Dân Chúa Âu Châu

CN T 1 MV BDTỉnh thức.

CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG năm B

"Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về".

 

Lời Chúa: Mc 13, 33-37

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào. Ví như người đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc, và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức.

Vậy các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ. Ðiều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!"

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG B

Lời Chúa: Is 63,16b-17.19b; 64,2-7; 1Cr 1,3-9; Mc 13,33-37

 

MỤC LỤC

1. Người giữ cửa--‘Manna’

2. Tỉnh thức và canh thức--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

3. Tỉnh thức và cầu nguyện--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

4. Niềm khát vọng khôn nguôi--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên

5. Chờ đợi trong tỉnh thức--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên

6. Tỉnh thức--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm

7. Chúa Nhật 1 Mùa Vọng--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ.

8. Chúa sẽ đến trong vinh quang--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.

9. Mong đợi ngày Chúa đến--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

10. Kêu xin và chờ mong Chúa đến--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

11. Con hy vọng Chúa đến--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

12. Cửa trời hẹp lắm ai ơi!--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.

13. Mong đợi Chúa--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.

14. Canh thức cầu nguyện để đón Chúa--Lm. Đan Vinh

15. Chúa Nhật 1 Mùa Vọng--Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế O.P.

16. Tỉnh thức luôn luôn--Lm. JB. Lê Ngọc Dũng

17. Chúa Nhật 1 Mùa Vọng--Lm Gioan Phan Tiến Dũng

18. Tỉnh thức và thức tỉnh--Lm. Xuân Hy Vọng

19. Chúa Nhật 1 Mùa Vọng--Lm. Inhaxiô Hồ Thông

20. Chúa Nhật 1 Mùa Vọng--Jaime L. Waters-- Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển

21. Tỉnh Thức để gặp Chúa--An Phong

22. Hãy tỉnh thức--Lm. Phêrô Nguyễn Hương

23. Chờ và đợi--Anmai, CSsR

24. Mong đợi Chúa đến--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc

25. Hãy tỉnh thức--Lm. Giuse Nguyễn Văn Thông

26. Thức tỉnh cầu nguyện--Lm. Giuse Trần Việt Hùng

27. Tỉnh thức, Thức tỉnh--Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn

28. Phải tỉnh thức và sẵn sàng--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

29. Tỉnh thức và cầu nguyện--Lm Vinh Sơn

30. Hãy canh chừng--Peter. Feldmeier--Lm. Văn Hào SDB, chuyển ngữ

31. Tỉnh thức và sẵn sàng--AM Trần Bình An

32. Mùa Vọng, Mùa của chờ mong--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

33. Tỉnh thức--Lm Vũ Đình Tường

34. “Hãy tỉnh thức và sẵn sàng!”--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê

35. Khao khát Chúa--PM Cao Huy Hoàng

36. Phải canh thức--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

37. Người giữ cửa phải canh thức--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

38. Hãy tỉnh thức--Lm Nguyễn Hồng Giáo

39. Câu chuyện cảnh giác--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

40. Có mắt mà không thấy--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

41. “Hãy tỉnh thức kẻo thiệt thân”--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

42. Tỉnh thức trong an vui--Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

43. Hãy tỉnh thức và chờ đợi--Lm. Thu Băng, CRM

44. Mong đợi Chúa đến--Lm. Minh Vận, CRM

45. Tỉnh thức chờ đợi Đấng Cứu Độ--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng

46. Đón chờ Chúa đến--‘Niềm Vui Chia Sẻ’--Lm. Phanxico Xaviê Lê Văn Nhạc

47. Tỉnh thức--Lm. John Nguyễn Tươi

48. Tỉnh thức để bảo toàn sinh mạng--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Trần Ngà

49. Tỉnh thức để khỏi bị hủy diệt--Lm. Ignatiô Trần Ngà

50. Tỉnh thức để tự cứu mình--Lm. Ignatiô Trần Ngà

51. Ngủ quên tâm linh--Lm. Minh Anh

52. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

53. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

54. Khát mưa Giêsu--Trầm Thiên Thu

55. Canh thức chờ Chúa đến--Lm Bùi Thượng Lưu

56. Mùa hy vọng--Lm Trần Bình Trọng

57. Mong đợi Chúa đến--Lm. Minh Vận

58. “Phải Tỉnh Thức”--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

59. Mùa loan báo--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

60. Tỉnh thức và cầu nguyện--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

61. Luôn tỉnh thức--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

62. Đợi chờ bình minh đang đến—Lm. G. Nguyễn Cao Luật, OP.

63. Phải tỉnh thức và sẵn sàng--JKN

64. Hãy tỉnh thức và đợi chờ--Lm Mark Link

65. Chờ đợi Chúa đến--Lm. Luy Hữu Độ

66. Mở rộng tâm hồn đón Chúa--Lm Nguyễn Bình An

67. Chúa Nhật 1 Mùa Vọng--Fiches Dominicales

68. Người giữ cửa canh thức ban đêm--Lm. FX Vũ Phan Long

69. Hãy tỉnh thức--‘Suy Niệm Tin Mừng’--Noel Quesson

70. Chú giải của Noel Quesson

71. Người gác cửa tỉnh thức ban đêm-- Giáo hoàng Học viện Piô X Đà Lạt

72. Đời Kitô hữu là đời canh thức và coi chừng--Lm. Joshepus Quang Nguyễn

73. Chúa Nhật 1 Mùa Vọng--Lm. Anthony Trung Thành

74. Những cuộc vi hành của Đức Kitô--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest

75. Chúa Nhật 1 Mùa Vọng--‘Giảng Lễ Chúa Nhật’--Yvane Fournier-Guérard

76. Chờ đợi, nhưng phải tỉnh thức--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.

77. Đợi trông như thế nào?--Jos. Vinc. Ngọc Biển

78. Phải canh thức--Lm. Trầm Phúc

79. Phải canh thức!--Lm. Trầm Phúc

80. Tỉnh thức

81. Chúa Nhật 1 Mùa Vọng

82. Hãy tỉnh thức

83. Tỉnh thức

84. Hãy canh thức, hãy sẵn sàng

85. Sẵn sàng

86. Trách nhiệm

87. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng

88. Tỉnh thức đón Chúa

89. Sự mê ngủ

90. Những đầy tớ

91. Tỉnh thức

92. Hãy tỉnh thức

93. Hãy tỉnh thức

94. Mùa vọng

95. Đi trong đường nẻo Chúa

96. Canh phòng

97. Tỉnh thức

98. Tỉnh thức--Huệ Minh

 

1.Người giữ cửa--‘Manna’
Suy Niệm

Có bao nhiêu thời gian sống ở đời

được chúng ta dành cho việc chờ đợi?

Có sự chờ đợi làm ta căng thẳng, mệt mỏi;

nhưng cũng có sự chờ đợi

đem lại hương vị và ý nghĩa cho cuộc sống.

Người mẹ tần tảo nuôi con, chờ ngày con thành tài.

Người vợ chờ đợi ngày chồng trở về từ biên ải.

Con người không chỉ sống bằng quá khứ

nhưng còn bằng những ngóng đợi về tương lai.

Cái tương lai tưởng như mơ hồ, xa xôi

mà lại lôi kéo được cái hiện tại đi về một hướng.

Biết sống là biết chờ đợi

Chờ đợi làm nên cuộc sống.

Mùa vọng đưa ta đi vào thái độ chờ đợi.

Chờ đợi Chúa sẽ đến trong vinh quang mai này.

Chờ đợi Chúa vẫn đến trong niềm vui và nước mắt.

Chờ như người giữ cửa thức trắng đêm,

vì không biết giờ nào chủ trở về.

Nhưng chờ không phải là thụ động khoanh tay

mà là vuông tròn sứ mạng được giao phó.

Ông chủ đi xa đã để lại ngôi nhà,

giao quyền cho các đầy tớ, mỗi người một việc (câu 34).

Có lẽ từ lâu ta đã thấy không cần chờ đợi Chúa,

vì chúng ta có quá nhiều điều khác để đợi mong,

những điều gần gũi hơn, thiết thực hơn, cấp bách hơn.

Hãy nói cho tôi biết, bạn đang chờ gì,

tôi sẽ nói cho bạn biết, bạn đang đi về đâu.

Nếu không có Ai để chờ,

thì cũng chẳng cần tỉnh thức.

Tỉnh thức trong đêm tối đâu phải là chuyện dễ dàng.

"Ngài trở lại và thấy các môn đệ đang ngủ...

Rồi Ngài lại đến và thấy họ vẫn đang ngủ,

đôi mắt họ li bì nặng giấc" (Mt 26, 40-45).

Chiến đấu chống lại sự buồn ngủ của mắt

còn dễ dàng hơn chống lại sự mê ngủ của tinh thần.

Cuộc sống vật chất ngày càng cao

cung ứng cho con người biết bao thứ ru ngủ

và đưa con người vào cơn mê mà họ không hay biết.

Ma túy là mối đe dọa giới trẻ hôm nay.

Ma túy đi vào trường học, được bán ở cổng trường,

để chích, để hút, để ngửi.

Nó cho người ta sống lâng lâng trong một thế giới ảo,

để rồi không còn khả năng sống đời thực của mình nữa.

Nhưng ma túy đâu phải chỉ là bạch phiến, cần sa.

Ma túy là tất cả những gì gây nghiện,

khiến con người thành nô lệ và đánh mất mình.

Tiền bạc, tiếng tăm, tình dục, tiện nghi...

vẫn là những thứ ma túy mê hoặc con người.

Mùa Vọng là mùa tỉnh thức, để thành thật tự hỏi:

"Tôi đang nghiện thứ ma túy gì?"

Gợi Ý Chia Sẻ

Sống là có ước mơ và chờ đợi. Đâu là những ước mơ của bạn? Chúa có chỗ trong những ước mơ đó không?

Có bạn trẻ coi chuyện tình cảm là chuyện hết sức quan trọng, đến độ dám tự tử nếu cuộc tình đổ vỡ. Bạn nghĩ thế nào là thái độ quân bình nên có khi yêu nhau?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin đánh thức con.

Xin đưa con ra khỏi cơn mê

mà tự sức con không sao thoát ra được.

Xin đừng ngại đánh thức con

bằng những biến cố đôi khi mạnh mẽ,

nhưng xin cho con thấy bàn tay Chúa nhân từ

đang cắt tỉa con vì yêu con.

Ước gì con được tỉnh táo

để nhìn lại vẻ đẹp từng làm con say mê,

những chỗ dựa mà con tưởng là tuyệt đối.

Như ngọn đèn chầu trong nhà nguyện,

xin cho con thức luôn và sáng luôn, trước nhan Chúa.

 

2.Tỉnh thức và canh thức--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm

Trong Kinh Tin kính, có hai tín điều mà ta còn phải chờ.

“Và Ngài sẽ lại đến trong vinh quang

để phán xét kẻ sống và kẻ chết.”

“Tôi trông đợi kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau.”

Cả hai điều trên đều chưa xảy ra, nhưng là nỗi chờ mong

của các kitô hữu từ hai mươi thế kỷ.

Người Do-thái chờ Đấng Mêsia đến trần gian,

còn kitô hữu chờ ngày Con Thiên Chúa trở lại.

Đôi khi chúng ta nghĩ Đức Giêsu đã phục sinh và lên trời,

như thế là xong, Ngài chẳng còn phải làm gì nữa.

Thật ra khi phục sinh, Đức Giêsu đã chiến thắng thần chết,

nhưng Ngài chưa toàn thắng, và cuộc chiến vẫn còn kéo dài.

Thiên Chúa chưa “bắt muôn loài quy phục dưới chân Ngài”

và kẻ thù cuối cùng là sự chết vẫn chưa bị tiêu diệt (1 Cr 15,24-28).

Hai tín điều trong Kinh Tin kính mà ta còn phải chờ

lại là hai biến cố trùng nhau về thời gian.

Ngày Chúa Giêsu trở lại như một thẩm phán đầy quyền năng

cũng là ngày tận thế, ngày thân xác kẻ chết sống lại.

Ngày đó thật là một ngày quan trọng cho cả vũ trụ loài người,

và cũng là ngày vinh quang lớn lao cho chính Chúa Giêsu.

Nhiều người đoán già đoán non về lúc nào ngày ấy đến.

Đã có những lời đồn đoán về ngày tận thế, và tất cả đều sai.

Có người đã bán cả nhà cửa ruộng vườn để ngồi chờ tận thế.

Có người bỏ cả công ăn việc làm, nhưng chẳng thấy gì xảy ra.

Họ quên rằng chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa mang phận người,

cũng thú nhận chỉ mình Chúa Cha mới biết về Ngày ấy (Mc 13,32).

Chúng ta tin Ngày ấy thế nào rồi cũng đến,

nhưng chúng ta không biết rõ khi nào (Mc 13,33.35.36).

Chính vì thế đời của kitô hữu tự bản chất là chờ đợi.

Nếu Chúa Giêsu không quang lâm,

công trình cứu độ vẫn chưa hoàn thành trọn vẹn,

và Thiên Chúa chưa “là tất cả trong muôn loài” (1 Cr 15,28).

Nhưng kitô hữu không khoanh tay chờ suông cách thụ động.

Bài Tin Mừng hôm nay dạy ta cách chờ.

Chúng ta là những đầy tớ được ông chủ đi xa tin cậy,

giao nhà và giao cả quyền hành, phân công mỗi người mỗi việc.

Chúng ta là anh giữ cửa, có nhiệm vụ mở cửa ngay khi chủ về.

Thường thì ông chủ không về vào ban đêm,

vì trời thì tối, đường không có đèn, ẩn chứa nhiều nguy hiểm.

Nhưng biết đâu ông chủ lại bất thần trở về

vào lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng.

Đó là lúc mọi người dễ chìm trong giấc ngủ say.

“Hãy tỉnh thức! Hãy canh thức!” Đức Giêsu nhắc lại nhiều lần,

không phải chỉ cho bốn môn đệ thân tín (Mc 13,3),

mà cho mọi người và từng người chúng ta (Mc 13,37).

Không phải Ngài cấm chúng ta ngủ trưa hay ngủ tối.

Nhưng Ngài dạy chúng ta đừng ngủ mê trong tội.

Khi ngủ mê, người ta quên mình là đầy tớ,

nhận quyền hành của chủ để chu toàn công việc được giao.

Khi ngủ mê, người ta để chủ ban đêm đứng chờ ngoài cửa.

Sống ở đời, ta dễ bị ru ngủ bởi nhiều thứ gây nghiện.

Thế gian này quá hấp dẫn khiến ta nghĩ nó là vĩnh cửu.

nghĩ chuyện Chúa quang lâm là chuyện không đáng tin (2 Pr 3,4).

chẳng có thưởng phạt, cũng chẳng có phục sinh cho thân xác.

Thái độ thức tỉnh đòi hỏi ta cảnh giác liên tục.

Chính vì không biết lúc nào chủ về, lúc nào Chúa đến

nên lúc nào ta cũng phải sẵn sàng, tích cực chờ đợi,

để ra đón Chúa trong niềm vui bình an.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã yêu trái đất này,

và đã sống trọn phận người ở đó.

Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc,

sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời,

nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,

chúng con thấy mình được thêm sức mạnh

để xây dựng trái đất này,

và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,

xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời

không làm chúng con quên trời cao,

và những vẻ đẹp của trần gian

không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.

Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,

mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

 

3.Tỉnh thức và cầu nguyện--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Chúa sẽ đến nhưng ta không chắc gặp được Người. Vì Người đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa ta phải tỉnh thức.

Tỉnh thức có nghĩa là đừng mê ngủ. Chúa thường hay đến vào ban đêm nghĩa là vào lúc ta không ngờ. Đời sống có những bóng đêm ru ta ngủ say mê khiến ta không gặp được Người. Có những bóng đêm của tội lỗi giam cầm hồn ta trong giấc ngủ bạc nhược khiến ta không còn đủ sức thoát ra. Tội lỗi lôi kéo tội lỗi. Tội lỗi chồng chất giống như những tảng đá gìm ta xuống vực sâu vô tận. Có những bóng đêm của danh vọng ru hồn ta ngủ quên trên vinh quang chói lọi. Vinh quang giống như ngọn đèn đốt cháy biết bao đời thiêu thân. Có những bóng đêm của xác thịt cuốn hồn ta vào giấc mộng lạc thú. Lạc thú giống như chiếc lưới rất mềm mại, rất nhẹ nhàng, nhưng rất hiểm độc. Linh hồn đã sa vào khó có thể thoát ra. Có những bóng đêm của thói ích kỷ chỉ biết sống cho bản thân mình. Ích kỷ giống như một hang sâu, càng đi vào càng thấy tối tăm. Có những bóng đêm của tiền tài bao phủ ta trong giấc mộng giàu sang phú quí. Chìm đắm trong giấc mộng, ta sẽ chẳng nghe được bước chân Chúa đi qua.

Tỉnh thức cũng có nghĩa là tỉnh táo phân định. Chúa đến rất âm thầm và rất bé nhỏ. Người không đến với cờ quạt trống phách tưng bừng, nhưng đến trong âm thầm lặng lẽ. Người không đến trong uy nghi lẫm liệt của những vị vương đế, nhưng Người đến trong hiền lành khiêm nhường như một người phục vụ. Người không mặc gấm vóc lụa là, nhưng đơn sơ trong y phục dân dã. Người không đến như vị quan toà nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một người bạn dễ thương dễ mến. Người đang đến qua những con người hiền lành bé nhỏ quanh ta. Người đang đến trong những con người khốn khổ túng cùng. Người đang đến qua những khuôn mặt xanh xao hốc hác. Người đang đến trong những tấm thân gầy guộc. Người lẫn vào giữa đám đông vô danh. Người chìm mất trong số những kẻ bị loại ra ngoài lề xã hội. Người ẩn mình giữa đám người ăn xin đang lê bước khắp các nẻo đường cát bụi. Người đang rét run với cặp mắt ngơ ngác thất thần ở giữa những nạn nhân bão lụt. Phải tỉnh táo lắm mới nhận ra Người. Phải tỉnh thức lắm mới gặp được Người.

Tỉnh thức không có nghĩa là cứ ngồi đó mà chờ đợi. Tỉnh thức là bắt tay vào hành động. Chúa như ông chủ đi vắng. Người cho ta được toàn quyền khi Người vắng nhà. Người giao trách nhiệm cho ta trông coi gia đình ta, giáo xứ ta, địa phương ta, đất nước ta và cả thế giới nơi ta đang sống. Ta được tự do hành động. Ta có trách nhiệm làm cho gia đình, xứ đạo, địa phương, đất nước, và cả thế giới được phát triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức là nhìn thấy ý Chúa trong những trào lưu thời đại. Tỉnh thức là nhận biết Chúa hành động trong những tâm hồn thiện chí thuộc các niềm tin, mầu da, quan điểm khác nhau để biết cộng tác trong việc xây dựng xã hội. Tỉnh thức là dấn thân hy sinh phục vụ anh em trong quên mình.

Ngay từ đầu mùa Vọng, Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức. Hãy bước ra khỏi giấc ngủ miệt mài, lười biếng. Hãy đoạn tuyệt với những giấc mộng phù hoa. Hãy thôi đuổi theo những đam mê dục vọng. Hãy nói không với những đồng tiền bất chính.

Hãy tỉnh táo phân định để nhận ra dung mạo thực sự của Đức Kitô. Đừng chạy theo những khuôn mặt mang dáng vẻ cao sang quyền quý. Đừng chạy theo những khuôn mặt nặng về quyền lực. Đừng chạy theo những lời hứa hẹn giàu sang. Dung mạo đích thực của Đức Kitô là nghèo hèn, là khiêm nhường, là bé nhỏ.

Hãy tỉnh thức để làm việc không ngừng, để quên mình, hi sinh phục vụ cho lợi ích của đồng loại.

Như thế, tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên ta phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Có ơn Chúa thúc đẩy, ta mới có thể dứt bỏ con đường tội lỗi xưa cũ. Có ơn Chúa soi sáng, ta mới đủ tỉnh táo nhận ra dung mạo đích thực của Đức Giêsu. Có ơn Chúa trợ giúp, ta mới đủ hăng hái ra đi phục vụ trong quên mình.

Lạy Chúa, xin giữ hồn con tỉnh thức để con nhận biết Chúa đang đến với con trong cuộc sống hằng ngày. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Tỉnh thức là đừng mê ngủ. Hãy kể ra những bóng tối khiến ta mê ngủ?

2) Tỉnh thức là tỉnh táo phân định. Làm thế nào để nhận ra khi Chúa đến?

3) Tỉnh thức là phải hành động. Muốn tỉnh thức, bạn phải làm những gì?

4) Mùa Vọng này, bạn quyết tâm làm gì để tỉnh thức?

 

4.Niềm khát vọng khôn nguôi--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Thượng đế đã đặt để nơi sâu thẳm của cõi lòng con người khát vọng chân lý. Bất kể thuộc về nền văn hoá hay chủng tộc quốc gia nào, con người đau đáu một niềm đi tìm sự thật. Con người hướng về Chân lý như cây cỏ hướng về mặt trời, như dòng suối chảy về nguồn cội và như con thơ hướng về mẹ hiền. Dưới nhãn quan Kitô giáo, đích điểm mà con người đang kiếm tìm chính là Thiên Chúa. Ngài là Cội nguồn của Chân lý và cũng Cội nguồn của sự thánh thiện. Như thế, cuộc sống trần gian là một hành trình đi kiếm tìm Thiên Chúa. Chỉ khi nào gặp Thiên Chúa, con người mới tìm thấy sự bình an đích thực. Thánh Augustinô đã thốt lên: “Lạy Chúa, tâm hồn con khắc khoải khôn nguôi, cho đến khi nào được an nghỉ trong Chúa mới thoả mãn”. Sống ở trần gian, con người luôn hoài niệm về Thiên Chúa, luôn mang trong mình niềm khát vọng khôn nguôi và luôn cố gắng để đi tìm Chúa.

Mùa Vọng diễn tả niềm khao khát Chúa, đồng thời giúp cho chúng ta gặp gỡ Ngài. Ngôn sứ Isaia đã diễn tả nỗi mong chờ da diết của con người. Họ đang khao khát Chúa và muốn được gặp Ngài. Vẫn biết rằng Thiên Chúa chí thánh mà con người thì phàm hèn, nhưng trong lời cầu nguyện của mình, tác giả vẫn xin Chúa “xé tầng trời mà xuống” để vượt qua ranh giới giữa Thiên Chúa và con người. Bởi lẽ, ông xác tín rằng, có Chúa là có tất cả. Khi Chúa ghé mắt yêu thương thì con người sẽ tràn ngập niềm vui và hạnh phúc. Khi suy tư về cuộc sống, con người thấy họ không thể sống mà không có Thiên Chúa. Vắng bóng Thiên Chúa, cuộc đời này sẽ trở nên vô nghĩa. Con người sẽ đi trong một hành trình vô định, tức là đi mà không biết mình đi về đâu.

“Trời cao hãy đổ sương xuống!”. Đó là nỗi khao khát của vũ trụ, của con người và của tạo vật. Như sương mai làm cho đất đai màu mỡ và làm cho muôn vật hồi sinh sau những tháng ngày khô khan hoang mạc, sự hiện diện của Chúa giúp tâm hồn tìm lại niềm vui.

Thực ra, Thiên Chúa không ở đâu xa. Ngài đang hiện diện trong cuộc sống của chúng ta. Phụng vụ của Mùa Vọng muốn nói với chúng ta: hãy mở rộng tâm hồn để đón nhận Ngài. Tin Mừng Chúa nhật thứ nhất mùa Vọng là lời kêu gọi tỉnh thức cầu nguyện. Giữa cuộc đời bôn ba nhiều bon chen tính toán, con người dễ bị lôi kéo theo những đam mê mà quên mất mục đích cuộc đời, để rồi lạc vào mê hồn trận của những toan tính đời thường. Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI đã viết: “Chủ nghĩa nhân bản loại trừ Thiên Chúa là một chủ nghĩa phi nhân. Chỉ có thứ nhân bản mở ra cho Tuyệt Đối mới có thể giúp ta cổ võ và đạt được những hình thức sống xã hội và dân sự – trên bình diện cơ cấu, tổ chức, văn hoá, đạo đức -, bằng cách nó giữ ta khỏi rơi vào tình trạng nô lệ cho những cái mốt, những cái thời thượng” (Thông điệp Bác ái trong Chân lý, số 78). Đây cũng là cám dỗ lớn nhất mà loài người từ thời nguyên thủy đã gặp phải, đó là muốn nên như Thiên Chúa và tin rằng có thể thay thế Ngài (x. St chương 3). Nhân loại của chúng ta hơn bao giờ hết đang cần đến Thiên Chúa. Tình trạng xã hội hôm nay kinh nghiệm rõ về điều này: một khi khước từ Thiên Chúa, hậu quả là cuộc sống đầy bạo lực, giết chóc, tệ nạn xã hội, lừa đảo dối trá, luân thường đạo lý suy đồi.

“Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ”. Mỗi chúng ta hiện hữu trên trần gian đều giống như người đầy tớ được ông chủ trao phó cho coi sóc tài sản. Người đầy tớ hay người quản lý đều phải trung thành cần mẫn với công việc. Những người chủ quan, lười biếng, thờ ơ với bổn phận chắc chắn sẽ phải lãnh nhận án phạt.

Thánh Phaolô nói với chúng ta về một khía cạnh khác của tình trạng tỉnh thức, đó là ăn rễ sâu trong giáo huấn của Chúa Giêsu, tức là đón nhận và thực thi lời dạy của Chúa. Nhờ thực thi Lời Chúa, người tín hữu luôn sẵn sàng chờ đón Chúa đến mà không phải lo sợ bất cứ điều gì, giống như một đầy tớ luôn chu toàn bổn phận thì không lo lắng về việc chủ trở về. Tác giả thư gửi giáo dân Côrinthô hài lòng về đời sống đức tin của các cá nhân cũng như của cả cộng đoàn, đồng thời khích lệ mọi người hãy gia tăng lòng mến, với niềm xác tín Chúa đang hiện diện và đồng hành với những ai tin tưởng yêu mến Người (Bài đọc II).

Mùa Vọng đã khởi đầu, chúng ta hãy thức tỉnh và ra khỏi cơn mê. Mùa Vọng và Mùa Giáng sinh không chỉ thể hiện qua những điệu nhạc du dương và những trang trí lộng lẫy, nhưng phải giúp người tín hữu gặp được Chúa, là Đấng Emmanuen, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chính Người là Đấng có thể lấp đầy những khát vọng thâm sâu của nhân loại và của cá nhân mỗi người.

 

5.Chờ đợi trong tỉnh thức--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Ai trong chúng ta cũng đã có những lúc chờ đợi: chờ đợi một biến cố hoặc một người thân. Chờ đợi bao giờ cũng làm chúng ta hồi hộp, trăn trở, nôn nóng. Những lúc chờ đợi, dường như thời gian trôi chậm hơn. Khi chờ đợi một sự kiện hay một người thân, cũng là lúc chúng ta liên tưởng nhiều về sự kiện hay về người thân đó. Sự chờ đợi càng lâu, niềm vui càng lớn lao và vỡ òa khi gặp gỡ.

Năm Phụng vụ khởi đầu với một thời gian mang tên “Mùa Vọng” hay “Mùa Đợi”. Mùa Phụng vụ này nhắc nhớ chúng ta đợi chờ Chúa đến trong cuộc đời. Thực ra, Thiên Chúa vẫn hiện diện và tỏa ánh vinh quang của Ngài trong cuộc sống, nhưng để gặp gỡ Ngài, mỗi người phải nỗ lực tìm kiếm và mở rộng tâm hồn để đón tiếp Ngài. Những ai thành tâm tìm kiếm và gặp gỡ Chúa sẽ được Ngài hướng dẫn và phù trợ. Có Chúa trong đời, chúng ta sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc.

Chúa vẫn hiện diện, như dòng suối vẫn miên man chảy tứ thời bát tiết. Người thành tâm kiếm tìm Chúa sẽ giống như người đến múc nước nơi dòng suối và mang về nhà mình. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời chúng ta thật lạ kỳ. Bởi lẽ Chúa vừa hữu hình vừa vô hình, vừa hiện diện, vừa vắng mặt. Người tìm được Chúa rồi, lại khao khát tiếp tục tìm Chúa để hiểu biết Chúa hơn, vì gặp gỡ Chúa đem lại sự dịu ngọt và niềm vui hạnh phúc cho tâm hồn. Hiểu như thế, suốt cuộc đời tín hữu chúng ta là một vòng xoay của sự chờ đợi, tìm kiếm, gặp gỡ, rồi lại tìm kiếp tiếp cho đến khi thực sự gặp Chúa trực tiếp, mặt giáp mặt chứ không còn như trong gương. Đó là tình trạng hạnh phúc thiên đàng những ai yêu mến Chúa sẽ được hưởng.

Ngôn sứ Isaia diễn tả niềm mong đợi Chúa của dân Israen (Bài đọc I). Đối với những người Do Thái lưu đày, họ cảm nghiệm được nỗi đau của kiếp nô lệ. Không còn Đền thờ, không còn lễ nghi phục vụ, họ thấy cuộc sống của họ thật vô nghĩa. Họ cần Chúa như con người cần hơi thở, như cỏ cây cần ánh mặt trời. Vắng Chúa, cuộc đời họ sẽ suy tàn, sự nhơ uế sẽ lan tràn khắp chốn. Lời cầu nguyện của vị ngôn sứ cũng là lời than van của dân chúng. Họ cầu xin Chúa đến để nâng đỡ và giải thoát họ, đem cho họ ánh sáng và niềm tin.

Niềm khao khát của Israen cũng là niềm khao khát của thời đại chúng ta. Con người thời nay cậy dựa vào những triết thuyết vô thần và những thành tựu của khoa học để chối bỏ Thiên Chúa. Thay vì tôn thờ Đấng Tạo Hóa, người ta tôn thờ khoa học kỹ thuật vì cho rằng khoa học kỹ thuật có thể trả lời được mọi vấn nạn của cuộc sống. Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI đã viết:“Chủ nghĩa nhân bản loại trừ Thiên Chúa là một chủ nghĩa phi nhân. Chỉ có thứ nhân bản mở ra cho Tuyệt Đối mới có thể giúp ta cổ võ và đạt được được những hình thức sống xã hội và dân sự - trên bình diện cơ cấu, tổ chức, văn hoá, đạo đức -, bằng cách nó giữ ta khỏi rơi vào tình trạng nô lệ cho những cái mốt, những cái thời thượng”(Thông điệp Bác ái trong Chân lý, số 78). Đây cũng là cám dỗ lớn nhất mà loài người từ thời nguyên thủy đã gặp phải, đó là muốn nên như Thiên Chúa và tin rằng có thể thay thế Ngài (x. St chương 3). Nhân loại của chúng ta hơn bao giờ hết đang cần đến Thiên Chúa. Xã hội Việt Nam của chúng ta hôm nay cho thấy kinh nghiệm rõ về điều này: một khi khước từ Thiên Chúa, hậu quả là cuộc sống đầy bạo lực, giết chóc, tệ nạn xã hội, lừa đảo dối trá, luân thường đạo lý suy đồi.

Lời Chúa hôm nay nói đến nỗ lực cố gắng của chúng ta trong khi chờ đợi Chúa. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh một người chủ đi xa trao nhà cho đầy tớ coi sóc. Mỗi người một việc, người thì coi ban ngày, người thì gác ban đêm. Ông chủ sẽ về bất cứ lúc nào. Những người coi nhà buộc phải tỉnh thức và thận trọng để lúc chủ về, không những thấy họ còn thức mà còn thấy tài sản còn nguyên vẹn.

Mùa Vọng giống như “nốt nhấn” của bản nhạc cuộc đời. Đây là thời điểm Giáo Hội mời gọi chúng ta xác định vị trí của Chúa trong đời chúng ta cũng như tình trạng tâm hồn của mình. Chúa đang đến trong cuộc đời chúng ta. Lễ Giáng Sinh là một kỷ niệm đẹp của mối tình Thiên Chúa – Con người. Sau bao thế hệ xa cách, nay Thiên Chúa đã chủ động đến với con người. Ngài hạ cố đến gặp gỡ con người và tâm tình nghĩa thiết với họ. Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, chính là bằng chứng hữu hình của sự nghĩa thiết ấy.

Chờ đợi trong tỉnh thức, đó là tâm tình của mỗi tín hữu chúng ta trong suốt cuộc đời. Lạy Chúa, xin hãy xé trời mà ngự xuống. Xin hãy đến để nâng đỡ và soi sáng chúng con. Amen.

 

6.Tỉnh thức--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Mở đầu niên lịch Phụng vụ, ba bài đọc Thánh Kinh của Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng năm nay phác họa lại cho chúng ta một vài thái độ trong khung cảnh sống của Dân Chúa: ngay giữa đêm tối của thử thách, nghi ngờ, phấn đấu, tội lỗi, Dân Chúa đã cùng nhau tự thú những lỗi phạm của mình, cương quyết sống trung kiên mong chờ ngày Quang Lâm của Chúa Giêsu Kitô trong niềm tin tưởng và thái độ tỉnh thức.

Quả vậy, bài đọc Isaia 63,16-64,7 trình bày lại bối cảnh của đoàn dân Thiên Chúa sau thời Lưu đày. Kinh nghiệm ê chề của những năm tháng sống kiếp nô dịch trên phần đất ngoại bang đã đem lại cho họ một ý thức tập thể về những lỗi phạm của mình. Họ ngước mắt nhìn về Thiên Chúa là Cha để thốt lên lời khẩn nguyện: "Ôi phải chi Người xé trời ngự xuống, thì núi non cũng sẽ tiêu tan trước Nhan Ngài". Tâm trạng hối lỗi và tha thiết khẩn nài ơn cứu độ đã giúp Dân Chúa nhận định lại ơn gọi của mình để sống trọn vai trò chứng nhân trung thành giữa muôn dân qua thân phận mỏng dòn và hèn yếu của cuộc sống con người.

Bảy thế kỷ sau, khoảng 25 năm sau ngày Đức Kitô về trời, thánh Phaolô cũng đã nhắc nhở lại ơn gọi thực sự của người Kitô hữu: không những chỉ ý thức những sai lỗi của mình, nhưng còn phải sống vươn lên mong chờ ngày Đức Kitô trở lại. Các cộng đoàn tín hữu tiên khởi đã sống trong hoàn cảnh hồi hộp, nao nức mong chờ ngày trọng đại đó. Những lời nguyện: "Maranatha, Lạy Chúa, xin hãy trở lại" (1Cr 16,22) càng đặt họ vào tâm trạng xao xuyến và đầy xúc động. Ngài ở đây! Ngài ở kia! (2Th 2,2). Và có khi vì mỏi mệt đợi chờ, họ đã không ngần ngại thốt lên: "Có lẽ Ngài đến chậm".

Tâm trạng khắc khoải đó cần bắt gặp được một cái gì vững chắc củng cố lòng tin tưởng: nếu không, thái độ tỉnh thức mong chờ của họ sẽ hão huyền, ảo vọng.

Quả vậy, mỗi lần cử hành nghi lễ bẻ bánh, cộng đoàn dân Chúa vẫn long trọng tuyên xưng lại niềm tin của mình:

"Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến".

Nỗi lòng mong chờ khắc khoải đó như được xoa dịu và soi sáng bởi lời Đức Kitô trong đoạn Tin Mừng theo thánh Marcô 13,33-37. Ngài như một chủ nhà phải ra đi, vắng xa và vắng lâu. Sau khi trao phận sự quản lý cơ nghiệp cho gia nhân, mỗi người theo chức vụ của mình, Ngài đặc biệt tín cẩn và căn dặn người canh cửa: "Hãy tỉnh thức". Phải, hãy tỉnh thức để đón chờ ngày tái ngộ. Cuộc tái ngộ có thể xảy ra một cách rất bất ưng vào một lúc nào đó trong ban đêm. Gia nhân và nhất là người canh cửa phải tỉnh thức, luôn sống trong ánh sáng ban ngày để không ngái ngủ, không thất hứa với chủ nhà trước lúc ra đi.

Đặt đoạn văn trên vào khung cảnh lịch sử cứu độ, giữa ngày về trời và ngày trở lại của Đức Kitô, chúng ta có thể nói, thái độ tỉnh thức đó chính là thái độ của Giáo hội, của toàn dân Chúa và nhất là của những người hữu trách các cộng đoàn.

Nhưng tại sao phải tỉnh thức?

Vì trước tiên, đó là ý muốn, là mệnh lệnh của chủ nhà. Để cho cửa nhà êm ấm, an toàn và trường tồn, phận sự của người canh cửa, không phải chỉ lo bảo vệ ngôi nhà, mà còn phải lưu tâm đến những người sống trong đó.

Ngoài ra, tỉnh thức còn là thái độ của một gia nhân trung thành đối với người đã tín nhiệm, ủy thác trách vụ cho mình. Và chắc chắn niềm vui của ngày tái ngộ sẽ trọn vẹn nếu chủ nhà gặp được gia nhân trong tư thế đợi chờ và sẵn sàng.

Hơn thế nữa, tỉnh thức cũng là để khỏi rơi vào giấc ngủ! Mà thường người ta chỉ ngủ lúc ban đêm, trong bóng tối! Theo nghĩa Thánh Kinh, ban đêm, bóng tối, gợi lên cho chúng ta hình ảnh một môi trường đầy nguy hiểm, đầy thử thách. Bóng đêm đối nghịch lại ánh sáng ban ngày. Đó là chiều kích thử thách của cuộc sống. Nó đưa đến tội lỗi, đau khổ, sự dữ... Nó đưa đến sa ngã, nản chí, nghi ngờ. Người canh cửa có thể bội phản người thân xa vắng, để chạy theo những quyến rũ của kẻ khác, của ngẫu tượng đồng lõa với bóng đêm.

Và tỉnh thức như thế nào?

Phải chăng là thắp đèn ngồi chờ? Là sống trong tâm trạng viễn vông! Không! Đọc lại Thánh Kinh và lịch sử dân Chúa, chúng ta thấy việc tỉnh thức đợi chờ không phải là một thái độ thụ động. Nhưng là một hành vi ý thức của người hiểu biết lý do.

Vì thế, thái độ tỉnh thức của Giáo hội và đặc biệt của những người hữu trách dân Chúa phải sống động và đầy tính chất sáng tạo. Đó là thức tỉnh hiệp thông với người bạn của mình. Đó là thái độ của một người bạn trung thành, cởi mở để luôn lắng nghe lời nói của bạn mình. Như thế, tỉnh thức đối với Giáo hội, có nghĩa là không ngừng chiến đấu để sinh tồn, để trung thành với Lời Chúa. Dầu xa vắng, nhưng hầu như tiếng nói, lời hứa và sự hiện diện của Ngài luôn xoáy động trong lòng Giáo hội và chi phối mọi sinh hoạt của dân Chúa. Với ánh đèn soi sáng và sưởi ấm đó, Giáo hội như có một nghị lực để cảm thông và tìm ra được ý muốn của Ngài qua mọi biến cố trong cuộc sống, qua mọi dấu chỉ thời đại.

Sự đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối tạo nên trong tâm hồn mỗi người và trong đời sống Giáo hội một sự giằng co căng thẳng, mà chúng ta phải dùng như một đà tiến để vươn lên, Giáo hội có phận sự rút kinh nghiệm từ các sự kiện xảy ra trong lịch sử quá khứ và hiện tại để sửa chữa lỗi lầm, tự thanh luyện mình để tiến tới sự hoàn thiện như Chúa Kitô mong muốn. Đặc biệt Giáo hội phải sẵn sàng từ bỏ địa vị ưu thế trong xã hội để chấp nhận thân phận đầy tớ phục vụ chủ nhà mình và anh em.

Để tỉnh thức chờ Chúa đến, Giáo hội phải nhẹ lòng đối với của cải trần thế và dứt khoát với những quyến rũ của các ngẫu tượng. Khi làm như thế, Giáo hội thực sự đang cầm đèn trong tay sẵn sàng đợi Đức Kitô, vì ngày trở lại của Ngài sẽ xảy tới bất chợt.

Đồng thời, nếp sống của Giáo hội sẽ là ánh sáng thức tỉnh mọi người để họ nhận ra Đức Kitô là Đấng Cứu Thế đích thực. Giáo hội đang mang trong lòng sức sống và động lực thúc đẩy chính mình và cả thế giới tiến lên gặp Đức Kitô. Thế nên, tỉnh thức là phận sự cần thiết của những con người chứng nhân cho ánh sáng. Và Giáo hội phải là kho dự trữ sức sống phong phú và sung mãn chuẩn bị cho mọi người đón nhận thời viễn lai. Vì thế, khi hướng về ngày Chúa Kitô trở lại, Giáo hội quả là niềm hy vọng cho toàn thể thế giới và vũ trụ.

BÀI GIẢNG

1. Đời sống con người, có thể nói, bao giờ cũng bao hàm một khía cạnh đau thương khổ sở. Không phải chỉ thời nay mới khổ; thời trước cũng đã khổ rồi và bao lâu còn sống ở trần gian thì con người vẫn phải chịu đựng hy sinh và đau khổ. Bài sách Isaia chúng ta đọc hôm nay, đã được viết ra sau thời dân Dothái bị lưu đày bên Babylon. Bài sách ấy cho ta thấy rằng: tuy hết bị lưu đày, nhưng dân Dothái vẫn tiếp tục gánh chịu đau khổ. Điều làm cho họ đau khổ nhất, chính là họ nhận thức ra rằng họ đã "đi lạc xa đường Chúa", đã "phạm tội" và "đã bị phó mặc cho quyền lực tội lỗi".

Tội lỗi của con người, đó chính là nguyên nhân sâu xa gây nên mọi đau khổ. Bài sách Isaia hôm nay thôi thúc ta nhìn vào khổ sở hiện tại như là tiếng gọi cảnh tỉnh ta nhận thức tội lỗi của mỗi người và của cả nhân loại để mau hoán cải trở về với Thiên Chúa. Ngài là Cha yêu thương, là Đấng cứu độ nhân từ và luôn luôn trung thành với lời Ngài đã hứa.

Những khó khăn kinh tế hiện nay cũng gây nên cho ta những khổ sở, nhưng ta nên biết rằng đó là hậu quả không thể tránh được của một nước vừa bị 30 năm chiến tranh tàn phá như nước ta. Và chúng ta, người công giáo còn phải nhìn nhận như dân Chúa thời xưa "Này Chúa thịnh nộ vì chúng tôi đã phạm tội". Với ý chí đổi đời và cải tạo, với quyết tâm từ bỏ mọi ích kỷ cá nhân, mọi tham lam và hận thù, Chúa sẽ ban cho ta nguồn nghị lực mới để xây dựng một xã hội tốt đẹp và huynh đệ hơn.

2. Trong công cuộc này, chúng ta hãy lắng nghe những lời đầy an ủi trong thư thánh Phaolô: "Tôi hằng cảm tạ Chúa thay cho anh em, vì anh em được đầy tràn mọi ơn, trong khi mong chờ Đức Kitô lại đến". Thánh Phaolô ảo tưởng, không nhìn thấy thực tế sao? Ngài không ảo tưởng. Ngài biết rõ các giáo đoàn của ngài. Họ là dân không giàu có, không thế lực. Nhưng hết thảy họ là những người được kêu mời hiệp nhất với Con Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô. Phải, chúng ta là những con người như thế. Chúng ta đừng chỉ nhìn vào đời sống vật chất của mình để thấy xót xa vì thiếu thốn, nhưng còn phải biết nhìn vào tâm hồn, vào tinh thần, vào thiên chức được làm con cái Thiên Chúa, được vinh dự phát huy tình yêu của Ngài đối với trần gian.

Chúng ta cũng hãy hãnh diện, tin vào ý kiên trì của dân tộc Việt Nam trong quá khứ, đã khắc phục được bao khó khăn để vươn lên trong tư thế độc lập tự do, thì trong tương lai cũng sẽ thành công trong việc xây dựng một nước Việt Nam thống nhất, ấm no và có tình yêu thương giữa mọi người đồng bào cùng máu mủ.

3. Mùa Vọng nhắc lại cho ta cả hai chân lý ấy, một đàng dân Chúa như đang lầm than khổ sở, nhưng đàng khác cũng chính dân ấy đã được bảo đảm một tương lai tốt đẹp, trước hết theo ý nghĩa tinh thần, nhưng sau đó cũng kèm theo tất cả mọi khía cạnh được Chúa thánh hóa để làm nên hạnh phúc toàn diện cho con người. Thế nên, Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay dạy ta hãy tỉnh thức đừng mê ngủ. Những than vãn, thở dài, chỉ làm cho thân xác rũ xương và đời sống trở nên đen tối. Trái lại, nếu tỉnh táo, nhìn về tương lai với niềm tin vững mạnh, thì một chân trời mới đang dần dần mở ra trước mắt ta.

Người tín hữu cũng sống trong trần gian và phải hy sinh gian khổ như mọi người. Nhưng nhờ niềm tin như đèn sáng trong tay, chúng ta là những người đang tỉnh thức chờ Đức Kitô trở lại: Ngài là Chúa đem lại hòa bình, là Đấng cứu độ trần gian. Thế nên, lòng ta tràn đầy hy vọng và ta có phận sự chiếu tỏa niềm hy vọng phấn khởi ấy chung quanh ta.

4. Chúng ta hãy mạnh dạn tuyên xưng niềm tin của Giáo hội chúng ta, trước khi đem cuộc đời lam lũ đặt vào đĩa thánh, hiến dâng sự sống và con người của ta cho vinh quang Nước Trời mà Chúa đang dành cho các con cái của Người.

 

7.Chúa Nhật 1 Mùa Vọng--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ.
“ANH EM PHẢI CANH CHỪNG, PHẢI TỈNH THỨC”

Hôm nay Chúa Nhật I Mùa Vọng, lời đầu tiên của Đức Giê-su mà Giáo Hội muốn chúng ta lắng nghe, đó là lời mời gọi tỉnh thức:

Anh em phải canh chừng, phải tỉnh thức,

vì anh em không biết khi nào thời ấy đến.

(c. 33)

Trong tuần cuối cùng của năm Phụng Vụ vừa qua, chúng ta đã được Giáo Hội cho nghe lời của Đức Giêsu về “thời ấy”, trong sách Tin Mừng theo thánh Luca. Thời ấy là “Ngày của Con Người” và những biến động phổ quát và triệt để trong thiên nhiên cũng như trong thế giới loài người sẽ xẩy ra trước khi Con Người đến.

Để giúp chúng ta sống “cái thời ấy” ngay hôm nay một cách bình an, bởi vì chúng ta tuyệt đối không biết khi nào, Đức Giê-su mời gọi chúng ta hãy “canh chừng” và “tỉnh thức”. Trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, Người dùng một dụ ngôn nhỏ để giúp chúng ta hiểu và sống điều Ngài mời gọi chúng ta là “hãy canh chừng và tỉnh thức”. Dụ ngôn nhỏ nhưng chất chứa nhiều ý nghĩa, hay nói chính xác hơn, nhiều mặc khải.

Canh thức

“Cũng như người kia trẩy đi phương xa”. Trong dụ ngôn các nén bạc, Đức Giêsu cũng dùng hình ảnh này: “Cũng như có một người kia sắp đi xa” (Mt 25, 14). Như thế, có thể nói Đức Giê-su rất thích dùng hình ảnh này để diễn tả tương quan của chúng ta với Ngài, tương quan thiết thân ngay trong thời gian vắng mặt, hay đúng hơn tương quan thiết thân ngang qua các dấu chỉ, nói lên ân huệ và sự hiện diện.

Và trong dụ ngôn của Đức Giêsu, dấu chỉ mà chủ nhà để lại cho các tôi tớ là quá nhiều: ông để nhà lại, ông trao quyền và ông trao việc. Dụ ngôn các nén bạc, tuy dài, nhưng chỉ nói đến nén bạc, nghĩa là “vốn liếng” của mỗi người; còn dụ ngôn hôm nay, tuy ngắn, nhưng lại nói lên gần như tất cả những gì Chúa ban cho chúng ta: căn nhà là tất cả những gì chúng ta có trong cuộc đời, quyền bính trên cuộc đời của chúng ta (ít nhất là tương đối, xét cho cùng, cũng gần như tuyệt đối), và trao sứ mạng: “ông chỉ định cho mỗi người mỗi việc”. Chúa cũng làm thế, và khi làm thế, Ngài trao ban chính lòng tin của Ngài cho chúng ta. Trên đời này, không ai tin chúng ta như Chúa tin chúng ta.

Bóng tối sự dữ

Điều lạ lùng trong dụ ngôn là chỉ có người giữ cửa mới phải canh thức: “Và ông ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức”. Điều này cũng hợp lí, vì chẳng lẽ lại bắt tất cả mọi người trong nhà đêm nào cũng phải canh thức! Như ở trong Nhà Dòng, sẽ có những đêm, cả nhà canh thức, nhưng bình thường chỉ có một số Soeurs hay một số thầy canh thức thôi, để cho mọi người trong nhà ngủ yên!

Người giữ cửa được lệnh canh thức; Đức Giêsu dùng từ ngữ “canh thức”, để gộp lại hai từ ngữ mà Ngài đã dùng lúc đầu: “canh chừng và tỉnh thức”. Vì thế, canh thức có nghĩa là: hãy canh chừng, và để canh chừng thì phải tỉnh thức. Trong dụ ngôn, nhiệm vụ canh thức được giao cho người giữ cửa, nhưng Đức Giêsu lại muốn áp dụng cho tất cả mọi người chúng ta: “Vậy anh em phải canh thức”. Và Chúa đặc biệt mời gọi chúng ta, mọi người Ki-tô hữu và nhất là những người sống đời sống dâng hiến: “Anh chị em hãy canh thức như người giữ cửa”. Và sứ mạng canh thức chỉ diễn ra khi trời bắt đầu tối và hãy còn tối mà thôi, như chính Chúa nói:

Vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến:

lúc chập tối, nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng.

(c. 35)

Điều gây cho chúng ta khó khăn, đó là thời gian mà Đức Giêsu nêu ra, lại là thời gian chúng ta ngủ hằng ngày: chập tối, nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng; hay ít nhất là chúng ta ngủ phần lớn thời gian từ chập tối cho đến tảng sáng! Vì thế, chúng ta được mời gọi hiểu sứ mạng canh thức không phải ở bình diện tự nhiên (nghĩa là trong thời gian có bóng tối). Vì đêm nào cũng canh thức, chúng ta sẽ chết sớm! sứ mạng canh thức mà Đức Giêsu mời gọi, phải được hiểu ở bình diện thiêng liêng, nghĩa là canh thức trong thời gian có bóng tối của sự dữ. Và, như chúng ta đều có kinh nghiệm, bóng tối của sự dữ có thể ập đến với chúng ta, với cộng đoàn chúng ta, với thế giới chúng ta đang sống, bất cứ khi nào, ngày cũng như đêm.

Mùa Vọng

Lời của Đức Giêsu mời gọi các môn đệ: “Hãy coi chừng, hãy ở trong tình trạng tỉnh thức”, lời này trong bối cảnh của Tin Mừng, chuẩn bị các môn đệ bước vào cuộc Thương Khó. Thương khó là giờ của bóng tối, của sự dữ; nhưng đồng thời cũng là giờ của ánh sáng, giờ của sự thiện.

Thời đại chúng ta đang sống cũng có nhiều dấu chỉ nói về giờ của bóng tối: núi lửa hoạt động, những đợt sóng thần, những cơn động đất, nước từ trời trút xuống, nước từ sông biển dâng lên, gió bão hung hãn… Những gì xẩy ra trong thiên nhiên hoàn toàn khớp với những gì con người đang làm cho con người: đó là khủng bố, đó là bạo động, đó là giết hại mầm sống và chính sự sống nhân linh từ trong giai đoạn hình thành kì diệu nhất, tham lam, gian dối, đó là làm thiệt hại và hãm hại người khác, đó là dò xét và lên án, đó là cấm cản giam hãm, đó là áp đặt bằng quyền bính bất chấp ngôi vị, đó là nghi ngờ, không tin tưởng và thiếu tôn trọng người khác. Xét cho cùng, như ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm, những thái độ và cách hành xử như thế, cho dù là nhân danh sự sống, nhân danh lợi ích của tập thể, nhưng thực ra là phá hủy sự sống một cách nghiệm trọng nhất, bởi lẽ đó là cách hành xử của chính Sự Dữ.

Chúng ta bước vào Mùa Vọng kể từ hôm nay. Mùa vọng, khởi đi từ hồng ân lớn lao Chúa đã đến, và hướng chúng ta đến biến cố Chúa chắc chắn sẽ đến. Trong thời gian chờ đợi, tất yếu chúng ta sẽ phải đối diện với bóng tối, không chỉ là bóng tối của thiên nhiên, nhưng nhất là bóng tối của sự dữ.

Chúng ta được Đức Giêsu mời gọi: “Hãy canh chừng và tỉnh thức”. Và cách canh chừng và tỉnh thức tốt nhất là sống tâm tình mà Thánh Phao-lô chia sẻ ngay từ những lời đầu tiên trong thư thứ nhất gởi tín hữu Corintô, đó là không ngừng cảm tạ Thiên Chúa, là Cha chúng ta, vì ân huệ Người đã ban cho chúng ta nơi Đức Giêsu Ki-tô, nhất là nơi Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh và phục sinh:

Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Ki-tô Giê-su. Quả vậy, trong Đức Ki-tô Giê-su, anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người.

(1Cr 1, 45)

 

8.Chúa sẽ đến trong vinh quang--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
Lễ Giáng Sinh nhắc nhớ Kitô-hữu một biến cố rất đặc biệt: Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Giáo Hội không chỉ mừng lễ này như biến cố xảy ra trong quá khứ, mà còn nhắc nhở các tín hữu: Đức Yêsu sẽ lại đến trong vinh quang để đem những kẻ Ngài yêu được ở mãi với Ngài.

1. Ngôn ngữ giới hạn: Ngài không đi làm sao đến lại

Theo thánh Luca, Đức Yêsu Phục Sinh đã lên trời trước mặt các tông đồ (Lk.24, 51; Cv.1, 9). Ngài đã lên trời, và Ngài sẽ trở lại vào ngày cánh chung để phán xét kẻ dữ người lành. Giáo Hội đang chờ mong Chúa tới, và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Ngài hãy đến”.

Tuy nhiên, Tin Mừng theo thánh Matthêu cho thấy Đức Yêsu Phục Sinh không rời con người: “này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt.28, 20). Trong kinh Lạy Cha các tín hữu đọc “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”. Thật sự Thiên Chúa đâu có chỉ ở trên trời, Ngài còn ở trong lòng mỗi người: “Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta, Cha Ta sẽ yêu mến người đó, và chúng ta sẽ đến và ở với người đó” (Ga. 14, 23). Thánh Phaolô nói rằng: “bạn không biết rằng bạn là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự nơi bạn sao?” (1Cor.3, 16). Thiên Chúa luôn ở bên con người. Ngài ở trong chúng ta. Ngài ở gần mình hơn cả chính mình.

Tin Mừng theo thánh Maccô cho thấy Đức Yêsu “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”. Thật sự, Thiên Chúa là Đấng vô hình; Ngài làm gì có tay phải tay trái như chúng ta; như vậy “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” là cách nói diễn tả Đức Yêsu Phục Sinh được tôn vinh ngang bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối, ngôn ngữ con người cũng tương đối như chính con người, nên không thể diễn tả trọn vẹn về Thiên Chúa được. Chúng ta phải cố gắng hiểu điều Thiên Chúa muốn dạy chúng ta qua Giáo Hội với ngôn ngữ con người. Chính vì vậy, tuy dù Đức Yêsu Kitô không rời con người, nhưng hiện tại con người cũng không được thấy Ngài bằng mắt trần, và Kitô-hữu tin rằng Ngài sẽ đến, con người sẽ được thấy Ngài đến trong vinh quang.

2. Hãy chuẩn bị đón Ngài đến

Chúa đã đến, và đã được sinh ra ở Bét-lem nhưng chẳng ai nhận ra để đón tiếp Ngài. Ngài cũng sẽ đến trong vinh quang, nhưng ngày đó chẳng ai biết trừ Thiên Chúa (Mc.13, 32). Thiên Chúa còn đến với mỗi người qua cái chết của mỗi người.

Không ai tránh khỏi cái chết, nhưng thường mỗi người không biết ngày giờ của mình. Đức Yêsu dạy các môn đệ: “Hãy tỉnh thức, vì không biết lúc nào giờ của mình đến”. Có người mong được chết, nhưng vẫn phải chấp nhận sống để kết hiệp với cuộc khổ nạn đau thương của Chúa. Có những người không muốn chết, nhưng Chúa mời gọi họ phải sẵn sàng chấp nhận cái chết như Đức Yêsu đã phải chấp nhận: “xin cho Con khỏi uống chén này, nhưng không phải ý Con mà là ý Cha”.

Mỗi người phải trả lời về cuộc sống của mình. Thiên Chúa đã trao cho mỗi người nén vàng nén bạc là chính tài năng của mình; và Ngài muốn mình sinh lợi ích. Chúng ta đã làm gì với nén vàng tài năng của mình đó. Chúng ta có trở thành chứng nhân tình yêu của Ngài cho những người cần đến chúng ta không? Nếu chúng ta là người cha người mẹ, chúng ta đã đối xử với con cái như thế nào với cương vị người đại diện Thiên Chúa? Nếu chúng ta là người con, chúng ta đã đối xử thế nào với cha mẹ như những người đại diện Thiên Chúa? Chúng ta có là tình yêu cho những người gặp gỡ chúng ta không? Chúng ta có làm cho những người sống với chúng ta được bình an không? Hay chúng ta hành khổ họ, bằng thái độ, bằng ánh mắt, bằng nụ cười, bằng lời nói, và đôi khi bằng cả hành động tàn bạo?

3. Thiên Chúa đang đến để giúp ta bắt đầu một đời sống mới tuyệt hơn

Thiên Chúa là Đấng tuyệt vời. Thiên Chúa là Đấng vượt trên mọi suy nghĩ của con người. Tư tưởng của Thiên Chúa không giống như tư tưởng của con người. “Như trời cao hơn đất, thì tư tưởng của Ta cũng vượt trên tư tưởng của các ngươi”. Thiên Chúa yêu thương, Ngài tha thứ cho con người mọi lỗi lầm, Ngài mời gọi con người hãy trở lại với Ngài, hãy bắt đầu một đời sống mới để bình an và hạnh phúc hơn.

Đời sống mới được bắt đầu nơi chính mình. Hãy chấp nhận chính mình, chấp nhận giới hạn và khả năng của mình, chấp nhận những gì đã và đang xảy đến, để mình được sống bình an và hạnh phúc. Hãy tha thứ cho chính mình, vì Thiên Chúa đã tha thứ cho mình. Hãy làm hòa với Thiên Chúa, và làm hòa với chính mình; để rồi có thể tha thứ và làm hòa với tha nhân. Thiên Chúa muốn tôi sống bình an hạnh phúc ngay trên đời này. Điều nào làm tôi bất an, phải được loại đi vì Thiên Chúa muốn tôi sống bình an.

Hãy tập nhận ra tình yêu của Thiên Chúa qua những gì xảy đến, và đặc biệt qua những người thân, những người chúng ta sống với. Nếu không có họ, cuộc sống của chúng ta có thể không có ý nghĩa lắm. Những người tuyệt vời như các vị thánh, không phải là những người làm những điều lớn lao, nhưng là những người làm những điều nhỏ bé một cách tuyệt vời. Ước gì mùa vọng này, mỗi người không chỉ chờ mà nhận ra Chúa đang đến với mình hằng ngày trong cầu nguyện, qua những người thân quen, qua những việc hy sinh và bỏ mình nho nhỏ, để làm cho cuộc đời của những người sống với chúng ta hạnh phúc hơn. Nếu chúng ta tập yêu, thiên đàng đang bắt đầu nơi chúng ta ở trần gian. Chúa không chỉ sẽ tới, nhưng Chúa đang tới với mình mỗi ngày, và trong từng giây phút sống.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Tại sao người ta “không dám” mong chờ Chúa đến?

2. Nếu Chúa tới với bạn qua những hành vi yêu thương, bạn có mong Chúa tới với bạn hằng ngày không?

3. Điều nào ngăn cản bạn sống bình an và hạnh phúc? Làm cách nào để loại trừ điều đó đi?

 

9.Mong đợi ngày Chúa đến--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.

Hôm nay chúng ta bắt đầu một năm Phụng vụ mới. Năm phụng vụ bắt đầu từ ngày Chúa nhật I Mùa Vọng.

Mùa Vọng là mùa trông đợi. Trước mắt chúng ta trông đợi Chúa đến trong ngày lễ Giáng sinh với tâm hôn vui tươi và đạo đức sau bốn tuẫn lễ đã chuẩn bị kỹ càng.

Như thế cũng chưa đủ, nhân bầu khí của Mùa Vọng này, Giáo hội hướng lòng ta về ngày quang lâm của Chúa, Ngài sẽ đến trần gian lần thứ hai để xét xử kẻ sống và kẻ chết.

Ngoài ra, chúng ta cũng còn phải trông đợi Chúa đến với chúng ta trong ngày sau hết của đời mình. Vì thế, Giáo hội muốn dựa vào bài Tin mừng hôm nay để nhắc nhở chúng ta là Chúa sẽ đến với ta cách bất ngờ, thái độ của chúng ta là phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa đến.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Is 63, 16-64,7.

Dân Israel đã ký Giao ước với Thiên Chúa tại núi Sinai qua trung gian ông Maisen nhưng rồi dân lại bất trung, phá vỡ Giao ước để đi thờ thần dân ngoại. Do đó, Thiên Chúa đã trao dân vào đạo quân của vua Nabuchodonosor: thành Giêrusalem bị phá hủy, dân bị bắt đi lưu đầy ở Babylon. Tình trạng lưu đầy nơi đất khách quê người rất khốn khổ. Nhưng vào cuối thời lưu đầy, dân Israel đã ý thức rằng họ khốn khổ là do họ tội lỗi, đã phản bội Chúa. Tiên tri Isaia đã dùng ngòi bút của mình ghi lại lời kêu van đầy cảm kích trong cơn khốn khổ:”Xin Chúa hãy đến cứu giúp dân Ngài”.

Isaia đã thay mặt cho dân chúng bầy tỏ đôi điều:

a) Thú nhận tình trạng tội lỗi của dân: Chúng tôi đã luôn ở trong tình trạng tội lỗi. Tất cả chúng tôi đều đầy vết nhơ.

b) Xin Chúa hãy tha thứ tội lỗi. Xin đến cứu thoát:”Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống”.

+ Bài đọc 2: 1Cr 1, 3-9.

Sau khi đã nhận được Tin mừng do thánh Phaolô rao giảng, tín hữu Côrintô đã tỏ ra mình là một cộng đoàn sinh động, có những tấm lòng sốt sắng và chân thành. Tuy thế, họ cũng gặp nhiều khó khăn nội bộ: chia rẽ, kiện tụng, luân lý suy đồi...

Thánh Phaolô nhắc nhở họ hãy nhớ đến bao ân sủng của Thiên Chúa đã ban cho họ. Tuy nhẹ nhàng khiển trách họ nhưng ngài khuyên họ hãy tỏ ra xứng đáng hơn với những ân huệ đó và hướng dẫn họ nhìn tới ngày trở lại của Đức Kitô và mời gọi họ chuẩn bị đón chờ ngày đó, nhờ thái độ kiên trung trước mọi thử thách.

3. Bài Tin mừng: Mc 13,33-37.

Trong bài Tin mừng này, Chúa Giêsu báo trước cho tất cả các môn đệ là Ngài sẽ trở lại trần gian này cách bất ngờ. Để dễ hiểu, Ngài đưa ra dụ ngôn về người đầy tớ phải canh cửa để đón chủ về bất cứ lúc nào. Do đó, Chúa Giêsu chỉ rõ thái độ cần phải có để chờ Chúa trở lại là Tỉnh thức sẵn sàng như người đầy tớ thức chờ chủ về đột ngột giữa đêm khuya. Dụ ngôn người canh cửa giúp ta có thái độ cảnh giác chống lại tình trạng mê ngủ thiêng liêng đe dọa mọi người chúng ta. Mùa Vọng là mùa canh thức và sẵn sàng chờ đợi.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Đợi chờ trong tỉnh thức và sẵn sàng.

I. MÙA VỌNG TRONG ĐỢI CHỜ.

1. Dân Israel đợi chờ.

Lịch sử Israel là một cuộc chờ đợi. Trong suốt thời gian 70 năm lưu đầy bên Babylon, dân Chúa đã thấm mệt: bị kẻ thù áp bức, hành hạ, khinh bỉ... Họ chờ Đấng Messia đến thiết lập nền công chính trên trái đất này. Sự đợi chờ đã đến cao điểm và tiên tri Isaia đã thay lời cho dân chúng kêu lên lời xin thảm thiết:”Trời cao hãy đổ sương xuống”.

Trong cảnh khốn cùng, dân Israel mới hồi tỉnh lại và nhận ra mình đã đi sai đường lối, đã lỗi phạm đến Chúa nên đã kêu xin:

“Lạy Chúa, chúng con đã phạm tội. Chúng con như chiếc áo dơ bẩn... Chúa đã ẩn nấp không cho chúng con nhìn thấy và Chúa đã phó mặc chúng con cho quyền lực tội lỗi. Nhưng Chúa là Cha, chúng con là đất sét trong tay Chúa là người thợ gốm, tất cả chúng con đều do bàn tay Chúa làm nên... Xin Chúa hãy băng qua các tầng trời mà ngự xuống”.

Giáo hội dùng những lời đó để làm lời kinh trong Mùa Vọng này. Chúa Kitô thành Nazareth đến, đáp lại mối kỳ vọng ngàn đời của thế giới. Chúng ta, Giáo hội lữ hành đang mong đợi Chúa đến để đánh tan sự thất vọng và khơi dậy niềm tin và hy vọng. Đó là Mùa Vọng khởi đầu hôm nay.

2. Chúng ta chờ đợi.

VỌNG tức là chờ đợi trông mong. Đã chờ đợi thì luôn có hy vọng. Đã hy vọng thì luôn có tin yêu, ví dụ hai người yêu chờ đợi nhau, hoặc chờ đợi người đi xa về. Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Từ ngữ “Chúa đến” thường được hiểu bằng 4 cách:

- Chúa đến trong lịch sử nhân loại.

- Chúa đến trong ngày phán xét chung.

- Chúa đến trong giờ chết của mỗi người.

- Chúa đến trong ơn thánh hằng ngày.

Như vậy, Chúa đến với loài người: lần thứ nhất và thứ hai công khai, còn các lần khác thì có tính cách âm thầm và riêng tư.

a) Chúa đến lần thứ nhất: Chúa đã đến trong hang đá Belem để thực hiện việc cứu chuộc nhân loại. Ngày nay ta chỉ còn kỷ niệm ngày Ngài giáng sinh tức là đến lần thứ nhất. Vậy mùa Vọng gồm có 4 tuần dọn lòng để mừng Chúa Giáng sinh ngày 25 tháng 12 mỗi năm.

b) Chúa đến lần thứ hai: Chúa Giêsu lại xuống thế một lần nữa với tư thế là một vị Vua Thẩm phán để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Không ai biết được ngày nào việc đó sẽ xẩy ra, chỉ việc chờ đợi trong hy vọng. Vì thế, chúng ta phải sống trong mùa vọng triền miên vì không biết ngày nào giờ nào Ngài sẽ đến.

c) Chúa đến giữa hai lần: Ngoài ra, Chúa sẽ đến với chúng ta giữa lần thứ nhất và lần thứ hai. Chúa sẽ đến với riêng từng người. Đó là giờ chết. Ngày tận thế thì còn xa vời và mù mờ lắm, còn việc Chúa đến gọi ta trong giờ sau hết thì gần. Nhưng nó cũng giống như Chúa đến lần thứ hai, không ai biết được ngày nào giờ nào Ngài sẽ đến vì “giờ chết đến như kẻ trộm”.

d) Chúa đến trong ơn thánh: Giáo hội dạy chúng ta vẫn phải mong đợi, và hàng năm Giáo hội tổ chức Mùa Vọng, không phải chỉ cốt để chuẩn bị lễ Giáng sinh, không phải chỉ dạy chúng ta gây dựng tâm tình mong đợi trong mùa đó, nhưng Giáo hội muốn nhân không khí lễ Giáng sinh dạy chúng ta phải có tâm tình mong đợi thường xuyên, phải mong đợi Chúa hằng ngày: Chúa đến với ta trong ơn thánh của Ngài, nhất là trong Bí tích Thánh Thể. Ngoài ra, chúng ta mong đợi Chúa trong ngày ta từ giã cuộc đời để về với Chúa.

II. ĐỢI CHỜ TRONG TỈNH THỨC.

1. Giáo huấn của Giáo hội.

Giáo hội ý thức về cuộc sống ở trần gian này: mọi sự sẽ qua đi và mọi người đều phải chết. Đây là một định luật khắt khe buộc mọi người phải tuân thủ. Nhưng Giáo hội cũng dạy chúng ta phải dọn lòng chờ Chúa đến, phải tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa vì Chúa đến bất ngờ. Công đồng Vatican 2 đã diễn tả tư tưởng ấy trong hiến chế Lumen gentium:

“Đàng khác, vì không biết ngày và giờ, chúng ta phải theo lời Chúa dạy, luôn tỉnh thức, để khi cuộc đời độc nhất của chúng ta ở trên trần gian chấm dứt (Dt 9,27), chúng ta xứng đáng vào dự tiệc cưới với Người và được liệt vào số những người được chúc phúc (Mt 25,31-46) chứ không như những tôi tớ khốn nạn và lười biếng (Mt 25,26) sẽ bị đẩy vào lửa đời đời (Mt 25,41), vào chốn tối tăm, nơi khóc lóc và nghiến răng (Mt 22,13 và 25,30” (L.G. số 48).

2. Phải tỉnh thức chờ đợi Chúa đến.

a) Có hai kiếp sống.

Bất cứ ai sinh ra ở trên trần gian này đều có hai kiếp sống: một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu; một đời sống hiện tại và đời sống tương lai; một đời sống hành hương và một đời sống quê thật; một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết duy có một lần, đó là lần bái yết Chúa đầu tiên và duy nhất.

b) Một cuộc chuyển tiếp.

Không ai có thể sống mãi trên trần gian này vì số phận của con người thường phải qua 4 giai đoạn: sinh, lão, bệnh, tử. Chết là giai đoạn cuối cùng và kết thúc. Chết không phải là hết, không phải là đi vào hư vô, mà chết chỉ là một sự chuyển đổi:”Sự sống thay đổi chớ không mất đi và khi nơi nương náu ở trần gian này bị hủy diệt tiêu tan thì là được một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời”(Kinh tiền tụng lễ An táng). Hiểu được ý nghĩa ấy, thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã nói:”Tôi không chết, tôi đi vào cõi sống”.

c) Cuộc chuyển tiếp bất ngờ.

Chết là một công lệ, không ai thoát được công lệ đó, nhưng có một điều làm cho ta day dứt là không biết lúc nào mình sẽ chết vì giờ chết như “người thợ gặt không ngủ trưa” (Cervantes). Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng loan báo cho chúng ta biết là Ngài sẽ đến gọi chúng ta bất cứ lúc nào, nên phải luôn sẵng sàng tỉnh thức. Để nói về điểm bất ngờ này, Chúa Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về người canh cửa đợi ông chủ về.

Trước khi trẩy đi xa, Ông chủ gọi các đầy tớ giao công tác cho mỗi người. Riêng tên giữ cửa, Ông dặn phải tỉnh thức mà coi chừng lúc Ông trở về. Ông căn dặn tên giữ cửa vì là phận sự riêng của hắn, nhưng Ông cũng có ý nhắn nhủ cho tất cả. Phải tỉnh thức vì không biết chắc vào giờ nào chủ về: chập tối, nửa đêm, gà gáy, hay ban mai.

Dụ ngôn cốt nhấn mạnh tư tưởng: mọi người cần phải tỉnh thức vì Ông chủ (là Con Người, cũng là Chúa Giêsu) không báo trước giờ Ngài sẽ đến.

Những điều Chúa nói ở đây là đang nói cho 3 Tông đồ Phêrô, Giacôbê và Anrê (Mc 13,3), nhưng Chúa nhấn mạnh là Chúa có ý nói với tất cả mọi người:”Điều Ta bảo cho chúng con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là hãy tỉnh thức”.

Việc Ông chủ trở về ban đêm có ý nhấn mạnh rằng: ban đêm thường ít ai để trí vì ai nấy cũng dễ mê ngủ, vì thế cần phải đề cao cảnh giác, tỉnh thức và sẵn sàng luôn. Ban đêm còn diễn tả ý nghĩa thời gian hiện tại ở trần gian, để phân biệt với thời gian ở Nước Trời đời sau là ban ngày. Trong khi sống ở trần gian này, cần phải tỉnh thức và sẵn sàng, có nghĩa là phải sống trong ơn nghĩa Chúa, có đủ điều kiện để được vào Nước Trời ở đời sau.

Truyện: Con quạ thiếu cảnh giác.

Một người dân Mỹ bị đám quạ hoang phá hoại ruộng ngô. Mang súng ra bắn nhưng không sao lại gần vì trên cái cọc thông cao có một con đậu canh chừng khi các con khác ăn. Len lỏi lâu dưới hố sâu ông lại gần được mà con gác không hay biết. Một tràng đạn nổ, những con sống sót bay vù lên, nhưng không bay đi xa, chúng sà xuống con canh gác với những tiếng kêu giận dữ. Con chim khốn nạn này bị đồng bọn xử một cách tàn nhẫn và nhanh chóng, không thể ở lại trong bầy, phải rời hàng ngũ đi nơi khác

Đoạn Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta: Chúa sẽ đến, nhưng chúng ta không biết ngày giờ nào. Vậy phải canh thức để sẵn sàng đón Ngài khi Ngài đến. Canh thức sẵn sàng như người đầy tớ hoàn thành nhiệm vụ được trao phó, như các trinh nữ khôn ngoan cầm đèn đi đón chàng rể, như người được trao vốn đem kinh doanh sinh lời lãi, và cuối cùng bằng đời sống yêu thương phục vụ. Đó là cách thức chờ đợi Chúa đến.

Phải tỉnh thức chờ đợi Chúa đến. Tỉnh thức ở đây là phải sẵn sàng chờ đợi. Từ ngữ “SẴN SÀNG” nói lên một thái độ sinh động chứ không phải ù lỳ, ngồi một chỗ mà chờ đợi. Sẵn sàng ở đây là phải nỗ lực làm việc với ý thức rằng mình đang phải làm việc để đợi chờ Chúa đến. Làm việc ở đây là làm sinh sôi nảy nở ra các ơn Chúa đã ban cho ta, phải sinh hoa kết quả tốt là các việc lành. Khi Chúa đến tính sổ linh hồn, ta sẽ như một tên đầy tớ tỉnh thức đi đón Chúa, trình với Ngài các việc làm của ta để được lĩnh phần thưởng.

Nhìn vào cuộc sống, chúng ta có thể nói như thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu:”Tất cả là hồng ân”. Hồng ân của Chúa có thể đến từ bất cứ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay khi đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Điều quan trọng là chúng ta biết nhìn ra đó là ân ban của Chúa, và mỗi ân ban là một “Chúa đến viếng thăm”.

Phụng vụ thánh lễ hôm nay nhắc nhở cho chúng ta dọn mình: đón nhận ơn Chúa trong mỗi giây phút hiện tại, chờ đợi Chúa đến trong giờ chết và trong ngày chung thẩm của nhân loại. Thái độ chúng ta phải có là hãy sẵn sàng theo như lời khuyên rất khôn ngoan của chân phước Charles de Foucauld:”Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay”. Nếu những cuộc thăm viếng là những hồng ân của Chúa, thì chúng ta đừng để mất những hồng ân ấy chỉ vì sự thờ ơ, thiếu chuẩn bị, không sẵn sàng.

Sẵn sàng còn có nghĩa là đã và đang bắt tay vào việc. Việc chờ đợi Chúa đến đây là phải có tinh thần sám hối, sửa đổi lại con người của mình cho phù hợp với ý Chúa. Bài đọc I hôm nay dạy chúng ta một cách tỉnh thức chờ đợi rất hay: như miếng đất sét trong tay người thợ gốm. Tiên tri Isaia đã nói lên một sự thật:”Chúng tôi là đất sét, còn Chúa là người thợ gốm”. Sự thật này đã được sách Sáng thế nói lên ngay từ đầu (St 2,7). Kiểu diễn tả cụ thể của tác giả sách Sáng thế và của tiên tri Isaia có ý rằng: con người lệ thuộc vào ThiênChúa.

Sự lệ thuộc chỉ toàn có lợi. Miếng đất sét chịu lệ thuộc bàn tay uốn nắn của người thợ gốm thì sẽ trở thành những vật dụng rất hữu ích, thậm chí trở thành những tác phẩm mỹ thuật rất đẹp.

Vậy, tỉnh thức và chờ đợi Chúa trong Mùa Vọng là làm như miếng đất sét trong tay người thợ gốm: ngoan ngoãn vâng theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để cho Chúa uốn nắn mình thành những tác phẩm tuyệt vời đúng ý Chúa (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ B, tr 12).

Chúng ta là những người đầy tớ đợi chủ về nhưng không biết vào lúc nào. Chúng ta chỉ biết sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Trong lúc chờ đợi, chúng ta phải làm tròn phận vụ của mình. Chúng ta phải sống dường như việc Ngài trở lại lúc nào cũng là việc bình thường. Ngài đã giao cho chúng ta nhiệm vụ quan trọng là mỗi ngày phải làm việc thích hợp để Ngài xem xét, bất cứ giờ phút nào chúng ta cũng phải sẵn sàng để gặp mặt Ngài mặt đối mặt. Cả đời sống chúng ta là việc chuẩn bị để gặp mặt Vua.

Truyện: Ngày mai ông chủ sẽ đến.

Ngày kia có một khách du lịch dừng chân trước một biệt thự rất sang trọng cạnh một hồ nước trong xanh ở Thụy sĩ, nhưng không phải trên con đường mà khách vãng cảnh thường qua lại. Khách du lịch gõ vào hàng rào sắt, tức thì một cụ già coi vườn ra mở cổng nặng nề vẫn đóng chặt. Sung sướng vì được thấy một người khách, cụ dẫn ông tham quan cả một khu vườn rộng lớn. Người khách hỏi:

- Cụ ở đây bao lâu rồi?

- Thưa ông, tôi ở đây đã 24 năm.

- Chủ của cụ ít khi nghỉ tại biệt thự này, có phải không? Cụ đã trông thấy ông mấy lần rồi?

- Tôi đã trông thấy ông bốn lần. Lần cuối cùng cách đây đã 12 năm.

- Ông có viết thư cho cụ chăng?

- Chẳng bao giờ.

- Thế ai trả công cho cụ?

- Người quản gia của ông.

- Thế người quản gia này có năng đến đây không?

- Tôi chưa hề thấy mặt ông. Ông ấy liên lạc với tôi qua thư từ.

- Thế thì ai hưởng sự đẹp đẽ này?

- Trừ vợ tôi và tôi thì không ai hưởng hết.

- Tuy vậy, cụ coi sóc vườn này, sân hoa này, bãi cỏ này cách chu đáo, dường như ngày mai chủ của cụ sẽ đến.

- Ồ, Thưa ông, tôi làm như chủ tôi phải đến ngày hôm nay, vâng thưa ông, ngày hôm nay.

Mùa Vọng đã bắt đầu. Mùa Vọng là mùa trông đợi trong tin yêu, đợi ngày Chúa đến trong ngày tận thế. Nhưng cũng là trông đợi giây phút cuối cùng của mỗi người khi đi ra gặp Chúa. Chúng ta phải chuẩn bị hành trang cho lần gặp Chúa ấy và hy vọng rằng cuộc gặp gỡ này sẽ đem đến cho ta sự vui mừng khi được nghe Chúa nói lời êm ái:”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Nước Trời dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa, Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngưoi đã đến thăm”.

 

10.Kêu xin và chờ mong Chúa đến--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Khi thương ai thì người ta thích đến thăm người đó. Thiên Chúa rất yêu thương loài người nên rất thích đến thăm loài người.

Ngày xưa dân Do Thái đã chuẩn bị đón Chúa đến viếng thăm họ trong một mùa vọng dài hàng bao thế kỷ. Đáp lại, Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu, Con Một của Ngài đến ở với họ và cứu chuộc họ. Ngày nay, Chúa lại muốn đến viếng thăm chúng ta, để ban cho chúng ta vô vàn ơn thánh của Ngài. Chúng ta hãy tận dụng Mùa Vọng này để chuẩn bị tâm hồn cho Ngài đến thăm chúng ta.

II. Gợi ý sám hối

Chúng ta không xứng đáng với Chúa vì đức tin của chúng ta càng ngày càng yếu đi theo dòng thời gian.

Chúng ta cũng không xứng đáng với Chúa vì lòng mến của chúng ta ngày càng lạnh nhạt.

Nếu bất ngờ Chúa đến kiểm tra, chắc Ngài sẽ thất vọng vì chúng ta không chu toàn những bổn phận Ngài giao.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I: Is 63. 16b-17. 19

Đoạn này nằm trong phần thứ ba của sách Isaia (các chương 56-66). Các chuyên viên Thánh Kinh chưa nhất trí về thời gian soạn thảo của phần thứ ba này. Một số chuyên viên cho rằng phần này được soạn vào cuối thời kỳ dân Do Thái bị lưu đày bên Babylon.

Tình trạng bị lưu đày nơi đất khách quê người rất là khốn khổ. Nhưng vào cuối thời lưu đày, dân Do Thái đã ý thức rằng họ khốn khổ là do họ tội lỗi. Trong đoạn trích này, Isaia đã thay mặt dân bày tỏ 2 điều:

Một mặt, thú nhận tình trạng tội lỗi của dân: "Chúng tôi đã luôn ở trong tình trạng tội lỗi. Tất cả chúng tôi đều đầy vết nhơ"

Mặt khác, nài xin Chúa đến để tha thứ và cứu thoát họ: "Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống".

2. Đáp ca: Tv 79

Cũng là một lời van xin Chúa đến. Mặc dù ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình, nhưng dân Do Thái vẫn dám van xin Chúa đến. Cơ sở của lời kêu xin tin tưởng này là: bởi vì Israel chính là vườn nho mà Chúa đã trồng và là đoàn chiên do Ngài chăn dắt.

3. Tin Mừng: Mc 13, 33-37

Bài đọc Cựu Ước và bài Đáp ca nhắm tới việc Chúa đến lần thứ nhất (Đấng Messia đến). Còn bài Tin Mừng nhắm đến việc Chúa đến lần thứ hai (Đức Giêsu trở lại). Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu chỉ rõ thái độ cần phải có để chờ Chúa trở lại là tỉnh thức sẵn sàng (như người đầy tớ thức chờ chủ về đột ngột giữa đêm khuya). Đức Giêsu cũng cho biết lý do tại sao phải tỉnh thức sẵn sàng: vì Ngài sẽ trở lại cách bất ngờ.

4. Bài đọc II: 1 Cr 1, 3-9

Sang tới thời Hội Thánh sơ khai. Đối tượng của đoạn thư này là Giáo đoàn Côrintô, một cộng đoàn sinh động nhưng cũng gặp nhiều khó khăn nội bộ: chia rẻ, kiện tụng, luân lý suy đồi v. v.

Trước hết Thánh Phaolô nhắc họ nhớ biết bao ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Ngài muốn họ tự hiểu ngầm là trong hiện tại, họ đã không đáp lại xứng đáng những ân sủng đó. Và cũng một cách gián tiếp rất tế nhị, Ngài muốn họ tỏ ra xứng đáng hơn với những ân sủng đó, kiên trì trong những ân sủng ấy, để khi Chúa lại đến thì họ không có gì phải bị khiển trách.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Chờ đợi

Những giây phút chờ đợi là thời gian căng thẳng nhất nhưng cũng có ý nghĩa nhất. Những người yêu nhau chờ tới ngày cưới, cha mẹ chờ đứa con ra đời, gia đình chờ một người thân trở về, người lao động chờ công việc mình sinh kết quả... Trong cuộc sống hàng ngày, người ta luôn chờ đợi một cái gì đó. Khi không còn chờ gì nữa, không còn mong gì nữa thì đời kể như sắp chết.

Lịch sử Israel cũng là một cuộc chờ đợi. Chờ Đấng Messia đến thiết lập nền công chính trên trái đất này. Sự chờ đợi của Israel lên đến cao điểm khi họ bị lưu đày bên Babylon (Bài đọc 1).

Rồi Đấng Messia đã đến. Phải chăng không còn phải chờ đợi nữa? Không, mỗi người vẫn còn phải chờ đợi, chờ cho sự công chính được hoàn thành nơi bản thân mình. Bởi đó, Đức Giêsu nói "Phúc cho ai đói khát điều công chính". Đói khát điều công chính và chờ đợi công chính thực hiện chính là một mối phúc.

Mùa Vọng là thời gian chờ đợi: chờ Đức Giêsu đến thăm chúng ta vào dịp lễ Giáng sinh, và chờ Ngài đến với chúng ta mỗi ngày trong Bí tích Thánh Thể.

Chờ đợi như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay dạy: chờ đợi bằng cách tỉnh thức và cầu nguyện.

* 2. Đất sét trong tay người thợ gốm

Bài đọc I dạy chúng ta một cách tỉnh thức chờ đợi rất hay: như miếng đất sét trong tay người thợ gốm.

Trong bài đọc I hôm nay, ngôn sứ Isaia đã nói lên một sự thật: "Chúng tôi là đất sét, Còn Chúa là người thợ gốm". Sự thật này đã được sách Sáng thế nói lên ngay từ đầu (St 2, 7). Kiểu diễn tả cụ thể của tác giả sách Sáng thế và của ngôn sứ Isaia có ý rằng: con người lệ thuộc Thiên Chúa.

Sự lệ thuộc chỉ toàn có lợi. Miếng đất sét chịu lệ thuộc bàn tay uốn nắn của người thợ gốm thì sẽ trở thành những vật dụng rất hữu ích, thậm chí thành những tác phẩm mỹ thuật rất đẹp.

Vậy, tỉnh thức và chờ đợi Chúa trong Mùa Vọng là làm như miếng đất sét trong tay người thợ gốm: ngoan ngoãn vâng theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để cho Chúa uốn nắn mình thành những tác phẩm tuyệt vời đúng ý Chúa.

* 3. Mong đợi Chúa đến

Vào một ngày đẹp trời, ông già ngồi trên ghế xích đu, lòng mong đợi Chúa đến. Tình cờ, một em bé gái đang chơi banh để lọt vào sân nhà ông, cô gái chạy lại nhặt trái banh và mở lời làm quen:

- Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên chiếc xích đu này, ông đang chờ ai vậy?

- Cháu còn nhỏ quá làm sao hiểu được điều ông mong đợi.

- Có lẽ cháu nhỏ thật, nhưng mẹ cháu nói: có điều gì trong lòng thì hãy nói ra, có nói ra mới hiểu rõ hơn.

Nghe cô bé nói có lý, ông liền thố lộ:

- Ông đang chờ đợi Chúa đến.

Cô bé tròn xoe đôi mắt kinh ngạc. Ông già mới giải thích:

- Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa, ông cần một dấu hiệu cháu à!

Bấy giờ cô bé mới lên tiếng:

- Ông chờ một dấu hiệu ư? Thưa ông, Chúa đã cho ông một dấu hiệu: mỗi khi ông hít thở không khí, mỗi khi ông nghe tiếng chim hót, mỗi khi ông nhìn hạt mưa rơi. Chúa đã cho ông một dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ, trong nước mắt người đau khổ. Ông ơi, Chúa ở trong ông. Chúa ở trong cháu, không cần phải tìm kiếm, vì Người luôn ở đó.

*

"Tất cả là hồng ân". Ơn Chúa có thể đến bất cứ từ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Điều quan trọng là chúng ta biết nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nhìn tất cả chỗ nào cũng là ân sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc "Chúa đến viếng thăm".

Bài Tin mừng đầu năm Phụng vụ hôm nay, nhắc nhở chúng ta dọn mình: đón nhận ơn Chúa trong mỗi giây phút hiện tại, chờ đón Chúa đến trong giờ chết, và trong ngày cánh chung của nhân loại.

Mùa Vọng là mùa của mong đợi. Mong đợi nào cũng làm cho con người mỏi mòn. Nhưng chính sự mòn mỏi đó càng làm cho cuộc gặp gỡ thêm nồng thắm hơn.

Thái độ cần phải có là hãy "tỉnh thức và cầu nguyện" để "nhận biết thời gian Chúa đến viếng thăm" (c. 19, 44). Nếu Chúa đã nhắn nhủ: "Hãy tỉnh thức, vì các con không biết giờ nào chủ sẽ về" thì không có lời khuyên nào khôn ngoan hơn lời Cha Charles de Foucauld: "Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay".

Nếu những cuộc viếng thăm là những hồng ân của Chúa, thì chúng ta đừng để mất những hồng ân ấy chỉ vì sự thờ ơ, thiếu chuẩn bị, không sẵn sàng. Chúng ta có quyền ước mơ, dự tính xây dựng tương lai, nhưng đừng bao giờ quên mục đích cuối cùng là phải "gặp được Chúa".

Nhưng có một sự thực này, nó rất thực, và đó là sự thực nhất trên đời là nếu chúng ta không thường gặp Chúa trong cuộc sống, thì chúng ta cũng sẽ không thể gặp Người vào giây phút cuối cuộc đời.

*

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết "tìm gặp Chúa" trong mọi ơn lành Chúa ban, trong các bí tích, trong các việc lành và trong người anh em, để chúng con sẽ gặp được Chúa trong ngày Chúa đến viếng thăm. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

4. Hãy thức dậy đi

Người ta nói rằng tôn giáo là một thứ thuốc phiện ru ngủ tín đồ. Tuy nói thế là không đúng, nhưng sở dĩ có người nói thế một phần cũng là do chúng ta: nhiều người trong chúng ta chỉ coi tôn giáo là một nơi an ủi (chỉ đến với Chúa khi gặp chuyện buồn phiền) và một chỗ bảo hiểm an toàn (đọc kinh cầu nguyện để được Chúa che chở, cứu nguy). Họ đến nhà thờ để tìm kiếm những chuyện siêu nhiên (phép lạ, ơn đặc biệt) trong khi quá lơ là với những trách nhiệm trần thế. Đạo như thế đúng là thuốc phiện và người giữ đạo như thế đúng là người đang ngủ.

Hãy đọc kỹ lại bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu đâu có bảo chúng ta ngủ, đâu có bảo chúng ta đừng làm việc. Trái lại Ngài bảo chúng ta luôn tỉnh thức làm việc. Kitô hữu giống như những đầy tớ mà Chúa là chủ đã giao cho mỗi người một việc và Ngài sẽ trở về bất cứ lúc nào để xem họ có đang làm việc đàng hoàng hay không.

Thế nhưng con người hay buồn ngủ và thường ngủ gật. Trong việc sống đạo cũng thế. Sau đây là một số lý do:

Quen lờn về tội: "Điều gì thường xảy ra thì được coi là bình thường". Thường phạm tội hay thường thấy người khác phạm tội nên quen lờn không còn thấy bị cắn rứt nữa. Bài đọc I nói đó là "lương tâm đã trở nên chai đá". Lương tâm con người thời nay đã chai đá (đã "ngủ gật") trước những tội phạm đến công bình, đến tính dục, "không còn biết kính sợ Chúa nữa".

Lười biếng cầu nguyện. Bài đọc I nói "không còn ai kêu cầu danh thánh Chúa nữa".

Cảm thấy như Chúa đi đâu xa. Bài đọc I nói "Chúa đã ẩn nấp không cho chúng tôi thấy Chúa nữa". Bài Tin Mừng thì nói Chúa như "ông chủ đi xa, để nhà cửa lại".

Dù bởi lý do nào đi nữa, điều cần thiết là mỗi người hãy biết rằng mình đang mê ngủ, hoặc ít ra là đang ngủ gà ngủ gật. Vì thế, mỗi người hãy đáp lại tiếng Chúa gọi "Hãy thức dậy đi".

5. Ngủ mê trong thói quen

Tất cả chúng ta, chỉ trừ những đứa trẻ, đều không nhiều thì ít sống theo thói quen. Người ta nói rằng chúng ta sống một nửa cuộc đời phần sau dựa vào những thói quen đã có từ nửa cuộc đời phần trước. Như thế thật có lợi cho những ai đã tập được những thói quen tốt, tuy nhiên cũng thật tai hại cho những ai đã nhiễm phải những thói quen xấu.

Một việc được lập đi lập lại nhiều lần sẽ thành thói quen, khi đó người ta sẽ làm việc đó một cách rất dễ dàng và còn khéo léo nữa. Có thể nói thói quen là bản năng thứ hai của con người.

Tuy nhiên cứ làm theo thói quen riết rồi người ta sẽ trở thành một chiếc máy vô hồn, không ý thức mình đang làm gì nữa, không suy nghĩ, không tâm tình.

Nếu bạn để một con nhái vào một bình nước nóng, nó sẽ lập tức phóng ra ngay. Nhưng nếu bạn để nó trong một bình nước lạnh, rồi đun nóng lên từ từ. Con nhái không cảm thấy gì lạ cả nên cứ ở yên trong đó. Vì nó đã quen dần nên không thấy nguy hiểm gì cả. Muốn nó nhảy ra thì cần phải lấy một cái gì đó chọc vào nó.

Với thời gian, cuộc sống đạo của chúng ta dần dần trở thành thói quen. Nhiều việc đã không còn ý thức, huống chi nhiều thói xấu đã bám rễ dần dần. Ước gì Mùa vọng là một cú chọc mạnh khiến chúng ta giật mình ý thức lại và sửa đổi cho tốt hơn.

6. Hy vọng và cuộc sống

Người ta nói rằng bao lâu còn sống thì còn hy vọng

Tuy nhiên, đúng hơn phải nói: bao lâu còn hy vọng thì còn sống.

- Hy vọng là sức mạnh

- Nó chiếu sáng những trái tim chán chường

- Nó kích thích ý muốn sinh tồn

- Nó là trợ tá đắc lực cho các bác sĩ

- Nó là khiên thuẫn che chở những thất bại

- Nó hồi sinh những lý tưởng và làm mới những ước mơ

Bao lâu còn hy vọng thì bấy lâu không tình huống nào là bất khả.

Mùa Vọng là thời gian cho chúng ta hy vọng

Và Đức Kitô chính là hy vọng của chúng ta. (Viết theo Flor McCarthy)

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay vào Mùa Vọng, Hội thánh muốn nhắc cho ta nhớ rằng Chúa sắp đến, chúng ta phải tỉnh thức. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:

1. Chúng ta cầu xin cho Hội thánh thực sự là cộng đoàn luôn tỉnh thức / để chu toàn trách nhiệm Đức Giêsu đã trao phó là làm chứng về tình yêu của Chúa / và hết lòng phục vụ con người.

2. Chúng ta cầu xin cho các nhà cầm quyền trên thế giới luôn tỉnh thức để chu toàn trách nhiệm của mình / là cộng tác với nhau để xây dựng một thế giới trong công lý hòa bình, và chia sẻ giúp đỡ nhau.

3. Chúng ta cầu xin cho những người ngủ mê trong tội lỗi / giả điếc làm ngơ với trách nhiệm của mình trong gia đình và trong đất nước / biết tỉnh thức để trở về với bổn phận của mình.

4. Chúng ta cầu xin cho cộng đồng xứ đạo chúng ta luôn tỉnh thức / để giúp nhau từ bỏ thói xấu, say sưa trễ nải / và sẵn sàng đón tiếp Chúa đến.

Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã trao cho mỗi người chúng con một trách nhiệm trong gia đình, trong họ đạo, trong đất nước, và dạy chúng con phải tỉnh thức... Xin Chúa giúp chúng con luôn tỉnh thức để chu toàn trách nhiệm Chúa đã trao và sẵn sàng chờ ngày Chúa đến. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh lễ

- Kinh Tin Kính: Trước câu "Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng con, Người đã từ trời xuống thế", có thể tạm dừng và đọc lại một lời của Isaia trong bài đọc I: "Ước chi Ngài xé trời mà ngự xuống"

- Trước Kinh Lạy Cha: Ngôn sứ Isaia đã ví: "Chúng tôi là đất sét, còn Chúa là người thợ gốm". Phần Đức Giêsu, Ngài cho chúng ta biết thêm Thiên Chúa chính là Cha chúng ta. Vậy chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa lời kinh Lạy Cha do chính Đức Giêsu dạy.

- Sau Kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ nào làm cho chúng con không thấy được mặt Cha. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin Cha giúp chúng con luôn tỉnh thức để đón rước Con Cha sắp đến. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."

VII. Giải tán

Chúa là người chủ nhà, giao cho chúng ta là tôi tớ mỗi người một việc. Anh chị em hãy trở về mỗi người lo chu toàn công việc của mình trong tinh thần tỉnh thức và cầu nguyện. Chúc anh chị em bình an.

 

11.Con hy vọng Chúa đến--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Khi bị vây khốn ở đất Khuông, Khổng Tử nói: “Trời chưa muốn Đạo ta mất, thì người đất Khuông làm gì được ta?” (LN. XIV,36 “Đạo tôi thi hành được là do mệnh Trời …”). Nguyễn Trãi đã tin vào lời cha là Nguyễn phi Khanh khuyên: “Nếu Trời muốn cho nước ta tiêu diệt thì lưới thù sẽ úp xuống đầu xanh. Không bao giờ! Trãi con ơi! tương lai đầy ánh sáng, cha đứng đây trông suốt được ngàn thu …”. Cha bị quân Tầu bắt, Nguyễn Trãi đã không theo cha. Ông nghe lời cha, đã hy sinh trở về lập chí cứu quốc và đã chiến thắng quân Tầu.

Một đàng, Khổng Tử tin Trời vững chắc, ông hy vọng đạo thánh hiền sẽ tỏa sáng trong tương lai. Ông không sợ kẻ thù có thể hại ông. Ông đã quyết tâm truyền bá đạo lý và đã trở thành vạn thế sư biểu.

Một đàng, Nguyễn Trãi hy vọng vào tương lai đầy ánh sáng, ông quyết tâm tìm đường cứu quốc, và ông đã trở thành Đệ nhất khai quốc công thần.

Tin và hy vọng là lẽ sống của con người. Tin là nhận có một sự thật tồn tại. Hy vọng là mong ước đạt được sự thật đó. Tin và hy vọng đều hướng về một đối tượng chân thiện mỹ có thật, đáng khao khát, đáng ngưỡng vọng, vượt xa khỏi hiện tại. Hiện tại thường làm ta thất vọng vì nó đầy đau khổ, bất toàn. Ta cần vượt tới một tương lai tốt đẹp, hạnh phúc cao cả, mong thỏa mãn hy vọng. Nếu không có hy vọng, ta không còn muốn sống nữa, không ham hoạt động, không còn tiến bộ. Hiện tại không có gì vững chắc bền bỉ, luôn thay đổi, nay còn mai mất. Cuộc đời là cảnh phù vân, đến nỗi Cao bá Quát đã kêu lên:

“Khoảng trời đất cổ kim, kim cổ.

Mảnh hình hài không có có không”.

Cái không có luôn ám ảnh ta. Ta cần cái hằng có, hằng sống cho đời ta. Nếu không có cái hằng có, hằng sống, sẽ không còn đạo đức, không còn thiện hảo. Mục đích sống thiện hảo là để vươn tới sự tồn tại vĩnh cửu tốt đẹp, hạnh phúc hơn.

Chỉ có Thiên Chúa là hằng hữu, hằng sống.

Chỉ có Thiên Chúa là thiện hảo, hạnh phúc.

Chỉ có Ngài mới có thỏa mãn niềm tin và hy vọng của con người.

Mùa vọng giúp ta thực hiện niềm tin và hy vọng đó. Lời Chúa hôm nay trình bày những lý do đáng cho ta tin và đầy hy vọng.

Những lý do đáng tin: Thiên Chúa là Cha chúng con từ muôn thuở. Ngài là thợ gốm, chúng con là đất sét. Chính tay Ngài đã làm nên chúng con hết thảy (Is. 63, 16.19).

Những lý do đầy hy vọng: “Thiên Chúa là Đấng cứu chuộc chúng con, xin Ngài trở lại, xin Ngài xé trời mà ngự xuống” (Is. 63, 19).

“Chúng con đang mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô mặc khải vinh quang của Người, cho chúng con được hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (ICr. 1, 7-8).

Chúng ta tin và hy vọng vững chắc vào Thiên Chúa như thế, không phải hão huyền, ảo tưởng. Hy vọng và tin tưởng của chúng ta được bảo đảm hoàn toàn vì trong quá khứ “chính Ngài đã giải phóng dân Israel ra khỏi nô lệ Ai cập bằng cánh tay toàn năng, chính Ngài đã ngự xuống núi Sinai ban mười điều luật để giáo dục dân sống công chính, chính Ngài là Đấng trung tín đã giữ lời minh ước, ban Đấng Cứu Thế là Con một Ngài giáng sinh làm người, đã chịu chết, đã sống lại và lên trời để cho thấy Thiên Chúa là Cha đã yêu thương vô cùng và thấy sự sống lại vinh quang, bảo đảm cho chúng ta có cuộc sống hạnh phúc muôn đời”. Bài đọc hai, thánh Phaolô còn cho thấy giáo đoàn Côrintô được bao nhiêu ân huệ: ơn được kết hợp với Đức Giêsu Kitô, được nghe lời Chúa, được hiểu biết mầu nhiệm Thiên Chúa để trở nên phong phú đến nỗi không còn thiếu một ân huệ nào. Chỉ còn một ân huệ duy nhất là đón chờ ngày quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đó là những bằng chứng bảo đảm chắc chắn cho niềm tin và hy vọng của chúng ta mà trong lịch sử thế giới không đâu có bằng. Israel đã thách đố “từ cổ chí kim, thiên hạ chưa hề được biết, tai chưa hề được nghe, mắt chưa hề được thấy một vị thần nào như Thiên Chúa đã làm cho kẻ trông cậy Ngài như vậy” (Is. 64, 3).

Hiện tại, trước mắt chúng ta, Thiên Chúa ẩn mình như một ông chủ đi xa vắng nhà. Chúng ta phải chăm lo làm tròn trách nhiệm Ngài trao phó, phải tỉnh thức đón nhận ơn Ngài, sống theo thánh ý Ngài, mãi mãi đi trong đường lối Ngài, đang khi trông chờ, hy vọng Ngài đến trong vinh quang, chúng ta được nhập đoàn những người con thảo theo Ngài về nước Cha hằng sống, hạnh phúc muôn đời.

Lạy Chúa, là Cha chúng con. Khả ái thay cung điện của Ngài, hồn con mong ước đến hao mòn. Thân con reo lên tới Thiên Chúa hằng sống. Lạy Chúa thiên binh, xin lắng nghe lời con khẩn nguyện. Xin cho con được ở trong nhà Ngài, còn hơn ấm cúng trong dinh thự lũ ác nhân. Lạy Chúa, phúc thay kẻ tin cậy ở Ngài (Tv. 84).

 

12.Cửa trời hẹp lắm ai ơi!--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Chúng ta bắt đầu một chu kỳ phụng vụ mới, một năm phụng vụ mới, mùa đầu tiên của năm phụng vụ là Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa của hy vọng nở hoa, nếu chúng ta hiểu được nỗi chờ đợi của một em bé mong mẹ đi chợ về, nỗi chờ mong gặp lại một người thân yêu xa vắng, nỗi khát vọng của một người mẹ “bồng con mẹ ải chờ mong, cho lòng chinh phụ hóa thành vọng phu”, nỗi mong chờ của một người cha già Tin Mừng chờ đón con về… thì chúng ta sẽ hiểu được thế nào là Mùa Vọng.

Xưa kia, Mùa Vọng được gọi là mùa Át, “Át” là âm đầu tiên gọi tắt của tiếng “Adventus”, một tiếng La Tinh, có nghĩa là đến hay sắp đến. Với phong trào Việt hóa, có một thời lại được gọi là Mùa Áp, “Áp” có nghĩa là gần kề hay kề bên, cả hai cách gọi trên tuy cũng nói lên phần nào ý nghĩa của mùa này nhưng chưa được rõ ràng. Ngày nay với hai tiếng “Mùa Vọng” bao hàm ý nghĩa rõ hơn: mùa hy vọng, mùa trông đợi, mùa chờ mong. Hy vọng, trông đợi, chờ mong cái gì? Chờ mong Chúa Giêsu giáng sinh. Vì thế, Mùa Vọng đầu tiên có nghĩa là một thời gian chuẩn bị đạo đức để xứng đáng mừng lễ Giáng Sinh. Nhưng đến thế kỷ thứ VII, Mùa Vọng lại thêm một ý nghĩa nữa: trông đợi, chờ mong Chúa quang lâm, Chúa tái giáng để phán xét nhân loại.

Như vậy, Mùa Vọng là mùa nhắc lại thời gian nhân loại chờ đợi Đấng Cứu Thế đến cứu chuộc, và cũng nói lên nỗi chờ đợi của Giáo hội hôm nay: đợi Đức Ki-tô đến lần thứ hai khi lịch sử kết thúc để phán xét nhân loại. Ngoài ra, với mỗi người, Mùa Vọng cũng nhắc nhở chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng chờ đón Chúa trong mỗi ngày của đời sống và đặc biệt trong ngày chết khi Chúa đến gọi chúng ta về với Ngài. Vì thế, lời Chúa của Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta ba điều: thứ nhất về ngày Chúa quang lâm, thứ hai về ngày chúng ta ra khỏi trần gian, thứ ba chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.

Về ngày Chúa quang lâm, tức là ngày Chúa tái giáng, Chúa trở lại trần gian, ngày phán xét chung. Ngày ấy không ai biết khi nào xảy ra, chỉ một mình Thiên Chúa biết mà thôi, một mình Ngài quyết định khi nào Ngài trở lại, và chỉ khi nào ngày ấy xảy ra thì người ta mới biết chứ không ai biết trước. Kinh Thánh ví ngày đó như kẻ trộm ban đêm, có bao giờ kẻ trộm lại báo trước ngày giờ nó đến ăn trộm đâu. Cũng vậy, ngày Chúa đến rất bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ. Có thể hôm nay người ta cho rằng ngày Chúa quang lâm là thứ “cọp giấy” tức là không có hay nếu có cũng còn lâu lắm. Xin những ai có ý nghĩ như vậy thì hãy nhớ: lời Kinh Thánh đúng từng dấu phẩy, Kinh Thánh ứng nghiệm từng điều từng nét. Hơn nữa, ngày Chúa quang lâm là một chân lý chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính và mỗi khi dự thánh lễ: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”.

Đàng khác, Tin Mừng hôm nay mặc dầu đề cập tới ngày tận thế nhưng cũng nhắc nhở chúng ta suy nghĩ về ngày tận số của mình, tức là về ngày chết của chính chúng ta. Chết là cái mốc cuối cùng mà bất cứ ai đã sinh ra ở đời này thì trước sau gì cũng sẽ tới ngày ấy, vì thế chúng ta phải nghĩ tới nó, chúng ta phải tính toán, phải nghĩ tới ngày chết của mình. Nói khác đi, chúng ta phải nghĩ tới cuộc sống vắn vỏi của mình nơi trần gian. Thật vậy, cuộc đời con người sánh với thời gian đã chẳng là gì, nhưng nếu sánh với sự sống vĩnh cửu lại càng mong manh hơn biết bao. Cuộc đới không những phù du mà còn kèm theo tính cách bất ngờ nữa, không ai biết được khi nào mình chết, ngày giờ chết là bất ngờ nên Chúa dạy chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.

“Tỉnh thức”, theo nguyên nghĩa là không ngủ, và cũng có nghĩa là sẵn sàng. Người ta có thể tỉnh thức để tiếp tục làm cho xong một công việc, hoặc để tránh một điều tai hại có thể xảy đến, cho nên, tỉnh thức còn có ý nghĩa là canh phòng, túc trực giao tranh, phấn đấu chống sự lơ đãng cẩu thả để đạt một mục đích đã nhắm. Đó chính là ý nghĩa của tiếng “canh thức” Chúa Giêsu căn dặn chúng ta: hãy chờ đợi Chúa đến trong tinh thần sẵn sàng, là luôn sống trong ơn nghĩa Chúa.

Chúng ta hãy nghĩ tới trường hợp của hai người vợ cùng có chồng đi vắng xa lâu năm: một người, tuy xa chồng nhưng tâm hồn lúc nào cũng tưởng nhớ tới chồng, vẫn coi như chồng đang có mặt ở nhà, bà săn sóc con cái chu đáo, gánh vác phần chồng, tiếp tục gây dựng gia đình như xưa. Còn bà kia, cũng nhớ tới chồng, nhưng chán nản, bỏ bê con cái, chểnh mảng việc nhà, lâu lâu lại tìm vui với những người đàn ông khác, khiến mọi người dị nghị đàm tiếu. Bây giờ, bỗng nghe tin cả hai người chồng đều trở về với gia đình, chắc hẳn hai người vợ trên sẽ đón tin này, mỗi người một cách khác nhau. Cũng thế, nếu chúng ta tỉnh thức mong chờ Chúa thế nào, thì Chúa sẽ đến với chúng ta như vậy. Cho nên, chúng ta phải chuẩn bị đón Chúa luôn luôn, để bất cứ lúc nào Chúa đến chúng ta cũng sẵn sàng: “Cửa trời hẹp lắm ai ơi, muốn vô thì phải ép mình chớ quên”.