Dân Chúa Âu Châu

thang thienChúa lên trời.

Chúa Nhật tuần 7 Phục Sinh năm B – Chúa Thăng Thiên.

"Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời".

Lời Chúa: Mc 16, 15-20

Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh".

Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

Các bài suy niệm LỄ THĂNG THIÊN – Năm B

Lời Chúa: Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Mc 16,15-20

NGÀY QUỐC TẾ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI

1. Kiên vững với thời gian

Trước khi về trời, Chúa Giêsu còn muốn giáo huấn các môn đệ lần cuối cùng và trao phó cho các ông một sứ mạng quan trọng. Ngài nói: Các con hãy đi rao giảng cho muôn dân, rửa tội cho họ và nhắc bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho các con. Như thế việc rao giảng Tin Mừng không còn là một việc mơ hồ viễn vông, nhưng là một việc hết sức cụ thể, dẫn tới thái độ vâng giữ những giới luật của Chúa.

Ngay từ những ngày đầu, các môn đệ đã gặp phải những sự thù oán, bắt bớ và cấm cách, nhưng các ông không hề nao núng sợ hãi bởi vì như lời Chúa đã phán: Này Ta ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Đây không phải chỉ là một lời nói đầy an ủi khích lệ mà còn là một sự kiện lịch sử hiển nhiên. Giáo Hội qua dòng thời gian, cũng đã gặp phải biết bao nhiêu sóng gió và thử thách. Giáo Hội vẫn không hề nao núng và sợ hãi bởi vì Chúa luôn hiện diện trong lòng Giáo Hội, hầu nâng đỡ và phù trợ cho Giáo Hội. Nếu chỉ là một tổ chức bình thường, có lẽ Giáo Hội đã bị quét sạch từ lâu.

Khi học về lịch sử, chúng ta thấy biết bao nhiêu đế quốc đã bị xoá tên, biết bao nhiêu thể chế đã bị sụp đổ, nhưng Giáo Hội vẫn kiên vững trong muôn vàn sóng gió. Bởi vì nền móng của Giáo Hội là đá tảng. Vào năm 1952 ĐGM King đã viết cho các sinh viên công giáo tại Thượng Hải như sau: Cây thập giá thì nặng, nhưng nhờ cây thập giá ấy mà con người giữ vững được đức tin, và cuộc đời chúng ta sẽ trổ sinh những bông hoa chiến thắng. Khi nghĩ về một tương lai đen tối tôi bỗng mỉm cười, bởi vì chúng ta vác thập giá, chúng ta đi đường thập giá, chúng ta lại cảm thấy hạnh phúc bởi vì chúng ta đang sống trong một thời điểm đặc biệt. Nếu như Thiên Chúa muốn biến chúng ta trở thành những dụng cụ của Ngài, thì chúng ta phải sẵn sàng.

Trước khi về trời Chúa Giêsu còn nói: Các con sẽ nhận lấy sức mạnh Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên các con, để các con trở nên nhân chứng của Thầy ở Giêrusalem, ở Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng bờ cõi trái đất. Cho đến lúc bấy giờ các ông vẫn còn mơ tưởng đến của cải vật chất mà nhắm mắt lại trước những chân lý siêu nhiên. Các ông như bị cột chặt vào mặt đất và không thể bay bổng tới trời cao. Suốt ba năm sống với Chúa, nghe những lời Ngài nói và nhìn xem những việc lạ lùng Ngài làm, thế mà cõi lòng các ông vẫn chai đá, các ông quay lưng lại với ánh sáng.

Chúng ta cũng vậy, để được hướng tới bình diện siêu nhiên, để được sống trong Chúa Thánh Thần, chúng ta phải biết vượt qua lãnh vực vật chất và những níu kéo của trần gian. Có lần Chúa Giêsu đã nói: Thầy đi thì có lợi cho các con hơn, bởi vì nếu Thầy không đi thì Chúa Thánh Thần sẽ chẳng đến với các con. Nhờ Chúa Thánh Thần mà các tông đồ đã mặc lấy con người mới. Chính Ngài cũng sẽ giúp đỡ chúng ta để biết canh tân, để biết nhìn sự việc bằng đôi mắt của Chúa Giêsu.

Bởi đó trước những khó khăn của cuộc sống thường ngày chúng ta hãy kêu cầu Ngài đến với chúng ta. Thế nhưng cho đến ngày hôm nay Chúa Thánh Thần vẫn còn là một vị Thiên Chúa bị quên lãng nhiều nhất. Vậy thì Chúa Thánh Thần hiện đang nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống chúng ta?

2. Đường vinh quang
Mừng Chúa lên trời có nghĩa là mừng Ngài được tôn vinh sau khi hoàn thành sứ mạng Chúa Cha đã trao phó. Ngài đã hoàn thành trong sự vâng phục và yêu thương, ngay cả trong việc chấp nhận thập giá để cứu chuộc mọi người. Vinh quang được trao ban cho Ngài, vì Ngài đã chấp nhận hy sinh tất cả. Nói cách khác, Ngài đã đi trọn con đường của yêu thương, không nề hà bất cứ một cử chỉ hay một hành động nào, để bày tỏ lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với con người.

Sứ mạng ấy Chúa Giêsu cũng đã trao lại cho các môn đệ: Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Các ông đã hoàn tất với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Thánh Gioan ghi nhận là chính Chúa Giêsu sống lại đã thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cho các ông. Và theo thánh Luca, thì nếu Chúa Thánh Thần đã gầy dựng Con Thiên Chúa làm người nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria, thì nay khi Ngài sắp sửa từ giã các ông, thì Ngài đã hứa ban cho các ông Chúa Thánh Thần như là một sức mạnh để gầy dựng cộng đoàn của Hội Thánh. Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ chờ đón Chúa Thánh Thần tại Giêrusalem. Nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã trở thành những chứng nhân sống động của Đức Kitô cho đến tận cùng bờ cõi trái đất.

Trong bối cảnh ấy Chúa Giêsu đã từ biệt các môn đệ, đây là một cuộc từ biệt không gây nên đau buồn vì Chúa Giêsu có hứa hẹn ngày tái ngộ. Thời gian chờ đợi sẽ là thời gian cần thiết để hoàn thành sứ mạng được trao phó, đồng thời cũng là thời gian chờ đợi vinh quang sẽ đến. Như thế mừng lễ Chúa lên trời cũng chính là lúc chúng ta chờ đợi vinh quang sẽ đến, cũng chính là chờ đợi ngày Ngài trở lại.

Nhưng sự chờ đợi chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó trở thành nỗi bận tâm chu toàn sứ mệnh được trao phó. Người Kitô hữu hôm nay cũng như các môn đệ ngày xưa không phải là những kẻ đứng nhìn lên trời, mà là những người dấn thân rao giảng Tin Mừng cứu độ, đem lại niềm vui của ơn giải thoát cho tất cả mọi người nhất là những kẻ nghèo khổ và bất hạnh. Chúng ta chỉ có thể chu toàn sứ mạng ấy bằng những hy sinh và quên mình. Lịch sử Giáo Hội xưa cũng như nay cho thấy nơi nào và khi nào toàn thể Giáo Hội cũng như từng người Kitô hữu biết hy sinh những quyền lợi của mình để nghĩ đến những lợi ích chung, nhất là của những tầng lớp bị quên lãng hay bị áp bức trong xã hội, thì ở đó và lúc đó, Giáo Hội cũng như người Kitô hữu làm cho người khác nhận ra được Tin Mừng của Đức Kitô. Và đó cũng chính là vinh quang của Giáo Hội cũng như của người Kitô hữu.

Như thế, con đường dẫn đến vinh quang, là con đường hoàn thành sứ mạng Chúa đã trao phó, trong quên mình và trong hy sinh.

3. Lên trời.
Người ta thường bảo ra đi là chết trong lòng một chút. Sự chia lìa với người thân yêu bao giờ cũng đem lại buồn đau, mặc dù chúng ta biết rằng người ấy sẽ gặp được những may mắn. Vậy phải chăng Giáo hội mặc lấy những tâm tình sầu khổ khi cử hành lễ Chúa về trời. Không, trái lại đây là một ngày lễ ngập tràn niềm vui. Chúng ta vui mừng cho Chúa cũng như cho chúng ta.

Trước hết, ngày lễ Lên Trời chính là ngày chiến thắng ngày khải hoàn của Đức Kitô.

Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại mọi chặng đường Ngài đã đi qua trong suốt cuộc sống nơi trần thế. Ngài đã tự hạ mình xuống mặc thân xác phàm trần trong lòng Đức Trinh Nữ Maria. Sinh ra trong cảnh khó nghèo của hang đá Bêlem. Vất vưởng nơi đdất khách quê người khi chạy trốn sang Ai Cập. Lao động mệt mỏi với cuộc sống tăm tối tại Nadarét. Rồi những năm tháng hăng say rao giảng Tin Mừng, tìm kiếm những con chiên lạc. Và sau cùng là cái chết ê chề nhục nhã trên thập giá. Tại sao Ngài lại chấp nhận? Tại sao Ngài lại ưng thuận? Tôi xin thưa chỉ vì yêu thương chúng ta. Chỉ vì muốn cứu chúng ta khỏi quyền lực ma quỷ, dẫn đưa chúng ta vào quê hương Nước Trời. Giờ đây, công cuộc cứu độ, qua đó Ngài đã hiến dâng tất cả tình yêu và những giọt máu cuối cùng, đã hoàn tất, Ngài vui mừng nhớ lại những gia đoạn đã đi qua.

Phụng vụ hôm nay muốn trình bày Đức Kitô như một vị chiến thắng và khải hoàn đang tiến lên, theo sau Ngài là tất cả chúng ta, những người đã được Ngài cứu chuộc, đã được thông phần vào niềm hạnh phúc Nước Trời. Chúa Giêsu trở về nhà Cha và giới thiệu những người em mới mà Ngài đã chuộc lấy bằng máu châu báu của Ngài. Ngày lễ lên trời phải chăng là ngày Đức Kitô được Cha tuyên phong làm Vua trời và đất.

Tiếp đến, ngày lễ Lên Trời còn là một ngày vui mừng cho chúng ta, nhờ đó mà bản tính nhân loại được nâng lên cao.

Thực vậy, qua biến cố này, bản tính nhân loại của chúng ta được tham dự vào những vinh quang của Thiên Chúa, vì Đức Kitô đã về trời cả thân xác, với cả bản tính nhân loại. Phải chăng đây là một mầu nhiệm mà chúng ta sẽ không thể nào hiểu thấu. Một người như chúng ta giờ đây đang được ngồi bên hữu Thiên Chúa. Ngài là đầu và chúng ta là chi thể, như trong kinh Tiền Tụng chúng ta sẽ đọc. Ngài về trời để chúng ta được tham dự vào bản tính Thiên Chúa.

Tuy nhiên, cho được như vậy, chúng ta phải nâng tâm hồn lên, như lời kinh Tiền Tụng kêu gọi, bởi vì tội lỗi sẽ ngăn trở không cho chúng ta về trời với Chúa. Tội lỗi như một sợi dây xích cột chặt chúng ta lại với trần gian. Hãy phá tan xiềng xích tội lỗi. Hãy hướng tới quê trời bằng lòng ao ước khát mong từ đó chúng ta sẽ hằng ngày phục vụ Chúa. Hãy khử trừ tội lỗi trung thành bước theo để rồi chúng ta cũng sẽ được về trời với Ngài.

4. Hãy đi loan báo Tin Mừng
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo!”

Tôi không muốn coi đây là một lệnh truyền, vì mệnh lệnh bao giờ cũng là điều do vị bề trên truyền xuống, chứ không xuất phát từ bản thân, từ một đòi hỏi thâm sâu của cõi lòng mình. Đối với Nhóm Mười Một, vào thời điểm họ nghe câu nói này, thì có lẽ đúng là họ nghe một mệnh lệnh; đơn giản là vì họ chưa hiểu được rằng các biến cố đang dồn dập xảy ra đích thị là Tin Mừng. Thậm chí họ còn lo âu, họ sợ hãi thì đúng hơn, trong biến cố khổ hình và thập giá đã đành, mà cả trong các lần Đấng Phục Sinh hiện ra với họ; phải đợi tới khi ‘Thần Chân Lý’ đến dạy đỗ trực tiếp, họ mới vỡ lẽ ra từ đáy lòng mình về ý nghĩa đích thực của nó (Ga 14,26; 16,12-13). Chỉ khi đó, phải, chỉ lúc đó mệnh lệnh Chúa truyền trước khi về trời mới trở thành một cảm nghiệm không thể cưỡng, vì nó thôi thúc họ từ bên trong (Cv 2,4).

Đối với Kitô hữu chúng ta hôm nay thì khác hẳn: ta có nhiều thời gian để suy tư, để cử hành biến cố tử nạn và phục sinh như một Tin Mừng đích thực; ta đã được ban ‘Thần Chân Lý’ để dạy cho biết mọi sự; vì thế, nếu là Kitô hữu chân chính của ngày hôm nay, ‘hãy đi khắp tứ phương thiên hạ… loan báo Tin Mừng’ chắc hẳn sẽ không còn là một lệnh truyền từ bên ngoài nữa, mà đã phải là một thúc bách từ niềm tin thâm sâu nhất từ bên trong.

Vậy, nếu Tin Mừng là một thôi thúc từ bên trong, thì quả thực sự hiện diện hữu hình của Đức Giêsu, cho dầu đã sống lại vinh hiển, sẽ không còn là cần thiết nữa. Người có thể yên tâm về trời, và còn nên sớm về trời nữa là đàng khác, với điều kiện làm sao các môn đệ nắm bắt được cuộc sống, sự chết và phục sinh của Người đích thị là Tin Mừng, Tin Mừng cho mọi người và cho từng người; chỉ lúc đó, vâng, chỉ lúc đó, như các Tông Đồ, tôi mới có thể ‘ra đi rao giảng khắp nơi’. Như thế thì sứ điệp chính mà Lời Chúa muốn gởi tới chúng ta hôm nay lại không chỉ là tưởng nhớ tới biến cố ‘Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa’, mà là một yêu cầu gửi tới mỗi người chúng ta làm cuộc tổng kiểm tra về những gì đã cử hành trong suốt hai tháng qua kể từ đầu Mùa Chay; đối với tôi, những cử hành này có phải thật sự là Tin Mừng hay không? Cuộc kiểm tra này càng cần thiết vì đồng thời nó làm cho ta nghiệm ra một điều nữa, đó là, trong tư cách Kitô hữu, ta cần không ngừng gia tăng ý thức về sự hiện diện của ‘Thần Chân Lý’ nơi chính mình, để sống với Người cách sâu xa hơn, và để nhờ Người và trong Người, sức mạnh Tin Mừng sẽ càng tác động tích cực trong thời gian tới của niên lịch phụng vụ (mùa Hiện Xuống).

Chính vì ý thức được Tin Mừng, với sức mạnh vô địch của nó, mà ta mới ngộ ra ‘những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin’ thực ra cũng chẳng có gì là lạ, là bất thường cho lắm: ‘trừ được quỉ’ - chẳng qua là hoàn lại sức sống tình yêu của Thiên Chúa cho nhiều tâm hồn; ‘nói được những tiếng mới lạ’ - chẳng qua là nhìn nhận Lời Thiên Chúa chính là Lời tình yêu và từ nhân, tha thứ và không hề luận phạt; ‘cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc thì cũng chẳng sao’ - sẽ là can đảm liều lĩnh gánh vác những công việc mà tự nhiên không ai thèm làm hoặc dám làm; ‘đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe’ - sẽ là thể hiện bằng mọi cách lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa cho những kẻ yếu hèn nhất. Vài dấu lạ được kể ra, cho dầu có gây đôi chút ấn tượng, thì cũng chỉ là vài nét chấm phá của một nội dung vô cùng phong phú Tin Mừng chứa đựng. Tất cả các điều này, kể cả sức mạnh vô địch của Tin Mừng, mỗi chúng ta đều đang được thụ hưởng, nhờ vào ơn gọi Kitô hữu của mình. Trong Thánh Thần, ta đã đón nhận Tin Mừng Đức Kitô Giêsu, Tin Mừng ‘Thiên Chúa hết lòng yêu thương thế gian’. Và một khi đã sở đắc được niềm tin này thì dù Chúa có hiện ra hữu hình hay ẩn mình vô hình, dù có được tận mắt chứng kiến phép lạ mặt trời quay cuồng như tại Fatima năm nào hay chỉ âm thầm sống tin yêu trong tăm tối như Mẹ Têrêxa Can-cút-ta… thì cũng không mấy quan trọng. Sự lạ thì vẫn là sự lạ… nhưng chỉ tác động được bên ngoài nhất thời mà thôi. Chỉ có Tin Mừng mới có sức thúc đẩy ta ‘đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo’. Mẹ Têrêxa đã không ngừng loan báo Tin Mừng cho những người hấp hối cùng cực nhất của thành phố Can-cút-ta bằng phục vụ âm thầm… chỉ vì Mẹ luôn thâm tín rằng: ‘Chúa thương yêu tôi không phải vì tôi tốt lành, nhưng tôi cố gắng trở nên tốt lành hơn vì biết rằng Chúa thương yêu tôi!’

Phải, chỉ duy những ai thấu hiểu được Tin Mừng tình yêu mới có thể lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân, bằng nhiều phương tiện và nhiều cách thức rất khác nhau.

Lạy Chúa, nếu trước khi về trời Chúa hứa ban cho con một điều ước, thì con sẽ ước gì đây? Con sẽ không ước được thấy Chúa đôi lúc hiện ra hữu hình, con sẽ không ước được khôn ngoan, lợi khẩu, được làm phép lạ hay gì gì khác nữa. Điều ước duy nhất của con phải là được ở lại sâu hơn trong tình thương của Chúa; được thấu hiểu sâu hơn Tin Mừng Chúa yêu thương. Xin đổ tràn Thánh Thần Tình Yêu vào tâm hồn con, để - vì thâm tín rằng mình được Thiên Chúa yêu thương - con sẽ lên đường loan truyền Tin Mừng tình yêu cho mọi người. Amen.

5. Con đường về Trời – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)

Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói:

- Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một món quà quí giá nhất.

Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay trắng. Hết sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi:

- Món quà quí giá của ngươi đâu?

Người này điềm tĩnh trả lời:

- Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một cuộc sống sung túc tốt đẹp.

Người tù trưởng nói:

- Ngươi sẽ nối nghiệp ta. Ngươi đã mang về món quà quí giá nhất: Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.

***

Đó cũng là viễn tượng Đức Giêsu mời gọi chúng ta đem lại cho thế giới qua bài Tin mừng hôm nay: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật" (Mc. 16, 15)

Chúa về trời là về với Chúa Cha - Cuộc đời chúng ta là một cuộc hành trình, mà đích đến nằm ở phía bên kia. Trời là đích xa xôi nhưng chi phối những bước chân gần gũi. Những bước chân đi đến với anh em, những bước chân đi vào lòng thế giới, những bước chân đi loan báo Tin mừng.

- Tin mừng chính là Thiên Chúa yêu thương con người.

- Tin mừng chính là ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ.

- Tin mừng chính là có Chúa cùng hoạt động với những dấu lạ kèm theo.

Vậy người tín hữu Kitô không chỉ ngước mắt nhìn trời, nhưng hăng say đi loan báo Tin mừng, vì trái đất còn mênh mông những đồng lúa chín vàng.

Chúa về trời, nên Người đã mượn miệng lưỡi chúng ta để rao giảng, mượn đôi tay chúng ta để thi ân, mượn đôi chân chúng ta để đi đến với người cùng khổ.

Chúa về trời nhưng người vẫn hiện diện và hoạt động trong cuộc sống chứng nhân của mỗi người tín hữu.

Chúa về trời, nhưng Người vẫn thực hiện những dấu lạ trong cuộc đời những con người biết sống tận tình cho tha nhân.

Chúa về trời, nhưng Người vẫn canh cánh bên lòng một ước mơ: "Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha ban cho con cũng sẽ ở đấy với con" (Ga. 17, 24).

Đã ước mơ thì lúc nào cũng nghĩ tới điều mình mơ ước. Nếu Chúa đã ước mơ ở cùng chúng ta trên trời thì bao lâu chúng ta chưa về trời với Chúa, là bấy lâu trong lòng Chúa còn hình bóng chúng ta.

Đã ước mơ bao giờ cũng mong đạt được điều mơ ước. Nếu Chúa đã mong chúng ta có mặt nơi Chúa ngự, thì không lẽ gì chúng ta không hiện diện ở đó.

***

Lạy Chúa, con đường lên trời là con đường hẹp, con đường về trời là con đường yêu thương. Xin cho tất cả mọi nẻo đường chúng con đi, đều dẫn chúng con về quê trời. Ước gì qua cuộc sống chúng con, người ta nhận ra Nước Trời đang tỏ hiện. Amen.

6. Chúa Thăng Thiên – Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
Bốn mươi ngày sau Chúa Phục Sinh là ngày thứ năm sau Chúa Nhật thứ sáu phục sinh. Như vậy lễ Chúa Thăng Thiên đúng ra đã được cử hành vào ngày thứ năm vừa qua, nhưng ở một số nơi lễ này được dời vào Chúa Nhật để tín hữu có dịp tham dự và hiểu hơn về mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể làm người.

I. Khỏi bốn mươi ngày Ngài Lên Trời

Truyền thống Giáo Hội vẫn cử hành lễ Chúa Lên Trời bốn mươi ngày sau lễ Chúa Phục Sinh. Truyền thống này theo sát trình thuật sách Công Vụ Tông Đồ: “Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong 40 ngày Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa…. Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv.1, 3.9).

Bốn mươi ngày, là thời gian các tông đồ còn có thể nhìn thấy Đức Giêsu, có thể cùng ăn cùng uống với Ngài, còn được Ngài dạy bảo như những ngày nào. Trong thời điểm ngay sau khi Đức Giêsu phục sinh, các tông đồ cũng vẫn còn u mê, vẫn còn tưởng Ngài sẽ khôi phục nước Israel theo nghĩa phàm trần. Đức Giêsu vẫn tiếp tục kiên trì dạy dỗ những người học trò như thể “chậm hiểu” đối với con người ngày nay, nhưng thật sự những gì Đức Giêsu đề cập rất khó hiểu vì các tông đồ đâu có những khái niệm trước như những tín hữu hôm nay đã được nghe đi nghe lại nhiều lần.

Đức Giêsu “lên trời” ngay trước mắt các tông đồ (Cv. 1,9). Điều này đã xảy ra tại vườn dầu (Cv. 1,12). Bao nhiều lần Đức Giêsu hiện ra cho các tông đồ, và rồi Ngài lại biến đi trước mắt các ông. Những lần đó không có sách nào nói Ngài lên trời cả, chỉ coi Ngài hiện ra và Ngài lại đi thôi, và rồi Ngài sẽ lại thăm viếng các tông đồ khi các tông đồ cần và Ngài muốn. Sách Tông Đồ Công Vụ hôm nay diễn tả rất cụ thể và rõ ràng về biến cố Đức Giêsu lên trời.

II. Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế

Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Matthêu không nói Đức Giêsu lên trời, mà lại nói Đức Giêsu ở lại mãi với con người: “Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28,20). Theo thánh Matthêu, Đức Giêsu là Emmanuel, nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, Thiên Chúa ở với con người (Mt. 1,23). Nếu Đức Giêsu là Đấng qua Ngài Thiên Chúa ở với con người, thì đâu có khi nào Đức Giêsu rời con người nữa. Thiên Chúa không ở xa con người, nhưng ở gần thật gần con người, một cách đặc biệt qua Đức Giêsu. Tin Mừng theo thánh Matthêu cũng cho thấy Đức Giêsu đã nói: “nơi nào có hai hay ba người họp nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở đó, giữa họ” (Mt.18, 20). Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Yoan cũng có những tư tưởng tương tự: “ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu thương người ấy, Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga.14, 23). Đức Giêsu ở với các tông đồ, ở với những người nhờ lời các tông đồ mà tin vào Đức Giêsu.

Ý niệm Đức Giêsu ở với con người, hàm chứa niềm tin Đức Giêsu “đang sống” một cách nào đó. Đây không chỉ là “đang sống” theo nghĩa những người còn đang sống tưởng nhớ tới Ngài, nhưng thật sự Ngài vẫn đang sống độc lập và khách quan đối với tư tưởng của con người. Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang sống và ở với con người bất chấp con người có biết hoặc ý thức điều đó hay không.

III. Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa

Một số người khi đọc tới đây có thể đã nói: “Kinh Thánh mâu thuẫn; như vậy biết tin thế nào đây, một đàng nói lên trời một đàng nói vẫn ở dưới thế”! “Phải chăng Kinh Thánh không đáng tin”. Thật sự trong Kinh Thánh có nhiều điều bị người ta nói “không lô gích và phản khoa học”, chẳng hạn trong Sáng Thế Ký nói “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St. 2, 7). Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng làm gì có tay mà nặn, làm gì có hơi thở mà thổi hơi vào hình đất đó. Khoa học cho thấy con người hình thành qua tiến trình tiến hóa.

Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng. Ngài ở khắp mọi nơi. Không có gì hiện hữu ngoài Ngài. Ma quỷ cũng luôn hiện diện trước Ngài, không thể tránh được Ngài. Nếu ai thù hận ghen ghét Ngài, thì sẽ muôn đời khổ vì không thể trốn đâu được với Ngài. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, nên không có tay phải tay trái, không có bên phải bên trái. Những cách diễn tả như vậy, đó là cách diễn tả “nhân hình” về Thiên Chúa. Khi người ta nói “Thiên Chúa ở trên trời”, thì không có nghĩa Thiên Chúa ở trên trời thăm thẳm mà không ở dưới đất này, nhưng có nghĩa, Thiên Chúa là Đấng cao vời siêu việt, vượt quá sức hiểu và tưởng tượng của con người. Thiên Chúa là Đấng cao vượt trên con người như trời cao hơn đất: Thiên Chúa ngự trên trời. Như vậy khi một số tác giả diễn tả Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, không có nghĩa đen hoàn toàn như vậy, nhưng phải hiểu là Đức Giêsu được tôn vinh ngang hàng với Thiên Chúa. Công Nghị Do Thái đã hiểu theo nghĩa này, nên đã đồng thanh kết án tử hình Đức Giêsu: là người mà dám nhận mình ngang hàng với Thiên Chúa: phạm thượng (Mc.14, 62-64). Khi nói Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng không có nghĩa rằng Đức Giêsu ở xa con người, rời bỏ con người, nhưng có nghĩa, Ngài được tôn vinh ngang hàng với Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa làm người.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Đức Giêsu nói: “Này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt.28, 20). Bạn có thấy câu này mâu thuẫn với khẳng định “Chúa Lên Trời” không? Tại sao bạn nói mâu thuẫn hoặc không mâu thuẫn?

2. Trong Kinh Thánh, những chỗ nào đề cập đến việc “Chúa lên trời”? Theo ý bạn, “lên trời” trong từ ngữ “Chúa Lên Trời” phải được hiểu như thế nào?

3. Ở đâu trong Kinh Thánh dùng từ ngữ “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”? Theo bạn, từ ngữ “ngự bên hữu Thiên Chúa” phải được hiểu như thế nào, vì Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, đâu có bên phải bên trái?

7. Lên trời - ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Chúa Giêsu lên trời. Trời là chốn linh thiêng mầu nhiệm lạ lùng. Con người luôn luôn khao khát được lên trời. Đi dưới đất, bơi trên sông, con người thấy mình thấp hèn quá! Phải làm sao lên được trời cao, con người mới thỏa mãn được những ước mơ lý tưởng của mình.

Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai ông Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng.

Loài người đã hồi hộp theo dõi: các cuộc bay lên trời của mấy ông đó và mơ ước có ngày cũng được lên trời, nhưng rốt cuộc chuyến bay nào cũng phải trở về đất, lại phải sống kiếp thân phận bụi đất.

Chỉ có cuộc lên trời của Chúa Giêsu mới giải thoát con người khỏi kiếp sống lầm than, mới ban sức mạnh thần lực cho con người lên trời vinh quang muôn đời.

Cuộc lên trời của Chúa: thật là một cảnh tượng huyền diệu đang diễn ra trước mắt đức tin của chúng ta:

1. Ở trên cao: Các thiên thần và triều đình thiên quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn trong niềm ngây ngất, tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: “Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh”.

2. Ở chung quanh: Đoàn tùy tùng theo Chúa đông vô kể, gồm các thánh thời Cựu Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính, các hiền nhân do Chúa Cứu Thế giải thoát khỏi ngục tối, đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có tổ phụ Abraham, Giacob, Môisê, thánh Job, thánh vương David, các tiên tri Isaia, Giêrêmia, nhất là hai bên tả hữu là thánh cả Giuse và thánh Gioan tiền hô và cả người trộm lành nữa.

3. Ở dưới đất: Quỳ trên núi Ôlivitê là Hội thánh sơ khai: Đức Mẹ, thánh Phêrô, các tông đồ, hàng trăm môn đệ và các thánh nữ. Trước sự hiện diện và trước những con mắt đang ngây ngất chiêm ngưỡng, Chúa Giêsu lên trời lòng tràn trề rộn rã hân hoan: “Mọi miệng lưỡi trên trời dưới đất cùng cả hỏa ngục đang tung hô rằng Giêsu Kitô là Vua, là Chúa chúng tôi” (Suy Niệm Đời Chúa).

Vì thế, bài Đáp ca Thánh lễ hôm nay đã hô hào khắp muôn dân, khắp hoàn cầu, khắp trời đất: “Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh cao cả (Tv. 47, 2-3, 6-9).

Sống trong nguồn vinh phúc của Chúa Giêsu lên trời, chúng ta phải thực thi hai điểm: Mắt nhìn trời, chân đạp đất.

- Mắt nhìn trời để “cầu xin Chúa Cha vinh hiển ban cho chúng ta thần trí khôn ngoan để nhận biết Đức Kitô chỗi dậy từ cõi chết và đang ngự bên hữu Chúa Cha. Ngài tôn vinh Đức Kitô trên mọi quyền lực thần thiêng trong thế giới hiện tại và cả thế giới tương lai. Xin Người soi trí mở lòng chúng ta thấy rõ gia nghiệp vinh quang phong phú của chúng ta được chia sẻ cùng các thánh, thấy rõ quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta” (Bài đọc 2). Mắt nhìn trời để đón nhận “sức mạnh của Thánh Thần” soi sáng, trợ giúp khích lệ ta trong nhiệm vụ làm chứng về Đức Kitô.

- Chân đạp đất là “đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo tin mừng cho tất cả loài người”, “từ Giêrusalem, Giuđê, Samaria và cho đến cùng tận trái đất”. Từ kinh thành văn minh như Hy Lạp, Ai Cập, Roma đến hang cùng ngõ hẻm, rừng thiêng nước độc như Giaray, Kontum, từ bắc cực đến nam cực băng giá, ngày nay đều có thánh giá ngự trị để cho muôn dân được lành mạnh, được cứu độ, thoát khỏi loài rắn quỷ satan, khỏi nọc độc của tử thần.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: “Thầy đi dọn chỗ cho các con để Thầy ở đâu, chúng con sẽ được ở đó”. Giờ đây, Thầy đang ngự trên quê hương hạnh phúc nước Trời mà vẫn hằng chăm lo cho chúng con mọi sự. Xin cho chúng con biết luôn luôn nhìn trời để chăm lo đời sống chúng con và đời sống mọi người, mong xứng đáng được về hưởng vinh phúc quê trời với Thầy. Amen.

8. Chuyển giao thông điệp cứu độ
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Đối với chúng ta hôm nay, việc gửi một lá thư từ Việt Nam đi Âu hay Mỹ là điều dễ dàng như trở bàn tay, nhất là đối với thư điện tử; chỉ cần ngồi vào máy tính và nhắp chuột một cái là bức thư sẽ được chuyển qua nửa bên kia trái đất chỉ trong một vài giây!

Thế nhưng vào thời kỳ ngành Bưu Chính Việt Nam chưa phát triển (từ thời vua Lý Thái Tôn [1028-1054] đến đầu thời Pháp thuộc), việc chuyển một bức thư từ Bắc vào Nam là cả một hành trình đầy gian truân khổ ải.

Chuyển giao chiếu chỉ Nhà Vua

Hồi ấy, người lính trạm ở hoàng cung (nay gọi là bưu tá), sau khi nhận được công văn hay chiếu chỉ của Nhà Vua, tức tốc lên ngựa phóng nước đại bất kể ngày đêm mưa nắng, để chuyển giao sớm hết sức có thể cho Trạm kế tiếp (mỗi trạm được gọi là Cung Dịch hay Trạm Dịch). Người lính ở trạm kế đó, khi vừa tiếp nhận chiếu chỉ, phải lập tức phóng ngựa lên đường không trì hoãn để chuyển giao cho Trạm tiếp theo... Cứ thế, các lính trạm nối tiếp nhau phóng ngựa như bay, bất chấp nhọc nhằn, băng qua nhiều chặng đường gian nan hiểm trở có lắm thú dữ hoành hành, để chuyển giao nhanh chóng chiếu chỉ đến tay người nhận, dù phải tốn rất nhiều thời gian và công sức.

Chuyển giao sứ điệp của Chúa Giêsu

Trước khi về trời, Chúa Giêsu long trọng trao cho các Tông Đồ sứ mạng loan báo Tin Mừng cho toàn thế giới: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16, 15).

Tin Mừng là thông điệp quan trọng bậc nhất vì có liên hệ mật thiết đến phần rỗi, đến sự sống đời đời của nhân loại: "Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án" (Mc 16, 16).

Tin Mừng là một thông điệp vô cùng quý báu vì mang lại hoà bình và hạnh phúc cho toàn thế giới.

Tin Mừng cũng là thông điệp khẩn cấp, cần phải loan truyền nhanh chóng và rộng rãi khắp nơi vì e rằng có rất nhiều người chết đi mà chưa kịp đón nhận được sứ điệp mang lại ơn cứu rỗi nầy.

Khi tiếp nhận sứ điệp Tin Mừng, các tông đồ đã cống hiến toàn bộ cuộc đời còn lại của mình, chấp nhận vô vàn gian lao khổ ải, kể cả ngục tù, xiềng xích và cái chết, để chuyển giao Tin Mừng cho người Do-Thái và cho dân ngoại trong đế quốc Rô-ma.

Kế đó, các cộng đoàn tín hữu tiên khởi, sau khi đón nhận Tin Mừng của Chúa Cứu Thế do các tông đồ truyền lại, tích cực bảo toàn và nỗ lực chuyển giao cho thế hệ tiếp theo dù phải trả bằng giá máu. Nhờ thế, sứ điệp Tin Mừng của Chúa Cứu Thế đã được loan báo cho nhiều dân tộc khắp năm châu.

* * *

Chuyển giao Tin Mừng là sứ mệnh cấp bách

Chúa Giêsu và Hội Thánh đã trao sứ điệp quý báu và quan trọng nầy tận tay chúng ta và thôi thúc chúng ta chuyển đi khắp thế giới. "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo."

Nắm trong tay thông điệp tối khẩn có liên quan đến vận mệnh đời đời của toàn thể nhân loại, ít nữa là vận mệnh của hơn 75 triệu đồng bào Việt Nam chưa biết Chúa đang sống quanh ta, nhưng dường như chúng ta còn uể oải chưa muốn lên đường làm trách nhiệm người "lính trạm" của Chúa Kitô.

Lạy Chúa Giêsu,

Hôm nay, nhiều người phải sống bất hạnh vì chưa được đón nhận niềm hạnh phúc do Tin Mừng mang đến, nhiều dân tộc phải chịu thiêu đốt trong lò lửa chiến tranh vì không hề biết giải pháp đem lại hoà bình do Tin Mừng cung cấp, đang khi Chúa vẫn thôi thúc chúng con truyền rao Tin Mừng cho họ mà chúng con vẫn lặng im!

Và nếu chung quanh chúng con có nhiều người chết đi mà chưa kịp đón nhận sứ điệp Tin Mừng cứu độ vì sự chểnh mảng, thờ ơ của chúng con là những "người lính trạm" của Chúa thì đến ngày phán xét, chúng con sẽ trả lời với Chúa sao đây?.

9. Hướng về trời cao - Lm. Ignatiô Trần Ngà
Có một số thanh thiếu niên hiện nay không màng đến chuyện học hành, chẳng lo trau dồi đức hạnh, không chịu rèn luyện để trở thành người có ích… Trái lại, họ đâm ra lêu lỏng chơi bời, quậy phá, đắm mình trong truỵ lạc đê hèn. Nguyên nhân nào đã gây ra thảm trạng đó?

Không có hướng tiến thân sẽ làm con người hư hỏng

Các nhà nghiên cứu xã hội cho rằng một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng đáng buồn đó là vì một số bạn trẻ cảm thấy không có đường tiến thân cho mình, cánh cửa mở vào tương lai dường như đang khép lại trước mặt họ. Họ chẳng hy vọng có chút địa vị trong xã hội hay có được công ăn việc làm ổn định với đồng lương cao. Họ chẳng còn mục tiêu nào tốt đẹp để phấn đấu vươn lên. Họ cảm thấy tương lai bế tắc, nên đâm ra chơi bời lêu lỏng, làm hư hỏng cả cuộc đời.

Nói chung, khi con người cảm thấy không có tương lai, nhìn về mai sau chỉ thấy ngõ cụt, thấy kết thúc của đời người chỉ là một nấm mồ … thì người ta không còn muốn cố gắng phấn đấu sống đời đạo đức, không còn muốn làm lành lánh dữ, không còn muốn tu thân tích đức… mà chỉ muốn ăn chơi cho qua ngày đoạn tháng, hoặc sống buông thả và làm hỏng đời mình.

Tâm trạng đó được nhà thơ Cao Bá Quát diễn tả như sau:

“Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy,

cảnh phù du trông thấy cũng nực cười,

thôi công đâu chuốc lấy sự đời,

tiêu khiển một vài chung lếu láo.”

Vì cảm thấy kiếp người thì ngắn ngủi, mọi sự chỉ là phù du, nên người ta không muốn chuốc lấy sự đời, không muốn kê vai gánh vác trách nhiệm xã hội mà chỉ muốn tìm an nhàn trong chén rượu cho vơi nỗi sầu.

Vì cảm thấy tương lai là ngõ cụt, nên cũng có người chọn sống như những con thiêu thân:

“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối,

Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” (Xuân Diệu).

Đức Giêsu lên trời hướng tâm hồn ta tới một tương lai huy hoàng

Có một đàn chim đông đảo bị giam nhốt trong một chiếc lồng khá lớn. Kiếp sống ngục tù trong cảnh “chim lồng cá chậu” làm cho đa số chim trong lồng không có cơ hội cất cánh bay lên, thế nên đôi cánh của chúng gần như bị tê liệt. Đối với chúng, thế giới chỉ là chiếc lồng chim chật chội và khung cảnh chung quanh mình. Hằng ngày chúng sống chen chúc trong khoảng không gian giới hạn của chiếc lồng, an phận sống kiếp gia cầm chờ ngày bị đem đi xào nấu.

Vào một ngày đẹp trời, một con chim mẹ trổ được một lỗ hổng trên nắp lồng và thoát ra được bên ngoài, tung cánh bay vút lên cao giữa khung trời cao rộng. Thế là từ hôm đó, nhiều con chim trong lồng cố gắng luyện tập cho đôi cánh mạnh mẽ lên để có thể bay cao, thoát ra khỏi chiếc lồng chật chội như ngục tù giam hãm mình, để bay vút lên trời xanh nối đuôi chim mẹ.

Qua biến cố sống lại và lên trời, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy rằng kiếp người không phải chỉ giới hạn trên trái đất chật hẹp này nhưng còn được nối tiếp trong thế giới thiêng liêng và Ngài đã mở ra cho chúng ta một lối thoát, thoát ra khỏi thế giới tạm bợ này để vào thiên quốc.

Sự kiện Chúa Giêsu lên trời hướng tâm hồn chúng ta về trời cao, giúp chúng ta biết cùng đích của đời người không phải là chốn trần gian tạm bợ mà là cõi hạnh phúc thiên đàng. Ngài lên trời mở ra cho chúng ta một chân trời mới, một triển vọng mới.

Vì thế, chúng ta đừng bám chặt vào thế giới phù du tạm bợ này, vì không sớm thì muộn, chúng ta cũng phải từ bỏ nó. Vậy thì đừng trầm mình trong nếp sống ươn hèn tội lỗi, đừng ngụp lặn trong lạc thú mau qua, đừng chỉ biết cúi xuống để sống an phận, mà biết sống siêu thoát và biết hướng tâm hồn lên cao.

Khi đàn chim non thấy chim mẹ bay thoát ra khỏi chiếc lồng giam nhốt mình từ bấy lâu nay thì chúng quyết luyện tập cho đôi cánh được mạnh mẽ để có thể thoát ra khỏi chốn ngục tù, tung cánh bay lên cao như chim mẹ.

Vậy thì chúng ta cũng phải kiên trì luyện tập mỗi ngày, cho đức tin của mình được mạnh mẽ, cho tâm hồn đạo đức được gia tăng, cho lòng mến được dồi dào, nhờ đó, mai đây chúng ta có thể “cất cánh” về với Thiên Chúa là nguồn hoan lạc của chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã xuống trần để vạch đường chỉ lối cho chúng con về thiên quốc. Chúa đã về trời để dọn sẵn chỗ ở cho chúng con trong Ngôi Nhà của Chúa Cha (Ga 14,2). Xin cho chúng con biết rèn luyện “đôi cánh mến Chúa yêu người” cho mạnh mẽ, để đủ sức “bay” về nơi Chúa đã dọn sẵn cho chúng con.

10. Chúa Thăng Thiên
Hôm nay lễ Chúa Giêsu lên trời, nhưng Trời ở đâu? Trong Kinh Thánh, "trời" là hình ảnh văn chương quen thuộc dùng để chỉ nơi Thiên Chúa ngự. Kinh Thánh cũng dùng hình ảnh đám mây để nói về sự hiện diện của Thiên Chúa, ví dụ: khi dân Chúa tiến bước trong sa mạc, thì có đám mây đi theo, Vậy chúng ta đừng hiểu cách mô tả của Thánh Luca trong Kinh Thánh theo nghĩa đen theo kiểu Chúa bay vào không gian như một phi hành gia. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là Người được vĩnh viễn đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, được nên ngang hàng với Thiên Chúa và được đặt làm Chúa mọi loài mọi vật.

Chúa Giêsu lên trời hay còn gọi là lễ Thăng Thiên. Biến cố Thăng Thiên của Chúa Giêsu chấm dứt một lịch sử và khởi đầu một lịch sử. Lịch sử chấm dứt là lịch sử nào? Thưa đó là lịch sử cuộc đời của Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể ở giữa trần gian, biến cố Thăng Thiên chấm dứt sự hiện diện hữu hình của Chúa Giêsu ở giữa thế gian. Còn lịch sử bắt đầu là lịch sử nào? Thưa là lịch sử của Hội Thánh, lịch sử này tiếp nối công cuộc cứu độ của Chúa Cứu Thế trên trần gian cho đến ngày Người trở lại trong vinh quang.

Thánh Luca viết: Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời, thì kìa hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói "Hỡi những người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời". Câu nói của các thiên sứ nhắc nhở các tông đồ phải trở về với nhiệm vụ đã được Thầy giao phó mà các Ngài phải chu toàn cho đến ngày tận thế.

Chúa Giêsu lên trời là một điều chắc chắn. Đây là một mầu nhiệm, một tín điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính "ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh, Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha", một hy vọng cho chúng ta hướng đến khi suy niệm Năm Sự Mừng, thứ hai Đức Chúa Giêsu lên trời, Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời.

Chúa Giêsu lên trời là để dọn chỗ cho các môn đệ và Người sẽ trở lại để đem họ về trời với Người. Chúng ta là người kitô hữu, qua bí tích rửa tội, chúng ta trở nên những môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta sống đạo là để chúng ta được Chúa cho chúng ta lên thiên đàng trong ngày sau hết. Nhưng để được lên thiên đàng cũng phải có những điều kiện. Đó là làm theo những lệnh truyền của Chúa: phải sám hối từ bỏ mọi tội lỗi, các đam mê xấu và tin vào Tin Mừng của Chúa, để được ơn tha thứ và trở nên con cái Thiên Chúa; phải thực hành các giới răn của Chúa và những lời dạy của Hội Thánh, nhất là giới răn yêu thương. Bởi thiên đàng là nơi sống yêu thương, những ai sống trong thù hận, chia rẽ, ghen ghét, hay chửi rủa, hay nói hành nói xấu người khác, thì không thể lên thiên đàng được, họ sẽ không hoà hợp được với lối sống thiên đàng vì họ không biết yêu thương. Muốn được lên thiên đàng sau khi chết chúng ta phải xây dựng cho mình một thiên đàng ngay tại thế gian này bằng một đời sống luôn biết yêu thương, biết chia cơm sẽ áo cho những người nghèo đói, giúp các bệnh nhân nghèo có phượng tiện chữa bệnh, thăm viếng an ủi những người đau khổ cả về thể xác cũng như tâm hồn, động viên các tội nhân ăn năn sám hối và sớm trở về giao hoà với Thiên Chúa. Sống yêu thương là sống làm chứng cho người khác biết rằng có một cuộc sống mai sau thật tốt đẹp trong Chúa.

Lạy Chúa, con đường về trời là con đường sống yêu thương. Xin cho chúng con luôn biết sống yêu thương như Chúa đã dạy và đã sống. Uớc gì qua cuộc sống chúng con, người ta nhận ra Nước Chúa đang tỏ hiện. Amen.

11. Khai mở trang sử mới của Giáo hội
(Keith Witfield – Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)

“Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” (Mc 16,20)

Theo Thánh Luca, biến cố Chúa về trời mang chở một ý nghĩa sâu xa, nhằm biến đổi các tông đồ và khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng của toàn thể Hội Thánh. Thánh Luca thuật lại biến cố này để kết thúc Tin mừng và cũng để khởi đầu sách Tông đồ Công vụ.

Việc Chúa Thăng Thiên mang lại một âm hưởng rất sâu xa nơi các môn đệ. Đối diện trước biến cố Chúa về trời, các ông ngỡ ngàng, mắt vẫn còn đăm đăm ngước lên trời cao (Cv 1,10), và chưa thể hình dung sự việc xảy ra như thế nào. Nhưng sau đó, các ông đã hiểu. Chính xác hơn, là các tông đồ đã dần dần hiểu ra và tiến sâu vào thế giới của huyền nhiệm khi nhớ lại những lời Đức Giêsu đã căn dặn trước đây. Cuối cùng, “Các ông bái lạy Người, trở về Giêrusalem lòng đầy hân hoan và họ ở trong đền thờ, ngày đêm chúc tụng Chúa. (Lc 24,52-53).

Thoạt đầu, phản ứng của các tông đồ khiến chúng ta dễ đặt nghi vấn. Đức Giêsu vừa mới ‘rời bỏ’ các ông. Sự ra đi nào cũng để lại những sầu thương và nỗi nhớ. Các ông buồn, nhưng sau đó các ông lại ‘ngập tràn niềm vui’. Tại sao các tông đồ lại có phản ứng trái chiều mau lẹ đến thế? Chúng ta nhớ lại trong diễn từ ly biệt, ở phần cuối chương 13 và chương 14 của Tin mừng Gioan, Đức Giêsu báo trước là Ngài sẽ bỏ lại các ông, và tâm hồn các ông sẽ xao xuyến. Nhưng sau đó Chúa trấn an và nói về Thánh Thần, là nguyên lý hóa giải những sầu buồn và tuyệt vọng (Ga 14-17). Ngài nói với các học trò của mình là đừng có lo lắng. Các ông sẽ không mất Ngài, nhưng Ngài vẫn ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế qua một dạng thức khác, nhờ Thánh Thần.

Việc Chúa về trời khơi dậy niềm vui. Các tông đồ sớm nhận ra rằng khi Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, họ sẽ lãnh nhận được nhiều đặc phúc. Trước hết, đó là quà tặng Thần Khí. Lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được thực hiện cách tròn đầy. Các tông đồ ngắm nhìn Chúa lên trời, nhưng lòng đầy vui mừng bởi vì các ông nhớ lại lời hứa của Chúa về ‘Đấng sẽ đến’. Những nghi ngại và sợ hãi dần tan biến. Các học trò của Chúa Giêsu thâm tín rằng Thầy của họ đã trỗi dậy từ cõi chết và vẫn đang sống. Qua sự phục sinh của Đức Giêsu, các tông đồ trải nghiệm niềm vui và hy vọng về sự chiến thắng trước mãnh lực của tử thần. Họ tín thác vào Chúa. Vì thế, sự ra đi của Đức Giêsu để trở về với Chúa Cha mang đến cho họ niềm vui. Niềm vui đó được cắt nghĩa với những lý do sau:

+ Đức Giêsu lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Dt 10,22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.

+ Khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đảm nhận vai trò trung gian giữa con người với Chúa Cha. Nhờ Ngài và với Ngài, chúng ta được thông dự vào thế giới thần linh cùng với Chúa Cha (1Ga 2,1).

+ Khi Chúa lên trời, vương quốc vĩnh cửu của Ngài bắt đầu khai mở. Đó là vương quốc đánh bại kẻ thù là Satan và ác thần. Thánh Phêrô đã viết: “Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền (1P 3,22).

+ Cuối cùng, Khi Đức Giêsu lên trời, Hội thánh được phú ban năng quyền để thực thi sứ mệnh Chúa trao phó. Khi nói về việc Đức Giêsu sống lại và lên trời, Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Êphêsô đã khẳng quyết: “Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Giêsu và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn (Eph 1,22-23).

Đức Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt. Ngài là Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy. Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ. Ma quỷ làm mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha. Các sách Tân ước đều khải thị cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để gọi mời chúng ta tin vào Ngài.

Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ ngập tràn niềm vui, chứa chan niềm hy vọng và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Đức Giêsu đã chuyển giao. Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các Ngài một cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.

Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa, có thể trải nghiệm niềm vui và niềm hy vọng. Đồng thời, tiếp nối dấu chân của các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha.

12. Việc đó xảy đến khi nào? – John W. Martens
(Lm. Phêrô Phạm Văn Chính, SDB chuyển ngữ)

“Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1,6)

Dầu vẫn đang còn bị tổn thương bởi cuộc khổ nạn và những mơ ước trần thế bị tan vỡ do sự sống lại của Đức Giê-su từ cõi chết, các tông đồ vẫn cố bám víu vào niềm tin chung của người Do thái về một Đấng Mê-si-a và việc thiết lập vương quốc của Thiên Chúa. Họ đặt ra cho Đức Giê-su một câu hỏi đơn sơ trước khi Ngài lên trời: “Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”.

Mặc nhiên trong câu hỏi này hàm chứa ước muốn được biết về những gì sẽ xảy đến sau này. Nếu như đường lối của Thiên Chúa đã để họ rơi vào tình trạng hoang mang, bối rối, tuy vẫn còn chút niềm hy vọng, vậy liệu họ có thể biết được những biến cố sắp xảy đến không? Liệu kế hoạch của Thiên Chúa theo sau những gì họ hiểu ra, sẽ là một dạng mẫu về nước Thiên Chúa phải đến không? Hoàn toàn không phải như thế. Vì Đức Giê-su đã nói với họ: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt”. Tất cả những gì họ cần biết là họ phải trở thành chứng nhân cho sự sống và sự sống lại của Đức Giê-su, làm chứng cho sự thật về Đức Ki-tô cho thế giới, khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem, Giu-đê-a và Sa-ma-ri-a, cho đến tận cùng thế giới. Bất luận điều gì xảy đến sau đó, cũng phải được khám phá trong quá trình trung thành thực thi sứ mệnh của họ.

Hẳn rằng Đức Giê-su không phải là Đấng mà họ đã từng nghĩ, dầu họ sẽ khám phá ra Ngài còn hơn cả những gì họ có thể mường tượng, tức là một vị Thiên Chúa nhập thể - chính cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi phải khám phá ra rằng hành vi cứu độ của Thiên Chúa theo lối suy nghĩ của thế gian thì khác với việc đăng quang của Con Người ngự đến để xét xử trần gian; cộng đoàn Giáo hội tiên khởi phải khám phá ra rằng việc Dân ngoại được thông phần vào cùng hành vi cứu độ này đòi phải thực thi một sứ vụ cho thế giới” (Ben F. Meyer, Những mục đích của Đức Giê-su). Chính trong kinh nghiệm sống cuộc đời của những người môn đệ trung thành của Đức Giê-su mà họ phải hiểu những biến cố trong cuộc đời của Đức Giê-su đã nói về phận vụ của họ trong tư cách là Giáo hội.

Việc lên trời của Đức Giê-su có lẽ dễ bị hiểu sai nhất và bỏ quên những biến cố được tưởng niệm trong suốt mùa Phục sinh, từ biến cố phục sinh đến lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Thế nhưng câu chuyện thăng thiên với việc Đức Giê-su “lên trời”, vốn được diễn đạt theo ngôn ngữ của vũ trụ luận xa xưa, lại muốn nói tới việc đăng quang của Đức Ki-tô trong tư cách là Thiên Chúa. Chính Tin mừng theo Thánh Mác-cô cũng mô tả việc Đức Giê-su được “đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”.

Niềm hy vọng trước đây của các tông đồ rằng đã đến lúc Đức Giê-su khôi phục là vương quốc cho dân tộc Ít-ra-en trong khía cạnh trần thế, thì giờ đây lại được hiểu như là việc đăng quang của Đức Giê-su trong tư cách một vị vua cai trị với thẩm quyền trên mọi sức mạnh trần gian và thần thiêng. Đức Giê-su không chỉ là Vua của dân tộc Ít-ra-en, nhưng Ngài còn thực sự là Vua của vũ hoàn.

Lá thư của Thánh Phao-lô gởi tín hữu Ê-phê-xô cho thấy quyền năng của Thiên Chúa đang được biểu dương nơi Đức Ki-tô khi làm cho Ngài trỗi dậy từ cõi chết và “đặt Ngài ngự bên hữu Người trên trời, vượt trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai”. Chính vì Đức Giê-su Ki-tô đã thống trị, nên Ngài có thể hướng dẫn Giáo hội trong sự khôn ngoan và sáng suốt, và hơn nữa còn đặt niềm hy vọng của chúng ta vào một vương quốc sẽ đến trong vinh quang tràn đầy. Quyền năng này cũng đang hoạt động nơi Thân mình của Đức Ki-tô trên trần thế tức là Giáo hội, cho phép Giáo hội tiếp tục sứ mệnh của Đức Giê-su trong việc loan báo tin mừng cứu độ cho toàn thế giới.

Các tông đồ lên tiếng hỏi: “Thưa Thày, có phải bây giờ là lúc Thày khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Đức Giê-su liền giúp các tông đồ tập trung vào sứ mệnh của họ trong tư cách là Giáo hội. Điều này không có nghĩa là Ngài từ khước vương quyền của mình, nhưng là cách mà vương quyền của Đức Giê-su sẽ thống trị trên toàn thế giới (danh Ngài sẽ được toàn thế giới biết đến).

Đúng thế, vương quốc này đã đến theo cách mà họ không ngờ. Giả như chính chúng ta được nghe trực tiếp lời này: “Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,11), thì chúng ta cũng tự hỏi: khi nào điều ấy sẽ đến?

Như Phê-rô và các tông đồ khác, chúng ta cũng có phận vụ làm chứng nhân trong khi mong đợi nước Thiên Chúa ngự trị cách sung mãn tròn đầy, vì biết rằng đấng đã hứa, thì cũng sẽ thực hiện điều đó. Ngài sẽ lấp đầy niềm hy vọng của chúng ta, vượt xa những gì chúng ta mong đợi nữa. Chúng ta không biết điều đó sẽ xảy đến khi nào và thế nào, nhưng Đấng đã hứa điều đó sẽ ngự đến, Ngài sẽ thực thi điều đó theo cách thế mà chúng ta chẳng bao giờ ngờ trước được.

Cầu nguyện: Việc Đức Giê-su lên trời giúp bạn hiểu về sứ mệnh của Giáo hội như thế nào?

13. Mầu nhiệm tôn vinh Thiên Chúa
(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)

Hôm nay Giáo hội mừng lễ Chúa Thăng Thiên, khải hoàn vê trời. Về mầu nhiệm Thăng Thiên, có hai phương diện cần phải giải thích. Một là việc Chúa được tôn vinh mà các tác giả Thánh Kinh mô tả bằng những hình ảnh như "được nâng" cao "lên trời", "ngự bên hữu Đức Chúa Cha". Cuộc tôn vinh đó được diễn ra chính vào lúc Chúa Phục Sinh, giác quan không thể cảm nghiệm được, chúng ta chỉ có thể nhận thức bằng con mắt đức tin. Nhưng có một dữ kiện thứ hai có tính cách lịch sử, cảm nghiệm được dựa trên chứng từ của những người tai nghe mắt thấy, như Thánh sử Luca cho biết: Vài tuần, sau lễ Vượt qua, Chúa Giêsu đã "được đưa lên trời" trước mặt các môn đệ, trên núi Cây Dầu, gần làng Bêthania; một dữ kiện rõ ràng kiểm chứng được.

Việc Chúa được tôn vinh hay lên trời cách vô hình, mới chính là trung tâm của mầu nhiệm. Việc Thăng Thiên hữu hình chỉ là dấu chỉ và bảo chứng việc tôn vinh vừa nói. Tuy nhiên, đó là một sự kiện lịch sử mà Luca người duy nhất đã kể lại. Vả lại, trong hạnh tích các Thánh, nhiều vị cũng được ơn "nâng lên" như vậy, danh từ thần học gọi là thần lực nâng cao (lévitation).

Thánh Phaolô trong Thư gửi Giáo đoàn Ephêsô đã giải thích cho chúng ta về mầu nhiệm hôm nay, khi người nói: "Công việc Thiên Chúa đã thực hiện trong Đức Kitô, tức là làm cho Ngài từ cõi chết sống lại và đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời". Thánh Augustinô nói: "Đức Kitô trở về nơi tối cao, nhưng vẫn ở lại với chúng ta. Và cũng như chúng ta, chúng ta ở lại dưới đất, nhưng chúng ta cũng đã ở bên Ngài." Trên trời và dưới đất là hai trạng thái, hai lối sống: sống với Thiên Chúa và sống theo thể xác. Khi bỏ trời xuống đất, Chúa đến dạy cho chúng ta nếp sống theo ý Chúa muốn, để biết đường về trời, khi cuộc đời dưới trần gian viên mãn, ta được về với Chúa, "được sống lại với Chúa Kitô, vì mục đích cuộc đời ta, không phải ở dưới đất mà là ở trên trời" (Cl 3,1-2).

Trong bài Phúc Âm, Thánh Máccô gợi lên hai ý tưởng: sự lên trời của Chúa Giêsu và việc sai phái các tông đồ đi giảng đạo. Từ trời cao kia như một chỗ hẹn, một bộ chỉ huy, Chúa Kitô khởi hoàn hằng soi sáng hướng dẫn các môn đệ. Ngài sai họ đi trên vạn nẻo đường thế giới, ban cho họ nhiều quyền năng để rao giảng Tin Mừng.

Ngài đã chết để cứu độ mọi người thì nay Ngài trao phó cho các môn đệ sứ mạng đem Tin Mừng cứu rỗi quảng bá khắp mọi nơi, Marcô còn nói rằng "cho mọi tạo vật", ngụ ý rằng Chúa đã đến đổi mới vũ trụ và nay Ngài về trời để hiến dâng cho Đức Chúa Cha một trời mới một đất mới.

Tất cả hai bản tính của Chúa, bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại đều được tôn vinh. Với Chúa Giêsu, loài người và cả vũ trụ đạt đến tột đỉnh vinh quang.

Thánh Ignatiô thành Antiochia tử đạo vào năm 110. Là Giám mục, ngài ra đi để lại cho đoàn chiên những lời từ biệt thống thiết. Ngài xin giáo dân đừng can thiệp cho ngài: "Cha phải được nghiền nát dưới hàm răng sư tử để trở nên bánh tinh tuyền của Chúa Kitô. Hãy để cho cha ra đi đến nơi ánh sáng chân thật. Và khi cha đã về trên đó, sau khi đã làm mồi cho thú dữ, cha sẽ là bánh trong sạch dâng lên, là "người mang Chúa" (Theophore"). Thánh Nhân bị hai con sư tử phân xác và được giáo dân đặc biệt tôn kính.

Mầu nhiệm Thăng Thiên là mầu nhiệm tôn vinh Thiên Chúa toàn diện, vừa là Con Một Đức Chúa Cha, vừa là một phần tử nhân loại. Nhờ Chúa Giêsu con người và vũ trụ đổi mới cũng sẽ đạt đến định mệnh cao sang của mình vậy.

"Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng hoan ca...

Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy tung hô Vua ta".

(Tv 46,8-9)

14. Xin được theo Chúa về Trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một gia đình kia: chồng là người ngoại đạo. Ông không tin Chúa. Ông còn luôn miệng nhạo báng, khinh miệt những hành vi thờ phượng kính mến Chúa. Ngược lại, bà vợ lại rất sùng đạo. Ngày nào bà cũng dắt con đi lễ cầu nguyện. Dù sống giữa hai chiều hướng trái ngược đối nghịch nhau, đứa con trai duy nhất của họ vẫn hiếu thảo với bố mẹ. Một hôm em lâm bệnh hiểm nghèo, em hỏi bố rằng: "Bố ơi! Trong ít ngày nữa con sẽ không còn sống ở dương gian. Con xin bố dạy con phải tin ai? Theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì chẳng có thiên đàng, chẳng có Chúa hay có mẹ để được yêu thương ở đời sau! Còn tin theo Mẹ thì có Thiên Chúa là Cha nhân lành. Có cõi trời để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa là Cha. Có Đức Mẹ luôn bầu cử chở che?"

Người cha quá sững sờ và kinh ngạc. Ông ôm con vào lòng và nói: "Con hãy tin theo Mẹ. Con cưng của cha! Đứa bé liền nói tiếp: "Nhưng nếu bố không tin theo Mẹ, thì làm sao con có thể chờ đợi bố ở trên thiên đàng được?". Trước lời đơn sơ và chân thành của em bé, người cha đã không kiềm nổi những giọt nước mắt ứ tràn nơi khoé mắt. Ông đã để những giọt nước mắt xót xa tuôn rơi trên gò má già nua của mình. Kể từ ngày đó, người cha đã chọn Chúa là lẽ sống, là Đấng ông tôn thờ.

Vâng, nếu cuộc đời này sinh ra lớn lên rồi chết đi thì cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì! Con người sinh ra để được sống mãi chứ không phải để nhào lộn trong bể khổ và chết là hết kiếp người! Điều quan yếu là chúng ta phải tìm ra lẽ sống, và cùng đích đời người là gì? Sống để làm gì? Và chết rồi đi đâu? Đó là những vấn đề làm nên nhân cách con người. Chúng ta chọn cách sống nào cũng tuỳ thuộc vào việc chúng ta hiểu ý nghĩa và cùng đích đời người ra sao?

Chúa Giêsu trong tư cách một con người trần thế. Ngài đã sống cả cuộc đời để tôn vinh Thiên Chúa Cha trong việc phục vụ tha nhân. Ngài đến trần gian để thi hành thánh ý Chúa Cha. Thánh ý đó Ngài đã thực thi trọn vẹn cho dù phải trả giá bằng cả mạng sống, miễn sao cho ý Chúa Cha được thực hiện, cho danh Cha được cả sáng, cho Nước Cha mau hiển trị.

Là người ky-tô hữu chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi cho đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang, mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Cal-vê.

Hôm nay Chúa về trời, Ngài vẫn mang theo dấu vết của thương tích, của thương đau, của sự chống đối, xỉ nhục, đòn roi mà Ngài đã từng trải qua... Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn đau thương đẫm máu đó, như dấu tích cho lời xin vâng trọn vẹn theo thánh ý Chúa Cha. Nay, Ngài cũng muốn tất cả chúng ta hãy đi con đường này để tiến về trời cao. Đó là con đường làm chứng nhân cho Tin mừng của Chúa bằng chính đời sống tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải đổ máu nhưng quan yếu là phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm luôn bao dung, kính trọng, bác ái và công bình. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải có một bản án để người ta thoá mạ, tay chay, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Hôm nay mừng Chúa về trời, chúng ta cũng nghe vang vọng đâu đây lời mời gọi thiết tha của Thầy Chí Thánh Giêsu: "anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-ru-sa-lem cho đến tận cùng thế giới". Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan để: "Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo - Ngày trở về, miệng reo vang câu hát mừng". Amen.

15. Ngước mắt nhìn trời
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Con người thường có hai thái độ sống đối nghịch nhau. Một bên là những người chỉ biết có việc đạo. Sống dưới đất nhưng lòng trí để cả ở trên trời. Không tha thiết gì với những người chung quanh. Không tham gia những sinh hoạt xã hội. Khinh chê tất cả những giá trị ở đời này. Ngược lại, bên kia là những người sống như chỉ biết có việc đời. Chỉ coi trọng những giá trị vật chất. Chỉ biết có đời này. Sống là còn. Chết là hết. Cả hai thái độ đều bất cập.

Việc Đức Giêsu lên trời và những lời Ngài truyền dạy trước khi từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với đất.

Đức Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.

Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh.

Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.

Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với súc vật. Súc vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.

Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.

Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.

Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.

Chính Đức Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đấy. Đi đến đâu là gieo yêu thương đến đấy.

Hôm nay Chúa cũng sai các môn đệ và chúng ta đi gieo Tin Mừng khắp thế gian. Hãy đi làm mọi việc tốt đẹp cho mọi người.

Làm việc tốt đẹp ở trần gian đó là góp phần xây dựng nước trời. Góp phần xây dựng trần gian đó là dọn chỗ ở trên nước trời. Trần gian không phải là nơi cho ta bám víu vì không vĩnh cửu. Nhưng trần gian là cơ hội cho ta đạt tới nước trời.

Chính vì thế, người môn đệ của Chúa phải sống giữa trần gian, phải yêu mến trần gian, phải xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.

Tuy nhiên người Kitô hữu làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết nỗ lực xây dựng trần gian trong niềm mong đợi hạnh phúc nước trời. Amen.

Gợi ý chia sẻ:

1) Tin có thiên đàng. Điều này có quan trọng đối với bạn?

2) Người môn đệ của Chúa phải có thái độ nào đối với của cải vật chất?

3) Khi ngắm thứ hai mùa mừng, đọc “Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”, bạn nghĩ gì? Bạn phải sống làm sao để thực hiện lời cầu nguyện này?

16. Hãy loan báo Tin Mừng
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò và con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: Không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thày có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thày vẫn lắc đầu: Không phải. Thấy không ai trả lời được, thày mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.

Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.

Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy.

Mẹ Têrêxa là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn độ. Đến Ấn độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.

Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không buồn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đã đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.

Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hoả soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc Âm. Khi người Samaritano nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng loé lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.

Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ đã lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel Hoà bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn độ, đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc táng. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.

Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ, Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn cởi mở tin yêu. Giữa đêm tối lạnh lẽo cô đơn. Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy toả lan tới muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.

Vào thời Cộng sản còn mạnh và còn chống đối Công giáo kịch liệt. Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu toả ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.

Hôm nay Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Nhờ đâu Mẹ Têrêxa đến được cả những nước Cộng sản?

2- Nhờ đâu việc truyền giáo của Mẹ Têrêxa thành công tốt đẹp?

3- Đời sống bạn là ánh sáng hay là bóng tối cho những người chung quanh?

4- Bạn quyết tâm làm gì để loan báo Tin Mừng cho mọi người?

17. Tiếp tục công việc của Chúa
1. Ngày nay nhờ phương tiện đi lại dễ dàng, nhanh chóng, cũng như các phương tiện truyền thông rất đa dạng, phong phú vì thế mệnh lệnh ban ra của người có trách nhiệm hay một tin nào đó sẽ được loan truyền đi rất nhanh chóng. Ngày xưa phải dùng các trạm thông tin, tin được đưa truyền từ trạm này đến trạm khác. Nhân viên ở mỗi trạm cố gắng hết sức chu toàn nhiệm vụ của mình bằng cách chạy bộ, đi ngựa... để mệnh lệnh hay tin được đưa đi càng sớm càng tốt. Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, chúng ta liên tưởng đến một cuộc chạy tiếp sức đưa tin, nhưng có điều ở đây không phải là một tin bình thường mà là tin Tin Mừng cứu rỗi. Còn Đức Giêsu không phải như bao nhân viên bình thường khác mà Ngài là chính tác giả của Tin Mừng, và là chính Tin Mừng, Ngài đã thực hiện xong phần vụ của mình cách đặc biệt: Loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa... cuối cùng chịu nạn chịu chết và sống lại để chuộc tội cho loài người, giờ đây Ngài trở về cùng Thiên Chúa Cha. Đức Giêsu trao phận vụ còn lại cho các Tông đồ, Ngài đã yêu cầu các ông: " Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15), và cuộc chạy tiếp sức để loan báo Tin Mừng vẫn còn được trao cho tất cả các Kitô hữu qua nhiều thế hệ cho đến khi Đức Giêsu lại ngự đến trong vinh quang.

2. Qua đoạn Tin Mừng trên, Chúa Giêsu không chỉ ra chị thị, mà Ngài còn hứa hỗ trợ cho người tông đồ nữa. Đọc Kinh Thánh, nhất là sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta dễ thấy rằng nhờ Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh mà các Tông đồ thực hiện được những phép lạ như trừ quỷ (Cv 5,12-16; 8,7; 16, 16-18), đặt tay chữa bệnh (Cv 4,30; 9, 10-17)... Ý nghĩa sâu xa của việc Chúa ban cho các Tông đồ thực hiện được các phép lạ (dấu lạ) này là gì? Thưa đó là chứng tỏ "có Chúa cùng luôn hoạt động với các ông"(Mc 16,20), giúp các ông hoàn thành sứ mạng tông đồ của mình: giảng dạy, chiến thắng thế lực sự dữ, chữa lành bệnh tật...

3. Ngày hôm nay Chúa vẫn mời gọi và trợ lực cho mọi Kitô hữu tích cực góp phần đánh bại thế lực sự dữ do ma quỷ cầm đầu như: lười biếng, chưởi thề, nói tục, trộm cắp, dâm dục, rượu chè, xì ke, ma tuý, áp bức, bất công, giả hình... những thứ này nhan nhản khắp nơi, núp dưới nhiều hình thức khác nhau, rất tinh vi... làm cho ta bước vào con đường tội lỗi mà không hay biết!

Chúa cũng mời gọi mọi và trợ lực cho mọi người chúng ta 'đặt tay', hay nói đúng hơn là 'ra tay' góp phần xoa dịu những nỗi đau của anh chị em mình: bệnh tật thể xác (giúp đỡ người nghèo, bệnh tật...) cũng như bệnh tật thiêng liêng, tinh thần (ích kỷ, thù hằn, ghen ghét...). Vậy mọi Kitô hữu hãy là cánh tay nối dài của Đức Kitô.

4. Không những đẩy lùi sự dữ, chữa lành bệnh tật... mà hôm nay cũng như các Tông đồ xưa, người Kitô hữu bằng lời rao giảng, nhất là bằng đời sống chứng nhân, thu phục tha nhân về cùng Đức Kitô, đó chính là dấu lạ được tái diễn. Câu chuyện sau đây cho thấy các sơ Nữ Tử Bác Ái đã thực hiện một dấu lạ kỳ diệu:

Ngày 25/3/2003 tại Sàigòn, một bác sĩ có tên thánh là Augustino, 50 tuổi được thụ phong linh mục, điều đáng nói vị linh mục này là một người lương trở lại đạo cách ngày thụ phong 10 năm, lúc đó ngài 40 tuổi, sau khi trở lại đạo, ngài gia nhập tu hội Thánh Vinh Sơn, theo học triết học và thần học. Bề trên thấy có đủ điều kiện đã thụ phong linh mục cho ngài. Hiện cha đang làm việc cho một trung tâm dành cho những người mắc chứng siêu vi đang chờ ngày giờ về thế giới bên kia, trung tâm đó ở Củ Chi cách Sàigòn độ 30 cây số.

Làm sao từ một bác sĩ lương dân có thể trở nên một người tận hiến cuộc đời cho Chúa và anh em như vậy? Thưa ngài đã được thu hút bởi các nữ tu Nữ Tử Bác Ái, nhất là từ một nữ tu người ngoại quốc nhưng tận hiến trọn cuộc đời của mình để yêu thương phục vụ cho người cùi hủi, sau khi tốt nghiệp chuyên về ngành da liễu, sơ ngoại quốc này đã tình nguyện làm việc tại bệnh viện Bến Sắn, một bệnh viện công nhưng có các sơ Nữ Tử Bác Ái cùng làm việc. Trước những hy sinh tận tụy của sơ này và các sơ phục vụ cho các người phong cùi khác với cả tấm lòng, đã đánh động vị bác sĩ - linh mục này, ngài nói:"Tôi tự nghĩ trong lòng, tôi có thể chữa lành các vết thương thân xác, nhưng làm sao tôi có thể chữa lành nỗi lòng cô đơn, bị bỏ rơi của các bệnh nhân cùi hủi này? Từ đó tôi đã tìm hiểu niềm tin Công giáo và tôi đã gặp được vị bác sĩ của các tâm hồn là Đức Giêsu Kitô".

Vậy, đời sống hy sinh bác ái của các sơ Nữ Tử Bác Ái không những đã đem lại niềm vui cho các người phong cùi, mà còn là động lực để một bác sĩ lương dân trở thành một linh mục, từ một bác sĩ thể lý thành môt bác sĩ tâm hồn, phải chăng đó là dấu lạ xưa của các Tông đồ tái diễn? Phải chăng điều này chứng tỏ rõ đời sống tốt đẹp có tác dụng rất lớn cho việc loan báo Tin Mừng?

5. Trong đêm tối, chiếc đèn được thắp sáng càng rõ công dụng chiếu sáng. Đời sống tốt đẹp của người Kitô hữu có thể ví như những chiếc đèn. Chiếc đèn tuy không nói gì cả, nhưng ai cũng thấy ánh sáng và lợi ích của nó. Hãy làm chứng cho Đức Giêsu bằng lời rao giảng và nhất là bằng đời sống chứng nhân lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn. Hãy ra sức thực hiện lệnh truyền quan trọng của Đức Giêsu ban cho mỗi người chúng ta trước khi Ngài về trời: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo". Đức Giêsu đã được ngự bên hữu Chúa Cha sau khi hoàn thành phận vụ của mình, cũng thế phần thưởng thích đáng là điều chắc chắn cho những ai tích cực thi hành lệnh truyền của Ngài.

18. Có Chúa cùng hoạt động.
(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

"Thứ hai thì ngắm Đức Chúa Giêsu lên trời, ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời."

Ái mộ những sự trên trời là một ơn ta phải xin, vì dưới đất có nhiều điều làm ta ái mộ: một người, một vật hay một việc nào đó. Ái mộ quá có thể dẫn đến tôn thờ và làm nô lệ.

Trái đất có vẻ đẹp riêng của nó, vẻ đẹp làm dịu lòng ta trong hành trình cuộc đời. Tiếc thay nhiều lúc vẻ đẹp ấy giữ chân ta lại, không cho ta bước nhanh tới đích. Lắm khi vẻ đẹp ấy kéo ghì ta xuống, không cho ta ngước lên cao.

Có vẻ trời ở xa, xa như huyền thoại. Có vẻ chỉ trái đất là có thật, gần gũi. Ta bị hút vào trái đất, đắm đuối mê say, quên mình chỉ là người tạm trú trên mặt đất.

Chúa về trời, về với thế giới của Cha, điều đó nhắc ta nhớ đời là một cuộc hành trình mà đích nằm ở phía bên kia.

Trời là đích xa nhưng chi phối những chọn lựa gần. Cần chọn hướng đi, chọn phương tiện sao cho đạt đích.

Không có trời thì chẳng biết đi đâu!

Con người cần có một trung tâm nằm ngoài mình, thu hút mình, nâng mình lên, kéo mình ra khỏi cái tầm thường, thực dụng.

Trời là trung tâm của đất. Đất cho con người sự sống. Trời cho con người lẽ sống.

Nếu chỉ biết có đất, con người sẽ rơi vào tuyệt vọng, vì đất chẳng thể thoả mãn con người. Nơi lòng mỗi người đều có một mảnh trời riêng. Mảnh trời này cứ đòi gặp bầu trời cao rộng như gặp lại chốn cũ người xưa.

Thế giới luôn gặp nhiều bế tắc khó khăn vì người ta đứng ở trên trái đất mà giải quyết.

Cần nhìn trái đất từ trời, để thấy những giải pháp tận căn, bao quát, hiệu quả.

"Sao các ông cứ đứng nhìn trời?" (Cv 1,11)

Kitô hữu không chỉ khoanh tay ngước nhìn trời, vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng đang chờ đợi họ, vì trái đất còn bề bộn bao việc phải làm. Sống tận tình cho trái đất mà vẫn ngước lên trời cao, điều đó thật là một thách đố không nhỏ, nhưng lại là cốt lõi của đời sống Kitô hữu.

Thiên đàng không phải là bầu trời trên đầu ta. Nhưng bầu trời cao vút, bao la, thăm thẳm, là một hình ảnh gợi mở về thiên đàng.

Bầu trời càng lúc càng bị che chắn bởi cao ốc. Hãy tìm những giây phút để ngước mắt lên... Ngắm bầu trời có thể giúp ta biết sống trên mặt đất.

Gợi Ý Chia Sẻ

Khi lần hạt Năm Sự Mừng, chúng ta xin được ơn "ái mộ những sự trên trời". Theo ý bạn, những sự trên trời là gì? Yêu những sự trên trời có khó không? Người Kitô hữu có bị giằng co giữa đất và trời không?

Lễ Chúa Thăng Thiên cũng là ngày Quốc Tế Truyền Thông. Ai cũng thấy tác hại của phim ảnh, tivi và những phương tiện truyền thông khác. Theo bạn, ta có thể dùng những phương tiện ấy để rao giảng Đức Kitô không?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.

Xin dạy chúng con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.

Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.

Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa. Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.

19. Sứ mạng của người Kitô
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.)

Tin Mừng thuật lại hai điều: sự kiện Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Trước hết, sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin mừng thánh Mác-cô ghi lại rất vắn tắt: chỉ nói Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa, chứ không nói rõ Chúa lên trời ở đâu và sau khi Chúa sống lại bao lâu. Theo sách Công Vụ Tông Đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây Dầu. Vậy Chúa Giêsu lên trời chính xác là khi nào?

Có thể trả lời tóm tắt và rõ ràng như sau: Chúa lên trời ngay ngày phục sinh, tức là sau khi sống lại, Chúa lên trời ngay. Và sau đó Chúa đã hiện ra với các tông đồ nhiều lần để củng cố lòng tin của họ, trong một khoảng thời gian mà sách Công Vụ Tông Đồ xác định là 40 ngày. Sau cùng, Ngài cho các môn đệ biết Ngài chấm dứt việc hiện ra bằng sự công khai lên trời. Như vậy, mầu nhiệm lên trời mời gọi chúng ta nhìn nhận hai khía cạnh liên hệ nhưng riêng biệt nhau: một bên là Đức Kitô được vinh quang lên trời ngay lúc Ngài sống lại. Điều này giác quan các tông đồ không thể cảm nghiệm được mà chỉ có thể nhận thức bằng đức tin. Và một bên là Đức Kitô ra đi sau một thời gian hiện ra nhiều lần. Đó là cuộc ra đi trở về với Chúa Cha mà các tông đồ được chứng kiến trên núi Cây Dầu.

Chúa Giêsu lên trời là điều chắc chắn. Nhưng ý nghĩa thế nào? Việc Chúa lên trời là một sự kiện tất yếu của quá trình nhập thể và cứu chuộc của Ngài, như chu trình phát triển của một hạt lúa: phải tự mục nát trong đất mới đâm mầm và tăng trưởng dần cho đến thời kỳ trổ bông, sinh hạt. Chúa Giêsu, sau thời gian đi gieo lời hằng sống, thiết lập và xây dựng một nền móng đạo đức đặt căn bản trên tình thương, công bằng trong xã hội Do thái thời đó, mảnh đất thí điểm và khởi điểm...Ngài đã chịu chết, sống lại và vinh hiển về trời. Nói khác đi, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã từ trời xuống trần gian để thực hiện chương trình cứu chuộc của Chúa Cha. Ngài đã giảng dạy, phục vụ và cống hiến cả mạng sống. Nên sau khi sống lại từ cõi chết, Ngài đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh, được đặt bên hữu Thiên Chúa và ban cho quyền xét xử vũ trụ. Đây cũng là một câu trả lời vô cùng phấn khởi cho chúng ta, nếu chúng ta trung thành tin theo Chúa, chúng ta cũng sẽ được về trời, chúng ta sẽ được Chúa Giêsu đón vào trong nhà Cha cùng với Ngài hưởng hạnh phúc vinh quang muôn đời.

Nhưng làm sao người ta có thể biết Chúa, tin theo Chúa để rồi cũng được về trời với Chúa? Chính vì thắc mắc đó mà trước khi về trời, Chúa Giêsu đã ra chỉ thị cho các môn đệ của Ngài. Ngài sai họ ra đi trên vạn nẻo đường thế giới, ban cho họ nhiều quyền năng để rao giảng Tin Mừng và đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chính nhờ các tông đồ đầu tiên ấy, rồi các tông đồ khác, lại các tông đồ khác nữa kế tiếp nhau trung thành thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng ấy mà người ta biết Chúa, tin Chúa, được cứu rỗi và rồi sẽ được về trời.

Nói khác đi, Chúa Giêsu đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Ngài, nghĩa là Giáo Hội như một nối dài của Chúa Giêsu. Cách đây hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã đi lại, đã nói, đã làm nhiều điều tốt đẹp. Ngày nay, Ngài cũng muốn cho các hoạt động của Ngài được tiếp tục qua Giáo Hội. Sứ mệnh của Chúa Giêsu là một sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó cần phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi trao phó sứ mệnh đó cho Giáo Hội, Chúa Giêsu muốn nó được thực thi trong một khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

Là chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, mỗi Kitô hữu cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Ngài không ngừng giãi tỏa ánh sáng, trao tặng tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Để được như thế, cách tốt nhất là chúng ta hãy sống tốt. Hãy sống tốt với gia đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với những người chung quanh, bất cứ lương hay giáo. Sống tốt cũng có nghĩa là sống bác ái, sống chan hòa tình yêu thương với mọi người.

Người có lòng bác ái, yêu thương giống như một bông hoa đẹp. Bông hoa không nói gì cả, bông hoa không tuyên xưng gì cả, nhưng vì nó là một bông hoa đẹp, tuy không nói, nhưng người ta cũng thấy được cái đẹp của nó, cái hương thơm của nó. Mỗi người Công Giáo, mỗi giáo xứ, hãy là những đóa hoa, những bó hoa tươi, đẹp, thơm, do tinh thần bác ái cởi mở chan hòa. Và nếu được như vậy, đạo chúng ta sẽ mở ra, và đức tin ấy mới là đức tin truyền giáo thực sự.

Xin hãy nhớ: Chúa Giêsu về trời sau khi đã hoàn tất nhiệm vụ ở trần gian. Chúng ta cũng vậy, bao lâu sống ở trần gian, chúng ta cũng phải nỗ lực hoàn tất nhiệm vụ Chúa đã trao phó và tích cực đóng góp vào sự mưu ích cho đồng loại, cho gia đình, xóm đạo, quê hương, Giáo Hội theo tinh thần phục vụ và bác ái của Tin Mừng.

20. Công giáo.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Đoạn cuối Phúc Âm thánh Maccô trình bày một phương diện của công cuộc truyền giáo vào cuối thế kỷ thứ nhất. Tác giả tóm kết vào mấy câu, chớ không phải một bài tường thuật, những gì xây dựng nên đời sống của Giáo Hội: sứ vụ các Tông đồ. Nhờ một bản văn tóm tắt mà Lễ Thăng Thiên được nói đến ở đây, sau khi tác giả đã nhắc lại một lần hiện ra của Chúa Giêsu đã không “được cất lên Trời” vào chiều ngày Phục Sinh. Trước khi Chúa biến hẳn đi về thể xác truớc mắt các môn đệ, Chúa còn hiện ra nhiều lần với họ và ngỏ lời cùng họ. Điều mà thánh sử Marcô nói trong Phúc Âm “sau khi đã ngỏ lời cùng họ” kéo dài qua nhiều tuần lễ.

Điểm ghi nhận: “bên hữu Thiên Chúa” có nghĩa là sau khi về Trời, Chúa Giêsu trở về địa vị Thiên Chúa và Người có những đặc quyền của Thiên Chúa. Từ nay, Người trao cho Giáo Hội của Người sứ mệnh phổ biến sứ điệp cứu rỗi của Người trên khắp thế giới. Sứ mệnh trao phó cho các môn đệ ấy có gì đặc biệt?

1) Về tính cách phổ quát của sứ mệnh: Các con hãy đi khắp thế gian, công bố Tin Mừng cho hết mọi dân tộc. Tính cách phổ quát ấy tập hợp tất cả nhân loại vào ơn Cứu chuộc của Đức Kitô. Người ta nhận ra ở đây, một trong các dấu hiệu của tính cách Kitô giáo đích thật. Một người Kitô hữu đích thật bao giờ cũng “phổ quát” “công giáo”. Tính cách phổ quát hay là tính cách công giáo ấy không chỉ bao hàm vấn đề địa dư, bởi lẽ là hết mọi dân tộc của mọi nước đều thuộc thẩm quyền của Phúc Âm. Ở thời đại chúng ta, tính cách đó còn bao gồm –và ở đây là điều đáng nhấn mạnh- tinh thần Kitô hữu. Những người công giáo tập hợp thành những cộng đoàn nhỏ, không ý thức được sự nguy hiểm rằng họ có thể trở thành những nhóm nhỏ mang não trạng khép kín, hầu như là óc phe phái, loại ra ngoài Đức Ái của mình phần này, hay phần nọ của thế giới, giai cấp này hay giai cấp nọ, chế độ này hay chế độ kia của xã hội. Nhưng hết thảy mọi người của mọi văn hoá, mọi chế độ đều có quyền biết đến Phúc Âm. Giáo Hội phải đạt tới họ hết thảy. Một công cuộc truyền giáo mạo nhận, tự phong toả mình vào tính chất gây gỗ đối với chế độ này hay chế độ kia bị coi là dễ ghét, đương nhiên sẽ mất hết tính cách công giáo và chân thật. Người Tông đồ của Đức Kitô tìm cách tới được hết mọi người ở khắp nơi và yêu họ ở mọi chốn. Xuyên qua mọi chế độ xã hội dầu là có tính chất áp bức ý thức hệ hay áp bức kinh tế, người Tông đồ cũng phải tìm phương khai thông tới tự do, để con người có thể vươn tới sự tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô Cứu thế.

2) Ai tin và chịu Phép Rửa, sẽ được cứu rỗi. Điều này cho thấy đối tượng tranh thủ của sức mạnh Tông đồ chính là đức tin. Nhưng đức tin nào đây? Có phải là sự kết hợp với một thứ nhân bản Phúc Âm mù mờ, trong đó lòng đam mê đức công chính lẫn lộn dễ dang với các đam mê phe phái –thiếu tình yêu đích thật? Không: Đây phải là đức tin vào Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Đấng Cứu Thế. Chỉ có một đức tin cứu rỗi. Dầu người ta nhắm tới việc cứu vớt con người hay cứu vớt xã hội, không gì có thể đạt tới con người trong mọi kích thước của số mệnh nó ngoại trừ một niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Ai tin vào Đức Giêsu thì ngay từ bây giờ, đi vào con đường cứu độ cho tâm trí mình bằng sự thật, con đường cứu độ cho ý chí mình nhờ Thánh Linh, con đường cứu độ cho tâm hồn mình bằng sự thanh tẩy của tình yêu. Người đó cũng đi vào con đường cứu rỗi vượt qua cuộc sống tạm đời này. Đức tin vào Chúa Giêsu Kitô mang lại một ý nghĩa cho đời sống của con người.

21. Nơi Chúa hẹn gặp ta.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Là con người sống trong không gian và thời gian, chúng ta thường suy nghĩ và tưởng tượng theo chiều kích của không gian và thời gian. Vì thế, khi Kinh Thánh nói “Chúa Giêsu lên trời” chúng ta cũng dễ hình dung Chúa Giêsu như một “phi hành gia” hoặc như “người bay” tự động cất bổng mình lên trời, để rồi không biết dừng lại ở hành tinh nào khi ra ngoài quỹ đạo của trái đất? Vậy thì sau khi sống lại 40 ngày, Chúa Giêsu đi về phương trời nào? Các phi hành gia đầu tiên vào vũ trụ cho biết họ chẳng thấy trời, cũng chẳng thấy Thiên Chúa!

Thời Trung cổ, có hai tu sĩ tình cờ đọc thấy trong một cuốn sách cổ chép rằng: ở tận cùng trái đất sẽ có một nơi mà trời đất gặp nhau. Họ quyết định ra đi tìm cho bằng được điểm gặp nhau ấy và thề quyết sẽ không trở về nhà nếu không tìm ra nơi ấy, vì họ đã đọc được trong quyển sách cổ rằng tại điểm giao nhau giữa trời và đất, một cánh cửa sẽ mở ra và họ sẽ nhìn thấy Thiên Chúa tỏ tường. Họ vượt thác băng rừng, không quản ngại hy sinh. Cuối cùng thì họ cũng đứng trước giao điểm ấy. Với tất cả xúc động, họ đưa tay gõ vào cánh cửa hẹn hò, cánh cửa mở ra và họ bỡ ngỡ nhận ra đó chính là căn phòng của mình. Họ chợt hiểu rằng nơi gặp gỡ giữa trời và đất, nơi hẹn hò giữa Thiên Chúa và con người không gì khác hơn là chính cuộc sống hằng ngày của họ.

Chúa Giêsu “được rước lên trời”: đó là một lối nói của Kinh Thánh nhằm diễn tả việc Chúa Phục Sinh từ giã trần gian để về cùng Thiên Chúa Cha. Ngài từ Cha mà đến và nay trở về với Cha. “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã-từ-trời xuống” (Ga 3,13). Câu chuyện Chúa lên trời được sách Công vụ Tông đồ kể lại ở bài đọc 1 hôm nay là một kiểu nói bình dân để diễn tả một mầu nhiệm của Chúa Kitô Phục Sinh: ngay sau khi được Phục Sinh, nhân tính của Chúa Giêsu đã được tôn vinh rồi, hay nói cách khác, đã được vào trong vinh quang. Tuy vậy vinh quang này vẫn còn bị che khuất. Chúa Phục Sinh hiện ra cho các môn đệ dưới dáng dấp của một người bình thường. Lần hiện ra cuối cùng của Chúa Giêsu đánh dấu một bước chuyển mới. Từ này nhân tính của Ngài được đưa vào trong vinh quang Chúa Cha, được đặt ngồi bên hữu Chúa Cha.

Lễ Chúa Thăng Thiên không phải là một cuộc chia ly, tiễn đưa Chúa Giêsu vào một phương trời xa lạ và cắt đứt tương quan với Ngài. Chúa về trời là để có thể ở lại với mọi thời, mọi nơi. Điều duy nhất mất đi là chúng ta không còn có thể thấy, đụng chạm, nghe Ngài bằng giác quan tự nhiên. Nhưng chúng ta vẫn có thể gặp gỡ Ngài bằng giác quan siêu nhiên của lòng tin. Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Tin Mừng hôm nay cho thấy các tông đồ có cảm nghiệm rằng “Chúa đang làm việc với họ và xác nhận lời họ rao giảng bằng những dấu lạ kèm theo” (Mc 16,20). Như thế sự vắng mặt hữu hình của Chúa Giêsu không cản trở việc Ngài tiếp tục hiện diện và hoạt động bên họ. Kitô giáo sống còn chính là nhờ Chúa Giêsu đang sống và hoạt động nhờ Thánh Thần của Ngài. Được tôn vinh trên trời không phải là để làm sứ vụ giữa lòng thế giới. Ngài là Thượng Tế cầu bầu cho chúng ta trên trời (Dt 7,25) và không ngừng thu hút, nâng dậy cả nhân loại (Ga 12, 32).

Mừng lễ Chúa Thăng Thiên là mừng ngày Đức Giêsu được tôn vinh. Có một con người mang tên Giêsu nay được hưởng vinh quang và danh dự của Thiên Chúa. Lễ Thăng Thiên thực hiện giấc mơ lớn nhất của con người. Tất cả chúng ta đều hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa, bên Chúa Giêsu, người Anh Trưởng. Trời là đích điểm của đời Kitô hữu. Nhưng trời đã bắt đầu rồi từ khi chúng ta bước vào vũ trụ của Chúa Giêsu Kitô, qua đức tin và các bí tích. Nói cho cùng, Kitô hữu chỉ có một cuộc đời. Chẳng có cuộc đời nào khác ngoài cuộc đời hiện tại và sẽ gắn liền với ta mãi mãi. Trời không khiến ta tránh né bổn phận ở trần gian. Trời không phải là nơi đến của một người chỉ biết chăm lo cho ơn cứu độ của mình một cách ích kỷ. Trời cũng không chỉ là phần thưởng cho con người, là sự “bù lỗ” cho những khốn khổ ở đời, là cớ khiến chúng ta tránh né việc xây dựng trái đất hay phá đổ bất công.

Sứ thần của Chúa hôm nay đã quở trách các môn đệ: “Hỡi người Galilê! Sao cứ đứng đó mà nhìn lên trời?”. Các môn đệ đã hiểu ý. Các ông đã trở về với nhiệm vụ của mình, hoàn thành công việc dang dở của Chúa ở trần gian, làm chứng về tất cả những gì các ông đã được nghe, được thấy. “Các ông đã ra đi khắp nơi, rao giảng Tin Mừng cho mọi người; có Chúa cùng hoạt động với các ông, củng cố lời rao giảng bằng các phép lạ kèm theo” (Mc 16,20).

Rõ ràng, Chúa lên trời không làm cho các môn đệ lên trời, không làm cho các môn đệ tê liệt, không giải nghệ các ông, mà còn thúc giục các ông lập tức bắt tay vào việc xây dựng Nước Trời ngay ở trần gian này và bảo đảm cho các ông thành công. Cũng vậy, đối với chúng ta ngày nay, Chúa lên trời nhắc chúng ta nhớ rằng: “Quê hương chúng ta ở trên trời… Anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời” (Pl 3,20; Cl 3,1). Nói thế không có nghĩa là chúng ta phải “xuất thế”, phải xa lánh trần gian. Trái lại, cần phải nổ lực dấn thân “vào đời”, “nhập cuộc”. Có Chúa cùng hoạt động với chúng ta để “mở một tuyến đường lên trời từ mặt đất này” bằng những công việc xây dựng Nước Trời ngày này qua ngày khác; loại trừ những khổ đau, tội lỗi, tạo cho mọi người được sống ấm no, hiệp nhất, yêu thương nhau, cho mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người. Đó là con đường lên trời của chúng ta.

Vui sướng biết bao: “Chúa vẫn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài không bao giời rời bỏ chúng ta. Thật là ích lợi cho chúng ta khi Ngài khuất mắt chúng ta về phương diện thể lý để chúng ta khi gặp Ngài hiện diện ở khắp mọi nơi mọi lúc: trong kinh nguyện và hoạt động, trong bí tích và trong anh chị em. Đặc biệt trong bí tích Thánh Thể, Chúa đến ở trong chúng ta, ban nguồn sinh lực giúp chúng ta hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Nước Trời ở trần gian này, để một khi Nước Trời được hoàn thành Ngài sẽ trở lại trong vinh quang đón chúng ta lên trời về với Chúa Cha.

22. Để có Chúa cùng hoạt động.
(Suy niệm của Lm Phêrô Vũ Văn Quí – CVK64)

“Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16, 19-20).

Hai câu cuối cùng trên trong Tin Mừng Marcô mang lối văn nặng hình tượng nhưng, với tôi, là lời mời gọi vô cùng tha thiết trong thế giới kỹ thuật số hiện nay.

Để “có Chúa cùng hoạt động”, tôi tớ của Lời Chúa, như Phaolô quả quyết: “Tôi là Phaolô, tôi tớ của Đức Kitô Giêsu, tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa” (Rm 1, 1), phải là người rao giảng thật xứng danh với địa vị cao cả, vì Chúa Giêsu đã kêu gọi trong chân lý trọn vẹn: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29), hay như thánh Phaolô đã nêu gương: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Kiô” (1Cr 11, 1).

Để “có Chúa cùng hoạt động”, tôi tớ của Đức Kitô không thể là những kỳ lục và biệt phái, những kẻ bị Chúa quở trách khi căn dặn dân chúng: “Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23, 2-4).

Những người rao giảng Lời Chúa như vừa nêu trên cao rao một lý tưởng sống cao đẹp nhưng bản thân lại sống mâu thuẫn. Họ hô hào những người khác dấn thân vào con đường hẹp. Còn chính họ thì lại vi vút giữa đại lộ thênh thang. Chính vì thế mà những người được nghe giảng khi họ gặp những con người kiên trung với nội dung rao giảng, chấp nhận đau khổ thua thiệt, không bị của cải thế gian vùi dập, vượt lên khỏi những sự dữ tác hại và dám chết vì điều mình loan báo (Mc 16, 17-18), thì đây quả là một ấn tượng rất lớn đối với họ. Một chân lý hiển nhiên là, từ kinh nghiệm bản thân, ai cũng biết rằng người ta chỉ sẵn lòng chịu cực khổ vì những điều họ thực sự thâm tín mà thôi. Do đó, Lời đã được sống có một sức mạnh thu hút vô địch, không gì thay thế được. Lời đó đầy lôi cuốn, đầy thuyết phục bởi đó là Lời đã từng cảm nghiệm, và đã vì đó mà chịu thương chịu khó trong cõi đời và trong nếp sống cầu nguyện của người rao giảng. Lời đó từ môi miệng phát ra mang theo một nhiệt tâm và một sức mạnh hết sức đặc biệt. Trong Lời đó có mảng linh hồn của chính người giảng, và có thể bắt gọn linh hồn người nghe. Sự tương giao giữa người giảng và người nghe xẩy ra không phải trên ý niệm suông, nhưng trên thực tế. Đây cũng chính là điều mà tác giả trong phần cuối của Tin Mừng Marcô đã khẳng định: “có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.”

Chính thánh Phaolô tông đồ đã khích lệ: “Chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Kitô Giêsu là Chúa; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giêsu” (2Cr 4, 5). Vậy ở đâu chưa có sự nhất quán với Lời Chúa, tức chưa cùng đồng hình đồng dạng với Đức Kitô thì trước tiên cần có đức khiêm nhường. Đây là thái độ tối cần thiết cho những tôi tớ của Lời Chúa. Người rao giảng phải tự xóa nhòa bản thân trước sự hiện diện của Lời Chúa, phải khước từ vinh quang của riêng mình, như thánh Gioan Tẩy Giả đã sống và đã chia sẻ với các môn sinh của mình: “Đức Kitô phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3, 30).

Không chỉ hạ mình khiêm nhường, thánh Phaolô, Vị Tông Đồ rao giảng vĩ đại đã sống chết với Tin Mừng khi ngài viết cho môn đệ Timôthê yêu dấu: “Vì Tin Mừng, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xich!” (2Tm 2, 9). Với lòng mến thâm sâu, ngài đã đặt trọng tâm tất cả vào việc loan báo Tin Mừng, cho dù có phải bị gông cùm, ngài vẫn sẵn lòng đón nhận. Với lòng mến đầy tin yêu và để “được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” như Đấng mà ngài say mê rao giảng, thánh Tông Đồ đã thể hiện được ý nghĩa siêu nhiên mà Chúa Giêsu đã truyền đạt trước khi trở về nơi Người đã đến là “dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao.”

Mới đây, kết thúc buổi triều yết chung tại Quảng trường Thánh Phêrô sáng ngày 20/5/2009, ĐTC Biển Đức XVI đã vắn tắt mở lời kêu gọi về Ngày Truyền thông Thế giới sẽ được cử hành vào ngày Chủ nhật 24 tháng 5 sắp tới. Ngài mời gọi:

“Đặc biệt với giới trẻ, cha kêu gọi các con hãy làm nhân chứng cho đức tin của chúng con qua thế giới kỹ thuật số. Hãy dùng những kỹ thuật mới đó để truyền bá Thánh Kinh, hầu cho Tin Mừng về tình yêu vô hạn của Thiên Chúa vang dội bằng những phương thức mới khắp trong thế giới của chúng ta, một thế giới không ngừng tăng tiến về kỹ thuật.” (trích Vietcatholic.net)

Làm nhân chứng cho đức tin mà ĐTC vừa nhắc nhở trên đã giúp tôi khâm phục biết bao một nhân chứng trên xe lăn mà tôi mới nhận được từ một nhóm trên mạng gửi tới. Bài viết có nội dung như sau và trích từ R. Veritas:

“Một phụ nữ tên là Mensi đã đăng quảng cáo trên một tờ báo địa phương như sau: "Nếu bạn cô đơn hay gặp nan đề nào, xin hãy gọi điện thoại cho tôi. Tôi bị liệt phải ngồi xe lăn tay, nên rất ít khi ra ngoài. Chúng ta có thể trao đổi nan đề với nhau. Mời bạn cứ gọi. Tôi rất thích nói chuyện với bạn".

Việc đáp ứng quảng cáo này rất kỳ lạ. Mỗi tuần bà Mensi nhận được khoảng từ 30 cú phôn, và bà rất mừng. Điều gì thúc đẩy một người tàn tật ngồi trên xe lăn tay muốn tiếp xúc nói chuyện với những người khác?

Bà Mensi kể rằng trước khi bị tê liệt bà có sức khỏe hoàn toàn, nhưng rất tuyệt vọng. Bà đã tự tử bằng cách nhảy từ trên gác cao xuống đất. Nhưng thay vì chết, bà bị tê liệt từ thắt lưng trở xuống. Nằm trong nhà thương bà hoàn toàn tuyệt vọng. Nhưng một hôm bà nghe như Chúa Giêsu nói với bà: "Mensi ơi, trước đây con đã có một thân xác hoàn hảo, nhưng linh hồn con lại què quặt, Kể từ nay con sẽ có thân xác què quặt, nhưng linh hồn con kháng kiện".

Sau khi ra khỏi nhà thương, bà Mensi quyết tâm dâng đời mình cho Chúa. Bà cầu xin Chúa cho bà được chia sẻ niềm tin của mình với người khác. Rồi bà đăng báo như đã kể trên đây.

Công việc của bà Mensi xem ra như không có gì đối với người khác. Nhưng với bà, đó là công việc lớn lao nhất mà một người tàn tật có thể làm để phục vụ Chúa.”

Và lời cuối cùng của bài viết cũng là lời nhắc nhở rất cụ thể về việc loan báo Tin Mừng bình an dành cho những ai muốn “có Chúa cùng hoạt động” trong thế giới kỹ thuật số hiện đại như ngày nay:

“Mỗi người tin Chúa phải làm một việc nào đó để giúp đồng bào, đồng loại của mình. Mạnh khỏe hay tật nguyền, trẻ tuổi hay già nua, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện, viết thư hay làm bất cứ điều gì theo khả năng, nếu chúng ta thực sự muốn đem Chúa vào tâm hồn những người chung quanh mình”.

Lạy Chúa,

Xin giúp con sức mạnh để con cũng kiên cường biết sống cho tha nhân như bà Mensi dù cho bà ngồi trên xe lăn như con vậy. Amen.

23. Thiên đàng.
Hôm nay mừng kính Chúa về trời, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về nước trời, về thiên đàng, về quê hương vĩnh cửu của chúng ta.

Những kẻ không có một niềm tin thì cho rằng chết là hết. Nhưng với chúng ta thì khác, cái chết chỉ là một khởi điểm cho một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Cái chết chính là khung cửa hẹp dẫn chúng ta vào quê hương nước trời. Ý tưởng về nước trời, về thiên đàng vốn được Kinh Thánh nói tới nhiều lần.

Trong Cựu ước, ông Gióp một con người khổ đau đã kêu lên: Tôi biết rằng Đấng cứu chuộc tôi hằng sống và trong ngày sau hết, tôi sẽ từ bụi đất sống lại và tôi sẽ nhìn thấy Thiên Chúa.

Vua thánh Đavid thì xác quyết: Sống công chính tôi được nhìn thấy Chúa. Thức giấc rồi, tôi no thỏa thánh nhan.

Sách Khôn Ngoan đã diễn tả: Bấy giờ người công chính sẽ chiếu sáng như những vì sao.

Trong Tân ước, Chúa Giêsu đã khuyên nhủ cho chúng ta hãy tích lũy cho mình những kho tàng ở trên trời, ở đó sẽ chẳng có mối mọt và trộm cắp: Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước trời, còn mọi sự khác sẽ được ban thêm cho các con.

Nhất là trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đã yên ủi những người bị đau khổ, bị bắt bớ bằng niềm hy vọng nước trời: các con hãy mừng rỡ hân hoan vì phần thưởng của các con sẽ to lớn ở trên trời.

Và trong ngày sau hết, Ngài sẽ phán với những người lành: Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần thưởng nước trời đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thuở tạo dựng thế gian.

Thánh Phaolô cũng nói: hiện nay chúng ta như đang nhìn vào gương, nhưng bấy giờ, chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên Chúa mặt đối mặt.

Vậy thì nước trời hay niềm hạnh phúc thiên đàng là gì? Tôi xin thưa: đó là sự chiếm hữu Thiên Chúa như thánh Phaolô đã nói: Tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy và trái tim chưa một lần cảm nhận được những gì Thiên Chúa dành cho những kẻ yêu mến Ngài. Tất cả những khổ đau trong cuộc sống hiện tại sẽ chẳng là gì cả, nếu đem so với hạnh phúc nước trời. Đó là nơi vinh quang, đó là nơi ánh sáng, đó là nơi ân thưởng cho những người đã trung thành phụng sự Chúa.

Tuy nhiên, niềm hạnh phúc tuyệt vời ấy không phải như là một món ăn quý giá đã nấu chín và chúng ta chỉ việc dùng mà thôi. Trái lại, chúng ta phải cố gắng, phải chiến đấu thì mới đạt tới.

Chúa Giêsu đã nói: chỉ những kẻ khỏe mạnh can trường mới chiếm được nước trời.

Thánh Phaolô đã diễn tả: Như các lực sĩ nơi thao trường, phải cố gắng giao đấu và phải giao đấu theo đúng những qui luật thì mới đạt được tấm huy chương vàng.

Có một em nhỏ bị đau nặng. Biết mình sắp chết, em nói với người mẹ: má ơi, khi con chết đi, thì má hãy mặc cho con bộ quần áo đẹp nhất nhé… Ngày rước lễ lần đầu, con đã mặc quần áo đẹp, thì ngày con về trời, con còn phải mặc đẹp hơn thế nữa.

Hãy ra sức xa tránh tội lỗi, để khi xuất hiện trước ngai tòa Chúa, tâm hồn chúng ta trong trắng như tấm áo ngày rửa tội, nhờ đó mà chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời.

24. Sống hướng về Nước Trời trong Chúa Kitô
Hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng ta mừng lễ Chúa Thăng Thiên. Qua những hình ảnh, lễ Chúa Thăng Thiên diễn tả việc Chúa Kitô phục sinh từ nay sống trong thế giới của Thiên Chúa mà người ta thường gọi trong ngôn từ tôn giáo là Trời (bài đọc 1 và Tin Mừng). Chúa Kitô về trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha, Ngài được tôn vinh là chủ tế của vũ trụ này. Điều quan trọng đối với các Kitô hữu tiên khởi cũng như đối với chúng ta hôm nay, không phải ở việc muốn biết Đức Giêsu lên trời như thế nào, nhưng là tận hiểu ý nghĩa sự ra đi của Người.

Chúa Giêsu Kitô"được rước lên trời", đó là một lối nói của Kinh Thánh nhằm diễn tả việc Chúa Phục Sinh từ giã trần gian để về cùng Thiên Chúa Cha. Ngài từ Cha mà đến và nay lại trở về với Cha. "Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống" (Ga 3,13). Câu chuyện Chúa lên trời được sách Công Vụ Tông Đồ kể lại ở bài đọc 1 hôm nay là một kiểu nói bình dân để diễn tả một mầu nhiệm của Chúa Kitô Phục Sinh, ngay sau khi được Phục Sinh, nhân tính của Chúa Giêsu được tôn vinh rồi, hay nói cách khác, đã được vào trong vinh quang. Tuy vậy vinh quang này vẫn còn bị che khuất. Chúa Phục Sinh hiện ra cho các môn đệ dưới dáng dấp của một người bình thường. Lần hiện ra cuối cùng của Chúa Giêsu đánh dấu một bước chuyển mới. Từ nay nhân tính của Ngài được đưa vào trong vinh quang Chúa Cha, được đặt ngồi bên hữu Chúa Cha.

Lễ Chúa Thăng Thiên không phải là một cuộc chia ly, tiễn đưa Chúa Giêsu vào một phương trời xa lạ và cắt đứt tương quan với Ngài. Chúa về trời là để có thể ở lại với mọi thời, mọi nơi. Điều duy nhất có thể mất đi là chúng ta không còn có thể thấy, đụng chạm, nghe Ngài bằng giác quan tự nhiên. Nhưng chúng ta có thể gặp gỡ Ngài bằng giác quan siêu nhiên của đức tin. Sau khi hoàn thành sứ mạng ở trần gian, Chúa Kitô trở về với Chúa Cha. Từ nay, Chúa Kitô phục sinh vắng mặt về thể hình, không ai có thể thấy hoặc nghe tiếng Người nữa. Tuy nhiên, Người luôn hiện diện với Giáo Hội, với mỗi người chúng ta như Người đã hứa: "Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20). Sự hiện diện vô hình của Người, chỉ có con mắt đức tin mới thấy được. Phúc âm hôm nay cho thấy các tông đồ có cảm nghiệm rằng "Chúa đang làm việc với họ và xác nhận lời họ rao giảng bằng những dấu lạ kèm theo" (Mc 16,20). Như thế sự vắng mặt hữu hình của Chúa Giêsu Kitô không cản trở việc Ngài tiếp tục hiện diện và hoạt động bên họ. Người Kitô hữu sống còn chính là nhờ Chúa Giêsu Kitô đang sống và hoạt động nhờ Thánh Thần của Ngài. Được tôn vinh trên trời không phải là làm một cuộc đi xa, nhưng là đến gần. Phục Sinh và lên trời là để làm sứ vụ giữa lòng thế giới. Ngài là Thượng Tế cầu bàu cho chúng ta trên trời và không ngừng thu hút, nâng dậy cả nhân loại.

Chúa lên trời để chỉ cho chúng ta con đường để về trời với Ngài. Con đường ấy rất thiết thân với mọi người. Mừng lễ Chúa Thăng Thiên là mừng ngày Chúa Kitô được tôn vinh. Lễ Thăng Thiên thực hiện giấc mơ lớn nhất của con người. Tất cả chúng ta đều hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa, bên Chúa Giêsu, người Anh Trưởng. Trời là đích điểm của đời người Kitô hữu. Nhưng trời đã bắt đầu rồi từ khi chúng ta bước vào vũ trụ của Chúa Giêsu Kitô, qua đức tin và các bí tích. Nói cho cùng, Kitô hữu chỉ có một cuộc đời. Chằng có cuộc đời nào khác ngoài cuộc đời hiện tại và sẽ gắn liền với chúng ta mãi mãi. Trời không khiến ta tránh né bổn phận trần gian, ngược lại cho ta sức mạnh để chu toàn các bổn phận ở trần gian. Trời không phải là nơi đến của một người chỉ biết chăm lo cho ơn cứu độ của mình một cách ích kỷ. Trời cũng không phải chỉ là phần thưởng cho con người, là sự "bù lỗ" cho những khốn khổ ở đời, là cớ khiến chúng ta tránh né việc xây dựng trái đất hay phá đổ bất công.

Lễ Thăng Thiên là sự kết thúc công cuộc truyền giáo của Đức Giêsu thành Nazarét, và là khởi đầu thời gian của Giáo Hội. Dĩ nhiên, giai đoạn mới này luôn là giai đoạn của Chúa Kitô, vì tất cả đều hướng về Người, cũng như Người là đích điểm của mọi hoạt động tông đồ. Nhưng đó cũng là thời kỳ của Giáo Hội và các môn đệ để làm chứng cho Đức Giêsu Kitô và cho Tin Mừng: "Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari, và cho đến tận cùng trái đất." (Cv 1, 8). Đó là ý nghĩa mọi hoạt động truyền giáo của Giáo hội. Trước khi lên trời, Đức Kitô giao phó cho tất cả các môn đệ, tức là tất cả mọi người Kitô hữu chúng ta đang sống trên quả đất này. Đó là sứ mạng loan báo Tin Mừng, sứ mạng tiếp tục công trình của Người cho đến ngày tận thế.

Sứ thần trách các môn đệ: "Hỡi người Galilê! sao cứ đứng đó mà nhìn lên trời?". Các môn đệ đã hiểu ý. Các ông đã trở về với nhiệm vụ của mình, hoàn thành công việc của Chúa ở trần gian, làm chứng về tất cả những gì các ông đã được nghe, được thấy: "Các ông đã ra đi khắp nơi, rao giảng tin mừng cho mọi người; có Chúa vùng hoạt động với các ông, cũng cố lời rao giảng bằng các phép lạ kèm theo".

Rõ ràng, Chúa lên trời không làm cho các môn đệ tê liệt, không giải nghệ các ông, mà còn thúc giục các ông lập tức bắt tay vào việc xây dựng nước trời ngay ở trần gian này và bảo đảm cho các ông thành công. Cũng vậy, đối với chúng ta ngày nay, Chúa lên trời nhắc chúng ta nhớ rằng: " Quê hương chúng ta ở trên trời... anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời". Nói thế không có nghĩa là chúng ta phải "xuất thế", phải xa lánh trần gian. Trái lại cần phải nổ lực dấn thân "vào đời". Có Chúa cùng hoạt động với chúng ta để "mở một tuyến đường lên trời từ mặt đất này" bằng những công việc xây dựng Nước Trời ngày này qua ngày khác; loại trừ những khổ đau, tội lỗi, tạo cho mọi người được sống ấm no, hiệp nhất, yêu thương nhau, cho mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người. Đó là con đường lên trời của chúng ta.

Chúng ta càng vui mừng khi biết rằng: "Chúa vẫn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế". Ngài không bao giờ rời bỏ chúng ta. Thật là ích lợi cho chúng ta khi Ngài khuất mắt chúng ta về phương diện thể lý để chúng ta gặp Ngài hiện diện ở khắp mọi nơi mọi lúc, trong kinh nguyện và hoạt động, trong bí tích và trong anh chị em. Đặt biệt trong bí tích Thánh Thể, Chúa đến ở trong chúng ta, ban nguồn sinh lực giúp chúng ta hoàn thành nhiệm vụ xây dựng Nước Trời ở trần gian này, để một khi Nước Trời được hoàn thành Ngài sẽ trở lại trong vinh quang đón chúng ta lên trời về với Chúa Cha.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nỗ lực xây dựng trần gian theo tinh thần của Chúa trong niềm mong đợi hạnh phúc nước trời. Amen.

25. Suy niệm của Lm Anphong Trần Đức Phương.
BÂY GIỜ CON VỀ CÙNG CHA.

Lễ Chúa Giêsu Về Trời thường cũng được gọi là Lễ Thăng Thiên, và được mừng vào ngày Thứ Năm sau Chúa Nhật VI Phục Sinh, đúng 40 ngày sau khi Chúa Giêsu sống lại như Lời Thánh Kinh (Cv 1,3); tuy nhiên vì lý do mục vụ, để thuận tiện cho mọi tín hữu có thể đi dâng Thánh Lễ, nhiều nơi đã được phép chuyển mừng vào ngày Chúa Nhật tiếp theo (Chúa Nhật VII Phục Sinh).

Trong Thánh Lễ hôm nay, qua các Bài Đọc I (Cv 1, 1-11), Bài Đọc II (Ep 1, 17-23, hoặc Ep 4, 1-7, 11-13) và Bài Phúc Âm (Mc 16, 15-20), các Thánh Sử đều ghi lại việc Chúa Giêsu được “rước về Trời”, sau khi Ngài đã ‘sống lại và hiện ra với các Thánh Tông Đồ, an ủi, âng đỡ cùng giảng dạy thêm cho các Ngài ‘về Nước Trời’ trong vòng 40 ngày. Ngoài ra, trước khi được “Rước Về Trời”. Chúa Giêsu cũng hứa “vẫn ở lại với các Ngài mỗi ngày cho đến tận thế”, và sẽ ban Chúa Thánh Thần xuống (Ga 14,16) trên các Ngài để thánh hóa và soi sáng cho các Ngài hiểu đầy đủ về mọi điều đã được ghi chép trong Thánh Kinh và những lời Chúa Giêsu đã giảng dạy (Ga 14,26); rồi Chúa Giêsu đã chúc lành cho các Ngài và truyền cho các Ngài “hãy ra đi khắp nơi làm chứng nhân cho Chúa, và rao giảng Phúc Âm Tình Thương của Chúa cho mọi người, mọi nơi.” (Mc 16,15-16).

Lễ Chúa Giêsu Về Trời là niềm vui mừng phấn khởi cho mọi người chúng ta, vì Chúa Giêsu đã chịu nạn, chịu chết để cứu chuộc chúng ta, nhưng Người đã sống lại và về trời vinh hiển để mở đường về trời cho chúng ta. Con đường sự sống đã được mở sẵn cho chúng ta để ai đi theo con đường đó thì tới sự sống muôn đời, vì thế Chúa Giêsu đã nói: “Thày là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống… (Ga 14,6).

Sau khi Chúa Giêsu về Trời, và sau khi Chúa Thánh Thần đã hiện xuống thánh hóa các Tông Đồ, các Ngài đã hăng hái, nhiệt thành đi rao giảng Lời Chúa và thành lập Hội Thánh. Từ ngày đó, dù bị các thế lực thế gian ở mọi thời và mọi nơi bách hại như Chúa Giêsu đã báo trước (Ga 15,18-21), Giáo Hội đã không ngừng phát triển để đem Tin Mừng Tình Thương và Ơn Cứu Độ đến cho mọi người và mọi nơi, để những ai “tin thì được cứu rỗi” (20,31).

Ngày nay, đến lượt chúng ta là những tín hữu của Chúa, chúng ta cũng phải là những ‘tông đồ nhiệt thành’, có nhiệm vụ tiếp tục rao giảng Phúc Âm Tình Thương của Chúa đến mọi nơi trên trái đất bằng nhiều phương tiện khác nhau, nhất là bằng chính đời sống tín hữu gương mẫu của chúng ta. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải tiếp tục sống như ‘những chứng nhân’ của Chúa (Cv 1,8) cho mọi người mà chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống hằng ngày: nơi gia đình, trong sở làm, xưởng thợ, ở thành thị cũng như chốn thôn quê.

Xin Chúa Giêsu Phục Sinh và đã về Trời vinh hiển chúc lành cho mọi người chúng ta, gia đình chúng ta, cho các công cuộc truyền giáo của Giáo Hội, và cho mỗi tín hữu chúng ta luôn được nhiệt thành rao giảng Phúc Âm Tình Thương của Chúa cho mọi người.

26. Ra đi.
Các sân bay là những nơi có nhiều niềm vui cũng như nước mắt. Có những người ngẩng đầu lên để nhìn thoáng qua lần đầu người thân của mình đang đến. Trong khi đó, lại có những người khác với đôi mắt nhòe lệ nhìn lần cuối một người thân ra đi. Ngày lễ hôm nay tưởng niệm việc Chúa Kitô lên trời, nhưng thực chất không phải là một cuộc ra đi. Dĩ nhiên, Chúa Kitô không còn được nhìn thấy bằng mắt thường nữa. Thánh Luca viết: “Chúa Giêsu được cất lên ngay trước mắt các ông và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa”.

Lễ Chúa Giêsu lên trời không phải là câu chuyện Chúa ra đi. Ngược lại là đàng khác! Người vẫn tiếp tục hiện diện, nhưng theo một cách mầu nhiệm. Người tiếp tục hoạt động trong thế giới này qua các môn đệ. Và vì thế, chúng ta có thể nói hôm nay là ngày cử hành đại lễ của một kết thúc và cũng là của một khởi đầu. Việc hiện diện hữu hình của Chúa Giêsu trên trái đất này đã kết thúc. Bây giờ khởi đầu một triều đại mới mà Người là Vua trên các vua. Vì thế, việc cử hành thánh lễ hôm nay không phải là việc tưởng nhớ một người vắng mặt, nhưng là một cử hành tràn đầy niềm vui cùng với Chúa Kitô đang hiện diện giữa chúng ta.

Thiên thần đã nói với các môn đệ đừng đăm đăm nhìn lên trời nữa. Ngài chỉ cho các ông nơi mà Chúa Giêsu đang cần các ông, đó là ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi người. Sứ vụ này vẫn tiếp tục, và đó là sứ vụ của chính chúng ta. Một Kitô hữu đích thực không phải là người cứ nhìn lên trời, chờ Chúa Kitô xuất hiện trên đám mây. Nhưng một Kitô hữu đích thực là người đầy lòng nhiệt thành mang Tin Mừng của Chúa đến cho mọi người. Thế giới ngày nay đang khao khát Tin Mừng của Chúa. Qua chúng ta, Chúa Giêsu muốn đem niềm vui và sự bình an vào trong một thế giới đầy những tai ương, chiến tranh và bất công. Qua chúng ta, Chúa Giêsu muốn đem sự hiểu biết, tình yêu và sự cảm thông vào trong một thế giới đầy tranh chấp, cãi cọ và thù hận. Qua chúng ta, Chúa Giêsu muốn biến đổi thế giới này trở nên một nơi chốn tốt lành hơn. Ngày hôm nay, chúng ta cần thức tỉnh về nhiệm vụ của mình. Chúng ta cần nhìn vào thế giới này với những vấn đề rắc rối của nó, và chúng ta hãy thực hiện việc các tông đồ đã làm sau khi Chúa lên trời đó là chia sẻ Chúa Kitô Cho mọi người.

Lạy Chúa, con tin Chúa vẫn tiếp tục hiện diện trong thế giới này. Xin Chúa ban tràn đầy Thần Khí Chúa xuống trên con để con có thể thi hành nhiệm vụ loan báo Tin Mừng mà Chúa đã ủy thác cho con.

27. Lên trời.
Có những cuốn sách khi khép lại chính là lúc mở ra: mở ra cho suy tư, mở ra cho trách nhiệm, mở ra cho hành động. Sách Tin Mừng là cuốn sách như thế, theo ý nghĩa trọn vẹn nhất. Nếu Tin Mừng khép lại cuộc đời Chúa Giêsu thì đồng thời lại mở ra cho một trang sử mới. Nếu biến cố Thăng Thiên khép lại cuộc đời tại thế của Chúa Giêsu, thì đồng thời lại mở ra cho một mệnh lệnh mới phải được thực thi, một trách nhiệm mới phải được hoàn thành, một hiện diện mới phải được đón nhận. Chính trong sự đan kết đó mà phụng vụ lời Chúa hôm nay vừa mời gọi chúng ta suy niệm mầu nhiệm Thăng Thiên, lại vừa đòi hỏi chúng ta đào sâu trách nhiệm tông đồ, trách nhiệm truyền giáo, trách nhiệm rao giảng Tin Mừng trong đời người Kitô hữu.

Trước hết, về mầu nhiệm Thăng Thiên, tức là mầu nhiệm Chúa Giêsu lên trời. Trong bốn sách Tin Mừng, chỉ có hai sách nói đến việc Chúa Giêsu lên trời, đó là Tin Mừng Marcô và Luca. Thánh Marcô nói rất vắn tắt, chỉ nói Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa, chứ không nói rõ Chúa lên trời ở đâu và sau khi sống lại được bao lâu. Còn thánh Luca, đọc Tin Mừng của ngài, chúng ta có cảm tưởng Chúa Giêsu lên trời ngay ngày Chúa sống lại và ở gần Bêtania. Nhưng theo sách Công vụ Tông đồ, cũng của thánh Luca, thì Chúa lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và chỗ Chúa lên trời là núi Cây Dầu.

Chúa Giêsu lên trời là một điều chắc chắn. Đây là một mầu nhiệm, một tín điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Ngày thứ ba, Người sống lại như lời Thánh Kinh, Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha”. Vậy ý nghĩa của mầu nhiệm này thế nào? Việc Chúa lên trời là một sự kiện tất yếu của quá trình nhập thể và cứu chuộc của Ngài, nghĩa là Ngài là Con Thiên Chúa, từ trời xuống trần gian để thực hiện chương trình cứu chuộc của Chúa Cha, Ngài đã giảng dạy, phục vụ và cống hiến cả mạng sống, nên sau khi sống lại từ cõi chết, Ngài đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh, được đặt bên hữu Thiên Chúa và ban cho quyền xét xử vũ trụ.

Chúa lên trời là một câu trả lời vô cùng phấn khởi cho chúng ta, nếu chúng ta trung thành tin theo Chúa, chúng ta cũng sẽ được về trời, sẽ được Chúa Giêsu đón vào trong nhà Cha để cùng với Ngài hưởng hạnh phúc vinh quang muôn đời. Tuy nhiên, để đạt được nước trời đòi hỏi chúng ta phải trả giá, cũng như không có thành công nào hay hạnh phúc nào ở đời này mà lại đạt được quá dễ dàng, thì hạnh phúc nước trời thì lại càng khó hơn biết bao, đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và cố gắng về mọi phương diện. Những ngày sống lữ thứ trần gian là để đi vào nước trời, chúng ta phải cố công đi cho tới đích, không bao giờ được bỏ cuộc, không rẽ ngang, không đi lui, phải đi tới mãi. Đường vào nước trời thiên nan vạn nan chứ không phải dễ dàng ra vào như đi chợ hay đi bát phố. Kinh Thánh nói: Người ta phải dùng sức mạnh sấn sả mà đi vào; qua con đường hẹp, phải ra đi trong nức nở mới trở về trong hân hoan. Cũng thế, ai cũng biết bài học:nước chảy đá mòn”, “kiến tha lâu đầy tổ”, “có công mài sắt, có ngày nên kim”, “có khó mới có miếng ăn”, thì trên phạm vi siêu nhiên cũng vậy, Chúa dạy: “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”, vì nước trời đòi hỏi rất nhiều cố gắng, rất nhiều công lao khó nhọc.

Nhưng làm sao người ta có thể biết Chúa, tin theo Chúa, sống theo những lời Chúa giảng dạy để rồi cũng được về với Chúa? Chính vì thắc mắc đó mà trước khi về trời, Chúa Giêsu đã ra chỉ thị cho các môn đệ của Ngài. Ngài đã sai các ông ra đi trên vạn nẻo đường thế giới, ban cho các ông nhiều quyền năng để rao giảng Tin Mừng và đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chính nhờ các tông đồ đầu tiên ấy, rồi các tông đồ khác, lại các tông đồ khác nữa kế tiếp nhau trung thành thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng ấy mà người ta biết Chúa, tin theo Chúa, được cứu rỗi và rồi sẽ được về trời.

Nói khác đi, Chúa Giêsu đã dùng Giáo hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Ngài, nghĩa là Giáo hội như một nối dài của Chúa Giêsu. Cách đây hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã đi lại, đã giảng dạy, đã làm nhiều điều tốt đẹp. Ngày nay, Ngài cũng muốn cho các hoạt động của Ngài được tiếp tục qua Giáo hội. Sứ mạng của Chúa Giêsu là một sứ mạng thiêng liêng, nhưng sứ mạng đó cần phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi trao phó sứ mạng đó cho Giáo hội, Chúa muốn nó được thực thi trong một khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Chính nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

Là chi thể của Giáo hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, mỗi Kitô hữu là cánh tay rộng mở của Chúa, nhờ đó Ngài không ngừng giãi tỏa ánh sáng, trao tặng tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Để được như thế, cách tốt nhất là chúng ta hãy sống tốt: hãy sống tốt với mọi người trong gia đình, với xóm ngõ, với bạn bè, trong nơi làm việc và với những người chung quanh, bất kỳ lương hay giáo. Sống tốt có nghĩa là sống cởi mở, sống hòa đồng, sống vui tươi, sống bác ái, sống chan hòa tình yêu thương với mọi người.

Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời nhắc nhở chúng ta: Chúa đã lên trời, chúng ta cũng sẽ về trời, đó là cùng đích của hạnh phúc đời người. Vì thế, chúng ta hãy sống cho thật tốt, thật tròn đầy những bổn phận hằng ngày để đạt được hạnh phúc ấy. Đồng thời ngày lễ hôm nay cũng mời gọi chúng ta hãy ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa cho anh em bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta.

28. Cùng lên trời với Chúa – Lm Nguyễn Nguyên
Nếu cuộc đời này sinh ra lớn lên rồi chết đi thì cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì. Con người sinh ra để được sống mãi chứ không phải để nhào lộn trong bể khổ và chết là hết kiếp người. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải tìm ra lẽ sống, và cùng đích đời người là gì? Sống để làm gì? Và chết rồi đi đâu? Đó là những vấn đề làm nên nhân cách con người. Chúng ta chọn cách sống nào cũng tuỳ thuộc vào việc chúng ta hiểu ý nghĩa và cùng đích đời người ra sao?

Hôm nay, chúng ta cùng với giáo hội mừng lễ Chúa lên trời. Điều đó dạy cho chúng ta biết rằng ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Chúa lên trời để cho chúng ta thấy rằng: Định mệnh của loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Số phận của con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Đó mới là cùng đích của đời người, đó mới là quê hương vĩnh viễn của chúng ta.

Thế nhưng, muốn tới được trời, muốn lên thiên đàng thì trước hết chúng ta phải đi hết con đường dương thế này bằng cách chu toàn những nhiệm vụ của mình ở đời này. Một trong những nhiệm vụ chính yếu chúng ta vừa nghe trong tin mừng hôm nay: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”. Đây là một nhiệm vụ cao cả mà Chúa đã trao cho chúng ta khi Ngài về trời. Chúa về trời, Ngài không còn xác thịt trên thế gian này nữa. Ngài không còn đôi tay nữa, chỉ có đôi tay của chúng ta, để làm công việc ngày hôm nay của Ngài. Ngài không còn đôi chân, chỉ có đôi chân của chúng ta để dẫn người ta theo đường lối của Ngài. Ngài không còn tiếng nói, chỉ có tiếng nói của chúng ta để nói với loài người rằng Ngài đã yêu thương, đã chịu chết như thế nào. Ngài không còn cách giúp đỡ nào khác ngoài sự giúp đỡ của chúng ta để đưa tha nhân đến bên cạnh Ngài.

Vì thế, một cuộc đời loan báo tin mừng cho Chúa trên cõi trần này không nhất thiết phải đổ máu nhưng thiết yếu là phải thể hiện bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm, là biết thực hành những lời Chúa dạy, không gian dối, lừa đảo, không tham lam bất chính, luôn chung thuỷ trong đời sống gia đình. Một cuộc đời loan báo tin mừng không nhất thiết phải có một bản án để người ta thoá mạ, tẩy chay, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Một cuộc đời loan báo tin mừng không nhất thiết phải đi đây đi đó rao giảng những lời hay ý đẹp mà là sống trong cùng một khu xóm, nhưng quý ông không nhậu nhẹt say sưa, không cờ bạc, không la vợ, đánh con, nhưng biết chăm sóc gia đình chu đáo, đồng thời còn dành thời giờ để đến an ủi, giúp đỡ, chia sẻ với những người già yếu bệnh tật, cô đơn; còn quý bà thì không ngồi lê đôi mách, nói hành nói xấu, nhưng biết lo lắng tần tảo, yêu thương chồng con, vui vẻ với làng xóm; và các bạn trẻ trong giáo xứ thì sống lành mạnh, biết kính trên nhường dưới, không đua đòi, không ăn nói tục tằn, nhưng chăm chỉ nhiệt thành với công việc chung… Sống được như vậy là chúng ta đang làm chứng cho Chúa một cách tuyệt vời nhất, sống được như vậy là chúng ta đang xây nên con đường dẫn về Trời cho mình, đang làm cho gia đình chúng ta, giáo xứ chúng ta thành nơi Chúa hiện diện và biến đổi thế giới này thành thiên đàng.

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta sống cho thật tốt, thật tròn đầy những bổn phận hằng ngày để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về Trời với Chúa mà hưởng hạnh phúc muôn đời. Amen.

29. Hãy rao giảng Tin Mừng – Lm. Đặng Quang Tiến.
Đoạn Mc 16,9-20 không tìm thấy trong những thủ bản xưa nhất của Tin mừng Marcô. Có thể đây là phần được thêm sau nầy, trong đó tóm tắt những điều mà trong các Tin mừng khác nói đến Đấng Sống Lại. Phần thứ nhất (16,9-11) thuật việc Chúa hiện ra với bà Mađalêna (x. Ga 20,11-18). Phần thứ hai (16,12-13) kể tóm tắt chuyện hai môn đệ đi về làng Emmaus (x. Lc 24,13-35). Phần thứ ba (16,14-18) kể lại chuyện Chúa hiện ra cho nhóm mười một; Người trách họ cứng lòng tin và trao cho họ sứ mạng rao giảng Tin mừng (x. Lc 24,36-43). Phần cuối cùng (16,19-20) ghi nhận vắn tắt việc Chúa lên trời (x. Lc 24,50-53; Tđcv 1,9-11).

Đoạn nầy không chắc chắn do Marcô viết ra; tuy nhiên nó được viết theo một truyền thống cổ xưa và được công nhận thuộc về Kinh thánh. Có thể phân chia đoạn 16,15-20 làm ba phần: 1- Mệnh lệnh rao giảng Tin mừng và những hành động quyền năng kèm theo (16,15-18); 2- Chúa Giêsu lên trời (16,19); Các tông đồ đi rao giảng và Chúa cùng hoạt động với họ (16,20).

Lần đầu tiên việc rao giảng Tin mừng được giao phó cách rõ ràng và như một mệnh lệnh cho các tông đồ để chu toàn. Ngay từ đầu, Marcô đã ghi nhận nhiều lần là Chúa Giêsu không mệt mỏi đi rao giảng khắp miền Galilê và những vùng lân cận của nó (1,14-15.39.45; 5,20). Khi tuyển chọn nhóm Mười Hai, Marcô ghi nhận là Người kêu họ đến với Người để có thể sai họ đi rao giảng (3,14); tuy nhiên, ông đã không nói là khi nào. Trong diễn từ nói đến những thử thách và bách hại các môn đệ sẽ chịu, Người tiên báo là qua đó Tin mừng sẽ được rao giảng cho mọi dân tộc (x. 13,10). Như thế, “Anh em hãy rao giảng Tin mừng” là mệnh lệnh trực tiếp và đầu tiên các tông đồ lãnh nhận sau khi Chúa Giêsu sống lại, và họ sẽ bắt đầu thực hiện nó cách công khai sau khi Người đã lên trời (16,15.20). Đây là thời điểm thích hợp nhất để làm việc đó, vì sứ vụ của Người trên trần gian chấm dứt khi Người lên trời; họ phải tiếp tục sứ vụ ấy của Người. “Tin mừng của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (1,1) đã được loan báo trọn vẹn và đã thấm nhập họ không chỉ lời nói mà cả bản thân của Người. Rao giảng Tin mừng lần nầy sẽ được mở rộng cách phổ quát cho mọi người (16,15).

Những hành động quyền năng được hứa như xua trừ ma quỷ, nói được những ngôn ngữ mới, tiêu trừ những độc hại và chữa lành những bệnh tật là biểu trưng cho sự chiến thắng trên sự chết và tội lỗi (16,17-18). Người ban những quyền năng ấy cho tất cả những ai tin vào Người; tuy nhiên, không chỉ chừng ấy thôi, mà cả ơn cứu độ dứt khoát trong sự sống vĩnh cửu nữa.

Như việc sống lại do bởi Chúa Cha thực hiện (16,6), việc Chúa Giêsu được đưa lên trời cũng bởi Người. Được đưa lên trời là trở lại nơi Người đã từ đó mà đến trần gian. Chữ “trên trời” chỉ nơi Thiên Chúa hiện diện (1,10; 6,41; 7,34; 11,25). Lên trời là đi vào sự hiệp thông tuyệt hảo và vĩnh cửu với Cha của Người, trong đó Người được chia sẻ với Cha quyền năng và vinh quang. Thành ngữ “ngồi bên hữu” chỉ địa vị cao trọng và quyền hành lớn chỉ sau Thiên Chúa (14,62; 16,19; x. 10,37; 12,36; Tv 110,1). Sau cùng, các tông đồ đã đi khắp nơi rao giảng Tin mừng (16,20). Họ đã mở đầu một thời kỳ mới của Giáo hội. Thay vào lời hứa Chúa Giêsu sẽ ở cùng họ cho đến tận thế (x. Mt 28,20), Marcô ghi nhận là Chúa cùng hoạt động và trợ giúp lời họ rao giảng bằng những dấu hiệu quyền năng (16,20).

Đang ở trong vinh quang và quyền năng với Chúa Cha, Chúa Giêsu vẫn luôn hoạt động liên lỉ với Giáo Hội để hoàn thành việc rao giảng Tin mừng của Thiên Chúa cho muôn dân.

30. Phải hiểu thế nào khi nói Chúa Lên Trời
(Suy niệm của Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)

Ngày còn nhỏ, sống gần vùng có nhiều máy bay Mỹ bay ngang dọc bầu trời. Những chiếc máy bay, dù là tuổi nhỏ, tôi vẫn mơ màng hiểu rằng, chúng đang tác oai, tác oái để phục vụ cho mục đích chiến tranh. Những lần nghe tiếng gầm rích xé tan bầu trời, bọn trẻ chúng tôi kéo nhau chạy ra khỏi nhà nhìn lên trời xem máy bay bay mà khoái chí, mà thỏa thích và lắm lúc còn hun đúc ước mơ được phóng lên trời bay như máy bay, oai biết mấy.

Cũng vẫn là những ngày còn nhỏ, ngày lễ Chúa Giêsu lên trời, tôi lại ra sân tìm kiếm. Không phải đi tìm máy bay nhưng là tìm Chúa Giêsu xem Chúa lên trời thế nào. Trong tưởng tượng, tôi cảm nhận rằng, chắc Chúa đẹp lắm, không đen sì như những chiếc máy bay, chắc Chúa hiền từ lắm, không ồn ào như máy bay... Trong tư tưởng non nớt của tôi làm sao hiểu nổi chuyện Chúa lên trời. Tìm kiếm trên bầu trời chán và mỏi, tôi đến gặp mẹ. Mẹ tôi cũng chẳng thể cho tôi một điều gì khá hơn. Bà chỉ biết có mỗi một chuyện: "Hôm nay Chúa lên trời", và không giải thích gì thêm để một thằng bé như tôi hiểu được. Và trong tôi còn mãi một thắc mắc, Chúa đã lên trời sao không thấy. Máy bay lên trời còn thấy bay đi bay lại kia mà! Ngày ấy, hình như tôi hiểu Chúa lên trời quá là nghĩa đen. Dù vậy, bây giờ đã có một hiểu biết nhất định, sao tôi vẫn không thể thay thế được cái nghĩa đen ấy!

Đúng là ngôn ngữ của Thánh Kinh cho phép chúng ta hiểu Chúa lên trời theo nghĩa đen. Chẳng hạn bài đọc một, trích sách Công vụ Tông đồ cho biết: "Nói xong, Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông" (Cv 1, 9). Nhưng với một sự kiện của lòng tin lớn như biến cố Chúa thăng thiên mà lại chỉ dừng lại ở nghĩa đen như thế, thì quả là làm thiệt hại đức tin biết bao nhiêu. Bởi điều quan trọng không nằm ở sự kiện Chúa lên trời cho bằng khám phá lại ý nghĩa của lễ Chúa lên trời hôm nay.

Bạn và tôi có quyền hiểu Chúa thăng thiên theo nghĩa đen, nhưng bạn và tôi không được quyền dừng lại ở đó. Ta không bao giờ được phép xem Chúa lên trời như là một chiến thắng đang say trong men chiến thắng, một cao ngạo, một sự trả thù của người bị hại đối với những người đã từng treo Chúa lên thánh giá. Nếu chỉ như thế thì chắc Chúa đã không lên trời!

Lên trời là một sự chiến thắng, một vinh quang. Đúng! Nhưng chiến thắng và vinh quang theo nghĩa nào?

Bài Tin Mừng cho biết, " Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa". Giáo Hội không ngừng lặp lại lời tuyên xưng này qua mọi thời, mọi thế hệ trong lời tuyên tín của mình.

Cụm từ "CHÚA LÊN TRỜI" đủ để cho thấy VINH QUANG THIÊN CHÚA của Người. Chúa đã một lần làm người. Nghĩa là đã một lần Người hạ mình hóa nên nhục thể. Vinh quang của Người là vinh quang Thiên Chúa. Nhưng vinh quang ấy đã bị che lấp trong cuộc đời trần thế, đến nỗi có lần thư gởi tín hữu Do thái phải bộc bạch: "Khi còn sống kiếp phàm nhân Chúa Giêsu đã lớn tiếng kêu vang khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết... Dù là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục". Hôm nay về trời cũng là chính lúc Chúa Kitô về lại với vinh quang mà Người vẫn có. Nói cho thật nôm na, dễ hiểu: Về trời chính là lúc Chúa Kitô trở lại "kiếp Chúa" của Người. Vinh quang bị che lấp, giờ đây tỏ lộ. Nếu trong quá khứ, "Người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn", thì giờ đây, "Người được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên" (Dt 2, 9). Vinh quang danh dự mà Chúa Kitô lãnh nhận hôm nay là vinh quang cao cả, là chiến thắng lớn lao: Chúa bước vào vĩnh cửu. Trong vinh quang vĩnh cửu ấy, chính "Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Để khi nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giêsu Kitô là Chúa" (Phil 2, 9- 11). Cũng chính trong vinh quang Đức Chúa của mình, Chúa Giêsu làm chủ mọi loài,, Người làm vua toàn vũ trụ. Vì nơ Người chính "Thiên Chúa đã đưa thời gian tới hồi viên mãn, đã quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô" (Eph 1, 10). Hay như bài đọc hai diễn tả: Chúa Kitô "Vượt trên mọi cấp trật, các lãnh thần, quyền thần, dũng thần và quản thần, vượt trên mọi danh hiệu được xưng hô cả đời này, lẫn đời sau. Chúa khiến mọi sự quy phục dưới chân Người, và tôn Người làm đầu toàn thể Hội Thánh là thân thể Người, và là sự sung mãn của Đấng chu toàn mọi sự trong mọi người" (Eph 1, 21- 23).

Nhưng vinh quang thiên quốc của Chúa Kitô, không chỉ quy tụ nơi chính bản thân Người mà thôi. Vinh quang của Chúa Kitô là ánh sáng chói ngời chiếu thẳng vào niềm hy vọng của chúng ta. Chúa thăng thiên để nhờ Người, trong Người và với Người, ta cũng được thăng thiên. Vì nếu đã có một con người mang tên Giêsu được vinh thăng, thì mọi người có quyền hy vọng nếm hưởng vinh quang Thiên Chúa với Người. Như vậy lễ thăng thiên là lễ thực hiện giấc mơ lớn nhất của con người: sống đời đời trong hạnh phúc và vinh quang vĩnh cửu.

Vì thế, hôm nay mừng lễ Chúa thăng thiên, hướng lòng về Thiên Chúa, và chiêm ngắm vinh quang của Chúa Kitô, loài người chỉ còn biết cúi đầu cảm tạ. Xin dâng muôn lời cảm tạ tri ân Thiên Chúa. Bởi thân phận bé nhỏ là thế, nhưng loài người lại có vận mạng được đặt nơi Thiên Chúa. Do đó dẫu là thuộc về đất thấp, loài người vẫn mang nơi mình một chiều cao thăm thẳm: vận mạng được vĩnh cửu hóa và Thiên Chúa là Chúa vĩnh cửu đã thương trao ban cho loài người, cho từng người một, một vận mạng không bao giờ có thể lạc mất.

Lạy Chúa, chúc tụng tình yêu vô ngần của Chúa, vì nhờ đó, thân phận bụi tro của chúng con được hóa thần nhờ ơn thần hóa Chúa ban. Amen.

31. Sứ mạng người Kitô hữu.
Tin Mừng thuật lại hai điều: sự kiện Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Trước hết, sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Marcô ghi lại rất vắn tắt: chỉ nói Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa, chứ không nói rõ Chúa lên trời ở đâu và sau khi Chúa sống lại bao lâu. Theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây dầu, Vậy Chúa Giêsu lên trời chính xác là khi nào?

Có thể trả lời tóm tắt và rõ ràng như sau: Chúa lên trời ngay ngày phục sinh, tức là sau khi sống lại, Chúa lên trời ngay. Và sau đó Chúa đã hiện ra với các tông đồ nhiều lần để củng cố lòng tin của họ, trong một khoảng thời gian mà sách Công vụ Tông đồ xác định là 40 ngày. Sau cùng, Ngài cho các môn đệ biết Ngài chấm dứt việc hiện ra bằng sự công khai về trời. Như vậy, mầu nhiệm lên trời mời gọi chúng ta nhìn nhận hai khía cạnh liên hệ nhưng riêng biệt nhau: một bên là Đức Kitô được vinh quang lên trời ngay lúc Ngài sống lại. Điều này giác quan các tông đồ không thể cảm nghiệm được mà chỉ có nhận thức bằng đức tin. Và một bên là Đức Kitô ra đi sau một thời gian hiện ra nhiều lần. Đó là cuộc ra đi trở về với Chúa Cha mà các tông đồ được chứng kiến trên núi Cây Dầu.

Chúa Giêsu lên trời là điều chắc chắn. Nhưng ý nghĩa thế nào? Việc Chúa lên trời là một sự kiện tất yếu của quá trình nhập thể và cứu chuộc của Ngài, như chu trình phát triển của một hạt lúa: phải tự mục nát trong đất mới đâm mầm và tăng trưởng dần cho đến thời kỳ trổ bông, sinh hạt. Chúa Giêsu, sau thời gian đi gieo lời hằng sống, thiết lập và xây dựng một nền móng đạo đức đặt căn bản trên tình thương, công bằng trong xã hội Do thái thời đó, mảnh đất thí điểm và khởi điểm… Ngài đã chịu chết, sống lại và vinh hiển về trời. Nói khác đi, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, đã từ trời xuống trần gian để thực hiện chương trình cứu chuộc của Chúa Cha. Ngài đã giảng dạy, phục vụ và cống hiến cả mạng sống. Nên sau khi sống lại từ cõi chết, Ngài đã được Thiên Chúa Cha tôn vinh, được đặt bên hữu Thiên Chúa và ban cho quyền xét xử vũ trụ. Đây cũng là một câu trả lời vô cùng phấn khởi cho chúng ta, nếu chúng ta trung thành tin theo Chúa, chúng ta cũng sẽ được về trời, chúng ta sẽ được Chúa Giêsu đón vào trong nhà Cha cùng với Ngài hưởng hạnh phúc vinh quang muôn đời.

Nhưng làm sao người ta có thể biết Chúa, tin theo Chúa để rồi cũng được về trời với Chúa? Chính vì thắc mắc đó mà trước khi về trời, Chúa Giêsu đã ra chỉ thị cho các môn đệ của Ngài. Ngài đã sai họ ra đi trên vạn nẻo đường thế giới, ban cho họ nhiều quyền năng để rao giảng Tin Mừng và đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chính nhờ các tông đồ đầu tiên ấy, rồi các tông đồ khác, lại các tông đồ khác nữa kế tiếp nhau trung thành thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng ấy mà người ta biết Chúa, tin Chúa, được cứu rỗi và rồi sẽ được về trời.

Nói khác đi, Chúa Giêsu đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Ngài, nghĩa là Giáo Hội như một nối dài của Chúa Giêsu. Cách đây hai ngàn năm, Chúa Giêsu đã đi lại, đã nói, đã làm nhiều điều tốt đẹp. Ngày nay, Ngài cũng muốn cho các hoạt động của Ngài được tiếp tục qua Giáo Hội. Sứ mệnh của Chúa Giêsu là một sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó cần phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi trao phó sứ mệnh đó cho Giáo Hội, Chúa Giêsu muốn nó được thực thi trong một khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống và dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

Là chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, mỗi Kitô hữu cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Ngài không ngừng giải tỏa ánh sáng, trao tặng tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Để được như thế, cách tốt nhất là chúng ta hãy sống tốt. Hãy sống tốt với gia đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với những người chung quanh, bất cứ lương hay giáo. Sống tốt cũng có nghĩa là sống bác ái, sống chan hòa tình yêu thương với mọi người.

Người có lòng bác ái, yêu thương giống như một bông hoa đẹp. Bông hoa không nói gì cả, bông hoa không tuyên xưng gì cả, nhưng vì nó là một bông hoa đẹp, tuy không nói, nhưng người ta cũng thấy được cái đẹp của nó, cái hương thơm của nó. Mỗi người Công giáo, mỗi giáo xứ, hãy là những đóa hoa, những bó hoa tươi, đẹp, thơm, do tinh thần bác ái cởi mở chan hòa. Và nếu được như vậy, đạo chúng ta sẽ mở ra, và đức tin ấy mới là đức tin truyền giáo thực sự.

Xin hãy nhớ: Chúa Giêsu về trời sau khi đã hoàn tất nhiệm vụ ở trần gian. Chúng ta cũng vậy, bao lâu sống ở trần gian, chúng ta cũng phải nỗ lực hoàn tất nhiệm vụ Chúa đã trao phó và tích cực đóng góp vào sự mưu ích cho đồng loại, cho gia đình, xóm đạo, quê hương, Giáo Hội theo tinh thần phục vụ và bác ái của Tin Mừng.

32. Một cõi đi về
Có lẽ trong chúng ta, phần đông đều biết đến một ca khúc của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ca khúc có tựa đề là "Một cõi đi về":

Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi

Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt

Trên hai vai ta đôi vòng nhật nguyệt

Rọi suốt trăm năm một cõi đi về.

Mây che trên đầu và nắng trên cao

Hôm nay ta đi song còn ở lại

Con tim yêu thương vô tình chợt gọi

Lại thấy trong ta hình bóng con người

..............

Nếu cố nhạc sĩ họ Trịnh đã viết nên lời của ca khúc Môt cõi đi về này thì tôi tưởng rằng Trịnh Công Sơn đã có một chiều sâu cảm nghiệm về một cõi, về một nơi nào đó mà người ta phải đi tới, phải đi về. Cõi đó là cõi nào? Nơi đó là nơi nào?

Tin mừng hôm nay mô tả: " Nói xong, Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa"(Mc 16, 19)

Như vậy, nếu Trịnh Công Sơn đã nói về một cõi xa xăm nào đó thì hôm nay, chính Chúa Giêsu đã xác định cõi đó là Thiên Đàng, là Trời cao. Đó là nơi mà sau bao nhiêu năm Đức Giêsu đã long đong, sau bao nhiêu năm nhọc nhằn, sau bao lần nếm cảnh nghèo đói, khổ đau, cay đắng và thậm chí là những thất bại chua cay, giờ đây, Ngài đang bước đến cõi đi về đó. Nơi đó, cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Nơi hạnh phúc không còn khổ đau, nơi mà tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối và viên mãn. Nơi mà con người trở thành bất tử.

Thế nhưng có một vấn đề đặt ra là: có thật là có cõi trời cao không và có thật là khi ở tầng trời cao người ta sẽ có được một cuộc sống như thế không. Hay đó chỉ là một ảo giác, hay đó chỉ là ảo tưởng nếu không nói là không tưởng.

Khi đặt vấn đề như thế tự nhiên tôi nhớ lại lời của một triết gia vô thần, Kart Marx. Ông ta nói rằng:

"Kitô giáo là trái tim của một thế giới không trái tim, là linh hồn của một thế giới không linh hồn. " Ông còn nói thêm: "........và là thuốc phiện ru ngủ nhân dân".

Là thuốc phiện ru ngủ nhân dân, Kitô giáo ru ngủ người ta, làm cho người ta quên đi thực tại đau khổ này và thay vào đó chỉ toàn là dạy cho người ta luôn mơ tưởng về cõi Thiêng đàng xa xăm. Không thực tế.

Tôi không nghĩ thế. Trái lại, sự kiện Chúa lên Trời hôm nay nói với tôi rằng: Ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có môt cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác lớn hơn, cao hơn và tuyệt đối hơn.

Và như thế trời không phải là một cái gì đó xa xăm, ảo tưởng. Trái lại, trời là niềm hy vọng của con người. trời là nơi con người sẽ được giải thoát khỏi trói buộc và giam hãm. Nơi đó, người ta sẽe biết được thế nào là hạnh phúc vô biên, vĩnh viễn, bất diệt và bền lâu. Chính vỉ thế, Trời là cõi người ta phải đi tới, phải đi về.

Thưa anh chị em và các bạn! Khi hiểu được như thế thì tự nhiên tôi cảm thấy băn khoăn lại cuộc đời mà tôi và anh chị em đang có mặt.

Tôi tự hỏi ngày hôm nay người ta có còn tin vào cõi Trời cao ấy không. Người ta có còn hy vọng được sống ở chốn trời cao ấy không? Và người ta có còn biết khao khát kiếm tìm cõi ấy không? Tôi sợ rằng không! Vì một đàng Chúa Giêsu đã xác định: "Vương quốc của tôi không thuộc về thế giới này. (xYn 18,38). Đang khi đó thì Abel Camus, một nhà tư tưởng có tầm cỡ trên thế giới thì nói rằng: "Vương quốc của tôi là chính thế giới này". Câu nói đó phản ánh một quan niệm, một lối sống của phần đông nhân loại trong thế kỷ này và trong thời đại này. Quan niệm và lối sống đó là người ta chỉ tập trung lo hưởng thụ từ những thứ mà người ta cố kiếm và cố tìm là tiền là của cải, là địa vị và là những trò vui nặng tính trần tục.

Chính vì chúng ta đang bị nhận chìm trong một quan niệm và một lối sống như thế nên hình ảnh của một cõi đi về trong tâm tưởng của chúng ta trở nên xa lạ và nhạt nhòa.

Như vậy thì vấn đề còn lại là: Nếu hình ảnh đó đã nhạt nhòa rồi thì ta phải tô điểm lại bằng chính lòng nhiệt thành của chúng ta. Nhiệt thành xây dựng một đất nước, một xã hội, một thế giới huynh đệ hơn, công bằng hơn, bác ái hơn...

Như vậy có nghĩa là gì, nếu không phải đó là mệnh lệnh và một đòi hỏi của Chúa Giêsu hôm nay:

"Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cho mọi loài thọ tạo." Amen. (Mc 16,15)

33. Làm chứng.
Trước khi xa rời các tông đồ, Đức Giêsu đã ủy thác cho họ việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới. Người còn hứa gửi Chúa Thánh Thần đến với họ, để giúp đỡ họ thực hiện được sứ vụ đó.

Ngày nay, công việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới tùy thuộc vào chúng ta. Đây là một đặc ân vĩ đại, nhưng cũng là một công việc dễ làm nản lòng. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể tin tưởng vào sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Cách thế tốt nhất để rao giảng Tin Mừng chính là bằng cách sống đời sống Kitô hữu. Một câu hỏi mà mỗi người chúng ta đều có thể tự hỏi là: Nếu trở thành người Kitô hữu là một tội ác, và tôi bị thử thách, thì liệu có thể tìm ra đủ chứng cứ trong cuộc sống của tôi, để làm cho tôi nhận thấy rõ sự sai lầm không?

Christopher là một Kitô hữu ngoan đạo. Anh không bao giờ bỏ lễ ngày Chúa nhật. Anh sống cùng với gia đình trong một ngôi nhà đầy đủ tiện nghi, tại một khu vực hiện đại của thành phố. Với sức khỏe tốt, một công việc an toàn, có thu nhập cao, anh cảm thấy hạnh phúc và mãn nguyện.

Tuy nhiên, có một điều làm cho anh bận tâm, liên quan đến người hàng xóm bên cạnh nhà anh. Đó là một người tự nhận mình là vô thần, và không bao giờ đến nhà thờ. Với tư cách là Kitô hữu, Christopher cảm thấy rằng anh có trách nhiệm trong việc cố gắng cải tạo người hàng xóm đó. Nhưng anh phải làm việc này như thế nào đây? Trong nhiều dịp nói chuyện với người đó, anh đã đưa đề tài tôn giáo ra một cách hết sức tích cực có thể được. Than ôi, anh chẳng đi đến đâu cả.

Thế rồi một ngày kia, anh nảy ra một sáng kiến. Nếu anh chỉ làm sao cho người hàng xóm đó đọc được Tin Mừng, thì chắc chắn là anh thành công rồi. Ai có thể không được Tin Mừng lay chuyển? Vấn đề duy nhất là làm thế nào để gửi cho anh ta bản sao của sách Tin Mừng. Anh có thể gõ cửa nhà anh ta, và đưa tận tay cuốn sách đó. Nhưng chắc hẳn điều đó sẽ gây khó chịu cho anh ta. Anh phải tìm một cách nào tế nhị hơn. Vậy anh nên làm gì đây? Anh gửi cho anh ta một cuốn bản sao của sách Tin Mừng, mà không để tên người gửi.

Sau khi làm công việc này, anh chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra. Nhiều ngày trôi qua, không có gì xảy ra cả. Không hề có một dấu hiệu nhỏ nhoi nào chứng tỏ rằng người hàng xóm đó đã đọc được ánh sáng Tin Mừng. Hai tuần sau, vợ của Christopher có dịp sang thăm nhà bên cạnh. Khi trở về, chị nói với chồng “Anh có biết gì về cuốn bản sao của sách Tin Mừng, mà anh đã gửi cho anh ta không?”

“Sao thế?”

“Cuốn sách đó nằm trong thùng rác rồi!”.

Christopher phẫn nộ. Quẳng sách Tin Mừng vào thùng rác là một việc không phải chút nào. Anh đi sang nhà bên cạnh, và khi đi ngang qua thùng rác, anh đã nhặt cuốn sách đó lên.

Anh nói với người hàng xóm “Tôi hy vọng rằng tôi không xâm phạm gì đến anh. Nhưng tôi nhìn thấy cuốn sách này trong thùng rác của anh. Anh biết không, nếu anh chỉ đọc cuốn sách này thôi, thì anh có thể tìm thấy Thiên Chúa”.

Người kia trả lời một cách đáng ngạc nhiên: “Nhưng tôi đã đọc cuốn sách đó rồi. Mỗi ngày tôi đều đọc đấy chứ”.

Christopher nói: “Tôi không hiểu gì cả”.

“Anh là một người tín hữu phải không?”

“Đúng vậy. Mà tại sao anh lại hỏi tôi như thế?”

“À, trong suốt 10 năm qua, mỗi ngày tôi đều đọc cuộc sống của anh”.

Câu chuyện kết thúc ở đây.

Có một bài viết ngắn về điều này:

“Tôi là cuốn sách Kinh Thánh đối với người hàng xóm của tôi; người đó đọc tôi mỗi khi gặp tôi.

Hôm nay, anh ta đọc tôi trong ngôi nhà của tôi, ngày mai, anh ta đọc tôi trên đường phố.

Anh ta có thể là một người họ hàng, một người bạn, hoặc chỉ là một người quen biết sơ giao mà thôi.

Thậm chí anh ta có thể không biết tên tôi, tuy nhiên, anh ta vẫn đang đọc Kinh Thánh qua cuộc đời của tôi”.

34. Kêu gọi.
Lần kia, một nhà lãnh đạo tinh thần gọi sáu môn đệ của ông lại, và nói “Anh em hãy ra đi và kêu gọi các môn đệ”. Cả sáu người đó liền ra đi ngay tức khắc. Thời gian trôi qua, từng người một đều trở về.

Người thứ nhất trở về cùng với 500 môn đệ.

Nhà lãnh đạo hỏi “Anh xoay xở cách nào mà có được quá nhiều môn đệ vậy?”

Người môn đệ kia thưa “Con đã đi đến giữa những khu vực có nhiều người nghèo khổ hơn. Ở đó, con nhận thấy có những người đau khổ, nghèo nàn và nhiều thèm muốn. Con hứa với họ rằng chúng ta sẽ chăm sóc tất cả các nhu cầu của họ”.

Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.

Người thứ hai trở về với 400 môn đệ.

Nhà lãnh đạo hỏi “Anh đã áp dụng phương pháp nào vậy?”

Người đó trả lời “Con nói với họ về nước trời và phần thưởng lớn lao đang chờ đợi ở đó, dành cho những ai đi theo đường lối của chúng ta”.

Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.

Người thứ ba trở về với 300 môn đệ.

Nhà lãnh đạo hỏi “Anh đã áp dụng phương pháp nào vậy?”

Người đó trả lời “Con không hề thuyết phục gì cả. Con chỉ nói với họ rằng họ sẽ bị sa hỏa ngục, trừ phi họ đi theo đường lối của chúng ta. Nhưng điều này vẫn chưa hoàn toàn thuyết phục được họ, cho đến khi con làm một phép lạ. Con nguyền rủa một con chó điên, và nó chết lăn ra. Phép lạ này đã chinh phục họ”.

Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.

Người thứ tư trở về với 200 môn đệ.

Nhà lãnh đạo hỏi “Anh đã áp dụng phương pháp nào vậy?”

Người đó trả lời “Con quyết định đi đến giữa những kẻ vô giáo dục và có cuộc sống giản dị. Con đã thuyết phục họ bằng những lý lẽ. Con làm cho họ bị mờ mắt bằng kiến thức của mình”.

Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.

Người thứ năm trở về với 100 môn đệ.

Nhà lãnh đạo hỏi “Anh đã áp dụng phương pháp nào vậy?”

Người đó trả lời “Con đến với giới trẻ. Con nói với họ về đường lối của chúng ta. Thế rồi con điều khiển họ một cách đơn giản, và kết quả là đây. Họ đang đứng chung quanh, chờ đợi người lãnh đạo. Nếu con không đến với họ, thì có một số vị cứu tinh khác sẽ đến chinh phục họ và khai thác họ”.

Nhà lãnh đạo nói “Ta hiểu”.

Cuối cùng, người thứ sáu trở về, chỉ với 12 môn đệ.

Nhà lãnh đạo hỏi “Điều gì đã giữ chân anh lại lâu như vậy?” Người đó đáp “Con không có khả năng gieo hạt giống ngay tức khắc được. Không thể nào gieo giống vào giữa mùa đông. Phải đợi cho đến khi tuyết tan và mặt đất trở nên mềm mại. Vì thế, con cứ chờ đợi. Trong khi chờ đợi, con kết bạn với họ, con cố gắng đưa ra cho họ một ví dụ về đường lối của chúng ta, bằng lối sống mà con đã sống. “Trong khi đang chia sẻ cuộc sống của họ, con phát hiện ra rằng tự do rất quan trọng. Khi tước đoạt tự do khỏi họ, sẽ làm xói mòn nhân phẩm của họ, và làm giảm rất nhiều giá trị nơi quyết định của họ, trong việc họ đồng ý đi theo chúng ta. Con cũng học hỏi được một số điều khác về họ. Con được biết rằng họ là những người rất quảng đại và không ngại hy sinh. Con nói với họ về cái giá của việc trở thành người môn đệ, nhưng con nhấn mạnh vào điều tốt đẹp mà với tư cách là môn đệ, họ có thể làm cho người khác và cho Thiên Chúa. Dường như điều này gây ấn tượng nơi họ. Tuy nhiên, đến lúc phải quyết định, thì chỉ có 12 người đồng ý đến với con mà thôi”.

Nhà lãnh đạo đã khen người môn đệ cuối cùng.

Năm người đầu tiên khơi gợi sự yếu đuối và sợ hãi của con người. Thật dễ dàng trong việc khai thác nỗi sợ hãi của con người và lôi kéo họ. Nhưng điều này can thiệp vào sự tự do của họ, và vì thế, hủy hoại sự bằng lòng theo Chúa nơi họ. Người thứ sáu khơi gợi sức mạnh của họ. Anh kết bạn với họ, và cố gắng chinh phục họ bằng ví dụ.

Đó là điều mà đạo Công giáo thực hiện. Đây là một phương pháp chậm chạp hơn và khó khăn hơn, nhưng cuối cùng những người nào cải tạo sẽ được bén rễ sâu xa hơn. và sẽ được ủy thác nhiều hơn trong việc đi theo đường lối mới.

35. Tầm nhìn.
Người ta trình bày Đức Giêsu từ đỉnh núi Ô-Liu mà lên trời. Ngọn núi là một nơi chốn của tầm nhìn. Trên đỉnh núi, bằng cách này hay bằng cách khác, chúng ta cảm thấy gần gũi hơn với Thiên Chúa. Thật vậy, chúng ta cảm thấy mình đang ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa.

Người ta kể một câu chuyện về người đàn ông đã sống trọn cuộc sống của mình trong khu rừng thưa. Khoảng rừng thưa đó chỉ rộng độ 100 mét Anh, và được bao bọc bằng nhiều cây cối. Thế giới của người đàn ông đó cực kỳ khép kín. Ông có rất ít khái niệm về không gian hoặc khoảng cách. Trong một thế giới như vậy, ngay cả những đối tượng tương đối nhỏ bé, vẫn có vẻ rộng lớn hơn cả cuộc sống, bởi vì sự gần gũi của con người đối với chúng.

Ngày kia, có một người khai thác rừng đưa người đàn ông đó ra khỏi khu rừng, và dẫn ông ta đi lên đỉnh núi. Người đó có thể quan sát hết tất cả khoảng không gian rộng mở tồn tại bên ngoài khu rừng, sự mênh mông của bầu trời, và sự rộng lớn của đường chân trời. Ông ta kinh ngạc khi phát hiện ra có một thế giới tồn tại ở một nơi không hề có cây cối và có rất ít thực vật như vậy. Ông ta giống như một đứa trẻ lúc đang được phấn khích vậy. Ông quá đỗi vui mừng, đến nỗi chỉ mong muốn được ở lại đó mà thôi.

Nhưng tất nhiên là ông ta phải trở về với cái thế giới nhỏ bé, khép kín, chật hẹp của mình. Tuy nhiên, không bao giờ ông quên được cuộc thăm viếng của mình tại đỉnh núi. Điều này để lại cho ông một hiệu quả tuyệt vời, giúp cho ông có được một tầm nhìn rộng rãi hơn về cuộc sống, đặc biệt khi các sự việc trở nên quá nhiều đối với ông, và thế giới đang khép lại trên ông ta.

Khi đến lúc sắp rời khỏi thế gian này, thì Đức Giêsu dẫn các tông đồ lên đỉnh núi Ô-liu. Người đang trở lại với Cha của Người. Người đang đi đến vinh quang. Trong khi lên trời, Người ngước mắt lên, hướng về nơi mà Người đang đi tới.

Nhưng Người cũng hướng cặp mắt của Người ra bên ngoài. Người chỉ cho các tông đồ rằng có một thế giới vĩ đại đang chờ đợi được lắng nghe Tin Mừng. Người giao phó cho họ công việc đem Tin Mừng đến với thế giới rộng lớn đó, và hứa gửi Chúa Thánh Thần đến hỗ trợ cho họ trong công việc này.

Các tông đồ quá thích thú phong cảnh trên núi, đến nỗi họ chỉ muốn được ở lại đó. Nhưng có một giọng nói kêu gọi họ trở về với thực tại “Hỡi người Galilê, tại sao các ngươi còn đứng đây nhìn lên trời?”. Mặc dù phải trở lại với thế giới thật, thì cuộc sống của họ sẽ không bao giờ như cũ nữa.

Ngày lễ này nói nhiều về Đức Giêsu. Sự lên trời của Người chứng tỏ cho chúng ta thấy được mục đích của cuộc hành trình dương thế của chúng ta ở đâu. Đây là một mục đích mà một số phận, thậm chí lại còn thách đố cả óc tưởng tượng của chúng ta nữa. Điều này đem đến cho chúng ta một tầm nhìn mới mẻ và rộng rãi hơn, thúc đẩy những chân trời của chúng ta vượt ra ngoài các biên giới của thế giới này, mang lại một chiều kích vĩnh cửu cho cuộc sống của chúng ta.

Đức Giêsu trở lại với nguồn gốc, Alpha và Omêga. Đây là ý nghĩa Sự Lên Trời của Người. Đây không phải là một cuộc hành trình đi vào không gian, mà là một cuộc hành trình trở về nhà Cha. Sự lên trời của Người không nói lên việc Người rời khỏi mặt đất, nhưng lại chứng tỏ sự hiện diện liên lỉ của Người ở bất cứ nơi đâu trên trái đất này. Trong suốt sứ vụ tại thế của Đức Giêsu, trong một thời điểm, Người chỉ có thể ở tại một nơi mà thôi. Nhưng bây giờ, do đã được kết hợp với Thiên Chúa, Người có thể hiện diện tại bất cứ nơi đâu có Thiên Chúa hiện diện, nghĩa là ở tất cả mọi nơi.

Chúng ta sống trong hy vọng rằng những lời nói của Đức Giêsu sẽ trở thành hiện thực đối với chúng ta: “Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ được ở đó”. Trong khi chờ đợi, chúng ta có một công việc phải thực hiện: rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Người trong thế giới này.

36. Chúa Thăng Thiên
Anh chị em thân mến.

Ngày 21 tháng 5 năm 2003,một sự kiện quan trọng, một ngày lễ hội cho tỉnh Vĩnh Long, cũng là niềm vui mừng cho người dân thuộc đồng bằng sông cửu long. Đó cũng là niềm vui cho cả nước VN vì một chiếc cầu hiện đại đã được lưu thông. Niềm mong đợi bấy lâu nay đã thành hiện thực. Nhờ chiếc cầu mà giờ đây mọi người không còn phải sốt ruột ngồi chờ từng chuyến phà lênh đênh trên giòng nước cách êm ả để đưa qua giòng sông Mỹ Thuận.

Nhưng từ hôm nay, mọi người, mọi phương tiện phải tự động vượt qua sông nhờ chiếc cầu. Lưu thông giờ đây đã được tốt đẹp nhờ chiếc cầu. Nếu người nào không biết chuẩn bị, thì việc dùng chiếc cầu để sang bờ bên kia không phải là một việc dể dàng gì đâu. Có những chiếc xe phải nằm lại giữa chừng, vì không đủ sức vượt lên con dốc. Có những người đi bộ cũng thế. Ngoài ra chắc có lẽ cũng còn những phương tiện không được phép đặt chân lên cầu vì nó nằm ngoài những qui định cho phép. Còn những người đã đủ điều kiện, họ ung dung lên cầu với một niềm phấn khởi, họ tận hưởng sự thoải mái cùng với cái hạnh phúc mà họ không thể lặng thinh được.

Hôm nay chúng ta hợp với toàn thể Giáo Hội mừng việc Chúa lên trời. Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Ngài đã từ trời xuống, giờ đây Ngài lại trở về. Không phải Ngài từ bỏ những con người mà Ngài yêu thương. Nhưng Ngài luôn ở gần họ như một chiếc cầu. Không phải chiếc cầu chỉ nối hai bờ của một giồng sông, nhưng chiếc cầu nối liền Trời và Đất. Ngài đã chuẩn bị tất cả thật hoàn hảo. Chiếc cầu mang tên Giêsu.

Chiếc cầu được xây nên không phải bằng bê tông cốt thép, nhưng được xây nên bởi chất liệu của Tình yêu, của thập giá. Ngài kêu gọi những người mà Ngài yêu thương, hãy đi khắp thế gian loan báo tin mừng, loan báo tin chiếc cầu đã được khai thông, để con người có thể nhờ chiếc cầu nầy mà đến cùng Thiên Chúa. Các Tông Đồ đã đi trên chiếc cầu, các Ngài đã tận hưởng được sự thoải mái, niềm hạnh phúc. Các Ngài không thể ngồi yên. Các Ngài đi thông báo, mời gọi mọi người cùng vượt qua chiếc cầu để đến cùng Thiên Chúa.

Trải qua hằng bao thế kỷ, biết bao người đã đến được với chiếc cầu, họ đã hưởng được hạnh phúc từ chiếc cầu mang đến cho họ. Nhưng cũng không biết bao nhiêu người, họ cũng từng nhìn thấy, đôi khi họ biết rất rỏ con đường đi đến chiếc cầu. Họ cũng biết rỏ chất liệu Tình Yêu của chiếc cầu. Nhưng đôi chân không bao giờ bước lên chiếc cầu. Có lẽ vì họ sợ con dốc cao sẽ làm cho đơi chân họ rã rời. Cũng có lúc họ sợ con đường dài, mà sức lực họ không có đủ. Cũng có những lúc họ lười biếng không muốn cố gắng nên họ không thể nào đặt được đôi chân của mình sang bờ bên kia được.

Còn chúng ta, chắc mỗi người cũng đã đến để chiêm ngưỡng công trình nối liền hai bờ của giòng sông Mỹ Thuận, chúng ta cũng hòa với niềm vui chung của mọi người nhờ chiếc cầu. Nhưng chiếc cầu quan trọng hơn trong đời sống chúng ta, chiếc cầu mang tên Giêsu, chiếc cầu nối liền con người của mình với Thiên Chúa. Mặc dù chúng ta đã biết, chúng đã nhìn thấy và đã nghe nói rất nhiều, nhưng giờ nầy đây, mỗi người chúng ta nhìn lại mình xem: Cũng có những lúc chúng ta cũng đang đi trên chiếc cầu với tất cả niềm phấn khởi và hạnh phúc. Nhưng cũng rất nhiều lần chúng ta sợ chiếc cầu làm hao mòn đi sức lực của mình, làm hao mòn đi những gì mình có được.

Đó là những lúc chúng ta ngại khó, không dám sống đúng theo những gì mình đã biết, đã được chỉ dạy, không dám sống theo lương tâm ngay chính của mình. Cũng có những lúc lười biếng sống buông thả theo những dục vọng riêng tư. Đó là những lúc chúng ta đắm chiềm dưới giòng sông mà không đi trên cầu để qua sông đến cùng Chúa. Như thế chiếc cầu mang tên Giêsu, chiếc cầu được xây dựng bằng chất liệu của tình yêu và thập giá, không đem lại một chút lợi ích nào cho chúng ta sao? Như vậy việc Chúa Giêsu về trời mà chúng ta mừng hôm nay đem đến cho chúng ta được điều gì?

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết đi trên con đường mà Chúa đã đi, để chúng ta cũng được tận hưởng niềm vui trên trời mà hôm nay chúng ta mừng kính.

37. Hành trình.
Sách Tông đồ Công vụ kể rằng khi Đức Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ ngước mắt trông theo, và cứ ngây ngất đứng nhìn về trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc cho các ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy? Chắc hẳn là vì cảnh thiên đàng rất là hấp dẫn.

. Cũng như một lần kia, ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Đức Giêsu biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại mãi trên ngọn núi đó.

. Còn thánh Phaolô sau khi được Chúa cho ngất trí chiêm ngưỡng cảnh thiên đàng trong một khoảng khắc ngắn ngủi, đã mô tả lại kinh nghiệm ấy trong bức thư II gửi tín hữu Côrintô như sau “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe…”

. Ở Lộ Đức năm 1858, một người từ trời xuống là Đức Mẹ Maria đã hiện ra cho thánh nữ Bernadette. Sau đó thánh nữ đi tu. Một lần kia có một em bé đơn sơ hỏi thánh nữ “Thưa ma sơ, ma sơ đã được thấy Đức Mẹ, chắc là Đức Mẹ đẹp lắm nhỉ?” Thánh nữ trả lời với em bé bằng một lời diễn tả cũng rất đơn sơ “Đẹp lắm con ạ, đẹp đến nỗi ai đã thấy được một lần thì chỉ mong chết để lại được thấy nữa”.

. Còn ở Fatima năm 1917, Đức Mẹ hiện ra cho ba em Luxia, Phanxicô và Giaxinta. Ba em đó cũng đơn sơ hỏi Đức Mẹ “Thưa Bà, Bà ở đâu đến vậy?” Đức Mẹ đưa tay lên cao và nói “Từ trời xuống”. Ba em liền xin “Vậy xin Bà cho chúng con cũng được lên trời đi”. Đức Mẹ mỉm cười đáp “Phanxicô và Giaxinta thì Ta sẽ cho về trời trong một ngày gần đây; còn Lucia thì hãy chịu khó ở lại trần thế này một khoảng thời gian nữa. Kể từ ngày đó hai em kia lúc nào cũng mơ ước tới ngày được lên trời. Dù sắp chết hai em cũng chẳng chút lo sợ, lại còn mừng vì mình sắp được lên trời.

Đó là một vài tia sáng yếu ớt giúp chúng ta thoáng thấy một phần nào cảnh tượng thiên đàng. Những chứng nhân vừa kể chỉ thoáng thấy một vài tia sáng yếu ớt ấy là đã say sưa ngây ngất, chỉ muốn sớm chết đi để được hưởng thiên đàng, huống chi khi thực sự hưởng thiên đàng và hưởng trọn vẹn còn hạnh phúc ngất ngây đến chừng nào!

Khi về trời, Đức Giêsu đã hứa rằng Ngài về trời là để dọn chỗ cho chúng ta, thiên đàng hạnh phúc vô biên ấy sẽ là quê hương vĩnh viễn của chúng ta.

Thế nhưng không phải vì quê hương vĩnh viễn ấy của chúng ta hạnh phúc vô biên mà ta chỉ biết ngóng trông quê trời và sao lãng nhiệm vụ ở trần thế. Tất cả những chứng nhân vừa kể trên, sau một thoáng giây chiêm ngưỡng thiên đàng đều được nhắc nhở phải trở lại với nhiệm vụ trần thế:

. Hai thiên thần đã hiện ra từ đám mây nhắc nhở các môn đệ “Hỡi những người xứ Galilê sao còn mải mê đứng đó nhìn trời, hãy trở lại Giêrusalem và bắt đầu nhiệm vụrao giảng Tin Mừng mà Chúa đã giao phó…”

. Còn ba ông Phêrô, Gioan và Giacôbê, sau những giây phút say sưa trên núi Tabôrê, đã được Chúa thức tỉnh dẫn xuống núi để tiếp tục nhiệm vụ.

. Thánh nữ Bernadette, cũng như nữ tu Luxia sau khi được nhìn thấy Đức Mẹ thì được Đức Mẹ giao nhiệm vụ ở trần gian, Đức Mẹ còn cho biết trước; chúng con sẽ phải đau khổ nhiều.

Nghĩa là làm sao? Nghĩa là: Thiên đàng là quê hương vĩnh viễn của chúng ta, nhưng trần thế chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng thì có lẽ không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tới được thiên đàng thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn những nhiệm vụ của mình ở đời này.

Trong khi chờ đợi tới ngày hưởng phúc thiên đàng, chúng ta vẫn còn phải tiếp tục sống ở trần gian này. Mà trần gian thì vẫn còn biết bao đau khổ: Khổ về vật chất như nghèo đói, bệnh tật; khổ về tinh thần như ganh ghét hận thù đố kị nhau. Mà nguồn gốc của tất cả những khổ sở vật chất và tinh thần ấy là vì người ta còn tội lỗi, người ta còn chưa thực hành theo những lời Chúa dạy. Chuẩn bị đi về quê trời là hết sức cố gắng góp phần xóa đi bớt những đau khổ đó ở trần gian như: chia sớt cho những người túng thiếu, chăm sóc những kẻ bệnh tật, ủi an những người đau khổ, hòa giải những kẻ bất thuận với nhau, giúp cho người ta tránh bớt tội lỗi, làm cho người ta biết Chúa và thực hành những lời Chúa dạy.

“Hỡi những người xứ Galilê, sao còn cứ đứng đó mải nhìn trời…” Khi các thiên thần nhắc cho các môn đệ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, thì cũng là nhắc các ông làm những việc vừa kể trên. Những việc đó chính là nội dung của việc rao giảng Tin Mừng mà Đức Giêsu cũng đã căn dặn một lần nữa cho các môn đệ trước khi Người về trời “Chúng con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho nhân loại”.

Trong ngày lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta đã để ra ít phút ngước nhìn lên quê trời để nhìn ngắm hạnh phúc vô biên mà Chúa sẽ ban cho chúng ta. Những phút đó thật là quý giá, là niềm vui, là nguồn an ủi, là sự khích lệ cho chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ không thụ động mải mê chiêm ngắm hạnh phúc tương lai ấy. “Hỡi những người xứ Galilê, sao còn đứng mải nhìn trời…” Chúa nhắc chúng ta hãy quay về với bổn phận của chúng ta trong cuộc hành trình nơi dương thế: Làm cho cuộc đời này bớt đau khổ hơn, giúp cho người đời biết thương nhau hơn, và góp phần cho cuộc sống này tươi đẹp hơn. Đó chính là bổn phận hiện tại của chúng ta trong khi chờ đến ngày ta được về quê trời hưởng hạnh phúc vô cùng với Chúa.

38. Con đường.
Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói:

- Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một món quà quí giá nhất.

Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay trắng. Hết sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi:

- Món quà quí giá của ngươi đâu?

Người này điềm tĩnh trả lời:

- Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một cuộc sống sung túc tốt đẹp.

Người tù trưởng nói:

- Ngươi sẽ nối nghiệp ta. Ngươi đã mang về món quà quí giá nhất: Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.

Đó cũng là viễn tượng Đức Giêsu mời gọi chúng ta đem lại cho thế giới qua bài Tin Mừng hôm nay: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật”.

Chúa về trời là về với Chúa Cha – Cuộc đời chúng ta là một cuộc hành trình, mà đích đến nằm ở phía bên kia. Trời là đích xa xôi nhưng chi phối những bước chân gần gũi. Những bước chân đi đến với anh em, những bước chân đi vào lòng thế giới, những bước chân đi loan báo Tin Mừng.

- Tin Mừng chính là Thiên Chúa yêu thương con người.

- Tin Mừng chính là ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ.

- Tin Mừng chính là có Chúa cùng hoạt động với những dấu lạ kèm theo.

Vậy người tín hữu Kitô không chỉ ngước mắt nhìn trời, nhưng hăng say đi loan báo Tin Mừng, vì trái đất còn mênh mông những đồng lúa chín vàng.

Chúa về trời, nên Người đã mượn miệng lưỡi chúng ta để rao giảng, mượn đôi tay chúng ta để thi ân, mượn đôi chân chúng ta để đi đến với người cùng khổ.

Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện và hoạt động trong cuộc sống chứng nhân của mỗi người tín hữu.

Chúa về trời, nhưng Người vẫn thực hiện những dấu lạ trong cuộc đời những con người biết sống tận tình cho tha nhân.

Chúa về trời, nhưng Người vẫn canh cánh bên lòng một ước mơ: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha ban cho con cũng sẽ ở đấy với con”.

Đã ước mơ thì lúc nào cũng nghĩ tới điều mình mơ ước. Nếu Chúa đã ước mơ ở cùng chúng ta trên trời thì bao lâu chúng ta chưa về trời với Chúa, là bấy lâu trong lòng Chúa còn hình bóng chúng ta.

Đã ước mơ bao giờ cũng mong đạt được điều mơ ước. Nếu Chúa đã mong chúng ta có mặt nơi Chúa ngự, thì không lẽ gì chúng ta không hiện diện ở đó.

39. Suy niệm của Lm. Fx Nguyễn Hùng Oánh
CHÚA GIÊSU KYTÔ LÊN TRỜI MÀ VẪN Ở DƯỚI ĐẤT?

1- Quan niệm về "trời đất"

a- Theo vũ trụ quan của người Việt nam:

- Trời là một quãng không (impersonnel) ở trên đầu ta đối với đất ta đang đứng đây:

Trên trờì có đám mây xanh,

Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng.

Trời quang, mây tạnh, trời u ám, trời nắng, trời mưa.

- Trời là Ông Trời (personnel):

Trời sinh voi, trời sinh cỏ.

Ngẫm hay muôn sự tại Trời

Trời kia đã bắt làm người có thân. (Kiều, câu 3241)

...

"Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa". (Kiều, câu 3249)

b- Theo Thánh Kinh

Dưới mắt người Do thái, trời là công trình tạo dựng của Thiên Chúa, là một kiến trúc vững chắc có các cột trụ chống giữ (Giop 26,11), có nền móng chắc chắn (2 Sm 22,8), có bể chứa nước, tuyết, băng giá, gió (Giop 38,22; Tv 33,7), có các cửa cống để tuôn các chất đó ra: tháo cống nước làm mưa, tháo cống gió làm gió (Stk 7,11; 2 V 7,2; Mal 3,10).

Trời ở trên, đất ở dưới. Trời là nhà của Thiên Chúa (Is 66,1) và đất là phần Thiên Chúa ban cho loài người (Tv 115, 16). Không ai lên trời được (Gioan 3,13; Cn 30,4; Rm 10,6). Kẻ mơ ước lên trời là người điên (xem Stk 11,4) vì tự xem mình đồng hàng với Thiên Chúa (Is 14,13).

2- Chỉ có Chúa Giêsu Kytô đã lên trời vì Ngài từ trời xuống:

"Thầy từ trời mà xuống, không phải làm theo ý Thầy, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Thầy" (Gioan 6,38). Thầy phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến"(nt 8,42).

Và khi Chúa Kytô đã thi hành Thánh Ý Chúa Cha trong mầu nhiệm Vượt qua (chết và sống lại), Ngài trở về với Chúa Cha bằng "con đường thăng thiên":

"Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa" (Marcô 16,19).

" Đang khi chúc lành cho họ, thì Người rời khỏi họ và được đem lên trời" (Luca 24,51)

"Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa "(Công vụ 1,9)

"Thiên Chúa đã biểu dương nơi Đức Kytô, khi làm cho Đức Kytô sống lại từ cõi chết, và đặt ngư bên hữu Người trên trời" (Ephêso 1,20)

"Thiên Chúa ban cho ta một lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kytô, Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời" (I Phêrô 3,21-22).

Đức Tin dạy chúng ta biết Ngôi Hai Thiên Chúa xuống mặc lấy thân xác người phàm như chúng ta ngoại trừ tội lỗi, gọi là Đức Chúa Giêsu Kytô. Vậy Chúa Giêsu Kytô là Thiên Chúa thật và là người thật. Là Thiên Chúa Ngôi Hai, Ngài ở khắp mọi nơi bằng bản tính và Ngôi Vị nên không thể nói Ngài "lên trời hoặc xuống trần gian ". Nhưng Ngài mặc lấy xác phàm của chúng ta, như vậy khi sống như con người thì phải hoạt động trong Thân xác có giới hạn trong phạm vi của nó trên bình diện tự nhiên. Khi sống lại, vào trong vinh quang (siêu nhiên), thân xác Chúa biến đổi hợp với tính siêu nhiên, nhưng vẫn là thân xác loài người, có những hạn chế, giới hạn. Chúa Kytô lên trời tức là thân xác của Ngài lên trời nghĩa là được đưa lên trời, được vinh thăng trong Nươc Trời, Ngài làm chủ, làm vua trời đất muôn loài, muôn vật. Và khi Ngài hiện ra, không có nghĩa là Ngài từ trời xuống, nhưng là Ngài ban ơn đặc biệt để các Tông đồ thấy con người của Ngài, nghe tiếng Ngài nói như cũ.

Hiểu như trẻ thơ thế nầy: Chúa sống lại, hiện ra cho các Tông đồ thấy rồi biến đi, trốn vào một nơi bí mật, rồi lại hiện ra. Cứ thế trong vòng bốn mươi ngày, sau đó Chúa mới lên trời. Thật ra, khi sống lại, thân xác Chúa đã ở cõi siêu nhiên, cõi trời rồi và Ngài hiện ra tức là Ngài ban ơn cho người ta thấy,nghe Ngài nói. Đến ngày thứ bốn mươi, Chúa hiện ra lần chót bằng một "cử chỉ lên trời" đề cho các Tông đồ biết Ngài không còn hiện ra như thế nữa.

Nhưng sự kiện Chúa thăng thiên có một tầm rất quan trọng nên thánh Phaolô đã nói rất mạnh: "Người đã lên nghĩa là gì, nếu không phải Người đã xuống tận các vùng sâu thẩm dưới mặt đất. Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi từng trời để làm cho vũ trụ được viên mãn"(Eph 4,9-10). Người đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại chúng ta. Người đã hủy bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá. Người đã truất phế các quyền lực thần thiêng, đã công khai bêu xấu chúng, đã điệu chúng đi trong đám rước khải hoàn của Người" (Col 2,14-15). Bản văn nhấn mạnh đến cuộc "đảo chính" (truất phế) vì một nhóm người xem Chúa Kytô ngang hàng với thiên thần nên phải "truất phế, bêu xấu, trói tay" điệu chúng đi trong đám rước chiến thắng của Chúa Kytô.

Về phần tín hữu của Chúa Kytô, vì Chúa lên trời mở đầu cho việc Chúa trở lại trong vinh quang giữa hàng thần thánh, ban ơn cứ độ viên mãn (xác sống lại trong vinh quang), đây là thời gian "trời đất giao hòa" vì Chúa lên trời mà còn ỡ trần gian. Ngay từ bây giờ, dầu chúng ta còn sống trên cõi trần, "Chúa Kytô đã cho chúng ta được cùng sống lại với Người và cùng ngự trị với Người trên cõi trời"(Eph 2, 6), "cũng như chúng ta dã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì nay chúng ta đang mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến (1 Cor 1,49). Tín hữu giống như người thiên quốc, "không thuộc thế gian nhưng không được cất khỏi thế gian" (Ga 17,15-16) và phải hoàn thành sứ mệnh Chúa trao phó trước khi Chúa lên trời nên rất cần sự hiện diện của Chúa tức là Chúâ ở lại cùng Hội Thánh cho đến tận thế. Công đồng Vatcan II đã dạy như thế nầy: Chúa Kytô hiện diện trong Hội Thánh, nhất là trong các hoạt động phụng vụ. Người hiện diện thực sự trong Hy lễ, không những trong con người của thừa tác viên, vì " như xưa chính Người đã tự dâng mình trên thập giá thì nay chính Người cũng dâng mình nhờ thừa tác vụ của các linh mục", nhất là hiện diện thực sự dưới hai hình thái Thánh Thể. Người hiện diện thiết thực trong các Bí tích nhờ quyền năng của Người; vì thế, ai rửa tội thì chính là Chúa Kytô rửa. Người hiện diện thiết thực trong lời của Người vì chính Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh trong Hội Thánh. Sau hết, Người hiện diện khi Hội Thánh cầu nguyện và hát Thánh vịnh, như chính Người đã hứa: "Ở đâu có hai, ba người nhân danh Thầy mà họp lại, Thầy sẽ ở giữa họ" (Mt 18,20) (Hiến chế Phụng vụ, số 7).

40. Suy niệm của JKN.
Những lời cuối cùng của Đức Giêsu trước khi Người lên trời

Câu hỏi gợi ý:

1. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã trăn trối lại những gì cho chúng ta, là những môn đệ của Ngài? Chúng ta có quan tâm thực hiện những điều ấy không? thực hiện thế nào?

2. Những dấu lạ - mà Đức Giêsu hứa sẽ đi theo những kẻ có lòng tin - có ứng nghiệm với chúng ta không? Nếu không thì tại vì Ngài hứa «cuội» hay vì chúng ta chưa có đức tin đích thực? Đức tin đích thực là gì? Ta đã có chưa?

3. Là người đang rao giảng Tin Mừng, ta đã có đức tin thật sự chưa, hay mới chỉ là thứ đức tin được tuyên xưng chứ chưa được sống? Có những «dấu lạ» đi kèm theo lời ta rao giảng để những ai nghe ta dễ tin tưởng không?

Suy tư gợi ý:

1. Lời trăn trối cuối cùng

Trước khi từ giã các môn đệ để về trời và để hiện hữu một cách khác bên cạnh các ông, Đức Giêsu đã trăn trối nhiều điều. Những lời trăn trối quan trọng nhất là những lời Ngài nói ra trong bữa tiệc ly trước khi ra đi chịu tử nạn và ngay trước khi về trời. - Những trăn trối trong bữa tiệc ly nói lên tinh thần mà môn đệ của Ngài phải có: chủ yếu là yêu thương nhau (Ga 13), tin và hợp tác với Thánh Thần (Ga 14; 16), liên kết chặt chẽ với Ngài (Ga 15), hiệp nhất với nhau (Ga 17), mong đợi Ngài trở lại (Ga 16).

- Còn lời trăn trối ngay trước khi Ngài về trời nói lên việc mà các môn đệ Ngài phải làm là «đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo» để tiếp tục sự nghiệp mà Ngài đã khởi sự. Đó cũng chính là công việc phúc âm hóa và tái phúc âm hóa, để mọi người không chỉ biết Tin Mừng mà còn thật sự sống tinh thần Tin Mừng nữa.

Về lời trăn trối sau, rất nhiều Kitô hữu chỉ hiểu một cách nông cạn, là chỉ nghĩ tới việc rao giảng cho người ta biết Thiên Chúa, biết Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu, và dừng lại tại đấy! Nhưng thử hỏi nếu chỉ biết thôi thì ích lợi gì? Chẳng hạn biết rõ sự cần thiết và ích lợi của thức ăn, hay biết rõ mình cần phải ăn gì để mạnh khỏe mà lại không chịu ăn, thì sự biết rõ ấy có ích lợi gì? Nếu biết mà không sống điều mình biết, không đem nó ra áp dụng thì chẳng những vô ích mà còn phải chịu trách nhiệm về cái biết ấy nữa. Vì kẻ nhận 1 nén bạc thì chỉ phải làm lợi thành 1 nén khác thôi, nhưng kẻ nhận 5 nén thì có trách nhiệm làm lợi thành những 5 nén khác kia! (x. Mt 25,14-30; Lc 19,12-27).

Vì vậy, biết Tin Mừng mà không chịu sống Tin Mừng là tự làm cho mình bị kết án nặng hơn. Cũng vậy, rao giảng cho người ta biết Tin Mừng mà không giúp người ta sống Tin Mừng thì chỉ làm cho người ta bị kết án nặng hơn chứ chẳng đem lại lợi ích gì cho họ. «Đức tin chết» hay «đức tin không có việc làm» (Gc 2,17.26) đâu thể đem lại ơn cứu độ? Cũng như có đồ mà không đem ra dùng thì đồ ấy có ích lợi gì? hoặc cho người ta đồ mà không chỉ cho người ta cách sử dụng thì coi chừng kẻo làm hại người ta? Việc rao giảng Tin Mừng cần phải đi xa hơn một chút là giúp người ta sống Tin Mừng, như thế sẽ làm lợi cho họ vô cùng. Như vậy, điều quan trọng là chính chúng ta phải sống tinh thần Tin Mừng và làm cho mọi người cũng sống tinh thần Tin Mừng. Biết và sống Tin Mừng, hoặc làm cho người ta biết và sống Tin Mừng, hai thứ ấy phải đi đôi với nhau mới không có hại mà sinh ích lợi vô cùng cho mình và cho người. Nên đã biết Tin Mừng hoặc giúp ai về mặt Tin Mừng thì hãy biết hoặc giúp «tới nơi tới chốn», với tinh thần trách nhiệm. Đừng «đánh trống bỏ dùi», «đem con bỏ chợ», tức giúp nửa vời, rất tai hại!

2. Những dấu lạ đi theo những ai có lòng tin

Theo lời của Đức Giêsu thì những kẻ có lòng tin đích thực - tức tin và sống điều mình tin - sẽ có được những dấu lạ theo mình: «Họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ». Đó là những điều mà tôi nghĩ rằng thời nào cũng đều ứng nghiệm, không chỉ là thời các tông đồ. Và những điều này trước tiên được ứng nghiệm ngay nơi bản thân những người tin rồi sau đó mới ứng nghiệm ra bên ngoài, tức với người khác hay với ngoại cảnh. Tuy nhiên, lời Ngài nói cần phải hiểu theo nghĩa tâm linh, chứ không nên hiểu theo nghĩa đen: tôi không tin rằng bất kỳ người mạnh tin nào cũng đều có thể uống thuốc độc mà không chết, hay bị rắn cắn mà không sao! Vì thế, những dấu lạ nói trên cần được hiểu như sau:

- «trừ được quỉ»: quỉ tượng trưng cho thế lực của sự ác. Người thật sự tin vào Thiên Chúa - là nguồn sức mạnh của mình - có thể thắng được những thế lực của sự ác hay của tội lỗi ngay trong bản thân mình. Cụ thể là thắng được những cám dỗ, những tư tưởng xấu, những khuynh hướng xấu, v.v… Nếu đức tin của họ mạnh hơn nữa, họ có thể giúp những người yếu tin cũng thắng được thế lực ác giống như họ.

- «nói được những tiếng mới lạ»: người có đức tin đích thực và sống nhuần nhuyễn đức tin ấy sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa và Đức Giêsu, tức chứng ngộ được chân lý nơi bản thân mình. Nhờ đó họ có thể tự diễn đạt đức tin của mình theo đủ mọi phương thức khác nhau, chứ không dùng những kiểu nói sáo mòn, trống rỗng, thiếu chất sống. Họ luôn luôn dùng những cách diễn tả mới lạ, phù hợp với thời đại, với trình độ của người nghe, giúp người nghe cũng cảm nghiệm được thực tế đức tin như họ. Họ như một y sĩ đã nắm thật vững cốt yếu của y lý nên biết tùy bệnh mà tự mình cho thuốc thật hữu hiệu, phù hợp với từng căn bệnh. Họ không sao y những bài thuốc có sẵn của người khác để áp dụng chữa bệnh một cách máy móc giống như những y sĩ chưa nắm vững y lý. Hay như một thầy giáo đã tiêu hóa thật kỹ môn mình dạy nên chỉ cần nói tất cả những gì đang có sẵn trong bụng không phải lệ thuộc một bài bản nào cả. Họ có thể nói một cách sáng tạo theo đủ kiểu đủ cách mới lạ để học sinh dễ hiểu mà vẫn luôn luôn chính xác, chứ không nô lệ vào những giáo trình mẫu do người khác soạn sẵn.

- «cầm được rắn trong tay»: người có đức tin đích thực ắt nhiên có tâm hồn an bình và đầy tràn tình yêu. Họ coi mọi người - dù xấu ác hay ghét họ, muốn làm hại họ - như anh em ruột thịt và sẵn sàng hy sinh cho những người ấy. Vì thế, họ có thể tiếp cận và sống chung cả với những người xấu ác mà không hề bị hại, vì những người nguy hiểm này vẫn luôn cảm nghiệm được tình thương của họ dành cho mình: không ai lại muốn hại người đang yêu thương mình.

- «dù có uống nhằm thuốc độc cũng chẳng sao»: tất cả những nghịch cảnh, những đau khổ trong cuộc đời không thể làm mất được sự bình an và hạnh phúc của những người có đức tin thật sự. Với đức tin, họ biết rằng tất cả những đau khổ hay nghịch cảnh Chúa gửi tới đều là những hồng ân do tình thương của Ngài. Họ tin rằng: « Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người» (Rm 8,28) và «những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (8,18). Vì thế, họ rất vui khi đau khổ hay nghịch cảnh xảy tới, nên đau khổ hay nghịch cảnh cỡ nào cũng không hề làm hại được họ.

- «nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ»: Ngoài ra người có đức tin đích thực còn có sức cảm hóa và giúp những người xấu ác - là người bị bệnh về tâm linh - trở về đường ngay nẻo chính. Họ có khả năng nâng đỡ và thêm sức mạnh cho những người yếu đuối tinh thần. Ai gần họ cũng cảm thấy mình bình an hạnh phúc hơn, tin vững mạnh vào Thiên Chúa, vào chính bản thân và tương lai mình hơn.

3. «Có Chúa cùng hoạt động» với người rao giảng Tin Mừng

Bài Tin Mừng kết thúc bằng một câu thật tuyệt vời, làm an lòng tất cả những ai đang rao truyền Tin Mừng: «Các Tông Đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng». Điều quan trọng nhất để việc loan báo Tin Mừng trở nên hữu hiệu - nghĩa là không chỉ giúp người ta biết Tin Mừng, mà còn làm cho họ sống Tin Mừng nữa - đó là «có Chúa cùng hoạt động với họ». Nhưng làm sao để có Chúa ở cùng? - Họ chỉ có Chúa ở cùng khi họ thường xuyên ý thức sự hiện diện của Ngài, và luôn gắn bó với Ngài bằng tình yêu chân thành có khả năng thúc đẩy họ hy sinh, dấn thân thật sự. Nhờ đó, họ có «những dấu lạ kèm theo» xác nhận những gì họ rao giảng là chân lý. Dấu lạ quan trọng và căn bản nhất - có khả năng thuyết phục những người nghe họ - chính là họ đã thật sự sống được những điều họ rao giảng. Nhờ sống điều mình nói mà lời họ nói trở nên sống động, mạnh mẽ, đầy sức hấp dẫn, khiến người nghe luôn «tâm phục khẩu phục», đồng thời cảm nghiệm được sự hiện diện cụ thể của Thiên Chúa ở nơi họ. Ước gì mọi người loan báo Tin Mừng đều luôn «có Chúa cùng hoạt động» như vậy!

Cầu nguyện

Lạy Cha, xin cho con biết sống đức tin của mình một cách thực tế và sống động. Vì quả thật rất nhiều khi con tuyên xưng đức tin của mình hết sức mạnh mẽ trước mặt mọi người, nhưng đời sống con lại chứng tỏ con chẳng tin bao nhiêu! Thế mà con lại rao giảng thật hùng hồn về đức tin ấy khiến người nghe con cảm thấy những lời con nói chỉ là những sáo ngữ, những lời giả dối, không thể tin nổi. Xin Cha giúp con thật sự sống những điều con tin, và rao giảng những điều con sống.

41. Ái mộ những sự trên trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người thân cận đến và nói:Ta phải chọn một người kế tục.Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi thiêng liêng của chúng ta và mang về đây cho bộ tộc một món quà quý giá nhất.

Người thứ nhất mang về một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về một viên ngọc quý. Người thứ ba trở về tay không.

Ngạc nhiên, vị tù trưởng hỏi: món quà quý giá của ngươi đâu?

Anh điềm tỉnh trả lời: khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể có một cuộc sống sung túc tốt đẹp.

Thủ lãnh nói: Ngươi sẽ nối nghiệp ta vì ngươi đã mang về món quà quý gía nhất là một viễn tượng tương lai tốt đẹp.

Chúa Giêsu về trời mở ra một viễn tượng tương lai tốt đẹp là hạnh phúc thiên đàng. Người đi trước mở đường và dẫn chúng ta lên theo Người.

Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành: Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Maccô ghi lại rất vắn tắt: Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin mừng Matthêu nói đến lệnh truyền: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Còn theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây Dầu.

Thực ra sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vinh quang của Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha.

Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Chúa Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.

Chúa Giêsu lên trời. Những chữ lên trời bị chi phối bơi cách suy nghĩ có giới hạn của chúng ta. Theo cách suy nghĩ đó,các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đàng là một trạng thái hơn là một nơi chốn. Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới,trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi,đã thấm nhuần tinh thần.

Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình. Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.

Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.

Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh. Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với loài vật. Loài vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.

Con cá sinh ra trong con lạch nhỏ, rồi xuôi dòng nước ra sông lớn, nhưng mùa xuân đến, nó lại về nguồn như là trở về dòng sông quê hương. Con chim làm tổ trên kia, mùa đông nó vỗ cánh bay cả ngàn dặm về phương nam, nhưng khi xuân đến, nó lại tìm về tổ ấm ngày xưa. Làm sao các con vật đó biết đường quay về, trong khi chẳng có bản đồ, không người hướng dẫn? Vì Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng, con đường trở về. Và Ngài cũng không quên đặt vào lòng mỗi người chúng ta con đường cuộc sống và con đường trở về quê trời.

Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.

Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.

Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho Nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.

Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đó. Đi đến đâu là làm cho hạt yêu thương nảy mầm lên màu xanh sự sống đến đó.

Người môn đệ của Chúa sống giữa trần gian, yêu mến trần gian, xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.Tuy nhiên ta làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời. Sống giữa thế gian, chúng ta “ái mộ những sự trên trời” như lời kinh hạt: “Thứ năm thì ngắm, Đức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”. Nhưng vẻ đẹp trên trời là vẻ đẹp của tâm hồn, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, vẻ đẹp nghèo khó Phúc Âm, khiêm nhường, đơn sơ, thanh tịnh. Đây là vẻ đẹp và sự quyến rũ của nhân đức, một vẻ đẹp hoàn toàn khác với những vẻ đẹp và sự quyến rũ thuộc trái đất. Nhiều người đã bỏ ra hằng trăm, hàng ngàn, hàng vạn Mỹ kim để làm đẹp, để khoa trương sự giàu có và để được người khác ca tụng. Nhiều người không sợ trải qua những cuộc giải phẫu nguy hiểm, đau đớn cốt sao để thấy mình đẹp hơn, để thấy mình hơn người khác. Nhiều người đã sẵn sàng chấp nhận những thách đố lớn lao để chạy đua vào những chiếc ghế quyền lực. Nhưng ít ai bỏ ra một giờ, một ngày, một tuần, một tháng, hoặc một năm để lo tu sửa và chỉnh trang lại vẻ đẹp của tâm hồn.

Trên thực tế, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, đức nghèo khó, đức đơn sơ, và đức trong sạch là những đòi hỏi rất cần thiết để đem lại hạnh phúc cho mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi dân nước. Đó là những gì cụ thể có thể giúp con người chiếm hữu được vĩnh hằng. Rất tiếc, đó cũng là những gì mà nhiều người từ khước, bởi vì chúng không phù hợp với nhãn quan và suy tư của con người.

Giáo Hội đã thôi thúc và khuyến khích mỗi Kitô hữu hãy tìm kiếm và yêu mến những sự trên trời. Cầu xin cho được ơn ái mộ là cầu xin Thánh Linh khai mở tâm hồn và trí tuệ để chúng ta có thể nhìn, và có thể hiểu được vẻ cao quí của những giá trị tinh thần ấy. Nhận thức về thế giới tâm linh là một nhận thức ngoài tầm hiểu biết của trí tuệ tự nhiên con người. Những gì thuộc về thần linh là thần linh. Con người cần được soi dọi và khai mở bởi sức mạnh huyền nhiệm của Thánh Thần. Chỉ khi nào trí óc ta, trái tim ta được Ngài khai mở, lúc ấy ta mới nhận ra, mới hiểu thấu thế nào là sự cao xa, dài rộng của vẻ đẹp tinh thần, của những giá trị đạo đức.

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa về trời, không chỉ để dọn chỗ mà còn là mở ra một viễn tượng hạnh phúc của trời cao.

“Xin cho chúng con ái mộ những sự trên trời”, để chúng con không bị chôn bám vào thế gian chóng qua và phù du này. Và để chúng con biết tìm kiếm những giá trị cao quí của tinh thần, và để chúng con yêu mến và sống với cuộc sống ấy. Vì đó là những gì mà chúng con có thể tìm kiếm, mua sắm và đem vào được nơi vĩnh hằng. Nơi mà chúng con sẽ gặp được Chúa là nguồn mạch sự sống, hoan lạc, và hạnh phúc viên mãn của chúng con. Amen.

42. Khát vọng lên trời – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Vào đời Vua Hùng Vương Thứ Sáu có nạn giặc Ân bên Tàu. Chúng cậy thế mạnh nên hay sang quấy nhiễu nước ta. Vua truyền hịch đi khắp nơi để tìm người tài giỏi giúp nước diệt giặc.

Bấy giờ ở làng Phù Đổng có một cậu bé đã 3 tuổi mà chỉ nằm ngửa không nói được một lời nào. Nghe sứ giả nhà vua rao hịch tìm người tài diệt giặc, cậu liền nhờ sứ giả xin với Vua, đúc cho cậu một cây roi sắt và cấp cho cậu một con ngựa bằng sắt, để cậu đi đánh đuổi ngoại xâm. Nghe lời người hiền tài nhắn gởi, Vua thuận ý. Cậu bé liền vươn vai thành người to lớn, khỏe mạnh. Cậu đứng dậy, cầm roi sắt, nhảy lên yên ngựa, oai phong đi đánh giặc Ân. Dẹp xong giặc, cậu phóng ngựa lên núi Sóc Sơn rồi về trời. Vua nghĩ là thiên thần của trời cao xuống trần cứu giúp nên liền xây một đền thờ gọi là đền Phù Đổng Thiên Vương để tạ ơn và tưởng nhớ.

Câu chuyện huyền sử nói lên khát vọng của một dân tộc nhỏ bé luôn bị ngoại bang quấy nhiễu. Một tiểu quốc hiền hòa trước một đại hán bá quyền bành trướng. Vì thế mà ước mơ có được sứ thần từ trời cao đến cứu giúp. Một khát vọng ngàn đời, được tự do và độc lập, được công lý và dân chủ.

Con người mọi thời đại luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất, ngược xuôi trên biển trên sông, con người luôn ước vọng, phải làm sao lên được trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người chứng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai phi hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng.

Cả thế giới đã hồi hộp theo dõi những phi hành gia bay vào vũ trụ. Và chuyến bay nào rồi cũng phải trở về trái đất.

Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Người trở về nhà Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Người hồi hương trong vinh quang phục sinh và "được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa" (Mc 16,19).

Chúa Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật huyền diệu. Thân xác Người nhẹ bay lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận.

Trên trời cao, các thiên thần và triều thần thiên quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn. Tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: "Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh".

Đoàn tùy tùng theo Chúa về trời đông vô kể, các thánh thời Cựu Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính...đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có thánh cả Giuse, thánh Gioan Tiền hô, Tổ phụ Abraham, Giacop, Môisê, thánh Giop, vua Đavid, các tiên tri, hân hoan cung nghinh Đấng Phục Sinh khải hoàn về thiên quốc.

Trên núi Cây Dầu cả cộng đoàn môn đệ đang ngây ngất chiêm ngưỡng, tâm trí như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan: "Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo, đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh cao cả" (Tv 47, 2-3, 6-9).

Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: "Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống" (Ga 3,13). Người đến nhân gian để nói với nhân loại về Nước Trời, mặc khải cho con người biết Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người.

Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.

Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.

Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn còn thấy rất xa xôi. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói " Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho " Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được"(Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.

Bài Tin mừng hôm nay kết thúc Phúc âm Maccô nhưng thực ra là một sự khởi đầu, một sự khai mở. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo". Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: "Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em". Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: "Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng". Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta "và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế".

Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28,19). Vì thế, Ngày Thế Giới Truyền Thông gắn liền với sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng.

Trong Sứ điệp truyền thông 2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khuyến khích những ai làm công tác truyền thông hãy xây dựng những trang web và mạng xã hội: "Có thể giúp con người ngày nay tìm được thời giờ suy tư và tìm hiểu những vấn đề thiết yếu, cũng như tạo khoảng trống cho thinh lặng và cơ hội cầu nguyện, suy niệm, chia sẻ Lời Chúa". Giáo Hội tìm cách hội nhập sứ điệp Tin Mừng vào trong "nền văn hoá mới này" do những những phương tiện truyền thông xã hội tạo nên với những ngôn ngữ mới, những kỹ thuật mới và với những cách cư xử mới.

Đứng trước một lục địa mênh mông như Châu Á, làm sao có đủ nhân lực và phương tiện để đưa Tin Mừng đến từng nhà? Đây là câu trả lời đích xác: "Giáo Hội cần khám phá những cách thế để tận dụng mọi phương tiện truyền thông đại chúng vào kế hoạch mục vụ và hoạt động mục vụ, nhờ biết sử dụng cách hữu hiệu mà sức mạnh của Tin Mừng có thể đến và tiếp xúc một cách rộng rãi với từng cá nhân cũng như với toàn cả các dân tộc, đưa các giá trị của Nước Trời thâm nhập vào các nền văn hóa của Châu Á". (x. Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 48).

Cho dù phương tiện truyền thông hiện đại tới mấy, nhân lực vẫn là yếu tố quan trọng. Sức mạnh của truyền thông cũng phải phát xuất từ đức tin, chứ không từ những kỹ thuật. Đức tin mạnh mẽ là nhờ chiêm niệm: "Trong thinh lặng, tư tưởng phát sinh và có được chiều sâu. Trong thinh lặng, chúng ta hiểu rõ hơn điều mình muốn nói và muốn người khác đón nhận. Trong thinh lặng, chúng ta tìm cách diễn tả chính mình tốt hơn". (Sứ điệp Truyền Thông 2012).Giữa những ồn ào của truyền thông hôm nay, lời rao giảng Tin Mừng qua phương tiện truyền thanh, truyền hình, internet muốn đạt mục đích và kết quả như mong muốn cần có tĩnh lặng: "Trong thinh lặng của chiêm niệm, Lời hằng hữu hiện diện cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết, và chúng ta khám phá ra kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện trong suốt lịch sử bằng lời nói cũng như hành động" (Sứ điệp Truyền Thông 2012). Mỗi người Kitô hữu, nhờ thinh lặng, lắng nghe được tiếng Chúa và đi vào cuộc giao tiếp với Chúa, chúng ta mới có thể truyền thông Lời Chúa cho người khác. Chỉ có những người tin thực sự và mãnh liệt mới có thể làm cho Tin Mừng đến với mọi người.

Mỗi Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô. Mỗi người chúng ta cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Chúa về trời, chúng ta vào đời làm chứng nhân của Tin mừng cứu độ và loan báo tin vui, mai này chúng ta cũng sẽ về nhà Cha trên trời.

43. Thiên đường và địa ngục
(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

Con người từ cổ chí kim đều tin rằng có thiên đường và có hỏa ngục. Thiên đường là niềm khao khát của con người qua mọi thời đại. Không ai muốn sống trong hỏa ngục. Trái lại, ai cũng mong được sống trong thiên đường. Một cuộc sống thiên đường có bình yên, có hạnh phúc. Một cuộc sống thiên đường sẽ không còn những bon chen tranh giành, hận thù, chia rẽ mà chỉ có hòa thuận, chia sẻ, yêu thương.

Điều lạ là ai cũng thích thiên đường nhưng lại không ra sức xây dựng thiên đường. Cuộc sống luôn là chiến trường, là tranh giành, là đọa đầy khổ đau. Con người luôn phải đối mặt với biết bao bể dâu cuộc đời. Chính con người đã tạo ra hỏa ngục trong khi họ lại mơ ước thiên đường.

Cuộc sống xem ra nhiều khổ đau của hỏa ngục hơn là hạnh phúc của thiên đường. Con người dễ đầy đọa nhau hơn là nâng đỡ nhau. Nhu cầu hưởng thụ càng nhiều khiến con người loại trừ và làm khổ nhau nhiều hơn.

Người ta thường kể cho nhau về sự khác biệt giữa thiên đường và hỏa ngục qua câu chuyện sau:

Một người sùng đạo nói chuyện với Chúa “ Thưa Chúa, con rất muốn biết Thiên đường và Địa ngục là như thế nào?”. Chúa dẫn anh ta vào hai cái cửa…

Chúa mở cái cửa đầu tiên, người đàn ông nhìn vào.

Ở giữa phòng có một cái bàn tròn lớn. Ở giữa bàn có một nồi nước hầm bốc khói nghi ngút trông thật ngon và hấp dẫn.

Nhưng mọi người ngồi xung quanh bàn thì lại gầy guộc, xanh xao, cứ như là bị bỏ đói từ lâu vậy.

Mỗi người ai cũng đang cầm chiếc thìa có cán dài được buộc vào cánh tay. Họ có thể với chiếc thìa dài tới nồi nước hầm để múc, nhưng vì nó dài quá, và bị buộc vào tay, nên họ không thể cho vào miệng mình được.

Người đàn ông rùng mình trước cảnh tượng khổ sở như vậy. Chúa nói: “Đấy, con vừa nhìn thấy Địa ngục”.

Tiếp tục họ bước sang phòng thứ hai và mở cửa. Mọi thứ xung quanh đều giống phòng đầu tiên. Nhưng mọi người ở đây trông thật to khỏe, no nê, mãn nguyện, cười nói rôm rả.

Chúa nói “Đây chính là Thiên Đường”

Người đàn ông thắc mắc: “Con không hiểu, thưa Chúa”.

“Đơn giản thôi” – Chúa đáp – “Ở nơi này, mọi người biết cách đút cho nhau ăn”.

Thiên đường hỏa ngục khác nhau ở chỗ có tình yêu hay thiếu vắng tình yêu. Ở nơi đâu có tình yêu ngự trị sẽ mang lại thiên đường tại thế. Ở nơi đâu thiếu vắng tình yêu sẽ là hỏa ngục nơi đầy đọa nhau mà thôi.

Hôm nay Chúa về Trời là lời khẳng định cho chúng ta về một cõi thiên đường. Một thiên đường có Thiên Chúa sẽ làm no thỏa mọi hạnh phúc cho con người. Một quê Trời nơi đó con người sống thanh thoát khỏi những nhu cầu vật chất nên sẽ không còn bon chen, tranh giành, đầy đọa lẫn nhau. Một thiên đường hạnh phúc không phải một ngày mà là hạnh phúc miên trường.

Nhưng để về trời thì con người phải biết dựng xây thiên đường hạ giới bằng một đời sống thực thi Lời Chúa. Lời Chúa chỉ tóm gọn trong hai điều là mến Chúa yêu người. Yêu là cách chúng ta phá bỏ hỏa ngục để xây dựng thiên đường tại thế. Yêu là cách chúng ta đang gửi những viên gạch lên trời để xây dựng ngôi nhà vĩnh viễn trên thiên đường.

Ước mong cho mỗi người chúng ta được hưởng hạnh phúc thiên đường tại thế khi người người biết yêu thương nhau. Xin cho chúng ta biết xây dựng thiên đường hạ giới bằng yêu thương và phục vụ tha nhân như Chúa Giê-su đã sống và phục vụ. Đó cũng là phương thế đạt được hạnh phúc miên trường mai sau trong Nước Chúa. Amen.

44. Lễ Thăng Thiên
Chúng ta thường nói với nhau: "tiệc nào mà tiệc chẳng tàn, cuộc vui nào rồi cũng tới hồi kết thúc". Nói như thế có lẽ người ta nghĩ nhiều hơn về khía cạnh thể lý: Tiệc tàn, cuộc vui bế mạc để rồi đường ai nấy đi. Nếu một cuộc gặp gỡ nào đó khi kết thúc, mà người này khoát tay người kia, rồi nói câu "tạm biệt" là xong hết mọi sự thì cuộc gặp gỡ đó xem như mất hết ý nghĩa của nó.

Thực tế có nhiều cuộc gặp gỡ dù trong khoảnh khắc, cũng đã để lại trong lòng chúng ta những kỷ niệm, những dấu ấn không bao giờ phai nhạt. Đó là sự gặp gỡ giữa những tâm hồn, là yến tiệc của những con tim đang cùng một nhịp đập. Cho nên khi chia tay nhau họ không nói câu "tạm biệt", mà họ nói câu "hẹn gặp lại". Và đương khi chờ ngày gặp lại, lòng họ hướng về nhau, tâm trí họ suy nghĩ về nhau. Họ nhớ từng câu nói, cử chỉ của nhau, và họ cố gắng thi thố những điều họ đã ước hẹn với nhau. Như vậy, có vẻ như người ta đi xa nhau nhưng kỳ thực họ đang ở rất gần nhau.

Chúa lên trời là đi xa các môn đệ về mặt thể lý. Ngài không còn hiện diện bằng xương thịt, Ngài không còn đưa ngực cho Thánh Gioan tựa đầu vào nữa. Nhưng Ngài đang hiện diện trong tinh thần của các môn đệ, Ngài có mặt trong từng suy nghĩ, trong mỗi việc làm của các ông. Trước đây khi cùng ăn uống với Thầy, cùng bước với Thầy trên khắp các nẻo đường Palestin, mỗi lời Thầy nói, mỗi việc Thầy làm dường như các ông không hiểu bao nhiêu, không nhớ cho mấy.

Bây giờ các ông chẳng những nhớ tất cả mọi diều Thầy dạy, mà còn khắ ghi một cách sâu đậm mọi kỷ niệm về Thầy. Rõ ràng là Chúa đi xa nhưng là ở lại, ở lại nhiều hơn và sâu sắc hơn trong lòng các môn đệ.

Chúa về trời mà vẫn hứa ở với loài người chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Và do đó Chúa chỉ thay đổi cách hiện diện với chúng ta mà thôi. Mà cách hiện diện mới này sâu sắc hơn, có lợi cho chúng ta hơn. Giờ đây đến lượt mỗi người chúng ta cũng được Chúa ở lại trong cuộc đời của mình theo thể thức này, đó là: chúng ta phải để cho tinh thần của Chúa cấm rễ sâu nơi tâm hồn của chúng ta.

Chúng ta phải để cho việc làm của Chúa, cách ứng xử của Chúa chế ngự cả con người của chúng ta. Điêù quan trọng là tôi có muốn ở lại với Chúa hay không mà thôi. Tinh thần của Chúa, việc làm của Chúa, giờ đây chúng ta tìm thấy ở Lời Chúa, ở nơi Giáo Hội qua các bí tích. Và do đó muốn ở lại với Chúa mọi ngày cho đến tận thế, chúng ta phải tuân giữ Lời Chúa, yêu mến Giáo hội và siêng năng lãnh nhận các bí tích.

Lạy Chúa, Con biết Chúa luôn hiện diện trên mọi nẽo đường đời của con. Xin cho con luôn biết ở lại với Chúa. Xin cho con mau mắn nhận ra sự hiện diện của Chúa trong mọi hoàn cảnh, qua mọi công việc hằng ngày của con. Và xin cho con mỗi ngày biết can đảm hơn để thực thi ý Chúa trong đời con. Amen.

45. Trở nên hoàn thiện là năng thay đổi.
(Suy niệm của Lm. Vincent Travers)

Chúa Giêsu Thăng Thiên là một biến cố mà các Tông Đồ không bao giờ quên được. Họ sẽ không bao giờ gặp lại Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt. Đó là lúc giả biệt. Lời nói giả biệt cuối cùng bao giờ cũng đau đớn nhất. Cứ theo bản tính con người mà nói, có lẽ họ đã trở về lại kinh thành Giêrusalem với một tâm trạng sầu muộn. Nhưng thay vì trở lại kinh thành, than khóc buồn bã như Thánh Luca đã viết, thật ra họ rất vui mầng. Một điều đầy ý nghĩa đã xảy ra nơi đỉnh đồi nhìn xuống kinh thành tráng lệ đã biến đổi họ từ một trạng thái sa sút tinh thần đến một tình trạng mầng vui.

Cuộc sống đáng sống

Một thiếu nữ sau khi sinh bé gái đầu lòng đã cho biết chị rất ngạc nhiên đến sững sờ khi nhận thấy chị có thể yêu thương con chị một cách đậm đà đến thế. Chị ở bên cạnh con, lòng tràn đầy niềm vui. Sự sinh đẻ đã biến đổi con người của chị. Kinh nghiệm thật đáng giá, đầy ý nghĩa. Giống như khi chúng ta ngắm nhìn vũ trụ bao la với muôn vàn vì sao lấp lánh khiến chúng ta phải thốt lên: “Oi lạy Chúa! Thật tuyệt diệu biết bao!” Và dĩ nhiên Thiên Chúa rất hài lòng khi nghe chúng ta xung tụng kỳ công tuyệt hảo của Ngài. Đó là chúng ta nói theo ngôn ngữ loài người. Thiên Chúa rất ngạc nhiên khi thấy ai đó ở nơi chân trời xa lạ đã khâm sùng tán thưởng kỳ công do bàn tay Ngài tạo dựng. Rồi Thiên Chúa thấy chúng ta đến với Ngài và la lên: “Thật tuyệt diệu!” Và Thiên Chúa cảm thấy thích thú vì chúng ta đã mở mắt ra để chiêm ngắm những kỳ quan của Ngài.

Đó là kinh nghiệm mà các Tông Đồ đã trải qua trong ngày Thăng Thiên của Chúa. Họ đã bừng sáng mắt ra khi chiêm ngắm sự hiện diện của Chúa. Điều nầy cắt nghĩa tại sao họ đã trở lại Giêrusalem mà hồn còn ở trên mây. Và ‘Linh đạo’ có nghĩa là thức giác đối với những thực tại cao cả đang bao quanh chúng ta.

Sống là thay đổi

Gerard Manley Hopkins là một thi sĩ người Ai-Nhĩ-Lan. Hồi còn trẻ, ông là một giáo sư dạy học tại một học đường của các cha dòng Tên ở Wales. Ngày kia ông đang trên đường trở về nhà ở trong cư xá dòng Tên. Lúc bấy giờ là mùa thu. Hopkins đang ở trong một trạng thái rầu rĩ vì mùa hè đã qua, mùa đông sắp tới và thời tiết bắt đầu đổi thay. Nếu ai đã trải qua mùa đông ở Wales thì sẽ rõ tại sao thi sĩ bị sa sút tinh thần. Tại đây rất nhiều ngày chỉ thỉnh thoảng sương mù hơi mõng một chút, nhưng phần nhiều trong ngày là một màng sương dày đặc ẩm ướt bao trùm và nhìn đâu đâu cũng chỉ thấy mờ mịt. Đang khi ông trên đường trở về nhà, bất chợt Hopkins tự nói với mình: “Hãy thư thả một chút. Mùa hè không còn đây nữa. Hè đã qua rồi. Mùa đông chưa có ở đây. Mùa đông chưa đến. Vậy thì mùa gì đây? Đó là mùa thu, mùa của lá rụng và cũng là mùa gặt hái hoa quả. Hãy mở mắt ra mà xem. Xem vẻ đẹp của hoa lá. Xem mây trôi lơ lững trên nền trời. Hãy thưởng thức gió mát từ bờ biển Ai-Nhĩ-Lan thổi vào. Đừng bận tâm về điều gì không còn ở nơi đây nữa. Đừng bận tâm về điều gì chưa xảy tới nơi đây. Hãy ngắm xem cái gì đang xảy ra bây giờ đây. Hãy trân trọng giây phút hiện tại. Hãy trân trọng ve đẹp rạng rỡ đang phô bày trước mắt!”

Điều mà Hopkins đang ngắm nhìn vẫn luôn hiện diện ở đó. Điều thiếu sót là không có ai nhìn ngắm và chiêm ngưỡng vẻ đẹp tráng lệ ấy mà thôi. Thiên nhiên không thay đổi. Mùa gặt hoa quả cũng chưa bắt đầu lúc bấy giờ. Lá cây cũng chưa đổi màu vào lúc đó. Vậy cái gì đã thay đổi? Chính Hopkins đã thay đổi và vì thi sĩ đã thay đổi nên ông lần bước trở về nhà mà tâm hồn ông đã biến đổi theo mùa xuân đang dò dẫm theo những bước chân âm thầm của ông, với nụ cười tươi nở trên khuôn mặt và một bài hoan ca sảng khoái ở trong tâm hồn mà giờ đây đang trổi dậy khi ông đối diện với vẻ đẹp thần tiên của một buổi chiều vào thu ở xứ Wales đầy tríu mến.

Trở nên hoàn thiện là năng thay đổi

Vào ngày Thăng Thiên, Chúa Giêsu không thay đổi. Ngài cũng vẫn là một Chúa Giêsu. Dĩ nhiên Ngài đã trở về với Chúa Cha. Ở một giai tầng nào đó, Chúa không còn ở với các tông đồ nữa, nhưng ở một giai tầng cao hơn, Chúa vẫn ở với họ một cách nào đó mà trước kia họ không bao giờ chứng nghiệm được. Vậy thì ai đã thay đổi? Chính các Tông Đồ đã thay đổi. Đó là điều bất chợt đã chiếu tỏa trên họ, ở trên đỉnh đồi đó, điều mà Chúa đã hứa hẹn là sẽ ở với họ luôn mãi. Sự kinh ngạc về điều đó đã thay đổi họ. Họ đã được biến đổi. Vì vậy tại sao họ đã trở về lại kinh thành Giêrusalem, không phải với những giòng lệ tuôn tràn trong đôi mắt mà với một bài hoan ca ở trong con tim. Giờ đây họ đã có một nhãn quan mới mang lại nhiều nghị lực cho họ và làm cho cuộc đời của họ mang nhiều ý nghĩa. Đó là nhãn quan về Chúa Phục Sinh sẽ ở với họ luôn mãi và họ sát cánh bên nhau trong niềm hoan lạc.

Tại sao chúng ta ngày nay mầng kỷ niệm mầu nhiệm cao cả về biến cố Thăng Thiên? Chúng ta không chủ ý tụ họp lại cho đông đảo, để nêu gương tốt cho đám trẻ em, hoặc để làm vui lòng người lớn. Chúng ta hội nhau lại để mở mắt ra như Hopkins đã làm vào một ngày mùa thu ảm đạm ở xứ Wales và, chiêm ngưỡng sự vinh quang của Chúa trong giây phút hiện tại để rồi la lên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa cao cả biết bao!” Thiên Chúa luôn ở với chúng ta. Điều thiếu sót là chúng ta chưa nhận ra Ngài. Thăng Thiên làm cho chúng ta có khả năng rời khỏi nơi gọi là Núi Chúa để trở về nhà chúng ta với lòng mừng vui. Một thứ mừng vui làm cho chúng ta muốn biết điều gì sẽ xảy ra? Điều gì đã đến với chúng ta? Điều gì đã vượt lên trên chúng ta? Các Tông Đồ đã cảm nghiệm một sự khác biệt. Một đức tin mà không có gì khác biệt thì không còn là một đức tin nữa. Một người thấy đường đi thi sẽ bước đi khác với một người mù mắt.

Đức Hồng Y Newman có lần đã nói: “Sống là thay đổi. Trở nên hoàn hảo là năng thay đổi.” Chúng ta thay đổi hay không thay đổi? Đó là vấn đề! Những ai thay đổi và năng thay đổi là những người sống thật. Những ai không thay đổi và giữ nguyên cách sống của họ là những kẻ chỉ sống mà không sống thật. Sự lựa chọn trước mắt là ở giữa sự sống và sống thật.

Mỏm nhô của tảng băng trôi

Sự Thăng Thiên của Chúa Giêsu là mầu nhiệm của đức tin. Chúng ta phải là những con người có niềm tin mới đi vào mầu nhiệm nầy được. Câu chuyện về Thăng Thiên chẳng khác nào một tảng băng trôi. Bảy phần tám của tảng băng chìm dưới mặt nước. Chỉ mỏm tảng băng - tức một phần tám - mới nhô lên trên mặt biển. Sự ngạc nhiên thích thú là điều gì cơ bản thì không thấy được.

Ở trên đỉnh đồi trông xuống kinh thành Giêrusalem, các tông đồ chỉ thấy một phần tám của mầu nhiệm Thăng Thiên. Phần còn lại được che giấu. Họ biết câu chuyện về Chúa Giêsu chưa kết thúc. Chương cuối chưa viết xong. Phần hấp dẫn nhất còn đang diễn tiến, nhưng họ đã có đủ dữ kiện để tiến tới. Một phần tám của mầu nhiệm Thăng Thiên cũng đủ để đưa họ xuống núi, trở lại kinh thành Giêrusalem và sau đó sẽ vượt ra khỏi biên giới của Giêrusalem để tiến qua biên vực đang chia cắt Giêrusalem với thế giới bên ngoài.

Ý nghĩa của mầu nhiệm

Thăng Thiên là một mầu nhiệm sáng chói. Không có bảy phần tám kia thì sẽ không có mầu nhiệm. Cuộc sống chỉ viết bằng văn xuôi, chứ không viết thành văn vần. Cuộc sống được xây cất trên gạch ngói và vôi hồ, chỉ là trần tục, bình thản và vô vị. Không có bảy phần tám kia thì sẽ không có câu chuyện về Chúa Giêsu, không có Kitô giáo, không có biến cố Thăng Thiên. Cũng sẽ không có đời sống linh thiêng, không có bí tích, không có Thánh Thể, không có Thánh Lễ Chúa Nhật. Jeanne Guyon đã viết: “Nếu biết tìm ra đáp số cho vấn nạn cuộc sống là điều tuyệt đối cần thiết cho bạn, vậy thì bạn hãy quên đi hành trình của mình. Bạn sẽ không bao giờ thực hiện được hành trình Đó, bởi vì đó là một hành trình vô định, hành trình của những vấn nạn không có đáp số, hành trình của những bí ẩn, của những điều không thể hiểu nổi và nhất là của những sự bất công.”

Chúng ta được sinh ra và sống cho Thiên Chúa vô biên. Ở trên trần thế nầy, không thể có bản nhạc giao hưởng trọn vẹn như thế được. Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta cho sự vinh quang của Ngài, để được chiêm ngắm Ngài mặt tợ mặt. Giờ đây, chúng ta chỉ thầy Ngài một cách lờ mờ, khiếm khuyết. Nhưng rồi đây, chúng ta sẽ xem thấy Ngài một cách tuyệt hảo như Ngài hiện có và nỗi mầng vui của chúng ta sẽ được trọn vẹn. Trong khi chờ đợi, Thăng Thiên mang lại cho chúng ta một viễn tượng mới để nhận thấy rằng đời sống cá nhân chúng ta đang góp phần một cách nào đó vào một câu chuyện lớn lao hơn. Một câu chuyện lớn hơn là chính cuộc sống chúng ta và một câu chuyện kỳ diệu hơn bất cứ điều gì hết mà chúng ta sẽ chưa lúc nào thấy hết hay biết hết ở trong cuộc sống nầy.

Phỏng theo bài suy niệm “TO BECOME PERFECT IS TO CHANGE OFTEN” (Trở Nên Hoàn Thiện Là Năng Thay Đổi) của cha Vincent Travers O.P. trong sách “IN STEP WITH GOD” (Đồng Hành Với Chúa).

46. Vị quan tòa kỳ lạ - Phaolô Ngô Suốt.
Vào năm 1871 Charles Robert Darwin đã cho phát hành cuốn sách tựa đề “The Descent of Man” (xin dịch là “Con người được sinh xuống”. Đây là học thuyết tiến hóa mà những người theo phái Duy vật biện chứng hay Xã hội chủ nghĩa tin theo. Chữ xuống (descent) có nghĩa là phải đến từ một nơi nào đó cao hơn, nó cũng có nghĩa là di truyền theo dòng giống. Tuy nhiên những điều mà Darwin muốn nói đến là dòng giống, và chính xác hơn nữa đó là con người được sinh lên (the ascent of man), con người bắt nguồn từ một động vật thấp kém, nhưng do quá trình tiến hóa; con người do một giống khỉ hay vượn cao cấp nào đó mà thành, Cùng một chữ lên (ascent), nhưng người Kitô hữu tin rằng cuối cùng mình sẽ lên với Thượng Đế; còn người vô thần, theo duy vật thì cho rằng con người đã kết thúc ở đây vì: nhân loại do súc vật lên làm người.

Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa lên Trời, ngày Ngài hoàn tất sứ mạng ở trần gian mà Thiên Chúa Cha đã trao cho Ngài. Chúng ta cùng tìm hiểu về không gian và thời gian, về sự trùng hợp lạ lùng, khó hiểu cũng như ý tưởng độc đáo đàng sau bối cảnh tuyệt vời này.

Sau khi sống lại, Thiên Chúa đã ở với các Tông đồ 40 ngày, chứng tỏ rằng Ngài đã Phục Sinh thật sự, vì nếu sau khi sống lại Ngài lên Trời ngay thì sẽ gây biết bao nhiêu là nghi ngờ cho thiên hạ. Thánh Tôma Aquinô nhận xét rằng:” Chúa Giêsu ở trong mồ 40 tiếng đồng là bằng chứng Ngài chết thật sự, Bởi thế Ngài lưu lại trên thế gian 40 ngày là bằng chứng sự sống mới của Ngài”. Đọc Phúc âm chúng ta thấy rằng Núi Olivet là ngọn núi đã được chọn sẵn cho Chúa Kitô. Chính cuộc khổ nạn của Ngài bắt đầu tại đây. Chính tại nơi này, sau khi Ngài sang bên kia suối Kítrôn, bị môn đệ phản bội, nộp Ngài cho kẻ thù. Nhưng cũng chính tại núi này, hôm nay Ngài lên Trời, Ngài vinh thắng trở về với Cha Ngài. Thứ hai, bốn mươi ngày sau Chúa nhật Phục Sinh là ngày thứ năm (để tiện cho phụng vụ, cũng như muốn làm nổi bật ý nghĩa của ngày Chúa lên Trời nên Giáo Hội dời vào Chúa Nhật). Ngày Chúa bắt đầu cuộc khổ nạn cũng vào ngày thứ năm, Thứ Năm Tuần Thánh, trong vườn Olives Ngài đã toát mồ hôi máu, bị phản bội và bị bắt. Rồi cũng ngày thứ năm hôm nay, Ngài vinh hiển tiến về Thiên quốc. Cùng một thời gian và cùng một không gian nhưng hai sự việc một tốt, một xấu xảy ra. Phải chăng sự đau khổ, chết chóc phải xảy đến, rồi sự hạnh phúc, vinh quang mới đến sau. Hay nói cách khác sự thành toàn, viên mãn không thể có nếu thập giá, đau khổ không xảy ra.

Có thể nghĩ rằng: Thiên Chúa muốn dạy chúng ta một bài học “sống”, đó là hằng ngày Ngài gởi đến cho chúng ta những đau đớn, tai họa, phiền muộn tức là Ngài chuẩn bị cho chúng ta một tương lai huy hoàng, vinh phúc. Ngày mà chúng ta bị bẻ mặt, xấu hổ nhất, có thể đó là sự bắt đầu cho những tán tụng, tôn vinh; bắt đầu cho sự cứu độ. Trong số ngàn ngàn vị Thánh của Giáo Hội, xin được đơn cử một vị Thánh: Inhaxio của Loyola, vị sáng lập Dòng Tên. Ngài là một quân nhân, gần ba mươi tuổi. Một thanh niên bình thường, yêu đời và có rất nhiều tham vọng. Trong trận bị bao vây ở Pampeluna, Ngài bị thương nặng, chân phải bị những mảnh đạn đại bác phá nát. Ngài phải điều trị rất lâu, chịu nhiều đau đớn. Để giết bớt thời giờ, Ngài hỏi mượn mấy cuốn tiểu thuyết tình cảm để đọc, tiếc thay ở nhà thương Ngài đang điều trị không có những cuốn sách đó, người ta đưa cho Ngài cuốn “Cuộc đời Chúa Kitô” và “Cuộc đời của các Thánh”. Thế rồi, cuộc đời Ngài đã thay đổi hoàn toàn sau khi nghiền ngẫm những cuốn sách này. Đang là một quân nhân, Ngài muốn mình trở thành một quân nhân cho Chúa Kitô. Bất chấp mọi trở lực, Ngài đã biến mơ ước của mình thành hiện thực, Ngài lập Hội Chúa Giêsu (Society of Jesus), làm rất nhiều điều tốt lành để tôn vinh Thiên Chúa và cứu thoát các linh hồn. Ngài đã trở thành một vị Thánh lớn trên thiên đàng. (Hiện nay những phương pháp cầu nguyện Ngài đề ra được các nhóm Linh Thao sử dụng) Rõ ràng ngày Thánh Inhaxiô bị thương nặng, cũng là ngày bắt đầu cho sự thánh hóa và ơn cứu độ cho cuộc đời Ngài. Nếu Ngài không bị thương tích, đau đớn kéo dài, có lẽ Ngài vẫn là người bình thường như chúng ta. Đó cũng là lý do mà Thánh Tiến Sĩ Augustinô viết rằng:”Đau khổ là một phương thuốc, chứ không phải là một hình phạt”.

Tóm lại, hôm nay chúa vinh hiển về Trời, để tâm hồn chúng ta cũng biết hướng về đó. Và chắc chắn như lời Ngài hứa là Ngài sẽ trở lại để phán xét nhân loại. Ngài sẽ trở lại để làm Thẩm Phán cho cuộc xử chung thẩm. Chỉ khác một điều là Quan Tòa này khi xét xử không cần hỏi tội trạng bị can, không cần nghe trình bày. Ngài chỉ nhìn và đối chiếu 5 vết thương trên người bị can với năm vết thương mà thế gian đã ghi khắc vào cơ thể Ngài. Chỉ cần nhìn mà Ngài cũng biết chúng ta có biết chấp nhận những đau khổ khi xưa, và dùng nó như một phương thuốc cho sự cứu thoát linh hồn chúng ta hay không. Chỉ cần nhìn mà Ngài cũng thấy rõ là chúng ta có biết hy sinh cho tha nhân để gây ơn ích hay không. Xin mượn ý tưởng của Đức cố Tổng Giám Mục Fulton J. Sheen để kết thúc: “Khi Chúa trở lại để đón nhận và xét xử chúng ta lần cuối, Ngài sẽ nhìn xem chúng ta có mang những vết tích thập giá trên thân xác mình không. Ngài sẽ nhìn vào đôi tay của chúng ta để nhìn xem nó có bị đóng đinh, bị chai đá, thương tích vì đã hy sinh khi phải cho đi những cái mà nó làm ra không. Ngài sẽ nhìn vào đôi chân, để xem nó có tím bầm, bị gai nhọn, đinh sét đâm thủng vì đi tìm những con chiên bị lạc không. Ngài sẽ nhìn vào lồng ngực chúng ta để nhìn xem nó có từng mở rộng để đón tiếp, rồi quyện lẫn với trái tim yêu thương của Thiên Chúa Tình Yêu không”.

47. Trần thế là con đường về trời.
(Suy niệm của Martin Lê Hoàng Vũ)

Hôm nay lễ Chúa Thăng Thiên, tức là Đức Giêsu về trời ngự bên hữu Thiên Chúa Cha, Ngài được tôn vinh là chủ tế của vũ trụ này. Nhưng thật ra Đức Giêsu đã lên trời sau khi sống lại, thời gian 40 ngày Ngài hiện ra với các tông đồ chỉ để củng cố đức tin cho các Ngài và ngày Chúa lên trời là chấm dứt những lần hiện ra của Ngài. Chúa lên trời để chỉ cho chúng ta con đường để về trời với Ngài. Con đường ấy rất thiết thân với mọi người. Đó là chúng ta sống trong trần thế có con người và biết bao điều phải yêu mến.

Trần thế cõi "hỉ, nộ, ái,cụ, ố, đục" này, chẳng tốt cũng chẳng xấu. Tốt hay xấu là còn tùy con người hành xử ra sao. Nếu chúng ta tham lam ích kỷ, hận thù trần thế này sẽ mãi mãi là nơi bất ổn. Còn nếu chúng ta sống yêu thương, giúp đỡ, và có trách nhiệm thì trần thế này sẽ trở thành thiên đường đáng sống. Chúng ta tuy không thuộc trọn về trần thế này phải sống hết mình với nó. Chúng ta dùng trái tim yêu thương mà Chúa ban để mở lòng đón nhận tất cả mọi người. Sống liên đới yêu thương và gắn bố với mọi người. Sống trong trần thế chúng ta có rất nhiều bổn phận phải chu toàn.

Đức Giêsu trong cuộc đời trần thế là mẫu gương cho các Kitô hữu. Ngài đã sống hết mình vì mọi người đến cả hy sinh mạng sống cho mọi người. Ngài thấu hiểu tâm tư khát vọng của những người Do-thái đường thời. Ngài thông cảm với những đau khổ và nỗi cơ cực của phận người. Ngài nhìn thấy thực trạng xã hội Do-thái thời đó như thế nào. Để Ngài giúp họ, làm cho đời sống của họ nên tốt hơn và phù hợp với những giá trị của Tin Mừng.

Bởi thế không bao giờ Chúa muốn chúng ta tách mình ra khỏi trần thế hay chạy trốn những nghĩa vụ trần thế. Sống như Ngài là chia sớt những khổ đau và vất va cuả tha nhân Yêu thương là hành động cho cuộc đời của họ được hạnh phúc hơn và sống xứng với phẩm giá con người. Vì trần thế này là con đường đưa chúng ta về trời.

Chúa lên trời không có nghĩa là Ngài mất nút đi vào không trung mời "thần tiên" ở Lời Chúa luôn mời gọi chúng ta đến với tha nhân để tìm được niềm hạnh phúc của người biết yêu thương. Vì ngày nay con người thường tự tạo cho mình những "thiên đường mong manh". Nơi đó chỉ đóng khung trong bốn bức tường của ngôi nhà biệt thự sang trọng. Nơi đó không có tình yêu thương gia đình mà chỉ có bổn phận và cảnh giả tạo của cuộc sống bên nhau và chính những nơi đó càng ngày con người càng xa rời Chúa và thực tại nước trời vĩnh cữu.

Ước chi chúng ta đừng chỉ đứng nhìn trời mà phải quay về cuộc sống bình thường để chẩn bị hành trang lên đường về quê trời vĩnh cữu sau này.Một hành trang gọn nhẹ vô cùng quý giá là trái tim mến Chúa và yêu người cùng với sự nỗ lực muốn làm điều tốt đẹp cho tha nhân.

48. Hạnh phúc lớn lao - Lm. Nguyễn Hữu An.
Phi hành qia Gagarin sau khi đã bay nhiều vòng trong vũ trụ khi trở về trái đất đã tuyên bố rằng:tôi chẳng thấy Thiên Chúa đâu cả. Thế nhưng, nhà Bác học Newton khi quan sát vũ trụ bằng kính viễn vọng đã thốt lên: tôi thấy Thiên Chúa qua kính viễn vọng của tôi.

Chúng ta là những người tin Chúa Giêsu Phục Sinh và lên trời cả hồn lẫn xác. Vậy chúng ta trả lời cho vấn nạn đó như thế nào? Chúa Giêsu lên trời nghĩa là gì? Nay người ở đâu? Việc Chúa Giêsu lên trời có liên hệ gì tới cuộc sống hiện tại của chúng ta hay không?

Theo quan niệm của người Do Thái cách đây hơn 2000 năm, vũ trụ này chia ra làm ba phần: Phần dưới mặt đất là là âm phủ dành cho người chết;phần trên mặt đất dành cho loài người đang sống và trời là thế giới của Thiên Chúa và các Thánh.

Để thích ứng với quan niệm bình dân ấy, các Giáo Lý Viên ngày xưa đã trình bày mầu nhiệm phục sinh của Đức Giêsu thành hai giai đoạn:

- Giai đoạn I: Sống lại, Đức Giêsu đi từ âm phủ lên mặt đất

- Giai đoạn II: Lên trời, Đức Giêsu bay từ mặt đất lên thế giới của Thiên Chúa.

Trình bày như vậy thì dễ hiểu nhưng không hoàn toàn đúng với thực tế,hậu quả tai hại là người ta dễ hiểu lầm rằng khi lên trời như thế Chúa Giêsu sẽ đi xa trái đất và cuộc sống của loài người, vì trời thì ở trên cao xa tắp, đâu có liên hệ gì tới trái đất. Những chữ lên trời bị chi phối bơi cách suy nghĩ có giới hạn của chúng ta.Theo cách suy nghĩ đó,các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian.Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao.Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đ¨¤ng là một trạng thái hơn là một nơi chốn.Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới, trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi, đã thấm nhuần tinh thần.

Thực ra khi Chúa Giêsu sống lại Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Ngươì bước vào cõi vinh quang của Thiên Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha,mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha.

Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Đức Kitô ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.

Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình, với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Đức Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh chúng ta thôi, bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Chúa Thánh Thần Đức Giêsu sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.

Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn còn thấy rất xa xôi. Nnững người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Đức Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật, đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.

Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào.

Bài Tin mừng hôm nay kết thúc phúc âm Maccô nhưng thực ra là một sự khởi đầu, một sự khai mở, đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu. Hình thức của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ Đức Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.

Chúa đã dùng giáo hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài.Giáo hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của giáo hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống, dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.

Mỗi Kitô hữu là chi thể của giáo hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô, mỗi người chúng ta cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người.

49. Lễ Thăng Thiên
Cách đây độ chừng 15 năm, nghĩa là trong những năm thời trung học phổ thông, con có chứng kiến một sự kiện hi hữu như thế này: hôm đó cả lớp cùng đi đám tang của một người bạn trong lớp. Vì nhà tang rất xa, cho nên phải đi khá sớm. Hơn nữa trước khi đi, xe phải chạy vòng ra chợ để lấy vòng hoa phân ưu đã đặt trước, cách chung là mọi việc rất khẩn trương vội vã. Khi đến nhà tang thì mọi người xuống xe, chuẩn bị hàng ngũ chỉnh tề để vào phúng viếng thì mới dở khóc dở cười khi nhìn thấy trên vòng hoa có hàng chữ "Chúc mừng khai trương - Thành công mỹ mãn".

Thưa anh chị em! Chắc chắn rằng không ai trong chúng ta muốn cái sai lầm đó xãy ra bao giờ cả, nhất là đối với những người không phải là đạo Công Giáo. Thế nhưng suy nghĩ một chút, chúng ta cũng thấy rằng: cái lầm lẫn đó cũng mang một ý nghĩa khá thú vị. Bởi vì theo đức tin Công Giáo, cái chết là cửa ngỏ để dẫn chúng ta vào đời sau vĩnh cửu, để dẫn chúng ta vào Thiên Đàng, nơi mà theo Thánh Gioan diễn tả: không còn chết chóc, không còn vất vã nhọc nhằn, không còn khóc lóc và đau thương, nhưng chỉ có bình an và hạnh phúc.

Vậy nếu như cái chết đưa người ta đến một nơi tốt đẹp như thế, thì việc chúc mừng cho một người vừa qua đời, một cách nào đó, chúng ta vẫn có thể chấp nhận được. Ngày hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa lên trời nghĩa là mừng việc Chúa Giêsu công khai trở về Nước Thiên Đàng vĩnh cữu. Mặc dù chưa có ai trong chúng ta đã thấy Nước Thiên Đàng cả, nhưng chúng ta tin rằng có nước Thiên Đàng. Và vì tôi tin có điều đó, cho nên tất cả những gì tôi cố gắng thực hiện ngày hôm nay: tuân giữ lề luật của Chúa, sống hy sinh hãm mình, thể hiện tấm lòng bác ái đối với mọi người... là để tôi được vào nơi ấy. Chúng ta tin có Thiên Đàng bởi vì chính Đức Giêsu đã mạc khải điều đó. Trên Thánh Giá, Đức Giêsu đã nói với tên trộm lành rằng: "Ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta".

Rồi trong câu chuyện thân tình trước khi Thầy trò chia tay, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ của mình rằng: "Thầy đi là để dọn chổ cho các con và Thầy sẽ trở lại để đón các con, để Thầy ở đâu, các con cũng sẽ ở đó với Thầy". Ba vị tông đồ: Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng đã có một thoáng nhìn thấy vinh quang NướcThiên Chúa khi Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. Chắc chắn rằng nó phải hấp dẫn như thế nào đó mà ba ông đã lên tiếng xin dựng lều để được ở mãi trên đó. Thánh Phaolô dường như cũng có được một khoảnh khắc ngắn ngủi nào đó nhìn thấy được vinh quang ấy, mà sau này ông đã viết lại trong thư thứ hai gởi Côrintô rằng: "Đó là điều mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe".

Như vậy Thiên Đàng chắc chắn là có, và đó sẽ là quê hương vĩnh cữu của chúng ta. Thế nhưng không phải vì lời hứa ấy mà chúng ta ngồi đó trông ngóng chờ đợi mà sao lãng nhiệm vụ trần thế, những nhiệm vụ mà chúng ta cần phải chu toàn với Chúa, với gia đình, với xã hội và những người kề cận với chúng ta. Bằng chứng là ba Tông đồ: Phêrô, Gioan và Giacôbê sau khi thấy được vinh quang của Chúa trên núi Tabor, đã được Chúa bảo là phải xuống núi để tiếp tục công việc hàng ngày là rao giảng Tin mừng. Hay là nơi bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe, Chúa đã ra đi rồi mà các môn đệ vẫn còn đứng đó nuối tiếc trông chờ, đến độ Chúa đã sai hai Thiên Thần đến nhắn nhở các ông: "Hỡi những người Galilêa sao còn mãi mê đứng nhìn trời?".

Thưa anh chị em! "Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo": Đó không phải là trách nhiệm của những thành phần đặc biệt nào cả, mà là cho hết thảy mọi thành viên trong ngôi nhà Giáo Hội. Nếu như cách đây gần 2000 năm, Đức Giêsu đã dùng đôi chân của mình, rong ruổi trên các nẻo đường để tìm kiếm những con chiên lạc, đã dùng môi miệng của mình để rao giảng Tin Mừng, đã dùng đôi tay của mình để thi ân giáng phúc, làm điều tốt đẹp cho người ta, thì hôm nay đây, hôm nay đây những công việc đó phải được tiếp tục trong đời sống của Giáo Hội, để nhờ những sinh hoạt của mình, nhờ đôi tay cụ thể của Giáo Hội, Chúa lại tiếp tục dìu dắt nhân loại về Thiên Đàng vĩnh cữu.

Mừng lễ Chúa Thăng Thiên hôm nay, chúng ta có được một cơ hội tốt đẹp để hướng về Thiên Đàng, là một hạnh phúc lâu dài mà Chúa đã hứa ban khi Người còn ở tại thế. Lời hứa đó được xem như là một niềm vui, một sự an ủi khích lệ cho chúng ta trong cuộc sống hiện tại, nhất trong những lúc chúng ta phải đối diện những gian nan nhọc nhằn. Thế nhưng chúng ta không được đứng lại trong niềm vui, trong sự an ủi khích lệ đó, mà phải quay về để chu toàn những bổn phận của mình.

Chúa đã về trời nhưng Người đã mượn miệng lưỡi chúng ta để rao giảng Tin Mừng, mượn đôi tay của chúng ta để thi ân cho người khác, mượn đôi chân chúng ta để đến với người cùng khổ. Chúa về trời nhưng Người vẫn tiếp tục thực hiện những dấu lạ nơi cuộc đời của những con người biết sống tận tình cho tha nhân, cho anh chị em của mình.

Thưa anh chị em! Biết rằng Thiên Đàng là quê hương vĩnh cữu của chúng ta, nhưng cuộc sống trần thế này chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Nếu chúng ta chỉ đứng một chỗ mà chờ đợi ngóng trông, có lẽ chúng ta không bao giờ tới được. Cho nên muốn tới được Thiên Đàng, chúng ta không còn cách nào khác hơn là phải đi hết con đường dương thế đó trong tinh thần chu toàn những trách nhiệm đối với Chúa, đối với gia đình và với những người sống chung quanh chúng ta.

50. Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)

Hôm nay Giáo hội mừng lễ Đức Giêsu lên trời. Qua những hình ảnh, lễ Thăng thiên diễn tả việc Chúa Kitô phục sinh từ nay sống trong thế giới của Thiên Chúa mà người ta thường gọi trong ngôn từ tôn giáo là trời (bài đọc 1 và Tin Mừng). Vào thời Đức Giêsu, để diển tả sự vĩ đại, vinh quang của Thiên Chúa, con người không thể đạt tới được, người Do thái dùng hình ảnh của chiều cao: Chúa ở trên cao, ở trên trời. Thiên Chúa được gọi là Đấng Tối Cao (Lc 1,76; Cv 16,17). Đức Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện: "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Trong Kinh Tin Kính, chúng ta cũng tuyên xưng: "Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha."

Điều quan trọng đối với các Kitô hữu tiên khởi cũng như đối với chúng ta hôm nay, không phải ở việc muốn biết Đức Giêsu lên trời như thế nào, nhưng là tận hiểu ý nghĩa sự ra đi của Người.

Sau khi hoàn thành sứ mạng ở trần gian, Đức Giêsu trở về với Chúa Cha. Từ nay, Chúa Kitô phục sinh vắng mặt về thể hình, không ai có thể thấy hoặc nghe tiếng Người nữa. Tuy nhiên, Người luôn hiện diện với Giáo Hội, với mỗi người chúng ta như Người đã hứa: " Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20). Sự hiện diện vô hình của Người, chỉ có con mắt đức tin mới thấy được.

Lễ Thăng Thiên là sự kết thúc công cuộc truyền giáo của Đức Giêsu thành Nazarét, và là khởi đầu thời gian của Giáo Hội. Dĩ nhiên, giai đoạn mới này luôn là giai đoạn của Chúa Kitô, vì tất cả đều hướng về Người, cũng như Người là đích điểm của mọi hoạt động tông đồ. Nhưng đó cũng là thời kỳ của Giáo Hội và các môn đệ để làm chứng cho Đức Giêsu Kitô và cho Tin Mừng: " Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari, và cho đến tận cùng trái đất." (Cv 1,8). Đó là ý nghĩa mọi hoạt đồng truyền giáo của Giáo hội. Trước khi lên trời, Đức Kitô giao phó cho tất cả các môn đệ, tức là tất cả Kitô hữu trên toàn cầu, sứ mạng tiếp tục công trình của Người cho đến ngày tận thế.

Chúng ta hãy nghe câu chuyện có thật và rất cảm động sau đây.

Nhà soạn nhạc vĩ đại người Ý Giacomo Puccini (1858-1624) đã viết nhiều vở nhạc kịch lừng danh. Năm 1922, lúc ông được 64 tuổi, thì ông mắc bệnh ung thư. Dầu vậy, ông vẫn quyết định hoàn thành vở nhạc kịch cuối cùng của mình, tức vở Turandot mà hiên nay nhiều người xem như vở nhạc kịch hay nhất của ông. Ông miệt mài làm việc ngày đêm. Nhiều người ép ông nghỉ ngơi, vì theo họ nghĩ, ông không thể nào hoàn tất nổi vở nhạc kịch ấy. Khi thấy căn bệnh ngày càng nặng hơn, Puccini nói với các đệ tử: "Nếu ta không hoàn tất được vở Turandot thì các trò hãy cố gắng hoàn tất nó cho ta."

Vào năm 1924, Puccini được học trò đem đến Bruxelles để giải phẫu, nhưng hai ngày sau cuộc giải phẫu đó, thì ông qua đời. Trở về Ý, các đệ tử của Puccini nghiên cứu kỹ lưỡng vở Turandot và tiếp tục viết cho đến lúc hoàn thành trọn vở nhạc kịch đó.

Hai năm sau, vở nhạc kịch được trình diễn lần đầu tiên tại nhà hát lớn La Scala thuộc thành phố Milan, do Arturo Toscanini, người học trò ưu tú của Puccini điều khiển. Mọi sự đều trôi chảy tốt đẹp cho đến khúc nhạc mà Puccini buộc phải ngừng bút. Nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt Toscanini. Anh cho giàn nhạc dừng bản nhạc kịch lại, đặt cây gậy điều khiển xuống rồi quay về khán thính giả và nói lớn: "Sư phụ chúng tôi đã viết được đến đây, rồi người qua đời."

Lúc đó toàn thể nhà hát đều im bặt, không cử động. Sau vài phút, Toscanini cúi xuống cầm gập điều khiển lên, quay về cử tọa mỉm cười qua dòng lệ rồi thốt lên: "Nhưng các đệ tử đã hoàn tất công việc của người". Vở Turandot vừa dứt thì toàn thể khán thính giả vỗ tay ầm ầm như sấm vang. Những người có mặt lúc đó không thể nào quên được giây phút ấy.

Câu chuyện sáng tác vở nhạc kịch Turandot của Puccini có nét rất giống với công việc truyền giáo của Giáo hội chúng ta.

Trước khi sư phụ Giêsu hoàn tất công trình lập nước Thiên Chúa trên trần gian, thì Người lên trời. Nhưng trước đó, Người đã yêu cầu các môn đệ hoàn tất việc ấy y như Puccini đã yêu cầu các đệ tử hoàn tất vở nhạc kịch Turandot.

Trước khi lên trời, Đức Giêsu nói với các Tông đồ: " Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15). Công việc của Puccini được một vài đệ tử hoàn tất trong vòng ít năm, còn công việc của Đức Giêsu cần đến rất nhiều thế hệ mới có thể hoàn tất được; và đó không phải chỉ là việc của vài môn đệ, mà là tất cả các môn đệ thuộc mọi thời đại. Thánh Phaolô có nói: "Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng" (1 Co 9,16).

Nhưng truyền giáo không chỉ là công việc của các Linh mục và Tu sĩ mà là của tất cả các Kitô hữu. Là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta có bổn phận cộng tác vào việc xây dựng và mở mang Nước Chúa. Tất cả chúng ta đều có thể rao giảng Tin Mừng ngay trong gia đình, trong khu phố và trong cộng đoàn chúng ta. Mỗi người đều có thể là sứ giả Tin Mừng, thợ xây hoà bình và là người gieo niềm vui và hy vọng.

Ngày xưa, chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, Đức Giêsu đã làm phép lạ cho hơn năm ngàn người ăn no nê, thì bây giờ Chúa cũng muốn và cần đến sự cộng tác, tuy nhỏ bé và hạn chế, của mỗi người chúng ta hầu hoàn thành những kỳ công của Người.

51. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan.
Lễ Thăng Thiên vừa nhắc đến một mầu nhiệm và vừa nói đến quyền năng vươn tới một chiều kích mới. Lễ này chấm hết sứ vụ Đức Kitô trên trần gian và mừng đón Chúa vinh hiển trở về cùng Chúa Cha trên trời. Mặc dầu là hành động cuối cùng của Chúa trên cuộc đời dương thế, hôm nay không phải là một ngày buồn, mà là một ngày vui chan chứa hy vọng. Siêu thăng lên chốn trời cao, Đức Kitô đã đưa mình thoát khỏi chốn “bình thường” để đi vào chốn “khác thường”, từ đất Galilê này mà đến mọi nơi trên trái đất. Người không còn tự giới hạn mình vào một cõi thời gian, cõi không gian, hay một nhóm người nào nữa. Nhờ sức mạnh Thần Khí, Người trở nên hiện diện vô hình và sẵn sàng đến với bất cứ ai muốn tiếp xúc với Người, đảm nhận công việc và chia sẻ vinh quang của Người.

Đối với các tông đồ, hôm nay là ngày bế giảng mãn khóa, là thời gian huấn luyện đã qua, nay bắt đầu nhiệm vu mới, “đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi loại thụ tạo” (Mc 16,15). Lúc Chúa ra đi, các tông đồ chỉ biết đứng trời trồng, bất động. Nỗi buồn bên trong lòng các ông chúng ta có thể hiểu được, vì đây là lần thứ hai các ông trải qua kinh nghiệm đau lòng phải xa cách chia phôi với Thầy chí thánh, biết rằng từ đây cuộc đời không còn được như trước nữa. Có hai người mặc áo trắng xuất hiện lôi các ông về với thực tại, cắt đứt giấc mơ màng và bảo các ông đi làm việc của Thầy mình đã giao phó. Vâng, nhiệm vụ của các ông không phải là đứng nhìn trời, trông chờ điều gì xảy đến. Trong khi Đức Kitô vắng mặt, các ông sẽ là sứ giả của Người, công bố Tin mừng cho người nghèo khó, bị áp bức và cho mọi người.

Đức Chúa Giêsu trở về cùng Thiên Chúa Cha trong vinh quang hôm nay cũng cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua về một tương lai vĩ đại, dành sẵn cho chúng ta mai sau, đúng hơn là một tương lai mà chúng ta được kêu mời đi tới. Nếu chúng ta vẫn trung thành với giáo huấn của Người, thì ngôi nhà sau hết của chúng ta cũng sẽ là nơi mà Đức Giêsu vừa mới siêu thăng trở về cùng Cha trên trời. Giống như các tông đồ ngày xưa, Đức Kitô ra lệnh cho chúng ta làm chứng nhân của Người trong công cuộc rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng bờ cõi trái đất. Đó là một công việc dào lâu dễ làm nản lòng thối chí, nhưng chúng ta đã được bảm bảo rằng Người sẽ không để chúng ta mồ côi, nhưng nhờ sức mạnh của Thần khí, Người sẽ ở cùng chúng ta trong mọi nỗi gian truân thử thách cũng như trong mọi nỗ lực phấn đấu của chúng ta.

Cuộc đời này thường được ví như một cuộc lữ hành và chúng ta hết thảy đều là lữ khách đang cùng đi trên con đường thiên lý này. Nhiều anh chị em trong chúng ta do thử thách khổ đau, thất vọng trong cuộc đời, lắm khi ngã lòng trông cậy đến nỗi không còn biết mình đang đi về đâu, không hề biết sẽ có gì đang chờ đón mình ở cuối con đường. Họ luôn tìm hạnh phúc bằng cách sống dựa trên ký ức của quá khứ. Họ thường dành thời gian cuộc đời này để chờ ngóng một cái gì đó không có mục đích nào cả, như các tông đồ xưa ngong ngóng nhìn lên bầu trời. Việc Đức Chúa Giêsu thăng thiên bảo đảm với chúng ta rằng có một mục đích tối hậu cho cuộc đời lữ thứ này, đồng thời đảm bảo với chúng ta rằng hành trình nơi dương thế này, tuy muôn vàn khó khăn, nhưng chắc chắn sẽ dẫn đưa chúng ta về cùng Cha trên trời. Trong lúc này chúng ta vẫn sống trong niềm hy vọng rằng lời Chúa Giêsu hứa khi xưa sẽ trở thành sự thật: “Thầy ở đâu, thì anh em sẽ ở đó”. (Ga 14,3)

52. Chúa Thăng Thiên
"Hãy đi khắp bốn phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu rổi. Ai không tin sẽ bị kết án". (Mc 16, 15)

Tin Mừng Marcô hôm nay tường thuật: trước khi về trời, Chúa Giêsu không quên trao lại cho các tông đồ và những người kế vị, sứ mạng cao cả là loan báo Tin Mừng cho muôn dân; ai tin và chịu phép rửa sẽ được gia nhập vào vương quốc của Chân lý, của Tình yêu bất diệt; ai không tin, sẽ bị kết án: không tin chính là từ chối không gia nhập vào vương quốc đó. Xin mời anh chị em cùng nhau suy niệm.

Hãy đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân: đây là lệnh truyền của Đức Kitô; lệnh truyền này chúng ta lãnh nhận ngày ta chịu phép rửa tội. Công đồng Vaticanô II đã khẳng định mạnh mẽ điều đó; sứ mạng này không chỉ dành riêng cho hàng giáo phẩm. Vì không hiểu lời của Đức Kitô, nên một số người lơ là với sứ mạng này. Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh: mọi người đều là chi thể trong Thân thể mầu nhiệm Duy nhất là Hội Thánh, mà Chúa Kitô là Đầu; vì thế không ai có thể nói mình không có trách nhiệm chia sẽ sứ mạng loan báo Tin Mừng do Đức Kitô trao lại.

Hãy đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân: Có người dựa vào câu nói này mà cho rằng Hội Thánh luôn muốn dùng quyền thế mình, hoặc ảnh hưởng để buộc người khác phải theo. Đây là câu trả lời: Chúa Giêsu không lập bè, lập đảng phái, để lo cho người mình nhằm loại trừ người khác. Đạo Chúa không phải là pháo đài để che chở cho con chiên, chống lại ngoại giáo. Đạo chính là Tin Vui, là nguồn hạnh phúc, là sức sống, là Nước Trời cho hết mọi người. Lẽ ra, mọi người đáng được hưởng Tin Vui, sức sống đó. Người ta đi loan báo Tin Mừng cho thế giới chính vì Tình Yêu (yêu Chúa Kitô, yêu mọi người.

Cán bộ coi tù hỏi Đức Cha Px Saviê. Thuận: "chúng tôi bắt ông, giam ông, làm điều không hay cho ông, tại sao tôi thấy ông vẫn vui vẻ, đối xử tốt với chúng tôi, không oán hận chúng tôi?". Đức Cha trả lời: "tại vì tôi yêu thương anh, vì anh cũng là người Việt Nam như tôi, và vì tôi yêu Đức Kitô."

Là Linh mục, tu sĩ, tôi lãnh nhận sứ mạng loan báo Tin Mừng ngày chịu phép Rửa Tội, nhất là ngày chịu chức Linh mục và ngày khấn dòng. Làm sao tôi có thể tự miễn chuẩn cho mình không phải đi loan báoTin Mừng? Làm sao tôi có thể nói được: mình làm vừa vừa thôi, đâu có sức, có tiền mà lo nhiều như vậy? Chúa Kitô khi bị treo trên Thập giá đâu có ra điều kiện, nếu không chịu nổi, thì Chúa Cha phải cho nghỉ xả hơi! Là giáo dân thường, tôi có nghĩ rằng tôi phải ý thức đi loan báo Tin Mừng cách mạnh mẻ hơn, vì thực tế, tôi chưa dành nhiều thì giờ cho Chúa về điều này. Bao lâu nay tôi cứ nghĩ công việc này là của ông cha, bà phước mà thôi...Tôi cứ nghỉ, việc đi loan báo Tin Mừng là chuyện truyền giáo cho Phi Châu, cho Trung Quốc; tôi có quên rằng với cương vị là cha mẹ, loan báo Tin Mừng là dạy dổ con cái tốt, nên gương sáng cho chúng. Với người chòm xóm, người lương, tôi có sẵn sàng nói về Chúa cho họ bằng cuộc sống tốt, ngay chính của tôi, để họ nhìn thấy Chúa nơi tôi không?

53. Suy niệm của Lm. Hồ Bặc Xái.
Sách Tông đồ công vụ kể rằng khi Đức Giêsu từ từ lên trời thì các môn đệ ngước mắt trông theo, và cứ ngây ngất đứng nhìn về trời như thế, mãi cho đến khi có hai thiên thần từ đám mây hiện ra nhắc cho các ông thì các ông mới hoàn hồn trở lại. Tại sao các môn đệ ngây ngất như vậy? Chắc hẳn là vì cảnh thiên đàng rất là hấp dẫn.

Cũng như một lần kia, 3 tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê cũng được thoáng thấy một chút vinh quang thiên đàng khi Đức Giêsu biến hình trên núi. Ba ông đó cũng say sưa ngây ngất đến nỗi xin Chúa cho mình cất lều ở lại mãi trên ngọn núi đó.

Còn Thánh Phaolô sau khi được Chúa cho ngất trí chiêm ngưỡng cảnh thiên đàng trong một khoảng khắc ngắn ngủi, đã mô tả lại kinh nghiệm ấy trong bức thư II gửi tín hữu Côrintô như sau "Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe... "

Ở Lộ Đức năm 1858, một người từ trời xuống là Đức Mẹ Maria đã hiện ra cho thánh nữ Bernadette. Sau đó thánh nữ đi tu. Một lần kia có một em bé đơn sơ hỏi thánh nữ "Thưa Ma sơ, Ma sơ đã được thấy Đức Mẹ, chắc là Đức Mẹ đẹp lắm nhỉ?" Thánh nữ trả lời với em bé bằng một lời diễn tả cũng rất đơn sơ "Đẹp lắm con ạ, đẹp đến nỗi ai đã thấy được một lần thì chỉ mong chết để lại được thấy nữa".

Còn ở Fatima năm 1917, Đức Mẹ hiện ra cho 3 em Luxia, Phanxicô và Giaxinta. 3 em đó cũng đơn sơ hỏi Đức mẹ "Thưa Bà, Bà ở đâu đến vậy?" Đức Mẹ đưa tay lên cao và nói "Từ trời xuống". 3 em liền xin "Vậy xin Bà cho chúng con cũng được lên trời đi". Đức Mẹ mỉm cười đáp "Phanxicô và Giaxinta thì Ta sẽ cho về trời trong một ngày gần đây; còn Luxia thì hãy chịu khó ở lại trần thế này một khoảng thời gian nữa. Kể từ ngày đó 2 em kia lúc nào cũng mơ ước tới ngày được lên trời. Dù sắp chết 2 em cũng chẳng chút lo sợ, lại còn mừng vì mình sắp được lên trời.

Đó là một vài tia sáng yếu ớt giúp chúng ta thoáng thấy một phần nào cảnh tượng thiên đàng. Những chứng nhân vừa kể chỉ thoáng thấy một vài tia sáng yếu ớt ấy là đã say sưa ngây ngất, chỉ muốn sớm chết đi để được hưởng thiên đàng, huống chi khi thực sự hưởng thiên đàng và hưởng trọn vẹn còn hạnh phúc ngất ngây đến chừng nào!

Khi về trời, Đức Giêsu đã hứa rằng Ngài về trời là để dọn chỗ cho chúng ta, thiên đàng hạnh phúc vô biên ấy sẽ là quê hương vĩnh viễn của chúng ta.

Thế nhưng không phải vì quê hương vĩnh viễn ấy của chúng ta hạnh phúc vô biên mà ta chỉ biết ngóng trông quê trời và sao lãng nhiệm vụ ở trần thế. Tất cả những chứng nhân vừa kể trên, sau một thoáng giây chiêm ngưỡng thiên đàng đều được nhắc nhở phải trở lại với nhiệm vụ trần thế:

Hai thiên thần đã hiện ra từ đám mây nhắc nhở các môn đệ "Hỡi những người xứ Galilê sao còn mãi mê đứng đó nhìn trời, hãy trở lại Giêrusalem và bắt đầu nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng mà Chúa đã giao phó... "

Còn 3 ông Phêrô, Gioan và Giacôbê, sau những giây phút say sưa trên núi Tabôrê, đã được Chúa thức tỉnh dẫn xuống núi để tiếp tục nhiệm vụ.

Thánh nữ Bernadette, cũng như Nữ Tu Luxia sau khi được thấy Đức Mẹ thì được Đức Mẹ giao nhiệm vụ ở trần gian, Đức Mẹ còn cho biết trước; chúng con sẽ phải đau khổ nhiều.

Nghĩa là làm sao? Nghĩa là: Thiên đàng là quê hương vĩnh viễn của chúng ta, nhưng trần thế chính là con đường dẫn tới quê hương hạnh phúc đó. Chỉ đứng đó mà ngóng nhìn thiên đàng thì có lẽ không bao giờ ta tới thiên đàng được. Muốn tới được thiên đàng thì trước hết phải đi hết con đường dương thế bằng cách chu toàn những nhiệm vụ của mình ở đời này.

Trong khi chờ đợi tới ngày hưởng phúc Thiên Đàng, chúng ta vẫn còn phải tiếp tục sống ở trần gian này. Mà trần gian thì vẫn còn biết bao đau khổ: Khổ về vật chất như nghèo đói, bệnh tật; khổ về tinh thần như ganh ghét hận thù đố kỵ nhau. Mà nguồn gốc của tất cả những khổ sở vật chất và tinh thần ấy là vì người ta còn tội lỗi, người ta còn chưa thực hành theo những Lời Chúa dạy. Chuẩn bị đi về quê trời là hết sức cố gắng góp phần xoá đi bớt những đau khổ đó ở trần gian như: chia sớt cho những người túng thiếu, chăm sóc những kẻ bệnh tật, ủi an những người đau khổ, hoà giải những kẻ bất thuận với nhau, giúp cho người ta tránh bớt tội lỗi, làm cho người ta biết Chúa và thực hành những Lời Chúa dạy.

"Hỡi những người xứ Galilê, sao còn cứ đứng đó mãi nhìn trời... " Khi các thiên thần nhắc cho các môn đệ trở về với nhiệm vụ hằng ngày, thì cũng là nhắc các ông làm những việc vừa kể trên. Những việc đó chính là nội dung của việc rao giảng Tin Mừng mà Đức Giêsu cũng đã căn dặn một lần nữa cho các môn đệ trước khi Người về trời "Chúng con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho nhân loại".

Trong ngày lễ Chúa Thăng Thiên, chúng ta đã để ra ít phút ngước nhìn lên quê trời để nhìn ngắm hạnh phúc vô biên mà Chúa sẽ ban cho chúng ta. Những phút đó thật là quý giá, là niềm vui, là nguồn an ủi, là sự khích lệ cho chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ không thụ động mãi mê chiêm ngắm hạnh phúc tương lai ấy. "Hỡi những người xứ Galilê, sao còn đứng mãi nhìn trời... " Chúa nhắc chúng ta hãy quay về với bổn phận của chúng ta trong cuộc hành trình nơi dương thế: Làm cho cuộc đời này bớt đau khổ hơn, giúp cho người đời biết thương nhau hơn, và góp phần cho cuộc sống này tươi đẹp hơn. Đó chính là bổn phận hiện tại của chúng ta trong khi chờ đến ngày ta được về quê trời hưởng hạnh phúc vô cùng với Chúa.

54. Suy niệm của Lm. Thu Băng
CÁC CON HÃY ĐI RAO GIẢNG và LÀM PHÉP RỬA CHO HỌ

Trong một cuộc tổ chức cho các em chạy đua tiếp sức, tôi thấy lúc quan trọng nhất mà các em cổ động mạnh là lúc em đang chạy đưa cây gậy tiếp sức cho em kế tiếp, vì lúc đó là lúc quyết định được sự thành bại của cuộc chạy đua. Ai trao chậm là phần thắng chậm lại.

Cũng thế, Chúa Giêsu chính là người chạy xong phần của mình và đang trao cây gậy trách nhiệm tiếp sức cho các tông đồ chạy tiếp. Ngài ủy thác cho họ chu toàn công việc của Ngài đã làm nơi trần gian: "Hãy đi rao giảng, dạy cho muôn dân" (Mt. 28). "Hãy tiếp tục thay nhau làm chưng nhân về Thầy cho đến tận thế" (Eph.1:17-23).

Trong thế kỷ này chúng ta làm cách nào để thi hành sứ mệnh Chúa trao ban: Làm nhân chứng và chỉ cho mọi người biết về Chúa?

Có nhiều phương cách để thực hiện:

- Nếu bạn vừa tốt nghiệp đại học, bạn hãy thực hiện như hai bác sỹ vừa ra trường: một người từ Chicago, một người từ Dallas được nhà thương Israel tại Boston nhận việc. Cả hai hợp tác với nhau, bàn chuyện với nhau để phục vụ bệnh nhân, khiến nhiều bệnh nhân kính nể và khen trường học đã đào tạo nên hai người (phục vụ tốt là đem bình an hạnh phúc của Chúa đến cho mọi người).

Hoặc như anh chị T... N.... tại St.Louis (MO) khi lập gia đình anh chị hứa với tôi sẽ tình nguyện đi phục vụ đồng bào tị nạn Hongkong 4 năm. Sáu năm sau gặp lại anh chị với 3 cháu nhỏ, tôi hỏi lại điều quyết định ấy, anh chị trả lời cách vui vẻ:

- Chúng con mua nhà ngay bên đó sinh sống và làm việc giúp dân tị nạn cho tới ngày nào đóng cửa trại, vì nhờ việc phục vụ này, nhiều người nhận được ơn cứ rỗi lắm.

Chúng ta cũng có thể làm điều mà nhiều người đang thực hiện mà không sợ xấu hổ, đi lượm lon trên các ngã đường đem bán lấy tiền giúp cho các trại cùi. Một người nói nhỏ với tôi: " Con làm việc thiện không sợ cùi" tức là bất chấp tiếng chê, dèm pha, chỉ trích, xét đoán lệch lạc.... "Con đã gửi về các trại cùi một số tiền không ai nghĩ tới $ 5,000 Đollas Mỹ".

Tuy nhiên còn nhiều phương thế khác chúng ta đã và đang chu toàn việc Chúa ủy thác và có lẽ còn về lâu về dài, còn đòi nhiều hy sinh cam đảm hơn nữa. Đó là làm chứng nhân và làm thầy dạy ngay trong gia đình, trong xứ đạo, trong sở làm, trong chủng viện, trong môi trường cuộc sống.

Hãy cố gắng chu toàn nhiệm vụ Chúa đã trao ban; hãy nhẫn nại chịu đựng mọi phiền toái khi phục vụ; Hãy sống với mọi người như Chúa sống bên họ.... cũng chính là đem Chúa đến cho mọi người. Robert nói trong cuốn " Bản vũ nhạc của lý trí - Masque of Reason: Phần lớn người ta không thể nghĩ ra hết các sự việc đâu. Họ chỉ nhìn thấy những việc ấy qua hành vi người khác làm mà thôi".

Ông Trung Thành bạn tôi kể rằng: Ngày đó vợ tôi bị đau và cơn bệnh kéo dài khiến nàng bị kệt quệ cả về tinh thần lẫn thể xác. Cơn thử thách đè nặng trên tôi và làm sức khoẻ tôi cũng bị suy sụp. Bỗng một biến cố đã bị quên lãng từ hồi tôi mới 10 tuổi, chợt loé lên trong lòng. Biến cố ấy xảy ra khi mẹ tôi bị đau nặng. Nửa đêm hôm ấy tôi thức giấc vì khát nước, tôi đi ngang qua phòng ngủ của bố mẹ tôi, chợt tôi thấy bố tôi đang ngồi bên cạnh giường của mẹ và mẹ đang ngủ say. Tôi bước vào hỏi bố:

- Bố ơi, bệnh mẹ nặng lắm hả? Bố tôi bình thản trả lời:

- Không nặng đâu con, bố chỉ ngồi đây chờ đợi khi mẹ con thức giấc có cần gì thì bố làm cho mẹ thôi.

Nhờ nhớ lại biến cố ấy mà tôi có đủ can đảm cần thiết để phục dịch và đương đầu với hoàn cảnh.

Làm chứng cho Chúa và giúp cho người khác biết về Ngài chỉ là chia sẻ cho họ niềm tin và tình yêu mà chính mình đã tiếp nhận từ nơi Chúa, cho người khác. Sứ điệp Thăng Thiên chỉ đơn giản có thế. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tiếp nhận từ nơi Ngài, đồng thời Ngài sai chúng ta tiếp tục trao ân cho đồng loại, giúp mọi người, tốt với mọi người theo bất cứ cách thức nào Chúa Thánh Thần soi sáng cho chúng ta.

55. Loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Tin Mừng Máccô kết thúc với câu 16,8. Tuy vậy, một số Kitô hữu thuộc thế kỷ i-ii đã tìm cách "bổ túc" truyện sách Tin Mừng bằng cách thêm vào những cảnh mà họ nghĩ rằng tác giả Mc hẳn cũng đã thêm vào nếu ngài viết tiếp. Đoạn văn 16,15-20 nằm trong Phần Kết phụ trội thứ nhất gọi là "Phần Kết Dài" hay là "Phần Kết Vô Danh", từ c. 9 đến c. 20 của chương 16. Phần này nói đến những cuộc hiện ra của Đức Giêsu với bà Maria Mácđala và với các môn đệ để thúc giục họ, tức Hội Thánh, đi loan báo Tin Mừng khắp nơi. Các nhà truyền giáo không có gì phải sợ, bởi vì Đức Giêsu Phục Sinh vẫn ở với họ. Các độc giả tinh ý sẽ thấy có một số đề tài trong các câu này không giống gì với những điều họ đã thấy trong TM II. Họ cũng còn có thể nhận ra nơi các đề tài này âm vang của những cảnh quen thuộc ở trong các Tin Mừng khác, được quy tụ lại để làm cho phần kết của Mc (16,8) bớt đột ngột (x. Ga 20,11-18; Lc 24,13-35; Mt 28,16-20).

Bản văn chúng ta đọc hôm nay tập trung vào sứ mạng phổ quát của các tông đồ, và giống như Lc 24,36-53, nó kết thúc với việc Đức Giêsu lên trời mà các ông thấy được. Bài không hề xác định nơi chốn. Tác giả chỉ muốn chúng ta lưu ý đến điều cốt yếu: sứ mạng được giao phó cho các môn đệ.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba đơn vị:

1) Lệnh ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo (16,15-18);

2) Lên trời (16,19);

3) Ra đi thi hành sứ mạng (16,20).

3.- Vài điểm chú giải

- Nhóm Mười Một (14): Đây chính là Nhóm Mười Hai trước đây, nhưng nay chỉ còn mười một tông đồ, vì Giuđa không còn nữa. Nhóm mang nơi mình dấu chỉ của sự sa sút. Chính là với Nhóm này mà Đức Giêsu đã hiện ra và giao sứ mạng loan báo Tin Mừng. Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra và giao sứ mạng, điều này có nghĩa là Người đã tha thứ cho họ, và lòng cứng tin của họ đã được thắng vượt.

- Tin Mừng (15): Nội dung của sứ điệp phải loan báo không được giải thích, mà lại được tổng hợp trong khái niệm "Tin Mừng". Do khái niệm này được nối kết với "các thọ tạo", nó gần với Cl 1,23. Công thức này đã được chuẩn bị trong Do Thái giáo, nơi mà Thiên Chúa được ca ngợi là vua của toàn thể công trình tạo thành của Ngài (Gđt 9,12), là chúa tể của muôn loài thọ tạo và có lòng yêu thương muôn loài thọ tạo (x. 3 Mcb 2,2.7; 6,2. Sách 3 Mac không thuộc về Kinh Thánh). Vậy Tin Mừng phải loan báo chính là quyền chúa tể của Đức Kitô Phục Sinh trên toàn thể thọ tạo.

- phép rửa (16): Các phản ứng của con người trước sứ điệp Tin Mừng là tin hoặc không tin. Đức tin có kèm theo thái độ sẵn sàng lãnh nhận phép rửa. Phép rửa nhân lãnh trong đức tin đưa tới ơn cứu độ trong cuộc phán xét chung cuộc. Trong Tt 3,5 và 1 Pr 3,21, phép rửa và ơn cứu độ được nối kết với nhau. Sự đối lập giữa cứu độ và kết án khiến ta nhớ đến Ga 3,18. Tuy nhiên, ở đây bản văn hướng đến cuộc phán xét chung.

- những dấu lạ đi theo (17): Khác với những gì xảy ra ở Mc 8,11t, dấu (lạ) được dùng theo nghĩa tích cực. Dấu lạ không đi trước đức tin và cũng không diễn tả một uy quyền chỉ được ban riêng cho các môn đệ (như ở Mc 6,7-13), mà phải được dùng như là cách Thiên Chúa chuẩn nhận cho những ai đã trở thành tín hữu. Dấu lạ cho thấy Đức Kitô là vị Chúa tể mới của tạo thành, Người muốn ban ơn cứu độ cho toàn thể tạo thành. Năm loại phép lạ quy chiếu về sách Cv: đuổi quỉ (Cv 16,16-18), nói tiếng lạ (Cv 2,1-11), cầm rắn độc (Cv 28,3-6), chữa bệnh (Cv 31-10; 9,31-35; 14,8-10; 28,8t). Còn thuốc độc có lẽ dựa theo một truyện kể nào đó (chẳng hạn chuyện sử gia Êusêbiô kể về Giúttô Bácsaba; x. Hist. Eccl. 3,39,9). Lc 10,19 có nói đến khả năng đạp trên rắn độc và bọ cạp. Các dấu lạ xảy ra "nhân danh Thầy", tức là với việc cầu khẩn danh Đức Giêsu. Như thế, Đức Giêsu được tôn vinh tiếp tục ở với cộng đoàn của Người và hoạt động.

- Chúa Giêsu được đưa lên trời (19): Danh hiệu "Chúa Giêsu", rất quen thuộc với Phaolô và sách Cv, chỉ xuất hiện ở đây trong các Tin Mừng. Đấng Phục Sinh, Đấng được tôn vinh, chính là Kyrios (chúa tể), là Kosmokrator (chúa tể vũ trụ). Cuộc lên trời của Đức Giêsu giả thiết có hình ảnh của Kinh Thánh về thế giới (= lên trời), được mô tả phỏng theo cuộc lên trời của ngôn sứ Êlia (2 V 2,11; 1 Mcb 2,58).

- Ngự bên hữu Thiên Chúa: Câu này dựa theo Tv 109 (110), 1 muốn nói rằng nay Đức Giêsu có tất cả quyền năng của Thiên Chúa.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Lệnh ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo (15-18)

Ta thấy lệnh truyền của Đức Giêsu quá rõ ràng và cấp bách, nhưng trong thực tế, dường như không phải thế: Đức Giêsu không cho biết rõ khoảng thời gian kéo dài từ khi Người sống lại đến khi Người quang lâm; Người không loan báo rằng các Dân ngoại sẽ dần dà đi vào trong Giáo Hội trước khi xảy ra phán xét chung; các tông đồ đã phải mò mẫm tìm kiếm phương hướng hoạt động, với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần (x. Cv 10; 11,1-8; 15,7-11...). Dù sao, ở đây, chúng ta thấy sứ mạng của Giáo Hội nơi Dân ngoại đã trở nên rõ ràng, không ai phản đối nữa: các tông đồ phải ra khỏi môi trường Do Thái giáo mà loan báo Tin Mừng cho "mọi loài thọ tạo". Công thức này tương đương với Mc 1,10 và Mt 28,19: "mọi dân tộc"; chỉ loài người mới có thể nghe rao giảng và đáp lại bằng đức tin. Tuy nhiên, cũng có thể, trong chiều hướng của thánh Phaolô (Rm 8,19-22; Cl 1,1-23), tác giả nghĩ đến ảnh hưởng của công cuộc Đấng Cứu thế thực hiện trên toàn vũ trụ.

Tại sao lại "loan báo Tin Mừng cho muôn loài thọ tạo"? Cây cối có thể nghe Tin Mừng? Khi người ta nghe theo sứ điệp của Chúa Kitô, phải chăng tất cả vũ trụ sẽ được biến đổi? Điều này sẽ được thánh Phaolô giải thích trong Thư gửi người Rôma: "Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người... với niềm trông cậy là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang" (Rm 8,19-21). Khi chúng ta sử dụng các thọ tạo sai cách, chúng ta làm điều dữ. Khi sứ điệp Tin Mừng thay đổi con tim chúng ta, muôn loài thọ tạo cũng sẽ được cứu chuộc; chúng không còn bị sử dụng cho điều xấu nữa, mà được sử dụng đúng mục tiêu của chúng như khi chúng được tạo thành: một phương tiện để yêu thương và sống hạnh phúc. Sứ mạng của các môn đệ là làm việc để cho có một nhân loại mới và một thế giới mới chào đời.

Đức tin chính là lời đáp trả lời rao giảng và được liên kết với phép rửa tội (Cv 2,41; 8,12...).

Còn về các dấu lạ, trong Hội Thánh lúc ấy, không phải bao giờ các dấu lạ cũng được các tông đồ thực hiện; nhiều lần Thánh Thần hành động nơi và qua các thính giả (x. Cv 10,44-46). Các dấu lạ được kể ra như là những ví dụ, và được chứng thực trong sách Cv.

* Lên trời (19)

Tác giả đã liên kết hai thực tại không thuộc về cùng một bình diện, một bên là một cuộc tỏ mình hữu hình của Đức Giêsu Phục Sinh kết thúc những cuộc hiện ra, được diễn tả bằng ngôn ngữ của sách Cv (x. Cv 1,1-11); một bên là một cuộc tôn vinh trên thiên quốc, gắn liền với cuộc Phục Sinh (x. Ep 4,10; 1 Tm 3,16...). Thật ra, tác giả Mc không tường thuật một biến cố xảy ra trước mặt các khán giả. Các độc giả sẽ sai lầm nếu tưởng tượng Thăng Thiên như một "cuộc rời bỏ nhau", "một chuyến ra đi", "một sự biến mất". Đức Giêsu không ở quanh quẩn đâu đó trong vòng bốn mươi này trước khi lên trời. Người đã đi vào vinh quang của Cha Người ngay sau khi chết. Ngày Thăng Thiên không phải là một lễ từ biệt, mà là một lễ mừng sự hiện diện. Điều mà tác giả muốn kể cho chúng ta là Đức Giêsu Nadarét, đã bị lính Rôma giết vào trước lễ Vượt Qua, không hề bỏ rơi các môn đệ Người mãi mãi. Người đã sống lại và tiếp tục sống với họ. Cách thức hiện diện thì khác, nhưng Người không bỏ rơi họ. Trước khi sống lại, Người không thể ở với mọi người tại mọi nơi chốn. Nay đã được tôn vinh, Người có thể hiện diện ở mọi nơi. Người có thể ở với mọi người chúng ta.

* Ra đi thi hành sứ mạng (20)

Tác giả quan tâm khẳng định rằng trong hoạt động truyền giáo, các tông đồ (và sau các ông, là Hội Thánh mọi thời) có thể cậy dựa vào sự hiện diện tuy vô hình nhưng hữu hiệu của Đức Giêsu đang ở trên thiên quốc với tất cả quyền năng Kyrios của Người.

Ngay ngày hôm nay, việc loan báo Tin Mừng cũng phải có kèm theo các dấu lạ, nhưng các dấu lạ này không phải là những mánh lới phù chú ma thuật, nhưng là những dấu chỉ cho thấy thế giới mới như các ngôn sứ và tác giả Mc đã từng lon báo.

+ Kết luận

Bởi vì các nhà chuyên môn cho rằng Kết dài của TM Mc là một huấn giáo về Phục Sinh, chúng ta có thể đối chiếu bản văn với 1 Cr 15,1-11. Cuộc gặp gỡ với một nhóm môn đệ giới hạn trở thành nền tảng cho các biến cố liên hệ đến Đức Giêsu Phục Sinh. Giới hạn về thời gian giữa cuộc Phục Sinh và Lên Trời đảm bảo cho tính hợp pháp của các chứng nhân chọn lọc, nhưng cũng cho thấy cuộc Phục Sinh là như một kiểu trở lại tạm thời của Đức Giêsu trong một cuộc sống trần thế. Quan trọng là đi loan báo Tin Mừng "khắp nơi" và chỉ khi loan báo như thế, người môn đệ mới trải nghiệm sự hỗ trợ thường trực của Đức Chúa được tôn vinh vẫn đang ở lại trong cộng đoàn mình.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Nay đã sống lại, đã được tôn vinh, Đức Giêsu có thể hiện diện với từng người trong chúng ta. Có thể gọi Thăng Thiên là lễ nhân ra nhiều sự hiện diện của Đức Giêsu. Đây là ý nghĩa đích thực của Thăng Thiên, nên chúng ta có thể thực sự hạnh phúc và chan hòa niềm vui. Đức Giêsu Phục Sinh là Chúa tể (Kyrios) nhưng vẫn đang "cùng hoạt động" với các môn đệ Người, với mỗi tín hữu đang dấn thân cho sứ vụ Người giao phó.

2. Nhìn vào Nhóm môn đệ, chúng ta nhớ đến tập thể trong đó chúng ta đang hiện diện: gồm những con người bất toàn, có thất trung. Nếu hôm nay, chúng ta còn có thể ra đi loan báo Tin Mừng, là vì Đức Giêsu Phục Sinh đã tha thứ và khôi phục tư cách cho chúng ta. Sống đời thừa sai là làm chứng rằng chúng ta đã được ơn tha thứ và chúng ta đã gặp Đấng Phục Sinh.

3. Địa bàn hoạt động của người môn đệ là thế giới, "khắp tứ phương thiên hạ"; đối tượng họ gặp gỡ là mọi người và từng người trên đường họ đi, "mọi loài thọ tạo". Người môn đệ của Đấng Phục Sinh không được để cho những phân biệt về màu da, ngôn ngữ, chủng tộc,... làm cho mình ngần ngại ra đi chia sẻ Tin Mừng cứu độ.

4. Hôm nay chúng ta đang làm các "dấu lạ" nào? Phải chăng chúng ta cứ muốn Thiên Chúa làm các phép lạ, hay là chính chúng ta cũng muốn thực hiện các "dấu lạ"? "Dấu lạ" có phải là chính sự hiện diện khiêm tốn, nhân ái và có khả năng "chữa lành" của chúng ta? Con người hôm nay có cảm thấy rằng Đức Giêsu đã lên trời, vẫn đang ở cùng chúng ta tại đây chăng?

56. Chú giải của Noel Quesson.
Những câu từ 9 đến 20 của chương cuối cùng Tin Mừng theo Thánh Maccô không có trong những văn bản cổ xưa nhất vì có nhiều Giáo phụ trong Giáo Hội không biết đến những câu này. Ý kiến thông thường là những câu này đã được thêm vào do một tác giả khác không phải là Thánh Maccô (cách hành văn cũng có khác). Dầu vậy, đoạn cuối này vẫn “Hợp luật Giáo Hội” và là một phần bản văn chính thức của Thánh Kinh đã được linh ứng. Nên đó cũng là “Lời Chúa” như tất cả Tin Mừng. Đàng khác chúng ta nhận thấy nhũng câu này không có gì “mới lạ”. Tác giả vô danh đã tóm lại đoạn cuối của những bản Tin Mừng khác. Trước tiên đoạn này có giá trị thần học. Chúng ta sẽ lưu ý đến điều mà tác giả nhấn mạnh trong đoạn này: “Đức Giêsu phục sinh nói với 11 tông đồ: Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo tin mừng cho tất cả loài người”.

Nếu chúng ta hiếu kỳ đọc câu liền trước câu này, chúng ta sẽ thấy: Đức Giêsu hiện ra cho 11 môn đệ thấy, Người trách sự cứng lòng của các ông vì các ông đã không tin theo những người đã trông thấy Chúa sống lại (Mc 16,14). Như thế chúng ta đột ngột đi từ chỗ Chúa Giêsu trách cứ nặng nề sự không tin của các môn đệ đến việc Người sai các môn đệ đi rao giảng khắp thế giới. Dĩ nhiên là tác giả đã tóm lược lại qua những trình thuật khác. Chúng ta biết rằng, ban đầu các môn đệ đã “không tin”. Nhưng trình thuật tóm tắt này nhắc nhở trong lòng chúng ta rằng: Chúng ta không nên trì trệ trong những hoài nghi và do dự Đức Giêsu sống lại đã thúc đẩy “Các môn đệ”. Không đếm xỉa đến việc họ không tin, Đức Giêsu chủ động, đặt niềm tin cậy nơi các ông còn đang bất toàn -Hai động từ chia vào mệnh lệnh cách: ”Anh em hãy đi” và “Hãy rao giảng”, hai cách nói này diễn tả một động lực mãnh liệt biết bao!

Lạy Chúa Giêsu, Chúa không đợi chúng con –Giáo Hội Chúa cũng chưa hoàn hảo, những môn đệ cũng không hoàn hảo, và con cũng không hoàn hảo nhưng đó không phải là nguyên cớ để chúng con không làm gì cả.

“Khắp thế giới” - “Tất cả loài người”.

Những dự án, chương trình của chúng ta nhỏ nhen và tầm thường biết bao. Đức Giêsu mời gọi các bạn của Người loại trừ thói quen nhỏ nhen, để đến gặp gỡ mọi người. Có sứ vụ, thì phải có khởi hành, phải ra khỏi chính mình, ra khỏi thế giới tinh thần nhỏ bé của mình. Đối với các môn đệ, họ phải ra khỏi môi trường Do Thái để đi về phía dân ngoại. Đối với chúng ta cần phải quan tâm đến những nền văn hóa mới, chấp nhận những tư tưởng hiện đại, lắng nghe những ước vọng tân thời, ”rời bỏ sự thoải mái trí thức của những tư tưởng sẵn có”, để làm cho những người không suy nghĩ như chúng ta hiểu được chúng ta.

Nếu chúng ta trung thành với chiều hướng phổ quát này, chúng ta sẽ thích thú để thấy những nơi vừa mới được Tin Mừng hoá đã có những ngôn ngữ mới để loan báo tin mừng. Chúng ta sẽ cầu nguyện sao cho “những lục địa nhân loại” mới, những tâm thức mới đến được Giáo Hội, dù có phải xáo trộn một chút những gì đã có sẵn của chúng ta. Tin mừng dành cho “toàn thế giới” và cho “toàn nhân loại”.

Anh em hãy loan báo Tin Mừng.

Từ Hy Lạp ở đây là “Kèrussein”, nghĩa đen là “la lên”. Tin Mừng trước tiên là một tiếng “kêu”. Chúng ta tìm gặp lại được chiều hướng này của những Kitô hữu đầu tiên trong đức tin –Chúng ta đã quá trí thức hoá, chương trình hoá, tổ chức hoá việc rao giảng Tin Mừng. Đức Giêsu đã nói: ”Hãy kêu to” Tin mừng cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta thuyết phục “hay” chứng minh – Nhưng đơn giản chỉ làm chứng tá với sự vui mừng và sức mạnh của đức tin chúng ta. Than ôi có những người Kitô hữu không muốn làm chứng nhân như thế. Họ cứ rên siết, lên án, chỉ trích, đoán xét – Lạy Chúa xin cho chúng con sự vui mừng có sức lôi cuốn mà Chúa đòi hỏi nơi chúng con – ước gì gương mặt chúng con tỏ lộ cho anh em biết sự vui mừng đến từ Chúa. Nếu đối với chúng con, đức tin tôn giáo là một điều buồn tẻ, thì tốt hơn là chúng con nên im lặng về vấn đề này. Nếu đó là một “Tin mừng”, “Tin tốt” thì xin sự mừng tốt đó phát triển ra từ da thịt chúng con, trên môi miệng chúng con thành ra một tiếng kêu hân hoan.

Ai tin và chịu phép rửa sẽ đượ cứu độ, còn ai không tin sẽ bị kết án.

Nếu Tin Mừng phải được rao giảng lớn tiếng cho mọi người, thì con người cũng có thể chấp nhận hay từ chối một cách tự do. Việc rao giảng Tin Mừng thể hiện một sự “xét xử” gần như là “phiên toà xử Đức Giêsu”. Một số đáp lại bằng đức tin, một số khác bằng “sự không tin” – Dĩ nhiên, không thể đẩy xuống địa ngục vô số con người thiện chí nhưng không thể tin vào Tin Mừng. Cũng không thể tưởng tượng một sự can thiệp của Chúa để trừng phạt. Toàn bộ Thánh Kinh chứng minh rằng Chúa không kết án ai, nhưng cứu rỗi tất cả mọi người. Không bao giờ đặt vấn đề: ”Chúa có tha tội cho tôi không?”. Mà là “Tôi có chấp nhận sự tha thứ mà Chúa đã ban cho từ trước hay không?”. Nói cách khác, kẻ nào biết rõ mà lại cố tình chối bỏ Tin Mừng, thì không phải Chúa kết án người đó, mà chính người đó tự kết án mình.

Làm sao hiểu được điều này?

Hiểu đơn giản như sau: Ngoài Tin Mừng, ngoài Chúa Giêsu Phục sinh và Hằng sống, không có sự cứu rỗi, không có câu giải đáp cho số phận con người hay chết. Ngoài Đức Giêsu, con người thực sự chỉ hư mất, số kiếp của con người ngắn ngủi. Chỉ có Đức Giêsu mới cứu được con người ra khỏi số kiếp của nó. Chỉ có Đức Giêsu mới cứu được con người khỏi phải “chỉ là một con người” mà thôi. ‘Kẻ nào tin? kẻ nào không tin?’. Đây là phần thưởng đặc biệt cho sự tự do của chúng ta. Nhưng có một điều chắc chắn là: Không ai bị bắt buộc phải sống đời đời với Đức Giêsu nếu người đó không muốn -Đức Giêsu tôn trọng chúng ta. Ngài không ép buộc chúng ta.

Những ai có lòng tin, sẽ làm được các dấu lạ này: “Nhân danh Thầy họ sẽ trừ được ma quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ có cầm phải rắn hay uống nhầm thuốc độc thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh hoạn yếu đau thì những người này sẽ được mạnh khoẻ”.

Con người thời nay không thể đặt “câu hỏi” về ma quỷ, rắn, bệnh tật và những chất độc khác mà con người tin Chúa được miễn nhiễm. Những “dấu lạ” được hứa này chỉ là những giá trị điển hình, phù hợp với thời đại mà Kitô giáo được nảy sinh giữa cộng đồng dân ngoại, trong đó những “Thầy phép” (phù thuỷ) là những ông vua.

Độc giả ngày nay phải hiểu những “dấu lạ” này theo nghĩa tượng trưng. Điều vẫn đúng là: Người “tín hữu” cùng với Đức Giêsu sống lại, phải lao vào trận chiến chống lại “tất cả những lực lượng thù địch, nô lệ hoá và làm mất phẩm giá con người”, tất cả những gì “đầu độc” nhân loại. Ngày nay có những “dấu lạ” tương ứng với những dấu lạđược tác giả Tin Mừng kể ra trên đây đối với thời của ông. Chúng ta hãy tự hỏi xem ngày nay cái gì có thể là “dấu lạ” cho mình thời bây giờ. Chúng ta đừng coi thường “năng khiếu sinh ngữ” vì ngôn ngữ là một phương tiện truyền thông tuyệt hảo, và nó là một “ân ban của Chúa Thánh Thần”. Lạy Chúa xin cho mọi Kitô hữu “khả năng một ngôn ngữ mới” để có thể làm cho Tin Mừng đi vào trong những “tâm hồn mới lạ” (chưa đón nhận Chúa).

Còn về khả năng “săn sóc và chữa bệnh cho người đau yếu” thì chúng ta biết người anh em chúng ta cần đến năng khiếu này như thế nào. Tin Mừng là một sức mạnh cứu rỗi, một nguồn hạnh phúc mà Kitô hữu có trong tay. Vậy thì chúng ta chớ khoanh tay không làm gì cả, chúng ta phải biết xây dựng chúng.

Nói xong Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.

Tác giả vô danh chỉ có nhắc lại mà không dàn cảnh cụ thể những gì mà thánh Luca đã kể (Cv 1,9). Chúng ta nên lưu ý rằng, trong hai cách nói này, một cách có thể có giá trị lịch sử đối với con người chúng ta, (sự biến mất được nhìn thấy rõ ràng của Đức Giêsu), trong khi cách nói kia hoàn toàn căn cứ vào đức tin (việc bay lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa). Chúng ta coi chừng đừng “vật chất hoá” cách diễn tả này: Thiên Chúa không có “bên phải” hay “bên trái” gì cả, Người cũng không “ở trên” trời hay “ở dưới” đất. Trong tâm thức thời đó, hình ảnh bầu trời xanh gợi lên thế giới thần thánh và người ta cũng đã có nói về một vài vị hoàng đế La Mã nào đó đã “lên trời”. Đối với Đức Giêsu, sự Thăng Thiên hoàn toàn khác: Người đạt đến Vương quyền trên toàn vũ trụ, và để diễn tả điều này, người ta dùng đến ngôn ngữ Thánh Kinh trong Thánh vịnh 110,1: “Lời truyền dạy của Thiên Chúa cho Chúa tôi: Hãy ngự bên phải của Ta”. Những từ ngữ gợi hình này nói lên một ý nghĩa thần học về thực tại Đức Kitô Phục sinh: Chúa vinh quang, một thực tại mà ta không nắm bắt được bằng giác quan hay lý trí con người, một thực tại mà ta chỉ có thể đạt đến bằng đức tin.

Còn các tông đồ thì đi rao giảng khắp nơi.

Dường như các ông không để chậm trễ một giây nào. Các ông lên đường ngay lập tức. Đây cũng là một “dấu lạ”. Ngôi mộ trống … “Họ ra đi”… “họ lên đường “…

Chuá cộng tác với họ và dùng dấu lạ điềm thiêng mà xác nhận lời họ giảng.

Đức Giêsu không còn “ở trong mồ” nữa. Người đồng thời “ngự bên hữu Thiên Chúa” và “hoạt động với các môn đệ”. Đây là dấu lạ mà chúng ta không có từ ngữ nào để diễn tả sự phong phú của mầu nhiệm Thăng Thiên. Những từ ngữ đúng nhất có lẽ lại là “một hiện diện ẩn khuất”, một hiện diện sinh động đang “hành động” dưới hình thức của một lời nói.

57. Cùng Lên Trời Với Chúa – Lm Nguyễn Nguyên
Nếu cuộc đời này sinh ra lớn lên rồi chết đi thì cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì. Con người sinh ra để được sống mãi chứ không phải để nhào lộn trong bể khổ và chết là hết kiếp người. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải tìm ra lẽ sống, và cùng đích đời người là gì? Sống để làm gì? Và chết rồi đi đâu? Đó là những vấn đề làm nên nhân cách con người. Chúng ta chọn cách sống nào cũng tuỳ thuộc vào việc chúng ta hiểu ý nghĩa và cùng đích đời người ra sao?

Hôm nay, chúng ta cùng với giáo hội mừng lễ Chúa lên trời. Điều đó dạy cho chúng ta biết rằng ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Chúa lên trời để cho chúng ta thấy rằng: Định mệnh của loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Số phận của con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Đó mới là cùng đích của đời người, đó mới là quê hương vĩnh viễn của chúng ta.

Thế nhưng, muốn tới được trời, muốn lên thiên đàng thì trước hết chúng ta phải đi hết con đường dương thế này bằng cách chu toàn những nhiệm vụ của mình ở đời này. Một trong những nhiệm vụ chính yếu chúng ta vừa nghe trong tin mừng hôm nay: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”. Đây là một nhiệm vụ cao cả mà Chúa đã trao cho chúng ta khi Ngài về trời. Chúa về trời, Ngài không còn xác thịt trên thế gian này nữa. Ngài không còn đôi tay nữa, chỉ có đôi tay của chúng ta, để làm công việc ngày hôm nay của Ngài. Ngài không còn đôi chân, chỉ có đôi chân của chúng ta để dẫn người ta theo đường lối của Ngài. Ngài không còn tiếng nói, chỉ có tiếng nói của chúng ta để nói với loài người rằng Ngài đã yêu thương, đã chịu chết như thế nào. Ngài không còn cách giúp đỡ nào khác ngoài sự giúp đỡ của chúng ta để đưa tha nhân đến bên cạnh Ngài.

Vì thế, một cuộc đời loan báo tin mừng cho Chúa trên cõi trần này không nhất thiết phải đổ máu nhưng thiết yếu là phải thể hiện bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm, là biết thực hành những lời Chúa dạy, không gian dối, lừa đảo, không tham lam bất chính, luôn chung thuỷ trong đời sống gia đình. Một cuộc đời loan báo tin mừng không nhất thiết phải có một bản án để người ta thoá mạ, tẩy chay, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Một cuộc đời loan báo tin mừng không nhất thiết phải đi đây đi đó rao giảng những lời hay ý đẹp mà là sống trong cùng một khu xóm, nhưng quý ông không nhậu nhẹt say sưa, không cờ bạc, không la vợ, đánh con, nhưng biết chăm sóc gia đình chu đáo, đồng thời còn dành thời giờ để đến an ủi, giúp đỡ, chia sẻ với những người già yếu bệnh tật, cô đơn; còn quý bà thì không ngồi lê đôi mách, nói hành nói xấu, nhưng biết lo lắng tần tảo, yêu thương chồng con, vui vẻ với làng xóm; và các bạn trẻ trong giáo xứ thì sống lành mạnh, biết kính trên nhường dưới, không đua đòi, không ăn nói tục tằn, nhưng chăm chỉ nhiệt thành với công việc chung… Sống được như vậy là chúng ta đang làm chứng cho Chúa một cách tuyệt vời nhất, sống được như vậy là chúng ta đang xây nên con đường dẫn về Trời cho mình, đang làm cho gia đình chúng ta, giáo xứ chúng ta thành nơi Chúa hiện diện và biến đổi thế giới này thành thiên đàng.

Nguyện xin Chúa giúp chúng ta sống cho thật tốt, thật tròn đầy những bổn phận hằng ngày để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về Trời với Chúa mà hưởng hạnh phúc muôn đời. Amen.

58. Chúa lên trời.
Hôm nay chúng ta mừng kính biến cố về trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Hay nói đúng hơn chúng ta mừng kính việc Ngài được tôn vinh, làm chủ thế giới và vũ trụ. Bởi đó, chúng ta không hướng về trời theo nghĩa là hướng tới một điểm nào đó trong không gian, để rồi chỉ chờ đợi được di tản, được bốc đi khỏi chốn lưu đày ở thế giới này.

Chính vì thế, thánh Luca đã ghi lại lời hai người đàn ông mặc áo trắng nói với các môn đệ, sau khi Chúa đã lên trời: Này các bạn xứ Galilêa, sao còn đứng nhìn trời làm chi. Đức Kitô Đấng vừa lìa bỏ các bạn và được rước lên trời cũng sẽ ngự đến y như các bạn đã thấy Ngài lên trời.

Từ lời phán bảo này chúng ta nhận thấy: Người môn đệ của Chúa không được nhìn trời mà quên đi trái đất, nơi mà bổn phận đang chờ đón họ như lời Chúa Giêsu đã nói: Anh em sẽ làm chứng về Thày tại Giêrusalem, tại Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng bờ cõi trái đất.

Ngày Chúa Giêsu ra đi là ngày sứ mạng của các môn đệ bắt đầu. Mơ tưởng tới một cõi trời cao mà quên đi sứ mạng được trao phó cho mình thực hiện nơi trần gian, chính là mơ tưởng một cách hão huyền. Nếu chúng ta có hướng lên trời thì điều đó phải có nghĩa là chúng ta hướng tới những thực tại cao quí và tốt đẹp, khả dĩ giúp cho con người đạt tới những kích thước viên mãn của mình về mặt tinh thần, và cũng chỉ có thế mà thôi.

Đã đến lúc chúng ta cần phải dứt khoát với những quan niệm lỗi thời về một thiên đàng, về một nước Chúa lơ lửng trên không trung, một quê hương chúng ta coi là thật, ở một chỗ nào đó trên trời, khiến chúng ta lơ là, có khi còn khinh chê cái thế gian phù vân, hư vô giả trá. Cái quê hương lầm than đau khổ như một thứ quê hương không thật.

Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa là chúng ta sẽ đi tới một thái cực khác, đó là chỉ còn biết vui sự thế gian này, coi thế gian này như là tất cả, như là vĩnh cửu. Quê hương thật là trời mới đất mới, không đồng hóa với trần gian, nhưng cũng không đối lập với trần gian. Trái lại, trời mới đất mới chính là quê hương trần thế này được đổi mới nhờ Thánh Thần của Đức Kitô Phục sinh. Bởi đó chúng ta không nhìn lên trời, mà cần phải thiết tha hơn ai hết với sứ vụ Chúa đã trao ban, đó là đổi mới thế gian, xây dựng nước Chúa, kiến tạo một trời mới đất mới từ chính cái nguyên liệu là thế giới, là xã hội chúng ta đang sống. Hay nói một cách khác đó là nhờ việc xây dựng xã hội này mỗi ngày một tốt đẹp hơn, bằng những hành động bác ái yêu thương, nhờ đó chính bản thân chúng ta sẽ đạt tới quê hương hạnh phúc nước trời.