Dân Chúa Âu Châu

Thu Sau IV Phuc SinhÐường về quê trời.

THỨ SÁU TUẦN 4 PHỤC SINH – Thánh Giuse thợ.

"Thầy là đường, là sự thật và là sự sống".

Lời Chúa: Ga 14, 1-6

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi". Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy".

SUY NIỆM 1: Ðường về quê trời

Khi tìm giải đáp cho một bài đố tìm đường từ một khởi điểm dẫn tới một địa điểm được yêu cầu thì người tham dự thường lúng túng, vì có quá nhiều đường có thể dẫn tới nơi nhưng thực sự lại dẫn đến ngõ cụt. Nhưng nếu tinh ý quan sát một chút, người ta có thể thấy công việc tìm kiếm dễ như trở bàn tay. Ðó là thay vì bắt đầu từ điểm khởi hành với nhiều ngõ rẽ, chúng ta hãy bắt đầu từ nơi đến rồi đi ngược lại. Với phương pháp này ta sẽ dễ dàng tìm ra con đường ngắn nhất dẫn đến nơi phải đến. Như vậy, điều quan trọng không phải là biết đường không mà thôi, mà còn là và nhất là biết nơi mình đến, cần biết nơi mình đến trước khi bắt đầu đi. Khi hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, thì làm sao chúng con biết đường đi tới", thánh Thomas tông đồ đã lý luận theo cùng một nguyên tắc như nói trên.

Nhưng trường hợp mà thánh Thomas tông đồ đặt ra xem ra như không cần thiết nữa, nếu người tìm đường có được mối liên lạc thân tình với chính Ðấng là Ðường, là sự Thật và sự Sống. Chúa Giêsu đã mạc khải cho các đồ đệ của Ngài biết nơi phải đến và con đường dẫn đến đó là chính Ngài: "Thầy là Ðường, là sự Thật và là sự Sống". Vậy, điều quan trọng nhất là theo Ngài, sống kết hiệp với Ngài, đừng rời xa Ngài, nhất là khi gặp gian nan thử thách. Chúa đã cảnh tỉnh trước các môn đệ: "Tâm hồn các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy".
Ðường về quê trời có nhiều thử thách nhưng người đồ đệ có thể vượt qua dễ dàng nếu biết để cho Chúa hướng dẫn, để cho Chúa đưa mình đến nơi Chúa muốn. Bí quyết căn bản của đời sống Kitô là để cho Chúa tự do hướng dẫn mình đi, là biết cộng tác với ơn Chúa, là để cho Chúa Giêsu Kitô chiếm hữu như thánh Phaolô tông đồ ngày xưa, ngài đã bộc lộ cho những người con tinh thần của ngài bí quyết đời Kitô, đó là: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi. Kiếp sống tôi đang sống, tôi muốn sống trong niềm tin hoàn toàn vào Ðấng đã yêu thương tôi và trao nộp chính mình cho tôi".
Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, Chúa đã nêu chỉ cho chúng con biết đường dẫn về quê trời, đường dẫn chúng con đến nguồn hạnh phúc thật. Nhưng còn có một điều cần, đó là sự cộng tác của chúng con. Chúng con cần tin tưởng vào Chúa, cần để Chúa hướng dẫn cuộc sống mình. Nếu chúng con tự phụ, ỷ lại vào sức riêng mình, thì chúng con sẽ làm hư chương trình của Chúa. Xin Chúa thương ban ơn giúp chúng con thay đổi tâm thức và thay đổi con tim mỗi ngày một trở nên vâng phục và cộng tác tích cực với sự hướng dẫn của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

SUY NIỆM 2: Dọn chỗ cho anh em

Khi chúng ta có những dự tính tương lai, khi chúng ta mơ ước về ngày mai, chúng ta rất hay hy vọng tìm được một chỗ tốt nào đó cho mình gửi tấm thân tàn để sống những ngày còn lại. Hay một ngôi mộ yên mả đẹp cho nắm xương tàn.
Ngày nay, người ta đang hy vọng xây những dẫy nhà chung cư tiện nghi để giải quyết những nhà ổ chuột cho hàng ngàn gia đình. Ai cũng mong muốn có một chỗ ở mới, những láng giềng lân cận tốt. Ai cũng khao khát được ở ngôi nhà của riêng mình với những tiện nghi theo kiểu mới, hợp thời trang, giữa khu vườn có phong cảnh lý tưởng.
Nhưng có biết bao gia đình không bao giờ tìm được một nơi ở tương xứng cho gia đình vì quá nghèo và giá cả quá mắc.
Tin mừng hôm nay dắt đưa chúng ta đến xem kế hoạch của Thiên Chúa đang dọn một chỗ ở mênh mông tráng lệ cho con người. Ngài là kiến trúc sư muôn đời, là sở hữu chủ vô biên.
Nhưng kế hoạch đó giống như những thứ nhà chúng ta đang ở, chỉ là những thứ tân trang theo những kiểu mẫu trần tục, thì chán chết. Hỏi có đáng chúng ta hy vọng vào đó nữa không?
Chúng ta trở lại câu hỏi này: Có gì ở bên kia cuộc đời? Khi tuổi già chấm dứt … Khi người ta nói: “Từ trần, đi rồi, tắt hơi thở cuối cùng …”, tôi sẽ đi về đâu? ở chỗ nào? chỗ chúng ta ở được Đức Giêsu dọn sẵn theo kế hoạch của Thiên Chúa là chỗ ở hiệp thông: sâu thẳm nhất, thông suốt nhất, liên đới nhất. Nơi mà láng giềng lân cận là những bạn chí ái nhất và sở hữu chủ là một người Cha. Chỗ chúng ta được mời đến ở là nhà mình, nhà Cha mình, và trung tâm nơi ở này là Đức Giêsu. Chính Người đã đưa chúng ta về ở với Người gần Thiên Chúa.
Mơ ước của chúng ta đượm mầu sắc rực rỡ về những ngôi nhà. Những vấn đề tương lai được mệnh danh là chỗ ở, “nơi cư trú”. Nhưng Đức Giêsu chỉ cho chúng ta con đường đến một nơi ở khác, nơi người ta hát vang ca khúc khải hoàn “nơi đầy ánh sáng, chan chứa tình thương tha thứ, an vui và tự do hạnh phúc”.
C.G

SUY NIỆM 3: Chúa sẽ đến lại

Cuộc trở lại nào cũng được khởi đầu bằng sự ra đi: có ra đi mới có trở lại. Thế nhưng cũng có những cuộc ra đi không bao giờ trở lại: đi để quên đi một quá khứ đau buồn, đi để thoát ly mọi ràng buộc, chân bước đi mà lòng rộn rã niềm vui. Những cuộc ra đi như thế chẳng bao giờ có hứa hẹn, có chăng chỉ là giả dối. Người ta chỉ hứa hẹn khi chân bước đi mà lòng chẳng muốn rời, lời hứa hẹn xoa dịu nỗi chia ly và hy vọng một ngày tái ngộ.

Chúa Giêsu sắp từ giã các môn đệ để trờ về cùng Cha, và điều đó khiến các ông u buồn xao xuyến. Không u buồn sao được khi đã ba năm tình nghĩa thày trò, không xao xuyến sao được khi đã mất đi điểm tựa. Chúng Giêsu biết rõ điều đó và các môn đệ cũng thấm thía nỗi buồn khi Ngài tuyên bố ra đi. Chính vì thế để trấn an họ, Ngài giải thích việc Ngài ra đi và hứa trở lại. Ngài ra đi không phải vì Ngài, mà vì các ông: Ngài đi dọn chỗ cho các ông và Ngài sẽ trở lại đem các ông đi theo Ngài. Còn gì vui sướng bằng. Người đi nhận chịu gian lao vất vả chỉ vì người ở lại, do đó người ở lại không còn mặc cảm bị bỏ rơi nhưng hãnh diện vì được người đi đặc biệt lưu tâm.
Thái độ của người ở lại không phải là u sầu than khóc, mà là góp sức với người đi bằng cách chuẩn bị sẵn sàng cho giờ hội ngộ. Còn gì bẽ bàng cho bằng khi trở lại người đi chỉ gặp được sự dửng dưng thờ ơ của người ở lại. Còn gì buồn lòng Thiên Chúa hơn khi Ngài đến gõ cửa mà tâm hồn đã đóng kín và đèn dầu đã cạn.
Khi lãnh nhận đức tin, người Kitô hữu cũng được Đức Kitô hứa hẹn. Ngài hứa sẽ trở lại với riêng từng người và với chung cho cả thế giới. Ngài sẽ trở lại đem họ đến nơi Ngài dọn sẵn, để họ hưởng trọn niềm vui mà hiện nay họ chỉ mới cảm nghiệm lờ mờ như dọi qua gương. Ngài không báo trước giờ Ngài trở lại, nhưng muốn họ luôn sẵn sàng như tân nương chờ đón tân lang.
Xin cho chúng ta biết chọn lời hứa trở lại của Chúa làm ngọn đuốc chiếu soi cuộc sống, để chúng ta thoát được mạng lưới của u buồn, và luôn sống trong lạc quan hy vọng vì biết rằng Chúa hằng quan tâm săn sóc chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Thánh Giuse thợ

* Là một người thợ ở làng Galilê, thánh Giuse là mẫu gương người Kitô hữu phải noi theo để chu toàn các bổn phận nghề nghiệp, vì thánh Giuse đã làm việc trong tâm tình liên kết với Đức Giêsu. Lao động thì vất vả nhưng cũng đem lại niềm vui. Lao động phục vụ con người nhưng cũng giúp đưa tới gần Thiên Chúa: đó là điều ta học được nơi trường học Nagiarét.

Trước khi trở thành lễ lao động tại Âu Châu, ngày 01 tháng 5, từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, đã được ghi dấu bằng những phong trào tranh đấu để nâng cao đời sống thợ thuyền. Giáo Hội đã lắng nghe tiếng kêu cứu ấy. Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII và Piô XI đã mở ra những chân trời mới trong thế giới cần lao. Sau cùng đức Piô XII đã muốn nhuộm thắm ngày hôm nay với màu sắc Kitô Giáo, dưới sự che chở của thánh Giuse thợ. Ngài không phải chỉ là một người thợ mộc Nagiaret, mà còn là một mẫu gương sáng chói cho chúng ta noi theo; suốt bao năm trường, ngài đã làm việc cho Chúa Giêsu và trong sự thân mật nghĩa thiết với Chúa Giêsu.
Xưởng thợ thánh Giuse còn chiếu tỏa một luồng ánh sáng mới trên công việc của chúng ta. Sự làm lụng công việc không phải chỉ là một phương tiện cải tạo bản thân và phụng sự cộng đoàn xã hội, mà còn giúp ta tham dự vào thân phận Con Thiên Chúa làm người, mời gọi chúng ta kết hiệp với những khổ đau của Ðức Kitô. Trong ý nghĩ ấy, sức lao động là một bước tiến tới cùng Thiên Chúa.

Lời Chúa: Mt 13, 54-58

"Ông ta không phải là con bác phó mộc sao?"

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà, giảng dạy dân chúng trong hội đường, họ bỡ ngỡ và nói rằng: "Bởi đâu ông này khôn ngoan và tài giỏi như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc ư? Mẹ ông không phải là bà Maria? và Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa không phải là anh em của ông sao? Và tất cả chị em của ông không phải ở nơi chúng ta đó sao? Vậy bởi đâu ông được mọi điều ấy như thế?" Và họ lấy làm gai chướng về Người. Nhưng Chúa Giêsu nói với họ: "Không có tiên tri nào được vinh dự nơi quê hương và nơi nhà mình". Và Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ cứng lòng tin.

SUY NIỆM 1: Giuse trong xóm nhỏ lao động
"Giuse trong xóm nhỏ lao động..."
Có lẽ không một người công giáo Việt Nam nào mà không thuộc nằm lòng bài thánh ca trên đây của cố linh mục Ðạo Minh, dòng thánh Giuse... Tác giả đã sáng tác ca khúc trong giai đoạn đau thương của đất nước giữa hai thập niên 40 - 50 và cũng như thánh Giuse, đã ra đi âm thầm trong một cái chết vô cùng bí ẩn sau ngày thay đổi chế độ.
Lời ca đơn sơ xuất phát từ cuộc sống lam lũ qua mọi thời đại của người Việt Nam. Nhưng tâm tình đó lại càng hợp với hoàn cảnh sống của người Việt Nam hơn bao giờ hết. Với khẩu hiệu lao động là vinh quang... dường như sau năm 1975, người Việt Nam nào cũng đã hơn một lầm mồ hôi nhễ nhại với cây cuốc, cái cày hoặc còng lưng trên chiếc xích lô đạp...
Trong cảnh sống đó, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy gần gũi với thánh Giuse, vị thánh được mệnh danh là người công chính, nhưng đồng thời cũng là con người thinh lặng nhất trong Phúc Âm. Có rất nhiều thứ thinh lặng. Thinh lặng của những người câm điếc, bị trói buộc trong bất lực tự nhiên của mình. Thinh lặng trong cô đơn buồn chán. Thinh lặng trong căm thù oán ghét. Thinh lặng trong khép kín ích kỷ. Thinh lặng trong kiêu hãnh trước đe dọa, thử thách...
Thánh Giuse đã thinh lặng trong tinh thần chấp nhận và chiêm niệm. Trong cuộc sống âm thầm tại Nagiaréth, thánh Giuse đã thinh lặng để chiêm ngưỡng mầu nhiệm nhập thể kỳ diệu trong con người của Chúa Giêsu. Cuộc đời của thánh Giuse đã bắt đầu bằng một giấc mơ để rồi tiếp tục trong một giấc mơ triền miên. Nhưng đây không phải là một giấc mơ của mộng ảo phù du, mà là một giấc mơ trong chiêm niệm về hiện thực...
Trong sự thinh lặng chiêm niệm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Hôm nay là ngày lao động Quốc tế. Ngày lao động Quốc tế này gợi lại cả một quá trình tranh đấu của giới thợ thuyền của Âu Châu vào đầu thế kỷ vừa qua. Từ những bất công xã hội, cuộc đấu tranh của giới thợ thuyền đã làm trồi dậy phẩm giá của con người và giá trị của sự cần lao...
Ðối với người Kitô, ngày Quốc tế lao động này gắn liền với con người của Thánh cả Giuse, quan thầy và gương mẫu của giới cần lao. Do đó ngày hôm nay đối với chúng ta phải là một ngày của suy tư và cầu nguyện. Suy tư về ý nghĩa và giá trị những công việc hằng ngày của chúng ta. Cầu nguyện cho mọi người biết nhận ra sự hiện diện và tác động và lời kêu mời của Chúa trong cuộc sống...
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ – Radio Veritas Asia)

SUY NIỆM 2: Thánh Giuse: người lao động.

“Con bác thợ mộc”! Lời phát biểu này không có gì là khinh chê, chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên, người ta không thể tưởng tượng được cậu con trai tầm thường, mà mọi người trong làng Nadarét đều biết con của Giuse sống trong tối tăm. Thế mà mọi người đều thấy cậu khôn ngoan, đầy quyền lực làm phép lạ. Luca đã dẫn hai câu châm ngôn ngắn gọn: Ngôn sứ không ở quê nhà! thầy thuốc không thiêng cho bà con! để giải thích hoàn cảnh này, họ còn đi xa hơn nữa biến đổi sự ngạc nhiên ra sự xúc phạm: họ dận dữ và quyết định giết đi cho khuất mắt. Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều có nói: Đức Giê-su không muốn và cũng không thể làm được phép lạ vì họ cứng lòng tin... Những Phúc Âm hoang đường đã viết, Người đã làm nhiều điều kỳ diệu để tỏ cho họ biết Người là vị anh hùng vĩ đại, chỉ giản dị với danh hiệu: “Con bác thợ mộc”. Bác thợ mộc không có một ngôn sứ, không biết ăn nói, Giêsu chỉ là con ông Giuse thinh lặng thôi...

Giuse, Ngài đã nhận những lệnh của trời không qua cuộc đàm thaoị như Ma-ri-a và Giacaria, nhưng qua giấc mơ, Ngài không thể nói gì; chỉ biết tỉnh dậy vâng lời Giouse chỉ nói một tiếng như thiên sứ bảo; đặt tên con trẻ sinh ra bởi Ma-ri-a là Giêsu (có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ như Giosuê). Ngài đã nhận lệnh đặt tên, để biểu lộ Ngài được những đặc quyền thuộc dòng dõi David. Đó là dấu chỉ ân phúc cho Ngài như thiên sứ nói để giải tỏa nỗi âu lo của Ngài trước sự mang thai của Ma-ri-a: Giuse con dòng David... đó là vai trò thừa kế, không phải bằng đời sống huyết nhục, nhưng bằng sự nghiệp phong phú của lịch sữ Israel để thực hiện lời hứa với David. Nơi người con nuôi duy nhất của mình... vâng, Giuse chỉ nói một tiếng Giêsu, nhưng tiếng nói này quyết định cho lịch sử cứu độ. Rồi Ngài lại đi vào thinh lặng. Như Claude đã viết: “Khi những dụng cụ được xếp vào chỗ của chúng rồi thì công việc trong ngày đã xong. Khi con lạc đà ở sông Giócdan Israel ngủ trong cánh đồng, lúa về ban đêm... thì Giuse đi vào trong cuộc nói chuyện của Thiên Chúa với những tiếng thở dài không dứt...”.

L.P