Dân Chúa Âu Châu

ssChúa Nhật 3 Mùa Vọng Năm B

“Giữa các ngươi có một Ðấng mà các ngươi không biết”.

LỜI CHÚA: Ga 1, 6-8. 19-28

Có người đã được Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến như chứng nhân để làm chứng về sự sáng, hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng ông chỉ làm chứng về sự sáng. Và đây là chứng của Gioan, khi những người Do-thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông là ai?” Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: “Tôi không phải là Ðấng Kitô”. Họ liền hỏi: “Thế là gì? Ông có phải là Elia chăng?” Gioan trả lời: “Tôi không phải là Elia”. – “Hay ông là một đấng tiên tri?” Gioan đáp: “Không phải”. Họ liền bảo: “Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?” Gioan đáp: “Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo”. Và có những người thuộc nhóm biệt phái cũng được sai đến. Họ hỏi Gioan rằng: “Nếu ông không phải là Ðức Kitô, cũng không phải là Elia hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?” Gioan trả lời: “Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết. Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng ấy đã có trước tôi và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người”. Việc này xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.

Suy Niệm 1: Gioan Tiền Hô

Sống dưới ách thống trị của đế quốc La-mã dân Do Thái luôn trông chờ một Đấng cứu thế do Thiên Chúa sai đến. Họ đã mượn nỗi khắc khoải của cha ông thuở trước để cầu xin: Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời. Chính vì thế, khi Gioan xuất hiện bên bờ sông Giođan, họ đã phấn khởi vui mừng. Và rồi họ đã cử một phái đoàn đến để tìm hiểu cho cặn kẽ và thấu đáo. Những người này đã hỏi Gioan: Ông là ai, ông có phải là Đức Kitô hay không. Gioan đã xác quyết với họ: Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng tôi chỉ là người tiền hô, đi trước để dọn đường cho Ngài. Hãy chuẩn bị vì Ngài sắp đến. Hãy sám hối ăn năn vì Nước Trời đã gần. Ông không để cho người ta chú ý tới ông mà trái lại, ông hướng mọi sự chú ý của họ vào Đức Kitô: Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.

Qua sứ điệp của Gioan Tiền Hô, chúng ta rút ra hai điểm thực hành. Điểm thứ nhất đó là hãy sám hối, cải thiện đời sống. Thực vậy, Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong đêm giáng sinh, mà hơn thế nữa Ngài còn đến với chúng ta vào ngày tận cùng của vũ trụ, cũng như vào ngày sau hết của cuộc đời chúng ta. Và hơn thế nữa, Ngài còn đến với chúng ta mỗi ngày qua bí tích Thánh Thể. Như thế cuộc đời chúng ta phải là một mùa vọng nối dài. Và trong mùa vọng cuộc đời này chúng ta phải thực hiện ngay sứ điệp của Gioan Tiền Hô, đó là hãy sám hối, dọn đường Chúa đến. Sám hối ở đây không phải chỉ là hối tiếc về những tội đã phạm mà hơn thế nữa còn phải cố gắng uốn nắn sửa đổi để nhờ đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.

Điểm thứ hai, đó là hãy trở nên những tiền hô cho Chúa. Thực vậy, là người Kitô hữu, chúng ta không phải chỉ có Chúa trong tâm hồn, mà hơn thế nữa, còn phải đem Chúa đến cho người khác. Dọn đường cho Chúa đến trong tâm hồn của mình mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải dọn đường để Chúa cũng đến được trong tâm hồn người khác. Muốn được như thế, chúng ta cần phải có một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó mà dần dần chúng ta có thể cảm hoá được những người chung quanh và dẫn đưa họ trở về cùng Chúa.
Dọn đường Chúa đến trong tâm hồn mình và giúp người khác dọn đường Chúa đến trong tâm hồn họ đó là việc chúng ta cần phải làm ngay trong mùa vọng này.

Suy Niệm 2: Vui mừng và hy vọng.

(‘Tin Vui Xuân Lộc”)

Hôm nay bước vào tuần thứ ba mùa vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vui mừng và hy vọng, lời mời gọi này có thừa không khi, nhìn từ bên ngoài xã hội chúng ta đang sống đã có qua nhiều các hình thức và tụ điểm vui chơi, phương tiện giải trí? Mọi người mọi tầng lớp đều có những điểm gọi là “điểm vui chơi”. Người có nhiều tiền thì vui chơi theo kiểu cao cấp quý tộc, người bình dân vui chơi theo kiểu bình dân, người lớn vui chơi theo kiểu của người lớn, trẻ em và thanh niên vui chơi theo kiểu thanh thiếu niên, ví dụ quán bar, quán bia, caraoke, caphe… là nơi người ta đến để giải sầu, tìm vui, nghèo hơn nữa thì vài lít rượu với mấy quả ổi, con mực cũng được gọi là lai rai cho vui. Vui cũng uống, buồn cũng uống và không buồn không vui cũng uống. Bên cạnh đó, người ta còn tạo ra đủ mọi thứ lể hội để đem niềm vui cho mọi người.

Thưa quý OBACE, như vậy, cuộc sống và xã hội này có thực sự đem đến cho chúng ta niềm vui hay không, nếu thực sự có, thì tại sao khi trở về nhà, họ lại cảm thấy buồn bã và trống rỗng, và họ vẫn cứ phải tìm kiếm một nơi nào đó để vui, để giải sầu mà càng “uống chén tiêu sầu càng sầu thêm”!
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới vô thần, là một thế giới người ta đang muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi xã hội và khỏi tâm hồn con người, mà một thế giới, một tâm hồn không có Thiên Chúa là một thế giới bất an, một thế giới lo âu khắc khoải không niềm vui. Nơi nào, tâm hồn nào không có Thiên Chúa thì nơi ây, tâm hồn ấy chỉ còn là hỏa ngục, buồn bã và thất vọng, và không có gì ở thế gian này có thể đem lại niềm vui cho những tâm hồn ấy được.

Lời Chúa hôm nay đem đến và mời gọi chúng ta hãy tận hưởng một niềm vui và hy vọng hoàn toàn khác với các niềm vui trống rỗng của thế gian, đây là niềm vui thực sự phát xuất từ trong tâm hồn được thể hiện ra bên ngoài qua nét mặt qua cuộc sống, đó là niềm vui có Chúa và niềm vui của Chúa.

Niềm vui ấy trước hết là niềm vui được giải thoát, được đổi mới. Tiên tri Isaia đã mở ra cho chúng ta một tương lai hy vọng, như ánh sáng bừng lên trong bóng tối, vì thời của Đấng Cứu thế đến, Ngài không chỉ chữa lành những đau đớn bệnh tật thể xác, mà Ngài còn chữa lành những bênh tật trong tâm hồn và lấp đầy những khát vọng buồn chán trong tâm hồn con người, Ngài giải thoát con người khỏi nô lệ của tội lỗi, sự tù đày của dục vọng: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu cho tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương dập nát, giải phóng cho kẻ bị giam cầm, tuyên bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Niềm vui Đấng cứu thế còn là niềm vui của hy vọng và hân hoan, như niềm vui của cô dâu và chú rể, và như niềm vui của đất đai đâm chồi nảy lộc, niềm vui vì được đổi mới. Niềm vui này con người thế gian không thể mang lại, chỉ có Thiên chúa mới có thể đem đến cho chúng ta.

Kế đến đó là niềm vui trong cầu nguyện gặp gỡ Thiên Chúa. Sự trống rỗng hời hợt của nhiều người và kể cả của nhiều Kitô hữu hôm nay đó là vì họ không có Chúa trong tâm hồn, bởi vì họ để mình bị cuốn trôi theo dòng chảy của xã hội của cơm áo gạo tiền, bởi những thú vui bên ngòai, họ sống một cách hời hợt không chiều sâu, không mục đích. Trong khi đó Thánh Phaolô khuyên tín hữu Thesalônica: Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh… đừng dập tắt Thần khí, chớ khinh thường ơn nói tiên tri, hãy cân nhắc mọi sự điều gì tốt thì giữ và điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì tránh cho xa. Khi sống như thế, Thánh Phaolô khẳng định thiên Chúa là nguồn mạch niềm vui và bình an sẽ gìn giữ anh em.

Bài Tin mừng giới thệu cho chúng ta một niềm vui khác, đó là niềm vui vì nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời mình. Gioan Tiên Hô là người đã có kinh nghiệm này. Lúc bắt đầu sứ mạng rao giảng, Gioan đã rất thành công vì ông đã thu hút được rất nhiều người, mọi người kính trọng và đến với ông, thậm chí ông còn trở thành một dấu hỏi lớn đối với họ. Vì thế Những người Do Thái đã cử một số thày Tư tế và Lêvi đến hỏi Gioan: Ông là ai? Ông có phải là đấng Cứu thế không? Gioan mặc dù đang rất thành công, nhưng ông không nhận điều không có về cho mình, mà ông đã rõ ràng dứt khoát từ chối: Tôi không phải là Đấng Kitô, Tôi không là Elia mà ông chỉ nhận mình: Tôi là tiếng kêu trong hoang địa, hảy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi. Tức là Gioan vui với sứ mạng của mình là người dọn đương cho Đấng cứu thế, Đấng ây ông biết rất rõ Ngài đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không biết, còn Gioan đã biết và đã nhận ra Ngài và còn nhận ra uy quyền tối cao của Ngài, mà ông khiêm tốn cho rằng mình không đáng cúi xuống cởi dây dép cho Ngài.

Gioan không buồn vì mình phải lui bước, cũng không sợ mất ảnh hưởng, không níu kéo vinh quang uy tín về cho mình, trái lại ông vui vì ông đã chu tòan sứ mạng, ông ý thức rằng ông phải nhỏ đi để Người được lớn lên; ông đến để làm chứng về ánh sánh để mọi người nhờ ông mà tin, chứ ông không phải là ánh sáng, và mọi người, để đón nhận được niềm vui từ Đấng Cứu Thế cần có một thái độ tiên quyết đó là có lòng sám hối, thay đổi đời sống, được biểu lộ ra bên ngoài bằng việc lãnh phép rửa mà ông đang thực hiện, phép rửa của ông chì là một dấu hiệu bày tỏ lòng sám hối, vì ông biết việc ông làm không có sức tha tội, chỉ có Đấng đến sau ông sẽ tẩy rửa tôi lỗi nhân loại bằng Thánh Thần, và ai chấp nhận để cho Thiên Chúa tẩy rửa và uốn nắn, người ấy sẽ có được niềm vui, hoặc đúng hơn chính Đấng ấy sẽ ban tặng cho họ niềm vui vì được làm con cái Chúa.

Thưa quý OBACE, chúng ta đang vui hay chúng ta đang buồn? Chúng ta có thực sự cảm nhận được niềm vui Chúa đem đến cho chúng ta hay không? Ngoài đường phố đã rộn ràng những bài thánh ca, những trang trí giáng sinh, ở trong siêu thị và các nhà hàng cũng tưng bừng với các chương trình cho mùa Giáng sinh mà họ gọi là mùa Noel. Vâng! Có thể người kitô hữu chúng ta cũng sẽ chỉ vui một cách hời hợt ở bên ngoài, nếu chúng ta chỉ chú ý đến những trang trí bên ngoài mà không chuẩn bị để có được niềm vui đón Chúa đến trong tâm hồn. Nhiều người nhiều gia đình lo chuẩn bị những chương trình, đi chơi hay ăn uống trong đêm Giáng sinh sắp tới mà không chuẩn bị cho Chúa có một chổ nhỏ ấm áp trong tâm hồn trong gia đình mình.

Khi chúng ta đã để cho bao thứ lo toan ràng buộc trong cuộc sống chiếm hết thời gian và tâm hồn khiến cà ngày sống chúng ta cứ cảm thấy mình trống rỗng và lao vào tìm kiếm mà không biết mình tìm kiếm điều gì. Chúng ta sẽ không thể nào vui khi chúng ta không dám để cho Chúa gỡ bỏ những gánh năng của cuộc đời, không dám để cho Chúa chia sẻ với nhữ lo toan nhọc nhằn của chúng ta như Chúa hằng mong muốn: Hãy đến với ta hỡi những ai vất vả nặng nề- ta sẽ nâng đỡ bổ sứ cho.

Chúng ta sẽ không vui và sẽ cảm thấy trống rỗng khi chúng ta không dám dừng lại, khi không dám sống trong sự thinh lặng, vì chúng ta sợ phải đối diện với chính mình và đối diện với Thiên Chúa; Chúng ta sẽ không thể vui khi trong lòng còn những bận vướng với anh em. Chúng ta sẽ không thể cảm nhận được niềm vui và hy vọng khi chúng chúng ta không có giờ cho việc cầu nguyện gặp gỡ Thiên chúa, cầu nguyên riêng tư một mình với Chúa, hoặc cầu nguyện chung trong gia đình, hay khi chúng ta cùng họp nhau nơi đây để cử hành thánh lễ, chính là lúc chúng ta được gặp Chúa, được lấp đầy những khoảng trống trong tâm hồn và tìm được niềm vui sâu xa.

Sau cùng, chúng ta chỉ thực sư vui khi chúng ta sống và làm việc trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, ở bên chúng ta, trong Bí tich Thánh Thể, nơi những người anh em, có điều là chúng ta có nhận ra sự hiện diện yêu thương nâng đỡ của Ngài hay không? Chỉ khi nhận ra và làm việc trong sự hiện diện của Ngài chúng ta sẽ tìm được niềm vui và bình an. Điều cũng cần lưu ý, là Thiên Chúa chỉ hiện diện trong một tâm hồn sạch tội, một tâm hồn khiêm nhường hối cải, một tâm hồn không chất chứa sư thù oán ghen tị giận hờn… khi thực lòng thanh tẩy và sửa chữa những sai lầm nhờ Bí tích giải tội, ơn tha thứ sẽ được ban cho chúng ta và chắc chắn mỗi người sẽ cảm nhận được niềm vui và sự bình an vì biết mình được yêu thương tha thứ.

Xin cho mỗi người không chỉ chuẩn bị bên ngoài cho ngày lễ Giáng sinh, mà còn biết chuẩn bị tâm hồn để niềm vui và ân phúc của mủa Giáng sinh được trọn vẹn nơi mỗi người. Amen.

Suy Niệm 3: Hãy vui lên

(Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Theo truyền thống dân tộc Do Thái, năm đại xá của Đức Chúa, là năm đại phúc cho người nghèo, cho người bị tù đầy. Năm đó, có nợ ai bao nhiêu, cũng được xóa; có đang bị ở tù, cũng được trả tự do. Đức Yêsu là Đấng đến để công bố năm toàn xá cho toàn thể nhân loại. Vì thế, hãy vui lên, hỡi nhân trần.

1. Tin Mừng Cho Người Nghèo

Con người sống trên trần gian này cảm nghiệm bao nhiêu nỗi khổ: nỗi khổ vật chất và tinh thần. Ai càng coi trọng tiền bạc và vật chất, càng cảm thấy khổ nhiều. Tuy nhiên, đôi khi người nghèo không cảm thấy khổ, mà những người đặt nặng giá trị vật chất lại cho rằng họ khổ.
Người nghèo cũng có niềm vui riêng của họ, trời xanh, khí mát trong lành, đất trời đẹp tuyệt vời và vô tận. Tuy vậy, nếu người nghèo không thanh thoát vượt lên được cái bình thường, thì cái nghèo, và đặc biệt là tình trạng bần cùng, ảnh hưởng thê thảm trên con người. Nàng Kiều bán mình chuộc cha cung là một thí dụ. Và từ cái khổ này dẫn tới cái khổ khác; đến độ người ta thấy “đời là bể khổ.” Nghèo, tù, tội, là những điều gây cho bao người đau khổ dằn vặt.

Hôm nay, tin mừng đã được công bố: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Đức Chúa đã xức dầu cho tôi. Ngài sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn tan vỡ, loan báo ơn giải thoát cho những kẻ bị bắt, tự do cho kẻ tù đày, và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.” Chính Thiên Chúa giải phóng con người, cho con người tìm được sự giải phóng, tự do, niềm vui và hạnh phúc.
2. Đấng Đến Sau Tôi

Cái nghèo vẫn còn tiếp tục. Cái nghèo như gắn chặt với cuộc đời của một số người như hình với bóng. Con người vẫn khổ, vẫn miệt mài đi tìm miếng cơm manh áo. Những người đã có miếng cơm áo thì lại muốn có nhiều hơn nữa. Con người vẫn không thoát khỏi cảnh khổ. Nỗi khổ do nghèo vật chất dường như giúp con người thấy nỗi khổ của nghèo tinh thần. Dường như khổ vật chất không làm con người khổ, mà nghèo tinh thần làm con người khổ.

Yoan Tẩy Giả sống đơn sơ trong cảnh nghèo. Ngài như một lời chứng cho nỗi khổ vì nghèo tinh thần, vì không thấy được ánh sáng sự thật, chứ không phải vì nghèo vật chất. Hơn nữa, Yoan Tẩy Giả còn làm chứng cho một Đấng khác nữa: “Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, và tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng Đấng đó sẽ làm phép rửa cho anh em với Thánh Thần và lửa.” Đấng đó là Đấng mà mọi người phải mong chờ, cho dù lúc đó người ta và cả Yoan Tẩy Giả cũng chưa biết người đó là ai.

Đức Yêsu như tất cả mọi người đã sống cái nghèo đến tận cùng: sinh trong hang chiên cừu, ăn uống mặc như người nghèo, làm nghề của những người nghèo, ngay cả khi đi rao giảng vẫn nghèo, có lúc đi tìm trái vả ăn cho đỡ đói cũng không có (Mt.21, 18-19). Tuy vậy, Đức Yêsu là người làm trọn lời tiên tri trong sách Isaya, Ngài công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Ngài tới để làm cho người mù được thấy, người tù được trả tự do, băng bó những tâm hồn tan vỡ. Đức Yêsu mang lại cho người ta thấu hiểu sự thật, và sự thật sẽ giải phóng con người khỏi mọi phiền não, tù tội ràng buộc tinh thần. Ngài giúp con người vươn lên, vươn lên tới Thiên Chúa là đỉnh bình an hạnh phúc. Hãy vui lên vì với Đức Yêsu, chúng ta biết con đường giải thoát và hạnh phúc đích thực.

3. Hãy Vui Mọi Lúc

Như một người đã được giải phóng, thánh Phaolô viết cho dân thành Thessalônica: “hãy vui hạnh phúc mọi lúc.” Một người rao giảng tin mừng Đức Yêsu phục sinh, luôn bị phản đối, rượt đuổi và bắt bớ, mà khuyên người ta hãy sống vui và hạnh phúc được sao? Nếu đúng, người đó phải sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm

Tại sao Phaolô lại được như vậy? Vì Ngài đã đạt đạo, đã chọn Thiên Chúa trên hết, đã chấp nhận Đức Yêsu như lý tưởng và Chúa của mình. Ngài đã thấy được trần gian chóng qua, chỉ có thực tại bền vững là chính Thiên Chúa, và cũng là bình an và hạnh phúc của Ngài. Với quan niệm sống và chọn lựa như vậy, Ngài sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.

Chỉ khi nào con người chọn Thiên Chúa trên hết, phó thác tất cả cho Thiên Chúa, thì con người mới sống chấp nhận thực tại và thanh thản trước mọi biến cố và nghịch cảnh. Thiên Chúa đang thực hiện việc giải phóng con người qua Đức Yêsu, qua việc cho con người thấy cách sống giúp con người bình an hạnh phúc. Cách sống đó chính là cách sống của Đức Yêsu. Đức Yêsu cũng không được miễn trừ khỏi bao cám dỗ, nhưng Ngài đã vượt qua và vẫn trông cậy vào Thiên Chúa ngay cả khi không thấy dấu chỉ cho thấy như vậy. Biến cố Đức Yêsu kêu trời “lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” là một bằng chứng. Ngay cả như vậy, chúng ta tin rằng, Ngài vẫn bình an và phó thác.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. “Hãy bình an hạnh phúc mọi lúc.” Liệu điều này có thể xảy ra không?
2. Làm sao để có thể bình an hạnh phúc trong mọi nơi mọi lúc?
3. Bạn có thể gặp được Đức Yêsu không? Xin đưa lý lẽ cho câu trả lời của bạn?

Suy Niệm 4: Làm chứng về ánh sáng.

Gioan: Không phải là ánh sáng

Trong đoạn mở đầu Phúc Âm, Thánh Gioan Thánh sử đã nói về Đức Kitô, Người là Thiên Chúa, là Nguồn Sáng, là Ánh Sáng đến trần gian.
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.”(Ga.1,9).

Khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy Thầy Lê-vi đến hỏi Gioan Tẩy giả: “Ông là ai?” Ông tuyên bố thẳng thắn: “Tôi không phải là Đấng Kitô.” Đúng như lời thánh Gioan Thánh sử đã viết về Gioan Tẩy Giả: “Có một người được Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.” (Ga.1,6-7).

Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong bối cảnh người Do Thái đang trông chờ một Vị Cứu Tinh cho dân tộc, người sẽ khôi phục Israel và đem về cho Israel một thuở huy hoàng nay đã mất dưới gót giầy đè bẹp của đế quốc La Mã.
Giấc mơ ấy hạn hẹp trong ý tưởng con người, vì Vị Cứu Tinh sẽ đến không phải để phục hồi lại những gì đã tổn thương trong Israel, mà tái tạo lại một “trời mới đất mới” cho cả vũ hoàn.

Vị Cứu Tinh ấy là Chúa Kitô, ánh sáng cho trần gian.

“Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối sẽ không diệt được ánh sáng”. (Ga.1,5).
Gioan Tẩy Giả xuất hiện để “làm chứng” cho Chúa Kitô, làm chứng về ánh sáng.
Gioan: Làm chứng về ánh sáng
Ánh sáng ở đây là chính Thiên Chúa – “Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta”.
“Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”. ( Ga 1,10).
Và Gioan Tẩy Giả mang sứ mạng làm cho mọi người nhận biết Người – nhận biết Đức Kitô – nhận biết Ánh Sáng.
“Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga.1,17).
Gioan Tẩy giả dành trọn cuộc đời mình chỉ với một mục đích trung thành với lời tuyên bố: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian.” (Ga.1,29-34).

Ý nghĩa cuộc đời: Ánh Sáng Chúa Kitô

Đức Giêsu lại nói với người Do-thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga.8,12).

Gioan Tẩy Giả đã sống một cuộc đời có ý nghĩa, hoàn thành sứ mạng của mình trong ánh sáng chân lý.
Không ai thuộc về bóng tối lại có thể làm chứng về ánh sáng!

Chỉ trong ánh sáng Chúa Kitô, con người mới nhận ra giá trị đích thực của chính mình, vị trí của chính mình. Trong ánh sáng Chúa Kitô, Gioan nhận ra mình bé nhỏ.

Trong bóng tối, con người ngủ mê trong ảo ảnh. Con người hiểu biết được bao nhiêu và làm được điều gì lớn lao đến thế nào để có thể kiêu căng đến mức muốn thay thế Thiên Chúa?

Một cách nào đó, nhiều người tự xem mình như Đấng Cứu Thế. Nhiều kẻ muốn thay thế Lời Chúa bằng những “giáo điều” triết học và ý thức hệ chính trị nghe rất hấp dẫn và thu hút được nhiều người. Thực tế, những dòng tư tưởng đó đã đem thế giới đến chỗ tan nát vì chia rẻ và thù hận.
“Sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: ‘Chính ta đây’, và: ‘Thời kỳ đã đến gần’” (Lc 21: 8).

Với Niềm tin Kitô hữu, đời ta chỉ có một mục đích duy nhất là “làm chứng về ánh sáng”.

Gioan Tẩy Giả là tấm gương để tiến bước. Hoặc là sống trong ánh sáng, hoặc là sống trong tăm tối, phải chọn một, và chỉ chọn một, không có sự chọn lựa nào khác.

Quê tôi là một xóm làng dân cư đông đúc, khi cúp điện, cả ngàn hộ dân chìm trong tăm tối, thôn xóm đông người mà vắng lặng đến đáng sợ. Khi có điện trở lại, nghe vang lên những tiếng reo hò vui sướng: “Có điện rồi! Có điện rồi!”. Tiếng em bé reo vui, tiếng người cười cười nói nói, tiếng nhạc, tiếng TV… vang lên đó đây, xóm làng vui tươi, nhộn nhịp hẳn lên…

Không ai có tìm thấy hạnh phúc trong vùng tăm tối. Người từ chối ánh sáng là người đã hoàn toàn mất đi niềm hy vọng và sống một cuộc sống buông xuôi vô nghĩa.

Hạnh phúc là được tìm về ánh sáng. Mang hạnh phúc đến cho người khác là thắp lên cho họ ánh sáng hy vọng.

Một ngày kia Mẹ Têrêsa Calcutta đến Melbourne, Australia. Mẹ đi thăm một người nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng rất tồi tệ, đồ đạc dơ bẩn ngổn ngang. Phòng không có cửa sổ mà cũng chẳng có lấy một bóng đèn.

Mẹ Têrêsa bắt tay vào thu dọn đồ đạc. Ông gắt lên: “Cứ để yên mọi thứ cho tôi”. Nhưng Mẹ cứ tiếp tục. Sau khi mọi thứ đã ngăn nắp, Mẹ Têrêxa tìm thấy một chiếc đèn trong một góc phòng. Đèn bám đầy bụi, chứng tỏ lâu lắm rồi không ai đụng đến. Mẹ lau chùi sạch sẽ rồi hỏi:
- Sao lâu nay ông không thắp đèn lên?
- Thắp làm chi. Có ai đến thăm tôi đâu. Tôi đâu cần thấy mặt ai.
- Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên khi một nữ tu của tôi đến thăm ông không?
- Vâng, nếu tôi nghe có tiếng ai đến thì tôi sẽ thắp đèn lên.
Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của Mẹ Têrêxa đều đến thăm ông và giúp đỡ ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy:
- Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng tôi rồi. Nhưng xin làm ơn về nói với nữ tu đầu tiên rằng ngọn đèn mà Bà đã thắp lên đến nay vẫn sáng.
Hãy thắp lên Ánh sáng Tình Yêu Thiên Chúa – Ánh sáng Chúa Kitô – Ánh sáng Lời Chúa – Ánh sáng Giới luật yêu thương.
Thế giới chỉ có thể tồn tại trong ánh sáng tình yêu – “Ánh sáng đem lại sự sống”. Có thể nào Thế giới tìm thấy bình an và hạnh phúc trong thế giới tối tăm sao?
Lạy Chúa,
Xin thắp lên trong con,
ánh sáng Tình Yêu Chúa,
để từ tận thẳm sâu lòng con,
biết nói lên và thực hiện,
Những điều Chân Thiện.
Đó là lúc con biết
làm chứng về ánh sáng,
Ý nghĩa của đời con. Amen.

Suy Niệm 5: Có một người ở giữa anh em

(An Phong)

Trong mùa Vọng, ba nhân vật vẫn được nói đến luôn, đó là: Đức Maria, ngôn sứ Isaia và Gioan – người làm phép Rửa. Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến nhân vật thứ ba vừa nói ở trên, với một chứng từ rõ ràng về con người sa mạc ấy. Gioan loan báo Đấng đang đến, Gioan chỉ cho thấy Đấng ấy chính là Đức Giêsu; và một hệ luận tất nhiên: Gioan nhận ra mình không xứng đáng cởi xăng-đan cho Người.

Cùng với Gioan, mùa Vọng hẳn là mùa loan báo và là mùa chỉ cho thấy; đồng thời mùa Vọng là mùa nhận ra mình không xứng đáng.
Thiên Chúa vốn là một vị Thiên Chúa ẩn giấu. Người ta đã hao tổn biết bao giấy mực để cố khám phá vị Thiên Chúa ẩn giấu này. Gần 2000 năm lịch sử trước Chúa Giáng sinh, người ta mặc sức hình dung Ngài với những dung mạo khác nhau. Với Abraham, Ngài không có tên; Ngài là “sự sợ hãi của Isaác” (St 31,42), là “Đấng Tối Cao của Giacóp” (St 49,24)… Với Isaia, Ngài là “Người Tôi Tớ đau khổ”…

Như thế, Ngài luôn luôn và vẫn là một vị Thiên Chúa cần được loan báo và cần được chỉ cho thấy. Đôi lúc người ta phác họa chân dung một Thiên Chúa sai lạc, hoặc chỉ dò ý tưởng riêng của mình. Hẳn lúc đó, nguời ta sẽ nhận được một câu trả lời “tôi không phải như là các bạn nghĩ đâu”; hoặc “có một người ở giữa anh em mà anh em không nhận ra”.

Như thế, cùng với Gioan, chúng ta hẳn phải loan báo và chỉ cho người khác thấy một vị Thiên Chúa tình yêu; Loan báo và chỉ cho thấy Thiên Chúa đang đến. Ngài đang ẩn giấu nơi người nghèo, người đau khổ, những phụ nữ “đứng đường”… bởi Ngài là tình yêu, là niềm cảm thông sâu xa thân phận con người.

Như Gioan, nhận ra mình không xứng đáng, đó là một sự không xứng đáng trước vị Thiên Chúa tình yêu bao la; ta đấm ngực “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”, nghĩa là dám nhận ra mình còn “những điều thiếu sót”, chưa làm những điều phải làm để gia tăng tình yêu. Victor Hugo đã có lần lên tiếng cảnh tỉnh: Ngày nào chúng ta không thắp lên ngọn lửa sưởi ấm, ngọn lửa tình yêu, chắc chắn sẽ có người chết rét”.
Như thế, cùng với Gioan, chúng ta cất tiếng cao rao tình yêu Thiên Chúa bao la và cố gắng sống bác ái với mọi người.

Lạy Chúa Giêsu,
Hẳn cũng có lần con đấm ngực, dằn vặt tâm hồn
và tha thiết mong Chúa giải thoát nỗi khốn cùng của con.
Hẳn cũng bao lần con đứng trước hang đá, cầu xin Chúa mau đến;
Nhưng hình như con chưa dám “đóng vai Chúa”
để đến với những người nghèo khó,
khổ đau chung quanh con.
Và hình như con chưa nhận ra Chúa là tình yêu,
Chúa đang mời gọi tình yêu nơi chính tâm hồn của con.
Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài trở nên tình yêu trong con
và đốt nóng tâm hồn của con bằng tình yêu của Chúa.

Suy Niệm 6: Đơn giản là như thế

(G. Nguyễn Cao Luật)

Tôi chẳng phải là ai cả

Câu chuyện xảy ra tại một địa điểm ở phía Bắc Biển Chết, có lẽ cũng là nơi xưa kia dân Do-thái đã vượt qua sông Gio-đan để tiến vào Đất Hứa. Ông Gioan Tẩy Giả đang có mặt tại đó và làm phép rửa bằng nước. Chỉ một nghi thức sám hối này cũng đủ để phân biệt phép rửa của ông với những cách thức thanh tẩy khác nhau vốn đang thịnh hành trong các nhóm thời bấy giờ. Con người này là ai vậy mà biết bao người đang ùn ùn kéo đến với ông để lãnh nhận phép rửa ? Con người này có sứ mạng gì mà lời rao giảng của ông có âm giọng như tiếng kêu của các vị ngôn sứ, tính cho đến lúc này, đã im vắng được ba thế kỷ ?

Người Do-thái, hay chính xác hơn, một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đã muốn xác định xem ông là ai. Họ đặt câu hỏi và muốn xếp ông vào một trong số những hiểu biết của mình. Họ muốn kiểm chứng, họ muốn tin chắc vào hiểu biết của mình.

Trước hết, họ muốn biết có phải là Đấng Mê-si-a không. Trong giai đoạn căng thẳng lúc bấy giờ, có rất nhiều người mong chờ vị sứ giả của Thiên Chúa đến. Họ đã mường tượng ra dung mạo của vị sứ giả, nhưng là một thứ hình ảnh cứng ngắc. Trong thực tế, họ đã có nhiều hình ảnh mẫu, tuỳ theo thái độ chờ đợi, tuỳ theo khát vọng của mỗi người. Trong khi đó, các vị lãnh đạo dân đang cố gắng kiểm chứng danh tính của những người đang có ảnh hưởng trên dân chúng. Chính họ cũng có quan niệm về dung mạo của con người phải đến. Do đó, họ đã nêu vấn đề với ông Gioan khi thấy đám đông kéo đến với ông để nghe giảng và đón nhận phép rửa.

Ông có phải là ngôn sứ Ê-li-a không ? Một nhân vật khác được nêu lên sau khi ông Gioan đã tuyên bố ông không phải là Đấng Mê-si-a. Từ trước đến nay, người Do-thái vẫn công nhận ngôn sứ Ê-li-a là một chứng nhân vĩ đại về lòng tin. Ông đã được cất lên trời cách lạ lùng (2 V 2), và ông sẽ trở lại để dọn đường cho Đấng Mê-si-a đích thực. Lúc sinh thời, ngôn sứ Ê-li-a đã bị mọi người loại bỏ. Nhưng giờ đây, người ta đã biết ông là ai. Con người xưa kia bị bách hại, nhưng giờ đây lại được tôn phong.

Người ta vẫn dựa trên những hình ảnh quá khứ để nhận định về hiện tại. Nhưng mỗi người có vai trò riêng của mình, và ông Gioan Tẩy Giả là một trường hợp rất đặc biệt.

Đơn giản là một chứng nhân

Câu trả lời của ông Gioan cho thấy một thái độ khiêm tốn cần ngạc nhiên.

Ông tuyên bố ông không phải là Đấng Mê-si-a, không phải là Ánh Sáng. Ông không phải là ngôn sứ Ê-li-a trở lại, cũng không phải là vị Ngôn Sứ vĩ đại như người ta vẫn chờ đợi.

Ông chỉ là vị tiền hô, đơn giản là một chứng nhân, có vai trò hoàn toàn tuỳ thuộc vào Đấng ông loan báo. Ông là ngọn đèn do Thiên Chúa thắp lên để soi đường cho Đức Ki-tô đến, là tiếng nói của Thiên Chúa. Đơn giản chỉ có thế. Tất cả chỉ có thế. Ngọn đèn để soi sáng, tiếng nói để cung cấp lời.
Cách trả lời của ông Gioan Tẩy Giả cho thấy ông không để cho người ta xác định về mình. Ông không lặp lại quá khứ, nhưng mở ra tương lai. Vì vậy, ông là người của bất ngờ. Người ta không thể đóng khung vào một loại nào. Ông khước từ quan niệm coi ông là điểm dừng, ông chỉ muốn mình là điểm cần đi qua. Ông làm chứng về ánh sáng, một loại ánh sáng luôn vuột khỏi tầm với con người, nhưng lại soi chiếu cho họ trên con đường của mình. Ông Gioan chỉ muốn mình là người chỉ đường và không muốn người ta chăm chú vào mình. Một thái độ tuyệt vời và chính điều này làm ông trở nên cao cả. Đây cũng là đặc tính của mọi ngôn sứ Ít-ra-en.

Đàng khác, câu trả lời của Gioan là một thứ tuyên bố về lý lịch cá nhân, nhưng hoàn toàn tiêu cực, làm cho những người chất vấn chưng hửng, thêm thắc mắc. Người ta không thể xác định về ông, nhưng ông vẫn rất cần thiết và quý giá để chỉ cho mọi người thấy rằng: có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”.

Tuy vậy, phải nói rằng chính ông Gioan Tẩy Giả cũng không biết rõ về Đức Giêsu. Đang khi ông dìm người khác trong nước để thức tỉnh và thanh tẩy họ, thì chính ông lại sống trong nghi nan. Ông biết rằng ông có sứ mạng dọn đường cho Đấng Mê-si-a đến. Ông cũng biết rằng Đấng Mê-si-a cao cả hơn ông nhiều: “Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” ; “có người đến sau tôi nhưng trỗi hơn tôi, vì có trước tôi” ; ông cũng cảm thấy một sự đứt đoạn, nhưng ông chưa thấy Người đến. Ông cũng không biết rằng Vị Sứ giả của Thiên Chúa, mà ông là người dọn đường, lại chẳng là ai khác hơn là người bà con của ông tại làng Na-da-rét, là ông Giêsu người thợ mộc.

Ông chỉ biết rằng chính ông không phải là Đấng Mê-si-a, và chỉ là kẻ dọn đường. Ông biết điều này rất rõ và ông sống đến tận cùng. Ông dấn thân trọn vẹn để thi hành sứ mạng ngôn sứ, giới thiệu Đức Ki-tô khi tới thời gian đã được ấn định. Ông biết rằng ông không phải là ánh sáng, nhưng ông có mặt để làm chứng về Ánh Sáng. Rồi đây, ông sẽ đưa tay ra để chỉ vào Đấng phải đến. Người là Đức Giêsu, Người đến và đem lại cho Thiên Chúa vô hình, Thiên Chúa không thể đụng chạm tới được một dung mạo, một thân thể.

Về một Thiên Chúa đã biết và chưa biết

Không ai thấy Thiên Chúa, không ai nghe được Thiên Chúa, và cũng không ai đụng chạm được Thiên Chúa.

Làm thế nào bây giờ trước một Thiên Chúa được gọi là Ánh Sáng nhưng không ai nhìn thấy được ? Đấng tự nhận mình là Chân Lý tinh tuyền nhưng lại xuất hiện dưới khuôn mặt không thực, Người là ai ? Đấng hiện diện ở khắp nơi nhưng dường như lại vắng mặt, Người là ai ?
Các nhà thần học luôn tìm ra những lý luận rất hay, nào là Thiên Chúa ẩn mình để tôn trọng sự tự do của chúng ta, hay để tạo cho chúng ta nỗi ngạc nhiên khi chúng ta chết, v.v… Tuy vậy, chúng ta cảm thấy không thoả mãn với những giải thích như thế, và chúng ta có cảm tưởng rằng những giải thích này cũng chẳng làm cho những người đã đề ra chúng được thoả mãn.

Thiên Chúa là Đấng không thể hiểu thấu: chúng ta phải chấp nhận sự kiện đó, một sự kiện không thể khác được. Chấp nhận không phải để buông xuôi, nhưng là để nhìn rõ chỗ đứng của chúng ta và nhất là để đặt Thiên Chúa vào đúng chỗ của Người, tức là Người có mặt ở khắp nơi, ở bất cứ nơi nào chúng ta đang chờ đợi Người.

Như vậy, nếu Thiên Chúa không để cho cảm giác và lý luận của chúng ta đụng chạm tới Người, nếu Thiên Chúa không để cho chính lòng tin của chúng ta nắm bắt được Người, thế thì phải chăng chúng ta bị kết án phải tìm đến Người trong bóng đêm mịt mù ? Phải chăng chúng ta đang có nguy cơ đi lạc đường hay là chỉ chạy theo một ảo ảnh ?

Những câu hỏi như thế vẫn được đặt ra cho chúng ta và có lẽ không bao giờ chúng ta có được câu trả lời đầy đủ. Thiên Chúa vẫn luôn ở phía trước và mở ra những chân trời rộng lớn hơn. Người mời gọi chúng ta bước vào và trở thành nhân chứng cho Người.
Như ông Gioan Tẩy Giả, mỗi chúng ta cũng được mời gọi trở thành người loan báo về một Thiên Chúa đang ẩn mình nhưng vẫn đang đến. Mỗi chúng ta đang được mời gọi đóng vai trò rất khiêm tốn nhưng không thể thiếu: giới thiệu về Thiên Chúa đang đến. Nói một cách khác, chúng ta được trao phó trách nhiệm lôi kéo thêm nhiều người cùng gia nhập vào cộng đoàn những người tìm kiếm Thiên Chúa, tìm kiếm Chân Lý và Ánh Sáng, đang khi chính chúng ta phải trở thành ngọn đèn, thành tiếng nói. Đơn giản là như thế. Tất cả chỉ có thế.
* * *
Thiên Chúa của tôi vượt hẳn mọi thứ suy luận và mọi thứ đo lường.
Thiên Chúa của tôi là thế này: kỳ diệu, độc đáo và gây sững sờ.
Người là hữu thể, nhưng lại là chuyển biến,
Người là những gì đã có, hiện có và sẽ có,
Người là tất cả, nhưng không có gì là Người,
Chúa tôi gây sững sờ
là Đấng người ta tin nhưng không thấy,
người ta yêu mến nhưng không sờ được,
người ta trông chờ nhưng không nghe theo,
người ta chiếm hữu, nhưng không đáng được như thế.
(Juan Arias – Thiên Chúa mà tôi không tin, trang 32)

Suy Niệm 7: Chứng nhân của Ánh Sáng

(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi mắt bình thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến thức cần thiết. Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy được ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan Baotixita là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của ngài. Nhìn vào cuộc đời ngài, ta thấy toả ra các làn ánh sáng sau đây:

Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước từ mọi vinh quang người ta phủ quanh ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải là một tiên tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một “tiếng kêu trong sa mạc”. Ngài khiêm nhường nói rằng ngài không xứng đáng xách giày cho Đẫng Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo ngài một làn ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của ngài càng có sức thuyết phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt đối khiêm nhường.

Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gioan Baotixita còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của ngài chỉ là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của ngài là châu chấu và mật ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính bản thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ thuộc vào vật chất là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người đặt niểm hy vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho cuộc sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng mà thánh Gioan Baotixita chờ đón chính là Đức Giêsu Kitô mà ngài loan báo.

Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về chính mình, nên ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài có. Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực với lòng mình, nên ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên ngài đã thẳng thắn khuyên vua Hê-rô-đê không đựơc phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực này đã phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng đích thực của Đấng là Sự Thật, là chính Đức Giêsu Kitô.

Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết mình chỉ là người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho Đấng là Sự Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không giữ lại cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Đức Giêsu, nên ngài nói: “Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người” (Ga 1,27). Nhiều môn đệ đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ Đức Giêsu. Khi thấy đám đông đã bỏ ngài để đi theo Đức Giêsu, ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ đã hoàn tất, nên ngài nói: “Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3, 30).
Thánh Gioan Baotixita thật là một chứng nhân tuyệt hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.

Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ giới thiệu bản thân mình.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương của thánh Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho Chúa ngự đến.
Xin thánh Gioan Baotixita giúp chúng con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.

Suy Niệm 8: Chứng nhân ánh sáng trung thực

(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Gioan Tẩy Giả, có lẽ, là vị Thánh Công Giáo đi vào hội họa nhiều nhất. Có vô số tranh vẽ về ông với đề tài khá đa dạng, hướng đến những giá trị tư tưởng khác nhau. Gần như hầu hết các họa sĩ nổi tiếng nhất trong lịch sử nghệ thuật Công giáo, từ Leonardo da Vinci, Titian, Caravaggio đến Rubens…đều tìm thấy trong cuộc đời của ông một chi tiết nào đó làm nguồn cảm hứng sáng tác cho mình. Riêng Caravaggio, đã vẽ đến hàng chục tác phẩm về Gioan Tẩy giả…

Không chỉ nhiều, Gioan Tẩy Giả có lẽ cũng là vị Thánh đi vào hội họa sớm nhất.

Icon thể hiện hình ảnh Thánh lâu đời nhất được tìm thấy, là icon về Gioan Tẩy Giả, được vẽ vào khoảng cuối thế kỷ thứ V đầu thế kỷ thứ VI, có nguồn gốc Palestine. Dưới đây là ảnh tác phẩm. Bức tranh đã bị hư hại nhiều, không thể nhận biết hai hàng chữ viết hai bên chuyển tải thông điệp gì. Ở trên cùng, dễ nhận biết, bên trái, là hình ảnh Chúa Giêsu, và bên phải, là hình ảnh Đức Mẹ Maria.
Giữa vô số tranh vẽ Thánh Gioan tẩy giả, chiếm số lượng nhiều nhất, và có nhiều tác phẩm xuất sắc nhất, là ở mảng chủ đề: “Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết”.

Dưới đây là icon thể hiện chủ đề “Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết” được cho là lâu đời nhất được vẽ vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, thuộc truyền thống Byzantium.

Đứng chính giữa, là Thánh Gioan Tẩy Giả. Ông đang nói: “Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng”. Phía sau là dòng sông, nơi ông thực hiện phép Rửa cho Chúa Giêsu. Bên trái, là đầu của ông, đã bị chặt lìa, nhưng vẫn như đang hướng nhìn về phía chúng ta. Bên phải: ở dưới là con chiên tượng trưng cho Dân Chúa như đang suy ngẫm về những gì Thánh Gioan Tẩy giả nói trong sự tôn kính, và bên trên là cây tượng trưng cho sự sống.

Bức tranh như vậy, theo một số học giả, là sự khái quát trọn vẹn cuộc đời và sứ mệnh của Thánh Gioan Tẩy Giả: “là nhà tiên tri cuối cùng, là người dọn đường cho sự ra đời của Chúa”. (Nguyên Hưng).

1. Chứng nhân ánh sáng trung thực

Khởi đầu Phúc Âm Thánh Gioan đã viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin.” (Ga 1,6-7).Thánh Gioan là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính cuộc đời trong sáng của mình. Ngài là chứng nhân ánh sáng của sự trung thực.

Chúa Giêsu đã nói về Gioan: “Đây còn hơn cả ngôn sứ nữa” (Mt 11, 9). Và Chúa còn nói thêm về Gioan: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy giả” (Mt 11,11). Nhưng so sánh với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra mình thật nhỏ bé. Thấp kém đến nỗi “không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người”. Gioan trung thực nói lên một sự thật. Đó là mình kém xa vì Gioan chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng dòn.Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu, Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ trong đại ngàn trùng điệp, chỉ là một hạt cát giữa sa mạc bao la.

Khi thấy Gioan xuất hiện, rao giảng phép rửa thống hối, dân chúng tự hỏi xem có phải ông là Đấng Cứu Thế không? Gioan phủ nhận địa vị mà họ gán cho ông (Ga 1,20; Cv 13,25). Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao nhiêu người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.Gioan trung thực trong những lời nói về chính mình. Ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm ngài có. Gioan chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình mà thôi.
Trung thực với lòng mình, nên Gioan sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong sứ vụ nên Gioan chẳng nể vì kiêng cữ ai. Những luật sĩ thông thái phái Pharisiêu, những bậc vị vọng có nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội thuộc phái Sađucêô, những thầy cả tư tế đạo cao chức trọng, tất cả đều bị Gioan cảnh cáo nặng lời. Gioan gọi họ là loài “rắn độc” (Mt 3,7). Ngay cả vua Hêrôđê, Gioan cũng thẳng thắn cảnh cáo vì vua muốn chiếm vợ của anh mình (Mt 14, 3-12). Vua Hêrôđê vẫn nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính, thánh thiện (Mc 6,20). Chính vì trung thực trong sứ mạng ngôn sứ mà Gioan phải trả giá bằng ngục tù và bị chém đầu. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc đời chứng nhân. Ánh sáng trung thực khiến cho lời chứng của Gioan càng có sức thuyết phục.

Gioan đã làm chứng nhân ánh sáng trung thực nên đã sống một cuộc đời thật đẹp và đã chết hào hùng.

2. Thánh Gioan sống rất đẹp

Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi của gia đình và xã hội, rút vào trong sa mạc hoang vắng để sống gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện ý Ngài.
Gioan sống đẹp khi có được một số môn đệ theo mình, nhưng ngài cũng không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa cho họ (Ga 1,36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao cả hơn.

Gioan sống đẹp khi ngài thu phục được đám đông dân chúng, được dân chúng ngưỡng mộ, xem ngài như một tiên tri cao cả, nhưng Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà ngài không đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,27) để cho dân chúng thôi ngưỡng mộ mình mà quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.

Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng: “Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”.(Ga 3,30)

3. Thánh Gioan chết cũng rất đẹp, rất hào hùng.

Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc,nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn,dân chúng lầm than. Gioan mang nặng những ưu tư, những trăn trở yêu nước thương dân.

Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân. Lương tâm ngôn sứ thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế, Gioan đã bị vua chém đầu. Cái đầu vị ngôn sứ đổi bằng bữa tiệc và điệu múa vũ nữ. Hêrôđê tàn bạo, Hêrôđiađê lăng loàn và thủ đoạn. Cái chết của Gioan cao đẹp và hào hùng vô cùng.

Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ngài không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù. Ngôn sứ, chứng nhân của sự thật thời nào cũng phải trả giá. Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.
Người theo Đạo Hồi giáo Islam sùng kính Thánh Gioan Tiền Hô ở giáo đường bên Syria. Theo sự tin tưởng và tương truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị chém của Thánh Gioan Tiền Hô. Người Hồi giáo Syria gọi thánh nhân bằng tên Yaya Ben Zakariyah. Năm 2001, Đức Chân Phước Gioan Phaolo II đã đến hành hương kính viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người Hồi giáo tại đó. Một vị Thánh sống tôn trọng và rao giảng sự trung thực, sự ăn năn sám hối. Từ đó cho tới nay, người Hồi giáo vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến thủ cấp của vị ngôn sứ chứng nhân sự thật.

4. Theo gương Thánh Gioan, sống chứng nhân trung thực

Nói sự thật có thể bất lợi cho mình hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Gioan không sợ quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ngài không im lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi. Gioan lên tiếng làm chứng cho lẽ phải, ngài không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.

Có lẽ chưa bao giờ người dân Việt Nam lại ngao ngán trước những tiêu cực, tệ nạn, bất công, gian dối đầy dẫy trong xã hội như ngày hôm nay. Người dân phải chấp nhận sống chung với gian dối, tiêu cực, tệ nạn như người miền Tây, miền Trung được khuyên tập sống chung với lũ vậy.Ông Trần Quốc Thuận, văn phòng Quốc Hội Việt Nam tuyên bố: “Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng ngày nên thành thói quen. Thói quen đó lập lại nhiều lần thành ‘đạo đức’, mà cái ‘đạo đức’ đó là mất đạo đức.”. Gian dối trở thành tập quán xã hội, một bản tính thứ hai, một nền “đạo đức” của con người, như vậy thì tương lai của dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu?

Giáo sư Hoàng Tụy nhận định: Sự giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành giả dối. Thế nhưng, đã có hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở các tầng nấc… Trung thực thế nào được khi mà người ta hàng ngày phải sống trong một môi trường giả dối mà minh chứng rõ nhất là tiền lương công chức. Chẳng ai sống nổi bằng lương nhưng rồi ai cũng sống đàng hoàng, dư giả. (x.Báo Khuyến học & Dân trí, Thứ sáu, 28/11/2008).

Lm Nguyễn Hồng Giáo nhận định: Xã hội ta thì xưa nay đã quá quen với việc làm dối, nói dối, báo cáo láo đến nỗi dường như không còn coi đó là một điều xấu nữa. Chúng ta còn nhớ một khẩu hiệu được tung ra thời đầu đổi mới là “Nói thẳng, nói thật”. Có chủ trương như thế là vì có tình trạng quanh co, gian dối. Một bài thơ châm biếm đăng trên Sài Gòn Giải phóng ngày 18. 5. 1990 có nhan đề đáng để ý.

Thôi xài chữ giả
Chữ nghĩa du di chả mấy hồi
Đói không nói đói, “thiếu ăn” thôi!
Học hành “hạn chế”: y chang dốt
Báo cáo “tuy nhiên”: ắt hẳn… tồi.
“Vượt mức chỉ tiêu”? Nên bớt nửa,
“Có phần sơ sót”? Hãy nhân đôi…
Mực đen gấy trắng đòi trung thực
Chữ giả xài lâu hỏng lắm rồi. (Long Vân)

Các nhà nghiên cứu đã phân tích và nêu lên nhiều nguyên nhân của tình trạng thiếu trung thực tràn lan. Nhưng tôi thiển nghĩ rằng, ta còn có thể nghĩ tới một nguyên nhân sâu xa mà hình như chưa ai đề cập tới cách thẳng thắn. Đó là liệu tình trạng này có liên quan cách nào đó chăng tới nhân sinh quan chính thức của xã hội ta hay ít nhất là tới một cách làm, cách nghĩ lâu đời đã ăn quá sâu vào trong tâm thức của giới cầm quyền và nhân dân? Tôi không dám khẳng định mà chỉ nêu câu hỏi như một “giả thuyết làm việc”, như người ta quen nói trong phạm vi nghiên cứu khoa học (hypothèse de travail)… Tôi thiển nghĩ, muốn cải tổ giáo dục theo chiều hướng trung thực, cần phải có một sự cải tổ sâu hơn về não trạng và về quan niệm đạo đức, tựu trung là về nhân sinh quan. (x. Giả dối lan tràn, tại sao? Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM).
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Trung Tín (1 Tx 5,24). Ngài là “đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ngài đã tin tưởng và gọi chúng ta là môn đệ của Ngài (Mt 25,22), và trao cho chúng ta những trách nhiệm lớn (Mt 25,21; Mt 28,19). Vì thế, chúng ta phải là chứng nhân trung thực của sự thật và trung tín giữa một xã hội mà sự gian dối đã trở thành “đạo đức”.

Thiết nghĩ, bài học về lòng trung thực phải là bài học đầu đời cho các bộ óc trẻ trung đang còn trong trắng tuổi học sinh.
Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.

Suy Niệm 9: Người làm chứng

(‘Manna’)

Trong bài Tin Mừng trên đây cụm từ ‘làm chứng’ được dùng đến bốn lần.
Lẽ sống của Gioan là làm chứng. Ông được sai đến để làm chứng (x. c.6-7). Cả câu chuyện xảy ra ở Bêtania, bên kia sông Giođan, cũng là một lời chứng hùng hồn của ông (c.19).
Gioan không làm chứng cho mình hay về mình, bởi lẽ ông không phải là Ánh Sáng. Ông chỉ là ngọn đèn (Ga 5,35) giúp mọi người tin vào Ánh Sáng thật là Đức Kitô.
Sau khi nhiều người tuốn đến chịu phép rửa, tiếng tăm của Gioan trở nên lừng lẫy. Các nhà lãnh đạo tôn giáo cử một phái đoàn đến tìm hiểu con người ông.
Khi được hỏi lần thứ nhất: Ông là ai? Gioan đã đưa ra ba câu trả lời phủ định: “Tôi không phải là Đức Kitô” – “Không phải” – “Không”. Những tiếng ‘không’ dứt khoát và trung thực.
Ông không nhận những danh hiệu người ta nghĩ về ông. Ông chẳng phải là một Êlia tái giáng hay một vị Ngôn Sứ phi thường như Môsê. Gioan chỉ sợ người ta đánh giá quá cao về mình khiến Đấng ông giới thiệu bị che khuất.
Lần thứ hai được hỏi: Ông là ai?
Gioan đã định nghĩa mình là một tiếng hô trong hoang địa, là lời mời gọi con người sửa đường cho Đức Kitô.
Ông biết rõ mình là người đến trước nhưng vị đến sau lại có trước ông và trổi vượt hơn ông ngàn trùng (Ga 1,30). “Tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” Làm đầy tớ cho Đức Kitô, ông nhận mình không xứng.
Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.
Gioan không ngại giới thiệu môn đệ mình theo Đức Giêsu, và ông bình an khi người ta đổ xô đến với Ngài để chịu phép rửa (Ga 3,26).
Có ai siêu thoát như Gioan?
Ông từ bỏ trong niềm vui hồn nhiên. Ông hạnh phúc vì mình đã hoàn thành sứ mạng. “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3,30).
Sự khiêm hạ làm cho lời chứng của Gioan đáng tin hơn.
“Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.”
Hôm nay Đức Giêsu vẫn là Đấng xa lạ với nhiều người.
Con người vẫn khắc khoải đi tìm những nẻo đường cứu độ, trong khi Đấng Cứu Độ đã đến từ hơn 2000 năm.
Xin được làm người chứng như Gioan, giới thiệu cho bạn bè Đấng mà họ đang tìm kiếm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Giới trẻ hôm nay say mê các ngôi sao ca nhạc, điện ảnh, thể thao… Theo ý bạn, điểm nào nơi Đức Giêsu có thể làm cho giới trẻ say mê? Đức Giêsu có phải là mẫu người lý tưởng của các bạn trẻ không?
Gioan là con người siêu thoát. Ông không tìm mình, ông vượt lên trên cái vòng danh lợi. Bạn có quen biết ai làm chứng tuyệt như Gioan không?
Cầu Nguyện
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự, và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.
(R. Tagore)

Suy Niệm 10: Kitô hữu, bạn là ai?

(“Niềm Vui Chia Sẻ”)

Trên đường đi, cảnh sát giao thông chặn tôi lại, kiểm tra giấy tờ. Tôi xuất trình thẻ chứng minh nhân dân, trong đó có ghi sẵn họ và tên, địa chỉ, ngày và nơi sinh của tôi. Thế là cảnh sát hài lòng, vì đã biết được tôi là ai trong giấy tờ. Nhưng cảnh sát lại không biết tôi làm những việc gì, những mối quan hệ của tôi, những suy nghĩ của tôi, lý tưởng của tôi, niềm vui, nỗi buồn của tôi. Tất cả những điều đó ông không cần lưu tâm. Ông đã cầm được giấy chứng minh nhân dân chính thức của tôi và thế là đủ. Nếu có cần thì hỏi thêm giấy chủ quyền xe gắn máy và thuế lưu hành.
Ngày xưa, khi Gioan Tẩy Giả công khai xuất hiện bên bờ sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối, dân chúng tuôn đến với ông, khiến nhà cầm quyền đạo đời Do Thái phải thắc mắc: Ông ấy là ai? Và họ cử phái đoàn đến điều tra xét hỏi. Họ đã mở cuộc phỏng vấn: Ông là ai? Gioan Tẩy Giả đã không xuất trình chứng minh nhân dân hoặc hộ khẩu, đã không nêu tên tuổi, địa chỉ, lý lịch của mình, nhưng ông nói rõ sứ mạng, lý tưởng của ông, sự dấn thân, ơn gọi và lẽ sống của ông: “Tôi là tiếng của người kêu trong sa mạc… Tôi đây làm phép rửa bằng nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”. Gioan Tẩy Giả hướng toàn bộ cuộc đời ông về Đức Giêsu. Bản thân ông không là gì cả. Cuộc đời ông, sứ mạng ông, đam mê của ông chính là loan báo Đấng Kitô. Ngài đến mặc khải cho con người ý nghĩa của cuộc sống và lịch sử của họ. Ngài mang đến cho con người Tin Mừng: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn tha thứ, là bình an và niềm vui cho nhân loại. Cho đến chết, Gioan Tẩy Giả là tiếng hô dọn đường cho Chúa đến.

Hôm nay, chúng ta hãy tự đặt câu hỏi cho chính mình: Kitô hữu, chúng ta là ai? Như người ta đã chất vấn Gioan Tẩy Giả: “Ông là ai? Ông nói gì về chính mình?”
Chúng ta không đơn giản trả lời bằng cách xuất trình giấy chứng minh có ghi “Thiên Chúa giáo” hoặc giấy rửa tội của chúng ta ra. Vấn đề là, như Gioan Tẩy Giả, chúng ta trả lời về ý nghĩa cuộc sống của chúng ta, về động cơ bên trong thúc đẩy và chi phối cuộc đời chúng ta. Chắc chắn chúng ta còn nhớ câu chuyện sau đó, khi Gioan đang ở trong tù, ông đã sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu là ai. Chúa Giêsu đã trả lời: Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được khỏi, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng và phúc thay người nào không mất niềm tin vào tôi” (Lc 7,12-23). Chúng ta cũng hãy tự trả lời về chính mình bằng chính những việc làm của chúng ta, bằng chính cách sống của chúng ta. Cả cuộc đời chúng ta phải nói về Đức Giêsu, phải loan báo Đức Giêsu và sứ mạng của Ngài.

Kitô hữu là ai?

Là những người đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ, thiếu nhi, những người yêu mến Đức Giêsu. Nhưng không phải như người yêu thích một đồ vật hay một nhân vật đã đi qua, cũng không phải như người ta yêu thích một bài hát hay, hoặc một văn sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng đã chết. Người Kitô hữu yêu mến Đức Giêsu như một người yêu, như một người bạn. Bởi vì, đối với chúng ta, Đức Giêsu chẳng phải là một nhân vật đã đi vào quá khứ, nhưng Ngài hiện đang sống với chúng ta, trong chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài. Chính tình yêu này là động cơ thúc đẩy chúng ta làm việc cho Ngài và tiếp tục công việc của Ngài: đó là yêu thương những con người nghèo khổ, giải phóng những kẻ bị áp bức, bóc lột, chữa lành những tâm hồn tan vỡ, đem tự do đến cho những kẻ bị giam cầm, loan báo Tin Mừng cho những con người bất hạnh. Trong thời đại chúng ta, vẫn còn có Mẹ Têrêxa của cộng đoàn Thừa Sai Bác Ái, Sư Huynh Roger Schutz của cộng đoàn Taizé, cha Pierre của cộng đoàn Emmau, và còn biết bao tấm gương âm thầm khác nối tiếp bước chân Gioan Tẩy Giả.

Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta trở nên những con người của niềm vui và đem niềm vui của Chúa đến cho người khác. Chẳng phải chỉ nói rằng: tôi là người có đạo, tôi đi nhà thờ, tôi thuộc họ đạo này, giáo xứ nọ. Nhưng chính yếu là chính cuộc sống của tôi, hành động của tôi, sự chọn lựa của tôi như Đức Giêsu đã sống, đã hành động và đã chọn lựa. Ngày nay chúng ta cần có nhiều người như Gioan: cởi mở, can đảm, thẳng thắn làm chứng cho Đức Kitô không những bằng lời nói mà nhất là bằng hành động cụ thể, đem niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người. Với những chứng tá ấy, người ta sẽ nhận ra chúng ta là bạn của Đức Kitô, là Kitô hữu.

Vì thế, mỗi người Kitô hữu phải là một Gioan Tiền Hô, phải sống thế nào để qua lời nói và hành động của chúng ta, những người khác có thể gặp được Chúa Cứu Thế: trong gia đình, ngoài xã hội, nơi làm việc, chỗ giải trí, chúng ta phải sống ra sao để ai gặp được chúng ta là phần nào đã gặp được Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một ngọn đèn, một ngôi sao Giáng Sinh, một nhân chứng của ánh sáng. Noi gương Gioan Tiền Hô, hãy sống hết lòng với Chúa và do đó luôn thao thức làm cho người khác tìm gặp Chúa Giêsu và đón nhận ơn cứu độ của Ngài.

Suy Niệm 11: Trút bỏ hư danh để được rót đầy ân sủng

(‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Trần Ngà)

Vào thời Minh Trị thiên hoàng tại Nhật Bản (1860-1912), Nan-in, một thiền sư Nhật, tiếp một vị giáo sư đại học đến tham vấn về thiền.
Nan-in mời trà. Ông châm trà đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm như một người đãng trí.
Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách tràn ra cả mặt bàn nên không kìm mình được nữa, liền thưa: “Thưa Thầy, đầy tràn cả rồi. Xin đừng rót nữa”.
Thiền sư Nan-in thản nhiên đáp: “Giống như tách trà nầy, đầu óc ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng. Làm sao tôi có thể giải bày thiền cho ông được, trừ khi ông cạn cái tách của ông trước.” (Trích: Góp nhặt cát đá của thiền sư Muju, Đỗ Đình Đồng dịch, Lá Bối xuất bản).
Một chiếc ly đã đầy tràn thì không thể rót gì thêm được. Một cái thùng đầy cát thì không thể đổ thêm gạo, bắp hay bất cứ thứ gì. Cũng thế, một tâm hồn đầy kiêu căng, tự mãn, tham lam… thì đâu còn chỗ trống cho Thiên Chúa rót thêm ân sủng vào.
Trang Tin Mừng hôm nay mời chúng ta hãy hướng về một nhân vật quan trọng của mùa vọng là Gioan Tẩy Giả, một con người sẵn sàng trút bỏ mọi tham vọng và hư danh, trở thành tách trà rỗng không; nhờ đó, ông đã được Thiên Chúa rót đầy.

* * *
Người đời bị cuốn hút bởi lợi danh và cố làm gia tăng giá trị mình bằng những lớp vỏ bên ngoài.
Tiêu biểu cho hạng người nầy là những biệt phái thời Chúa Giêsu. “Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong các hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. (Mt 23, 5-6).

Còn người thời nay thì tìm cách làm gia tăng giá trị của mình bằng những đồ trang sức đắt giá, bằng xe hơi sang trọng, bằng dinh thự nguy nga.
Trong khi đó, Gioan chê bỏ những “lớp vỏ” hào nhoáng của người đời. Người chỉ cần cào cào châu chấu trong hoang mạc làm thức ăn; chỉ cần tấm da thú thô sơ làm áo mặc. (Mt 3,4).

Người đời khát khao danh vọng, muốn khoác cho mình nhiều danh hiệu cao sang; còn Gioan thì trái lại, ông tước bỏ hết mọi danh hiệu cao quý mà người đời khoác cho ngài.

Thời bấy giờ Gioan là người tiếng tăm lỗi lạc. Có luồng dư luận cho rằng ông là Đức Kitô, một tước hiệu cao cả đầy vinh dự. Gioan trả lời với các tư tế và các thầy Lê-vi từ Giê-ru-sa-lem rằng ông chẳng phải là Đấng Kitô. Ông đã không nhận vơ cho mình một danh hiệu rất cao quý.
Thế rồi có dư luận cho rằng ông là ngôn sứ Ê-li-a vĩ đại giáng lâm, vì theo kinh thánh thì vị ngôn sứ nầy phải đến trước để dọn đường cho Đấng Cứu Thế; Gioan cũng từ chối tước hiệu nầy. Thế là ông lại trút bỏ thêm một vinh dự thứ hai.
Có một số khác nghĩ rằng nếu ông không là Đấng Kitô, không là ngôn sứ Ê-li-a, ít nữa thì ông cũng là một vị ngôn sứ cao cả nào đó. (Ga 1, 21b). Gioan cũng từ khước luôn cả danh hiệu nầy.

Và đang khi nhiều người coi trọng phép rửa của Gioan, đã tuôn đến với ông đông đảo, xin ông làm phép rửa cho mình, thì Gioan khiêm tốn nói rằng phép rửa của ông chỉ là phần chuẩn bị cho một phép rửa khác quan trọng hơn, do một Đấng rất cao cả cử hành mà ông chẳng đáng cởi quai dép cho Đấng ấy: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga 1, 26-27).

Và đang khi danh tiếng của Gioan vang dội, còn Chúa Giêsu chưa được nhiều người biết đến, thì Gioan đã tự xoá mình đi, để cho Chúa Giêsu được tỏa sáng. Gioan nói: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi.” (Ga 3,30).
Thế là Gioan đã trút bỏ hết mọi vinh dự người ta gán cho mình, chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc hoang vu. (Ga 1, 23).
Gioan đã hạ mình xuống, nên đã được Thiên Chúa nâng lên. Gioan đã trút bỏ mọi thứ vinh quang và của cải, trở thành trần trụi rỗng không, nên Thiên Chúa đã đổ đầy ân sủng cho người. Nhờ đó, Gioan trở nên vị ngôn sứ rất cao cả. Chính Chúa Giêsu đã xác nhận sự cao cả của ông. “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11, 11)

* * *
Gioan đã tự xoá mình đi nhưng người đã sáng bừng lên như một ngôi sao trên bầu trời Hội Thánh. Gioan luôn hạ mình xuống nhưng Giáo Hội vẫn hằng ngưỡng mộ người suốt dòng thời gian. Cuộc đời khiêm hạ của thánh nhân mãi mãi là tấm gương sáng ngời cho bao thế hệ nối tiếp.
Lạy Chúa Giêsu,
Chiếc ly đời con chất chứa đầy tự mãn, kiêu căng, tham lam, ích kỷ và chúng con vẫn quyến luyến gắn bó với chúng cho đến mãn đời.
Xin thương giúp chúng con có đủ nghị lực và quyết tâm trút bỏ những thứ cặn bã đáng ghét đó đi cho tâm hồn được rỗng không.
Có làm được như thế, chúng con mới trở thành ống sáo rỗng để Chúa tấu lên những khúc hoan ca.
Chỉ khi đó, chúng con mới trở nên một chiếc ly, chiếc bình trống không để cho Chúa rót đầy tình yêu và ân sủng.

Suy Niệm 12: Nghề của tôi

Cách đây ít năm, một người làm nghề hốt rác tại thành phố Dallas, thuộc bang Texas, đã được dân chúng tuyên dương. Mười bảy cư dân đã viết thư cho ông giám đốc sở vệ sinh công cộng để ca ngợi nụ cười đầm ấm, thân hữu và lịch thiệp của bác Cummings, người hốt rác của họ:
- Chúng tôi sống trên con đường này công nhận bác là một Kitô hữu trung kiên, một công dân yêu nước và một người bạn chân tình. Bác đã giúp họ mua hàng, trả lại cho họ những vật họ đánh rơi ngoài đường hay vì lầm lẫn mà vứt đi.
Và ông giám đốc đã gửi cho bác một bức thư với những lời lẽ như sau:
- Chúng tôi tin rằng người ta có thể hoàn thành những công việc phi thường trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống, không kể gì đến địa vị hay trách nhiệm. Việc làm của bác đã cho thấy ý nghĩa thực sự của niềm tin ấy.
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay, người ta đã hỏi Gioan Tiền hô:
- Ông có phải là Đức Kitô hay không?
Họ không cần biết tên tuổi hay lý lịch của ông, họ chỉ muốn biết việc ông làm, chức vụ ông giữ và nghề nghiệp ông sống. Và rồi Gioan đã xác quyết với họ:
- Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường Chúa đến.
Nghề nghiệp của ông đó chính là loan báo, giới thiệu Đức Kitô. Chính ông đã nói cho thế giới biết rằng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại. Và Gioan đã dành tất cả cho nghề nghiệp của ông. Ông đã thực hiện mọi cố gắng, chấp nhận mọi hy sinh để loan báo Đức Kitô. Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì?
Thật đơn giản, đó là mỗi người trong chúng ta đều có một nghề trong nước trời. Nói cách khác, mỗi người chúng ta đều có một cái gì quan trọng cần phải làm cho gia đình nhân loại. Nghề nghiệp của chúng ta đều quan trọng, mặc dù công việc của chúng ta có nhỏ bé và khiêm tốn. Bác hốt rác đã ý thức điều đó. Bác đã thực hiện hết mình cái nghề hốt rác của bác.
Tất cả chúng ta cũng cần phải ý thức rằng: Mỗi nghề nghiệp trên trần gian đều đáng quý trọng. Cuộc sống sẽ trở nên nhàm chán, nếu xã hội chỉ gồm toàn những người đứng đầu mà không có cấp dưới, toàn là giám đốc mà chẳng có nhân viên, toàn là cấp tướng mà chẳng có binh lính, toàn là những nhân vật nổi tiếng mà chẳng có kẻ âm thầm làm việc.
Tuy nhiên, đôi lúc húng ta đã than phiền:
- Tôi chỉ là một người nội trợ, suốt ngày làm những việc vặt vãnh như thổi cơm, quét nhà, giặt quần áo… Hay tôi chỉ là bác nông phu, suốt ngày đổ mồ hôi trên miếng ruộng thần nông…
Chúng ta thử phác họa xem một cuộc sống, mà không có những người làm những công việc tầm thường đó sẽ như thế nào. Mọi nghề đều đáng quí đáng trọng. Không có nghề nghiệp nào xấu mà chỉ có con người xấu mà thôi. Nghề nghiệp không phải chỉ quan trọng đối với nhân loại mà còn quan trọng cả trước mặt Thiên Chúa.
Khi chuẩn bị đón mừng Chúa đến, chúng ta hãy nhớ lại rằng: Hài nhi Giêsu đã lớn lên và trở thành một bác phó mộc. Ngài không bao giờ nhàm chán cái cưa, cái búa, cái đục. Ngài hân hoan làm công việc Chúa Cha đã trao phó: cưa một khúc cây hay chết trên một khúc cây khác để cứu chuộc mọi người…
Chúng ta cũng vậy, bằng cách chu toàn bổn phận nghề nghiệp của đấng bậc mình, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm vinh quang cho cuộc sống hiện tại cũng như cho cuộc sống mai hậu sau này.

Suy Niệm 13: Gioan

Như chúng ta đã biết Gioan mở mắt chào đời đã được Chúa trao cho một sứ mạng, đó là giới thiệu Chúa cho đồng bào của mình, và làm chứng Ngài chính là Con Chiên vô tội, đã gánh lấy những lầm lỗi của loài người.
Sứ mạng này, Gioan đã làm đầy đủ và hễ có dịp Gioan liền chỉ cho công chúng biết Đức Kitô. Khi thấy mọi người vây quanh mình và tưởng rằng mình là Đấng Cứu Thế, Gioan liền mạnh dạn cải chính, mặc dù đến sau nhưng Chúa Giêsu vẫn cao trọng hơn nhiều, mình chẳng xứng đáng cúi xuống cởi dây giầy cho Chúa.
Khi Chúa đến xin ông làm phép rửa, ông đã nhìn thấy trời mở ra và chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần đỗ xuống trên đầu và từ trời cao có tiếng phán:
- Này là Con Ta rất yêu dấu.
Đồng thời Gioan còn có nhiệm vụ bảo dân phải sửa đường cho Chúa đến, nơi cao phải bạt xuống, chỗ trũng phải lấp cho đầy, đường gập ghềnh quanh co phải uốn cho thẳng.
Với người quyền thế, Gioan vẫn mạnh dạn nói lên sự thực, chẳng hạn với Hêrôđê, Gioan đã can ngăn:
- Vua không được cướp vợ của em mình.
Bổn phận làm chứng cho Chúa cũng là bổn phận của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Nhìn vào giòng lịch sử chúng ta cũng thấy được như vậy.
Trước hết là các Tông đồ.
Tuân theo lệnh truyền của Chúa, các ông đã đi khắp thế gian giảng dạy và làm chứng về Ngài. Mặc dầu biết trước sẽ gặp phải nhiều khó khăn và chống đối, nhưng các ông vẫn cứ ra đi, để rồi đã bị bắt bớ, cầm tù và sau cùng đã lấy mạng sống của mình để làm chứng tá cho Tin Mừng Phúc âm.
Thánh Giacôbê thì bị đưa lên nóc đền thờ và bị xô xuống cho chết. Thánh Bartôlômêô thì bị lột da sống, thánh Andrê và Phêrô thì bị đóng đinh ngược, duy chỉ có thánh Gioan là đã chết già tại Công đồng Ephêsô mà thôi.
Tiếp đến là Giáo hội.
Giáo hội nối tiếp các Tông đồ. Trong số 33 vị Giáo Hoàng đầu tiên, thì đã có tới 30 vị bị giết. Rồi trong 4 thế kỷ đầu, các tín hữu đã gặp phải những cơn bách hại khủng khiếp. Nhưng các ngài đã anh dũng tuyên xưng đức tin của mình để làm chứng cho Chúa.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy.
Chúng ta không phải chỉ làm chứng cho Chúa bằng lời nói mà còn phải làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Bởi vì chính gương sáng của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi cuốn và hấp dẫn những người khác trở về cùng Chúa, như người xưa đã nói:
- Lời nói như gió lung lay,
Việc làm như tay lôi kéo.
Ngày kia vua Tấn văn Công đi săn và bị lạc ở trong rừng, may thay gặp một người câu cá tên là Ích Ngư, vua nói:
- Ta đây là vua, chú đưa ta ra, ta sẽ ban thưởng.
Người câu cá hèn hạ nói:
- Nếu được phép thì tôi xin hỏi một đôi lời.
Nhà vua bằng lòng. Người câu cá bèn nói tiếp:
- Chim hồng sống ở bờ biển, chán biển đến sống ở chỗ ao tù sẽ sa vào bẫy. Ba ba sống ở đáy vực sâu, chán vực sâu lên sống ở bãi sẽ bị chài lưới. Nhà vua ở đền sao lại đi săn và lạc vào rừng sâu thế này.
Nhà vua khen:
- Chú nói hay quá.
Sau đó, nhà vua bảo người tùy tùng ghi địa chỉ để khi về sẽ gửi quà tặng. Người câu cá bèn trả lời:
- Đức vua ghi địa chỉ làm chi. Xin đức vua hãy tôn kính trời đất, bảo vệ bờ cõi, thương yêu dân chúng là tức khắc bầy tôi này đã được trọng thưởng. Bằng không thì dù nhà vua có ban phần thưởng thế nào, bày tôi cũng sẽ không thể an tâm mà hưởng dùng.
Cũng vậy, mỗi người chúng ta hãy lo sống đạo và chu toàn bổn phận của mình, thì dù không giảng giải, không nói năng, chúng ta cũng đã làm chứng cho Chúa.
Bởi vì, đời sống đạo đức của chúng ta chính là một thứ ánh sáng chiếu tỏa, để những người chung quanh sẽ nhận biết Chúa.

Suy Niệm 14: Những lời chứng

Thánh Gioan Tẩy giả đóng một vai trò trung tâm trong việc Đấng Cứu Độ sẽ đến. Theo bài Tin mừng hôm nay, vai trò của ngài là “chứng nhân để nói về ánh sáng”. Ánh sáng đó chính là Đức Giêsu.
Thánh Gioan đã chứng tỏ mình là một chứng nhân can đảm và có hiệu quả. Ngài có nhân cách mạnh mẽ và là người sống theo nguyên tắc. Ngài không sống theo một lối sống thoải mái, không sống trong cung điện, nhưng sống nơi sa mạc. Lối sống của ngài, cũng như sự chính trực của cá nhân ngài, đã bổ sung thêm niềm tin tưởng cho những lời nói của ngài, đã bổ sung thêm niềm tin tưởng cho những lời nói của ngài. Ngài là một gương mẫu sống động cho điều mà ngài rao giảng. Và khi đã hoàn tất nhiệm vụ của mình, ngài bước sang một bên để nhường lối cho Đức Giêsu.
Đức Giêsu vẫn cần đến những lời chứng. May thay, vẫn còn những người trung thành làm chứng cho Người, và coi bản thân mình như không có giá trị gì.

Một vị linh mục nói với tôi về cuộc thăm viếng của ông tại Trung quốc cách đây vài năm. Trong thời gian ở đó, ông đã gặp hai vợ chồng già, cả hai đều là bác sĩ. Họ học chung tại trường y, yêu nhau và kết hôn với nhau, bà là người Công giáo, còn ông thì ngoại đạo. Bà mong muốn thuyết phục ông nên gia nhập Giáo Hội, nhưng ông không muốn chịu phép rửa tội. Một thời gian ngắn sau, họ có một đứa con.
Suốt thời gian diễn ra một trong những phong trào chính trị ở Trung quốc, cùng với một số nhà trí thức khác, người chồng bị bắt đi làm việc trong quân đội. Sự xa cách gây ra rất nhiều khó khăn cho người vợ, do bà vừa phải cả ngày làm việc nhiều giờ tại bệnh viện, vừa phải làm ban đêm chăm sóc đứa con trai. Ngoài nỗi cô đơn ra, người vợ còn phải chịu sức ép từ phía chính phủ, hối thúc bà li dị với chồng và bỏ đạo, để đạt được những lợi thế về mặt chính trị. Nhưng bà đã từ chối. Mỗi đêm, sau khi trở về nhà, bà và con trai đều quì gối cầu nguyện, xin Thiên Chúa ban sức mạnh để chịu đựng những khó khăn.

Vào cuối thập niên 1970, bà nghe nói rằng chồng bà và một số nhà trí thức khác được phép trở về nhà. Khi đến ngày đó, bà và con trai ra sân ga, họ là những thành viên trong gia đình duy nhất có mặt ở sân ga để đón tiếp những người đàn ông, bởi vì tất cả những người phụ nữ khác đều đã li dị và tái kết hôn, do không chịu đựng được cảnh chia ly lâu dài. Do cảm động sâu sắc, chồng bà đã chịu đi học đạo và lãnh nhận phép rửa tội.
Người phụ nữ đó đã thực sự mang lời chứng cho ánh sáng, giống như thánh Gioan Tẩy giả đã thực hiện. Bây giờ, đến lượt chúng ta. Đối với nhiều người trong thế giới ngày nay, Đức Kitô đã trở nên một khuôn mặt rất mờ nhạt và xa cách. Những lời trong bài Tin mừng hôm nay đúng từng chữ một “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Đức Kitô vẫn còn cần đến những chứng nhân, đó là những người có thể làm cho Người hiện diện đối với người khác một cách có hiệu quả.

Chúng ta không thể làm chứng cho ánh sáng, nếu chúng ta sống trong tối tăm. Chúng ta phải sống trong ánh sáng. Một đời sống tốt đẹp là một lời chứng mạnh mẽ và có hiệu quả, và tự thân, đó là một lời loan báo Tin mừng. Khi người ta không còn thực hành đạo trong cuộc sống nữa, thì họ đã đánh mất đi một yếu tố quan trọng. Nhưng khi việc thực hành đạo đưa dẫn đến những hành động cụ thể, thì người ta đã thực hành được một lời chứng rất có hiệu quả. Không có một lời chứng nào đến được với những người cùng thời của chúng ta một cách đầy sức thuyết phục, cho bằng lời chứng của những người thực hiện những lời giảng dạy của Đức Giêsu.
Nếu không có lời chứng của các Kitô hữu, thì gương mặt của Đức Kitô, vốn đã bị mờ nhạt, sẽ tiếp tục lu mờ trong thế giới của chúng ta. Người sẽ tiếp tục ở giữa chúng ta, dù chúng ta không biết và không nhận ra, và tâm hồn con người vẫn sẽ bị tan nát, người ta sẽ còn bị cầm tù trong cảnh tối tăm, và Tin mừng sẽ không được rao giảng cho người nghèo.
Đây không phải là một trách nhiệm chỉ dành cho cá nhân người Kitô hữu, mà còn dành cho toàn thể cộng đồng Kitô hữu nữa. Khi là thành viên của một cộng đồng nâng đỡ nhau, thì việc làm chứng cho Đức Kitô sẽ dễ dàng hơn.

Suy Niệm 15: Ẩn mặt

Thánh Gioan Tẩy giả nói với dân chúng “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết”. Vị mà ngài đang nói đến chính là Đức Giêsu Thiên Chúa thường được ám chỉ như là một Thiên Chúa “ẩn mặt”. Về phương diện này, có thể so sánh Thiên Chúa như một người viết tiểu sử. Công việc của người viết tiểu sử là tránh mặt trong khi kể chuyện. Một người viết tiểu sử giỏi luôn sẵn sàng có mặt ở bất cứ chỗ nào, nhưng không ai nhìn thấy họ cả. Thiên Chúa hiện diện ở tất cả mọi nơi trong các tạo vật của Người, nhưng không ai nhìn thấy Người.
Có câu chuyện về một người đàn ông kia khi trở về nhà, anh phát hiện ra đứa con gái bé bỏng của anh đang khóc rống lên. Anh hỏi cháu bé về chuyện gì xảy ra. Cháu bé nói rằng cháu đang chơi trò chơi trốn tìm với các bạn của cháu. Nhưng khi đến phiên cháu đi trốn, cháu bé đã trốn quá kỹ, đến nỗi các bạn của cháu đã bỏ đi chơi trò khác, không chịu tìm kiếm cháu nữa. Cháu bé cứ chờ đợi các bạn tìm thấy mình, nhưng chúng không thể nào làm được như vậy. Cuối cùng, khi đi ra khỏi chỗ ẩn núp, thì cháu bé phát hiện ra rằng chỉ còn có một mình cháu thôi.
Đôi khi, có lẽ Thiên Chúa cảm thấy cô độc. Người đã tự trú ẩn trong các tạo vật của Người một cách quá tài tình, đến nỗi một số người không thể tìm thấy Người. Và cuối cùng, họ đã bỏ không tìm kiếm Người nữa, rồi rẽ sang các hướng khác.
Cuối cùng, khi Con của Người đến thế gian này, hầu hết cuộc đời của Người đều không được người ta nhận ra. Ngay cả khi Người xuất hiện ở nơi công cộng, không phải tất cả mọi người đều tin tưởng nơi Người. Và thánh Gioan tẩy giả đã nói “Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết – một Đấng đến sau tôi”. Và trong phần mở đầu cuốn sách Tin mừng của mình, thánh sử Gioan đã nói một cách buồn rầu “Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”.

Ở đây, khi ngày Giáng sinh đến hỗ trợ chúng ta, trong ngày đó, chúng ta cảm thấy lòng đầy thắc mắc về sự gần gũi của Thiên Chúa. Trong biến cố Nhập Thể, Thiên Chúa ẩn náu một cách tài tình, và được mặc khải một cách hoàn hảo. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đến với chúng ta, mặc lấy thân phận nhân loại của chúng ta. Khi thấy Người là thấy Chúa Cha.
Trước khi Đức Giêsu đến, người ta coi như Thiên Chúa là Đấng xa cách và tách biệt của con người, không thể quan tâm gì đến chúng ta và những nỗi đau khổ của chúng ta. Tệ hơn nữa, người ta còn nhìn vào Người như một quan tòa hoặc một điệp viên, sẵn sàng vồ chụp và trừng phạt con người. Nhưng từ khi Đức Giêsu đến, chúng ta không còn nhìn vào Thiên Chúa như một người nào đó xa cách nữa, mà rất gần gũi với chúng ta, quan tâm đến mỗi người chúng ta, bởi vì chúng ta là con cái của Người.

Đức Giêsu mặc khải về Chúa Cha như một người Cha đầy tình yêu, lòng thương xót và luôn sẵn sàng tha thứ. Đó là một Thiên Chúa không ở xa chúng ta, nhưng sống giữa chúng ta, và rất say mê quan tâm đến chúng ta. Mối quan tâm của Thiên Chúa không phải là phê phán và kết án, nhưng là chữa lành và cứu thoát. Đó là một Thiên Chúa đặc biệt gần gũi với những người yếu đuối, nghèo khổ và quá nặng gánh,
Thiên Chúa giống như một giòng suối ở bên chúng ta, mà chúng ta có thể say sưa uống lấy và làm cho bản thân mình được tươi mát. Nhận biết về Thiên Chúa theo cách thức này, là nguyên nhân đưa đến niềm vui lớn lao. Đây chính là niềm vui đã được loan báo cho các mục đồng trong ngày Chúa Giáng sinh, và bây giờ, cũng đang được loan báo cả cho chúng ta nữa.

Suy Niệm 16: Sứ giả tin mừng

Thuở nước Mỹ chưa có bưu điện và những phương tiện liên lạc tối tân, người ta tổ chức thành những trạm. Mỗi trạm cách nhau chừng 25 Km. Tại mỗi trạm lúc nào cũng có sẵn những con ngựa khỏe.
Những kỵ sĩ sẽ chở thư từ trên lưng ngựa. Họ phóng nước đại, chạy hết tốc lực từ trạm này tới trạm kia và ở đó họ sẽ thay ngựa, rồi lại tiếp tục lên đường. Mỗi ngày một người phải chạy chừng 100 cây số.
Bình thường họ phải đem theo hai cây súng để đề phòng mọi da đỏ. Họ chạy ngày và đêm, bất kể mọi thời tiết, để hoàn thành cuộc hành trình dài tới ba ngàn cây số trong vòng một tuần lễ hay mười ngày là cùng.
Việc hoàn thành mạng lưới điện thoại nối liền hai bờ biển đông và tây đã chấm dứt vai trò của những con ngựa tốc hành. Tuy nhiên, câu chuyện về những chàng kỵ sĩ gan dạ này vẫn còn làm cho chúng ta khâm phục.
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta thấy Thiên Chúa cũng đã sai phái vị sứ giả của Ngài đến với chúng ta và chuyển giao cho chúng ta một sứ điệp quan trọng, đó là hãy dọn đường Chúa đến.
Vị sứ giả đưa tin này chính là Gioan Tiền hô. Ông đến để đem lại cho chúng ta tin vui về Đấng Cứu thế. Kể từ đó, hàng triệu người không phân biệt màu da và tiếng nói, thuộc đủ mọi dân tộc đã đi theo dấu chân của ông và đã trở nên những người đem tin mùng của Chúa. Họ loan báo và dọn đường cho Chúa đến trong tâm hồn mọi người.
Và điều đáng ngạc nhiên hơn nữa, đó là có những nhà truyền giáo đã đem chân lý của Chúa xuyên qua các núi đồi, các ghềnh thác, đến với những bộ lạc, những sắc dân còn man di mọi rợ.
Kể từ các tông đồ, biết bao nhiêu người đã rảo bước trên khắp mọi nẻo đường và đã có mặt khắp mọi nơi, từ thành thị đến những hang cùng ngõ hẻm. Và hơn thế nữa, còn dám hy sinh cả mạng sống để loan truyền cái tin quan trọng, đó là
- Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian đã đến và đang ở giữa chúng ta.
Tin mừng sự sống này cần phải được loan báo, cần phải được đem đến cho từng người sống trên mặt đất.
Các nhà truyền giáo không thể hành động đơn độc. Trái lại, chúng ta phải cộng tác với họ trong khả năng và phạm vi của mình.
Có nhiều cách để thi hành điều đó. Chúng ta cộng tác bằng lời cầu nguyện, xin Chúa luôn nâng đỡ để công cuộc rao giảng Tin mừng của những nhà truyền giáo gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
Chúng ta cộng tác bằng cách giúp tiền bạc vật chất để tài trợ, nhờ đó những nhà truyền giáo sẽ có được những phương tiện để họat động.
Chúng ta cộng tác bằng chính cuộc sống thường ngày của chúng ta. Thực vậy, cuộc sống thường ngày của chúng ta phải là một tin mừng. Mỗi lời nói, mỗi việc làm của bản thân, của gia đình, của giáo xứ chúng ta cũng phải là một tin mừng, bởi vì qua đó chúng ta nói cho mọi người biết được rằng:
- Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian đã đến và đang ở giữa chúng ta.
Hãy sống thế nào để mỗi người chúng ta cũng trở nên một Gioan Tiền hô, một tông đồ nhiệt thành, đem Chúa đến cho những người chung quanh.

Suy Niệm 17: Chứng nhân

Gioan Tẩy giả là một nhân vật quan trọng luôn được nhắc tới trong Mùa Vọng, vì ngài là vị Tiền Hô đi trước kêu gọi mọi người chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế đến bằng cách thay đổi, cải thiện đời sống. Bài Tin Mừng cho chúng ta tấy một điều nổi bật trong cuộc đời tiền hô của ngài, đó là làm chứng cho Chúa Kitô, Ngài đã sống và chết cho vai trò chứng nhân của mình. Ngay những trang đầu tiên sách Tin Mừng của thánh Gioan Tông đồ đã cho chúng ta biết mục đích cuộc đời trần thế của Gioan Tẩy giả là làm chứng cho Đấng Cứu Thế: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan, ông đã đến để làm chứng, để chứng thực về sự sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng là người làm chứng cho sự sáng”. Sự sáng đây là Đấng Cứu Thế và Gioan đã làm chứng cho Đấng Cứu Thế một cách trung thành nhất, bất vụ lợi nhất, kiên trì nhất và hoàn hảo nhất. Ngài đã làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng máu.

Gioan Tiền Hô đã làm chứng bằng lời nói:chúng ta biết vai trò hay sứ mạng của một ngôn sứ là phát loa, là thuyết giảng, là loan báo về Đấng Cứu Thế. Gioan Tiền Hô đã đóng vai trò đó, ngài đã nói những gì? Ngài bảo cho mọi người biết: “Tôi chỉ là tiếng nói trong hoang địa, chuẩn bị đường đi cho Đấng Cứu Thế, sau tôi một Đấng sẽ đến, Đấng ấy đã có trước tôi, cao trọng hơn tôi nhiều, và tôi không đáng xách dép cho Ngài”. Rồi khi Chúa Giêsu đến, Gioan đã chỉ vào Chúa và nói với dân chúng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh hết mọi tội trần gian”, nghĩa là đây là Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ là nạn nhân hiến tế để cứu chuộc mọi người. Bài Tin Mừng Gioan còn cho mọi người biết Chúa Giêsu là Đấng thánh hóa các linh hồn, Ngài sẽ rửa mọi người trong Thánh Thần và lửa, đồng thời cũng là Đấng xét xử mọi người: thưởng phạt mỗi người tùy theo công nghiệp của họ. Tóm lại, như một người phát ngôn trung thành, Gioan loan báo cho mọi người biết: Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế.
Không những làm chứng bằng lời nói, Gioan còn làm chứng bằng hành động và gương sáng.Chúng ta biết Gioan là một người rao giảng đầy uy quyền, kêu gọi được người ta ăn năn sám hối, trở về với Chúa. Lời giảng của ngài được mọi người đương thời chú ý, tại sao vậy? Bởi vì ngài chỉ nói sau khi đã làm hay đã sống, đã kinh nghiệm rồi mới nói, bí quyết thành công của ngài là làm rồi mới nói, hoặc nói và làm đi đôi với nhau. Thực vậy, ngài đã lấy cuộc đời khổ hạnh để làm chứng cho người tôi tớ của Giavê, ngài đã sống khó nghèo để làm chứng cho Con Người không có chỗ dựa đầu. Thi hành chức vụ tiền hô ngài cũng có một số môn đệ, nhưng ngài rất vui mừng nhường số môn đệ ấy cho Chúa Giêsu, không một chút ghen tương, không một chút luyến tiếc, bởi vì ngài biết Chúa Giêsu mới là vị tân lang của họ, còn ngài chỉ là bạn hữu đến sửa soạn tiệc cưới mà thôi. Nói rõ hơn, Gioan không thể kêu gọi người ta sám hối nếu ngài không sám hối trước, Gioan không thể kêu gọi người ta khiêm nhường nếu ngài không quên cái tôi của mình, Gioan không thể kêu gọi người ta thực hành bác ái nếu ngài không thực sự mến Chúa yêu người, Gioan không thể kêu gọi người ta hy sinh nếu ngài chưa sống khắc khổ và hy sinh vì người khác. Tóm lại, ngài được mọi người nghe và làm theo lời ngài giảng dạy là vì ngài chỉ nói những gì ngài đã sống, đã làm, đã kinh nghiệm: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”, lời nói của Gioan đã làm chuyển biến lòng người, nhưng đời sống và gương sáng của ngài đã thuyết phục được mọi người.

Sau hết, bởi vì Gioan luôn sống với tư cách là chứng nhân của Đấng Cứu Thế, nên sau khi đã làm chứng cho Chúa bằng lời nói và hành động, ngài còn muốn làm chứng bằng chính máu của mình nữa.Ngài tố cáo cuộc hôn nhân bất chính của vua Hêrôđê với bà Hêrôđia, vợ của anh vua, nên ngài đã bị tống giam vào ngục. Bà Hêrôđia vẫn chưa hài lòng, vì Gioan luôn là mối cản trở cho hành động ngang trái của bà, bà tìm cách giết cho được Gioan, chính vì thế mà trong bữa tiệc mừng sinh nhật Hêrôđê, lợi dụng lúc ông đã ngà ngà say, bà xúi con gái là Salômê xin chiếc đầu của Gioan, vì Hêrôđê vui thú trước những điệu múa của Salômê và hứa cho cô bé bất cứ thứ gì dù là nửa nước. Thế là Gioan đã phải chết, ngài đã chấp nhận cái chết chứ không chịu để cho đạo lý bị chà đạp, chấm dứt nhiệm vụ chứng nhân của ngài. Cuộc đời chứng nhân của Gioan Tiền Hô là một bài học sáng giá cho chúng ta. Đời sống của một Kitô hữu phải bắt chước đời sống của ngài, là làm chứng nhân cho Chúa trong mọi hoàn cảnh: thuận cảnh cũng như nghịch cảnh. Hẳn là Chúa không đòi chúng ta phải sống khắc khổ hay đổ máu đào như Gioan, nhưng Chúa đòi chúng ta phải là chứng nhân, sống như Gioan trong đời sống hiện tại của mình, nghĩa là chúng ta phải là ánh sáng, là muối, là men của trần gian, phải sống như bông sen giữa bùn lầy, như bông huệ giữa bụi gai, đặc biệt là sống anh hùng như ngài, ngài là một anh hùng của sự thật: suốt đời ngài chỉ sống theo sự thật và nói sự thật, điều gì có ngài chân nhận, điều gì không có ngài nói không. Chúng ta hãy kiểm điểm và suy nghĩ: chúng ta có bao giờ nói dối không? Chúng ta phải nhìn nhận rằng không những chúng ta có nói dối mà còn nói dối nhiều hơn nữa, rồi nhiều khi chúng ta còn ém nhẹm, giấu diếm, chua ngoa, thề thốt, phân bua cho là mình thật thà, thẳng thắn, vô vị lợi… để lấp đầy đi cái thiếu thành thật của mình. Nếu chúng ta đã sống như thế, chúng ta phải sửa lại, phải sống thành thật, có nói có, không nói không, đừng thêm thắt, bịa đặt. Tuy nhiên chúng ta phải cẩn thận, vì sự thật dễ mất lòng. Chúng ta phải sống thành thật, đó là điều tất nhiên, nhưng sống thật thà không có nghĩa là buộc chúng ta phải nói tất cả những gì mình nghĩ, mình biết, đức tính này buộc chúng ta suy nghĩ cẩn thận, chín chắn rồi hãy nói, mà đã nói thì không bao giờ nói sai, nói thừa nói thiếu, nói dối để khỏi gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin Chúa cho chúng ta quyết tâm sống được như thế luôn mãi.

Suy Niệm 18: Vui mừng

Chuyện kể về một ông vua đang băn khoăn bằng cách nào để có hạnh phúc. Nhà vua bèn mời một nhà khôn ngoan lại để bàn hỏi xem làm thế nào vứt bỏ được những lo âu buồn rầu đang đè nặng tâm trí ông đến nỗi phát bệnh. Làm thế nào để có hạnh phúc thực sự? Nhà thông thái trả lời: “Chỉ có một cách duy nhất để chữa nhà vua. Đó là nhà vua phải nằm ngủ một đêm trong cái áo của một người có hạnh phúc thực sự”.
Các sứ giả được sai đi khắp quốc gia để tìm kiếm một người thực sự đang hạnh phúc. Nhưng bất kỳ người nào khi hỏi đến cũng có lý do để đau khổ buồn rầu. Một điều gì đó đã cướp mất hạnh phúc của họ. Sau cùng họ tìm thấy một người, đúng hơn là một gã ăn xin. Hắn ngồi mỉm cười ở giữa chợ đời. Hắn tự xưng là người hạnh phúc thực sự, không có một mảy may gì buồn rầu lo âu. Người ta nói với hắn về điều nhà vua đang tìm kiếm. Nhà vua cần phải ngủ một đêm trong cái áo của người có hạnh phúc thực sự, và cho anh ta một số tiền rất lớn đền bù vào chiếc áo hạnh phúc đó.
Bạn nghĩ sao? Anh chàng ăn xin này có đồng ý bán chiếc áo của anh đang mặc cho nhà vua không? Các bạn có biết phản ứng của hắn ra sao không? Không nín được cười! Gã ăn xin bật cười lên hô hố mà rằng: “Thật đáng tiếc! Tôi không thể nào làm hài lòng nhà vua được. Tôi chẳng có chiếc áo nào cả!” Người hạnh phúc nhất trên đời không có ngay cả một chiếc áo!

Trước Công Đồng Vaticanô II, Chúa nhật thứ III Mùa Vọng hôm nay được gọi là “Gaudete Sundae”. “Gaudete” tiếng La tinh có nghĩa là “vui mừng”. Trong nhà thờ, đốt lên cây nến hồng ở Vòng Lá Mùa Vọng – Advent Wreath. Mầu hồng biểu tượng cho sự vui tươi, yêu đời và hy vọng, vì Thiên Chúa đã gần đến rồi!
Quả vậy, con người đã được Thiên Chúa tạo dựng nên là để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc đời đời với Người. Vì thế, Pascal đã nói rằng: “Tất cả mọi người đều đi tìm kiếm hạnh phúc hết, ngay cả những người treo cổ tự tử”. Niềm vui và hạnh phúc là mục đích của con người sống trên trần đời. Nó cần thiết cho chúng ta như dưỡng khí cần cho tim phổi, lương thực cần cho thân xác. Tuy nhiên, càng tìm kiếm nó, nó lại càng vuột khỏi tay ta, như nước trôi qua các kẽ ngón tay. Ta nghĩ về hạnh phúc theo quan niệm của ta. Ta long đong vất vả đi tìm nó ở nơi ta muốn tìm, ở nơi nó không có.
Đi tìm hạnh phúc không đúng chỗ:
Trong “Tiếng Chim Ca” của cha Anthony de Mello có truyện “Tìm Sai Chỗ” được kể như sau. Một người thấy ông bạn láng giềng cứ lom khom cúi tìm mãi một cái gì dưới ánh đèn đường nên hỏi: “Ông bạn đang tìm gì vậy?” Người láng giềng trả lời: “Tôi tìm chìa khoá đánh rơi”. Thế rồi cả hai cùng chăm chú, lom khom tìm mãi. Một hồi lâu người này chợt nhận ra một điều gì nên hỏi người láng giềng: “Mà ông bạn đánh rơi nó ở đâu vậy?” “Ở trong nhà thì phải!” người láng giềng trả lời. “Nhưng tại sao ông bạn lại tìm ở đây?” “Vì ở đây có đèn đường sáng hơn!!!”
Chỗ ngã ba đèn đường chiếu sáng nhất mà người đời vẫn thường đến tìm kiếm hạnh phúc là “ngã ba chữ T”: tình, tiền, tài.
Có những bạn trẻ bước vào đời với lăng kính màu hồng, hăm hở tìm hạnh phúc trong những giây phút huy hoàng của tình dục mà họ nghĩ là tình yêu, họ đồng ý với Xuân Diệu rằng: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt. Còn hơn le lói suốt trăm năm”.
Có người lao mình vào việc tìm kiếm tiền bạc bằng mọi cách. Họ bôn ba xuôi ngược trên chợ đời, tranh giành với người, để rồi cuối cùng như nhà thơ Quốc Nghệ đã diễn tả sự thật chua cay bằng những lời thơ châm biếm:
Bạc ác chi mi lắm rứa tiền,
Mi làm nhân loại hoá ra điên.
Mi tô mặt nạ đen ra trắng,
Mi xé ân tình thẳng hoá xiên.
Mi gác luân thường vào một xó,
Mi đưa nhân nghĩa xếp hai bên.
Mi làm nhân loại đua tranh mãi,
Bạc ác chi mi lắm rứa tiền?
Có người dùng tài ba để tìm kiếm công danh sự nghiệp hầu mang lại hạnh phúc. Thế nhưng danh vọng cũng kèm theo cuồng phong bão tố, nước mắt và đoạ đày, như Nguyễn Công Trứ đã cảm nghiệm: “Ra trường danh lợi vinh tiền nhục, vào cuộc trần ai khóc lẫn cười”.
Điều lầm lẫn lớn nhất của chúng ta là đã đồng hóa niềm vui hạnh phúc với khoái lạc thế trần, rồi đi tìm thỏa mãn nơi thể xác, vật chất và cuộc sống ở bên ngoài. Chúng ta có thể đạt được khoái lạc bằng dục vọng, danh tiếng và tiền bạc, nhưng tất cả những thứ này không thể nào mang lại cho con người niềm vui và hạnh phúc thật sự.

Suy Niệm 19: Dấu chỉ Đấng Messia

(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Nhân loại qua mọi thời đại luôn ngưỡng mộ những con người sống phục vụ, sống dấn thân vì lợi ích đồng loại, nhưng đáng tiếc lại rất ít người dám cúi mình phục vụ tha nhân. Bản tính con người thường ham sướng sợ khổ. Con người luôn thích lánh nặng tìm nhẹ. Người ta sợ hy sinh. Người ta tìm hưởng thụ và sự an nhàn cho bản thân nên có mấy ai dám hiến dâng cuộc đời cho hạnh phúc tha nhân.
Dầu vậy, thế giới ngày hôm qua cũng như ngày hôm nay vẫn còn đó những con chim én đang tìm đàn để tạo nên muà xuân tô thắm cho nhân loại. Đâu đó vẫn còn đó những người đơn độc một mình nhặt những cái đinh đang rải rác trên đường do bọn đinh tặc mất tính người rải ra. Đâu đó vẫn còn đó những người đang âm thầm đi đến phục vụ những bệnh nhân đang nằm thoi thóp trên giường bệnh mà thiếu người thân chăm sóc. Đâu đó vẫn còn đó những con người tình nguyện đem ánh sáng văn hoá cho các trẻ em nông thôn vùng miền núi xa xôi. Và đâu đó vẫn còn đó những con người đang cúi mình tắm rửa cho các bệnh nhân Sida hay các bệnh nhân tại các trại phong…
Tất cả những con người đó đang làm cho thế giới này đẹp hơn về tình người, ấm áp hơn tình đồng loại. Người ta kể rằng: có một cha già cố cả đời sống thanh bần để lo cho giáo dân. Ngài chẳng giữ lại cho mình cái gì. Ngài luôn cho đi tất cả. Ngài luôn chia sẻ cho người nghèo trong xứ cái ăn, cái mặc mà quên đi cả bản thân. Cho tới ngày ngài nhắm mắt xuôi tay, người ta muốn tìm một bộ đồ đẹp để thay cho ngài nhưng không tìm thấy. Lúc đó, người giúp việc bên ngài mới kể lại: Cha già đã cho đi tất cả, chỉ còn một bộ mặc trên mình và một số đồ cũ kỹ mà thôi. Đây chính là một mẫu gương sống đơn sơ và nghèo khó. Đây là một dấu chỉ của cuộc sống người môn đệ của Chúa. Một cuộc sống yêu thương, hiến dâng. Một cuộc sống không cần lo cho bản thân. Vì “cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có nơi gối đầu”.
Đức Giêsu khi tỏ dấu hiệu cho muôn dân nhận thấy Ngài là Đấng Messia, Ngài đã tỏ mình ra trong thân phận một người tôi tớ phục vụ. Ngài đến trần gian trong thân phận một hài nhi yếu đuối. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo nàn trong thân phận bác thợ mộc làng quê Nagiaret. Dấu chỉ duy nhất mà Ngài đã tỏ bày về thân phận Đấng Messia chính là: “Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.
Cuộc đời chúng ta là một mùa vọng. Ngày nào Chúa cũng có thể đến với chúng ta. Lúc nào Chúa cũng có thể ngỏ lời cùng chúng ta. Vì vậy, hãy tỉnh thức. Vì Chúa sẽ không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một ánh mắt cảm thông. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Hãy tạ ơn Chúa qua những con người đang sống với chúng ta, đang hy sinh vì chúng ta. Hãy tạ ơn Chúa vì chúng ta luôn được sống trong tình nghĩa thằm thiết của những người thân bên cạnh chúng ta. Họ chính là hiện thân của Chúa để yêu thương và phục vụ chúng ta.
Bên cạnh đó, Chúa cũng mời gọi chúng ta cũng trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa. Đó chính là lòng bác ái, là tình yêu thương. Đây là hiệu kỳ của người ky-tô hữu, là căn tính của người môn đệ Chúa Kitô, vì “người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy. Đó là các con hãy thương yêu nhau”. Đặc biệt trong mùa này, mùa tình yêu, mùa của chia sẻ và trao ban. Vâng, lễ giáng sinh chính là lễ của tình yêu. Thiên Chúa mang lấy thân phận một hài nhi yếu đuối đang cần chúng ta chăm sóc. Ngài đang cần chúng ta tái diễn tình yêu của Ngài cho những người đau khổ, nghèo đói, tật nguyền. Ngài đang cần đôi tay của chúng ta để Ngài băng bó vết thương cho trần thế. Ngài đang cần đôi chân chúng ta để Ngài lại có thể ra đi đến với những ai đang thất vọng sầu khổ. Và Ngài cũng cần trái tim của chúng ta để Ngài lại có thể cảm thông, chia sẻ với những ai bất hạnh đang mang nặng gánh đau thương. Đây cũng là phương thế để chúng ta dọn đường cho Chúa đến với nhân thế hôm nay.
Xin Chúa chúc lành cho những dự định, ước mơ và công việc của chúng ta ngõ hầu người ta sẽ nhận biết chúng ta là môn đệ Thầy Chí Thánh Giêsu. Amen.

Nguồn: Giáo Phận Long Xuyên