Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
04/05 Hiệp nhất và bình an.
- Viết bởi Ga 14, 27-31a
Hiệp nhất và bình an.
Thứ Ba tuần 5 Phục Sinh.
"Thầy ban bình an của Thầy cho các con".
Lời Chúa: Ga 14, 27-31a
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng.
Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại với các con.
Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin. Thầy không còn nói nhiều với các con nữa, vì thủ lãnh thế gian đã đến. Nó không có quyền lực gì đối với Thầy. Nhưng để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Cha, thì Thầy làm như Cha đã truyền dạy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Bình an cho anh em
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Con người thời nay gần như có mọi sự.
Nhưng tiếc thay nhiều người lại không có một điều rất quan trọng,
đó là bình an ở nơi tâm hồn.
Nhiều người bị mất ngủ, căng thẳng, suy sụp, chán đời, tự tử.
Có người rơi vào tình trạng nghiện ngập, bạo hành hay trụy lạc.
Gia đình cũng chẳng bình an khi gặp cảnh xung đột, ly dị, ngoại tình.
Con người nôn nóng đi tìm bình an.
Có người tìm đến những giáo phái, liệu pháp tâm lý hay đơn giản là tập thở.
Bình an phải chăng chỉ là kết quả của cố gắng từ phía con người?
Tự sức con người có thể tạo ra bình an cho mình, gia đình và thế giới không?
Khi thấy các môn đệ xao xuyến và sợ hãi trước việc Thầy sắp ra đi,
Đức Giêsu đã nói câu mà chúng ta không ngừng lặp lại trong mỗi Thánh lễ.
“Thầy để lại bình an cho anh em.
Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (c. 27).
Bình an là quà tặng cao quý của Thầy Giêsu
khi Thầy sắp trở về với Cha qua cái chết thập giá (c. 28).
Bình an cũng là quà tặng của Chúa Giêsu phục sinh
khi Ngài hiện ra cho các môn đệ đang đóng cửa vì sợ hãi:
“Bình an cho anh em” (Ga 20, 19.21.26).
Như thế các môn đệ vẫn phải luôn bình an trước và sau cái chết của Thầy.
Đời sống Kitô hữu được bình an không phải vì không gặp sóng gió,
nhưng là bình an giữa những sóng gió.
“Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an.
Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó.
Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
Bình an của chúng ta dựa trên chiến thắng của Đức Giêsu.
“Trong mọi thử thách, chúng ta toàn thắng
nhờ Đấng đã yêu chúng ta” (Rm 8, 37).
Đức Giêsu nhìn nhận thế gian có khả năng ban cho chúng ta bình an.
Nhưng Ngài phân biệt thứ bình an ấy với thứ bình an của Ngài.
Chúng ta tự hỏi mình có tìm bình an dựa trên sự vững bền mong manh
của tiền bạc, sắc đẹp, chức quyền, tài năng, tri thức không?
Sự bình an mà chúng ta nhận được và trao cho nhau trong mỗi Thánh lễ
có thật sự gây âm vang trong cuộc sống đời thường của ta không?
Cầu nguyện:
Giữa những ồn ào của đám đông,
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại,
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng,
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước,
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó,
trầm lắng và bình an.
SUY NIỆM 2: TÂM BẤT BIẾN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Cuộc đời luôn có mâu thuẫn. Vì thế phải chiến đấu. Như Chúa Giê-su.
Mâu thuẫn đi – đến. Chúa ra đi nhưng không vắng mặt. Mà để hiện diện. Vắng mặt thể lý. Nhưng hiện diện mầu nhiệm. Hiện diện bí tích. Hiện diện thực sự tích cực hơn.
Mâu thuẫn thế gian - Chúa Cha. Chúa đi vì Thủ lãnh thế gian đến. Không phải Chúa chịu thua ác thần. Nhưng chỉ vì muốn làm trọn thánh ý Chúa Cha.
Mâu thuẫn chiến đấu - bình an. Từ bỏ thế gian để làm theo ý Chúa Cha. Đây là cuộc chiến đấu quyết liệt. Vì trong thế gian có ta. Ý riêng của ta giống với thế gian. Trái với ý Cha. Chỉ khi từ bỏ chính mình ta mới bình an.
Mâu thuẫn biến động - bất biến. Cả thế gian xao động. Toa rập nhau chống lại Chúa. Từ vua chúa đến thượng tế. Từ dân chúng đến môn đệ. Và ý riêng. Chúa Giê-su giữ tâm hồn bất biến. Luôn kết hợp với Chúa Cha. Luôn vâng lời Cha.
Chúa đạt đến bình an. Chúa để lại bình an đó cho ta. Bình an là chính Chúa. Vì thế ta phải chiến đấu để đạt tới Chúa. Như thánh Phao-lô vượt qua mâu thuẫn.
Đi – đến. Khi Chúa còn ở dương gian, thánh nhân chưa hề gặp Chúa. Nhưng khi Chúa đã ra đi, thánh nhân gặp Chúa sống động, mãnh liệt. Thay đổi cả cuộc đời.
Thế gian – Nước Trời. Hôm nay người ta đã ném đá. Để ngài thoi thóp ngoài thành. Nhưng ngài không sợ đau khổ, vất vả. Vì ngài làm theo ý Chúa.
Chiến đấu – bình an. Thánh nhân đã chiến đấu quyết liệt. Với ác thần. Với công việc. Với thiên nhiên. Với chính mình. Để đạt tới bình an trong tâm hồn.
Biến động – bất biến. Cuộc đời ngài đầy xáo động. Vì vua chúa kết án. Vì thượng tế tố cáo. Vì dân chúng hành hung. Nhưng tâm hồn ngài bất biến. Giứ được tâm bất biến giữa giòng đời vạn biến.
Xin cho con nhận được bình an của Chúa. Cho con biết vượt qua mọi mâu thuẫn trong đời. Để con đạt tới chính Chúa. Là nguồn bình an đích thực.
SUY NIỆM 3: Hiệp nhất và bình an
Các môn đệ ngày xưa đã được nghe Chúa Giêsu chia sẻ tâm tình của Ngài khi Ngài cùng với các ông ngồi bên cạnh nhau trong bữa tiệc ly. Chúng ta cũng đã nghe lại những lời thân thương đó mỗi khi chúng ta cùng với Ngài và với nhau dâng Thánh Lễ. Giáo Hội đặt để những lời thân thương ấy sau kinh Lạy Cha và trước khi chúng ta đón nhận Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Chúng ta chứng minh được bao bọc trong bình an của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, nhất là chúng ta đã dọn lòng mình đủ để có Chúa ngự trong lòng chúng ta.
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu thực sự tin rằng Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô không chấp nhất gì tội lỗi của chúng ta mà dựa trên đức tin của Giáo Hội, của cộng đoàn dân Chúa đã ban cho chúng ta, cho Giáo Hội được ơn hiệp nhất và bình an. Chắc chắn là Giáo Hội rất rõ điều Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng". Và chúng ta cũng phải hiểu được điều đó để hân hoan với bình an mà Chúa ban cho chúng ta. Thế gian là gì trong nhãn quan của thánh Gioan.
Thế gian là ma quỉ, là mãnh lực của ma quỉ, là thế giới của ma quỉ, là tất cả những con người và những sinh hoạt đồng lõa với ma quỉ. Bình an của thế gian này ban tặng là bình an có được do vũ lực, do đàn áp, do chiến tranh, do mưu mô xảo quyệt, do tội ác, do chiếm đoạt và đe dọa, mong manh biết bao sự bình an tạm bợ này, chỉ cần một vài thay đổi rất ư là đơn giản thì cũng đủ để cho người ta mất đi bình an và lại rơi vào hoảng sợ, vào dằn vặt. Ma quỉ và đồng lõa của ma quỉ vốn dĩ rất quen thuộc với chiến lược trở mặt như trở bàn tay, và vì thế không ít những người trở thành nạn nhân của sự bình an do chúng tạo nên. Còn bình an của Chúa ban cho lại là sự bình an của những người được tha thứ tất cả. Bình an của một con người thấy thanh thản trong thân xác và nhẹ nhàng trong tâm hồn. Bình an của một cuộc đời có Thiên Chúa. Sự bình an bất chấp những khó khăn, bất chấp mọi thử thách. Sự bình an của một con người không thấy hổ thẹn gì khi ngước mắt nhìn lên trời, đưa mắt nhìn chung quanh và nhắm mắt lại nhìn vào chính mình.
Lạy Cha chí thánh, là con người ai cũng khao khát bình an và có rất nhiều người thấy hãnh diện vì sự an toàn nhất thời họ có được ở trần gian này, khi họ dựa cậy vào quyền lực hoặc là do một con người hay của một nhóm người, thực tế cho thấy bình an ấy quá mong manh. Các con cảm tạ Cha vì sự bình an ban cho chúng con qua Chúa Giêsu và với tác động của Chúa Thánh Thần. Sự bình an của Ðấng bị bắt, bị tra tấn, bị bỏ mặc, bị coi là điên khùng và bị treo lên giữa những tử tội trộm cướp, ngày thứ ba Ngài đã sống lại. Chúng ta thật hạnh phúc vì có được sự bình an ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Thầy để lại bình an
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an cho anh em”. Các bạn hãy suy nghĩ xem những lời chúc đó có ý nghĩa gì? Có phải như những lời chúc đầu năm mới, chúc Giáng sinh, chúc Phục sinh hay những ngày lễ kỷ niệm? Đó là kiểu chào, không còn gì hơn nữa sao? Nếu như thế, chúng ta chưa hiểu rõ những lời của Chúa. Ơn bình an của Chúa không phải như món quà gói gọn im lìm. Ơn bình an là sức mạnh hoạt động mạnh mẽ, nghĩa là: Thầy ban cho anh em sức mạnh bình an của Thầy, Thầy ban cho anh em sức hoạt động bình an của Thầy. Anh em sẽ làm chứng và sống thực hiện sự hòa giải, hòa hợp để đem lại bình an. “Phúc cho ai hoạt động cho bình an”.
Nhưng người ta có thể trách Chúa rằng: Ngài trao trách nhiệm hòa bình cho chúng tôi, Ngài bắt chúng tôi thừa kế và ban phát hòa bình, còn Ngài lại ra đi, Ngài để lại cho chúng tôi lời cam kết ban hòa bình. “Thầy sẽ ra đi”.
Sự ra đi của Đức Giêsu, sự xa cách của Người là để thực hiện một sự hiện diện thiêng liêng có mặt ở khắp mọi nơi, cho hết mọi người. Ơn bình an của Người là một cách Đức Giêsu tiếp tục với chúng ta thực hiện công cuộc cứu độ của Người.
Ngài ở với chúng ta bằng cách hiện diện thiêng liêng này, còn có ý tôn trọng tự do của chúng ta. Người hành động nơi chúng ta như cha mẹ đối với con cái, từ từ trao trách nhiệm và tự do cho con cái. Chúng xa cha mẹ mà vẫn được cha mẹ nâng đỡ, chở che và yêu mến.
Mỗi buổi họp các tín hữu, mỗi lúc dự Thánh lễ, Đức Giêsu đều ban bình an cho chúng ta. Người không áp đặt chúng ta nhận bình an, nhưng Người chỉ cho chúng ta thấy rằng sự hiện diện của Người ở trần gian tùy thuộc vào sự nhiệt tâm hăng hái của chúng ta, ra công xây đắp hòa bình. Sự biểu dương của hoàng tử hòa bình được chiếu sáng qua những cuộc hòa giải tốt của chúng ta, và qua những tấm lòng khoan dung tha thứ mau lẹ của chúng ta.
C.G
SUY NIỆM 5: Hòa bình của Đức Kitô
“Bất thần tôi cảm thấy xao xuyến lo âu khi nghĩ đến những người Công giáo Đức. Tôi không biết họ cảm nghĩ thế nào, khi chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Tôi cảm thấy nhu cầu cần phải dâng việc rước lễ để cầu nguyện cho nước Đức. Tôi hiểu rằng chúng ta cần phải cầu nguyện cho sự canh tân luân lý và tinh thần của xứ sở đã từng sống dưới sự cai trị của Đức Quốc Xã”.
Những dòng tâm sự trên đây được trích từ Nhật ký thiêng liêng của một người đàn bà Pháp được xem là người đã khởi xướng phong trào Pax christi – Hòa bình của Chúa Kitô. Sinh trưởng trong một gia đình trưởng giả, nhưng bà Marc đã có một đức tin sốn động và nhiệt thành. Trong thời Đức Quốc Xã chiếm đóng Pháp, dưới sự hướng dẫn của cha linh hướng, bà đã bắt đầu viết nhật ký thiêng liêng và chính những trang nhật ký này đã làm phát sinh một phong trào về sau được gọi là “Hòa bình của Chúa Kitô”. Cuối năm 1944, vào giữa lúc thế chiến thứ hai còn sôi động, bà xác tín rằng cần phải cầu nguyện cho sự hoán cải của nước Đức. Ý tưởng này không được nhiều người đón nhận, bởi vì chiến tranh vẫn còn sôi sục và người ta khó chấp nhận tinh thần hòa giải. Tuy nhiên, bà vẫn kiên trì trong việc thành lập một phong trào cầu nguyện cho nước Đức được ơn trở lại. Sau khi nước Đức đầu hàng, phong trào đã lan rộng tại nhiều nước Âu châu. Ngoài mục đích cầu nguyện và gây ý thức về hòa bình, phong trào còn đưa ra những sáng kiến về hòa bình. Từ 50 năm qua, đóng góp lớn lao nhất của phong trào này không chỉ là cổ võ cho hòa bình thế giới, mà thiết yếu là làm cho thế giới hiểu được hòa bình mà Chúa Kitô mang lại cho con người.
“Hòa bình của Chúa Kitô”. Quả thực chỉ có Chua Kitô mới đem lại hòa bình đích thực cho con người. “Ta để lại bình an cho các con, Ta ban bình an của Ta cho các con”. Sự bình an mà Chua Kitô đem lại cho con người không giống như bình an hay hòa bình mà thế gian hứa hẹn. Sau thế chiến thứ II quả thực ở quy mô thế giới tiếng súng đã hầu như im bặt. Tuy nhiên lịch sử cho thấy: sau thế chiến thứ II, nhân loại vẫn chưa có hòa bình đích thực, lò thuốc súng vẫn còn đó, chiến tranh bằng những súng đạn không diễn ra giữa hai khối kình chống nhau nhưng lửa hận thù lại bùng nổ ở những nơi khác.
Hòa bình mà Chúa Kitô đem lại cho con người trước tiên và thiết yếu là bình an trong tâm hồn. Hòa bình đó, bình an đó chỉ có khi con người chiến thắng được kẻ thù khủng khiếp nhất là tính tham lam, ích kỷ, hận thù. Bom đạn có im tiếng, nhưng bao lâu lòng tham lam, ích kỷ, hận thù vẫn còn sôi sục trong tâm hồn con người, thì bấy lâu chiến tranh vẫn còn đó.
Chúa Giêsu là nguyên ủy của hòa bình. Ngài đã thực sự chiến thắng được kẻ thù căn cội và khủng khiếp ấy bằng cả cuộc sống hiến thân và hy sinh đến giọt máu cuối cùng. Chỉ Ngài mới có thể đem lại hòa bình đích thực cho nhân loại. Người kitô hữu tin như thế và họ đón nhận sức sống thần linh của Ngài để nhờ đó cũng chiến thắng được kẻ thù căn cội của hòa bình là ích kỷ, tham lam, hận thù.
Hòa bình của Chúa Kitô, đó là hồng ân cao cả mà chúng ta phải không ngừng cầu xin và đó là hòa bình mà chúng ta luôn được mời gọi thể hiện bằng cuộc sống quảng đại, yêu thương và tha thứ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: BÌNH AN LÀ ÂN BAN CỦA ĐỨC TIN (Ga14, 27-31a)
Bình an là thứ mà con người mọi thời, mọi nơi, từ già đến trẻ, từ người có quyền lẫn người bình dân, ai ai cũng mong muốn và khao khát chiếm hữu cho kỳ được.
Tuy nhiên, bình an mà con người tìm kiếm ở đây, chính là thứ bình an trong trạng thái: không chiến tranh; không bị áp bức, bóc lột; không ốm đau bệnh tật; không tai nạn rủi ro...
Nhưng điều con người ước mong đó chỉ là thứ bình an bề ngoài, nó không có chiều sâu và không chi phối hạnh phúc vĩnh cửu. Nó cũng không thể thiết thực và tồn tại với thời gian. Bởi vì, sự bất ổn trong xã hội cũng như tâm lý bất an của con người luôn hiện diện và đeo bám chúng ta cách song song.
Vì thế, chiến tranh vẫn còn đó từ thời Đức Giêsu cho tới ngày nay. Con người vẫn phải chịu cảnh đau khổ, tai ương, đối xử bất công... Nhân loại cũng luôn phải đối diện với những căn bệnh thế kỷ mới của thời đại, gây nên sự chết chóc, tang thương...
Như vậy, nếu chỉ mong được bình an hòng tránh khỏi những điều bất trắc trên thì nó không đảm bảo hạnh phúc cho chúng ta. Còn bình an mà hôm nay Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ thì hoàn toàn khác. Khác ở chỗ:
Nếu muốn được bình an thực sự, trước tiên phải có đức tin. Chỉ có đức tin mới cảm nghiệm được sự bình an sâu xa trong tâm hồn. Bởi lẽ: bình an của Đức Giêsu chính là bình an ngay trong những khổ cực đau thương, bách hại, mất mát và ngay trong những hiểu lầm oán ghét, bất công... Như vậy, ơn bình an này chính là ân huệ đức tin và hệ quả của bình an chính là đem lại ơn cứu chuộc cho con người chứ không phải đem lại cho con người sự an tâm, đảm bảo phần xác.
Sự điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống tình trạng bình an của Chúa ngay trong những trái ngang của cuộc đời và xã hội. Tức là, cho dù cuộc sống có bất công, con người có tàn nhẫn, đâu khổ có dồn dập, kẻ thù có lộng hành, sự ác có chiến thắng, thì với chúng ta, những người tin Chúa, chúng ta hãy nhìn tất cả chiều kích đó dưới con mắt đức tin và tâm niệm rằng: tất cả đều sinh ích cho người có lòng yêu mến Chúa, và với ân sủng của Chúa, thì Ngài có thể biến từ sự dữ trở nên sự lành.
Có được tâm tình đó, chắc chắn chúng ta có được sự an bình thư thái, và bình an của Chúa sẽ ngự trị nơi tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, ơn ban bình an của Chúa là quà tặng vô giá Chúa ban cho các môn đệ và cũng cho mỗi người chúng con. Xin cho chúng con luôn được ở trong sự bình an đó hôm nay và mãi mãi. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7:,,,
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu ban bình an cho các môn đệ. Đây là sự bình an siêu nhiên, tức là ơn cứu độ đến từ Chúa Cha. Chỉ những ai tin tưởng và thi hành ý Chúa Cha mới nhận được sự bình an này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước giờ phút Chúa đi vào khổ nạn, Chúa nhìn thấy tâm hồn các tông đồ xao xuyến sợ hãi. Chúa cũng đang nhìn thấy mỗi người chúng con trong cuộc sống hằng ngày đầy những gian nan thử thách, những vất vả khổ đau, những lo lắng căng thẳng, nhất là những đam mê tội lỗi. Tất cả đang làm con sợ hãi xao xuyến. Chúa đã thương ban bình an cho các tông đồ, thì giờ đây xin Chúa cũng thương ban bình an cho đời sống con.
Trong giờ phút khổ đau nhất, tâm hồn Chúa vẫn tràn ngập bình an, bởi vì Chúa luôn tin tưởng vào tình yêu của Chúa Cha và biết rằng mình đang thực hiện Thánh Ý Chúa Cha. Vâng, đó chính là sự bình an mà Chúa muốn ban cho con. Con tin tưởng Chúa Cha luôn yêu thương và gìn giữ con. Như thánh Phao-lô, con tuyên xưng rằng: ai có thể tách con ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Trong mọi thử thách ấy, con sẽ toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến con. Con tin chắc rằng không có gì tách được con ra khỏi tình yêu của Chúa Cha thể hiện nơi cuộc sống của Chúa.
Xin Chúa cũng giúp con theo gương Chúa luôn thi hành Ý Chúa Cha, để nhờ đó mà được bình an trong mọi giây phút. Trong mọi việc, con chỉ mong tìm một phần thưởng duy nhất là biết mình đang làm theo Ý Chúa Cha. Con quyết tâm xa tránh tội lỗi là căn nguyên làm cho tâm hồn con rối loạn. Nhưng lạy Chúa, con quá yếu đuối, xin Chúa giúp con. Amen.
Ghi nhớ: “Thầy ban bình an của Thầy cho các con”.
SUY NIỆM 8:,,,,,,,,,
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Hôm ấy trên con tàu lênh đênh giữa biển, hành khách truyện vãn với nhau, trong đó có bàn về Thiên Chúa. Trong số những người có mặt, có một vị vô thần. Ông này tìm mọi lẽ bác bỏ Thiên Chúa. Lời ông nói, lý ông đưa ra khá mạnh, khiến một số thính giả xiêu lòng. Thình lình có cơn bão lớn khiến con tàu muốn đắm. Người ta thấy mất ông vô thần. Họ bảo nhau đi kiếm thì thấy ông đương quỳ cầu nguyện trong phòng rửa mặt.
Một người hỏi khích ông: “Ông cầu nguyện với ai? Ông là người vô thần cơ mà?”. Ông khiêm nhường đáp: “Người ta chỉ vô thần khi bình an thôi”.
Suy niệm
Các tông đồ xao xuyến, sợ hãi trước sự loan báo ra đi bước vào cuộc khổ nạn của Thầy. Chúa Giêsu nhận thấy các môn đệ bàng hoàng xao xuyến. Chúa Giêsu hứa ban sự bình an: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14,27). Sự bình an không phải là tâm trạng tâm lý khoan khoái, sung sướng của con người về mặt tâm lý, hay vui sướng vật chất, cũng không phải là không có chiến tranh. Sự bình an đích thực mà Chúa Giêsu trao ban là ân huệ lớn lao từ nơi Chúa Cha. Ân huệ này chính là ơn cứu độ, ơn giải thoát ta khỏi sợ hãi và nô lệ tội lỗi khi được sống trong sự thật và ánh sáng của Chúa như cụ Simêôn đã cảm thấy toại nguyện, nên bộc phát cầu nguyện: “Xin để tôi tớ này được an bình ra đi, vì chính mắt con được nhìn thấy ơn cứu độ” (Lc 2,29-30).
Lời hứa “bình an” và hiệu quả cũng được Thiên Chúa trao ban cho những người tin, để sống với biết bao biến cố thăng trầm, để vượt qua những lo lắng nho nhỏ hàng ngày, để chiến đấu với những sự việc gây hoảng loạn trong đời. Bình an cũng là niềm hy vọng cho thời đại hôm nay trên bình diện rộng lớn quốc gia và thế giới đang trong khủng hoảng và sợ hãi trước bóng ma của bạo lực khủng bố, tranh chấp tôn giáo, chủng tộc, ý thức hệ… Ngôi nhà chung của nhân loại cần bình an của Chúa mang lại như lời hứa của Đức Kitô: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Xin ban cho mỗi người chúng ta, gia đình, khu xóm, giáo xứ sự bình an đích thực trong tâm hồn. Ðể cuộc sống của chúng ta không bị chao đảo, xao xuyến trước những thử thách khó khăn và được sống trong sự bình an của Chúa. Vì, “Chính Người là bình an của chúng ta” (Ep 2,14).
Ý lực sống: “Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em”. (Cl 3,15)
SUY NIỆM 9: Thầy ban bình an cho anh em
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Khi nghe những lời giáo huấn của Đức Giêsu trong bầu khí chuẩn bị chia tay – bữa tiệc ly – các môn đệ tỏ ra đau buồn và xao xuyến. Nhận thấy rõ như vậy, Ngài đã an ủi, khích lệ bằng cách dạy các ông phải bình tĩnh, và Ngài sẽ ban cho tâm hồn các ông được hưởng bình an của Chúa.
Trong lúc đang hoang mang sợ hãi như thế mà Đức Giêsu lại nói: “Thầy để lại sự bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con”. Như thế, thứ bình an này hẳn là đặc biệt.
2. Bình an ở đây không phải là hòa bình, một tình trạng không chiến tranh, tranh chấp, cũng không phải là tâm trạng của người hết căng thẳng về tâm lý, hoặc tâm trạng khoan khoái thoải mái, sung sướng... là những trạng thái thuộc lãnh vực tự nhiên.
Theo ngôn ngữ của thánh Gioan, bình an, sự thật, ánh sáng, sự sống, niềm vui... là những từ diễn tả nhiều khía cạnh khác nhau của ân huệ lớn lao mà Đức Giêsu từ Chúa Cha mang đến cho loài người. Ân huệ này chính là giải thoát, ơn cứu độ. Việc Đức Giêsu chịu chết để đem lại ơn giải thoát, việc Ngài phục sinh đem lại sự sống đời đời: đó là ân huệ lớn lao, là bình an mà Ngài ban nhằm trấn an các môn đệ (Trần Hữu Thành).
3. Nếu hiểu bình an là không có chiến tranh, tranh chấp, thì loài người chúng ta cũng không nhận được bình an của Chúa. Theo sự phát giác của một số sử gia, thì khoảng 150 năm trước Chúa Giêsu và từ Chúa Giêsu tới nay, thế giới mới thực sự hưởng thái bình hơn kém 300 năm, còn lại trên 3000 năm đã xẩy ra biết bao cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Ai cũng trông mong bình an, mà đâu có bình an.
Thực ra, khởi điểm của sự bình an đó là chính đời sống của mỗi người chúng ta, một đời sống hòa hợp với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính mình. Do đó, để có được bình an của Chúa là khi chúng ta sống theo điều răn của Chúa, chu toàn bổn phận của mình, và nếu chúng ta có bình an nơi mình, chúng ta sẽ có bình an với người khác. Nói khác đi, bình an trong gia đình và hòa bình trên thế giới là phản ánh của bình an nội tâm.
4. Là nguyên ủy của sự bình an, dĩ nhiên Chúa Giêsu chỉ rao giảng và thể hiện sự bình an mà thôi. Nhưng hòa bình hay bình an mà Chúa Giêsu mang đến như Ngài xác nhận trong bài Tin mừng hôm nay không phải là thứ hoà bình thế gian ban tặng. Hòa bình hay bình an của thế gian thường chỉ là hai chữ bình an đồng nghĩa với an phận, với trốn tránh, với thỏa hiệp. Hòa bình hay bình an Chúa Giêsu mang đến chỉ có thể có được bằng một giá đắt: nó đòi hỏi sự chiến đấu, chấp nhận mất mát, có khi cả mạng sống mình. Hòa bình hay bình an ấy chỉ có khi con người có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Lương tâm tôi không trách cứ tôi điều gì”. Chỉ khi lương tâm không trách cứ chúng ta điều gì, lúc đó chúng ta mới có được bình an hay hòa bình thực sự trong tâm hồn (Mỗi ngày một tin vui).
5. Michael Jackson, một danh ca nhạc rock nổi tiếng, đã đạt tới đỉnh cao danh vọng. Ước mơ của anh là được sống tới 105 tuổi, nên anh chẳng ngại thuê trực thăng đem khí oxy từ đỉnh núi cao về rồi bơm đầy phòng kính nơi anh ở để tránh mọi sự ô nhiễm. Liệu anh có thật sự an toàn và bình an trong căn phòng của mình?
Con người luôn khao khát được sống bình an và đã tìm kiếm bình an bằng tất cả những gì mình có. Tuy nhiên, họ chỉ có được sự bình an cách tương đối mà thôi. Bề ngoài trông họ có vẻ bình an, nhưng thật ra, bên trong tâm hồn, họ lại đầy những lo lắng và khổ đau. Đức Giêsu cho thấy chỉ Người mới có thể đem lại bình an đích thực cho con người, một thứ bình an nội tâm sâu xa. Bình an đó chỉ có khi con người biết cậy nhờ ơn Chúa giúp, để chiến thắng được kẻ thù lớn nhất là tính tham lam, ích kỷ, xấu xa, tội lỗi của mình.
6. Nếu chỉ mong bình an hòng tránh khỏi những bất trắc trong cuộc sống thì không đảm bảo hạnh phúc cho chúng ta. Còn bình an mà hôm nay Chúa Giêsu trao cho các môn đệ thì hoàn toàn khác. Khác ở chỗ: Nếu muốn được bình an thực sự, trước tiên phải có đức tin. Chỉ có đức tin mới cảm nghiệm được sự bình an sâu xa trong tâm hồn. Bởi lẽ: Bình an của Chúa Giêsu chính là bình an ngay trong những khổ cực đau thương, mất mát và ngay trong những hiểu lầm oán ghét, bất công... Như vậy, ơn bình an này chính là ân huệ đức tin và hệ quả của bình an chính là đem lại ơn cứu chuộc cho con người chứ không phải đem lại cho con người sự an tâm, đảm bảo phần xác.
7. Truyện: Bình an của Đức Giáo hoàng Gioan 23.
Ông Giacôbo Veisu, một nhà điêu khắc nổi tiếng của Italia đã viết hồi ký về những giây phút cuối đời của Đức Gioan 23 kể lại như sau:
Vào ngày cuối cùng của chuỗi ngày đau đớn kéo dài, Linh mục Cabovila, bí thư riêng của Đức Thánh Cha, đến bên giường bệnh, hôn tay Ngài và hỏi xem Ngài cảm thấy thế nào. Đức Thánh Cha Gioan 23 trả lời:
- Tôi cảm thấy trong mình khỏe khoắn và bình an như thể tôi đang ở trong tay Chúa, nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy hơi lo.
Linh mục Cabovila thưa:
- Xin Cha đừng lo, những người phải lo là chính chúng con đây. Chúng con đã nói chuyện với bác sĩ.
Đức Thánh Cha Gioan 23 ngắt lời:
- Họ đã nói những gì với con?
Linh mục bí thư nghẹn ngào nói:
- Thưa Đức Thánh Cha, con muốn nói với Cha một sự thật. Hôm nay là ngày của Chúa, hôm nay là ngày Cha sẽ được về Thiên Đàng!
Nói xong, Linh mục bí thư quì gối xuống bên giường, hai tay bưng mặt khóc. Vài phút nặng nề trôi qua, bỗng cha cảm thấy có một bàn tay âu yếm xoa đầu mình và nghe một giọng nói ôn tồn:
- Hãy ngước mắt nhìn lên! Bình thường người thư ký của Cha rất mạnh mẽ, can đảm, nhưng sao bây giờ lại trở thành mềm nhũn như thế. Cha đã nói với Người Bề Trên của Cha những lời hay đẹp nhất mà con người có thể nghe từ miệng Linh mục!
Vâng đó là thứ Bình an đích thực mà Chúa ban cho những ai tin Chúa.
03/05 Ðến với Chúa
- Viết bởi Ga 14, 6-14
Ðến với Chúa.
Thứ Hai tuần 5 Phục Sinh – THÁNH PHILIPPHÊ VÀ THÁNH GIACÔBÊ, Tông Đồ. Lễ Kính.
"Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin, Thầy sẽ làm cho".
* Thánh Philipphê quê ở Bét-xai-đa. Ban đầu người là môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, sau đó, người theo Chúa Giêsu.
Còn thánh Giacôbê, người là anh em bà con với Chúa và là con của ông Anphê. Người đã lãnh đạo giáo đoàn Giêrusalem và đã giúp cho nhiều người Do thái đón nhận đức tin. Người còn để lại một bức thư. Người chịu tử đạo năm 62.
Lời Chúa: Ga 14, 6-14
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Tôma rằng: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người".
Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con".
Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Philipphê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: 'Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha?' Con không tin Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Làm những việc lớn hơn nữa
Suy niệm:
Sau khi ông Tôma hỏi Thầy Giêsu về đường (Ga 14, 5),
thì ông Philípphê lại xin Thầy cho các môn đệ thấy Chúa Cha (c. 8).
Không rõ Philípphê muốn thấy Thiên Chúa theo kiểu nào,
bởi lẽ theo niềm tin chung của người Do thái
không ai thấy Thiên Chúa chí thánh mà sau đó còn sống được (x. Xh 33, 20).
Dù sao khát vọng được thấy Thiên Chúa là ước mơ chính đáng.
Thiên Chúa đã thỏa mãn ước mơ
mà Ngài đã đặt vào lòng con người.
Nơi Đức Giêsu, là Ngôi Lời nhập thể và là Con Thiên Chúa,
chúng ta có thể thấy được Thiên Chúa bằng mắt phàm.
“Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (c. 9).
Nhìn ngắm khuôn mặt Thiên Chúa nơi Đức Giêsu
chúng ta chẳng những không phải chết, nhưng được sống.
Theo quan niệm của người Do Thái,
sứ giả là đại diện trọn vẹn cho người sai mình.
Đức Giêsu đã là sứ giả cho Cha một cách tuyệt vời.
Ngài là một với Thiên Chúa, Đấng sai Ngài:
“Thầy ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha ở trong Thầy” (c. 11).
Các lời Ngài nói, Ngài không tự mình nói.
Các việc Ngài làm, Ngài không tự mình làm.
“Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy,
chính Người làm những việc của mình” (c. 10).
Nhìn những việc Đức Giêsu làm, chúng ta nhận ra đó là việc của Cha.
Cha làm việc của Cha qua Con của mình là Đức Giêsu.
“Ai tin vào Thầy, người đó sẽ làm được những việc Thầy làm.
Người đó còn làm được những việc lớn lao hơn nữa,
bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (c. 12).
Chúng ta vẫn ở trong mùa Phục sinh, mùa của sự sống chiến thắng.
Đức Giêsu đã về với Chúa Cha và được vào trong vinh quang.
Khi tin vào Ngài, khi gắn bó với một Đấng phục sinh quyền năng như thế,
chúng ta có thể làm được những điều như Ngài đã làm:
trừ quỷ, chữa bệnh, hoàn sinh kẻ chết (Mc, 16, 17-18; Cv 9, 34.40).
Và như Đức Giêsu, điều vĩ đại
mà chúng ta có thể làm cho thế giới hôm nay
là yêu thương, yêu như Thầy đã yêu, yêu đến hiến mạng.
Hãy mạnh dạn nhân danh Đức Giêsu mà xin,
vì biết thế nào Ngài cũng làm cho người gắn bó với Ngài.
Tất cả để Cha được tôn vinh nơi Con (c. 14).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-Tinh)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Philipphê và Giacôbê tông đồ
Kính nhớ thánh Giacôbê Hậu, con ông Alphê, anh em họ với Đức Giê-su. Ngài làm Giám Mục cộng đồng Kitô ở Giê-ru-sa-lem và là thánh tử đạo thứ 36 thánh Stêphanô và Giacôbê tiền anh của thánh Gioan. Cần đọc lại bức thư với lời giới thiệu để tôn vinh Ngài, vì Ngài đã bàn đến nhiều vấn đề.
Tên của Thánh Philip được ghi rất sớm trong Tin Mừng của Thánh Gioan. Ngài được kể là Tông Đồ thứ tư cùng với Thánh Gioan và hai Thánh Anrê và Phêrô dân thành Betsaida xứ Galilê (Ga 1, 43-44), Ngài giới thiệu mấy người Hy Lạp xin gặp Đức Giê-su (12, 21), trước khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giê-su hỏi Ngài: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?... Ngài đáp: thực có mua đến 200 đồng bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút (6, 5-7) và ở bữa tiệc ly, Philíp nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. (14, 8). Người ta cho rằng Philíp sống hiện thực, giống như những người tiến bộ khoa học thời chúng ta: ông sống theo kinh nghiệm nên đòi được xem, sờ, cảm thấy Chúa Cha, cùng với óc tính toán của ông: có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút!
Không, Đức Giê-su không mua 200 đồng bánh, cũng không làm cho Chúa Cha hiện ra. Đức Giê-su có tất cả mọi sự để nuôi tất cả thính giả, để mặc khải Chúa Cha: chỉ mình Người tỏ cho thấy rõ quyền phép của Người và tình yêu của Thiên Chúa. Trong Người, chúng ta có tất cả. Chỉ mình Người nắm giữ tất cả để với những cử chỏ của Người, Người ban cho chúng ta những cảm nghiệm về Thiên Chúa nhờ những dây liên kết của Người với chúng ta.
Hãy nhìn ngắm Đức Giê-su sống thì hiểu biết được Thiên Chúa. Hãy tin vào Đức Giê-su, thì chúng ta sẽ được bảo phải làm gì để đi vào chương trình cứu độ.
Nhờ sự cảm nghiệm của bản thân mình về đức tin chúng ta sẽ cảm nghiệm thẩm sâu toàn diện Tin Mừng Thánh Gioan kết hợp với những khuynh hướng hiện đại cũa chúng ta. Các bạn trẻ chúng ta đã cảm nghiệm được những điều thích thú trong sách của Thánh Gioan, thì cần đào sâu những cuộc đàm thoại trong Tin Mừng của Thánh Gioan để khởi đi từ câu thứ nhất: “Hãy theo tôi” mà Thánh Philíp chắc chắn đã thấm thía với tất cả ý nghĩa thâm sâu của câu đó, để rồi: “Thấy Thầy, là thấy Cha” và “Thế là được mãn nguyện”.
L.P
SUY NIỆM 3: Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ
Thánh Philipphê là một trong những Tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu, ngài sinh tại Galilê. Ngay trong những ngày đầu loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi ông theo Người. Có lẽ ngài đã giảng Tin Mừng ở Bắc biển Đông và tử đạo ở Tiểu Á.
Thánh Giacôbê Hậu là người có họ hàng với Chúa Giêsu. Ngài lãnh đạo cộng đoàn tiên khởi tại Giêrusalem. Theo truyền thuyết ngài bị dân Do thái ném đá đến chết vào năm 62 tại Giêrusalem.
Cả hai vị Tông đồ là những mẫu gương tuyệt vời về niềm tin. Các ngài đã hiến thân rao giảng Tin Mừng cho mọi người nhận biết Chúa mà được hạnh phúc. Các ngài là những người trực tiếp chứng kiến việc Chúa Giêsu chịu tử nạn và phục sinh vinh hiển. Các ngài giúp cho mọi người nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ qua lời giảng và mạng sống của mình.
Thánh Philipphê xưa kia xin Chúa Giêsu cho được thấy Chúa Cha, chứng tỏ các ngài vẫn chưa hiểu được Thầy đúng mức. Hôm nay đúng ra chúng con đã biết nhiều về Chúa hơn, có kiến thức về triết học, thần học… và nghe mọi lời Chúa dạy dưới ánh sáng Phục Sinh. Tuy nhiên, rõ ràng là các Tông đồ có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Cha và Chúa Giêsu đối với mình thế nào, còn con hôm nay nhiều lúc chỉ tìm kiến thức suông thay vì đi tìm chính Chúa. Xin Chúa cho chúng con biết nhìn lên Thập Giá Chúa và lắng nghe lời giảng của Chúa để hiểu được tình yêu Chúa và chương trình Chúa muốn dành cho từng người chúng con.
Chúa Giêsu luôn ở trong Chúa Cha. Ngài hiện hữu từ đời đời và cùng với Chúa Cha sáng tạo vũ trụ. Hôm nay ngài đến cứu độ chúng ta và cho thấy tình thương của Chúa Cha đố với loài người chúng ta. Thật lạ lùng khôn xiết! Qua Chúa Con, Chúa Cha nhận tất cả mọi người làm con. Phần chúng con phảI biết tin giữ lời Chúa, luôn gắn bó với Chúa Con để khi chúng con chết trong Ngài thì cũng được phục sinh với Ngài và hưởng hạnh phúc thanh nhàn cùng Ngài trên Thiên Quốc.
Thánh Philipphê là người trung gian giới thiệu Chúa cho mọi người: vừa khi được Chúa kêu gọi đã tin vào Chúa Giêsu và tìm Nathanael để giớI thiệu về Chúa Giêsu cho Nathanael cũng được diễm phúc làm môn đệ Chúa. Khi những ngườI Hy lạp muốn gặp Chúa Giêsu, chính Philipphê cùng Andrê dẫn họ đến vớI Chúa Giêsu. Chính ngài cũng xin Chúa Giêsu cho ngài và các Tông đồ thấy Chúa Cha.( Ga 14,7-9).
Về hạnh Thánh Giacôbê, chúng ta thấy:sau khi Chúa Giêsu về trời ngài đã lên tiếng cho những người ngoại giáo được gia nhập Kitô giáo mà không phải cắt bì (Cv 15, 13 -21). Ngài đã đem nhiều người Do thái và cả dân ngoạI trở về chính đạo… Noi gương các ngài, chúng con ý thức nhiệm vụ giớI thiệu Chúa cho mọi người. Xin các ngài giúp chúng con biết kết hiệp với Chúa Giêsu trong mọi việc làm, lời nói và ý tưởng, thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa đời này và đời sau.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở nên những chứng nhân cho Chúa trước mặt mọi người, sẵn sàng làm chứng cho Chúa trước mặt mọi người chúng con gặp gỡ bằng lời nói hay bằng việc làm trong đời sống hàng ngày: sống đồng tâm nhất trí với nhau trong gia đình, họ đạo vì Chúa Giêsu, biết chia sẻ với anh em vì lòng yêu mến Chúa, biết làm cho gia đình mình hạnh phúc, xã hội được ấm no.
SUY NIỆM 4: Philipphê và Giacôbê tông đồ
(GKGĐ Giáo Phận Phú Cường)
“Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”.
Giáo Hội mừng kính hai thánh Tông đồ Philipphê và Giacôbê. Hai vị thánh này xuất thân từ Bếtsaiđa, cùng quê với Phêrô và Anrê thuộc nhóm môn đệ của Gioan Tẩy Giả, và trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu.
Nếu như Giacôbê tiền là anh của Gioan, là con của ông Dêbêđê, thì Giacôbê chúng ta mừng kính hôm nay là Giacôbê hậu, con của ông Anphê. Tiền và hậu chỉ sự phân biệt chứ không nói lên đặc tính gì quan trọng.
Còn thánh Philipphê là người đã giới thiệu ông Nathanaen cho Chúa Giêsu; đồng thời cũng là người giới thiệu nhóm người Hy Lạp khi họ xin được gặp Chúa Giêsu.
Hai vị thánh được Giáo Hội mừng kính hôm nay nếu chỉ dựa trên những gì Sách Thánh nói, thì không có gì nổi trội đặc biệt. Thế nhưng, họ đã được chọn làm Tông đồ của Chúa, chứng tỏ nơi tâm hồn các ông đã có sẵn lòng nhiệt thành và sự sốt sắng đáp trả khi được ơn kêu gọi. Với thánh Philipphê khi xin Chúa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”; và thánh Giacôbê, vị Tông đồ được sánh bước với Thầy và được thấy những việc Chúa làm. Như thế đủ thấy các ngài được chọn là để thấy, để nghe, để ra đi và để làm chứng cho chính Chúa.
Mỗi người chúng ta cũng được Chúa chọn qua bí tích Rửa Tội; và vì vậy, chúng ta cũng được diễm phúc: thấy những việc Chúa làm trong cuộc đời mình; nghe những lời Chúa nói qua Tin Mừng, qua Giáo Hội; được sai đi loan báo Tin Mừng và làm chứng bằng đời sống gương mẫu về công bình, bác ái, niềm tin, lòng trông cậy và tình mến Chúa.
Lạy thánh Philipphê và thánh Giacôbê, xin chuyển cầu cho chúng con được trở thành những tông đồ tuy vô danh nhưng hữu dụng trong việc xây dựng Nước Chúa ở trần gian. Amen.
SUY NIỆM 5: THẤY THẦY LÀ THẤY CHA
(Lm. Đaminh Trần Công Hiển)
Được sống với Thầy, được nghe những bài giảng của Thầy về Chúa Cha, Philipphê nhận ra Chúa Cha là Đấng cao cả nhưng cũng rất tốt lành, là nguồn hạnh phúc, cho nên ông và các tông đồ khác đã ước ao được thấy Chúa Cha: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện ! Qua đó, chúng ta thấy được tấm lòng khao khát tìm kiếm chân lý của Philipphê và các Tông đồ.
Ước nguyện ấy lại được Chúa Giêsu đáp ứng một cách dễ dàng không ngờ: ai Thấy Thầy là thấy Cha! Một ước vọng có vẻ cao sang nhưng lại được được đáp ứng quá nhanh chóng đến độ bất ngờ như thế, thực sự là một Tin vui hạnh phúc cho loài người chúng ta trên hành trình tìm kiếm chân lý, nhưng nhiều khi cũng vì quá dễ dàng, nên chân lý vĩ đại này lại thường bị bỏ quên. Người ta thích đi con đường dài và hiểm trở (để quan trọng hóa vấn đề) hơn là chọn con đường có vẻ quá đơn giản như thế. Người ta đi tìm Chúa nơi nao trong khi Chúa ở rất gần, ở bên cạnh, ở trong lòng ta thì lại không biết, không thấy ! Người ta thích suy tư lý luận dài dòng phức tạp nhưng lại quên rằng Thiên Chúa của chúng ta và đường lối của Ngài lại rất đơn sơ.
Có lẽ Philipphê và Giacôbê cùng các Tông đồ sau khi được Chúa dạy dỗ bài học hôm nay, đã ý thức để sống thân mật với Chúa hơn, lãnh nhận chân lý với niềm tin yêu, và sau này các Ngài đã đổ máu đào để làm chứng cho chân lý ấy.
Đối với chúng ta hôm nay, chúng ta có khát khao tìm kiếm chân lý, tìm kiếm hạnh phúc đích thực không? Có người vất vả đi tìm hạnh phúc tạm bợ, giả tạo nơi tiền bạc, danh vọng, lạc thú…; có người đi tìm ở triết thuyết này, đạo pháp kia; có người biết là phải đi tìm Chúa nhưng không biết tìm ở đâu! Thì đây, Chúa Giêsu cho chúng ta câu trả lời đễ dàng đến bất ngờ: Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Thì ra gặp Chúa Giêsu là gặp Chúa Cha nguồn Sự thật, thấy Chúa Giêsu là thấy Chúa Cha nguồn sự sống, yêu mến Chúa Giêsu là yêu mến chính Thiên Chúa là nguồn tình yêu. Mà làm thế nào để tìm biết Chúa Giêsu?
Nếu anh biết Thầy, anh cũng sẽ biết Cha. Khổ nỗi, cho đến hôm nay nhiều người trong chúng ta vẫn chưa biết Chúa Giêsu, mặc dù ta mang danh là Kitô hữu, ta vẫn nghe Kinh Thánh mỗi ngày, vẫn rước Chúa mỗi ngày! Nếu một người lương dân hỏi: Chúa Kitô là ai? Có lẽ phần đông chúng ta cũng gặp khó khăn trong câu trả lời đấy! Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần nhìn lại cách sống đạo của chính mình, kẻo chúng ta cũng bị trách như Chúa Giêsu trách Philipphê: Thầy ở với anh bấy lâu mà anh không biết thầy ư? Phải chăng chúng ta cần tiếp cận Kinh Thánh một cách ý thức hơn, dành thời giờ học hỏi Kinh Thánh nhiều hơn, để biết đọc, biết suy, biết cảm nếm, để chúng ta có thể gặp được Đức Kitô Phục sinh đang sống động trong từng trang, từng Lời Kinh Thánh và để chính Đức Kitô sống động trong cuộc sống thường ngày của ta.
Nhiều anh chị em sau khi tham gia những khóa học Kinh thánh đã phải thốt lên: bây giờ tôi mới biết Đức Kitô là ai, bây giờ tôi mới cảm nghiệm tình Chúa yêu tôi như thế nào! Trước đó họ vẫn đọc Kinh Thánh chứ, vẫn nghe Kinh Thánh, vẫn học giáo lý, vẫn nghe giảng dậy hàng ngày, nhưng có lẽ những hiểu biết, Đức Tin, lòng yêu mến có được chỉ là vay mượn, không đích thật là của mình, cho nên nó hời hợt, không có chiều sâu và dễ bị nghiêng ngả chao đảo khi gặp thử thách đau khổ. Chỉ khi nào chính mình khám phá, trải nghiệm thì Đức Tin vào Đức Ki tô mới kiên vững, tình mến vào Chúa Kitô mới nồng nàn, và như thế chúng ta sẽ gặp được Chúa Cha là nguồn chân lý, bình an và hạnh phúc, và khi đó, chúng ta có thể làm được những điều như Chúa Giêsu đã làm, đó là làm nhân chứng cho Tin Vui phục sinh ở mọi nơi, để Chúa Cha được tôn vinh nơi Chúa con, để nhân loại được hạnh phúc trong Tình yêu của Chúa Ba Ngôi.
Nguyện xin hai thánh Tông đồ Philipphe và Giacôbê cầu thay nguyện giúp để chúng con noi gương các Ngài, khao khát tìm Chúa, siêng năng học hỏi Kinh Thánh, rước Thánh Thể một cách ý thức hơn để chúng con thực sự găp được Chúa, có được cuộc sống thân mật với Chúa Kitô, từ đó chúng con trở thành nhân chứng sống động, dám sống và chết cho Tin mừng Phục sinh. Amen
SUY NIỆM 6: Philipphê và Giacôbê tông đồ
(tonggiaophanhanoi.org // Enzo Lodi)
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Theo truyền thống, việc cử hành lễ này bắt nguồn từ việc cung hiến đại thánh đường dâng kính Mười hai vị thánh Tông Đồ tại Rôma ngày 1 tháng 5 năm 565. Nhân dịp này, có lẽ người ta đã đặt dưới bàn thờ thánh tích của các Tông Đồ Philípphê và Giacôbê. Vì thế, ở Tây Phương, người ta mừng lễ chung cả hai thánh.
Thánh Philipphê (tiếng hy-lạp = Philippos = người thích ngựa), là một trong nhóm Mười hai, quê quán tại Betsaide, cùng thành phố với Anđrê và Phêrô (Ga 1,44). Trong danh sách các Tông Đồ, ngài luôn chiếm vị trí thứ năm, và trong sách Tin mừng của Gioan, ngài xuất hiện ba lần trong tư cách người bạn tâm giao của Đức Giêsu. Ngài đã nói với Nathanael: Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: Đó là ông Giêsu... Cứ đến mà xem (Ga1,45 –46). Rồi cùng với Anđrê, ngài tham gia vào hai việc quan trọng: lúc đầu, lúc Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều và trước ngày Chúa chịu khổ nạn – đó là ngày Đức Giêsu vinh quang tiến vào Giêsusalem; lần sau, khi ngài làm môi giới cho các khách hành hương Hy Lạp muốn gặp Đức Giêsu (Ga12, 20 –21). Tin mừng của Gioan còn cho ta thấy ngài tại bàn Tiệc Ly, ngài nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha ...” (Ga 14, 8 tt).
Theo truyền thuyết, có lẽ Philípphê đã rao giảng Tin Mừng cho miền Tiểu Á và chịu đóng đinh tại Hiérapolis, vùng Phrygie. Nghệ thuật ảnh tượng thường minh họa ngài với cây thập giá trong cuộc tử đạo, hay đang lúc chịu đóng đinh.
Giacôbê – được gọi Hậu hay Tiểu huynh – cũng là một trong nhóm Mười hai. Người ta thường đồng hóa ngài với Giacôbê, người anh em của Chúa (Gl 1,19, Mc 6,3), là giám mục Giêrusalem và nhân vật hàng đầu của Hội thánh tiên khởi (Cv 15). Đức Giêsu hiện ra cho ngài sau khi Người đã phục sinh (Cv 15, 1- 8) và có lẽ ngài cũng là tác giả của thư Giacôbê.
Theo lưu truyền, Giacôbê Hậu chịu tử đạo tại Giêrusalem. Sau khi đẩy ngài từ trên cao Đền thờ xuống, người ta kết liễu đời ngài bằng cuộc ném đá. Nghệ thuật ảnh tượng minh họa ngài với một cái chùy cối xay, hay cuốn sách.
2. Thông điệp và tính thời sự
a. Lời cầu xin của Philípphê với Đức Giêsu: Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha; như thế là chúng con mãn nguyện (Phúc Âm ngày lễ: Ga 14,6-14) và lời đáp của Thầy: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha, tất cả đều là trọng tâm của lời kinh Phụng Vụ.
Lời nguyện nhập lễ gợi lại mục đích đời sống Kitô hữu: là “được thông phần vào cuộc Khổ nạn và Phục Sinh” của Đức Kitô để “được chiêm ngưỡng vinh quang của Người”. Quả vậy, chính Đức Kitô là đường dẫn đến Chúa Cha: Thầy là Đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến với Cha mà không qua Thầy... Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha Thầy (câu 6 và 9). Các câu này trở đi trở lại nhiều lần trong Thánh lễ và trong các giờ kinh Phụng Vụ.
b. Cả Philípphê lẫn Giacôbê đều được thấy Đấng Phục Sinh và đã làm chứng về Người. Giacôbê được thánh Phaolô nhắc đến (1 Cr 15,8) như là một nhân chứng về sự sống lại của Chúa: ... sau đó, Ngài cũng hiện ra cho Giacôbê (bài đọc một trong Thánh lễ).
Lời nguyện trên lễ vật gợi lại lòng đạo đức đích thật được các Tông Đồ Philípphê và Giacôbê giảng dạy và chúng ta được mời gọi “thực thi cách tinh truyền và không có gì đáng trách”. Như thế, chúng ta cũng nhớ đến Thư của thánh Giacôbê – Theo lưu truyền được gán cho Giacôbê, người anh em của Chúa – qua đó chúng ta đọc: Lòng đạo đức tinh truyền và không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian (Gc 1,27). Vậy sự tôn thờ đích thật, phù hợp với lời giảng dạy của các ngôn sứ, không thể tách rời khỏi lẽ công bình và lòng yêu mến các kẻ “Hèn mọn”: ... Hãy tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ (Is 1,17)
SUY NIỆM 7: THÁNH PHILÍPPHÊ VÀ THÁNH GIACÔBÊ
(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Ca nhập lễ ngày lễ hai thánh Philípphê và Giacôbê tông đồ có viết rằng: ”Đây là những vị thánh, Chúa đã lấy tình thương chân thành mà tuyển chọn và đã cho các Ngài được vinh quang muôn thuở”. Hại thánh Philípphê và Giacôbê đã được Chúa yêu thương cất nhắc, mời gọi để các Ngài trở nên cột trụ và nhân chứng cho Giáo Hội Chúa Kitô.
ƠN GỌI CỦA CÁC NGÀI
Chúa kêu gọi ai, tuyển chọn, cất nhắc người nào là do tình thương nhưng không của Ngài.Trường hợp của hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê nói lên tình yêu thương vô biên của Chúa. Chúa đã mời gọi hai Ngài và tất cả hai Ngài, đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Philípphê ở Betsaiđê cùng quê với thánh Phêrô và Anrê, một làng quê trên bờ biển Tibêriát. Thánh Philípphê đã theo thánh Gioan tiền hô và sau này trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Thánh Philípphê đã bảo cho Nathan biết Đấng Cứu Thế đã đến và dẫn Nathan đến gặp Chúa Giêsu. Tin Mừng đã thuật lại những sự liên hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và thánh Philípphê. Trước khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nên nhiều, Ngài đã thử hỏi xem Philíphê có tìm đâu ra thức ăn cho số đông người ăn hay không ? Chính Philíphê trong bữa tiệc ly đã xin Chúa cho thấy Cha của Ngài: ”Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Và như thế là chúng con mãn nguyện rồi”. Chúa Giêsu trả lời: ”Anh Philípphê. Ai xem thấy Thầy là thấy Cha của Thầy” (Ga 14, 6-9).Thánh Philípphê cũng được số đông lương dân xúm lại hỏi han Ngài, xin Ngài cho họ xem Đấng Cứu Thế. Sau khi Chúa về trời, được Chúa Thánh Thần tác động, đổi mới, thánh Philípphê đã rao giảng, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô cho toàn thể dân thành Sitti . Rồi Thánh Nhân đến rao giảng cho dân Hiêrapoli, xứ Rigie và cũng như Thầy mình, Ngài được phúc tử đạo, bị đóng đinh vì danh Chúa Kitô. Xác thánh nhân được dân chúng mai táng ở Rigie, sau đó được cải táng về Roma, chôn cất cạnh thánh Giacôbê. Thánh Giacôbê hậu là anh em họ với Chúa Giêsu. Sở dĩ gọi Ngài là Giacôbê hậu để dễ phân biệt với thánh Giacôbê con ông Alphê. Thánh nhân trở thành giám mục tiên khởi cai quản thành Giêrusalem. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã hiện ra với Ngài và chính Ngài đã viết một bức thư còn lưu lại trong Tân Ước. Thánh nhân luôn trung thành với đức tin, bảo vệ Giáo Hội và vững tay chèo vững tay lái trên ngai giám mục. Vì ghen tương, đố kỵ, thánh nhân bị bọn biệt phái và một số người cứng lòng, ngạo mạn tố cáo và kết án. Thánh nhân bị bọn chúng bắt, đưa lên nóc nhà thờ, xô Ngài xuống đất và ném đá Ngài cho đến chết. Trước khi lià cõi đời, thánh nhân đã quì gối cầu nguyện, xin Chúa tha thứ cho những kẻ thù hãm hại mình.
CHÚA TRAO MŨ TRIỀU THIÊN CHO CÁC NGÀI và GIÁO HỘI TÔN PHONG CÁC NGÀI:
Như Thầy của mình, các môn đệ đã liều mình, hy sinh mạng sống của mình để làm chứng cho Chúa Giêsu phục sinh. Các Ngài nhất nhất chết cho tình yêu. Đúng như Chúa Giêsu đã nói: ”Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15, 13). Như Chúa Giêsu các Ngài đều nhất loạt cầu nguyện cho kẻ thù làm hại các Ngài: ”Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23, 34). Các Ngài đã cảm nghiệm sâu sắc thế nào là tình yêu đến tự Thiên Chúa như Henri J.M Nouwen đã viết: ”Khi tình yêu đến từ Thiên Chúa, thì tình yêu đó bền bỉ”.
Lạy Chúa, hằng năm Chúa cho chúng con được hân hoan mừng lễ hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê. Xin Chúa thương nhận lời các Ngài cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Philípphê và Giacôbê, tông đồ).
SUY NIỆM 8: Philipphê và Giacôbê tông đồ
(Theo vết chân Người)
Giáo hội tôn kính hai vị tông đồ này trong cùng một ngày, vì vào thế kỷ thứ V, xác các thánh được đưa về Rôma với nhau và đặt ở đền thờ các thánh tông đồ. Ngày dời xác các Ngài là ngày 01 tháng 5. Nhưng vì trùng với lễ thánh Giuse thợ, cho nên lễ kính các Ngài được dời vào ngày 03 tháng 5.
Thánh GIACÔBÊ (hậu)
Chỉ có một chỉ dẫn Tân Ước cung ứng cho chúng ta về vị tông đồ thứ hai mang tên Giacôbê: Ngài “là con ông Alphêô” (x. Mt 10,3 – Mc 3,18 – Lc 6,15 – Cv 1,13). Vậy không đáng ngạc nhiên gì, khi có nhiều cố gắng đồng hóa Ngài với một hay nhiều người cùng mang tên là Giacôbê ở trong Tân Ước. Có Giacôbê “người anh em của Chúa” (x. Cl 1,19).
Có lẽ Ngài đã được thấy Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra (x. 1Cr 15,7) và chắc chắn Ngài là thủ lãnh Giáo hội Giêrusalem (x. Cv 12,17 – 15,13 – 21,18). Sau cùng, người được đồng hoá với người anh em của Chúa được nhắc đến trong Phúc Âm (x. Mt 13,55 – Mc 6,3). Đó là ý kiến của Thánh Hiêrônimô và được nhiều người chấp nhận, nhưng các học giả ngày nay muốn phân biệt hai người khác nhau và Phúc Âm chỉ giản dị ghi lại tên Ngài.
Dầu cho các sách Phúc Âm không nói nhiều tới thánh nhân nhưng Ngài đã giữ được một địa vị sáng giá trong Giáo hội sơ khai, Thánh Phêrô khi được cứu thoát khỏi tù đã nói: “Hãy đem tin cho Giacôbê và các anh em được biết” (x. Cv 12,17).
Khi tiếp xúc với các tông đồ, Thánh Phaolô đã đến gặp Giacôbê. Sau này Thánh Phaolô nói: “Giacôbê, Kêpha (Phêrô) và Gioan, những vị có thế giá như cột trụ ấy đã bắt tay tôi và Barnaba tỏ dấu hợp thông.” (x. Gl 2,9)
Tại công đồng Giêrusalem, Giacôbê đã lên tiếng sau Phêrô, tóm kết diễn từ về việc rao giảng Phúc Âm cho dân ngoại (x. Cv 15,13-31). Lần sau cùng về Giêrusalem, thánh Phaolô đã đến gặp thánh Giacôbê đang họp với hàng niên trưởng (x. Cv 21,18).
Để diễn tả sự thánh thiện của Giacôbê, thánh Eusêbiô và Hiêrônimô đã nói rằng: thánh nhân giữ mình đồng trinh suốt đời và con người hiến mình cho Thiên Chúa này không uống rượu, kiêng thịt, đi chân không và chỉ có một chiếc áo. Quì cầu nguyện nhiều, đầu gối Ngài chai cứng như da lạc đà.
Năm 62, các luật sĩ lo lắng vì sự rạng rỡ Giacôbê mang lại cho Kitô giáo. Họ triệu vời thánh nhân đến ở trước công nghị để tra vấn xem Ngài nghĩ gì về Chúa Kitô. Trên sân thượng ngoài đền thờ, họ bắt thánh nhân công khai nói lời bội giáo cho dân nghe, Ngài nói: “Chúa Giêsu là con người đang ngự bên hữu Thiên Chúa quyền năng và đến một ngày kia sẽ đến trên mây trời.”
Dân chúng đồng loạt lên tiếng tôn vinh Chúa Giêsu trong khi các luật sĩ và biệt phái xông vào thánh nhân. Họ đã quyết định ném đá Ngài.
Thánh PHILIPPHÊ
Thánh Philipphê là người Bethsaida (x. Ga 1,44). Trên đường đi Galilêa, Chúa Giêsu đã gọi ông. Đến lượt mình chính Philipphê lại giới thiệu Chúa Giêsu cho Nathanael: “Đấng mà Môisê trong lề luật cùng các tiên tri chép đến chúng tôi đã gặp rồi” (x. Ga 1,45).
Và ông còn khích lệ thêm: “Hãy đến mà xem” (x. Ga 1,46).
Khi hóa bánh ra nhiều Chúa Giêsu đã tin tưởng và ông hỏi: “Ta mua đâu được bánh cho họ ăn” (x. Ga 6,5).
Như vậy Chúa Giêsu đã kết hiệp với ông trước hết trong việc chuẩn bị cho phép lạ này.
Dịp lễ vượt qua sau cùng của Chúa Giêsu, các lương dân đã nhờ Philipphê xin Chúa cho họ được gặp Người: “Thưa ông, chúng tôi muốn gặp Chúa Giêsu” (x. Ga 12,21).
Sau cùng, trong cuộc đàm đạo thân mật sau bữa Tiệc Ly, Philipphê lên tiếng hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thày, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con rồi”.
Chúa Giêsu nói với ông: “Đã lâu rồi, Ta ở với các ngươi, thế mà, Philipphê, ngươi đã không biết Ta ư? Ai thấy ta là đã thấy Cha. Làm sao ngươi nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Cha (x. Ga 14,8-9).
Các tông đồ chỉ hiểu được chiều kích rộng lớn của những lời này khi Chúa Thánh Thần soi sáng cho các ông.
Đó là tất cả những gì mà sách Phúc Âm nói với chúng ta về thánh tông đồ Philipphê. Sau này truyền thống cho chúng ta biết thánh Philipphê đã đi rao giảng Phúc Âm ở Scythia và Phrygia. Nhưng rất có thể người ta đã lầm thánh nhân với vị phó tế cũng có tên là Philipphê. Về cái chết của Ngài, không có gì là chắc chắn. Có tài liệu nói rằng: Ngài tử vì đạo. Có tài liệu lại cho rằng: Ngài chết già.
SUY NIỆM 9: Philipphê và Giacôbê tông đồ
(http://conggiao.info // Lm. Anthony Trung Thành)
Thánh Philipphê là người Bétxaiđa, cùng quê với Thánh Anrê và Thánh Phêrô (x. Ga 1,44). Trước khi theo Chúa Giêsu, Ngài là môn đệ của Thánh Gioan Tẩy Giả. Ngài đã giới thiệu Chúa Giêsu cho ông Nathanael (x. Ga 1,45-46). Trước câu hỏi của Chúa Giêsu: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây? Philipphê trả lời: Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút" (x. Ga 6,5). Trong bài Tin mừng hôm nay ông đã mạnh dạn xin Chúa Giêsu “Cho thấy Chúa Cha” (x. Ga 14,8). Chúa Giêsu đã cho ông biết: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (x. Ga 14, 9). Sau ngày lễ Ngũ Tuần, Ngài đi truyền giáo tại Sitti, rồi giảng dạy ở Hiêrapoli, xứ Rigie và chịu đóng đinh vì danh Chúa tại đây.
Thánh Giacôbê, còn gọi là Giacôbê hậu, là anh em bà con với Chúa Giê-su (x. Mt 13,55 - Mc 6,3) và là con của ông Anphê (x. Mt 10,3 - Mc 3,18 - Lc 6,15 - Cv 1,13). Ngài được Chúa Kitô phục sinh hiện ra cách riêng (x. 1Cr 15,7). Ngài đã từng lãnh đạo giáo đoàn Giêrusalem (x. Cv 12,17 - 15,13 - 21,18) và giúp cho nhiều người Do thái đón nhận đức tin (x. Cv 15,13-31). Ngài có một địa vị quan trọng trong cộng đoàn sơ khai. Nhờ đâu, chúng ta khẳng định như vậy? Thứ nhất, khi Phêrô được thiên thần giải thoát khỏi ngục tù đã nói: "Hãy đem tin cho Giacôbê và các anh em được biết" (x. Cv 12,17). Thứ hai, sau khi trở lại, Thánh Phaolô đã từng gặp Giacôbê, và lần cuối cùng gặp Giacôbê khi ông đang họp với hàng niên trưởng (x. Cv 21,18). Thứ ba, Thánh Phaolô cũng nhắc đến Giacôbê trong thư Côlôsê: "Giacôbê, Kêpha (Phêrô) và Gioan, những vị có thế giá như cột trụ ấy đã bắt tay tôi và Barnaba tỏ dấu hiệp thông" (x. Gl 2,9). Thánh Gia-cô-bê để lại một bức thư. Ngài chịu tử đạo năm 62.
Trên đây là một vài điểm quan trọng, liên quan đến cuộc đời của hai vị thánh mà Giáo hội cho chúng ta mừng kính hôm nay. Hai vị Thánh vinh dự được Chúa Giêsu trực tiếp chọn vào số các Tông đồ. Các Ngài được chính Chúa Giêsu huấn luyện trong suốt ba năm, được nghe những lời Giáo huấn của Chúa, được thấy những phép lạ Chúa làm. Đặc biệt, các Ngài được chứng kiến cuộc khổ nạn và sự phục sinh của Thầy mình. Chính vì vậy, cũng như các Tông đồ khác, các Ngài đã dấn thân không mệt mỏi trong công cuộc rao giảng và làm chứng về những gì mắt thấy tai nghe. Các Ngài đã ý thức được trách nhiệm phải trao ban những gì mình đã lãnh nhận. Đó cũng là tâm tình của Thánh Phaolô nói với các tín hữu ở Côrintô mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ I, Ngài nói: “Tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã nhận lãnh: đó là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi sau với mười một vị. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện ra với Giacôbê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với chính tôi như với đứa con đẻ non” (1Cr 15, 3-8).
Vì đã lãnh nhận trách nhiệm làm Tông đồ, nên qua mọi thời đại, Giáo hội cũng tiếp tục dấn thân làm chứng cho Chúa bằng nhiều cách thế khác nhau. Thư chung của HĐVMVN năm 2003 diễn tả: "Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau đem Tin mừng đến tận cùng thế giới".
Sứ mạng của Giáo hội cũng là sứ mạng của mỗi người kitô hữu chúng ta. Cũng trong thư chung năm 2003, HĐGM Việt Nam mời gọi: “Sứ mạng loan báo Tin mừng được đặc biệt trao vào tay chúng ta. Chúng ta hãy tiếp bước các vị thừa sai đầy nhiệt tình tông đồ, hãy phát huy truyền thống kiên cường của các bậc tiền nhân anh hùng tử đạo. Ta hãy đáp lại kỳ vọng của Hội thánh đem Tin mừng cho anh em trên lục địa mênh mông này. Và đặc biệt đem Tin mừng cho anh chị em sống ngay trên quê hương Việt nam".
Nhưng phải loan báo Tin mừng bằng cách nào?
Như Philipphê đã giới thiệu Chúa cho Nathanael, chúng ta cũng hãy giới thiệu Chúa cho những người xung quanh chúng ta. Nhưng để giới thiệu Chúa cho người khác thì chính chúng ta phải gặp gỡ Chúa trước, phải hiểu biết về Ngài, phải có niềm xác tín vào Ngài là Thiên Chúa: Gặp Chúa qua việc đọc và suy niệm Kinh Thánh; gặp Chúa qua việc lãnh nhận các Bí tích; gặp Chúa qua đời sống cầu nguyện…Để khi có người nghi ngờ về lời giới thiệu của chúng ta, chúng ta có thể nói với họ như Philípphê đã nói với Nathanael rằng: “Hãy đến mà xem” (x. Ga 1,46).
Như Philipphê dẫn người Hilạp đến gặp Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta cũng có trách nhiệm dẫn người khác đến gặp gỡ Chúa. Cha xứ dẫn đoàn chiên trong giáo xứ tới gặp Chúa. Thầy cô giáo lý viên dẫn dắt học sinh tới gặp Chúa qua các giờ giáo lý. Cha mẹ dẫn con cái của mình tới gặp Chúa. Người kitô hữu dẫn những người lương dân tới gặp Chúa…
“Đức Tin không có hành động quả là đức tin chết”(Gc 2,17), thánh Giacôbê đã nói như vậy. Vì vậy, mỗi người kitô hữu chúng ta không những rao giảng Tin mừng bằng lời nói mà còn bằng những hành động cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Để nhân loại nhận ra Chúa qua chúng ta.
Trong một thánh lễ kính các tông đồ, tôi nhớ mang máng nội dung một bài hát như thế này: “Tông đồ là người mang Chúa Kitô, để qua ta, để trong ta, Người đến với mọi người. Tông đồ là người mang Chúa Kitô, để qua ta, để trong ta Người đến với mọi nơi”.
Ý nghĩa của lời hát trên nói lên tất cả sứ mạng của người làm Tông đồ. Thật vậy, người Tông đồ cần phải có Chúa Kitô trong mình mới có thể mang Chúa Kitô đến cho những khác. Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống như Đức Kitô đã sống để người khác thấy Chúa Kitô nơi người Tông đồ. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống bác ái yêu thương. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Cứ dấu này mà người ta nhận ra các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống công bằng, chân thật. Vì Chúa Giêsu từng nói: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6).
Cũng như Chúa Giêsu Kitô đã hoạ lại hình ảnh của Chúa Cha, để ai thấy Ngài là thấy Chúa Cha (x. Ga 14, 9). Người Tông đồ cũng phải hoạ lại hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô nơi chính lời nói và việc làm của mình, để ai thấy người Tông đồ là thấy Chúa Giêsu Kitô.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, để tiếp tục công việc cứu độ thế gian, Chúa đã chọn Thánh Philipphê và thánh Giacôbê Tông đồ và hai thánh đã chu toàn xuất sắc bổn phận Chúa trao phó. Làm Tông đồ cũng là sứ mạng Chúa trao phó cho Giáo hội và mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con cố gắng chu toàn bổn phận ấy, để qua chúng con Chúa đến được với mọi người. Amen.
SUY NIỆM 10: Philipphê và Giacôbê tông đồ
– Bài Tin Mừng hôm nay, Lễ Kính các thánh Tông Đồ Philípphê và Giacôbê, thì giống như bài Tin Mừng chúng ta suy niệm trong tuần thứ tư Phục Sinh, và kể lại lời yêu cầu của thánh Tông Đồ Philípphê thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con”.
– Ga 14:6: Thầy là đường, là sự thật và là sự sống: Tôma thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?” (Ga 14:5). Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Ba chữ quan trọng. Không có đường, chúng ta không thể đi lại được. Không có sự thật, người ta không thể có một sự chọn lựa tốt. Nếu không có sự sống, thì chỉ có cái chết! Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa này. Người là đường, bởi vì không ai “đến được với Cha mà không qua Thầy”. Người là cửa, mà các con chiên ra vào (Ga 10:9). Chúa Giêsu là Sự Thật, bởi vì nhìn vào Người, chúng ta trông thấy hình ảnh của Chúa Cha. “Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy!” Chúa Giêsu là Sự Sống, bởi vì đi theo Chúa Giêsu chúng ta sẽ được kết hợp với Chúa Cha và sẽ có sự sống trong chúng ta!
– Ga 14:7: Biết Chúa Giêsu là biết Chúa Cha. Tôma thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?” Chúa Giêsu trả lời: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Và Người thêm rằng: “Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người”. Đây là câu đầu tiên của bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu luôn nói về Chúa Cha, bởi vì sự sống của Chúa Cha xuất hiện trong mọi việc Chúa Giêsu nói và làm. Việc nhắc đến liên tục này về Chúa Cha đã khiến cho ông Philípphê đưa ra câu hỏi.
– Ga 14:8-11: Philípphê thưa: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con!” Đó là niềm ao ước của các môn đệ, niềm ao ước của nhiều người trong cộng đoàn người Môn Đệ Chúa Yêu và đó cũng là niềm ao ước của nhiều người ngày nay. Người ta làm gì để được thấy Chúa Cha, Đấng mà Chúa Giêsu nhắc đến nhiều như thế? Câu trả lời của Chúa Giêsu rất tuyệt vời và còn giá trị cho đến ngày nay: “Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Philípphê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha!” Người ta không nên nghĩ rằng Thiên Chúa thì xa vời với chúng ta, ngăn cách và xa lạ. Bất cứ ai muốn biết Thiên Chúa Cha ra sao, thì chỉ cần nhìn vào Chúa Giêsu là đủ. Người đã mặc khải trong lời nói và cử chỉ của cuộc đời mình! “Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy!” Qua sự vâng phục của mình, Chúa Giêsu đã hoàn toàn xác định căn tính của mình với Chúa Cha. Tất cả những gì Người làm là làm theo ý của Chúa Cha (Ga 5:30; 8:28-29, 38). Đây là lý do tại sao trong Chúa Giêsu, mọi việc là sự mặc khải về Chúa Cha! Và những dấu lạ hay việc làm của Người là việc làm của Chúa Cha! Như người ta nói rằng: “Người con là khuôn mặt của cha!” Đây là lý do tại sao trong Chúa Giêsu và vì Chúa Giêsu, Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
– Ga 14:12-14: Lời hứa của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã hứa rằng sự gần gũi với Chúa Cha không phải là một đặc quyền chỉ dành riêng cho Người, mà nó có thể dành cho tất cả những ai Tin vào Ngài. Chúng ta cũng thế, nhờ Chúa Giêsu, cũng có thể làm những điều tốt đẹp cho người khác như Chúa Giêsu đã làm cho người ta vào thời của Người. Chúa Giêsu cầu bầu cho chúng ta. Tất cả mọi việc mà người ta cầu xin cùng Người, Người xin với Chúa Cha và sẽ được, luôn luôn nếu đó là để phục vụ. Chúa Giêsu là Đấng bàu chữa cho chúng ta. Chúa ra đi nhưng Người không để chúng ta đơn côi. Chúa hứa rằng Người sẽ xin cùng Chúa Cha và Chúa Cha sẽ sai một Đấng Bảo Trợ và An Ủi khác, đó là Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu thậm chí còn nói rằng thật là cần thiết để Chúa đi, bởi vì nếu không thì Chúa Thánh Thần sẽ không đến (Ga 16:7). Và Chúa Thánh Thần sẽ thực hiện đầy đủ những việc của Chúa Giêsu trong chúng ta, nếu chúng ta hành động nhân danh Chúa Giêsu và tuân theo các giới răn trọng nhất của việc thực hành tình yêu thương.
SUY NIỆM 10: Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ
Giáo hội tôn kính hai vị tông đồ này trong cùng một ngày, vì vào thế kỷ thứ V, xác các thánh được đưa về Rôma cùng với nhau và đặt ở đền thờ các thánh tông đồ. Ngày dời xác các ngài là ngày 01 tháng 5. Nhưng vì trùng với lễ thánh Giuse thợ, cho nên lễ kính các ngài được dời vào ngày 03 tháng 05.
Thánh PHILIPPHÊ
Thánh Philipphê là người Bethsaida (x. Ga 1,44). Trên đường đi Galilêa, Chúa Giêsu đã gọi ông. Đến lượt mình chính Philipphê lại giới thiệu Chúa Giêsu cho Nathanael: “Đấng mà Môisê trong lề luật cùng các tiên tri chép đến chúng tôi đã gặp rồi” (x. Ga 1,45).
Và ông còn khích lệ thêm: “Hãy đến mà xem” (x. Ga 1,46).
Khi hóa bánh ra nhiều Chúa Giêsu đã tin tưởng và hỏi ông: “Ta mua đâu được bánh cho họ ăn” (x. Ga 6,5).
Như vậy Chúa Giêsu đã kết hiệp với ông trước hết trong việc chuẩn bị cho phép lạ này.
Dịp lễ vượt qua sau cùng của Chúa Giêsu, các lương dân đã nhờ Philipphê xin Chúa cho họ được gặp Người: “Thưa ông, chúng tôi muốn gặp Chúa Giêsu” (x. Ga 12,21).
Sau cùng, trong cuộc đàm đạo thân mật sau bữa Tiệc Ly, Philipphê lên tiếng hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thày, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, thế là đủ cho chúng con rồi”.
Chúa Giêsu nói với ông: “Đã lâu rồi, Ta ở với các ngươi, thế mà, Philipphê, ngươi đã không biết Ta ư ? Ai thấy ta là đã thấy Cha. Làm sao ngươi nói: Xin tỏ cho chúng con thấy Cha (x. Ga 14,8-9).
Các tông đồ chỉ hiểu được chiều kích rộng lớn của những lời này khi Chúa Thánh Thần soi sáng cho các ông.
Đó là tất cả những gì mà sách Phúc Âm nói với chúng ta về thánh tông đồ Philipphê. Sau này truyền thống cho chúng ta biết thánh Philipphê đã đi rao giảng Phúc Âm ở Scythia và Phrygia. Nhưng rất có thể người ta đã lầm thánh nhân với vị phó tế cũng có tên là Philipphê. Về cái chết của Ngài, không có gì là chắc chắn. Có tài liệu nói rằng: Ngài tử vì đạo. Có tài liệu lại cho rằng: Ngài chết già.
Thánh GIACÔBÊ (hậu)
Chỉ có một chỉ dẫn Tân Ước cung ứng cho chúng ta về vị tông đồ thứ hai mang tên Giacôbê: Ngài “là con ông Alphêô” (x. Mt 10,3 - Mc 3,18 - Lc 6,15 - Cv 1,13). Vậy không đáng ngạc nhiên gì, khi có nhiều cố gắng đồng hóa Ngài với một hay nhiều người cùng mang tên là Giacôbê ở trong Tân Ước. Có Giacôbê “người anh em của Chúa” (x. Cl 1,19).
Có lẽ Ngài đã được thấy Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra (x. 1Cr 15,7) và chắc chắn Ngài là thủ lãnh Giáo hội Giêrusalem (x. Cv 12,17 - 15,13 - 21,18). Sau cùng, người được đồng hoá với người anh em của Chúa được nhắc đến trong Phúc Âm (x. Mt 13,55 - Mc 6,3). Đó là ý kiến của Thánh Hiêrônimô và được nhiều người chấp nhận, nhưng các học giả ngày nay muốn phân biệt hai người khác nhau và Phúc Âm chỉ giản dị ghi lại tên Ngài.
Dầu cho các sách Phúc Âm không nói nhiều tới thánh nhân nhưng Ngài đã giữ được một địa vị sáng giá trong Giáo hội sơ khai, Thánh Phêrô khi được cứu thoát khỏi tù đã nói: “Hãy đem tin cho Giacôbê và các anh em được biết” (x. Cv 12,17).
Khi tiếp xúc với các tông đồ, Thánh Phaolô đã đến gặp Giacôbê. Sau này Thánh Phaolô nói: “Giacôbê, Kêpha (Phêrô) và Gioan, những vị có thế giá như cột trụ ấy đã bắt tay tôi và Barnaba tỏ dấu hợp thông”. (x. Gl 2,9)
Tại công đồng Giêrusalem, Giacôbê đã lên tiếng sau Phêrô, tóm kết diễn từ về việc rao giảng Phúc Âm cho dân ngoại (x. Cv 15,13-31). Lần sau cùng về Giêrusalem, thánh Phaolô đã đến gặp thánh Giacôbê đang họp với hàng niên trưởng (x. Cv 21,18).
Để diễn tả sự thánh thiện của Giacôbê, thánh Eusêbiô và Hiêrônimô đã nói rằng: thánh nhân giữ mình đồng trinh suốt đời và con người hiến mình cho Thiên Chúa này không uống rượu, kiêng thịt, đi chân không và chỉ có một chiếc áo. Quì cầu nguyện nhiều, đầu gối Ngài chai cứng như da lạc đà.
Năm 62, các luật sĩ lo lắng vì sự rạng rỡ Giacôbê mang lại cho Kitô giáo. Họ triệu vời thánh nhân đến ở trước công nghị để tra vấn xem Ngài nghĩ gì về Chúa Kitô. Trên sân thượng ngoài đền thờ, họ bắt thánh nhân công khai nói lời bội giáo cho dân nghe, Ngài nói: “Chúa Giêsu là con người đang ngự bên hữu Thiên Chúa quyền năng và đến một ngày kia sẽ đến trên mây trời”.
Dân chúng đồng loạt lên tiếng tôn vinh Chúa Giêsu trong khi các luật sĩ và biệt phái xông vào thánh nhân. Họ đã quyết định ném đá Ngài.
SUY NIỆM 11: HÃY LÀ TRUNG GIAN CỦA CHÚA
(Lm. Huệ Minh)
Hôm nay cùng với Giáo Hội ta mừng kính hai thánh Tông đồ Philipphê và Giacôbê. Hai vị thánh này xuất thân từ Bếtsaiđa, cùng quê với Phêrô và Anrê thuộc nhóm môn đệ của Gioan Tẩy Giả, và trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu.
Nếu như Giacôbê tiền là anh của Gioan, là con của ông Dêbêđê, thì Giacôbê chúng ta mừng kính hôm nay là Giacôbê hậu, con của ông Anphê. Tiền và hậu chỉ sự phân biệt chứ không nói lên đặc tính gì quan trọng.
Còn thánh Philipphê là người đã giới thiệu ông Nathanaen cho Chúa Giêsu; đồng thời cũng là người giới thiệu nhóm người Hy Lạp khi họ xin được gặp Chúa Giêsu.
Hai vị thánh được Giáo Hội mừng kính hôm nay nếu chỉ dựa trên những gì Sách Thánh nói, thì không có gì nổi trội đặc biệt. Thế nhưng, họ đã được chọn làm Tông đồ của Chúa, chứng tỏ nơi tâm hồn các ông đã có sẵn lòng nhiệt thành và sự sốt sắng đáp trả khi được ơn kêu gọi. Với thánh Philipphê khi xin Chúa: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”; và thánh Giacôbê, vị Tông đồ được sánh bước với Thầy và được thấy những việc Chúa làm. Như thế đủ thấy các ngài được chọn là để thấy, để nghe, để ra đi và để làm chứng cho chính Chúa.
Ta thấy con đường làm chứng cho Chúa chính là Con Đường Giêsu và Con Đường Giêsu đã được khẳng định rõ nét qua lời nói và hành động của Chúa trong những tháng năm trên trần thế. Người đời cho rằng của cải đời này là sự đảm bảo cho cuộc sống thì Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn sẽ về tay ai?” (Lc 12, 20). Con người cứ lo kiếm tìm danh lợi thú trần gian, Chúa Giêsu lại đến trần không một nơi gối đầu để phục vụ và hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Con người đối xử với nhau bội bạc, vô tình, tàn nhẫn; Chúa Giêsu đến với mọi người bằng tình yêu và chân thành: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Con người những tưởng đã tha thứ đủ khi tha đến bảy lần thì Chúa Giêsu dạy phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy. Con người vô ơn quên tình yêu Thiên Chúa, bất tuân lệnh Thiên Chúa; Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha và thực thi mọi phán quyết của Thiên Chúa: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10, 9).
Nhờ sự cảm nghiệm của bản thân mình về đức tin chúng ta sẽ cảm nghiệm thẩm sâu toàn diện Tin Mừng Thánh Gioan kết hợp với những khuynh hướng hiện đại cũa chúng ta. Các bạn trẻ chúng ta đã cảm nghiệm được những điều thích thú trong sách của Thánh Gioan, thì cần đào sâu những cuộc đàm thoại trong Tin Mừng của Thánh Gioan để khởi đi từ câu thứ nhất: “Hãy theo tôi mà Thánh Philíp chắc chắn đã thấm thía với tất cả ý nghĩa thâm sâu của câu đó, để rồi: “Thấy Thầy, là thấy Cha” “Thế là được mãn nguyện”.
Nhìn lại cuộc đời Thánh Philípphê, ta thấy Ngài được số đông lương dân xúm lại hỏi han Ngài, xin Ngài cho họ xem Đấng Cứu Thế. Sau khi Chúa về trời, được Chúa Thánh Thần tác động, đổi mới, thánh Philípphê đã rao giảng, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô cho toàn thể dân thành Sitti . Rồi Thánh Nhân đến rao giảng cho dân Hiêrapoli, xứ Rigie và cũng như Thầy mình, Ngài được phúc tử đạo, bị đóng đinh vì danh Chúa Kitô. Xác thánh nhân được dân chúng mai táng ở Rigie, sau đó được cải táng về Roma, chôn cất cạnh thánh Giacôbê.
Tên của Thánh Philip được ghi rất sớm trong Tin Mừng của Thánh Gioan. Ngài được kể là Tông Đồ thứ tư cùng với Thánh Gioan và hai Thánh Anrê và Phêrô dân thành Betsaida xứ Galilê (Ga 1, 43-44), Ngài giới thiệu mấy người Hy Lạp xin gặp Đức Giê-su (12, 21), trước khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giêsu hỏi Ngài: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?… Ngài đáp: thực có mua đến 200 đồng bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút (6, 5-7) và ở bữa tiệc ly, Philíp nói: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. (14, 8). Người ta cho rằng Philíp sống hiện thực, giống như những người tiến bộ khoa học thời chúng ta: ông sống theo kinh nghiệm nên đòi được xem, sờ, cảm thấy Chúa Cha, cùng với óc tính toán của ông: có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ mỗi người một chút!
Thánh Philipphê thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế chúng con mãn nguyện” (Ga 14,8). Ước muốn của Thánh Philipphê cũng chính là niềm khát khao của con người mọi thời vì: “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 62,1).
Thế cho nên ta thấy dọc dài thời gian, xuất hiện rất nhiều bậc hiền nhân đưa ra những phương cách, lời hay ý đẹp để giúp con người thấu đạt Thượng Đế. Nhưng không một ai đưa con người đến được với Thiên Chúa; ngoại trừ Chúa Giêsu – Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúa Giêsu xuất phát từ Thiên Chúa, là dung nhan lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Chúa biết cách nói về Thiên Chúa, dạy cho con người chân lý yêu thương đích thực. Hơn hết, Chúa Giêsu chính là Con Đường để con người bước vào sự sống của Thiên Chúa.
Thánh Giacôbê hậu là anh em họ với Chúa Giêsu.Sở dĩ gọi Ngài là Giacôbê hậu để dễ phân biệt với thánh Giacôbê con ông Alphê. Thánh nhân trở thành giám mục tiên khởi cai quản thành Giêrusalem. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã hiện ra với Ngài và chính Ngài đã viết một bức thư còn lưu lại trong Tân Ước. Thánh nhân luôn trung thành với đức tin, bảo vệ Giáo Hội và vững tay chèo vững tay lái trên ngai giám mục. Vì ghen tương, đố kỵ, thánh nhân bị bọn biệt phái và một số người cứng lòng, ngạo mạn tố cáo và kết án. Thánh nhân bị bọn chúng bắt, đưa lên nóc nhà thờ, xô Ngài xuống đất và ném đá Ngài cho đến chết. Trước khi lià cõi đời, thánh nhân đã quì gối cầu nguyện, xin Chúa tha thứ cho những kẻ thù hãm hại mình.
Chúa Giêsu là Đường Hoàn Hảo mà Chúa Cha gửi đến cho con người với tất cả lòng thương xót. Chúa đã chết trên thập giá để cứu độ con người: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,12). Và Chúa Giêsu đã Phục Sinh để minh chứng lời Chúa nói là chân thật: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân” (Lc 24, 46-47).
Nhìn lại cuộc đời của hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê, ta thấy hai cuộc đời này nói lên tình yêu thương vô biên của Chúa. Chúa đã mời gọi hai Ngài và tất cả hai Ngài, đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Philípphê ở Betsaiđê cùng quê với thánh Phêrô và Anrê, một làng quê trên bờ biển Tibêriát. Thánh Philípphê đã theo thánh Gioan tiền hô và sau này trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Thánh Philípphê đã bảo cho Nathan biết Đấng Cứu Thế đã đến và dẫn Nathan đến gặp Chúa Giêsu. Tin Mừng đã thuật lại những sự liên hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và thánh Philípphê. Trước khi Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh và cá hóa nên nhiều, Ngài đã thử hỏi xem Philíphê có tìm đâu ra thức ăn cho số đông người ăn hay không ? Chính Philíphê trong bữa tiệc ly đã xin Chúa cho thấy Cha của Ngài: ”Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha. Và như thế là chúng con mãn nguyện rồi”. Chúa Giêsu trả lời: “Anh Philípphê. Ai xem thấy Thầy là thấy Cha của Thầy” (Ga 14, 6-9 ).
Là những môn đệ Tin theo Chúa Giê-su và sau khi được mặc khải, thánh Philipphê đã tiếp tục sứ mệnh làm “trung gian” cho Thiên Chúa khi đem ông Nathanaen (Ga 1, 45-51) và những người Hy-lạp (Ga 12, 20-36) đến với Chúa Giê-su để được gặp và nghe lời Người giảng dạy. Thánh Philipphê còn cùng các môn đệ thực thi sứ vụ làm “trung gian” cho Thiên Chúa bằng cách đi khắp nơi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo và làm phép Rửa cho những người tin (Mc 16,15-16).
Nhân dịp mừng lễ hai thánh tông đồ Philípphê và Giacôbê, ta xin Chúa thương nhận lời các Ngài cầu thay nguyện giúp mà cho chúng ta biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Philípphê và Giacôbê, tông đồ ). Và rồi mỗi Kitô hữu chúng ta hôm nay cũng được kêu mời làm “trung gian” cho Thiên Chúa. Qua Bí tích Thanh tẩy, mỗi Kitô hữu phải sống sao để nói với người khác rằng: “Ai thấy tôi là thấy Đức Kitô” và “ai thấy Đức Kitô là thấy Thiên Chúa Cha”.
SUY NIỆM 12: SỰ THẬT DẪN ĐẾN SỰ SỐNG
(Lm Giuse Đinh Quang Thịnh)
Chỉ có Đức Giêsu mới có quyền nói: “Ta là đường và là sự thật, sự sống, không ai đến được với Chúa Cha mà lại không nhờ Ta” (Ga 14,6: Tung Hô Tin Mừng).
Ta lưu ý chữ “và” trong tiếng Hy Lạp, khác với “và” trong tiếng Việt: để báo trước chấm dứt một câu văn trong tiếng Việt người ta thường dùng liên từ “và”; còn ngôn ngữ Hy Lạp, “và” báo trước một điều quan trọng. Đan cử:
--- Đức Giêsu truyền cho các môn đệ ban Bí tích Thánh Tẩy nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa: Trong khi người tân tòng được dìm xuống nước, thì phải đọc: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28,19). Như vậy, Chúa Con và Chúa Thánh Thần quan trọng như Chúa Cha.
--- Khi hai ông Phêrô và Gioan vào trong mộ Đức Giêsu, ông Gioan nói: “Tôi đã thấy và tôi tin” (Ga 20,8). Điều này ông Gioan có ý trách nhiều người thấy xác Chúa Giê-su không còn trong mộ mà vẫn không tin Ngài đã sống lại; còn ông Gioan thì đã tin. Bởi vì thấy không quan trọng, mà tin mới quan trọng. Do đó Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai không thấy mà tin (x Ga 20, 29).
Như thế, đường đi không quan trọng, đường chỉ quan trọng khi nó dẫn ta đi vào sự thật, đạt được sự sống. Mà chỉ duy Đức Giêsu mới là đường quan trọng nhất dẫn ta đến sự sống dồi dào (x Ga 10,10).
Tổ tiên loài người là Adam, Eva khát vọng không phải chết, lại được thông minh sáng suốt như Thiên Chúa, tự biết phân biệt tốt xấu, và được sống hạnh phúc dồi dào muôn đời như Thiên Chúa (x St 3,4-5). Như thế có phải là kiêu ngạo không ?
Thưa không, vì đến như cha mẹ trần thế tuy thuộc loại gian ác (x Mt 7,11) mà còn nói: “Con hơn cha là nhà có phúc”, thì “Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, bởi lòng yêu mến lớn lao của Ngài đã yêu mến ta” (Ep 2,4), nên Đức Giêsu còn hứa cho chúng ta: “Ai tin vào Thầy, thì người ấy cũng sẽ làm được những việc Thầy làm, người đó còn làm những việc lớn lao hơn nữa, bởi vì Thầy về cùng Cha” (Ga 14,12: Tin Mừng).
Ta làm được những việc như Đức Giêsu và còn hơn Ngài, chỉ vì Ngài về cùng Cha, hằng chuyển cầu cho chúng ta qua Hy Lễ Ngài thiết lập đã truyền cho Hội Thánh làm hiện tại hóa cho tới ngày cánh chung (x 1Cr 11,24-25). Tác giả thư Do Thái nói: “Chúa Giêsu là Vị Tư Tế tiến vào cung thánh trên trời, tựa neo thần chắc chắn và bền vững của tâm hồn ta, cắm vào tận bên trong bức màn cung thánh” (Dt 6,19). Để mỗi khi ta đến dự Hy Lễ này, ta được trực tiếp nghe Đức Giêsu dạy (x Dt 1,1-2). Lời Ngài đã nghe từ Chúa Cha và nói lại cho ta biết (x Ga 14,10: Tin Mừng). Ta lại được nhìn các việc Đức Giêsu làm mà noi theo, như chính Ngài đã không tự ý làm việc gì, mà Cha Ngài làm sao thì Ngài làm y như vậy (x Ga 5,19; 14,11: Tin Mừng). Để “ngay từ bây giờ ta được biết Chúa Giêsu là biết Chúa Cha” (Ga 14,7: Tin Mừng).
Trong Kinh Thánh, “biết” là động tác chỉ riêng về việc vợ chồng trao thân cho nhau để sinh con cái. Như Adam biết Eva sinh Cain (x St 4,1), cũng thế, Đức Ma-ri-a thưa với thiên thần Gabriel: “Tôi không biết việc vợ chồng làm sao tôi sinh con ?” (Lc 1,34).
Vậy mỗi khi ta dự Lễ cách trọn vẹn, ta được rước Lễ là lúc Chúa Giêsu “trao thân” cho ta, và ta “trao thân” cho Ngài, đó chính là Giêsu biết ta và ta biết Giêsu. Để sau khi dự Lễ về, ta phải “sinh” con cho Thiên Chúa, đó là ta tiếp nối việc làm của Chúa Giêsu và còn làm được hơn Ngài. Thực vậy, suốt đời Đức Giêsu vất vả rao giảng Lời của Cha và phục vụ hết lòng, nhằm cho người ta tin Ngài là Thiên Chúa, để được Ngài dẫn về Thiên Đàng, mà mãi đến giờ hấp hối trên thập giá, Ngài mới đưa được một anh trộm lành vào Thiên Đàng với Ngài (x Lc 23,43). Trong khi đó, mỗi lần ta dự Lễ cầu nguyện cho các linh hồn, biết bao linh hồn được về Thiên Đàng trước ta, hoặc khi ta ban Bí tích Thánh Tẩy cho một người trong tình trạng nguy tử mà họ muốn theo Chúa, sau đó tắt thở, là họ được về Thiên Đàng ngay, trong khi ta vẫn còn là kẻ tội lỗi sống trên dương thế. Ông Phao-lô kể mình được Chúa Giêsu hiện đến với ông là người sau cùng, vì trước đó ông đã bách hại Hội Thánh (x Cv 9). Nhưng Chúa đã thương tái sinh ông dù chỉ là đứa sinh non, sinh thiếu tháng, rất yếu ớt. Thế mà nhờ ông được “biết” Chúa Giêsu, ông đã sinh nhiều tín hữu dân ngoại, lập được nhiều giáo đoàn hơn các Tông Đồ thượng đẳng (x 2Cr 11,5). Kết quả ông đã đưa nhiều người vào Nước Trời trước ông. Rõ ràng ông làm các việc của Chúa Giêsu nhưng hiệu quả hơn Thầy Giêsu, khi Ngài còn sống trên dương thế. Như lời thánh Phaolô nói: “Nhờ Tin Mừng anh em được cứu thoát, nếu anh em giữ đúng như chúng tôi đã loan báo. Tin Mừng chúng tôi loan báo là “Đức Giêsu Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng ngày thứ ba Ngài đã sống lại,rồi hiện ra với thủ lãnh Hội Thánh là ông Phêrô, tiếp đó với Nhóm Mười Hai, sau nữa là Ngài hiện ra với hơn 500 anh em một lượt, rồi Ngài lại hiện ra với ông Giacôbê, với tất cả các Tông Đồ khác. Sau chót, Ngài đã hiện ra với tôi, chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non” (1Cr 15,1-8: Bài đọc). Hai Tông Đồ Philipphê và Giacôbê mà Hội Thánh kính hôm nay, cũng chỉ vì các ngài đã sinh nhiều con cho Thiên Chúa – sinh các tín hữu – nhờ các ngài hết lòng loan báo Tin Mừng và phục vụ mọi người theo gương Thầy Giêsu.
Thánh Philipphê là người đã giới thiệu Đấng Mêsia cho ông Nathanael (x Ga 1,45); ông thưa với Đức Giêsu ở đây có một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng không đủ nuôi đoàn lũ dân đông (x Ga 6,5-7); dân ngoại đến nhờ ông dẫn họ đến gặp Đức Giêsu (x Ga 12,21-22); ông xin Thầy Giêsu cho biết Chúa Cha thế là được mãn nguyện (x Ga 14,8); trong ngày lễ Ngũ Tuần, ông và các môn đệ cùng cầu nguyện, Chúa Thánh Thần đã đến biến đổi lòng các ông (x Cv 1,13); ông hết lòng giảng Tin Mừng nên bị đóng đinh, xác ông hiện nay được chôn cạnh mồ thánh Giacôbê.
Thánh Giacôbê là con của ông Alphê (x Mt 10,3); ông là Giám mục đầu tiên ở Giêrusalem (x Gl 1,18-19); ông là một trong những người được gặp Chúa Giêsu Phục Sinh (x 1Cr 15,7: Bài đọc). Ông viết một bức thư trong Tân Ước nội dung chính ông đề cao Đức Tin phải thể hiện việc làm, phải biết dùng tiền của đúng ý Chúa, và phải canh giữ lời nói cho xứng hợp với ơn làm con Chúa. Cuối đời, ông bị xô từ nóc Đền Thờ xuống và bị ném đá cho đến chết!
Vì thế mà lời kinh ca tụng những người thành công như các Tông Đồ: “Tiếng các ngài vang dội khắp hoàn cầu”. Nếu ta không biết sinh con Thiên Chúa để làm vinh hiển Ngài, thì ta thua các tạo vật, “chúng còn biết tường thuật vinh quang Thiên Chúa, nhờ vẻ đẹp Chúa ban cho để diễn tả quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, dù chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe tiếng âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Tv 19/18, 2-5: Đáp ca).
Vì vẻ đẹp, hùng vĩ, kỳ diệu nơi muôn tạo vật mang dấu vết sự hiện diện của Thiên Chúa, mà đỉnh cao là con người được Chúa tạo dựng theo hình ảnh Ngài, nên con người không được thua kém các tạo vật ca tụng Thiên Chúa, mà ai cũng phải sống Lời Chúa để nói được như thánh Tông Đồ: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi đối với Đức Kitô” (1Cr 11,1). Vì tôi có quyền nói được như Đức Giêsu: “Thiên Chúa luôn ở cùng tôi, chính Người làm những việc của mình” (Ga 14,10b: Tin Mừng).
THUỘC LÒNG: Chúa Giêsu nói: “Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14,12).
02/05 Cây nho nối kết cành nho
- Viết bởi Ga 15, 1-8
Cây nho nối kết cành nho.
CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH năm B.
"Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sinh nhiều trái".
Lời Chúa: Ga 15, 1-8
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào sinh trái thì Người tỉa sạch để nó sai trái hơn.
Các con đã được tỉa sạch nhờ lời Thầy đã nói với các con. Các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Cũng như nhành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho; các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy.
"Thầy là cây nho, các con là nhành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì. Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như ngành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi. Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì cứ xin, và sẽ được. Đây là điều làm Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và như thế các con trở nên môn đệ của Thầy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH – Năm B
Lời Chúa: Cv 9,26-31; 1Ga 3,18-24; Ga 15,1-8
1. Ở lại trong Thầy.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Thế giới hôm nay tiến bộ nhanh chóng về nhiều mặt:
nghiên cứu sự sống trên sao Hỏa, nối mạng Internet,
thành công trong phương pháp sinh sản vô tính...
Tưởng như chẳng có gì con người không làm được.
Nhưng thế giới vẫn lo âu vì chất thải ở khắp nơi,
môi trường sống bị hư hoại, chênh lệch giữa giàu nghèo,
nạn tham nhũng ở châu Á, sự hư hỏng của các bạn trẻ.
Cái vòng luẩn quẩn: ma túy, tình dục, AIDS,
tội phạm dẫn đến các chết bi đát cho nhiều thanh thiếu niên.
Con người đủ thông minh để tạo ra sản phẩm
nhưng lại không đủ bản lãnh để làm chủ chúng,
nên chúng quay trở lại làm chủ con người.
Khoa học vừa giải quyết, vừa gây thêm rắc rối.
Con người hôm nay bơ vơ, loay hoay, không cứu nổi mình.
Thế giới bế tắc, cần đến ơn cứu độ.
Đoạn Tin Mừng mời ta nhìn lại sự cằn cỗi của mình,
của Hội Thánh, của cả thế giới.
Đức Giêsu phục sinh như cây nho, các Kitô hữu là cành.
Cây và cành có cùng một sự sống, cùng một dòng nhựa.
Sự sống từ cây, làm cho cành sinh trái.
Cụm từ sinh hoa trái được nhắc đến 6 lần.
Cụm từ ở lại trong Thầy được nhắc đến 5 lần.
Không ở lại trong Thầy thì không thể sinh hoa trái.
Cứ nhìn hoa trái thì biết mức đo 'Gắn bó của cành.
Có cành chỉ vờ gắn liền với cây nên không có trái.
Có cành đã sinh trái, nhưng cần sinh hoa trái hơn (c.2),
sinh hoa trái nhiều (c.8), sinh hoa trái bền vững (c.16).
Chúng ta vẫn chưa sinh trái như lòng Chúa mong
vì chúng ta không chịu để Ngài cắt tỉa.
Vinh quang của Thiên Chúa là chúng ta sinh nhiều hoa trái.
Thất bại của Thiên Chúa là sự cằn cỗi của con người.
Hoa trái là ước mơ của người trồng nho,
và cũng là sự triển nở của cây và cành nho.
Chẳng hề có sự xung đột giữa vinh quang Thiên Chúa
và vinh quang đúng nghĩa của con người.
Chỉ trong Chúa, con người mới thực sự triển nở, hạnh phúc.
Một sự độc lập khờ khạo sẽ dẫn đến héo khô.
Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em.
Một lời mời gọi gần như là một lời nài van.
Sự ở lại chỉ hoàn hảo khi có đủ hai chiều.
Con người mãi mãi có tự do khước từ nguồn sống.
Ở lại trong Chúa khong phải là lối nói văn chương.
Để ở lại cần phải trả giá.
Muốn được hưởng nguồn sống của Đấng Phục Sinh,
ta cũng phải chia sẻ thập giá của Ngài.
Chính Đức Giêsu cũng được cắt tỉa qua khổ đau và cái chết.
Hãy đón lấy sự sống của Chúa Phục Sinh,
như dòng nhựa nguyên tươi mới.
Hãy đóng góp những hoa trái tốt lành cho nhân loại,
để nhân loại nhận ra Cây Nho thật là Đức Kitô,
và Người Trồng Nho là chính Thiên Chúa.
Gợi ý chia sẻ
Theo ý bạn, thế nào là một Kitô hữu có đời sống sinh nhiều hoa trái? Bạn đánh giá thế nào về đời sống Kitô hữu của bạn?
Trước nỗi đau của bao người trên thế giới, Chúa Giêsu có thể đem đến giải pháp nào cho họ? Người Kitô hữu có thể làm gì để cộng tác với Chúa trong việc cứu độ nhân loại?
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả,
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
- Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa,
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
- Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà,
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
- Chúa cương quyết chinh phục con,
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
2. Gắn kết với Thầy
(Suy niệm của Huệ Minh)
Cách đây cũng hơi khá lâu, thì dân chúng náo loạn bởi vì cái nhà thờ chính tòa ở Torino bị cháy. Thực sự ra thì, không ai muốn nó bị cháy cả. Nhà thờ cháy thì có thể xây lại được, nhưng mà có một cái mà người ta phải lo lắng đó là gì? Đó chính là cái nhà thờ Tôrinô ở Ý đó chứa đựng cái khăn liệm nổi tiếng mà người ta cho rằng đó là khăn liệm Chúa Giêsu khi mà Chúa Giêsu chết. Hóa ra rằng là người ta quý cái khăn liệm hơn là quý cái nhà thờ. Bởi vì cái nhà thờ có thể xây dựng được còn cái khăn liệm thì không thể nào tìm ra.
Nhưng mà rồi có một người thanh niên đã liều mình chấp nhận đổ mồ hôi máu của mình ra để mà đi vào đi vào tận gian cung thánh để mà cứu lấy cái tấm khăn liệm đó khỏi đám cháy và người lính cứu hỏa đã bay vào nhà nguyện và đem ra cái tấm khăn liệm còn nguyên. Và phải nói rằng Anh ta là một người hùng, bởi vì Anh ta đã cứu lấy báu vật.
Thật sự ra, anh ta là một người hùng đã cứu lấy báu vật là tấm khăn liệm đó cũng đúng! Nhưng người Kitô hữu của chúng ta được mời gọi, quan trọng hơn cái tấm khăn liệm đó chính là chúng ta giữ lấy Đức Kitô, chúng ta ôm lấy, chúng ta mặc lấy Đức Kitô trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.
Và trở lại với bài đọc thứ I, Chúng ta nhìn thấy gương mặt rất quen thuộc của thánh Phaolô. Thánh Phaolô gặp nhiều trở ngại, gặp rất là nhiều khó khăn, bởi vì trước đây ngài là người bách hại Chúa, ngài đi bắt đạo.
Nhưng mà rồi, ngài lại quay đầu trở lại với Chúa Giêsu, Đấng mà trước đây ngài đã từng đi bắt. Và cuộc trở lại của thánh Phaolô chúng ta suy nghĩ cho kỹ. Nó không phải là cuộc trở lại bình thường như một người nghiện ma túy không có chơi ma túy nữa! Hay là một người đàn ông có 3, 4 bà vợ. Bây giờ trở lại không sống với 3, 4 bà vợ nữa mà sống với bà vợ của mình. Hay là một người thích đi bia ôm không uống bia nữa trở lại với đời sống đạo đức.
Đó là những cuộc trở lại mà chúng ta thấy xung quanh chúng ta. Đó là những cuộc trở lại về luân lý, và đạo đức. Nếu mà chúng ta nhìn thấy cuộc trở lại của thánh Phaolô về luân lý và đạo đức thì không phải. Chúng ta nên nhớ: thánh Phaolô là một người đạo đức và nhiệt thành, và nhìn thánh giữ luật rất là tỉ mỉ.
Chúng ta thấy người Pharisiêu nhiệt thành thì ngoài việc ăn chay 1 tuần đến 2 lần. Còn chúng ta là người Công giáo chúng ta 1 năm ăn chay có 2 lần mà quên tới quên lui.
Có nhiều người bảo rằng là: chết rồi, ngày hôm nay ăn chay mà quên rồi! Thì bây giờ quên thì ăn lại thôi! Biết sao bây giờ!
Nhưng mà nói tới điều đó, thánh Phaolô không trở lại về mặt luân lý và đạo đức nhưng mà hơn nữa rằng là thánh Phaolô đã trở lại bằng cả cái con người với Chúa Giêsu.
Trước đây, cái con người mang tên Giêsu Phaolô ghét cay ghét đắng. Và thậm chí, xin giấy giới thiệu để mà bắt tất cả những ai mà tin vào cái con người mang tên Giêsu. Ngày xưa thì ghét cay ghét đắng, thế nhưng mà bây giờ trở thành một con người si mê không phải si mê bình thường nữa mà chúng ta thấy cái tâm tình của Phaolô: Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi. Sống với tôi là Đức Kitô và chết là mối lợi.
Có khi mình nghe câu nói của thánh Phaolô, Nhưng mà mình chưa thấm được cái lời, cái tâm tình của Phaolô.
Nhiều khi vợ chồng với nhau, nhưng mà có thể, một lúc nào đó hứng thì nói thôi: Sống đối với anh là em, và anh sẵn sàng chết vì em. Nhưng mà một lúc nào đó , người ta không can đảm để mà nói lời đó! Một cái phút chóc nào đó người ta nói lên thôi! Chứ còn không ai dám can đảm như Thánh Phaolô để mà thay đổi cả cuộc đời của mình.
Đó là cốt lõi niềm tin Kitô Giáo. Niềm tin Kitô Giáo không chỉ là giữ một mớ luật luân lý đạo đức. Đó là chưa phải niềm tin Kitô Giáo đích thực. Mà niềm tin Kitô giáo đích thực đó là gắn bó cả cuộc đời của mình với một con người mang tên là Giêsu.
Giữ đạo, giữ luật, giữ một cái hệ thống luân lý, hay là một cái hệ thống tư tưởng về Đức Giêsu rất là tốt! Nhưng đó chỉ là cái việc đến sau thôi. Cái điều đó là cái điều cần nhưng là cái điều căn bản nhất là mình gắn bó cuộc đời với Chúa Giêsu như thế nào?
Và cái chuyện gắn bó Cuộc của mình với Chúa Giêsu. Ngày hôm nay Chúa Giêsu, dùng hình ảnh rất là bình thường để mà diễn tả, rất là dễ thương: Thầy là cây nho, anh em là cành.
Mối liên hệ giữa cây nho và cành cây hay là bất cứ một cái cây nào đó với cành nói lên một cái hệ tư tưởng nói lên một cái hệ thống tư tưởng đó là về Sinh Tử chúng ta liên tưởng đến cái chuyện sinh tử .
Cành cây mà lìa khỏi cây thì sao mà sống được? Cành cây mà lìa khỏi cây thì chỉ có chết thôi.
Và rồi sống niềm tin Kitô giáo là, chúng ta đi sâu trong cái mối Hiệp thông với Chúa Giêsu hơn! Nói thì có thể là lý thuyết, hay là xem ra có thể là thần bí.
Tưởng rằng là giữ đạo, giữ luật nhưng mà, cái tốt hơn là hiệp thông với Chúa Giêsu và để cho cái sự sống của Chúa Giêsu nó chảy trong mình, và cái sự sống của mình nó chảy trong Chúa Giêsu . Và nếu như nói đến đó nhiều người sẽ hỏi rằng là làm sao sống được mối quan hệ sâu xa như vậy? Cây nho và cành nho để diễn tả cái mối liên hệ sống còn giữa cây và cành. Cây và cành nho là thế giới vật chất thôi! để diễn tả cái sự sống còn đó.
Và rồi chúng ta nhìn đến cái hình ảnh nào để mà diễn tả cái mối liên hệ đó?
Mối tình thầy trò, chắc có lẽ chưa đủ, mối tình cha mẹ chắc có lẽ cũng chưa đủ, và chắc có lẽ cao hơn đó chính là cái tình yêu nam nữ, cái tình yêu vợ chồng.
Khi hai người yêu nhau không còn là hai nữa mà là một. Tình yêu của 2 người đó rất là tuyệt vời. Niềm vui của người này cũng là niềm vui của người kia, nỗi buồn của người này cũng là nỗi buồn của người kia . Và cái tình yêu nam nữ đó chia sẻ cái sự sống với nhau.
Và làm sao chúng ta sống cái mối liên hệ sâu xa nhất của chúng ta với Chúa Giêsu. Và chúng ta yêu như thế nào với Chúa Giêsu. Ngoại trừ những cái mối tình sét đánh thì mình không bàn tới. Còn những mối tình yêu chân thật là họ tiếp xúc với nhau, họ khám phá nhau, họ không chỉ nhìn cái nhung nhan bên ngoài, mà họ nhìn cái cách xử sự, cái lối sống, và từ từ , dần dà nó phát sinh ra cái tình yêu. Và rồi với cái tình yêu nam nữ đó, chúng ta lại đặt lại cái tình yêu của chúng ta với Chúa Giêsu.
Ngày mỗi ngày, chúng ta tiếp xúc với Chúa Giêsu qua thánh lễ. Ngày mỗi ngày, chúng ta tiếp xúc với Chúa Giêsu qua Lời của Ngài.
Và rồi Chúa Giêsu, đặt trong trường hợp của chúng ta, chúng ta có hành xử theo cái lối hành xử của Chúa Giêsu hay không?
Chúng ta có phản ứng như phản ứng của Chúa Giêsu hay không? Khi một người hành hạ một người nói xấu một người chà đạp mình chúng ta sẽ làm gì? Chúng ta sẽ phản ứng như thế nào? và khi chúng ta bị cám dỗ chúng ta sẽ phản ứng như thế nào?
Chúng ta có đặt câu hỏi, chúng ta kết hợp với Chúa Giêsu như thế nào hay không?
Cách cụ thể của chúng ta, chúng ta diễn tả đặc biệt với Chúa Giêsu qua thánh lễ.
“Thầy là cây nho, anh em là cành” cái câu đó diễn tả một cái niềm tin sâu sắc. Và Thánh lễ chính là cái lúc, cái thời điểm tuyệt vời nhất để diễn tả cái niềm tin, cái sự kết hợp giữa ta với Chúa.
Nhưng mà liệu ngày hôm nay, mấy ai giữ được thánh lễ cho trọn vẹn, mấy ai kết hợp mật thiết với Chúa trọn vẹn. Dường như, người ta chỉ đi lễ cho xong và tự vấn an rằng: Tôi đã tham dự đủ thánh lễ.
Và đặc biệt khi rước lễ: vội vã, vội vàng để làm sao đi về cho lẹ. Có những người chưa kịp nhận phép lành cuối lễ, nhưng đã đi ra về rồi! bởi vì người ta không có cái thời gian đủ, để lắng đọng để kết hợp với Chúa Giêsu.
Hồi nhỏ, con nhớ cái bài hát rất là dễ thương:
- Trong tin yêu say đắm, con nhìn Chúa, Chúa nhìn con. Tuy Hai bên chưa nói nhưng đã hiểu nhau thật nhiều.
Khi mà mình kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể và Chúa Giêsu kết hợp với mình. Khi đó cái tình yêu rất tuyệt vời! Máu của Chúa Giêsu chảy trong ta và máu của ta chảy trong Chúa Giêsu. Và khi đó ta kết hợp nên một với Chúa Giêsu , một cái tình yêu rất tuyệt vời!
Như cành nho gắn liền với cây nho, sinh hoa trái. Cuộc đời của mỗi người Kitô Hữu của chúng ta nếu chúng ta gắn bó với Chúa Giêsu, nếu chúng ta yêu mến Chúa Giêsu. Chúng ta yêu thương Chúa Giêsu và chúng ta kết hợp với Chúa Giêsu như thế, thì cuộc đời của chúng ta sẽ cảm thấy mình hạnh phúc. Và không có gì chia cắt được. Như Thánh Phaolô nói:
“Không có gì tách rời tôi khỏi tình yêu Giêsu Kitô dù chiều sâu, chiều cao chiều rộng, dầu là bắt bớ dù là trần truồng, dù là đói khát”.
Cái cảm nghiệm của thánh Phaolô , cái tình yêu của thánh Phaolô và Chúa Giêsu là một cái tình yêu mà chúng ta cần phải chiêm ngưỡng để chúng ta nhìn lại cuộc đời của chúng ta. Chúng ta có gắn bó, chúng ta có yêu Chúa Giêsu như Thánh Phaolô đã trở lại, đã đổi cuộc đời của mình để nên một với Chúa Giêsu hay không?
Ngày hôm nay, giữa một cái cuộc sống cơm áo gạo tiền, cũng không phải phủ nhận được ai ai cũng phải kiếm tiền để mà sống, để mà lo thân, lo tương lai. Nhưng mà đôi khi chỉ vì tiền chúng ta đánh mất, không những đánh mất tình yêu với Giêsu, mà còn đánh mất cái tình yêu với anh chị em đồng loại.
Có khi chỉ vì vài ngàn đồng bạc, vài chục ngàn đồng bạc, mà người ta đã làm tổn thương người khác. Và chỉ có khi vài phút đồng hồ, vài giây đồng hồ mà người ta làm tổn thương tình yêu Giêsu, người ta cũng không ở lại trong tình yêu của Chúa Giêsu.
Xin Chúa ngày hôm nay, cho chúng ta khi nghe lại câu nói của Chúa Giêsu khi nhắc nhớ đến mối tương quan giữa cây nho và cành nho cũng nhắc nhớ cái mối tương quan giữa mỗi người chúng ta. Để chúng ta chấn chỉnh lại cái mối tương quan của chúng ta, chúng ta có yêu Chúa chúng ta có kết hợp thực sự với Chúa không? Nếu như chúng ta kết hợp, chúng ta yêu Chúa đủ, thì tình yêu của chúng ta với Chúa Giêsu sẽ nảy sinh ra nhiều hoa trái như lòng Chúa mong ước. Amen.
3. Cắt tỉa
Chúng ta phải làm những gì để cành nho là cuộc đời chúng ta được sinh nhiều hoa trái?
Tôi xin thưa, việc thứ nhất chúng ta cần phải làm là cắt tỉa. Đúng thế, Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: Cành nào sinh hoa trái thì Ngài sẽ cắt tỉa để nó đem lại nhiều hoà trái hơn. Hành động cắt tỉa được thực hiện nơi bản thân chúng ta bơi những hy sinh và quên mình. Đây cũng là điều kiện mà chúng ta vốn thường thấy cho bất cứ một thành công nào. Chẳng hạn chúng ta sẽ không thể nào có nồi cơm vừa dẻo lại vừa thơm, nếu như những hột gạo không bị nấu chín. Chúng ta sẽ không thể nào có được những chiếc bánh vừa giòn lại vừa ngon, nếu như những bông lúa mì không bị nghiền nát. Đồng thời chúng ta cũng không thể nào có được những bột lúa mì, nếu như những hạt giống gieo trên ruộng đồng, không bị mục nát và rữa thối trong lòng đất. Cũng thế sẽ không thể nào có được chén rượu nho nếu những trái nho không bị ép nát. Hơn nữa, chúng ta sẽ không thể nào có được những trái nho, nếu như trước hết những cành lá không bị cắt tỉa. Hy sinh và gian khổ sẽ không bao giờ thiếu vắng trong cuộc sống. Tuy nhiên điều quan trọng đó là chúng ta phải biết đón nhận những hy sinh gian khổ ấy, phải biết vác lấy thập giá mà bước theo Chúa. Hay nói một cách khác: Hãy chấp nhận tất cả vì lòng yêu mến Chúa, để cuộc đời chúng ta sẽ đem lại nhiều hoa trái. Bởi vì lòng yều mến chính là chiếc đũa thần, biến những hy sinh nhỏ bé của chúng ta trở thanh những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời và là cho cuộc đời chúng ta có được một giá trị to lớn trước mặt Chúa.
Việc làm thứ hai đó là phải sống gắn bó mật thiết với Chúa. Thực vậy, chính Chúa Giêsu đã xác quyết: Không có Thầy các con không thể làm gì được. Đã hẳn, không có Ngài, chúng ta vẫn có thể làm được nhiều chuyện. Thế nhưng, đó chỉ là những công việc hời hợt, nông cạn thiếu nền móng, như căn nhà xây trên cát, chẳng bao lâu sẽ bị sụp đổ trước cảnh tượng mưa tuôn và gió cuốn. Với Ngài, thì đức tin dù chỉ bằng hạt cải, cũng có thể chuyển núi dời non. Với Ngài thì mạng nhện cũng trở nên tường thành, còn không có Ngài thì tường thành cũng trở nên mạng nhện mà thôi. Chính vì thế, Chúa Giêsu luôn luôn khuyên nhủ chúng ta: Các con hãy ở trong Thầy. Bởi vì chỉ cành nào kết hiệp cùng cây mới trổ sinh hoa trái. Trái lại, cành nào lìa cây thì lập tức sẽ bị khô héo. Bởi đó, hãy ở lại trong tình yêu Chúa. Hãy kết hợp mật thiết với Ngài.
4. Cây nho
Đối với người Do Thái thì cây nho là một hình ảnh thật quen thuộc và gần gũi, giống như hình ảnh cành tre khóm trúc đối với người Việt Nam. Thế nhưng Chúa Giêsu muốn nói gì qua hình ảnh cây nho?
Tôi xin thưa: Qua hình ảnh cây nho, Ngài cho chúng ta biết rằng Ngài chính là hiện thân của Thiên Chúa. Ngài đến không phải chỉ để trông nom chăm sóc vườn nho, mà hơn thế nữa, còn để trở thành chính cây nho, hầu có thể trực tiếp thông ban sự sống của mình cho chúng ta; như thân cây nuôi ngành cây bằng nhựa sống của nó. Từ hình ảnh trên, chúng ta thấy được hai ý nghĩa nổi bật.
Ý nghĩa thứ nhất: Thiên Chúa là người trồng nho, còn chúng ta là những cây nho. Thế nhưng kể từ nay giữa chúng ta và Thiên Chúa, còn có một trung gian đó là Đức Kitô. Và như chúng ta đã biết: Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người, có nghĩa là Ngài cũng đã trở thành một cây nho, một cây nho hảo hạng, một cây nho giống tốt để tạo nên một vườn nho mới. Nói cách khác, Đức Kitô là một con người mới, là một Adong mới hầu tạo nen cho Thiên Chúa một nhân loại mới, theo đúng hình ảnh của Ngài.
Ý nghĩa thứ hai đó là một sự trao đổi kỳ lạ, được thực hiện qua mầu nhiệm nhập thể. Đúng thế, với mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa đã bước xuống phận con người, để con người được bước lên ngôi Thiên Chúa. Ngài đã trở thành cây nho, để chia sẻ cho chúng ta, những cành nho của Ngài, chính nhựa sống thần linh. Kể từ nay, mối liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa, không phải chỉ là mối liên hệ cứng nhắc giữa Đấng hoá công và loài người thụ tạo, nhưng là một liên hệ thân thương, gần gũi và gắn bó mật thiết như cành liền cây hiệp thông cùng một nhựa sống, đến nỗi chúng ta có thể nói: Thiên Chúa ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Thiên Chúa. Hay: Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.
Một khi đã hiệp thông trong cùng một nhựa sống, thì chúng ta cũng phải chia sẻ những khổ đau với Ngài. Thực vậy, nếu thân cây bị chặt thì những cành lá cũng phải chết theo. Và một khi chồi mới mọc lên thì những cành lá mới cũng ló dạng. Là Kitô hữu, đời sống của chúng ta từ nay không thể tách rời Đức Kitô. Do đó, những khổ đau của Ngài cũng phải là những khổ đau của chúng ta và sự chết của Ngài cũng phải là sự chết của chúng ta, để rồi sự phục sinh của Ngài cũng phải là sự phục sinh của chúng ta. Như lời thanh Phaolô xác quyết: Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ cùng Ngài phục sinh. Nếu ta chịu khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài thống trị.
Đó cũng chính là ý nghĩa của việc cắt tỉa mà Chúa Giêsu đã nói đến, để cho cành cây sinh nhiều trái hơn. Cành nho càng được cắt tỉa thì lại càng mang nhiều trái. Cũng vậy, đời sống người Kitô hữu càng kết hiệp với Đức Kitô, càng chịu nhiều gian nan thử thách, thì lại càng nhiều ơn phúc trước mặt Thiên Chúa hơn.
5. Ở trong Chúa.
Đoạn Tin Mừng vừa nghe cho chúng ta thấy về mối quan hệ giữa Chúa Giêsu và những kẻ theo Ngài. Đây là một mối quan hệ mật thiết đến độ cả hai trở nên như một, vì mang cùng một sức sống. Mối quan hệ này đã được Chúa Giêsu diễn tả bằng hình ảnh cây nho và ngành nho như lời Ngài đã phán: Thầy là cây nho các con là ngành nho. Từ hình ảnh này chúng ta rút ra được mấy điểm suy nghĩ.
Điểm thứ nhất đó là Chúa Giêsu và các Kitô hữu tạo thành một cộng đồng sự sống: Các con hãy ở trong Thầy và Thầy ở trong các con. Người Kitô hữu chúng ta được ở trong Chúa Giêsu nhờ bí tích Rửa Tội, qua đó chúng ta được thanh tẩy trong cái chết, chết cho tội lỗi và trong sự sống lại với cuộc sống mới của Ngài. Người Kitô hữu chúng ta được ở trong Chúa Giêsu, còn có nghĩa là được nắm giữ một vai trò sống động trong chương trình cứu độ của Chúa. Như thế mối quan hệ này được đặt nền tảng trên sự trung tín và thương yêu.
Điểm thứ hai được Chúa Giêsu nhấn mạnh, đó là ngành nho phải sinh trái. Một ngành nho không sinh trái, mặc dù vẫn còn dính vào thân cây nho, thì cũng chỉ là một ngành nho đã chết, và một ngày kia sẽ bị cắt tỉa mà quẳng vào lửa.
Hình ảnh này có thể đã làm cho chúng ta ngạc nhiên, bởi vì đâu cần phải đợi đến khi bị liệt vào hạng khô khan nguội lạnh hay phạm những tội tầy đình mới bị cắt ra khoi cộng đoàn của Chúa. Không sinh trái, đã có nghĩa là không còn ở trong Chúa, không còn liền thân với Chúa. Như vậy sức sống từ Chúa trao ban chỉ có thể là sức sống, chỉ có thể là động lực làm sinh hoa kết trái. Và do đó, chỉ có hai trạng thái: sinh trái hay không sinh trái mà thôi, chứ chẳng có trạng thái thứ ba, được hiểu theo nghĩa là cầm hơi, cầm chừng.
Người Kitô hữu trở thành môn đệ Chúa bằng chính việc sinh nhiều trái chứ không phải bằng lời nói hay những nghi thức nào khác. Nhưng thế nào là sinh trái? Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời trong bài đọc thứ hai, trích thư của thánh Gioan tông đồ: Ai giữ các giới răn của Chúa thì ở trong Ngài và Ngài ở trong họ. Và đây là giới răn của Chúa: Chúng ta phải tin vào thánh danh Con của Ngài là Đức Kitô, và phải thương yêu nhau. Vẫn theo thánh Gioan thì chúng ta đừng yêu nhau bằng lời nói và miệng lưỡng, nhưng bằng viec làm và chân thật.
Như thế chúng ta có thể hiểu được rằng sinh trái có nghĩa là yêu thương, và yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, đem lại hạnh phúc cho người khác.
Trái nho chính là những hành động bác ái yêu thương, thế nhưng chúng ta đã thực sự là những ngành nho sinh nhiều trái hay chưa?
6. Cây nho.
Bất cứ ai sống trên đời cũng đều có quan hệ không nhiều thì ít với những người chung quanh, nhất là những người có cùng một máu mủ với mình. Mối quan hệ đó càng khắng khít bao nhiêu là tùy thuộc vào sự hiệp thông có mật thiết hay không.
Cuộc sống đấy ắp yêu thương chỉ có thể tồn tại khi con người đặt tình thương yêu cào tất cả các mối quan hệ, giao tiếp và thông hiệp với nhau trong tình người với người, hơn nữa trong tình anh em ruột thịt.
Ngoài những mối giây liên hệ giao tiếp bình thường như những người khác, người Kitô hữu còn có dây liên hệ với Thiên Chúa là Cha mình và với Hội Thánh cùng các chi thể của Ngài. Mối dây liên hệ này có được sẽ làm phong phú thêm những giá trị vốn có trong cuộc đời.
Hình ảnh cây nho và hoa trái ngon ngọt của nó, mà chúng ta vừa nghe qua đoạn Tin mừng hôm nay đã từng được xem là biểu tượng của mối dây liên kết và hiệp thông, đồng thời cũng được xem là kết quả của những con người tin vào Đức Kitô Phục sinh. Thực vậy, cay nho và vườn nho trước tiên đã được áp dụng cho dân Do Thái để chỉ lòng yêu thương và việc Thiên Chúa kén chọn dân tộc này trong chương trình cứu độ của Ngài. Thiên Chúa đã vun trồng và chở che vườn nho ấy.
Hình ảnh vườn nho và cây nho sau này được thánh Gioan mở rộng đến tất cả những kẻ tin theo Chúa. Hơn thế nữa, còn cho thấy chính Đức Kitô là cây nho thật và mỗi người trong chúng ta là một cành nho của cây nho ấy.
Với mầu nhiệm nhập thể của Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người đã trở nên cây nho thật, một cây nho tốt, để tạo nên một vườn nho mới, một dân tộc mới, một sức sống mới cho con người đã từng mang mầm mống của tội lỗi và diệt vong.
Do đo, niềm vui mừng và hy vọng lớn lao nhất của con người chính là được thông hiệp với Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô, Ngài đã trở thành cây nho và chúng ta là những cành lá của cây nho ấy. Điều đó có nghĩa chúng ta là những chi thể của Ngài và được mang lấy chính sự sống thần linh của Ngài. Với mầu nhiệm nhập thể, chúng ta còn thấy: Thiên Chúa làm người là để cho con người được trở nên Thiên Chúa và có sự sống viên mãn nhờ Đức Kitô. Muốn có được sự sống mới ấy, chúng ta phải thực thi tình yêu thương và phục vụ như Đức Kitô bằng những hành động và việc làm cụ thể.
Ngoài ra, để có một cuộc sống mới thật phong phú và sinh hoa kết trái dồi dào thì ngay tư giờ chúng ta cần phải hy sinh quên mình, giống như cành nho nào được cắt tỉa, thì đó chính là cành nho có nhiều hoa trái hơn cả.
Cuộc sống của người Kitô hữu càng kết hiệp với Đức Kitô, càng hiệp thông với các chi thể khác của Ngài, trong đó có những người anh em bất hạnh và khổ đau, đòi hỏi nhiều hy sinh, thì cuộc sống của người Kitô hữu ấy càng phong phú và nhiều hy vọng hơn cả. Bởi vì, nếu ta chết với Đức Kitô, thì chúng ta sẽ cùng sống với Ngài. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, thì chúng ta sẽ cùng Người hiển trị.
7. Sinh nhiều hoa trái – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Ai trồng cây cũng mong được ăn quả. Muốn có quả, cũng phải lắm công phu. Không phải cứ xanh tốt lớn mạnh là có quả. Có những ruộng lúa xanh tốt, nhưng chỉ tốt lá, nên chỉ cho những bông lúa lép. Có những cây xum xuê cành lá, nhưng đến mùa chẳng thấy quả nào. Xanh tốt như thế không phải là thành công, nhưng la thất bại. Cành lá chỉ là phụ, hoa quả mới là chính. Được điều phụ mất điều chính, đó là thất bại. Đức Giêsu quan sát cây nho và thấy rằng một cây nho muốn có nhiều hoa quả cần phải có hai điều kiện sau đây:
Điều kiện thứ nhất: Cành phải liên kết với cây. Cành không liên kết với cây, không thể sinh hoa kết quả. Cành không liên kết với cây khi dòng nhựa nuôi dưỡng thân cây bị tắc nghẽn không luân lưu sang cành. Có những con sâu con bọ đục khoét làm cho cành cây bị thương tổn, không còn tiếp nhận được nguồn nhựa sống của thân cây truyền sang. Chỉ khi cành kết hiệp chặt chẽ với cây, dòng nhựa từ cây mới truyền sang cành, cho cành trổ sinh hoa trái.
Điều kiện thứ hai: Cành lá phải được cắt tỉa. Ai đã trồng nho thì biết: Nếu cứ để cành lá phát triển tự do, cây sẽ xanh tươi coi rất đẹp mắt nhưng không có hoa trái. Muốn cây có quả, phải tỉa bớt cành lá. Việc cắt tỉa làm cho dòng nhựa không bị phân tán, nhưng tập trung vào những cành chính, dồn vào cho hoa sung sức, cho quả đầy đặn.
Đức Giêsu muốn dùng hình ảnh cây nho để nói về đời sống đạo của ta. Đời sống của ta được sánh ví như đời sống của cây nho.
Cũng như người trồng nho muốn cho vườn nho của mình không bị tàn lụi, nhưng phát triển, sinh hoa kết quả, Đức Chúa Cha đã tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi, nhưng để con người phát triển, sinh hoa kết quả và tồn tại.
Để được phát triển, con người cũng cần những điều kiện.
Điều kiện thứ nhất: Phải kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu. Như cành nho phải liên kết với thân nho mới sinh hoa kết quả, ta phai liên kết mật thiết với Đức Giêsu. Người là nguồn cội sự sống của ta. Tách lìa Người, ta không thể sống, càng không thể phát triển được. Người là dòng sông ân sủng. Khi ta kết hiệp với Người, ân sủng tuôn đổ vào linh hồn, làm cho ta được sống và sống sung mãn. Ân sủng thấm nhập nội tâm, uốn nắn tình cảm, củng cố ý chí, sinh ra những hoa trái thiêng liêng trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Sự kết hiệp mật thiết với Chúa làm cho ta sống sự sống của Người, nói lời nói của Người, hành động theo gương của Người, phán đoán theo chuẩn mực của Người, nhìn con người và sự việc bằng cặp mắt của Người, yêu thương bằng trái tim của Người. Khi sự kết hiệp đa đến mức hoàn hảo, chính Người hành động qua ta và vì thế, những hoa trái sẽ vô cùng phong phú.
Điều kiện thứ hai: Phải chịu cắt tỉa. Cành nho muốn sai trái phải chịu tỉa bớt những cành lá rườm ra. Cũng thế, linh hồn phải để Chúa cắt tỉa nhưng gì dư thừa cản trở ơn thánh sinh hoa kết quả. Phải cắt tỉa những ý muốn riêng tư để chuyên tâm tìm thánh ý Thiên Chúa. Phải cắt tỉa những hình thức bề ngoài để chìm vào nội tâm sâu lắng. Phải cắt tỉa những phô trương quyền lực để mặc lấy tâm tình đơn sơ khiêm nhuờng. Chúa cắt tỉa ta bằng những thất bại ta gặp phải. Chúa huấn luyện ta bằng những lời phê bình chỉ trích của những người chung quanh. Chúa mãi dũa ta bằng những nghi kỵ hiểu lầm của người khác. Chúa đào tạo ta trong những phản bội của người thân tín. Việc cắt tỉa làm cho ta đau đớn, nhưng đem lại những lợi ích vô cùng phong phú.
Chính Đức Giêsu đã làm gương cho ta khi Người sống kết hiệp mật thiết với Đức Chúa Cha. Sự kết hiệp ấy được diễn tả qua việc Người chuyên tâm cầu nguyện và luôn luôn làm theo ý Chúa Cha. Người đã để cho Chúa Cha cắt tỉa khi Người từ bỏ ý riêng, nhận uống chén đắng, nhận vác thập giá, nhận lấy cái chết tủi nhục. Chính vì thế, Người đã sinh hoa trái dồi dào nuôi sống tất cả chúng ta. Chính vì thế, Người đã trở nên gốc nho sung mãn sự sống để chuyển thông cho chúng ta.
Lạy Đức Giêsu là Cây Nho Thật, xin cho con biết kết hiệp mật thiết với Chúa. Xin hãy cắt tỉa những gì vô ích trong con để con sinh nhiều hoa trái thiêng liêng như Chúa mong ước. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Còn những gì trong bạn ngăn cản bạn kết hiệp với Chúa?
2- Trong bạn còn những gì phải cắt tỉa?
3- Bạn có sẵn sàng để Chúa cắt tỉa không
4- Những thất bại, những đau khổ bạn gặp phải có ích gì cho bạn không?
8. Sinh nhiều hoa trái
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Bài hát “Vườn của ba” viết rằng: Má trồng toàn những cây dễ thương. Nào là hoa là rau là lúa. Còn Ba trồng toàn cây dễ sợ. Cây xù xì cây lại có gai. Cái gai bưởi đụng vào là chảy máu Trái sầu riêng rớt trúng thì đầu u. Nhựa hột điều dính vào là rách áo. Cây dừa cao eo ôi là cao”. Đã trồng cây thì ai cũng mong được ăn quả. Muốn có quả, thì phải lắm công phu. Điều đáng nói ở đây là cành lá chỉ là phụ, hoa quả mới là chính. Cho nên, Đức Giêsu dùng dụ ngôn cây nho để nói đến hoa quả của đời sống tâm linh, muốn có hoa quả thì cần phải có 3 điều sau đây:
Thứ nhất, cành gắn liền với thân cây. Nếu cành nào tách rời khỏi thân dĩ nhiên khô héo và làm mồi cho lửa. Cũng vậy, người tín hữu phải sống kết hợp với Chúa Kitô mới có sự sống của Thiên Chúa và được sống đời đời, nếu không, sẽ chết đi và bị quăng vào lửa. Bằng chứng cụ thể Giuđa It-ca-riốt, tách khỏi Thầy, chết héo, tự tử. Vì vậy, mối quan hệ giữa Chúa Giêsu và các Kitô hữu là một mối quan hệ mật thiết đến nỗi cả hai trở nên như một, cùng một sự sống như các chi thể trong một thân thể mà Thánh Phaolô gọi là Nhiệm Thể, hay là Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô. Trong Nhiệm Thể ấy, các chi thể liên kết với nhau như các cành nho liên kết với thân cây nho. Cũng như nhựa sống giao lưu từ gốc nho đến thân rồi đến các cành cây, thì sự sống của Thiên Chúa cũng được chuyển đến chúng ta từ một gốc và thân là Chúa Giêsu: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”.
Thứ 2 “cành nho phải sinh hoa trái”. Cành thì gắn với thân cây để có nhựa sống khi có nhựa sống thì phải sinh hoa trái. Làm thế để sinh hoa kết trái thiêng liêng? Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời ngay trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Gioan nói: “Ai tuân giữ giới răn của Thiên Chúa thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong kẻ ấy. Và giới răn của Thiên Chúa là tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và yêu thương nhau như Ngài đã truyền dạy”. Thánh Gioan còn căn dặn: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm”. Yêu như Chúa yêu chúng ta, một tình yêu với 4 chữ D: sinh ngoài đồng, ở ngoài đường, ăn đon đả và chết ngoài đồi. Còn mình yêu người cũng 4chữ D nhưng là đẹp, di động, dream và đôla. Chúa yêu ta bằng tình yêu với 3 chữ G: gian lao, gian nan và gian khổ. Còn mình yêu người cũng 3G nhưng là: đẹp giai, nhà giàu, học giỏi… tình yêu như thế nó không bền thì khó sinh hoa thơm quả ngọt cho đời bởi vì những cái này chỉ là phù vân.
Do đó, “sinh hoa trái” là yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, tạo dựng hạnh phúc cho người khác. Phải phục vụ không tính toán, chính lúc ấy chúng ta ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong chúng ta. Chỉ có tình thương yêu đích thực từ trong lòng ra hành động, mới là tình yêu thương hiệp nhất, hiệp nhất chúng ta nên một với anh em, hiệp nhất chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô là “cây nho Chúa Cha trồng tỉa” để sinh nhiều hoa thơm trái ngọt.
Cuối cùng để có được hoa thơm trái ngọt, cây phải chịu cắt tỉa, còn đối với đời sống mình cũng phải cắt tìa là chấp nhận mất mát, đau đớn. Vì chịu mất mát mới dẫn đến thắng lợi, khổ đau mới dẫn đến vinh quang, chịu chết mới dẫn đến Phục Sinh, chết đi cho tội lỗi mới nên thánh. Thánh Phaolô một con người tài trí và uy lực: nói ra lửa hét ra vàng, ấy thế mà để Chúa Giêsu phục sinh cắt tỉa thành tông đồ lỗi lạc, một bậc thánh đáng kính sau thánh Phêrô.
Kính thưa, … như cành liền cây và phải cắt tỉa mới sinh nhiều hoa trái, người Kitô hữu phải sống nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mới có thể sống như Chúa Kitô, sống cho Thiên Chúa và cho mọi. Đó là đòi hỏi căn bản của đời sống Kitô hữu. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, trong Năm Phúc âm hóa giáo xứ, mọi thành phần trong giáo xứ chúng ta hãy yêu thương mọi người một cách chân thành, có hiệu quả bằng việc làm cụ thể: phục vụ, giúp đỡ, bảo vệ, xây dựng gia đình, giáo xứ, giáo phận, đất nước… một cách quảng đại như thế mới thật là môn đệ Chúa Kitô, mới thật là cành nho gắn liền với cây nho.
9. Cây nho – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tôi thường ghé thăm và đưa ruớc Mình Thánh Chúa cho bà cụ Agnes Miller. Bà Agnes đã trên 80 tuổi, có hai người con trai. Mỗi lần ghé thăm, bà đều rất vui và kể truyện về người con trai, hai đứa cháu và hai đứa chắt nhỏ. Một lần nọ, tôi ngồi tỉ tê hỏi han kỹ hơn về gia cảnh của bà. Bà đã kể cho tôi nghe một tâm sự bất hạnh thầm kín trong lòng kéo dài từ lâu. Truyện là đứa con thứ hai, sau khi cưới vợ đã đổi dời đi nơi xa và đã 35 năm không hề lien lạc gì với bà. Hiện nay bà không biết hoàn cảnh gia đình người con thứ này thế nào. Bà nói rằng bà vẫn luôn nhớ cầu nguyện cho các con được mọi sự lành bình an. Ba mươi lăm năm là một khoảng thời gian rất dài trong co đơn và nhung nhớ. Bà rất hy vọng được gặp mặt con lần cuối trước khi lìa trần. Càng mong, càng ngóng, bà càng bặt tin con. Thật là đau lòng khi con cái tự tách lìa khỏi gia đình. Bà tự hỏi không biết rõ lý do nào đã đưa dẫn đến tình trạng xa cách này.
Hôm nay chúng ta suy niệm một đề tài rất cụ thể liên đới giữa Chúa Giêsu và các tín hữu, Chúa là cây nho thật. Hình ảnh cây nho rất quen thuộc được trồng mọi nơi trên miền đất Palestine cua người Do-thái. Chúa Giêsu đã phán cùng các môn đệ: Thầy là cây nho, các con là nhành. Chúng ta là nhành nho được liên kết với Chúa Kitô là cây nho. Một ẩn dụ qúa đẹp và ý nghĩa. Chúa Giêsu không chỉ hóa thân làm người trong một nhân vị riêng biệt, nhưng là cùng hòa nhập sự sống với nhân loại. Chúa Giêsu là trung gian của các tạo vật. Ngài là trưởng tử. Ngài là:An-pha và Ô-mê-ga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 22,13). Ngài đã mời gọi và liên kết những kẻ tin vào Ngài để giúp họ sinh nhiều hoa trái.
Chúa Giêsu phán: Không có Thầy, các con không thể làm được gì. Giống như cành nho không liên kết với thân nho sẽ bị èo uột và khô héo. Không có một kinh sư, sư phụ hay một vị đại nhân nào dám lên tiếng một cách xác tín như Chúa Giêsu. Chúa có uy quyền trong tư tưởng, lời nói và hành động. Chúng ta không chỉ tuyên xưng niềm tin vào Chúa, nhưng điều quan trọng là sống và thực hành lời Chúa dậy: Ai giữ các giới răn của Người, thì ở trong Người và Người ở trong họ. Và còn hơn nữa, Chúa Giêsu còn cho chúng ta được sáp nhập vào gia đình thiêng liêng của Chúa. Khi Chúa Giêsu đã giơ tay chỉ các môn đệ và nói: "Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi (Mt 12, 49-50).
Đôi khi chúng ta hãnh diện và an lòng khi được mang danh Kitô hữu. Nghĩ rằng khi được lãnh nhận các Bí Tích nhập đạo là chúng ta có chứng chỉ để vào Nước Trời. Thực ra, đây mới chỉ là khởi đầu hành trình tiến về Nước Trời. Con đường theo Chúa đòi hỏi nhiều hy sinh và quyết tâm. Chúng ta đã nhập đạo, tin đạo, sống đạo nhưng còn phải hành đạo nữa. Không phải cứ thưa: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời đâu. Sống kết hợp với Chúa, tìm nguồn ân sủng qua việc nhận lãnh các bí tích, cử hành phụng vụ và các sinh hoạt cộng đòan dân Chúa. Phải thực hành giới răn và áp dụng lời Chúa truyền dạy trong đời sống cụ thể hằng ngày, nhờ đó, nhành nho mới sinh ra hoa trái.
Chúa ban ân sủng dồi dào cho chúng ta, nhưng điều kiện tiên quyết là chúng ta phải xứng đáng và sẵn sàng mở lòng đón nhận. Chúng ta nghĩ thế nào khi cả một cuộc đời dài sống trên trần thế, một người nào đó tách lìa khỏi nhiệm thể Chúa Kitô, bỏ bê luật Chúa, sống đạo lơ đễnh nhếc nhác, không tuân giữ giới răn, không chu toàn bổn phận người Kitô hữu, không hành đạo và không tu tâm tích đức. Khi đến giờ hấp hối sau cùng, người thân mời linh mục đến ban bí tích Xức Dầu, chúng ta không biết cành nho này có còn dính liền với cây nho để nhận nhựa sống ân sủng không? Chúng ta chỉ biết cậy vào danh Chúa nhân từ cho linh hồn người thân được hưởng ơn cứu độ.
Các Bí Tích là qùa tặng ân sủng cao quý cho ai biết đón nhận. Chúa Giêsu hiện diện qua các Bí Tích để ban ơn thánh sủng. Chúa không thể cứu độ chúng ta, nếu chúng ta nói ‘không’. Sự chuẩn bị tâm hồn tỉnh thức với lòng thống hối ăn năn và ước ao được kết hợp với Chúa sẽ giúp chúng ta đón nhận ân sủng của Người cách hiệu quả. Hình ảnh dàn nho cho chúng ta thấy một sự liên kết kỳ diệu qua tất cả các nhành, lá, hoa và chùm trái. Mọi thành phần chi the phải gắn chặt với thân cây để hưởng nhờ nguồn sống. Tách rời khỏi thân, nhành lá sẽ bị khô héo liền. Sống trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô cũng thế, mọi thành viên phải luôn liên kết với đầu và mình là Chua Kitô và Giáo Hội. Khi chúng ta tách lìa khỏi gia đình Giáo Hội, chúng ta tự tách lìa ra khỏi nguồn ân sủng siêu nhiên.
Trong Nhiệm Thể Chúa Kitô, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể. Chúa Giêsu lập Giáo Hội và trao quyền cai quản cho thánh Phêrô và các tông đồ. Theo truyền thống, Giáo Hội Công Giáo gắn bó một cách chặt chẽ với Đầu qua truyền thống của các giáo phụ và các Công Đồng Chung suốt những thế kỷ qua. Nhưng trải dài qua lịch sử, có nhiều thành phần đã tách lìa ra khỏi truyền thống tổ chức giáo hội hữu hình. Tuy các ngành, giáo phái hay nhóm hội không tuân phục Giáo Hội trong một hệ thống phẩm trật, nhưng các giáo phái vẫn liên kết vơi Chúa Kitô là đầu. Giáo Hội Công Giáo luôn có những cuộc liên kết đối thoại với các anh chị em cùng niềm tin trong Chúa Kitô. Chúng ta nhìn Giáo Hội như một cây cổ thụ to lớn có rất nhiều nhành và nhiều nhánh. Ước mong sao các nhành luôn kết hợp được với nguồn cội là Chúa Kitô để cùng được chia sẻ nguồn ân sủng từ Thiên Chúa Cha.
Một thoáng nhìn trong Giáo Hội, mỗi giáo hội địa phương cũng có một vài những khác biệt trong tổ chức và điều hành. Tuy rằng chúng ta có nhiều dị biệt trong cuộc sống nhưng trong niềm tin:Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người (Eph 4, 4-6). Sự đoàn kết và hợp nhất trong một Chúa sẽ mang lại niềm an vui và hạnh phúc. Mọi sự đều qui về Chúa Kitô là trung tâm điểm của mọi tạo vật, chúng ta sẽ tìm được ý nghĩa đích thực của niềm tin Kitô giáo.
Thực hành gia đạo trong đời sống gia đình cũng giống như sự liên kết của cây nho. Cây nho có gốc, có thân, có cành và hoa trái. Các cành kết hợp với gốc thân như con cái cháu chắt qui về ông bà cha mẹ sẽ tạo niềm vui chung và hạnh phúc. Con cái cháu chắt cùng mang một họ tộc hoặc cùng hòa chung trong một dòng máu, người ta gọi la gia đình. Giây ràng buộc của gia đình xây dựng sự tương quan chia sẻ như vui buồn, thành công thất bại và lo lắng muộn phiền. Sự liên đới giữa các thành viên trong gia đình họ tộc giúp san sẻ niềm vui hạnh phúc cuộc sống. Hạnh phúc biết bao khi chúng ta có gia đình, anh chị em và con cháu cùng vui vầy xum họp. Gia đình là đơn vị căn bản của giáo hội và xã hội. Có nhiều gia đình sống thánh thì giáo hội nên thánh thiện và xã hội sẽ tốt lành.
Lạy Chúa, Chúa phán rằng: Nếu các con ở trong Thầy và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin và sẽ được. Chúng con xin ơn hiệp nhất và bình an. Xin cho chúng con biết tôn trọng và gắn bó với nhau trong đời sống đạo, vì chúng con đều là anh chị em trong cùng một niềm tin và cùng tôn thờ một Cha trên trời. Nhờ đó, chúng con sẽ sinh hoa kết trái yêu thương trong cuộc sống hằng ngày.
10. Người Kitô hữu sinh hoa trái trong Chúa Kitô
Người trồng cây mong được ăn trái. Muốn cây có trái, người ta phải lắm công phu chăm sóc. Không phải cây cứ xanh tốt lớn mạnh là có trái. Có những cây xum xuê cành lá, nhưng đến ngày mùa thu hoạch thì chẳng thấy được trái nào. Xanh tốt như thế không phải là thành công, nhưng là thất bại. Cũng vậy, một cây nho muốn có nhiều hoa trái cần phải có hai điều kiện. Một là cành nho phải liên kết với cây. Cành nho không liên kết với cây nho, không thể sinh hoa trái. Cành nho không liên kết với cây nho thì dòng nhựa nuôi dưỡng thân cây bị tắc nghẽn. Sâu bọ đục khoét làm cho cành cây bị thương tổn, không còn tiếp nhận được nguồn nhựa sống của thân cây truyền sang. Chỉ khi cành nho kết hiệp chặt chẽ với cây, dòng nhựa từ thân cây mới truyền sang cành, cho cành trổ sinh hoa trái. Hai là cành lá nho phải được cắt tỉa. Ai đã trồng cây thì biết cành lá phải được cắt tỉa thế nao. Nếu cứ để cành lá cây nho phát triển tự do, cây sẽ xanh tươi xem rất đẹp mắt nhưng không có trái nho nào cả. Muốn cây nho có quả, phải tỉa bớt cành lá. Việc cắt tỉa làm cho dòng nhựa không bị phân tán, nhưng tập trung vào những cành chính, dồn vào cho hoa sung sức, cho quả đầy đặn.
Như cành gắn liền với thân cây nho mới sống được và sinh hoa trái. Nếu cành nào tách rời khỏi thân cây nho, sẽ khô héo và cho vào lửa. Cũng vậy, người tín hữu phải sống kết hợp với Chúa Kitô mới có sự sống của Thiên Chúa và được sống đời đời, nếu không, sẽ chết đi và bị quăng vào lửa.
Như cành nho phải liên kết với thân nho mới sinh hoa kết quả, ta phải liên kết mật thiết với Đức Giêsu. Người là nguồn cội sự sống của chúng ta. Tách lìa Người, chúng ta không thể sống, càng không thể phát triển được. Người là dòng sông ân sủng. Khi ta kết hiệp với Người, ân sủng tuôn đổ vào cuộc sống, làm cho chúng ta được vui sống và sống sung mãn. Sự kết hiệp mật thiết với Chúa làm cho chúng ta sống sự sống của Người, nói lời nói của Người, hành động theo gương của Người, phán đoán theo chuẩn mực của Người, nhìn con người và sự việc bằng cặp mắt của Người, yêu thương bằng trái tim của Người. Khi sự kết hiệp đã đến mức hoàn hảo, chính Người hành động qua ta và vì thế, những hoa trái sẽ vô cùng phong phú. Vì vậy, mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và các Kitô hữu là mối liên hệ mật thiết đến nỗi cả hai trở nên như một, vì cùng sống chung một sự sống. Chúa Kitô và các Kitô hữu tạo thảnh một cộng đồng sự sống, như các chi thể trong một thân the mà thánh Phaolô gọi là "nhiệm thể, hay thân thể mầu nhiệm" của Chúa Kitô. Trong nhiệm thể ấy, các chi thể liên kết với nhau và liên kết với một đầu như các cành nho liên kết với thân cây nho và một góc nho. Cũng như nhựa sống lưu thông từ góc nho đến các cành cây, thì sự sống của Thiên Chúa cũng được chuyển đến các chi thể như trong một thân thể. Như thế, các Kitô hữu được gắn với nhau vào một góc là Chúa Giêsu: "Anh em ở trong Thay và Thầy ở trong anh em"
Phải chịu cắt tỉa. Cành nho muốn sai trái phải chịu tỉa bớt những cành lá rườm rà. Cũng vì thế, con người chúng ta cũng phải để Chúa cắt tỉa những gì dư thừa cản trở ơn thánh sinh hoa kết quả. Phải cắt tỉa những ý muốn riêng tư để chuyên tâm tìm thánh ý Thiên Chúa. Phải cắt tỉa những hình thức bề ngoài để chìm vào nội tâm sâu lắng. Phải cắt tỉa những phô trương quyền lực để mặc lấy tâm tình đơn sơ khiêm nhường. Chúa cắt tỉa chúng ta bằng những thất bại ta gặp phải. Chúa huấn luyện ta bằng những lời phê bình chỉ trích của những người chung quanh. Chúa mài giũa chúng ta bằng những hiểu lầm nghi kỵ của người khác. Chúa đào tạo chúng ta trong những phản bội của người thân tín. Việc cắt tỉa làm cho ta đau đớn, nhưng đem lại những lợi ích vô cùng phong phú.
Một điểm khác cũng được Chúa Giêsu nhấn mạnh ở đây, đó là"Cành nho phải sinh hoa trái". Người Kitô hữu không chỉ gắn với thân cây mà còn sinh hoa trái nữa. Bởi vì, không thiếu những cành gắn chặt với cây mà không sinh trái nào. Những cành đó sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa. Không sinh trái là bằng chứng không còn "Ơ trong Thầy", không còn kết hợp với Thầy, mặc dầu bên ngoài vẫn là một cây "xanh rờn"! Sinh hoa kết quả dồi dào mới trở thành người môn đệ thật của Thầy. Hình ảnh có thể làm cho chúng ta sửng sốt. Đâu phải đợiđến khi bị liệt vào hạng khô khan, nguội lạnh hay phạm những tội tầyđình mới bị loại khỏi cộng đoàn của Chúa. Sự sống từ Chúa Giêsu chi có thể là sức sống, làm nở hoa kết trái. chỉ có hai trạng thái: sinh trái hoặc không sinh trái, không có trạng thái thứ ba, hiểu theo nghĩa "cầm hơi hay cầm chừng". Người Kitô hữu trở thảnh môn đệ của Chúa Kitô bằng chính việc sinh nhiểu hoa trái và Thiên Chúa được tôn vinh cũng bằng chính việc người Kitô hữu sinh nhiều hoa trái. Chúa Giêsu đã khẳng định: "điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy".
Thế nào là sinh hoa kết trái? chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời ngay trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Gioan nói: " ai tuân giữ giới răn của Thiên Chúa thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong kẻ ấy, và giới răn của Thiên Chúa là tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và yêu thương nhau như Ngài đã truyền dạy". Thánh Gioan còn căn dặn: "Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm" (1Ga 3, 18). Do đó, chúng ta có thể hiểu được rằng, "sinh hoa trái" là yêu thương mot cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, tạo sự hạnh phúc cho người khác. Phải phục vụ thật lợi ích của anh em, thì mới nói được rằng chúng ta đang ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong chúng ta. Chỉ có tình thương yêu đích thực, thực từ trong lòng ra hành động, mới là tình yêu thương hiệp nhất, hiệp nhất chúng ta nên một với anh em, hiệp nhất chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô là " cây nho Chúa Cha trồng tỉa" đe sinh nhiều hoa thơm trái ngọt.
Hình ảnh của sự cắt tỉa còn gợi lên sự mất mát, đau đớn. Thế nhưng, mất mát dẫn đến thắng lợi, khổ đau dẫn đến vinh quang, sự chết dẫn đến phục sinh. Đó là bài học xuyên suốt cuộc đời, lơi rao giảng và cái chết của Chúa Giêsu. Nhựa sống từ cây nho là Chúa Giêsu đã không ngừng nuôi sống Giáo Hội. Với cái nhìn đức tin, người ta vẫn nhìn thấy cái được trong cái mất, qua việc trở lại với những giá trị của Tin Mừng, Giáo Hội cởi bỏ được chiếc áo của quyền lực và hào nhoáng, để mặc lấy tinh thần phục vụ, khiêm tốn, đơn nghèo. Sự hoán cải của nhiều Kitô hữu trở thành con đường cho những người thành tâm thiện chí của ngươi cần gặp Chúa Kitô. Giáo Hội sinh nhiều con cái là nhờ các chi thể của mình là những cành nho luôn được cắt tỉa.
Như cành liền cây mới sống được và phải cắt tỉa mới sinh nhiều hoa trái, Người Kitô hữu phải sống nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mới có thể sống như Chúa Kitô, sống cho Thiên Chúa và cho mọi người anh em. Đó là đòi hỏi căn bản của đời sống Kitô hữu. Chúng ta yêu thương mọi người một cách chân thành, va giúp đỡ họ thỉ chúng ta là người ở trong Thiên Chúa, kết hợp với Chúa Kitô, mới thật là cành nho gắn liền với cây nho. Chính Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta khi Người sống kết hiệp mật thiết với Đức Chúa Cha. Sự ket hiệp ấy được diễn tả qua việc Người chuyên tâm cầu nguyện và luôn luôn làm theo ý Chúa Cha. Người đã để cho Chúa Cha cắt tỉa khi Người từ bỏ ý riêng, nhận uống chén đắng, nhận vác thập giá, nhận lấy cái chết tủi nhục. Chính vì thế, Người đã sinh hoa trái dồi dào nuôi sống tất cả chúng ta. Chính vì thế, Người đã trở nên gốc nho sung mãn sự sống để chuyển thông cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu là Cây Nho thật, xin cho chúng con biết kết hiệp mật thiết với Chúa. Xin hãy cắt tỉa những gì vô ích trong chúng con, để chúng con sinh nhiều hoa trái tốt như lòng Chúa mong ước. Amen.
11. Suy niệm của Lm. Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Tình yêu phải sinh hoa trái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa tuần rồi dạy chúng ta phải sống tình yêu. Lời Chúa hôm nay khuyến cáo chúng ta rằng tình yêu thật không phải chỉ là yêu thương bằng đầu môi chót lưỡi nhưng phải sinh hoa trái. Những hoa trái ấy đối với Chúa là tuân giữ các điều răn của Ngài, và đối với người khác là những việc làm cụ thể biểu lộ lòng yêu thương.
Xin Chúa giúp cho tình yêu của chúng ta sinh hoa trái.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta chưa yêu thương tha nhân cho đủ.
- Tình thương của chúng ta đối với người khác lắm khi chỉ là lời nói suông chứ chưa thể hiện bằng việc làm.
- Chúng ta ít chịu kết hợp gắn bó với Chúa như cành nho gắn liền với thân nho.
III. Lời Chua
1. Bài đọc I (Cv 9, 26-31)
Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra với Saulô (Phaolô), không phải chỉ để thánh hóa ông, mà còn trao cho ông một sứ mạng (x. Cv 9, 6: "Ngươi hãy đứng dậy vào thành, và có người sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì"). Ý thức về sứ mạng đã khiến Saolô tìm cách nhập đoàn với các môn đệ.
Nhưng bước đầu thật khó khăn vì mọi người vừa không tin vừa còn sợ ông. Nhờ Banaba đứng ra bảo lãnh nên Saolô mới được đón nhận. Thế là Saolô bắt đầu thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng.
Bài tường thuật kết thúc bằng bảng tóm lược những kết quả khả quan của việc rao giảng Tin Mừng.
2. Đáp ca (Tv 21)
Tv này rất hợp với hoàn cảnh của Phaolô: phần đầu (cc 1-19) mô tả cảnh tác giả bị ruồng bỏ. Nhưng trong phần sau (chính là phần được trích đọc hôm nay), tác giả đã được đón nhận, hăng hái truyền tụng những kỳ công của Thiên Chúa và hân hoan chúc tụng Ngài.
3. Tin Mừng (Ga 15, 1-8)
Dụ ngôn Cây Nho.
Dụ ngôn này dạy chúng ta một cách vừa cụ thể dễ hiểu nhưng vừa rất sâu sắc về cuộc đời kitô hữu:
- Kitô hữu nếu muốn sống phong phú thì phải sống trong Đức Giêsu và sống bằng sức sống của Ngài "Thầy là cây nho, các con là nhành... Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều trái"
- Kitô hữu cũng phải chấp nhận để cho mình "được Cha Thầy tỉa sạch" bằng những việc xảy ra không đúng ý mình làm cho mình đau khổ.
- Đức Giêsu còn hứa một điều rất tốt đẹp: "Nếu các con ở trong Thầy và Lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin, và sẽ được"
4. Bài đọc II (1 Ga 3, 18-24)
Đoạn thư này cũng giúp hiểu chủ đề "tình yêu phải sinh hoa trái": Yêu thương không phải chỉ bằng lời nói trên đầu môi chót lưỡi
- mà phải bằng việc làm
- và bằng việc tuân giữ các điều răn của Đức Giêsu.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Cây nho và cành nho
Đức Giêsu không viết một quyển sách nào cả. Ngài cũng không xây dựng một ngôi nhà nào cả. Nhưng Ngài đã thực hiện một công trình lớn lao và cần thiết hơn nhiều, đó là xây dựng một cộng đoàn.
Ngài nói với các môn đệ: "Thầy là cây nho, anh em là cành". Đó chính là hình ảnh Ngài dùng để nói về cộng đoàn mà Ngài xây dựng, một hình ảnh rất súc tích:
Vào mùa xuân, các cành nho vươn ra, đơm lá, trổ hoa. Đến mùa thu thì các cành đã nang trĩu những chùm nho tươi tốt. Nhưng sở dĩ cành sinh lá, trổ hoa và kết trái là nhờ chúng nối liền với cây nho. Nếu cắt lìa chúng khỏi cây thì chẳng những chúng không có trái, mà còn héo tàn dần và cuối cùng thì chết. Cành nho cần đến cây nho thế nào, chúng ta cũng cần đến Đức Kitô thế ấy. Nếu không kết hợp với Ngài, chúng ta sẽ không có sức sống và không thể sinh trái.
Nhưng cây nho cũng cần đến cành nho, bởi vì chính cành nho sinh ra trái nho. Nói thế nghĩa là Đức Kitô cũng cần đến chúng ta. Chúng ta là cành của Ngài. Như thế cây nho và cành nho đều cần tới nhau. Hai bên tạo thành một thể hiệp nhất. Từ đó chúng ta mới hiểu Đức Kitô rất tin tương và trông cậy nơi chúng ta. Có thể chúng ta cảm thấy mình không xứng đáng với sự tin tưởng trông cậy ấy, tuy nhiên chúng ta phải nhớ rằng bên cạnh chúng ta còn có Ngài nữa. Cành nho có thể yếu ớt và mong manh, nhưng cay nho thì rất vững chắc và dồi dào sức sống.
Đức Kitô muốn nhờ chúng ta để sinh trái cho thế giới. Có một khác biệt lớn giữa thành công và sinh trái. Thành công đến từ năng lực, và mang lại vinh quang. Nhưng việc sinh trái thì thường đến từ sự yếu đuối, khổ đau và nhiều khi chẳng ai nhận biết mà khen thưởng. Đức Kitô không bảo chúng ta phải thành công, nhưng Ngài dạy chúng ta sinh trái. Mỗi người chúng ta đều được Ngài ban cho một số khả năng nào đó. Bằng cách sử dụng, phát triển và chia xẻ những khả năng đó với người khác, chúng ta sẽ sinh trái. Thế giới đang chờ những trái ấy. Mà điều quan trọng là yêu thương. Thiên Chúa sẽ làm cho tình yêu của chúng ta sinh trái, những trái chúng ta thấy được và cả những trái chúng ta không thấy.
Sang mùa đông, các cành nho được cắt tỉa. Cắt tỉa là một tiến trình cần thiết cho cành nho: bỏ đi tất cả những gì thừa thải chẳng ích lơi gì mà còn làm hao mòn sức sống của cây nho. Mục đích của cắt tỉa không phải là làm cho cành bị đau mà là để giúp chúng sẽ sinh trái nhiều hơn và tốt hơn nữa. Vì chúng ta là những cành của Cây nho thật là Đức Kitô nen chúng ta cũng cần được cắt tỉa. Có rất nhiều điều chẳng những vô ích mà còn có hại cho sự sống chúng ta, làm hao hụt năng lực chúng ta và cản trở sự sinh hoa trái thiêng liêng của chúng ta. Nếu Đức Kitô cắt tỉa chúng ta bằng những gian truân thử thách, đó là vì Ngài muốn chúng ta sinh nhiều trái hơn. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Sống với
Nhiều người nói rằng: "Tôi cần gì đến nhà thờ chứ? Tôi không thể tôn thờ Chúa theo cách của tôi sao? Tôn giáo là sự liên hệ cá nhân giữa tôi và Chúa cơ mà!"
Hãy nhớ rằng ngay từ những buổi đầu, việc theo Đức Giêsu không bao giờ là một việc cá nhân và riêng tư. Các kitô hữu sống chung trong cộng đoàn, cùng nhau tuyên xưng niềm tin, cùng nhau làm chứng về Đức Kitô sống lại, và cùng nhau sống theo những điều Ngài dạy dỗ. Lý do sâu xa của nếp sống cộng đoàn ấy được chính Đức Giêsu giải thích khi Ngài nói "Thầy là cây nho, anh em la cành".
Cây nho và cành nho là một. Có một sự lệ thuộc hỗ tương giữa cây với cành và cành này với cành khác. Nếu nói "Tôi theo Đức Kitô nhưng không theo Giáo Hội" tức là chia cách Đức Kitô khỏi Giáo Hội, là cắt cành khỏi cây.
Những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu đã nhìn thấy Ngài, ăn uống với Ngài và trò chuyện với Ngài sau khi Ngài sống lại. Nhờ đó họ cảm nghiệm rất sâu xa sự liên kết với Ngài, một sự liên kết mà nhờ đó họ được tăng sức hơn. Đức Giêsu đã chọn họ, làm cho họ thành bạn hữu của Ngài, rồi sai họ ra đi để sinh hoa trái, hoa trái của tình thương.
Chúng ta sẽ biết mình là những cành nho đầy sức sống của cây nho nếu trong chúng ta thực sự có tình thương mến, tình thương mến ngự trị giữa nhau và thể hiện bằng sự chăm sóc cho nhau.
* 3. Hoa trái xum xuê
Nếu ta gắn bó với Người, Đức Giêsu sẽ cho ta hoa trái xum xuê như Người đã hứa: "Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy người ấy sẽ sinh hoa trái xum xuê". Đời ta có thể nên phong phú nhờ sự phong phú của Thiên Chúa. Ta nên những môn đệ đích thực và ta làm vinh danh Chúa Cha. Lời cầu của ta cũng tương tự lời cầu của Đức Giêsu. Người biết Chúa Cha luôn nhận lời Người: "Nếu các con ở trong Thầy và lời Thầy ở trong các con các con hãy xin điều các con muốn và các con sẽ được như ý". Ta có thể xin gì khác hơn thánh ý Chúa Cha? Người môn đệ đích thực của Đức Giêsu không đơn thuần là kẻ đi theo Người. Trong anh ta, chính Đức Giêsu ngự đến sống đời sống của anh, biến đổi đời sống ấy và làm cho nên phong phú. Thánh Phaolô sẽ nói: "Không phải tôi sống, chính Đức Kitô sống trong tôi". Môn đệ là người "mang Đức Kitô". Nếu môn đệ trung tín với Lời Người, anh sẽ nối dài sự hiện diện và hoạt động của Đức Giêsu trên trần gian. Tim anh sẽ đập cùng một tình yêu đó, đời anh sẽ dâng lên Chúa Cha cũng niềm vinh danh đó, lời anh sẽ loan báo cũng Tin mừng đó, cử chỉ anh sẽ phiên dịch cũng ơn cứu độ đó. Đây không phải là bắt chước, nhưng là một chuyển biến sâu xa. Chính Thiên Chúa sinh hoa kết quả xuyên qua hoạt động của anh. Chẳng đời nào ta dám tưởng tượng ra một sự thân thiết thâm sâu dường ấy! Nên Đức Giêsu đã phải nhấn mạnh, nhắc đi nhắc lại để hiểu hơn: "Ngoài Thầy, các con không làm được gì". Ta rất dễ bị cám dỗ, chiếm hữu Lời Người, dùng Lời Người để tự mình hướng dẫn đời sống muốn, để tự ta thấy trước những hoa trái ta muốn có... Thực ra, nếu ta là những môn đệ đích thực, thì chính Lời Đức Giêsu sẽ nắm lấy ta, sẽ cắt tỉa ta. Khi ấy, cuộc đời ta sẽ biến đổi, nhựa sống của cây nho thật sẽ căng phòng lên ở các cành nho của ta và sản sinh trong ta hoa trái xum xuê". (Mgr. L. Daloz trong "Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người" DDB, trang 192. Trích dịch bởi Fiches dominicales, năm B)
* 4. Liên kết với Người (Ga 15,1-8)
Một thầy kiện mới mở được một văn phòng luật sư khang trang lịch sự. Bỗng nghe có tiếng chân người ngoài cửa bước vào, ông vờ như không thấy. Vội nhắc ống diện thoại lên, nói thật to trong ống nghe:
- Alô, văn phòng luật sư đây.
- Vâng, từ ngày tốt nghiệp đại học đến nay, tôi đã thắng nhiều vụ kiện lớn. Các công ty danh tiếng đều nhờ cậy tôi. Tôi được rất nhiều người tin tưởng. Tuy thu nhập cao nhưng tôi luôn dành 10% cho các công việc từ thiện.
Có tiếng gõ cửa, ông quay lại, thấy người đàn bà đang đứng chờ từ nãy, ông mới lịch sự thưa:
- Xin lỗi bà, tôi có khách quý đến.
Quay lưng lại, anh hỏi người vừa bước vào:
- Anh cần gì?
- Thưa luật sư, có phải hôm nay là ngày đầu tiên văn phòng của ngài bắt đầu làm việc?
- Đúng thế, anh cần tôi giúp vụ kiện nào?
- Dạ thưa không tôi là người của công ty đien thoại được cử đến để gắn đường dây điện thoại cho ngài!
*
Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại mối liên hệ của chúng ta với Chúa. "'Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, ke ấy sinh nhiều trái" (Ga. 15, 5). Đức Giêsu Phục sinh là cây nho, các tín hữu Kitô là cành. Cây và cành có chung một dòng nhựa, nên cùng một sự sống. Càng gắn bó với cây, cành càng sinh nhiều hoa trái. Nếu ngược lại canh sẽ héo tàn. Ví như đường dây điện thoại của ông luật sư, không có nối với tổng đài thì đâu có liên lạc đối thoại: không có liên lạc đối thoại thì đâu có khách hàng, lợi nhuận! Cành chỉ giả vờ gắn liền với cây, nên làm gì có sinh hoa trái.
Cành nào đã sinh trái, càng phải sinh trái nhiều hơn. Muốn sinh nhiều trái hơn, cành cần được cắt tỉa đớn đau. Có cắt tỉa vun xới, cành mới sinh hoa kết quả. Đức Giêsu trên cây thập giá, như một thân nho trơ trụi. Đó là lúc phát sinh hoa trái nhiều hơn cả. Từ cạnh sườn Người bị đâm thấu, Giáo hội đã được sinh ra, và đơm bông kết trái dồi dào.
Mỗi người tín hữu Kitô cũng phải được cắt tỉa, vun xới bằng hy sinh đau khổ hằng ngày, mới trổ sinh hoa trái dồi dào. Niềm vui và đau khổ không nhất thiết phải khử trừ nhau. Đôi khi nó réo gọi nhau, trong những cuộc đàm thoại huyền nhiệm. Vì thế hy sinh không là bóp nghẹt cuộc đời, nhưng lam cho đời thêm triển nở tốt tươi.
Điều quan trọng là "Hãy ở lại trong Thầy" vì "Nếu không có Thầy các con không thể làm gì được" (Ga. 1, 5). Ở lại trong Thầy và liên kết với Thầy qua đường dây "Cầu nguyện và bí tích". Tất cả sức sống của Đức Giêsu được chuyển thông từ đó, khả năng kết trái cũng phát sinh từ đó. Đức Giêsu dạy: "Nếu các con ở trong Thầy và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin sẽ được" (Ga. 15, 7).
Nếu Đức Kitô là Cây Nho đích thực, và Người Trồng Nho là chính Thiên Chúa thì chúng ta hãy là những cành nho căng nhựa sống, để dâng hiến cho đời những hoa trái tốt tươi.
***
Lạy Chúa, Chúa muốn cắt tỉa chúng con khỏi những rườm rà, để cây đời chúng con trổ sinh nhiều hoa trái. Xin cho chúng con can đảm, dám sống theo những đòi hỏi cắt tỉa của Chúa. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Ở lại
Đoạn Tin Mừng này chỉ có 8 câu, vậy mà có tới 8 lần chữ "Ở lại".
Thử tò mò đọc lại từng lần để xem mỗi lần có ý nghĩa gì đặc biệt không:
- Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em.
- Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế nếu không ở lai trong Thầy.
- Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều trái.
- Ai không ở lại trong Thầy thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo.
- Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý.
Sau đây là một số ý nghĩa mà chúng ta có thể khám phá ra được:
- "Ở lại" là gì? Như cành nho ở lại trong cây nho -(1) Là một sư liên kết chặt chẽ đến nỗi tuy hai nhưng thành một. Cây nho và cành nho tuy một bên là "cây" một bên là "cành", nhưng cả hai đều là "nho". (2) Sự liên kết này không cần cho một bên nhưng rất cần cho bên kia. Cây nho không cần đến cành nho lắm, nhưng cành nho thì nhất thiết phải "ở lại" trong cây nho. (3) Sự liên kết phải vững bền, nghĩa là mãi mãi, không lúc nào mà không liên kết. Khi nào cành không liên kết với cây thì nó không còn la cành nho nữa mà trở thành cành củi. -Tóm lại, "ở lại" trong Đức Giêsu là điều kiện sống còn, không thể không có đối với kitô hữu.
- Ai "ở lại" trong ai? Đức Giêsu và kitô hữu "ở lại" trong nhau. Về phía Đức Giêsu thì đương nhiên Ngài ở lại trong chúng ta rồi. Nhưng Ngài nhắc chúng ta cũng phải "ở lại" trong Ngài: "Hãy ở lại...", "Như Thầy ở lại trong anh em".
- Ích lợi của "ở lại": được sống, sinh hoa trái, muốn gì cứ xin và sẽ được.
- Tai hại của "không ở lại": bị quăng ra ngoài, khô héo, không thể sinh trái.
- Làm thế nào để "ở lại" trong Đức Giêsu? ghi nhớ và thực hành Lời Ngài.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu là cây nho, chúng ta là cành, cành nào liền với cây mới sinh hoa trái, và cành nào được cắt tỉa lại càng sinh nhiều hoa trái hơn. Chúng ta hãy tha thiết dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện sau đây:
1. Xin cho giáo sĩ, tu sĩ, và giáo dân trong Hội thánh / luôn hiệp thông với Đức Giêsu nhờ phụng vụ và bí tích, để có thể sinh nhiều hoa trái trong việc phục vụ và truyền giáo.
2. Xin cho mọi người đang phục vụ trong mọi hoàn cảnh xã hội / biết chấp nhận gian nan thử thách / để rút tỉa kinh nghiệm và phục vụ kết quả hơn.
3. Xin cho những người đau khổ, tật nguyền / những người bị tù đày áp bức / biết hiệp thông với cuộc khổ nạn của Đức Giêsu / để góp phần đền tội cho những kẻ tội lỗi.
4. Xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / biết vui lòng đón nhận mọi đau khổ thử thách như được Chúa cắt tỉa / để có thể sinh hoa trái nhiều hơn trong tình mến Chúa yêu người.
Chủ tế: Lạy Chúa, Đức Giêsu đã dạy chúng con phải hiệp thông với Người như cành liền cây, thì xin gì cũng sẽ được. Xin giúp chúng con đừng bao giờ lìa xa Người, để mọi lời cầu xin đều được Chúa chấp nhận. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu là cây nho, chúng ta là cành. Vậy chúng ta hãy kết hợp tâm tình với Đức Giêsu để dâng lên Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu và cũng là Cha chúng ta lời nguyện sau đây.
- Chúc bình an: Trong tình yêu siêu nhiên nối kết chúng ta với Đức Giêsu và với nhau, chúng ta hãy thành thật chúc cho nhau được bình an.
VII. Giải tán
Mặc dù Thánh lễ sắp kết thúc và chúng ta sắp rời khỏi Nhà thờ, nhưng chúng ta hãy tiếp tục sống kết hợp với Đức Giêsu như cành nho gắn liền với cây nho.
12. Thầy là cây nho, anh em là cành - ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Theo tiến sĩ Campell Morgan: “Chúa Giêsu nói dụ ngôn này vào một trong hai cảnh: một số người cho rằng: Đức Giêsu dẫn các môn đệ từ phòng tiệc ly ngang qua đền thờ. Cửa đền thờ trong tuần lễ Vượt Qua mở suốt đêm cho khách hành hương ra vào. Trên cong đền thờ, cây nho bằng vàng là quốc huy của Do thái sáng loáng dưới ánh trăng thanh của những đêm rằm trong mát. Cảnh tượng ấy vô cùng đẹp đẽ và thơ mộng. Một số khác cho rằng: Đức Giêsu dẫn các môn đệ ra khỏi thành xuống khe suối Kêdrôn. Ngồi giữa khung cảnh đó, họ nhìn thấy nho mọc khắp trong vùng, rồi Ngài nói: “Thầy là cây nho thật … anh em là cành”. Đồng thời họ cũng nhìn thấy rải rác trong thung lũng đêm tối những đám cháy đang thiêu rụi những cành nho bị cắt quẳng đi lúc ban ngày. Trong bối cảnh đó Đức Giêsu nói thêm: “Ai kết hợp với Thầy … thì người ấy sinh hoa kết quả dồi dào … Ai không kết hợp với Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho va sẽ khô héo. Người ta sẽ ném nó vào lửa cho cháy đi” (Parables and Metaphores of our Lord, No 62).
Khi Đức Giêsu nói: “Thầy là cây nho đích thực và Cha Thầy là người trồng nho”, Người muốn các môn đệ nhận ra Người là cây nho Chúa Cha đã đưa từ trời xuống trồng cho thế gian được sống nhờ kết hợp với Người. Khác với thứ cây nho là dân Do thái được bứng từ Ai cập về như Thánh vịnh 80 đã mô tả: Thứ nho có bóng rậm cả núi non, nhánh vươn tới biển khơi và chồi lan tới sông cả. Nhưng nó chỉ hào nhoáng bên ngoài như cây nho bằng vàng giả tạo đúc trên cổng đền thờ, nó vô tâm, vô hồn, được người ta ca tụng nó, nhưng nó không biết ca tụng Thiên Chúa, nên Ngài đa để cho kẻ qua lại dầy đạp nó, cho heo rừng và dã thú phá hủy nó.
Tiên tri Isaia, Giêrêmia và Êzêkiel cũng ám chỉ Do thái như vườn nho được Thiên Chúa tạo dựng để sinh hoa kết quả, nhưng nó đã thất bại, chỉ sinh những trái nho dại (Is. 5, 1-7; Ger. 2, 21-5,10; Ez. 15, 1-2 – 17, 3.4 - 19, 10-14).
Chúng ta hãy chiêm ngưỡng cây nho đích thực: Thân cành quấn quít lấy nhau, chi chít những chùm trái chín mọng, không còn thấy đâu là thân, đâu là cành. Chúng cài đan chặt lấy nhau như những nan thúng, nan rá, không đơn độc trơ trọi như cành xoài, cành mít, Chúa Giêsu dùng những hình ảnh cụ thể sống động đó để diễn tả mầu nhiệm kết hợp giữa Người với kẻ tin Người, phải lien kết chặt chẽ gắn bó với Người như hình với bóng, nhìn hình thấu bóng, nhìn bóng biết được hình. Nhìn ta, người ngoài thấy được Chúa, nhìn Chúa, họ thấy ta giống Người, nếu họ nhìn ta không thấy ta giống Chúa, mà chỉ thấy ta như thứ hình bằng vàng giả tạo, vô tâm vô hồn, thì ta sẽ bị ruồng bỏ cho dã thú phá hủy, hay như cành nho bị cắt chặt vất vào lửa đời đời.
Nếu họ nhìn ta mà họ thấy được Chúa như thánh Phaolô nói: “Tôi sống không còn là tôi sống, nhưng Chúa Kitô sống trong tôi”. Như thế, “anh em sinh hoa kết quả dồi dào và trở thành môn đệ của Thầy, thì đó là tôn vinh Cha của Thầy”.
Bài đọc một cho thấy Saolô khi chưa trở nên cành nho của Chúa, ông đã hung hăng bách hại đạo Chúa, đến nỗi khi ông mới trở lại “mọi người vẫn còn sợ vì họ vẫn còn nghi ngờ ông”.
Khi ông đã được nhập đoàn với các môn đệ, trở nên cành nho của Chúa “ông đã mạnh dạn rao giảng danh Chúa Giêsu …” dù cho người Do thái luôn luôn âm mưu giết hại ông. Ông đã là cành nho “sinh hoa kết quả dồi dào và Hội thánh được bình an, ngày càng vững mạnh, sống kính mến Chúa, và ngày một thêm đông nhờ ơn Thánh Thần nang đỡ”.
Họ càng đông, họ càng yêu thương nhau thật sự bằng việc làm, tuân giữ giới răn Chúa và làm mọi sự đẹp lòng Chúa.
Bài đọc hai, đó là những dấu chứng họ đích thực là cành nho của Chúa. “Họ ở trong Chúa và Chúa ở trong họ”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tuân giữ giới răn Chúa trong tình yêu thương nhau tận tâm tận lực và mạnh dạn rao giảng danh Chúa, để “Thầy là cây nho, chúng con là cành mới sinh hoa trái dồi dào”.
13. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Tin mừng hôm nay nhắc tới hình ảnh cây nho, một loài cây rất quen thuộc với người Do Thái. Một trong những nguyên lý phát triển của nó là cành phải gắn liền với cây. Cành gắn liền với cây thì mới có thể sinh hoa trái. Đức Giêsu muốn dùng hình ảnh này để nói lên sự hiệp thông giữa mỗi người chúng ta với Ngài và giữa mỗi người chúng ta với nhau.
1. Sự hiệp thông giữa mỗi người chúng ta với Đức Giêsu
Cành nho phải gắn kết với cây nho thì mới hút được nhựa sống, nhờ đó mới có thể sinh hoa trái. Cũng vậy, mỗi người kitô hữu chúng ta phải gắn kết với Đức Giêsu thì mới có thể sống và sinh hoa trái thiêng liêng. Ngài nói: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì.”(Ga 15,5). Còn khi cành nho không gắn kết với cây nho thì sẽ bị vứt ra ngoài, sẽ khô héo, bị quăng vào lửa và bị đốt đi. Đó cũng là thân phận của những kitô hữu không hiệp thông với Đức Giêsu. Ngài nói tiếp: “Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như ngành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi.”(Ga 15,6). Cho nên, để có sự sống thiêng liêng, để sinh được nhiều hoa trái, chúng ta cần phải sống hiệp thông với với Đức Giêsu.
Nhưng chúng ta có thể sống hiệp thông với Đức Giêsu bằng cách nào?
Thứ nhất, chúng ta sống hiệp thông với Đức Giêsu bằng đời sống cầu nguyện: Vì cầu nguyện là hơi thở của linh hồn. Cầu nguyện là sống, không cầu nguyện là chết;
Thứ hai, chúng ta sống hiệp thông với Đức Giêsu bằng cách đọc, suy gẫm và sống Lời Chúa: Vì Lời Chúa là lẽ sống. Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sáng chỉ đường con đi. Người ta sống không nguyên bởi bánh những còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra;
Thứ ba, chúng ta sống hiệp thông với Đức Giêsu bằng cách siêng năng lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Giao hòa và Bí tích Thánh Thể: Vì mỗi lần chúng ta sa ngã phạm tội trọng, chúng ta mất ơn nghĩa Chúa, mất sự sống siêu nhiên. Để lấy lại ơn nghĩa Chúa, để có sự sống siêu nhiên, chúng ta cần phải thống hối ăn năn tội và lãnh nhận Bí tích Giao hòa. Còn khi dọn mình sốt sắng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể chúng ta được sống hiệp thông mật thiết với Đức Giêsu;
Thứ tư, chúng ta sống hiệp thông với Đức Giêsu khi chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thương yêu nhau và đặc biệt là tuân giữ các giới răn của Ngài. Trong bài đọc II, Thánh Gioan Tông đồ cho biết khi chúng ta làm như vậy là chúng ta sẽ ở trong Người và Người ở trong chúng ta. Ngài nói: “Chúng ta phải tin vào thánh danh Con của Người là Chúa Giêsu Kitô, và phải thương yêu nhau, như Người đã ban giới răn cho chúng ta. Ai giữ các giới răn của Người, thì ở trong Người và Người ở trong họ. Do điều này mà chúng ta biết Người ở trong chúng ta, đó là Thánh Thần mà Người đã ban cho chúng ta.”(1 Ga 3,23-24)
2. Sự hiệp thông giữa các kitô hữu với nhau
Khi chúng ta sống hiệp thông với Đức Giêsu là Đầu thì chúng ta dễ dàng sống hiệp thông với các kitô hữu khác là những chi thể của Đầu. Nhưng làm thế nào để sống hiệp thông với nhau?
Thứ nhất, để sống hiệp thông với nhau, chúng ta cần phải bắt chước cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên: “không ai coi bất cứ cái gì có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung”(Cv 4,32). Không những họ lấy của cải vật chất làm của chung, mà họ còn cắt tỉa những suy nghĩ, những quan niệm hiệp hòi để chung một lòng một ý với nhau. Thánh Phaolô Tông đồ quả quyết: “Không còn chuyện phân biệt Dothái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô”(Gl 3,28).
Thứ hai, để sống hiệp thông, chúng ta cũng được mời gọi tôn trọng, cộng tác và chia sẻ với nhau, tránh mọi hình thức phân biệt đối xử như tâm tình của Thư Mục Vụ Năm Tân Phúc Âm hoá Giáo xứ 2015 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam mời gọi: “Giáo xứ còn là cộng đoàn ‘luôn luôn hiệp thông với nhau’, giữa linh mục và giáo dân cũng như giữa giáo dân với nhau. Sự hiệp thông trong cộng đoàn được thể hiện qua sự tôn trọng, cộng tác và chia sẻ. Thật vậy, trên nền tảng bí tích Rửa Tội, mọi tín hữu đều bình đẳng với nhau về phẩm giá, cho nên phải tôn trọng lẫn nhau, tránh mọi hình thức phân biệt đối xử.” (Số 4).
Thứ ba, để sống hiệp thông với nhau cần phải biết dẹp bỏ những chia rẽ, dẹp bỏ những hận thù, dẹp bở những loại trừ lẫn nhau từ trong gia đình đến các cộng đoàn lớn nhỏ, nhất là trong cộng đoàn Giáo xứ. Cần có sự hy sinh ý riêng vì việc chung. Cần có sự hy sinh của cải tiền bạc để xây dựng tình hiệp thông trong gia đình, trong cộng đoàn và nơi mọi môi trường sống.
Thứ tư, để sống hiệp thông với nhau cần phải có tinh thần tha thứ cho nhau. Thư thứ không chỉ một lần mà tha thứ mãi mãi. Vì thế, trước khi đến với thánh lễ, đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta cần phải đến với người anh em của chúng ta trước đã, nhất là những người đang có vấn đề với chúng ta. Chúa Giêsu đã đòi hỏi điều đó một cách hết sức quyết liệt khi Ngài nói rằng: “Khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó, trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình”(Mt 5,23).
Lạy Chúa Giêsu là cây nho đích thực, xin cho mỗi người chúng con luôn sống liên kết với Chúa qua đời sống cầu nguyện, sống Lời Chúa, tuân giữ các giới răn, lãnh nhận các Bí tích. Xin cho mỗi người chúng con biết sống hiệp thông với nhau để yêu thương và giúp nhau nên thánh. Amen.
14. Chúa Nhật 5 Phục Sinh
Anh chị em thân mến.
Nước Việt Nam chúng ta đang trên đà phát triển, nên hệ thống giao thông cũng dần dần được nâng cấp. Nếu chúng ta nhìn thấy được tiến trình cho con đường được bằng phẵng tốt đẹp, chúng ta phải công nhận rằng,đó là một kỳ công. Con đường được hình thành từ những viên đá có nhiều góc cạnh khác nhau. Nhưng chúng phải biết nhường nhịn nhau, chúng được xoay trở cách nào đó, để có thể nằm sát bên nhau mà không có một trở ngại nào đáng kể.
Nếu có viên đá nào không muốn đồng số phận, mà lại muốn vươn lên trên để cho mọi người có thể nhìn thấy nó. Khi đó có thể viên đá đó sẽ tự hào vì mình khôn ngoan hơn cấc viên đá khác. Nhưng thực ra, đó là điều hết sức vô phúc cho nó. Viên đá đó sẽ bị nhận xuống bằng những đe, búa rất nặng cho đến đỗi thân hình nó không còn nguyên vẹn. Nếu nó cứng đầu hơn, không chịu chìm xuống, cũng không chịu bể ra, thì số phận của nó sẽ bị loại ra ngoài. Nó không được liên kết với các bạn để tạo nên một con đường tốt đẹp, phục vụ cho con người. Số phận nó từ đây không ai còn biết đến nữa, vì nó đã trở nên vô ích, nên nó phải sống trong sự cô đơn và buồn tẻ.
"Thầy là cây nho, chúng con là cành."
Cành cây luôn dính liền với thân cây mới có sự sống. Cành cây muốn đạt được kết quả tốt đẹp, thì phải được thân cây truyền cho nhựa sống dồi dào. Có những lúc cành cây còn phải chịu sự cắt tỉa,để bỏ đi những gì không cần thiết. Sự bỏ đi sẽ làm cho cành cây nhiều khi trở nên đau đớn. Nhưng đó là sụ đau đớn cần thiết. Khi cơn đau qua đi, cành cây sẽ mạnh mẽ hơn, cho những cành tươi tốt hơn, để có thể cho những hoa trái cần thiết hơn. Nếu những cành nào vượt cao quá mà dùng những tàn lá của mình, che lấp đi những cành khác, nó cũng bị cắt tỉa để cho thân cây được thoang mát và những cành khác cũng có cơ hội phát triển. Còn nếu cành nào tự lìa bỏ thân cây vì bất cứ lý do gì, thì số phận của nó chắc ai cũng biết. Nó không thể nào tự sống nỗi.
Các Môn Đệ là những cành nho thật sự, biết bám chặc vào thân, nên các ông đã sinh nhiều hoa trái tốt đẹp. Những hoa trái mà ngày nay chúng ta còn đang tiếp tục hưởng dùng.
"Thầy là cây nho, chúng con là cành."
Mỗi người trong chúng ta cũng là những cành nho gắng liền với gốc là Chúa Kitô. Chủ vườn luôn chăm sóc vườn nho của mình thật chu đáo. Ông đến cắt tỉa, săn sóc từng cành, sẳn sàng bỏ đi những gì làm nguy hại cho những cành nho yêu quí của mình. Ông muốn cho những canh mà ông chăm sóc được luôn tốt đẹp để nó đạt được kết quả khả quan hơn. Nên ông cũng thường tìm đến để xem sự chăm sóc của mình có kết quả gì không. Ông vui mừng biết bao khi trong tay có những chùm nho tươi đẹp. Trai lại ông cũng rất buồn khi tìm mãi mà chẵng thấy một kết quả nào, cho dù ông đã cố công chăm sóc. Nếu cành nào quá vô dụng đến thế, chắc ông sẽ không để nó đeo bám vào thân làm gì. Số phận nó sẽ bị tách rời khoi thân, tách rời khỏi những cành khác, nó không còn được ở gần những cành khác, mà phải chịu số phận cô đơn và khô héo đi trong sự buồn tẻ, để rồi không còn ai biết đến nó nữa.
Con người chúng ta trong cuộc sống, có những lúc mình gặp những buồn hiền cay đắng, những điều không may. Có thể đó là những lúc chủ vườn nho đang cắt tỉa đi những chồi phát triển không đúng chỗ. Có những lúc chúng ta được sung túc may mắn, làm ăn thuận lợi. Những lúc đó, chủ vườn cũng đến tìm kết quả nơi chúng ta. Nếu những cành nho chỉ biết phát triển những cành lá, làm tổn hao nhựa sống chung của gốc mà không có kết quả, trái lại những cành lá của nó càng ngày càng che lấp đi những cành khác. Nó cũng bị cắt tỉa đi. Đó là những lúc chúng ta tự phụ về những gì mình có được, để rồi không còn biết đến ai, nhưng trái lại còn đè bẹp kẻ khác. Khi đó chủ vườn sẽ làm công việc của mình đoi với những cành lá như thế. Vị chủ vườn sẽ vui mừng biết bao, khi thấy những cành nho mà mình đã chăm sóc có kết quả tốt đẹp. Cũng như những viên đá trên đường biết liên kết và nhường nhịn nhau, tạo nên con đường láng, phẳng, phục vụ cho con người.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết luôn sống kết hợp với Chúa và anh em, để có được sức sống dồi dào và đạt nhiều kết quả tốt đẹp trong đời sống hằng ngày.
15. Liên kết vơi Người
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Một thầy kiện mới mở được một văn phòng luật sư khang trang lịch sự. Bỗng nghe có tiếng chân người ngoài cửa bước vào, ông vờ như không thấy. Vội nhắc ống diện thoại lên, nói thật to trong ống nghe:
- Alô, văn phòng luật sư đây.
- Vâng, từ ngày tốt nghiệp đại học đến nay, tôi đã thắng nhiều vụ kiện lớn. Các công ty danh tiếng đều nhờ cậy tôi. Tôi được rất nhiều người tin tưởng. Tuy thu nhập cao nhưng tôi luôn dành 10% cho các công việc từ thiện.
Có tiếng gõ cửa, ông quay lại, thấy người đàn bà đang đứng chờ từ nãy, ông mới lịch sự thưa:
- Xin lỗi bà, tôi có khách quý đến.
Quay lưng lại, anh hỏi người vừa bước vao:
- Anh cần gì?
- Thưa luật sư, có phải hôm nay là ngày đầu tiên văn phòng của ngài bắt đầu làm việc?
- Đúng thế, anh cần tôi giúp vụ kiện nào?
- Dạ thưa không tôi là người của công ty điện thoại được cử đến để gắn đường dây điện thoại cho ngài!
***
Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại mối liên hệ của chúng ta với Chúa. "Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sinh nhiều trái" (Ga. 15, 5). Đức Giêsu Phục sinh là cây nho, các tín hữu Kitô là cành. Cây và cành có chung một dòng nhựa, nên cùng một sự sống. Càng gắn bó với cây, cành càng sinh nhiều hoa trái. Nếu ngược lại cành sẽ héo tàn. Ví như đường dây điện thoại của ông luật sư, không có nối với tổng đài thì đâu có liên lạc đối thoại: không có liên lạc đối thoại thì đâu có khách hàng, lợi nhuận! Cành chỉ giả vờ gắn liền với cây, nên làm gì có sinh hoa trái.
Cành nào đã sinh trái, càng phải sinh trái nhiều hơn. Muốn sinh nhiều trái hơn, cành cần được cắt tỉa đớn đau. Có cắt tỉa vun xới, cành mới sinh hoa kết quả. Đức Giêsu trên cây thập giá, như một thân nho trơ trụi. Đó là luc phát sinh hoa trái nhiều hơn cả. Từ cạnh sườn Người bị đâm thấu, Giáo hội đã được sinh ra, và đơm bông kết trái dồi dào.
Mỗi người tín hữu Kitô cũng phải được cắt tỉa, vun xới bằng hy sinh đau khổ hằng ngày, mới trổ sinh hoa trái dồi dào. Niềm vui và đau khổ không nhất thiết phải khử trừ nhau. Đôi khi nó réo gọi nhau, trong những cuộc đàm thoại huyền nhiệm. Vì thế hy sinh không là bóp nghẹt cuộc đời, nhưng làm cho đời thêm triển nở tốt tươi.
Điều quan trọng là "Hãy ở lại trong Thầy" vì "Nếu không có Thầy các con không thể làm gì được" (Ga. 1, 5). Ở lại trong Thầy và liên kết với Thầy qua đường dây "Cầu nguyện và bí tích". Tất cả sức sống của Đức Giêsu được chuyển thông từ đó, khả năng kết trái cũng phát sinh từ đó. Đức Giêsu dạy: "Nếu các con ở trong Thầy và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin sẽ được" (Ga. 15, 7).
Nếu Đức Kitô là Cây Nho đích thực, và Người Trồng Nho là chính Thiên Chúa thì chúng ta hãy là những cành nho căng nhựa sống, để dâng hiến cho đời những hoa trái tốt tươi.
***
Lạy Chúa, Chúa muốn cắt tỉa chúng con khỏi những rườm rà, để cây đời chúng con trổ sinh nhiều hoa trái. Xin cho chúng con can đảm, dám sống theo những đòi hỏi cắt tỉa của Chúa. Amen.
16. Ở lại trong Thầy
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
‘Hãy ở lại trong Thầy!’
Chúng ta không rõ đây có phải là một giới răn, một lệnh truyền, một lời khuyên nhủ hay thổ lộ tâm tình của Đức Giê-su với các môn đệ Người…? Cũng có thể là tất cả các điều đó cùng một lúc tùy theo góc độ nhận định; tuy nhiên tầm quan trọng tột cùng của lời gửi gấm này lại là điều không thể chối cãi. ‘Ở lại trong Thầy… Ở lại trong tình thương của Thầy (câu 9)’ là nền móng của chính tòa nhà thiêng liêng ‘mến Chúa – yêu người’ mà mọi Ki-tô hữu đang cố công xây dưng.
Ngũ Kinh của Cựu Ước ghi chép nhiều giới răn mà Mô-sê nhân danh Đức Chúa Gia-vê ban hành; chúng thật sự là những lệnh truyền; thậm chí được lặp đi lặp lại cách khá lôn xộn để buộc phải ghi nhớ. Khi trả lời vấn nạn do nhóm Pha-ri-sêu đặt ra: ‘trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?’, Đức Giê-su đã tóm gọn tất cả trong câu giải đáp: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn”, men Chúa hết lòng và yêu người thân cận như chính mình (Mt 22:34-40). Cái thiếu trầm trọng trong lời giải đáp này (cũng như toàn bộ các luật lệ của Cựu Ước) là chưa cho thấy được một nền tảng, một động lực nào để giữ đươc các giới răn hay lệnh truyền đó. Phao-lô, đặc biệt trong thư gửi giáo đoàn Rô-ma, đã cho mọi người thấy cái giới hạn căn bản của các giới răn hay các lệnh truyền kiểu này chỉ là một áp đặt từ bên ngoài mang tính no lệ (xem đặc biệt chương 2).
‘Hãy ở lại trong Thầy… trong tình thương của Thầy’ chính là cái nền tảng, cái động lực rất cần thiết đó, mà mãi tới giờ Đức Giê-su, trong tâm tình chí thiết với các môn đệ, mới bộc lộ cho thấy. Và để các môn đệ dễ dàng nắm bắt được điều rất căn bản và tối hệ trọng này, Người đã sử dụng một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân vùng Địa Trung Hải: “Thầy là cây nho, anh em là cành… Cành nào gắn liền với cay mới sinh hoa trái”. Đúng thế, làm sao một người có thể ‘yêu mến Thiên Chúa’ nếu không trước hết ngụp lặn trong tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho mình? Thiên Chúa là tình yêu, cho nên mọi thứ tình yêu đều phải do Ngài khởi xướng và chủ động. Con người không thể tự mình chủ động được tình yêu đối với Thiên Chúa, mà chỉ có thể đáp trả tình yêu mình nhận được. Ngay trong Cựu Ước, Gia-vê đã là Đấng chủ động biểu lộ lòng thương xót đối với dân riêng; biết bao lần Ngài đã giải thoát họ, dẫn dắt và chăm sóc họ…; và để có thể duy trì lòng trung thành với Ngài, hàng năm họ phải long trọng cử hành các biến cố đó (Lễ Vượt Qua là một điển hình). Trong Tan Ước, Thiên Chúa nơi Người Con chí ái là Đức Giê-su Ki-tô, nhất là qua cái chết tự hiến thập giá của Người Con đó, đã không những chủ động mà còn cụ thể hóa tình yêu Ngài dành cho con người tội lỗi thấp hèn. Do đó Thập Giá, xét như một biểu hiện tình yêu, cần phải được thường xuyên tưởng niệm và cử hành; “Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22:19). Chính trong ánh sáng này mà ta nhận ra ý nghĩa phong phú của biến cố Phục Sinh; Chúa Ki-tô sống lại tiên vàn là để tình yêu cứu độ của Người kéo dài cách hữu hiệu cho tới muôn đời, Người tiên vàn sẽ ‘ở lại cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế’ (Mt 28:20). Như thế chỉ đôi khi cử hành tương nhớ thôi chắc chắn là chưa đủ. ‘Ở lại trong Thầy… Ở lại trong tình thương của Thầy’ không ngơi nghỉ và ngày càng thâm sâu hơn, đó mới đích thực là mục tiêu của toàn bộ đời sống Ki-tô hữu, “Hãy ở lại trong Thầy như Thay ở lại trong anh em!” Tùy thuộc và tỷ lệ thuận với việc ‘ở lại’ này mà người Ki-tô hữu mới dần học biết phải yêu mến Thiên Chúa như thế nào cho phải lẽ, đồng thời phải yêu mến tha nhân ra làm sao, “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (câu 12). Trong lãnh vực đặc biệt này, ta thấy câu khảng định của Thầy Giê-su: “không có Thầy, anh em chẳng làm được gì!” mới lộ ra tất cả sự khẩn trương của Tin Mừng.
Thế đó, cũng như biết bao tu sĩ và Ki-tô hữu khác, thường thì tôi đã cố công, đã nỗ lực rất nhiều để xây dựng cho mình có được một tình mến lớn hơn đối với Thiên Chúa và tha nhân. Thế nhưng kinh nghiệm cho thấy, sau nhiều năm tháng, ket quả cụ thể vẫn chẳng đi đến đâu. Cái mà tôi còn thiếu, chính là đã rất ít cất công hoặc dành thời giờ đề chiêm ngắm Thánh Giá, để đi sâu vào, và để ở lại trong tình yêu mà Thiên Chúa đã đối xử với tôi. Cứ thử xem lại các lần đi xưng tội, đã mấy khi tôi dành thời giờ sau lúc xét mình hoặc xưng tội để say sưa chiêm ngắm tình yêu thứ tha vĩ đại của Thiên Chúa cứu độ, thay vì chỉ chu chu chắm chắm quyết tâm sửa mình để có thể đạt được tiến bộ trong lý tưởng mến Chúa yêu người? Cũng vậy, đối tượng nguyện gẫm của tôi có thể bao gồm đủ thứ cao đẹp trên trời dưới đất, nhưng chiêm ngắm tình yêu Chúa, và ở lại trong tình yêu đó, quả thực còn quá hiem khi. Cụ thể tôi có thực sự thâm tín rằng, ‘ở lại trong tình thương của Thầy’ là thiết yếu (a must) đối với đời Ki-tô hữu hoặc tu sĩ (linh mục) của tôi chưa?
Lạy Chúa, tâm tình của Chúa tha thiết biết bao khi kêu gọi các môn đệ: “Hãy ở lại trong Thầy…, ở lại trong tình thương của Thầy”. Qua những lời này, Chúa mách nước cho con để dành được chiến thắng trong ván cờ xây dựng tình yêu. Xin nhắc con đừng bao giờ quên nước đi kỳ diệu này, nhat là những khi nhận thấy mình tội lỗi, tức là khi tình mến Chúa và yêu người nơi con thấp kém nhất. Xin cho con biết cử hành Thánh Lễ với tâm tình chiêm ngưỡng sâu xa hơn, và tích cực kéo dài trong cuộc sống hơn. Amen.
17. Sống liên đới
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Trước Công Đồng Va-ti-ca-nô II, nói đến tổ chức cơ cấu của Hội Thánh, người ta thường nghĩ đến hình ảnh một kim tự tháp: ở chóp đỉnh là Đức Giáo hoàng, dưới la các hồng y, giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, và cái đáy dưới cùng là giáo dân. Hình ảnh này đưa đến một quan niệm không đúng về nhiệm vụ của mỗi thành phần, nhất là giáo dân, bị coi là thấp kém, chỉ biết ngoan ngoan vâng lời cấp trên.
Nhưng từ Công Đồng Va-ti-ca-nô II, hình ảnh trên đã được thay thế bằng hình ảnh có một tâm điểm là Đức Giêsu, từ tâm điểm này có nhiều vòng tròn đồng tâm: một vòng là các giáo sĩ, gồm các giám muc có Đức Giáo hoàng đứng đầu, và các cộng sự viên là linh mục và phó tế; vòng khác là các tu sĩ; và vòng rộng lớn hơn là giáo dân. Hình ảnh này cho thấy mọi thành phần đều liên đới với nhau và tất cả đều qui hướng về trọng tâm là Đức Giêsu.
Một hình ảnh khác sâu sắc hơn, thánh Phaolô đã nói tới và nay được chú ý, đó là hình ảnh một thân thể, có Đức Giêsu là đầu, mọi người Kitô hữu, dù là giáo sĩ, giáo dân, tu sĩ...đều là cac chi thể của thân thể. Mỗi chi thể có nhiệm vụ riêng, không ai thay thế được. Hình ảnh này diễn tả rõ hơn và đúng hơn mối hiệp thông giữa các thành phần với nhau và với Đức Giêsu; và cũng cho thấy rằng tất cả đều cung có trách nhiệm thi hành sứ vụ mà Đức Giêsu trao phó để xây dựng sự hiệp thông trong Hội Thánh.
Nhưng tất cả những điều trên đây đã được chính Đức Giêsu đề cập tới trong Tin Mừng hôm nay. Đó là hình ảnh cây nho. Đối với dân Do thái, vườn nho và cây nho là một hình ảnh rất lâu đời, rất quen thuộc, được dùng để tượng trưng cho dân tộc, một dân riêng được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc đặc biệt. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuoc này để áp dụng vào Ngài và chúng ta: Ngài là cây nho, chúng ta là cành. Sự liên kết và hỗ tương giữa thân cây với cành, và giữa các cành với nhau, đó là hình ảnh sự liên kết và hỗ tương giữa Chúa Giêsu với chúng ta, và giữa chúng ta với nhau.
Một điều hiển nhiên và rõ ràng là cành cây phải hoàn toàn cần tới thân cây mới sống được. Nếu cắt lìa thân nho, thì cành sẽ khô héo và chết. Đó là hình ảnh cho chúng ta biết: mỗi người chúng ta cần phải liên kết với Chúa Giêsu, thì chúng ta mới sống và sống mạnh được. Chúng ta cần tới Chúa để đạt ơn cứu rỗi, nghĩa là chúng ta không thể thành toàn, tự giải thoát, thần hóa con người của mình, nếu không sống trong Chúa, nhờ Chúa và với Chúa. Điều này phải hiểu một cách tuyệt đối. Cũng giống như bóng đèn điện: có bao giờ một bóng đèn bị cắt đứt với dòng điện hay bị cúp điện mà còn sáng không? Hay một nhánh sông cắt đứt với con sông cả mà còn nước không? Hay một cành cây cắt đứt lìa thân cây mà còn sống không? Có lẽ nó có thể sống một vài ngày tạm bợ rồi sẽ chết khô.
Cũng thế, một khi chúng ta xa lìa Chúa, tâm hồn chúng ta cũng sẽ chết khô. Bên ngoài chúng ta có thể là thành công trên phạm vi danh vọng, tiền tài, được ca tụng, kính nể... nhưng trước mặt Chúa, chúng ta là kẻ chết và chết khô. Vậy chúng ta có thể kết hợp với Chúa Giêsu cách nào? Bằng những phương thế rất quen thuộc và cụ thể là cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích thánh Thể, bí tích quan trọng và hiệu năng nhất, để chúng ta thường xuyên duy trì mối tương quan huyết mạch với Chúa Giêsu.
Đó là phía giữa Chúa với chúng ta, tức là giữa thân nho và cành nho. Còn giữa chúng ta với nhau, tức là giữa các cành nho thì sao? Chúng ta cần cộng tác với nhau, cần nâng đỡ nhau, cần kết hiệp với nhau trên con đường cứu rỗi. Ở đời này, không ai chủ trương "mỗi người là một hòn đảo" mà sống tốt được. Cũng như một thân cây nho chuyển thông sức sống, nhựa sống cho các cành, thì Chúa Giêsu cũng làm như thế. Cành nho nào không tiep nhận nhựa sống thì sẽ cằn cỗi, khô héo và rụng gẫy đi. Nhựa sống trong thân cây nho hằng lưu chuyển, không cành nào được giữ riêng lại cho mình mà ngăn cản nhựa sống truyền sang cho những cành khác.
Chúng ta sống với nhau trong một cộng đoàn, một gia đình, cũng được ví như thế, được so sánh như một cây nho. Chúng ta tiếp nhận được sự sống của Chúa, chúng ta phải chuyển thông cho nhau để tất cả chúng ta cùng sống và sống tốt đẹp. Thế ma trong cuộc sống rất có thể chúng ta sống mà không quan tâm đến mối tương quan giữa mình với anh em. Vì không để ý "mình vì mọi người và mọi người vì mình", nên chúng ta đã sống "mình vì mình và mọi người vì mình". Như thế la ích kỷ. Chúng ta cứ thử nhìn chung quanh chúng ta xem, thật đáng buồn: người ích kỷ nhiều hơn người vị tha. Ai cũng thấy "cái tôi" của mình là lớn hơn cả và coi người khác không ra gì. Là con cái Chúa, chúng ta không được song như thế. Chúng ta cần có nhau, hãy nâng đỡ nhau, hãy thông cảm nhau. Đó chính là đạo bác ái của chúng ta vậy.
18. Ai đổi đời ai – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu Phục Sinh trên đường đi Damas đã đổi đời Phaolô. Từ một người nhiệt thành với truyền thống tổ tiên, làm Phaolô hăm hở đi bắt các Kitô hữu về “trị tội”, trở thành một tông đồ hăng say làm chứng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh làm Phaolô và các Kitô hữu trở thành những con người khác, như dấu chỉ Thiên Chúa đang hiện diện và yêu thương con người.
I. Phaolô làm chứng Đức Giêsu đã phục sinh
Trước khi ngã ngựa trên đường Damas, Phaolô là một người rất đặc biệt. Ngài là một biệt phái, nghĩa là, một người rất nhiệt thành với lề luật Do Thái, và sẵn sàng làm tất cả để bảo vệ lề luật. Phaolô đã từng là người giữ áo cho những người ném đá thánh Têphanô. Phaolô đã được phép của các người cầm quyền để đi lùng bắt các Kitô hữu Do Thái đem về Yêrusalem để trị tội. “Có lúc, những người bắt bớ các con, cứ tưởng rằng đó là việc tôn thờ Thiên Chúa” (Ga.16, 2). Nhưng với biến co Damas, Phaolô đã trở thành con người khác.
Trước khi gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh, với Phaolô, Do Thái giáo là tôn giáo duy nhất đúng. Tất cả những gì trái với quan niệm truyền thống cha ông để lại, là sai lầm và phải loai bỏ. Những ai cố tình đi theo một niềm tin khác, phải bị trừng phạt. Đó là lý do tại sao Phaolô đi lùng bắt Kitô hữu ở Damas. Sau biến cố Damas, Phaolô đã thay đổi cái nhìn và thay đổi lập trường sống. Do Thái giáo vẫn đung đó, nhưng “cái khác” vẫn có thể là sự thật. Đức Giêsu Phục Sinh là một thực tại mà Phaolô đã được gặp gỡ, cảm nghiệm, và rồi trở thành chứng nhân cho Ngài. Phaolô được ơn mở mắt để nhìn ra thực tại Đức Giêsu Phục Sinh; qua biến cố ngã ngựa, ông không thể phủ nhận được điều trước đó ông đã một mực chối từ, ông đã nhận ra sự thật, và kể từ đó Phaolô đã rao giảng cho dù bị ghét và bị tìm giết.
Đức Giêsu Phục Sinh đã đổi đời Phaolô. Từ một người không tin vào Đức Giêsu, Phaolô trở thành chứng nhân nhiệt thành của Đức Giêsu Phục Sinh. Từ một người lùng bắt người khác, giờ đây lại là kẻ bị lùng bắt. Biến cố gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh trên đường đi Damas đã làm Phaolô thành một người hoàn toàn khác, đến độ ngài nói: “kể từ khi tôi biết Đức Giêsu Phục Sinh, tôi coi mọi sự như phân bón. Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi cả trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô Chúa tôi” (Pl.3, 8-9). Phaolô đã được Thiên Chúa biến đổi qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu Phục Sinh.
II. Đời sống của một người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh
Trong thư thứ nhất của thánh Gioan, Kitô hữu được nhắn nhủ: “chúng ta đừng yêu bằng lời nói và miệng lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm”. Đức tin phải chi phối cách sống của Kitô hữu. Đức tin không có việc làm la đức tin chết. Đức tin của Kitô hữu không chỉ là chấp nhận một mệnh đề là đúng, nhưng còn là cái biết chi phối toàn bộ đời sống của họ. Chính việc làm của Kitô hữu giúp cho người khác thấy đức tin của họ.
Lời Chúa trong thư của thánh Gioan hôm nay còn cho Kitô hữu hiểu hơn nữa về Thiên Chúa và về con người. Nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, thì chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa; nhưng nếu lòng chúng ta cáo tội chúng ta, thì chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết mọi sự. Thiên Chúa nhân từ và yêu thương chúng ta hơn chúng ta có thể tưởng được. “Như trời cao hơn đất bao nhiêu, tư tưởng của Ta cũng vượt xa tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu”. Đừng bao giờ ép Thiên Chúa phải phạt người khác theo phán đoán của mình. Thiên Chúa không phạt ai cả, Ngài chỉ biết yêu thôi. Đau khổ là do con người làm cho nhau hoặc tự chuốc lấy cho mình mà thôi.
Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Vời mà con người không thể hiểu thấu. Ngài nhân từ yêu thương con người hơn con người có thể nghĩ có thể ngờ. Ngài yêu thương con người ngay khi con người còn là tội nhân, xấu xa hư hỏng. Không ai có thể ngờ Ngài đã cho Đức Giêsu phục sinh. Không ai dám ngờ rằng Thiên Chúa có thể chấp nhận để con người giết Con Ngài. Không ai dám ngờ rằng Thiên Chúa vẫn yêu thương con người đến độ Lời của Ngài nhap thể làm người, ngay cả khi con người đang phản bội và xa lánh Ngài. Thiên Chúa nhập thể là điều vượt sức hiểu của con người, và vượt ngay cả sức hiểu biết của thiên thần. Thiên Chúa là Đấng vượt quá lòng chúng ta co thể ngờ, và bây giờ Ngài vẫn đang tiếp tục làm những điều kỳ diệu và tuyệt vời cho mỗi người chúng ta, trong đời mỗi người chúng ta.
III. Thầy là cây nho các con là nhành
Tương quan giữa Thiên Chúa, Đức Giêsu, và chúng ta, được Tin Mừng theo thánh Gioan diễn tả như tương quan giữa người trồng nho, cây nho và nhành nho. Đức Giêsu là cây nho, chúng ta là nhành. Một nhành chỉ sống được và sinh hoa trái nếu nhành đó liên kết với thân cây, đe lấy nhựa sống từ cây. Giữa chúng ta và Đức Giêsu, có một mối dây rất gần gũi và mật thiết, như nhành và cây. Nhành nào tách khỏi cây, sẽ khô héo và chết. Tương tự vậy, chúng ta sẽ khô héo và chết nếu chúng ta không liên kết với Đức Giêsu. Đức Giêsu là sức sống của mỗi người chúng ta.
Thiên Chúa như người chủ vườn nho. Ngài chăm sóc cây nho và nhành nho. Ngài muốn cây nho nhành nho sinh nhiều hoa trái. Ngài chăm bón cắt tỉa, để nhành nho sinh trái nhiều hơn. Hình ảnh Thiên Chúa như người chủ vườn rất quen thuộc đối với Đức Giêsu. Người chủ vườn trông nom, chăm bón vun trồng để cây nho nhành nho sinh trái. Thiên Chúa chăm sóc mỗi người chúng ta như vậy. Nếu Ngài có cắt tỉa, là để chúng ta sinh nhiều hoa trái hơn.
Tương quan giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa như tương quan giữa cây nho và ông chủ vườn. Cây nho luôn tùy thuộc chủ vườn. Người chủ vườn luôn quan tâm và chăm bón để cây nho có nhựa sống cung cấp cho nhành cây, để sinh nhiều hoa trái. Đây là hình ảnh, nó chỉ diễn tả phần nào sự thật. Thiên Chúa luôn có sáng kiến tuyệt vời, để làm những điều kỳ diệu, và ngay cả có thể lam cho những cành nho như thể khô đét có được sức sống và sinh trái. Thiên Chúa là người chủ vườn tuyệt vời. Thiên Chúa làm chúng ta có sức sống và sinh trái qua Đức Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Đức Giêsu là ai đối với Phaolô?
2. Sau khi gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh, đời sống Phaolô có gì khác?
3. Bạn nghĩ sao khi đọc câu: “Thầy là cây nho, các con là nhành”? Bạn có cảm được sự thân mật và gần gũi giữa Đức Giêsu và bạn không? Nếu được, xin bạn diễn tả.
19. Bình an trong Giáo hội
(Suy niệm của Peter Feldmeier - Lm. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
Trong khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, Hội thánh được bình an (Cv 9,31)
Năm 2001, Hồng y Walter Kasper và Hồng y Joseph Ratzinger có một cuộc tranh luận sôi nổi nhưng thân tình về bản chất của Giáo hội. Cuộc tranh luận thần học này đã được đăng tải rộng rãi trên các tạp chí. Hồng y Ratzinger biện luận về tính ưu việt của Giáo hội hoàn vu so với các giáo hội địa phương. Ngài lập luận, ngay từ ban đầu, chúng ta đã thấy rất rõ điều ấy. Hồng y Kasper thì lại thách thức với những lập luận khác. Ngài cho rằng tư tưởng này khá giống với thuyết duy tưởng của Platon. Theo Ngài, Giáo hội hiện hữu như một thực thể thiêng liêng nhưng Giáo hội chỉ thực sự trở nên hữu hình trong thế giới hôm nay qua những cộng đoàn địa phương cách cụ thể. Hồng y Kasper lý luận rằng các cộng đoàn giáo hội địa phương chính là nền tảng cho sự hiện hữu của giáo hội toàn cầu. Cuộc tranh luận này không chỉ nói về giáo hội sơ khai, nhưng liên quan đến vấn nạn nêu ra là: Quyền bính giáo hội hiện tại nằm ở đâu, đến từ nơi nao và quyền bính đó được thực thi ra sao.
Những trích dẫn từ Thánh Kinh nghiêng về lập luận của hồng y Kasper nhiều hơn, ít nhất qua việc sử dụng các từ ngữ. Thánh Luca trong sách Tông đồ Công vụ, đã dùng hạn từ “giáo hội” , và trong những lần đó, có 18 lần Ngài ám chỉ về giáo hội địa phương. Nhưng chỉ có một trường hợp duy nhất, Luca nói về giáo hội với tính phổ quát, đó là trong bài đoc phụng vụ hôm nay: “Trong khắp mọi nơi, từ Giuđêa, Galilê và Samaria, hội thánh được bình an.”
Khi tôi nhìn vào giáo hội toàn cầu hiện nay, tôi không thấy có sự bình an mà mọi người đều mong ước. Ngay cả tại giáo hội địa phương nơi tôi sinh sống cũng vậy. Giáo phận tỏ vẻ hơi khó chịu với cộng đoàn địa phương tại đại học này, vì đa phần thuộc giới trí thức. Làm cách nào chúng ta có thể trở về với ý nghĩa sâu xa của sự bình an thời giáo hội sơ khai. Nói thẳng ra, chúng tôi ở đây không thể kien tạo sự an bình thật sự, ít nhất về một vài phương diện nào đó. Nếu chúng ta đọc lại các thơ của thánh Phaolô, chúng ta cũng thấy vấn đề giống như thế. Ngài rất nhiều lần bình phẩm về giáo hội tại các địa phương và ngay cả khi nói về giáo hội phổ quát, Ngài cũng đã phàn nàn giống như thế. Ví dụ, Phaolô đã phê phán Phêrô như một kẻ giả hình ở Antiokia (Gal 2,11.14). Ngài khiển trách các Kitô hữu ở Galát không nhìn nhận vai trò của Ngai trong việc loan báo Tin mừng (Gal 1,8). Ngài trách cứ cộng đoàn Côrinthô vì tình trạng lộn xộn và chia rẽ (1 Cor 11,17;12,31.) Thánh Phaolô nói thẳng là có một vài đồng nghiệp rao giảng Tin mừng với những động cơ xấu xa như ganh tị hay tranh chấp (Phil 1,15). Ngài nài xin các tín hữu phải sống huynh đệ, một lòng một trí, đừng vì ganh tị hay ghen ghét hoặc tìm hư danh.( Phil 2,1.5). Cuối cùng, Ngài cũng nhắc nhở đùng ai coi thường Ngài, coi Ngài như thua kém các vị tông đồ khác (2 Cr 12,11). Những vấn đề Phaolô nêu ra, có những nét tương đồng như giáo hội hiện nay, theo như tôi được biết.
Thánh Luca trình bày một Giáo hội lý tưởng hơn là một Giáo hội với những lộn xộn và bất an mà chúng ta dễ thấy. Tuy nhiên, không phải vì thế mà Luca cảm thấy toại nguyện hoàn toàn. Ở đây, Luca chỉ muốn vạch hướng về lý tưởng mà giáo hội phải vươn tới. Ngài nói rằng, chúng ta vẫn có thể trải nghiem bình an thực sự ngay cả khi chúng ta bị bách hại từ bên ngoài và gặp cả những sóng gió từ bên trong. Thật thú vị, khi chúng ta khám phá ra rằng đoạn văn trích từ sách Tông đồ công vụ mà Giáo hội đọc trong phụng vụ hom nay diễn tả cuộc gặp gỡ giữa thánh Phaolô và những người Do thái có uy tín theo văn hóa Hy lạp tại Giêrusalem. Họ là đại biểu của giới lãnh đạo Giáo hội lúc bấy giờ, giáo hội địa phương ở Giêrusalem và cả Giáo hội toàn cầu nói chung (Cv 9,29 ). Kinh qua những cuộc bắt bớ và sát hại, họ tỏ ra rất dè dặt và thận trọng khi nói chuyện với Phaolô. Barnaba bảo đảm cho họ rằng Phaolô là người thuộc bọn họ chứ không phải kẻ thù. Ngài benh vực Phaolô, và chúng ta thấy Phaolô dần dần đi lại dễ dàng giữa họ.Chính xác hơn, như sách Tông đồ công vụ thuật lại, Ngài đi ra đi vào cùng với họ. Đây là dấu chỉ của sự tương giao bằng hữu. Mối thân tình này có đươc nơi chúng ta, là phát nguyên sâu xa trong Đức Kitô. Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói Ngài là cây nho, các môn đệ là cành nho. Ngài nhắc nhở rằng nếu tách lìa khỏi Ngài,chúng ta sẽ bị khô héo và sẽ chết. Ngươc lại, cùng với Ngài và qua Ngài, chúng ta sẽ triển nở và trổ sinh hoa trái.
Nếu chúng ta muốn Giáo hội được bình an, chúng ta phải cảm tạ Chúa, cũng như phải biết ơn các vị lãnh đạo trong Giáo hội. Các Ngài được trao pho trách nhiệm một cách hợp pháp và cũng là những người được Chúa đặt lên để nâng đỡ chúng ta. Chúng ta cần những tín hữu biết quan tâm lo lắng cho anh chị em mình, như là những bề trên được Chúa cắt đặt, sẵn sàng đối đau với những thách đố, giống như Thánh Phaolô. Chúng ta cũng cần những con người như Barnaba là những vị lãnh đạo trung tín, biết cách khôn khéo để liên kết anh chị em lại với nhau. Nhưng trên hết, chúng ta cần phải nhận thưc rằng mọi người chúng ta đều đang sống cuộc sống thực sự trong Đức Kitô, như cành nho dính kết vào cây nho.
Công đồng Vat II đã dạy rằng “Chúng ta là một Giáo hội duy nhất gồm các Giáo hội địa phương. Tính đơn nhất và tính đa dạng đều góp phần diễn tả đời sống của chúng ta trong Thần khí. Thực hiện cả hai chiều kích này: tính phổ quát toàn cầu và tính cá biệt của các cộng đoàn địa phương, Hội thánh sẽ vươn đạt đến sự bình an thực sự.
20. Chúa Nhật 5 Phục Sinh
Nếu như có người hỏi rằng: "Với sự cố gắng của riêng bản thân mình, chúng ta có thể sống đẹp lòng Chúa được không?", thì anh chị em sẽ trả lời như thế nào? Có lẽ hầu hết chúng ta đều có thể trả lời ngay được rằng: "Không". Tại sao? Thưa bởi vì chính Đức Giêsu đã quả quyết rằng: "Không có Thầy, chúng con không thể làm gì được.".
Nghĩa là nếu không có ơn Chúa tác động, nếu không có ơn Chúa trợ giúp, thì chúng ta khong thể sống đẹp lòng Chúa được. Nói khác đi là chúng ta có sống đạo tốt hay không, và tốt đến mức độ nào là hoàn toàn tùy thuộc vào mức độ gắn bó với Đức Kitô. Cho nên trong bài phúc âm ngày hôm nay, Đức Giêsu đa dùng một hình ảnh rất quen thuộc với người Do Thái để nói lên một chân lý quan trọng trong đời sống người Kitô hữu, đó là sự cần thiết phải gắn bó với Chúa Kitô "Thầy là cây nho, chúng con là cành nho, cành nào kết hợp cùng cây, sẽ trổ sinh hoa trái". Cũng như cành nho muốn được sống, muốn đơm hoa kết trái, nó cần phải bám chặt vào thân nho như thế nào, thì đời sống người kitô như thế.
Mặc dù hình ảnh cây nho và cành nho nó không quen thuộc với chúng ta ở đây, nhưng chúng ta có thể dễ dàng hiểu được điều mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh ở đây: Cành cây mà không gắn được với thân cây thì nó sẽ khô héo và chết đi, dù đó là bất cứ cây gì đi nữa. Điều quan trọng mà chúng ta sẽ tìm hiểu ở đây không phải là quá trình sinh trưởng của cây nho, mà là suy nghĩ xem có những cách nào để giúp ta sống gắn bó với Đức Giêsu.
Bởi vì qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được coi là nhưng cành nho của Chúa, mà bổn phận của cành nho là phải cho những trái thơm tho ngọt ngào. Còn ngược lại không thực hiện được bổn phận đó, thì số phận của nó cũng đã được nêu rõ trong bài phúc âm này qua những lời tuyên bố của Đức Giêsu: "Nhành nào không sinh trái thì sẽ bị chặt đi, nó sẽ ra khô héo và người ta sẽ gom nó lại mà đốt đi". Như Thánh Phaolô đã xác quyết rằng: "Nếu Đức Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta sẽ nen trống rỗng", thì hôm nay Giáo Hội cũng khẳng định với chúng ta rằng: Nếu anh chị em là những Kitô hữu, là những cành nho của thân nho Đức Kitô, mà không biết sống gắn bó với Người, thì tất cả những gì chúng ta đang theo đuổi trong đời sống đạo ngày hôm nay, những gì chúng ta hy vọng và tin tưởng ở cuộc sống đời sau sẽ không có nền tảng và cũng chẳng có gì là bảo đảm.
Bởi vì Đức Kitô là Đấng trung gian duy nhất của ơn cứu độ khi Người phán rằng: " Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, không ai đến đựơc với Cha mà không qua Thầy".
Thưa anh chị em! Nếu như trong đời sống đạo của mình, việc gắn bó với Chúa vẫn còn là một điều mới mẽ, xa lạ, thì ngay từ ngày hôm nay, chúng ta hãy quyết tâm thực hiện điều đó đi. Chúng ta có thể sống gắn bó với Chúa bằng tấm lòng yêu mến của chúng ta đối với Người. Kinh nghiệm cho thấy rằng: Khi yêu ai, người ta luôn nghĩ tới người đó, muốn được ở gần người đó và nhất là luôn luôn tìm cách làm đẹp lòng người mình yêu.
Nơi bài đọc II, Thánh Gioan đã khéo léo chỉ cho chúng ta cách thể hiện tình yêu đẹp đẽ, đúng đắn khi Ngài nói rằng: "Chúng ta đừng yêu thương bằng lời nói, nhưng hãy yêu thương bằng chính việc làm chân thật của mình". Mà việc làm ở đây chính là tuân giữ các giới răn của Chúa. Ai tuân giữ giới răn của Chúa là ở lại trong Thiên Chúa. Khi nói tới giới răn, nói tới lề luật, thì dường như chúng ta có cảm giác khó chịu, lắc đầu ngao ngán, bởi vì chúng ta thường coi đó như là một gánh nặng, một thứ dây vô hình trói buột sự tự do của mình.
Thế nhưng nhìn cho kỹ, chúng ta sẽ phải cám ơn Chúa vì lề luật đó là một thứ rào chắn cần thiết che chở chúng ta khỏi phải rơi xuống vực thẳm. Bao lâu chúng ta còn tuân giữ lề luật của Chúa là bấy lâu chúng ta vẫn còn đang đi trên đường dẫn tới hạnh phúc. Còn đi trên đường này là chúng ta còn đi với Chúa, mà còn đi với Chúa là chúng ta còn đang gắn bó với Người. Ngoài ra, chúng ta có thể hiện sự gắn bó với Chúa qua việc sống gắn bó với anh chị em sống xung quanh mình. Tôi là một cành nho, anh chị em tôi, những người đang sống chung quanh tôi, cũng là những cành nho khác như tôi. Tất cả mọi cành nho đều sống nhờ vào nguồn dinh dưỡng của một cây mà thôi. Cho nên giữa những cành nho vơi nhau cũng có những liên hệ đặc biệt khác nữa. Một cành nào đó bất ngờ bị chặt đi, thì không chỉ riêng một mình nó đớn đau mà là toàn bộ cây nho cũng đau đớn như thế.
La Fontaine đã viết một câu chuyện ngụ ngôn như thế này: "Một ngày nọ, tất cả các chi thể trong thân mình quyết tâm đình công, không chịu làm việc để phản đối cái miệng, vì nhận thấy rằng: cái miệng từ đó tới giờ chỉ có ăn mà không chịu làm gì cả. Trước sự phản đối nay, cái miệng quyết định là từ nay sẽ không ăn nữa. Kết quả là chỉ sau một ngày mà thôi, tất cả các chi thể khác đều mệt mỏi rã rời và không còn đủ khả năng để trở lại với công việc của mình nữa".
Trong cuộc sống đời thường, đã muốn hay không muốn chúng ta cũng phải dựa vào người khác để có cái ăn cái mặc để chúng ta có thể sống và tồn tại. Thì trong đời sống đạo, đời sống siêu nhiên cũng vậy, chúng ta không phải là những hon đá nằm cạnh nhau một cách lạnh lùng, mà chúng ta là những anh em với nhau, những anh em có cùng một Cha trên trời, những anh em cũng sống nhờ vào một nguồn sống duy nhất là Đức Kitô, cho nên chúng ta phải yêu thương gắn bó với nhau. Vã lại chính Đức Kitô đã từng xác nhận rằng: "Điều gì các con đã làm cho một trong những anh em bé mọn nhất ở đây, là các con đã làm cho chính Ta". Như thế, sống gắn bó với anh chị em của mình cũng là lúc chúng ta đang sống gắn bó với Chúa.
Thưa anh chị em! Nếu như Phụng Vụ Lời Chúa của ngày Chúa Nhật hôm nay, đã giúp cho chúng ta phần nào hiểu đựơc sự cần thiết phải gắn bó với Đức Kitô và biết đựơc một vài cách thức để thể hiện sự gắn bó đó, thì con tin rằng: Nhờ ơn Chúa soi sáng mỗi người chúng ta cũng sẽ biết được rằng mình sẽ phải làm gì để cành nho đời sống đạo của mình có thể sống và trổ sinh hoa trái như lòng Chúa ước mong.
21. Xin hiệp nhất chúng con nên một
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Nhớ hồi tôi còn học ở Đai Chủng Viện, vào những ngày Tuần Thánh, Cha Linh Hướng thường khuyên chúng tôi trong giờ suy niệm Lời Chúa (Lectio Divina) mỗi ngày, nên đọc Phúc Âm theo Thánh Gioan, các Chương 13, 14, 15, 16 và 17. Trong đời sống Linh Mục, vào những ngày Tuần Thánh, dù rất bận rộn, nhưng chúng tôi vẫn dành thời giờ để đọc và suy gẫm những đoạn Thánh Kinh rất cảm động và rất quan trọng này. Hơn nữa, trong bầu khí thánh thiêng của Tuần Thánh, khi đọc những đoạn Thánh Kinh này, tâm hồn càng thêm thấm thía những Lời Chúa nhắn nhủ.
Đây là những đoạn Thánh Gioan đã ghi lại những lời ‘trối trăn’ tâm huyết Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ vào những giờ phút cuối cùng cuộc đời trần thế của Chúa, trong bữa Tiệc Ly, cũng là bữa ăn ‘Tình thương’ (Agape).
Đặc biệt, Chúa Giêsu nêu lên tình yêu hiệp nhất giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, và kêu gọi cũng như cầu xin cho các Tông Đồ luôn biết sống kết hiệp nên một với Chúa, và hiệp nhất với nhau trong tình yêu Chúa.
Để nhấn mạnh sự quan trọng của tinh thần yêu thương và hiệp nhat với Chúa và với nhau, vào cuối Chương 17, trong lời cầu xin với Chúa Cha, bốn lần Chúa Giêsu đã xin để tất cả được “Hiệp Nhất Nên Một!” (Ut Sint Unum! - That They Be ONE!) (Ga 17, 11, 21, 22, 23). Nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ cầu nguyện cho các Tông Đồ thân tín của Chúa được hiệp nhất nên một, mà còn cầu xin cho mọi tín hữu luôn biết đồng tâm hiệp nhất với Chúa và với nhau (Ga 17, 20-22).
Để cụ thể hóa, Chúa Giêsu đưa ra hình ảnh Cây Nho, là loại cây rất phổ thông tại Do Thái, và đã được nhắc đến nhiều lần trong Thánh Kinh Cựu Ước (trong sách Tiên Tri Isaia, Gieremia, Egiekien, Hosea và Thánh Vịnh), cũng như Tân Ước.
Đoạn Phúc Âm hôm nay (Ga 15,1-8) nhắc đến hình ảnh và lời mời gọi của Chúa Giêsu với các Tông Đồ và mọi người tín hữu chúng ta: Thày là Cây Nho, chúng con là ngành nho… Như những ngành nho chỉ sinh hoa kết trái nếu gắn liền với thân cây nho, thì chúng ta cũng chỉ có thể là môn đệ đích thực của Chúa , và ‘sinh nhiều hoa trái’ nếu chúng ta biết sống hiệp nhất với Chúa và hiệp nhất với nhau trong tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.
Khi Chúa Giêsu đã về trời, và sau khi đã được ơn Chúa Thánh Thần thánh hóa (Cv. 2, 1-4), các Tông Đồ theo lời Chúa dạy, đã đi rao giảng Tin Mừng và tập hợp các tín hữu thành MỘT trong Hội Thánh Chúa, và tất cả các tín hữu đều đồng tâm nhất trí với nhau (Cv. 2, 44-47).
Tinh thần yêu thương, hiệp nhất trong Hội Thánh rất quan trọng, nên trong Bài Đọc II hôm nay (Gioan 3, 18-24), Thánh Gioan nhấn mạnh “Đây là Giới Răn của Chúa, là chúng ta hãy yêu thương nhau… và yêu thương không phải chỉ bằng lời nói, mà bằng chính việc làm…”
Trong Bài Đọc I (Cv 9, 26-31), Thánh Luca ghi lại sự việc Thánh Phaolô, sau khi được ơn trở lại, đã mạnh dạn rao giảng Đạo Thánh Chúa, và đã tìm đến Giêrusalem để cùng hiệp thông với các Tông Đồ va các Tín Hữu trong Hội Thánh. Sau đó, Thánh Phaolô lại nhấn mạnh nhiều lần: Các tín hữu phải hiệp nhất với nhau trong cùng Một Hội Thánh để có thể hiệp nhất với Chúa. Ngài đã nói đến Hội Thánh như Thân Thể Mầu Nhiệm mà Chúa Giêsu là đầu (Ep 5, 23) và tất cả các tín hữu là các chi thể. Mặc dầu các chi thể thì nhiều và khác nhau, nhưng cũng trong một thân thể (1Cr 12,12-17); vì thế, Hội Thánh ở nhiều nước trên khắp thế giới, nhưng duy nhất: “Chỉ có một Thiên Chúa, một Đức Tin, một Phép Rửa…” (Ep 4, 5-6). Trong Hội Thánh, không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ, đàn ông hay phụ nữ, nhưng tất cả chỉ là một trong Chúa Kitô là đầu Hội Thánh (Gl 3, 26-28).
Chúa Giêsu là đầu Hội Thánh, là Chúa Chiên Nhân Lành, nhưng Ngài đã đặt Thánh Phêrô đại diện Ngài ở trần gian (Mt 16, 18-19; Ga 21, 15-17). Các vị Giáo Hoàng và hàng Giáo Phẩm cũng là những vị Chúa đã chọn qua các thời đại để chăn dắt đoàn chiên Chúa ở trần gian. Khi chúng ta hiệp nhất với Chúa và Hội Thánh, là chúng ta cũng hiệp nhất với hàng Giáo Phẩm và toàn thể Dân Chúa trên toàn thế giới.
Dù Hội Thánh luôn thích nghi với nền văn hóa, truyền thống và ngôn ngữ của mỗi dân tộc, nhưng chúng ta tin “Giáo Hội duy nhất”, và vì thế không thể có Giáo Hội tự trị; không thể có Giáo Hội quốc doanh! Khi chúng ta tách ra khỏi Hội Thánh Chúa, là chúng ta ‘như ngành nho đã tách rời khỏi thân cây nho’, hay như một chi thể đã tách rời khỏi thân thể.
Vậy, sau khi chúng ta đã chịu Phép Thánh Tẩy và được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta trở thành một chi thể trong gia đình Giáo Hội, và được hưởng muôn ơn Thánh Chúa qua các Phép Bí Tích, và lúc đó ‘chúng ta như ngành nho được liên kết với thân cây nho, được chung cùng một ‘sức sống’ và sẽ sinh hoa kết quả dồi dào là những ‘việc lành phúc đức’ trong tình bác ái phụng sự Chúa và giúp đỡ lẫn nhau trên cuộc hành trình về Quê Hương Nước Trời.
Lạy Chúa, “xin hiệp nhất chúng con nên một trong tình yêu Chúa. Xin hiệp nhất chúng con như Ngài liên kết với Cha. Xin giải thoát chúng con xa điều bất hòa, chia rẽ! Xin liên kết muôn người trong lòng mến Chúa Cha muôn đời…” (Thành Tâm, Bài Ca Hiệp Nhất).
22. Liên kết với Người – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một thầy kiện mới mở được một văn phòng luật sư khang trang lịch sự. Bỗng nghe có tiếng chân người ngoài cửa bước vào, ông vờ như không thấy. Vội nhắc ống diện thoại lên, nói thật to trong ống nghe:
- Alô, văn phòng luật sư đây.
- Vâng, từ ngày tốt nghiệp đại học đến nay, tôi đã thắng nhiều vụ kiện lớn. Các công ty danh tiếng đều nhờ cậy tôi. Tôi được rất nhiều người tin tưởng. Tuy thu nhập cao nhưng tôi luôn dành 10% cho các công việc từ thiện.
Có tiếng gõ cửa, ông quay lại, thấy người đàn bà đang đứng chờ từ nãy, ông mới lịch sự thưa:
- Xin lỗi bà, tôi có khách quý đến.
Quay lưng lại, anh hỏi người vừa bước vào:
- Anh cần gì?
- Thưa luật sư, có phải hôm nay là ngày đầu tiên văn phòng của ngài bắt đầu làm việc?
- Đúng thế, anh cần tôi giúp vụ kiện nào?
- Dạ thưa không tôi là người của công ty điện thoại được cử đến để gắn đường dây điện thoại cho ngài!
***
Tin mừng hôm nay mời goi chúng ta nhìn lại mối liên hệ của chúng ta với Chúa. "Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sinh nhiều trái" (Ga. 15, 5). Đức Giêsu Phục sinh là cây nho, các tín hữu Kitô là cành. Cây và cành có chung một dòng nhựa, nên cùng một sự sống. Càng gắn bó với cây, cành càng sinh nhiều hoa trái. Nếu ngược lại cành sẽ héo tàn. Ví như đường dây điện thoại của ông luật sư, không có nối với tổng đài thì đâu có liên lạc đối thoại: không có liên lạc đối thoại thì đâu có khách hàng, lợi nhuận! Cành chỉ giả vờ gắn liền với cây, nên làm gì có sinh hoa trái.
Cành nào đã sinh trái, càng phải sinh trái nhiều hơn. Muốn sinh nhiều trái hơn, cành cần được cắt tỉa đớn đau. Có cắt tỉa vun xới, cành mới sinh hoa kết quả. Đức Giêsu trên cây thập giá, như một thân nho trơ trụi. Đó là lúc phát sinh hoa trái nhiều hơn cả. Từ cạnh sườn Người bị đâm thấu, Giáo hội đã được sinh ra, và đơm bông kết trái dồi dào.
Mỗi người tín hữu Kitô cũng phải được cắt tỉa, vun xới bằng hy sinh đau khổ hằng ngày, mới trổ sinh hoa trái dồi dào. Niềm vui và đau khổ không nhất thiết phải khử trừ nhau. Đôi khi nó réo gọi nhau, trong những cuộc đàm thoại huyền nhiệm. Vì thế hy sinh không là bóp nghẹt cuộc đời, nhưng làm cho đời thêm triển nở tốt tươi.
Điều quan trọng là "Hãy ở lại trong Thầy" vì "Nếu không có Thầy các con không thể làm gì được" (Ga. 1, 5). Ở lại trong Thầy và liên kết với Thầy qua đường dây "Cầu nguyện và bí tích". Tất cả sức sống của Đức Giêsu được chuyển thông từ đó, khả năng kết trái cũng phát sinh từ đó. Đức Giêsu dạy: "Nếu các con ở trong Thầy và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin sẽ được" (Ga. 15, 7).
Nếu Đức Kitô là Cây Nho đích thực, và Người Trồng Nho là chính Thiên Chúa thì chúng ta hãy la những cành nho căng nhựa sống, để dâng hiến cho đời những hoa trái tốt tươi.
***
Lạy Chúa, Chúa muốn cắt tỉa chúng con khỏi những rườm rà, để cây đời chúng con trổ sinh nhiều hoa trái. Xin cho chúng con can đảm, dám sống theo những đòi hỏi cắt tỉa của Chúa. Amen.
23. Sống thân mật với Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc
Trong Phúc Âm Chúa nhật tuần trước Chúa Giêsu đã tự ví mình như người Mục Tử nhân lành, trong bài Phúc Âm hôm nay Chúa lại tuyên bố: ”Thầy là cây nho thật”. Trong Thánh Kinh, nho là một hình ảnh, một biểu tượng rất quen thuộc. Có người nói đó là “cây sự sống” trồng ở giữa vườn địa đàng (Stk. 2, 9). Môsê cho người đi do thám đất hứa đã mang về một nhành và một chùm nho vĩ đại phải hai người khiêng, làm cho dân chúng phấn khởi (số 13, 23). Hàng năm dân chúng mừng lễ mùa nho. Isaia sáng tác một bài dân ca mừng vườn nho xinh tươi của người bạn (5, 1-2) để ám chỉ tình thương của Thiên Chúa đối với dân Ngài. Tiên tri Jeremia nói đến việc Thiên Chúa chăn sóc Israel như một khu vườn nho gia bảo; ai ngờ vườn nho đã sinh ra quả đắng đót! (Jr. 2, 21). Và khi sự việc tệ hại xảy ra, nhà Thánh Vịnh vẫn xướng lên một bài ca hy vọng: “Lạy Thiên Chúa, xin hãy viếng thăm và bảo trợ vườn nho mà chính tay Chúa đã vươn trồng” (Tv. 80, 15-16).
Hôm nay, Chúa Giêsu long trọng tuyên bố: “Ta là cây nho thật”, như Ngài là người Mục Tử chân thật. Nơi Ngài Giáo hội bám vào và chia sẻ nhựa sống như nhành nho bám vào một thân nho duy nhất. Thân nho là Chúa Giêsu, nhành nho là các môn đệ, Thánh Augustinô gọi là “Chúa Kitô duy nhất” gồm Chúa, môn đệ và chúng ta hết thảy.
Bạn hãy hát lên để cảm nghiệm lời Chúa từ xa xưa vọng lại cho mỗi người chúng ta: Thầy là cây nho, chúng con là nhành. Nhành nào kết hợp cùng cây sẽ trổ sinh hoa trái, nhành nào lìa cây sẽ khô héo liền. Chúng con hãy hợp trong tình yêu Thầy.
Mầu nhiệm cây nho được Chúa gồm tóm trong hai sự việc sau đây: kết hợp và sinh trái. Càng kết hợp chặt chẽ càng sinh hoa trái nhiều. Chúa muốn dạy chúng ta điều kiện căn bản là kết hợp với Chúa, có kết hợp với Chúa mới đem lại kết quả thiêng liêng cho kẻ khác và cho chính mình.
Kết hợp với Chúa là sống thân mật với Chúa trong tình yêu. Chị Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói: “Tôi đã tìm thấy ơn kêu gọi của tôi: Ơn kêu gọi của tôi là Tình Yêu”. Hai người kết hợp với Chúa trong tình yêu thì Chúa dùng để đem lại kết quả cho các linh hồn một cách phong phú nhiệm lạ. Mặc dù là một nữ tu kín, Têrêsa đã đươc Giáo Hội nhìn nhận và tôn phong làm quan thầy xứ truyền giáo cùng Thánh Phanxicô Xaviê. Vì truyền giáo là đem đức tin, đem lửa đến cho các linh hồn và càng có nhiều lửa, càng gây được đám cháy vĩ đại, như lời Chúa phan: Ta xuống trần gian và đem lửa đến để thiêu đốt lòng mọi người.
Trong bài đọc thứ hai, Thánh Gioan Tông đồ giải thích cho chúng ta lối sống hiệp nhất với Chúa. Người nói: “Ai giữ các giới răn của Chúa thì ở trong Người và Người ở trong họ”; “Đây là giới răn của Người: là chúng ta phải thương yêu nhau…đừng yêu bằng lời nói và miệng lưỡi, nhưng bằng việc làm và chân thật”. Anh em đã nghe nói đến nhà phung Quy Hòa ở ngoại ô thành phố Qui Nhơn. Vị sáng lập là Cha Paul Mahen đã dấn thân cho người cùi và chết giữa người cùi. Người cùi thường đến xin Ngài giúp đỡ. Một hôm một người đến nói với Ngài: “Con buồn quá, đêm qua con vừa rụng thêm một ngón tay nưa. Con lượm đây để Cha xem”. Cha Mahen cầm lấy đốt ngón tay, thương tiếc như chính một phần thân thể mình. Ngài an ủi, xin bệnh nhân cứ tiếp tục và thêm thuốc để chữa trị. Ngài nhìn họ là bản thân của Chúa. Ít năm sau, Ngài đã mắc bệnh phung và nằm xuống, xác được chôn cất giữa làng cùi bên cạnh đoàn con đau khổ. “Không có tình thương nào lớn lao cho bằng chịu chết vì bạn hữu”. Đồ đệ đã đi theo vết chân Thầy.
“Các con hãy ở trong Thầy và Thầy ở trong các con: ai ở trong Thầy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều hoa trái” (Đáp ca)
24. Thầy là cây nho thật
1. Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, trong bầu khí thân mật sau buổi tiệc ly với các môn đệ của mình, Đức Giêsu trong tư cach là người bạn, người thầy, người cha. Người đã nhấn mạnh mối tương quan cần phải có giữa Người với các môn đệ, hình ảnh cây nho và cành nho, một hình ảnh rất quen thuộc với người Do thái, được dùng để nói lên sự lien hệ này. Vượt trên không gian và thời gian, dụ ngôn này vẫn phù hợp với chúng ta và đáng cho chúng ta suy gẫm.
2. Chính Đức Giêsu đã giải thích dụ ngôn này, cây nho là Đức Giêsu, cành nho là người môn đệ và người trồng nho chính là Chúa Cha. Chỉ trong liên kết chặt chẽ với Đức Giêsu người môn đệ mới có thể sống phong phú. Để sinh hoa trái tốt đẹp người môn đệ cũng phải được cắt tỉa và chính đời sống tốt đẹp của người Kitô hữu đó la một hình thức tôn vinh Chúa Cha.
3. Người Kitô hữu cần phải được liên kết mật thiết với Thiên Chúa, qua Đức Giêsu. Đức Giêsu là cây nho đích thực mà Chúa Cha đã trồng, bằng cách sai Người xuống thế gian. Nơi Đức Giêsu mới có sự sống thật, sự sống thần linh. Qua cuộc khổ nạn, tử nạn và phục sinh Người ban sự sống thần linh cho tất cả mọi người, mà loài người đã đánh mất vì tội Ađam, để biến họ thành con cái đích thực của Thiên Chúa.
Cây và cành phải có mối tương quan mật thiết với nhau. Cây nho mà không có cành thì không thể có sức sống mạnh và mang trái được. Cũng thế Đức Giêsu mời gọi các môn đệ cộng tác để tiếp nối công trình cứu độ của Ngươi, nhưng dầu sao người môn đệ cũng chỉ là cành mà thôi, Cành muốn sống hữu ích, mang lại hoa trái thì phải liên kết mật thiết với cây nho:"Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ay, thì người ấy sinh nhiều hoa trái". Tôi biết có những giáo dân tuy rất xa nhà thờ, nhưng họ cố gắng đi lễ mỗi khi có dịp và có thể được, ngoài ra họ còn giữ được việc đọc kinh hôm, kinh mai, nhờ thế họ là những tông đồ rất nhiệt thành. Tôi cũng được biết có những người mang danh là Kitô hữu, tuy không xa nhà thờ, mà việc kinh, lễ rất lôi thôi, cho nên con cái của họ đa phần là bị rối rắm trong hôn nhân. Vậy để đức tin được vững manh, người Kitô hữu phải dùng mọi phương thế để kết hợp mật thiết với Đức Kitô.
4. Không những người Kitô hữu phải dùng mọi phương thế để kết hợp mật thiết với Đức Kitô mà thôi, mà cũng như cành nho muốn sinh nhiều hoa trái cần phải vượt qua những trở ngại của thời tiết, môi trường sống và được cắt tỉa.
Cây nho nơi vườn, không hẳn bao giờ môi trường sống cũng luôn thuận lợi, mà có khi gặp nắng hạn hay mưa dầm... Đời sống đạo của người Kitô hữu không phải bao giờ cũng dễ dàng, mà luôn có những thử thách, những khó khăn từ phía bên ngoài hay chính bản thân. Đức Kitô là cây nho đích thực của Thiên Chúa mà cũng phải trải qua thử thách: Người phải qua đau khổ mới trở thành vị lãnh đạo thập toàn đưa mọi người đến ơn cứu độ (x. Dt 2,10). Người cũng luôn mời gọi chúng ta cùng chia sẻ đau khổ thì mới có thể thông phần vinh phúc với Người.
Như cây nho cần được tỉa cành mới có thể tốt được, cũng vậy để đời sống thiêng liêng được phong phú, người môn đệ Chúa cũng rất cần phải được cắt tỉa dần lội lỗi, bỏ các thói hư tật xấu, có như vậy ngày mới có thể thanh sạch và hoàn thiện hơn. Cat tỉa thì tiếc xót và đau đớn nhưng đó là việc cần thiết để sinh kết quả bội phần. Trung kiên qua thử thách, quyết bỏ các tính hư tật xấu, nhờ đó người môn để có thể nên tốt hơn, trở nên muối, men cho đời.
5. Đời sống tốt đẹp của người tín hữu đó là một phương cách hữu hiệu để tôn vinh Thiên Chúa Cha. Khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta vẫn nguyện xin "danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời". Xin đưng đọc suông, mà đời sống của người Kitô hữu phải làm sao để tôn vinh Thiên Chúa thực sự. Chính trong liên kết mật thiết với Đức Kitô, cây nho đích thức của Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ được thánh hoá chính nơi bản thân mình bằng đời sống, bằng việc làm tốt đẹp, như ánh đèn toả sáng. Tiến xa hơn đó là thánh hoá tha nhân qua việc tông đồ. Công cuộc cứu rỗi của Đức Giêsu nhờ đó tiếp tục được lan rộng, đó chính là chúng ta góp phần tích cực tôn vinh Thiên Chúa, bởi vì ý của Thiên Chúa là muốn mọi người được nhận biết Thiên Chúa là Cha và họ được cứu rỗi.
6. Lạy Đức Kitô, cây nho đích thực của Thiên Chúa, xin cho mọi người chúng con biết ý thức luôn kết hiệp mật thiết với Người, để cho đời sống của chúng con được tràn đầy ân sủng và đem nguồn ơn cứu độ của Người đến cho tha nhân. Amen.
25. Nối kết để hoàn thiện
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống con người được kết nối với bao mối liên hệ. Liên hệ đồng loại giữa người với người. Liên hệ với vạn vật, với thiên nhiên. Liên hệ với Thiên Chúa, Đấng tạo thành. Sự liên hệ nào cũng đòi con người phải hòa hợp, phải có bổn phận liên đới để cho mình hoàn thiện hơn. Con người sống mà không có liên đới với cộng đồng thì cũng vô giá trị giữa thế giới mình đang sống.
Có một chàng trai gọi điện thoại cho bồ. Nhưng hôm ấy, chuông điện thoại reo vang, ông bố nhấc ống nghe. Chàng trai liền mở lời:
- Con chim non bé nhỏ xinh đẹp của anh đó hả?
- Không, chim bố đây- ông bố trả lời
- Ấy chết! Cháu xin lỗi bác! Bác có khỏe không ạ?
- Khỏe để đánh nhau với ai?
- Dạ... cho cháu hỏi Trang có nhà không ạ?
- Nó không có nhà thì là dân vô gia cư à?
- Dạ, dạ... ý cháu là Trang có ở nhà không ạ?
- Nếu không thì sao?
- Thế... Trang đi đâu ạ?
- Đến cơ quan rồi.
- Bác cho cháu số điện thoại của Trang được không ạ?
- Nó có nhiều số lắm!
- Bác cho cháu xin một số thôi ạ!
- số 8...
-... 8 rồi... mấy nữa ạ?
- Thì cậu bảo chỉ cần một số thôi mà.....
- Dạ bác cho cháu xin nốt mấy số còn lại luôn ạ!
- 5 7 3 6 8 2, còn sắp xếp sao thì tùy cậu!
Thật khó cho chàng trai! Vì các số không được nối kết với nhau thì chẳng có giá trị gì. Nó chỉ là những con số vô hồn, lạnh lùng nằm bên nhau mà thôi. Làm sao chàng trai có thể kết nối với cô gái nếu không có con số hoàn chỉnh? Mỗi một số thuê bao đều được kết nối với nhiều chữ số. Nếu không có sự nối kết thì làm sao có số thuê bao để liên lạc, để nối kết với nhau.
Cuộc sống con người cũng chỉ co giá trị khi có sự kết nối với nhau. Kết nối để tạo thành một cộng đồng nhân loại vì “không ai là một hòn đảo”. Kết nối với vạn vật để con người được vạn vật che chở dưỡng nuôi. Trên hết mọi sự là kết nối với Đấng tạo thành. Con người phải kết nối với Đấng tạo thành vì con người được sống nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài. Con người rời xa Đấng tạo thành tức là rời xa nhựa sống rồi sẽ héo khô theo thời gian. Đó là điều mà dân Việt mình vẫn nhắc nhở nhau muốn sống bình an hạnh phúc thì phải có “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”.
Phúc âm hôm nay Chúa dùng hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên sự nối kết giữa Thiên Chúa và con người. Chúa ví Ngươi như cây nho, Chúa Cha là người trồng nho, còn ta là cành nho. Cây nho gồm nhiều cành được nối kết với nhau tạo thành một thân nho. Tất cả đều được chia sẻ nhựa sống với gốc rễ. Thế nên, nếu không gắn liền với thân cây, cành nho sẽ héo khô. Người Ky-tô hữu chúng ta là những cành nho được liên kết nên một trong Chúa Ky-tô. Tất cả đều phải được nuôi dưỡng trong ân sủng của Chúa, nếu tách lìa khỏi Đức Ky-tô thì chúng ta sẽ không có thể sinh hoa kết quả thiêng liêng trong đời sống.
Sự nối kết nên một với Chúa Kitô không phải là việc kết hợp bên ngoài như gia nhập tổ chức nọ, hội đoàn kia. Người tín hữu nối kết với Chúa Kitô bằng ơn thánh. Vì thế tội phạm sẽ làm giảm ơn thánh, có khi còn cắt đứt sự nối kết với Chúa. Tội phạm sẽ làm cho ta xa lìa Chúa để rồi sẽ không bao giờ sinh hoa kết trái thánh thiện.
Xin cho chúng ta luôn được sống trong ân nghĩa của Chúa, va được hiệp nhất nên một trong Chúa. Xin đừng để những đam mê tội lỗi làm chúng ta xa lìa ân sủng của Ngài, và đánh mất sự liên đới với Ngài. Xin Chúa cho chúng ta được nối kết với Chúa như cành liền cây để sinh hoa ket trái mỗi ngày một thánh thiện hơn. Amen.
26. Tình yêu cần sự quan tâm
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Tình yêu đích thực luôn bày tỏ sự quan tâm lo lắng cho nhau. Không yêu nhau người ta đâu cần để ý đến nhau, chỉ có trong tình yêu người ta mới dành tình cảm, sự quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau.
Thế nên, khi tình yêu chín mùi người ta sẽ thề non hẹn biển với nhau là quan tâm chăm sóc nhau suốt đời. Họ thề hứa một cách công khai sẵn lòng chia sẻ cuộc đời với nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe. Nghĩa là gắn bó chia sẻ với nhau trong mọi sướng vui cuộc đời và cùng dìu nhau qua mọi khó khăn của dòng đời.
Nhưng trớ trêu thay! Khi đã thành vợ chồng người ta lại thường quên đi lời thề ước ấy. Họ chỉ quan tâm khi còn tình yêu đôi lứa, nhưng khi đã là vợ chồng lại hờ hững với nhau. Chúng ta vẫn thường nghe những lời trách móc, than vãn: Anh ấy không còn yêu em như trước nữa. Anh hay nói những lời châm chọc, khích bác, phán đoán giọng kẻ cả. Hoặc vợ tôi thường không để lỡ một cơ hội nào mà không phê bình chồng mình trước mặt bạn bè, ngay cả trước mặt con cái. Cô ấy hay kể tật xấu tôi với đồng nghiệp bạn bè cô ấy...
Có một anh chồng đã liệt kê những lần mà họ mở miệng ra là cãi nhau như sau:
Vợ tôi hỏi: Trên TV có gì không anh?
Tôi trả lời: Có rất nhiều bụi bặm, chắc tại em quên lau.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
Rồi
Kỷ niệm hai mươi năm cưới nhau, tôi hỏi bả muốn đi đâu.
Bả nói: Em muốn đi đến một chỗ mà từ lâu em đã không đặt chân đến.
Tôi nói: Ủa em muốn vào trong bếp hả?
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
Một lần khác:
Vợ tôi: Ngày cưới em có phải là ngày vui nhất đời anh không?
Tôi nói: Không! Chỉ là ngày vui hạng nhì thôi.
Vợ tôi: Chứ ngày vui thứ nhất là ngày gì?
Tôi nói: Là cái ngày em về bên má em 3 tuần. Giời ơi ngày nào cũng xỉn.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau. Giận dỗi.
Có một định nghĩa về tình yêu như sau: "Yêu là muốn cho một cái gì". Một số người có thể nghĩ rằng: khi kết hôn, hai người đã tự hiến mình cho nhau với tất cả những gì họ có, nên không cần biểu lộ sự quan tâm, lòng biết ơn dành cho nhau. Chính vì thiếu điều đó mà làm cho tình yêu mất đi hơi ấm nồng nàn tình yêu. Không có sự quan tâm thì tình yêu đâu còn được nuôi dưỡng, vun đắp, và dĩ nhiên là sẽ chết dần theo năm tháng.
Cách thức để gìn giữ tình yêu chính là làm mới lại tình yêu mỗi ngày bằng sự quan, lo lắng và chăm sóc nhau. Đó mới là một tình yêu chân chính luon hy sinh cho người mình yêu. Một tình yêu chân chính thì luôn vượt lên trên sự ích kỷ bản thân để lo lắng, quan tấm đến người mình yêu.
Chúa Nhật lễ Chúa chiên lành như mời gọi chúng ta hãy học nơi Chúa Giê-su là vị mục tử luôn bày tỏ tình yêu với đàn chiên. Người mục tử luôn đồng hành với đàn chiên. Ngài đã cùng chia vui sẻ buồn với con người qua những thăng trầm của cuộc sống. Ngài biết từng con chiên. Ngài chăm sóc từng con chiên. Ngài sẵn lòng cùi mình phục vụ trong khiêm hạ. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu là chết cho người mình yêu.
Đó là mẫu mực của mọi tình yêu. Tình yêu luôn đòi sự hy sinh quan tâm đến cho người mình yêu. Xin cho các đoi hôn phối luôn dành sự quan tâm cho nhau. Xin đừng sống ích kỷ chỉ lo cho bản thân mà bỏ rơi người bạn đời. Xin hãy sống vì nhau và cho nhau để tạo nên một mái ấm gia đình ngập tràn hạnh phúc yêu thương. Amen.
27. Chúa Nhật 5 Phục Sinh
"Thầy là cây nho, chúng con là cành, ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái". (Ga 15,5)
Qua bài Tin Mừng này, ta hết sức cảm phục Chúa Giêsu, vì cách Người dùng hình ảnh thật giản dị, dễ hiểu, để diển tả một mầu nhiệm vừa cao cả, lại vừa hết sức trừu tượng; để nói về mối liên kết chặt chẽ phải có giữa người Kitô hữu với Chúa Giêsu, Người dùng hình ảnh cành nho luôn dính chặt vào thân nho; và cành nho, tự nó ý thức phải luôn dính chặt vào thân cây, nếu không nó sẽ chết. Như vậy muốn là người Kitô hữu thực sự có hạnh phúc, chính là phải "ở lại " trong Chúa Kitô, như cành nho không tách rời rời khỏi thân nho. Nhưng ở lại trong Chúa Kitô như thế nào? Và sinh hoa trái ra sao?
1. Giải thích:
a. Động từ Hy Lạp: ở lại (menein en) từ câu 2 đến câu 10, thánh Gioan dùng đến 10 lần có nghĩa: ở lại trong Chúa Giêsu ở lại trong lời Chúa, ở lại trong tình thương của Chúa, trong các môn đệ v.v.. Còn một nghĩa nữa làgắn liền với: "cành nho gắn liền với thân nho."
b. Với cách dịch động từ Menein en: "ở lại", hay "gắn liền", hay có vài bản dịch khác dịch là: tháp chặt vào, dính liền, không thể tách rời, xem ra cũng không phải là sai nghĩa như điều Chúa Giêsu muốn nói: Như cành nho phải liên kết với Thân nho thế nào thì người Kitô hữu cũng phải kết hợp chặt chẻ với Đức Kitô là sức sống, là hạnh phúc của họ. Sự liên kết đó đòi hỏi người Kitô hữu phải sống và hành động theo Lời của Đấng đã chết và sống lại vì yêu thương chúng ta.
c. Thực hành: Linh mục nhận lãnh chức vụ Linh mục từ Giám mục, từ Hội Thánh, nhưng lại không có ý hiệp thông, liên kết chặt chẽ với Hội Thánh, Linh mục sẽ ban Bí Tích thành sự, nhưng không sinh hiệu quả sống động cho người lãnh nhận... Như khi người giáo dân bình thường chúc lành cho nhau trong sự chân thành, yêu mến, ơn phúc lành đó sẽ ở lại nơi người được chúc phúc, và sinh ơn ích cho họ biết bao trong đời sống, dù họ không thấy được bằng mắt xác thịt.
2. Gợi ý suy niệm:
a. Ai trong nho, lại không muốn nó sinh trái. Đất đai ở Việt Nam không phù hợp mấy với cây nho, nhưng ta thấy cũng có nhiều nơi trồng được, dù kết quả không cao. Cành, nhánh nho muốn sinh trái, phải được tháp chặt (ở lại, gắn lien, liên kết) với thân nho, nếu không, cành nho không những không sinh trái, mà còn phải chết nữa, vì tự mình cành nho không thể cho mình nhựa sống. Khi ta lãnh nhận Bí Tích Rửa tội là lãnh nhận ơn gọi trở thành cành nho, được gắn liền (tháp chặt, ở lại, liên kết) với Thân nho là Đức Kitô, ta có nhận ra ơn sủng cao cả này không? Ta có biết luôn cảm tạ Chúa mọi nơi mọi lúc và hết sức nỗ lực gắn liền "tháp chặt" và kết hợp với Thân Nho là Đức Kitô không? Là người Kitô hữu, ta có nghĩ mình được quyền sống bên lề họ đạo, không phải tham gia vào sinh hoạt của họ đạo, vì nghĩ rằng, mình đã đi lễ, cầu nguyện và giữ mọi Lề Luật của Hội Thánh là đủ không?
b. Cành nho muốn sinh nhiều trái, phải chịu để cho ông chủ cắt tỉa bớt những cành dư thừa. Ta có muốn và sẵn sàng để Chúa cắt tỉa những tính hư tật xấu, để ta ngày càng được tháp chặt, gắn liền với Thân Nho, để sinh nhiều hoa trái hơn nữa không?
28. Sự sống trong Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Phân tích
Bài giáo lý về Dụ ngôn cây nho. Về sự sống trong Chúa Giêsu.
Dụ ngôn cây nho chúng ta một cách vừa cụ thể vừa dễ hiểu nhưng lại rất sâu sắc về cuộc đời Kitô hữu:
Kitô hữu nếu muốn sống phong phú thì phải sống trong Chúa Giêsu và sống bằng sức sống của Ngài “Thầy là cây nho, các con là nhành… Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiếu trái.”
Kitô hữu cũng phải chấp nhận để cho mình “được Cha Thầy tỉa sạch” bằng những việc xảy ra không đúng ý mình làm cho mình đau khổ.
Chúa Giêsu còn hứa một điều rất tốt đẹp: “Nếu các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin thì sẽ được.”
Suy gẫm
1. Chữ “Kitô hữu” có nghĩa là “Người thuộc về Đức Kitô.” Cho nên cuộc sống Kitô hữu đương nhiên phải là cuộc sống trong Đức Kitô và sống bằng sức sống của Ngài. Muốn thế thì đương nhiên phải kết hợp chặt chẽ với Đức Kitô: bằng cầu nguyện, bằng tưởng nhớ, bằng thi hành những lời Ngài dạy… Ai không làm những điều đó thì người ấy không phải là Kitô hữu thật, người ay là cành nho khô, sớm muộn gì thì cũng bị chặt đi và quăng vào lửa.
2. Cắt tỉa: cuộc đổi đời nào cũng được đánh giá bằng những cái mất và những cái được. Tuy nhiên với con mắt đức tin, người ta vẫn nhìn thấy cái được trong cái mất… Đức Hồng y Etchegaray có lần đã nói “Đứng trước cánh rừng, chúng ta không nên dừng lại ở tiếng ngã đổ của cây rừng, nhưng hãy lắng nghe âm thanh của những mầm non đang mọc lên.”
3. Thánh Anphongxô đã được Thiên Chúa cắt tỉa bằng việc để Ngài thất bại ê chề trong một cuộc xử kiện mà Ngài làm luật sư. Thánh Inhaxiô được cắt tỉa khi bị thương què chân trong một trận chiến. Các Ngài mất một điều nhưng được lại nhiều điều khác quý hơn.
4. “Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho, và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi.”
Mỗi ngày đọc báo, nghe đài, xem truyền hình tôi lại nghe thấy vụ giết người dã man; những thảm họa của chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, hạt nhân; những cái chết đầy thương tâm do các căn bệnh thế kỷ gây ra như Sida, Ebôla… Đâu đâu cũng thấy tang thương và chết chóc.
Có lần tôi đã phải bàng hoàng sửng sốt trước mẩu tin: “Một thanh niên đã chỉa súng bắn chết bố mẹ chỉ vì ông bà không cho cậu ta tiền tiêu vặt.”
Tại sao cuộc sống hôm nay lại có nhiều tội ác đến thế? Nguyên nhân chính phải chăng là vì con người xa lìa Thiên Chúa, chạy theo cuộc sống vật chất, do đó trở nên thoái hóa, buông thả, vô đạo. Đức tin khô héo rồi chết đi.
Lạy Chúa, xin cho con biết lưu lại trong Chúa qua cuộc sống yêu thương và phục vụ. (Cha Carôlô)
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là cây nho, còn chúng con là cành, xin cho chúng con biết kết hợp với Chúa qua từng giây phút cuộc sống, nhất là khi chúng con được rước Thánh Thể Chúa ngự đến trong tâm hồn chúng con. Xin đừng để chúng con xa lìa Chúa bởi những tội lỗi, những đam mê mù quáng, những thói đời bất nghĩa, bất trung.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, chúng con vẫn biết rằng, để cành nho cuộc đời chúng con sinh hoa kết trái thì cần được cắt tỉa, loại bỏ những gì không phù hợp với sức sống Thần Linh của Chúa. Thế nhưng, Chúa ơi, chúng con vẫn bám víu vào những đam mê tật xấu. Tâm hồn chúng con vẫn chứa đựng đầy những tham lam bất chính, những tư tưởng dâm ô tội loi. Cuộc sống chúng con còn đầy những lầm lỗi gây nên đau khổ cho gia đình và bạn bè. Xin Chúa thứ tha tội lỗi chúng con. Xin Chúa cắt tỉa nơi tâm hồn chúng con khỏi những ước ao phạm tội, những toan tính xấu xa, những mưu đo bất chính để chúng con luôn xứng đáng là đền thờ cho Chúa ngự trị.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được lưu lại trong Chúa mỗi khi chúng con rước Chúa vào lòng, để sự sống của Chúa tuôn chảy trên dòng đời của chúng con, qua các việc đạo đức hằng ngày, qua cuộc sống yêu thương và phục vụ mọi người, nhờ đó mà muôn dân sẽ nhận ra “chúng con là môn đệ của Chúa.” Amen.
29. Con ngoan xin gì cũng được
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Chúng ta vẫn thường nghe những người cha mẹ nói câu này: “Học bài ngoan đi, mẹ mua cho đồ chơi”, “Học kỳ này đứng nhất, mẹ thưởng cho con nhé!”. “Năm nay con ngoan thì tết xin gì mẹ cũng cho”.
Hôm nay Chúa Giê-su cũng nói với chúng ta: “nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý”. Xem ra Chúa cũng hứa ân thưởng mọi điều tốt đẹp cho những ai sống đẹp lòng Ngài. Đời sống đẹp lòng Chúa là luôn ở lại trong Chúa như cành liền cây để luôn hiệp thông với Ngài. Đời sống đẹp lòng Chúa còn là tuân giữ giáo huấn của Chúa để nhờ đó chúng ta muốn gì Ngài cũng ban cho.
Đây là điều mà Mẹ thánh Tê-rê-sa thành Calcutta vẫn tin tưởng và dường như Mẹ luôn được Chúa nhận lời. Một hôm, Mẹ Tê-rê-sa nghe tin một em bé trong nhà trẻ Calcutta bị bệnh nguy kịch không thể qua khỏi, Mẹ đã đến thăm và nói với các sour coi trẻ: Chúng ta hãy cùng đọc kinh lạy Cha. Họ đã đọc và Mẹ đã mang em bé đi khám nghiệm lại. Ba giờ sau em bé tỉnh lại dần. Sự việc này nhiều lần đã xảy ra. Mọi người đều nhìn nhận rằng tuy Mẹ Tê-rê-sa không làm phép lạ nhưng đã cầu nguyện, và Chúa Giê-su đã nhận lời.
Mẹ Tê-rê-sa đã xác tín “Cứ ở” trong Ngài và lời Ngài ở trong kẻ kêu xin, có nghĩa là họ hướng đời sống mình nương dựa nơi Chúa và lắng nghe những điều Ngài phán dạy. Rồi họ có thể cầu xin Chúa bất cứ điều gì Ngài cũng sẽ ban cho.
Đôi khi có những người cầu nguyện mãi mà chẳng được nhận lời, phải chăng vì đời sống họ chưa đẹp lòng Chúa? Họ không còn hiệp thông với Ngài vì những tội lỗi và đam mê. Họ không tuân giữ lời Ngài thì làm sao họ nhận được ân phúc từ Ngài.
Sứ điệp lời Chúa hôm nay cho chúng ta một nguyên tắc trong cầu nguyện chính là phải có đời sống hiệp thông với Chúa thì lời cầu nguyện của chúng ta mới được nhận lời. Lời cầu nguyện của người công chính còn có thể đem lại an bình cho cả xã hội mà họ đang sống. Thánh Kinh cũng từng nói đến việc Thiên Chúa xác quyết chỉ cần 10 người sống đẹp lòng Thiên Chúa thì cũng cứu nguy cho cả thành khỏi bị án phạt vì hậu quả của tội lỗi.
Phúc âm hôm nay Chúa dùng hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên sự hiệp thông với Thiên Chúa và con người. Chúa ví Người như cây nho, Chúa Cha là người trồng nho, còn ta là cành nho. Cây nho gồm nhiều cành được nối kết với nhau tạo thành một thân nho. Tất cả đều được chia sẻ nhựa sống với gốc rễ. Thế nên, nếu không gắn liền với thân cây, cành nho sẽ héo khô. Người Ky-tô hữu chúng ta là những cành nho được liên kết nên một trong Chúa Ky-tô. Tất cả đều phải được nuôi dưỡng trong ân sủng của Chúa, nếu tách lìa khỏi Đức Ky-tô thì chúng ta sẽ không có thể sinh hoa kết quả thiêng liêng trong đời sống.
Sự nối kết nên một với Chúa Kitô không phải là việc kết hợp bên ngoài như gia nhập tổ chức nọ, hội đoàn kia. Người tín hữu nối kết với Chúa Kitô bằng ơn thánh. Vì thế tội phạm sẽ làm giảm ơn thánh, có khi còn cắt đứt sự nối kết với Chúa. Tội phạm sẽ làm cho ta xa lìa Chúa để rồi sẽ không bao giờ sinh hoa kết trái thánh thiện.
Xin cho chúng ta luôn được sống trong ân nghĩa của Chúa, và được hiệp nhất nên một trong Chúa. Xin đừng để những đam mê tội lỗi làm chúng ta xa lìa ân sủng của Ngài, và đánh mất sự liên đới với Ngài. Xin Chúa cho chúng ta được nối kết với Chúa như cành liền cây để sinh hoa kết trái mỗi ngày một thánh thiện hơn. Amen.
30. Chúa Nhật 5 Phục Sinh
Cây nho và việc trồng nho rất quen thuộc đối với người Do thái nên Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây nho và cành nho nói lên mối liên hệ rất mật thiết giữa Chúa và dân của Ngài. Chúa Giêsu là cây nho còn dân chúng xưa cũng như chúng ta hôm nay là cành nho gắn liền với thân nho là Chúa Giêsu. Cành nho hút nhựa sống từ thân cây nho để sống và sinh hoa kết quả. Nếu không liên kết, không gắn liền với thân nho, cành nho sẽ khô héo, tàn úa và chết đi, không thể sinh hoa quả được.
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội chúng ta được tháp nhập vào đời sống của thân nho là Chúa Giêsu, trở thành chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa. Khi tham dự Thánh lễ và Rước lễ chúng ta được nuôi dưỡng, được hút nhựa sống từ thân cây nho là Chúa Giêsu. Khi cành nho là chúng ta bị sâu bệnh, héo úa do tội tội lỗi của chúng ta, chúng ta được chữa lành và tha thứ qua Bí tích Giải tội. Ân sủng Chúa là nhựa sống của thân nho không ngừng cung cap cho ngành nho là chúng ta, để chúng ta được sống và sống dồi dào và để chúng ta sinh hoa kết quả tốt lành trong đời sống đạo của chúng ta.
Ngược lại, nếu chúng ta không liên kết, không gắn bó với Chúa qua việc năng lanh nhận các Bí tích thì đời sống của chúng ta sẽ héo úa, khô cằn vì thiếu nhựa sống từ thân cây là Chúa Giêsu. Như vậy thì đời sống chúng ta sẽ sẽ cằn cỗi, không sinh hoa trái được.
Nhờ đời sống cầu nguyện, nhờ việc năng lãnh nhận Bí tích nhất là Bí tích Giải tội và Thánh Thể, người Kitô hữu chúng ta ngày càng gắn bó hơn với Chúa Kitô, mà gắn bó với Chúa Kitô có nghĩa là cũng gắn bó với Chúa Cha. Nhờ gắn bó với Thiên Chúa, chúng ta sẽ dễ nhận ra những người chung quanh là anh chị em cùng là con một Cha trên trời.
Chúng ta là cành nho cần liên kết mật thiết với thân nho là Chúa Giêsu để chúng ta được sống, nhưng chúng ta cũng cần phải liên kết mật thiết với các cành nho khác là các anh chị em chung quanh chúng ta nữa. Thân nho là Chúa Giêsu cung cấp nhựa sống cho các cành nho, nhưng các cành nho cũng phải chuyển thông sự sống cho nhau nữa. Một cành nho héo úa, bệnh hoạn cũng ảnh hưởng đến sức sống của các cành nho khác.
Cũng vậy tội lỗi của một người trong chúng ta cũng ảnh hưởng đến người khác, đến cộng đoàn họ đạo, làm bớt đi sự thánh thiện của Hội Thánh. Và sự thánh thiện, tốt lành của một người sẽ làm tăng thêm sự thánh thiện, tốt lành của toàn thể Hội Thánh. Nếu họ đạo chúng ta có nhiều người tội lỗi thì sẽ làm giảm bớt đi sự tốt lành, thánh thiện của họ đạo, của mỗi người chúng ta và làm cho họ đạo chậm phát triển. Ngược lại nếu họ đạo chúng ta có nhiều người thánh thiện và rất ít người tội lỗi thì sẽ làm tăng sự thánh thiện tốt lành của họ đạo và của mỗi người chúng ta và sẽ làm cho ho đạo phát triển rất nhanh. Đó là sự liên đới trong cộng đồng của những người có cùng cùng một niềm tin như chúng ta.
Là người Kitô hữu, chúng ta đã trở nên một trong Chúa Kitô qua Bí tích Rửa tội. Chúng ta đang bước theo Chúa Kitô trên con đường tiến đến sự hoàn hảo như Thầy chí thánh của chúng ta là Chúa Kitô. Chúng ta còn trãi qua nhiều cám dổ của ma quỷ, của tội lỗi, của sự xấu để thanh luyện con người chúng ta.
Nếu không có Chúa chúng ta không thể đi trọn con đường như Chúa đã đi, nên chúng ta cần phải liên kết mật thiết với Chúa qua các Bí Tích để chúng ta có đủ sức mạnh thiêng liêng mà bước đi trên con đường theo Chúa. Chúng ta không đơn côi, khong cô độc nhưng chúng ta còn có Chúa, còn có Hội Thánh, còn có biết bao người cùng niềm tin với chúng ta. Chúng ta hãy vững tin vào Chúa, hãy trợ giúp nhau sống tốt, hãy làm gương tốt cho nhau, hãy dìu dắt nhau để chúng ta được tăng thêm sức mạnh và luôn vững bước trên con đường theo Chúa, để Chúa ở đâu chúng ta cũng được ở đó với Chúa.
31. Sinh nhiều hoa trái
(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Quang Hiền SDB)
Chúa nhật tuần trước Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh rất quen thuộc của người Do Thái đó là người mục tử và đoàn chiên. Chúa Giêsu dùng hình ảnh này để nói lên mối liên hệ của Người với ta và của ta với Người. Người là Mục tử nhân lành còn ta là đoan chiên của Người. Chúa nhật tuần này Chúa Giêsu muốn dùng hình ảnh cây nho để nói về đời sống đạo của mỗi người chúng ta. Đời sống đạo của mỗi người chúng ta được sánh ví như đời sống của cây nho.
Chúa Giêsu quan sát cây nho và thấy rằng một cây nho muốn có nhiều hoa quả cần phải có hai điều kiện sau đây:
1. Cành phải liên kết với cây. Cành không liên kết với cây, không thể sinh hoa kết quả. Cành không liên kết với cây khi dòng nhựa nuôi dưỡng thân cây bị tắc nghẽn không luân lưu sang cành. Có những con sâu con bọ đục khoét làm cho cành cây bị thương tổn, không còn tiếp nhận được nguồn nhựa sống của thân cây truyền sang. Chỉ khi cành kết hiệp chat chẽ với cây, dòng nhựa từ thân cây mới truyền sang cành, cho cành trổ sinh hoa trái.
2. Cành lá phải được cắt tỉa. Ai đã trồng nho thì biết: Nếu cứ để cành lá phát triển tự do, cây sẽ xanh tươi coi rất đẹp mắt nhưng không có hoa trái. Muốn cây có quả, phải tỉa bớt cành lá. Việc cắt tỉa làm cho dòng nhựa không bị phân tán, nhưng tập trung vào những cành chính, dồn vào cho hoa sung sức, cho quả đầy đặn.
Đời sống đạo của chúng ta cũng cần có 2 điều kiện:
Điều kiện thứ nhất: Phải kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu. Như cành nho phải liên kết với thân nho mới sinh hoa kết quả, ta phải liên kết mật thiết với Chúa Giêsu, Người là nguồn sự sống của ta. Tách lìa Người, ta không thể sống, càng không thể phát triển được. Nhìn vào đời sống đạo của chính chúng ta, biết bao lần chúng ta muốn tách lìa khỏi mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu. Tôi quá bận bịu, lo lắng mọi thứ trong cuộc sống: công ăn việc làm, gia đình, những kế hoạch, dự định trong tương lai, lo kiếm tiền, xây cất nhà cửa, sắm sửa cái này cái kia, những chuyến nghỉ lễ, nghỉ hè xa, những bữa tiệc thâu đêm suốt sáng, những trò giải trí, kể cả những thú vui thỏa mãn thân xác… làm sao có giờ đi lễ, cầu nguyện được. Những điều này làm tôi tách lìa khỏi mối bận tâm thiêng liêng và đánh mất đi những giá trị cao đẹp của người kitô hữu trong đời song của mình: không còn nhớ để đi lễ chúa nhật nữa, hay có đi nhưng đầu óc bị chia trí, khô khan, nguội lạnh trong việc cầu nguyện. Những thú vui, hưởng thụ xác thịt làm tôi xa dần đời sống luân lý về trong sạch và tiết đo. Những tìm kiếm danh vọng, tiền bạc biến tôi trở thành người ham mê danh vọng và quyền lực. Tôi trở thành người chỉ biết sống cho mình, không quan tâm đến yêu thương, chia sẻ với người khác. Quả thật, khi đánh mất đi mối bận tâm liên kết với Chúa, bỏ bê đời sống cầu nguyện, khô khan với việc đi tham dự thánh lễ và cử hành các bí tích, đời sống của chúng ta sẽ trở nên khô cằn, tàn lụi, đồng thời không có sức sống, không hữu ích cho xã hội và người khác. Khi chúng ta kết hiệp với Chúa Giêsu đời sống của chúng ta sẽ tràn đầy ân sủng và sẽ giúp ta trổ sinh nhiều hoa trái thiêng liêng trong tư tưởng, lời nói và việc làm.
Điều kiện thứ hai: phải chịu cắt tỉa. Cành nho muốn sai trái phải chịu cắt tỉa bởi những cành lá rườm rà. Cũng thế, đời sống đạo của chúng ta phải để Chúa cắt tỉa những gì dư thừa cản trở ơn thánh sinh hoa kết quả. Phải cắt tỉa những ý muốn riêng tư, những sự ích kỉ, đam mê để chuyên tâm đi tìm thánh ý Thiên Chúa. Phải cắt tỉa những hình thức bề ngoài, những phô trương, hưởng thụ, ồn ào để chìm vào nội tâm sâu lắng. Phải cắt tỉa những giả dối, vô cảm với người khac để mặc lấy sự trung thực, bao dung, yêu thương. Chúng ta hãy can đảm để cho Chúa cắt tỉa chúng ta. Chắc chắn việc cắt tỉa này làm cho chúng ta đau đớn, khó chịu, nhưng đem lại những lợi ích vô cùng phong phú.
Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta khi Người sống kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. Sự kết hiệp ấy được diễn tả qua việc chuyên tâm cầu nguyện và luôn luôn làm theo thánh ý Chúa Cha. Người để cho Chúa Cha cắt tỉa khi Người từ bo ý riêng, nhận uốn chén đắng, nhận vác thập giá, nhận lấy cái chết tủi nhục. Để từ đó, Người đã sinh hoa trái dồi dào nuôi sống tất cả chúng ta. Chính vì thế, Người đã trở nên gốc nho sung mãn sự sống để chuyển thong cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu là cây nho thật, xin cho con biết kết hiệp mật thiết với Chúa. Xin hãy cắt tỉa những gì vô ích trong con để con sinh nhiều hoa trái thiêng liêng như Chúa mong ước. Amen.
32. Chúa Nhật 5 Phục Sinh
Cây nho, cành nho và trái nho
Người ta nói rằng ở Ephêsô có 1 ngôi đền rất nổi tiếng. Đó là đền thờ thần Diana. Một trong những nét độc đáo làm cho ngôi đền trở thành nổi tiếng là trong ngôi đền đó có cả 1 thang lầu làm từ 1 gốc cây nho duy nhất được mang về từ đảo Chypre. Rất oai nghi! Rất hùng tráng. Biết được như thế chúng ta mới có thể phần nào hiểu được hình ảnh và ý niệm về cây nho mà hôm nay chúa Giêsu đãsánh ví với Ngài.
Một cách cụ thể, hôm nay Chúa Giêsu xác định và tuyên bố: "Thầy là cây nho các con là nhành". (Ga 15,5). Tại làm sao Chúa lại tyên bố như thế. Lời tuyên bố ấy được nói trong hoàn cảnh nào và có ý nghĩa gì?
Theo chú giải Kinh Thánh thì Đức Giêsu nói những lời này với các môn đệ ngay sau bữa ăn cuối cùng với các ông. Giả thiết rằng có thể trên đường đi từ nhà tiệc ly đến vườn Giêtsêmani. Đức Giêsu biết rằng Người sẽ phải rời xa các môn đệ để bước vào cái chết. Người cũng biết môn đệ Phêrô sẽ chối Thầy, Giuđa sẽ phản bội. Tất cả các môn đệ còn lại cũng sẽ chối bỏ Người. Mọi sự như tan vỡ và chấm dứt. Chính trong hoàn cảnh đó, Đức Giêsu đã xưng mình là cây nho và các môn đệ là cành nho.
Khi khám phá ra điều này, tôi hiểu rằng Chúa muốn bộc lộ một ước mơ, và Ngài muốn ước mơ đó trở thành hiện thực. Cũng có thể nói được rằng ước mơ đó là một chân lý. Chân lý đó ở chỗ này:
Cho dù các môn đệ có phản bội, có khước từ nhưng Ngài vẫn gắn bó vơi họ.
Và cho dù Chúa Giêsu không ở với họ theo nghĩa thể lý nữa thì chính sự liên kết bền chặt giữa các môn đệ là yếu tố nền tảng làm cho các ông vẫn đứng vững và đoàn kết với nhau bất chấp phản bội, bất chấp khước từ, bất chấp yếu đuối đến độ hèn nhát.
Chúa Giêsu diễn tả điều tôi vừa nói bằng hình ảnh gắn liền của thân nho và cành nho. Cây nho và cành nho có cùng một sự sống và cùng một dòng nhựa. Cành sống nhờ cây. Cành có khả năng sinh được hoa quả là nhờ nối kết với thân cây. Nếu cành tách lìa khỏi thân cây, chúng sẽ không chỉ trở nên cằn coi mà còn nhanh chóng bị khô héo và chết rục.
Cũng thế, giống như những cành cây cần thân cây. Chúng ta cần đến Đức Giêsu Kitô vì sự sống của Người. Khi bị tách lìa khỏi Người, chúng ta không có sự sống và không có kha năng sinh trái. Nhưng cây cũng cần đến cành. Chính những cành nho mới sinh những trái nho. Như thế, chúng ta không những cần đến Đức Giêsu mà Người cũng cần đến chúng ta. Người đợi chờ hoa trái của Người trổ sinh nơi chung ta, qua chúng ta. Nói cách khác chúng ta có bổn phận sinh hoa trái cho Người.
Thếnhưng thực tế chúng ta đã thực sự sản sinh ra những trái nho ấy chưa. Người khác có cảm nếm và thưởng thức được vị ngon vị ngọt của những trái nho ấy chưa.
Như thế, hoá ra lời tin mừng hôm nay lại là một lời tra vấn chúng ta, khi ta nhìn thấy sự cằn cỗi của ta, trong Giáo Hội và của thế giới. Đời ta không trổ sinh hoa trái được là vì ta chưa chịu cắt tỉa khi đời sống ta có nhiều cái thừa và không ít những cái thiếu. Thừa tiền bạc, thừa địa vị, thừa ích kỷ, thừa cái tôi chật hẹp của mình. Nhưng ta lại thiếu quá nhiều, thiếu cảm thông, thiếu chia sẻ, thiếu hợp tác, thiếu quan tam đến người khác... Đang khi đó, Giáo Hội tuy có không ít những thánh nhân nhưng lại có quá nhiều người như chúng ta. Điều đó làm cho khuôn mặt Giáo Hội thêm già nua, cằn cỗi. Bên cạnh đó, xã hội càng ngày càng nảy sinh nhiều vấn nạn: sự chênh lệch giàu nghèo, nạn ma túy, tình dục, siđa, nạn tham nhũng ở Á Châu và Việt Nam... đang là vấn đề thời sự. Khuôn mặt thế giới đang héo tàn.
Vì thế trách nhiệm sinh hoa trái thánh thiện đạo đức đòi hỏi ta rất lớn và rất nhiều. Và muốn được như thế đời ta cần chấp nhận cắt tỉa những gì cản trở những gì không cần thiết cho mùa dơm hoa kết trái. Đồng thời, ta hãy đóng góp những hoa trái tốt lành ấy cho nhân loại cho Giáo Hội. Được như thế mọi người sẽ nhận ra cây nho thật là Đức Kitô. Người trồng nho là Thiên Chúa. Và người ta sẽ cảm nếm được hương vị ngọt ngào, thánh thiện, thanh khiết của những trái nho. Amen.
33. Cây Nho hiệp nhất – AM Trần Bình An
Cây mít thường được trồng giáp ranh giữa hai thửa vườn. Với thân mộc xum xuê, cây mít hay mọc hỗn, che phủ tràn lan, nên bị cả đôi bên vườn tận tuỵ cắt cành lá chĩa qua. Nhưng nhờ vậy, cây mít lại càng sai trái, lủng lẳng suốt từ thân đến cành. Vậy mới có câu ca: “Mít chặt, chanh cột. Hoặc là “Mít chặt cành, chanh xén rễ.”
Nếu cứ để cây chanh thoải mái chĩa cành lên trời, thì chẳng thể nào chanh có trái. Nên người ta thường níu cành, cột đá vào kéo xuống, hoặc xén bớt rễ ngang, chanh mới cho sai trái. Cây nhãn muốn ra quả trái vụ, cũng được khắc quanh gốc, cùng các cành lớn. Còn cây dó bầu mà không bị thương tích trên thân, thì khong thể nào tích tụ trầm hương. Như thế, có những cây phải chịu thương đau, uốn nắn, cắt tỉa, mới có thể bội thu.
Trong Tin Mừng Thánh Gioan hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố mình là cây nho, mọi người đều là cành nho. Cành nào khong sinh hoa trái sẽ bị cắt bỏ. Còn cành nào sinh hoa kết trái thì phải chịu cắt tỉa để thêm dồi dào năng suất. Như thế, cành nào muốn sống thì cần liên kết, hiệp nhất với cây nho.
Nhờ Người được sống
Nhờ hiệp nhất với Chúa Giêsu, tín hữu mới được sống thật, sống viên mãn đời này lẫn đời sau. Không như manna trong sa mạc, không như cơm bánh thế gian chỉ đem đến cái chết, bệnh tật, bất an, lo lắng, nỗi buồn, cơn đau, thất vọng, lương thực hang sống của Chúa Giêsu trao ban, chính là thực thi Thánh Ý Chúa, cùng sống Lời Chúa và đón rước Thánh Thể. “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 4, 34)
Chọn cái chết hay sự sống là quyền tự do của mỗi người, mà Chúa luôn tôn trọng. Nhưng Người luôn tha thiết mời gọi, khuyên răn sống kết hiệp với Người để có thể tu thân, tích đức và được sống:“Hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy.” (Ga 15, 4)
Với lòng thương xót từ bi, Người ân cần cảnh báo hệ quả dành cho những ai dứt khoát tuyệt tình, từ chối hiệp thông với Người:“Ai không ở trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi.” (Ga 15, 6)
Trong xã hội thực dụng hôm nay, thiên hạ đua nhau thờ Thần Tài, sản nghiệp, danh vọng, tham lam vô độ đến vỡ mộng vì mất mát, mất chức quyền, mất tình người. Thay vì hút lấy nhựạ sống thật, thì chỉ toàn tích trữ những nọc độc gian dối, virus đố kỵ, mầm mống chia rẽ, tiêm nhiễm thói xấu, di căn tà đạo, thất đức, bất nhân, bất nghĩa. Vậy làm sao sinh được hoa thơm, trái ngọt?
Thánh Phaolô khuyên nhủ đừng trông cậy vào của cải vật chất phù du, mà luôn trông cậy, hy vọng vào Chúa mà thôi: “Những người giàu ở trần gian này, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dung.” ( 1Tm 6, 17)
Với Người chịu hy sinh
Hiệp nhất với Chúa Giêsu là đồng nghĩa bỏ mọi sự, mà chấp nhận vác thánh giá hằng ngày mà theo Chúa. “Còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn.” (Ga 15, 2)
Con đường Đức Giêsu đi là con đường chông gai, khổ hình và chết nhục nhã, nên Người tiên báo và an ủi các môn đệ qua chính sự phục sinh của Người: “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan, khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.” (Ga 16, 33)
Chính vì hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, muốn noi gương Người, mà Thánh Phaolô hy sinh chịu khổ nhục, tù đầy, xiềng xích, đã viết thư chia sẻ cùng tín hữu thành Philípphê: “Van đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Pl 3, 10-11)
“Con không hiểu tại sao thánh Augustinô cầu nguyện:“Xin cho con biết Chúa, cho con biết con!” Vì Chúa nói với Philipphê: “Đã bao lâu rồi, Ta ở với các ngươi! Thế mà, Philipphê ngươi đã không biết Ta sao?” (Ga 14, 9). Nếu “biết” thật, đời con sẽ đổi hẳn. (Đường Hy Vọng, số 100)
Trong Người được phục sinh
Chỉ khi nào sống kết hiệp mật thiết với Đức Kitô, người tín hữu mới được dưỡng nuôi, phat triển, sinh nhiều hoa thơm trái ngọt, những nhân đức cao quý: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15, 5)
Ở trong Người là thấm nhuần Lời Chúa, mà đem thực hành mới được sống đời đời. “Ai nghe lời Tôi, và tin vào Đấng đã sai Tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.“ (Ga 5, 24)
Ở trong Người là thường xuyên đón rước Lương Thực cực quý, Mình và Máu Đức Giêsu trong nhiệm tích Thánh Thể: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi, mà được sống như vậy. (Ga 6, 56-57)
Ở trong Người là cùng chịu vác thánh giá, cùng chịu khổ hình với Đức Kitô, như thánh Phaolô chịu nạn, trở nên đồng hình đồng dạng với Người: “Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào thập giá. Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” ( Gl 2, 19-20)
“Một cuộc cách mạng thực sự, khả dĩ canh tân tất cả, từ lòng con người, mà chính mình cũng không dò thấu, đến toàn bộ cơ cấu chính trị, kinh tế, xã hội… của thế giới, không thể thực hiện “ngoài con người, ngoài Thiên Chúa,”chỉ thực hiện “bởi con người, trong Chúa Kitô, với Chúa Kitô.” Con hãy dấn thân vào mặt trận cách mạng thế giới ấy.” (Đường Hy Vọng, số 623)
Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót cứu giúp chúng con là những cành nho yếu đuối, èo uột, mong được hiệp nhất với Cây Nho Đức Giêsu để được chữa trị, chăm sóc, được sống và sinh hoa trái.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ cầu bầu cho chúng con chịu đựng những gian nan, thử thách, những nhát cắt tỉa đau đớn, những sự từ bỏ xác thịt, thế gian và cám dỗ, để chúng con được sống dồi dào mạnh khoẻ, sống tốt lành và bội thu hoa trái sự sáng. Amen.
34. Cây Nho Thật – AM Trần Bình An
Cây nho là biểu tượng bình an và thịnh vượng của dân Do Thái. Có lẽ vì thế hình ảnh cây nho đã được khắc trên đồng tiền Do Thái dưới thời dòng họ Maccabe, thế kỷ II, trước Công nguyên. Theo sử gia Josephus, sau này vua Hêrôđê còn trang trọng gắn trên cửa vào Đến Thờ, một cây nho bằng vàng.
Trong Kinh Thánh, cây nho cũng từng được nhắc đến với tần xuất khá cao, để khắc họa dân tộc Israel, mà trước đây Thiên Chúa đã từng yêu thương giải thoát khỏi kiếp đọa đầy nô lệ ở Ai Cập: ”Gốc nho này Chúa bứng từ Ai Cập, đuổi chư dân lấy chỗ mà trồng. Chúa khẩn hoang bốn bề quang đãng, cho bén rễ sâu mà lan rộng khắp nơi.” (Tv 80, 9-10) Nhưng Israel đã đền đáp lại bằng thái độ bất trung, bất nghĩa với Thiên Chúa. “Ta đã trồng ngươi như cây nho hảo hạng, cây nho thuần chủng. Sao ngươi lại thoái hóa thành những cây nho tạp chủng?” (Gr 2:21)
Thầy là cây nho thật.
Vì thế, Đức Ki tô muốn xóa đi hình ảnh cây nho đã bị thoái hóa, lai tạo, hay biến đổi gien kia, bằng cách công bố, chính Người chính mới là cây nho thuần chủng, thuần giống, nguyên mẫu do chính Thiên Chúa trồng cấy. Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. (Ga 15, 1) Đồng thời mời gọi nhân loại tái sinh, trở về cội nguồn giống tốt, nguyên thủy, nhân chi sơ, tính bản thiện.“Không ai có thể vào nước Thiên Chúa, nếu không tái sinh bới nước và Thần khí (Ga 3, 5)).
Anh em là cành
Thật bất ngờ, Đức Kitô không hề phân biệt đâu là cành chính, đâu là cành phụ, hoặc ai là nhánh cái, ai là nhánh con. Dưới mắt Người, nhân phẩm mọi người đều bình đẳng, đồng hạng và giá trị ngang nhau, không hơn, không kém. Có khác chăng, chính là mức độ kếp hợp mật thiết với Người như thế nào mới đáng kể.
Từ khi Adam và Eva ăn trái cây biết lành biết dữ, con người bắt đầu vướng vào cái tâm phận biệt. Chính cái tâm phân biệt này tạo ra lắm phiền muộn, nghiệp chướng, đánh mất tình người, tình huynh đệ tương thân, tương ái. Chẳng hạn khi con người trầm luân vào vòng cương tỏa của cái thiện, cái ac, hơn thiệt, tốt xấu, của giai cấp cao thấp, mới phát sinh ra thái độ vô minh, khen chê, cái thói nịnh trên, nạt dưới, trọng phú, khinh bần, bon chen, chà đạp, hãm hại lẫn nhau, coi nhau như thù địch, như bậc thang leo lên danh lợi…
May thay, Người quá đỗi thương yêu nhân loại, đã kịp thời đến giải thoát con người khỏi cái tâm hư đó, cùng ban tặng lại tình người, tình huynh đệ, một khi cành nào biết kết hợp chặt chẽ vào cây nho thật là Người. Nguyện ước của Người là tái lập lại quan hệ song phương hỗ tương hiệu quả.
Chúa luôn hiện diện trong đời sống từng người, từ khi người ta nhận bí tích Thánh Tẩy. Nhưng con người lại không phải luôn luôn ở trong Người, mà có khi ở trong người khác, hay của cải, danh lợi, ham muốn, dục vọng, nên từ chối hợp nhất với Người, như cành nho chối bỏ dưỡng chất cần thiết để sinh trưởng, nên sẽ bị đào thải, bị đốn đi, quăng vào lò lửa. “Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi.”(Ga 15, 2)
Chịu cắt tỉa để sinh nhiều hoa trái
Cây nho luôn được tận tình chăm sóc tỉa cành. Trong ba năm đầu người trồng không cho đơm bông kết trái, mà còn tỉa thật sạch để cây nho phát triển và giữ được sức sống mạnh mẽ. Nếu không được cắt tỉa thật kỹ cây nho sẽ không cho trái nhiều.
Thảo vật còn phải chịu hy sinh như thế, huống hồ con người, tạo vật cao cấp, muốn trở nên tốt lành, đạo hạnh, hầu xứng đáng kết hợp vói Đấng Tối Cao. Ngoài tuân giữ lề luật, còn phải dứt khoát với những thói kiêu căng, tự phụ, khoe khoang, màu mè, phù phiếm, như cây nho phải chịu đau đớn bấm ngọn, tỉa chồi khỏi lãng phí nhựa, mới sinh nhiều hoa trái. “Còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn.” (Ga 15, 2)
Lời Thầy ở lại trong anh em
Khi liên kết với nguồn mạch sự sống, con người được Lời Chúa hướng dẫn soi đường.“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi”(Tv 119, 105). Lời Chúa chính là mối liên kết chặt chẽ giữa cành và với thân cây nho, điều hoa sức sống, mạch nhựa nuôi dưỡng toàn thân, đem lại phong phú kết quả. Lời Chúa tỉa gọt, mài dũa, chấn chỉnh tâm hồn con người trở nên trong sáng, hoàn thiện, phù hợp với sự sống vĩnh cửu. Khi thật sự sống Lời Chúa, cùng liên lỷ cầu nguyện, thì con người mới có thể trổ hoa kết trái nhiều.
Và anh em trở thành môn đệ của Thầy
Nguyện ước của Người chẳng viển vông, mà rất thực tế và hữu ích cho con người, là trở nên đồng hình đồng dạng với Người, kết hiệp mật thiết với Người, chịu hy sinh thử thách và quên mình như Người, để cho Danh Cha cả sáng, qua vai trò chứng nhân Tình Yêu, phục vụ tha nhân và mở mang Nước Chúa.“Ai muốn làn môn đệ Ta, phải bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.”(Mt 16, 24)
Lạy Chúa, xin cho con sống niềm tin vững vàng, cùng thể hiện niềm tin ấy qua cuộc sống liên kết thân hữu với mọi người, biết hy sinh bản thân, từ bỏ những phù phiếm trần tục, để có thể gặt hái nhiều hoa thơm, trái ngọt dang lên Chúa.
Lạy Mẹ Mân Côi, xin luôn giữ gìn con sống trong ân sủng của Chúa, để con khỏi bị cắt bỏ, và quăng vào ngọn lửa đời đời. Amen.
35. Cây nho đích thực
(Suy niệm của Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Ga 15: 1-8: khi Thiên Chúa cắt tỉa chúng ta bằng những gian truân thử thách, đó là vì Ngài muốn chúng ta sinh nhiều trái hơn.
Đối với nông dân vùng Palestine thời Chúa Giêsu, cây nho là một tài sản quí giá nhất. J.P.Charlier đã lưu ý: Để có một ý niệm về cây nho ở Israel và trong những vùng phụ cận nắng cháy, chiêm ngắm những vườn nho vùng Bourgogne hay Bordeaux ở nước Pháp chẳng ích lợi gì. Những gốc nho ôn đới chẳng có gì giống với gốc nho vùng Palestine vốn lớn như cổ thụ xum xuê cành lá chứ không phải là những thân nho được cắt tỉa kỹ lưỡng và nhỏ xíu như ở Âu Châu. Phải biết rằng cả một thang lầu trong đền thờ thần Diana ở Ephêsô tạc từ một gốc nho duy nhất mang về từ đảo Chypre. Nếu không nhớ đến vẻ oai nghi hùng tráng đó, sẽ không tài nào hiểu nối một thành ngữ rất thông dụng trong Thánh Kinh "nghỉ dưới gốc nho" (1V 4,25; Mk 4,4). "Đức Giêsu ở giữa dân Người" ("Đọc Thánh Kinh" số 78, trang 54).
Chẳng lạ gì cây nho, đã trở thành biểu tượng của sự phú túc và sự hào phóng của Thiên Chúa, rất thường được Kinh Thánh dùng như hình ảnh để chỉ Dân Thiên Chúa đã chọn và đã xếp đặt những mối liên hệ yêu thương và âu yếm. Ôsê đã chẳng miêu tả Israel như một cây nho xum xuê nặng trĩu quả đó sao? (Hs 10,1)”. Chính vì vậy Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cây nho để nói với chúng ta: "Thầy là cây nho thật, các con là cành nho”. Chúa Giêsu biết rõ điều Ngài đang nói.
Tại Palestine, cây nho thường mọc trên những thềm đất nơi cao, nền đất phải sạch sẽ. Có khi người ta trồng thành hàng rào, có khi thả bò sát đất trên ít cành cây, cũng có khi người ta cho nó bò lên cửa những ngôi nhà tranh. Nhưng dù mọc ở đâu, việc cần thiết là phải cắt tỉa thật kỹ. Nó mọc xanh tốt đến nỗi phải chia hàng cách khoảng ít nhất 4m, vì nhánh nho phát triển nhanh.
Một cây nho trong ba năm đầu chưa cho trái, mỗi năm, nó phải được cắt tỉa thật sạch để có thể phát triển và giữ được sinh lực. Khi đến độ trưởng thành, người ta cắt tỉa nó vào tháng 12 hoặc tháng 01 dương lịch.
Có hai loại nhánh nho, một loại ra trái và một loại không ra trái. Loại nhánh không ra trái phải cắt bỏ, để chúng khong hút hết sinh lực của cây nho. Cây nho sẽ không thể cho trái đúng mức nếu không được cắt tỉa thật kỹ. (William Barclay)
Muốn nhiều hoa quả, cần phải được cắt tỉa. Nhưng cắt tỉa là một quá trình gây đau thương cho một cây ăn quả. Đây là một thực tế không thể chối cãi được. Nhưng mục đích của việc cắt tỉa này không phải là bắt thân cây phải chịu đựng đau đớn, mà là để giúp cho thân cây tạo ra nhiều quả hơn, và quả được ngon hơn.
Cũng vậy, với con người chúng ta, mục đích của cắt tỉa không phải là làm cho chúng ta đau đớn nhưng là để giúp chúng ta sinh trái nhiều hơn và tốt hơn. Có rất nhiều điều chẳng những vô ích mà còn có hại cho sự sống chúng ta, làm hao hụt năng lực chúng ta và cản trở sự sinh hoa trái thiêng liêng của chúng ta. Tất cả những cái đó cần phải được cắt tỉa.
Chính vì vậy khi Thiên Chúa cắt tỉa chúng ta bằng những gian truân thử thách, đó là vì Ngài muốn chúng ta sinh nhiều trái hơn.
Nói tới việc cắt tỉa là chúng ta phải nói đến vấn đề đau đớn, vấn đề đau khổ. Vấn đề đau khổ là một thực tại ngàn đời tồn tại và luôn luôn đòi được giải đáp. Đau khổ đến với ta dưới mọi hình thức: tinh thần, thể xác, bên ngoài, bên trong, cá nhận, tập thể, cộng đoàn. Ta có cảm tưởng đó là một lực lượng đến phá hủy tiềm năng phát triển con người. Nhưng với ánh sáng Phúc âm hôm nay, chúng ta thấy được một khía cạnh của đau khổ. Thiên Chúa muốn dùng đau khổ để cho ta sinh hoa trái tươi tốt về đàng thiêng liêng. Điều cần thiết là chúng ta có nhận ra được ý nghĩa của những đau khổ mà Thiên Chúa gởi đến cho chúng ta.
Một tấm gương điển hình: Cha Titus Brandsma trong cũi chó: Cha Titus Brandsma, thời thế chiến thứ hai, là viện trưởng viện đại học Hòa Lan. Ngài bị Đức Quốc xã bắt và giam tại trại Tập Trung Dachau, Người ta nhốt ngài trong một chiếc cũi chó. Đám lính canh, mỗi lần đi qua, bắt ngài sủa lên như chó. Cuối cùng, ngài đã chết thê thảm, vì bị tra tấn quá tàn nhẫn.
Trong không gian nhỏ bé của một cũi chó, bị chế nhạo như con chó và bị đối xử như một con vật ghê tởm…ngài vẫn chịu đựng. Đặc biệt, còn đủ kiên trì viết lại nhiều suy nghĩ về đau khổ, trong một cuốn sách cũ kỹ, trên một khoàng trống ở giữa hai hàng chữ. Chúng ta có thể nêu ra ở đây một lá thư ngỏ của ngài, gởi Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, không một nỗi đau nào làm con ngã xuống được, vì con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy đau khổ của Chúa.
Con đường cô độc chúa đã đi qua, đã giúp con chịu đựng nỗi đắng cay một cách khôn ngoan…Tình yêu của Chúa đã biến màn đêm tăm tối trong con thành nguồn sáng rực rỡ.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ở lại với con, chỉ cần Chúa ở lại với con thôi. Nếu khi đưa đôi tay ra, con cảm thấy Chúa đang ở bên, con sẻ chẳng còn sợ hãi nữa”. Amen.
36. Định danh Kitô hữu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Một hình ảnh rất đẹp khác mà Chúa Giêsu đã sử dụng để nói lên tương quan sống còn và tương quan triển nở giữa các môn đệ của Ngài với Ngài là hình ảnh cành nho với thân nho. Muốn sinh nhiều hoa trái thiêng liêng, người Kitô hữu cần phai kết hợp mật thiết với Chúa Kitô là nguồn sống, tức là phải ở lại trong tình yêu của Ngài. Ở lại qua việc tuân giữ lời Ngài. Đồng thời phải chấp nhận để cho Thiên Chúa cắt tỉa, thanh luyện, nghĩa là phải chấp nhận hy sinh thử thách và gian khổ. Dĩ nhiên cắt tỉa là phải đau đớn. Có khi bị rướm máu.
Nhìn lại thực trạng sống đạo hôm nay, chúng ta dễ dàng thấy có 3 hạng Kitô hữu:
- Hữu danh vô thần:
Họ là những người mang danh là Kitô hữu, xưng mình là đạo gốc đạo dòng, là "cành nho" chính thống, nhưng đã tách lìa Đức Kitô và xa lìa Giáo hội. Họ sống như những người vô thần không hơn không kém. Họ không giữ đạo và cũng không sống đạo.
Đây là hạng ngươi đáng sợ nhất vì họ rất dễ rơi vào nguy cơ tháp nối với cây tiền tài, cây danh vọng, cây quyền lực, cây sắc dục.... Và chắc chắn cành nho đời họ sẽ sinh trái nho hoang nho dại, thậm chí là nho độc nho hại nữa.
- Hữu danh vô thực:
Là những người mang danh có đạo, có khi giữ đạo tốt, nhưng không sống đạo hay sống đạo kiểu cầm chừng, đủ rỗi linh hồn là được. Có đạo nhưng không thực hành đạo vì ngại bị cắt tỉa, ngại dấn thân, sợ thua thiet.
Số phận của những người hữu danh vô thực thì sao? Có thể nói được rằng số phận của họ thật đáng buồn vì họ như những "cành nho vô tích sự" không sinh được hoa trái thiêng liêng nào, nên chỉ còn có việc chặt làm củi.
- Hữu danh hữu thực:
Đây là những Kitô hữu sống đạo thực sự. Họ sẵn lòng chấp nhận mọi hy sinh sinh, mọi cắt tỉa mỗi ngày để hoa trái được phong nhiêu: "Hạt 30, hạt 60, hạt 100". Đối với họ, Lời Chúa luôn là nhựa sống đem lại sự sống cho cành nho đời họ. Lời Chúa còn là phương thế cắt tỉa, thanh luyện để họ có thể sinh hoa trái dồi dào hơn: hoa trái bác ái yêu thương, hoa trái công bình chính trực, hoa trái hiệp nhất bình an....
Tôi đang thuộc hạng người nào trên đây? Phúc cho tôi nếu tôi có tên trong danh sách những người thuộc hạng thứ 3, "hữu danh hữu thực". Ngược lại, thật bất hạnh cho tôi nếu tôi bị liệt vào hàng ngũ những người thuộc diện "hữu danh vô thực", hay "hữu danh vô thần", là những hạng Kitô hữu sẽ bị phán xét công thẳng trước toà phán xét của Thiên Chúa sau này.
37. Kết hợp và sinh trái – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Phúc âm Chúa nhật tuần trước, Chúa Giêsu dùng hình ảnh con chiên và người chăn chiên để nói về mối liên hệ giữa Thiên Chúa và loài người. Mục tử chăm sóc đoàn chiên.
Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây nho và cành nho để nói đến sự thông hiệp giữa loài người với Thiên Chúa. Cành nho phải gắn vào thân nho để sống và sinh hoa trái.
Ý nghĩa của lối so sánh là kết hợp và sinh trái. Càng kết hợp chặt chẽ càng sinh nhiều hoa trái. Chúa dạy chúng ta điều kiện căn bản là kết hợp với Chúa, mới đem lại hoa quả thiêng liêng cho chính mình và cho người khác.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái”(Ga 14,5). Có tới 9 lần cụm tụ “ở lại trong” được lặp lại trong đoạn Tin mừng này. Mỗi người phải “ở lại trong” Thầy, bởi vì: “Không có Thầy, các con không thể làm được gì” (Ga 14,5).
Nếu chúng ta được ở trong Chúa Giêsu, được kết hợp với Ngài thì chúng ta sẽ lãnh được sức sống của Ngài. Chúa Giêsu ở trong Thiên Chúa nên khi kết hợp với Ngài, chúng ta cũng được kết hợp với Thiên Chúa và múc được sự sống của Chúa Ba Ngôi.
Cành nho gắn với thân nho và liên kết với những cành khác. Cành nho nào không tiếp nhận nhựa sống sẽ cằn cỗi, khô héo. Nhựa sống trong thân cây lưu chuyển, cho mọi cành để cùng nhau sinh nhiều hoa trái. Chúng ta cần cộng tác với nhau, cần nâng đỡ nhau, cần kết hợp với nhau trên con đường nên thánh.
Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống. Tách lìa Người, chúng ta không thể sống, càng không thể phát triển được. Thiên Chúa là dòng sông ân sủng. Khi kết hiệp với Người, ân sủng tuôn đổ vào linh hồn, làm cho chúng ta được sống và sống sung mãn. Ân sủng thấm nhập nội tâm, uốn nắn tình cảm, củng cố ý chí, sinh ra những hoa trái thiêng liêng trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Nhờ kết hiep mật thiết với Chúa, chúng ta được sống sự sống của Người, nói lời nói của Người, hành động theo gương của Người, phán đoán theo chuẩn mực của Người, nhìn con người và sự việc bằng cặp mắt của Người, yêu thương bằng trái tim của Người. Khi sự kết hiệp đã đến mức hoàn hảo, chính Người hành động qua ta và vì thế, những hoa trái sẽ vô cùng phong phú.
Bài đọc 1, kể chuyện thánh Phaolô trở lại trên đường Đamat. Từ con người phản nghịch trơ thành con người của ơn thánh. Từ con người ghét đạo trở thành con người nhiệt thành rao giảng Tin Mừng. Phaolô đã đúc kết mối liên kết cuộc đời mình với Chúa Kitô trong một câu bất hủ: "Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi" (Gal 3, 20).
“Đức Kitô sống trong tôi”nên tôi mới sinh hoa trái yêu thương như lời Thánh Gioan trong bài đọc 2: “Ai tuân giữ giới răn của Thiên Chúa thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ơ trong kẻ ấy. Và giới răn của Thiên Chúa là tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và yêu thương nhau như Ngài đã truyền dạy”. Thánh Gioan còn căn dặn: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm”. “Sinh hoa trái” là yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, đem niềm vui và hạnh phúc cho người khác.
Lúc ban đầu, khi các môn đệ mới theo Chúa, Thánh Gioan viết: “Các môn đệ đã đến xem chỗ Ngài ở và lưu lại với Ngài” (Ga 1,39). Sau những năm sống với Chúa, Thánh Gioan đổi cách dùng ngôn ngữ: “Các con hãy ở lại trong Thầy cũng như Thầy ở trong các con” (Ga 15, 17). Ở với là ở bên cạnh. Ở trong là trọn vẹn thuộc về người ấy. Khi Phêrô ở với Chúa là ở bên cạnh thôi nên vẫn còn hai bước chân khác nhau, hai ý nghĩ không chung đường và Phêrô đã có những bước chân sai đi lạc lối. Con ở trong là nên một trong nhau. Chính nhờ ở trong Chúa mà Phêrô đã trở nên con người mới, hoàn toàn thuộc về Chúa.
“Ở lại trong” và “gắn liền với” Chúa là điều kiện cần thiết để “sinh nhiều hoa trái”. Chúa Giêsu đã song chân lý đó trong sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa Cha, và Ngài đã cầu nguyện cho chúng ta được nên một với Ngài trong sự sống đó (Ga 17,21-22).Chúng ta kết hợp với Chúa qua đời sống cầu nguyện, Thánh Lễ và các Bí Tích. Chúng ta còn kết hợp với Chúa qua việc biểu lộ lòng trung tín như lời Thánh Phêrô: "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6,68).
“Gắn liền với” hay “ở lại trong” Chúa Giêsu, chúng ta sẽ nhận được sức sống, sức mạnh của Ngài, chúng ta sẽ có một cuộc đời tươi đẹp, ý nghĩa, chẳng những đầy nội lực, an vui, hạnh phúc mà còn là nguồn sức mạnh, nguồn an vui hạnh phúc cho mọi người nữa. Moi liên kết này làm cho chúng ta có cùng bản tính với Chúa Giêsu, được nên một với Ngài: một sự sống, một tình yêu, một tinh thần, một ý chí và hành động. Từ đó, trở nên chi thể trong nhiệm thể Chúa Kitô, chúng ta là oc để suy tư, là mắt để nhìn thực tại trần thế, là tai để nghe tiếng rên rỉ đòi hỏi, là vai để vánh vác, là tay để cứu vớt, là chân để đi đến với người khổ đau, là quả tim để khắc khoải yêu thương, và là miệng để nói những lời bác ái ủi an (ĐHY 341).
Dụ ngôn “cây nho” là bài diễn từ về cuộc sống siêu nhiên. Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy luôn gắn bó mật thiết với Chúa. Nhờ ân sủng của Chúa, đời sống chúng ta sẽ trổ sinh nhiều hoa trái tốt lành. Hoa trái chính là yêu thương, chia sẻ, cảm thông, tấm lòng rộng mở, biết quan tâm đến người khác. Sống được như vậy, chúng ta mới xứng đáng là môn đệ của Đấng Phục Sinh, đồng thời cũng làm cho Chúa Cha ngày càng được vinh hiển, như lời dạy của Chúa Giêsu: “Đây là điều làm cho Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái, và như thế, các con trở nên môn đệ của Thầy”.
38. Không sống trước mặt Chúa, mà sống trong Chúa.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Đoạn Phúc Âm này trích ở bài giảng thứ hai của Chúa trong bữa Tiệc ly –Và cần được đặt vào trong bầu khí thánh lễ tạ ơn, tâm điểm của Tiệc ly. Việc Chúa làm phép và tiến dâng rượu khiến ta nhớ đến dụ ngôn cây nho. Cựu Ước từng dùng cây nho để chỉ dân Chúa. Ở đây Chúa muốn cho người ta biết Chúa thực hiện trong Người một tập hợp gồm ơn tuyển chọn, sự quan phòng chiếu cố và phương thế cứu rỗi –mà thời xưa người ta gán cho dân Chúa. Tư tưởng chính của đoạn văn tập trung vào thực tại cảu sự kết hợp, ngay từ dưới thế, gữa người Kitô hữu và Đức Kitô. Kitô hữu không sống trước mặt Đức Kitô, nhưng sống trong Đức Kitô. Ta ghi nhận, trong đoạn văn ngắn này, từ ngữ “trong Ta” được thánh chép sử dùng tới 5 lần.
1) Kitô hữu được nối mạch với Đức Kitô giống như cành nho được tháp vào gốc nho. Không có Đức Kitô thì người Kitô hữu chẳng là gì hết. Nhờ Đức Kitô mà người tín hữu được sống, có được nhựa sống, và khả năng kết trái. Có thể trên gốc nho nảy ra một cành không theo quy luật thiên nhiên về cây giống –nó chỉ tốt cành tốt lá mà không cho quả. Nhà trồng nho gọi nó là “giống tham ăn”, chặt và liệng đi. Phải chăng có thể có những người lãnh nhiệm vụ rao giảng Phúc Âm mà không sinh hoa kết quả? Thưa có, đấy là những kẻ không quan tâm sống nhờ vào Chúa, vẫn rao giảng Phúc Âm theo lối riêng. Thánh Inhaxiô thành Antiôchia, ở thế kỷ thứ hai, từng nhận xét: “Hãy đề phòng những cục bướu có hại trên thân nho, chúng không do Đức Giêsu Kitô chăm bón, vì chúng không được Chúa Cha vun trồng. Những cục u bướu đó là hình bóng những kẻ nào xưng mình là thuộc về Giáo Hội và Phúc Âm mà thật sự không sống hiệp thông với Đức Giêsu Kitô”.
2) Nhành nào sinh quả, Cha Ta tỉa sạch để nó sinh quả nhiều hơn. Nhìn vào cung cách Thiên Chúa dẫn dắt người tín hữu ngay thật, chúng ta thấy tất cả được sắp đặt sao cho nhiều hoa sai quả –quả đây là sự thành toàn số mệnh theo thánh ý Chúa. Sống trong Đức Kitô, người tín hữu được nuoi dưỡng bằng lời giảng dạy và gương mẫu Chúa, bằng lời Chúa, ân sủng nội tâm và Mình Máu Thánh Người. Tuy vậy vẫn có thể xảy ra điều này: do một sự quá dồi dào tư tưởng, quá nhiều dự định, một sự thiếu sáng suốt, mot tật nguyền tâm thần –một sự yếu đuối của ý chí v,v… bỗng nhiên nổi lên trong người đó sự lầm lạc này hoặc sự bất trung nọ. Chính vào lúc đó, nhắm vào quả đang lớn cần được gìn giữ cho tới lúc chín, Chúa ra tay xén tìm lòng trí người đó, thanh luyện y, loại bỏ những cành thừa chẳng ích lợi gì vì tranh chiếm sinh lực cần cho cây sống. Tất nhiên là đau xót, nhưng tránh được, vì đây là quy tắc cuộc chơi. Trung kiên trong đức tin và thanh khiet trong sự ngay lành –cả hai đem lại những thực nghiệm đau khổ.
Lại nữa, làm sao người ta có thể ở trong Đức Kitô mà lại không theo Chúa trên đường hy sinh được? Muốn hái quả kỳ diệu của sự sống lại thì phải làm cuộc vượt qua bằng thập giá. Thập giá Chúa chính là sự lột bỏ trơ trụi cực độ của Chúa. thập giá của chúng ta là sự thanh luyện cực độ. Nếu đôi khi chúng ta cảm tháy như thể Chúa Cha tỉa xén trong xác thịt, trong linh hồn, trong trái tim chúng ta, những lúc đó chúng ta hãy cố thu hút nhiều hơn nữa chất sống từ Đức Kitô, hãy dũng cảm vì lời hứa của những trái đang chờ chín.
39. Kết hiệp với Chúa
(Suy niệm của Huệ Minh)
Đêm trở gió! Sáng dậy, vừa bước chân ra sân thì nhìn thấy cành xoài bị gãy! Đó là hậu quả của đêm hôm qua với cơn lốc và gió mạnh đi qua.
Cành xoài nặng trĩu những bông hoa đang đơm trái cũng như những trái non đang lớn nay đã không còn liền cây nữa. Chỉ có một chuyên duy nhất là lất cái cưa ra để cưa phần còn lại dính cây và dọn dẹp bãi "chiến trường".
Trưa đến, vài người trong xóm ghé nhà thấy cây xoài xum xuê hoa và trái cảm thấy tiếc nuối cùng gia chủ. Không phải chỉ cây xoài nhà tôi bị gãy cành tối qua nhưng những cây gần nhà xung quanh xóm cũng cùng chung số phận với cây xoài nhà tôi do cơn lốc lớn.
Tiếc thương cũng rồi bởi lẽ không có cách nào ghét được cái cành gãy lìa khỏi thân.
Nhìn cây xoài mất cành chợ nhớ đến hình ảnh cây nho ngày hôm nay Chúa nói trong trang Tin Mừng.
Để diễn tả mối tình thân giữa mình với các môn đệ, Chúa Giêsu dùng hình ảnh rất gần gụi trong đời sống đó là cây nho và cành nho. Dĩ nhiên ai ai cũng biết rằng cành nho sinh hoa kết quả khi nó gắn liền thân nó vào cây nho. Cũng như cành xoài kia, muốn có hoa quả tiếp tục thì không có cách nào khác là phải gắn vào cành cây.
Hình ảnh thân thương đó gợi lên cho ta hình ảnh thật gần với Thầy Giêsu. Chúa Giêsu diễn tả mối thân tình giữa các môn đệ và Chúa Giêsu sẽ sinh nhiều hoa trái nếu như cành đó được tỉa sạch đi những chỗ khuyết chỗ dư.
Như thế, càng kết hiệp với Chúa Giêsu, càng cắt tỉa đời mình thì người môn đệ cũng sẽ sinh nhiều bông hạt như lòng Chúa mong muốn.
Hẳn nhiên, nếu ta kết hợp thật, kết hợp thân tình thì ta sẽ sinh những hoa quả thật.
Điều này, ta thấy Thánh Gioan tông đồ vừa nhắc nhở ta rất chân tình trong thư của Ngài: Các con thân mến, chúng ta đừng yêu bằng lời nói và miệng lưỡi, nhưng bằng việc làm và chân thật. Do đó, chúng ta biết mình thuộc về sự thật, và sẽ được vững lòng trước mặt Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có khiển trách chúng ta, thì Thiên Chúa còn lớn hơn lòng chúng ta và Người thông biết mọi sự.
Có lẽ, nếu như Chúa Giêsu đến và hỏi ta thì ta cũng sẽ nói rằng: "Lạy Chúa! Chúa biết con kết hợp với Chúa mà!"
Nhưng, kỳ thực ta sống với Chúa như thế nào? ta kết hợp thân tình với Chúa như thế nào chỉ có ta mới lượng định được thôi.
Một ngày, Chúa ban cho mỗi người chúng ta đồng đều như nhau là 24 giờ và 1 tuần lễ có 7 ngày. Ai cũng biết và ai cũng có quỹ thời gian như thế nhưng thử hỏi ta sống với Chúa được bao nhiêu giờ trong ngày và bao nhiêu giờ trong tuần.
Hẳn nhiên ta cũng sẽ trả lời vời Chúa rằng: "Chúa ơi! Con phải lo cơm áo gạo tiền, con phải vất vả với cuộc sống lắm!"
Lý do ngụy biện của ta đúng lắm vì ai ai cũng phải lo kế sinh nhai. Thế nhưng trong thực tế ta có bận đến độ như ta biện minh với Chúa hay không?
Chỉ là 1 giờ đồng hồ để gắn kết với Chúa 1 tuần nhưng ta vẫn thường tính trước tính sau và cân đo đong đếm với Chúa. Dường như ta sợ đến với Chúa nhiều giờ ta cảm thấy thiệt thòi và lỗ vốn hay sao đó!
Không phải là nhiều nhưng có những người tìm đến vời nhà thờ ở Sài Gòn nổi tiếng với lễ Chúa nhật có giảng luôn chỉ vỏn vẹn 30 phút! Đến với Chúa còn tính đến độ đó thì làm gì có thời gian, có tâm tình ở lại với Chúa được.
Không chỉ với Chúa người ta tính thời gian như thế nhưng rồi ngay cả ở với nhau người ta còn tính toán.
Một thực tế rõ ràng trong cuộc sống: Giữa cuộc sống bộn bề hối hả, các bậc cha mẹ thường bị cuốn theo công việc và những mối lo toan hàng ngày. Vì thế, họ ít dành thời gian để trò chuyện hoặc chơi với con, với gia đình. Điều đó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành nhân cách và sự hòa nhập của trẻ trong tương lai cũng như sự gắn kết với nhau trong tình gia đình.
Một câu chuyện thật dễ thương mà chắc ai nào đó cũng đã từng được nghe: Bán cho con 1 giờ của cha”.
Câu chuyện đã làm tôi suy nghĩ mãi, nội dung câu chuyện nói về việc đứa con muốn người cha của em dành cho em một khoảng thời gian nên em đã hỏi cha. "Cha ơi, một giờ làm việc cha kiếm được bao nhiêu tiền?”. Người cha đó mới đầu đã rất bực khi nghe đứa con bé bỏng của mình hỏi vậy. Nhưng ông đã cho con biết một giờ làm được bao tiền, sau khi nghe cha nói em bé đã hỏi xin người cha tiền. Người cha quát: "Sao con ích kỷ thế, cha đã làm việc cả ngày vất vả mà con còn xin tiền để mua đồ chơi vớ vẩn. Thằng bé nhìn cha vội vã trở về phòng. Sau khi tắm rửa, cơm nước và nằm thoải mái xem tivi, người cha sực nhớ lại hành động của mình hồi sáng và cảm thấy tội nghiệp thằng bé. Có thể thằng bé muốn mua một cái gì đó và ông đã đưa cho con tiền. Thằng bé bật dậy lấy tiền của cha và lấy thêm một chút tiền lẻ mà nó đã để dành được dưới gối. Thằng bé nói: "Con đủ tiền rồi, cha bán cho con 1 giờ làm việc của cha đi. Con muốn cha chơi với con nhưng lúc nào cha cũng bận làm việc"!
Hãy dành thời gian cho con cái, cho gia đình của bạn, đó là thông điệp mà các thiên thần nhỏ cũng như gia đình của bạn đang mong muốn.
Vì thế dù bận đến đâu đi chăng nữa ta hãy dành một chút thời gian cho con ta, cho vợ ta cho chồng ta, cho gia đình ta đôi khi chỉ là để nghe con giải thích và đừng bao giờ để con bạn nói rằng: “Bán cho con 1 giờ làm việc của bố đi!”
Chúa cũng sẽ nói với ta: "Bán cho Chúa 1 giờ làm việc của con cho Ta".
Xin Chúa thêm ơn cho ta để ta vượt giới hạn con người nhỏ bé của ta để ta dành thời gian đời ta cho Chúa và gắn kết đời ta với Chúa. Chỉ khi ta gắn kết đời ta với Chúa thì khi đó ta mới sinh ra những hoa quả như lòng Chúa mong muốn mà thôi.
40. Để sinh trái phải kết hợp với cây Giêsu
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật thứ IV vừa qua Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh cụ thể tuyệt đẹp và đầy cảm động để diễn tả tương quan rất dễ thương giữa Thiên Chúa với Dân Ngài là " Mục tử" và "đàn chiên". Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dùng một bức họa phuc dụ về cây nho và nhành nho, tự ví von mình là cây nho thật, các môn đệ là nhành và Chúa Cha là người trồng nho. Chúa nói: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho" (Ga 15,1). Các môn đệ là nhành để có nhiều hoa trái thì phải kết hợp với Chúa như cành với cây, như dây với đàn. Điều này không có gì lạ, vì trong Kinh Thánh, rất nhiều lần dân Itraen được sánh ví với vườn nho sai trái khi trung tín với Thiên Chúa; nhưng một khi họ xa Chúa, tức cành lìa khỏi cây, họ trở nên khô héo, không còn khả năng làm ra "loại rượu làm phấn khởi lòng người" nữa (x. 104,15).
Thuật ngữ "hoa trái" được lặp đi lặp lại cả thảy sáu lần trong đoạn Tin Mừng (Ga 15,1-8), cho thấy hoa trái là điều tối cần đối với cây. Người trồng nho nào khi cắm nho xuống đất lại chẳng hy vọng vào tương lai vườn nho sẽ cho nhiều hoa trái. Chúa Cha muốn chúng ta sinh nhiều hoa trái, đó là chuyện bình thương. Chúa Giêsu khẳng định: "Chính Ta đã chọn các ngươi, và đã đặt các ngươi ra, ngõ hầu các ngươi đi và sinh trái, và trái trăng của các ngươi còn mãi " (Ga 15,16).
Ngày chúng ta chịu phép Rửa tội, Giáo Hội đã tháp nhập chung ta như những nhành cây nho vào Mầu nhiệm Phục sinh và Khổ Nạn của Chúa Giêsu là thân cây nho. Từ gốc nho này chúng ta lãnh nhận nhựa sống và sống sự sống của Chúa Giêsu, tự bản chất là sinh hoa kết quả khi kết hiep với Chúa Giêsu, hầu được tham dự vào cuộc sống vĩnh hằng. Như các môn đệ, chúng ta cũng vậy, nhờ sự trợ giúp của các Mục tử trong Giáo hội, chúng ta lớn lên trong vườn nho của Chúa, được bao bọc trong tình yêu của Ngai. Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI viết:"Nếu hoa trái của chúng ta là tình yêu, thì điều tạo ra hoa trái này chính là việc "ở lại" cách thâm sâu và trung tín với Chúa" (Gesù di Nazaret, Milano 2007, 305). Điều quan trọng là luôn gắn kết với Chúa Giêsu, phụ thuộc vào Người bởi vì "nhành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho" (Ga 15,4). Chúa Giêsu nói rõ ràng, "các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy" (Ga 15,5).
Chúng ta là kitô hữu, nghĩa là người có Đức Kitô, sinh nhiều hoa trái chứng tỏ chúng ta là môn đệ, là chi thể đích thực của Chúa Kitô. Chúa đã từng lên án những cây vả cằn cỗi chỉ có lá không có quả. Người kết an tên đầy tớ vô dụng đã mang bạc của chủ đi chôn. Người trách mắng những người Pharisêu không làm công việc của cha họ là Abraham (Ga 8, 39). Chúng ta đã được ghép vào thân cây mới, cây nho Giêsu. Chính nhựa Giêsu, và sự hiện diện của Chúa Giêsu khi chúng ta nhận lãnh trong Thánh Thể đổi mới chúng ta: " Nhành nào sinh trái thì Cha Thầy tỉa sạch để nó sai trái hơn'' (Ga 15, 2). Chúa Giêsu nói: "Thầy là cây nho thật" (Ga 15, 1).
Hoa quả mà Chúa Cha hy vọng nơi chúng ta, là những việc lành phúc đức, là những công việc tốt chúng ta làm. Mang lại hoa trái không có nghĩa là làm những điều phi thường, nhưng là những điều bình thường. Hoa quả ấy là những việc lành phúc đức, là những việc tốt chúng ta làm. Nhưng thử hỏi: kết hiệp với Đức Kitô như thế nào để giúp chúng ta sinh nhiều hoa trái? Thưa, đức tin và đức ái, nghĩa là ở trong ân sủng của Thiên Chúa. Nếu chúng ta sống trong an sủng, các hành vi đạo đức của chúng ta sẽ là hoa trái dễ chịu của Chúa Cha. Thật quí trọng biết bao khi luôn được sống trong ân sủng của Thiên Chúa! "Ai không ở trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như ngành nho, và sẽ khô heo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa cho nó cháy đi" (Ga 15, 6).
Để là những cây sinh trái, chúng ta phải gắn bó với Chúa Kitô như nhành nho với cây nho, được Chúa Thánh Thần soi sáng, chúng ta mới có thể sinh nhiều hoa trái. Hoa trái ở đây theo thánh Phaolô là hoa trái của Thần Khí cụ thể như: "Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ" (Gl 5,22-23)
Mang lại hoa trái là đưa ban tay ra giúp người ốm đau bệnh tật, thăm người già sống cảnh cô đơn, giúp đỡ những người khổ đau nghèo đói, an ủi và biết cách lắng nghe cũng như khuyến khích và tha thứ cho những người xúc phạm chúng ta, tích cực tham gia vào đời sống của giao xứ, chia sẻ với mọi người.
Để có được nhiều hoa trái, chúng ta phải là những nhành cây duy trì mối quan hệ thường xuyên với Thầy Chí Thánh Giêsu là thân cây. Vì vườn nho thật của Thiên Chúa, có cây nho thật là Chúa Giêsu. Như Đức Kitô ở lại trong tình yêu của Chúa Cha, các môn đệ cũng thế, những người được cắt tỉa nhờ Lời của Thầy mình. Nếu các môn đệ gắn kết với Thầy cách thâm sâu, họ trở thành những nhành nho sai trái, làm cho vụ mùa bội thu. Thánh Phanxicô de Sale viết: "Cành liên kết với thân và sinh trái không bởi tự chính nó nhưng là nhờ thây cây: hiện nay chúng ta được gắn kết trong tình mến với Đấng Cứu Thế như chi thể với đầu. Vì thế, nhưng việc lành phúc đức hưởng nhờ từ Người đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu" (Trattato dell'amore di Dio, XI, 6, Roma 2011, 601).
Thiên Chúa cần chúng ta để tái tạo một thế giới tốt hơn, một thế giới của sự tôn trọng, huynh đệ và yêu thương. Thiên Chúa cần đến bàn tay, đôi chân và tấm lòng của chúng ta. Lời Chúa nhắc nhớ chúng ta rằng nếu kết hợp với Đức Kitô, như cành nho với cây nho, chúng ta sẽ nhận được sức mạnh và sức sống, chúng ta yêu mến nhau và chúng ta sinh nhiều hoa trái. "Ai ở lại trong Thầy kẻ ấy sẽ sinh nhiều hoa trái" (Ga 15, 5).
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết luôn gắn bó và kết hiệp với Chúa cho đến trọn đời ngõ hầu sinh được nhiều hoa thơm trái tốt như lòng Chúa mong ước. Amen.
41. Ở trong Chúa để sinh nhiều trái tốt
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
"Mục tử" và "đàn chiên" là hình ảnh tuyệt đẹp và cảm động để diễn tả tương quan rất dễ thương giữa Thiên Chúa với Dân Ngài. Cây với cành nho được Chúa Giêsu dùng còn hơn thế nữa, khi Người ám chỉ chẳng những kết hợp chặt chẽ giữa Thiên Chúa với Dân Người, mà còn thông truyền sự sống, cành sống nhờ cây, cây truyền nhựa cho cành, cả cây lẫn cành ngoài tùy thuộc vào đất cát, khí trời, còn phụ thuộc vào người trồng nho nữa.
1) Ở trong…
Với phúc dụ về cành và cây nho, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự “ở trong”. “Ở trong” là động từ chìa khóa của Tin Mừng Gioan, nghĩa là thiết định một chỗ ở, ở nói lên sự ổn định ‘an cư lạc nghiệp’. Đây là kế hoạch đầy tình thương của Thiên Chúa: chúng ta là những thụ tạo bất xứng, tội lỗi, thế mà Chúa mời gọi chúng ta ở với Chúa. Salomon đã ngỡ ngàng kêu lên ngày ông thánh hiến Đền thờ Giêrusalem: “Liệu, có thực, Thiên Chúa ở trên mặt đất không?” (1 V 8, 27).
Sự ngạc nhiên của Salomon chẳng có là gì so với người kitô khi được Thiên Chúa chọn ở trong đời và trong lòng ta. Thiên Chúa quyết định ở trong chúng ta, thật là tuyệt vời, nhưng Tình Yêu vô biên của Thiên Chúa không thể tháp nhập vào lòng chúng ta được, nếu chính Thiên Chúa không ban ơn để chúng ta lãnh nhận. Thiên Chúa chỉ ở trong tâm hồn những người như Đức Maria, Trinh Nữ, người tớ nữ khiêm nhường của Thiên Chúa, và là Mẹ Thiên Chúa, hơn ai hết, Mẹ đã dành để cho Thiên Chúa một chỗ xứng đáng trong đời của Mẹ, thân xác Mẹ chính là nơi Thiên Chúa ngự.
Như Đức Maria, điều quan trọng là phải có lòng chân thành và ngay thẳng, nghĩa là tâm hồn ước muốn: chỉ một điều là Con Thiên Chúa đến ở cùng chúng ta. Người tín hữu cần phải có ước muốn cao thượng là nên thánh. Như thế, chúng ta có thể tìm thấy nơi Thiên Chúa sự an toàn, niềm vui, lòng thương xót và bình an. Để minh họa hình ảnh này, Chúa Giêsu nói: “Thầy là cây nho, các con là nhành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái…” (x. Ga 15,4-8). Ở trong Chúa Giêsu không thể không sinh trái được, trái lại, ai ở trong Chúa sẽ sinh nhiều hoa trái, là những trái tình yêu, tình yêu nảy sinh niềm vui. Chúng ta có thể nói mà không sợ lầm rằng niềm vui là hoa quả đích thực, dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Cây nho sản sinh ra rượu nho, rược làm hoan hỉ lòng người, dấu chỉ của niềm vui.
2) Chúa Kitô là cây nho thật
Cựu Ước mô tả Thiên Chúa có một vườn nho chính là dân Chúa, có lúc Chúa than phiền: “Có điều chi nên làm cho vườn nho ta mà ta không làm cho nó chăng? Cớ sao khi ta mong sanh trái nho, thì nó lại sanh trái nho hoang vậy?” (Is 5,6). Trong Cựu Ước, nói đến vườn nho là nói đến sự mong đợi của Thiên Chúa. Tân Ước khẳng định chính Chúa là cây nho “Thầy là cây nho thật”. Cây nho thật sinh nhiều trái tốt. Ngược lại, cây nho “xấu” không có trái, có đi chăng nữa thì cũng chỉ là trái chua chát.
Thật khủng khiếp biết bao khi Thiên Chúa đến tìm hoa trái nơi con người là tình yêu mà không thấy con người đáp trả tình yêu của Chúa. Người đầu tiên đáp lại tình yêu của Thiên Chúa lại là chính Con Một Thiên Chúa, đã trở nên con của lòng người, đây là Cây Nho sinh toàn trái thơm, trái ngọt như Thiên Chúa mong muốn: hoa thơm quả ngọt là tình yêu. Chúa Giêsu là cây nho thật sinh trái tình yêu dâng lên Chúa Cha và trao tăng cho anh em.
Đối với Thiên Chúa, việc cây nho không đáp ứng được sự mong chờ của ông chủ nên mới có thảm kịch, ông chủ tự hỏi: “Có điều chi nên làm cho vườn nho ta mà ta không làm cho nó chăng?”. Nho sinh trái dại là một điều bi thảm đối với người trồng nho.
Khi nói: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái …” (Ga 15,4-8). Vậy nếu chúng ta ở kết hợp với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ có sự sống nơi Người, và chúng ta sẽ sinh nhiều hoa trái. Khi ở và kết hiệp với Người chúng ta tiếp tục công việc của người là trao ban sự sống và tình yêu cho tha nhân; khi tách lìa Người chúng ta phá hủy công việc của người và sinh ra hoa trái sự chết.
3) Thực hành
Vậy thì, ở trong Người như thế nào, gắn bó và kết hiệp với Người ra làm sao? Trước hết hãy cầu xin Chúa ban ơn để chúng ta có thể “ở trong Người”, thiết lập tương quan Tình Yêu đối với Người. Nếu chúng ta không nài xin Tình Yêu, chúng ta không thể lãnh nhận được ân sủng và Tình Yêu.
Thứ đến, hãy vun trồng lòng biết ơn lúc ở trong nhà Chúa, vì một tấm lòng biết ơn là một tấm lòng trung thành, phúc cho những ai được Thiên Chúa yêu thương, người ấy không còn là tôi tớ nhưng là bạn, bạn hữu của Chúa Giêsu, người ấy yêu Chúa và yêu tha nhân.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta một đức tin vững vàng, đức cậy nồng nàn và lòng mến yêu tha thiết, để chúng ta tin tưởng tháp nhập vào Chúa, gắn chặt với Chúa trong tình yêu, để sinh hoa quả tình yêu là việc lành phúc đức, ngõ hầu thông truyền tình yêu và lòng bác ái cho anh chị em chúng ta. Amen.
42. Cây Nho Thật
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Ga 15: 1-8: Hình ảnh cây nho và các cành nho cho thấy sự kết hợp ("ở lại") thâm sâu và sự hiệp thông thường trực giữa Đức Giêsu và các môn đệ chân thật của Người
Hình ảnh cây nho là một hình ảnh đẹp, đã từng gợi hứng cho các văn nhân nghệ sĩ Công giáo cũng như các nhà thuyết giảng đi tới những sáng tác tưởng chừng lãng mạn, nhưng thật ra sâu sắc về tương quan giữa Chúa Cha và Đức Giêsu, và tương quan giữa Đức Giêsu và chúng ta.
Trước khi đi vào khám phá sứ điệp của bản văn, chúng ta cũng nên nắm vững cấu trúc của bản văn như sau:
Bản văn đầy đủ là 15,1-17. Ta có thể xác định được ranh giới các phân đoạn (15,1-8.9-11.12-17) nhờ các câu "đóng khung" ("Cha Thầy": 15,1.8; "sinh hoa trái": 15,2.8; "nhiều": 15,2.8; "điều răn/truyền dạy": 15,12.17; "để anh em thương yêu nhau": 15,12.17).
Riêng phân đoạn có bố cục đồng tâm như sau:
A = 1-2
B = 3-4a
C = 4bcd
D = 5
C'= 6
B'= 7
A'= 8
I. Khám phá sứ điệp Tin Mừng: Ga 15,1-8
Cho tới đây, trong bài diễn từ cáo biệt (ch. 13 đến ch. 17 của Tin mừng Thứ tư), Đức Giêsu đã đặc biệt cho thấy là Người không để các môn đệ phải cô đơn và đã nói những gì họ phải làm để ở lại kết hợp với Người theo nhiều cách. Bây giờ Người lưu ý họ về sự kiện là, sau khi Người đã được nâng lên, họ sẽ phải mang hoa trái, sẽ phải có một nhiệm vụ truyền giáo. Người cho họ biết họ cần gì để chu toàn được nhiệm vụ này.
Cấu trúc của bản văn 15,1-8 với trung tâm là c. 5 (D): "Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được". Bản văn nêu bật đề tài trung tâm là nhu cầu hiệp nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ để sinh nhiều hoa trái. Quả thật, dụ ngôn "Cây nho thật" tập trung vào việc mang hoa trái (15,2.4.5.8.16). Chỉ có trong hai đoạn khác, Đức Giêsu mới cũng nói đến trái (quả), đó là trong những đối thoại với các môn đệ. Khi Người nhấn mạnh trên sự kiện là được người Samari đón tiếp và nhận biết, Người đã nói với các môn đệ: "Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi (= trái/quả) để được sống muôn đời […}. Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra" (4,36.38). Khi lần đầu tiên một vài người Hy Lạp đến tìm Người, Người đã giải thích cho các môn đệ: "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (12,24; x. 15,5.8). Trong cả hai trường hợp, bản văn nhắm đến sự kiện là cộng đoàn những người tin vào Đức Giêsu tăng trưởng và đi xa hơn vòng các môn đệ hiện thời. Đức Giêsu là hạt lúa chết đi để sinh nhiều hoa trái. Nhưng Người cũng là cây nho mà các cành phải mang những trái tốt tươi. Trong dụ ngôn đầu, Người nói đến tầm quan trọng của cái chết của Người để lôi kéo các tín hữu đến với Người (x. 12,32); trong dụ ngôn thứ hai, Người cho thấy hoa trái của các môn đệ Người hệ tại điều gì.
Nói rằng bản văn nhấn mạnh trên việc "mang hoa trái", chúng ta thấy điều này qua ba lần lặp lại cụm từ "nhiều hoa trái" ở đầu (c. 2), ở giữa (c. 5) và ở cuối (c. 8), tức là ở yếu tố đầu, yếu tố trung tâm và yếu tố cuối của cấu trúc đồng tâm (x. cả "sinh [mang] hoa trái" ở cc. 2ab.4b). Để sinh hoa trái, cần phải "ở lại" (= kết hợp) với Đức Giêsu: điều này được khẳng định thật rõ ràng bằng hai cách: cách tích cực ("ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em": c. 4a; "ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy": c. 5b; "nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em": c. 7ab) và cách tiêu cực ("nếu không ở lại [gắn liền] với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy": c. 4cd; "ai không ở lại trong Thầy": c. 6a). Hệ luận của việc không ở lại trong Đức Giêsu - cây nho, đó là cành ấy không sinh hoa trái (c. 4bc) và sẽ bị chặt đi (c. 2a), bị quăng ra ngoài và bị đốt đi (c. 6bcde). Trong khi các cành không sinh hoa trái thì bị cắt đi (c. 2a), các cành mang hoa trái được Chúa Cha là người trồng nho cắt tỉa (c. 2b) nhờ lời của Người (c. 3b) mà Đức Giêsu đã nói ra. Trong thực tế, chính là lời hoặc mạc khải của Đức Giêsu đã thanh luyện các môn đệ (c. 3; x. 13,10). Sự hiện diện thường trực hoặc sự ở lại của các lời Người trong các môn đệ là một điều kiện để cho lời cầu nguyện của họ được nhận (c. 7) bởi vì chính mạc khải của Đức Giêsu đã được đón vào trong tim các môn đệ mới biến đổi con tim họ, làm cho con tim họ đồng thanh tương ứng với con tim của Đức Giêsu và của Chúa Cha, khiến cho lời thỉnh cầu của họ sẽ phù hợp với ý muốn của Chúa Cha. Các môn đệ ấy, giống như các cành khỏe mạnh thường xuyên hút được nhựa sống từ cây nho, sẽ sản sinh hoa trái dồi dào và tôn vinh Chúa Cha (c. 8), là người trồng nho (c. 1).
II. Chiêm ngắm Chúa Giêsu:
Từ lễ Phục sinh, xuất hiện một cây nho mới, cây nho đích thật, cây nho sẽ đưa lại sức mạnh và niềm vui cho mọi người. Hình ảnh cây nho và các cành nho cho thấy sự kết hợp ("ở lại") thâm sâu và sự hiệp thông thường trực giữa Đức Giêsu và các môn đệ chân thật của Người, cũng như nêu bật dây liên kết bên trong bằng việc mang hoa trái. Giống như cành nho, vì liên kết với cây nho, được thông dự vào sự sống của cây nho, người tín hữu, nhờ gắn bó với Đức Kitô, được thông dự vào sự sống chân thật, là sự sống của chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự thông dự này bó buộc họ phải sống và hành động theo nếp sống mới đã được Đức Giêsu mạc khải cho biết. Nếu không có một sự liên kết hoàn hảo, chúng ta không phải ngạc nhiên khi thấy hoa trái chúng ta sản sinh toàn là hoa trái chua chát và khô khan, không thể lấp đầy các bình rượu thế giới bằng rượu mới.
III. Gợi ý bài giảng:
1. Ẩn dụ cây nho và Tiệc Thánh Thể.
Đoạn văn này trích từ bài diễn từ thứ hai của bữa Tiệc ly. Muốn đọc phong phú, nên đăt bản văn vào trong bầu khí của cử hành Thánh thể là trung tâm của bữa Tiệc ly. Lời chúc phúc và thánh hiến rượu nhắc đến ẩn dụ cây nho. Cựu ước đã dùng hình ảnh cây nho mà ví Dân Thiên Chúa. Ở đây, Đức Giêsu muốn nói rằng Người thực hiện nơi bản thân Người toàn bộ sự tuyển chọn, sự ân cần và phương tiện cứu độ mà xưa kia được gán cho Dân Chúa. Tư tưởng chính của bản văn tập trung vào sự kết hợp ngay ở trần gian này giữa Kitô hữu và Đức Kitô.
2. Một sự liên kết không thể thiếu.
Bất cứ kết quả phong phú nào về truyền giáo của các môn đệ đều hoàn toàn tùy thuộc việc họ được liên kết với Đức Giêsu. Bất cứ toan tính nào nhắm đạt tới một kết quả mà lại không cần tới Người thì chỉ có thể thất bại. Không có Người, các môn đệ không thể làm gì được. Do đó, họ phải tìm cách ở trong thế liên kết với Người ngày càng chặt chẽ và vững chắc hơn. Sự cần thiết này càng cấp bách do chỗ chính Thiên Chúa quan tâm đến việc họ mang hoa trái và sẽ đối xử với họ tương ứng theo đó (c. 2). Tất cả tùy thuộc sự kết hợp của các môn đệ với Đức Giêsu. Làm thế nào để họ có thể trở thành những cành nho cứ lớn lên mà vẫn liên kết với cây và được phong phú nhờ dòng nhựa của cây ? Các môn đệ ở lại trong Đức Giêsu nếu các lời của Người ở lại trong họ (c. 7) và nếu họ tuân giữ các giới răn của Người (15,10). Tất cả phát xuất từ Đức Giêsu: các lời và các giới răn phát xuất từ Người. Nhiệm vụ của các môn đệ là đón nhận cách đúng đắn sáng kiến này của Đức Giêsu. Như thế, họ được liên kết với Người và sẽ có thể sinh hoa trái.
3. Hoa trái tôn vinh Chúa Cha.
Trong cách Thiên Chúa hướng dẫn người tín hữu chân thành, mọi sự được quy hướng đến chỗ sinh hoa kết trái, như là dấu chứng tỏ người ấy đã đạt được mục tiêu của đời mình. Khi sống trong Đức Kitô, người Kitô hữu được nuôi dưỡng bằng giáo huấn, gương sáng, Lời, ân sủng bên trong, Thánh thể của Người. Tuy nhiên, có khi do hứng khởi vì những ý tưởng, những dự phóng, hoặc có khi chỉ là do thiếu sáng suốt, do trí tuệ yếu kém, do ý chí yếu đuối, v.v., người tín hữu lạc vào một sai lầm hay rơi vào một thất trung nào đó. Chính khi đó, vì nhắm tới hoa trái, Chúa Cha cắt tỉa linh hồn và con tim con người ấy, thanh luyện người ấy, xén đi những gì đang chiếm các năng lực của người ấy cách vô ích. Khi đó, chắc chắn có đau đớn. Nhưng làm sao tránh khỏi hy sinh, khi muốn bước theo Đức Kitô và ở lại với Người ? Nếu đôi khi Chúa Cha dường như cắt xén vào xác thịt chúng ta, trong linh hồn chúng ta, chúng ta hãy cứ nuôi dưỡng mình thêm bằng dòng nhựa của Đức Kitô và giữ vững can đảm vì nhìn tới các hoa quả đầy hứa hẹn.
Cứ tiếp tục suy tư từ bài dụ ngôn "Cây nho thật", chúng ta biết rằng cây nho sinh trái ở cành. Các cành không có đó để trang điểm cho cây nho. Chính các cành sai trái chứng tỏ sự khỏe mạnh và sức sống dồi dào của cây nho. Nhưng "sinh nhiều trái" không phải là kết quả của một nỗ lực của con người; đó là kết quả của niềm tin sinh động đặt nơi Đức Giêsu. Tuy nhiên, toàn thể tiến trình lại là công việc của người trồng nho, là Chúa Cha.
43. Xây dựng Giáo Hội – Jean-Yves Garneau.
MỘT HỢP ĐỒNG KHÁC HẲN.
Trong sách Tông đồ Công vụ, người ta kể lại rằng nhờ hoạt động của thánh Phaolô và các môn đệ khác, “Giáo Hội (sơ khai) được xây dựng, tiến triển và lớn lên” trong tất cả vùng Giuđê, Galilê và Samari. Khi đọc những dòng này, chúng ta không nên chỉ nghĩ về quá khứ mà thôi; chúng ta cũng phải xem hiện tại nữa vì ngày nay Giáo Hội còn phải được xây dựng. Và chính chúng ta theo gương thánh Phaolô và các môn đệ đầu tiên, phải là các nghệ nhân của việc xây dựng này. Thiên Chúa chờ đợi chúng ta xây dựng Giáo Hội của Ngài.
Lời mời gọi bắt tay vào việc và hiến dâng tất cả năng lực của chúng ta để cộng tác vào việc xây dựng Giáo Hội, lời đó chúng ta đã thường được nghe, nhất là từ Công đồng Vatican II.
Phải thú nhận rằng lời mời gọi đó khiến chúng ta hơi khó chịu một chút. Quả thật, chúng ta ít có thói quen xây dựng Giáo Hội. Hồi trẻ, người ta đã không thực sự dạy chúng ta truyền đạt cho kẻ khác đức tin và niềm hy vọng của chúng ta. Người ta đã không khai tâm chúng ta để trở thành thừa sai và chứng nhân trong một môi trường ngày càng không biết đến Thiên Chúa hoặc ở đó người ta thường sống như thể không có Ngài. Làm gì đây, phải hành động thế nào để xây dựng Giáo Hội tại nơi nay và hôm nay? Những bài Thánh Kinh chúng ta vừa nghe đã mang đến lời giải đáp cho câu hỏi này, chúng thu hút sự chú ý của ta về nhiều điểm quan trọng. Chúng ta sẽ ghi nhận ba điểm.
1. Tin vào Chúa Kitô và lưu lại nơi Ngài.
Để xây dựng Giáo Hội, trước hết phải tin vào Chúa Kitô. Người ta sẽ nói đó là chuyện hiển nhiên rồi. Có lẽ. Tuy nhiên, ta hãy nhớ rằng đức tin mà thánh Gioan nói đến không phải chỉ là chấp nhận sứ điệp của Chúa Kitô và những chân lý mặc khải trong trí mà thôi. Phải làm hơn thế nữa. Đó là gắn bó với Chúa Kitô. Đó là hiệp thông với Ngài. “Ai lưu lại nơi Thầy và Thầy lưu lại nơi người đó, kẻ ấy mang nhiều hoa trái” (Ga 15,5).
Thánh Phaolô, vị tông đồ vĩ đại đã chăm lo rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, một ngày nọ đã được Chúa Kitô thu hút và đã hiến dâng mình cho Ngài. Thánh Phêrô, Andrê, Giacôbê, Gioan và những vị khác trong nhóm Mười Hai cũng đa say mê Chúa Giêsu và họ đã từ bỏ mọi sự vì Ngài. Họ đã sống nhờ Ngài, trong Ngài… bởi Thần Khí của Ngài. Vậy nên, hết thảy họ đều là những kẻ xây dựng Giáo Hội cách tuyệt vời vào thời đại của họ. Bao giờ cũng thế thôi. Những kẻ lưu lại nơi Chúa Kitô sẽ làm được nhiều việc cho Ngài và cho Giáo Hội của Ngài.
2. Thương yêu nhau.
Điều kiện thứ nhì để xây dựng Giáo Hội được nêu lên trong thư thứ nhất của thánh Gioan: Đó là “thương yêu nhau như Chúa Kitô đã căn dặn chúng ta” (1Ga 2,23). Có sự mâu thuẫn rõ rệt khi muốn xây dựng Giáo Hội mà không thương yêu nhau, vì Giáo Hội là nơi của tình hữu nghị, nơi mà những con người –tứ xứ và hết thảy đều có những đức tính tốt và tật xấu- tụ họp nhau lại và nhận nhau là anh em. Không những chỉ bằng lời nói (điều này bao giờ cũng dễ dàng), nhưng trong sự thật.
Mỗi lần tình yêu thương giữa chúng ta lớn lên và được phát triển –tình yêu thương cụ thể được biểu hiện trong việc đón tiếp kẻ khác, trong việc thông cảm với kẻ khác, tha thứ cho kẻ khác…- thì chính Giáo Hội lớn lên và được phát triển.
3. Dám mạo hiểm.
Điều kiện thứ ba để góp phần xây dựng Giáo Hội: dám mạo hiểm. Ở đây, ta phải nhờ gương thánh Phaolô tông đồ. Ngài biết lên tiếng, dám lên tiếng ngay cả khi điều đó không làm hài lòng mọi người. Ngài không sợ tự khẳng định mình ngay cả khi ngài chắc chắn rằng sự can thiệp của ngài sẽ gây khó khăn cho ngài. Những người Do Thái nói tiếng Hy lạp, đã tranh luận với ngài tại Giêrusalem, tìm cách thủ tiêu ngài, sách tông đồ Công vụ (9,29) kể lại cho chúng ta như thế. Có bao giờ chúng ta dám mạo hiểm… dù là trong những điều rất nhỏ, nhân danh Chúa Kitô… vì quyền lợi và sự phát triển của Giáo Hội Ngài không?
Tóm lại, chúng ta phải xây dựng Giáo Hội và phải có ít nhất ba điều kiện để lam việc đó: kết hợp với Chúa Kitô, thương yêu nhau và đôi khi dám mạo hiểm. Và bây giờ, chúng ta hãy tự hỏi: chúng ta có phải là những người tích cực xây dựng Giáo Hội trong môi trường sống của mình không?
44. Như cành liền cây.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một trong những chất liệu cần thiết được sử dụng trong Thánh Lễ đó là rượu nho. Rượu nho này được làm thành từ trăm ngàn trái nho ép lấy nước và để lên men đến một nồng độ và chất lượng do Toà Thánh ấn định để được sử dụng làm rượu lễ. Rượu nho ở nước ta chưa đủ tiêu chuẩn để được phép sử dụng trong Thánh Lễ. Vì thế phải nhập khẩu từ các nước Âu Châu, như Pháp, Tây Ban Nha, những nước có truyền thống trồng nho từ lâu đời và chuyên môn sản xuất những loại rượu nho nổi tiếng thế giới. Rượu lễ chúng ta đang sử dụng được nhập khẩu từ Công ty De Muller, S.A. ở Tarragona, Tây Ban Nha.
Nhìn những vườn nho, ai không có kinh nghiệm trong nghề trồng nho chắc chắn phải tiếc xót khi thấy những cành nho bị cắt tỉa khỏi thân nho. Thế nhưng, đây là định luật cơ bản trong nghề trồng nho: có được cắt tỉa, cành nho mới sinh hoa kết quả. Vào tháng hai, tháng ba, người trồng nho cắt những cành nào thấy không thể sinh trái, nhiều khi để lại thân cây trơ trụi. Đến tháng tám khi nho đâm ngành trổ lá, ông lại tỉa hết những nhánh con, để những nhánh lớn có trái được sức sống của thân cây nhiều hơn..
Hình ảnh của vườn nho và cây nho là hình ảnh quen thuộc trong Kinh Thánh và thường được dùng để cảnh cáo, đe doạ, khiển trách dân Israel: Ngôn sứ Giêrêmia đã nói: “Ta trồng người như cây nho sai trái, được tuyển chọn giống tốt. Sao người lại trở thành cây nho dại, sinh trái chua lòm” (Gr 2,21). Ngôn sứ Isaia cũng đã có cả một bài ca về vườn nho, vì dân Israel như nho quí, nhưng đã trở thành nho dại, khiến chủ vườn nho phải bỏ hoang phế (x. ls, 1-7).
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự nhận là “cây nho thật” và “Chúa Cha là người trồng nho”, để xác minh rằng: đây là cây nho dại sinh trái chua lòm. Cây nho thật này do Chúa Cha trong tỉa để đem lại hoa trái sự sống dồi dào:
“Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh trái nhiều hơn”… “Thầy là cây nho, anh em là cành”.
Như cành gắn liền với thân cây nho mới sống được và sinh hoa trái. Nếu cành nào tách rời khỏi thân cây nho, sẽ khô héo và làm mồi cho lửa. Cũng vậy, người tín hữu phải sống kết hợp với Chúa Kitô mới có sự sống của Thiên Chúa và được sống đời đời, nếu không, sẽ chết đi và bị quăng vào lửa. Vì vậy, mối quan hệ giữa Chúa Giêsu và các Kitô hữu là một mối quan hệ mật thiết đến nỗi cả hai trở nên như một, vì cùng sống chung một sự sống. Chúa Kitô và các Kitô hữu tạo thành một cộng đồng sự sống, như các chi thể trong một thân thể mà Thánh Phaolô gọi là Nhiệm Thể, hay là Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô. Trong Nhiệm Thể ấy, các chi thể liên kết với nhau và liên kết với một đầu như các cành nho liên kết với thân cây nho và một gốc nho. Cũng như nhựa sống giao lưu từ gốc nho đến các cành cây, thì sự sống cua Thiên Chúa cũng được chuyển đến các chi thể như trong một thân thể. Như thế, các Kitô hữu được gắn với nhau vào một gốc là Chúa Giêsu: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”.
Một điểm khác cũng được Chúa Giêsu nhấn mạnh ở đây, đó là “cành nho phải sinh hoa trái”. Người Kitô hữu không chỉ gắn với thân cây mà còn phải sinh hoa trái nữa. Bởi vì, không thiếu những cành gắn chặt với cây mà không sinh trái nào. Những cành đó sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa. Không sinh trái là bằng chứng không còn “ở trong Thầy”. Không còn kết hợp với Thầy, mặc dầu bên ngoài vẫn là một cây “xanh rờn”! Sinh hoa kết quả dồi dào mới trở thành người môn đệ thật cua Thầy. Hình ảnh có thể làm cho chúng ta sửng sốt. Đâu phải đợi đến khi bị liệt vào hạng khô khan, nguội lạnh hay phạm những tôị tầy đình mới bị loại khỏi cộng đoàn của Chúa. Sự sống từ Chúa Giêsu chỉ có hai trạng thái: sinh trái hoặc không sinh trái, không có trạng thái thứ ba, hiểu theo nghĩa “cầm hơi”, “cầm chừng”. Người Kitô hữu trở thành môn đệ của Chúa Kitô bằng chính việc sinh nhiều hoa trái và Thiên Chúa được tôn vinh cũng bằng chính việc người Kitô hữu sinh nhiều hoa trái. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy”.
Thế nào là sinh hoa kết trái? Chúng ta có thể tìm thấy cây trả lời ngay trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Gioan nói: “Ai tuân giữ giới răn của Thiên Chúa thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong kẻ ấy. Và giới răn của Thiên Chúa là tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và yêu thương nhau như Ngài đã truyền dạy”. Thánh Gioan còn căn dặn: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm”. Do đó, chúng ta có thể hiểu được rằng, “sinh hoa trái” là yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, tạo dựng hạnh phúc cho người khác. Phải phục vụ lợi ích thật của anh em, thì mới nói được rằng chúng ta đang ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong chúng ta. Chỉ có tình thương yêu đích thực, thực từ trong lòng ra hành động, mới là tình yêu thương hiệp nhất, hiệp nhất chúng ta nên một với anh em, hiệp nhất chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô là “cây nho Chúa Cha trồng tỉa” để sinh nhiều hoa thơm trái ngọt.
Hình ảnh của sự cắt tỉa còn gợi lên một sự mất mát, đau đớn. Thế nhưng, mất mát dẫn đến thắng lợi, khổ đau dẫn đến vinh quang, sự chết dẫn đến Phục Sinh. Đó là bài học xuyên suốt cuộc đời, lời rao giảng và cái chết của Chúa Giêsu. Trong suốt hơn 2000 năm qua, Giáo Hội đã tiến bước với niềm xác tín ấy. Nhựa sống từ thân cây nho là Chúa Giêsu đã không ngừng nuôi sống Giáo Hội. Với cái nhìn đức tin, người ta vẫn nhìn thấy cái được trong cái mất: Qua việc trở lại với những giá trị của Tin Mừng, với cốt lõi của Tin Mừng, Giáo Hội cởi bỏ được chiếc áo của quyền lực và hào nhoáng, để mặc lấy tinh thần phục vụ, khiêm tốn, đơn nghèo. Sự hoán cải của nhiều Kitô hữu trở thành con đường cho những người thành tâm thiện chí tìm gặp được Chúa Kitô. Giáo Hội sinh nhiều con cái là nhờ các chi thể của mình là những cành nho luôn đươc cắt tỉa.
Như cành liền cây mới sống được và phải cắt tỉa mới sinh nhiều hoa trái, người Kitô hữu phải sống nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mới có thể sống như Chúa Kitô, sống cho Thiên Chúa và cho mọi người anh em. Đó là đòi hỏi căn bản của đời sống Kitô hữu. Người Kitô hữu nào yêu thương mọi người anh chị em một cách chân thành, có hiệu quả bằng việc làm cụ thể, giúp đỡ, bảo vệ, xây dựng xã hội, đồng bào, đất nước… người Kitô hữu ấy mới thật là người ở trong Thiên Chúa, kết hợp với Chúa Kitô, mới thật là cành nho gắn liền với cây nho.
45. Như cành liền cây
(Suy niệm của Lm Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Ga 15: 1-8: "Sinh hoa trái" là yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, tạo dựng hạnh phúc cho người khác...
Một trong những chất liệu cần thiết được sử dụng trong Thánh lễ đó là rượu nho. Rượu nho này được làm thành từ trăm ngàn trái nho ép lấy nước và để lên men đến một nồng độ và chất lượng do Tòa Thánh ấn định để được sử dụng làm rượu lễ. Rượu nho ở nước ta chưa đủ tiêu chuẩn để được phép sử dụng trong Thánh lễ. Vì thế phải nhập khẩu từ các nước Âu châu, như Pháp, Tây Ban Nha, những nước có truyền thống trồng nho từ lâu đời và chuyên môn sản xuất những loại rượu nho nổi tiếng thế giới. Rượu lễ chúng ta đang sử dụng được nhập khẩu từ Công ty De Muller, S.A. ở Tarragona, Tây Ban Nha.
Nhìn những vườn nho, ai không có kinh nghiệm trong nghề trồng nho chắc chắn phải tiếc xót khi thấy những cành nho bị cắt tỉa khỏi thân nho. Thế nhưng, đây là định luật cơ bản trong nghề trồng nho: có được cắt tỉa, cành nho mới sinh hoa kết quả. Vào tháng hai, tháng ba, người trồng nho cắt những cành nào thấy không thể sinh trái, nhiều khi để lại thân cây trơ trụi. Đến tháng tám, khi nho đâm ngành trổ lá, ông lại tỉa hết những nhánh con, để những nhánh lớn có trái được sức sống của thân cây nhiều hơn…
Hình ảnh của vườn nho và cây nho là hình ảnh quen thuộc trong Kinh Thánh và thường được dùng để cảnh cáo, đe dọa, khiển trách dân Israel: Ngôn sứ Giêrêmia đã nói: "Ta trồng ngươi như cây nho sai trái, được tuyển chọn giống tốt. Sao ngươi lại trở thành cây nho dại, sinh trái chua lòm" (Gr 2,21). Ngôn sứ Isaia cũng đã có cả một bài ca về vườn nho, ví dân Israel như vườn nho quí, nhưng đã trở thành nho dại, khiến chủ vườn nho phải bỏ hoang phế (x.Is,1-7).
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tự nhận là "cây nho thật" và "Chúa Cha là người trồng nho", để xác minh rằng: đây là cây nho giống tốt, sinh trái ngon ngọt, không như cây nho dại sinh trái chua lòm. Cây nho thật này do Chúa Cha trồng tỉa để đem lại hoa trái sự sống dồi dào:
"Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh trái nhiều hơn"… "Thầy là cây nho, anh em là cành".
Như cành gắn liền với thân cây nho mới sống được và sinh hoa trái. Nếu cành nào tách rời khỏi thân cây nho, sẽ khô héo và làm mồi cho lửa. Cũng vậy, người tín hữu phải sống kết hợp với Chúa Kitô mới có sự sống của Thiên Chúa và được sống đời đời, nếu không, sẽ chết đi và bị quăng vào lửa. Vì vậy, mối quan hệ giữa Chúa Giêsu và các kitô hữu là một mối quan hệ mật thiết đến nỗi cả hai trở nên như một, vì cùng sống chung một sự sống. Chúa Kitô và các kitô hữu tạo thành một cộng đồng sự sống, như các chi thể trong một thân thể mà Thánh Phaolô gọi là Nhiệm Thể, hay là Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô. Trong Nhiệm Thể ấy, các chi thể liên kết với nhau và liên kết với một Đầu như các cành nho liên kết với thân cây nho và một gốc nho. Cũng như nhựa sống giao lưu từ gốc nho đến các cành cây, thì sự sống của Thiên Chúa cũng được chuyển đến các chi thể như trong một thân thể. Như thế, các kitô hữu được gắn với nhau vào một gốc là Chúa Giêsu: "Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em".
Một điểm khác cũng được Chúa Giêsu nhấn mạnh ở đây, đó là "cành nho phải sinh hoa trái". Người kitô hữu không chỉ gắn với thân cây mà còn phải sinh hoa trái nữa. Bởi vì, không thiếu những cành gắn chặt với cây mà không sinh trái nào. Những cành đó sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa. Không sinh trái là bằng chứng không còn "ở trong Thầy", không còn kết hợp với Thầy, mặc dầu bên ngoài vẫn là một cây "xanh rờn" ! Sinh hoa kết quả dồi dào mới trở thành người môn đệ thật của Thầy. Hình ảnh có thể làm cho chúng ta sửng sốt. Đâu phải đợi đến khi bị liệt vào hạng khô khan, nguội lạnh hay phạm những tội tầy đình mới bị loại khỏi cộng đoàn của Chúa. Sự sống từ Chúa Giêsu chỉ có thể là sức sống, là động lực làm nở hoa kết trái. Chỉ có hai trạng thái: sinh trái hoặc không sinh trái, không có trạng thái thứ ba, hiểu theo nghĩa "cầm hơi", "cầm chừng". Người kitô hữu trở thành môn đệ của Chúa Kitô bằng chính việc sinh nhiều hoa trái và Thiên Chúa được tôn vinh cũng bằng chính việc người kitô hữu sinh nhiều hoa trái. Chúa Giêsu đã khẳng định: "Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy".
Thưa anh chị em,
Thế nào là sinh hoa kết trái ? Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời ngay trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Gioan nói: "Ai tuân giữ giới răn của Thiên Chúa thì ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong kẻ ấy. Và giới răn của Thiên Chúa là tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và yêu thương nhau như Ngài đã truyền dạy". Thánh Gioan còn căn dặn: "Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thật sự bằng việc làm". Do đó, chúng ta có thể hiểu được rằng, "sinh hoa trái" là yêu thương một cách hữu hiệu, bằng việc làm có sức biến đổi môi trường chung quanh, tạo dựng hạnh phúc cho người khác. Phải phục vụ lợi ích thật của anh em, thì mới nói được rằng chúng ta đang ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong chúng ta. Chỉ có tình thương yêu đích thực, thực từ trong lòng ra hành động, mới là tình yêu thương hiệp nhất, hiệp nhất chúng ta nên một với anh em, hiệp nhất chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô là "cây nho Chúa Cha trồng tỉa" để sinh nhiều hoa thơm trái ngọt.
Hình ảnh của sự cắt tỉa còn gợi lên sự mất mát, đau đớn. Thế nhưng, mất mát dẫn đến thắng lợi, khổ đau dẫn đến vinh quang, sự chết dẫn đến phục sinh. Đó là bài học xuyên suốt cuộc đời, lời rao giảng và cái chết của Chúa Giêsu. Trong suốt 2000 năm qua, Giáo Hội đã tiến bước với niềm xác tín ấy. Nhựa sống từ thân cây nho là Chúa Giêsu đã không ngừng châu lưu trong Giáo Hội. Với cái nhìn đức tin, người ta vẫn nhìn thấy cái được trong cái mất: Qua việc trở lại với những giá trị của Tin Mừng, với cốt lõi của Tin Mừng, Giáo Hội cởi bỏ được chiếc áo của quyền lực và hào nhoáng, để mặc lấy tinh thần phục vụ, khiêm tốn, đơn nghèo. Sự hoán cải của nhiều kitô hữu trở thành con đường cho những người thành tâm thiện chí tìm gặp được Chúa Kitô. Giáo Hội sinh nhiều con cái là nhờ các chi thể của mình là những cành nho luôn được cắt tỉa.
Như cành liền cây mới sống và phải cắt tỉa mới sinh nhiều hoa trái, người kitô hữu phải sống nhờ Chúa Kitô, với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mới có thể sống như Chúa Kitô, sống cho Thiên Chúa và cho mọi người anh em. Đó là đòi hỏi căn bản của đời sống kitô hữu. Người kitô hữu nào yêu thương mọi người anh chị em một cách chân thành, có hiệu quả bằng việc làm cụ thể, giúp đỡ, bảo vệ, xây dựng xã hội, đồng bào, đất nước… người kitô hữu ấy mới thật là người ở trong Thiên Chúa, kết hợp với Chúa Kitô, mới thật là cành nho gắn liền với cây nho.
46. Nối kết với Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm. Gioan Cao Vũ Nghi, CRM)
Truyện kể về một người sống trong một làng hẻo lánh thuộc miền thượng du. Nhờ một cơ hội hiếm có, ông được đặt chân lần đầu tiên đến một thành phố. Tuy không có nhiều tiền, nhưng ông cũng muốn đem về một cái gì đó để khoe với dân làng. Sau khi đã thăm nhiều nơi trong thành phố, một trong những cái làm ông thích thú nhất là các ánh đèn chiếu sáng trong phố. Với số tiền trong túi, ông đã mua một ít bóng điện và công tắc điện. Vừa khi trở về tới làng, việc đầu tiên là ông treo những bóng đèn đó trong nhà ngoài ngõ trước nhà ông. Làng xóm qua lại thấy lạ nên hỏi, nhưng ông chỉ trả lời: "Chịu khó chờ đi. Đến tối sẽ biết." Khi ánh mặt trời vừa ngả bóng, ông trịnh trọng bật các công tắc. Nhưng lạ quá, bóng đèn chẳng sáng gì cả. Tội nghiệp cho ông. Chẳng ai bảo cho ông biết là cần phải có điện lực, thì bóng đèn mới chiếu sáng được.
Hồi nhỏ tôi có anh bạn rất giỏi về khoa nói. Chuyện gì hắn cũng nói vào được. Một hôm hắn nghe bài hát “Thầy là cây nho, các con là cành” hắn liền nhái ngay ra “Thầy là con cua, các con là càng. Càng nào kết hợp cùng cua sẽ bò nhanh hơn cáy...” Cả bọn chúng tôi vỗ tay hoan hô, nhưng ông thầy dạy giáo lý nghe được gọi hắn lên cho hắn một bài ‘moral’ khá dài. Ngày nay nghĩ lại, ông thầy hơi nghiêm nghị. Những nơi như ở Việt nam thời xưa, biết cây nho thế nào đâu. Nhưng nói con cua thì ai cũng biết. Nên càng cua cần liên kết với thân cua, chúng ta cần liên kết với Chúa Giêsu.
"Không có Thầy, các con không thể làm gì được" (Ga 15:5). Sống trong cuộc đời, nhiều người nghĩ rằng họ có tất cả: bằng cấp có, việc làm có, gia đình có, nhà cửa xe hơi có. Nhưng khi bóng chiều của cuộc đời buông xuống, khi nhắm mắt lìa đời, họ mới biết họ chỉ có hai bàn tay trắng. Họ có thể thành công trong cuộc đời, nhưng vì không được nối kết với nguồn gốc sự sống đích thực, nên "lời lãi cả thế gian, mà thiệt hại phần linh hồn thì được ích gì?" (Mt 16:26).
Nếu họ đã biết liên kết với Chúa Kitô, thì họ đã "sinh nhiều trái" (Ga 15:5). Tuy là theo giáo lý của Chúa Kitô, để có thể "sinh nhiều trái", điều đòi buộc là phải hy hiến chính mình. Hoa quả đầu tiên phát sinh do sự hy hiến bản thân này chính là tình yêu. Một tình yêu dám hy hiến bản thân mình vì người mình yêu. Vì là những cành cây được nối liền với thân cây là Chúa Kitô, chúng ta tin rằng sức mạnh và ân sủng của Chúa đang tuôn chảy vào tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta có thể sống tình yêu hy sinh như Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta.
Qua Bí tích Rửa tội, các Kitô hữu đã được nối kết với Chúa Kitô. Nhưng nối kết với Chúa Kitô mà thôi thì chưa đủ. Chúng ta cũng cần phải cắt tỉa những cành, những nhánh cây đang cản trở chúng ta sống đời yêu thương. Những cành cây cần phải cắt tỉa là những thành kiến, những ác cảm thù hận, những lối sống buông thả ích kỷ.
Cắt tỉa những cành cây độc hại rồi, chúng ta cũng cần phải củng cố những cành cây tốt mỗi ngày mỗi nối kết chặt chẽ hơn với thân cây. Chúng ta cần năng lãnh nhận Mình Máu Thánh Chúa, để chúng ta được nuôi dưỡng bởi ân sủng của Chúa, giúp chúng ta tăng triển trong niềm Tin Yêu. Ngoài ra, Lời Chúa là kho tàng quan trọng cho đời sống tâm linh của chúng ta. Lời Chúa soi đàng hướng dẫn chúng ta sống theo gương lành Chúa Kitô đã để lại cho chúng ta trong Phúc Âm.
Thế giới chúng ta đang sống có thể đem đến cho con người một cuộc sống thoải mái, đến nỗi nhiều người nghĩ rằng họ không cần sự trợ giúp của Thiên Chúa. Nhưng khi chúng ta để tâm nhìn lại bản thân, chúng ta biết rằng chúng ta rất cần Chúa. Một cuộc sống xem ra thoải mái, thường thì lại bị xen lẫn với lắm khổ đau. Chỉ với ơn Chúa, chúng ta mới tìm được sức mạnh để chịu đựng, tìm được ý nghĩa cho những khổ đau và gánh nặng trong cuộc đời. Nếu chúng ta có Chúa trong cuộc đời, và nếu chúng ta để cho Chúa thanh tẩy con người của mình, chúng ta có thể trở nên những cành cây với nhiều hoa trái tốt tươi. Những hoa trái không những làm tươi mát cuộc sống của chính mình, mà còn nuôi dưỡng lòng tin yêu mến Chúa của nhiều tâm hồn.
47. Hiệp thong với Đức Kitô
(Suy niệm của Lm. Bùi Mạnh Tín)
Những sinh hoạt liên quan đến nghề trồng nho và ép rượu đã trở thành quen thuộc trong đời sống của người dân tại Palestina. Chúa Giêsu dùng những sinh hoạt này để diễn tả mối liên quan và sự hiệp thông giữa Ngài và các môn đệ. Đây là sự hiệp thông tuyệt đối cần thiết phải có, nếu con người muốn lãnh nhận sức sống thần linh và được cứu độ. Ngài khẳng định: "Như cành nho tự nó không the sinh trái, nếu không dính liền với cây nho. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh hoa trái". Lời tuyên bố này là một chân lý, một điều kiện, một định luật. Thật vậy, con người được Thiên Chúa tạo dựng, mang trong mình hình ảnh của Ngài và cùng đích phải đạt tới chính là được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa.
Được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, con người hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa, mang theo những khát vọng cao vời, những tiềm năng thánh thiện và những chiều kích vĩnh cửu. Do đó, con người phải quy hướng về Chúa, phải tiến dần về đích điểm của mình, dù còn đang sống trên trần gian. Khi chưa đạt được khát vọng này, con người vẫn cảm thấy bất an thiếu thốn, đúng như Thánh Augustinô đã nhận định: "Linh hồn tôi được tạo dựng cho Thiên Chúa, nên nó cứ băn khoăn xao xuyến bao lâu chưa gặp được Ngài".
Nhưng làm cách nào để đạt được sự hiep thông trọn vẹn này, khi nhân loại đã thực sự xa lìa Thiên Chúa và đã chết trong sự bất trung của nguyên tổ, như Thánh Phaolô nói, "Tội lỗi đã vào thế gian, mang theo sự chết" (Rom 5,12) bởi vì "những đam mê của xác thịt luôn phản lại Thiên Chúa, không vâng phục lề luật Thiên Chúa" (Rom 8,7)? Chúa Kitô, Đấng Cức Độ nhân loại, chính là câu trả lời và là giải đáp cho vấn đề của chúng ta. Nói cách khác, Đức Kitô đã đến trần gian, đã gap gỡ nhân loại, đã giáo huấn con người, đã dùng chính tình thương và sức mạnh của Thiên Chúa để tái lập sự hiệp thông này. Một phương thế nổi bật nhất trong kế hoặch được dự liệu, chính là việc thiết lập các bí tích, trong đó, bí tích Thánh Thể được coi là hữu hiệu nhất để dẫn tới sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa. Chúa Kitô tuyên bố: "Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, sẽ có sự sống đời đời".
Ngày 18 tháng 11-2005 tại Roma, Đức Thánh Cha Bênêđictô đã gặp các em bé mới rước lễ lần đầu. Một em tên là Andrea hỏi Đức Thánh Cha:
- Thưa Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha có kỷ niệm gì về ngày rước lễ lần đầu của Đức Thánh Cha không?
Đức Thánh Cha trả lời:
Đó là một ngày Chúa Nhật cuối tháng Ba, năm 1936, cách đây 69 năm. Trong ngày đó, Cha hứa với Chúa Giêsu, theo khả năng của Cha: "Con muốn luôn ở với Chúa". Và Cha đã xin Ngài: "Nhưng trước hết, xin Chúa hãy ở với con". Từ đó, Chúa Giêsu đã luôn nắm tay Cha, dắt Cha đi trong những tình huống khó khăn.
Ở lại với Chúa và Chúa ở lại với ta. Đó chính là sự hiệp thông mang lại hoa trái siêu nhiên, như Chúa đã ước mong và diễn tả trong dụ ngôn về cây nho. Do đó, lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha phải là lời cầu nguyện thường xuyên và tha thiết nhất của mỗi người chúng ta, nếu chúng ta thực sự muốn trở thành những cành nho luôn sinh hoa trái.
48. Thoái hoá làm mất phẩm chất – Lm Tạ Duy Tuyền
Ngày nay người ta đang nói nhiều về sự thoái hoá đạo đức của một số phần tử trong xã hội. Họ tự đánh mất căn tính của mình. Họ không còn giữ được phẩm chất của chính mình. Sự thoái hoá đã làm cho họ biến chất từ tốt ra xấu. Từ thanh sạch ra dơ bẩn. Từ hữu dụng ra vô dụng. Sự thoái hoá đạo đức có thể đến với bất cứ ai. Và cũng có thể làm băng hoại đủ mọi thành phần, cho dù là hàng trí thức hay dân hen, một khi đã bị thoái hoá là họ đã đánh mất căn tính con người là "nhân chi sơ tính bản thiện". Sự thoái hoá có mặt trong mọi ngành nghề, trong mọi cấp bậc. Sự thoái hoá làm mất đi đạo đức nghề nghiệp, mất đi lương tam trong sáng chỉ còn là những tham sân si vô độ.
Trong năm giáo dục gia đình, chúng ta cũng không thể không đau lòng trước những hiện tượng thoái hoá đạo đức và nhân cách của con người hôm nay như: cô giáo hành hung và xúc phạm học trò; học trò đánh thầy giáo, mẹ đánh chết con ruột, cháu nội hành hạ bà nội cho đến chết. Tại sao lại có những chuyện phi nhân thất đức như vậy? Văn hoá đạo hiếu Việt Nam có còn giá trị hay đã bị tha hoá bơi đời sống vô tâm của con người hôm nay?
Có một câu chuyện ngày xưa kể rằng: một lần vua Nước Bắc muốn làm nhục sứ giả Nước Nam qua triều cống. Ông đã bắt một người dân Nước Nam vừa ăn trộm ra trước mặt sứ giả để làm nhục. Vua Nước Bắc bảo rằng: "Phải chăng người Nước Nam hay ăn trộm?". Sứ giả Nước Nam khiêm tốn trả lời: "Thưa bệ hạ! Cây táo trồng ở Nước Nam thì ngọt nhưng khi mang qua Nước Bắc trồng thì quả lại chua. Phải chăng người này ở Nước Nam thì tốt nhưng khi qua Đất Bắc đã biến chất rồi chăng?"
Nhìn lại phận người chúng ta đôi khi cũng giống như Cây Táo được trồng ở Đất Bắc. Con người là hình ảnh Thiên Chúa đôi khi cũng bị biến chất khi trong vào thế gian. Con người cũng bị những thói đời sa đoạ làm băng hoại tâm hồn. Con người cũng bị những đam mê của danh lợi thú làm huỷ hoại danh giá, nhân phẩm của chính mình. Con người dễ bị đánh mất căn tính của mình la "nhân linh hơn vạn vật". Con người dễ bị bị thoái hoá bởi tưởng mình chỉ là một loài vật: sinh ra - lớn lên - rồi chết nên cứ việc lao vào những cuộc truy hoan trác táng, những thói đời hưởng thụ tầm thường.
Các tiên tri thời Cựu ước đã từng tiếc nuối cho dân tộc Israel là "vườn nho của Chúa" đã bị biến chất. Tiên tri Isaia đã thất vọng vì vườn nho nhà Israel đã bị hoang tàn. Tiên tri Giê-rê-mi-a đau buồn vì dân tộc ông đã "biến thành mot cây nho lạ, thoái hoá thành một cây khác". Còn Ô-sê thì kêu lên trong đau đớn: "Israel là một cây nho trơ trụi". Tất cả những từ ngữ đó đều diễn tả một đời sống thoái hoá đạo đức của một số phần tử Do Thái. Họ đa không sống theo đường lối Chúa. Họ đã thờ ngẫu tượng. Họ sống hình thức dẫn đến giả hình, giả dối. Họ bị men biệt phái kiêu căng làm biến chất. Họ thờ Thiên Chúa trên môi miệng nhưng thực chất họ đã xa lìa Chúa từ trong tâm hồn.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta kín múc nguồn sống đích thực từ Thiên Chúa. Chúa mời gọi chúng ta hãy để cho sự sống của Chúa tuôn chảy trong tâm hồn chúng ta. Hãy sống gắn bó với Chúa, kết hợp với Chúa như cành liên cây để có thể sinh hoa kết trái là những việc lành phúc đức. Hãy ở lại trong Chúa để hiểu rằng con người chúng ta có một phẩm giá vô cùng cao quý là "giống với thần linh, là hình ảnh Thiên Chúa". Hãy biết gìn giữ phẩm giá cao quý ấy bằng việc chế ngự những đam mê tội lỗi, những thói đời truỵ lạc. Hãy làm chủ hành vi của mình bằng việc: biết sống theo lẽ phải, biết thể hiện phẩm giá của mình là tạo vật biết thiện và ác, thế nên phải biết làm điều thiện và tránh điều ác. Hãy bám vào Thiên Chúa hơn là bám vào những phù vân mau qua đời này. Hãy khiêm tốn cúi mình thờ lạy Chúa hơn là thờ lạy tạo vật. Hãy vì Chúa mà sống cao thương hơn là vì tiền, vì tình, vì quyền mà sống thấp hèn. Hãy nhớ rằng: trần gian là tạm bợ. Thiên đàng mới là vĩnh cửu. Đừng vì những vinh hoa phú quý phù hoa này mà xa lìa Thiên Chúa. Xa lìa Thiên Chúa như cành lìa cây sẽ bị thoái hoá và héo khô.
Nguyện xin Chúa Giê-su Phục sinh luôn ở lại trong cuộc đời chúng ta để dẵn dắt chúng ta đi trong chân lý vẹn toàn. Xin cho nguồn thánh ân Chúa tưới gội tâm hồn chúng ta mãi thanh sạch xứng đáng la hình ảnh của Chúa. Amen.
49. Tinh thần khô – Lm Vũ Đình Tường
Tinh thần héo hon, khô cằn xảy đến khi Kitô hữu tự hào nói tôi mặc dù không đến thánh đường, không tin đạo nhưng sống theo tâm linh. Tâm linh đó không thể đến từ Đức Kitô. Đó là loại tâm linh khô cằn, héo hon, gầy gò.
không có Thầy anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo, người ta nhặt lấy quăng vào lửa cho nó chay đi- Gioan 15,6.
Con người xã hội cần tình yêu để để yêu và được yêu. Có hai loại tình yêu: một là tình yêu từ trời cao hai là tình yêu từ xã hội. Tình yêu từ trời cao đến từ Đức Kitô và tình yêu xã hội đến từ thế giới.
Đón nhận tình yêu từ trời cao, từ Đức Kitô, người đó sẽ nhìn đời bằng con mắt của Thiên Chúa và suy nghĩ cũng như hành động dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần Chúa. Đón nhận tình yêu từ xã hội người đó sẽ nhìn sự vật qua lăng kính xã hội. Người đó sẽ sống và hành động theo phong cách của xã hội. Tình yêu từ trời cao là tình yêu vô vị lợi và không có điều kiện kèm theo trong khi tình yêu xã hội bị giới hạn với những điều kiện đi kèm. Cả hai loại tình yêu đều xén tỉa cuộc sống người đón nhận nó bởi xén tỉa là cách làm cho mới và trong sáng để sinh hoa trái tốt hơn. Cuộc sống không sinh hoa trái không sinh ích cho ai. Kitô hữu tin tưởng bất cứ hình thức xén tỉa nào Thiên Chúa dùng đều có chung một mục đích là làm cho ta trở nên tốt lành hơn, thăng tiến trên đường lành thánh. Chúa chăn nuôi, chăm sóc để ta sinh hoa trái tốt hơn. Mục đích xén tỉa trong xã hội cũng có chung mục đích là làm thế nào có lợi cho công ti. Làm thế nào để cuối năm tính sổ thâu lợi nhuận nhiều hơn. Nếu lợi nhuận nhiều thì người đó sẽ được hưởng một phần của lợi nhuận như được thăng chức với bổng lộc kèm theo; trái lại nếu công ti thua lỗ việc xén tỉa gây lo lắng khôn nguôi vì không biết ai sẽ là nạn nhân của xén tỉa, sa thải. Đuổi việc, giảm công nhân, hoặc tăng sản phẩm, đòi lao động hết mức là cách công ti xén tỉa, đoi mới và mong cuối năm thu thêm lợi nhuận.
Thân nho cung cấp thực phẩm cho cành lớn nhỏ vì thế cành phải dính vào thân để được sống và sinh hoa trái. Đức Kitô trong dụ ngôn ví mình như thân nho và Chúa Cha là người trồng và tất cả Kitô hữu liên kết với Đức Kitô như hình ảnh cành liên kết với thân. Sự liên kết xảy ra khi Chúa Cha yêu thương Chúa Con, Ngài yêu thương luôn những ai liên kết với Chúa Con. Cuộc sống tâm linh bị cạn dần, kiệt quệ khi điều gì đó ngăn cản, nối kết tình yêu Thiên Chúa với con người. Liên kết mật thiết với Thiên Chúa để sự sống được dồi dào bởi cành cần thuộc vào thân để sống và sinh hoa trái.
Để tạo thân nho mới người ta cắt cành rồi trồng cành đó ở nơi khác. Thân nho mới không còn lệ thuộc vào gốc cũ nữa nhưng nó tự sống và cuộc sống của nó ảnh hưởng bởi điều kiện đất đai, nước, khí hậu và phân bón. Những điều kiện trên ảnh hưởng đen mùa thu hoạch và phẩm chất nho. Đối với thiên nhiên là như thế. Kitô hữu nếu chọn cắt đứt liên hệ với Đức Kitô sẽ không chết về mặt thân xác nhưng chết về mặt tâm linh. Tâm linh bị khô héo dần. Muốn được sống lành, mạnh thì cần liên kết mật thiết với Chúa. Liên kết mật thiết với Chúa không có nghĩa chúng ta tránh khỏi mọi khó khăn trên đời. Khó khăn vẫn xảy đến và đau khổ vẫn tồn tại. Đau khổ, khó khăn trong đời không phải Chúa dùng để phạt con người nhưng nhìn cách tiêu cực chúng ta học qua đau khổ để trở nên tốt hơn, dễ thương hơn, là cơ hội để ta sinh hoa trái tốt và nhiều hơn.
50. Gợi nhớ
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Gọi lại trí nhớ là điều ai trong chúng ta cũng cần bởi vì trong cuộc sống, hứa hẹn đến từng giờ nên cần có cách giúp nhớ để thực hiện điều đã hứa. Thông thường cuốn sổ tay ghi lại công việc sẽ làm giúp nhớ lại điều đã hứa. Không phải ai cũng có sổ tay nên đôi khi cần người nhắc nhớ lại công việc sắp làm trong tương lai. Lại cũng có người có sổ tay nhưng công việc bề bộn cần có người nhắc chừng khi người kia quên điều ghi trong sổ tay. Nhắc nhau nhớ lại công việc cần thực hiện là điều cần thiết. Nhắc nhau đi hội họp là điều tốt. Nhắc nhau sống đạo là điều cần cho đức tin. Nhắc nhau siêng năng lãnh nhận các bí tích là bổn phận của các Kitô hữu. Bổn mạng của người làm công việc nhắc nhớ có nguồn gốc từ xa xưa. Thánh bổn mạng đó không xa lạ gì với người Thiên Chúa giáo, đó chính là Thánh Thần Thiên Chúa. Đấng làm công việc nhắc nhớ lại những điều Đức Kitô đã rao giảng về tình yêu Chúa, việc Đức Kitô đã thực hiện và tiếp nối công việc mặc khải, hướng dẫn, giảng dậy cho các Kitô hữu hiểu thấu đáo hơn, thâm sâu hơn điều đã nghe, đã biết. Đấng này Đức Kitô đã hứa với các môn đệ và những ai tin theo Ngài.
Thầy sẽ gởi Thánh Thần đến, Đấng sẽ hướng dẫn, giảng dạy, chỉ dẫn cho các con mọi điều.
Thánh Thần đến đóng vai trò hướng dẫn, giảng dậy, chỉ bảo, mặc khải và thánh hoá trong cuộc đời tín hữu vì thế Thánh Thần đóng vai trò người gia trưởng trong đời sống đức tin. Chúng ta làm công việc nhắc nhớ lại, gợi lại những gì có thể quên sót. Thánh Thần Chúa làm công việc gợi nhớ. Gợi nhớ vì tiếng nói và hướng dẫn của Thánh Thần thể hiện cho những ai thành tâm, hướng thượng và tìm kiếm sự thật, sự sống, sự bằng an trong tâm hồn. Khi tâm hồn bình thản, bình an nhất lúc đó ân sủng Thánh Thần đánh động tâm hồn giúp ta nhận biết tiếng nói của Thánh Thần.
Đức Kitô Phục Sinh đặt nặng trọng tâm trong vấn đề này vì thế chúng ta thấy mỗi lần hiện ra với các Tông Đồ Đức Kitô luôn hướng dẫn họ bằng cách nhắc giúp họ nhớ lại các điều họ đã nghe từ các bài giáo huấn của Ngài. Những bài giáo huấn và các lời tiên tri đều nhắc đến Đức Kitô Phục Sinh và món quà lớn lao nhất Ngài mang đến cho nhân loại chính là món quà Thánh Thần. Cái chết của Ngài là món quà tình yêu cao cả của người thí mạng mình vì bạn hữu trong cuộc đời tại thế của Ngài. Thánh Thần là món quà trọng đại nhất Đức Kitô Phục Sinh trao tặng cho những tín hữu tin theo làm môn đệ và nhân chứng cho Đức Kitô Phục Sinh sau khi Ngài về trời.
Lần gợi nhớ rõ ràng nhất là lần xuất hiện cùng đồng hành với các môn đệ trên đường về làng Emmaus. Trên đường đi Ngài đã giải thích cho các môn đệ về việc các tiên tri, khởi đầu là Môisen và các tiên tri sau đó nhắc đến các tiên đoán về việc Đấng Cứu Thế giáng trần sẽ chịu đau khổ, bị ruồng bỏ, bị bắt, kết án và đóng đinh trên thập giá nhưng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại từ cõi chết. Các tông đồ lắng nghe và nhận ra Ngài khi cuối ngày Ngài cùng các ông bẻ bánh tạ ơn. Chính lúc đó các ông nhận ra Ngài cũng là lúc Ngài biến khỏi các ông. Các ông đã tự nói với nhau chúng ta không nhận ra Ngài vì lòng chúng ta chai đá khi Ngài nhắc nhớ chúng ta những tiên đoán về Đức Kitô Phục Sinh. Tấm lòng chai đá không nhận biết ơn gọi nhớ của Thánh Thần.
Người đầu tiên được hưởng ơn nhắc nhớ này chính là người môn đệ già kính yêu. Nhớ lại trong bữa Tiệc Li Đức Kitô tiên đoán cùng các môn đệ là các ông sẽ phản bội Ngài. Mọi người đồng thanh hứa là sẽ trung thành. Trong số những người xác tín trung thành thì Phêrô là người mạnh bạo, rõ ràng nhất. Ông tuyên bố dù tất cả các bạn hữu phản bội mình ông nhất quyết trung thành cùng Thầy. Không lâu sau đó trong khi nghe lén người ta xử Thầy, có người đầy tớ gái nhận ra ông là một trong nhóm mười hai liền hô hoán lên ông này cùng bọn với ông Kitô. Phêrô liền chối không biết. Lát sau có người nhận dạng Phêrô lại chối. Ba lần bị nhận diện, ba lần chối. Ngay lúc đó Đức Kitô ngước mắt nhìn ông, đồng thời tiếng gà gáy nhắc ông điều Đức Kitô tiên đoán chiều qua trong bữa Tiệc Li: trước khi gà gáy con chối Ta ba lần. Phêrô nhớ lại điều đó và ăn năn thống hối.
Nhắc nhớ lại trong Kinh Thánh có một mục đích rõ ràng, không phải để khỏi quên công việc mà để củng cố đức tin, để tăng thêm niềm tin của người Kitô hữu vào Đức Kitô Phục Sinh và để thành nhân chứng trung thành hơn cho Đức Kitô giữa đời.
Chúng ta cầu xin ơn khôn ngoan biết lắng nghe tiếng Thánh Thần Chúa hướng dẫn cuộc sống hành trình đức tin và xin ơn biết trung thành trong việc làm chứng nhân cho Chúa giữa đời.
51. Gợi nhớ – Lm Vũ Đình Tường
Gợi lại trí nhớ là điều ai trong chúng ta cũng cần bởi vì trong cuộc sống, hứa hẹn đến từng giờ nên cần có cách giúp nhớ để thực hiện điều đã hứa. Thông thường cuốn sổ tay ghi lại công việc sẽ làm giúp nhớ lại điều đã hứa. Không phải ai cũng có sổ tay nên đôi khi cần người nhắc nhớ lại công việc sắp làm trong tương lai. Lại cũng có người có sổ tay nhưng công việc bề bộn cần có người nhắc chừng khi người kia quên điều ghi trong sổ tay. Nhắc nhau nhớ lại công việc cần thực hiện là điều cần thiết. Nhắc nhau đi hội họp là điều tốt. Nhắc nhau sống đạo là điều cần cho đức tin. Nhắc nhau siêng năng lãnh nhận các bí tích là bổn phận của các Kitô hữu. Bổn mạng của người làm công viec nhắc nhớ có nguồn gốc từ xa xưa. Thánh bổn mạng đó không xa lạ gì với người Thiên Chúa giáo, đó chính là Thánh Thần Thiên Chúa. Đấng làm công việc nhắc nhớ lại những điều Đức Kitô đã rao giảng về tình yêu Chúa, viec Đức Kitô đã thực hiện và tiếp nối công việc mặc khải, hướng dẫn, giảng dậy cho các Kitô hữu hiểu thấu đáo hơn, thâm sâu hơn điều đã nghe, đã biết. Đấng này Đức Kitô đã hứa với các môn đệ và những ai tin theo Ngài.
Thầy sẽ gởi Thánh Thần đến, Đấng sẽ hướng dẫn, giảng dạy, chỉ dẫn cho các con mọi điều.
Thánh Thần đến đóng vai trò hướng dẫn, giảng dậy, chỉ bảo, mặc khải và thánh hoá trong cuộc đời tín hữu vì thế Thánh Thần đóng vai trò người gia trưởng trong đời sống đức tin. Chúng ta làm công việc nhắc nhớ lại, gợi lại những gì có thể quên sót. Thánh Thần Chúa làm công việc gợi nhớ. Gợi nhớ vì tiếng nói và hướng dẫn của Thánh Thần thể hiện cho những ai thành tâm, hướng thượng và tìm kiếm sự thật, sự sống, sự bằng an trong tâm hồn. Khi tâm hồn bình thản, bình an nhất lúc đó ân sủng Thánh Thần đánh động tâm hồn giúp ta nhận biết tiếng nói của Thánh Thần.
Đức Kitô Phục Sinh đặt nặng trọng tâm trong vấn đề này vì thế chúng ta thấy mỗi lần hiện ra với các Tông Đồ Đức Kitô luôn hướng dẫn họ bằng cách nhắc giúp họ nhớ lại các điều họ đã nghe từ các bài giáo huấn của Ngài. Những bài giáo huấn và các lời tiên tri đều nhắc đến Đức Kitô Phục Sinh và món quà lớn lao nhất Ngài mang đến cho nhân loại chính là món quà Thánh Thần. Cái chết của Ngài là món quà tình yêu cao cả của người thí mang mình vì bạn hữu trong cuộc đời tại thế của Ngài. Thánh Thần là món quà trọng đại nhất Đức Kitô Phục Sinh trao tặng cho những tín hữu tin theo làm môn đệ và nhân chứng cho Đức Kitô Phục Sinh sau khi Ngài về trời.
Lần gơi nhớ rõ ràng nhất là lần xuất hiện cùng đồng hành với các môn đệ trên đường về làng Emmaus. Trên đường đi Ngài đã giải thích cho các môn đệ về việc các tiên tri, khởi đầu là Môisen và các tiên tri sau đó nhắc đến các tiên đoán về việc Đấng Cứu Thế giáng trần sẽ chịu đau khổ, bị ruồng bỏ, bị bắt, kết án và đóng đinh trên thập giá nhưng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại từ cõi chết. Các tông đồ lắng nghe và nhận ra Ngài khi cuối ngày Ngài cùng các ông bẻ bánh tạ ơn. Chính lúc đó các ông nhận ra Ngài cũng là lúc Ngài biến khỏi các ông. Các ông đã tự nói với nhau chúng ta không nhận ra Ngài vì lòng chúng ta chai đá khi Ngài nhắc nhớ chúng ta những tiên đoán về Đức Kitô Phục Sinh. Tấm lòng chai đá không nhận biết ơn gọi nhớ của Thánh Thần.
Người đầu tiên được hưởng ơn nhắc nhớ này chính là người môn đệ già kính yêu. Nhớ lại trong bữa Tiệc Li Đức Kitô tiên đoán cùng các môn đệ là các ông sẽ phản bội Ngài. Mọi người đồng thanh hứa là sẽ trung thành. Trong số những người xác tín trung thành thì Phêrô là người mạnh bạo, rõ ràng nhất. Ông tuyên bố dù tất cả các bạn hữu phản boi mình ông nhất quyết trung thành cùng Thầy. Không lâu sau đó trong khi nghe lén người ta xử Thầy, có người đầy tớ gái nhận ra ông là một trong nhóm mười hai liền hô hoán lên ông này cùng bọn với ông Kitô. Phêrô liền chối không biết. Lát sau có người nhận dạng Phêrô lại chối. Ba lần bị nhận diện, ba lần chối. Ngay lúc đó Đức Kitô ngước mắt nhìn ông, đồng thời tiếng gà gáy nhắc ông điều Đức Kitô tiên đoán chiều qua trong bữa Tiệc Li: trước khi gà gáy con chối Ta ba lần. Phêrô nhớ lại điều đó và ăn năn thống hối.
Nhắc nhớ lại trong Kinh Thánh có một mục đích rõ ràng, không phải để khỏi quên công việc mà để củng cố đức tin, để tăng thêm niềm tin của người Kitô hữu vào Đức Kitô Phục Sinh và để thành nhân chứng trung thành hơn cho Đức Kitô giữa đời.
Chúng ta cầu xin ơn khôn ngoan biết lắng nghe tiếng Thánh Thần Chúa hướng dẫn cuộc sống hành trình đức tin và xin ơn biết trung thành trong việc làm chứng nhân cho Chúa giữa đời.
52. Cắt và xén – Lm Vũ Đình Tường
Thầy là cây nho và Cha Thầy là người trồng nho.
Cắt đứt hay xén tỉa. Con người thích cắt đứt, chặt bỏ. Thiên Chúa không cắt nhưng xén tỉa, làm đẹp. Khó biết cắt đứt đau hơn hay xén tỉa đau hơn. Cả hai đều làm cho nhựa chảy lã chã. Sáp đóng đen ngòm. Cắt đứt hay xén tỉa đều đau đớn. Cả hai cùng đau nhưng kết quả khác nhau. Cắt đứt là chia lìa, pha huỷ, làm chết đi. Trái lại, xén tỉa mang lại sự sống dồi dào. Xén tỉa làm cho sinh hoa nhiều hơn và trái cũng tốt hơn.
Thực tế cho thấy không phải mọi đau đớn đều có lợi, đều là ý Chúa. Đau đớn gây nên bởi chia rẽ, pha huỷ, hận thù, bất công, gây nên do lòng ích kỉ, bè phái, chủ thuyết hay do bất cẩn. Đau khổ trên không phải ý Chúa. Giết chết và phá huỷ là sáng kiến của con người. Trái lại, đau đớn mang lại sự sống trường sinh, dẫn ta về với Chúa. Đau đớn sinh bởi hy sinh vì tình yêu, vì nước trời vì Phúc Âm. Đau đớn sinh hoa trái tốt, kiến tạo là sáng tạo của Thiên Chúa.
Đối nghịch
Con người sáng chế phương cách tàn bạo, vô nhân đạo, gây đau khổ, tan nhẫn giết hại nhau. Hành động bất nhân, thất đức gieo đau thương sầu khổ cho nạn nhân, đồng thời để lại tang thương, tàn phá khốc liệt từ đời con lê dài sang đời cháu, gia đình thân nhân, thân hữu nạn nhân. Hành động như thế dù nguỵ biện hợp lí cách nào đi nữa cũng làm mất lòng Chúa.
Thiên Chúa là Đấng đầy yêu thương sáng tạo ơn sống lại, tái tạo hạnh phúc thật, ban bình an tâm hồn và thưởng cuộc sống trường sinh cho những ai lưu lại trong Ngài. Điều này vượt quá trí hiểu và trí tưởng tượng của con người. Vì không thể hiểu nên từ chối chấp nhận lời Chúa hứa ban. Thật là nghịch lí, con người mong trường thọ. Chúa ban ơn sống trường sinh, kẻ từ chối, kẻ coi thường, kẻ đón nhận.
Những ai đặt trọn niềm tin vào Chúa hưởng ơn lộc ngay cuộc đời này. Dù sống nơi có chiến tranh; tâm hồn họ vẫn bình an. Dù bị ngược đãi, đối xử bất công; lòng họ vẫn thư thái. Dẫu có bị tù; họ vẫn hưởng tự do và gần kề cái chết; họ vẫn nhận được sự sống trường sinh.
Tin trước hiểu sau
Hiểu trước tin sau là điều không thể thực hiện. Tin trước hiểu sau là điều có thể xảy ra. Đòi hỏi hiểu rồi mới tin không phải là đức tin. Niềm tin đó không cần thiết vì không dẫn đến ơn cứu độ. Đức tin thuộc thế giới tâm linh, không thể cân đo, không thay hình đổi dạng, bất biến với thời gian. Ánh sáng bộ óc, ánh sáng khoa học soi sáng những gì thuộc về vật thể hữu hình, thuộc về khoa học. Ánh sáng tâm linh soi sáng những gì thuộc về tâm linh. Để có được ánh sáng tâm linh bước đầu tiên cần có là đức tin. Vì thế đức tin được coi là nền tảng cần thiết giúp học hỏi, khám phá tình yêu Chúa. Điều này thực hiện được vì những ai tin vào Thiên Chúa được Thần Khí Chúa hướng dẫn, soi sáng chỉ cho biết Thiên Chúa. Người có đức tin không cậy vào trí khôn, thông minh cá nhân nhưng dựa vào hướng dẫn của Thánh Thần Thiên Chúa. Mà Thánh Thần Chúa chỉ hoạt động trong những tâm hồn có đức tin.
Làm sao trí óc nhỏ nhoi con người hiểu thấu mầu nhiệm tình yêu. Nhờ đức tin hướng dẫn, giúp ta nhận ra tình yêu Chua. Đây là bước khởi đầu dẫn vào đời sống tâm linh. Đức tin không đòi hỏi chúng ta hiểu nhưng đòi chúng ta yêu. Càng yêu mến nhiều càng hiểu nhiều. Càng lí luận nhiều càng gặp bế tắc. Tình yêu chân chính ẩn hình khi có cãi lí, tranh biện. Trái lại tình yêu chân chính xuất hiện nơi đâu có hy sinh và phục vụ không vị lợi.
Tình yêu Chúa vừa soi sáng vừa thanh tẩy làm trong sáng tâm trí nhận biết sự thật. Từ chối tình yêu Chúa là từ chối ơn thanh tẩy giúp tâm trí trong sáng. Vì thiếu ánh sáng nên tâm hồn sống trong tối tăm. Sống trong tối tăm vì từ chối chấp nhận ánh sáng chân lí là sự thật. Từ chối sự thật sẽ không biết sự thật. Vắng bóng sự thật sao có đời sống công chính? Muốn sống công chính cần nhận ơn Chúa. Muốn nhận ơn Chúa cần phải gắn bó mật thiết với Chúa, như cành nho dính liền thân nho.
Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sanh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.
53. Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
THẦN LINH SINH SẢN THẦN LINH HAY QUÁI THAI KITÔ GIẢ…
Vì vẫn còn trong Mùa Phục Sinh, bài Phúc Âm của tuần thứ năm Phục Sinh năm B tiếp tục chủ đề Mầu Nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh là “Sự Sống” từ tuần trước. Nếu tuần thứ tư Phục Sinh Mầu Nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh là “Sự Sống” được diễn tả qua hình ảnh “vị mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì chiên”, vị mục tử nhân lành biết chiên của mình và được chiên của mình biết đến, thì tuần thứ năm Phục Sinh này Mầu Nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh là “Sự Sống” được tiêu biểu qua hình ảnh “cây nho đích thực”, một cây nho tràn đầy Nhựa Sống Thần Linh trổ sinh muôn vàn hoa trái nơi các cành của mình.
Tuy nhiên, ý nghĩa Mầu Nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh là “Sự Sống” giữa tuần trước và tuần này khác nhau về đối tượng nhận lãnh. Tuần trước, Lời Chúa trong bài Phúc Âm ngỏ với dân Do Thái, Chúa Kitô Phục Sinh, qua vai trò Chủ Chiên Nhân Lành, là “Sự Sống” đối với chung đàn chiên của Người, một đàn chiên có thể hiểu là cộng đồng Kitô hữu nói riêng và cộng đồng xã hội loài người nói chung, vì Người nói đến cả những chiên chưa thuộc về đàn. Tuần này, Lời Chúa trong bài Phúc Âm ngỏ với các tông đồ trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Kitô Phục Sinh, qua hình ảnh Cây Nho Đích Thực, là “Sự Sống” đối với chung Giáo Hội và đối với riêng thành phần giáo sĩ (kể cả tu sĩ) nhất là giáo phẩm, thành phần được Người tuyển chọn để làm bạn hữu với Người (x Jn 15:14-15), nhờ đó có thể cảm nghiệm Người (“ai sống trong Thày”), hầu làm chứng nhân cho Người (“Thày sống trong họ”), và chăn dắt đàn chiên của Người như Người chăn dắt chúng với tinh thần của một vị Mục Tử Nhân Lành hiến mạng sống mình vì chiên (“trổ sinh hoa trái”).
Nếu Chúa Kitô là Cây Nho Đích Thực, và chung Giáo Hội cũng như riêng đời tận hiến tu sĩ, đặc biệt hàng giáo sĩ, nhất là hàng giáo phẩm, là cành nho, thì nhựa sống của Cây Nho Đích Thực thông sang cho các cành nho này là gì? Hoa trái nhờ nhựa sống này được trổ sinh ở các cành nho đây là chi? Tại sao những cành đã sinh trái lại còn bị cắt tỉa cho càng sinh nhiều hoa trái hơn?
Về vấn đề thứ nhất, vấn đề nhựa sống của cây nho, vấn đề liên quan đến bài Phúc Âm tuần tới, Chúa Nhật VI Phục Sinh, nên chúng ta để đến bài chia sẻ tuần tới hãy bàn tới. Bài Phúc Âm Chúa Nhật V Phục Sinh tuần này chỉ nói đến vấn đề tác dụng của “Sự Sống” nơi các cành nho, tức nhấn mạnh đến vai trò sinh hoa kết trái của cành nho mà thôi. Đối với khía cạnh cành nho sinh hoa kết trái cho Cây Nho Đích Thực là Chúa Kitô này, chúng ta thấy Giáo Hội Chúa Kitô thực sự là hiền thê của Người, một người nữ tự mình không thể sinh sản con cái nếu không hiến thân cho chồng, kết hiệp với chồng và nhận được sinh lực từ chồng, như cành nho được Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm không dính liền với thân nho chẳng những sẽ không sinh hoa trái còn bị khô héo, trở thành củi bị lửa thiêu rụi đi mất. Tuy nhiên, vì là việc sinh sản thiêng liêng chứ không phải thể chất, sinh sản thần linh chứ không phải phàm nhân, mà Vị Hiền Thê Mẹ Giáo Hội này phải là một Trinh Nữ, Trinh Nữ Sinh Con, như mô phạm của mình là Trinh Nữ Maria, Mẹ Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Đó là lý do ở phần đầu của bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nói đến việc thanh sạch của thành phần sẽ sinh sản muôn vàn hoa trái cho Người: “Các con đã được thanh sạch nhờ lời Thày nói với các con”.
Nếu muốn sinh sản muôn vàn hoa trái thần linh, Giáo Hội cần phải thanh sạch, phải là một Trinh Nữ, mà yếu tố làm cho và giữ cho Giáo Hội luôn là một Trinh Nữ, tức luôn sinh hoa kết trái, đó là Lời Chúa. Như thế, dù chưa hoàn toàn cho thấy, như bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Sáu Phục Sinh tuần tới, tất cả bản chất của nhựa sống của Cây Nho Đích Thực, nhựa sống có tác dụng làm cho các cành nho sinh muôn vàn hoa trái, bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Năm Phục Sinh tuần này cũng cho thấy trước nhựa sống của Cây Nho Đích Thực đây trước hết là Lời Chúa. Bởi đó, cành nho dính liền với cây nho, ở chỗ, như Chúa Giêsu kêu gọi trong bài Phúc Âm, “hãy sống trong Thày như Thày sống trong các con”, để trổ sinh muôn vàn hoa trái đây không là gì khác ngoài việc tuân giữ Lời Chúa, như Chúa khẳng định trong bài Phúc Âm “nếu các con sống trong Thày và những lời của Thày ở với các con thì các con xin bất cứ sự gì cũng được”, đến độ Lời Chúa hoàn toàn làm chủ con người tự nhiên của họ và chi phối cuộc đời sống đạo của họ, thành phần nhờ đó trở thành phản ảnh sáng ngời Lời Chúa, trở thành những chứng nhân trung thực cho Tin Mừng Sự Sống, cho Đấng “là Sự Sống Lại và là Sự Sống” (Jn 11:25). Cho tới khi được nên một với Chúa Kitô, được Chúa Kitô chiếm đoạt như thế, một tình trạng linh đạo được tu đức học gọi là Thần Hiệp, thành phần môn đệ đích thực của Người nói chung, nhất là thành phần đã được thụ phong để trở thành “alter Christus” nói riêng, mới có thể làm cho thế gian thấy được một Chúa Kitô sống động nơi Giáo Hội mà trở về với Người, hầu được thông phần vào sự sống thần linh với Giáo Hội (x 1Jn 1:1-3).
Vậy hoa trái thần linh được trổ sinh từ cành nho Giáo Hội đây là gì – Chúa Kitô được tái sinh trên thế gian nơi các linh hồn, hay là các linh hồn được tái sinh trong Chúa Kitô bởi nước và Thần Linh (x Jn 3:5)? Nếu hài nhi được sinh ra là tầm vóc hình thành sống động của mầm sống 9 tháng 10 ngày trong bụng mẹ thế nào, thì hoa trái thần linh được Giáo Hội sinh ra cũng thế, cũng chính là Lời Chúa, song là Lời Chúa ở tầm vóc hình thành sống động như vậy, nghĩa là một Chúa Kitô hình thành nơi các linh hồn nhận biết Người (x Eph 4:13, 15; Col 1:28; Gal 4:19), tới độ thành phần nhận biết Chúa Kitô đã được hoàn toàn đồng hóa với Người, một cuộc đồng hóa đến nỗi ai xúc phạm đến họ là xúc phạm đến chính bản thân Người, như chính Người đã xác định với một Saolê ngã ngựa trên con đường đang hung hăng điên cuồng lùng bắt các Kitô hữu tiên khởi: “Saolê, Saolê, sao ngươi bách hại Ta?... Ta là Giêsu, người mà ngươi đang bách hại” (Acts 9:5-6). Như thế, hoa trái thần linh được cành nho Giáo Hội hay Kitô hữu trổ sinh đây chính là Chúa Kitô. Đó là lý do Chúa Kitô khẳng định với những ai báo cho Người biết về việc Mẹ Người và anh em Người đang chờ gặp Người (Lk 8:21) rằng Người có thể trở thành con cái của thành phần lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa như Mẹ Maria, Người Mẹ đã được một phụ nữ khen tặng là có phúc vì được diễm phúc cưu mang và cho Người bú về thể lý (x Lk 11:27-28).
Thế nhưng, cuộc sinh thể lý nào cũng quằn quại đớn đau ra sao, cuộc sinh sản thiêng liêng cũng thế. Đớn đau bao giờ cũng gắn liền với việc sinh sản, dù là sinh sản thể lý hay thiêng liêng. Đớn đau là dấu hiệu đi liền với việc sinh nở, đến nỗi không đau đớn cũng không có vấn đề sinh con. Đớn đau bởi thế còn là dấu hiệu cho thấy một nguồn sinh lực dồi dào phong phú, như dấu tích tử giá là dấu hiệu chứng thực Chúa Kitô Phục Sinh vậy. Nếu một Trinh Nữ Sinh Con Maria Vô Nhiễm Tội mà còn phải bị lưỡi đòng đâm thâu qua dưới chân cây thập giá của Con mình mới làm cho tư tưởng nhiều người tỏ lộ ra (x Jn 19:25; Lk 23:44-48), thì Giáo Hội, cũng là một Trinh Nữ Sinh Con, làm sao có thể nào thoát được thân phận đớn đau này. Đó là lý do, ngay ở đầu bài Phúc Âm Chúa Nhật V Phục Sinh Năm B tuần này Chúa Giêsu đã xác quyết và tiên báo cho các tông đồ biết về tình trạng cần phải đớn đau mới có thể sinh muôn vàn hoa trái rằng: “Cha sẽ chặt đi các cành không sinh hoa kết trái, còn cành nào sai trái thì Ngài cắt tỉa để càng sinh hoa kết trái hơn nữa”. Kinh nghiệm tu đức cho thấy không một vị thánh nào mà không có đau khổ. Không khổ không thánh. Càng khổ càng thánh. Thiên Chúa cũng sử dụng đau khổ để chẳng những thánh hóa linh hồn mà còn làm cho linh hồn có khả năng sinh sản thiêng liêng nữa. “Cành nho nào sai trái” sẽ được Vị Trồng Nho là Chúa Cha cắt tỉa đây phải chăng là cành nho đã được Lời Chúa thanh tẩy, cành nho thánh thiện, cành nho được thần hiệp với Chúa Kitô Tiệc Ly (x Jn 17:21), và cành nho sai trái này sẽ “càng sai trái hơn” còn cần phải trải qua đêm tối tăm với Chúa Kitô ở Vườn Cây Dầu (x Mt 26:38; Lk 22:44) cũng như trên Cây Thập Giá nữa (x Mt 27:46; Mk 15:34).
Tuy nhiên, theo nguyên tắc Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay, nếu phải dính liền với Cây Nho mới có thể sinh muôn vàn hoa trái, thì một khi cần phải bị Vị Trồng Nho cắt tỉa như lìa khỏi Cây Nho thì làm sao lại có thể sinh nhiều hoa trái hơn được? Thế nhưng, đó lại là định luật sinh sản. Nếu thai nhi phải lìa bỏ lòng mẹ, ở chỗ cái nhau làm cho mẹ con dính liền với nhau cần phải cắt đứt khi thai nhi lọt lòng mẹ thế nào thì quả thực, chỉ có những ai liều mất mạng sống mình mới giữ được nó cho sự sống đời đời mà thôi (x Jn 12:25). Nếu Chúa Kitô trước khi tắt thở trên Thập Giá đã phải kêu lên não nuột “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ rơi Con” (Mt 27:46; Mk 15:34), một tiếng kêu nói lên tình trạng và tâm trạng cho thấy cái cảm giác Người hoàn toàn bị cắt lìa khỏi Cha thế nào, thì thành phần môn đệ là “cành nho sai trái” cũng sẽ cảm thấy mình bị tách lìa khỏi Chúa Kitô như vậy, như trường hợp các tông đồ sau Bữa Tiệc Ly được Chúa Kitô tiên báo, nhưng lại là một tình trạng tách lìa thiết yếu và quan trọng để thành phần cành nho bạn hữu của Cây Nho Chúa Kitô “càng sai trái hơn”: “Thày đi thì có lợi cho các con… Các con sẽ khóc lóc than van… nhưng nỗi phiền muộn của các con sẽ trở thành niềm vui cho các con” (Jn 16:7,20).
Về vấn đề sống nội tâm thân mật với Chúa Kitô như cành nho với thân nho để có thể sinh nhiều hoa trái được bài Phúc Âm Chúa Nhật V Phục Sinh năm B nhắc đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhận định về tình trạng sống đạo hiện nay trong Giáo Hội và khuyên giục giới trẻ Tây Ban Nha trong chuyến tông du 99 (3-4/5/2003) của Ngài như sau:
“Thảm kịch của nền văn hóa hiện nay đó là thiếu đời sống nội tâm, thiếu việc chiêm niệm. Không có đời sống nội tâm thì văn hóa chỉ là những gì rỗng ruột, nó như một cái xác nhưng chưa có hồn sống. Các bạn đừng bao giờ tách biệt hoạt động với chiêm niệm; nhờ đó các bạn mới có thể góp phần vào việc biến đổi giấc mơ cao cả trở thành thực tại; trở thành một cuộc hạ sinh cho một tân Âu Châu trong tinh thần. Một thứ Âu Châu trung thành với những cội nguồn Kitô Giáo của mình, chứ không gắn bó với chính nó, song hướng tới việc trao đổi và hợp tác với các dân tộc khác trên thế giới… Các bạn cần đến sự trợ giúp của việc nguyện cầu cũng như cần đến sự an ủi phát xuất từ mối thân tình mật thiết với Chúa Kitô. Chỉ có thế, chỉ khi nào sống cái cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa và chiếu sáng tình huynh đệ Phúc Âm, các bạn mới có thể trở thành những tay xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, mới có thể trở thành những con người nam nữ chân chính của hòa bình và là những con người đi xây dựng hòa bình… Hãy tham dự vào ‘học đường của Trinh Nữ Maria’. Người là một mô phạm chiêm niệm siêu việt và là một mẫu gương tuyệt vời của đời sống nội tâm sinh hoa trái, hân hoan và phong phú”.
Tuy nhiên, vấn đề sống nội tâm đây không phải chỉ là vấn đề thi hành những việc đạo đức, nhất là cử hành những tác động phụng vụ, như thường xuyên xưng tội rước lễ, mà còn ở vấn đề sống tinh thần Chúa Kitô nữa. Đó là lý do kinh nghiệm sống đạo cho chúng ta thấy, có nhiều người rất đạo đức, xưng tội hằng tháng, rước lễ hằng tuần, đọc kinh hằng ngày, thế mà vẫn làm gương mù gương xấu, vẫn sống như người con cả ở gần cha mà chẳng hiểu cha mình gì hết (x Lk 15:29,31), chẳng khác gì như những cây vả xum xuê hoa lá mà chẳng có trái, đáng bị rủa chết (x Mk 11:13-14). Nói như thế không có nghĩa là phụng vụ là đồ bỏ, trái lại, có đến với Chúa Kitô nơi các bí tích, Kitô hữu chúng ta mới được dồi dào Chúa Kitô, nhờ đó mới có thể thông Người ra qua đời sống chứng nhân cho tinh thần đức ái trọn hảo của Người: “Các bạn đừng bao giờ tách biệt hoạt động với chiêm niệm”. Vấn đề quan trọng ở đây là chúng ta phải làm sao để tâm hồn chúng ta trở thành mảnh đất tốt cho mầm mống thần linh là Lời Chúa lớn lên trổ sinh gấp trăm (x Mt13:23), thì chúng ta sẽ không bị xẩy thai, thậm chí không cưu mang và sinh ra những quái thai, những kitô giả…
54. Cây nho và nhánh.
(Trích trong ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Mở đầu cho vở kịch mang tên: "Chiếc hài bằng Satin" của Paul Rolden, một văn thi sĩ người Pháp đầu thế kỷ XX là một cảnh thật xúc động. Một trận cuồng phong bỗng dưng kéo dài tới nhận chìm chiếc tàu đang di chuyển đơn độc giữa đại dương. Chiếc tàu vỡ nát và mọi người trên tàu đều bị mất tích, ngoại trừ một vị thừa sai sống sót nhờ cột chặt người vào chiếc cột buồm.
Nhận thấy chiếc cột buồm đang chồm nổi với cơn sóng ác nghiệt và mình cũng đang gần kề cái chết, vị thừa sai đã dâng lên Chúa lời cầu nguyện như sau: "Ôi lạy Chúa, con xin cám ơn Chúa đã cho con đón nhận cái chết như thế này. Cuộc đời con không ít lần con cảm thấy lời dạy của Chúa quá khó khăn và con đã cưỡng lại lời mời gọi của Chúa. Giơ đây con đang gần Chúa hơn lúc nào hết, thân thể con đang bị trói chặt vào chiếc giá gỗ và con sắp chết trên chiếc giá gỗ này. Con có thể tháo gỡ thân thể con khỏi sự trói buộc, nhưng con không muốn, vì sự trói buộc se cho con cảm giác được gần và giống Chúa hơn".
Anh chị em thân mến!
Được gần và giống Chúa, được hiệp nhất với Chúa, không đơn thuần chỉ là những ước mơ trong cuộc sống của người Kitô hữu, mà chúng là những điều kiện can bản cho sự sống Kitô hữu như lời Ngài dạy cho chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
Anh chị em thân mến!
"Vườn nho" hay "cây nho" là hình ảnh quen thuộc của Kinh Thánh Cựu Ước. Vườn nho được ví là nhà Israel. Các tiên tri lớn như Isaia, Giêrêmia, Ézekiel đều nhìn mối liên lạc giữa người trồng nho và cây nho để nói lên sự quan tâm của Giavê Thiên Chúa đối với dân Ngài, cũng như để khiển trách dân tộc Israel vì vườn nho đã trở nên hoang tàn, dây nho biến thành dây nho dại không còn sinh hoa kết trái.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng lấy hình ảnh "cây nho" để ví Ngài như là cây nho: "Thầy là cây nho thật và Cha Thầy là người trồng nho". Vườn nho của Thiên Chúa phát xuất từ một gốc duy nhất là Chúa Giêsu. Ngoài Ngài không có sự sống: "Thầy là cây nho, các con là ngành". Ngành không thể sống, nếu tách lìa xa thân cây.
"Ở trong Thầy và Thầy ở trong các con", đó là điều mà Chúa Giêsu không ngừng nhắc đi nhắc lại. Cần thông hiệp với Ngài để có sự sống. Tuy nhiên, một khi đã có sự sống từ thân chuyển sang thì ngành cần phải sinh hoa trái. Sinh hoa trái sẽ làm đẹp lòng Thiên Chúa, va đây cũng là điều kiện cho ngành tồn tại. Ngành nào không sinh trái sẽ bị chặt đi ném vào lò lửa. Muốn được sinh hoa trái, ngành nho phải được cắt tỉa. Chẳng có sự cắt bỏ nào mà không gây đau đớn, dù cho phần cắt tỉa chỉ là phần thừa thãi tác hại đến cơ thể. Thế nhưng, chẳng thấy được hoa trái nếu không chấp nhận sự đau đớn của việc cắt tỉa. Chắc hẳn người trồng nho sẽ đau lòng khi cắt tỉa, sẽ xót xa vì phải bỏ đi những phần không sinh lợi, nhưng vì lợi ích của cây nho nên chẳng thế nào làm khác đi được.
Khi thông hiệp vào Đức Kitô, đời sống của người môn đệ sẽ được cắt tỉa nhờ lời của Ngài. Lời của Ngài sẽ đặt các môn đệ trước những quyết định chọn lựa. Chọn lựa con đường hẹp nhọc nhằn, chọn lựa Thập Giá khổ đau. Những hy sinh đau đớn ở đời này sẽ mang lại phần thưởng mai sau. Và những hy sinh ấy tạo cho họ có cơ hội để được trở nên giống Thầy: "Họ ở trong Thay và Thầy ở trong họ".
Thật thế, mọi đau khổ sẽ trở nên phí phạm, nếu không hướng về Thập Giá Đức Kitô, nguồn ơn cứu độ. Cắt tỉa chỉ là cắt bỏ, nếu không nhằm mục đích sinh hoa trái. Mọi hy sinh của người tín hữu cũng sẽ không mang lại hoa trái, nếu từ đầu không vì Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài là cây nho đích thực. Xin cho chúng con luôn gắn chặt và hiệp thông với Chúa, để được hưởng nguồn sức sống dồi dào từ Ngài. Chúng con vẫn biết rằng, một khi gắn chặt với Chúa, chúng con sẽ phải đón nhận sự cắt tỉa, phải chấp nhận hy sinh. Xin cho chúng con xác tín rằng: cần phải có hy sinh để mang lại hoa trái. Đó là điều làm vinh hiển cho Cha, Đấng ngự trên trời. Amen.
55. Anh em hãy lưu lại trong tôi
(Suy niệm của Lm. Đặng Quang Tiến)
Là một trong những diễn từ ly biệt từ chương13,31 đến cuối chương 17, đoạn 15,1-16,4a có thể phân ra như sau: 1- Chúa Giêsu là cây nho thật (15,1-8); 2- Giới răn yêu thương (15,9-17); 3- Sự ghét bỏ của thế gian (15,18-16,4a). Căn cứ trên cụm từ “Tôi là cây nho” (cc. 1.5), đoạn 15,1-8 được chia cách thành hai: 15,1-4 và 15,5-8. Hơn nữa, những chữ “Cha tôi” (cc.1.8) đóng khung đoạn nầy; như thế, câu 1 và 8 được xem như nhập đề và kết luận của đoạn nầy.
Đặc điểm của đoạn nầy là dùng những hình ảnh ẩn dụ như cây nho, cành, sinh trái… để nói lên những điều có thực tương ứng là Chúa Giêsu, các môn đệ, kết quả... Về đại danh từ, ngôi thứ nhất dùng cho Chúa Giêsu tương ứng với ngôi thứ hai số nhiều chỉ đến các môn đệ. Về chủ đề, nhấn mạnh liên tục việc “lưu lại” và “sinh trái”. Mục đích là kêu gọi các môn đệ lưu lại trong Người và lời của Người khi xem ra Người sẽ vắng mặt.
Về cụm từ “Tôi là” (c. 1), xem bài chú giải tuần IV Phục Sinh B. Trong Cựu Ước cây nho là hình ảnh tiêu biểu chỉ dân Israel (Os 10,1–2; Isa 5,1–7; Ger 2,21; Tv 80,8–18). Dân nầy bây giờ được thu tóm trong cá nhân Chúa Giêsu; bởi đó, chỉ trong Người, Israel mới, mọi dân tộc mới tìm thấy ơn cứu độ. Tính từ “thật” được dùng cho “cây nho” nêu rõ tính cách duy nhất (x. 10,11). Đây là yếu tố tiêu biểu của Gioan (x. 1,9; 6,32; 8,16; 6,55). Chỉ Người là cây nho thật, nên phải lưu lại trong Người. Hình ảnh Chúa Cha là người trồng nho được dùng trong cả Cựu Ước và Tân Ước (x. Mc 12,1-12; Is 5,1; Tv 8,8). Tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha là hậu cảnh cho tương quan giữa Người và các môn đệ, được xem là chủ đề cốt yếu của đoạn nầy.
Sau những xác định nhập đề (c. 1), nguyên tắc đầu tiên được đưa ra (cc. 2-3) là trong Chúa Giêsu, cành nào không sinh trái thì bị loại ra, cành nào sinh trái thì được cắt tỉa để sinh nhiều trái hơn. Như thế, ai đó dù ở trong Người mà không sinh trái, bị kể là không có Người ở trong họ. Ở đây tuyệt đối cần một quan hệ “ở lại” hỗ tương giữa Chúa Giêsu và người ấy (x. 15,4a.5a). Trong khi, đối với người sinh trái, lời đã rao giảng cho họ luôn là nguồn thanh tẩy để họ có thể sinh trái nhiều hơn (x. 6,63). Nguyên tắc thứ hai (c. 4a) là không ai có thể tự mình sinh trái, mà chỉ có thể sinh trái trong Chúa Giêsu. Do đó, Người đưa ra mệnh lệnh duy nhất trong phân đoạn nầy: “Anh em hãy lưu lại trong tôi” (c. 4a). Ở thể mệnh lệnh động từ “lưu lại” biểu thị một hành đong hơn là một trạng thái. Đó là một cố gắng liên tục bước vào trong hiệp thông với Người, điển hình như hai môn đệ đầu tiên tìm đến và lưu lại với Người (1,39).
Hai nguyên tắc trên được diễn giải và áp dụng cho các môn đệ trong đoạn 15,5-8. Trong câu 5, tìm thấy những từ ngữ tương tự đoạn trên, tóm kết những điều đã nói là ở trong Người thì sinh nhiều trái, và không có Người thì không thể làm được gì cả. Câu 6 và 7 tương đương với hai mệnh đề của câu 2. Ở câu 6, Gioan trình bày một giả thiết có tính tiêu cực, nhấn mạnh những hậu quả sẽ xảy đến nếu không lưu lại trong Người. “Bị quăng ra ngoài”, “bị đốt cháy” là những hình ảnh chỉ sự loại bỏ và hủy diet. Trong khi câu 7 đưa ra những điều kiện tích cực nhưng mang tính treo lửng: “Nếu anh em lưu lại trong tôi và nếu lời của tôi ở trong anh em” (c. 7a), nghĩa là chỉ khi nào hội đủ những điều kiện nầy, thì những điều Người nói ơ vế thứ hai mới được thực hiện; đó là “Anh em hãy xin bất cứ điều gì anh em muốn, điều ấy sẽ được thực hiện cho anh em” (c. 7b). Mệnh lệnh “Anh em hãy xin”, kết thúc lý luận của Gioan, tương ứng và không thể tách lìa với menh lệnh ở trên (c. 5) như thế nầy: Anh em hãy ở lại trong tôi và anh em hãy xin bất cứ điều gì anh em muốn. Đoạn 15,1-8 được kết luận (c. 8) với khẳng định là Chúa Cha được tôn vinh bởi việc sinh nhiều trái và trở thành môn đệ của Chúa Giêsu. Chữ “môn đệ” xuất hiện ở vị trí cuối cùng của câu kết nầy tóm tắt tất cả những gì được đề cập ở trước: trở nên môn đệ của Chúa Giêsu là lưu lại trong lời của Người và qua đó sẽ sinh hoa kết trai trong Người.
Đây là chỗ duy nhất trong Kinh Thánh cho thấy Chúa Cha, người trồng nho, không những hài lòng mà còn được tôn vinh bởi cây nho của mình. Chính bởi vì cây nho ấy là Con của Người luôn sinh trái ngon ngọt theo ý muốn của Người; và cũng thế tất cả những ai lưu lại trong Người Con ấy.
56. Mối thân tình.
Người ta kể lại như sau: đang khi phi hành gia Amstrong chuẩn bị đổ bộ xuống mặt trăng, thì phi hành gia Aldrin ở lại phi thuyền Apollo. Ông ta mở gói bánh mì và chai rượu nho, đặt chúng lên máy vi tính. Và ông ta cho biết:
- Tôi đổ rượu nho vào ly… Vì tại mặt trăng, trọng lượng chỉ bằng 1/6 ở trái đất, nên rượu nho từ từ dâng lên thành ly trông rất đẹp mắt. Thật là thú vị khi nghĩ rằng chất lỏng đầu tiên được rót và uống trên mặt trăng cũng như thực phẩm đầu tiên được ăn tại đó lại là những chất liệu làm nên Mình và Máu Thánh Chúa.
Ngay trước khi dùng những món này, ông ta đã đọc đoạn Phúc âm hôm nay: Ta là cây nho, các con là cành nho. Bất cứ ai ở trong Ta và được Ta ở trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái. Bởi vì không có Ta, các con sẽ không làm được gì.
Câu chuyện trên không phải chỉ gợi ý cho đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, mà còn nhấn mạnh đến cách thức chúng ta hiệp nhất với Đức Kitô, giống như cành nho hiệp nhất với cây nho. Chúng ta có ba cách đặc biệt để hiệp nhất với Chúa Giêsu.
Cách thứ nhất đó là tụ họp với nhau nhân danh Ngài. Đây là điều chính Ngài đã nói với các môn đệ:
- Ở đâu có hai hay ba người tụ họp với nhau nhân danh Thầy, thì Thầy sẽ ở giữa họ.
Đức Kitô đã hứa rằng Ngài sẽ hiện diện với chúng ta khi chúng ta tụ họp lại với nhau, hay khi chúng ta cùng cầu nguyện với nhau nhân danh Ngài.
Cách thứ hai đó là hãy lắng nghe lời Ngài. Chính Ngài cũng đã nói với các môn đệ:
- Ai nghe các con là nghe Thầy.
Chúa Giêsu hứa với chúng ta rằng hễ chúng ta nghe người khác đọc và giải thích Tin Mừng là chúng ta nghe chính Ngài vậy.
Sau cùng, cách thứ ba đó là chia sẻ Thịt Máu Ngài. Sau khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều Chúa Giêsu đã giới thiệu với dân chúng một thứ của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta, đó là Mình và Máu Thánh Ngài. Hơn nữa, Ngài còn xác quyết:
- Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, người ấy sẽ ở trong Ta và Ta ở trong ngươi ấy.
Chúa Giêsu đã hứa với chúng ta rằng Ngài sẽ hiệp nhất với chúng ta nếu chúng ta đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể của Ngài.
Hãy cầu nguyện với nhau nhân danh Ngài, hãy lắng nghe lời Ngài và hãy tham dự bàn tiệc Thánh Thể của Ngài, đó là ba cách thức giúp chúng ta kết hiệp, gắn bó mật thiết với Chúa, để rồi như ngành nho có dòng nhựa sống thế nào, thì chúng ta cũng sẽ được đón nhận dòng ân sủng của Chúa như vậy.
57. Cây nho.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trình bày giáo huấn của Người trong một biểu tượng là cây nho và cành nho.
Chúa Giêsu nói: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái”. Cây nho là biểu tượng Kinh Thánh rất nổi tiếng trong dân Thiên Chúa. Biến cố dân Do Thái được giải thoát khỏi ách nô lệ ở Ai cập và được đưa vào ở trong Đất Hứa đã được Thánh Vịnh mô tả như sau: “Gốc nho này, Chúa bưng từ Ai cập, đuổi chư dân lấy chỗ mà trồng”.
Chúng ta cũng biết khi cây nho sum xuê, um tùm quá thì việc tỉa cành là cần thiết. Chúng ta cũng biết cành nho thì chẳng làm được gì, bởi vì nó quá mềm, chỉ còn có cách quẳng vào lửa mà thôi. Chúng ta cũng biết “Cành nào không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho”.
Điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay là chúng ta hãy ở lại trong Chúa. Nhưng “Ở lại trong Chúa” nghĩa là gì?
Trước hết, ở lại trong Chúa là lắng nghe và tuân giữ lời của Chúa. Trên thực tế, chúng ta có thể từ chối việc lắng nghe lời Chúa, hay chúng ta có thể lắng nghe nhưng chẳng thực hành lời Chúa dạy. Chúng ta cũng có thể đón nhận Đức Giêsu như là Chúa rồi lại chối bỏ Người khi chúng ta gặp phải những cơn thử thách, những chước cám dỗ.
Thứ hai, ở lại trong Chúa là nhận biết Chúa Kitô chính là cây nho thật, không có Người, chúng ta không thể làm một điều gì có giá trị trước mặt Thiên Chúa.
Thứ ba, ở lại trong Chúa là sống trong Giáo Hội của Chúa vì đó là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô.
Thứ bốn, ở lại trong Chúa là nhìn thấy Chúa hiện diện trong tất cả mọi người và mọi biến cố, ngay cả trong các kẻ thù của chúng ta và trong những điều mà chúng ta không thích.
Thứ năm, ở lại trong Chúa là tích cưc lãnh nhận các bí tích và sống đời sống cầu nguyện.
Cuối cùng, ở lại trong Chúa là xác tín có một nhu cầu cần cắt tỉa những cơ cấu, những phương pháp, những lối tiếp cận và những điều khác nữa khi chúng ta trở nên gia cỗi, lỗi thời để mở ra một con đường cho những điều mới, và việc đổi mới cứ phải diễn ra mãi dựa trên nền tảng là chính Chúa Kitô là cây nho thật.
Lạy Chúa, khi con bị thử thách cám dỗ xin Chúa giữ chặt con, đừng để con xa lìa Chúa bao giờ.
58. Cây nho
Ở nước Do Thái, cây nho là một loại cây rất quen thuộc như cây lúa, cây bắp ở Việt Nam. Nghề trồng nho là một trong những nghề chính và là một trong những nông phẩm chính của miền Palestine, là nơi có khí hậu và đất đai rất thích hợp với cây nho. Vì thế, đối với dân Do Thái, vườn nho và cây nho là hình ảnh rất lâu đời, được dùng để tượng trưng cho dân tộc, một dân riêng được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc đặc biệt. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc này để áp dụng vào Ngài và chúng ta: Ngài là cây nho, chúng ta là cành.
Một cây nho thì gồm rễ, thân, cành và lá. Một cây nho có đẹp là nhờ có hoa lá cành, nếu chỉ có thân không thôi thì xác xơ, trơ trụi. Dù sao thì mọi phần trong một cây nho đều cần nhau: cây cần phải có cành, nếu không có cành làm sao mang được hoa trái, và hoa trái cũng cần lá cành để che nắng, che sương và dự trữ nước. Nhưng có một điều chắc chắn là cành phải hoàn toàn cần tới thân, nếu cành cắt lìa thân nho thì cành sẽ khô héo và chết.
Đó là hình ảnh cho chúng ta biết: mỗi người cần phải liên kết với Chúa Giêsu thì mới sống và sống mạnh. Chúng ta cần tới Chúa để đạt ơn cứu rỗi, chúng ta cần hiệp nhất với Chúa, như Chúa đã nói: “Không có Ta, các ngươi không làm gì được”. Thực vậy, chúng ta không thể thành toàn, tự giải thoát, thần hóa con người của mình, nếu không sống trong, sống nhờ và sống với Chúa Giêsu. Yếu tính của con người là luôn vươn lên, tìm về tuyệt đối. Con người có nhiều bậc thang giá trị sống: khi bụng đói, họ chỉ nghĩ tới ăn trước tiên. Khi no bụng, dư dả để giải quyết vấn đề bao tử rồi, họ lại thấy cần cái khác là may mặc. Dư dả về ăn uống và may mặc rồi, họ bắt đầu thấy thiếu những nhu cầu tri thức, nghệ thuật, và tiến đến nhu cầu tâm linh. Con người bấy giờ thấy rằng không thể hài lòng với cuộc sống hiện tại, không thể chấp nhận bị tiêu tan vô lý theo với cái chết kết thúc cuộc đời, họ muốn vượt khỏi những giới hạn của trần gian, muốn tung vũ tru này để “du hành” vào một cõi thần thiêng. Thế nhưng con người không thể tự giải phóng mình, phải nhờ Thiên Chúa, nhờ một nhân vật ở cõi thần thiêng. Thì chính Chúa Giêsu là mầm giống siêu nhiên được Chúa Cha cấy vào sự sống tự nhiên của con người, để họ có khả năng phát triển và trưởng thành vào cuộc sống thần thiêng.
Nói rõ hơn, chúng ta phải kết hợp với Chúa Giêsu, là huyết mạch duy nhất để chúng ta thực hiện và hoàn thành ươc mơ được vào cuộc sống thần thiêng, phạm vi cứu rỗi, điều này phải hiểu một cách tuyệt đối. Chúng ta lấy vài thí dụ: có bao giờ chúng ta thấy một bóng đèn điện bị cắt đứt với dòng điện hay bị cúp điện mà còn sáng không? Một nhánh sông cắt đứt với con sông cả mà còn nước không? Một nhành cây cắt đứt lìa thân cây mà còn sống không? Cũng thế, một khi chúng ta xa lìa Chúa, tâm hồn chúng ta cũng khô héo, bề ngoài có thể là thành cong trên phạm vi danh vọng, tiền tài, được ca tụng, kính nể, nhưng chúng ta đang đi đến chỗ hư hỏng. Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta là kẻ chết và chết khô. Vậy chúng ta có thể kết hợp với Chúa cách nào? Bằng những phương thế rất quen thuộc và cụ thể là cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, là bí tích quan trọng và hiệu năng nhất để chúng ta thường xuyên duy trì mối tương quan huyết mạch với Chúa Giêsu.
Đó là về phía Chúa và chúng ta, tức là giữa thân cây nho và cành nho, còn giữa chúng ta với nhau, tức là giữa các cành nho thì sao? Chúng ta cần cộng tác với nhau, nâng đỡ nhau, kết hiệp với nhau trên con đường cứu rỗi. Ở đời này, bất cứ cái gì và phạm vi nào cũng cần cộng tác, hòa hợp với nhau: một viên thuốc cũng là do phân lượng các chất hợp lại thứ nhiều thứ ít; một bức tranh có đẹp cũng là do các mầu sắc khác nhau dung hòa nhau; một bản nhạc hay cũng là do các nốt gom lại trầm bổng khác nhau mà thành. Vậy thì trên đường về nước trời, chúng ta thật sự phải cộng tác với nhau, giúp đỡ nhau, lá lành đùm bọc lá rách bằng đời sống cầu nguyện, đời sống bí tích, đời sống bác ái.
Cũng như một thân cây nho chuyển thông sức sống, nhựa sống cho các cành, thì Chúa Giêsu cũng làm như thế. Cành nho nào không tiếp nhận nhựa sống ấy sẽ cằn cỗi khô héo và rụng gẫy đi. Nhựa sống trong thân cây nho hằng lưu chuyển, không cành nào được giữ riêng lại cho mình mà ngăn cản nhựa sống chuyển sang cho những cành khác. Chúng ta sống với nhau trong một cộng đoàn, một gia đình cũng được ví như thế, được sánh ví như một cây nho. Chúng ta tiếp nhận được sự sống của Chúa, chúng ta phải chuyển thông sự sống của Chúa cho anh em bà con của mình, để tất cả cùng sống tốt đẹp. Chúng ta hãy thử tưởng tượng trong một cây nho, các cành khác chết khô, úa tàn, còn lại một cành xanh tươi, thì hỏi cành đó có gì đẹp không? Hay nói khác đi, đời sống mà chỉ một mình ta sung sướng, còn anh em mình khổ, bất hạnh, thì hạnh phúc của mình có thực là hạnh phúc không?
Tóm lại, chúng ta là các cành nho, chúng ta cần phải liên hệ, liên kết mật thiết với thân cây nho là Chúa Giêsu để nhận được nhựa sống. Liên hệ và liên kết với Chúa bằng cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Đồng thời chúng ta cũng phải liên hệ và liên kết với nhau. Rất có thể chúng ta sống mà không quan tâm đến mối tương quan giữa mình với anh em. Vì không để ý “mình vì mọi người và mọi người vì mình”, nên chúng ta đã sống “mình vì mình và mọi người vì mình”, như thế là ích kỷ. Chúng ta cứ thử nhìn chung quanh xem, thật đáng buồn: người ích kỷ nhiều hơn người vị tha. Ai cũng thấy “cái tôi” của mình là lớn hơn cả và coi người khác không ra gì. Chính vì chỗ chung ta coi người khác không ra gì mà chúng ta nghĩ rằng mình sống không cần tới người nào khác, nhưng trên thực tế, trong bất cứ lãnh vực nào chúng ta cũng cần đến nhau. Cho nên, dù chúng ta là ai, chúng ta vẫn cần có nhau, giúp đỡ nhau.
59. Kitô hữu công chức.
Qua phần chia sẻ sáng hôm nay, tôi xin trình bày hai hình ảnh sai lạc về người tín hữu.
Hình ảnh thứ nhất đó là hạng người tín hữu vay mượn, giả nhân giả nghĩa, tựa như quạ mượn lông công, cáo mượn oai hùm.
Thực vậy rảo bước trên đường phố, chúng ta có thể đọc được những tấm bảng quảng cáo, tại đây có cho mướn áo quần, cho mướn xe hơi và nhiều thứ phụ tùng lỉnh kỉnh khác. Những ai không có khả năng tài chánh có thể đến đây thuê mướn.
Chẳng hạn như cô dâu vào ngày cưới, muốn cho mình được mô đen nên phải vận soirée, nhưng may một cái jupe kiểu này vừa tốn kém, lại vừa chẳng sẵn tiền. Hơn nữa, cả đời không biết mặc được mấy lần. Vì thế để cho tiện lợi mọi bề, bèn đến tiệm thuê luôn một cái. Hay như khi chưa có đủ tiền sắm xe hơi, chúng ta cũng có thể đến thuê trong một thời gian nào đó cần phải xử dụng. Chúng ta có thể xuat hiện trong những bộ quần áo sang trọng, ngồi trên một chiếc xe đắt tiền, đầy đủ tiện nghi, có tài xế đưa đón như một ông chủ. Thế nhưng đó chỉ là một sự xuất hiện chóng qua với một chút hư danh. Người ngoài nhìn vào tuy cũng biết đó là những đồ đi mượn, đi thuê, nhưng họ vẫn sẵn sàng cất lời khen ngợi. Còn chúng ta, mặc dù biết rằng đó chỉ là những lời khen ngợi xã giao và bôi bác, nhưng lắm lúc chúng ta vẫn thích, vẫn tự hào và hanh diện.
Trên phương diện đức tin, cũng có những người Kitô hữu giả danh. Họ mượn danh nghĩa là Kitô hữu, để đi lễ, đọc kinh mà che dấu những ý đồ đen tối, như tục ngữ đã diễn tả:
- Miệng nam mô bụng bồ dao găm.
- Bên ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không gươm…
Đây là một kiểu đạo đức giả hình mà Chúa Giêsu đã từng lên án. Trái lại Ngài muốn chúng ta thật lòng quay trở về với Ngài, với Tin mừng để lãnh nhận ơn tha thứ và cứu độ.
Hình ảnh thứ hai là hình ảnh người Kitô hữu công chức.
Báo chí đã nhiều lần đăng tải những vụ bê bối của các vị tai to mặt lớn, chẳng hạn như tổng thống, bộ trưởng, nghị sĩ hay dân biểu. Có người thì kết án gay gắt vì cho rằng thiếu tác phong đạo đức và đòi buộc phải từ chức. Nhưng cũng có người lại tỏ ra thông cảm, bởi vì ngoài giờ làm việc, những nhân vật này, dù có tai to mặt lớn đến đâu, thì cũng chỉ là một người và có quyền làm những việc riêng theo ý muốn, miễn sao không phương hại tới quyền lợi quốc gia.
Từ sự kiện trên, chúng ta hãy đi vào đời sống đạo đức. Liệu chúng ta có được phép là những Kitô hữu công chức hay không? Liệu chúng ta có được phép chia đời sống thành những ô nhỏ, mỗi ô là một việc chẳng hạn: ô làm việc, ô ăn uống, ô ngủ nghỉ, ô du hí và đức tin cũng như đạo đức chỉ là một ô nhỏ mà thôi?
Chắc chắn là không, bơi vì chúng ta phải là Kitô hữu ở mọi nơi và trong mọi lúc, như lời thánh Phaolô: “Dù làm bất cứ việc gì, anh hãy làm vì Đức Kitô cho danh Chúa được cả sáng”.
Vì vậy không được phép có loại người tín hữu vay mượn, loại người tín hữu công chức, bởi vì hễ giây phút nào chúng ta xa lìa Chúa thì chúng ta sẽ bị tàn úa: Thày là cây nho, các con là ngành… ngành nào lìa cây sẽ khô héo dần. Trái lại, ngành nào kết hiệp cùng cây sẽ trổ sinh hoa trái.
Điều đó nghĩa là có kết hợp cùng Chúa thì bản thân chúng ta mới an bình hạnh phúc và cuộc đời chúng ta mới đem lại thành quả tốt đẹp.
60. Sống liên đới.
Trước Công đồng Vatican II, nói đến tổ chức cơ cấu của Hội thánh, người ta thường nghĩ đến hình ảnh một kim tự tháp: ở chóp đỉnh là Đức Giáo Hoàng, dưới là các Hồng Y, Giám mục, Linh mục, phó tế, tu sĩ, và cái đáy dưới cùng là giáo dân. Hình ảnh này đưa đến một quan niệm không đúng về nhiệm vụ của mỗi thành phần, nhất là giáo dân, bị coi là thấp kém, chỉ biết ngoan ngoãn vâng lời cấp trên.
Nhưng từ Công đồng Vatican II, hình ảnh trên đã được thay thế bằng hình ảnh có một tâm điểm là Đức Giesu, từ tâm điểm này có nhiều vòng tròn đồng tâm: một vòng là các giáo sĩ, gồm các giám mục có Đức Giáo Hoàng đứng đầu, và các cộng sự viên là linh mục và phó tế; vòng khác là các tu sĩ; và vòng rộng lớn hơn là giáo dân. Hình ảnh này cho thấy mọi thành phần đều liên đới với nhau và tất cả đều qui hướng về trọng tâm là Đức Giêsu.
Một hình ảnh khác sâu sắc hơn, thánh Phaolô đã nói tới và nay được chú ý, đó là hình ảnh một than thể, có Đức Giêsu là đầu, mọi người Kitô hữu, dù là giáo sĩ, giáo dân, tu sĩ… đều là các chi thể của thân thể. Mỗi chi thể có nhiệm vụ riêng, không ai thay thế được. Hình ảnh này diễn tả rõ hơn và đúng hơn mối hiep thông giữa các thành phần với nhau và với Đức Giêsu; và cũng cho thấy rằng tất cả đều cùng có trách nhiệm thi hành sứ vụ mà Đức Giêsu trao phó để xây dựng sự hiệp thông trong Hội thánh.
Nhưng tất cả những điều trên đây đã được chính Đức Giêsu đề cập tới trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là hình ảnh cây nho. Đối với dân Do thái, vườn nho và cây nho là một hình ảnh rất lâu đời, rất quen thuộc, được dùng để tượng trưng cho dân tộc, mot dân riêng được Thiên Chúa yêu thương, chăm sóc đặc biệt. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc này để áp dụng vào Ngài và chúng ta: Ngài là cây nho, chúng ta là cành. Sự liên kết và hỗ tương giữa thân cây với cành, và giữa các cành với nhau, đó là hình ảnh sự liên kết và hỗ tương giữa Chúa Giêsu với chúng ta, và giữa chúng ta với nhau.
Một điều hiển nhiên và rõ ràng là cành cây phải hoàn toàn cần tới thân cây mới sống được. Nếu cắt lìa thân nho, thì cành sẽ khô héo và chết. Đó là hình ảnh cho chúng ta biết: mỗi người chúng ta cần phải liên kết với Chúa Giêsu, thì chúng ta mới sống và sống mạnh được. Chúng ta cần tới Chúa để đạt ơn cứu roi, nghĩa là chúng ta không thể thành toàn, tự giải thoát, thần hóa con người của mình, nếu không sống trong Chúa, nhờ Chúa và với Chúa. Điều này phải hiểu một cách tuyệt đối. Cũng giống như bóng đèn điện: có bao giờ mot bóng đèn bị cắt đứt với dòng điện hay bị cúp điện mà còn sáng không? Hay một nhánh sông cắt đứt với con sông cả mà còn nước không? Hay một cành cây cắt đứt lìa thân cây mà còn sống không? Có lẽ nó có thể sống mot vài ngày tạm bợ rồi sẽ chết khô.
Cũng thế, một khi chúng ta xa lìa Chúa, tâm hồn chúng ta cũng sẽ chết khô. Bên ngoài chúng ta có thể là thành công trên phạm vi danh vọng, tiền tài, được ca tụng, kính nể… nhưng trước mặt Chúa, chúng ta là kẻ chết và chết khô. Vậy chúng ta có thể kết hợp với Chúa Giêsu cách nào? Bằng những phương thế rất quen thuộc và cụ thể là cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, bí tích quan trọng và hiệu năng nhất, để chúng ta thường xuyên duy trì mối tương quan huyết mạch với Chúa Giêsu.
Đó là về phía giữa Chúa với chúng ta, tức là giữa thân nho và cành nho. Còn giữa chúng ta với nhau, tức là giữa các cành nho thì sao? Chúng ta cần cộng tác với nhau, cần nâng đỡ nhau, cần kết hiệp với nhau trên con đường cứu rỗi. Ở đời này, không ai chủ trương “mỗi người là một hòn đảo” mà sống tốt được. Cũng như một thân cây nho chuyển thông sức sống, nhựa sống cho các cành, thì Chúa Giêsu cũng làm như thế. Cành nho nào không tiếp nhận nhựa sống thì sẽ cằn cỗi, khô héo và rụng gẫy đi. Nhựa sống trong thân cây nho hằng lưu chuyển, không cành nào đươc giữ riêng lại cho mình mà ngăn cản nhựa sống truyền sang cho những cành khác.
Chúng ta sống với nhau trong một cộng đoàn, một gia đình, cũng được ví như thế, được so sánh như một cây nho. Chúng ta tiếp nhận được sự sống của Chúa, chúng ta phải chuyển thông cho nhau để tất cả chúng ta cùng sống và sống tốt đẹp. Thế mà trong cuộc sống rất có thể chúng ta sống mà không quan tâm đến mối tương quan giữa mình với anh em. Vì không để ý “mình vì mọi người và mọi người vì mình”, nên chúng ta đã sống”mình vì mình và mọi người vì mình”. Như thế là ích kỷ. Chúng ta cứ thử nhìn chung quanh chúng ta xem, thật đáng buồn: người ích kỷ nhiều hơn người vị tha. Ai cũng thấy “cái tôi” của mình là lớn hơn cả và coi người khác không ra gì. Là con cái Chúa, chúng ta không được sống như thế. Chúng ta cần có nhau, hãy nâng đỡ nhau, hãy thông cảm nhau. Đó chính là đạo bác ái của chúng ta vậy.
61. Yêu thương.
Bài Tin Mừng hôm nay thánh Gioan nhắc lại những lời từ biệt của Chúa Giêsu cho các môn đệ trong bữa tiệc ly trước khi Ngài chịu khổ nạn và sau khi Giuđa, kẻ phản bội Chúa đã bỏ bàn tiệc đi thực hiện ý đồ phản bội Ngài.
Chúa Giêsu đã căn dặn các Tông đồ rằng: “Căn cứ vào điều này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Và điều quan trọng là chúng ta có thi hành lệnh truyền này hay không? Vì thế mà có những hậu quả thật nghiêm trọng, đó là hậu quả của sự sống và sự chết.
Thánh Gioan tông đồ nơi thư thứ nhất có đoạn viết như sau: “Nếu chúng ta yêu thương anh em thì chúng ta đã qua sự chết mà vào sự sống. Trái lại, kẻ không yêu thương anh em thì ở trong sự chết, vì phàm ai ghét anh em mình đều là kẻ sát nhân”. Yêu thương nhau là một điều răn mới, bởi vì Chúa Giêsu đã biến đổi luật yêu thương cu của Cựu Ước. Quan niệm của luật cũ là: “Yêu thương anh em như chính mình ngươi”, được Chúa Giêsu đổi lại trong luật mới là: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Như vậy, tình yêu thương mà chúng ta có với nhau không phải là một tình yêu lấy cái tôi làm chuẩn mực, nhưng phải phát xuất từ chính Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy. Giới răn mới của Chúa đươc đồng hóa với tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, và tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa như lời Kinh Thánh đã chép: “Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà ghét anh em mình thì là kẻ nói dối. Vì ai yêu mến Chúa thì cũng phải yêu thương anh em”. Chính vì thế mà yêu thương trở thành dấu chỉ của con cái Chúa, làm cho chúng ta thuộc về Chúa, trở nên môn đệ Chúa: “Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau”.
Nói lên những điều này chắc rằng mỗi người chúng ta đều có thể nói được như vậy và mỗi người chúng ta cũng có thể hiểu được như vậy. Giữa những bài giáo lý mà chúng ta đã học từ nhỏ, những lời giảng dạy mà chúng ta đã nghe qua trong xứ đạo, chắc chắn mỗi người chúng ta đều hiểu được như vậy và nói được: “Chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta”. Nhưng nếu chúng ta sống thực với những điều này mới là việc khó, cần phải cố gắng liên lỉ: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”. Chúng con hãy làm việc tốt để anh chị em chúng con nhìn thấy mà ngợi khen Cha các con ở trên trời”. Đó là lời giảng dạy của Chúa cho các môn đệ trước khi Ngài từ giã các tông đồ, trước khi Ngài hoàn tất sứ mệnh cứu rỗi là chấp nhận chết trên thập giá. Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta, Chúa đã tôn vinh Thiên Chúa Cha bằng một hành động cao cả là hy sinh chính mạng sống mình để minh chứng tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa Cha và với mỗi người chúng ta.
Vì thế, trước khi từ giã các môn đệ Chúa Giêsu đã nói: “Bây giờ thì Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa Cha được vinh hiển nơi Ngài”. Vinh hiển qua hành động hy sinh vì tình yêu của Chúa Giêsu, đồng thời Ngài muốn chúng ta sống như thế để làm vinh hiển Thiên Chúa Cha bằng cách sống giới răn yêu thương mà Ngài đã truyền dạy chúng ta. Liền sau đó Chúa nói rằng: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Chúng ta không thể mơ ước chết một cách rình rang, chết một cách long trọng để mọi người nhìn thấy, nhưng chính những hy sinh nhỏ nhặt hằng ngày không ai nhìn thấy trong âm thầm mới minh chứng tình yêu của chúng ta, mới nói lên mối tình yêu thương thực sự của chúng ta và đo cũng chính là sống cách thiết thực đối với anh chị em. Chúng ta có thể phục vụ anh chị em trong những công việc nhỏ nhặt hằng ngày, những điều đó không ai trông thấy, những điều đó chúng ta cần thực hiện hằng ngày để ton vinh Thiên Chúa.
Trong dịp tiếp xúc và nói chuyện với một người vô thần, một người vô thần đã thốt lên: “Nếu những người Công giáo sống đức tin của mình, sống những gì mà mình nói thì thật là một điều hết sức tốt đep và có thể chúng tôi cũng sẽ tin theo”. Câu nói này nhắc lại trách nhiệm của mỗi người chúng ta là sống điều chúng ta tin. Nếu chúng ta sống điều chúng ta nói, chắc hẳn có rất nhiều người sẽ tin theo Chúa Kitô, và như vậy chúng ta đều có thể nói: “Chúa dạy mình yêu mến Chúa và yêu thương anh chị em như chính Chúa đã yêu thương”.
Vậy thì chúng ta hãy cố gắng sống yêu thương hằng ngày trong cuộc sống của mình để làm vinh danh Chúa, để cho anh chị em xung quanh nhìn thấy những việc tốt, việc phục vụ mà chúng ta thực hiện, để rồi họ được hướng dẫn tin nhận Chúa là Cha và tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất và họ gia nhập cùng với chúng ta trong một cộng đồng duy nhất là Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập, cộng đoàn của những người yêu mến Chúa và yêu thương anh em, cộng đoàn của những người sống tốt lành để làm vinh danh Chúa và mưu ích cho các linh hồn. Xin Chua gìn giữ mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin kính.
62. Giờ ra đi.
Để hiểu được trọn vẹn câu nói, chúng ta phải cần nhận biết được bối cảnh của câu nói đó. Điều này đặc biệt đúng trong câu nói của Đức Giêsu, mà Tin Mừng đã ghi lại. Câu nói trong bài Tin Mừng hôm nay – Thầy là cây nho, anh em là những cành nho” – là một hình ảnh đẹp về sự hợp nhất và thân thiện. Khi nhìn vào bối cảnh ma trong đó Đức Giêsu phát biểu câu nói này, tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ đánh giá được vẻ đẹp của hình ảnh này hơn nữa.
Đức Giêsu nói những lời này với các tông đồ của Người vào cuối bữa tối, hoặc chắc chắn hơn, lúc đang trên đường đi đến vườn Ghiệtsimani. Dù trong bất cứ trường hợp nào, thì hẳn Người đã nói những lời này một khoảng thời gian ngắn, trước cái chết của Người.
Đó là vào một đêm, khi tất cả mọi sự dường như tan vỡ, thất bại, chấm dứt; khi tất cả các môn đệ sẽ bỏ rơi Người; khi người môn đệ đứng đầu của họ sẽ công khai chối bỏ Người, và một người khác trong nhóm họ sẽ phản bội Người. Tuy nhiên, đây chính là đêm mà Người chọn lựa, để nói về sự kết hợp và thống nhất với nhau.
Lúc đầu, dường như đây là lúc không phù hợp để nói về sự hợp nhất. Nhưng khi suy nghĩ, chúng ta nhận thấy rằng đó là thời điểm tự nhiên và phù hợp nhất. Đây là giờ ra đi. Giờ ra đi làm cho chúng ta dễ tập trung vào những điều chính yếu. Chính vào thời điểm đó, mà chúng ta thực sự đánh giá được vị trí tự nhiên của mình, và đặc biệt là về tình bạn của chúng ta.
Tại bán đảo Dingle, ở Co. Kerry, có một tảng đá được biết đến như là Tảng Đá của những giọt nước mắt, Carraig nan Deoir. Tảng đá đó nằm tại khúc quanh của con đường đi tới Dingle. Dân di cư từ các hòn đảo Blasket và mũi Slea hay dừng chân tại đây mot lúc và khóc. Từ nơi đây, họ liếc nhìn lại quê nhà mà họ vừa mới từ đó ra đi, và sẽ không bao giờ lại được nhìn thấy nữa. Bên kia khúc quanh này, con đường được trải dài tới Dingle, đi đến tận Cobh, và đến những con tàu sẽ đưa họ tới nơi bị lưu đày.
Vào giờ ra đi, Đức Giêsu cảm thấy rất gần gũi với các tông đồ của Người. Và Người đã bày tỏ cho họ về điều này. Người cũng muốn họ gần gũi với Người nữa. Người nhìn thấy trước rằng trong đêm hôm đó, họ sẽ bỏ rơi Người. Người nhìn thấy trước rằng Phêrô sẽ chối bỏ Người, và Giuđa sẽ phản bội Người. Phản bội là một điều khủng khiếp. Rất ít, nếu không muốn nói rằng không một quan hệ nào có thể ton tại được, sau khi có sự phản bội. Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng nhìn thấy trước rằng bất chấp những biến động này, sự hợp nhất của họ vẫn tồn tại. Các tông đồ học hỏi được rất nhiều từ sự yếu đuối và hèn nhát của ban thân họ, khi đối diện với những đòi hỏi của sự hợp nhất và đoàn kết. Nhưng họ còn được học hỏi nhiều hơn về Đức Giêsu. Họ học hỏi được rằng Người vẫn yêu thương họ trong khi và thông qua sự yếu đuối của họ. Nếu họ tách lìa khỏi Người, thì không phải là do Người cắt đứt quan hệ với họ. Những sự kiện của đêm hôm đó chẳng những không hề kết thúc sự ràng buộc của họ đối với Đức Giêsu, mà còn củng cố hơn nữa.
Chính thông qua viec đương đầu với những đấu tranh, thất bại, nguy hiểm, và hy sinh, mà tính hợp nhất được phát triển và đào sâu. Mối quan hệ càng trở nên sâu xa hơn, sau khi đã trải qua bão táp.
63. Cây và cành.
Đức Kitô không viết một cuốn sách nào. Người cũng không hề để lại một tòa nhà hoặc một đài kỷ niệm nào cả. Tuy nhiên, Người đã làm một điều gì đó vĩ đại và cần thiết hơn nhiều, mặc dù mang tính cách ít phô trương – Người xây dựng một cộng đoàn. Đó chính là đài kỷ niệm của Người.
Người nói với các tông đồ của Người “Thầy là cây nho, anh em là những cành nho”. Đây là một hình ảnh mà Người sử dụng, khi nói về cộng đoàn mà Người xây dựng. Đây là sự minh hoa đơn giản nhưng sâu xa về sự hợp nhất, thân thiện và tùy thuộc vào nhau.
Vào mùa xuân, những cành nho tràn ngập sức sống, dưới hình thức của những chiếc lá và nụ hoa. Vào mùa thu, chúng trĩu nặng những chùm nho. Nhưng chúng có được sự sống này, và có khả năng tạo ra được hoa quả, chỉ vì chúng nối kết với thân cây. Khi bị cắt khỏi thân cây, chúng sẽ không chỉ trở nên cằn cỗi, mà còn nhanh chóng bị khô héo và chết rục. Giống như những cành cây cần đến thân cây, chúng ta rất cần đến Đức Kitô. Khi bị tách lìa khỏi Người, thì chúng ta không có sự sống, và không có khả năng sinh hoa kết quả.
Nhưng cây nho cũng cần đến những cành nho – chính những cành nho tạo ra hoa quả. Điều này có nghĩa là Đức Kitô cũng cần đến chúng ta. Chúng ta là những cành nho của Người. Cây nho và những cành nho cần đến nhau. Bên nhau, chúng tạo ra một sự hợp nhất. Từ điều này, chúng ta có thể thấy rằng sự tin tưởng mà Người đặt để nơi chúng ta vĩ đại như thế nào. Chúng ta có thể cảm thấy mình không được đầy đủ. Nhưng chúng ta phải ghi nhớ rằng cây nho cứng cáp và đầy sức sống.
Đức Kitô tùy thuộc vào chúng ta, để tạo ra hoa quả trong thế giới này. Có một sự khác biệt lớn lao giữa sự thành công và sinh hoa kết quả. Thành công xuất phát từ sức mạnh, cách điều khiển và sự đáng tôn trọng. Thành công mang lại phần thưởng và đôi khi cũng mang lại sự nổi tiếng nữa. Tuy nhiên, việc sinh hoa kết quả lại thường xuất phát từ sự yếu đuối và dễ bị tổn thương, và thường xuyên không được ai nhận ra và trọng thưởng.
Đức Kitô không đòi hỏi chúng ta phai thành công, nhưng phải sinh hoa kết quả. Mỗi người trong chúng ta đều có một số năng khiếu. Chúng ta trổ sinh hoa quả, bằng cách phát triển, sử dụng và chia sẻ năng khiếu đó cho nhau. Thế giới đang chờ đợi hoa quả. Điều quan trọng là tình yêu thương. Thiên Chúa sẽ làm cho tình yêu thương của chúng ta trổ sinh hoa quả, mặc dù chúng ta nhìn thấy hoặc không nhìn thấy kết quả đó.
Trong suốt những tháng mùa đông, các cành cây đều bị cắt tỉa. Việc cắt tỉa là một quá trình gây đau đớn cho một cây ăn quả. Người cắt tỉa loại bỏ đi những chồi rễ mút và những cành cây non mọc dư ra, làm mất đi nhiều sức sống của thân cây, nhưng lại không tạo ra được quả. Mục đích của việc cắt tỉa này không phải là bắt thân cây phải chịu đựng đau đớn, nhưng là để giúp cho thân cây tạo ra nhiều quả hơn, và quả được ngon hơn.
Chúng ta – những cành cây của Cây Nho Đích Thực – cũng cần được cắt tỉa. Co nhiều thứ vô ích và có lẽ còn có hại trong cuộc sống của chúng ta, làm mất đi nhựa sống là năng lực của chúng ta, và làm suy giảm việc sinh hoa kết quả của chúng ta về mặt thiêng liêng. Nếu Đức Kitô cắt tỉa chúng ta qua những thử thách, chỉ là để làm cho chúng ta trổ sinh hoa quả nhiều hơn nữa. Khi được cắt tỉa bằng nỗi đau khổ, con người sẽ tạo ra được hoa quả của sự hiểu biết và lòng thương xót.
64. Nhu cầu.
Thông thường, con người có một nguy cơ chung, trong việc đến gần với nhau. Người ta có thể đi bên nhau qua nhiều năm, nhưng mỗi người vẫn khóa kín trong thế giới im lặng của riêng mình, hoặc chỉ trao đổi với nhau những lời nói không mang ý nghĩa thực sự nào cả, cho đến khi va chạm với nỗi nguy hiểm. Sau đó, họ mới chịu đứng bên nhau, vai kề vai. Họ phát hiện ra rằng mình đều thuộc về cùng một gia đình. Họ phát triển và lớn lên trong sự nhận biết về nhau như là những con người đồng chí hướng. Họ trở nên những người đồng hành trung thành của nhau. Họ thực sự gặp gỡ nhau.
Con người không tìm thấy hạnh phúc trong những của cải hoặc ngay cả trong những sự thành đạt, nhưng trong các tương quan nhân loại nồng nàn. Thông thường, những sở thích cá nhân và quan niệm của chúng ta giam hãm chúng ta trong những bức tường, và tách lìa chúng ta khỏi người khác. Chỉ nhờ được nắm chặt vào một bàn tay ấm áp và thân thien, mới giải phóng chúng ta khỏi nhà tù này, mà chúng ta đã tự tạo ra cho mình.
Đêm trước khi chịu chết, Đức Giêsu đã ăn một bữa tối rất đặc biệt cùng với các bạn bè của Người – Bữa Tiệc Vượt Qua – mối nguy hiểm ẩn khuất ở tất cả mọi nơi. Thật khó mà nói được rằng có thể tin tưởng vào người nào. Người cảm thấy điều này rõ nét hơn các môn đệ. Trong giờ phút tối tăm và nguy hiểm này, Đức Giêsu cảm thấy gần gũi với các tông đồ của Người hơn lúc nào hết. Để bày tỏ cho họ biết Người cảm thấy như thế nào về họ, Người đã quỳ xuống và rửa chân cho họ. Sau đó, Người nói với họ về tình yêu – về tình yêu của Người đối với họ, và về tình yêu mà họ nên có đối với nhau.
Trên đường đi đến vườn Giệtsimani, Người tìm thấy một biểu tượng lý tưởng về sự ràng buộc mà Người cảm thấy đối với họ. Dừng lại bên cạnh một cây nho, Người nói “Thầy là cây nho, anh em là những cành nho. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người đó, thì người đó sẽ sinh nhiều hoa quả. Nhưng nếu anh em tách lìa khỏi Thầy, thì anh em sẽ bị khô héo và chết rục”. Ngay cả khi Người đã nói như vậy rồi, mà Giuđa, một người trong số họ vẫn tách lìa khỏi Người. Thật là một kết thúc cằn cỗi mà ông ta đã hướng tới.
Đây chính là điều mà Đức Giêsu cảm thấy. Đây chính là điều mà Người mong muốn có giữa Người và các môn đệ của Ngươi. Đây chính là cách thức mà Người mong muốn tạo ra giữa Người và các môn đệ của Người. Đức Giêsu chính là cây nho, và chúng ta là những cành nho. Chúng ta không nên chờ đợi mối nguy hiểm đe dọa, trước khi chúng ta cảm nhận được sự thật này. Đây nên là môi trường mà trong đó chúng ta sống.
Điều này cũng đáp ứng nhu cầu về một cộng đoàn nâng đỡ của con người. Trong thế giới này, có quá nhiều nỗi cô độc rồi. Con người ngày nay đang kêu gào được nhìn nhận. Họ mong muốn được nhận ra, không phải theo một cách thế phô trương, hoặc bởi vì họ có nhiều tiền bạc hoặc danh vọng, nhưng chỉ bởi vì họ là những con người. Nhu cầu lớn nhất vượt lên trên tất cả, đó là nhu cầu được yêu thương. Nhưng thông thường, chúng ta cứ vượt qua mặt nhau, mà không hề có một dấu hiệu nào về sự nhận biết nhau, dù là nhẹ nhàng nhất. Người ta vẫn có thể đi đến nhà thờ và lại trở về, mà không hề gặp gỡ bất cứ ai cả. Có đúng thế không?
Thế giới đang kêu gào một cộng đoàn. Không có một cộng đoàn nào giống như cộng đoàn Kitô hữu đoàn kết với nhau. Hoa quả mà Đức Kitô ao ước nơi chúng ta trước hết, đó là hoa quả của sự hợp nhất giữa chúng ta. Qua sự hợp nhất này, tất cả mọi người sẽ nhận biết rằng chúng ta là những cành nho sống động của cây nho – nhờ sự ràng buộc tồn tại giữa chúng ta, và nhờ sự quan tâm mà chúng ta bày tỏ với nhau.
65. Cây và cành.
Đức Giêsu không viết một quyển sách nào cả. Ngài cũng không xây dựng một ngôi nhà nào cả. Nhưng Ngài đã thực hiện một công trình lớn lao và cần thiết hơn nhiều, đó là xây dựng một cộng đoàn.
Ngài nói với các môn đệ: “Thầy là cây nho, anh em là cành”. Đó chính là hình ảnh Ngài dùng để nói về cộng đoàn mà Ngài xây dựng, một hình ảnh rất súc tích:
Vào mùa xuân, các cành nho vươn ra, đơm lá, trổ hoa. Đến mùa thu thì các cành đã nặng trĩu những chùm nho tươi tốt. Nhưng sở dĩ cành sinh lá, trổ hoa và kết trái là nhờ chúng nối liền với cây nho. Nếu cắt lìa chúng ra khỏi cây thì chẳng những chúng không có trái, mà còn héo tàn dần và cuối cùng thì chết. Cành nho cần đến cây nho thế nào, chúng ta cũng cần đến Đức Kitô thế ấy. Nếu không kết hợp với Ngài, chúng ta sẽ không có sức sống và không thể sinh trái.
Nhưng cây nho cũng cần đến cành nho, bởi vì chính cành nho sinh ra trái nho. Nói thế nghĩa là Đức Kitô cũng cần đến chúng ta. Chúng ta là cành của Ngài. Như thế cây nho và cành nho đều cần đến nhau. Hai bên tạo thành một thể hiệp nhất. Từ đó chúng ta mới hiểu Đức Kitô rất tin tưởng và trông cậy nơi chúng ta. Có thể chúng ta cảm thấy mình không xứng đáng với sự tin tưởng trông cậy ấy, tuy nhiên chúng ta phải nhớ rằng bên cạnh chúng ta còn có Ngài nữa. Cành nho có thể yếu ớt và mong manh, nhưng cây nho thì rất vững chắc và dồi dào sức sống.
Đức Kitô muốn nhờ chúng ta để sinh trái cho thế giới. Có một khác biệt lớn giữa thành công và sinh trái. Thành công đến từ năng lực, và mang lại vinh quang. Nhưng việc sinh trái thì thường đến từ sự yếu đuối, khổ đau và nhiều khi chẳng ai nhận biết mà khen thưởng. Đức Kitô không bảo chúng ta phải thành công, nhưng Ngài dạy chúng ta sinh trái. Mỗi người chúng ta đều được Ngài ban cho một số khả năng nào đó. Bằng cách sử dụng, phát triển và chia xẻ những khả năng đó với người khác, chúng ta sẽ sinh trái. Thế giới đang chờ những trái ấy. Mà điều quan trọng là yêu thương. Thiên Chúa sẽ làm cho tình yêu của chúng ta sinh trái, những trái chúng ta thấy được và cả những trái chúng ta không thấy.
Sang mùa đông, các cành nho được cắt tỉa. Cắt tỉa là một tiến trình cần thiết cho cành nho: bỏ đi tất cả những gì thừa thãi chẳng ích lợi gì mà còn làm hao mòn sức sống của cây nho. Mục đích của cắt tỉa không phải là làm cho cành bị đau mà là để giúp chúng sẽ sinh trái nhiều hơn và tốt hơn nữa. Vì chúng ta là những cành của cây nho thật là Đức Kitô nên chúng ta cũng cần được cắt tỉa. Có rất nhiều điều chẳng những vô ích mà còn có hại cho sự sống chúng ta, làm hao hụt năng lực chúng ta và cản trở sự sinh hoa trái thiêng liêng của chúng ta. Nếu Đức Kitô cắt tỉa chúng ta bằng những gian truân thử thách, đó là vì Ngài muốn chúng ta sinh nhiều trái hơn.
66. Cây nho thật – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Câu “cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi” nghĩa là gì? Tại sao gắn liền với Đức Giêsu mà lại không sinh hoa trái? Câu này ám chỉ loại người nào?
2. Câu “cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” nghĩa là gì? Chữ “cắt tỉa” ở đây ám chỉ điều gì? Tại sao lại phải “cắt tỉa”?
3. Từ ngữ “ở lại trong” và “gắn liền với” Đức Giêsu phải được thể hiện thế nào trong đời sống của ta?
Suy tư gợi ý:
1. “Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi”
Đức Giêsu tự ví mình là cây nho, và những người theo Ngài là những cành nho. Cành nho sống được là nhờ thân nho. Rời thân nho, cành nho sẽ khô héo và bị quăng vào lửa. Tuy nhiên, Đức Giêsu đưa ra trường hợp này: có những cành nho, tuy gắn liền với cây nho, nhưng lại không sinh hoa trái. Trường hợp này, cành nho sẽ bị chặt khỏi cây nho.
Nói đến trường hợp này, người Kitô hữu không khỏi nghĩ về bản thân mình, liệu đó có phải là trường hợp của mình không? Vì người Kitô hữu là người gắn liền với Đức Giêsu, nhưng quả thật có rất nhiều Kitô hữu suốt bao năm trường đã chẳng sinh ra hoa trái nào! Biết bao Kitô hữu theo Đức Giêsu từ nhỏ tới lớn, thậm chí tới già, nhưng xét cho kỹ và nói cho khách quan, thì họ chẳng tốt hơn người ngoại loại trung bình chút nào! Nhiều người còn tệ hơn cả những người ngoại loại ấy nữa! Họ sẵn sàng ăn gian nói dối, đối xử bất công, sống không tình nghĩa, v.v… Tương tự, có biết bao linh mục, tu sĩ, mang danh theo Chúa hàng chục hay mấy chục năm, nhưng chẳng tốt hơn những giáo dân bình thường bao nhiêu, đôi khi còn tệ hơn! Sách Khải Huyền nói về hạng người này: “Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3,15-16).
Trường hợp này rất có thể đúng cho tôi, cho bạn. Vì thế, mỗi người chúng ta cần phải tự vấn mình trước mặt Chúa, để sửa đổi trước khi quá muộn. Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta sửa đổi, để Ngài khỏi phải ra tay! “Ta không muon kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 18,23; 33,11; x.33,19).
2. “Cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn”
Người làm vườn giỏi biết chăm sóc cây thì biết cắt tỉa cành để nó sinh nhiều hoa trái hơn. Nếu người Kitô hữu là cành nho, Đức Giêsu là cây nho, Thiên Chúa Cha là người trồng nho, thì ắt nhiên Chúa Cha sẽ phải “tỉa cành” để người Kitô hữu “sinh nhiều hoa trái” hơn. Người Kitô hữu “sinh nhiều hoa trái” là người có nhiều tiến bộ về mặt tâm linh (mến Chúa yêu người ngày càng nhiều hơn). Và Chúa Cha “tỉa cành” là giúp người Kitô hữu bỏ bớt những bận tâm vô ích để có thể tập trung năng lực vào việc tiến bộ tâm linh. Ngài có thể làm điều ấy bằng cách làm cho người Kitô hữu ấy bị thiệt thòi mất mát về vật chất, thể chất, cũng như tinh thần, hoặc cho người ấy trải qua những đau khổ thử thách. Vì những đau khổ thử thách có khả năng thánh hóa rất hữu hiệu.
Chính Đức Giêsu, thánh thiện như vậy mà cũng được Chúa Cha “tỉa cành” cho Ngài. Thánh Phaolô nói về điều ấy: “Thiên Chúa (…) đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn dẫn đưa mọi người tới nguồn ơn cứu đo” (Dt 2,10). Như vậy, theo thánh Phaolô, nhờ chịu gian khổ mà Đức Giêsu trở nên một người lãnh đạo hoàn hảo. Tin Mừng cũng nói: “Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26). Còn chúng ta, Thiên Chúa cũng mời gọi chúng ta chia sẻ đau khổ với Đức Giêsu, để cùng tham dự vào vinh quang và hạnh phúc của Ngài: “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8,17). “Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hy” (1Pr 4,13). “Phần anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường” (1Pr 5,10).
Đọc hạnh các thánh ta thấy hầu như vị thánh nào cũng đều có kinh nghiệm được Thiên Chúa thánh hóa bằng đau khổ. Chẳng hạn, thánh Têrêxa Avila đã bị Thiên Chúa thử thách bằng biết bao đau khổ, đến độ thánh nhân phải kêu lên: “Chúa đối xử với bạn bè Chúa như vậy, hèn chi Chúa ít bạn là phải!” “Chúa ít bạn là phải!” vì nhiều người dù biết rằng đau khổ có tác dụng thánh hóa bản thân, nhưng vẫn sợ và tránh né đau khổ: nếu phải đau khổ mới nên thánh thì thôi, thà đừng nên thánh! Nghĩ như thế thật là nông cạn, vì nên thánh, nên hoàn hảo là điều rất quí giá: những đau khổ ta phải chịu chẳng là gì cả so với vinh quang và hạnh phúc ta được nhờ sự hoàn hảo thánh thiện, và sự thánh thiện hoàn hảo này ta đạt được là nhờ đau khổ. Thánh Phaolô viết: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta!” (Rm 8,18). Thánh Phêrô cũng khuyên ta đừng sợ hãi đau khổ: “Nếu anh em chịu khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc! Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến” (1Pr 3,14). Vua Đavít cũng nhận ra ích lợi của đau khổ đối với sự thánh thiện: “Đau khổ quả là điều hữu ích, để giúp con học biết thánh chỉ Ngài” (Tv 119,71).
Người tốt chấp nhận đau khổ vì đau khổ Chúa gửi đến cho mình chẳng những làm cho mình nên công chính, mà còn làm cho những người khác nên thánh thiện nữa: “Vì đã nem mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh được tội lỗi của họ” (Is 53,11). Như vậy, tự nguyện chấp nhận đau khổ (chịu đau đớn, cực hình, chịu thiệt thòi, mất tiền, mat thì giờ, mất sức khỏe, bị nghi ngờ, hàm oan…) vì tha nhân là một hành vi bác ái, là một phương tiện thực hiện yêu thương. Vì nhờ ta chấp nhận đau khổ mà nhiều người nên công chính và được hạnh phúc. Vì thế, người có long yêu thương thật sự sẽ sẵn sàng lợi dụng đau khổ của mình để làm lợi cho người khác.
3. “Gắn liền với” hay “ở lại trong” Đức Giêsu là gì?
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu dùng nhiều lần hai từ ngữ “ở lại trong” và “gắn liền với” Ngài, và coi đó như điều kiện cần thiết để “sinh hoa trái” hay “sinh nhiều hoa trái”. Chẳng hạn câu: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy”. Hai từ ngữ ấy có nghĩa gì? Chúng ta đã thật sự “ở lại trong” và “gắn liền với” Đức Giêsu chưa? - Thực ra, ai là người Kitô hữu thì cũng, một cách nào đó, “ở lại trong” và “gắn liền với” Đức Giêsu. Nhưng phải nói rằng tình trạng ấy có nhiều mức độ khác nhau, từ hời hợt bên ngoài đến thâm sâu bên trong.
Thật vậy, nhiều người mang danh Kitô hữu, nhưng chẳng có tinh thần Kitô hữu bao nhiêu. Họ là những người Kitô hữu “hữu danh vô thực”. Thánh Phaolô có nói về một tình trạng tương tự như vậy trong Do-thái giáo (x. Rm 2,17-23). Có nhiều Kitô hữu có vẻ rất ngoan đạo, đi lễ và rước lễ hằng ngày, có vẻ rất hăng hái trong những việc liên quan đến nhà thờ, hội đoàn, công tác tông đồ. Nhưng đời sống của họ lại chẳng toát lên được tinh thần Kitô giáo, là chân thật, công bằng, yêu thương, thông cảm, tha thứ.
Tình trạng “ở lại trong” và “gắn liền với” Đức Giêsu phải được thể hiện trong ba phạm vi:
* ý thức: luôn luôn ý thức Đức Giêsu ở với mình, ở trong mình. Ngài là tình yêu và sức mạnh của mình. Ngài vô cùng quyền năng, nên với Ngài ta có thể làm được mọi sự. Luôn luôn ý thức Ngài yêu thương mình, nên hoàn toàn tin tưởng và phó thác mọi sự cho tình yêu của Ngài. Nhờ đó, ta luôn luôn bình an, không phải lo lắng gì cho bản thân mình: “Chúa khoan nhân là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì, tôi không còn e sợ nỗi gì…” (Tv 23). Ý thức này phải trở thành một tâm trạng thường hằng của ta.
* tình cảm: luôn luôn yêu mến Ngài, hướng về Ngài, lấy Ngài là lẽ sống cho cuộc đời mình. Vì thế, dấn thân hết mình cho Ngài, cho Nước Ngài, cho kế hoạch cứu độ của Ngài, một cách quảng đại, không so đo tính toán. Ngoài ra, tình yêu của ta đối với Ngài phải được thể hiện cụ thể nơi những hiện thân của Ngài, là tha nhân chung quanh ta, đặc biệt những người gần gũi ta nhất (cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn bè…)
* hành động: luôn luôn làm theo ý muốn của Ngài, theo sự đòi hỏi của tình yêu trong lòng mình. Ý muốn của Ngài được thể hiện qua lời Ngài, qua luật yêu thương của Ngài, qua tiếng lương tâm, qua những biến cố hay hoàn cảnh xảy ra trong đời, đặc biệt những nghịch cảnh.
Khi luôn luôn “gắn liền với” hay “ở lại trong” Ngài, ta sẽ nhận được sức sống, sức mạnh của Ngài, và đời ta sẽ trở thành một cuộc đời tươi đẹp, ý nghĩa, chẳng những đầy sức mạnh, an vui, hạnh phúc mà còn là nguồn sức mạnh, nguồn an vui hạnh phúc cho mọi người nữa.
Cầu nguyện
Lay Cha, Cha là nguồn sống, nguồn sức mạnh, nguồn tình yêu của muôn loài vạn vật. Con muốn kết hiệp với Cha để nhận được sự sống, sức mạnh và tình yêu hầu sống một cuộc sống tươi đẹp, ích lợi, đồng thời để những ai tiếp xúc với con cũng nhận được sự sống, sức mạnh và tình yêu của Cha từ nơi con. Xin hãy giúp con gắn bó mật thiết với Cha.
67. Như cành hợp nhất với cây
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng USA)
Phúc âm Chúa nhật tuần trước, Chúa Giêsu dùng cái hình ảnh con chiên và người chăn chiên để nói lên cái mối liên hệ giữa Thiên Chúa và loài người. Phúc âm hôm nay Chúa dùng hình ảnh cây nho và ngành nho để nói lên cái sự hiệp nhất, nói một cách xác thực hơn, cái sự thông hiệp giữa loài người với Thiên Chúa. Chúa ví Người như cây nho, Chúa Cha là người trồng nho, còn ta là nghành nho. Cây nho gồm nhiều ngành được hợp nhất với nhau, tạo thành một đơn vị của cây, vì cành cây chia sẻ nhựa sống với gốc rễ. Vậy nếu không gắn liền với thân cây, cành cây sẽ không có nhựa sống. Cũng như ngành nho cần phải được gắn liền với thân cây thì mới sinh hoa kết quả, người tín hưũ cũng cần được hiệp nhất với Chúa Ki-tô bằng ơn thánh để có thể sinh hoa kết quả thiêng liêng trong đời sống.
Vậy làm sao để được hiệp nhất với Chúa? Người tín hữu hiệp nhất với Chúa Kitô không phải là việc kết hợp bên ngoài như gia nhập tổ chức nọ, hội đoàn kia. Người tín hữu hiệp nhất với Chúa Kitô bằng ơn thánh. Vì thế tội phạm sẽ làm giảm ơn thánh, do đó làm giảm sự hiệp nhất với Chúa. Để được hiệp nhất với Chúa, người tín hữu cần ở lai trong tình yêu của Chúa. Ở lại trong tình yêu của Chúa là tuân giữ giới răn Chúa như Thánh Gio-an quả quyết trong Thư gửi tín hữu Do Thái: Ai tuân giữ răn của Thiên Chúa, thì ở lại trong Thiên Chúa (1 Ga 3:24). Chúa hứa cho những ai ở lại trong tình yêu Chúa, mà họ xin điều gì thì Chúa sẽ ban cho. Hợp nhất trong tình yêu Chúa có nghĩa là thần trí của Chúa phải thấm nhập vào mỗi lãnh vực của đời sống: tư tưởng, cảm tình, ước muốn, hành động...
Trong Phúc âm hôm nay, Chúa phán: Ai ở lại trong Thày và Thày ở trong người ấy, sẽ sinh nhiều hoa trái (Ga 15:5). Để cắt nghĩa cái sự hiệp nhất này, Thánh Phaolô nại đến ví dụ cụ thể của thân thể con người. Mặc dù được làm thành bởi nhiều phần, cái thân thể tạo thành một đơn vị độc nhất. Thánh Phaolô nhìn thấy cái sự hiệp nhất trong một thân thể tương tự như cái sự hiệp nhất trong nhiệm thể màu nhiệm của Chúa Kitô là Giáo hội. Trong cái nhiệm thể màu nhiệm này là Giáo Hội thì Chúa Kitô là đầu, còn người tín hữu là những phần chi thể. Thánh Phao-lô là người hơn ai hết hiểu được cái ý niệm thần học về nhiệm thể màu nhiệm Chúa Kitô. Trên đường đi Đamascô để bách hại người Kitô giáo, Phaolô bị quật ngã khoi lưng ngựa, rồi nghe tiếng phán bảo: Saolê, Saolê, tại sao nhà ngươi bách hại ta (Cv 9:4)? Thực ra thì Phaolô chỉ bách hại người Ki-tô giáo, chứ không bách hại Người phán ra tiếng đó. Sau này nhờ cầu nguyện, suy niệm và được ơn thánh soi sáng, Thánh Phaolô hiểu được tại sao bách hại người Kitô giáo là bách hại chính Đức Ki-tô vì người tín hữu là những chi thể trong thân thể mau nhiệm của Đức Kitô. Nói theo tiếng dùng của Chúa trong Phúc âm hôm nay, người tín hữu là ngành nho trong cây nho là Đức Kitô.
Giáo hội là cộng đồng dân Chúa và là gia đình của Chúa chỉ khi nào các thành phần qui tụ và hiệp nhất trong niềm tin cậy mến. Nếu chỉ qui tụ trong thời gian hoặc không gian, thì không phải là cộng đồng dân Chúa. Người ta có thể qui tụ lại cùng nơi, cùng lúc, cùng đợi một chuyến xe, nhưng đó chỉ là đám đông, chứ không phải là cộng đồng, lại càng không phải là cộng đồng dân Chúa. Khi mà người ta đến với nhau thì có sự việc xẩy ra. Đó là một nguyên tắc xã hội học. Nguyên tắc này còn được áp dụng cho lãnh vực tôn giáo. Khi ma người Kitô giáo đến với nhau thì sẽ xẩy ra những hoạt động Kitô giáo, nghĩa là những hoạt động thiêng liêng. Khi mà người Kitô giáo hiệp nhất đến với nhau, họ sẽ mang lại hoa trái thiêng liêng. Sản xuất hoa trái cho bữa ăn đòi nhiều thời giờ và công sức như canh tác, vun xới, trồng, tưới, tỉa bón, hái về nhà gọt rửa rồi nấu nướng. Để có được hoa trái thiêng liêng cũng đòi hỏi nhiều thời giờ luyện tập như cầu nguyện, suy niệm, hy sinh, hãm mình, vị tha, bác ái...
68. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan.
Trong một chương trình về làm vườn trên truyền hình, khi giải thích cách thức tỉa cành, chuyên gia nọ có nhận xét rằng thật đáng ngạc nhiên là hằng năm sau mùa đông người ta có thể xén tỉa cắt bỏ biết bao là cành khô củi mục từ một cây vẫn còn rất khỏe mạnh tươi tốt, đồng thời lưu ý thêm rằng cần xén tỉa kỹ lưỡng cây cối mới có thể sinh ra quả ngon. Tin Mừng hôm nay cũng nói với chúng ta rằng còn đáng ngạc nhiên hơn khi cuộc sống tốt lành chúng ta cũng có nhiều cây khô củi mục. Xét nhiều phương diện, cuộc đời chúng ta cũng không mấy khác gì với một vườn cây. Nếu chúng ta muốn sau này thu hoạch thật tốt, thì chắc chắn là phải liên tục chăm sóc vun trồng ngay từ đầu. Chúng ta cũng cần chạy tìm Đức Chúa Giêsu tư vấn, vì Người là bậc thầy trong lãnh vực "trồng ngưòi" này. Chúng ta cũng phải tự nhổ bỏ cỏ dại gai góc không thương tiếc, kẻo chúng chen lấn thui chột sức thăng trưởng của niềm tin Kitô giáo. Điều này có nghĩa là cần chặt bỏ những gì vô ích và gìn giữ những gì tốt đẹp. Việc xén tỉa mà Đức Kitô đang nhắc đến chính là việc thanh tẩy trọn vẹn tất cả con người: thân xác, và tâm hồn.
Là một Kitô hữu, không dễ gì giữ mãi vóc dáng tươi tốt ban đầu. Ngay cả những cuộc đời thánh thiện nhất cũng có thể tìm thấy lợi ích khi chịu xén tỉa đôi chút. Hoa trái tốt lành mà chúng ta mong mỏi sản sinh cho đời chính là tình yêu bác ái đối với tha nhân qua lời nói và việc làm. Đây là dấu thử nghiệm chánh hiệu cầu chứng của chúng ta vì hoa trái bác ái nào cũng có dấu ấn của Đức Kitô đóng trên chúng. Thật đáng tiếc nếu chúng ta đóng kín tâm hồn, quay lưng những anh chị em hàng xóm bằng cách nói xấu nói hành, bêu diếu những gương xấu lỡ lầm của họ, dồn họ vào đường cùng, làm mất danh thơm tiếng tốt của họ... Không ai lại không có lỗi lầm, thậm chí những người tốt lành nhất cũng có thể có cái mặt yếu nhất mà người ta có thể lợi dụng tấn công tơi tả. Quyết định nào cũng có cái giá phải trả, chúng ta không nên làm ngơ hay giảm thiểu những khó khăn gắn liền với quyết định sống yêu thương, sống tình yêu. Chúng ta không thể bẽ gẫy phá đổ những rào cản hận thù hay định kiến mở đường cho lòng tốt và khoan dung đi vào cuộc sống của anh chị em, nếu như chúng ta không quyết tâm chăm sóc tu dưỡng ngôn từ của chính mình bằng cách "giữ mồm giữ miệng" hay đúng hơn là "gọt dũa lại" cái lưỡi của mình. Tính hư tật xấu cũng như tội lỗi chúng ta thường ngăn chặn hay làm giảm hiệu quả việc chúng ta sống yêu thương qua tha nhân.
Đức Giêsu đã tạo một ảnh hưởng lớn lao trên đời sống thế gian này nhờ những môn đệ, những kẻ đi theo Người, biết cách sống sao cho mọi người nhìn thấy bàn tay Thiên Chúa hoạt động trong mọi tình huống đời thường. Đức Kitô tùy thuộc vào chúng ta có trở nên đôi tay và môi miệng Người hay không, để đem ánh sáng cứu độ đến cho người khác. Sự đóng góp to lớn nhất mà mỗi người trong chúng ta có thể làm cho Giáo Hội là chúng ta cho phép tình yêu của Đức Kitô thấm nhập vào trong máu của chúng ta. Nếu chúng ta sống trong Đức Kitô và Đức Kitô sống trong chúng ta, thì hoa trái chúng ta mang lại thật là ngoài sức tưởng tượng. Hôm nay là cơ hội cho chúng ta suy tư lại mức độ chúng ta gắn bó với Tin mừng, vì nếu lìa xa Đức Chúa Giêsu, chúng ta sẽ không tăng trường vững bền. Thiên Chúa đòi hỏi con cái của Ngài cũng nhiều, khi Ngài mong muốn chúng ta xây dựng Giáo Hội trở nên một cộng đồng đầy sức sống năng động qua việc sống một đời tốt lành thánh thiện đầy hoa trái.
69. Hiệp thông với Chúa và với tha nhân
(Suy niệm của Lm Đan Vinh)
1. Têrêsa: Mãu gương hiệp thông với Chúa:
Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su, sinh năm 1873 tại A-lăng-sông (Alancon) nước Pháp. Ngay từ năm 15 tuổi, Tê-rê-sa đã được đặc ân gia nhập dòng kín Các-men. Chín năm sau, tức năm 1897, chị Tê-rê-sa đã an nghỉ trong Chúa do bị bệnh lao phổi. Thế mà, ngay sau khi qua đời, tiếng thơm nhân đức của ngài đã vang đi khắp nơi. Rồi 28 năm sau, tức vào năm 1925, Tê-rê-sa đã được Đức Pi-ô XI phong lên bậc hiển thánh và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Mới đây, Đức Gio-an Phao-lô Đệ Nhị lại phong Tê-rê-sa làm tiến sĩ của Hội Thánh.
Đọc tiểu sử của thánh nữ, ta thấy chị không phải vất vả đi khắp nơi giảng dạy giáo lý Thánh Kinh cho dân chúng, đương đầu với lạc giáo như thánh Đa-minh; Không sống khắc khổ hay ăn chay đánh tội như thánh Phan-xi-cô Khó Khăn; Không phải bỏ quê hương đi đến những vùng xa xôi truyền giáo như thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê; Không để lại nhiều tác phẩm có giá trị triết lý và thần học như thánh Tô-ma A-qui-nô; Không làm nhiều phép lạ giúp đỡ những người nghèo kho bất hạnh như thánh Mác-tin Po-rê; Không chịu cực hình đau khổ để làm chứng cho Chúa như các thánh tử đạo Việt Nam... Thế nhưng tại sao Tê-rê-sa lại được Hội Thánh tôn vinh như một đại Thánh của thế kỷ XX và XXI? Thưa chính là nhờ chị có đời sống nội tâm đạo đức, luôn kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su như cành nho gắn liền với thân cây nho. Nhờ sự kết hiệp đó, dù không làm được những việc lớn lao bề ngoài, nhưng Tê-rê-sa đã đem lại nhiều ích lợi cho Hội Thánh, đặc biệt là đường lối nên thánh của chị thánh phù hợp với Lời Chúa dạy và với tâm lý của con người thời đại mới. Nhờ kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su, mà Tê-rê-sa đã đem lại một sinh lưc mới cho Hội Thánh, như lời Chúa phán: "Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 15,5).
2. Hiệp thông với Chúa như cành nho kết hiệp với thân cây nho:
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy sự hiệp thông với Đức Giê-su là điều kiện để đức Tin của các môn đệ phát sinh hoa trái. Cũng như cành nho phải kết hiệp mật thiết với thân cây mới sinh hoa kết quả thế nào, thì các tín hữu cũng phải kết hiệp mật thiết vối Chúa Giê-su mới có thể chu tòan sứ mệnh làm vinh danh cho Thiên Chúa và góp phần cứu rỗi anh em.
3. Hiệp thông với Chúa để hiệp thông với tha nhân:
Qua tác phẩm "Tự thuật" mà Tê-rê-sa đã vâng lời bề trên trình bày về linh đạo của mình. Linh đạo ấy được gọi là Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng, là Đức Bác Ái rút ra từ lời dạy và gương lành của Đức Giê-su trong Tân Ước, và được tóm gon như sau:
- Luôn tin yêu phó thác mọi sự cho Chúa quan phòng, giống như đứa con thơ ở trong lòng bà mẹ.
- Quyết tâm thực thi tình mến Chúa yêu người trong cuộc sống hằng ngày: "Sống đời thường bằng một cách thức phi thường".
- Tận hiến toàn thân để làm vinh danh Chúa và khiêm nhường phục vụ tha nhân.
- Vui vẻ đón nhận những sự hiểu lầm bất công hay khinh dể của tha nhân, như những món quà Chúa gởi đến giúp ta nên thánh.
Tê-rê-sa đã viết trong cuốn Tự Thuật như sau: "Đức Ái đã cho tôi thấy chìa khóa về ơn gọi của tôi. Tôi hiểu rằng: nếu Hội Thánh là một thân thể gồm nhiều chi thể, thì các chi thể đương nhiên phải có một chi trọng yếu hơn. Đó là trái tim luôn cháy lửa yêu mến. Chỉ có lòng mến mới thúc bách mọi thành viên trong Hội Thánh hăng hái hoạt động. Nếu ngọn lửa mến đó tắt đi thì các tông đồ không còn rao giảng Tin mừng, các vị tử đạo sẽ không hy sinh đổ mau. Tôi hiểu lòng mến bao trùm mọi ơn gọi khác, bao quát mọi không gian và thời gian. Tóm lại lòng mến là vĩnh cửu". Quả vậy, chính lòng mến Chúa tha thiết đã làm cho Tê-rê-sa tiến lên tới đỉnh trọn lành, và kết thúc cuoc đời trong sự bình an hạnh phúc.
Về đời sống nội tâm, Tê-rê-sa đã thưa với Đức Giê-su trong cuốn Tự Thuật như sau: "Ôi Giê-su là Tình Yêu của con. Con đã khám phá ra ơn gọi của con là Sống Tình Yêu! Con đã tìm ra chỗ đứng của con trong lòng Hội Thánh là mẹ con mà Chúa đã ban cho con. Con sẽ là Tình Yêu, và như vậy con sẽ là tất cả..."
4. Lạy Chúa Giêsu.
Hôm nay xin Chúa cũng giúp chúng con biết noi gương Đức Maria trong việc hiệp thông với Chúa và với tha nhân: Sau khi thụ thai Hài nhi Giêsu, Mẹ đã đem Thai Nhi đi viếng thăm bà chị họ để chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho cả gia đình Gia-ca-ri-a. Nhờ đó thai nhi Gio-an Tẩy Giả đã nhảy mừng trong dạ mẹ vì được khỏi tội tổ tông truyền. Xin cho chúng con hôm nay, mỗi lần dự lễ và rước Chúa Giêsu vào lòng, cũng biết đem Chúa là tình yêu đến chia sẻ cho những người thân chưa tin nhận Chúa, thăm viếng thắt chặt tình thân với các thành viên trong cộng đoàn... và sẵn sàng khiêm tốn phục vụ Chúa hiện thân trong những người neo đơn bệnh tật và bất hạnh... Nhờ được luôn hiệp thông với Chúa, chúng con sẽ biết quên mình, vác thập giá là những rủi ro trái ý gặp phải hằng ngày và bước theo chân Chúa trên đường lên Núi Sọ noi gương Mẹ Maria xưa. Amen.
70. Cành nho sinh hoa trái
(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)
Những hình ảnh cành nho, vườn nho, cây nho, cây nho được cắt tỉa la những hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do thái. Vì trên quê hương Chúa Giêsu, nơi đâu, hầu như người ta cũng trồng nho. Mạc khải của Thánh Kinh lại luôn luôn mang tính biểu tượng và hình ảnh rất cao, ít bao giờ thích dung những gì xa lạ, khó hiểu đối với đời sống dân chúng. Vì thế, cành nho, cây nho, vườn nho... đã gắn liền với mạc khải, cho đến mức, dẫu trong số chúng ta, hình như có người còn chưa một lần nhìn thấy cây nho, nhưng do suy niệm Lời Chúa, chúng ta cũng quên đi cả thắc mắc: nho là như thế nào. Nghĩa là cách nào đó, chúng ta cũng đã quen nhiều với hình ảnh cây nho...
Ngay từ rất xa xưa, Cựu ước đã mô tả dân Israel như một gốc nho hay vườn nho của Thiên Chúa: "Vườn nho của Đức Chúa Giavê, ấy là nhà Israel. Cây nho Chúa mến yêu quí chuộng, ấy là người xứ Giuda" (Is 5,7). Nhưng hầu hết những hình ảnh cây nho biểu trưng cho Israel luôn luôn đi liền với lời khiển trach, cảnh cáo hay đe dọa. Chẳng hạn bài ca về cây nho trong sách tiên tri Isaia: "Có gì làm hơn được cho vườn nho của Ta, mà Ta đã chẳng làm? Ta những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại?... Ta chỉ mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than" (Is 5, 4. 7). Hoặc như tiên tri Giêrêmia: "Ta trồng ngươi như cây nho sai trái, được tuyển chọn giống tốt. Sao ngươi lại trở thành cây nho dại" (Gr 2, 21). Hay trong sách tiên tri Êgiêkiel, vì sự kiêu ngạo của Israel, bằng hình thức ẩn dụ của cành nho, Thiên Chúa trách cứ dân Người nặng như một lời đe dọa: "Cũng như gỗ cây nho trong đám cây trên rừng đã bị Ta quăng làm mồi cho lửa, thì dân cư Giêrusalem cũng bị Ta thiêu như thế" (Êd 15, 6). Và còn rất nhiều những hình ảnh về cây nho mà mạc khải của Cựu ước dùng như một thông điệp để nói với dân của Chúa.
Và hôm nay trong Tin Mừng, Chúa Giêsu tự nhận là " Cây nho thật", "Chúa Cha là người trồng nho", tất cả chúng ta, những Kitô hữu là "cành nho" gắn vào thân nho là Chúa Giêsu. Có một điều đáng lưu tâm đó là: Nếu trong Cựu ước, hình ảnh của cây nho như một lời cảnh cáo, đe dọa Israel vì tội lỗi của họ thì lời của Chúa Giêsu hôm nay cũng gióng lên một tiếng chuông cảnh báo như thế: "Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa để nó sinh trái nhiều hơn".
Như vậy, Thế nào là sinh hoa trái?
Ngay trong bài đọc hai, Thánh Gioan đã cho ta câu trả lời rất xúc tích nhưng rất đầy đủ. Đó là sống giới răn của Thiên Chúa. Mà "giới răn của Chúa là: ta hãy TIN vào thánh danh Con của Người là Chúa Giêsu Kitô, và phải YÊU THƯƠNG nhau như Người đã dạy". Và chỉ khi sống giới răn của Người, nghĩa là lãnh nhận ĐỨC TIN và thể hiện đức tin ấy bằng TÌNH YÊU, ta mới được một điều quí giá là: "ta ở trong Thiên Chúa và Người ở trong ta". Nhưng nói cho cùng, đức tin và tình yêu chỉ là hai cách diễn tả của một khuôn mặt là chính đời sống của người tín hữu mà thôi. Đức tin thôi thúc ta sống đời sống yêu thương với mọi anh em xung quanh ta. Còn đời sống yêu thương chính là sự biểu lộ ra bên ngoài của một đức tin mạnh mẽ, một tâm hồn phó thác lớn lao. Không chỉ đề cập đến tình yêu của ta đối với anh em, đối với thánh Gioan, tình yêu ấy phải rõ ràng và cụ thể: "Chúng ta đừng yêu bằng lời nói và miệng lưỡi, nhưng bằng việc làm và sự chân thật".
Bởi thế bạn và tôi chỉ có thể là những cành nho biết sinh hoa trái khi cả bạn lẫn tôi biết sống hữu hiệu, để nhờ chính cuộc sống ấy, có thể làm biến đổi môi trường chung quanh, tạo dựng hạnh phúc cho người khác. Điều mà ta có thể làm ngay tức khắc đó là hãy trung thành, hãy tận tụy, hãy yêu quí, hãy ra sức sống hết mình với giây phút hiện tại Chúa ban, để bằng tất cả nỗ lực và chú tâm vào việc làm lương thiện hiện tại này, bạn và tôi đã tạo cho đời, và cho chính mình nữa, biết bao nhiêu hạnh phúc, biết bao nhiêu nụ cười bình an. Bằng cách ấy, bạn và tôi trở thành những cành nho tốt biết sinh hoa trái, biết làm sáng danh chính Cây Nho Thật là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Ước mong tất cả chúng ta luôn là những cành nho tốt tươi biết gắn chặt đời mình với thân nho là chính Chúa Kitô, nhờ đó, dù chỉ là một cành nho mang thân phận con người mong manh, ta sẽ làm cho đời mình sinh nhiều hoa trái, nhiều kết quả tốt đẹp cho Giao Hội và cho mọi người quanh ta.
71. Cộng hưởng
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Sự cộng hưởng (resonance) là hiện tượng xảy ra trong dao động vật lý. Đó là khi một vật được kích thích bởi một ngoại lực tuần hoàn có cùng tần số với dao động riêng của nó. Cộng hưởng có thể xảy ra trong nhiều loại dao động – như dao động điện tử, dao động cơ học,… Khi có sự cộng hưởng thì biên độ dao động đạt giá trị cực đại.
Sự cộng hưởng là quá trình “rung động” của một vật với tần số tự nhiên của vật đó, chất liệu và kích thước của vật cũng quyết định đến qúa trình này. Sự cộng hưởng diễn ra quanh chúng ta mọi lúc, mọi nơi: Tiếng chuông ngân, tiếng trống vang, tiếng bật nắp chai,... Người ta gọi đó là sự cộng hưởng âm thanh.
Sự cộng hưởng âm là điều thú vị đáng quan tâm đối với những người mê âm thanh. Hai nhánh của một âm thoa (diapason) có bề mặt rất mỏng so với bước sóng nó tạo ra, nhưng khi thân của một âm thoa đang rung được đặt sát với một vật thể có tiết diện lớn hơn và cũng có khả năng dao động ở cùng một tần số thì sẽ chuyển động nhiều không khí hơn, và tạo ra âm thanh lớn hơn. Hợp âm là sự chồng các âm thanh xảy ra cùng một lúc, khiến chúng ta thích thú với sự cộng hưởng âm như vậy.
Cuộc sống là tập hợp những mối quan hệ đa dạng, không ai là một ốc đảo. Người này luôn có mối liên đới với người kia – dù không quen biết hoặc xa cách nhau hàng ngàn cây số. Liên đới với nhau về những điều tốt đã đành, thậm chí người ta còn liên đới với nhau cả những điều xấu. Mối liên đới càng rõ ràng khi mối quan hệ càng thân thiết. Tính liên đới đó cũng tương tự sự cộng hưởng. Có sự liên đới về điều tốt hoặc điều xấu, nghĩa là cũng có sự cộng hưởng tốt hoặc xấu.
Trong đó có “chiều kích xã hội” vì nó nằm trong cách chúng ta có thể hành động tốt hay xấu. Về tội lỗi, chúng ta có thể phạm tội không chỉ là hành động trực tiếp của mình, mà còn gián tiếp liên can các tội lỗi do người khác phạm trực tiếp. Chúng ta phạm tội qua hành động của người khác bằng cách: Tư vấn, mệnh lệnh, ưng thuận, khiêu khích, nịnh bợ, che giấu, đồng lõa, im lặng, biện hộ – gọi là “liên đới tội lỗi”, một dạng cộng hưởng tinh thần. Vì vậy, cần lưu ý:
a) Chúng ta ĐỪNG gây nguy hiểm cho LINH HỒN MÌNH bằng cách CAN DỰ vào tội lỗi của người khác.
b) Chúng ta ĐỪNG gây nguy hiểm cho LINH HỒN NGƯỜI KHÁC bằng cách LÔI KÉO họ vào tội lỗi của mình.
Hệ lụy tốt hay xấu đều ảnh hưởng người khác với một mức độ nào đó. Sách Công vụ Tông đồ cho biết: “Khi tới Giêrusalem, ông Saolô tìm cách nhập đoàn với các môn đệ. Nhưng mọi người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ” (Cv 9:26). Đó là tâm lý chung, ai cũng sợ, nhất là Saolô (tức là Phaolô) đã từng bách hại đạo của Chúa Giêsu một cách gay gắt và dữ dội. Thế nên, “ông Banaba liền đứng ra bảo lãnh đưa ông Saolô đến gặp các Tông Đồ, và tường thuật cho các ông nghe chuyện ông ấy được thấy Chúa hiện ra trên đường và phán dạy làm sao, cũng như việc ông ấy đã mạnh dạn rao giảng nhân danh Đức Giêsu tại Đa-mát thế nào” (Cv 9:27). Con người không chỉ có liên đới với nhau mà đặc biệt còn liên đới với cả Thiên Chúa.
Kể từ đó, một Saolô-dữ-tợn-và-tội-lỗi đã hoàn toàn biến đổi thành một Phaolô-hiền-từ-và-nhân-đức, hăng say cùng với các Tông đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Trước đây ông hung hăng bách hại đạo Chúa nhưng bây giờ ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Đấng-chịu-chết-và-phục-sinh. Ông là dân trí thức nên ông thường đàm đạo và tranh luận với những người Do Thái theo văn hoá Hy Lạp. Thấy ông tranh luận về Chúa Giêsu một cách say sưa và chí lý, họ ngạc nhiên rồi ghét ông nên tìm cách giết ông. Các anh em biết thế, liền dẫn ông xuống Xê-da-rê và tiễn ông lên đường về Tác-xô. Hồi ấy, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, trong khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, “Hội Thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, ngày một thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ” (Cv 9:29). Sức mạnh của Chúa Thánh Thần thật kỳ diệu vô cùng.
Tất cả chúng ta đều là những người từ nơi xa xăm nhưng diễm phúc được nhận biết và tin vào Đấng Cứu Thế Giêsu Kitô. Đó là niềm hạnh phúc lớn lao, và đó cũng là cách chúng ta chịu ơn Ngài. Vì thế, chúng ta phải hết lòng “dâng lời ca tụng Ngài” (Tv 22:26a), đồng thời phải chân thành hứa với Ngài: “Điều khấn nguyền, con xin giữ trọn trước mặt những ai kính sợ Ngài” (Tv 22:26b). Quả thật là như thế, như Thánh Vịnh gia xác định:
Kẻ nghèo hèn được ăn uống thoả thuê
Người tìm Chúa sẽ dâng lời ca tụng
Cầu chúc họ mãi ngàn đời vui sống
Toàn thế giới nhớ lại và trở về
Cùng Đức Chúa là Thiên Chúa nhân từ
Mọi dân tộc phủ phục thờ lạy Chúa
(Tv 22:27-29)
Thánh Vịnh gia nói rằng ngay cả “những kẻ ngủ yên trong lòng đất cũng sẽ đều bái lạy một mình Ngài” (Tv 22:30a), và “những ai trở về cát bụi sẽ cùng phủ phục trước Thánh Nhan” (Tv 22:30b). Còn chúng ta, những người được đón nhận làm con cái của Ngài, phải không ngừng tự nhủ: “Nguyện sẽ sống cho Chúa, con cháu tôi sẽ phụng sự Ngài” (Tv 22:30c-31). Bổn phận và trách nhiệm của chúng ta không chỉ phải hết lòng tôn thờ Chúa, mà còn phải dạy cho con cái biết yêu mến Ngài, trung tín tôn thờ Ngài và nói cho người khác biết về Ngài. Đó là trách nhiệm mang tính liên đới, tạo nên sự cộng hưởng truyền giáo – khởi đầu từ gia đình.
Việc yêu mến Chúa không thể chỉ NÓI mà KHÔNG LÀM, như Thánh Gioan đã phân tích rất rõ: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3:18). Học rồi phải hành, nói rồi phải làm, khuyên dạy người khác thì mình phải giữ trước – nếu không thì chỉ là “giả hình chính hiệu”. Yêu ai thì phải quan tâm người đó, không thể khác hơn. Nói chung, bất cứ điều gì cũng phải “ngôn hành song song”. Thánh Gioan nói tiếp: “Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1 Ga 3:19). Thật vậy, “nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (1 Ga 3:20). Người ta có thể nói dối nhau, thậm chí tự lừa dối mình, nhưng không ai có thể nói dối Thiên Chúa.
Thật diễm phúc cho chúng ta nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, và “chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa”, để rồi “bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Ngài ban cho” (1 Ga 3:22). Chúng ta xin và được ơn là vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Ngài và làm những gì đẹp ý Ngài. Nói đi nói lại, nói xa nói gần, cả Mười Điều Răn cũng chỉ tóm gọn hai chữ Yêu Thương. Nhưng hãy lưu ý: ĐỪNG BAO GIỜ LỢI DỤNG CHÚA! Thánh Gioan nhắc nhở: “Chúng ta PHẢI tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và PHẢI yêu thương nhau, theo điều răn Ngài đã ban cho chúng ta” (1 Ga 3:23), rồi giải thích: “Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì Ở LẠI trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa Ở LẠI trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa Ở LẠI trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí Thiên Chúa đã ban cho chúng ta” (1 Ga 3:24). Các mệnh lệnh cách “phải” và tình trạng “ở lại” có liên quan với nhau như một hệ lụy tất yếu vậy.
Trong cuộc đời này, tất cả đều có tính liên đới. Liên đới cũng là một trong bốn điểm chính trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo (thường gọi tắt là Giáo huấn Xã hội Công giáo). Chúa Giêsu cũng đã nhắc tới tính liên đới khi Ngài ví Ngài là Cây Nho, còn chúng ta là cành nho: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga 15:1-2). Đó là điều chắc chắn. Khoa học cũng đã chứng minh rằng, trong não bộ có những rãnh chứa “chất xám” (grey matter – chất giúp thông minh), ai lười động não thì các “nhánh chất xám” sẽ khô dần và giảm dần mức độ thông minh, nhưng ai càng chịu động não thì các “nhánh chất xám” càng sản sinh và càng thông minh. Rất tự nhiên mà thật kỳ diệu, giống như cây tốt sinh nhiều nhánh sum suê vậy! Đó cũng dạng liên đới mang tính cộng hưởng lẫn nhau.
Trung thành theo Chúa Giêsu, chúng ta “được thanh sạch nhờ lời Ngài đã nói với chúng ta” (x. Ga 15:3). Ngài căn dặn: “Hãy Ở LẠI trong Thầy như Thầy Ở LẠI trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không GẮN LIỀN với cây nho, anh em cũng thế, nếu không Ở LẠI trong Thầy” (Ga 15:4). Chúa Giêsu không ưa vòng vo, Ngài luôn nói thực tế, rõ ràng, giản dị và bất cứ ai cũng có thể hiểu được.
Một lần nữa, chính Chúa Giêsu tái xác định: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15:5a), và Ngài hứa: “Ai Ở LẠI trong Thầy và Thầy Ở LẠI trong người ấ, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15:5b). Nhưng chúng ta có sinh hoa trái hoặc làm được gì thì cũng KHÔNG bởi tài năng của chúng ta, chớ có ảo tưởng, bởi vì Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5c). Ngược lại, Chúa Giêsu nói vế một: “Ai KHÔNG Ở LẠI trong Thầy thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi” (Ga 15:6). Chúa Giêsu không hù dọa mà Ngài chỉ nói theo nguyên lý liên đới tâm linh. Rồi Ngài nói vế hai: “Nếu anh em Ở LẠI trong Thầy và lời Thầy Ở LẠI trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý” (Ga 15:7). Đó là sự cân bằng trong một phản ứng, giống như sự cân bằng trong phản ứng hóa học vậy. Và Ngài kết luận: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15:8).
Cả cây và cành luôn có tính liên đới chặt chẽ, đặc biệt đó là mối-liên-đới-yêu-thương, sự-cộng-hưởng-tâm-linh. Theo triết lý của Thánh Phaolô, không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô – mặc dù đó là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo,... Chính trong mọi thử thách ấy, chúng ta có thể toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta: “Dù là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:38-39).
Nói về đau khổ, Thánh Phanxicô Assisi cho biết: “Tôi hy vọng rất nhiều về cái hay, cái tốt. Vì vậy mà tất cả đau khổ đều là dễ thương”. Còn Thánh Vinh Sơn Phaolô: “Một người càng tấn tới trong việc yêu mến Thiên Chúa thì nhất định càng yêu thích đau khổ, chịu bị khinh thường, đó chính là dấu hiệu của lửa tình ái, những thứ khác đều là mây khói”.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con quyết tâm theo Ngài đến cùng, đủ can đảm trong mọi hoàn cảnh để trung thành và kiên tâm chịu đựng mọi nghịch cảnh. Cầu xin Ngài đừng để chúng con lâm cảnh quá nghèo hoặc quá giàu, vì nghèo quá hoặc giàu quá thì chúng con cũng có thể xa Chúa và hư hỏng. Xin thương xót và che chở chúng con như con ngươi trong mắt Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
72. Liên đới
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Cuộc sống là tập hợp những mối quan hệ đa dạng, không ai là một ốc đảo. Người này luôn có mối liên đới với người kia – dù không quen biết hoặc xa cách nhau hàng ngàn cây số. Liên đới với nhau về những điều tốt đã đành, thậm chí người ta còn liên đới với nhau cả những điều xấu. Mối liên đới càng rõ ràng khi mối quan hệ càng thân thiết.
Có “chiều kích xã hội” vì nó nằm trong cách chúng ta có thể phạm tội. Chúng ta có thể phạm tội không chỉ là hành động trực tiếp của mình, mà còn gián tiếp liên can các tội lỗi do người khác phạm trực tiếp. Chúng ta phạm tội qua hành động của người khác bằng cách: Tư vấn, mệnh lệnh, ưng thuận, khiêu khích, nịnh bợ, che giấu, đồng lõa, im lặng, biện hộ. Vì vậy, cần lưu ý:
a) Chúng ta đừng gây nguy hiểm cho linh hồn mình bằng cách can dự vào tội lỗi của người khác.
b) Chúng ta đừng gây nguy hiểm cho linh hồn người khác bằng cách lôi kéo họ vào tội lỗi của mình.
Sách Công vụ Tông đồ cho biết: “Khi tới Giêrusalem, ông Saolô tìm cách nhập đoàn với các môn đệ. Nhưng mọi người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ” (Cv 9:26). Đó là tâm lý chung, ai cũng sợ, nhất là Saolô (tức Phaolô) đã từng bách hại đạo Công giáo dữ dội. Thế nên, “ông Banaba liền đứng ra bảo lãnh đưa ông Saolô đến gặp các Tông Đồ, và tường thuật cho các ông nghe chuyện ông ấy được thấy Chúa hiện ra trên đường và phán dạy làm sao, cũng như việc ông ấy đã mạnh dạn rao giảng nhân danh Đức Giêsu tại Đa-mát thế nào” (Cv 9:27).
Từ đó, một Saolô-dữ-tợn-và-tội-lỗi đã biến thành một Phaolô-hiền-từ-và-nhân-đức, cùng với các Tông đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa. Ông là dân trí thức nên ông thường đàm đạo và tranh luận với những người Do Thái theo văn hoá Hy Lạp. Thấy ông tranh luận về Chúa Giêsu một cách say sưa và chí lý, họ tìm cách giết ông. Các anh em biết thế, liền dẫn ông xuống Xê-da-rê và tiễn ông lên đường về Tác-xô. Hồi ấy, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, trong khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, “Hội Thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ” (Cv 9:29).
Chúng ta, những người từ xa xăm nhưng được nhận biết và tin vào Chúa Giêsu Cứu Thế. Đó là hạnh phúc lớn lao, đó là chúng ta chịu ơn Ngài. Vì thế, chúng ta phải “dâng lời ca tụng Ngài” (Tv 22:26a), và phải hứa với Ngài: “Điều khấn nguyền, con xin giữ trọn trước mặt những ai kính sợ Ngài” (Tv 22:26b). Thật vậy:
Kẻ nghèo hèn được ăn uống thoả thuê
Người tìm Chúa sẽ dâng lời ca tụng
Cầu chúc họ mãi ngàn đời vui sống
Toàn thế giới nhớ lại và trở về
Cùng Đức Chúa là Thiên Chúa nhân từ
Mọi dân tộc phủ phục thờ lạy Chúa
(Tv 22:27-29)
Ngay cả “những kẻ ngủ yên trong lòng đất cũng sẽ đều bái lạy một mình Ngài” (Tv 22:30a), và “những ai trở về cát bụi sẽ cùng phủ phục trước Thánh Nhan” (Tv 22:30b). Còn chúng ta, những người được đón nhận làm con cái của Ngài, phải tự nhủ: “Nguyện sẽ sống cho Chúa, con cháu tôi sẽ phụng sự Ngài” (Tv 22:30c-31). Bổn phận và trách nhiệm của chúng ta không chỉ phải hết lòng tôn thờ Chúa, mà còn phải dạy cho con cái biết yêu mến Ngài, trung tín tôn thờ Ngài và nói cho người khác biết về Ngài.
Yêu mến Chúa không thể chỉ NÓI mà KHÔNG LÀM, như Thánh Gioan đã phân tích rất rõ: “Chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3:18). Học phải hành. Yêu ai thì phải quan tâm người đó. Nói chung, bất cứ điều gì cũng phải “ngôn hành song song”. Thánh Gioan nói tiếp: “Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1 Ga 3:19). Thật vậy, “nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (1 Ga 3:20). Người ta có thể nói dối nhau, thậm chí tự lừa dối mình, nhưng không ai có thể nói dối Thiên Chúa.
Nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, như vậy thật phúc cho chúng ta, và “chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa”, để rồi “bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Ngài ban cho” (1 Ga 3:22). Chúng ta xin và được ơn là vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Ngài và làm những gì đẹp ý Ngài. Nói đi nói lại, nói xa nói gần, cả Mười Điều Răn cũng chỉ tóm gọn hai chữ Yêu Thương. Thánh Gioan nhắc: “Chúng ta phải tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Ngài, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Ngài đã ban cho chúng ta” (1 Ga 3:23), rồi giải thích: “Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí Thiên Chúa đã ban cho chúng ta” (1 Ga 3:24).
Tất cả đều có tính liên đới. Liên đới cũng là một trong bốn điểm chính trong Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo (thường gọi tắt là Giáo huấn Xã hội Công giáo). Chúa Giêsu cũng đã nhắc tới tính liên đới khi Ngài ví Ngài là Cây Nho, còn chúng ta là cành nho: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga 15:1-2). Đó là điều chắc chắn. Khoa học cũng đã chứng minh rằng, trong não bộ có những “rãnh chất xám” (chất giúp thông minh), ai lười động não thì các “nhánh chất xám” sẽ khô dần và giảm thông minh, nhưng ai chịu động não thì các “nhánh chất xám” sẽ sinh sôi và càng thông minh. Rất tự nhiên mà thật kỳ diệu! Đó cũng là sự liên đới.
Theo Chúa Giêsu, chúng ta “được thanh sạch nhờ lời Ngài đã nói với chúng ta” (x. Ga 15:3). Ngài căn dặn: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy” (Ga 15:4). Chúa Giêsu không ưa vòng vo, Ngài luôn nói thực tế, rõ ràng, giản dị và dễ hiểu.
Chúa Giêsu tái xác định: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15:5a), và Ngài hứa: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15:5b). Nhưng chúng ta có sinh hoa trái hoặc làm được gì thì cũng không bởi tài năng của chúng ta, đừng ảo tưởng, vì Chúa Giêsu đã nói: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5c). Ngược lại, Chúa Giêsu nói vế một: “Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi” (Ga 15:6). Chúa Giêsu không hù dọa mà Ngài chỉ nói theo nguyên lý liên đới. Rồi Ngài nói vế hai: “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý” (Ga 15:7). Đó là sự cân bằng trong một phản ứng, giống như phản ứng hóa học vậy. Ngài kết luận: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15:8).
Cây và cành luôn có tính liên đới chặt chẽ, đặc biệt đó là mối-liên-đới-yêu-thương. Theo triết lý của Thánh Phaolô, không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô, dù đó là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo. Chính trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta: “Dù là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:38-39).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con can đảm trong mọi hoàn cảnh để đủ sức kiên tâm chịu đựng và quyết tâm theo Ngài đến cùng. Xin đừng để chúng con quá nghèo hoặc quá giàu, vì nghèo quá hoặc giàu quá thì chúng con cũng có thể xa Chúa. Xin thương xót và che chở chúng con như con ngươi trong mắt Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
73. Sợi tình
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Mạng nhện là thứ rất bình thường, thậm chí còn bị người ta ghét, vì làm bẩn nhà cửa, nhưng nó lại mặc nhiên có mối liên kết kỳ diệu dạy chúng ta bài học giá trị.
Mạng nhện là cái bẫy bắt mồi vô cùng hữu ích của loài nhện, bất kỳ con côn trùng hay sâu bướm nào lỡ rơi vào cái bẫy này, ngay lập tức chúng sẽ bị dính chặt mà không thể nào thoát ra được. Tuy nhiên, chính con nhện luôn tiếp xúc với mạng nhện, nhưng nó lại không hề bị dính. Các khoa học gia phát hiện loài nhện còn khéo léo dệt thêm các sợi tơ trắng trang trí bắt chéo như một thủ thuật nhằm bảo vệ hệ thống mạng của chúng khỏi bị hư hại. Các khoa học cũng phát hiện các mạng nhện tinh xảo còn có thể tạo ra âm thanh như một nhạc cụ dây. Thật kỳ lạ!
Hệ thống internet mà chúng ta gọi là “mạng” hoặc website là “bắt chước” mạng nhện. Các hệ thống khác chúng ta gọi là “mạng lưới”. Mạng nhện thật là độc đáo, bất cứ một điểm nào trên đó, ở bất kỳ nơi nào, cũng có liên kết trực tiếp hoặc gián tiếp với các điểm khác. Cuộc đời chúng ta cũng vậy, không ai là một ốc đảo, người này có liên đới với người khác về phương diện nào đó, xã hội hoặc tâm linh, kể cả về phương diện tội lỗi, dù người này ở xa với người kia.
Thật vậy, mỗi chúng ta đều là chi thể trong Nhiệm Thể Đức Kitô, vì Chúa Giêsu đã nói: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15:5). Là con người, dù theo tôn giáo nào hoặc chủ nghĩa nào, chúng ta vẫn có “sợi tình” liên kết với nhau một cách vô hình, không thể tách rời. Nghề này hỗ trợ cho nghề khác, không nghề nào cao hơn hoặc thấp hơn nghề nào: “Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”. Đừng ảo tưởng hoặc “sĩ diện” hão huyền – tức là đừng “chảnh”.
Tình yêu vô hình, trừu tượng, nhưng khả dĩ cảm nhận. Đạo Công giáo là đạo yêu thương. Máu-yêu-thương là Máu-Đức-Kitô, ai theo Ngài và muốn nên giống Ngài thì cũng phải có loại máu đó, tương tự máu O có thể chia sẻ cho mọi loại máu khác. Vì thế, Kitô hữu phải tâm niệm: “Dù chết không tấm hình nhưng tình không chấm hết”.
Trình thuật Cv 9:26-31 cho chúng ta biết điều thú vị. Chuyện là khi Chúa Giêsu mới phục sinh, ông Saolô đã tới Giêrusalem để tìm cách “tiếp cận” các môn đệ. Thế nhưng mọi người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ. Một sự bất tín, vạn sự chẳng tin. Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Chả biết “ất giáp” thế nào, cứ chắc hơn lép. Đôi khi bụng còn chưa tin rốn kia mà! Vả lại “tay” này đâu phải vừa, đáng sợ thật đấy, vì trước đây “hắn” đã từng phi ngựa vung gươm thấy ớn, gặp bất kỳ kẻ nào tin vào Ông Giêsu thì kẻ ấy hết đường sống. Chém! Kiểu như IS (Nhà nước Hồi giáo) ngày nay vậy. Ui da, ớn thiệt chứ giỡn sao!
Thế nhưng chuyện đâu còn có đó, coi vậy mà không phải vậy. Cú ngã ngựa và mù mắt đã thay đổi não trạng của tay nằm vùng Saolô khét tiếng rồi. Thế là ông Banaba liền đứng ra bảo lãnh đưa ông Saolô đến gặp các tông đồ, và tường thuật cho các ông nghe chuyện ông ấy được thấy Chúa hiện ra trên đường và phán dạy làm sao, cũng như việc ông ấy đã mạnh dạn rao giảng nhân danh Đức Giêsu tại Đa-mát thế nào. Đầu xuôi, đuôi lọt. Mọi chuyện tốt đẹp. Trước là Saolô cứng như sáp nguội, nhưng nay là Phaolô mềm như bún rồi. Đừng sợ chi nữa!
Từ đó ông Saolô cùng với các Tông Đồ đi lại hoạt động tại Giêrusalem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa. Ông thường đàm đạo và tranh luận với những người Do Thái theo văn hoá Hy Lạp. Nhưng họ tìm cách giết ông, vì thấy Saolô hung hăng thế mà nay lại tâm phục khẩu phục Ông Giêsu. Phải triệt ngay! Các anh em biết thế nên liền dẫn ông xuống Xêdarê và tiễn ông lên đường về Tácxô. Ở lại không ổn rồi. Tính cách khác thôi!
Thật may, thời kỳ yên ổn đã đến. Hồi ấy, trong khắp miền Giuđê, Galilê và Samari, Hội Thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông, nhờ Thánh Thần nâng đỡ. Tạ ơn Chúa. Tất cả là Thánh Ý Ngài, “Phaolô trồng, Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên” (1 Cr 3:6). Chẳng ai là “cái đinh gỉ” nào cả, chỉ có Thiên Chúa mới là tất cả. Kinh Thánh nói đã cảnh báo: “Chớ khoe khoang vì bộ áo bên ngoài, cũng đừng tự cao trong ngày được vinh dự. Công trình của Đức Chúa thật lạ lùng, nhưng vẫn là bí ẩn đối với phàm nhân” (Hc 11:4).
Vâng, tất cả là hồng ân Thiên Chúa bao la, cao vời khôn ví. Sợi Tình quá đỗi kỳ diệu! Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh đã thú nhận: “Chịu ơn Người, tôi dâng lời ca tụng, ngày đại hội toàn dân. Điều khấn nguyền, tôi xin giữ trọn trước mặt những ai kính sợ Người” (Tv 22:26). Chịu ơn thì phải biết ơn, biết ơn thì phải đáp đền, đó là chuyện tất yếu, như tục ngữ Việt Nam có câu: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Và rồi tác giả Thánh Vịnh dẫn chứng cụ thể: “Kẻ nghèo hèn được ăn uống thoả thuê, người tìm Chúa sẽ dâng lời ca tụng. Cầu chúc họ vui sống ngàn đời. Toàn thế giới, muôn người nhớ lại và trở về cùng Chúa. Mọi dân tộc dưới trần phủ phục trước Tôn Nhan” (Tv 22:27-28).
Người sống đã vậy, người chết cũng chẳng yên, phải động lòng. Tác giả Thánh Vịnh vui mừng bày tỏ cả chuyện người lẫn chuyện mình: “Mọi kẻ ngủ yên trong lòng đất sẽ đều bái lạy một mình Người, phàm những ai trở về cát bụi sẽ cùng phủ phục trước Thánh Nhan. Phần tôi, nguyện sẽ sống cho Chúa, con cháu tôi sẽ phụng sự Người. Thiên hạ sẽ nói về Đức Chúa cho thế hệ tương lai, truyền tụng cho hậu sinh đức công chính của Người, rằng: “Đức Chúa đã làm như vậy!” (Tv 22:30-32).
Sợi gì cũng phải thật, dỏm hoặc giả là đứt ngay. Sợi tình cũng vậy, và còn hơn thế nữa. Thánh Gioan nhắn nhủ: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3:18). Yêu thương là đức ái, đức ái liên quan đức tin. Nhân đức nào cũng cần chứng minh bằng hành động. Thánh Giacôbê đã mạnh mẽ so sánh: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26).
Chân lý vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, không thể bóp méo. Thánh Gioan kết luận: “Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết hết mọi sự” (1 Ga 3:19-20). Cáo tội mình chứ đừng cáo tội người khác, nhưng vì chúng ta vốn là người xấu (Lc 11:13) nên chúng ta không muốn tố cáo mình, không muốn thú tội.
Cáo tội mình là can đảm, biết hướng thiện, biết phục thiện, sống khiêm nhường, mà Thiên Chúa lại rất quý mến người khiêm nhường, lợi cả mọi đàng: “Nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta, chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa. Và bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Người ban cho, bởi vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Người và làm những gì đẹp ý Người” (1 Ga 3:21-22). Điều răn của Thiên Chúa rạch ròi và dứt khoát: “Chúng ta PHẢI tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Người, và PHẢI yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta. Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta” (1 Ga 3:23-24).
Mối liên kết bằng “sợi tình” như vậy thì luôn chặt chẽ và bền vững, không gì có thể tháo gỡ. Tay không thể trách chân, bụng không thể trách miệng, cổ không thể trách lưng, răng không thể trách lưỡi,… Người ta cũng nói: “Đoàn kết là sống, chia rẽ là chết”. Đó là điều tất yếu vậy!
Nên “thú tội mình”, không nên “cáo tội người”. Vừa khiêm nhường vừa yêu thương. Có những điều chúng ta tưởng vậy mà không phải vậy, nhưng có những điều rất thật mà chúng ta không dám tin đó là sự thật. Cẩn tắc vô ưu: “Chưa tra xét thì đừng buộc tội, suy nghĩ trước rồi hãy trách móc sau” (Hc 11:7). Bênh vực người khác là điều tốt, nên làm. Tuy nhiên, con người dễ “dính” máu-phe-cánh, không bênh vực công lý mà lại bao che cho sự bất công. Sự bao che liên quan động thái giấu nhẹm. Và rồi được nê hoặc ỷ lại, vênh váo ra vẻ “ta đây”, kẻ xấu vẫn tự tung tự tác, thế nên Thánh Phaolô đã kêu lên: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7).
Chúng ta đã và đang thấy những cảnh trái ngang đó vẫn tiếp tục xảy ra ở xã hội ở khắp thế giới hàng ngày, nhưng trong Giáo Hội cũng không phải không có, thế mới thực sự là điều đáng buồn! Đó là hèn nhát hay nhu nhược? ĐGH Phanxicô nói rằng Giáo Hội phải “nói thẳng nói thật”. Giáo Hội là ai? Là chính mỗi người trong chúng ta. Liệu chúng ta có dám đối mặt sự thật, dù phũ phàng? Khó trả lời hay “ngại” trả lời?
Chúa Giêsu mô tả mối liên kết yêu thương đó bằng hình ảnh cây nho: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn” (Ga 15:1-2). “Chặt” và “cắt tỉa” là hai động từ mạnh mẽ, diễn tả việc tách rời, dạng nào cũng gây đau đớn, nhưng có hai kết quả khác nhau. “Chặt đi” là cắt bỏ, loại bỏ. Cành cây không phát triển không chỉ bất lợi cho chính nó mà còn bất lợi cho cành khác và hại thân cây. Cắt bỏ! Tế bào ung thư là tế bào hư hại, bất lợi cho cơ thể, phải cắt bỏ càng sớm càng tốt. Cắt bỏ! Nhưng có khi phải tỉa bớt cho cây phát triển mạnh. Sức khỏe thể lý, sức khỏe trí tuệ, sức khỏe tinh thần, sức khỏe tâm linh, tất cả đều phải khổ luyện mới khả dĩ đạt được mức tốt nhất. Đó là dạng “tỉa” chính mình.
Chúa Giêsu giải thích: “Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em. Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy” (Ga 15:3-4). Ngài nhấn mạnh: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Chúng ta chỉ là con số KHÔNG to lớn, có làm được chút gì thì cũng là nhờ ơn Chúa, ngay cả chức quyền cũng vậy, tất cả là do “Trời ban cho” (Ga 19:11). Vì thế, đừng ngu dại mà ảo tưởng bao giờ!
Sự thật hay mất lòng, nhưng đôi khi phải nói thật. Chúa Giêsu đã “nói toạc móng heo” luôn: “Ai không ở lại trong Thầy thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý. Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15:6-8). Thiên Chúa rất muốn chúng ta sống tốt, trước là có lợi cho mình, sau là có lợi cho tha nhân. Không chỉ vậy, Ngài còn muốn chúng ta “sống dồi dào” (Ga 10:10).
Chính Chúa Giêsu đã chết và phục sinh để chứng mình điều sự mong muốn đầy ắp tình yêu thương đó. Trong Tông sắc “Misericordiae Vultus” (Khuôn Mặt Thương Xót), ấn định Năm Thánh Từ Bi Thương Xót từ 8-12-2015 tới 20-11-2016, ĐGH Phanxicô xác định: “Lòng thương xót là nền tảng của đời sống Giáo Hội” (số 10). Hằng ngày, mỗi khi tham dự Thánh Lễ, chúng ta vẫn chúc bình an cho nhau, nhưng có thể chúng ta chỉ làm theo “nghi thức” mà quên “chiều sâu”. Lời chúc bình an rất cần, sau khi sống lại, Chúa Giêsu luôn chúc bình an cho người đối diện mỗi khi Ngài gặp họ. Hôm nay, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta hãy nối kết với nhau bằng “sợi tình” chân thật qua lời chúc bình an của Niềm Vui Phục Sinh cho nhau với cả tâm thành: “Bình An và Thiện Hảo – Pax et Bonum”. Ai cũng nợ tình nhau, chúng ta phải trả cả đời: “Đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” (Rm 13:8).
Thực tế chúng ta thấy rằng, ngư dân hoặc người bán cá có mùi cá, người chăn vịt có mùi vịt, người nuôi heo (lợn) có mùi heo,... nghĩa là nghề nào cũng có mùi đặc trưng của nghề đó, không lẫn đi đâu được. Tương tự, người chăn chiên phải có mùi của chiên, người không có mùi của chiên thì chắc chắn không phải chủ chiên chính hiệu! Mùi của chiên là mùi gì? Chiên ở vùng miền nào có mùi đặc trưng của vùng miền đó. Các “con chiên” ở Việt Nam không thể “thơm” như chiên ở các nước Âu Mỹ, Tây phương – nghĩa là các “ràn chiên” ở Việt Nam “hôi” lắm. Làm sao phát hiện chủ chiên nào có mùi chiên như vậy? Chắc hẳn ngại nói lắm!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết liên kết với nhau bằng sợi dây liên đới Kitô giáo, xin giúp chúng con luân chuyển cho nhau loại Máu Yêu Thương để cùng nhau sống dồi dào trong Tình Thương Xót của Ngài, luôn hoán chuyển Nhựa Tình để các cành của chúng con luôn sống nhờ Nhiệm Thể Đức Kitô, Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
74. Cây nho.
Có một bộ phim mang tựa đề "Shadow of the Hawk, Bóng Con Ưng". Trong đó, có một cặp vợ chồng trẻ và một người Da Đỏ dẫn đường lên núi chạy trốn đám người dữ.
Tại một nơi, người đàn bà bị vấp ngã và nói, "Tôi không thể cất thêm một bước nào nữa."
Người đàn ông đỡ vợ đứng dậy và nói, "Thế nhưng, em ơi, chúng ta phải tiến tới. Chúng ta không còn đường lựa chọn nữa!" Cô vợ lắc đầu đáp, "Em không thể đi nổi nữa! Em không thể đi nổi nữa!"
Sau đấy, người Da Đỏ chỉ đường nói với người đàn ông, "Hãy ôm bà sát vào lòng ông. Hãy để sức mạnh và lòng can đảm của ông truyền sang bà ấy."
Người đàn ông làm như vậy, và chỉ trong vài phút ngắn ngủi, người đàn bà mỉm cười và nói, "Giờ đây, em đã đi được rồi! Giờ đây, em đã đi lại được rồi!"
Đó cũng chính là điều mà Chúa Giêsu muốn thực thi cho mỗi người chúng ta. Ngài muốn chia sẻ với ta không chỉ có sức mạnh của chính Ngài và lòng can đảm, nhưng còn cả mạng sống của Ngài nữa.
Chúa Giêsu nói rằng: "Ta là cây nho mới, cây nho chân thật, mà Thiên Chúa đã vun trồng trong vườn nho Do Thái. Nếu các ngươi liên kết với Ta, các ngươi sẽ sinh hoa trái mà Thiên Chúa có ý muốn các ngươi sinh sản, khi Ngài tuyển chọn các ngươi làm dân riêng của Ngài."
Vậy Chúa Giêsu muốn nói gì với chúng ta trong thời đại này qua đoạn văn tren? Ngài nói rằng: "Nếu các ngươi trở nên những người mà Thiên Chúa có ý cho các ngươi trở thành, các ngươi phải liên kết với Ta. Nếu các ngươi không liên kết với Ta, thì sẽ không còn niềm hy vọng trong các ngươi nữa. Cuoc sống của các người sẽ kết thúc cách bi thảm."
Liên kết với Ngài, chúng ta có thể làm được mọi sự. Xa cách Ngài, chúng ta không làm được gì cả.
Và như thế, bài Phúc Âm hôm nay dạy chúng ta hai điểm quan trọng: Trước tiên, nó dạy chúng ta rằng Chúa Giêsu chính là cây nho mới và chân thật mà Thiên Chúa vun trồng trong vườn nho Do Thái. Kế đến, nó dạy cho chúng ta biết chỉ khi nào có sự kết hiệp với Chúa Giêsu, thì chúng ta mới có the sinh hoa trái và trưởng thành nên những người mà Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta trở thành.
Kết hiệp với Chúa Giêsu chúng ta có thể làm được mọi sự. Xa lìa Ngài chúng ta không thể làm gì được.
75. Thầy là cây nho thật - Lm Jude Sicilano.
Với dân tộc Do thái, hình ảnh vườn nho, cây nho mà Thiên Chúa vừa là người canh tác, vừa là ông chủ rất phổ thông và gần gũi. Đó là hình ảnh Kinh thánh Cựu ước áp dụng cho Israel mà mọi người phải đọc, phải học và suy gẫm. Như thế trong bài đọc Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu tự so sánh mình với cây nho Thiên Chúa trồng và các môn đệ là ngành không có gì lạ lẫm, mới mẻ. Trái lại rất dễ hiểu, ngang tầm trí khôn mọi người. Lập vườn trồng nho là nghề sinh sống của một phận không nhỏ trong dân gian Do thái. Điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh hôm nay là Ngài đồng hoá mình với cây nho. Sức sống của nó và các cành đều đến từ Thiên Chúa. Ngài không nói về tương lai, hoặc cuộc đời sau cái chết khi nhân loại sống mật thiết với Thiên Chúa, mà chính ngay cuộc đời này. Bởi lẽ Ngài dùng thì hiện tại. Nghĩa là ngay lúc này các môn đệ và chúng ta phải kết hợp vơi Ngài bằng sự sống hữu cơ như cành với cây và cố gắng hết sức duy trì sức sống đó: “Khi ấy Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà khong sinh hoa kết trái thì Người chặt đi, còn cành nào sinh hoa kết trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn.”
Điểm lưu ý thứ nhất trong đoạn Tin mừng là Chúa Giêsu không tách biệt, không loại trừ ai. Tất cả đều được mời gọi vào cuộc sống của Ngài, chẳng cần quốc tịch, màu da, tiếng nói, tầng lớp nào! Chẳng cần giầu nghèo, sang hèn, thông minh hay ngu tối, khẻo mạnh hay yếu đau, tài giỏi hay đần độn, triệu phú hay ăn mày, tu sĩ hay giáo dân. Chỉ cần điều duy nhất: Tình yêu. Cuộc sống mỗi người sẽ minh chứng cho tình yêu đó, nếu như họ thực sự đã tháp nhập vào thân thể Chúa Kitô. Trong bài đọc 2, thánh Gioan tóm tắt: “Chúng ta phải tin vào danh Đưc Giêsu Kitô, Con của Thiên Chúa và phải yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta.” Nghĩa là chẳng cần căn cước nào khác, chẳng cần quần áo đẹp, đồng phục, huy hiệu, cờ xí, chẳng cần băng đeo tay, đoàn the, trong cộng đồng mới mẻ của Chúa Giêsu. Yêu thương nhau là dấu chỉ duy nhất chứng tỏ chúng ta thuộc về cây nho và ở lại trong sức sống của nó. Yêu thương không loại trừ. Yêu thương hết mọi thành phần trong xã hội nhân loại, chứ không phải chỉ những thân thuộc của mình. Yêu thương cả đến những kẻ thù, người vô đạo hay dửng dưng tôn giáo. Hơn nữa, khi còn ở trần gian Chúa Giêsu tìm đến những kẻ chẳng được xã hội chấp nhận, chẳng được yeu mến, thì đó cũng là đối tượng đặc biệt của những người theo Chúa hiện nay. Sức sống của cây nho lưu thông trong khắp các chi thể. Cành nào ngăn cản, tức khắc bị héo khô. Tín hữu nào mang não trạng loại trừ, tức khắc không còn là môn đệ của Chúa Kitô nữa!
Điểm thứ hai. Chúa Giêsu không xưng mình là gốc hay rễ nho. Nếu Ngài ví như thế, chẳng hoá ra những cành lá gần gốc rễ có thể tự coi quan trọng hơn kẻ khác, vì được ở gần nguồn song. Họ có thể hãnh diện về vị trí của mình, đòi hỏi những đặc quyền đặc lợi (như nhiều vị trong Giáo hội ngày nay). Họ sẽ độc quyền điều khiển dòng chảy của nhựa cây nho, ban cho người này kẻ khác những ưu đãi. Hậu qua là sẽ có môn đệ hạng nhất, hạng hai, ba, bốn và rốt cùng! Sẽ có những tín hữu sang trọng và những tín hữu thấp hèn. Chúa Giêsu không gọi mình là gốc nho, mà đơn giản là “cây nho”. Cho nên, chẳng ai có thể cậy mình hơn kẻ khác, hoặc tự hào về địa vị trong Giáo hội. Điều cần quan tâm là mang nhiều hoặc ít hoa trái. Vì đã được nối kết vào cây nho, cho nên trách nhiệm là phải sinh hoa kết trái. Nhờ bí tích thánh tẩy, các tín hữu đã nên mot với Đức Ki-tô, sức sống của Ngài lan toả tới hết mọi chi thể, thì không ai được miễn trừ mang nhiều hoa trái. Tuy nhiên thực tế có khi ngược lại, vô sinh, cằn cỗi, héo hon.
Điểm thứ ba, điều kiện để mang nhiều hoa trái là “tỉa sạch”. Có lần trong Phúc âm Gioan, Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là nguồn nước hằng sống, lần khác, Ngài là bánh bởi trời ban sự sống cho nhân loại. Bài huấn dụ hôm nay ở trong bối cảnh bữa Tiệc ly, Ngài nói với cac môn đệ Ngài là cây nho thực. Các tác giả ban dịch thuật Thánh kinh Anchor (The Anchor Bible) chú giải: dấu chỉ biểu tượng của lòng tin vào Chúa Giêsu là ăn bánh trường sinh và uống nước hằng sống. Các tín hữu tiên khởi khi nghe huấn dụ này thì nghĩ ngay đến nghi lễ bẻ bánh: Hoa trái của cây nho ban sự sống. Kinh tạ ơn cổ nhất của bí tích Thánh Thể đọc rằng: “Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha vì tôi tớ của Cha, cây nho nhà Đavit thánh thiện mà Cha đã mặc khải cho chúng con trong Đức Giêsu Kitô, tôi trung của Cha”. Trường hợp khác Phúc âm Gioan nói đến hoa trái là ở đoạn 12,4: hạt lúa mì rơi xuống đất phải thối đi mới sinh nhiều hoa quả. Thối đi theo Phúc âm Gioan là chết. Như vậy hoa quả chỉ phát sinh qua đau khổ và sự chết. Nói cách khác “tỉa sạch”. Cho nên, chúng ta phải sống dấn thân để dính liền với cây nho hầu mang nhiều hoa trái. Nhiều lần Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy điều ấy. Tình yêu đòi hỏi hy sinh và ngay cả sự chết. Sống nhung lụa không thể thực hiện được điều Chúa chỉ dạy, có chăng chỉ là môi miệng. Mùa này, nhất là trong thánh lễ này, chúng ta đang cử hành sự chết và sống lại cua Chúa Giêsu. Khi rước lễ chúng ta sẽ nhận được sự sống của cây nho để có khả năng hy sinh trong cuộc sống thường nhật. Tự nhận là thành viên của cộng đoàn theo Chúa Kitô không đủ. Phải chứng tỏ bằng việc làm, phản anh sức sống của cây nho trong cuộc đời mình. Hằng ngày qua bí Thánh Thể chúng ta nhận được ý chí và nghị lực để sống tình yêu “tỉa sạch” như Chúa Giêsu đã sống.
Bài đọc 1 cho chúng ta hay lúc đầu các môn đệ nghi ngại không dám chấp nhận Phaolô. Những điều họ biết về ông khiến họ sợ hãi. Ông đã mạnh tay bách hại các tín đồ, đồng tình với cái chết của Stephanô. Nhưng Barnaba đứng ra bênh vực cho ông, nói với các Tông đồ rằng Phaolô đã thực sự được nhìn thấy Chúa và đã mạnh dạn đến ương ngạnh rao giảng danh Chúa Giêsu. Phần Phaolô, ông đã minh chứng được ở Giêrusalem những điều ông đã làm ở các giáo đoàn khác trong miền cận đông. Đó là dạn dĩ rao giảng danh thánh Giêsu. Ông đã thực sự hối cải và đã tháp nhập vào cây nho thật của Thiên Chúa. Cuộc đời ông đã thay đổi hẳn và mang nhiều hoa quả tốt đẹp. Cái giá đương nhiên ông phải trả là chính sự sống mình, như Chúa Giêsu đã cam chịu trước ông. Cho nên chúng ta không thể từ chối cuộc đời Phaolô chỉ có thể sinh hoa trái khi tháp thập vào cây nho. Nhựa sống của cây nho đã chảy tràn sang Phaolô. Người tín hữu muốn sống có hiệu quả không thể làm khác hơn Phaolô. Ngoài ra là thất bại.
Trong tiến trình mang hoa kết trái, chúng ta luôn cần đến việc tỉa sạch. Lý do vì những thói hư tật xấu của con người cũ. Con người hoang dã của bản tính hư hỏng: Ghen tương, thù hận, thành kiến, tự tôn, kiêu ngạo, gian dối, lừa đảo, buông thả, trác táng, vô luân, ích kỷ… Những thói xấu đó làm tắc nghẽn dòng chảy tự do của sức sống Chúa Giêsu trong các linh hồn. Cho nên công việc tẩy sạch là cần thiết và bắt buộc. Cây nho không tỉa cành, chẳng bao giờ đâm bông kết trái. Do đó, đến mùa, người làm vườn phải tỉa sạch các gốc nho quí giá. Người tín hữu cũng vậy, luôn phải sửa mình ngõ hầu có thể phát triển trên con đường thiêng liêng. Ngay trong lòng Giáo hội cũng cần có việc “tỉa sạch”: Phân chia bè phái, cãi cọ thần học, giáo lý, nghi thức, chữ đỏ, tự ái cục bộ. Đúng ra trong Giáo hội Chúa Kitô không có cấp bậc quyền bính, mà chỉ có phục vụ. “Ai muốn làm lớn trong anh em thì hãy làm đầy tớ mọi người”. Lời Chúa vang vọng khắp các thế kỷ, nhưng cũng khắp các thời đại, luôn có chia rẽ, tranh giành, trù dập… Sức sống của Chúa Giêsu do Thanh Thần điều hành chứ không phải loài người. Nó mang thiên hình vạn trạng khác nhau, chứ không đơn điệu. Không người nào được phép cho mình ưu tiên trong Chúa Giêsu!
Cứ nhìn vào đời sống Giáo hội tiên khởi tức khắc chúng ta nhận thấy sự thật. Ơn Chúa Phục Sinh thúc đẩy họ bung ra. Bão táp không ngăn cản nổi, trái lại còn giúp Giáo hội gieo rắc hạt giống khắp nơi. Họ luôn một lòng một ý, chăm lo cầu nguyện, nghe giáo lý các Tông đồ. Nhưng khi có tranh giành quyền bính, là bắt đầu có chia rẽ bè phái. Sự chi rẽ lớn mạnh khi tranh cãi thần quyền giáo lý trở nên sôi nổi. Cho nên tiến trình tỉa sạch là cần thiết. Đúng lý, sức sống của ơn Chúa Phục Sinh giống như cây nho âm thầm lan rộng, chẳng cần võ khí, không cần tên lửa, máy bay, tầu chiến, xe tăng giúp đỡ. Nó tự lớn mạnh và toả lan. Khi gươm giáo được sử dụng thì liền có những hậu quả thảm khốc. Danh Thiên Chúa bị chế nhạo ngay trong hàng ngũ các đạo binh Thánh giá. Cờ lệnh, thập tự trên các khiên mộc trở nên dấu hiệu báng bổ Cây Nho đích thật và dịu dàng. Chúng là những cành nho khô, cần được cắt bỏ. Tác giả Luca trong bài đọc 1 gọi Phaolô bằng tên cũ Saulô, cái tên đã làm cho các tín hữu run sợ, thì bây giờ ông đã được tỉa sạch nhờ xem thấy Chúa và nghe Lời Ngài trên đường đi Đamát, ông can đảm rao giảng Danh Chúa Giêsu bằng lời nói và hành động yêu thương của mình. Ông đã thực sự liên kết với sức sống của cây nho.
Tóm lại, đòi hỏi “tỉa sạch” của Tin mừng hôm nay quả hợp lý, quan trọng và tuyệt vời. Nó cần thiết cho mỗi linh hồn, mỗi cộng đoàn tín hữu, tu trì và toàn thể Giáo hội để tiến triển trên con đường nên thánh. Không có “tỉa sạch” thì mọi chương trình, mọi dự phóng đều vô ích. Bởi sự sống cây nho còn bị ngăn cản thì làm sao sinh hoa kết trái? Dương dương tự đắc khong phải là thái độ của người theo Chúa Giêsu. Ngược lại, suy gẫm và sửa mình là công việc thường xuyên để khai thông nhựa sống cho tâm hồn, từ đó mới đưa đến mục tiêu. Bí tích thánh thể là phương tiện hiệu quả kết hợp chúng ta với Chúa Giêsu. Hãy đến ăn, uống bánh bởi trời và nước hằng sống, ngõ hầu tăng cường quyết tâm ở lại trong Cây Nho đích thực. Amen. Alleluia.
76. Thầy là cây nho các con là cành
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
Bài đọc thứ nhất của sách Tông Đồ Công Vụ thuật lại việc thánh Phaolô được Chúa Giêsu kêu gọi trở lại với Giáo Hội trên con đường đi Emmau để bách hại đạo Chúa. Chúa Giêsu đã biến cành cây (Phaolô) cho hợp với thân cây (Chúa Giêsu) thì sẽ biến thành cây sinh nhiều hoa trái. Từ con người phản nghịch trở thành con người của ơn thánh. Từ con người ghét đạo trở thành con người nhiệt thành rao giảng Tin Mừng.
Tại Phi Châu, có ông già vào thăm cha, thấy trong nhà cha có cây đèn đốt ngược (Bóng điện). Ông xin cha một cái. Cha cho ông cái bóng điện hư. Đưa về ông cột dây vào rồi treo lên trần nhà. Không thấy bóng sáng như ở nhà cha. Ông hỏi cha, cha cho biết: Nếu muốn bóng sáng thì phải có điện chuyển qua dây vào bóng đèn mới sáng được. Cũng như ông muốn là người có đạo, sống sốt sáng là nhờ có ơn Chúa thông qua ông khi chịu phép Rửa tội, ông mới trở nên người Công Giao, mới sống đạo, mới biết Chúa, mới được đầy sống sáng trong đức tin.
Muốn cho sinh hoa kết trái, cành nho phải hợp với thân cây nho, thân cây truyền sức sống bổ dưỡng để cành sinh hoa kết quả được. Về mặt tinh thần cũng vậy, muốn có sự sống là Chúa Kitô, phải hiệp thông với Chúa là nguồn, bằng cách năng chịu các Phép Bí Tích, năng đọc Sách Thánh, năng lãnh nhận lời hằng sống, năng xem lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa. Cũng như tấm bánh miến, phải do hàng trăm hạt lúa miến kết hợp lại, biến thành Mình Thánh Chúa. Cũng như giọt rượu nho do trăm ngàn trái nho ép thành chất rượu lại phải được truyền biến thành Máu Thánh Chúa.
Đừng như cây bầu, cây bí có nhánh lá xum xuê, có nhánh bị sâu đục chui vào thân, bề ngoài lành lặn nhưng bên trong sâu ăn làm dây leo bị khô héo. Giáo Hội là nhóm người tụ họp với nhau để cử hành các Bí Tích, có Chúa ở giữa. Giáo Hội cũng là nhóm người tụ họp nhau để cầu nguyện " Ở đâu có hai ba người tụ họp mà cầu nguyện thì Chúa ở giữa". Giáo Hội cũng là nhóm người hợp nhau để làm việc bác ái, việc thiện "Ai làm cho anh em tức là làm cho chính Chúa".
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn kết hợp với Ngài, bằng cách tụ họp nhau nhân danh Ngài, bằng cách lắng nghe lời Ngài, bằng cách chia sẻ Mình và Máu Ngài mỗi khi có thể, để chúng con liên kết với Ngài là thân cây nho, hầu chúng con được lãnh nhận hoa trái dồi dào.
77. Cây nho thật – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Các chương 15 và 16 không ăn khớp với ngữ cảnh, bởi vì làm thế nào có thể liên kết chúng với câu cuối cùng của ch. 14: “Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây!”? Nhiều nhà chú giải cho rằng sau khi đã rời bàn ăn, Đức Giêsu lại tiếp tục trò chuyện với các môn đệ trong Nhà Tiệc Ly hoặc trong một phòng kế cận (Maldonat, Schanz, Knabenbauer, Calmes, Tillman). Nhưng ngưới ta không biện minh được là làm thế nào, sau một hiệu lệnh ra đi quá rõ như thế, mà lại còn có một cuộc trò chuyện khá dài (86 câu). Do đó, có những học giả khác nói rằng Đức Giêsu vừa đi vừa nói chuyen (Godet, Fillion, Wescott, Swete). Tuy nhiên, giả thiết này chỉ hợp lý nếu ở miền quê, chứ không phải trong những con phố nhỏ hẹp như trong thành Giêrusalem, mà người ta phải đi qua trước khi đến thung lũng Kítrôn. Đã thế, ngươi ta chỉ đến đó vào đầu ch. 18!
Hai giả thuyết này cũng như giả thuyết về một bố cục khác cho các ch. 1317 đều không đầy đủ và không được biện minh bởi truyền thống các thủ bản. Hợp lý nhất là giả thuyết cho rằng các ch. 15 và 16 là một phần do chính tác giả thêm vào sau (Lepin, Durand, Lagrange, Lebreton, Huby). Điều này hợp lý cả về nguyên tắc cả về thực tế: vì tác giả kể lại các kỷ niệm đã xa rồi trong thời gian, ngài cứ viết rồi lại bổ sung; do đó, bản văn có nhiều tầng soạn thảo.
Để hỗ trợ cho nhận định này, chúng ta ghi nhận rằng các ch. 15 và 16 trình bày ba đề tài chính: sự kết hợp của các môn đệ với Đức Giêsu và với nhau dưới hình ảnh cây nho (15,1-17); sự thù ghét của thế gian đối với các môn đệ và loan báo những bách hại (15,1816,4a); Đức Giêsu ra đi và ban các lời hứa cho thời gian Người vắng mặt (16,4b-33). Phần cuối cùng này có một đối tượng giống het ch. 14. Như vậy, đây là một bổ túc cho các kỷ niệm đã được bài diễn từ ghi lại.
Về phân đoạn 15,1-17 cũng thế. Nếu giáo lý về sự hiệp nhất của Chúa Cha với Chúa Con không triển khai rõ bằng trong ch. 14, thì đề tài sư kết hợp của Đức Giêsu với các môn đệ, được triển khai bằng những từ ngữ rất sống động, và màu sắc Thánh Thể do sự lặp lại liên tục các từ ngữ như karpos, “trái” (8 lần), agapê, “tình yêu” (4 lần), mênô, “ở lại” theo nghĩa thần bí (11 lần), phải được liên kết với bài Diễn từ Thánh Thể (6,27-56), dường như cho thấy rằng bản văn có lẽ đã được nói trước ch. 14, nhưng trong quan hệ chặt chẽ với việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể.
Còn khối 15,1816,4a, ngay ở đểm nói về vai trò của Đấng Bảo Trợ (15,26), tương ứng với lời loan báo các bách hại của Bài Diễn từ cánh chung theo các TMNL (Mt 24,1-23 //) và chứa những lời thuộc về các hoàn cảnh khác. Hẳn là tác giả TM IV đã thêm các lời đó vào bài diễn từ sau Tiệc Ly để làm trọn phần giáo huấn các môn đệ, giống như Mt đã gom vào Bài Giảng trên núi những giáo huấn khác nhau của Đức Giêsu liên hệ đến luật sống Kitô hữu (Guillemette).
2.- Bố cục
Bản văn đầy đủ là 15,1-17. Ta có thể xác định được ranh giới các phân đoạn (15,1-8.9-11.12-17) nhờ các câu “đóng khung” (“Cha Thầy”: 15,1.8; “sinh hoa trái”: 15,2.8; “nhiều”: 15,2.8; “điều răn/truyền dạy”: 15,12.17; “để anh em thương yêu nhau”: 15,12.17).
Riêng phân đoạn có bố cục đồng tâm như sau:
A = 1-2
B = 3-4a
C = 4bcd
D = 5
C’= 6
B’= 7
A’= 8
3.- Vài điểm chú giải
- người trồng nho (1): Dịch sát geôrgos là người đào xới đất đai, người làm vườn.
- chặt đi … cắt tỉa (2): Trong tiếng Hy Lạp, có một kiểu chơi chữ ở đây do hai động từ có cùng âm điệu (paranomasia): airein (chặt) và kathairein (tỉa). Tuy hai động từ được dùng ở đây cho việc chăm sóc cây nho, dường như airein với nghĩa là “lấy đi, mang đi (= giết) và kathairein với nghĩa là “thanh luyện” được chọn ở đây không phải vì phù hợp với việc trồng nho, nhưng vì phù hợp cho những con người, đó là Đức Giêsu và các môn đệ.
- cắt tỉa … được thanh sạch (2-3): Ở đây cũng có một kiểu chơi chữ giữa katharei, “Người cắt tỉa” và katharoi, “được thanh sạch”.
- lời (3): Đây là toàn thể giáo huấn của Đức Giêsu (x. Ga 5,38; 1 Ga 2,24). Chính giáo huấn của Người, một khi được lắng nghe và đón nhận, làm cho các môn đệ nên thanh sạch. Chính lòng tin gắn bó với lời giáo huấn của Đức Giêsu đã liên kết họ với cây nho và làm cho họ nên thanh sạch.
- ở lại (4): Động từ “ở lại” (menô) là động từ chính yếu của ch. 15 và của cả TM IV. “Ở lại” có nghĩa là bám chắc nhưng năng động vào những gì đã được ban cho trong quá khứ, nắm lấy nó trong hiện tại và nhìn tới tương lai theo chiều hướng của nó. Có thể theo nghĩa này mà hiểu các câu nói về người tín hữu phải “ở lại” trong lời (8,31), trong tình yêu (15,9-10), trong ánh sáng (1 Ga 2,10), trong Thiên Chúa (1 Ga 4,13-16). Còn với Thiên Chúa hoặc với Đức Giêsu, “ở lại” có nghĩa là bền bỉ ban ơn cứu độ cho các tín hữu (x. 1 Ga 2,27; 3,9.15; 4,12-15). Do trung thành, người tín hữu gắn bó cuộc đời với Đức Giêsu Kitô và thấy rằng nơi Người, Thiên Chúa ban ơn cứu độ cho loài người mãi mãi. Sự trung thanh này cũng hàm ý một sự tương giao năng động và sự hiểu biết tiệm tiến.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Cho tới đây, trong bài Diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã đặc biệt cho thấy là Người không để các môn đệ phải cô đơn và đã nói những gì họ phải làm để ở lại kết hợp với Người theo nhiều cách. Bây giờ Người lưu ý họ về sự kiện là, sau khi Người đã được nâng lên, họ sẽ phải mang hoa trái, sẽ phải có một nhiệm vụ truyền giáo. Người cho họ biết họ cần gì để chu toàn được nhiệm vụ này.
Cấu trúc của bản văn 15,1-8 với trung tâm là a. 5 (D): “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”. Bản văn nêu bật đề tài trung tâm là nhu cầu hiệp nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ để sinh nhiều hoa trái. Quả thật Dụ ngôn Cây nho thật tập trung vào việc mang hoa trái (15,2.4.5.8.16). Chỉ có trong hai đoạn khác, Đức Giêsu mới cũng nói đến hoa trái, đó là trong những đối thoại với các môn đệ. Khi Người nhấn mạnh trên sự kiện là được người Samari đón tiếp và nhận biết, Người đã nói với các môn đệ: “Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi (= trái) để được sống muôn đời […]. Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra” (4,36.38). Khi lần đầu tiên một vài người Hy-lạp đến tìm Ngươi, Người đã giải thích cho các môn đệ: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (12,24; x. 15,5.8). Trong cả hai trường hợp, bản văn nhắm đến sự kiện là cộng đoàn những người tin vào Đức Giêsu tăng trưởng và đi xa hơn vòng các môn đệ hiện thời. Đức Giêsu là hạt lúa chết đi để sinh nhiều hoa trái. Nhưng Đức Giêsu cũng là cây nho mà các cành phải mang những trái tốt tươi. Trong dụ ngôn đầu, Người nói đến tầm quan trọng của cái chết của Người để lôi kéo các tín hữu đến với Người (x. 12,32); trong dụ ngôn thứ hai, Người cho thấy hoa trái của các môn đệ Người hệ tại điều gì.
Nói rằng bản văn nhấn mạnh trên việc “mang hoa trái”, chúng ta thấy điều này qua ba lần lặp lại cụm từ “nhiều hoa trái” (karpon pleiona / polyn pherein) ở đầu (c. 2), ở giữa (c. 5) và ở cuối (c. 8), tức là ở yếu tố đầu, yếu tố trung tâm và yếu tố cuối của cấu trúc đồng tâm (x. cả “sinh [mang] hoa trái” ở cc. 2ab.4b). Để sinh hoa trái, cần phải kết hợp (mênô) với Đức Giêsu: điều này được khẳng định thật rõ ràng bằng hai cách: cách tích cực (“ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em”: c. 4a; “ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy”: c. 5b; “nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em”: c. 7ab) và cách tiêu cực (“nếu không ơ lại [gắn liền] với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy”: c. 4cd; “ai không ở lại trong Thầy”: c. 6a). Hệ luận của việc không ở lại trong Đức Giêsu-cây nho, đó là cành ấy không sinh hoa trái (c. 4bc) và se bị chặt đi (c. 2a), bị quăng ra ngoài và bị đốt đi (c. 6bcde). Trong khi các cành không sinh hoa trái thì bị cắt đi (airei: c. 2a), các cành mang hoa trái được Chúa Cha là người trồng nho (geôrgos) cắt tỉa (katharei: c. 2b) nhờ lời của Ngài (logos: c. 3b) mà Đức Giêsu đã nói ra. Trong thực tế, chính là lời hoặc mạc khải của Đức Giêsu đã thanh luyện các môn đệ (c. 3; x. 13,10). Sự hiện diện thường trực hoặc sự ở lại (menein) của lời Người (ta rhêmata) trong các môn đệ là một điều kiện để cho lời cầu nguyện của họ được nhận (c. 7) bởi vì chính mạc khải của Đức Giêsu đã được đón vào trong tim các môn đệ, làm cho con tim họ đồng thanh tương ứng với con tim của Đức Giêsu và của Chúa Cha, khiến cho lời thỉnh cầu của họ sẽ phù hợp với ý muốn của Chúa Cha. Các môn đệ ấy, giống như các cành khỏe mạnh thường xuyên hút được nhựa sống từ cây nho, sẽ sản sinh hoa trái dồi dào và tôn vinh Chúa Cha (c. 8), là người trồng nho (c. 1).
+ Kết luận
Như thế, hình ảnh cây nho và các cành nho cho thấy sự ở lại thâm sâu và sự hiệp thông thường trực giữa Đức Giêsu và các môn đệ chân thật của Người, đồng thời nêu bật dây liên kết bên trong bằng việc mang hoa trái. Giống như cành nho, vì liên kết với cây nho, được thông dự vào sự sống của cây nho, người tín hữu, nhờ gắn bó với Đức Kitô, được thông dự vào sự sống chân thật, là sự sống của chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự thông dự này bó buộc họ phải sống và hành động theo nếp sống mới đã được Đức Giêsu mạc khải cho biết.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đoạn văn này trích từ bài Diễn từ thứ hai của Bữa Tiệc Ly. Muốn đọc và nhận được các ánh sáng phong phú, nên đăt bản văn vào trong bầu khí của cử hành Thánh Thể là trung tâm của Bữa Tiệc Ly. Lời chúc phúc và thánh hiến rượu nhắc đến ẩn dụ cây nho. Cựu Ước đã dùng hình ảnh cây nho mà ví Dân Thiên Chúa. Ở đây, Đức Giêsu muốn nói rằng Người thực hiện nơi bản thân Người toàn bộ sự tuyển chọn, sự ân cần và phương tiện cứu độ mà xưa kia được gán cho Dân Chúa. Tư tưởng chính của bản văn tập trung vào sự kết hợp ngay ở trần gian này giữa ki-tô hữu và Đức Kitô.
2. Bất cứ kết quả phong phú nào về truyền giáo của các môn đệ đều hoàn toàn tùy thuộc việc họ được liên kết với Đức Giêsu. Bất cứ toan tính nào nhắm đạt tới một kết quả mà lại không cần tới Người thì chỉ có thể thất bại. Không có Người, các môn đệ không thể làm gì được. Do đó, họ phải tìm cách ở trong thế liên kết với Người ngày càng chặt chẽ và vưng chắc hơn. Sự cần thiết này càng lớn do chỗ chính Thiên Chúa quan tâm đến việc họ mang hoa trái và sẽ đối xử với họ tương ứng theo đó (c. 2).
3. Tất cả tùy thuộc sự kết hợp của các môn đệ với Đức Giêsu. Làm thế nào để họ có thể trở thành những cành nho cứ lớn lên mà vẫn liên kết với cây và được phong phú nhờ dòng nhựa của cây? Các môn đệ ở lại trong Đức Giêsu nếu các lời của Người ở lại trong họ (c. 7) và nếu họ tuân giư các giới răn của Người (15,10). Tất cả phát xuất từ Đức Giêsu: các lời và các giới răn phát xuất từ Người. Nhiệm vụ của các môn đệ là đón nhận cách đúng đắn sáng kiến này của Đức Giêsu. Như thế, họ được liên ket với Người và sẽ có thể sinh hoa trái.
4. Trong cách Thiên Chúa hướng dẫn người tín hữu chân thành, mọi sự được quy hướng đến chỗ sinh hoa kết trái, như là dấu chứng tỏ người ấy đã đạt được mục tiêu của đời mình. Khi sống trong Đức Kitô, người ki-tô hữu được nuôi dưỡng bằng giáo huấn, gương sáng, Lời, ân sủng bên trong, Thánh Thể của Người. Tuy nhiên, có khi do hứng khởi vì những ý tưởng, những dự phóng, hoặc có khi chỉ là do thiếu sang suốt, do trí tuệ yếu kém, do ý chí yếu đuối, v.v., người tín hữu lạc vào một sai lầm hay rơi vào một thất trung nào đó. Chính khi đó, vì nhắm tới hoa trái, Chúa “cắt tỉa” linh hồn và con tim con người ấy, thanh luyện người ấy, xén đi những gì đang chiếm các năng lực của người ấy cách vô ích. Khi đó, chắc chắn có đau đớn. Nhưng làm sao tránh khỏi hy sinh, khi muốn bước theo Đức Kitô và ở lại với Người? Nếu đôi khi Chúa Cha dường như cắt xén vào xác thịt chúng ta, trong linh hồn chúng ta, chúng ta hãy cứ nuôi dưỡng mình thêm bằng dòng nhựa của Đức Kitô và giữ vững can đảm vì nhìn tới các hoa quả đầy hứa hẹn.
5. Cứ tiếp tục suy tư từ bài dụ ngôn Cây nho thật, chúng ta biết rằng cây nho sinh trái ở cành. Các cành không có đó để trang điểm cho cây nho. Chính các cành sai trái chứng tỏ sức khỏe và sức sống của cây nho. Nhưng “sinh nhiều trái” không phải là kết quả của một nỗ lực của con người; đó là kết quả của niềm tin sinh động đặt nơi Đức Giêsu. Tuy nhiên, toàn thể tiến trình lại là công việc của người trồng nho, là Chúa Cha.
78. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.
CÂY NHO VÀ CÁC MÔN ĐỆ
Diễn từ của Chúa Giêsu mở đầu bằng dụng ngữ “Thầy là” được lặp lại ở câu 5. Như ở chương 10 về vị mục tử, đó không phải là một sự so sánh (thiếu phụ ngữ so sánh “như”); đó là một ẩn dụ, hình ảnh qua đó một từ ngữ (ở đây là cây nho) được đem ra khỏi lĩnh vực thông thường để sử dụng vào trong một lĩnh vực khác của diễn từ (ở đây là căn tính của Chúa Giêsu).
Ẩn dụ này hình thành một phần từ những yếu tố quen thuộc của người Do Thái (Chúa Cha như người trồng nho) và từ nhiều yếu tố mới mẻ khác như việc Chúa Giêsu quả quyết Người là “cây nho thật”. Quả vô ích khi tìm kiếm những so chiếu trong thế giới ngộ giáo (nhiều người muốn nhận thấy ở đây mot ám chỉ đến cây sự sống, đôi khi được trình bày như một cây nho). Tốt hơn là nên quay về với Kinh Thánh nơi thường sử dụng hình ảnh cây nho để nói về Israel (Is 5,1-7; 27,2-5; Gr 5,10; 12,10-11).
Tuy nhiên trong Tin Mừng của Gioan, hình ảnh quen thuộc với thính giả, vượt xa ẩn ý của Kinh Thánh: Chúa Giêsu là cây nho thật (cũng cách diễn tả này trong Gr 2,21 trong bản dịch Hy Lạp), và các cành nho phát triển nhờ Người. Cành nào không sinh trái thì cần phải chặt bỏ. Trong bối cảnh của đêm sau cùng, ta thường nghĩ đến Giuđa là kẻ thuộc về thế giới tối tăm (13,2.27). Thế nhưng dụng ngữ căn bản này (loại trừ sự hoán cải như trong Mt 3,10) chắc chắn có thể áp dụng cho mọi Kitô hữu thuộc Giáo Hội của Gioan mà lại đoạn giao với cộng đoàn như “những tên phản Kitô không phải là người của chúng ta” (1Ga 2,19).
Không nên xem như một cách miêu tả hỏa ngục và các hình phạt của nó trong việc so sánh kẻ không “ở lại trong Chúa Giêsu” với những “cành nho bị quăng vào lửa cho nó cháy đi”. Tuy nhiên viễn ảnh đầy đe dọa và diễn đạt một nhị luận không sai biệt giữa các môn đệ trung thành với những kẻ xa lìa Chúa Giêsu. Đối với người chưa tin, Gioan sử dụng cũng một hình ảnh như ông sử dụng để chỉ Thủ Lãnh thế gian này: “nó sắp bị tống ra ngoài” (12,31 và 15,6). Cần phải đặt định các đoạn này vào trong trào lưu cố tình nhị luật của một số cộng đoàn Kinh Thánh sơ khai, phải đương đầu với nhiều cuộc khủng hoảng nội bộ. Ngày nay, độc giả nên ý thức về những hậu quả không thể tránh khỏi từ những lựa chọn của mình. Lời mời gọi hoán cải luôn luôn hien diện trong đề xuất của Tin Mừng.
Như vậy, đối với Gioan, sinh hoa trái có nghĩa là trở nên môn đệ, nghĩa là gắn bó với Chúa Giêsu trong đức tin và đức ái, trong tư thế hoán cải liên lỉ, một đức ái trở thành dấu chỉ cho thế gian do bởi chất lượng và sức mãnh liệt của nó. Câu 3 lặp lại thảm cảnh của đêm sau cùng khi ám chỉ đến việc thanh tẩy (việc rửa chân) được trình bày ở chương 13.
Các câu 6 lặp lại phần dẫn, dưới hình thức một sự bao hàm. Tuy nhiên ở đây chiều kích Kitô được nhấn mạnh: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”. Giữa lời khai mào bài trần thuật nói về “cây nho thật” và phán quyết cuối cùng này, ta có thể đoán được những dấu vết của cuộc bút chiến chống lại những kẻ (Do Thái giáo hay Kitô giáo) muốn tìm nguồn mạch sự sống ngoài Chúa Giêsu. Đối với tín hữu hiện thời, được mời mọc bởi biết bao đề nghị đầy ý nghĩa, lời này cần phải là một cột moc không thể xóa bỏ. Nếu quả thật Chúa Giêsu là Lời của Thiên Chúa, đến đưa sự mặc khải tới đích điểm, thì đối với các tin hữu, Người cần phải là sự quy chiếu bắt buộc (không độc hữu không loại bỏ đối với những kẻ thành tâm gắn bó với các trào lưu tôn giáo và nhân bản khác).
79. Chú giải của Noel Quesson.
Thầy là...
Như Chúa nhật trước, chúng ta sẽ nghe Chúa Giêsu nói Người là ai. Chúng ta chú tâm lắng nghe Chúa Giêsu bắt đầu mạc khải bằng những từ long trọng này: Con người, dân thành Nagiarét, con của Maria... dám dùng tên Chúa "Ta là Đấng Hằng Hữu” để tỏ cho chúng ta biết Ngài là Đấng Tự Hữu.
Cây nho thật.
Đây là một kiểu nói vô cùng táo bao đối với những thính giả đầu tiên của Chúa Giêsu. Trong toàn bộ Thánh Kinh hình ảnh "Cây nho" tượng trưng cho "dân Israel", bây giờ Chúa Giêsu coi như là một việc đương nhiên, Người tự cho phép mình chiếm chỗ của "cả một dân tộc". Người áp dụng cho chính bản thân Người nhưng gì đã được nói cho Israel. Và Người dám nói rằng chính Người là cây nho đích thật. Cây nho kia chỉ là một phác họa, một chuẩn bị, một "hình ảnh". Dân Israel xưa chỉ là mot sự chuẩn bị cho "dân Israel mới" là Giáo Hội, là chính Chúa Giêsu. Và không phải Chúa Giêsu chỉ đưa ra lời khẳng định đáng ngạc nhiên này. Một lần Người đã nói: Người là bánh "đích thực" của sự sống (Ga 6); đối với Maria, Người đã nói Người là Mục Tử "đích thật" (Ga 10) đối lại với những mục tử giả và những kẻ làm thuê.
Vậy thì một lần nữa, con người bình thường, xuất thân từ một làng quê nhỏ bé trong một tỉnh của đế quốc La Mã, con người không quan trọng đó sẽ chịu chết trong vài tuần nữa, bị xã hội loại trừ, bị các môn đệ phản bội và chối bỏ, bị đối thủ khinh khi chế nhạo, bị mọi người bỏ rơi, Con Người đó dám tự cho là trung tâm của thế giới va của lịch sử – Có đúng không? hay Người chỉ là một con người?
Và Cha Thầy là người trồng nho...
Cha của Người là ai? Người đang nói về ai thế? Chúng ta quá quen với những kiểu nói này. Thực ra những kiểu nói trên diễn tả một điều nào đó không bình thường nhưng là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử những tương quan giữa con người và Thiên Chúa. Dường như Chúa Giêsu đã luôn luôn gọi Thiên Chúa là "Abba", từ ngữ Aramên để gọi "Cha”. Kiểu nói này không phải của một người đàn ông trưởng thành mà là của một con trẻ. Kiểu nói trìu mến mà thánh Têrêsa Lisieux đã diễn tả Thiên Chúa, “Cha tốt lành của con". Vào thời thượng cổ, trong nền văn chương của Do Thái nói về nghi lễ phụng vụ cũng như về đời sống cá nhân, người ta không tìm được một cách cầu nguyện dùng tiếng "Abba" để nói về Chúa. Vì thế lời nói khác thường và thân thiện này đã gây ra sự khó chịu và nên cớ vấp phạm đối với những người đồng thời của Chúa Giêsu, lời này thường được dùng trong tiếng Aramên bởi những cộng đồng tiên khởi dùng tiếng Hy Lạp (Mc 14,36; Mt 26,39; Lc 22,42; Ga 14,31; Rm 8,15; Gal 4,6).
Vâng, trong toàn bộ Kinh thánh "Người trồng nho" của Israel chính là Thiên Chúa, hình ảnh truyền thống này diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với dân của người (Gr 2,4; Ed 15,2; Os 10,1; Tv 80,9).
Cành nào gắn liền với thầy mà không sinh hoa trái thì người cắt tỉa cho nó ra nhiều quả hơn.
Sự so sánh của người trồng nho rất thực tế: Mùa đông ông ta cắt bỏ trành khô và đốt, ông tỉa một phần để cô đọng nhựa làm cho sinh nhiều trái hơn. Một cây nho không được cắt tỉa chỉ sinh lá -Những người trồng nho nói rằng: Khi người ta cắt tỉa cây nho cây này "khóc". Trước khi vết cắt được lành, một số nhựa dồi dào chảy ra. Cũng vậy, gặp cơn thử thách lòng chúng ta cũng khóc khi bị đau khổ.
Người nào đã đi thăm một vườn nho vừa được cắt tỉa, sẽ ngạc nhiên về những cành nho bị "hy sinh" để cây nho cho "nhiều quả hơn". Nếu không biết, ta có thể phê bình người trồng nho "Tại sao lại có nhiều đau khổ như thế này trên thế giới". Thưa ông trồng nho, tại sao ông cắt bỏ nhiều cành thế? Tại sao ông làm cây chảy máu? Hãy đợi đến mùa thu hoạch lúc đó anh sẽ hiểu.
Và Chúa Giêsu, cây nho đích thật được Chúa Cha yêu mến đã bị "cắt tỉa" trước tiên. Oi sự cắt tỉa bi thảm thay! ôi; cây thập giá bên ngoài bị tàn phá, nhưng mang lại: "nhiều quả hơn".
Đó là hình ảnh công việc của Thiên Chúa trong Giáo Hội và trong chúng ta, Người tỉa, xén, thanh tẩy. Việc này gây đau khổ, nhưng đây là quy luật của cuộc sống, để cho mùa thu hoạch tốt đẹp hơn.
Nhưng anh em được thanh sạch rồi nhớ lời Thầy đã nói với anh em.
Đáng lẽ ra khi tỉa xén, người tín hữu phải lắng nghe lời Chúa để khám phá được sự phong phú của sự thanh tẩy này. Người nào chấp nhận bị tỉa xén theo gương Chúa Giêsu và kết hợp với Người, người ấy có thể tìm thấy ý nghĩa trong cơn thử thách của mình. “Hãy luôn luôn kết hợp với Thầy như Thầy luôn kết hợp với anh em ". Lời Chúa trên đây làm cho tín hữu khám phá được rằng, đau khổ kết hợp họ với Chúa Giêsu và làm cho họ ở "trong người".
Động từ "ở" sẽ được dùng trong 6 câu sau này. Hình ảnh thật cảm động: Chung ta có thể "ở” trong Chúa Giêsu, và Người "ở" trong chúng ta, chúng ta kết hợp với Chúa Giêsu như những nhánh trong một cây nho, được tháp nhập vào Người cách sống động: Từ Chúa Kitô đến chúng ta, chỉ có một dòng nhựa lưu chảy, một sự sống duy nhất truyền lan mà thôi.
Chữ "ở" này không chỉ có nghĩa là ở lại, cư ngụ, nhưng là sống ‘với’, đây cũng là một đề tài xuyên suốt Thánh Kinh. Ước vọng lớn nhất của con người là thấy Thiên Chúa ở với dân của Người: "Người đã dựng lều trong trại của chúng ta, giữa những lều du mục của chúng ta". "Người đã xây một nhà trong thành phố chúng ta, giữa những nhà của chúng ta". Nhưng ở đây, Chúa Giêsu còn đi xa hơn: Không chỉ là một sự đối diện mà là "Người này ở nhà người kia". Một mối liên quan mới kết hợp con người với Thiên Chúa, một sự mật thiết hỗ tương. Chúa Giêsu dùng lại kiểu nói xưa của Giao ước: "Các ngươi sẽ là dân của Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi". Nhưng Chúa Giêsu đào sâu hơn bằng cách nói về một sự kết hợp hỗ tương: “Anh em hãy ở trong Thầy như Thầy ở trong anh em". Khi nghe lời này, chúng ta phải nghĩ đến phép Mình Thánh Chúa, Bí Tích tuyệt hảo của giao ước, dưới biểu tượng bánh mà chúng ta dùng hằng ngày. Bí tích này làm cho "Chúa Giêsu hiện diện” trong nội tâm sâu kín nhất của chúng ta. Chúa Giêsu đã dùng cách nói này trong bài diễn văn nói về bánh hằng sống (Ga 6,56): "Kẻ nào ăn thịt Ta và uống Máu Ta sẽ ở trong Ta, và Ta sẽ ở trong người đó". Dựa vào mạc khải này, chúng ta hãy cầu nguyện không ngừng.
Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không kết hợp với Thầy.
Người nói quá đáng chăng: Đòi hỏi quá chăng! Người xác quyết: Kết hợp với Người là một điều cần thiết để được sống. Người cũng nói rằng, kẻ nào không kết hợp với Người thì "đã chết", như cành khô chỉ còn đem vào lửa. Con người không có Thiên Chúa sẽ đi về đâu? Nếu bạn hỏi, đa số người ta sẽ trả lời: Cuộc sống của họ sẽ chấm dứt bằng cái chết và sư hư không. Nhưng chúng ta thấy Chúa Giêsu có một tư tưởng căn bản hơn: Người không nói về tướng lai nhưng nói về hiện tại.
Không có Thầy, anh em không làm được gì. Ai không kết hợp với Thầy thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo, người ta nhặt lấy, ném vào lửa cho nó cháy đi.
Khi nghe, con người có thể khước từ sứ điệp này: Con người được tự do - Nhưng nguy hiểm thay. Con người không thể làm giảm nhẹ Tin Mừng được. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tự đặt mình lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa, và đối với Chúa Giêsu, sự lệ thuộc này giải thoát chúng ta khỏi tất cả những gì ngăn cản chúng ta sống". Kẻ nào khước từ không kết hợp với Chúa Giêsu sẽ có "một cuộc sống" rất tầm thường, cuộc sống của con người hay chết, một cuộc sống mà nếu chúng ta trách Chúa về cuộc sống đó chúng ta sẽ có lỗi (các bạn hãy nhìn xem sự đau khổ vô lý của kiếp người này). Chúa đã khong tạo dựng chúng ta để sống "một cuộc sống quá tầm thường" mà cái chết sẽ thắng. Chúa tạo dựng chúng ta để sống "cuộc sống thần linh của Người".
Thầy là Cây nho và anh em là Cành nho. Ai luôn kết hợp với Thầy và Thay luôn kết hợp với người ấy sinh hoa kết quả dồi dào.
Sinh hoa kết quả: Kiểu nói này được lăp lại 6 lần trong vài dòng. Đó là những gì của Chúa Giêsu đã đề nghị với nhân loại. Thiên Chúa không khinh thường con người. Người không đặt ra một cái bẫy để hại con người khi tạo dựng nên con người. Nếu chúng ta suy nghĩ những lời này cách nghiêm chỉnh, chúng ta sẽ hiểu được sâu hơn là khi chỉ đọc phớt qua, Chúa Giêsu không tự xem mình là "thân cây" nho (như vài bản Tin Mừng đã dịch sai) mà trên cây đó mọc ra những "cành" là chính chúng ta. Người tự ví mình như "Toàn cả Cây nho", mà chúng ta là một phần. Thánh Phaolô, khi suy niệm về hình ảnh cây nho, và về Bí Tích Thánh Thể, sẽ nói rằng chúng ta là "chi thể của Thân mình Chúa Kitô”.
Chúng ta là một phần của Thiên Chúa, một phần của Chúa Giêsu, chúng ta là "con trong Ngôi Con", là những người sống trong Đấng hằng sống duy nhất. Người ta nói rằng tại Nagiarét có một cây nho, mỗi năm sinh ra được từ 350 đến 370 chùm.
Anh em sinh hoa kết quả dồi dào và trở thành môn đệ của Thầy, thì đó là tôn vinh Cha của Thầy.
Thiên Chúa Ngôi Cha là nguyên thủy và chung cuộc của đời sống Cây Nho. Chính Người là người trồng nho, tỉa bớt những cành không sinh quả và cắt xén những cành tươi tốt. Chính Người sẽ vui mừng vào mùa thu hoạch đang được chuẩn bị. Đối với những người có đức tin, đó chính là huyền nhiệm của tình yêu.
80. Chú giải của Fiches Dominicales.
CÂY NHO THẬT
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Từ Israel, một dân đã không sinh hoa kết quả như mong đợi.
Với nông dân vùng Palestine thời đó. Cây nho là tài sản quí giá nhất. J.P.Charlier cảnh giác: "Để có một ý niệm về cây nho ở Israel và trong những vùng phụ cận nắng cháy, chiêm ngắm những vườn nho vùng Bourgogne hay Bordeaux chẳng ích lợi gì. Những gốc nho ôn đới chẳng có gì giống với gốc nho vùng Palestine vốn lớn như cổ thụ xum xuê cành lá chứ không phải là những thân nho được cắt tỉa kỹ lưỡng và nhỏ xíu. Phải biết rằng cả một thang lầu trong đền thờ thần Diana ở Ephêsô tạc từ một goc nho duy nhất mang về từ đảo Chypre. Nếu không nhớ đến vẻ oai nghi hùng tráng đó, sẽ không tài nào hiểu nối một thành ngữ rất thông dụng trong Thánh Kinh "nghỉ dưới gốc nho" (1V 4,25; Mk 4,4). "Đức Giêsu ở giữa dân Người" ("Đọc Thánh Kinh" số 78, trang 54).
Chẳng lạ gì cây nho, đã trở thành biểu tượng của sự phú túc và sự hào phóng của Thiên Chúa, rất thường được Kinh Thánh dùng như hình ảnh để chỉ Dân Thiên Chúa đã chọn và đã xếp đặt những mối liên hệ yêu thương và âu yếm. Ôsê đã chẳng miêu tả Israel như một cây nho xum xuê nặng trĩu quả đó sao? (Hs 10,1) Thánh vịnh 79 đã chẳng nài van Chúa cho cây nho mà Chúa đã bứng từ Ai Cập và trồng trên thửa đất đã cày cuốc cẩn thận, "để nó làm đẹp cho xứ sở và vươn cành ra đền tận biển khơi" đó sao? (Tv 79,10-12). Riêng Israel, trong bài ca cây nho thời danh được Thiên Chúa yêu thương dành cho mọi ưu đãi, đã chẳng tuyên xưng: "Tôi sẽ hát cho bạn nghe bài ca của người yêu dấu với cây nho của mình (Is 5,1) đó sao?
2) Đến Đức Giêsu, “cây nho thật”.
Nếu một lần nữa, Đức Giêsu trở về với biểu tượng cây nho, đó là để thực hiện một chuyển vị táo bạo: Người tuyên bố: "Thầy là cây nho thật, các con là cành nho”.
- Khi xưng mình là "cây nho thật”, Đức Giêsu tự giới thiệu mình là người đến để đáp lại sự mong đợi của Thiên Chúa, người mà vì yêu đã tự nguyện hiến ban sự sống của mình, nên đã sinh hoa trái "làm tôn vinh Chúa Cha".
- Những chăm nom săn sóc của "Chúa Cha chủ vườn nho" đối với cây nho cho thấy sáng kiến của Chúa Cha, tình yêu ưu ái Người dành cho Đức Giêsu, Những mối dây duy nhất nối kết Chúa Cha với Chúa Con.
Còn về những "cành nho-môn đệ", phát xuất từ thân nho, chỉ có thể được nuôi dưỡng bằng dòng nhựa chảy ra từ thân nho, chỉ có thể được sinh động nhờ sự sống của thân cây, để sinh hoa ket quả làm tôn vinh Chúa Cha, nếu chúng "ở lại" trong Người.
“Ở lại trong Người”, thực vậy, đó là điều kiện không thể thiếu đối với sự sống của các ‘môn đệ-cành nho’, Người quả quyết: “Vì ngoài Thầy, các con không làm gì được”. "Ở lại trong Người" là kết hiệp với Người bằng những mối dây tình yêu và sự sống, là nhờ Người mà được dẫn đến kết hiệp với Chúa Cha (xem Ga 6,56 và 14,23). Tách mình khỏi Thân Nho thật, xa lìa Đức Giêsu, là dan thân vào chỗ chết: "Nếu ai không ở trong Thầy, người ấy sẽ giống như cành nho bị ném ra ngoài và chúng khô héo đi. Người ta sẽ lượm những cành khô và liệng vào lửa và chúng sẽ cháy”.
Sự gắn bó với Đức Kitô, nếu đung, nếu thực, sẽ được phiên dịch ra thành những xử sự cụ thể. Sự gắn bó ấy được kiểm chứng nơi những hoa trái phát sinh: "Ai ở trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái”. Thử thách, bắt bớ sẽ là những trắc nghiệm về lòng son sắt và bảo đảm cho hoa trái dồi dào.
Như thế, vinh quang của Chúa Cha, đã biểu lộ ra nơi Đức Giêsu, cũng sẽ biểu lộ ra nơi những ai trổ sinh hoa trái bác ái nhờ kết hiệp, gắn bó với Đưc Giêsu: "Điều làm vinh danh Cha Thầy, là các con sinh nhiều hoa trái: như thế, các con sẽ là môn đệ của Thầy”.
Nên, X.Léon-Dufour đã cảm nhận: "Môn đệ không chỉ là người thụ hưởng hoạt động của Chúa Con, nhưng còn tham dư vào hoạt động đó, là đồng tác giả của những kết quả đó. Kết quả đó chưa có, sẽ có, nếu các tín hữu kết hiệp sâu xa với Đức Giêsu. Kết quả đó sẽ làm vinh danh Chúa Cha” (Sđd, trang 168).
Việc đưa hình ảnh Cây Nho vào diễn từ sau bữa Tiệc ly củng cố thêm âm hưởng Phụng Vụ và Thánh Thể của nó. Cần phải liên hệ hình ảnh này với lời Đức Giêsu ở Ga 12,24: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không mục nát đi, nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó mục nát đi, nó mới sinh nhiều bông hạt”. Chỉ có hai đoạn Tin Mừng Gioan (12,24 và 15,5) nói rõ: “sinh nhiều hoa trái”. Như thế chủ đề cây nho và chủ đề hạt lúa bổ túc cho nhau và là nền tảng của những yếu tố chính yếu trong bữa tiệc Thánh Thể: rượu và bánh. Phải chăng Gioan đã chủ ý tìm kiếm hiệu quả này? Dù sao, hình ảnh Cây Nho, được tuyên xưng trong những buổi quy tụ có tính cách phụng vụ vào những thế kỷ đầu tiên cũng như trong các buổi quy tụ ngày nay, vẫn mời gọi các Kitô hữu thấu hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm mà họ đang sống khi cử hành bí tích Thánh Thể.
BÀI ĐỌC THÊM
1) “Hoa trái xum xuê”
(Mgr. L. Daloz, trong "Chúng tôi đã thấy vinh quang của Người", DDB, trang 192).
Nếu ta gắn bó với Người, Đức Giêsu sẽ cho ta hoa trái xum xuê như Người đã hứa: "Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, người ấy sẽ sinh hoa trái xum xuê”. Đời ta có thể nên phong phú nhờ sự phong phú của Thiên Chúa. Ta nên những môn đệ đích thực và ta làm vinh danh Chúa Cha. Lời cầu của ta cũng tương tự lời cầu của Đức Giêsu, Người biết Chúa Cha luôn nhận lời Người: "Nếu các con ở trong Thầy và lời Thầy ở trong các con, các con hãy xin điều các con muốn và các con sẽ được như ý”. Ta có thể xin gì khác hơn thánh ý Chúa Cha? Người môn đệ đích thực của Đức Giêsu không đơn thuần là kẻ đi theo Người. Trong anh ta, chính Đức Giêsu ngư đến sống đời sống của anh, biến đổi đời sống ấy và làm cho nên phong phú. Thánh Phaolô nói: "Không phải tôi sống, chính Đức Kitô sống trong tôi”. Môn đệ là người "mang Đức Kitô”. Nếu môn đệ trung tín với lời Người, anh sẽ nối dài sự hiện diện và hoạt động của Đức Giêsu trên trần gian. Tim anh sẽ đập cũng một tình yêu đó, đời anh sẽ dâng lên Chúa Cha cũng niềm vinh danh đó. Lời anh sẽ loan báo cũng Tin Mừng đó. Cử chỉ anh sẽ phiên dịch cũng ơn cứu độ đó. Bây không phải là bắt chước: nhưng là một chuyển biến sâu xa. Chính Thiên Chúa sinh hoa kết quả xuyên qua hoạt động của anh. Chẳng đời nào ta dám tưởng tượng ra một sự thân thiết thâm sâu dường ấy! Nên Đức Giêsu đã phải nhấn mạnh, nhắc đi nhắc lại để hiểu hơn: “Ngoài Thầy, các con không làm được gì”. Ta rất dễ bị cám dỗ chiếm hữu lời Người, dùng lời Người để tự mình hướng dẫn đời sống mình, để tự ta thấy trước những hoa trái ta muốn có. Thực ra, nếu ta là những môn đệ đích thực, thì chính Lời Đức Giêsu sẽ nắm lấy ta, sẽ cắt tỉa ta. Khi ấy, cuộc đời ta sẽ biến đổi, nhựa sống của cây nho thật sẽ căng phồng lên ở các cành nho cua ta và sản sinh trong ta hoa trái xum xuê".
2) “Thánh Thể, bí tích gắn bó với cây nho của Chúa”.
("Sách lễ Emmaus các ngày Chúa nhật", trang 546-547).
Qua việc rước lễ mùa Phục sinh, Giáo Hội mời gọi ta đóng ấn sự ta gắn bó với cộng đoàn Giáo Hội. Cách chung, đó là ý nghĩa sự hiệp thông. Nhưng khi tham dự tiệc Thánh Thể, ta có thực sự tiếp nhận được nhựa sống, tên gọi khác của ân sủng mà Chúa Giêsu muốn dùng để làm cho ta được sống khong? Ta có thực sự để Thiên Chúa "cắt tỉa" đời ta không? Vậy mà đó là điều kiện để cho chính bản thân ta trở nên Thánh Thể. Tạ ơn Chúa.
81. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
CÂY NHO ĐÍCH THỰC
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Ngài tỉa sạch... Các ngươi đã được tỉa sạch rồi": Ở đây có một lối chơi chữ giữa katharei ‘Ngài tỉa sạch’ là katharoi ‘sạch, được tỉa sạch’, lối chơi chữ của tiếng Hy lạp chắc chắn phỏng lại một lối chơi chữ của tiếng Aram. Trong tiếng Syri, vốn cũng là một ngôn ngữ sêmita, dakki có nghĩa là "thanh tẩy" và "tỉa sạch". Việc diễn tả ý niệm "tỉa sạch" bằng ý niệm "thanh tẩy" là một điều tự nhiên, bằng chứng là trong Pháp ngữ, "émender" (tỉa) phát xuất từ la ngữ mun dus (sạch), và rõ ràng trong Việt ngữ cũng thế.
"Bởi lời Ta đã nói với các ngươi": Trong bản văn này cũng như trong nhiều bản văn khác của Gioan (8,31.43; 6,60; 48; 14,23; 15,20) "logos" (lời) là một hạn từ đơn giản hóa "giáo huấn" của Chúa Giêsu. Dĩ nhiên không phải lời Chúa Giêsu được thu nhận vào lỗ tai đã làm cho các môn đồ nên sạch, nhưng là lời được người nghe và đón tiếp. Chính niềm tin vào giáo huấn của Chúa Giêsu đã kết hợp họ vào Cây Nho và nhờ vậy đã làm cho họ tinh sạch. Ý tưởng cho rằng niềm tin vào lời Chúa Giêsu có sức thanh tẩy này còn được Phêrô diễn tả rõ ràng hơn khi nói về những người ngoại đã tin: “Thiên Chúa đã tẩy sạch lòng họ bằng đức tin" (Cv 15,9). "Nếu các ngươi không lưu lại trong Ta". Đối với con người, lưu lại là bám chắc vào điều đã được ban tặng trong quá khứ, nắm giữ nó trong hiện tại, và tùy vào nó mà xét tương lai. Cũng chính trong ý nghĩa này mà người tín hữu phải lưu lại trong lời (8,31), trong tình yêu (15,9-10), trong ánh sáng (1Ga 2, 10), trong Thiên Chúa (1Ga 4,13-16). Ngược lại, đối với Thiên Chúa hay đối với Chúa Giêsu, lưu lai có nghĩa là liên tục ban hồng âu cứu rỗi cho các kẻ tin (1Ga 2,27; 3,9.15; 12-15). Nhờ lòng trung tín, người tín hữu không ngừng nối chặt cuộc sống mình vào Chúa Kitô, Đấng trong đó hồng ân của Thiên Chúa được trao ban luon mãi; lòng trung tín này cũng bao hàm một mối tương giao sống động và một sự hiểu biết ngày càng đào sâu.
KẾT LUẬN
Như cành nho thông phần vào sự sống của cây nho mà nó được liên kết với, thì người tín htĩu, nhờ gắn bo với Chúa Kitô, cũng được thông phần vào sự sống đích thực, sự sống Thiên Chúa: việc tham dự này đòi buộc họ phải sống và hành động theo sự mới mẻ mà Chúa Giêsu đã mặc khải.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Đoạn văn của diễn từ thứ hai sau Tiệc ly này phải được đặt vào trong bầu khí của buổi cử hành Thánh Thể vốn là trung tâm của bữa tiệc. Việc chúc lành và thánh hiến rượu nho gợi lên ám dụ cây nho. Trước đó, Cựu ước đã dùng tỷ dụ vươn nho để chỉ dân Thiên Chúa rồi. Ở đây, Chúa Giêsu muốn nói rằng Người thể hiện trong bản thân Người toàn thể những gì mà người ta vẫn gán cho dân Thiên Chúa như sự được tuyển chọn, được chăm sóc, phương thế cứu rỗi. Y chính của bản văn tập trung vào thực tại của sự kết hiệp vốn thiết lập ngay từ đời này giữa Kitô hữu với Chúa Kitô; nên ghi nhận là trong đoạn văn vắn gọn này, từ ngữ "trong Ta" trở đi trở lại năm lần đấy!
2) Kitô hữu được bắt vào Chúa Kitô như cành nho gắn liền với cây nho. Không có Chúa Kitô, họ chẳng là gì. Họ phải nhờ Chúa Kitô mà được hiện hữu, mà có nhựa sống, có khả năng sinh hoa quả. Có thể xảy ra là trên gốc nho, moc ra một cành không tuân theo định luật của cây con, nhưng phát triển thành gỗ và lá mà không sinh quả. Các người trồng nho gọi đó là cành thừa; họ chặt nó và vứt đi. Có thể có những người tuyên xưng Tin Mừng mà chẳng sinh trái không? Có, đấy là không ai không quan tâm sống nhờ Chúa Kitô đồng thời vẫn tự xưng là Kitô hữu họ tự cho mình thuộc về Giáo hội và Tin Mừng, nhưng chẳng thông hiệp thực sự vào sự sống của Chúa Kitô.
3) Muốn thông hiệp thực sự với Chúa Kitô, thì phải trung thành đáp lại ánh sáng Người đã thông ban. Đối với người ngoại giáo hoặc vô thần không nhìn biết Chúa Kitô mà không phải do lỗi họ, thì ánh sáng ấy đồng hóa với các menh lệnh của lương tâm. Nếu họ quen vâng phục tiếng nói của lương tâm thì họ vâng phục chính Chúa Kitô mà không hay biết, và do đó thực sự thông hiệp với Người. Nhưng đối với Kitô hữu đã được biết ánh sáng tràn đầy cua Chúa Kitô, sẽ không có hiệp thông thực sự với Chúa Kitô nếu không hiệp thông với Giáo hội, bởi vì ngày nay Giáo hội là Chúa Kitô được nối dài. Một trong những sự kiện đau thương của Giáo Hội hiện thời là tính tự phụ của nhiều con người quảng đại nhưng lạc hướng, đã rời bỏ Giáo hội, lấy cớ là Giáo hội làm thứ màn chắn giữa họ với Chúa Kitô. Chắc hẳn Giáo hội chưa phải là Hiền thê ‘trang sức mỹ miều’ (Kh 19,7; 21,2) để nhập tiec cưới vĩnh cửu trong Giêrusalem thiên quốc; nhưng dù tội lỗi và dơ bẩn trong các chi thể, Giáo hội vẫn không kém là Hiền thê của Chúa Kitô và là Mẹ các Kitô hữu. Tách rời khỏi Giáo Hội là tách rời khỏi Chúa Kitô.
4) Trong phương cách Thiên Chúa hướng dẫn người tín hữu chân thành, tất cả đều được xếp đặt để cho họ thành công trong định mệnh của họ là khai hoa, đậu trái, sinh quả dồi dào. Sống trong Chúa Kitô, người Kitô hữu được nuoi dưỡng bằng giáo huấn, gương lành, lời dạy ân sủng bên trong và Thánh Thể của Người. Tuy nhiên, có khi quá ứ đầy tư tưởng dự định hoặc chỉ vì thiếu sáng suốt, bệnh hoạn tinh thần, suy nhược ý chí mà Kitô hữu ấy có thể sai lầm hoặc bất trung cách này cách nọ. Chính lúc đó Chúa tỉa sạch tâm hồn và cõi lòng của người ấy, thanh tẩy họ, chặt đi những gì độc hại chiếm sinh lực của họ cách vô ích để họ sinh hoa trái. Điều đó không thể nào không gây đau khổ. Nhưng làm sao lưu lại trong Chúa Kitô được nếu không theo Người trên con đường hy sinh? Nếu đôi lúc ta cảm thấy hình như Chúa Cha cắt tỉa trong xác thịt ta, trong linh hồn ta, thì ta hãy hấp thụ nhiều hơn nữa nhựa sống của Chúa Kitô và hãy bền tâm can đảm vì Chúa đã hứa ban nhiều hoa trái.
82. Chú giải của William Barclay.
CÂY NHO THẬT
Như thường lệ, ở đây Chúa Giêsu đang sử dụng các hình ảnh và ý niệm thuộc di sản tôn giáo của dân Do Thái. Nhiều lần Cựu Ước mô tả dân Israel như một gốc nho hay vườn nho của Thiên Chúa. “Vườn nho của Đức Chúa vạn quân, ấy là nhà Israel (Is 5,1-7). Qua Giêrêmia, sứ điệp của Chúa đã truyền đến cho dân Israel rằng: “Ta đã trồng ngươi như cây nho tốt” (Gr 2,21). Êdêkien 15 và 19, 10 cũng ví dân Israel với cây nho. Ôsê 10,1 nói “Israel là một cây nho tươi tốt”. Tác giả Tv nghĩ về việc Thiên Chúa giải thoát dân Ngài khỏi vòng nô lệ như sau “Gốc nho này Chúa bứng từ Ai Cập” (80,8). Cây nho đã trở thành biểu tượng của dân Israel. Huy hiệu trên các đồng tiền thời Macabêô là cây nho. Một trong những kỳ công chói lọi trong Đền Thờ là cây nho bằng vàng thật lớn đặt trước Nơi Thánh. Nhiều vĩ nhân đã kể mình có vinh dự lớn khi được phép dâng cúng một số vàng để đúc thêm một chùm trái cho cây nho ấy. Cây nho là một trong những hình ảnh đặc trưng của người Do Thái, và là biểu tượng của dân Israel.
Chúa Giêsu tự xưng Ngài là cây nho thật. Từ alethinos, có nghĩa là thật, có thật, đích thực. Điều đáng lưu ý là trong Cựu Ước, biểu tượng cây nho luôn luôn được gắn liền với ý niệm về sự suy thoái. Trong bức tranh của Isaia, vườn nho đã trở thành vườn nho hoang. Giêrêmia than phiền dân tộc ông đã biến thành “một cây nho lạ, thoái hóa thành một cây nho khác”. Ôsê thì kêu lên “Israel là một cây nho trơ trụi”. Dương như Chúa Giêsu muốn nói: “Các ngươi tưởng vì thuộc về dân Israel nên các ngươi là nhánh cây nho thật. Sự kiện “là người Do Thái” không thể cứu ngươi. Điều duy nhất có thể cứu các ngươi là hãy thông hiệp mật thiết và sống động với Ta, hãy tin Ta vì Ta là cây nho của Thiên Chúa, và các ngươi phải là những nhánh được gắn liền vào Ta”. Chúa Giêsu đã xác định không phải là dòng máu Do Thái, nhưng chính đức tin vào Ngài là đường lối cứu rỗi của Thiên Chúa. Không một yếu tố nào có thể giúp con người được hòa thuận với Thiên Chúa mà chỉ có tình thân hữu với Chúa Giêsu Kitô.
Lúc mô tả bức tranh về cây nho. Chúa Giêsu biết rõ điều Ngài đang nói. Cây nho mọc khắp nơi tại Palestine. Muốn thu hoạch được trái tốt, người ta phải hết sức chú ý chăm sóc nó. Nó thường mọc trên những thềm đất nơi cao, nền đất phải sạch sẽ. Có khi người ta trồng thành hàng rào, có khi thả bò sát đất trên ít cành cây, cũng có khi người ta cho nó bò lên cửa những ngôi nhà tranh. Nhưng dù mọc ở đâu, việc cần thiết là phải tỉa thật kỹ. Nó mọc xanh tốt đến nỗi phải chia hàng cách khoảng ít nhất 4m, vì nhánh nho phát triển nhanh. Một cây nho trong ba năm đầu chưa cho trái, mỗi năm, nó phải được tỉa thật sạch để có thể phát triển và giữ được sinh lực. Khi đến độ trưởng thành, người ta cắt tỉa nó vào tháng 12 hoặc tháng 01 dương lịch. Có hai loại nhánh nho, một loại ra trái và một loại không ra trái. Loại nhánh không ra trái phải cắt bỏ, để chúng khong hút hết sinh lực của cây nho. Cây nho sẽ không thể cho trái đúng mức nếu không được cắt tỉa thật kỹ. Chúa Giêsu biết rõ điều đó.
Hơn nữa, gỗ của cây nho chẳng dùng được vào việc gì, vì quá mềm. Luật quy định mỗi năm vài lần, dân chúng phải đem củi dâng lên Đền Thờ để dùng cho các bàn thờ dâng sinh tế, nhưng dứt khoát không được dâng củi nho. Sau khi cắt tỉa cây nho, việc duy nhất có thể làm đối với số nhánh nho đó là đem đốt bỏ. Điều này làm cho bức tranh Chúa vẽ càng thêm ý nghĩa.
Chúa Giêsu bảo những người theo Ngài cũng giống như vậy. Một số người trong họ là những nhánh nho ra trái thật sai, nhưng một số khác thì lại vô dụng vì không ra trái. Khi nói đến điều này, Chúa nghĩ đến ai đây? Có hai câu trả lời. Một là, Ngài đang nghĩ đến dân Do Thái, họ là nhánh cây nho của Chúa. Đây không phải là hình ảnh mà hết ngôn sứ này đến ngôn sứ khác mô tả sao? Nhưng họ đã không chịu nghe Ngài, không chịu nhận Ngài, do đó, họ chỉ là những nhánh nho khô, vô dụng. Thứ hai, Chúa đang nghĩ một cách tổng quát hơn, Ngài đang nghĩ đến các Kitô hữu mà đạo của họ chỉ là hữu danh vô thực, năng thuyết bất năng thành, có nói mà không làm. Ngài đang nghĩ đến các Kitô hữu vốn là những nhánh vô dung, toàn lá mà chẳng ra trái. Và Ngài đang nghĩ đến những Kitô hữu đang bội đạo, đã nghe, đã nhận đạo nhưng lại sa ngã, bỏ đạo để trở thành những kẻ phản thầy, phản chủ mà có lần họ đã thề hưá sẽ trung thành phục vu.
Chúng ta có thể trở thành những nhánh nho vô dụng theo ba cách:
a/ Chúng ta chối từ không nghe theo Chúa Giêsu.
b/ Chúng ta nghe Ngài và phục vụ Ngài bằng đầu môi chót lưỡi chứ không có hành động cụ thể.
c/ Chúng ta co thể nhận Ngài làm Thầy và làm Chủ, nhưng sau đó khi gặp khó khăn trên đường đời hay khi bị dục vọng lôi cuốn thì từ bỏ Ngài. Nên nhớ nguyên tắc đầu tiên của Tân Ước là vô dụng dẫn đến tiêu diệt. Nhánh nho vô dụng đang trên đường đến chỗ tiêu huỷ.
Đoạn này nói đến việc ở trong Chúa Kitô. Điều đó có nghĩa gì? Kitô hữu ở trong Chúa và Chúa ở trong Kitô hữu mang một ý nghĩa rất huyền nhiệm. Nhưng nhiều người –có lẽ là đa số nữa- chẳng bao giờ có được kinh nghiệm này.
Chúng ta có thể lấy một hình ảnh thông thường để so sánh. Dù mọi lối so sánh đều bất toàn, nhưng chúng ta đành phải dùng những ý niệm mình có. Thí dụ có một người yếu đuối sa vào cam dỗ, đã làm hỏng chuyện, đang trên đà suy thoái tinh thần, trí óc và đạo đức. Người ấy có một bạn thân có bản lãnh mạnh mẽ, đáng mến, đầy lòng yêu thương, cứu anh ta khỏi tình trạng suy thoái kia. Chỉ có phương pháp duy nhất để người yếu đuối kia có thể duy trì tình trạng phục hồi của mình và giữ mình trên con đường tốt, là anh phải giữ liên hệ với người bạn kia. Nếu mất đi sợi dây liên lạc thì sự yếu đuối của anh lại gặp nhiều cơ hoi, những cám dỗ cũ xuất hiện và anh lại sa ngã. Lối thoát của anh nằm trong mối liên lạc liên tục với sức mạnh của bạn mình.
Khi một người hư hỏng được để sống chung với một người tử tế đứng đắn, bao lâu người ấy còn ở trong ngôi nhà tử tế đứng đắn kia thì còn được an toàn. Nhưng nếu người ấy rời bỏ nhà đó, đi theo ý riêng, sống tách biệt người bạn tốt, thế nào cũng sẽ sa ngã lại. Chúng ta phải giữ liên lạc với cái tốt để đánh bại cái xấu. Robertson ở Brighton là một trong những nhà truyền giáo lỗi lạc. Có một nhà buôn mở cửa hiệu, ông để trongn phòng phía sau cửa hiệu một bức ảnh của Robertson, ông xem Robertson như người anh hùng gương mẫu của mình. Khi bị cám dỗ làm chuyện xấu, thương gia này chạy vội về phòng sau, nhìn vào bức ảnh của Robertson, ông thắng được cám dỗ đó. Có người hỏi Kingsley bí quyết thành công trong cuộc sống của ông, ông nhắc đến F. D. Maurice và bảo: “Tôi có một người bạn thân”. Tiếp xúc, liên hệ với người tốt đã khiến ông thành người tốt. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.
Ở trong Chúa Kitô cũng giống như vậy. Bí quyết của đời sống Chúa Giêsu là Ngài luôn tiếp xúc, liên hệ với Thiên Chúa Cha. Nhiều lần Ngài lui vào nơi vắng vẻ để gặp Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu luôn luôn ở trong Thiên Chúa Cha. Giữa chúng ta và Chúa Giêsu cũng phải như vậy, chúng ta phải giữ mối liên hệ tiếp xúc với Ngài luôn. Chúng ta sẽ không đạt được điều đó, nếu không quyết tâm thực hiện. Thí dụ như việc cầu nguyện lúc sáng sớm, dù ngắn ngủi, nhưng cầu nguyện như chất thuốc sát trùng cho suốt một ngày, vì lam như thế, chúng ta không thể nào ra khỏi sự hiện diện của Chúa Giêsu để chạm vào điều xấu. Với một số ít người trong chúng ta, có thể việc ở trong Chúa Giêsu là một kinh nghiệm, không thể diễn tả bằng lời. Với phần đông chúng ta, điều đó có nghĩa là tiếp xúc thường xuyên với Chúa Giêsu, có nghĩa là thu xếp làm sao cho đời sống, giờ cầu nguyện, và cả những lúc phải yên lặng, để không giây phút nào chúng ta có thể quên Ngài.
Cuối cùng, chúng ta cần ghi nhận hai điều liên hệ đến một môn đệ tốt. Một, người ấy làm cho đời sống mình được phong phú. Sự tiếp xúc với Chúa Giêsu làm cho người ấy trở thành một nhánh nho nhiều trái. Thứ hai, người ấy làm vinh danh Chúa. Nhìn vào đời sống đó, người ta nghĩ đến Thiên Chúa, Đấng đã làm cho người đó trở thành người như vậy. Thiên Chúa được tôn vinh khi chúng ta kết nhiều quả và khi chúng ta chứng tỏ mình là môn đệ của Chúa Giêsu. Chắc chắn, vinh quang lớn nhất cho Kitô hữu là bởi đời sống và cách ăn nết ở của mình, đó là chúng ta tôn vinh Chúa.
83. Thân nho và cành nho – Lm Giacôbê Tạ Chúc
Bất cứ lòai cây cỏ nào, muốn sinh trưởng và phát triển tốt, thì cần:” Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”.
Ở môi trường và điều kiện thuận lợi, cây sẽ cho nhiều bông hạt. Nếu sống ở đất nước Việt Nam, chắc Chúa Giêsu sẽ dùng hình ảnh cây lúa, cây ngô, cây mì, cây thanh long… thay vì là cây nho.
Người nông dân xứ sở Palestina chắc không xa lạ gì với nghề trồng nho và ép rượu. Cây nho muốn tốt tươi thì cần chăm bón và cắt tỉa. Cành nho muốn có sức sống tràn trề thì không có cách nào khác hơn là gắn liền với thân nho. Thực tại tự nhiên là thế, thực tại siêu nhiên cũng vậy. Đức Giêsu dùng hình ảnh thân thuộc này để diễn tả một Mầu nhiệm Hiệp thông trong Nước trời. Ngài sánh ví Ngài là cây nho, còn các môn đệ là cành:” Thầy là cây nho, anh em là cành”( Ga 15, 5a). Cành chỉ sống được khi tháp nhập vào thân cây, nếu không cành sẽ chết.
Các môn đệ cũng vậy nếu không kết chặt vào thân mình của Chúa Giêsu thì như cành nho sẽ khô héo:” Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho”( Ga 15, 4b). Muốn cành nho ra trái nhiều thì người nông dân cần cắt tỉa, cắt đi những cành sâu bệnh, cắt để cành cây cho ra nhiều cành mới, vào ngày mùa kết quả sẽ gấp bội. Khi chịu để cắt tỉa, chắc chắn cành nho phải trải qua nhiều đau đớn, máu từ nhựa cây sẽ tuôn trào. Người nông dân cũng hiểu được điều này, nhưng đây là cách tốt nhất để giúp cây nho được sai trái.
Người môn đệ theo Chúa Giêsu cũng phải chịu “cắt tỉa”, để nên đồng hình với Đức Kitô Phục sinh. Cắt tỉa những thói xấu, tội lỗi và những đam mê trần thế. Những chướng ngại ngăn trở người môn đệ trên đường nên Thánh, chúng như những ung nhọt, cần bác sĩ giải phẫu để thân thể mạnh khỏe hơn: “Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái thì Người cắt tỉa” (Ga 15, 1-2). Các môn đệ được ở lại trong tình yêu của chúa, họ sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu trong từng giây, từng phút. Mối liên hệ thẳm sâu này được Thánh sử Gioan sánh ví như cành nho gắn liền với cây nho.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài chính là hơi thở của chúng con. Tình yêu Ngài cao vời không gì sánh bằng. Ngài là nguồn sống, từ nơi Ngài ân sủng được trao ban, sự sống được tác thành. Mỗi ngày chúng con đón nhận sự sống đầy sung mãn của Thân mình Chúa Giêsu, trong Bí tích Thánh Thể, lương thực vĩnh cửu cho xác hồn mỗi người.
84. Tại sao cành phải liền thân?
(Suy niệm của Lm. Raphael Amore Nguyễn)
1. Tình yêu và tham lam
Có hai thầy tu nọ sống với nhau đã 40 năm trời, họ chưa bao giờ cãi cọ, dù chỉ một lần. Cho đến một ngày nọ, người này nói với người kia: “Này, anh bạn không nghĩ đã đến lúc chúng ta phải cãi nhau, ít nữa một lần sao?”
Người kia đáp: “Đúng vậy, nào chúng ta hãy bắt đầu! Nhưng chúng ta bắt đầu cãi nhau về chuyện gì?”
Người này bảo: “Về chiếc bánh mì này được không?”
“Được, hãy tranh luận về chiếc bánh này. Chung ta sẽ làm thế nào đây nhỉ?”
Người này liền nói: “Chiếc bánh này của tôi; nó thuộc về tôi.”
Người kia đáp: “Nếu thế, thì bạn hãy lấy nó đi”.
Sở dĩ cuộc sống có xích mích và giận hờn, là do chính cái ngã to lớn có trong con người. Khi cái ngã càng trở nên bé nhỏ, sự bình an sẽ càng lớn. Cái ngã sẽ huỷ hoại sự bình an. Bình an chỉ có trong những trái tim mềm mại và trải rộng. Trái tim xơ cứng hoặc khép kín sẽ không thể cho được bình an. Cái ngã chỉ có làm một công việc duy nhất, đó là cột chặt trái tim lại - một trái tim bị ràng buộc. Trái tim này, vì thế, được gọi là ích kỷ. Và, những ai có trái tim này sẽ khổ đau, khổ đau cho chính mình, và làm cho người khác cũng đau khổ.
Tình yêu chỉ trở nên đúng nghĩa khi cái ngã không còn nữa. Hay nói cụ thể hơn, khi ta yêu, ta không còn là ta nữa. Thế giới cũ của ta sẽ biến mất nhường chỗ cho thế giới mới mẻ. Tại sao vậy? Khi yêu, là đi vào mối tương quan. Ta yêu cây yêu cỏ, ta nghĩ đến chúng, ta bảo vệ chúng, ta chăm sóc chúng, ta chờ đợi chúng lớn lên. Ta vui khi chúng lớn lên từng ngày và mạnh khoẻ.
Có bé trai nọ, vui mừng khi những chó con ra đời. Nó đi học cũng nhớ cún, nó học xong là quăng tập vở dưới sàn nhà, chạy ra nâng niu những chú cún con, nó nhịn uống sữa của nó để dành cho cún, nó đút từng thìa vào miệng cún, nó vui mừng khi cún và nó hiểu nhau.
Vì thế, yêu có nghĩa là đi vào mối tương quan giữa ta và đối tượng. Đi vào mối tương quan, có nghĩa là đi vào nguy hiểm, là liều mình. Liều mình, là vì ta chấp nhận không còn là ta như xưa nữa, mà trở thành cái ta khác. Vẫn có nhiều chàng thanh niên đã từng là tay bợm rượu, nhưng khi lấy vợ thì tay ấy không đụng một giọt rượu nào! Cho dù bị bạn bè cười chê là sợ vợ. Vẫn thấy đó đây những cô nàng, khi chưa yêu thì không bao giờ hề đụng vào bếp, nhưng khi đã có tình yêu, bỗng dưng nàng biết nấu ăn ngon, làm bánh và pha café! Người ta vẫn thường nói,“love makes wonders” rất là chí lý. Tình yêu luôn làm nên những việc diệu kỳ.
Vâng. Phải can đảm lắm mới dam yêu, vì yêu là dám ra khỏi mình để thiết lập mối tương quan. Tương quan như là sợi dây nối hai thế giới xa lạ - hai cái tôi khác biệt. Sợi dây càng thu hẹp lại thì tình yêu càng lớn. Tình yêu sẽ trọn vẹn khi sợi dây đo không còn nữa, vì hai thế giới đã trở nên một, không gọi là tương quan nữa, vì “mình với ta tuy hai mà một” rồi vậy. Khi sợi dây vẫn còn dài, có nghĩa là hai thế giới vẫn không chạm nhau được. Người ta có thể ngộ nhận là tình yêu, nhưng đó chỉ là xã giao bề mặt, chỉ là kinh doanh buôn bán lẫn nhau, chỉ là sự đổi trác đôi bên đều có lợi nào đó. Không lạ gì, trái đất ngày hôm nay có nhiều người đang sống như thế, cho nên nảy sinh nhiều cuộc ly dị, nhiều tình bạn đổ vỡ, nhiều vụ tự tử, nhiều kẻ bị tâm bệnh, nhiều người nóng nảy không thể tự chủ... Căn nguyên là hầu như phần lớn không mấy ai hiểu được tình yêu. Ai cũng nghĩ mình biết yêu, ai cũng nghĩ tình yêu là đẹp. Đúng! Tình yêu là đẹp, là vĩ đại hơn bất cứ điều gì trên trần gian này, vì tình yêu mở cửa Thiên Đàng. Nhưng thực tế, con người hôm nay lại chỉ thấy cửa Hoả Ngục.
Khi sợi dây tương quan không còn, khi hai thế giới xưa kia khác biệt giờ đây đã hoà nhập làm một để trở thành một thế giới mới - đó là thế giới của tình yêu. Thế giới này không phải để chiếm đoạt, thống trị, thao túng, điều khiển, nhưng đểhướng đến tự do và bình an mãi nơi nhau. Không thể nào có tình yêu khi một trong hai bên muốn phụ thuộc hay bị phụ thuộc. Phụ thuộc là không tự do. Khi ta làm tất cả mọi sự cho người mình yêu, nhưng khi người kia cảm thấy không thể sống thiếu ta, hay không thể không thể sống được khi ta hết cung cấp những gì là bên ngoài, là trau chuốc cho vỏ bọc, thì ta đang làm cho người yêu ta trở nên phụ thuộc vào ta. Đây chỉ là sự ích kỷ của ta, là sự tàn nhẫn nhất, vì ta đang làm cho đối tượng bị thương mà không thể kêu đau. Triết gia Phạm Công Thiện nói: “Trong dòng sinh diệt thời gian, Tình Yêu vẫn bất diệt vĩnh cửu sẽ vượt thời gian và không gian. Ai nghĩ khôn khéo cho chính mình là người sẽ biết đối xử tốt với người khác, vì rằng, cuối cùng về lâu về dài, chính kẻ ấy sẽ được nhiều lợi lộc. Tôi gọi đó là ích kỷ cách trí tuệ”.
Trong tiếng Anh, chữ love tưởng như bắt nguồn từ tiếng Latinh là amor, nhưng không phải, mà nó lại bắt nguồn từ tiếng Phạn (Sankrit) là lobha. Nguyên nghĩa Lobha có nghĩa là sự tham lam. Tình yêu là trải rộng, cho đi, sống cho, sống vì; còn tham lam thì ngược lại, là thu vén, chiếm giữ, thống lĩnh, chỉ biết nhận, biết lấy. Chỉ trong lĩnh vực ngôn ngữ học, chúng ta cũng đủ thấy rằng cha ông ta xưa kia rất uyên thâm về cuộc sống như thế nào mới sử dụng ngôn từ bên phương Đông một cách độc đáo như thế. Thật vậy, tình yêu và tham lam cũng đang trộn lẫn vào mỗi con người chúng ta. Có không ít cha mẹ người Việt bắt con cái học đủ thứ, và còn lên kế hoạch tương lai cho chúng, làm chúng phải “chạy” bở hơi tai. Cha mẹ kỳ vọng vào chúng, và rất hãnh diện khi chúng thoả mãn niềm ước mong của chính mình. Như vậy, không phải cha mẹ có tình yêu với con cái, nhưng chính là thống trị chúng trong lòng tham khôn khéo của mình. Con cái được đối xử như những món trang sức để tăng vẻ đẹp của bản thân cha mẹ. Tình yêu là sự sống, lòng tham thì đưa đến cõi chết. Chính vì thế, nhiều người con quá căng thẳng, hay quá bế tắc đã tìm đến cái chết, hoặc phản ứng ngược lại như quậy phá, chơi bời, bụi đời... Vì chúng không còn thấy chúng nữa. Chúng bị tước mất tự do. Chúng ta dễ ngộ nhận tình yêu, vì hầu như chúng ta sống tham lam thông qua chiếm hữu, điều khiển, thống lĩnh hơn là yêu đúng nghĩa.
Sự tham lam sẽ không làm cho hai thế giới chạm vào nhau để sinh ra tình yêu được. Người tham lam không dám liều để yêu, vì họ sợ mất thế giới của riêng mình. Họ cho rằng khi thế giới bên trong của mình bị đánh mất, thì họ sẽ chết. Nhưng họkhông biết được rằng, chính khi thế giới cũ của họ mất đi, thì họ mới sống viên mãn. Chính vì thế họ ra sức giữ gìn, bảo vệ. Chỉ có người nào biết trải rộng, có nghĩa là dám liều, dám bỏ trung tâm mình để đi sâu vào trung tâm của đối tượng, mới có kinh nghiệm sự sống viên mãn này.
2. Cành liền thân
Hìnhảnh cành nho gắn liền với thân cây nho trong Tin Mừng Gioan mà Chúa Giêsu diễn tả cho các môn đệ là hình ảnh thật đẹp về tình yêu.
Trước tiên, thiết tưởng cũng nên nhắc lại, Tin Mừng theo thánh Gioan là Tin Mừng vềtình yêu, hay còn gọi là thần học về tình yêu. Tình yêu của Gioan là một thếgiới mới - một thế giới được tạo dựng nên bởi hai thế giới cũ xưa kia của hai đối tượng can đảm dám liều. Đây là thế giới mà Chúa Giêsu gọi là điều răn mới: “Anh em hãy yêu thương như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga 13,34). Như ở đây, có nghĩa là Chúa Giêsu muốn hướng chúng ta đến cội nguồn Tình Yêu của Ngài để kín múc, để tắm gội và để hoà tan vào trong toàn thể châu thân của ta, và từ đó chúng ta sẽ tưới gội cho đồng loại đang khao khát. Tình yêu theo Thánh Gioan là con người cần phải kín múc nơi nguồn mạch yeu thương từ Chúa Giêsu thì con người mới có tình yêu đúng nghĩa, và từ đó, để trao ban.
Ở đây, chúng ta sẽ thấy sự khác biệt. Không phải ta có tình yêu đúng nghĩa là do tự bản thân ta có, nhưng mà ta phải nài đến Chúa Giesu để kín múc thứ tình yêu đó. Để có tình yêu đúng nghĩa và thật, chúng ta phải bước ra khỏi thế giới cũkỹ của mình để đi sâu vào Thánh Tâm của Ngài - Thánh Tâm vẫn không ngừng tuônđổ tình yêu cho con người. Tình yêu không kín múc từ Chúa Giêsu là tình yêu thếgian (x. Ga 15,19), còn tình yêu kín múc từ Ngài thì được gọi là tình yêu trongđiều răn mới, là tình yêu trải rộng cho đến vô cùng như Chúa Giêsu đã trải rộng cho đến chết trên Thánh Giá.
Và Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn cây nho để diễn tả về tình yêu qua một dòng nhựa lưu chảy từ gốc rễ lên thân, ra đến cành nhánh, rồi đến lá kết hoa kết trái. Toàn bộ cây nho đều được nhựa sống ban sức sống cho. Khi cành nho gắn liền vào thân nho có nghĩa là đã có chung một dòng chảy nhựa sống, cho nên tương quan biến mất, và chỉ còn lại sự hợp nhất giữa thân và cành. Đến đây, có một chi tiết nhỏ rấtđáng cho chúng ta suy nghĩ: điều quan trọng trong dụ ngôn cây nho chính là “cành nho”. Thánh Gioan đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần từ “ở trong” trong trình thuật này. Như thế, chúng ta không thể đặt dấu chấm hỏi nữa về gốc, về nhựa sống, về thân nho nữa, nhưng chính là liệu cành có ở trong, có gắn liền với thân không?
Thông thường phần đông chúng ta đòi hỏi đối tượng mình yêu hơn là chính bản thân ta. Có đôi cặp tình nhân nọ đi chơi với nhau. Nàng hỏi chàng: “Anh có yêu em không?” Chàng có vẻ tự ái, hỏi lại: “Thế còn em thì sao?” Và thế là, đôi bạn trẻ mang từ những chuyện quá khứ ra bàn cãi, nào là người yêu xưa của nàng, của chàng... Cuối cùng họ đi đến cãi nhau. Chúng ta thường nói nhiều về đối tượng trong tình yêu, nhưng không bao giờ biết tự hỏi: “Tôi thì sao? Tôi có phải là người yêu thật sự của người ấy không?” Khi chúng ta chỉ hỏi người khác, có nghĩa là chúng ta đang tham lam, đang chiếm hữu họ cách tinh tế. Đối tượng của chúng ta trở thành một con thú cho chúng ta thoả mãn. Họ không còn là người nữa trong cách xử sự của chúng ta. Vì thế, cũng thật chí lý khi người ta nói rơi xuống tình yêu (fall in love) Chữ yêu khó được hiểu đúng nghĩa của nó, nên phần lớn người ta không biết yêu, nên phần lớn đang từ trên cao người ta rơi xuống, từ cao đẹp rơi xuống nhỏ nhen, từ hồn nhiên rơi xuốnghậm hực, từ người rơi xuống thành con. Khi anh ta trả lời rằng có yêu, thì chị kia vẫn sẽ thắc mắc mãi trong tâm trí: “Liệu anh ấy có thực lòng không?”Làm sao chúng ta có thể chắc chắn về người khác được. Không thể nào xác quyết một cách tuyệt đối về một ai, khi mình thậm chí còn không dám chắc chắn vềmình. Nhưng cho dù anh ta phải trả lời triệu lần rằng anh ta yêu đó, thì lại càng nguy hiểm hơn vì sự thật không cần phải lập đi lập lại nhiều lần đến thế. Sự thật là sự thật, nó có ngôn ngữ riêng của nó. Chính vì thế, khi quan tổng trấn Philatô hỏi Chúa Giêsu trước khi đem ra xử tử: “Sự thật là gì?” Chúa Giêsu thinh lặng. Sự thật không nằm trong địa hạt lý trí hoặc cảm xúc. Sự thật không can chứng minh hay phải lặp đi lặp lại.
Vì vậy, điều quan trọng nhất trong tình yêu, đó là chính bản thân chúng ta. Chính chúng ta là chìa khoá mở cửa cho tình yêu toả sáng. Tình yêu đã có sẵn, đã chờ đợi, chỉ cần chúng ta can đảm đứng lên, đi đến tra chìa để mở cánh cửa ấy. “Hãy ở trong Thầy... Ai không ở trong Thầy...”. Chúa Giêsu như đã dọn sẵn tất cảnhững phần thưởng mà chúng ta khát mong nhất, và Ngài mời gọi chúng ta. Ngài tôn trọng tư do của chúng ta. Vì Ngài là Tình Yêu, nên Ngài không ép buộc, không chiếm hữu, không lôi kéo... chúng ta. Ngài mời gọi, còn chúng ta có quyền chối từ. Vì là Tình Yêu, Ngài muốn chúng ta tự do trong viên mãn. Ngài tôn trọng tự do chúng ta đến nỗi Ngài chấp nhận đau khổ khi thấy chúng ta vẫn chọn tách xa trung tâm của Ngài. Vì Tình Yêu, Ngài tôn trọng tự do của chúng ta cách tuyệt đối, và Ngài đau khổ không phải vì Ngài sợ đau đớn, nhưng vì đau khổ với cái khổ đau của ta. Ngài chỉ cần chúng ta bước đến với Ngài, và chúng ta sẽ được toại nguyện: “Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì cứ xin, và sẽ được”.
Lời mời gọi “ở trong” của Chúa Giêsu là lời mời gọi con người đi vào tình yêu của Ngài, để hai bên chỉ thở cho nhau, hoà quyện và hoà tan vào nhau như cành liền cây với nhựa sống tuôn chảy mãi bên trong. Chúa Giêsu mời gọi vì yêu chung ta, Ngài muốn chúng ta đạt đến sự viên mãn nhất, là cứu cánh của con người chúng ta. Chỉ hoà quyện vào trong nhựa sống Ngài, chúng ta mới thể hiện chính mình cách tuyệt đối.
Tình yêu của Chúa tuyệt đối đến nỗi Ngài cho con người khả năng đáp lại hay khước từtrước tình yêu đó. Chính vì thế, khi con người được khả năng tự mình quyết định tất cả, ngay cả sống chết, ngay cả chọn cứu cánh đời mình như thế nào - một cứu cánh đưa đến hạnh phúc thật hay đưa đến trầm luân trong khổ đau - cho thấy Chúa tôn trọng con người cách tuyệt đối. Vì tình yêu, Chúa không muốn con người tách khỏi “thân nho”, vì tách khỏi thân là tự mình đánh mất hạnh phúc thật của mình.
Trong trình thuật về cây nho cành nho, chúng ta thấy đằng sau đó không chỉ là lời mời gọi yêu thương của Ngài để cho con người bước vào cứu cánh hạnh phúc của mình, nhưng hơn thế nữa, lời mời gọi đó của Ngài còn chất chứa sự van xin con người cho Ngài một ân huệ cuối cùng nào đó. Trong bữa tiệc cuối cùng, sự van xin đó rõ nét hơn khi Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ để thức tỉnh các môn đệ. Trước khi chịu khổ hình và chịu chết, lời mời gọi ấy vẫn không ngừng biểu lộ qua thái độ cũng như lời nói và cho môn đệ tự chọn và tự quyết cứu cánh của mình: “Này Giuđa, anh dùng nụ hôn để nộp Con Người sao?” (Lc 22,48). Và chỉ có sự mời gọi của tình yêu chất chứa trong cái nhìn của Chúa Giêsu gởi đến cho Phêrô, Phêrô đã rung động và bừng tỉnh, ông đã bước ra khỏi chính mình để đi sâu vào tình yêu của Chúa. Giọt nước mắt lăn trên má của Phêrô là giọt nước tẩy rưa tấm gương soi cho ông thấy rõ thân phận hạn giới của ông trước tình yêu vô hạn của Thầy, cho ông thấy trung tâm ở trong ông còn xa trung tâm Thầy lắm. Giọt nước mắt này của Phêrô cho thấy từ trước tới giờ ông chưa ra khỏi chính ông để tạo nên tương quan, vì thế chưa từng nên một với Thầy. Phêrô đã quá kỳ vọng vào Thầy, quá mơ tưởng đến tương lai sáng lạn mà Thầy sẽ giải thoát dân tộc theo nghĩa chính trị. Càng kỳ vọng, càng thất vong. Phêrô kỳ vọng vào Thầy vì Phêrô yêu chính mình. Phêrô không hiểu được tình yêu thật là gì. Cảnh tượng Thầy mình bị truy bắt và bị lôi ra xử tử đã làm đảo lộn mọi giá trị mà Phêrô đã có trong ông: Thầy của ông đang ở trước mặt ông cách trần trụi. Trần trụi là thuộc tính của tình yêu. Sự giả dối thì không trần trụi, vì nó được mặc nhiều lớp áo đẹp và hấp dẫn. Chính vì thế, Chúa Giêsu mới dùng ngôn từ“Thầy là cây nho thật”. Khi hai người yêu nhau mà quá lịch thiệp với nhau, có nghĩa là cả hai đang giả dối.
Giả dối là ích kỷ và chỉ xảy ra trong mua bán đổi trác. Đôi tình nhân đó, thực sựhọ bên nhau, nhưng họ chưa từng gặp nhau, vì họ không cho trung tâm của nhau chạm vào. Họ không thể trở thành hơi thở của nhau nên họ chưa bao giờ có tình yêu. Vì thế, họ chỉ là trò chơi của nhau mà đôi bên đều vui. Tình yêu không phải là trò chơi hay tương quan suy tính lợi hại. Tình yêu là sức sống và sẽ thăng hoa nhân vị. Tình yêu thật thì mang tính tâm linh.
Cành nho gắn vào thân nho là sự trần trụi, là sự thật, vì cành và thân nho có nhưthế nào đều biết được lẫn nhau, vì họ có chung một dòng nhưa sống bên trong. Chính vì thế, tình yêu phải là sự hiệp nhất và chân thật. Thân nuôi cành và cành sẽ cho hoa trái.
Chúa Giêsu - là thân nho đã yêu thương sinh ra cành nho - con người chỉ có thể sống viên mãn khi gắn kết vào Ngài qua dòng nhựa sống của tình yêu không ngừng muốn chảy tràn trề trong họ. Để từ đó, tất cả những gì con người có đều là từ Chúa, cho Chúa và vì Chúa. Mong sao, từng hơi thở ra-vào của chúng ta cũng chính là hơi thở trong Hơi Thở của Chúa. Từ đó, chúng ta mới có thể mạnh mẽ và nhiều nội lực để tiếp sức cho những ai đang thoi thóp và héo khô.
Chúa là dưỡng chất nuôi sống con người, nên việc ở lại trong Chúa là tối quan trọng đe con người thể hiện tuyệt đối tự do và cứu cánh đời mình, ngoài ra, không còn chỗ nào khác. Chỉ có thân nho thật mới mang sức sống, thế mà phần lớn mọi người vẫn cứ bám vào những cây nho giả vốn được trang hoàng rất đẹp và nhiều lời gọi mời hứa hẹn rất hấp dẫn đang lan tràn trên khắp thế giới ngày nay... Cái thật thì thầm lặng, không nhiều lời, nhưng đang hiện hữu, ngay lúc này đây, dù cái thật có bị khước từ hay đón nhận, cái that vẫn toả sáng toả hương, như những đoá hoa đồng nội, dù ai có ghét hay thương, hoa vẫn nở.
Lạy Chúa Giêsu, “nếu không có Thầy, chúng con không thể làm được gì”. Amen.
85. Một kết quả đã biến đổi thế giới
(Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy)
Tuy là những Kitô hữu, có lẽ chúng ta cũng đã có lần tự hỏi: Kitô Giáo đã thực sự cải thiện được gì trong thế giới? Đến nay đã hơn hai ngàn năm trôi qua kể từ khi Đức Giêsu rao giảng Nước Thiên Chúa: Một viễn tượng về một thế giới hòa bình, tự do và công bằng! Nhưng người ta sẽ tìm đâu ra được một thế giới lý tưởng như thế? Người ta sẽ tìm đâu ra được những ảnh hưởng, những hoa quả của một tôn giáo lấy Đức Giêsu làm cứu cánh? Vì tình trạng ích kỷ, bạo động, bóc lột, hận thù, đàn áp và nghèo đói vẫn tiếp tục tồn tại trên cuộc sống nhân loại. Thế giới vẫn như cũ, hầu như không hề có gì thay đổi. Nhiều người đã phải chấp nhận thực tại đó và đành cam lòng chịu đựng. Họ chủ trương: Có lẽ một ngày nào đó sẽ có được một thực tại lý tưởng như trong Nước Thiên Chúa, nhưng điều đó chỉ có ở bên kia thế giới! Con người và thế giới muôn đời vẫn the, khó lòng đổi thay được, dù bất cứ quyền lực nào - thế quyền hay cả thần quyền - cũng không đổi thay được, nếu không sẽ xúc phạm đến quyền tự do căn bản của con người.
Tiếp đến, sự hoài nghi về Thiên Chúa. Người ta sẽ đặt câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa không biến đổi thế giới? Nếu Thiên Chúa toàn năng, tại sao Người lại cứ để cho cuộc đời đầy khổ đau như thế mãi? Trước những câu hỏi nghiêm chỉnh và cụ thể như thế, bài Phúc Âm hôm nay đã đưa ra một câu trả lời hết sức thỏa đáng: Để trả lời, Đức Giêsu kể cho thính giả của Người nghe dụ ngôn “ Cây nho và cành nho”. Bổn phận của cành nho là đâm hoa kết qua xum xuê đầy cành. Trong khi đó cây nho lại thông chuyển cho các cành nho nguồn nhựa sống và sức mạnh, để các cành nho có thể đâm hoa kết quả được. Cái hình ảnh về sự tương quan mật thiết giữa cây nho và cành nho như thế đã được Đức Giêsu giải thích như sau: “ Thầy là cây nho, các con là cành nho”. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải đâm hoa kết trái, và Đức Giêsu ban cho chúng ta sức mạnh và các khả năng cần thiết để hiện thực được điều đó!
Nhưng thứ hoa quả được đề cập tới ở đay là thứ hoa quà nào? Chính Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi đó khi Người nói về cây nho và cành nho. Người nói: “Các con hãy thương yêu nhau, như Thầy đã yêu thương các con”. Vậy, thứ hoa quả mà Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải mang lại trong suốt cuộc sống mình là tình yêu. Tình yêu mà chúng ta đã được lãnh nhận từ Thiên Chúa, chúng ta phải tiếp tục thông ban cho người khác như nhựa sống từ thân cây nho thông ra và lưu chuyển giữa các cành nho vậy.
Vâng, thân cây nho chuyển thông cho các cành lá nhựa sống và sức mạnh. Nhưng công việc đâm hoa kết quả là phận sự của cành nho, chứ không phải của thân cây. Đúng thế, Thiên Chúa ban cho con người sức mạnh, các khả năng, các ơn thánh, nghĩa là các phương tiện; Còn việc mang lại hoa quả là bổn phận của con người, việc kiến tạo một thế giới an bình và tươi đẹp là bổn phận của chúng ta. Vâng, bổn phận của chúng ta là phải sống và thực thi tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu đã đổi mới thế giới. Chúng ta phải tiếp tục thông chuyển tình yêu của Thiên Chúa đến tất cả mọi đồng loại. Thiên Chúa cần đến chúng ta. Thiên Chúa cần đến mỗi người trong chúng ta theo khả năng mà Người đã ban cho từng người. Và nếu mỗi người biết đem khả năng đó của mình để cộng tác vào cuộc sống xã hội và thế giới, đương nhiên sẽ mang lại hoa trái.
Nhưng cành nho tự mình không thể đâm hoa kết trái được, nhưng phải nhờ có sức mạnh và nhựa sống từ thân cây thông chuyển cho. Điều đó có nghĩa là mọi điều thiện hảo chúng ta làm cũng như mọi tình yêu chúng ta trao ban, đều phát xuất từ Thiên Chúa. Còn chính chúng ta, tự bản chúng ta không thể làm được bất cứ điều gì thiện hảo. Vâng, chúng ta chỉ mang lại những hoa trái có giá trị và lành thánh, nếu Thánh Thần Thiên Chúa hành động qua chúng ta. Qua tình yêu của con người, Thiên Chúa hành động trong thê gian. Sự liên đới vô vị lợi với những người nghèo khổ và những người bị coi khinh, sự kính trọng đối với mọi người, sự khước từ bạo động và mù quáng chạy theo danh vọng, sự tôn trọng sự song con người và môi trường thiên nhiên, v.v... là tất cả những điều mà thế giới hôm nay cần đến hơn bao giờ hết, và tất cả đều phát xuất từ Thiên Chúa.
Tuy nhiên, hình ảnh về “ cây nho và cành nho” này xem ra vẫn còn xa lạ đối với một số Kitô hữu nào đó trong chúng ta. Con người chúng ta rất khó tin được rằng qua chúng ta tình yêu Thiên Chúa có thể biến đổi được thế giới. Chúng ta thường tin vào khả năng nhân loại của chính mình hơn! Chúng ta cho rằng tự mình, chúng ta có thể mang lại hoa trái. Nhưng thực ra, chúng ta chỉ có thể mang lại hoa trái trong cuộc sống, nếu chúng ta biết rộng mở lòng mình để đón nhận nhựa sống ơn thánh của Thiên Chúa. Qua mỗi người trong chúng ta, sức sống thần thiêng đó hoạt động và có thể làm cho thế giới trở thành nhân bản hơn và nhờ đó trở thành Kitô giáo hơn. Vậy, các cành nho đâm hoa kết quả đúng với danh xưng của mình, thứ hoa quả làm vui lòng người và đổi mới được thế giới!
Tóm tắt, ở bất cứ nơi nào con người cảm nhận được tình yêu của những đồng loại của mình và qua đó cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, thì ở đó thế giới tự đổi mới. Thế giới nhờ thế sẽ trở nên nhân bản hơn. Vậy, thế giới có tiếp tục phát triển đúng với thánh ý Thiên Chúa hay không, tất cả hoàn toàn đều tùy thuộc vào chúng ta. Ở đây, có lẽ chúng ta có thể nói được rằng: Khi dựng nên thế giới Thiên Chúa không cần con người, không cần sự cộng tác của con người, nhưng để biến đổi thế giới trở nên nhân bản và tươi dẹp hơn, nhất thiết Thiên Chúa phải cần đến con người, cần đến sự góp tay của con người, vì Người tôn trọng sự tự do của con người! Thiên Chúa ban cho chúng ta sức mạnh qua Lời Người, qua các Phép Bí Tích và qua sự trợ giúp đầy yêu thương của Người dành cho loài người chúng ta. Do đó bổn phận của chúng ta van luôn là: phải đâm hoa kết quả, nghĩa là phải tiếp tục thông ban cho mọi anh em đồng loại sự trợ giúp đầy yêu thương của Thiên Chúa!
86. Thầy là cây nho đích thực – ThapGia
Người làm vườn giỏi thì họ biết cắt tỉa cành đe nó sinh nhiều hoa trái… Người Kitô hữu được Chúa nói đến trong bài Dụ Ngôn Tin Mừng hôm nay, chính là cành nho, Chúa Giêsu chính là thân cây nho, Chúa Cha là người trồng nho. Cha là ông chủ vườn sẽ tỉa cành để người kito hữu “sinh nhiều hoa trái” hơn. Người kitô hữu được Chúa Cha cắt tỉa sẽ “sinh nhiều hoa trái”. Đó là là những tiến bộ về tâm linh đầy tràn nhân đức phong phú tốt lành nơi người kitô hữu con cái của Cha.
Chúa Cha sẽ tỉa canh giúp người Kitô hữu bỏ bớt những bận tâm lo lắng sự đời quá sức mà tập trung năng lực vào việc thắng tiến đời sống thiêng liêng thánh đức. Ngài có thể làm điều đó bằng cách “cắt xén” làm cho người kitô hữu phai đau đớn, bị thiệt thòi mất mát về vật chất cũng như tinh thần… hoặc cho người đó phải trải qua những gian truân thử thách. Như “lửa thử vàng – gian nan thử nhân đức”, những gian khổ tôi luyện người kitô trong đời sống đưc tin, có khả năng thánh hóa bản thân và tha nhân rất hữu hiệu.
Đức Kitô Con Chí ái của Cha rất thánh thiện cũng bị Chúa Cha tỉa cành.Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa đã làm một việc thích đáng là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa mọi người tới nguồn ơn cứu độ” (Dt 2,10). Nhờ cam chịu khổ hình mà Chúa Giêsu đã trở nên nhà lãnh đạo tuyệt hảo “Nào Đức Kitô lại chẳng chịu khổ hình như thế rồi mới đươc vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,25). Người Kitô hữu muốn “sinh nhiều hoa trái” dứt khoát phải “Ở lại“ và “Gắn liền” với Chúa Giêsu Kitô.
Làm sao để ở lại và gắn liền với Đức Giêsu Kitô? Một người mang danh hiệu là Kitô hữu (thuộc về Đức Kitô); nhưng xem xét lại mình chẳng có tinh thần Kitô hữu, “hữu danh vô thực”, Thánh Phaolô nói tình trạng tương tự như vậy trong Do Thái giáo (x.Rm 2,17–23) Nhiều kitô hữu xem ra có vẻ rất ngoan đạo, siêng đi dâng lễ, rước lễ hằng ngày, lại hăng hái nhiệt thành những công việc liên quan đến nhà thờ, hội đoàn, công tác tông đồ đấy! Nhưng đời sống lại chẳng toát lên tinh thần Kitô giáo khi sống thiếu bác ái, công bình, chân thât, yêu thương, thông cảm, tha thứ….
Người Kitô hữu hôm nay trở thành môn đệ đích thực của Chúa Kitô phải chịu để bị cắt tỉa. Thiên Chúa Cha mời gọi chúng ta chia sẻ nỗi đau khổ của Chúa Giêsu Con Chí Ái của Ngài, để cùng được tham dự vào vinh quang và hạnh phúc của Ngài “Một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta cùng được hưởng vinh quang bất diệt với Người” (Rm 8, 17); “được cùng chia sẻ đau khổ với Đức Kitô bao nhieu anh em sẽ vui mừng bấy nhiêu, để vinh quang người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỉ” (1Pr 4,13); “Phần anh em là những kẻ chịu đau khổ ít lâu. Chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường” (1Pr 5,10); “những đau khổ chúng ta chịu sánh sao với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải cho chúng ta” (Rm 8,18). Thánh Phaolô cũng khuyên chúng ta đùng sợ hãi trước những đau khổ: “Nếu anh em chịu đau khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc! Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến” (1Pr 3,14)
Người Kitô hữu không đi tìm đau khổ, nhưng khi đau khổ đến, người lành thánh vui mừng chấp nhận đau khổ, chẳng những thánh hóa mình mà còn làm cho những người khác nên công chính thánh thiện nữa “Vì đã nếm mọi đau khổ, người công chính tôi trung của Ta; sẽ làm cho muôn người trở nên công chính và sẽ gánh được tội lỗi của họ” (Is 53,11). Người Kitô hữu chấp nhận đau khổ thiệt thòi, cực hình, mất tiền, mất thì giờ, mất sức khỏe, bị nghi ngờ, hàm oan… vì qua tha nhân là một hành vi bác ái, là phương tiện chúng ta thực thi đức yêu thương. Người Kitô hữu biết chấp nhan đau khổ mà nhiều người nên công chính hạnh phúc. Vì thế; người có lòng yêu mến Chúa đích thực sự sẵn sàng lợi dụng mọi hoan cảnh đau khổ của mình để sinh ích cho kẻ khác.
Để sinh nhiều hoa trái người kitô hữu phải ở lại gắn liền với Đức Kitô. Chúa kitô chính là ngưồn sức mạnh vô biên của chúng ta, Ngài quyền năng làm được mọi sự hoàn hảo, vì thế; chúng ta luôn tin tưởng phó thác cho tình yêu của Ngài, và chắc chắn sẽ được ngài che chở bình an “Chúa khoan nhân là mục tử tôi, tôi không còn e sợ nỗi gì … (Tv 23)
Chúng ta luôn yêu mến và qui hướng về Ngài là trung tâm cuộc sống để chúng ta dấn than theo Ngài một cách quảng đại, không tính toán so đo, đồng thời gắn bó và yêu thương tha nhân như chính Ngài đã yêu.
Chúng ta luôn làm theo thánh ý của Ngài qua mọi nghịch cảnh trong cuộc đời. Chính Ngài là nguồn sức mạnh là an vui hạnh phúc của chúng ta.
Lời Chúa phán: “Nếu các con ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong các con, thì muốn gì, cứ xin sẽ được”. Xin cho chúng con được hiệp nhất nên một trong Đức Kitô để lời hứa của Chúa sẽ được thực hiện nơi mỗi người chúng con.
Lạy Cha! Cha là nguồn sức mạnh vô biên, tình yêu của muôn loài muôn vật. Chúng con muốn kết hợp với Cha để nhận được sự sống, sức mạnh, tình yêu và một cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc hơn, và xin Cha cho những ai tiếp xúc với chúng con cung nhận được sự sống, sức mạnh và tình yêu dào dạt của Cha tuôn chảy đến cho mọi người. Amen.
01/05 Người thợ vô danh
- Viết bởi Mt 13, 54-58
Người thợ vô danh: Thinh lặng, cầu nguyện và xin vâng.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 4 Phục Sinh. – Thánh Giuse thợ.
"Ông ta không phải là con bác phó mộc sao?"
* Là một người thợ ở làng Galilê, thánh Giuse là mẫu gương người Kitô hữu phải noi theo để chu toàn các bổn phận nghề nghiệp, vì thánh Giuse đã làm việc trong tâm tình liên kết với Đức Giêsu. Lao động thì vất vả nhưng cũng đem lại niềm vui.
Lao động phục vụ con người nhưng cũng giúp đưa tới gần Thiên Chúa: đó là điều ta học được nơi trường học Nagiarét.
Lời Chúa: Mt 13, 54-58
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà, giảng dạy dân chúng trong hội đường, họ bỡ ngỡ và nói rằng: "Bởi đâu ông này khôn ngoan và tài giỏi như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc ư? Mẹ ông không phải là bà Maria? và Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa không phải là anh em của ông sao? Và tất cả chị em của ông không phải ở nơi chúng ta đó sao? Vậy bởi đâu ông được mọi điều ấy như thế?" Và họ lấy làm gai chướng về Người.
Nhưng Chúa Giêsu nói với họ: "Không có tiên tri nào được vinh dự nơi quê hương và nơi nhà mình".
Và Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ cứng lòng tin.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Đức Giêsu về quê
Suy niệm:
Sau khi đã chịu phép Rửa, vào hoang địa để cầu nguyện, ăn chay,
có một ngày nào đó, Đức Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên đường.
Lên đường là bỏ lại ngôi làng Nazareth dấu yêu với bao kỷ niệm.
Chính tại đây Ngài đã sống hơn ba mươi năm trong bầu khí gia đình.
Chính tại nơi này, Ngài đã lớn lên quân bình về thân xác, trí tuệ, tâm linh.
Nazareth như một ngôi trường lớn, chuẩn bị cho Ngài chững chạc đi sứ vụ.
Tại đây, Đức Giêsu đã là con bác thợ Giuse (c. 55),
và đã trở thành thợ theo truyền thống cha truyền con nối.
Ngài đã được dạy nghề và hành nghề để kiếm sống cho bản thân và gia đình.
Đức Giêsu là một người thợ tại Nazareth, phục vụ cho nhu cầu dân làng.
Ngài biết đến cái vất vả của công việc chân tay nặng nhọc.
Đức Giêsu không thuộc giới trí thức, thượng lưu, quyền quý.
Lao động làm Ngài gần với người nghèo và thấy sự đơn sơ của tâm hồn họ.
Cũng tại Nazareth, đời sống cầu nguyện của Đức Giêsu được nuôi dưỡng.
Ngài học được lối cầu nguyện một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức Giêsu có khả năng thấy sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự,
nơi một bông hoa, nơi chim trời, nơi ánh nắng và cơn mưa.
Tình thân của Con đối với Cha ngày càng trở nên sâu đậm.
Ngài tìm ý Cha mỗi lúc và để Cha chi phối trọn vẹn đời mình.
Hôm nay Đức Giêsu trở về làng cũ sau một thời gian đi sứ vụ.
Ngài vào lại hội đường quen thuộc, gặp lại những khuôn mặt đồng hương.
Không rõ trước đây có lần nào bác thợ Giêsu được mời giảng ở đây chưa.
Nhưng lần này, khi trở về với tiếng tăm từ những phép lạ làm ở nơi khác,
Đức Giêsu đã khiến dân làng sửng sốt vì sự khôn ngoan trong lời giảng dạy.
Hai lần họ đặt câu hỏi: Bởi đâu ông ta được như thế? (cc. 54. 56).
Một câu hỏi rất hay, nếu được tìm hiểu một cách nghiêm túc.
Câu hỏi này có thể đưa họ đi rất xa, để gặp được căn tính của Đức Giêsu.
Tiếc thay, dân làng Nazareth lại không quên được nghề nghiệp của cha Ngài.
Họ nhớ rất rõ họ hàng gần xa của Ngài là mẹ và các anh chị.
Họ có thể kể tên từng anh chị em của Ngài, vì đều là bà con lối xóm (c. 55).
Đức Giêsu là người mà họ biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm sao con người bình thường, ít học đó lại có thể là một vị ngôn sứ?
Làm sao từ ngôi làng Nazareth vô danh này lại xuất hiện ngôn sứ được?
Và họ vấp ngã vì Đức Giêsu, nghĩa là họ đã không tin vào Ngài.
Cái biết gần gũi của họ về Ngài lại trở nên thành kiến
khiến họ không thể tiến sâu hơn vào mầu nhiệm con người Đức Giêsu.
Người đồng hương của Ngài đã không trả lời được câu hỏi: Bởi đâu…?
Mỗi con người là một mầu nhiệm mà ta phải khám phá mãi.
Có những mầu nhiệm lớn ẩn trong lớp áo tầm thường.
Dân làng Nazareth đã không nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng.
Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi,
để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Giuse trong xóm nhỏ điêu tàn
"Giuse trong xóm nhỏ điêu tàn..."
Có lẽ không một người công giáo Việt Nam nào mà không thuộc nằm lòng bài thánh ca trên đây của cố linh mục Ðạo Minh, dòng thánh Giuse... Tác giả đã sáng tác ca khúc trong giai đoạn đau thương của đất nước giữa hai thập niên 40 - 50 và cũng như thánh Giuse, đã ra đi âm thầm trong một cái chết vô cùng bí ẩn sau ngày thay đổi chế độ.
Lời ca đơn sơ xuất phát từ cuộc sống lam lũ qua mọi thời đại của người Việt Nam. Nhưng tâm tình đó lại càng hợp với hoàn cảnh sống của người Việt Nam hơn bao giờ hết. Với khẩu hiệu lao động là vinh quang... dường như sau năm 1975, người Việt Nam nào cũng đã hơn một lầm mồ hôi nhễ nhại với cây cuốc, cái cày hoặc còng lưng trên chiếc xích lô đạp...
Trong cảnh sống đó, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy gần gũi với thánh Giuse, vị thánh được mệnh danh là người công chính, nhưng đồng thời cũng là con người thinh lặng nhất trong Phúc Âm. Có rất nhiều thứ thinh lặng. Thinh lặng của những người câm điếc, bị trói buộc trong bất lực tự nhiên của mình. Thinh lặng trong cô đơn buồn chán. Thinh lặng trong căm thù oán ghét. Thinh lặng trong khép kín ích kỷ. Thinh lặng trong kiêu hãnh trước đe dọa, thử thách...
Thánh Giuse đã thinh lặng trong tinh thần chấp nhận và chiêm niệm. Trong cuộc sống âm thầm tại Nagiaréth, thánh Giuse đã thinh lặng để chiêm ngưỡng mầu nhiệm nhập thể kỳ diệu trong con người của Chúa Giêsu. Cuộc đời của thánh Giuse đã bắt đầu bằng một giấc mơ để rồi tiếp tục trong một giấc mơ triền miên. Nhưng đây không phải là một giấc mơ của mộng ảo phù du, mà là một giấc mơ trong chiêm niệm về hiện thực...
Trong sự thinh lặng chiêm niệm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Hôm nay là ngày lao động Quốc tế. Ngày lao động Quốc tế này gợi lại cả một quá trình tranh đấu của giới thợ thuyền của Âu Châu vào đầu thế kỷ vừa qua. Từ những bất công xã hội, cuộc đấu tranh của giới thợ thuyền đã làm trồi dậy phẩm giá của con người và giá trị của sự cần lao...
Ðối với người Kitô, ngày Quốc tế lao động này gắn liền với con người của Thánh cả Giuse, quan thầy và gương mẫu của giới cần lao. Do đó ngày hôm nay đối với chúng ta phải là một ngày của suy tư và cầu nguyện. Suy tư về ý nghĩa và giá trị những công việc hằng ngày của chúng ta. Cầu nguyện cho mọi người biết nhận ra sự hiện diện và tác động và lời kêu mời của Chúa trong cuộc sống...
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 3: Thánh Giuse: người lao động.
“Con bác thợ mộc”! Lời phát biểu này không có gì là khinh chê, chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên, người ta không thể tưởng tượng được cậu con trai tầm thường, mà mọi người trong làng Nadarét đều biết con của Giuse sống trong tối tăm. Thế mà mọi người đều thấy cậu khôn ngoan, đầy quyền lực làm phép lạ. Luca đã dẫn hai câu châm ngôn ngắn gọn: Ngôn sứ không ở quê nhà! thầy thuốc không thiêng cho bà con! để giải thích hoàn cảnh này, họ còn đi xa hơn nữa biến đổi sự ngạc nhiên ra sự xúc phạm: họ dận dữ và quyết định giết đi cho khuất mắt. Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều có nói: Đức Giê-su không muốn và cũng không thể làm được phép lạ vì họ cứng lòng tin... Những Phúc Âm hoang đường đã viết, Người đã làm nhiều điều kỳ diệu để tỏ cho họ biết Người là vị anh hùng vĩ đại, chỉ giản dị với danh hiệu: “Con bác thợ mộc”. Bác thợ mộc không có một ngôn sứ, không biết ăn nói, Giêsu chỉ là con ông Giuse thinh lặng thôi...
Giuse, Ngài đã nhận những lệnh của trời không qua cuộc đàm thoại như Ma-ri-a và Giacaria, nhưng qua giấc mơ, Ngài không thể nói gì, chỉ biết tỉnh dậy vâng lời; Giuse chỉ nói một tiếng như thiên sứ bảo; đặt tên con trẻ sinh ra bởi Ma-ri-a là Giêsu (có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ như Giosuê). Ngài đã nhận lệnh đặt tên, để biểu lộ Ngài được những đặc quyền thuộc dòng dõi David. Đó là dấu chỉ ân phúc cho Ngài như thiên sứ nói để giải tỏa nỗi âu lo của Ngài trước sự mang thai của Ma-ri-a: Giuse con dòng David... đó là vai trò thừa kế, không phải bằng đời sống huyết nhục, nhưng bằng sự nghiệp phong phú của lịch sữ Israel để thực hiện lời hứa với David. Nơi người con nuôi duy nhất của mình... vâng, Giuse chỉ nói một tiếng Giêsu, nhưng tiếng nói này quyết định cho lịch sử cứu độ. Rồi Ngài lại đi vào thinh lặng.
Như Claude đã viết: “Khi những dụng cụ được xếp vào chỗ của chúng rồi thì công việc trong ngày đã xong. Khi con lạc đà ở sông Giócdan ở Israel ngủ trong cánh đồng lúa về ban đêm... thì Giuse đi vào trong cuộc nói chuyện của Thiên Chúa với những tiếng thở dài không dứt...”.
L.P
SUY NIỆM 4: Thánh Giuse Thợ
(tonggiaophanhanoi.org // Enzo Lodi)
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Lễ này đã được Đức Giáo Hoàng Piô XII thiết lập năm 1955 và được ấn định vào ngày 1 tháng 5 để mang lại cho lao động một chiều kích Kitô-giáo. Thật vậy, khuôn mặt thánh Giuse, người thợ mộc ở Nagiarét, đã kỳ diệu góp phần giúp chúng ta hiểu được giá trị và sự cao cả của giới lao động. Từ Hy-lạp Tectôn được dịch là “thợ mộc” gán cho Giuse có lẽ chỉ định người thợ mộc, thợ đá hoặc thợ kim loại và cũng có thể là thợ xây dựng nhà cửa.
Do truyền thống gia đình, chắc chắn Đức Giêsu đã được hướng dẫn để làm nghề này. Vì thế, chúng ta đọc trong Tin Mừng của Marcô: (Đức Giêsu) không phải là bác thợ, con Bà Maria sao? (Mc 6,3). Đối với người Do Thái thuộc thời soạn thảo Kinh thánh, công việc tay chân cũng thánh thiêng, đối với các Rabbi hay các tư tế cũng thế. Các Rabbi bình giảng sách Giảng viên cũng nói: “Con hãy lo cho mình có được một nghề nghiệp, song song với việc học hỏi lẽ khôn ngoan”. Thế rồi, không những hành nghề mà thôi, song còn phải truyền nghề cho con cái vì như sách Talmud đã chép: “Kẻ nào không dạy nghề tay chân cho con mình, kẻ đó như thể cướp mất sự nghiệp sinh tồn của con cái”. Sách này còn nhấn mạnh đến tính chất thánh thiêng và giá trị của công việc tay chân: “Người thợ, trong lúc lao động, không buộc đứng dậy tiếp bậc kinh sư cho dù là vị cao trọng nhất... Kẻ nào giúp ích cho người đồng loại bằng sức lao động của mình thì cao trọng hơn người học biết Thiên Chúa... Kẻ nào nuôi sống mình bằng sức lao động thì cao trọng hơn người vô công rỗi nghề, chỉ biết giam mình trong các tâm tình đạo đức...”
2. Thông điệp và tính thời sự
a. Lời nguyện trong Thánh lễ gợi cho chúng ta “Gương thánh Giuse”, được Tin mừng gọi là “người thợ mộc” (Mt 13,55). Truyền thống cho thấy ngài sống thân tình với Đức Maria, hôn thê của mình và với trẻ Giêsu, chính Người cũng được gọi là “bác thợ mộc” (Mc 6,3). Như thế cả ba vị đều tôn vinh Thiên Chúa, Đấng tạo thành vũ trụ; Người muốn con người lao động để tôn vinh Người và tiếp tục công trình sáng tạo của Người (lời nguyện nhập lễ).
b. Bài đọc - Kinh sách, trích Vaticanô II (Hội thánh trong thế giới ngày nay) làm nổi bật ý nghĩa Kitô giáo trong các sinh hoạt của con người. “Nổ lực này đáp ứng với ý định của Thiên Chúa... Điều ấy cũng bao gồm các sinh hoạt thông thường nhất. Vì con người, nam cũng như nữ, khi nuôi sống mình và gia đình, đều phải hoạt động phục vụ xã hội. Họ có quyền nghĩ rằng sức lao động của họ mở mang công cuộc của Đấng tạo hóa và mang lại hạnh phúc cho các anh chị em, cũng như khả năng riêng của mỗi người, cũng góp phần kiện toàn kế hoạch của Thiên Chúa trong lịch sử”. Nơi khác, cũng Hiến chế này ghi nhận: “Nhờ việc làm của mình dâng lên Thiên Chúa, con người cộng tác vào chính công cuộc cứu rỗi của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã nâng cao giá trị của việc làm khi Người làm việc với chính hai bàn tay của mình tại Nagiarét. Do đó, mỗi người có bổn phận phải trung thành làm việc và cũng có quyền làm việc nữa” (Vaticanô II: LG 67,2).
SUY NIỆM 5: Thánh Giuse
(giaophanvinhlong.net)
Gương thánh nhân: Năm 1955, Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII đã lập lễ thánh Giuse thợ. Mỗi năm kính nhớ vào ngày 1 tháng 5, ngày mà hầu hết các nước trên thế giới chọn làm ngày lễ lao động, tán dương khích lệ công lao con người đã dùng tài năng sức lực của mình để phục vụ đồng loại. Đức Giáo Hoàng đã nói rõ ý nghĩa ngày lễ thánh Giuse thợ như sau:
"Chắc chắn chúng ta phải hân hoan, vì người thợ vô danh ở Na-da-rét chẳng những là hiện thân cho giá trị chân tay trước mặt Chúa và Hội thánh mà còn là vị Giám hộ mẫn tiệp của mọi người và của các gia đình và các bạn lao động."
Như chúng ta biết, thánh Giuse được Chúa chọn làm cha nuôi Chúa Giêsu, khi Người sinh ra làm người để cứu độ nhân loại. Thánh nhân là người công chính, luôn tuân hành thánh ý Chúa, sẵn sàng vâng nghe và làm theo lời Chúa dạy. Ngài tận tâm bảo vệ Đức Mẹ, nhiệt thành cộng tác với Mẹ nuôi dưỡng, chăm sóc Chúa Giêsu. Để chu toàn sứ mệnh đó. Ngài làm nghề thợ mộc vất vả hằng ngày. Ngài lấy sức lao động của mình bảo đảm cuộc sống hằng ngày của Thánh gia.
Ngài là gương mẫu cho mọi người sống nghề lao động chân tay và cách riêng cho các Kitô hữu: lương thiện, cần mẫn, siêng năng làm việc lo cho gia đình. Chẳng những lo cho gia đình mà còn phát triển xã hội và tôn vinh Chúa, vì theo thánh công đồng Vaticanô II: "Đối với các tín hữu, chỉ có một điều chắc chắn là: hoạt động cá nhân cũng như tập thể của nhân loại, các nỗ lực vĩ đại của con người vất vả qua các thế kỷ là nhằm cải thiện hoàn cảnh sinh sống. Việc này tự nó phù hợp với ý định của Thiên Chúa.
Thật vậy, được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận mệnh lệnh chinh phục trái đất cùng tất cả những gì chứa đựng trong đó. Họ phải cai quản vũ trụ trong công bình và thánh thiện. Nhận diện Thiên Chúa là Đấng sáng tạo mọi loài, họ phải quy hướng cả bản thân mình cũng như muôn vật về Người: để khi con người chinh phục được tất cả, thì danh Chúa được tôn vinh khắp địa cầu.
Điều đó cũng ứng dụng cho những công việc rất thường nhật. Khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, những người đàn ông, đàn bà hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu, đều có lý để coi lao động của mình tiếp nối công trình của Đấng Tạo hóa, phục vụ đời sống của anh em và đóng góp công lao vào việc hoàn thành chương trình của Thiên Chúa trong lịch sử." 1
Thánh Giuse là gương mẫu của người lao động. Ngài còn là vị Giám hộ của những người làm việc chân tay. Và Ngài là vị Giám hộ đắc lực nhất, như lời Đức Thánh Cha Pi-ô XII nói: "Không có vị Giám hộ nào có đủ khả năng linh nghiệm truyền thông Phúc Âm cho đời sống thợ thuyền bằng thánh Giuse thợ."
Quyết tâm: Hằng ngày, tôi siêng năng làm việc, để giúp ích cho gia đình, xã hội, theo gương thánh Giuse, và chuyên cần kêu xin thánh nhân cầu thay nguyện giúp cho những người lao động nghèo khổ, bất hạnh.
Lời nguyện: Lạy Thiên Chúa tạo thành trời đất, Chúa đã muốn cho con người lao động để tiếp tục công trình của Chúa.Xin nhận lời thánh cả Giuse chuyển cầu, mà cho chúng con biết noi gương người để lại, là chu toàn nhiệm vụ Chúa đã giao phó, hầu được hưởng niềm vui Chúa đã hứa cho tôi tớ trung thành.
SUY NIỆM 6: Thánh Giuse Thợ
(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Viết về thánh Giuse, chúng ta như có một cái gì đó thật ngỡ ngàng về con người im lặng trầm lắng của Người. Nhưng, thánh Giuse lại là một Người đầy quyền thế trước mặt Chúa Giêsu đến nỗi thánh Têrêsa Avila đã cảm nghiệm sâu sắc về vai trò của thánh Giuse, Ngài viết: ”…Trên trời thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin”.
Hôm nay ngày 01/5, ngày Quốc Tế Lao Động, cũng là ngày thánh Giuse được tôn vinh làm Bổn Mạng giới lao động.
CON NGƯỜI CỦA THÁNH GIUSE: MỘT HUYỀN NHIỆM: Nói đến thánh Giuse, mọi người đều hiểu rằng thánh nhân là một con người hoàn toàn im lặng, hầu như không được các Tin Mừng ghi chép lại một lời nào do miệng Người thốt ra. Nhưng chính sự im lặng của thánh nhân giúp chúng ta nghiệm ra mầu nhiệm của Thiên Chúa. Thánh Giuse sở dĩ im lặng là để giúp nhân loại nhận ra rằng Thiên Chúa nói đã đầy đủ, bao gồm tất cả và thánh nhân không cần phải thêm gì vào Lời của Thiên Chúa.Thánh Giuse đã thinh lặng để chiêm ngắm mầu nhiệm Con Thiên Chúa. Suốt cuộc đời của Người ở làng quê Nagiarét, thánh nhân vẫn im lặng hơn là nói. Sự thinh lặng của thánh Giuse luôn mang ý nghĩa lớn lao về sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Chúng ta có thể nói về thánh Giuse mà không sợ quá lời, Ngài thinh lặng trong chiêm niệm để Chúa Thánh Thần dẫn đưa cuộc đời Ngài và để Ngài hoàn toàn tự do hành động theo ý của Thiên Chúa. Đây là một điều kỳ diệu, một huyền nhiệm cao siêu của cuộc đời thánh Giuse. Thánh Giuse đã thinh lặng để lắng nghe, để đón nhận và để cho trái tim mới của mình hướng dẫn và chỉ bảo con đường của Ngài theo ý của Thiên Chúa. Đúng là thánh Giuse đã biết lắng nghe, biết mở rộng tấm lòng để sống hiệp thông với Thiên Chúa.
THÁNH GIUSE LÀ MẪU GƯƠNG LAO ĐỘNG: Theo Tin Mừng, thánh Giuse sống ở Nagiarét, làm nghề thợ mộc để nuôi sống bản thân và gia đình. Thánh Giuse đã sống đời lao động theo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Bởi vì, việc nhập thể của Chúa Giêsu làm người để sống với, sống vì, sống cho nhân loại, cho con người mở ra cho thấy thế giới được Thiên Chúa cứu độ. Thế giới nếu không có sự hiện diện của Thiên Chúa, thế giới sẽ thiếu vắng và không được cứu độ. Việc lao động của con người nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Con người với những suy nghĩ, với sự thiện chí của mình đã không chỉ nghĩ đến lợi nhuận, nghĩ đến làm giầu và tích lũy của cải, vật chất, nhưng có rất nhiều người,nhiều nhóm, nhiều phong trào đã đưa lao động càng lúc càng tiến gần đến kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa. Lao động sẽ không còn là đơn điệu, lập đi lập lại hàng ngày những công việc, những cách làm một cách máy móc, cho có lệ, qua loa để mau hết giờ để kiếm nhiều lợi ích, tiền của cho cá nhân, cho bản thân của mình, nhưng lao động theo mẫu của thánh Giuse là làm cho lao động mang một ý nghĩa cứu độ và phục vụ, lao động theo lời mời gọi của Thiên Chúa.
Thánh Giuse quả thực đã sống hoàn toàn theo tiếng gọi của Chúa và làm việc cũng theo tác động và lời mời gọi của Chúa. Do đó, ngày hôm nay, ngày Quốc Tế lao động chúng ta hãy cầu nguyện và noi gương bắt chước thánh Giuse sống, lao động theo đúng ý nghĩa lao động là góp tay làm vinh quang cho Thiên Chúa qua sự sáng tạo vũ trụ, con người và làm việc là để ơn cứu rỗi được chan hòa nơi thế giới này.
Lạy Thiên Chúa tạo thành trời đất, Chúa đã muốn cho con người lao động để tiếp tục công trình của Chúa. Xin nhận lời thánh cả Giuse chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương Người để lại là chu toàn nhiệm vụ Chúa đã giao phó hầu được hưởng niềm vui, Chúa đã hứa cho tôi tớ trung thành 9 Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Giuse thợ ).
SUY NIỆM 7: Thánh Giuse.
(theovetchannguoi)
Ứng với việc tổ chức “Ngày Lao Ðộng” khắp nơi trên thế giới, Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết lập ngày lễ Thánh Giuse Thợ vào năm 1955. Nhưng sự liên hệ giữa Thánh Giuse và ý nghĩa lao động đã có từ lâu trong lịch sử.
Trong nỗ lực cần thiết để nói lên nhân tính của Ðức Giêsu trong đời sống thường nhật, ngay từ ban đầu Giáo Hội đã hãnh diện nhấn mạnh rằng Ðức Giêsu là một người thợ mộc, hiển nhiên là được cha nuôi của Người huấn luyện, một cách thành thạo và khó nhọc trong công việc ấy. Nhân loại giống Thiên Chúa không chỉ trong tư tưởng và lòng yêu thương, mà còn trong sự sáng tạo. Dù chúng ta chế tạo một cái bàn hay một vương cung thánh đường, chúng ta được mời gọi để phát sinh kết quả từ bàn tay và tâm trí chúng ta, nhất là trong việc xây đắp Nhiệm Thể Ðức Kitô.
Lời Bàn
“Sau đó Thiên Chúa đưa người đàn ông vào sống trong vườn Êđen, để cầy cấy và chăm sóc khu vườn” (Sáng Thế 2:15). Thiên Chúa Cha đã tạo dựng nên mọi sự và muốn con người tiếp tục công trình tạo dựng ấy. Con người có phẩm giá là qua công việc, qua sự nuôi nấng gia đình, qua sự tham dự vào đời sống sáng tạo của Chúa Cha.
Thánh Giuse Thợ có thể giúp chúng ta tham dự một cách sâu xa vào mầu nhiệm tạo dựng ấy. Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã nhấn mạnh đến điều này khi nói, “Thần khí chan hòa trên bạn và mọi người phát xuất từ con tim của Ðấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ðấng Cứu Ðộ trần gian, nhưng chắc chắn rằng, không người lao động nào được thấm nhuần thần khí ấy một cách trọn vẹn và sâu đậm cho bằng cha nuôi của Ðức Giêsu, là người sống với Ngài một cách mật thiết trong đời sống gia đình cũng như làm việc. Do đó, nếu bạn ao ước muốn đến gần Ðức Kitô, một lần nữa chúng tôi lập lại rằng, ‘Hãy đến cùng Thánh Giuse”” (xem Sáng Thế 41:44).
SUY NIỆM 8: LỄ THÁNH GIUSE THỢ
(Antôn Lương Văn Liêm)
Trong kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam có câu: “Tay làm thì hàm nhai, tay quai thì miệng trễ”, với thánh Phaolô thì: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn” (2Tx.3,10). Vâng! Đã mang lấy kiếp nhân sinh thì dù lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, quyền uy hay bần cùng, đời tu hay đời thường… ai cũng phải lao động vất vả mới có miếng ăn. “Lao động là vinh quang”, đây là câu nói khích lệ, trân trọng tất cả những ai đã và đang ngày đêm làm lụng vất vả trong việc mưu kế sinh nhai, trong việc giáo dục, chuyển giao luân lý, tri thức, khoa học, y học cho tầng lớp kế thừa…
Không vinh quang sao được! Vì làm việc, lao động tất cả đều khởi đi từ Thiên Chúa, Đấng hoạt động, làm việc không ngưng nghỉ như lời minh định của Đức Giêsu: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga.5,17). Thiên Chúa là Đấng lao động và thực hiện công việc của Ngài với mục đích duy nhất là bầy tỏ và trao ban tình yêu.
Vì yêu Thiên Chúa đã thực hiện việc tác dựng vũ trụ, vạn vật; vì yêu Thiên Chúa tác dựng và trao ban sự sống cho con người nhân loại, vì yêu mà Thiên Chúa thực hiện một công việc vĩ đại khi tự hạ bước xuống cõi trần mặc lấy thân xác con người yếu đuối, hữu hạn để dạy dỗ và cứu độ con người nhân loại….Khi mặc lấy kiếp phàm nhân (ngoại trừ tội lỗi), Thiên Chúa qua con người của Đức Giêsu, Ngài cũng có một cái tên là Giêsu thành Na-ra-rét, được sinh ra và lớn lên trong mái ấm gia đình, có mẹ là Đức Trinh Nữ Maria và dưỡng phụ là Thánh Cả Giuse, điều mà những người Do Thái khi xưa đã nói về Đức Giêsu Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa: “Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ ông không phải là bà Maria sao?” (Mt.13,55); “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả”(Ga.6,42).
Thực trạng xã hội hôm nay, vì chạy theo lối sống “văn hóa thành công” đã và đang làm hình ảnh những người thợ trong mọi lĩnh vực, từ trong nhà đạo cho đến bình diện xã hội không còn mang những nét đẹp, cao thượng, mang những trái tim thịt mềm của Thiên Chúa. Nói theo cách của những anh em làm nghề xây dựng khi ta thán về cách nghĩ và hành động của công nhân: “Họ làm theo lương tuần, chứ không theo lương tâm”, nói như thế không có nghĩa là “vơ đũa cả nắm”, nhưng điều này đang là một đại dịch, là ung nhọt gây nhức nhối cho gia đình, Giáo Hội và xã hội.
Trong ngày lễ kính Thánh Giuse Thợ, Đấng bảo trợ cho tất cả những ai đang ngày đêm làm việc, lao động. Trước tiên ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho ta sự sống, sức khỏe, tri thức để giúp ta lao động, làm việc, trước là tạo của ăn nuôi thân, giúp ích cho đời, Ngài mời gọi ta cùng cộng tác với Ngài trong chương trình sáng tạo và bảo tồn những gì mà Ngài đã tác dựng, ta cảm tạ Ngài vì Ngài đã và đang song hành, cùng làm việc với ta trong từng ngày sống.
Khi chiêm ngắm hình ảnh và gương sống của Thánh Cả Giuse, một người thợ, dẫu trong Kinh Thánh không nói nhiều về Ngài, không tường thuật một lời nào của Ngài, ngoại trừ lời giới thiệu của thánh sử Mát-thêu: “Ông Giuse, chồng bà là người công chính” (Mt.1,19). Vâng! Với niềm tin vào Thiên Chúa một cách đơn sơ, khiêm nhường, xin vâng theo Thánh ý Thiên Chúa một cách mau lẹ, không do dự; lòng quảng đại và từ bỏ ý riêng, ước mơ và sở thích của mình để thuận theo ý Chúa; chấp nhận và đón nhận những điều trái với ý riêng mình, đặc biệt là thấm nhuần Kinh Thánh và có một trái tim bao dung, yêu thương của Thiên Chúa. Tất cả những đức tính đó đã giúp cho Thánh Nhân lọt vào tầm ngắm của Thiên Chúa khi Ngài mời gọi và trao ban cho Thánh Nhân trách vụ trở thành người bạn đời của Đức Maria, trở thành dưỡng phụ của Đấng Cứu Thế.
Hướng về Thánh Cả Giuse, Ngài là một người thợ, người lao động, người chủ gia đình gương mẫu, thánh thiện, là cành huệ trắng luôn tỏa hương thơm ngát và không bao giờ tàn phai, ta nguyện xin Thánh Nhân giúp ta biết noi gương sống của Ngài, luôn tin tưởng và phó thác cuộc đời cho bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, giúp ta thực hiện mọi công việc từ lời nói tới hành động bằng một tình yêu, yêu Chúa và yêu người, ta xin Ngài cầu thay nguyện giúp cùng Thiên Chúa, nhất là với Thánh Tử Giêsu, để nhờ ơn Chúa giúp ta sáng suốt hơn, khôn ngoan hơn trong việc tìm kiếm kế sinh nhai, luôn chu toàn bổn phận của mình trong gia đình, cộng đoàn và ngoài xã hội, luôn là một người thợ chân chính. Cuối cùng ta nguyện xin Thiên Chúa qua lời chuyển cầu của Thánh Cả Giuse giúp ta và nhất là những vị lãnh đạo Giáo hội, những nhà truyền giáo luôn là những người thợ lành nghề trong cánh đồng truyền giáo còn bao la bát ngát giữa thế giới hôm nay.
Thánh nữ Têrêsa Avila đã quả quyết một cách mạnh mẽ khi Thánh Nhân cầu cùng Thánh Cả Giuse: “Chưa bao giờ tôi xin Thánh Giuse điều gì mà Ngài không nhận lời”
Để kết thúc xin mượn lời cầu của thánh nữ Têrêsa Avila: “Lạy Thánh Cả Giuse! Trong suốt cuộc đời, Cha là niềm hy vọng, khi sinh hạ Chúa Giêsu, khi trốn sang Ai Cập, khi sống những ngày tha hương. Cha đã tìm thấy sức mạnh trong sự tin tưởng sắt đá vào quyền năng và lòng Nhân Lành của Chúa.
Hôm nay! Chúng con hết lòng trông cậy, chạy đến cầu xin Ngài. Xin Ngài hiệp lời cầu với chúng con, để xin Con Ngài nâng đỡ chúng con trong cơn khốn khó, xin Ngài ban sức mạnh để chúng con tiến lên như Ngài đã đã vượt thắng. xin Ngài ban cho chúng con ơn trông cậy mà Ngài đã có như ánh sáng hướng dẫn mọi ngày trong đời chúng con. Amen.”
SUY NIỆM 9: LAO ĐỘNG BIỂU LỘ VINH QUANG CỦA CHÚA GIÊSU PHỤC SINH
(Linh mục Giuse Đinh Quang Thịnh)
Chúa Giêsu khi từ cõi chết sống lại, Ngài hiện ra với bà Maria Madalêna, Ngài không tỏ vinh quang như trên núi Hiển Dung cho các môn đệ (x Mt 17), mà bà Maria Madalêna thấy Chúa Giêsu Phục Sinh tưởng đó là người làm vườn (x Ga 20,15). Chúa Giêsu Phục Sinh hữu ý mang dáng dấp người làm vườn là Ngài muốn nối tiếp sứ mệnh Thiên Chúa trao cho ông Adam phải canh tác vườn, nói lên quyền làm chủ vạn vật Thiên Chúa đã tạo dựng (x St 1,26 - 2,3.15), để Đức Giêsu trở nên mẫu người lao động cho cả loài người. Thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Thiên Chúa làm người, cho con người được làm Thiên Chúa”. Nghĩa là nơi Đức Giêsu có hai bản tính: Bản tính loài người và bản tính Thiên Chúa. Do đó ai muốn trở nên giống Thiên Chúa trong bản tính loài người, thì phải lao động việc trần thế, và qua Bí tích Khai Tâm, con người đã được thông dự vào bản tính Thiên Chúa, thì còn phải lao động vào việc Nước Thiên Chúa.
I. VỚI BẢN TÍNH LOÀI NGƯỜI, ĐỨC GIÊSU LAO ĐỘNG VIỆC TRẦN THẾ.
Suốt ba mươi năm đầu cuộc đời Đức Giêsu, trong xưởng mộc với ông Giuse, cha Ngài tại Nazareth, thì người ta chỉ nhìn Ngài là “con bác thợ mộc” (x Mt 13,55), Ngài nói: “Con không thể làm gì tự mình, nhưng mọi sự đều vì đã trông thấy Cha làm, điều gì Người làm thì Con cũng làm như thế” (Ga 5,19).
Giáo huấn của Công Đồng Vat.II, dạy chúng ta biết về giá trị lao động trần thế: “Hoạt động của con người phát xuất từ con người, nên quy hướng về con người. Thật vậy, khi làm việc, con người không những biến đổi sự vật và xã hội, mà còn cải thiện chính mình. Bởi vì khi làm việc, con người học biết được nhiều điều, phát triển tài năng, cũng như thoát ra và vượt khỏi chính mình (*). Nếu được hiểu cho đúng thì, sự tăng triển này còn đáng gía hơn mọi của cải thu tích được. Giá trị của con người hệ tại ở “CÁI MÌNH LÀ” hơn là ở “CÁI MÌNH CÓ”. (x Hiến Chế Hội Thánh Trong Thế Giới Hôm Nay số 35).
Như thế làm việc không nhất thiết phải đạt thành công trước mắt, nhưng đã trở nên nghĩa người hơn. Chính Đức Giêsu suốt đời làm việc không ngơi nghỉ giống Cha trên trời (x Ga 5,17), thế mà cuối đời xem ra thất bại, bị mọi người khai trừ! Nhưng chính lúc ấy, Tổng trấn ngồi xử án, lại chỉ riêng vào Đức Giêsu đang đứng trước một rừng người, và ông lớn tiếng tuyên bố: “Này là Người” (x Ga 19, 5).
Kinh thánh kết án kẻ lười: “Kẻ lười tệ kém hòn phân, ai mà đụng nó là tay phủi liền” (Hc 22,2).Ai không chu toàn bổn phận mình, nó là anh em với quân phá hoại (x Cn 18,9).
(*) Khi làm việc con người được THOÁT RA: tức là thoát ra khỏi kiếp loài vật, vì con vật ăn sẵn những gì Thiên Chúa hoặc con người tạo nên cho nó: như con sâu ăn lá cây, con gà ăn giun, con heo ăn cám… Trái lại, con người dùng thực phẩm do tay mình làm ra.
Khi làm việc con người VƯỢT KHỎI CHÍNH MÌNH, tức là nhờ làm việc, con người có thêm của cải để chia sẻ. Chính nhờ biết chia đi, mà con người được biểu lộ giống Chúa, vì Thiên Chúa làm mọi sự chỉ để ban tặng cho loài người.
II. VỚI BẢN TÍNH THIÊN CHÚA, ĐỨC GIÊSU HẾT LÒNG LÀM VIỆC NHẰM THIẾT LẬP NƯỚC THIÊN CHÚA LÀ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO.
Tất cả những việc Đức Giêsu làm trong sách Tin Mừng ghi lại chỉ nhằm mục đích cho mọi người nhận biết Ngài là Thiên Chúa cứu độ duy nhất (x Cv 4,12), để dạy mọi người cách sống yêu. Đức Giêsu đã biểu lộ tình yêu của Ngài qua việc làm: Kẻ đói Ngài cho ăn, người bệnh tật Ngài chữa lành, nhất là Ngài hết lòng rao giảng Lời Chúa Cha nhằm cứu độ loài người,và huấn luyện các môn đệ để nối tiếp sứ mệnh của Ngài. Những việc làm ấy, chỉ có giảng Lời và huấn luyện môn đệ, dù người ta chống đối, loại trừ, nhưng vẫn còn tồn tại cho đến tận thế. Như vậy, giảng Lời và huấn luyện con người,tạo chất xám phục vụ Nước Thiên Chúa quan trọng nhất. Vì ngay khi Đức Giêsu còn trên dương thế, những ai chỉ muốn Ngài cho bánh ăn, hoặc được lành bệnh, thì Ngài trốn đi cầu nguyện! (x Lc 4).
Thánh Giuse trong Tin Mừng chỉ cho biết ông làm nghề thợ mộc, công việc này để phụ giúp Đức Maria nuôi dưỡng Đức Giêsu. Nhưng ông khuất đi rất sớm, thì chắc chắn Đức Giêsu phải vất vả tiếp nối công việc của cha Giuse để phụ kinh tế trong gia đình với Mẹ Ngài. Thế thì việc lao động cơ bắp của ông Giuse không quan trọng lắm, mà quan trọng nhất là ông luôn tỉnh thức mau mắn làm theo Lời Chúa dạy, để đóng góp vào chương trình cứu độ loài người Con Thiên Chúa thực hiện.
Thực vậy, ông Matthêu ghi lại ba lần trong đêm tối ông Giuse mau mắn chỗi dậy thực thi Lệnh Chúa truyền:
- Lần I: Ban đêm Chúa ra lệnh cho ông Giuse phải chỗi dậy đón Maria, vợ ông về chung sống, để Maria sinh Con Đấng Tối Cao được an toàn, nếu không sẽ bị người đời ném đá, và ông còn có nhiệm vụ đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu, để Đức Giêsu được sinh ra làm ứng nghiệm lời Sách Thánh đã tiên báo Đấng Cứu Thế thuộc dòng vua Đavid, vì ông Giuse thuộc dòng này (x Mt 1,18t).
- Lần II: Ban đêm Chúa ra lệnh cho ông Giuse mau chỗi dậy để đưa Hài Nhi trốn sang Ai Cập, vì vua Hêrôđê đang lùng kiếm giết Hài Nhi (x Mt 2,13-18).
- Lần III: Đang đêm Chúa bảo ông Giuse chỗi dậy đưa Maria và Hài Nhi trở về Nazareth, vì Ngài có sứ mệnh giải phóng loài người thoát nô lệ Satan, hơn sứ mệnh của ông Môsê đưa dân Do Thái thoát nô lệ Ai Cập (x Mt 2,19-23).
Ba lần trong đêm ông Giuse chỗi dậy làm theo ý Chúa tiên báo về Đức Giêsu sau ba ngày từ cõi chết sống lại, để hoàn tất việc giải phóng loài người thoát tay tử thần.
Như thế, qua Kinh Thánh Chúa muốn mọi người xác tín: Phải chu toàn việc Nước Thiên Chúa trước khi chu toàn việc trần thế, thì cuộc đời con người mới hạnh phúc. Chính vì thế mà kẻ nào chỉ lo chạy đến cầu cứu Đức Giêsu cho của ăn vật chất, hoặc được lành bệnh, thì Ngài đã trốn họ. Nếu họ cứ tìm đến Ngài, Ngài phải lên tiếng nhắc nhở: “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận”. Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (Ga 6,27-29).
Vậy mọi người muốn được Chúa chăm sóc, thì phải thực hành Lời Ngài dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
“Tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài trước nhất”, cụ thể là mau mắn làm theo ý Chúa để chung tay phát triển Tin Mừng, xây dựng Hội Thánh, với tinh thần thánh Tông Đồ dạy: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha. Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời,vì biết rằng anh em sẽ nhận được phần thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người. Đức Kitô là Chủ, anh em hãy phục vụ Người” (Cl 3,14.17,23-24: Bài đọc).
Muốn sống tinh thần lao động như Đức Giêsu, như thánh Giuse, ta phải cầu nguyện: “Lạy Chúa, việc tay chúng con làm xin Ngài củng cố” (Tv 90/89,). Để “ngày lại ngày, xin chúc tụng Chúa, Thiên Chúa cứu độ ta, Người đỡ nâng ta” (Tv 68/67,20).
Lễ thánh Giuse Lao Động được đặt vào đầu tháng năm, tháng Hoa kính Đức Mẹ. Hội Thánh muốn con cái mình hãy làm việc với tinh thần giống Chúa Giêsu và thánh Giuse, để trở thành những bông hoa tươi thắm dâng kính Mẹ Maria.
Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời,vì biết rằng anh em sẽ nhận được phần thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người. Đức Kitô là Chủ, anh em hãy phục vụ Người (Cl 3,23-24).
SUY NIỆM 10: LỄ THÁNH GIUSE THỢ: BỔN MẠNG CÁC NGƯỜI CHA GIA ĐÌNH
(https://gxkimlong.wordpress.com)
Việc Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người trong một gia đình lao động không phải là một cớ vấp phạm (như đối với những người đồng hương của Chúa Giêsu thời bấy giờ), nhưng mang lại một ý nghĩa cao cả cho sinh hoạt của con người nơi trần thế. Đó là một “Tin Mừng về lao động”, khi Con Thiên Chúa đi vào đời thường của con người để giúp thánh hóa lao động, nâng cao phẩm giá lao động và mang lại ý nghĩa cho lao động.
Lao động không phải là một hậu quả của tội lỗi, bởi vì trước khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã đặt họ vào vườn Ê-đen “để canh tác và chăm sóc”. Lao động chỉ trở nên “vất vả và cực nhọc” khi Adong và Evà phạm tội: “ngươi phải đổ mồ hôi mới có miếng ăn”.
Nhưng giờ đây, với sự hiện diện của Chúa Giêsu trong gia đình nhân loại, xuyên qua một gia đình lao động, Ngài đã trả lại cho lao động giá trị của nó và làm tăng thêm ý nghĩa.
Vạch ra các ý nghĩa khác nhau của lao động, trước tiên nêu lên:
+ ý nghĩa căn bản đầu tiên, đó là kiếm sống, nuôi sống bản thân. Thánh Phaolô nói: “Ai không làm thì đừng có ăn”. ừ đó mỗi người con trong giáo xứ đừng vì lười biếng mà trở nên một gánh nặng cho người khác, ăn bám người khác. Nhưng mỗi người hãy ra sức làm việc để có miếng ăn nuôi sống bản thân. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở ý nghĩa này mà thôi, thì con người vẫn thấp lè tè, vì mỗi ngày con gà, con vịt vẫn kiếm ăn.
+ Chính vì thế phải nâng cao ý nghĩa lao động con người, không chỉ kiếm tiền, kiếm sống mà thôi, nhưng là qua lao động để hoàn thiện bản thân. Hoàn thiện không chỉ về mặt kỹ thuật, kỹ năng, nhưng còn về con người, cần được trưởng thành hơn trong nhân cách, được nhân bản hóa, trau dồi các đức tính con người: trở nên người hơn.
Bởi vì ý thức rằng một người thợ giỏi chưa phải là một con người tốt! Lao động là cơ hội con người khẳng định chính mình, như là một chủ thể lao động, với những quyền và nghĩa vụ.
+ Điều đó dẫn đến ý nghĩa thứ ba của lao động: lao động là phương tiện trao ban chính mình. Qua lao động, con người không chỉ ích kỷ nuôi sống bản thân, vơ vét cho chính mình, nhưng là trao ban và làm phong phú cho người khác: cho gia đình của mình và cho xã hội. Một người cha hay mẹ không đem tiền về nuôi sống gia đình và nuôi dưỡng con cái, nhưng đem tiêu xài, cờ bạc rượu chè, thì không phải là lao động đích thực. Và mỗi người chỉ góp phần xây dựng xã hội khi đóng góp xây dựng tích cực cho xã hội qua công ăn việc làm của mình.
Đó là tham gia vào công trình tạo dựng của Chúa bằng việc nhân bản hóa môi trường xã hội, bằng việc trao ban, như Thiên Chúa đã trao ban cho con người coi sóc và canh tác vũ trụ, thì con người qua lao động cũng biết trao ban những gì mình làm cho người khác.
+ ý nghĩa truyền giáo của lao động. Lao động là phương tiện để thánh hóa bản thân và thánh hóa đời sống xã hội. Nó góp phần vào việc loan báo Tin Mừng qua việc dấn thân xây dựng lòng tôn trọng phẩm giá con người, xây dựng công bằng và liên đới, không trở nên nô lệ cho công việc, cho đồng tiền (một Kitô hữu sửa xe mà gian dối thì không thể loan báo Tin Mừng được!).
Qua lao động, người Kitô hữu còn hướng đến chân trời vĩnh cửu là sự sống đời đời, chứ không chỉ hạn hẹp trong thế giới này, như Đức Bênêđíctô XVI đã nói: “Nếu không có tầm nhìn vào đời sống vĩnh cửu, sự phát triển con người sẽ thiếu sức sống trong thế giới này…” (Caritas in veritate, 11).
+ Sau cùng, đối với người Kitô hữu, lao động là họa lại hình ảnh của Chúa Kitô: không chỉ nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô thánh hóa lao động của mình, nhưng giờ đây, những làm lụng vất vả cực nhọc từ nay mặc lấy một ý nghĩa mới, chúng không còn là hậu quả của tội lỗi, nhưng là tham dự vào mầu nhiệm thập giá của Chúa Kitô. Qua lao động, con người cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Chính trong các ý nghĩa đó mà cha Quản xứ cầu chúc cho các người cha gia đình, trong ngày lễ bổn mạng của mình, không chỉ là những người xây dựng gia đình bằng làm lụng kiếm sống, nhưng còn là những con người biết tạo ra những giá trị và ý nghĩa trong gia đình của mình, những giá trị đức tin, luân lý và nhân bản. Đó là đỉnh cao của lao động, qua lao động con người là những chủ thể biết tạo nên các giá trị và ý nghĩa cho sinh hoạt của mình.
SUY NIỆM 11: LAO ĐỘNG NHƯ PHỤNG TỰ
“Ông ấy không phải là con bác thợ sao?” (Mt 13,55)
Suy niệm: Khi Steve Jobs qua đời, nhiều người trên thế giới đã đặt nến và trái táo cắn dở trước các chi nhánh của tập đoàn Apple, bày tỏ lòng thương tiếc, tri ân một thiên tài đã làm thay đổi cuộc sống con người với các sản phẩm độc đáo như ipod, iphone và ipad.
Bên cạnh các tên tuổi lớn với những phát minh vĩ đại như ông, vẫn có đại đa số những con người vô danh không có một phát minh nào, nhưng lại đóng góp thật to lớn cho sự thiện hảo và hạnh phúc của con người.
Thánh Giu-se là một trong những người lao động thầm lặng ấy. Hội Thánh đặt ngài làm bổn mạng cho những người lao động âm thầm không chỉ để nói lên giá trị về các đóng góp cho hạnh phúc của gia đình và xã hội, mà còn để nêu cao mẫu gương sáng chói nhất của thánh nhân là: biến lao động thành một của lễ dâng để thờ phương Thiên Chúa.
Mời Bạn: Tựa như thánh Giu-se, công việc bạn làm không quan trọng, điều quan trọng trước mặt Chúa là cách bạn làm.
Ý hướng của bạn khi lao động và những đức tính cần thiết kèm theo khi lao động quyết định giá trị việc bạn làm trước cái nhìn của Thiên Chúa.
Sống Lời Chúa: Lao động là món quà yêu thương tôi gởi đến những người thân yêu mà tôi có nhiệm vụ chăm sóc.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa không giao phó việc giáo dục Đấng Cứu Thế cho một người cha nuôi là tiến sĩ luật hay một kinh sư, nhưng cho một bác thợ mộc.
Chúa muốn cho thấy giá trị cao cả trong lao động của con người, dù là những công việc thô sơ, đơn giản, thông thường. Xin cho chúng con có một cái nhìn mới về lao động, và sử dụng lao động như phương cách đẹp lòng Chúa.
SUY NIỆM 12: Thánh Giuse Lao động
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng lễ kính Thánh Giuse Lao động.
Sở dĩ có Thánh lễ hôm nay là vì Giáo Hội muốn cho chúng ta ý thức được giá trị cao quí của lao động trong đời sống của mỗi người chúng ta.
Quả vậy, lao động có những giá trị to lớn nhưng nhiều khi chúng ta không nhìn ra.
Công Đồng Vaticanô II trong Hiến chế “Vui Mừng và Hy Vọng” đã có những lời lẽ rất hay về vấn đề này: “Thực vậy, được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận mệnh lệnh chinh phục trái đất cùng tất cả những gì chứa đựng trong đó, cai quản vũ trụ trong công bình và thánh thiện và khi nhìn nhận Thiên Chúa là Ðấng tạo dựng mọi loài, họ qui hướng về Người chính bản thân mình cũng như muôn vật: Như thế, khi con người chinh phục tất cả thì danh Chúa được tôn vinh khắp địa cầu. Những điều nhận định trên đây cũng ứng dụng được nơi những công việc hoàn toàn thường nhật. Thực vậy, trong khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu đều có lý để tin rằng nhờ lao công của mình, họ tiếp nối công trình của Ðấng Tạo Hóa, phụng sự anh em, đóng góp công lao mình vào việc hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử”.(Chương III số 34)
1. Lao động làm cho con người tìm được niềm vui và ý nghĩa cho cuộc sống mình.
Vào thời Trung cổ, có một tín hữu Kitô nọ muốn thực hiện một cuộc hành hương.
Sau vài ngày đi bộ, người đó bị lạc vào trong một khu rừng vắng. Tuy là khu rừng vắng nhưng hai bên đường, người ta cũng thấy có những người thợ đá đang cố gắng đục đẽo và vác trên vai từng tảng đá lớn đem về. Người khách hành hương mon men đến gần một người thợ, mồ hôi đang chảy ra nhễ nhãi và muốn gợi chuyện, nhưng người thợ đập đá ấy chỉ trả lời một cách nhát gừng:
- Ông không thấy tôi đang lao động một cách vất vả sao mà cứ hỏi hoài vậy?
Người khách hành hương tìm đến người thứ hai, người này còn có dáng vẻ nặng nhọc hơn. Được hỏi đang tham gia vào công trình xây dựng nào, người thợ này chỉ trả lời:
- Người ta thuê tôi làm việc, tôi chỉ biết rằng từ sáng sớm đến chiều tà, tôi đổ mồ hôi xôi con mắt ra là để kiếm cơm bánh cho vợ con tôi thôi, còn xây dựng gì thì tôi không cần biết.
Trong thinh lặng, người khách hành hương lại tiếp tục cuộc hành trình. Lên đến đỉnh đồi ông lại gặp một người thợ đập đá khác. Người này cũng có dáng vẻ mệt nhọc tiều tụy không kém 2 người trước, nhưng nhìn kỹ trong ánh mắt của người thợ đập đá này, người khách hành hương thấy toát lên một sự thanh thản và nhẫn nhục lạ thường. Đến gần người khách hành huơng lên tiến hỏi:
- Ông đang làm gì đó?
Người đàn ông mỉm cười và vui vẻ đáp:
- Ông không biết à, tôi đang góp công xây dựng một ngôi thánh đường
Và người thợ đập đá đưa tay chỉ xuống một thung lũng, nơi đó, người khách hành hương nhận ra một ngọn tháp cao và từng viên đá được xếp lại ngay ngắn để làm nên bốn bức tường của một ngôi thánh đường.
Vâng! Cùng một công việc nhưng người ta đã không có được một cái nhìn giống nhau về mục đích của nó. Và chính vì thế mà cuộc sống của con người khác nhau: Người thì được hạnh phúc, kẻ thì phải đau khổ. Hãy cố mà tìm ra cho cuộc đời của mình một ý nghĩa qua những công việc hằng ngày để từ đó chúng ta có thể có được thật nhiều niềm vui!
2. Lao động còn giúp con người sống tình liên đới một cách tốt đẹp hơn.
Trong suốt mùa hè năm ấy, tôi có dịp quan sát một bé trai khoảng 12 tuổi, mỗi buổi sáng vào lúc 7 giờ, đến làng bên cạnh là địa phương chúng tôi để giao bánh mì. Đây là một em bé linh động, luôn vui vẻ và đúng giờ như một chiếc đồng hồ. Em dừng lại trước cửa những nhà giàu có muốn có bánh mì ăn sáng và sau đó lại vội vã đạp xe trở về nhà.
Ngày nọ, tôi có một cuộc đối thoại lý thú với em bé này như sau:
- Mỗi buổi sáng em phải dậy sớm, vậy em tự mình dậy hay phải có ai thức em dậy?
- Má em! Má em đánh thức tất cả mọi người trong nhà, trước hết là em. Kế đó, má cho em ăn sáng và em ra đi. Sau đó, má đánh thức ba dậy, dọn xúp cho ba ăn trước khi ba đi làm. Rồi lại đến giờ đánh thức mấy đứa em của em dậy đi học. Xong xuôi tất cả thì má lo cho đứa út, cho nó uống sữa và cuối cùng mẹ tự dùng sáng.
Mỗi chuyến giao hàng buổi sáng em được người ta trả cho bao nhiêu?
- Mỗi tuần 20 quan. Em có 10 khách hàng.
- Thế ba em lãnh một ngày được bao nhiêu?
- 30 quan, em nghĩ vậy.
- Còn má em, má em nhận được bao nhiêu?
- Má em ư? - em bé nhìn tôi lộ vẻ kinh ngạc-. Nhưng má làm việc không vì gì cả cơ mà!
Vâng! Công việc làm là phương cách hữu hiệu nối kết con người lại với nhau trong tình tương thân tương ái và nhờ đó họ có thể cảm nghiệm được tình đoàn kết với nhau một cách cụ thể hơn.
Chúa đã tạo dựng nên mỗi người một cách độc đáo không ai giống ai. Chẳng có ai là hoàn toàn trên trần gian này. Chúa tạo dựng nên mỗi người trong hạn hẹp bất toàn như vậy là để cho con người biết quý trọng nhau, biết hợp tác với nhau để nhờ đó mà cuộc sống của con người được tốt đẹp hơn.
3. Lao động là con đường làm cho con người trở nên xứng đáng làm người hơn.
Sau khi tạo dựng nên con người trong vườn địa đàng, Thiên Chúa trao cho con người trách nhiệm trông coi công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã từng nói: “Cha Ta và Ta hằng làm việc và làm việc không ngừng” (Ga 5,17).
Thiên Chúa vẫn hằng làm việc. Như vậy khi ta làm việc là ta cộng tác với Thiên Chúa để làm cho trái đất này mỗi ngày mỗi đẹp hơn và cũng làm cho cuộc đời của ta giống Chúa hơn. “Cha ta và ta hằng làm việc và làm việc không ngừng”.
Thiền sư Trung Hoa Hyakyjo thường làm việc với các đệ tử, mặc dù ông đã 80 tuổi. Ông thường nhổ cỏ trong vườn, quét sân, hái củi. Các đệ tử của ông cảm thấy buồn vì ông thầy già của họ làm việc cực nhọc, không chịu nghỉ ngơi theo lời họ khuyên. Vì thế, một lần kia họ đem giấu hết dụng cụ làm việc của thầy Hyakyjo. Ngày hôm đó, thầy Hyakyjo không chịu dùng bữa. Ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa, ông thầy già cũng không ăn. Các đệ tử đoán: “Chắc bởi vì tụi mình dấu đồ làm việc của thầy chứ gì? Thôi, tốt hơn là đem trả lại chỗ cũ cho thầy”.
Thế rồi, ngày họ làm việc, ông thầy già cũng làm và dùng bữa như trước. Chiều đến, Hyakyjo dạy họ: “Không làm, không ăn!”.
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
SUY NIỆM 13: Thánh Giuse là mẫu mực các kẻ làm ăn.
(Lm Jos. Nguyễn Văn Tuyên)
Ngày xưa, có một ông vua muốn thử xem thần dân của mình ra sao, ông bèn tổ chức một cuộc vi hành. Ông lén đặt một tảng đá thật to giữa một con đường nhiều người qua lại, không phải để bắt buộc người dân phải bê nó đi, mà muốn xem người dân sẽ phản ứng tự nhiên ra sao với những vật gây cản trở mà họ bất ngờ gặp trên đường.
Sau khi đặt tảng đá, ông nấp vào một chỗ gần đó để quan sát. Nhiều người trông rất giàu có và lịch sự, ăn mặc áo lượt quần là đi qua. Họ than phiền với nhau rằng tảng đá làm nghẽn đường đi, coi nó là một vât đáng ghét. Thậm chí còn xúc phạm Đức Vua đã không cho người giữ đường xá sạch sẽ. Nhưng có một điểm chung là: chẳng ai đoái hoài gì đến tảng đá đó, họ thà đi vòng chứ không chịu đẩy nó ra vệ đường.
Tình cờ một bác nông dân nghèo đi chợ về ngang với một giỏ đầy rau. Nhìn thấy tảng đá, bác đặt giỏ của mình xuống và cố đầy tảng đá đi. Nhiều người đi qua thấy vậy, cười giễu bác là nhiễu sự. Nhưng chẳng một ai dừng lại giúp đỡ bác.
Sau nhiều nỗ lực, cuối cùng bác nông dân cũng thành công. Khi đẩy tảng đá đi được, bác mới phát hiện có một cái túi nằm trên mặt đường, ở chổ mà lúc nãy tảng đá nằm. Bác mở cái túi thì thấy có rất nhiều tiền. Lúc bấy giờ bác đã hiểu được một điều mà nhiều người khác không hiểu: Sau mỗi trở ngại, đều ẩn chứa những cơ hội cho mỗi con người.
***
Chúng ta biết rằng, vào năm 1955, ĐGH Piô XII đã long trọng đặt thánh Giuse là Đấng Bảo trợ cho những người lao động trên khắp thế giới.
Thông thường, người ta hay gán cho những người quyền thế một tước vị cao sang đi kèm theo… thế nhưng ở đây, ĐGH lại đặt Thánh Giuse làm đấng bảo trợ những người lao động chân tay - một tước vị xem ra, có vẻ bình thường, thế nhưng lại làm toát lên tất cả phẩm chất phi thường của con người “công chính” này.
Chúng ta biết, Thánh Kinh không dùng nhiều lời để nói về Thánh Giuse. Bản thân ngài cũng chẳng để lại một lời nào trong Kinh Thánh, nhưng qua việc làm của ngài, đã mang lại cho chúng ta những bài học quý giá.
Tự ban đầu, lao động vốn không phải là một hình phạt, nhưng là một lời mời gọi cộng tác với công trình tạo dựng của Thiên Chúa để làm cho đất đai, hoa màu sinh sôi, nảy nở. Lao động làm cho con người phát triển một cách toàn diện về sức vóc cũng như nhân cách. Chính Thiên Chúa cũng luôn luôn làm việc, như lời Đức Giêsu nói: “Cha Ta làm việc liên lỉ, và Ta cũng làm việc liên lỉ”. Thế nhưng, kể từ sau khi Nguyên Tổ phạm tội, thì đất đai trở nên gai góc. Lao động trở nên cực nhọc: Con người phải lao tác, đổ mồ hôi mới có miếng ăn.
Tuy là Cha nuôi Đức Giêsu – Con Thiên Chúa – nhưng thánh Giuse cũng mang thân phận con người như chúng ta, nên bản thân ngài cũng phải lao tâm khổ tứ để có thể nuôi sống gia đình Nadarét. Dù lao động vất vả cực nhọc, nhưng không ai thấy ngài có một lời phàn nàn, kêu trách. Ngài cũng không đòi cho mình được hưởng những quyền lợi mà đáng lý mình được hưởng, nhưng một lòng chấp nhận kiếp sống “Lấy bát mồ hôi đổi bát cơm”. Chắc hẳn, qua việc làm và đời sống của thánh nhân, ít nhiều cũng ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách của Đức Giêsu.
Không chỉ làm việc cực nhọc vất vả, mà thánh Giuse còn luôn làm việc trong sự “lắng nghe tiếng Chúa”. Ngài mau mắn thi hành ý Chúa mà không một lời phản ứng hay hoài nghi. Ngài sẵn sàng đón nhận Đức Maria về nhà làm vợ mình theo lời Sứ thần yêu cầu, cho dù ngài chưa hiểu được việc Đức Maria mang thai là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Theo lời Sứ thần báo mộng, Ngài tức tốc đưa trẻ Giêsu và Mẹ Người trốn sang Ai cập đang lúc đêm khuya. Ở nơi đất khách quê người, để kiếm được miếng cơm manh áo nuôi sống một gia đình là điều không hể dễ dàng chút nào. Kinh nghiệm đó, có lẽ những anh chị em đã từng đi làm ăn xa là những người thấu hiểu hơn ai hết.
Rồi cũng chính ngài, theo lời Sứ Thần, lại đưa Đức Giêsu và Mẹ Người từ Ai Cập trở về sống tại miền quê nghèo Nazarét. Ở nơi đây, Ngài sống gần gũi và hòa đồng với mọi người đến nỗi, người làng Nadaret gọi Đức Giêsu là “con bác thợ mộc Giuse”.
***
Trong một xã hội mà đối với nhiều người, lao động đang trở thành một gánh nặng, thì mẫu gương lao động của Thánh Giuse là lời nhắc nhở chúng ta. Câu khẩu hiệu “Lao động là vinh quang” dường như ai ai cũng thuộc, thế nhưng, trong thực tế, không ít người lại tìm cách trốn tránh cái “vinh quang” đó. Trong khi, nhiều người xả thân ngày đêm lo lắng cho sự nghiệp chung, lo cho sự thăng tiến của cộng đồng, thì cũng có những người chỉ tìm cách vun vén cho lợi ích của bản thân mình. Trong khi nhiều người bôn ba xuôi ngược để kiếm bát cơm, manh áo, thì lại không thiếu những người chỉ muốn ăn trên ngồi chốc hoặc tìm cách làm giàu trên mồ hôi nước mắt của người khác. Trong khi nhiều người làm ăn chân chính, thì cũng không thiếu những người dùng những thủ đoạn, mánh khóe, thậm chí dùng những phương thế tầm thường nhất để tiến thân.
Vậy làm sao để “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn?”, làm sao để sống và làm việc một cách ngay chính giữa cuộc đời vốn có quá nhiều nhiễu nhương này? Thiết tưởng, chúng ta hãy nhìn lên tấm gương của Thánh Giuse: Một con người vĩ đại nhưng cũng rất đỗi khiêm nhường.
Vĩ đại - bởi ngài là cha nuôi Chúa Cứu Thế đồng thời là bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ Maria.
Nhưng cũng thật khiêm nhường - bởi ngài sống và làm việc một cách cần mẫn trong sự tin tưởng tuyệt đối vào tình thương và sự quan phòng của Thiên Chúa.
Mừng lễ Thánh Giuse công nhân hôm nay, chúng ta cùng cầu xin Chúa, qua lời chuyển cầu của thánh Giuse giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của việc lao động, để qua những công việc hằng ngày, dù vất vả nặng nhọc hay an nhàn thư thái, chúng ta vẫn luôn tìm được niềm vui, bởi biết được rằng: Trong và qua lao động, chúng ta đang tiếp nối công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Và nếu có gặp phải những trở ngại trên đường đời hay trong công việc làm ăn thì chúng ta cũng được an ủi, bởi vì chính thánh Giuse - đấng bảo trợ của chúng ta - cũng đã trải qua những giai đoạn khó khăn như vậy, nhưng chúng ta luôn tin tưởng rằng: Ở đằng sau mỗi trở ngại đều ẩn chứa những cơ hội cho mỗi con người.
Lạy Thánh Giuse là mẫu mực các kẻ làm ăn. Xin cầu cho chúng con!
SUY NIỆM 14: SUY NIỆM NGẮN VỀ THÁNH GIUSE THỢ
(Trích Gương Thánh Nhân)
Vì muốn nâng cao tầm quan trọng của sức lao động của con người trong việc giữ gìn và phát triển thế giới, nên Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết lập ngày lễ Thánh Giuse Thợ vào năm 1955. Nhưng sự liên hệ giữa Thánh Giuse và ý nghĩa lao động đã có từ lâu trong lịch sử.
Trong nỗ lực cần thiết để nói lên nhân tính của Ðức Giêsu trong đời sống thường nhật, ngay từ ban đầu Giáo Hội đã hãnh diện nhấn mạnh rằng Ðức Giêsu là một người thợ mộc, hiển nhiên là được cha nuôi của Ngài huấn luyện, một cách thành thạo và khó nhọc trong công việc ấy. Nhân loại giống Thiên Chúa không chỉ trong tư tưởng và lòng yêu thương, mà còn trong sự sáng tạo. Dù chúng ta chế tạo một cái bàn hay một vương cung thánh đường, chúng ta được mời gọi để phát sinh kết quả từ bàn tay và tâm trí chúng ta, nhất là trong việc xây đắp Nhiệm Thể Ðức Kitô.
Lời Bàn
"Sau đó Thiên Chúa đưa người đàn ông vào sống trong vườn Eden, để cầy cấy và chăm sóc khu vườn" (Sáng Thế 2:15). Thiên Chúa Cha đã tạo dựng nên mọi sự và muốn con người tiếp tục công trình tạo dựng ấy. Con người có phẩm giá là qua công việc, qua sự nuôi nấng gia đình, qua sự tham dự vào đời sống sáng tạo của Thiên Chúa Cha. Thánh Giuse Thợ có thể giúp chúng ta tham dự một cách sâu xa vào mầu nhiệm tạo dựng ấy. Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã nhấn mạnh đến điều này khi nói: "Thần khí chan hòa trên bạn và mọi người phát xuất từ con tim của Ðấng vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ðấng Cứu Ðộ trần gian, nhưng chắc chắn rằng, không người lao động nào được thấm nhuần thần khí ấy một cách trọn vẹn và sâu đậm cho bằng cha nuôi của Ðức Giêsu, là người sống với Ngài một cách mật thiết trong đời sống gia đình cũng như làm việc. Do đó, nếu bạn ao ước muốn đến gần Ðức Kitô, một lần nữa chúng tôi lập lại rằng, 'Hãy đến cùng Thánh Giuse''" (xem Sáng Thế 41:44).
************************
*******************************
Thứ Bảy: Ga 14, 7-14
Thứ Bảy 01/05/2021 – Cầu nguyện nhân danh Chúa.
01/05 – Thứ Bảy đầu tháng, tuần 4 Phục Sinh.
"Ai thấy Thầy là xem thấy Cha".
Lời Chúa: Ga 14, 7-14
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người".
Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con". Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Philipphê, Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin, vì các việc Thầy đã làm.
Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm; người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho".
SUY NIỆM 1: Làm những việc lớn hơn nữa
Suy niệm:
Sau khi ông Tôma hỏi Thầy Giêsu về đường (Ga 14, 5),
thì ông Philípphê lại xin Thầy cho các môn đệ thấy Chúa Cha (c. 8).
Không rõ Philípphê muốn thấy Thiên Chúa theo kiểu nào,
bởi lẽ theo niềm tin chung của người Do thái
không ai thấy Thiên Chúa chí thánh mà sau đó còn sống được (x. Xh 33, 20).
Dù sao khát vọng được thấy Thiên Chúa là ước mơ chính đáng.
Thiên Chúa đã thỏa mãn ước mơ mà Ngài đã đặt vào lòng con người.
Nơi Đức Giêsu, là Ngôi Lời nhập thể và là Con Thiên Chúa,
chúng ta có thể thấy được Thiên Chúa bằng mắt phàm.
“Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (c. 9).
Nhìn ngắm khuôn mặt Thiên Chúa nơi Đức Giêsu
chúng ta chẳng những không phải chết, nhưng được sống.
Theo quan niệm của người Do thái,
sứ giả là đại diện trọn vẹn cho người sai mình.
Đức Giêsu đã là sứ giả cho Cha một cách tuyệt vời.
Ngài là một với Thiên Chúa, Đấng sai Ngài:
“Thầy ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha ở trong Thầy” (c. 11).
Các lời Ngài nói, Ngài không tự mình nói.
Các việc Ngài làm, Ngài không tự mình làm.
“Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy,
chính Người làm những việc của mình” (c. 10).
Nhìn những việc Đức Giêsu làm, chúng ta nhận ra đó là việc của Cha.
Cha làm việc của Cha qua Con của mình là Đức Giêsu.
“Ai tin vào Thầy, người đó sẽ làm được những việc Thầy làm.
Người đó còn làm được những việc lớn lao hơn nữa,
bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (c. 12).
Chúng ta vẫn ở trong mùa Phục sinh, mùa của sự sống chiến thắng.
Đức Giêsu đã về với Chúa Cha và được vào trong vinh quang.
Khi tin vào Ngài, khi gắn bó với một Đấng phục sinh quyền năng như thế,
chúng ta có thể làm được những điều như Ngài đã làm:
trừ quỷ, chữa bệnh, hoàn sinh kẻ chết (Mc, 16, 17-18; Cv 9, 34.40).
Và như Đức Giêsu, điều vĩ đại mà chúng ta có thể làm cho thế giới hôm nay
là yêu thương, yêu như Thầy đã yêu, yêu đến hiến mạng.
Hãy mạnh dạn nhân danh Đức Giêsu mà xin,
vì biết thế nào Ngài cũng làm cho người gắn bó với Ngài.
Tất cả để Cha được tôn vinh nơi Con (c. 14).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-Tinh)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: TRÀN ĐẦY HOAN LẠC VÀ THÁNH THẦN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Phi-lip-phê tâm thành muốn biết Đức Chúa Cha. Nhưng câu trả lời của Chúa Giê-su đầy bức xúc, buồn phiền lẫn với trách móc: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh chưa biết Thầy ư”? Hỏi về Cha mà lại trả lời về Con. Vì “Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy”. Vì thế “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”. Hỏi về Cha như thế là chưa hiểu Con. Chưa hiểu vì chưa đi vào tình yêu. Tình yêu không thể định nghĩa. Chỉ có thể cảm nghiệm. Ai chưa yêu thì chưa hiểu được tình yêu.
Thiên Chúa là tình yêu. Ba Ngôi trong một Chúa. Một tình yêu hoàn hảo. Nên Ba Ngôi kết hợp mật thiết. Vì “Ta và Cha Ta là một”. Chúa Giêsu hoàn toàn kết hợp với Chúa Cha. Đến độ “Các lời Thầy nói với an hem, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình”. Cuộc kết hợp chặt chẽ đến nỗi Chúa Giêsu “sống nhờ Chúa Cha”. Và vì lương thực của Chúa Giêsu chính là làm theo ý Chúa Cha. Như vậy trọn tấm thân, cuộc sống, mọi tư tưởng, lời nói, việc làm của Chúa Giêsu đều là của Chúa Cha. Tình yêu trong Chúa Thánh Thần khiến Ba Ngôi trở thành nguồn mạch tình yêu, nguồn mạch sự sống, nguồn mạch hạnh phúc.
Hôm nay Chúa Giê-su cũng hỏi tôi như hỏi Phi-lip-phê: “Thầy ở với con bấy lâu mà con không biết Thầy sao”. Vì biết Chúa Giêsu thì phải đi vào tình yêu. Phải sống nhờ Chúa Giêsu. Và như Chúa Giêsu sống nhờ Chúa Cha, tôi phải để Chúa Giêsu suy nghĩ, nói năng và hành động trong tôi.
Thánh Phao-lô là người đạt đến trình độ đó. Nên ngài có thể nói: “Tôi đã chịu đóng đinh vào thập giá cùng với Chúa Kitô. Nên nếu tôi sống, không còn là tôi mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Các tông đồ sau ngày Chúa Phục Sinh cũng đã đi vào tình yêu Chúa Kitô. Các ngài không còn sống theo xác thịt nữa, nhưng sống theo Chúa Thánh Thần. Các ngài sống trong tình yêu. Các ngài thực sự biét Chúa Kitô, biết Chúa Cha và luôn sống theo Chúa Thánh Thần. nên các ngài luôn bình an. Dù gặp gian nan khốn khó, bắt bớ. Nhưng các ngài luôn tràn đầy hoan lạc và Thánh Thần.
SUY NIỆM 3: Cầu nguyện nhân danh Chúa.
Thường tình chúng ta không tiếc lời ca ngợi kẻ xa lạ vì đã làm được những việc đáng kể, nói ra nhiều câu chí lý, có một hành động đáng phục. Trong khi đó chúng ta lại rất hà tiện lời khen đối với người sống gần bên cạnh, trong chính tập thể chúng ta, dù người đó không những đã làm, đã nói, đã sống, mà còn hơn cả những người được ca ngợi, nhưng lại sống xa chúng ta. Ðây có thể phần nào là hoàn cảnh sống của các môn đệ, nhất là của Philipphê. Họ đã sống gần Chúa Giêsu, Thầy của mình, bao nhiêu năm qua, nhưng dường như họ vẫn chưa hiểu Chúa và mối tương quan của Ngài với Thiên Chúa Cha. Chính vì thế, mà trong câu nói của Chúa Giêsu cho các môn đệ có mang chút ít sự chua xót và trách móc: "Thầy đã ở với các con lâu rồi mà các con không biết Thầy sao? Hỡi Philipphê, ai xem thấy Thầy thì cũng xem thấy Cha. Hãy tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy. Ít nhất, các con hãy tin điều đó vì thấy các việc Thầy đã làm".
Thật thế, không thiếu những dấu chỉ cho chúng ta biết mối quan hệ thâm sâu và đặc biệt giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha. Ðặc biệt trong đoạn Phúc Âm vừa đọc trên, chúng ta có thể ghi nhận một dấu chỉ đặc biệt, đó là Chúa Giêsu qua Chúa Thánh Thần mà Ngài sẽ ban xuống, sẽ ban cho các môn đệ làm những việc cả thể hơn nữa. Họ sẽ hành động nhân danh Chúa, sẽ khai sinh một cộng đoàn mới, một Giáo Hội của Chúa. Nhưng chắc chắn các môn đệ sẽ gặp khó khăn và phương thế để vượt qua những khó khăn là cầu nguyện, cầu nguyện nhân danh Chúa. Hai lần trong cùng một đoạn văn vừa đọc, Chúa Giêsu đã yêu cầu các môn đệ của Ngài hãy cầu nguyện, cầu nguyện hết lòng tin tưởng, cầu nguyện nhân danh Chúa. Chúng ta có xác tín về những gì Chúa Giêsu giãi bày cho chúng ta hay không?
Lạy Chúa, trong ánh sáng phục sinh của Chúa, chúng con được mạc khải cho biết thực thể đúng thực của Chúa, là Ðấng sống hiệp nhất với Thiên Chúa Cha, nhưng đồng thời không bỏ quên chúng con. Chúa muốn chúng con hướng về Chúa. Xin đừng để chúng con đi tìm một vì Thiên Chúa khác, mà quên chính Chúa, là Ðấng luôn luôn hiện giữa chúng con mọi nơi mọi lúc.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Cảm nghiệm lời chứng
Phi-líp dám liều như Mô-sê và Ê-li-a đã xin thấy mặt Thiên Chúa. Các ông đã nhận được tiếng Chúa nói từ trong bụi gai bốc lửa và trong tiếng gió nhè nhẹ, đó là sự cảm nghiệm huyền nhiệm. Nhưng họ chỉ được đáp lời thật sự lúc Thiên Chúa hiện hình trong Đức Giêsu. Đó là lúc biến hình mà Chúa Cha đã cho thấy Con Ngài vinh quang sáng láng và bao phủ bằng tình yêu dấu của Chúa Cha trước mặt các tông đồ làm cho các ông ngất đi trong ánh sáng.
Ánh sáng này được Đức Giêsu tỏ ra cho những người đồng bàn trong bữa tiệc ly, khi nói về Chúa Cha vô hình, đó là ánh sáng của tình yêu hy sinh tận tình. Chính Đức Giêsu đã đón nhận tình yêu Chúa Cha trong Người, và tình yêu này sẽ đốt cháy Người đến lúc chết.
Thực sự, điều chúng ta thiếu, đó là thiếu nhận biết về Đức Giêsu bằng cảm nghiệm thân mật. Nhờ vốn kiến thức, nhờ nghiên cứu những bản văn thánh, chúng ta chỉ mới nhận được một Đức Giêsu bên ngoài chúng ta, bằng định nghĩa và bản tóm. Đó chỉ là bước đầu: cần thiết nội tâm hóa tất cả những hiểu biết đó trở nên cảm nghiệm sống động làm nguồn suối đặt nền móng cho chính mình, cam kết gắn bó riêng tư với Ngài. Nhưng nhiều lần sự cam kết gắn bó ấy vọt chảy ra một tình cảm luyến ái từ tâm can, một ước muốn cảm mến xúc động như được đụng chạm một niềm vui sướng chóng qua.
Cần thiết phải đào sâu và đi xa hơn nữa, đến tận căn tính trong bản vị tinh thần của chúng ta, mới thực sự là sự hiệp nhất dưới tác động của Thánh Thần. Chỉ có sức mạnh Thánh Thần mới làm cho chúng ta sống sâu sắc mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô. “Tái sinh bởi Thánh Thần” như Đức Giêsu đã nói với ông Ni-cô-đê-mô, là làm cho con người chúng ta từ tâm trí, tình yêu và linh hồn được hiệp thông với Chúa Cha trong Đức Kitô.
Đức Giêsu đã làm chứng cho ta thấy Chúa Cha và Người đã trở nên chứng nhân cho tình yêu của Ngài và cho mọi người bằng việc Ngài làm. Vậy chúng ta làm chứng cho tình yêu nào? Tình yêu đó có được làm chứng bằng việc làm của chúng ta không? Bằng chứng có thể hiện được tài năng nhân tính và sức sống tinh thần của chúng ta không? Những chứng nhân của lòng yêu thương đôi khi trở thành tử đạo như Đức Kitô.
L.P
SUY NIỆM 5: Nhìn thấy Chúa trong cuộc sống
Một vị vua nọ có lần nẩy ra ý nghĩ táo bạo: ông cho triệu mời các lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần phải làm thế nào cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu. Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa: làm thế nào có thể thỏa mãn được một ước muốn càn gở như thế. Biết được nỗi lo âu của các nhà lãnh đạo, một kẻ chăn chiên dẫn nhà vua đến đồng cỏ nơi anh thường chăn súc vật. Họ đi bộ, chứ không dùng xe, khi tới nơi, mặt trời đã gần đỉnh ngọ. Kẻ chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và xin nhà vua nhìn. Vua nổi giận bảo anh muốn làm mù đôi mắt của ông hay sao. Bấy giờ kẻ chăn chiên mới quì xuống trước mặt vua và thừa: “Tâu bệ hạ, chỉ một vật do bàn tay Thiên Chúa tạo dựng mà ánh quang của nó rực rỡ đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy Thiên Chúa được”. Chính lúc ấy, nhà vua đã nhìn thấy Thiên Chúa không phải bằng đôi mắt, nhưng bằng niềm tin.
Trong Tin Mừng hôm nay, Philip, một trong mười hai đã xin Chúa Giêsu tỏ cho thấy Thiên Chúa Cha. Chắc hẳn khi nói điều đó Philip đã liên tưởng đến hình ảnh một Thiên Chúa quyền năng đã tỏ vinh quang Ngài trên núi Sinai, một Thiên Chúa mà Môsê chỉ được thấy phía sau lưng Ngài. Tâm trạng của Philip cũng là tâm trạng của rất nhiều người trong chúng ta, đó là một niềm tin đòi hỏi sự lạ. Bởi thế, không ít người sẵn sàng hao tổn tiền bạc và thời giờ để tìm đến những nơi xẩy ra sự lạ, đối với họ, một lần hành hương có ý nghĩa và giá trị cho cả cuộc đời.
Đáp lại yêu cầu của Philip, Chúa Giêsu đã đưa ra một khẳng định và một câu hỏi: trước hết Ngài nêu lên một chân lý: “Ai thấy Thày là thấy Cha Thày”, đó là một thực tại đã phá hiển nhiên; câu hỏi tiếp sau đó như một nhắc nhở cho Philip: hãy nhìn lại cuộc sống thân tình giữa Thày và các môn đệ. Những lời Thày nói, những việc Thày làm, không phải là của Thày, mà là của Thiên Chúa Cha ở trong Thày. Sự thân tình quen thuộc đã khiến cho các môn đệ không nhận ra Ngài là Thiên Chúa. Lời nhắc nhở của Chúa Giêsu đối với Philip cũng là lời nhắc nhở chúng ta: đừng để những nét quen thuộc bên ngoài che mất thực tại bên trong. Tìm kiếm Thiên Chúa là điều tốt, nhưng thật đáng trách khi đứng trước mặt Ngài mà chẳng nhận ra Ngài. Chúng ta nôn nao tìm dấu lạ, nhưng dấu lạ xẩy ra trước mặt mà chẳng nhìn thấy: hàng ngày qua lời truyền phép, Chúa Giêsu hiện diện trên bàn thờ, nhưng đã mấy khi chúng ta tỏ thái độ cung kính tin nhận Ngài? Trong cuộc sống biết bao lời cầu xin được dâng lên Thiên Chúa nhưng đã mấy lần chúng ta phải tỉnh để nhận ra ơn lành Ngài ban.
Ước gì chúng ta giữ mãi thái độ tìm kiếm, một sự tìm kiếm không ở đâu xa, nhưng trong chính cuộc sống quen thuộc hàng ngày. Đập vỡ chiếc vỏ quen thuộc bằng cách ngạc nhiên đặt câu hỏi, chắc chắn chúng ta sẽ nhận ra khuôn mặt của Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: KẾT HỢP VỚI CHÚA – LÀM ĐƯỢC MỌI SỰ (Ga 14, 7-14)
Chúng ta nghe nói đây đó nhiều vị thánh đã làm phép lạ cách phi thường. Có nhiều đấng làm phép lạ ngay khi còn sống, chẳng hạn như thánh Giêrađô, Vinh Sơn, Mattinô...
Đứng trước những phép lạ đó, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng và ngạc nhiên! Tuy nhiên, chìa khóa để mở ra sự bất ngờ này, chính là sự kết hiệp mật thiết sâu xa giữa các thánh và Đức Giêsu. Vì thế, việc phi thường các thánh làm thực ra không phải, mà là Chúa đang hành động nơi các ngài.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói rất rõ về sự kết hiệp này. Câu chuyện được khởi đi từ sự ngỡ ngàng và ngạc nhiên của Philípphê khi ông cất lên hỏi Đức Giêsu về một sự kiện có tính siêu nhiên: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện". Đức Giêsu đã trách nhẹ ông, vì Ngài đã ở với các ông bấy lâu, giảng dạy nhiều điều, đã làm những dấu lạ điềm thiêng, cũng như mạc khải cho ông biết Ngài từ Chúa Cha mà đến, và làm những việc của Chúa Cha, vậy thì tại sao ông và các môn đệ vẫn không tin??? Thật là đáng buồn! Vì thế, Đức Giêsu nói với ông Philípphê rằng: “Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm”.
Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn dạy cho các Tông đồ một bài học về sự kết hiệp. Không kết hiệp với Ngài thì không thể làm được việc gì. Nhưng nếu kết hiệp với Ngài thì sẽ làm được mọi chuyện như chính Ngài đã làm và có khi còn hơn thế nữa... Khuôn mẫu của sự kết hợp chính là giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha. Người môn đệ khi ra đi loan báo Tin Mừng cũng vậy! Phải kết hợp chặt chẽ với Chúa như cành liền cây. Có thế, chúng ta mới trở thành người mang Tin Mừng cho anh chị em mình. Không có điều này, chúng ta sẽ chỉ làm những chuyện mà chúng ta thích chứ không phải là Thiên Chúa muốn! Và theo lẽ đương nhiên, chúng ta sẽ chẳng làm được việc gì vì chúng ta đã không nhân danh Đức Giêsu mà xin với Thiên Chúa. Chính vì điều này, mà chúng ta thấy nhiều sứ giả của Chúa bị thất bại, gãy cánh...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống sự hiệp thông chặt chẽ với Chúa để chúng con trở thành chứng nhân chân thật nhờ biết gắn bó với Ngài. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mạc khải cho các môn đệ về Chúa Cha. Tất cả đời sống của Đức Giêsu: lời nói, suy tư, việc làm... đều qui về Chúa Cha. Và cũng trong Đức Giêsu, mầu nhiệm cao siêu của Chúa Cha được bầy tỏ cách hoàn hảo nhất. Trong Cha có Con và trong Con có Cha. Vì thế, tin vào Đức Giêsu là tin vào Chúa Cha. Và xin gì với Chúa Cha nhân danh Đức Giêsu thì chính Đức Giêsu thực hiện.
2. Ông Philipphê xin với Thầy Giêsu: “Xin cho chúng con thấy Chúa Cha”, điều đó chứng tỏ khao khát của ông cũng là khao khát của biết bao người, những người thiện chí không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa. Đức Giêsu mạc khải cho các môn đệ về Chúa Cha, về mối tương quan của Ngài với Cha: “Ai biết Thầy là biết Cha” và “Ai thấy Thầy là thấy Cha”, vì “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy”. Lời nói và việc làm của Đức Giêsu chính là lời nói và việc làm của Thiên Chúa. Tất cả đời sống của Đức Giêsu: Lời nói, suy tư, việc làm... đều qui về Chúa Cha.
Chúa Cha được bầy tỏ cách hoàn hảo nhất trong Đức Giêsu: Trong Cha có Con và trong Con có Cha. Vì thế, tin vào Đức Giêsu là tin vào Chúa Cha. Và xin gì với Chúa Cha nhân danh Đức Giêsu thì được chính Đức Giêsu thực hiện.
3. Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa thật và là người thật. Đứng về phương diện loài người, Đức Giêsu giống chúng ta mọi đàng, chỉ khác một điều là không có tội. Quả thế, con người là con đường dẫn về với Chúa. Thiên Chúa xem ra không chọn lựa một con đường nào khác hơn để tỏ mình ra cho bằng con đường con người. Ngài đã nói bằng cả lịch sử của dân Israel, và cuối cùng, như tác giả thư Do thái khẳng định: Ngài đã nói bằng người Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu đã tuyên bố: “Ta là đường”, chỉ qua Ngài, con người mới có thể biết Thiên Chúa là ai và nhất là mới có thể đến với Thiên Chúa.
4. Tuy chưa thấy nhan thánh Chúa, qua Đức Giêsu Kitô, con người vẫn có thể đi vào tương quan mật thiết với Ngài, Thiên Chúa mà chúng ta có thể chiêm ngắm qua Đức Giêsu không phải là một pho tượng bất động, mà là một ngôi vị sống động. Đức Giêsu đã mạc khải ngôi vị ấy như một người cha yêu thương. Do đó, tương quan của con người với Thiên Chúa không phải là tương quan chủ - tớ; con người không đến với Thiên Chúa bằng tâm tình của người nô lệ sợ hãi, mà là bằng lòng tin tưởng phó thác của một người con (Mỗi ngày một tin vui).
5. Khao khát được biết Thiên Chúa là khát vọng chính đáng của con người, và cùng đích của con người là được đời đời chiêm ngưỡng thánh nhan Cha. Chính vì thế mà sau khi Đức Giêsu nói về Thiên Chúa Cha, tông đồ Philipphê đã không ngần ngại thưa với Đức Giêsu rằng: “Xin Thầy tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con đã mãn nguyện”.
Thấy Thiên Chúa Cha ư? Con mắt phàm tục không nhìn thấy Thiên Chúa. Đó là điều được nói đến trong Cựu ước, rằng không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống: Maisen phải che mặt khi đối diện, Êlia chỉ được nhìn thấy phía sau, các tổ phụ, thẩm phán, và tiên tri chỉ thấy Chúa qua các thiên sứ hoặc các biến cố như mây, lửa... Và chính Đức Giêsu cũng khẳng định: “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng phải nhờ Chúa Con mạc khải cho”. Mở đầu bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”.
6. Theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng phải giới thiệu Chúa cho những người khác. Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, được đứng thẳng như những con người tự do. Như vậy, cũng trong mức độ sống tự do và trưởng thành, con người trở thành con đường dẫn về với Chúa. Thật thế, một nhân cách sung mãn là con đường dẫn về với Chúa. Đức Giêsu là đường dẫn về với Chúa Cha theo ý nghĩa ấy: không ai đã là người một cách sung mãn hơn Ngài. Đi trên con đường về với Chúa Cha là chính Đức Giêsu, người Kitô hữu cũng được mời gọi trở thành lối dẫn về với Chúa, nhưng họ chỉ có thể là lối dẫn về với Chúa, khi nhân cách của họ cũng được sung mãn như chính Đức Giêsu.
7. Truyện: Không ai nhìn thấy Thiên Chúa.
Một vị vua nọ nảy ra ý nghĩ táo bạo, ông cho mời các lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần phải làm thế nào cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu.
Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa. Làm thế nào có thể thỏa mãn được một ước muốn càn rỡ như thế. Biết được mối lo âu của các nhà lãnh đạo, một kẻ chăn chiên đến xin các vị lãnh đạo tôn giáo được làm công việc đó.
Vào một buổi sáng như đã hẹn, kẻ chăn chiên dẫn nhà vua đến đồng cỏ nơi anh ta thường chăn súc vật. Họ đi bộ, chứ không dùng xe, khi tới nơi, mặt trời đã gần đỉnh ngọ. Kẻ chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và xin nhà vua nhìn.
Vua nổi giận bảo anh muốn làm mù đôi mắt của ông hay sao. Bấy giờ kẻ chăn chiên mới quì xuống trước mặt vua và thưa: “Tâu bệ hạ, chỉ một vật do bàn tay Thiên Chúa tạo dựng mà ánh quang của nó rực rỡ đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy Thiên Chúa được”?
Chính lúc ấy, nhà vua đã nhìn thấy Thiên Chúa không phải bằng đôi mắt trần gian, nhưng bẳng đôi mắt của niềm tin.
30/04 Ðường về quê trời
- Viết bởi Ga 14, 1-6
Ðường về quê trời.
Thứ Sáu tuần 4 Phục Sinh.
"Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".
Lời Chúa: Ga 14, 1-6
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi".
Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?"
Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thầy là đường
Suy niệm:
Sách Công vụ Tông đồ có một lối nói đặc biệt để chỉ Kitô giáo.
Tôn giáo mới này được gọi Đường của Chúa (Cv 18, 25-26),
hay thường xuyên hơn, được gọi là Đường (Cv 19, 9. 23; 22, 4; 24, 14. 22).
Sách Công vụ cũng có lối nói đặc biệt để chỉ các Kitô hữu.
Họ được gọi là những người thuộc về Đường (Cv 9, 2),
và họ đã chịu bách hại vì theo con đường này, theo Đạo này.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
chúng ta nghe Đức Giêsu nói: “Chính Tôi là Đường” (c. 6).
Phải chăng vì thế Kitô giáo được sách Công vụ gọi là Đường của Chúa,
và các Kitô hữu đầu tiên được gọi là những người thuộc về Đường?
Đối với Kitô hữu, theo đạo chính là theo một Con Đường.
Con Đường ấy không phải chỉ là một số lễ nghi hay giáo lý phải giữ,
cũng không phải là những minh triết khôn ngoan phải theo.
Con Đường ấy hiện thân nơi một con người.
Theo đạo chính là theo Con Đường mang tên Giêsu,
là gắn bó sống chết với Giêsu, chia sẻ sứ mạng của Giêsu,
Con Thiên Chúa làm người bằng xương bằng thịt.
Đức Giêsu không chỉ là người dẫn đường.
Chính Ngài là Đường, là Đạo.
Hơn thế nữa, Ngài là Con Đường duy nhất dẫn ta đến với Chúa Cha.
“Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (c. 6).
Phải qua Con Đường Giêsu chúng ta mới vào được thế giới của Thiên Chúa,
bởi lẽ chỉ Đấng từ trời xuống mới có thể đưa chúng ta lên trời.
Ngày nay người ta nói đến nhiều con đường khác để được cứu độ.
Nhưng con đường nào cũng phải đi qua Con Đường Giêsu.
Nơi Con Đường này chúng ta gặp được Sự Thật trọn vẹn về Thiên Chúa.
Nơi đây chúng ta gặp được Sự Sống viên mãn của chính Thiên Chúa.
Khi các môn đệ xao xuyến vì đến giờ chia tay,
Thầy Giêsu cho biết Ngài đi về với Cha để dọn chỗ cho họ (c. 2).
Chỗ ở vĩnh viễn của họ là nơi Thầy trò được ở với nhau mãi mãi.
“Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy,
để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 3; x. 12, 26; 17, 24).
Thiên đàng là nơi Thầy trò được ở bên nhau, không gì ngăn cách nổi.
Tình Thầy trò đã bắt đầu ở đời này và sẽ kéo dài đến vĩnh cửu.
Là người theo Đạo Giêsu, chúng ta biết mình từ đâu đến và sẽ đi đâu.
Chúng ta không đi loanh quanh cho đời mỏi mệt.
Chúng ta biết hạnh phúc đang chờ mình ở cuối đường.
Nhưng nếu chúng ta không có tình bạn thiết thân với Giêsu ở đời này
thì vào thiên đàng để làm gì?
Cầu nguyện:
Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con
mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng,
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con
mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.
Chúa đã gọi con, đã gọi to
và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng
và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát
để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm an bình nơi Chúa. Amen. (Thánh Âu-Tinh)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: ĐƯỜNG SỰ SỐNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đức Phật bi quan vì thấy con người đắm chìm trong vòng xoáy khắc nghiệt của sinh, lão, bệnh, tử. Nên Phúc, Lộc, Thọ mãi mãi là niềm mơ ước của con người. Mơ ước chỉ là mơ ước. Vì chưa ai tìm ra con đường đến được nơi ước mơ. Nhưng hôm nay Chúa Giê-su loan báo một lời làm nức lòng con người. Sáng lên niềm hi vọng: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”. Chúa là đường. Đi theo Chúa ta sẽ đến nơi. Chúa là sự thật. Đi theo Chúa ta không lo bị lầm lạc. Chúa là sự sống. Sống với Chúa ta không bao giờ chết. Và còn hơn nữa ta sẽ được hạnh phúc. Vì đó là thiên đàng. Thiên đàng là nơi Chúa Giê-su ở với Chúa Cha. Đây không còn là ước mơ. Nhưng là hiện thực. Vì chính Chúa chuẩn bị chỗ cho ta ở thiên đàng. “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.
Tuy nhiên đi theo Chúa không phải dễ dàng. Vì có những thế lực ma quỷ luôn tìm cách chặn đường. Bằng gian dối. Bằng chết chóc. Chính Chúa Giê-su đã phải chiến đấu để mở ra con đường sự thật và sự sống.
Thế gian là gian dối. Muốn bịt miệng sự thật. “Tuy không thấy Người có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi Phi-la-tô xử tử”. Người Do thái dùng chứng gian tố cáo Người. Phi-la-tô biết Người vô tội. Nhưng vì sợ người Do thái, ông phải kết án Chúa. Để đánh lừa lương tâm, ông rửa tay và nói: “Ta vô can trong việc đổ máu người này” (Mt 27,24). Gian dối cấu kết với gian dối để tiêu diệt sự thật.
Người chết liên minh với người chết để tiêu diệt sự sống. “Sau khi thực hiện tất cả mọi điều Kinh Thánh chép về Người, họ đã hạ Người từ trên cây gỗ xuống và mai táng trong mồ”. Hơn nữa họ còn đòi Phi-la-tô niêm phong và cho lính canh gác ngôi mộ. Người sống phải canh giữ người chết. Nhưng chính họ mới là người chết. Vì họ không ngăn nổi sự sống. Chúa Giê-su đã phá tung cửa mồ. Sáng láng bước ra. Vì “Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết”.
Chúa Giê-su đã mở ra con đường. Người là con đường dẫn đến sự thật và sự sống. Đi theo Người ta cũng phải chiến đấu với các thế lực gian dối và sự chết. Nhưng ta hãy tin tưởng. Vì Chúa đã chiến thắng. Chúa là sự thật. Nên đã chiến thắng gian dối. Chúa là sự sống. Đã chiến thắng thần chết.
SUY NIỆM 3: Ðường về quê trời
Khi tìm giải đáp cho một bài đố tìm đường từ một khởi điểm dẫn tới một địa điểm được yêu cầu thì người tham dự thường lúng túng, vì có quá nhiều đường có thể dẫn tới nơi nhưng thực sự lại dẫn đến ngõ cụt. Nhưng nếu tinh ý quan sát một chút, người ta có thể thấy công việc tìm kiếm dễ như trở bàn tay. Ðó là thay vì bắt đầu từ điểm khởi hành với nhiều ngõ rẽ, chúng ta hãy bắt đầu từ nơi đến rồi đi ngược lại. Với phương pháp này ta sẽ dễ dàng tìm ra con đường ngắn nhất dẫn đến nơi phải đến.
Như vậy, điều quan trọng không phải là biết đường không mà thôi, mà còn là và nhất là biết nơi mình đến, cần biết nơi mình đến trước khi bắt đầu đi. Khi hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, thì làm sao chúng con biết đường đi tới", thánh Thomas tông đồ đã lý luận theo cùng một nguyên tắc như nói trên.
Nhưng trường hợp mà thánh Thomas tông đồ đặt ra xem ra như không cần thiết nữa, nếu người tìm đường có được mối liên lạc thân tình với chính Ðấng là Ðường, là sự Thật và sự Sống. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các đồ đệ của Ngài biết nơi phải đến và con đường dẫn đến đó là chính Ngài: "Thầy là Ðường, là sự Thật và là sự Sống". Vậy, điều quan trọng nhất là theo Ngài, sống kết hiệp với Ngài, đừng rời xa Ngài, nhất là khi gặp gian nan thử thách. Chúa đã cảnh tỉnh trước các môn đệ: "Tâm hồn các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy".
Ðường về quê trời có nhiều thử thách nhưng người đồ đệ có thể vượt qua dễ dàng nếu biết để cho Chúa hướng dẫn, để cho Chúa đưa mình đến nơi Chúa muốn. Bí quyết căn bản của đời sống Kitô là để cho Chúa tự do hướng dẫn mình đi, là biết cộng tác với ơn Chúa, là để cho Chúa Giêsu Kitô chiếm hữu như thánh Phaolô tông đồ ngày xưa, ngài đã bộc lộ cho những người con tinh thần của ngài bí quyết đời Kitô, đó là: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi. Kiếp sống tôi đang sống, tôi muốn sống trong niềm tin hoàn toàn vào Ðấng đã yêu thương tôi và trao nộp chính mình cho tôi".
Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, Chúa đã nêu chỉ cho chúng con biết đường dẫn về quê trời, đường dẫn chúng con đến nguồn hạnh phúc thật. Nhưng còn có một điều cần, đó là sự cộng tác của chúng con. Chúng con cần tin tưởng vào Chúa, cần để Chúa hướng dẫn cuộc sống mình. Nếu chúng con tự phụ, ỷ lại vào sức riêng mình, thì chúng con sẽ làm hư chương trình của Chúa. Xin Chúa thương ban ơn giúp chúng con thay đổi tâm thức và thay đổi con tim mỗi ngày một trở nên vâng phục và cộng tác tích cực với sự hướng dẫn của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Dọn chỗ cho anh em
Khi chúng ta có những dự tính tương lai, khi chúng ta mơ ước về ngày mai, chúng ta rất hay hy vọng tìm được một chỗ tốt nào đó cho mình gửi tấm thân tàn để sống những ngày còn lại. Hay một ngôi mộ yên mả đẹp cho nắm xương tàn.
Ngày nay, người ta đang hy vọng xây những dẫy nhà chung cư tiện nghi để giải quyết những nhà ổ chuột cho hàng ngàn gia đình. Ai cũng mong muốn có một chỗ ở mới, những láng giềng lân cận tốt. Ai cũng khao khát được ở ngôi nhà của riêng mình với những tiện nghi theo kiểu mới, hợp thời trang, giữa khu vườn có phong cảnh lý tưởng.
Nhưng có biết bao gia đình không bao giờ tìm được một nơi ở tương xứng cho gia đình vì quá nghèo và giá cả quá mắc.
Tin mừng hôm nay dắt đưa chúng ta đến xem kế hoạch của Thiên Chúa đang dọn một chỗ ở mênh mông tráng lệ cho con người. Ngài là kiến trúc sư muôn đời, là sở hữu chủ vô biên.
Nhưng kế hoạch đó giống như những thứ nhà chúng ta đang ở, chỉ là những thứ tân trang theo những kiểu mẫu trần tục, thì chán chết. Hỏi có đáng chúng ta hy vọng vào đó nữa không?
Chúng ta trở lại câu hỏi này: Có gì ở bên kia cuộc đời? Khi tuổi già chấm dứt … Khi người ta nói: “Từ trần, đi rồi, tắt hơi thở cuối cùng …”, tôi sẽ đi về đâu? ở chỗ nào? chỗ chúng ta ở được Đức Giêsu dọn sẵn theo kế hoạch của Thiên Chúa là chỗ ở hiệp thông: sâu thẳm nhất, thông suốt nhất, liên đới nhất. Nơi mà láng giềng lân cận là những bạn chí ái nhất và sở hữu chủ là một người Cha. Chỗ chúng ta được mời đến ở là nhà mình, nhà Cha mình, và trung tâm nơi ở này là Đức Giêsu. Chính Người đã đưa chúng ta về ở với Người gần Thiên Chúa.
Mơ ước của chúng ta đượm mầu sắc rực rỡ về những ngôi nhà. Những vấn đề tương lai được mệnh danh là chỗ ở, “nơi cư trú”. Nhưng Đức Giêsu chỉ cho chúng ta con đường đến một nơi ở khác, nơi người ta hát vang ca khúc khải hoàn “nơi đầy ánh sáng, chan chứa tình thương tha thứ, an vui và tự do hạnh phúc”.
C.G
SUY NIỆM 5: Chúa sẽ đến lại
Cuộc trở lại nào cũng được khởi đầu bằng sự ra đi: có ra đi mới có trở lại. Thế nhưng cũng có những cuộc ra đi không bao giờ trở lại: đi để quên đi một quá khứ đau buồn, đi để thoát ly mọi ràng buộc, chân bước đi mà lòng rộn rã niềm vui. Những cuộc ra đi như thế chẳng bao giờ có hứa hẹn, có chăng chỉ là giả dối. Người ta chỉ hứa hẹn khi chân bước đi mà lòng chẳng muốn rời, lời hứa hẹn xoa dịu nỗi chia ly và hy vọng một ngày tái ngộ.
Chúa Giêsu sắp từ giã các môn đệ để trờ về cùng Cha, và điều đó khiến các ông u buồn xao xuyến. Không u buồn sao được khi đã ba năm tình nghĩa thày trò, không xao xuyến sao được khi đã mất đi điểm tựa. Chúng Giêsu biết rõ điều đó và các môn đệ cũng thấm thía nỗi buồn khi Ngài tuyên bố ra đi. Chính vì thế để trấn an họ, Ngài giải thích việc Ngài ra đi và hứa trở lại. Ngài ra đi không phải vì Ngài, mà vì các ông: Ngài đi dọn chỗ cho các ông và Ngài sẽ trở lại đem các ông đi theo Ngài. Còn gì vui sướng bằng. Người đi nhận chịu gian lao vất vả chỉ vì người ở lại, do đó người ở lại không còn mặc cảm bị bỏ rơi nhưng hãnh diện vì được người đi đặc biệt lưu tâm.
Thái độ của người ở lại không phải là u sầu than khóc, mà là góp sức với người đi bằng cách chuẩn bị sẵn sàng cho giờ hội ngộ. Còn gì bẽ bàng cho bằng khi trở lại người đi chỉ gặp được sự dửng dưng thờ ơ của người ở lại. Còn gì buồn lòng Thiên Chúa hơn khi Ngài đến gõ cửa mà tâm hồn đã đóng kín và đèn dầu đã cạn.
Khi lãnh nhận đức tin, người Kitô hữu cũng được Đức Kitô hứa hẹn. Ngài hứa sẽ trở lại với riêng từng người và với chung cho cả thế giới. Ngài sẽ trở lại đem họ đến nơi Ngài dọn sẵn, để họ hưởng trọn niềm vui mà hiện nay họ chỉ mới cảm nghiệm lờ mờ như dọi qua gương. Ngài không báo trước giờ Ngài trở lại, nhưng muốn họ luôn sẵn sàng như tân nương chờ đón tân lang.
Xin cho chúng ta biết chọn lời hứa trở lại của Chúa làm ngọn đuốc chiếu soi cuộc sống, để chúng ta thoát được mạng lưới của u buồn, và luôn sống trong lạc quan hy vọng vì biết rằng Chúa hằng quan tâm săn sóc chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: “ĐỪNG XAO XUYẾN” (Ga 14, 1-6)
Đứng trước cái chết của người thân, ai trong chúng ta lại không khỏi xao xuyến và lòng lại không quặn đau đến tột cùng vì sắp phải chứng kiến sự chia lìa vĩnh viễn!
Tin Mừng hôm nay trong một văn mạch hết sức ấn tượng, đó là sự đau buồn của các môn đệ trước sự ra đi của Đức Giêsu. Thật vậy, ba năm tình nghĩa thày trò, không xao xuyến sao được khi sẽ mất đi điểm tựa! Tuy nhiên, thấu hiểu được tâm trạng của các ông, nên tình thầy trò thân tín, Đức Giêsu đã tâm huyết chia sẻ với các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Thầy đi dọn chỗ cho anh em... để Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó”. Lời tâm huyết này được diễn ra trong bữa Tiệc Ly, một bữa ăn cuối cùng của tình thầy trò. Khi nói những lời ấy, Đức Giêsu trao cho các ông chìa khóa để thêm vững tin, đó là: để khỏi bị xao xuyến, thì: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Tin vào Thiên Chúa, vì Người hằng thương yêu chúng ta. Tin vào Đức Giêsu vì Ngài đi để chuẩn bị cho chúng ta như Ngài đã phán: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em [...] và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy vững tin vào Chúa trước mọi thử thách trông gai. Không được ủ rũ khóc than. Nhưng là chuẩn bị cho ngày hội ngộ với Đức Giêsu bằng việc sống những điều Ngài dạy. Hãy khước từ mọi sự bất chính, thêm niềm tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu và trung thành đi trên chính con đường của Ngài để được sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng con phải vững tin vào Chúa. Sống những gì Chúa dạy để được sự sống đời đời. Xin Chúa ban cho chúng con được sống xứng đáng với ơn gọi cao quý, đó là được làm con Chúa. Xin cho chúng con được sống bên Chúa khi đã hoàn thành sứ vụ trên trần gian, nơi mà chính Chúa ra đi trước để dọn chỗ cho chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Đức Giêsu là con đường
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu chia sẻ với các môn đệ những lời rất thân tình, tha thiết: Ngài sẽ ra đi về cùng Cha rồi Ngài sẽ trở lại đón các ông để Ngài ở đâu, môn đệ cũng ở đó với Ngài. Ngài cho các ông biết sứ mạng của Ngài là đến trần gian để dẫn đưa nhân loại về cùng Chúa Cha, đến sự sống đời đời. Chính Ngài là con đường duy nhất. Ai muốn đến cùng Cha, muốn có sự sống đích thực thì phải qua con đường đó. Nếu từ chối Ngài, không bao giờ chúng ta có thể đạt tới hạnh phúc viên mãn.
2. Trong khung cảnh bữa tiệc ly, Đức Giêsu đã dùng những lời lẽ rất thân tình, tha thiết để tâm sự với các môn đệ. Ngài báo cho họ biết là Ngài sẽ ra đi, đi đến một nơi rất lạ mà họ chưa bao giờ được biết. Nhưng rồi Ngài lại hứa sẽ trở lại đón họ đề cùng đưa họ đến nơi đó. Ông Tôma tò mò hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi”? Đức Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,5-6).
Khi nói như thế, ít nhiều Chúa đã muốn cho mọi người biết: mục tiêu hành trình của mọi người là về với Thiên Chúa là Cha. Đức Giêsu chính là người dẫn đường, hơn nữa chính Ngài là con đường dẫn ta đến đích điểm đó.
3. Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta biết: “Chính Ngài là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ngài đã tỏ bầy mầu nhiệm về Thiên Chúa, chỉ đường cho con người đến gặp Chúa Cha và dạy họ sống thế nào cho hợp ý Thiên Chúa. Ngài mạc khải chính Ngài, Đấng thực thi sứ mạng của Thiên Chúa bằng lời nói và hành động quyền năng nơi thế gian để cứu chuộc nhân loại. Ngài là con đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha như chính Ngài đã nói: “Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”. Ngài là con đường dẫn đến sự thật; sự thật giải thoát con người và là sự sống sung mãn cho con người vì chính Ngài là sự sống (Ga 11,25). Như thế, chỉ Đức Giêsu mới là con đường, là sự thật, là sự sống vĩnh cửu cho những ai tin vào Ngài (Ga 10,28).
4. Mọi người muốn vươn tới hạnh phúc, hạnh phúc tuyệt đối và trường cửu. Hạnh phúc này chỉ có trên nước Thiên Chúa. Vậy đâu là con đường đưa tới hạnh phúc đó? Chúng ta biết Đức Giêsu vừa là Chúa vừa là người. Ngài là trung gian hoàn hảo duy nhất giữa Chúa Cha với chúng ta. Biết bao con đường mở ra trước mắt chúng ta, nhưng chỉ có Ngài mới là con đường đưa chúng ta đến cùng Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha và bởi Chúa Cha mà ra. Chúng ta hãy tin tưởng bước theo Ngài vì chính Ngài đã khẳng định với chúng ta: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
5. Mục đích tối thượng của chúng ta là đi về nhà Cha, đi vào quê trời là quê hương của chúng ta.
Đường về quê trời có nhiều thử thách, nhưng người môn đệ có thể vượt qua dễ dàng nếu biết để cho Chúa hướng dẫn, để cho Chúa đưa mình đến nơi Chúa muốn. Bí quyết căn bản của đời sống Kitô là để cho Chúa tự do hướng dẫn mình đi, là biết cộng tác với ơn Chúa, là để cho Chúa Kitô chiếm hữu như thánh Phaolô tông đồ ngày xưa, ngài đã bộc lộ cho những người con tinh thần của ngài bí quyết đời Kitô: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà chính Đức Kitô sống trong tôi. Kiếp sống tôi đang sống, tôi muốn sống trong niềm tin hoàn toàn vào Đấng đã yêu thương tôi và trao nộp chính mình cho tôi”.
6. Khi nghe Đức Giêsu nói “Thầy là đường”, chúng ta cũng nhớ lại một chân lý bất biến là “qua thập giá tới vinh quang”. Đó là con đường duy nhất mà Đức Giêsu đã đi, để tiêu diệt sự chết và đi vào cõi sống đời đời. Theo đạo chính là Con Đường mang tên Giêsu, là gắn bó sống chết với Giêsu, chia sẻ sứ mạng của Giêsu, Con Thiên Chúa làm người bằng xương bằng thịt. Vì thế, muốn đạt đến Nước Trời, Kitô hữu cũng phải bước theo con đường đó. Về vần đê này, chúng ta hãy nghe John Newton chia sẻ:
“Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta không vác nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng ta cũng vác xong bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi”.
7. Truyện: Triết gia Diogène bán sự khôn ngoan.
Một ngày nọ, triết gia Diogène của Hy Lạp đã đến giữa chợ Athènes và dựng lên một căn lều có ghi đậm hàng chữ như sau: “Ở đây có bán sự khôn ngoan”.
Một bậc khoa cử tình cờ đi qua căn lều đọc được lời rao bảo, mới cười thầm trong bụng... Muốn biết đàng sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy tớ cầm tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.
Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ... Anh đưa cho Diogène 3 hào và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3 hào bỏ vào tủi, triết gia Diogène nói với người đầy tớ một cách trang trọng như sau: “Anh hãy về đọc lại cho chủ anh câu này: Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích”.
Vị khoa cử thành Athènes vô củng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày, và tất cả nhưng ai đi qua trước nhà ông đều có thể đọc thấy.
29/04 Củng cố đức tin
- Viết bởi Ga 13, 16-20
Củng cố đức tin.
Thứ Năm tuần 4 Phục Sinh. – Thánh Catarina Siêna, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy".
* Thánh nữ sinh năm 1347 tại Xiêna. Ngay từ thuở niên thiếu, chị đã khao khát sống cuộc đời hoàn thiện, khát khao chiêm ngưỡng Chúa Kitô chịu đóng đinh, và phục vụ Hội Thánh bấy giờ đang bị xâu xé. Vì thế, chị đã gia nhập Dòng Ba Đaminh.
Thấm nhuần tinh thần của thánh Đaminh, chị yêu mến Thiên Chúa và tha nhân một cách nồng nàn, cổ võ bình an thuận hòa giữa các thành của nước Italia, can đảm bênh vực quyền lợi và sự tự do của Đức Giáo Hoàng và canh tân đời sống đạo đức. Chị là tác giả của nhiều tác phẩm đạo lý và tu đức.
Chị qua đời năm 1380. Ngày 18 tháng 06 năm 1939, Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên phong chị làm bổn mạng nước Italia. Và ngày 04 tháng 10, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI tuyên phong cho chị là tiến sĩ Hội Thánh.
Lời Chúa: Ga 13, 16-20
Sau khi đã rửa chân các môn đệ, Chúa Giêsu phán với các ông: "Thật, Thầy bảo thật các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ, kẻ được sai không trọng hơn đấng đã sai mình. Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có phúc.
Thầy không nói về tất cả các con, vì Thầy biết những kẻ Thầy đã chọn, nhưng lời Thánh Kinh sau đây phải được ứng nghiệm: Chính kẻ ăn bánh của Ta sẽ giơ gót lên đạp Ta. Thầy nói điều đó với các con ngay từ bây giờ, trước khi sự việc xảy đến, để một khi xảy đến, các con tin rằng: Thầy là ai. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thật phúc cho anh em
Suy niệm:
Khi giảng cho các Giám mục Anh Giáo,
ông Jean Vanier có kể câu chuyện như sau xảy ra tại cộng đoàn của ông,
một cộng đoàn được lập tại nước Pháp để giúp những người cơ nhỡ.
Nhà ông có nhận nuôi anh Eric, 16 tuổi, vừa mù lại vừa điếc.
Anh không đi được, không muốn ăn, chỉ quậy phá và muốn chết.
Anh thật là mối kinh hoàng cho những ai phải chăm lo cho anh.
Làm sao để anh yêu cuộc sống này?
Làm sao để anh thấy mình được yêu và đáng quý,
bất chấp những khiếm khuyết của mình?
Tìm đâu thứ ngôn ngữ để một người vừa mù vừa điếc hiểu được điều ấy?
Ông Jean Vanier có nhiệm vụ tắm cho anh mỗi sáng.
Và ông đã tìm ra được thứ ngôn ngữ mà anh hiểu được, cảm được,
thứ ngôn ngữ của bàn tay, ngôn ngữ của thịt.
“Lời đã thành thịt, để thịt của chúng ta thành lời,” ông đã nói như thế.
Khi Thầy Giêsu chạm tay của mình vào chân các môn đệ để rửa
với sự trân trọng và yêu thương,
chắc họ đã cảm được thứ ngôn ngữ không lời đó.
Kinh nghiệm được Thầy rửa chân là kinh nghiệm chẳng thể nào quên.
Thầy muốn các môn đệ tiếp tục làm điều Thầy đã làm:
“Thầy đã nêu gương cho anh em,
để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 15).
Thầy Giêsu nhắc các môn đệ về vị thế của họ,
vị thế của người tôi tớ, người được sai.
Vị thế này hẳn thấp hơn vị thế của Thầy là chủ, là người sai họ đi (c. 16).
Bởi đó việc rửa chân cho nhau giữa các tôi tớ là một đòi buộc (c. 14).
“Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành,
thì thật phúc cho anh em!” (c. 17).
Đức Giêsu đã biến hành vi rửa chân thành mối phúc.
Con người thường tìm hạnh phúc nơi việc được phục vụ, được tôn vinh.
Thầy Giêsu dạy ta tìm hạnh phúc nơi việc cúi xuống khiêm hạ.
Nhiều Kitô hữu đã nếm được thứ hạnh phúc này,
trong đó có ông Jean Vanier, Mẹ Têrêsa, cha Đamiêng, Đức Cha Cassaigne…
Họ đã tình nguyện dâng đời mình cho những người cùng khổ.
Hôm nay, Đức Giêsu vẫn ở nơi những người cần được rửa vết thương,
vết thương thể chất và tinh thần.
Hôm nay, Ngài vẫn ở nơi những người đang cúi xuống,
âm thầm, nhẹ nhàng băng bó các vết thương của thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Thầy Giêsu,
khi Thầy rửa chân cho các môn đệ
chúng con hiểu rằng Thầy đã làm một cuộc cách mạng lớn.
Thầy dạy chúng con một bài học rất ấn tượng
khi Thầy bưng chậu nước, bất ngờ đến với các môn đệ trong bữa ăn,
khi Thầy cúi xuống, dùng bàn tay của mình để rửa chân rồi lau chân cho họ.
Chắc Thầy đã nhìn thật sâu vào mắt của từng môn đệ và gọi tên từng người.
Giây phút được rửa chân là giây phút ngỡ ngàng và linh thánh.
Lạy Thầy Giêsu,
thế giới chúng con đang sống rất thấm bài học của Thầy.
Chúng con vẫn xâu xé nhau chỉ vì chức tước và những đặc quyền, đặc lợi.
Ai cũng sợ phải xóa mình, quên mình.
Ai cũng muốn vun vén cho cái tôi bất chấp lương tri và lẽ phải.
Khi nhìn Thầy rửa chân, chúng con hiểu mình phải thay đổi cách cư xử.
Không phải là ban bố như một ân nhân, nhưng khiêm hạ như một tôi tớ.
Từ khi Thầy cúi xuống rửa chân cho anh Giuđa, kẻ sắp nộp Thầy,
chúng con thấy chẳng ai là không xứng đáng cho chúng con phục vụ.
Lạy Thầy Giêsu,
Thầy để lại cho chúng con một di chúc bằng hành động.
Thầy đã nêu gương cho chúng con noi theo,
để rửa chân chẳng còn là chuyện nhục nhã, nhưng là mối phúc.
Xin cho chúng con thấy Thầy vẫn cúi xuống trên đời từng người chúng con,
để nhờ đó chúng con có thể cúi xuống trên đời những ai khổ đau bất hạnh. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: ĐÓN TIẾP CHÚA GIÊ-SU
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su là trung tâm lịch sử. Trước Chúa Giê-su, tức thời Cựu Ước, dân chúng mong chờ. Giê-su nghĩa là Thiên Chúa Cứu. Từ ngàn xưa vì con người tội lỗi hư hỏng. Nên phải chịu nhiều đau khổ. Chịu chết. Nhưng vì tình thương yêu, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Độ. Đấng Cứu Thế phát sinh từ dòng tộc Đa-vít, Vị Thánh Vương lẫy lừng và đạo hạnh. Đã đưa vương quốc Giu-đa đến đỉnh vinh quang. Và toàn dân luôn mong chờ Đấng Cứu Thế mau đến để thực hiện lời Thiên Chúa hứa. Phục hồi vương quốc lẫy lừng. Đấng Cứu Thế chính là Chúa Giê-su Ki-tô. Khi Gio-an Tẩy giả xuất hiện, người ta cứ tưởng đó là Đấng Cứu Thế. Nhưng Gio-an Tẩy giả đã làm chứng về Người khi nói: “Tôi không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi không đáng cởi dép cho Người”.
Thời Tân Ước chính là thời đón tiếp Chúa Giê-su. Nhưng tiếc là khi Chúa đến người ta đã không đón tiếp Chúa. Trái lại còn trao nộp Chúa. Kết án Chúa. Hành hình Chúa. Và đóng đinh Chúa trên thánh giá. Vì Chúa Giê-su không đến như một vị Quân Vương oai phong lẫy lừng. Nhưng đến như một tôi tớ hèn mọn. Không sinh ra trong hoàng cung lộng lẫy tại thủ đô. Nhưng sinh ra trong chuồng súc vật tại một làng quê nhỏ bé. Không sống trong gia đình quyền quý. Nhưng sống trong gia đình thợ thuyền. Không đến như vị tướng bách chiến bách thắng. Nhưng như một tôi tớ phục vụ. Người đã quỳ xuống rửa chân cho môn đệ.
Người truyền cho môn đệ phải tiếp tục sứ mạng cứu thế bằng phục vụ như Người: “Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em”. Chúa cho mọi người biết, tuy các môn đệ sống nghèo hèn phục vụ. Nhưng là thừa sai của Chúa. Và “ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Đó là đón tiếp Chúa Cha. Là đón tiếp ơn cứu độ. Là đón tiếp phúc trường sinh.
Ta hãy rút kinh nghiệm của người Do thái. Đừng mơ tưởng một vị quân vương hiển hách. Người môn đệ hãy biết sống nghèo hèn phục vụ như Chúa. Và mọi người hãy biết đón tiếp người được Chúa sai đến. Có thể đó là Giáo hội, giáo quyền, bề trên. Nhưng có thể đó là những người nghèo hèn bất hạnh trong xã hội. Hãy biết nhận ra Chúa. Hãy đón tiếp người nghèo như đón tiếp chính Chúa. Ta sẽ được hạnh phúc. Ta sẽ được ơn cứu độ.
SUY NIỆM 3: Củng cố đức tin
Ðó là những lời Chúa Giêsu tâm sự với các tông đồ vào lúc khởi đầu cuộc khổ nạn của Ngài, loan báo tương lai cuộc sống của các tông đồ sẽ như thế nào. Nhưng tại sao Giáo Hội lại chọn để chúng ta suy niệm đoạn Phúc Âm này trong những ngày của mùa phụng vụ Phục Sinh? Những gì đã xảy ra đúng theo như lời Kinh Thánh và theo lời loan báo trước của Chúa, nhằm củng cố các tông đồ và cả chúng ta ngày hôm nay trong đức tin vào Chúa. Tin Chúa là Thiên Chúa, là Ðấng Hằng Hữu, là Ðấng Ta Là, "Ta bảo các con điều đó ngay từ bây giờ, trước khi sự việc xảy ra để đến khi sự việc xảy ra, các con tin Ta là Ðấng Hằng Hữu, là Thiên Chúa".
Bản văn Phúc Âm thánh Gioan dùng từ "Ta là Ðấng Ta Là", từ dùng để chỉ chính Giavê Thiên Chúa. Trong ánh sáng của mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu, các tông đồ và mỗi người chúng ta được mời gọi suy niệm những lời Chúa Giêsu có liên quan đến vận mệnh tương lai của những ai làm đồ đệ Chúa. Trước hết là hồng ân được Chúa sai đi, được đại diện cho Ngài "Ai đón rước kẻ Ta sai là đón rước Ta và ai đón rước Ta là đón rước Ðấng đã sai Ta". Ðó là chiều dọc từ con người lên cùng Thiên Chúa Cha qua Chúa Giêsu Kitô. Mọi đồ đệ của Chúa cần phải duy trì trọn vẹn chiều dọc này. Ðây là hồng ân Chúa ban cho những con người Chúa chọn làm kẻ đại diện của Ngài, mang sứ điệp của Ngài đến cho anh chị em khác và hồng ân này có thể bị mất đi do chính quyết định tự do của con người như trường hợp của Giuđa ngày xưa, người môn đệ phản Thầy, "Ta biết những kẻ Ta đã chọn, kẻ ăn bánh cùng Ta đã giơ gót chân đạp Ta".
Lời cảnh tỉnh của Chúa thôi thúc mỗi người chúng ta xét lại cuộc sống làm đồ đệ theo Chúa của mình đang ở mức độ nào. Chúng ta sẽ làm đại diện cho Chúa một cách hữu hiệu hơn nếu chúng ta trở nên giống Chúa hơn và chia sẻ vận mệnh của Chúa: "Tôi tớ không hơn chủ; kẻ bị sai đi không trọng hơn người sai họ". Chúa đã đi qua con đường thập giá, thì đồ đệ của Ngài chắc chắn cũng sẽ đi qua con đường này. Hơn nữa, cám dỗ phản bội Chúa như Giuđa ngày xưa luôn là cám dỗ thường hằng của mọi môn đệ Chúa cả ngày hôm nay. Chúng ta hãy tỉnh thức đề phòng.
Lạy Chúa, xin hãy ban cho con ơn can đảm theo Chúa cho đến cùng trong mọi hoàn cảnh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Chỗ cho đức khiêm nhường
Chúng ta không còn nghe nói đến những nhân đức Kitô giáo nữa hay cả đến những nhân đức thường nữa. Tất cả mang tiếng xấu. Chúng không còn chỗ trong văn hóa của chúng ta. Thời nay sống khiêm nhường khó biết bao! Hãy nhìn xem: Để được thăng cấp, phải tự đặt giá trị của mình nổi lên. Mọi kiểu đánh giá đều được đặt trên sự cạnh tranh và tham vọng. Người ta còn tính rằng để sống, cần phải đè nén và hạ bệ người khác để cho mình lên. Làm sao sống khiêm tốn trong một thế giới văn minh tôn sùng minh tinh, thần tượng, siêu sao, thị trường, thời trang …
Chúa nói đến đức này bằng hành động và giải thích. Bằng hành động: Trước lễ vượt qua, Người rửa chân cho các môn đệ. Đức Giêsu đã làm tôi tớ, Người có mục đích sẵn sàng phục vụ người khác. Nhưng chúng ta lại quên cử chỉ của Đức Giêsu ngay sau lễ chiều thứ năm tuần thánh. Chúng ta đã mừng lễ rất tốt, nhưng chúng ta trước và sau lễ chẳng sống chút gì với Thánh lễ.
Bằng lời nói, Đức Giêsu lưu ý chúng ta đến đức khiêm nhường: “Tôi tớ không lớn hơn chủ. Kẻ được sai đi không lớn hơn người sai bảo”.
Điều đó kêu mời chúng ta phải lãnh lấy sứ điệp Tin mừng với hết lòng khiêm nhường: “Thầy nói điều đó, anh em hãy thực hành thì thật có phúc cho anh em”. Thánh Phao-lô đã nhắc lại lời khuyên đó và nói: “Anh em đừng cưu mang những thứ học thuyết tân kỳ theo sở thích, anh em hãy chỉ rao giảng Đức Giêsu và Đức Giêsu chịu đóng đinh”.
Đức khiêm nhường được Phúc âm trình bày cho chúng ta trong lễ hôm nay: Ngay sau khi Đức Giêsu trao bánh cho Giu-đa, Giu-đa liền ra đi phản bội Người. Đây là tột đỉnh của đức khiêm nhường. Chúa đã ban bánh cho ăn, được ăn rồi Giu-đa vẫn đi phản bội. Chúng ta nhớ rằng sự phản bội luôn rình mò chúng ta, chúng ta hãy khiêm tốn đón nhận những yếu đuối nơi mình và nơi người khác. Nhờ thế khiêm nhường trở nên bác ái.
C.G
SUY NIỆM 5: Tiếp nối sứ mệnh của Chúa
Thiên Chúa Cha đã sai Con Một của Ngài đến thế gian để giảng dạy cho mọi người con đường cứu rỗi, và khi đã hoàn tất sứ mệnh của Ngài trên trần gian này, Chúa Giêsu sai các môn đệ Ngài đi loan báo Tin mừng cứu rỗi cho mọi tạo vật. Sự chính thống đó được Chúa Giêsu quả quyết như chúng ta có thể đọc thấy trong Tin mừng hôm nay: “Thày bảo thật các con, ai đón nhận kẻ Thày sai là đón nhận Thày, và ai đón nhận Thày là đón nhận Đấng đã sai Thày”.
Trong văn mạch của Phúc âm, trước khi nói những lời trên, Chúa Giêsu đã làm gương cho các Tông đồ của Ngài: Ngài rửa chân họ và sau đó khi trở lại bàn ăn, Ngài nói với họ: “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai không trọng hơn kẻ đã sai mình”. Thật là đơn giản, nhưng là một sự đơn giản đòi hỏi: đời sống truyền giáo của Giáo Hội phải rập khuôn với cuộc đời của Chúa Giêsu, với tấm gương Ngài đã sống và đã giảng dạy. Giáo Hội phải biết phục vụ trong khiêm tốn, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa.
Là những người đã lãnh nhận Bí tích rửa tội, chúng ta đều là những môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải tiếp tục sứ mệnh của Chúa Giêsu bằng đời sống yêu thương và Phục vụ, trở nên muối và ánh sáng cho thế gian.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: GIỚI THIỆU CHÚA CÁCH TRUNG THỰC (Ga 13, 16 – 20)
Trong nghề thuốc hay võ thuật, những thần y hay tổ sư thường lưu nghề bí truyền cho một ai đó, để đến khi họ có khuất núi thì vẫn còn có người lưu danh hậu thế nhờ lưu truyền lại gia bảo của cha ông.
Với Đức Giêsu cũng vậy! Sau hành trình loan báo Tin Mừng, trước khi về trời, Ngài cũng truyền cho các môn sinh của mình: “Hãy đi loan báo Tin Mừng khắp thế gian”. Đây chính là lệnh truyền, gia bảo cho Giáo Hội tới muôn đời.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu như muốn khẳng định rằng: nếu là người môn đệ chân chính, sẽ nói lời của chính Thiên Chúa, và như thế thì: “A i đón nhận kẻ Thầy sai là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy".
Muốn làm được điều đó để cho mọi người nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, chúng ta phải mặc lấy chính tâm tình của Đức Giêsu, trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài khi phục vụ con người cách vô vị lợi trong sự khiêm tốn...
Có thế chúng ta mới lưu lại cho người đương thời và hậu thế gia tài quý giá là chính Đức Giêsu, nhờ đó, con người hôm nay và mai sau mới nhận ra Đức Giêsu là Đường, là Sự Thật, là Sự Sống ngang qua đời sống và hành vi của chính chúng ta.
Mong sao mỗi người chúng ta biết được điều đó để thi hành, ngõ hầu trở thành người có phúc như Đức Giêsu đã nói: "Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em!”. Ngược lại, chúng ta đừng như Giuđa, kẻ phản thầy mà hôm nay, Đức Giêsu đã tiên báo một cách đau đớn: “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con”
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết sống trung thành với Chúa và sứ điệp của Chúa. Xin cho chúng con biết loan báo Tin Mừng bằng chính đời sống của chính mình, để cuộc đời và sứ vụ của chúng con chính là hiện thân cách sống động như chính Chúa đang trực tiếp hành động. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Tinh thần phục vụ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong khung cảnh bữa tiệc ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu tiếp tục giáo huấn cho các ông biết tinh thần phục vụ trong yêu thương và khiêm nhường. Ngài hạ mình rửa chân cho các ông. Đức Giêsu đã mang lại ý nghĩa đích thực cho hai chữ “phục vụ”: phục vụ là sống như người tôi tớ, là sống trọn vẹn cho tha nhân, vì tha nhân...
Ngoài ra, Đức Giêsu dạy tiếp một bài học rất cần cho mọi Kitô hữu: hãy biết đón nhận những kẻ Chúa sai đến với mình: “Ai đón nhận kẻ Thầy sai là đón nhận Thầy; và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy”.
2. Việc rửa chân cho các môn đệ không chỉ là một cử chỉ hay là một bài học của phục vụ, nhưng qua đó Đức Giêsu còn muốn loan báo chính cái chết của Ngài như tột cùng của thân phận tôi tớ mà Đức Giêsu đã đón nhận. Thật thế, người tôi tớ không sống cho mình, mà hoàn toàn sống cho người khác, đến độ trao nộp cả mạng sống mình. Như vậy, đối với Đức Giêsu, phục vụ là sống trọn vẹn cho người khác. Chính qua sự phục vụ cho đến chết ấy mà Đức Giêsu thể hiện thiên tính của Ngài. Ngài là Đấng Hằng hữu, vì Ngài có thể đón nhận thân phận con người và trao ban thân phận ấy cho người khác; Ngài là Đấng toàn năng vì cách thế thể hiện quyền năng ấy chính là phục vụ và phục vụ cho đến chết.
3. Quyền năng của Thiên Chúa là quyền năng của phục vụ; sức mạnh của Thiên Chúa là sức mạnh của tình yêu. Chúng ta hiểu được sự thành công của Mahatma Gandhi trong cuộc tranh đấu bất bạo động của ông, ông nói như sau: “Tình yêu là sức mạnh vạn năng mà con người có thể có trên mặt đất này”. Yêu thương như Thiên Chúa yêu có nghĩa là yêu thương cho đến cùng, yêu thương cả kẻ thù và sẵn sàng hiến thân hy sinh cho họ. Phục vụ như Thiên Chúa phục vụ có nghĩa phục vụ mà không tranh giành, không tính toán hơn thiệt, không tìm lợi danh cho bản thân (Mỗi ngày một tin vui).
4. Đón tiếp người được Chúa sai đến.
Sau bài học về hy sinh phục vụ, Đức Giêsu dạy tiếp về sự đón tiếp. Lời nói về sự đón tiếp của Đức Giêsu nhằm tới chính sự thờ ơ của người Do thái đã không đón nhận Ngài, khi “Người đến nhà mình mà người nhà không ra nhận” (Ga 1,11). Người Do thái tự hào mình tin Thiên Chúa, nhưng lại không đón tiếp Đấng được Thiên Chúa sai đến, âu cũng vì họ vẽ ra: “Đấng được sai đến” đó theo ý họ, và họ không chấp nhận một Đấng Thiên Sai không thỏa mãn những tiêu chuẩn trần thế của họ.
Người Chúa sai đến với chúng ta cụ thể nhất chính là những người có trách nhiệm rao giảng, thánh hóa và dẫn dắt chúng ta. Các vị đến với chúng ta nhân danh Chúa trong phẩm vị và sứ vụ được Chúa giao phó cho Giáo hội, chúng ta đã đón tiếp các ngài như thế nào? Ít nhiều chúng ta cũng giống dân Do thái xưa, thích đón tiếp những vị được sai đến hợp ý chúng ta hơn là đón tiếp vị được sai đến theo ý Chúa.
5. Phục vụ Chúa trong anh em.
Thánh Biển Đức căn dặn các đan sĩ: “Khi anh em đón tiếp và phục vụ khách, thì không phải anh em đang đón tiếp và phục vụ khách, mà là cung kính đón tiếp chính Đức Kitô ở trong khách”. Và Đức Giêsu cũng đã đồng hóa chính Ngài hiện thân trong mọi mảnh đời khi Ngài nói về ngày phán xét chung: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Như thế, khi ý thức được Chúa ở trong mọi người, thì chúng ta không thể nổi giận cau có với “Chúa” được, mà là một sự kính trọng và chu đáo như Mattha và Maria đã đón Chúa vào nhà mình. Thấy Chúa trong anh em thì chúng ta sẽ dễ tôn trọng và yêu thương nhau...
6. Truyện: Khai sinh hội bác ái Vinh Sơn.
Khoảng năm 1883, dưới sự lãnh đạo của một thanh niên Ozanam, 8 thanh niên Công giáo trường đại học Paris thường gặp nhau để thảo luận chiến thuật bảo vệ Giáo hội đang bị tấn công tứ phía. Những buổi thảo luận đã diễn ra suốt một năm, nhưng chưa đưa đến một hành động nào. Tình cờ 8 sinh viên nghe một lời thách thức của kẻ chuyên chống phá Giáo hội:
“Các anh luôn nói đến công lao Giáo hội của các anh trong quá khứ, nhưng Giáo hội các anh bây giờ đã chết rồi. Nếu các anh bảo Giáo hội vẫn đang sống, hãy chứng minh đi. Một năm qua, tôi chỉ thấy các anh thảo luận tranh cãi nhau bằng môi mép, nhưng chưa thấy một hành động cụ thể nào”.
Lời thách đố ấy được 8 sinh viên Công giáo tiếp nhận như một bài học quí giá. Buổi chiều hôm đó, thay vì thảo luận, hành động đầu tiên của họ là thu nhặt số củi khô dùng để sưởi ấm ở phòng trọ và họ còn mang biếu cho người nghèo đang rét run tại phòng bên cạnh vì không có tiền để mua chất đốt.
Đó là buổi chiều đầu tiên khai sinh hội Bác ái Vinh Sơn chuyên hoạt động giúp đỡ người nghèo theo tinh thần thánh Vincent de Paul. Những người tiên phong của hội này hiểu rằng: Người tín hữu Kitô không thể bênh vực Giáo hội bằng những lời nói suông mà phải bằng chính những hành động cụ thể, bằng chính cả cuộc sống của họ.
28/04 Ðức tin là ánh sáng
- Viết bởi Ga 12, 44-50
Ðức tin là ánh sáng.
Thứ Tư tuần 4 Phục Sinh.
"Ta là sự sáng đã đến thế gian".
Lời Chúa: Ga 12, 44-50
Khi ấy, Chúa Giêsu lớn tiếng nói rằng: "Ai tin vào Ta thì không phải là tin vào Ta, nhưng là tin vào Đấng đã sai Ta. Và ai thấy Ta là thấy Đấng đã sai Ta.
Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm. Nếu ai nghe lời Ta mà không tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian. Ai khinh dể Ta, và không chấp nhận lời Ta, thì đã có người xét xử: lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết.
Bởi vì Ta đã không tự mình nói ra, nhưng Cha là Đấng sai Ta, chính Người đã ra lệnh cho Ta phải nói gì và phải công bố gì. Và Ta biết rằng lệnh của Người là sự sống đời đời. Những điều Ta nói, thì Ta nói theo như Cha đã dạy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Không tự mình nói
Tự do là điều con người trân trọng.
Bao người dám chết để đổi lấy một chút tự do.
Các bạn trẻ thèm được tự do, để được là mình.
Người ta vẫn hiểu người có tự do là người muốn làm gì thì làm,
muốn nói gì thì nói, không bị bất cứ ràng buộc nào.
Nếu thế thì Đức Giêsu có tự do không?
Đức Giêsu có tự do không khi trong bài Tin Mừng Ngài khẳng định:
“Không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi,
truyền lệnh cho tôi phải nói gì, phải tuyên bố gì” (c. 49)?
“Những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi” (c.50).
Ngài có tự do không khi Ngài cũng chẳng tự mình làm bất cứ điều gì?
“Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi, Người không để tôi cô độc,
vì tôi luôn làm những điều đẹp ý Người” (Ga 8, 29).
Bao nhiêu lần trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu quả quyết
Ngài không tự mình nói gì, cũng không tự mình làm gì.
Ngài chỉ sống theo lệnh truyền của Cha (Ga 15, 10).
Lệnh truyền này không áp đặt Ngài từ bên ngoài,
nhưng chi phối sâu xa từ bên trong
toàn bộ hướng đi và những chọn lựa cụ thể của cuộc sống trần thế.
Đức Giêsu đã tự do đón lấy ý Cha, lệnh truyền của Cha.
Chính khi hoàn toàn để Cha chi phối, mà Ngài được tự do thật sự.
Chính khi đó Đức Giêsu trở thành sự hiện diện trong suốt của Cha.
“Ai thấy tôi là thấy Chúa Cha, Đấng đã sai tôi (Ga 12, 45; 14, 9).
Lời của Ngài là lời của Cha, việc Ngài làm là việc của Cha.
Chúng ta có thể gặp được Thiên Chúa một cách nguyên tuyền nơi Đức Giêsu,
Đấng đã dâng hiến tất cả tự do để sống hoàn toàn tùy thuộc.
Chính khi hoàn toàn tùy thuộc mà Ngài được hoàn toàn tự do.
Người được sai là một với người sai mình.
“Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10, 30).
Hãy đến với Giêsu Ánh Sáng và ra khỏi những bóng tối (c.46).
Hãy nghe, đón nhận và tuân giữ lời của Giêsu (cc. 47-48).
Chỉ khi ở lại trong lời của Giêsu chúng ta mới gặp được sự thật
và sự thật sẽ cho chúng ta được tự do (Ga 8, 31-32).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
SUY NIỆM 2: ÁNH SÁNG SỰ SỐNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su đi từ hữu hình đến vô hình. Từ lời nói đến ý tưởng. Từ ngọn đến nguồn. Nguồn sự sống. Nguồn sáng. Từ người được sai đi đến Đấng sai đi. Từ Chúa Con đến Chúa Cha. Chúa Cha vô hình nhưng Chúa Con hữu hình. Chúa Con nói nhưng là lời của Chúa Cha. “Ai tin vào tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi; ai thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi”.
Tất cả phát xuất từ Chúa Cha. Chúa Giê-su phát xuất từ Chúa Cha. Lời Chúa nói, việc Chúa làm, đều phát xuất từ Chúa Cha. “Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì…Vậy những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi”.
Mà lời Chúa Cha chính là lời sự sống: “Và tôi biết: mệnh lệnh của Người là sự sống đời đời”. Sự sống là ánh sáng. Cái chết là bóng tối. Chúa Giê-su đến đem lời Chúa Cha ban sự sống đời đời. Đem ánh sáng sự sống soi vào bóng tối chết chóc cõi nhân gian. “Tôi là ánh sáng, tôi đã đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối”. Vì thế ai đón nhận Chúa Giê-su là đón nhận Chúa Cha. Là đón nhận ánh sáng. Là đón nhận sự sống.
Cộng đoàn các môn đệ và các tín hữu đầu tiên đã tin nhận Chúa Giê-su là Thiên Chúa. Vì thế các ngài đón nhận được ánh sáng và sự sống. Vì thế cộng đoàn không ngừng phát triển mạnh mẽ. Khi làm cho lời lan tràn khắp nơi. Bác-na-ba liên tục kêu gọi tăng cường nhân sự. Thoạt tiên là đi đón Phao-lô ở Tác-sô. Nay lại cho vời Gio-an Mác-cô. Cho một sức sống bừng lên mạnh mẽ, tại An-ti-ô-khi-a có một bộ khung hùng hậu: “có những ngôn sứ và thầy dạy, đó là các ông Ba-na-ba, Si-mê-on biệt hiệu là Đen, Lu-ki-ô người Ky-rê-nê, Ma-na-en, bạn thời thơ ấu của tiểu vương Hê-rô-đê, và Sao-lô”.
Vì phát triển mạnh mẽ, nên phải tách ra: “Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo: “Hãy dành riêng Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm”…Vậy được Thánh Thần sai đi, …. Đến Xa-la-min, hai ông loan báo lời Thiên Chúa trong các hội đường người Do thái”.
Đón nhận Lời Chúa là ánh sáng ban sự sống, các môn đệ lớn mạnh. Ra đi khắp nơi. Rao giảng Lời Chúa không ngừng. Để soi sáng sự sống vào mọi chân trời trần gian.
SUY NIỆM 3: Ðức tin là ánh sáng
Theo cơ cấu của Phúc Âm thánh Gioan thì những câu chúng ta vừa đọc trên là những câu cuối cùng trong cuộc đời rao giảng công khai của Chúa Giêsu, bởi vì liền đó với chương 13, tác giả Phúc Âm thánh Gioan bắt đầu nói về biến cố Chúa rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly, khởi đầu cuộc Thương Khó của Ngài. Vì thế, những lời vừa trích dẫn trên có thể tóm lược một cách tổng quát những lời giảng công khai của Chúa Giêsu cho dân chúng và Chúa Giêsu nhắc đến hai điểm chính yếu nhất:
- Tin Chúa là tin Thiên Chúa Cha, thấy Chúa là thấy được Thiên Chúa Cha. Tin Chúa sẽ mang lại ánh sáng soi cho cuộc đời của mình. Ðức tin là ánh sáng, không tin là sống trong bóng tối.
- Từ chối không tin. Con người tự kết án mình. Mặc dầu Chúa Giêsu không đến để kết án mà để cứu rỗi, không ai có thể thoát ra khỏi sự cứu rỗi cuối cùng này, và sự xét xử đến từ thái độ của người đó, đón nhận hay chối từ Thiên Chúa. "Ai nghe lời Ta mà không tuân giữ thì không phải Ta là người kết án kẻ ấy vì Ta không đến để luận phạt thế gian mà đến để cứu rỗi. Ai chê chối Ta và không nhận lời Ta thì sẽ có người xét xử kẻ ấy, tức là lời giảng dạy của Ta sẽ xét xử kẻ ấy trong ngày sau hết. Không ai có thể thoát khỏi sự xét xử này, nhưng sự xét xử đó sẽ đến trong ngày sau hết".
Trong hiện tại, Thiên Chúa luôn luôn kêu mời con người hãy trở về lại với Ngài sau những lần sa ngã, chối từ không tin Ngài. Thời giờ chúng ta đang sống là thời giờ của lòng nhân từ của Thiên Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta đừng lợi dụng lòng nhân từ này, đừng khinh dễ bỏ qua ơn soi sáng của Chúa. Những trang Phúc Âm cho chúng ta biết rõ ý muốn của Thiên Chúa như thế nào nơi mỗi người chúng ta. Ngài muốn chúng ta tin nhận Ngài, lắng nghe lời Ngài và sống kết hiệp với Ngài.
Lạy Chúa, Chúa đã vạch ra một con đường cho mỗi người chúng con, đó là những dự án của tình yêu của Chúa để chúng con thực hiện. Xin Chúa giúp chúng con được luôn sẵn sàng thực hiện thánh ý Chúa lắng nghe lời Chúa chứ không phải là kẻ chịu đựng bất đắc dĩ, ý Chúa phải là ý con chứ không phải ý con là ý Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Từ bóng tối đến ánh sáng
Tin mừng theo thánh Gio-an được viết ra sau một thời gian dài cầu nguyện đến lúc chín mùi. Trước khi cho chúng ta những lời chứng, thánh nhân đã dầy kinh nghiệm sống với sức sống của Thiên Chúa, Cha, Con và Thánh Thần. Tin mừng này bày tỏ về Thiên Chúa Ba ngôi, qua con tim của một người, một người xác tín, một người tông đồ yêu dấu.
Đức Giêsu tự định nghĩa mình là người được sai đi của Cha. Thánh Gio-an không giới thiệu Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng là Con Cha. Hầu như bất cứ điều quan trọng nào đều chỉ về Cha và không chỉ về Con. Tất cả đều tương quan với Cha. Đức Giêsu thực hiện sứ mệnh do Cha ban, Người làm cho họ nhận biết sứ điệp của Cha. Đức Giêsu chính là sứ điệp của Cha.
Thái độ của Đức Kitô luôn luôn bày tỏ sự hoàn toàn tùy thuộc, hoàn toàn vâng lời lúc nào cũng sẵn sàng đối với Cha. Nếu Người cho lời Người là quan trọng vì đó là lời của Cha: “Chính lời Tôi nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết, thật vậy, không phải Tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai Tôi, truyền lệnh cho Tôi phải nói gì và tuyên bố gì”.
Chúng ta có lẽ phán đoán đây là một sự lệ thuộc quá nô lệ. Đức Giêsu không có một sự tự chủ của người trưởng thành …
Trái lại, chính đó là một hành động tự do của Đức Giêsu vì Người tự ý đặt mình sẵn sàng theo ý Cha: Đó chính là con đường cứu chuộc.
Con người muốn độc lập với Thiên Chúa, không muốn sống hợp với nguyên lý sự sống. Nhưng muốn được cứu chuộc phải vâng lời, phải tiến lại sống thân mật với Thiên Chúa. Thánh Phao-lô nói: Vì không vâng lời của một người, mà án phạt đã đến trong thế gian.
Chúng ta hãy để cho con tim chúng ta được tự do dâng lời cảm tạ biết ơn Đức Giêsu, là nguồn ơn cứu chuộc chúng ta, và Thánh lễ tạ ơn chúng ta sắp cử hành để tuyên xưng hồng ân của Chúa Cha là đã sai Con Một Ngài đến cho chúng ta.
C.G
SUY NIỆM 5: Ánh sáng của Đức Kitô
Nơi con người Chúa Giêsu có nhiều thứ ánh sáng. Đó có thể là thứ ánh sáng phản chiếu vinh quang quyền năng, thứ ánh sáng mà khi đối diện con người phải cúi đầu. Chúa Giêsu không tỏ lộ ánh sáng này cho các môn đệ và dân chúng theo Ngài, ngoại trừ một lần trên núi Thabor, Ngài biến hình sáng láng trước mặt ba môn đệ: Phêrô, Yacôbê và Gioan.
Ánh sáng thường gặp nơi Ngài là ánh sáng soi đường dẫn lối, một thứ ánh sáng không làm cho con người sợ hãi, nhưng mời gọi bước theo. Anh sáng phát xuất từ ngọn lửa yêu thương phục vụ xem ra không huy hoàng rực rỡ, nhưng lại hữu hiệu. Đối diện với ánh sáng này, con người sẽ hoặc là tiếp nhận, hoặc là chối từ. Khi chối từ tức là con người còn nằm trong bóng tối và ánh sáng trở thành ánh sáng xét xử. Chúa Giêsu không kết án, vì Ngài đến để cứu chuộc, nhưng chính thái độ cố chấp của con người sẽ kết án họ.
Không có ánh sáng đồng thời với bóng tối, ở đâu có ánh sáng, ở đó sẽ không còn bóng tối. Nhưng để tiếp nhận ánh sáng, con người phải chấp nhận từ bỏ, tiêu hao chính mình. Chúa Giêsu đã đem lửa xuống trần gian và Ngài ước mong cho nó cháy lên. Gặp gỡ Đức Kitô, con người sẽ gặp được ngọn lửa yêu thương của Ngài. Ngọn lửa càng sáng, càng đòi tiêu hao nhiều nhiên liệu. Ngọn lửa Đức Kitô đã tỏa sáng khắp vũ trụ khi Ngài được giương cao trên Thập giá và hiến thân cho đến giọt máu cuối cùng.
Bước theo Đức Kitô, người kitô hữu chúng ta không những được mời gọi tiến vào miền ánh sáng, mà còn có bổn phận trở thành ánh sáng. Ngài không cần chúng ta phải chiếu ánh sáng quyền năng của Ngài bằng những việc phi thường, nhưng là sẵn sàng tiêu hao chính mình để ánh sáng Đức Kitô được chiếu tỏa, và nhờ đó chính chúng ta cũng được đổi mới và nhận được vinh quang Phục Sinh của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: NHỜ ÁNH SÁNG, CON NGƯỜI ĐƯỢC SỐNG (Ga 12,44-50)
Trong cuộc sống, ánh sáng là thứ cần thiết đến độ không thể có gì thay thế. Ánh sáng làm cho con người và vạn vật có được sự sống và triển nở. Vì thế, không có ánh sáng, thì cho dù một sự sống sơ đẳng cũng không thể sống nổi như cỏ cây...thảo mộc...
Đây là sự cần thiết của ánh sáng dưới góc độ tự nhiên, còn với góc độ siêu nhiên, ánh sáng còn cần hơn gấp bội. Nếu không có ánh sáng siêu nhiên, thì con người sẽ lầm lũi bước đi trong đêm tối và có nguy cơ bị tận diệt sự sống đời đời. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì ánh sáng siêu nhiên chính là biểu tượng chỉ về Thiên Chúa (x. Xh 19,18). Đấng đã dùng cột lửa để soi sáng và dẫn dân Dothái về Đất Hứa (x. Xh 13,21t). Như thế, khi dân thấy ánh sáng là an tâm (x. Tv 4,7.31; Cn 16,15). Ánh sáng còn là dấu chỉ về giới luật của Thiên Chúa (x. Cn 6,23). Người dẫn dân đi trong đường lối của Người (x. Tv 119,105). Người làm tội ác loạng choạng trong tối tăm (x. Is 59,9).
Hôm nay, chính Đức Giêsu mạc khải rõ nét chân tính của Thiên Chúa, và Ngài là Đấng Bởi Thiên Chúa mà đến, nên khẳng định: “Ta là ánh sáng đến trong thế gian” (Ga 12,46).
Như vậy, Ánh Sáng là biểu trưng cho hạnh phúc viên mãn trong nguồn ơn cứu chuộc và được sự sống đời đời. Đi ngược lại với Ánh Sáng chính là ở trong bóng tối và sẽ đi về chỗ diệt vong (x. Mt 22,13). Cho nên có Ánh Sáng là có sự sống, có ơn cứu chuộc.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chạy đến với Đức Giêsu là Ánh Sáng thật để được hạnh phúc như chính Ngài đã nói: “Ta là ánh sáng đến trong thế gian để ai tin Ta không đi trong tăm tối”. Vì thế, ngay trong giây phút này, chúng ta hãy sống những điều thuộc về Ánh Sáng như thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng” (Ep 5,8).
Không những chúng ta thuộc về Ánh Sáng, nhưng chúng ta còn phải trở nên ánh sáng cho trần gian, để soi sáng cho người khác đến nguồn Ánh Sáng là chính Đức Giêsu, để họ cũng được sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được đi trong đường lối của Chúa là Ánh Sáng. Xin cho chúng con được tránh xa bóng tối là kẻ thù của Ánh Sáng. Và xin cho chúng con được trở nên ánh sáng soi đường cho người khác bằng đời sống tốt lành của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Tin và đón nhận Chúa Giêsu
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Đức Kitô là Ngôi Lời, là tiếng nói tỏ bày Thánh Ý Chúa Cha. Ai tin và đón nhận Người, sẽ được sống đời đời. Ai từ chối Người thì chính họ sẽ bị xét xử.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con tưởng tượng chính lúc mà Chúa nói lên những lời Tin Mừng hôm nay, con mới thấy được tâm huyết và tấm lòng Chúa dành cho con.
Lời Chúa mạc khải cho con biết Chúa Cha, cho con nhận ra Chúa là lẽ sống của con. Thế mà con vẫn chưa nhận ra được điều ấy. Chúa phải nói to lên, Chúa phải cậy dựa vào thế lực và uy tín của Chúa Cha để minh chứng cho chân lý Lời Chúa. Không có Chúa con sẽ phải chết, sẽ lãnh án phạt, sẽ ở lại mãi mãi trong tăm tối.
Chúa là tất cả cuộc sống con. Xin cho con đừng bao giờ quên điều ấy. Xin cho con biết khao khát chính Chúa, biết trân trọng sự hiện diện của Chúa trong đời sống con: một sự hiện diện không thể thiếu được.
Cho đến bây giờ Chúa vẫn chưa được hiện diện giữa cuộc sống loài người. Trên thế giới này, chỉ có một phần tư nhân loại mang danh Kitô hữu. Trong số một phần tư ít ỏi đó, lại càng có ít người ý thức được rằng họ cần Chúa mỗi ngày, và nếu vắng Chúa, họ không thể sống được. Rất nhiều người lầm tưởng rằng họ vẫn có thể sống mà không cần Chúa. Có khi chính con cũng ở trong số những người sai lầm đó.
Hôm nay, con đón nhận Lời Chúa, xin cho con ngày càng tin vào Chúa, để con đón nhận ánh sáng sự sống rất cần thiết cho cuộc đời của con. Xin Chúa ở lại với chúng con và ban ơn cứu độ cho chúng con. Amen.
Ghi nhớ: “Ta là sự sáng đã đến thế gian”.
SUY NIỆM 8: Tin Chúa Giêsu, sẽ không tối tăm
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Chú bé cùng với bố đang đi trên con đường mòn trong đêm dày đặc, trên tay chỉ có cây đèn nhỏ. Bóng đêm trước mặt gây cho chú cảm giác sợ hãi mơ hồ. Chú nói với bố: “Bố ơi, chiếc đèn này chỉ chiếu sáng có chíu xí trên đường, con sợ quá!”. Bố đáp: “Con ạ, ánh sáng này đúng là hơi yếu, nhưng nó cũng đủ soi cho con đi tới cuối đường”.
Đời sống Kitô hữu cũng là một con đường đầy tăm tối, nhưng Chúa luôn ban đủ ánh sáng cho mỗi bước đi. Và ta cũng chỉ cần bấy nhiêu. Nhưng ta chắc chắn một điều: Ánh sáng đó không bao giờ tắt. Nếu ta lên đường, ánh sáng đó đủ soi cho ta đến cuối đường đời.
Suy niệm
Ánh sáng luôn rất cần thiết trong cuộc sống con người. Chúa Giêsu - Ngôi Lời đến như là ánh sáng siêu nhiên cho con người như Tin Mừng thứ tư khẳng định: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9) soi chiếu sự hiện diện của Thiên Chúa ở trần gian.
Người không tin thì không giữ lời Ngài và sống trong tối tăm bất hạnh. “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12). Thật thế, tin vào Chúa thì sẽ mang lại ánh sáng cho cuộc đời.
Ðức Giêsu được sai đến không để xét xử nhưng để ban ơn cứu độ như ánh sáng chiếu soi vào bóng tối. Nhưng nếu khước từ lời Ngài, là tự lên án chính mình, tự tách mình ra khỏi ánh sáng vinh quang Thiên Chúa. Không thể thoát ra khỏi sự xét xử cuối cùng, vì sự xét xử ấy là bởi thái độ do con người tin nhận hay từ chối từ Thiên Chúa: “Ai nghe lời Ta mà không tin giữ thì không phải Ta kết án kẻ đó, nhưng chính lời Ta sẽ xét xử nó” (Ga 12,47-48),
Thật thế, người từ chối không tin vào Ngài, không nghe lời Ngài, hoặc nghe mà không thực hành thì tự kết án mình như người từ chối ánh sáng để sống trong tăm tối.
Thiên Chúa luôn kêu mời chúng ta trở về với Ngài, với lòng nhân từ, lòng Chúa thương xót. Ngài muốn chúng ta lắng nghe lời Ngài và sống kết hợp với Ngài “biết giới răn Cha Ta là sống đời đời” (Ga 12,50).
Nhờ ánh sáng của Chúa Kitô, chúng ta tìm ra con đường đem lại hạnh phúc: Khi nghe, biết, tin tưởng phó thác và sống theo sự hướng dẫn của Ngài cũng trở nên ánh sáng nhỏ soi chiếu cho anh em.
Ý lực sống: “Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm” (Ga 12,46).
SUY NIỆM 9: Chúa là ánh sáng thế gian
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Hôm nay Đức Giêsu khẳng định Ngài là Ánh Sáng cho thế gian. Ngài là ánh sáng xuất phát từ Cội Nguồn Ánh Sáng là Chúa Cha, Ngài phản chiếu hình ảnh của Chúa Cha. Vì thế, mọi lời nói và việc làm của Đức Giêsu làm là theo điều Ngài đã thấy nơi Chúa Cha. Thế nhưng, người Do thái đã dường như cố tình không nhận ra điều đó, bởi chính ánh sáng thật từ Thiên Chúa đã phơi bầy mọi tâm can đen tối của con người.
2. Tất cả phát xuất từ Chúa Cha. Đức Giêsu phát xuất từ Chúa Cha. Lời Chúa nói, việc Chúa làm, đều phát xuất từ Chúa Cha: “Thật vậy, không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền lệnh cho tôi phải nói gì... Vậy những gì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi”.
Mà lời Chúa Cha chính là sự sống: “Và tôi biết: mệnh lệnh của Ngài là sự sống đời đời”. Sự sống là ánh sáng. Cái chết là bóng tối. Đức Giêsu đến đem lời Chúa Cha ban sự sống đời đời. Đem ánh sáng sự sống soi vào bóng tối chết chóc cõi nhân gian: “Tôi là ánh sáng, tôi đã đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối”. Vì thế ai đón nhận Đức Giêsu là đón nhận Chúa Cha. Là đón nhận ánh sáng. Là đón nhận sự sống.
3. Qua lời Đức Giêsu đã khẳng định, con người chúng ta phải có thái độ tin hay không tin nhận.
- Tin Chúa là tin Thiên Chúa Cha, thấy Chúa là thấy được Thiên Chúa Cha. Tin Chúa sẽ mang lại ánh sáng soi cho cuộc đời của mình. Đức tin là ánh sáng, không tin là sống trong bóng tối.
- Từ chối không tin, con người tự kết án mình. Mặc dầu Đức Giêsu không đến để kết án mà để cứu rỗi, không ai có thể thoát ra khỏi sự cứu rỗi cuối cùng này, và sự xét xử đến từ thái độ của người đó, đón nhận hay từ chối Thiên Chúa: “Ai nghe lời tôi mà không tuân giữ thì không phải tôi là người kết án kẻ ấy vì tôi không đến để luận phạt thế gian mà đến để cứu rỗi. Ai chê chối tôi và không nhận lời tôi thì sẽ có người xét xử kẻ ấy, tức là lời giảng dạy của tôi sẽ xét xử kẻ ấy trong ngày sau hết”.
4. Ánh sáng là một tác phẩm quan trọng đến nỗi Chúa đã làm ra nó trước cả trời và đất. Khi đã có ánh sáng thì mọi sự khác xuất hiện theo. Hãy nhìn quanh ta, ta sẽ thấy ánh sáng giúp ta rất nhiều cách: ánh sáng mặt trời làm cho sinh vật lớn lên, sưởi ấm con người và hong khô quần áo. Nhờ có ánh sáng ta mới thấy được sự vật chung quanh ta. Ánh sáng còn là thuốc chữa trị nhiều chứng bệnh và tiêu diệt nhiều thứ độc hại. Hãy nghĩ tới ánh sáng của các ngọn đèn: ta dùng chúng để trang hoàng nhà cửa, nhờ chúng ta mới thấy đường mà đi trong đêm tối. Nếu không có ánh sáng, sinh vật không lớn lên được và sẽ chết dần mòn... Bởi thế người ta sợ bóng tối và vui mừng vì ánh sáng (Frank Mihalic).
5. Khi suy niệm về Đức Giêsu Kitô, có người ví Đức Giêsu là người thầy tốt lành luôn giảng dạy điều hay lẽ phải, người khác lại xem Đức Giêsu là người bạn thân thiết luôn đồng hành chia sẻ niềm vui nỗi buồn. Đối với linh mục nhạc sĩ Nguyễn Duy, Đức Giêsu là ánh sáng, là đường đi. Vì thế, linh mục viết như sau: “Giêsu ơi, Ngài là ánh sáng, xin cho con được tan chảy trong Ngài. Giêsu ơi, Ngài là đường đi xin cho con đồng hành với Chúa” (Bài hát Giêsu Ánh sáng).
Đức Giêsu ví mình là ánh sáng của thế gian này. “Ánh Sáng” ở đây không phải là ánh sáng vật lý như vẫn thường thấy nơi bóng đèn, tivi... nhưng là mạc khải đích thực về Thiên Chúa, con người và thế giới.
6. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chạy đến với Đức Giêsu là Ánh sáng thật để được hạnh phúc như chính Ngài đã nói: “Ta là ánh sáng đến trong thế gian để ai tin Ta không đi trong tối tăm”. Vì thế, ngay trong giây phút này, chúng ta hãy sống những điều thuộc về Ánh sáng như thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng” (Ep 5,8).
Không những chúng ta thuộc về Ánh sáng, nhưng chúng ta còn phải trở nên ánh sáng cho trần gian, để soi sáng cho người khác đến nguồn Ánh sáng là chính Đức Giêsu, để họ cũng được sự sống đời đời.
7. Truyện: Hãy bật sáng lên
Tại nhà thờ nọ, trong một buổi tối giảng tĩnh tâm, có hàng ngày tín hữu đến tham dự, nhằm khuyến khich con cái Chúa biết chiếu sáng lòng tốt của mình ra cho mọi người, linh mục thuyết giảng ra lệnh cho tắt hết các đèn trong nhà thờ.
Trong giây lát, bóng tối bao trùm cả nhà thờ. Cha nói:
- Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Tất cả những ai nhìn thấy ánh sáng của que diêm này, xin hô lên rằng mình thấy nhé!
Cả nhà thờ to lớn, song chỉ ánh sáng một que diêm nhỏ, ai cũng nhìn thấy nên đồng thanh hô to:
- Thấy!
Cha liền giải thích:
- Bất cứ hành động nào của lòng tốt cũng đều tương tự như thế. Một nguồn sáng dù nhỏ cũng có thể chiếu sáng ra giữa muôn ngàn tội lỗi xấu xa của nhân loại. Một hành động của lòng tốt dù thật nhỏ, cũng vẫn được phơi bầy trước Chúa và loài người.
Kế đến, linh mục cho phân phát mỗi người một que diêm và bảo:
- Bây giờ mỗi người hãy đốt que diêm lên!
Trong giây lát, bóng tối trong nhà thờ đã nhường chỗ cho ánh sáng tỏa ra từ những que diêm li ti khiến nhà thờ tràn ngập những ánh sáng lung linh một cách kỳ diệu. Vị linh mục kết luận:
- Hãy coi đó, dù nghèo nàn về phần thiêng liêng, chúng ta cũng có thể đánh bại bóng tối tăm của tội lỗi và chiếu sáng cả thế giới bằng tình yêu và sự thánh thiện của mình.
27/04 Sự thật cứu rỗi
- Viết bởi Ga 10, 22-30
Sự thật cứu rỗi.
Thứ Ba tuần 4 Phục Sinh.
"Tôi và Cha Tôi là một".
Lời Chúa: Ga 10, 22-30
Khi ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa Salômôn. Người Do-thái vây quanh Người và nói: "Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết".
Chúa Giêsu đáp: "Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi.
Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Không ai cướp được chúng
Suy niệm:
Có những Kitô hữu theo đạo để mong tránh sóng gió của cuộc đời.
Nhưng đã có lần con thuyền chở Đức Giêsu và môn đệ gặp bão lớn,
nước tràn vào khiến thuyền gần chìm, làm môn đệ hốt hoảng.
Theo Chúa đâu phải để tránh bão, nhưng để vượt qua cơn bão.
Theo Chúa đâu phải để khỏi bị cám dỗ, nhưng để thắng cơn cám dỗ.
Cuộc sống của người Kitô hữu không tránh khỏi những khó khăn
mà những người không Kitô hữu phải đối mặt mỗi ngày.
Hơn nữa, người Kitô hữu còn gặp nhiều khó khăn hơn.
Có những cơn bão ập đến bất ngờ chỉ vì họ là Kitô hữu.
Làm chiên trong đàn chiên của Đức Giêsu
không có nghĩa là được hưởng một sự êm ả dễ chịu.
Được ở trong ràn chiên của Chúa,
không có nghĩa là được yên ổn, chẳng bị ai quấy phá.
Đức Giêsu đã nói đến chuyện kẻ trộm, kẻ cướp, leo tường mà vào (c.10).
Chúng đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy đàn chiên (c. 10).
Khi được dẫn đi ăn nơi đồng cỏ, chiên còn phải đối đầu với sói dữ.
“Sói cướp lấy chiên và làm cho chiên tán loạn” (c. 12).
Đức Giêsu khẳng định mình không phải là người làm thuê,
nên khi sói đến, Ngài không bỏ chiên mà chạy.
Chiên là điều quý giá đối với Ngài đến độ Ngài dám nói nhiều lần:
“Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (cc. 11.15.17.18.).
Và thực sự Ngài đã làm điều đó trên thập giá.
Rõ ràng bảo vệ đoàn chiên là chuyện mấy chẳng dễ dàng.
Nếu Đức Giêsu, người mục tử nhân hậu mà bất khuất,
đã phải hy sinh mạng sống cho đoàn chiên,
thì hẳn cuộc chiến giằng co phải rất là ác liệt.
Kẻ thù của chiên chẳng phải là kẻ kém cỏi tầm thường.
Trong cuộc chiến để bảo vệ chiên, còn có sự hiện diện của Cha.
Chiên là của Cha và Cha đã giao chiên cho Đức Giêsu (c. 29).
Cha và Con cùng hợp tác để bảo vệ đoàn chiên,
không để ai cướp chiên ra khỏi vòng tay che chở của mình (cc. 28-29).
Cha và Con một lòng một ý trong nhiệm vụ này (c. 30).
Việc bảo vệ chiên còn kéo dài mãi đến tận thế.
Chúng ta làm gì để cộng tác với Chúa trong việc bảo vệ mình khỏi sói dữ?
Hãy tin vào Giêsu và nhận ra giọng nói của Giêsu để khỏi bị lừa.
Hãy theo sát sự dẫn đường của Giêsu, vị Mục tử đã chiến thắng cái chết.
Và hãy tin vào Chúa Cha, Đấng mạnh mẽ hơn tất cả (c. 29).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối,
và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian
một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến ru bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui
của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: SỰ SỐNG CỦA THIÊN CHÚA
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sự sống của Thiên Chúa thật kỳ diệu. Đó là sự sống hiệp thông. Một sự hiệp thông mầu nhiệm. Nên một. “Tôi và Chúa Cha là một”. Không còn gì xác tín hơn. Không còn gì sâu xa hơn. Chỉ Thiên Chúa mới có sự sống ấy.
Sự sống hiệp thông ấy biểu lộ trong suốt đời dương thế của Chúa Giê-su. Người không nói gì, làm gì mà không bởi Chúa Cha. Đó là dấu chỉ chắc chắn nhất chứng minh Người là Đấng Ki-tô. “Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi”.
Sự sống hiệp thông lan toả đến đoàn chiên của Chúa. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha”. Đó là sự sống phong phú, viên mãn. Không bao giờ mất. Không ai cướp đi được.
Sự sống hiệp thông tràn lan khắp nơi. Càn tản mát lại càng lan toả. “Hồi ấy, những người phải tản mác vì cuộc bách hại xảy ra nhân vụ ông Tê-pha-nô, đi đến tận miền Phê-ni-xi, đảo Sýp và thành An-ti-ô-khi-a”.
Sự sống hiệp thông tràn lan sang cả dân ngoại. Không chỉ trong người Do thái. Nhưng còn lan toả đến mọi dân tộc. “Nhưng trong nhóm, có mấy người gốc Sýp và Ky-rê-nê; những người này, khi đến An-ti-ô-khi-a, đã giảng cho cả người Hy-lạp nữa, loan Tin Mừng Chúa Giê-su cho họ”.
Và thật lạ lùng. Sự sống ấy giữ được nét nguyên tuyền. Như Chúa Cha và Chúa Giê-su là một. Giờ đây đoàn chiên hiệp thông với chủ chiên. Tín hữu hiệp thông với Chúa Ki-tô. Đến nỗi người ta gọi họ là “Ki-tô hữu”. Người mang Chúa Ki-tô. “Chính tại An-ti-ô-khi-a mà lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Ki-tô hữu”.
Xin cho con được kết hiệp trọn vẹn với Chúa. Sống sự sống của Chúa trong mình. Để con xứng đáng mang danh hiệu Ki-tô hữu rất cao quý này.
SUY NIỆM 3: Sự thật cứu rỗi
Không phải chỉ trong thời đại văn minh này người ta mới lịch sự đón tiếp đại sứ của một chính phủ hay nguyên thủ của một quốc gia đúng theo địa vị đại diện của họ. Nhưng ngay từ thời xưa, hậu đãi hay ngược đãi sứ giả của một vua là đã phụ đãi hay ngược đãi chính nhà vua và chính quốc gia mà người ấy đại diện. Không phải vì tiếng tăm, học vấn hay tài trí của sứ giả làm cho họ được kính trọng mà chính vì thay mặt nhà vua và một quốc gia mà họ có quyền được hậu đãi như thế. Ðây cũng là điều mà Chúa Giêsu nói với những người Do Thái thời xưa như được kể lại trong đoạn Tin Mừng vừa trích dẫn trên đây.
Câu hỏi mà họ đặt ra trong lúc Chúa Giêsu đang giảng dạy tại đền thờ làm ta nhớ đến câu hỏi của thượng tế Caipha trong phiên họp thượng hội đồng: "Nếu ông là Ðấng Kitô thì xin hãy nói thẳng ra đi. Ông có phải là Ðấng Mêsia không?". Trong câu chất vấn này, Chúa Giêsu đã không phủ nhận. Chỉ có điều Chúa Giêsu trả lời một cách hơi gián tiếp như sau: "Tôi đã trả lời câu hỏi này mà các ông không tin". Nhưng dù vậy, Chúa Giêsu không bỏ rơi họ để giúp họ tìm thấy sự thật, tìm ra câu trả lời. Chúa Giêsu đã khéo léo làm cho họ chú ý đến quan hệ mật thiết giữa Ngài với Thiên Chúa Cha, mật thiết đến độ Ngài gọi Thiên Chúa là Cha Ngài và làm chứng cho mối quan hệ mật thiết đó bằng việc làm nhân danh Cha Ngài, và việc cao trọng nhất là ban cho kẻ tin Ngài được sự sống đời đời: "Ta sẽ cho họ sống đời đời. Họ sẽ không chết bao giờ và không ai có thể cướp họ khỏi tay Ta".
Nếu đã nhìn nhận mối quan hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa, thì hẳn những người Do Thái sẽ biết trả lời cho câu hỏi "Ông là ai?" như thế nào rồi. "Ta và Cha Ta, chúng ta là một". Ðây là mạc khải quan trọng nhất nhắc ta nhớ lại những suy tư mở đầu Phúc Âm thánh Gioan: "Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Ngôi Lời sống với Thiên Chúa ngay từ đầu. Vạn vật do bởi Ngài mà có và nếu không có Ngài thì sẽ không có gì cả". Tác giả Phúc Âm thánh Gioan đã có những suy tư cao siêu như vậy khi nhìn về mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô trong viễn tượng Chúa Phục Sinh.
Ước chi mỗi người đồ đệ của Chúa trong ngày hôm nay cũng tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Ðấng cứu rỗi nhân loại.
Lạy Chúa, với sự kiện Chúa sống lại, không ai trong chúng con nên hồ nghi về mối quan hệ giữa Chúa và Chúa Cha. Xin thương ban ơn giúp mỗi người chúng con sống xứng đáng với niềm tin vào Chúa và đừng bao giờ để con lìa xa Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Thắc mắc đến bao giờ
Chọn theo đức tin mà Đức Giêsu đòi hỏi không phải là để yên tâm nghỉ ngơi. Đức tin không cất đi những thắc mắc căng thẳng. Chúng ta luôn luôn ở trong tình trạng lơ lửng: “Hãy nói cho chúng tôi biết ông có phải là Đức Kitô không?”. “Nếu ông là Đấng sống lại thì xin nói cho chúng tôi biết”. “Nếu ông là bánh ban sự sống thì xin nói cho chúng tôi hay”.
Trái lại, gắn bó với Đức Giêsu bằng đức tin chỉ có sự chắc chắn theo kiểu tin cậy của người yêu đối với người được yêu, khi đó dù có chuyện gì xảy ra, thì chẳng có gì quan trọng. Tôi sẵn sàng gắn bó quyến luyến anh, thì tôi luôn trung tín với anh. Cũng thế, chính niềm tin cậy vào Đức Giêsu, được đặt nền trên tình liên kết với Người, mà chúng ta chấp nhận lời Người như một bảo đảm bất biến.
Hôm nay, trong cuộc đàm thoại với chúng ta Người đã bảo đảm sự trung tín và sự cam kết của Người với chúng ta. Người biết rõ chúng ta, Người ban sự sống đời đời và giữ gìn chúng ta trong tay Người. Lòng trung tín của Chúa đã in đậm trong Cựu ước, giờ đây được xác nhận lại rõ ràng nồng nàn đậm đà hơn nữa bởi chính Con Chúa. Chúa không bao giờ bỏ giao ước của Ngài.
Nhưng có lần nào chúng ta nhắc lại lòng trung thành của chúng ta với Đức Kitô không? Nếu chúng ta không trung thành với những người chung quanh thì kể như chưa trung tín với Ngài. Nếu chúng ta thông phần vào đời sống Đức Kitô thì chúng ta phải hội nhập với mọi người.
Nếu chúng ta không biết sát cánh hoạt động với mọi người, không biết liên đới với họ trong tình huynh đệ, chúng ta không trung tín. Như thế chưa có thể nhận biết ai là Đức Giêsu Kitô. Chắc chắn rằng Đức Kitô chăm lo săn sóc cho mọi người đến tột đỉnh, thì những Kitô hữu cũng phải thực hiện theo hình ảnh trung tín của Người như vậy.
SUY NIỆM 5: Thái độ đáp trả của chiên
“Chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi”. Đó là khẳng định của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay.
Nghe tiếng chủ chiên là nghe hiểu và đáp trả. Thái độ đó sẽ được đền bù xứng đáng: người chăn chiên sẽ dẫn chúng đến đồng cỏ xanh tươi, sẵn sàng liều mạng để bảo vệ chúng. Nghe để rồi tách khỏi bầy, tìm cho mình một lối đi riêng thì đâu còn phải là nghe theo tiếng của người chăn. Người chăn sẵn sàng băng rừng vượt suối để tìm con chiên lạc, chứ chẳng bao giờ muốn chiên lạc xa bầy. Đồng cỏ mà người chăn dự tính trong đầu được dành cho cả bầy, tách rời khỏi bầy chắc chắn chiên không thể đến được đồng cỏ này. Tưởng rằng chỉ một mình thức tỉnh nghe và theo tiếng gọi, trong lúc cả bầy chiên chưa nghe biết, rất có thể đó là tiếng gọi giả hiệu của sói dữ muốn chiên rời xa sự chăm sóc của chủ để dễ dàng tấn công.
Giáo Hội là đàn chiên của Chúa. Lời hứa chăm sóc bảo vệ đàn chiên của Chúa Giêsu không chỉ dành riêng cho thời các Tông đồ hoặc các cộng đoàn tiên khởi, nhưng đã trải dài suốt 20 thế kỷ nay. Biết bao thế lực chống đối chủ trương triệt hạ Giáo hội, nhưng Giáo Hội vẫn tồn tại nhờ sự bảo về đầy quyền năng của chủ chăn. Trong đàn chiên Giáo Hội này, mỗi con chiên đều được người chăn biết rõ, và gọi tên và chiên có bổn phận phải nghe và đáp trả. Sự đáp trả có thể mang nhiều sắc thái khác nhau, nhưng dù sao vẫn không thể ra ngoài lối đi của tất cả đàn chiên, vì đó là lối dẫn đến sự sống.
Ước gì chúng ta biết lắng nghe và đáp lại tiếng gọi của Chúa, đồng thời trung thành với đàn chiên Giáo Hội, bởi vì một khi lạc xa đàn, chúng ta sẽ không thể tìm được đồng cỏ và suối nước trong, nơi mà người chăn chiên muốn cho cả đàn chiên vui hưởng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 6: XIN ĐƯỢC Ở TRONG ĐÀN CHIÊN CỦA CHÚA (Ga 10,22-30)
Cùng một lời nói được phát ra, có người nghe thấy, có người chẳng nghe; có người nghe đúng, có người nghe sai; có người nghe đủ, có người nghe thiếu...
Thực trạng đó rất đúng với bài Tin Mừng hôm nay. Thật vậy, những người Dothái hỏi Đức Giêsu: "Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Kitô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết".
Những người Dothái không biết Đức Giêsu là bởi vì họ đã không nhận ra Ngài. Họ bị thói kiêu ngạo che lấp tâm trí, nên đứng trước biết bao nhiêu phép lạ, lời giảng dạy và nhiều mạc khải khác, họ vẫn bị mờ tối lương tâm nên không “biết” Đức Giêsu. Vì thế, khi được hỏi, Đức Giêsu đã khẳng khái trả lời cho họ biết nguyên nhân tại sao, đó là: “Vì họ không thuộc về đàn chiên của Ngài”. Bởi vì: “Chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” Khi đã “biết” và nghe theo tiếng Chủ chiên là chính Đức Giêsu, thì sẽ được sự sống đời đời, không bao giờ diệt vong. Nhất là được đảm bảo khỏi sói dữ, quỷ thần ám hại, vì được ở trong vòng tay của Vị Mục Tử Nhân Lành.
Nếu Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, thì Giáo Hội là đàn chiên của Chúa. Nơi đàn chiên này, luôn được Vị Mục Tử Nhân Lành chăm sóc, giữ gìn. Thế nên, dù sự dữ có mạnh đến đâu, quyền lực của ma quỷ có lớn lao cỡ nào, thì Giáo Hội Chúa vẫn tồn tại nhờ vào sức mạnh, uy quyền của Chủ Chăn.
Mong sao, mỗi người chúng ta luôn tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành, đồng thời hãy biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, để xứng đáng trở thành con chiên ngoan hiền trong đàn chiên của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, xin Chúa ban cho chúng con luôn biết dõi theo Chúa dưới cây gậy mục tử là chính Lời Chúa, để chúng con được sống trong đàn chiên của Chúa đến trọn đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Chiên Tôi nghe tiếng và theo Tôi
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu thực sự là Đấng Cứu Thế và là Con Thiên Chúa. Người đến để ban sự sống đời đời cho đoàn chiên và giữ gìn bảo vệ đoàn chiên an toàn. Hãy tín nhiệm đi theo Người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con được hạnh phúc biết bao vì biết rằng con đang được bàn tay yêu thương của Chúa ôm ấp và bảo vệ. Chúa như người mục tử yêu thương con, hy sinh liều mạng sống vì con để bảo vệ con khỏi những hiểm nguy tấn công con tứ phía. Trước mặt Chúa, mạng sống thân xác con thật quý giá, sự sống linh hồn con thật cao cả. Chúa muốn con được sống, được an toàn, được sống sung mãn và hạnh phúc.
Lạy Chúa, Sa-tan muốn cướp giựt con khỏi bàn tay Chúa. Sa-tan muốn biến thế gian này làm tay sai cho nó, thành sào huyệt đầy những hiểm nguy và ác độc. Có những cám dỗ ngọt ngào, có những thử thách khổ đau, tất cả đều muốn lôi kéo con xa rời đường lối Chúa và phản bội tình thương Chúa. Nhưng Chúa không đành lòng nhìn con rơi vào tay quỷ dữ. Chúa đã cầu nguyện xin Chúa Cha gìn giữ con đang phải chiến đấu giữa thế gian. Chúa còn liều mạng sống trên thánh giá để con khỏi phải diệt vong. Con cảm tạ tình Chúa thương con.
Thế mà lạy Chúa, rất nhiều lúc con lại muốn chạy trốn để vuột thoát khỏi bàn tay Chúa. Con không còn muốn bước theo Chúa. Con đã đi tìm sự tự do buông thả như người con hoang đàng để rồi chuốc lấy đau khổ và bất hạnh. Xin Chúa cho con tín nhiệm vào Chúa. Con muốn từ nay trung thành sống theo lời Chúa dạy. Trước mỗi cám dỗ hoặc mỗi thử thách, xin Chúa cho con được sáng suốt để nhận định, được can đảm để trung thành, và được tin tưởng để cầu nguyện. Amen.
Ghi nhớ: “Tôi và Cha Tôi là một”.
SUY NIỆM 8: Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Hành hương Rôma, pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương là pho tượng Chúa chiên lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới pho tượng, có ghi câu của Abercies vào cuối thế kỷ II rằng: “Ta là môn đệ của một mục tử thánh thiện đã dẫn đàn chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên sườn núi và dưới đồng bằng, vị mục tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi nơi”.
Chúa Kitô chính là người mục tử nhìn xa thấy rộng ấy. Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên, bao trùm cả thế giới. Đàn chiên ấy, ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa (Theo Lm. Hồng Phúc).
Suy niệm
Tình thương của Thiên Chúa qua hình ảnh mục tử trải qua bao năm tháng luôn tràn đầy như Thánh Vịnh đã nhấn mạnh: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời” (Tv 22,6). Hôm qua, hôm nay và qua mọi thời, Thiên Chúa vẫn chăm sóc chúng ta, Ngài vẫn luôn cất tiếng gọi chiên, dẫn đưa trên đường chân lý như Thánh Vịnh ca ngợi: “Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính” (Tv 22,3).
Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự tương quan giữa Thiên Chúa chính là Ngài - Mục tử và đoàn chiên là những người tin vào Ngài: Đức Kitô Mục tử như vừa là người cha vừa là người mẹ hiền chăm sóc cho từng chiên và bảo vệ chúng. Thật thế, Ngài luôn bảo vệ chúng ta trước những cạm bẫy, nguy hiểm của thế gian. Ngài mạnh mẽ như người mục tử đầy sức mạnh, kiên cường của một người du mục, luôn sẵn sàng chiến đấu, có khả năng bảo vệ đoàn vật mình khỏi thú dữ đến để cướp đoạt một con chiên khỏi đàn (x. 1Sm 17,34-35). Vì thế Ngài khẳng định: “Ta ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10,28). Chúa khẳng định: “Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta”. Trong mọi giây phút của cuộc đời, tôi và bạn cùng “gạn đục khơi trong” tiếng mục tử giữa cuộc đời. Tiếng đó thì thầm trong lương tâm ngay thẳng được chiếu sáng bằng đức tin và Lời Chúa: “Lời Chúa soi rọi bước chân con” (x. Tv 118,105). Tiếng Ngài nói qua những biến cố thăng trầm của cuộc sống: Luôn thẳng đứng trong hy vọng và tin tưởng. Lời của Chúa dạy phải biết vâng phục sự thật (x. 1Pr 1,22) và bước đi trong sự thật (x.3Ga 4), mọi tiếng nói, mọi sự việc, mọi biến cố đều đặt trong gương sự thật và như Chúa khẳng định: “Chính chân lý sẽ giải phóng các con” (Ga 8,32).
Nghe Lời mục tử, không để Lời Ngài bị lấn át bởi những âm thanh xào xạc của thế gian. Trái lại, chính nhờ Lời của mục tử “chỉnh lại” âm thanh vừa phải của những lời xào xạc của cảm xúc, thanh lọc âm điệu ồn ào của thế gian. Đặc biệt, Lời mục tử chỉnh sửa và phối hợp chúng làm những âm thanh trầm bổng của cuộc sống tạo thành bản tình ca “Chúa Chiên nhân lành Người thương chăn dắt tôi…”. Chính lúc đó, tôi và bạn học “biết” mục tử, tham dự vào cái “biết” của Ngài. Với cái “biết” linh thiêng này, tôi và bạn gắn bó trọn vẹn với Đức Kitô, dù thuộc bất cứ thành phần nào, cương vị nào: Người tín hữu gắn bó với Ngài hơn qua đời sống hằng ngày, người đang sống với ơn gọi linh mục, tu sĩ cảm nhận được hạnh phúc của đời thánh hiến và dấn thân quên mình như người mục tử nhân lành, sinh viên, học sinh nghe được tiếng Chúa gọi, nhắn nhủ đầu tư cho tương lai cần chăm chỉ học hành, rèn luyện nhân cách cho mình và cho xã hội là đồng cỏ xanh mới đang được kiến tạo. Đặc biệt, người đang được tiếng Chúa gọi trở nên mục tử tương lai, sẽ cảm nhận ơn gọi đã được gieo trong tâm bạn và bạn đang “biết” Chúa hơn, theo Ngài trọn vẹn để làm nảy nở và sinh trái. Đó cũng là ý nghĩa đặc biệt của Chúa Nhật hôm nay - Chúa Nhật Chúa Chiên Lành.
Như Chúa nói: “Chúng theo Ta”, “theo” là thái độ tự do đáp trả dấn thân với Chúa. Như các môn đệ gặp gỡ Đức Kitô, nghe Ngài và khi Ngài gọi “Hãy theo tôi” (Ga l,42). Các ông lập tức đáp trả lại: Bỏ mọi sự theo Thầy (x. Mt 4,20; Mc 1,18.20…). Theo Đức Giêsu là gắn bó trọn với Ngài. Được Ngài bảo vệ, hơn nữa kết hợp mật thiết tình thầy trò, và qua Thầy gắn bó với Cha vì gắn bó với Thầy là gắn bó với Cha như Chúa Giêsu nói “Ta và Cha Ta là một” (Ga 10,30).
Ý lực sống: ”… Chúng theo tôi … không ai cướp được chúng trong tay tôi” (Ga 10, 27-28).
SUY NIỆM 9: Đức Giêsu, Con Thiên Chúa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Nhân kỷ niệm cuộc tẩy uế Đền thờ Giêrusalem và khánh thành bàn thờ mới thời Giuđa Maccabê, Đức Giêsu cũng có mặt. Trong khi Đức Giêsu đi bách bộ tại hành lang Salômôn, người Do thái vây quanh và chất vấn Ngài về nguồn gốc của Ngài. Nhân đây, Ngài tuyên bố một chân lý quan trọng: “Tôi với Chúa Cha là một”, nghĩa là Ngài đồng bản tính với Chúa Cha.
2. Năm 165 TCN, một trong những nhà ái quốc nổi tiếng của Do thái là Giuđa Maccabê đã lãnh đạo cuộc nổi dậy của người Do thái chống lại ách thống trị của vua Syria là Antiôkô Epiphane. Chiến công vẻ vang nhất trong cuộc nổi dậy là tái lập và thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem vốn đã bị tục hóa bởi bàn tay thô bạo của ngoại xâm. Từ đó, hàng năm vào khoảng Mùa Đông, người Do thái tưởng niệm biến cố này trong vòng 8 ngày liền, tuần lễ này được gọi là Cung hiến Đền thờ.
3. Đức Giêsu đã có mặt tại Giêrusalem nhân tuần lễ tưởng niệm này. Lễ Cung hiến Đền thờ vốn khơi dậy lòng ái quốc của dân chúng. Chính vì thế nhiều người đã vây quanh Đức Giêsu và yêu cầu ngài tuyên bố dứt khoát Ngài có phải là Đấng Kitô nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và sai đến như vị cứu tinh của dân tộc không?
Đối với họ, Đức Giêsu có thể là vị anh hùng dân tộc hay một nhà cách mạng nào đó. Chính vì thế, Đức Giêsu đã không trả lời dứt khoát cho câu hỏi của họ. Mối tương quan giữa Chúa Cha và Ngài mà Đức Giêsu vén mở trong câu trả lời mời gọi người Do thái đi vào mầu nhiệm của Ngài.
4. Chúng ta thấy Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi họ đặt ra, nhưng một lần nữa, Chúa cho họ biết Đấng Kitô không phải như quan niệm trần tục của họ, Đấng Kitô không đến để làm thỏa mãn những tham vọng chính trị của họ là giải phóng dân tộc của họ và đem lại thịnh vượng vật chất cho họ. Cho nên, Chúa vượt lên trên quan niệm thiên sai trần thế, và tuyên bố cho họ biết Ngài đồng bản tính với Chúa Cha: ”Tôi và Cha tôi là một”.
5. Như vậy, Đức Giêsu đã khẳng định rõ Ngài là ai. Ngài không những là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa, mà còn là chính Thiên Chúa nữa. Trong vấn đề này, chỉ trong đức tin, con người mới có thể biết Đức Giêsu, nhận diện được khuôn mặt đích thực của Ngài và loan truyền một cách đúng đắn về Ngài. Nhiều khi qua cuộc sống và cung cách tuyên xưng niềm tin của mình, người Kitô hữu chỉ trình bầy một khuôn mặt, nếu không méo mó về Đức Giêsu, thì cũng giới hạn Ngài trong những quan niệm hoàn toàn trần tục. Biết Đức Giêsu và đi vào mầu nhiệm thẳm sâu của Ngài thiết yếu là đi vào cuộc Tử nạn và Phục sinh của Ngài. Liền sau khi Phêrô tuyên xưng Ngài là Đức Kitô, Đức Giêsu đã loan báo cuộc Tử nạn và Phục sinh của Ngài.
6. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi”.
Giáo hội là đàn chiên của Chúa. Lời hứa chăm sóc bảo vệ đàn chiên của Đức Giêsu không chỉ dành riêng cho thời các Tông đồ hoặc các cộng đoàn tiên khởi, nhưng đã trải dài suốt 21 thể kỷ nay. Biết bao thế lực chống đối chủ trương triệt hạ Giáo hội của Đức Kitô, thế nhưng Giáo hội của Chúa vẫn tồn tại nhờ sự bảo vệ đầy quyền năng của chủ chăn.
Trong đàn chiên Giáo hội này, mỗi con chiên đều được người chăn chiên biết rõ, gọi tên, và chiên có bổn phận phải nghe và đáp trả. Sự đáp trả có thể mang nhiều sắc thái khác nhau, nhưng dù sao không thể ra ngoài lối đi của tất cả đàn chiên, vì đó là lối dẫn đến sự sống.
7. Cuộc sống của người Kitô hữu là lời tuyên xưng và rao giảng về một dung mạo của Đức Giêsu khi nào họ kết hiệp với Ngài trong mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Người Kitô hữu phải cố gắng để nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô để có thể nói như thánh Phaolô: ”Tôi sống, nhưng không phải là tôi mà Chúa Kitô sống trong tôi”. Chúng ta nghe lời văn sĩ John Bayer đã khen vợ mình vào giây phút cuối đời ông: ”Mình thân yêu, trong gương mặt của mình, tôi đã nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn mình vô cùng”.
8. Truyện: Bức tượng Chúa chiên lành
Hành hương Rôma, pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương là pho tượng Chúa chiên lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới pho tượng, có ghi câu của Abercies vào thế kỷ thứ II rằng: ”Ta là môn đệ của một mục tử thánh thiện đã dẫn dàn chiên ra đồng có xanh tươi bên sườn núi và dưới đồng bằng, vị mục tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi nơi”.
Chúa Kitô chính là người mục tử nhìn xa thấy rộng ấy. Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên, bao trùm cả thế giới. Đàn chiên ấy, ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa.
26/04 Chúa chiên lành
- Viết bởi Ga 10, 1-10
Chúa chiên lành.
Thứ Hai tuần 4 Phục Sinh.
"Ta là cửa chuồng chiên".
Lời Chúa: Ga 10, 1-10
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ".
Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Mục tử nhân lành
Suy niệm:
Mục tử và đàn chiên trên đồng cỏ
là một hình ảnh quen thuộc đối với người Palestin.
Giữa người và chiên có một mối tương quan mật thiết.
Ở đây Ðức Giêsu tự ví mình như người mục tử.
Mục tử nhân lành khác với người chăn thuê,
vì dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên,
chứ không bỏ chiên mà chạy khi gặp sói dữ.
Hội Thánh là đoàn chiên của Ðức Giêsu Kitô.
Giữa Ngài và từng con chiên, có mối dây gắn bó.
Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi,
như Cha biết tôi và tôi biết Cha.
Ðây là cái biết sâu thẳm, cái biết hai chiều.
Chiên không phải là một con vật ngờ nghệch, thụ động.
Chiên là hình ảnh của một ngôi vị tự do.
Vị Mục Tử gọi tên từng con bằng giọng quen thuộc.
Chiên nghe tiếng của Ngài và đi theo.
Như thế giữa Mục Tử và đoàn chiên
có sự hiểu biết nhau sâu xa, nhận ra nhau dễ dàng,
và một sự trân trọng quý mến nhau đặc biệt.
Sau Phục Sinh, Ðức Giêsu đã giao cho Phêrô sứ mạng
chăn dắt và chăm sóc đoàn chiên của Ngài.
Sứ mạng này bắt nguồn từ một tình yêu.
Yêu mến Ngài dẫn đến yêu mến đoàn chiên Ngài.
Ðức Giêsu là Mục Tử tối cao và gương mẫu.
Mọi mục tử khác chỉ là phụ tá
giúp chăn dắt đoàn chiên của Ngài.
Mọi mục tử phải noi gương Ngài,
dám chết để cho chiên được sống.
Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn cần những người tiếp nối công việc của Ngài,
để lo cho đoàn chiên trên thế giới.
Các bạn trẻ khi lớn lên thường lập gia đình.
Ðiều đó thật là tốt đẹp.
Nhưng Chúa Giêsu vẫn muốn một số bạn trẻ
ở bên Ngài cách đặc biệt để được Ngài sai đi.
Họ chấp nhận hy sinh quyền được lập một tổ ấm,
để có thể yêu mãnh liệt hơn và bao la hơn.
Tiếng gọi của Chúa vẫn vang lên
ở ngay nơi lời nài xin của con người.
Những người đói khát Lời Chúa, đói khát tình thương,
đói khát bánh ăn, đói khát ý nghĩa cuộc sống.
Khước từ tiếng kêu của con người là khước từ tiếng Chúa.
Chúa Giêsu mời các bạn trẻ nhìn thấy đám đông bơ vơ.
Những người bệnh hoạn tật nguyền, những trẻ em đường phố,
những người lầm lỡ, tự đặt mình ở bên lề xã hội...
Thấy họ bằng trái tim và để cho tim mình đáp trả.
Tạ ơn Chúa đã cho Hội Thánh biết bao đại chủng sinh,
các linh mục, và các tu sĩ nam nữ, các nhà thừa sai.
Nhưng đồng lúa chín vàng vẫn cần nhiều thợ gặt,
tận tụy hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi hơn.
Có thể chính bạn được Chúa bất ngờ mời gọi
để đứng trong đội ngũ những người phục vụ đó!
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin ban cho chúng con những linh mục
có trái tim thuộc trọn về Chúa,
nên cũng thuộc trọn về con người.
Xin cho chúng con những linh mục
có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng,
một trái tim đủ lớn
để chứa được mọi người và từng người,
nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện,
có tình bạn thân thiết với Chúa
để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện,
có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho,
tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.
Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục
có trái tim của Chúa,
say mê Thiên Chúa và say mê con người,
hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên
và dẫn đưa chúng con
đến với Chúa là Nguồn Sống thật. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: CỬA GIÊSU
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Lời Chúa hôm nay chứa đầy tâm tình yêu thương. Chúa Giêsu tự ví mình như cánh cửa. Quả thật cánh cửa của Chúa đã mở ra hết mọi chiều kích phong phú cuả sự sống để ban cho ta muôn vàn ân sủng.
Cánh cửa Giê-su mở ra chiều rộng vô biên của Nước Trời. Cửa mở rộng để đón nhận mọi người. Chúa không ngừng mời gọi mọi người đến với Chúa. Thoạt tiên là người Do Thái: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái các ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh”(Mt 23, 37). Rồi đến tất cả mọi dân tộc: “Tôi còn những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về”(Ga 10, 16). Hôm nay, trong một thị kiến lạ lùng, Chúa đã truyền cho thánh Phê-rô phải mạnh dạn đi đến với dân ngoại tại Ma-kê-đô-ni-a. Quả thật cánh cửa là tấm lòng của Chúa rộng mở đến vô biên để đón nhận tất cả mọi người thuộc mọi chủng tộc, mọi mầu da, mọi ngôn ngữ vào Nước Chúa.
Cánh cửa Giêsu mở ra chiều cao vời vợi của ân sủng. Cửa mở ra cho ta đi vào cuộc sống mới trong một chân trời mới cao vượt cõi nhân gian phàm trần. Đó là cuộc sống trong Thánh Thần vượt xa mọi ràng buộc nặng nề của xác thịt. Được sinh trong Thánh Thần, ta tự do như gió, muốn thổi đâu thì thổi. Được nâng lên làm con Thiên Chúa, ta được ngồi ngang hàng với các bậc thần thánh. Chúa nâng cao phẩm giá con người. Con người không còn bị kết án dính chặt vào mặt đất. Con người trở nên Con Chúa và có một định mệnh mới cao quí vô cùng.
Cánh cửa Giê-su mở ra chiều sâu thăm thẳm của tình yêu. Chúa đến với ta trong tình yêu. Chúa yêu thương nên gọi tên từng người. Theo quan niệm của người Do Thái, tên tức là người. Biết tên là biết người. Chúa biết rõ ta từ khi ta chưa có mặt trên đời. Như lời Thánh vịnh 138: “Con mới là bào thai mắt Ngài đã thấy. Mọi ngày đời được dành sẵn cho con. Đều thấy ghi trong sổ sách Ngài “. Ta đến với Chúa bằng tình yêu vì Chúa cho ta được biết tiếng ngài. Biết tiếng không khỏi gợi nhớ đến nguồn gốc của từ ngữ “tri âm, tri kỷ” tức là một người hiểu biết mình tường tận. Chúa cho ta được nghe tiếng Chúa để trở thành bạn hữu tri âm của Chúa, để hiểu và tham dự vào mọi chương trình của Chúa như lời Chúa nói: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15, 15).
SUY NIỆM 3: Chúa chiên lành
Có một chàng sinh viên, sau khi tốt nghiệp đại học, đã không chọn cho mình một ngành nghề chuyên môn, nhưng lại đi chăn cừu thuê. Anh cho biết: Mỗi ngày anh phải làm việc tới mười tám tiếng đồng hồ và làm tất cả bảy ngày trong tuần. Suốt thời gian ở trên núi, anh hoàn toàn cô đơn, chỉ bầu bạn với chú chó, chú ngựa và hai ngàn con cừu.
Mỗi tuần một lần, người ta đem đến cho anh thực phẩm, thư từ và đạn dược. Công việc của anh là làm sao giữ cho đàn cừu được ở chung một chỗ, dẫn chúng đến nơi có cỏ và có nước, đồng thời bảo vệ chúng khỏi thú dữ.
Anh kể: một buổi sáng nọ, có một nhóm cừu tự rời khỏi bày, thế là tôi phải bỏ tất cả thời gian để lần theo dấu vết của chúng. Ngay khi vừa mới tìm thấy, thì một cơn mưa bão ập xuống, khiến tôi và những con cừu vừa ướt lại vừa bị lạnh cóng suốt đêm.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy nghề chăn cừu thời nay thật là khó khăn và cực nhọc. Nhưng ngày xưa, khi chưa có súng đạn thì công việc của họ không chỉ cực nhọc mà còn rất nguy hiểm nữa.
Trong sách Samuel, Đavid đã trả lời cho nhà vua trước lúc giao tranh với Goliath như sau: Tâu bệ hạ, thần đã từng chăm sóc đàn cừu của phụ thân, bất cứ khi nào có một con sư tử hay một con gấu cướp đi một con cừu, thì lập tức, thần rượt theo và tấn công nó để cứu con cừu. Nếu con sư tử hay con gấu ấy quay vào tấn công thần, thần sẽ xông tới, chộp cổ họng và đánh nó cho đến chết. Thần đã giết nhiều sư tử và gấu. Thần cũng sẽ làm như vậy với tên Philitinh ngoại đạo này.
Từ những mẩu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay, trong đó Chúa đã nói: Ta là mục tử nhân lành, sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Nói cách khác Chúa Giêsu chính là vị mục tử mà tiên tri Egiechiel đã loan báo: Ngài chăm sóc những con bơ vơ yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn và đi tìm những con bị lạc. Chúa Giêsu còn làm hơn thế nữa, Ngài tự hiến mạng sống cho đoàn chiên. Và từ cõi chết sống lại, Ngài đã chia sẻ vinh quang Phục sinh cho đoàn chiên của Ngài. Từ đó chúng ta hãy rút ra một vài điểm thực hành:
Điểm thứ nhất, đó là hãy tỏ lòng biết ơn Ngài vì nhờ sự chết và Phục sinh, Ngài đã cứu chúng ta khỏi manh mối của thú dữ là ma quỷ và tội lỗi.
Điểm thứ hai, đó là hãy bước đi dưới sự dẫn dắt của Ngài, nhờ vậy mà chúng ta chẳng bao giờ bị lầm đường lạc lối. Trái lại, cuộc đời chúng ta sẽ được bảo đảm an toàn, bởi vì như lời thánh vịnh cũng đã xác quyết: Chúa là Mục tử, Ngài dẫn lối chỉ đường cho con đi. Đi trong tay Chúa nào con thiếu chi con sợ chi. Cỏ non rợn đồng xanh con không bao giờ thiếu suối nước trường sinh con nghỉ uống no đầy.
SUY NIỆM 4: Mục tử nhân lành
(TGM Ngô Quang Kiệt)
Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Nguơì cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.
Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.
Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.
Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.
Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đức Giêsu hướng dẫn đoàn chiên bằng cách nào? Bằng quyền lực hay bằng tình yêu thương?
2- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Đức Kitô.
3- Bạn có cảm thấy trách nhiệm là mục tử của mình không? Bạn đã đối xử với đoàn chiên của mình thế nào?
4- Bạn nghĩ gì về đời sống tu trì? Bạn có cầu nguyện cho cha Xứ của bạn không?
SUY NIỆM 5: Ta Là Cửa Ðoàn Chiên
Phần lớn vùng đất Giuđêa nằm trên độ cao, nhiều gồ ghề và sỏi đá, thuận tiện cho việc chăn nuôi hơn là trồng trọt. Bởi thế, người dân vùng này nói riêng và toàn thể vùng Palestina nói chung thường sống bằng nghề chăn nuôi. Họ nuôi nhiều cừu để lấy lông chiên hơn là ăn thịt. Thế nên, mối liên lạc giữa đàn chiên và người chăn thật mật thiết. Chiên hiểu chủ và chủ biết từng con chiên một.
Hình ảnh người chăn chiên là một diễn tả quen thuộc của lòng nhân từ, yêu thương. Trong Kinh Thánh các tác giả Cựu Ước đặc biệt là Thánh Vịnh thường hay so sánh mối quan hệ giữa Giavê Thiên Chúa và dân Israel như người chăn và đàn chiên. Israel và đàn chiên Giavê chăm sóc trong đồng cỏ của Ngài.
Qua tân Ước, hình ảnh người chăn và đàn chiên cũng được nhiều lần nói đến, đặc biệt là người chăn chiên được Chúa Giêsu tự đồng hóa mình với người chăn chiên nhân lành. Nỗi lòng của người chăn chiên cũng là nỗi lòng của Ngài. Một trong những diễn tả ấy được thánh sử Gioan ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
Anh chị em thân mến!
Thấy người Do Thái không lãnh hội được ý nghĩa là người chăn chiên, Chúa Giêsu nói rõ cho họ biết: "Ta là cửa chuồng chiên". Qua đó, chính Chúa Giêsu mạc khải cho họ biết con đường đi tới Chúa Cha như là cửa mà đàn chiên ra vào và được hưởng sự an toàn, được sống dồi dào. Còn những kẻ đến trước mà vào là kẻ trộm cướp nên chiên đã không nghe tiếng họ. Những người đến trước ở đây không phải là các ngôn sứ, nhưng là những người dựa vào sự khôn ngoan thông thái thế gian. Chính họ là những người Thiên Chúa dấu không cho biết những điều thuôc về ơn cứu độ. Trong thực tế, mặc dù bị áp đặt, nhưng người mù được Chúa Giêsu chữa lành không nghe lời người Pharisiêu và chỉ tin vào Chúa Giêsu. Vì họ là kẻ trộm đã giết hại chiên và phá hủy, còn Chúa Giêsu đến để chiên được sống và sống dồi dào.
Chúa Giêsu đã tóm tắt vai trò của Ngài, Ðấng chăn chiên với đàn chiên là hình ảnh cửa đàn chiên: "Ta là cửa, ai qua Ta mà vào thì sẽ được cứu độ". Ðây là hình ảnh quen thuộc của vùng Trung Ðông đối với các mục tử chăn chiên. Người mục tử nhân lành biết lo liệu cho đàn chiên của mình vào ban đêm và ban ngày, sẽ dẫn chiên tới đồng cỏ xanh tươi với dòng suối mát như tác giả Thánh Vịnh 22 vẫn hát lên "trong đồng cỏ xanh tươi Người cho tôi nằm nghỉ, Người cho tôi dòng nước trong lành".
Chúa Giêsu là cửa để qua đó từng con chiên vào và được nghỉ qua đêm an toàn. Chính nơi cửa, người mục tử sẽ cầm gậy để kiểm từng con chiên, không để một con nào bị lạc mất. Chúa Giêsu là cửa, qua đó các con chiên được dẫn đi ăn mỗi buổi sáng, để các chiên nghe và nhận biết tiếng gọi của chủ chăn. Chủ chăn gọi đàn chiên và dẫn chúng đi, người chăn chiên đi trước và chiên theo sau, vì chiên biết tiếng chủ chiên của mình. Hình ảnh cửa chuồng chiên và hình ảnh vị chủ chăn cho chúng ta thấy Ngài là Ðấng chăn chiên, là Ðấng Cứu Ðộ cho những ai nghe tiếng Ngài.
(‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
SUY NIỆM 6: “TA BIẾT CHÚNG VÀ CHÚNG THEO TA” (Ga 10, 1-10)
Chuyện kể rằng: một du khách đến Palestin, gặp được người mục tử đang làm việc tại trại cừu. Người đó chỉ cho du khách thấy cảnh đồi núi và bày cừu đang tung tăng trên cánh đồng cỏ.
Phóng tầm nhìn, du khách hỏi: “Đó là trại cừu, kia là bấy cừu, đây là lối vào. Vậy còn cửa đâu?” Người mục tử hỏi lại: “Cửa hả? Chính tôi là cửa. Ban đem tôi nằm giữa lối đi này. Không một con cừu nào bước ra hay một con sói nào bước vào mà không phải qua xác tôi”.
Trong cuộc đời của Đức Giêsu, một trong những phương pháp sư phạm của Ngài khi rao giảng Tin Mừng chính là phương pháp ẩn dụ. Tức là mượn hình ảnh của thiên nhiên, động vật... để nói lên một chân lý thuộc về Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay cho biết: Đức Giêsu dùng hình ảnh mục tử, đàn chiên và cửa chuồng chiên để nói lên mối tương quan giữa Ngài và dân Israel.
Mục tử là khái niệm rất quen thuộc của người Dothái; đàn chiên chính là gia sản của họ, nên ai cũng biết. Mục tử và đàn chiên cả hai đều sống du mục, nay đây mai đó, luôn tìm đến chỗ có đồng cỏ tươi, dòng suối mát để hạ trại.
Hôm nay, Đức Giêsu khẳng định Ngài là Mục Tử Nhân Lành, được Chúa Cha ban tặng cho nhân loại. Mục Tử Nhân Lành này sẵn lòng hy sinh tất cả vì đàn chiên. Ngài tự ví mình là “Cửa Chuồng Chiên”, tức là người canh phòng, bảo vệ chiên khỏi sói dữ tấn công. Vì thế, ai qua “Cửa” mà vào thì sẽ được sống.
Người Mục Tử Nhân Lành này sẵn sàng dùng mọi cách để giữ gìn chiên, ngay cả cái chết. Ngài yêu thương chiên bằng tình yêu mục tử, nên Ngài “biết” từng con chiên và từng con chiên “biết” Ngài. Vì thế, sự sống của chiên là của Ngài và sự sống của Ngài luôn dành cho chiên.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về Chúa và Chúa thuộc về ta. Chúa “biết” chúng ta và Ngài “biết” cách thấu đáo. Còn chúng ta, chúng ta có “biết” Ngài không, hay có “biết” nhưng “biết” cách vu vơ, lúc biết lúc không?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nghiêm túc đặt lại câu hỏi ấy cho chính mình, ngõ hầu mỗi người làm mới lại mối tương quan với Thiên Chúa để được đi trong đường lối của Ngài. Đồng thời luôn sẵn sàng làm chứng về những gì mình “biết” về Thiên Chúa cho con người và cuộc sống hôm nay, ngang qua hành vi được biểu lộ nơi lòng mến và niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, xin Chúa ban cho chúng con được “biết” Chúa như chính Chúa đã “biết” chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
SUY NIỆM 7: Đức Giêsu Chúa chiên nhân lành
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay trình bầy Đức Giêsu là cửa chuồng chiên:
- “Ai không qua cửa chuồng chiên mà vào thì là quân trộm cướp”: Đức Giêsu ám chỉ những người biệt phái và luật sĩ. Họ không được Thiên Chúa ủy nhiệm, họ chỉ giành quyền lãnh đạo tôn giáo, không phải mưu cầu lợi ích cho dân, mà để tìm vinh dự và quyền lợi riêng.
- “Ta là cửa chuồng chiên”: Đức Giêsu là mục tử đích thật của dân. Ngài đi vào đường hoàng, được người canh gác mở cửa cho, gọi tên từng con chiên, chiên quen tiếng nên đi theo, Ngài dẫn chúng đi ăn.
2. Nhiều người đã nghe Đức Giêsu giảng và xem nhiều phép lạ. Họ chỉ hiểu một phần nào giáo lý của Ngài, nhưng chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Câu hỏi “Ngài là ai” phải được đặt ra. Tuy nghe Đức Giêsu giảng và làm phép lạ như vậy, nhưng họ vẫn nghi ngờ về thân thế, uy quyền và sứ mạng của Ngài.
Để nói lên sứ mạng của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về người mục tử tốt lành. Người mục tử biết lo cho con chiên, tha thiết với đàn chiên, hiệp thông với đàn chiên, quên bản thân mình và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên. Đức Giêsu tự nhận lấy danh hiệu ấy cho mình khi Ngài nói với họ: “Ta là mục tử nhân lành” (Ga 10,14).
3. “Ta là cửa chuồng chiên”.
Đức Giêsu còn xác định Ngài là cửa chuồng chiên để bảo vệ đàn chiên. Hình ảnh này hơi khó hiểu đối với chúng ta vì phong tục nuôi chiên của người Palestin khác với chúng ta.
Trong cuốn “The Holy Land”: vùng đất thánh, tác giả John Kellman mô tả: chuồng chiên ở Do thái có một bức tường bằng đá chung quanh cao khoảng bốn bộ (cỡ 1m4) và một lối vào. Ngày nọ một du khách Thánh Địa đã trông thấy một cái chuồng chiên ngoài đồng gần Hebron. Người du khách hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó: “Cửa chuồng của anh đâu”? Người mục tử liền đáp: “Tôi chính là cửa chuồng”. Đoạn người mục tử kể cho du khách nghe biết, ban đêm anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó. Không có con chiên nào có thể bỏ chuồng đi ra, và cũng chẳng có con thú rừng nào có thể đi vào mà không bước qua mình anh ta.
4. “Khi sói đến, người làm thuê bỏ chiên mà trốn”.
Đức Giêsu khẳng định “Ta là mục tử tốt lành”, do đó Ngài đã quên bản thân mình để phục vụ lợi ích của dân chúng và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên.
Trong quyển “The land and the Book”, Thomas Thompson có ghi lại câu chuyện bi đát như sau: Một ngày nọ có một chàng mục đồng trẻ tuổi dẫn đàn súc vật đi về vùng lân cận ngọn núi Thabor. Bỗng có ba tên cướp đường người Ả rập xuất hiện. Chàng thanh niên biết rõ chàng sẽ gánh chịu những hậu quả khôn lường, thế nhưng chàng đã không bỏ trốn. Chàng kiên cường chiến đấu để giữ cho bầy súc vật của chàng khỏi rơi vào tay lũ thổ phỉ. Đoạn cuối được kết thúc bằng cái chết liều mạng của chàng thanh niên cho đàn chiên của chàng.
5. “Anh đi trước và chiên đi theo anh”.
Hình ảnh người chăn chiên đi trước và đàn chiên theo sau thật đẹp. Điều đó nói lên sự hiệp nhất giữa chủ chăn và đàn chiên, chiên nghe theo chủ chăn và do đó, chỉ có một chủ chiên và một đàn chiên.
Hiệp nhất vốn là dấu chỉ của tình yêu. Đức Giêsu mượn hình ảnh người mục tử không ngừng đi tìm kiếm những con chiên lạc, để nói lên mối quan tâm của Ngài đối với Giáo hội. Đó chính là chúc thư Ngài để lại trong những giây phút cuối đời. “Xin cho chúng nên một”, “một đàn chiên và một chủ chiên”: đó là hình ảnh của sự hiệp nhất mà Đức Giêsu luôn quan tâm đến. Hình ảnh người mục tử đi tìm kiếm những con chiên lạc cũng nói lên tất cả mối tương quan của Thiên Chúa đối với con người: không phải con người đi tìm kiếm Thiên Chúa cho bằng chính Thiên Chúa đi tìm kiếm con người. Mọi cố gắng của con người xét cho cùng cũng đều là những lôi kéo của Thiên Chúa.
6. Truyện: Theo anh là thủ lãnh.
Một nhà thám hiểm xứ Soudan đã tháo xiềng xích cho một tên nô lệ 12 tuổi. Rồi săn sóc dạy dỗ như con, thằng nhỏ đem lòng mến phục vị đại ân nhân.
Giờ thực hiện cuộc mạo hiểm đầy gian nguy đã đến. Nhà thám hiểm không muốn cưỡng bách em bé theo mình. Ông nói:
- Này em, anh sắp lên đường đến miền xa lạ. Cuộc hành trình rất mực cam go: Đường đi xa xôi, hành lý nặng nề, nước uống đồ ăn thiếu thốn, những mũi tên tẩm thuốc độc vù vù bên tai, rừng nhiều thú dữ... Em ở lại hay theo anh? Nếu em theo anh, chúng ta cùng nhau cực nhọc, khi thiếu nước, thiếu ăn, anh cũng chịu khát, nhịn đói như em, việc em vẫn nhẹ hơn việc anh. Bây giờ tùy em quyết định.
Em bé nhìn sâu vào mắt nhà thám hiểm, lúc này đã thành người anh, người bạn và nói:
- Theo anh là thủ lãnh của em.
Thế là em nhỏ theo anh lên đường. Những quãng đường dài cực nhọc, những ngày nắng không nước, em bé lần lượt nếm cả, chân nứt nẻ máu me, nhưng không coi sao, vì lòng vẫn hăng hái khi thấy người thủ lãnh sốt rét bị thương mà vẫn đi hàng đầu. Sức chịu đựng của con người có giới hạn, mà nguy hiểm vất vả lại cứ tăng, nhiều bạn đồng hành bỏ cuộc. Nhà thám hiểm vừa thương hại, vừa để thử lòng, hỏi em bé:
- Em có bỏ không?
Lời thưa đầy hăng hái:
- Em đã chẳng hứa với anh sao?
Sáu tháng trời qua đi, cuộc thám hiểm thành công rực rỡ. Đàng sau người thủ lãnh tươi như hoa nở, em nhỏ đứng hiên ngang đón nhận những lời hoan hô vang dội.
25/04 Mục tử tốt lành.
- Viết bởi Ga 10, 11-18
Mục tử tốt lành.
CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH năm B. CHÚA CHIÊN LÀNH.
"Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên".
Lời Chúa: Ga 10, 11-18
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên.
Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn; chúng sẽ nghe tiếng Ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên.
Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Đó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH – Năm B
CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
Cầu cho ơn thiên triệu Linh mục và tu sĩ
Lời Chúa: Cv 4,8-12; 1Ga 3,1-2; Ga 10,11-18
1. Mục tử nhân lành.
Suy Niệm
Mục tử và đàn chiên trên đồng cỏ
là một hình ảnh quen thuộc đối với người Palestine.
Giữa người và chiên có một mối tương quan mật thiết.
Ở đây Đức Giêsu tự ví mình như người mục tử.
Mục tử nhân lành khác với người chăn thuê,
vì dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên,
chứ không bỏ chiên mà chạy khi gặp sói dữ.
Hội Thánh là đoàn chiên của Đức Giêsu Kitô.
Giữa Ngài và từng con chiên, có mối dây gắn bó.
Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi,
như Cha biết tôi và tôi biết Cha.
Đây là cái biết sâu thẳm, cái biết hai chiều.
Chiên không phải là một con vật ngờ nghệch, thụ động.
Chiên là hình ảnh của một ngôi vị tự do.
Vị Mục Tử gọi tên từng con bằng giọng quen thuộc.
Chiên nghe tiếng của Ngài và đi theo.
Như thế giữa Mục Tử và đoàn chiên
có sự hiểu biết nhau sâu xa, nhận ra nhau dễ dàng,
và một sự trân trọng quý mến nhau đặc biệt.
Sau Phục Sinh, Đức Giêsu đã giao cho Phêrô
sứ mạng chăn dắt và chăm sóc đoàn chiên của Ngài.
Sứ mạng này bắt nguồn từ một tình yêu.
Yêu mến Ngài dẫn đến yêu mến đoàn chiên Ngài.
Đức Giêsu là Mục Tử tối cao và gương mẫu.
Mọi mục tử khác chỉ là phụ tá
giúp chăn dắt đoàn chiên của Ngài.
Mọi mục tử phải noi gương Ngài,
dám chết để cho chiên được sống.
Hội Thánh dành Chúa Nhật hôm nay để cầu cho ơn thiên triệu.
Chúa Giêsu vẫn cần những người tiếp nối công việc của Ngài,
để lo cho đoàn chiên trên thế giới.
Các bạn trẻ khi lớn lên thường lập gia đình.
Điều đó thật là tốt đẹp.
Nhưng Chúa Giêsu vẫn muốn một số bạn trẻ
ở bên Ngài cách đặc biệt để được Ngài sai đi.
Họ chấp nhận hy sinh quyền được lập một tổ ấm,
để có thể yêu mãnh liệt hơn và bao la hơn.
Tiếng gọi của Chúa vẫn vang lên
ở ngay nơi lời nài xin của con người.
Những người đói khát Lời Chúa, đói khát tình thương,
đói khát bánh ăn, đói khát ý nghĩa cuộc sống.
Khước từ tiếng kêu của con người là khước từ tiếng Chúa.
Chúa Giêsu mời các bạn trẻ nhìn thấy đám đông bơ vơ.
Những người bệnh hoạn tật nguyền, những trẻ em đường phố,
những người lầm lỡ, tự đặt mình ở bên lề xã hội...
Thấy họ bằng trái tim và để cho tim mình đáp trả.
Tạ ơn Chúa đã cho Hội Thánh 408.024 linh mục
(Niên giám Toà Thánh năm 2007)
Nhưng đồng lúa chín vàng vẫn cần nhiều thợ gặt,
tận tụy hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi hơn.
Có thể chính bạn được Chúa bất ngờ mời gọi
để đứng trong đội ngũ những người phục vụ đó!
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về cuộc sống của các linh mục và tu sĩ ở vùng bạn sống? Các vị ấy đã làm gì và còn phải làm gì cho dân Chúa?
Theo ý bạn, cuộc sống thực dụng hôm nay có làm cho ít người muốn đi tu không? Đi tu có phải là làm một việc khác thường hay bất thường không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con
những linh mục có trái tim thuộc trọn về Chúa,
nên cũng thuộc trọn về con người.
Xin cho chúng con những linh mục
có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến dâng,
một trái tim đủ lớn để chứa được mọi người và từng người,
nhất là những ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện,
có tình bạn thân thiết với Chúa
để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện,
có thể nuôi chúng con bằng tấm bánh thơm tho,
tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.
Cuối cùng, xin cho chúng con
những linh mục có trái tim của Chúa,
say mê Thiên Chúa và say mê con người,
hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên
và dẫn đưa chúng con đến với Chúa là Nguồn Sống thật.
2. Chiên lành
(Suy niệm của Huệ Minh)
Thi thoảng có dịp tôi ghé nhà bạn bè chơi. Lúc thì trao đổi chuyện đời, lúc thì thư giãn với nhau bằng những câu chuyện cười.
Gia đình người bạn thân không xa nhà cho lắm có một hồ cá khá đẹp cũng như những con cá thật dễ thương. Lâu lâu chủ nhà đi ngang qua cho chút thức ăn và lấy bàn tay vuốt vuốt thành hồ. Thật lạ mắt cả đàn cá đi theo bàn tay chủ của chúng.
Ngồi chơi khá lâu, tôi cũng lấy ít thức ăn bỏ cho chúng và cũng đưa bàn tay của mình ra để vuốt quanh thành hồ như chủ của chúng làm. Thật ngạc nhiên khi thấy bàn tay của tôi đưa ra đàn cá cứ như đơ như cây cơ vậy.
Dĩ nhiên tôi thắc mắc hỏi người bạn làm sao đàn cá lại như thế?
Để giải đáp thắc của tôi, người bạn giải thích đơn giản là ngày ngày bạn cho chúng ăn, ban chơi với nó nên bàn tay của bạn quá quen với chúng nên khi thầy đưa tay ra thì chúng bơi theo bạn. Thấy cũng hay! Loài cá vô tri vô giác nhưng dường như nó có cái cảm khi chủ của chúng cho chúng ăn, chơi đùa với chúng. Bàn tay cho thức ăn và bàn tay đùa vui với chúng đã trở nên thân thuộc đến độ không có người nào khác thay bàn tay đó dù có cho ăn hay chơi với chúng.
Hình ảnh của đàn cá trong hồ ở nhà người bạn làm cho tôi liên tưởng đến đàn chiên. Người Việt Nam chúng ta khá xa lạ với đàn chiên bởi lẽ khí hậu không phù hợp cho chuyện chăn nuôi chiên. Chỉ ở Do Thái người ta mới nuôi chiên để lấy lông hay lấy thịt. Đặc tính của chiên là sống đoàn lũ và nghe theo người chủ chăn.
Rất gần gụi với đời sống của người Do Thái, Chúa Giêsu đã lấy hình ảnh của người mục tử để nói về mình và những người đi theo mình, những người thuộc về mình: "Ta là mục tử nhân lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta" (Ga 10, 14),
Trang Tin Mừng theo Thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe (Ga 10, 11-18): Cho thấy Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, Ngài biết chiên của Ngài, và chúng cũng nhận ra Ngài. Không giống như người chăn thuê, Chúa Giêsu sẵn sàng hiến mạng sống của mình để bảo vệ đoàn chiên.
Không chỉ ở đoạn Tin Mừng này ta thấy hình ảnh của đoàn chiên, của chủ chiên, của từng con chiên nhưng đâu đó ta thấy hình ảnh mà Thiên Chúa muốn nói với mỗi người chúng ta và với mọi người rằng Ngài chính là Chủ, là Chúa của đời ta. Nếu ta tín thác đời ta nằm trong bàn tay của Chúa ắt hẳn ta sẽ cảm thấy bình an và thanh thản.
Với tâm tình xác tín rằng Chúa là mục tử, Chúa là đấng chăn dắt đời mình, vua Thánh Đavit đã bày tỏ lòng mình:
Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Ðầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương Chúa
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.
Rõ ràng rằng nếu ta để cho đời Chúa dẫn dắt ta thì ta sẽ bình an như những con chiên lành ngoan ngùy đi theo tiếng gọi của chủ. Hẳn nhiên rằng con nào ngoan ngùy đi theo đàn thì sẽ được hưởng những điều tốt nhất mà chủ lo cho chúng. Ngược lại, nếu chúng ngỗ nghịch, chúng bất tuân thì cuộc đời chúng sẽ khổ và có khi hư đi bởi trộm cướp và thú dữ luôn rình rập.
Ngày hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Chúa Chiên Lành như nhắc nhở mỗi kitô hữu chúng ta về chân tính của mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta là những con chiên trong vòng tay của vị Mục Tử Nhân Lành là chính Chúa Giêsu. Nếu chúng ta ngoan ngùy để cho Chúa hướng dẫn, Chúa dẫn đát đời ta thì chắc chắn ta sẽ bình an thanh thản.
Như Chúa đã nói Chúa là đấng chăn chiên thật và lòng của vị chủ chăn thật này hết sức đặc biệt đó chính là người chủ này sẵn sàng để lại 99 con chiên lành để đi tìm con chiên lạc. Tâm tình ấy được trải dài bằng lòng thương xót của vị chủ chăn dành cho những con chiên tật nguyền, những con chiên khuyết tật.
Nghĩ như thế, nói như thế, suy như thế để ta luôn luôn tin tưởng và tín thác cuộc đời của ta trong lòng bàn tay của vị mục tử nhân lành là chính Chúa.
Giữa thời cuộc lữ thứ trần gian này có quá nhiều tiếng gọi: tiếng gọi của vật chất, tiếng gọi của danh vọng, của quyền lực, của xác thịt... Những tiếng gọi đó đôi khi làm át đi tiếng gọi của chủ chăn Giêsu để rồi ta mãi mê đi theo những tiếng gọi đó.
Mỗi người chúng ta có quá nhiều cảm nghiệm nay nói đúng hơn là kinh nghiệm về những tiếng gọi không phải là tiếng gọi của mục tử Giêsu.
Có khi ta thấy những người thân của chúng ta, ngay trong gia đình của chúng ta cứ mãi miết đi tìm đồng tiền, đi tìm quyền lực, đi tìm danh vọng bất chấp bằng mọi cách.
Có khi ta thấy người gần bên cạnh ta lao đầu vào những cuộc vui vô bổ và chi tiêu thật phung phí và lệ thuộc nặng nề vào tiền của vật chất.
Có khi ta thấy người rất gần chúng ta cứ mãi say theo cuộc tình không có điểm dừng và ngang trái...
Tất cả những ngổn ngang của cuộc đời như thế đập vào mắt ta, len vào lòng ta tự lúc nào ta không biết.
Và bản thân ta, nhiều lần nhiều lúc ta cũng rơi vào cạm bẫy của thế gian, của cuộc đời để ta không còn đủ thinh lặng để nghe tiếng của mục tử Giêsu nữa.Chỉ trong thinh lặng, chỉ trong tĩnh lặng của cuộc đời ta mới nghe rõ được tiếng của mục tử Giêsu mà thôi.
Để bước theo chân của vị mục tử mang tên Giêsu, điều quan trọng là ta phải lắng nghe tiếng của Ngài.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta đủ thinh lặng để nghe tiếng của mục tử Giêsu và bước theo tiếng gọi của chủ chăn. Xin Chúa cho ta trở thành như những con chiên lành, chiên ngoan luôn đi theo con đường của mục tử đã đi. Ước gì mỗi người chúng ta là những con chiên ngoan, những con chiên hiền lành, những con chiên ngoan ngùy luôn lắng nghe và bước theo bước của mục tử nhân lành mang tên Giêsu.
3. Trở nên mục tử như lòng Chúa mong ước
(Suy niệm của Huệ Minh)
Vào thời Chúa Giêsu, thì cái nghề chăn chiên là một cái nghề phổ biến tại Palestine. Và cái nghề chăn chiên này nó mang một cái đặc thù, nó khác những cái nghề khác lắm.
Khi mà người chăn chiên lãnh lấy đàn chiên từ chủ, thì người chăn chiên phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về đàn chiên mà mình được trao phó. Nếu mà có chuyện gì xảy ra cho đàn chiên, thì người chăn chiên phải trưng dẫn bằng cớ để chứng minh rằng là mình không có lỗi, để mà cho con chiên nó phải bị tàn tật, hay con chiên nó bị giết chết.
Luật pháp thời đó quy định rất là rõ ràng: ở trong sách xuất hành chương 22 câu 12
Nếu mà con vật bị thú rừng xé chết, thì người lãnh giữ chiên phải đem xác chết của con chiên ra làm bằng chứng.
Thế đấy, cái nghề chăn chiên xem ra nó là một cái nghề rất là đặc biệt, tức là khi mà chấp nhận vào cái nghề chăn chiên là chấp nhận sẵn sàng hi sinh, chết để bảo vệ, để che chở đoàn chiên, chấp nhận liều mình để cứu đoàn chiên và nhất là khi mà chúng bị trộm cướp hay là bị thú dữ tấn công. Và như thế với cái đặc thù của nghề chăn chiên như vậy thì ta có thể gọi cái nghề chăn chiên là một ơn gọi.
Ơn gọi, chứ không phải là một cái nghề kiếm kế sinh nhai. Nếu mà đi chăn những vật khác thì không phải vất vả như cái nghề chăn chiên vậy.
Và một cái người mục tử như thế, mà gọi là Mục Tử nhân lành đúng nghĩa thì không có cái mối bận tâm nào khác ngoài các con chiên. Buổi sáng thì vui sướng để mà đưa đoàn chiên đi tới tìm đồng cỏ xanh tươi, buổi tối thì đưa chiên về nghỉ ngơi. Những người mà Mục Tử chẳng đặng đừng thì họ coi sóc đoàn chiên của họ như người làm thuê, khi mà thấy sói đến thì người đó bỏ chiên mà chạy.
Ngược lại với người làm thuê, không phải rằng là một cái người đi chăn bình thường, mà là người đi chăn để mà được trả công, để mà hưởng công, hưởng lương, để mà nghĩ tới tiền bạc.
Nhưng mà cái người Mục Tử nhân lành đó là cái người Mục Tử biết chiên của mình.
Còn nhớ ở trong thời Cựu Ước, thì hình ảnh người mục tử được áp dụng cho các nhà vua. Mà hình ảnh của người mục tử và con chiên là hình ảnh rất quen thuộc. Để mà chúng ta thấy cái mối tương quan giữa Thiên Chúa và dân của Ngài tuyển chọn tức là dân Israen. Ngài hướng dẫn, Ngài bảo vệ, Ngài nuôi dưỡng dân Israen.
Thế nhưng rồi, ta thấy kinh nghiệm của dân Israel và các nhà lãnh đạo là một cái kinh nghiệm đáng tiếc, kinh nghiệm đáng buồn. Có nhiều nhà vua chỉ rắp tâm gọi là bóc lột, và thậm chí giết chiên, để rồi có những ngôn sứ chỉ thẳng vào mặt các vua với ngôn ngữ nặng nề để mà chỉ trích sự cái sự gian ác của các vua; thay vì họ nuôi dưỡng, họ ôm ấp họ ấp ủ chiên, thì họ lại bóc lột và thậm chí giết chiên.
Và ngày hôm nay trong ngày Chúa nhật 4 Phục sinh còn gọi là Chúa nhật Chúa chiên lành, thì Chúa Giêsu đã dùng cái hình ảnh của người mục tử để mà nói về mình, để diễn tả về mình, về người Mục Tử nhân lành.
Người Mục Tử nhân lành là gì? là người mục tử biết rõ từng con chiên của mình, cũng như biết để mà chiêm nhận, biết để mà đi theo.
Và thứ 2, người Mục Tử nhân lành là cái người quan tâm đến đoàn chiên và đặc biệt quan tâm đến những con chiên bị đau ốm, thương tích, hay là lạc đàn.
Và thứ ba, người mục tử đó sẵn sàng hiến mạng sống của mình đương đầu với sói dữ, thú dữ gì để mà bảo vệ đoàn chiên.
Và chúng ta thấy, nhìn cuộc đời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã mang lấy trong mình cái đặc tính của Người Mục Tử rất tuyệt vời đó! Chúa Giêsu là một người mục tử nhân lành cũng có nghĩa là mục tử xinh đẹp. Nhân lành không có phải có nghĩa là theo nghĩa tình cảm êm ái hay dịu dàng nhưng là chân chính, nhưng là đích thực. Mà cái từ ngữ này gợi lên rằng Chúa Giêsu không chỉ là những người làm việc có hiệu năng, nhưng Chúa Giêsu có một nhân cách xinh đẹp toàn diện, duyên dáng, hấp dẫn, cộng với cái tài lãnh đạo đầy uy lực và quyền năng của Người. Chúa Giêsu đã trở nên tư cách của một người Mục Tử nhân lành, chứ không phải là người Mục Tử đi vuốt ve các con chiên. Nhưng chính là tình yêu và sự đồng cảm của Ngài đối với những con chiên mà được Ngài trao phó. Chúa Giêsu có một cái cảm thức rất là đặc biệt về các con chiên, các con chiên thuộc về Người. Chính vì thế, Chúa Giêsu là người đáng tin cậy, và Chúa Giêsu là người chu toàn trách nhiệm của mình với đoàn chiên được trao phó.
Động lực căn bản để mà hướng dẫn Người Mục tử nhân lành đó là tình yêu. Và người nào mà yêu thương thật sự thì muốn ban tặng cả đời sống của mình chứ không muốn đón nhận. Tình yêu chân thật có nghĩa là tình yêu sẵn sàng chấp nhận hi sinh cả mạng sống mình, sự dấn thân không biên giới của Người Mục Tử nhân lành nhằm đưa lại cái sự sống như CHÚA Giêsu nói: « tôi đến để cho chiến được sống và sống dồi dào. Sự dấn thân này không có giới hạn sự dấn thân này Không Biên Giới cái biết mà Chúa Giêsu biết ở đàn chiên đó là sự biết đó được thể hiện trong hiến dâng mạng sống mình cho người mình yêu. Đặc biệt chúng ta được mời gọi để nhìn lên Người Mục Tử nhân lành để chúng ta được soi chiếu. Mời gọi để được soi chiếu cái hình ảnh Người Mục Tử nhân lành là người Mục Tử biết chiên. « Biết» đây không phải là biết về lý trí, nhưng là cái biết về cái tình cảm, biết về cái cảm nhận sâu xa.
Chúng ta thấy tuyệt vời, Nơi tâm tình của nhạc sĩ Xuân Quỳnh:
Chỉ có thuyền mới hiểu,
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu, về đâu!
Những ngày không gặp nhau,
biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau,
lòng thuyền đau- rạn vỡ.
Nếu mà thuyền không gần biển thì cảm thấy một cái sự thiếu thốn. Nếu mà biển mà không có thuyền và thuyền mà không có biển thì coi như cái sự hiện diện của thuyền và biển coi như vô nghĩa. Cái biết đó là cái biết: thuyền đi đâu về đâu. Những ngày không gặp nhau lòng thuyền đau rạn vỡ! Tuyệt vời!
Cái biết đó chính là cái biết của tình yêu. Đó là cái biết của tâm sự. Đó là cái biết của sự dấn thân, cái biết của sự hi sinh. Giống như cái biết của chồng biết vợ, vợ biết chồng, của người mẹ biết con, của người con biết mẹ. ‘‘Tôi biết chiên tôi như Chúa Cha biết tôi.’’
Chúa Giêsu phải chấp nhận đau khổ, và Chúa Cha đã hiểu được sự đau khổ đó. Và rồi cái biết cái sự đau khổ đó đã kết nên cuộc đời dâng hiến của người tử nhân lành, nhân vật dám hi sinh tính mạng của mình.
Và chúng ta được mời gọi đi theo Chúa Giêsu trong hình ảnh của Người Mục Tử nhân lành, Người Mục Tử nhân lành là hình ảnh nói về sự chăm sóc, yêu thương: có trách nhiệm, có hướng dẫn, có chở che,có an ủi, có bảo vệ.
Hôm nay chúng ta lại nhìn thấy mỗi người chúng ta, trong vai trò là người Mục Tử. Mỗi người chúng ta, không phải là linh mục tu sĩ mới là người Mục Tử, nhưng khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, chúng ta mang trong mình trách nhiệm của người mục tử. Chúng ta có là người mục tử như thế nào? Đó là sự trả lời của mỗi chúng ta.
Chúng ta có biết được cái người mà Chúa trao phó, cái người mà Chúa gửi đến cho chúng ta là người vợ, người chồng, người cha, người mẹ trong gia đình chúng ta hay không?
Ngày hôm nay dường như cái biết đó nó chỉ còn ở cái biết ở bên ngoài, nhưng người ta không còn cảm thức về nhau.
Một cái báo động đỏ về đời sống gia đình: vợ sống chung với chồng đó, nhưng mà không có cái cảm thức về chồng, cha mẹ sống chung với con cái đó, nhưng không có cái cảm thấy con cái nữa. Và điều đáng tiếc rằng ngày hôm nay có một số mục tử sống không như là những mục tử như lòng Chúa mong muốn. Những mục tử chỉ suốt ngày chỉ biết vun vén cho mình, chỉ biết lo cho mình và quên đi cái sự đau khổ, cái đời sống khó khăn của con chiên. Và đó là một thách đố của mỗi người chúng ta.
Chúng ta không ngồi đó để chúng ta lên án các mục tử. Chúng ta không có lên án ai cả! bởi vì mỗi người chúng ta vẫn mang trong mình cái thân phận yếu đuối của con người. Chúng ta được mời gọi lên, nhìn Đấng chăn chiên lành tuyệt vời, và hoàn hảo: Đó là Chúa Giêsu.
Chúng ta có dám dấn thân, chúng ta có dám hi sinh mạng sống mình vì người mình yêu. Chúng ta có can đảm để mà bước theo Đức Kitô hay không? Đó là câu trả lời của mỗi người chúng ta.
Ngày hôm nay chúng ta cầu nguyện cho các linh mục là những mục tử được mời gọi cách riêng để chăm sóc cho đoàn chiên. Và chúng ta cùng cầu nguyện cho mỗi người chúng ta, để trong cái bổn phận là người Mục Tử, chúng ta được Chúa trao phó cho những người này, người kia là những người chồng người vợ, người con trong gia đình. Chúng ta có biết, chúng ta có dám hi sinh, hi sinh tính mạng mình vì người mình yêu hay không hay Chúng ta là những người chăn thuê hay chúng ta là những người mục tử Gian ác như các vua ở trong Cựu Ước đã ăn thịt con chiên của mình, đã giết mạng sống con chiên của mình thay mình thí mạng sống mình vì người mình yêu.
Chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu, một con người đã đến trong trần gian này sống trong vai trò một mục tử, một cái vai trò Mục Tử rất là tuyệt vời. Chúa Giêsu đã dám chấp nhận hy sinh đến giọt máu cuối cùng, đổ giọt máu cuối cùng mình để cho nhân loại được sống và sống dồi dào.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, và đặc biệt chúng ta cầu nguyện cho các mục tử ngày hôm nay dưới cơn sóng xô của Tiền bạc, của Quyền Lực của Danh Vọng. Để chúng ta cầu nguyện cho các ngài, để các ngài nhìn lên Chúa Giêsu chính là vị mục tử nhân lành, đặc biệt là mục tử nhân lành hoàn hảo để các linh mục bước theo Chúa Giêsu dấn thân với Chúa Giêsu.
Và xin cho các ngài biết từng con chiên trong họ đạo của mình, biết từng con người khổ đau và biết băng bó những con người bị bỏ rơi, biết yêu thương và biết chấp nhận hi sinh tính mạng của mình để lo cho đoàn chiên.
Có như thế, các linh mục mới trở thành những mục tử như lòng Chúa mong muốn. Và có như thế chúng ta mới hoàn thành sứ mạng là Mục Tử mà Chúa trao phó cho mỗi người chúng ta. Amen.
4. Chúa Chiên Lành
Từ ông Abraham cho tới vua Đavid, biết bao tổ phụ của dân Do Thái đã từng là những người chăn chiên. Họ không được huấn luyện trong những trường hành chánh hay trường đào tạo cán bộ, cũng chẳng được qua những lớp bổ túc văn hoá, nhưng chỉ được học từ kinh nghiệm duy nhất của nghề chăn chiên để có thể đứng ra lãnh đạo dân tộc. Hơn thế nữa, chính quan niệm của họ về Thiên Chúa cũng đã từng dựa trên kinh nghiệm đó, cho nên họ gọi Thiên Chúa là mục tử và tự coi mình là đàn chiên của Ngài.
Chúa Giêsu làm người, sinh trưởng trong môi trường xã hội Do Thái, cũng đã thừa hưởng một nền văn hoá và một quan niệm tôn giáo Do Thái, nên cũng đã sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh cùng những khái niệm Do Thái, để công bố cho họ thông điệp cứu độ của Thiên Chúa. Nếu từ thời các tiên tri, dân Do Thái vẫn mong chờ ngày Thiên Chúa đích thân đến chăn dắt họ như mục tử chăn dắt đoàn chiên, thì ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã xac quyết với họ rằng: Ngài là vị mục tử. Điều đó có nghĩa là Ngài tỏ lộ cho họ biết Ngài chính là hiện thân của Thiên Chúa.
Tuy nhiên Ngài còn đi xa hơn nữa. Đúng thế, Ngài đến không phải chỉ để chăn dắt đoàn chiên, mà còn hiến mạng sống mình vì đoàn chiên. Đây là điều vượt ra ngoài sự tưởng tượng của chúng ta. Bởi vì ngoài mầu nhiệm Thiên Chúa làm người, chúng ta khó có thể nghĩ tới chuyện Thiên Chúa chịu chết. Thực vậy, tự bản tính Thiên Chúa là Đấng vĩnh cửu, Đấng trường tồn bất biến, nơi Ngài chỉ có sự sống mà thôi, thế nhưng vì yêu thương chúng ta, Ngài đã chấp nhận cái chết ê chề nhục nhã trên thập giá để giải thoát chúng ta khỏi án phạt đời đời của tội lỗi và sự chết.
Cùng với Đức Kitô, thì đoàn chiên của Ngài không còn bị giới hạn trong phạm vi dân Do Thái, mà đã mở rộng cho toàn thể nhân loại, như lời Ngài đã nói: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin vào Người Con ấy thì sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời. Như thế là đã rõ: Chúa Giêsu đã đến trần gian, đã sống, đã yêu thương và đã chết, không phải chỉ cho dân tộc Do Thái mà thôi, nhưng còn cho toàn thể loài người.
Tình yêu thương không chỉ thôi thúc Chúa Giêsu đi tìm cứu những con chiên lạc, cũng không dừng lại ở việc hy sinh mạng sống để cứu chuộc đoàn chiên, mà còn chu yếu là quy tụ những con chiên đã được tìm thấy, đã được cứu chuộc, để chúng làm thành một đoàn chiên, quây quần chung quanh một vị mục tử duy nhất, để rồi dưới sự chăn dắt của Ngài, chúng sẽ được sống trong tình yêu thương, hợp nhất và bình an.
5. Mục tử như Chúa
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Kết quả hình ảnh cho chúa chiên lành Tu viện nổi tiếng nhất nọ cứ một lần trong năm mở cửa thâu nhận duy nhất 1 thỉnh sinh. Viện Phụ đích thân phỏng vấn các ứng sinh chỉ hỏi một câu duy nhất. Nhưng trớ trêu thay, không ai biết được câu hỏi duy nhất đó là câu gì, bởi vì tất cả những ứng viên nào mà rớt cuộc thi, đều phải uống một viên thuốc do chính Viện Phụ chế ra, công dụng làm cho các ứng sinh dự thi quên mất câu hỏi được đặt ra. Chính vì thế mà việc chiêu sinh của Tu viện đã trải qua nhiều năm rồi mà chưa ai có thể biết câu hỏi đó là gì. Thế là cậu Ramin là tỏ ra quyết chí hơn cả. Cậu dành dài năm cố gắng đọc và học qua thật nhiều sách: lịch sử, địa lý, văn chương, triết lý, nghệ thuật, tâm lý, xã hội học, v.v... Rồi mùa thi đến, Ramin vào thi và tin chắc mình sẽ trả lời được câu hỏi mà Viện Phụ sẽ hỏi. Hồi hộp bước vào phòng thi, Ramin được Ngài hỏi câu duy nhất này là: Con hãy tự hỏi: Tôi là ai? Và trả lời cho ta biết. Tôi là ai? Ramin lặp lại câu hỏi, nhưng không biết phải trả lời như thế nào cho đúng, bèn rút lui không bao giờ trở lại Đan viện nữa.
Tôi là ai? Ðây là câu hỏi căn bản nhất, để bắt đầu mọi cuộc dấn thân thực hiện chương trình sống của đời Kitô hữu. Nhất là cuộc sống tu luyện bản thân, trở nên mục tử tốt. Như vậy rõ ràng những vốn liếng trí thức không mà thôi thì chưa đủ để trở nên mục tử tốt lành mà Lời Chúa mời gọi chúng ta hôm nay.
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta tham dự vào chức tư tế (chức linh mục cộng đồng) của Đức Kitô, tham dự vào sứ mạng Ngôn sứ, và vương đế của Ngài (GLHTCG, số 1267). Vì thế, thánh lễ này Hội muốn kêu gọi mỗi người chúng ta hãy cầu nguyện và thực hành sứ mạng mục tử được Thiên Chúa trao phó cho chúng ta giữa lòng thế giới hôm nay theo mẫu gương Mục Tử Nhân lành Giêsu. Người là Mục tử nhân lành, còn chúng ta là đoàn chiên của Người. Người chăn giữ đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.
Thứ nhất, tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí hay do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Chẳng hạn, một đứa trẻ đang chơi ngoài đồng, chạy vào xin mẹ cho con mượn con dao. Mẹ nói: con lấy để làm gì? Nó nói: con làm cái này. Mẹ nói không cho nhưng nài nỉ hoài mẹ nó đưa cho nó nhưng theo dõi nó làm cái gì? Nó cầm dao chạy ra đồng và nhặt một trái lựa đạn 79 mà nó tưởng là trái ô ma, nó vừa cầm lên thì mẹ nó nhào tới chụp ngay con dao nó định cắt ra để ăn. Vâng, chỉ tình yêu xuất phát từ trái tim, người mẹ mới biết trước được rủi ro hay chăm sóc kỹ lưỡng từng hành động đứa con, làm cho nó nên hoàn thiện. Chúa Giêsu hôm nay nói: “Ta biết chiên Ta”, có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta, biết rõ hoàn cảnh sinh sống của chúng ta, biết rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta nên Ngài luôn luôn muốn làm cho ta vơi được nỗi sầu, nhẹ đi âu lo sợ hãi bằng việc hiến mình cho ta và cư ngụ nơi tâm hồn ta mọi nơi mọi lúc khi chúng ta tha dự Thánh Lễ và rước Mình Thánh Ngài. Vì vậy, Ngài luôn mời gọi chúng ta rằng: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhút nhát, yếu ớt nhưng là để giúp ta trưởng thành, mạnh mẻ tự tin. Người chăm sóc ta không phải theo kiểu Mẹ con sáng-sang trong phim truyền hình Việt Nam “Hoa hồng không dành cho em”, bà chăm sóc con quá đến độ mà mẹ con bị bệnh tự kỷ. Ngược lại, Chúa Giêsu chăm sóc ta bằng cách cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh đó là đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.
Chúng ta hãy trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái, thầy cô giáo là mục tử của học sinh, giám đốc là mục tử của công nhân, y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân, anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ, linh mục là mục tử của giáo dân, tu sĩ là mục tử của tha nhân... hãy thực hiện lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô trong sứ điệp Ngày Thế giới cầu cho ơn Thiên Triệu 2015 rằng hãy ra khỏi chính mình, đi ra khỏi sự thoải mái và cứng nhắc của cái tôi để đặt trọng tâm đời sống mình nơi Đức Giêsu Kitô, có nghĩa rằng phải lấy Tình yêu Chúa Giêsu là tiêu chí và lẽ sống cho đời Kitô hữu chúng ta. Mà tình yêu Chúa cố ở điểm này là hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.
Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong giáo xứ, trong khu phố và xã hội hôm nay hầu làm cho cuộc sống thêm phong phú và hạnh phúc hơn. Amen.
6. Nghe-Biết-Theo – Lm Trịnh Ngọc Danh
Những dấu hiệu để nhận ra người thân quen là gương mặt và giọng nói.
Tuy cách nhau, nhưng nhớ đến ai, ta vẫn hình dung ra được gương mặt người ấy; nghe giọng nói qua diện thoại, ta nhận ra ngay người thân quen của ta là ai.
Chính Chúa Giêsu đã xác nhận: “Các chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta” (Ga. 10,27), hay “Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga. 10,14).
Động từ “biết” trong Kinh Thánh có một ý nghiã đặc thù diễn tả tình yêu thương kết hợp nơi thân xác của vợ chồng để cả hai trở nên một như Chúa Cha biết Chúa Con và Chúa Con biết Chúa Cha. Khi nghe Thiên Thần báo tin: “Này Trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu…”, Trinh nữ Maria đã trả lời: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”
Như thế “biết” là không chỉ có ý nghiã thuần túy thuộc phạm trù nhận thức mà còn bao gồm cả về phương diện tình cảm. Biết là thân thương, trìu mến, gắn bó, kết hợp.
Ta biết các chiên Ta
Chúa Giêsu đã tự xác nhận mình là Mục Tử. Ngài là chủ đàn chiên chứ không phải người chăn thuê và là một Mục Tử Nhân Lành. Khác với chủ chăn đích thực, người chăn thuê, vì đàn chiên không thuộc về anh ta, anh ta không thiết gì đến đàn chiên, nên khi thấy sói đến, anh ta bỏ chiên mà chạy, mặc cho sói vồ lấy chiên và làm cho chúng chạy tán loạn.
Người Chăn Chiên Nhân Lành ấy biết đàn chiên của mình là con cái cùng một Cha, cùng chung một mái nhà, là anh em, là bạn hữu chứ không phải là tôi tớ…, biết từng con chiên một, biết đàn chiên yếu đuối hay sa ngã, biết chúng đang phải sống một kiếp sống hủy diệt vì tội lỗi, biết chiên đang khát vọng tìm một đồng cỏ xanh tươi, một dòng suối mát cho cuộc sống để nghỉ ngơi…
Vì yêu thương đàn chiên, muốn giải cứu chúng khỏi kiếp sống diệt vong ấy để được sống hạnh phúc viên mãn nơi Nhà Cha trên trời, người Mục Tử Nhân Lành ấy đã xuống thế mang thân phận thấp hèn của con chiên, đã hy sinh mạng sống vì đàn chien để từ sự phục sinh của người Mục tử Nhân Lành ấy, đàn chiên được sống trong an bình và hy vọng.
Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh, Mục Tử Nhân Lành đã trở nên nguồn ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại, cho từng con ngươi. Ngài muốn chăn dắt, gìn giữ, nuôi sống từng con chiên một trong đàn chiên. Mục Tử Nhân lành biết các chiên của mình là như thế đó! Và dung mạo của Chủ Chăn ấy là nhân lành, yêu thương, biết các chiên, hy sinh mạng sống vì đàn chiên và bảo vệ đàn chiên là như thế đó!
Là con chiên thuộc đàn chiên của Mục Tử Nhân Lành, ta đã biết chủ chăn, nghe tiếng Đấng ấy như thế nào? đã cảm nhận được sự hy sinh, bảo vệ, chăm sóc qua cái “ biet” của Mục Tử ấy chưa?
và các chiên Ta biết Ta, chúng nghe tiếng Ta
Nhờ dấu hiệu nào giúp chúng ta “ biết” Chủ Chăn?
Qua Kinh Thánh và nhất là qua Tin Mừng và phép Thánh Thể, ta biết Ngài, nghe tiếng Ngài kêu gọi. Ngài là Đấng Phục Sinh, nghĩa là Đấng Hằng Sống. Ta sẽ biết rõ Ngài hơn, nhiều hơn, thân mật hơn, nếu ta sống và đi vào cuộc sống với, sống cùng các chiên khác.
Chúng ta đọc Kinh Thánh để nhận biết Người Chăn Chiên, để nghe tiếng Đấng ấy kêu gọi, nhưng ta nhận biết và nghe được tiếng gọi ấy bằng cách nào? Bằng phân tích, lý luận hay bằng tình cảm tin yêu?
Ba người ngồi trao đổi với nhau về bản dịch Kinh Thánh.
Ông thứ nhất nói:
- Tôi thích bản dịch A. Nó sáng sủa hơn những bản dịch trước. Bản dịch này đọc dễ hiểu hơn.
Ông thứ hai nhận định:
- Tôi thì thích bản dịch B hơn. Bản dịch vừa rõ ràng lại vừa văn chương, rất thích hợp cho chúng ta cầu nguyện.
Ông cuối cùng nhỏ nhẹ nói:
- Phần tôi, tôi thích bản dịch của mẹ tôi nhất. Mẹ tôi dịch Thánh Kinh ra thực thế, làm cho Thánh Kinh dễ dàng áp dụng vào đời sống hằng ngày.
Mỗi ngày, có thể ta sẽ viết thêm một trang mới vào cuốn sách Tin Mừng sống của thời đại bằng chính những việc ta làm, bằng những lời ta nói.
Nếu những lời nói và hành động của ta không phản ảnh được những giá trị của Tin Mừng, thì những lời nói và hành động ấy cũng chẳng nói lên được gì cả.
Nói đến đây, có lẽ cũng là dịp để ta nhớ lại dụ ngôn người gieo giống.
Sống và thực hành lời Chủ Chăn kêu gọi: hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, nhiệt thành tham dự Thánh Lễ để từ đó sống kết hợp với Ngài là ta biết và nghe tiếng Mục Tử Nhân Lành kêu gọi.
Bổn phận của con chiên là biết nghe tiếng của chủ chăn. Chỉ có một tiếng thôi, không có tiếng nào khác để chiên nghe theo mà được yên ổn, an vui, sống hạnh phúc ngoài tiếng Giêsu.
Nhưng chỉ có thế thôi thì chưa đủ, chưa trọn vẹn bổn phận mà còn phảibước theo sự dìu dắt của Mục Tử nhân lành.
và chúng theo Ta” (Ga. 10, 27)
Đã biết Chủ Chăn, và đã phân biệt được tiếng gọi của Ngai với tiếng gọi của người chăn chiên thuê, ta phải mau mắn, tin tưởng đi theo. Đi theo để được chăm sóc, được bảo vệ khỏi mọi hiểm nguy trong bất cứ hòan cảnh nào.
Không như người chăn thuê, khi thấy sói rừng đến thì bỏ mặc đàn chiên mà chạy thoát thân; trái lại, Mục Tử Nhân Lành của ta sẵn sàng thí mạng sống mình vì đàn chiên. Đi theo và tin tưởng phó thác vào sự bao bọc chở che của Chủ Chăn đã lấy mạng sống Ngài để bảo vệ, cứu thoát ta khỏi tội lỗi và cái chết hủy diệt để đưa ta vào sự sống Phục sinh vĩnh cửu như tác giả Thánh vịnh 22 đã cảm nghiệm:
Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Ngài cho tôi nằm nghỉ.
Ngài đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.
Ngài dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính, vì danh dự của Ngài.
Lạy Chúa, dầu qua thung lũng tối tăm,
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm…
Thế nhưng, ta có sẵn sàng chịu nghe tiếng của Chủ Chăn để tìm về với Ngài mỗi khi đi lạc đường, có sẵn sàng đi theo Ngài để cho Ngài bảo vệ, chăm sóc hay lại tìm cách tách rời đàn chiên để đi tìm những bãi cỏ tiền tài, danh vọng, bãi cỏ ý riêng…thay vì gặm cỏ xanh tươi, uống nước dòng suối mát nơi đồng Tin Mừng và Thánh Thể!
Phải coi chừng chủ chăn giả hay người chăn thuê, vì đàn chiên không thuộc về ngưới ấy, nên họ thiếu trách nhiệm với đàn chiên, ích kỷ sợ nguy hại đến bản thân mình hơn đến số phận của đàn chiên..
Ngược lại, Mục Tử nhân lành là người yêu thương, bảo vệ, chăm sóc đàn chiên, biết từng con chiên một.
Tiêu chuẩn cuối cùng để phân biệt chủ chăn đích thực và ngươì chăn chiên thuê là thí mạng sống vì đàn chiên. Chỉ có Mục Tử Nhân Lành Giêsu là Đấng đã làm như thế cho đàn chiên của mình.
Là chiên trong đàn chiên của Chúa, co ba điều ta cần phải suy xét và thực hành trong cuộc sống của mình là:
Chiên Ta nghe tiếng Ta, chúng biết Ta và chúng theo Ta. Sống và thực hành ba điều đó không phải chỉ để mưu tìm hạnh phúc cho riêng mình mà còn phải cùng Mục Tử nhân Lành thực hiện một sứ vụ khác, một nỗi trăn trở khác là:“Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này, cả những chiên đó ta cũng phải mang về đàn, chúng sẽ nghe tiếng ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên”
Khi gặm cỏ, gặp những chiên khác chưa thuộc đàn chiên của Chủ Chăn Giêsu, chúng ta có thái độ nào? Đố kỵ hay thân thiện, nhường nhịn chia sẻ hay ganh ghét tranh phần, yêu thương hay thù hận, tiếp đón giúp đơ hay làm ngơ bỏ mặc, cộng tác hay dửng dưng, đối thoại hay khép kín?
Ghen ghét, đố kỵ, phân cách, tự mãn, tự kiêu, ích kỷ... có giúp gì được cho mong ước quy tụ những chiên khác chưa thuộc về đàn chiên của Mục Tử Giêsu thành một đàn chiên duy nhất và chỉ một chủ chiên mà thôi không?
7. Chân dung mục tử Giêsu – Lm Ignatiô Trần Ngà
Hình ảnh mục tử sống giữa đàn chiên là hình ảnh rất thân quen đối với dân Do Thái ngày xưa chuyên sống đời du mục. Hình ảnh nầy được Thánh Kinh Cựu Ước sử dụng nhiều lần để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa dành cho dân Người.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng lại hình ảnh nầy như một biểu tượng cao đẹp để diễn tả tình thương cao vời Người dành cho nhân loại với những nét lớn sau đây:
1. Mục tử Giêsu sống hoà mình thân mật với đoàn chiên.
Thiên Chúa Ngôi Hai là Đấng quyền năng cao cả, còn loài người chỉ là tạo vật thấp hèn. Cách biệt giữa đôi bên thật là quá lớn.
Thế nhưng Ngôi Hai Thiên Chúa đã vượt qua mọi cách biệt để sống hoà đồng với con người. Người không muốn duy trì quan hệ đẳng cấp kiểu vua-tôi, chủ-tớ với con người nhưng muốn sống hài hoà thân mật với hết thảy chúng ta.
Qua biểu tượng mục tử với đàn chiên, Chúa Giêsu tỏ cho thấy Người vui sống chan hoà với mọi người và tương quan giữa đôi bên hết sức thân mật không còn khoảng cách.
Người đã từng hoà mình với dòng người tội lỗi chờ được thanh tẩy bên bờ sông Gio-đan (Mát-thêu 3, 13-16). Người cùng ăn uống đồng bàn và trọ nhà những người tội lỗi. (Lc 19,7). Người nâng li rượu chúc mừng đôi tân hôn trong tiệc cưới Ca-na (Ga 2, 1-11). Người khóc thương La-da-rô bạc mệnh (Ga 11,35). Người cứu chữa kẻ bệnh tật, vui đùa với các trẻ thơ… Nói tóm lại, tất cả mọi người đều có chỗ đứng đặc biệt trong trái tim Mục tử Giêsu.
2. Mục tử Giêsu cho chiên được sống dồi dào.
Thánh vịnh 23 phác hoạ chân dung Chúa Giêsu như Vị Mục Tử nhân lành tận tình nuôi dưỡng đoàn chiên cách chu đáo, chẳng để chiên phải thiếu thốn điều gì.
“Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi” (Tv 23, 1-3)
Các mục tử trên đời nầy nuôi chiên nhằm khai thác chiên: xén lông, xẻ thịt hoặc bán chiên lấy tiền, còn Mục Tử Giêsu thay vì khai thác trục lợi đoàn chiên thì lại hiến thân mình làm lương thực để chiên được dồi dào sức sống: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên tôi được sống và sống dồi dào” (Gioan 10, 10)
Người chấp nhận trao ban chính mình làm lương thực nuôi sống đoàn chiên đang lầm than đói khát: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!” (Gioan 6, 35),
3. Mục tử Giêsu chăm sóc từng con chiên một, không bỏ rơi bất cứ con chiên nào.
Lời tiên báo của ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã được ứng nghiệm từng chữ nơi Mục tử Giêsu: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta. Chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh” (Edekien 34, 15-16)
Qua dụ ngôn mục tử bỏ 99 con chiên nơi hoang địa để đi tìm con chiên lạc, Chúa Giêsu tỏ cho thấy Người chăm sóc chi li từng người một, không muốn bất kỳ một ai phải hư vong. (Luca 15, 4-7)
4. Mục Tử Giêsu hiến thân mình cho chiên được sống.
Khác xa người chăn thuê cao chạy xa bay khi thấy đàn sói hung tàn xông tới vồ xé bầy chiên, Mục tử Giêsu chấp nhận hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đến cùng: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành... tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Gioan 10, 11-15)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Mục tử có một không hai trên đời: Chúa sống hoà mình thân mật với chiên, nuôi chiên sống dồi dào, chăm lo cho từng con một, không bỏ rơi bất cứ con nào và thậm chí sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đoàn chiên.
Xin cho gương sống tuyệt vời nầy sẽ mãi mãi là lời mời gọi và là động cơ thúc đẩy chúng con trở nên mục tử nhân lành như Chúa.
Xin thương giúp cho các bậc cha mẹ trở thành mục tử tốt trong gia đình, các linh mục trở thành mục tử nhân lành trong giáo xứ, Thầy Cô trở thành mục tử cao quý ở trường học… để mỗi người chúng con tuỳ theo chức phận mình, biết tận tình nuoi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ đoàn chiên Chúa trao cho chúng con theo gương người Mục Tử nhân lành là chính Chúa. Amen.
8. Tình người mục tử – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một thai nhi sắp được chào đời. Nó mới hỏi Thượng đế rằng: “Thưa Ngài, có phải ngày mai Ngài sẽ đưa con vào đời không?
Thượng đế trả lời: Đúng đó con ạ!
Đứa bé đáp: Nhưng làm sao con sống nổi ở đó khi mà con quá nhỏ bé và bất lực như thế này?”.
Thượng đế đáp: “Hãy yên tâm, trong số những thiên thần, ta đã chọn cho con một người. Thiên thần của con sẽ ở bên con và chăm sóc con chu đáo”.
Đứa bé lại hỏi: “Và làm sao con có thể hiểu được khi họ nói chuyện với con bằng ngôn ngữ mà con chưa hề biết đến?”
Thượng đế trả lời: “Thiên thần của con sẽ nói với con bằng những lời ngọt ngào và đẹp đẽ nhất mà con chưa từng được nghe, đồng thời với sự nhẫn nại và cẩn trọng, thiên thần của con sẽ dậy con biết nói nhưng điều hay lẽ phải”.
- Con nghe nói chốn trần gian lắm kẻ xấu xa. Vậy, ai sẽ bảo vệ con?
- Thiên thần của con sẽ hộ trì con ngay cả khi điều đó đe dọa đến tính mạng của mình.
- Nhưng con sẽ rất buồn vì không còn được thấy ngài nữa.
- Thiên thần của con sẽ luôn nói với con về Ta, và dạy con cách thức quay về với Ta mỗi khi lạc lối.
- Vậy thưa Ngài, nếu con phải đi ngay bây giờ, xin hãy cho con biết tên thiên thần hộ mạng của con là gì?
- Tên của người không quan trọng, con chỉ giản đơn gọi người là Mẹ.
Nếu người mẹ cần thiết cho con cái thế nào, thì người mục tử cũng cần thiết cho đàn chiên như vậy. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của người mục tử tốt lành. Người mục từ luôn sống vì lợi ích đàn chiên, luôn sống cho và vì đàn chiên. Người mục tử gắn liền đời mình với đàn chiên tựa như người mẹ gắn liền với định mệnh đời con. Người mẹ được Thiên Chúa sắp đặt để bảo vệ đứa con, chăm sóc đứa con, dậy dỗ và gìn giữ đứa con khỏi những nguy hiểm trong suốt hành trình cuộc đời. Không có mẹ đứa con sẽ không lớn nổi thành người. Đàn chiên cũng không thể có đồng cỏ xanh tươi, có suối mát ngọt ngào nếu không được người mục tử miệt mài tìm kiếm cho đàn chiên. Đàn chiên sẽ không thể sống an toàn khỏi cạm bãy, khỏi thú dữ rình chờ, nếu không có chủ chiên canh phòng với đầy đủ trách nhiệm và đầy yêu thương.
Chúa Giêsu sánh ví tình thương của mình như tình thương của người mục tử dành cho đàn chiên. Ngài yêu thương con người nên đã mang lấy thân phận con người để cùng đồng hành với con người. Ngài đã cùng chia vui sẻ buồn với con người qua những thăng trầm của cuộc sống. Ngài đã sống một cuộc đời yêu thương và phục vụ như một người đầy tớ phục vụ chủ nhân. Ngài đã đi đến tận cùng của tình yêu là chết cho đàn chiên được sống. Ngai còn hiến mình thành lương thực nuôi dưỡng đàn chiên qua bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày. Ngài chính là vị mục tử mà bài đáp ca đã ca ngợi rằng: Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tuơi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính. Lạy Chúa, dầu qua thung lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có chúa ở cùng con”.
Hình ảnh người mục tử còn là hình ảnh của những người cha, người mẹ đang ngày đêm lo lắng bảo vệ con con cái. Các ngài đã hy sinh cuộc đời vì hạnh phúc các con. Các ngài đã trải qua những mưa nắng khắc nghiệt của dòng đời để mang lại cơm no áo ấm cho đàn con. Các ngài đã chấp nhận chịu tiêu hao như hạt lúa chịu mục nát đời mình cho con cái lớn khôn.
Hôm nay lễ Chúa chiên lành, chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho Giáo hội luôn có những mục tử hết lòng vì đàn chiên. Cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta có cha, có mẹ luôn hết mình hy sinh cho chúng ta. Cám tạ Chúa đã thương chăm sóc, chở che và gìn giữ cuộc đời chúng ta bằng muôn nghìn cách. Cám ơn Chúa vẫn nuôi dưỡng chúng ta trên đồng cỏ xanh tươi là bàn tiệc Thánh thể, nhờ đó mà ta được no thoả ân tình của Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta biết siêng năng đến với bàn tiệc Thánh Thể. Xin đừng bao giờ để tâm hồn mình bị chết đoi, chết khát ngay bên nguồn nước trong lành với đồng cỏ xanh tươi là Bàn tiệc Thánh Thể mà Chúa Giêsu với tình mục tử đã dọn sẵn cho chúng ta. Amen.
9. Đóa hoa yêu thương
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống cho ta những cái đẹp để mang lại niềm vui hạnh phúc cho ta. Cái đẹp của thiên nhiên cho ta thư thái bình an. Cái đẹp của tình người cho ta niềm vui hạnh phúc. Cái đẹp của tâm hồn cho ta tin tưởng lạc quan. Một trong những cái đẹp để lại cho ta những ấn tượng nhất không hẳn là cái đẹp hoàn mỹ, sắc xảo của thể xác mà là cái đẹp của những nghĩa cử hy sinh đầy ắp tình người. Hy sinh càng nhiều thì nghĩa cử càng cao đẹp bấy nhiêu.
Cư dân mạng vừa qua có dịp trầm trồ về tình yêu lứa đôi. Tại làng Liangwang thuộc Tế Nam, Sơn Đông, Trung Quốc, có một câu chuyện tình yêu khiến nhiều người không khỏi rung động. Sun Guofang, một người vợ chưa cưới đã dũng cảm hiến tặng một bên thận của mình để cứu sống người yêu bị nhiễm độc đường niệu cần cấy ghép. Cô nói rằng: "Đây là món quà giá trị nhất tôi có thể mang lại cho anh ấy trong ngày Valentine”.
Đây là một tình yêu đẹp. Đẹp như một đóa hoa mà ai đó nói rằng:
Sắc là dâng hiến
Hương là hy sinh
Thiên Chúa đã yêu thương con người bằng một tình yêu cao đẹp hơn thế! Ngài yêu thương không phải dành tặng cho con người một quả thận, một đôi tay, một đôi mắt... ; Ngài dành tặng cho con người cả mạng sống hiến thân vì anh em. Tình yêu của Ngài là tình yêu dâng hiến đến hy sinh cả tính mạng cho con người. Tình yêu của Ngài rực rỡ như một sắc hoa và tỏa lan hương thơm nhờ hy sinh đến quên cả chình mình.
Tình yêu ấy hôm nay Ngài ví tựa như tình yêu của người mục tử dành cho đàn chiên. Một tình yêu vượt lên trên trách nhiệm để có thể lo cho đàn chiên. Thức ăn nước uống và nhất là canh thức để bảo vệ đàn chiên khỏi hiểm nguy của thú rừng luôn rình chờ. Thiên Chúa yêu con người. Tình yêu của Ngài luôn mang con người trong trái tim đến nỗi biết từng con chiên, lo lắng cho từng con chiên, chăm sóc cho từng con chiên. Ngài biết từng nỗi khổ của con người vì từng “sợi tóc trên đầu rơi xuống Ngài cũng biết”. Cái biết của Ngài là cái biết thông cảm, thương xót. Cái biết kèm theo sự dấn thân để xoa dịu nổi khổ của con người.
Xin cho chúng ta biết nhận ra tình yêu của Thiên Chúa luôn ban tặng cho thế gian. Tình yêu của Ngài vẫn đong đầy trên cuộc đời chúng ta. Một tình yêu quan phòng, chở che, nâng đỡ chúng ta. Xin cho chúng ta cũng biết đền đáp tình yêu ấy bằng cả một đời họa lại chân dung đầy yêu thương của Chúa cho anh em. Nhất là nơi gia đình chúng ta, nơi mà ai cũng từng được yêu thương và cũng cần thể hiện tình yêu thương. Tình yêu nơi vợ chồng luôn hy sinh dâng hiến cho nhau. Tình yêu nơi cha mẹ luôn tận tụy cho con cái. Tình yêu nơi con cái luôn sống hiếu thảo với mẹ cha... Mỗi một tình yêu dâng hiến nơi gia đình là một đóa hoa đang trang trí cho gia đình thêm rạng rỡ và thơm hương. Ước gì mỗi người chúng ta luôn là một đóa hoa yêu thương dâng tặng gia đình như tình yêu của Thiên Chúa hiến dâng vì chúng ta. Amen.
10. Chúa Nhật Chúa Chiên Lành
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng)
Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh còn được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Chính Đức Kitô là Vị Mục Tử nhân lành đã hiến mạng sống mình vì đàn chiên (Ga10,11). Ngài đến trong thế gian với sứ mệnh quy tụ tất cả các con chiên về một mối: ngõ hầu chỉ có một Chủ chiên duy nhất và một đàn chiên duy nhất.
Qua thánh Phêrô Tông Đồ, Chúa Giêsu Phục Sinh đã trao phó nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Người cho Giáo Hội (xem Ga 21,15-17). Theo gương Chúa Kitô Mục Tử, Giáo Hội không ngừng dấn thân trong việc chăm sóc đàn chiên. Vào mọi nơi mọi thời, không thiếu những tấm gương của những vị mục tử trong Giáo Hội đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời của mình để sống chết vì đàn chiên.
Ý thức được trách nhiệm cao cả của mình, Giáo Hội luôn luôn kêu mời các bạn trẻ nam nữ đáp lại lời mời gọi của Vị Mục Tử nhân lành biết quảng đại dấn thân trên con đường tận hiến để phục vụ Giáo Hội của Chúa Kitô và tha nhân. Vì vậy, Giáo Hội dành riêng Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh hàng năm để cầu nguyện cho ơn gọi thánh hiến nói chung và ơn gọi linh mục nói riêng.
Việc Chúa chọn gọi luôn đồng nghĩa với việc Chúa trao phó một sứ mạng đi kèm. Ngay từ khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã gọi các môn đệ để các ông đến ở với Người và được Người sai đi rao giảng (xem Mc 2,14). Được Chúa gọi luôn là một màu nhiệm vượt qua sự so đo tính toán của con người. Chúa gọi ai đó cộng tác với Người không phải vì họ tài giỏi. Người đã chọn các Tông Đồ vốn là những kẻ chài lưới tầm thường và ít học. Nơi họ vẫn còn mang nặng tính vụ lợi hơn thiệt (xem Mt 19,27), tranh cãi về địa vị thứ bậc (xem Mc 9,34), ham hố danh vọng (xem Mt 20,21), và thậm chí cũng có cả tội bất trung như Phêrô chối Chúa (xem Mc 14,71). Việc chọn và gọi luôn là sáng kiếng riêng của Chúa và cũng là cách thức để Chúa chia sẻ sứ mạng của Ngài với những người được yêu mến và được tuyển chọn.
Việc Chúa trao phó sứ mệnh cho ai đó luôn đi kèm theo lời hứa và phương tiện để thi hành (xem Mt 28, 19-20). Các Tông Đồ đã được Chúa Giêsu hứa sai phái Thánh Thần đến để thánh hóa, dạy dỗ, ban sức mạnh cũng như ơn khôn ngoan hiểu biết (xem Ga 16,13).
Điều này đã được kiểm chứng nơi bài đọc thứ nhất. Tác giả sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại việc thánh Phêrô và Gioan bị điệu ra trước Thượng Hội Đồng. Hai ông bị kết án với tội danh vì đã chữa lành cho một người què từ khi lọt lòng mẹ ngay tại cửa Đền Thờ và vì đã lôi kéo được chừng năm ngàn người tin vào lời rao giảng của các ông. Chính nhờ tác động của Chúa Thánh Thần mà một Phêrô khiếp đảm ẩn mình trong gian phòng cửa đóng then cài thành một Phêrô can đảm xuất hiện trước dân chúng. Cũng nhờ Chúa Thánh Thần, từ một anh chàng chài lưới quê mùa năm xưa, Phêrô đã trở nên người người giảng giải hết sức lưu loát thu hút được rất nhiều người theo đạo. Chúa Thánh Thần cũng biến đổi một Phêrô chối Thầy thành một
Phêrô dõng dạc làm chứng về Đức Kitô bị đóng đinh và nay đã phục sinh để trơ nên nguồn ơn cứu độ duy nhất cho nhân loại.
Thật kỳ diệu. Chúa Thánh Thần đã hoán chuyển vị trí của một Phêrô bị cáo trong phiên tòa người đời thành một Phêrô thẩm phán để vạch tội giết Đấng Công Chính của họ, để kêu gọi họ sám hối và đặt niềm tin vào Đấng mà chính họ đã đóng đinh vào thập giá.
Khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta được sát nhập vào thân thể của Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta được sinh ra trong Thánh Thần để tham gia vào sứ mệnh và các chức năng ngôn sứ, tư tế và vương đế của Chúa Kitô. Trung tâm điểm của đời sống Kitô hữu là được mời gọi để trở nên những chứng nhân cho một Đức Kitô đã bị kết án, bị đóng đinh trên thập gia, đã chết một cách bi thảm và đã Phục Sinh vinh hiển.
Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy ngự đến để sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Xin soi lòng mở trí chúng con để ánh sáng Phục Sinh xua tan mọi u mê tăm tối. Xin hãy canh tân bộ mặt trái đất. Lạy Ngôi Ba Thiên Chúa xin hãy ngự đến vì chúng con đang mong chờ Ngài.
11. Chúa chiên lành – Anmai, CSsR
Hình ảnh của những người Pharisêu quá quen thuộc với mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu vẫn thường lên án, chỉ trích thái độ của người Pharisiêu. Lẽ ra, người Pharisiêu có nhiệm vụ hướng dẫn anh mù nhưng họ lại khai trừ anh. Đức Giêsu khác những người Pharisiêu, Đức Giêsu đã hướng dẫn anh mù. Những người Pharisiêu chỉ là những người chăn thuê còn chính Đức Giêsu mới là mục tử gương mẫu. Người mục tử gương mẫu như Chúa Giêsu ấy đã giữ gìn cho chiên khỏi chết và hiệp nhất các chiên lại. Đặc tính của Chúa Giêsu là làm cho chiên được sống và được sống dồi dào và gìn giữ cho đoàn chiên được hiệp nhất.
Thánh lễ Chúa Chiên Lành ngày hôm nay rất ý nghĩa cho mỗi người chúng ta vì lẽ chúng ta, người ở vai trò con chiên, người ở vai trò mục tử.
Mục tử là một hình ảnh quen thuộc đối với dân Israel cả trong thời kỳ họ còn sống nghề du mục lẫn trong thời kỳ họ đã định cư: thời du mục thì họ chuyên chăn nuôi; đến thời định cư hẳn trong xừ Palestina thì tuy họ đã chuyển sang nghe nông nhưng vẫn còn giữ nghề chăn nuôi.
Trong chăn nuôi, vai trò và nhiệm vụ của mục tử rất quan trọng và khó khăn: a/ Không phải chỉ nuôi vài ba con chiên mà cả đàn lên tới mấy trăm hoặc mấy ngàn con; b/ Muốn nuôi song một mớ chiên đông như thế, không phải chỉ cần đi cắt một mớ cỏ đem về là đủ, mà phải tìm những đồng cỏ lớn, phải tính sẵn trong đầu xem khi đoàn chiên ăn hết đồng cỏ này thì phải dẫn chúng tới đồng cỏ khác ngay; phải chọn những chỗ vừa có cỏ xanh vừa có bóng mát vừa có nước uống (x. St 13,1-9: đầy tớ của Loth và của Abraham dành nhau những đồng cỏ và giếng nước); c/ Ngoài ra còn phải bảo vệ chiên khỏi những nguy hiểm thường xuyen đe dọa như trộm cướp và thú dữ. Có khi phải chiến đấu đến bị thương hoặc bị chết.
Trong bối cảnh trên, hình ảnh mục tử rất đẹp: thân thiết, tận tụy, can trường, chu đáo v.v. Bởi đó Thánh Kinh thường dùng hình ảnh này để mô tả những nhân vật quan trọng như Môisê (Xh 3,1-2 15,22-27...), các nhà lãnh đạo dân như vua, tư tế, thẩm phán, ngôn sứ (Gr 10,21; 12,10; Ed 34; Is 36,11 Dcr 11,15-17...). Đặc biệt nhất chính Thiên Chúa tự mô tả mình là mục tử (Tv 23 80), dân Israel được coi là đoàn chiên của Ngài (Tv 80,2), cuộc Xuất hành là việc Thiên Chúa dẫn dắt đoàn chiên Israel ấy qua những nơi khó khăn để tới chốn an lành (Tv 78,52, 77; Is 63,11-14). Và sau cùng Đấng Messia cũng được mô tả là mục tử (Ed 34; Dcr 13,7-9...)
Mô tả Thiên Chúa và Đấng Messia bằng hình ảnh mục tử thì rất đẹp, nhưng mô tả dân Thiên Chúa như đoàn chiên thì không được đẹp lắm vì hình ảnh đoàn chiên gợi lên ý tưởng một đám đông trong đó những cá nhân không có cá tính mà chỉ như một con số bị mất hút trong đa số. Bởi thế trong đoạn Tin Mừng này Đức Giêsu cũng dùng hình ảnh đoàn chiên nhưng Ngài làm nổi bật tính cá nhân riêng biệt của từng con chiên: "Ta biết các chiên của ta và các chiên của Ta biết Ta" (c 14).
"Ta là mục tử": Trong Tin Mừng Ga nhiều lần Đức Giêsu dùng công thức "Ta là". Những lần như thế không phải chỉ là một lời tự xưng suông mà còn hàm chứa một mặc khải cho người ta hiểu thêm về bản thân Ngài. Hơn nữa công thức này mang âm hưởng lời Giavê tự mặc khải (St 3,13-14). Như vậy khi Đức Giêsu nói "Ta là mục tử" thì ý nghĩa là bản chất của Ngài chính là mục tử, vì thế Ngài đã, đang và sẽ mãi mãi là mục tử.
"Ta là mục tử tốt": Tính từ hy lạp kalos vừa có nghĩa "tốt" (bon) vừa có nghĩa "đẹp" (beau). "Tốt" diễn tả tấm lòng, còn "đẹp" diễn tả một hình ảnh tuyệt vời, mau mực, lý tưởng. Vì thế ta cũng có thể dịch "Ta là mục tử đẹp".- - - "Mục tử đẹp thí mạng sống mình vì chiên": Nét đặc thù phân biệt ai là mục tử đẹp là nếu người đó dám thí mạng sống mình vì đàn chiên. Ý tưởng này được lặp lại tới 4 lần trong đoạn Tin Mừng ngắn này (cc 11.15.17.18). Chính khi thí mạng sống mình, mục tử đẹp chứng tỏ được tinh thần trách nhiệm và lòng vô vụ lợi tuyệt đối khi đón nhận và chăm sóc đàn chiên. Đán chiên này chính là "xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi", do đó bất cứ điều gì đụng tới đàn chiên đều đụng tới bản thân mục tử, bất cứ nguy hiểm nào đe dọa đàn chiên đều động viên toàn thể con người mục tử, vì người mục tư đẹp phục vụ đàn chiên, chứ không phải là kẻ chăn thuê.
Kẻ chăn thuê không phải là chủ đàn chiên nên khi gặp nguy hiểm thì lo bảo vệ thân mình chứ không bảo vệ đàn chiên, không dám thí mạng vì đàn chiên. Cũng như ở Êd 34, ở đây Đức Giêsu ám chỉ các nhà lãnh đạo dân Israel (tư tế, luật sĩ v.v.) Họ khư khư bám lấy quyền lãnh đạo dân chỉ vì tư lợi. Họ không phục vụ chiên trái lại bắt chiên phục vụ họ. Khi gặp nguy hiểm, họ không màng chi sự an toàn của chiên mà chỉ lo cho sự an toàn của họ, như lời thượng tế Caipha tuyên bố về Đức Giêsu "Nếu ta cứ để yên như thế thì thiên hạ sẽ tin vào ông ấy hết, rồi quân Rôma sẽ đến tiêu trừ cả nơi thánh của ta và dân ta nữa" (11,48).
Mục tử nhân lành (hoặc, đúng hơn phải nói là, gương mẫu) đi trước đàn chiên, hứng lấy mọi nguy hiểm, để cứu vớt đàn chiên, dù phải hy sinh mạng sống. Như vậy, Đa-vít là một mục tử gương mẫu: khi sư tử đến bắt một con chiên, ông đã rượt theo, đánh sư tử và giựt con chiên lại (1 Sm 17,34-35).
Hình ảnh "mục tử nhân lành" là một hình ảnh quen thuộc trong Thánh kinh. Trong Cựu Ước, hình ảnh ấy được áp dụng khi thì cho Thiên Chúa (Tv 23,1; Is 40,11). Khi thì cho vua Mêsia (2 Sm 7,8; Tv 78,70-72), khi lại cho những nhà chức trách trong dân Israel (Gr 2,8; 10,21; 23,1-8; Ed 34). Trong các sách nhất lãm, chúng ta cũng gặp những hình ảnh ấy (Mc 6,34; 14,27; Mt 9,36; 18,12-14; 25,32; 26,31; Lc 15,3-7).
Đức Giê-su thực hiện một cách hoàn hảo chức năng mục tử, vì Người là Con Người chia sẻ thân phận con người để dẫn đưa họ đến cuộc sống vĩnh cửu.
Chúa Giêsu chính là mẫu gương tuyệt vời cho các mục tử.
Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, có những mục tử sống hết mình vì đàn chiên nhưng cũng có những mục tử chăn thuê.
Tạ ơn Chúa, cám ơn Đức Mẹ vì tôi đang được sống với một vị mục tử "chính hiệu con nai vàng" ở mảnh đất truyền giáo nghèo. Phải nói rằng Ngài không có cái tội gì ngoài cái tội thương người nghèo. Cuộc sống của Ngài đơn sơ đạm bạc, chỉ với chiếc xe cọc cạch là phương tiện tới lui. Nhiều lần nhiều lúc bảo Ngai đổi xe nhưng cứ khất lần khất lựa.
Lần nọ, đoàn cứu trợ từ thiện kia gửi 100 phần quà cho vùng truyền giáo nghèo. Xin thêm thì ngại mà thiếu thì người dân so bì, thế là Ngài đã cố gắng hết sức để tìm thêm 50 phần nữa để lo cho tạm gọi là nhu cầu của người nghèo tại chỗ.
Nhìn dáng hao gầy của cha đặc trách giáo điểm truyền giáo chắc có lẽ mọi người nhìn thấy được đó là kết qủa của một cuộc đời sống cho chiên và vì chiên.
Nói đến cha đặc trách mà không nói đến giáo dân quả là một điều thiếu sót lớn. Có thể nói cha đặc trách của tôi là một mục tử tuyệt vời nhưng đối lại, con chiên của Ngài ở đây làm sao ấy!
Ngài vốn dĩ hiền lành, chịu thương chịu khó và chịu đựng thế nhưng vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh - ngày Giáo Hội kỷ niệm việc Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể và truyền sứ vụ linh mục - nhưng khi nhìn tới nhìn lui nhà thờ chỉ có 80 giáo dân (tổng số giáo dân là 600) Ngài mới buông miệng nói một câu là Ngài cảm thấy buồn! Không buồn sao được khi mà cả cuộc đời của Ngài, Ngài đã gần như hiến mạng sống của mình ở vùng đất nghèo này mà giáo dân cư xử với Ngài như vậy. Nhưng ngày Ngài đau yếu bệnh tật chẳng thấy ai ngó ngàng gì đến. Dường như con chiên chỉ đến để nhận tình thương từ mục tử và không có chiều ngược lại.
Đau đớn hơn là lần nọ, Cha đặc trách xây cái nhà mát ở, có vài mạng vào phụ Ngài để dựng cái nhà mát ấy. Ít lâu sau, cha đặc trách cũ cũng làm nhà mát và một mớ giáo dân hăng hái xuống để giúp cha xứ cũ dù hai giáo điểm cách nhau trên dưới 50 km. Nhìn cách hành xử của con chiên ở đay tôi thấy làm sao đấy, còn Ngài, Ngài bảo là "cổ võ cho họ đi để sống tinh thần truyền giáo!".
Vâng! Một linh mục thánh thiện như Ngài thì có cái nhìn như thế nhưng thật sự đau đấy chứ! Giáo điểm nhà thì không thấy vào giúp mà đi giúp giáo điểm bạn!
Không chỉ có như vậy, Tết Nguyên Đán vừa rồi, sau khi nhận quà, vừa bước ra khỏi cửa nhà thờ thì lời ra tiếng vào ngay. Nào là cha cho nhiều, cha cho ít... Nào là người này không xứng đáng để nhận, người kia mới đáng để nhận... Có để đi cho cũng phức tạp chứ không phải cứ có là cho một cách vô tư.
Và không chỉ dừng lại ở chuyện hơn thua nhưng còn chuyện miệt thị người này siêng đi lễ, người kia bỏ nhà thờ cũng là điểm nổi bật ở vùng truyền giáo nghèo này. Những ai lỡ bận công chuyện bỏ nhà thờ chừng vài lần là sẽ nghe lời ra tiếng vào ngay.
Hình ảnh của con chiên xứ đạo này bỗng nhiên lại tô điểm thêm nét hiền lành và khiêm nhường của vị mục tử nhân lành. Không phải ca tụng cha đặc trách là thánh hay phong thánh cho Ngài nhưng thật sự khi nhìn vào đời sống của Ngài, Ngài quả là vị mục tử nhân lành như lòng Chúa mong muốn.
Hình ảnh của cha đặc trách đây có lẽ là một mẫu gương nho nhỏ cho những ai sống đời mục tử.
Hình ảnh của giáo dân giáo điểm này cũng là một bài học cho những con chiên.
Sống trên đời ai cũng cần vật chất cả, đành biết là vậy, nhất là với những người nghèo nhưng cùng đích cuộc đời này đâu phải là vật chất. Cuộc đời này người ta đâu chỉ "sống bằng cơm bánh" như Chúa Giêsu đã từng nói. Cuộc đời này còn đó đời sống của tâm linh, đời sống cua tinh thần.
Chỉ vì yêu, Cha đặc trách giáo điểm mới sống xả thân hết mình như vậy. Thật ra thì Cha đặc trách cũng đâu có làm gì ra tiền, Cha đặc trách cũng chạy đầu này đầu kia để kiếm chút gì đó về cho con cái. Tất cả là vì yêu và vì yêu.
Ngược lại, với giáo dân nghèo, ta có thể nghèo vật chất nhưng không thể nào nghèo tinh thần, không thể nào nghèo tình yêu được. Một lời thăm hỏi, một nụ cười, một chút việc nho nhỏ trong nhà thờ cung đủ để an ủi cho vị truyền giáo đơn sơ này. Thế nhưng làm gì có! Cha đặc trách đau lưng, đau bao tử giáo dân nào có biết. Ngày mỗi ngày, Cha đặc trách vẫn âm thầm lặng lẽ làm công việc của một ông từ đi đóng cổng thơ, đi quét chuông...
Cha đặc trách đã làm hết lòng mình, đã sống hết sức mình nhưng chưa bao giờ Ngài than thân trách phận. Tất cả cũng xuề xoà cho xong vì lòng thương dân nghèo.
Bài học chủ chăn nhân lành của vị truyền giáo ở giáo điểm truyền giáo này là một bài học hay của sự dấn thân, sự chịu đựng. Ngày mỗi ngày, Cha đặc trách sống như một "con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt".
Nguyện xin Chúa Giêsu là vị Mục tử tối cao ban nhiều ơn lành để Giáo Hội ngày càng có thêm những vị mục tử sống hết mình vì con chiên như vị mục tử ở vùng truyền giáo nghèo này.
Và cũng nguyện xin Chúa Giêsu biến đổi lòng con chiên ở mảnh đất này để họ ngày mỗi ngày yêu thương đùm bọc lẫn nhau hơn và nhất là yêu thương vị chủ chăn hết lòng yêu thương họ hơn.
12. Chủ chăn và đoàn chiên.
Chúa Giêsu muốn nói gì qua hình ảnh chủ chăn và đoàn chiên? Tôi xin thưa đó là sự gắn bó mật thiết.
Thưc vậy, giữa chủ chiên và đoàn chiên có một sự gắn bó mật thiết với nhau thế nào, thì giữa Chúa Giêsu và những người được Chúa Cha trao cho Ngài cũng có một sự gắn bó mật thiết với nhau như vậy, bởi vì họ thuộc về Ngài và Ngài biết tên họ. Điều này cũng có nghĩa là Ngài biết tường tận từng người một với những ưu điểm và khuyết điểm, với những suy tư và tính toán, với những âu lo và khát vọng. Giữa Ngài và những người tin vào Ngai đã tạo nên được một sự cảm thông chân thành. Họ nhận ra tiếng Ngài và bước đi theo Ngài. Điều ấy không thể xảy ra cho những kẻ xa lạ.
Tất cả những sự kiện kể trên đều là những biểu hiện của tình yêu thương. Chúng ta không thể hồ nghi về những lời khẳng định của Chúa Giêsu, bởi lẽ Ngài đã chết để bảo vệ đoàn chiên của Ngài như một người mục tử tốt lành và nhân hậu. Ngài phán: Không ai yêu hơn người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu. Hay như thánh Phêrô đã viết trong: Chính Ngài đã gánh lấy tội lỗi chúng ta nơi thân xác của Ngài trên cây thập giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính. Nhờ vết thương của Ngài, anh em đa được chữa lành. Xưa kia anh em như những con chiên lạc, thì giờ đây anh em đã trở về cùng vị mục tử, Đấng canh giữ linh hồn anh em.
Thế nhưng điều quan trọng hơn đó là mỗi người chúng ta phải làm gì và phải sống như thế nào, để được xứng đáng là những con chiên trong đoàn chiên của Chúa? Khi người chủ chăn đứng ngoài cửa và vên tiếng gọi, lập tức những con chiên nhận biết tiếng họ, chúng liền tụ lại quanh người ấy và bước đi theo sự hương dẫn của người ấy. Và người ấy sẽ dẫn đoàn chiên của mình tới đồng cỏ xanh và tới dòng suối mát.
Với chúng ta cũng thế, là những con chiên trong đoàn chiên của Chúa, chúng ta phải biết nhận ra tiếng Chúa mời gọi. Nhưng nhận ra tiếng Chúa mời gọi mà thôi chưa đủ, điều quan trọng hơn, đó là chúng ta còn phải tụ lại bên Ngài và bước đi dưới sự hướng dẫn của Ngài bằng cách thực thi những điều Ngài truyền dạy, bằng cách tuân giữ nhưng giới luật của Ngài.
Bởi vì chỉ bước đi theo sự hướng dẫn của Ngài, chúng ta mới có thể đạt tới miền đất hứa là quê hương Nước Trời mà thôi.
13. Mục tử tốt lành – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Dưới thời bạo Chúa Nêrô bắt đạo. Rôma ngập tràn máu lửa, biết bao tín hữu đã chết dưới tay ông vua điên loạn, bạo tàn.
Giáo hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục dẫn dắt đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin? Thầy đã chẳng khuyên khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi:
- Quo vadis, Domine? Thưa Thầy, Thầy đi đâu?
- Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.
- Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lệ đoàn chiên, và để chịu đóng đinh thập giá như Thầy.
"Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì đoàn chiên" (Ga.10,11). Đức Giêsu ví mình như một mục tử tốt lành khác với người chăn thuê, vì người đã dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Cái chết của Người không bất ngờ, cũng không đầu hàng bạo lực, nhưng là một cái chết tự hiến. Đức Giêsu chết để nói nên lời yêu thương. Một tình yêu tột đỉnh, yêu cho đến cùng. Thánh Gioan viết: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình" (Ga.15,13).
Chính tình yêu đã tạo nên mối dây gắn bó giữa chủ chiên và từng con chiên, khiến Người nói: "Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta" (Ga.10,14-15). Đó là sự hiểu biết nhau sâu xa, sự trân quí giữa mục tử và đoàn chiên.
Đức Giêsu là mục tử duy nhất, tối cao và gương mẫu. Các mục tử khác chỉ là phụ tá giúp chăn dắt đoàn chiên của Người. Mọi mục tử phải noi gương Người, dám chết cho đoàn chiên được sống. Phêrô là người mục tử đầu tiên. Phêrô có thể trốn bắt bớ, tù tội, chết chóc. Nhưng chính khi đổ máu, Phêrô đã giữ vững đoàn chiên. Cái chết của Phêrô đã có sức thuyết phục hơn bất cứ lời rao giảng nao: "Thầy làm vững đức tin của con. Rồi đến lượt con, con sẽ làm vững đức tin của anh em con". Các mục tử tiếp bước Phêrô vui lòng nằm xuống để nên nhân chứng, và củng cố niềm tin cho các anh em.
Dụ ngôn người "Mục tử tot lành" cho thấy tình yêu sâu sắc của Thiên Chúa:
- Người yêu thương mỗi người một cách cá biệt, không yêu cách chung chung.
- Người yêu thương vô điều kiện, ngay cả khi chúng ta lầm đường lạc lối.
- Người yêu thương bằng tình yêu vui mừng, chứ không la rầy khiển trách khi tìm thấy chiên lạc.
Ngày nay, Đức Giêsu vẫn cần những vị mục tử tốt lành lo cho đoàn chiên trên thế giới. Người rất cần các bạn trẻ hiến thân cho sứ mạng mục tử này. Người mời gọi chúng ta hãy nhìn bằng trái tim yêu thương, để thấy những cơn đói Lời Chúa, đói tình thương, đói của ăn, đói ý nghĩa cuộc sống. Người kêu gọi chúng ta hãy tha thiết xin Cha cho nhiều mục tử tận tụy hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi hơn, và thánh đức hơn. Những mục tử sẵn lòng âm thầm chết từng ngày cho đoàn chiên.
***
Lạy Chúa, xin gởi đến cho chúng con những mục tử có trái tim của Chúa: luôn say mê Thiên Chúa và yêu thương con người, có tình bạn thân thiết với Chúa, dám hy sinh cho đoàn chiên, dẫn đưa chúng con về với Cha là nguồn hạnh phúc thật của chúng con. Amen.
14. Tôi biết chiên của Tôi - ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Câu nói có vẻ tầm thường, nhưng thật lạ lùng.
Nếu một ông thủ tướng trong sạch, biết rõ từng bộ trưởng, từng tỉnh trưởng, từng giám đốc, bí thư, thì không một ai dám tham nhũng, hối lộ.
Nếu cha mẹ tốt lành, biết rõ từng đứa con, sẽ dễ dàng dạy con ngoan chăm con giỏi, và không có con nào dám qua mặt làm điều hỗn láo.
Nếu người trên nhân hậu biết rõ người dưới, chắc chắn sẽ dễ cảm thương cho số phận khổ sở kẻ dưới và sẽ hết mình giúp đỡ họ.
Vậy làm sao có thể biết rõ được?
Muốn biết rõ người phải xuyên suốt bốn giai đoạn sau:
Thứ nhất, biết những hành động bên ngoài, từ lời nói, cử chỉ đến việc làm.
Thứ hai, biết những hanh động bên trong, là những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, ước muốn và ý định.
Thứ ba, biết quá khứ, hiện tại, tương lai xẩy ra sao.
Thứ bốn, biết số phận, vận mệnh may rủi sống chết thế nào?
Thường người ta, dù người tai giỏi, thông thái hay gần gũi như cha mẹ sống với con cái, cũng chỉ biết được người khác qua những hành động bên ngoài. Những nhà tâm lý giáo dục biết được tâm tính con người thường dùng phương pháp quan sát ba yếu tố: cảm xúc (Emotivité: E), hoạt động (Activité: A) và xem phản ứng sơ khởi hay sâu lắng (retentivité primaire ou secondaire) để xếp xem người đó thuộc loại tính tình nào trong tám loại tính tình.
Thực ra, con người chỉ có thể biết nhau ở giai đoạn thứ nhất, tới giai đoạn thứ hai chỉ là đoán mò, nên mới có câu: “Sông sâu còn có người dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”.
Khi Chúa Giêsu nói với ta: “Tôi biết chiên của Tôi” thì Người biết hết mọi sự: từ hành động bên ngoài đến bên trong ta, từ quá khứ hiện tại đến số phận đời đời của ta, Người thấu suốt cả cuộc đời ta.
Người biết rõ Nathanael ở đâu, đang làm gì.
Người biết rõ Pharisiêu nghĩ gì, biết rõ âm mưu của Giuđa và các thượng tế. Người biết rõ quá khứ của người đàn bà xa lạ đến kín nước giếng Giacóp có bảy đời chồng và kẻ đang sống với bà không phải là chồng bà. Người biết rõ tương lai của các môn đệ sẽ bị bắt bơ, tù đầy, xét xử và bị giết đi vì làm chứng về Người, và Người khuyên các ông đừng sợ vì họ chỉ giết được xác mà không giết được hồn. Người biết rõ phần thưởng Chúa Cha ban cho các ông bội hậu trên trời.
Người biết rõ số phận của thành Giêrusalem sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào và Người khóc thương họ.
Chính vì biết rõ thân phận con người như thế mà Người cảm thương ta vô cùng.
Khi ta nhìn một người quằn quại trên vũng máu vì tai nạn hay một người rên xiết trên giường bệnh, ta không cầm được nước mắt. Ta chỉ biết được chút bên ngoài chốc lát thôi, ta còn biết mủi lòng, huống chi là Thiên Chúa biết quá rõ số phận ta từ đời đời, Thiên Chúa còn phải thương yêu ta đến thế nào! Người đã thấy thân phận ta như “con chiên ở giữa sói rừng, sói liền bắt và làm tan tác đoàn chiên”. Vì thế, không lạ gì Thiên Chúa Cha đã phải hy sinh Con Một yêu dấu của Ngài, xuong thế làm người, sống lăn lộn cứu chữa con người cho đến chết và bị chết đóng đinh trên thập giá. Hôm nay chúng ta thấy: tại sao Người nói: Tôi biết chiên Tôi và Tôi hy sinh mạng sống Tôi cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một người mục tử”.
Trong bài đọc một, thánh Phêrô đã chứng tỏ cho thượng hội đồng thấy: “Chính nhờ danh Đức Giêsu Kitô, người Nagiarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã cho Người chỗi dậy, từ cõi chết, đã cứu chữa người tàn tật này được lành mạnh”.
Trước tình yêu của Đấng chăn chiên nhân lành như thế, thánh Gioan kêu gọi chúng ta: “Anh em hãy xem Thiên Chúa yêu ta dường nào để ta được gọi làm con Thiên Chúa. Và được nên giống như Người”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cố gắng nên giống Người Mục Tử nhân lành, biết nhận trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, thánh hóa đoàn chiên, chúng con mới được giống Người trong vinh quang.
15. Suy Niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Đức Giêsu tự xưng mình là mục tử nhân lành. Ngài biết từng con chiên, yêu thương chăm sóc và sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đàn chiên.
Thật vậy, Đức Giêsu biết hết tất cả mọi người chúng ta. Ngài biết từng người trong chúng ta. Ngài biết người nào khỏe mạnh, người nào ốm đau, người nào tàn tật. Ngài như người mục tử đi tìm con chiên bị mất; con nào đi lạc, Ngài sẽ đưa về; con nào bị thương, Ngài sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ngài sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ngài sẽ canh chừng (x. Ed 34,16). Ngài yêu thương chăm sóc từng người trong chúng ta một cách tận tình (Is 40,11). Ngài luôn tạo điều kiện tốt đẹp cho mọi người như người muc tử chăn dắt đàn chiên trong đồng cỏ tốt tươi, màu mỡ (x. Ed 34,14). Cụ thể, Ngài nuôi chúng ta bằng Lời của Ngài, bằng các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể. Đặc biệt, Ngài đã hy sinh tính mạng của mình vì hạnh phúc của mỗi người chúng ta. Đó là tình yêu cao quý hơn mọi tình yêu. Đúng như lời Ngài khẳng định: “không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Vì thế, những ai được sống dưới sự chăn dắt của vị mục tử Giêsu, thì luôn được vững dạ an tâm, không sợ nguy khốn (Tv 23,4), không sợ thiếu thốn gì (Tv 23,1).
Để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa cho con người, Đức Giêsu còn tuyển chọn một số người cộng tác trực tiếp vào sứ mạng mục tử của Ngài. Vì thế, trước khi về trời, Ngài đã chọn các Tông đồ và đặt Thánh Phêrô thay mặt Ngài tiếp tục vai trò đó. Vai trò mục tử đó được tiếp tục nơi các Tông đồ đoàn, các Đức Giáo Hoàng kế vị thánh Phêrô, các Đức Giám mục, các linh mục cho đến tận thế. Nhưng số lượng giám mục, linh mục trong Giáo hội chưa bao giờ có thể đáp ứng đủ với nhu cầu của đoàn chiên. Cho nên, Đức Giêsu đã từng nói: “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, các con hãy xin Chúa sai thợ gặt đi gặt lúa về.” (Lc 10,2). Vâng lời Đức Giêsu, suốt 2000 năm qua, Giáo hội luôn luôn quan tâm đến việc đào tạo các linh mục. Thông thường tại các Giáo phận hoặc liên Giáo phận đều có Đại chủng viện, nơi đào tạo các linh mục tương lai. Ngoài các đại chủng viện còn có các đào tạo các ứng sinh linh mục của các dòng tu. Giáo hội không những mời gọi giới trẻ dấn thân trong đời sống tu trì, làm linh mục. Giáo hội còn mời gọi các thành phần trợ giúp vật chất cũng như tinh thần cho các chủng viện, cho công cuộc đào tạo linh mục. Cụ thể, Giáo hội dùng Chúa nhật IV Mùa Phục Sinh hằng năm để nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Đây là một sáng kiến đặc biệt của Giáo hội. Vậy, chúng ta phải làm gì để góp phần vào việc đào tạo linh mục? Chúng ta phải làm gì để giúp đỡ các giám mục, linh mục đang trực tiếp coi sóc chúng ta?
Thứ nhất, chúng ta cần phải làm gì để góp phần vào việc đào tạo linh mục:
- Vai trò của các bậc cha mẹ: Cần phải quan tâm giáo dục con cái về đời sống đức tin, nhân bản và tri thức; giúp con cái hiểu biết hơn về ơn gọi linh mục và tu sĩ; khi thấy con cái có ý hướng dâng mình cho Chúa trong ơn gọi linh mục và tu sĩ thì cần phải giúp đỡ và hướng dẫn con cái thực hiện ý hướng tốt lành đó.
- Vai trò của các thầy cô giáo lý viên: Không chỉ truyền đạt về kiến thức giáo lý mà còn giúp các em về mọi mặt để các em có thể trở thành những người trưởng thành quân bình về tri thức, nhân bản và đạo đức.
- Vai trò của cha xứ: Không chỉ hướng dẫn và giúp đỡ các em trong việc phân định ơn gọi mà còn giúp các em có đủ điều kiện để thực hiện ơn gọi của mình. Đặc biệt, đời sống độc thân dâng hiến của cha xứ luôn trở nên mẫu mực cho các em noi theo.
- Vai trò của mọi thành phần trong Giáo hội: Cần giúp đỡ các ứng sinh linh mục tương lai bằng lời cầu nguyện, bằng gương sáng, bằng sự động viên khích lệ, bằng sự giúp đỡ về mặt vật chất...
Hầu hết các linh mục trưởng thành như hôm nay, ngoài ơn Chúa, sự nổ lực của bản thân thì đều có sự cộng tác trực tiếp hay gián tiếp của gia đình, thân nhân, ân nhân và các thành phần trong giáo xứ và Giáo hội.
Thứ hai, chúng ta cần cầu nguyện và cộng tác với các giám mục, linh mục:
Chúng ta không chỉ có trách nhiệm đối với các ứng sinh linh mục mà còn có trách nhiệm đối với chính các giám mục, các linh mục nhất là giám mục và các các linh mục đang trực tiếp phục vụ chúng ta. Chúng ta giúp đỡ bằng lời cầu nguyện, sự nâng đỡ, cộng tác với các ngài để các ngài chu toàn bổn phận mà Chúa và Giáo hội trao phó. Chúng ta cầu nguyện cho các mục tử bởi vì trong thực tế, tuy có nhiều mục tử giống mục tử Giêsu, nhưng vẫn có những mục tử giả, mục tử xấu, mục tử không tha thiết gì đến đàn chiên, “khi thấy sói đến liền bỏ chiên mà chạy: sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn”; vẫn có những mục tử sống vô trách nhiệm với đàn chiên: chẳng quan tâm khi chiên đi mất, không đi tìm khi chiên thất lạc, không chạy chữa khi chiên bị thương…(x. Dc 11,16a); vẫn có những mục tử bóc lột đàn chiên để hưởng thụ chứ không chịu chăn dắt đàn chiên: “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, mà đàn chiên lại không lo chăn dắt” (Ed 34,3); vẫn có những mục tử độc ác, thống trị đàn chiên một cách tàn bạo và hà khắc (x. Ed 34,3); vẫn có những mục tử mà sự hiện diện của họ chỉ làm cho đàn chiên tan tác (x. Gr 23,2).
Trong bài huấn dụ có sự hiện diện của các linh mục và giáo dân, Đức Cha Anphôngsô, Giám mục Phụ tá Giáo phận Hưng Hóa mời gọi giáo dân cầu nguyện và cộng tác với các linh mục như sau:
- Hãy cầu nguyện cho các linh mục. Linh mục cần lời cầu nguyện lắm, vì sứ vụ và trách nhiệm của linh mục rất nặng nề. Nhiều khi anh chị em xin linh mục cầu nguyện cho mình, mà quên cầu nguyện cho linh mục.
- Hãy tôn kính linh mục vì là người thay mặt Chúa hướng dẫn giáo dân. Nhưng hãy tôn kính cách đúng mực, bình dị, thân tình, chứ đừng thần thánh hóa, khép nép, sợ hãi, tâng bốc. Linh mục là người của Chúa và của mọi người, chứ không phải của riêng ai.
- Hãy nâng đỡ tinh thần cho linh mục. Linh mục cũng cần sự nâng đỡ, nhất là trong những lúc gánh nặng của sứ vụ đè trên đôi vai và trong tâm hồn. Tôi xin anh chị em quan tâm nâng đỡ tinh thần, chứ không phải vật chất, cho các linh mục. Chỉ chú trọng nâng đỡ vật chất sẽ có thể làm thoái hóa linh mục.
- Hãy cộng tác cách chân thành, tích cực và hữu hiệu, để linh mục chu toàn sứ vụ của mình. Linh mục chẳng thể làm được gì nếu không có giáo dân đồng tâm hiệp lực.
Lạy Chúa Giêsu mục tử nhân lành, xin ban cho Giáo hội có thêm nhiều mục tử như lòng Chúa mong muốn. Amen.
16. Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Anh chị em thân mến.
Người Việt Nam chúng ta thường thì ai cũng biết đến cau chuyện cổ tích: Cái Đực rựa. Câu chuyện nói lên đời sống của hai anh em được người cha rất thương yêu.
Chính vì thế ông đã chuẩn bị tất cả, không để cho con của mình phải thiếu thốn điều gì. Khi ông nhắm mắt lìa đời, ông đã để lại một tài sản xứng đáng cho hai người con của mình. Không chỉ để lại mà thôi, ông còn dạy bảo nhắc nhở: Anh em phải yêu thương lo lắng cho nhau. Nhưng rồi, những điều lo lắng, những điều chỉ dạy và lời trối sau cùng của người cha kính yêu, không được thực hiện chu đáo.
Người anh cả khôn ngoan hơn, lại thêm tính tham lam, nên cuối cùng, người em hiền từ đơn sơ chỉ còn nhận được Cái đực rựa. Người em phải rời khỏi nhà cùng với gia tai mình được chia, gia tài mà người cha đã để lại, giờ đây anh chỉ nhận được có thế. Anh đã bị chính người thân thuộc nhất của mình tước đoạt tất cả. Anh cũng không có quyền ở trong nhà cha của mình, vì chính người con của cha mình, người anh ruột của mình, người thân nhất của mình, lại là người loại trừ anh ra khỏi cuộc sống. Đoạn kết câu chuyện, mọi người chúng ta đều biết: Ở hiền gặp lành.
Qua câu chuyện, tôi suy nghĩ: người cha rất thương yêu con của mình, nên ông đã dạy dỗ, chuẩn bị tất cả. Đáng lẽ những người con của ông đều được sung sướng. Nhưng cũng vì con ông không biết thương nhau, nên có những người phải cơ cực. Mặc dù ông đã làm tròn bổn phận cua mình, nhưng ông không khỏi phiền lòng khi nhìn thấy những đứa con của mình đối xử với nhau như thế. "Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi." Chúa Giêsu là chủ đàn chiên của Ngài. Ngài là Người Cha nhân hậu, Ngài đã chuẩn bị tất cả những gì cần thiết cho đàn chiên của Ngài được hạnh phúc, được sung sướng. Chính vì thương yêu đàn chiên nhỏ bé, còn bơ vơ chưa thể tự mình đạt tới hạnh phúc được, nên Ngài dám hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên. Ngài biết từng con chiên, lo lắng cho từng con một. Ngài chỉ có mong ước duy nhất là làm sao các chiên của Ngài đều nghe tiếng để bước đi theo Ngài.
Chúng ta là con cái Thiên Chúa, chúng ta thuộc về đàn chiên của Chúa Kitô. Mỗi người trong chúng ta được Ngài yêu thương, chăm sóc, giữ gìn, và mỗi người cũng được bảo vệ bằng chính mạng sống của Ngài. Những con chiên trong đàn có được một Người chủ chăn tuyệt vời, thế mà cũng vẫn còn có nhiều con chiên ăn không đủ no, nó cũng không thể nào chống chọi lại nỗi với những cơn giá rét luôn ập xuống trên mình. Đôi khi còn tệ hại hơn nữa, nó phải đành chấp nhận nỗi cô đơn mà tách khỏi đàn để đối mặt với bao nhiêu nguy hiểm đang chờ đón.
Nó đói không phải vì trong đàn chiên thiếu thức ăn, trái lại, thức ăn vẫn đầy đủ và phần của nó vẫn còn đó. Nó lạnh, nó cô đơn, nó gặp nguy hiểm, không phải vì chủ không quan tâm. Nhưng nó phải chịu tất cả những điều bất hạnh đó, vì nó không tìm được sự cảm thông của những con chiên đồng loại. Nó cũng không tìm thấy được một sự quảng đại, nó cũng chẵng nhan được những cử chỉ yêu thương chân thành, mà nó chỉ thấy trước mắt nó những điều làm nó đau lòng. Trước một thực tế như thế, cùng với sự hiểu biết nông cạn, nó không thể nào nhận ra được tình yêu của Người Chủ Chăn Tuyệt Vời qua những chú chiên bạn bên cạnh nó được.
Câu chuyện cổ tích ở trên, chúng ta ngở rằng nó đã cổ xưa, đã đi vào quá khứ, nhưng thực ra nó rất hiện đại và vẫn là một câu chuyện thời sự nóng bỏng của ngày hom nay. Cũng vẫn những tham lam, vẫn những tranh giành, vẫn những thủ đoạn loại trừ nhau. Cho dù tiếng chủ chăn vẫn vang lên thống thiết, còn những con chiên thì vẫn cứ mặc tình, vẫn cứ ồn ào náo nhiệt, vẫn cứ tranh chấp nhau, nên không thể nào nghe được hết những gì chủ chăn muốn nói.
Tiếng vị Chủ Chăn tuyệt vời cũng vang bên tai mỗi người chúng ta. Chúng ta có phải là con chiên trong đàn của Chúa Kitô thật sự không? chúng ta đã nghe tieng Ngài, và bước đi theo Ngài như thế nào trong cách sống của mình?
Xin Chúa ban ơn cho chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa, lời của vị Chủ Chăn Tốt Lành, để chúng ta luôn là con chiên ngoan trong đàn của chủ chăn, và là một bạn chiên tốt của các chiên.
17. Nơi bạn thuộc về – Peter Feldmeier
(Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Tôi là mục tử nhân lành. Tôi biết các chiên tôi và các chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14)
Vài năm trước, tôi có dịp nói chuyện với một anh bạn. Vợ anh ta vừa chết và mới được chôn cất. Cuộc sống của anh ta trước đây khá bệ rạc, và anh đã đối xử với vợ con rất tồi tệ. Anh ta hỏi tôi, theo tôi nghĩ, liệu anh ta có được lên thiên đàng hay không. Đây không phải là một câu hỏi khó trả lời, vì việc cứu rỗi chẳng phải là vấn đề quá nan giải. Chính Đức Giêsu đã quả quyết ai tin sẽ được sống đời đời. Hiển nhiên, không phải như nhiều người cứ đinh ninh rang ơn cứu rỗi sẽ được tặng ban một cách nhưng không, chẳng cần con người cộng tác chút nào.
Sau khi đã hiểu khá rõ cuộc sống của anh, tôi trả lời. Nhưng trước hết tôi hỏi lại anh ta: Thế bây giờ anh sống ra sao, có biến chuyển khá hơn trước hay không? Anh trả lời “Tôi nghĩ, khó thay đổi. Tôi còn có nhiều buồn bực và vẫn hay uống rượu để giải khuây”. Tôi hỏi tiếp “Anh có đến nhà thờ thường xuyên không? Anh ta đáp: “Không. Trừ hôm an tang vợ tôi, đã 30 năm nay, tôi không đến nhà thờ nũa. Tôi nghĩ cuộc sống tôi vẫn vậy, chẳng thể thay đổi”. Tôi hỏi vặn lại “Nhưng vì anh đã bỏ nhà thờ, bỏ cả Chúa? Trước đây cuộc sống anh có tồi tệ như thế đâu.” Anh ta nói “Tôi biết, cuộc sống tôi hiện nay như là hỏa ngục thực sự, không phải như nhà thờ mà tôi đã bỏ suốt 30 năm qua”. Tôi tiếp tục hỏi anh “Thế ít nhất, anh có cầu nguyện không?” Anh trả lời “Hầu như không, tôi cũng chẳng còn tha thiết cầu nguyện như trước đây nữa.”
Tôi động viên anh hãy đến tòa cáo giải và trình bày tất cả. Tôi nhẹ nhàng khuyên anh hãy cố gắng sửa chữa và hàn gắn lại những đổ vỡ trong những tháng ngày còn lại cua cuộc đời. Tôi gợi mở cho anh con đường trở về, song từ trong thâm tâm, tôi cũng lấy làm lạ và tự hỏi, tại sao một con người chẳng thiết tha gì đến Thiên Chúa như thế, nhưng vẫn mong muốn được vào thiên đàng. Họ không hiểu rằng thiên đàng chính là tình trạng con người gắn kết với Thiên Chúa và thuộc về Ngài trọn vẹn hay sao.
Trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay, Thánh Gioan đã viết “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con cái Thiên Chúa, nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy (1Ga 3,2). Đó chính là thiên đàng thực sự của chúng ta, là tình trạng con người kết hiệp với Thiên Chúa và trở nên giống Ngài.
Thánh Phêrô tông đồ diễn tả trạng thái căn bản về việc Thiên Chúa hiện thực tròn đầy lời hứa cứu độ, khi Ngài viết “Chúng ta sẽ được thông phần bản tính Thiên Chúa (2Ph 1,4). Giáo hội gọi đó là sự “Thần hóa” Theosis, một khi chúng ta qua ân sủng được sống chính sự sống của Thiên Chúa, sống như Ngài đã sống, và yêu như Ngài đã yêu.
Neu cách diễn đạt này xem ra có vẻ trừu tượng và khó hiểu, chúng ta sẽ dễ thấu triệt hơn khi đọc lại bài Tin mừng hôm nay. Đức Giêsu nói cho đám đông, Ngài là Mục Tử Nhân Lành. Không như các mục tử bất cẩn khác đã bo chiên để tháo chạy vào những thời khắc nguy hiểm, vị Mục Tử tốt lành đã liều cả mạng sống để bảo vệ đoàn chiên của mình. Chủ đề về chăn chiên được nói đến khá nhiều, và dàn trải đều khắp trong cựu ước. Ezekiel chương 34 là một đoạn văn cổ, qua đó vị tiên tri nặng nề cảnh báo các mục tử xấu xa, ám chỉ các vị lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ, đã bỏ rơi các con chiên, tức dân Israel, và chểnh mảng việc chăm sóc chúng. Ezekiel tiên bao rằng chính Thiên Chúa sẽ chăn dắt và săn sóc đàn chiên của Ngài (Ez 34,15-23). Đức Giêsu là Đấng sẽ thực hiện lời hứa đó, và Ngài sẽ là mục tử đích thực về cả hai phương diện: Chăn dắt và nuôi sống đoàn chiên.
Đức Giêsu đã đến và nuôi dưỡng chúng ta. Ngài bảo vệ, dẫn dắt và yêu thương chúng ta. Điều đánh động chúng ta sâu xa nhất, chính là Đức Giêsu đã hai lần nhắc đến sự tương giao thân tình giữa Ngài và các học trò, tức giữa người chăn chiên và các con chiên trong đàn. Ngài nói “Tôi biết chiên tôi và chiên của tôi biết tôi”, đồng thời Ngài nói tiếp “Chúng sẽ nghe tiếng tôi”. Qua hình ảnh người chăn chiên nhân lành, Đức Giêsu bộc lộ sự hien dịu sâu xa nơi chính Ngài. Về phía chúng ta, khi chúng ta biết Ngài và để Ngài biết chúng ta, chúng ta sẽ đi vào sự gắn kết sâu xa với Ngài, và thuộc trọn về Ngài.
Khi còn là sinh viên, có lần tôi được trao cho một quyen sổ nhỏ có ghi một câu hỏi để tôi trả lời: “Khi đến trước cổng thiên đàng, để được đón nhận vào, bạn phải nói điều gì?” Chắc chắn câu trả lời là “Tôi tin, vì Đức Giêsu đã chết cho tôi”. Bài Tin mừng hôm nay còn vạch dẫn cho ta một câu trả lời khác: “Vì nơi đó chính là chỗ tôi thuộc về”. Cũng như đối với gã đàn ông ngược ngạo kia đã hỏi tôi như tôi nói ở đầu, tôi sẽ trả lời cho anh ta “thế thì bạn, bạn đang thuộc về đâu?”
18. Ý nghĩa của cuộc sống
Bài đọc I (Cv 4, 8-12): Thánh Phêrô tuyên bố trước những nhà lãnh đạo Do thái rằng: Chúa Giêsu Phục Sinh là Đấng Cứu Độ duy nhất. Ngài chính là chính là viên đá góc tường của toà nhà mới mà người ta loại bỏ. Động lực nào đã làm cho thánh nhân can đảm lạ thường? Phải chăng ông đã cảm nhận được tình yêu mà Chúa Giêsu đối với ông, một người phản bội!
Bài đọc II (1Ga 3, 1-2): Vì yêu thương mà Thiên Chúa đã chọn gọi chúng ta làm con Chúa trong Chúa Giêsu. Để chúng ta được thông phần hạnh phúc với Chúa, đồng thời mời gọi chúng ta hãy vui mừng và biết chia sẻ niềm hạnh phúc lớn lao ấy cho nhân loại.Vì chưng, ơn gọi của người Kitô hữu là ơn gọi để yêu thương.
Bài Tin Mừng (Ga 10, 11-18): Cho thấy Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, Ngài biết chiên của Ngài, và chúng cũng nhận ra Ngài. Không giống như người chăn thuê, Chúa Giêsu sẵn sàng hiến mạng sống cua mình để bảo vệ đoàn chiên.
Ba bài đọc đã cho ta một cái nhìn mới về ý nghĩa của cuộc đời. Cuộc sống của chúng ta hôm nay phần lớn được bao bọc bởi công việc. Vì vậy chúng ta hãy xem công việc hiện nay của tôi đang làm có tầm quan trọng và có ý nghĩa như thế nào? Nếu công việc tôi đang làm thật sự có ý nghĩa cho xã hội, thì quả thật đây là một diễm phúc cho ta. Còn nếu nó không mang một ý nghĩa nào, hay có nhưng rất ít thì thật là vô phúc.
Người ta nói: vấn đề đầu tiên của chúng ta trong cuộc sống là hãy tìm một việc làm có ý nghĩa. Khi đó nó sẽ thay đổi cuộc đời chúng ta. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu lặp đi lặp lại hai danh từ đối lập: Chủ chăn và người chăn thuê. Vậy đâu là sự khác biệt giữa vị mục tử nhân lành và người chăn thuê? Đó chính là hai thái độ hoàn toàn trái ngược nhau trong sứ mạng chăn dắt đoàn chiên. Người chăn thuê làm công việc này vì đây là một sự bắt buộc, làm để lãnh lương. Đối với anh ta đây chỉ là cái nghề, vì thế anh ta không đặt con tim của mình vào trong công việc. Còn vị mục tử nhân lành làm công việc chăn dắt đoàn chiên vì anh ta yêu mến no, đó chính là lý tưởng của anh. Vì vậy, anh ta làm với một con tim nhiệt thành và hoàn toàn tự nguyện.
Người ta yêu vị mục tử nhân lành vì cuộc sống của anh ta hoàn toàn vì lợi ích của đoàn chiên. Đối với vị chủ chăn nhan hậu, anh ta tìm thấy một cái gì quý giá thật sự khi được chăm sóc đoàn chiên. Đối với anh ta đây không chỉ là công việc mà còn là một ơn gọi, một lý tưởng của cuộc đời.
Vì vậy anh ta đặt tất cả mọi tâm quyết cho công việc và làm hết khả năng. Khi đó anh ta sẽ có đủ sáng kiến để thực hiện hoài bảo, nhờ đó mà tài năng bắt đầu được nở rộ. Dù cho công việc có nhiều khó khăn trắc trở nhưng nhờ có lý tưởng và có động lực là tình yêu nên mọi chuyện đều trở nên nhẹ nhàng và đơn giản không gì là nặng nhọc. Chúng ta không thể có được hạnh phúc từ cuộc sống dễ dãi. Trách nhiệm nặng nề trong việc tự nguyện phục vụ tha nhân sẽ làm cho cuộc sống yêu thương sẽ càng có giá trị.
Chúa Giêsu đã tìm thấy lý tưởng của Ngài Khi Ngài khẳng định: Ta là mục tử nhân lành của đoàn chiên mà Chúa Cha trao phó. Hai đặc tính nổi bật trong sự liên hệ giữa chủ chăn và đoàn chiên là: Ngài chăm sóc đoàn chiên tận tình, sẵn sàng hiến mạng sống để bảo vệ đoàn chiên. Và Ngài biết các chiên của Ngài và chúng cũng biết Ngài. Đây là sự gần gũi giữa chủ chăn và đoàn chiên. Thiếu điểm này thì sự lãnh đạo trở thành sự áp bức.
Mỗi người chúng ta cũng phải chọn cho mình một lý tưởng. Khi có lý tưởng chúng ta sống và làm việc với một thái độ hoàn toàn khác hẳn với người không có định hướng, không có lý tưởng. Khi chúng ta thực hiện một công việc hay một bổn phận với một con tim héo úa mà không có động lực yêu thương chắc chắn chúng ta sẽ thất bại. Và quả thật, đây là một nỗi bất hạnh lớn nhất trong cuộc sống. Vì chúng ta không tìm thấy niềm vui và hạnh phúc từ trong công việc, và khi đó cuộc sống quả là gánh nặng.
Nhưng để chọn cho mình một lý tưởng không phải là vấn đề đơn giản. Vì chọn lựa nào cũng phải từ bỏ, chọn lựa nào cũng làm cho chúng ta phải nuối tiếc và mang lại đau thương. Nhưng chúng ta phải can đảm chấp nhận vì hiểu rằng chúng ta chỉ có hạnh phúc thật sự khi đi đúng con đường, đúng lý tưởng.
Khi đó chúng ta mới yêu mến công việc của mình. Vì chưng thánh giá nào cũng nặng, nhưng điều quan trọng là thái độ của chúng ta đối với thánh giá cuộc đời. Nếu chúng ta nhìn công việc của mình như là quà tặng và phương tiện nên thánh thì mọi chuyện sẽ trở nên nhẹ nhàng. Chúa Giêsu là người sống có định hướng và lý tưởng hơn ai hết, khi Ngài đưa ra dụ ngôn mục tử nhân hậu và người chăn thuê. Người mục tử thì yêu mến công việc của mình, đảm nhận cônmg việc chăn dắt vì tình yêu. Đây không phải là điều dễ dàng. Nhưng cho dù gặp nhiều khó khăn gian khổ anh cũng dễ dàng vượt qua. Vì tình yêu đã cho anh sức mạnh.
Mỗi người chúng ta đều là mục tử trong địa vị và bổn phận của mình. Vì vậy chúng ta phải đối xử với nhau cách có trách nhiệm và hoàn toàn vì yêu thương. Tránh thái độ thờ ơ đối với nổi khổ của anh em, cũng như hành quyền trên người khác. Vì Chúa Giêsu đã chết và phục sinh cho tất cả chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, là vị mục tử nhưng Ngài lãnh đạo dân Ngài bằng tình yêu chớ không bằng quyền lực.
Lạy Chúa là Đấng nhân hậu và hay thương xót. Xin cho chúng con vững tin vào tình yêu của Đức Kitô phục sinh, vị mục tử nhân hậu đã thí mạng vì chúng con. Xin cho chúng con tỏ lòng biết ơn Chúa qua việc đối xử tốt với anh em. Xin Chúa cũng ban thêm cho chúng con có nhiều vị mục tử biết quảng đại dấn thân hoàn toàn vì lòng yêu mến Chúa và các linh hồn. Amen.
19. Mục tử tốt – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tình yêu Chúa cao vời biết bao, ngút cao như mây trời và mênh mang như biển cả. Chúa yêu thương con người qúa bội. Thiên Chúa đã hứa ban ơn cứu độ và đã thực hiện trọn vẹn lời hứa. Chúa Giêsu đã xuống thế mang thân phận con người để hoà nhập cuộc sống. Thiên Chúa làm người để cùng chia sẻ mọi nỗi truân chuyên, cơ cực, khổ đau, chối bỏ và ruồng rẫy trong thân phận người. Ngài đã dám hy sinh xa thân vì đàn chiên. Hình ảnh người mục tử chăn chiên thật ấn tượng. Chủ chiên đi trước và đoàn chiên theo sau. Chủ chiên mong tìm nguồn suối mát để chiên được giải khát. Chủ chiên đi tìm cánh đồng cỏ xanh tươi để chiên bồi dưỡng, nghỉ ngơi. Chúa Giêsu ví Ngài như người Chủ Chiên nhân lành.
Người mục tử tốt lành lo chu đáo cho mọi nhu cầu của đoàn chiên. Đối với người Dothái, hình ảnh người chăn chiên rất quen thuộc. Họ hiểu trọn vẹn ý nghĩa về vai trò của người chủ chiên và người làm thuê. Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Tác giả sách Tông đồ Công vụ đã viết về Chúa Giêsu chủ chiên tốt lành: “Chính Người là viên đá đã bị chư vị là thợ xây loại ra, đã trở thành viên đá góc tường”. Để được ơn cứu độ sẽ không có một Danh nào khác, mà chỉ nhờ Danh Chúa Giêsu Kitô.
Thư của Thanh Gioan Tông Đồ đã minh chứng rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta là dường nào. Ngài cho chúng ta được quyền làm con cái Thiên Chúa và hưởng nhờ ơn cứu độ. Ngài chăn dắt chúng ta như mục tử chăn dắt đoàn chiên mình. Thánh Gioan đã viết: “Chúa phán: Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10,14). Chúa biết nhu cầu tâm linh của từng con chiên. Mục đích tối hậu là dẫn dắt mọi người về chung hưởng hạnh phúc viên mãn trong một đàn chiên theo một Chúa Chiên: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10,16).
Chúng ta biết rằng nhu cầu cuộc sống thì vô vàn và sức lực cùng khả năng của con người thì giới hạn. Sống giữa một xã hội đổi thay và hỗn hợp văn hoá, tuyền thống, ngôn ngữ và tôn giáo, chúng ta khó có thể đáp ứng thoả đáng mọi nhu cầu của con người. Để tìm một một nguồn dưỡng nuôi thích đáng, mỗi người đều phải cộng tác nâng đỡ và mở cửa tâm hồn đón nhận. Sống trong một nền văn hoá đa dạng có các phương tiện truyền thông tốc độ, người có trách nhiệm giáo dục và hướng dẫn cần tỉnh thức nhiều hơn. Đàn chiên không đơn thuần nhập đàn theo nhau tìm đến dòng suối mát hay cánh đồng tươi xanh để cùng ăn uống thoả thuê. Nhu cầu cuộc sống không đơn giản đi theo bầy đàn.
Sứ mệnh mục tử được lan trải và áp dụng trong các vai trò cụ thể qua sự dưỡng nuôi và giáo dục. Chúng ta đang cần có các mục tử tốt trong mọi bước đi của cuộc đời. Chúng ta cùng chia sẻ vai trò quan trọng này trong chức vụ là cha mẹ, huynh trưởng, nhà giáo dục, các thầy thuốc, bác sĩ, các công nhân viên, các quan chức chính phủ và các nhà giáo dục tôn giáo.
Tại gia đình, vai trò giáo dục chủ yếu là của cha mẹ, phụ huynh lo lắng cho con cái về mọi mặt. Hãy yêu thương và dùng thời gian ở bên để chia sẻ buồn vui và những khó khăn với con cái. Đôi khi có những đứa con ngỗ nghịch, chúng ta cần kiên nhẫn dạy bảo với tình thương bao dung. Cha me phải luôn là mục tử gương mẫu dám hy sinh cho đàn con.
Nơi nhà trường, chúng ta cần các thầy cô. Các thầy cô cần học biết hoàn cảnh và nhu cầu của từng học sinh. Các em không phải là một đám học trò nhưng là từng cá vị có những khả năng riêng biệt cần phát triển. Kiến thức, văn hoá và đạo đức là tinh hoa cần được trau dồi và truyền đạt cho các thế hệ tiếp nối.
Trong nhà thương, cần có các bác sĩ và y tá như là từ mẫu. Các bác sĩ chăm sóc và chữa lành bệnh nhân và đối xử với họ đầy phẩm chất của một con người. Đem tình yêu thương để phục vụ đồng loại với lương tâm ngay chính. Chữa lành và cứu sống chứ không huỷ hoại và tiêu diệt.
Nơi công cong và xã hội, chúng ta cần các nhân viên công chức lo cho sự an ninh trật tự, an vui và hạnh phúc chung của mọi người hơn là chỉ vì lợi ích riêng tư. Các nhân viên chính quyền lo cho dân như phụ mẫu.
Trong Giáo Hội, nơi nhà thờ và các trung tâm mục vụ, cần các tu sĩ nam nữ, các giám mục và linh mục phục vụ mọi người trong yêu thương. Hướng dẫn con đường tâm linh chính thật. Không gây hoang mang mập mờ làm lung lạc đức tin. Biết nêu gương sáng và chăm sóc lo lắng đời sống tâm linh cho các tín hữu. Đời sống phải đi đôi với lời giảng dạy. Giáo dân cần thấy bài giảng hơn là nghe bài giảng. Sống niềm tin một cách chân thành và trong sáng. Dám hy sinh xả thân vì anh chị em.
Trong gia đình nhân loại, mỗi thành viên đều nhận những vai trò khác nhau từ đời sống trong gia đình ra ngoài xã hội. Chúng ta không phân biệt giai cấp, chức vụ hay nguồn gốc, mỗi người đều có trách nhiệm và bổn phận lo xây dựng một cuộc sống xã hội tốt đẹp chung. Vì thế, chúng ta không thể đổ trách nhiệm cho riêng một thành phần nào. Ai cũng được kêu gọi đóng góp công sức và khả năng của mình để làm cho cuộc sống con người tươi đẹp hơn.
Chúng ta thường có khuynh hướng gán trách nhiệm, những lời trách móc và đổ lỗi cho người khác hơn là quy chiếu trách nhiệm cho chúng ta. Dễ dàng so sánh và phê bình người khác hơn là xét lại những ngôn hành của chính mình. Chúng ta nên nhớ rằng từ sự suy tư, lời nói đi tới hành động có một khoảng cách rất lớn. Mỗi người cần có một sự dấn thân tu tâm và quyết chí thực thi lời dạy hằng ngày. Nếu lời nói không đi đôi với việc làm thì ngôn hành trở thành bất nhất. Chỉ nói mà không làm. Ai trong chúng ta cũng có những kinh nghiệm tiêu cực này.
Chúa Giêsu là Chúa Chiên Lành. Chúng ta gẫm suy về những lời truyền dạy và thực hành của Chúa. Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt vời giúp chúng ta tu tập sống đạo. Chúa đã giảng và sống lời giảng qua sự cầu nguyện, yêu thương, hy sinh, tha thứ, khiêm nhường, từ bỏ và công bằng chân thật. Chúng ta cần tu tâm tích đức, tu tâm luyện tính và tu tâm hành đạo. Chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu là Chúa, là Mục Tử và là Đấng Cứu Độ. Bước theo Chúa Chiên, chúng ta sẽ tìm được nguồn sống thật và no thoả trong nguồn suối ân tình.
Chúa Giêsu là Chủ Chiên và là cửa chuồng chiên. Đức Giêsu nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7). Trong cuộc sống, có rất nhiều cánh cửa mở rộng đón mời chúng ta vào. Có những cánh cửa dẫn chúng ta vào con đường lầm lạc và hư mất. Có những cánh cửa đưa dẫn chúng ta xa lạc trong thế giới tục hoá với nền văn minh sự chết. Có những cánh cửa mở ra cho chúng ta tìm những thoả mãn hưởng lạc và vui thú truỵ lạc. Có những cánh cửa đưa chúng ta vào chung hưởng nguồn vui an lạc thật sự. Chúa Giêsu nói: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10,9). Chúa Giêsu là cửa. Cửa của sự sống và sự sống lại. Đến với Chúa Giêsu và qua Ngài, chúng ta sẽ tìm được nguồn sống chan hoà trong niềm an vui, hy vọng và hoan lạc muôn đời.
20. Thái độ đối với công việc
Tin Mừng Chúa Nhật 4 Phục Sinh cho chúng ta hai cái nhìn của hai con người về cùng một công việc. Đó là chủ chăn là người chăn thuê.
Chúa Giêsu đưa ra hai tiêu chuẩn để phân biệt đâu là chủ chăn thật sự và người chăn thuê. Chủ chăn thật sự thì sẵn sàng hiến mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên. Còn người chăn thuê thì không. Anh ta chỉ làm công. Và tiền lương là động lực duy nhất để lôi kéo anh ở lại với đàn chiên. Khi gặp nguy hiiểm, anh ta lập tức quay đi mặc tình cho đàn chiên phải đối diện với nguy hiểm.Cùng một công việc là chăn chiên. Nhưng hai người có hai thái độ hoàn toàn trái ngược nhau.
Vậy động lực nào đã làm cho người chủ chăn thật có thể quên mình vì đoàn chiên? Tôi thiết nghĩ, có lẽ vì anh ta yêu mến công việc của mình, và xem nó như là một hoài bảo, một phần của cuộc sống, một ơn gọi trong cuộc đời mà anh hằng tìm kiếm. Chăm sóc đoàn chiên đối với anh không phải là cái nghề, cũng không vì lương bổng nhưng tất cả chỉ vì lý tưởng.
Còn người chăn thuê thì không như vậy. Trong thâm tâm anh chỉ là người làm thuê. Nên hay xo đo, tính toán, ngại khó khại khổ... Nên công việc đối với anh luôn là gánh nặng.
Chúng ta thấy, cùng một công việc là chăn chiên nhưng hai người có hai cách nhìn hoàn toàn trái ngược nhau. Không phải công việc nặng nhọc nhưng nặng hay nhẹ là do tự mình cảm nhận. Người ta kể rằng: có anh chàng kia vác thập giá về thiên đàng. Cùng đi với anh là cả một đoàn người. Không ai bảo ai. Với cây thập tự trên vai. Mọi người cứ âm thầm tiến bước.
Nhưng anh chàng này thấy những người kia vác thập giá như mình sao họ lại đi cách nhanh nhẹn và vui vẻ. Nên anh cằn nhằn Chúa vì nghĩ rằng: Thiên Chúa thật bất công khi trao cho anh một thánh giá nặng hơn thánh giá của những người khác. Cứ thế, đi một quảng, anh dừng lại và tỏ thái độ không bằng lòng với Thiên Chúa. Cuối cùng Chúa hiện ra với anh và bảo: Không phải thánh giá của con nặng hơn của nhưng người kia đâu. Thánh giá của mọi người đều như nhau cả. Con hãy cố gắng lên.
Nhưng anh ta vẫn không chịu, nhất quyết cho là thánh giá của mình nặng hơn. Cuối cùng Chúa chìu anh ta nên Ngài nói: nếu con cảm thấy nặng thì con hãy cưa bớt đi. Vẻ mặt anh ta trở nên vui tươi hớn hở và anh nói: nếu Chúa cho phép con sẽ làm ngay. Ngay lập tức anh ta cưa bớt thánh giá của mình một khúc. Rồi anh vui vẻ lên đường.
Khi đến trước cổng thiên đàng mọi người đều dừng lại vì phía trước họ là một con sông. Muốn qua sông để vào thiên đàng thì mọi người phải lấy thánh giá của mình làm cầu để đi qua. tất cả đã qua sông và vào được thiên đàng. Sau cùng anh chàng này cũng đến. Anh dùng thánh giá định bắc qua sông để vào thiên đàng. Nhưng hỡi ôi! Vì bị cưa đi một khúc nên thánh giá của anh không thể nào chạm được bờ bên kia của thiên đàng nên anh đành đau khổ khi thấy những người khác vui vẻ ở bên kia.
Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta giống như anh thanh niên trong câu chuyện trên. Chúng ta hay phiền trách Chúa tại sao để cho tôi đau khổ như thế này? Hay tại sao Chúa gởi thánh giá cho con nặng như vậy?
Lời Chúa hôm nay sẽ giúp cho chúng ta hiểu vấn đề này một cách thấu đáo. Vấn đề quan trọng không phải là thánh giá nặng hay nhẹ nhưng là ở thái độ của chúng ta đối với thánh giá. Nếu chúng ta đón nhận công việc với thái độ tự nguyện, vui tươi thì cho dù có nặng nề nhưng nhưng ta cũng cảm thấy nhẹ.
Vì hiểu rằng công việc làm tăng phẩm giá con người, làm cho con người trưởng thành hơn. Chính nhờ lao động mà con người phát huy hết tiềm năng mà Thiên Chúa đã ban.
Lạy Chúa! Xin cho chúng con hiểu rằng thánh giá là cái giá phải trả cho sự nên thánh. Xin cho con đón nhận tất cả nhưng gì Chúa gởi đế với tinh thần tự nguyện, chấp nhận tất cả với thái độ vui tươi, nhờ đó mà mỗi ngày chúng con được lớn lên.
21. Chủ chăn hoàn hảo – AM Trần Bình An
Người ta đã nghe các lời Đavít nói và thuật lại cho vua Sa un. Vua cho gọi Đavít đến. Đavít nói với vua Sa un: “Đừng ai ngã lòng vì nó. Tôi tớ ngài đây sẽ đi chiến đấu với tên Philitinh ấy.” Vua Sa un nói với Đavít: “Con không thể đến với tên Philitinh ấy để chiến đấu với nó, vì con chỉ là một đứa trẻ, còn nó là một chiến binh từ khi còn trẻ.”
Đavít thưa với vua Saun: “Tôi tớ ngài là người chăn chiên dê cho cha. Khi sư tử hay gấu đến tha đi một con chiên trong bầy gia súc, thì con ra đuổi theo nó va giật con chiên khỏi mõm nó. Nó mà chồm lên con, thì con nắm lấy râu nó, đánh cho nó chết. Tôi tớ ngài đã đánh cả sư tử lẫn gấu, thì tên Philitinh không cắt bì này cũng sẽ như một trong các con vật đó, vì nó đã thách thức các hàng ngũ của Thiên Chúa hằng sống.” Đavít nói: “Đức Chúa là Đấng đã giật con khỏi vuốt sư tử và vuốt gấu, chính Người sẽ giật con khỏi tay Philitinh này.” Vua Sa un nói với Đavít: ”Con hãy đi, xin Đức Chúa ở với con!” Vua Sa un lấy y phục của mình mặc cho Đavít, đội mũ chiến bằng đồng lên đầu và mặc áo giáp cho cậu. Đavít đeo gươm của vua ngoài y phục, rồi thử bước đi, vì cậu không quen. Đavít nói với vua Sa un: “Con không thể bước đi với những thứ này được, vì con không quen.” Rồi Đavít bỏ những thứ đó ra. Cậu cầm gậy trong tay, chọn lấy năm hòn đá cuội dưới suối, bỏ vào túi chăn chiên, vào bị của cậu, rồi tay cầm dây phóng đá, cậu tiến về phía tên Philitinh. (1 Sm 17, 31- 40)
Trích đoạn trong sách Samuen thứ nhất phác họa phần nào chân dung mục tử nhân lành. Đavít thuở thiếu thời đã dũng cảm chiến đấu với sư tử và gấu, để bảo vệ đoàn chiên chăn dắt. Nay sẵn sàng thân chinh giết Philitinh, Đavít dám hy sinh mạng sống cứu đoàn chiên của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng của Thánh Gioan hôm nay, Đức Giêsu tuyên xưng là Mục Tử nhân lành với tất cả tình cảm, trách nhiệm và chịu chết để cứu đoàn chiên. “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10, 14)
Đức Giêsu hiểu biết rành mạch từng con chiên trong đoàn chiên đông đảo vô số. Không những biết mặt mũi, vóc dáng, tên tuổi từng con, mà còn thấu hiểu cả tâm tính, đức hạnh để kỹ lưỡng chăm sóc, băng bó, dìu dắt, cứu giúp và hy sinh để chiên sống khỏe mạnh: “Ta đến để chúng được sống và sống dồi dào.” (Ga 10, 10)
Chủ Chiên phục vụ
Dĩ thực vi tiên, được ăn no đã là sung sướng như được ở cõi tiên rồi. Thế gian vẫn quan tâm nhiều đến cái ăn cái mặc, dĩ nhiên đó là nhu cầu chính đáng, nhưng sự lo lắng thái quá sẽ dễ quên đi điều còn vô cùng quan trọng và cấp bách hơn, như Đức Giêsu đã khẳng định với ma quỷ cám dỗ: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4, 4)
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã không nỡ để những ai theo Người chịu mãi cảnh đói khát, một khi đã bỏ mọi sự mà theo Người. Hai lần Người hóa bánh và cá ra nhiều cho hằng ngàn người được ăn no nê. Một lần sau khi Phục Sinh, Người cũng hóa bánh và cá phục vụ các môn đệ được sau đêm chài lưới đói khát, mệt nhọc, vất vả.
Đức Giêsu đã chăm lo đoàn chiên toàn tâm toàn ý với trách nhiệm rất cao, như sách Êdêkien đã ghi sấm ngôn của Đức Chúa: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ.” (Ed 34, 14)
Người ân cần chăm sóc mọi bề, sao cho đoàn chiên luôn ấm no, hạnh phúc: “Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.” (Tv 23,1)
Từ lương thực và nước uống vật chất, hữu hình, Đức Giêsu, Mục Tử Nhân Lành dẫn dắt tín hữu, con chiên đến nước trường sinh: “Ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4, 14) và lương thực đến sự sống đời đời là vâng phục theo Thánh Ý Thiên Chúa: “Lương thực của Thầy là thực hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 14, 34)
Chủ Chiên yêu thương
Mục Tử Nhân Lành chan chứa tình yêu, tận tụy với đoàn chiên: “Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt.” (Is 40, 11)
Với tình yêu nồng nhiệt, Chủ Chiên đích thực không chỉ chăm lo, nuôi nấng, mà còn tận tình chăm sóc, quan tâm đến con đi lạc bầy, đau yếu, bệnh hoạn, để đi tìm về, cứu chữa, dưỡng nuôi, bảo vệ, gìn giữ: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng.” (Ed 34, 16)
Đoàn chiên luôn được Chủ Chăn bảo vệ bình an, yên lành, trước những cơn bão táp cuộc đời hung hăng, dữ tợn, hiểm nguy, ào ạt đe dọa tràn đến: “Dầu qua lũng am u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.” (Tv 23,4)
Mục Tử chân chính không chạy theo số đông, mà quên đi một con chiên đi lạc. Một con chiên lạc đối với Người cũng giá trị không kém chín mươi chín con ở lại: “Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc.” (Mt 18, 12-13)
Với trái tim nhân ái, vị Mục Tử Nhân Lành không muốn bất cứ ai bị hư mất. Nên Người quan tâm chiên đi lạc, chăm sóc chiên ốm yếu, bệnh tật, hoạn nạn, thương tích: “Tôi không đen để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5, 32). Mặc dù, Chủ Chiên nhìn thấu suốt đáy lòng những con chiên giả hình, kiêu ngạo, tham lam, cố chấp, ỷ lại, bất nghĩa, bất tín, bất trung, nhưng Người thương xót, không phạt vạ ngay, mà chỉ ân cần kêu gọi sám hối, ăn năn, cải tà quy chánh, với lòng thương xót để hồi phục và chữa lành.
Chủ Chiên hy sinh
Sấm ngôn của Thiên Chúa qua ngôn sứ Dacaria đã khang định: “Thiên Chúa sẽ cứu thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên.” (Dcr 9, 16) Nay Mục Tử nhân lành đã chu toàn thực hiện lời Thiên Chúa hứa ngàn xưa: "Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn.” (Ga 10, 11)
Thế nhưng muốn sống đời đời, con chiên phải dứt khoát quyết định đi qua cửa Chủ Chiên Nhân Lành: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ.” (Ga 10, 7) Dĩ nhiên, con chiên phải bỏ lại sau lưng những thứ hư ảo, phù phiếm kềnh càng, cả chính bản thân hẹp hòi, ích kỷ, nặng nề, mà cố gắng vác thập giá, trách nhiệm, bổn phận với gia đình, cộng đoàn, tha nhân, mới được cứu rỗi vĩnh cửu.
Hơn nữa Người còn tự nguyện trở nên lương thực cho đoàn chiên được no đủ, mạnh khoẻ, giầu sinh lực, can đảm thẳng tiến trên đường hy vọng: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ." (Ga 6, 24-35)
Tuyệt đỉnh chính là cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Mục Tử Nhân Lành đã giải thoát đoàn chiên khỏi sự chết, mà dẫn vào cõi sống viên mãn muôn đời. Người chính là Chủ Chăn hoàn hảo độc nhất vô song, Người đích thực là Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên.
“Chúa không sinh con để làm đàn cừu, đàn vịt, nhưng để lãnh đạo môi trường của con. Lãnh đạo là thúc đẩy, là lôi cuốn.” (Đường Hy Vọng, số 214)
Lạy Chúa Chiên Lành, Mục Tử chí nhân chí ái, xin luôn mãi kiếm tìm chúng con trở về đoàn tụ với đoàn chiên, mỗi khi chúng con đi lạc, ham vui đi hoang. Xin dạy bảo chúng con noi gương Người, cũng trở nên chủ chiên tốt lành từ gia đình, cộng đoàn, đến xã hội, hầu dẫn dắt mọi người về với Chúa.
Lạy Mẹ Maria nhân từ, Hiền Mẫu của chúng con, xin giúp chúng con biết yêu thương, phục vụ và hy sinh, hầu dẫn dắt mọi người về đường ngay nẻo chính, hiệp nhất trong Đoàn Chiên duy nhất của Chúa Giêsu. Amen.
22. Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Chăn chiên là một nghề rất thịnh hành ở Palestina từ thời Cựu Ước cho tới thời Tân Ước. Người ta nuôi chiên vì nó mang lại nhiều nguồn lợi như sữa, thịt, lông... nên người Mục tử là hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Israel.
Trong chăn nuôi vai trò và nhiệm vụ của mục tử rất quan trọng và khó khăn: vì không phải chỉ nuôi vài ba con chiên mà cả đàn lên tới mấy trăm hoặc mấy ngàn con chiên, muốn nuôi tốt một đàn chiên đông đúc như thế khong phải chỉ cần đi cắt một mớ cỏ đem về là đủ, mà phải đi tìm những đồng cỏ lớn, và phải tiên liệu khi đàn chiên ăn hết đồng cỏ này thì phải dẫn đến đồng cỏ khác ngay; phải chọn những chỗ vừa có cỏ xanh vừa có bóng mát vừa có nước uống, ngoài ra còn phải bảo vệ chiên khỏi những nguy hiểm thường xuyên đe doạ như trộm cướp và thú dữ.
Có khi phải chiến đấu đến bị thương hoặc chết để bảo vệ đàn chiên, phải vất vả đi tìm những con chiên lạc. Người mục tử gắng bó mật thiết với đàn chiên nên phát sinh những tình cảm giữa chủ chăn và đàn chiên: người chăn chiên biết rõ từng con chiên với những đặc tính của nó, các con chiên cũng biết ai là chủ chan của mình. Các chủ chăn thường đặt tên cho những con chiên làm "trưởng", ông chỉ cần gọi tên những con này, khi chúng đi theo chủ thì các con chiên khác cũng đi theo.
Ban đêm các mục tử thường nhốt chiên lại chung với nhau trên một khoảng đất trống có rào xung quanh, đến sáng các mục tử vào gọi tên các con chiên "tổ trưởng", chúng đi ra các chiên khác cùng đàn sẽ đi theo. Khi đếm đủ số, mục tử đi đầu dẫn đoàn chiên của mình ra đồng cỏ. Những con chiên không bao giờ nghe tiếng người lạ, nhưng sẽ bỏ chạy tán loạn.
Kinh Thánh thường dùng hình ảnh Mục tử hay chủ chăn để áp dụng cho những nhân vật lãnh đạo quan trọng trong Israel như Môisen, các Vua, các thẩm phán, các ngôn sứ. Đặc biệt nhất chính Thiên Chúa tự mô tả mình là mục tử (Tv 23, 80) và sau cùng Đấng Messia cũng được mô tả là Mục tử.
Quả thật, Chúa Giêsu là mục tử nhân lành, mục tử tốt, mục tử chăm sóc từng con chiên một, nhất là những con chiên yếu kém. Chúa Giêsu nhiều lần đã rơi lệ xót thương dân Do thái, vì họ như đàn chiên bơ vơ không người chăn dắt. Chúa giảng dạy, chỉ cho họ đường đi để có được hạnh phúc thật sự. Chúa cho họ ăn uống no nê trong những lần hoá bánh ra nhiều và dân chúng đã muốn tôn Ngài lên làm vua.
Chúa yêu thương những con chiên tật nguyền và chữa cho họ được lành bệnh chỉ nhờ vào lòng tin của họ. Đó là người mù từ thuở mới sinh, những người bị bại liệt, bị phong hủi, người đàn bà bị băng huyết, tất cả đều được Chúa Giêsu là mục tử chăm sóc chữa lành.
Những con chiên bị chết được Chúa cứu sống cho lành mạnh: đứa con gái ông Gairô, đứa con trai bà góa thành Naim, anh chàng Lagiarô bạn của Chúa, Chúa cứu chữa và thương xót những con chiên bị bệnh tật tinh thần như người phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tan, Chúa đến để cho chiên được sống va sống dồi dào.
Không những là chăm lo, cứu chữa mà Chúa còn hiến mạng sống vì đàn chiên của mình "không có tình yêu nào cao quý hơn là chết cho người mình yêu."
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu vẫn là mục tử tốt đối với chúng ta. Chúa không ngừng ban ơn chăm sóc chúng ta qua các Bí tích. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa không ngừng bằng đời sống thờ phượng Chúa hết lòng và yêu thương anh chị em chung quanh như Lời Chúa dạy.
23. Chủ chăn nhân lành – AM Trần Bình An
Trong đàn, thường có chiên chưa ngoan, nghịch ngợm, hay dại dột ham vui, mải mê đuổi theo những cánh bướm lả lướt, sặc sỡ, quyến rũ, hoặc thích lân la tìm kiếm hoa thơm cỏ lạ. Rồi lang thang vui chân lạc bầy, vô tình sa vào vòng vây sói dữ. Chủ Chăn Nhân Lành liền vội vã chạy đến che chở, giải thoát, cất tiếng an ủi, vỗ về đừng sợ, ngọt ngào gọi chiên trở về. Chẳng hề chần chừ, phân vân, bối rối, hay giả đui giả điếc, giả dai làm ngây, lưỡng lự lên tiếng hay không lên tiếng?
1. Chủ Chăn luôn âu yếm gọi tên và chăm sóc từng con chiên.
Người không thích chạy theo đám đông, không hoa mắt với những dãy số dài ngoằng, không hề mặn mà chạy theo thành tích tập hợp số đông xô bồ, mà mỗi cá thể chỉ được hiển thị bằng một con số lạnh lùng. Trái lại, Người quan tâm đến từng thân phận nhỏ nhoi, hèn mọn, chăm lo, gần gũi và thân mật gọi tên từng con, rổi dẫn chúng ra(Ga 10, 3)
Thậm chí, khi thấy một chiên bị lạc, Người không nỡ bỏ rơi, mà vội vàng tìm về cho bằng được. “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó. (Lc 15, 4-6)
2. Chủ Chăn luôn bảo vệ và dưỡng nuôi chiên
Người luôn yêu thương, chu đáo bảo vệ và dẫn dắt chiên khỏi lạc lối, khỏi nguy hiểm đồi cao, vực thẳm, khỏi lang sói hung tàn, khỏi dã thú đe dọa, khỏi cam bẫy ác nhân thù địch. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau. (Ga 10, 4) Chiên muốn được an toàn, khỏe mạnh, hồi sinh, phải cậy nhờ Người nuôi dưỡng, bằng những thảo dược thần linh. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. (Ga 10, 9)
3. Chủ Chăn luôn luôn thấu hiểu và chiên luôn trông cậy Chủ.
Người luôn đồng hành, đồng cảm với chiên. Biết rõ những nhu cầu cấp bách của chiên, biết rành rẽ sức khỏe, sinh lực, lẫn năng lực, đồng thời biết cả những nhược điểm, yếu đuối, đam mê, dục vọng của chiên, để chăm sóc, giúp đỡ, vỗ về, hay bắt mạch kê toa chữa chạy. Ngược lại, nếu muốn ton tại, sống còn, chiên cũng chỉ biết cậy trông vào Chủ Chăn Nhân Lành.
Chiên xa lánh chủ chăn giả mạo, kẻ chăn thuê, hoặc kẻ lạ nói tiếng lạ, bẻo mép, xảo ngôn, ngụy biện, nham hiểm đầu độc chiên bằng những tà thuyet, tà đạo phản nghịch với Tin Mừng. Vì thế, ngôn sứ Êdêkien đã phải nhắc lại cơn cuồng nộ của Thiên Chúa:
Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Khốn cho các mục tử Israel, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không chăn dắt đàn chiên sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt các người làm thịt; nhưng các ngươi lại không lo chăn dắt đàn chiên. Chiên đau yếu các người không làm cho mạnh. Chiên bệnh tật, các ngươi khong chữa cho lành. Chiên bị thương các ngươi không băng bó. Chiên đi lạc các ngươi không đưa về. Chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi thú dữ…
Vì thế, hỡi các mục tử, hãy nghe lời Đức Chúa. Ta lấy mạng sống Ta mà thề.- sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng-, bởi chiên của Ta bị cướp phá và biến thành mồi cho mọi dã thú vì thiếu mục tử, bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình, mà không chăn dắt đàn chiên cũa Ta, nên các mục tử hãy nghe Lời Đức Chúa, Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta; Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên…Ta sẽ giải thoát các chiên khỏi miệng chúng, để chiên Ta không còn làm mồi cho chúng nữa.(Ed 34, 2-10)
Chiên hiểu tấm lòng từ bi nhân ái của Chủ Chăn, cũng như đặt hết niềm trông cậy, phó thác vào Chủ Chăn. Chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì không nhận biết tiếng người lạ. (Ga 10, 5) Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy.( Ga 10, 10) Người làm thuê, vì không phải là Mục Tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, không thiết gì đến chiên.(Ga 10, 12-13) Tôi biết Chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi.(Ga 10, 14)
4. Chủ Chăn luôn tìm các chiên khác đem về chung một đàn.
Người không chỉ hài lòng với chiên ngoan đang chăn dắt, mà còn sẵn lòng tìm kiếm những chiên khác còn bơ vơ, lạc loài, đem về chung đàn. Sứ vụ muôn thuở của Chủ Chăn Nhân Lành, là quy tụ lại muôn chiên tứ phương, hầu chúng đều được no thỏa trong đồng cỏ xanh tươi, được sống viên mãn. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ ghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đòan chiên và một mục tử. (Ga 10, 16)
5. Chủ Chăn hy sinh để cứu rỗi chiên
Người chẳng tiếc mạng sống, mà sẵn lòng chịu hy sinh, chịu khổ nạn, chịu chết đi, để cứu vớt chiên được sống, thoát khỏi kiếp trầm luân vĩnh viễn. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. (Ga 10, 10) Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống vì đoàn chiên. Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. (Ga 10, 15)
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa gọi, mỗi khi con lỡ bước lạc bầy, để con tỉnh ngộ, nhận biết và đi theo Chúa luôn mãi.
Lạy Mẹ xin cho nhiều người mở lòng đón nhận tiếng Chúa mời gọi, để dâng hiến phục vụ tích cực Nước Chúa, cũng như nhắc nhở con luôn cộng tác vào việc chăm sóc Ơn Gọi. Amen.
24. Chúa Nhật 4 Phục Sinh
Chúa nhật thứ tư Phục sinh bao giờ cũng là Chúa nhật Chúa Chiên Lành.
Có bao giờ anh chị em và các bạn tự dặt cho mình câu hỏi này: Bạn là ai? Tôi là ai? Tôi từ đâu đến? Tôi sẽ đi về đâu? Cuộc sống này có ý nghĩa gì?.....Có lẽ khi đặt câu hỏi như thế, chúng ta sẽ cho rằng đấy là vấn đề xa lạ, trừu tượng, không ăn nhập gì đến cuộc sống hiện tại của tôi. Không xa lạ đâu. Có chăng là vì chúng ta quen sống thực dụng quá, cho nên chúng ta không để y đến thôi. Nhưng đấy lại là một câu hỏi rất căn bản. Hay nói một cách khác Chúa Giêsu là ai đối với tôi?
Và Ngài đã trả lời chúng ta trong Chúa Nhật 4 Phục Sinh nầy: "Ta là Mục tử tốt lành. Ta biết các chiên ta " ( x.Yn 10,14). Nhưng cái biết của Chúa Giesu không phải chỉ là cái biết thuần tuý, mà là cái biết của con tim và bằng con tim. Khi Chúa Giêsu nói rằng: " Tôi biết chiên của tôi ", thì đấy không phải chỉ là cái biết thuần tuý của lý trí mà là cái biết của tình yêu. Cái biết của một người không ngại chung chạ, gần gũi với những kẻ tội lỗi và những kẻ bị loại trừ ra khỏi xã hội để cảm thông, chia sẻ và cứu chữa họ. Cái biết của một ngươi cha đang đợi chờ dứa con đi hoang trở về. Cái biết của một người không cầm được nước mắt khi đứng trước cái chết của đứa con một bà goá thành Naim. Cái biết của một vì Thiên Chúa không ngại để quỳ xuống rửa chân cho đám học trò của mình như một tên đầy tớ vậy. Cái biết của một người chấp nhận hy sinh mạng sống mình vì người khác và cho người khác được sống... Chính vì thế mà Ngài nói thêm: "Ta đến để cho chiên được sống và sống doi dào." (Ga 10,10)
Chúa Giêsu là đấng duy nhất đem lại cho ta câu trả lời trọn vẹn nhất.
Như vậy, anh chị em và các bạn hỏi tôi, làm sao tôi có thể cảm nhận được chức năng Mục tử của Chúa Giêsu đây, khi mà cuộc sống tôi có biết bao nhiêu là khó khăn từ vật chất cho đến tinh thần? Làm sao chức năng mục tử của Chúa Giêsu được tiếp nối trong lịch sử nhân loại và trong mọi hoàn cảnh cửa cuộc sống con người. Chúa Giêsu đã nghĩ đến điều đó từ lâu. Cho nên Ngài đã để lại trong Hội Thánh những con người có khả năng chia sẻ và tiếp tục sứ mạng mục tử ấy.
Đó là các Giám mục, các Linh mục. Đúng như thế. Các Ngài là những người được mời gọi sống theo tinh thần của Vị Mục Tử nhân lành để dẫn dắt đàn chiên Chúa hôm nay.
Sống tinh thần của Vị Mục Tử nhân lành còn là tất cả những ai có trách nhiệm với cộng đoàn của mình: Cha mẹ không phải là mục tử cho con cái mình sao? Các giáo viên lại chẳng phải là những mục tử cho học trò của mình à? Và trong mối hiệp thông của Hội Thánh, của con người, chúng lại không có trách nhiệm với người bên cạnh mình hay sao. Nói cách khác, chúng ta lại chang phải là mục tử của họ hay sao? Một lời thăm hỏi, một lời dộng viên khích lệ, một ánh mắt cảm thông, một con tim biết rung động và thổn thức, một hành vi chia sẻ, một cử chỉ bái ái yêu thương... Tất cả chẳng là gì so với người khác, nhưng đấy lại là con tim, ánh mắt, việc làm cho một thế giới đang thiếu vắng tình yêu và một xã hội đang đói tình người
Thưa anh chị em và các bạn, Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa nhật Chúa Chiên nhân lành, nhân dịp xin anh chị em hãy chiêm ngắm lại chân dung của vị mục tử nhân lành Giêsu để chúng ta biến đổi cái nhìn và cách sống sao cho cuộc đời này được đẹp hơn cho mình và cho tha nhân.
25. Mục tử tốt lành & Kẻ làm thuê
(Suy niệm của John W. Martens - Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
“Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên” (Ga 10,12-13).
Trong 4 Ezra 5,19, một bản văn khải huyền Do thái vào thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên, Ezra bị chất vấn bởi “Phaltiel, một thủ lãnh của dân” về việc ong có biết rằng “dân Ít-ra-en đã được ủy thác cho ông trong miền đất lưu đày không? Vậy hãy đứng lên và ăn chút bánh, đừng bỏ rơi chúng tôi như một người mục tử bỏ rơi đàn chiên trước sự tấn công của đàn sói dữ tợn”. Hình ảnh ở đây tương tự với hình ảnh người mục tử mà Tin mừng Gio-an đã viết, trong đó Đức Giê-su nói: “Ta là Mục tử tốt lành. Người mục tử tốt lành hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên”.
Trong tác phẩm “Hãy để các trẻ em đến với Ta”, Cornelia Horn và tôi đã viết “Trình thuật về Người Mục tử tốt lành trong Tin mừng Gioan chương 10 đã phác họa cho chúng ta thấy một dung mạo thần học về Tình yêu của Đức Giê-su đối với dân của Ngài, thế nhưng lối ám chỉ về Tình yêu của Đức Giê-su lại được lấy từ những gì rất quen thuộc trong cuộc sống. Đức Giê-su không phải là một “kẻ làm thuê” (misthotos), nhưng là một người biết chăm sóc đàn chiên, một người dám hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên (Ga 10,11-15). Trái lại, những kẻ làm thuê thì sẽ làm gì khi sói dữ đến tấn công? Nó sẽ chạy trốn”.
Những kẻ làm thuê được Đức Giê-su xác định rõ ràng trong lối ám dụ này. Vậy nếu Đức Giê-su là Mục Tử tốt lành, vậy ai là kẻ làm thuê? Đó là những kẻ mà trong 4 Ezra mô tả, những nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái đã không chăm lo cho đàn chiên như một người mục tử tốt lành. Một khi dùng thứ hình ảnh thực te trong đời sống nông nghiệp và chăn nuôi rất quen thuộc với dân chúng, hẳn dân chúng sẽ hiểu ngay lập tức, và lên án những kẻ chăn thuê.
Đức Giê-su chăm sóc, lo lắng cho dân chúng là đàn chiên, vì họ là chiên của Ngai và Ngài sẽ bảo vệ họ. Chuyện này thật hiển nhiên, tuy thế hình ảnh người mục tử này xem ra có vẻ kỳ lạ, khi Đức Giê-su nói: “Và Tôi sẽ hiến mạng sống mình vì đàn chiên”. Những con chiên có xứng đáng với việc này không? Đàn chiên có đáng để người mục tử hy sinh mạng sống của mình không? Nếu người mục tử chết vì đàn chiên, thì ai sẽ bảo vệ chúng? Hình ảnh này xem ra có sự phi lý nào đó trong việc Đức Giê-su hy sinh mạng sống vì nhan loại. Thật ra, sự hy sinh này chỉ thực sự có nghĩa nếu như nhờ đó mà đàn chiên sẽ được bảo vệ tốt hơn nữa.
Đức Giê-su dùng chính trường hợp này để nói về cái chết của Ngài, một cái chết sẽ “đưa về những chiên khác không thuộc về ràn này… Như thế, sẽ chỉ có một đàn chiên và một mục tử.” Đức Giê-su nói về việc hy sinh mạng sống của Ngài, nhưng “để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạmg sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.” Như vậy thoạt đầu, việc chết cho đàn chiên dường như để nhằm tới mục đích là chăm sóc đàn chien, thế nhưng đó cũng chính là lý do để cho đàn chiên được phát triển và lan rộng như ngày nay ở trên khắp thế giới.
Khi “các thủ lãnh trong dân và các kỳ mục” chất vấn Phê-rô để xem ông đã làm thế nào khiến người què được chữa lành; Phê-rô trả lời rằng chuyện đó là “do danh Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng mà các ông đã đóng đinh vào thập giá, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy từ cõi chết. Chính Đức Giê-su là ‘viên đá bị các ong là thợ xây loại bỏ, nhưng lại trở thành đá góc tường’. Ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,8-12).
Vị mục tử tốt lành không chỉ cứu đàn chiên qua việc hy sinh mạng sống mình cho chúng, nhưng có khả năng làm cho chúng không còn là những con chiên nữa, mà “tất cả chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thật sự chúng ta là con Thiên Chúa… Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3,1-2). Tất cả chúng ta được cứu độ và trở thành con cái Thiên Chúa, nhưng mục tiêu tối hậu, một điều chúng ta không tưởng tượng ra được, là chúng ta trở nên giống như vị Mục Tử Tốt Lành.
Suy nghĩ: Trở thành chiên trong đàn chiên của Đức Giê-su có nghĩa là thế nào? Trở thành con cái Thiên Chúa có nghĩa ra sao?
26. Vị mục tử nhân lành
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Nhiều người đã nghe Đức Giêsu giảng và làm phép lạ. Họ chỉ hiểu một phần nào giáo lý của Ngài nhưng chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Câu hỏi “Ngài là ai” phải được đặt ra. Tuy nghe Đức Giêsu giảng và làm phép lạ như vậy, nhưng họ vẫn nghi ngờ về thân thế, uy quyền và sứ mạng của Ngài.
Để nói lên sứ mạng của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về người mục tử tốt lành. Người mục tử biết lo cho con chiên, tha thiết với đàn chiên, hiệp thông với đàn chiên, quên bản thân mình và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên. Đức Giêsu tự nhận lấy danh hiệu ấy cho mình khi Ngài nói với họ:”Ta là Mục tử nhân lành”(Ga 10,14). Chúa Giêsu hiện diện giữa chúng ta như mục tử ở giữa đàn chiên. Sự hiện diện của Ngài không phải là sự hiện diện của một người lãnh đạo đầy tham vọng, cũng không phải là sự hiện diện của một người cầm đầu mong được tung hô, nhưng là sự hiện diện của một người mục tử sống chỉ vì đoàn chiên và chỉ lo cho đoàn chiên được nuôi sống và được sống dồi dào.
Chúa Giêsu là mục tử nhân lành tối cao, Ngài lo cho mọi con chiên, nhưng Ngài cũng muốn dùng con người làm mục tử thay mặt Ngài mà săn sóc cho đàn chiên như khi Ngài nói với thánh Phêrô: ”Hãy chăm sóc các chiên của Thầy”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Cv 4,8-12
Sau khi Phêrô chữa cho người què từ mới sinh được lành bệnh, ngài cùng với ông Gioan bị điệu đến Thượng hội đồng Do thái về việc chữa lành người què và vì việc ấy đã phạm đến cấm kỵ không cho phép người tàn tật vào đền thờ.
Trước Thượng hội đồng, Phêrô xác nhận người què ấy được khỏi không phải do quyền phép gì riêng của ông mà chỉ nhờ danh Đức Giêsu, Đấng mà họ đã giết chết nhưng Thiên Chúa đã cho sống lại.
Lợi dụng dịp này, Phêrô giảng về Đức Giêsu: Ngài là viên đá bị những người thợ xây loại bỏ, nhưng Thiên Chúa dùng Ngài làm viên đá góc. Trên trần gian này khó có một Đấng cứu độ nào khác ngoài Đức Giêsu Kitô, nhờ danh Ngài mà mọi người được ơn cứu độ.
+ Bài đọc 2: 1Ga 3,1-2
Thánh Gioan nói đến mức độ vô cùng lớn lao của tình yêu Thiên Chúa dành cho tín hữu. Ngài nói về tình yêu tuyệt vời mà Thiên Chúa đã bầy tỏ cho chúng ta, bằng cách làm cho chúng ta trở nên những con cái của Ngài. Tình trạng tương lai của chúng ta sẽ được trở nên giống như Đức Giêsu vinh quang. Bài học này mời gọi chúng ta hãy vui lên trong tình trạng của mình, với tư cách là những dưỡng tử của Thiên Chúa.
+ Bài Tin mừng: Ga 10,11-18
Trong những người nghe Đức Giêsu giảng, có nhiều thính giả là người chăn chiên. Đức Giêsu muốn giới thiệu mình là mục tử nhân lành đối với đàn chiên. Ngài muốn so sánh và phân tích mục tử tốt lành và người chăn chiên thuê.
* Người mục tử tốt lành có những đặc điểm này:
a) Thí mạng sống để bảo vệ đàn chiên.
b) Sống thông hiệp với đàn chiên: biết các chiên từng con một, và được các chiên biết.
c) Lo cho đàn chiên được no đủ và tăng thêm, lo tìm chiên lạc và đưa các chiên khác về cùng một đàn và cùng một chủ chiên.
* Kẻ chăn chiên thuê thì không tha thiết gì với đàn chiên, gặp nguy hiểm thì bỏ chạy, họ chỉ biết lo cho bản thân mình, để cho đàn chiên tan tác.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Ta là Mục tử nhân lành
I. MỤC TỬ TRONG THÁNH KINH
1. Trong Cựu ước.
Ngày xưa, đề tài người mục tử xả thân cho đàn chiên là nguồn hứng khởi cho các văn sĩ Thánh kinh, khiến họ mô tả Thiên Chúa như một Đấng Mục tử. Thiên Chúa đã xả thân cho Israel không khác gì người mục tử, vì thế tác giả Thánh vịnh đã hát lên:
Đức Giavê là Mục tử tôi,
Tôi không còn thiếu gì.
Dù phải đi qua thung lũng tối đen
Tôi cũng không hề lo sợ.
(Tv 23,1-4)
Đức Giavê là Chúa chăn dắt Israel. Đây là một hình ảnh được thành hình do kinh nghiệm đời sống du mục từ thời tổ phụ của Israel. Hình ảnh người chăn chiên đưa ra hai liên lạc giữa Giavê và Israel: Ngài vừa là Thủ lãnh của Israel, nhưng đồng thời lại là Bạn. Ngài có đủ uy quyền với Israel, và đủ quyền lực để bảo vệ Israel, nhưng đồng thời Ngài đối xử với Israel một cách hết sức nhân từ và tế nhị. Chính Ngài lo liệu việc chăm sóc đó (x. Tv 23).
Từ đó những nhà lãnh đạo tôn giáo của Israel thay mặt Chúa ở trần gian, cũng được ví như các vị mục tử. Nhưng tiếc thay, có một số thủ lãnh thay vì lo cho đàn chiên, lại tác hại chúng, lợi dụng chúng cho mục đích riêng tư, làm cho chúng tan tác đáng thương hại. Khi điều này xẩy ra, tiên tri Ézéchiel đã nhân danh Chuá nói lên:
“Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi ! Các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến bầy chiên... Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn, băng bó những con bị thương tích, dẫn về những con lệch đường, hoặc tìm kiếm những con bị lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, vị Chủ Tể tối cao, Ta tuyên bố rằng... Ta sẽ tách bầy chiên ra khỏi các ngươi... Ta sẽ giao chúng cho một vị vua giống như Đavít tôi tớ Ta để làm mục tử của chúng và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc chúng”(Ez,2-4,9-10,23).
2. Trong Tân ước
Đứng trước bối cảnh này, Đức Giêsu đã thổ lộ tâm tình khi Ngài nói:”Ta thương dân này, vì chúng như đàn chiên không người chăn dắt”(Mt 9,36; Mc 6,34). Vậy chúng ta phải đọc bài Tin mừng hôm nay trong bối cảnh này để hiểu lời tuyên bố của Đức Giêsu:”Ta là Mục tử nhân lành, sẵn sàng liều mạng vì đàn chiên... Chúng sẽ nghe tiếng Ta và chúng sẽ trở nên một đàn chiên dưới quyền một chủ chiên”.
Nói cách khác, Đức Giêsu chính là nhân vật mà tiên tri Ezéchiel tiên báo. Giống như Đavít, người mục tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con yếu đuối bơ vơ, chữa lành con nào bệnh hoạn, và đi tìm những con chiên lầm đường lạc lối. Nhưng Đavít chỉ là hình ảnh một người chăn chiên khác hoàn hảo hơn. Đó là Đavít mới (Gr 3,15; Ez 34,23t). Người chăn chiên hoàn hảo Thiên Chúa sai đến là Đức Giêsu Kitô.
II. ĐỨC GIÊSU, VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH
Người Do thái thời Đức Giêsu thường có thái độ nghi ngờ về thân thế, việc làm, uy quyền và sứ mạng của Đức Giêsu. Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu dùng dụ ngôn về người chăn chiên nhân lành để họ thấy rõ uy quyền đích thực của Ngài. Ngài khẳng định:”Ta là Mục tử nhân lành”
Ta thấy có sự khác biệt giữa người chủ chăn và người chăn chiên thuê:
1. Người chăn chiên thuê:
Người chăn chiên thuê không phải là chủ đàn chiên nên không mấy tha thiết với đàn chiên, họ không dám hy sinh bảo vệ đàn chiên khi gặp nguy hiểm. Vì không có tình yêu tha thiết với đàn chiên nên họ cũng không sẵn sàng chấp nhận những khó khăn, vất vả, họ trốn tránh trách nhiệm một cách dễ dàng.
Đức Giêsu gọi những nhà lãnh đạo tôn giáo Do thái là những kẻ chăn thuê, họ chỉ lo lắng đến các tư lợi do chức vụ đem đến, chứ không tha thiết gì đến đàn chiên, vì vậy khi gặp nguy hiểm là họ chạy trốn để đàn chiên tản mát.
2. Người chủ chăn
Trái lại, người chủ chăn thương yêu đàn chiên, tha thiết với đàn chiên, không nghĩ đến ích lợi cho mình, sẵn sàng hy sinh cho đàn chiên bất chấp nguy hiểm. Người chủ chăn có ba đặc điểm sau đây:
a) Hiệp thông với đàn chiên:
Người chủ chiên biết các chiên, biết từng con một, và ngược lại chiên biết chủ. Đây là hành động hỗ tương. Biết một cách riêng biệt, từng con chiên một với các hoàn cảnh, nhu cầu, khát vọng của con chiên. Con chiên biết nhận ra tiếng của chủ chăn. Thật là những người bạn tri âm. Như thế sự biết hỗ tương này sẽ đưa đến một cuộc sống thân mật giữa hai bên. Đúng thế, chữ “Biết” của Gioan, không những bao hàm nghĩa trí tuệ, nhưng còn là sự hiệp thông cuộc sống dựa trên tình yêu và lý trí. Sự thông hiệp này đã có nơi Chúa Cha và Chúa Con. Đức Giêsu cũng sánh ví sự hiệp thông như thế giữa Ngài và các con chiên.
Truyện: Con mắt của vị hoàng đế
Đại tướng Marbot, trong một tập ký sự có kể lại: một hôm khi còn là thiếu úy, vua Napoléon sai ông làm một việc cực kỳ nguy hiểm. Đó là giữa đêm khuya, luồn qua bọn lính tuần tiễu đối phương, bắt một người lính Áo đứng canh bên kia bờ sông Danube, tra khảo để xem tình thế quân địch. Sau bao nhiêu cố gắng không thể tưởng tượng được, toán quân của thiếu úy vượt qua được khúc sống và bắt được ba người lính Áo. Sau khi đã hoàn thành công tác, họ đẩy thuyền ra xa, chèo về. Bỗng giòng nước cuốn mạnh đẩy một gốc cây lớn xô mạnh vào thuyền. Tiếng động đó báo hiệu cho bọn lính tuần tiễu Áo. Họ vùng lên bắn xối xả.
Trong cơn nguy biến cùng cực ấy, viên thiếu úy bỗng nhìn thấy một ánh lửa toả ra từ sườn núi chỗ đóng quân bên kia bờ. Viên thiếu úy đã hiểu rằng Napoléon đã theo dõi cuộc xô xát và đang chăm chú nhìn từ cửa sổ của ông.
Đôi mắt phượng hoàng của Napoléon đã xoá tan bóng tối để gửi đến cho những người lính trẻ sự cổ võ, khuyến khích. Viên thiếu úy có cảm tưởng như nhà vua đã quên hết cả một đạo binh để chỉ nhìn về phía anh. Sự chăm chú theo dõi của nhà vua đã đem lại cho những người lính trẻ sự phấn khởi để giúp họ vượt qua được khó khăn và trở về an toàn.
Như người Mục tử nhân lành, Chúa cũng đã chăm chú theo dõi, và nhìn chúng ta như thể chỉ có mỗi người chúng ta là đáng được chú ý. Thiên Chúa chăm sóc chúng ta như chăm sóc một đàn chiên trong đó mỗi con vật chỉ là một con số. Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu biệt loại. Người gọi tên từng người trong chúng ta. Ngài đối xử với chúng ta như thể chỉ có ta là người duy nhất hiện hữu trên trần gian này.
(Cử hành Phụng vụ CN và Lễ trọng, tr 136)
b) Qui tụ và hợp nhất đàn chiên
Người chủ chăn mở đường tìm lối cho những con chiên lạc trở về một đàn vì có những con chiên lầm đường lạc lối. Ngoài ra, còn muốn thu thập các con chiên khác qui tụ lại trong đàn chiên này là dân Israel, ám chỉ Giáo hội sau này, nói lên tính cách phổ quát của Giáo hội. Biểu tượng người chăn chiên nhân lành là một dịp để Chúa quảng diễn vai trò của Ngài hướng dẫn cả thế giới:”Ta còn những con chiên khác không thuộc về đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn... và sẽ có một đàn chiên và một chủ chiên”. Tất cả mọi người là con chiên của Chúa, chỉ có một Thiên Chúa độc nhất và một Giáo hội duy nhất.
Truyện: Pho tượng Chúa chiên lành
Pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương La mã là pho tượng Chúa chiên lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới pho tượng, có ghi câu của Abercies vào cuối thế kỷ II rằng:”Ta là môn đệ của một Mục tử thánh thiện đã dẫn đàn chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên sườn núi và dưới đồng bằng, vị mục tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi nơi”.
Chúa Kitô chính là người Mục tử nhìn xa thấy rộng ấy. Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên, bao trùm cả thế giới.. Đàn chiên ấy, ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa.
(Hồng Phúc, Suy niệm Lời Chúa, năm B, tr 70-71)
c) Thí mạng để bảo vệ đàn chiên.
Đoạn Kinh thánh này vạch ra nét tương phản giữa người chăn tốt và kẻ chăn xấu, người chăn trung thành và kẻ chăn bất trung. Người chăn ở Palestine phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về bầy chiên, nếu có sự gì xẩy ra cho chiên, người ấy phải trưng bầy bằng cớ để chứng minh mình không có lỗi. Luật pháp qui định: ”Nếu con vật bị thú rừng xé chết, người lãnh giữ phải đem nó ra làm chứng”(Xh 22,12). Ở đây muốn nói la kẻ chăn phải mang về một bằng cớ nào đó, để chứng minh rằng chiên ấy đã chết, và anh không thể ngăn chặn được cái chết ấy.
Với người chăn, liều mạng để bảo vệ bầy chiên là điều tự nhiên. Lắm khi họ còn phải làm nhiều điều hơn thế nữa để cứu chiên.
Truyện: Liều mạng cứu chiên
Trong quyển The land and the Book, Thomas Thompson có ghi lại câu chuyện bi đát như sau: Một ngày nọ có chàng mục đồng trẻ tuổi dẫn đàn súc vật đi về vùng lân cận ngọn núi Thabor. Bỗng có ba tên cướp đường người Ả rập xuất hiện. Chàng thanh niên biết rõ chàng sẽ gánh chịu những hậu quả khôn lường, thế nhưng chàng đã không bỏ trốn. Chàng kiên cường chiến đấu để giữ cho bầy súc vật của chàng khỏi rơi vào tay lũ thổ phỉ. Đoạn cuối được kết thúc bằng cái chết liều mạng của chàng thanh niên cho đàn cừu của chàng.
III. KITÔ HỮU CŨNG LÀ MỤC TỬ
1. Sứ vụ của Đức Giáo hoàng
Đức Giêsu đã trao phó trách nhiệm coi sóc đàn chiên của Chúa khi Chúa nói với ông Phêrô tới ba lần:”Hãy chăm sóc chiên của Thầy”(Ga 21,15-17). Và sau khi Chúa về trời, thánh Phêrô trở nên vị lãnh tụ tối cao trong Giáo hội, vị Giáo hoàng đầu tiên đặt ngai tòa tại Rôma, các tông đồ và mọi tín hữu phải qui phục quyền hướng dẫn của Ngài. Giáo hoàng là vị đại diện Thiên Chúa ở trần gian.
Truyện: Quo vadis?
Dưới thời bạo chúa Néron bắt đạo. Rôma ngập tràn máu lửa, biết bao nhiêu tín hữu đã chết dưới tay ông bạo chúa điên loạn, bạo tàn.
Giáo hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục hướng dẫn đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin? Thầy đã chẳng khuyên khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi:
- Quo vadis, Domine? Thưa Thầy, Thầy đi đâu?
Chúa Giêsu trả lời:
- Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.
Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lệ đoàn chiên.
2. Sứ vụ các Giám mục, Linh mục
Theo kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa, một số ít người trong dân Chúa được gọi, được chọn để đóng vai người mục tử của cộng đoàn. Đó là các Giám mục. Linh mục tức các thừa tác viên có chức thánh. Công việc được giao cho các vị, chính là việc chăn dắt, chăm lo cho đoàn chiên của Thiên Chúa. Tác vụ của các vị là làm sao cho đoàn chiên chẳng những được an toàn mà còn được ăn uống no nê, béo tốt. Trách nhiệm ấy thật cao cả nhưng cũng thật khó khăn và nặng nề. Cao cả vì các vị phải hiện-tại-hoá tấm lòng và cách sống yêu thương và hy sinh xả kỷ của Chúa Giêsu và của Thiên Chúa đối với cộng đồng anh chị em được giao phó cho các vị. Khó khăn và nặng nề vì các vị vẫn là những con người phàm trần với nhiều yếu đuối và đam mê như mọi người khác.
Nhìn vào thực tế, một thực tế không thể chối cãi được và cũng rất bình thường, chúng ta thấy các vị chủ chăn có một vai trò quan trọng trong đời sống thiêng liêng của một cộng đoàn. Nhìn vào thực tế chúng ta cũng thấy rõ là không phải tất cả các vị chủ chăn đều có được tấm lòng yêu thương và cách sống hy sinh quên mình vì đoàn chiên. Vẫn còn đó, những ích kỷ, nhưng vụ lợi, những hưởng thụ không chính đáng ! Vẫn còn đó, những lạm dụng danh nghĩa, những tự tôn tự đại ! Vẫn còn đó những ngại hy sinh, những cách phục vụ nửa chừng nơi các vị chủ chăn của chúng ta.
Nhưng cũng không thiếu gì những vị mục tử hy sinh vì đàn chiên, những gương lành sáng chói còn ghi trong sử sách. Một Gioan Vianney đã tô điểm sáng chói cho khuôn mặt vị Mục tử nhân lành tối cao ! Chính vì thế mà Giáo hội mới tha thiết mời gọi tất cả mọi Kitô hữu cầu nguyện cách đặc biệt cho các vị, để các vị trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân lành. Không có ơn đặc biệt của Thiên Chúa, không ai làm được những chuyện “ngược đời” mà Phúc âm đòi hỏi.
3. Sứ vụ của mọi Kitô hữu
Mọi người đã được chịu phép Thánh tẩy đều được tham gia vào ba chức năng của Chúa Kitô, đó là: chức năng tư tế, chức năng tiên tri và chức năng cai trị. Nhưng theo tư tưởng của Đức Kitô thì “Cai trị là phục vụ”. Ai mà không có quyền phục vụ? Ai có thể nói là mình không thể phục vụ được trong bất cứ một lãnh vực nào hay một hoàn cảnh nào?
a) Trong đời sống Kitô hữu nói chung
Nhìn sâu hơn nữa vào tinh thần Phúc âm, chúng ta phải quả quyết rằng: không chỉ có các thừa tác viên có chức thánh mới có sứ vụ mục tử, mà mọi Kitô hữu lớn nhỏ, nam nữ đều được tham gia vào sứ vụ chăm sóc của Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, bí tích Thánh Tẩy đã khiến chúng ta thành chi thể của Thân Mình Mầu nhiệm mà Chúa Kitô là Đầu. Là chi thể, chúng ta mang trong mình tư cách, tính chất, sứ vụ của Đầu. Nếu Đức Giêsu là Mục tử thì mọi Kitô cũng đều là người chăm lo cho anh em là chi thể của Thân mình
b) Trong đời sống gia đình nói riêng
Gia đình được gọi là Hội thánh tại gia. Trong Hội thánh lớn hay nhỏ đều phải có tổ chức, phải có đầu có cuối như người ta thường nói: ”Kim chỉ phải có đầu”. Chúa Kitô đã trao cho thánh Phêrô nhiệm vụ coi sóc Hội thánh toàn cầu, thì Ngài cũng trao cho các Giám mục, rồi đến Linh mục nhiệm vụ chăm sóc Hội thánh tại địa phương là Giáo phận, giáo xứ.
Như vậy, Chúa cũng trao cho cha mẹ nhiệm vụ chăm sóc gia đình – một Hội thánh tại gia – để cha mẹ thi hành sứ vụ mục tử đối với con cái cũng như con cái có sứ vụ chăm lo cho cha mẹ; vợ có sứ vụ mục tử đối với chồng và chồng có sứ vụ mục tử đối với vợ; anh em chị em có sứ vụ mục tử đối với nhau và cứ thế mà rộng ra toàn xã hội và thế giới: mọi người có sứ vụ chăm lo cho nhau, vì mọi người là con cái của Thiên Chúa, đều là anh chị em của nhau, đều thuộc về một ràn chiên duy nhất của Chúa Giêsu Kitô.
4. Sứ vụ hiệp nhất của Kitô hữu
Đức Giêsu muốn qui tụ tất cả các chiên vào trong một đàn chiên, dưới sự hướng dẫn của một Chúa chiên. Nỗi thao thức của Đức Giêsu trước khi vào cuộc tử nạn là cho mọi người hiệp nhất nên một. Tâm tình này đã được Đức Giêsu thổ lộ trong bữa Tiệc ly:”Xin cho chúng hiệp nhất nên một”(Ga 17,23). Nhưng sau khi Chúa về trời rồi, Hội thánh vẫn còn chia rẽ. Hội thánh được ví như một tấm vải bị xé ra nhiều mảnh, cần phải được nối kết lại.
Công đồng Vatican II tha thiết mong mỏi tái lập sự hiệp nhất giữa tất cả các môn đệ của Chúa Kitô, nên muốn cung ứng cho mọi người Công giáo sự trợ lực, đường lối và phương sách để họ có thể đáp ứng lời mời gọi và ân sủng của Thiên Chúa (Sắc lệnh về hiệp nhất, số 1).
Hàng năm Giáo hội tổ chức tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất từ ngày 18-25 tháng giêng. Tuần lễ hiệp nhật này là sáng kiến của một mục sư Anh giáo ở New York, ông Wattson và người bạn của ông là ông Spencer Jones ở Luân đôn. Kết quả đầu tiên của tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất này là sự trở lại Công giáo của chính mục sư Wattson, sau là Linh mục Paul Francis, đồng thời cả cộng đoàn (Association de Réparation) của ông lập cũng trở lại Công giáo. Đức Piô X đã chấp thuận tuần lễ hiệp nhất này trong Giáo hội.
27. Hiến mạng vì đoàn chiên
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CRM)
Tại San Salvador ngày 24.3.1980, Đức Tổng Giám Mục Oscar Romeno đang sốt sắng dâng Thánh Lễ, thì bỗng nhiên một phát súng từ một kẻ sát nhân nào đó, bay tới trúng trái tim ngài, khiến ngài tắt thở ngay tại chỗ. Chỉ trước đó vài phut, ngài đã giảng một bài thật hùng hồn về niềm hy vọng tràn đầy vào hạnh phúc vĩnh cửu của con cái Chúa; trong đó, ngài tha thiết khuyên Giáo Dân hãy hy sinh phục vụ tha nhân theo mẫu gương hy sinh bác ái của Chúa Kitô.
Sau lúc đọc lời truyền phép, biến đổi bánh rượu trở nên Mình Máu Thánh Chúa, ngài được tràn đầy sung sướng thốt lên những lời sau hết này: "Chớ gì Thân Thể đã chịu sát tế và Máu Thánh đã đổ ra vì nhân loại, tăng thêm sức mạnh cho thân xác và khí huyết chúng ta, để chúng ta có thể hy sinh bản thân chúng ta, chịu đau khổ và tử nạn như Chúa Kitô, để có thể trao tặng cho Dân Chúa một viễn tượng công lý và Hòa Bình".
Từ ngày Đức Tổng Giám Mục Romeno tranh đấu đòi nhân quyền cho Giáo Dân của ngài đang bị áp bức, ngài đã quá biết rằng tính mạng ngài đang bị đe dọa. Dầu vậy, Ngài vẫn cương quyết hô hào dân chúng chống lại sự áp bức bất công và đòi quyen tự do cho con người. Một lần kia đầy lòng tin tưởng ngài đã quả quyết với các phóng viên báo chí rằng: "Mặc dầu kẻ thù có giết chết tôi, tôi cũng sẽ "Chỗi dậy" giữa dân của tôi". Bởi vì Đức Tổng Giám Mục rất thương mến Giáo Dân của Ngài tại San Salvador, và chính bởi thế, ngài đã chịu chết để bênh vực quyền lợi cho họ. Ngài đã thực sự làm ứng nghiệm nơi bản thân ngài lời Chúa phán trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe: "Ta là Mục Tử nhân lành, Mục Tử nhân lành đã hiến mạng sống mình vì Đoàn Chiên... Ta biết chiên của Ta và Ta hy hiến mạng sống Ta vì chiên của Ta".
I. MẪU GƯƠNG CỦA CÁC VỊ CHỦ CHĂN
Chúa Kitô tự xưng mình là Mục Tử Nhân Lành. Chúa đã dùng một hình ảnh rất quen thuộc trong đời sống người Do Thái: Đó là hình ảnh người chăn chiên, để mặc khải cho chúng ta nhận biết tình thương của Thiên Chúa đối với nhân loại. Vì thương yêu, Thiên Chúa đã tạo dựng con người, như một thụ tạo đặc biệt giống hình ảnh Chúa và giống bản tính Người. Chúa còn quan phòng, săn sóc, bảo vệ, che chở và dưỡng nuôi; cung cấp mọi nhu cầu cần thiết để chúng ta sống mà phụng sự Người, hầu có thể đạt tới cùng đích tối hậu là hạnh phúc vĩnh cửu Người đã sắm sẵn cho chúng ta trên Quê Trời.
Sau khi nguyên tổ phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa, Người đã sai Đấng Cứu Thế đến trần gian, như hiện thân của lòng nhân từ, như Mục Tử Nhân Lành chăn dắt Đoàn Chiên của Người là tất cả chúng ta, ban lời giáo huấn làm lẽ sống hướng dẫn cuộc đời, rộng tay ban phát mọi ơn lành. Sau cùng, Người đã hiến chính mạng sống mình để đền tạ phép công bình Thiên Chúa, đền phạt tội lỗi chúng ta, lập nên Giá Ơn Cứu Độ cho chúng ta và cho tất cả những ai thành tâm thiện chí, muốn hưởng nhờ công Ơn Cứu Độ của Người.
Chúa còn thiết lập Giáo Hội, chỉ định Hàng Giáo Phẩm như các vị Chủ Chăn, trao quyền chăn dắt Đoàn Chiên Chúa, cai quản, giáo huấn và thánh hóa Đoàn Chiên Chúa trao phó cho các Ngài, đặt mình như mẫu gương trọn hảo cho các ngài noi theo bắt chước trong khi thi hành sứ mạng Ngai đã trao phó.
II. CHỦ TRƯƠNG CỦA GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
Chính vì thấu hiểu giáo huấn của Chúa Kitô, nên Giáo Hội Công Giáo chúng ta đã thiết lập luật độc thân cho Hàng Giáo Phẩm, để các ngài được theo sát mẫu gương của Thầy Chí Thánh, Đấng thiết lập Giáo Hội, hy hiến tất cả bản thân và cả cuộc sống để phục vụ Đoàn Chiên đã được ủy thác cho các ngài. Nhưng ngày nay có nhiều người đã đưa ra những luận điệu có vẻ xây dựng, đề nghị cho các Linh Mục được lập gia đình giống như các Mục Sư Tin Lành, để cứu vãn tình trạng thiếu ơn gọi, khan hiếm Linh Mục, vì sợ rằng mai ngày không còn đủ Tông Đồ làm việc cho Chúa, thiệt hại cho các linh hồn.
Nhưng chúng ta hãy nghe thuật lại những phức tạp sau đây, đã được chính các vị Chủ Chăn tiết lộ về tình trạng của các giáo phái có luật cho phép Linh Mục lập gia đình và Mục Sư có đôi bạn.
Đây là những nhận định của các vị hữu trách trong các giáo phái, đã chân thành chia sẻ với các vị Chủ Chăn Công Giáo trong một phiên họp thân mật:
1. Mục Sư Jungmann nói: "Qúi vị đừng nghĩ rằng chỉ có Giáo Hội Công Giáo của quí vị gặp khủng hoảng, bên Tin Lành chúng toi còn gặp khủng hoảng nặng hơn bên quí vị rất nhiều.
2. Trong một cuộc họp mặt giữa Linh Mục Công Giáo và Mục Sư Tin Lành, một Mục Sư phát biểu về đời sống độc thân: "Tôi bắt đầu hiểu giá trị đời sống độc thân nơi Giáo Hội Công Giáo. Tôi cảm thấy các Cha là anh em với nhau, và tạo nên một gia đình thực sự, chúng tôi không thể nói được như thế đối với chúng tôi... Nếu một Mục Sư nào đó thành công, tôi không sung sướng gì; nếu một Muc Sư nào đó thất bại, tôi cũng không đau xót gì với ông. Giữa chúng tôi không có bầu khí gia đình, họa chăng cũng chỉ có giữa vợ chồng chúng tôi thôi".
3. Đức Tổng Giám Mục Công Giáo ở Beyrouth (Liban) tâm sự: "Các Đức Cha hãy cố giữ lấy kho tàng quí báu của Giáo Hội Latinh, tức là luật Linh Mục độc thân. Tôi đã có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này; vì Giáo Phận tôi, một Giáo Phận theo nghi lễ Đông Phương: Có Linh Mục độc thân và co Linh Mục lập gia đình. Lắm vấn đề phức tạp mà quí vị không thể tưởng tượng được".
4. Giáo Hội Công Giáo chúng tôi cũng như bên Chính Thống Giáo luôn nuôi ở tòa Giám Mục vài Cha sống độc thân, để dự phòng sau này làm Giám Mục kế vị chúng tôi, vì Giáo Luật đòi buộc Giám Mục phải sống độc thân.
5. Lại còn phức tạp do luật buộc Linh Mục chỉ được kết hôn một lần trước khi chịu Chức Thánh. Có những trường hợp Linh Mục mới có 30 hoặc 35 tuổi, vợ ông đã chết, tay bồng tay bế, lũ con nheo nhóc, không ai nuôi dưỡng, thật nan giải.
6. Trong việc mục vụ càng phức tạp hơn: Mặc dầu tập quán Linh Mục lập gia đình đã có từ xưa truyền lại, Giáo Dân vẫn quí mến Linh Mục độc thân hơn, các ngài dù ở xa hoặc đi đến đâu, họ cũng tìm cách gặp gỡ, để xưng tội và xin lễ.
7. Linh Mục có gia đình chỉ phục vụ trọn vẹn ngày Chúa Nhật, còn các ngày khác họ phải lo làm ăn để nuôi sống gia đình. Như thế làm sao tiếp xúc được với mọi người.
8. Thuyên chuyển một Linh Mục có gia đình thật là một vấn đề khó khăn. Được lệnh ông sẽ bảo: "Con sẵn sàng, nhưng vợ con mắc làm ở sở kia, các cháu lại đang học ở trường nọ, gia đình con không cùng đồng tâm đến địa phương đó".
9. Có khi Linh Mục thì tốt, nhưng bà vợ hoặc con cái chưa nói là xấu, chỉ không được Giáo Dân trong xứ có thiện cảm, thì cũng đủ để họ ghét luôn cả Linh Mục, rồi dan dà xa việc đạo. Trường hợp mà xảy ra thù hằn thì còn mất cả Đức Tin nữa. Nếu thuyên chuyển Linh Mục ấy không được, thì cha truyền con nối, tiếp tục giữ Giáo Xứ từ thế hệ này qua thế hệ khác, làm cho cả Xứ Đạo phải chịu sự áp bức của một gia đình, nên đời sống đạo hạnh sa sút không thể lường được.
Kết Luận
Là con cái Chúa và Giáo Hội, chúng ta hãy nên giống Chúa sẵn sàng hy sinh tư lợi, tư kỷ, tư kiến, để hy hiến bản thân phục vụ tha nhân, đem Ơn Cứu Độ của Chúa đến cho họ, an ủi những người sầu khổ, nâng đỡ kẻ túng thiếu nghèo nàn, cầu nguyện cho những người bị bách hại, tha thứ cho kẻ chống đối mình, nâng dậy kẻ yếu đuối sa ngã.
Đặc biệt cau cho mọi thành phần của Giáo Hội được luôn trung kiên noi theo gương Chúa Kitô, để Hàng Giáo Phẩm, Giáo Sĩ giữ vững truyền thống luật độc thân thánh thiện của chức Linh Mục, hầu các Vị Chủ Chăn có thể chu toàn sứ mạng chăn dắt Đoàn Chiên và nên gương mẫu đời sống trong sạch, thánh thiện cho Đoàn Chiên Chúa trao phó cho các Ngài.
28. Những con dê lột xác thành chiên
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Đúng như đã nhận định và chia sẻ ở bài suy niệm Phúc Âm tuần trước, “trong ba tuần đầu của Mùa Phục Sinh, Giáo Hội cố ý nhấn mạnh đến chủ đề ‘Thày là sự sống lại’, và bốn tuần còn lại của Mùa Phục Sinh Giáo Hội nhấn mạnh đến chủ đề ‘Thày là sự sống’”, mà ở Chúa Nhật Thứ Bốn Phục Sinh năm B nói riêng và cả chu kỳ 3 năm nói chung, Giáo Hội đã chọn bài Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan nói về vị Chủ Chiên Nhân Lành, “người mục tử nhân lành thì thí mạng sống mình vì chiên”. Phải chăng vì chủ đề của bài Phúc Âm cho Chúa Nhật IV Phục Sinh này liên quan đến vai trò của Vị Chủ Chiên Nhân Lành (ở cả ba chu kỳ A, B và C) như thế mà Giáo Hội cũng đã cử hành Ngày Thế Giới Ơn Gọi lần thứ 40 vào chính Chúa Nhật Thứ Bốn Phục Sinh này, cũng như Giáo Hội đã bắt đầu cử hành Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh từ năm 2000 như là Ngày Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa, theo Lời Chúa Giêsu yêu cầu qua chị Thánh Faustina, vì ý nghĩa của bài Phúc Âm của Ngày Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh hợp với những gì được diễn tả nơi tấm ảnh Chúa Tình Thương (xin xem lại bài chia sẻ Chúa Nhật Hai Phục Sinh)?
Trong bài Phúc Âm hôm nay, trước hết, chúng ta lại thấy Chúa Giêsu tiên báo xa xa về Cuộc Vượt Qua của Người, chẳng những ở câu “người mục tử nhân lành hiến mạng sống vì chiên”, hay “Tôi hiến mạng sống mình vì những con chiên ấy”, mà còn rõ hơn nữa ở câu cuối cùng của bài Phúc Âm: “Tôi tự ý bỏ mạng sống. Tôi có quyền bỏ nó đi và có quyền lấy nó lại”. Theo lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Thứ Bốn Phục Sinh Năm B thì Người chính là Vị Mục Tử Nhân Lành như chính Người đã tự nhận và công bố ở ngay câu đầu tiên của bài Phúc Âm hôm nay: “Tôi là mục tử nhân lành”. Người “là mục tử nhân lành”, trước hết, bởi Người thí mạng sống mình vì chiên, và sau nữa, bởi Người biết chiên của Người cũng như chiên của Người biết Người. Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô thực sự là biến cố chẳng những cho thấy Người thí mạng sống vì chiên mà còn cho thấy Người đi trước chiên và biết chiên, cũng như Người được chiên biết: “Thày đi để dọn chỗ cho các con, để rồi Thày sẽ trở lại để đưa các con đi với Thày, để Thày ở đâu các con cũng ở đó. Các con biết Thày đi con đường nào rồi” (Jn 14:3-4).
Hành động Người bảo vệ chiên khi đám sói xông đến tấn công khi Thày trò của Người sau Bữa Tiệc Ly đang ở trong Vườn Cây Dầu bấy giờ không phải đã ứng nghiệm những gì Người nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay về vị mục tử nhân lành hoàn toàn khác với thành phần chăn chiên thuê thấy sói đến thì bỏ chiên chạy giữ mạng hay sao? Phải, chính vì Người thực sự là Mục Tử Nhân Lành chứ không phải là kẻ chăn thuê mà Người “đã yêu thương đến cùng” (Jn 13:1) chiên của Người, yêu thương như chính bản thân Người, đến nỗi chiên trở thành mạng sống của Người, quí như mạng sống của Người. Đó là lý do, khi đám sói được Hội Đồng Do Thái sai phái với gậy gộc giáo mác xông tới, như Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại, Người đã nói: “Nếu thực sự Tôi là người quí vị muốn thì hãy để những người này đi” (Jn 18:8).
Như thế, căn cứ vào nguyên tắc hay tinh thần của Vị Mục Tử Nhân Lành mô phạm này thì những mục tử nào không dám chết cho chiên, không biết chiên mình là ai và như thế nào, trái lại, còn bị chiên xa lánh v.v. thì quả thực chưa phải hay không phải thực sự là người mục tử nhân lành, nếu không muốn nói theo kiểu diễn tả của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm, là những tay chăn thuê, chỉ làm vì lợi lộc của mình vậy thôi. Thực tế đã cho thấy rõ như vậy. Nếu bất cứ lúc nào vị linh mục tìm mình là các vị bắt đầu thụt lại đi đằng sau chiên, chứ không còn hiên ngang và hăng say đi trước chiên (x Jn 10:4), để đương đầu với những nguy hiểm có thể xẩy ra cho chiên. Thái độ đi trước chiên chẳng những tiêu biểu cho đời sống gương mẫu của chủ chiên, đáng cho chiên noi theo, mà còn là hành động chứng tỏ chủ chiên thực sự biết rõ chiên của mình, biết trước chiên cần gì và muốn gì để kịp thời đáp ứng và hướng dẫn chiên đến những nơi hợp với chiên, một hành động cũng cho thấy vị mục tử tỏ ra hoàn toàn tin tưởng chiên, không sợ chiên ở đằng sau tẩu thoát, vì “chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi” (Jn 10:27).
Nếu thành phần được thay thế Vị Mục Tử Nhân Lành này chăn sóc chiên của Người phải làm sao phản ảnh Người bao nhiêu có thể, như trường hợp của tông đồ Phêrô được Thày trao cho trách nhiệm coi sóc đàn chiên của Người đã được “dự phần” (Jn 13:8) với Người trong việc hiến mạng sống mình vì chiên thế nào (x Jn 21:15-19), thì hàng giáo sĩ mục tử Công Giáo cũng phải sẵn lòng hiến mạng vì chiên mới có thể đắc lực phục vụ chiên. Đây là một trong những lý do sâu xa cho thấy linh mục Công Giáo cần phải sống độc thân mới có thể hoàn toàn dấn thân phục vụ đàn chiên của mình một cách vô tư, tận tuyệt, đến dám thí cả mạng sống của mình.
Khi các vị mục tử Công Giáo, linh mục hay giám mục, dám liều mạng sống mình vì chiên, các vị đã thực sự trở thành một Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, ở chỗ, các vị đã tiến đến chỗ đồng hóa bản thân mình với lời các vị truyền phép trên bàn thờ: “Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các con”. Khi đọc lời truyền phép này lúc cử hành Hy Tế Thánh Thể, các vị đóng vai trò Chúa Kitô Thượng Tế, tác hành “nhân danh Chúa Kitô”: chữ “Ta” trong lời truyền phép đây là Chúa Kitô; nhưng khi các vị hiến mạng sống vì chiên, các vị trở thành Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành, được hoàn toàn đồng hóa với Người, đến nỗi, chữ “Ta” trong lời truyền phép có thể được hiểu là chính bản thân của các vị. Khi các vị hoàn toàn sống cho chiên, thậm chí chết vì chiên, thì các vị hiện thực những gì Chúa Kitô truyền cho các vị làm “mà nhớ đến Thày”, ở chỗ, các vị chẳng những “làm” bánh và rượu trên bàn thờ biến thể thành Mình và Máu của Người, các vị còn “làm” cho cuộc hy hiến của Chúa Kitô được sống động tái diễn nơi cuộc đời của các vị nữa, qua việc các vị biến Mình và Máu của Người thành mình và máu của các vị.
Tuy nhiên, thành phần được Vị Mục Tử Nhân Lành hiến mạng sống cho đây là thành phần nào? Dân Do Thái? Dân Ngoại?? Giáo Hội??? Bởi vì, những lời Chúa Kitô nói trong bài Phúc Âm hôm nay đã cho thấy tính cách khác biệt của đàn chiên của Người: “Tôi biết chiên của Tôi và chiên của Tôi biết Tôi, như Cha biết Tôi và Tôi biết Cha; Tôi sẽ hiến mạng sống mình vì những con chiên ấy. Tôi còn những con chiên khác chưa thuộc về đàn này. Tôi phải dẫn dắt chúng nữa, và chúng sẽ nghe thấy tiếng Tôi. Sẽ chỉ có một đàn chiên và một vị chủ chiên duy nhất”. “Những con chiên ấy” và “những con chiên khác” đây là thành phần nào? Nếu “những con chiên ấy” là dân Do Thái thì “những con chiên khác” đây là Dân Ngoại. Vì sự kiện “sẽ có một đàn chiên và một vị chủ chiên duy nhất” đây mới xẩy ra việc dân Do Thái cuối cùng sau khi đã đủ số Dân Ngoại sẽ trở lại nhận biết Chúa Kitô, đúng như lời tiên báo của Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô (x. Rm 12:25-26). Thật ra chiên đây, nói chung, là tất cả những ai nhận biết Chúa Kitô.
Trái lại, những ai không nhận biết Chúa Kitô thì không phải là chiên của Người, như Người đã khẳng định với dân Do Thái: “Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi đều làm chứng cho Tôi, nhưng quí vị không chịu tin vì quí vị không phải là chiên của Tôi” ( Jn 10:25-26). Như thế, kể cả những con chưa thuộc về đàn, có thể là những con chiên Dân Ngoại, hay là những con chiên tội nhân nói chung, kể cả con chiên tội nhân Do Thái, tự thâm tâm họ, nếu thành tâm thiện ý, vào một lúc nào đó, vẫn có thể nhận ra sự thật, vẫn có thể nghe thấy tiếng của Người và trở về cùng Người, như trường hợp của người phụ nữ Samaritanô ngoại lai (x Jn 4:29), hay như trường hợp của trưởng ban thu thuế Do Thái Giakêu lùn (x Lk 19:1-10). Sự kiện “sẽ nghe thấy” trong lời Chúa Giêsu nói về một số con chiên tương lai của Người đây cho thấy dù còn là Dân Ngoại hay còn là một tội nhân đi nữa, con người vẫn có thể là chiên của Chúa Kitô và đã được gọi là chiên của Người rồi, vì thành phần chiên này có khả năng nghe được tiếng của vị chủ chiên mình, có khả năng nhận biết Người. Có những con chiên cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời mới nghe được tiếng của vị chủ chiên và đã nhận biết Người để ngỏ ý muốn trở về với Người, như những trường hợp đã xẩy ra và được kể đến trong bài suy niệm Phúc Âm Chúa Nhật V Mùa Chay Năm B, bài Phúc Âm nói về lời Chúa Giêsu phán: “Khi nào Tôi bị treo lên, Tôi sẽ kéo mọi sự lên cùng Tôi”. Bởi thế, những ai tự cho mình là công chính như thành phần Pharisiêu đạo đức giả hình hãy coi chừng trước những con dê tội nhân, những con dê một lúc nào đó lột xác trở thành những con chiên trước mặt Chúa Trời!
29. Tôi là mục tử nhân lành
(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Ga 10: 11-18: Hiến tặng mạng sống, đó là bằng chứng về một tình yêu chân chính...
Hiến tặng mạng sống, đó là bằng chứng về một tình yêu chân chính. Trên thế giới, không thiếu những con người, biết đâu chính là anh là chị, vẫn âm thầm làm những hành vi anh hùng hầu duy trì sự sống cho kẻ khác. Những con người ấy đúng là "mục tử nhân lành", đang họa lại cái mẫu Đức Kitô, Mục tử nhân lành. Hôm nay, toàn thể Họi thánh cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Lời Chúa của "Chúa nhật Chúa Chiên Lành" năm nay đặc biệt nêu bật khía cạnh hy sinh: Người mục tử tốt hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Chúng ta cầu nguyện để Thiên Chúa ban thêm cho Họi thánh những mục tử "như lòng Ngài mong ước".
I. Khám phá sứ điệp Tin Mừng: Ga 10,11-18
Trong truyền thống Cựu ước, hình ảnh mục tử và con chiên là một hình ảnh quá quen thuộc để nói về tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ngài tuyển chọn, tức Israel. Khi Đức Giêsu nói: "Tôi chính là Mục tử nhân lành" (cc. 11.14), thì lời Thiên Chúa hứa đã nên hiện thực, nhưng vượt quá mọi chờ đợi. Đức Giêsu làm điều mà không mục tử nào làm, cho dù là mục tử tốt: "hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (điều này được nhắc lại 5 lần trong bản văn: cc. 11.15.17.18 [2x]). Giữa Đức Giêsu và đoàn chiên, có một sự hiểu biết hỗ tương chứng tỏ một dây liên kết rất thân tình giữa Người và đoàn chiên (c. 14), cũng như giữa Người cùng đoàn chiên với Chúa Cha (cc. 15.18).
Các lời Đức Giêsu nói về người mục tử tốt lành được triển khai tiệm tiến, đưa các độc giả đến chỗ có một cái nhìn rộng lớn về công trình của Đức Giêsu: mầu nhiệm Vượt qua và sự hy sinh chính bản thân Người.
ª Người mục tử đích thật (11-13).
Đức Giêsu là "Mục tử nhân lành", cũng có nghĩa là "Mục tử xinh đẹp". Điểm này gợi ý rằng Đức Giêsu không chỉ là người làm việc có hiệu năng (điều hành) nhưng Người còn có một nhân cách xinh đẹp toàn diện và duyên dáng hấp dẫn. Cộng với tài lãnh đạo đầy uy lực và hiệu năng của Người, điều làm nên tư cách mục tử nhân lành của Người chính là tình yêu và khả năng đồng cảm của Người.
Người có một cảm thức về trách nhiệm: "các chiên thuộc về Người" (x. c. 12). Chính vì thế, Người đáng tin cậy, và sẽ chu toàn nhiệm vụ hết sức mình. Vào thời Đức Giêsu, người ta có thể nói "nghề chăn chiên" là một "ơn gọi" chứ không chỉ là một kế sinh nhai. Một người mục tử như thế thì không có mối bận tâm nào khác ngoài các con chiên ; buổi sáng, khi thức dậy, người ấy vui sướng tìm đường đến với đoàn chiên. Còn những ai làm mục tử chẳng đặng đừng, họ không coi trọng trách nhiệm đối với đoàn chiên, họ chỉ là "người làm thuê" (c. 12). Ngược lại với người làm thuê, người mục tử nhân lành coi các con chiên như chính mình nên cũng không chờ đợi được trả công. Người nào làm việc chỉ để được trả lương dựa trên công việc của mình thì chỉ nghĩ đến tiền bạc, và khi không có tiền bạc hay thứ tương tự bù lại, thì họ bỏ việc. Còn ở đâu có cảm thức về sự "thuộc-về", ở đó cũng có tình yêu, và ở đâu có tình yêu, ở đó người ta vui sướng làm việc dù không được trả công.
Động lực căn bản hướng dẫn người mục tử nhân lành là tình yêu, và người nào yêu thì trước tiên muốn ban tặng, chứ không muốn đón nhận. Tình yêu chân thật có nghĩa là sẵn sàng hy sinh thậm chí cả mạng sống mình (x. Ga 15,13).
Sự dấn thân không biên giới của người mục tử nhân lành nhằm đưa lại sự sống: "Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào" (c. 10). Sự dấn thân này không có giới hạn: cách thức Đức Giêsu làm việc để có sự sống là Người ban tặng chính sự sống của Người: "Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (c. 11). Người mục tử đích thực không ngần ngại chấp nhận những phiêu lưu, rủi ro, chấp nhận hy sinh cả mạng sống, để cứu con chiên khỏi bất cứ mối nguy hiểm nào đang đe dọa chúng. Điều này có nghĩa là người mục tử nhân lành không tháo lui, cho dù khi mạng sống của mình bị đe dọa. Người mục tử nhân lành yêu thương con chiên hơn chính mình, và tình yêu này thúc bách Người làm mọi sự cho con chiên.
ª Người mục tử ưu việt (14-18).
Đến đây, đề tài được đào sâu hơn nữa: phân đoạn này mô tả vẻ đẹp nơi nhân cách, hoặc đúng hơn, của linh đạo của người mục tử nhân lành, bí mật thâm sâu của Người, để trả lời cho các câu hỏi: Hy sinh mạng sống nghĩa là gì? Sự sống này hệ tại điều gì? Nó đưa tới đâu? Sự hiến mình của người mục tử dựa trên nền tảng nào? Nói cách khác, phân đoạn này triển khai nội dung của mối tương quan của người mục tử nhân lành với đoàn chiên.
Một tương quan đầy say mê (cc. 14-15). Tương quan của người mục tử nhân lành với con chiên là một tương quan không lạnh lùng, về thể lý, vô ngã. Trái lại nó mang dáng vẻ một tương quan thân ái nhất, riêng tư nhất: tình hiệp thông của Chúa Cha và Chúa Con (x. Ga 1,1-3 và 1,18): "Như Chúa Cha biết Tôi…" (c. 15). Thái độ của Đức Giêsu mang dấu ấn là tương quan của Người với Chúa Cha. Chúa Cha và Chúa Con biết nhau sâu xa, sống một cuộc sống trong tin tưởng lẫn nhau, trân trọng nhau, yêu thương nhau thắm thiết. "Tôi biết chiên của Tôi…" (c. 14): Nếu tương quan của Đức Giêsu với chúng ta là kiểu này, chúng ta có thể hiểu rằng tương quan của người mục tử là nồng nàn, say mê, thắm thiết. Và nếu đó là cách Người ở với chúng ta, thì chúng ta cũng phải quan hệ với Người như thế: "chiên của Tôi biết Tôi" (c. 14b). Tác giả nói đến "biết" thay vì tình yêu, bởi vì "tình yêu" hệ tại việc "biết" riêng. Đối với Đức Giêsu, vị Mục tử nhân lành, chúng ta không phải là những con số ; Người biết lịch sử đời ta, các vấn đề, các khiếm khuyết của chúng ta - tất cả các đặc điểm và phẩm chất của chúng ta. Bởi vì Người biết chúng ta, Người yêu thương chúng ta. Điều này có nghĩa là Người chấp nhận chúng ta trong hiện trạng, và đưa chúng ta vào hiệp thông trọn vẹn với Người. Nhưng cần phải thấy mặt bên kia: đối với chúng ta, "Giêsu" không được chỉ đơn giản là một cái tên ; chúng ta phải càng ngày càng biết Người hơn, như "những con chiên tốt, đẹp", và phát triển một tương quan với Người, một tương quan mang dấu ấn là một tình yêu sâu sắc và trung thực.
Tương quan với Đức Giêsu, Mục tử nhân lành, là tương quan hiệp thông thâm sâu. Người mục tử nhân lành không giữ thế cách biệt với chúng ta ; Người không muốn chúng ta cứ mãi bé nhỏ và thiếu chín chắn. Như thế, chúng ta cứ phải ngày càng nên chín chắn cho đến khi có thể đi vào hiệp thông riêng tư với Người.
Một tương quan dành chỗ cho mọi người (c. 16). Sự hiệp thông được thiết lập với Đức Giêsu bắt đầu dần dà nắm lấy mọi tương quan của chúng ta và có mục tiêu là một cuộc sống được kết hợp (với tất cả các dạng cũng như những nét phức tạp của nó) trong tình yêu của Đức Giêsu. Tình yêu giả thiết có "hiểu biết", nhưng sau này, sẽ xuất hiện một sự hiệp nhất vượt trên các khác biệt, bởi vì tình yêu thì "kết hợp".
Sự nhiệt thành và quan tâm của Đức Giêsu - Mục tử không giới hạn vào dân Israel. Công việc Người đã nhận từ Chúa Cha là lo lắng chăm sóc toàn thể nhân loại, làm cho thành một đoàn chiên duy nhất, một cộng đoàn gồm những người tin vào Người. Nói cho cùng, đó chính là sứ mạng của Người. Không một ai bị loại khỏi sự quan tâm của Người, và như thế, sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa nơi Người là nhắm đạt đến mọi dân tộc. "Đoàn chiên duy nhất" này mang hai chiều kích lịch sử chính yếu: (1) chiều đứng liên kết quá khứ, hiện tại và tương lai (cộng đồng Israel, cộng đoàn Nhóm Mười Hai, cộng đoàn tất cả các tín hữu tương lai) ; và (2) chiều ngang, nối kết các nhóm tín hữu khác nhau trong Đức Kitô, nhưng cũng đi đến với tất cả những người không tin.
Qua Đức Giêsu, là Mục tử duy nhất, và qua sự hiệp thông với Người, mọi dân tộc (và mọi cộng đoàn) được kêu gọi trở thành một cộng đoàn lớn duy nhất. Sự hiệp thông này là công trình của Người, chứ chúng ta, dù có tạo ra thứ liên minh nào, vẫn không đạt tới bằng sức của mình được. Chúng ta sẽ có khả năng sống thành cộng đoàn bao lâu chúng ta còn đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu, vị Mục tử duy nhất. Tính chất cao quí của mỗi mục tử nhân loại sẽ được đo lường theo khả năng người ấy tạo được sự hiệp nhất tại nơi người ấy hiện diện - một sự hiệp nhất không tập trung lại quanh người ấy nhưng quanh Đức Giêsu.
Sự trung thành là gốc rễ của tình yêu mê say và hiệp nhất của người mục tử nhân lành (cc. 17-18). Những lời dạy về người mục tử nhân lành kết thúc với một cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc về "mầu nhiệm Vượt qua". Buổi chiều cuộc đời người mục tử nhân lành, vinh quang cũng như sự viên mãn của thời khắc này là lễ dâng cuộc đời Người trên thập giá, vào giờ của lòng trung thành. Tiêu chuẩn cuối cùng này của sự ưu việt của người mục tử được liên kết với tiêu chuẩn trước (sự hiệp nhất). Chúng ta ghi nhận là đến cuối c. 15, có lời "Tôi hy sinh mạng sống" để đưa sang c. 16 nói về mục tiêu của người mục tử nhân lành là kiến tạo một đoàn chiên duy nhất ; rồi mở đầu c. 18, lại có lời "Tôi tự ý hy sinh mạng sống". Đây là cấu trúc "đóng khung" để nói rằng chính là khi hy sinh mạng sống trên thập giá, mà Đức Giêsu kiến tạo được "sự hiệp nhất vĩ đại" này. Bởi vì Người chết chắc chắn "không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối" (Ga 11,52).
Nhưng nếu chúng ta nhìn vào cc. 17-18, chúng ta lại ghi nhận rằng ghi chú về Thiên Chúa Cha "đóng khung" các câu 17 và 18: "Chúa Cha yêu mến Tôi…" và "đó là mệnh lệnh của Cha mà Tôi đã nhạn được", trong đó nói ba lần đến việc "hy sinh mạng sống". Tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha giải thích sự trung thành của Người và sự trung thành chính là nét làm cho Người là người mục tử ưu việt. Sự trung thành này được nâng đỡ bởi nền tảng là tình yêu của Chúa Cha, được sống cách tự do và được diễn tả ra trong sự vâng phục. Sự trung thành này nên hình nên dạng trong hành vi "hiến tặng [hy sinh]" và "đón nhận [lấy lại]", trong sự "tự chủ" (Tôi có "quyền") và "trách nhiệm" (Người hành động cho, hành động nhân danh), và trong việc lắng nghe (= tuân giữ) mệnh lệnh và đáp trả (vâng phục: "Tôi đã nhận được").
Câu 18 có thể được coi như đỉnh cao của bản văn. Đức Giêsu nói: "Chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình", rồi Người nói tiếp: "Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy". Nói cho cùng, "quyền" của Đức Giêsu (được dùng 2 lần để nhấn mạnh) được Người thực thi trong hành vi trách nhiệm là "hiến mình". Như tất cả mọi điều khác, hành vi này được nâng đỡ bởi tình yêu làm nền của Chúa Cha, nơi Người Đức Giêsu nhận được mọi sự (sự sống luôn luôn là một điều nhận được) và là Đấng Người được liên kết với bằng một tình yêu duy nhất (gốc rễ của đời sống Người là một tình yêu chín muồi: tình yêu này là một với tình yêu của Đấng mà Người yêu mến). Đây là ý thức sắc bén của Đức Giêsu trên thập giá, ý thức Người có vào thời điểm cao vời khi mà Người hiến tặng "sự sống dồi dào" cho mọi con chiên. Mọi sự đều dựa trên chỗ này.
II. Chiêm ngắm Chúa Giêsu:
Bản văn này, khi giới thiệu Đức Giêsu là người Mục tử nhân lành, với giọng văn đơn giản nhưng súc tích, đã cho chúng ta khám phá ra Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng mạc khải tình yêu tại nguồn, là Đấng đưa lại ơn cứu độ trọn vẹn, Đấng cung cấp ánh sáng và sự sống. Nơi bản thân Đức Giêsu, chủ đề cổ xưa về Thiên Chúa Mục tử của Cựu ước nay đã được trẻ-hóa cách tuyệt vời và được hoàn tất vượt quá mọi ước mong. Người sẽ mãi mãi là Đấng nuôi dưỡng, giáo huấn chúng ta, và dẫn đường cho tất cả chúng ta về cùng Chúa Cha.
III. Gợi ý bài giảng:
1. Nói tới "mục tử" là nói tới tương quan.
Trong xã hội Israel cổ thời, tương quan giữa mục tử và đoàn chiên không chỉ là một vấn đề lợi ích kinh tế, dựa trên sản phẩm các con chiên cung cấp để mục tử sử dụng mà nuôi sống mình và gia đình: len, sữa, thịt, tiền bạc, v.v… Nói cách khác, đây không chỉ là một tương quan sở hữu. Trong thế giới Kinh thánh, giữa mục tử và đoàn chiên có một tương quan hầu như riêng tư. Ngày qua ngày, các mục tử và đoàn chiên sống với nhau tại các nơi hoang vắng, chỉ có nhau chứ không có gì chung quanh. Do đó, chẳng mấy chốc, người mục tử biết rõ từng con chiên, và mỗi con chiên nhận biết tiếng nói của mục tử, và dễ dàng phân biệt với tiếng của người khác. Chính vì tương quan giữa mục tử và đoàn chiên là một trong những tương quan gần gũi nhất mà một người Israel có thể thấy trong cuộc sống hằng ngày, ta hiểu vì sao Thiên Chúa đã sử dụng biểu tượng này để mô tả tương quan của Người với Dân tuyển chọn và với toàn thể nhân loại. Chúng ta nghĩ đến Tv 23. Kiểu tương quan này trở thành mẫu mực cho các nhà lãnh đạo (vua chúa, tư tế, ngôn sứ): như Thiên Chúa, họ phải chu cấp sự an toàn và che chở cho Dân. Chúng ta cũng có thể nhớ tới những lời Thiên Chúa trách các nhà lãnh đạo qua miệng Ngôn sứ Êdêkien (ch. 34).
2. Trách nhiệm lớn của một mục tử là đời sống của con chiên.
Tiêu chuẩn giúp phân biệt một mục tử tốt với một mục tử xấu là ý thức về trách nhiệm của mình đối với đoàn chiên. Người mục tử bên Paléttin hoàn toàn chịu trách nhiệm về đoàn chiên của mình: nếu có chuyện gì xảy ra với dù chỉ một con chiên mà thôi, người ấy phải chứng minh là không do lỗi mình. Ý thức về trách nhiệm này được minh họa bởi hai đoạn Kinh thánh: Am 3,12 ; Xh 22,9-13. Nói tóm, người mục tử sống hoàn toàn cho con chiên, người ấy chiến đấu dũng cảm để bảo vệ chúng khỏi thú dữ và còn sẵn sàng hy sinh mạng sống (x. Đavít: 1Sm 17,34-35). Lòng nhiệt thành của người mục tử chính là tình yêu làm tuôn trào sự sống. Như Thánh vịnh 23 cho thấy, người tín hữu thời Kinh thánh thấy nơi hình ảnh người mục tử dung mạo đích thật của Thiên Chúa: Tình yêu của Ngài, sự quan tâm, tình yêu hy sinh cho nhân loại. Nếu họ vững vàng đối phó với các thử thách của cuộc đời, là vì họ bám vững vào Thiên Chúa. Trong tâm trí và trong tim họ, họ xác tín rằng như mục tử tốt lành, Thiên Chúa dám làm mọi sự vì họ ; Thiên Chúa luôn trông chừng trên họ, luôn luôn chiến đấu bên cạnh họ (x. Is 31,4 ; Ed 34,16).
3. Một sự hiểu biết sâu sắc.
"Tôi biết chiên của Tôi…, như Chúa Cha biết Tôi". Con người phải đau khổ vì không được ai hiểu biết sâu xa. Thế mà Đức Giêsu lại nói rằng Người biết con người bằng một sự hiểu biết tương đương với sự hiểu biết nhờ đó Chúa Cha biết Con. Đây lại là một sự hiểu biết trong tình yêu. Như thế, con người sẽ không còn cảm thấy cô đơn và sợ hãi vì Đấng biết họ trọn vẹn lại không kết án họ, nhưng yêu thương họ bằng một tình yêu trọn vẹn và cứu chuộc. Thánh Phaolô đã làm chứng về tình yêu ấy qua một đoạn văn hùng hồn là Rm 8,35.38-39: "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta".
Đã được yêu thương như thế, chúng ta có trách nhiệm đối với anh chị em chúng ta: chúng ta cũng phải yêu thương anh chị em mình đến mức sẵn sàng hy sinh mạng sống cho họ, theo gương Đức Giêsu.
30. Chúa là Mục tử và là người phục vụ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Ngày Thế Giới lần thứ 55 cầu cho ơn gọi sẽ được cử hành vào ngày 22-2-2011, Chúa nhật thứ 4 Phục Sinh, mời gọi chúng ta suy tư về đề tài: "lắng nghe, biện phân, và sống". Chúng ta bị chìm đắm trong một xã hội ồn ào, giao động vì nhiều thứ kích thích và thông tin tràn ngập bủa vây chúng ta. Để nhận ra tiếng Chúa gọi, cần có thái độ mặc niệm trong thinh lặng, lắng nghe (x. Sứ Điệp Cầu Cho Ơn Gọi 2018). Chăm chú lắm mới khám phá ơn gọi đặc thù và cách riêng mà Chúa đã nghĩ ra cho mỗi người chúng ta. Nhưng để sống, chúng ta phải chiêm ngắm Chúa Giêsu là Mục Tử.
Mục Tử giầu lòng thương xót
Trong Cựu Ước hình ảnh người mục tử có một tầm quan trọng. Khi nói về mục tử, người ta liên tưởng ngay đến điều đã viết trong sách Ngôn sứ Ezekiel nhân danh Thiên Chúa ông nói: "Chính Ta sẽ chăn nuôi chiên của Ta. Chính Ta, Ta sẽ cho chúng được an nhàn. Sấm của Ðức Chúa Yavê. (Chiên) thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm. (Chiên) tản mác, Ta sẽ lùa về. (Chiên) xây xát, Ta sẽ băng bó. (Chiên) bịnh hoạn, Ta sẽ bổ sức. Còn con nào béo, mạnh, Ta sẽ diệt đi. Một cách công minh, Ta sẽ chăn dắt chúng" (Ed 34, 15-16). Lời tiên tri này được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu Kitô, Vị Mục Tử nhân lành như chúng ta thấy trong Tin Mừng hôm nay. Vị Mục Tử giầu lòng thương xót biết và thương từng con chiên, ôm ấp con chiên ốm, chiên gặp nạn thì băng bó vết thương, chiên lạc đi tìm về. Chữ "mục tử" gợi lên sự dịu dàng và cảm động, khiến mỗi người chúng ta muốn trở thành con chiên lạc (Lc 15, 3-7) được Người Mục Tử quyết tâm đi tìm bằng được và vác trên vai.
Mục Tử tốt lành trao ban mạng sống mình.
Hình ảnh người mục tử không chỉ quan trọng trong Kinh Thánh, mà chính trong Giáo hội hôm nay hình ảnh này vẫn con hấp dẫn. Điều mà Thiên Chúa hứa với dân xưa rằng: "Ta sẽ ban cho những mục tử như lòng Ta mong muốn" (Gr 3,15) là kinh nghiệm hàng ngày của Giáo hội, dân mới của Thiên Chúa. Giáo hội biết rằng chính Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Tối Cao hoàn thành cách sống động lời Thiên Chúa hứa: "Ta là Mục Tử tốt lành " (Ga 10,11); Người là "Mục Tử vĩ đại" (Dt 13,20) ủy thác cho những người kế nhiệm là các tông đồ nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên Chúa (x. Eph 21, 15... 1 P.5, 2). Nhờ các linh mục vâng theo lệnh Chúa Giêsu truyền: "Hãy đi, làm cho môn dân trở thành môn đệ của Thầy" (Mc 16,19) mà dân Chúa có thể sống dồi dào.
Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa sai các thợ gặt lành nghề đến gặt lúa của Người và xin cho các mục tử ngày hôm nay theo gương Chúa Giêsu là Mục Tử tốt lành. Ước mong họ dâng hiến sự sống mình và can đảm cống hiến mạng sống mình để bảo vệ đoàn chiên. Xin cho họ yêu mến đoàn chiên như Chúa Kitô đã yêu mến ngõ hầu họ có thể dẫn chiên đến sự hiệp nhất với Chúa Kitô.
Sự tốt lành của người mục tử được thể hiện trong hồng ân mà vị ấy làm cho đoàn chiên được giao phó được sống và sống dồi dào trong sự nhận biết chiên của mình. Người mục tử biết từng con chiên một với tình yêu cao cả và chăm sóc mỗi con chiên. Chiên "cảm nhận" được điều đó và biết mục tử của mình thật tốt lành.
"Biết" trong Kinh Thánh có nghĩa là biết trong tình yêu: biết vì tình yêu và trong tình yêu. Như một người mẹ, trong bóng tối đêm đen "cảm thấy" con mình bị bệnh, bà thức dậy để chăm sóc cho con, ngay cả khi người con ấy không phàn nàn, người con "cảm thấy" người mẹ chăm sóc cho mình. Tình yêu đích thực là sự biết hoàn hảo. Giống như Người Mục Tử tốt lành, các mục tử và đoàn chiên sống trong sự hỗ tương để lớn lên trong sự qui chiếu vào Chúa Kitô.
Thuộc về Đức Kitô
Chúng ta bởi Chúa mà ra và chúng ta thuộc về Chúa, Chúa biết mỗi người chúng ta để thí mạng và sống lại vì đoàn chiên. Nếu chúng ta nghe tiếng Chúa, tin tưởng vào Chúa, chúng ta sẽ có được sự sống của chính Chúa. Chúa Giêsu nói: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ nghe lời Ta và tin vào Ðấng đã sai Ta, thì có sự sống đời đời, và khỏi đến tòa phán xét, nhưng đã ngang qua sự chết mà vào sự sống" (Ga 5 , 24). Với đức tin, chúng ta hoàn thành bước quyết định: đi từ cõi chết đến cõi sống, bỏ miền đất của kẻ chết và bước vào miền đất của kẻ sống.
Giáo hội đề nghị các mục tử suy niệm đoạn Tin Mừng này: để suy ngẫm về chính mình. Tại sao vậy? Thưa mỗi mục tử đơn giản chỉ là "dấu chỉ" của Chúa Giêsu là Mục Tử. Vậy chúng ta suy gẫm trang Tin Mừng này và tìm cách sống bằng cách sống hiệp thông giữa chúng ta để chúng ta hiểu biết Chúa Kitô cách sâu xa và thuộc trọn về Chúa Kitô.
Trong Tin Mừng hôm nay, tương quan giữa mỗi người với Chúa Phục Sinh được chỉ ra trước hết là mối quan hệ "thuộc về": chiên không thuộc về kẻ trộm nhưng thuộc về mục tử. Thuộc về trước hết là sự nhận biết hỗ tương: "Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta" (Ga 10,14). Sự nhận biết này rất quan trọng, chúng ta thuộc về Chúa khi chúng ta đón nhận Lời Chúa Giêsu ("chúng sẽ nghe tiếng Ta"). "Biết Chúa Giêsu là Mục Tử" là nghe tiếng Chúa và đi theo sự hướng dẫn của Chúa.
Nhớ lại lời đề nghị của Chúa Giêsu: "Mùa lúa thật nhiều, mà thợ gặt lại ít! Chúng con hãy cầu xin Chủ Mùa sai nhiều thợ đến gặt lúa!" (Mt 9,37), chúng ta ý thức thật nhiều về nhu cầu phải cầu nguyện cho những ơn gọi linh mục và ơn gọi sống đời tận hiến. Chúng ta hãy xin Chúa Cha trên trời đốt nóng tâm hồn những người trẻ để họ quảng đại đáp lại tiếng Chúa, đồng thời xin Chúa phù giúp các linh mục mà Chúa đã ban cho cộng đoàn Dân Chúa. Amen.
31. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lễ “Chúa Chiên lành” là lễ của Chúa Giêsu, Đấng đã tự xưng "Ta là mục tử tốt lành" (Ga 10, 11). “Mục tử” là một hình ảnh rất quen thuộc của nền văn minh nông nghiệp còn trong trạng thái thô sơ của thời du mục vùng Trung Đông. "Người chăn chiên" được Chúa Giêsu dùng để diễn tả tương quan vừa mật thiết, vừa rất "dễ thương" giữa Người và chúng ta.
Chúa là mục tử
Thông thường, trong Cựu Ước, người ta gọi Thiên Chúa là mục tử của dân Ngài (St 49, 24 – 31; Gr 31, 10; Mk 7,14 v.v...) Sự so sánh này có nguồn từ đầu lịch sử thánh, vì dân được chọn là dân du mục trên hành trình về Đất Hứa, trước hết là Abraham từ Ur đến Canđê, thứ đến là Môisen, kẻ chăn cừu nhận được mạc khải từ bụi gai đang cháy trong sa mạc, cho tới Đavít cậu bé chăn cừu ở Belem.
Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành là một trong những hình ảnh lâu đời nhất của Kitô giáo. Hình ảnh này được tìm thấy trong các hang toại đạo, người ta khắc vẽ Chúa Giêsu với vẻ dịu dàng và trìu mến của người chăn chiên, vác chiên trên vai, tìm kiếm con chiên lạc, đưa chiên về với đàn của chúng để cùng chia sẻ một đồng cỏ xanh tươi. Khi lấy lại hình ảnh người mục tử va tự ví mình như thế, Chúa Giêsu đưa chúng ta về với hình ảnh cổ xưa trong Kinh Thánh, chứng tỏ Thiên Chúa không chỉ là Đấng dẫn dắt dân, hơn thế nữa còn là Đấng trao ban sự sống cho dân, sự sống ấy bắt nguồn từ tình yêu hỗ tương giữa Chúa Cha và Chúa Con, vì trong Người, mệnh lệnh và tự do đồng nhất với nhau: "Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Đó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta "(Ga 10, 18).
Mục tử tốt lành thí mạng song vì chiên
Chúa Giêsu yêu thương con người bằng một tình yêu thí mạng khi tự ví mình là "mục tử tốt lành"sẵn sàng thí mạng vì đoàn chiên. Người nói thẳng: "Ta là mục tử tốt lành" (Ga 10, 11). Đối với Chúa Giêsu, tất cả là hiện tại, không có gì là quá khứ hay tương lai hết. Điều này đã được nói trong sách Khải Huyền: "Ta là Alpha và Ômêga chính là Ta, Chúa, Thiên Chúa phán, Ðấng đang có, đã có, và sẽ đến, Ðấng toàn năng!" (Kh 1,8). Và trong sách Xuất Hành: "Ngươi sẽ nói với con cái Israel thế này: "Ta có" đã sai tôi đến với các người!” (Xh 3,14).
"Ta là mục tử tốt lành". Từ "mục tử" có nguồn gốc từ động từ "chăn nuôi". Chúa Giêsu Kitô nuôi dưỡng chúng ta bằng chính thịt máu mình hằng ngày trong bí tích Mình Thánh. Khi Samuen hỏi Giêsê, cha của Đavít: "Các cậu này tất cả là con trai của ông sao?" Ông đáp: "Còn đứa nhỏ nhất nữa; này nó đang phải chăn cừu!" (1S 16,11). Đavít, một con người bé nhỏ và khiêm nhu, đã chăn sóc đoàn chiên mình như một người mục tử.
Chúng ta cũng đọc thấy trong sách Isaia: "Như mục tử, Người chăn đàn chiên của Người, cánh tay Người thâu họp chúng lại; Người bồng chiên con và dìu đi cừu mẹ nuôi con" (Is 40,11)... Quả thật, mục tử tốt lành dẫn chiễn tới đồng cỏ xanh tươi, tập hợp những con chiên yếu kém không thể đi được; vác chúng trên vai, ôm chúng vào lòng; như người mẹ bồng ẵm con thơ. Chúa Giêsu cũng làm như thế: hàng ngày, Người nuôi dưỡng chúng ta bằng những Lời Hằng Sống và các bí tích của Hội Thánh. Người giang cánh ta trên thập giá để thâu họp "con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một" (Ga 11,52). Người đón nhận chúng ta vào lòng nhân ái của Người, như mẹ hiền ấp ủ con thơ.
Thật là hình ảnh cụ thể tuyệt đẹp và đầy cảm động về một Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là những tạo vật, những con chiên của Ngài. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, được Chúa Cha phái đến, cũng tuyên bố: "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta" (Ga 10, 14 ).
Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi: tôi có phải là chiên của Chúa không? Nếu phải thì tôi có biết Chúa không và nếu biết thì biết thế nào? "Biết" ở đây, không có nghĩa là "biết" nhờ đức tin, nhưng là "biết" nhờ đức mến. "Biết" không có nghĩa là "biết" được diễn tả qua thái độ tin, nhưng là "biết" được diễn tả qua việc làm. Chính thánh Gioan Tông Đồ đã viết điều này và làm chứng ở nơi khác: "Ai nói mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đo là kẻ nói dối"(1 Ga 2, 4).
Vậy, ai chân thành đi theo Chúa Giêsu thì được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Đồng cỏ của đoàn chiên đây là gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn niềm vui, nơi có Thiên Chúa luôn hiện diện, nơi đây chiên theo Chúa và làm theo ý Chúa sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với bao công dân Nước Trời.
Trên đây là những lý do với nhiều lý do khác mà Giáo hội gọi Chúa nhật thứ IV Phục Sinh là Chúa nhật Chúa Chiên lành, đồng thời mời gọi con cái mình suy nghĩ đặc biệt về hình ảnh của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Vị Mục Tử Tối Cao đã hy sinh Mạng Sống Mình vì đoàn chiên.
Cầu cho các mục tử
Đối mặt với hiểm nguy, Chúa Giêsu không chạy trốn như lính đánh thuê, Người sẽ chết, nhưng cái chết của Người sẽ chiến thắng và sống mãi, Người sẽ thâu họp những con chiên tán mát khắc nơi về. Chúa Giêsu muốn không chỉ có các mục tử tiếp bước theo mình, Người còn muốn những người nam nữ dâng mình cho Chúa trong đời thánh hiến, đến lượt mình, cũng xả thân bảo vệ đàn chiên, đưa các con chiên lạc trở về. Người mong ước các mục tử vơi ơn Người trợ giúp sẽ hoàn thành trách nhiệm dẫn dắt đoàn chiên đến đồng cỏ Nước Trời.
Với chủ đề của Sứ Điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Gọi Năm 2015: "Xuất hành, kinh nghiệm nền tảng của ơn gọi". Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi "những người trẻ bước đi theo dấu chân của Ðức Giêsu, trong việc phụng thờ mầu nhiệm Thiên Chúa và quảng đại hiến thân cho người khác! đừng sợ ra khỏi chính mình và đặt mình vào một cuộc hành trình! " Chúng ta hãy khẩn cầu xin Ðức Trinh Nữ Maria, mẫu gương của mọi ơn gọi, đã không sợ hãi khi thưa tiếng "xin vâng" trước lời mời gọi của Thiên Chúa, đồng hành với chúng ta và dẫn dắt chúng ta. Amen.
32. Hiến mạng sống cho đoàn chiên
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Ga 10: 11-18: Chúa Giêsu nói: "Tôi chính là người mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên… Chúng sẽ nghe tiếng Tôi và sẽ chỉ có một đàn chiên và một Chủ chiên".
Tháng 3 năm 1980, Đức Cha Rômêrô, Tổng Giám Mục San Salvador ở Trung Mỹ đã cương quyết lên tiếng phản đối chính phủ vi phạm nhân quyền, vì đã ủng hộ giới địa chủ và đại tư sản áp bức bóc lột nông dân. Người dân ở đây tuyệt đại đa số là người công giáo (98%). Đức Cha đã đứng về phía nông dân để bênh vực quyền lợi cho họ, dù biết rằng hành động của Ngài có thể đưa Ngài đến chổ bị cầm tù và cả cái chết nữa. Nhưng, giống như Chúa Giêsu, Người Mục Tử nhân lành, Ngài sẵn sàng hiến mạng sống cho đàn chiên được sống và sống dồi dào, vì tin rằng đó là thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.
Ngày 24/3/1980, một tay súng bắn thuê đã hạ sát Đức Tổng Giám Mục Rômêrô trong lúc Ngài đang cử hành Thánh Lễ với giáo dân, đàn chiên của Giáo phận Ngài.
Thưa anh chị em,
Ngày xưa, ở Palestin, đề tài người mục tử xả thân cho đàn chiên là một nguồn hứng khởi cho các văn sĩ Thánh Kinh, khiến họ mô tả Thiên Chúa như một Mục Tử. Thiên Chúa đã xả thân cho Israel không khác gì người mục tử, vì thế tác giả Thánh Kinh đã hát lên:
"Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi,
Tôi chẳng thiếu thốn gì…
Dầu qua lũng âm u,
Tôi sợ gì nguy khốn,
Vì có Chúa ở cùng…"
Từ đó các nhà lãnh đạo tôn giáo của Israel thay mặt Chúa ở trần gian, cũng được ví như các vị mục tử. Tiếc thay, theo thời gian, vai trò lãnh đạo tôn giáo của Israel đã bị thoái hóa. Vào thời kỳ ấy, Ngôn sứ Êzêkiel đã nhân danh Chúa cảnh cáo các vị mục tử này: "Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi: các ngươi chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến đàn chiên. Các ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh tật, băng bó những con bị thương tích, dẫn về những con lạc đường, hoặc tìm kiếm những con lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, Vị Chủ Tể Tối Cao, Ta tuyên bố rằng… Ta sẽ tách đàn chiên ra khỏi các ngươi… Ta sẽ giao đàn chiên một Vị Vua, giống như Đavít, Tôi tớ Ta để làm Mục Tử và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc cho đàn chiên" (Ez 34,2-4,9-10.23).
Chúng ta phải đọc Tin Mừng hôm nay trong bối cảnh này. Chúa Giêsu nói: "Tôi chính là người mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên… Chúng sẽ nghe tiếng Tôi và sẽ chỉ có một đàn chiên và một Chủ chiên". Nói cách khác, Chúa Giêsu chính là nhân vật mà Ngôn sứ Ezêkiel đã tiên báo. Giống như Đavít, Người Mục Tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con chiên yếu đuối, bơ vơ, chữa lành những con bệnh tật và tìm kiếm những con lạc đường. Còn hơn thế nữa, Ngài hiến mạng sống cho đàn chiên của Ngài. Lại còn hơn thế nữa, Ngài đã sống lại từ cõi chết và chia sẻ sự sống phục sinh của Ngài cho đàn chiên. Đây chính là điều Thánh Gioan đã nói trong bài đọc 2 hôm nay: "Nhờ sự chết và sống lại của Chúa Kitô, không những chúng ta được ơn tha thứ tội lỗi, được cứu thoát mà còn được làm con cái Thiên Chúa từ bây giờ và sau này được nên giống như Thiên Chúa, được đồng vinh quang với Thiên Chúa nữa". Và trong bài đọc 1, Thánh Phêrô cũng quả quyết trước công nghị: "Không có Đấng Cứu Độ nào khác ngoài Đức Giêsu. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, vì dưới bầu trời này, ơn cứu độ không gặp được ở một ai khác".
Như thế, nhờ mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, chúng ta hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn Người Mục Tử nhân lành một cách sâu xa hơn: Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, Ngài đã cứu chúng ta là đàn chiên của Ngài khỏi phải chết. Ngài đang hiện diện giữa thế giới chúng ta để tập họp chúng ta lại thành một đàn chiên của Ngài và ban cho chúng ta sự sống đời đời, để chiên của Ngài nghe tiếng Ngài, đi theo Ngài, thì "không bao giờ phải diệt vong, không ai có thể giựt khỏi tay Ngài được" (Ga 10,28).
Anh chị em thân mến,
Chúa Nhật hôm nay được chọn làm ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục, Tu sĩ. Cầu nguyện và hoạt động để có nhiều, có thêm số các mục tử. Làm mục tử là chăn dắt với Chúa Kitô, phụ một tay cho Chúa Kitô, chia sẻ công việc chăn dắt của chính Chúa Kitô. Chỉ có Chúa Kitô là Mục Tử nhân lành duy nhất, còn các mục tử khác chỉ là thay mặt Ngài mà chăn dắt đàn chiên của Chúa. Hơn nữa người mục tử vẫn là chiên của Chúa Kitô, cũng phải được chính Chúa Kitô chăn dắt. Như thế, không phải chỉ có các giám mục, linh mục mới là mục tử, nhưng là mọi người tín hữu cũng là "mục tử" theo gương Người Mục Tử nhân lành là Chúa Kitô, vì Ngài đã trao phó trách nhiệm chăn dắt đàn chiên cho chúng ta, cho từng người tín hữu trong phạm vi, trong lãnh vực của mình. Dù là Giám mục, Linh mục, Tu sĩ nam nữ hay giáo dân, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm về những người chung quanh, và do đó, chúng ta là "mục tử" trong mức độ trách nhiệm của chúng ta: cha mẹ có trách nhiệm với lợi ích thể xác và tinh thần của con cái ; các thành viên trong gia đình có trách nhiệm với nhau. Các thầy, cô có trách nhiệm với các học sinh ở trường, lớp. Các viên chức từ xã ấp đến chủ tịch hay tổng thống đều có trách nhiệm nặng nề với nhân dân. Cũng thế, cha sở có trách nhiệm với mọi người trong họ đạo, gồm cả người chưa tin, người trễ nãi, người bỏ đạo. Các tu sĩ nam nữ phụ trách các cộng đoàn lớn nhỏ đều có trách nhiệm với các thành viên của cộng đoàn và các thành viên của cộng đoàn giáo xứ, dòng tu, cũng có trách nhiệm với nhau. Đức Giám Mục cũng có trách nhiệm với mỗi người trong Giáo Phận của Ngài. Đức Giáo Hoàng có trách nhiệm trên toàn thể thế giới. Trách nhiệm vô cùng nặng nề !
Và vì là mục tử, chúng ta phải biết đến nhu cầu của người khác. Biết nhìn, biết chăm lo, biết dấn thân phục vụ đến độ sẵn sàng thí mạng sống cho anh em theo gương Người Mục Tử nhân lành như Đức Tổng Giám Mục Rômêrô đã hiến mạng sống cho giáo dân trong Giáo phận San Salvador của Ngài. Với ý thức trách nhiệm mục tử, người tín hữu không còn sống cho riêng mình nữa, không còn được phép mưu lợi cho cá nhân mính nữa. Là kitô hữu, linh mục, tu sĩ hay giáo dân, tôi phải là mục tử, tôi phải chăn dắt đàn chiên Chúa giao phó cho tôi: gia đình tôi, cộng đoàn tôi, giáo xứ tôi, giáo phận tôi, đồng nghiệp, đồng bào tôi. Có hoàn thành trách nhiệm chăn dắt theo ý Chúa, tôi mới tìm được hạnh phúc đích thực hoàn toàn.
Anh chị em hiệp ý với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hãy cầu xin cho các kitô hữu thực sự là đàn chiên của Chúa, đồng thời là mục tử theo gương Chúa Kitô, trong khi thi hành chức vụ của mình, và cho Giáo Hội có thêm nhiều người biết dấn thân theo lời mời gọi của Chúa, trở nên những mục tử nhiệt thành, biết quên mình phục vụ đàn chiên. Với tâm tình này, chúng ta dâng Thánh Lễ như tiến vào đồng cỏ xanh tươi, suối nước mát trong, để được nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Chúa Kitô và được hạnh phúc sống dưới sự chăn dắt chở che của Ngài.
33. Chúa chiên lành.
Có một chàng sinh viên, sau khi tốt nghiệp đại học, đã không chọn cho mình một ngành nghề chuyên môn, nhưng lại đi chăn cừu thuê. Anh cho biết: Mỗi ngày anh phải làm việc tới mười tám tiếng đồng hồ và làm tất cả bảy ngày trong tuần. Suốt thời gian ở trên núi, anh hoàn toàn cô đơn, chỉ bầu bạn với chú chó, chú ngựa và hai ngàn con cừu.
Mỗi tuần một lần, người ta đem đến cho anh thực phẩm, thư từ và đạn dược. Công việc của anh là làm sao giữ cho đàn cừu được ở chung một chỗ, dẫn chúng đến nơi có cỏ và có nước, đồng thời bảo vệ chúng khỏi thú dữ.
Anh kể: một buổi sáng nọ, có một nhóm cừu tự rời khỏi bày, thế là tôi phải bỏ tất cả thời gian để lần theo dấu vết của chúng. Ngay khi vừa mới tìm thấy, thì một cơn mưa bão ập xuống, khiến tôi và những con cừu vừa ướt lại vừa bị lạnh cóng suốt đêm.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy nghề chăn cừu thời nay thật là khó khăn và cực nhọc. Nhưng ngày xưa, khi chưa có súng đạn thì công việc của họ không chỉ cực nhọc mà còn rất nguy hiểm nữa.
Trong sách Samuel, Đavid đã trả lời cho nhà vua trước lúc giao tranh với Goliath như sau: Tâu bệ hạ, thần đã từng chăm sóc đàn cừu của phụ thân, bất cứ khi nào có một con sư tử hay một con gấu cướp đi một con cừu, thì lập tức, thần rượt theo và tấn công nó để cứu con cừu. Nếu con sư tử hay con gấu ấy quay vào tấn công thần, thần sẽ xông tới, chộp cổ họng và đánh nó cho đến chết. Thần đã giết nhiều sư tử và gấu. Thần cũng sẽ làm như vậy với tên Philitinh ngoại đạo này.
Từ những mẩu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay, trong đó Chúa đã nói: Ta là mục tử nhân lành, sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên. Nói cách khác Chúa Giêsu chính là vị mục tử mà tiên tri Egiechiel đã loan báo: Ngài chăm sóc những con bơ vơ yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn và đi tìm những con bị lạc. Chúa Giêsu còn làm hơn thế nữa, Ngài tự hiến mạng sống cho đoàn chiên. Và từ cõi chết sống lại, Ngài đã chia sẻ vinh quang Phục sinh cho đoàn chiên của Ngài. Từ đó chúng ta hãy rút ra một vài điểm thực hành:
Điểm thứ nhất, đó là hãy tỏ lòng biết ơn Ngài vì nhờ sự chết và Phục sinh, Ngài đã cứu chúng ta khỏi manh mối của thú dữ là ma quỷ và tội lỗi.
Điểm thứ hai, đó là hãy bước đi dưới sự dẫn dắt của Ngài, nhờ vậy mà chúng ta chẳng bao giờ bị lầm đường lạc lối. Trái lại, cuộc đời chúng ta sẽ được bảo đảm an toàn, bởi vì như lời thánh vịnh cũng đã xác quyết: Chúa là Mục tử, Ngài dẫn lối chỉ đường cho con đi. Đi trong tay Chúa nào con thiếu chi con sợ chi. Cỏ non rợn đồng xanh con không bao giờ thiếu suối nước trường sinh con nghỉ uống no đầy.
34. Mục Tử Nhân Lành- ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoan cảnh sinh sống của chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta. Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để rang buộc ta nhưng để giúp ta sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Nguơì cung cấp cho ta những lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên. Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.
Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.
Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân. Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.
Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.
Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đức Giêsu hướng dẫn đoàn chiên bằng cách nào? Bằng quyền lực hay bằng tình yêu thương?
2- Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Đức Kitô.
3- Bạn có cảm thấy trách nhiệm là mục tử của mình không? Bạn đã đối xử với đoàn chiên của mình thế nào?
4- Bạn nghĩ gì về đời sống tu trì? Bạn có cầu nguyện cho cha Xứ của bạn không?
35. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: TÌNH YÊU THIÊN CHÚA ĐỐI VỚI CHÚNG TA
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Mỗi năm, Giáo Hội dành ngày Chúa nhật thứ IV mùa Phục sinh để nhắc cho chúng ta biết Đức Giêsu là mục tử nhân lành rất yêu thương chúng ta là những con chiên của Ngài. Ngài chăm sóc chúng ta và dẫn chúng ta đến cuộc sống hạnh phúc muôn đời.
Ngày hôm nay cũng là ngày Giáo Hội trên toàn thế giới cau nguyện cho ơn thiên triệu.
Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu biết hơn về tình yêu của Ngài ; đồng thời chúng ta cũng cầu nguyện cho có nhiều người trẻ hiến thân làm Linh mục để tiếp nối sứ mạng Đức Giêsu là làm mục tử chăm sóc đoàn chiên Ngài.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Chúng ta là những con chiên được Đức Giêsu là mục tử nhân lành dẫn dắt. Nhưng nhiều khi chúng ta không ý thức tình thương Chúa luôn bao bọc cuộc sống chúng ta.
Đôi khi chúng ta còn tỏ ra là những con chiên bướng bỉnh không đi theo sự dẫn dắt của Chúa.
Chúng ta ít quan tâm đến việc khuyến khích và nuôi dưỡng các ơn thiên triệu.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Cv 4,8-12
Sau khi Phêrô chữa cho một người què được khỏi, ông bị bắt dẫn ra trước Thượng Hội Đồng Do thái giáo cùng với bạn đồng hành là Gioan.
Trước Thượng Hội Đồng, Phêrô xác nhận người què ấy được khỏi không phải do quyền phép gì riêng của ông mà chỉ nhờ danh thánh Đức Giêsu.
Nhân dịp đó, Phêrô giảng về Đức Giêsu: Ngài đã bị các thủ lãnh do thái giết chết, nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại và tôn vinh Ngài lên đến tuyệt định vinh quang. Nhờ danh Ngài mà moi người được ơn cứu độ.
2. Đáp ca: Tv 117
(như Chúa nhật I Ps)
Thánh vịnh này là tâm tình của người đã cảm nghiệm được tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Quyền năng và tình thương ấy đã chiến thắng tất cả, cho dù la khổ đau, là chết chóc. Tác giả muốn sống mãi để có thể ca tụng Thiên Chúa đến muôn đời.
3. Tin Mừng: Ga 10,11-18
Đức Giêsu xưng mình là mục tử tốt lành. Ngài cũng phân biệt mục tử tốt lành và người chăn chiên thuê:
Những đặc tính của Người mục tử tốt lành: a/ thí mạng sống vì chiên ; b/ biết các con chiên và được các con chiên biết ; c/ muốn quy tụ những con chiên khác ở ngoài vào đàn chiên mình, để rồi sẽ chỉ có một đàn chiên va một chủ chiên.
Kẻ chăn chiên thuê chẳng tha thiết gì đến đàn chiên. Hắn ưu tiên lo cho bản thân nên khi gặp nguy hiểm thì bỏ mặc đàn chiên để chạy trốn.
4. Bài đọc II: 1 Ga 3,1-2
Thánh Gioan nói đến mức độ to lớn vô cùng của tình yêu Thiên Chúa dành cho tín hữu:
Hiện nay Thiên Chúa cho chúng ta làm con của Ngài.
Sau này Ngài còn cho chúng ta được giống như Ngài.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Mục tử tốt lành
Dưới thời bạo Chúa Nêrô bắt đạo. Roma ngập tràn máu lửa, biết bao tín hữu đã chết dưới tay ông vua điên loạn, bạo tàn.
Giáo hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục dẫn dắt đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin? Thầy đã chẳng khuyen khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi:
- Quo vadis, Domine? Thưa Thầy, Thầy đi đâu?
- Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.
Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lệ đoàn chiên, và để chịu đóng đinh thập giá như Thầy.
"Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì đoàn chiên" (Ga.10,11). Đức Giêsu ví mình như một mục tử tốt lành khác với người chăn thuê, vì người đã dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Cái chết của Người không bất ngờ, cũng không đầu hàng bạo lực, nhưng là một cái chết tự hiến. Đức Giêsu chết để nói nên lời yêu thương. Một tình yêu tột đỉnh, yêu cho đến cùng. Thánh Gioan viết: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình" (Ga.15,13).
Chính tình yêu đã tạo nên mối dây gắn bó giữa chủ chiên và từng con chiên, khiến Người nói: "Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta" (Ga.10,14-15). Đó là sự hiểu biết nhau sâu xa, sự trân quí giữa mục tử va đoàn chiên.
Đức Giêsu là mục tử duy nhất, tối cao và gương mẫu. Các mục tử khác chỉ là phụ tá giúp chăn dắt đoàn chiên của Người. Mọi mục tử phải noi gương Người, dám chết cho đoàn chiên được sống. Phêrô là người mục tử đầu tiên. Phêrô có thể trốn bắt bớ, tù tội, chết chóc. Nhưng chính khi đổ máu, Phêrô đã giữ vững đoàn chiên. Cái chết của Phêrô đã có sức thuyết phục hơn bất cứ lời rao giảng nào: "Thầy làm vững đức tin của con. Rồi đến lượt con, con sẽ làm vững đức tin của anh em con". Các mục tử tiếp bước Phêrô vui lòng nằm xuống để nên nhân chứng, và củng cố niềm tin cho các anh em.
Dụ ngôn người "Mục tử tốt lành" cho thấy tình yêu sâu sắc của Thiên Chúa.
Người yêu thương mỗi người một cách cá biệt, không yêu cách chung chung.
Người yêu thương vô điều kiện, ngay cả khi chúng ta lầm đường lạc lối.
Người yêu thương bằng tình yêu vui mừng, chứ không la rầy khiển trách khi tìm thấy chiên lạc.
Ngày nay, Đức Giêsu vẫn cần những vị mục tử tốt lành lo cho đoàn chiên trên thế giới. Người rất cần các bạn trẻ hiến thân cho sứ mạng mục tử này. Người mời gọi chúng ta hãy nhìn bằng trái tim yêu thương, để thấy những cơn đói Lời Chúa, đói tình thương, đói của ăn, đói ý nghĩa cuộc sống. Người kêu gọi chúng ta hãy tha thiết xin Cha cho nhiều mục tử tận tụy hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi hơn, và thanh đức hơn. Những mục tử sẵn lòng âm thầm chết từng ngày cho đoàn chiên.
***
Lạy Chúa, xin gởi đến cho chúng con những mục tử có trái tim của Chúa: luôn say mê Thiên Chúa và yêu thương con người, có tình bạn thân thiết với Chúa, dám hy sinh cho đoàn chiên, dẫn đưa chúng con về với Cha là nguồn hạnh phúc thật của chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 2. Ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và Tu sĩ
a/ Đối với người Việt chúng ta thì hình ảnh "chiên và người chăn chiên" không phải là một hình ảnh gần gũi, vì xứ sở chúng ta không thuộc vùng Cận Đông với nghề chăn nuôi chiên cừu như Pa-lét-tin xưa. Hơn nữa trong khi cả đất nước đang nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mà chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại câu chuyện "đàn chiên với mục tử", thì e rằng chúng ta bị coi là những người lạc hậu! Nhưng nếu đi sâu vào ý nghĩa và biểu tượng tôn giáo của hình ảnh "chiên và muc tử" thì chúng ta lại chẳng thấy lạc hậu tí nào. Vì chưng những người tin ở Thiên Chúa đều xác tín rằng họ luôn được Thiên Chúa và Chúa Ki-tô quan tâm và tận tình chăm sóc, không chỉ về phương diện tâm linh mà về mọi phương diện con người, không chỉ ở đời sau mà ở cả đời này lẫn đời sau. Mối tương quan gắn bó giữa người chăn và con chiên là hình ảnh sống động, cụ thể của mối tương quan giữa Thiên Chúa và người tín hữu.
b/ Những nét đac trưng của Vị Mục Tử nhân lành
Đức Giêsu đã công bố Người là Vị Mục Tử nhân lành, với những nét đặc trưng sau đây:
* Vị Mục tử nhân lành hết lòng yêu thương những người thuộc về mình. Vì yêu thương nên Người quan tâm đến mọi người và đến từng người. Càng quan tâm thì càng biết tường tận: biết họ muốn gì? họ cần gì? họ có thể gặp phải những nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào?
* Vị Mục tử nhân lành luôn đi đầu, đi trước tức hướng dẫn, lãnh đạo đoàn chiên, tức đứng mũi chịu sào, gánh chịu mọi khổ cực cho người thuộc về mình. Vị ấy sẽ đem chiên đến những miền an toàn, có suối mát và cỏ xanh, để chiên được ăn uống no nê, được nghỉ ngơi thoải mái. Chien sẽ tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Thậm chí vị Mục tử sẽ hy sinh mạng sống vì chiên.
c/ Lý do Hội Thánh lấy ngày chủ nhật Chúa Chiên Lành làm ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ:
Bản tin Hiệp Thông (tiếng nói của Hội đồng Giám Mục Việt Nam) số 11, ra ngày 15 tháng 02 năm 2002 (trang 8-9) cung cấp cho chúng ta những con số cụ thể và đáng chúng ta suy nghĩ trong ngày hôm nay:
(1): Tổng dân số của Việt Nam hiện là: 80.489.857 người (76.683.203 dân tộc kinh + 3.806.654 dân tộc thiểu số). (2): Tổng số công giáo của 25 giáo phận: 5.324.492 người (5.065.105 dân tộc kinh + 259.387 dân tộc thiểu số). (3): Tổng số linh mục của 25 giáo phận: 2.526 Lm (2.133 triều + 393 dòng). (4): Tổng số tu sĩ trong 25 giáo phận: 11.282 Ts (1.524 nam + 9.758 nữ). (5): Tổng số chủng sinh của 25 giáo phận: 1.765 Cs (1.044 đang học + 318 học xong + 403 dự bị). (6): Tổng số giáo lý viên của 25 giáo phận: 45.858 Glv (671 giáo phu + 219 có lương + 44.968 không có lương).
Nếu chia bình quân số giáo dân cho số linh mục (triều dòng, khoẻ yếu) thì một linh mục phải phục vụ 2.107 giáo dân. Nếu chia bình quân tổng số dân Việt Nam cho số linh mục (triều dòng, khoẻ yếu) thì một linh mục phải phục vụ 31.865 người. Nếu chia bình quân số giáo dân cho số tu sĩ (nam nữ, khoẻ yếu) thì một tu sĩ phải phục vụ 472 giáo dân. Nếu chia bình quân tổng số dân Việt Nam cho số tu sĩ (nam nữ, khoẻ yếu) thì một tu sĩ phải phục vụ 7.134 người. Nếu chia bình quân tổng số người VN không công giáo cho tổng số người VN công giáo thì một người VN công giáo phải giúp cho 14 người VN không công giáo biet Chúa và gia nhập Giáo hội.
Nguyên nhìn vào những con số trên, chúng ta cũng đã thấy được nhu cầu to lớn về nhân sự của Giáo hội Việt Nam trong sứ mệnh sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng mà Giáo hội đã nhận được tư chính Chúa Giê-su. Đã đành rằng ngày nay trách nhiệm sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng không chỉ của riêng các linh mục, tu sĩ mà của mọi Ki-tô hữu. Nhưng các linh mục, tu sĩ vẫn là lực lượng quan trọng nhất, là lực lượng nòng cốt và đầu tầu trong lãnh vực này. Thế nhưng ơn gọi linh mục, tu sĩ càng ngày càng giảm sút trong các Giáo hội địa phương, thậm chí giảm trầm trọng trong một số Giáo hội. Riêng tại Việt Nam, thì tình hình có mấy nét riêng sau đây: (1) Việc thanh niên nam nữ muốn vào chủng viện, dòng tu còn gặp nhiều cản trở từ những qui định của Nhà Nước. (2) Việc các Giám mục, Dòng tu gửi các linh mục, tu sĩ đến nơi cần gửi, đặc biệt đến vùng sau vùng xa, cũng chẳng dễ dàng gì. (3) Ơn gọi tu trì đã có dấu hiệu sút giảm ở thành thị, nhất là ở các quận nội thành.
Vì thế cho nên chúng ta không chỉ cầu xin Thiên Chúa ban cho Giáo hội -nhất là Giáo hội Việt Nam- nhiều linh mục, tu sĩ tài đức thánh thiện, nhiệt thành mà chúng ta còn phải nài xin Thiên Chúa tạo thuận lợi cho các ứng sinh linh mục tu sĩ được đào tạo đến nơi đến chốn và cho các linh mục tu sĩ có điều kiện cần thiết để thực thi sứ vụ của mình. (Giê-rô-ni-mô Nguyễn Văn Nội).
3. "Tình yêu, con đường duy nhất để đến với thế giới bất tín".
"… Thánh nữ Têrêxa đã mở ra cho chúng ta con đường duy nhất để đến với thế giới những người không tin: đó là tình yêu. Không ai có thể sống thiếu tình yêu. Trước tấm thảm kịch của thuyết nhân bản vô thần, thảm kịch, vì do nhân danh một tư tưởng cao cả của nhân loại mà con người đã khước từ Thiên Chúa, mọi Kitô hữu, mọi Linh mục, mọi tu sĩ đều bồn chồn lo âu (…) thánh Phanxicô đệ Salê đã nói: "Tất cả đều dành cho tình yêu, đều ở trong tình yêu, đều vì tình yêu và đều phát xuất từ tình yêu trong Giáo hội". Nhưng cái chân lý cao cả ấy hau như đã bị lãng quên, đã bị thuyết Jansénisme khô cằn ngăn chận. Chỉ có người nữ tu dòng kín trẻ trung thành Lisieux đã nhắc ta nhớ lại chân lý ấy trong nét tươi tắn của thái độ Ngài hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Hon thê của Đấng chịu đóng đinh và đã vì yêu mà tự nộp mình cho ta, chính thị cũng dâng hiến cho Người tình yêu vì tình yêu, như vị hôn thê dâng hiến cho hôn phụ. "Trong trái tim giáo hội tôi sẽ là tình yêu" thế là đã rõ, mot xác quyết như thế đụng chạm tới tất cả mọi người ở thế kỷ XX của chúng ta vì chúng ta không biết yêu và được yêu trong chân lý (…)
Thánh Nữ Têrêxa luôn luôn là, tôi dám nói, một âm vang đích thực của Trái tim Thiên Chúa cho thời đại chúng ta, cho mỗi người chúng ta. Dù ta là ai, ta đã được tạo thành để sống tình yêu Thiên Chúa, tình yêu đã trao ban sự sống cho ta. Ta đến từ Thiên Chúa và ta lại trở về với Người, Người là Đường la Sự Thật và là sự sống. Công đồng Vatican II đã mạnh mẽ nhắc lại điều này. Sử gia mai ngày có thể thắc mắc "Giáo hội thời Công đồng đã làm gì?" Đức Phaolô VI đã trả lời họ ngay từ ngày 14.9.1965: "Giáo hội yêu, giáo hội yêu, yêu bằng trái tim mục tử, yêu bằng trái tim đại kết, yêu bằng trái tim rộng mở đón nhận mọi người kể cả những người bắt bớ giáo hội". Ta nên tìm lại cái trực cảm quan trọng ấy của Đức Phaolô VI. Đó cũng la trực cảm của thánh nữ Têrêxa thành Lisieux: "Giáo hội là Đức Kitô và Đức Kitô là tình yêu". Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.
Thánh nữ Têrêxa đã khơi gợi hàng ngàn, hàng ngàn ơn gọi làm Linh mục trên khắp thế giới. Những Linh mục ấy đã tìm thấy nơi thánh nữ một tình yêu tuyệt đối dành cho Đức Giêsu và tình yêu Giáo hội, một ý nghĩa sâu xa trong kinh nguyện và trong sứ mệnh truyền giáo trên khắp hoàn cầu, một sự kết hợp bằng chiem niệm và hoạt động, một mẫu gương dùng con đường tình yêu bé nhỏ và phó thác, đường nên thánh trong cuộc sống hằng ngày. Ngày nay, thánh nữ Têrêxa vẫn tiếp tục làm phong phú tác vụ của các Linh mục, đặc biệt là nhưng Linh mục trẻ bị cuốn hút bởi sứ điệp tình yêu giữa lòng Giáo hội (…)
Tất cả hành trình đức tin thâu tóm trong đức cậy và đức ái. Niềm tin là niềm hy vọng của tình yêu, tin là hy vọng vào tình yêu. Phải chăng vai trò đã được quan phòng của sứ điệp của thánh nữ Têrêxa, ở ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ 3, chính là trả lại cho ta tình yêu và niềm hy vọng? Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Tình yêu là để yêu thương. Trong lãnh vực tình yêu, thánh nữ Têrêxa là bậc thầy linh đạo trong tình yêu, không có dè dặt, không có tính toán, không có trung dung, không có quân bình vì con người chẳng bao giờ có thể yêu Thiên Chúa cho xứng với tình Ngươi yêu ta (…).
Một nữ tu hỏi thánh nữ Têrêxa: "Chị nói gì với Đức Giêsu?" Chị thánh trả lời: "Em không nói gì hết, em yêu Người", Chỉ tình yêu là quan trọng. (Đức Hồng Y P.Poupard, tài liệu cho ngày ơn thiên triệu. Trích dẫn bởi Fiches dominicales, năm B)).
4. "Trong trái tim Giáo hội, tôi sẽ là Tình yêu"
(Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng, bản văn được trích dẫn trong tài liệu của Ủy ban quốc gia về ơn thiên triệu).
"… Sau cùng con đã tìm thấy an nghỉ… tìm trong thân thể mầu nhiệm của Giáo hội, con chẳng thấy mình trong bất cứ chi thể nào đã được thánh Phaolô miêu tả, đúng hơn con muốn có mặt trong tất cả những chi thể ấy… Đức Ái đã cho con chìa khóa ơn gọi của con. Con hiểu rằng nếu giáo hội có một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, chi thể quan yếu nhất, cao cả nhất không thể thiếu được, con hiểu đó là Trái Tim và Trái Tim đó cháy đỏ Tình yêu. Con hiểu rằng chỉ có Tình yêu mới làm cho các chi thể của Giáo hội hoạt động và nếu tình yêu vụt tắt, các Tông đồ sẽ thôi không loan báo Tin mừng, các thánh tử đạo sẽ từ chối đổ máu… Con hiểu rằng Tình yêu phủ trùm lên mọi ơn gọi và tình yêu là tất cả, bao gồm mọi không gian và mọi thời gian. Tắt một lời, Tình yêu là vĩnh cửu!
Thế là, trong niềm vui tột đỉnh, con kêu lên: "Ôi Giêsu, Tình yêu của con… ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là Tình yeu!…
Phải rồi, con đã tìm được vị trí của con trong Giáo hội. Chỗ ấy, ôi Lạy Chúa, chính Chúa đã ban cho con… Trong Trái Tim Giáo hội, thưa Mẹ, con sẽ là Tình yêu… như thế con sẽ là tất cả… như thể giấc mơ của con đã thành hiện thực!!!..."
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục và tu sĩ, chúng ta cầu xin Chúa sai đến đoàn chiên Chúa những chủ chăn tốt lành như lòng Chúa mong muốn.
1. Chúng ta hãy cầu xin cho mọi thành phần trong Hội thánh / đều tích cực quan tâm đến việc nâng đỡ, đào tạo và chọn lựa những người xứng đáng với ơn gọi làm Linh mục và tu sĩ.
2. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho tất cả nhưng ai đang thi hành trách nhiệm làm Mục tử trong Hội thánh / biết noi gương Đức Giêsu là mục tử tốt lành / sẵn sàng hiến thân chăm lo cho đoàn chiên Chúa đã trao phó cho mình.
3. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người trẻ biết lắng nghe tiếng gọi của Chúa / và quảng đại đáp trả tiếng gọi ấy / để dấn thân vào đời sống giáo sĩ và tu sĩ
4. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người làm cha mẹ trong họ đạo chúng ta / biết giáo dục và hướng dẫn con cái sống tinh thần Tin mừng / để cống hiến cho Hội thánh những mầm giống ơn gọi tốt lành.
Chủ tế: Lạy Chúa, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, xin cho chúng con biết rộng rãi góp phần vào việc đào tạo Linh muc và tu sĩ, bằng lời cầu nguyện, và bằng sự giúp đỡ nhiệt tình. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
36. Chúa Giêsu - Mục Tử Nhân Lành
(Suy niệm của Lm. Barnaba Lê An Phong, SDB)
Từ Phúc Âm của Thánh Gioan, chúng ta nghe lại lời của Chúa Giêsu về Mục Tử Nhân Lành trong cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó, đặc biệt là nhóm Pharisêu. Sau khi xác nhận những khác biệt cơ bản giữa các mục tử that và mục tử giả hiệu (Ga 10, 1-18), Chúa Giêsu đã tuyên bố những yếu tố quan trọng mối quan hệ giữa người tin vào Người và bản thân Người, giữa người chăn chiên tốt lành với đàn chiên của mình. Chúng ta suy niệm với nhau hai điểm sau đây.
Về người chăn chiên
- “Chiên của tôi nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” Biết là động từ diễn đạt cho chúng ta hay về hoạt động của lý trí, của việc nắm bắt một thực tại. Mục Tử Nhân Lành biết đàn chiên của mình. Người không chỉ biết số lượng (100 con), biết tính toán (99 con tốt và 01 con lạc đàn). Ngài còn nhận biết chiên của mình, cả con tốt lành, ngoan hiền lẫn con làm loạn, hư đốn; biết những con đau yếu và cả những con mạnh khỏe.
Là một mục tử tốt lành, Chúa Giêsu còn biết nhiều hơn cùng với việc “lắng nghe” và “dõi theo” đàn chiên; nhưng việc nhận thức ấy không là “kiến thức thực tế” theo kiểu của một giám sát viên đang theo dõi một hoạt động xây dựng, của một công an đang theo người phạm luật giao thông, của một thẩm phán đang xét xử. Chúa Giêsu - Mục tử nhân lành biết đến chiên của mình như một người có sự dịu dàng của mot người mẹ khi bà dành cho cậu con trai nhỏ của mình sự nâng đỡ hướng dẫn, chăm sóc; và giống như của một người cha đã nhìn thấy trước và chuẩn bị tương lai cho những đứa con của mình, khi ông biết sức lực và tài năng, biet cả những cố gắng, những thành công và những thất bại của chúng... Đây là “kiến thức của cõi lòng” (sapientia cordis) của người chăn chiên tốt biết đàn chiên và từng con chiên của mình.
- “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời, chúng sẽ không bị hư mất mãi mãi và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”. Mục tử nhân lành đã khẳng định một sự thật tuyệt đối: Người sẽ sử dụng tất cả sức mạnh của mình để giữ an toàn cho con chiên của mình.
Nhưng với sức mạnh nào mà Chúa Giêsu Mục tử nhân lành giữ lấy chiên của mình? Vị Mục tử Nhân lành yêu thương và đối xử tốt lành với từng con. Sợi dây làm hàng rào nơi ràn chiên và giữ chúng lại trong đàn là tình yêu thương và sự quan tâm, là việc hy sinh bản thân mình cho cuộc sống của đàn chiên bằng cách chết trên thập tự giá. Và đây chính là sức mạnh của Mục tử nhân lành, cũng là sức mạnh của Thiên Chúa Cha, bởi vì “Tôi và Chúa Cha là một”.Và Người làm điều hy sinh lớn lao đó không chỉ cho bản thân mình, nhưng làm như vậy vì Thiên Chúa, nhân danh Chúa Cha và với tất cả thẩm quyền của Chúa Cha.
- “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời và sẽ không bị hư mất mãi mãi”. Đây là công việc và tất cả kết quả trong tay của Mục tử nhân lành. Việc bảo vệ và hướng dẫn đàn chiên là hành động nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho đàn chiên. Đó là một cái gì đặc biệt, nhiều hơn, cao hơn, sâu hơn so với những gì thuộc thế giới này mà vị mục tử nhân lành muốn làm cho đàn chiên – sự sống đời đời. Đó phải đích đến cho một thế giới khác, là sự sống nơi Thiên Chúa và Vương quốc tình yêu của Ngài.
Về đàn chiên
- “Chiên của tôi nghe tiếng tôi”. Lời Chúa như muốn chúng ta tự vấn: Mỗi người Kitô hữu luôn luôn là người biết lắng nghe? Đâu là lời mà họ muốn nghe từ chủ chăn của mình?
Lắng nghe phải là một thái độ đón nhận vàchuyển hoá lời đó qua hành động. Đối với chúng ta, Chúa Chiên Lành được coi là Thầy dạy căn bản và đầu tiên. Người là Ngôi Lời của Thiên Chúa, và Lời của Người đồng thời cũng là điều cần thiết cho cuộc sống chúng ta. Trong Ngài, đàn chiên còn được nghe lời yêu thươngvà từ ái của một Thiên Chúa – Đấng giàu lòng xót thương.
- “Tôi biết chúng và chúng biết tôi”: Như đàn chiên thuộc về Đức Kitô, chúng ta biết gì về Mục tư của mình? Bước theo Mục Tử Nhân Lành, chúng ta phải đi theo một cuộc hành trình: Thông qua Bí tích rửa tội, mỗi con chiên có thể bước đi bằng đức tin của mình với Chúa Giêsu; nhưng đích đến của cuộc hành trình vẫn còn xa. Sống trong đàn chiên là Giáo Hội và từng bước, từng bước trong đời sống hằng ngày, người kitô hữu phải tiến về phía trước theo lời mời gọi của Mục tử -Đấng yêu thương họ: Đó là sống theo Tin mừng, tập luyện đời sống nhân đức và luôn bước đi trên con đường ngay chính, hướng về sự thiện hảo là chính Thiên Chúa, không tách mình ra khỏi đàn chiên, không rẽ ngang bước tắt trên đường đi vì những đam mê và tính toán và lợi ích của riêng mình…
Trong ngày lễ Chúa Chiên lành, chúng ta cùng cầu nguyện cho các mục tử và cầu nguyện cho ơn gọi.
Những lời nói của Chúa Giêsu đã từng gây sốc cho người Pharisêu, bởi vì đôi tai và trái tim mục tử của họ đã khô cứng theo mô hình trong Cựu Ước. Khi mà vị trí của họ được coi là thầy dạy quan trọng và nắm trong tay quyền lực mạnh mẽ thì họ đã không muốn thay đổi, không muốn yêu thương, cũng như không muốn nhìn thấy sự hiện diện đầy yêu thương của vị Mục tử là chính Đấng Cứu thế. Lời cảnh cáo của Đức Giêsu Mục tử tiếp tục gây sốc cho nhiều mục tử của Giáo Hội ngày nay, trong công việc mà thường được gọi là “mục vụ”. Chúng ta hãy cầu nguyện cho điều nay: Cầu cho các mục tử ai ai cũng biết sứ vụ quan trọng của mình, nhận biết đàn chiên và từng con chiên, biết sử dụng sức mạnh của tình yêu thương và sự hy sinh để canh giữ đàn chiên, và biết quan tâm hơn cho sự sống đời đời của đàn chiên.
37. Mục tử nhân lành
Ở Trung Đông, người ta sống bằng nghề chăn nuôi, chủ yếu là chiên và cừu. Tổ phụ Abraham và con cháu ông đều có những đàn chiên, đàn cừu khổng lồ. Vua Đavid, khi còn là một cậu bé tóc hung, cũng đã đi chăn giữ đoàn chiên của cha cậu. Và cũng từ giữa đàn chiên, Thiên Chúa đã gọi Đavid và xức dầu cho cậu làm vua. Đối với dân Do thái, hai chữ mục tử còn được dùng để chỉ những vị lãnh đạo của dân Chúa.
Đức Kitô, Con Thiên Chúa xuống thế làm người giữa một dân tộc đã bao phen bị chiếm đóng, bị lưu đày. Và thời bấy giờ đang bị đế quốc Rôma đô hộ. Dân chúng bơ vơ như đàn chiên không người chăn. Ngài thường cứu chữa nhiều người mắc những chứng bệnh nan y như phong cùi, bai liệt, mù lòa…Những người này vốn đã bị liệt vào phường tội lỗi, phải sống tủi nhục bên lề xã hội. Chúa Giêsu rất thương xót họ. Ngài chữa họ lành, để họ được trở về với cuộc sống bình thường của xã hội, an vui với gia đình.
Đức Kitô không phải chỉ chữa lành phần xác, mà còn chữa lành cả phần hồn. Ngài vừa là mục tử, lại vừa là Thiên Chúa, nên Ngài thấu suốt mọi tâm hồn. Từ một Giakêu thu thuế, tham ô xảo trá, đã được Ngài thức tỉnh lương tâm bằng một cái nhìn trìu mến và đôi lời trao đổi chân tình. Ngài không sợ dư luận quần chúng, khi bênh vực một cô gái điếm và dám để cho Mađalêna lấy tóc mình mà lau chân Ngài, giữa một bữa tiệc tại nhà ông biệt phái. Đức Kitô biết rõ đây là những kẻ tội lỗi và chỉ có thể cứu chữa họ bằng tìnhyêu thương tha thứ.
Các thánh sử còn thuật lại nhiều chứng từ yêu thương khác nữa. Thề nhưng, chứng từ cao cả nhất của Chúa Giêsu, người mục tử nhân lành, chính là cái chết trên thập giá vì yêu thương chúng ta. Thực vậy, với tư cách người mục tử nhân lành, Chúa Giêsu đã chấp nhận cái chết ê chề và tủi nhục trên thập giá, để tỏ tình liên đới với đàn chiên khổ đau, và nhất là để cứu tất cả những con chiên còn đang lầm đường lạc lối.
Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện về cha thánh Đamiêng, vị tông đồ người hủi. Ngài là một linh mục đạo đức, thánh thien và nhiệt thánh. Ngài đã từ bỏ mọi sự, để lại sau lưng tất cả, dấn bước tới hải đảo Molokai, một hải đảo xa côi và hẻo lánh, một hải đảo biệt lập và được dành riêng cho những người mắc phong cùi. Ngài đã đến với họ, đã sồng giữa họ, đã chăm sóc và giúp đỡ họ, những người bất hạnh bị xã hội khai trừ. Cuối cùng chính ngài cũng đã mắc phải chứng bệnh này và đã chết ở giữa họ.
Chúa Giêsu vị mục tử nhân lành cũng đã đến với chúng ta, sống giữa chúng ta, đã chăm sóc và giúp đỡ chúng ta. Tất cả chúng ta đều được Ngài yêu thương, bởi vì tất cả chúng ta đều là con cái Chúa Cha, tất cả chúng ta đều là em của Ngài. Tất cả chúng ta đều là con chiên trong đàn chiên mà Ngài là vị mục tử nhân lành. Đồng thời, Ngài còn muốn tất cả chúng ta cũng lãnh nhận và chia sẽ trách nhiệm mục tử với Ngài. Có nghĩa là mỗi người chúng ta trong phạm vi và khả năng của mình, co gắng chăm sóc, yêu thương, giúp đỡ và phục vụ anh em, góp phần xây dựng một thế giới công bình và hạnh phúc, đề rồi chỉ còn một đàn chiên và một chủ chiên.
38. Rao giảng Đức Giêsu đã phục sinh
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Các tông đồ là những người đã được thấy và đụng chạm vào Đức Giêsu Phục Sinh. Vì thế, sứ mạng của các tông đồ là làm chứng điều mắt các ngài đã thấy và tai các ngài đã nghe: Đức Giêsu đã phục sinh. Chỉ nhờ Đức Giêsu phục sinh mà tất cả con người đươc cứu độ.
I. Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu từ cõi chết
Hôm nay, qua dịp chữa lành người tàn tật và rồi bị tra hỏi, Phêrô có dịp rao giảng tin mừng Đức Giêsu phục sinh trước mặt những người lãnh đạo dân Do Thái. Phêrô nói: “Xin tất cả quý vị và toàn dân Israel biết cho rằng: nhân danh Đức Giêsu Kitô, người Nazaret, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị” (Cv.4, 10). Phêrô không chủ ý kết tội những người đóng đinh Đức Giêsu, nhưng ngài xác định rõ Đức Giêsu là Đấng chính các vị lãnh đạo dân đã đóng đinh Ngài.
Phêrô còn rao giảng: “ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để nhờ danh đó mà tất cả chúng ta được cứu độ” (Cv.4, 12). Theo lời rao giảng của Phêrô, Đức Giesu là người của Thiên Chúa; và Thiên Chúa đã dùng Ngài là phương tiện duy nhất cứu độ con người. Từ ngữ “phương tiện cứu độ duy nhất” ở đây có thể được hiểu theo nghĩa, nếu có một phương tiện cứu độ nào đó, thì vẫn nhơ và qua Đức Giêsu Kitô.
Đức Giêsu là Đấng cứu độ duy nhất, phải chăng chỉ vì Thiên Chúa muốn vậy? Phải chăng Đức Giêsu cũng chỉ là một người như bao người khác, như bao trung gian khác, hay nơi Đức Giêsu còn có điều gì khac? Thiên Chúa muốn Đức Giêsu là trung gian cứu độ duy nhất, vì Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là Đấng Kitô, là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa.
II. Đức Giêsu là mục tử tốt lành
Đức Giêsu yêu thương con người. Ngài dung hình ảnh quen thuộc đối với người Do Thái để diễn tả tình yêu và sự quan tâm của Ngài đối với con người. Ngài như một mục tử chăn chiên, Ngài muốn con người sống an lành và triển nở, như một mục tử tốt lành bảo ve chiên khỏi nguy hiểm và chăn dắt để chiên được no đủ. Đức Giêsu đã dùng nhiều hình ảnh và nhiều cách để diễn tả tình yêu của Ngài đối với con người. Hình ảnh cây nho cành nho cũng là một hình ảnh rất thân thương được dùng để diễn tả tương quan giữa Đức Giêsu và con người.
Người chăn chiên tốt, là người dám hy sinh mạng sống vì đoàn chiên (Ga.10, 11); Đức Giêsu là người đã hiến mạng sống vì bạn hữu (Ga.15, 13). Bí tích Thánh Thể diễn tả cách thật đặc biệt tình yêu của Đức Giêsu đối với con người. Đức Giêsu yêu con người đến độ dám chết cho con người, dám hy sinh tất cả để con người được sống. Đức Giêsu là biểu tượng tình yêu của Thiên Chúa cho con ngươi.
Thiên Chúa yêu thương con người một cách đặc biệt qua Đức Giêsu. Ngày nay Thiên Chúa vẫn dùng nhiều người như dấu chỉ Ngài hiện diện và yêu thương con người hiện tại. Trong Chúa Nhật thứ tư Phục Sinh, Giáo Hội cho tín hưu nghe bài phúc âm về Chúa Chiên Lành; và Giáo Hội cầu nguyện đặc biệt cho ơn thiên triệu tu sĩ và linh mục. Xin Chúa tiếp tục khơi dậy và đánh động, để ngày nay có nhiều người quảng đại dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa qua việc phục vụ anh em mình.
III. Chúng ta là con Thiên Chúa
Mỗi người đều được Thiên Chúa tạo dựng và sinh ra qua cha mẹ mình. Một khi người cha người mẹ sinh ra con, cho dù người con đó chấp nhận hay phủ nhận, kính trọng hay khinh thường, thì cha mẹ người đó vẫn là cha mẹ người đó; vì thế, Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, cho dù người đó có biết hay không, có chấp nhận hay không, Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người, của Kitô hữu và của cả những người đang theo bất kỳ một tôn giáo nào.
Nếu vậy, Đức Giêsu Phục Sinh thêm gì cho hiểu biết và tương quan giữa con người và Thiên Chúa? Một khi người ta nhận ra chân tướng của Đức Giêsu, người ta sẽ nhận ra tương quan rất đặc biệt của Thiên Chúa đối với con người. Nếu Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa, hẳn Thiên Chúa phải yêu thương con người vô cùng nên Ngài mới cho Con Ngài nhập thể làm người. Con người không phải là tạo vật tầm thường, nhưng con người là một giá trị tuyệt vời đối với Thiên Chúa, chính vì thế Lời Thiên Chúa mới nhập thể làm người. Cái chết ô nhục của Đức Giêsu trên thập giá, làm người ta còn hiểu hơn tình yêu cua Thiên Chúa đối với con người. Con người là gì, mà Thiên Chúa đã cam chịu để con người hành hạ Con của Ngài như vậy!
Chính Đức Giêsu, theo tin mừng Yoan, cũng khẳng định Thiên Chúa yêu thương con người như yêu chính Ngài (Ga.17, 23.20). Và chính Đức Giêsu cũng khẳng định Ngài yêu thương con người như Thiên Chúa yêu thương Ngài (Ga.15, 9). Một người có thể là con nhưng không được yêu thương, chẳng hạn có những người cha người mẹ bỏ con mình. Qua và nhờ Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Thiên Chúa yêu thương con người như yêu thương Đức Giêsu, Con Một Yêu Dấu của Ngài. Đức Giêsu là Đấng mặc khải Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao các tông đồ lại rao giảng Đức Giêsu đã phục sinh?
2. Đức Giêsu phục sinh, điều này có đủ để chứng minh Ngài là Thiên Chúa không? Tại sao?
3. Thiên Chúa tạo dựng con người, điều này đủ để chứng tỏ con người là con Thiên Chúa. Vậy Đức Giêsu mang gì thêm cho khẳng định “chúng ta là con Thiên Chúa”?
39. Những con đường hy vọng – Rolland Dionne.
Xưa kia, người ta đã cầu nguyện cho các ơn gọi, và lúc ấy môi trường Kitô thuận lợi cho các ơn gọi. Cha mẹ hãnh diện dâng con cái cho Chúa. Sự trung thành không bị nghi ngờ, người ta dễ dấn thân trọn đời. Không thiếu cách tuyên truyền để khơi dậy các ơn gọi. Ngày nay, người ta ít cầu cho ơn gọi hơn. Ơn gọi rất hiem hoi. Các gia đình có ít con cái hơn. Những năm về sau này, nhiều trường hợp bỏ đời tu đã gây nên nghi ngờ đối với khả năng có thể triển nở trong việc phục vụ Chúa. Có bao nhiêu lý do giải thích sự thiếu hăng hái trong việc chiêu sinh.
Đâu là điều gì chúng ta phải quan tâm suy nghĩ trong ngày Chúa nhật cầu cho ơn gọi này? Đâu là những đường hướng cho tương lai? Người ta còn tin vào ơn gọi nữa không?
Đón tiếp giới trẻ.
Chúng ta đều biết đen những vấn đề của các thế hệ. Ta biết tất cả những nỗi khó khăn mà giới trẻ gặp trong việc tìm chỗ đứng của mình. Tuy nhiên, ta cũng biết rằng tương lai của Giáo Hội là giới trẻ. Đó là một giới trẻ còn có khả năng sống quảng đại và dấn thân, nhưng đòi hỏi ta phải tin tưởng nơi họ. Trong các chuyến viếng thăm của Ngài, Đức Giáo Hoàng đã cho chúng ta một gương mẫu về sự tin tưởng nơi giới trẻ. Người lắng nghe họ. Ngài nói với họ: “Các bạn là Giáo Hội… Các bạn có chỗ đứng của các bạn trong Giáo Hội… Đừng chờ người ta cho bạn chỗ đứng ấy. Hãy nắm lấy nó…” Không đón tiếp giới trẻ như thế, làm sao có ơn gọi được?
Chứng tá của những người lớn.
Tư vài năm nay, chứng tá đó mất đi giá trị bởi nhiều vụ cởi áo ra đi trong Giáo Hội của chúng ta. Giới trẻ đã trở thành người đa nghi. Ai lại liều mình dấn thân vào một cuộc sống không có hạnh phúc hoặc khó thể hiện chính mình.
Cách đây hai năm, một giám mục thành thật thú nhận với một vị khách rằng điều đã ảnh hưởng nhất đến các chủng sinh trẻ trong sự lựa chọn của họ, chính là niềm hạnh phúc giãi tỏa ra nơi cuộc sống của các linh mục cao niên. Một cuộc sống như thế vẫn là cách quảng cáo tốt nhất cho ơn gọi làm linh mục. Kẻ vui thích trong một bậc sống sẽ làm cho kẻ khác ưa thích bậc sống ấy.
Đồng hành với giới trẻ.
Ngày xưa người ta săn sóc giới trẻ như một cây non. Người ta chăm nom cho sự phát triển của họ. Người ta ân cần lo toan cho họ. Họ lớn lên về sức lực và vẻ đẹp. Ngày nay, có bao nhiêu người trẻ sống trong cô đơn và trong những gia đình thiếu vắng tình thương, họ gần như cây thiếu nước và không khí, họ èo uột. Việc đồng hành với giới trẻ trở nên cần thiết. Họ cần gặp Chúa nơi một người đồng hành.
Tin vào những tiếng gọi của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu tiếp tục gọi. Những lời mời gọi của Ngài cũng vẫn quyến rũ và đầy hứa hẹn cho tương lai. Chúng ta có quan tâm đủ để trình bày cho giới trẻ tương lai được chứa đựng trong những câu đáp đẹp đẽ của những kẻ Ngài đã gọi không? Câu đáp trả của Phêrô và Andrê em ông: “Và tức khắc, bỏ lưới, họ đi theo Ngài” (Mt 4,20). Câu đáp của Lêvi, người thu thuế: “Từ bỏ mọi sự, ông đứng dậy và theo Ngài” (Lc 5,28).
Chúng ta có trách nhiệm giới thiệu cho giới trẻ kinh nghiệm về Thiên Chúa. Lời mời gọi này đã thu hút bao nhiêu người nam, người nữ vẫn còn có thể lôi cuốn giới trẻ.
Tin tưởng vào việc cầu nguyện.
Việc cầu nguyện xem ra như là ít được thực hiện hơn xưa kia: “Hãy xin thì sẽ được”. Có lẽ tất cả những cuộc khủng hoảng mà chúng ta đã trải qua và những nẻo đường mới mẻ mà người ta phải tìm kiếm đều làm cho chúng ta quên cầu nguyện cho ơn gọi. Chúa nhật cầu nguyện cho ơn gọi nhắc nhở chúng ta về công việc cấp bách này.
40. Mục tử đích thực
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Có lẽ chúng ta quá quen với câu: “Chúa là Mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” [Tv 22 (23):1]. Câu này diễn tả sự an tâm thanh thản, thế nhưng chúng ta có thực sự thấy an tâm?
Dù chúng ta chỉ là những con chiên lạc, chiên ghẻ, chiên quậy phá, chiên bướng bỉnh,… (x. Lc 15:4-7), nhưng Thiên Chúa quá đỗi yêu thương chúng ta và muốn chúng ta đồng hưởng vĩnh phúc với Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Ngài sai Con Một đến thế gian không để luận phạt mà để giải thoát chúng ta: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ” (Ga 3:17). Ngài “không lên án” cũng đủ hạnh phúc đối với chúng ta rồi, thế mà Ngài còn muốn chúng ta “được cứu độ”. Hạnh phúc của chúng ta được nhân đôi. Đó là điều tích cực nơi Thiên Chúa.
Sách Công vụ Tông đồ kể: Bấy giờ, ông Phêrô được đầy Thánh Thần, liền nói với họ: “Thưa quý vị thủ lãnh trong dân và quý vị kỳ mục, hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn về việc lành chúng tôi đã làm cho một người tàn tật, về cách thức người ấy đã được cứu chữa. Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nadarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị” (Cv 4:8-10). Các tông đồ đã nhân danh Đức Kitô chữa lành bệnh tật cho người khác, điển hình là một người tàn tật được chữa lành và đang đứng trước mặt mọi người
Thánh Phêrô nói thêm: “Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường” (Cv 4:11; Tv 118:22). “Viên đá bị loại bỏ” lại hóa thành “viên đá nền tảng”, mà người loại bỏ viên đá đó là chính chúng ta. Thế mà Đức Kitô vẫn yêu thương và tìm kiếm chúng ta về hưởng hạnh phúc với Ngài. Thật quá kỳ diệu!
Đức Kitô là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, là Đấng-Gánh-Tội-Trần-Gian và là Đấng-Xóa-Tội-Trần-Gian. Thế nên, “ngoài Ngài ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4:12).
Vì thế, chúng ta phải hết lòng “tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1 & 29). Thật vậy, tác giả Thánh vịnh xác định:
Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời
Thì hơn tin cậy ở người trần gian
Cậy vào thần thế vua quan
Chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời
Con xin cảm tạ Ơn Ngài
Vì đã đáp lời và cứu độ con
(Tv 118:8-9.21)
Thiên Chúa đã chuyển bại thành thắng, biến yếu thành mạnh, làm đồ bỏ thành đồ quý. Với loài người thì đành “bó tay”, nhưng với Thiên Chúa lại hoàn toàn khả thi (x. Mt 19:26). Đó là công trình kỳ diệu của Ngài trước mắt loài người! Chúng ta có một Vị Chúa như vậy thì sao lại không hạnh phúc và hãnh diện chứ? Và chắc chắn đó là sự tôn thờ chính đáng của chúng ta, không hề mơ hồ hoặc uổng phí.
Thánh sử Gioan nhắc chúng ta: “Anh chị em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Ngài yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con của Thiên Chúa” (1 Ga 3:1a). Chúng ta là những tội nhân khốn nạn, đáng trừng phạt muôn kiếp vẫn chưa đủ, vậy mà Thiên Chúa bắt Con của Ngài chết thay chúng ta, và tiếp tục nhận những tử-tội-chúng-ta làm “thiên tử”, thực sự là con-của-Trời chứ đâu phải các vua chúa hay quan quyền mới được làm thiên tử. Hơn cả tuyệt vời, vượt mức kỳ diệu, làm sao chúng ta có thể tưởng tượng nổi!
Thánh Gioan giải thích: “Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Ngài” (1 Ga 3:1b). Thế gian không nhận ra Chúa Giêsu là ai, không công nhận Ngài là Chúa, thế nên họ cũng không thể nhìn nhận chúng ta là con cái của Thiên Chúa, nói cho “oai” theo Hán-Việt là thiên tử. Thánh Gioan nói: “Hiện giờ chúng ta là con của Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng, khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Ngài, vì Ngài thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3:2). Câu này là niềm hy vọng cho mỗi chúng ta. Là con của người cha thì “con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh” và được ở trong nhà của người cha, là con của Thiên Chúa thì chắc chắn cũng được ở trong Nhà của Thiên Chúa – tức là Nước Trời, và cũng được giống Thiên Chúa.
Chúa Giêsu nói: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:11). Đó là chân dung một vị mục tử đích thực. Ngài giải thích: “Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy” (Ga 10:12a), do đó “sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên” (Ga 10:12b-13).
Vì thế, có lần Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Anh chị em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh chị em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai” (Mt 7:15-16). Xem trái biết cây, đơn giản mà thâm thúy, như người Việt Nam cũng có ý tương tự: “Rau nào sâu nấy”.
Chúa Giêsu cũng đã xác định Ngài là “Cửa của chuồng chiên” (Ga 10:7 & 9). Và Ngài nói: “Ai qua Tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ”. Đồng thời Ngài cũng nhận định để “lưu ý” các ngôn-sứ-giả: “Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ” (Ga 10:10a), và nói về chính Ngài: “Phần Tôi, Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10b).
Trong Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu 2 lần xác định: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10:11 & 14a). Tại sao? Chúa Giêsu giải thích một đặc điểm khác của vị mục-tử-đích-thực: “Tôi biết chiên của Tôi, và chiên của Tôi biết Tôi” (Ga 10:14b). Chủ chiên luôn biết rõ từng con chiên, người chăn chiên thuê thì chiên nào ra sao cũng mặc kệ! Ngài so sánh rất thực tế và dễ hiểu: “Như Chúa Cha biết Tôi, và Tôi biết Chúa Cha, và Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:15). Thậm chí Ngài còn nói: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (Ga 10:16).
Đọc từng câu và để ý từng chữ trong Phúc âm hôm nay, chúng ta như uống từng giọt-mật-ngọt-ngào, và rồi có thể vừa thú vị vừa thấm thía nhiều điều.
Chúa Giêsu quả quyết: “Mạng sống của Tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10:18a). Tại sao? Ngài cho biết lý do: “Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha Tôi mà Tôi đã nhận được” (Ga 10:18b). Chúa của chúng ta như vậy nên hạnh phúc của chúng ta phải tính theo cấp số nhân!
Lạy Chúa, xin muôn vàn tạ ơn Ngài đã tha thứ và tái nhận chúng con làm con cái của Ngài, đồng thời là tiểu đệ và tiểu muội của Đại huynh Giêsu. Xin Chúa luôn ban cho Giáo hội có những tâm hồn quảng đại biết dấn thân trong chức linh mục, trở thành tu sĩ, trở thành những tông đồ đích thực tiếp nối sứ vụ của Đức Giêsu Kitô, hôm nay và mãi đến tận thế. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
41. Quyền hành và trách nhiệm
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Chúa Giêsu là Chúa Chiên Lành, là Cửa cho chiên ra vào (Ga 10:7), ai qua cửa đó thì được cứu và gặp được đồng cỏ xanh rì (Ga 10:7), Ngài đã xác nhận: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Ngài là Chủ Chiên, là Mục Tử Nhân Lành, nên Ngài có quyền đối với đoàn chiên, nhưng quyền của Ngài là “quyền hy sinh” và “quyền yêu thương” – đặc biệt là “yêu thương đến cùng” (Ga 13:1).
Xã hội loài người có nhiều loại quyền, cơ bản nhất là nhân quyền – quyền của con người. Mọi người đều bình đẳng, vì ai sinh ra cũng có nhân phẩm và nhân vị. Nhà có gia phong, nước có quốc pháp, nhóm có nội quy. Mỗi quốc gia có ba quyền cơ bản: Quyền lập pháp, quyền tư pháp, và quyền hành pháp.
[1] Quyền lập pháp là quyền làm luật, xây dựng luật và ban hành những văn bản luật được áp dụng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. [2] Quyền tư pháp pháp là quyền bảo vệ luật pháp, do Tòa án và Viện Kiểm sát tiến hành, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện và chống lại các hành vi phạm pháp. Theo luật học, cơ quan tư pháp hay hệ thống tư pháp là hệ thống tòa án nhân danh quyền tối cao hoặc nhà nước để thực thi công lý, một cơ chế giải quyết các tranh chấp. [3] Quyền hành pháp do các cơ quan hành chính Nhà Nước thực thi để đảm bảo hoàn thành chức năng và nhiệm vụ của mình, bao gồm hai quyền: quyền lập quy và quyền hành chính.
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10-12-1948 tại Palais de Chaillot (Paris, Pháp). Bản Tuyên ngôn đã được dịch ra ít nhất 375 ngôn ngữ.
Có CHỨC thì có QUYỀN, có QUYỀN nên dễ HÀNH người khác, và có QUYỀN rồi thì chỉ muốn có LỢI. Quyền hành hoặc quyền lực như con dao sắc bén, như chiếc kéo nhọn, phải rất cẩn thận kẻo tác hại. Chính mình bị tác hại đã đành, nguy hiểm nhất là tác hại người khác, làm khổ người khác – tức là ỷ thế cậy quyền mà “hành” người khác. Có điều “lạ” là người ta THÍCH có quyền hành nhưng lại KHÔNG MUỐN có trách nhiệm!
Bác học lừng danh Albert Einstein (1879-1955, người Đức) nói: “Quyền lực luôn luôn thu hút những kẻ kém đạo đức – Force always attracts men of low morality”. Một cách nhận xét nhẹ nhàng mà “đau điếng”.
Chúa Giêsu có mọi quyền hành – trên trời và dưới đất, nhưng Ngài lại không muốn dùng quyền để hành hạ người khác, mà Ngài chỉ muốn phục vụ, yêu thương và tha thứ. Ngài xác định: “Tôi là mục tử tốt lành, Tôi biết các chiên của Tôi, và các chiên của Tôi biết Tôi” (Ga 10:14). Chủ chiên thật thì phải yêu thương chiên, nếu không thì chỉ là “thợ chiên”, là “kẻ chăn thuê” mà thôi – điều mà Phúc Âm hôm nay có đề cập. Thật vậy, những kẻ có chức quyền mà tránh né trách nhiệm, chỉ muốn dùng quyền mà hành người khác, Chúa Giêsu đã nguyền rủa là “đồ khốn” (Mt 23:13-30; Mc 12:40; Lc 11:39-48; Lc 20:47) và “đồ mãng xà” (Mt 23:33-36; Lc 11:49-51). Đáng sợ thật!
Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, ông Phêrô được đầy Thánh Thần và mạnh dạn nói: “Thưa quý vị thủ lãnh trong dân và quý vị kỳ mục, hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn về việc lành chúng tôi đã làm cho một người tàn tật, về cách thức người ấy đã được cứu chữa. Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết cho rằng: nhân danh chính Đức Giêsu Kitô, người Nadarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị” (Cv 4:8-10). Phêrô hôm nay khác hẳn Phêrô hôm qua, không còn khiếp đảm, dám bênh vực sự thật, dám bảo vệ công lý. ĐGH Phanxicô cũng đã mạnh mẽ lên tiếng nói rằng Giáo Hội phải “nói thẳng, nói thật”.
Dùng ý Thánh Vịnh 118:22, ông Phêrô cho biết: “Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ. Vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4:11-12).
Chết đi để sống lại. Chúa Giêsu đã trải qua “hành trình kỳ diệu” đó. Chúng ta chỉ là tội nhân nhưng lại được hưởng ơn tha thứ và được quyền sống, không chỉ sống ở đời tạm này mà còn được sống đời đời. Đặc quyền quá lớn, phàm nhân chúng ta có mơ cũng không thấy, nhưng đó lại là sự thật hiển nhiên, không chút mơ hồ, không là chiếc bánh vẽ. Vì thế, tác giả Thánh Vịnh tha thiết nhắn nhủ chúng ta: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1 và 29).
Thật là khôn ngoan nếu biết tạ ơn Chúa, vì đó là điều minh nhiên: “Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời thì hơn tin cậy ở người trần gian. Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời” (Tv 118:8-9). Mỗi lần ngủ là chúng ta “chết lâm sàng”, giống như “chết giả” để có thể trải nghiệm sự chết vậy. Do đó, mỗi khi thức dậy, chúng ta lại trải nghiệm sự sống lại. Thật là kỳ diệu, vì thế hãy hân hoan dâng lời cảm tạ Thiên Chúa: “Lạy Chúa, chính Ngài là Thiên Chúa của con, xin dâng Ngài muôn câu cảm tạ; lạy Thiên Chúa con thờ, xin dâng Ngài vạn tiếng tôn vinh” (Tv 118:28).
Là con người của tình yêu, thích nói về tình yêu và nhìn theo lăng kính tình yêu, Thánh Gioan cho biết: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa. Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người” (1 Ga 3:1). Nếu có hỏi “Bạn là ai?”, liệu chúng ta có mạnh dạn nói ngay rằng “Tôi là con (của) Thiên Chúa” hay không? Cũng dễ mà cũng không dễ đâu!
Không nhiều thì ít, chúng ta cũng có “máu” Tào Tháo hoặc dòng dõi của ông “đá xanh” Tôma. Con người yếu đuối thế đấy, nói tin mà vẫn “hình như…”, chưa tin thật 100% đâu. Thánh Gioan nói thêm: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3:2). Quả là điều vô cùng lạ. Hiện nay chúng ta không thể nào tưởng tượng ra nổi. Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, nhiều người được thấy Ngài mà không thể nhận ra Ngài, dù Ngài vẫn là Ngài như khi chưa chịu chết. Quen mà lạ, lạ mà quen.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay chỉ có 8 câu do chính Chúa Giêsu nói chứ không có lời dẫn, ngắn gọn nhưng đầy đủ chi tiết cần thiết. Chúa Giêsu xác nhận và phân tích rạch ròi: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10:11-15). Hai lần Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Mục Tử nhân lành, và hai lần đề cập sự “hy sinh mạng sống”, cho thấy tầm quan trọng của việc dấn thân và quên mình. Hạnh phúc thay Việt Nam chúng ta có một tấm gương sáng về mục tử, đó là Lm Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp (1897-1946).
Chúa Giêsu “mở rộng” hơn về vấn đề chức quyền và trách nhiệm truyền giáo: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10:16-18). Ngài nhắc lại hai quyền của Ngài, khác hẳn các quyền chúng ta muốn. Ngài nói đến QUYỀN nhưng Ngài không nói đến LỢI, hoàn toàn khác hẳn với “sở thích” của chúng ta. Nghiêm túc xét mình thì thấy rằng chúng ta thật đáng xấu hổ vô cùng, vì chỉ nói hay mà làm chẳng ra gì!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con can đảm chân nhận các nhược điểm của mình để khả dĩ được biến đổi nhờ ân sủng thương xót của Ngài, biết phục vụ chứ không muốn hưởng thụ (Mt 20:28; Mc 10:45). Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng phục sinh cứu độ chúng con. Amen.
42. Trục nhìn của chúng ta.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Chúng ta khó biết được mức sâu đậm của chất “thực” ẩn dưới hình ảnh “chủ chiên” trong sự so sánh của Chúa Giêsu. Ngày nay khong còn thấy cảnh những mục đồng hòa mình với đàn chiên nữa. Đám đông nghe Chúa giảng dạy có một não trạng thấm nhuần lịch sử tổ tiên họ. Abraham và những tổ phụ khác sống một đời du mục bị chi phối bởi sự tìm kiếm đồng cỏ gia súc, các ông sống giữa đàn chiên mình, biết rõ từng chiên một, và chiên cũng biết rõ chủ của chúng. Khi xưng mình là Chúa chiên lành, Chúa Giêsu biết rằng đám đông hiểu Người. Chúa đưa ra một sự so sánh hoàn toàn phù hợp với tâm lý thính giả. Nền văn mình chúng ta biết đến một loại bầy lũ khác, đó là bầy xe hơi vô trật tự, là lũ người đông như kiến trong các thành thị. Giả sử Chúa sống ở thế gian ngày nay, chắc hẳn là Người sẽ dùng một hình ảnh so sánh khác để nói với chúng ta, nhưng giáo huấn của Nguòi cũng sẽ như xưa mà thôi. Chúa Giêsu dạy chúng ta điều gì?
1) Trước hết, dạy chúng ta biết đến một sự hiện diện. Chúa hiện diện giữa thế giới như người chủ chăn sống lẫn với đàn chiên mình. Một trong những đặc tính của chủ chăn là tham gia đời sống đàn chiên, chủ và chiên nên như một: Chủ chiên không đứng ngoài đàn, nhưng dẫn đầu đàn chiên. Xuyên qua sự so sánh Chúa muốn cho người ta hiểu rằng Người có mặt trong nhân loại và dẫn dắt nhân loại. Không một ai ở bất cứ thời nào lọt ra ngoài cặp mắt cảnh giác chăm nom của Đấng muốn chăn dắt y tới chốn mà y sẽ tìm ra lương thực và an toàn. Lương thực cho tâm trí, cho trí tuệ và ý chí, cho cơ thể nữa –đó là mối quan tâm chiếu cố luôn luôn sẵn sàng của Chúa đối với con người ngày nay. Tuy nhiên muốn được chăm nom thì phải thỏa mãn một điều kiện: con người phải chấp nhận làm thành viên, nhất là do đức tin, của “bày chiên” mà Đức Kitô là Chúa chiên lành.
2) Ta biết chiên Ta… như Cha biết Ta. Ở đây chúng ta vào một lĩnh vực của linh hồn trong đó ẩn náu cái nhu cầu sâu kín nhất của con người. Thật vậy, bởi đâu con người đau khổ nhất? Đau khổ vì cảm thấy mình cô đơn: Không một tình thương mến nào, không một trực giác nào, không một sự chăm sóc nào có thể đi vào tâm kham của bản thể chúng ta. Trong lương tri chúng ta có một trung khu, nơi đây không một ai (kể cả chính ta nữa) được quyền vào sâu, và ở trong trung khu đó, chúng ta cảm thấy lẻ loi cô quạnh. Những ngành khoa học nhân văn, nhat là khoa tâm lý học, cố gắng tìm hiểu những cơ chế âm u của vô thức. Cho dù những khoa đó đạt được kết quả thì vẫn còn đó cái lối cá biệt không sao phân tích được, trong cái nhân ấy con người cảm thấy vấn đề của mình –với số mệnh mình. Con người đau khổ và không được ai hiểu biết mình đến tận cùng nội tâm.
Thế mà, này đây Chúa nói Chúa hiểu biết con người như Cha hiểu biết Con. Như Cha biết Ta, nghĩa là Chúa biết rõ con người bằng một sự hiểu biết trực tiếp vào sâu tới chỗ tận cùng tâm khảm giữa Cha và Con có một sự hiểu biết tương giao toàn diện, hiểu tới tận cùng. Chúa hiểu biết tới đáy lòng con người. Chúa làm cho con người hết lẻ loi. Nếu toi tự hỏi lòng thì tôi biết rằng có một Đấng biết rõ tâm khảm tôi, vào sâu trong tôi, hiểu tôi, và –đây là một niềm an tâm tuyệt đỉnh- Người xét đoán tôi, không phải để lên án, nhưng là để cứu vớt tôi, vì Người thương tôi.
Có một hệ quả (trong số biết bao hệ quả): chúng ta có nhậy cảm không, đối với nỗi cô đơn của những người anh em ở quanh ta? Họ sẽ cảm thấy được chúng ta hiểu biết họ đôi chút, do đó thấy vơi đi được một ít nỗi buồn lẻ loi cô quạnh. Nếu như chúng ta cố hiểu họ như Chúa hiểu họ, nghĩa là nếu chúng ta đứng vào đúng trục nhìn của đôi mắt yêu thương Chúa Giêsu hướng thẳng về họ.
43. Hiến mạng cho chiên.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Tháng 3 năm 1980 Đức cha Rômêrô, Tổng Giám Mục San Salvador ở Trung Mỹ đã cương quyết lên tiếng phản đối chính phủ vi phạm nhân quyền, vì đã ủng hộ giới địa chủ và đại tư sản áp bức bóc lột nông dân. Người dân ở đây tuyệt đại đa số là người Công Giáo (98%). Đức cha đã đứng về phía nông dân để bênh vực quyền lợi cho họ, dù biết rằng hành động của ngài có thể đưa ngài đến chỗ bị cầm tù và cái chết nữa. Nhưng, giống như Chúa Giêsu, Người Mục Tử nhân lành, Ngài sẵn sàng hiến mạng sống cho đàn chiên được sống và sống dồi dào, vì tin rằng đó là thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.
Ngày 24/3/1980, một tay súng bắn thuê đã hạ sát Đức cha Rômêrô trong lúc ngài đang cử hành Thánh Lễ với giáo dân, đàn chiên của Giáo phận ngài chăm sóc.
Ngày xưa, ở Palestin, đề tài người mục tử xả thân cho đàn chiên là một nguồn hứng khởi cho các văn sĩ Kinh Thánh, khiến họ mô tả Thiên Chúa như một Mục Tử. Thiên Chúa đã xả thân cho Israel không khác gì người mục tử, vì thế tác giả Thánh Kinh đã hát lên:
“Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi,
Tôi chẳng thiếu thốn gì…
Dầu qua lũng âm u,
Tôi sợ gì nguy khốn,
Vì có Chúa ở cùng..”
Từ đó các nhà lãnh đạo tôn giáo của Israel thay mặt Chúa ở trần gian, cũng được ví như các vị mục tử. Tiếc thay, theo thời gian, vai trò lãnh đạo tôn giáo của Israel đã bị thoái hoá. Vào thời kỳ ay, Ngôn sứ Ezekiel đã nhân danh Chúa cảnh cáo các vị mục tử này: “Hỡi các mục tử của Israel, các ngươi đã bị băng hoại rồi: các người chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến đàn chiên. Các ngươi chẳng chăm soc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh tật, băng bó những bị thương tích, dẫn về những con lạc đường, hoặc tìm kiếm hững con lạc mất. Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, Vị Chủ Tế Tối Cao, Ta tuyên bố rằng… Ta sẽ tách đàn chiên ra khỏi các ngươi… Ta sẽ giao đàn chiên cho một Vị Vua, giống như Đavít, tôi tớ Ta để làm Mục Tử và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc cho đàn chiên” (Ez 34,2-4,9-10.23).
Chúng ta phải đọc Tin Mừng hôm nay trong bối cảnh này. Chúa Giêsu nói: “Tôi chính là người mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đàn chiên… Chúng sẽ nghe tiếng Tôi và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên”. Nói cách khác, Chúa Giêsu chính là nhan vật mà Ngôn sứ Ezêkiel đã tiên báo. Giống như Đavít, người Mục Tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con chiên yếu đuối, bơ vơ, chữa lành những con bệnh tật và tìm kiếm những con lạc đường. Hơn nữa, Ngài hiến mạng sống cho đàn chiên của Ngài. Lại còn hơn thế nữa, Ngài đã sống lại từ cõi chết và chia sẻ sự sống Phục Sinh của Ngài cho đàn chiên. Đây chính là điều Thánh Gioan đã nói trong bài đọc 2 hôm nay: “Nhờ sự chết và sống lại của Chúa Kitô, không những chúng ta được ơn tha thứ tội lỗi, được cứu thoát mà còn được nên giống như Thiên Chúa, được đồng vinh quang với Thiên Chúa nữa”. Và trong bài đọc 1, Thánh Phêrô cũng quả quyết trước công nghị: “Khong có Đấng Cứu Độ nào khác ngoài Đức Giêsu. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, vì dười bầu trời này, ơn cứu độ không gặp được ở một ai khác”.
Như thế, nhờ mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, chúng ta hiểu được ý nghĩa của dụ ngôn người Mục Tử nhân lành một cách sâu xa hơn: Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, ngài đã cứu chúng ta là đàn chiên của Ngài khỏi phải chết. Ngài đang hiện diện giữa thế giới chúng ta để tập họp chúng ta lại thành một đàn chiên của Ngài và ban cho chúng ta sự sống đời đời, để chiên của Ngài nghe tiếng Ngài, đi theo Ngài, thì “ không bao giờ phải diệt vong, không ai có thể giựt khỏi tay Ngài được”(Ga 10,28).
Chúa Nhật hôm nay được chọn làm ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi Linh mục, Tu sĩ. Cầu nguyện và hoạt động để có nhiều, có thêm số các mục tử. Làm mục tử là chăn dắt với Chúa Kitô, phụ một tay cho Chúa Kitô, chia sẻ công việc chăn dắt của chính Chúa Kitô. Chỉ có Chúa Kitô là Mục Tử nhân lành duy nhất, còn các mục tử khác chỉ là thay mặt Ngài mà chăn dắt đàn chiên của Chúa. Hơn nữa người mục tử vẫn là chiên của Chúa Kitô, cũng phải được chính Chua Kitô chăn dắt. Như thế, không phải chỉ có các giám mục, linh mục mới là mục tử, nhưng mọi tín hữu cũng là “mục tử” theo gương người Mục Tử nhân lành là Chúa Kitô, vì Ngài đã trao phó trách nhiệm chăn dắt đàn chiên cho chúng ta, cho từng người tín hữu trong phạm vi, trong lãnh vực của mình. Dù là giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ hay giáo dân, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm về những người chung quanh, và do đó, chúng ta là “mục tử” trong mức độ trách nhiệm của chúng ta: cha mẹ có trách nhiệm với lợi ích thể xác và tinh thần của con cái; các thành viên trong gia đình có trách nhiệm với nhau. Các thầy, cô có trách nhiệm với các học sinh ở trường, lớp. Các viên chức từ xã đến chủ tịch hay tổng thống đều có trách nhiệm nặng nề với nhân dân. Cũng thế, cha sở có trách nhiệm vơí mọi người trong họ đạo, gồm cả người chưa tin, người trễ nãi, người bỏ đạo. Các tu sĩ nam nư phụ trách các cộng đoàn lớn nhỏ đều có trách nhiệm với các thành viên của cộng đoàn và các thành viên của cộng đoàn giáo xứ, dòng tu, cũng có trách nhiệm với nhau. Đức Giám Mục cũng có trách nhiệm với mỗi người trong giáo phận của ngài. Đức Giáo Hoàng có trách nhiệm trên toàn thế giới. Trách nhiệm vô cùng nặng nề!
Và vì là mục tử, chúng ta phải biết đến nhu cầu của người khác. Biết nhìn, biết chăm lo, biết dấn thân phục vụ đến độ sẵn sàng thí mạng sống cho anh em theo gương người Mục Tử nhân lành, như Đức Tổng Giám Mục Rômêrô đã hiến mạng sống cho giáo dân trong Giáo phận San Salvador của ngài. Với ý thức trách nhiệm mục tử, người tín hữu không còn sống cho riêng mình nữa, không còn được phép mưu lợi cho cá nhân mình nữa. Là Kitô hữu, linh mục, tu sĩ hay giáo dân, tôi phải là mục tử, tôi phải chăn dắt đàn chiên Chúa giao phó cho tôi: gia đình tôi, cộng đoàn tôi, giáo xứ tôi, giáo phận tôi, đồng nghiệp, đồng bào tôi. Có hoàn thành trách nhiệm chăn dắt theo ý Chúa, tôi mới tìm được hạnh phúc đích thực hoàn toàn.
Anh chị em hiệp ý với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hãy cầu xin cho các kitô hữu thực sự là đàn chiên của Chúa, đồng thời là mục tử theo gương Chúa Kitô, trong khi thi hành chức vụ của mình, và cho Giáo Hội có thêm nhiều người biết dấn thân theo lời mời gọi của Chúa, trở nên những mục tử nhiệt thành, biết quên mình phục vụ đàn chiên. Với tâm tình này, chúng ta dâng Thánh Lễ như tiến vào đồng cỏ xanh tươi, suối nước mát trong, để được nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Chúa Kitô và được hạnh phúc sống dưới sự chăn dắt chở che của Ngài.
44. “Ta Là Mục Tử Tốt Lành” – Noel Quesson.
“…Người mục tử tốt lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”.
Trên một tờ báo y học ở Achentina, bác sĩ Gioan Coóctê (Jean Cortez) đã kể một trường hợp đặc biệt chính ông chứng kiến. Ông chữa bệnh cho một bé gái tên là Angien. Bé Angien bị ung thư bao tử, một bệnh ít khi xảy tới cho người trẻ tuổi. Sau mấy lần giải phẫu và điều trị đủ cách, ông đành báo tin buồn cho bà mẹ rằng ông chịu bó tay, bé Angien đã chết.
Mẹ em bé, bà Maria gần như hoá điên trước tin này. Bà không cho ai đụng tới thi thể con gái và quì cầu nguyện lâu giờ bên giường em. Bác sĩ Cortez nghe bà cầu xin Chúa để bà chết thay cho con. Ông rất cảm động, làm hiệu cho mọi người ra ngoài để bà mẹ một mình với con. Lúc trở lại, ông bỡ ngỡ thấy em Angien đứng bên giường, dáng vẻ rạng rỡ khoẻ mạnh. Còn bà mẹ gục đầu trên giường và thều thào với bác sĩ Cortez: Thưa bác sĩ, Chúa đã nhận lời tôi. Bác sĩ Cortez cho làm mọi loại thử nghiệm và thấy em Angien đã hoàn toàn khoẻ mạnh không còn dấu vết đau ốm nào. Còn bà Maria thì đang hấp hối vì bệnh ung thư bao tử, căn bệnh mà con gái bà đã mắc từ hai năm nay. Các thân nhân xúm quanh bà mẹ, an ủi bà và hứa chăm sóc bé Angien chu đáo. Vài giờ sau, bà tắt thở. Bác sĩ Gioan Coóctê kết luận: “Tôi không thể giải thích chuyện này vì rõ ràng em bé đã chết. Một nguồn lực siêu nhiên đã chứng giám và can thiệp vào tình mẫu tử mạnh mẽ của bà mẹ”.
Tình mẫu tử khiến bà Maria sẵn sàng chết thay con. Người ta lý giải cường độ mạnh mẽ của tình mẫu tử là vì chính bà mẹ đã chia sẻ cuộc sống cho con. Hai mẹ con dường như chỉ có một sự sống duy nhất. Và Chúa Giêsu đã muốn dùng hình thức sự sống này để diễn ta mối liên kết giữa Chúa với mọi người chúng ta. Người diễn tả ý này bằng nhiều cách: “Ta là bánh sự sống; Ta là ánh sáng thế gian; Ta là cửa; Ta là Mục tử nhân lành; Ta là cây nho; Ta là sự sống lại và là sự sống”. Còn chúng ta là con người được nuôi dưỡng bắng bánh sư sống, chúng ta là chiên, là cành nho, được thông ban sự sống của Chúa. Vì thế, Người sẵn sàng chết để cứu độ chúng ta.
Lời lẽ của Chúa hoàn toàn khác biệt với bất cứ một người sáng lập học thuyết, tôn giáo nào. Kiểu nói làm ta nghĩ tới Thiên Chúa, Đấng mạc khải tên mình cho Môi-sê; Đấng đã phán từ bụi gai bừng cháy; Ta là Đấng tự hữu.
Danh hiệu Người Mục tử đã thành cổ điển trong mọi nền văn hoá Đông phương. Chúa là Mục tử chân chính, khác hẳn những người chăn thuê, làm mướn. Vì chỉ có Mục tử chân chính mới sẵn sàng hiến mạng vì chiên. Chúa đã thực hiện điều này để chúng ta thấy rõ Tình Yêu của Người, thấy rằng Chúa là Mục tử duy nhất chan thực, vị Mục tử nhân lành đã hy sinh mọi thứ vì đàn chiên, kể cả tài sản quý hoá nhất, đó là mạng sống mình, nhất nữa đó lại là mạng sống của Chúa, mạng sống mà Chúa tự nguyện hy sinh. Cái chết của Chúa không phai bất ngờ, không phải chịu thua bạo lực, nhưng là một hiến ban hoàn toàn ý thức và tự do. Chúa chết như một hành động yêu thương… Một Tình Yêu tột đỉnh (Ga 13,1; 15,13)
Chúa là Mục tử thực, Chúa biết rõ các chiên và các chiên biết Chúa. Hiểu biết này không phải chỉ là nhận thức, nhưng là thấu hiểu, là chia sẻ cuộc sống. Một hiểu biết ở mức độ chặt chẽ nhất, cao thượng nhất: Như Cha biết Ta và Ta biết Cha. Tình thân giữa Chúa với những người được Chúa cứu chuộc bằng cái chết của Người cũng chính là tình thân mật giữa các ngôi vị Thiên Chúa, và chúng ta được thông hiệp trong sự sống, trong tình yêu của Thiên Chúa cao cả.
Kinh Thánh dùng từ ngữ đoàn chiên để nói về dân Israel: Chúa Giêsu đã mở rộng từ này tới một giới hạn vô tận: Ta còn nhiều chiên khác ngoài đàn, Ta phải đem tất cả về, và sẽ chỉ còn một đoàn chiên, một Mục tử. Chúng ta có sứ mệnh cùng Chúa thưc hiện mục tiêu của tình yêu lớn lao cao cả đó.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con là những người cộng tác với Chúa, được chu toàn nghĩa vụ loan báo Tin Mừng cứu độ cho cả những chiên ngoài đàn như lòng Chúa ước mong.
45. Làm sao nghe được tiếng Chúa?
(Suy niệm của Lm. Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống luôn náo nhiệt. Ồn ào trong mọi nơi mọi lúc. Con người như lạc lõng giữa muôn vàn âm thanh trong thế giới ồn ào. Có đôi khi chúng ta không còn nghe được tiếng gọi của sự thật hay tiếng nói của lương tâm.
Anh A đã từng nhiều lần vào tù vì tội tham lam trộm cắp nhưng anh nói giữa cuộc đời bon chen anh không bao giờ nghe được tiếng nói của lương tâm mà chỉ nghe những thét gào của tranh giành, lừa đảo và bon chen... Anh bảo rằng mình không biết phải sống thế nào cho đúng với lương tâm, vì lương tâm đồng nghĩa thua thiệt và mất mát.
Chị B cũng từng ngụp lặn trong biển tình say đắm. Với chị có sắc đẹp là có tiền, có tình. Chị chỉ nghe thấy tiếng gọi của đồng tiền và thú vui xác thịt. Chị được người đời đeo đuổi réo gọi vì chị có nhan sắc trời cho. Cuộc đời chị cần tiền để bồi dưỡng thân xác và được cưng phụng. Thế giới của chị luôn phải chạy theo tiếng gọi của đồng tiền và sắc đẹp.
Cậu C bảo rằng giữa một thế giới chạy theo tiếng gọi của danh lợi thú làm sao nghe được tiếng Chúa. Tiếng gọi của tình, tiền, và quyền luôn hấp dẫn, lôi cuốn khiến con người luôn bị lạc lối một trong ba tiếng gọi ấy!
Điều đáng buồn là con người dường như mất định hướng trong thế giới náo nhiệt hôm nay. Con người dường như không bao giờ hạnh phúc trong danh lợi thú khi họ vất vả tìm kiếm, và càng không có bình yên trong thế giới đầy bon chen giành giựt để sống. Vậy làm sao con người có thể thoát ra được thế giới náo nhiệt này?
Người ta kể rằng một lần đội vệ binh đang đứng làm thành hàng chào một vị quan lớn tới thăm. Đúng lúc vị quan lớn gần tới thì một đàn cừu ở đâu hiên ngang đi ra. Con đường độc đạo giờ đây bị đàn cừu chiếm lĩnh. Người chỉ huy ra lệnh cho thuộc cấp:
- Bằng mọi giá anh em hãy lùa đàn cừu rời khỏi mặt đường.
Đội vệ binh dùng đủ mọi cách, kể cả việc dùng súng bắn chỉ thiên để lùa đàn cừu rời khỏi mặt đường nhưng vô vọng!
Một người lính liền nói: xin mọi người yên lặng. Và từ xa tiếng sáo du dương trầm bổng đang réo gọi. Không cần đuổi, chẳng nhọc công, đàn cừu hướng tầm nhìn và ùa chạy về phía tiếng sáo. Hân hoan và vui mừng, chúng quây quần bên người mục đồng nhỏ bé đang đứng trên gò đất cao.
Giữa muôn vàn tiếng ồn ào của đám đông, chỉ cần thinh lặng, một chút lặng yên thôi, cũng đủ để đàn chiên nghe được tiếng gọi của người chăn dắt. Thế giới chúng ta đang sống cũng có quá nhiều tiếng động xô bồ và âm thanh hỗn tạp, quá nhiều đến độ chúng ta không còn có thể nghe được tiếng nói của lương tâm của sự thiện, và càng không thể lắng lòng để nghe được tiếng gọi Đức Giêsu, vị Mục Tử Nhân Lành.
Phải chi chúng ta cũng có được những khoảnh khắc trầm lắng quý giá như thế, để rồi nghe được thứ thanh âm của sự tĩnh lặng, nghe được lời gọi của Thiên Chúa và nhận ra Người? Phải chi chúng ta cũng biết trao tặng cho chính mình mỗi ngày một vài phút cô tịch để đọc Lời Chúa, để nghe và nhận ra tiếng thì thầm của Thiên Chúa đang ngỏ lời với chúng ta: “Tôi chính là Mục Tử Nhân Lành. Tôi biết chiên của Tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi, và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử”.
Hôm nay lễ Chúa chiên lành, là dịp để chúng ta tạ ơn vì Ngài luôn yêu thương chăm sóc, chở che và gìn giữ cuộc đời chúng ta bằng muôn nghìn cách. Dù cuộc đời có biết bao cám dỗ mời mọc chúng ta vào con đường tội lỗi. Có biết bao đam mê khiến chúng ta lầm đường lạc lối. Có biết bao con đường dẫn chúng ta xa lìa sự sống đời đời. Nhưng Chúa luôn ở bên và kêu gọi chúng ta ra khỏi bến mê tội lỗi. Xin cho chúng ta biết nhận ra tiếng Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Chúa. Vì ở nơi Ngài mới có hạnh phúc bền vững còn những danh lợi thú chỉ là phù vân mau qua và chẳng bao giờ đem lại niềm vui trường cửu cho ta. Amen.
46. Mục tử thật - mục tử giả.
(Suy niệm của Lm. Tạ Duy Tuyền)
Xã hội hôm nay thật lắm chuyện thị phi! Cuộc đời cứ như: "Vàng thau lẫn lộn". Hàng thật hàng giả đã khó phân biệt mà người tốt, người xấu càng khó phân biệt hơn. Co những mặt hàng giả mà như thật. Có người phải ngậm đắng nuốt cay khi bỏ tiền mua hàng thật nhưng lại phải lấy đồ giả. Có người vì cả tin nghe người nên bị lừađến thân bại danh liệt. Kẻ bị lừa tình mà ôm hận suốtđời. Kẻ bị lừa tiền mà tan hoang cửa nhà. Có kẻ giảnhân giả nghĩa để đánh lừa đồng loại và vun quén cho bản thân. Kẻ thất đức lại sống trên nhung lụa. Người công chính phải tù tội lầm than vẫn còn đó trong kiếp người hôm nay. Đó là kết quả tất yếu của chủ nghĩa thực dụng. Đặt quyền lợi cá nhân lên trên lợi ích tập thể. Con người lấy mình làm trung tâm nên mọi sự đều quy về mình. Tìm hạnh phúc cho mình. Tìm vinh danh cho mình. Vì hạnh phúc cua mình nên sẵn sàng bỏ rơi đồng loại, cho dù đó là cha, là mẹ, cho dù đó là vợ chồng hay con cái. Sự thật phũ phàng đó đang là căn bệnh trầm kha của xã hội hôm nay.
Có biết bao cha mẹ đã đang tâm giết các thai nhi vì sợ đứa con sinh ra sẽ thêm phần ăn, thêm gánh nặng cho gia đình. Có biết bao vợ chồng đã đứt gánh giữa đường chỉ vì một mối tình riêng, một quan hệ bất chính. Có biết bao người con đã bỏ rơi cha mẹ trong đói khổ, già yếu, bệnh tật vì còn phải lo cho chính bản thân mình.
Xem ra thế giới hôm nay đang thiếu dần hai chữ hy sinh. Không có hy sinh làm sao có ân nghĩa. Không có ân tình, ân nghĩa, nên người ta đâu cần hy sinh và đối xử tốt với nhau. Câu chuyện "Anh phải sống" của Khái Hưng không còn là văn học phản ánh hiện thực xã hội hôm nay nữa! Nó chỉcòn là huyền thoại, một dĩ vãng đã qua.
Chuyện kể rằng: có hai vợ chồng trẻ đi đốn củi vào mùa nước lũ. Chiều tối, khi trở về họ đặt củi trên chiếc thuyền lan mong manh, nhỏ bé để xuôi theo dòng nước trở về. Thình lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt tuôn xuống dòng sông, tạo thành một dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiec thuyền lan nhỏ bé của họ bể vỡ tan tành. Người chồng cố níu kéo vợ khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Nhưng dòng nước xoáy mỗi phút giây trôi qua lại ồ ạt và mạnh mẽ. Sức lực của chồng xem ra càng đuối dần khi phải gồng mình để thoát thân và cứu vợ. Người vợ thấy sức chịu đựng của chồng đã cạn kiệt, nên đành buông tay ra để mặc cho dỏng nước lũ cuốn trôi, chỉ kịp gào thét trong mưa giông và nước lũ: "anh phải sống đểnuôi nấng đàn con".
Tác phẩm "Anh phải sống" đã một thời đi vào lòng người, vì nó phản ánh quá trung thực về tình yêu của những con người dám hy sinh cho gia đình, cho xóm ngõ, cho dân tộc. Nhưng xem ra, tác phẩm này không còn chỗ đứng trong xã hội hôm nay. Vì giá trị con người hôm qua được đo bằng tấm lòng biết xả thân vì đồng loại, biết quên mình vì giađình, vì dân tộc, còn giá trị của con người hôm nayđược cân nhắc bằng tiền bạc và địa vị. Người càng có lắm tiền nhiều của càng được kính trọng, nể vì. Người càng có địa vị cao càng có nhiều kẻ hầu người hạ. Có mấy ai dùng quyền để phục vụ vô vị lợi cho tha nhân? Có mấy ai dùng tiền để mua lấy tình bạn? Thế giới đã đổi thay! Cách sống cũng đổi thay. Con người chạy theo lợi nhuận. Mọi quan hệ, mọi việc làm đều được căn nhắc thiệt hơn. Vì quyền lợi của mình mà bỏ rơi đồng loại. Vì lợi ích của mình mà chà đạp lên danh dự, nhân phẩm người khác. Lòng đại nghĩa hy sinh đã bị chôn vùi khi đặt quyền lợi mình trên lợi ích của anh em.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cái nhìn tương phản của hai loại mục tử. Mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tửgiả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên nođầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình. Họ sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên. Chúa Giêsu đưa ra khuôn mẫu mục tử nhân lành là chính Chúa. Cả cuộc đời không tìm an nhàn cho bản thân. Ngài dong duổi gió bụi đểtìm từng con chiên lạc đưa về ràn. Vì sự sống của đàn chiên, Ngài sẵn sàng đối phó với sự dữ để bảo vệ đàn chiên. Ngài đã chấp nhận cái chết để đàn chiênđược sống.
Đó cũng là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta đều là mục tử của Chúa khi chúng ta có nhiệm vụchăm sóc, bảo vệ anh em mình. Mỗi người chúng ta đều phải có trách nhiệm trước sự an nguy của đồng loại. Mỗi người chúng ta đều có bổn phận đẩy lùi sự dữ đang hoành hành trong môi trường sống của chúng ta. Không aiđược phép bàng quan trước sự dữ dang bủa vây gia đình, xóm làng của mình. Không ai được phép vô trách nhiệm trước bữa no bữa đói của cha mẹ, con cái hay hàng xóm láng giềng. Nếu mỗi người chúng ta đều biết sống có trách nhiệm với anh em thì giòng đời này sẽ bớt đi những trái ngang, sẽ vơi đi những giọt nước mắt buồn đau, tủi hờn. Nếu mỗi người chung ta đều biết đưa vai gánhđỡ gánh nặng cho anh em, và biết dùng đôi vai làm điểm tựa nâng đỡ anh em, thì cuộc đời này sẽ là một thiênđàng mà con người đang hưởng nếm những giây phút ngọt ngào nhất của tình người, của hanh phúc yêu thương.
Đây cũng là điều kiện để có được sự sống trường sinh. Vì "ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sống muôn đời.
Nguyện xin Chúa Giêsu mục tử luôn phù hộ nâng đỡ và giúp chúng ta biết sống hiến thân mạng sống vì anh em. Amen.
47. Ơn kêu gọi.
Hôm ấy thánh Phêrô và Gioan bị điệu đến trước tòa án Do Thái vì những tội trạng như đã chữa lành cho một người què, đã rao giảng danh Đức Kitô cho dân chúng, khiến nhiều người nghe lời giảng mà tin theo, để rồi trở nên những con chiên trong đàn chiên của vị mục tử duy nhất là chính Đức Kitô.
Tuy nhiên, để họ được nghe tiếng Ngài, thì phải có những người được sai đi rao giảng, như Phêrô và Gioan mà tôi vừa nhắc đến.
Phải cần thật nhiều những vị tông đồ đi rao giảng thì nhân loại này mới thực sự trở nên một đoàn chiên dưới quyền dẫn dắt của một chủ chiên. Vì thế, nhân ngày ơn thiên triệu hôm nay, trước hết phải là ngày cầu nguyện và hành động để có thêm, thêm nữa số các tông đồ.
Nếu như con người thời nay không muốn lắng nghe Tin Mừng thì lại càng cần phải có nhiều người đi rao giảng, để ở mọi nơi và trong mọi lúc, Tin Mừng được trình bày dưới mọi góc cạnh cho mọi người, để rồi không ai nói được rằng mình chẳng hề được nghe nói về Tin Mừng ấy.
Tuy nhiên, đông số tông các tông đồ mà thôi chưa đủ, điều cần thiết là phải có những tông đồ hội đủ tư cách và khả năng, mà Phêrô hôm nay là những tấm gương sáng ngời. Ông không ngừng rao giảng khi được thong dong, trước đám đông dân chúng đang ngạc nhiên và ngưỡng mộ vì phép lạ người què vừa mới được chữa lành. Hơn thế nữa, ông còn rao giảng hùng hồn và dạn dĩ khi đứng trước tòa án Do Thái, trước những vị đầu mục của dân chúng. Nếu chúng ta có nói rằng ông đang hiến mạng sống mình vì đoàn chiên, thật cũng chẳng sai. Cứ thử so sánh phiên tòa hôm nay với phiên tòa xét xử Chúa Giêsu mà xem, chúng ta sẽ thấy có những điểm thật giống nhau.
Trước đây người ta hỏi Chúa Giêsu: Ông lấy quyền gì mà làm như vậy. Còn bây giờ người ta cũng hỏi các ông: Bởi quyền phép nào hay nhân danh ai mà các ngươi đã làm những điều ấy. Tòa chỉ chờ họ thưa: nhân danh Chúa Giêsu, để khép tội, vì thưa như vậy là coi Đức Kitô là Thiên Chúa. Đó cũng chính là tội trạng của Chúa Giêsu vì dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa.
Nếu Đức Kitô đã không sợ chết, thì các môn đệ của Ngài cũng không sợ phải hiến mạng sống mình. Các ông tuyên xưng một cách mạnh dạn Đưc Kitô là Đấng Cứu Thế. Vụ án của Ngài đã được nói trước trong Kinh Thánh, vì Ngài chính là viên đá bị thợ xây loại bỏ, lại trở thành viên đá góc xây nên đền thờ Thiên Chúa.
Phêrô và Gioan là những tông đồ sẵn sàng hiến mạng sống mình vì danh Đức Kitô, để giống như Ngài và kết hợp với Ngài trong mầu nhiệm cứu độ, tiếng các ông đã vang vọng, để rồi đã được lắng nghe, đã được đón nhận và đã thôi thúc được nhiều người đã trở ve trong đoàn chiên của Chúa.
Tóm lại trong ngày cầu nguyện cho ơn kêu gọi, chúng ta hãy kêu xin Chúa sai thêm thợ gặt đến đồng lúa của Ngài, nhưng đồng thời phải là những thợ biết gặt, phải là những mục tử dám hy sinh vì đoàn chiên, để nhờ đó qui tụ được những con chiên còn lạc đường vào một đoàn chiên và dưới sự dẫn dắt một chủ chiên duy nhất mà thôi.
48. Mục tử nhân lành
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Mục tử nhân lành là một hình ảnh rất đẹp ở xứ Palestin. Danh xưng mục tử nhân lành không phải là tôn danh người ta gán cho Chúa Giêsu để ca tụng Ngài, nhưng đây chính là mạc khải của Chúa Giêsu cho biết Ngài là ai. Ngài là mục tử thứ thiệt, mục tử chính hiệu, mục tử nhân lành đúng nghĩa.
- Mục tử nhân lành là mục tử biết rõ đàn chiên:
Ngài biết rõ từng con chiên. Biết theo nghĩa Thánh kinh, tức là không phải chỉ biết trên lý thuyết, biết theo con số, nhưng là biết tường tận từng đặc điểm, từng tính cách của mỗi con chiên và Ngài có thể gọi tên từng con một, dẫu đàn chiên của Ngài là vô cùng đông đảo. Tương quan giữa Ngài và đàn chiên là rất gần gũi và mật thiet. Đàn chiên trở nên lẽ sống của Ngài.
Ngài gọi tên rồi đi trước dẫn đường cho đàn chiên theo sau. Ngài đi trước chứ không phải đi sau để "lùa". Chiên đi sau cũng có nghĩa là chúng được Ngài cho tự do để có thể theo hoặc không theo Ngài. Ngài đi trước bằng lời nói, bằng việc làm. Ngài đi trước bằng gương sáng phục vụ cách tận tuỵ.
- Mục tử nhân lành là mục tử yêu thương đàn chiên:
Ngài không chăn dắt bằng quyền uy và bạo lực như những mục tử trong Cựu Ước. Ngài cũng không chăn dắt kiểu tắc trách, gặp chăng hay chớ như những kẻ chăn thuê. Ngài chăn dắt hoàn toàn bằng tình yêu và trách nhiệm. Tình yêu được thể hiện đặc biệt ở chổ: đối với những con chiên đau yếu, Ngài tận tuỵ chạy chữa; những con chiên thương tích, Ngài tận tình băng bó; những con chiên lạc đàn, Ngài tận lực kiếm tìm; những con chiên có nguy cơ làm mồi cho sói hùm, Ngài tận trung canh giữ... Ngài chưa thể an giấc, bao lâu còn những con chiên bị yếu đau, thương tích. Ngài chưa thể an phận, bao lâu còn những con chiên ngơ ngác lạc đàn. Ngài chưa thể an tâm, bao lâu còn những con chiên hoang đàng đùa giỡn trước nanh vuốt của ac thú. Mục tử nhân lành là thế, và nhất là Ngài còn sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên.
- Mục tử nhân lành là mục tử hiến mạng vì đàn chiên:
Thường tình thì chủ chiên bắt các con chiên hiến lông, hiến thịt, hiến sữa và cả hiến mạng cho mình. Hiếm có trường hợp ngược lại. Đây là điểm khác biệt rõ nét giữa mục tử nhân lành và người chăn thuê. Chỉ có mục tử chính hiệu Giêsu nhân lành mới sẵn sàng tự nguyện hiến mạng cho đàn chiên. Ngài hiến mạng để bảo vệ sự hiệp nhất cho đàn chiên. Ngài hiến mạng để cho đàn chiên được sống và sống dồi dào. Nói cách khác để đàn chiên có được sự hệp nhất và sự sống sung mãn, Chúa Giêsu đã phải trả bằng chính giá máu của mình. Đây là đỉnh cao của tình yêu mà Ngài dâng hiến cho đàn chiên.
Là những Kitô hữu, chúng ta được mời gọi trở nên những con chiên tốt lành của Chúa Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành, mục tử chính hiệu. Trở nên tốt lành qua hai tương quan tình yêu:
- Tương quan với người mục tử: biết - nghe - đi theo. Biết mục tử của mình là Đấng đã yêu thương và hiến mạng sống vì mình. Biết qua Lời của Chúa, qua Phụng vụ các Bí tích, qua cầu nguyện.... Nghe theo tiếng người mục tử, tiếng mang lại hạnh phúc đời đời, chứ không nghe tiếng người lạ. Đi theo mục tử của mình, chứ không đi theo người lạ, kẻ trộm hay sói dữ. Nếu chiên mà nghe và đi theo người lạ thì sẽ bị lạc; nghe và đi theo kẻ trộm sẽ bị bắt; nghe và đi theo sói dữ sẽ bị ăn thịt. Chỉ khi biết nghe và đi theo chủ mình thì mới có sự sống đích thực. Vì chỉ có chủ chiên mới đưa đàn chiên tới những nơi có đồng cỏ xanh tươi, có suối nước mát lành.
- Tương quan với các con chiên khác: hiệp nhất trong yêu thương, phục vụ trong quên mình. Biết, nghe và đi theo chủ chiên, con chiên cũng phải biết yêu thương hiệp nhất trong đàn chiên nữa. Chiên không thể cấu xé nhau, hay mạnh con nào con đó sống. Trái lại các con chiên khoẻ mạnh phải biết phục vụ nâng đỡ các con chiên ốm yếu theo gương của chủ mình. Sẽ không thể nào có một đàn chiên duy nhất, nếu các con chiên không hoà hợp với nhau, không yêu thương nâng đỡ nhau. Sẽ không thể nào trở nên gương sáng cho các con chiên khác không thuộc về đàn noi theo, nếu đàn chiên không biết hy sinh phục vụ lẫn nhau theo tinh thần của người mục tử nhân lành.
Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân được thuộc về đàn chiên của Chúa. Và hãy xin Người giúp chúng ta luôn biết trung thành nghe và đi theo vị mục tử tuyệt hảo là chính Chúa, qua các các vị chủ chăn đại diện cho Chúa ở trần gian. Xin Chúa cũng gởi thêm cho chúng ta nhiều mục tử nhân hậu biết noi gương Chúa hết lòng yêu thương và sẵn lòng hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên được Chúa trao phó. Amen.
49. Câu hỏi.
Lần kia, có một thanh niên đến thăm chủng viện. Trên các bức tường của hành lang và trên các bảng yết thị có những áp phích với dòng chữ: “Chúa Kitô là câu trả lời”. Ngạc nhiên trước lời này, người khách trẻ tuổi đến bên một áp phích và ghi nguệch ngoạc bên dưới dòng chữ sau: “Cái gì là câu hỏi?”
Cái gì nằm sau những đau khổ? Đâu là ý nghĩa của cuộc đời? Nếu cuộc đời là vô nghĩa thì tại sao con người phải nhọc nhằn tranh đấu vất vả để chỉ có được vài niềm vui cỏn con, mà cuối cùng kết thúc bằng cái chết? Trong thư của thánh Phaolô, chúng ta thấy ngài nhắc đến một khẩu hiệu của thế gian này: “Hãy ăn, hãy uống đi vì ngày mai chúng ta sẽ chết?”
Qua việc sống lại, Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy cuộc đời không phải là một cuộc đánh đố vô nghĩa. Sự Phục sinh của Chúa đã mang lại ý nghĩa cho cuộc đời của chúng ta. Hơn thế nữa, việc Chúa Kitô Phục sinh từ cõi chết là biến co quyết định xác nhận tính chân thật của mọi lời Ngài nói, mọi việc Ngài làm và cả cuộc đời Ngài đã sống. Chúa Giêsu không phải là một kẻ lừa đảo, cũng không phải là một con người tầm thường. Như lời thánh Phaolô đa nói trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng”.
Chúng ta được mời gọi trở nên những người thông phần tích cực vào sự thương khó, cái chết và sự sống lại của Chúa Kitô để sống những thực tại đó trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Chẳng hạn, cái chết của Chúa Kitô dạy chúng ta phải chết đi cho con người cũ của chúng ta. Như vậy, khi một người chiến đấu để bỏ tật nghiện thuốc lá, bỏ chơi bài bạc và những tật xấu khác của mình thì người ấy đã minh họa cho việc sống lại với Chúa Kitô trong một cuộc sống mới. Trong một xã hội tràn ngập việc hối lộ và tham nhũng, khi một người Kitô hữu làm việc một cách lương thiện, bất chấp những cám dỗ chung quanh mình, người ấy biểu lộ sự trung tín của Chúa Kitô với thánh ý của Chúa Cha.
Lần kia, một linh mục cao nien, thành viên của một cộng đoàn tu sĩ, ngài có tiếng là hay cáu gắt, nóng nảy đã đi dự một tuần tĩnh tâm trong mùa chay. Khi trở về, con người của ngài đã thay đổi hẳn, ngài dán một tấm biển ở cửa phòng: “Con người mới đang sống ở đây. Con người cũ đã chết và được chôn cất rồi”. Toàn thể cộng đoàn rất vui mừng trước những thay đổi trong cuộc sống của ngài. Nhưng sự thay đổi cũng chỉ được vài tuần lễ, những tính xấu của ngài lại xuat hiện một lần nữa.
Một ngày nọ, một thành viên trong cộng đoàn đến viết vào tấm biển của vị linh mục cao niên đó dòng chữ sau đây: “Nhưng ngày thứ ba, con người cũ đã trỗi dậy từ cõi chết”.
Lạy Chúa Giêsu, cũng như cac tông đồ, con thường đóng cửa của lòng con lại. Xin Chúa cử Thánh Thần của Chúa đến để Ngài mở cửa tâm hồn con đón nhận và thi hành những điều Chúa muốn.
50. Mục tử.
Chúa nhật thứ IV mùa Phục Sinh được gọi là Chúa nhật Đấng Chăn Chiên nhân lành. Vì thế, toàn bộ lời Chúa hôm nay đều xoay quanh chủ đề này. Mục tử, tức là người chăn chiên, là hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái du mục ngày xưa nói riêng, và cả xa hội Do Thái cho tới thời Chúa Giêsu nói chung. Vì vậy, suốt thời Cựu ước, hình ảnh người chăn chiên trở thành một trong những biểu tượng phong phú và sống động nhất, được dùng để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Họ như một đoàn chiên riêng của Thiên Chúa, được Người nuôi nấng, chăn dắt, săn sóc đặc biệt. Và bây giờ, Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh đó cho chính Ngài và đoàn chiên của Ngài là chúng ta. Chúng ta thấy Chua dùng hai hình ảnh: người chăn chiên thuê và người chăn chiên tốt lành để so sánh và diễn tả cho mọi người biết Ngài là người chăn chiên thật, là mục tử tốt lành.
Thế nào là một mục tử tốt lành? Chúng ta có thể tóm tắt trong hai điều: biết các con chiên của mình và ân cần săn sóc chúng. Chúa Giêsu là một chủ chăn tốt lành vì Ngài có đầy đủ và hoàn toàn hai yếu tố đó.
Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành của chúng ta vì Ngài biết chúng ta. Một người chăn chiên chuyên nghiệp biết số chiên trong bầy có bao nhiêu con. Họ biết từng con một, về ngày sinh tháng đẻ, để có thể xén lông hay gây giống. Họ có tên gọi cho từng con, biết bệnh tật từng con để cứu chữa: con nào hay bị lạnh, con nào cận thị, con nào hay lạc bầy ăn rong, hơn nữa, có khi họ còn chụp hình, ghi sổ từng con mỗi năm và cân ký hàng tháng.
Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh đó áp dụng cho Ngài như Ngài đã tuyên bố: “Tôi biết chiên của tôi”, và Ngài còn quả quyết sự hiểu biết của Ngài đối với mỗi người cũng như sự hiểu biết giữa Ngài với Cha Ngài: “Tôi biết chiên tôi như Cha tôi biết tôi và tôi biết Cha tôi”. Thực vậy, Ngài biết từng con chiên, Ngài biết chúng ta là những nhân vị, là những tín hữu, là những người có tính tình thế nào, dòng máu huyết thống ra sao. Ngài biết chúng ta hơn chúng ta biết mình. Ngài thấu suốt tư tưởng, ước mơ, lời nói, việc làm, dự định, khuynh hướng tốt xấu của chúng ta. Ngài biết rõ từng người: ai là con chiên tốt, trung thành, ngoan đạo; ai là con chiên ghẻ, lười biếng, khô khan, phản bội. Tóm lại, không ai có thể lẩn trốn khỏi mắt Chúa, bất cứ sự gì, dù thầm kín hay bí mật đến đâu, Chúa cũng biết hết.
Rồi Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành đích thực của chúng ta, vì Ngài ân cần săn sóc chúng ta. Thực vậy, Chúa hằng ở bên săn sóc từng người chúng ta, dù chúng ta không quan tâm đến, như cá sống dưới nước, dù không để ý tới nước, nơi nó bơi lội, nhưng không có nước, nó sẽ chết. Chúa biểu lộ tình yêu đặc biệt đối với những ai mang thương tích linh hồn. Ai trong chúng ta đã không nhiều lần nghe những câu chuyện Tin Mừng tỏ rõ lòng ưu ái của Chúa, như chuyện đứa con hoang đàng, chuyện Giakêu hối cải, chuyện người đàn bà ngoại tình, chuyện người trộm lành trên thập giá, và tột đỉnh của tình yêu này là tự hiến mình cho đoàn chiên. Quả thực, cả một đời tận tụy, hy sinh, giảng dạy và ban ơn, Chúa chưa cho là đủ, Chúa còn muốn thực hiện đặc tính sau cùng của một chủ chăn tốt lành là chết vì con chiên và cho con chiên, để minh chứng lời Ngài đã nói: “Không có tình yêu nào lớn hơn, cao quý hơn là chết cho người mình yêu”.
Chúa Giêsu tự xưng mình là mục tử tốt lành và Chúa đã hành động xứng tước vị đó, thì đoàn chiên cũng phải biết đối xử sao cho xứng đáng. Vật không lý trí còn biết bổn phận mình với chủ chăn, thì chúng ta, vật có linh tính, càng phải đền đáp sao cho xứng tình ưu ái của Chúa chiên vô cùng nhân hậu ấy. Vậy bổn phận của chúng ta là gì?
Chúng ta phải suy tôn Chúa là chủ chăn chúng ta bằng lòng tin tưởng và yêu mến. Nhưng suy tôn không phải chỉ ngoài miệng mà phải suy tôn Chúa trong đời sống, trong công ăn việc làm, trong sự đối xử với người chung quanh, và làm chứng nhân cho Chúa. Rồi chúng ta phải tín nhiệm vào Ngài. Con cái tín nhiệm cha mẹ, tôi tớ tín nhiệm vào chủ, chúng ta càng phải biết tín nhiệm vào Chúa hơn. Sau cùng, chúng ta phải biết nghe lời Chúa. Một con chiên ngoan bao giờ cũng biết tuân ý chủ. Luôn vâng theo ý Chúa và sống theo lời Chúa là làm hài lòng Chúa nhất, giống như con cái tuyệt đối vâng lời cha mẹ vậy.
Có lẽ những điều trên chúng ta đều biết cả, nhưng biết mà không đem thực hành là biết uổng. Chúng ta hãy kiểm điểm xem thái độ và hành động của chúng ta đối với Chúa, chủ chăn của chúng ta thế nào? Thành thực mà nói: chúng ta không chối Chúa ra mặt, nhưng chúng ta hay xâm lấn một số quyền lợi của Chúa. Chúng ta chỉ công nhận Ngài là chủ chăn, là Chúa trong vài hoàn cảnh, trường hợp đời sống, chứ không cả đời sống, sự thường xuyên của chúng ta. Chẳng hạn, chúng ta chỉ giữ đạo, chỉ giữ điều răn khi hứng thú, gặp may mắn; bao lần chúng ta thiếu tín nhiệm vào Chúa, quá lo lắng vật chất đến xao nhãng các bổn phận thiêng liêng; bao lần đời sống, cách ăn ở, cư xử của chúng ta không làm chứng cho Chúa trước những người chung quanh. Sửa chữa những khuyết điểm đó là cốt yếu của lời Chúa dạy hôm nay. Lạy Chúa, xin làm cho chúng con trở thành chiên ngoan tốt lành Chúa.
51. Đức Giêsu Mục Tử Nhân Lành
1. Hình ảnh người chăn chiên và đoàn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do Thái, vì chăn chiên là nghề truyền thống của họ. Có lẽ hơn ai hết, họ hiểu rất rõ tấm lòng của người chăn chiên đối với đoàn chiên, nhất là người chăn chiên đó không phải là người chăn thuê, mà là người chủ của đàn chiên. Đức Giêsu đã mượn hình ảnh thân quen ấy để diễn tả tấm lòng của Người đối với dân Người, của Thiên Chúa đối với nhân loại. Đức Giêsu thật là Mục tử nhân lành, cả cuộc đời của Người đã nhằm phục vụ cho đàn chiên: giảng dạy, chữa bệnh... rồi cuối cùng đã hiến cả mạng sống mình cho đàn chiên (Ga 10,11-15), Người hy sinh tính mạng để cho đàn chiên được sống và sống dồi dào.
2. Vì Người biết mình phải trở về cùng Cha, nên Người đã ủy thác sứ mạng của mình cho các Tông đồ, các môn đệ và những người kế vị các ngài tiếp tục được thực hiện trong Hội Thánh cho đến tận thế (Lc 22,19 ). Như vậy, cũng như thời đã qua, hôm nay và mãi cho đến ngày tận thế Hội Thánh vẫn cần đến những người dấn thân trong ơn gọi linh mục, tu sĩ để phục vụ Chúa, Giáo hội và tha nhân. Vì thế, Chúa Nhật hôm nay, Giáo Hội còn dành đặc biệt để cầu nguyện cho ơn gọi linh mục, tu sĩ.
3. Có thể nói linh mục, tu sĩ là món quà hết sức đặc biệt mà Thiên Chúa ban cho loài người. Ai trong chúng ta cũng biết dù sống đời sống hôn nhân gia đình hay dâng mình cho Chúa trong đời tu đều quý. Bởi trước mặt Chúa phẩm giá mọi người đều như nhau, điều Chúa muốn chúng ta lưu tâm là phải cố gắng chu toàn trong bậc sống của mình. Nhưng dầu sao, có thể nói dâng mình cho Chúa trong ơn gọi tu trì đó là điều kiện thuận lợi để chúng ta phục vụ Chúa phục vụ Hội Thánh và tha nhân. Thiết nghĩ rằng những ai dấn thân vào đời sống tu trì, sẽ thấy cuộc đời không đơn điệu, mà dễ cảm nhận được cuộc sống đầy tràn ý nghĩa, thú vị. Dấn thân trong đời tu theo sát Đức Kitô không phải là một cách trốn chạy cuộc đời, mà là một sự dấn thân phục vụ theo gương của Người. Vì thế ai có thể đừng ngại dâng mình cho Chúa trong đời tu và hãy cầu nguyện càng ngày càng có nhiều người dấn thân trong ơn gọi này, bởi cánh đồng truyền giáo tại Việt Nam và trên thế giới còn bao la: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít" (Mt 10,37).
4. Không phải chỉ các linh mục, tu sĩ là những người được mời gọi cách đặt biệt để tham gia vào sứ mạng của Đức Kitô, mục tử nhân lành, mà mọi người chúng ta qua Bí Tích Rửa Tội đều được mời gọi tham gia sứ mạng này.
Nhưng trước hết, chúng ta hãy lắng nghe theo tiếng vị Chủ Chăn đích thực của chúng ta là chính Đức Kitô, hãy nghe và giữ lời Người. Cũng đừng quên hãy nghe theo sự hướng dẫn của Hội Thánh là thân thể mầu nhiệm của Người. Chúng ta de thấy những con chiên không nghe theo hướng dẫn của người chủ chăn thì dễ gặp thú dữ, dễ bị lạc đường... bề ngoài xem ra nó được tự do, nhưng lại đi đến chỗ bị thiệt thân. Vậy chúng ta đừng để mình là những con chiên lạc.
Kế đến, các Kitô hữu dù không phải là linh mục, tu sĩ nhưng tất cả đều được mời gọi tham gia vào vai trò mục tử của Đức Kitô: khi giới thiệu Thiên Chúa cho người khác, khi nhắc nhau sống đẹp lòng Người. Vợ chồng hãy là mục tử của nhau, cha mẹ hãy là mục tử của con cái, anh chị hãy là mục tử của các người em, bạn bè hãy là mục tử của nhau... Chúng ta dễ thấy có rất nhiều người giáo dân đã ý thức thực hiện điều này rất tốt. Khi thực hiện như thế chính là họ tham gia vào vai trò mục tử của các linh mục sở tại, của Giám Mục Địa Phận mà tất cả đều xuất phát từ vai trò Mục Tử của Đức Kitô.
5. Mừng lễ Đức Giêsu mục tử nhân lành hôm nay, đây là dịp rất tốt để mỗi người chúng ta suy nghĩ:
- Chúng ta có nhận ra Đức Giêsu là vị Mục Tử nhân lành không? Nếu ta tin nhận Người là vị Mục Tử nhân lành, hãy xem coi ta có vâng nghe theo lời Ngài dạy trong cuộc sống không?
- Mỗi người trong chúng ta đã làm gì để tham gia vào sứ vụ của Đức Giêsu Mục Tử nhân lành?
- Mỗi người cũng hãy xem lại, mình đã làm gì và sẽ làm gì để góp phần cho ơn gọi linh mục, tu sĩ?
52. Mục tử.
Du khách dừng chân trước một đàn cừu, bỗng lưu ý tới một con vật nằm dài trên đất được chủ nó vuốt ve, và băng bó vết thương ở một chân bị gẫy.
Du khách hỏi chuyện nhưng bị người chăn cừu đáp lại bằng một bộ mặt khó chịu. Sau khi thấy du khách là người hiền lành, người chăn cừu mới tiết lộ sự thật:
- Con cừu này có những đức tính tuyệt hảo. Khi còn lành mạnh, nó luôn dẫn đầu đàn. Nó biết cách làm cho mọi con trong bầy vâng phục. Tiếc thay vì quá tự tin, nó không chịu vâng lời tôi và thường hay dẫn đàn cừu đi theo sở thích của nó. Cuối cùng, tôi buộc lòng phải áp dụng biện pháp khá đau đớn.
Nói tới đây, người chăn cừu dừng lại vì bị xúc động. Anh giải thích tiếp:
- Tôi đành phải bẻ gẫy chân nó. Kể từ đó, nó hoàn toàn phụ thuộc vào tôi. Mỗi buổi sáng, tôi vác nó lên vai, đưa ra đồng cỏ. Rồi buổi chiều, tôi lại vác nó về. Nó không tự mình đi ăn cỏ. Từ một tháng nay, nó ăn cỏ giữa lòng bàn tay của tôi. Những chăm sóc tôi dành cho nó đã tạo nên mối tương quan mật thiết giữa nó và tôi. Mong sao nó giảm đau, để rồi từ nay nó sẽ là con vật biết vâng lời và tôi sẽ lại đặt nó đặt nó làm con vật đầu đàn.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Vậy trước hết, mục tử là người như thế nào? Tôi xin thưa:
- Mục tử là người chăm sóc đàn chiên.
Họ có thể là chính ông chủ, hay con trai, con gái của ông ta. Họ cũng có thể là người làm thuê được trả công bằng tiền, hay bằng sản phẩm của đoàn vật, với trách nhiệm phải tìm đồng cỏ cho đàn vật ăn và suối nước cho đàn vật uống.
Ngoài ra, người mục tử còn có bon phận phải bảo vệ đàn chiên khi chúng bị kẻ trộm hay thú dữ đe dọa. Trách nhiệm này không nhỏ, vì họ có thể bị buộc phải đần bù về số con vật bị mất.
So sánh Chúa Giêsu với người mục tử trong câu chuyện vừa nghe, chung ta thấy có một số điểm khác biệt như sau.
Trước hết tương quan giữa chủ chăn và con vật gẫy chân là một tương quan thu hẹp. Chủ chăn muốn nắm giữ quyền sở hữu trên mọi con vật trong đàn. Trong khi đó, con vật đầu đàn lại muốn chiếm quyền điều khiển cả đàn, nên đã bị sửa phạt.
Còn tương quan giữa Chúa Giêsu, vụ mục tử nhân lành với đàn chiên thì lại khác, đó là một tương quan mở rộng và luôn hướng tới Chúa Cha. Ngài không qui đàn chiên về mình, trái lại luôn qui hướng về Chúa Cha, như lời Ngài đã phán:
- Cha của anh em, Đấng ngự ở trên trời, không muốn một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.
Người chủ chăn trong câu chuyện đã sửa phạt con vat đầu đàn để nó được thuần tính, bằng cách bẻ gẫy một chân để nó hoàn toàn lệ thuộc vào mình.
Còn Chúa Giêsu thì khác. Ngài gọi tên từng con chiên và dẫn cả đàn đi ăn. Ngài biết từng con chiên như Chúa Cha biết Ngài. Đồng thời, Ngài đích thân chắm sóc các con chiên. Mỗi người đều có một vị trí, một giá trị của mình trong đàn, vì chính Ngài đã nói:
- Trên trời sẽ vui mừng vì một kẻ tội lỗi sám hối trở lại, hơn chín mươi chín người công chính không cần ăn năn.
Sau cùng, kẻ chịu đau đớn trong câu chuyện là con đầu đàn bướng bỉnh.
Còn Chúa Giêsu thì khác, chính Ngài, với tư cách là mục tử nhân lành, đã hy sinh mạng sống cho đàn chiên, như lời Ngài đã nói:
- Ta hoàn toàn tự nguyện hiến mạng sống của Ta, trước là để làm đẹp lòng Chúa Cha, sau là để các chiên Ta được sống và sống dồi dào.
Hãy bước đi dưới sự hướng dẫn của vị mục tử nhân lành là Chúa Giêsu, nhờ đó chúng ta sẽ tới được bến bờ hạnh phúc.
53. Tốt lành.
Thế nào là một mục tử tốt lành? Đó là người biết các con chiên của mình, ân cần săn sóc chúng, và sẵn sàng hy sinh, chịu cực khổ để bảo vệ chúng, thậm chí sẵn sàng hy sinh cả mạng sống cho chúng nữa. Đó là những đặc điểm hay những vẻ đẹp của một người chăn chiên tốt lành mà Chúa Giêsu đã phác họa trong bài Tin Mừng hôm nay và áp dụng cho chính Ngài.
Chúa Giêsu là mục tử tốt lành của chúng ta, vì Ngài biết chúng ta. Chúa biết từng con chiên một, Chúa biết tình trạng sức khỏe của từng con, và con nào đi lạc trong cả bầy trăm con Ngài cũng biết. Chúa biết tất cả và biết rõ từng người một. Không phải Chúa chỉ biết một cách chung chung, nhưng có thể nói Chúa đi guốc trong bụng chúng ta.
Người đời không đo được lòng người: “Dò sông dò biển dễ dò. Đố ai đo nổi lòng người nông sâu”. Nhưng với Chúa, Chúa biết từng chân tơ kẽ tóc của chúng ta. Chúa hiểu biết chúng ta hơn bất cứ ai, hơn cả chúng ta biết về chính mình nữa. Ngài thấu suốt tư tưởng, ước mơ, lời nói, việc làm, dự định, khuynh hướng tốt xấu của chúng ta. Ngài còn biết tất ca chúng ta trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Ngài biết những ai đã bê tha trong tội lỗi, những ai đang đau khổ về thể xác và những ai đang bị dằn vặt trong tâm hồn. Ngài biết rõ từng người: ai là con chiên tốt, trung thành, ngoan đạo, ai là con chiên ghẻ, lười biếng, khô khan, phản bội… Tóm lại, không ai có thể lẩn trốn khỏi mắt Chúa, bất cứ sự gì, dù thầm kín hay bí mật đến đâu, Chúa cũng biết hết, biết tất cả, biết từng ly từng tí, theo kiểu “Một sợi tóc trên đầu cũng được đếm cả rồi, sợi nào rơi xuống đất Chúa đều biết hết”.
Tuy nhiên, Chúa biết rõ mọi con chiên và từng con chiên. Đây không phải là cái biết lý thuyết: biết để biết hay biết suông vậy thôi, nhưng là cái biết để đối xử với đàn chiên và từng con chiên theo tình trạng của nó. Thông thường, tiến trình của hầu hết các tình cảm của chúng ta đều theo một diễn tiến như sau: quen – biết – hiểu – thông cảm – thương mến – yêu, nghĩa là khi chúng ta quen một người, dần dần chúng ta hiểu biết về người ấy, rồi mới dễ dàng đi tới cảm thông, giúp đỡ và thương yêu.
Đó là chưa kể trường hợp nhiều khi biết rõ nhau, người ta lại ghét nhau hơn. Đó là về phía con người chúng ta với nhau. Còn đối với Chúa, là Đấng toàn tri, toàn năng và yêu thương, nơi Ngài không có vấn đề tách rời từng giai đoạn như diễn tiến nơi con người. Cùng một lúc, sự hiểu biet và yêu thương của Ngài gồm tóm tất cả mọi yếu tố, nên không thể có trường hợp Chúa biết rồi Chúa mới yêu hay Chúa biết mà Chúa không yêu thương.
Thực vậy, Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, vì Ngài ân cần săn sóc cac con chiên. Trong ba năm giảng dậy, chúng ta thấy Ngài ân cần săn sóc tất cả những ai đến với Ngài, nhất là những người vất vả, khó khăn. Ngài kêu gọi: “Những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ, bổ sức cho”. Đặc biệt những người tội lỗi. Ngài không bao giờ xua đuổi, xa lánh họ, nhưng tìm kiếm, kêu gọi, tha thứ. Cả một đời tận tụy, hy sinh, giảng dạy và ban ơn, Chúa chưa cho là đủ, Chúa còn muốn thực hiện đặc tính sau cùng của một mục tử tốt lành nữa, là chết vì con chiên và cho con chiên, như Ngài đã tuyên bố: “Không có tình yêu nào cao quý hơn, lớn hơn là chết cho người mình yêu”.
Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, nhưng sứ vụ muc tử ấy Chúa cũng đã trao cho Giáo Hội, cho mỗi người trong Giáo Hội. Dù có chức vụ gì, hay chỉ có vị trí khiêm nhường, nhỏ bé đến đâu trong cuộc sống, mỗi người đều là mục tử: Giám mục là mục tử trong giáo phận; linh mục là mục tử trong giáo xứ; vợ chồng, cha mẹ là mục tử trong gia đình. Có thể con cái cũng là mục tử cho cha mẹ và anh chị em với nhau; thầy cô giáo là mục tử trong lớp, trong trường mình. Rất có thể học sinh cũng là muc tử cho thầy cô giáo và các bạn học; các bạn trẻ là mục tử cho nhau… Tóm lại, mục vụ là sứ mệnh của Giáo Hội và mỗi tín hữu đều có phần của mình trong sứ mệnh ấy, vừa được chăn dắt vừa có trách nhiệm chăn dắt.
Là mục tử, dù trong vị trí nào, chúng ta cũng phải nhìn vào mục tử gương mẫu là Chúa Giêsu. Chúng ta phải biết nhau, ân cần quan tâm đến nhau, giúp đỡ nhau, yêu thương nhau. Đặc tính nổi bật của mục tử tốt lành là nhân hau, thương xót. Vì thế, ai muốn nên trọn lành thì phải tập sống nhân hậu, thương xót. Ai muốn kéo người ta về với Chúa thì càng phải cố gắng có những cử chỉ và những việc làm nhân hậu, thương xót.
Chúng ta hãy nhớ: mỗi người chúng ta đều được Chúa trao cho trách nhiệm chăn dắt một ai đó trong đoàn chiên hay đưa một ai đó vào đoàn chiên, hay đưa một ai đó về lại trong đoàn chiên… bằng cách sống biểu hiện nhân hậu và thương xót của chúng ta.
54. Chúa chiên lành.
Trong việc tham dự hội nghị tại An Độ, tôi đã được dịp nghe bài thuyết trình của một nhà trí thức Công giáo người An Độ nói về những ước nguyện của người giáo dân trong cộng đồng Giáo Hội. Nhà trí thức An Độ này là một tổng giám đốc của một công ty phổ biến những kỹ thuật truyền thông mới mẻ và có uy tín trong cộng đồng Giáo Hội địa phương. Và một trong những ước nguyện của một giáo dân trưởng thành và có thể nói là đã thành đạt trong đời sống cộng đoàn, đó là không muốn được gọi là con chiên của Chúa, ông đã hãnh diện chia sẻ như sau:
Trong thời đại kỹ thuật tân tiến hiện nay, thời đại mà người giáo dân đã đạt được mức trí thức cao thì ta không thể nào đối xử với họ là những con chiên ngoan ngoãn chỉ biết vâng phục lệnh của bề trên, và ông ta nói, tôi không thích hình ảnh con chiên trong đoàn chiên của Chúa, tôi cũng không muốn sống như những con chiên, tôi muốn được gọi, được kể như là những con chiên chỉ biết cúi đầu nghe lệnh.
Kể từ lần nghe được bài chia sẻ của giáo dân trí thức này bên An Độ đến nay, thỉnh thoảng tôi lại đặt vấn đề cho mình suy nghĩ về hiền thánh này, Chúa là Đấng chăn chiên nhân lành, còn ta là đoàn chiên của Người. Đây là một hình ảnh hết sức quen thuộc và cũng hết sức quan trọng trong mạc khải Cựu cũng như Tân Ước, đến nỗi Chúa Giêsu đa dùng đến nó không những nhiều lần, mà nhất là trong lần quan trọng nhất khi trao cho Phêrô quyền chăn dắt đoàn chiên của Chúa: “Hãy chăn dắt chiên con, chiên mẹ của Thầy”.
Nhiều lần tôi đã đặt cho mình câu hỏi: “Hình ảnh về đoàn chiên còn hợp thời nữa hay không?”, và có thể nói tôi đã tìm được câu trả lời trong một lần dừng chân tại miền Nam quốc gia Au Châu, và được dịp tận mắt chứng kiến cảnh những người chăn chiên hướng dẫn đoàn chiên tiến về đồng cỏ tươi tốt nuôi sống đàn chiên.
Kinh nghiệm sống này tôi chỉ được nhìn qua và trước khi có kinh nghiệm sống này, tôi chỉ được nhìn đoàn chiên qua hình ảnh Chúa Giêsu hướng dẫn đoàn chiên trong những bức tranh, và giờ đây qua kinh nghiệm tận mắt nhìn ngắm đoàn chiên sinh hoạt như thế nào với người chăn, tôi chợt như được hiểu thêm về ý nghĩa sâu xa của hình ảnh được Chúa Giêsu sử dụng và được Giáo Hội cử hành hằng năm vào Chúa nhật hôm nay, Chúa nhật IV Phục sinh được gọi là Chúa nhật “Chúa Chiên Nhân Lành”.
“Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta và chúng theo Ta”. Đây là một hình ảnh cụ thể và hình ảnh cụ thể đoàn chiên im lặng hiệp nhất đi theo người chăn mà tôi đã chứng kiến tận mắt giúp tôi hiểu thêm mối tương quan giữa người chăn và đoàn chiên. Đây không phải là một mối tương quan trí thức của sự hiểu biết thuần lý của lý trí khô khan, nhưng là một tương quan sống động của con tim, của tình yêu thương vật chất, một tình yêu không thể diễn đạt thành lời nói, không thể gói ghém trọn vẹn trong ngôn ngữ con người, nhưng được diễn tả một cách cụ thể trong hành động.
Từ ngữ “biết” có nghĩa là tin tưởng và yêu thương. Tin và yêu thì không có sự đàn áp nào cả, những con chiên như hiểu được ý muốn của người chăn và trung thành gắn bó với người chăn, nhưng không phải chỉ là một sự gắn bó bên ngoài.
Trong bài Phúc Am chúng ta vừa nghe qua, Chúa Giêsu còn nhắc đến một sự gắn bó chặt chẽ nội tâm, đó là một sự chia sẻ được cuộc sống để chúng được sống đời đời và chúng sẽ không bao giờ hư mất, không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi: “Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi thì cao trọng hơn tất cả, không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi”. Đây là lúc mà Chúa Giêsu vượt qua giới hạn của hình ảnh đời thường, của hình ảnh một đoàn chiên đi theo người chăn, để tiến xa hơn vào trong mối tương quan giữa Chúa và mỗi người chúng ta.
Trong đời thường, người chăn chiên không thể nào chia sẻ sự sống của mình cho con chiên, nhưng ở đây Chúa Giêsu vượt qua giới hạn của hình ảnh mà đi vào thực tại và Chúa mạc khải cho chúng ta biết, Chúa chia sẻ cho chúng ta sự sống của chính Chúa, để được sống kết hợp mật thiết với Chúa, một sự kết hiệp mật thiết có thể nói giống như mẫu lý tưởng sự kết hiệp mật thiết giữa Chúa và Thiên Chúa Cha: “Tôi và Cha Tôi là một”.
Cử hành lễ Chúa Chiên Lành hôm nay, chúng ta được mời gọi vượt qua tính tự phụ, tự kiêu của mình để tin tưởng vào tình yêu của Chúa và sống trong tình yêu này. Và không những chỉ tin tưởng và sống trong tình yêu này mà thôi, nhưng chúng ta còn được mời gọi để chia sẻ sự sống của Chúa, được mời gọi mỗi ngày một lớn thêm trọn hảo trong tình yêu của Chúa.
Do đó chúng ta biết rằng, mối tương quan giữa ta và Chúa là mối tương quan đặc biệt có ưu tiên trên mọi mối tương quan khác như Chúa đã nói: “Không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi thì cao trọng hơn tất cả”. Chúa Giêsu đã đặt mối tương quan giữa ta và Chúa, tình yêu thương kết hiệp giữa ta và Chúa thành mối tương quan ưu tiên của Ngài, đến độ Ngài phải hy sinh mạng sống của mình trên thap giá để ban cho chúng ta được mối tương quan này, được chia sẻ sự sống của Chúa và chia sẻ mãi mãi.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Chúa trong đời sống mình và cho chúng ta được trưởng thành trong đời sống, trong tình yêu của Chúa và trong đức tin mà chúng ta giờ đây cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin kính.
55. Tìm thấy.
Công việc chiếm một phần rất lớn trong cuộc sống của chúng ta. Do đó, điều quan trọng nhất là cách thức chúng ta quan niệm về công việc. Nếu công việc của chúng ta có ý nghĩa, thì nó trở thành một lời chúc phúc. Nhưng nếu nó không có ý nghĩa, hoặc có ít ý nghĩa, thì hầu như nó trở thành một tai họa.
Người ta nói rằng điều đầu tiên trong vấn đề của chúng ta, đó là tìm ra được công việc nào mà chúng ta muốn làm trong thế giới này. Vincent Van Gogh đã trải qua nhiều năm, để cố gắng tìm cho được công việc mà ông muốn làm trong cuộc đời của ông. Cuối cùng, sau nhiều cuộc tìm kiếm, ông phát hiện rằng ông muốn trở thành một họa sĩ. Kể từ ngày đó, cuộc đời của ông được thay đổi hẳn. Dường như cuộc đời ông đột nhiên trở nên dễ dàng. Điều trái ngược lại tiếp cận hơn sự thật.
Đúng là cho đến nay, cuộc sống của ông không đi đến đâu, bây giờ, cuộc đời của ông đang đi đến một nơi nào đó xác định. Ông nói:
“Dù sao, tôi thường cảm thấy rằng mình cũng giàu có như Croesus, không phải là giàu có về tiền bạc. Tôi giàu có, bởi vì tôi cảm thấy trong công việc của mình, có một điều gì đó mà tôi có thể cống hiến cả tâm hồn và lòng trí tôi, điều đó còn mang lại ý nghĩa và cảm hứng cho cuộc đời tôi. Tôi nghĩ rằng thật là một ơn phúc rất lớn, khi người ta tìm được công việc của mình”.
Nếu đôi khi, tôi cảm thấy trong lòng tôi dâng lên một ham muốn đến với một lối sống dễ dãi, thì tôi thích quay trở lại với một lối sống khó khăn. Đây không phải là con đường mà trên đó, người ta sẽ bị tàn lụi, nói đúng hơn, đây chính là nguồn sức mạnh sẽ đưa tôi đến bến bờ một cách an toàn.
Sự khác biệt giữa người chăn chiên tốt lành và kẻ làm thuê là gì? Đó là những thái độ trái ngược của hai người đối với công việc chăn dắt đoàn chiên. Kẻ làm thuê làm công việc đó, bởi vì họ buộc phải làm. Đối với người này, đây chỉ là một công việc; tam hồn của họ không đặt vào công việc này. Người chăn chiên tốt lành làm công việc đó, bởi vì họ muốn làm. Họ đặt cả tâm hồn mình vào công việc này.
Người nào giống như người chăn chiên tốt lành, là người rất may mắn. Họ đã tìm ra một kho tàng thực sự. Họ không chỉ tìm thấy một công việc, mà còn tìm thấy một ơn gọi trong cuộc đời. Họ có một công việc mà họ có thể đặt cả tâm hồn của mình vào, và công việc đó còn mở lối tạo thuận lợi cho những năng khiếu nơi họ nữa.
Mặc dù công việc của họ có thể gặp khó khăn và không có gì là kỳ diệu cả, nhưng nó vẫn rực sáng ý nghĩa, bởi vì đó là một công việc của tình yêu. Mặc dù cuộc sống của họ có thể chứa đựng nhiều khó khăn vất vả, nhưng tự trong sâu thẳm tâm hồn, họ vẫn cảm thấy hài lòng. Chúng ta không bao giờ được đánh giá ngang hàng nhau, giữa cuộc sống hạnh phúc với cuộc sống dễ dãi. Công việc nào cang khó khăn, nhưng chúng ta vẫn tự hiến thân vì mục đích yêu thương, thì công việc đó càng làm cho chúng ta trở nên cao quí.
Thật hạnh phúc cho người nào tìm được công việc của mình, bất kể đó là một công việc tầm thường đến thế nào. Họ được giải thoát khỏi tình trạng không tha thiết, và khỏi bi kịch chỉ sống cuộc sống của họ một cách nửa vời. Tự thân công việc đó mang những nét tốt đẹp nhất. Không phải là cường điệu khi nói rằng đoi với họ, công việc đó trở thành con đường cứu độ.
Đức Giêsu đã tìm ra công việc của Người. Công việc này hệ tại ở việc trở nên một người chăn chiên tốt lành đối với đàn chiên của Chúa Cha. Trước hết, Người quan tâm đến đàn chiên của mình, đến mức độ sẵn sàng chết đi để bảo vệ chúng. Và Đức Giêsu đã tự hiến cuộc đời mình cho đàn chiên của Người. Những nhà lãnh đạo tốt đều biết rõ thuộc hạ của mình, và những người này cũng nhận biết cấp trên của họ. Có một tương quan thân thiện giữa nhà lãnh đạo và thuộc hạ. Nếu không được như vậy, thì sự lãnh đạo dễ dàng trở thành cảnh đàn áp.
Không cần nói rằng chúng ta là những con chiên. Như thánh Gioan nhắc nhở chúng ta: Chúng ta đều là con cái của Thiên Chúa, Thiên Chúa mong muốn chúng ta được sống cuộc sống bây giờ và mai sau.
56. Ơn gọi.
Bài Tin Mừng hôm nay nói về sự quan tâm và không quan tâm. Kẻ làm thuê không biết hoặc không quan tâm gì đến đàn chiên. Người chăn chiên tốt lành quan tâm đến đàn chiên của mình, đến mức độ sẵn sàng chết đi để bảo vệ chúng. Sự quan tâm thật đáng giá và mang tính cách rủi ro. Người quan tâm san sóc là loại người rất đặc biệt.
Ngày nay, người ta chú ý nhiều đến lối làm việc của người quá quan tâm, và đúng là như vậy. Tuy nhiên, không phải lúc nào quá quan tâm cũng là hậu quả của lối làm việc quá nhiều. Chắc hẳn, đó là hậu quả của lối suy nghĩ phù phiếm. Người ta có thể làm việc lâu giờ, miễn là họ cảm thấy rằng công việc của họ đang tạo ra được một sự khác biệt. Nhưng nếu họ cảm thấy rằng những nỗ lực của họ đang bị uổng công, rằng bất chấp họ đã làm việc lâu dài và vất vả đến đâu, nhưng công việc đó vẫn không hề tạo ra được một sự khác biệt nào cả thì họ sẽ cảm thấy mệt lử và bị kiệt sức.
Sự quan tâm không hệ tại nhiều ở tự thân công việc có khó khăn hay không, nhưng hệ tại ở sự kiện công việc đó có mục đích hay không. Tự hiến thân mình một cách không có mục đích chính là làm xói mòn năng lực của mình. Việc hiến thân theo mục đích không phải là một khả năng có thể làm suy kiệt năng lực của con người.
Khi có được một công việc thu hút con người, thì càng tạo ra cho người đó một sức mạnh và năng lực lớn lao. Alexander Solzhenitsyn đã trải qua nhiều năm làm việc lao động tại trại Siberia. Yếu tố lớn nhất giúp ông tồn tại được, chính là công việc viết lách của ông. Trong tác phẩm bất hủ của ông, The Gulag Archipelago, ông nói:
“Đôi khi, trong một đội lao động ảm đạm, với những cỗ máy pháo thủ gầm rú chung quanh tôi, những phòng tuyến và hình ảnh tập trung một cách quá dồn dập, đến nỗi chính tôi cũng cảm thấy mình bị hất tung lên không trung, tôi bỏ qua đội hình, đến chỗ trại làm viec, và tìm một góc để viết. Những lúc như vậy, tôi vừa có được cả sự tự do lẫn niềm hạnh phúc.
“Tôi cứ tiếp tục viết. Vào mùa đông tại lán trại ấm áp, vào mùa xuân, trên giàn giáo đặt tại tòa nhà; ở khoảng giữa hai xe cút kít chất đầy hồ vữa, tôi sẽ đặt mảnh giấy của tôi trên mấy viên gạch, và bằng một mẩu bút chì, tôi viết ra những vần thơ vừa mới chảy dồn vào đầu óc tôi, trong khi tôi vẫn đang vỗ vào cái sô đựng mảng hồ vữa cuối cùng. Tôi bị thẩm vấn, để ý, và đẩy đi sống tại thảo nguyên. Tôi ngồi trong phòng ăn lớn, với món cháo mà đôi khi thậm chí tôi không buồn để ý đến hương vị của nó, tôi như câm điếc trước những sự việc diễn ra chung quanh mình – tìm cách viết ra những vần thơ của tôi, và lựa chiều sắp xếp sao cho phù hợp, giống như những viên gạch trên một bức tường vậy”.
Khi có được một công việc thu hút con người mình, thì thật là một ơn phúc rất lớn. Nhưng khi có được một ý thức về ơn gọi thì còn là một ơn phúc lớn lao hơn. Thật vậy, đó là một trong những ân sủng vĩ đại nhất trong cuộc đời. Đức Giêsu đã có được ân sủng này, và Người đạt tới một mức đo mà sẽ không bao giờ chúng ta đạt được. Có một lần, Người nói với các tông đồ của Người “Thầy có một thứ lương thực mà anh em không biết. Lương thực của Thầy chính là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”. Và chúng ta còn nhận thấy điều này một cách rõ ràng hơn trong bài Tin Mừng hôm nay, trong đó, Người nói về chính Người như là một người chăn chiên tốt lành.
Không giống như kẻ làm thuê, người chăn chiên tốt lành yêu thích công việc của mình. Đối với người này, đàn chiên là một ơn gọi. Điều này không có nghĩa là cuộc sống của họ dễ dàng hơn, so với cuộc sống của kẻ làm thuê. Trên thực tế, so với kẻ làm thuê, cuộc sống của họ còn khó khăn hơn. Nhưng cuộc sống của họ được thỏa mãn hơn. Công việc của họ nuôi dưỡng họ.
Tình yêu là một nguồn sức mạnh và năng lực tuyệt vời. Tình yêu làm cho người ta trở nên can đảm. Ở nơi nào hiện diện một tình yêu đích thực, thì không có sự hy sinh nào là quá to lớn cả. Tình yêu chế ngự tất cả những khó khăn. Nếu chúng ta biết yêu mến, thì năng lực sẽ đến với chúng ta.
Hôm nay, người ta thường ám chỉ đến mot ngày Chúa nhật dành cho những ơn gọi. Đối với người Kitô hữu, tất cả những ơn gọi đều là ơn gọi yêu thương.
57. Tình yêu.
Khi không có động cơ là tình yêu, thì việc thực hiện một bổn phận, thậm chí kể cả việc thể hien lòng tin, cũng đều có thể đưa đến hậu quả là làm khô héo tâm hồn con người.
Hai người có thể đang làm cùng một công việc như nhau, ngay cả đang làm việc bên nhau, tuy nhiên, họ vẫn có thể có những thái độ trái ngược nhau đối với công việc đó. Một người thì yêu mến công việc của mình, và hoàn toàn hết mình với công việc. Người đó tự hào về việc mình đang làm, và đặt tâm hồn của mình vào đó. Còn người kia thì ghét công việc của mình, và chỉ làm nửa vời. Đối với người này, đây chỉ là thuần túy là một công việc mà thôi. Điều duy nhất mà người này quan tâm đến, đó là số tiền thù lao.
Đức Giêsu cho ta một ví dụ hay về điều này, trong dụ ngôn của Người, nói về kẻ làm thuê và người chăn chiên tốt lành. Giữa hai người này, có một sự mâu thuẫn. Đối với kẻ làm thuê, quan tâm đến đàn chiên chỉ là công việc. Anh ta làm việc chỉ vì đồng lương, mà không hề biết gì ve đàn chiên, hoặc chăm sóc gì đến chúng. Hậu quả là đàn chiên bị đói khổ.
Đối với người chăn chiên tốt lành, quan tâm đến đàn chiên không chỉ là công việc, mà còn là một lối sống, một ơn gọi. Người đó biết rõ về đàn chiên, và quan tâm chăm sóc chúng, đến mức độ sẵn sàng liều cả mạng sống của mình, để cứu đàn chiên. Kết quả là đàn chiên được phát triển.
Nét khác biệt rất lớn giữa người chăn chiên tốt lành và kẻ làm thuê chính là tình yêu của người đó đối với công việc của mình. Người đó yêu thích và tận tụy với công việc. Điều này không làm cho công việc của họ trở nên dễ dàng hơn. Nếu bất cứ điều gì cũng làm cho công việc của người đo khó khăn hơn, là bởi vì họ làm công việc đó một cách kỹ lưỡng. Nhưng điều này lại làm cho họ có khả năng đặt hết tất cả năng lực của mình vào công việc. Nếu bạn muốn yêu mến, thì năng lực sẽ đến với bạn. Không chỉ có công việc được lợi ích, mà người làm công việc đó cũng được lợi ích nữa – trong cùng một hành động, công việc này đem lại điều tốt đẹp nhất. Cách làm việc như vậy đem lại sự giải phóng cho con người.
Hầu hết chúng ta đều là những kẻ làm thuê, theo ý nghĩa là chúng ta không làm việc cho bản thân mình. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta phải có tư tưởng của người làm thuê. Chỉ vì con người đòi hỏi phải được trả công đầy đu, nhưng điều đó không có nghĩa là người đó thuộc loại làm thuê mà Đức Giêsu nói đến. Người đó không được mang thái độ của kẻ làm thuê vào công việc của mình. Người đó không được làm việc chỉ vì đồng lương, mà vẫn có thể mang thái độ của người chăn chiên tốt lành.
Chúng ta có quyền đòi một số tiền trả công xứng đáng. Ngoài những sự đền đáp khác, đây là điều đúng đắn, do nhân phẩm của con người. Nhưng với tư cách là những Kitô hữu, chúng ta phải cố gắng nhìn vào công việc như là một cách thế phục vụ người khác, bất kể điều gì xảy ra. Nếu được như vậy, chúng ta mới là những người chăn chiên tốt lành. Chúng ta phải rời bỏ hàng ngũ của những ke làm thuê. Chúng ta đều là thành viên của một cộng đoàn thánh thiêng – đó là những người thực hiện những công việc cần thiết, nhưng tẻ nhạt, trong một tinh thần phục vụ. Công việc vất vả nhưng lương thiện làm cho cơm bánh của con người trở nên có hương vị ngọt ngào. Kẻ làm thuê làm việc trong sự bất lợi trầm trọng nhất – tâm hồn của người đó không đặt vào trong công việc. Người ta vẫn có thể sống suốt cả cuộc đời mình, với tâm lý của một kẻ làm thuê. Hầu như kẻ bị lạc lối không mang tư tưởng gì cả. Có một sự xói mòn xảy ra trong tâm hồn của những người nào không quan tâm đến phẩm chất công việc, mà chỉ để ý đến những động cơ mà thôi.
“Nếu bạn cảm thấy mình không có tình yêu, hãy cứ để mặc người khác một mình. Thay vào đó, bạn nên bận rộn với nhiều thứ” (Tolstoy).
58. Cầu nguyện.
Đối với người Việt chúng ta thì hình ảnh “chiên và người chăn” không phải là mot hình ảnh gần gũi, vì xứ sở chúng ta không thuộc vùng Cận Đông với nghề chăn nuôi chiên cừu như Palestin xưa. Hơn nữa trong khi cả đất nước đang nói đến công nghiệp hóa, mà chúng ta cứ nhắc đi nhắc lại câu chuyện “đàn chiên với mục tử”, thì e rằng chúng ta bị coi là những người lạc hậu! Nhưng nếu đi sâu vào ý nghĩa và biểu tượng tôn giáo của hình ảnh “chiên và mục tử” thì chúng ta lại chẳng thấy lạc hậu tí nào. Vì chưng những người tin ở Thiên Chúa đều xác tín rằng họ luôn được Thiên Chúa và Chúa Kitô quan tâm và tận tình chăm sóc, không chỉ về phương diện tâm linh mà về mọi phương diện con người, không chỉ ở đời sau mà cả ở đời này lẫn đời sau. Mối tương quan gắn bó giữa người chăn và con chiên là hình ảnh sống động, cụ thể của mối tương quan giữa Thiên Chúa và người tín hữu.
Đức Giêsu đã công bố Người là vị Mục tử nhân lành, với những nét đặc trưng sau đây: Vị mục tử nhân lành hết lòng yêu thương những người thuộc về mình. Vì yêu thương nên Người quan tâm đến mọi người và đến từng người. Càng quan tâm thì càng biết tường tận: biết họ muốn gì? họ cần gì? họ có thể gặp phải những nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào? Vị mục tử nhân lành luôn đi đầu, đi trước tức hướng dẫn, lãnh đạo đoàn chiên, tức đứng mũi chịu sào, gánh chịu mọi khổ cực cho người thuộc về mình. Vị ấy sẽ đem chiên đến những mien an toàn, có suối mát và cỏ xanh, để chiên được ăn uống no nê, được nghỉ ngơi thoải mái. Chiên sẽ tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Thậm chí vị mục tử sẽ hy sinh mạng sống vì chiên.
Lý do Hội thánh lấy ngày Chủ nhật Chúa Chiên Lành làm ngày cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ: Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Niên giám 2005 (Các số liệu thống kê về Hiện tình Giáo Hội Việt Nam – Trong Đại Hội IX của HĐGMVN năm 2004) cung cấp cho chúng ta những con số cụ thể và đáng chúng ta suy nghĩ trong ngày hôm nay: Tổng dân số của Việt Nam: 82.320.147 người. Tổng số công giáo của 25 giáo phận: 5.667.428 người. Tổng số linh mục của 25 giáo phận: 2.927 Lm. Tổng số tu sĩ trong 25 giáo phận: 16.437 tu sĩ. Tổng số giáo lý viên của 25 giáo phận: 52.513 Glv. Nếu chia bình quân số giáo dân cho số linh mục (triều dòng, khỏe yếu) thì một linh mục phải phục vụ 1.937 giáo dân. Nếu chia bình quân tổng số dân Việt Nam cho số linh mục (triều dòng, khỏe yếu) thì một linh mục phải phục vụ 28.124 người. Nếu chia bình quân số giáo dân cho số tu sĩ (nam nữ, khỏe yếu) thì một tu sĩ phải phục vụ 344 giáo dân. Nếu chia bình quan tổng số dân Việt Nam cho số tu sĩ (nam nữ, khỏe yếu) thì một tu sĩ phải phục vụ 5.008 người. Nếu chia bình quân tổng số người Việt Nam không công giáo cho tổng số người Việt Nam công giáo thì một người Việt Nam công giáo phải giúp cho 13 người Việt Nam không công giáo biết Chúa và gia nhập Giáo hội.
Nguyên nhìn vào những con số trên, chúng ta cũng đã thấy được nhu cầu to lớn về nhân sự của Giáo hội Việt Nam trong sứ mệnh sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng mà Giáo hội đã nhận được từ chính Chúa Giêsu. Đã đành rằng ngày nay trách nhiệm sống, làm chứng và loan báo Tin Mừng không chỉ của riêng các linh mục, tu sĩ mà của mọi Kitô hữu. Nhưng các linh mục, tu sĩ vẫn là lực lượng quan trọng nhất, là lực lượng nòng cốt và đầu tầu trong lãnh vực này. Thế nhưng ơn gọi linh mục, tu sĩ càng ngày càng giảm sút trong các Giáo hội địa phương, thậm chí giảm trầm trọng trong một số Giáo hội. Riêng tại Việt Nam, thì tình hình có mấy nét riêng sau đây: (1) Việc thanh niên nam nữ muốn vào chủng viện, dòng tu còn gặp nhiều cản trở từ những qui định của nhà nước. (2) Việc các Giám mục, Dòng tu gửi các linh mục, tu sĩ đến nơi cần gửi, đặc biệt đến vùng sâu vùng xa, cũng chẳng dễ dàng gì. (3) Ơn gọi tu trì đã có dấu hiệu sút giảm ở thành thị, nhất là ở các quận nội thành. Vì thế cho nên chúng ta không chỉ cầu xin Thiên Chua ban cho Giáo hội – nhất là Giáo hội Việt Nam – nhiều linh mục, tu sĩ tài đức thánh thiện, nhiệt thành mà chúng ta còn phải nài xin Thiên Chúa tạo thuận lợi cho các ứng sinh linh mục tu sĩ được đào tạo đến nơi đến chốn va cho các linh mục tu sĩ có điều kiện cần thiết để thực thi sứ vụ của mình.
59. Phải là chiên trước – Lm. Phạm Quốc Hưng
Chúa Nhật tuần này thường được gọi là “Chúa Nhật-Chúa Chiên Lành”, và được Giáo Hội đặt làm Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu linh mục. Ý lực này có thể được rút ra từ nội dung của Phúc Âm dùng trong Phụng Vụ hôm nay, và được thấy rõ nơi lời tung hô Alleluia được dùng trong Phụng Vụ cho cả 3 chu kỳ A, B, C: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10:14). Đây là câu Phúc Âm được trích trong chính Tin Mừng hôm nay.
Hình ảnh chủ chăn và đàn chiên là một trong hình ảnh đã được dùng trong Cựu Ươc để diễn tả liên hệ giữa Thiên Chúa và Dân Do thái. Liên hệ này được diễn tả thật đẹp trong Thánh Vịnh 23-“Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi”-một trong những Thánh Vịnh được yêu chuộng hơn cả. Thánh Vịnh nay đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc và được phổ biến rộng rãi trong Phụng Vụ tại Việt Nam. Danh xưng “mục tử” còn được dùng trong Cựu Ước, đặc biệt là Sách Tiên tri Êzekiel, để nói về những người lãnh đạo Dân Chúa. Trong Sách này, Thiên Chúa đã quở trách các mục tử xấu, và Người hứa sẽ đích thân chăm sóc đàn chiên và sẽ ban những mục tử như lòng Người mong ước.
Khi tự xưng mình là Mục Tử tốt lành, Chúa Giêsu vừa xác định thần tính của Người, vừa xác định vai trò lãnh đạo của Người đối với những người tin vào Người, và nhất là diễn tả tình yêu lớn lao Người dành cho từng người trong gia đình nhân loại. Liên hệ giữa Chúa Chiên và đàn chiên-giữa Chúa Giêsu và các Kitô hữu-được diễn tả bằng từ ngữ “biết”: “Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10:14). Theo nghĩa Thánh Kinh, chữ “biết” ở đây không phải chỉ là sự hiểu biết thuộc trí tuệ, nhưng còn là một sự hiệp thông trọn vẹn trong tình yêu bao gồm cả con người và cuộc sống, như được diễn tả trong tương giao vợ chồng.
Chính trong tương quan yêu mến này, Chúa Giêsu-Mục Tử tốt lành-đã tận tình dẫn dắt, chăm sóc, dưỡng nuôi, kiếm tìm, bảo vệ và thí mạng vì đàn chiên. Trót cuộc đời của Chúa Giêsu, từ việc giáng sinh trong cảnh đơn nghèo của máng cỏ Bêlem cho đến cái chết thảm thương trên Thánh Giá nơi Đồi Canvê, là một cuộc tìm kiếm con chiên lạc là nhân loại tội lỗi để đưa về đồng cỏ tốt tươi là Nước Trời của Chúa Chiên Lành. Trước khi xưng mình là Chúa Chiên Lành, Đức Kitô trước hết đã trở thành Con Người, thành Chiên Thiên Chúa, Chiên Vô Tội phải gánh tội trần gian. Ngài đã trở thành “Con Chiên” tuyệt hảo, khi hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, khi trở thành người con yêu dấu đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng, và trở nên mẫu mực cho mọi người tin vào Thiên Chúa.
Bên cạnh hình ảnh mục tử tốt lành, Chúa Giêsu cũng nói đến những kẻ chăn thuê. Đây là những mục tử xấu, những kẻ làm công việc chăn chiên nhưng không biết thương yêu đàn chiên. Đây là những mục tử chỉ làm việc vì lợi ích ban thân mà không quan tâm đến đàn chiên, sẵn sàng thí bỏ chiên để giữ an toàn cho riêng mình.
Khi chú giải đoạn sách Tiên Tri Êzêkiel bàn về các mục tử, Thánh Augustinô đã đưa ra một tiêu chuẩn để phân biệt giữa các mục tử tốt và các mục tử xấu trong Hội Thánh: Mục tử tốt là mục tử biết quên mình để phục vụ đàn chiên và tìm kiếm những gì thuộc về Chúa Kitô, thuộc về Thiên Chúa; còn mục tử xấu là mục tử chỉ nghĩ đến mình, chuyên lo bản thân, tìm kiếm vinh quang phúc lộc trần thế cho riêng mình, bất chấp việc gây hại cho đàn chiên.
Chúa Giêsu-Chúa Chiên Lành vẫn tiếp tục chăn dắt Đàn Chiên Hội Thánh qua các chủ chăn trong Hội Thánh là các giám mục và linh mục. Phúc lộc của các tín hữu tùy thuộc rất nhiều vào các mục tử trong Hội Thánh. Điều này được diễn tả qua câu giáo ngạn: “Linh mục hoàn hảo, giáo dân thánh thiện; linh mục thánh thiện, giáo dân đạo đức; linh mục đạo đức, giáo dân tầm thường.” Chúng ta thấy ở đây người ta không dám thêm câu: “linh mục tầm thuờng” vào; đừng nói đến “linh mục đồi bại”!!!
Thật thích hợp khi Hội Thánh đặt Chúa Nhật-Chúa Chiên Lành hôm nay làm “Ngày Thế Giới Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu”. Thánh Giám Mục Tiến Sĩ Anphong Liguori đưa ra ba dấu chỉ để xác định một ơn gọi linh mục đích thực. Đó là phải có ý hướng ngay lành, phải có những đức tính và khả năng xứng hợp, và phải được Bề Trên chuẩn nhận.
Các nhà tu đức có thể đưa ra nhiều dấu chỉ khác để nhận định một ơn gọi linh mục đích thực. Nhưng có một điều hiển nhiên là tất cả các linh mục đích thực phải là “những mục tử như lòng Chúa mong muốn”, hay là những mục tử có trái tim giống như Thánh Tâm Chúa Giêsu, trái tim đầy lửa mến Chúa yêu người. Trước khi là mục tử đích thực, họ phải là một con chiên thực sự của Chúa đã! Trước khi là linh mục chân chính, họ phải là Kitô hữu chính danh đã! Trước khi nhiệt thành rao giảng Lời Chúa, họ phải biết say mê việc đọc, nghe, ghi nhớ, suy niệm và sống Lời Chúa đã! Trước khi trở thành những nhà lãnh đạo chân chính, họ phải là những con người biết vâng phục đã!
Một linh mục giáo sư Chủng Viện nhận xét: “Muốn trở nên linh mục đích thực, chúng ta phải giống Chúa Giêsu vừa là Linh Mục vừa là Tế Vật. Nhiều người muốn là linh mục, nhưng không mấy ai muốn là tế vật. Nếu linh mục không biết hy sinh chính mình, họ sẽ hy sinh kẻ khác và gây hại cho đàn chiên”.
Một lý do hiển nhiên cho việc khan hiếm ơn gọi linh mục ngày nay là vì sự khan hiếm những Kitô hữu đích thực. Thiếu con chiên chính danh thì làm sao có được mục tử chân chính? Thiếu những con người biết yêu cầu nguyện hy sinh, xả kỷ vị tha, thì làm sao có được những mục tử thí mạng vì đàn chiên?
Một tai hại lớn lao nhất cho Hội Thánh hôm nay là có nhiều linh mục bất phục Hội Thánh. Một khi bất phục Hội Thánh-Nhiệm Thể Chúa Kitô-người ta không còn là con chiên của Chúa nữa mà biến thành sói dữ và là kẻ chăn thuê, thành ngôn sứ giả!
Lễ Chúa Chiên Lành hôm nay chắc hẳn khiến nhiều người trong chúng ta nhớ đến những linh mục chúng ta từng gặp gỡ trong cuộc đời: Cha xứ, Cha phó, Cha linh hướng, Cha giáo, Cha linh hồn, Cha rửa tội cho ta, Cha dâng lễ cho ta, Cha giải tội, Cha từng chứng hôn cho ta, Cha xức dầu cho ta hay người thân của ta…Có vị với đời sống xả kỷ vị tha và những lời giảng dạy đầy xác tín đã để lại trong lòng ta những ấn tượng thật cao đẹp thần thiêng, khiến ta thêm quý mến cảm phục ơn gọi linh mục và thêm phấn chấn trong đời sống đức tin. Có vị với lối sống quá phàm tục phản chứng và lời giảng tầm thường hay lệch lạc khiến chúng ta phải đau buồn, bực dọc và thẹn thùng, va cảm thấy đức tin mình bị chao đảo. Có vị đang trung thành hăng say trong ơn gọi, nhưng cũng có vị đã rút lui.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta những linh mục tốt lành thánh thiện đã góp phần xây dựng đức tin cho chúng ta. Chúng ta hãy thương cảm tha thứ và cầu nguyện cho những linh mục từng gây tổn thương cho chúng ta. Chúng ta hãy nhớ rằng các linh mục dù mang thánh chức linh mục thì cũng như chúng ta, họ vẫn là những con chiên thuoc đàn chiên của Chúa. Cũng như chúng ta, các linh mục có thể có những lúc như những con chiên lìa xa Chúa Chiên Lành hay mang thương tích bệnh tình nên cần được tìm kiếm, cần được chữa lành. Xin Chúa ban cho chúng ta biết gop phần vào việc đưa các ngài trở về đường ngay, giúp các ngài được chữa lành, qua đời sống cầu nguyện hy sinh và yêu thương chân thành của chúng ta.
Điều đáng chúng ta quan tâm hơn cả đó là chúng ta phải yêu quý ơn gọi được là tín hữu của Chúa, là con chiên của Chúa Chiên Lành, Đấng hằng yêu thương săn sóc chúng ta. Nhờ vậy, chúng ta sẽ nỗ lực sống xứng danh là con chiên chân thực của Chúa và ở lại trong đàn chiên của Người là Hội Thánh.
Chúng ta cũng cần biết rằng mọi tín hữu đều được chia sẻ sứ vụ và ơn gọi của Vị Mục Tử Tối Cao, mỗi khi chúng ta góp phần vào việc xây dựng và củng cố niềm tin nơi tha nhân. Đặc biệt, tất cả những ai có trách nhiệm lãnh đạo, hướng dẫn và phục vụ tha nhân-chủ nhân, giám đốc, thầy cô giáo, cha mẹ-đều phải đặt Chúa Giêsu-Chúa Chiên Lành là gương mẫu và lý lưởng của mình. Chỉ khi ấy, họ mới trở thành những nhà lãnh đạo và nhưng người phục vụ chân chính, vì biết hy sinh bản thân để đem lại phúc lộc cho tha nhân, cho cộng đồng.
Lạy Mẹ Maria là Nữ Vương và là Mẹ các Linh Mục, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho mọi tín hữu chúng con luôn sống như những con chiên đích thực của Chúa, những người biết nghe và sống theo Lời Chúa; và xin Mẹ cầu cùng Chúa ban cho chúng con thêm nhiều ơn gọi linh mục thánh thiện đúng như lòng Chúa mong muốn. Amen.
60. Vị Mục tử nhân lành – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Mục tử là gì? Xét về phẩm chất, có mấy loại mục tử? Mỗi loại có những tính chất gì? Làm sao phân biệt được loại nào với loại nào?
2. Đức Giêsu là mục tử nhân lành: đặc điểm cao quí nhất của Ngài là gì? Ngài có thể hy sinh cho đàn chiên tới mức độ nào?
3. Những bậc cha mẹ trong gia đình, những tổ trưởng trong khu phố hay trong các xí nghiệp, những thầy giáo trong các trường học, những giám đốc công ty... có thể hiểu là những mục tử không? Bài Tin Mừng này có áp dụng cho họ được không?
Chia sẻ
1. Mục tử - tốt và xấu - trong xã hội và Giáo Hội
Xã hội nào cũng đều có tổ chức, cơ cấu, trong đó luôn luôn có những người lãnh đạo, điều khiển. Trong các tôn giáo cũng thế. Trong lịch sử Do Thái, những người lãnh đạo dân chúng được gọi là mục tử (x. Gr 10,21; Ed 37,23-24): chẳng hạn như vua Sa-un, vua Đavít. Kitô giáo, vốn tiếp nối truyền thống Do Thái, cũng gọi những người lãnh đạo trong Giáo Hội (như linh mục, mục sư, giám mục, hồng y, giáo hoàng) là mục tử. Những mục tử hay những người lãnh đạo ấy thường được xã hội hay tôn giáo tạo cho những điều kiện thuận lợi và trao cho những phương tiện hữu hiệu để có thể thi hành hữu hiệu công việc lãnh đạo đó: chẳng hạn địa vị, chức vụ, quyền bính, tiền bạc, tiếng nói... Những điều kiện và phương tiện này là một thứ dao hai lưỡi. Nó có thể giúp các mục tử hay các nhà lãnh đạo phục vụ dân chúng hay các tín hữu hữu hiệu hơn. Nhưng nó có thể làm tha hóa, biến chất các mục tử khi sử dụng nó. Và nó cũng có thể bị những kẻ lắm tham vọng tìm cách đạt tới để lợi dụng nó, để phục vụ cho những tham vọng hay lợi ích cá nhân của mình, của gia đình hay phe nhóm mình.
Như vậy, chiếu theo thái độ đối với những điều kiện và phương tiện mà xã hội hay tôn giáo dành cho những người lãnh đạo hay mục tử, ta có thể có 2 loại mục tử tương ứng:
- Mục tử tốt: là những người lãnh đạo thật sự có ý hướng phục vụ dân chúng hay các tín hữu, chứ không nhằm lợi ích cho riêng mình. Họ sử dụng những điều kiện hay phương tiện xã hội hay Giáo Hội trao cho hoàn toàn để phục vụ tha nhân và công ích.
- Mục tử xấu: là những người lãnh đạo không nhắm phục vụ dân chúng, mà nhắm đạt được những điều kiện và phương tiện thuận lợi kia để hưởng thụ hoặc chỉ để thăng tiến bản thân, thỏa mãn những tham vọng riêng tư.
Loại sau này còn bao gồm những mục tử bị tha hóa, là những người lãnh đạo khởi đầu có ý hướng tốt, nhưng khi tiếp xúc hay sử dụng những điều kiện hay phương tiện xã hội trao cho, thì bị chúng hấp dẫn, mê hoặc và làm cho biến chất, để cuối cùng trở thành những mục tử xấu.
2. Mục tử tốt và xấu trong bài Tin Mừng và trong Thánh Kinh
Trong bài Tin Mừng hôm nay (Ga 10,11-18), Đức Giêsu mô tả và đối chiếu hai loại mục tử ấy: một loại được gọi là mục tử nhân lành, còn loại kia là kẻ chăn chiên thuê.
* Mục tử nhân lành thì: “hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên”, “tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi... chúng sẽ nghe tiếng tôi”. Ngài tự nhận mình chính là mục tử loại này. Trong Thánh Kinh có rất nhiều câu mô tả những đức tính tốt của những mục tử nhân lành, mà chính Thiên Chúa là mô hình gương mẫu nhất:
- yêu thương, trìu mến chiên với tất cả tâm hồn: “Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40,11).
- yêu quí từng con chiên, một con cũng như cả trăm con: “Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc” (Mt 18,12-13).
- lo cho chiên, tạo những điều kiện tốt đẹp cho chiên: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ” (Ed 34,14).
- làm chiên sống no ấm, hạnh phúc: “Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì” (Tv 23,1); làm chiên luôn vững dạ vì được bảo vệ: “Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (23,4).
- tinh thần trách nhiệm rất cao: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng” (Ed 34,16).
- cứu thoát, giải phóng đàn chiên: “Thiên Chúa sẽ cứu thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên” (Dc 9,16).
Tóm lại, người mục tử tốt thật sự yêu thương đàn chiên, sẵn sàng hy sinh cho sự an nguy và hạnh phúc của đàn chiên. Thậm chí như Đức Giêsu, người mục tử tuyệt vời nhất, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình: coi sự sống còn của đàn chiên quý hơn cả sự sống mình.
* Kẻ chăn chiên thuê hay mục tử xấu thì: “không thiết gì đến chiên”, “khi thấy sói đến liền bỏ chiên mà chạy: sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn”. Thánh Kinh cũng có nhiều câu mô tả hạng mục tử này với những đặc tính:
- vô trách nhiệm: “Con chiên nào mất, nó chẳng quan tâm; con thất lạc, nó chẳng đi tìm; con bị thương, nó không chạy chữa; con mạnh khoẻ, nó chẳng dưỡng nuôi” (Dc 11,16a); “Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm” (Ed 34,4)
- chỉ nghĩ tới hưởng thụ, sẵn sàng bóc lột: “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, mà đàn chiên lại không lo chăn dắt” (Ed 34,3). Thậm chí bóc lột đến tận xương tủy: “Con nào béo thì chúng ăn thịt, rồi lóc luôn cả móng” (Dc 11,16b)
- ích kỷ, vụ lợi, đầy tham vọng: “Chúng là lũ chó đói, ăn chẳng biết no. Thế mà chúng lại là mục tử! Cả bọn - chẳng trừ ai - chỉ mưu tìm lợi lộc cho riêng mình” (Is 56,11).
- tàn bạo, độc ác: “Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc” (Ed 34,3); “Các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng” (Gr 23,2b).
- tác hại vô cùng đến đàn chiên: “Các ngươi đã làm cho đàn chiên của Ta phải tan tác” (Gr 23,2).
Tóm lại, mục tử xấu coi đàn chiên chỉ là phương tiện, bắt chúng phải hy sinh phục vụ cho lợi ích riêng tư của mình, không một chút tình thương đối với chúng. Nhưng kết cục của hạng mục tử này rất bi thảm: “Khốn cho mục tử vô tích sự đã bỏ mặc đàn chiên. Gươm sẽ chặt đứt tay nó, sẽ chọc mắt phải của nó. Cánh tay của nó sẽ khô đét, và mắt phải của nó sẽ mù loà” (Dc 11,17); “Khốn thay những mục tử làm cho đàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác (…) các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi. Đó là sấm ngôn của Đức Chúa” (Gr 23,1-2).
3. Hãy trở nên những mục tử nhân lành
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu tự xưng mình là “mục tử nhân lành”, luôn yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên. Khi tự xưng như thế không phải để chúng ta nể phục cho bằng để chúng ta bắt chước, noi gương Ngài trong công việc “mục tử” của chúng ta. Chúng ta thường giới hạn ý nghĩa của từ “mục tử” này, đến nỗi chỉ áp dụng nó cho những người lãnh đạo tôn giáo. Thật ra, tất cả những ai đảm trách việc lãnh đạo, từ một gia đình đến một phường, một tỉnh, hay một quốc gia, từ một hội đoàn, một xứ đạo, đến một giáo phận, một giáo hội địa phương hay Giáo Hội toàn cầu, một cách nào đó, đều có thể gọi là mục tử. Ước chi mọi mục tử đều biết thật sự yêu thương đàn chiên của mình và lãnh đạo chúng một cách sáng suốt! Ước chi mọi cha mẹ đều yêu thương con cái, mọi cha xứ đều sẵn sàng hy sinh phục vụ giáo dân, mọi giám mục đều hết lòng chăm sóc các linh mục và giáo dân dưới quyền mình! Ước chi mọi vị lãnh đạo xã hội và đất nước biết quên những quyền lợi riêng tư để nghĩ đến lợi ích chung của dân chúng!
Mọi quốc gia, mọi giáo hội, đều rất cần những vị minh quân, những mục tử nhân lành. Cần hơn cả việc có thật đông những cá nhân tài giỏi, xuất sắc. Câu chuyện sau đây minh họa điều đó.
Có hai người thuộc hai quốc gia nói chuyện với nhau: - “Tôi rất khâm phục đất nước anh, vì nước anh có rất nhiều anh hùng”. - “Thế đất nước anh có nhiều anh hùng không?” - “Rất tiếc, đất nước tôi ít anh hùng lắm!” - “Lạ nhỉ, đất nước tôi nhiều anh hùng thế mà sao vẫn cứ nghèo nàn và lạc hậu, còn đất nước anh không có anh hùng mà sao lại phát triển và giàu có như vậy?” - “À, đất nước tôi thì bù lại, được khá nhiều vị minh quân!” Thì ra chỉ một vị minh quân - hay mục tử nhân lành - cũng đủ quí giá và ích lợi cho đất nước và Giáo Hội hơn nhiều anh hùng hay cá nhân xuất sắc hợp lại! Cầu mong cho đất nước và Giáo Hội Việt Nam có được những minh quân!
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin Cha hãy ban cho Giáo Hội và đất nước con nhiều vị mục tử nhân lành hơn! Xin cho các nhà lãnh đạo đất nước và Giáo Hội con biết thật sự yêu thương người dân cũng như các tín đồ của mình hết lòng và sẵn sàng hy sinh phục vụ họ. Có như thế, đất nước và Giáo Hội con mới tiến bộ lên đươc. Amen.
61. Con Ốc "Jesus"
Vài năm về trước, tôi đọc được một bài báo của Carolyn Moran với tựa đề là "Con Ốc Cứu Vãn Cuộc Hôn Nhân Chúng Tôi." Con ốc là ai? Carolyn giới thiệu "con ốc" bằng câu chuyện: Một ngày nọ, bà ta đang ăn trưa với chồng và người con trai tên Mike tại nhà ở Los Angeles. Mike là một phi công trực thăng. Trong lúc ăn, Mike và ba anh nói chuyện với nhau về chiếc trực thăng mà anh lái: "Này ba, ba có biết không, chiếc trực thăng coi thì nó thật là kiên cố, nhưng chiếc quạt chong chóng của nó chỉ được giữ bởi một con ốc sáu cạnh."
Sau đó, anh quay qua mẹ anh, Mike hỏi, "Này mẹ ơi, mẹ có biết họ gọi con ốc đó là gì không?" Mẹ anh ta nhún vai trả lời: "Mẹ chịu thua."
Mike mỉm cười và nói, "Họ gọi nó là con ốc 'Jesus'." Chúa Giêsu, qua cái chết và phục sinh, Ngài đã ôm ấp toàn thể nhân loại với nhau, cũng như chiếc ốc đã nối kết các bộ phận của chiếc trực thăng với nhau.
Carolyn đã nhìn thấy Chúa Giêsu trong cùng một nhiệm vụ đối với cuộc hôn nhân của bà y như chiếc ốc có nhiệm vụ trong chiếc trực thăng của Mike. Chính Chúa Giêsu đã gìn giữ cho cuộc hôn nhân của bà được êm đẹp.
Giống như chiếc trực thăng, hôn nhân cũng là một vấn đề phức tạp. Có rất nhiều sự kiện có thể đưa đến xáo trộn.
Khi loại bỏ Chúa Giêsu ra khỏi đời sống hôn nhân thì sẽ giống như là loại bỏ chính con ốc "Jesus" ra khỏi chiếc trực thăng của Mike vậy. Nó sẽ bị tan rã liền.
Khái niệm Chúa Giêsu là Người giữ gìn cho mọi sự được thuận hòa cũng chính là chủ điểm cho những bài đọc hôm nay.
Bài đọc I diễn tả Chúa Giêsu như là tảng đá góc tường. Trong những tòa nhà ngày xưa, tảng đá góc tường thật là quan trọng. Nó giúp chống đỡ và giữ cho cả tòa nhà đứng vững. Rút bỏ tảng đá góc tường khỏi tòa nhà là làm cho nó sụp đổ.
Cùng một phương thức, Chúa Giêsu chính là tảng đá góc tường gìn giữ đời sống hôn nhân Kitô giáo lại với nhau. Loại bỏ Chúa Giêsu, chính là tự tìm lấy diệt vong.
Bài Phúc Âm nhắc lại tư tưởng trên. Nó diễn tả Chúa Giêsu chính là người chăn chiên. Nhiệm vụ của người chăn chiên là gìn giữ đàn chiên lại với nhau và bảo vệ chúng khỏi những nguy nan sẽ gây hại chúng.
Một lần nữa, đấy cũng chính là nhiệm vụ mà Chúa Giêsu đã làm cho đời sống hôn nhân Kitô giáo. Ngài gìn giữ chúng lại với nhau và bảo vệ chúng khỏi những nguy nan sẽ nguy hại chúng.
Nếu đời sống hôn nhân hay đời sống gia đình của ta gặp phải những khó khăn, đấy có thể là vì, chúng ta đang quên đi chiếc ốc mà Thiên Chúa đã tiền định để gìn giữ nó lại với nhau.
Có thể chúng ta đang lãng quên Chúa Giêsu. Có thể chúng ta đang loại bỏ Ngài ra ngoài. Có thể chúng ta không mời Chúa Giêsu vào trong đời sống hôn nhân hay vào trong nhà chúng ta. Điều đáng chú ý là rất nhiều lần trong thời Chúa Giêsu, khi Ngài được mời vào nhà nào, thì Ngài thường làm phép lạ cho những người sống trong đó.
Ví dụ như khi cặp tân hôn đã mời Chúa Giêsu đến nhà họ, Ngài đã biến nước thành rượu.
Khi Phêrô mời Chúa Giêsu đến nhà ông, Chúa Giêsu đã chữa cho bà nhạc mẫu của ông. Khi viên đại đội trưởng Rôma mời Chúa Giêsu đến nhà ông, Chúa Giêsu đã chữa lành cho người đầy tớ của ong.
Khi hai chị em đã mời Chúa Giêsu đến nhà họ, Ngài đã làm cho em họ sống lại từ cõi chết. Khi Jairus mời Chúa Giêsu đến nhà ông, Chúa Giêsu đã làm cho con gái ông sống lại.
Điều đó làm cho chúng ta phải tự hỏi, chẳng lẽ chúng ta mời Chúa Giêsu về nhà mình, mà Ngài lại không thực hiện những việc như vậy cho ta sao?
Và như thế những bài đọc hôm nay chính là lời mời gọi chúng ta hãy mời Chúa Giêsu trở lại với gia đình ta và vào trong đời sống của ta.
62. Suy niệm của Lm. Nguyễn Minh Hùng.
CHA MẸ LÀ MỤC TỬ
THEO GƯƠNG CHÚA KITÔ MỤC TỬ
Nếu anh bạn để ý, sẽ nhận ra rằng: các Chúa Nhật đầu mùa Phục Sinh, Hội Thánh muốn chúng ta suy niệm các trình thuật Tin Mừng liên quan đến biến cố Phục Sinh. Nhưng Chúa Nhật này, cũng trong bối cảnh Mùa Phục Sinh, Hội Thánh lại cho ta biết, Chúa Kitô là Đấng Chăn Chiên Lành. Bạn thử nghĩ xem, Hội Thánh muốn dạy điều gì khi làm như thế? Hội Thánh muốn dạy rằng: Chúa Kitô vẫn là Mục Tử Nhân Lành cho đến đời đời. Chúa đã là Mục Tử Tốt Lành hiến dâng mạng sống để cứu lấy đoàn chiên. Chính khuôn mặt đau thương của Thập Giá đã biểu lộ mạnh mẽ tình yêu không giới hạn của vị Mục Tử Tốt Lành tối cao ấy.
Chúa Kitô đã nói như thế về mình trong bài Tin Mừng: "Ta thí mạng sống vì đàn chiên... Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta là Ta thí mạng sống, để rồi sẽ lấy lại. Không ai cất mạng sống của Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại".
Và hôm nay khi đã phục sinh, Chúa vẫn tiếp tục chăn dắt đoàn chiên là từng người chúng ta, là chính bạn và tôi, bằng chính Thánh Thần của Người. Bởi qua sự hiện diện mới mẽ, hiện diện nhờ Thánh Thần, trong Thánh Thần, với Thánh Thần, sự hiện diện ấy trở nên hiện diện tròn đầy nhất: sự hiện diện thần linh, một sự hiện diện vượt trên tất cả mọi cách thế hiện diện. Chính nhờ được chăn dắt bằng Thánh Thần, đoàn chiên lãnh nhận một Tình Yêu Phục Sinh, một sức sống mới tràn đầy. Và vì thế, mãi mãi Chúa Kitô vẫn hiện diện giữa đoàn chiên, không ngừng hiện diện, Người vẫn là Mục Tử không ngừng là Mục Tử. Vị Mục Tử nhân từ và yêu thương vẫn không ngừng nhân từ, không ngừng yêu thương.
Như Chúa Kitô, tất cả mọi người đều có thể trở thành mục tử, chia sẻ chức vị Mục Tử của Chúa Kitô. Nhưng cách riêng, trong Lễ Chúa Chăn Chiên Lành hôm nay, tôi muốn hướng về những ai mang trọng trách làm cha, làm mẹ.
Còn nhớ có một lần, tôi đến thăm một đôi vợ chồng trẻ. Cuộc thăm viếng này đe lại trong tôi lòng cảm phục, vì đối với tôi, đôi vợ chồng này đã phải chịu đựng và vượt qua những khắc nghiệt quá sức con người. Họ là một đôi vợ chồng nghèo, có ba đứa con. Cả ba đều không hiểu biết gì, không nói được. Đứa con trai đầu có khuôn mặt dị dạng trông rất sợ. Lúc tôi đến, anh đã đi ra rẫy, còn chị đang ngồi đan từng chiếc nan tre để kiếm thêm tiền chợ, vừa phải trông con. Chị nói về ba đứa con của chị trong nước mắt: "Nhieu lúc con muốn chết cho rồi, nhưng nghĩ lại ba đứa con, con phải gượng sống. Cha nhớ cầu nguyện cho vợ chồng con can đảm".
Bạn cứ nghĩ mà xem, trong tình cảnh đó, ta sẽ làm gì? An ủi ư? Tôi nghĩ rằng, lời an ủi lúc đó sẽ vô nghĩa, sẽ lạc điệu vô cùng. Tôi đã im lặng nghe chị kể, để người mẹ đau khổ ấy vơi bớt nỗi lòng, cũng là để sự thông cảm trong tôi lắng sâu hơn, mạnh hơn đối với những người cha, người mẹ đáng trân trọng ấy.
Người mục tử yêu mến đàn chiên thật, sẽ là người chấp nhận hao mòn sức lực, một mực bảo vệ sự sống đàn chiên. Cũng thế, ba đứa bé tật nguyền kia, nếu chúng không được sống hạnh phúc hơn do những khiếm khuyết trên cơ thể, thì trong tình yêu của cha mẹ, chúng đang sống hết sức dồi dào. Ta cứ tưởng tượng, nếu một ngày nào đó, chúng suy nghĩ được, và ai đó bảo chúng chết cho người cha, người mẹ ấy, chắc chúng sẽ không dám chối. Còn chính trong tình yêu dành cho con mình, anh chị đã trở thành mục tử giống như Chúa Giêsu mà anh chị tôn thờ. Tình yêu ấy đã làm tăng nghị lực, tăng sức mạnh, tăng sức chịu đựng. Bởi anh chị đã từng nghĩ đến cái chết để có thể tự giải thoát mình, nhưng vì những đứa con, anh chị đã vượt qua nó.
Tôi và bạn, ai cũng từng là những đứa con, và vẫn là những đứa con. Tôi cứ tin rằng, cha mẹ chúng ta là những mục tử tốt lành. Hãy sống thảo hiếu, hãy cầu nguyen và làm tất cả những gì có thể làm để cha mẹ vui lòng. Không bao giờ được phép coi khinh, hay ít là coi thường cha mẹ. Hãy yêu mến cha mẹ chúng ta. Tình yêu sẽ chỉ cho biết phải làm gì, phải sống thế nào để gọi là hiếu thảo!
Còn các bậc cha mẹ, ta vui mừng nhận thấy những người cha, người mẹ Công Giáo đều yêu thương con mình và chăm lo cho con tận tình tận lực. Họ yêu con, nhưng không có nghĩa là chìu chuộng con, nhưng biết giáo dục con, cho con ăn học, lo cho con từng chén cơm khi con đói, từng viên thuốc khi con ốm đau...
Chúa Kitô đã làm trọn vai trò Mục Tử Nhân Lành của Người khi nhập thể làm người để cùng sống kiếp người với chúng ta. Người đã chịu chết, đã phục sinh để chứng minh rằng Người yêu ta bằng cả cuộc đời, bằng cả cuộc sống của Người. Ngoài hình ảnh Chúa Kitô Mục Tử, tôi đã kể câu chuyện về đôi vợ chồng trẻ kia để chứng minh rằng, đã từng có những bậc làm cha, làm mẹ phản chiếu hình ảnh mục tử của vị Mục Tử Nhân Lành tối cao kia. Bạn và tôi hãy xem đó, và hãy bắt chước. Lòng yêu thương mang một trái tim mục tử của những bậc cha mẹ như thế, chắc chắn sẽ không có đứa con nào có thể đang tâm phủ nhận được.
Như Chúa Kitô Mục Tử, xin kính chúc những người cha, người mẹ cũng là những mục tử tốt lành. Như chúng ta yêu mến Chúa Kitô, xin chúc những người làm con cũng biết yêu thương cha me mình.
63. Chúa Giêsu là vị mục tử nhân lành
Các Chúa Nhật đầu mùa Phục Sinh, Hội Thánh trình bày cho chúng ta suy niệm các trình thuật Phúc âm liên quan đến biến cố Chúa Phục Sinh. Nhưng Chúa Nhật này, cũng trong bối cảnh Mùa Phục Sinh, Hội Thánh lại trình bày cho chúng ta biết, Chúa Kitô là Đấng Chăn Chiên Nhân Lành. Hội Thánh muốn nhắc nhở rằng: Chúa Kitô vẫn là Mục Tử Nhân Lành cho đến đời đời. Chúa đã là Mục Tử Tốt Lành hiến dâng mạng sống để cứu lấy đoàn chiên. Và hôm nay khi đã Phục sinh, Chúa vẫn tiếp tục chăn dắt từng người chúng ta, bằng chính Thánh Thần của Người. Chính nhờ được chăn dắt bằng Thánh Thần, đoàn chiên lãnh nhận một Tình Yêu Phục Sinh, một sức sống mới tràn đầy. Vì thế, mãi mãi Chúa Kitô vẫn hiện diện giữa đoàn chiên, không ngừng hiện diện trong vũ trụ, Người vẫn là Mục Tử và không ngừng là Mục Tử. Vị Mục Tử nhân từ và yêu thương vẫn không ngừng nhân từ, không ngừng yêu thương.
Toàn bộ Lời Chúa hôm nay đều xoay quanh chủ đề Đấng Chăn Chiên nhân lành. Mục tử là người chăn chiên. Đây là hình ảnh rất quen thuộc đối với người Do Thái chuyên sống nghề du mục. Vì vậy, suốt thời Cựu ước, hình ảnh người chăn chiên trở thành một trong những hình ảnh biểu tượng phong phú và sống động nhất, được dùng để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Họ như một đoàn chiên riêng của Thiên Chúa, được Người chăm sóc đặc biệt. Và bây giờ, Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh đó cho chính Ngài và đoàn chiên của Ngài là chính chúng ta.
Chúa Giêsu đã nói: "Ta là mục tử nhân lành, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta" (Ga 10, 14), và Ngài còn quả quyết sự hiểu biết của Ngài đối với mỗi người cũng như sự hiểu biết giữa Ngài với Cha Ngài: "Chúa Cha biết Ta, và Ta biết Chúa Cha, và Ta hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên"(Ga 10, 15). Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành của chúng ta vì Ngài biết chúng ta. Một người chăn chiên chuyên nghiệp biết số chiên trong bầy có bao nhiêu con. Họ biết từng con một, về ngày sinh tháng đẻ, để có thể xén lông hay gây giống. Họ có tên gọi cho từng con, biết bệnh tật từng con để cứu chữa. Thực vậy, Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành, Ngài biết từng con chiên, Ngài biết chúng ta là những nhân vị, là những Kitô hữu. Ngài biết chúng ta hơn chúng ta biết mình. Ngài thấu suốt tư tưởng, ước mơ, lời nói, việc làm, dự định, khuynh hướng tốt xấu của chúng ta. Ngài biết rõ từng người: ai là con chiên tốt, trung thành, ngoan đạo; ai là con chiên khô khan, phản bội. Tóm lại, không ai có thể lẩn trốn khỏi mắt Chúa, bất cứ sự gì, dù thầm kín hay bí mật đến đâu, Chúa cũng biết hết.
Hơn nữa,Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành đích thực của chúng ta, vì Ngài ân cần chăm sóc chúng ta. Ngài đã phục sinh nên luôn ở bên chăm sóc từng người chúng ta, Ngài yêu thương chúng ta dù chúng ta không quan tâm đến. Quả thực, suốt cả một đời hy sinh, giảng dạy, ban ơn cứu độ cho con người và Chúa còn muốn thực hiện đặc tính sau cùng của một chủ chăn tốt lành là chết vì con chiên và cho con chiên, để minh chứng lời Ngài đã nói: "Không có tình yêu nào lớn hơn, cao quý hơn là chết cho người mình yêu".
Nói cách khác, Đức Giêsu chính là nhân vật mà ngôn sứ Ezekiel tiên báo. Giống như David người mục tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con yếu đuối bơ vơ, chữa lành con nào bệnh hoạn, và đi tìm những con lạc đường mất lối. Đức Giêsu còn làm hơn thế nữa. Ngài tự hiến mạng sống cho đàn chiên của Ngài. Và Ngài lại còn làm hơn như thế. Ngài đã sống lại từ cõi chết và chia sẻ đời sống Phục sinh của riêng Ngài với đàn chiên.
Thánh Phêrô nhắc nhủ trong bài đọc thứ nhất ngày hôm nay, Ngài nói với dân chúng rằng chính nhờ quyền năng Đức Giêsu mà người tàn tật ấy được chữa lành. Ngài mời gọi dân chúng tin vào Chúa Giêsu để được chữa lành phần hồn giống như kẻ tật nguyền được chữa lành phần xác. Đây cũng là điều thánh Gioan nhắc nhớ trong bài đọc thứ hai hôm nay; nhờ Chúa Giêsu, Thiên Chúa Cha đã làm cho chúng ta trở nên con cái riêng của Ngài.
Chúng ta phải đáp lại tất cả những lời đó cách nào đây?
Trước hết, chúng ta hãy tỏ lòng biết ơn đối với Chúa Giêsu, vì nhờ sự chết và sống lại của Người mà chúng ta được cứu khỏi phải chết đời đời để được sống vĩnh viễn.
Đây là điều thánh Gioan nhắm nói đến trong bài đọc thứ hai: "hiện giờ chúng ta là con cái Chúa, nhưng vẫn chưa biết rõ chúng ta sẽ trở nên thế nào, tuy nhiên chúng ta biết rằng khi Đức Kitô hiện ra, chúng ta sẽ nên giống như Ngài. Bởi vì Ngài thế nào thì chúng ta sẽ nhìn thấy Ngài như vậy" (1Ga 3, 2).
Thứ đến chúng ta phải cởi mở tâm hồn mình với Đức Giêsu, vì Ngài đang ở với chúng ta ngay lúc này để tiếp tục công việc cứu rỗi của Ngài. Ngài vẫn tiếp tục chăm sóc kẻ yếu đuối, chữa lành người đau ốm, băng bó người bị thương tích, đem người lầm lạc trở về và tìm kiếm những người đã lạc mất.
Đức Giêsu quả là Mục tử nhân lành mà Thiên Chúa đã hứa ban cho chúng ta. Ngày nay, Ngài vẫn còn tiếp tục cư ngụ giữa chúng ta và thông ban sự sống phục sinh của Ngài cho chúng ta.
Là con cái của Chúa Giêsu, chúng ta hãy mau mắn bước theo Ngài, đó là cách đáp trả của lòng tin. Đồng thời, chúng ta hãy yêu mến và phó thác cuộc đời vào Ngài bởi vì Ngài chính là lẽ sống cho chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết sống tâm tình của người con thảo hiếu, cảm thấy hạnh phúc vì được sống trong Hội Thánh, trong sự che chở của Ngài. Lạy Chúa Giêsu, Ngài chính là vị Mục Tử Nhân Lành, xin hãy thương xót chúng con. Amen.
64. Mục Tử Tốt Lành với ba chữ D
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đan chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn tương lai được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài.
Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành với những nét đặc trưng sau đây:
- Vị Mục Tử Tốt Lành hết lòng yêu thương những người thuộc về mình. Vì yêu thương nên Ngài quan tâm đến mọi người và đến từng người. Càng quan tâm thì càng biết tường tận: biết họ muốn gì, họ cần gì, họ có thể gặp phải những nguy cơ cạm bẫy hay thử thách nào.
- Vị Mục Tử Tốt Lành luôn đi đầu, đi trước, hướng dẫn, lãnh đạo đoàn chiên, đứng mũi chịu sào, gánh chịu mọi khổ cực cho người thuộc về mình. Mục Tử Tốt Lành đem chiên đến những miền an toàn, có suối mát có cỏ xanh, cho chiên được ăn uống no nê, được nghỉ ngơi thoải mái. Chiên sẽ tăng trưởng cả về chất lượng lẫn số lượng. Mục Tử Tốt Lành dám hy sinh mạng sống vì chiên.
- Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến để yêu thương, chăm sóc, quy tụ mọi con chiên. Ngài biết tên từng con chiên như Cha Ngài biết Ngài (Ga 10,14-15). Ngài gọi tên từng con chiên và dẫn đi (Ga 10,3). Mục Tử sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên: "Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu" (Ga 15,13). Chúa Giêsu đã chưng tỏ Ngài là vị Mục Tử Tốt Lành, vị chủ chăn không bao giờ hèn nhát thấy sói tấn công chiên mà bỏ trốn, nhưng Ngài luôn cứu vớt, tập họp, chăn dắt (Ga 10,9.16).
Chúa Giêsu còn cho thấy tính tương phản của hai loại mục tử. Mục tử thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tử giả chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh tươi cho đàn chiên no đầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân mình, sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của đàn chiên.
Đức Hồng Y Yvan Dias, Tổng trưởng Thánh bộ Phúc âm hóa các Dân tộc, đại diện Đức Thánh Cha đã chủ toạ bế mạc Năm Thánh 2010 tại Thánh Địa La Vang.
Sau đại lễ, ĐHY Ivan Dias đã gặp gỡ các Giám Mục Việt Nam trong một tiếng đồng hồ để chia sẻ về tình hình cũng như gởi gắm sứ điệp. Về sứ điệp, ngài mời gọi tất cả Giám mục chia sẻ lại cho các linh mục, chủng sinh của mình về 3 chữ D rất cần thiết trong đời sống của người thuộc về Giáo Hội. 3 Chữ D là: Doctrine, Discipline, Dévotion.
1. Doctrine, về giáo thuyết. Mỗi Linh mục hôm nay được mời gọi nắm vững giáo lý Giáo hội Công giáo, giáo huấn Giáo hội, học thuyết xã hội của GHCG, bởi vì nếu không nắm vững những hướng đi trong đó, thì trong cách ứng xử một Linh mục ở tại giáo xứ nhiều khi có những cái chưa chuẩn mực và nếu như cả một Giáo hội mà lại không nắm vững về Doctrine này thì rất nguy hiểm, sẽ đưa Giáo hội đến chỗ không cứu vãn được. Tại sao Tòa Thánh phải lên tiếng về Giáo hội Trung Quốc? Câu trả lời cho biết vì yếu về giáo thuyết. Nếu hiểu Giáo hội không thể tự lực tự cường được thì người ta sẽ có chọn lựa khác. Chẳng phải nói đâu xa, trường hợp của GHVN ngày nay cũng cho thấy thấp thoáng nguy cơ. Hết rồi thời đối đầu, đã bước sang thời đối thoại. Nhưng đối thoại như thế nào để mình vẫn là GHCG, đó lại là cả một tuyến mở ra cho suy nghĩ và vì vậy quan trọng là nắm vững giáo thuyết để có những quyết định phù hợp.
2. Discipline, về kỷ luật. Đây là một vấn đề thường gây khủng khoảng cho các Giáo hội phương Tây. Vấn đề Linh mục lạm dụng tình dục là do việc không tuân thủ kỷ luật của Giáo hội, để đến khi bùng nổ ra thì không vớt vát được. Hiện nay ở nhiều địa phận của Hoa Kỳ đã phải bán hết cơ sở của mình đi để trang trải cho việc xao lãng kỷ luật của một thời. Đây là một vấn đề đau lòng. Do đó, tuan thủ kỷ luật đời sống Linh mục là một cách để giúp Linh mục một đàng thánh hóa bản thân và đàng khác tránh tất cả những hậu quả tai hại. Thời mới bước chân vào Chủng viện, chắc chắn các chủng sinh đều thuộc lòng câu: Ai sống theo kỷ luật là sống theo ý Chúa, và sau này trên bước đường lớn hơn, Linh mục vẫn thường được nghe nhắc nhở: hãy giữ luật thì luật sẽ giữ cho mình, sẽ bảo vệ mình. Cho nên chữ Discipline mời gọi mỗi người trong hướng đi đời Linh mục cũng gắn bó với luật lệ của Giáo hội cách khít khao.
3. Dévotion, lòng đạo đức sốt sắng. Ở đây theo như lời chú giải của ĐHY Dias, thì nó gắn liền với những phong trào đạo đức, có một thời tưởng như bị bỏ rơi vì đi liền với lòng đạo đức bình dân của đại chúng. Thí dụ: tràng hạt Mân Côi, có một thời người ta rẻ rúng cho là loại kinh dành cho phụ nữ, người nhàn rỗi, người già… nhưng sau này người ta cảm nghiệm đươc sức mạnh của kinh Mân Côi, nhất là sức mạnh hoán cải, sức mạnh thánh thiêng giúp người ta tiến xa trên đường nên thánh. Những cái thuộc loại Dévotion thì thường gắn liền với những hình thức văn hóa. Ví dụ: hành hương coi như chuyện đi chơi, nhưng ở đó cũng là một thứ Dévotion mời gọi Linh mục không nên xem thường. Tất nhiên không thể loại trừ những hình thức Dévotion truyền thống tôn sùng Thánh Tâm, Chầu Thánh Thể, hay là những hình thức khác nhau dành cho các Thánh. Một Linh mục mà rẻ rúng những hình thức đạo đức bình dân thì coi chừng, tưởng là mình ở trên đỉnh cao trí thức, biết đâu lúc nào đó mình rớt xuống vực mà không hay. Lần hạt Mân Côi, đó là một lời kinh tháp tùng Linh mục trên mọi bước đường, trong mọi hoàn cảnh, đó là lời kinh còn lại duy nhất sau khi đã quên đi tất cả. Gắn bó với một sự đạo đức như thế cũng là một cách giúp cho đời Linh mục được vươn lên, được thăng tiến. (x. Huấn từ khai mạc Tình tâm Linh Mục Giáo Phận Phan Thiết, ngày 10.1.2011, ĐGM Giuse Vũ Duy Thống).
Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước.
Trong Sứ điệp ngày thế giới cầu nguyện cho các ơn gọi năm 2012, ĐTC Bênêđictô xác định: Lời Chúa, cầu nguyện và Thánh Thể là kho tàng quý giá giúp cho các ơn gọi hiểu vẻ đẹp của một cuộc sống hoàn toàn dâng hiến cho Nước Thiên Chúa.Ngài mời gọi mời gọi các mục tử: Khi kín múc ở nguồn mạch tình yêu Thiên Chua trong đời sống cầu nguyện, cùng với việc năng lui tới với Lời Chúa và các Bí tích, cách riêng Bí tích Thánh Thể, mà ta có thể sống tình yêu đối với tha nhân trong đó ta học biết khám phá khuôn mặt của Chúa Kitô (x. Mt 25,31-46). Trở nên mục tử tốt lành nhờ biết trau dồi giáo thuyết Kinh Thánh (Doctrine), sốt sắng trong lời cầu nguyện gắn bó với Chúa Giêsu (Dévotion) và có tinh thần kỷ luật trong đời sống tu trì (Discipline).
Mục tử tốt lành là phải luôn sống kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, luôn khát khao và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, vị mục tử tốt lành biết rõ đàn chiên,yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hiến mạng vì đàn chiên. Từ đó, vị mục tử tốt lành biết nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực có chất lượng cao đặc biệt là cử hành Thánh Thể sốt sắng và nhiệt thành trong bí tích Hòa Giải.
Ơn gọi Linh mục Tu sĩ chính yếu là để “sống với Chúa, và để Ngài sai đi”(Mc 3, 14). Sống với Chúa, là lắng nghe tiếng Ngài trong từng giây phút sống, để nên một với Chúa trong gian nan và hạnh phúc. Để Ngài sai đi, là sẵn sàng đi theo con đường Ngài đã đi, thực thi sứ mạng Ngài trao bất chấp những gì xảy ra.
Giáo dân cần Linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ, như học sinh cần thầy cô giáo, như một người bạn sẵn sàng cảm thông chia sẻ vui buồn trong đời sống và như người bạn đồng hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho các Linh mục được trở nên những mục tử như Chúa Giêsu, vị Mục Tử Tốt Lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm soc từng con chiên và sẵn sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đàn chiên.
Hãy cầu nguyện cho các Linh mục có những đức tính tốt của những Mục Tử tốt Lành mà Thánh Kinh đã mô tả:
- Yêu thương, trìu mến chiên với tất cả tam hồn: "Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt" (Is 40,11).
- Yêu quý từng con chiên, một con cũng như cả trăm con: "Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc" (Mt 18,12-13).
- Lo cho chiên, tạo những điều kiện tốt đẹp cho chiên: "Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong những đồng cỏ mầu mỡ" (Ed 34,14).
- Làm cho chiên được sống no ấm, hạnh phúc: "Chúa chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì" (Tv 23,1); làm chiên luôn vững dạ vì được bảo vệ: "Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm" (23,4).
- Tinh thần trách nhiệm đối với đàn chiên rất cao: "Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo map, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng" (Ed 34,16).
- Cứu thoát, giải phóng đàn chiên: "Thiên Chúa sẽ cứu thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên" (Dc 9,16).
Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử Tốt Lành, xin hãy ban cho chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Amen.
65. Ơn gọi phục vụ – Lm. Nguyễn Hữu An.
Chúa Nhật 4 Phục Sinh, Lễ Chúa Chăn Chiên Lành, Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Thiên Triệu. Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành chính là mẫu gương tuyệt hảo cho mọi Ơn Gọi Phục Vụ.
1. Chúa Giêsu là Mục tử nhân lành
Từ Abraham cho đến Môsê, Đavít, biết bao Tổ Phụ Do thái đã từng là những người chăn chiên. Từ kinh nghiệm của nghề chăn chiên, họ đứng ra lãnh đạo dân tộc. Quan niệm của họ về Thiên Chúa cũng dựa trên kinh nghiệm đó nên họ gọi Thiên Chúa là Mục Tử và coi mình là đoàn chiên của Ngài.
Các Ngôn Sứ thường dùng hình ảnh này để nói về tương quan thân tình giữa Thiên Chúa và dân của Người. Nhất là trong Sách Ngôn Sứ Êdêkien chương 34, Sách Giôna chương cuối và Thánh Vịnh 23. Đặc biệt chương 10 Phúc Âm Thánh Gioan: Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, là Cửa chuồng chiên. Mục tử và đàn chiên là một hình ảnh rất đẹp gắn liền với dân du mục. Khác với hình ảnh những đứa trẻ chăn trâu, chăn bò ở làng quê Việt Nam, chúng đi sau đàn vật. Người mục tử đi trước đàn chiên, dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, tìm suối mát cho chiên, dẫn về đàn những con chiên lạc, bảo vệ chiên khỏi thú dữ, biết từng con chiên một.
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành, mọi Kitô hữu là đàn chiên của Chúa. Chúa ban cho đàn chiên sự sống cách dồi dào, đó là sự sống đời đời. Mỗi con chiên đều quý giá vô ngần đối với Chúa. Người hy sinh mạng sống vì chiên. Mối tương giao này giống như tương giao Chúa Cha và Chúa Con, dựa trên sự hiểu biết riêng tư về nhau tức là trên tình yêu.
Không những là mục tử, Chúa Giêsu còn là Cửa: "Tôi là cửa cho chiên ra vào. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ". Câu trả lời đó khẳng định Chúa Giêsu chình là Cửa Cứu Độ.
Cánh cửa mở ra một chân trời mới: Cánh cửa tương lai; Cánh cửa đại học; Thời mở cửa; Bước qua ngưỡng cửa Hy Vọng; Cửa Nước Trời. Tại sao Chúa Giêsu là Cửa Cứu Độ? Bởi vì Ngài là trung gian duy nhất và trọn hảo giữa Thiên Chúa và nhân loại. Ngài có vai trò thủ lãnh trong sự thánh hoá. Ngài thông truyền giáo huấn Thiên Chúa. Ngài đền tội và cầu khẩn cho nhân loại trước mặt Thiên Chúa. Ngài thâu hợp toàn thể nhân loại và vu trụ cho Thiên Chúa. Khi nhập thể, Ngài thông truyền ân sủng Thiên Chúa cho mọi chi thể. Bằng hy lễ Cứu Độ Thập Giá trong tâm tình vâng phục yêu mến Chúa Cha, Ngài lập nên công phúc cứu độ loài người. Đức Giêsu Phục Sinh vinh quang mở đầu cho sự giao hoà giữa Thiên Chúa và nhân loại đưa nhân loại về với Thiên Chúa để dự phần đời sống Thần Linh cách dồi dào phong phú. Như thế Đức Giêsu là Cửa Cứu Độ duy nhất, là người mở đầu, là Đang hướng dẫn, thông truyền ân sủng nên Người là Mục Tử Tốt Lành vì đem lại sự sống phong phú và dư đầy cho đàn chiên.
Kitô Giáo là đạo đi từ con người tới Thiên Chúa. Đây quả thật là "Đạo bất viễn nhân", không xa nhưng rất gần gũi với con người. Bởi lẽ đạo ấy đi vào chính giữa lòng đời, đã nhập thể vào chính cuộc đời, làm men, làm muối, làm ánh sáng để biến đổi lòng người, biến đổi trần thế.
Thánh Grêgôriô Cả nói rằng: Chúng ta đi theo Chúa Giêsu là đi theo con đường cứu độ, được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Quả thế, đồng cỏ của những người được chọn là chính thánh nhan Thiên Chúa luôn hiện diện. Khi con người không ngừng chiêm ngưỡng thánh nhan, lòng trí họ được thoã thuê mãi mãi nhờ lương thực ban sự sống. Vậy hãy tìm kiếm đồng cỏ này, hãy làm cho lòng bừng cháy niềm khát khao những kho tàng trên Trời.
2. Đức Giêsu vị Mục Tử hết mình phục vụ đoàn chiên
Cả cuộc đời Đức Giêsu từ khi nhập thể làm người đến chết và phục sinh có thể tóm tắt cách đơn giản là phục vụ đoàn chiên vì yêu thương. Đỉnh cao phục vụ là thí mạng vì đoàn chiên. Việc gặp gỡ Người, kết hợp với Người sẽ dần dần biến đổi chúng ta trở nên những người phục vụ. Mỗi người Kitô hữu đều có trách nhiệm phục vụ anh chị em mình trong tư cách tham dự vào trách nhiệm Mục Tử của Đức Giêsu.
Trong sứ điệp Ngày Thế Giới Cầu Nguyện Cho Ơn Thiên Triệu năm 2003, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 đã chọn chủ đề Ơn Gọi Phục Vụ. Khởi đi từ Đức Kitô: Người không đến để phục vụ,"nhưng để phục vụ và trao ban mạng sống để cứu chuộc nhiều người" (Mt 20, 28). Người đã rửa chân cho các môn đệ và tuân phục chương trình của Chúa Cha cho đến chết, chết trên Thánh Giá (x. Pl 2, 8). Vì thế, Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu mới và đặt Người làm Chúa tren trời dưới đất (x. Pl 2, 9-11). Đức Thánh Cha xác định: Một cách huyền nhiệm, ơn gọi phục vụ luôn là một ơn gọi thông phần một cách rất riêng tư vào trong sứ vụ cứu độ" (số 2). "Ơn Gọi Linh Mục hoặc Ơn Gọi Tu Trì, bởi chính bản chất của nó,luôn là những ơn gọi để quãng đại phục vụ Thiên Chúa và người lân cận" (số 3).
Đức Thánh Cha đã từng nói rằng: "Trong thời đại chúng ta, một thời đại tuy đã bị tục hoá, giải thiêng nhưng vẫn được thúc đẩy đi tìm sự thánh thiện; một thời đại rất cần có những vị thánh làm sáng tỏ sự hiện diện đầy yêu thương và quan phòng của Thiên Chúa. Nhân loại đang cần có những linh mục thánh thiện và những tâm hồn được thánh hiến, họ là những người ngày ngày sống hết mình cho Thiên Chúa, cho tha nhân, họ là những bậc cha mẹ sống chứng nhân ngay trong bầu khí gia đình nhờ ân sủng của bí tích hôn nhân, họ là những người trẻ có kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô và được Người thu hút để hướng dẫn anh chị em đồng loại tới cội nguồn tin mừng" (Sứ Điệp Ngày Thế Giới Cầu cho Ơn Thiên Triệu lần thứ 36).
Ngài gởi lời mời gọi thiết tha đến các bạn trẻ: "Cha hy vọng các con có thể biết cách lắng nghe tiếng Thiên Chúa mời gọi các con phục vụ. Đó là con đường mở ra biết bao hình thức của sứ vụ vì lợi ích của cộng đoàn: từ các tác vụ được phong cho đến các tác vụ khác nhau được thiết lập và được nhìn nhận là những thừa tác vụ, như dạy Giáo Lý, linh hoạt Phụng Vụ, giáo dục giới trẻ và những diễn tả khác nhau về đức ái" (Số 4).
3. Ai phục vụ Thầy, người ấy phải theo Thầy
Một xã hội thiếu bóng dáng những người sống đời tận hiến là một xã hội thiếu lòng quãng đại, một xã hội bị khủng hoảng về ý nghĩa cuộc sống. Chính sự có mặt của những người sống đời tận hiến phục vụ như là một nhắc nhở rằng, con người có khả nang sống yêu thương, phục vụ như Đức Kitô và sống quãng đại hy sinh dấn thân cho người khác.
Những người trẻ lớn lên thường lập gia đình, điều đó thật tốt đẹp. Nhưng Chúa Giêsu vẫn muốn một số người trẻ dâng hiến đời mình cho Chúa, ở bên Chúa cách đặc biệt để được sai đi. Vì thế Đức Thánh Cha nhắn nhủ những người trẻ "Lời mời gọi của Chúa Giêsu vẫn còn vang vọng ngày hôm nay "Nếu ai phục vụ Thầy, người ấy phải theo Thầy" (Ga 12, 26). Đưng e ngại đón nhận lời mời gọi này. Chắc chắn các con sẽ gặp phải những khó khăn hy sinh, nhưng các con sẽ hạnh phúc khi phục vụ, các con sẽ là chứng nhân của niềm vui mà thế gian không thể ban tặng. Các con sẽ là nhưng ngọn lửa sống động của một tình yêu vô biên và vĩnh cửu. Các con sẽ nhận biết những phong phú thiêng liêng của chức vụ Linh Mục, quà tặng và mầu nhiệm thần linh" (Số 5).
Người sống đời tận hiến chấp nhận hy sinh quyen được lập một tổ ấm. Họ dâng tình yêu lứa đôi cho một tình yêu cao hơn trong Ơn Gọi Tu Trì để có thể yêu mãnh liệt và bao la hơn. Đức Thánh Cha khẳng định: "Họ không tìm kiếm những lợi lộc vị kỷ, nhưng hiến mình cho kẻ khac, khi cảm nghiệm niềm vui của tính nhưng không qua việc hiến tặng bản thân" (số 4).
Người đi tu là người muốn nên trọn lành, muốn đạt đến đỉnh cao của sự toàn thiện. Cũng tựa như người leo núi, muốn có ánh sáng thì phải lên cao. Để lên cao phải vất vả, nhiều khi phải leo lên những sườn dốc cheo leo. Leo núi là một cuộc mạo hiểm. Đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ. Nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo và nhất là sự can đảm. Đời sống tu trì cũng vậy. Nó đòi hỏi một sức khoẻ tinh thần, thể xác, sự khôn ngoan, nhẫn nại, lòng can đảm, sức chịu đựng bền bỉ. Nếu không người ta sẽ sợ hãi chóng mặt, dừng lại và rút lui. Đổi lai, người leo núi được hưởng những niềm vui mà người khác không biết đến. Đó là, được ở trong ánh sáng không bao giờ tắt, được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ, cảnh mây bay lững lờ tận dưới xa chân mình, càng leo những núi cao càng khám phá ra muôn vàn những đỉnh núi khác.
4. Cầu nguyện cho những người Mẹ
Ơn Gọi Tu Trì là ân huệ đến từ Thiên Chúa. Gia đình là Chủng Viện đầu tiên, Dòng Tu đầu tiên ươm mầm ơn gọi phát triển. Các bậc cha mẹ là những người phát hiện và vun trồng cho Ơn Gọi lớn lên, trổ sinh hoa trái.
Bài Tin Mừng hôm nay đặc biệt thích hợp cho các người Mẹ. Giống như người mục tử, giống như Chúa Giêsu, một bà mẹ luôn có mối tương giao gần gũi sâu sắc với đàn con cái. Người Mẹ yêu thương chăm sóc từng đứa con, tuỳ tính tình mỗi đứa để có cách giáo dục thích hợp. Không gì mà người Mẹ không làm để bảo vệ con khỏi nguy hiểm. Bà sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ để tìm kiếm đứa con lầm đường lạc lối trở về.
Ơn Gọi Tu Trì thường do người Mẹ phát hiện và dìu dắt từng bước. Hầu như Linh Mục nào cũng giống Mẹ và rất kính yêu Mẹ của mình. Tấm lòng người Mẹ bao la như bien cả. Trái tim người Mẹ nhân hậu bao dung như đất trời. Bởi vậy Ngày Thế Giới Cầu Cho Ơn Thiên Triệu cũng cần dành lời cầu nguyện đặc biệt cho mọi người mẹ trên thế giới. Xin cho mọi người mẹ luôn sống vai trò Mục Tử Nhân Lành với con cái và luôn biết quảng đại dâng con mình cho Chúa, cho Giáo Hội trong Ơn Gọi Phục Vụ.
66. Nhận diện Mục Tử và Người Chăn Thuê
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Hằng năm cứ đến ngày Lễ Chúa Chiên Lành (Chúa Nhật IV Phục Sinh), cả Giáo hội hướng đến việc cổ võ ơn thiên triệu trong bậc tu trì nói chung và cách riêng ơn gọi làm linh mục. Một trong những nội dung làm việc của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam kỳ I năm 2012 tại giáo phận Xuân Lộc, đó là việc đào tạo linh mục. Dĩ nhiên là mục tiêu nhắm là để có những vị “mục tử như lòng Chúa mong ước”. Có thể luận suy rằng khi người ta yêu sách phẩm hạnh cần có của một bậc sống thì mặc nhiên người ta khẳng định sự cao quý và cần thiết của bậc sống ấy.
Một sự thật dễ thấy, đó là khi đề cập đến mặt tích cực và khi đó là một trong những nhân đức hay lý tưởng thì người ta dễ đón nhận và cũng dễ tự bang lòng khi thấy mình chưa đạt đến. Một trong những luận lý để tự châm chước đó là phận người còn nhiều hạn chế, thiếu sót vì như lời người xưa: “nhân vô thập toàn”. Trái lại khi nói đến điều tiêu cực, hay mặt trái cua vấn đề thì người ta khó đón nhận, vì ai ai cũng vấn vương chút sĩ diện, chút tự ái nào đó. Nói rằng bạn chưa hoàn hảo thì chúng ta dễ chấp nhận ngay nhưng nếu nói rằng bạn xấu xa thì xem ra dễ có phản ứng. Hoặc giả như cho rằng bạn nói chưa đúng thì dễ chấp nhận nhưng nếu ai đó cho rằng chúng ta nói sai thì vấn đề lại trở thành trầm trọng. Dẫu sao đi nữa thì bài trích Tin Mừng thánh Gioan của Chúa Nhật IV Phục Sinh năm B, qua những lời của chính Chúa Kitô, chúng ta cũng cần xem xét đôi điều để phân biệt mục tử với người chăn thuê.
Đã nói là phân biệt hai thực thể nào đó thì chắc chắn giữa chúng phải có nét tương đồng khiến người ta dễ lầm lẫn. Vì thế, trước hết chúng ta cùng xem xét một vài nét xem ra tương đồng giữa người chăn thuê và vị mục tử:
1. Qua cửa ràn chiên: Cả hai, vị mục tử và kẻ chăn thuê đều đường đường chính chính qua cửa ràn chiên mà vào và ra chứ khong leo tường hay chui rào. Có thể nói rằng dù được tấn phong giám mục thành sự, được truyền chức linh mục thành sự, dù có sắc phong, có văn thư bổ nhiệm hợp pháp… thì cũng chưa hẳn đã là mục tử chính hiệu.
2. Biết chiên: Dù rằng khó có thể có cái “biết” theo nghĩa Kinh Thánh đó là đồng thân, chung phận, nhưng người chăn thuê cũng biết con chiên một cách nào đó khả dĩ đáng gọi là biết theo nhãn quan nhân loại.
3. Chiên nghe tiếng và đi theo mục tử cũng như kẻ chăn thuê: Ít ai phản đối sự thật này, vì người chăn thuê không phải là người lạ hay là kẻ trộm (x.Ga 10,5;8). Ngoại trừ một số ít chiên “cá biệt” hoặc bị gán nhãn mác là “chống giáo sĩ”, thì có thể nói là đại đa số giáo dân Công giáo, cách riêng giáo dân Công giáo Việt Nam đều ngoan, theo nghĩa là biết vâng nghe lời các đấng bậc.
4. Người chăn thuê và mục tử đều dẫn chiên đến đồng cỏ và nguồn nước: Rất có thể chiên không được hưởng dùng các loại cỏ xanh tươi hay dòng nước mát trong cách tốt nhất, nhưng người chăn thuê vẫn không quên bổn phận cung cấp thức ăn và nước uống cho đàn chiên.
Tiếp đến chúng ta cùng nhận diện những điểm khác biệt giữa người chăn thuê và vị mục tử. Đây là nội dung muốn chia sẻ. Hy vọng rằng khi trực kiến với hình ảnh mang tính phản diện thì chúng ta dễ giật mình hơn, không chỉ với những người đang trong phận vụ muc tử mà còn với cả những người trong danh phận con chiên.
1. Làm chỉ vì tiền: Mục đích nhắm của bất cứ người làm thuê nào, nếu thực sự là làm thuê, thì đều vì tiền công. Người chăn thuê cũng có thể có tấm lòng với đàn chiên, nhưng ưu tiên số một vẫn là tiền công, dù là công nhật, công tháng, công năm hoặc hưởng lương theo sản phẩm.
2. Làm hết giờ hơn là làm hết việc: Trong thân phận người làm thuê thì người ta rất mong đến giờ tan sở. Giả như người làm thuê nếu có làm hết việc thì ít khi hết lòng. Nếu người làm thuê làm ăn lương theo sản phẩm thì có đó chuyện làm hết sức, nhưng làm cách công tâm và hết tình thì chưa hẳn có. Trái lại, nếu đúng la mục tử thì có thể nhiều khi làm không hết việc, thậm chí có khi không được việc trước mắt, nhưng luôn thực thi hết lòng.
3. Không quan tâm đến chiên ngoài đàn: Đây là một điều tất yếu đương nhiên. Đã là làm thuê thì ít có ai thích dài tay với những việc xem ra không quá đòi buộc phải làm hoặc có xao nhãng hay không làm cũng chẳng bị trừ lương. Đã là mục tử thì không thể quên lời của Thầy chí thánh, Giêsu: “Ta còn nhiều chiên ở ngoài đàn…”
4. Không bao giờ sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì chiên: Cần thú nhận rằng chẳng có ai dại gì tự nguyện bị thiệt thân vì những gì không thuộc về mình. Khi thấy sói đến người chăn thuê sẵn sàng bỏ chiên để giữ lấy mạng sống mình (x.Ga 10,12). Chuyện hiến dâng mạng sống vì chiên xem ra chẳng hề có trong tâm trí của người chăn thuê. Trái lại, đây là điểm không thể thiếu để thẩm định ai mới là mục tử.
Với bốn điểm đồng và bốn điểm dị, thầm mong khi phân biệt mục tử với người chăn thuê, chúng ta thêm xác tín rằng ngoài việc cần thiết cầu nguyện liên lỉ cho các mục tử trong Giáo hội, thì đang còn đó nhiều việc đáng làm và nên làm. Cũng hy vọng rằng một số mục tử nào đó trong Giáo hội, dù chưa hẳn xứng danh mục tử tốt lành nhưng không phải là những người chăn thuê. Và mong sao không hề có những kẻ chăn thuê đang mang danh mục tử.
“Hãy ra khỏi ngôi mộ trống!” Hy vọng rằng lời nhắn nhủ của Đức Tổng Giám Mục Leopoldo Girelli, vị đại diện của Đức Thánh Cha giúp cho nhiều đấng bậc, cách riêng trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam biết thức tỉnh để sống lại con người mục tử chính danh chính hiệu của mình. Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn đoàn chiên của Người sống và hành xử như “đoàn cừu của Panurge”, mà là như đoàn dân Thiên Chúa trưởng thành, đầy ý thức và tinh thần trách nhiệm, luôn tích cực cộng tác với ơn Chúa để dệt xây những mục tử tốt lành như lòng Chúa ước mong.
67. Đức Giêsu, Vị mục tử nhân lành - Lm. Đan Vinh
Tìm hiểu lời Chúa
1) Ý chính: Đức Giêsu, vị mục tử nhân lành:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tự ví mình như một Mục Tử nhân lành. Sự nhân lành của người Mục Tử biểu lộ qua 3 hành động sau: một là biết rõ từng con chiên và cũng được chiên nhận biết và đi theo. Hai là quan tâm đến cả đàn chiên, nhất là những con bị đau ốm, bị thương tích hay lạc mất. Ba là can đảm thí mạng đương đầu với sói rừng để bảo vệ đoàn chiên.
2) Chú thích:
- Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê vì không phải là Mục Tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn. Vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên (Ga 10,11-13):
+ Tôi chính là: Đây là kiểu nói mặc khải về Danh xưng của Thiên Chúa: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3,14). Đức Giêsu đã nhiều lần khẳng định: “Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,24.28); “Chính tôi là bánh trường sinh” (Ga 6,35), “Tôi là bánh từ trời xuống” (Ga 6,41); “Tôi là ánh sáng thế gian” (Ga 8,12; 9,5); “Tôi là cửa cho chiên vào” (Ga 10,7.9); “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11.14); “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25); “Chính Thầy la con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6); “Thầy là cây nho thật…Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,1.5).
+ Mục Tử nhân lành: Mục tử là người chăn chiên, một hình ảnh quen thuộc đối với dân Do Thái. Thiên Chúa chính là Mục Tử cai trị, hướng dẫn dân Người (x. Tv 23,1). Ngôn sứ Edêkien đã tuyên sấm lời Đức Chúa phán như sau; “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; Con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; Con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; Con nào bệnh tật, Ta sẽ cho mạnh; Con nào béo mập, con nào khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng” (Ed 34,15-16). Thiên Chúa cũng dùng một số mục tử để thay Người mà coi sóc dân như Môsê (x. Is 63,11), Đavít (x. Tv 78,70-71). Bên cạnh các mục tử tốt cũng có những kẻ xấu xa bất xứng (x. Gr 10,21; 12,10). Thiên Chúa hứa ban một Mục Tử thuộc dòng dõi Đavít, luôn làm đẹp lòng Người (x. Gr 23,4-6; Ed 34,23-24). Vị Mục Tử duy nhất ấy chính là Đức Giêsu như Người đã từng khẳng định: “Tôi là Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11.14).
+ Hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên: Đây là sự khác biệt quan trọng giữa mục tử chân chính với kẻ chăn thuê. Hy sinh mạng sống là dấu hiệu của một tình yêu tột đỉnh (x. Ga 15,13).
+ Người làm thuê không phải là Mục Tử: Đức Giêsu dùng kiểu nói tương phản để làm nổi bật tính cách nhân lành của Mục Tử chân chính. Người chăn thuê thường tỏ ra hèn nhát và vô trách nhiệm đối với đoàn chiên (x. Ga 10,12-13). Ở đây, người làm thuê ám chỉ là các đầu mục dân Do Thái như các kinh sư, các người pha-ri-sêu gỉa hình (x. Mt 23,2), các Ngôn sứ giả (x. Mt 24,11). Những đầu mục này chỉ lo tìm tư lợi, là kẻ dẫn đường sai lạc, là người nói mà không làm, là người đạo đức giả (x. Mt 23,14.16.25.28).
- Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi. Như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử (Ga 10, 14-16):
+ Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi: Từ ngữ “Biết” trong Kinh Thánh không những nói về sự hiểu biết đối với tha nhân về tri thức, mà còn có nghĩa là một sự quan hệ mật thiết: Biết cái gì nghĩa là có kinh nghiệm cụ thể về cái đó. Biết một người nào là có liên hệ mật thiết với người đó (x. St 4,1; Lc 1,34). Đức Giêsu biết các tín hữu là đoan chiên của Người, và họ cũng biết Người là Mục Tử của họ và sẵn sàng vâng nghe lời Người. Tuy nhiên những điều mặc khải của Đức Giêsu thường khó hiểu và khó chấp nhận, bao lâu Đức Giêsu chưa được tôn vinh, nghĩa là chưa được treo trên thập giá(x. Ga 8,28). Sự tôn vinh này là điều kiện để các môn đệ đón nhận được ơn Thánh Thần (x. Ga 7,39). Rồi nhờ Ơn Thánh Thần tác động, các ông sẽ hiểu biết trọn vẹn các chân lý đã được Đức Giesu mặc khải trước đó (x. Ga 16,3).
+ Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này: Sự quan tâm săn sóc của Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, không chỉ dành riêng cho các tín hữu, mà còn phổ biến đến mọi dân tộc nhờ các môn đệ của Người. Sứ mạng loan Tin Mừng và làm chứng cho Đức Kitô được trao cho các môn đệ và cũng là trao cho Giáo Hội, trao cho mỗi tín hữu chúng ta trước khi Người về trời (x. Mt 28,19; Cv 1,8).
+ Sẽ chỉ có một đoàn chiên và một Mục Tử: Với cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, biên giới ngăn cách giữa Do Thái và dân ngoại đã bị phá hủy (x. Gl3,28). Mọi người mọi dân tộc đều có thể gia nhập đoàn chiên của Người, vì Người đã đổ máu ra để cứu chuộc toàn nhân loại (x. 1 Tm 2,4). Viễn tượng về một ngày đoàn tụ nhân loại trong một đại gia đình, một đoàn chiên duy nhất dưới quyền một Mục Tử tối cao là Đức Giêsu (Vua Mêsia) có trở thành hiện thực hay không, là tùy vào sự ý thức và quyết tâm của mỗi người tín hữu chúng ta có sẵn sàng cộng tác với Ơn Thánh Thần để chu toàn sứ mạng “được sai đi khắp thế gian, đến với muôn dân” hay không.
- Sở dĩ Chúa Cha yêu mến toi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại Mạng Sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha toi mà tôi đã nhận được (Ga 10,17-18):
+ Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi: Khi hiển dung trên quả núi cao, Đức Giêsu đã được Chúa Cha công nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về người” (Mt 17,5). Lý do Người được Chúa Cha yêu mến:
+ Là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại: Đức Giêsu đã hy sinh chịu chết trên thập giá vâng theo ý Chúa Cha như Người đã cầu nguyện trước cuộc khổ nạn: “ Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Người sẵn sàng chịu chết để rồi nhờ quyền năng Thánh Thần, Người sẽ lấy lại mạng sống bằng sự phục sinh vinh quang.
+ Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình: Việc Đức Giêsu chịu chết không phải do ý muốn của các đầu mục Do Thái, tổng trấn Philatô, Giuđa, quân lính và dân chúng…Nhưng là do Người tự ý chấp nhận vâng phục thánh ý Chúa Cha(x. Mt 26,39) khi đến “GIỜ” Con Người được tôn vinh (x.Ga 12,23).
+ Để rồi lấy lại: Đức Giêsu đã báo cho các môn đệ biết trước: Người sẽ đi lên Giêrusalem, chịu đau khổ do các đầu mục Do Thái gây ra, sẽ bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (x. Mt 16,21; 17,22; 20,18-19), nhờ quyền năng Thiên Chúa Cha (x. Cv 2,32-33).
+ Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được: Đức Giêsu đã luôn vâng lời Chúa Cha (x. Mc 14,36), đến nỗi bằng lòng chịu chet, chết trên cây thập tự (x. Pl 2,8).
Học sống lời Chúa
1) “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).
- Câu chuyện: Mẹ chết thay con:
Trên một tờ báo y học ở Achentina, bác sĩ Giăng Coóctê (Jean Cortez) đã kể lại trường hợp đặc biệt mà chính ông đã chứng kiến. Ông đang điều trị cho một bé gái tên là Angien. Em bị ung thư bao tử, một bệnh rất hiếm gặp nơi trẻ em. Sau mấy lần giải phẫu và điều trị đủ cách, ông đành báo tin buồn cho bà mẹ là ông đành chịu bất lực trước căn bệnh hiểm nghèo này, và cho biết Angien đã chết! Bà Maria mẹ em bé gần như hóa điên khi nghe tin ấy. Bà nhất quyết không cho ai đụng vào thi thể của con, và quì cầu nguyện nhiều giờ bên giường con. Bác sĩ Coóc-tê rất xúc động khi nghe thấy lời bà cầu xin cho mình được chết thay con. Ong cùng mọi người im lặng ra bên ngoài để bà một mình với đứa con yêu đã chết.
Nửa tiếng đồng hồ sau, mọi người lại vào phòng. Mọi người hiện diện đều rất ngạc nhiên khi thấy Angien đã khỏe lại. Gương mặt em rạng rỡ vui vẻ. Em đang ngồi trên giường và ôm mẹ, còn mẹ em thì lại nằm gục trên giường và đang ở trong tình trạng sắp chết. Bà thều thào nói với bác sĩ rằng: “Thưa bác sĩ, tôi rất mừng được Chúa đã thương nhậm lời cầu của tôi là cho tôi được chịu bệnh thay thế cho con tôi!”. Bấy giờ bác sĩ Coóctê lập tức cho tái xét nghiệm va kết quả là bé Angien đã hoàn toàn bình phục, còn bà Maria mẹ em lại mắc chứng bệnh ung thư bao tử của em mà trước đó bà không hề mắc phải. Thân nhân xúm lại chung quanh bà Maria để động viên an ủi bà và có người hứa sẽ thay bà mà nhận bé Angien làm con và chăm sóc nuôi dạy bé nên người tốt. Vài giờ sau bà Maria tắt thở trong bình an, Bà được mọi người kính phục về tình mẫu tử cao quí bà dành cho con. Bác sĩ Coóctê kết luận: “Tôi không thể giải thích lý do tại sao chuyện này lại có thể xảy ra được! Vì rõ ràng trước đó cô bé Angien đã chết. Có thể đã có một quyền năng siêu phàm nào đó tác động và hoán chuyển căn bệnh quái ác từ nơi đứa con sang cho bà mẹ!”
- Suy nghĩ: Tình mẫu tử thiêng liêng đã khiến bà Maria hy sinh chịu chết thay cho con. Tình mẫu tử ấy là phản ảnh tình yêu của Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành đối với các tín hữu là đoàn chiên của Người. Người đa nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Trong bài Tin Mừng hôm nay Người nói: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên”.
- Câu hỏi: 1) Mỗi người chúng ta đều có thể là mục tử đối với đoàn chiên là những người được Chúa trao cho ta nhiệm vụ trông nom săn sóc. Vậy đoàn chiên ấy gồm những ai?
* Đáp: Đoàn chiên ấy chính là các con cái và các em trong gia đình mà ta có nhiệm vụ phải nuôi dưỡng, dạy dỗ và săn sóc; Đoàn chiên ấy cũng là các công nhân trong nhà máy xí nghiệp mà ta đang giữ nhiệm vụ quản lý điều hành; Đoàn chiên ấy cũng là các học trò trong một lớp học mà ta là giáo viên chủ nhiệm; Đoàn chiên ấy còn là các hội viên trong hội đoàn Công Giáo Tiến Hành mà ta có nhiệm vụ là huynh trưởng trong Ban Chấp Hành…
- Câu hỏi: 2) Phân biệt giữa Mục Tử nhân lành với các kẻ chăn thuê giống và khác nhau thế nào?
* Đáp: Giống nhau vì cả hai đều có nhiệm vụ phải chăm sóc và nuôi dưỡng đoàn chiên. Tuy nhiên Mục Tử nhân lành và kẻ chăn chiên lại có nhiều điểm khác nhau như sau:
** Mục tử nhân lành: là chủ đoàn chiên và chiên thuộc về người ấy, nên ông yêu thương chúng và sẵn sàng thí mạng chống lại với sói dữ để bảo vệ đoàn chiên; Ong lại cũng biết rõ từng con chiên một như về tính khí và các khó khăn con chiên phải chịu đựng, các nhu cầu của chiên cần được đáp ứng. Do đó đoàn chiên luôn yêu mến và vâng nghe lời ông. Ngoài ra Mục Tử nhân lành còn phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với đoàn chiên như: băng bó chữa lành các con chiên bị đau ốm hay thương tích, đi tìm các con chiên thất lạc và tìm được thì vác trên vai mà đưa về đoàn, để sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.
** Kẻ chăn thuê chỉ là người làm công và chiên không thuộc về hắn, nên hắn không yêu thương chiên mà chỉ lo tìm tư lợi ích kỷ như chỉ lo vắt sữa và xén lông chiên đem bán lấy tiền, không quan tâm chăm sóc cho đoàn chiên, không chịu băng bó chữa bệnh cho chiên đau yếu, không đi tìm các con chiên lạc. Nhất là khi thấy sói rừng kéo đến tấn công đoàn chiên, kẻ chăn thuê cảm thấy nguy hiểm cho bản thân mình thì sẵn sàng bỏ rơi đoàn chiên mà chạy thoát thân một mình, mặc cho sói rừng cắn xé các con chiên và làm cho đoàn chiên tan tác…
2) “Tôi chính là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10, 14)
- Câu chuyện: “Vì tôi là linh mục”:
+ Cách đây ít lâu, Nguyễn Đức Quang đã sáng tác một bài hát mang tựa đề: “Vì tôi là Linh Mục” để tặng một người bạn thân là linh mục “cấp tiến” đã phá giới hồi tục. Nội dung bài hát về một linh mục vì không mặc áo dòng nên đã bị sa chước cám dỗ vào cuộc tình. Để rồi cả đời bị lương tâm cáo trách và đánh mất lý tưởng của cuộc đời mình.
+ Linh mục là người phàm, không phải là thần thánh: Linh mục cũng là một con người yếu đuối và bất toàn như bao người khác: “Nhân vô thập toàn”, Tuy nhiên Linh Mục đã được thánh hiến cho Chúa, nghĩa là thuộc trọn về Chúa, hiến thân phụng sự Chúa và trở thành khí cụ Chúa dùng mà thánh hóa thế gian. Linh Mục là người được Chúa mời gọi và đã đáp lại tiếng Chúa bang sự hy sinh tình cảm gia đình, thôi bỏ nghề nghiệp mà đi theo làm môn đệ Chúa. Được Người đào tạo và huấn luyện trong môi trường chủng viện. Sau đó, được thụ phong Linh Mục và được sai đi để chu toàn ba sứ vụ đặc biệt la: Sứ vụ tiên tri để đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, sứ vụ Tư Tế để cử hành các phép Bí Tích nhất là Thánh Thể mà thánh hóa người ta, và sứ vụ Vương Đế để chăn dắt đoàn chiên được Chúa trao phó.
+ Những khó khăn của Linh mục thời đại mới: Trong bài “Linh mục, người là ai?”, văn hào Giuăng Aria (Juan Arias) viết: “Lạy Chúa, Linh mục là ai? Đối với nhiều người: Ông ta là người cô độc ích kỷ. Đối với nhiều người khác: Ông ta là thứ trai già vô tích sự, một nhân viên bàn giấy của tôn giáo”. Người nghèo tỏ vẻ bực bội khi thấy Linh mục năng tiếp xúc với các người giàu có. Họ rủa Linh mục là ‘Đồ tư bản chết liệt!”, Nếu Linh mục hiến thân chuyen lo phục vụ cho người nghèo hèn ít học, bệnh tật, cô đơn…thì người ta lại ganh ghét và gọi Linh mục là “Đồ Tả Khuynh bần tiện!”. Làm Linh mục thời đại này thật không đơn giản chút nào!
+ “ Một người luôn luôn sai lầm” (He is always wrong): Đây là tựa đề của một bài báo nhỏ nói lên sự cảm thông của các tín hữu đối với Linh mục chủ chăn như sau:
* Giảng ngắn dưới 10 phút: “Ông Linh mục này lười không chịu dọn kỹ bài giãng!”. Giảng quá 20 phút: “Ong ta là người ưa nói dai và nói dài!”
* Nếu giảng hùng hồn: “Ông ta la lối om sòm thật bất kính đối với Chúa đang ngự trong nhà chầu!”. Nếu giảng với giọng bình thường: “Ông ta có tài dỗ ngủ cho người mang bệnh khó ngủ!”.
* Nếu năng đến thăm các gia đình trong xứ: “ Ông ta chẳng có việc gì để làm, suốt ngày la cà hết nhà này sang nhà nọ để kiếm chác! chẳng mấy khi thấy ông ta có mặt ở nhà để tiếp xúc với các người cần gặp hay để đi kẻ liệt!”. Nếu ít đi thăm: “Ông ta chẳng quan tâm để biết con chiên của mình sống chết ra sao!”.
* Nếu Linh mục còn trẻ: “Ông ta mới ra trường nên tay nghề còn non và chưa có kinh nghiệm mục vụ giáo xứ!”. Nếu đã cao niên: “Một lão già lẩm cẩm hủ lậu! Ông ta nên sớm xin về hưu đi là vừa!”.
- Quyết tâm: “Ở sao cho vừa lòng người: Ở rộng người cười ở hẹp người chê”: Câu ca dao thật đúng khi áp dụng cho Linh mục. Vậy bạn quyết tâm sẽ làm gì để trở nên con chiên ngoan trong đoàn chiên Chúa, do các Mục Tử là các Linh Mục chăm sóc?
(Đáp: Cầu nguyện, cảm thông, cộng tác, giúp đỡ, trở nên cánh tay nối dài…)
68. Mục tử nhân lành - Lm Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: "Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,11).
2. CÂU CHUYỆN: MẸ CHẾT THAY CON
Trên một tờ báo y học ở Ac-hen-ti-na, bác sĩ Giăng Coóc-tê (Jean Cortez) đã kể lại trường hợp đặc biệt mà chính ông đã chứng kiến. Ông đang điều trị cho một bé gái tên là Ăng-gien (Angel). Em bị ung thư bao tử, một bệnh rất hiếm gặp thấy nơi trẻ em. Sau khi giải phẫu và điều trị đủ cách, ông đành phải báo tin buồn cho bà mẹ của bé sự bất lực của ông trước căn bệnh hiểm nghèo này, và cho biết bé Ang-gien đã chết! Bà Ma-ri-a mẹ em bé gần như hóa điên khi nghe tin dữ ấy. Bà nhất quyết không cho ai đụng vào thi thể của con, và quỳ cầu nguyện nhiều giờ bên giường con. Bác sĩ Coóc-tê rất xúc động khi nghe bà cầu xin để bà được chết thay cho con. Ông cùng mọi người im lặng ra ngoài để bà một mình với đứa con đã chết.
Nửa tiếng đồng hồ sau, mọi người lại vào phòng và rất ngạc nhiên khi thấy bé Ăng-gien bây giờ đã khỏe lại. Gương mặt em rạng rỡ vui vẻ như không có bệnh tật gì. Em đang ngồi trên giường, còn mẹ em thì nằm gục bên cạnh giường và sắp chết. Bà thều thào nói với bác sĩ rằng: "Thưa bác sĩ, tôi rất mừng được Chúa thương nhậm lời cầu của tôi là cho tôi được chịu bệnh thay cho con tôi!". Bấy giờ bác sĩ Coóc-tê lập tức cho tái xét nghiệm và kết quả là bé Ăng-gien đã hoàn toàn bình phục, còn bà Ma-ri-a thì lại mắc chứng bệnh bao tử của em mà trước đó bà chưa hề mắc phải. Thân nhân xúm lại xung quanh bà Ma-ri-a để động viên an ủi bà và hứa sẽ nhận bé Ăng-gien làm con và sẽ chăm sóc nuôi dạy bé nên người tốt sau này. Vài giờ sau bà Ma-ri-a đã ra đi trong bình an. Bà được mọi người kính phục vì tình mẫu tử cao quý bà dành cho con. Bác sĩ Coóc-tê kết luận: "Tôi không thể giải thích tại sao lại có thể xảy ra như thế được! Vì rõ ràng trước đó cô bé Ăng-gien đã chết. Có thể đã có một tài năng siêu phàm nào đó tác động và hoán chuyển căn bệnh quái ác từ nơi đứa con sang cho bà mẹ!".
3. NỘI DUNG TIN MỪNG: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã tự ví mình như vị Mục Tử nhân lành. Sự nhân lành của người Mục Tử được biểu lộ qua 3 hành động sau: Một là biết rõ từng con chiên và cũng được chiên nhận biết và đi theo. Hai là quan tâm đến cả đoàn chiên, nhất là những con chiên bị đau ốm, thương tích hay lạc đàn. Ba là sẵn sàng thí mạng đương đầu với sói rừng để bảo vệ đoàn chiên.
4. SUY NIỆM: NHỮNG KHÓ KHĂN CỦA LINH MỤC THỜI ĐẠI MỚI:
Linh mục là mục tử dẫn dắt dân Chúa về phần linh hồn.
- "Linh Mục, Người Là Ai?": Văn hào Giu-ăng A-ri-a (Juan Arias) viết: "Lạy Chúa, Linh mục là ai? Đối với nhiều người: Ông ta là một người cô độc ích kỷ. Đối với nhiều người khác: Ông ta là thứ trai già vô tích sự, một nhân viên bàn giấy của tôn giáo". Người nghèo tỏ vẻ bực bội khi thấy Linh mục hay tiếp xúc với người giàu có và rủa Linh mục là "đồ tư bản chết tiệt!". Nếu linh mục hiến thân chuyên lo phục vụ cho người nghèo ít học, bệnh tật, cô đơn... thì người ta lại ganh ghét và gọi Linh mục là "Đồ tả khuynh bần tiện!".
Làm Linh mục thời đại ngày nay thật không đơn giản chút nào!
"Một người luôn luôn sai lầm" (He is always wrong): Đây là tựa đề của một bài báo nhỏ nói lên sự cảm thông của các tín hữu đối với các Linh mục chủ chăn như sau:
* Giảng ngắn dưới 10 phút: "Ông Linh mục này lười không chịu dọn kỹ bài giảng!".
* Giảng quá 20 phút: "Ông ta là người ưa nói dai và nói dài!"
* Nếu giảng hùng hồn: Ông ta la lối om sòm thật bất kính với Chúa đang ngự trong nhà chầu!
* Nếu giảng với giọng bình thường: "Ông ta có biệt tài dỗ ngủ cho người bệnh khó ngủ!"
* Nếu năng đến thăm các gia đình trong giáo xứ: "Ông ta chẳng có việc gì để làm, suốt ngày la cà hết nhà này sang nhà nọ để kiếm chác! chẳng mấy khi thấy ông ta có mặt ở nhà để tiếp xúc với các người cần gặp hay để đi kẻ liệt!".
* Nếu ít đi thăm: "Ông ta chẳng quan tâm để biết con chiên của mình sống chết ra sao!".
* Nếu linh mục còn trẻ: "Ông ta mới ra trường nên tay nghề còn non và chưa có kinh nghiệm mục vụ!".
* Nếu đã cao niên: "Một lão già lẩm cẩm hủ lậu! Ông ta nên sớm về hưu đi là vừa!"
Thật đúng như người đời thường nói: "Ở sao cho vừa lòng người: Ở rộng người cười ở hẹp người chê". Làm Linh mục thật không dễ chút nào!.
5. CẦU NGUYỆN
- Lạy Chúa Giêsu. Thật hạnh phúc biết bao khi con biết rằng con đang được Chúa nâng niu bảo vệ. Chúa là Mục Tử tốt lành hằng yêu thương con. Chúa đã hy sinh chịu chết để đền tội thay cho con và không ngừng bảo vệ con khỏi bị ma quỉ tấn công. Xa-tan muốn cướp con khỏi bàn tay Chúa và biến con trở thành tay sai của chúng. Có những cám dỗ ngọt ngào, có những thách thức khổ đau. Xatan muốn con lạc xa tình thương của Chúa. Nhưng con tin rằng Chúa luôn nâng đỡ phù giúp con. Vì Chúa đã hy sinh mạng sống chịu chết đền tội thay cho con. nhiều lúc con đã từ chối tình thương của Chúa để phạm tội. Có lần con đã chán nản không muốn theo Chúa nữa. Con đã chọn lối sống tự do buông thả để cuối cùng phải lãnh lấy bao đau khổ bất hạnh. Xin cho con can đảm từ bỏ tội lỗi và bước theo con đường hẹp và đầy chông gai như Chúa khi xưa. Xin cho con luôn tuân giữ các giới răn, nhất là giới răn yêu người như Chúa đã dạy. Xin cho con luôn tin tưởng vào lòng từ bi nhân hậu, cậy trông phó thác vào sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa. Nhờ đó, con hy vọng sau này sẽ được hưởng hạnh phúc với Chúa muôn đời.- Amen.
69. Tôi là mục tử nhân lành – Lm. FX Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Bài Diễn từ về Cửa chuồng chiên và người Mục tử (Ga 10,1-21) vừa chấm dứt các Diễn từ dịp Lễ Lều vừa đưa vào Diễn từ dịp Lễ Cung hiến Đền Thờ.
Bản văn có thể được phân bố tổng quát như sau:
1) Các dụ ngôn (10,1-5);
2) Phản ứng của người Do Thái (10,6);
3) Các giải thích:
a) Cửa (10,7-10),
b) Người mục tử (10,11-18);
4) Phản ứng của người Do Thái (10,19-21).
Hôm nay, chúng ta đọc phần giải thích Người mục tử (10,11-18).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Người mục tử đích thật (10,11-13);
2) Người mục tử ưu việt (10,14-18).
3.- Vài điểm chú giải
- nhân lành (11): Hy-ngữ có hai từ để nói là “tốt”: (1) agathos mô tả đức tính luân lý của một cá nhân được coi là tốt; (2) kalos, cũng có thể dịch là “đẹp”, thêm vào yếu tố “tốt” một nét nói lên sự thu hút và đồng cảm. “Từ “nhân lành” hay “tốt” ở đây là tính từ kalos.
- hy sinh mạng sống (11): Dịch sát là “đặt/hạ mạng sống xuống” (cc. 11.15.17). Đây là công thức của Ga (13,37; 15,13; 1 Ga 3,16). Theo ngữ cảnh, công thức này tương đương với các công thức của Tin Mừng Nhất Lãm, “hiến mạng sống” (x. Mt 20,28; Mc 10,45).
- chien của tôi (14): Đức Giêsu có thể nói các con chiên là của Người vì Chúa Cha đã ban họ cho Người (x. 6,37.44.65; 17,6-7).
- một đoàn chiên và một mục tử (16): Chúng ta ghi nhận một chọn lựa thú vị của cha R.E. Brown trong bản dịch Anh ngữ: có thể dịch “một đoàn chiên” là “a flock of sheep”, nhưng cha Brown dịch là “one sheep herd” đi với “one shepherd” để giữ cho tương ứng với poimnê (sheep herd, flock) và poimên (shepherd).
- Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy (18): Chúng ta ghi nhận cách viết của tác giả nhằm nhấn mạnh: từ “quyền” được dùng hai lần và đặt ở đầu câu, tạm dịch là “quyền tôi có / để hy sinh mạng sống, và quyền tôi có / để lấy lại mang sống”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong Cựu Ước, hình ảnh người mục tử thường được áp dụng cho các vua. Nhưng hình ảnh mục tử và con chiên là một hình ảnh quá quen thuộc để nói về tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Ngài tuyển chọn, tức Israel: Ngài hướng dẫn, bảo vệ và nuôi dưỡng Dân Ngài. Tuy nhiên, kinh nghiệm của Israel về các nhà lãnh đạo là một kinh nghiệm đáng buồn. Các ngôn sứ đã chỉ trích các vua bằng lời lẽ nặng nề, vì thay vì nuôi dưỡng con chiên, họ đã bóc lột và thậm chí giết chiên.
Thiên Chúa luôn ở về phía những người bị áp bức, Ngài hứa rằng chính Ngài sẽ chăm sóc con chiên, và Ngài sẽ gửi đến cho họ một mục tử chân chính, để điều khiển họ trong sự công chính và đưa lại bình an (x. Ed 34; Gr 23,1-6). Khi Đức Giêsu tự giới thiệu: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11.14), thì lời Thiên Chúa hứa đã nên hiện thực, nhưng vượt quá mọi chờ đợi. Đức Giêsu làm điều mà không mục tử nào làm, cho dù là mục tử tốt: “hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (5 lần: cc. 11.15.17.18 [2 lần]). Giữa Người và đoàn chiên, có một sự hiểu biết hỗ tương chứng tỏ một dây liên kết rất thân tình giữa Đức Giêsu và đoàn chiên (c. 14) cũng như giữa Đức Giêsu cùng đoàn chiên với Chúa Cha (cc. 15.18).
Các lời Đức Giêsu nói về người mục tử tốt lành được triển khai tiệm tiến, đưa các độc giả đến chỗ có một cái nhìn rộng lớn về công trình của Đức Giêsu: mầu nhiệm Vượt Qua và sự hy sinh chính bản thân Người.
* Người mục tử đích thật (11-13)
Đức Giêsu là “Mục tử nhân lành”, cũng có nghĩa là “Mục tử xinh đẹp”. “Nhân lành” không có nghĩa tình cảm, là “dịu dàng, êm ái”, nhưng là “chân chính, đích thực”. Từ ngữ này gợi ý rằng Đức Giêsu không chỉ là người làm việc có hiệu năng (điều hành), nhưng còn có một nhân cách xinh đẹp toàn diện và duyên dáng hấp dẫn. Cộng với tài lãnh đạo đầy uy lực và hiệu năng của Người, điều làm nên tư cách Mục Tử nhân lành của Người không phải là tài vuốt ve các con chiên, nhưng chính là tình yêu và khả năng đồng cảm của Người.
Người có một cảm thức về trách nhiệm: “các chiên thuộc về Người” (x. c. 12). Chính vì thế, Người đáng tin cậy, và sẽ chu toàn nhiệm vụ hết sức mình. Vào thời Đức Giêsu, người ta có thể nói “nghề chăn chiên” là một “ơn gọi” chứ không chỉ là một kế sinh nhai. Một người mục tử như thế thì không có mối bận tâm nào khác ngoài các con chiên; buổi sáng, khi thức dậy, người ấy vui sướng tìm đường đến với đoàn chiên. Còn những ai làm mục tử chỉ vì chẳng đặng đừng, họ không coi trọng trách nhiệm đối với đoàn chiên, họ chỉ là “người làm thuê”, “khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy” (c. 12). Ngược lại với người làm thuê, người mục tử nhân lành coi các con chiên như chính mình nên cũng không chờ đợi được trả công. Người nào làm việc chỉ để được trả lương dựa trên công việc của mình thì chỉ nghĩ đến tiền bạc, và khi không có tiền bạc hay thứ tương tự bù lại, thì họ bỏ việc. Còn ơ đâu có cảm thức về sự “thuộc-về”, ở đó cũng có tình yêu, và ở đâu có tình yêu, ở đó người ta vui sướng làm việc dù không được trả công.
Động lực căn bản hướng dẫn người mục tử nhân lành là tình yêu, và người nào yêu thì trước tiên muốn ban tặng, chứ không muốn đón nhận. Tình yêu chân thật có nghĩa là sẵn sàng thậm chí hy sinh cả mạng sống mình (x. Ga 15,13).
Sự dấn thân không biên giới của người mục tử nhân lành nhằm đưa lại sư sống: “tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (c. 10). Sự dấn thân này không có giới hạn: cách thức Người làm việc để có sự sống là Người ban tặng chính sự sống của Người: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng song mình cho đoàn chiên” (c. 11). Người mục tử đích thực không ngần ngại chấp nhận những phiêu lưu, rủi ro, chấp nhận hy sinh cả mạng sống, để cứu con chiên khỏi bất cứ mối nguy hiểm nào đang đe dọa chúng. Điều này có nghĩa là người mục tử nhân lành không tháo lui, cho dù khi mạng sống của mình bị đe dọa. Người mục tử nhân lành yêu thương con chiên hơn chính mình, và tình yêu này thúc bách Người làm mọi sự cho chúng ta. Điều này hoàn toàn ngược lại với người làm thuê, anh ta “không thiết gì đến chiên” (c. 13).
* Người mục tử ưu việt (14-18)
Đến đây, đề tài được đào sâu hơn nữa: phân đoạn này mô tả vẻ đẹp nơi nhân cách, hoặc đúng hơn, của linh đạo của người mục tử nhân lành, bí mật thâm sâu của Người, để trả lời cho các câu hỏi: Hy sinh mạng sống nghĩa là gì? Sự sống này hệ tại điều gì? Nó đưa tới đâu? Sự hiến mình của người mục tử dựa trên nền tảng nào? Nói cách khác, phân đoạn này triển khai nội dung của mối tương quan của người mục tử nhân lành với đoàn chiên.
Một tương quan đầy say mê (cc. 14-15). Tương quan của người mục tử nhân lành với con chiên là một tương quan không lạnh lùng, thể lý, vô ngã. Trái lại nó mang dáng vẻ một tương quan thân ái nhất, riêng tư nhất: tình hiệp thông của Chúa Cha và Chúa Con (x. Ga 1,1-3 và 1,18): “Như Chúa Cha biết tôi…” (c. 15). Thái độ của Đức Giêsu mang dấu ấn là tương quan của Người với Chúa Cha. Chúa Cha và Chúa Con biết nhau sâu xa, sống một cuộc sống trong tin tưởng lẫn nhau, trân trọng nhau, yêu thương nhau thắm thiết. “Tôi biết chiên của tôi…” (c. 14): Nếu tương quan của Đức Giêsu vơi chúng ta là kiểu này, chúng ta có thể hiểu rằng tương quan của người mục tử là nồng nàn, say mê, bừng cháy. Và nếu đó là cách Người ở với chúng ta, thì chúng ta cũng phải quan hệ với Người như thế: “chiên của tôi biết tôi” (c. 14b). Tác giả nói đến “biết” thay vì tình yêu, bởi vì “tình yêu” hệ tại việc “biết” riêng. Đối với Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, chúng ta không phải là những con số; Người biết lịch sử đời ta, các vấn đề, các khiếm khuyết của chúng ta – tất cả các đặc điểm và phẩm chất của chúng ta. Bởi vì Người biết chúng ta, Người yêu thương chúng ta. Điều này có nghĩa là Người chấp nhận chúng ta trong hiện trạng, và đưa chúng ta vào hiep thông trọn vẹn với Người. Nhưng cần phải thấy mặt bên kia: đối với chúng ta, “Giêsu” không được chỉ đơn giản là một cái tên; chúng ta phải càng ngày càng biết Người hơn, như “những con chiên tốt, đẹp”, và phát triển mot tương quan với Người, một tương quan mang dấu ấn là một tình yêu sâu sắc và trung thực.
Tương quan với Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, là tương quan hiệp thông thâm sâu. Người mục tử nhân lành không giữ thế cách biệt với chúng ta; Người không muốn chúng ta cứ mãi bé nhỏ và thiếu chín chắn. Như thế, chúng ta cứ phải ngày càng nên chín chắn cho đến khi có thể đi vào hiệp thông riêng tư với Người.
Một tương quan dành chỗ cho mọi người (c. 16). Sự hiệp thông được thiết lập với Đức Giêsu bắt đầu dần dà nắm lấy mọi tương quan của chúng ta và có mục tiêu là một cuộc sống được kết hợp (với tất cả các dạng cũng như những nét phức tạp của nó) trong tình yêu cua Đức Giêsu. Tình yêu giả thiết có “hiểu biết”, nhưng sau này, sẽ xuất hiện một sự hợp nhất vượt trên các khác biệt, bởi vì tình yêu thì “kết hợp”.
Sự nhiệt thành và quan tâm của Đức Giêsu-mục tử không giới hạn vào dân Israel. Công việc Người đã nhận từ Chúa Cha là lo lắng chăm sóc toàn thể nhân loại, làm cho thành một đoàn chiên duy nhất, một cộng đoàn gồm những người tin vào Người. Nói cho cùng, đó chính là sứ mạng của Người. Không một ai bị loại khỏi sự quan tâm của Người, và như thế, sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa nơi Người là để cho mọi dân tộc. “Đoàn chiên duy nhất” này mang hai chiều kích lịch sử chính yếu: (1) chiều đứng liên kết qua khứ, hiện tại và tương lai (cộng đồng Israel, cộng đoàn Nhóm Mười Hai, cộng đoàn tất cả các tín hữu tương lai); và (2) chiều ngang, nối kết các nhóm tín hữu khác nhau trong Đức Kitô, nhưng cũng đi đến với tất cả những ngươi không tin.
Qua Đức Giêsu, là mục Tử duy nhất, và qua sự hiệp thông với Người, mọi dân tộc (và mọi cộng đoàn) được kêu gọi trở thành một cộng đoàn lớn duy nhất. Sự hiệp thông này là công trình của Người, chứ chúng ta, dù có tạo ra thứ liên minh nào, vẫn không đạt tới bằng sức của mình được. Chúng ta sẽ có khả năng sống thành cộng đoàn bao lâu chúng ta còn đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu, vị mục tử duy nhất. Tính chất cao quý của mỗi muc tử nhân loại sẽ được đo lường theo khả năng người ấy tạo được sự hợp nhất tại nơi người ấy hiện diện - một sự hợp nhất không tập trung quanh người ấy nhưng quanh Đức Giêsu.
Sự trung thành là gốc rễ của tình yêu mê say và hợp nhất của người mục tử nhân lành (cc. 17-18). Những lời dạy về người mục tử nhân lành kết thúc với một cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc về “mầu nhiệm Vượt Qua”. Buổi chiều cuộc đời người mục tử nhân lành, vinh quang cũng như sự viên mãn của thời khắc này là lễ dâng cuộc đời Người trên thập giá, vào giờ của lòng trung thành. Tiêu chuẩn cuối cùng này của sự ưu việt của người mục tử được liên kết với tiêu chuẩn trước (sự hơp nhất). Chúng ta ghi nhận là đến cuối c. 15, có lời “tôi hy sinh mạng sống” để đưa sang c. 16 nói về mục tiêu của người mục tử nhân lành là kiến tạo một đoàn chiên duy nhất; rồi mở đầu c. 18, lại có lời “tôi tự ý hy sinh mạng sống”. Đây là cấu trúc “đóng khung” để nói rằng chính là khi hy sinh mạng sống trên thập giá, mà Đức Giêsu kiến tạo được “sự hợp nhất vĩ đại” này. Bởi vì Người chết chắc chắn “không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,52).
Nhưng nếu chúng ta nhìn vào cc. 17-18, chúng ta lại ghi nhận rằng ghi chú về Thiên Chúa Cha “đóng khung” các câu 17 và 18: “Chúa Cha yêu mến toi …” và “đó là mệnh lệnh của Cha mà tôi đã nhận được”, trong đó nói ba lần đến việc “hy sinh mạng sống”. Tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha giải thích sự trung thành của Người và sự trung thành chính là nét làm cho Người là Vị mục tử ưu việt. Sự trung thành này được nâng đỡ bởi nền tảng là tình yêu của Chúa Cha, được sống cách tự do và được diễn tả ra trong sự vâng phục. Sự trung thành này nên hình nên dạng trong hành vi “hiến tặng [hy sinh]” và “đón nhận [lấy lại]”, trong sự “tự chủ” (tôi có “quyền”) và “trách nhiệm” (Người hành động cho, hành động nhân danh), và trong việc lắng nghe (= tuân giữ) mệnh lệnh và đáp trả (vâng phục: “tôi đã nhận được”).
Câu 18 có thể được coi như đỉnh cao của bản văn. Đức Giêsu nói: “Chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình”, rồi Người nói tiếp: “Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy”. Nói cho cùng, “quyền” của Đức Giêsu (được dùng 2 lần để nhấn mạnh) được Người thực thi trong hành vi trách nhiệm là “hiến mình”. Như tất cả mọi điều khác, hành vi này được nâng đỡ bởi tình yêu làm nền của Chúa Cha, nơi Người Đức Giêsu nhận được mọi sự (sự sống luôn luôn là một điều nhận được) và là Đấng Người được liên kết với bằng một tình yêu duy nhất (gốc rễ của đời sống Người là một tình yêu chín muồi: tình yêu này là một với tình yêu của Đấng mà Người yêu men). Đây là ý thức sắc bén của Đức Giêsu trên thập giá, ý thức Người có vào thời điểm cao vời khi mà Người hiến tặng “sự sống dồi dào” cho mọi con chiên. Mọi sự đều dựa trên chỗ này.
+ Kết luận
Bản văn này, với giong văn đơn giản nhưng chắc nịch, đã cho chúng ta khám phá ra Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Đấng mạc khải tình yêu tại nguồn, là Đấng đưa lại ơn cứu độ trọn vẹn, Đấng cung cấp ánh sáng và sự sống. Nơi bản thân Đức Giêsu, chủ đề cổ xưa về Thiên Chúa Mục Tử của Cựu Ước nay đã được trẻ-hóa cách tuyệt vời và được hoàn tất vượt quá mọi ước mong.
Các môn đệ của Chúa Kitô phải chứng tỏ một lòng quảng đại như Thầy mình, và phải để cho mình được dẫn dắt bởi tình yêu mà thôi. Nếu chỉ quan tâm đến việc tuân giữ một luật lệ, hoặc làm tối thiểu những gì được quy định, họ không hiểu thế nào là tình yêu chân chính. Có tình yêu trung thực là phải sẵn sàng (tư do) hy sinh mạng sống cách vô vị lợi, như Chúa Kitô.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nói tới “mục tử” là nói tới tương quan. Trong xã hội Israel cổ thời, tương quan giữa mục tử và đoàn chiên không chỉ là một vấn đề lợi ích kinh tế, dựa trên các sản phẩm các con chiên cung cấp để mục tử sử dụng mà nuôi sống mình và gia đình: len, sữa, thịt, tiền bạc, v.v. Nói cách khác, đây không chỉ là một tương quan sở hữu. Trong thế giới Kinh Thánh, giữa mục tử và đoàn chiên có một tương quan hầu như riêng tư. Ngày qua ngày, các mục tử và đoàn chiên sống với nhau tại các nơi hoang vắng, chỉ có nhau chứ không có gì chung quanh. Do đó, chẳng mấy chốc, người mục tử biết rõ từng con chiên, và mỗi con chiên nhận biết tiếng nói của mục tử, và dễ dàng phân biệt với tiếng của người khác.
2. Chính vì tương quan giữa mục tử và đoàn chiên là một trong những tương quan gần gũi nhất mà một người Israel có thể thấy trong cuộc sống hằng ngày, ta hiểu vì sao Thiên Chúa đã sử dụng biểu tượng này để mô tả tương quan của Ngài với Dân tuyển chọn và với toàn thể nhân loại. Chúng ta nghĩ đến Tv 23. Kiểu tương quan này trở thành mẫu mực cho các nhà lãnh đạo (vua chúa, tư tế, ngôn sứ): như Thiên Chúa, họ phải chu cấp sự an toàn và che chở cho Dân. Chúng ta cũng có thể nhớ tới những lời Thiên Chúa trách các nhà lãnh đạo qua miệng ngôn sứ Êdêkien (Ed, ch. 34).
3. Trách nhiệm lớn của một mục tử là đời sống của con chiên. Tiêu chuẩn giúp phân biệt một mục tử tốt với một mục tử xấu là ý thức về trách nhiệm. Người mục tử bên Paléttina hoàn toàn chịu trách nhiệm về đoàn chiên của mình: nếu có chuyện gì xảy ra với dù chỉ một con chiên mà thôi, người ấy phải chứng minh là không do lỗi mình. Ý thức về trách nhiệm này được minh họa bởi hai đoạn Kinh Thánh: Am 3,12; Xh 22,9-13. Nói tóm, người mục tử sống hoàn toàn cho con chiên, chiến đấu dũng cảm để bảo vệ chúng khỏi thú dữ và còn sẵn sàng hy sinh mạng sống (x. Đavít: 1 Sm 17,34-35).
4. Lòng nhiệt thành của người mục tử chính là tình yêu làm tuôn trào sự sống. Như Tv 23 cho thấy, người tín hữu thời Kinh Thánh thấy nơi hình ảnh người mục tử dung mạo đích thật của Thiên Chúa: Tình yêu của Ngài, sự quan tâm, tình yêu hy sinh cho nhân loại. Nếu họ vững vàng đối phó với các thử thách của cuộc đời, là vì họ bám vững vào Thiên Chúa. Trong tâm trí và trong tim họ, họ xác tín rằng như mục tử tốt lành, Thiên Chúa dám làm mọi sự vì họ; Thiên Chúa luôn trông chừng trên họ, luôn luôn chiến đấu bên cạnh họ (x. Is 31,4; Ed 34,16).
5. “Tôi biết chiên của tôi …, như Chúa Cha biết tôi”. Con người phải đau khổ vì không được ai hiểu biết sâu xa. Thế mà Đức Giêsu lại nói rằng Người biết con người bằng một sự hiểu biết tương đương với sự hiểu biết nhờ đó Chúa Cha biết Con. Đây lại là một sự hiểu biết trong tình yêu. Như thế, con người sẽ không còn cảm thấy cô đơn và sợ hãi vì Đấng biết họ trọn vẹn lại không kết án họ, nhưng yêu thương họ bằng một tình yêu trọn vẹn và cứu chuộc. Đã được yêu thương như thế, chúng ta có trách nhiệm đối với anh chị em chúng ta: chúng ta cũng phải yêu thương anh chị em mình đến mức sẵn sàng hy sinh mạng sống cho họ, theo gương Đức Giêsu.
6. Người Mục Tử Nhân Lành là hình ảnh tử nói về sự chăm sóc yêu thương và có trách nhiệm; hướng dẫn, che chở, an ủi, nuôi dưỡng và bảo vệ. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa ban cho Hội Thánh nhiều mục tử mới tốt lành. Nguyện xin Thiên Chúa ban cho các mục tử (có chức thánh) ơn khôn ngoan và sự nhẫn nại khi các ngài phục vụ và hướng dẫn dân Chúa. Kế đến, chúng ta cầu nguyện cho những người dẫn dắt chúng ta nhờ những thừa tác vụ của các ngài trong giáo hội: các tu sĩ, các ủy ban bác ái và những giáo dân thiện nguyện. Chúng ta cũng cầu xin cho tất cả những mục tử đang ngồi trong hàng ghế nhà thờ: các ông bà, cha mẹ, cô dì chú bác, vợ chồng, bạn bè và thầy cô giáo. Họ cũng mang trách nhiệm và gánh nặng trong cương vị lãnh đạo những người mà họ coi sóc. Hôm nay, cầu chúc họ được đầy tràn ơn hướng dẫn của Thiên Chúa. Nguyện xin tất cả chúng ta được vị Mục tử Nhân lành nuôi dưỡng trong Bí tích Thánh Thể này, luôn biết lắng nghe lời mời gọi của Thiên Chúa để trở nên những mục tử tốt lành và, như Đức Kitô, sẵn sàng hy sinh mạng sống cho đoàn chiên chúng ta đang chăm sóc.
70. Chú giải của Alain Marchabour.
CHÚA GIÊSU – VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH (cc. 11-21)
Dụ ngôn về vị mục tử và đoàn chiên gợi nhớ đến Lc 15,3-7 và Mt 18,12-14. Tuy nhiên nơi Gioan điều lý thú tập trung trước tiên vào Chúa Kitô: Vị Mục Tử nhân lành đối nghịch với kẻ trộm cướp (c.1) và người lạ (c.5). Ở đây được miêu tả các mối tương quan liên kết mục tử với đoàn chiên của mình. Khác với những kẻ làm thuê, Chúa Giêsu là mục tử đích thực (nhân lành) vì hai lý do: trước tiên Người liều mạng sống mình để bảo vệ đoàn chiên; và nhất là Người duy trì với các chiên mối tương quan hiểu biết duy nhất bởi vì được ăn rễ sâu trong sự hiểu biết Chúa Cha của Người (như Chúa Cha biết Tôi).
Dụ ngôn, lúc đầu bóng bẩy, ám chỉ rõ ràng cái chết của Chúa Giêsu: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho chiên của Tôi” (10,15); cũng một giới từ như trong Mc 14,24 (máu đổ ra cho muôn người) và trong Lc 22,19 (mình Thay hy sinh cho anh em).
Khi đối chiếu Chúa Giêsu với kẻ làm thuê, có một điều chắc chắn được xác định về Chúa Giêsu: người làm thuê bỏ chiên mà chạy (“Thầy sẽ không để anh em mồ côi” 14,18); lúc bấy giờ sói có thể vồ lấy chiên (“không ai cướp được các chiên của Tôi khỏi tay Tôi” 10,28) và làm cho chúng tán loạn (Chúa Giêsu chịu chết “để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” 11,52).
Kể từ câu 16, diễn từ vượt quá tình huống lịch sử của Chúa Giêsu để thâu gom tất cả mọi tín hữu đến từ thế giới ngoại giáo và nhờ qua trung gian các môn đệ, sẽ tin vào Người (17,20). Việc quy tụ các tín hữu, mong đợi vào thời cuối cùng, sẽ được thực hiện chung quanh Chúa Giêsu và lời của Người. Sự hiệp nhất hằng mong đợi này được trao ban trong cái chết của Chúa Giêsu (11,52); nó ăn rễ sâu trong sự hiệp nhất hằng hữu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đây là một cuộc chinh phục thiết yếu đầy khó khăn mà Chúa Giêsu phải cầu xin trước khi Người trở về cùng Chúa Cha (17,21).
Kể từ câu 17, Chúa Giêsu bày tỏ tình thân mật của Người với Chúa Cha, ở đó sự sống và sự chết của Người đều có ý nghĩa. Nhịp điệu của bài diễn từ với nhiều lần lặp lại, đối chiếu và tương hợp, mở rộng ý nghĩa như bản trình bày dưới đây cho thấy:
Chúa Cha
yêu mến Tôi
là vì Tôi hy sinh mạng sống mình
để rồi lấy lại
không ai lấy đi được mạng sống của Tôi
chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình
Tôi có quyền hy sinh
và có quyền lấy lại mạng sống ấy
đó là mệnh lệnh mà Tôi nhận đã nhận được
từ Cha Tôi.
Được đặt ở đầu và ở cuối, Chúa Cha tỏ hiện như khởi nguyên và cùng đích mọi hành động của Chúa Giêsu. Mọi sự đều xuất phát từ Người: mệnh lệnh không gì khác hơn là cách diễn tả tình yêu. Theo động lực riêng biệt của Gioan, sự chết được trình bày như một hành động hoàn toàn tự do trong đó hoàn thành mệnh lệnh yêu thương của Chúa Cha. Ngay trong lúc chết, thời điểm theo thường tình con người không còn làm chủ sự sống của mình nữa, Chúa Giêsu vẫn là Chúa Tể bởi vì Người hoàn thành điều mà Thiên Chúa, trong tình yêu của Người, đã muốn mang sự sống đến cho mọi người. Việc suy niệm thần học về cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu ở đây, khá cách biệt với cách trình bày bi thảm trong Tin Mừng Maccô, giúp chung ta hiểu được cuộc Thương Khó như sự tự nguyện hoàn thành chương trình của Chúa Cha.
Lời nói của Chúa Giêsu gây nên chia rẽ. Sự chia rẽ này liên quan đến những kẻ từng chứng kiến việc chữa lành người mù, cũng như những người nghe dụ ngôn và các người sẽ đọc lời giảng dạy này. Nhiều người cho rằng Chúa Giêsu “bị quỷ ám” và đạo lý của Người chỉ có thể là dấu chỉ của ma quỷ và của sự điên khùng (cả hai thứ thường liên kết với nhau trong thế giới cổ xưa). Kẻ khác nhận biết nơi lời Người và trong hành động của Người dấu chỉ của Thiên Chúa.