôi đi. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia."
* * *
Hôm nay, Thiên Chúa vẫn hiển dung dưới thiên hình vạn trạng nhưng vì đôi mắt chúng ta bị che phủ nên không nhận ra Ngài.
* Vinh quang của Thiên Chúa vẫn được hiển dung (được tỏ bày) trong các tạo vật của Ngài, qua bầu trời lung linh ánh sao đêm hay những áng mây rực rỡ ban ngày, qua những cánh đồng, những khe suối và rừng cây, qua tiếng chim ca, qua bông hoa đang nở, qua mọi tạo vật chung quanh...
Vua Đavít cảm nhận được vinh quang ấy rạng ngời lên trong vũ trụ nên đã thốt lên:
"Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa.
Không trung loan báo việc tay Người làm" (Tv 19, 2)
* Tình yêu của Thiên Chúa được hiển dung (được tỏ bày) rõ nét nơi tình thương chan chứa của người cha ngày đêm lao nhọc vì con, qua sự hi sinh miệt mài của người mẹ, vắt kiệt sức mình để chăm lo cho đàn con khôn lớn...
* Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa cũng được hiển dung nơi các gia đình đấm ấm thuận hoà, chan chứa yêu thương hiệp nhất.
* Và đặc biệt, Thiên Chúa vẫn hiển dung rạng ngời nơi những anh chị em cùng sống với ta, nhưng tiếc thay, chúng ta không cảm nhận được, nên bỏ lơ, nên thờ ơ và không còn muốn dựng lều chung sống với những hiện thân của Chúa chung quanh chúng ta.
Thông thường, chúng ta nhìn đời, nhìn người qua cặp kính màu đen nên chúng ta chỉ thấy được khía cạnh u tối của người đời. Xin Chúa thanh tẩy nhãn quan chúng ta để có thể nhận ra mọi người là hiện thân của Thiên Chúa, là chi thể của Chúa Giêsu.
Ba môn đệ nhận ra Thiên Chúa hiển dung nơi thân phận người phàm của Đức Giêsu thì chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta được nhận ra Chúa hiển dung nơi những anh chị em đang sống chung quanh, nhờ đó, chúng ta sẽ cảm nhận được hạnh phúc chan hoà vì được sống cùng, sống bên nhau và có thể nói như thánh Phêrô xưa: chúng con được ở chung với nhau nơi đây thì thật là hạnh phúc. (Mt 17,4)
15. Chúa hiển dung
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Người đời thường mang hai bộ mặt: mặt thật và mặt nạ. Khi mặt nạ rơi xuống, bộ mặt thật sẽ hiển dung (biểu lộ ra bên ngoài).
Khi nhập thể làm người, Chúa Giêsu mang dung mạo con người, mang bản tính và khuôn mặt con người, hoàn toàn trở nên giống như con người, ngoại trừ tội lỗi. Vì thế, người đồng hương Na-da-rét gọi Người là "Bác thợ" (Mác-cô 6,3) hay "con Bác thợ Giu-se, con bà Maria" (Lc 4, 22. Mt 13, 55)
Hầu hết người Do-thái đồng thời với Chúa Giêsu chỉ nhìn thấy khuôn mặt nhân loại của Chúa Giêsu mà thôi nên cho rằng Người chỉ là người phàm. Họ trách Chúa Giêsu lộng ngôn khi Người tỏ ra Người là Con Thiên Chúa. "Ông là người phàm mà tự xưng mình là Con Thiên Chúa."
Nhưng ngoài bản tính nhân loại, Chúa Giêsu còn có bản tính Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu hiển dung
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết Người sẽ lên Giê-ru-sa-lem để hiến thân chịu chết. Lời tiên báo nầy làm cho tinh thần các môn đồ bấn loạn.
Để củng cố tinh thần sa sút của các ông, nhằm giúp các ông vượt qua thử thách đau thương sắp đến và bền chí theo mình đến cùng, Chúa Giêsu bộc lộ cho ba môn đệ thân tín thấy chân tướng của Người: Người là Đấng uy nghi sáng láng, là Con yêu dấu của Chúa Cha. Sự kiện nầy được thánh sử Mat-thêu thuật lại như sau: "Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan … tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người." … "Chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: "Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!"
Dung mạo Thiên Chúa được hiển dung nơi Đức Giêsu Na-da-rét trên ngọn núi cao đã làm cho tâm hồn ba môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc vô biên. Vì thế, Phêrô muốn sống mãi giờ khắc tuyệt vời ấy và không muốn rời bỏ khung cảnh thần tiên đó. Ông đề nghị dựng lều ở lại lâu dài trên núi: "Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: "Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia."
Sự hiển dung của Chúa Giêsu trước mặt ba môn đệ đã khiến cho tâm hồn các vị tràn ngập niềm vui và hạnh phúc; còn khi chúng ta hiển dung, để lộ chân tướng, để lộ khuôn mặt thật của ta ra thì người khác sẽ cảm thấy thế nào?
Khi chúng ta hiển dung
Jiddu Krishnamurti, người Ấn-độ (1895- 1986) là một tác giả và nhà diễn thuyết nổi tiếng về các vấn đề triết học và tinh thần, cho rằng, trong mỗi con người có ba "nhân vật" đang chung sống:
* Một là "tôi-là". Đây là con người thật của tôi, chân tướng của tôi. Ví dụ: bản chất tôi (tôi-là) là người tham lam, ích kỷ, lười biếng…)
* Hai là "Tôi-muốn-là". Đây không phải là bản chất con người tôi, nhưng là con người mà tôi mong muốn trở thành. Ví dụ: Tôi hiện là người tham lam, ích kỷ, lười biếng nhưng tôi muốn sống như là người quảng đại, vị tha, năng động…
* Ba là "Tôi-tưởng-tôi-là". Đây cũng không phải là bản chất con người tôi, nhưng là ảo tưởng tôi có về mình. Ví dụ: Một số kinh sư và Pha-ri-sêu thời Chúa Giêsu thực chất là người tham lam dối trá, nhưng cứ tưởng mình là người công chính đạo đức.
Đây chính là cái mặt nạ đẹp mà tôi đeo lên để che đậy khuôn mặt thật u ám của mình. Từ lâu nay tôi tưởng tôi là người đàng hoàng, đạo đức, mẫu mực… Tôi nhập vai khá tốt nên những người mới tiếp xúc đều tưởng tôi là người đạo đức chân chính và ngay cả bản thân tôi cũng tưởng mình như vậy. Nhưng đến một lúc nào đó, ở một nơi nào đó, tôi vô tình đánh rơi mặt nạ khỏi khuôn mặt mình; lúc bấy giờ tôi mới "hiển dung", mới hiện nguyên hình là một tên đạo đức giả.
Bài học từ Lời Chúa
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay mời gọi tôi nhìn thật sâu vào đáy lòng mình, nhìn xuyên qua vai diễn mà tôi đang đóng - vai "tôi-tưởng-tôi-là " - để nhận ra bản chất con người tôi (tôi-là) thật là khả ố. Từ đó, tôi mới tự thấy xấu hổ về mình. Từ đó tôi mới quyết tâm cải thiện cuộc đời, tô điểm dung nhan, trau dồi cho mình những phẩm chất cao đẹp.
Nhờ thế, khi phải "hiển dung" (tức là bộc lộ chân tướng) trước mặt người khác (dù muốn hay không việc nầy cũng phải xảy ra), chân dung tôi không đến nỗi u ám, xám xịt, mốc meo… nhưng có được một chút sáng ngời, phần nào giống như chân dung chói lọi của Chúa Giêsu khi Người hiển dung trên núi với ba môn đệ năm xưa.
16. Con yêu dấu
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể đã được tỏa sáng trên đỉnh núi. Chúa Giêsu biến hình, mặt Người chiếu sáng như mặt trời. Chúa Giêsu tỏ mình: Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian."(Ga. 9,5). Đây là hình ảnh Con Thiên Chúa thật. Thánh Matthêo đã diễn tả sự biến hình một cách ngắn gọn nhưng đã nói lên được ý nghĩa và sứ mệnh cứu độ của Chúa Giêsu. Từ khi Chúa Giêsu hạ sinh làm người, Chúa đã xuất hiện trước công chúng một cách âm thầm như mọi người trong tất cả mọi sinh hoạt. Chúa chấp nhận sự phát triển tiệm tiến trong thời gian và không gian tự nhiên.Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Hai, là Ngôi Lời, là Con Thiên Chúa và là Con yêu dấu của Chúa Cha. Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa. Ngôi Lời là Con Thiên Chúa (Ga. 1,1). Khi Ngôi Lời xuống trần, thiên thần đồng thanh ca tụng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương." (Lc.2,14). Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Gioan tại sông Giođan: Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."(Mc. 1,11). Chúa Giêsu biến hình trên núi có tiếng Chúa Cha phán: "Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người" (Mt.17,5). Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện với các tông đồ qua nhiều cách và luôn chúc bình an cho các ông: “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho anh em!" (Lc. 24,36). Chúng ta nhận thấy hình ảnh xuyên suốt qua cuộc đời Chúa Cứu Thế. Ngài là Con Thiên Chúa đến đem bình an cho nhân loại.
Chúa đã chia sẻ cuộc sống với con người một cách cụ thể. Chúa lao động để kiếm miếng cơm manh áo như mọi người. Hằng ngày, Chúa muốn học biết và trải qua những kinh nghiệm của đời thường. Chúa quan sát mọi việc trong nhà ngoài ngõ. Khi ra giảng đạo, Chúa dùng tất cả những câu truyện cụ thể kinh nghiệm trong đời sống. Chúa lấy tất cả những ví dụ dễ hiểu để truyền rao chân lý Nước Trời. Chúa dùng các tỉ dụ, ngụ ngôn, dụ ngôn hay câu truyện rất thật đi đôi với cuộc sống nơi vùng quê thôn dã. Chúa rành rẽ những phương thức gieo trồng, nấu nướng, ép nho và ủ rượu. Chúa học biết cách xử dụng muối ướp, men trong đấu bột, đèn để trên giá và mang đèn phải mang dầu theo.
Chúa lôi cuốn quần chúng lại gần qua lời giảng dậy đơn sơ, thẳng thắn và đầy uy quyền. Chúa không dùng những triết thuyết cao siêu, trừu tượng hay lý thuyết khô khan khó hiểu. Lời Chúa thật giản dị và cụ thể dành cho mọi tầng lớp. Ai nghe cũng có thể hiểu được ý nghĩa, trừ những người nhắm mắt và bịt tai không muốn lắng nghe. Từ những người chài lưới thất học quê mùa đến những thầy thông luật cũng đã thấm nhuần đạo lý của Chúa. Lời của Chúa thật trong sáng và có sức thuyết phục sâu đậm.
Chúa còn thực hiện rất nhiều phép lạ để chữa lành nọi thứ bệnh họan tật nguyền, cho kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người câm nói được, người què đi được, xua đuổi tà thần, hóa bánh ra nhiều để nuôi dân, truyền sóng biển im lặng, mẻ cá đầy tràn và cho kẻ chết sống lại... Đây là những phép lạ tỏ uy quyền của Chúa trên vạn vật. Chúa biến hình một sự kiện vĩ đại trong lịch sử cứu độ, Chúa tỏ mình cho các môn đệ thân tín. Chúa biến hình trở lại nguyên dạng đã có từ nguyên thủy. Một mầu nhiệm nhập thể không ai hiểu thấu. Chúa mặc lấy xác phàm với thân phận của con người giới hạn trong thời gian và không gian. Chính Ngài đã tự nguyện tước bỏ vinh quang và chấp nhận thân phận tôi đòi: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Ph. 2,8)
Chúa Giêsu có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người. Một Thiên Chúa thật trong thân xác phàm nhân. Chính Thiên Chúa đó bị người đời khinh bỉ, tẩy chay, xua đuổi, chối từ, đánh đập, khặc nhổ trên mặt, nhạo cười, đội mạo gai, vác thánh giá, bị con người tội lỗi xét xử và kết án tử hình. Chính những con người đã từng chịu ơn đã giơ tay xin tha cho Baraba và giết Giêsu. Giết Con Thiên Chúa.
Chúa Giêsu là mặt trời công chính và là ánh sáng thế gian. Chúa Giêsu lại nói với người Do-thái: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống."(Ga. 8,12). Thiên Chúa cao cả sáng chói như mặt trời vậy mà bị con người vô tâm xô đẩy vùi dập, đánh đập tàn nhẫn, máu me dính bết châu thân, nhịn đói nhịn khát, bị đóng đinh chân tay vào thánh giá và bị treo lên lơ lửng cho chết dần. Ngài chính là Thiên Chúa. Con người phàm hèn mà dám giết chết Thiên Chúa trong xác phàm.
Tiếng từ trời cao: Đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người (Mt.17,5). Loài người đã giết người Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha. Ngày nay nhiều người vẫn tiếp tục hùa nhau giết Con của Thiên Chúa và loại trừ Ngài ra khỏi đời sống. Người Con đó bị xét xử như một tội nhân và được xếp vào hàng các tội nhân đem đi xử tử. Người Con đẹp lòng Thiên Chúa Cha đã hy sinh mạng sống để cứu độ chúng sinh. Chúng ta suy gẫm và chăm chú nhìn hình ảnh người Con yêu dấu chết giang tay trên thập giá. Qua hơn hai ngàn năm, Ngài vẫn tiếp tục bị người đời tẩy chay, khinh bỉ và xua đuổi. Không phải người ta xua đuổi loại trừ một ông Giêsu nào đó, mà là đang loại trừ chính Con Một Thiên Chúa.
Con Ta yêu dấu chiếu sáng như mặt trời và áo Ngài trắng như tuyết. Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu dọi vào đêm tối, nhưng bóng tối không tiếp nhận ánh sáng: Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối và bóng tối đã không diệt được ánh sáng (Ga. 1,5). Nhìn thấy ánh sáng chói lòa, các môn đệ sợ hãi và ngã sấp mình xuống đất. Ánh sáng của Chúa Kitô soi dọi thấu tận tâm can của các tông đồ, các ngài thốt lên rằng: Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm (Mt. 17,4). Thật sung sướng khi được ở bên Chúa.
Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình trên núi đã hé mở một chút vinh quang của Ngài cho các tông đồ. Sự vinh quang luôn hiện diện trong Ngài qua lời giảng dậy, qua các phép lạ và qua chính con người của Ngài. Chúa Giêsu sẽ trở lại với vinh quang đích thực khi Ngài hoàn tất công trình cứu độ qua con đường thập giá. Chúa Giêsu đã đổ tới giọt máu cuối cùng trong thân phận con người. Tình yêu trọn vẹn hiến dâng Chúa Cha để đền bù tội lỗi của chúng ta. Ngài yêu chúng ta tới cùng: Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga. 15,13).
Chúng ta được cứu chuộc bằng giá máu của Con Thiên Chúa. Chúa Con đã hiến tế một lần là đủ để đền tội thay cho cả thế giới. Chúng ta hưởng nhờ ơn cứu độ mang lại nguồn sống. Chỉ nơi Đức Kitô chúng ta sẽ có sự sáng và sự sống: Ở nơi Người là sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (Ga. 1,4). Chúa Giêsu biến hình mặc khải cho chúng ta về vinh quang ngày sau mà chúng ta hy vọng sẽ được chung hưởng ánh sáng ngàn thu với Ngài.
Trong cuộc lữ hành thế gian còn nhiều bóng tối che phủ và còn nhiều thử thách mà chúng ta phải vượt qua. Đừng khi nào chúng ta chán nản bỏ cuộc. Hãy nhớ rằng con đường Chúa đã đi qua là con đường thập giá. Phải đi qua đau khổ mới tới vinh quang. Nhiều lần Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta: Thầy đây, đừng sợ. Chúng ta hãy khẩn khoản xin với Chúa như thánh Phêrô: Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với! (Mt. 14, 30).
Sau khi biến hình sáng chói, Chúa Giêsu và các tông đồ phải đi xuống núi và trở về cuộc sống thực tế hằng ngày. Chúa Giêsu không muốn đi theo con đường tắt dễ dàng. Ngài muốn đi trọn con đường và sứ mệnh mà Cha đã trao phó. Sứ mệnh cứu độ không chỉ qua sự giảng dạy và thực hành các phép lạ, nhưng là chấp nhận đau khổ và cái chết. Không có một hy lễ nào cao trọng hơn hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá. Con Thiên Chúa đã đi đến cùng tận trong tất cả mọi trạng huống của cuộc đời. Từ khi Chúa hạ thân nghèo hèn trong máng cỏ cho tới lúc thân trần treo trên thập giá. Không có một con người nào dám bươc xuống thẳm sâu như Chúa. Chúa đã bước xuống và cứu con người lên.
Chúng ta không thể đi con đường tắt để đến ơn cứu độ. Chúng ta hãy cố gắng sống tốt từng phút giây mà Chúa đã ban. Hoàn tất tốt giây phút hiện tại trong yêu thương tha thứ và chia sẻ bác ái. Hãy ngước nhìn lên thập giá của Chúa để tìm nguồn ủi an và gắn kết yêu thương. Chúa sẽ dẫn chúng ta đến nguồn ơn cứu độ. Chúng ta biết rằng phải qua thánh giá mới đạt tới vinh quang.
Đây chính là hồng ân cứu độ. Đây chính là tình yêu! Chúa đã chết vì yêu! Chúa đã chết vì tội lỗi chúng con. Chúng con dâng lời ngợi khen, cảm tạ và tán tụng danh Chúa đến muôn ngàn đời.
17. ''Bản tính khó dời''
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Tiếng đứa em lanh lảnh nói: Chị hai sao lại bỏ anh rể?
+ Vì anh ấy cờ bạc, rượu chè nên chị không chịu được.
+ Nhưng anh ấy đã có tật cờ bạc, rượu chè trước khi lấy chị mà.
+ Vì chị tưởng là thời gian anh ấy sẽ biến đổi, ai ngờ càng ngày càng tệ hơn!
Người xưa thường có câu: “Bản tính khó dời”, “chứng nào tật ấy” đều nói lên tính cách của một con người khó mà thay đổi được. Thay đổi một thói quen của con người thì có thể, nhưng rất khó lòng thay đổi bản tính một khi đã ăn sâu trong con người của họ.
Thói hay chửi của Chí Phèo là một điển hình. Chí Phèo đã được Nam Cao phác họa như một tên vô lại, tối ngày say sỉn, chỉ làm được một việc duy nhất là chửi khống và ăn vạ. Về tài chửi của hắn, Nam Cao tả: Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi Trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất!
Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo.
Xem ra ở đời ai cũng có tật xấu. Ai cũng có điều phải sửa, vì “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng thời gian đã biến chúng ta ra xấu xa bởi biết bao thói hư tật xấu. Sự khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải cố gắng biến mình trở lại hình ảnh ban đầu, đừng ngoan cố sống trong tội lỗi, hãy sửa mình nên hoàn thiện theo hình ảnh của Chúa. Một hình ảnh tinh tuyền không để dục vọng làm chủ. Một hình ảnh trong sáng không để vẩn đục bằng những thói hư tật xấu.
Hôm nay, Chúa biến hình trở về với căn tính Thiên Chúa của Ngài. Phê-rô đã ngây ngất khi chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Phê-rô cùng các môn đệ càng thêm xác tín về Thiên tính trong con người của Thầy Giêsu. Phê-rô cảm thấy toại nguyện và chỉ còn mong muốn một điều duy nhất là được ở bên Chúa mãi mãi.
Sứ điệp ngày lễ Chúa hiển dung như nhắc nhở chúng ta nhớ mình là họa ảnh của Thiên Chúa. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải giữ mãi vẻ đẹp tinh tuyền của phẩm giá con người. Nếu có những đam mê tật xấu làm chúng ta biến chất thì đây là dịp Chúa nhắc nhở chúng ta phải biến hình mỗi ngày trở về với căn tính của chúng ta là hình ảnh của Chúa? Là hình ảnh của Chúa thì không thể làm tôi cho ma quỷ? Là hình ảnh của Chúa thì không thể để cho dục vọng lôi kéo chúng ta làm điều xấu? Là hình ảnh của Chúa chúng ta phải luôn hướng về sự thiện, luôn có những ước mơ thanh cao, luôn sống vị tha và phục vụ mọi người.
Tiếc rằng, con người hôm nay đã để mình biến chất trong dòng đời lắm cám dỗ bon chen. Nhiều người đã bán rẻ phẩm giá làm người để đổi lấy chút danh lợi thú trần gian. Nhiều người đã không chỉ biến chất mà còn biến dạng khi lao mình tìm kiếm và thỏa mãn dục vọng đến nỗi xem thường luân thường đạo lý làm người. Đôi khi còn vì danh lợi thú mà làm hại đồng loại, mà gây nên biết bao đau thương cho nhân thế.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết mình là hình ảnh của Thiên Chúa thật tốt đẹp biết bao, để biết trân trọng, gìn giữ nét đẹp đó trong cuộc sống của mình. Đồng thời cũng biết trân trọng vẻ đẹp ấy nơi tha nhân qua đời sống bác ái, vị tha. Xin Chúa giúp chúng ta biết biến đổi mình mỗi ngày trở nên giống Chúa hơn trong suy nghĩ và hành động hầu xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.
18. Hãy biết mình
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cái quý nhất của con người là được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Cái hạnh phúc lớn nhất của con người là gìn giữ nét đẹp cao qúy đó nơi phẩm giá làm người của mình. Và điều cần thiết nhất để có một cuộc sống tốt với mọi người là nhận ra tha nhân cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa.
Thế nhưng, nhiều người đã phủ nhận điều cao qúy nơi phẩm giá làm người của mình. Họ không tin rằng có Thiên Chúa. Họ chối từ sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Từ đó người ta cũng không lo gìn giữ cái đẹp của phẩm giá làm người của mình. Họ chỉ thấy con người là một loài vật có ăn có uống. Thế giới của họ là một thế giới mạnh thắng, yếu thua, và "cá lớn nuốt cá bé". Họ không nhận ra sự liên đới giữa người với người đều là hình ảnh Thiên Chúa, cần phải tôn trọng và sống tốt với nhau. Con người đã tự khước từ phẩm giá cao qúy là hình ảnh Thiên Chúa nên cũng dễ dàng từ khước nhau và đầy đoạ lẫn nhau. Thế giới vẫn đầy những bất công và hận thù. Con người vẫn vì những tham sân si mà làm hại lẫn nhau.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.
Một lần kia nó nói với sư tử rằng:
- Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: "Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó". Thằng cha này không coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận và bảo rằng:
- "Thế mày có nhắc đến tên tao không?"
Thỏ trả lời:
- Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.
Sư tử càng tức điên người lên và hỏi:
- Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.
Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!
Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu...
Thất bại của sư tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.
Nếu con người của mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại. Chồng đánh đập vợ. Cha mẹ đánh đập con cái. Anh em đầy đoạ nhau. Hàng xóm láng giềng đáng lẽ "tối lửa tắt đèn có nhau", nhưng lại "bới lông tìm vết" và làm hại lẫn nhau.
Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà Chúa đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống "nhân chi sơ tính bản thiện" của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Lễ Hiển Dung hôm nay mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.
19. Lên núi cao
(Lm Giuse Lê Minh Thông)
LÊN NÚI CAO ĐỂ THẤY CÁI KHÔNG THỂ MÔ TẢ, ĐỂ NGHE LỜI PHÁT RA TỪ ĐÁM MÂY.
Dẫn nhập
Bài Tin Mừng “Biến đổi hình dạng ở trên núi” (Mt 16,1-9) nằm giữa hai lần Đức Giêsu báo trước Thương Khó – Phục Sinh: Lần thứ nhất ở Mt 16,21-23 và thứ hai ở Mt 17,22-23. Chúng ta vẫn quen gọi: “Ba lần Đức Giêsu báo trước cuộc Thương Khó”, nhưng trong cả ba lần Đức Giêsu đều nói tới biến cố Phục Sinh bằng một câu ngắn ngủi: “Ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy” (Mt 16,21; 17,23; 20,19).
Có lẽ nói ngắn quá nên các môn đệ trong bản văn cũng như cộng đoàn Mátthêu cuối thế kỷ I và cả độc giả ngày nay không để ý, hay xem nhẹ ba lần báo trước sự Phục Sinh. Vì thế, trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng (Mt 17,1-9) nhằm làm lộ ra vinh quang tiềm ẩn nơi Đức Giêsu và nhất là mặc khải cho các môn đệ và cho độc giả biết Đức Giêsu là ai và chúng ta phải làm gì.
Trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng và tiếng phát ra từ đám mây vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp có một không hai trong sách Tin Mừng với những hình ảnh và ngôn từ rất đặc biệt. Có thể tìm hiểu đoạn Tin Mừng Mt 17,1-9 qua ba mục:
1) Tách rời khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác.
2) Chiêm ngưỡng thế giới của Thiên Chúa bằng mắt.
3) Lắng nghe mặc khải của Thiên Chúa bằng tai.
1) Tách rời khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác.
Trình thuật bắt đầu bằng sự tách biệt với đời thường về thời gian, về không gian và về con người: “Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao” (Mt 17,1).
a) Yếu tố thời gian là “sáu ngày sau”, đánh dấu sự phân cách với những gì đã xảy ra trước đó một tuần. Người kể chuyện không nói gì về sáu ngày này, như thể sáu ngày im lặng không kể gì cả để làm cho biến cố xảy ra trên núi cao trở thành một trong những đỉnh cao của sách Tin Mừng.
b) Trình thuật nói đến tách biệt về nơi chốn. Ba môn đệ được tách riêng ra một nơi và được đưa lên một ngọn núi cao. Đó là núi nào? Bản văn không nói rõ. Độc giả không nên tìm cách đặt tên, vì bản văn nói đến một nơi tượng trưng, núi cao là nơi Thiên Chúa bày tỏ và gặp gỡ con người. Bản văn cố tình không cho biết núi nào để đưa độc giả ra khỏi những gì là bình thường. Cần ra khỏi khỏi thế giới thường ngày, thế giới khả giác để có thể hiểu được một biến cố vượt ra ngoài thời gian và không gian bình thường. Nơi chốn không rõ, thời gian cũng bị vượt khỏi giới hạn, cụ thể trong trình thuật là những nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ như Môsê, Êlia và Đức Giêsu lại có thể đàm đạo với nhau.
(Trình thuật không nói rõ nơi nào, nhưng truyền thống Hội Thánh cần một nơi để ghi nhớ biến cố này. Núi Ta-bo ở Ga-li-lê đã được chọn, đây là một ngọn núi riêng biệt, chung quanh không có đồi núi, nên có thể thấy từ xa. Hiện nay có một ngôi thánh đường trên đỉnh núi và khách hành hương đến để sống và suy niệm về biến cố này).
c) Tách biệt về con người, vì chỉ có ba môn đệ được chọn: “Phêrô, Giacôbê và Gioan”. Đây là Nhóm thu nhỏ của Nhóm Mười Hai, đại diện cho tất cả các môn đệ khác. Sự tách biệt này là dấu hiệu văn chương báo trước một biến cố quan trọng, nhưng chưa phải là lúc phổ biến rộng rãi cho mọi người. Tuy nhiên, những gì ba môn đệ này đã thấy và đã nghe là để rao giảng cho mọi người qua mọi thời đại được biết. Thực vậy, nhờ trình thuật, chính độc giả cũng được tách riêng ra, được thấy và được nghe những gì ba môn đệ ngày xưa đã nghe, đã thấy.
Sau khi được tách biệt khỏi thời gian và không gian bình thường, những gì xảy ra trên núi thuộc về một thế giới khác. Đó là thế giới của Thiên Chúa, thế giới không còn khoảng cách thời gian và không gian, thế giới mà ngôn ngữ không thể diễn tả được. Trong khoảng khắc thần linh đó, mặc khải của Thiên Chúa được tỏ bày qua thị giác (để thấy) và qua thính giác (để nghe).
2) Chiêm ngưỡng thế giới của Thiên Chúa bằng mắt
Trước hết, Đức Giêsu không tự mình biến đổi hình dạng mà “Người được biến đổi hình dạng” (metamorphôthê). Động từ Hy Lạp metamorphôthê ở dạng thụ động và tác nhân được hiểu là Thiên Chúa (passif divin). Chính Thiên Chúa làm cho Đức Giêsu được biến đổi hình dạng.
Sự biến đổi này không chỉ là biến đổi khuôn mặt. Tiếng Pháp quen dùng động từ transfigurer có nghĩa là thay đổi (trans) khuôn mặt (figure). Từ figure có nghĩa đầu tiên là mặt. Trong khi động từ Hy Lạp metamorphoô, tiếng Pháp chuyển âm: métamorphoser, có nghĩa là biến đổi, biến hoá (méta) toàn thân, từ trong bản chất (morphoser). Tiếng Việt có thể dùng cụm từ “biến đổi hình dạng”.
Đức Giêsu được biến đổi hình dạng trước mặt ba môn đệ. Nghĩa là ba môn đệ được chứng kiến sự kiện nhưng họ đã thấy gì? Người thuật chuyện kể: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” Nếu dung nhan Đức Giêsu chói lọi như mặt trời thì làm sao các môn đệ có thể nhìn mà không bị mù mắt. Nếu y phục của Đức Giêsu trở nên trắng tinh như ánh sáng thì làm sao các môn đệ có thể thấy được, vì không ai thấy được ánh sáng mà chỉ có thể thấy sự phản chiếu của ánh sáng nơi sự vật mà thôi.
Thực ra, đây là cách diễn tả những thực tại thần linh bằng thứ ngôn ngữ thị kiến của sách Khải Huyền. Ba môn đệ đang đối diện với thế giới của Thiên Chúa, đối diện với những thực tại thuộc về Thiên Chúa, đối diện với vinh quang của Thiên Chúa, nên ngôn ngữ loài người hoàn toàn bất lực. Ngôn ngữ loài người không mô tả được, chỉ vì điều xảy ra không có trong kinh nghiệm cuộc sống thường ngày của con người.
Bằng ngôn ngữ, sách Khải Huyền chỉ có thể mô tả những thị kiến về thế giới thần linh bằng các từ: “như”, “giống như”, “tựa như”... còn điều trông thấy thì không thể mô tả được. Chẳng hạn Gioan mô tả thị kiến ở Kh 4,2-3: “Lập tức tôi xuất thần. Kìa một cái ngai đặt ở trên trời và có một Đấng ngự trên ngai. Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vồng trông giống như bích ngọc”. Kh 4,6 viết: “Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha lê.” “Trông giống như...”, “như...” còn thực sự thế nào thì không mô tả được.
Có thể nói, trên núi cao, giữa trời và đất, ba môn đệ được thấy “thị kiến” về Đức Giêsu trong thế giới của Thiên Chúa, chỉ có thể mô tả bằng so sánh “như”: “Chói lọi như mặt trời”, “trắng tinh như ánh sáng”, nghĩa là dung nhan của Đức Giêsu không phải là mặt trời, và y phục của Người cũng chẳng phải là ánh sáng, chỉ là “như”, “giống như” mà thôi.
Trong thế giới thần linh ấy, các nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ có thể ngồi lại đàm đạo với nhau. Theo Kinh Thánh, Môsê dẫn dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập vào thế kỷ XIII TCN, Êlia là ngôn sứ dưới thời vua A-kháp, thế kỷ VIII TCN và Đức Giêsu thế kỷ I SCN.
Nội dung đàm đạo không được kể ra, nhưng điều chắc chắn là có trao đổi giữa các nhân vật. Trong thế giới trên cao, điều nhấn mạnh là tương quan giữa người sống và người đã khuất, là nối kết giữa các thế hệ với nhau, như thể khoảng cách thời gian không còn nữa. Ba môn đệ là chứng nhân cuộc đàm đạo nhưng nội dung lại vượt ra ngoài sự nắm bắt của người phàm.
Lời Phêrô nói với Đức Giêsu: “Thưa Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (17,4). Lời đề nghị này vừa cho thấy các môn đệ muốn kéo dài thị kiến vì biến cố quá hay, quá tốt, quá đẹp, vừa có nét hài hước vì Phêrô đề nghị làm ba lều cho Đức Giêsu, Môsê và Êlia như thể những nhân vật đã khuất như Môsê và Êlia không thuộc về thế giới này lại cần lều để ở, còn ba môn đệ là người phàm lại không cần lều.
3) Lắng nghe mặc khải của Thiên Chúa bằng tai
Mặc khải bằng thị kiến kết thúc với sự lên tiếng của con người, cụ thể là Phêrô, và chuyển sang hình thức mặc khải thứ hai: “Tiếng nói từ đám mây”: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người.” (17,5).
Từ kinh nghiệm thị kiến, thấy bằng mắt, chuyển sang mặc khải bằng lời qua tiếng phát ra. Các môn đệ chỉ có thể lãnh hội được nội dung bằng cách “nghe”. Tiếng phát ra từ đám mây không phải là tiếng con người, tiếng này có nguồn gốc từ trời và bí ẩn. Lối hành văn phù hợp với bối cảnh của biến cố trình bày mặc khải của Thiên Chúa.
Cách thứ nhất, mặc khải bằng thị kiến là vén bức màn lên (mạc khải) để soi sáng những gì còn ẩn dấu (mặc khải). Cách thứ hai là mặc khải bằng lời, hàm ẩn sự lắng nghe để hiểu, ở đây lắng nghe theo nghĩa đón nhận, cho dù chưa hiểu trọn vẹn ý nghĩa của lời mặc khải. Trong trình thuật biến hình, có cả hai cách mặc khải, nhằm giúp ba môn đệ và độc giả hiểu được Đức Giêsu là ai.
Lời phát ra từ đám mây (17,5), nhắc lại tiếng phát ra từ trời sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở đầu sách Tin Mừng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Mt 17,5 có thêm hai yếu tố mới: (1) “Hãy vâng nghe lời Người”, dịch sát: “Hãy nghe Người (akouete autou)”, (2) Tiếng phát ra từ đám mây nói trực tiếp với ba môn đệ và qua đó nói với độc giả qua mọi thời đại về căn tính của Đức Giêsu và tương quan của Người với Thiên Chúa Cha. Lời nói từ đám mây gồm một lời giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta” và một mệnh lệnh: “Các người hãy nghe Người.”
Khi gọi ai là Con (huios) thì người ấy là Cha, như thế lời phát ra muốn các môn đệ và độc giả biết Đức Giêsu có tương quan “Cha – Con” với Thiên Chúa, Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa. Mệnh lệnh nói với ba môn đệ và cho độc giả: “Hãy nghe Người” là một khẳng định quan trọng nói lên sự thay đổi lớn trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người, như thể Chúa Cha tự xoá mình trước Đức Giêsu là Con yêu dấu của Người.
Thực vậy, trước khi Đức Giêsu xuất hiện, Thiên Chúa phán với dân và dân nghe lời Người. Khi Đức Giêsu xuất hiện, Chúa Cha dặn các môn đệ: Hãy nghe lời Đức Giêsu. Như thế, tương quan “Thiên Chúa / dân” trong Cựu Ước trở thành tương quan “Đức Giêsu / môn đệ” trong Tân Ước, và đây là ý muốn của Chúa Cha.
Nghe lời Đức Giêsu là nghe tất cả những gì Người nói và dạy. Đặc biệt đón nhận lời loan báo Thương Khó và Phục Sinh đã được loan báo trước đó và Người sẽ báo trước thêm hai lần nữa để nhấn mạnh biến cố nền tảng và nghịch lý này. Như thế, biến cố trên núi cao không phải là một biến cố tách rời khỏi các trình thuật khác. Ngược lại, lời mời gọi “nghe lời Đức Giêsu”, nối kết biến cố trên núi cao với toàn bộ giáo huấn của Đức Giêsu trong sách Tin Mừng.
Đối diện với thế giới của Thiên Chúa và vinh quang của Người, các môn đệ đã “kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất” (17,5). Chính Đức Giêsu đã đưa các ông trở lại đời thường bằng cách chạm vào các ông và nói: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”, các ông ngước mắt lên và mọi chuyện lại trở về thực tế. Nhưng biến cố ấy, những gì đã thấy, những lời đã nghe, sẽ không bao giờ rời khỏi các ông.
Kết luận
Giữa hai lần báo trước biến cố Thương Khó và Phục Sinh, Đức Giêsu đưa ba môn đệ ra khỏi đời thường để bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở đó những điều xảy ra nhằm mặc khải căn tính của Đức Giêsu. Biến cố trên núi cao báo trước sự Phục Sinh của Đức Giêsu vì Người có nguồn gốc thần linh, Người có Cha là Thiên Chúa, Người là Con và được Chúa Cha yêu thương. Chính Chúa Cha ra lệnh cho các môn đệ lắng nghe giáo huấn của Đức Giêsu.
Trình thuật Đức Giêsu được biến đổi hình dạng trên núi cao và lời phát ra từ đám mây là những tia sáng mạnh mẽ như ánh sáng mặt trời, có khả năng soi sáng cho cuộc đời của độc giả mọi nơi mọi thời đang bước đi trong đêm tối, đang sống trong khó khăn thử thách của cuộc sống, đang nghi ngờ về căn tính của Đức Giêsu và chưa biết rõ Người là ai. Có thể nói, biến cố trên núi cao là hình ảnh của biến cố Phục Sinh, trước khi biến cố Thương Khó xảy ra. Đây là niềm hy vọng lớn lao cho ba môn đệ và cho độc giả.
Đọc xong trình thuật, liệu độc giả, là tất cả chúng ta, có thực sự sống biến cố xảy ra trên núi như ba môn đệ hay không?
Liệu độc giả có cùng với các môn đệ tách ra khỏi đời thường để ngây ngất trước vẻ đẹp của thế giới trên cao hay không?
Liệu độc giả mọi nơi mọi thời có nghe được tiếng phát từ trời để biết Đức Giêsu là ai (là Con Thiên Chúa) và biết phải làm gì (Nghe Đức Giêsu) hay không?
Ước gì mặc khải ngắn ngủi trong bản văn bằng thị kiến để thấy, và bằng lời để nghe có khả năng gây ấn tượng lâu dài và trở thành một lời mời gọi tin và vững tin vào Đức Giêsu trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách.
Mong sao mệnh lệnh “Hãy nghe Người” là lời thúc đẩy chúng ta đến với Tin Mừng, đọc Tin Mừng để nhận ra lời của Đức Giêsu là Lời sự sống, Lời đem lại ý nghĩa cho cuộc đời này.
20. Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Xe lửa bắt đầu chuyển bánh. Gandhi nhảy vội lên tàu. Một chiếc giày của ông rơi xuống. Gandhi không thể nào nhảy xuống để nhặt nó trong khi tàu chạy càng lúc càng nhanh. Trước sự sững sờ của mọi người, Gandhi đã tháo luôn chiếc giày còn lại và ném về phía chiếc giày kia.
Hành khách trên tàu lấy làm lạ về hành động kỳ quặc của ông. Gandhi mỉm cười và giải thích: “Nếu có một người nghèo nào lượm được chiếc thứ nhất, họ có thể tìm thấy chiếc thứ hai và sẽ xài được đôi giày của tôi”.
Ông Gandhi đã tỏ ra mình là người sống yêu thương. Tình yêu thương của ông tỏ hiện ra mọi nơi, mọi chốn. Tình yêu của ông không cầu kỳ nhưng đơn giản. Tình yêu của ông còn tỏ ra lòng bao dung qua việc ông kêu gọi Nước Ấn đấu tranh bất bạo động để giành chiến thắng.
Gandhi đã làm được điều đó bởi ông đã học được từ Kinh Thánh. Dù rằng ông không theo đạo nhưng ông đã sống Lời Chúa. Ông vẫn coi lời Chúa chính là kim chỉ nam cho đời sống của mình. Từ lời Chúa đã giúp ông học rất nhiều bài học bổ ích cho cuộc sống, và nhờ đó mà ông đã sống tình yêu thật đơn sơ, chân thành.
Người ky-tô hữu tức là một ky-tô khác. Người ky-tô hữu phải biết tỏ mình ra dấu chỉ người môn đệ qua hành vi yêu thương. Không có yêu thương thì không phải là môn đệ của Chúa. Vì bản chất của Chúa là tình yêu thì người môn đệ của Chúa cũng phải biết sống yêu thương.
Chúa Giê-su hôm nay đã tỏ mình ra là Thiên Chúa để củng cố niềm tin nơi các môn đệ. Chúa mời gọi các tông đồ xác tín niềm tin của mình để nhờ đó mà vượt qua những khó khăn để trung tín trong tình yêu. Vâng chính nhờ tin vào Chúa mà các ông đã không quản ngại gian khó để mang tin mừng yêu thương đến cho mọi người. Chính niềm tin vào Chúa mà các ông đã sống hết mình yêu thương con người.
Hôm nay Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta xác tín niềm tin vào Chúa để sống chứng nhân giữa dòng đời. Một đời sống chứng nhân mang tin yêu vào trong thế giới lắm bon chen, ích kỷ. Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta tỏ mình ra là con cái của Chúa khi chúng ta sống theo sự sáng không theo đường lối gian ta, khi chúng ta sống yêu thương phục vụ là dấu chỉ rõ ràng về chân dung người môn đệ của Chúa.
Xin Chúa củng cố đức tin còn yếu kém nơi chúng ta để nhờ đó chúng ta can đảm sống làm chứng cho Chúa. Xin Chúa giúp sức để chúng ta vượt qua mọi trở ngại để sống tin yêu giữa lòng thế giới hôm nay đang lạc xa tình Chúa. Amen.
21. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tin mừng Nhất Lãm tường thuật lời loan báo về cuộc tử nạn. Đức Giêsu đưa Nhóm Mười Hai đi lên Giêrusalem, dọc đường, Người nói với các ông: “Này chúng ta lên Giêrusalem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba, Người sẽ chỗi dậy” (Mt, 17-19).
Theo tin mừng Luca và Marcô thì các môn đệ không hiểu và sợ hãi khi nghe Thầy loan báo về cuộc thương khó. “Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói” (Lc 18,34); “Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình” (Mc 10,32).
Vì không hiểu nên sợ. Sợ nên không muốn đi. Phêrô kéo riêng Chúa ra mà ngăn cản và trách móc nên bị Chúa mắng cho là satan.
Chúa đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn.
Tôi được diễm phúc lên Núi Tabor. Từ khách sạn ở Nazareth xe đi qua những thung lũng với nhiều vườn cây ôliu, vườn chuối, vườn cam xanh tươi ngút mắt. Tabor là ngọn núi rất đẹp, nó đưa mình lên êm ả từ một cánh đồng cỏ xanh. Xe buýt chỉ đến chân núi, sau đó phải đổi xe chuyên leo núi. Lên dốc cao, đường ngoằn ngoèo theo vòng xoáy trôn ốc như đường Đèo Ngoạn Mục. Trời thật lạnh khoảng 40c, gió thổi rét buốt trên đỉnh có độ cao 600m làm ai nấy run lên vì lạnh. Núi Tabor có một ngoại hình rất cân đối. Núi mọc lên giữa cánh đồng như một bàn thờ giữa trời đất, giống như lễ đàn của các bộ lạc để tế thần minh. Lúc Chúa Giêsu đem ba môn đệ yêu quý lên đây, không gian phải rất im vắng. Chỉ có gió vi vu và mây nắng với rừng cây thắm một màu xanh hùng vĩ.
Núi tiêu biểu cho quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa. Núi là nơi mặc khải những điều trọng đại như khi xưa Thiên Chúa hiển linh trên núi Sinai với Môisê, núi Khoreb với Êlia, núi Tabor với ba môn đệ. Từ đỉnh núi, nhìn về hướng nam là làng Naim, một thành cổ hiện tại người Ảrập sinh sống, nơi đây Chúa cho con trai bà goá sống lại.Nazareth, một thị trấn sầm uất về hướng tây và Biển hồ Galilê mênh mang phía đông. Tabor, ngọn núi thiêng tạo thành một tam giác đều. Cả ba nơi đều gắn liền với cuộc đời Chúa Giêsu: lớn lên, truyền đạo và hiển dung. Bên ngoài, phía trái Nhà thờ vẫn còn dấu vết tường đá tu viện các cha dòng Bênêđictô một thời Trung cổ huy hoàng.
Theo sử gia Josephus thì nhóm Nhiệt Thành (Zelot) đã chiến đấu với quân Roma tại đây vào năm 66 tcn. Năm 1634 các thầy Phanxicô mới dành lại được ngọn núi này từ tay quân Thổ. Nhưng mãi gần 300 năm sau mới xây đựơc Nhà thờ. Nhà Thờ Hiển Dung xây dựng từ năm 1925 do các cha dòng Phanxicô phụ trách. Mặt tiền nhà thờ đựơc kiến trúc nổi bật với hai ngọn tháp vuông cao vút. Bên trong hai ngọn tháp này là hai nguyện đường nhỏ kính tổ phụ Môisen và Êlia. Một bức tranh tuyệt đẹp theo nghệ thuật mosaic phía trên bàn thờ vòm cung thánh. Chúa biến hình trong hào quang rực sáng. Hai bên có Môisen trên núi Sinai và Êlia trên núi Carmel. Phía dưới là ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê.
Tường thuật biến cố biến hình, cả ba Phúc âm đều nhấn mạnh đến thái độ hoảng sợ của các môn đệ. “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông hoảng sợ” (Mc 9,6); “Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ” (Lc 9,34); “Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng ngã sấp mặt xuống đất” (Mt 17,6). Và khi Phêrô “ngã sấp mặt xuống đất” thì Chúa đến chạm vào ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ”. Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26). Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt, thì Chúa Giêsu cũng hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngủ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho cảm nếm một chút Thiên đàng. Các ông đã tưởng là Thiên Đàng nên Phêrô xin làm ba lều để an nhàn trên núi cao, ngũ yên trong hào quang, quên đi các bạn và các cuộc truyền giáo dưới chân núi. Các ông không biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốt lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá bước vào cuộc thương khó. Hai đỉnh núi Tabor và Calvariô không xa nhau lắm về mặt địa lý, nhưng lại là con đường vạn lý. Chúa Giêsu đã nối kết hai đỉnh núi bằng con đường tình yêu cứu độ.
Biến cố Chúa biến hình trên núi Tabor là một trong những biến cố đặc biệt. Nó trở nên như một ngôi sao sáng cho các môn đệ trong đêm tối của những gian nan thử thách. Biến cố ấy vẫn luôn ghi đậm trong ký ức của các môn đệ. Nó là một điểm tựa, là một trợ lực cho đức tin của các ngài trong suốt tiến trình theo Chúa Giêsu.
Câu chuyện Chúa Biến hình trên núi Tabor được đặt làm sườn cho cả văn kiện “Tông Huấn Vita Consecrata” (đời sống thánh hiến). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.3.1996, đúc kết những thành quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tháng 10.1994. Tông Huấn trình bày vẻ đẹp của đời tu. Con đường tu đức được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (số 19), hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng. Các tu sĩ đã bị thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa; họ mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Ngài (số 27) sau khi lên núi chiêm ngắm Chúa Biến hình, các môn đệ được mời hãy đi xuống núi để phục vụ (số 75); họ còn phải trèo lên một núi khác đó là núi Calvariô (Số 14;40). Từ chỗ đi theo Đức Kitô (số 15;18), hoạ lại nếp sống của Ngài, đời tận hiến tiến tới chỗ “Lắng nghe tiếng Chúa, ở kề bên Chúa”, “Đồng hoá hiện thân” ( số 16) với Ngài. Ngoài việc hoạ lại nếp sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục của Đức Kitô, đời thánh hiến còn diễn tả mầu nhiệm Thập giá và Phục sinh của Ngài nữa (số 23-24). Đức Kitô cần phải qua núi Calvariô để vào vinh quang thiên quốc.Trước đây, đời tu trì quen được ví với việc khắc kỷ tu thân, vác thập giá để đi theo Chúa. Nhưng đó mới chỉ là cái nhìn của truyền thống Latinh; còn truyền thống Đông phương thì muốn nêu bật sự biến dạng đổi hình từ con người phàm tục sang con người thần thiêng khi đi theo Chúa. Đức Gioan Phaolô II đã kết hợp cả hai cái nhìn về đời tu trong quang cảnh Chúa Biến hình: chủ đề thập giá và vinh quang gắn liền với nhau trong mầu nhiệm vượt qua của Đức Kitô. Đức Thánh Cha còn gọi đời Thánh hiến là một Đoàn Sủng đặc biệt trong Giáo hội,phát xuất và duy trì bởi Chúa Thánh Thần.Tu sĩ là món quà Chúa Thánh Thần ban cho Giáo hội và là một kho báu mà Giáo hội trân trọng giữ gìn.
Người sống đời tận hiến cũng như người tín hữu, muốn được “biến hình” trong đời sống cũng như muốn được trở nên “con yêu dấu” của Thiên Chúa cần phải “vâng nghe lời Người”.
Cả ba Phúc âm đều tường trình tiếng nói từ trời cao. Lời Chúa Cha như giới thiệu, chuẩn nhận Chúa Con và là lệnh truyền cho chúng ta. “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5); “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,6); “Đây là Con Ta, Người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Đó là lệnh truyền của Chúa Cha, là điệp khúc kết luận của tiếng nói từ trời cao. Điệp khúc quan trọng vì cả ba Phúc âm đều nói đến. Lời của Chúa Kitô chính là chuẩn mực, là lề luật tuyệt đối mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Lời của Chúa Kitô là Lời Giao Ước vĩnh cửu cho con người được tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”, một phán quyết long trọng và công khai của Chúa Cha. Từ nay, vâng nghe Lời Chúa Kitô, chúng ta sẽ được biến hình với Chúa Kitô, cùng được hưởng vinh quang Phục sinh với Chúa Kitô.
Chúa Kitô biến hình một khoảnh khắc thoáng qua. Cuộc biến hình trọn vẹn qua mầu nhiệm Phục sinh, đây là cuộc biến hình ngàn thu. Cuộc biến hình này là căn tính niềm tin của những người theo Chúa. Hãy để hồng ân của Chúa chiếu rực trong cuộc đời của chúng ta ngỏ hầu nhân loại thấy chúng ta biến hình, nghĩa là có thể thấy Chúa Kitô nơi khuôn mặt và đời sống chúng ta.
22. Đức Giêsu - Con đường cứu độ duy nhất
(Lm. Bùi Quang Tuấn)
"Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ai một mình Chúa Giêsu" (Mt 17:8).
Trong cuốn sách tựa đề "Gương Hiếu Thảo", tác giả Phan Như Huyên có thuật lại gương chí hiếu của Công Chúa An Thường như sau: An Thường là con gái thứ tư của vua Minh Mạng. Nàng rất thông minh và thảo hiếu. Năm lên 9 tuổi, mẹ của công chúa bị bịnh. Lúc đó vào dịp lễ Vạn Thọ, các hoàng tử công chúa đều được triệu vào cung để chúc tuổi vua cha. Nhà vua cho các hoàng tử được ăn thịt dê. An Thường chỉ ngậm thịt trong miệng chứ không nuốt. Vua thấy lạ mới hỏi nguyên do, cô trả lời: "Con nghe nói thịt dê bổ lắm, nên con ngậm về cho mẹ đang bị bịnh ăn cho mau khỏe". Nghe vậy, vua cảm động quá, mới truyền đem khay lấy thêm thịt để An Thường đưa về cho Mẹ. Đến khi Vua Minh Mạng chết, nàng để tang ba năm, sống bên lăng cha cho trọn đạo hiếu.
Khi đề cập đến đạo hiếu trong văn hoá Việt Nam, Đức TGM Stephanô Nguyễn Như Thể của TGP Huế tại Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu, đã phát biểu: Người Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo. Cả ba tôn giáo đó đều cho lòng hiếu thảo là nhân đức căn bản của gia đình và xã hội. Việc sốt sắng tôn kính và phục vụ cha mẹ khi còn sống cũng như lúc qua đời là một bổn phận ưu tiên. Luân lý và văn minh đều tùy thuộc vào bổn phận này.
Có lẽ trong những quốc gia mà đạo hiếu bám rễ sâu vào lòng người như Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan, Ấn Độ..., nơi mà "tứ đại đồng đường", ba bốn đời vẫn ở chung nhau dưới một mái nhà, thì việc rao giảng hay đón nhận Kitô giáo sẽ không phải là một chuyện dễ dàng. Tại sao thế?
Lý do là vì nhiều người cảm thấy băn khoăn muốn phải kháng khi nghe Đức Giêsu nói: "Ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ của Ta" (Lc 14:26).
Vấn đề được đặt ra là: "Trên thế gian này có gì cao đẹp cho bằng tình cảm cha mẹ con cái, vợ chồng, anh em, và có gì quí giá cho bằng sự sống, ấy thế mà Đức Giêsu nào đó lại bảo người ta phải hy sinh từ bỏ để có thế gắn bó với Ngài. Thử hỏi Đức Giêsu là ai mà đòi hỏi người ta một việc làm quá đáng như vậy? Phải chăng Đức Giêsu đang dạy con người sống bất hiếu?"
Điều cần xác minh trước hết, ấy là Chúa Giêsu không hề dạy người ta bất hiếu hay bất nghĩa. Ngài đã từng nhắc đi nhắc lại điều răn thứ 4 là giới răn dạy người ta thảo kính với mẹ cha. Khi một chàng thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được hạnh phúc đời đời, câu trả lời của Ngài đã có phần: "ngươi phải thảo kính cha mẹ". Ngay khi trên thập giá, trước lúc tắt hơi, Ngài vẫn quan tâm đến Mẹ Maria và lo liệu để Gioan đón Mẹ về nhà chăm nom. Thế nên không thể nào nói Chúa Giêsu bất hiếu hay dạy người ta sống bất hiếu được.
Vậy thì làm sao để lý giải được câu nói trên đây của Chúa Giêsu?
Thật ra có gì khó hiểu đâu nếu như có những con người đã vì một đất nước trần thế, một đất nước nay còn mai mất, nay vào tay chế độ này mai vào tay chế độ khác, mà họ còn dám dấn thân và hy sinh cha mẹ anh em cùng sự sống, thì với một đất nước vĩnh hằng, một đất nước được thống trị bởi Đức Giêsu, vua tình yêu và chân lý, thì có gì là khó hiểu khi có những con người dám liều bỏ hết tất cả để đi theo vị vua đó và xây dựng đất nước đó.
Mấy ai lại không biết một Thomas More dám bỏ vua Henry VIII, chấp nhận xa vợ con, và cuối cùng là mất mạng sống để bênh vực cho chân lý trung tín yêu thương, một vợ một chồng, mà Vua Giêsu đã truyền dạy.
Mấy ai lại không biết một Giêrađô Majella trốn nhà ra đi sau khi ghi vội cho mẹ mấy lời: "Mẹ ở nhà con đi làm thánh". Hay một Charles Cornay đã can đảm bước qua mình song thân, lên đường đi rao truyền chân lý Nước Trời cho Việt Nam, chấp nhận biết bao khốn khó nghèo khổ, và rồi cuối cùng chấp nhận cái chết lăng trì vì con người có tên Giêsu.
Nhưng không phải là ai cũng hiểu rõ được bản chất thực sự của Đức Giêsu để dám bước theo Ngài cách can đảm và quyết liệt. Lắm khi người ta lại cho Ngài chỉ giống như một hiền triết, hay một vĩ nhân, hoặc một nhà sáng lập tôn giáo nào đó. Nhưng một hiền triết, một vĩ nhân, hay một người sáng lập tôn giáo như Đức Khổng, hay Đức Lão, hoặc Đức Phật, thì cũng chỉ là những con người nói về yêu thương và dạy về chân lý, khuyên bảo chúng sinh làm lành lánh dữ, chứ các ngài không là yêu thương, hay là chân lý. Nhưng Đức Giêsu thì trái lại, Ngài là yêu thương, là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống. Quan trọng là chỗ đó! (ĐC Fulton J. Sheen).
Thế thì, một khi nhận thức và xác tín Đức Giêsu chính là chân lý soi sáng đường đi cho con người, là tình yêu đưa đến một sự sống phong phú tràn đầy, thì việc bước theo Ngài, làm môn đệ của Ngài sẽ là bước đi tất yếu cho những ai muốn sống sự thật, muốn sống yêu thương, và muốn trở nên con người toàn vẹn. Ngoài Đức Giêsu Kitô, sẽ không còn ai có thể lấp đầy khát vọng đó.
"Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, chỉ trừ một mình Chúa Giêsu". Hai nhà đại tiên tri và lãnh đạo tôn giáo là Êlia và Môisen biến mất. "Chỉ còn một mình Chúa Giêsu". Theo nhận định của một nhà chú giải: rồi đây "mọi chủ thuyết triết học, mọi ý thức hệ vang bóng một thời rồi cũng sẽ bị lãng quên". Các tinh hoa của mọi nẻo đường cũng chỉ qui về một mối trong Đức Giêsu, Đấng là Đường duy nhất dẫn đến Chân Thiện Mỹ của muôn vật muôn loài.
Thật chí lý thay niềm xác tín của Giáo hội: "Không có ơn Cứu Độ ngoài Đức Giêsu".
23. Đường về đỉnh vinh quang
(Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
Đây là một câu chuyện xưa có tên “Người kế vị”, nội dung như thế này: Ở ngôi chùa kia có vị cao tăng với nhiều đồ đệ đông đến hàng trăm người. Cũng như mọi người bình thường, vị cao tăng biết rõ ràng quy luật “sinh, tử” của Tạo Hóa là không có ngoại lệ. Nay tuổi cao, sức yếu, vị cao tăng muốn tìm một người kế vị mình. Ngặt nỗi, người kế vị chỉ có một, còn đồ đệ thì rất nhiều. Vị cao tăng nghĩ là một kế và tiến hành lựa chọn người kế vị.
Cứ khoảng vài ba ngày, vị cao tăng tự đem giấu một món đồ vật và phàn nàn với đồ đệ rằng nơi đây có trộm cắp.
Ít lâu sau, vị cao tăng bỗng la lên: Trộm! Trộm! Có kẻ trộm!
Nghe tiếng thầy kêu, dù đang ngon giấc, các đồ đệ đều bật dậy, vội chạy tới. A là một đồ đệ rất siêng năng, nhanh nhẹn, tháo vát, luôn quí trọng thầy, thương yêu sẵn sàng giúp đỡ bạn, có uy tín vào bậc nhất trong các đồ đệ của vị cao tăng. A chạy đến trước tiên, hy vọng sẽ giúp thầy tìm bắt kẻ trộm, bảo vệ tài sản.
Thấy A, vị cao tăng vội túm lấy áo của A và nói lớn: Bắt được kẻ trộm rồi.
Trước đông đảo các môn đệ, vị cao tăng tuyên bố:
A là kẻ trộm vừa bắt được và đuổi A đi.
Bị thầy đuổi, không một lời thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.
Ba ngày sau, A trở lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: “Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ - nhận thức) được rồi”.
Vị cao tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng như lòng muốn.
ĐƯỜNG VỀ ĐỈNH VINH QUANG.
“Vinh quang trên đỉnh núi” hôm nay, mà truyền thuyết cho là núi Ta-bo, duy nhất chỉ xảy ra một lần cho đến khi Chúa Kitô hoàn tất Chương trình Cứu Độ.
Đức Giêsu biến hình rực rỡ cùng với sự xuất hiện của hai nhân vật Cựu Ước, cho thấy tính cách xác thật và chắc chắn của cuộc hành trình mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trên trần thế: Con đường Thương Khó và Phục Sinh.
Đang lúc Người cầu nguyện, dung mạo Người bổng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Ê-lia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (Lc. 9,29-31).
Trong cuộc biến hình này, có hình ảnh Đức Giêsu vinh quang, và ẩn chứa hình ảnh Đức Giêsu chịu ô nhục: cuộc xuất hành mà Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
Trong thoáng chốc, Phêrô - luôn là đại diện cho các môn đệ - “nhận biết” được Đức Kitô vinh quang, vì Người là con Thiên Chúa, như ông từng tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống”, nhưng ông không thể “nhận biết” được Đức Kitô ô nhục, mà ngay sau cuộc biến hình này, Đức Kitô sẽ bước vào con đường đó: con đường Thập Giá.
Xin Chúa thương, đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy! (Mt. 16,22).
Đức Kitô biến hình trước mặt những môn đệ gần gũi Chúa nhất, để các ông vững tin vào Đức Kitô, vào Chân Lý, vào con đường mà các ông đang đi. “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”.
Niềm tin vào Chúa Giêsu có đó, nhưng bước đi vững vàng trong cuộc hành trình Đức Tin không luôn luôn dễ dàng. Mỗi người phải biến đổi để trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của Người” (Pl.3,10).
Sự biến đổi ấy đòi hỏi mọi người phải “thông phần những đau khổ của Người”, bằng sự sám hối, sự điều chỉnh, sự hoán cải sâu xa cuộc đời mình.
Không trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô trong cái chết của Người, thì không thể “đồng hình dồng dạng với Người” trong vinh quang được.
NHỮNG THỬ THÁCH
Trước đông đảo các môn đệ, vị cao tăng tuyên bố:
A là kẻ trộm vừa bắt được và đuổi A đi.
Bị thầy đuổi, không một lời thanh minh, không một lời oán thán, A nhẫn nhục ra đi.
Ba ngày sau, A trở lại Chùa, quỳ trước vị cao tăng và nói: “Thưa thầy, con ngộ (giác ngộ - nhận thức) được rồi”.
Vị cao tăng đỡ A dậy, trong lòng cảm thấy rất vui vì đã lựa chọn được người kế vị xứng đáng đúng như lòng muốn.
Điều gì đã diễn ra trong lòng của đồ đệ A? Đó là những giờ phút độc thoại, chiến đấu, lắng nghe nội tâm, đối diện với chính mình.
Một vị “chân tu”, không thể nào hành động vô lý như vậy. Thế thì, đằng sau hành động bất thường này, thầy có ý dạy điều gì? Đồ đệ A phải nâng tâm hồn lên để suy gẫm được điều đó, để ngộ được điều đó. Nếu không, lòng tự ái bùng lên, danh dự bị thương tổn, đồ đệ A không thể nhận ra tình thương của thầy mình. Có thể tất cả đã đổ vỡ!
Phêrô và các môn đệ đã biết Chúa là ai. Thiên Chúa không thể phản bội. Lời Ngài không sai, dù một chấm, một phẩy. Hình ảnh Chúa Giêsu biến hình khẳng định cho các môn đệ sự vinh quang mà Thiên Chúa hứa ban là chắc chắn.
Chúa thành tín trong mọi lời Chúa phán, đầy yêu thương trong mọi việc Chúa làm. (Tv.144, 13).
Đó là sự xác tín căn bản. Đó là Đức Tin của chúng ta. Từ sự xác tín đó, niềm tin đó, chúng ta tiến bước theo Chúa. Phó thác trong hy vọng và hạnh phúc.
Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi những chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa đã dành cho những kẻ được Người kêu gọi trong Đức Giêsu Kitô. (Pl.3,13-14).
Để tiến bước mạnh mẽ, để “lao mình về phía trước”, để “chạy thẳng tới đích”, đòi hỏi sự chiến đấu nội tâm anh dũng, đè bẹp “cái tôi” hẹp hòi, “chết đi con người cũ”, đó là “thập giá của đời ta”.
Nếu con người chỉ suy nghĩ và hành động theo ý riêng, theo bản năng, theo dục vọng, theo khát vọng thấp hèn, hạn hẹp, nhất thời, trước mắt, con người không thể bước vào lối hẹp, không thể đi vào con đường Thập Giá! Điều ấy, đồng nghĩa với việc con người thuộc về thế giới của Sa-tan.
“Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người!” (Mt.16,23).
Không phải chúng ta đòi hỏi có một Thiên Chúa như lòng chúng ta mong ước, mà chúng ta muốn được trở nên một con người như lòng Thiên Chúa mong ước.
Vì sự sống là từ Thiên Chúa.
Nên con người phải được biến đổi, và biến đổi hoàn hảo đến mức hoàn toàn thuộc về Chúa, là của Chúa, là chính Chúa hiện diện trong ta.
Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi. (Gl.2,20).
Sự biến đổi này, không phải chỉ là “nhận biết” Thiên Chúa, “ngộ” được Thiên Chúa, mà biến đổi thành chính Thiên Chúa, “thông phần vào bản tính Thiên Chúa” (2Pr.1,4).
Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở nên như Người (Thánh Irénée).
Sự biến đổi ấy, cuối cùng chính là Phục Sinh cùng Đức Kitô. Được về miền Sáng láng và vinh hiển, vinh quang và vinh dự cùng với Ngài cho đến muôn đời.
Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền (1Pr. 2,9)
THỰC TẾ HÔM NAY
Chúa Giêsu đã biến hình sáng láng trên núi. Những môn đệ thân yêu của Chúa Giêsu đã chứng kiến giây phút vinh quang của Chúa Giêsu. Giây phút mà ngay lúc đó, sẽ không có gì có thể lay chuyển niềm tin của các môn đệ.
Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! (Mt.17,5).
Nhưng Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ xuống núi. Ánh vinh quang đã tắt, cuộc sống đời thường đã trở lại trước mắt. “Đỉnh vinh quang” không một sớm một chiều mà có được để tận hưởng dài lâu. Đường Đến Đỉnh Vinh Quang còn nhiều chông gai thử thách. Người đi còn gặp nhiều gian khổ. Có những người bỏ cuộc. Có những người lạc hướng. Có những người chọn bến bờ khác.
Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga.6,60).
Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với người nữa. (Ga.6,66).
Phải biến đổi con người mình tận gốc rễ để đến bến bờ sự sống vĩnh hằng. Phải biến đổi đến mức tự hủy diệt mình đi mới “sống lại” một cuộc đời mới, sự sống mới.
Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. (Ga.12,23-28).
Lạy Chúa,
Xin cho con luôn biết cố gắng vươn lên,
từng giây phút đổi thay đời mình,
đến gần sự thiện hảo hơn,
để con được hưởng vinh quang đời đời,
trong Tình Yêu của Chúa. Amen.
24. Ý nghĩa đời sống ta là gì?
(‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ - Achille Degeest)
Có thể nói rằng trong câu chuyện về việc Chúa Biến Hình, Chúa Cha mặc khải Chúa Con. Để suy niệm, chúng ta sẽ dừng lại một đôi khía cạnh đảo ngược, nghĩa là một ít đường nét trong khuôn mặt của Chúa Giêsu, Đấng mặc khải Chúa Cha. Làm như thế, ta sẽ trung thành với phần kết luận của câu chuyện, theo đó thì sự chú ý của ta được hướng về cá nhân Chúa Giêsu.
Việc Chúa Biến Hình là chứng tá của Chúa Cha về Chúa Giêsu. Cả đời Chúa Giêsu là một chứng tá về Chúa Cha. Người biết mình bởi đâu đến và đi về đâu, Người từ Chúa Cha mà đến và sẽ trở về với Chúa Cha. Đến lượt ta, trong Đức Kitô và nhờ Người, ta cũng biết nguồn gốc và cùng đích ta là đâu. Sau đây là một vài tỷ dụ về khuôn mặt ‘làm con’ của Đức Kitô.
1) Một chuyển động nội tâm đem lại ý nghĩa cho đời sống Đức Kitô và soi sáng nó. Người biết mình là kẻ được Chúa Cha thánh hiến và gởi vào thế gian để đem Tin Mừng Cứu Độ đến người nghèo khó, rao giảng sự giải thoát (khỏi tội lỗi) cho người tù đầy, và mở mắt cho kẻ đui mù (Lc 4,18). Là ‘phái viên’ của Chúa Cha, Người đặt sự thành tựu con người và đời sống mình trong lòng trung tín với ý Cha. Không phải là một sự trung tín an phận trước một chuyện chẳng đặng đừng, nhưng là một sự trung tín tích cực, tự phát, quyết liệt. Nó là dấu hiệu của Thánh Thần tình yêu hoạt động mãnh liệt trong Người.
Có lẽ đã có lần ta tự hỏi: đời tôi có ý nghĩa gì? Nếu ta sống trong thánh ý Chúa và nếu ta tận tình chu toàn thánh ý Chúa Cha, thì đời ta có một ý nghĩa và như Chúa Con, chúng ta cũng được biến hình cách thiêng liêng.
2) Chúa Giêsu muốn để cho Chúa Cha hiện rõ qua con người và đời sống mình. Ý chí đó đã quy định mọi hành vi, thái độ của Người. Người nói năng thế nào? Hoạt động ra sao? Người dám nói rằng lời Người nói không phải là của Người, nhưng của Đấng đã sai Người đến. Người quả quyết Người không hành động tự ý mình, nhưng chính Chúa Cha hành động qua Người. Nhìn Chúa Giêsu mà không đếm xỉa đến tương quan của Người với Chúa Cha, ta sẽ không hiểu nổi Người. Với người Kitô hữu cũng thế. Họ phải để cho Thiên Chúa ‘lộ dạng’ qua đời sống mình, bằng cách làm như Chúa Giêsu: nghĩa là thỉnh ý Chúa Cha về việc phải làm, phải nói. Thỉnh ý qua lời cầu nguyện, qua việc chạy tới Đức Giêsu là Đấng mặc khải Chúa Cha, trong niềm tin tưởng ở Chúa Thánh Thần và sự tuân phục đối với Hội Thánh.
25. Biến hình
(‘Suy Niệm Tin Mừng Matthêu’ – Richard Gutzwiller)
Quang cảnh trên núi biến hình tiên báo về Thiên đàng. Đức Kitô đã nói trước rằng: Nhiều người sẽ không chết trước khi thấy Con Người trong vinh quang. Lời này bây giờ đã hoàn toàn được thực hiện, nhưng chỉ trong khoảnh khắc, giống như một tia sáng leo lét của ánh lửa bùng lên rồi mất hút trên bờ vắng. Đoạn văn Thánh này chia làm hai phần rõ rệt:
PHẦN THỨ NHẤT: Đầy vẻ huy hoàng rạng rỡ của Thiên Chúa. Ba môn đệ được chiêm ngắm ánh sáng mỹ miều này: Trước hết Phêrô, viên chức đầu tiên của Giáo hội, người mà từ đây sẽ phải học ý nghĩa đau khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh. Thứ đến Giacôbê, người tử đạo tiên khởi, hân hoan đổ máu làm chứng vì đã thấy vinh quang Chúa. Và cuối cùng Gioan, môn đệ yêu dấu sẽ phải học biết rằng, đau khổ là bằng chứng của tình yêu.
Họ thấy Chúa biến hình, mặt Ngài rực rỡ như mặt trời, áo Ngài trắng như tuyết. Hình dáng buồn tẻ của chân dung nhân loại hoàn toàn bị hủy diệt. Tất cả phát huy từ ánh sáng Thiên Chúa. Sau khi xác sống lại con người ta cũng mặc lấy xác thể, nhưng theo những luật sinh lý mới. Ánh sáng vẫn là vật chất nhưng chiếu tỏa với tính chất đặc biệt: Ánh sáng làm thân thể rạng ngời như người ta đã thấy nơi Đức Kitô vinh quang.
Môisen và Êlia xuất hiện. Môisen cứu dân khỏi ách nô lệ Ai Cập, hướng dẫn họ qua sa mạc, trao truyền cho họ luật pháp và giao ước của Đấng Thánh siêu phàm. Tuy nhiên, ông chỉ được phép ngắm nhìn Đất Hứa từ xa. Lúc này ông được gần Đức Kitô, chính Ngài sẽ giải thoát không những riêng dân Do Thái, nhưng toàn thể nhân loại khỏi ách nô lệ ma quỷ. Chính Ngài hướng dẫn họ cách vô ngộ qua sa mạc cuộc đời tạm gửi. Ngài ban cho họ giới răn tình yêu tân kỳ trong Giao Ước Mới của Giáo hội. Là Môisen đích thực, Ngài dẫn dắt Dân Chúa vào Đất Hứa đích thực, để thực hiện cuộc biến hình muôn thuở.
Êlia là người thứ nhất trong các đại tiên tri. Người đã cấm không được dành cho Baal là thần trái đất những quyền lợi như Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới là Chúa tể của trời cao và vũ trụ.
Trước hết, người đã thay việc phục vụ các ngẫu tượng bằng việc phục vụ Thiên Chúa. Với tư cách là kẻ vô địch của Thiên Chúa, người đã đương đầu với dân Do Thái. Rồi đây, Đức Kitô đến để giúp con người khỏi rơi vào thảm họa diệt vong của trần tục, vật chất, xác thịt. Ngài đem đến cho họ nước của Thiên Chúa, là Cha trên trời. Chính Ngài cũng đã đánh bại Hêrôđê và đại diện của đế quốc Rôma. Êlia làm chứng về Ngài vì theo lời Kinh Thánh dạy, đại tiên tri được nâng lên trời rồi trở lại dọn đường cho Chúa. Người đây, sẵn sàng đóng vai trò dọn đường cho Chúa lên trời, trong cảnh biến hình. Vậy luật pháp và các tiên tri cùng hòa hợp làm chứng. Từ nay Phêrô thấy trước rằng, tình trạng biến hình như được thiết lập vĩnh viễn nên đã xin dựng lều để giây lát vinh hiển được trường tồn.
Đó là một thái độ dễ hiểu, vì con người đã được tạo dựng để hưởng niềm hân hoan. Đau khổ không thể là cùng đích của con người, nhưng đau khổ chỉ là một bước đường phải qua. Mỗi lần Chúa nói tiên tri về đau khổ, Chúa đã kết thúc bằng một ám chỉ về phục sinh vinh quang. Ở đây cuộc phục sinh vinh quang đã được tuyên bố như một yếu tố nền tảng của giáo lý về đau khổ. Ánh quang chói sáng của việc biến hình, tình trạng chìm ngập trong ánh sáng, sự chiêm ngắm hạnh phúc vĩnh cửu đã truyền trao cho các môn đệ một mãnh lực giúp họ cương quyết trên bước đường đau khổ. Họ sẽ nhìn về tương lai và chờ ngày Chúa đến giữa lúc sống cuộc đời dương thế.
PHẦN THỨ HAI: Đám mây bao phủ làm tăng vẻ oai nghiêm rỡ ràng. Trên núi Sinai, cảnh trí huyền ảo là dấu hiệu sự hiện diện của Thiên Chúa. Cũng như đám mây trước kia bao phủ ngọn núi, lúc này vẻ huy hoàng của Chúa bao trùm muôn vật. Các môn đệ phải tự tìm hiểu để cảm nhận trước được vẻ uy nghiêm của Thiên Chúa. Trên núi Sinai, phảng phất đám mây giông bão; ở đây áng mây rực sáng an bình thanh thoát. Trên núi Sinai vang dội các mệnh lệnh thần linh, vì Môisen là tôi tớ Thiên Chúa mà Do Thái phải vâng lời. Còn trên núi biến hình cung giọng nhiệm mầu không chỉ thị tôi tớ nhưng là ấm tử.
Như thế, những đòi hỏi nghiêm khắc được thay thế bằng sứ điệp yêu thương: Ở núi Sinai, trước vẻ uy nghiêm Thiên Chúa, dân chúng kinh hoảng rụng rời, ở đây, các môn đệ cũng sợ hãi chúi mặt xuống đất. Chúa Giêsu nâng họ dậy, và làm cho họ hết sợ. Từ nay họ biết rằng: với Ngài chung cục thời gian đã điểm; không phải tất cả sẽ bị hủy diệt, nhưng tất cả sẽ bị vượt qua. Chắc chắn giờ cáo chung sẽ điểm, báo hiệu một tai họa: Đau khổ, sự chết, Thánh giá sẽ hiện diện. Nhưng đây cũng sẽ là khởi điểm một thời đại mới quyết liệt khai mào ánh sáng và biến hình. Đức Kitô hiện đến khai mào thời cánh chung, nhưng thời gian ấy còn kéo dài. Trong giây lát, Chúa đã cho thấy vẻ huy hoàng của giờ phút hoàn tất với đầy vẻ trang trọng để các môn đệ không bao giờ quên. Họ được lệnh phải bảo vệ bí mật về biến cố dị thường vĩ đại này, cho tới lúc Con Người phục sinh từ cõi chết. Bấy giờ người đầu tiên trong những kẻ chết sẽ thức giấc, sống đời sống mới đích thực. Những người khác theo sau và cứ thế bắt đầu viên mãn thời gian chung kết.
Đức Kitô còn cao trọng hơn ngàn lần những gì các môn đệ, và cả Phêrô đã tuyên xưng hay cảm thức về Ngài. Nhưng chỉ có sự cao trọng siêu phàm, siêu thời gian và phổ biến thực sự trong cảnh trời mới, đất mới: lúc đó thời gian biến thành vĩnh cửu, định mệnh đau thương của con người biến thành hạnh phúc; vẻ cao trọng đó đã hiển hiện huy hoàng trên núi biến hình. Từ đỉnh núi đó, vẻ cao trọng này soi sáng mọi vực thẳm tối tăm của nhân loại.
26. Con yêu dấu
Này là Con Ta yêu dấu. Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Cha đã tuyên phong Đức Kitô là con yêu dấu của mình những hai lần.
Thực vậy, lần thứ nhất là bên bờ sông Giócđan, khi Đức Kitô đến lãnh nhận phép rửa của Gioan Tiền hô. Phúc âm đã ghi lại khi Ngài lên khỏi nước, thì trời mở ra, Thánh Thần Chúa lấy hình chim bồ câu đổ xuống và từ trời có tiếng phán:
- Này là Con Ta yêu dấu.
Lần thứ hai là trên đỉnh Taborê như chúng ta vừa nghe đọc. Hôm ấy Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên đỉnh núi Taborê, tại đây Ngài đã biến hình trước mặt các ông, áo Ngài trở nên trắng như tuyết, rồi lại có Môisê và Êlia đến đàm đạo với Ngài. Giữa lúc ấy có một đám mây bao phủ rồi từ trong đám mây có tiếng phán:
- Này là Con Ta yêu dấu.
Thế nhưng, đâu là cái bí quyết làm cho Đức Kitô trở thành người con yêu dấu của Chúa Cha. Xin thưa:
- Cái bí quyết ấy rất đơn giản đó là Đức Kitô luôn làm vui lòng Chúa Cha, hay nói một cách khác, Đức Kitô luôn vâng theo thánh ý của Chúa Cha.
Thực vậy, vì vâng theo thánh ý Chúa Cha mà Đức Kitô đã xuống thế làm người, sinh ra giữa đêm đông giá lạnh, lớn lên trong cảnh nghèo túng cơ cực. Rồi trong cuộc đời công khai, nỗi băn khoăn số một của Ngài là tìm biết và thực thi thánh ý Chúa Cha, như Ngài đã xác quyết với các môn đệ bên bờ giếng Giacob:
- Của ăn của Ta là làm theo thánh ý Cha Ta.
Đỉnh cao tuyệt vời nhất của sự vâng phục đó là cái chết trên thập giá như lời thánh Phaolô đã viết:
- Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Còn đối với chúng ta thì sao? Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa. Chúng ta giống như Môisê, sau ngày được vớt lên khỏi nước. Thực vậy, trước kia Môisê là một người phải chết, và nếu có sống thì cũng chỉ sống một kiếp sống nô lệ đọa đầy… Còn sau khi được vớt lên khỏi nước, Môisê được nàng công chúa nhận làm con nuôi và có một địa vị sáng chói.
Cũng thế, trước khi được rửa tội chúng ta là những kẻ phải chết do hậu quả của tội Adong, nhưng sau khi được vớt lên khỏi nước do bí tích rửa tội chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa và có quyền thừa hưởng gia nghiệp nước trời.
Bởi đó chúng ta phải cám ơn Thiên Chúa vì đã dành cho chúng ta cái địa vị cao cả ấy. Chúng ta hãy suy nghĩ như bà già nhà quê mỗi khi đọc kinh lạy Cha:
- Lạy Chúa, Chúa là ai mà con là ai. Chúa là Đấng tạo hóa quyền năng, còn con chỉ là một bà lão già nua xấu xí, thế mà Chúa ban cho con một đặc ân cao cả, đó là được gọi Chúa là Cha.
Cám ơn Chúa mà thôi chưa đủ. Hãnh diện về địa ấy mà thôi chưa đủ. Điều quan trọng là chúng ta phải sống đúng cái địa vị cao cả ấy, nghĩa là chúng ta phải trở nên là những người con ngoan, là những người con yêu dấu của Chúa.
Muốn được như thế chúng ta hãy noi gương bắt chước Đức Kitô, bằng cách luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha. Một đứa con ngoan sẽ không phải là một đứa con vùng vằng cãi trả mỗi khi cha mẹ sai bảo điều gì. Trái lại, phải là đứa con mau mắn vâng nghe những lời chỉ bảo ấy.
Bởi đó, để trở thành những người con ngoan của Chúa, chúng ta cũng phải mau mắn và vui vẻ vâng theo thánh ý Chúa Cha, thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười giới răn, qua Tin mừng Phúc âm và qua những điều giáo huấn của Hội Thánh.
Có mau mắn vâng nghe thánh ý Chúa Cha, thì rồi Chúa Cha mới tuyên phong chúng ta như đã tuyên phong Đức Kitô trên đỉnh Taborê:
- Này là Con Ta yêu dấu.
27. Phêrô
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về thái độ của Phêrô.
Như chúng ta đã thấy: trước sự hiện diện của Môisê và Êlia cùng với ánh vinh quang bao phủ, Phêrô đã vui mừng hớn hở thưa lên:
- Lạy Thày, được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thày muốn, chúng con xin làm ba lều.
Thế nhưng sau đó, cũng chính Phêrô đã lên tiếng can ngăn Chúa khi Ngài tiên báo về những khổ đau sẽ phải chịu, để rồi Ngài đã phải nặng lời quở trách:
- Hỡi Satan, hãy xéo đi, ngươi chỉ biết những việc thuộc về trần thế mà chẳng biết chi những việc thuộc về Thiên Chúa.
Rồi cũng chính Phêrô trong sân nhà thày cả thượng phẩm đã chối Chúa ba lần chỉ vì câu hỏi bâng quơ của một đứa nữ tỳ. Phải chăng thái độ của Phêrô cũng là thái độ của người đời như tục ngữ đã nói:
- Khi vui thì vỗ tay vào,
Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.
Đúng thế, khi chúng ta có tiền và có quyền thì cũng thường có nhiều tình. Người xưa đã từng bảo:
- Bần cư chung thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khách tầm. Nghèo mà ở ngay giữa phố chợ thì cũng chẳng ai thăm, còn giàu mà ở tận chỗ núi cao rừng thẳm, thì vẫn khối người tìm đến.
Hay như tục ngữ cũng nói:
- Thấy người sang bắt quàng làm họ.
Thế nhưng khi tiền hết và quyền hết thì tình cũng thường chắp cánh bay cao:
- Hết cơm hết gạo hết ông tôi.
Không những hết tình mà đôi khi vào lúc sa cơ thất thế, những kẻ trước kia đã hàm ơn, không chừng sẽ trở mặt, phản lại chúng ta, giậu đổ bìm leo, để rồi chính chúng ta sẽ phải âm thầm và cay đắng ghi nhận:
- Thế thái nhân tình gớm chết thay,
Nhạt như nước ốc bạc như vôi.
Hay lẩm bẩm kêu trách:
- C’est la vie, đời là thế.
Tuy nhiên chúng ta đừng vội trách người cũng như đừng vội trách đời, mà hãy trách chính bản thân chúng ta trước, bởi vì đó cũng chính là thái độ của chúng ta đối với những tha nhân và nhất là đối với Thiên Chúa.
Thực vậy, kinh nghiệm cho hay: Khi gặp được may mắn và hạnh phúc chúng ta dường như cảm thấy Thiên Chúa thật gần gũi, thật dễ thương, thế nhưng khi gặp phải những gian nguy thử thách, những đớn đau buồn phiền, chúng ta lại cảm thấy Thiên Chúa thật xa vời và độc địa như lời thơ cổ:
- Trẻ tạo hóa đành hanh chi ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi.
Rồi từ đó chúng ta bực bội tức tối và lên tiếng nguyền rủa Thiên Chúa. Nói cách khác, chúng ta chỉ muốn bước theo Chúa lên đỉnh Taborê, chứ không muốn bước theo Chúa lên đỉnh Canvê. Chúng ta chỉ muốn cắm lều trong vinh quang, chứ không muốn đóng đinh mình vào thập giá. Chúng ta đã nhìn đau khổ qua cặp kính màu đen tuyệt vọng, chúng ta kéo lê thập giá chứ không vui vẻ vác lấy và coi thập giá như phương tiện cứu độ.
Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng:
- Đỉnh Canvê mới chính là nơi để Chúa Giêsu chu toàn sứ mạng cứu độ của mình, mới chính là nơi để Ngài gieo mầm phục sinh cho nhân loại.
Là môn đệ của Chúa chúng ta không có một con đường nào khác ngoài con đường thập giá, như lời Ngài đã nói:
- Ai muốn theo ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo ta.
Chúng ta không dừng lại tại thập giá và khổ đau, nhưng cùng với Đức Kitô tiến vào vinh quang và phục sinh. Vì thế, mặc dù vai vác thập giá nhưng mắt chúng ta vẫn luôn hướng tới trời cao. Trời cao, sự sống và hạnh phúc phải là điểm kết thúc cho con đường thập giá. Những hy sinh chúng ta gặp phải sẽ kết thành cây thập giá đời thường, nếu chúng ta trung thành vác lấy, cây thập giá đời thường ấy sẽ là con đường dẫn chúng ta tới vinh quang phục sinh.
28. Cõi phúc
Trong cuộc đời này, có nhiều người đã đi tìm cái chết cho mình. Trong số ấy có những người giàu sang quyền quí, và cũng có những người nghèo khổ bần cùng. Người giàu sang quyền quý sau khi hưởng thụ mọi thú vui của cõi đời, đã chỉ thấy một sự trống rỗng trong tâm hồn, một sự vô vị của cuộc sống nên tìm đến cái chết như muốn nói lên rằng họ tuyệt vọng về cuộc đời. Những người nghèo khổ bần cùng suốt đời phải làm thân trâu ngựa. Họ không đủ sức chịu đựng những nhọc nhằn, những tủi nhục của kiếp tôi mọi nên cũng đã tìm đến cái chết như tìm một sự giải thoát cho cuộc đời. Dù chết trong hoàn cảnh nào thì cả người giàu lẫn người nghèo kể trên đều có một lý do chung và lý do mạnh nhất đã đẩy đưa họ tới chỗ chào thua cuộc đời. Lý do đó là vì họ “Sống mà không có lý tưởng để vươn tới, không có niềm tin vào ngày mai ở bên kia cuộc đời”. Đối với họ, đời người chỉ thu gọn lại trong những tháng năm của cuộc sống này và chết là hết, không còn gì.
Nhưng người Kitô hữu không thể nghĩ thế. Người Kitô hữu biết rằng mình có một cõi phúc để đi về sau khi cuộc đời này chấm dứt. Cõi phúc ấy được báo trước qua cuộc biến hình đầy vinh quang huy hoàng của Chúa Giêsu. Cõi phúc ấy đã làm cho ba môn đệ của Chúa Giêsu ngây ngất đến độ ông Phêrô đã phải thốt lên rằng: “Thầy ơi, chúng con được ở đây thì sướng lắm”. Những chưa được. Cõi phúc ấy nằm ở cuối cuộc hành trình đời người, và các tông đồ cũng như mỗi người chúng ta chỉ có thể đi vào cõi phúc ấy sau khi đã đi hết lộ trình cuộc đời của mình. Khổ một nỗi hành trình cuộc đời của người Kitô hữu không phải là xa lộ thênh thang, bằng phẳng, nhưng lại là một con đường khúc khuỷu, quanh co, đầy chông gai sỏi đá. Nó giống như con đường lên núi Sọ của Chúa Giêsu. Và vì thế mà nhiều người, trong đó có cả chúng ta đã không dám bước vào. Thành công nào trong đời cũng có cái giá phải trả. Chúa Giêsu chỉ có thể bước vào vinh quang của ngày Phục Sinh sau khi đã đi vượt qua con đường đau khổ, con đường thập giá. Người đã can đảm vượt qua được con đường ấy và đã đi vào cõi phúc. Người mời gọi và chờ đợi chúng ta cùng đi vào cõi phúc ấy với Người: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi”. Không có con đường thứ hai, không có con đường tắt nào khác dẫn tới cõi phúc ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Bước sang năm mới có lẽ ai trong chúng ta cũng có một kế hoạch làm ăn, và chúng ta có thể mường tượng ra những thành công sẽ đến. Những thành công ấy sẽ là động lực thúc đẩy chúng ta làm việc, chấp nhận mưa nắng dãi dầu, chấp nhận thức khuya dậy sớm v.v… Đạt được cõi phúc trường sinh chính là một thành công lớn nhất và chung cuộc của đời sống con người, nhưng chẳng biết nó có đủ hấp dẫn để lôi kéo ta, để giúp ta chấp nhận những hy sinh, từ bỏ, chấp nhận lấy những thập giá trong đời sống mình hay không? Nếu không thì quả là đáng tiếc.
29. Thập giá
Anh chị em có biết tại sao khi nghe hai chữ thập giá, chúng ta không thấy sởn gai ốc, và có khi còn dửng dưng nữa, trong khi các môn đệ Chúa Giêsu nghe nói đến thập giá thì nổi da gà, và ông Phêrô run rẩy can ngăn Chúa đừng đi tới đó? Có lẽ vì chúng ta chỉ nhìn thấy những cây thập giá bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng gỗ quí nhẵn bóng hay bằng xi măng tô đá rửa, đá mài, nên hình ảnh mà hai chữ thập giá gợi lên trong chúng ta không có gì đáng sợ. Còn các môn đệ Chúa thì trái lại, các ông chưa bao giờ thấy những cây thập giá bằng vàng, bằng bạc… và hai chữ này không chỉ gợi lên một cây khổ giá trần trụi, mà gợi lên hình ảnh một con người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn và nhục nhã ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, giữa sống và chết, trước những cái nhìn thù ghét và khinh bỉ, trước những con mắt tò mò và dửng dưng. Chính vì thế mà các tông đồ rùng mình sợ hãi khi Chúa Giêsu nói đến thập giá.
Nhưng Chúa Giêsu không phải là ông thầy dễ dãi hay nhu nhược. Chúa vẫn nói thẳng, nói thật và Chúa đòi ai theo Chúa phải nhìn thẳng vào thập giá và chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình hằng ngày mà đi đằng sau Thầy”. Ông Phêrô vừa thay mặt anh em tuyên xưng Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, thì Ngài lại nói đến thập giá. Thập giá Chúa nói ở đây như mặt sau của tấm huân chương. Rồi sau đó Chúa lại đưa ba môn đệ thân tín lên núi, cho các ông thấy vinh quang chói lòa của Ngài và sự có mặt làm chứng của Môisê và Êlia: một vị đã được Chúa dùng để giao ước Sinai, còn vị kia thì được Chúa trao nhiệm vụ tái lập giao ước Sinai.
Chúng ta có thể đảo lại thế này: sau khi chỉ cho các môn đệ thấy cây thập giá làm cho các ông run sợ, Chúa Giêsu lật cho các ông thấy đằng sau cây thập giá có gì. Cũng vậy, sau này, trên đường Emmau, chúng ta thấy Chúa quở trách hai môn đệ thất vọng bỏ đi, vì các ông chỉ thấy mặt trước mà không thấy mặt sau của cây thập giá: “Chẳng phải là Đức Kitô phải chịu đau khổ để vào trong vinh quang của Ngài sao?”.
Nếu ôm lấy cây thập giá và thỏa mãn với nó thì đúng là một kẻ điên khùng hoặc bệnh hoạn. Không, Chúa Giêsu không kêu gọi chúng ta trở nên điên khùng, bệnh hoạn. Chúa đã nhận lấy thập giá như đường tới vinh quang. Đàng sau thập giá là vinh quang mà chỉ có đức tin mới cho chúng ta thấy được. Chúa không gọi chúng ta vác thập giá đi một mình, nhưng là đi theo sau Chúa, vì chỉ có đi theo Chúa, chúng ta mới tới được vinh quang ở phía sau cây thập giá.
Cuộc sống có những lúc êm đềm thanh thản, có những ngày tưng bừng hoa lá, nhưng cũng lắm khi cảm thấy tất cả nỗi ê chề của cây thập giá sù sì và những lời độc địa, chát chúa của khách qua đường. Chúng ta cảm thấy nỗi cô đơn của kẻ bị treo lơ lửng giữa trời và đất. Chúng ta khát khô cổ muốn có một lời an ủi, một chút cảm thông, nhưng quanh chúng ta chỉ có thờ ơ và thinh lặng, hoặc tệ hơn nữa, chỉ có phỉ báng và xua đuổi. Những lúc ấy chúng ta mới cảm thấy tất cả sự rùng rợn của cây thập giá. Có khi chúng ta cảm thấy chán nản muốn buông xuôi tất cả. Chúng ta cảm thấy như Chúa Giêsu đã cảm thấy và phải kêu lên: “Lạy Chúa, nhân sao Chúa bỏ con…”.
Những lúc ấy chúng ta phải vận dụng sức mạnh của lòng tin, hết ánh sáng đức tin, để thấy được đằng sau cây thập giá. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đấng đang vác thập giá đi đằng trước chúng ta, chớ rời mắt xa Ngài. Nhưng chúng ta đừng chờ tới lúc đó mới nhìn vào Ngài. Chúng ta phải giữ tầm nhìn luôn hướng về Ngài trong mọi nơi, mọi lúc, mọi việc. Chúng ta hãy làm tất cả với Ngài, vì Ngài và trong Ngài. Nếu chúng ta biết sống với Ngài trong niềm vui, chúng ta cũng biết sống với Ngài trong nỗi buồn. Nếu chúng ta biết sống trong Ngài khi hạnh phúc, chúng ta cũng biết sống trong Ngài lúc đau khổ. Nếu chúng ta biết sống với Ngài trong ngày hội, chúng ta cũng biết sống với Ngài giữa cô đơn. Nếu chúng ta biết sống trong Ngài lúc đầy tiền của, chúng ta cũng biết sống trong Ngài khi trắng tay…
Điều chúng ta cần ghi nhớ là chúng ta đừng mang thập giá một mình. Chúng ta sẽ không bước nổi đâu, và nếu chúng ta có đem tất cả sự kiêu hãnh của con cái Ađam mà lết đi được thì cũng chẳng ích lợi gì, cây thập giá của chúng ta chỉ là cây gỗ chết mà thôi. Bởi vì cây thập giá chỉ trở nên xanh tươi và đầy hoa trái khi nó mang con Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống: “Nếu chúng ta cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ sống với Ngài”.
Như vậy, Chúa Giêsu hiển dung là để củng cố đức tin của các môn đệ. Bởi vì Chúa thấy các môn đệ quá sợ các đau khổ, không chấp nhận cuộc khổ nạn của Ngài, nên Chúa đã hé mở vinh quang của Nước Thiên Chúa cho các ông thấy để đem lại cho các ông một niềm tin và một hy vọng vào ngày mai. Do đó, việc Chúa hiển dung cũng dạy bảo cho các môn đệ biết: phải trải qua đau khổ rồi mới vào vinh quang. Chính Thầy của các ông là Con Thiên Chúa, mà còn phải chịu đau khổ mới bước đến vinh quang thì các ông cũng phải đi theo con đường đó: không thể đến cõi hằng sống mà không phải qua đau khổ, thử thách.
Sống ở đời, không ai trong chúng ta tránh được những đau khổ chúng ta gọi là những thánh giá mà Chúa muốn chúng ta vác. Dù trong bậc nào vẫn phải vác thánh giá của mình. Ngay chính lúc này, mỗi người chúng ta đều cảm thấy những lo âu, những buồn phiền, những khổ đau… Tất cả đều là thánh giá. Nếu biết vác cho nên, với một thái độ khiêm ngường, với lòng cậy tin, thì Chúa sẽ ở bên chúng ta, và sẽ thưởng công cho chúng ta. Những công phúc tuy vô hình, chúng ta không trông thấy, nhưng chúng sẽ là những hạt men, những hạt giống sẽ nở ra trong đời sau và trong thế hệ con cháu chúng ta.
30. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Ý nghĩa của những chi tiết trong cuộc hiển dung là gì? Mục đích của cuộc hiển dung là gì?
2. Lời Chúa Cha giới thiệu về Đức Giêsu: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”. Nội dung của lời giới thiệu này có mấy điểm? Là những điểm nào?
3. Vâng nghe lời Đức Giêsu như Chúa Cha khuyên ta thì được lợi ích gì?
Suy tư gợi ý:
1. Ý nghĩa thị kiến hiển dung của Đức Giêsu
Đây là một thị kiến mà ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu nhìn thấy. Thị kiến này mạc khải cho ba môn đệ thấy thần tính của Đức Giêsu. Những gì thấy trong thị kiến đều có một ý nghĩa thần bí:
– ngọn núi cao: biểu tượng sự siêu việt, thánh thiện, cao cả, thanh thoát, xa rời thế tục
– chỉ có bốn thầy trò với nhau: sự mạc khải chỉ biểu lộ cho những người thân thiết nhất, mang tính riêng tư.
– sự biến hình đổi dạng: cho thấy một bản chất sâu xa bên trong, một cái gì sẽ được tỏ hiện trong tương lai. Người thường không thấy được điều ấy, họ chỉ thấy được cái gì hiện ra bên ngoài trong hiện tại.
– dung nhan chói lọi như mặt trời: biểu tượng của thần tính, hay thiên tính, đầy vinh quang, quyền lực.
– y phục trắng tinh như ánh sáng: biểu tượng sự trong sáng, sự quang minh chính đại cực độ, hoàn toàn không lầm lỗi, không khiếm khuyết.
– Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo: đây là hai nhân vật lớn nhất tiêu biểu cho Cựu Ước, hay Giao Ước cũ. Môsê, nhà làm luật, tượng trưng cho luật pháp, Êlia, ngôn sứ lớn nhất trong Cựu Ước, đại diện các ngôn sứ. Luật pháp và các ngôn sứ là cốt tủy, là những thứ biểu trưng và thiêng liêng nhất trong Cựu Ước. Hai ông còn là hai người có thế giá nhất đã báo trước sự ra đời của Đức Giêsu. Môsê là tác giả của bộ Ngũ Kinh (5 cuốn đầu của Cựu Ước) đã tiên báo một đại ngôn sứ sẽ đến (x. Đnl 18,15-19). Còn Êlia là nhân vật mà Thiên Chúa sai đến như một dấu chứng báo trước ngày mà chính Thiên Chúa đến trần gian (x. Ml 3,23). Trong thị kiến này, hai ông biểu tượng cho hai chứng từ sống động nhất làm chứng cho thiên tính của Đức Giêsu.
– Đám mây sáng ngời bao phủ cả ba người: tượng trưng cả ba người đều đến từ Thiên Chúa, và đang sống trong vinh quang của Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh (cũng như trong các kinh điển của các tôn giáo), đám mây tượng trưng cho mầu nhiệm Thiên Chúa đang hiện diện: chẳng hạn cột mây dẫn đường dân Do Thái qua biển đỏ (Xh 13,21-24), cột mây trước Lều Tạm (Xh 33,9-10; 40,34-38), hay Gia-Vê thường hiện ra với Môsê trong đám mây (Xh 16,10; 19,9; 20,21; 24,15-16).
– Tiếng phán ra từ đám mây: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”: Đây là dấu chứng mạnh nhất, vĩ đại nhất mang tính dứt khoát cho biết Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, mà mọi người có thể tin tưởng và vâng phục. Chính Chúa Cha trực tiếp giới thiệu “Con Yêu Dấu” của mình. Còn lời chứng nào giá trị hơn nữa?
2. Hãy vững tin vào thiên tính của Đức Giêsu
Qua thị kiến hiển dung này, Thiên Chúa đã trực tiếp củng cố niềm tin cho ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu vào Ngài, và cũng gián tiếp củng cố niềm tin của các môn đệ khác, và cả chúng ta nữa. Thị kiến này các ông đã mang theo trong tâm trí suốt cuộc đời như một hành trang quý báu giúp các ông tin vững chắc vào Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế mà mọi người đều trông mong. Nhờ niềm tin vững chắc này, các ông rao giảng về Đức Giêsu một cách xác tín, và vượt qua được mọi gian lao thử thách do việc rao giảng ấy. Thánh Phêrô đã nhắc lại biến cố này như một dấu chứng chắc chắn để mọi người tin vào lời chứng của mình: “Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người. Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến”. Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người” (2Pr 1,16-18).
Nếu mục đích của sự hiển dung này là để củng cố niềm tin các tông đồ vào thiên tính của Đức Giêsu, thì nó cũng có mục đích củng cố niềm tin mỗi người chúng ta. Đức tin được càng được xác tín mạnh mẽ từ trong thâm tâm, chứ không chỉ tuyên xưng ngoài miệng, sẽ làm cho đời sống Kitô hữu càng thêm sâu sắc và phong phú, càng làm tình yêu và nội lực ta thêm dồi dào.
3. “Hãy vâng nghe lời Người!”
Qua biến cố hiển dung, Đức Giêsu chẳng những được giới thiệu cho chúng ta. Sự giới thiệu có giá trị hay không, và giá trị đến mức nào tùy thuộc vào thế giá của người giới thiệu. Còn ai có thế giá trong tôn giáo cho bằng Môsê và Êlia, và nhất là còn ai thế giá trong toàn vũ trụ bằng Chúa Cha, Đấng tạo dựng nên cả vũ trụ bao la này. Chúa Cha đã giới thiệu Ngài: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”.
Lời giới thiệu ấy tuy ngắn ngủi nhưng nội dung rất quan trọng, gồm 3 điểm sau đây:
a) Đức Giêsu là Con Thiên Chúa: Đó là một chức vị duy nhất và cao nhất sau Chúa Cha trong toàn vũ trụ. Ngài là Con duy nhất của một Thiên Chúa độc nhất. Và Ngài cũng là Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha. Ngài đầy uy tín và rất đáng tin tưởng do bản chất Thiên Chúa của Ngài.
b) Đức Giêsu rất đẹp lòng Chúa Cha: Một người đẹp lòng Chúa Cha tất nhiên hết sức hoàn hảo, không một khiếm khuyết nào. Vì thế, Ngài đầy uy tín và rất đáng tin tưởng do phẩm chất hết sức cao quí của Ngài.
c) Vì thế, Chúa Cha khuyên chúng ta “hãy vâng nghe lời Người!”. Lời khuyên của Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng lại đầy khôn ngoan và quyền năng ắt phải có một giá trị vô cùng lớn. Không một lời khuyên nào đối với ta có thể khôn ngoan và đem lại lợi ích cho ta như vậy. Vậy chúng ta hãy vâng nghe lời Đức Giêsu.
Thánh Phêrô, người đã chứng kiến việc hiển dung của Đức Giêsu và đã nghe được lời giới thiệu về Ngài của Chúa Cha, đã phải thốt lên tâm tình của mình: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68). Chính Đức Giêsu cũng đã xác nhận: “Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 8,51). “Không bao giờ phải chết” ở đây nghĩa là có được sự sống đời đời.
4. Sự sống đời đời do vâng nghe lời Đức Giêsu
Lợi ích lớn lao do việc vâng nghe lời Đức Giêsu chính là có được sự sống đời đời. Sự sống đời đời ấy không phải là một cái gì xa lạ mà phải qua thế giới bên kia mới cảm nghiệm được, mà là một cái gì thực tế và cụ thể, có thể cảm nghiệm được ngay ở đời này, thậm chí “tại đây và lúc này” (hic et nunc) một cách hết sức hiện sinh. Sự sống ấy đã được Đức Giêsu nói đến trong câu: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Ở đời này, sự sống đời đời được thể hiện bằng sự sống dồi dào nội lực và sinh khí để có thể sống tràn đầy bình an và hạnh phúc, trong tinh thần vị tha, quên mình, biết yêu thương và hy sinh cho tha nhân không mệt mỏi. Đó là thứ hạnh phúc đích thực của thiên đàng là nơi chỉ có yêu thương, không còn ích kỷ hay thù hận. Đó là sự bình an và hạnh phúc vô biên trong nội tâm, thứ hạnh phúc không bị lệ thuộc vào hoàn cảnh hay những yếu tố bên ngoài, một thứ hạnh phúc không ai lấy mất được.
Sự sống đời đời ấy ta có được là do vâng nghe lời Đức Giêsu, để chúng ta có thể nhìn cuộc đời, quan niệm mọi sự như Đức Giêsu đã nhìn và quan niệm, để ta có thể tư tưởng, nói năng và hành xử như Ngài đã từng tư tưởng, nói năng và hành xử. Ở đời này, sự sống ấy có thể ví như ở dạng hạt, và nó sẽ phát triển thành cây cổ thụ và sinh hoa kết trái ở đời sau. Chỉ khi ta có được “hạt giống sự sống đời đời” ở đời này do việc vâng nghe lời Đức Giêsu, ta mới có được “cây sự sống đời đời” ấy ở đời sau (x. Kh 22,2.14.19).
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã giới thiệu Đức Giêsu cho con, đã khuyên con hãy vâng nghe lời Ngài. Con biết: sự sống đời đời – là điều con ao ước nhất và có khả năng làm thỏa mãn con nhất – con có thể tìm được nhờ vâng nghe lời Ngài một cách triệt để và sâu xa. Xin Cha giúp con thực hiện được điều ấy. Amen.
31. Gọi điện thoại trong địa phương
Một người cao cấp trong ngành kinh tế Hoa-Kỳ sang thăm Canađa và đã gọi một cú điện thoại viễn liên (long distance) từ nơi ông ở Toronto sang tận Montreal. Sau khi nói chuyện xong, ông đã hỏi giá và được cho biết là cú điện thoại viễn liên ấy tốn mười bốn đồng, năm mươi xu tiền Mỹ-kim. Vị kinh tế gia ấy nổi sùng lên và nói: “Sao đắt quá vậy? Ở xứ tôi ở, tôi gọi đến hỏa ngục hay gọi từ đó cũng chỉ mất có mười bốn đồng năm mươi xu!” Nhân viên tổng đài điện thoại trả lời: “Đúng vậy thưa ông, nơi ông ở và chỗ ông gọi đó cùng trong vùng mà thôi!”
Có những lúc trong cuộc sống, chúng ta cảm thấy Chúa Toàn Năng là Đấng quá xa vời với chúng ta. Tuy nhiên, cũng có đôi lúc ta lại cảm thấy Thiên Đàng lại rất gần với chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay mô tả lại một mối cảm nghiệm chót đỉnh trong cuộc sống của Chúa Giêsu và ba vị Tông Đồ.
Chúa Giêsu dẫn Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan “lên một ngọn núi cao” (Mt 17:1). Các ngài lên núi cao ấy để “cầu nguyện” như Thánh Luca đã thuật lại (Lk 9:28). Chúa Giêsu và ba môn đệ đã tách biệt nhau khi cầu nguyện. Mỗi vị có một nhu cầu riêng. Chúa Giêsu đã đi đến khúc ngoặc mới của cuộc sống và công việc truyền giáo của Ngài. Các kẻ thù đang toan tính ám hại Ngài, và do đó Ngài phải quyết định xem cần phải rời bỏ Đất Thánh hay tới thẳng Giêrusalem và thẳng thắn đối đầu với những kẻ muốn giết Ngài. Lúc này đây Chúa Giêsu cần biết rõ ràng Thánh Ý Chúa Cha trong vấn đề này: Ngài có đang làm công chuyện và quyết định đúng như ý Chúa Cha không? Ngài có đang làm tròn mục đích của đời Ngài không?
Còn ba vị môn đệ kia thì đây là lúc tìm sự hướng dẫn để có thể hiểu công cuộc của Chúa Giêsu. Chỉ mới tám ngày trước đó, Phêrô đã có một ánh nhìn tuyệt vời về Chúa Giêsu là: “Thầy là Đấng Thiên Sai”. Nhưng ngay sau đó, khi Chúa Giêsu mặc khải về sự đau khổ và phải chết của Đấng Thiên Sai thì Phêrô đã từ chối không muốn nghe. Ngay còn tấm bé, Phêrô đã được nghe biết rằng Vị Thiên Sai sẽ là vị tướng anh hùng vĩ đại, bách chiến bách thắng. Bởi đó, lúc này đây thật là khó cho Phêrô có thể chấp nhận Chúa Giêsu như là “Người Đầy Tớ Đau Khổ”; và do vậy Phêrô đã nói với Chúa: “Điều ấy sẽ không xảy đến cho Thầy, lạy Chúa”. Nhưng Chúa Giêsu đã gay gắt mắng Phêrô: “Hãy lui ra sau Ta, Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta; vì ngươi chỉ theo ý loài người mà không theo ý Thiên Chúa” (Mt 17:22- 23). Chính vì thế, giờ đây ba vị môn đệ cần phải cầu nguyện xin được ơn soi sáng trong vấn đề này. Khi Chúa Giêsu và môn đệ đang cầu nguyện thì Môisê, đại diện cho Luật và 'lia, đại diện cho các ngôn sứ, hiện ra và đàm đạo với Chúa. Thánh Mátthêu muốn cho chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu và ba môn đệ đã phải suy ngắm sâu xa về truyền thống và quá khứ của họ hầu có thể tìm ra được Ý Thiên Chúa. Và chúng ta có thể dường như nghe được tiếng của Môisê và 'lia xác định những gì Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Ngài nói đúng!... Hãy nghe lời Ngài! Hãy cùng đi với Ngài lên Giêrusalem mà đừng để ý tới những trắc trở.”
Khi mà một người được cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa trực tiếp như trên núi cao xưa thì thật khó mà tìm lời để diễn tả tâm tình mình. Trong trường hợp này, các Thánh Sử Tin Mừng đã diễn tả cách hay nhất cho chúng ta. Các ngài thuật rằng kìa có một đám mây xuất hiện, và mây trong quan niệm cổ thời bấy giờ được coi là có sự trực tiếp Hiện Diện Vinh Quang Thiên Chúa. Rồi từ đám mây ấy, Thiên Chúa trực tiếp phán ra. Nôm na cho vui, đây là cú điện thoại trong vùng nhưng nó mang ý nghĩa rất quan trọng đối với chúng ta. Thiên Chúa đến với chúng ta trong muôn ngàn cách, nhưng không có cách nào quan trọng hơn khi Ngài tỏ Mình trực tiếp với chúng ta và chúng ta cảm nghiệm được sự đối diện trực tiếp ấy với Ngài cách rõ ràng mật thiết. Chúa Giêsu và ba môn đệ kia chắc chắn đã muốn trèo lên núi cao để có thể cảm nhận cách rõ ràng mật thiết sự Hiện Diện Linh Động của Thiên Chúa. Mối cảm nghiệm đó rồi nó cũng tự kết thúc, song các ngài còn trách nhiệm phải đáp trả. Phêrô đã muốn dựng mấy lều và lưu lại luôn trên núi đó. Điều này xảy ra chúng ta cũng dễ hiểu thôi, vì ngay như chúng ta chỉ mới được Thánh Thần soi sáng xoa dịu trong những cuộc tĩnh tâm thôi mà đã không muốn bỏ đi rồi. Chúa Giêsu đã tảng lờ lời đề nghị của Phêrô và dẫn các ông xuống núi trở về lại xóm làng. Khi các ngài trở lại thôn xóm đã nhìn thấy gì? Các ngài đã nhìn thấy những nhu cầu cần thiết của dân chúng. Ngay tức khắc, các ngài đã phải nghe lời van xin của một người cha cho con mình: “Xin Thầy hãy thương đến con trai tôi vì nó bị bịnh phong giật khổ sở lắm” (Mt 17:15).
Trong Giáo Hội có những dòng tu chuyên lo việc cầu nguyện và điều đó rất tốt! Song phần đông còn lại chúng ta chuyên chú trong việc cầu nguyện cần phải theo Chúa Giêsu xuống khỏi núi mà đi vào những thôn xóm đang cần sự giúp đỡ. Những người theo Chúa Giêsu phải biết trung thành và cân bằng trong việc cầu nguyện và hoạt động!
Nhiều lần Chúa Giêsu đã trách mắng đám đông theo Ngài vì họ chỉ muốn xem phép lạ. Ngài đã từ chối không muốn trở thành Vị Thiên Sai phù phép của họ. Thường xen kẽ giữa những lúc tuyệt vời của dấu lạ và phép lạ là những ngày dài khó khăn, bẩn thỉu, đói khát thực hành sự vâng phục đối với các môn đệ Chúa Giêsu. Nếu bốn cuốn Phúc Âm dài gấp ngàn lần cuốn hiện tại thì chúng sẽ ghi nhiều những công việc của Chúa Giêsu trong ba năm hoạt động công khai, và rất có thể chúng ta sẽ ngạc nhiên khi thấy những hoạt động của Chúa trong những ngày ấy thật bình thường. Chúng ta có thể chắc rằng giữa cuộc cảm nghiệm ngây ngất trên núi là những ngày gian nan khó khăn trong các xóm làng, đó là lúc các môn đệ Chúa phải vượt qua bằng đức tin chứ không phải bằng dấu lạ.
32. Sống đức tin
(Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Trong khi dân chúng còn thắc mắc về Chúa Giêsu, mỗi người nghĩ về Ngài một cách, thì ông Phêrô đã thay mặt nhóm môn đệ thân tín của Chúa tuyên xưng: "Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa". Lời tuyên xưng này là thành quả của giai đoạn huấn luyện của Chúa. Được theo sát bên Chúa, được chứng kiến mọi hoạt động của Chúa, lại được Chúa dạy dỗ riêng nhiều điều, các môn đệ được dẫn dắt từng bước để nhận ra Chúa Giêsu là ai. Nhưng cho đến lúc này các ông mới chỉ thấy quyền năng của Chúa, còn con đường Ngài phải đi thì các ông chưa biết, Chúa Giêsu muốn các ông phải chấp nhận toàn thể sứ mạng và thân phận của Ngài. Vì thế, khi ông Phêrô vừa tuyên xưng Ngài là Đấng Kitô, Ngài liền nói đến việc Ngài sẽ phải chịu đau khổ, bị xỉ nhục và phải chết rồi sống lại. Sau đó Ngài rời miền Galilê tiến lên Giêrusalem. Nhưng trước khi đi lên Giêrusalem, Ngài còn cho các ông được thấy vinh quang của Ngài, nghĩa là Ngài tỏ lộ cho các ông thấy phần nào chân dung thật của Ngài, mà chúng ta thường gọi là Chúa biến hình.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu đã đem theo ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Ta-bo, đang lúc cầu nguyện, Chúa biến hình: sắc diện Ngài biến đổi và có một dung mạo khác thường, nghĩa là Chúa tỏa lộ một ánh sáng đặc biệt cho các môn đệ thấy chính Ngài là ai, là "vinh quang của Thiên Chúa", là "Chúa vinh quang". Trước đây, các môn đệ sống bên Chúa, đã hiểu phần nào về con người của Chúa, nhưng hôm nay nơi núi biến hình, các ông mới đích thực cung chiêm uy linh vinh quang của Chúa.
Trong lúc Chúa biến hình có hai người đàm đạo với Chúa, đó là ông Môsê và Elia. Đàm đạo về cuộc khổ nạn mà Chúa sắp trải qua ở Giêrusalem, còn ông Phêrô và các bạn thì ngây ngất trong ánh sáng siêu linh ấy, nhưng giữa lúc đó có một đám mây bay đến phủ rợp các ngài, rồi mất hút hai vị đại ngôn sứ, và mọi sự trở lại bình thường.
Quang cảnh trên cho chúng ta thấy có ánh sáng rồi có bóng mây. Đời là thế. Có vinh quang có đau khổ, có vinh có nhục, có buồn vui đắp đổi, có khóc có cười, có nước trời có trần gian, có vàng thau lẫn lộn...Vì thế, ngay trong vinh quang của Ta-bo, Chúa đã đàm đạo với các ngôn sứ về cuộc khổ nạn của Ngài để nhắc nhở và củng cố đức tin của thánh Phêrô và các tông đồ, để giúp họ đứng vững giữa những thử thách và trung thành với sứ mệnh nặng nề của ngày mai. Thánh Phêrô, trong một khoảnh khắc thời gian, được sống trong hai thế giới: trần gian và thiên đàng. Và khi được cung chiêm hạnh phúc nước trời, ngài đã sung sướng quá và thốt lên: "Lạy Thầy, được ở lại đây thì tốt quá". Nhưng rồi bóng mây bao phủ trên họ, và họ phải xuống núi, trở về với nhiệm vụ của mình.
Bài Tin Mừng hôm nay có nhiều điều đáng ghi nhớ, nhưng chúng ta đặc biệt ghi nhớ câu nói của thánh Phêrô trên đây và hình ảnh đám mây bao phủ trên các tông đồ lúc ấy làm bài học cho chúng ta. Chúng ta thấy đó, thánh Phêrô đã thốt lên như thế khi được thấy hạnh phúc nước trời ngay tại thế, nhưng chỉ trong một khoảnh khắc thôi rồi họ lại trở về với cuộc sống cam go và nhiệm vụ nặng nề của mình. Lời nói của thánh Phêrô được coi là niềm vui, đám mây tượng trưng cho nỗi buồn.
Chúng ta cũng vậy, có lẽ trong cuộc đời theo Chúa, chúng ta cũng sẽ được một số những an ủi, niềm vui, phước lộc. Nhưng chúng ta cần nhớ: bao lâu còn sống ở trần gian, niềm vui nào cũng mau qua, như người ta vẫn nói: Vui qua sầu tới. Cho nên, chúng ta cần phải có một thái độ đúng trước niềm vui, là đừng bao giờ chỉ biết có niềm vui của riêng mình, nhưng phải biết giới hạn và san sẻ niềm vui đó, và đừng bao giờ để cho niềm vui của mình trở nên đau khổ cho người khác, vì khi chúng ta vui thì còn nhiều người khác đang buồn. Cũng đừng bao giờ say sưa trong niềm vui mà quên bổn phận hay nhiệm vụ của mình. Lúc có niềm vui thì hãy nhớ tới lúc hết niềm vui. Nếu chúng ta có thái độ đúng đắn như thế, chúng ta sẽ không còn ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước thuận cảnh hay nghịch cảnh, trước niềm vui hay nỗi buồn. Ngược lại, khi chúng ta không có được niềm vui như người khác, thì chúng ta cũng đừng bao giờ thất vọng, chán nản, buông xuôi.
Vì thế, chúng ta phải làm chủ được cuộc đời mình, là cuộc đời được đan dệt bằng những niềm vui và nỗi buồn. Chúng ta hãy sống với hoàn cảnh thực tại của mình, chúng ta hãy chu toàn nhiệm vụ hằng ngày của mình, chúng ta hãy lấy nhiệm vụ làm nguồn vui, chúng ta chỉ có quyền hưởng niềm vui khi đã làm xong nhiệm vụ. Nhiệm vụ nào cũng là gánh nặng, nhưng gánh nặng được chúng ta hoàn thành lại trở nên niềm vui cho chúng ta. Đó là bài học Chúa dạy các tông đồ xưa kia và dạy chúng ta hôm nay: "Qua đau khổ sẽ tới vinh quang", sau cơn mưa, trời lại sáng.
33. Vinh quang của Chúa Giêsu
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Cuộc biến hình trên núi Taborê là hình ảnh sống động, ấn tượng đã để lại trong lòng mọi Kitô hữu những suy nghĩ, những cảm nghiệm sâu xa về sự vinh hiển của Chúa Giêsu sau khi Ngài phải trải qua những cực hình thể xác, những đau khổ tinh thần bởi vì hầu như mọi người đã bỏ rơi Ngài. Vinh quang trên núi Tabôrê hôm nay xua tan mây mù đen tối về cuộc thương khó của Chúa Giêsu mà Ngài đã loan báo cho các tông đồ ở Cêsarê-Philipphê. Chúa Giêsu đã cho ba môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan được thấy vinh quang của Ngài, và đặc biệt được nghe lời Thiên Chúa Cha từ trời giới thiệu Người Con Chí Ái, đồng thời với sự minh chứng của các nhân vật Cựu Ước như Ông Môsê và Ông Êlia để các môn đệ an tâm dấn bước theo Chúa, nghe lời Chúa dạy và sẵn sàng gánh vác công việc của Chúa sau này...
Trình thuật của thánh Matthêu trong trích đoạn 17, 1-9 là một áng văn hay và là một cuộc miêu tả hết sức đẹp về sự biến hình của Chúa trên núi Tabôrê. Ba nhân vật Phêrô, Giacôbê và Gioan là ba tông đồ đã được Chúa Giêsu đem theo riêng bên mình, chứng kiến một số sự kiện, biến cố quan trọng trong cuộc đời theo Chúa, chẳng hạn biến cố con ông Giairô, hiện diện trong vườn Giêt-si-ma-ni. Thánh Phêrô sau này làm đầu Giáo Hội. Phêrô là Đá, Chúa xây Giáo Hội trên nền Đá là Phêrô và các tông đồ. Thánh Giacôbê là Giám mục đầu tiên ở Giêrusalem và cũng là vị tông đồ được phúc tử đạo đầu tiên. Thánh Gioan là người viết Phúc Âm thứ tư, là tông đồ về trời sau cùng và là người truyền đạt mạc khải công khai của Chúa.
Tiếng Chúa Cha phán đã là bảo chứng quan trọng cho mọi người, mọi thế hệ biết được Ba ngôi Thiên Chúa, làm ta nhớ lại trên dòng sông Giorđăn, Chúa Cha xác nhận: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, ai tin Thiên Chúa phải nghe lời Chúa Giêsu. Các nhân vật Cựu Ước như Môsê và Êlia giúp các tông đồ hiểu Chúa Giêsu vừa là Vị giảng huấn, vừa là Tiên tri và thực hiện lời các tiên tri.Thánh Phêrô xin dựng lều để muốn mừng lễ Lều Trại vì bây giờ đang trong thời kỳ mừng lễ Lều. Đám mây bao phủ làm ta nhớ tới thời Cựu Ước về sự hiện diện của Thiên Chúa. Núi và đám mây bao phủ gợi lại hình ảnh Môsê trên núi Sinai xưa.
Chủ đích Tin Mừng hôm nay cho ta hay rằng Thiên Chúa từ trời như đang nhắn gửi nhân loại và đặc biệt Dân Do Thái lắng nghe lời của Môsê, và căn dặn phải nghe lời Đấng được sai đến hướng dẫn dân, Đấng ấy thi hành ý Thiên Chúa Cha, là Con và là tôi tớ, những lời của Đấng ấy dù có khác lạ với lối suy nghĩ của nhân loại, của người đời, như thể lời loan báo về cuộc khổ nạn, về cái chết và phục sinh. Các môn đệ ngã sấp mặt xuống đất gợi lại sự hiện diện của Thiên Chúa thời Cựu Ước, hình ảnh Thiên Chúa trong bụi gai, Môsê phải cúi mặt không được nhìn vì nhìn sẽ chết vv...Giữ kín những điều đó để khỏi bị người ta hiểu lầm, tranh giành nhau về chính trị, về quyền hành vv...Khi Chúa chết sống lại, sự hiểu lầm ấy sẽ hết đi...
Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta nhận ra Đấng Cứu Thế mà Dân Do Thái mong đợi đã đến, Ngài đã đến với chúng ta cùng với Giáo lý, Giáo huấn của Ngài. Ngài muốn chúng ta sống như Ngài, lắng nghe lời Ngài và thực thi lời Ngài. Vinh quang của Chúa Giêsu cũng là vinh quang của chúng ta bởi vì Chúa Giêsu đã luôn làm hài lòng Thiên Chúa Cha khi thực hiện thánh ý của Chúa Cha: chịu đau khổ, chịu chết và phục sinh để cứu rỗi mọi người, cứu rỗi trần gian. Chúng ta thực thi ý Chúa là hoàn tất sứ mạng trần thế trong cuộc hành trình đức tin lâu dài. Lắng nghe lời Chúa và thực hiện lời Chúa trong đời sống của mình là đem lại hạnh phúc cho chính bản thân mình và đem lại hạnh phúc cho những người xung quanh chúng ta trong bất kỳ trạng huống thuận hay nghịch của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã chìm sâu trong ánh sáng vinh của của Chúa. Việc biến hình của Chúa đã làm cho các tông đồ quên đi những tang thương, thử thách của cuộc đời để các ngài ý thức về sứ mạng cứu thế của Chúa. Hôm nay trên núi cao, các môn đệ được chiêm ngắm vinh quang chói ngời của Chúa...Trong vườn Cây Dầu, các môn đệ sẽ chứng kiến những giây phút đau buồn, thảm thương của Thầy trước khi bị bắt, bị kết án và bị đóng đinh trên Thập giá. Xin cho chúng con luôn tin vào lời Chúa, lắng nghe Chúa nói và thực thi những điều Chúa dạy bảo hầu chúng con làm hài lòng Thiên Chúa, làm vui lòng anh chị em và làm đẹp lòng Chúa. Xin Chúa chúc lành cho chúng con và sứ mạng cứu thế chúng con đang thực hiện giữa mọi người. Amen.
34. Con Yêu Dấu của Ta
(Lm Augustine)
Khởi sự Tin Mừng Mátthêu nhìn nhận Đức Giêsu là Con Vua Đavít (1,6-16). Tên của Người là Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu" (1,21) Nhưng người ta còn gọi Người là Emmanuel, nghĩa là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (1,23). Chính Người năng tự xưng là Con Người (11,19; 12,8-)
Mầu nhiệm Đức Kitô phải đánh động ta
Riêng các môn đệ khi được yêu cầu phát biểu ý kiến, đã tuyên xưng "Thầy là Đấng được Xức Dầu Tấn Phong, Con Thiên Chúa hằng sống" (16,16). Điều quan trọng là lời ông Phêrô mới tuyên xưng được chính Đức Giêsu xác nhận là do Thiên Chúa Cha mạc khải (16,17)
Tiếp theo liền sau đó, Đức Giêsu tiên báo về cuộc Thương Khó lần thứ nhất. Rồi Người nêu điều kiện cho những ai muốn bước theo Người, là họ phải từ bỏ chính mình, phải vác thập giá mình mà theo Người (16,24). Kế đến Đức Giêsu tiên báo "Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người" (16,27). Chính Người liền sau đó, đã lên núi và biến đổi hình dạng như được kể trong bài Tin Mừng hôm nay (17,1-9)
Như vậy, điều được hàm ý là không ngôn ngữ loài người nào có thể nói cho ta biết Đức Giêsu là ai nếu không có sự can thiệp từ trời cao.
Với môn đệ Simon Phêrô, sự can thiệp của Thiên Chúa đã đến với ông qua lời giới thiệu của ông Gioan Tẩy Giả với hai môn đệ của ông này trong đó có người anh ruột của Simon Phêrô, là Anrê. Và ông Anrê này đến lượt đã giới thiệu cho em mình khi nói "Chúng tôi đã gặp Đấng được Xức Dầu Tấn Phong" (Ga 1,41). Tin Mừng Gioan còn cho biết chính việc Đức Giêsu biến nước lã thành rượu ngon tại Cana khiến các môn đệ tin vào Đức Giêsu (Ga 2,11)
Một cách nổi bật, quyền năng của Thiên Chúa còn đụng chạm tới ông Simon Phêrô cách riêng, khi Đức Giêsu chiếu cố đến nhà ông và đụng vào tay bà mẹ vợ của ông, để cho bà ta đang nằm liệt, được chỗi dậy khỏi cơn sốt (8,14)
Tin Mừng Mátthêu còn cho thấy quyền năng của Đức Giêsu không những cứu các môn đệ khỏi chết giữa biển động (8,25) mà còn đặc biệt cứu Phêrô khi ông bắt đầu chìm nên kêu xin Đức Giêsu cứu ông (14,30)
Nhưng tất cả những trường hợp nói trên cũng chỉ giúp Phêrô nhận ra sự bé nhỏ của mình trước mầu nhiệm vô song của Thiên Chúa hiện diện nơi Đức Giêsu. Phêrô sẽ chẳng bao giờ thấu hiểu được mầu nhiệm đó, mà chỉ được ban cho ơn hiểu biết từng chút một về bản thân Đức Giêsu và về chương trình cứu độ Ngài đến để thực hiện. Do đó đă xảy ra tình trạng tiền hậu bất nhất nơi Phêrô. Ông được Thiên Chúa Cha mạc khải cho biết Đức Giêsu là ai; hơn nữa Đức Giêsu còn chúc phúc cho ông và gọi ông bằng danh xưng Phêrô do Ngài ban tặng, để ông trở nên Tảng Đá, trên đó Ngài sẽ xây Hội Thánh của Ngài (16,18). Thế mà khi Đức Giêsu tiết lộ chương trình Chúa Cha giao phó cho Ngài là lên Giêrusalem lãnh lấy nỗi chết, để rồi sẽ sống lại, thì Phêrô đã kháng cự lại chương trình đó và đã bị quở trách nặng lời (16,23)
Vấn đề không phải chỉ là Đức Giêsu thực hiện chương trình đó, mà cả Phêrô cũng phải đặt mình để Ngài lãnh đạo theo chương trình đó.
Thực ra, không riêng Phêrô, mà tất cả những ai muốn làm môn đệ Đức Giêsu đều không có con đường nào khác ngoài con đường vác thập giá mình mà theo Ngài (16,24). Bởi lẽ trò không trọng hơn Thầy, nếu "Đức Giêsu đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta" (x. 8,17), thì làm sao ta có quyền từ khước vác lấy cây thập giá Ngài dành cho ta để ta theo Ngài?
Nhưng đường thánh giá theo chân Đức Giêsu là đường đưa ta tới vinh quang vì "Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng với việc họ làm." (16,27)
Lời khẳng định tiếp theo của Đức Giêsu khi nói: "Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người hiển trị" (16,28), lời khẳng định ấy cho thấy Nước Thiên Chúa không xa. Nước ấy gắn liền với bản thân Đức Giêsu, Đấng hy sinh chịu đau khổ và chịu chết, nhưng đến ngày thứ ba sẽ sống lại.
Mầu nhiệm ấy phải lôi cuốn ta
Vậy biến cố Đức Giêsu biến đổi hình dạng (17,1-9) là để giúp các môn đệ thấy rõ hơn Ngài là ai theo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Ta được đặt đối diện với vực thẳm của mầu nhiệm Thiên Chúa nơi Đức Giêsu - mầu nhiệm ấy phải đánh động ta, lôi cuốn ta, khiến ta say mê! Nhưng chìa khoá để mở cho ta thấy mầu nhiệm lại do chính Đức Giêsu nắm giữ! Một câu chuyện nhỏ có thể giúp ta nhận ra vấn đề vừa nêu.
Tác giả cuốn "Bảy Thói Quen của Những Người Thành Đạt" (The Seven Habits of Highly Effective People. Fireside. New York 1989) là ông Trần Cao Vọng (Stephen R. Covey).
Sáng Chúa Nhật hôm ấy, ông Vọng bước vào toa xe điện ngầm ở Nữu Ước. Ông đặt mình vào bầu khí yên lặng, trong đó người thì đọc báo, người trầm ngâm suy nghĩ, người trầm ngâm suy nghĩ, người lim dim ngủ. Thật là một cảnh an bình.
Bỗng một người đàn ông và các con ông bước vào toa tầu. Bọn trẻ ồn ào, khó bảo, làm cho không khí trong toa tầu thay đổi hẳn.
Ông Vọng kể lại: "Người đàn ông ngồi xuống cạnh tôi, nhắm mắt, hình như không chú ý đến những gì đang xảy ra. Bọn trẻ la hét, ném đồ vật, vồ cả mấy tờ báo của người khác. Chúng quấy phá quá sức, nhưng người đàn ông ngồi cạnh tôi vẫn không làm gì.
Thật khó mà không nổi cáu. Tôi không thể tin rằng ông ta vô tâm đến thế, để cho bọn trẻ chạy loạn lên mà không làm gì cả, choi như không có trách nhiệm. Dễ nhìn thấy những người khác trong toa cũng đều nổi giận. Sau cùng, không thể chịu đựng được nữa, tôi quay sang ông ta và nói: "Thưa ông, bọn trẻ nhà ông quấy đảo quá, ông không bảo chúng được một câu hay sao?"
Người đàn ông ngước mắt như lần đầu tiên biết được tình hình này và nhẹ nhàng nói: "Vâng, thưa ông, ông nói phải. Tôi nghĩ rằng tôi phải làm một cái gì. Vâng, chúng tôi vừa ở bệnh viện ra, mẹ các cháu vừa mất cách đây khoảng một giờ. Tôi không biết nghĩ như thế nào. Tôi cho rằng chúng cũng không biết xử trí ra sao."
Ông Vọng nói tiếp: "Bỗng tôi nhìn sự vật một cách khác và bởi vì tôi nhìn khác nên tôi cũng nghĩ khác, cảm thấy khác, hành động khác. Cơn giận của tôi biến mất. Tôi không phải lo kiểm soát thái độ hay hành vi của tôi; con tim tôi tràn đầy nỗi đau của người đàn ông ấy. Một thiện cảm và lòng thương dâng lên trong tôi: "Vợ ông mới mất ư? Ồ, xin lỗi! Ông có thể cho tôi biết chuyện được không? Tôi giúp gì được ông đây?" Mọi cái đã thay đổi trong chốc lát." (ibd., trang 30-31)
Mầu nhiệm phải khiến ta say mê
Cuộc biến đổi hình dạng của Đức Giêsu là một thị kiến như chính Ngài cho biết (Mt 17,9). Thị kiến ấy mang lại một nhận thức hoàn toàn mới về nhân vật chính trong thị kiến là Đức Giêsu. Trước đó, Ngài chỉ là một người giữa muôn người, lại là người Nadarét nên dễ bị coi thường (x.Ga 1,46). Sau thị kiến, con người ấy còn gặp phải biết bao nỗi gian truân. Ngài bị phản bội, bị bắt, bị vu khống và cuối cùng bị giết chết trơ trụi trên thập giá. Cả sau khi Ngài chỗi dậy từ cõi chết, không phải thế giới ùn ùn kéo đến để chấp nhận quyền lãnh đạo của Ngài. Nhưng điều quan trọng là từng người phải được hoán cải do nhận thức hoàn toàn mới về con người Giêsu làng Nadarét. Nhận thức ấy do ơn đức tin có thể được tóm tắt như sau:
+ Dung nhan chói lọi gợi ý cho thấy Đức Giêsu là Môsê mới đến để kiện toàn Lề Luật cho dân mới của Thiên Chúa (Mt 5,17).
+ Hai nhân vật Môsê và Êlia đàm đạo (Mt 17,3) về điều mà Luca gọi là "Cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem" (Lc 9, 31) vì chính Ngài cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ (Mt 1,21). Điều này phải làm cho người có nhận thức mới trào dâng một lòng thống hối và tri ân - Khác với ông Vọng chỉ tỏ thiện cảm và lòng thương mà thôi.
+ "Đây là Con yêu dấu của Ta - Hãy vâng nghe lời Người" (17,5). Tùy ở mức lắng nghe Thần Khí của Đức Giêsu nói, ta mới hiểu sâu hơn được về mầu nhiệm Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và mới được hoán cải để sống hợp với nhận thức mới.
35. Suy niệm của Giuse Nguyễn Viết Tâm.
BÀI PHÂN TÍCH (Mt 17, 1-9).
Bài Tin mừng hôm nay được cả 3 Thánh sử Nhất Lãm tường thuật:
+ Matthêu (Mt 17, 1-9)
+ Marcô (Mc 9, 2-8)
+ Luca (Lc 9, 28-36)
Riêng thánh sử Gioan, ông không có một dòng nào mô tả sự kiện này, trong khi chính ông là người đã chứng kiến tận mắt.
Nhưng cuốn Phúc âm của ông đã tỏ bày Thiên tính của Chúa Giêsu rồi. Ngay từ dòng đầu tiên cho đến dòng cuối cùng, Gioan luôn nhấn mạnh đến Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến. Nhưng người Do Thái không tin và đã xảy ra vô số cuộc tranh luận về căn tính của Chúa Giêsu.
Như vậy, nhờ ba Thánh sử Nhất Lãm chúng ta mới được biết cuộc biến hình này.
“Khi ấy, Chúa Giêsu đã gọi Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông này, và Người đưa các ông tới chỗ riêng biệt trên núi cao”.
Như vậy theo Matthêu Chúa Giêsu và cả nhóm 12 môn đệ đã lên núi. Nhưng Ngài tách riêng 3 ông ra. Đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Đây là bộ ba thân tín trong Nhóm Mười Hai. Cả ba người người này đã chứng kiến hầu hết các biến cố trong cuộc đời Chúa Giêsu. Hôm nay các ông sẽ chứng kiến một sự kiện quan trọng, đó là Chúa Giêsu biến hình.
Tại sao Chúa không cho cả 12 môn đệ chứng kiến mà chỉ dành diễm phúc đó cho 3 người này? Có 2 lý do:
+ Theo luật của Môsê, chứng của 2 người là chứng thật. Nhưng ở đây Chúa Giêsu muốn dùng nhiều hơn con số 2, tức là 3. Ba người này sẽ là chứng nhân đích thực cho sự kiện hôm nay. Sau này các ông ông sẽ làm chứng cho 9 môn đệ còn lại, và cả 12 sẽ làm chứng cho mọi người. Như vậy việc cho cả 12 môn đệ chứng kiến không cần thiết vì sẽ làm loãng sự kiện hiển dung. Càng cô đọng càng tốt.
+ Ba môn đệ này sẽ là thành phần thủ lãnh trong nhóm tông đồ và đứng đầu trong Giáo hội sau này, nên họ cần được chứng kiến tận mắt.
Tại sao lại có sự kiện Hiển Dung này?
Thưa vì trước đó tại thành Xêdarê Philipphê, sau lời tuyên xưng của thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16, 16), Chúa Giêsu đã tiên báo cuộc thương khó lần thứ I, Matthêu viết: “Thầy phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16, 21).
Các môn đệ hoang mang cực độ, tinh thần rã rời, chán nản. Chính Phêrô đã lên tiếng can gián Chúa Giêsu: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16, 22). Nhưng Chúa Giêsu vẫn cương quyết thực thi Thánh ý Chúa Cha đã định, Ngài quở trách Phêrô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mt 16, 23).
Chúa Giêsu biết rõ, trong tình trạng hoang mang chán nản đó, nếu các môn đệ phải chứng kiến tận mắt cuộc Thương khó, thì niềm tin của các ông sẽ đổ sập, một sự thất bại toàn diện và không thể cứu vãn nổi.
Vì thế Chúa Giêsu cho các ông được chứng kiến cuộc biến hình này, để các ông được chiêm ngưỡng thiên tính của Ngài, để củng cố niềm tin cho các ông.
“Trên núi cao”.
Núi đó là núi nào, Matthêu không xác định.
Mặc dù ngọn núi được đề cập ở đây, chưa xác định là núi nào trong hai ngọn núi là Tha-bo và Héc-mon. Các nhà chú giải đều đồng ý: Đức Giêsu biến hình tại một núi cao ở phía bắc nước Do Thái: Đa số cho là núi Tabor gần thành Nazareth hay là núi Hermon phía cực Bắc, nơi biên giới nước Do Thái, nhưng thực ra Tabor chỉ là một ngọn đồi, chứ không phải là núi, có lẽ là Hermon thì đúng hơn, nhưng không hiểu sao các nhà chú giải thiên về núi Tabor.
“Người biến hình trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng như mặt trời, áo Người trở nên trắng như tuyết”.
Đức Giêsu tạm thời từ bỏ hình dạng bình thường của phàm nhân, để mang một hình dạng khác của Con Thiên Chúa. Y phục rực rỡ trắng tinh chiếu tỏa vinh quang thiên giới. Trong đoạn này, Matthêu cho thấy: Đức Giêsu, Đấng Mê-si-a đang ẩn mình, người Tôi Trung đau khổ của Thiên Chúa, giờ đây đã tỏ bày ra trước kỳ hạn về vinh quang phục sinh sau này.
Khi nhập thể và nhập thế, Đức Giêsu mang thêm bản tính nhân loại, như vậy nơi Ngài có hai bản tính: Bản tính Thiên Chúa, ta gọi là Thần tính và Bản tính nhân loại, ta gọi là Nhân tính, hai bản tính đó kết hợp chặt chẽ nơi Ngài.
Thần Tính của Đức Giêsu luôn hiện diện, nhưng hàng ngày, Thần Tính đó được che phủ qua tấm màn Nhân tính, Thần tính không biểu lộ ra bên ngoài, nên người ta chỉ thấy Đức Giêsu như một phàm nhân, giống chúng ta. Khi Đức Giêsu biến hình, là lúc Thần tính của Ngài được tỏ lộ, không còn bị nhân tính che phủ. Và đây là lần đầu tiên, ba môn đệ: Phêrô, Giacôbê, và Gioan chứng kiến tận mắt Thần tính của Đức Giêsu, cả ba người đều ngây ngất.
Nếu như trong phép lạ Fatima, mặt trời nhảy múa trên bầu trời và lao xuống trái đất, làm hàng vạn người chứng kiến phải hốt hoảng, lo sợ tận thế sắp xảy ra. Thì tại núi này, hôm nay một mặt trời thứ hai xuất hiện ngoài mặt trời đang có. Áo của Chúa Giêsu trắng như tuyết. Đó là lúc Thiên tính của Chúa Giêsu được tỏ lộ.
Ta không được chứng kiến tận mắt sự kiện hiển dung này. Nhưng sau này, khi chấm dứt cuộc sống trần gian, ta sẽ được chứng kiến Thiên tính của Chúa Giêsu như vậy, mà Phaolô nói: Ta thấy Ngài diện đối diện. Còn bây giờ ta chỉ thấy Chúa Giêsu cách lờ mờ qua con người bình thường đau khổ, đó là Người Tôi trung của Giavê.
“Và đây Môsê và Êlia hiện ra, và đàm đạo với Người”.
Tại sao lại có sự xuất hiện của Môsê và Êlia?
Chúa Giêsu từng ban giáo huấn của Ngài cho các môn đệ và luôn kèm theo một cụm từ: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7, 12). Có nghĩa những lời giáo huấn của Chúa Giêsu là bản đúc kết Luật Môsê và các lời tiên tri dạy.
Như vậy sự xuất hiện của Môsê và Êlia lúc này mang ý nghĩa vô cùng quan trọng.
+ Môsê tượng trưng cho Lề Luật:
Đức Chúa ban Thập Giới (Mười Giới Răn) qua Môsê. Ông được coi là nền tảng của Lề Luật, và biến cố hôm nay chứng tỏ Lề Luật phải hướng về Đức Kitô để được nên trọn vẹn, hoàn hảo.
+ Êlia tượng trưng cho các Ngôn Sứ:
Tiên-tri Êlia được coi là ngôn sứ cao trọng nhất trong các ngôn sứ vì những lời rao giảng và uy quyền làm phép lạ, và biến cố hôm nay chứng tỏ các Ngôn Sứ phải hướng về Đức Kitô, để tìm thấy sự hoàn hảo của các lời tiên tri về Đấng Thiên Sai.
Cả 2 ông hiện diện khi Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor, cũng hiện diện một cách rạng ngời, có nghĩa rằng: Tất cả Lề luật và lời các Ngôn Sứ tiên báo về Đấng Mesia phải được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, Đấng quy tụ tất cả mọi tâm hồn ở mọi nơi và mọi thời đại. Đức Giêsu là Tâm điểm, nơi hội ngộ của mọi tâm hồn được Cứu Độ.
Hai vị này đều leo núi để tiếp nhận mặc khải của Đức Chúa. Hai vị đều là nhân vật của thời Cánh chung. Cả hai đều bước vào thế giới bên kia cách bí nhiệm: Mô-sê thì bị chết ở miền đất Mô-áp trước khi dân vào chiếm Hứa Địa, nhưng không ai biết được mộ phần ông ở đâu (Đnl 34,6), còn Ê-li-a thì leo lên chiếc xe ngựa rực lửa bay về trời trong cơn gió lốc (2V 2,11).
Ở đoạn này, sự hiện diện của Mô-sê tượng trưng cho Lề Luật, và của Ê-li-a tượng trưng cho các Ngôn sứ. Điều này chứng minh có sự liên tục giữa Cựu Ước với Tân Ước. Nó cho thấy thời kỳ Cánh Chung và Cứu Độ đã khởi đầu.
“Bấy giờ ông Phêrô lên tiếng, thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”
“Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm”
Vâng, với những ai đã được Chúa hiện diện trong đời mình, họ cũng vô cùng hạnh phúc, không còn gì đáng để họ bận tâm, theo đuổi. Mặc dù họ vẫn phải sống trong cuộc đời này, vẫn chu toàn bao trách nhiệm, nhưng khi có Chúa trong lòng, họ sẽ sống theo một cách khác, họ sẽ biết phân biệt cái gì là thực, cái gì là ảo; họ cũng phân biệt đâu là mục đích và đâu là phương tiện, không còn lẫn lộn được nữa.
Lạy Chúa! Xin cho con được bắt chước Thánh Phêrô để thưa với Chúa: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm”, cho dù chúng con đang gặp bao bất hạnh, đang bị đàn áp dã man bởi cường quyền, đang gánh chịu những căn bệnh hiểm nghèo, đang nằm liệt một chỗ và không thể làm gì cho mình, đang bị hiểu lầm, bị bỏ rơi, đơn độc trong một xã hội đầy xô bồ. Nhưng chúng con đã nhận ra bao hồng ân Chúa đã ban cho chúng con. Vâng như vậy là quá tốt cho chúng con rồi.
“Nếu Thầy ưng, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”.
Lúc đó đang trong thời gian dân Ít-ra-en mừng Lễ Lều kéo dài 7 ngày. Trong các ngày này, họ phải đến ở tạm trong các lều trại làm bằng cành cây, để ôn lại công ơn Đức Chúa đã cứu Ít-ra-en khỏi cảnh nô lệ cho người Ai Cập và cha ông họ đã từng ở trong các lều trại nơi sa mạc (Lv 23,34.42-43). Ở đây, Phêrô xin dựng 3 lều trại nhằm kéo dài cuộc thần hiện mà ông đang chứng kiến.
Ông Phêrô có lý khi bày tỏ hạnh phúc được tham dự mạc khải cao quý này. Ông chỉ hơi ngây ngô lúc muốn xin làm ba lều. Chắc không phải vì đang sống trong tuần “Lễ Lều” của người Do Thái nên ông nghĩ đến điều đó. Ông chỉ muốn được ở mãi trong sự chiêm ngưỡng kia. Ông quên mất rằng mới chỉ có ba môn đệ được thấy. Còn cả nhân loại nữa chứ! Thiên Chúa muốn rằng tất cả chúng ta sẽ được đưa vào trong vinh quang của Người. Phêrô chỉ xin làm 3 cái lều, còn các ông ở đâu?
Thánh sử Marcô đã thêm vào một chi tiết hết sức thú vị. Marcô viết: “Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (Mc 9, 6)
“Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ”. Người ta gọi lúc đó là giây phút tột đỉnh. Nó là những giây phút ngắn ngủi quí báu chúng ta nhìn thấy những biến cố thông thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình đang nhìn thấy một thế giới khác.
“Nếu Thầy ưng”.
Matthêu nhấn mạnh đến cụm từ này rất sâu sắc. Việc dựng 3 cái lều chỉ là ước muốn của ba môn đệ thôi. Phêrô muốn kéo dài giây phút này mãi mãi để tận hưởng. Chính từ “lều” đã nói lên ý muốn cắm dùi vĩnh viễn trên núi này.
Nhưng đó không phai là ý muốn của Chúa Giêsu, vì Ngài phải xuống khỏi núi này để lên một ngọn đồi khác, đó là Golgotha để tại đó Ngài chịu chết, đóng đinh vào thập giá.
Có lẽ Kitô hữu chúng ta cũng mang tâm trạng của Phêrô, ta cứ muốn ở mãi trên núi Tabor không chịu xuống. Nhưng ta phải bước theo Chúa để lên Golgotha của đời ta. Phải bước qua đau khổ mới đến vinh quang. Đừng chạy trốn đau khổ mà phải đối diện với nó để từ đó ta mới tìm được vinh quang.
“Lúc ông còn đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán rằng: “đây là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống, và hết sức sợ hãi”.
“Lúc đó một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Đám mây diễn tả sự hiện diện của Đức Chúa, giống như trong thời xuất hành của dân Do Thái xưa (Xh 40,34-38).
Lời Chúa Cha công nhận Đức Giêsu là “Con” (Tv 2,7), giống như khi Người chịu phép Rửa tại sông Giođan (Mc 1,11). Đức Giêsu cũng được giới thiệu như một Ngôn Sứ mà mọi người phải nghe theo lời Người chỉ dạy.
Áng mây và tiếng nói cũng làm chứng Đức Giêsu là Thiên Chúa đến dạy bảo chúng ta. Phải, chúng ta hãy nghe lời Đức Giêsu Kitô để có ngày được đưa vào vinh hiển của Thiên Chúa, như các môn đệ trong cuộc biến hình hôm nay.
“Nghe thấy vậy, các môn đệ ngã sấp xuống, và hết sức sợ hãi”.
Matthêu đã mô tả lại trạng thái của các môn đệ khi nghe tiếng Chúa Cha phán, các ông đã phải ngã xuống vì sợ hãi. Tiếng Chúa Cha đầy uy lực, làm cho con người phải khiếp sợ.
Nhưng tiếng Chúa nói trong lòng ta thì không như thế, rất êm dịu, ngọt ngào, nhưng lại thôi thúc ta mạnh mẽ tiến bước lên phía trước thực thi ý Ngài muốn, chứ không phải ngã quỵ.
“Bấy giờ Chúa Giêsu đến gần, động đến các ông và bảo: “Các con hãy đứng dậy, đừng sợ”. Ngước mắt lên, các ông thấy chẳng còn ai, trừ ra một mình Chúa Giêsu. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông rằng: “Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”
Cuộc biến hình, hiển dung đã kết thúc, Môsê và Êlia cũng không còn nữa. Chúa Giêsu đã trở về với con người bình thường với bản tính nhân loại.
Nếu trong cuộc biến hình, Chúa Giêsu tách biệt với các môn đệ, làm các môn đệ không dám đến gần, thì khi trở về với cương vị người Thầy, Chúa Giêsu lại: “Đến gần, động đến các ông”. Một cú chạm rất bình thường của tình Thầy – trò. Câu nói đầu tiên, Chúa Giêsu muốn trấn an các môn đệ: “Các con hãy đứng dậy, đừng sợ”. Thầy đây mà, dù gì đi nữa, Ngài vẫn là Thầy của các ông, vậy có gì mà phải sợ.
Ba môn đệ đi từ tâm trạng này đến tâm trạng kia: từ hoảng sợ đến nỗi phải ngã xuống, nay lại được bình an và đứng vững.
“Các con không được nói với ai về việc đã thấy, cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”
Đòi hỏi giữ kín “trước khi Con Người từ cõi chết sống lại” được gọi là “Bí Mật Thiên Sai”. Sở dĩ Đức Giêsu không muốn cho người ta biết Người là Đấng Thiên Sai vì cần có thời gian để Người giảng dạy dân Do Thái hiểu đúng về sứ mệnh Thiên Sai theo Ý Thiên Chúa của Người. Nếu nói sớm sự thật này sẽ làm cho dân Do thái đang bị tinh thần ái quốc cực đoan tác động, đang mong đợi một Ông Vua Thiên Sai theo nghĩa trần tục, sẽ hiểu lầm về sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giêsu và sẽ gây bạo loạn, gây cớ cho quân Rô-ma đem quân đến tiêu diệt dân Do Thái nhỏ bé, sẽ bất lợi cho sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giêsu. Cuộc biến hình biểu lộ Thiên tính của Đức Giêsu sẽ được các môn đệ chính thức công bố sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu, nghĩa là sau khi Người từ cõi chết sống lại.
“Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?” Các ông không hiểu hay không muốn hiểu. Có thể cả hai.
Cũng như Phêrô đã can trách Đức Giêsu đừng chấp nhận con đường cứu thế qua đau khổ thập giá theo ý Chúa Cha, còn các môn đệ khác đều không hiểu hay không muốn hiểu về con đường “Từ trong cõi chết sống lại” hoặc “Qua đau khổ vào vinh quang” đã được Đức Giêsu công bố trước cuộc biến hình (Mc 8,31).
Lạy Chúa là đấng Cứu Độ của con! Con xin được như Phêrô dựng lều, nhưng không phải để chiêm ngắm dung mạo hiển dung sáng láng, mà là để say mê vinh quang cứu độ Chúa dành cho con. Chính Chúa đã chủ động kêu mời con ở lại trong tình yêu xót thương của Người, không những chỉ trong ngày hôm nay mà còn trong suốt cuộc sống dương thế, và mãi mãi trong hạnh phúc Quê Trời mai sau. Amen.
36. Tiếp rước Thiên Chúa
(J.M)
Đời sống là một kiên nhẫn lâu dài. Những ai đã trải qua cuộc đời lâu dài đều biết rõ thế. Thảm cảnh này nhiều khi cho thấy bao nhiêu chỗ rách, bao nhiêu vết thương, vết sẹo, nói cho cùng, cho khôn ngoan thì người ta gọi là kiên nhẫn, chịu đựng đời sống theo căn ngữ: “Kiên nhẫn” có thể là nghệ thuật sống, cũng chính là một cách tin tưởng. Đó là khoa học của Thiên Chúa.
Biến hình
Đức Kitô Người đến biến hình toàn diện nhân loại và cho con người bộ mặt mới. Người là hình ảnh của Thiên Chúa kiên nhẫn, Người chờ đợi giờ của Người, Người tha thứ và hy vọng vào con người dù nó thế nào đi nữa. Những lần gặp gỡ Thiên Chúa này mở ra cảnh huy hoàng cho hố sâu của cuộc đời lầm lạc, bấp bênh, đôi khi thất vọng, thường sống chịu đựng ngày qua ngày. Dạy dỗ trẻ em phải cho thấy những thanh thiếu niên biết đương đầu mãnh liệt với cái qúi nhất trong chúng ta, theo đuổi những cuộc chiến đấu không ngừng cho công lý, cho hòa bình, dù chỉ nhận được những kết quả mong manh, những bấp bênh của tương lai...
Phải kiên nhẫn bao nhiêu nếu cần! Kiên nhẫn với những người chung quanh ta, kiên nhẫn với chính mình. Đời sống là một kiên nhẫn lâu dài mà chúng ta không có chìa khóa giải thoát.
Tin Mừng nói gì với chúng ta? Đó là một tổng cộng của kiên nhẫn và can đảm cần để sống. Chính Người đã mang vác nó. Tiếng thở dài của người bị mổ, nỗi cô đơn của người già, tiếng kêu của người vợ bị ruồng rẫy. Chính là của Người. “Nỗi khốn cùng của chúng tôi, Người đã vác lấy, Người đã chịu lấy, Người lãnh mang đi”. (K. Barth). Người vẫn không dứt bỏ con đường thập giá của Người.
Cuộc thương khó là trung tâm của thế giới, là chiếc thang cho thế giới leo lên. Hãy tiếp rước Thiên Chúa.
Chúng ta tiến bước hướng về sự biến hình của chúng ta trong Thiên Chúa, dù phải chịu đựng bất cứ cái gì. Thiếu tin tưởng, chúng ta sẽ bị méo mặt trước cuộc đời. Thiên Chúa ban cho niềm trông cậy cho chúng ta làm cho chúng ta mạnh mẽ hơn những vẻ lôi cuốn bên ngoài. Kiên nhẫn là làm cho nghệ sĩ tạo nên tác phẩm tuyệt tác được cưu mang lâu dài.
37. Chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa
(‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Bàn Thờ là Núi Thánh. Và mỗi Thánh lễ là một cuộc Chúa biến hình. Người lấy hình bánh rượu để trở nên lễ vật, cho ta được tham dự vào lễ tế của Người. Như vậy, việc Chúa biến hình ngày trước tất có tương quan tới Thánh lễ chúng ta đang cử hành. Chúng ta hãy tìm hiểu, để Thánh lễ này thêm ý nghĩa và đời ta nên tốt đẹp hơn.
A. Câu chuyện Chúa Biến Hình
Thánh Matthêô kể câu chuyện này 6 ngày sau khi Phêrô tuyên xưng Đức Yêsu là Con Thiên Chúa hằng sống (16,13-20). Hôm ấy Đức Yêsu cũng đã tuyên bố lần đầu tiên về cuộc tử nạn của Người; và Người bảo ai muốn theo Người cũng phải vác Thập giá. Nhưng để an ủi, Người phán: rồi đây Con Người sẽ đến trong vinh quang và có những kẻ đang ở trước mặt Người đây sẽ chứng kiến.
Không biết các môn đệ có hiểu hết những lời ấy không? Nhưng hôm nay, 6 ngày sau, ba ông Phêrô, Yacôbê và Yoan đã được xem thấy vinh quang của Người như chúng ta vừa nghe đọc.
Xếp lại câu chuyện như vậy, chúng ta thấy ngay việc Chúa biến hình muốn thể hiện điều Người đã hứa. Và trước hết nó có ý nghĩa thế mạt. Người đã hứa cho mấy người được thấy Con Người đến trong vinh quang của Cha Người và đến với Nước của Người. Nên dù chỉ 6 ngày sau Người đã thể hiện Lời hứa, cảnh tượng vinh quang mà Người cho họ thấy vẫn thuộc về thời đại cánh chung. Và Matthêô đã có những từ ngữ, những hình ảnh làm nổi bật khía cạnh này. Ông nói đến một nơi núi cao, riêng biệt ra, tức là tách khỏi đời này. Ông diễn tả mặt Người sáng như mặt trời và áo Người trắng như tuyết, là những nét tả về con người ở thời cánh chung (Mt 13,40-43). Môsê và nhất là Êlya là những nhân vật mà người ta tin rằng sẽ trở lại khi Con Người đến. Có tiếng từ trời phán xuống cũng là một nét của thời đại cánh chung. Và việc cấm phổ biến những điều vừa xem thấy cũng thuộc loại văn khải huyền về thời thế mạt.
Như vậy, không ai có thể bảo câu chuyện Chúa biến hình đã thuộc về quá khứ. Nó là dấu hiệu báo trước tương lai. Nó đưa ta hướng mắt về Ngày Chúa trở lại. Nó có thể giúp ta tham dự vào Thánh lễ này sốt sắng hơn. Và Phụng vụ đặt nó vào ngày Chúa nhật hôm nay sau Chúa nhật trước nói về Đức Yêsu là Con Thiên Chúa, phải chăng không muốn nói rằng ai đã tuyên xưng Đức Yêsu là Con Thiên Chúa, như Phêrô, tất sẽ được nhìn thấy vinh quang của Người?
Nhưng những gì sẽ xảy ra trong thời kỳ cánh chung, cũng đã khởi sự trong mầu nhiệm Phục sinh. Thế nên bài Tin Mừng hôm nay cũng hướng ta về sự kiện Chúa sống lại. Hiển nhiên thánh Matthêô đã muốn cho chúng ta nhìn thấy Chúa Phục sinh trong bài Tin Mừng này; vì mặc dù câu chuyện xảy ra đang khi Đức Yêsu còn tại thế, nhưng tác giả đã dùng ánh sáng của Chúa sống lại để cho chúng ta nhận ra Người. Thánh Phêrô không xưng Người là Thầy như mọi khi, nhưng danh từ "Chúa" là từ mà môn đệ chỉ dùng để thưa với Chúa Phục sinh. Và cử chỉ của Đức Yêsu tiến lại, giơ tay nâng môn đệ dậy, chẳng phải là ơn phục sinh của Chúa cúi xuống đỡ nhân loại sa ngã lên đó sao? Nhất là đoạn văn này được viết tiếp ngay vào những lời Đức Yêsu tuyên bố lần đầu tiên về cuộc Tử nạn của Người và về việc môn đệ phải vác thập giá mà đi theo Người, quả thật có ý nói đến mầu nhiệm Phục sinh. Chính ý nghĩa cánh chung cũng phải nhờ viễn tượng Chúa sống lại mới hiểu ra được.
Tuy nhiên cả hai cái nhìn cánh chung và phục sinh vẫn không được làm chúng ta quên Đức Yêsu hiện tại. Chúa nhật trước, Phụng vụ giới thiệu Người như Con Thiên Chúa sống nơi sa mạc. Hôm nay, cũng dùng Tin Mừng thánh Matthêô, Phụng vụ cho ta thấy Người là Môsê mới ở trên núi. Nói đúng ra, Chúa nhật trước thánh Matthêô cũng đã muốn nói Người là Môsê rồi, nhưng còn kín đáo. Hôm nay rõ ràng tác giả muốn so sánh giữa hai Môsê. Cả hai đã lên núi, được mây bao phủ và đưa vào trong một cuộc đàm đạo với Thiên Chúa (x. Xh 24,15-18). Và cả hai trường hợp đều xảy ra vào ngày thứ 7. Tuy nhiên trong trường hợp của Môsê, chính Thiên Chúa đã có bộ mặt sáng láng và đã gọi ông, đang khi ở đây chính Đức Kitô đã biến hình và được tiếng Đức Chúa Cha tuyên dương. Môsê mới đã rõ rệt hơn Môsê cũ. Môsê cũ giờ đây chỉ đứng bên Môsê mới để tuyên chứng và cũng để được ánh sáng Môsê mới soi dọi vào. Nhất là Môsê cũ sẽ biến đi, để lại một Đức Kitô là Môsê mới, độc hữu và độc tôn trước mắt các Tông đồ đang còn vẳng nghe lời căn dặn: "Hãy nghe Người!". Thánh Matthêô hiểu như vậy, nên đoạn 18 theo sau đoạn 17 này đã được tác giả dùng để viết lại giáo lý của Đức Kitô về Hội Thánh. Như vậy, ở đây muốn giới thiệu Người là Môsê mới của Hội Thánh.
Hội Thánh phải nghe Vị Môsê mới này để được đi tới mầu nhiệm phục sinh, bảo chứng của thời đại cánh chung: đó là nội dung bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta hãy đến với Đức Kitô biến hình trong mầu nhiệm Thánh lễ hôm nay để xin Người dạy dỗ hầu đạt tới vinh quang phục sinh và Nước Trời.
B. Bài học cụ thể
Chúa hằng dạy dỗ chúng ta qua Sách Thánh. Bài sách Khởi nguyên hôm nay nói đến ơn gọi của Abraham, tổ phụ các tín hữu. Chúa gọi ông bỏ quê hương họ hàng ra đi đến nơi Người sẽ chỉ cho để sẽ được thịnh vượng và hạnh phúc. Người gọi chúng ta từ bỏ mọi dính bén để đi tới hạnh phúc phục sinh. Ơn gọi Abraham báo trước ơn gọi của chúng ta. Và con đường ông đã đi là con đường chúng ta phải bước vào... Con đường ấy là hành trình trong đức tin. Abraham phải từ bỏ những cái đang có để hy vọng, trông chờ những của vị lai. Một cách nào đó ông phải bỏ mồi bắt bóng. Ông đã làm vì ông tin Chúa, tin lời Người hứa. Ông ra đi như Chúa truyền. Vào đến đất hứa, ông vẫn chưa được chiếm hữu. Chúa sẽ trỏ cho ông thấy đó là đất Chúa sẽ ban cho con cháu ông, chứ ông chưa được. Abraham vẫn tin, tin dấu hiệu bảo chứng của thực tại. Ông là tổ phụ của chúng ta, là các tín hữu sau ông đã tin vào Chúa. Và cũng như ông, chúng ta luôn phải tin Lời Chúa và các Bí tích dấu chỉ ban ơn vô hình. Chúng ta có kinh nghiệm, đức tin nhiều khi đòi phải bỏ mồi bắt bóng, chịu thiệt thòi về vật chất để trông chờ những của mai sau hay những ơn thiêng vô hình. Thường khi hơn nữa, đức tin đòi phải biết nhận ra thời triệu, tức là xuyên qua những thực tại hữu hình đạt tới những thực tại vô hình; không những nhìn vào các Bí tích để biết nhận ra các ơn thiêng, mà còn biết tìm ra Ý Chúa và tiếng Người kêu gọi qua mọi sự kiện hàng ngày và đặc biệt qua mầu nhiệm Thập giá: ai muốn theo Chúa phải vác thập giá mình mỗi ngày. Thánh Matthêô đã viết rõ như thế. Và thánh Phaolô trong bài thư hôm nay cũng bắt đầu bằng câu: hãy chia sẻ lao nhọc của Phúc Âm.
Phaolô viết cho Timôthê, nhưng cũng dặn dò Hội Thánh và mọi người chúng ta: hãy chung phần cam khổ vì Tin Mừng (bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thuấn). Người không cần nói vì sao theo Tin Mừng và giảng Tin Mừng thì phải gian khổ. Điều ấy quá rõ rồi. Ai cũng có kinh nghiệm. Sống ơn gọi Kitô hữu và Tông đồ thật là khó: phải phấn đấu theo gương Chúa Yêsu như chúng ta đã thấy trong Chúa nhật trước; phải luôn luôn hành trình trong đức tin như gương Abraham còn để lại; phải thống hối cải tạo đời sống. Điều Timôthê và chúng ta cần biết hơn là lý do vì sao ta phải lao nhọc và có sức nào trợ giúp chúng ta không? Cả bài thư hôm nay muốn cống hiến cho chúng ta nhiều tư tưởng để suy nghĩ.
Một cách vắn tắt, Phaolô mời gọi chúng ta nhìn lên Đức Yêsu Kitô, Đấng đã hủy diệt sự chết và đã chiếu sáng ra sự sống. Đó là Đức Yêsu Kitô phục sinh mà Matthêô đã giới thiệu trong bài Tin Mừng. Người đang kêu gọi chúng ta trong Thánh lễ này, không phải vì sự nghiệp, công trạng riêng gì của ta, nhưng chỉ vì ý định và ân sủng của Thiên Chúa yêu thương ta cách lạ lùng muốn cho chúng ta được chia sẻ vinh quang phục sinh nơi Đức Yêsu Kitô. Nếu chúng ta tin như vậy, thì phải bắt chước Abraham chấp nhận hành trình trong đức tin và gian khổ, vì có cùng chịu khổ với Người chúng ta mới được cùng Người sống lại.
Lời Chúa hôm nay muốn khuyến khích chúng ta: Chúng ta được đưa lên Núi Thánh để chiêm ngưỡng vinh quang và tham dự vào sự sống của Chúa, để khi xuống núi theo gương các Tông đồ chúng ta nghe và giữ Lời Chúa mà xây dựng Hội Thánh.
Chủ yếu việc xây dựng này không phải chỉ là chu toàn hoặc tổ chức những lễ nghi bên ngoài, nhưng là kiến tạo Hội Thánh cho thời đại cánh chung mà ai cũng biết sẽ là toàn thể nhân loại và tạo dựng được chia sẻ vinh quang Thiên Chúa. Thế nên việc xây dựng Nước Trời bao trùm nhiều mặt cụ thể. Tất cả những gì giúp cho nhân loại ấm no, hạnh phúc, bình đẳng và huynh đệ đều cần thiết cho thời đại cánh chung, cho ơn phục sinh đến với mọi người. Và làm những công việc như thế, dĩ nhiên phải phấn đấu, lao nhọc... nhưng đó là chung phần cam khổ vì Tin Mừng. Và chúng ta có Thánh lễ này để kết hợp với Đức Kitô biến hình, Đấng đã hủy diệt sự chết và đã chiếu sáng ra sự sống. Chính Người sẽ chia sẻ sự sống và thần lực của Người cho ta để giúp ta hành trình trong đức tin và lao nhọc.
Chúng ta hãy tin như vậy và tham dự Thánh lễ này sốt sắng để tích cực và hiệu lực xây dựng hạnh phú Nước Trời ngay từ đời này cho vinh quang Thiên Chúa và hạnh phúc muôn người.
38. Khuôn mặt ngời sáng
(Thiên Phúc)
Một vị ẩn sĩ nọ suy niệm và chay tịnh đến độ suốt ngày không động đến thức ăn, ai ai cũng thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa ban ngày, đó là dấu hiệu trời cao chấp nhận lễ hy sinh của ông.
Ngày nọ, vị ẩn sĩ quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn lên cao hơn trong sự khổ chế. Vừa lúc ông đang leo núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo. Không thể từ chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé đi cùng. Họ ra đi khi mặt trời vừa lên. Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn cô bé đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của mình, nhưng ông lại giục cô bé hãy uống nước. Cuối cùng, không ai chạm đến nước. Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời thề của mình, còn cô gái không nỡ uống một mình.
Họ càng đi, cơn khát càng dằn vặt. Đến một lúc vị ẩn sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy cô bé phải quằn quại trong cơn khát. Ông đàng lỗi lời thề. Ông cầm lấy nước đưa lên miệng và cô bé cũng mỉn cười uống nước với ông.
Sau khi đã uống nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông cứ đinh ninh rằng vì sao hiện ra mỗi ngày như một chứng giám cho sự khổ chế của ông, giờ đây có lẽ đã biến mất. Thế nhưng, khi ông ngước mắt nhìn lên đỉnh núi. Ngạc nhiên biết chừng nào, hai vì sao đang chiếu sáng như mỉm cười với ông.
***
Sau khi đã chay tịnh nhiều ngày và chấp nhận vươn lên cao trong sự khổ chết, vị ẩn sĩ đã được trời cao chứng giám bừng cách cho một vì sao ngời sáng giữa ban ngày.
Đức Giêsu sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn, quyết tâm thi hành thánh ý Chúa, liền được “biến hình đổi dạng” trên núi cao. “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2). Người còn được Chúa Cha chứng giám cho việc Người chấp nhận khổ giá vì yêu Cha và vì yêu nhân loại tội lỗi, bằng một lời ngợi khen long trọng: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5).
Đức Giêsu biến hình sáng láng trước mặt ba môn đệ thân tín, là để các ông cảm nghiệm trước vinh quang Phục Sinh của Người. Cũng là để dọn lòng trí các ông dễ dàng đón nhận cuộc khổ nạn và cái chết thương đau của Người trên thập giá sau này. Vì qua đau khổ mới tới vinh quang. Có khổ nhục chiều thứ Sáu Tuần Thánh, mới rạng rỡ sáng Chúa nhật Phục Sinh.
Người Kitô hữu chỉ có thể biến hình đổi dạng khi họ sẵn lòng cùng với thánh giá lên đồi Canvê với Đức Ktiô.
Người Kitô hữu chỉ có thể bừng sáng rạng ngời khi họ dám hy sinh bản thân để hiến dâng cho Thiên Chúa và tha nhân bằng một tình yêu trao ban vô vị lợi.
Chúng ta sẽ nhận ra khuôn mặt ngời sáng của Đức Kitô khi chúng ta đón nhận khuôn mặt đau khổ của anh em.
Chúng ta sẽ minh họa được khuôn mặt sáng láng của Đức Kitô khi chúng ta luôn mang khuôn mặt vui tươi, an bình và hạnh phúc.
Người tín hữu thưởng nếm vinh quang Tabo chẳng bao nhiêu, nhưng đón nhận gian nan Núi Sọ lại rất nhiều. Tuy thế họ vẫn vui tươi và thanh thản, an bình và hạnh phúc? Phải chăng họ đã cảm nghiệm được khuôn mặt người sáng của Đức Kitô trong cuộc đời mình. Như người lực sĩ điền kinh nhắm chiếc huy chương vàng mà gắng sức về đích để giành phần thắng, thì người tín hữu Kitô cũng phấn đấu vượt qua những chặng đường thánh giá cuộc đời, để đạt được phần thương vô giá là vinh quang Phục Sinh rạng ngời.
Hãy sám hối và canh tân. Sám hối – Canh Tân là bỏ đi con người tự mãn tự kiêu để mặc vào con người nhu mì khiêm tốn, là tháo gỡ khuôn mặt u mê tội lỗi để nhận lại khuôn mặt ngời sáng thánh thiện, là tẩy chay tâm địa ích kỷ để đón nhận tinh thần phục vụ yêu thương.
Nước mắt sám hối khép lại quá khứ để mở cửa tương lai. Nước mắt Sám hối luôn tẩy sạch tội lỗi. Nước mắt Sám hối bao giờ cũng có giá trị trong sự tha thứ.
Canh tân là lao mình về phía trước, trong niềm vui đổi mới. Lúc đó, chúng ta không cần đi tìm mùa xuân, vì chính chúng ta đang làm nên mùa xuân cho cuộc đời.
***
Lạy Chúa, xin cho những lần chúng con gặp Chúa trong cầu nguyện, trong mỗi thánh lễ, là mỗi lần khuôn mặt chúng con lại được bừng sáng lên nièm an vui, hạnh phúc.
Ước gì người ta nhận ra được khuôn mặt người sáng, dịu dàng và yêu thương của Chúa trong nét mặt hân hoan, khả ái của chúng con. Amen.
39. Chúa biến hình
Tại sao Chúa Giêsu chỉ mang có ba môn đệ thân tín lên đỉnh Taborê?
Ngay từ đầu đoạn Tin Mừng, thánh Matthêu đã ghi rõ: Chúa Giêsu đem ông Phêrô cùng hai anh em ông Giacôbê và Gioan đi riêng với mình. Đồng thời trong Phúc Âm chúng ta cũng thấy không thiếu gì những trường hợp chỉ có ba ông này được chứng kiến một số hành động của Chúa Giêsu. Ngoài việc làm chứng nhân cho cuộc biến hình, các ông còn được độc quyền đi theo Ngài trong những giây phút hấp hối cuối cùng nơi vườn cây dầu. Độc quyền chứng kiến việc Chúa Giêsu làm cho con gái ông Giairô sống lại. Các ông cũng là những người đã hỏi riêng Chúa Giêsu về những dấu hiệu báo trước ngày sụp đổ của đền thờ.
Có thể nói: Phêrô, Giacôbê và Gioan tượng trưng cho hàng ngũ lãnh đạo trong Gháo Hội. Việc Chúa Giêsu đem những người có nhiệm vụ lãnh đạo Giáo Hội để các ông chứng kiến cho sự biến hình không phải là không có ý nghĩa cho sự sinh hoạt của Giáo Hội ngày hôm nay.
Như chúng ta đã biến vấn đề quyền hành là vấn đề then chốt trong Giáo Hội bởi vì chính Ngài đã xác quyết trước mặt Philatô:
- Nếu từ trên chẳng ban cho ông, thì ông chẳng có quyền hành gì trên tôi.
Thế nhưng quan niệm về quyền hành của Chúa Giêsu hoàn toàn khác biệt với quan niệm về quyền hành của thế gian. Bởi vì theo Ngài, quyền hành là để phục vụ chứ không phải là để hống hách, chèn ép và hưởng thụ:
- Thủ lãnh các dân ngoại thì cai trị và chuyên chế, còn giữa các ngươi thì không được như vậy, ai muốn làm lớn thì hãy trở nên rốt hết và trở nên đầy tớ cho mọi người.
Chính Ngài, trong bữa tiệc ly cũng đã nói với các môn đệ:
- Mặc dầu các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm. Nhưng nếu Ta là Thầy và là Chúa mà còn quỳ gối rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Cũng trong chiều hướng đó mà các vị Giáo hoàng vốn tự xưng mình là “servus servorum”, đầy tớ của các đầy tớ. Ba vị cột trụ của Giáo Hội được chứng kiến việc Chúa biến hình, không phải là để các ông được hưởng một kinh nghiệm lý thú như Phêrô đã tưởng: Lạy Thầy, chúng con ở đây thì thật là hay quá, nhưng là để các ông sau này biết vận dụng quyền hành theo một ý nghĩa mới mà Ngài đã đề ra đó là phục vụ.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã đổi mới quan niệm của chúng ta theo quan niệm của Chúa Giêsu hay chưa? Liệu chúng ta đã đổi mới cái nhìn của chúng ta theo cái nhìn của Chúa Giêsu hay chưa? Có nghĩa là chúng ta đã thực thi giới luật yêu thương, đã sống tinh thần phục vụ, đã có được những hành động bác ái an ủi, khích lệ và giúp đỡ những người chung quanh hay chưa?
Bởi vì trong ngày sau hết chúng ta sẽ không bị xét xử về địa vị xã hội, mà sẽ bị xét xử về những hành động bác ái yêu thương mà chúng ta đã làm hay không làm cho những người chung quanh. Có như vậy chúng ta mới xứng đáng được tham dự vào cuộc biến hình vinh quang trong ngày sau hết.
05/08 Lòng tin bà mẹ ngoại giáo
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Lòng tin bà mẹ ngoại giáo.
Thứ tư tuần 18 thường niên.
"Này bà, bà có lòng mạnh tin".
Lời Chúa: Mt 15, 21-28
Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm".
Nhưng Người không đáp lại một lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel".
Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói: "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Người đáp: "Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống".
Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng bà ấy rằng: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy". Và ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Lòng tin của bà lớn thật
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện Đức Giêsu chữa bệnh từ xa,
tại Tia và Xiđon, vùng đất của dân ngoại.
Nhưng chuyện chữa bệnh không quan trọng lắm.
Chuyện quan trọng là lòng tin của người phụ nữ Canaan.
Hẳn bà biết ít nhiều về Do Thái giáo, khi gọi Đức Giêsu là Con Vua Đavít.
Con Vua Đavít là tước hiệu người Do Thái dùng để chỉ Đấng Mêsia.
Bà tin Đức Giêsu có thể chữa lành con gái của bà.
Người phụ nữ trực tiếp gặp Đức Giêsu và ngỏ lời nài xin:
“Xin thương xót tôi… con gái tôi bị quỷ hành hạ dữ lắm.”
Người mẹ đau vì con của mình đau.
Bà kêu xin Đức Giêsu thương mình, bằng cách chữa lành cho cô con gái.
Nhưng bà chỉ gặp sự thinh lặng như thể Người không nghe thấy.
Dầu vậy bà vẫn không ngừng đi sau và kêu to.
Tiếng kêu dai dẳng của bà đuổi theo các môn đệ khiến họ bực bội.
Khi không chịu nổi được nữa, họ mới chạy đến với Thầy Giêsu.
“Xin Thầy cho bà ấy đi đi, vì bà ấy cứ kêu sau lưng chúng ta mãi.”
Có vẻ các môn đệ muốn Thầy gặp bà và cho điều bà cần.
Cho đến nay vẫn chưa có cuộc đối thoại giữa bà và Đức Giêsu.
Người phụ nữ vẫn là người độc thoại.
Nhưng Đức Giêsu vẫn chưa muốn nói chuyện với bà.
Người chỉ nói với các môn đệ và xác định sứ vụ của mình:
“Thầy chỉ được sai đến với những chiên lạc nhà Israel thôi.”
Đây là lời từ chối đầu tiên, rõ ràng và dứt khoát.
Nó như đặt một dấu chấm hết cho mọi hy vọng của người mẹ.
Đức Giêsu như muốn nói: Đừng kêu la vô ích.
Chị không phải là chiên của nhà Israel.
Dân ngoại lúc này không phải là sứ vụ của tôi,
vì Cha tôi chưa sai tôi đến.
Lòng tin của người phụ nữ bị thử thách đến tột độ.
Chắc bà bị cám dỗ bỏ đi vì sự thinh lặng lạnh lùng,
và sự từ chối cương quyết của Đức Giêsu.
Nhưng trái tim của một người mẹ không cho phép bà làm thế.
Bà trở nên táo bạo hơn và dám vượt lên trước để gặp Đức Giêsu.
Trong thái độ cung kính bái lạy, bà tiếp tục nài xin:
“Lạy Ngài, xin giúp tôi” (c. 25);
khác với lúc nãy: “Lạy Ngài, xin thương xót tôi” (c. 22).
Cả hai lời nài xin đều nhắm đến người con, dù có vẻ bà chỉ xin cho bà.
Xin giúp tôi bằng cách giúp con tôi khỏi móng vuốt quỷ dữ.
Hạnh phúc của người mẹ gắn liền với hạnh phúc của con,
vì tình yêu nối kết cả hai nên một.
Tuy vậy lời nài xin này của trái tim người mẹ
dường như vẫn chưa đụng được vào trái tim Thầy Giêsu.
Người đưa ra lời từ chối thứ hai
quyết liệt hơn và có thể gây tổn thương nghiêm trọng:
“Không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó.”
Con ở đây là dân Israel, là người trong nhà, có quyền hành.
Dân ngoại đôi khi được ví với chó nuôi trong nhà.
Hai bên không ở trên cùng một mặt phẳng.
Câu nói này của Đức Giêsu phản ánh cái nhìn của người Do Thái.
Họ tự hào về tính ưu việt của mình
trong tư cách là Dân riêng của Chúa.
Nói chung họ cho rằng chỉ họ mới xứng đáng hưởng ơn cứu độ.
Người phụ nữ không phản đối cái nhìn của Đức Giêsu
Bà không cảm thấy mình bị xúc phạm và giận dữ bỏ đi.
Trái lại, bà đón nhận cái nhìn ấy và tìm thấy một kẽ hở cho ơn Chúa:
“Thưa Ngài đúng thế.
Nhưng chó con cũng được ăn các mảnh vụn rơi xuống từ bàn của chủ.”
Bà chấp nhận mình chỉ là chó con nuôi trong nhà,
không phải là ông chủ đang ngồi tại bàn ăn.
Bà tin rằng dù mình không đủ tư cách
để ngồi dự bàn tiệc cánh chung như những người Do Thái,
bà vẫn có thể được hưởng chút vụn bánh từ bàn ăn rớt xuống.
Bà vẫn giữ niềm hy vọng ngay khi bị từ chối thẳng thừng.
Chính lời từ chối của Đức Giêsu lại mở ra niềm hy vọng.
Đức Giêsu bị ấn tượng bởi lòng tin của bà.
Người kêu lên: “Này bà, lòng tin của bà lớn thật.”
Đức Giêsu từng ngỡ ngàng trước lòng tin của viên bách quản (Mt 8,10-11).
Giờ đây Người đối diện với lòng tin của một người mẹ thương con.
Chính tình thương thêm sức mạnh cho lòng tin,
khiến lòng tin trở nên kiên trì, bất chấp thinh lặng và từ chối.
Lòng tin không mất hy vọng ngay khi có vẻ chẳng còn gì để hy vọng.
Lòng tin mạnh mẽ và khiêm hạ của người mẹ đã chinh phục Đức Giêsu,
và cuối cùng đã chạm được vào trái tim của Người.
Đức Giêsu đã để mình bị cuốn đi, ngỡ ngàng và ngây ngất…
Bây giờ Người mới thực sự nói chuyện với bà: “Này bà…”
Người sẽ làm điều trước đây Người không định làm.
Người sẽ đáp lại lòng tin của bà, lòng ao ước của bà
chỉ bằng một lời nói từ xa cho một cô bé chưa hề gặp mặt:
“Hãy xảy ra cho bà như bà muốn”.
Cô bé đã được chữa lành kể từ lúc đó.
Mẹ cô đã được thương xót và trợ giúp.
Đức Giêsu không cứng nhắc và bó hẹp trong sứ vụ Cha giao.
Người vẫn nghe tiếng kêu của con người và chấp nhận những ngoại lệ.
Ngoại lệ cũng nằm trong Ý Cha.
Ý Cha vẫn mở ra mới mẻ từng ngày đòi ta phải tìm kiếm liên tục.
Ngoại lệ hôm nay sẽ mở đường cho sứ vụ ngày mai:
“Các con hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ,”
để “nhiều người từ Đông sang Tây sẽ đến và dự tiệc trong Nước Trời.”
Xã hội hôm nay không thiếu những bà mẹ khổ vì con mình bị ám.
Ám vì đủ thứ nghiện ngập do cuộc sống đem lại.
Các bà mẹ thấy mình bất lực, chỉ biết hy vọng vào Chúa.
Nhiều khi có cảm tưởng Chúa không nghe và lạnh lùng trước nỗi đau.
Hãy có lòng tin lớn của người phụ nữ Dân ngoại,
tiếp tục tin, tiếp tục yêu, tiếp tục hy vọng
và biết mình có thể chạm được vào trái tim của Thiên Chúa.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thuong của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: THIÊN CHÚA XÓT THƯƠNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Các bài Sách Thánh hôm nay tương phản nhau mãnh liệt: niềm tin của dân ngoại và sự bất tín của Ít-ra-en. Ít-ra-en đã chứng kiến biết bao việc kỳ diệu Chúa làm nhưng vẫn thiếu niềm tin. Hôm nay họ sợ người khổng lồ nên chống đối Mô-sê, chống lại ý Chúa. Không chịu vào Đất Hứa theo hướng nam qua vùng Ca-đê mà chọn đi vòng qua phía đông theo sông Gióc-đan. Họ thiếu niềm tin vào Chúa. Xét về quân đội thời ấy, còn ai mạnh hơn Ai cập. Thế mà Chúa đã tiêu diệt tất cả trong nháy mắt. So với quân đội Pha-ra-ô thì những người khổng lồ này có là gì. Nếu tin Chúa họ đâu phải sợ hãi đến hoảng loạn và chống lại ý Chúa như vậy (năm lẻ).
Tuy Ít-ra-en bất tín. Nhưng Chúa vẫn trung tín. Sau khi trừng phạt rồi lại xót thương. Tiếp tục yêu thương và cứu chữa họ: “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương. Ta sẽ lại xây ngươi lên, và ngươi sẽ được xây lại” (năm chẵn).
Lòng thương xót của Chúa bao la. Nên sau cùng đã trải rộng ra khỏi Ít-ra-en, đến với mọi dân mọi nước. Hôm nay người phụ nữ Ca-na-an đã được hưởng lòng thương xót của Chúa. Đó là dấu hiệu Chúa lập ra một dân mới. Bà chưa hề biết Chúa, mới chỉ nghe nói, thế mà đã tin tưởng hết sức vào Chúa. Chúa đặt ra trước mặt bà 3 chướng ngại lớn và bà đã vượt qua. Một sự im lặng. Chúa không đáp lại lời bà xin. Nhưng bà vẫn tha thiết, kiên trì và dai dẳng cầu xin. Một lời từ chối: “Thầy chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Ít-ra-en thôi”. Ranh giới đã được phân định. Thế mà bà vẫn nhất quyết nài xin. Một lời nhục mạ: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó”. Thật là tàn nhẫn. Nhưng bà này đã chấp nhận: “Nhưng chó cũng có thể được những mảnh vụn bánh từ bàn chủ rơi xuống”. Và Chúa phải khen ngợi lòng tin của bà. Bà không còn phải là chó con nữa. Bà trở nên con cái Chúa. Được đồng bàn với Chúa. Không còn phải chờ bánh vụn. Nhưng được hưởng bánh tự do trên bàn của Chúa.
Tạ ơn Chúa vì Lòng Thương Xót của Chúa bao la trải rộng khắp mười phương. Xin cho con được vững tin vào Lòng Thương Xót của Chúa.
SUY NIỆM 3: Sống Niềm Tin
Mahatma Gandhi, người có công giành độc lập cho Ấn Ðộ bằng con đường bất bạo động, đã có lần tuyên bố: "Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu". Câu nói của con người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng làm cho chúng ta suy nghĩ.
Giáo lý của Chúa Kitô thì cao đẹp, nhưng nhiều Kitô hữu làm cho bao nhiêu người xa lánh Giáo Hội, chỉ vì cuộc sống của họ đi ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Người ta thường nói: "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Ðôi khi chúng ta cảm thấy gần gũi với những người láng giềng hơn là với những người thân thuộc. Trong liên hệ với Chúa Giêsu cũng thế, có biết bao người chưa từng được nghe nói đến Chúa Giêsu, có biết bao người không mang danh hiệu Kitô, nhưng lại gần gũi với Chúa Kitô và sống tinh thần Kitô hơn chính những người Kitô hữu.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: "Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta". Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Ðền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa".
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Ðây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Tâm Hồn Khiêm Tốn (Mt 15,21-28)
Biến cố chúng ta vừa đọc lại trên đây cho thấy Chúa Giêsu đã vượt qua một biên giới, và đến gần vùng đất của dân ngoại. Và tại đây Ngài đã gặp một người đàn bà được hưởng lấy lợi ích từ tác vụ của Chúa Giêsu, tự lãnh nhận những hồng ân Thiên Chúa như những người con Do Thái đồng hương. Vừa bước vào vùng đất mới, Chúa Giêsu nghe được lời kêu van của một người đàn bà đang gặp thử thách: "Lạy Ngài, con vua Ðavít, xin dủ lòng thương tôi. Ðức con gái tôi bị quỉ ám khổ sở lắm". Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại một lời. Trước lời kêu xin tha thiết như vậy, tại sao Chúa không đáp lại? Chúa là Ðấng nhân từ, đầy cảm thông trước cảnh cùng khổ của những ai đến với Chúa và đã dạy các tông đồ: "Hãy cầu nguyện thì sẽ được. Hãy gõ cửa thì sẽ mở cho". Thế mà tại sao Chúa lại làm thinh, không trả lời cho người đàn bà đang thành tâm kêu xin? Hẳn có lý do.
Các tông đồ không hiểu được thái độ của Chúa và cũng không muốn bị quấy rầy nên đã nói với Chúa như sau: "Xin Thầy bảo bà ấy đi đi, kẻo bà ấy cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Các tông đồ hiểu lầm thái độ im lặng của Chúa như một sự từ chối và các ngài cũng muốn phủi tay: "Xin Chúa đuổi bà ấy đi cho, đừng để bà ấy quấy rầy nữa". Chúa Giêsu không chỉ im lặng mà Ngài còn lên tiếng nói lời chối từ như sau: "Ta chỉ được sai đến để cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi".
Chúng ta nên học hỏi thái độ khiêm tốn và kiên trì của người đàn bà: "Lạy Thầy, xin cứu giúp tôi". Bà không bực tức, không nổi giận, không trách móc Chúa tại sao thế này, tại sao thế nọ. Chúa càng im lặng thì bà càng khiêm tốn hơn nữa. Không những bà chỉ nói mà còn van xin bằng cả con người của mình. Bà sụp lạy Chúa Giêsu và nói: "Xin Ngài thương xót con". Sự im lặng của Chúa là một thử thách, thử thách trong đức tin, thử thách trong việc cầu nguyện Chúa Giêsu thử thách nhiều hơn nữa: "Không được lấy bánh dành cho con cái mà đem ném cho chó". Ðây là thử thách ở mức độ cuối cùng, ai có thể vượt qua được. Người đàn bà xa lạ và thuộc dân ngoại khiêm tốn thưa cùng Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng mà những con chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ trên bàn chủa rơi xuống". Có thể nói tâm hồn khiêm tốn đã giúp người đàn bà vượt qua được thử thách và trưởng thành trong đức tin. Chúa Giêsu trấn an bà như sau: "Này bà, lòng tin của bà thật mạnh. Bà muốn sao thì sẽ được như vậy". Người đàn bà chỉ xin Chúa cho lợi lộc thông thường cho con bà khỏi bị quỉ ám và bà được nhận lời.
Chúng ta có thể tượng tưởng người đàn bà sẽ vui mừng biết bao hơn nữa khi lãnh nhận được ơn Chúa. Cuối đoạn đường gian nan nhìn lại, chúng ta sẽ thấy rõ những giây phút Chúa xem ra im lặng là những giây phút quí trọng vô cùng vì những im lặng và từ chối này của Chúa giúp đức tin của chúng ta được trưởng thành. Khi đi qua đoạn đường gian nan, chúng ta có thể hiểu được chương trình của Chúa dành cho cuộc đời mình. Thử hỏi, chúng ta còn đủ nghị lực để đi qua đoạn đường nhiều gian nan thử thách hay không.
Lạy Chúa, Xin thương ban cho tất cả những ai chọn theo Chúa có được tâm hồn khiêm tốn để lãnh nhận những mầu nhiệm ân sủng của cuộc đời.
Lạy Chúa, Xin thương nâng đỡ chúng con và củng cố đức tin cho chúng con.
SUY NIỆM 5: Một Con Chó Biết Ơn.
Bà ấy liền bái lạy và thưa với Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Người đáp: “Không lên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó con gái bà được khỏi. (Mt. 15, 25-28)
Những câu: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy.” cho người ta thấy Đức Giêsu rất cảm thương, tốt lành và kính chuộng những kẻ hèn mọn và nghèo khổ.
Thánh Mát-thêu cho chúng ta thấy một Đức Giêsu có óc bè phái: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” Có óc khinh bỉ: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”
Nhưng kìa: Đức Giêsu hoàn toàn không phải thế, Thánh sử muốn dạy chúng ta biết lắng nghe và hiểu rõ bài học này.
Có nhiều người lương dân biết xưng tụng, kêu van danh Đức Kitô, trong khi những Kitô hữu nghe danh người xưa kia mà nay lại không biết kêu cầu Người. Hay ngay cả khi họ nghĩ đến Người, hiểu biết Người bây giờ, họ vẫn điếc chẳng nghe Tin Mừng của Người, mù không thấy những phép lạ của Người, sự phục sinh của Người, câm không nói về Người.
Chó con trong nhà.
Chó con được ăn những đồ thừa, không những nó bằng lòng mà còn tỏ niềm vui mừng và biết ơn nữa. Trẻ con trong nhà thì sao? Không phải lúc nào chúng cũng biết ơn, cảm ơn dù chúng được chăm lo rất nhiều, chúng không thấy vì được quá nhiều đặc ân, quá thường xuyên.
Bà lương dân này chẳng được dạy dỗ, chẳng được ân huệ gì, bà lại có niềm tin thật mạnh đó là điều thiết yếu Đức Giêsu muốn Người không nói bà phải tỏ ra ngoan ngoãn phục tùng, Người không tra hỏi về đời tư của bà. Như bất cứ một kẻ nào đó đến với Người, cầu khẩn Người, với cảnh cùng khổ của mình, với lòng tin cậy được nhận lời.
Chúng ta hãy thành khẩn.
Còn chúng ta ngày nay thì sao?
Không còn đề cập đến vấn đề đức tin nữa, nó làm chúng ta mù quáng bằng đủ mọi thứ bào chữa để che đậy lòng thiếu đức tin của chúng ta.
Nếu người lương dân biết tin vào Đức Kitô thì càng có lý mạnh mẽ đòi chúng ta càng xây dựng niềm tin vào Đức Kitô biết bao! và phải làm cho Người trở lên sống động nơi chúng ta và nơi mọi người đến chừng nào! vì chúng ta hiểu biết Người hơn lương dân gấp bội.
SUY NIỆM 6: NHỜ NIỀM TIN CỦA MẸ MÀ CON ĐƯỢC CỨU SỐNG
Xem lại CN 20 TN A.
Trong câu chuyện kể về phép lạ của Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, người ta kể về gương sáng đức tin của một bà mẹ. Chuyện kể rằng: nhờ mối liên hệ thân tình với Đức Hồng Y, lòng quý trọng và niềm tin tuyệt đối vào ngài, vì thế, bà thường xuyên cầu khấn với ngài khi con bà đang trong tình trạng hôn mê sâu nhiều tháng và chỉ còn chờ chết ngay tại đất nước Hoa Kỳ văn minh tiến bộ vào hạng nhất nhì thế giới!
Quả thật, cậu chủng sinh con bà đã thoát khỏi tử thần khi được chính Đức Hồng Y cầu thay nguyện giúp nhờ vào lòng tin của bà mẹ.
Hôm nay, Tin Mừng cũng trình thuật phép lạ Đức Giêsu đã làm khi cho một bé gái thoát khỏi quỷ ám nhờ vào lòng tin của mẹ em.
Thật vậy, lời cầu xin“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi” của người phụ nữ xứ Canaan đã đụng chạm đến lòng trắc ẩn của Đức Giêsu, nên bà đã được Ngài xót thương. Nhưng Đức Giêsu còn muốn kiểm chứng đức tin của bà xem có phát xuất từ con tim yêu mến hay chỉ là thực dụng???
Tuy nhiên, càng đi sâu vào câu chuyện, chúng ta lại càng thấy niềm tin ấy được tỏa sáng. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì qua sự thinh lặng của Đức Giêsu và nhất là lời khước từ của Ngài khi nói: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Đồng thời, bà còn gặp khó khăn khi những người Dothái cũng như của chính các môn đệ ngăn cản không cho bà đến gần Đức Giêsu, thế nhưng, niềm hy vọng vào tình thương của Chúa đã làm cho bà đặt hết niềm tin tưởng nơi Ngài. Vì thế, bà đã thốt lên: “Nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Đứng trước niềm tin đặc biệt đó, Đức Giêsu đã phải chạnh lòng thương đến con bà khi nói: “Lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy”.
Trong cuộc sống hiện nay của chúng ta nhiều khi đức tin mang tính nhất thời, tức là chỉ tin khi thuận tiện. Mặt khác, niềm tin của mỗi người có lúc mang tính nửa vời, tức là tin Chúa 50%; 50% còn lại thì dành cho những thần khác...
Tuy nhiên, niềm tin thì hời hợt như vậy, nhưng khi có người khác thể hiện niềm tin vào Chúa thì chúng ta lại tìm cách ngăn cản hay cho là phù phiếm... như các môn đệ và người Dothái khi xưa. Phải chăng họ không muốn vào Nước Trời, nhưng những người muốn vào thì chính họ lại ngăn cản không cho vào.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt niềm tin tuyệt đối nơi Chúa. Đồng thời ý thức rằng: niềm tin trưởng thành là một niềm tin trải qua thử thách và có kinh nghiệm thực sự về Chúa. Cuối cùng, hãy biết noi gương Chúa để thi ân giáng phúc cho những người hoạn nạn, kể cả họ là kẻ thù của ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho mỗi chúng con biết yêu mến Chúa và luôn đặt niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa. Xin cũng cho chúng con có lòng nhân hậu với hết mọi người. Amen.
Ngọc Biển SSP
04/08 Trở nên dơ bẩn
- Viết bởi Mt 15, 1-2. 10-14
Trở nên dơ bẩn.
Thứ ba tuần 18 thường niên năm A. – Thánh Gioan Maria Vianê, linh mục. Bổn mạng các Linh mục. Lễ nhớ.
"Cây nào Cha Ta không trồng thì sẽ bị nhổ đi".
* Thánh nhân sinh năm 1786 tại Lyon. Sau biết bao khó khăn gian khổ, người làm linh mục và được giao phó nhiệm vụ làm cha sở họ Ars thuộc giáo phận Benle. Người quả là vị mục tử gương mẫu: hoàn toàn lo việc loan báo lời Thiên Chúa, giải tội, cầu nguyện và hãm mình. Có nhiều lúc, khuôn mặt người rạng rỡ khác thường, nhờ tình yêu bắt nguồn từ bí tích Thánh Thể mà người đem hết lòng sốt sắng để vừa cử hành, vừa thờ phượng. Người qua đời năm 1859.
Lời Chúa: Mt 15, 1-2. 10-14
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy có những luật sĩ và biệt phái từ Giêrusalem đến gặp Chúa Giêsu mà nói: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân? Vì họ không rửa tay khi dùng bữa".
Và Người gọi dân chúng lại mà bảo: "Các ngươi hãy nghe và hãy hiểu lấy: Không phải cái gì vào trong miệng mà làm cho người ta ra dơ nhớp đâu, nhưng cái từ miệng phát xuất ra cái đó mới làm cho người ta ra dơ nhớp". Bấy giờ các môn đệ của Người tiến lại thưa với Người rằng: "Thầy có biết các người biệt phái lấy làm chướng tai khi nghe Thầy nói lời đó không?" Người đáp lại rằng: "Tất cả cây nào Cha Ta trên trời đã không trồng, thì sẽ bị nhổ đi. Các con hãy để mặc chúng: chúng là những người mù dẫn dắt những người mù. Mù mà dẫn mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hãy nghe và hiểu
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Suy niệm:
Do Thái giáo coi trọng những nghi thức thanh tẩy bằng nước.
Aharon và các tư tế con của ông, trước khi tiến đến bàn thờ để dâng lễ,
phải rửa tay chân bằng nước đựng trong một cái vạc đồng.
“Họ sẽ tẩy rửa tay chân để khỏi phải chết. Đó là điều luật vĩnh viễn
cho Aharon và dòng dõi ông qua muôn thế hệ” (Xh 30, 20-21).
Khi khám phá ra những di tích ở Qumran, phía tây bắc Biển Chết,
người ta thấy có nhiều hồ tắm (mikvah) được đào dưới lớp đất sét giữ nước.
Cộng đoàn những người sống ở đây coi việc tắm rửa hằng ngày tại hồ
như một nghi thức thanh tẩy không thể thiếu trong cuộc sống của họ.
Bài Tin Mừng hôm nay bàn đến chuyện thanh tẩy trước khi ăn.
Nhóm Pharisêu trách Đức Giêsu vì môn đệ Ngài không rửa tay khi dùng bữa.
Thật ra trong Kinh Thánh Cựu Ước chẳng có luật nào dạy như vậy.
Người Pharisêu đã dựa trên một truyền thống truyền khẩu có từ thời ông Môsê.
Họ coi truyền thống tiền nhân này cũng ràng buộc chẳng khác nào Kinh Thánh.
Đức Giêsu nặng lời vì họ đặt truyền thống của mình lên trên Lời Chúa (cc. 3-9).
Khi để ý chi li những điều bên ngoài để giữ cho mình khỏi bị ô uế,
họ xao lãng việc để ý đến cái ô uế bên trong con người.
Khi nói với đám đông, Đức Giêsu nhắc họ hãy nghe và hiểu cho rõ (c. 10).
“Không phải cái vào trong miệng làm ô uế con người,
Nhưng cái ra từ miệng, cái đó mới làm con người ô uế” (c. 11).
Cái ra từ miệng lại là cái trào ra tự nhiên từ trái tim, từ cái tâm.
“Lòng có đầy thì miệng mới nói ra” (Mt 12, 34).
“Cái ra từ miệng là cái đến từ tim, chính cái ấy làm con người ô uế ” (c. 18).
Đức Giêsu mời chúng ta để ý hơn đến sự ô uế trong lời nói,
từ đó khám phá ra cái tâm ô uế của mình.
Thanh tẩy lời nói và cái tâm thì quan trọng hơn và khó hơn rửa tay.
Trong thánh lễ, vị linh mục rửa tay trước khi đọc Kinh Nguyện Thánh Thể.
Ngày nay, khi cử hành lễ Vượt Qua, người Do Thái có nghi thức rửa tay (rachaz).
Lúc rửa tay, họ cầu nguyện: “Lạy Chúa, chúc tụng Chúa là Vua vũ trụ,
là Đấng đã thánh hóa chúng con bằng các điều răn
và đã ra lệnh cho chúng con tuân giữ luật rửa tay.”
Tôn giáo nào cũng cần có những nghi lễ, luật lệ, truyền thống, phụng tự.
Làm thế nào để tất cả những điều ấy không chỉ ngừng lại ở bên ngoài
nhưng là những phương thế giúp con người thay đổi nội tâm cách sâu xa?
Thế giới hôm nay bị trái tim và miệng lưỡi con người làm nó ô uế.
Kitô hữu được sai vào thế giới để giúp nó trở lại sự trong sạch nguyên thủy.
Có cách nào thanh tẩy được thế giới tôi đang sống không?
Cầu nguyện:
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ tâm hồn con thanh khiết.
Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục,
xin gìn giữ mắt con.
Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc,
xin dạy con biết trân trọng thân xác.
Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục,
xin thanh lọc trí tưởng tượng của con.
Xin nâng con lên cao
vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt,
để biết tự hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí sức lực
vào những chuyện tình cảm chóng qua,
nhưng giúp con tự rèn luyện mình
để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.
Như đóa sen trong đầm lầy,
xin giữ thân xác con thanh khiết.
Suy Niệm 2: XÁC THỊT VÀ THẦN KHÍ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
My-ri-am đối đầu với Mô-sê. Về phương diện con người thì My-ri-am chiếm ưu thế ở 3 điểm. Về xã hội: Tập tục không cho phép người Do thái kết hôn với ngoại kiều, thế mà Mô-sê đã cưới một người xứ Cút. Về gia đình: My-ri-am là chị cả trong gia đình và Mô-sê phải vâng lời bà. Về cá nhân: My-ri-am là ân nhân cứu mạng Mô-sê và chăm sóc ông từ bé. Thế nhưng Chúa lại cho rằng My-ri-am đã đối đầu với Chúa vì dám xúc phạm đến Mô-sê là tôi tớ của Chúa. Hơn nữa, bà ghen tị vì Mô-sê được Chúa gặp trực tiếp. Đó chính là cuộc đối đầu giữa xác thịt và Thần Khí. My-ri-am đã để cho tính ghen tức xác thịt bùng nổ nên nói xấu Mô-sê. Mô-sê là người của Thần Khí vì ông tràn đầy ơn Chúa và ông cư xử theo Thần Khí, hiền lành khiêm nhường không đối đáp lại My-ri-am (năm lẻ).
Tin Mừng cũng tường thuật lại cuộc đối đầu giữa nhóm Pha-ri-sêu và Chúa Giê-su. Pha-ri-sêu cũng vận dụng tập tục tiền nhân để chống lại Chúa Giê-su. Họ cũng tự cho mình có quyền giảng dậy và cắt nghĩa lề luật để dậy dỗ Chúa và các môn đệ. Cuối cùng họ cũng bộc lộ tính xác thịt, chống lại Chúa vì ghen tức với Chúa. Chúa Giê-su cho biết ai sống theo xác thịt sẽ đi vào chỗ chết: “Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời không trồng, thì sẽ bị nhổ đi. Cứ để mặc họ. Họ là những người mù dắt người mù. Mù mà lại dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố”. Bà My-ri-am lập tức bị phong cùi, tức là đi vào đất kẻ chết.
Sống theo xác thịt sẽ chết theo xác thịt. Như Chúa nói với Giê-rê-mi-a: “Không ai biện hộ cho vụ kiện của ngươi…Mọi nhân tình của ngươi đều quên ngươi hết, chúng không kiếm tìm ngươi nữa…Ngươi kêu la vì thương tích của ngươi làm gì? Nỗi thống khổ của ngươi thật hết đường cứu chữa. Ấy chỉ vì sự gian ác của ngươi quá nhiều, và tội lỗi của ngươi quá nặng”. Nhưng khi dân ăn năn sám hối, từ bỏ con đường xác thịt để sống theo Thần Khí, Chúa lại cho phục hồi. Sống theo Thần Khí họ được tự do vì làm chủ lấy mình: “Thủ lãnh của nó sẽ từ nó xuất thân, và người thống trị nó sẽ từ giữa nó mà ra”. Họ thuộc về Chúa: “Các ngươi sẽ là dân Ta chọn, và Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi”. Biết thờ phượng, ngợi khen Chúa: “Từ các nơi ấy, sẽ vọng ra lời cảm tạ và tiếng reo mừng” (năm chẵn).
Sống theo xác thịt thì mù quáng. Sống theo Thần Khí thì sáng suốt. Sống theo xác thịt thì lăn xuống hố. Sống theo Thần khí thì thanh thoát vươn lên. Sống theo xác thịt là đi vào cõi chết. Sống theo Thần Khí đi vào đời sống. Sống theo xác thịt bị nô lệ. Sống theo Thần Khí tự do vì tự mình làm chủ lấy mình.
Suy Niệm 3: XÁC THỊT VÀ THẦN KHÍ
Việc rửa tay trước khi ăn là một thói quen tốt giúp an toàn vệ sinh, nó như là một nét văn hoá được các giáo viên mầm non tập cho trẻ từ thuở bé. Và ở nhiều nơi trên thế giới, việc rửa tay trước khi ăn đã trở thành một tập tục, thậm chí như là một điều buộc phải làm để giữ gìn vệ sinh. Tuy nhiên, đối với các Pharisiêu thì nó được giải thích như là một điều luật và là một nghi thức tôn giáo để đánh giá con người trong sạch hay dơ bẩn.
Bài Tin Mừng hôm nay kể về việc người Biệt phái thắc mắc vì một số môn đệ Chúa Giê-su không rửa tay trước khi ăn. Người Biệt phái thắc mắc không vì việc Chúa Giê-su không giữ an toàn vệ sinh ăn uống, mà là cho rằng việc Chúa lỗi luật và vi phạm nghi thức tôn giáo truyền thống về việc sạch dơ. Chính vì thế mà Chúa Giê-su không phải lên án việc rửa tay cũng như rửa chén đĩa hay những thứ đồ vật khác trước khi ăn, nhưng Người muốn nhân cơ hội để dạy cho các ông Pharisêu một bài học quan trọng hơn – một sự trong sạch đích thực là sự trong sạch cho tâm hồn, chứ không phải cái mã bề ngoài.
Vì quá câu nệ luật nên Biệt phái Pharisêu lẫn lộn cái chính yếu với cái phụ tùy, quá chú trọng đến cái phụ tuỳ bên ngoài mà đánh mất cái chính yếu bên trong là đức công bằng. Họ quan niệm giữ luật Chúa là tuân thủ những luật lệ, những nguyên tắc và những lễ nghi bề ngoài, nghiêm ngặt phần hình thức như “rửa tay trước khi ăn”, “dâng lễ phẩm cho Chúa thay thế sự hiếu kính cha mẹ”. Họ dùng nghi lễ bề ngoài, để thoái thác một bổn phận căn bản về phụng dưỡng cha mẹ, lấy quy ước của các tập tục phàm nhân do họ đặt ra để xóa bỏ đi điều răn của Thiên Chúa.
Lời dạy của Chúa Giê-su hôm nay lên án chuyện sạch – dơ, xem ra chẳng ăn khớp gì với nhau, bởi khi nói cái đi vào thân thể con người là thực phẩm ăn uống và cái xuất ra từ con người lại nói đến tư tưởng. Đó là hai phạm trù khác nhau giữa vật chất và tinh thần. Thật ra, Chúa Giê-su dùng chính cái lối quan niệm sai lầm về tập tục của Do-thái để tranh luận với họ. Họ coi những chuyện ăn uống đồ ăn vật chất lại làm cho tâm hồn thuộc tinh thần ra dơ uế hoặc thanh sạch.
Chuyện đồ ăn thức uống hằng ngày chỉ là nhu cầu nuôi sống thể xác, nhưng đã bị các Kinh sư đẩy lên thành một thứ luật lệ và thậm chí đặt nó thành định chế tôn giáo. Họ phân định ra những thức ăn nào là dơ và thức ăn nào là sạch, thức ăn nào bị cấm và thức ăn nào được ăn, thức ăn nào thành tội và thức ăn nào là thánh…
Chúa Giê-su không đồng tình với cách phân biệt này, Người khẳng định mọi thức ăn đều sạch, chỉ có lòng người mới là nguồn gốc của sự ô uế.
Đành rằng có thể có những đồ ăn thức uống có thể làm ảnh hưởng đến sức khoẻ vì có độc hoặc không đảm bảo vệ sinh, nhưng chắc chắn không có thứ thực phẩm nào làm cho tâm hồn ra ô uế được. Sự ô uế của tâm hồn chỉ xảy đến từ những tư tưởng xấu và những hành động xấu mà Chúa Giê-su đã liệt kê ra hôm nay: “Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.”
Tuân giữ lề luật không phải câu nệ theo mặt chữ, mà với cả lòng yêu mến và bác ái với mọi người. Vì quá câu nệ luật nên người Pharisiêu lẫn lộn cái chính yếu với cái phụ tùy, quá chú trọng đến cái phụ tuỳ bên ngoài mà đánh mất cái chính yếu bên trong là đức công bằng. Lo rửa tay rửa chén đĩa cho sạch, mà tâm hồn thì nhơ uế đầy gian tà cướp bóc, an tâm với những việc giữ luật bề ngoài mà không màng tới tinh thần. Đó là lối sống đóng kịch và khoe khoang khi muốn tỏ ra cho những người xung quanh thấy những việc làm của họ để được ca tụng.
Lời Chúa Giê-su nói với người Pha-ri-sêu cũng là lời cảnh tỉnh cho con người thuộc mọi thời đại. Bên ngoài người ta có thể là những người rất đạo mạo, lịch sự, danh giá, chức quyền, sang trọng, nhưng bên trong lại chất chứa đầy sự tham lam độc ác “đầy những chuyện cướp bóc, gian tà”. Bên ngoài đẹp như hàng Nhật, nhưng bên trong thì là linh kiện rởm của Tàu Cộng. Nhiều người chúng ta ưa tô điểm cho vẻ bề ngoài của mình để được nổi trội, kể cả việc làm phúc bố thí, nhưng bên trong đầy những mưu mô ngầm ý về danh tiếng và danh vọng.
Lời Chúa mời gọi chúng ta trong khi lo trang điểm cho mình vẻ đẹp bề ngoài, thì cũng lo trang sức cho tâm hồn những nhân đức thánh thiện, lo cải hoá đời sống để được đổi mới trong mọi sự. Sống đạo với nghi lễ, làm đủ việc đủ giờ mà thôi thì chưa đủ, nhưng phải có tâm tình bên trong, và trong đời sống thường ngày, phải tỏ hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và bác ái với mọi người.
Chúa Giê-su kết luận: “Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời, đã không trồng, thì sẽ bị nhổ đi”. Nghĩa là, những gì đem đến mối tương giao với Thiên Chúa thì mới là đến từ Thiên Chúa, còn những thứ lề luật được vẽ ra để kỳ thị đánh giá và kết án nhau thì không phải đến từ Thiên Chúa. Và đương nhiên điều không đến từ Thiên Chúa thì không thể tồn tại.
Lạy Chúa, xin cho chúng con trong khi biết lo làm đẹp bề ngoài, thì cũng lo cho linh hồn mình nên trong sạch trước mặt Thiên Chúa. Amen.
Suy Niệm 4: Nâng cấp tâm hồn
(https://giaophanthaibinh.org/)
Suy niệm: “Sông sâu còn có kẻ dò, nào ai bẻ thước mà đo lòng người”. Người ta đã chế tạo ra kính thiên văn để nhìn những ngôi sao thật xa, kính hiển vi để nhìn những vi khuẩn nhỏ xíu, máy siêu âm để có thể nhìn thấy vật dụng trong va ly túi xách, nhưng chưa có dụng cụ nào để biết rõ lòng người! Đức Giê-su nói với chúng ta rằng chính lòng người hay tâm hồn lại là bộ chỉ huy điều hành tất cả những gì xuất phát ra bên ngoài; và chính lòng người phải chịu trách nhiệm về những điều đó. Nếu tâm hồn chúng ta nghiêng về tình dục, thì từ đó sẽ phát sinh những tư tưởng dâm ô ngoại tình. Nếu tâm hồn chúng ta hiểm độc, thì sẽ có những bạo động, ganh ghét, hận thù. Còn nếu lòng chúng ta quảng đại, thì từ đó sẽ có bao nghĩa cử yêu thương, chia sẻ, tha thứ…
Mời Bạn: Loại bỏ khỏi tâm hồn mình những tư tưởng dâm ô, hận thù, tham lam, hưởng thụ; và thay vào đó, nuôi dưỡng những ước muốn sống quảng đại, yêu thương, chia sẻ, tha thứ. Sau một thời gian “nâng cấp tâm hồn” như vậy, bạn sẽ cảm thấy lòng bạn thanh thản hơn, cuộc sống với người khác an vui hơn, và chắc chắn bạn sẽ dễ thương hơn trước mặt Thiên Chúa.
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày loại bỏ một ước muốn bất chính đang chế ngự mình, và thay thế bằng một ước muốn lành thánh theo các giá trị của Tin Mừng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa là Đấng thấu suốt lòng người. Chúa biết rõ chúng con đang ước muốn gì. Xin thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi những ước ao bất chính, và thay thế bằng những ước muốn đạo đức, tốt lành.
Suy Niệm 5: Nâng cấp tâm hồn
Rửa tay bằng xà phòng nhiều lần, nhất là trước khi ăn để đề phòng bệnh tay chân miệng được khuyến cáo rất nhiều trong bối cảnh xã hội hội hiện nay, nhất là trong những trường học và nơi tập thể. Thật ra, đối với người Do thái, việc rửa tay, rửa chén đĩa, rửa thực phẩm, không chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm phòng bệnh, mà còn là một nghi thức tôn giáo nói lên ước nguyện trở nên thanh sạch để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Ðấng Thánh. Ðây là điều tốt, nhưng người Biệt phái đã quá vụ hình thức mà bỏ quên điều thiết yếu, họ phán đoán một người tốt hay xấu dựa trên những hình thức bên ngoài. Họ đã quá chi li giữ luật bên ngoài đến nỗi đôi khi đồng hóa vi - rút làm ô uế về thể lý lẫn với vi-rút làm ô uế tinh thần-loại vi-rút này có thể hũy hoại không những về tinh thần mà cả về thể lý.
Tôn giáo nào cũng cần có những nghi lễ, luật lệ, truyền thống, phụng tự. Làm thế nào để tất cả những điều ấy không chỉ ngừng lại ở bên ngoài mà nên đặt trọng tâm và ý nghĩa bên trong. Chắc chắn mọi sự đều có hình thức bên ngoài và nội dung bên trong, thế nhưng cái nào quan trọng hơn? Chắc chắn mọi người ai cũng rõ: tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Chúa Giê-su muốn nhắc nhở cho họ cũng như cho mỗi người chúng ta hôm nay về mầm móng của bệnh tật bên trong tâm hồn: “Không phải cái vào trong miệng làm ô uế con người, nhưng cái ra từ miệng, cái đó mới làm con người ô uế” (c. 11). Vì từ trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ trong xuất ra, và làm cho người ta ra ô uế" (x. Mt 15, 17-20).
Có một câu chuyện rằng, hai thầy dòng ẩn tu nọ, trên đường đi làm về gặp một cô gái đẹp chẳng may bị ngã, dính đầy bùn và máu me. Hai thầy dòng đã dìu cô gái đến chỗ có nước để lau chùi và băng bó sạch và đưa cô về nhà. Một trong hai vị thầy dòng nọ, cứ áy náy và xưng tội nhiều lần với linh mục: con áy náy vì tội đã chạm vào người một cô gái. Linh mục bảo: con không có tội vì tay con đã chạm vào cô gái, nhưng có tội vì tâm và tim con đã liên tục “chạm” vào cô gái….
Minh Tứ
03/08 Chúa Ði Trên Biển
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Chúa Ði Trên Biển.
Thứ hai tuần 18 thường niên năm A.
"Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy".
Lời Chúa: Mt 14, 22-36
Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: "Ma kìa" và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ". Phêrô thưa lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán: "Hãy đến". Phêrô xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: "Lạy Thầy, xin cứu con". Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?" Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!"
Khi đã sang qua biển hồ, các ngài lên bộ và ghé vào Ghênêsarét. Nhận ra Ngài, dân địa phương liền loan tin đi khắp cả vùng xung quanh, và người ta đem đến cho Ngài hết mọi kẻ ốm đau. Họ nài xin Ngài cho họ rờ đến tua áo choàng của Ngài thôi, và ai đã rờ đến thì đều được chữa lành.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Xin cứu con
Suy niệm :
Bài Tin Mừng hôm nay là một loạt những kinh nghiệm thiêng liêng.
Có thể chúng ta ít nhiều đều đã có những kinh nghiệm này.
Thầy Giêsu là một nhà giáo nhân từ và cương quyết.
Ngài giáo dục các môn đệ bằng cách đưa họ vào những kinh nghiệm.
Kinh nghiệm bị Thầy bắt buộc phải qua bờ bên kia (c. 22),
dù họ rất muốn ở lại bờ bên này để nếm dư vị của thành công vừa rồi.
Sau phép lạ nhân bánh, người ta định tôn Thầy lên làm vua (Ga 6, 15).
Chỉ cần Thầy gật đầu là trò được chia sẻ tiếng tăm và quyền lực.
Các môn đệ đã bị ép lên thuyền, ngay lập tức, lúc chạng vạng tối.
Kinh nghiệm bị sóng đánh vì ngược gió.
Thuyền đã xa bờ mấy cây số, tiến tới không được, lùi lại cũng không xong.
Vào lúc khó khăn ấy lại không có Thầy ở trong thuyền.
Hầu như suốt đêm các môn đệ phải vất vả chèo chống với sóng gió.
Họ phải tập chiến đấu trong đêm tối khi không có Thầy ở bên.
Họ có nghĩ quyết định của Thầy là sai lầm, vội vã không ?
Kinh nghiệm hốt hoảng, sợ hãi và được trấn an.
Mãi đến lúc gần sáng, Thầy Giêsu mới đi trên biển mà đến với các môn đệ.
Ngài đến khi họ chưa thấy rõ mặt Ngài.
Ngài đến vào lúc bất ngờ và đến theo cách bất ngờ, khiến họ khiếp kinh.
Ngài đến đem bình an mà họ tưởng là ma quái đe dọa (c. 26).
Quả thật có những lúc không dễ nhận ra là Chúa đang đến với mình.
Chúa đến làm các môn đệ sợ hãi hơn cả sóng gió.
Nhưng “Cứ yên tâm, chính Thầy đây. Đừng sợ !” (c. 27).
Kinh nghiệm tự đưa mình vào một thách đố của lòng tin.
Một mặt Phêrô vẫn chưa tin trọn vẹn khi nói câu: Nếu quả là Thầy…(c. 28).
Nhưng mặt khác ông lại rất táo bạo khi dám xin ơn đi trên mặt nước.
Ông coi đó là cách thức chắc chắn nhất để biết có phải là Thầy không.
Nếu đúng là Thầy thì Thầy cũng có thể cho mình làm được như Thầy.
Chỉ cần Thầy truyền lệnh là đủ, Phêrô tin như thế.
Kinh nghiệm đi trên mặt nước và kinh nghiệm bị chìm.
Khi được Thầy cho phép, Phêrô đã dám từ thuyền bước xuống biển động.
Và ông đã đi được một quãng không rõ bao xa (c. 29).
Mặt nước cứng như đá hay người ông trở nên nhẹ bổng?
Bây giờ thì đúng là Thầy rồi, chỉ Thầy mới cho mình làm được như Thầy.
Phêrô sung sướng tiến về phía Thầy với lòng tin đang lớn lên.
Nhưng khi gặp gió thổi mạnh thì ông lại sợ, lại hoài nghi, yếu tin.
Ông mất tập trung vào sự hiện diện quyền năng của Thầy và bị chìm.
Người ta có thể bị chìm ngay khi biết Chúa ở trước mặt.
Kinh nghiệm được Thầy nắm tay mà dắt vào thuyền.
Khi Phêrô kêu cứu, Thầy Giêsu đã giữ ông khỏi bị nước nuốt chửng.
Sau đó hẳn hai Thầy trò đã cùng nhau đi trên sóng mà về thuyền.
Khi cả hai lên thuyền thì gió lặng, chẳng cần Thầy phải dẹp yên sóng gió.
Các kinh nghiệm môn đệ vừa trải qua thật kinh khủng và gần gũi với ta.
Buồn bực, sợ hãi, căng thẳng, bình an, nghi ngờ, chới với, hạnh phúc.
Đời Kitô hữu là một chuỗi những kinh nghiệm như thế.
Chúng ta tưởng Chúa bỏ rơi, Chúa vắng mặt, Chúa là ma làm ta sợ hãi.
Đơn giản Chúa là Thầy biết cách làm ta trưởng thành qua kinh nghiệm.
Cuối cùng chúng ta sẽ nhìn nhận: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa” (c. 33).
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy
sống đức tin giữa lòng cuộc đời
chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con
cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh
mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Chúa Ði Trên Biển
Thiên Chúa tỏ ra là một nhà giáo dục đại tài: Ngài luôn tôn trọng tư tưởng, dự định của con người, nhưng với thời gian và qua dòng lịch sử, Ngài thanh lọc, kiện toàn những gì không phù hợp với Nước Trời. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể làm người cũng đi theo đường lối đó, như chúng ta có thể thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sau khi cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu buộc các môn đệ lên đò sang bờ bên kia. Giải tán dân chúng xong, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện một mình. Các môn đệ vâng lời Thầy ra đi, nhưng có lẽ các ông không được hài lòng. Các ông đã hết sức kiên nhẫn chờ đợi ngày Chúa Giêsu làm vua, cơ hội đó hôm nay đã đến, nhưng Chúa lại từ chối. Không những bỏ lỡ cơ hội, Chúa còn ra lệnh cho các ông lập tức rời bỏ hiện trường. Bất mãn, chán nản và mệt nhọc làm cho các ông ngã lòng. Chúa Giêsu biết rõ tâm trạng của các ông, không những bằng ánh mắt và bằng cả cõi lòng khi Ngài cầu nguyện trên triền núi. Ngài thấy các ông chèo chống ngược với sóng gió và ngược với cả ý muốn. Chính lúc đó, Ngài đi trên mặt biển để đến với các ông. Ngài đã làm như thế để các ông hiểu rằng Ngài có quyền năng trên các tạo vật, Ngài có chương trình của Ngài và Ngài sẽ thực hiện chương trình ấy khi giờ của Ngài đến.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt tất cả niềm tin vào quyền năng của Chúa. Ngài có chương trình cho mỗi người chúng ta. Ðiều quan trọng không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, chúng ta hãy đặt hết tin tưởng vào Chúa, Ngài vẫn hiện diện để sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Hãy phó thác vào quyền năng yêu thương của Ngài và như thế tâm hồn chúng ta sẽ được bình an.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Ðừng Sợ
Biến cố Chúa đi trên mặt biển cũng được tường thuật nơi Phúc Âm thánh Maccô chương 6 và nơi Phúc Âm thánh Gioan chương 6, nhưng nơi Phúc Âm thánh Mátthêu thì có thêm chủ ý hành văn của tác giả và ý định trình bày một cái nhìn. Các nhà chú giải đồng ý có ba phương diện giúp dễ hiểu đoạn Phúc Âm này hơn:
- Bình diện thứ nhất là bình diện của biến cố khi được tường thuật.
- Bình diện thứ hai là bình diện thần học về việc Chúa mạc khải Thần Khí của Người.
- Bình diện thứ ba là ý nghĩa xã hội học của biến cố.
Trước hết, về bình diện tường thuật biến cố thì câu chuyện được kể đơn sơ, dễ hiểu: "Sau biến cố bánh hóa nhiều, Chúa Giêsu truyền cho các tông đồ xuống thuyền sang bờ bên kia. Còn Người thì ở lại giải tán dân chúng, rồi lên núi cầu nguyện. Ðến khuya, Chúa đi trên mặt biển đang bị động để đến với các tông đồ".
Nhưng nếu nhìn biến cố trong viễn tượng việc Chúa mạc khải chính mình thì biến cố mang một đặc điểm mới. Chúa Giêsu có quyền trên mọi biến cố thiên nhiên. Câu nói của Chúa: "Thầy đây, đừng sợ!" nhắc lại công thức Thiên Chúa mạc khải chính mình bằng lời quả quyết: "Ta là Ðấng Ta là".
Ý nghĩa xã hội học được trình bày qua hình ảnh con thuyền tượng trưng cho Giáo Hội Chúa. Thuyền gặp bão, Giáo Hội Chúa gặp thử thách. Nhưng Chúa Giêsu không để cho các tông đồ một mình chống lại với bão táp, không thể để cho Giáo Hội một mình gặp thử thách: "Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Chúa muốn cho các tông đồ luôn kiên trì trong đức tin, đừng lo sợ mê man. Chúa đến với các tông đồ, Chúa đến với Giáo Hội trong cơn thử thách. Chúng ta hãy để cho Chúa đến với chúng ta và hiện diện với chúng ta mãi mãi.
Lạy Chúa, Ðấng đã kêu gọi mọi người "Ðừng sợ".
Xin thương củng cố đức tin chúng con trong những lúc gặp gian nan thử thách.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Tôi Tin
Thấy Người đi trên mặt biển các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!”, và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm chính Thầy đây đừng sợ!” Ông Phê-rô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!” Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt. 14, 26-30)
Phêrô
Mọi chú ý đổ dồn vào một nhân vật: Phêrô. Ông là tông đồ thứ nhất. Ông nói, làm nhân danh các bạn khác. Hơn nữa, ông là người thứ nhất trong các kẻ tin. Ông tỏ vẻ rất linh hoạt và diễn xuất niềm tin xuất sắc. Ông mạnh mẽ và hiên ngang tuyên bố những lời kêu gọi và lôi cuốn con người. Đó là khát vọng sâu xa hướng về mình, ở bên mình, ở với mình. Đó là bước đường dẫn tới hố sâu vì được người ta tin cậy và yêu mến. Thế rồi, khi lòng tin cậy yếu đuối, lập tức kéo theo sự mất sức căn bản và những nguy khốn tứ bề ập tới làm mình run sợ mất lòng trông cậy. Lúc đó mình là mồi ngon cho các thế lực đe dọa, nếu mình không tìm ngay đến bàn tay của Thầy đến cứu vớt. Có lòng trông cậy, có lòng tin, nhưng quá hèn mọn, quá yếu ớt thì đừng bo bo cậy mình. Chỉ có đức tin vô điều kiện mới mong dẫn dắt các bạn một cách chân chính mà thôi. Điều xảy ra với tông đồ thứ nhất là Phêrô, luôn là gương mẫu cho tất cả những kẻ tin tưởng.
Giáo Hội
Giáo hội toàn thể luôn luôn ở trước tôn nhan Đức Giêsu. Giáo hội đã được bảo đảm thắng vượt mọi gian nan thử thách, có đủ khả năng thoát khỏi mọi nguy biến. Giáo hội biết mình được bảo đảm không bao giờ bị đắm chìm tan biến theo chiều dài của lịch sử ở điều kiện nắm vững đức tin.
Một đức tin đơn sơ
Những câu cuối cùng của đoạn Tin mừng này nhắc nhở chúng ta bài học về Phêrô bước đi trên mặt biển: một bài học về đức tin đơn sơ, không giải thích. Một đức tin biểu lộ bằng cử chỉ, bằng chỉ cần động đến gấu áo Chúa, nhưng đã diễn tả mọi rung động của con tim. “Nếu anh không trở nên trẻ nhỏ…”. Nếu đức tin không như thế, chúng ta phức tạp hóa đức tin của chúng ta, đức tin sẽ mất sức mạnh, mất sức sống! Ước chi chúng ta hãy hết lòng nói với Chúa: “Lạy Chúa, con tin”.
JM
Suy Niệm 5: HÃY VỮNG TIN VÀO CHÚA
Xem lại CN 19 TN A, CN 6 PS C,
lễ Cung Hiến Đền Thánh Phê-rô và Phao-lô, ngày 18 tháng 11.
Trong cuộc sống, nơi xã hội hôm nay luôn có những bất trắc. Nào là chuyện “cá lớn nuốt cá bé”; hay “ma mới bắt nạt ma cũ”; hoặc “chân lý thuộc về kẻ mạnh”. Một xã hội như thế, người ta lấy thước đo để đánh giá vấn đề, sự kiện... dựa vào tiền và quyền... Vì thế, không lạ gì khi vẫn còn đó tình trạng áp bức, bất công với người lương thiện và thấp cổ bé họng!
Đứng trước thực trạng ấy, chúng ta không thể không đặt ra câu hỏi: “Thiên Chúa ở đâu?”; “Ngài có thực sự hiện hữu không?”; “Nếu có, tại sao lại có chuyện con người thay Trời hành đạo như vậy?”.
Hôm nay, bài Tin Mừng tường thuật việc các môn đệ đang trên thuyền để đi sang bờ bên kia. Trong lúc các ông trèo thuyền ra xa, thì gió lớn nổi lên, khiến các ông lo sợ. Đúng lúc đó, Đức Giêsu hiện đến mà các ông không nhận ra Ngài. Vì thế, trong cơn hốt hoảng, các ông đã la lên: “Ma đấy”. Thấy vậy, Ngài đã trấn an các ông và nói: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!". Tuy nhiên, chưa tin và vẫn còn nghi ngờ, nên Phêrô đã thử liều một phen mang tính thách thức: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài".
Sự kiện Đức Giêsu đi trên mặt biển để đến với các môn đệ và việc cho Phêrô đi trên mặt nước với Ngài giúp cho chúng ta hiểu rằng: Chúa vẫn luôn còn đó trong cuộc đời. Mọi khó khăn thử thách, Ngài luôn có mặt, chỉ có điều chúng ta có một đức tin đủ mạnh để vượt qua mọi khó khăn và có đủ độ nhạy bén để nhận ra Ngài hay không mà thôi!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học: nếu có niềm tin và tín thác vào Chúa trong sự khiên tốn thì sẽ được Chúa thương.
Mong sao trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy nhớ đến câu nói của Đức Giêsu khi xưa: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!".
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của chúng con nhiều khi hoang mang và sợ hãi chẳng kém các môn đệ của Chúa là bao! Nhưng như các môn đệ, các ngài đã tin vào Chúa và được Chúa cứu, thì xin cũng ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con cũng được Chúa thương như các môn đệ khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
02/08 Năm chiếc bánh và hai con cá
- Viết bởi Mt 14, 13-21
Năm chiếc bánh và hai con cá.
Chúa Nhật 18 Thường Niên năm A.
"Mọi người đều ăn no".
Lời Chúa: Mt 14, 13-21
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó, xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người. Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ.
Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Đây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi, xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn".
Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". Các ông thưa lại rằng: "Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Người bảo các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy".
Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn.
Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – A 2014
Lời Chúa: Is. 55, 1-3; Rm. 8, 35.37-39; Mt. 14, 13-21
Suy Niệm 1: Anh em hãy cho họ ăn
(Lm Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Khi nghe tin Gioan bị giết, Đức Giêsu rút lui.
Ngài rút lui vì chưa đến Giờ của Ngài (Mt 12,15).
Nhưng dân chúng đã đến nơi mà thuyền Ngài sắp cập bến.
Thấy họ, Ngài chạnh lòng thương và chữa những người bệnh.
Nơi thì hoang vắng, trời đã ngả về chiều,
các môn đệ xin Ngài cho đám đông đi mua đồ ăn.
Nhưng Đức Giêsu đã làm cho họ chưng hửng khi nói:
"Chính anh em hãy cho họ ăn."
Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá,
làm sao họ có thể cho đám đông này ăn được?
Các môn đệ thú nhận giới hạn của mình.
Họ chỉ có thế, nên không làm được điều Thầy muốn.
"Hãy đem lại đây cho Thầy."
Ngài cần đến phần đóng góp nhỏ nhoi của chúng ta,
Ngài cần chúng ta trao cho Ngài tất cả những gì mình có,
tất cả những gì chính chúng ta đang cần:
năm cái bánh và hai con cá.
Chúng ta nên nhìn lại đường đi của những tấm bánh:
từ tay các môn đệ đến tay Đức Giêsu,
từ tay Đức Giêsu nâng cao dâng lên Cha,
rồi trở lại tay các môn đệ,
và cuối cùng đến tay của từng người trong đám đông.
Chúng ta tự hỏi phép lạ đã xảy ra ở trên tay ai.
Tin Mừng không nói Đức Giêsu đã làm phép lạ
để có một đống bánh và cá thật to,
rồi các môn đệ cứ đến lấy mà phân phát.
Tin Mừng chỉ nói Ngài bẻ bánh trao cho họ,
rồi chắc họ phải bẻ ra để chia cho đám đông,
và có lẽ những người trong đám đông
cũng đã bẻ tấm bánh của mình để chia cho người khác.
Chẳng mấy chốc, ai cũng có bánh ăn.
Như thế, những tấm bánh từ tay Đức Giêsu đã được bẻ ra, trao đi và hoá nhiều.
Đó là cốt lõi của phép lạ.
Có thể các môn đệ và dân chúng đã góp phần của họ:
bẻ ra, trao đi và hoá nhiều.
Đây là phép lạ quan trọng vì có đông người chứng kiến,
vì được cả bốn sách Tin Mừng kể lại,
và vì Chúa muốn nó được kéo dài đến tận thế:
bẻ ra, trao đi và hoá nhiều.
Hôm nay Đức Giêsu cũng mời chúng ta tham dự
để biết phép lạ không phải là chuyện viển vông.
Đừng sợ bẻ ra và trao đi sẽ làm hao hụt.
Nếu giữ lại, 5 chiếc bánh vẫn chỉ là 5 chiếc bánh.
Hãy nhìn đến biết bao người đang cần bánh:
bánh mì, bánh sự thật, bánh tự do, bánh công bằng,
bánh yêu thương, cảm thông và tha thứ.
Đừng lo vì bạn không có chi nhiều.
Nếu bạn dám bẻ đôi những gì bạn đang có thì thế giới sẽ được no nê.
Gợi Ý Chia Sẻ
Hiến trao chẳng những không làm mình nghèo đi, mà còn làm mình được thêm giàu có, phong phú, trưởng thành. Bạn có kinh nghiệm trên đây không?
Đứng trước cơn đói của con người hôm nay, bạn có thấy mình bó tay không?
Họ đang đói điều gì hơn cả? Bạn có thể làm gì để giúp họ một cách cụ thể?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới chạy theo tiện nghi, hưởng thụ,
xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.
Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo,
xin cho con đừng thu tích của cải.
Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp,
xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.
Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống,
xin cho con biết xây lại niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,
xin cho con nghe được lời mời của Chúa:
"Các con hãy cho họ ăn đi."
Ước gì chúng con dám trao tất cả những gì chúng con có cho Chúa,
để Chúa trao tất cả những gì Chúa có cho chúng con và cho cả nhân loại.
Suy Niệm 2: Quan tâm tới cái đói
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã quan tâm đến cái đói cái khát, cũng như đến những khổ đau, bệnh tật là những sự kiện rất bình thường của thân phận con người. Từ đó chúng ta ghi nhận được những khác biệt cần suy nghĩ.
Trước hết là các tông đồ, những người đã từng chứng kiến cách cư xử của Chúa Giêsu, thế mà các ông cũng chưa có được cái nhạy cảm của Ngài. Các ông đã đề nghị Ngài giải tán đám đông khi trời đã xế chiều, để mỗi người tự giải quyết lấy vấn đề cơm ăn thức uống của riêng mình. Bởi vì đâu có gì bắt buộc các ông phải giải quyết cho họ. Hơn nữa các ông là những người cộng tác với Chúa, có nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ, một nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả, chứ đâu có phải là ba cái chuyện tẹp nhẹp, vụn vặt là ăn và uống.
Còn Chúa Giêsu thì sao? Ngài đã phản ứng như thế nào? Tin Mừng cho chúng ta thấy giữa Chúa Giêsu và đám đông có một sự gắn bó mật thiết: Đám đông đói khát giáo huấn của Ngài. Họ đã đi theo Ngài ngay cả khi Ngài muốn lẩn tránh họ. Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ thấy được cái đói khát lời đem lại chân lý và sự giải phóng cho họ. Mà hơn thế nữa, Ngài còn thấy cả cái đói đang giày vò thân xác họ. Ngài không chỉ thấy suông, như một con người bàng quan. Trái lại, Tin Mừng đã ghi lại một chi tiết đầy ý nghĩa: Thấy đám đông, Ngài chạnh lòng thương xót và chữa lành những kẻ đau yếu. Ngài đã làm phép lạ cho 5 chiếc bánh và hai con cá hoá ra nhiều đến độ tới 5.000 người, không kể đàn bà và trẻ em, có thể ăn no mà còn dư tới 12 thúng bánh vụn.
Chúa đã chẳng làm phép lạ từ con số không, nhưng từ những chiếc bánh và những con cá, đang có sẵn là khẩu phần của một người nào đó đã biết tiên liệu mang theo mình. Dĩ nhiên lương thực ấy phải là kết quả của mồ hôi nước mắt, của lao công khó nhọc. Khẩu phần ấy giờ đây được bẻ ra và phân phát cho mọi người.
Thế giới hôm nay còn có những kẻ đói, còn có những dân tộc đói bởi vì có những chiếc bánh được giữ riêng cho những cá nhân, và không hề được bẻ ra để chia sẻ, để giúp đỡ. Chúng ta không có khả năng thực hiện được một việc làm ngoạn mục như Chúa Giêsu. Nhưng chúng ta luôn được mời gọi để chạnh lòng thương xót, để chia sẻ và quan tâm tới người khác, nhất là những kẻ nghèo đói. Chính mối quan tâm này sẽ giúp chúng ta dần dần tìm thấy cách thức giải quyết, bởi vì có rất nhiều cái đói chồng chất trong xã hội này: đói của ăn thiêng liêng, đói của ăn vật chất, đói tình thương, đói văn hoá, đói giáo dục, đói sự thật, đói chân lý, đói những quyền căn bản để làm người. Thế nhưng chúng ta đã làm được những gì để giải quyết phần nào những cái đói ấy cho bản thân cũng như cho những người chung quanh.
Suy Niệm 3: Bài học tiết kiệm
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Phép lạ “Hóa bánh ra nhiều” có nội dung phong phú về Thần học và Giáo lý Bí Tích Thánh Thể, đồng thời cũng chứa đựng rất nhiều bài học về Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, tình liên đới, sự cộng tác... Hôm nay xin được chia sẻ về bài học tiết kiệm.
1. Chúa dạy bài học tiết kiệm
Phép lạ hoá bánh ra nhiều được bốn thánh sử ghi lại cả trong bốn Phúc âm (Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và Maccô còn kể thêm lần thứ hai Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. (Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).
Lần thứ nhất, Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều; cả ba thánh sử Mátthêu, Máccô, và Luca đều ghi nhận: sau khi dân chúng được ăn bánh no nê, người ta đã không bỏ phí những mẫu bánh còn dư thừa nhưng “đã thu lại tất cả được mười hai thúng đầy” (Mt 14, 20; Mc 6,43; Lc 9, 17). Riêng thánh Gioan nhấn mạnh, chính Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các môn đệ: "Anh em (hãy đi) thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” (Ga 6,1-12). “Họ liền đi thu những miếng thừa…và được mười hai thúng đầy”.
Lần thứ hai, Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, người ta cũng thu lượm lại tất cả những mẫu bánh thừa, tất cả “được bảy thúng đầy” (Mt 15,37; Mc 8,8).
Năm ngàn người đàn ông không kể đàn bà con nít. Số người phải là đông lắm. Hơn cả chục ngàn người. Có ngàn ngàn chiếc bánh được phát ra. Bánh nhiều như vậy, tại sao Chúa Giêsu lại tiếc những miếng bánh vụn còn dư? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mãnh vụn: “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa kẻo phí đi”?.
Chắc chắn nguyên nhân của phép lạ hoá bánh ra nhiều là: “Ta thương đoàn dân này”, vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32).
Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn vì nó là phép lạ Chúa đã làm. Những phép lạ là tình thương,là ơn sủng,là ơn cứu độ của Chúa trao ban.Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo bông, khi tung vỡ trên bầu trời tạo thành trăm ngàn vụn nhỏ càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh được bẻ ra trên bàn thờ, bánh thánh nhỏ bé mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng và ơn thánh.Khi hiến lễ đền tội cho nhân loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra,vóc dáng Chúa Cứu Thế sụp xuống, đó cũng chính là lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra, chảy tràn kín vũ trụ.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo thu lại để dạy các môn đệ và chúng ta bài học tiết kiệm.
Những người vừa trải qua cơn đói, nay được một bữa no nê. Họ vất bỏ những mẫu bánh dư thừa. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẫu bánh thừa. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Tiết kiệm thể hiện sự quý trọng kết quả lao động của bản thân và của người khác.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn. Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sự sống, sức khoẻ,thời gian,tài năng,trí tuệ, tài nguyên đều là ân huệ được ban tặng,cần trân trọng nâng niu gìn giữ.Trong ơn sủng của Chúa không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm thường. Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên Thánh, con hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả niềm mến yêu của con” (ĐHV 814); “Nhìn cây cổ thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm năm trước nó đã khởi sự từ một hạt giống tí ti” (ĐHV 816); “Tự nhiên có ai lên đỉnh núi Hy mã lạp sơn được? Tự nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách, hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều ngày mới đạt được đích họ hy vọng”. (ĐHV 817).
2. Tiết kiệm và lãng phí
Tác giả Gã Siêu viết: “Muốn phát triển, phải cần kiệm. Đó là qui luật của muôn đời. Các nước văn minh đã sống qui luật này một cách nghiêm ngặt và chặt chẽ”.
Ở bên Mỹ, trong các trường tiểu học, người ta đã dạy cho con nít biết: Muốn có một đồng thì phải bắt đầu từ một xu; Muốn có một triệu thì phải bắt đầu từ một đồng. Ở bên Nhật cũng vậy. Trong các gia đình, người ta luôn nhắc nhở con cái sống theo phương châm: Mua gì ăn nấy; Ăn đâu hết nấy; Không để thừa mứa, lãng phí. Ở bên Israel cũng thế. Vào các nhà hàng, khách sạn, người ta không thấy đồ ăn thức uống để dư. Ngay tại các bến xe, bến tàu đều có những khẩu hiệu: Hãy tiết kiệm điện; Hãy tiết kiệm nước… Tại các công sở và xí nghiệp, để trừ khử thói lề mề, người ta trừ ngay vào lương những ai đến làm việc chậm trễ.
Thấy người mà nhớ tới ta.
Trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”, tác giả Phạm Đình Nghiệp đã đưa ra một vài trường hợp lãng phí điển hình.
Trước hết, đó là việc lãng phí sức người, được thể hiện dưới nhiều dạng vẻ khác nhau: thất nghiệp, lao động trái ngành, chéo nghề được đào tạo, sử dụng nhân lực bất hợp lý, nhân tài không được trọng dụng, chảy máu chất xám… Tiếp đến là việc lãng phí tài sản, tiền bạc của dân và của nước. Người ta sẵn sàng tiêu phí hàng chục triệu đồng “của chùa” cho một đêm liên hoan gặp gỡ hay chia tay nào đó.
Việt Nam chúng ta là một đất nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người vào loại thấp nhất, nhưng đã “hội tụ” được đủ mặt các loại bia ngon nhất. Trong nhiều cuộc “bù khú” nhậu nhẹt, người ta thi nhau không phải uống bia, mà là “gội bia”, “tắm bia” với hàng chục, thậm chí hàng trăm lít.
Hằng ngày chúng ta đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh lãng phí tiền bạc, làm nghèo cho dân cho nước. Cơ quan nào, xí nghiệp nào cũng cố xây cho mình những cơ sở bề thế và lộng lẫy.
Hễ có chức một tí là vội sắm cho mình những chiếc xe đời mới đất tiền, trang bị cho mình điện thoại di động, đúng với “mô đen” thời thượng mà nghênh ngang với đời.
Mới đây, trên báo “Tuổi trẻ cười”, có một bài mang tựa đề “hình như là lãng phí”, tác giả đưa ra một sự kiện…rất bình thường nhưng lại rất xót xa. Đó là bộ giáo dục năm nào cũng đổi mới, năm nào cũng cải cách, nên năm nào số sách giáo khoa mới in ra cũng được tha hồ đem bán ký.
Tác giả viết: “Ai ngờ đâu, tôi bỗng trở thành người thu gom giấy phế liệu để kiếm sống và đến nay tôi đã cân cả tấn sách giáo khoa còn thơm mùi giấy mới. Ở đủ mọi lớp, thuộc đủ loại môn học. “Vốn dòng họ “tiếc”, mỗi khi gặp loại sách mới này (mà gặp hoài), tôi đều lấy mẫu về cho con tôi, nhưng chúng lại bảo: Không phải loại sách của trường con (dù đúng cấp, đúng lớp của chúng). Nhìn lại bìa thì thấy là của bộ Giáo dục và năm xuất bản mới cách đó một hai năm mà thôi!!!
“Tôi nhớ ngày xưa, khi anh tôi vào lớp 12, tôi vẫn xài sách lớp 7 của anh ấy để lại. Và khi tôi lên lớp 12, tôi vẫn xài sách anh ấy đã xài mà không có trở ngại gì và vẫn “anh dũng” thi đậu, cha mẹ vui mừng khỏe re… Ôi sao mà dễ dàng tiện lợi và đỡ tốn kém quá cho cho mẹ và lớp học sinh thập niên 60, 70.
“Tôi đã qua cái cảnh ba ngày ròng đi tìm một cuốn sách học cho đứa cháu mới lớp 4. Nhiều lần nhịn ăn nhịn uống để dành tiền mua sách học cho con và bây giờ đứng trước hằng trăm ký sách giáo khoa chưa có tay người lật mà đành cân ký làm giấy gói đồ, hỏi sao không xót cho học sinh, phụ huynh đất nước?
“Tôi cũng rất ngạc nhiên phát hiện ra chỉ một môn học ở lớp 3, lớp 4 mà có đến ba, bốn thứ sách. Nào là quyển bài giải, bài mẫu … rồi quyển cho giáo viên … tất cả còn mới nguyên mà đem cân ký, không biết vì lý do gì và có lãng phí không?
“Năm nào đọc báo cũng thấy bộ giáo dục than thiếu tiền, thiếu giấy in, thiếu sách cho học sinh đến độ có những cuộc phỏng vấn tùm lum về vấn đề này. Ấy thế mà năm nào tôi cũng có dịp cân hết trăm ký lô này đến trăm ký lô khác sách giáo khoa … lòng tôi không khỏi cảm thấy bùi ngùi”.
Trên đây là những chuyện lãng phí của quí vị có chức, tai to mặt lớn. Còn trong phạm vi cá nhân, gã cũng nghiệm ra còn có nhiều loại lãng phí khác nữa, mà chính bản thân gã cũng đã từng mắc phải. Gã chỉ xin đưa ra một thí dụ điển hình mà thôi, đó là lãng phí thời gian.
Người Tây thì bảo: Le temps, c’est l’argent. Thời giờ là bạc. Còn người Tàu thì nói: Nhất thốn quang âm nhất thốn kim. Một tấc thời gian là một tấc vàng.
Thế nhưng, lắm lúc người ta đã không ý thức được sự quí giá của thời gian nên đã lãng phí nó một cách lãng xẹt.
Nơi gã đang cắm dùi là một thị trấn chỉ nhỏ bằng chiếc móng tay, thế mà có đến mấy chục quán cà phê. Đường nào cũng có, góc phố nào cũng có. Bất kể sáng, trưa, chiều và tối, hễ đặt chân ra đường hay xuống phố, đều thấy quí vị thanh niên ngồi thiền ở trong những quán ấy. Đáng lẽ ra: Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên.Thế nhưng, quí vị này lại chẳng biết làm gì cả, ngoài việc giết thời giờ trong quán, nhấm nháp vị đắng cà phê và đốt những điếu thuốc, lim dim thả hồn theo khói, ra dáng siêu nhân hay người cõi trên chi đó.
Tiếp đến là quán nhậu. Mỗi bữa nhậu kéo dài hai ba tiếng đồng hồ, quả là lãng phí. Hồi xưa thấy một kẻ say xỉn ngoài đường phố quả là chuyện họa hiếm, còn hôm nay lại là chuyện thường ngày ở huyện. (Nguồn: dunglac.org).
Lafontaine kể câu chuyện ngụ ngôn. Con ve sầu suốt mùa hè chỉ biết ca hát, khi mùa đông trở về gió bấc thổi tới, nó bị chết đói. Trong khi đó dòng họ nhà kiến, suốt ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt gạo, dù có mưa bão hay lạnh giá, đời sống vẫn được bảo đảm an toàn.
3. Cần phải tiết kiệm
Linh mục Nguyễn Hồng Giáo viết: “Ý thức về tiết kiệm (một hình thức của sống nghèo) nói chung còn kém nơi tu sĩ, chủng sinh và linh mục ngày nay. Có vẻ như nhiều người không coi đó là chuyện quan trọng, được nhắc nhở thì để ý, xong rồi lại đâu vào đó, rất khó “đưa vào bộ nhớ”. Trời không lấy gì làm nóng, nhưng hễ vào phòng là mở quạt máy. Nhiều khi tập vở viết chưa hết, cái áo, cái quần, đôi dép cũ còn dùng tốt được nhưng đã bị phung phí vất đi. Cả một chồng sách báo cũ có thể để cho người thu mua đồ vụn hay ít nhất đưa cho nhà bếp làm mồi lửa, vẫn đem đốt một cách “vô tư”. Từ xưa, tục ngữ Việt Nam có câu: xài của chùa. Nghĩa là xài mà không phải trả tiền nên cứ việc thoải mái, khỏi cần chừng mực, tiết kiệm. Và cha chung không ai khóc, của chung không ai quan tâm. Tâm lý đó không chỉ phổ biến nơi cán bộ công chức (như được phản ánh trên Tuổi Trẻ) mà cả nơi quần chúng nhân dân và … trong các tập thể Giáo Hội ta nữa. Trong nội bộ chúng ta cũng có những lãng phí rất quen thuộc. Như khi làm thiệp báo tin một lễ mừng nào đó, người ta thích in thật hoành tráng (giấy sang, in hai ba màu…) dù biết rằng người nhận coi xong là bỏ.
Thật tế nhị, nhưng tôi xin nói tới tiệc tùng trong giới Công giáo ta. Tiệc quá to, rất tốn kém và thường là thừa thãi. Nước ta xưa kia rất nghèo, người dân ăn không no, mặc không ấm nên rất chú trọng chuyện ăn uống. Tuy thế, hay chính vì thế mà lại có tâm lý coi miếng ăn là miếng nhục (muốn ăn lắm nhưng phải làm ra vẻ không cần để tránh làm cho người khác đánh giá mình vì chuyện ăn uống…). Tây phương thì khác. Họ giàu nên các tiệc tùng của họ thường rất đơn giản, chỉ dọn vừa đủ ăn. Ăn uống chỉ là một phần của cuộc họp mặt. Ở nước ta, dù đã bắt đầu có thay đổi, nhưng tâm lý chung của người Việt vẫn còn thích phô trương, thích giữ thể diện bằng vẻ hào nhoáng bên ngoài, đặc biệt trong tổ chức tiệc tùng, phải mâm cao, cỗ đầy, càng nhiều món càng sang cho dù biết trước là sẽ thừa mứa. Và tục lệ xã hội vẫn còn gây áp lực nặng nề. Có những lễ tạ ơn tân linh mục dọn bảy, tám chục mâm, thậm chí cả trăm và hơn nữa.
Thời nay việc truyền chức linh mục trở thành chuyện bình thường, có nên bình thường hoá việc ăn mừng không? Thay đổi một tục lệ xã hội là rất khó. Có khi chính người trong cuộc cũng rất ngại, rất lo khi phải tổ chức linh đình tốn kém, nhưng họ khó có thể làm “cách mạng” …! Tôi nghĩ nếu có một chủ trương chung nào đó từ trên xuống, - dòng tu, giáo xứ, địa phận - thì người giáo dân chắc sẽ chấp nhận. Đây mới chỉ nói tới tạ ơn tân linh mục, nhưng khấn dòng, lễ vàng, lễ bạc, các lễ kỷ niệm này nọ và lễ cưới cũng thuộc diện này. Giáo Hội Việt Nam có nên đi trước xã hội trong vấn đề này không? Nhờ cơ cấu tổ chức rất chặt chẽ và uy tín rất lớn của hàng giáo sĩ đối với giáo dân, thiết nghĩ nếu Giáo Hội quyết tâm và quyết liệt, cơ may thành công sẽ rất lớn. Đây cũng là nhiệm vụ giáo dục con người của Giáo Hội có thể làm ngay, không cần đợi đến khi được phép chính thức mở trường mở lớp. (Nguồn: nguoitinhuu.com).
Tiết kiệm khác với hà tiện, keo kiệt, bủn xỉn.
Tiết kiệm là biết sử dụng một cách hợp lý, đúng mức của cải vật chất, thời gian, sức lực của mình và của người khác. Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm tiền của.
Người Ý nói: Sự sung túc có được do hai bàn tay. Bàn tay này là tài năng, bàn tay kia là tiết kiệm. Người Thổ Nhĩ Kỳ bảo: Người ta trở nên giàu có, đó là do cần cù lao động và biết tiết kiệm trong chi tiêu.Tại nơi mở trương mục tiết kiệm ở các ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái ấp quả trứng vàng, có ý muốn nói những đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó sẽ sinh nhiều lợi lộc, sẽ đem lại cho chủ nhân những trái trứng bằng vàng.
Tiết kiệm đi chung với giản dị.
Sống giản dị là sống phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân, gia đình và xã hội. Người giản dị thì không xa hoa, không lãng phí, không chạy theo những nhu cầu vật chất và hình thức bề ngoài. Sống giản dị sẽ tiết kiệm được thời gian, tiền của, công sức để làm những việc có ích cho bản thân, cho gia đình và xã hội. Người tiết kiệm sẽ biết sống giản dị phù hợp với hoàn cảnh bản thân, gia đình, xã hội.
Việc nhỏ mà mỗi người chúng ta có thể thực hiện dễ dàng trong cuộc sống thường nhật, đó là sử dụng điện, nước, của cải vật chất một cách hợp lý, biết dùng thời gian vào những việc có ích và biết gìn giữ của công.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.
Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen (Mana).
Suy Niệm 4: Năm chiếc bánh và hai con cá
(Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Bước ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu đã tỏ lòng thương xót, ủi an, dậy dỗ, chữa lành và ban phát của ăn nuôi dân. Gặp những người cùng khổ và bệnh tật, Chúa xót thương chữa lành họ: Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ, và chữa những người bệnh tật trong họ (Mt 14,14). Chúa dậy dỗ và mở mang kiến thức để họ hiểu biết về mầu nhiệm Nước Trời và tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn yêu thương và quan phòng cho mọi loài thọ tạo. Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? (Mt 6,26).
Để tiếp tục ban phát ơn lành, Chúa Giêsu cần lòng quảng đại và sự góp phần nhỏ bé của chúng ta. Thánh Matthêô diễn tả: Các ông thưa lại rằng: "Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Người bảo các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy"( Mt 14,16). Chúa nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá nhỏ, Chúa đã đọc lời chúc tụng, tạ ơn và phân phát cho mọi người. Chúa ban cho dân đầy dư tràn trề và ăn uống thỏa thuê. Chúa Giêsu duỡng nuôi con dân bằng của ăn tinh thần và cả của ăn thể xác.
Năm bánh hai cá là biểu tượng nguồn tốt lành mà mỗi người chúng ta đang sở hữu. Mỗi cá nhân đều có một kho tàng vô giá ẩn sâu trong tâm hồn. Tôn giáo giúp chúng ta khơi dậy những tâm tình, những ân huệ và những khả năng được trao ban.
Chúng ta không thể nói rằng chúng ta không có gì để cho đi. Mỗi người có cả một kho tàng tình yêu, sự cảm thông, tình xót thương và lòng quảng đại. Cái gì cũng có thể cho được, chúng ta có thể cho đi một nụ cười thân thiện, một lời nói êm nhẹ, một cử chỉ yêu thương, một thái độ tử tế, một ánh mắt thông cảm, một vòng tay ấm áp, một tâm tình chia sẻ tế nhị và một chút bánh, một ly nước.
Khi chúng ta biết cho đi, chúng ta sẽ nhân đôi niềm vui cả vốn lẫn lời. Cho đi là làm giầu thêm cho chính mình. Khi lồng ngực còn thở và trái tim còn đập, chúng ta còn có cái để cho, cho đi niềm tin, niềm hy vọng và cậy trông. Càng cho càng có thêm. Xởi lởi trời lại cho mà.
Ngày xưa, khi đi giảng đạo tại những nước nghèo đói xa xôi, các nhà truyền giáo đã dùng mọi cách thế để đi vào lòng dân. Một trong những cách cụ thể, là lo cho dân có nơi ăn chốn ở, giúp đỡ, dậy dỗ và dùng thuốc thang chữa lành bệnh tật. Có nhiều người theo đạo vì: Theo đạo có gạo mà ăn. Điều này không sai, nhưng nếu lạm dụng sự giúp đỡ thì mất đi ý nghĩa của việc truyền đạo. Chúng ta thường nghe nói: Có thực mới vực được đạo. Đúng vậy, con người không sống trên mây trên gió, mà là cuộc sống cụ thể chân chạm đất. Những nhu cầu thể xác về ăn mặc không thể thiếu. Không phải ngày xưa khi mơi truyền đạo, mà cả ngày nay cũng thế, những nơi vùng sâu vùng xa nghèo đói cũng cần sự trợ giúp về cái ăn cái mặc. Không thỏa mãn nhu cầu thể xác thì khó có thể tập trung cầu nguyện, thờ phượng và trau dồi kiến thức văn hóa về đạo giáo hay về xã hội.
Ở Ấn Độ, người dân bị phân biệt giai cấp, những người cùng đinh nghèo đói và bị khinh bỉ. Mẹ Têrêxa đã phục vụ lâu năm tại đây. Mẹ đã lập nhiều nhà Tế Bần. Có nơi, các chị Dòng Bác Ái mỗi ngày phải lo phục vụ cả 9 ngàn người ăn. Một ngày không nấu là một ngày họ không có gì ăn. Vào ngày nọ, có một cặp vợ chồng mới cưới đến thăm và dâng cúng món tiền lớn. Mẹ Têrêxa hỏi: Ở đâu anh chị có món tiền lớn thế? Anh chị trả lời: Họ mới cưới nhau được hai ngày. Chúng tôi quyết định không tổ chức đám cưới vì muốn dành số tiền này để nuôi người nghèo. Mẹ hỏi: Tại sao anh chị lại muốn làm như thế? Họ trả lời rằng vì chúng tôi yêu nhau và muốn bắt đầu cuộc sống hôn nhân với hành động hy sinh này. Biết rằng họ thuộc hàng quý phái. Cử chỉ thật đẹp từ cõi lòng.
Tu thân tích đức là hướng nội. Từ bi hỉ xả và từ thiện bác ái là hướng ngoại. Khi có nội công thâm hậu, thì con người sẽ có sức mạnh phi thường. Ý chí là nguồn sức mạnh. Không phải mọi người to lớn, khỏe mạnh và cường tráng là người có nội lực thâm sâu. Ý chí giúp con người thành nhân và thành thánh. Vị thánh nào cũng có một ý chí kiên cường. Vị thánh nào cũng biết xả thân và cho đi. Cho đi mà không cạn kiệt. Cho đi là hướng ra tha nhân. Càng xả thân càng làm cho sự hiện hữu của mình thêm phong phú. Các thánh nhân đã cho đi không ngừng để làm giầu cho tha nhân và cho chính mình. Chúa Giêsu xuống trần gian, Ngài cho đi với cả trái tim yêu thương, sự tha thứ, thông cảm, chữa lành, sự bình an và cả mạng sống của chính Ngài.
Khi Chúa Giêsu chữa lành, Chúa chữa tận căn và bệnh tật chấm dứt. Khi Chúa ban của ăn, Chúa ban dư tràn. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14,20). Khi Chúa yêu thương, Chúa hiến cả thân mình đến giọt máu cuối cùng. Chúa không ban ơn nửa vời.
Bước theo Chúa, Chúa cũng đòi hỏi một sự dứt khoát: Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được (x. Lc 14,33).
Xem ra sự đòi hỏi của Chúa không dễ. Làm sao chúng ta có thể từ bỏ hết những gì chúng ta có? Chúng ta thường tìm cách tránh né vấn đề và nêu ra nhiều lý do để chối từ. Các tông đồ xưa đã thực hành lời Chúa một cách triệt để. Các ngài sống trọn vẹn lý tưởng và chết cho sứ mệnh của mình. Thánh Phaolô đã lên tiếng nói rằng: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gal 2,20).
Chúa trao quyền năng cho các tông đồ và sai các ngài ra đi trong tin yêu và phó thác: Đi đường, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn (x. Mt 10,10).
Tôi nghe kể các tu sĩ Dòng Tên trong những năm huấn luyện tập tu. Mỗi tu sĩ ra đi vào đời trong một tháng thử thách, họ không được mang theo đồ dùng tiền bạc. Họ phải tự lo liệu tất cả, khát xin uống, đói xin ăn, tự tìm nơi ăn chốn ở và mọi nhu cầu thể xác tự giải quyết. Sống hoàn toàn trong sự phó thác nơi Chúa và cậy nhờ lòng tốt người khác. Trong những ngày lang thang giữa chợ đời, cũng có khi các tu sĩ bị xua đuổi, bị khinh rẻ, bị nghi ngờ và bị coi là kẻ ăn bám xã hội. Luyện tập nhân đức cần trải qua những gian truân và nhẫn nại sẽ giúp họ trưởng thành trong đời sống phục vụ sau này.
Thiên Chúa quan phòng cho mọi loài thảo mộc sinh hoa trái và ban nguồn thực phẩm để dưỡng nuôi con người trong thiên nhiên. Trong lịch sử cứu độ, một đôi khi Thiên Chúa can thiệp ban phát ân sủng trực tiếp như nước uống, Manna và chim cút cho dân Do-thái suốt hành trình lữ hành trong hoang địa. Nay Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nhiều để nuôi dân. Bánh và cá là hình ảnh của bánh hằng sống mà Chúa sẽ ban chính là Mình và Máu Thánh Chúa. Chúa Giêsu đã chọn chính bánh rượu là của ăn hằng ngày để hiến thánh. Khi bánh rượu được hiến dâng trên bàn thờ, qua lời truyền phép của linh mục, bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần, bánh rượu đã trở nên Mình và Máu Thánh Chúa để dưỡng nuôi toàn dân. Của ăn thần lương này đã giúp thỏa mãn mọi khát khao của con người dẫn vào cuộc sống đời đời.
Chúa ban cho dư tràn nhưng Chúa cũng nhăc nhở con người không được phung phí. Sau khi dân chúng ăn no thỏa, Chúa kêu gọi mọi người thu dọn: Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn (x. Mt 14,20).
Không một ân huệ nào là vô ích. Dù là một chút ít miếng vụn, đó cũng là hồng ân. Trong thế giới chúng ta đang sống, đang có biết bao nhiêu người lên giường ngủ mà bụng còn đói, trong khi nhiều người ăn uống thừa thãi và hoang phí. Xã hội bất công đưa dẫn đến con người tham lam và ích kỷ. Chỉ muốn gom góp và làm giầu cho chính mình. Chúng ta biết rằng thu vào là tiêu hao và tan biến. Có biết bao nhiêu nguồn sung túc của thế giới đã bị chiếm đoạt bất công. Có những người sống như nhà phú hộ giầu có, hằng ngày yến tiệc linh đình, trong khi bên cạnh nhà có Lazarô đói khổ, bệnh tật và thèm khát chén cơm thừa mà chẳng ai cho. Câu truyện đời như thế vẫn xảy ra hằng ngày. Hậu qủa thưởng phạt ngày sau tách biệt mỗi người một nơi.
Năm bánh hai cá là vốn liếng mà mỗi người chúng ta có được. Chúng ta đừng đem chôn vùi, nhưng hãy trao tặng lại cho Chúa, để Chúa biến hóa ra nhiều phân phát cho mọi người. Mỗi người hãy cùng chung góp khả năng, sức lực, của cải và thời giờ để sinh hoa kết qủa trong cuộc sống này. Không có một cuộc sống nào là vô ích. Ai cũng có thể góp phần làm tốt cho xã hội và Giáo Hội.
Lạy Chúa, xin khơi dậy kho tàng ân sủng trong lòng con, để chúng con biết đem ra phân phát và chia sẻ với mọi người.
Tất cả là hồng ân!
Chúng con cảm tạ danh Chúa đến muôn ngàn đời.
Suy Niệm 5: Chính anh em hãy liệu cho họ ăn
(Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Các Chúa Nhật trước, Chúa Giêsu đã loan báo Nước Trời. Ngài cho hay rằng Nước Trời bắt đầu rất nhỏ bé nhưng cứ từ lớn dần đến nỗi không ai có thể hiểu nổi tại sao Nước Thiên Chúa lại lớn mạnh đến thế! Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay nhờ các tông đồ cộng tác với Ngài để Ngài huấn luyện các ông tham gia vào việc thành lập Giáo Hội ở trần gian…
Tin Mừng diễn giải khi được tin ấy, nghĩa là khi nghe kẻ gian ác là Hêrôđê, người đã giết Gioan Tẩy Giả, nhắc tới tên của mình, Chúa Giêsu bỏ nơi đó, lánh đi nơi khác vì chưa tới giờ Ngài được tôn vinh. Chúa Giêsu thường đi vào nơi hoang vắng, yên tĩnh trước mỗi sự việc, biến cố xảy ra với dân chúng và đặc biệt khi người Pharisêu phản kháng lại lời rao giảng của Ngài hay sự cứng đầu cứng cổ, sự cứng tin của dân chúng, để cầu nguyện, tâm sự và lãnh ý Thiên Chúa Cha. Khi thấy đám đông dân chúng đi theo Ngài, Chúa Giêsu thương họ, Ngài không nỡ lòng nào để họ ra đi bụng đói. Do đó, Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ tham gia vào việc lo cho dân, dù rằng các ông ngại vất vả, ngại không có giờ nghỉ ngơi, và nếu không có Chúa, các ông chẳng làm được gì cả… Chúa muốn các ông cộng tác, tham gia vào công việc của Chúa. Câu: “… trao cho các môn đệ, để các ông phân phát cho dân”, cho chúng ta hiểu rõ Chúa mời các môn đệ cộng tác vào phép lạ của Chúa. Cử chỉ của Chúa Giêsu giờ này, khiến chúng ta liên tưởng tới Bí tích Thánh Thể mà Chúa sẽ thiết lập trong Bữa Tiệc Ly chiều ngày thứ năm tuần thánh.Chúa Giêsu cho các môn đệ cộng tác vào việc Chúa làm là tìm bánh, và cá để Chúa làm phép lạ. Các môn đệ lãnh nhận trước, rồi trao lại cho dân, sau đó thu những thứ còn sót lại (Mt 14,20). Những điều các môn đệ làm lúc này, làm chúng ta liên tưởng đến các ngài là trung gian ban phát các bí tích trong Giáo Hội. Trong đoạn này, thánh Matthêu muốn ám chỉ Chúa Giêsu là Môsê mới, cho dân chúng ăn no nê (Xh 16).
Chúa Giêsu với tấm lòng thương xót bao la, tình thương vô biên, Ngài đã không để dân chúng đi theo Ngài, nghe Ngài giảng dạy bị đói, bị khát. Ngài đã làm cho năm chiếc bánh và hai con cá hóa nên nhiều để nuôi dân chúng. Tình thương, lòng nhân từ của Chúa vẫn tồn tại tới ngày hôm nay và cho tới muôn thế hệ. Hôm nay, Ngài không làm phép lạ như xưa, nhưng Ngài đã dùng Lời của Ngài nuôi dưỡng Giáo Hội, dùng Giáo lý của Ngài hướng dẫn Dân Chúa để qua Giáo lý, qua Lời yêu thương, bác ái, qua sự soi trí lòng con người, qua tác động của Chúa Thánh Thần, con người sẽ làm ra lương thực, của cải, sẵn sàng chia sẻ với tha nhân, với người nghèo. Mười hai tông đồ của Chúa lúc xưa không làm phép lạ như Chúa để nuôi dân, nhưng lãnh nhận bánh, cá từ tay Chúa, phân phát cho dân, nuôi dân. Ngày nay, các môn đệ của Chúa không làm được phép lạ hóa bánh, cá ra nhiều để nuôi dân, nhưng bằng Lời Chúa, bằng Giáo lý, các môn đệ của Chúa loan truyền để người người cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa, để người người được hạnh phúc vì có Thiên Chúa là Cha, là Đấng nhân từ giầu lòng thương xót v.v… Chúa luôn luôn mong muốn con người được hạnh phúc, được có cơm ăn, áo mặc. Chúa luôn soi sáng, nuôi dưỡng con người bằng Lời Chúa và bằng sự trợ giúp của ân sủng của Ngài.
Xin mượn lời của Henri Caro để kết luận bài chia sẻ này: “Đức Giêsu nghe tiếng kêu của đám đông. Khi họ xin bánh, Người biết họ đói một thứ khác, đói một tình yêu trung thành để cho và để nhận. Người cho một dấu hiệu khác: thứ bánh Người ban làm thỏa tất cả mọi cơn đói, và khi mọi người đã no nê thì còn dư lại mười hai thúng, đủ để nuôi cả dân Israel. Bánh này một ngày kia sẽ là Mình Người, sẽ vì yêu mà bị nộp vào tay loài người”.
“Anh em hãy cho họ ăn” (Mt 14,16). Đây là lời kêu gọi cho ngày hôm nay. Giờ đây, đến phiên chúng ta phải nuôi sống các đám đông, bằng cách chia sẻ cơm bánh của chúng ta và làm chứng cho đức tin của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết luôn quảng đại chia sẻ cơm bánh, và tình thương cho những người khác vì chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời. Amen.
Suy Niệm 6: Tấm bánh liên đới
(TGM. Ngô Quang Kiệt)
Bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng rất nhiều bài học. Như về Nước Trời, về Dân Thiên Chúa, về bí tích Thánh Thể. Nhưng có lẽ bài học thiết thực nhất cho chúng ta hôm nay là bài học liên đới. Đó cũng chính là bài học Chúa muốn dạy cho các môn đệ của Người.
Liên đới là biết cảm thương. Nhìn thấy đám đông, Chúa Giêsu chạnh lòng thương. Đó là một đám đông nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, bơ vơ không người chăn dắt. Đám đông tội nghiệp đi tìm Chúa không phải chỉ để được ăn no, nhưng còn để được chữa lành bệnh, nhất là được an ủi, được dạy dỗ, được chỉ bảo. Khi chạnh lòng thương, Chúa Giêsu dạy ta hãy nhìn những người chung quanh bằng ánh mắt liên đới. Những người này đói vì tôi đã ăn quá nhiều. Những người kia rách vì tôi đã mê mải đuổi theo “mốt”. Những đứa trẻ này hư hỏng vì tôi đã thiếu quan tâm chỉ bảo. Những đứa trẻ kia rơi vào tội phạm vì tôi đã không làm gương tốt cho chúng. Thế giới này chưa tốt một phần có trách nhiệm của tôi. Thế giới này chưa công bằng trong đó phần lỗi của tôi.
Liên đới là nhận lấy trách nhiệm. Các môn đệ đã nhìn thấy đám đông đói khát. Các ngài muốn thoái thác, phủi tay: “nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi, vậy xin Thầy giải tán đám đông, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn”. Đó là một giải pháp hợp lý. Lo cho năm ngàn người ăn là ngoài tầm tay của các môn đệ. Đó cũng là giải pháp nhẹ nhàng. Ai lo phần nấy. Thật dễ dàng. Nhưng đó là giải pháp không được Chúa chấp nhận, vì thiếu tình liên đới. Chúa muốn các môn đệ Chúa nhận lấy trách nhiệm: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy lo cho họ ăn”. Họ đói, các con phải lo cho họ ăn. Một trách nhiệm nặng nề vượt quá sức các môn đệ. Nhưng đã cảm thương thì phải có trách nhiệm. Trái tim cảm thương thật sự phải hướng dẫn bàn tay làm việc.
Liên đới là đóng góp phần của mình. Chúa không cần những phép tính vĩ mô. Năm ngàn người thì cần bao nhiêu bánh? Những tính toán lớn lao là không thực tế và làm ta lo sợ. Chúa dạy các môn đệ khởi đi từ thực tế: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá”. Thật là ít ỏi, nghèo nàn. Nhưng Chúa không chê cái ít ỏi nghèo nàn đó: “Đem lại đây cho Thầy”. Có ít hãy đóng góp ít. Nhưng quan trọng là phải bắt đầu, là phải góp phần của mình. Liên đới không đòi ta phải quán xuyến mọi sự, nhưng đòi ta thật sự có trách nhiệm, góp phần của mình vào việc chung.
Liên đới là chia sẻ. Chúa chúc tụng để làm phép bánh và cá như cho ta thấy, những đóng góp dù ít ỏi của ta đã thành thiêng liêng cao quí. Chúa không làm phép lạ tức khắc biến ngay cá và bánh ra một núi lương thực cho người tự do đến lấy. Chúa cũng không tự tay phân phát lương thực cho mọi người. Chúa trao bánh và cá cho các môn đệ. Các môn đệ trao cho mọi người. Và mọi người trao lại cho nhau. Đó là bài học lớn của phép lạ. Chính khi mọi người trao cho nhau, Chúa làm phép lạ. Bánh và cá cứ tiếp tục sinh sôi bao lâu những bàn tay còn trao nhau. Bánh và cá vẫn tiếp tục nhân lên bao lâu mắt con người vẫn còn nhìn nhau. Những tấm bánh của tình liên đới. Những đàn cá của sự chia sẻ. Chúng nhân lên theo nhịp của trái tim. Khi trái tim chan chứa yêu thương, quan tâm, liên đới, lương thực trở nên phong phú, dư thừa.
Thế mà các môn đệ đã vội lo. Cũng như ta thường lo thế giới này quá chật hẹp không đủ chỗ cho mọi người. Cũng như ta vẫn thường lo lương thực trên thế giới không đủ nuôi mọi người. Hôm nay Chúa dạy ta mỗi người hãy chia sẻ những gì mình có thì thế giới sẽ dư thừa lương thực. Khi trái tim mở ra thế giới sẽ có đủ chỗ cho mọi người.
Lạy Chúa xin mở trái tim con để con biết cảm thương và chia sẻ. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tục ngữ Việt nam có câu: Nhiều no ít đủ. Bạn nghĩ gì về nét văn hoá Việt nam trong câu này. Có gần với bài Tin Mừng hôm nay không?
2) Càng cho đi càng phong phú. Bạn cảm nghiệm điều này bao giờ chưa?
3) Ta có trách nhiệm với những người chung quanh. Những người nghèo chất vấn cách tiêu dùng của ta. Bạn có nghĩ thế không?
Suy Niệm 7: Cộng tác với Chúa
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hoá nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá. Theo thánh Gioan, thì số thực phẩm ít ỏi này là của một em bé. Em bé này đã trao cho Chúa tất cả và rồi hàng ngàn người đã được ăn uống no nê. Giá như em bé này đã không trao cho Chúa, thì có lẽ đám đông đã không được nuôi ăn giữa nơi hoang vắng khi trời đã về chiều. Từ hành động của em bé, chúng ta đi tới một kết luận, đó là hãy cộng tác với Chúa để xoa dịu nỗi đớn đau của người khác, cũng như để đem lại cho họ niềm vui mừng và hy vọng.
Có một hành khách vừa mới bước lên chiếc xe taxi, anh liền nói với bác tài xế: Bác lái giỏi quá. Bác tài nhìn anh và hỏi: Bộ anh định xỏ xiên tôi hả. Anh trả lời: Không phải vậy đâu, tôi khen bác thực mà. Bác tài mỉm cười, lát sau bác nói: Anh làm vậy với mục đích gì? Anh trả lời: Tôi muốn, đem lại tình yêu, niềm vui mừng và hy vọng cho những người sống quanh tôi. Tôi nghĩ rằng một khi bác cảm thấy vui, bác sẽ niềm nở với những khách hàng của bác. Rồi những người này cũng sẽ niềm nở với những người mà họ gặp. Như vậy, sự niềm nở và tử tế sẽ được trải rộng đến hàng trăm, hàng ngàn người. Lời nói của anh làm chúng ta nghĩ tới một câu danh ngôn: Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi đó mà rủa sả bóng đêm.
Trở lại với đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy em bé đã trao cho Chúa tất cả những gì mình có. Và Chúa đã chia sẻ quà tặng ấy cho hàng ngàn người. Như thế, mỗi người chúng ta đều có thể và phải trở thành dụng cụ cho Chúa thực hiện những phép lạ. Mỗi người chúng ta đều có thể và phải trở trở thành phương tiện cứu giúp cho hàng ngàn người.
Có một ngôi sao truyền hình nổi tiếng của Anh quốc đã trở lại Công giáo. Anh cho biết: Sở dĩ có cuộc đổi đời này là do ảnh hưởng của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh nói: Làm sao tôi có thể diễn tả được tôi đã mang ơm Mẹ như thế nào. Mẹ đã chỉ cho tôi thấy một Kitô giáo bằng hành động. Mẹ đã dạy cho tôi biết quyền năng của tình thương. Mẹ đã làm cho tôi xác tín: Một cá nhân giàu lòng khoan dung từ ái có thể khơi dậy cả một ngọn sóng thương yêu, để rồi ngọn sóng này sẽ ùa tràn vào thế giới.
Đó cũng là sứ điệp của đoạn Tin Mừng hôm nay: dù chỉ là một cá nhân, nhưng hành động của chúng ta vẫn có một tầm mức quan trọng và đáng kể, nếu chúng ta biết chia sẻ những gì mình có với Chúa, thì Ngài sẽ làm phần còn lại, là biến cái ít ỏi, nhỏ nhoi ấy trở thành hữu ích, đem lại hoa trái vượt quá điều chúng ta mong ước. Chúng ta hãy dâng cho Chúa mọi khả năng, vật chất cũng như tinh thần để tuỳ Ngài sử dụng. Và rồi Ngài có thể dùng chúng để làm những phép lạ.
Để kết thúc, tôi xin ghi lại nơi đây lời thơ của một thi sĩ: Lạy Chúa, con chỉ là một sợi dây, xin hãy biến con trở thành chiếc đàn. Con chỉ là một giọt nước, xin hãy biến con trở thành một dòng suối. Con chỉ là một tia lửa, xin hãy biến con trở thành một ngọn đuốc bùng cháy.
Suy Niệm 8: Chia sẻ cho người nghèo đói
(‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trại Trung tâm tiếp nhận người sắp chết ở Calcutta, Ấn Độ, một người nằm dài trên giường, xem ra không thể cử động được cánh tay. Người ta hỏi ông:
- Ông muốn ăn không? Vâng, muốn.
- Tên ông là gì? -Dinenraj (Đinh Văn Rao)
- Ông bao nhiêu tuổi? -Tôi chẳng biết.
- Tên ở đây bao lâu rồi?- Bốn hôm.
- Ông từ đâu đến? – Tôi ở ngoài đường phố.
- Ông mắc bệnh gì? – Bao tử tôi hoàn toàn thất bại, vì hoàn toàn trống không.
Người ta đem đến cho ông phần ăn của ngày lễ kỷ niệm 25 năm thành lập trung tâm, gồm có: cơm gà giò hầm với càri, khoai tây, sữa đặc, chuối và cam. Ông ăn một cách thèm khát và nhai rất kỹ từng muỗng đồ ăn.Ông mở miệng to để người ta cho ông ăn từng muỗng một. Khi ăn hết dĩa phần ăn, ông nằm duỗi tay chân như một đứa bé chuẩn bị ngủ.
Kể từ ngày được thiết lập (22/8/1952) trong 25 năm trung tâm đã tiếp nhận 36.000 người, trong đó 16.000 người “đã chết trong tay Chúa”. Trung tâm của những người hấp hối này điển bình cho nhiều ngôi nhà tương tự được các nữ tu Thừa Sai Bác Ái của Mẹ Têrêsa thành Calcutta điều khiển trên khắp thế giới. Các soeurs từng nghiêng mình với lòng kính trọng và yêu thương trên những thân xác gầy gò của những người đàn ông và đàn bà được lượm nhặt ngoài đường phố đưa về. Các soeurs từng mang lại cho những con người bị bỏ rơi này một ý thức nào đó về nhân phẩm, đồng thời truyền đạt cho họ về một thế giới bên kia khả dĩ lau sạch mọi nước mắt, xoa dịu mọi cơn đói, chữa lành những tâm hồn mang nặng nhiều thương tích. Lễ Ngân khánh của Trung tâm này tại Calcutta được tổ chức vào ngày lễ Các Thánh (1/11), là để nhắc nhớ con người về giá trị đời mình là biết qui về Thiên Chúa Tình Yêu.
Mẹ Têrêsa đã mời các bà đích thân đến, mang theo đồ ăn họ đã dọn sẵn ở nhà và tự tay phân phát cho các bệnh nhân nghèo. Mẹ có tài thu hút người thuộc đới trung lưu và thượng lưu không phân biệt tôn giáo tới tham gia công việc mà các nữ tu Thừa Sai Bác Ái vẫn làm hằng ngày là nghiêng mình săn sóc những con người bị xã hội bỏ rơi một cách đáng thương.
Anh chị em thân mến,
Phải chăng việc Mẹ Têrêsa thành Calcutta làm trên đây là việc áp dụng Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay một cách sống động? Nhưng thử hỏi còn biết bao cách áp dụng khác nữa mà bài Tin Mừng này có thể gợi lên cho chúng ta? Các môn đệ xin Chúa giải tán đám đông dân chúng để họ đi mua thức ăn. Nhưng Chúa lại bảo các ông: “Chính anh em phải cho họ ăn”. Rồi Chúa đã cho 5000 người ăn với 5 cái bánh và 2 con cá, còn dư lại 12 thúng bánh vụn. Ngoài con số 5000 người đàn ông, thánh Matthêu con thêm “không kể đàn bà và trẻ em”. Vậy tổng số có thể lên tới hàng chục ngàn người. Như vậy Chúa Giêsu, với phép lạ hóa bánh ra nhiều, đã nuôi một đám đông rất lớn đi theo Chúa Giêsu vào nơi hoang địa. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài để có của ăn nuôi sống mình.
Ngày nay đám đông dân chúng đã phát triển nhanh tới hàng triệu người. Họ không chỉ cảm thấy đói, mà họ chết đói: 100 ngàn người mỗi ngày và 450 triệu người tối đến đi ngủ bụng đói (theo một bản thống kê quốc tế). Ngay ở đất nước chúng ta đây, còn biết bao người thiếu ăn, thiếu mặc, trẻ em thiếu dinh dưỡng. Với chiến dịch “xóa đói giảm nghèo”, nhiều người đã ủng hộ nuôi dưỡng những người đói khổ cùng cực. Nhưng vấn đề quá lớn đối với con người, chắc chắn chúng ta phải làm hết sức, hết khả năng con người. Nhưng chúng ta cần sự trợ giúp của Chúa mới làm được. Nếu để cho các môn đệ, các ông chỉ biết giải tán để dân chúng đi về bụng đói và có khi phải chết đói dọc đường. Nhưng với sự đóng góp của con người, Chúa đã làm nên phép lạ. Nếu cậu bé không trao cho Chúa khẩu phần bánh và cá của cậu đem theo, thì đám đông dân chúng sẽ về bụng đói. Nhưng với 5 cái bánh và 2 con cá của cậu bé, Chúa Giêsu đã nuôi được hàng ngàn người ăn no vả còn dư thừa.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu không đi quyên góp bánh để phát cho người nghèo. Ngài cũng không khiến bánh tự nhiên từ trời xuống cho họ ăn, nhưng Ngài đã chia sẻ mấy cái bánh mà môn đệ có sẵn trong tay cho tất cả mọi người. Đó là một thách đố: dám nuôi bằng ấy ngàn người với năm chiếc bánh của người nghèo. Năm cái bánh đã được nhân lên bằng tình thương của Chúa Giêsu cộng với niềm tin và lòng vâng phục của các môn đệ. Bài học mọi người. Đó là một thách đố: dám nuôi bằng ấy ngàn người với năm chiếc bánh của người nghèo. Năm cái bánh đã được nhân lên bằng tình thương của Chúa Giêsu cộng với niềm tin và lòng vâng phục của các môn đệ. Bài học của phép lạ hóa bánh ra nhiều là ở chỗ đó: Chúa dạy chúng ta là hãy vâng lời Ngài mà thực hiện điều răn yêu thương. Yêu thương là chia sẻ. Khi chúng ta chia sẻ chính là làm cho tình yêu được nhân lên. Tấm bánh đáng lẽ chỉ nuôi được một vài người, đã có thể nuôi cả ngàn người. Tình yêu có thể làm được chuyện mà đống tiền, đống của không làm được. Người ta thường nghĩ phải có nhiều, có dư thì mới cho. Tình yêu không đợi phải có đủ, có dư mới cho, nhưng còn sẵn sàng cho cả cái chính mình đang thiếu, và thậm chí, cả khi không có gì, vẫn có thể cho, đó là chính mình: công sức, tài năng, thời giờ… bởi vì tình yêu cao cả nhất, trọn vẹn nhất, là dâng hiến chính mình cho người mình yêu (Ga 15,13) và đó là tình yêu của Chúa Giêsu. Chính tình yêu này mới khiến Ngài chạnh lòng thương trước cảnh đói khổ, bệnh tật của dân nghèo và ra tay cứu giúp.
Điều nguy hiểm nhất cho con người là không còn biết chạnh lòng thương xót trước những nỗi khổ đau của người khác. Lòng nhân ái không chỉ làm cho chúng ta “thành người”mà còn là dấu chỉ của người môn đệ Chúa.
Ông Malcolm Muggeridge, một nhân vật nổi tiếng trên đài TV Anh Quốc, đã trở lại đạo Công giáo, điều mà trước đây ông đã thề sẽ không bao giờ làm. Ông nói, ông đã bị cảm kích bởi những việc Mẹ Têrêsa Calcutta đã làm: “Không thể diễn tả bằng lời, tôi đã mắc nợ Mẹ Têrêsa thế nào. Mẹ đã tỏ cho tôi thấy Kitô giáo trong hành động. Mẹ đã tỏ cho tôi thấy sức mạnh của tình yêu có thể làm nổi dậy một ngọn thủy triều tình yêu lan tràn khắp thế giới…”
Trình thuật Chúa hóa bánh ra nhiều được lặp lại trong Tiệc Thánh Thể: “Chúa Giêsu cầm lấy bánh, ngước mắt lên trời, tạ ơn, bẻ ra, trao cho các môn đệ”. Chúa vẫn tái diễn phép lạ ấy hằng ngày để nuôi dưỡng chúng ta và cả thế giới. Tại sao từ bàn Tiệc Thánh này chúng ta lại không biết chia sẻ với người nghèo đói? Thế giới hôm nay còn có những kẻ đói, còn có những dân tộc đói, vì có những cái bánh được giữ riêng cho cá nhân và không hề được bẻ ra chia sẻ. Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta, khi đã lãnh nhận Bánh của chúa thì cũng biết cạnh lòng thương và chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói, để Chúa có thể nuôi sống tất cả anh chị em chúng ta trên thế giới.
Suy Niệm 9: Chia sẻ cơm áo
(‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Chúng ta không cần câu truyện nào khác để dẫn vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Các Tông đồ của Chúa lo sợ trước một thách thức không thể vượt qua được trên bình diện con người, đó là 5.000 người đàn ông không kể đàn bà con trẻ đang gặp cảnh đói không có gì ăn, và vào lúc trời sắp tối, có nghĩa là mọi sinh hoạt buôn bán giữa người với người dường như bị đóng lại. Các ông lo sợ và nói theo khuynh hướng tự nhiên là phủi tay chạy trốn trước thách thức khóa khăn ấy, từ đó đổ trách nhiệm cho kẻ khác, và cuối cùng cũng muốn Chúa Giêsu làm như vậy: “Xin Thầy hãy cho họ về, hoặc cho họ vào làng để mua gì ăn, vì trời đã tối và họ có thể kiếm được gì lót dạ qua cơn đói chăng?”.
Thế giới ngày nay có rất nhiều tiến bộ, với những phát minh khoa học kỹ thuật tân tiến, nhưng theo thống kê của cơ quan lương thực Liên Hiệp Quốc cho biết, mỗi ngày có khoảng 400.000.000 người phải đi ngũ với bụng đói không có gì để ăn, và 15.000 người phải chết đói hằng ngày. Điều này không phải vì thế giới thiếu tài nguyên, thiếu lương thực, nhưng vì tài nguyên của quốc gia bị mánh mung, ăn cắp một cách khéo léo bởi một số người không còn lương tâm.
Chúng ta không cần dẫn chứng đâu xa, hãy nhìn vào môi trường trong cuộc sống của chúng ta. Nơi cộng đoàn chúng ta sinh sống, thử hỏi có bao nhiêu người đang đói khổ? Bao nhiêu người trẻ thiếu phương tiện đến trường học? Bao nhiêu người bị bóc lột sức lực và làm việc với đồng lương bất công? Tại Phi Luật Tân 70% dân chúng sinh sống dưới mức phân biệt nghèo túng. Chúng ta đang đứng trước những thách thức bao la và có lẽ cũng muốn bỏ chạy trốn, hoặc đổ trách nhiệm sang cho kẻ khác với những lý do an ủi mình như, nhiều người đói khổ quá làm sao tôi có thể lo cho họ được, sức tôi có hạn làm sao tôi có thể chia sẻ với từng ấy người đang cần đến lương thực để sinh sống.
Thật lạ lùng, một cộng đoàn đông đến 5.000 người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ mà không còn chút lương thực, không còn chúng gì để ăn tối, hay là mỗi người đã đem giấu phần thức ăn của mình? Hay có thể vì sợ không đủ cho kẻ khác? Nếu không có năm cái bánh và hai con cá của một em nhỏ nào đó thì làm sao Chúa Giêsu có thể nhân thêm để nuôi sống hàng mấy ngàn người như vậy. Em bé này đáng được khen ngợi, vì tâm hồn rộng lượng của em, một tâm hồn đơn sơ không nghĩ ngợi, dám dâng cho Chúa phần đóng góp nhỏ nhoi của em.
“Chúng con hãy cho họ ăn”. Đó là mệnh lệnh mà Chúa truyền lại cho các Tông đồ xưa và cũng là mệnh lệnh của Chúa cho mỗi người Kitô hữu hôm nay. Chúng con hãy cho họ ăn, chúng con có trách nhiệm không thể chạy trốn được, chúng con không thể phủi tay đổ trách nhiệm cho kẻ khác. Hãy biêt sống chia sẻ, đóng góp những gì mình có thể làm để mưu cầu hạnh phúc cho đồng loại. Mỗi người hãy thắp lên một que diêm để làm cho căn phòng đầy ánh sáng, nhất là khi cùng thắp que diêm đó với Chúa và nhờ Chúa, cộng tác với Chúa để gìn giữ que diêm đó khỏi gió thổi tắt.
Thánh Matthêu mô tả hành động phép lạ của Chúa Giêsu giống như hành động Chúa cử hành bí tích Thánh Thể với các Tông đồ trong bữa tiệc ly: “Chúa cầm lấy bánh, tạ ơn và trao cho các môn đệ để các ngài đem đi phân phát”. Bí tích Thánh Thể được gọi là “Bữa tiệc chia sẻ tình yêu, Agapae: Bữa tiệc bẻ bánh”. Trong thời Giáo Hội sơ khai, bí tích Thánh Thể là phương tiện hữu hiệu nhất để giúp cho các đồ đệ có được sức sống của Ngài, có được tình yêu và sức mạnh của Chúa.
Đừng chạy trốn trước sự mời gọi chia sẻ của anh em. Chúng ta hãy xét lại xem mình đã cử hành Bí Tích Thánh Thể như thế nào? Bí Tích Thánh Thể có tác dụng thế nào trong đời sống chúng ta? Bí Tích Thánh Thể được chúng ta cử hành, chia sẻ trong nhà thờ và chúng ta có kéo dài nó trong cuộc sống bên ngoài nhà thờ hay không?
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trở nên giống Chúa một ngày một hơn nhờ việc lãnh nhận Bí Tích Thánh Thể, cũng như qua việc chia sẻ sự sống của Chúa, xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được lớn lên, được trưởng thành trong đức bác ái, sẵn sàng đóng góp phần nhỏ của mình để phục vụ anh em, xin Chúa giúp chúng ta trưởng thành trong Đức tin mà chúng ta chia sẻ qua kinh Tin kính.
Suy Niệm 10: Khi người ta biết chia sẻ cho nhau, thì thế giới sẽ không còn nạn đói
(‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Trần Ngà)
Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ duy nhất được cả bốn tác giả Tin Mừng cùng thuật lại, và có tác giả thuật đến hai lần như Matthêu (Mt 14,13-21 và 15,32-38) và Mác cô (6,35-44 và 8,1-10) Luca (9,12-17) và Gioan (6,1-13). Như vậy, chắn chắn sự kiện nầy chứa đựng một nội dung hết sức quan trọng.
Nội dung đó là: khi người ta biết chia bánh cho nhau, thì thế giới sẽ không còn nạn đói.
Tài nguyên trái đất gồm hoa màu ruộng đất, các loài gia súc cầm thú, chim trời cá biển được Thiên Chúa dựng nên dư thừa để nuôi những cư dân trên mặt đất.
Thế thì tại sao có nhiều người đói?
Sở dĩ có nhiều người đói vì có một số người thu gom cho mình thật nhiều, tích trữ cho mình dư dật nên mới xảy ra tình trạng "người thì ăn không hết, người thì làm không ra".
Một chủ tiệc hào phóng dọn ra một ngàn phần ăn đủ cho một ngàn người ăn uống no say. Nhưng có một số khách mời khoẻ hơn, nhanh tay hơn, chạy vào phòng tiệc vơ vét nhiều thực phẩm cho mình, lại còn tọng đầy những túi mang theo để dành cho ngày mai, ngày mốt và cho con cháu... thế là những khách mời đến sau phải đói.
Thế giới hôm nay cũng là một phòng tiệc vĩ đại mà Thiên Chúa dọn sẵn cho mọi người. Lương thực trên mặt đất, dưới biển có dư cho mọi người hưởng dùng. Nếu mọi người biết chia sớt cho nhau, thì chắc chắn không có ai phải thiếu đói.
Nhưng tiếc thay, có những người nắm trong tay những phương tiện sản xuất hiện đại, nắm bắt những công nghệ tiên tiến nên đã thu vén cho mình dư đầy của cải, khiến cho những người sa cơ thất thế phải lâm cảnh thiếu đói triền miên.
Qua phép lạ bánh hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với mọi người rằng: nếu ai cũng biết chia sẻ số bánh ít ỏi đang có cho nhau, thì tất cả mọi người đều no đủ, không những no đủ mà còn dư.
Hôm ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu, say mê nghe lời Người giảng dạy quên cả giờ về. Khi ngày tàn, nhóm Mười Hai đề nghị Chúa Giêsu giải tán đám đông để họ kịp trở về các làng mạc chung quanh kiếm thức ăn, vì hiện nay mọi người đang ở nơi hoang vắng.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ: "Chính anh em hãy cho họ ăn". Các môn đệ đáp: "Chúng con chỉ có vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá, lấy gì nuôi đủ cả năm ngàn người ăn?"
Thế rồi "Chúa Giêsu truyền cho dân chúng ngồi xuống, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn ra cho đám đông."
Các môn đệ trố mắt nhìn Chúa Giêsu kinh ngạc! Chừng nầy cá và bánh thì ai ăn ai nhịn? Thôi thì cứ theo lệnh Chúa mà làm. Các vị phân phát phần bánh và cá ít ỏi cho dân.
Thế là người nầy trao qua, người kia chia lại, mọi người tỏ lòng hào phóng với nhau. Và đang khi họ chấp nhận trao phần bánh ít ỏi của mình cho người khác thì phép lạ xảy ra: bánh càng trao đi thì càng được tăng thêm nhiều, cá càng được chia ra thì lại phát sinh gấp bội, nhiều đến nỗi cả năm ngàn người ăn không hết còn dư lại cả mười hai thúng đầy!
Phép lạ nầy cũng như hũ bột của bà goá Sarépta: Dù đang giữa cơn hạn hán trầm trọng, dù nạn đói hoành hành khắp nơi, dù chỉ còn chút bột ít ỏi trong hũ và chút dầu còm cõi trong bình, bà goá thành Sa-rép-ta vẫn vâng theo lời tiên tri Êlia truyền dạy, đem phần ăn ít ỏi của mình cống hiến cho người khác. Thế là hũ bột không vơi, bình dầu không cạn cho đến khi Chúa cho mưa xuống làm hoa trái tốt tươi. (1V 17, 7-16)
Nếu hôm nay, nhân loại biết nghe theo lời Chúa Giêsu: "Các con hãy cho họ ăn" để rồi mọi người biết chia bánh cho người người chung quanh mình, thì chắc chắn nạn đói sẽ không còn tồn tại trên mặt đất nầy.
* * *
Xin mượn lời kể của Mẹ Têrêxa thành Cacutta để thay cho phần kết: Ngày nọ, có một thiếu phụ và tám đứa con dại đến gõ cửa xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con của bà không có được một hạt cơm trong bao tử. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn và chia ra làm hai phần... Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi tại sao lại phân làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: "Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn".
Mẹ Têrêxa kết luận: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta biết chia sẻ cho nhau.
Suy Niệm 11: Bánh hoá nhiều
Đám đông dân chúng say mê đi theo Chúa vì những lời Ngài giảng dạy và những phép lạ Ngài đã làm. Không một ai đã nghĩ đến việc mang thực phẩm dự trữ. Ngoại trừ một em nhỏ có được 2 con cá và mấy chiếc bánh.
Khi các tông đồ hỏi xin, em đã đưa hết không một chút ngần ngại. Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, rồi trao cho các tông đồ đem đi phân phát. Hiệu quả năm ngàn người đã được no nê mà vẫn còn dư lại những 12 thúng đầy. Đám đông kinh ngạc và hớn hở, họ thầm nghĩ phải chăng Ngài sẽ là Đấng dẫn đưa dân tộc họ tới một thời đại vàng son. Họ đang cần một vị vua lẫm liệt oai phong. Biết được ý đồ ấy, Ngài đã một mình rút vào nơi thanh vắng. Nhưng dân chúng một khi đã được khích động thì khó mà thay đổi được tình cảm và mục đích, cho nên ngày hôm sau tại hội đường Capharnaum, họ lại xin Ngài thực hiện phép lạ ấy một lần nữa.
Từ khởi điểm này, Ngài đã giới thiệu một thứ lương thực thần linh và thực hiện một phép lạ còn kỳ diệu hơn nữa. Ngài phán: Hãy làm việc không phải vì của ăn hư nát, nhưng vì của ăn dẫn tới cuộc sống đời đời. Của ăn ấy Ta sẽ ban đó chính là Mình Ta cho thế gian được sống. Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.
Những lời này, khiến họ lấy làm chướng tai khó nghe nên họ đã bỏ Ngài, chỉ còn lại nhóm 12. Mặc dù biết các ông còn bàn tán, Chúa Giêsu đã không cắt nghĩa mà Ngài còn nhấn mạnh hơn nữa: Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống. Sau này trong bữa Tiệc Ly Ngài đã lặp lại: Hãy cầm lấy mà ăn vì này là Mình Ta. Hãy cầm lấy mà uống, vì này là Máu Ta. Lời Chúa về lương thực thần linh đã trở nên một điểm làm phân rẽ nhân tâm, để rồi nhiều người đã bỏ Chúa. Từ đó cho đến nay, Bí tích Thánh Thể vẫn là một mầu nhiệm cao cả nhất và cũng là một điểm làm cho nhiều người vấp ngã. Nhưng lập trường của Chúa vẫn luôn dứt khoát và rõ rệt trước sau như một: Nếu các ngươi không ăn thịt và uống máu Con Người, các ngươi sẽ không có sự sống. Đây cũng là một định luật căn bản: được nuôi dưỡng hay là sẽ phải chết. Sự sống cần đến những năng lượng để sinh hoạt và phát triển, bằng không sẽ bị tàn lụi.
Bánh cho người tây phương và cơm gạo cho người đông phương là những hình ảnh thật cụ thể và quen thuộc, mà chúng ta cần đến hằng ngày. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã chuyển hình ảnh ấy vào lãnh vực siêu nhiên. Bánh đó không phải là thứ của ăn mà Ngài đã ban cho đám dân chúng, nhưng là lương thực thần linh nuôi sống linh hồn.
Sự sống siêu nhiên khởi đầu từ Bí tích Rửa tội, lớn lên bằng Bí tích Thêm sức và được bồi dưỡng bằng Bí tích Thánh Thể. Với Bí tích Thánh thể tâm hồn chúng ta được nuôi dưỡng và khỏe mạnh. Nếu chúng ta siêng năng rước lễ, chúng ta sẽ không còn khô khan nguội lạnh và xa tránh được nhiều tội lỗi, vì lúc bấy giờ Chúa sẽ ở cùng chúng ta và ai mạnh mẽ uy quyền cho bằng Chúa.
Trong thời buổi Giáo Hội bị bách hại bởi các bạo vương Lamã, người ta đã bí mật đem Mình Thánh Chúa cho các tín hữu bị bắt và bị giam cầm, nhờ đó mà các tín hữu ấy tìm được nguồn an ủi và trung thành với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng.
Cũng vậy, trong những trại tập trung, người ta đã chuyển bánh và rượu vào cho các linh mục bị tù đày để các ngài âm thầm cử hành thánh lễ, rồi phân phát Mình Thánh cho những bạn tù bất hạnh, lúc bấy giờ nhà tù trở thành gian cung thánh cho Thiên Chúa. Thân xác của chúng ta cần đến của ăn như thế nào thì tâm hồn chúng ta cũng cần đến Bí tích Thánh thể như vậy. Nhờ Bí tích Thánh Thể chúng ta kín múc được nguồn sinh lực, để vượt thắng mọi tội lỗi và mọi khổ đau, đồng thời bảo đảm cho chúng ta sự sống lại và niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Hãy xét mình xem chúng ta đã đáp trả lời mời gọi ân tình của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh thể như thế nào?
Suy Niệm 12: Cộng tác
Trong ba năm giảng dạy của Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng kể lại hai lần Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Phép lạ kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay là lần thứ nhất, xảy ra vào tháng tư, gần lễ Vượt Qua của năm 29, tức là vào năm thứ hai giảng dạy của Chúa Giêsu. Chúa muốn nói gì với chúng ta khi làm phép lạ này?
Điều thứ nhất, Chúa muốn nói với chúng ta về lòng thương xót. Xưa kia trong sa mạc, trên đường về Đất Hứa, dân Do Thái đã kêu xin Chúa ban lương thực cho họ. Trước những lời kêu xin đó Thiên Chúa đã không làm ngơ và đã ban man – na cho họ. Cũng vậy, Chúa Giêsu đã không làm ngơ trước cảnh dân chúng đi theo Ngài để nghe Ngài giảng dạy ở một nơi đồng không mông quạnh mà không có gì ăn, Ngài đã hóa bánh ra nhiều cho họ ăn no, Ngài đã thương xót họ. Trong bối cảnh của phép lạ này, chúng ta thấy có hai thứ thương xót. Các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ và đã thưa với Chúa: “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn”. Đó là thứ thương xót thứ nhất, thứ thương xót nhập đề. Lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ. Vì thế, Chúa muốn các môn đệ bước qua thứ thương xót khởi điểm đó, đem thứ thương xót nhập đề vào thứ thương xót thứ hai, thứ thương xót nhập cuộc: “Các con hãy lo cho họ ăn”.
Quả thực, có tấm lòng thương xót người khác là một điều tốt rồi, nhưng chưa đủ. Có những lời nói xót thương người khác cũng là một điều tốt rồi, nhưng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, phải có hành động xót thương thực sự nữa, Chúa Giêsu đã thể hiện như thế và Ngài dạy chúng ta hãy sống như thế. Chúng ta hãy nghĩ xem; trước những nỗi đau của người khác, trước những túng thiếu của người anh em, chúng ta thường có những thái độ nào? Thái độ ngoảnh mặt làm ngơ, bưng tai giả điếc là thái độ không thể nào chấp nhận được, mà trong thực tế có nhiều người trong chúng ta đã có thái độ đó. Rồi có lòng trắc ẩn hay những lời nói an ủi, khích lệ, thông cảm là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là biết chia sẻ, biết san sẻ, giúp đỡ. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì nằm trong tầm tay, nằm trong khả năng của mình, phần còn lại Chúa sẽ thực hiện. Chúng ta hãy nhớ: điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều nhưng là ở chỗ biết ý thức người khác cũng là con Thiên Chúa, cũng là anh chị em của chúng ta.
Trong ý tưởng đó, chúng ta hãy suy nghĩ những lời phát biểu trước quốc hội của ông Ganhdi, vị anh hùng đã áp dụng phương pháp bất bạo động để giải phóng dân tộc An Độ khỏi ách thống trị của Anh Quốc. Ông Ganhdi đã nói: “Theo quan niệm của tôi thì về một ý nghĩa nào đó, chúng ta là những người ăn cắp. Bởi lẽ nếu tôi có một vật nào đó mà tôi không cần ngay bây giờ nhưng tôi vẫn giữ nó, thì đó là tôi ăn cắp vật đó từ một người khác đang cần đến nó. Tại An Độ hiện nay, chúng ta có ba triệu người mỗi ngày chỉ ăn một bữa và thức ăn của họ chỉ là một miếng bánh và một nhúm muối. Trước thực tại này, quí vị và tôi không có quyền sở hữu một vật gì mà chúng ta không trực tiếp cần đến, cho đến khi ba triệu người này được ăn no, mặc ấm”. Những lời phát biểu đó cũng là những gợi ý giúp chúng ta hiểu và sống lời Chúa hôm nay.
Điều thứ hai, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua phép lạ hóa bánh này là sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa. Với quyền năng vô biên, Chúa chỉ cần phán một lời là có dư thừa bánh cho mọi người ăn, nhưng Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài khi Ngài bảo các ông: “Các con hãy lo cho họ ăn”. Khi các môn đệ tìm được 5 chiếc bánh và 2 con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết: cần có sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa đối với chúng ta, nghĩa là bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng kiên nhẫn, bằng hy sinh. Đừng kể trong đời thường mà thôi nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”.
Câu chuyện sau đây minh họa cho điều đó: Một nhà văn Kitô giáo đã dựng một vở kịch diễn tả vụ hành quyết một tên trọng phạm tại một thị trấn nhỏ thời Trung Cổ. Theo phép nước, chỉ có một lối thoát chết cho tử tội là nộp đủ 1000 đồng tiền vàng để chuộc mạng. Nhà vua tỏ ra hào hiệp tặng hết số vàng 700 đồng mang theo trong một chuyến tuần du qua đây, hoàng hậu theo gương có 200 đồng cũng giúp hết, các cận thần đi theo cũng dốc túi. Người ta đếm được 999 đồng, còn thiếu một đồng. Công lý không thể nhân nhượng, đành phải thi hành pháp lệnh. Toán hành quyết tròng dây thừng vào cổ tên tử tội thiếu may mắn. Khi sắp sửa rút dây thì có một tiếng kêu lớn: “Khoan đã, lục soát người nó đi, biết đâu đấy”, tên đao phủ lần mò khắp người tội nhân và móc ra được một đồng hắn giấu trong lưng quần từ hồi nào mà hắn cũng không nhớ nữa. Thế là đủ 1000 đồng, tên tử tội được thoát chết. Có lẽ chúng ta đều hiểu câu chuyện này phải không? Chúa Giêsu đã cứu chuộc chúng ta, Mẹ Maria đã trợ giúp chúng ta, các thánh cũng trợ giúp chúng ta, và chính chúng ta cũng phải góp phần. Tóm lại, dù chúng ta là ai, dù chúng ta hèn kém thế nào, chúng ta hãy cố gắng với hết khả năng của mình, Chúa sẽ trợ giúp chúng ta.
Suy Niệm 13: Lòng thương
Mẹ Têrêsa Calcutta thuật lại một câu chuyện như sau: Một hôm, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào chi phí mua thức ăn cho những người nghèo.
Ở Calcutta mỗi ngày dòng Nữ Tử Bác Ái Truyền Giáo chúng tôi phải cung cấp lương thực cho 9 ngàn người. Bởi đó không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ tặng vào mục tiêu trên.
Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi:
- Hai con có thể cho mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế?
Họ trả lời:
- Chúng con vừa cưới nhau được hai ngày. Chúng con quyết định không may đồ cưới, cũng không tổ chức linh đình, để dùng tiền đó giúp những người kém may mắn hơn chúng con.
Mẹ Têrêsa hỏi tiếp:
- Ở Ấn Độ, không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Tại sao chúng con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ và họ hàng?
Họ thưa:
- Chúng con yêu nhau và muốn tặng nhau món quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống bằng một hy sinh mà cả hai cùng đóng góp vào.
Món quà cưới của đôi bạn trẻ trong câu chuyện trên đây quả là cao đẹp. Nó cao đẹp bởi vì nó được làm nên bởi những hy sinh quá lớn. Nó cao đẹp bởi vì nó kết tinh bằng một tình yêu trao ban. Họ không chỉ hy sinh tiền bạc mà còn hy sinh cả vinh dự và niềm vui. Họ không chỉ trao ban của cải mà còn trao ban cả tấm lòng. Bởi vì họ đã học được nơi Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: “Người thấy đám dân đông đúc thì chạnh lòng thương”.
Chính vì chạnh lòng thương mà Đức Giêsu đã chữa lành những người bệnh hoạn tật nguyền.
Chính vì chạnh lòng thương mà Người đã không để cho đám đông tự mua lấy thức ăn.
Chính vì chạnh lòng thương mà Người đã bảo các môn đệ: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.
Và cuối cùng, lòng thương xót bao la của người mục tử tốt lành đã thực hiện một phép lạ ngoạn mục nhất trong Kinh thánh là chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá Đức Giêsu đã cho năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà trẻ em được ăn no nê mà còn dư giả.
Hôm nay, Người cũng mời gọi chúng ta góp phần nhỏ bé và âm thầm của mình cho anh em. Người chờ đợi nơi chúng ta một chút lòng chạnh thương. Và cả thế giới sẽ được hưởng chung phép lạ lẫy lừng của Thiên Chúa.
Có lẽ người nghèo sẽ không chết đói vì thiếu lương thực cho bằng vì thiếu những con người biết chạnh lòng thương. Người ta cần có lương thực để sống, nhưng cũng rất cần có tình thương để tồn tại. Những người đang chờ chết là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương. Những người giàu có mà không biết chia sẻ cũng là những người đang chết đi cái nhân tính của mình. Nếu Đức Giêsu đã bảo: “Chính các con hãy cho họ ăn thì đó không phải lời khuyên mà là một lệnh truyền.
Thực ra, con người chỉ tìm được ý nghĩa cho cuộc sống khi biết chia sẻ cho đi. Con người chỉ lớn lên theo mức độ của sự trao ban vô vị lợi mà thôi. Có biết trao ban thì con người mới thực sự triển nở trong nhân cách. Có biết trao ban thì con người mới vui sống và tìm được hạnh phúc đích thực trong cuộc sống. Triết gia Platon quả quyết: “Con người chỉ tìm được hạnh phúc khi làm cho người khác được hạnh phúc”. Thánh Phaolô cũng đã ghi lại khuôn vàng thước ngọc của Đức Giêsu: “Cho thì có phúc hơn nhận lãnh”.
Tình yêu trao ban mà Đức Giêsu mời gọi những tín hữu Kitô hãy thực hiện thì chính Người đã làm gương trước. Vào bữa tiệc ly ngày thứ năm Tuần thánh, Người chính là tấm bánh được bẻ ra, và trao ban cho các môn đệ. Tin Mừng thuật lại sáu lần hóa bánh ra nhiều cũng là để nói lên hình bóng của Bí tích Thánh thể là chính Đức Giêsu: tấm bánh được bẻ ra, được trao ban cho một thế giới mới.
Và môn đệ trao cho đám đông. Khi nhận lấy bánh Hằng Sống, chúng ta không thể giữ lấy cho riêng mình, nhưng là sẵn sàng chia sẻ trao ban cho những người chung quanh.
Ai cũng có thể đem cho những thứ mình bỏ đi, nhưng lòng nhân ái thật sự là đem cho những gì mình yêu quí nhất. Trao ban đích thực là trao ban chính bản thân. Con người chỉ trở nên giàu có khi trao ban chính bản thân mà thôi. Mẹ Têrêsa Calcutta không mang đến Ấn Độ một đồng xu dính túi, không cho những người nghèo tiền rừng bạc bể, không mang đến đó tiền của dư thừa. Mẹ trao ban chính mình. Nhưng chắc chắn khi qua đời ít có ai giàu có hơn mẹ.
Suy Niệm 14: Lòng quảng đại
Mẹ Têrêsa Calcutta đã kể lại câu chuyện một lần kia mẹ đi ngang qua một gia đình Hin đu đã đói nhiều ngày. Mẹ cầm theo một ít gao cho gia đình ấy. Điều xảy ra sau đó làm mẹ kinh ngạc.
Không chút lưỡng lự, người mẹ trong gia đình đã chia số gạo ra làm hai phần. Rồi bà đem một nữa cho gia đình nhà bên cạnh, tình cờ là những người theo Hồi dào.
Thấy điều đó, mẹ Têrêsa nói với bà mẹ “Bà còn lại được bao nhiêu? Liệu có đủ cho gia đình bà không?”.
“Nhưng họ cũng đã nhịn đói nhiều ngày rồi”, người đàn bà ấy trả lời.
Lòng quảng đại như thế làm chúng ta phải trở nên khiêm nhường.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều ấy còn được gọi là phép lạ của lòng quảng đại. Trước hết là lòng quảng đãi tuyệt vời của cậu bé, vì với món quà của cậu là năm chiếc bánh và hai con cá mà phép lạ mới được thực hiện. Có thể tự nó là ít ỏi, nhưng đối với cậu bé đó là to lớn vì đó là tất cả những gì cậu có. Cho vật gì mà cả người cho lẫn người nhận rất cần. Đó mới thật sự là cho và là một sự hy sinh.
Do đó có sự quảng đại kỳ diệu của Đức Giêsu. Để đánh giá điều đó, chúng ta cần xem xét hoàn cảnh của phép lạ. Đến với những người khác khi không gặp sự phiền nhiễu nào là một việc dễ dàng. Nhưng sự việc không dễ dàng khi nó ào đến chúng ta vào lúc mà chúng ta đang gặp rắc rối. Ở đây bao hàm một sự hy sinh. Chúng ta phải để mọi dự định của chúng ta qua một bên và quyên cả chính mình. Đức Giêsu đà làm như thế. Người vừa mới biết tin người anh họ là Gioan Tẩy Giả đã bị giết chết. Người cần được yên tĩnh và thinh lặng. Đó là lý do khiến Người vừa bước ra khỏi thuyền, Người thấy đám đông dân chúng chờ Người. Hẳn Người có thể tức giận và giải tán họ. Thế nhưng Người lại thương xót họ và hoàn toàn cống hiến cho họ.
Rồi với lòng quảng đại tuyệt đối, người đáp ứng cơn đói của dân chúng. Người không chỉ cho họ ăn, nhưng còn cho mỗi người nhiều hơn họ cần, và còn dư mười hai thúng đầy.
Bạn có thể thấy tại sao phép lạ này được gọi là một phép lạ của lòng quảng đại. Lòng quảng đại không phải là lúc nào nào cũng biếu đồ vật. Thường gặp hơn, dâng hiến chính mình là cho thời gian và các tặng vật của mình. Cho đồ vật có thể là dễ dàng, nhưng cho chính mình không bao giờ dễ dàng. Trước khi Người ban chính mình như của ăn, của uống trong Thánh Thể, Đức Giêsu đã ban chính mình cho dân chúng bằng nhiều cách khác nhau.
Câu chuyện hóa bánh ra nhiều để nuôi đám đông đã được các Kitô hữu tiên khởi trân trọng giữ gìn. Phép lạ nhắc lại câu chuyện Man-na trong sa mạc thời Cựu Ước. Đối với họ, Đức Giêsu là Môsê mới, nuôi dân chúng trong sa mạc. Vì thế, họ nhìn thấy trong phép lạ này một sự tiên báo của Thánh Thể. Chính ở bàn tiệc Thánh Thể mà Đức Giêsu nuôi dưỡng họ.
Và Đức Giêsu giờ đây cũng nuôi dưỡng chúng ta ở đó. Chỉ ở bàn tiệc của Thiên Chúa, chúng ta mới có được sự nuôi dưỡng và tâm hồn chúng ta hằng mong ước. Trong Thánh Lễ chúng ta được nuôi dưỡng với Lời Chúa và Bánh Sự Sống. Và khi mời gọi chúng ta đến chia sẻ bữa tiệc sự sống nơi trần gian, Thiên Chúa mời gọi chúng ta chia sẻ bữa tiệc sự sống đời đời trên Thiên Đàng.
Khi dân chúng trở về nhà vào cuối ngày hôm ấy, họ biết rằng họ đã có kinh nghiệm và lòng tốt và tình yêu của Thiên Chúa tình yêu mà Thánh Phaolô nói không điều gì có thể tách chúng ta khỏi tình yêu của Đức Kitô.
Trong Thánh Lễ chúng ta nếm hưởng tình yêu của Thiên Chúa. Bằng chứng việc chúng ta có kinh nghiệm tình yêu ấy là chúng ta sẵn lòng yêu thương những người khác. Chúng ta có thể chỉ cho bằng những phương tiện nhỏ bé và số lượng nhỏ bé. Tuy nhiên, từ cậu bé trong Tin Mừng, chúng ta thấy một số lượng nhỏ bé có thể trở thành một số lượng lớn khi được đặt vào đôi tay của Chúa.
Suy Niệm 15: Các con hãy cho họ ăn đi.
Một bà già sống trong một nửa căn nhà có hai hộ. Bà rất túng nghèo về của cải vật chất, nhưng giàu có về của cải tinh thần. Bà cầu nguyện rất nhiều. Trong khi người chủ nhà sống ở căn hộ sát bên, ông ta không có đức tin, không cầu nguyện, không tôn giáo. Ông ta lại thường chế nhạo bà già về lòng tin vào Thiên Chúa. Có một ngày bà già cầu nguyện lớn tiếng, thưa với Chúa rằng: “Bà không còn chút thực phẩm nào trong nhà”. Người đàn ông không có đức tin ờ sát căn hộ bên nghe được, và quyết định: “Ta phải chơi khăm mụ già này”. Thế là ông ta đem một ổ bánh mì đặt ở trước cửa nhà, bấm chưông rồi vội vã trở về căn hộ của mình, và lắng nghe qua bức tường tiếng kêu sung sướng của bà già: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa, con biết rằng Chúa không bỏ rơi con”. Ông già nham nhở trở lại cửa trước nhà bà già và bảo bà: “Bà già thật ngờ nghệch. Bà nghĩ rằng Thiên Chúa đáp lời bà xin ư! Phải, tôi là người đem ổ bánh mì cho bà đấy!” – Bà già dũng cảm kêu lên: “Ngợi khen Chúa! Ngài luôn giúp đỡ tôi trong lúc thiếu thốn, dù rằng Ngài phải dùng ma quỉ mà đáp lời tôi xin”.
Trong câu chuyện Kinh Thánh hôm nay, các môn để xin Chúa giải tán dân chúng... để họ đi mua thức ăn. Chúa Giêsu bảo các ông: “Các con hãy cho họ ăn”. Rồi Chúa đã cho 5000 người ăn với năm chiếc bánh mì và hai con cá – với 12 thúng bánh vụn còn dư lại.
Hôm nay đám đông dân chúng đó đã phát triển nhanh tới hàng triệu người. Họ không chỉ cảm thấy đói, mà họ chết đói, một trăm ngàn người một ngày, theo như một số ước lượng. Ngay ở quê hương chúng ta đây, còn rất nhiều người thiếu ăn, thiếu dinh dưỡng.
Nhiều Kitô hữu và cả người ngoài Kitô giáo có những hy sinh anh hùng để nuôi dưỡng những người đói khổ cùng cực. Nhưng vấn đề quá lớn lao đối với con người. Chắc chắn chúng ta phải làmhết sức, với khả năng con người. Nhưng chúng ta cần sự trợ giúp ở trên và vượt qua con người. Chúng ta nghe thấy có tiếng kêu: “Người đói cần thực phẩm - không cần lời cầu nguyện”. Dĩ nhiên là thế, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ cho bánh cho người chết đói, cho đến khi chúng ta cũng cho họ lời cầu nguyện. Chỉ riêng các tông đồ không thể nuôi đám đông người đói đó. Họ đã giải quyết được với sự giúp đỡ của Chúa Kitô. Phải, đức tin của tôi chỉ đủ tin rằng nếu chúng ta nài xin Thiên Chúa, Ngài sẽ giúp đỡ chúng ta nuôi dưỡng người đói như bà già trong câu chuyện. Tôi tin tưởng Chúa sẽ thực hiện ngay cả với một phép lạ, có lẽ với phép lạ của lòng bác ái.
Chúng ta cầ cầu nguyện cho vấn đề người đói, vì chúng ta biết tất cả sự việc, số đông vô kể những người đói, sự khó kiếm được thực phẩm cho họ, hay làm cho họ kiếm được lương thực, hệ thống phân phối nhiều khi và thường đầy tội lỗi, thì chỉ nhờ lời cầu nguyện mà các cá nhân và tập thể sẽ bị lay động để làm những gì thiết yếu cho việc cung cấp lương thực cho những người đói khổ.
Chúng ta cần cầu nguyện thường xuyên và thành thực để chúng ta ý thức và luôn ý thức rằng: hàng triệu người đang chết đói.
Sự tin tưởng cầu nguyện được diễn tả trong bài đáp ca: “Muôn loài để mắt trông cậy vào Chúa và Chúa sẽ ban lương thực cho chúng đúng theo giờ”. Trong ít phút nữa, chúng ta sẽ cầu nguyện như những lời Chúa Giêsu đã dạy: “Xin ban cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”. Chúa Giêsu dạy chúng ta điều mà tôi xin các bạn làm. Hãy cầu xin lương thực cho tất cả chúng ta, tất cả nhân loại. Phải, hãy đào bới và trao tặng, nhưng cũng hãy quì gối cầu nguyện để tất cả anh chị em chúng ta trên thế giới có lương thực.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Suy Niệm 16: Phép lạ của sự lắng nghe
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Mỗi lần được nghe bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thường liên tưởng đến phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều hay là hình ảnh tiên báo về bí tích Thánh Thể. Đây là cái nhìn thông thường. Thế nhưng, theo tường thuật của thánh Mat-thêu, phép lạ đã diễn ra ngay từ lúc đám đông tìm kiếm Chúa. Họ vượt qua mọi trở ngại của ngăn sông cách núi. Họ rỉ tai nhau. Họ lũ lượt mời gọi nhau lên đường tìm kiếm Chúa. Họ đến với Chúa không phải vì miếng ăn. Họ không xin Chúa bánh ăn. Họ tìm Chúa để được nghe lời Người rao giảng. Họ muốn tìm ra chân lý của cuộc đời. Họ muốn hiểu về giá trị và mục đích của cuộc sống. Thực sự họ đã say mê khi nghe Chúa giảng về Nước Trời. Họ đã bị lôi cuốn bởi lời rao giảng của Chúa đến mức độ quên cả thời gian. Trời đã tối mà xem ra đám dân chúng này vẫn chưa muốn rời xa Chúa. Họ vẫn muốn được nghe lời hằng sống phát ra từ môi miệng Chúa.
Thánh Matthêu còn kể tỉ mỉ là số lượng khoảng trên 5.000 người đàn ông, không kể phụ nữ và trẻ em. (Nếu tính tổng cộng phải trên 10.000 người). Đây cũng là một sự kiện lạ. Một sự kiện mà cho tới hôm nay dù rằng có âm thanh hỗ trợ, có phương tiện tối tân vẫn khó khăn truyền tải sứ điệp đến với thỉnh giả tại bãi biển đầy sóng gió ồn ào. Nơi mà người ta nói "ăn sóng nói gió", phải nói thật to, phải gào thật lớn mới nghe được nhau. Thế mà, lời rao giảng của Chúa Giê-su lại đến với tai mọi người. Mặc dù không micro, không loa phóng thanh. Ngài nói trong gió trời lồng lộng, trong sóng vỗ miên man mà ai cũng nghe được. Ai cũng hiểu. Ai cũng say sưa nghe giảng. Quả thực, đây là một phép lạ! Phép lạ của sự tôn trọng và lắng nghe. Họ tôn trọng Chúa là người đang nói và cũng tôn trọng tha nhân là người đang lắng nghe. Thông thường ai cũng muốn nói, nhưng ở đây hầu như ai cũng muốn lắng nghe. Chính nhờ thế mà đám đông đã tạo thành một không gian thanh bình, một nơi chốn của thinh lặng cho con tim rung cảm chan hoà yêu thương và tôn trọng lẫn nhau.
Và hôm nay phép lạ đó vẫn có thể tái diễn trong cuộc sống khi chúng ta biết lắng nghe, tôn trọng lẫn nhau. Khi mỗi người biết nhường nhịn nhau và tha thứ cho nhau. Thế giới hôm nay rất cần phép lạ này để thế giới được thanh bình hơn. Để con người biết đối thoại với nhau trong chân thành, cởi mở và yêu thương. Một thế giới mà con người biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhau, đó cũng là một thế giới hòa bình, một thế giới của bình an mà người người biết trao cho nhau niềm vui và hoan lạc hạnh phúc. Một thế giới mà còn đầy những hiềm khích, nói xấu, bỏ vạ cáo gian thì làm sao có những giây phút bình yên. Kẻ gieo gió đã gây tai họa tổn thất cho người khác và chính họ cũng sẽ không có được tâm hồn thanh thỏa bình an.
Một gia đình hạnh phúc là một gia đình biết lắng nghe nhau. Vợ chồng lắng nghe nhau trong chân thành cởi mở. Con cái vâng lời cha mẹ. Kính yêu ông bà và cùng nhau kiến tạo một gia đình hạnh phúc yêu thương. Một thôn ấp văn hóa là một thôn ấp người người biết nhường nhịn nhau. Tối lửa tắt đèn có nhau trong sự chia cơm sẻ áo. Không thể có một ấp văn hóa nếu hàng xóm láng giềng vẫn lời qua tiếng lại. Chê bôi, dè bửu nhau. Chỉ gây thêm hận thù. Đánh mất truyền thống tổ tiên. "Thương người như thể thương thân. Người trong một nước phải thương nhau cùng". Một xứ đạo hiệp nhất là một xứ đạo cảm thông tha thứ và sống chan hòa tình huynh đệ. Một xứ đạo đúng nghĩa phải mô phỏng lại lối sống của cộng đoàn Giáo hội thời sơ khai mà sách tông đồ công vụ đã ghi lại. "Ngày ngày họ chuyên chăm cầu nguyện, lắng nghe lời các tông đồ giảng dạy và gom góp của cải thành của chung". Một con người biết đóng góp và xây dựng giáo xứ trước tiên phải hỏi chính mình: "Tôi đã làm gì cho giáo xứ", hay tôi chỉ là một lữ khách, sống bàng quan với công việc của giáo xứ.
Nét đẹp của Bài Phúc âm hôm nay không chỉ dừng lại ở việc con người biết lắng nghe và tôn trọng nhau mà còn quan yếu ở chỗ sự chia sẻ lương thực được trao tặng cho nhau. Cho dù chỉ với phần lương thực quá ít ỏi của một đứa bé. Thế nhưng, với 5 chiếc bánh và hai con cá được trao ban từ lòng quảng đại đã được Chúa nhân lên đến nỗi nuôi đủ 5 ngàn người ăn, không kể đàn bà và trẻ con.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn quảng đại cho đi chính bản thân của mình, để trở nên nguồn sống cho tha nhân. Xin giúp cho mỗi người chúng ta luôn biết cho đi chính sự sống mình để gieo mần sống đức tin cho các thế hệ mai sau. Xin cho chúng ta luôn đơn sơ nhỏ bé ngõ hầu dễ dàng lắng nghe và tôn trọng lẫn nhau để xây dựng một thế giới văn mình tràn đầy tình thương. Amen.
01/08 Chết vì sứ vụ
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Chết vì sứ vụ.
Thứ bảy đầu tháng, tuần 17 thường niên. – Thánh Anphong Maria Ligôri, gíam mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Hêrôđê sai người đi chặt đầu Gioan, và các môn đệ của Gioan đi báo tin cho Chúa Giêsu".
* Thánh nhân sinh năm 1696 tại Napôli. Người từ bỏ nghề luật sư để làm linh mục, rồi sau lại nhận trách nhiệm giám mục để loan báo tình yêu của Chúa Kitô. Người đi giảng không mỏi mệt, siêng năng giải tội và rất nhân từ với các hối nhân. Người đã lập Dòng Chúa Cứu Thế nhằm mục đích loan báo Tin Mừng cho dân các miền quê (1732). Người đã giảng dạy luân lý và viết nhiều tác phẩm về đời sống thiêng liêng. Người qua đời năm 1787.
Lời Chúa: Mt 14, 1-12
Khi ấy quận vương Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: "Người này là Gioan Tẩy Giả, ông từ cõi chết sống lại, nên mới làm được các phép lạ như vậy".
Tại vì Hêrôđia vợ của anh mình mà vua Hêrôđê đã bắt trói Gioan tống ngục, bởi Gioan đã nói với vua rằng: "Nhà vua không được lấy bà ấy làm vợ". Vua muốn giết Gioan, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi Gioan như một tiên tri. Nhân ngày sinh nhật của Hêrôđê, con gái Hêrôđia nhảy múa trước mặt mọi người, và đã làm cho Hêrôđê vui thích. Bởi đấy vua thề hứa sẽ ban cho nó bất cứ điều gì nó xin. Được mẹ nó dặn trước, nên nó nói: "Xin vua đặt đầu Gioan Tẩy Giả trên đĩa này cho con". Vua lo buồn, nhưng vì đã trót thề rồi, và vì các người đang dự tiệc, nên đã truyền làm như vậy.
Ông sai người đi chặt đầu Gioan trong ngục, và để đầu Gioan trên đĩa đem trao cho cô gái, và nó đem cho mẹ nó. Các môn đồ của Gioan đến lấy xác thầy và chôn cất, rồi đi báo tin cho Chúa Giêsu.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Vì đã trót thề
Suy niệm:
Theo các sách Tin Mừng, Gioan bị giết trong khung cảnh một bữa tiệc.
Đó là tiệc mừng sinh nhật Hêrôđê Antipas là tiểu vương vùng Galilê và Pêrê.
Nếu thế, bữa tiệc này hầu chắc diễn ra ở Tiberias,
một thành gần hồ Galilê, nơi Hêrôđê đặt trung tâm quyền lực của mình.
Gioan bị giết vì dám phản đối cuộc hôn nhân bất hợp pháp
giữa Hêrôđê với bà Hêrôđia là vợ của Philíp,
người anh cùng cha khác mẹ với mình.
Chuyện ngoại tình của Hêrôđê bị Gioan Tẩy giả kết án là có thể hiểu được.
“Ngài không được phép lấy bà ấy” (c. 4).
Lấy vợ của người anh em là phạm đến Luật Chúa (Lv 18, 16; 20, 21).
Gioan là một ngôn sứ không lùi bước trước sự bất công.
Ông đã sẵn sàng bênh vực sự thật, dù ông biết cái giá phải trả.
Hêrôđê đã dùng quyền lực để ép Gioan phải im miệng.
Ông bắt Gioan, xiềng lại và tống vào ngục.
Chỉ vì sợ phản ứng của dân chúng mà Hêrôđê chưa muốn giết Gioan.
Bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê hẳn có nhiều quan khách tham dự.
Chuyện cô công chúa như Salômê, con bà Hêrôđia, múa cho quan khách xem,
là một chuyện lạ, nhưng vẫn có thể đã xảy ra.
Không rõ vì cô xinh đẹp hay vì múa giỏi mà Hêrôđê ngây ngất (c. 6).
Từ đó Hêrôđê không còn đủ sáng suốt, tỉnh táo,
khi vội vã đưa ra một lời hứa kèm theo lời thề với cô.
Cô muốn xin gì, nhà vua cũng thề hứa ban cho (c. 7).
Chúng ta thấy Hêrôđê đã tự đưa mình vào thế kẹt dại dột và nguy hiểm.
Ông đã không lường được hậu quả của chuyện đó.
Hêrôđia chỉ chờ cơ hội này để thanh toán kẻ dám phá hạnh phúc của bà.
Bà đã xúi con gái xin ngay thủ cấp của Gioan, đặt trên mâm.
Hêrôđê hẳn đã lặng người khi nghe cô bé xin điều ấy.
Ông lấy làm đau buồn vì đây thật là chuyện không ngờ (c. 9).
Ông bị đặt trước một chọn lựa: giết hay không giết Gioan.
Đám đông quan khách tạo một áp lực vô hình trên ông.
Vì đã lỡ thề hứa trước mặt họ, nên ông không dám rút lại.
Ông sợ rút lại sẽ bị mang tiếng là nuốt lời, và sẽ bị mất uy tín.
Hêrôđê đã chọn mình, chọn danh dự và cái ghế của mình hơn.
Ông hy sinh Gioan để giữ được tiếng tăm và tình yêu với bà Hêrôđia.
Làm sao chúng ta có can đảm nhận ra mình sai lầm và dừng lại ?
Làm sao chúng ta không bị cuốn từ tội này sang tội khác ?
Rút lại một lời hứa có khi còn khó hơn giữ lời hứa ấy.
Hêrôđê là người bị nô lệ bởi nỗi sợ, sợ Gioan, sợ dân, sợ quan khách…
Đúng hơn là ông sợ mất chính mình, sợ người ta nghĩ xấu về mình.
Có những lúc chợt tỉnh ngộ, tôi vẫn ngần ngại không muốn nhận mình sai.
Tôi không dám nhận lỗi, vì tôi muốn mình vẫn đúng.
Xin Chúa đưa tôi ra khỏi cơn mê muội của tôi.
Cầu nguyện :
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Tương Quan Giữa Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu
Trong Tin Mừng hôm nay, tác giả hai lần nhắc đến Gioan Tẩy giả trong tương quan với Chúa Giêsu.
Ở khởi đầu trình thuật, vua Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì ông cho đó chính là Gioan Tẩy giả, người mà ông đã cho chém đầu nay sống lại. Ơn gọi của Gioan Tẩy giả như chính miệng ông Zacaria loan báo trong ngày lễ đặt tên cho con mình: "Con là tiên tri của Ðấng tối cao, con sẽ đi trước dọn đường cho Ngài". Ơn gọi đó Gioan đã chu toàn một cách tốt đẹp. Gioan chuẩn bị cho Chúa Giêsu đến, không những bằng việc rao giảng thống hối, mà còn bằng chính cái chết vì trung thành với sự thật. Dung mạo của Gioan Tẩy giả loan báo dung mạo của Chúa Giêsu một cách tốt đẹp, đến nỗi khi Chúa Giêsu xuất hiện, vua Hêrôđê tưởng Ngài là hiện thân của Gioan Tẩy giả sống lại.
"Các con sẽ làm chứng về Thầy", đó là mệnh lệnh của Chúa Giêsu cho các Tông đồ, cho mỗi môn đệ của Chúa. Chúng ta cần trở nên một Chúa Kitô cho anh em mình, vận mệnh của Chúa sẽ là vận mệnh của chúng ta.
Một chi tiết nữa, đó là các môn đệ Gioan Tẩy giả, sau khi chôn cất ông xong, thì đến báo tin cho Chúa Giêsu. Chi tiết này nói lên mối liên hệ thân tình giữa Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Gioan Tẩy giả là hướng về Chúa Giêsu. Gioan Tẩy giả không phải là Chúa Giêsu, nhưng là người giúp anh em mình đến với Chúa. Chính Gioan Tẩy giả đã tuyên bố: "Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng".
Người Kitô hữu được mời gọi sống hướng về Chúa, kết hợp với Chúa, trở thành một Chúa Kitô thứ hai cho anh em. Nhưng đó là để giúp anh em đến với Chúa, chứ không dừng lại nơi mình. Người Kitô hữu không được chiếm chỗ của Chúa trong tâm hồn anh em: Chúa Kitô phải lớn lên trong tâm hồn anh em, còn tôi chỉ là phương thế, tôi không được cản trở anh em đến với Chúa.
Xin Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm và trung thành với sự thật, dù phải hy sinh chính mạng sống mình, để giúp người khác đến với Chúa và tin nhận Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 3: Chết Cho Sự Thật (Mt 14,1-12)
Lịch sử nhân loại lúc nào cũng có chiến tranh, lúc nào cũng có hận thù. Khi thánh Gioan Tẩy Giả bị chém đầu cách đây hai ngàn năm, người ta cũng xôn xao bàn tán về cái chết của ngài. Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Mátthêu đã ghi lại hoàn cảnh cái chết của vị tiền hô. Ngài chết vì đã nói lên sự thật. Ngài chết cho sự thật. Tín hữu Kitô là những người đã đi theo Ðấng đã từng tuyên bố: "Ta là sự thật". Họ phải là những người sẵn sàng chết cho sự thật ấy.
Trong một cuộc thăm dò do viện Galup thực hiện, sáu mươi chín phần trăm người dân Mỹ cho biết họ tin là không có những chuẩn mực luân lý tuyệt đối. Trong một cuộc thăm dò khác, bảy mươi mốt phần trăm nói rằng không hề có một chân lý tuyệt đối. Không có chân lý tuyệt đối, cho nên theo họ chỉ có chân lý của số đông. Tiêu chuẩn của chân lý là số đông. Ðiều gì đám đông nghĩ, đám đông tin, đám đông bỏ phiếu, đám đông tán thành, là đúng. Chính vì tiêu chuẩn của chân lý là đám đông, nên có biết bao nhiêu hành động tội ác được hợp pháp hóa bởi vì đám đông đã tán thành. Còn gì độc ác dã man cho bằng hành động phá thai, nhưng nó đã được hợp pháp hóa bởi vì đám đông đã đồng tình.
Ðấng là sự thật đã chết trơ trụi một mình trên thập giá. Tuyên xưng mình là sự thật, sống cho sự thật, thường cũng đòi hỏi người tín hữu Kitô phải lội ngược dòng. Sự thật không có tính vụ lợi. Sự thật không được đánh giá bằng những lợi lộc hay đổi chác. Sự thật đòi hỏi con người phải hy sinh tất cả để nói lên sự thật và trung thành với sự thật. Sống chết cho sự thật, không có phần thưởng nào khác hơn là chính sự thật, bởi lẽ vì sống cho sự thật có thể mất hết mọi sự nhưng không đánh mất chính mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Chân Lý
Thời ấy tiểu vương Hê-rô-đê nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: “Đó chính là ông Gio-an Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết chỗi dậy, nên quyền làm phép lạ mới tác động nơi ông.” (Mt. 14, 1-2)
Đoạn này kề về cuối đời của thánh Gio-an Tiền Hô, một con người bảo vệ chân lý. Ngài đã trung thành sống với Lời Ngài giảng. Đó chính là đức tính của vị ngôn sứ.
Ngôn sứ là ai?
Ngày nay quá nhiều kẻ tuyên bố sự thật. Họ rêu rao sự thật đến rát cổ mỏi miệng.
Có kẻ tách khỏi Giáo Hội và xỉ nhục điều này điều kia của Giáo Hội, phỉ nhổ vị này vị kia. Kẻ đó không phải là kẻ chân chính.
Gio-an Tiền Hô thành chướng ngại vật, là lời khiển trách sống động đới với Hê-rô-đê và với chúng ta nữa. Ngài không nói: “Hãy làm như tôi!” nhưng Ngài nói: “Đó là huấn lệnh của Chúa!” Thính giả nghe Ngài, nhưng còn phải nhìn kỹ Ngài sống thế nào! cần phải chiêm ngắm chân lý của sứ ngôn và đời sống của Ngài, thì họ sẽ không còn dám sống ích kỷ nữa.
Ngày nay thì sao?
Ngày nay có nhiều ngôn sứ không?
Ngôn sứ là người loan báo Đức Giêsu Kitô. Ông phải làm chứng về Đức Kitô.
Đức Giêsu là ai? Ngôn sứ phải nói về Người như thế nào cho thế hệ hiện tại: trước hết chúng ta phải nói đến quá khứ, kể lại Tin Mừng: nói về sự sống lại của Người, về con người mới mà Người đã làm chúng ta trở lên con người mới đó.
Ngôn sứ không được vì mình, nhưng phải là chứng nhân cho thế hệ hiện tại.
J.M
Suy Niệm 5: CHỨNG NHÂN CHO SỰ THẬT (Mt 14, 1-12)
Khi xem các chương trình nhạc kịch, khán giả thường có những nhận xét đúng – sai cũng như đặc điểm của vai diễn qua các nhân vật. Ngoài ra, độc giả còn nhận thấy hình ảnh của mình thông qua con người và diễn xuất của các nghệ sĩ…
Hôm nay, trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy xuất hiện 4 nhân vật, mỗi nhân vật mang một nét đặc trưng riêng cả về nhân thân và lối sống. Các nhân vật đó là: Gioan Tẩy Giả; vua Hêrôđê; bà Hêrôđia; và, con gái bà Hêrôđia. 4 nhân vật đó như thế nào? Chúng ta cùng nhau tìm hiểu.
Thứ nhất là Gioan Tẩy giả:
Gioan Tẩy giả là ngôn sứ vĩ đại, đến để loan báo về Đấng Cứu Thế và chuẩn bị lòng dân đón nhận Ngài. Vì thế, ông đã biểu lộ vai trò ngôn sứ bằng một thái độ sống hết sức khiêm tốn, hy sinh, can đảm, mạnh mẽ và bất khuất trước bạo lực, cho dù phải chịu tù đày và chết tróc.
Thứ hai là vua Hêrôđê:
Ông được biết đến như một kẻ ác nhân. Ông đã lộng hành khi dùng quyền. Coi thường đạo lý và buông theo sắc dục mà bất chấp đúng - sai. Ông đã làm trái với lương tâm khi truyền lấy đầu ông Gioan để thỏa mãn điều thề hứa bất chính của mình.
Thứ ba là Bà Hêrôdia:
Vì ưa thích điều bất chính, nên đã không chấp nhận sự thật mà Gioan loan báo. Vì thế, lòng thù ghét nổi lên như nước thủy triều. Thay vì dạy dỗ con mình làm điều tốt, bà lại xúi con mình làm điều bất chính khi xin vua lấy đầu Gioan Tẩy Giả. Sự ác tâm này là con đẻ của hận thù và ghen ghét vì mối lợi trước mắt.
Thứ tư là con gái bà Hêrôdia:
Cô gái trẻ này được biết đến như một nhân vật có tài mà không có đức. Vì thế, thay vì sử dụng tài của mình để làm việc thiện, cô ta đã dùng nó như là một thứ mua vui thuần túy và phá hoại. Tệ hơn nữa là cô không hề áy náy khi biết rõ rằng việc mình làm chỉ là để thỏa nãm sắc dục của vua quan và phục vụ sự hận thù của mẹ cô với Gioan Tẩy giả.
Trong cuộc sống hôm nay, không thiếu gì những hình ảnh của Hêrôđê đang hiện ra qua những hành động của những người chỉ thích ham mê sắc dục, bất chấp sự thật để làm những điều lỗi lầm ghê tởm.
Cũng vẫn còn đó nơi ta hình ảnh của bà Hêrôdia. Nhiều lúc, thay vì dạy con làm điều tốt, thì lại chỉ vẽ cho trẻ những điều sai trái, miễn sao đạt được điều bất chính nơi ta mà thôi. Và cũng không thiếu những sự ngộ nhận nơi ta như con gái bà Hêrôdia…
Thế nhưng, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy mang trong mình hình ảnh và đặc tính của Gioan Tẩy Giả. Luôn tìm mọi cách để Lời Chúa được loan báo mọi nơi, mọi lúc. Sẵn sàng chấp nhận hy sinh và ngay cả cái chết để làm chứng cho Thiên Chúa và sự thật về Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được yêu mến Lời Chúa và sẵn sàng rao giảng Lời ấy cho mọi người, dù có phải hy sinh. Amen.
Ngọc Biển SSP