Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
04/12 Chữa lành 2 người mù
- Viết bởi Ngọc Biển, SSP
Chữa lành 2 người mù.
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 1 mùa vọng.
"Tin vào Chúa Giêsu, hai người mù được chữa lành".
LỜI CHÚA: Mt 9, 27-31
Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, có hai người mù chạy theo Chúa và kêu lớn tiếng rằng: "Hỡi Con vua Đavít, xin thương chúng tôi".
Khi Chúa tới nhà, những người mù tiến lại gần Chúa. Chúa Giêsu phán bảo họ: "Các ngươi có tin rằng Ta có thể làm việc ấy không?" Họ thưa: "Lạy Thầy, có". Bấy giờ Chúa sờ vào mắt họ và phán: "Các ngươi tin thế nào, thì hãy được như vậy". Mắt họ liền mở ra, nhưng Chúa Giêsu truyền cho họ rằng: "Coi chừng, đừng cho ai biết". Nhưng vừa ra đi, họ liền đồn tiếng Người trong khắp miền ấy.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Mắt họ liền mở ra
Suy niệm:
Ở Việt Nam hiện nay có khoảng 500 ngàn người bị mù hai mắt,
và 900 ngàn người mù một mắt.
Tỉ lệ người mù như thế là cao so với nhiều nước khác.
Bao cố gắng được đưa ra để giảm số người bị mù,
trong đó có việc mổ cho 350 ngàn người mắc bệnh đục thủy tinh thể.
Người ta hy vọng nhờ đóng góp của các ân nhân,
sẽ có 100 ngàn người nghèo được mổ trong năm 2010.
Hạnh phúc biết bao cho ai lần đầu tiên thấy khuôn mặt người thân,
thấy được màu xanh của lá và phân biệt được sáng với chiều.
Hạnh phúc cho ai lần đầu tiên đi đứng mạnh dạn một mình
mà không cần bàn tay dắt hay cây gậy khua phía trước.
Ở nước Palestin thời xưa cũng có nhiều người mù.
Mù thường bị coi như một hình phạt của Thiên Chúa (Đnl 28, 28-29).
Người mù hẳn là người bị đứng ngoài lề xã hội.
Vào thời y khoa còn kém, người mù phải chịu cảnh tăm tối suốt đời.
Nỗi đau của người mù cũng ảnh hưởng trên cả đất nước.
Chính vì thế khi nói đến thời đại hạnh phúc của Đấng Mêsia,
Isaia nhiều lần nhắc đến chuyện người mù được sáng mắt (Is 35, 5; 42, 7).
Trong bài đọc 1 ta vừa nghe (Is 29, 18), ngôn sứ Isaia viết:
“Mắt người mù sẽ thoát cảnh mù mịt tối tăm, và sẽ được nhìn thấy.”
Được nhìn thấy bằng đôi mắt nghĩa là được mở ra với thế giới bên ngoài.
Tiếp xúc bằng mắt vẫn có cái gì vượt trội hơn tiếp xúc bằng tay hay tai.
Khi chữa lành những người mù và những tật bệnh khác,
Đức Giêsu khai mở thời đại thiên sai (x. Mt 11, 2-6).
Ngài cho thấy Nước Thiên Chúa nay đã đến.
Khi hai anh mù gọi Đức Giêsu là Con vua Đavít (c. 27),
họ nhìn nhận Ngài là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai.
Bởi thế họ hy vọng Ngài sẽ cho họ quà tặng của thời thiên sai.
“Xin thương xót chúng tôi” là xin đưa chúng tôi ra khỏi cảnh mù lòa.
Đức Giêsu đã muốn chữa hai anh một cách kín đáo, tại nhà của Phêrô.
Ngài không chữa cho họ ngay lập tức, nhưng lại hỏi họ một câu rất lạ:
“Các anh có tin là tôi có thể làm được điều ấy không?” (c. 28).
Chỉ khi họ tuyên xưng niềm tin vào quyền năng của Ngài,
Đức Giêsu mới mở mắt cho họ bằng một lời và một chạm nhẹ (c. 29).
Niềm vui quá lớn khiến họ không giữ được lặng thinh (c. 31).
Giáng Sinh là lễ của Ánh sáng, Ánh sáng ngay giữa đêm đen.
Ơn của Mùa Vọng là ơn thoát ra khỏi cảnh tăm tối mù lòa.
Mù lòa đâu phải chỉ là chuyện của 37 triệu người mù trên thế giới.
Mù lòa về chính mình, mù lòa vì không thấy những Ladarô trước cửa,
mù lòa về chính những người trong gia đình, trong giáo xứ,
mù lòa vì không thấy Chúa vẫn đang hiện diện gần bên,
những mù lòa ấy cũng nguy hiểm không kém và cần được chữa lành.
Xin Giêsu đụng vào mắt tôi để tôi được sáng,
và để tôi giúp người khác cũng được thấy ánh sáng Giêsu.
Cầu nguyện:
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối và khuyết điểm,
những giả hình và che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho ánh sáng Chúa
chiếu dãi vào bóng tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: CHÚA CỨU THẾ LÀ ÁNH SÁNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Từ hàng ngàn năm trước, Isaia đã loan báo về Đấng Cứu Thế sẽ mở mắt người mù, mở tai người điếc, mở miệng người câm, đem niềm vui cho người nghèo khổ, nâng cao những người hèn mọn trong xã hội. Người tháo cởi mọi thứ xiềng xích trói buộc con người, ràng buộc miệng lưỡi, chèn ép tâm hồn, bưng bít đôi mắt, che kín đôi tai.
Lời tiên báo ấy ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Hôm nay Người chữa lành một lượt hai người mù. Hai người là rất nhiều người, là tất cả những người mù. Chúa Giêsu đang đi trên đường. Chúa Giêsu là con đường, là ánh sáng soi đường. Hai người mù không biết đường, không thấy đường cuống cuồng chạy theo để xin Chúa Giêsu cho thấy đường. Chúa Giêsu hỏi họ: “Các anh có tin không”. Tin là điều kiện. Tin cũng là thắp lên ánh sáng. Đức tin chính là ánh sáng soi đường. Có đức tin sẽ nhìn thấy đường đi. Vì đường đi có nhiều bóng tối thử thách, có nhiều cạm bẫy nguy hiểm, phải có ánh sáng đức tin mới nhìn thấy đường đi. Phải có ánh sáng đức tin mới nhìn thấy cạm bẫy và vượt qua được nguy hiểm. Đường đi về Thiên đàng, đến gặp gỡ Thiên Chúa là con đường dài, cần có sự kiên trì trung tín của niềm tin vững mạnh mới có thể đi đến nơi.
Khi mở mắt hai người mù, Chúa Giêsu cho họ nhìn thấy quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Mở cho họ con đường mới tràn đầy tin yêu và hi vọng. Con đường thoát khỏi bóng tối. Con đường đi tới Thiên Chúa. Con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Nhìn thấy công trình của Chúa, ta sẽ không còn xấu hổ thẹn thùng nhưng sẽ vui mừng phấn khởi tôn vinh danh Chúa như lời Isaia tiên báo: “Từ nay Giacop sẽ không còn phải xấu hổ, từ nay nó sẽ không còn bẽ mặt thẹn thùng, vì khi Giacop nhìn thấy nơi nó những công trình tay Ta đã làm nó sẽ tuyên xưng danh Ta là thánh, sẽ tuyên xưng Đấng Thánh của Giacop là thánh và sẽ kính úy Thiên Chúa của Itraen”.
Lạy Chúa, mắt con mù tối và tâm hồn con bị trói buộc trong nỗi nghi nan, trong sự lầm lạc. Con không biết đường biết lối. Xin Chúa hãy đến mở mắt tâm hồn con. Cho con nhìn thấy quyền năng Chúa. Cho con nhìn thấy ánh sáng sự thật. Cho con thoát cảnh lầm lạc. Để con sẽ vững tin. Để con ca tụng quyền năng Chúa. Và để con tiến bước trên con đường ánh sáng.
Suy Niệm 3: Lòng Tin Khiến Họ Ðược Chữa Lành
Roberto Newman là một người mù từ lúc mới sinh, và mãi đến năm 50 tuổi, một cuộc giải phẫu mới cho phép ông được thấy ánh sáng đầu tiên trong cuộc đời. Với ánh sáng, toàn thể thế giới như thay đổi hẳn viễn tượng trong tâm trí ông với những điều bấy lâu ông hằng tưởng tượng.
Khi được phỏng vấn, ông đã trả lời tờ báo Chicago như sau: "Ðược nhìn thấy mọi vật quả là một diễm phúc trên đời. Tôi không ngờ rằng một giáo thuyết đã dạy tôi sẽ nhìn thấy mọi vật quanh tôi và đêm về tôi có thể nhìn ngắm các vì sao, những vật thể li ti của dãy ngân hà trên thiên không diệu vời. Bạn sẽ chẳng bao giờ thấy chúng tuyệt vời đến thế nào đối với tôi".
Nhận xét của Roberto thật xác đáng. Những ai đã một lần mất đi ánh sáng trong cuộc đời để rồi đánh giá trị của khả năng nhìn ngắm. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng thuật lại cho chúng ta câu chuyện hai người đang cần ánh sáng và cuộc tìm kiếm của họ.
Thật vậy, ánh nắng chói chang của vùng sa mạc cùng với những cơn lốc thổi cát bụi mịt mù và cách sống không mấy vệ sinh về đôi mắt đã khiến cho bệnh mù dễ dàng phát sinh tại vùng Palestina. Chúng ta cũng phần nào thấy được điều này qua con số bị mắc bệnh thường tìm đến với Chúa Giêsu. Tuy nhiên, dù có phải đông người mắc chứng bệnh mù lòa thì không phải vì thế mà người mù lại an phận với kiếp mù lòa của họ, nhưng cuộc sống của họ luôn luôn là một thao thức tìm kiếm ánh sáng, gặp được cơ may có thể tìm thấy ánh sáng thì họ chẳng bao giờ bỏ lỡ cơ hội.
Người mù Thành Giêricô đang ngồi ăn xin bên vệ đường, nhưng vừa nghe biết Chúa Giêsu đi ngang qua, anh liền vội vàng lớn tiếng kêu xin: "Lạy Ngài xin cứu chữa tôi". Những người chung quanh cản ngăn thì anh lại càng la to hơn để rồi một khi đã nghe tiếng Chúa gọi, anh ta vứt bỏ tất cả để kịp đến với Ngài.
Hai người mù trong trình thuật Tin Mừng hôm nay tuy không có những cử chỉ như người mù Thành Giêricô, nhưng thái độ bền bỉ của họ cũng nói lên được tâm trạng khát vọng sự sáng. Chúa Giêsu đã gặp họ dọc đường, họ lớn tiếng kêu xin Người nhưng Ngài không chữa họ tại nơi đó, Ngài tiếp tục hành trình. Dù chưa được Chúa đáp lời chữa ngay nhưng họ không thất vọng bỏ cuộc và vẫn tiếp tục theo Ngài. Về đến nhà, họ tiến lại gặp Ngài để một lần nữa xin Ngài chữa lành. Câu hỏi Chúa Giêsu đã đặt ra cho hai người mù là để gián tiếp diễn tả một câu hỏi khác: "Các ngươi có tin Ta là Ðấng Cứu Thế không?" Vì theo các tiên tri khi thời Ðấng Cứu Thế đến thì mọi bệnh tật sẽ được chữa lành như: người câm nói được, người điếc được nghe, kẻ què được lành và người mù được thấy... Họ đáp: "Có" và lòng tin đã khiến cho họ được chữa lành. Trước và sau khi được chữa lành, người mù đều lớn tiếng. Lúc trước họ lớn tiếng vì lòng khát khao tìm thấy ánh sáng, và lần sau họ cũng lớn tiếng với nỗi vui mừng đã được thấy ánh sáng. Khi tìm được nỗi vui mừng thì dù Chúa Giêsu có ngăn cấm, họ vẫn cao rao danh Ngài.
Thế giới hôm nay cũng đang có những luồng ánh sáng và cơn lốc tối mù lý trí và lương tâm con người, bệnh mù này còn nguy hiểm hơn bệnh mù thể xác. Vì lắm lúc con người đang mù mà vẫn cứ tưởng là mình sáng, hoặc có quá nhiều người mù nên con người lại lấy số đông để khỏa lấp cơn bệnh. Phần nào như tâm trạng của Tú Xương: "Thiên hạ có khi đang ngủ cả, viêc gì mà thức một mình ta".
Ðể chữa trị bệnh mù này cũng không dễ dàng gì, nó đòi hỏi con người phải có một thái độ bền bỉ và vững tin vào Chúa Giêsu như hai người mù ở trên. Bước theo Ngài nhưng nhiều lúc như bị Ngài bỏ quên không nhìn tới. Tha thiết tìm đến Ngài thế mà chẳng được đoái hoài. Thất vọng để rồi buông xuôi bỏ cuộc thì con người sẽ mãi mãi ở trong bóng tối, nhưng vững bước theo Ngài để rồi tuyên xưng Ngài là Ðức Kitô thì con người sẽ tìm thấy ánh sáng, sẽ được nhìn ngắm những điều tuyệt vời mà trước đấy họ chưa từng thấy và cũng chẳng ai có ngoài một mình Thiên Chúa.
Ước mong rằng trong Mùa Vọng này, mỗi người trong chúng ta sẽ hiểu được giá trị sự sáng Chúa đã đem đến cho trần gian, cũng như biết rõ tình trạng mù lòa của mình để rồi chúng ta sẽ tìm đến với Ngài, bất chấp mọi khó khăn trở ngại và nhờ vào lòng tin, chúng ta sẽ được chữa lành.
Suy Niệm 4: Người mù được sáng
Không riêng gì thế giới siêu hình, ngay cả thế giới hữu hình của chúng ta cũng đầy dẫy những huyền nhiệm, hay đúng hơn nhưng thực tại mà con người vẫn chưa hiểu được bản chất. Chúng ta chỉ cần nghĩ đến ánh sáng.
Có lẽ ánh sáng vẫn tiếp tục là một huyền nhiệm mà khoa học chưa đưa ra một giải thích thoả đáng hoàn toàn: người thì cho rằng ánh sáng được cấu tạo bằng những tinh thể cực nhỏ, kẻ lại cho rằng ánh sáng được cấu tạo bằng những âm ba…
Tính cách huyền nhiệm của ánh sáng và của biết bao thực tại khác trong thế giới là một mời gọi để con người không ngừng vươn lên chiều kích siêu việt của cuộc sống.
Con người không thể tự mình tìm ra được giải đáp cho mọi vấn đề của cuộc sống. Chỉ Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể đem lại cho con người chân lý về cuộc sống, về con người, về chính Ngài. Chỉ Thiên Chúa mới có thể vén mở cho con người biết được chân lý và sự vén mở ấy được thực hiện trong Chúa Giêsu Kitô.
Nói như thánh Gioan: Chúa Giêsu chính là Ánh sáng thế gian, ai đi theo Ngài sẽ được ánh sáng ban sự sống. Tin mừng hôm nay khi thuật lại việc Chúa chữa hai người mù cũng muốn nêu bật chân lý ấy. Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Chỉ trong Ngài, chúng ta mới thực sự là người được sáng mắt; chỉ trong Ngài, chúng ta mới biết được chúng ta là ai? Sẽ đi về đâu? Và đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Nhưng dĩ nhiên, để có thể tiếp nhận ánh sáng của Chúa Kitô, điều kiện tiên quyết là chúng ta phải ý thức được sự mù loà của mình và quyết tâm ra khỏi sự mù loà ấy.
Mù quáng vẫn là cơm cám dỗ khủng khiếp nhất của con người. Mù quáng chính là không còn nhận thức và chấp nhận sự mù loà của mình. Trong Tin mừng, Chúa Giêsu đã lên án thái độ mù quáng của Biệt phái, họ cuộn mình trong nấm mồ tăm tối của những thành kiến và mớ kiến thức hạn hẹp của con người để khước từ ánh sáng của Thiên Chúa.
Với tâm tình của hai người mù hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa chữa trị tật mù loà của thiển cận, tham lam, ích kỷ, tự phụ để chúng ta được bước đi trong ánh sáng của Chúa.
Trong ánh sáng của Ngài, chúng ta tin rằng mọi biến cố cuộc sống đều có ý nghĩa. Trong ánh sáng của Ngài, thất bại, khổ đau sẽ là khởi đầu của nguồn ơn dồi dào hơn. Trong ánh sáng của Ngài, tha nhân dù có thấp hèn đến đâu cũng đều phản chiếu vẻ đẹp của Thiên Chúa.
Suy Niệm 5: Chiến thắng thuộc về chúng ta (Mt. 9, 27-31)
Khi Đức Giêsu về tới nhà, thì hai người mù ấy tiến lại gần. Người nói với họ: “Các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?” Họ đáp: “Thưa Ngài, chúng tôi tin.” Bấy giờ Người sờ vào mắt họ và nói: “ Các anh tin thế nào thì được như vậy.” (Mt. 9, 28-29)
Nhiều khi chúng ta chán nản trước một vài thất bại, một vài khó khăn cản trở đời sống riêng tư cũng như chung của xã hội. Chúng ta phiền muộn phải chứng kiến những thế lực tăm tối vẫn hoành hành tàn phá; kẻ mạnh bóc lột kẻ yếu, bạo lực công khai hay che đậy, những kẻ ích kỷ lợi dụng, những kẻ cường quyền kiêu ngạo. Một vài lúc chúng ta có khuynh hướng tiêu cực, thụt lùi trước những sức nặng ngăn chặn bước tiến của chúng ta.
Hôm nay một lời đầy hy vọng vang tới tai chúng ta, thúc giục ta can đảm lên, đừng để nỗi chán nản đè bẹp chúng ta: “Nước Thiên Chúa là đây. Ngài ở với chúng ta, Ngài là hoàng tử ánh sáng đến đánh tan bóng tối”. Vâng, những kẻ mù tin Ngài và đang reo vui nhảy múa vì Ngài đã mở mắt cho họ được sáng. Chúng ta chắc chắn chiến thắng sau cùng vì Thánh Thần của Đấng Phục sinh đang sống giữa lòng thế giới: “Kẻ bạo chúa sẽ không còn nữa, và kẻ hỗn xược sẽ mất dạng”.
Nhưng niềm cậy trông này xây nhà trong thế giới hư ảo cho ta trú ẩn. Những xung đột vẫn còn đó, những cuộc chiến vẫn tiếp nối. Môn đệ không hơn Thầy. Thầy đã hy sinh mạng sống, trò cũng phải vác thập giá mình để tham gia xây dựng nước trời lớn lên. Nếu sống biết cậy trông, thì phải lo cố gắng, tin rằng mỗi bước đi trong tình yêu chân thật là đạt tới nước trời đời đời. Môn đệ không được miễn trừ khỏi chiến đấu, nhưng với đức tin, họ sẽ có một cái nhìn sâu sắc rằng những cuộc chiến của họ không vô ích vì chúng đưa họ tới giờ chiến thắng cuối cùng.
Nếu đôi khi chúng ta có cảm tưởng kéo lê đời mình trong tầm thường, nếu chúng ta thất vọng về những mù quáng của thế giới, thì tại sao chúng ta không nghiền ngẫm, nuôi dưỡng thái độ cậy trông của những anh mù trong Tin mừng hôm nay và kêu lên rằng: “Lạy con vua Đa-vít, xin thương xót chúng con”.
Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta không được phép thất vọng vì Người đến với chúng ta trong quyền năng mạnh mẽ của lòng thương xót và trong tình yêu chiến thắng tất cả mọi tử thần.
C.G
Suy Niệm 6: MÙ THÌ SÁNG – SÁNG LẠI MÙ (Mt 9, 27-31)
Người ta thường nói: “Tình yêu là thứ ngôn ngữ mà người mù có thể thấy, người điếc có thể nghe!”.
Điều đó đã thật đúng với hai người mù hôm nay trong bài Tin Mừng. Quả thật, hai người mù này, họ đã nhận ra Đức Giêsu và họ đã đặt niềm tin tuyệt đối vào Ngài. Còn những kẻ sáng mắt như Pharisiêu và Luật Sĩ..., thì lại không nhận ra con người và sứ vụ của Đức Giêsu. Họ có mắt mà như mù, còn kẻ mù thì lại sáng! Tại sao vậy? Thưa, vì Đức Giêsu đã phát ra tín hiệu tình yêu, và chỉ những ai khao khát cũng như muốn đón nhận tình thương đó của Ngài thì mới nhận ra mà thôi. Còn những kẻ bảo thủ, cố chấp và tự phụ thì muôn đời vẫn trơ như đá, và lẽ đương nhiên không thể nhận ra Đức Giêsu vì không nằm trong quỹ đạo cũng như không bắt được tần sóng yêu thương của Ngài.
Lời kêu xin của những người mù: “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót chúng tôi”, nói lên niềm tin tuyệt đối vào Ngài. Bởi vì Đức Giêsu thuộc dòng dõi Vua Đavít, Đấng đến để giải thoát và cứu chữa con người, đã được các ngôn sứ tiên báo trước đó, và hôm nay họ nhận ra chính Ngài chứ không phải một Giêsu nào đó cùng tên.
Vì thế, khi được hỏi: “Các ngươi có tin rằng Ta có thể làm việc ấy không?”. Họ đã nhanh chóng đáp lại: “Thưa Ngài, chúng tôi tin”. Cuối cùng, niềm tin đã làm cho họ sáng mắt do tình thương của Đức Giêsu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mặc khải cho chúng ta biết về sứ vụ cứu thế của Đức Giêsu, Ngài đến để đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những người đau khổ.
Ngang qua đó, Đức Giêsu muốn mời gọi mỗi chúng ta cần có tấm lòng yêu thương như Ngài. Có khi chúng ta không có cái gì về vật chất để chia sẻ cho người nghèo, nhưng chúng ta có tình yêu ngang qua cử chỉ, ánh mắt, nụ cười….
Hình ảnh của những người mù vui mừng hân hoan vì được Đức Giêsu chữa cho sáng mắt cũng là điểm gợi ý cho chúng ta rằng:
Cần năng đến với Chúa để được Ngài mở con mắt đức tin cho mình. Khi con mắt đức tin được sáng, hẳn chúng ta sẽ được hạnh phúc vì nhận ra Chúa hiện diện trong cuộc đời và sống với nhau như anh chị em trong đại gia đình.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con không bị mù về mặt thể xác, nhưng có khi tâm hồn chúng con lại mù vì không nhận ra tình thương của Chúa và nhận thấy sự khó khăn của anh chị em. Xin Chúa cho mỗi chúng con được sáng con mắt đức tin, để chúng con nhận ra Chúa và sống liên đới với anh chị em của mình. Amen.
Ngọc Biển, SSP
03/12 Rao giảng cho mọi dân tộc.
- Viết bởi Mc 16, 15-20
Rao giảng cho mọi dân tộc.
Thứ Năm đầu tháng, tuần 1 mùa vọng – THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ, LINH MỤC. Bổn mạng các xứ truyền giáo. Lễ kính.
"Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng".
* Thánh Phanxicô chào đời tại Tây Ban Nha năm 1506. Khi đang học văn chương ở Pa-ri, người nhập đoàn với thánh I-nha-xi-ô. Người chịu chức linh mục ở Rôma năm 1537 và chăm lo thực hành việc bác ái. Năm 1541, người lên đường sang phương Đông. Trong mười năm, người can đảm loan báo Tin Mừng cho người Ấn Độ và Nhật Bản, giúp cho nhiều người hoán cải mà đón nhận đức tin. Người qua đời năm 1552 ở đảo Xanxian, cửa ngõ vào Trung Quốc.
LỜI CHÚA: Mc 16, 15-20
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép Rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không Tin, sẽ bị luận phạt.
Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thày, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”.
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.
Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Rao giảng cho mọi dân tộc
Chúa Giêsu phục sinh hiện ra để củng cố đức tin của các môn đệ,
để ban bình an cho họ sau những biến cố buồn đau,
nhưng cũng là để sai các môn đệ lên đường đi sứ vụ.
“Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20, 21).
“Hãy đi và làm cho mọi dân tộc trở thành môn đệ…” (Mt 28, 19-20).
“Phải nhân danh Đức Kitô mà rao giảng cho mọi dân tộc” (Lc 24, 47).
“Hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng cho mọi thọ tạo” (Mc 16, 15).
Thế hệ các Kitô hữu đầu tiên rất trân trọng mệnh lệnh này.
Bao vị tông đồ đã chịu tử đạo chỉ vì tuân giữ mệnh lệnh ấy.
Ước mơ của Chúa Giêsu phục sinh thật lớn lao.
Ước mơ ấy muốn ôm cả trái đất với muôn dân tộc.
Ngài đã sống, đã chết và đã sống lại, chính là để cứu độ cả loài người.
Ngài đã đem lửa đến trên mặt đất,
và Ngài muốn chúng ta tiếp tục làm cho ngọn lửa ấy bùng lên (Lc 12, 49).
Phanxicô Xaviê đã muốn sống mệnh lệnh này cách đặc biệt.
“Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” (c. 20).
Phanxicô cũng muốn đi khắp nơi để nói về Chúa Giêsu cho ai chưa tin.
Một năm trời lênh đênh trên biển để đi từ Bồ Đào Nha đến Ấn Độ.
Ba mươi sáu tuổi bắt đầu công việc của một nhà truyền giáo ở Goa,
Phanxicô chịu mọi lao nhọc để giảng dạy và rửa tội cho người bản xứ.
Rồi Phanxicô lại lên đường đi Malaixia, Inđônêsia.
và là một trong những nhà truyền giáo đầu tiên tại Nhật Bản.
Nhưng trái tim Phanxicô vẫn chưa dừng ở đó.
Ngài còn muốn đặt chân đến Bắc Kinh để gặp Hoàng đế Trung Quốc.
Phanxicô chết vì kiệt sức khi đang chờ trên hòn đảo Thượng Xuyên,
mắt vẫn hướng về Quảng Đông chỉ cách đó 14 cây số.
Hôm ấy là ngày 3-12-1552, khi Phanxicô mới bốn mươi sáu tuổi.
Mừng lễ thánh Phanxicô, Bổn mạng các xứ truyền giáo,
chúng ta nhớ Việt Nam vẫn là nơi cần được loan báo Tin Mừng,
và Trung Quốc vẫn là nơi gần như Kitô giáo chưa được biết đến.
Hơn 90% người dân Việt chưa nhận biết Đức Kitô.
Hơn một tỷ người Trung Quốc cần được nghe lời rao giảng.
Có ai còn nhớ đến những mệnh lệnh của Chúa phục sinh không?
Có người nghĩ rằng chẳng cần phải loan báo Tin Mừng nữa,
vì đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành, dạy sống theo lương tâm,
vì các tôn giáo đều có nét hay riêng, đều là những con đường cứu độ,
vì Đức Kitô Giêsu chẳng phải là Đấng Trung Gian duy nhất!
Anh em hãy đi khắp thế giới, hãy làm cho muôn dân thành môn đệ!
Lời ấy của Đức Giêsu phải là lời nhắc nhở Hội Thánh.
Loan báo Tin Mừng hôm nay thuận lợi hơn xưa rất nhiều.
Chúng ta không phải đi thuyền buồm để mà sợ đứng gió.
Chỉ gửi một email, làm một trang web, là nhiều người nghe được Tin Mừng.
Điều chúng ta thiếu lại là chút nhiệt thành nóng bỏng của Phanxicô.
Xin cho tôi hiểu và yêu Ngài hơn, để dám giới thiệu Ngài cho thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con ngọn lửa trong Trái tim Chúa,
ngọn lửa của tình yêu Cha và nhân loại.
Xin làm tim con ấm lại mỗi ngày,
nhờ được nghe Chúa nói như hai môn đệ về Emmau,
và được Chúa nuôi bằng bánh ban sự sống.
Xin soi sáng chúng con bằng ngọn lửa rực rỡ
mỗi khi chúng con cầu nguyện hay quyết định.
Xin thanh luyện chúng con bằng ngọn lửa hồng
của những thất bại đắng cay trên đường đời.
Ước gì chúng con luôn có lửa nhiệt thành
để hết lòng phụng sự Nước Chúa,
lửa tình yêu để vượt qua những hận thù đố kỵ.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới hôm nay vẫn bị tối tăm, lạnh lẽo đe dọa.
Xin ban cho chúng con những lưỡi lửa
để chúng con đi khắp địa cầu
loan báo về Tình yêu và gieo rắc Tình yêu khắp nơi. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
SUY NIỆM 2: Giác ngộ
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
“Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?”... Lời thách thức này của Tin Mừng đã khiến cho một vị giáo sư trẻ tuổi bỏ tương lai đầy hứa hẹn, bỏ tất cả để chỉ còn đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của người đồng loại.
Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo, mà hôm nay Giáo Hội kính nhớ... Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến, Phanxicô Xaviê đã nhận được những lời thách thức trên đây từ người bạn thân Inhaxiô Loyola.
Không còn chống cưỡng lại với lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã đến Montmartre để cùng với Inhaxiô sống đời khó nghèo, khuyết tịnh và phục vụ tông đồ, theo những chỉ dẫn của Ðức Thánh Cha.
Năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô lãnh chức linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisboa của Bồ Ðào Nha để lên đường đi truyền giáo tại Ấn Ðộ. Trong 10 năm ngắn ngủi, Phanxicô Xaviê đả rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai và Ấn Ðộ. Cuộc sống của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ nhất... Chưa đạt được giấc mơ đặt chân đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức, tại một hải đảo cách Hồng Kông 100 cây số. Bị những người lái buôn Bồ Ðào Nha bỏ rơi trên bãi cát, thánh nhân đã qua đời trong sự trơ trụi nghèo nàn.
Danh vọng, tiền tài, ngay cả sức khỏe... tất cả đều được đốt cháy để tìm được niềm vui đích thực cho tâm hồn và mang niềm vui đó đến với mọi người: đó là sứ điệp mà thánh Phanxicô Xaviê đã để lại cho tất cả chúng ta...
“Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột”... Có lẽ người ta thường dùng câu nói trên đây không những để nói lên tính cách tương đới của đau khổ, mà còn để nói lên ngay cả sự tương đới của hạnh phúc.
Sau những tháng năm ăn độn, ăn rau, những người nghèo có thể hớn hở reo vui khi được bữa cơm trắng với chút thịt cá. Sau những tháng năm tù đày, một người vừa mới được phóng thích sẽ reo hò sung sướng khi được đi lại tự do, khi được thở không khí trong lành...
Những người giàu có, ngày nào cũng yến tiệc linh đình sẽ thèm khát đôi chút cá kho, mắm cà của người nghèo khổ... Những đứa trẻ giàu có ở đô thị có lẽ sẽ thèm khát những giây phút được cưỡi trâu hay tắm ao của những chú bé nghèo ở nhà quê...
Tựu trung, vấn đề cơ bản nhất của con người vẫn là đi tìm hạnh phúc. Và cuối cùng, sau những miệt mài tìm kiếm, ai cũng nhận thấy rằng mình sẽ không bao giờ đạt được hạnh phúc đích thực và trường cửu trên trần gian này. Kẻ đứng ở núi này sẽ luôn nhìn sang núi nọ...
Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta một bí quyết của hạnh Phúc: Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất và ai mất mạng sống mình vì Ta sẽ gặp lại... Chỉ có một niềm vui đích thực đó là sống trọn vẹn cho Chúa. Chỉ có một điều quan trọng nhất trong cuộc sống: đó là lắng nghe lời Chúa.
SUY NIỆM 3: Cuộc đời và tiếng gọi
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Khi được hỏi về việc chọn một lời Thánh Kinh làm châm ngôn cho đời giám mục của mình, Đức tân Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã trả lời: “Tôi chọn lời Thánh Kinh làm châm ngôn nhắc nhớ chính mình là: “Hãy theo Thầy!”.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng dù làm linh mục hay làm giám mục, vẫn chỉ là một tiếng gọi mà thôi, có chăng là tiếng gọi ấy thôi thúc hơn và mạnh mẽ hơn.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng điều quan trọng trong đời dâng hiến không phải là đi đâu và làm gì, mà là đi với ai. Đi theo Thầy Giêsu thì dù làm gì và ở đâu cũng là đi trên đường sự thật và là đường dẫn đến sự sống.
“Hãy theo Thầy!” là lời nhắc nhớ rằng muốn làm người lãnh đạo thì trước hết phải làm môn đệ, và càng sống tư cách môn đệ tốt bao nhiêu thì càng có hi vọng lãnh đạo tốt bấy nhiêu… Theo Thầy không chỉ là theo bằng trí, mà là theo bằng tâm; cho nên theo Thầy là để tâm mình gắn bó với tâm của Thầy, để mang trong lòng mình những tâm tư của Thầy (x. Pl 2,5). (tinvui.org).
Đọc Phúc Âm, ta nghe âm vang lời mời gọi: “Hãy theo Thầy!”. Tiếng gọi của Chúa Giêsu luôn để lại những âm vang làm chuyển biến cuộc đời. Những ngư phủ đã trở thành Tông đồ, những kẻ chuyên nghề đánh bắt cá đã trở nên người chuyên nghiệp bủa lưới các tâm hồn.
Ngày 3.12, Giáo Hội mừng lễ Thánh Phanxicô Xaviê, một nhà truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời đại mới. Đọc lại tiểu sử để thấy cuộc đời ngài được dệt bằng những tiếng gọi “Hãy Theo Thầy!”.
1. Cuộc đời
Thánh nhân sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê, trong một gia đình quyền quý của vương quốc Navarre nhỏ bé miền bắc nước Tây Ban Nha ngày nay. Khi ngài 5 tuổi, nước Tây Ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre, khiến gia đình ngài lâm cảnh nước mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức, năm 17 tuổi, ngài đến Paris học (1525-1536).
Tại Paris, ngài sống trong cùng một căn phòng với chân phước Phêrô Favre và sau đó, với thánh Ignaxiô. Lần lượt Phêrô Favre rồi Phanxicô Xaviê được thánh Ignatiô thu phục. Năm 28 tuổi, ngài cùng với nhóm bạn của thánh Ignatiô, khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ. Năm 31 tuổi, ngài chịu chức linh mục tại Venezia, miền đông bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi, ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.
Tháng 04.1541, ngài xuống tàu tại Lisbon và mãi 14 tháng sau, mới đến được Goa bên Ấn độ.
Trong suốt 10 năm truyền giáo (1542-1552) ngài đã đi cả trăm ngàn cây số.
Trong 7 năm đầu, ngài truyền giáo ở mũi Cormorin, sau đó ở Ceylan, Malaisia và từ đó, đến Indonésia.
Là vị giám tỉnh đầu tiên của tỉnh dòng đầu tiên ngoài Châu Âu, ngài yêu mến và gắn bó keo sơn với Chúa Giêsu, tha thiết với Dòng và anh em trong Dòng, kính trọng và tuân phục thánh Ignatiô, nhiệt thành lạ lùng với việc tông đồ. Ngài đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo của Hội thánh.
Trong vòng 2 năm (1549-1551), ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản. Trước khi ra đi, ngài trao lại cho cho một linh mục Bồ Đào Nha; 20 năm sau, cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn người.
Cuối cùng, vì muốn vào Trung Quốc truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên, ngay cửa khẩu Quảng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung Quốc. Tiếc rằng tại đây, ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh, chỉ có anh thanh niên trẻ thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.
Thánh Phanxicô Xaviê qua đời ngày 3/12/1552, được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV phong thánh cùng với thánh Ignatiô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. (x.Phụng vụ chư thánh tập 2, Lm Augustin Nguyễn Văn Trinh).
2. Tiếng gọi.
Đức Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống đã chiêm nghiệm cuộc đời thánh nhân qua 3 tiếng gọi: Lời Chúa, bạn bè và nhu cầu truyền giáo. (x. Làm nụ hoa trắng, tr 135).
a. Tiếng gọi từ Lời Chúa.
Đức Giêsu hỏi: “Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?” (Mt 16,26a). Câu hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo sư triết trẻ tuổi, với một tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh dự đang chờ đón.
Sinh ra trong gia đình quyền quý, nhưng Phanxicô Xaviê luôn nuôi trong mình những ước vọng bay cao, ngài tìm thăng tiến qua nẻo đường học hành.
Phanxicô Xaviê lên Paris theo đuổi khoa bảng, dùi mài kinh sử để cuối cùng trở thành giáo sư môn Triết học. Nhưng trên đỉnh cao danh vọng ấy, một lần tiếp cận Tin Mừng, gặp được câu: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn liệu ích gì?” và dù không quen cân đo đong đếm kinh tế, ngài cũng đặt tất cả lên cán cân giá trị: lời lãi trần thế mà đời sống linh hồn trống rỗng, không có gì, thì là lỗ vốn, đạt được ước vọng trong cuộc sống này mà đời sau lại mất hết, thì là bể bụi cuộc đời trắng tay sự nghiệp. Vì thế mà thánh Phanxicô Xaviê đã suy nghĩ lựa chọn định hướng đời mình sao cho có lợi cho đời sống Thiên Chúa. Phanxicô Xaviê không muốn dừng lại hưởng thụ cuộc sống đầy đủ muốn gì được nấy, nhưng luôn được kích thích bởi ước vọng vươn lên; không muốn một cuộc đời chật hẹp gò bó dù luôn có kẻ hầu người hạ, mà lại thích vất vả khai phá lên đường; không muốn ngày ngày làm quen với vũ khí chiến đấu phòng thủ hoặc tấn công chỉ vì lãnh địa đồi núi hoang sơ, nhưng lại ham thích vũ khí tinh thần là sách vở kiến thức không gây bực bội tinh thần và cũng chẳng hôi tanh mùi máu.
Lời Chúa ở đây quả là lựa chọn, đã trở thành sức mạnh giúp thánh nhân định hướng đời sống.
b. Tiếng gọi đến từ môi trường bè bạn.
Lời Chúa gọi khi Phanxicô Xaviê mới 24 tuổi, đang sinh sống và giảng dạy ở kinh thành Paris tráng lệ. Ngài không thay đổi ngay lập tức khi nghe những lời ấy, nhưng tất cả là nhờ ở người bạn tốt: Cha Ignatiô ở Loyola đã liên lỉ thuyết phục và sau cùng, đã chiếm được người thanh niên ấy cho Ðức Kitô. Sau đó, Phanxicô tập luyện đời sống tâm linh dưới sự hướng dẫn của Cha Ignatiô, và năm 1534, ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của Cha Ignatiô (là Dòng Tên thời tiên khởi). Tại Montmartre, các ngài khấn sống khó nghèo, khiết tịnh và hoạt động tông đồ dưới sự hướng dẫn của Đức Giáo Hoàng.
Bạn bè có một ảnh hưởng không nhỏ đến chọn lựa của Phanxicô Xaviê. Đó là tiếng gọi thứ hai.
Ở Paris, sống đời sinh viên trau dồi trí thức, Phanxicô Xaviê đã gặp gỡ Ignaxiô trong tình thân bạn bè. Sự thân thiết này đã giúp ngài cởi mở cõi lòng, tâm sự chia sẻ cuộc sống tinh thần. Nhận biết Phanxicô là con người đầy cao vọng, nhất là những ước vọng lành thánh, Inhaxiô một hôm nói với Phanxicô rằng: “Con người nhiều cao vọng như anh mà chịu dừng lại trong vinh quang trần thế thì quá uổng. Thiết nghĩ chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với tầm cao ước vọng của anh”.
Câu nói của Ignatiô tác dụng như một liều thuốc mạnh, có sức công phá, không gì có thể cầm lại được. “Chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới xứng với khát vọng khôn cùng”, Phanxicô Xaviê đã coi đây như châm ngôn để ngài dấn thân phục vụ Giáo Hội trong Giáo Hội và theo đường lối của Giáo Hội. Ngài từ bỏ tất cả công danh sự ngthiệp, nhận chức Linh mục, rồi sau đó, cùng với Ignaxiô, thành lập Dòng Tên với khẩu hiệu “cho vinh danh Chúa hơn”.
Nhắc lại vài đoạn trong bút tích Thánh Phanxicô Xaviê cũng đủ thấy tình anh em bạn bè luôn nâng đỡ ngài trên hành trình truyền giáo.
- “Tất cả anh em trong Dòng hiện diện liên lỉ trong tâm trí tôi” (Bt 48,1: bút tích Thánh Phanxicô Xaviê, tài liệu 48 số 1);
- “Ở Ấn Độ, để giải trí, tôi rất thường nhớ đến anh em trong Dòng, và nhớ đến thời gian, vì Chúa quá thương, tôi đựoc biết anh em và sống với anh em. Nhờ lời anh em cầu nguyện, và vì anh em luôn nhớ đến tôi, Chúa ban cho tôi ơn rất lớn là dù xa cách anh em về thể xác, nhưng nhờ anh em nâng đỡ và giúp đỡ, Chúa cho tôi cảm thấy muôn vàn tội lỗi của mình, và cho tôi sức mạnh để đến giữa dân ngoại” (Bt 20,14);
- “Để đừng bao giờ quên anh em trong Dòng, và lúc nào cũng nhớ đặc biệt đến anh em, tôi đã cất tên của anh em trong các thư từ chính tay anh em viết cho tôi, tôi có thể luôn luôn mang trên mình, cùng với lời khấn của tôi. Điều này đem lại cho tôi nhiều an ủi…Tôi cảm thấy sung sướng khi mang tên của anh em trên mình” (Bt 55,10).
- “Gặp anh em thì tâm hồn tôi đựơc an ủi hơn nhiều. Vậy mà tôi cứ phải viết thư cho anh em, lại không chắc thư đến, vì từ Ấn Độ đến Roma xa quá…Tôi nghĩ mình không lầm khi nói xa cách phần xác không làm cho chúng ta, vốn yêu mến nhau trong Chúa bớt yêu mến và nghĩ đến nhau” (Bt 48,1).
- “Đặc biệt đối với Cha Ignatiô, Phanxicô đã xúc động thổ lộ tâm tư. Chúa đã ban ân huệ lớn lao khi cho tôi được biết Cha Ignatiô. Bao lâu còn sống, không bao giờ tôi trả được món nợ đối với ngài” (Bt,16).
- “Trong số nhiều lời thánh thiện và an ủi của ngài, tôi đọc được những lời thế này: “hoàn toàn thuộc về nhau. Không bao giờ quên được nhau”. Tôi đã rơi lệ khi đọc những chữ ấy, và cũng rơi lệ khi kể lại, vì nhớ lại thời gian đã qua, nhớ đến ngài đã và vẫn luôn luôn rất thương tôi, và nhờ những lời khẩn nguyện thánh thiện của ngài, Thiên Chúa đã cho tôi thoát đựoc bao gian nan, bao nguy hiểm” (Bt 97,1).
- “Đó là một con người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, đời sống không có gì chê trách được” (Bt 1,7).
c. Tiếng gọi đến từ nhu cầu truyền giáo.
Ban đầu, nhận công tác đi tìm Vinh Danh Chúa qua việc phục vụ các bệnh nhân, nhưng chừng như chưa đủ, Phanxicô Xaviê vẫn khát vọng xa hơn, là hiến thân loan báo Tin Mừng tận miền sâu miền xa của địa cầu. Tiếng gọi thứ ba đến từ nhu cầu truyền giáo.
Từ Venice, là nơi ngài thụ phong linh mục năm 1537, Cha Phanxicô Xaviê đến Lisbon và từ đó, ngài dong buồm đến Ấn Ðộ, cập bến làng Goa ở bờ biển phía tây nước Ấn. Trong vòng 10 năm tiếp đó, ngài đã tích cực hoạt động để đem đức tin đến cho rất nhiều dân tộc, trong đó có người Ấn Ðộ, Mã Lai và Nhật Bản.
Cha Phanxicô đến các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Ngài học tiếng Nhật và rao giảng cho các người dân chất phác, dạy giáo lý và rửa tội cho họ, cũng như thành lập các trụ sở truyền giáo cho những người muốn giúp đỡ công cuộc của ngài. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.
Tới Goa ngày 6/5/1542, Phanxicô rong ruổi khắp nơi, nhiệt tình rao giảng cho người ta biết con người Nagiaret nghèo nàn kia chính là Thiên Chúa ở giữa loài người. Trong 7 năm (1542-1549), Ngài là nhà truyền giáo rửa tội đựơc nhiều nhất, tới 100.000 người, “có những buổi chiều nhức mỏi cả cánh tay” như thánh nhân viết.
Từ Malaca, Ngài đến Nhật, xứ sở mặt trời. Ngài muốn gặp gỡ tìm hiểu trao đổi để Lời Chúa sáng ngời qua đối thoại. Ngài dự định đến tận kinh đô Nhật, vào các Đại học, gặp gỡ các nhà Sư để trao đổi. Phanxicô hoạt động nhiều nhất tại Kagoshima, Hirado, Bungo trên đảo Kyushu, lên Yamaguchi, từ đó đi hai tháng lên kinh đô Myako (tức Kyoto). Sau hai năm ở Nhật, Phanxicô trở về Goa, trao công việc truyền giáo lại cho cha Torres và tu huynh Fernandez.
Ngày 14.4.1552 nhà truyền giáo lên tàu. Tháng 8 năm đó ngài tới đảo Thượng Xuyên, cửa ngõ Trung Hoa. Ba tháng sau Phanxicô bị sốt nặng, lòng vẫn ngong ngóng đựơc nhà cầm quyền Quảng Đông cho phép vào đất liền. Thật bất ngờ, ngài qua đời vào 2-3 giờ sáng ngày 3/12/1552, mới 46 tuổi đời. Nói theo “thói thế gian”, đó là vỡ mộng, mọi việc còn dang dở… Nhưng đối với Thiên Chúa thì Phanxicô đã làm trọn ý Người và mọi sự đã hoàn thành, dù chưa đựơc phép bước vào nước Đại Minh thời đó với dân số dưới 200 triệu người.
Bất cứ chỗ nào ngài đến, ngài đều sống với người nghèo, chia sẻ thức ăn và các phương tiện thô sơ với họ. Ngài dành rất nhiều thời giờ để chăm sóc người đau yếu, nghèo khổ, nhất là người cùi. Rất nhiều khi ngài không có thời giờ để ngủ hoặc ngay cả để đọc kinh nhật tụng, nhưng qua các thư từ ngài để lại, chúng ta được biết, ngài luôn luôn tràn ngập niềm vui.
Hành trình không mệt mỏi, Phanxicô Xaviê rong ruổi những nẻo đường Á Châu, một miền xa lạ và xôi xa. Nhưng mặc kệ. Sợ gì! Đối với thánh nhân: “Tôi không sợ ai ngoại trừ Thiên Chúa, chỉ sợ Người phạt vì chểnh mảng trong việc phục vụ Người, vì vụng về và vô dụng trong việc truyền bá danh Chúa Giêsu giữa những kẻ chưa biết Người” (Bt 78,2).
Ở đâu có vinh quang Thiên Chúa, Phanxicô Xaviê sẵn sàng lên đường. Mỗi một tâm hồn chinh phục được là một niềm vui cho vinh quang Thiên Chúa, mỗi một hao mòn trong thân xác là “một vốn” bỏ ra để có “bốn lời” cho cuộc sống mai hậu. Mỗi một thời khắc sống cho Tin Mừng, cũng chính là một cách đong đầy cho khát vọng cống hiến tìm Vinh Danh Chúa.
Chính vì thế mà Phanxicô Xaviê đã không mỏi mệt ra đi, dấn bước lên đường: từ Nhật đến Ấn Độ, từ Goa đến biên giới Trung Quốc. Mỗi chặng đường đi qua, lại là một lời “còn nữa” vang lên không ngừng. Tiếng gọi từ nhu cầu truyền giáo đã hớp lấy tâm hồn Phanxicô Xaviê. Thánh nhân đã sống do và cho tiếng gọi này đến hơi thở cuối cùng trên con đường sang Trung Quốc. Đúng là một con người đầy cao vọng, nhưng là một cao vọng đích thực chỉ mình Thiên Chúa mới có thể đong đầy, mới làm no thỏa.
3. Biết tận dụng Ơn Chúa ban
Nhìn cuộc đời thánh Phanxicô Xaviê trong ba tiếng gọi: Lời Chúa, bè bạn và nhu cầu truyền giáo, cũng là một cách học tập đời sống của ngài để họa lại trong đời sống của mình.
Đời mỗi tín hữu cũng đong đầy những tiếng gọi như thế.
Xin cho những tiếng gọi của Lời Chúa được ta lắng nghe chân thành và thực thi trung thành, bởi đó là ánh sáng soi lối ta đi.
Xin cho những tiếng gọi từ những người xung quanh không bị ta quên lãng, bởi tưởng như tầm thường, nhưng đó lại là tiếng gọi nhiều khi rất quý hiếm cho vững bước đi lên.
Và xin cho nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội luôn là tiếng gọi ta phải quan tâm để ý, bởi đó là sự sống và là sự sống còn của Giáo Hội.
Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi “Hãy theo Thầy” để “ra đi và rao giảng cho muôn dân” (Mt 28,19).
Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người cùng làm việc với chúng ta.
Rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hàng ngày. Chính nhờ sự hy sinh, từ bỏ tất cả những gì của riêng mình, mà Thánh Phanxicô mới có tự do để đem Tin Mừng đến cho người khác. Hy sinh là quên đi cái tôi của mình vì lợi ích cao cả hơn, lợi ích của sự cầu nguyện, lợi ích khi giúp đỡ người có nhu cầu, lợi ích khi lắng nghe người khác.
Món quà lớn nhất của cuộc đời chúng ta là Ơn Chúa.Thánh Phanxicô đã đón nhận hồng ân ấy, rồi làm trổ sinh hoa trái trong suốt năm tháng truyền giáo. Lời khuyên và cũng là lẽ sống của ngài cho chúng ta: “Không ai là người yếu đuối, nếu biết tận dụng Ơn Chúa ban cho mình” (Bt 90,8.9).
Ơn Chúa có thể đến bất cứ từ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Ðiều quan trọng là chúng ta biết nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nhìn tất cả chỗ nào cũng là ân sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc “Chúa đến viếng thăm”, là tiếng gọi trong hành trình cuộc đời.
SUY NIỆM 4: Thánh Phanxicô Xaviê, quan thầy các xứ truyền giáo
(Lm. Đinh Lập Liễm)
Thánh Phanxicô Xaviê sinh năm 1506 tại lâu đài Xaviê, thuộc giáo phận Pampelune, nước Tây ban nha. Năm 17 tuổi đến Paris theo học tại trường đại học danh tiếng Sorbonne nước Pháp. Tám năm sau Phanxicô tốt nghiệp và được tuyển làm giáo sư triết học tại đại học này. Nổi tiếng nhờ trí thông minh, Phanxicô ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng trần gian.
Ngài có một người bạn thân là Inhaxiô Loyola, một hôm đã gieo lời Chúa vào tai Phanxicô: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn thì nào có ích gì”(Mt 16,26). Được ơn thánh Chúa tác động, Phanxicô đã cùng 7 anh em bạn đến Montmartre thành lập dòng Chúa Giêsu (ngày nay là dòng Tên) do Inhaxiô Loyola đứng đầu, cùng khấn khó nghèo, khiết tịnh và làm việc tông đồ.
Năm 31 tuổi ngài chịu chức Linh mục tại Venetia miền bắc nước Ý năm 1537. Năm 35 tuổi ngài xuống tầu từ Lisbonne (Bồ đào nha) đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức thánh Cha Phaolô III.
Suốt 11 năm ngài đã đi giảng đạo tại Ấn độ, Tích lan, qua Nhật và còn dự định vào Trung quốc. Tại Ấn độ ngài rửa tội cho nhiều bậc quân vương. Tại Nhật ngài cũng được Nhật hoàng Bungolu hết sức cảm phục. Ngài đã vượt hàng ngàn cây số đường bộ nhất là đường biển và đã đem lại cho Chúa hàng trăm ngàn linh hồn. Ngoài thánh Phaolô chắc có ít vị thánh nào có hành trình truyền giáo như thánh Phanxicô.
Lòng nhiệt thành cứu các linh hồn còn thôi thúc ngài tới lục địa Trung quốc bao la để truyền giáo, nhưng đang trên cuộc hành trình tới đó, ngài đã qua đời tại đảo Tân châu (Trung quốc) ngày 03/12/1552. Xác ngài được đưa về mai táng tại Goa (Ấn độ). Năm 1622, tức sau 70 năm, Đức giáo hoàng Grêgôriô XV đã phong thánh cho ngài cùng với thánh Inhaxiô và được đặt làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Chúa Giêsu đã từng nhắn nhủ các môn đệ: “Các con hãy đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và con và Thánh Thần”(x. Mt 16,16). Sau khi Chúa Giêsu về trời, các môn đệ chia nhau đi khắp nơi để rao giảng Tin mừng. Việc rao giảng Tin mừng ấy còn phải được kế thừa trong Giáo hội. Như vậy, mọi người đều có trách nhiệm phải rao giảng Tin mừng trong hoàn cảnh thực tế của mình.
Thánh Phanxicô đã ý thức về điều đó. Ngài thấy rằng không có gì quí trọng bằng một linh hồn, bởi vì “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn thì có ích gì” (Mt 16,16). Ngài thấy cánh đồng truyền giáo còn rộng rãi bao la, nhiều người đang sẵn sàng đón nhận Tin mừng, nhưng tiếc thay, không có người đi rao giảng cho họ. Mối thao thức của ngài được diễn tả trong bức thư ngài gửi về cho thánh Inhaxiô:
“Có rất nhiều người tại những nơi này hiện giờ chưa trở thành người có đạo, chỉ vì thiếu người làm cho họ trở nên người có đạo.
Nhiều lần tôi đã nghĩ đến việc đi tới các đại học bên châu Âu, nhất là ở Paris, để điên cuồng kêu lên khắp đó đây và thúc bách những kẻ chỉ biết lý thuyết hơn là thực hành rằng: “Khốn thay, có vô số linh hồn vì lỗi của các ông mà phải trục xuất khỏi trời và bị đẩy xuống hỏa ngục.
Chớ gì những người đó chuyên chú vào việc tông đồ này như họ đã chuyên chú vào văn chương để có thể trả lẽ cho Chúa về đạo lý và những nén bạc đã ủy thác cho họ (Các giờ kinh Phụng vụ, tr 535).
Thượng hội đồng Giám mục Á châu đã cho thấy mối ưu tư của các Giáo hội ở Á châu. Về việc truyền giáo cho các dân tộc Á châu. Nhìn vào bản đồ Á châu, chúng ta thấy đây là một lục địa đông dân cư nhất, nhưng lại là lục địa có con số Công giáo thấp nhất, khoảng 2,6%. Đây là một thách đố lớn cho công việc truyền giáo. Giáo hội Á châu là một Giáo hội bé nhỏ trong một lục địa mênh mông được mời gọi rao giảng về sứ mạng tình yêu và phục vụ của Chúa Giêsu Kitô tại Á châu.
Thánh Phanxicô đã làm gương cho chúng ta về lòng nhiệt thành truyền giáo vì yêu Chúa và các linh hồn, ngài đã hy sinh tất cả bởi vì như ngài nói: “Tất cả đau khổ phiền muộn là nguồn vui sướng cho tôi”. Đúng như lời thánh Augustinô nói: “Ở đâu có tình yêu ở đó không còn khó nhọc nữa. Mà nếu có khó nhọc thì họ lại yêu thích chính sự khó nhọc đó”.
Vì thế, sau khi rửa tội cho một bà già đau nặng, ngài đã kêu lên: “Lạy Chúa, bỏ cha mẹ, quê hương, vượt trùng dương để cứu một linh hồn mà thôi thì con cũng thỏa mãn lắm rồi. Nay có chết con cũng vui lòng”. Điều đó chứng tỏ ngài yêu các linh hồn như thế nào.
Gương truyền giáo của thánh Phanxicô thật tuyệt vời, còn chúng ta thì sao? Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi để “đi rao giảng cho muôn dân” (x. Mt 28,19). Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người làm việc với chúng ta. Và sự rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hằng ngày.
Một cách cụ thể, chúng ta thực hiện việc truyền giáo trước hết bằng lời cầu nguyện và bằng những việc hy sinh hãm mình. Chỉ có Chúa mới làm cho người khác tin Chúa mà thôi. Chứ người phàm không có khả năng làm được điều đó vì Chúa đã phán: “Hãy xin thì sẽ được” (Mt 7,7-8; Lc 11,9-10; Ga 14,13-14).
Thứ đến phải sống một đời sống tốt lành thánh thiện để làm gương sáng cho người khác vì như người ta nói: “Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi kéo”. Gương sáng có tính cách thuyết phục và hấp dẫn hơn lời nói như Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Người thời này không thích những thầy dạy cho bằng nhân chứng”.
Chúng ta chỉ có thể truyền giáo bằng gương sống của chúng ta qua việc sẵn sàng giúp đỡ mọi người, qua việc thực thi bác ái của Tin mừng mà thôi. Ước gì đời sống mỗi người, mỗi gia đình là tấm gương tốt lành, công bằng, yêu thương minh chứng cụ thể cho đức tin và lòng yêu mến Chúa của chúng ta.
SUY NIỆM 5: Thánh Phanxicô Xaviê, Linh Mục (1506-1552)
(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Thánh Phanxicô Xaviê được mệnh danh là Phaolô thế kỷ XVI. Thánh nhân có tinh thần truyền giáo cao độ. Ngài luôn hướng tới Chúa và yêu mến các linh hồn. Phanxicô đi đi mãi tới các nước Châu Á. Ngài đến với Á Châu, đến với những con người chưa biết Chúa. Ngài luôn mang trong mình Ngài hai tình yêu đã nên một: tình yêu Ðức Giêsu Cứu Thế và tình yêu các linh hồn.
CON NGƯỜI ÐẶC BIỆT
Thánh Phanxicô sinh năm 1506 tại miền Xaviê thuộc địa phận Pampelune nước Tây Ban Nha trong một gia đình giầu sang, quyền quí, vị vọng. Thánh nhân có trí thông minh đặc biệt, nên vào năm Ngài lên 19 tuổi, cha mẹ Ngài gửi Ngài qua Paris để tiếp tục công việc đèn sách. Tám năm sau đó, Ngài tốt nghiệp đại học và trở thành giáo sư danh tiếng tại nước Pháp. Thánh nhân lúc đó miệt mài chạy theo danh vọng trần tục. Ngài coi trần gian là tất cả. Ý Chúa nhiệm mầu, cao sâu, huyền bí nào ai hiểu nổi. Một lời của Chúa đã khiến Phanxicô thay đổi tất cả: "Ðược lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?". Chúa đã dùng miệng lưỡi của thánh Ignatiô cũng là thầy dạy Ngài để nói lên điều đó. Chính lời Chúa đã biến đổi cuộc đời của Ngài tận căn. Chúa đã chiếm đoạt con tim của Ngài toàn vẹn. Thánh nhân đã trở thành khí cụ bình an đem Tin Mừng cho người Á Châu. Năm 1539, Ðức Thánh Cha Phaolô III đã sai Ngài đi truyền giáo cho dân tộc Ấn Ðộ.
Thánh Phanxicô đã miệt mài với sứ mạng loan báo Tin Mừng. Ðâu đâu Ngài cũng nghe tiếng thúc bách của các linh hồn: Ấn Ðộ, Macao, Nhật Bản, Trung Hoa cũng nằm trong trí óc và hiện ra trước mắt Ngài. Ngài đi mãi, đi hoài không mệt mỏi, không lo âu, sợ sệt và do dự. Mười một năm ròng rã loan báo Tin Mừng, cuộc đời thánh nhân là một cuộc hành trình dài không ngừng. Ngài lúc nào cũng được thúc bách bằng tấm lòng nồng cháy các linh hồn. Ngài đã đem không biết bao người về với Chúa, với Giáo Hội. Ngài có lòng khiêm nhượng tuyệt đối, Ngài luôn yêu mến và kính trọng bề trên của Ngài là thánh Ignatiô. Chúa đã giúp Ngài bằng nhiều phép lạ phi thường vì lòng nhiệt thành hăng say của Ngài đối với các linh hồn.
CHÚA ÐỘI MŨ TRIỀU THIÊN CHO PHANXICÔ XAVIÊ
Lòng hăng say nhiệt thành của Phanxicô, quên bản thân mình để cho nhiều người được hạnh phúc. Thánh nhân nhìn nước Trung Hoa với tình thương lênh láng, Ngài ước mong đem Tin Mừng và Giáo lý của Chúa Giêsu cho một dân tộc đông dân nhất thế giới. Ước mơ của Ngài chưa thể thực hiện thì ngày 02/12/1552, Ngài qua đời khi trên đường gần tới nước Trung Hoa, tại cửa ngõ bước vào Trung Hoa tại đảo Tân Châu. Xác thánh nhân được đem về an táng tại thành Goa nước Ấn Ðộ. Năm 1622, Ðức thánh cha Grêgoriô XV đã phong Ngài lên bậc hiển thánh và đến năm 1904, Ðức Giáo Hoàng Piô X đã đặt Ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo.
Lạy Thánh Phanxicô Xaviê, xin ban cho mọi người chúng con ơn nhiệt thành, lòng quảng đại và tinh thần truyền giáo, để chúng con đem nhiều người về với Chúa và với Giáo Hội.
SUY NIỆM 6: Thánh PHANXICÔ XAVIÊ, Tông đồ Ấn Độ và Nhật Bản
Bổn mạng các xứ truyền giáo (1506 - 1552)
Phanxicô ra đời tại lâu đài Xaviê thuộc vương quốc Navarre ngày 7 tháng 4 năm 1506. Cha Ngài là cố vấn của nhà vua miền Navarre và là thẩm phán. Anh em Ngài theo binh nghiệp. Riêng Phanxicô ham thích học hành. Năm 19 tuổi, Ngài theo học tại đại học Paris, trường lớn nhất thế giới. Khi còn ở học viện thánh Barbe, Ngài được phúc trọ cùng phòng với Phêrô Favre, người sau này sẽ nhập dòng Tên và được tuyên thánh trong thời gian gần đây theo thể thức “tuyên thánh tương đương”. Bốn năm sau, Ngài lại có được người bạn học giả là Inhaxiô thành Loyola.
Người học trò mẫn cán đã trở thành giáo sư. Ngài dạy triết học. Thành công làm cho Ngài thành con người tham vọng. Inhaxiô nói với Ngài về một hội dòng mà thánh nhân muốn thành lập. Nhưng Phanxicô mơ tới danh vọng, Ngài chế nhạo cũng như khinh bỉ nếu sống nghèo tự nguyện của bạn mình. Inhaxiô vui vẻ đón nhận những lời châm biếm, nhưng lặp lại rằng: - "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích lợi gì."
Cuối cùng, Phanxicô đã bị ảnh hưởng. Inhaxiô còn đưa ra những lời cao đẹp hơn: - "Một tâm hồn cao cả như anh, không hề chỉ gò bó với cái vinh dự thế trần được. Vinh quang trên trời mới đúng với cao vọng của anh. Thật vô lý, khi ưa chuộng một thứ mây khói chóng tàn hơn là những của cải tồn tại đời đời".
Phanxicô bắt đầu thấy được cái hư không của những sự cao trọng của thế nhân và hướng vọng tới của cải vĩnh cửu. Chiến thắng rồi, Ngài chống lại tính kiêu căng bằng mọi loại sám hối. Ngài quyết định theo sát Phúc âm, vâng theo cách cư xử của người bạn thánh thiện và xin được khiêm tốn hãm nình. Ngài chỉ còn chú tâm cứu rỗi các linh hồn.
Ngày lễ Mông triệu năm 1533, trong một nhà nguuyện tại Monmartres, trên mộ bia thánh Dénis, Phanxicô, Inhaxiô và 5 bạn khác đã hiến mình cho Chúa. Họ khấn từ bỏ mọi của cải, hành hương thánh địa, làm việc để cải hóa lương dân và hoàn toàn đặt mình dưới sự điều động của Đức Thánh Cha để phục vụ Hội Thánh. Phanxicô còn học thần học hai năm nữa, rồi cùng sáu bạn đi Italia. Đi đường, họ chỉ mang theo cuốn Thánh Kinh và sách nguyện trong bị, cổ đeo tràng hạt. Tuyết lạnh hay khắc khổ cũng không làm họ sợ hãi. Trái lại, Phanxicô lại còn cảm thấy quá êm ái nhẹ nhàng, nên một ngày kia đã cột giây thừng vào chân, khiến giây đó ăn vào thịt và ngay việc được khỏi bệnh đó cũng đã là một phép lạ.
Đoàn quân bé nhỏ đó tới Venitia chống lại quân Thổ. Thế là họ phải bỏ cuộc hành hương đi thánh địa. Đức Thánh Cha đã chúc lành cho nhóm bạn cũng như dự định của họ. Phanxicô và Inhaxiô thụ phong linh mục ngày 16 tháng 6 năm 1537. Phanxicô đã chuẩn bị thánh lễ mở tay bằng cuộc sám hối kéo dài 40 ngày trong một túp lều tranh bỏ hoang và sống bằng của ăn xin.
Trong khi chờ đợi bắt đầu thực hiện công việc vĩ đại của mình, Ngài rao giảng và săn sóc cho người nghèo trong các nhà thương. Ngài còn phải chiến thắng chính mình nữa, chẳng hạn khi băng bó các vết thương lở loét. Ngài luôn đi ăn xin thực phẩm.
Khi Phanxicô được 35 tuổi, vua nước Bồ Bào Nha xin Đức Thánh Cha gửi các thừa sai sang Ấn Độ. Phanxicô rất vui mừng khi được chỉ định.
Ngài bộc lộ cho một người bạn: "Anh có nhớ rằng, khi ở nhà thương tại Roma, một đêm kia, anh đã nghe tôi la: "Còn nữa, lạy Chúa, còn nữa" không? Tôi đã thấy rằng: phải chịu khổ nạn cho vinh danh Chúa Giêsu Kitô. Trước mặt tôi là những hoang đảo, những miền đất báo cho tôi biết trước cơn đói, cơn khát và cả đến cái chết dưới hàng ngàn hình thức. Tôi ao ước được chịu khổ hình hơn nữa".
Chỉ còn 24 giờ để chuẩn bị lên đường. Nhưng thế đã quá đủ để xếp đặt hành trang. Với vài bộ đồ cũ. Một thánh giá, một cuốn sách nguyện và một cuốn sách thiêng liêng. Ngài đáp tàu. Cuộc hành trình cực khổ vì say sóng. Đau bệnh, Ngài vẫn săn sóc các bệnh nhân. những thủy thủ hư hỏng dường như là đoàn chiên đầu tiên Ngài phải đưa về cho Chúa. Ngài rao giảng cho họ bằng chính việc chia sẻ cuộc sống với họ.
Sau bảy tháng hành trình, người ta dừng lại bến Mozambique. Khí trời ngột ngạt. Một cơn bệnh dịch đang hoành hành nơi đây. Phanxicô lại săn sóc các bệnh nhân và muốn sống đời cực khổ nhất. Ngài lặp lại: "Tôi khấn sống nghèo khó, tôi muốn sống và chết giữa người nghèo".
Sau một năm hành trình, Phanxicô cặp bến Goa, thủ đô miền Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 1542. Ngài phát khóc vì vui mừng. Nhưng việc cấp thiết, nhất là phải làm cho những người chinh phục Bồ Đào Nha giữ đạo đã. Những tật xấu và tính hung hăng của họ làm ô danh Kitô giáo. Còn dân An thì thờ ngẫu tượng. Vị tông đồ làm thầy thuốc, thẩm phán, giáo viên. Ngài học tiếng một cách khó khăn, thời gian của Ngài dành cho các nhà thương, nhà tù, người nghèo và việc dạy giáo lý. Rảo qua đường phố, Ngài rung chuông tập họp trẻ em và dân nô lệ lại, với sự nhẫn nại vô bờ, Ngài ghi khắc tình yêu Chúa vào lòng họ. Các trẻ em tham dự lại trở thành các nhà truyền giáo cho cha mẹ và thày dạy của chúng. Chúng mang thánh giá của "ông cha" cho các bệnh nhân. Chúng trở nên hung hăng với các ngẫu tượng. Bây giờ, các cánh đồng lúa vang lên được bài thánh ca. Dần dần, đời sống Kitô giáo đã vững vàng trong lòng các gia đình.
Phanxicô nghe nói tới một bộ lạc thờ lạy ngẫu thần ở mũi Comorin, sống bằng nghề mò ngọc trai. Muốn loan báo Tin Mừng cho họ, thánh nhân học ngôn ngữ mới, vượt mọi khó khăn để phổ biến đức ái và chân lý. Rồi Ngài lại qua các làng khác. Cứ như thế Ngài đi khắp Ấn Độ. Trong 15 tháng trời, Ngài đã rửa tội cho một số đông đảo Kitô hữu, khiến "xuôi tay vì mệt mỏi". Người nói: "Mọi ngày tôi đều thấy tái diễn những phép lạ thời Giáo hội sơ khai".
Ngài ngủ ít, đêm thức khuya để cầu nguyện. Sống khắc khổ để đền tội cho các tội nhân. Ngài chăm chú đào tạo các tâm hồn thanh thiếu niên địa phương để sai đi làm tông đồ truyền giáo cho các người đồng hương của họ.
Ở tỉnh Travancore, trong vòng một tháng, thánh nhân đã rửa tội cho 10.000 người. Người Brames muốn hạ sát Ngài, nhưng Ngài đã giữ được mạng sống một cách lạ lùng dưới cơn mưa tên. Ở vương quốc Travance, khi nhóm người man-di muốn tràn ngập, Phanxicô cầm thánh giá trong tay với một số ít tín hữu đã làm cho họ phải tháo lui. Ngài mang Tin Mừng tới Ceylanca, Malacca. Các đảo Molluques vang danh vì sự hung tợn của họ, nhất là đảo của dân More ở phía Bắc...
Ngài nhắm tới đảo này, Ngài muốn bị dân cư giết chết như một vị thừa sai 13 năm trước đây sao?
Người ta ngăn không cho tàu bè chở Ngài đi. Phanxicô đáp lại: - "Thì tôi bơi tới vậy".
- Nhưng Ngài sẽ bị đầu độc thì sao?
Ngài nói: - "Niềm tin tưởng ở Thiên Chúa là thuốc kháng độc.
Rồi Ngài thêm: "Ôi, nếu như hy vọng tìm được gỗ quí hay vàng bạc, các Kitô hữu đổ xô tới ngay. Nhưng lại chỉ có các linh hồn cần được cứu rỗi. Tôi sẽ chịu khổ gấp ngàn lần để cứu lấy một linh hồn thôi".
Phanxicô đã viết thư xin vua Bồ Đào Nha và thánh Inhaxiô gởi các linh mục tới săn sóc cho các cộng đoàn Kitô hữu Ngài để lại. Sự khó khăn và chậm chạp về thư tín làm cho đời Ngài thêm nhiều phiền phức. Ngài phải mất gần 4 năm để gửi thư từ Moluques về Roma. Dầu giữa các khó khăn mệt nhọc, thánh nhân không để mất tính hiền hậu và khiêm tốn.
Năm 1549, một người Nhật được Ngài rửa tội ở Malacca đã thu hút Ngài tới hòn đảo vô danh, chưa có Kitô hữu nào. Lời cầu nguyện và đời sống hãm mình củng cố lòng can đảm của Ngài. Không để mình bị chán nản do ngôn ngữ khó học hay bởi nội chiến. Ngài đã có thể tạo lập được một cộng đoàn Kitô hữu nhỏ như Ngài mơ ước. Các phép lạ củng cố lời giảng dạy của Ngài, nhưng dân chúng bị đánh động nhiều hơn bởi đức tin và lòng can đảm của người ngoại quốc này đã từ xa đến để loan báo cho họ chân lý duy nhất.
Được hai năm, nhà truyền giáo lại ra đi, để lại tại miền đất xa này những cộng đồng Kitô hữu đứng khá vững trong nhiều thế kỷ, dù không có linh mục cai quản.
Phanxicô trở lại Ấn Độ. Ngài đã rảo qua gần 100.000 cây số trong 10 năm. Bấy giờ, việc chinh phục Trung hoa ám ảnh tâm hồn Ngài. Ngài đáp tàu, nhưng không bao giờ tới được quốc gia rộng lớn này. Vào cuối tháng 11 năm 1552, trên đảo Hoàng Châu, Ngài bị lên cơn sốt rét. Giữa cơn đau, Ngài đã lập lại: - Lạy Chúa Giêsu, con vua David, xin thương xót con, xin thương đến các tội con.
Ngài dứt tiếng và không nhận ra được các bạn hữu nữa. Khi hồi tỉnh, Ngài lại kêu cầu Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu và nài xin Đức Mẹ: "Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, xin hãy nhớ đến con".
Một người Trung Hoa thấy Ngài hấp hối thì đặt vào tay Ngài một cây nến. Phanxicô qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1552. Ít tuần sau, người ta tìm thấy xác Ngài vẫn nguyên vẹn và chở về Goa. Dân chúng tại đây nhiệt tình tôn kính Ngài, vì đã coi Ngài như một vị thánh.
Năm 1619, Đức Thánh Cha Phaolô V đã tuyên chân phước cho Ngài. Năm 1622, Đức Thánh Cha Grêgôriô XV đã ghi tên Ngài vào sổ bộ các vị hiển thánh. Ngài được tuyên thánh cùng với thánh Inhaxiô. Thánh Phanxicô Xaviê được đặt làm bổn mạng các xứ (vùng, miền) truyền giáo.
SUY NIỆM 7: Thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng các xứ truyền giáo
(www.giaophandanang.org//Linh mục Nguyễn Trung Thành)
Thánh Lm Phanxicô Xavie (Francis Xavier), vị Đại Thánh bổn mạng các xứ truyền giáo, trong đó có Việt Nam, được Giáo Hội mừng kính ngày 3-12 hàng năm, và cũng là ngày giỗ của ngài, vì ngài mất ngày 3-12-1552.
Ngài sinh ngày 7-4-1506 tại Xavier, thuộc Vương quốc Navarre (nay là Tây Ban Nha). Tên khai sinh của ngài là Francisco de Jasso y Azpilicueta. Ngài là con út của ông Juan de Jaso, cố vấn riêng của Vua John III (Jean d’Albret, cai trị Navarre) và bà Doña Maria de Azpilcueta y Aznárez. Ngài có bà con với thần học gia và triết gia Martín de Azpilcueta danh tiếng.
Ngài là học trò của Thánh Inhaxiô Loyola (lập Dòng Tên, Society of Jesus= SJ), đồng sáng lập viên của Dòng Tên, là nhà truyền giáo và là một trong bảy tu sĩ đầu tiên của Dòng Tên tại Montmartre năm 1534. Ngài làm trưởng nhóm truyền giáo tại Á châu. Ngài có công truyền bá và duy trì Công Giáo ở Ấn Độ, kể cả Nhật, Borneo, quần đảo Maluku, và những vùng chưa có dấu chân các nhà truyền giáo. Tại những vùng này, ngài tiên phong và cố gắng học tiếng bản xứ, ngài thành công nhất ở Ấn Độ. Thật lòng ngài muốn tới Việt Nam, nhưng Chúa có kế hoạch khác, nên Việt Nam không được đón tiếp ngài.
Năm 1525, ngài học ĐH Sainte-Barbe ở Paris (Pháp). Năm 1530, ngài nhận bằng thạc sĩ văn chương và dạy triết học Aristotes tại ĐH Beauvais, tương lai rộng mở, danh vọng hứa hẹn. Ngài gặp Inhaxiô Loyola và Pierre Favre tại ĐH Sainte-Barbe. Thánh Inhaxiô đặt vấn đề với ngài: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mt 16:26). Thế là ngài bỏ tất cả để đi tu và làm linh mục, rồi tình nguyện đi truyền giáo.
Thánh Inhaxiô cùng với Thánh Phanxicô Xavie và năm anh em khác thành lập Dòng Tên ngày 15-8-1534 tại một nhà nguyện ở Montmartre, cùng nhau khấn đức nghèo khó, khiết tịnh và vâng lời, đồng thời khấn hoán cải người Hồi giáo ở Trung Đông. Dòng Tên đã được Đức Giáo Hoàng phê chuẩn, khi đó tu sĩ Phanxicô Xavie tới Venice (Ý) để thụ phong linh mục vào ngày 24-6-1537. Đến cuối tháng 10, bảy anh em tới Bologna và cùng làm việc trong một bệnh viện địa phương. Sau đó, Thánh Phanxicô Xavie phục vụ một thời gian ngắn tại Rôma với tư cách thư ký của Thánh Inhaxiô. Sau đó, Thánh Phanxicô Xavie dành phần nhiều cuộc đời để truyền giáo tại Á châu, chủ yếu qua lại bốn nơi là Malacca, Amboina, Ternate (Nhật) và Trung Hoa.
Ngài rời Lisbon ngày 7-4-1541 lúc ngài 35 tuổi, đi cùng hai tu sĩ Dòng Tên khác. Từ tháng 8-1541 tới tháng 3-1542, ngài tới Goa, lúc đó là thủ phủ của Ấn Độ (thuộc địa của Bồ Đào Nha), ngày 6-5-1542, 35 tháng sau khi rời Lisbon. Mùa Xuân năm 1545, Lm Phanxicô Xavie đi Malaca (cũng là thuộc địa của Bồ Đào Nha). Khoảng tháng 1-1546, ngài rời Malacca đi quần đảo Maluku, nơi ngài truyền giáo 1 năm rưỡi cho dân đảo Ambon. Ngay sau lễ Phục Sinh năm 1546, ngài trở lại Malacca.
Tháng 12-1547, tại Malaca, Lm Phanxicô Xavie gặp một người Nhật tên là Anjirō. Chính Anjirō cũng đã nghe nói về Lm Phanxicô Xavie từ năm 1545. Sau khi bị kết tội sát nhân, Anjirō trốn khỏi Nhật. Ông hết nói với Lm Phanxicô Xavie về quá khứ của mìn, về văn hóa và văn chương Nhật. Anjiro làm thông dịch cho Lm Phanxicô Xavie để giao tiếp với người Nhật. Và rồi Anjirō trở thành Kitô hữu người Nhật đầu tiên và lấy tên là Paulo de Santa Fe.
Sau khi qua đời, thi hài Thánh Phanxicô Xavie được an táng trên đảo Shangchuan. Tháng 1-1553, người ta khai quật mộ ngài và thấy thi hài ngài còn nguyên vẹn. Rồi người ta đưa thi hài ngài tới Nhà thờ Thánh Phaolô tại đảo Malaca vào ngày 22-3-1553. Ngày 11-12-1553, thi hài ngài lại được chuyển tới Goa. Hòm thánh tích của ngài được chuyển tới Nhà thờ Chúa Giêsu Giáng Sinh tại Goa từ ngày 2-12-1637.
Cánh tay phải, đã từng chúc lành và rửa tội cho nhiều người, được Tổng bề trên Claudio Acquaviva tách ra từ năm 1614 để trưng bày cho mọi người kính viếng tại Nhà thờ Il Gesù ở Rôma. Cánh tay trái của ngài được đưa về Macau. Cuối cùng được chuyển tới Nhà thờ Thánh Giuse năm 1978, rồi lại chuyển tới nhà nguyện Thánh Phanxicô Xavie trên đảo Coloane. Mới đây, thánh tích của ngài được chuyển tới Chủng viện Thánh Giuse và Viện bảo tàng Nghệ thuật Thánh (Sacred Art Museum).
Lm Phanxicô Xavie được ĐGH Phaolô V tôn phong chân phước ngày 25-10-1619, và được ĐGH Grêgôriô XV tôn phong hiển thánh ngày 12-3-1622, cùng với Thánh Inhaxiô Loyola. Cuối cùng, ĐGH Piô XI tôn phong Thánh Phanxicô Xavie làm bổn mạng các xứ truyền giáo (Patron of Catholic Missions).
SUY NIỆM 8: NHIỆT THÀNH TỒNG ĐỒ
(dongten.net)
Đọc các thư của thánh Phanxicô Xavier, ai cũng phải nhìn nhận đó là một con người hoàn toàn vị tha. Ngài luôn luôn nghĩ đến người khác, không màng đến lợi lộc, danh vọng, địa vị, và cả đến mạng sống mình nữa. Có khi ngài quan tâm đến một thanh niên cần chút vốn để về quê; có khi là một cô gái mồ côi vô danh cần lấy chồng. Tuy nhiên, quan tâm lớn nhất của ngài là phần rỗi linh hồn người ta. Chúa Giêsu nói: “Được lời lãi cả thế gian mà đánh mất sự sống mình thì nào được ích gì?” (Mt 16,26). Tính cách triệt để của câu nói ấy hẳn là đã thôi thúc trái tim vị tha của thánh Phanxicô Xavier. Ngài coi việc cứu rỗi các linh hồn là tối quan trọng và khẩn cấp, không gì có thể thay thế được. Chính vì vậy, ngài đi hết nơi này đến nơi khác, làm như không biết mệt mỏi và sợ hãi. Phải nói là ngài đã gào thét ‘như kẻ mất trí’ để kêu gọi giới học thức đừng chỉ vùi đầu vào sách vở để ủm kiếm vinh hoa phú quí, nhưng biết dấn thân cứu vớt các linh hồn. Ngài đòi các quan chức Bồ Đào Nha, và cả vua João III, phải tích cực giúp đỡ công cuộc truyền giáo. Trước mắt nhiều người, hẳn ngài là một kẻ quấy rầy dai dẳng. Tuy nhiên, ngài không chỉ kêu gào: chân trời góc biển nào ngài cũng có thể đến, bất chấp mọi khó khăn và nguy hiểm.
Ngài không chỉ là một tông đồ đơn độc. Mở được một con đường, ngài tìm người đến địa điểm mới để giúp đỡ các linh hồn ở đó. Dĩ nhiên người đặc biệt để ý đến Dòng Tên, dù mới khai sinh, nhưng rất năng động. Ngài xin Dòng ở Châu Âu gửi người sang tăng cường. Ngài tiếp nhận Học viện Thánh Phaolô ở Goa, rồi mở các trường học khác, để chuẩn bị cho tương lai. Gửi anh em đến các nơi, ngài hướng dẫn cách sống và cách làm việc, an ủi khi gặp khó khăn, khích lệ khi có kết quả, sửa bảo khi cần thiết. Ngài thấy điều quan trọng nhất nơi các thừa sai ở Ấn Độ là sức khỏe dẻo dai và đức hạnh vững chắc, để đối diện với hoàn cảnh hết sức khó khăn, để vượt qua những thử thách và cám dỗ, và để nêu gương sáng cho mọi người. Ngay từ đầu, ngài đã nghĩ đến việc gầy dựng hàng giáo sĩ bản xứ. Mặc dầu kinh nghiệm nhiều lần cho thấy là khó khăn, nhưng ngài vẫn quyết tâm theo đuổi. Cũng có lúc ngài hầu như ngã lòng, nhưng được thánh I-nhã khích lệ, ngài lại dứt khoát hơn. Đây là một trong những lý do chính khiến xảy ra bất đồng giữa ngài với cha Antonio Gomes, để rồi cuối cùng ngài phải khai trừ cha này ra khỏi Dòng Tên.
Đứng trước mọi vấn đề, quan điểm của ngài luôn luôn là quan điểm tông đồ. Trên tàu từ Bồ Đào Nha đi Ấn Độ, người ta khuyên ngài nên nhận một người giúp việc, nhưng ngài từ chối. Ngài tự giặt quần áo lấy. Phần ăn, ngài nhận từ bàn vị Tổng Trấn, dùng vừa đủ, những gì còn lại chia cho người nghèo. Phòng dành cho ngài, ngài cho người bệnh ở, còn chính mình ra nằm ngủ ở đống thừng chão, bên cạnh những thanh niên nghèo đi tha phương cầu thực. Khi có người bệnh, ngài chăm sóc phần xác và phần hồn. Con tàu chở ngài vượt biển được ngài biến thành giáo điểm. Ở Goa, trong lúc chờ đợi hai bạn đồng hành đến sau, ngài đi dạy giáo lý cho trẻ em, đi giảng cho người lớn, đi thăm bệnh viện, trại giam và trại phong. Chưa làm tông đồ ở địa điểm của mình được, ngài làm tông đồ ngay tại nơi lẽ ra người khác chỉ ngồi chờ. Khi xảy ra tranh chấp giữa các tiểu vương địa phương, ngài luôn luôn chủ trương chính quyền Bồ Đào Nha phải can thiệp để giúp đỡ công việc truyền giáo. Trong khi ngài chỉ chú tâm vào việc giúp đỡ các linh hồn, các quan chức Bồ Đào Nha thường lại chỉ chú tâm vào lợi lộc vật chất, do đó nảy sinh bao mâu thuẫn. Khi thấy ở Ấn Độ hoạt động tông đồ gặp nhiều trở ngại, không tiến lên được, vì các tín hữu bản xứ ‘bị mẹ Ấn Độ ruồng rẫy, cha Bồ Đào Nha khinh bỉ’, trong khi ở các nơi khác như Maluku, Nhật Bản, Trung Hoa, lại có triển vọng, ngài ra đi.
Vừa để duy trì vừa để phát triển hoạt động tông đồ, những người được sai đi phải giữ bầu khí yêu thương. Chúa Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em thương yêu nhau” (Ga 13,15). Chúa cũng cầu nguyện với Chúa Cha: “Xin cho chúng nên một để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,23).
Hàng ngũ giáo sĩ và tu sĩ ở Ấn Độ lúc ấy có Đức Giám Mục, vị Tổng Đại Diện, các đại diện giám mục ở mỗi địa điểm quan trọng, các linh mục triều khác, các thừa sai dòng Thánh Phanxicô và dòng Thánh Đaminh, cuối cùng là Dòng Tên. Phải hợp tác với nhau, thăm viếng giúp đỡ nhau, không nói xấu nhau, tránh làm gương xấu cho giáo dân. Đặc biệt phải tôn trọng Đức Giám Mục và các đại diện của ngài. Riêng trong nội bộ Dòng Tên, một mặt phải giữ kỷ luật chặt chẽ, mặt khác, và hơn nữa, phải giữ cho được bầu khí yêu thương. Thánh Phanxicô Xavier đưa ra một định nghĩa thời danh: “Dòng Tên là dòng yêu thương”. Không có cưỡng ép, nhưng phải chia sẻ. Ngài luôn luôn muốn biết tin tức về từng anh em ở Ấn Độ cũng như ở Châu Âu. Đặc biệt là lòng yêu mến ngài dành cho thánh I-nhã và các bạn đầu tiên của Dòng: lúc ngài qua đời, người ta thấy trên cổ ngài đeo một gói nhỏ, trong đó có bản lời khấn của ngài và chữ ký của các bạn ngài cắt từ các lá thư nhận được.
Thánh Phanxicô Xavier là một tông đồ di động. Ngài không phải là người có máu du lịch. Trước khi gặp thánh I-nhã, ngài ước mơ làm giáo sư, làm bác sĩ hay làm giám mục… để được hưởng vinh hoa phú quí. Ngài không hề ước mơ theo vết chân Christophe Colombo sang Châu Mỹ hay Vasco da Gama sang Châu Á, như cha Cosma de Torres chẳng hạn. Hơn nữa, là dân miền đồi núi, ngài xa lạ với biển. Một trong những điều gây ấn tượng mạnh nhất đối với ngài là những nguy hiểm trên biển. Dầu vậy, ngài đã vượt gần 100.000 cây số đường biển. Theo tính toán của cha X. Léon-Dufour, S.J., trong mười hai năm hoạt động truyền giáo, thánh Phanxicô Xavier ở trên biển ba năm bảy tháng, tức là cứ ba ngày thì có một ngày trên biển, và mỗi ngày di chuyển trung bình 60 km. Ngài tự coi mình là người mở đường cho anh em, Dòng Tên cũng như các thừa sai khác. Và khi mở ra được một con đường, ngài vui mừng, rồi lại đi mở con đường khác. Một cha Dòng Tên cùng ở Ấn Độ với ngài nói: ngài không ở đâu yên được quá hai tuần lễ! Một cha khác nói: ngài không ngồi yên được bao giờ!
Chúng ta chỉ có thể lấy lời của Thánh Phaolô để hiểu được sự thôi thúc thâm sâu và mãnh liệt trong trái tim thánh Phanxicô Xavier: “Chúng tôi có điên thì cũng vì Thiên Chúa; chúng tôi có khôn thì cũng vì anh em: Tình Yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5, 13-14)
SUY NIỆM 9: THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ:
NGHIỆT NGÃ PHẬN NGƯỜI, NHƯNG VINH QUANG CHO TÔI TỚ CHÚA
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, có đoạn (1 Cr 9, 16-19.22-23) thánh Phao-lô muốn chia sẻ ý thức trách nhiệm và thái độ cần phải có của một người ra đi rao giảng Lời Chúa. Ngài rao giảng không phải để tự hào, nhưng đó là sự cần thiết mà lương tâm bắt buộc ngài phải làm. Ngài rao giảng với thái độ của một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tự nguyện chấp nhận trở thành nô lệ của mọi người vì phần rỗi của họ, và theo lời Thầy Giêsu mời gọi: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo." (Mc 16, 15).
Như vậy Lời Chúa đã chỉ rõ, việc rao giảng Tin Mừng không hề có biên giới, cũng không phân biệt màu da hay chủng tộc, tầng lớp giai cấp hay chính kiến xã hội...Tất cả mọi người đều có quyền được thông chia phần phúc của Tin Mừng.
Và trao ban, theo Tin Mừng không phải là một việc tùy tiện. Muốn trao ban hay không tùy ý. Nhưng đó là ơn gọi bẩm sinh của con người. Không thể trao ban những thứ thừa thãi, hay những thứ không còn sử dụng được nữa. Mà là trao ban chính mình. Việc trao ban chỉ ý nghĩa và có giá trị khi được trao ban với ý thức và liên đới với tha nhân. Một hành động trao ban nhưng không, như Thầy Giêsu đã trao ban chính mạng sống mình, không vì tư lợi cá nhân hay vì mục đích nào khác, ngoài tình yêu thương. Mà sau này Người cũng truyền lại cho chúng ta: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em." (Ga 15, 12)
Nhận ra ý nghĩa cuộc đời mình, từ lời thách thức của Tin Mừng:"Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì ?", đã khiến một vị giáo sư trẻ tuổi nhiều tham vọng, từ bỏ tương lai đầy hứa hẹn, chỉ để đeo đuổi một mục đích duy nhất trong cuộc đời: sự sống đời đời của chính mình và của tha nhân.
Vị giáo sư trẻ tuổi đó chính là thánh Phanxicô Xaviê, bổn mạng của các xứ truyền giáo. Chưa tròn 25 tuổi, Phanxicô đã nổi tiếng như một giáo sư triết học tài ba tại đại học Paris. Giữa lúc danh vọng đang đến gần, Phanxicô Xaviê đã nhận được lời thách thức trên đây từ một người bạn thân Ignaxiô.
Không thể cưỡng lại với Lời Chúa, Phanxicô đã đến Montmartre để cùng với Ignaxiô sống đời khó nghèo, khiết tịnh và phục vụ tông đồ theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha.
Đến năm 1537, nghĩa là 3 năm sau khi đã tuyên khấn, Phanxicô Xaviê lãnh chức Linh mục. Từ Italia, ngài sang Lisbon của Bồ Đào Nha để lên dường đi truyền giáo tại Ấn Độ.
Trong 10 năm ngắn ngủi (1542-1552), Phanxicô Xaviê đã rảo bước đi khắp nơi để đem Tin Mừng đến cho dân tộc Nhật Bản, Mã Lai, Indonésia và Ấn Độ. Chưa đạt được giấc mơ đến Trung Hoa và Việt Nam, thánh nhân đã qua đời trong kiệt sức vì bệnh tật tại một hải đảo xa xôi, cách Hồng Kông 100 cây số.
Thánh Phanxicô Xaviê là hiện thân của Tin Mừng phổ quát, không biên giới. Ngài nhận ra giá trị đích thực của Tin Mừng, và bổn phận của người tôi tớ Chúa. Từ giã vinh hoa phú quí, thánh nhân rong ruổi trên những nẻo dường Châu Á xa lạ. Cuộc đời của ngài là một chia sẻ cảm thông sâu xa với những người nghèo khổ, bất hạnh thuộc mọi chủng tộc, mọi quốc gia. Ngài phục vụ họ suốt hành trình không biết mệt mỏi, nhưng luôn tràn ngập niềm vui, mà chỉ những người phục vụ trong yêu thương mới có được.
Như sự nghiệt ngã của rừng thiêng nước độc ở vùng đất xa xôi hẻo lánh, đã lấy đi mạng sống của ngài trong trơ trụi nghèo nàn.Thì sự nghiệt ngã mà ngày nay vẫn còn kéo dài và đang hằn sâu trên gương mặt khắc khổ của những con người, vì sự thật: bị cầm tù, bị nhục mạ, và chịu nhiều bất công, đói nghèo trên mảnh đất Châu Á nhỏ bé này Nghiệt ngã phận người, nhưng vinh quang cho tôi tớ Chúa.
Mừng kính thánh Phanxicô Xaviê, với tâm tình cảm tạ Chúa và tri ân, vì nhờ ngài chúng ta được biết Chúa để tôn thờ và mến yêu, được biết chân lý Sự Thật. Chúng ta xin Chúa, qua lời chuyển cầu của thánh nhân, cho mỗi người Việt Nam hôm nay luôn ý thức trách nhiệm người thợ gặt của Chúa, trên cánh đồng truyền giáo mênh mông tại quê hương mình. Đặc biệt, xin Chúa ban ơn can đảm và bền đỗ đến cùng, cho những người đang bị bách hại vì sự công chính, xin cho họ biết đón nhận mọi thử thách, như dấu chỉ của lòng tín thác và niềm hy vọng cậy trông vào ngày Chúa quang lâm.
SUY NIỆM 10: THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ VỚI SỨ VỤ TRUYỂN GIÁO
(Lm. Nguyễn ngọc Long)
Ngày xưa con tầu là phương tiện vận chuyển người cùng vật dụng, hay trong dịch vụ buôn bán, từ nước này sang nước khác vượt sông biển xa xôi ngàn dặm, rất phổ thông trong đời sống.
Ngày nay, tuy có những phương tiện vận chuyển mới khác nhanh lẹ hơn, nhưng phương tiện bằng tầu thủy vẫn còn thích hợp.
Một con tầu không chỉ là phương tiện vận chuyển đồ trên thủy lộ, nhưng tầu còn là phương tiện đưa con người đi du lịch tham quan thắng cảnh trên sông ngòi, biển cả từ vùng này tới vùng khác, từ nước này sang nước khác. Phương tiện du lịch bằng tầu thủy ngày nay phát triển mạnh, đưa con người đến miền có nhiều cảnh thiên nhiên mới lạ thi vị mơ mộng.
Hình ảnh một con tầu có liên quan gì tới đời sống đức tin của chúng ta không?
Theo Kinh Thánh thuật lại ( St 7,1-24) khi nạn lụt đại hồng thủy dâng lên bao phủ khắp mặt đất 40 ngày đêm, gia đình Ông Noe đã vào sống trong một con tầu. Và nhờ sống trong tầu gia đình Ông mới sống sót không bị nước cuốn tiêu diệt như bao người khác.
Hình ảnh con tầu lịch sử Noe thầm nói lên ý nghĩa: Một ngôi nhà dùng để vượt qua những nguy hiểm trong đời sống. Ngôi nhà đó là Giáo Hội Chúa ở trần gian.
Trong ngôi nhà đó, các Bí tích là nguồn nước sự sống, là nguồn lương thực đời sống đức tin cho con người.
Vì thế, xưa nay nhiều thánh đường được xây cất theo mô hình nhà thờ dài như một con tầu.
Khi sang loan truyền Tin mừng tình yêu nước Thiên Chúa, mang con tầu Giáo Hội Chúa đến cho vùng đất xa lạ, các nhà Truyền Giáo cũng đã dùng phương tiện di chuyển bằng tầu vượt qua biển cả từ Âu châu sang tới Á châu, sang Việtnam. Trong số những vị đi truyền giáo đó có Thánh Phanxico Xaviê.
Thánh Phanxicô Xavie không chỉ dùng tầu vượt biển sóng nước đến Á Châu, nhưng Ông còn xây dựng con tầu Giáo Hội ở nơi đó nữa.
Sử sách không thấy nói đến Ông xây những ngôi thánh đường nguy nga lộng lẫy theo mô hình con tầu. Nhưng chỉ nói đến sứ vụ truyền giáo rao giảng Tin mừng với lòng nhiệt thành hăng say của ông thôi. Sứ vụ truyền giáo của Thánh nhân qui vào việc xây dựng ngôi nhà Giáo Hội nơi tâm hồn con người. Những ngôi nhà thờ tâm hồn con người, mà Thánh nhân đã xây dựng, để lại “ dấu vết ngàn xưa lưu ký”.
Cũng theo sử sách thuật lại, Thánh nhân đã mang làn nước Bí tích Rửa tội đến cho hàng chục ngàn người bên Trung Hoa bên Ấn Độ.
Làn nước Bí tích rửa tội Thánh nhân mang đến cho những con người đó, là chỉ lối cho họ đi vào ngôi nhà Giáo Hội của Chúa, nơi có nguồn nước sự sống, nguồn lương thực tâm linh cho tâm hồn con người.
Làn nước Bí tích rửa tội, Thánh Phanxico Xaviê đã mang đến cho họ, không chỉ có ánh sáng đức tin soi đường tới ngôi nhà con tầu Giáo Hội của Chúa, nhưng họ còn tiếp nhận một con đường, đúng hơn một truyền thống, giáo dục đào tạo Kitô giáo nữa.
Nền giáo dục đào tạo đó thể hiện theo chiều thẳng đứng: Trời và đất, Thiên Chúa và con người liên kết với nhau; theo chiều ngang nền chân trời: con người với nhau, con người với thiên nhiên, với quê hương đất nước, nơi sinh ra nơi sinh sống, cùng trong tương quan liên đới với nhau.
Nền giáo dục đào tạo đó đặt nền tảng trên Tám mối phúc thật :
"Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.”(Mt 5,2-12)
Nền giáo dục đào tạo đó lấy bác ái, khiêm nhường làm mẫu mực cho đời sống: “đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.” (Kinh hòa bình của Thánh Phanxico)
•••
Thánh Phanxicô Xaviê đã về trời từ hằng trăm năm nay, nhưng ngôi nhà đền thờ tâm hồn con người, qua làn nước Bí tích rửa tội, ngài đã xây dựng vẫn còn đó và tiếp tục phát triển nơi con người.
Thánh nhân không còn sống trên trần gian từ hàng thế kỷ nay. Nhưng nền giáo dục đào tạo Kiô giáo, mà ngài đã gieo trồng nơi những con người xưa kia, vẫn ăn rễ sâu nơi đời sống tin thần con người, vẫn luôn vang vọng ảnh hưởng đến suy nghĩ cùng cách sống của những thế hệ con người.
Nền Giáo dục đào tạo Kitô giáo đã giúp nhiều người xây dựng đời sống, tìm được niềm vui cùng bình an trong đời sống.
SUY NIỆM 11: Thánh Phanxicô Xaviê, Linh Mục (1506-1552)
(Nhóm Châu Kiên Long)
Phanxicô sinh năm 1506 tại Xaviê thuộc giáo phận Pampelune nước Tây Ban Nha trong một gia đình quyền quý. Năm 19 tuổi, ngài sang Ba Lê để tiếp tục việc học. Tám năm sau, ngài tốt nghiệp và trở thành giáo sư đại học đó. Ðược nổi tiếng nhờ trí thông minh, Phanxicô ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng thế tục. Nhưng một ngày kia, Chúa đã dùng miệng lưỡi thánh Ignatiô, cũng là thầy dạy, để nói cùng ngài: “Ðược lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích chi?”. Và Chúa đã hoàn toàn chiếm đoạt trái tim thánh nhân, biến ngài trở thành một khí cụ tuyệt vời cho cánh đồng truyền giáo. Năm 1539, Phanxicô hăng hái lãnh sứ mệnh nơi Ðức Giáo Hoàng Phaolô III là đem ánh sáng Phúc Âm đến cho dân tộc Ấn Ðộ.
Mười một năm trường nhiệt thành với nhiệm vụ loan báo Tin Mừng, đời sống thánh nhân là một cuộc hành trình không ngừng. Bước chân ngài len lỏi qua khắp các thành thị cũng như thôn quê để rao giảng Phúc Âm Chúa Giêsu. Tiếng ngài vang vọng từ Ấn Ðộ, Tích Lan đến Nhật Bản. Riêng tại Ấn Ðộ, ngài đã đem về cho Chúa hàng trăm ngàn linh hồn và Rửa Tội cho nhiều bậc quân vương. Dù vậy, ngài luôn ấp ủ một tâm hồn khiêm nhượng hiếm có: Ngài thường quỳ gối để viết thư cho thánh Ignatiô là Bề Trên của mình. Chúa đã hỗ trợ lòng nhiệt thành của thánh nhân bằng nhiều phép lạ phi thường.
Ngày 02/12/1552, khi đang trên đường tới gần Trung Hoa thì ngài ngã bệnh và từ trần tại đảo Tân Châu (Sancian). Xác ngài được đem về mai táng tại thành Goa bên Ấn Ðộ.
Ðúng 70 năm sau, Ðức Grêgôriô XV đã phong ngài lên bậc Hiển Thánh (1622).
Và đến năm 1904, Ðức Thánh Cha Piô X đặt ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo.
02/12 Hóa bánh ra nhiều lần 2
- Viết bởi Ngọc Biển, SSP
Hóa bánh ra nhiều lần 2.
Thứ Tư tuần 1 mùa vọng.
"Chúa Giêsu chữa nhiều người và hoá bánh ra nhiều".
LỜI CHÚA: Mt 15, 29-37
Khi ấy, Chúa Giêsu đến gần biển Galilêa, và Người lên ngồi trên núi; dân chúng lũ lượt đến cùng Người, đem theo kẻ câm, mù, què, liệt và nhiều người khác, và đặt họ dưới chân Người. Người đã chữa lành họ. Dân chúng kinh ngạc nhìn thấy kẻ câm nói được, người què bước đi, người đui lại thấy, và họ tôn vinh Thiên Chúa Israel.
Còn Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ mà phán: "Ta thương xót đoàn lũ này, vì đã ba ngày, họ ở lại với Ta, nhưng không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng đói, sợ họ té xỉu dọc đàng". Các môn đệ thưa Người: "Chúng con lấy đâu đủ bánh trong hoang địa này mà cho ngần ấy dân chúng ăn no?" Chúa Giêsu nói với họ: "Các con có bao nhiêu chiếc bánh?" Họ thưa: "Có bảy chiếc, và ít con cá nhỏ". Người truyền dân chúng ngồi xuống đất. Người cầm lấy bảy chiếc bánh và mấy con cá, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các môn đệ đem cho dân chúng. Tất cả đều ăn no, và mảnh vụn còn lại người ta thu lượm được bảy thúng đầy. Số người đã ăn lên tới bốn ngàn, không kẻ đàn bà con nít. Sau khi giải tán dân chúng, Người bước lên thuyền và đến địa phận Magađan.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ăn no nê
Suy niệm:
Khi mô tả về thời cánh chung, thời thiên sai, thời của Đấng Mêsia,
ngôn sứ Isaia nghĩ đến một bữa tiệc lớn cho muôn dân tộc
do Đức Chúa của Ítraen khoản đãi trên núi thánh.
Không phải chỉ đãi thịt béo, rượu ngon,
Đức Chúa còn lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người,
Khổ đau không còn nữa, chỉ còn tiếng reo vui (Is 25, 6-10).
Nơi Đức Giêsu, lời của ngôn sứ Isaia đã được ứng nghiệm.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lên một ngọn núi
thuộc miền Thập Tỉnh của dân ngoại (x. Mc 7, 31).
Dân chúng kéo đến cùng với những người bệnh hoạn tật nguyền.
Trên ngọn núi ấy, Ngài đã đem đến niềm vui cho bao người.
Kẻ câm nói được, người què đi được, người mù sáng mắt.
Đức Giêsu không giảng về một Nước Trời xa xôi.
Ngài cho thấy một Nước Trời gần gũi khi thân xác được lành mạnh.
Kitô giáo không duy tâm, duy linh hay duy vật.
Đức Giêsu quan tâm đến trọn cả con người với xác và hồn.
Chính vì thế Ngài vừa rao giảng, vừa chữa bệnh.
Ngài biết chạnh lòng thương đám đông,
vì họ đã ở lại với Ngài từ ba ngày qua mà không có gì ăn.
Ngài hiểu thế nào là cái đói và hậu quả của nó
nên Ngài không muốn để họ đi về mà bụng lại rỗng không.
“Sợ rằng họ bị xỉu dọc đường” (c. 32).
Đức Giêsu đã nghĩ đến việc cho họ ăn như một nhu cầu cấp thiết.
“Chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như vậy ăn no” (c. 33).
Trước vấn đề lương thực cho một đám đông ở nơi hoang vắng,
các môn đệ thấy mình bất lực và bế tắc.
“Bảy cái bánh và ít cá nhỏ”, đó là tất cả những gì họ có.
Để nuôi đám đông, các môn đệ phải cộng tác với Đức Giêsu,
trao cho Ngài tất cả những gì mình có,
để rồi nhận lại tất cả từ Ngài, và đem chia sẻ cho đám đông.
Bữa ăn ở nơi vắng này không phải là một đại tiệc với rượu thịt,
nhưng rõ ràng là rất cần thiết, đem lại no đủ và thậm chí dư thừa.
Thế giới hôm nay có hơn một tỉ người đói, đa số ở Á châu.
Những bữa ăn đầy đủ vẫn là nỗi khát khao ám ảnh nhiều người.
Đói chẳng những làm ngất xỉu hay dẫn đến cái chết,
nhưng còn làm người ta mất nhân cách, sống không ra người.
Bận tâm của Đức Giêsu về cái đói cũng là mối bận tâm của Giáo Hội.
Phép lạ bánh hóa nhiều của Đức Giêsu phải được nhân lên khắp nơi,
để không còn ai phải đói trên thế giới.
Bữa tiệc cánh chung, nơi muôn người từ đông sang tây đến dự,
phải được chuẩn bị từ những bữa ăn cho kẻ nghèo hôm nay.
Sống Mùa Vọng là lưu tâm đến bao người thiếu ăn ở quanh ta.
Và dù chỉ có mấy cái bánh, ta vẫn tin có thể bẻ ra để nuôi được họ.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: BỮA TIỆC HẠNH PHÚC
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thời Isaia dân Israel sống trong cảnh lưu đầy. Người lưu đầy phải chịu đói khát. Một tấm màn phủ kín khiến họ như bị giam kín trong tù ngục, chẳng còn thấy bầu trời tự do. Tương lai không lối thoát. Cơm bánh hằng ngày là châu lệ khi nhục nhã vì phẩm giá bị chà đạp. Cuộc đời họ còn sống nhưng như đã chết.
Được mặc khải, Isaia tuyên sấm về chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ đưa dân lên ngọn núi cao. Ở đó không còn đói khát vì Thiên Chúa thiết đãi một bữa tiệc thịnh soạn. Không còn từ ngục vì tấm màn bao phủ bị xé toang. Thoát cảnh buồn thương vì Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ. Thoát cảnh chết chóc vì họ được vui sống với Thiên Chúa.
Lời sấm hoàn toàn ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Hôm nay Người đưa dân lên ngọn núi. Ở đó Chúa thiết đãi một bữa tiệc. Người chữa mọi người khỏi bệnh hoạn tật nguyền. Dân không muốn về vì ở trên núi này họ được hạnh phúc. Không chỉ được no đủ, được chữa lành mọi bệnh tật, nhưng nhất là vì được sống với Chúa, được đồng bàn với Chúa. Hình ảnh người mục tử nhân lành trong Thánh vịnh 22 được thể hiện.
Thế giới hôm nay cũng tràn đầy vấn đề như thời Isaia. Người ta không vươn lên núi cao vì đuổi theo những tầm thường dưới mặt đất. Thế giới đói nghèo vì còn lắm bất công. Què quặt vì đưa ra những giải pháp nửa vời. Mù lòa vì không nhận biết chân lý. Câm điếc vì đóng kín trong ích kỷ. Đó là một thế giới thiếu Chúa.
Chúa chính là giải pháp duy nhất cho thế giới. Có Chúa người ta sẽ vươn lên những ngọn núi của lý tưởng cao thượng. Có Chúa người ta sẽ sống công bình. Có Chúa người ta mới biết đường phải đi. Có Chúa người ta mới nói được với nhau, lắng nghe và hiểu nhau. Và nhất là có Chúa, khối lương thực tưởng chừng ít ỏi lại đủ nuôi số đông người vì người ta biết mở lòng chia sẻ. Hãy nhìn tấm gương của Chân phước Mẹ Têrêxa. Bà không có nhiều của cải. Nhưng bà có thể nuôi hàng ngàn cô nhi, chữa lành hàng vạn bệnh nhân, đem niềm vui tươi hi vọng đến cho hàng triệu người. Vì bà có Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy đến cứu chúng con.
Suy Niệm 3: Hóa Bánh Ra Nhiều
Khi bàn về đoạn Tin Mừng hôm nay, một học giả Kinh Thánh đã viết: "Mỗi một giai đoạn trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giêsu được đánh dấu bằng một bữa ăn khoản đãi dân Ngài". Trước hết là phép lạ bánh hóa ra nhiều cho 5,000 người ăn, được coi như biến cố chấm dứt sứ vụ của Ngài tại Galilêa. Vì từ đây Ngài không còn giảng dạy tại các Hội Ðường cũng như làm những phép lạ, chữa bệnh tật tại đó nữa. Thứ đến là phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi sống 4,000 người, đánh dấu trong một giai đoạn ngắn giảng dạy tại các vùng dân ngoại biên giới Palestina, miền Tirô và Sidon và miền thập tỉnh. Sau cùng là bữa tiệc ly tại Jérusalem, nơi đây đã kết thúc cuộc đời rao giảng của Ngài ở trần gian.
Với cái nhìn phân tích, chúng ta sẽ thấy rằng mỗi bữa ăn đều nằm trong một bối cảnh khác nhau, thành phần tham dự cũng khác nhau. Tuy nhiên, tất cả cùng phát xuất từ một động lực chính, đó là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Hai lần hóa bánh ra nhiều đều do sự lo lắng của Chúa Giêsu: "Nếu để họ ra về e rằng có những người sẽ bị đói lả dọc đường". Và riêng bữa tiệc cuối cùng, đó là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã phải thực hiện một phép lạ vĩ đại để cho mọi người được đủ sức mạnh mà tiến bước trên con đường lữ hành trần gian. Nếu là một trong 5,000 người của đám dân chúng được Tin Mừng nói đến hôm nay, chắc chắn tâm trạng của chúng ta cũng chẳng khác gì tâm trạng của đám dân chúng lúc bấy giờ, là bụng đói lả sau ba ngày theo ngài nhưng lại không dám lên tiếng cứ giữ thái độ yên lặng.
Có thể họ im lặng vì chưa đủ lòng tin vào quyền năng của Chúa Giêsu. Thắc mắc của họ phần nào tương tự như thắc mắc của các tông đồ: "Lấy đâu ra bánh trong hoang địa này cho ngần ấy người ăn". Mặc dù các môn đệ đã thấy Ngài chữa lành các bệnh tật như làm cho kẻ điếc được nghe, què được đi, cùi được sạch... Tuy nhiên, có thể họ nghĩ rằng mình không thuộc về những hạng người cần đến Chúa Giêsu, vì thân thể đang khỏe mạnh đâu cần gì đến thầy thuốc. Sự đói mệt chỉ là một nhu cầu thể lý chứ không phải là một căn bệnh làm gì phải bắt Ngài bận tâm. Thế nhưng họ đâu có thể ngờ rằng, tuy không phải là căn bệnh thì chúng có thể làm hại con người hoặc có thể vì chút tự ái cá nhân mà họ đành im lặng mặc cho cơn đói hành hạ. Tại sao không chịu lo xa chuẩn bị chút ít lương thực phòng thân để giờ này lại mở miệng lên tiếng kêu ca.
Nhìn chung thái độ im lặng này xuất phát từ hai nguyên nhân: Thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa và quá quy trách vào bản thân.
Thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa khiến con người không thấy Ngài đầy quyền năng và đầy lòng thương xót. Ngài thấu hiểu hết mọi người và hằng quan tâm đến tất cả mọi nhu cầu của con người, ngay cả những nhu cầu nhỏ nhặt nhất cũng đều được Ngài đáp ứng. Mặt khác, quá thiên về bản thân cũng khiến cho con người xa cách Thiên Chúa. Con người luôn phải cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Về phần Chúa Giêsu, dù cho đám dân chúng im lặng, Ngài không chấp lẽ thái độ của họ, Ngài luôn quan tâm đến họ, Ngài sợ họ đói lả té xỉu dọc đàng, và Ngài đã cho họ ăn một cách dư giả đến nổi ăn xong còn dư được bảy thúng đầy. Con số này tượng trưng cho cái vô biên không đo lường nổi.
Cuộc lữ hành nào mà chẳng mệt nhoc, không lương thực thì chắc chắn sẽ có kẻ rơi rụng dọc đường. Chúa Giêsu đã thấy trước điều này ngay trong cuộc lữ hành trần gian, vì thế Ngài đã ban Mình Ngài để làm lương thực nuôi dân Ngài. Tuy nhiên, căn bệnh im lặng của đám dân chúng ngày xưa còn là căn bệnh của thế giới hôm nay. Căn bệnh đó xem ra còn trầm trọng hơn, vì bàn tiệc đã bày sẵn nhưng chẳng mấy ai đến hưởng dùng.
Mùa vọng là mùa đợi trông, dân Do Thái ngày xưa trông đợi ngày Chúa đến, ngày mà Chủ các cơ binh sẽ thiết đãi một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon. Sống trong tâm tình của Mùa Vọng, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ hiểu được giá trị trổi vượt của bàn tiệc Thánh Thể mà Thiên Chúa đã thiết đãi dân Ngài để rồi trong cuộc đời lữ hành trần gian chúng ta sẽ được no đủ và vững bước tiến về quê trời, không lo sợ phải mệt lả dọc đường.
Suy Niệm 4: Hoá bánh ra nhiều lần 2
Nạn đói tại Somali và một vài nơi trên thế giới là một ô nhục cho nhân loại ngày nay. Nhưng không riêng gì tại các nước nghèo, ngay trong các nước giàu, người ta cũng nói đến những hình thức nghèo đói và thiếu ăn mới, đó là nghèo đói tình người: con người có thể có một bộ óc phát triển hơn, một thân thể cường tráng hơn, nhưng trái tim thì lại mỗi ngày một nhỏ lại.
Chúa Giêsu đã đến để làm cho con người được giàu có dư dật hơn, nhưng thiết yếu là giàu có dư dật tình người. Ngài đã không mang lại cho con người cây đũa thần kinh tế chính trị để chỉ làm một cử động nhỏ bé là có đủ cơm bánh. Mồ hôi, nước mắt vẫn là định luật của cuộc sống. Chúa Giêsu không muốn xoá bỏ định luật ấy. Phép lạ, hay đúng hơn giải pháp Ngài đem đến chính là tình người: có tình người, con người có thể xoá bỏ được mọi thứ nghèo đói. Đó là sứ điệp mà chúng ta có thể tìm thấy trong bài Tin mừng hôm nay.
Chúa Giêsu xót thương đám đông đi theo Ngài. Ngài xót thương họ không những vì họ đang đói khát cơm bánh thể xác, mà còn vì nỗi đói khát tinh thần của họ. Phép lạ bánh hoá nhiều không phải là một giải pháp tạm thời xoa dịu cơn đói khát, mà là một lời mời gọi, một khơi dậy về một chiều kích vượt trên những nhu cầu thể lý. Bên kia cơm bánh nuôi thể xác, Chúa Giêsu mời gọi con người hướng về một của ăn không hư nát là sự sống thần linh, sự sống làm cho con người biết yêu thương, quảng đại hơn.
Chúa Giêsu đã có thể nói một lời và phép lạ liền diễn ra. Nhưng Ngài đã không làm thế. Ngài tra vấn các môn đệ để khơi dậy nơi các ông mối quan tâm, lo lắng đến người khác. Và chính từ những chiếc bánh và nhưng con cá có sẵn, tượng trưng cho sự đóng góp và lòng quảng đại của con người, Chúa Giêsu đã làm phép lạ bánh hoá nhiều nuôi sống đám đông dân chúng.
Giàu tình người, giàu lòng quảng đại, giàu tình liên đới, đó là sự giàu có đích thực, và với sự giàu có ấy, phép lạ của Chúa Giêsu sẽ không ngừng được tiếp diễn và lúc đó cái đói khát thể xác mới được xoá bỏ và kiếp nghèo mới được hạ giảm.
Suy Niệm 5: Giấc mơ vô tận (Mt. 15, 29-37)
Đức Giêsu xuống khỏi miền ấy, đến Biển Hồ Galilê. Người lên núi và ngồi ở đó. Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành. (Mt. 15, 29-30)
Một Lời
Niềm hy vọng không ngừng vọt ra từ những bản văn của ngôn sứ I-sai-a. Hôm nay, niềm hy vọng này làm sống lại ước muốn của chúng ta được vượt qua những giới hạn của sự chết, được sống toàn vẹn, thoát khỏi tang tóc đau thương. Chúng ta thấy trong niềm hy vọng đó lời Chúa ban sự sống xứng đáng dồi dào, xóa sạch mọi khổ nhục. Đó là sự sống vô hạn.
Tin mừng lập lại đề tài này, không phải bằng lời loan báo viển vông, mà bằng dấu chỉ thực hiện niềm hy vọng vô tận này rõ ràng, cụ thể qua việc: “Chúa cầm lấy bảy tấm bánh và mấy con cá, Người tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ phân phát cho dân chúng”.
Một Xã Hội
Chúng ta đang bị một cú sốc. Sau vài thập niên, ai cũng tưởng rằng trái đất là nguồn phong phú vô tận. Nhưng nếu chỉ trong vòng không đầy một tháng thôi, mỏ dầu cạn kiệt, biển khơi chồng chất cặn bã và làm cá chết, những loài vật biến mất, môi trường bị phá hủy, không khí bị ô nhiễm: trái đất sẽ cạn kiệt, thì không còn sản phẩm mới nữa, nguyên liệu hết, đời sống sẽ chẳng còn gì.
Và chúng ta sẽ ra sao?
Thiên Chúa đã hứa ban cho một đời sống phong phú vô tận, nhưng Ngài nhấn mạnh đến phẩm chất của đời sống này, chứ không nói đến đời sống vật chất. Để niềm hy vọng của chúng ta có một giá trị cao quý đích thực về đời sống, chúng ta hãy nghĩ xem và thử đặt vấn đề: “Tôi hy vọng gì? hay đúng hơn: tôi hy vọng vào ai?”. Chúng ta sẽ tìm thấy vô tận ở đâu? Nơi sản phẩm mình có, hay nơi nhân phẩm của mình, nơi cái mình có, hay nơi mình là. Cái mình là, cái phẩm giá mới làm cho đời sống trở thành vô tận. Vậy hãy ném cái thùng của mình vào cái giếng vô tận tuyệt đối, ném cái hữu thể của mình vào hữu thể của Thiên Chúa, ném đời sống mình vào nguồn sống hằng có đời đời của Thiên Chúa.
Sau cùng, để được sống vô biên, cần phải chia sẻ nó. Bánh được hóa ra nhiều để chia sẻ cho đám dân đông đảo, thế mà vẫn còn thu được nhiều thúng đầy. Của cải của chúng ta cần được san sẻ, đời sống của chúng ta cần được bẻ ra phân phát cho nhiều người, nhờ thế, nó được trở nên vô tận.
C.G
Suy Niệm 6: CẦN CÓ MỘT TẤM LÒNG (Mt 15,29-37)
Ngày nay, nhiều người giáo dục con cái về tình thương, nhân ái, liên đới với mọi người bằng cách: khi ra đường, thấy những người ăn xin..., họ thường đưa tiền cho con cái của họ và dặn các cháu lễ phép, kính trọng biếu những người đó. Hay khi bỏ tiền vào rỏ ở nhà thờ hay đền thánh..., họ cũng thường đưa cho các bé bỏ vào. Qua đó, họ muốn con họ sau này sống có tình thương, chia sẻ, liên đới.
Hôm nay, Đức Giêsu đã thực hiện một phép lạ cả thể là chữa lành bệnh tật và làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Ngài không muốn làm một mình, nhưng Ngài muốn các môn đệ chung chia nỗi thao thức với Ngài, vì thế, Ngài đã gọi các ông lại và nói: "Ta thương xót đoàn lũ này, vì đã ba ngày, họ ở lại với Ta, nhưng không có gì ăn. Ta không muốn cho họ về bụng đói, sợ họ té xỉu dọc đàng". Đức Giêsu đã khéo khơi gợi lòng bác ái nơi các môn đệ, và như thế, Ngài đã dạy cho các ông bài học quý báu là phải biết lo lắng cho những người đang cần sự giúp đỡ của họ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có lòng thương xót như Đức Giêsu. Cần có một tình thương bao la, không giới hạn giữa bạn và thù. Nếu những người ốm đau, bệnh tật thời Đức Giêsu, họ đã tìm lại được sự bình an, hạnh phúc khi gặp được Ngài, thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng phải làm cho khuôn mặt, hành động và tình thương của Đức Giêsu được lan truyền và sống động nơi các hành vi, từ cử chỉ, ánh mắt đến nụ cười của mình được thấm đượm vị mặn Giêsu, để những ai gặp được chúng ta, họ như gặp được nguồn bình an, sự cảm thông, lòng thương xót và được hạnh phúc.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thật ý nghĩa khi nó được đặt vào ngay trong Mùa Vọng, vì Mùa Vọng gợi nhớ và nhắc nhở mỗi chúng ta nhớ lại tình thương của Thiên Chúa trên cuộc đời của mình, đồng thời biết loan truyền tình thương ấy cho người khác.
Lạy Chúa Giêsu, tình yêu và lòng thương xót của Chúa đã làm cho dân chúng an vui, hạnh phúc. Xin Chúa cũng ban cho chúng con được trở nên sứ giả của niềm vui, bình an và hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
Ngọc Biển, SSP
01/12 Mặc Khải Cho Kẻ Bé Mọn
- Viết bởi Nguyen Minh Thang
Mặc Khải Cho Kẻ Bé Mọn.
Thứ Ba tuần 1 mùa vọng.
"Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần"
Lời Chúa: Lc 10, 21-24
Khi ấy, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng lạy Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. Cha Ta đã trao phó cho Ta mọi sự. Không ai biết Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào, ngoài Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết!"
Rồi Chúa Giêsu quay lại phía các môn đệ và phán: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều chúng con xem thấy; vì chưng Ta bảo các con: có nhiều tiên tri và vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều chúng con nghe, mà đã chẳng được nghe.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Thánh Thần tác động
Suy niệm:
Ông tổ Jessê là cha của vua Đavít (Lc 3, 32).
Bài đọc 1 nói về một nhánh nhỏ đâm ra từ gốc tổ Jessê (Is 11, 1).
Đó là Đấng Mêsia, người thuộc dòng dõi Jessê, cha của Đavít.
Nét đặc biệt của Đấng này là có Thần Khí Đức Chúa ngự trên:
“thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh,
thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa” (Is 11, 2).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu được đầy tràn Thánh Thần,
khiến Ngài vui sướng dâng lên Cha lời cầu nguyện tự phát (c. 21).
Như thế có sự hiện diện của cả Ba Ngôi Thiên Chúa trong giây phút này.
Trong Thánh Thần, Con dâng lên Cha lời ngợi khen chúc tụng.
Lời cầu nguyện của Con bao giờ cũng bắt đầu bằng câu Abba, Lạy Cha.
Abba là người Cha gần gũi thân thương,
nhưng Abba cũng là Chúa tể trời đất, đầy quyền năng siêu việt.
Đức Giêsu ngợi khen Cha, vì Cha giấu kín nhóm này,
nhưng lại mặc khải cho nhóm kia về Con của Cha.
Thật ra, Cha không ghét bỏ những người khôn ngoan thông thái.
Nhưng sự giàu có tri thức đã khiến một số người tự mãn, tự hào,
đi đến chỗ khép lại và từ chối tin vào Đức Giêsu.
Những người bé mọn, đơn sơ mới là những người khôn ngoan thật sự.
Họ mềm mại mở ra như trẻ thơ, để đón nhận Tin Mừng về Nước Trời.
Bảy mươi hai môn đệ mới đi sứ vụ trở về, là những người bé mọn ấy.
Họ là những người có phúc vì được thấy, được nghe
những điều mà bao thế hệ khác ước ao, nhưng không được (cc. 23-24).
Họ là những người được đưa vào thế giới thân tình giữa Cha và Con.
Thế giới ấy thật là riêng tư, nơi Cha và Con hiểu biết nhau trọn vẹn.
“Không ai thực sự biết Con là ai, trừ Cha;
cũng không ai thực sự biết Cha là ai, trừ Con” (c. 22).
Nhưng thế giới tưởng như khép kín ấy cũng là thế giới mở ra cho con người.
Cha mặc khải cho những người bé mọn (c. 21).
Và Con cũng mặc khải cho người nào Con muốn (c. 22).
Rốt cuộc Cha mặc khải về Con, và Con mặc khải về Cha.
Chỉ Thiên Chúa mới mặc khải được cho ta về Thiên Chúa.
Mừng lễ Giáng Sinh là mừng Quà Tặng của Cha là Đức Giêsu.
Ngài là Đấng duy nhất biết Cha thâm sâu,
nên cũng là Đấng duy nhất có thể mặc khải về Cha trọn vẹn.
Ngài là Đấng Trung Gian duy nhất và là Người Con Một của Cha.
Thiên Chúa Cha đã bắc cho chúng ta một nhịp cầu.
Cha mời chúng ta qua nhịp cầu ấy mà đến với thế giới Thiên Chúa,
nơi Cha và Con khăng khít với nhau trong tình yêu.
Hãy để Cha lôi kéo ta đến với Con của Ngài (Ga 6, 44).
Hãy để Con là đường đưa ta đến với Cha (Ga 14, 6).
Hãy là người khôn ngoan thật sự, biết mở ra để nghe Cha, Con mặc khải.
Biết được Cha và Con là ai, đó là hạnh phúc của người Kitô hữu.
Đó cũng là ước mơ ngàn đời của Cha và Con cho nhân loại.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-Tinh)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: VƯƠNG QUỐC BÌNH AN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thế giới không ngừng bị xâu xé vì thảm cảnh chiến tranh, vì xung đột quyền lợi. Ai cũng mơ ước một thế giới hòa bình nơi mọi người, mọi quốc gia dân tộc, mọi chủng tộc, mọi ngôn ngữ có thể sống chung hài hòa bên nhau. Nhưng mơ ước đó lúc nào cũng xa vời vì trên thế giới chưa bao giờ kẻ ác thôi hoành hành làm hại người lành, chưa bao giờ người giầu thôi bóc lột người nghèo, chưa bao giờ kẻ mạnh hết ức hiếp người yếu.
Isaia tiên báo Đấng Cứu Thế đến sẽ hoàn thành mơ ước. Người đầy Thánh Thần sẽ thiết lập vương quốc bình an. Thánh Thần tràn ngập sẽ làm cho mọi người hiểu biết Thiên Chúa: “Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này”.
Tiên báo đó ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Người tràn đầy Thánh Thần đã khai mạc Vương Quốc bình an. Vương quốc đó được mặc khải cho những người bé nhỏ, khiêm tốn, nghèo hèn. Những người giầu sang, kiêu căng, hung ác bị gạt ra, không được hiểu biết Nước Thiên Chúa cho đến khi họ ăn năn sám hối. Những người này sám hối khi họ hiểu biết Thiên Chúa và hiểu ra rằng giết đồng loại là tự hủy diệt, bóc lột người nghèo là ăn cướp chính mình, áp bức người bé nhỏ là tự lên án chính mình.
Khi hiểu biết Thiên Chúa, họ sẽ tỉnh ngộ và sẽ tự biến đổi. Như con sói hết nhe nanh đe dọa để có thể ở với chiên con. Như con beo cụp hết móng vuốt để có thể nằm bên dê nhỏ. Như sư tử thôi ăn thịt, bắt đầu ăn rơm để có thể sống chung với bò tơ. Như con rắn hết thâm trầm hiểm độc để được ở với em bé. Người ta sẽ không còn sống theo xác thịt với những toan tính thấp hèn, theo thói thế gian. Nhưng sẽ sống theo Thần Khí. Siêu thoát trần tục. Trở nên như trẻ thơ. Hiền hoà. Trong trắng.
Vì thế sống tâm tình Mùa Vong ta phải trở nên bé nhỏ, khiêm nhường để được Chúa cho biết mầu nhiệm Nước Trời. Muốn thế ta phải sửa mình khỏi những gian tham, độc ác, bóc lột áp bức để trở nên hiền lành khiêm nhường, bé nhỏ đơn sơ, như thế mới có thể hiểu biết Thiên Chúa. Như thế Vương quốc Bình an mới thành hình và ta mới hi vọng được chia sẻ hạnh phúc sống trong Vương quốc của Chúa. Và “triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị đến muôn đời”.
Suy Niệm 3: Mặc Khải Cho Kẻ Bé Mọn
Chúng ta đang bước vào Mùa Vọng là mùa trông đợi Ðấng Cứu Thế mang ơn cứu độ đến cho nhân loại. Chờ đợi là thời gian dài thăm thẳm, vì theo tâm lý thì thời gian như kéo dài thêm ra. Trải qua một thời kỳ lịch sử Cựu Ước, kể từ khi con người phạm tội phản nghịch qua Adam và Evà, biết bao nhiêu tổ phụ, bao nhiêu tiên tri đã được sai đến dọn đường cho Con Thiên Chúa là Ngôi Hai mặc lấy thân xác con người, gánh lấy tội lỗi con người và làm cho con người được ơn cứu rỗi.
Ðoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta lời cầu nguyện của Chúa Giêsu để mạc khải cho chúng ta biết bản tính Thiên Chúa của Ngài: "Không ai biết Chúa Con ngoại trừ ra Cha, cũng không ai biết Chúa Cha là Ðấng nào ngoài Chúa Con và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết".
Ðôi mắt con người chỉ nhìn xem những vật hữu hình, nếu quá nhỏ có thể dùng kính hiển vi, nếu quá xa có thể dùng kính thiên văn. Trí óc con người có thể suy nghĩ một cách hạn hẹp trong khả năng giới hạn nào đó mà thôi, ví dụ chúng ta có thể nhìn thấy ngôi nhà chúng ta đang ở, chúng ta biết nó không phải tự nhiên mà có nhưng phải do bàn tay thợ nề, thợ mộc, do con người làm nên và tạo ra. Khi nhìn đồng hồ treo tường hay treo đồng hồ đeo tay, chắc hẳn trong chúng ta không ai nghĩ rằng nó tự nhiên mà có nhưng phải có người suy tính và tạo ra.
Từ những thí dụ cụ thể trên, chúng ta có ý nghĩ: Con người chúng ta không phải tình cờ hay ngẫu nhiên mà được sinh ra. Ða số ai cũng chấp nhận có ông Trời tạo dựng nên và điều khiển vũ trụ. Tuy nhiên trí óc con người không dừng lại ở đó, trí óc họ không thể hiểu thêm gì về ông Trời đó, chỉ có thể tưởng tượng ra ông Trời cũng biết thương, biết giận, biết ghét, biết khen thưởng hay trừng phạt như con người. Và con người cũng thường nói: "Ông Trời có mắt" để cùng nhau làm lành làm dữ, sống hòa thuận, bớt làm điều tai ác.
Chúa Giêsu mặc lấy thân phận con người để tiết lộ cho chúng ta biết về Thiên Chúa qua lời cầu nguyện của Ngài hôm nay với Thiên Chúa Cha: "Không ai biết Thiên Chúa Cha ngoại trừ ra Con". Thiên Chúa Con, Ngài từ trời xuống nên Ngài biết rõ những việc trên trời nơi Ngài đã ở với Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu còn cho chúng ta biết về Thiên Chúa Cha có Ba Ngôi, và khi Ngài chịu Phép Rửa ở sông Jordan, Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài, đồng thời có tiếng Thiên Chúa Cha phán ra từ đám mây: "Này là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta mọi đàng". Và trước khi về Trời, Chúa Giêsu cũng đã truyền lệnh cho các môn đệ: "Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Như vậy, con người không thể biết được về bản tính Thiên Chúa nếu Chúa Giêsu Kitô không mạc khải truyền lệnh cho các môn đệ: "Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Như vậy, con người không thể biết được về bản tính Thiên Chúa nếu Chúa Giêsu Kitô không mạc khải cho chúng ta biết, và lời Ngài trên đây cũng cho chúng ta biết thêm dẫn chứng về ngôi vị Thiên Chúa: "Không phải những kẻ thông thái khôn ngoan biết những điều này nhưng là những kẻ đơn sơ". Những kẻ đơn sơ bé mọn đó chính là chúng ta.
Chúng ta đang ở trong Mùa Vọng để chuẩn bị đón mừng một mầu nhiệm rất trọng đại, mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần đem ơn cứu rỗi đến cho mọi người. Chúng ta là những người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội, thuộc mọi quốc gia, đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi trình độ, mọi ngôn ngữ khác nhau, không phân biệt nhưng cùng chung một niềm trông đợi Ðấng Cứu Thế đem bình an đến cho mọi tâm hồn.
Chúa Giêsu đã chúc lành cho chúng ta: "Hạnh phúc cho những người được xem thấy những điều chúng con xem thấy, vì đã có nhiều tiên tri, vua chúa đã muốn xem những điều chúng con thấy mà chẳng được xem". Biết bao nhiêu người hiện nay chưa biết, chưa được nghe đến Tin Mừng của Chúa, vì chưa được ai rao giảng cho họ.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con tin vững vàng vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ngôi Hai Nhập Thể để chúng con sống thật với mầu nhiệm yêu thương ấy. Xin Chúa cho mỗi người trong chúng con sống trọn vẹn tâm tình tha thiết mong đợi Ðấng Cứu Thế đến để cứu rỗi nhân loại chúng con. Amen.
Suy Niệm 4: Phúc cho mắt nào được thấy
Rồi Đức Giêsu quay lại với các môn đệ và bảo riêng: “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy! Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: Nhiều ngôn sứ và nhiều vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều anh em đang nghe, mà không được nghe” (Lc. 10, 23-24)
Đức Giêsu sai bảy mươi hai môn đệ đi truyền giáo. Khi trở về, các ông rất vui mừng vì dân chúng đã đón nhận Tin mừng cách tốt đẹp. Nên Đức Giêsu hướng về Chúa Cha và cảm tạ Ngài. Đồng thời Người kêu mời các ông hãy vui mừng vì Thiên Chúa đã thực hiện những điều lạ lùng cho mắt các ông được thấy: “Phúc thay mắt nào được thấy điều anh em thấy”.
Chúng ta đã nhìn thấy những điều tốt lành đó không? Chúng ta đã chú tâm đến những việc tích cực và lạ lùng trong học thuyết Kitô giáo ngày nay không?
Trong Giáo Hội có nhiều thay đổi thật sự. Đó không phải là dấu chỉ của sức khỏe sao? Nếu bất động thì không còn sống nữa?
Cơn khủng hoảng chúng ta đang trải qua, làm chúng ta phải cựa quậy, phải chao đảo, lo lắng. Nhưng đó là dịp cho chúng ta phục hưng, đổi mới và trở nên Kitô hữu trưởng thành và có trách nhiệm.
Giáo Hội này nay cố gắng đi về phía con người, và đặc biệt về phía những người nghèo khổ. Dù phải rước họa vào thân càng ngày càng nhiều, Giáo Hội luôn luôn hợp tác với những ai tranh đấu cho công lý và hòa bình. Đó không phải là sống Tin mừng sao? Giáo Hội canh tân phụng vụ, đó là để giúp chúng ta dễ cầu nguyện. Giáo Hội thay đổi và giảm nhẹ các luật lệ, đó là để khuyến khích chúng ta biết lãnh trách nhiệm riêng của chúng ta. Nếu chúng ta biết mở to mắt hơn và đừng chỉ trích gì của thời quá khứ, có thể chúng ta sẽ khám phá thấy rằng thời đại, mà chúng ta đang sống, không xấu mà còn có thể nói như Đức Giêsu nói: “Phúc thay mắt nào thấy điều anh em thấy”.
J.Y.G
Suy Niệm 5: Mạc khải cho kẻ bé mọn
Một chú ếch nọ suốt đời ngồi dưới đáy giếng. Một hôm, nó ngạc nhiên vô cùng khi thấy một con ếch khác xuất hiện trên bờ giếng. Nó lên tiếng hỏi: “Chú mày từ đâu đến?” Từ trên miệng giếng, khách lạ tra lời: “Tôi đến từ một vùng biển”.
Lần đầu tiên nghe nói đến biển, con ếch dưới đáy giếng thắc mắc: “Thế biển là gì? Biển giống như cái gì?” Khách lạ lắc đầu đáp: “Biển mênh mông, biển không cùng, không thể dùng bất cứ hình ảnh nào để nói cho một kẻ suốt đời ngồi dưới đáy giếng hiểu được thế nào là biển”.
Nghe thế, con ếch ngồi dưới đáy giếng mới nghĩ thầm: “Từ trước đến nay, ta gặp không biết bao nhiêu kẻ lường gạt, nhưng tên này hẳn phải là kẻ trí trá vô liêm sỉ nhất”.
Nhiều người có lẽ đang nhìn vào niềm tin Kitô giáo với lối suy nghĩ của chú ếch ngồi đáy giếng trong câu chuyện trên. Người ta dùng cái vùng giếng hẹp hòi của ý thức hệ để đo lường trời biển bao la của niềm tin tôn giáo.
Đức tin thiết yếu là một ân ban nhưng không. Điều đó có nghĩa là người ta không đạt đến đức tin bằng sự lý luận uyên bác của mình; và điều đó cũng có nghĩa là không phải kẻ thông thái đương nhiên là người có đức tin hoặc có đức tin sâu sắc hơn người quê mùa dốt nát.
Lời tá tụng của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay xác quyết tính cách nhưng không của đức tin. Chúa Giêsu cảm ta Chúa Cha vì đã dấu hạng khôn ngoan thông thái những điều đó, tức là ơn đức tin, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn.
Nói đến hạng khôn ngoan thông thái hẳn Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến những Biệt phái và luật sĩ, những người học cao hiểu rộng. Chính cái mớ kiến thức về luật pháp và đạo giáo ấy đã khiến họ cho mình là người nằm giữa chân lý, là người đạo đức và có đức tin sâu sắc hơn người khác. Chúa Giêsu đã không ngừng lên án thái độ huyênh hoang tự đắc ấy.
Chọn những người đơn sơ, thất học làm môn đệ, kết thân với những kẻ bị đẩy ra bên lề xã hội, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ cho mọi ngươi thấy rằng trong nước Ngài không có sự phân biệt đối xử, rằng người ta không nhất thiết là người thông thái mới có thể trở thành môn đệ Ngài. Để thuộc về nước Ngài, để trở nên môn đệ Ngài, điều kiện thiết yêú là phải trở nên bé mọn, khiêm tốn, trút bỏ lối suy nghĩ hẹp hòi của mình.
Quả thực, người có đức tin không còn nhìn, suy nghĩ, lý luận bằng cái nhìn ích kỷ, hẹp hòi của mình, mà bằng cái nhìn của Thiên Chúa, nhờ đó họ tìm được ánh sáng và hy vọng ngay trong cuộc sống tăm tối, cảm nhận được sức mạnh trong những mất mát, thua thiệt, nhận ra được lẽ khôn ngoan ngay trong những gì mà thế gian cho là điên dại. Người có đức tin sẽ sống và yêu thương bằng chính tình yêu của Thiên Chúa, yêu đến độ hy sinh chính mạng sống mình.
Nguyện cho cả cuộc sống chúng ta được trở thành bài ca tán dương và tri ân Chúa vì hồng ân đức tin Ngài đã ban cho chúng ta.
Nguyện cho từng tâm tư, suy nghĩ, hành động của chúng ta không phát xuất từ con người ích kỷ, hẹp hòi của chúng ta, mà là thể hiện của đức tin mà Thiên Chúa đã trao ban cách nhưng không cho chúng ta.
Suy Niệm 6: XIN CHÚC TỤNG CHA (Lc 10, 21 – 24)
Trong xã hội, người nắm giữ những chức vụ, vai trò liên quan đến tôn giáo, họ được học và am tường Kinh Thánh, Giáo Lý nhiều. Có khi họ am tường hơn cả chúng ta! Tuy nhiên, điều khác biệt chính là họ không có lòng mến và không hề có đức tin, nên họ đọc, học Kinh Thánh, Giáo Lý là để phục vụ cho nghề nghiệp hay vì miếng cơm manh áo chứ không đọc trong tâm tình yêu mến, lắng nghe và thực hành để được sự sống đời đời.
Hôm nay, Tin Mừng cho thấy, Đức Giêsu hoan hỷ dâng lời tạ ơn Chúa Cha, Ngài nói: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì đã giấu không cho những người thông thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ”.
Như vậy, đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa chứ không phải là kết quả của tri thức, địa vị.... Vì thế, đức tin không sinh hoa kết quả do lòng kiêu ngạo trong sự ích kỷ, nhưng sẽ đơm bông, kết trái khi gặp được thửa đất tâm hồn đơn sơ, chân thành do lòng yêu mến.
Điều này, chúng ta thấy rất rõ thời Đức Giêsu nơi những người Pharisêu, Luật Sĩ…. Họ tưởng mình nắm bắt được mọi sự, nhưng kỳ thực họ phỏng chiếu sự hiểu biết của họ theo nghĩa thuần tục, vì thế, những chân lý, mầu nhiệm trong chương trình của Thiên Chúa thì họ chẳng hiểu biết gì, ngay kể cả Đấng Cứu Thế họ cũng không biết, thì làm sao hiểu được đường lối của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu!
Muốn hiểu được thánh ý Thiên Chúa, hẳn mỗi người chúng ta, trước mặt Chúa, cần phải khiêm tốn nhận mình là thụ tạo thấp hèn, nếu không muốn nói là kẻ dốt nát, khờ khạo...!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở nên như trẻ nhỏ, khiêm tốn, đơn sơ, chân thành trước mặt Chúa, bởi vì chúng ta thực ra chẳng có gì đáng để tự hào, huyênh hoang cả. Chúng ta có là gì đi chăng nữa thì cũng là do tình thương của Thiên Chúa ban chứ không do công trạng của mình. Bởi vậy, thay vì kiêu ngạo, chúng ta hãy có tâm tình tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã làm cho chúng ta những điều cao trọng, mặc dù chúng ta không xứng đáng.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin chúc tụng, tạ ơn Chúa vì những ân ban cao cả mà Ngài đã ban cho chúng con là những kẻ bé mọn. Amen.
Ngọc Biển, SSP
30/11 Ngư phủ lưới người
- Viết bởi Mt 4, 18-22
Ngư phủ lưới người.
Thứ Hai tuần 1 mùa vọng – THÁNH ANRÊ, TÔNG ĐỒ. Lễ kính.
"Các ông bỏ lưới mà đi theo Người".
* Thánh Anrê quê ở Bétsaiđa. Ban đầu người là môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, sau đó theo Chúa Kitô. Người cũng đã dẫn em là thánh Phêrô đến gặp Chúa. Chính người cùng với thánh Philipphê đã giới thiệu những người ngoại giáo với Chúa Kitô và đã cho biết có một em bé mang theo bánh và cá khi những người nghe Chúa giảng không có gì ăn. Sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, người đã đi loan báo Tin Mừng ở nhiều nơi và đã bị đóng đinh thập giá ở A-khai-a.
LỜI CHÚA: Mt 4, 18-22
Khi ấy, nhân lúc Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy hai anh em là Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, cả hai đang thả lưới dưới biển, vì hai ông là ngư phủ. Người bảo hai ông rằng: "Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những ngư phủ lưới người ta". Lập tức hai ông bỏ lưới đó mà theo Người.
Ði xa hơn một đỗi, Người lại thấy hai anh em khác là Giacôbê con ông Giêbêđê, và Gioan em ông đang vá lưới trong thuyền với cha là Giêbêđê. Người cũng gọi hai ông. Lập tức hai ông bỏ lưới và cha mình mà đi theo Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Thánh Anrê, Tông Đồ
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Như một sự tình cờ, lúc đang đi dọc theo bờ hồ Galilê,
Đức Giêsu thấy bóng dáng các anh đánh cá quen thuộc.
Hẳn họ đã có lần nghe Ngài giảng và thấy Ngài chữa lành bệnh nhân.
Đức Giêsu yên lặng nhìn các anh làm việc.
Họ đang quăng lưới bắt cá hay ngồi trong khoang vá lưới với cha.
Cảnh tượng rất đời thường và ấm áp.
Đẹp biết mấy chuyện con người làm việc chung với nhau.
Sau này họ sẽ biết cách làm việc với nhau trên con thuyền Giáo Hội.
Chúa Giêsu hôm nay cũng thấy tôi.
Tôi thế nào, Ngài thấy tôi thế ấy.
Cái nhìn của Ngài không làm tôi bị tê liệt, nhưng cho tôi tự do.
Ngài chấp nhận trọn vẹn con người tôi, cả tội lỗi và yếu đuối.
Chẳng cần son phấn, tôi thu hút Ngài bằng cái mộc mạc của tôi.
Ngài gặp tôi hôm nay lúc tôi đang mải mê làm một việc gì đó.
Ngài gặp tôi giữa cái vất vả kiếm sống của đời thường.
Hạnh phúc cho người nào được thấy Thiên Chúa (Mt 5, 8),
và cũng thật hạnh phúc cho người nào được Thiên Chúa thấy.
“Các anh hãy theo tôi”: đây là một lời mời dành cho mọi Kitô hữu.
Ơn gọi Kitô hữu khởi đi từ tiếng gọi của Thầy Giêsu.
Người Do Thái thường tầm sư học đạo,
còn ở đây, chính Thầy Giêsu đi chọn môn đệ cho mình (Ga 15, 16).
Ngài mời ta đi theo chính con người của Ngài,
chứ không phải theo một lý tưởng cao đẹp hay một dự án hấp dẫn.
“Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới con người.”
Một cuộc đổi đời thực sự, từ lưới cá đến lưới con người.
Con người của mọi dân tộc là mối bận tâm của Thiên Chúa.
Theo Chúa Giêsu là chia sẻ nỗi thao thức của Ngài về nhân loại,
và đồng lao cộng khổ với Ngài trong sứ mạng cứu độ thế giới.
Simon và Anrê đã bỏ chài lưới, Giacôbê và Gioan bỏ thuyền và cha.
Sự từ bỏ nào cũng gây ít nhiều xót xa đau đớn.
Biển cả, sóng nước, thuyền bè, lưới cá, người cha, người vợ:
biết bao giá trị phải bỏ lại, những người tôi đã và vẫn còn yêu mến.
Từ bỏ chỉ khả thi nếu tôi gặp một giá trị cao hơn, một tình yêu lớn hơn.
Chúa không đòi mọi người phải sống đời tu, nhưng đòi phải từ bỏ mình.
Từ bỏ đơn giản là đặt Thiên Chúa lên trên mọi thụ tạo khác,
là chọn Giêsu trong giây phút hiện tại, là đón lấy cái bấp bênh.
Bốn anh ngư phủ đã lên bờ để đi theo một ông thợ mộc bỏ nghề.
Đời họ đã sang một trang mới.
Hôm nay Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi như một sự tình cờ.
Ngài vẫn thấy, vẫn gọi, để tôi bỏ và đi theo.
Không thấy và gọi, thì cũng chẳng ai từ bỏ và đi theo.
Tiến trình này được lặp lại nhiều lần, làm nên hành trình Kitô hữu.
Hôm nay tôi mong theo Chúa hơn hôm qua, và ngày mai hơn hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. Amen.
(Chân phước Têrêxa Calcutta)
SUY NIỆM 2: Thánh Anrê, Tông Đồ
Anrê tiếng Hy lạp có nghĩa là mạnh mẽ can đảm. Thánh Anrê được vinh dự làm một trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Con của Gioana. Như anh mình là Phêrô, Ngài làm thuyền đánh cá và không có gì khác ngoài chiếc thuyền. Như thế Ngài thuộc lớp người khiêm tốn được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênezareth. Ngày ấy đang khi cùng với Phêrô đi thả lưới, Chúa Giêsu đã đi ngang qua và đưa lời gọi sẽ quyết định cuộc đời các Ngài:
- Hãy theo tôi, tôi sẽ làm các anh thành các ngư phủ lưới người ta.
Đây không phải lần đầu Anrê đã gặp Đấng Cứu Thế. Thỉnh thoảng Ngài có tới nghe Gioan Tẩy giả rao giảng trong sa mạc. Khi ấy Chúa Giêsu xuống Galilea và Gioan tẩy Giả đã nói:
- Đây là Chiên Thiên Chúa.
Và Anrê có mặt ở đó với Gioan, đã biết được Người là Đấng Thiên Sai mà nhân loại mong chờ. Gioan và Anrê lên đường theo Người xa xa vì họ cảm động và không dám tới gần. Nhưng Chúa Giêsu quay lại và nói với họ:
- Các anh tìm chi vậy?
Họ, những người chỉ tìm, chỉ muốn Chúa thôi đã thưa lại:
- Thưa Thầy, thày ở đâu?
Chúa Giêsu nói:
- Hãy đến mà xem.
Và cả hai đã ở với Chúa hôm ấy.
Khi trở về nhà Anrê đã nói với anh mình:
- Chúng tôi đã gặp được Đấng Thiên Sai.
Từ đó hai anh em đã bỏ chài lưới để tới gần Chúa Giêsu. Họ nghe Người và thần tính của Người dần dần rọi sáng tâm hồn họ. Họ đã tôn thờ Đấng Cứu Thế ở trong lòng rồi.
Ở tiệc cưới Cana, Anrê đã thấy Chúa Giêsu biến nước thành rượu và lần đầu tiên thấy tỏ lộ vinh quang thần linh của Ngài. Thế là sau biến cố ấy Chúa Giêsu đã gọi hai anh em bên bờ biển Galilea và họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Anrê đã rạng rỡ trong lòng mà tham dự vào cuộc chữa lành các bệnh nhân gặp thấy trên đường đi, việc phục sinh những kẻ chết, việc Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi đoàn người đói lả vây quanh Chúa Giêsu. Chính Anrê đã nói:
- Có một bé trai có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng bằng ấy thì thấm vào đâu đối với ngần này người (Ga 6,8-9).
Và Ngài được thấy Chúa Giêsu tăng gấp số thực phẩm. Ở Giêrusalem, Ngài còn cho Chúa biết rằng: lương dân đã xin với Philipphê cho được gặp Người. Ngài đã nghe loan báo các chân phúc, các dụ ngôn. Ngài đã có mặt trong bữa tiệc ly. Sau phục sinh, Ngài đã sung sướng gặp lại Thày Chí Thánh. Ngày lên trời, Ngài thấy Người tiến lên mây trời. Ngày hiện xuống, Ngài đón nhận Chúa Thánh Thần.
Sau những tường thuật trên của Phúc Âm, người ta không biết gì chắc chắn nữa về Anrê. Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần Phúc Âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc Hải và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay 5 ngày.
Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida: Egêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư? Nhưng Anrê không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài nói:
- Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ông đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.
Egêa vặn lại:
- Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.
Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc: làm sao Ngài để mất danh dự được đóng đinh vào cùng một khổ giá như thày mình được? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Egêa:
- Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.
Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính mà người ta thích lập lại lời chào ấy:
- Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới Thầy Chí Thánh là Đấng đã nhờ ngươi mà cứu chuộc ta.
Dịu dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúng vây quanh Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói:
- Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quí của Thiên Chúa.
Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện:
- Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.
Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.
Tương truyền thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh Anrê.
SUY NIỆM 3: Thánh Anrê
Chúa đã chọn các tông đồ để tiếp nối sứ mạng rao giảng Tin Mừng và góp tay vào công trình cứu độ của Thiên Chúa. Chúa tuyển chọn các tông đồ thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội. Chúa chọn các tông đồ với ơn huệ nhưng không của Ngài. Chúa muốn chọn ai tùy ý Chúa.
Thánh Anrê
Theo tiếng Hy Lạp, Anrê có nghĩa là trượng phu và thanh nhã. Thánh Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Anrê và một tông đồ khác với Chúa Giêsu. Thánh nhân đã đáp trả lại lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành ngư phủ lưới người ta". Anrê và Phêrô đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Thánh Anrê đã được nhắc nhớ nhiều lần trong các sách Tin Mừng của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã nói tiên tri về thành thánh Giêrusalem, Anrê đã thắc mắc hỏi Chúa Giêsu khi nào thì sẽ xẩy ra như lời Chúa nói. Sau khi Chúa sống lại, các tông đồ nghe lời Chúa ở lại Giêrusalem để lãnh nhận Chúa Thánh Thần và sau đó ra đi loan báo Tin Mừng. Sử liệu ít ghi lại về công cuộc truyền giáo của các ngài nơi nhiều vùng đất, nơi nhiều nước trên thế giới. Nhưng có đoạn viết đã tường thuật về cuộc tử đạo của thánh Anrê tông đồ. Thánh nhân đã dứt khoát không chịu để cho người ta thương ngài xin quan tha chết cho ngài. Ngài đã dứt khoát chịu chết để được nên giống Chúa Giêsu. Chúa đã chấp nhận lời ngài kêu xin, Ngài đã không chịu khuất phục quan lãnh sự Akai và chấp nhận cái chết như lời Chúa Giêsu đã nói: "Khi nào Ta được giương cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta". Thánh nhân đã được Chúa cho đội mũ triều thiên công chính. Giáo chủ thành Alexandrie năm 357 đã đem hài cốt Ngài về Constantinople.
Lời cầu nguyện
Vì muốn nên giống Chúa Giêsu, thánh nhân đã liều mình, hy sinh chịu chết: "Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng vì người mình yêu" (Ga 15,13). Thánh nhân đã cảm nghiệm sâu xa lời: "vì Người mà tôi chịu đau khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian phi" (2Tm 2,9). Và như thế, Ngài cảm nghiệm: Ðức Giêsu, Ðấng"chúng ta sẽ cùng hiển trị với Người, nếu Ta kiên tâm chịu đựng" (2Tm 2,12).
Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng kính thánh Anrê, người ngư phủ đã tin Ðức Giêsu là Ðấng Mêsia và mau mắn giới thiệu cho em mình. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố niềm tin của chúng con để chúng con cũng chia sẻ niềm tin của mình cho những người chúng con gặp gỡ. (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Anrê, tông đồ).
(Lm. Nguyễn Hưng Lợi)
SUY NIỆM 4: Tông đồ trước nhất, Anrê
Lễ Thánh Anrê là lễ trước nhất trong lịch sử phụng vụ chư thánh, Ngài là người trước nhất đi theo Đức Giêsu và là người trước nhất tuyên bố Đức Giêsu là Đấng Messia. Thánh Gioan kể nhiiều chi tiết về Thánh Anrê hơn Thánh Matthêu cho chúng ta biết thái độ của Thánh Anrê.
Anrê là anh của Simon. Ngài đã thuộc nhóm đạo đức của Thánh Gioan tiền hô. Ngài cùng với Thánh Gioan đi tháp tùng Thánh Gioan Tiền Hô. Khi Thày thấy Đức Giêsu đi ngang qua, thày đã nói: “Đây Chiên Thiên Chúa”. Anrê đã bỏ thày lại và đi theo Đức Giêsu, đến nơi ở của Người và họ đã ở lại với Người từ ngày đó!”
Ngày hôm sau, khi em mình là Simon, Ngài nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu”. (Ga 1, 41-42)
Theo truyền khẩu Ngài chết ở Patras Hy Lạp, bị đóng đinh vào thập giá hình chữ X.
Ngày nay, ta luôn luôn có cảm tưởng rằng để noi gương các thánh, chúng ta phải thực hành nhân đức đặc sác của Ngài. Đúng thế! Nhưng suy nghĩ về các Thánh mà chúng ta biết điều thúc dục chúng ta là luôn cầu nguyện theo gương các Ngài, như phụng vụ khêu gợi cho chúng ta. Tờ kê khai các nhân đức của các Ngài thì dài vô tận và chúng ta sẽ như chim chích vào rừng, nói thế không phải chuyện dỡn!
Nhưng thay vì lạc vào rừng, tiên vàn ta hãy theo Thánh Anrê, cũng như các thánh, muốn dạy chúng ta bài học độc nhất là: gặp gỡ Đức Ki-tô và yêu mến Người. Đó là đúng nhất. Không còn bài học nào khác, cũng không phải tìm ai nữa, Ngài đã tìm được Đấng giải thích cho lý trí của Ngài: “Tôi đã gặp được Đấng tôi yêu và yêu tôi”. “Tôi yêu Người trọn vẹn vì lý do đó”.
Anrê nghĩa là dâng hiến, là trung tín, là tất cả trong tình yêu, tình bạn khiêm tốn.
J.M.
SUY NIỆM 5: THÁNH ANRÊ TÔNG ĐỒ
(http://tinmung.net//Phó Tế Huỳnh Mai Trác)
Thánh Anrê quê ở Bethsaida, xứ Galilê, cùng với em là Phêrô, làm nghề đánh cá bên bờ hồ Tiberia. Anrê là người khát vọng Thiên Chúa. Khi được nghe thánh Gioan Tẩy giả rao giảng và làm phép rửa thì Anrê biết rằng Đấng Cứu Thế đã đến. Và khi nghe Gioan giới thiệu về Ðấng Cứu Thế: “Hãy nhìn Đức Giêsu đang đi đến, đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.” Anrê nghe Gioan nói như vậy liền đi theo Chúa Giêsu và từ đó không hề rời Chúa nữa bước. Anrê vội vã tìm em mình là Simon Phêrô và nói: “Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Messia, có nghĩa là Đấng Kitô!.” và đem Phêrô giới thiệu cùng Chúa Giêsu. Từ giờ phút này Anrê là một người Tông đồ thật sự của Chúa.
Chúa Giêsu đã không hứa gì với Anrê và Phêrô. Nhưng khi được gọi thì hai ngài đã bỏ tất cả để theo Chúa. Các ngài từ bỏ những gì các ngài sở hữu, từ vật chất đến tinh thần một lòng quyết theo Chúa. Không giữ gì riêng cho mình cho đến cả mạng sống.
Anrê là người biết cách móc nối với người khác. Chính Anrê đã đem cậu bé có năm chiếc bánh và hai con cá đến với Chúa để Chúa làm phép hóa bánh và cá ra nhiều đủ nuôi năm ngàn người và còn dư thừa. Khi những người Hy lạp muốn được gặp Chúa Giêsu thì cũng chính Anrê đứng ra dàn xếp.
Các nguồn tài liệu cho biết thánh Anrê đã bị hành quyết tại Patras xứ Hy lạp. Vào thế kỷ thứ bốn, hài cốt của ngài được di chuyển về Constantinople. Đến thế kỷ 15 một số di tích quan trọng được đem về đặt để tại Vatican, đến năm 1966 thì được giao chuyển lại cho Giáo Hội Đông Phương như một thiện chí hiệp thông giữa Giáo Hội La mã với các giáo phụ Đông Phương. Xứ Ukrainia tôn kính thánh Anrê như đấng đầu tiên mang Tin Mừng đến Kiev và xứ Scotland thì chọn ngài làm đấng phù trì quốc gia của họ.
SUY NIỆM 6: THÁNH ANRÊ TÔNG ĐỒ
Anrê tiếng Hy Lạp có nghĩa là mạnh mẽ, can đảm. Thánh Anrê được vinh dự làm 1 trong số 12 tông đồ của Chúa Giêsu. Thân phụ là Gioana. Như anh mình là Phêrô, ngài làm nghề đánh cá và không có gì khác ngoài chiếc thuyền.
Như thế, ngài thuộc lớp người nghèo được Chúa Giêsu yêu thương đặc biệt. Ngài vẫn sống tại làng Bethsaida nhỏ bé bên bờ biển Galilêa cũng gọi là hồ Giênêzareth. Thánh Anrê là một trong 4 người môn đệ đầu tiên đã được Chúa Giêsu gọi ngay sau khi Người chịu phép rửa ở sông Giođan, lúc ấy Anrê đang là môn đệ của Gioan Tẩy giả.
Phúc âm kể như sau: “Hôm đó, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy đức Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian.” Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu, Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: “Các anh tìm gì thế ?”
Họ đáp: “Thưa Rabbi (nghĩa là “Thưa Thầy”), Thầy ở đâu ?”
Người bảo họ: “Hãy đến mà xem”.
Họ đã đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người. Lúc đó vào khoảng 4 giờ chiều (Ga 1, 35-39). Và sau khi ở lại với Chúa Giêsu, Anrê đã giới thiệu Chúa cho anh mình trước tiên: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia” (Ga 1, 41-42).
Rồi ông dẫn anh mình đến gặp Đức Giêsu, Đức Giêsu nhìn ông Simon và nói: “Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha (tức là Phêrô)” (Ga 1, 40-43).
Ở tiệc cưới Cana, Anrê đã thấy Chúa Giêsu biến nước thành rượu và lần đầu tiên thấy tỏ lộ vinh quang thần linh của Ngài. Thế là sau biến cố ấy, Chúa Giêsu đã gọi hai anh em bên bờ biển Galilea và họ đã bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Thánh nhân được Chúa chính thức gọi theo Người lúc đang thả lưới với anh là Phêrô, ở biển hồ Tibêria. Người gọi các ông trong hoàn cảnh sau đây: “Người đang đi dọc biển hồ Galile thì thấy hai anh em kia, là ông Simon cũng gọi là Phêrô, và người em là ông Anrê, đang quăng chài xuống biển. Vì các ông làm nghề đánh cá, Người bảo các ông: “Hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức, các ông bỏ chài lưới đi theo Người (Mt 4, 18-20).
Anrê đã rạng rỡ trong lòng mà tham dự vào cuộc chữa lành các bệnh nhân gặp thấy trên đường đi, việc Chúa phục sinh những kẻ chết. Trong phép lạ Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều, chính Anrê là người lên tiếng thưa với Chúa: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu !” (Ga 12, 22).
Ở Giêrusalem, Anrê còn cho Chúa biết rằng: lương dân đã xin với Philipphê cho được gặp Người (Ga 12, 23). Anrê đã được nghe loan báo về các chân phúc, các dụ ngôn, ngài cũng có mặt trong bữa tiệc ly. Sau Phục sinh, ngài đã sung sướng gặp lại Thầy Chí thánh. Ngày lên trời, Anrê thấy Thầy khuất vào đám mây. Ngày hiện xuống, Anrê cùng các tông đồ hân hoan đón nhận Chúa Thánh Thần.
Sau những tường thuật trên của Phúc Âm, người ta không biết gì chắc chắn nữa về Anrê. Tương truyền sau khi Chúa về trời, thánh nhân đã loan báo Tin Mừng ở Giêrusalem, Giuđê và Galilê. Sau đó, ngài đến giảng đạo ở vùng Biển Đen và Hy Lạp rồi chịu tử đạo tại đây.
Các bản văn không có thẩm quyền nói rằng: Ngài đã góp phần Phúc Âm hóa dân chúng miền Bithynia, Bontê và Galitia. Ngài bị bắt bên bờ Bắc Hải và kết thúc cuộc đời tại Achaia. Lửa đức ái rực cháy trong lòng vị tông đồ. Người ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, ngài ăn chay 5 ngày.
Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida: Êgêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: “Kẻ ngoại lai” này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư ?
Nhưng Anrê không sợ gì Êgêa. Ngài đã nắm vững được chân lý, ngài nói: Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ông đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết, ông phải biết đến Vị Thẩm phán xét xử mọi người ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người.”
Êgêa vặn lại: “Vị Thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì ? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy.” Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc, làm sao ngài để mất danh dự được đóng đinh và cùng một đau khổ giá như Thầy mình được ? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, ngài nói với Êgêa: “Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt.”
Thánh nhân chẳng những không sợ mà còn vui mừng nói: “Chết treo trên khổ giá, đó là hạnh phúc lớn nhất của tôi, vì được chết giống Thầy Chí thánh của tôi”. Viên tổng trấn nổi giận truyền đem treo ngài lên thập giá cho chết.
Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính và nói: “Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu ta mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới Thầy Chí thánh là Đấng đã nhờ ngươi mà cứu chuộc ta.” Dịu dàng, Anrê giang tay ra, ngài bị cột bằng dây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúng vây quanh ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo dây cho ngài. Họ nói: “Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quý của Thiên Chúa.”
Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này, ngài cầu nguyện: “Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi Thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp Thầy, trong Thầy mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô.” Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình.
Tương truyền rằng việc thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV, người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh Anrê.
Lý hình cột treo ngài lên thập giá. Từ trên cao, ngài kêu gọi mọi người hãy tin thờ Chúa rồi gục đầu tắt thở.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã khen ngợi thánh Anrê tông đồ: “Sau khi ở lại với Đức Giêsu và học cùng Người được nhiều rồi, Anrê đã không giấu kho tàng quý báu nơi mình, nhưng vội vàng chạy đến anh mình và chia sẻ với họ…
“Những điều ông đã học trong thời gian rất vắn kia, ta có thấy ông đã nói lên thế nào ? Ông vừa tuyên xưng uy thế của Thầy, một uy thế hấp dẫn các môn đệ, vừa nói lên sự siêng năng chăm chỉ của môn đệ đã chuyên chú ngay từ đầu. Đó là tiếng nói của một tâm hồn hết sức ao ước Đấng Mêsia đến, và của linh hồn mong đợi Người tự trời đến, họ nhảy mừng khi thấy Người hiện ra, rồi vội vàng đi báo tin đặc biệt đó cho kẻ khác. Đặc điểm của tình anh em, của nghĩa bạn bè và của tấm lòng chân thật là thông đạt cho nhau những điều thiêng liêng.”
Thánh Anrê là mẫu gương người công chính mới này. Quả vậy, Anrê nghe theo lời giới thiệu của Thầy mình là thánh Gioan Tẩy giả đến gặp Chúa Giêsu (Ga 1, 29-35). Trong cuộc gặp gỡ này, ngài đã tin nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế. Nhờ niềm tin này mà ngài đã bỏ mọi sự để đi theo Chúa và làm tông đồ của Chúa trong nhóm Mười Hai (Ga 1, 35-42).
Trong lễ kính thánh Anrê, bài Tin Mừng (Mt 4, 18-22) thuật lại ơn gọi như sau: Chúa Giêsu “thấy” những người này: Người kêu gọi, họ bỏ tất cả và đi theo Người. Họ cũng không tìm lý do và cũng không sợ khó khăn. Thực ra, họ cảm nghiệm bằng tình yêu nhanh hơn lý trí: Đức Giêsu là ai và đi theo Người có nghĩa là gì.
Đặt bài Tin Mừng này trong ngày lễ mừng kính thánh Anrê tông đồ, phụng vụ muốn chúng ta nhận thức rằng: “Thánh Anrê là một trong nhóm Mười Hai tông đồ của Chúa. ngài đã nghe nói, được giới thiệu về Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế, nên ngài đã hoàn toàn dấn thân và dâng trọn cuộc đời cho Chúa trong đời sống và sứ vụ Tông đồ.”
Thánh Anrê quả là vị Tông đồ giàu tình bạn và ngài đã quảng đại và vị tha chia sẻ Chúa Giêsu cho người khác, chứng tỏ Anrê là người khiêm nhường, người làm công cho kẻ khác, là người ẩn mình để kẻ khác lớn lên, là người giữ vai phụ cho người khác và ông sẵn sàng bị quên lãng. Trong cánh đồng Tông đồ truyền giáo để mở rộng Nước Chúa, Chúa Giêsu cần những người như Anrê. Bạn có sẵn lòng làm công việc như Anrê để rao giảng Tin Mừng không ?
Qua con người và công việc của thánh Anrê, chúng ta cảm nhận rằng Chúa cần những người giàu tình bạn chân thành. Những người tuy tài năng chỉ “một nén” nhưng sống làm chứng và ra đi kể lại câu chuyện “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia”.
Những cuộc gặp gỡ nhau để chia sẻ kinh nghiệm sống Lời Chúa, những hoạt động Tông đồ truyền giáo khắp nơi đang diễn ra trên thế giới… phải chăng là những công việc của thánh Anrê mà chúng ta mừng kính hôm nay ?
Ước gì lời chúng ta tung hô trong mỗi thánh lễ: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến” được thực hiện nơi cuộc sống của mỗi người chúng ta theo tinh thần của thánh Anrê: vị Tông đồ giàu tình bạn.
SUY NIỆM 7: THÁNH ANRÊ TÔNG ĐỒ
Andreas mà tiếng Việt Nam phiên âm là Anrê là một danh từ ít dùng trong tiếng Hy lạp. Tuy nhiên nó mang một ý nghĩa rất thi vị: Anrê nghĩa là trượng phu, thanh nhã.
Đọc Tân ước, chúng ta chỉ thấy một ít đoạn sau đây nói về thánh Anrê, hoặc nói đến tên ngài.
Lần trước hết: hôm ấy thánh Gioan Tẩy giả đứng với hai môn đệ tại Bêthania, bên kia sông Giođanô. Nhìn thấy Chúa Giêsu đi qua, ngài nói với hai môn đệ: “Kìa Con Chiên Thiên Chúa”. Nghe nói như thế, hai môn đệ vội rảo theo Chúa Giêsu, Chúa Giêsu bảo họ: - Các người tìm ai?
- Thưa Thầy, Thầy đi đâu bây giờ?
- Cứ đến mà xem.
Lúc đó là bốn giờ chiều và hai môn đệ đi theo Chúa suốt buổi hôm ấy. Hai môn đệ đó là Anrê; em ông Simon Phêrô, và một người khác có lẽ là Gioan. Lúc về nhà gặp Phêrô, Anrê kể lại cho em nghe: “Ồ, chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mesia, rồi Anrê dẫn em đến gặp Chúa Giêsu. Hôm sau, Chúa Giêsu trẩy đi Galilêa còn Anrê và Phêrô ở lại Bétsaiđa mạn bắc hồ Tibêria.
Nhưng lần khác, đi trên bờ hồ Chúa Giêsu thấy Anrê và Phêrô đang thả lưới vì các ông là những dân chài, Chúa liền bảo họ: - Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi nên kẻ đánh lưới người!
Lập tức họ bỏ lưới và theo Chúa. Lại một lần sau khi giảng ở nhà hội Caphanaum ra, Chúa vào nhà ông Phêrô và Anrê chữa khỏi bệnh cho bà mẹ vợ ông Phêrô.
Còn lần trên núi, bên kia biển Galilêa, dân chúng vây quanh Chúa Giêsu. Thấy họ đói, Chúa Giêsu lại hỏi: - Làm sao kiếm của ăn cho họ được ?
Thánh Anrê thưa: - Đằng kia có đứa trẻ mang năm chiếc bánh mạch nha và hai con cá nhỏ, nhưng bấy nhiêu thấm vào đâu với số người đông đảo này!
Chúa Giêsu nói: - Cứ bảo họ ngồi xuống. Rồi Người làm phép lạ nhân bánh ra nhiều và phân phát cho mỗi người được ăn no nê. Cũng chính Anrê lúc ở Giêrusalem vì thánh Philipphê xúi giục đã trình bày cho Chúa biết có một số dân ngoại nói tiếng Hy lạp muốn xin gặp Chúa. Lần nữa, khi Chúa Giêsu ở đền thờ đi ra và nói cho các môn đệ biết ngày “tàn” của đền thánh, thì thánh Anrê cùng với thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan, đã lợi dụng lúc Chúa ngồi trên núi cây dầu nhìn về thánh đường đến hỏi riêng Chúa: - Xin Thầy hãy nói cho chúng con biêt khi nào việc ấy xảy đến, và có dấu hiệu gì báo trước!
Sau cùng thánh Anrê là một trong lớp mười hai tông đồ được Chúa sai đi giảng đạo. Trong số mười hai tông đồ, thánh Matthêu và thánh Luca kể thánh Anrê sau thánh Phêrô, thánh Máccô lại kể ngài sau ba thánh Phêrô; Giacôbê và Gioan. Tuy nhiên các sách Hy lạp vẫn chủ trương thánh Anrê được Chúa gọi đầu tiên.
Tài liệu Phúc âm chỉ cho chúng ta biết như vậy về thánh Anrê. Còn riêng về quãng đời truyền giáo của thánh nhân, chúng ta không có một văn liệu nào xác đáng. Trừ một đoạn văn rất đẹp ghi lại rất vắn tắt cuộc tử đạo của ngài như sau:
Quan lãnh sự xứ Akhaia truyền trói thánh Anrê vào cây thập giá để ngài chết dần mòn. Dân chúng nhất định không chịu, họ bảo: người này là đấng công chính, là bạn của Thiên Chúa, và là bậc thầy nhân hậu mà phải điệu đi giết à! Nhưng đứng trước thánh giá, thánh nhân kêu lên:
“Ôi! Thánh giá! Ôi sự rỗi từ lâu bạn đã mệt mỏi chờ tôi! Tôi tin tưởng rằng bạn sẵn sàng đón nhận người đầy tớ của Đấng đã chịu treo trên bạn, và tôi sung sướng bước đi theo bạn. Tại sao bạn được dựng lên ở đây, tôi đã nhận biết tất cả bí nhiệm của bạn rồi. Xin bạn hãy nhận lấy kẻ bạn mong chờ, để chính tôi, kẻ ngày đêm thầm ước vẻ đẹp của bạn cũng tìm thấy bạn. Nơi bạn tôi tìm được phần thưởng Thiên Chúa hứa cho tôi. Ôi Thánh giá dịu hiền! Hãy đưa kẻ hèn này về với Thiên Chúa Đấng Cứu chuộc tôi”.
Dân chúng lặp lại những lời ấy cho quan phó lãnh sự nghe và kêu nài:
“Xin ông hãy trả lại cho chúng tôi người công chính, người thánh của Thiên Chúa. Xin đừng đang tâm giết người đẹp lòng Thiên Chúa. Đừng động đến con người hiền lành và đạo đức dường ấy. Đã hai ngày chịu treo nhưng ông ấy vẫn còn sống và luôn thốt ra những lời thánh thiện. Xin quan hãy trả lại chúng tôi con người thánh này để chúng tôi được sống với ông. Xin quan cởi trói người trinh khiết này để mọi gia đình được an hòa, hãy buông tha người hiền nhân này để khắp xứ Akhaia được hưởng nguồn cứu độ. Còn thánh Anrê ngài kêu cả tiếng:
“Lạy Chúa Kitô, xin đừng để đầy tớ Chúa đã được treo lên cây gỗ này vì danh Chúa bị tháo gỡ xuống. Xin chớ để kẻ được diễm phúc thấu hiểu huyền nhiệm thánh giá bị rơi vào mưu gian loài người... Nhưng lạy Chúa Giêsu, Đấng con yêu mến, tin nhận và ao ước được hưởng kiến, xin hãy đón nhận con, vì linh hồn con sắp được giải thoát. Amen”.
Theo sử gia Êusêbiô, thánh Anrê giảng đạo tại Scythia, nhưng theo nhiều tác giả khác, thánh tông đồ lại giảng đạo tại Êthiôpia, mấy xứ về phía nam Hắc hải và Patras thuộc Akhaia.
Nhưng điều phức tạp hơn cả có lẽ là nơi để thi hài thánh nhân. Thánh Gioan Kim khẩu nói rõ rằng không biết. Trái lại, sách tử đạo thư dòng thánh Giêrônimô lại chép ngài làm Giám mục tại Patras và chết ngày 30 tháng 11 mà không rõ thánh nhân chết năm nào. Nhưng năm 357, giáo chủ thành Alexanđria đem hài cốt ngài về Constantinôpôli. Ngoài ra còn rất nhiều nơi tự xưng là giữ được hài cốt thánh Anrê, như miền Fênicia, miền Basilicate, miền Concordia và đảo Chyprô. Vì thế, ngay từ mấy thế kỷ đầu tiên, rất nhiều nhà thờ mang tên thánh Anrê. Ngay ở Rôma năm 475, Đức Giáo Hoàng Simpliciô đã xây và thánh hiến một thánh đường kính thánh Anrê gần đại giáo đường Đức Bà Cả. Và cho đến thời Trung cổ, tại Rôma có hơn 30 nhà thờ dâng kính thánh Anrê. Phá kỷ lục hơn hết là tại nước Anh có hơn 700 thánh đường hay nguyện đường nhận thánh Anrê làm bổn mạng. Riêng tại nước Pháp, cũng như tại Việt Nam, sau thánh Phêrô, thánh Anrê rất được giáo dân tôn sùng và nhận làm bổn mạng.
Giáo hội kính lễ thánh Anrê vào ngày 30 tháng 11 hằng năm.
SUY NIỆM 8: Chân dung Thánh Anrê Tông đồ
(http://longchuathuongxot.vn//TRẦM THIÊN THU)
Ngày 30 tháng Mười Một, Giáo hội Công giáo mừng lễ kính Thánh Anrê Tông Đồ. Ngài là một trong bốn môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu, nhưng ngài ít xuất hiện và cũng ít được nhắc tới.
Thánh Anrê là anh của Thánh Phêrô, gọi là Simon, con ông Giôna. Hai anh em làm nghề đánh cá ở vùng biển Galilê. Trong danh sách các tông đồ, Thánh Anrê thường được nhắc tới ngay sau Thánh Phêrô.
Theo Hy ngữ, tên Anrê có nghĩa là “can đảm” hoặc cái gì đó “nam tính”, diễn tả ý cha mẹ mong muốn nơi con trai của mình. ĐGH Benedicto XVI nói: “Điều ấn tượng là tên Anrê không là tiếng Do Thái, mà là tiếng Hy Lạp, cho thấy sự cởi mở về văn hóa trong gia đình ngài. Ở Galilê có văn hóa và ngôn ngữ Hy Lạp” (Buổi Tiếp Kiến Chung, 14-6-2006).
Cha mẹ đã đặt tên cho con trai lớn là Anrê, tên theo tiếng Hy Lạp, nhưng lại đặt tên con trai thứ là Simôn, tên theo tiếng Aram. Điều đó phản ánh môi trường văn hóa phan trộn giữa Do Thái và dân ngoại tại Galilê.
Khi Chúa Giêsu đi dọc theo biển hồ Galilê thì thấy hai anh em Anrê và Simon (Phêrô) đang quăng chài xuống biển, Ngài nói: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người (Mt 4:18-20).
Trong các Phúc Âm nhất lãm và sách Công Vụ, danh sách 12 Tông đồ luôn được liệt kê thành ba nhóm, mỗi nhóm bốn người. Nhóm thứ nhất nói tên những người gần gũi Chúa Giêsu nhất, trong đó có hai cặp anh em: [1] Phêrô và Anrê, các con của ông Giôna, [2] Giacôbê và Gioan, các con của ông Dêbêđê.
Như vậy, Thánh Anrê là một trong bốn Tông đồ gần gũi với Chúa Giêsu nhất, nhưng Thánh Anrê có vẻ ít gần gũi nhất trong bốn người. Thật vậy, đã vài lần Phêrô, Giacôbê và Gioan được ưu tiên đi với Chúa Giêsu, nhưng không có Anrê. Chẳng hạn khi Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor, có mặt Phêrô, Giacôbê và Gioan, nhưng không có Anrê. Kinh Thánh cho biết rằng Thánh Anrê là một trong các Tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu. Ông thấy Chúa Giêsu trước Phêrô. Vì là người theo Chúa Giêsu trước, ông mệnh danh là Protoklete – Tông đồ được gọi đầu tiên.
Thánh Anrê thực sự là con người của niềm tin và hy vọng. Khi nghe Gioan Tẩy Giả gọi Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” (Ga 1:36), Anrê ngạc nhiên, lúc đó có một môn đệ khác: “Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu. Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình thì hỏi: ‘Các anh tìm gì thế?’. Họ đáp: ‘Thưa Thầy, Thầy ở đâu?’. Người bảo họ: ‘Đến mà xem’. Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (Ga 1:37-39).
Như vậy, Anrê đã được tận hưởng giây phút thân mật với Chúa Giêsu. Kinh Thánh cho biết: “Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông gặp em mình là ông Simôn và nói: ‘Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia’ (nghĩa là Đấng Kitô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói: ‘Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha’ (tức là Phêrô). Hôm sau, Đức Giêsu quyết định đi tới miền Galilê. Người gặp ông Philípphê và nói: ‘Anh hãy theo tôi’. Ông Philípphê là người Bếtxaiđa, cùng quê với các ông Anrê và Phêrô” (Ga 1:40-44). Thánh Anrê có tinh thần tông đồ khác thường.
Khi chạnh lòng thương dân chúng và muốn cho họ ăn uống, vì lúc đó chiều tối rồi, Chúa Giêsu bảo các môn đệ lo cho họ ăn, ông Philípphê nói: “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6:7). Lúc đó, ông Anrê thưa với Chúa Giêsu: “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” (Ga 6:9). Và hôm đó, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho khoảng 5.000 người ăn no nê, không kể phụ nữ và trẻ em.
Thánh Anrê rất nhạy bén khi thấy ngay một đứa bé có “năm chiếc bánh và hai con cá”, nhưng ngài cũng rất thực tế khi nhận thấy “bấy nhiêu chẳng thấm vào đâu” so với đám đông người như vậy. Tuy nhiên, Chúa Giêsu biết mình sắp làm gì nên bảo đem số thực phẩm ít ỏi đó cho Ngài.
Một lần khác, một trong các môn đệ thân tín (có thể là Anrê) đã chỉ đền thờ và trầm trồ khen công trình đồ sộ, nhưng Chúa Giêsu bảo: “Anh nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư? Tại đây, sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ” (Mc 13:2).
Sau đó, lúc Đức Giêsu ngồi trên núi Ô-liu, đối diện với Đền Thờ, các ông Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê hỏi nhỏ: “Xin Thầy nói cho chúng con biết bao giờ các sự việc ấy sẽ xảy ra, và khi tất cả sắp đến hồi chung cục thì có điềm gì báo trước” (Mc 13:4). Chúa Giêsu bắt đầu nói với các ông: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị người ta lừa gạt. Sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói ‘Chính Ta đây!’, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người. Khi anh em nghe có giặc giã và tin đồn giặc giã, thì đừng khiếp sợ. Những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là chung cục. Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có động đất ở nhiều nơi, sẽ có những cơn đói kém. Những sự việc ấy là khởi đầu các cơn đau đớn” (Mc 13:5-8).
Qua đó, chúng ta có thể suy diễn rằng chúng ta không nên ngại hỏi Chúa Giêsu điều gì, dù hỏi nhiều, nhưng chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận giáo huấn của Ngài dành cho chúng ta, chắc chắn có thể có những điều không hợp ý riêng của chúng ta, nhưng đó mới là cách “xin vâng” đẹp Ý Thiên Chúa.
Thánh Anrê còn là nhịp cầu” nối kết những người Do Thái và dân ngoại đi theo Chúa Giêsu. Anrê và Philipphê là người trung gian giữa Chúa Giêsu và người Hy lạp. Khi có những người muốn gặp Chúa Giêsu, ông Anrê và ông Philípphê đến thưa với Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12:23-25).
Chúa Giêsu muốn nói rằng Ngài sẽ gặp nhóm người Hy Lạp, nhưng không đơn giản, vì họ chỉ hiếu kỳ mà thôi. Giờ vinh quang của Ngài sẽ đến bằng cái chết, như hạt lúa mì được gieo vào lòng đất. Cái chết trên Thập Giá của Ngài sẽ đơm hoa kết trái: Hạt lúa mì chết đi là biểu tượng cái chết của Chúa Giêsu trên Thập Giá, hạt lúa mì chết đi mới trổ sinh bông hạt là biểu tượng sự phục sinh. Chúa Giêsu là Bánh Trường Sinh và là Ánh Sáng cho mọi dân tộc. Nói cách khác, Chúa Giêsu đã tiên tri về Giáo hội, hóa trái phát sinh từ Cuộc Vượt Qua của Ngài.
ĐGH Benedicto XVI cho biết: “Một số truyền thống cổ coi Thánh Anrê là người trung gian của người Hy Lạp khi gặp Chúa Giêsu, là Tông đồ của người hy Lạp trong những năm sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Họ cho chúng ta biết rằng Thánh Anrê dành phần đời còn lại để rao giảng và làm trung gian cho Chúa Giêsu đối với người Hy Lạp”.
Thánh Phêrô, em trai của Thánh Anrê, đã đi từ Giêrusalem tới Antiôkia và Rôma để thực hiện sứ vụ. Còn Thánh Anrê lại đi rao giảng cho người Hy Lạp. Họ là huynh đệ về huyết thống và cả về mối tương quan giữa Tòa Thánh và Constantinople. Hai Giáo hội vẫn là “chị em” với nhau. Năm 1964, Chân phước Giáo hoàng Phaolô VI đã trao thánh tích Thánh Anrê cho Tổng giám mục Chính Thống giáo của GP Patras ở Hy Lạp, nơi Thánh Anrê đã chịu tử đạo. Trước đó thánh tích Thánh Anrê được lưu giữ tại Vatican. Năm 2006, Giáo hội Công giáo, qua ĐHY Roger Etchegaray, đã trao phần thánh tích khác của Thánh Anrê cho Giáo hội Chính thống Hy Lạp.
Đức Thượng Phụ của Giáo hội Constantinople là Bartholomew I đã thăm ĐGH Phanxicô sau khi được bầu làm giáo hoàng. Là người kế vị Thánh Phêrô, ĐGH Phanxicô đã lưu ý vai trò quan trọng của Đức Thượng Phụ Bartholomew I là người kế vị Thánh Anrê và gọi là “người anh em Anrê”. ĐGH Phanxicô vui mừng nói: “Trước mặt mọi người, tôi hết lòng cảm ơn về những điều Đức Thượng Phụ Bartholomaios I đã nói với chúng ta. Xin cảm ơn nhiều! Xin cảm ơn nhiều!”.
Truyền thống cho biết rằng Thánh Anrê tử đạo tại Patras (Patræ), Hy Lạp, thuộc vùng Achaea, phía Bắc duyên hải Peloponnese. Ngài tử đạo bằng cách chịu đóng đinh trên thập giá hình chữ X, quen gọi là “Thập Giá Thánh Anrê”. Còn người em là Thánh Phêrô thì xin được đóng đinh ngược vì cảm thấy không xứng đáng được đóng đinh như Thầy Giêsu. Thánh Anrê là bổn mạng của nước Tô Cách Lan, Nga và Hy Lạp. Quốc kỳ của nước Tô Cách Lan là hình Thập Giá của Thánh Anrê.
Như chúng ta thấy, ở đây là tinh thần Kitô giáo rất sâu sắc, không coi Thập Giá là cực hình nhục nhã mà là phương tiện đến với Đấng Cứu Độ, để hạt lúa mì nảy sinh. Bài học quan trọng: Thập giá của cuộc đời chúng ta sẽ đạt được giá trị nếu chúng ta vui vẻ chấp nhận đó là một phần của Thập Giá Đức Kitô, và coi đó là Ánh Sáng Đức Kitô chiếu tỏa trên chúng ta.
Lạy Thánh Anrê, xin nguyện giúp cầu thay. Xin thúc giục lòng chúng con mau mắn nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa ngay. Amen.
SUY NIỆM 9: ƠN GỌI VÀ SỨ MẠNG Mt 4, 18 - 22
(http://www.tinvuixuanloc.vn//Nt. Anna Nguyễn Thị Nguyện)
Thánh Matthêu thuật lại việc Chúa Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên, đang khi các ông đang hành nghề chài lưới, trong số đó có thánh Anrê. Đáp lại lời mời gọi của Chúa: “Hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành lưới người như lưới cá”. Anrê bỏ lại tất cả theo Chúa, Anrê đã tin nhận Đức Giêsu là Đấng Messia và đem anh là Simon Phêrô giới thiệu với Chúa và cả hai trở nên môn đệ của Chúa. Khi được Chúa gọi và trao cho sứ mạng, từ nay cuộc đời của Anrê thay đổi hoàn toàn. Anrê đã dành trọn cuộc đời cho ơn gọi theo Chúa. Từ một dân chài lưới trở thành người rao giảng Tin Mừng của Chúa cho muôn dân. Thánh Anrê đã trung thành với sứ mạng ấy bằng cả cái chết, nhờ đó Tin Mừng cứu độ của Chúa được đến với muôn dân muôn nước. Thánh Anrê rao giảng Tin Mừng tại các nước HyLạp, Nga và Ba Lan. Ngài bị đóng đinh vào thập giá như Thầy của mình, nhưng là thập giá hình chữ x.
Phải chăng mỗi người chúng ta cũng được Chúa mời gọi và trao cho một sứ mạng. Ơn gọi làm linh mục được găn liền với sứ mạng mục tử của Chúa Kitô; Ơn gọi thánh hiến trong bậc tu trì là sống theo mẫu gương của Chúa và làm chứng cho Nước Trời mai sau. Ơn gọi hôn nhân gắn liền với sứ mạng sinh sản và giáo dục con cái…Và mỗi người chỉ có hạnh phúc thật sự khi sống đúng với ơn gọi và sứ mạng của mình. Một người gia trưởng trong gia đình sẽ tìm thấy niềm vui khi chu toàn bổn phận một người chồng, người cha trong gia đình. Người mẹ cũng gặp được hạnh phúc khi thể hiện sứ mạng làm mẹ trong việc sinh thành dưỡng dục con cái của mình trở nên những đứa con ngoan. Một Linh Mục cũng sẽ tìm được hạnh phúc khi là người mục tử hy sinh cho đoàn chiên, khi thấy những vất vả của mình đem lại hạnh phúc cho tha nhân. Những người sống đời thánh hiến cũng chỉ tìm được bình an đích thực khi bước theo Chúa Kitô một cách trọn vẹn và chu toàn sứ mạng Chúa trao phó .
Mọi thụ tạo được dựng nên đều tốt lành và hoàn hảo theo tính chất riêng của mỗi loài. Sự trật tự lạ lùng trên trái đất chỉ tồn tại khi muôn loài muôn vật thi hành đúng chức năng của nó: mặt trời chiếu sáng, hoa tỏa hương, muối ướp mặn, biển gợn sóng… Tất cả đang biểu lộ nét đặc thù của mình đồng thời tô điểm cho trái đất sinh tươi hài hòa. Con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu, được Chúa mời gọi tham dự vào sứ mạng của Chúa là đem Tin Mừng đến cho muôn dân. Sứ mạng ấy được thể hiện ngay trong bổn phận gắn liền với ơn gọi bậc sống mà Chúa đã an bài cho mỗi người và tìm thấy hạnh phúc ngay trong ơn gọi và sứ mạng riêng biệt của mình.. Tuy nhiên, cuộc sống hôm nay còn nhiều bất trắc và đau khổ, thiên tai, bệnh tật, nghèo đói con người rơi vào bất hạnh và thất vọng. Phải chăng con người đã không sống đúng với phẩm giá cao quí ấy: vì là kiệt tác trong các loài thụ tạo của đấng tạo thành, con người có khả năng nhận biết và yêu mến. Nhờ đó con người có khả năng đáp trả tiếng gọi yêu thương của Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Vì thế con người chỉ sống đúng phẩm giá của mình là yêu thương và chỉ tìm thấy hạnh phúc khi biết sống yêu thương .
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con làm người, làm kitô hữu, Chúa đã mời gọi và trao cho chúng con một sứ mạng. Nhờ lời chuyển cầu của Thánh Anrê tông đồ xin cho chúng con biết sống xứng đáng với ơn Thiên Chúa đã kêu gọi và chu toàn sứ mạng Chúa trao phó, nhờ đó chúng con tìm được hạnh phúc và niềm vui trong cuộc sống hôm nay và mai sau cũng được thừa hưởng vinh quang Nước Trời.
SUY NIỆM 10: Thánh Anrê con người khiêm tốn
Khi một chiếc tầu hỏa xuyên châu lục chạy vèo qua khung cửa, một giám mục đã già đang nói với một linh mục trẻ vừa mới ra khỏi chủng viện về đời sống đầy những biến cố của ông. Rồi ông quay lại linh mục trẻ và yêu cầu ông này kể lại ơn gọi của mình.
Linh mục kiểu cách đáp lại:
”Ồ, nói ra thì rất đơn giản, tất cả những gì con muốn nói là vì Chúa đã cần đến con.”
Giám mục nhận xét: ”Này anh bạn trẻ, đây là sự trùng khớp thật thú vị: Nếu như tôi còn nhớ, trong Tin Mừng chỉ có một lần Chúa nói Người cần một cái gì đó. Trong Lu-ca 19:34 nhân dịp Người sắp sửa vào Giê-ru-sa-lem một cách vinh quang, Người nói Người cần một con lừa.”
Thánh Kinh có câu: "Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi” (Tv 130, 1). Ai sống khiêm tốn thì sẽ được Thiên Chúa yêu thương và được mọi người quý mến.
"Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5,5). Điều Chúa cần nơi chúng ta chính là tấm lòng khiêm tốn thực thi thánh ý Người.
Thánh Anre là một con người như thế. Đầy khiêm tốn và nhiệt huyết. Theo Thánh Kinh Anrê là môn đệ đầu tiên được thánh Gioan giới thiệu đến với Chúa Giêsu. Anre đã không nghĩ cho mình mà ông đã nghĩ đến anh.
Ông đã gặp anh và nói "Chúng tôi đã gặp Đấng Messia. rồi ông đưa Simon Phêrô đến gặp Đức Giêsu. (Ga l,41-42).
Lần thứ hai chúng ta gặp lại An rê trong Kinh Thánh vài tháng sau.
Một đám đông nghe Chúa giảng suốt ngày. Trời đã xế và Người phải trở về. Đối với một số người. đường đi xa xăm lắm.
Những người đàn bà đã thấm mệt, những đứa trẻ đã lả người.
Họ không còn lương thực. Tông đồ của Chúa Giêsu nghĩ ngợi hoang mang.
Rồi Anrê bước tới, Phúc âm lại bảo "Anrê, em của Phêrô" lại một lần nữa đã giới thiệu một người đến với Chúa Giê-su khi ông nói:
"Đây có một em bé với 5 chiếc bánh và 2 con cá..." (Ga 6,9).
Và rỗi lần thứ ba ta gặp lại nhằm vào ngày lễ cuối cùng của cuộc đời Đấng Cứu Thế.
Đức Giêsu vào Yêrusalem vinh dự tràn đầy. Vài người gốc Hy Lạp đến Yêrusalem (Ga 12,20). Họ đến dự lễ Vượt Qua. Họ nghe nói về Giêsu Nazareth. Họ muốn gặp Người.
Và thế là Anrê, không một giây do dự, cùng Philíp đã dẫn những người gốc Hy Lạp đến gặp Chúa Giêsu, và chắc hẳn đó là điều làm Chúa hài lòng.
'Và người ta sẽ từ Phương Đông. Phương Tây, từ Phương Bắc, Phương Nam mà đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa" (Lc 13,29).
“Còn Thầy, một khi Thầy được giương lên khỏi mặt đất. Thấy sẽ kéo mọi người lên với Thầy" (Ga 12,32).
Ngoài ba lần ấy, ta không côn gặp lại An rê nữa.
Qua đây ta thấy, Anrê luôn là người giới thiệu kẻ khác cho Chúa Giêsu.
Nhưng nhờ Anre mà Chúa có một người thừa kế di sản của Chúa. Nhờ Anre mà Chúa có thể nhân rộng bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn. Nhờ Anre mà Chúa đã mang tin mừng tới cho dân ngoại.
Xin cho chúng ta biết noi gương thánh Anre luôn sống quảng đại nhưng đầy khiêm tốn. Không khoe trương đánh bóng chính mình nhưng hết mình mang người khác đến với Chúa để nhờ những nỗ lực của chúng ta, Giáo hội có thêm nhiều người làm tông đồ sáng danh Chúa. Amen.
29/11 Hãy tỉnh thức
- Viết bởi Mc 13, 33-37
Hãy tỉnh thức.
Chúa Nhật 1 Mùa Vọng năm B.
"Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về".
Lời Chúa: Mc 13, 33-37
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào.
Ví như người đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành cho các đầy tớ, mỗi người một việc, và căn dặn người giữ cửa lo tỉnh thức.
Vậy các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ.
Ðiều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 1 MÙA VỌNG B
Lời Chúa: Is 63,16b-17.19b; 64,2-7; 1Cr 1,3-9; Mc 13,33-37
1. Người giữ cửa
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Có bao nhiêu thời gian sống ở đời được chúng ta dành cho việc chờ đợi?
Có sự chờ đợi làm ta căng thẳng, mệt mỏi;
nhưng cũng có sự chờ đợi đem lại hương vị và ý nghĩa cho cuộc sống.
Người mẹ tần tảo nuôi con, chờ ngày con thành tài.
Người vợ chờ đợi ngày chồng trở về từ biên ải.
Con người không chỉ sống bằng quá khứ
nhưng còn bằng những ngóng đợi về tương lai.
Cái tương lai tưởng như mơ hồ, xa xôi
mà lại lôi kéo được cái hiện tại đi về một hướng.
Biết sống là biết chờ đợi
Chờ đợi làm nên cuộc sống.
Mùa vọng đưa ta đi vào thái độ chờ đợi.
Chờ đợi Chúa sẽ đến trong vinh quang mai này.
Chờ đợi Chúa vẫn đến trong niềm vui và nước mắt.
Chờ như người giữ cửa thức trắng đêm,
vì không biết giờ nào chủ trở về.
Nhưng chờ không phải là thụ động khoanh tay
mà là vuông tròn sứ mạng được giao phó.
Ông chủ đi xa đã để lại ngôi nhà,
giao quyền cho các đầy tớ, mỗi người một việc (câu 34).
Có lẽ từ lâu ta đã thấy không cần chờ đợi Chúa,
vì chúng ta có quá nhiều điều khác để đợi mong,
những điều gần gũi hơn, thiết thực hơn, cấp bách hơn.
Hãy nói cho tôi biết, bạn đang chờ gì,
tôi sẽ nói cho bạn biết, bạn đang đi về đâu.
Nếu không có Ai để chờ, thì cũng chẳng cần tỉnh thức.
Tỉnh thức trong đêm tối đâu phải là chuyện dễ dàng.
"Ngài trở lại và thấy các môn đệ đang ngủ...
Rồi Ngài lại đến và thấy họ vẫn đang ngủ,
đôi mắt họ li bì nặng giấc" (Mt 26, 40-45).
Chiến đấu chống lại sự buồn ngủ của mắt
còn dễ dàng hơn chống lại sự mê ngủ của tinh thần.
Cuộc sống vật chất ngày càng cao
cung ứng cho con người biết bao thứ ru ngủ
và đưa con người vào cơn mê mà họ không hay biết.
Ma túy là mối đe dọa giới trẻ hôm nay.
Ma túy đi vào trường học,
được bán ở cổng trường, để chích, để hút, để ngửi.
Nó cho người ta sống lâng lâng trong một thế giới ảo,
để rồi không còn khả năng sống đời thực của mình nữa.
Nhưng ma túy đâu phải chỉ là bạch phiến, cần sa.
Ma túy là tất cả những gì gây nghiện,
khiến con người thành nô lệ và đánh mất mình.
Tiền bạc, tiếng tăm, tình dục, tiện nghi...
vẫn là những thứ ma túy mê hoặc con người.
Mùa Vọng là mùa tỉnh thức, để thành thật tự hỏi:
"Tôi đang nghiện thứ ma túy gì?"
Gợi Ý Chia Sẻ
Sống là có ước mơ và chờ đợi. Đâu là những ước mơ của bạn? Chúa có chỗ trong những ước mơ đó không?
Có bạn trẻ coi chuyện tình cảm là chuyện hết sức quan trọng, đến độ dám tự tử nếu cuộc tình đổ vỡ. Bạn nghĩ thế nào là thái độ quân bình nên có khi yêu nhau?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin đánh thức con.
Xin đưa con ra khỏi cơn mê
mà tự sức con không sao thoát ra được.
Xin đừng ngại đánh thức con
bằng những biến cố đôi khi mạnh mẽ,
nhưng xin cho con thấy bàn tay Chúa nhân từ đang cắt tỉa con vì yêu con.
Ước gì con được tỉnh táo
để nhìn lại vẻ đẹp từng làm con say mê,
những chỗ dựa mà con tưởng là tuyệt đối.
Như ngọn đèn chầu trong nhà nguyện,
xin cho con thức luôn và sáng luôn, trước nhan Chúa.
2. Tỉnh thức - Huệ Minh
Tin mừng Mc 13: 33-37: Chúa mời gọi chúng ta nhìn vào những cái biến cố. Những biến cố trong cuộc đời này rất là bình thường, để chúng ta phát hiện ra những cái ý chỉ bên trong đó!...
Kính thưa Cộng đoàn,
Thời giờ thấm thoát thoi đưa
Nó đi đi mãi có chờ đợi ai.
Chúng ta bắt đầu bước vào năm Phụng Vụ mới, với Chúa Nhật thứ nhất mùa Vọng.
Cái hành trang để đi vào năm phụng vụ mới này, Chúa Giêsu gửi đến với mỗi người chúng ta, một cái câu chuyện để mà nhắc nhớ chúng ta về sự tỉnh thức và sẵn sàng cầu nguyện.Chúa Giêsu dùng một cái hình ảnh rất là đời thường.
Có một ông chủ kia đi xa, để nhà cửa lại , trao quyền cho đầy tớ. Và mỗi người trong các công việc của mình, trong cái bổn phận của mình. Và hết sức dễ thương, ông chủ còn căn dặn mỗi người hãy tỉnh thức. Bởi vì, ông chủ có báo trước rằng, là ông chủ không biết rằng sẽ về vào lúc nào! về chiều tối, hay nữa đêm hay là gà gáy, hay là ban sáng. Ông chủ rất thương và ông chủ dặn điều đó. Chắc có lẽ, ông chủ phải nói rằng quá tốt bụng; chứ còn nếu mà không, thì ông chủ cũng chẳng nói gì.
Ông chủ có quyền mà! Người đầy tớ thì chỉ biết ở nhà để quản gia, quản lý nhà thôi! Chứ đâu có quyền biết giờ nào mà ông chủ về. Nhưng mà ở đây, Ông chủ có lòng thương đầy tớ, và ông chủ trao nhà cho người đầy tớ như một cái nhà vắng chủ, và không biết ngày hôm nào ông chủ về.
Và nhìn vào thực tại thế giới ngày hôm nay, chúng ta thấy, một thế giới giống như một cái ngôi nhà vắng chủ, một thế giới vắng bóng Thiên Chúa.
Ngày xưa người ta còn nhìn vào thiên nhiên để người ta đọc ra, người ta khám phá ra một Thiên Chúa vô hình, một Thiên Chúa đã tác tạo nên trời đất này. Thế nhưng mà, ngày hôm nay khoa học tiến bộ và cuộc sống người ta đã phát triển quá nhiều. Người ta lên tới cung trăng, đã phát triển internet, điện thoại thông minh.
Tất cả, người ta có thể làm được. và cái sự hiện diện của Thiên Chúa dường như là vắng bóng và người ta cảm giác rằng là người ta vất Thiên Chúa ra cuộc đời người ta. Và thế rồi cái giá trị của Thiên Chúa không còn trong cuộc đời người ta nữa. Cái cảm thức linh thánh không còn, cái tình yêu thương bây giờ cũng không còn, và sự công bằng cũng không còn!
Bởi vì một thế giới vắng bóng Thiên Chúa và một thế giới bị cái đêm đen phủ đầy của sự gian ác, của sự vô cảm. Cả với Thiên Chúa người ta còn không cảm nhận được sự hiện diện của Ngài, và rồi cái cảm nhận sự hiện diện của anh chị em đồng loại bên cạnh người ta càng không có.
Và chúng ta thấy, ngày hôm nay bị đánh mất một sự hiện diện của Thiên Chúa, vì không cảm thức được một Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời. Để rồi, từ cái chuyện nhỏ người ta kéo ra cái chuyện lớn, và người ta vô cảm với nhau. Và đặc biệt, người ta không còn cảm thức về tội nữa.
Đức Thánh Cha Piô thứ XXII nói rằng: “ Ngày hôm nay cái điều mà lớn nhất, lo lắng nhất, đối với thế giới đó là người ta đánh mất cảm thức về tội lỗi. Và người ta tha hồ phạm tội, người ta tha hồ xử lý anh em mình bằng mọi cách, mà không hề bị ái náy lương tâm. Lương tâm ngày hôm nay được bán với cái giá quá rẻ, một cái giá quá hời, có khi chỉ vài đồng bạc thôi.
Một thế giới bị đêm đen phủ đầy.Và chính trong thế giới đó, mỗi một người Kitô Hữu, chúng ta được mời gọi, chúng ta làm tỏa sáng hình ảnh của ĐỨC Kitô trong cuộc đời chúng ta. Và cái cách mà chúng ta làm tỏa sáng Đức Kitô trong cuộc đời chúng ta, đó là: chúng ta tỉnh thức, chúng ta cầu nguyện, chúng ta sống và chúng ta kết hợp mật thiết với Đức Kitô.
Ngày hôm nay, người ta vô cảm với nhau và vô cảm với cả Thiên Chúa nữa. Chúng ta cần phải tỉnh thức bởi vì như Thánh Phaolô nói: ma quỷ lúc nào rình rập, cắn xé. Và ma quỷ lúc nào cũng ở bên cạnh chúng ta. Có khi không phải chỉ ở bên cạnh, ở bên ngoài, mà là chính trong nội tâm của đời sống chúng ta. Cám dỗ thật sự, chúng ta nói là ở bên ngoài nhưng chính trong nội tâm của chúng ta chứ không phải ai khác.
Nói tới đây, con nhớ tới một cái câu chuyện:
Có một anh chàng kiếm khách, đi lên trên núi để mà xin tầm sư học đạo. Lên đỉnh núi thì gặp ông thầy, ông thầy nhận làm đệ tử, làm học trò. Ngày này qua ngày khác thì, anh chàng này cứ gánh nước, quét sân chùa thôi. Chứ không được thầy dạy một cái gì cả. Anh ta nản và anh ta đòi đi xuống núi. Và ông thầy ổng nói: Thôi ráng một thời gian nữa. Ráng cố gắng lên!
Và sau đó, đang nấu cơm, có một lưỡi kiếm đâm thẳng vào cổ. Và anh ta giật mình thấy kiếm đâm vào cổ của mình. Nhưng rồi anh ta né được. May quá đó là kiếm gỗ chứ mà kiếm sắt thì chết rồi. Và đang quét nhà cũng bị một lưỡi kiếm bay vô. Anh ta né. Đang quét sân thì cũng kiếm bay. Anh ta né!
Có nghĩa rằng ông thầy ông dạy cho anh ta, kiếm có thể bay vào bất cứ lúc nào, bất cứ giờ nào khi anh ta làm việc này, việc kia.
Dĩ nhiên rằng cái câu chuyện này có thể là cái câu chuyện tôn giáo hay là cái câu chuyện xem qua nó vui nhưng mà ở bên dưới của nó, nó có mang một cái ý nghĩa về đời tinh thần, về đời sống tâm linh.
Nếu mà chúng ta muốn để Chúa Giêsu nên hình nên dạng, và khuôn mặt của chúng ta được tỏa sáng khuôn mặt của Chúa Giêsu, thì chúng ta phải lúc nào cũng tỉnh thức, bất cứ lúc nào chúng ta cũng tỉnh thức để mà lắng nghe tiếng Chúa.
Ngày hôm nay người ta đã đánh mất cảm thức “Lắng nghe tiếng Chúa” bởi vì cuộc sống quá ồn ào náo nhiệt.
Sách Khải Huyền có nói: “Này ta đứng ngoài cửa, Ta gõ cửa ai mở Ta sẽ vào và dùng bữa với người đó” rõ ràng rằng là Chúa luôn luôn đứng ngoài cửa, và Chúa gõ cửa, phần còn lại chúng ta, chúng ta có lắng nghe hay không mà thôi!
Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong cái dòng nhạc của ông, trong cái tâm hồn của ông, thấy được là hay lắm! “Một hôm thấy ta là lá cỏ, ngồi hát ca tự do”. Hỏi ra cái tâm tình sáng tác bài đó ông chịu cái ảnh hưởng của nhà văn người Pháp. Qua tiếng chó sủa thôi, nhưng mà nhà văn người Pháp đó lại khám phá ra một cái điều gì đó rất là độc đáo!
Rồi Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng vậy! Ông cũng ảnh hưởng cái nhà văn Pháp đó khi ông mô tả một cái người tử tù đi ra pháp trường. Đêm cuối cùng khi anh ra pháp trường anh nhìn thấy cái ánh trăng, cái ánh trăng đó ngày hôm đó nó có ý nghĩa hơn nhiều so với những ngày trước đây. Ngày nào anh cũng đi qua cái ánh trăng, nhưng anh không thấy được cái vẻ đẹp của ánh trăng.
Có những điều rất đỗi bình thường trong cuộc đời của chúng ta, nhưng nhiều lần nhiều lúc chúng ta không thấy được, không giác ngộ ra. Chúng ta không chịu nhìn ra để thấy cái chiều sâu ở bên trong.
Chúa mời gọi chúng ta nhìn vào những cái biến cố. Những biến cố trong cuộc đời này rất là bình thường, để chúng ta phát hiện ra những cái ý chỉ bên trong đó!
Không chỉ tỉnh thức trước những nguy cơ, mà chúng ta còn phải tỉnh thức trước những lời gọi thầm kín nữa, để cho Chúa Giêsu được tỏa sáng trong cuộc đời của mình. Có thể nói là lý thuyết nhưng thực tế.
Đó là một câu chuyện rất gần trong cuộc đời: Chủ đi phương xa, giao nhà cho những người tôi tớ. Tôi tớ thì mỗi người có một nhiệm vụ: Người thì nấu ăn, người thì làm vườn, người thì giữ cửa, người thì bảo vệ.
Nếu mà anh chu toàn nhiệm vụ đó thì bất cứ lúc nào nữa đêm hay trời sáng, chủ về chúng ta cũng không sợ, bởi vì, anh đó đã chuẩn bị tinh thần.
Mỗi một người chúng ta, là một người Kitô Hữu, trong cái đấng bật nào cũng vậy! Chúng ta là linh mục tu sĩ, chúng ta đã lập gia đình, chúng ta có một bổn phận của chúng ta. Là một linh mục, chúng ta có sống xứng đáng với bổn phận của một linh mục, một nhiệm vụ của một linh mục hay không? Còn là cha là mẹ, chúng ta có hoàn thành trách nhiệm của người cha người mẹ hay không?
Nói qua thì e rằng dễ lắm! Như là bản thân con thôi! Ngay như đời sống linh mục: kinh sáng, kinh tối, vì mệt mỏi, vì bận rộn; nhiều khi mình cũng quên! rồi thậm chí: mình dâng lễ, nhiều khi mình cũng muốn dâng cho nó xong thôi! chứ còn mình không có đặt cái cảm xúc sâu xa và khi đó mình đã móp méo hình ảnh của Chúa Giêsu.
Và bổn phận người Kitô Hữu, ngày hôm nay chúng ta thấy, rất đơn giản: dự lễ một tuần một lần ngày Chúa Nhật thôi!
Nhưng mà thử hỏi coi: nhiều người đã bỏ đi cái bổn phận rất đơn giản, bỏ đi cái giờ kinh chung. Và chính vì mình không hoàn thành cái trách nhiệm của mình là một người Kitô Hữu; không hoàn thành trách nhiệm của một người chồng, một người cha, một người mẹ, một người vợ, trong gia đình, thì làm sao mình có thể can đảm dạy được con của mình, khi mình không làm gương mẫu cho con cái của mình.
Và chúng ta sống cái tinh thần tỉnh thức đó như thế nào?
Chúng ta còn nhớ Thánh Đa Minh Saviô rất là dễ thương! Đá banh trong nhà thờ, mà khi mà cha Sở hỏi: Khi mà Chúa đến, con phải làm gì?
Các em khác thì: đứa thì chạy vào nhà thờ để cầu nguyện, đứa thì đi xưng tội, đứa thì dọn mình nhưng mà Đa Minh Saviô nói rằng Đaminh Savio vẫn chơi. Bởi vì bất cứ lúc nào Đaminh Savio cũng tỉnh thức để đón chờ Chúa đến.
Và một hình ảnh rất đẹp nên mẹ Têrêsa Calcutta. Mẹ Têrêsa Calcutta có ghi một cái tờ giấy ở trong cái phòng Thánh, trong Nhà nguyện của nhà dòng của Mẹ. “Lạy Chúa con dâng đây như là thánh lễ cuối cùng của con.” một cái tâm tình rất là tuyệt vời! thà rằng là mẹ ý thức rằng ngày hôm nay là thánh lễ cuối cùng của đời mẹ. Và trong tất cả hoàn cảnh sống của cuộc đời, từng giây, từng phút của mẹ, mẹ luôn luôn nghĩ: hôm nay là ngày cuối cùng.
Ước gì, mỗi người chúng ta cũng nghĩ rằng cũng sống, rằng cũng có tâm tình như Thánh Đaminh Saviô như mẹ Têrêsa Calcutta. Để bất cứ lúc nào chúng ta cũng tỉnh thức, cũng sẵn sang, vì chúng ta biết rằng: không biết ngày nào Chúa có thể đến với chúng ta.
Chúng ta thấy xung quanh nhiều biến cố. Có những người tưởng chừng là sống rất dai. sống rất thọ, nhưng chỉ vì một cái hoàn cảnh nào đó, một cái biến cố nào đó, người đó ra đi! mà đến nỗi, ta phải sững sờ. Có khi ta cũng phải ra đi như thế! Nhưng mà nhiều lần, nhiều lúc, ta lại đánh lừa: Đánh lừa cảm giác của ta, đánh lừa cái suy nghĩ của ta. Ta tưởng rằng là ta mãi sống ở cuộc đời này! Cuộc sống này, nó rất mong manh!
Và ngày hôm nay bước vào mùa vọng, xin cho mỗi người chúng ta luôn luôn tỉnh thức sẵn sàng và đặc biệt xin cho chúng ta hoàn thành cái bổn phận trách nhiệm cái nhiệm vụ sống của mỗi người chúng ta trong gia đình chúng ta. Sống như thế, chúng ta đã hoàn thành sứ vụ của chúng ta. Và sống như thế, chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng để Chúa đến bất cứ lúc nào, chúng ta vẫn trả lời với Chúa: này con đây. Amen.
3. Chúa sẽ đến trong vinh quang
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Lễ Giáng Sinh nhắc nhớ Kitô-hữu một biến cố rất đặc biệt: Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Giáo Hội không chỉ mừng lễ này như biến cố xảy ra trong quá khứ, mà còn nhắc nhở các tín hữu: Đức Yêsu sẽ lại đến trong vinh quang để đem những kẻ Ngài yêu được ở mãi với Ngài.
1. Ngôn ngữ giới hạn: Ngài không đi làm sao đến lại
Theo thánh Luca, Đức Yêsu Phục Sinh đã lên trời trước mặt các tông đồ (Lk.24, 51; Cv.1, 9). Ngài đã lên trời, và Ngài sẽ trở lại vào ngày cánh chung để phán xét kẻ dữ người lành. Giáo Hội đang chờ mong Chúa tới, và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Ngài hãy đến”.
Tuy nhiên, Tin Mừng theo thánh Matthêu cho thấy Đức Yêsu Phục Sinh không rời con người: “này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt.28, 20). Trong kinh Lạy Cha các tín hữu đọc “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”. Thật sự Thiên Chúa đâu có chỉ ở trên trời, Ngài còn ở trong lòng mỗi người: “Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta, Cha Ta sẽ yêu mến người đó, và chúng ta sẽ đến và ở với người đó” (Ga. 14, 23). Thánh Phaolô nói rằng: “bạn không biết rằng bạn là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự nơi bạn sao?” (1Cor.3, 16). Thiên Chúa luôn ở bên con người. Ngài ở trong chúng ta. Ngài ở gần mình hơn cả chính mình.
Tin Mừng theo thánh Maccô cho thấy Đức Yêsu “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”. Thật sự, Thiên Chúa là Đấng vô hình; Ngài làm gì có tay phải tay trái như chúng ta; như vậy “lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” là cách nói diễn tả Đức Yêsu Phục Sinh được tôn vinh ngang bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối, ngôn ngữ con người cũng tương đối như chính con người, nên không thể diễn tả trọn vẹn về Thiên Chúa được. Chúng ta phải cố gắng hiểu điều Thiên Chúa muốn dạy chúng ta qua Giáo Hội với ngôn ngữ con người. Chính vì vậy, tuy dù Đức Yêsu Kitô không rời con người, nhưng hiện tại con người cũng không được thấy Ngài bằng mắt trần, và Kitô-hữu tin rằng Ngài sẽ đến, con người sẽ được thấy Ngài đến trong vinh quang.
2. Hãy chuẩn bị đón Ngài đến
Chúa đã đến, và đã được sinh ra ở Bét-lem nhưng chẳng ai nhận ra để đón tiếp Ngài. Ngài cũng sẽ đến trong vinh quang, nhưng ngày đó chẳng ai biết trừ Thiên Chúa (Mc.13, 32). Thiên Chúa còn đến với mỗi người qua cái chết của mỗi người.
Không ai tránh khỏi cái chết, nhưng thường mỗi người không biết ngày giờ của mình. Đức Yêsu dạy các môn đệ: “Hãy tỉnh thức, vì không biết lúc nào giờ của mình đến”. Có người mong được chết, nhưng vẫn phải chấp nhận sống để kết hiệp với cuộc khổ nạn đau thương của Chúa. Có những người không muốn chết, nhưng Chúa mời gọi họ phải sẵn sàng chấp nhận cái chết như Đức Yêsu đã phải chấp nhận: “xin cho Con khỏi uống chén này, nhưng không phải ý Con mà là ý Cha”.
Mỗi người phải trả lời về cuộc sống của mình. Thiên Chúa đã trao cho mỗi người nén vàng nén bạc là chính tài năng của mình; và Ngài muốn mình sinh lợi ích. Chúng ta đã làm gì với nén vàng tài năng của mình đó. Chúng ta có trở thành chứng nhân tình yêu của Ngài cho những người cần đến chúng ta không? Nếu chúng ta là người cha người mẹ, chúng ta đã đối xử với con cái như thế nào với cương vị người đại diện Thiên Chúa? Nếu chúng ta là người con, chúng ta đã đối xử thế nào với cha mẹ như những người đại diện Thiên Chúa? Chúng ta có là tình yêu cho những người gặp gỡ chúng ta không? Chúng ta có làm cho những người sống với chúng ta được bình an không? Hay chúng ta hành khổ họ, bằng thái độ, bằng ánh mắt, bằng nụ cười, bằng lời nói, và đôi khi bằng cả hành động tàn bạo?
3. Thiên Chúa đang đến để giúp ta bắt đầu một đời sống mới tuyệt hơn
Thiên Chúa là Đấng tuyệt vời. Thiên Chúa là Đấng vượt trên mọi suy nghĩ của con người. Tư tưởng của Thiên Chúa không giống như tư tưởng của con người. “Như trời cao hơn đất, thì tư tưởng của Ta cũng vượt trên tư tưởng của các ngươi”. Thiên Chúa yêu thương, Ngài tha thứ cho con người mọi lỗi lầm, Ngài mời gọi con người hãy trở lại với Ngài, hãy bắt đầu một đời sống mới để bình an và hạnh phúc hơn.
Đời sống mới được bắt đầu nơi chính mình. Hãy chấp nhận chính mình, chấp nhận giới hạn và khả năng của mình, chấp nhận những gì đã và đang xảy đến, để mình được sống bình an và hạnh phúc. Hãy tha thứ cho chính mình, vì Thiên Chúa đã tha thứ cho mình. Hãy làm hòa với Thiên Chúa, và làm hòa với chính mình; để rồi có thể tha thứ và làm hòa với tha nhân. Thiên Chúa muốn tôi sống bình an hạnh phúc ngay trên đời này. Điều nào làm tôi bất an, phải được loại đi vì Thiên Chúa muốn tôi sống bình an.
Hãy tập nhận ra tình yêu của Thiên Chúa qua những gì xảy đến, và đặc biệt qua những người thân, những người chúng ta sống với. Nếu không có họ, cuộc sống của chúng ta có thể không có ý nghĩa lắm. Những người tuyệt vời như các vị thánh, không phải là những người làm những điều lớn lao, nhưng là những người làm những điều nhỏ bé một cách tuyệt vời. Ước gì mùa vọng này, mỗi người không chỉ chờ mà nhận ra Chúa đang đến với mình hằng ngày trong cầu nguyện, qua những người thân quen, qua những việc hy sinh và bỏ mình nho nhỏ, để làm cho cuộc đời của những người sống với chúng ta hạnh phúc hơn. Nếu chúng ta tập yêu, thiên đàng đang bắt đầu nơi chúng ta ở trần gian. Chúa không chỉ sẽ tới, nhưng Chúa đang tới với mình mỗi ngày, và trong từng giây phút sống.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao người ta “không dám” mong chờ Chúa đến?
2. Nếu Chúa tới với bạn qua những hành vi yêu thương, bạn có mong Chúa tới với bạn hằng ngày không?
3. Điều nào ngăn cản bạn sống bình an và hạnh phúc? Làm cách nào để loại trừ điều đó đi?
4. Phải canh thức! – Lm. Trầm Phúc
Lạ thật! Nhiều lần Chúa Giêsu căn dặn: “Hãy tỉnh thức và sẵn sàng”, tại sao thế? Chỉ vì chúng ta vô lo hay không chú ý. Chúng ta chỉ chú ý đến cuộc sống hôm nay, cuộc sống vật chất mà thôi, quên để ý đến “ngày cuối cùng”, ngày kết thúc mọi sự.
Chúng ta thử xét lại một ngày sống của chúng ta thôi, chúng ta nghĩ gì, làm gì, muốn gì? Mấy khi chúng ta nghĩ đến “lúc Chủ về?” Ngày Chúa gọi chúng ta về với Chúa.
Chúa nói: “không biết giờ nào, ngày nào”.
Có lẽ trong đời sống, nhiều lần chúng ta nhận được những tin làm chúng ta sửng sốt, bàng hoàng: “Anh A vừa mới đi làm, bị xe đụng chết tức khắc”. “Anh B, chị C quen thân, vừa mới gọi điện thoại cho chúng ta, đã sang thế giới bên kia, nhồi máu cơ tim….”
Lời cảnh báo của Chúa Giêsu đang xảy ra hôm nay, không phải một ngày nào xa vời. Chúng ta có nghĩ rằng, có thể ngày hôm nay Chúa sẽ gọi tôi không? Chúng ta ngạc nhiên khi thấy Chúa nhắc đi nhắc lại lời cảnh báo đó, đến nỗi chúng ta không còn để ý?
Hôm nay, bắt đầu Mùa Vọng, là Chúa Nhật đầu tiên của một Năm Phụng vụ mới, Giáo Hội bắt đầu bằng giai đoạn cuối, nhắc chúng ta đến một điều quan trọng nhất trong đời chúng ta: ngày chúng ta bước vào vĩnh cửu.
Sống hôm nay là một bước đi tới và có thể là bước cuối cùng.
Trong thế giới rộn ràng và gấp rút mà chúng ta đang sống, cái gì cũng nhanh, mọi biến cố đều tăng tốc đến chóng mặt. Chúng ta chỉ cần cầm máy điện thoại lên là có thể biết được những gì đang xảy ra ở một chân trời khác, cách hàng chục ngàn cây số. Thế giới càng thu hẹp lại, thời gian cũng thu hẹp lại. Con người phải chạy đua với kim đồng hồ.
Chúng ta đang đi đâu đây? Chúng ta phải làm gì?
Tăng tốc để chạy đua với kim đồng hồ, chúng ta cũng đang nhanh chóng bước tới ngưỡng cửa đời sau. Mấy ai đã nghĩ tới?
Những người không có niềm tin ngạc nhiên vì chúng ta đang mong một tương lai sau cuộc đời này. Họ tự mãn về những thành công vật chất của họ. Họ mong ước xây đắp một thế giới an toàn bảo đảm hạnh phúc cho con người. Họ cho chúng ta là những người mơ mộng, sống bằng ảo ảnh. Nhưng thực tế, chúng ta thấy gì? Một thế giới hỗn loạn, một thế giới dã man, thê thảm… Những gì họ cố công xây đắp chỉ là bọt bèo…
Họ có lý hay chúng ta có lý? Họ mơ mộng hay chúng ta?
Những sản phẩm do con người tạo ra, theo thời gian tan rã. Người ta tốn không biết bao nhiêu tiền bạc, công khó để bảo tồn những gì mà họ cho là di tích lịch sử, là những kỳ quan của con người…
Để làm gì? Để rồi cũng trở về tro bụi.
Đức tin đưa chúng ta vào một tương lai vĩnh cửu, một thực tế bền vững hơn những gì con người tạo nên. Kinh Thánh nói: “mọi nền văn minh đều phải chết…” Chỉ có niềm tin tồn tại, vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành mọi sự vẫn tồn tại.
Chúng ta đang xây đắp tương lai của chúng ta không phải bằng ảo tưởng mà bằng chất liệu của thế giới hôm nay, nhưng chúng ta “ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian”. Chúng ta cũng như mọi người, xây dựng cuộc sống bằng cát đá, gạch, bằng lúa thóc, cây cỏ, đồng thời xây dựng tương lai bằng công bằng, bác ái, và phục vụ…
Không ai có thể ngăn cản chúng ta xây dựng thế giới vật chất, đồng thời xây dựng thế giới thiêng liêng.
Chúa Giêsu nói rõ: “Chủ nhà đi xa, trao nhà cửa, quyền hành cho gia nhân, chỉ định cho mỗi người một việc, ra lệnh cho người giữ cửa…” Chúa trao cho chúng ta thế giới này, cuộc sống này, là gia sản của Ngài. Mỗi người mỗi việc, và người giữ cửa phải canh thức đợi chủ về. Chúng ta đang sử dụng tất cả những gì Chúa trao ban… mỗi người một việc… nhưng một ngày kia chủ sẽ về…
Chúng ta không thể ngồi mơ mộng một thế giới an toàn, đầy đủ tiện nghi. Chúng ta không thể hưởng thụ trên xương máu anh em chúng ta. Chúng ta có nhiệm vụ trông coi gia sản của chủ. Chúng ta phải vất vả lao động với anh em; nhưng một điều khác biệt với những người không có đức tin là: chúng ta lãnh nhận nhà cửa, gia sản của chủ chứ không phải của chúng ta tạo ra.
Hơn nữa, chúng ta không chỉ là tôi tớ mà là con. Tiên tri I-sa-i-a, đã gọi Chúa là Cha. Đồng thời Chúa Giêsu cũng nhắc nhở, chúng ta có Cha trên trời. Gia sản Ngài trao không phải để chúng ta hưởng thụ mà để “Danh Cha cả sáng…” Gia sản này không phải để chúng ta dành giật, tranh chấp với nhau để chiếm hữu, khiến nó trở thành một chiến trường đẫm máu và man rợ, mà là chia sẻ và phục vụ, để mọi người đều được hạnh phúc.
Chúng ta là con của Cha trên trời, và mọi người đều được yêu thương, tại sao chúng ta có thể biến quả đất này thành một bãi lầy hận thù và tranh chấp?
Mùa Vọng là thời gian quí báu, nhắc chúng ta chờ đợi “trời mới đất mới, nơi công lý sẽ ngự trị” (Thánh Phê-rô). Chúng ta hãy xây đắp mộng ước, nhưng ước mơ của chúng ta là thấy tình yêu lan rộng trong thế giới đang “đổ vỡ” của chúng ta.
Tỉnh thức là như thế. Hạnh phúc biết bao khi “chủ về”, và thấy chúng ta trở thành những con người xây dựng hòa bình, những con người hiền lành và đầy lòng xót thương, những con người có lòng trong sạch, không bị hoen ố vì tham lam, vì hận thù, và hơn nữa, chúng ta trở thành những con người có “cuộc đời cho không” như Chúa Giêsu, Con Cha. Vì đời chỉ đẹp khi đời được dâng hiến.
Hạnh phúc cho chúng ta biết bao, khi Đấng chúng ta tỉnh thức chờ đợi, vẫn đến với chúng ta trong tấm bánh thần linh: “Này là Mình Thầy… Hãy cầm lấy mà ăn”. Ngài từ trời xuống để trao ban chính mình cho chúng ta. Ai biết yêu thương thành thật sẽ hưởng được sự ngọt ngào êm đềm này. Thiên Chúa cao cả vô song đã trở thành Em-ma-nu-en (Chúa-ở-cùng-chúng-ta) ngay trong xương thịt chúng ta.
Hãy tỉnh thức chờ đợi ngày chúng ta được nên một với Ngài. Hôm nay trong tấm bánh, ngày mai trong vinh quang. Chờ đợi hôm nay là một chờ đợi yêu thương, chờ ngày “tỏ hiện vinh quang của con Thiên Chúa”. Đợi chờ trong yêu thương đã là một hạnh phúc lớn lao rồi. Chúng ta hãy nói như tân nương trong trang cuối của sách Khải Huyền nói với Tân Lang Thần Linh của chúng ta; “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến”.
5. Tỉnh thức
Với Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng, khởi đầu cho Năm Phụng Vụ mới, Giáo Hội muốn đặt chúng ta vào trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Thực vậy, nơi Đức Kitô Thiên Chúa đã băng qua các tầng trời, để rồi ngự xuống trần gian. Ngài đã không chỉ can thiệp vào lịch sử, mà còn ở giữa con người, sống với con người và chết cho con người, thể hiện sự giải thoát cho con người khỏi vòng nô lệ tội lỗi. Giáo Hội tin rằng Ngài đã sống lại và lên trời, nhưng vẫn chờ đợi Ngài sẽ trở lại trong vinh quang.
Vì thế, thời hiện tại của chúng ta là một thời chờ đợi, là một mùa vọng kéo dài. Một sự chờ đợi trong hy vọng. Một Mùa Vọng trong hân hoan vui mừng. Thế nhưng, sự chờ đợi ngày hoàn tất công trình cứu độ, sự chờ đợi ngày kết thúc công trình xây dựng một thế giới mới, một thế giới được cứu độ, một thế giới của người Kitô hữu, sẽ không phải là một thái độ thụ động.
Đúng thế, Chúa Giêsu, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, đã mời gọi các môn đệ của Ngài phải đề cao cảnh giác và tình thức, để có thể đón nhận Ngài, mỗi khi Ngài viếng thăm, cũng như khi chúng ta phải đối diện với Ngài để tính sổ cuộc đời, lúc chúng ta từ giã cuộc sống này qua cái chết. Và sau cùng, là phải sẵn sàng, khi ngài lại đến trong vinh quang trong ngày sau hết.
Tỉnh thức ở đây là sáng suốt nhận ra những dấu chỉ của sự sống, của sự thật, của sự giải thoát, và của cái sẽ tồn tại mãi mãi trong tất cả những gì tạo nên cuộc sống thường ngày của con người và xã hội: những cuộc gặp gỡ, những lời nói, những phản ứng, những sự kiện, những tin tức chúng ta nhận được.
Người tỉnh thức là người phải suy nghĩ, không theo thói quen, không theo những hình ảnh hay khuôn mẫu có sẵn, ngay cả đối với Kinh Thánh, chúng ta cũng đừng đọc hay suy nghĩ với những hiểu biết đã được người khác mớm cho, nhưng phải đọc với một cặp mặt tò mò và thức tỉnh, với những câu hỏi được đặt ra cho chính bản thân: Lời Chúa muốn nói với tôi điều gì? Và đâu là điều Chúa muốn tôi phải thực hiện?
Có tỉnh thức nhận ra ý Chúa và cố gắng thực hiện trong cuộc sống thường ngày, thì rồi trong sau hết chúng ta mới không bị Chúa loại trừ, nhưng sẽ được chia sẻ niềm hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa trên quê hương Nước Trời.
6. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Chúng ta bắt đầu bước vào Năm Phụng Vụ mới, khởi đi từ Chúa Nhật I Mùa Vọng. Mùa Vọng có hai đặc tính: Đặc tính thứ nhất, kính nhớ việc Con Thiên Chúa đến lần thứ nhất với loài người; Đặc tính thứ hai, các tín hữu hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày Tận thế (x. AC 39).
Thật vậy, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã đến với loài người cách đây hơn hai ngàn năm. Ngài đến trong đêm Giáng Sinh, có các Thiên thần ca hát, có các mục đồng thờ lạy và loan tin (x. Lc 2,1-20). Đối với chúng ta, biến cố này chỉ mang tính kỷ niệm. Nhưng đây là một kỷ niệm hết sức quan trọng. Bởi vì, biến cố này đem ơn cứu độ đến cho loài người, làm thay đổi lịch sử cứu độ và lịch sử nhân loại. Vì vậy, chúng ta phải chuẩn bị chu đáo để mừng biến cố này một cách trang trọng và sốt sắng. Thiết nghĩ, cách chuẩn bị tốt nhất là chúng ta sống tinh thần chờ đợi của dân Do thái ngày xưa. Tinh thần đó được diễn tả qua phụng vụ của 4 Chúa Nhật Mùa Vọng. Đó là chúng ta sống đặc tính thứ nhất của Mùa Vọng.
Với đặc tính thứ hai của Mùa Vọng, chúng ta sống tinh thần chờ đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày Tận Thế: Ngày Tận Thế là ngày tận cùng của Vũ trụ và con người. Ngày đó sẽ đến, nhưng đến lúc nào thì không ai biết trước được. Tin mừng hôm nay cho biết ngày đó đến một cách bất ngờ, như chủ nhà đi xa, không biết lúc nào trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng... Vì tính chất bất ngờ như vậy, nên đòi hỏi các đầy tớ phải luôn sống trong tinh thần tỉnh thức để ông chủ khỏi bắt gặp các đầy tớ đang ngủ. Đó cũng là tinh thần mà Đức Giêsu muốn nhắn gửi tất cả mọi người chúng ta: Ðiều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức! (x. Mc 13,33-37).
Vậy, chúng ta phải tỉnh thức như thế nào? Xin được đề nghị tỉnh thức bằng một số thực hành sau đây:
Thứ nhất, tỉnh thức bằng cách thú nhận tội lỗi và xin Chúa thứ tha: Nếu những ai đang sống trong ân nghĩa với Chúa, hãy tạ ơn Chúa và cố gắng giữ mình sống trong tình trạng đó. Còn những ai đang sống trong tội, hãy sám hối và lãnh nhận Bí tích Giao hòa. Việc thực hành này mang tính cá vị. Nghĩa là giữa cá nhân mỗi người với Chúa qua trung gian linh mục. Nhưng trong thực tế, có những tội liên quan đến người khác. Chẳng hạn, tội của con cái liên quan đến trách nhiệm của cha mẹ; tội của vợ hoặc chồng liên quan đến nhau; tội của giáo dân liên quan đến trách nhiệm của cha xứ; tội của cộng đoàn liên quan đến bề trên…Vì vậy, cần phải có sự sám hối tập thể hoặc một người thay cho tất cả để xin ơn tha thứ thay cho tập thể: Cha xứ phải sám hối và xin ơn tha thứ thay cho giáo dân; cha mẹ sám hối và xin ơn tha thứ thay cho con cái; vợ chồng sám hối và xin ơn tha thứ thay cho nhau; bề trên sám hối và xin ơn tha thứ thay cho cộng đoàn…Đó là điều mà tiên tri Isaia đã làm trong bài đọc I hôm nay, ông đã thay mặt cho toàn dân thú nhận tội lỗi và xin Chúa thứ tha: Chúng tôi đã luôn ở trong tình trạng tội lỗi. Tất cả chúng tôi đều đầy vết nhơ. Xin Chúa hãy đến thứ tha tội lỗi cho chúng tôi (x. Is 63, 16b-17; 64, 1. 3b-8).
Thứ hai, tỉnh thức bằng cách sống xứng đáng với những ân huệ Chúa ban: Chúa ban cho chúng ta ơn làm người, ơn làm con Chúa, ơn được ở trong Giáo Hội, ơn có đủ điều kiện thuận lợi để lo phần rỗi linh hồn. Ngoài ra, Chúa còn ban cho chúng ta những khả năng khác nhau: người 5 nén, người 2 nén, người 1 nén… tùy hoàn cảnh và địa vị của từng người. Chúng ta hãy khiêm tốn dùng những khả năng đó để chu toàn bổn phận hằng ngày: phụng sự Chúa, phục vụ Giáo hội và giúp đỡ tha nhân. Khi chúng ta làm như vậy, chính là lúc chúng ta đang sống tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến. Đó cũng là sứ điệp mà Thánh Phaolô nói tới trong Bài đọc II hôm nay (x. 1Cr 1,3-9). Ngài nhắc nhở cộng đoàn Corintô hãy nhớ đến bao ân sủng mà Thiên Chúa ban cho họ: “Vì chưng, trong Ngài, anh em được tràn đầy mọi ơn: ơn ngôn ngữ, ơn hiểu biết,…” Khi nhớ tới những ơn Chúa ban, thì hãy tỏ ra xứng đáng với ân huệ đó bằng cách hướng tới ngày Ngài đến trong “bền vững” và “không có gì đáng trách”.
Thứ ba, tỉnh thức bằng cách siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích và thực thi bác ái.
Tỉnh thức trong cầu nguyện: Vì tỉnh thức đi liền với cầu nguyện. Trong Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi: “Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào” (Mc 13,33). Mặt khác, khi cầu nguyện chúng ta sống với Chúa, hướng tâm trí về Ngài. Ngoài ra, cầu nguyện để xin ơn Chúa trợ giúp: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Mc 14,38). Như vậy, khi chúng ta siêng năng cầu nguyện là chúng ta đang sống tỉnh thức.
Tỉnh thức trong việc siêng năng lãnh nhận các Bí tích: Để lãnh nhận các Bí tích, chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng. Nếu muốn lãnh nhận các Bí tích kẻ chết (Bí tích Giao hòa và Bí tích Rửa tội), chúng ta phải có lòng sám hối ăn năn. Nếu muốn lãnh nhận các Bí tích kẻ sống (5 Bí tích còn lại), chúng ta phải sống trong ơn thánh hóa, nghĩa là phải sạch tội trọng. Như vậy, khi sẵn sàng để lãnh nhận các Bí tích là chúng ta đang sống trong tinh thần tỉnh thức.
Tỉnh thức trong việc thực thi bác ái yêu thương: Khi chúng ta thực thi bác ái là chúng ta đang chu toàn bổn phận Chúa trao phó, đang thực hành Kinh “thương người có mười bốn mối”. Nếu chúng ta giúp đỡ những kẻ hèn mọn là chúng ta đang giúp đỡ Chúa (x. Mt 25, 31-46). Cho nên, khi chúng ta thực thi bác ái yêu thương là chúng ta đang sống trong tinh thần tỉnh thức. Đúng như lời khẳng định của Thánh Phaolô: “yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).
Lạy Chúa, chúng con bắt đầu bước vào Mùa Vọng, xin cho mỗi chúng con biết chuẩn bị tâm hồn xứng đáng để kỷ niệm ngày Chúa đến lần thứ nhất qua lễ Giáng sinh. Đồng thời, xin giúp chúng con luôn sống tinh thần tỉnh thức bằng việc siêng năng cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích và thực hành bác ái, để xứng đáng đón chờ Chúa đến trong ngày Tận thế và ngày Chúa đến gặp gỡ mỗi người chúng con. Amen.
7. Hãy tỉnh thức kẻo ông chủ bắt gặp đang ngủ
MINH HỌA LỜI CHÚA
(HN sưu tầm -thanhlinh.net)
(Is.63,16-17; 64, 1.3-8; 1Cr.1,3-9; Mc.13-33-37)
1. Những người không ngủ
Arthur Tonne nhắc lại một ghi chú lịch sử khá thú vị xảy ra vào thế kỷ 15, liên quan đến một nhóm đan sĩ thường được biết đến như “những người không ngủ”. Một người đạo đức nọ tên là Alexander tuyển 300 tu sĩ và chia họ thành 6 nhóm, thay phiên nhau tỉnh thức chờ đợi Chúa đến lần thứ hai. Cả ngày lẫn đêm luôn có một nhóm tỉnh thức cầu nguyện, sẵn sàng cho việc Chúa Giêsu đến lần thứ hai như Vị Lang Quân và Đấng phán xét cuối cùng.
Câu chuyện về “những người không ngủ” này mời gọi tôi tự hỏi: Nếu Chúa Giêsu đến trong vòng 10 phút nữa, tôi có sẵn sàng không? (Trích “Vision 2000”)
“Chúa Giêsu không cho biết ngày cuối cùng của ta, để ta luôn cảnh giác chờ đợi Người” (Thánh. Augutin).
2. Thành Venise bị chôn vùi đột ngột
Các nhà khảo cổ đã đào bới thành Venise bị núi lửa chôn vùi đột ngột và họ đã thấy nhiều cảnh tượng khác nhau: có những người chết trong khi ngồi nhậu, kẻ khác chết đang lúc đánh đấm tranh giành lợi lộc, người nọ chết đang nằm ngủ… Không thấy người nào chết trong lúc cầu nguyện!... Nhưng may thay, sau cùng người ta cũng nhìn thấy một người lính chết trong lúc nghiêm chỉnh đứng canh gác, vũ khí cầm trong tay…
Chúa cũng đến với tôi đột ngột như thế. Chẳng biết khi Người đến, Người thấy tôi đang làm gì?
3. Chờ đợi Chúa đến
Một bà đạo đức được Chúa hứa đến thăm vào ngày bà xin. Sáng sớm hôm đó, bà lo dọn dẹp nhà cửa, trang hoàng thật lộng lẫy, rồi ngồi chờ Chúa.
Nghe tiếng gõ cửa, bà tin là Chúa đến, vội chạy ra mở cửa… Nhưng đó là người ăn xin. Bà buồn bã đóng cửa lại.
Một lúc sau lại có tiếng gõ cửa. Bà vội mở cửa nhanh hơn vì chắc là Chúa đến… Nhưng đó là một người mù. Và cửa đóng lại.
Mấy phút trôi qua, lại có tiếng gõ cửa. Bà nghĩ nhứt hóa tam, chắc chắn Chúa đến nên chạy nhanh mở cửa. thì ra là một người ăn mặc rách rưới. bà vừa buồn vừa giận nói: Tôi bận đón Chúa, tôi không giúp anh được!...
Rồi màn đêm xuống cũng chưa thấy Chúa đến. bà buồn rầu than: chẳng biết Chúa bận việc gì mà quên lời hứa. Mòn mỏi quá, bà ngủ quên và thấy Chúa đến nói: Cha đã đến với con 3 lần, mà cả 3 lần đều bị con đuổi đi!... (Theo “Minh họa Lời Chúa”)
Qua câu truyện này, chắc chắn ai cũng hiểu: Trong lúc chờ đợi Chúa đến phải lo làm việc lành, nhứt là thương yêu giúp đỡ anh chị em khốn khỏ phần hồn phần xác.
4. Dọn sẵn hết
Một chủ nông trại lớn thiếu người chăm sóc đàn vật của mình. Sáng sớm ông ra đường phố tìm người. Ông nhất định tìm cho được một người cần mẫn, biết lo mọi việc sẵn sàng đâu vào đó…
Ông gặp một thanh niên trạc tuổi 20. Ông hỏi anh có quen việc đồng áng chăn nuôi không. Anh trả lời:
- Dạ con quen làm các việc đó lắm. Con có thể ngủ yên trong những đêm mưa to gió lớn nữa.
Ông chủ không hiểu anh nói gì nên bỏ đi. Nhưng đi mãi tời chiều không kiếm được ai, ông thất vọng trở về… và kìa, ông lại gặp câu thanh niên lúc sáng. Ông gọi anh theo làm cho ông. Anh ta mừng nói với ông như lúc sáng:
- Ông chủ an tâm. Con có thể ngủ yên trong những ngày đêm mưa to gió lớn.
Ngày qua ngày, anh thanh niên vẫn chăm sóc đàn vật chủ giao phó. Bỗng một đêm trời sấm chớp. gió bão ồn ào… Ông chủ đang ngủ giật mình chổi giậy, lo sợ cho đàn vật. Ông chạy nhanh ra chuồng, thấy anh thanh niên vẫn ngủ yên trên gác. Vừa tức giận vừa lo sợ, ông vội mở cửa bước vào, thấy mọi sự đâu vào đó, đàn vật vẫn yên ổn… Sỡ dĩ được như thế là vì người thanh niên mỗi ngày đều chuẩn bị sẵn sàng đối phó với những bão to có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Vì thế khi có gió to bão lớn, anh không lo sợ mà vẫn ngủ yên, và đàn vật vẫn an toàn.
Mùa Vọng là mùa Chúa kêu gọi chúng ta tỉnh thức, chuẩn bị sẵn sàng đón tiếp Chúa đến cứu độ chúng ta. Tỉnh thức, chuẩn bị sẵn sàng là lo chu toàn bổn phận hằng ngày như người thanh niên trên đây.
(Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập I).
8. Chờ đợi trong tỉnh thức - ĐGM Giuse Vũ Văn Thiên
Ai trong chúng ta cũng đã có những lúc chờ đợi: chờ đợi một biến cố hoặc một người thân. Chờ đợi bao giờ cũng làm chúng ta hồi hộp, trăn trở, nôn nóng. Những lúc chờ đợi, dường như thời gian trôi chậm hơn. Khi chờ đợi một sự kiện hay một người thân, cũng là lúc chúng ta liên tưởng nhiều về sự kiện hay về người thân đó. Sự chờ đợi càng lâu, niềm vui càng lớn lao và vỡ òa khi gặp gỡ.
Năm Phụng vụ khởi đầu với một thời gian mang tên “Mùa Vọng” hay “Mùa Đợi”. Mùa Phụng vụ này nhắc nhớ chúng ta đợi chờ Chúa đến trong cuộc đời. Thực ra, Thiên Chúa vẫn hiện diện và tỏa ánh vinh quang của Ngài trong cuộc sống, nhưng để gặp gỡ Ngài, mỗi người phải nỗ lực tìm kiếm và mở rộng tâm hồn để đón tiếp Ngài. Những ai thành tâm tìm kiếm và gặp gỡ Chúa sẽ được Ngài hướng dẫn và phù trợ. Có Chúa trong đời, chúng ta sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc.
Chúa vẫn hiện diện, như dòng suối vẫn miên man chảy tứ thời bát tiết. Người thành tâm kiếm tìm Chúa sẽ giống như người đến múc nước nơi dòng suối và mang về nhà mình. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời chúng ta thật lạ kỳ. Bởi lẽ Chúa vừa hữu hình vừa vô hình, vừa hiện diện, vừa vắng mặt. Người tìm được Chúa rồi, lại khao khát tiếp tục tìm Chúa để hiểu biết Chúa hơn, vì gặp gỡ Chúa đem lại sự dịu ngọt và niềm vui hạnh phúc cho tâm hồn. Hiểu như thế, suốt cuộc đời tín hữu chúng ta là một vòng xoay của sự chờ đợi, tìm kiếm, gặp gỡ, rồi lại tìm kiếp tiếp cho đến khi thực sự gặp Chúa trực tiếp, mặt giáp mặt chứ không còn như trong gương. Đó là tình trạng hạnh phúc thiên đàng những ai yêu mến Chúa sẽ được hưởng.
Ngôn sứ Isaia diễn tả niềm mong đợi Chúa của dân Israen (Bài đọc I). Đối với những người Do Thái lưu đày, họ cảm nghiệm được nỗi đau của kiếp nô lệ. Không còn Đền thờ, không còn lễ nghi phục vụ, họ thấy cuộc sống của họ thật vô nghĩa. Họ cần Chúa như con người cần hơi thở, như cỏ cây cần ánh mặt trời. Vắng Chúa, cuộc đời họ sẽ suy tàn, sự nhơ uế sẽ lan tràn khắp chốn. Lời cầu nguyện của vị ngôn sứ cũng là lời than van của dân chúng. Họ cầu xin Chúa đến để nâng đỡ và giải thoát họ, đem cho họ ánh sáng và niềm tin.
Niềm khao khát của Israen cũng là niềm khao khát của thời đại chúng ta. Con người thời nay cậy dựa vào những triết thuyết vô thần và những thành tựu của khoa học để chối bỏ Thiên Chúa. Thay vì tôn thờ Đấng Tạo Hóa, người ta tôn thờ khoa học kỹ thuật vì cho rằng khoa học kỹ thuật có thể trả lời được mọi vấn nạn của cuộc sống. Đức Giáo Hoàng Bênêđitô XVI đã viết:“Chủ nghĩa nhân bản loại trừ Thiên Chúa là một chủ nghĩa phi nhân. Chỉ có thứ nhân bản mở ra cho Tuyệt Đối mới có thể giúp ta cổ võ và đạt được được những hình thức sống xã hội và dân sự - trên bình diện cơ cấu, tổ chức, văn hoá, đạo đức -, bằng cách nó giữ ta khỏi rơi vào tình trạng nô lệ cho những cái mốt, những cái thời thượng”(Thông điệp Bác ái trong Chân lý, số 78). Đây cũng là cám dỗ lớn nhất mà loài người từ thời nguyên thủy đã gặp phải, đó là muốn nên như Thiên Chúa và tin rằng có thể thay thế Ngài (x. St chương 3). Nhân loại của chúng ta hơn bao giờ hết đang cần đến Thiên Chúa. Xã hội Việt Nam của chúng ta hôm nay cho thấy kinh nghiệm rõ về điều này: một khi khước từ Thiên Chúa, hậu quả là cuộc sống đầy bạo lực, giết chóc, tệ nạn xã hội, lừa đảo dối trá, luân thường đạo lý suy đồi.
Lời Chúa hôm nay nói đến nỗ lực cố gắng của chúng ta trong khi chờ đợi Chúa. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh một người chủ đi xa trao nhà cho đầy tớ coi sóc. Mỗi người một việc, người thì coi ban ngày, người thì gác ban đêm. Ông chủ sẽ về bất cứ lúc nào. Những người coi nhà buộc phải tỉnh thức và thận trọng để lúc chủ về, không những thấy họ còn thức mà còn thấy tài sản còn nguyên vẹn.
Mùa Vọng giống như “nốt nhấn” của bản nhạc cuộc đời. Đây là thời điểm Giáo Hội mời gọi chúng ta xác định vị trí của Chúa trong đời chúng ta cũng như tình trạng tâm hồn của mình. Chúa đang đến trong cuộc đời chúng ta. Lễ Giáng Sinh là một kỷ niệm đẹp của mối tình Thiên Chúa – Con người. Sau bao thế hệ xa cách, nay Thiên Chúa đã chủ động đến với con người. Ngài hạ cố đến gặp gỡ con người và tâm tình nghĩa thiết với họ. Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, chính là bằng chứng hữu hình của sự nghĩa thiết ấy.
Chờ đợi trong tỉnh thức, đó là tâm tình của mỗi tín hữu chúng ta trong suốt cuộc đời. Lạy Chúa, xin hãy xé trời mà ngự xuống. Xin hãy đến để nâng đỡ và soi sáng chúng con. Amen.
9. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Vào Chúa Nhật I Mùa Vọng năm B nầy, Phụng Vụ Lời Chúa hướng lòng chúng ta trông đợi ngày Chúa đến.
Is 63: 16b-17, 19b; 64: 2b-7
Bài Đọc I là lời khẩn nguyện. Sau cuộc lưu đày ở Ba-by-lon, dân Do thái hân hoan trở về quê cha đất tổ. Nhưng họ sớm ngã lòng trước thức tế muôn vàn khó khăn, vì thế ngôn sứ I-sai-a đệ tam, nhân danh dân Ít-ra-en, khẩn khoản nài xin Thiên Chúa xé trời mà ngự xuống, can thiệp vào lịch sử của dân Ngài. Trong suốt Mùa Vọng Giáo Hội hiểu rằng Thiên Chúa, trong Đức Giê-su Ki tô, đã thực sự ngự đến, xé tan mây trời để ban mưa hồng ân xuống trên cõi thế. Giáo Hội tin tưởng vững vàng Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử nhân loại rồi.
1Cr 1: 3-9
Trong Bài Đọc II, thánh Phao-lô vui mừng tạ ơn Thiên Chúa vì qua Đức Giê-su Ki-tô Thiên Chúa đã ban cho các tín hữu Cô-rin-tô muôn vàn ơn phúc trong lúc chờ đợi Chúa lại đến.
Mc 13: 33-37
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su loan báo Ngài sẽ trở lại vào lúc bất ngờ không ai biết trước được và mời gọi hãy luôn luôn sống trong tư thế sẵn sàng đón tiếp Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 63: 16b-17, 19b; 64: 2b-7)
Bản văn nầy bao gồm hai đoạn trích dẫn từ lời khẩn nguyện mà vị ngôn sứ nhân danh toàn thể cộng đồng ngỏ lời với Thiên Chúa. Tách ra khỏi bối cảnh thực tế của nó, lời khẩn nguyện nầy nói lên nỗi xao xuyến muôn thuở của nhân loại trong cảnh khốn cùng trước sự im lặng của Thiên Chúa như thử Ngài chẳng hề quan tâm đến cuộc sống con người: “Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh nhan!”.
Cộng đồng đang phải chịu thử thách này là cộng đồng Giê-ru-sa-lem hồi hương trở về quê cha đất tổ sau thời kỳ lưu đày dài lâu ở Ba-by-lon. Vua Ba tư là Ky-rô, sau khi chiếm kinh thành Ba-by-lon vào năm 539 trước Công Nguyên, năm sau đó đã cho phép những người lưu đày hồi hương. Sau khi trở về, những người nầy phải đối mặt với biết bao khó khăn trong cuộc sống, nhất là đau lòng trước cảnh nước mất nhà tan, cảnh Đền Thờ hoang tàn đổ nát trơ gan cùng tế nguyệt gần một nữa thế kỷ qua. Họ toan tính bắt tay vào việc tái thiết Đền Thờ, nhưng lực bất tòng tâm. Thêm nữa, gặp phải sự chống đối của những người địa phương và nhất là sự ngăn cản có hệ thống của dân Sa-ma-ri buộc họ phải bỏ dỡ dự án. Ấy vậy, Đền Thờ chính là dấu chỉ việc Đức Chúa hiện diện ở giữa dân Ngài. Phải chăng Thiên Chúa đã thực sự bỏ rơi dân Ngài? Lòng nhiệt thành của những ngày đầu tiên nhường chỗ cho nỗi thất vọng ê chề đắng cay.
Ở giữa họ, một vị ngôn sứ vô danh, được gọi I-sai-a đệ tam, củng cố niềm tin của họ và hướng dẫn lời cầu nguyện của họ. Chính lúc đó, bằng ngòi bút của mình, ông đã viết nên lời khẩn nguyện nầy như phương thế cuối cùng:“Lạy Chúa, Ngài là Cha chúng con!”.
1. “Lạy Chúa, Ngài là Cha chúng con”.
Lời khẩn nguyện ngỏ lời với “Thiên Chúa là Cha chúng con” ở đây là độc nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Chúng ta không gặp thấy như vậy trong các Thánh vịnh, Thánh Thi hay trong những lời cầu nguyện của Cựu Ước. Việc kêu cầu “Thiên Chúa là Cha chúng con” được lập đi lập lại đến ba lần trong lời khẩn nguyện nầy (hai lần trong đoạn trích hôm nay).
Thật ra, tình phụ tử của Thiên Chúa là một khái niệm thông thường và thường được nhắc đi nhắc lại: Thiên Chúa là Cha vì Ngài là Đấng Tạo Hóa; Thiên Chúa là Cha vì Ngài đã chọn dân Ít-ra-en làm “con của mình” (Đnl 32: 6). Nhưng danh xưng nầy chưa bao giờ được gặp thấy trong các lời cầu nguyện. Thật đáng lưu ý khi sự kiện nầy đột nhiên xảy đến sau cuộc lưu đày được xem như một thử thách thanh tẩy lớn lao. Vì thiếu nơi phụng tự và hy lễ, những người lưu đày đã nội tâm hóa tâm tình tôn giáo của mình. Mối quan hệ của họ với Thiên Chúa không còn hời hợt bên ngoài ở nơi các nghi thức phụng tự nhưng đã đạt đến chỗ tâm giao mật thiết hơn: “Thiên Chúa là Cha chúng con”.
2. “Đấng cứu chuộc chúng con”.
Danh xưng “Đấng cứu chuộc” được dịch từ nguyên ngữ Do thái: go’el, từ ngữ nầy có một ý nghĩa chính xác, nhưng khó lĩnh hội, vì không có từ ngữ tương đương trong các định chế của chúng ta. Từ Go’el chỉ một người bà con thân thuộc có phận sự bênh vực thân nhân của mình bị xúc phạm hay bị áp bức, chuộc lại người thân bị sa vào cảnh đời nô lệ (nhất là trong trường hợp nô lệ vì nợ nần), đồng thời đảm nhận trọng trách báo thù (đây là vai trò hàng đầu vào thời du mục). Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (vị ngôn sứ của thời lưu đày) đã thường nhắc nhở rằng Đức Chúa là go’el của dân Ngài, Ngài sẽ chuộc lại dân khỏi cảnh đời nô lệ Ba-by-lon. Sau khi trở về, danh xưng nầy được lập đi lập lại thông thường trên môi miệng của những người hồi hương.
3. “Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống…”
“Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước Thánh Nhan!”. Lời nguyện xin này ám chỉ rất rõ nét đến việc Thiên Chúa tỏ mình ra trên núi Xi-nai trong cảnh tượng hùng vĩ: núi non rung chuyển dữ dội và khói tỏa mây mù bao phủ đỉnh núi. Dân Ít-ra-en đã thường hoài niệm những giây phút đặc ân nầy. Phải chi Thiên Chúa lại ngự xuống để tái thiết Đền Thờ và Thành Thánh!
4. “Ngài đã ngự xuống…”
Bất ngờ, các động từ của đoạn văn đều được chuyển sang thì quá khứ: “Ngài đã ngự xuống, núi non đã rung chuyển trước Thánh Nhan. Từ cổ chí kim, thiên hạ chưa hề được ai nói cho biết, tai chưa hề được nghe, mắt chưa hề được thấy có vị thần nào, ngoài Chúa ra, đã hành động như vậy cho kẻ trông cậy ở nơi mình. Ngài đã đón gặp kẻ hoan hỹ ăn ngay ở lành và nhớ đến Ngài, khi theo các đường lối Ngài chỉ dạy”. Ở đây, bản văn được dịch theo bản dịch La-tin của thánh Giê-rô-ni-mô, được gọi “Bản Phổ Thông” (Vulgata). Theo thánh nhân, nguyên bản Do thái ở thể cầu chúc hay nguyện ước phải được hiểu như chuyện đã xảy ra, bởi vì ước nguyện của vị ngôn sứ đã xảy ra rồi. Trời đã bị xé ra. Thiên Chúa đã đáp ứng nỗi mong chờ của con người vượt quá mọi niềm hy vọng. Ngài đã trở thành một người ở giữa họ. Đối với chúng ta, như đối thánh Giê-rô-ni-mô, lời nguyện ước của vị ngôn sứ đã được ứng nghiệm ở nơi biến cố Nhập Thể của Đức Giê-su Ki-tô.
Sau khi đã sửa đổi bản văn cho thích hợp với hoàn cảnh niềm tin hiện nay của mình, bản dịch lại được tiếp tục theo nguyên bản. Lời khẩn nguyện lại tiếp tục bình thường: lời ca ngợi Thiên Chúa xen lẫn với lời trách cứ vì Thiên Chúa “bỏ rơi” dân Ngài, nhưng cũng khiêm tốn thú nhận lỗi lầm và bày tỏ niềm tin tưởng. Một lần nữa Thiên Chúa được ngỏ lời là “Cha chúng con”.
Bài Đọc I chấm dứt với hình ảnh Thiên Chúa là người thợ gốm, ám chỉ đến chuyện tích sáng tạo cổ kính ở chương 2 sách Sáng Thế. Hình ảnh Thiên Chúa như người thợ gốm nhào đất sét nắn nên con người trên chiếc bàn xoay thuộc về gia sản thần thoại của những nền văn hóa thời xưa. Hình ảnh nầy diễn tả việc Thiên Chúa gắn bó với công trình của Ngài. Có một sự đối nghịch giữa “quyền lực của Ác thần” nhằm tiêu diệt con người và quyền lực của Đấng Tạo Hóa, Đấng làm cho con người, vốn đất sét mõng dòn yếu đuối, trở thành kiên trung bền vững khi Ngài tha thứ tội lỗi cho họ.
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 3-6)
Bài Đọc II được trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô. Đoạn thư này được trích đọc vào Chúa Nhật I Mùa Vọng vì đề cập đến nỗi mong chờ của các Ki tô hữu vào “ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”.
1. “Ngày Đức Ki-tô, Chúa chúng ta”:
Chúng ta lưu ý rằng thánh Phao-lô biến đổi diễn ngữ quen thuộc của các ngôn sứ: “Ngày Đức Chúa” thành “Ngày Đức Giê-su Ki-tô”. Dưới ngòi bút của thánh nhân, Đức Chúa chính là Đức Giê-su Ki-tô, và ngày Đức Chúa chính là ngày Đức Giê-su Ki-tô trở lại trong vinh quang. Trong vài dòng cuối cùng của đoạn trích ngắn nầy, thánh nhân lập lại đến ba lần: “Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”. Những Ki-tô hữu tiên khởi, như sách Công Vụ Tông Đồ làm chứng, đã ban tước hiệu Đức Chúa nầy cho Đức Giê-su Ki-tô, như chính Ngài đã công bố rằng “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28: 18).
2. Ngày chứa chan hy vọng:
Theo cùng viễn cảnh của các ngôn sứ, “Ngày Đức Chúa” rõ ràng là ngày Chung Thẩm, thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Cô-rin-tô “nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong Ngày của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô”. Tuy nhiên, việc người Ki-tô hữu mong đợi Chúa đến khác với dân Cựu Ước, bởi vì ngay từ bây giờ, họ được hiệp thông với Đức Ki-tô rồi; họ sống trong Ngài rồi. Sự mong đợi của họ chứa chan niềm hy vọng, bởi vì trong niềm mong chờ của họ Ngài hiện diện ở giữa họ rồi.
TIN MỪNG (Mc 13: 33-37)
Đoạn Tin Mừng nầy được định vị ở cuối bài diễn từ dài về Cánh Chung mà Đức Giê-su ngỏ lời với các môn đệ Ngài vài ngày trước cuộc Tử Nạn của Ngài (13: 1-37). Các môn đệ theo Ngài lên núi Ô-liu và ở đó, họ chiêm ngưỡng Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và thán phục vẻ huy hoàng của Đền Thánh. Đức Giê-su loan báo cho họ biết Đền Thờ sẽ bị phá hủy thành bình địa, và từ gợi ý nầy đến gợi ý khác, Ngài nói với các ông những tai ương hoạn nạn sẽ đánh dấu thời tận thế, trước khi Ngài ngự đến.
1. Bố cục.
Trong đoạn trích Tin Mừng hôm nay, “Đức Giê-su nói với các môn đệ của Ngài về ngày quang lâm của Người”. Vì thế, Ngài bắt đầu khi khuyên các môn đệ Ngài: “Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến”, và kết thúc khi lập lại lời khuyên nầy nhưng mở rộng ra với hết thảy mọi người: “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người: hãy canh thức!”. Ở giữa là một dụ ngôn minh họa cho lời khuyên chủ đạo nầy.
2. Dụ ngôn:
Để lời khuyên của mình dễ hiểu, cụ thể và gây ấn tượng trên người nghe, Chúa Giê-su tự ví mình với một ông chủ trẩy đi phương xa và sẽ trở về vào một thời điểm nào đó trong đêm mà không báo trước; còn các môn đệ của Ngài thì được sánh ví với người canh cửa, phải luôn luôn trong tư thế sẵn sàng mở mắt lắng tai để nhận ra tiếng bước chân của chủ trở về nhè nhẹ vang lên giữa đêm khuya thanh vắng. Trong cuộc sống thường ngày, ai trong chúng ta đều có kinh nghiệm: đợi một ai đó mà không báo trước vào ban ngày thì đã khó lại càng khó hơn vào ban đêm. Rõ ràng chính trong đêm mà Đức Giê-su căn dặn chúng ta phải canh thức chờ đón Ngài đến. Chắc chắn thời điểm “đêm” được nhấn rất mạnh ở đây: đêm là thời gian của bóng tối, nghĩa là môi trường của sự Ác. Người Ki tô hữu phải cảnh giác đừng để mình sa vào những việc làm ám muội gian ác.
Chủ nhà sẽ trở về vào lúc chập tối hay nữa đêm hoặc lúc gà gáy hay tảng sáng. Chúng ta nhận ra ở đây đêm được chia thành bốn canh theo tập quán của người Rô-ma chứ không là ba canh như tại người Do thái (Lc 12: 38), còn người Việt Nam chúng ta lại phân chia “đêm năm canh, ngày sáu khắc”. Chi tiết nầy là chữ ký của thánh Mác-cô, thánh ký hiện ở Rô-ma bên cạnh thánh Phê-rô mà ông là thư ký. Thánh ký viết Tin Mừng cho cộng đoàn Ki-tô hữu Rô-ma, và rộng lớn hơn, cho thế giới chịu ảnh hưởng văn hóa Rô-ma.
3. Biểu tượng của “Đêm”.
Thánh Má-cô kết thúc đoạn Tin Mừng nầy với lời căn dặn của Đức Giê-su:“Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!”. Bối cảnh của toàn bộ bài diễn từ về Cánh Chung nầy là câu chuyện riêng tư của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài (13: 3-4), nhưng ở đây lời kêu gọi khẩn cấp phải tỉnh thức được gởi đến cho “hết thảy mọi người”, bởi vì sứ điệp nầy liên quan đến nhiều thế hệ theo sau nữa. Phải canh thức, phải luôn luôn trong tư thế sẵn sàng đợi chủ trở về. Rõ ràng chính trong đêm mà người ta phải canh thức.
Các nhà chú giải nghĩ đến khoa thần bí Do thái về “Bốn Đêm” nhấn mạnh Lịch Sử thế giới. Bốn đêm được đánh dấu bởi bốn lần Thiên Chúa can thiệp dứt khoát: Đêm của công trình Sáng Tạo; đêm Thiên Chúa ký kết giao ước với ông Áp-ra-ham và hứa với ông việc sinh hạ I-xa-ác; đêm của cuộc Xuất Hành, dân Do thái vội vã rời đất Ai-cập và được cứu thoát; đêm của ơn cứu độ trong tương lai, vương quyền của Thiên Chúa ngự đến một cách mầu nhiệm. Thêm nữa, đêm Đức Giê-su cầu nguyện cũng trên chính núi Ô-liu nầy trước giờ khổ nạn của Ngài. Chính trong đêm ấy, sau khi cầu nguyện một mình, Ngài trở lại và gặp thấy các ông đang ngủ, Ngài nói với các ông: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (14: 38).
4. Ý hướng của Giáo Hội:
Theo văn mạch của Tin Mừng Mác-cô, lời khuyên này là phần kết của bài diễn từ dài về ngày cánh chung, như vậy việc Chúa trở lại được chỉ ra ở đây là ngày Quang Lâm, ngày Chúa trở lại để phán xét thế gian, nhưng cũng được hiểu là ngày mỗi người từ giả cuộc đời này: quả thật, ai rồi cũng phải chết, nhưng không ai biết được mình sẽ chết vào lúc nào, vậy thái độ khôn ngoan nhất trong cuộc sống là phải luôn luôn trong tư thế sẵn sàng chờ đón Chúa đến.
Khi chọn đoạn Tin Mừng này vào đầu Mùa Vọng, mùa mọi tín hữu sống lại tâm tình mong đợi Con Thiên Chúa giáng trần, Giáo Hội có ý hướng khác, đây là mời gọi mỗi người hãy sống trong tư thế tỉnh thức để nhận ra sự hiện diện của Đấng đã đến và đang ở giữa chúng ta. Trong cuộc Giáng Trần, Ngài cũng đã âm thầm đến vào một đêm thanh vắng trong hình hài bé nhỏ của một hài nhi vừa mới chào đời nơi hang lừa máng cỏ Bê-lem trong vòng tay yêu thương của cha mẹ trần thế nghèo nàn của Ngài. Ngày nay cũng thế, Ngài cũng âm thầm hiện diện ở nơi những anh chị em chung quanh chúng ta, nhất là những người nghèo hèn khốn khổ, những kẻ bị bỏ rơi: “Khi Ta đói, ngươi đã cho ăn, khi Ta khát, ngươi đã cho uống, khi Ta khách lạ, ngươi đã tiếp rước, khi Ta trần truồng, ngươi đã cho mặc, khi Ta đau yếu, ngươi đã thăm viếng, Ta ngồi tù, ngươi đã đến hỏi han”.
Vì thế, trong lúc trong đợi Chúa lại đến vào thời cánh chung, gần hơn vào giờ phút từ giả cuộc đời này, và gần hơn nữa trong tâm tình chờ đón cuộc Giáng Trần của Con Thiên Chúa, mỗi người Ki-tô phải luôn trong tư thế sẵn sàng mở mắt lắng tai để nhận ra tiếng bước chân của Ngài, Đấng đã đến và thường hằng đang đến với chúng ta ở nơi hình hài khốn khổ của những anh chị em chung quanh mình. Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II đã nói “the future begins today not tomorrow” (tương lai bắt đầu hôm nay chứ không ngày mai). Quả thật, tương lai của chúng ta, hoặc được vui hưởng sự sống đời hay phải bị án phạt trầm luân, tùy thuộc vào cách thức chúng ta tiếp đón Ngài ở nơi chị em chung quanh chúng ta, nhất là những người khốn khổ, những kẻ bị bỏ rơi ngay từ hôm nay chứ không là ngày mai.
Vào Chúa Nhật XXXIII Thường Niên năm A vừa qua (ngày 19 tháng 11 năm 2017) khi bế mạc Năm Thánh về Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã thành lập “Ngày Thế Giới Người Nghèo” và ấn định cử hành hằng năm vào Chúa Nhật XXXIII Thường Niên. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói: “Nơi người nghèo, Chúa Giêsu gõ cửa tâm hồn chúng ta, Người khao khát tình yêu của chúng ta... Khi chúng ta vượt lên thói vô cảm, và nhân danh Chúa Giêsu mà cho đi chính bản thân mình cho những người bé mọn nhất trong những anh chị em của Người, thì chúng ta là những người bạn tốt và trung thành của Chúa, là những người mà Chúa yêu thích ở lại với họ”.
Đức Thánh Cha nhắc cho các tín hữu nhớ rằng chính nơi người nghèo mà chúng ta thấy Chúa Giêsu hiện diện, Người là Đấng tuy giàu sang, nhưng lại trở nên nghèo khó (x. 2 Cr 8: 9), và vì thế ở nơi mỗi người nghèo và mọi người nghèo đều có một “sức mạnh cứu rỗi”. “Nếu trong mắt thế gian, giá trị của họ không đáng kể, thì họ lại là những người mở lối cho chúng ta vào Nước Trời”.
Đức Thánh Cha nói tiếp: “Đối với chúng ta, Tin Mừng đòi buộc chúng ta chăm sóc họ như tài sản thực sự của mình, và chúng ta làm điều này không chỉ bằng cách cho họ cơm bánh, mà còn phải cùng họ bẻ bánh Lời Chúa, Lời được nói với họ trước hết”.
10. Tỉnh Thức để gặp Chúa – An Phong
Thiên Chúa trông đợi ta
Bài Tin mừng hôm nay rút từ phần cuối của diễn từ chung cuộc. Như người giữ cửa phải tỉnh thức vì không biết giờ nào trong đêm ông chủ sẽ trở về, người kitô hữu cũng phải tỉnh thức vì không biết khi nào Đức Giêsu đến.
Chúa nhật đầu của năm phụng vụ mới - mùa xuân mới - đến với lời cảnh cáo: "Hãy tỉnh thức". Đó là lời nhắn nhủ cần thiết để làm tươi mới, "xuân hóa" đức tin.
Thông thường, khi ngủ mê, người ta mất liên lạc với thế giới chung quanh, các giác quan ra như đóng lại: tai không còn nghe thấy âm thanh, mắt không còn nhận ra màu sắc; không ngửi, khưng sờ, không nếm... Trong đời sống tâm linh cũng thế, khi linh hồn mê ngủ, người tín hữu sẽ không nhận ra tiếng nói của Chúa, sẽ đóng cửa lòng mình trước những đau khổ bất hạnh của cuộc đời; họ không nhận ra đâu là hạnh phúc đích thực và đâu là điều giả tạo cho chính mình. Đôi khi, phán đoán trở nên "thui chột, điếc lác"; và không còn có thể cảm nếm sự ngọt ngào của tình yêu, sự bình an của Thiên Chúa ban.
Làm thế nào để tỉnh thức đây?
Như một tách cà phê, một câu chuyện hấp dẫn, một cuộc đi dạo, một cuốn sách hay… có thể xua tan cơn buồn ngủ thể xác, thì việc cầu nguyện, đọc và suy niệm Lời Chúa, chia sẻ đức tin với các kitô hữu khác, giúp đỡ người bất hạnh… cũng có khả năng xua tan cơn ngủ mê tâm linh.
Nói khác, một đời sống tâm linh năng động hơn, có những mối tương giao tốt hơn… là thứ thuốc chống lại "cơn buồn ngủ tâm linh".
Như thế, có thể nói, tỉnh thức là khả năng cảm nhận Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày; nhận ra những tín hiệu thân ái nơi anh chị em; và nghe thấy lời kêu gọi phải nỗ lực xây dựng một cuộc sống tốt hơn.
Chúng ta có thực sự đang tỉnh thức không?
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa là chủ của đời con;
Ngày hôm nay Chúa đã đến trong tâm hồn
con qua bí tích Thánh Thể này;
tí nữa đây, Chúa vẫn đến với con
trong các anh chị em của con;
và ngày mai, ngày mốt,
có thể Chúa lại đến với con
trong những người đau khổ bên hàng xóm;
Xin cho con luôn tỉnh thức
để đón Chúa đến mỗi ngày.
Xin cho con biết mở tâm hồn,
để nhận ra Lời Cứu Độ Chúa nói với con.
11. Hãy tỉnh thức - Lm. Phêrô Nguyễn Hương
Với Chúa nhật này chúng ta bắt đầu Mùa Vọng, khởi đầu năm phụng mới, thời gian của lời mời gọi tâm linh, của niềm vui, hy vọng và sự chờ đợi thiêng liêng.
Dân Chúa sống lại một hoạt động kép của tinh thần: một đàng, hướng cái nhìn về mục đích tối hậu của cuộc lữ hành đời mình trong lịch sử, đó là sự trở lại vinh hiển của Chúa Kitô; đàng khác, tưởng nhớ với những cảm xúc thánh thiêng sự sinh ra của Người tại Bethlem, nơi Con Thiên Chúa đã sinh hạ từ Đức Trinh Nữ Maria (x. Gal 4,4).
Trong viễn cảnh đó, Lời Chúa tới ‘sự tỉnh thức’ nhiều lần: “Anh em hãy tỉnh thức bởi vì anh em không biết giờ nào” (Mc 13,23).
Vậy thì Tỉnh thức có nghĩa là gì? Tỉnh thức để làm gì và Tỉnh thức cho ai?
Theo nghĩa đen, thì tỉnh thức có nghĩa là tĩnh táo, là không có ngủ. Theo nghĩa kinh thánh, thì từ tỉnh thức có một ý nghĩa rất sâu và mang tính biểu tượng (simbolico). Nó diễn tả một thái độ sống nền tảng, một cách sống của người Kitô hữu. Đó là thái độ nhạy bén, dễ bảo và sẵn sàng, như những tôi tớ trung thành luôn chờ đợi chủ trở về bất thình lình (cf. Mc 13,24). Đó là hướng tâm hồn mình về một điều gì, hơn thế nữa, với một Người: với Thiên Chúa và với anh em.
Trái với thái độ sống đó là sự ngu mê, nghĩa là, người tự cuốn mình trong cái tôi ích kỷ của mình, không còn cặp mắt để nhìn đời và đọc ra nhưng dấu chỉ của thời đại, của cuộc sống, không có khả năng đón nhận quà tặng của cuộc sống vốn là món quá qúi báu đến từ Thiên Chúa qua mỗi ngày sống của mình.
Người sống tỉnh thức là người nhạy bén (sensibile) với sự hiện diện của Thiên Chúa, với tiếng của Người và với các giá trị của Tin mừng. Người biết đọc cuộc sống, và nhận ra khôn mặt của Thiên Chúa với câu hỏi từ đáy lòng: Lạy Chúa, Ngài ở đâu? Con tìm Ngài. Đó là người có khă năng để học từ mọi nơi mọi lúc, từ bất cứ ai và hoàn cảnh nào, kể cả từ những khủng hoảng và thất bại của đời mình, để lớn lên, và trưởng thành không ngừng.
Người sống tỉnh thức là người rất “dễ bảo” (docile) và biết vâng lời Chúa Thánh Thần, Đấng ở trong chúng ta còn mật thiết hơn chúng ta và hướng dẫn chúng ta từ đáy con tim của lòng ta. Trong tiếng Latin gọi là “docibilitas”, nghĩa là người biết nghe và vâng phục Thánh Thần, người để cho Chúa Thánh Thần biến đổi mình, làm cho mình được giàu có khi trở nên giống Đức Kitô (bài đọc II), trở thành Con Thiên Chúa, khi mặc lấy những tâm tư và tình cảm của Đức Giêsu Kitô đối với Chúa Cha và đối với Anh Em. Đó là thái độ của Đức Maria, người nữ đầy Thánh Thần. Chúng ta hãy học từ Mẹ, để cho Đức Kitô được “nhập thể” trong lòng và trong cuộc đời chúng ta nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chính vì thế, Mùa Vọng cũng được gọi là thời gian của Chúa Thánh Thần.
Cuối cùng, người sống tỉnh thức là người sẵn sàng (disponibile) với thánh ý Thiên Chúa và quảng đại giúp đỡ anh em mình trong mọi lúc và mọi hoàn cảnh mà không có đòi hỏi điều kiện. Người luôn biết sẵn sàng phục vụ người khác như người lính gác canh đêm (Mc 13,34), như những trinh nữ với đèn sáng trong tay, náo nức và hân hoan chờ chàng Rễ tới (Lc
Nhưng tắt một lời, ai yêu thì cũng biết sống tỉnh thức, ngay cả lúc còn đang ngủ! Điều này được diễn tả rất hình ảnh trong sách Diệu Ca: “Trên giường ngủ, suốt đêm trường, tôi đã tìm chàng, hỡi người yêu dấu của lòng tôi, tôi đã tìm chàng, nhưng tôi không gặp chàng” (Ct 3,1-2); hay như Thánh Thi nói: “Dầu mắt ngủ nhưng lòng vẫn thức, vẫn tin yêu một mực chân tình”.
Như thế, Mùa vọng mà chúng ta bắt đầu hôm nay không chỉ là một thời gian của sự trở về cách thụ động, nhưng trở thành một thời gian quí báu mà trong đó, chúng ta khám phá lại vẽ đẹp làm người kitô hữu và tính xác thực của đức tin mình. Chúng ta hãy mỡ ra với sự mới mẽ và vẽ đẹp của Thiên Chúa trong Đức Kitô, Đấng vừa mạc khải Thiên Chúa nhưng cũng vừa con người là ai (LG 22) và chúng ta đến với Người, bởi vì lý do đó mà Ngài đã nhập thể vì chúng ta. Amen.
12. Chờ và đợi – Anmai, CSsR
Tâm trạng mong đợi, chờ mong, trông chờ nó diễn tả nỗi lòng của con người hồi hộp, nao nức mong điều gì đó quý báu, điều gì đó mang đến cho con người niềm vui, bình an, hạnh phúc. Chắc có lẽ ai ai trong chúng ta cũng mang trong mình ít nhiều sự mong đợi, lòng ngóng chờ niềm vui, niềm hạnh phúc đến với mình. Nhìn những đứa con, đứa cháu trông đợi cha mẹ chúng đi làm về hay nhất là đợi mẹ cháu đi chợ về chúng ta thấy hay làm sao đó!
Chúng biết rằng mẹ của chúng thương chúng nên hễ đi chợ về là không ít thì nhiều chúng cũng sẽ được bọc xôi, gói chè! Vì thế, hễ mẹ chúng đi chợ là y như rằng chúng cứ chờ, cứ đợi. Nhiều khi chúng ra tận ngoài ngõ để chờ niềm vui từ những gói chè tự tay mẹ chúng mang về cho chúng.
Tương tự thế, nhìn những đứa trẻ đi học mẫu giáo, dù là vui với các cô, các bạn. Ở với các cô, chơi chung với các bạn đồng lứa vui lắm chứ! Nào là được ăn chung, chơi chung, đùa chung nhưng hình như chúng vẫn chưa thoả mãn với tất cả những gì mà cô mà bạn mang lại. Vì sao? Vì tất cả những thứ ấy vẫn không mang lại cho chúng niềm vui, niềm bình an đích thực. Chúng biết rằng thời gian ở với cô, với bạn hay là chơi với cô với bạn chẳng hạnh phúc bằng được ở với cha với mẹ nên rằng cha mẹ chúng là nhất trên đời.
Ở nhà có các cháu nhỏ chúng ta sẽ thấy hình ảnh của chúng buồn cười lắm. Sáng thức dậy là ráng nằm nướng trên giường chưa muốn dậy. Phần lười biếng, phần buồn ngủ nhưng phần lớn chính là không muốn xa ba xa mẹ là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chúng. Chúng phải làm mình làm mẩy để được ở nhà với cha và với mẹ.
Rồi thử một buổi chiều nào đó, chúng ta đến các trường mầm non chúng ta nhìn hình ảnh những đứa trẻ đang đứng ngóng đợi cha mẹ chúng dễ thương làm sao đó. Dẫu chưa biết lúc nào ba mẹ đến nhưng mà cứ đến khi cô bảo mẫu bảo các con hãy thay đồ, rửa mặt là chúng không ai bảo ai đi thay đồ và làm vệ sinh thật là nhanh. Chẳng hiểu sao thật là thiêng liêng, thật là bí nhiệm khi nghe cô bảo mẫu nói như thế chúng làm nhanh thoăn thoắt. Thay đồ xong là chạy vụt ra sân để mà đợi mà chờ. Trong giờ học, các cô có thể bảo các cháu làm gì theo ý cô, theo bài học cô dạy nhưng đến giờ đó cô không thể nào điều khiển cháu được vì lẽ giờ đấy chỉ có một điều cần thôi là chờ ba mong mẹ.
Ngược lại với hình ảnh buổi sáng. Giờ làm sao cho nhanh để được nhìn thấy ba mẹ, để được ba mẹ đón về nên chúng không còn thiết tha với búp bê, với đồ hàng, với đồ chơi, với xe, với cộ nữa nhưng chỉ còn thiết tha sao cho mau gặp ba với mẹ mà thôi.
Nhìn lại lịch sử dân Israel ngày xưa chúng ta thấy rõ tâm trạng chờ đợi như những đứa trẻ vậy.
Do sự phản bội bất trung, họ đã bị bắt đưa đi làm nô lệ bên Babilon. Cuộc sống lưu đày không chỉ ràng buộc họ với những cảnh cùng cực, đói rét, gò bó, mà còn có cả những khe khắt trong cuộc sống tinh thần tôn giáo. Cuộc sống ấy sói mòn tinh thần và thể xác, khiến cho niềm tin vào Thiên Chúa không còn đứng vững, có khác nào như những cánh tay rời rã, bàn chân mỏi mòn.
Chờ Chúa đến nhưng thấy lâu quá để rồi họ đi tìm cho họ đủ thứ các loại thần để mà thờ để mà kính. Lịch sử viết lại cho chúng ta những dòng sử của dân Israel như là bài học lớn cho mỗi người chúng ta. Vì đi theo thần này, thần kia để rồi dân Israel cứ lầm lũi đi trong đêm tối.
Chính trong bối cảnh bi thảm đen tối, Giavê Thiên Chúa đã gửi tiên tri Giêrêmia đến loan báo về ngày giờ Thiên Chúa sẽ ra tay tế độ. Ngài còn mặc khải rõ hơn khi cho biết tin mừng ấy sẽ được khởi sự ngay qua một dòng tộc: Đó là dòng dõi vua Đavit: " Trong những ngày đó và trong thời gian đó, Ta sẽ làm nảy sinh cho Đavit một chồi Công Chính". Thế là một triều đại mới, một vận hội mới sẽ đem lại đổi thay cho kiếp đoạ đày đen tối của dân Israel. Từ đây, trật tự được tái lập, hạnh phúc sẽ nở ra và mọi người mọi nhà sống trong cảnh hoà bình thịnh vượng vì Đức Vua hiển trị sẽ xét xử chư dân trong sự khôn ngoan và công chính".
Lời hứa trên đã làm nao nức bao tâm hồn. Thiên Chúa, Đấng luôn trung thành với giao ước đã chẳng thể nuốt lời. Ngài đã cho Con Một Nhập thể làm người để thực hiện những gì đã hứa, nhưng không chỉ cho Israel mà còn cho các dân tộc. Ngài đã làm sống lại và khơi lên niềm tin tưởng khi loan báo cho họ biết rằng: Giờ cứu rỗi, ngày giải thoát đã gần đến rồi. Vì thế, Ngài kêu gọi mọi người hãy biết đọc qua những biến đổi của vũ trụ, qua những thay đổi của tâm hồn, dấu chỉ của ngày cứu độ. Những biến cố như động đất, mất màu, tai ương, ôn dịch, hạn hán cùng với những vật đổi sao dời làm cho lòng người khiếp run kinh hãi. Và còn có biết bao cái ta không mong đợi mà xảy đến: tai nạn, bệnh tật, chết chóc, hiểm hoạ... Tất cả đều có giá trị như là một dấu hiệu, một lời nhắc nhở để ta hướng về ngày giờ của Con Thiên Chúa đang đến.
Chúng ta, nhìn lại chúng ta ngày nay chúng ta thấy hình như chúng ta cũng chẳng khác Israel ngày xưa là mấy. Chúa yêu thương, nâng đỡ, bao bọc, chở che cuộc đời chúng ta như Israel ngày xưa vậy. Thế nhưng mà chúng ta vẫn chưa cảm thấy thoả mãn với tất cả những gì Chúa thương ban cho chúng ta để rồi chúng ta cũng loay hoay mãi trong bóng đêm như dân Israel vậy.
Tiếng kêu ai oán mong đợi Đấng Cứu Thế đến cứu muôn dân được ngôn sứ Isaia thốt lên trong bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe đấy: "Lạy Đức Chúa, Ngài mới là Cha, là Đấng cứu chuộc chúng con: đó là danh Ngài muôn thuở. Lạy Đức Chúa, tạ sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài? Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp Ngài, xin Ngài mau trở lại. Phải cho Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước thánh nhan". (Is 63, 16b-17.19b).
Vì lòng con người chai đá nên Isaia đã kêu lên với Đức Chúa. Ngày hôm nay, chúng ta cũng gào lên với Chúa là vì tình thương của Chúa, xin Chúa mau trở lại để cứu chúng ta.
Lòng chờ mong, lòng mong đợi ấy chúng ta cũng được nghe Thánh Phaolô nói đến trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô của Ngài: "Chúng ta mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mạc khải vinh quang của Người".
Và Trong khi chờ đợi, Ngài mời gọi chúng ta hãy sống trong sự tỉnh thức và cầu nguyện như Thánh Maccô thuật lại cho chúng ta trong Tin mừng của Ngài mà chúng ta vừa nghe. Chúa Giêsu, hơn lúc nào hết, Ngài cảnh báo với các môn đệ là phải tỉnh thức luôn luôn. Như những người lính tuần canh, chỉ được gọi là tỉnh thức khi biết luôn đứng với đôi mắt sáng rực nhìn về phía trước. Nói cách khác, như thánh Phaolô khuyên trong thư gửi cho giáo dân thành Thesalonica: Đó là không được để cho lòng trí ra nặng nề và tối tăm, bởi những tiệc chè chén, say sưa, bởi đam mê dục vọng, bởi ảo vọng vật chất. Thay vào đó là phải ra sức thực thi bác ái, yêu thương, mặc lấy một cuộc sống khiêm nhường vì đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa và làm cho người ta nên thánh thiện.
Chúng ta biết rằng cuộc đời của chúng ta nó mong manh, nó mỏng dòn, nó yếu đuối lắm nên cuộc đời muốn được đứng vững để đón nhận ân huệ của Chúa, tình thương và ơn cứu độ của Chúa không còn cách nào khác hơn là phải tỉnh thức, vẫn chờ mong Chúa đến như lính canh mong đợi hừng đông như suối mong đợi nước nguồn vậy.
Nhớ lại những đứa trẻ, những thú vui do các cô, các bạn mang lại vẫn không là niềm vui, niềm hạnh phúc đích thực của chúng được. Chúng ta cũng vậy, những lạc thú trần gian: tiền - tình - danh, những thứ ấy vẫn không thể nào bù đắp, không thể nào lấp đầy nỗi khát khao, niềm hạnh phúc đích thực của chúng ta được.
Mùa Vọng, mùa trông đợi lại về. Mùa Vọng như là thời gian, như là cơ hội thuận tiện để nhắc nhớ mỗi người chúng ta đâu là cùng đích, đâu là niềm vui đích thực của chúng ta. Nếu cùng đích của cuộc đời chúng ta là tiền - là danh - là dục thì chúng ta cứ tiếp tục cắm cúi đi tìm chúng. Còn nếu cùng đích, lẽ sống của cuộc đời chúng ta là Chúa thì còn thời gian, còn cơ hội, chúng ta hãy dùng thời gian, dùng cơ hội thuận tiện để biến đổi cuộc đời, để mà luôn tỉnh thức để đón chờ ánh sáng, đón chờ tình yêu vĩnh cửu đến với chúng ta.
Nguyện xin Emmanuel – Đấng Cứu Độ Duy Nhất đến và ở lại trong cuộc đời mỗi người chúng ta để tâm hồn, để cõi lòng cuộc đời chúng ta luôn bình an giữa biết bao nhiêu biến động, bao nhiêu xáo trộn của cuộc đời.
13. Con hy vọng Chúa đến - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Khi bị vây khốn ở đất Khuông, Khổng Tử nói: “Trời chưa muốn Đạo ta mất, thì người đất Khuông làm gì được ta?” (LN. XIV,36 “Đạo tôi thi hành được là do mệnh Trời …”). Nguyễn Trãi đã tin vào lời cha là Nguyễn phi Khanh khuyên: “Nếu Trời muốn cho nước ta tiêu diệt thì lưới thù sẽ úp xuống đầu xanh. Không bao giờ! Trãi con ơi! tương lai đầy ánh sáng, cha đứng đây trông suốt được ngàn thu …”. Cha bị quân Tầu bắt, Nguyễn Trãi đã không theo cha. Ông nghe lời cha, đã hy sinh trở về lập chí cứu quốc và đã chiến thắng quân Tầu.
Một đàng, Khổng Tử tin Trời vững chắc, ông hy vọng đạo thánh hiền sẽ tỏa sáng trong tương lai. Ông không sợ kẻ thù có thể hại ông. Ông đã quyết tâm truyền bá đạo lý và đã trở thành vạn thế sư biểu.
Một đàng, Nguyễn Trãi hy vọng vào tương lai đầy ánh sáng, ông quyết tâm tìm đường cứu quốc, và ông đã trở thành Đệ nhất khai quốc công thần.
Tin và hy vọng là lẽ sống của con người. Tin là nhận có một sự thật tồn tại. Hy vọng là mong ước đạt được sự thật đó. Tin và hy vọng đều hướng về một đối tượng chân thiện mỹ có thật, đáng khao khát, đáng ngưỡng vọng, vượt xa khỏi hiện tại. Hiện tại thường làm ta thất vọng vì nó đầy đau khổ, bất toàn. Ta cần vượt tới một tương lai tốt đẹp, hạnh phúc cao cả, mong thỏa mãn hy vọng. Nếu không có hy vọng, ta không còn muốn sống nữa, không ham hoạt động, không còn tiến bộ. Hiện tại không có gì vững chắc bền bỉ, luôn thay đổi, nay còn mai mất. Cuộc đời là cảnh phù vân, đến nỗi Cao bá Quát đã kêu lên:
“Khoảng trời đất cổ kim, kim cổ.
Mảnh hình hài không có có không”.
Cái không có luôn ám ảnh ta. Ta cần cái hằng có, hằng sống cho đời ta. Nếu không có cái hằng có, hằng sống, sẽ không còn đạo đức, không còn thiện hảo. Mục đích sống thiện hảo là để vươn tới sự tồn tại vĩnh cửu tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
Chỉ có Thiên Chúa là hằng hữu, hằng sống.
Chỉ có Thiên Chúa là thiện hảo, hạnh phúc.
Chỉ có Ngài mới có thỏa mãn niềm tin và hy vọng của con người.
Mùa vọng giúp ta thực hiện niềm tin và hy vọng đó. Lời Chúa hôm nay trình bày những lý do đáng cho ta tin và đầy hy vọng.
Những lý do đáng tin: Thiên Chúa là Cha chúng con từ muôn thuở. Ngài là thợ gốm, chúng con là đất sét. Chính tay Ngài đã làm nên chúng con hết thảy (Is. 63, 16.19).
Những lý do đầy hy vọng: “Thiên Chúa là Đấng cứu chuộc chúng con, xin Ngài trở lại, xin Ngài xé trời mà ngự xuống” (Is. 63, 19).
“Chúng con đang mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô mặc khải vinh quang của Người, cho chúng con được hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (ICr. 1, 7-8).
Chúng ta tin và hy vọng vững chắc vào Thiên Chúa như thế, không phải hão huyền, ảo tưởng. Hy vọng và tin tưởng của chúng ta được bảo đảm hoàn toàn vì trong quá khứ “chính Ngài đã giải phóng dân Israel ra khỏi nô lệ Ai cập bằng cánh tay toàn năng, chính Ngài đã ngự xuống núi Sinai ban mười điều luật để giáo dục dân sống công chính, chính Ngài là Đấng trung tín đã giữ lời minh ước, ban Đấng Cứu Thế là Con một Ngài giáng sinh làm người, đã chịu chết, đã sống lại và lên trời để cho thấy Thiên Chúa là Cha đã yêu thương vô cùng và thấy sự sống lại vinh quang, bảo đảm cho chúng ta có cuộc sống hạnh phúc muôn đời”. Bài đọc hai, thánh Phaolô còn cho thấy giáo đoàn Côrintô được bao nhiêu ân huệ: ơn được kết hợp với Đức Giêsu Kitô, được nghe lời Chúa, được hiểu biết mầu nhiệm Thiên Chúa để trở nên phong phú đến nỗi không còn thiếu một ân huệ nào. Chỉ còn một ân huệ duy nhất là đón chờ ngày quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đó là những bằng chứng bảo đảm chắc chắn cho niềm tin và hy vọng của chúng ta mà trong lịch sử thế giới không đâu có bằng. Israel đã thách đố “từ cổ chí kim, thiên hạ chưa hề được biết, tai chưa hề được nghe, mắt chưa hề được thấy một vị thần nào như Thiên Chúa đã làm cho kẻ trông cậy Ngài như vậy” (Is. 64, 3).
Hiện tại, trước mắt chúng ta, Thiên Chúa ẩn mình như một ông chủ đi xa vắng nhà. Chúng ta phải chăm lo làm tròn trách nhiệm Ngài trao phó, phải tỉnh thức đón nhận ơn Ngài, sống theo thánh ý Ngài, mãi mãi đi trong đường lối Ngài, đang khi trông chờ, hy vọng Ngài đến trong vinh quang, chúng ta được nhập đoàn những người con thảo theo Ngài về nước Cha hằng sống, hạnh phúc muôn đời.
Lạy Chúa, là Cha chúng con. Khả ái thay cung điện của Ngài, hồn con mong ước đến hao mòn. Thân con reo lên tới Thiên Chúa hằng sống. Lạy Chúa thiên binh, xin lắng nghe lời con khẩn nguyện. Xin cho con được ở trong nhà Ngài, còn hơn ấm cúng trong dinh thự lũ ác nhân. Lạy Chúa, phúc thay kẻ tin cậy ở Ngài (Tv. 84).
14. Mong đợi Chúa đến – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Vào một ngày đẹp trời, ông già ngồi trên ghế xích đu, lòng mong đợi Chúa đến. Tình cờ, một bé gái đang chơi banh để lọt vào sân nhà ông, cô gái chạy lại nhặt trái banh và mở lời làm quen:
- Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên chiếc xích đu này, ông đang chờ ai vậy?
- Cháu còn nhỏ quá làm sao hiểu được điều ông mong đợi.
- Có lẽ cháu nhỏ thật, nhưng mẹ cháu nói: có điều gì trong lòng thì hãy nói ra, có nói ra mới hiểu rõ hơn.
Nghe cô bé nói có lý, ông liền thổ lộ:
- Ông đang chờ đợi Chúa đến.
Cô bé tròn xoe đôi mắt kinh ngạc. Ông già mới giải thích:
- Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa, ông cần một dấu hiệu cháu à!
Bấy giờ cô bé mới lên tiếng:
- Ông chờ một dấu hiệu ư? Thưa ông, Chúa đã cho ông một dấu hiệu: mỗi khi ông hít thở không khí, mỗi khi ông nghe tiếng chim hót, mỗi khi ông nhìn hạt mưa rơi. Chúa đã cho ông một dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ, trong nước mắt người đau khổ. Ông ơi, Chúa ở trong ông, Chúa ở trong cháu, không cần phải tìm kiếm, vì Người luôn ở đó.
***
“Tất cả là hồng ân”. Ơn Chúa có thể đến bất cứ từ nơi dâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Điều quan trọng là chúng ta biết nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nhìn tất cả chỗ nào cũng là ân sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc “Chúa đến viếng thăm.”
Nếu những cuộc viếng thăm là những hồng ân của Chúa, thì chúng ta đừng để mất những hồng ân ấy chỉ vì sự thờ ơ, thiếu chuẩn bị, không sẵn sàng.
Chúng ta có quyền ước mơ, dự tính xây dựng tương lai, nhưng đừng bao giờ quên mục đích cuối cùng là phải “gặp được Chúa”.
Nhưng có một sự thực này, nó rất thực, và đó là sự thực nhất trên đời là nếu chúng ta không thường gặp Chúa trong cuộc sống, thì chúng ta cũng sẽ không thể gặp Người vào giây phút cuối cuộc đời.
Mùa vọng cuối cùng của Thiên niên kỷ chuẩn bị cho mùa xuân của Năm Toàn Xá 2000. Đức Hồng Y Camillo Ruini dạy: “Mục tiêu hàng đầu của Năm Toàn Xá là củng cố Đức tin và chứng tá của các Kitô hữu. Vì thế, cần phải khơi dậy trong tâm hồn hết thảy mọi tín hữu khát vọng thật sự muốn nên thánh, ước muốn mãnh liệt hoán cải và canh tân bản thân trong một bầu khí cầu nguyện ngày càng khẩn thiết hơn và trong tình liên đới qua việc tiếp đón tha nhân, cách riêng những người nghèo khổ nhất”.
***
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết “tìm gặp Chúa” trong mọi ơn lành Chúa ban, trong các bí tích, trong các việc lành và trong người anh em, để chúng con sẽ gặp được Chúa trong ngày Chúa đến viếng thăm. Amen.
15. Hãy tỉnh thức - Lm. Giuse Nguyễn Văn Thông
Không ồn ào, chỉ với một vài thay đổi nhỏ, như lễ phục màu tím, không hát hay đọc kinh Vinh Danh trong Thánh lễ Chúa Nhật… Giáo Hội nhắc cho chúng ta biết rằng Năm Phụng Vụ mới đã bắt đầu bằng Chúa Nhật I Mùa Vọng. Vọng hay đợi là hướng tới điều gì sẽ xảy đến trong tương lai. Quá khứ cũng có thể được nhắc tới để đảm bảo cho tính xác thực của niềm hy vọng. Ý nghĩa chính yếu của Mùa Vọng là hướng tới ngày công trình cứu độ của Chúa Giêsu được hoàn tất. Khi ấy, Người sẽ trở lại trong vinh quang để đưa tất cả về dâng cho Chúa Cha và bấy giờ sẽ là thiên đàng đời đời. Ngày đó chắc chắn sẽ đến, nhưng không ai biết khi nào sẽ xảy ra. Vì thế, Chúa Giêsu dạy chúng ta: Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức (Mc 13,33).
Tỉnh thức, theo đoạn sách ngôn sứ Isaia trích đọc hôm nay, là nhận ra tình trạng tội lỗi của mình. Sau thời lưu đầy tại Babylon, Dân Chúa hồi tưởng lại những năm tháng tủi nhục nơi đất khách quê người. Họ nhận ra duyên cớ đã làm cho họ phải trải qua giai đoạn lịch sử đáng quên ấy: tại chúng con lạc xa đường lối Ngài; lòng chúng con ra chai đá chẳng cònbiết kính sợ Ngài (63,17); không có ai cầu khẩn danh Chúa, cũng chẳng ai tỉnh dậy mà níu lấyNgài (64,6). Israen ý thức rằng chỉ vì tình thương vô bờ bến của Chúa nên họ mới được giải thoát. Bây giờ, khi đã hồi hương, những khó khăn mới lại nảy sinh, họ lại kêu xin Chúa xé trời mà ngự xuống giải cứu, vì bây giờ họ biết sám hối về mọi tội lỗi đã phạm và hy vọng khi mải đi theo các đường lối của Ngài, chúng con sẽ được cứu thoát (64,4).
Theo thánh Phaolô, thì tỉnh thức là hiệp thông với Đức Giêsu Kitô và lãnh nhận kho tàng phong phú các ân huệ về mọi phương diện. Với các ân huệ phong phú ấy, chúng ta phải sống để không ai có thể trách cứ được điều gì cho đến ngày Chúa quang lâm. Như thế, tỉnh thức đòi hỏi một đời sống chủ động và tích cực để làm cho chân lý Tin Mừng thấm nhập và biến đổi các thực tại trần gian cũng như toàn bộ đời sống con người. Nếu chúng ta không còn thiếu một ân huệ nào, thì đó không phải là những nén bạc để chúng ta đem chôn giấu dưới đất, trái lại chúng ta phải làm cho nó sinh lời cho Nước Chúa, đặc biệt là về lời Chúa và các mầu nhiệm của Người.
Chúa Giêsu dạy tỉnh thức vì tính chất bất ngờ của ngày Người trở lại, có thể là chập tối hay đêm khuya, lúc gà gáy hay tảng sáng. Vì ông chủ trao cho mỗi người một việc trước lúc đi xa, nên tỉnh thức còn là chu toàn bổn phận của mình trong lúc hiện tại, nghĩa là sống giây phút hiện tại với hết chiều kích của nó. Chúng ta không chờ thời cơ hay đòi hỏi điều kiện để thực hiện sứ mạng, nhưng phải tận dụng hoàn cảnh hiện tại để dấn thân mạnh mẽ và triệt để cho sứ vụ của mình. Chỉ lơ là một chút sẽ bị coi là ngủ mê, trong khi ông chủ sẽ trở về bất thần. Nếu ngủ mê là chìm đắm trong tội lỗi, thì tỉnh thức là sám hối tội lỗi. Nếu ngủ mê là lười biếng, thì tỉnh thức là chăm chỉ làm việc cho Nước Chúa. Nếu ngủ mê là xa rời Chúa, thì tỉnh thức là hiệp thông với Chúa. Nếu ngủ mê là bỏ bê nhiệm vụ, thì tỉnh thức là chu toàn sứ vụ Chúa trao phó.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn nâng đỡ sự yếu hèn của chúng con. Xin giúp chúng con tỉnh thức bằng việc sống giây phút hiện tại đẹp lòng Chúa, để đón Chúa mỗi ngày và xứng đáng đón Chúa trong ngày Người trở lại. Amen.
16. Hãy tỉnh thức
Năm phụng vụ mới bắt đầu bằng một lời cảnh báo: Hãy tỉnh thức. Chúng ta không còn ở trong thời kỳ chờ đợi Chúa giáng sinh làm người, dù rằng năm phụng vụ mở đầu với mùa vọng, mùa chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Trái lại chúng ta đang ở trong thời kỳ chờ đợi Chúa đến hoàn tất công trình cứu độ nơi mỗi người, cũng như nơi toàn thể nhân loại.
Hãy tỉnh thức, đúng thế, người Kitô hữu phải chăng là người luôn sống cái mặc cảm coi thế gian và cuộc sống chỉ là một chuỗi những cạm bẫy sẵn sàng nhận chìm chúng ta trong hư đốn? Không phải là như vậy. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu và của Giáo Hội ngày hôm nay bao gồm một cái nhìn lạc quan về lịch sử nhân loại. Chúa Giêsu đã có đó. Tội lỗi đã bị án diệt vong. Sự chết đã bị đánh bại, còn mầm mống sự sống mới cứ mỗi ngày một lớn mạnh.
Hãy tỉnh thức để nhận ra tất cả những cái mới mẻ ấy để có thể nhập cuộc. Bà con trong thôn ấp được kêu gọi tu sửa đường xá cho việc đi lại được dễ dàng. Các em học sinh tham gia phong trào tiết kiệm để có tiền giúp đỡ các bạn cùng lớp, cùng trường gặp tai ương hoạn nạn. Người đi buôn, không nói thách, không bán đồ giả, không dùng cân thiếu và thước hụt. Phải tỉnh thức và thấm nhuần tinh thần Phúc Âm để có thể nhận ra sự lớn mạnh của trật tự xã hội mới.
Trong Phúc Âm cũng như trọn cuộc sống, chúng ta có thể bắt gặp vô số những con người mê ngủ, nghĩa là tiếp tục suy nghĩ và lý luận về hành động của Thiên Chúa theo lối cũ, theo những định kiến, theo những hệ thống thần học họ tự đặt ra. Các thượng tế, luật sĩ và biệt phái đã ru ngủ mình trong sự tự mãn và sự thông hiểu Kinh Thánh. Cả thành Giêrusalem cũng đã tự ru ngủ mình trong thói quen, trong cái nếp cũ, nên đã sống bên ngoài biến cố Con Thiên Chúa làm người.
Chúa Giêsu có đó như vị cứu tinh họ mong đợi, nhưng họ đã không nhận ra Ngài. Không những không nhận ra Ngài mà còn tìm cách giết hại Ngài. Bởi vì họ không chấp nhận nghe và thấy những lời nói, những việc làm đi ra ngoài những gì họ đã nghe và đã thấy. Họ đã có những phản ứng hoàn toàn không thích hợp với những đòi hỏi của thời đại mới. Họ đích thực là những kẻ mê ngủ. Chính những mục đồng và những kẻ bị liệt vào hàng tội lỗi công khai như người thu thuế và gái điếm, những kẻ bệnh tật và nghèo khổ lại là những người có khả năng nhận ra cái mới mẻ của tiếng hát các thiên thần, của ánh sao, của những dấu lạ để rồi cuối cùng đã nhận ra Đấng Cứu Thế nơi một hình nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, hay nơi một Đức Kitô bị chết treo trên thập giá.
Liệu chúng ta đã thực sự tỉnh thức để nhận ra Chúa nơi những người anh em, và thánh ý Ngài qua các biến cố xảy đến hay không?
17. Thức tỉnh cầu nguyện
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng của niên lịch Phụng Vụ 2012. Lời đầu tiên Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ: Chúng con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì chúng con không biết lúc đó là lúc nào (Mc 13,33).
Lời của Chúa luôn là lời hướng dẫn và cảnh tỉnh đời sống chúng ta. Đôi khi chúng ta cảm thấy chán ngấy vì sự nhắc nhở phải tỉnh thức luôn. Biết rồi, nói mãi! Giáo Hội như người mẹ luôn luôn yêu thương và quan tâm đến con cái mình. Giáo Hội đã trung thành dùng lời Chúa trong Kinh Thánh để mời gọi chúng ta hãy đi trong đường lối của Chúa.
Cách đây khoảng 2700 năm, những lời nguyện cầu khẩn thiết của tiên tri Isaia vẫn còn vang vọng hôm nay: Lạy Chúa, tại Sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại Sao Ngài làm cho lòng chúng con Ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài?(Is 63,17). Tiên tri Isaia rao giảng cho dân Do-thái khoảng giữa những năm 742-701 B.C. tại Giêrusalem. Hướng dẫn theo quan niệm thần học căn bản nói về Thiên Chúa thánh thiện và công chính đòi hỏi con phải người đáp trả tình yêu. Trong cơn thử thách, tiên tri Isaia biết rằng con người yêu đuối, đầy vết nhơ tội lỗi và sống lơ là với lề luật nhưng tiên tri Isaia vẫn van xin Chúa thương xót. Và đôi khi Isaia còn trách cứ tại Sao Chúa để cho con người lạc xa đường lối của Chúa. Mặc dầu con người bị đoán xét nhưng Isaia tin rằng số người còn lại trong dân Chúa đã chọn vẫn được duy trì để đón nhận Vua Vũ Trụ từ dòng dõi Vua Đavid.
Con người trong mọi thời luôn có khuynh hướng tự lập và xuôi theo bản tính tự nhiên. Tìm thỏa mãn những khát vọng và ước muốn về cả tinh thần lẫn vật chất. Thiên Chúa rất kiên nhẫn đợi chờ trong sự hướng dẫn và huấn luyện dân riêng của Ngài. Người ta thường nói: Ngựa theo đường cũ hay tính nào tật ấy. Hướng thượng luôn là một mời gọi cố gắng không ngừng. Buông mái chèo, thuyền lại chảy xuôi theo dòng. Bước lên đường trọn lành thì chúng ta cần phải miệt mài, phấn đấu và ngước nhìn lên đích nhắm. Sống theo luật của Chúa, dân Chúa chọn cần phải hy sinh tránh xa những cách sống phàm tục và thoái hóa của cách sống tự nhiên. Qua lịch sử Cúu Độ, chúng ta biết Dân Do-thái ngày xưa cũng bị mê hoặc bởi biết bao cám dỗ của cuộc sống tục hóa, tự do, thờ thần ngoại bang và tìm thỏa mãn nhu cầu bản năng tự nhiên.
Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu nhắc nhở: Chúng con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì chúng con không biết lúc đó là lúc nào (Mc 13,33). Những lời dặn dò chỉ dậy của Chúa Giêsu đã cách xa chúng ta cả 2000 năm rồi. Hôm nay đây lời này còn có ý nghĩa gì? Đã biết bao nhiêu thời đại và thế hệ con người đã đi qua. Thế hệ này tiếp nối thê hệ kia đã đến và đã đi qua. Không có thế hệ nào hiện diện kéo dài mãi. Dù có các vua chúa quyền uy, những chế độ độc tài, những con người khát máu cũng lần lượt xuất hiện và rồi trở về cát bụi. Vinh quang đạt tới tột đỉnh trong xã hội, rồi cũng một ngày Ra đi với cái xác không hồn và bàn tay trắng.
Qua nhiều thời đại, con người thời nào cũng bị nhiễm các thứ văn hóa hưởng thụ, vô thần, vật chất, tương đối và văn hóa của sự chết. Con người dần xa lối bước của Chúa. Nhất là trong thời buổi văn Minh và tục hóa ngày nay, con người bị kéo lôi vào cuộc sống hưởng thụ vật chất liền tay. Có nhiều người không còn nhận Ra những giá trị về tinh thần và luân lý đạo đức. Nhiều người chủ trương sống hiện thực. Tìm đáp ứng thỏa mãn mọi nhu cầu đòi hỏi cả tinh thần lẫn vật chất. Chỉ muốn cúi xuống tìm kiếm những nhu cầu hiện sinh mà quên đi nhu cầu khẩn khiết của tâm linh. Nhiều người không còn muốn nghĩ đến niềm tin vào Thượng Đế, cứu cánh của cuộc đời, không còn đến nhà thờ, không học hỏi Kinh Thánh và không cầu nguyện. Họ không còn quan tâm đến đời sống tâm linh. Sống theo cá nhân chủ nghĩa, nghĩ rằng mình là tất cả và tự mình đủ cho chính mình.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Côrintô, đã cầu chúc anh chị em đầy ân sủng và bình an trong Chúa. Trong khi mong chờ Chúa Kitô tỏ hiện, thánh Phaolô khuyên dạy các tín hữu hãy tin tưởng nơi Chúa Kitô. Hãy sống trung tín và hiệp nhất với Ngài. Chúa đã ban cho chúng ta đầy đủ các ơn cần thiết để bền vững trong ơn Chúa. Ngày Chúa tỏ hiện không phải với đám đông hay tất cả mọi người cùng một lúc mà là mỗi người hãy tỉnh thức. Vì mỗi cá nhân có một ơn gọi, sứ vụ và số mệnh riêng. Mỗi người phải chu toàn bổn phận của mình.
Theo lời dạy của Phúc âm, đã có rất nhiều người sống trong tư thế tỉnh thức và cầu nguyện. Vì không ai biết được ngày giờ Chúa sẽ viếng thăm. Giáo Hội không ngừng nhắc nhở con cái mình qua mọi hoàn cảnh đều nhớ tỉnh thức. Như dân Do-thái xưa, chúng ta cũng sẽ dễ dàng lơ là với lề luật và đường lối của Chúa. Chúng ta viện cớ là qúa bận bịu và không có đủ thời giờ. Chúng ta để mình rơi vào những bon chen vô bổ. Nhất là cuộc sống xã hội lôi kéo vào nhiều những nhu cầu đòi hỏi cần phải thỏa mãn ngay. Ngày nay có nhiều người thích sống theo kiểu thuyết tương đối. Sống đạo trung bình. Tránh không làm điều gì quá sai. Chủ trương rằng người ta sống sao, tôi sống thế. Chạy theo thói đời. Đôi khi còn ganh đua với những người ngoại để tỏ ra mình cũng rành rõi sự đời.
Bước vào Mùa Vọng là mùa mong chờ. Mong chờ Chúa ngự đến thăm viếng tâm hồn chúng ta. Không phải Chúa chỉ xuất hiện như thần chết đến mang lại sự sợ hãi nhưng Chúa đến mang sự bình an. Chúa sẽ đến gặp gỡ chúng ta qua nhiều cách thế. Chúa gặp gỡ chúng ta nơi các Bí Tích, qua Lời Chúa, qua việc cử hành Phụng Vụ và chuyên tâm cầu nguyện lắng nghe tiếng Chúa. Nhất là Chúa đến với chúng ta qua sự gặp gỡ các người anh chị em xung quanh. Chúng ta cần mở rộng cửa tâm hồn để đón Chúa. Biết rộng mở tâm hồn, chúng ta sẽ đón nhận được nhiều thứ ân sủng. Như xưa Đức Trinh Nữ Maria đã rộng mở tâm hồn nói lời Xin Vâng, Chúa đã đến cư ngụ trong cung lòng Mẹ.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tỉnh thức đón nhận ân sủng của Chúa. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng con sẽ không bị lỡ chuyến tầu. Ý thức rằng, con người có hướng để theo và có đích để nhắm. Cuộc lữ hành trần thế này sẽ có ngày chấm dứt và mọi người sẽ bước vào đời sống mới. Đời sống viên mãn hạnh phúc bên Chúa đời đời. Amen.
18. Tỉnh thức
Chọn bài Phúc Âm này để làm đề tài suy gẫm trong ngày đầu năm phụng vụ, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta một bài học rất hữu ích và cần thiết đó là hãy tỉnh thức và sẵn sàng để đón nhận Chúa vào ngày giáng sinh cũng như ngày Chúa gọi chúng ta đến tính sổ cuộc đời với Ngài.
Nhìn vào đời sống, chúng ta thấy tỉnh thức và sẵn sàng là điều kiện cốt yếu để được sống còn. Ngay như trong thế giới loài vật chúng ta cũng thấy như vậy. Một nông dân Mỹ bị đàn quạ khoang phá hoại ruộng ngô. Ông mang súng ra bắn, nhưng không sao lại gần được vì trên cây thông cao, có một con đậu để canh chừng khi các con khác đang ăn. Len lỏi lâu dưới hố sâu ông mới lại gần được mà con gác không hay biết. Một tràng đạn nổ vang, những con sống sót bay vù lên, nhưng chúng không bay đi xa, chúng xà xuống con canh gác với những tiếng kêu giận dữ. Con chim khốn nạn này bị đồng bọn xử một cách tàn nhẫn và nhanh chóng, không thể ở lại trong bầy, phải rời hàng ngũ mà đi nơi khác.
Câu chuyện trên đây cho thấy việc tỉnh thức và sẵn sàng là điều rất cần thiết, loài vật còn cảm thấy phương chi là con người. Nơi giống vật không chu toàn bổn phận tỉnh thức còn bị trừng phạt nặng nề, phương chi là con người.
Trong cuộc sống, chúng ta thường nói: Mấy ai học được chữ ngờ. Nghĩa là có nhiều biến cố xảy đến ngoài dự kiến của chúng ta. Nhưng có một cái bất ngờ, tuy không do chúng ta dự liệu, nhưng lại tuỳ thuộc chúng ta định đoạt số phận, đó là cái chết.
Đọc báo chí, nghe truyền thanh và xem truyền hình, chúng ta thấy cái chết phảng phất ở mọi nơi, và trong mọi lúc. Nào là thiên tai bão lụt giết chết hàng trăm người. Nào là núi lửa, động đất giết chết hàng ngàn người. Nào là chiến tranh, đói khổ giết chết hàng vạn người. Dẫu vậy có ai nghĩ rằng mình cũng sẽ phải chết, mà mấy ai đã tỉnh thức và sẵn sàng cho cái bất ngờ cuối cùng ấy.
Sống sao thì chết vậy. Muốn được chết tốt lành, muốn cho giờ chết không phải là giờ cay đắng bẽ bàng thì ngay từ lúc này, chúng ta phải lo sống tốt lành. Đối với những người còn hồ nghi về đời sau, họ nên khôn ngoan lý luận như nhà tư tưởng Pascal: Có đời sau hay không, điều ấy thật khó mà chứng minh rõ rệt, tuy nhiên tôi vẫn tin có là hơn, vì dù không có, thì tin như vậy cũng không thiệt hại gì. Còn như trong trường hợp mà có, thì không tin quả là điều nguy hiểm. Cho nên tin vào sống niềm tin ấy, thì khôn ngoan hơn.
Tỉnh thức và sẵn sàng ở đây có nghĩa là hãy khử trừ tội lỗi ra khỏi cuộc sống và tích trữ cho một kho tàng quý giá là những hành động bác ái, là những công nghiệp chúng ta lập được khi còn sống ở đời này, để bất kỳ lúc nào Chúa lên tiếng kêu gọi, chúng ta cũng có thể sẵn sàng thưa lên: Lạy Chúa, này con xin đến.
19. Tỉnh thức - Thức tỉnh
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Dụ ngôn nói về người chủ đi xa, giao quyền hành lại cho đầy tớ, mỗi người một việc. Tuy nhiều người nhiều việc, nhưng ông chỉ có căn dặn người canh cửa phải lo tỉnh thức để mở cửa cho ông lúc trở về. Rồi trong phần kết của bài phúc âm, lời nhắn bảo “hãy tỉnh thức” lại được gởi đến cho “hết mọi người.” Phải chăng Đức Giêsu ám chỉ tất cả các Kitô hữu đều là những người canh cửa, và họ hãy mở tung cánh cửa đời mình để đón Ngài.
Hôm nay, Dân Chúa trên khắp thế giới bắt đầu bước vào mùa Vọng với ý nghĩa chấn chỉnh lại thái độ trông ngóng, mong chờ, chuẩn bị đón mừng ngày Chúa lại đến.
Mùa Vọng luôn được nối kết với mùa Giáng Sinh, kỷ niệm biến cố Con Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta. Nhưng nếu biến cố đó không gợi lên trong tôi một dư âm nào, việc Chúa sinh ra hay hồng ân cứu độ không mang một tầm quan trọng nào trong đời tôi, thì thử hỏi mùa Vọng có nghĩa lý gì, chẳng qua là một mùa lạnh hay mùa đông.
Cho nên thiết tưởng để sống trọn vẹn hơn mùa Vọng năm nay, chúng ta hãy nhìn lại chính mình và tự hỏi: Đâu là ý nghĩa của cuộc đời? Hạnh phúc của tôi đang ở nơi nào? Những gì tôi đang tìm kiếm, khao khát, mong ước có làm cho tôi thoả mãn thật sự không? Hay là cứ tìm được điều này xong, tôi lại chạy theo điều khác, và rồi cuộc đời cứ mãi kiếm tìm không nguôi?
Thử hỏi Đức Giêsu có phải là đối tượng chính trong sự tìm kiếm của tôi không, hay chỉ là một thứ phụ thuộc, là nơi tôi đến tìm yên ủi, cố vấn những lúc bị thất bại trên đường chạy theo các đối tượng khác.
Nếu không cảm nhận Chúa là lẽ sống, niềm vui, hay nguồn hy vọng của đời mình thì làm sao có thể nhớ thương và mong chờ cho đúng nghĩa được. Có ai trông đợi hay nôn nao được gặp lại một bóng hình mà họ không yêu thương cũng chẳng qúi mến chăng?
Thế cho nên sống mùa Vọng là tái xác định đối tượng chính trong cuộc đời. Khi mà tôi nhận thức Chúa chính là áng mây cho sa mạc tâm hồn, là dòng suối mát cho cánh đồng chờ nước bao năm, thì lúc ấy lời ca “Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tội” sẽ thấm đến tận nơi sâu thẳm của cõi lòng.
Vậy lời kêu gọi “tỉnh thức” của ngày đầu năm phụng vụ không chỉ nhắc tôi về thái độ chờ đợi và sẵn sàng, nhưng còn ngầm bảo tôi hãy “thức tỉnh”: thức tỉnh lại từ những đam mê, trăn trở, gian nan để xem Chúa có ở trong đó không; thức tỉnh từ những kiếm tìm: tìm job, tìm của, tìm tình, tìm danh dự, tìm địa vị… để xem Chúa ở trong và ở trên tất cả những sự đó không. Vì nơi đâu không có Chúa, nơi đó chỉ là những quảng cáo của thế gian, ma qủi. Tìm mọi sự mà không tìm Chúa thì rồi vẫn cứ mãi thiếu vắng và khát khao. Phải chăng là vì “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Thánh Augustinô).
Người ta kể rằng dưới chân lâu đài Mamara của Hoàng đế Maximilian là dòng nước trong vắt của vùng biển Adriatique. Ở chiều sâu mấy chục thước nước phía dưới có một hang động từng làm say mê nhiều thợ lặn. Điều thú vị nhất là thỉnh thoảng mấy người thợ lặn đó đã tìm được những viên ngọc đẹp nhất trong hang động này lại thuộc quyền sở hữu của Quận chúa Reiner. Thế nhưng sau một thời gian dài, người ta khám phá các viên ngọc ấy bị nhạt màu. Nhiều chuyên gia về ngọc được triệu đến. Sau nhiều lần nghiên cứu, thử nghiệm, họ đã nhận định rằng để có được vẻ tươi đẹp nguyên thủy, các viên ngọc ấy phải được ngâm lại dưới đáy biển sâu. Và đúng vậy, sau một thời gian trầm mình dưới giòng nước trong của vùng biển này, dần dần các viên ngọc đã phục hồi được vẻ đẹp long lanh của thuở ban đầu.
Đời sống con người cũng thế! Để tìm lại niềm vui và bình an chân thật, để gột rửa những phấn bụi của dòng đời, chúng ta cũng hãy ngâm mình vào biển tình bao la của Thiên Chúa, ướp đượm hồn ta bằng hồng ân tươi mát của Ngài.
Giáng sinh là thời điểm của ân sủng và mến thương vời vợi. Thức tỉnh để được sống trọn vẹn niềm vui tìm gặp Chúa sẽ là thái độ khôn ngoan nhất của người Kitô hữu trên hành trình bước sang năm phụng vụ mới.
20. Phải tỉnh thức và sẵn sàng
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 13,33-37) là phần cuối cùng trong diễn từ cánh chung của sách Tin Mừng theo Thánh Marcô, diễn từ nói về những vấn đề của thời buổi cuối cùng. Điểm nhấn chính yếu là lời mời gọi khẩn thiết phải tỉnh thức và sẵn sàng.
“Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức” (c.33a). Đây là lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng trong Mc 13, Chúa Giêsu kêu gọi bốn đồ đệ Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê phải coi chừng (cc.5.9.23.33). Lời mời gọi hãy biết nhận định rõ ràng và chính xác, là lời mời gọi xuyên suốt diễn từ cánh chung của Chúa Giêsu. Các môn đệ cần phải có cái nhìn sáng suốt về những gì xảy đến, để giải thích đúng đắn các thực tại và không bị lừa phỉnh (cc.5-23). Bây giờ, sau khi đã nói tất cả những điều đó và để kết thúc diễn từ cánh chung, Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Phải tính thức”. Chỉ trong một đoạn văn ngắn, có đến bốn lần Chúa nói: “Phải tỉnh thức” (cc.33.34.35.37), điều này cho thấy tính cách quan trọng của lời mời gọi.
Lý do đầu tiên được đưa ra để làm nền cho lời mời gọi quan trọng đó, chính là: “Vì anh em không biết khi nào thời ấy đến” (c.33b). Ngay trước câu này, Chúa đã khẳng định: “Còn về ngày hay giờ đó [cuộc quang lâm] thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi” (c.32). Áp dụng điều đó vào trường hợp các đồ đệ, Chúa Giêsu cho họ biết rằng họ không biết được khi nào xảy đến cuộc quang lâm (c.33), tức là khi nào Chủ của họ trở về (c.35), và Ngài nối kết sự không biết này vào với lời mời gọi tỉnh thức.
Sau khi nêu lý do, Chúa Giêsu kể cho các đồ đệ nghe một dụ ngôn: câu chuyện ông chủ đi xa. “Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức” (c.34). Người giữ cửa được nhấn mạnh cách đặc biệt vì hơn tất cả những người khác, nhiệm vụ canh thức của anh là rất rõ ràng.
Tình cảnh của các đồ đệ cũng tương tự như tình cảnh của những người đầy tớ của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn. Ông chủ đi xa và trao phó công việc cho họ; mỗi người có nhiệm vụ riêng của mình. Và bởi vì họ không biết khi nào ông quay về, nên họ phải luôn hiện hiện trong tư thế sẵn sàng. Cũng tương tự như thế, Chúa Giêsu chính là vị Chủ Nhà. Rời khỏi thế gian, Chúa Giêsu trao phó cơ nghiệp cứu độ của Người cho các đồ đệ. Trong Nhà của Chúa Giêsu, các đồ đệ, nhất là các vị lãnh đạo cộng đoàn Hội Thánh, vừa là gia nhân vừa là người giữ cửa. Mọi người đều phải tỉnh thức và sẵn sàng đón Người trở lại trong cuộc quang lâm của Người.
Sau khi kể câu chuyện dụ ngôn, Chúa Giêsu lặp lại lời kêu gọi tỉnh thức và nêu phần áp dụng của dụ ngôn đó và hoàn cảnh các đồ đệ: “Vậy anh em phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ” (cc.35-36).
Tỉnh thức không có nghĩa là không ngủ, vì đó là điều bất khả về phương diện thể lý. Để hiểu đúng ý mà Chúa Giêsu muốn nói, chúng ta có thể nghĩ đến một lời mời gọi tỉnh thức đặc biệt mà chính Chúa đưa ra cho các môn đệ thân tín của Người trong một hoàn cảnh khác. Trong vườn Ghếtsêmani, vào đêm Chúa Giêsu bị bắt, Người nói với ba đồ đệ thân tín: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (14,38). Trong vườn Ghếtsêmani, lời mời gọi này phải được hiểu trước hết theo nghĩa đen của các từ ngữ. Nhưng điều đó không ngăn cản chúng ta giải thích rằng sự tỉnh thức, sâu xa ra, chính là một thái độ sống hoàn toàn quy hướng một cách rõ ràng về Thiên Chúa, tức là một thái độ cầu nguyện ở mức độ thâm sâu và thực chất. Áp dụng cách hiểu đó vào lời mời gọi ở 13,35 chúng ta có thể hiểu: sự tỉnh thức mà Chúa Giêsu nói đến ở đây chính yếu là một cách sống hoàn toàn trong ý thức liên tục quy hướng về ông chủ và nhiệm vụ mà ông trao phó. Người đầy tớ tỉnh thức là người luôn luôn đặt mình trong ý thức về tư cách của mình là người phục vụ ông chủ và thi hành một cách tốt nhất nhiệm vụ mà ông trao phó cho mình. Khi ông chủ đi xa, người đầy tớ dễ bị cám dỗ quên ông và quên nhiệm vụ ông trao phó, từ đó hành xử như thể mình là ông chủ, theo hứng riêng của mình từng lúc. Người đầy tớ tỉnh thực sẽ luôn luôn gắn kết cuộc sống mình với ông củ và luôn luôn sẵn sàng trả lời ông về việc thực hiện nhiệm vụ mà ông đã trao phó cho mình. Khi Chúa Giêsu nói các môn đệ của Người phải tỉnh thức như các đầy tớ trong dụ ngôn phải tỉnh thức, là Người muốn nhấn mạnh đến thái độ sống đó, chứ không phải là một sự canh thức về phương diện thể lý đơn giản.
Điều thứ hai đáng chú ý trong câu 35 là việc Chúa Giêsu gắn sự kiện ông chủ (có thể) trở về vào khung cảnh ban đêm. Người nói: “Vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng”. Sự tối tăm vốn là một hình ảnh có thể tượng trưng cho vương quốc của bóng tối, của sự ác, của sự dữ, của sự hư luống, của sự tội lỗi… Ban đêm cũng là hình ảnh thường được sử dụng theo nghĩa là biểu tượng cho tình trạng say sưa, ngoại tình, gian dối, trác táng… Nói cách khác, đem tối là hình ảnh ẩn dụ cho cuộc sống hiện tại theo nghĩa là cuộc sống đầy những thực tại tiêu cực. Và thực tế, người tín hữu phải luôn chiến đấu “với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này” như cách diễn tả của Thánh Phaolô trong Ep 6,12. Đó là thế gian chống lại Thiên Chúa. Chính khi đang hiện hữu trong cái thế giới của bóng tối đó, người tín hữu đón nhận sự kiện Chúa trở lại.
Kết thúc diễn từ cánh chung, Chúa Giêsu khẳng định: “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải tỉnh thức!” (c.37). Chúa Giêsu không ngần ngại nhắc đến tư cách và vị trí đặc biệt của bốn đồ đệ thân tín đang nghe Người tâm sự đây. Họ là những đồ đệ đầu tiên mà Người đã kêu gọi để biến đổi thành những kẻ lưới người (x. 1,16-20). Nhưng lời kêu gọi tỉnh thức và sẵn sàng không chỉ dành riêng cho họ mà thôi. Chúa nói rõ ý của Người là kêu gọi tất cả mọi người đều phải tỉnh thức như vậy, không trừ một ai. Nói cách khác, ở bên dưới lời khẳng định này là một lệnh truyền được ngỏ với các môn đệ thân tín, sai họ đi thông truyền cho tất cả mọi người điều mà Chúa Giêsu đang nói với họ đây, để mọi người đều tỉnh thức đón chờ Ngài đến hoàn thành công trình cứu độ của Ngài.
Gợi ý suy niệm và chia sẻ:
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, có đến bốn lần Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta tỉnh thức. Lời kêu gọi này càng tha thiết hơn nữa khi nó được ngỏ với chúng ta trong khung cảnh của ngày Chúa Nhật bắt đầu Mùa Vọng và Năm Phụng Vụ mới. Tỉnh thức, sâu xa ra, chính là một thái độ sống hoàn toàn quy hướng một cách rõ ràng về Thiên Chúa, một thái độ cầu nguyện ở mức độ thâm sâu và thực chất. Người tôi tớ tỉnh thức sẽ không bao giờ hành xử như thể mình là ông chủ có quyền hành động tuyệt đối theo ý riêng mình.
2. “Anh em không biết khi nào chủ nhà đến”. Đó là một sự thật. Và chúng ta được mời gọi ý thức luôn luôn, một cách khiêm hạ, về sự thật đó. Chính từ sự thật đó mà xảy đến lời mời gọi tỉnh thức.
3. “Anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng”. Chúng ta đang sống giữa thế giới của bóng tối, trong đó đầy dẫy những bất công, những thử thách, những ngang trái, những cám dỗ, những hư hỏng… Nhưng tiếng nói tối hậu và có tính quyết định sẽ không phải là tiếng nói của bóng tối và sự ác. Tiếng nói tối hậu sẽ là tiếng nói của Ông Chủ. Chúa sẽ quang lâm và trở về với chúng ta trong chính hoàn cảnh của thế giới tối tăm và độc ác này. Nếu chúng ta, bất chấp đêm tối của tội lỗi và sự dữ, vẫn đang hiện hữu trong tư thế đồ đệ luôn quy hướng về Ngài, chúng ta sẽ được chia sẻ vinh quang với Ngài.
4. Mọi môn đệ của Chúa Kitô đều có nhiệm vụ nói cho thế giới biết rằng Chúa chắc chắn sẽ trở lại, nhưng là vào lúc chúng ta không ngờ. Vì vậy, mọi người đều được mời gọi tỉnh thức, luôn luôn hiện hữu trong tư thế của người tôi tớ tốt lành đang tỉnh thức đợi chủ về. Lời của Chúa Giêsu: “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải tỉnh thức!” (c.37).
21. Tỉnh thức luôn luôn - Lm. JB. Lê Ngọc Dũng
Chúa Giêsu kêu gọi tỉnh thức, vì sao vậy? Ngài giải thích: “vì anh em không biết khi nào thời ấy đến”. Ngài cắt nghĩa thêm: “Cũng như người kia đi phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, mỗi người một việc, và ra lệnh cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức” (Mc 13, 32). Nghĩa là, mỗi người chúng ta được Thiên Chúa trao cho một sứ mệnh, như những người giúp việc được trao công việc khi ông chủ đi phương xa. Rồi Chúa sẽ đến bất ngờ, như ông chủ bất ngờ trở về nhà.
Có hai trường hợp có thể nói là Chúa đến với ta bất ngờ. Thứ nhất là cái chết đến bất ngờ, thứ hai là Chúa đến viếng thăm ta ngay qua cuộc sống thường ngày.
Về việc cái chết đến bất ngờ thì chúng ta cũng đều thấy rõ; như một chiếc xe đâm thẳng vào người, chết ngay tức khắc; như ở Âu Mỹ, cuộc sống tưởng như bình an, sung túc, nhưng một tên cuồng tín hay điên khùng nào đó đưa súng bắn xối xả vào đám đông; như trong cơn bảo số 12 vừa qua đi vào Khánh Hòa, gây thiệt hại lớn lao, mất nhà mất cửa, gây cái chết cho khoảng 40-50 người. Một phần lớn là chết trên biển, do việc chăn nuôi hải sản. Những người này mặc dù nghe thông báo có bảo nhưng vì cả tài sản đầu tư khổng lồ, tài sản nuôi sống cả gia đình nên liều lĩnh bám trụ ở biển. Họ phải nhận một cái chết bất ngờ. Tài sản bị mất mát thì có thể tạo dựng lại được, nhưng mạng sống thì muôn đời không thể lấy lại. Thật là thảm thương.
Cái chết đến bất ngờ quả là nguy hiểm khôn lường. Tuy nhiên tỷ lệ chết như vậy thì không nhiều, họa hoằn mới có, nên có lẽ chúng ta ít sợ. Người khôn ngoan thì phải chuẩn bị cho cái chết đến bất ngờ, như năm cô trinh nữ khôn ngoan mang dầu đầy bình đi đón chàng rễ. Ngược lại, thì quả là khờ dại, mất đi cả đời người.
Trường hợp thứ hai là Chúa đến viếng thăm ta ngay qua cuộc sống thường ngày, nhưng chúng ta lại quá mê muội nên không nhận ra để nhận lấy ơn phúc cho mình.
Thế giới ngày nay, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển. Người ta lo học lo hành, lo làm ăn, lo cưới vợ lấy chồng, lo tiêu thụ, lo hưởng thụ... Như một em bé lo học hành quá mức. Tôi hỏi sao em lại bỏ lễ Chúa Nhật. Em nói là vì mắc đi học thêm. Không biết là do cha mẹ bảo hay do chính em làm như vậy. Thật là tội nghiệp, cha mẹ hay em đó cứ ngỡ rằng em sẽ học giỏi, được thành đạt là nhờ chính sức mình. Đừng quên chính ơn Thiên Chúa mới giúp em. Mặt khác, em quên rằng “được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì” (Mt16, 26).
Dĩ nhiên chúng ta phải hòa nhập với cuộc sống. Nhưng luôn có mối nguy hiểm là chúng ta dễ bị quên đi cái phẩm chức cao cả thiêng liêng của mình.
Trong tác phẩm những người khốn khổ của đại văn hào Victor Hugô, một cậu bé quá đói đã đánh cắp đánh cắp một ổ bánh mì đã bị bắt vào tù. Chế độ nhà tù xấu xa đã biến em thành một con người chai lỳ, và bị coi là nguy hiểm, và đã trở một tên tù khổ sai. Sau 19 năm người tù khổ sai tên Jean Valjean, đi lang thang, không ai dám tiếp anh. Chỉ khi anh tới giáo phận Digue, ĐGM Digue đã tiếp đãi anh tử tế, không e sợ, lại còn đãi anh một bửa ăn thịnh soạn, muỗng đĩa bằng bạc. Được ngũ trong nhà đêm hôm ấy , người tù nổi lòng tham lén đánh cắp những đồ bạc quý giá và trốn đi. Người tù khổ sai ấy tưởng mình sẽ thoát nhưng công an thấy anh mang theo cái chân đèn mà chỉ có nơi toà giám mục nên nghi ngờ bắt anh lại, giải đến toà gíam mục để hỏi. Ai cũng nghĩ vị giám mục sẽ mừng rỡ lấy lại chân đèn và kết án anh ta tù chung thân một lần nữa. Không ngờ rằng ĐGM lại có một thái độ khoan dung. Ngài nói: “Tôi đã nói với anh ấy rằng của cải trong nhà này là của Chúa và của mọi người, vì thế anh ta có thể lấy. Anh không có ăn cắp.” Người tù khổ sai được thả tự do. Sự thiện trong lòng anh tưởng đã bị cuộc đời đen bạc dập tắt nay bừng cháy lại. Con người chai lỳ đó đã thay đổi cuộc đơì vì cảm phục lòng khoan dung nhân từ của vị giám mục.
Hành động của vị giám mục cũng làm cho người đọc vô cùng cảm phục. Cái đáng phục hơn cả là ngài phản ứng rất nhanh. Một tình huống như thế mà lại nhanh chóng nói lên những lời để người tù khỏi mang tội. Rất kịp thời để cứu một con người.
Quả đây là một thái độ rất tỉnh thức, gặp gỡ Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày.
Nhiều lúc chúng ta ân hận vì không tỉnh thức đủ để rồi có những ứng xử thiếu bác ái hoặc đã gây nhiều tổn thương cho người khác.
Một lần kia, một bà mẹ dáng vẻ xanh xao ẳm một đứa con trên tay chìa ra trước mặt tôi một xấp vé số năn nỉ tôi mua giùm bà một vài tờ để có tiền nuôi con. Tôi khăng khăng từ chối, vì tôi không thích mua vé số. Khi về nhà tôi cảm thấy ân hận vì không giúp cho một ngưòi mẹ đáng thương đó. Nếu tôi không thích mua vé số, thì tại sao tôi lại không thể cho bà một ít tiền? Tôi thật quá tệ. Tôi đã không tỉnh thức để ứng xử kịp thời.
Cái chết đến bất ngờ thì họa hiếm nhưng rất nhiều khi, và có thể nói là hằng ngày, Đức Giêsu đến với ta qua tha nhân, những người bất hạnh, những người cần được giúp đở, những người cần tình thương, những kẻ bé mọn. Ngài đến với chúng ta bất ngờ qua những biến cố cuộc sống nhưng chúng ta không đủ tỉnh thức để nhận ra Ngài để đón nhận Ngài, để nghe tiếng Ngài. Nếu như chúng ta đã luôn tỉnh thức đón nhận Ngài thì cho dù cái chết có đến bất chợt thì ta cũng không sợ, nhưng ngược lại ta đứng thẳng ngẩng đầu vui mừng khôn tả, đón Chúa Kitô.
22. Tỉnh thức và cầu nguyện – Lm Vinh Sơn
Tại các giáo đường ở châu Âu trong Mùa vọng, bên cạnh bàn thờ người ta trang hoàng một vòng nguyệt quế được kết từ những cành lá thông mà trung tâm là 4 cây nến: Chúa nhật thứ nhất họ thắp lên cây nến thứ nhất, và mỗi Chúa nhật tiếp theo người ta lại thắp thêm ngọn nến cho đến Chúa nhật thứ tư bốn cây nến được tỏa sáng.
Mỗi Chúa Nhật thắp lên một cây nến nhắc nhở người tín hữu tỉnh thức cầm đèn sáng trong tay cầu nguyện chờ đợi như Thánh Thi ca tụng:
Và giờ đây xin thương tình lạy Chúa,
Lấy lửa thiêng đốt cháy cả tâm can
Để chúng con luôn tỉnh thức sẵn sàng
Cầm đèn sáng trong tay chờ Ngài đến.
Tư thế canh thức đó chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giêsu Giáng sinh và tỉnh thức cầu nguyện, sẵn sàng cho ngày cánh chung, ngày đó ngôn sứ Isaia đã nói: “Hỡi người canh thức, đêm còn mấy chốc nữa?” (Is 21,11), Thánh Phaolô đã nói đến Chúa ngự đến khi diễn tả ánh bình minh của ngày mới: “Đêm sắp tàn, ngày gấn đến” (Rm 13,12), ngày đó “Con Người” sẽ quay lại để phán xét mà Tin Mừng Mc 13,33-37, Chúa Giêsu nói đến hình ảnh: “chủ nhà trở về…” vì chúng ta không biết giờ nào… nên Đức Kitô kêu mời: “Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào”.
Trước hết tỉnh thức giữa đêm khuya cuộc đời, theo Kinh Thánh, đêm khuya là thời gian của bóng tối của “quyền lực tối tăm” (x.Lc 22,23; Mc 14,49; Ep 6,12). Do đó đêm tối cũng chính là thời gian của cám dỗ, thời gian của thử thách, do đó chúng ta phải mang tâm tình thức tỉnh.
"Nửa đêm" trong vườn Giếtsêmani, Chúa Giêsu bị thử thách, các Tông đồ bị cám dỗ ngủ mê và thiếu tỉnh thức. Trước sự mê ngủ của các môn đệ Chúa Giêsu đã mời gọi các ông tỉnh thức, ba lần "Người thấy họ ngủ”. Người nói: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (x. Mt 26, 36-46; Mc 14, 32-42; Lc 22, 39-46).
Đêm tối, Chúa bị bắt, Phêrô theo bước chân Thầy đến Dinh Thượng Tế, bị chất vấn, ông đã yếu đuối, mất cảnh giác và đã chối thầy. Ông thức tỉnh nhận ra tình trạng “chối thầy” của mình lúc bắt đầu bình minh vào "Lúc gà gáy”.
Tin Mừng còn nhắc đến một thái độ thức tỉnh là phải “coi chừng” để nghe lời Chúa (x. Mc 4,12), nếu không ta chỉ đứng bên lề mà để cho lời Chúa vượt qua. Cần phải có thái độ “coi chừng”, để chúng ta giữ mình khỏi “men Pharisêu”, men giả hình, kiêu căng để khỏi bị thấm nhiễm (x. Mt 8, 6; Mc 8,15). Cần phải chú ý “coi chừng”, để không tin những kẻ bắt mao danh Đức Kitô nói trước tương lai (Mt 24, 4 -13; Mc 13,5-13; Lc 21, 8-19) đó là các tiên tri giả hình.
Khi nói về thái độ tỉnh thức, Thánh Phaolô đòi hỏi phải có hành động “thức dậy ngay” (Rm 13,11). Ngài còn sử dụng đến hình ảnh về chiến tranh với những “vũ khí” trang bị cho thái độ tỉnh thức (x.Rm 13,12; Ep 6,10; 1 Tx 5,6-8). Có nghĩa là người thức tỉnh luôn chủ động:
- Tỉnh thức là luôn sẵn sằng, sẵn sàng ngay cả lúc ngủ: dụ ngôn Mười cô trinh nữ, năm cô trinh nữ khôn ngoan cũng ngủ như năm cô khờ dại (Mt 25,1-13). Sự khác biệt giữa họ là sẵn sàng đèn dầu. Nửa đêm, khi chàng rể đến, các cô khôn ngoan ra đón với đèn sáng trong tay, vì các cô có mang theo dầu dự trữ. Còn của các cô khờ dại đèn đã tắt do thiếu dầu. Lúc đó các cô mới chạy đi mua, nên không kịp hẹn hội Hoa đăng. Vậy tỉnh thức là ở trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất cứ lúc nào, sẵn sàng cả trong khi ngủ, ngủ trong an bình như các cô trinh nữ khôn ngoan, cho nên Thánh Phanxicô de Sales nói rằng: “Sự chờ đợi đích thực có nghĩa là chờ đợi mà không lo lắng gì cả”.
- Tỉnh thức là dấn thân chu toàn bổn phận như Người quản gia được giao trách nhiệm phân phát lương thực cho các gia nhân (x. Mt 24,45-51; Lc 12, 42-46). Nếu chủ về mà gặp thấy anh vẫn thức tỉnh đang siêng năng làm công việc được giao nên dược chủ cất nhắc. Ngược lại anh mê ngủ, hay anh lạm dụng quyền hành và chè chén say sưa (x. Mt 24,49), anh bỏ bê trách nhiệm sẽ bị luận phạt.
- Tỉnh thức là luôn chủ động làm cho những nén vàng, nén bạc Chúa trao được sinh lợi (x. Mt 25,31-46). Mỗi người được trao khác nhau, dù ít dù nhiều đều có bổn phận phải sinh lợi cho mình và Thiên Chúa. Người đào lỗ chôn giấu nén bạc được giao là thụ động không dám đầu tư vì sợ mất vốn. Người tỉnh thức hăng say làm việc để sinh lợi là người thức tỉnh với “số mệnh” được giao, anh được chủ khen là đã trung tín với ơn Chúa ban.
- Tỉnh thức để nhận ra Chúa nơi người anh em bé mọn, khốn khổ, bất ngờ đến với mình và nài xin mình trợ giúp. Thật thế, Đức Kitô đến với chúng ta qua hiện thân người đói khát, rách rưới, một người yếu đau, lỡ đường, thậm chí một phạm nhân trong nhà giam như chính Ngài đã khẳng định (x. Mt 25,31-46). Ai tỉnh thức đón nhận những người bé mọn này là đón nhận Ngài, được Ngài đưa vào dự tiệc dành sẵn đời đời. Vâng, Người thức tỉnh biết nhận ra Chúa nơi anh em, Ngày Chúa đến, họ hân hoan như Thánh Phaolô diễn tả: Một ngày kia chúng ta sẽ gặp gỡ Chúa, mặt đối mặt với Người, chúng ta sẽ thực sự nhận biết Chúa, như Chúa biết chúng ta (x. 1Cr 13,12).
Mang tâm tình Tỉnh thức, chúng ta luôn có thái độ sẵn sàng như Cha Charles de Foucault khuyên nhủ: “Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay”. Nhưng thái độ chủ động trong thức tỉnh chưa đủ, tâm tình tỉnh thức còn dẫn đến cầu nguyện. Thật thế, tỉnh thức phải luôn đi đôi với cầu nguyện như Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa cơn cám dỗ”(Mc 14,38). Cuộc sống thường ngày chúng ta thường bị cám dỗ ngủ quên trong những thành công, trong những tiện nghi dễ dãi làm ta say mê những thực tại trần thế mà quên đi ngày Chúa đến.
Bước vào mùa vọng, người Kitô hữu mang tâm tình thức tỉnh và cầu nguyện như Chúa Giêsu kêu gọi để chờ, để đợi. Chờ đợi ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang, ngày đó Ngài đến thật bất ngờ, không ai biết được ngày giờ. Cho nên anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra Ngài đến bất thần, bắt gặp anh em đang mê ngủ (x. Mc 13,33-37).
Trong thức tỉnh chúng ta cầm đèn sáng trong tay với lời cầu:
“Maranatha, Lạy Chúa, xin hãy đến!” (Kh 22,20).
“Xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con,
và ban ơn cứu rỗi cho chúng con” (Tv 84, 8)
23. Hãy canh chừng
(Suy niệm của Peter. Feldmeier – Lm. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Điều Thầy nói với anh em, Thầy cũng nói cho mọi người: “Hãy canh chừng” (Mt 13, 37).
Mùa vọng, adventus trong tiếng Latinh, có nghĩa là đang đến. Có một điều gì đó đang đến, và Đức Giêsu hôm nay nhắn gửi chúng ta sứ điệp “Hãy canh chừng”. Vậy, trong mùa vọng, điều gì đang đến và chúng ta phải canh chừng cái gi?
Bài đọc thứ nhất hôm nay, trích trong sách ngôn sứ Isaia, là một lời than vãn của dân Israel sau khi trở về từ cuộc lưu đày bên Babylon. Thay vì phấn khích khi được trở lại cố hương, dân Chúa lại cảm thấy sầu buồn não nuột. Lời nguyện họ dâng lên Chúa như một lời kinh sám hối (tội ác chúng con đã phạm tựa cơn gió, cuốn chúng con đi - Is 64,5). Họ xin Chúa hãy nhớ lại nghĩa cũ tình xưa (vì tình thương đối với tôi tớ Ngài, các chi tộc thuộc gia nghiệp của Ngài - Is 63,17). Họ cũng gợi nhắc sự phẫn nộ và trừng phạt của Thiên Chúa (do tội lỗi chúng con, sao Ngài để chúng con lạc xa đường lối Ngài, Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá - Is 63, 17a).
Có lẽ sự bi thiết nhất trong lời kinh này, chính là lời khẩn cầu ai oán dâng lên Chúa: “Xin Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước thánh nhan” (Is 63,19b). Isaia đã diễn bày lời cầu xin của dân trực tiếp kêu cầu Chúa, xin Chúa đến can thiệp vào lịch sử của họ. Lời cầu xin đó phản ánh một kỳ vọng sâu xa nơi dân chúng, được lặp đi lặp lại khá nhiều lần. Dân Chúa đang mong mỏi và đợi chờ “Ngày của Chúa”. Chương 13 trong Tin mừng Marcô, với lối văn khải huyền, cũng nêu bật sự chờ mong cánh chung này. Đức Giêsu nói về sự hủy diệt, về sự buồn thảm, về sự xuất hiện của các Kitô giả, và cuối cùng Ngài nói về chính Ngài, Đấng sẽ ngự xuống trên mây trời (Mc 13,26) đầy uy quyền và vinh quang.
Đức Giêsu kết thúc bài diễn từ cánh chung với những lời cảnh báo qua dụ ngôn mà chúng ta sẽ nghe trong Tin mừng hôm nay. Ngài nói về một ông chủ đi xa, dặn dò các đầy tớ về phần vụ họ phải làm, mỗi người một việc. Người gác cổng cũng như mọi đầy tớ khác được nhắc nhở phải canh thức, vì ông chủ bất ngờ sẽ trở về không biết lúc nào, khi họ lơ đễng, không sẵn sàng.
Khởi đầu mùa vọng, Giáo hội đọc lại cho chúng ta những bài Kinh Thánh nói về việc Chúa sẽ đến lần thứ hai, nhưng chúng ta không nên lẫn lộn ở đây khi gợi nhắc ý tưởng này. Mùa vọng, chắc chắn là việc cử hành nghênh đón mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm Thiên Chúa đến trần gian trong cung cách thật khiêm tốn và dung dị. Mùa vọng gọi mời chúng ta quy chiếu về giây phút quan trọng nhất của lịch sử cứu độ và lịch sử con người, khi Thiên Chúa trở nên người phàm, đồng phận với chúng ta, và sự sống vĩnh hằng của Thiên Chúa gắn kết chặt chẽ với số phận mong manh của kiếp người. Lịch sử con người, và ngay cả thời gian, tự nó cũng được cứu chuộc qua phút giây linh thánh này. Đức Giêsu trở lại lần thứ hai, đầy vinh quang để hoàn tất lịch sử, khóa sổ vũ trụ và biến những gì Thiên Chúa đã thiết lập qua việc nhập thể của Chúa Con, được trở nên viên toàn. Hướng cái nhìn về mầu nhiệm nhập thể, và cũng hướng về sự trở lại lần thứ hai của Đức Giêsu trong ngày cánh chung, là hai khía cạnh của một cái nhìn duy nhất: Nhãn quan hướng đến vĩnh cửu.
Cái nhìn đó, hướng mở về chân lý vĩnh hằng, phải là cái nhìn của chúng ta trong suốt mùa vọng này. Khi chúng ta chiếm hữu được Đức Kitô, với Thần khí ngự trong Ngài, chúng ta sẽ chiếm được vinh quang vĩnh cửu nơi Ngài. Tương lai của chúng ta chính là Đức Giêsu. Hiểu như thế, vĩnh cửu đã đến với chúng ta, trở nên một phần của chính hiện hữu nơi chúng ta, tái tạo chúng ta và lôi kéo chúng ta hướng đến vinh quang mà chúng ta sẽ sở đắc, mặc dù bây giờ chưa tròn vẹn. Mùa vọng là mùa chờ đợi. Chúng ta đợi chờ Đức Giêsu sẽ đến lần thứ hai, nhưng cũng chính là chờ đón Đức Kitô sẽ đến và đang đến trong cuộc đời của chúng ta hôm nay, một sự đến vẫn mãi còn ẩn dấu.
Như vậy, ngay bây giờ chúng ta phải làm gì với sự vĩnh hằng đang đến? Trước hết, chúng ta hãy nhìn vào các người đầy tớ trong Tin mùng hôm nay. Họ vẫn phải tiếp tục chu toàn công việc thường ngày trong khi ngóng chờ ông chủ trở về. Còn người gác cổng vẫn phải lo phận sự canh gác như bổn phận thường khi. Canh thức và làm việc là hai cách thái diễn tả sứ điệp Lời Chúa hôm nay, một sứ điệp rất quan trọng. Một hình thái thì mô tả tư thế đứng chiêm niệm và cầu nguyện (người canh cổng). Còn hình thái kia diễn tả thái độ làm việc với sự năng động(các đầy tớ). Trong mùa vọng, chúng ta cần đi sâu vào đời sống cầu nguyện hơn. Đồng thời trong mùa vọng, chúng ta cũng cần hăng say hơn để đáp lời mời gọi của Thiên Chúa, chuyên chăm làm việc hầu biến cải thế giới, và lôi kéo cả vũ trụ này về với Thiên Chúa (1 Cor 15, 24-28). Làm việc và canh thức tương tác với nhau. Nếu mọi biến cố trong lịch sử đều ẩn chứa một ý nghĩa trong chương trình của Thiên Chúa, thì chúng ta không được phép bỏ qua bất cứ một biến cố nào, cho dù nhỏ bé đến đâu. Những lời răn đe, như chúng ta nghe trong bài Tin mừng hôm nay, cũng là một dạng thức Thiên Chúa muốn dùng để lay động tâm hồn chai cứng nơi chúng ta. Cần phải sẵn sàng tiếp cận và gặp gỡ Ngài. “Canh thức” vừa là một bổn phận của người tín hữu vừa là một trách vụ mang chiều kích linh thánh.
24. Tỉnh thức và sẵn sàng
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Waiting for Godot (Chờ Godot) là vở kịch của nhà văn Samuel Beckett. Ông được trao giải Nobel Văn học 1969. Tác phẩm này được coi là Vở kịch tiếng Anh đáng lưu ý nhất thế kỷ 20.
Hai nhân vật Estragon và Vladimir thất nghiệp tìm mọi cách giết thì giờ trong khi chờ đợi một người được gọi là Godot, nhưng cuối cùng đợi không được; Godot có thể tồn tại, cũng có thể không tồn tại, kịch kết thúc, Godot cũng không đến. Toàn bộ tác phẩm ngoài việc đợi chờ, không có một điều gì khác phát sinh, tại sao lại đợi Godot, Godot là ai, tại sao Godot không đến, tất cả những điều này đều không quan trọng. Tác phẩm dùng cốt truyện không kịch như vậy là để nói lên một điều, nhân loại ngoài việc đợi chờ vô vọng hoặc ngồi đó chờ chết thì không còn con đường nào khác; con người đã không thể biết được về vận mệnh của mình, không thể suy tư về tất cả những thứ quanh mình, cho nên, ngoài việc đợi chờ đầy tiêu cực, ngoài những việc vô nghĩa như vậy, còn biết làm gì đây? Tác phẩm không có nội dung cụ thể, đợi chờ mù quáng và vô vọng chính là nội dung, ý nghĩa của nó là sự vô nghĩa của đợi chờ.
Waiting for Godot là một tác phẩm tiêu biểu cho loại kịch phi lý. Nó không có cốt truyện, cũng không có cao trào. Cũng có thể gọi nó là bi kịch mang tính chất trào lộng. Tuy nhiên, thông điệp đó lại được thể hiện hết sức thú vị qua những tình tiết hài hóa bi kịch. Beckett đã đưa triết học hiện sinh chủ nghĩa lên sân khấu và gây sự kích động mạnh mẽ trong công chúng và cả giới phê bình. (Wikipedia)
Trong bối cảnh hoang tàn sau thế chiến II, thuyết Hiện Sinh nở rộ tại Âu Châu, nghi hoặc những gì cao siêu, thiếu cụ thể, chỉ bằng lòng những gì đang hiện hữu cảm nhận được. Nên bản ngã lên ngôi, tha hồ hưởng lạc, coi tha nhân là hỏa ngục. Hoàn toàn trái ngược với Kitô giáo, tín hữu biết mình là ai, sống làm chi và biết mình chờ ai. Sinh ký tử quy, tín hữu Kitô biết mình sẽ trở về trình diện Đấng Thẩm Phán chung cuộc.
Tin Mừng Thánh Marcô hôm nay mở đầu năm Phụng Vụ B, đồng thời dẫn vào Chúa Nhật I Mùa Vọng. Chúa Giêsu kêu gọi mọi người hãy tỉnh thức và sẵn sàng cho Ngày Chúa Đến. Chúa không muốn con người thức tỉnh trong lo âu, sợ hãi, sầu bi, ủ rũ, bất an hoặc thất vọng, mà hoàn toàn trái lại.
Niềm vui cho đi
Trước tiên, tỉnh thức là sống trọn vẹn giây phút hiện tại, theo Thánh Ý Chúa đã mời gọi, vui vẻ chu toàn bổn phận, trách nhiệm được Chúa trao phó cho mỗi người một việc. “Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc…” (Mc 13, 34)
Chu toàn bổn phận với bản thân và với tha nhân luôn đòi hỏi tinh thần xả kỷ vị tha, bỏ mình, quên mình để yêu thương phục vụ mọi người. Đồng nghĩa cho đi, trở nên tặng phẩm, niềm vui cho mọi người.
“Bổn phận là giấy vào Nước Trời: Ai thực hiện ý Cha Ta trên trời, sẽ vào Nước Trời.” (Đường Hy Vọng, số 27)
Bình an nhận lại
Tỉnh thức cũng là sẵn sàng đón nhận mọi biến cố xảy đến trong đời một cách an vui. Dù biến cố tích cực hay tiêu cực, dù bệnh hoạn, đau yếu hay khỏe mạnh, sung mãn, tất cả đều là hồng ân, cũng như thánh giá Chúa gửi đến thử thách, trui luyện trên đường về quê. Cứ bình an, bình tĩnh đón nhận. Quà tặng trước khi đi xa, Đức Giêsu trao lại cho con người chính là bình an. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14, 27)
Tỉnh thức là chấp nhận tất cả những gì tha nhân gửi đến với tâm hồn thanh thản, bình an. Lời khen, tiếng chê, nhục mạ, vô ơn, lẫn lời an ủi, khuyến khích, nâng đỡ, che chở, đều có thể giúp mỗi người thăng tiến đường tâm linh, nếu biết sống theo Lời Chúa, theo quan niệm Chúa, theo đường lối Chúa.
“Gian khổ là cơm bữa của đời người. Nhưng với người Công giáo, cuộc sống của họ “loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại.” Con có sung sướng khi đọc lời ấy không?” (Đường Hy Vọng, số 710)
Cầu nguyện & Hy vọng
Trong suốt cuộc đời vất vả, tranh đấu với sự dữ, cái ác, tội lỗi, thì tỉnh thức là luôn thành tâm cầu nguyện mọi nơi, mọi lúc. Luôn kết hợp mật thiết với Đức Giêsu, để Người che chở, cứu giúp, giải thoát khỏi ba thù, khỏi thử thách khắc nghiệt, mà vui vẻ cho đi và bình an nhận lại. “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc 21, 36) Lời cầu nguyện cao quý nhất là tham dự Thánh Lễ, hầu được bổ dưỡng, thánh hóa, bằng chính mầu nhiệm Mình Máu Chúa.
“Ai trong anh em đau khổ ư? Hãy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy hát thánh ca. Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa.” (Gc 5, 13-14) Thánh Giacôbê đã chân tình khuyên nhủ trong Thư Chung.
“Chúa dạy đọc kinh, để giúp con cầu nguyện, nhưng việc chính là gặp gỡ, nói chuyện giữa Cha và con: “Khi cầu nguyện, đừng lo phải nói gì! Hãy vào phòng đóng cửa, cầu nguyện với Cha của con cách kín đáo, và Cha con thấy mọi sự, sẽ nghe lời con.” Không cần hình thức, chỉ cần tâm tình phụ tử.” (Đường Hy Vọng, số 127)
“Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài. Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống.
Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp.
Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh.
Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng.
Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng.” (Đường Hy Vọng, số 978)
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết luôn tình thức và sẵn sàng đón Chúa đến từng giây phút, từng ngày giờ. Xin Chúa hướng dẫn, chỉ bảo chúng con biết đón tiếp tha nhân, biết cho đi tất cả, yêu thương và phục vụ suốt đời. Xin Chúa ban chúng con Chúa Thánh Thần, để soi sáng, đổi mới, thánh hóa chúng con, sẵn sàng về với Chúa bất cứ lúc nào.
Lạy Mẹ Maria, khấn xin Mẹ dọn lòng trí chúng con luôn sẵn sàng đón Chúa, luôn sống cho Chúa và tha nhân, để chúng con luôn xứng đáng làm con Chúa. Amen.
25. Kêu xin và chờ mong Chúa đến
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Khi thương ai thì người ta thích đến thăm người đó. Thiên Chúa rất yêu thương loài người nên rất thích đến thăm loài người.
Ngày xưa dân Do Thái đã chuẩn bị đón Chúa đến viếng thăm họ trong một mùa vọng dài hàng bao thế kỷ. Đáp lại, Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu, Con Một của Ngài đến ở với họ và cứu chuộc họ. Ngày nay, Chúa lại muốn đến viếng thăm chúng ta, để ban cho chúng ta vô vàn ơn thánh của Ngài. Chúng ta hãy tận dụng Mùa Vọng này để chuẩn bị tâm hồn cho Ngài đến thăm chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta không xứng đáng với Chúa vì đức tin của chúng ta càng ngày càng yếu đi theo dòng thời gian.
Chúng ta cũng không xứng đáng với Chúa vì lòng mến của chúng ta ngày càng lạnh nhạt.
Nếu bất ngờ Chúa đến kiểm tra, chắc Ngài sẽ thất vọng vì chúng ta không chu toàn những bổn phận Ngài giao.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Is 63. 16b-17. 19
Đoạn này nằm trong phần thứ ba của sách Isaia (các chương 56-66). Các chuyên viên Thánh Kinh chưa nhất trí về thời gian soạn thảo của phần thứ ba này. Một số chuyên viên cho rằng phần này được soạn vào cuối thời kỳ dân Do Thái bị lưu đày bên Babylon.
Tình trạng bị lưu đày nơi đất khách quê người rất là khốn khổ. Nhưng vào cuối thời lưu đày, dân Do Thái đã ý thức rằng họ khốn khổ là do họ tội lỗi. Trong đoạn trích này, Isaia đã thay mặt dân bày tỏ 2 điều:
Một mặt, thú nhận tình trạng tội lỗi của dân: "Chúng tôi đã luôn ở trong tình trạng tội lỗi. Tất cả chúng tôi đều đầy vết nhơ"
Mặt khác, nài xin Chúa đến để tha thứ và cứu thoát họ: "Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống".
2. Đáp ca: Tv 79
Cũng là một lời van xin Chúa đến. Mặc dù ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình, nhưng dân Do Thái vẫn dám van xin Chúa đến. Cơ sở của lời kêu xin tin tưởng này là: bởi vì Israel chính là vườn nho mà Chúa đã trồng và là đoàn chiên do Ngài chăn dắt.
3. Tin Mừng: Mc 13, 33-37
Bài đọc Cựu Ước và bài Đáp ca nhắm tới việc Chúa đến lần thứ nhất (Đấng Messia đến). Còn bài Tin Mừng nhắm đến việc Chúa đến lần thứ hai (Đức Giêsu trở lại). Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu chỉ rõ thái độ cần phải có để chờ Chúa trở lại là tỉnh thức sẵn sàng (như người đầy tớ thức chờ chủ về đột ngột giữa đêm khuya). Đức Giêsu cũng cho biết lý do tại sao phải tỉnh thức sẵn sàng: vì Ngài sẽ trở lại cách bất ngờ.
4. Bài đọc II: 1 Cr 1, 3-9
Sang tới thời Hội Thánh sơ khai. Đối tượng của đoạn thư này là Giáo đoàn Côrintô, một cộng đoàn sinh động nhưng cũng gặp nhiều khó khăn nội bộ: chia rẻ, kiện tụng, luân lý suy đồi v. v.
Trước hết Thánh Phaolô nhắc họ nhớ biết bao ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Ngài muốn họ tự hiểu ngầm là trong hiện tại, họ đã không đáp lại xứng đáng những ân sủng đó. Và cũng một cách gián tiếp rất tế nhị, Ngài muốn họ tỏ ra xứng đáng hơn với những ân sủng đó, kiên trì trong những ân sủng ấy, để khi Chúa lại đến thì họ không có gì phải bị khiển trách.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Chờ đợi
Những giây phút chờ đợi là thời gian căng thẳng nhất nhưng cũng có ý nghĩa nhất. Những người yêu nhau chờ tới ngày cưới, cha mẹ chờ đứa con ra đời, gia đình chờ một người thân trở về, người lao động chờ công việc mình sinh kết quả... Trong cuộc sống hàng ngày, người ta luôn chờ đợi một cái gì đó. Khi không còn chờ gì nữa, không còn mong gì nữa thì đời kể như sắp chết.
Lịch sử Israel cũng là một cuộc chờ đợi. Chờ Đấng Messia đến thiết lập nền công chính trên trái đất này. Sự chờ đợi của Israel lên đến cao điểm khi họ bị lưu đày bên Babylon (Bài đọc 1).
Rồi Đấng Messia đã đến. Phải chăng không còn phải chờ đợi nữa? Không, mỗi người vẫn còn phải chờ đợi, chờ cho sự công chính được hoàn thành nơi bản thân mình. Bởi đó, Đức Giêsu nói "Phúc cho ai đói khát điều công chính". Đói khát điều công chính và chờ đợi công chính thực hiện chính là một mối phúc.
Mùa Vọng là thời gian chờ đợi: chờ Đức Giêsu đến thăm chúng ta vào dịp lễ Giáng sinh, và chờ Ngài đến với chúng ta mỗi ngày trong Bí tích Thánh Thể.
Chờ đợi như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay dạy: chờ đợi bằng cách tỉnh thức và cầu nguyện.
* 2. Đất sét trong tay người thợ gốm
Bài đọc I dạy chúng ta một cách tỉnh thức chờ đợi rất hay: như miếng đất sét trong tay người thợ gốm.
Trong bài đọc I hôm nay, ngôn sứ Isaia đã nói lên một sự thật: "Chúng tôi là đất sét, Còn Chúa là người thợ gốm". Sự thật này đã được sách Sáng thế nói lên ngay từ đầu (St 2, 7). Kiểu diễn tả cụ thể của tác giả sách Sáng thế và của ngôn sứ Isaia có ý rằng: con người lệ thuộc Thiên Chúa.
Sự lệ thuộc chỉ toàn có lợi. Miếng đất sét chịu lệ thuộc bàn tay uốn nắn của người thợ gốm thì sẽ trở thành những vật dụng rất hữu ích, thậm chí thành những tác phẩm mỹ thuật rất đẹp.
Vậy, tỉnh thức và chờ đợi Chúa trong Mùa Vọng là làm như miếng đất sét trong tay người thợ gốm: ngoan ngoãn vâng theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để cho Chúa uốn nắn mình thành những tác phẩm tuyệt vời đúng ý Chúa.
* 3. Mong đợi Chúa đến
Vào một ngày đẹp trời, ông già ngồi trên ghế xích đu, lòng mong đợi Chúa đến. Tình cờ, một em bé gái đang chơi banh để lọt vào sân nhà ông, cô gái chạy lại nhặt trái banh và mở lời làm quen:
- Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên chiếc xích đu này, ông đang chờ ai vậy?
- Cháu còn nhỏ quá làm sao hiểu được điều ông mong đợi.
- Có lẽ cháu nhỏ thật, nhưng mẹ cháu nói: có điều gì trong lòng thì hãy nói ra, có nói ra mới hiểu rõ hơn.
Nghe cô bé nói có lý, ông liền thố lộ:
- Ông đang chờ đợi Chúa đến.
Cô bé tròn xoe đôi mắt kinh ngạc. Ông già mới giải thích:
- Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin chắc rằng có một Thiên Chúa, ông cần một dấu hiệu cháu à!
Bấy giờ cô bé mới lên tiếng:
- Ông chờ một dấu hiệu ư? Thưa ông, Chúa đã cho ông một dấu hiệu: mỗi khi ông hít thở không khí, mỗi khi ông nghe tiếng chim hót, mỗi khi ông nhìn hạt mưa rơi. Chúa đã cho ông một dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ, trong nước mắt người đau khổ. Ông ơi, Chúa ở trong ông. Chúa ở trong cháu, không cần phải tìm kiếm, vì Người luôn ở đó.
*
"Tất cả là hồng ân". Ơn Chúa có thể đến bất cứ từ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Điều quan trọng là chúng ta biết nhận ra đó là ân ban của Chúa. Người có niềm tin nhìn tất cả chỗ nào cũng là ân sủng, và mỗi một ân ban là một cuộc "Chúa đến viếng thăm".
Bài Tin mừng đầu năm Phụng vụ hôm nay, nhắc nhở chúng ta dọn mình: đón nhận ơn Chúa trong mỗi giây phút hiện tại, chờ đón Chúa đến trong giờ chết, và trong ngày cánh chung của nhân loại.
Mùa Vọng là mùa của mong đợi. Mong đợi nào cũng làm cho con người mỏi mòn. Nhưng chính sự mòn mỏi đó càng làm cho cuộc gặp gỡ thêm nồng thắm hơn.
Thái độ cần phải có là hãy "tỉnh thức và cầu nguyện" để "nhận biết thời gian Chúa đến viếng thăm" (c. 19, 44). Nếu Chúa đã nhắn nhủ: "Hãy tỉnh thức, vì các con không biết giờ nào chủ sẽ về" thì không có lời khuyên nào khôn ngoan hơn lời Cha Charles de Foucauld: "Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay".
Nếu những cuộc viếng thăm là những hồng ân của Chúa, thì chúng ta đừng để mất những hồng ân ấy chỉ vì sự thờ ơ, thiếu chuẩn bị, không sẵn sàng. Chúng ta có quyền ước mơ, dự tính xây dựng tương lai, nhưng đừng bao giờ quên mục đích cuối cùng là phải "gặp được Chúa".
Nhưng có một sự thực này, nó rất thực, và đó là sự thực nhất trên đời là nếu chúng ta không thường gặp Chúa trong cuộc sống, thì chúng ta cũng sẽ không thể gặp Người vào giây phút cuối cuộc đời.
*
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết "tìm gặp Chúa" trong mọi ơn lành Chúa ban, trong các bí tích, trong các việc lành và trong người anh em, để chúng con sẽ gặp được Chúa trong ngày Chúa đến viếng thăm. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
4. Hãy thức dậy đi
Người ta nói rằng tôn giáo là một thứ thuốc phiện ru ngủ tín đồ. Tuy nói thế là không đúng, nhưng sở dĩ có người nói thế một phần cũng là do chúng ta: nhiều người trong chúng ta chỉ coi tôn giáo là một nơi an ủi (chỉ đến với Chúa khi gặp chuyện buồn phiền) và một chỗ bảo hiểm an toàn (đọc kinh cầu nguyện để được Chúa che chở, cứu nguy). Họ đến nhà thờ để tìm kiếm những chuyện siêu nhiên (phép lạ, ơn đặc biệt) trong khi quá lơ là với những trách nhiệm trần thế. Đạo như thế đúng là thuốc phiện và người giữ đạo như thế đúng là người đang ngủ.
Hãy đọc kỹ lại bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu đâu có bảo chúng ta ngủ, đâu có bảo chúng ta đừng làm việc. Trái lại Ngài bảo chúng ta luôn tỉnh thức làm việc. Kitô hữu giống như những đầy tớ mà Chúa là chủ đã giao cho mỗi người một việc và Ngài sẽ trở về bất cứ lúc nào để xem họ có đang làm việc đàng hoàng hay không.
Thế nhưng con người hay buồn ngủ và thường ngủ gật. Trong việc sống đạo cũng thế. Sau đây là một số lý do:
Quen lờn về tội: "Điều gì thường xảy ra thì được coi là bình thường". Thường phạm tội hay thường thấy người khác phạm tội nên quen lờn không còn thấy bị cắn rứt nữa. Bài đọc I nói đó là "lương tâm đã trở nên chai đá". Lương tâm con người thời nay đã chai đá (đã "ngủ gật") trước những tội phạm đến công bình, đến tính dục, "không còn biết kính sợ Chúa nữa".
Lười biếng cầu nguyện. Bài đọc I nói "không còn ai kêu cầu danh thánh Chúa nữa".
Cảm thấy như Chúa đi đâu xa. Bài đọc I nói "Chúa đã ẩn nấp không cho chúng tôi thấy Chúa nữa". Bài Tin Mừng thì nói Chúa như "ông chủ đi xa, để nhà cửa lại".
Dù bởi lý do nào đi nữa, điều cần thiết là mỗi người hãy biết rằng mình đang mê ngủ, hoặc ít ra là đang ngủ gà ngủ gật. Vì thế, mỗi người hãy đáp lại tiếng Chúa gọi "Hãy thức dậy đi".
5. Ngủ mê trong thói quen
Tất cả chúng ta, chỉ trừ những đứa trẻ, đều không nhiều thì ít sống theo thói quen. Người ta nói rằng chúng ta sống một nửa cuộc đời phần sau dựa vào những thói quen đã có từ nửa cuộc đời phần trước. Như thế thật có lợi cho những ai đã tập được những thói quen tốt, tuy nhiên cũng thật tai hại cho những ai đã nhiễm phải những thói quen xấu.
Một việc được lập đi lập lại nhiều lần sẽ thành thói quen, khi đó người ta sẽ làm việc đó một cách rất dễ dàng và còn khéo léo nữa. Có thể nói thói quen là bản năng thứ hai của con người.
Tuy nhiên cứ làm theo thói quen riết rồi người ta sẽ trở thành một chiếc máy vô hồn, không ý thức mình đang làm gì nữa, không suy nghĩ, không tâm tình.
Nếu bạn để một con nhái vào một bình nước nóng, nó sẽ lập tức phóng ra ngay. Nhưng nếu bạn để nó trong một bình nước lạnh, rồi đun nóng lên từ từ. Con nhái không cảm thấy gì lạ cả nên cứ ở yên trong đó. Vì nó đã quen dần nên không thấy nguy hiểm gì cả. Muốn nó nhảy ra thì cần phải lấy một cái gì đó chọc vào nó.
Với thời gian, cuộc sống đạo của chúng ta dần dần trở thành thói quen. Nhiều việc đã không còn ý thức, huống chi nhiều thói xấu đã bám rễ dần dần. Ước gì Mùa vọng là một cú chọc mạnh khiến chúng ta giật mình ý thức lại và sửa đổi cho tốt hơn.
6. Hy vọng và cuộc sống
Người ta nói rằng bao lâu còn sống thì còn hy vọng
Tuy nhiên, đúng hơn phải nói: bao lâu còn hy vọng thì còn sống.
- Hy vọng là sức mạnh
- Nó chiếu sáng những trái tim chán chường
- Nó kích thích ý muốn sinh tồn
- Nó là trợ tá đắc lực cho các bác sĩ
- Nó là khiên thuẫn che chở những thất bại
- Nó hồi sinh những lý tưởng và làm mới những ước mơ
Bao lâu còn hy vọng thì bấy lâu không tình huống nào là bất khả.
Mùa Vọng là thời gian cho chúng ta hy vọng
Và Đức Kitô chính là hy vọng của chúng ta. (Viết theo Flor McCarthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay vào Mùa Vọng, Hội thánh muốn nhắc cho ta nhớ rằng Chúa sắp đến, chúng ta phải tỉnh thức. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
1. Chúng ta cầu xin cho Hội thánh thực sự là cộng đoàn luôn tỉnh thức / để chu toàn trách nhiệm Đức Giêsu đã trao phó là làm chứng về tình yêu của Chúa / và hết lòng phục vụ con người.
2. Chúng ta cầu xin cho các nhà cầm quyền trên thế giới luôn tỉnh thức để chu toàn trách nhiệm của mình / là cộng tác với nhau để xây dựng một thế giới trong công lý hòa bình, và chia sẻ giúp đỡ nhau.
3. Chúng ta cầu xin cho những người ngủ mê trong tội lỗi / giả điếc làm ngơ với trách nhiệm của mình trong gia đình và trong đất nước / biết tỉnh thức để trở về với bổn phận của mình.
4. Chúng ta cầu xin cho cộng đồng xứ đạo chúng ta luôn tỉnh thức / để giúp nhau từ bỏ thói xấu, say sưa trễ nải / và sẵn sàng đón tiếp Chúa đến.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã trao cho mỗi người chúng con một trách nhiệm trong gia đình, trong họ đạo, trong đất nước, và dạy chúng con phải tỉnh thức... Xin Chúa giúp chúng con luôn tỉnh thức để chu toàn trách nhiệm Chúa đã trao và sẵn sàng chờ ngày Chúa đến. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
- Kinh Tin Kính: Trước câu "Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng con, Người đã từ trời xuống thế", có thể tạm dừng và đọc lại một lời của Isaia trong bài đọc I: "Ước chi Ngài xé trời mà ngự xuống"
- Trước Kinh Lạy Cha: Ngôn sứ Isaia đã ví: "Chúng tôi là đất sét, còn Chúa là người thợ gốm". Phần Đức Giêsu, Ngài cho chúng ta biết thêm Thiên Chúa chính là Cha chúng ta. Vậy chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa lời kinh Lạy Cha do chính Đức Giêsu dạy.
- Sau Kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, nhất là sự dữ nào làm cho chúng con không thấy được mặt Cha. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin Cha giúp chúng con luôn tỉnh thức để đón rước Con Cha sắp đến. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."
VII. Giải tán
Chúa là người chủ nhà, giao cho chúng ta là tôi tớ mỗi người một việc. Anh chị em hãy trở về mỗi người lo chu toàn công việc của mình trong tinh thần tỉnh thức và cầu nguyện. Chúc anh chị em bình an.
26. Mùa Vọng, Mùa của chờ mong
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Kính thưa cộng đoàn,
Chúng ta bước vào Mùa Vọng, hay còn gọi là mùa Ad. Mùa Vọng, nguyên nghĩa tiếng Latin là Adventus, (có nghĩa là đến, quang lâm). Thời thánh Giáo hoàng Grêgôriô I, thời gian chuẩn bị đón chờ Chúa đến trước lễ Giáng Sinh kéo dài bốn tuần được gọi là Mùa Vọng.
Hỏi: Chúa đã đến chưa? Chúng ta phải khẳng định với nhau rằng: Chúa đã đến rồi. Vậy chúng ta còn mong chờ Chúa nào nữa?
Mùa Vọng Giáo hội đang sống là sống với hai chiều kích: một là tưởng niệm biến cố Nhập thể làm người của Đức Giêsu Con Thiên Chúa khi Ngài sinh bởi Đức Trinh Mữ Maria; hai là chờ đợi Chúa trở lại trong vinh quang để "phán xét kẻ sống và người chết", như chúng ta vẫn đọc trong kinh Tin Kính. Đó là lý do chữ "chờ đợi" được người ta nhắc nhiều đến trong Mùa Vọng. Các lễ nghi cử hành Phụng vụ trong Mùa Vọng, từ màu sắc, các bài đọc, các bài thánh ca đều diễn tả niềm hy vọng với lời cầu xin tha thiết: “Maranatha – Ngài ơi hãy đến, Ngài đến mau đi”, và hơn thế nữa dân Do Thái kêu van: “Xin Ngài xé tầng trời mà ngự xuống”.
Vì sống cả hai chiều kích, nên người kitô hữu phải mang tâm tình của dân Cựu Ước và của chính mình ngày hôm nay.
Mùa Vọng trong Kinh Thánh
Các bài đọc Thánh lễ trong Mùa Vọng làm chúng ta nhớ đến sự mong chờ Đấng Cứu Thế đến của Dân Do Thái, Đấng mà ngôn sứ đã loan báo: "Từ gốc tổ Giêsê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa. Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở..." (Is 11, 1-10).
Phụng vụ Lời Chúa trong Mùa Vọng cũng nhắc lại việc Đức Maria cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế: thiên thần Gabriel hiện ra với Đức Maria và báo cho Mẹ biết rằng: "Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận (...) Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa." (Lc 1, 26-38)
Gioan Tẩy Giả, con trai của Êlisabét và là anh em họ với Chúa Giêsu, xuất hiện trước để loan báo việc Con Thiên Chúa đến, kêu gọi mọi người hoán cải và rao giảng rằng: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi đã làm phép rửa cho anh em nhờ nước; còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần" (Mc 1, 1.8 và Ga 1, 19.28)
Như thế, Mùa Vọng kêu gọi người kitô hữu cải hóa nội tâm. Những việc cử hành thánh thường xuyên nhắc nhở chúng ta canh tân niềm tin, vững tin vào tương lai và trở lên men giữa lòng thế giới.
Mùa Vọng
Trong lịch phụng vụ Công Giáo, Mùa Vọng kéo dài bốn tuần và mỗi Chúa nhật với tên gọi truyền thống đặc thù của nó gồm những lời đầu tiên của bài thánh ca mở đầu:
- Chúa nhật I Mùa Vọng: Ad Te levavi... (= Con nâng tâm hồn con lên tới Chúa, lạy Chúa... )
- Chúa nhật II Mùa Vọng: Populus Sion... (= Này hỡi Dân Sion...)
- Chúa nhật III Mùa Vọng: Gaudete... (= Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa...)
- Chủ nhật IV Mùa Vọng: Rorate... (= Trời cao, hãy đổ sương xuống, và làm mưa Đấng Công Chính...)
Đức Giêsu dạy chúng ta sống Mùa Vọng
Đức Giêsu đã đến rồi, nên chiều kích thứ nhất của Mùa Vọng nhắc lại cho chúng ta việc Con Chúa đến lần thứ nhất, và tỉnh thức sẵn sàng đón Người tái lâm là chiều kích thứ hai (Mc 13, 33-37).
Lời Chúa nói với các môn đệ: "Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc đó là lúc nào" (Mc 13, 33), cũng nói với chúng ta: "Điều Ta bảo cho các con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là: Hãy tỉnh thức!" (Mc 13 37). Chúa mách bảo chúng ta phải luôn trong tư thế của người được chủ: "đi phương xa, để nhà cửa lại, trao quyền hành... và căn dặn...lo tỉnh thức" (Mc 13, 34). Vì chủ về bất ngờ nên "coi chừng và tỉnh thức" là thượng sách.
Chẳng nói đâu xa, năm 2012, người ta đang dự kiến ngày tận thế là ngày 23 tháng 12 tính theo lịch của dân Maya, nhiều người trên thế giới đã lo lắng vì lời đồn đoán ấy, họ đi mua nến, mua dầu, mua mì tôm... Người ta sợ phải lìa bỏ cái thế giới thân yêu này, cho dù nó vẫn còn nhiều khổ não. Trong thời đại của chúng ta không thiếu các thiên tai, chiến tranh, bạo lực. Phải chăng đó là dấu hiệu của ngày tận thế?
Chúa Giêsu xác nhận sẽ có ngày tận thế, nhưng không phải để tan biến thành hư vô. Sẽ có những dấu hiệu làm nhiều người hoang mang sợ hãi, nhưng đối với các tín hữu, đó là dấu hiệu vui mừng vì mình sắp được cứu độ. Chúa mời gọi chúng ta: "Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ nhà trở về, hoặc là chiều tối, hoặc là nửa đêm, hoặc là lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp các con đang ngủ" (Mc 13, 35-36).
Năm Phúc Âm hóa gia đình kết thúc, năm Phúc Âm hóa giáo xứ được mở ra. Chuẩn bị lễ Giáng Sinh, mọi người trong giáo xứ tự hỏi: giáo xứ chúng ta đang chờ đợi điều gì? Trong lúc này của đời ta, con tim ta đang hướng về điều gì? Chúng ta có tỉnh thức không? Hãy thức tỉnh và cầu nguyện, để khi Đức Giêsu ngự đến lần thứ hai, Người thấy chúng ta đang tỉnh thức vì đã không uổng công trông đợi.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ "đầy ân sủng", Mẹ đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong lòng, xin giúp chúng con sẵn sàng đón Chúa Giêsu Con Mẹ.
Lạy Chúa, "xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống" (Is 63, 19). Amen.
27. Tỉnh thức – Lm Vũ Đình Tường
Tỉnh thức khác với tỉnh ngủ. Tỉnh ngủ là người lúc ngủ, ngủ rất tỉnh, một tiếng động nhỏ đủ làm cho người đó thức giấc. Người tỉnh ngủ dường như khó ngủ. Dỗ được giấc ngủ rất khó nhưng khi ngủ lại rất tỉnh. Trong khi người dễ ngủ lại ngủ say, ngủ mệt. Động đâu mặc động tôi cứ ngủ ngon. Người tỉnh ngủ hiếm có giấc ngủ ngon. Những gì hiếm thường quí vì thế người ngủ tỉnh rất quí giấc ngủ ngon. Thiếu tỉnh thức xảy đến cho cả người tỉnh ngủ lẫn ngủ ngon. Ngủ tỉnh sát cánh với khó ngủ nên hại cho sức khoẻ nhưng không hại phần tâm linh. Trong khi thiếu tỉnh thức nguy hiểm vô cùng vì hại phần tâm linh. Ma quỉ đưa ra nhiều chước cám dỗ với hy vọng khi thiếu tỉnh thức con người sa vào cạm bẫy của chúng.
Tỉnh ngủ, ngủ không được nên có đêm đọc kinh dỗ giấc ngủ. Đây không phải là hình thức cầu nguyện tốt nhất nhưng không hại vì đó là việc làm đạo đức. Ngủ không được nên đọc kinh cầu nguyện. Cầu nguyện tốt nhất là cầu xin vì lòng yêu mến, ước ao được gặp Chúa. Vì ước ao như thế nên tâm hồn thường tỉnh thức để cầu nguyện. Cầu ơn tỉnh thức để tránh cơn cám dỗ. Tránh được cám dỗ là trung thành với Chúa. Như thế có thể hiểu thiếu tỉnh thức rất dễ sa chước cám dỗ. Nói ngược lại, sa chước cám dỗ xảy ra vào lúc người đó thiếu tỉnh thức.
Không biết có phải là lí luận luẩn quẩn không nhưng rõ ràng thiếu tỉnh thức gây nên bởi thiếu cầu nguyện. Thiếu cầu nguyện nên thiếu ơn Chúa. Thiếu ơn Chúa tâm hồn trở nên chai đá. Tâm hồn chai đá là tâm hồn đi lạc đường lối Chúa. Vì chai đá nên tâm hồn không còn biết kính sợ Chúa nữa. Không tôn thờ Chúa sẽ theo tà thần, một loại chúa nào khác. Loại Chúa do chính họ tạo ra. Có thể là ý riêng hay một tạo vật nào do Chúa dựng nên. Từ bỏ Thiên Chúa sáng tạo, yêu thương để tôn thờ một thần tượng khác chính là thờ ngẫu tượng, chúa hạng hai. Tâm hồn chai đá đó đòi bằng chứng của Thiên Chúa yêu thương, sáng tạo để tin. Tiên tri Isaiah dùng hình ảnh người thợ gốm và đồ gốm để giải thích đòi hỏi trên. Cục đất sét sẽ chẳng thể nào nhận biết người thợ nặn ra nó. Tay người thợ nặn nên có, tạo cho nó hình ảnh, nâng niu nó, nhưng nó không thể nào nhận diện ra người tạo dựng nên nó. Cùng cách hiểu đó, Thiên Chúa chúng ta tôn thờ chỉ có thể nhận diện Ngài qua những hồng ân Ngài ban trong đời. Nhận biết ta có mặt trên đời không phải do ngẫu nhiên mà do Chúa tạo thành. Dù ta có nhận Ngài, thờ phượng Ngài hay không thì Ngài cũng đã dựng nên ta.
Không tai nào nghe thấy không mắt nào nhìn thấy một chúa nào khác ngoài Chúa đã dành những hồng ân cho những ai trông đợi Chúa. Is 64,4
Thiếu ơn Chúa sẽ khó chống lại cơn cám dỗ. Cơn cám dỗ đòi chứng minh Thiên Chúa hiện hữu. Sự hiện diện của ta trên đời chưa đủ sao. Trời đất biển khơi, sông ngòi cùng toàn thể vũ trụ đều theo luật tuần hoàn riêng của chúng. Ngoài ra còn bao ân huệ Chúa ban cho, như tài năng, trí nhớ, sức khoẻ, sắc đẹp. Tất cả đều có chung giải thích: do ngẫu nhiên mà có. Dựa vào ngẫu nhiên để giải thích quả là một luận cứ học đòi. Vì sao? Vì ngay từ ban đầu Thiên Chúa giáo đã giải thích Thiên Chúa tự nhiên mà có. Đây là giải thích thuyết tự nhiên nguyên thuỷ. Ngày nay với khoa học tiến bộ người ta cũng không đi xa gì hơn những gì Kinh Thánh cho biết nhiều ngàn năm trước. Người ta đồng chấp nhận vũ trụ do tự nhiên mà có nhưng khi nói đến Thiên Chúa tự nhiên mà có người ta lại đòi có bằng chứng cụ thể. Giải thích sao cho hợp lí khi người ta chối bỏ điều tự nhiên nguyên thuỷ (Thiên Chúa tự nhiên mà có) để rồi cùng chấp nhận tự nhiên thứ hai, thứ ba, (vũ trụ tự nhiên mà có).
Sa vào chước cám dỗ vì thiếu tỉnh thức. Cầu nguyện không phải chỉ đơn thuần giúp Kitô hữu liên kết với Chúa và còn là cách diễn tả tình yêu lòng mến dành cho Chúa. Cầu nguyện giúp Kitô hữu tỉnh thức, nhận thêm ơn Chúa để chống trả lại cơn cám dỗ. Chống được cơn cám dỗ giúp Kitô hữu đi đúng đường lối Chúa. Đi đúng đường lối Chúa là tâm hồn biết tôn thờ, kính sợ Chúa. Ai tôn kính Chúa sẽ được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban. Hưởng gia nghiệp Chúa vì người đó thực thi công lí, bác ái và yêu thương. Không tôn thờ Chúa là sống vô ơn vì không biết cảm tạ những ơn lành Người ban cho.
Ngày hôm nay Phúc âm kêu gọi Kitô hữu hãy tỉnh thức để bất cứ khi nào chủ về thì đã sẵn sàng vì không biết ngày nào, giờ nào chủ trở lại. Người sống tâm tình tạ ơn là người đã sẵn sàng vì lúc nào trong lòng họ cũng mang lòng biết ơn, cảm mến chân thành.
28. Khao khát Chúa – PM Cao Huy Hoàng
Mở đầu Mùa Vọng, Chúa Giêsu tha thiết kêu gọi chúng ta hãy “tỉnh thức và cầu nguyện”. "Các con hãy coi chừng, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, vì các con không biết lúc nào chủ về” (x.Mc 13, 33-37)
Mỗi người đang có một ước mơ, một khát vọng trong lòng. Có thể, không ai hiểu ai. Nhưng không ai sống mà không khát vọng. Đời người là một Mùa Vọng. Chỉ tiếc là, có những khát vọng làm cho con người ra ra hư đốn.
Chẳng hạn:
Có ai ngờ được người đang có quyền có tiền lại đang khát chia nhau một phần lợi lộc béo bở nếu cùng nhau toa rập bán được một lô đất ăn cắp. Họ bất chấp công lý, đạo đức, luật pháp, miễn là thỏa cơn khát quyền lực, cơn khát tài sản!
Có ai ngờ được người đang có nhà cao cửa rộng, xe hơi bóng loáng lại khát đổi nhà đổi xe cho sang trọng hơn giữa những người vô gia cư, bất hạnh, què quặt… đang lê la cuộc đời trước mắt mình, dưới chân mình.
Hôm nay, được mời đi chơi với các đại gia, nhìn thấy người ta quá giàu có, sang trọng, tiêu xài thoải mái, vui chơi thỏa thích, em tôi nhắn về cho tôi tin nầy: “Khi người ta quá đầy đủ, còn nhớ đến Thiên Chúa nữa không?” Lặng đi mấy phút, tôi tạ ơn Chúa vì em đang nhớ đến Chúa giữa cuộc du lịch, giữa khu du lịch ĐN ồn ào, sôi động. Tôi trả lời: “Em lầm rồi, họ chưa đầy đủ đâu. Còn khát lắm. Ai biết?”.
Có ai ngờ được người đang có một cuộc sống thiêng thánh lại khát những điều mê muội thấp hèn. Trong đó, có tôi, có bạn, có tất cả những Kitô hữu, không kể thành phần nào, vẫn không tránh khỏi nghiêng chiều về những thực tại thấp hèn, phù du, chóng vánh.
Tin mừng khai mạc Mùa Vọng nhắc nhớ cho chúng ta về khát vọng chính đáng nhất trong cuộc đời: Khát Chúa ngự trị trong căn nhà tâm hồn bé nhỏ, vì chỉ có Chúa mới làm cho chúng ta thỏa cơn khát vô biên.
“Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi. Hồn tôi mới được nghỉ ngơi an bình” (Tv 61)
Thánh Augustin: “Chúa là khát vọng của lòng tôi, tôi sẽ khắc khoải cho đến khi được an nghỉ trong Chúa”.
Có thể nói đoạn sách của Isaia và Thánh Vịnh 79, đáp ca hôm nay đã để cho chúng ta mẫu gương Khát Chúa rất quí giá:
Dân Chúa tha thiết kêu xin: “Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống” (Is. 63) để phục hồi những gì đã tàn hoang, “xin Chúa thương trở lại, tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy, bảo vệ ngành nho mà Ngài đã củng cố cho mình” (x. TV 79).
Khát vọng của Dân Chúa là một khát vọng chính đáng, một khát vọng thánh thiện: khát vọng Chúa nhìn xem, bảo vệ, củng cố công trình Ngài đã thiết lập: “vườn nho” Giáo Hội mà Chúa đã ươm trồng, “nhà cửa” linh hồn, thân xác, đức tin mà Chúa đã để lại cho chúng ta quản lý trông nom.
Như vậy,
Khát vọng chính đáng của chúng ta là khát vọng Chúa phục hồi con người chúng ta để sống đúng với danh nghĩa, với tư cách là con cái của Ngài mà chúng ta đã vì những khát vọng bất chính mà đánh mất.
Khát vọng chính đáng ấy là khát vọng Chúa đến ngự giữa tâm hồn, giữa gia đình chúng ta, cộng đoàn chúng ta, để Ngài can thiệp vào đời sống chúng ta: nhìn xem, bảo vệ, củng cố Giáo Hội cơ bản của Ngài.
Khát vọng chính đáng ấy, thiết tưởng, không phải là khát vọng đối đầu thành công với thế lực gian tà của ma quỷ, nhưng là khát vọng làm chứng cho công lý cho sự thật, thức tỉnh những con người mê muội, cải tạo những con người bị ma quỷ giáo dục sớm nhận ra uy quyền của Thiên Chúa.
Khát vọng chính đáng ấy không phải là khát vọng Chúa sẽ ra tay đàn áp những người đàn áp, Chúa sẽ phỉ nhổ nhục mạ những người phỉ nhổ nhục mạ, Chúa sẽ xử luật rừng với người chơi luật rừng… nhưng là để Chúa phục hồi lại nhân phẩm tồi tệ của những con người kia cũng là con cái của Chúa, kẻo uổng công trình Chúa cứu chuộc.
Khát vọng chính đáng ấy là khát vọng nên công chính cho mình và cho mọi người, cho xã hội, cho đất nước, cho cả những người đang chìm ngập trong bất công, gian tà, bạo lực.
Khát vọng chính đáng ấy là khát vọng tỉnh thức trước những nguy cơ làm cho chúng ta xa cách Chúa, tỉnh thức trước nguy cơ Satan hóa bản thân, gia đình, đất nước chúng ta.
Để thực hiện được khát vọng chính đáng, “Khát Vọng Chúa”, khát vọng nên công chính, Thánh Phaolô kêu gọi chúng ta: dừng chân ngay những hành vi ám muội, bất chính; xóa bất công xây bình an trong lòng; mặc lấy khí giới ban sự sống; và sống công minh như giữa ban ngày. (x.Rm 13,1-14). Bởi vì, chúng ta đã và đang có những khát vọng bất chính rồi ra dững dưng ơ hờ trước lời kêu gào thống thiết với khát vọng chính đáng của dân Chúa khắp nơi nơi.
Biết không phải dễ dàng mà chúng ta buông bỏ những khát vọng bất chính, biết đôi khi khát vọng bất chính lại len lấn ẩn tàng ngay trong những hành vi tưởng như là công chính, cho nên, Thánh Phaolô lại khuyên chúng ta hãy dùng nguồn trợ lực quí giá là ân sủng của Thiên Chúa và yên tâm, kiên vững kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô: “Vì chưng, trong Ngài, anh em được tràn đầy mọi ơn: ơn ngôn ngữ và ơn hiểu biết, đúng như Chúa Kitô đã minh chứng nơi anh em, khiến anh em không còn thiếu ơn nào nữa trong khi mong chờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tỏ mình ra. Cũng chính Ngài sẽ ban cho anh em bền vững đến cùng, không có gì đáng trách trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ngự đến”. (1 Cr 1, 3-8)
Thiết nghĩ, khao khát Chúa, mỏi mòn khao khát Chúa, tuyệt đối khao khát Chúa, khát vọng nên công chính, khát khao hết hiệp với Chúa Giêsu, là biết tỉnh thức và cầu nguyện vậy.
Cụ Chu, người xướng kinh trong nhà thờ ở Gx tôi đã yếu liệt bỏ ăn bỏ thuốc cả tuần nay. Anh em đến thăm cụ và đọc kinh xin ơn chết lành. Sau giờ kinh, chuyện trò với cụ. Cụ vui vẻ nói “Xin Chúa đến rồi, mà mấy hôm nay Chúa bận quá. Để từ từ Chúa sắp xếp. Chờ thôi. Chắc thứ sáu”. Thiết nghĩ, cụ đã làm gương cho chúng tôi về việc tỉnh thức, cầu nguyện và sẵn sàng đón Chúa đến.
Lạy Chúa, xin cho chúng con tỉnh thức trước những nguy cơ xa cách Chúa và luôn biết khát khao kết hiệp với Chúa từng phút giây trong cuộc đời, để Chúa làm chủ mọi ý tưởng, lời nói, việc làm của chúng con.
Nguyện xin Vị Tôi Tớ Chúa Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, Người đã luôn tỉnh thức cầu nguyện trong tù, phù hộ cho chúng con. Amen.
29. Phải canh thức
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Văn mạch của 13,33-37 là những loan báo ngày Thiên Chúa sẽ đến (13,24-37). Ngày của Thiên Chúa chắc chắn sẽ đến, nhưng không ai biết ngày giờ nào. Chỉ một mình Chúa Cha biết (13,32). Bởi đó, Chúa Giêsu nhắc lại điều nầy (13,33) và kêu gọi các môn đệ cách trực tiếp là hãy tỉnh thức (13,34-37). Canh thức đối nghĩa với ngủ. Canh thức để canh giữ nhà cho Thiên Chúa. Và canh thức vì Chúa sẽ trở lại, nhưng không biết lúc nào.
Để nhấn mạnh điều nầy là không ai biết ngày giờ nào Thiên Chúa sẽ đến, Marcô dùng chữ “hãy tỉnh thức”, agrupneite, nghĩa là đặt trong tình trạng báo động trước một nguy hiểm có thể xảy ra. Việc Thiên Chúa đến, hiểu theo một cách nào đó, “rất nguy hiểm” cho số phận đời đời. Nếu không đặt trong tình trạng sẵn sàng, có thể chịu chung số phận với những người tôi tớ không trung tín.
Có bốn lần lời kêu gọi các đầy tớ hãy “canh thức”, grègoreite, “thức ngủ và trong tình trạng sẵn sàng” (câu 34.35.36 và 37). Lệnh hãy canh thức đầu tiên đưa ra khi chủ vừa ra khỏi nhà (c.34), lần thứ hai giả thiết chủ đang đi xa và có thể về bất cứ giờ nào (c.35), lần thứ ba giả thiết chủ đã về tới nhà (c.36), và lần cuối cùng nói cho mọi người: tất cả hãy tỉnh thức (c.37). Vậy hãy canh thức luôn luôn, nhất là trong thời gian của bóng tối.
Điều tai hoạ nhất là khi chủ về mà “anh em đang ngủ” (c.36). Tại sao? Ngủ là ngược lại với canh thức. Trong vườn Cây Dầu, tìm thấy cả hai tình trạng nầy: Chúa Giêsu canh thức để cầu nguyện, ba môn đệ đang ngủ (14,37). Vì thế khi nguy hiểm đến, Chúa Giêsu đã sẵn sàng chịu nộp theo ý Chúa Cha, còn các môn đệ thì trốn chạy (14,41.50). Ngủ là nằm trong tình trạng không tự vệ. Kẻ thù có thể gieo vào ruộng cỏ lùng (4,27) và bão tố có thể nổi lên khi để Chúa Giêsu ngủ trong thuyền đời mình (4,38).
Vậy phải canh thức luôn. Canh thức không phải là không đi ngủ. Các trinh nữ khôn ngoan vẫn đi ngủ trong khi chờ đợi chàng rể đến (Mt 25,5). Canh thức và cầu nguyện đi với nhau như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu. Chính Người cũng phải canh thức và cầu nguyện để khỏi rơi vào cám dỗ không làm theo ý Chúa Cha. Người đã thức và cầu nguyện cho đến lúc ý Chúa Cha được thực hiện là để mình bị bắt, khởi đầu hành trình khổ nạn và chấm dứt trên thánh giá. Thức để cầu nguyện và cầu nguyện để có thể thức mà làm tròn bổn phận Thiên Chúa giao phó, và để khỏi rơi vào cám dỗ nghĩ là chủ sẽ về muộn, nên sẽ ăn uống say sưa và không còn trung tín với chủ nữa (Mt 24,48-49).
Ngày của Thiên Chúa chắc chắn sẽ đến. Sự vắng mặt của Người chỉ là tạm thời. Người đang đến, như người chủ ra đi và sẽ về, như mùa hạ đang đến khi cây vả đâm chồi non (13:28). Bởi đó hãy canh thức mà đón Người, không chỉ các môn đệ mà tất cả mọi người (13,37).
30. Người giữ cửa phải canh thức
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Hai anh em chuyên viên Kinh Thánh Bernard và Louis Hurault chú giải về đoạn Tin Mừng hôm nay như sau: “Đây là một đoạn thu gom dụ ngôn những yến bạc (Mt 25:14tt) và dụ ngôn mười trinh nữ (Mt 25, 01tt). Đoạn văn dạy chúng ta phải biết chờ đợi Chúa đến bằng cách hoàn tất công việc Người giao phó. Người giữ cửa tượng trung cho các người có trách nhiệm lãnh đạo trong Giáo Hội; họ không phải là chủ, nhưng chỉ là người nắm giữ chìa khóa của Hội Thánh”.
Quả đúng như vậy! Đối tượng trực tiếp nhất của mệnh lệnh ‘phải tỉnh thức và sẵn sàng’ mà Đức Giêsu gióng lên với tất cả tính thành khẩn chính là các tông đồ hoăc các môn đệ thâm tín nhất của Người; cho dầu sau này Người có mở rộng mệnh lệnh tới hết thảy mọi người “Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!” Chính vì thế mà khi chọn đoạn Tin Mừng này để khai mở cho một năm phụng vụ mới (năm B), Hội Thánh hầu như muốn nhắc nhở cho chính mình trước hết, rồi sau đó cho mọi Ki-tô hữu về phận vụ then chốt được Đức Ki-tô giao phó là ‘phải canh thức!’ Mười hai tông đồ trước nhất, thứ đến là những người có trách nhiệm lãnh đạo trong Hội Thánh, được Đức Giêsu ví như người giữ cửa. Ông chủ không trao chía khóa cho người giữ cửa để thi hành trách nhiệm cai quản và sắp đặt mọi việc trong nhà, vì chính ông chủ, trước khi “trẩy đi phương xa, để lại nhà, trao quyền cho các đầy tớ mình, chỉ định cho mỗi người một việc”. Việc cắt đặt và xác định phận vụ từng người trong Vương Quốc hoàn vũ thuộc về Ông Chủ, riêng với người giữ cửa, ông ra lệnh “Phải canh thức!” Như vậy phận vụ của người giữ cửa không phải để duy trì trật tự trong nhà, điều động các đầy tớ chu toàn công việc đâu ra đó. Người giữ cửa phải canh thức vì một mục đích duy nhất: ‘… khi nào chủ nhà đến: lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng…” sẽ nhận ra ông ngay và mở toang cánh cửa chờ đón… “kẻo lỡ chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ”. Thế thì đã rõ ràng: công việc chính mà Hội Thánh nói chung, và của hàng giáo phẩm lãnh đạo nói riêng, phải chu toàn chính là luôn sẵn sàng và tỉnh táo để nhận ra Ông Chủ, cho dầu Ông chợt đến bất cứ lúc nào. Các gia nhân khác đều có việc riêng của họ, duy người giữ cửa được cắt đặt để làm phận vụ này. Như vậy trách nhiệm chính của Hội Thánh phải là luôn tỉnh táo để nhận ra ngay khuôn mặt Thiên Chúa từ nhân khi Ngài đến vào bất cứ lúc nào và dưới bất kỳ hình thức nào, và mở cửa ngay để đón tiếp Người.
Và nếu ông chủ sau chuỗi ngày đi xa có trở về với một diện mạo thay đổi, mà đôi khi chỉ mình người giữ cửa mới nhận ra, thì anh lại càng phải canh chừng vì trọng trách của anh quả là quá lớn đối với mọi gia nhân trong nhà. Ông Chủ mà Hội Thánh phải canh thức và tỉnh táo chờ đón có diện mạo nhân ái và giầu lòng xót thương của một Thiên Chúa cứu độ đã được Đức Giêsu giáng thế mạc khải. Diện mạo này không một ai khác nhận ra được trừ những người đã đón nhận Tin Mừng cứu độ. Phê-rô cùng với các tông đồ, và mọi cấp phẩm trật Hội Thánh sau này, là những người giữ cửa; họ nắm giữ chìa khóa cánh cửa đón nhận Thiên Chúa cứu độ. Trách vụ này không hệ tại ở việc họ phải lo khóa kín cửa để bảo vệ ơn cứu độ khỏi mất mát, hoặc chỉ hé mở cho một thiểu số chọn lọc được lọt vào, nhưng là để nhận ra ngay Ông Chủ nhân ái và mở cửa đón ông, cho dầu ông có trở về vào bất cứ giờ nào và cải trang dưới bất kỳ hình thức nào. Hội Thánh phải canh thức và tỉnh táo để mau mắn nhận ra Thiên Chúa yêu thương để mà giới thiệu Ngài cho mọi người. Chỉ sợ người giữ cửa lúc đó quá lo toan, quá say mê sắp đặt công việc trong nhà, tâm trí bị thu hút vào các vấn đề bề bộn linh tinh khác, tựa như “… đang ngủ”, để rồi quên bẵng diện mạo độc đáo của Ông Chủ và không nhận ra khi Người đến cách bất chợt nhất. Nguy cơ này là rất lớn và có thể xảy ra cho Hội Thánh qua mọi thời đại’
Phải chăng Thánh Giáo Hoàng Gio-an XXIII và Công Đồng Chung Va-ti-can II đã muốn canh tân Hội Thánh chính ở điểm mấu chốt này, khi kêu gọi mọi Ki-tô hữu, nhất là những ai có trách nhiệm lãnh đạo trong Giáo Hội, hãy không ngừng tỉnh thức để nhận ra các ‘dấu chỉ thời đại’ như những nét chứng tỏ sự hiện diện sống động của Thiên Chúa tình yêu giữa loài người? Giữa lòng nhân loại, chỉ duy Hội Thánh có thể tỉnh táo nhận ra được khuôn mặt nhân ái của Thiên Chúa và lắng nghe được tiếng Người yêu thương mời gọi phát ra từ tất cả các ‘dấu chỉ’ đó, cho dầu đôi lúc chỉ biểu hiện toàn mặt tiêu cực như chiến tranh, thiên tai, nghèo đói, bất công… hoặc mang nặng tính thế tục như kinh tế, chính trị, truyền thông, di dân… Khả năng này trước Vatican II có lẽ đã bị suy yếu lắm rồi, ngay cả đối với nhiều vị lãnh đạo trong Giáo Hội.
Như vậy mệnh lệnh ‘phải tỉnh táo và canh thức’ cần vang vọng mạnh mẽ ra xa hơn nữa, đặc biệt phải thấu tới tai những ai được trao phó công việc ‘giữ cửa’. Sứ điệp Mùa Vọng quả là cấp thiết cách riêng cho tôi – linh mục, và cho mọi mục tử trong Hội Thánh Chúa!
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân ái, Đấng đang và sẽ đến với nhân loại bất chợt và cải trang dưới muôn hình muôn vẻ. Chúa cho con tham gia vào công việc giữ cửa để nhận ra và chào đón Chúa khi Ngài đến. Xin cho Mùa Vọng khởi đầu năm phụng vụ nhắc nhở con về việc con phải thi hành trong suốt đời Ki-tô hữu và linh mục của mình, đó là nhận ra khuôn mặt nhân ái của Chúa để đón tiếp và giới thiệu Người cho hết mọi người. Amen.
31. Sẵn sàng
Chúa Giêsu đã bảo rằng Ngài không biết ngày giờ Ngài sẽ quang lâm. Có nhiều điều Ngài giao trọn vào tay Thiên Chúa mà không hề thắc mắc. Không thể nói lời cảnh cáo và quở trách nào nghiêm trọng hơn cho những kẻ muốn tính ngày giờ cho việc Chuá quang lâm. Chắc chắn nếu chúng ta muốn truy tầm, tra vấn cho ra điều mà chính Chuá bằng lòng không tìm biết, thì chẳng những làm điều vô ích mà còn là một tội phạm thượng.
Ngày Chúa quang lâm thì ai cũng phải chấp nhận từ người khôn đến kẻ ngu dại, nhưng người khôn ngoan thì luôn sẵn sàng nghe tiếng kêu gọi. Nếu chúng ta sống và luôn luôn nhớ rõ như vậy thì kết cuộc sẽ không bao giờ kinh khủng, nhưng là niềm vui đời đời. Do đó, chúng ta cũng giống như những người đầy tớ, biết chủ mình sẽ về nhưng không biết lúc nào. Nhưng vì đã chuẩn bị đầy đủ nên không có lý do gì để sợ hãi và điều cần làm là hằng ngày chúng ta phải làm tròn công việc của mình.
Nếu xét lại cả chuỗi ngày dài, thì cuộc sống của mỗi người chúng ta, có bao nhiêu thời gian sống ở đời được chúng ta dành cho việc chờ đợi? Có sự chờ đợi làm ta căng thẳng, mệt mỏi, nhưng cũng có sự chờ đợi đem lại hương vị và ý nghĩa cho cuộc sống. Biết sống là biết chờ đợi. Và biết chờ đợi là làm nên cuộc sống.
Mùa vọng đưa ta đi vào thái độ chờ đợi đó. Chờ đợi Chúa sẽ đến trong vinh quang. Chờ đợi Chúa vẫn đến trong niềm vui và nước mắt. Chờ đợi như người giữ cửa thức trắng đêm, vì không biết giờ nào chủ trở về, chờ đợi nhưng vẫn phải chu toàn sứ mạng được giao phó. Trong bài Phúc âm hôm nay, Ông chủ đi xa đã để lại ngôi nhà, giao quyền cho các đầy tớ, mỗi người một việc, mỗi người một trách nhiệm, trách nhiệm trông coi gia đình, giáo xứ, địa phương, đất nước, và cả thế giới nơi ta đang sống. Ta được tự do hành động. Ta có trách nhiệm làm cho gia đình, xứ đạo, địa phương, đất nước, và cả thế giới được phát triển về mọi mặt. Vì thế, phải thấy những nhu cầu của anh em, và đáp ứng những nhu cầu đó. Phải nhìn thấy ý Chúa trong những trào lưu thời đại. Phải nhận biết Chúa hành động trong những tâm hồn thiện chí thuộc các niềm tin, mầu da, quan điểm khác nhau để biết cộng tác trong việc xây dựng xã hội. Phải dấn thân hy sinh phục vụ anh chị em trong quên mình...
Nhưng trong thực tế cũng không ít những người vì cuộc sống đã thấy không cần phải chờ đợi Chúa nữa, vì chúng ta có quá nhiều điều khác để đợi mong, những điều đó gần gũi hơn, thiết thực hơn, cấp bách hơn. Như cuộc sống vật chất càng ngày càng cao, cung ứng cho con người biết bao nhiêu thứ ru ngủ và đưa con người vào những cơn mê mà họ không hay biết. Với những cám dỗ của tiền bạc, tiếng tăm, tình dục, tiện nghi, của cải.... tôi phải tỉnh thức bằng cách nào đây."
Lạy Chúa, xin cho con biết thức tỉnh, và luôn sẵn sàng đón Chúa trong cuộc sống. Amen.
32. Hãy tỉnh thức – Lm Nguyễn Hồng Giáo
Chúng ta bắt đầu một năm Phụng vụ mới. Đầu mỗi năm mới, khi chúng ta mừng Tết Nguyên Đán, chúng ta lại hướng nhìn về phía trước, nhìn về tương lai với niềm hy vọng là năm mới sẽ đem lại cho chúng ta những điều tốt lành hơn. Thì đầu năm Phụng vụ mới cũng vậy, Giáo Hội mời chúng ta hãy hướng nhìn về ngày Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô sẽ đến trong vinh quang để vĩnh viễn thiết lập Trời Mới Đất Mới cho loài người chúng ta.
Có điều đặc biệt là: thường thường trong những ngày đầu năm, chúng ta cố gắng quên đi cuộc sống hiện tại với bao nhiêu khó khăn thử thách và trách nhiêm nặng nề, thì hôm nay trong ngày đầu năm Phụng vụ, trong lúc gợi lại trước mắt chúng ta quang cảnh tươi sáng về ngày Chúa quang lâm, Giáo Hội lại không muốn để cho chúng ta cứ tha hồ mà sống trong mơ ước xa xôi, nhưng trái lại Giáo Hội đưa chúng ta về với cuộc sống và trách nhiệm hiện tại của mình và nhắc lại lời căn dặên của Chúa Giêsu: Hãy Tỉnh Thức!
Bài Phúc Âm khai mạc năm Phụng vụ mới này (Mc13, 33-37) chỉ vỏn vẹn có 5 câu mà đã có tới 4 lần dùng mấy tiếng "phải tỉnh thức". Mở đầu là lời kêu gọi "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức!" Kết thúc cũng là lời kêu gọi tương tự: "Thầy nói với anh em đây và với mọi người là phải tỉnh thức!" Giữa hai lời kêu gọi đó, là một dụ ngôn ngắn kể rằng: Người kia sắp đi xa, ông để nhà lại cho đầy tớ trông coi, chỉ định cho mỗi người một việc và dạy phải tỉnh thức, vì không biết chủ về lúc nào. Sẽ không may mắn cho người đầy tớ nào, khi chủ bất thần trở về, bắt gặp còn đang ngủ mê.
Ngôi nhà mà ông chủ giao cho tôi tớ, chính là thế giới mà Đức Kitô giao cho loài người chúng ta chịu trách nhiệm. Chúng ta có bổn phận phải quản lý nó, cũng như chúng ta chịu trách nhiệm về chính cuộc đời mình và phải quản lý nó hợp với ý muốn của Thiên Chúa, theo lề luật bác ái yêu thương. Rồi ngày kia Chúa sẽ xuất hiện tỏ tường với chúng ta và Người sẽ xét xử chúng ta theo cách thức chúng ta hoàn thành trách nhiệm của mình như thế nào?
Chúng ta phải sống cuộc sống hiện tại trong sự tỉnh thức, nghĩa là không quên ngày Chúa đến (đến trong ngày tận cùng của thế giới và đến trong ngày cuối cùng của đời ta), và# vì hướng về Đức Kitô như thế mà tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cữu của mình. Trong bài dụ ngôn này--cũng như trong dụ ngôn những nén bạc mà ông chủ giao cho các tôi tớ trước khi đi xa--chúng ta đều thấy nhấn mạnh tới trách nhiệm và tính chủ động của con người trong việc xây dựng Nước Trời và xây dựng hạnh phúc của mình.
Chúa Giêsu đã đến. Rồi Người đã ẩn mình đi khỏi con mắt xác thịt của loài người. Đến ngày Quang Lâm, Người sẽ lại xuất hiện tỏ tường trước mặt muôn dân. Trong thời gian Người giấu mình đi, chúng ta nhiều khi kêu trách Người sao như muốn bỏ mặc chúng ta. Nhưng sở dĩ Chúa ẩn mình đi như thế là Người tôn trọng chúng ta, vì muốn cho chúng ta nên người trưởng thành, biết sử dụng tự do, tính sáng tạo và thi thố tinh thần trách nhiệm. Làm sao con cái có thể lớn khôn khi cha mẹ cứ bám sát vào nó, lo lắng cho nó từng ly, từng tí? Dĩ nhiên là Chúa vẫn hiện diện và lo lắng cho chúng ta, nhưng có thể nói cách kín đáo, tế nhị, không bao giờ dành mất tự do và trách nhiệm của ta.
Nếu chúng ta theo Chúa chỉ cốt để tìm an ủi hoặc tìm sự an toàn trước cuộc đời đầy đau khổ, thì chúng ta không làm đẹp lòng Chúa và làm cớ cho người ta phê bình tôn giáo là ru ngủ. Cũng vậy, nếu chúng ta theo Chúa, để rồi lẫn trốn các trách nhiệm đối với xã hội, đối với anh chị em đồng loại, tức là chúng ta làm cớ cho người ta phê bình tôn giáo kìm hãm con người trong vòng ấu trĩ.
Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời. Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại: nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết nếu số phận người tốt, người xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại vì chết rồi sẽ chẳng còn gì!
Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích. Ba là tin vào thuyết luân hồi (cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác), nếu kiếp này ta chưa đạt tới hạnh phúc thì ta sẽ chờ kiếp sau, khi ta được đầu thai lại. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.
Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của chúng ta. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc chúng ta gieo mầm mống cho đời sống vĩnh cữu. Mỗi người thỉnh thoảng nên tự hỏi mình sử dụng thời giờ như thế nào?
Người kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ. Đồng thời người kitô hữu luôn luôn hướng về Đức Kitô sẽ đến kiện toàn công cuộc cứu độ, họ biết rằng thế gian này, tuy là rất tốt đẹp, nhưng không phải là quê hương vĩnh cữu của mình. Họ sống cuộc đời trần gian cách hết sức nghiêm chỉnh như thể là sẽ mãi mãi ở đây (vì đó là Thánh ý của Chúa); đồng thời họ sẵn sàng rời bỏ mọi sự bất cứ lúc nào Chúa đến gọi họ ra đi.
Người kitô hữu giống như người học trò tốt ở trong ký túc xá. Suốt tuần anh ta học hành rất chăm chỉ, anh ta không làm biếng, không ngồi đó mà mơ mộng viễn vông, nhưng cuối tuần khi cha mẹ đến đón về nhà, thì anh ta càng vui sướng# Việc trông chờ ngày nghỉ cuối tuần trong gia đình không làm cho anh ta sao nhãng việc học hành, trái lại tăng thêm nghị lực cho anh ta.
Thời gian Mùa Vọng là thời gian Giáo Hội đặt chúng ta lại trong thái độ hy vọng, mong chờ và tỉnh thức. Người tỉnh thức là người luôn cố gắng và hăng say, họ thực thi những gì là chân thật, ngay chính và đáng quý chuộng, với tất cả nhiệt huyết, nổ lực cần cù và không trì hoãn. Đây là thời gian Giáo Hội muốn chúng ta sống hướng về ngày giờ Đức Kitô đến một cách ý thức hơn.
Khi chúng ta làm việc mà biết hướng về Đức Kitô thì chắc chắn có một cái gì đó thay đổi trong thái độ và cách thức làm việc của ta. Khi chúng ta đau khổ màbiết hướng về Đức Kitô thì sẽ có cái gì đó thay đổi. Khi chúng ta chiến đấu mà biết hướng về Đức Kitô thì cũng sẽ có cái gì đó thay đổi. Ngay cả khi ta vui chơi, giải trí cũng thế. Và trong mọi sự, mọi hoàn cảnh chúng ta đều có sự bình an.
Người ta kể chuyện rằng ngày kia Thánh Lu-y Gonzaga còn chơi với bạn bè, thình lình cha bề trên đến tập họp tất cả lại và hỏi thử: "Giả sử như chúng con đang chơi mà Chúa đến báo cho chúng con biết chúng con chỉ còn sống 5-10 phút nữa thôi, thì chúng con sẽ làm gì?". Bấy giờ mọi người bổng trở nên căng thẳng. Người thứ nhất trả lời: " Con sẽ đi gặp cha linh hướng" Người thứ hai nói:"Con sẽ vào nhà thờ cầu nguyện trước Nhà Tạm". Riêng Lu-y vẫn bình thản trả lời:" Thưa cha, con sẽ tiếp tục chơi".
Đó là câu trả lời của một đấng thánh và đáng lý mỗi người kitô hữu đều phải có thể trả lời như thế. Chơi đùa, giải trí cũng làm đẹp lòng Chúa nếu đó là việc phải làm theo nhu cầu đúng đắn hoặc theo bổn phận. Vậy không phải chỉ bằng đọc kinh, cầu nguyện, mà bằng cả yêu thương, đau khổ, lao động, nghỉ ngơi, giải trí, nghĩa là bằng cả cuộc đời mà chúng ta đón chờ Chúa và chuẩn bị cho hạnh phúc đời đời của chúng ta.
33. Câu chuyện cảnh giác
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống hôm nay chỉ cần mất cảnh giác một chút là có thể thiệt thân. Bởi vì chúng ta phải đối mặt với nhiều yếu tố có thể xâm hại đến sức khỏe, an toàn và tài sản của bản thân, như vệ sinh an toàn thực phẩm, an toàn giao thông, các vấn đề an ninh, trộm cướp….
Có một người kể rằng: một hôm ông ta đang ở nhà thì có một người trung tuổi lạ mặt đến gõ cửa, nói là xe ô tô của ông ta hết xăng rồi. Nhưng mà trạm xăng cách đây quá xa, xe nặng quá không thể đẩy được, nên hỏi mượn tôi một cái chai không để đi mua xăng. Rồi nói sẽ trả tiền cho cái chai không đó. Tôi liền vào nhà tìm một cái chai không đưa cho ông ta. Ông ta liền rút từ trong túi ra tờ 500 nghìn, nói là không có tiền lẻ rồi bảo tôi thối lại. Tôi có chút nghi ngờ nên bảo ông ta thôi không cần trả tiền dù sao cũng chỉ là một cái chai không. Ông ta thấy tôi không cắn câu nên lủi mất.
Điều này tôi đã làm vì cảnh giác, vì có thể tiền này là tiền giả, có thể sẽ bị lừa đổi tờ tiền giả lấy một tờ tiền thật! Hoặc có thể thuốc gây mê đã được ướp vào đồng tiền!
Xem ra cuộc đời thật đáng sợ. Đáng sợ vì chẳng biết tin ai, vì ai cũng có thể làm hại đến mình. Cho dù là người thân vẫn có thể sát hại lẫn nhau chỉ vì một quyền lợi nho nhỏ hay hiểu lầm một chút cũng dẫn đến tàn nhẫn với nhau. Có biết bao lời ta thán buồn cho cuộc đời khi phải thốt lên: “thật không ngờ!”. Không ngờ tại sao sự dữ lại hoành hành tàn bạo, mạnh mẽ như ngày hôm nay? Không ngờ bạn bè chí thân lại phản bội chúng ta?
Chúa Giêsu luôn nhắc nhở chúng ta phải tỉnh thức. Tỉnh thức với thái độ của người làm công luôn tận tụy trong công việc, bổn phận của mình. Tỉnh thức với thái độ làm việc có trách nhiệm với bản thân, với gia đình và xã hội. Mỗi người chúng ta sinh ra đều có một bổn phận trong cuộc đời. Thiên Chúa như ông chủ đã giao cho chúng ta một công việc phải thi hành. Công việc kết thúc khi nào không tùy thuộc vào bản thân chúng ta mà tùy thuộc vào việc ông chủ muốn tính sổ với chúng ta. Thiên Chúa như ông chủ giao việc rồi trẩy đi phương xa và Ngài sẽ trở về một cách đột ngột, bất ngờ. Ông chủ sẽ đòi chúng ta tính sổ cuộc đời để xem chúng ta có thực sự dùng thời giờ, khả năng cho công việc của ông chủ hay mải mê chạy theo những dục vọng mà bê tha bổn phận. Ông chủ sẽ vui khi thấy chúng ta đang làm việc có trách nhiệm. Và ông cũng rất buồn nếu thấy đầy tớ đang mải mê chạy theo những ảo ảnh trần gian.
Thế nên, điều quan yếu là chúng ta phải luôn cảnh giác. Sự cảnh giác không theo kiểu sợ hãi ông chủ trở về đột ngột, mà cảnh giác để chúng ta đừng chạy theo những cám dỗ của danh lợi thú mà sao lãng bổn phận với Thiên Chúa. Ma qủy luôn rình rập chúng ta. Ma quỷ luôn gieo vào chúng ta thái độ ú lì trong công việc. Nó khuyến dụ chúng ta đi vào đam mê trần gian. Nó bảo với chúng ta cứ vui chơi vì thời gian còn dài, đường đời còn dài nên hãy “cứ vui xuân kẻo xuân hết rồi”. Nhiều người đã sa vào vòng xoáy của đam mê do ma qủy bày ra. Nhiều người đã chết vì mất cảnh giác mà tin vào lời dụ ngọt của ma quỷ.
Mùa vọng là mùa của hy vọng, của đợi chờ ông chủ sẽ trở về. Thiên Chúa là ông chủ đã giao cho chúng ta vô số công việc ở trần gian này. Ngài đòi chúng ta phải tận tụy trong công việc. Ngài đòi chúng ta phải làm việc hết mình và đầy đủ trách nhiệm. Điều mà chúng ta cần lưu ý là không biết bao giờ chủ về, ông chủ sẽ đòi chúng ta tất toán cuộc đời vào lứa tuổi nào trong cuộc đời chúng ta. Thế nên, sự khôn ngoan nhắc nhở chúng ta luôn tỉnh thức để khỏi sa vào cám dỗ của lười biếng, của hưởng thụ mà quên bổn phận Chúa trao.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn canh phòng tỉnh thức trước những sức lôi cuốn, hấp dẫn của danh lợi thú mà ma quỷ bày ra hòng làm hại cuộc đời chúng ta. Amen.
34. Có mắt mà không thấy
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
“Mắt lợn luộc” là hình ảnh thân quen ở vùng quê xưa. Khi giết một con heo xong thì phải nấu nước sôi nhúng vào để làm lông. Mắt con heo lúc đó mở thao láo có vẻ vẫn "ngước mắt nhìn đời, nhìn đổi thay ta buông tiếng cười" mà thực ra nó chẳng còn thấy gì! Dân gian cũng dùng câu nói “mắt lợn luộc’ để ám chỉ những người đểnh đoản, hấp tấp chẳng ngó trước ngó sau nên hay vấp té vào người khác, có khi còn đổ bể đồ đạc.
Rất nhiều khi trong cuộc sống chúng ta cũng nhìn mà chẳng thấy, nghe mà không hiểu. Mắt vẫn mở nhưng chúng ta lại không thấy cái hay, cái tốt đang ở bên ta. Rất nhiều khi chúng ta đã không thấy cái đẹp nơi người thân để rồi khi xa nhau mới thấy tiếc nuối vì “đã không nhìn thấy núi Thái Sơn” ngay trước mặt của mình.
Có đôi vợ chồng kia lấy nhau được 10 năm. Họ sống thời gian đầu rất hạnh phúc, nhưng sau đó người chồng lao đầu vào công việc mà bỏ bê vợ con. Anh thường đi làm việc rất sớm và thường phải nán lại làm thêm mới hết việc. Về đến nhà thì thân xác và tâm hồn đều mệt mỏi chả còn hơi sức đâu mà để ý đến vợ con.
Thời gian trôi qua cho tới khi vợ bị bệnh anh mang đi nhà thương mới biết vợ không còn sống bao lâu vì căn bệnh ung thư ác tính. Anh muốn dành thời gian cho vợ, nhưng thời gian đã không còn, vợ anh đã bỏ ra đi sau những ngày cô đơn ngay chính mái ấm gia đình của mình.
Điều đáng tiếc là khi sống bên nhau, ta không chỉ bỏ rơi người bạn đời mà có khi còn làm đau lòng nhau vì những cãi vã, tranh chấp hơn thua. Có một ông lão tuy lớn tuổi, nhưng ông vẫn đi làm. Nhiều người hỏi tại sao không nghỉ ngơi để tĩnh dưỡng tuổi già, ông trả lời: Ở nhà thì vợ chồng suốt ngày chẳng còn chuyện gì nói, chỉ cãi nhau... nhiều khi đối đáp những lời thật chua cay...
Có lần hai vợ chồng cãi nhau, ông quay ra bảo: “Bà phải biết lấy được tôi là bở lắm đó!”... Bà trả lời ngay lập tức: “Bở chứ sao không bở... Bở như vôi vậy mà!...” Có lần bà lái xe, ông ngồi sau; thấy bà lái xe suýt gây tai nạn, ông liền nói gắt: “Lái xe gì mà ngu như vậy!...” Bà phản pháo ngay: “Ðúng rồi, ngu chứ sao... Có ngu thì mới lấy người chồng như ông!...” Có lần hai ông bà bàn chuyện lấy vợ cho con trai, bàn luận với nhau mãi, ông bực mình nói lớn: “Thôi, nó muốn lấy ai thì lấy, miễn là không lấy phải người như bà là được rồi!... Bà liền nổi nóng: “Ừ, thế mà ngày xưa cũng có kẻ cứ cố mà nhào vô đấy!...” Đêm khuya, ông cảm thấy mệt mỏi và đi vào phòng ngủ…bà vẫn chưa tha, chạy vào la: ông ra ngoài này để tôi nói, chứ bộ tôi nói cho cài cột nghe sao?...
Thế nhưng khi ông bệnh hoạn nằm một chỗ, thì bà lại tỏ ra thương hại và chăm lo thuốc men rất chu đáo cho đến khi ông qua đời. Lúc đó, dù bà không khóc, nhưng thật buồn!... Lo đám tang cho chồng xong, bà sống như đã chết đi với chồng... Lúc nào cũng khóc thương kể lể về những điều hay điều tốt về chồng cho con cháu nghe, và cuối tuần nào cũng bắt con cháu cùng ra thăm mộ chồng...
Mùa vọng mời gọi chúng ta: Hãy thức tỉnh. Hãy mở mắt để nhìn và nhận ra điều mà mọi khi vẫn nhìn mà chẳng thấy. Cũng có nghĩa là bỗng nhận ra mình đang bị mù một cách nào đó. Bao nhiêu điều lạ lùng trong cuộc sống mà mình nhìn nhưng không thấy. Nhất là sự hiện diện của Đấng Emanuel hằng ở cùng chúng ta, thế mà chúng ta đã không nhận ra Người nên cuộc đời ta vẫn buồn. Tâm hồn vẫn nặng trĩu lo âu.
Nếu con mắt đức tin giúp nhận ra Chúa đang ở cùng chúng ta thì cuộc đời sẽ vui hơn. Như hai môn đệ Emmau đã bừng lên niềm vui khi nhận ra khách bộ hành chính là Đức Giêsu đã phục sinh. Nếu người chồng biết nhận ra vợ chính là sự hiện diện của Chúa thì hẳn anh sẽ trân trọng từng giờ khi còn ở với nhau, chứ không chờ khi ốm đau mới hối tiếc. Nếu người vợ nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi chồng thì đã không có những khẩu chiến gây đau khổ cho nhau mà chỉ biết “chín bỏ làm mười” để mang lại hạnh phúc cho nhau.
Ước gì, chúng ta luôn biết nhận ra Chúa đang hiện diện nơi đây, lúc này, trong cuộc sống hằng ngày để chúng ta luôn vui tươi lạc quan dầu cuộc đời vẫn còn đó những khó khăn. Xin Chúa mở mắt để chúng ta có thể nhìn và tin nhận ra Chúa nơi tha nhân và bạn bè. Amen.
35. “Hãy tỉnh thức kẻo thiệt thân”
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Người Việt Nam có câu “khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”. Câu này phải là lời cảnh tỉnh cho thái đô sống của chúng ta. “Hãy biết mình, biết người thì mới mong được sống yên ổn, bình an”. Thực vậy, giữa cuộc đời hôm nay đang cạn kiệt chân lý và sự thật thì làm sao dám tin người, tin đời? Thử hỏi, có gì đáng để chúng ta tin ở xã hội hôm nay? Niềm tin đã bị đánh mất bởi biết bao trò gian dối trong nhiều hoạt động từ truyền thông cho tới giáo dục đều đầy dãy trò lừa bịp, gian lận? Thử hỏi có gì đáng tin khi mà người ta đề cao đồng tiền đến mức độ đang tâm lại hại người khác như hàng loạt các đồ dùng giả và kém chất lượng đang bầy bán trên thị trường? Điển hình trong các vụ nổi cộm như: chuyện kem đánh răng giả, đồ chơi trẻ em có chất độc làm hại sức khoẻ trẻ em, chuyện bánh bao nhân làm bằng giấy cạc tông, gạo bằng nhựa... Rồi đến chuyện kẹo trộn bột đá bán ra hàng tấn. Đáng ghê sợ là vụ sữa sữa Tam Lộc của Trung Quốc làm chết 3 trẻ em và bịnh 6.200 em khác ở Trung Quốc. Đó là một xì căn đan, một cú sốc toàn xã hội mà chúng ta đang phải gánh chịu. Theo dõi tình tiết nội vụ, người dễ tính nhất cũng phải buộc miệng kêu lên: “Mấy người sản xuất và buôn bán sao mà ác quá vậy, trẻ em có làm chi nên tội, sao nỡ vì tiền mà giết hại trẻ em!”
Đó là những chuyện gián tiếp hại người, còn trực tiếp vẫn đầy dãy sự tráo trở, gian manh, mất tính người đang diễn ra hằng ngày trong cuộc sống chúng ta. Trớ trêu thay niềm tin đã bị đánh mất giữa người với người ngay tại gia đình, ngay giữa những người ruột thịt vẫn còn đó sự rạn nứt của lòng tin.
Theo dõi tin tức hằng ngày chúng ta có thể thấy: “Hàng loạt vụ vợ giết chồng, con giết cha, anh em trong gia đình gây án mạng với nhau... đã xảy ra trong thời gian gần đây và gây bức xúc trong dư luận xã hội.” Báo Pháp Luật Việt Nam ngày 8 tháng 7 nói như vậy và đặt câu hỏi “Chuyện gì đã xảy ra với ‘tế bào xã hội’ của chúng ta?”
Báo này nêu một số vụ án tiêu biểu như người phụ nữ 38 tuổi ở Pleiku, Nguyễn Hồng Linh, can tội giết chồng. Không phải người chồng không lo làm ăn, không chăm sóc gia đình mà chính người vợ ngoại tình, đẻ 2 con “ngoài luồng” lại còn nhẫn tâm đầu độc cho chồng chết.
Một trường hợp khác, Bùi Văn Hình, 38 tuổi, đã giết cha ruột ở tỉnh Hòa Bình.
Theo http://www.nguoiduatin.vn, bé Vũ Quốc Linh, 3 tuổi, bị chính cha ruột tẩm xăng đốt khiến bé bị bỏng toàn thân và thương tật đến 86%. Một chuyện thật mà cứ ngỡ chỉ có trong phim ảnh hoặc chuyện viễn tưởng.
“Hổ dữ không ăn thịt con”, vậy mà một người cha lại có thể nhẫn tâm thiêu sống con mình và bỏ mặc con nhỏ kêu gào thảm thiết trong ngọn lửa nóng bừng. Người cha đó không còn nhân tính, không xứng đáng mang danh “người cha”. Người dưng nước lã cũng không nỡ hành xử với đồng loại như vậy!
Đó là một quang cảnh xã hội xem ra đang mất dần tính người để cho thú tính lộng hành! Làm sao chúng ta có thể có niềm tin nơi nhau khi mà xã hội đầy dãy sự lừa đảo, lưu manh, gian ác đang len lỏi vào từng gia đình, từng đoàn thể, và xã hội? Sống giữa xã hội hôm nay kẻ khôn ngoan phải tỉnh thức đề phòng kẻo thiệt thân mình, mà ân hận cả đời nếu quá tin người. Sống trong xã hội hôm nay chúng ta chớ có quá tin người kẻo thiệt vào thân. Hãy tỉnh thức để chúng ta không bị người khác lợi dụng, hãm hại. Hãy tỉnh thức để chính chúng ta đừng để cho thú tính nổi loạn khiến chúng ta không tự chủ bản thân, dẫn dến hành động đánh mất tính người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức trước thái độ sống của mình. Chúng ta phải trả lẽ trước mặt Chúa về hành vi của chúng ta, về sự liên đới trách nhiệm của chúng ta với tha nhân. Thiên Chúa như một ông chủ đi phương xa trao cho chúng ta quản lý cuộc đời nhưng không phải theo ý mình mà là theo ý Thiên Chúa. Thiên Chúa còn trao ban cho chúng ta quản lý ngôi nhà vũ trụ để làm sao cho mọi người trong ngôi nhà này đều có quyền hưởng an bình thịnh vượng. Vì thế, chúng ta không có quyền vì sự tư lợi và quyền lợi của mình mà dùng quyền để chiếm đoạt tài sản của người khác. Chúng ta không có quyền vì hạnh phúc bản thân mình mà hành động thiếu công bằng bác ái với tha nhân. Chúng ta càng không có quyền sống lỗi công bình, bác ái chỉ vỉ thói tham lam giả hình của mình. Chúa sẽ đòi lại công bình. Chúa sẽ đến để lập lại trật tự đã bị đảo lộn bởi tội lỗi, để hàn gắn lại những đổ vỡ do tội lỗi gây ra. Chúa bảo chúng ta đừng mê ngủ trong đam mê lầm lạc, trong ảo ảnh của trần gian. Cuộc sống này rồi cũng qua đi. Những của cải chúng ta chiếm được bằng sự phi nhân thất đức rồi cũng “của thiên trả địa”, khi mà chúng ta nhắm mắt xuôi tay. Hãy tỉnh thức để sống đúng với phẩm giá con người là “nhân chi sơ tính bản thiện”, đừng sống gian ác, đừng buông mình theo thói đời tội lỗi, đừng thả trôi theo đam mê xác. Hãy tỉnh thức để sống theo luân thường đạo lý, theo đường ngay chính của chân, thiện, mỹ. Hãy tỉnh thức để chúng ta luôn hành động như con cái sự sáng để nhờ đó, giờ Chúa đến chúng ta tràn ngập hân hoan vì luôn trung thành sống cho Chúa.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để chúng ta sống nghiêm túc trong lời nói, việc làm của mình luôn đi theo lề luật của Chúa, hầu xứng đáng là người quản lý trung thành và tận tuỵ của Chúa. Amen.
36. Tỉnh thức trong an vui
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
1. Tỉnh thức để nhận ra điều dữ.
Nói đến “tỉnh thức”, người ta thường liên tưởng ngay đến điều ngược lại, đó là “ngủ mê”. Khi nói đến “ngủ mê”, thường người ta nghỉ ngay đến cơn ngủ mê thể lý.
“Đêm tối của vật lý” thường là nguyên cớ cho những điều xấu xảy ra. Cụ thể là chuyện trộm cắp cùng với những việc bất chính. Người ở trong đêm tối không biết cách “giữ cho mình tỉnh thức”, chỉ biết ngủ vùi miên man, thì không thể an toàn được.
“Đêm tối tâm hồn” còn đáng sợ gấp vạn lần hơn. Vì “đêm tối tâm hồn” không có màu đen rõ rệt trong không gian và thời gian, không có sự phân biệt hay báo trước của ngày và đêm. Nhiều người đang ngủ vùi trong “đêm tối tâm hồn” mà vẫn tưởng mình đang ở trong ánh sáng. Từ đó, mới có sự lầm đường lạc lối. Nhiều người lao mình vào chỗ chết như những con thiêu thân, nhưng vẫn tưởng mình đang sống trong hạnh phúc. Nhiều chế độ đưa người dân đến chỗ cùng khổ, mà vẫn tự hào là chính nghĩa, nhiều thế lực đưa nhân loại đến họa diệt vong, mà vẫn cao rao nhân danh Công Lý!
Đạo đức suy đồi, phẩm giá con người bị hạ thấp, lối sống nô lệ bản năng… Đó là sự mê ngủ trong đêm tối tâm hồn.
Đó là những kẻ ngủ mê không còn thấy được những điều bất hạnh!
2. Tỉnh thức để nhận ra điều lành.
Cuộc sống là cuộc hành trình tìm về hạnh phúc. Nhiều kẻ “ngủ mê” không hay biết những điều độc hại đang xâu xé tâm hồn, nhưng cũng có nhiều người ngủ mê không hay biết những điều hạnh phúc đang ở quanh ta, và có khi ở ngay trong chính ta.
Cứ lo nghĩ đến những điều xấu để tránh, mà không biết khám phá những hạnh phúc đích thực để tận hưởng làm sao ta vui sống?
“Tỉnh thức” không phải là lời răn đe, hù dọa, nhưng là một thái độ đi tìm lẽ sống đích thực. Vì Tin Mừng luôn là Tin Vui và là niềm hy vọng, và Tỉnh Thức, do đó, là Tỉnh Thức trong An Vui vì tin vào Tình Yêu của Thiên Chúa.
Có một câu chuyện vui thế này:
Có một cậu bé muốn được gặp Chúa. Cậu biết rằng phải đi cả một quãng đường rất dài mới có thể đến được nơi ở của Người, nên gói ghém mang theo bên mình những chiếc bánh Twinkie và cả sáu hộp nước trái cây, rồi bắt đầu cuộc hành trình.
Khi qua được khoảng ba dãy phố, cậu gặp một bà lão. Bà đang ngồi trong công viên, lặng nhìn đàn chim bồ câu đang ríu rít trước mặt. Cậu bé ngồi xuống cạnh bà và mở túi xách của mình ra. Cậu định uống một hộp nước trái cây, nhưng chợt để ý đến bà lão có vẻ đói, nên không ngần ngại mời bà một chiếc bánh. Bà cầm lấy và mỉm cười với cậu. Nụ cười của bà tươi tắn đến nỗi cậu bé muốn trông thấy một lần nữa, thế nên cậu mời bà một hộp nước trái cây. Bà lại cười với cậu. Cậu bé cảm thấy rất vui sướng!
Cả buổi chiều, hai bà cháu cứ ngồi bên nhau, vừa ăn, vừa mỉm cười, nhưng không nói với nhau lời nào.
Khi trời bắt đầu sẩm tối, cậu bé cảm thấy mệt nên đứng dậy ra về. Đi được một lúc, cậu quay trở lại, chạy đến bên bà và ôm bà. Bà cười với cậu – một nụ cười đẹp nhất mà cậu từng được thấy.
Cậu bé bước vào nhà, mẹ cậu rất đỗi ngạc nhiên vì nét mặt tươi tắn hân hoan của cậu. Bà hỏi: “Hôm nay có chuyện gì mà trông con vui thế?”.
Cậu trả lời: - “Con đã ăn trưa với Chúa mẹ à! Mẹ biết không, Người có nụ cười tuyệt nhất mà con từng thấy!”
Trong khi đó, bà lão cũng về tới nhà, khuôn mặt rạng rỡ niềm vui.
Con trai bà lấy làm ngạc nhiên trước niềm hạnh phúc rạng ngời trên gương mặt bà: - “Mẹ ơi, hôm nay có chuyện gì khiến mẹ vui đến thế?
Bà hân hoan: - “Mẹ ăn bánh Twinkie trong công viên với Chúa. Con biết không, Người còn bé hơn là mẹ nghĩ nữa cơ đấy!”.
3. Tỉnh thức trong an vui.
Để không còn ngủ mê, để thức tỉnh đúng ý nghĩa, ta cần Ánh Sáng Tin Mừng soi rọi vào mọi ngỏ ngách cuộc đời, vào mọi ngỏ ngách tâm hồn ta. Và như thế, có nghĩa là ta luôn “Tỉnh Thức và Cầu Nguyện”
Tỉnh thức để tránh cạm bẫy kẻ thù và được vui mừng đón tiếp Chúa viếng thăm ta. Nếu tỉnh thức chỉ để tránh được cạm bẫy kẻ thù mà không được đón tiếp Chúa, thì tỉnh thức đó chẳng có ý nghĩa gì. Đó là một sự “an toàn” vô nghĩa!
Trong một cuộc tập dượt tác chiến, viên sĩ quan chỉ huy dặn dò:
- “Trong khi lâm trận, các anh em phải biết ngụy trang. Ngụy trang càng tốt, mức an toàn càng cao! Ngụy trang sao cho “địch không thể thấy ta mà ta thấy địch”.
Và các tân binh bắt đầu ngụy trang để tập trận.
Sau cuộc tập trận, khi điểm danh, thiếu một anh chiến sĩ. Đồng đội chia nhau đi tìm.
Cuối cùng, họ cũng tìm ra anh lính “mất tích” đó. Nguyên nhân là anh tân bình này ngụy trang quá sức kỹ, kỹ tới mức “Địch không thấy anh, mà anh cũng không thấy địch!”. Anh nằm “an toàn” trong cái ổ ngụy trang kín mít của anh, không thấy gì bên ngoài, nên không hay biết cuộc tập trận đã kết thúc rồi!
Lạy Chúa,
Xin cho con biết chuẩn bị những gì cần thiết nhất,
trong tận đáy lòng con,
để tiếp rước Chúa,
với niềm vui vô tận.
Cho môi miệng con biết tung hô:
“Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en
đã viếng thăm cứu chuộc dân Người”. Amen.
37. Mong đợi ngày Chúa đến
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Hôm nay chúng ta bắt đầu một năm Phụng vụ mới. Năm phụng vụ bắt đầu từ ngày Chúa nhật I Mùa Vọng.
Mùa Vọng là mùa trông đợi. Trước mắt chúng ta trông đợi Chúa đến trong ngày lễ Giáng sinh với tâm hôn vui tươi và đạo đức sau bốn tuẫn lễ đã chuẩn bị kỹ càng.
Như thế cũng chưa đủ, nhân bầu khí của Mùa Vọng này, Giáo hội hướng lòng ta về ngày quang lâm của Chúa, Ngài sẽ đến trần gian lần thứ hai để xét xử kẻ sống và kẻ chết.
Ngoài ra, chúng ta cũng còn phải trông đợi Chúa đến với chúng ta trong ngày sau hết của đời mình. Vì thế, Giáo hội muốn dựa vào bài Tin mừng hôm nay để nhắc nhở chúng ta là Chúa sẽ đến với ta cách bất ngờ, thái độ của chúng ta là phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi Chúa đến.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 63, 16-64,7.
Dân Israel đã ký Giao ước với Thiên Chúa tại núi Sinai qua trung gian ông Maisen nhưng rồi dân lại bất trung, phá vỡ Giao ước để đi thờ thần dân ngoại. Do đó, Thiên Chúa đã trao dân vào đạo quân của vua Nabuchodonosor: thành Giêrusalem bị phá hủy, dân bị bắt đi lưu đầy ở Babylon. Tình trạng lưu đầy nơi đất khách quê người rất khốn khổ. Nhưng vào cuối thời lưu đầy, dân Israel đã ý thức rằng họ khốn khổ là do họ tội lỗi, đã phản bội Chúa. Tiên tri Isaia đã dùng ngòi bút của mình ghi lại lời kêu van đầy cảm kích trong cơn khốn khổ:”Xin Chúa hãy đến cứu giúp dân Ngài”.
Isaia đã thay mặt cho dân chúng bầy tỏ đôi điều:
a) Thú nhận tình trạng tội lỗi của dân: Chúng tôi đã luôn ở trong tình trạng tội lỗi. Tất cả chúng tôi đều đầy vết nhơ.
b) Xin Chúa hãy tha thứ tội lỗi. Xin đến cứu thoát:”Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống”.
+ Bài đọc 2: 1Cr 1, 3-9.
Sau khi đã nhận được Tin mừng do thánh Phaolô rao giảng, tín hữu Côrintô đã tỏ ra mình là một cộng đoàn sinh động, có những tấm lòng sốt sắng và chân thành. Tuy thế, họ cũng gặp nhiều khó khăn nội bộ: chia rẽ, kiện tụng, luân lý suy đồi...
Thánh Phaolô nhắc nhở họ hãy nhớ đến bao ân sủng của Thiên Chúa đã ban cho họ. Tuy nhẹ nhàng khiển trách họ nhưng ngài khuyên họ hãy tỏ ra xứng đáng hơn với những ân huệ đó và hướng dẫn họ nhìn tới ngày trở lại của Đức Kitô và mời gọi họ chuẩn bị đón chờ ngày đó, nhờ thái độ kiên trung trước mọi thử thách.
3. Bài Tin mừng: Mc 13,33-37.
Trong bài Tin mừng này, Chúa Giêsu báo trước cho tất cả các môn đệ là Ngài sẽ trở lại trần gian này cách bất ngờ. Để dễ hiểu, Ngài đưa ra dụ ngôn về người đầy tớ phải canh cửa để đón chủ về bất cứ lúc nào. Do đó, Chúa Giêsu chỉ rõ thái độ cần phải có để chờ Chúa trở lại là Tỉnh thức sẵn sàng như người đầy tớ thức chờ chủ về đột ngột giữa đêm khuya. Dụ ngôn người canh cửa giúp ta có thái độ cảnh giác chống lại tình trạng mê ngủ thiêng liêng đe dọa mọi người chúng ta. Mùa Vọng là mùa canh thức và sẵn sàng chờ đợi.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Đợi chờ trong tỉnh thức và sẵn sàng.
I. MÙA VỌNG TRONG ĐỢI CHỜ.
1. Dân Israel đợi chờ.
Lịch sử Israel là một cuộc chờ đợi. Trong suốt thời gian 70 năm lưu đầy bên Babylon, dân Chúa đã thấm mệt: bị kẻ thù áp bức, hành hạ, khinh bỉ... Họ chờ Đấng Messia đến thiết lập nền công chính trên trái đất này. Sự đợi chờ đã đến cao điểm và tiên tri Isaia đã thay lời cho dân chúng kêu lên lời xin thảm thiết:”Trời cao hãy đổ sương xuống”.
Trong cảnh khốn cùng, dân Israel mới hồi tỉnh lại và nhận ra mình đã đi sai đường lối, đã lỗi phạm đến Chúa nên đã kêu xin:
“Lạy Chúa, chúng con đã phạm tội. Chúng con như chiếc áo dơ bẩn... Chúa đã ẩn nấp không cho chúng con nhìn thấy và Chúa đã phó mặc chúng con cho quyền lực tội lỗi. Nhưng Chúa là Cha, chúng con là đất sét trong tay Chúa là người thợ gốm, tất cả chúng con đều do bàn tay Chúa làm nên... Xin Chúa hãy băng qua các tầng trời mà ngự xuống”.
Giáo hội dùng những lời đó để làm lời kinh trong Mùa Vọng này. Chúa Kitô thành Nazareth đến, đáp lại mối kỳ vọng ngàn đời của thế giới. Chúng ta, Giáo hội lữ hành đang mong đợi Chúa đến để đánh tan sự thất vọng và khơi dậy niềm tin và hy vọng. Đó là Mùa Vọng khởi đầu hôm nay.
2. Chúng ta chờ đợi.
VỌNG tức là chờ đợi trông mong. Đã chờ đợi thì luôn có hy vọng. Đã hy vọng thì luôn có tin yêu, ví dụ hai người yêu chờ đợi nhau, hoặc chờ đợi người đi xa về. Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Từ ngữ “Chúa đến” thường được hiểu bằng 4 cách:
- Chúa đến trong lịch sử nhân loại.
- Chúa đến trong ngày phán xét chung.
- Chúa đến trong giờ chết của mỗi người.
- Chúa đến trong ơn thánh hằng ngày.
Như vậy, Chúa đến với loài người: lần thứ nhất và thứ hai công khai, còn các lần khác thì có tính cách âm thầm và riêng tư.
a) Chúa đến lần thứ nhất: Chúa đã đến trong hang đá Belem để thực hiện việc cứu chuộc nhân loại. Ngày nay ta chỉ còn kỷ niệm ngày Ngài giáng sinh tức là đến lần thứ nhất. Vậy mùa Vọng gồm có 4 tuần dọn lòng để mừng Chúa Giáng sinh ngày 25 tháng 12 mỗi năm.
b) Chúa đến lần thứ hai: Chúa Giêsu lại xuống thế một lần nữa với tư thế là một vị Vua Thẩm phán để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Không ai biết được ngày nào việc đó sẽ xẩy ra, chỉ việc chờ đợi trong hy vọng. Vì thế, chúng ta phải sống trong mùa vọng triền miên vì không biết ngày nào giờ nào Ngài sẽ đến.
c) Chúa đến giữa hai lần: Ngoài ra, Chúa sẽ đến với chúng ta giữa lần thứ nhất và lần thứ hai. Chúa sẽ đến với riêng từng người. Đó là giờ chết. Ngày tận thế thì còn xa vời và mù mờ lắm, còn việc Chúa đến gọi ta trong giờ sau hết thì gần. Nhưng nó cũng giống như Chúa đến lần thứ hai, không ai biết được ngày nào giờ nào Ngài sẽ đến vì “giờ chết đến như kẻ trộm”.
d) Chúa đến trong ơn thánh: Giáo hội dạy chúng ta vẫn phải mong đợi, và hàng năm Giáo hội tổ chức Mùa Vọng, không phải chỉ cốt để chuẩn bị lễ Giáng sinh, không phải chỉ dạy chúng ta gây dựng tâm tình mong đợi trong mùa đó, nhưng Giáo hội muốn nhân không khí lễ Giáng sinh dạy chúng ta phải có tâm tình mong đợi thường xuyên, phải mong đợi Chúa hằng ngày: Chúa đến với ta trong ơn thánh của Ngài, nhất là trong Bí tích Thánh Thể. Ngoài ra, chúng ta mong đợi Chúa trong ngày ta từ giã cuộc đời để về với Chúa.
II. ĐỢI CHỜ TRONG TỈNH THỨC.
1. Giáo huấn của Giáo hội.
Giáo hội ý thức về cuộc sống ở trần gian này: mọi sự sẽ qua đi và mọi người đều phải chết. Đây là một định luật khắt khe buộc mọi người phải tuân thủ. Nhưng Giáo hội cũng dạy chúng ta phải dọn lòng chờ Chúa đến, phải tỉnh thức và sẵn sàng đón Chúa vì Chúa đến bất ngờ. Công đồng Vatican 2 đã diễn tả tư tưởng ấy trong hiến chế Lumen gentium:
“Đàng khác, vì không biết ngày và giờ, chúng ta phải theo lời Chúa dạy, luôn tỉnh thức, để khi cuộc đời độc nhất của chúng ta ở trên trần gian chấm dứt (Dt 9,27), chúng ta xứng đáng vào dự tiệc cưới với Người và được liệt vào số những người được chúc phúc (Mt 25,31-46) chứ không như những tôi tớ khốn nạn và lười biếng (Mt 25,26) sẽ bị đẩy vào lửa đời đời (Mt 25,41), vào chốn tối tăm, nơi khóc lóc và nghiến răng (Mt 22,13 và 25,30” (L.G. số 48).
2. Phải tỉnh thức chờ đợi Chúa đến.
a) Có hai kiếp sống.
Bất cứ ai sinh ra ở trên trần gian này đều có hai kiếp sống: một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu; một đời sống hiện tại và đời sống tương lai; một đời sống hành hương và một đời sống quê thật; một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết duy có một lần, đó là lần bái yết Chúa đầu tiên và duy nhất.
b) Một cuộc chuyển tiếp.
Không ai có thể sống mãi trên trần gian này vì số phận của con người thường phải qua 4 giai đoạn: sinh, lão, bệnh, tử. Chết là giai đoạn cuối cùng và kết thúc. Chết không phải là hết, không phải là đi vào hư vô, mà chết chỉ là một sự chuyển đổi:”Sự sống thay đổi chớ không mất đi và khi nơi nương náu ở trần gian này bị hủy diệt tiêu tan thì là được một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời”(Kinh tiền tụng lễ An táng). Hiểu được ý nghĩa ấy, thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã nói:”Tôi không chết, tôi đi vào cõi sống”.
c) Cuộc chuyển tiếp bất ngờ.
Chết là một công lệ, không ai thoát được công lệ đó, nhưng có một điều làm cho ta day dứt là không biết lúc nào mình sẽ chết vì giờ chết như “người thợ gặt không ngủ trưa” (Cervantes). Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng loan báo cho chúng ta biết là Ngài sẽ đến gọi chúng ta bất cứ lúc nào, nên phải luôn sẵng sàng tỉnh thức. Để nói về điểm bất ngờ này, Chúa Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về người canh cửa đợi ông chủ về.
Trước khi trẩy đi xa, Ông chủ gọi các đầy tớ giao công tác cho mỗi người. Riêng tên giữ cửa, Ông dặn phải tỉnh thức mà coi chừng lúc Ông trở về. Ông căn dặn tên giữ cửa vì là phận sự riêng của hắn, nhưng Ông cũng có ý nhắn nhủ cho tất cả. Phải tỉnh thức vì không biết chắc vào giờ nào chủ về: chập tối, nửa đêm, gà gáy, hay ban mai.
Dụ ngôn cốt nhấn mạnh tư tưởng: mọi người cần phải tỉnh thức vì Ông chủ (là Con Người, cũng là Chúa Giêsu) không báo trước giờ Ngài sẽ đến.
Những điều Chúa nói ở đây là đang nói cho 3 Tông đồ Phêrô, Giacôbê và Anrê (Mc 13,3), nhưng Chúa nhấn mạnh là Chúa có ý nói với tất cả mọi người:”Điều Ta bảo cho chúng con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là hãy tỉnh thức”.
Việc Ông chủ trở về ban đêm có ý nhấn mạnh rằng: ban đêm thường ít ai để trí vì ai nấy cũng dễ mê ngủ, vì thế cần phải đề cao cảnh giác, tỉnh thức và sẵn sàng luôn. Ban đêm còn diễn tả ý nghĩa thời gian hiện tại ở trần gian, để phân biệt với thời gian ở Nước Trời đời sau là ban ngày. Trong khi sống ở trần gian này, cần phải tỉnh thức và sẵn sàng, có nghĩa là phải sống trong ơn nghĩa Chúa, có đủ điều kiện để được vào Nước Trời ở đời sau.
Truyện: Con quạ thiếu cảnh giác.
Một người dân Mỹ bị đám quạ hoang phá hoại ruộng ngô. Mang súng ra bắn nhưng không sao lại gần vì trên cái cọc thông cao có một con đậu canh chừng khi các con khác ăn. Len lỏi lâu dưới hố sâu ông lại gần được mà con gác không hay biết. Một tràng đạn nổ, những con sống sót bay vù lên, nhưng không bay đi xa, chúng sà xuống con canh gác với những tiếng kêu giận dữ. Con chim khốn nạn này bị đồng bọn xử một cách tàn nhẫn và nhanh chóng, không thể ở lại trong bầy, phải rời hàng ngũ đi nơi khác
Đoạn Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta: Chúa sẽ đến, nhưng chúng ta không biết ngày giờ nào. Vậy phải canh thức để sẵn sàng đón Ngài khi Ngài đến. Canh thức sẵn sàng như người đầy tớ hoàn thành nhiệm vụ được trao phó, như các trinh nữ khôn ngoan cầm đèn đi đón chàng rể, như người được trao vốn đem kinh doanh sinh lời lãi, và cuối cùng bằng đời sống yêu thương phục vụ. Đó là cách thức chờ đợi Chúa đến.
Phải tỉnh thức chờ đợi Chúa đến. Tỉnh thức ở đây là phải sẵn sàng chờ đợi. Từ ngữ “SẴN SÀNG” nói lên một thái độ sinh động chứ không phải ù lỳ, ngồi một chỗ mà chờ đợi. Sẵn sàng ở đây là phải nỗ lực làm việc với ý thức rằng mình đang phải làm việc để đợi chờ Chúa đến. Làm việc ở đây là làm sinh sôi nảy nở ra các ơn Chúa đã ban cho ta, phải sinh hoa kết quả tốt là các việc lành. Khi Chúa đến tính sổ linh hồn, ta sẽ như một tên đầy tớ tỉnh thức đi đón Chúa, trình với Ngài các việc làm của ta để được lĩnh phần thưởng.
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta có thể nói như thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu:”Tất cả là hồng ân”. Hồng ân của Chúa có thể đến từ bất cứ nơi đâu, trong mọi cảnh huống cuộc đời, lúc vui mừng hay khi đau khổ, lúc thành công hay khi thất bại. Điều quan trọng là chúng ta biết nhìn ra đó là ân ban của Chúa, và mỗi ân ban là một “Chúa đến viếng thăm”.
Phụng vụ thánh lễ hôm nay nhắc nhở cho chúng ta dọn mình: đón nhận ơn Chúa trong mỗi giây phút hiện tại, chờ đợi Chúa đến trong giờ chết và trong ngày chung thẩm của nhân loại. Thái độ chúng ta phải có là hãy sẵn sàng theo như lời khuyên rất khôn ngoan của chân phước Charles de Foucauld:”Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay”. Nếu những cuộc thăm viếng là những hồng ân của Chúa, thì chúng ta đừng để mất những hồng ân ấy chỉ vì sự thờ ơ, thiếu chuẩn bị, không sẵn sàng.
Sẵn sàng còn có nghĩa là đã và đang bắt tay vào việc. Việc chờ đợi Chúa đến đây là phải có tinh thần sám hối, sửa đổi lại con người của mình cho phù hợp với ý Chúa. Bài đọc I hôm nay dạy chúng ta một cách tỉnh thức chờ đợi rất hay: như miếng đất sét trong tay người thợ gốm. Tiên tri Isaia đã nói lên một sự thật:”Chúng tôi là đất sét, còn Chúa là người thợ gốm”. Sự thật này đã được sách Sáng thế nói lên ngay từ đầu (St 2,7). Kiểu diễn tả cụ thể của tác giả sách Sáng thế và của tiên tri Isaia có ý rằng: con người lệ thuộc vào ThiênChúa.
Sự lệ thuộc chỉ toàn có lợi. Miếng đất sét chịu lệ thuộc bàn tay uốn nắn của người thợ gốm thì sẽ trở thành những vật dụng rất hữu ích, thậm chí trở thành những tác phẩm mỹ thuật rất đẹp.
Vậy, tỉnh thức và chờ đợi Chúa trong Mùa Vọng là làm như miếng đất sét trong tay người thợ gốm: ngoan ngoãn vâng theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để cho Chúa uốn nắn mình thành những tác phẩm tuyệt vời đúng ý Chúa (Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ B, tr 12).
Chúng ta là những người đầy tớ đợi chủ về nhưng không biết vào lúc nào. Chúng ta chỉ biết sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Trong lúc chờ đợi, chúng ta phải làm tròn phận vụ của mình. Chúng ta phải sống dường như việc Ngài trở lại lúc nào cũng là việc bình thường. Ngài đã giao cho chúng ta nhiệm vụ quan trọng là mỗi ngày phải làm việc thích hợp để Ngài xem xét, bất cứ giờ phút nào chúng ta cũng phải sẵn sàng để gặp mặt Ngài mặt đối mặt. Cả đời sống chúng ta là việc chuẩn bị để gặp mặt Vua.
Truyện: Ngày mai ông chủ sẽ đến.
Ngày kia có một khách du lịch dừng chân trước một biệt thự rất sang trọng cạnh một hồ nước trong xanh ở Thụy sĩ, nhưng không phải trên con đường mà khách vãng cảnh thường qua lại. Khách du lịch gõ vào hàng rào sắt, tức thì một cụ già coi vườn ra mở cổng nặng nề vẫn đóng chặt. Sung sướng vì được thấy một người khách, cụ dẫn ông tham quan cả một khu vườn rộng lớn. Người khách hỏi:
- Cụ ở đây bao lâu rồi?
- Thưa ông, tôi ở đây đã 24 năm.
- Chủ của cụ ít khi nghỉ tại biệt thự này, có phải không? Cụ đã trông thấy ông mấy lần rồi?
- Tôi đã trông thấy ông bốn lần. Lần cuối cùng cách đây đã 12 năm.
- Ông có viết thư cho cụ chăng?
- Chẳng bao giờ.
- Thế ai trả công cho cụ?
- Người quản gia của ông.
- Thế người quản gia này có năng đến đây không?
- Tôi chưa hề thấy mặt ông. Ông ấy liên lạc với tôi qua thư từ.
- Thế thì ai hưởng sự đẹp đẽ này?
- Trừ vợ tôi và tôi thì không ai hưởng hết.
- Tuy vậy, cụ coi sóc vườn này, sân hoa này, bãi cỏ này cách chu đáo, dường như ngày mai chủ của cụ sẽ đến.
- Ồ, Thưa ông, tôi làm như chủ tôi phải đến ngày hôm nay, vâng thưa ông, ngày hôm nay.
Mùa Vọng đã bắt đầu. Mùa Vọng là mùa trông đợi trong tin yêu, đợi ngày Chúa đến trong ngày tận thế. Nhưng cũng là trông đợi giây phút cuối cùng của mỗi người khi đi ra gặp Chúa. Chúng ta phải chuẩn bị hành trang cho lần gặp Chúa ấy và hy vọng rằng cuộc gặp gỡ này sẽ đem đến cho ta sự vui mừng khi được nghe Chúa nói lời êm ái:”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Nước Trời dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa, Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngưoi đã đến thăm”.
38. Hãy tỉnh thức và chờ đợi - Lm. Thu Băng, CRM
Duyên Anh có thuật lại một trong tác phẩm của ông một mẩu chuyện: Một chuyến phi cơ DC 10 chứa đựng trên 500 chỗ ngồi cho hành khách, Phi cơ do hãng France cung cấp, di chuyển từ Luân đôn đi New York Hoa Kỳ. Đi được 4 giờ đồng hồ thì động cơ bị báo động trục trặc. Các chiêu đãi viên trấn an và cấp báo trang bị an toàn cho hành khách. Cánh cửa được mở ra để mọi người nhảy dù an toàn ra khòi máy bay. Một số người may phúc được mở dù và an toàn đáp xuống đất, còn cả máy bay bị đụng vào núi đá và chết không ai sống sót. Những người được cứu thoát thì bàng hoàng như người bị mất trí khi nghe tin chiếc máy bay bi đụng vào núi và tiêu mạng cả chuyến. Tác giả đặt câu hỏi: "Nếu bạn đang ở trên chiếc máy bay này, thì bạn làm cách nào để cứu chính mình?".
Hơn 2000 năm trước, nhân loại cũng đã rơi vào một hoàn cảnh bi đát tương tự: tội lỗi tràn ngập thế gian như chiếc máy bay bị trục trặc đứng máy, lảo đảo như chiếc diều bay trước cơn gió lốc, hòng nhào xuống đất. Hành khách không kịp tìm ra lối thoát.
Thiên Chúa đã nhìn thấy cảnh bi đát đó, Ngài không muốn câu chuyện kết thúc một cách buồn thảm, Ngài quá yêu nhân loại, nên không nỡ để chuyện buồn xẩy ra, Ngài nghĩ đến phương thế cuối cùng để cứu nhân loại. Thế là Ngôi Hai Thiên Chúa bằng lòng trở nên một cứu nhân bằng cách giáng trần làm người như họ để bay mưu giải thoát họ khỏi cảnh lầm than tội lôĩ và đưa họ về nơi hằng sống muôn đời.
Mùa Vọng là mùa nhắc chúng ta nhớ lại tình thương vô cùng của Chúa đã hy sinh xuống thế làm người để cứu thoát nhân loại. Chỉ khi nào chúng ta hiểu rõ được ơn cứu thế cao trọng này, chúng ta mới có thể vui mừng về cuộc giáng sinh của Người. Mùa này còn nhắc nhở chúng ta rằng Ngài sẽ trở lại để xét xử chúng ta về việc có hợp tác với Ngài trong việc cứu thế không? Có gia ân cho nhân loại, đói ăn, rách mặc, có yêu thương đồng loại như Ngài yêu không?
Mùa Vọng không những chỉ chờ đón Chúa giáng sinh, mà còn là thời gian chuẩn bị đón Ngài đến lần thứ hai nữa. Chúng ta hãy nghe lời thánh Phaolô dạy: "Đêm sắp tàn, ngày sắp tới, anh chị em hãy bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy ánh sáng".
Lạy Chúa, Chúa đã hạ sinh để cứu thoát chúng con, xin cho chúng con cũng biết hy sinh cho người khác, để sự hòa bình, yêu thương của Chúa chiếu dãi trên chúng con.
39. Mong đợi Chúa đến - Lm. Minh Vận, CRM
Rất ít người biết câu truyện lý thú về một nhóm Thầy Dòng có biệt hiệu là những người không ngủ. Năm 430, Alexander thành lập một Nhà Dòng gồm chừng 300 người, chia thành 6 nhóm. Mỗi nhóm chia nhau hát Thánh Vịnh ca tụng Chúa suốt ngày đêm 24 giờ mỗi ngày, các Thầy Dòng này hát kinh và chờ đợi Chúa Kitô, Vị Thẩm Phán tối cao, Vị Chủ Nhà đi xa trở về. Đó là lý do tại sao các Thầy Dòng này được gọi là những người không ngủ.
Họ thực hiện điều Chúa truyền dạy trong bài Tin Mừng hôm nay: "Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện" (Mc 13:33). Chúa truyền cho các môn đệ và mỗi người chúng ta nhiều lần, là phải tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến phán xét trần gian.
I. CHÚA ĐẾN TRẦN GIAN LẦN THỨ HAI
Các Tín Hữu hồi Giáo Hội sơ khai thường đinh ninh rằng, ngày Chúa Kitô sẽ xuống trần gian lần thứ hai để phán xét nhân loại đã tới gần. Do đó, họ rất lo sợ, kinh hãi chờ đợi những gì sẽ xảy tới.
Nhưng thực ra, như lời Chúa quả quyết với các môn đệ: "Ngày giờ đó không ai biết được, dầu các Thiên Thần cũng chẳng rõ, trừ một mình Chúa Cha biết mà thôi" (Mc 13:32). Những ngày đó Chúa tuyệt đối giữ bí mật, để chúng ta phải luôn sẵn sàng chờ đợi như lời Chúa nhắn nhủ: "Vậy các con hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng, vì không biết giờ nào ngày nào Chúa các con sẽ đến" (Mc 13:35).
Để nhấn mạnh tới lời nhắn nhủ: "Hãy Tỉnh Thức! Hãy Sẵn Sàng!" Chúa còn dùng nhiều dụ ngôn: Người tôi tớ luôn chu toàn các bổn phận chủ trao phó. Mười trinh nữ chong đèn chờ đợi chàng rể đến. Người bày tôi được trao phó những nén bạc để sinh lời cho chủ. Chúa muốn chúng ta, luôn phải quan tâm tới một nhiệm vụ quan trọng là: "Hãy tỉnh thức! Hãy sẵn sàng!". Vì vào lúc bất ngờ, Chúa sẽ đến. Chúa đến để ân thưởng hay luận phạt.
II. CHÚA ĐẾN DƯỚI NHIỀU HÌNH THỨC
Chúa đến với chúng ta dưới nhiều hình thức, bằng nhiều cách thế khác nhau, nếu chúng ta biết tỉnh thức và sẵn sàng tiếp đón Người.
Có khi như một Vua Cao Cả, một thẩm phán chí công, oai nghiêm ngự trên ngai vinh hiển, có muôn Thiên Binh chầu chực, để phán xét trần gian trọng thưởng kẻ lành, nghiêm phạt kẻ dữ trong ngày chung thẩm hãi hùng.
Có khi như một người Cha Nhân Từ, mời gọi con theo Cha vào tận hưởng hạnh phúc Cha dành cho con, sau những ngày tháng con đã trung thành phụng sự Cha, hằng ngoan thảo làm hài lòng Cha.
Có khi như một người Bạn Tình đến kết hợp với mỗi người trong Bí Tích Thánh Thể, khi chúng ta sốt sắng tiếp rước Người vào linh hồn chúng ta.
Có khi như một Thầy Chí Thánh đến dạy dỗ chúng ta qua Thánh Kinh, bằng những Lời Hằng Sống, những giáo lý cao siêu, hướng dẫn chúng ta đi theo đường chân lý hợp thánh ý Chúa, giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban.
Có khi Chúa đến với chúng ta qua tha nhân nơi những người đói khát, nơi những lữ khách xa lạ, nơi những người nghèo nàn cùng khổ, nơi những tù nhân nơi ngục thất, nơi những người trần trụi không áo che thân... Nếu chúng ta biết nhận ra Chúa ẩn thân nơi họ, chúng ta sẽ ân cần giúp đỡ họ, bởi vì khi chúng ta làm những điều ấy cho họ là chúng ta làm cho chính Chúa, như chính lời Chúa đã quả quyết: "Bao nhiêu lần các con làm những việc đó, cho một trong những anh chị em bé mọn nhất của Cha, là các con đã làm cho chính Cha vậy" (Mt 25:40).
III. PHƯƠNG THẾ ĐỂ NHẬN RA CHÚA
Để giúp chúng ta dễ nhận ra Chúa và sung sướng tiếp đón Người, Chúa dạy chúng ta 2 phương thế cần thiết là: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn".
1. Tỉnh Thức: Nếu chúng ta biết tỉnh thức và sẵn sàng: Luôn giữ tâm hồn trong sạch, có ơn nghĩa Chúa và làm hài lòng Người, chúng ta sẽ được bình an tâm hồn và luôn cảm nghiệm được nguồn an vui hạnh phúc của con cái Chúa. Khi đó chúng ta sẽ như các Thánh, bằng con mắt Đức Tin luôn nhận ra Chúa, gặp được Người qua tha nhân, qua thụ tạo; trong mọi hoàn cảnh, ở mọi nơi và mọi lúc của cuộc sống.
2. Cầu Nguyện: Lệnh Chúa truyền chúng ta phải cầu nguyện luôn, không có nghĩa là chúng ta phải luôn đến Nhà Thờ quì gối chắp tay, hát xướng liên miên, để ca ngợi, tung hô, thờ phượng Chúa. Nhưng lệnh Chúa truyền rất dễ dàng thực hiện, thích hợp và vừa sức mọi người, chúng ta có thể làm được ở mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh. Đó là chúng ta liên kết với công nghiệp của Chúa Kitô, tất cả các việc to nhỏ chúng ta làm hằng ngày, với chủ ý vì lòng yêu mến Người. Nhất là mỗi việc bổn phận chúng ta thực hiện dù là những công việc rất nhỏ mọn, rất tầm thường chúng ta biết dâng lên Chúa, hợp với các Thánh Lễ hằng dâng lên thượng tiến Thiên Chúa trên các Bàn Thờ trong khắp thế giới từng phút từng giây. Mọi việc chúng ta làm sẽ có giá trị đền tội, lập công và thánh hóa, cho chính chúng ta và cho các linh hồn; vì tất cả các việc dù rất nhỏ mọn đó, hợp với giá Ơn Cứu Chuộc của Chúa Kitô, đều trở nên hiến lễ đẹp lòng Thiên Chúa.
Kết Luận
Chúa Kitô đến với toàn thể nhân loại và riêng mỗi người chúng ta, như một Quà Tặng, như một Ơn Ban của Thiên Chúa Cha. Nhưng Quà Tặng và Ơn Ban đó, Chúa Cha ban cho trần gian và cho riêng mỗi người chúng ta, qua tay Đức Trinh Nữ Maria, Đấng Chúa Cha đã tuyển chọn làm Mẹ Con Một Chúa và Mẹ riêng mỗi người chúng ta.
Nếu chúng ta muốn lãnh nhận được Chúa Kitô, chúng ta phải đến với Mẹ và chỉ qua Mẹ chúng ta mới có thể lãnh nhận được Người, Đấng là Tình Yêu, là Hạnh Phúc, là Gia Nghiệp đời đời của chúng ta.
40. Tỉnh thức và cầu nguyện
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Chúa sẽ đến nhưng ta không chắc gặp được Người. Vì Người đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa ta phải tỉnh thức.
Tỉnh thức có nghĩa là đừng mê ngủ. Chúa thường hay đến vào ban đêm nghĩa là vào lúc ta không ngờ. Đời sống có những bóng đêm ru ta ngủ say mê khiến ta không gặp được Người. Có những bóng đêm của tội lỗi giam cầm hồn ta trong giấc ngủ bạc nhược khiến ta không còn đủ sức thoát ra. Tội lỗi lôi kéo tội lỗi. Tội lỗi chồng chất giống như những tảng đá gìm ta xuống vực sâu vô tận. Có những bóng đêm của danh vọng ru hồn ta ngủ quên trên vinh quang chói lọi. Vinh quang giống như ngọn đèn đốt cháy biết bao đời thiêu thân. Có những bóng đêm của xác thịt cuốn hồn ta vào giấc mộng lạc thú. Lạc thú giống như chiếc lưới rất mềm mại, rất nhẹ nhàng, nhưng rất hiểm độc. Linh hồn đã sa vào khó có thể thoát ra. Có những bóng đêm của thói ích kỷ chỉ biết sống cho bản thân mình. Ích kỷ giống như một hang sâu, càng đi vào càng thấy tối tăm. Có những bóng đêm của tiền tài bao phủ ta trong giấc mộng giàu sang phú quí. Chìm đắm trong giấc mộng, ta sẽ chẳng nghe được bước chân Chúa đi qua.
Tỉnh thức cũng có nghĩa là tỉnh táo phân định. Chúa đến rất âm thầm và rất bé nhỏ. Người không đến với cờ quạt trống phách tưng bừng, nhưng đến trong âm thầm lặng lẽ. Người không đến trong uy nghi lẫm liệt của những vị vương đế, nhưng Người đến trong hiền lành khiêm nhường như một người phục vụ. Người không mặc gấm vóc lụa là, nhưng đơn sơ trong y phục dân dã. Người không đến như vị quan toà nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một người bạn dễ thương dễ mến. Người đang đến qua những con người hiền lành bé nhỏ quanh ta. Người đang đến trong những con người khốn khổ túng cùng. Người đang đến qua những khuôn mặt xanh xao hốc hác. Người đang đến trong những tấm thân gầy guộc. Người lẫn vào giữa đám đông vô danh. Người chìm mất trong số những kẻ bị loại ra ngoài lề xã hội. Người ẩn mình giữa đám người ăn xin đang lê bước khắp các nẻo đường cát bụi. Người đang rét run với cặp mắt ngơ ngác thất thần ở giữa những nạn nhân bão lụt. Phải tỉnh táo lắm mới nhận ra Người. Phải tỉnh thức lắm mới gặp được Người.
Tỉnh thức không có nghĩa là cứ ngồi đó mà chờ đợi. Tỉnh thức là bắt tay vào hành động. Chúa như ông chủ đi vắng. Người cho ta được toàn quyền khi Người vắng nhà. Người giao trách nhiệm cho ta trông coi gia đình ta, giáo xứ ta, địa phương ta, đất nước ta và cả thế giới nơi ta đang sống. Ta được tự do hành động. Ta có trách nhiệm làm cho gia đình, xứ đạo, địa phương, đất nước, và cả thế giới được phát triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức là nhìn thấy ý Chúa trong những trào lưu thời đại. Tỉnh thức là nhận biết Chúa hành động trong những tâm hồn thiện chí thuộc các niềm tin, mầu da, quan điểm khác nhau để biết cộng tác trong việc xây dựng xã hội. Tỉnh thức là dấn thân hy sinh phục vụ anh em trong quên mình.
Ngay từ đầu mùa Vọng, Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức. Hãy bước ra khỏi giấc ngủ miệt mài, lười biếng. Hãy đoạn tuyệt với những giấc mộng phù hoa. Hãy thôi đuổi theo những đam mê dục vọng. Hãy nói không với những đồng tiền bất chính.
Hãy tỉnh táo phân định để nhận ra dung mạo thực sự của Đức Kitô. Đừng chạy theo những khuôn mặt mang dáng vẻ cao sang quyền quý. Đừng chạy theo những khuôn mặt nặng về quyền lực. Đừng chạy theo những lời hứa hẹn giàu sang. Dung mạo đích thực của Đức Kitô là nghèo hèn, là khiêm nhường, là bé nhỏ.
Hãy tỉnh thức để làm việc không ngừng, để quên mình, hi sinh phục vụ cho lợi ích của đồng loại.
Như thế, tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên ta phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Có ơn Chúa thúc đẩy, ta mới có thể dứt bỏ con đường tội lỗi xưa cũ. Có ơn Chúa soi sáng, ta mới đủ tỉnh táo nhận ra dung mạo đích thực của Đức Giêsu. Có ơn Chúa trợ giúp, ta mới đủ hăng hái ra đi phục vụ trong quên mình.
Lạy Chúa, xin giữ hồn con tỉnh thức để con nhận biết Chúa đang đến với con trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Tỉnh thức là đừng mê ngủ. Hãy kể ra những bóng tối khiến ta mê ngủ?
2) Tỉnh thức là tỉnh táo phân định. Làm thế nào để nhận ra khi Chúa đến?
3) Tỉnh thức là phải hành động. Muốn tỉnh thức, bạn phải làm những gì?
4) Mùa Vọng này, bạn quyết tâm làm gì để tỉnh thức?
41. Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn
ĐỜI KITÔ HỮU LÀ ĐỜI CANH THỨC VÀ COI CHỨNG
Trong truyện Thần thoại Hy lạp có câu chuyện: “Con Ngựa Gỗ Thành Troia” kể về cuộc chiến tranh thành Troia diễn ra ròng rã hơn 10 năm trời vẫn chưa kết thúc được vì quân đội của nhà vua Menelaus đã dùng rất nhiều cách nhưng vẫn không thể nào công phá được cổng thành Troia để vào tiêu diệt quân đối phương. Vì sao, quân đội không thể vào Thành Troia được dù quân đội rất hùng mạnh bởi vì quân địch bên trong thành canh giữ rất tỉ mĩ, nghiêm ngặt không để một sơ hở nào, hơn nữa bức tường thành rất cao to vững chắc và nguy hiểm không cách gì vượt qua được. Lúc này, quân đội nhà Vua đã nghĩ ra một cách đó là lấy gỗ ghép lại thành một con ngựa to lớn, mượn danh nghĩa đây là báu vật của thần linh ban tặng cho quân sĩ trong thành Troia để chống lại quân nhà vua bên ngoài thành. Thế là mọi người trong thành Troia tin và đã mở cửa rước ngựa gỗ vào thành. Thật không ngờ rằng trong bụng con ngựa gỗ kia chính là quân sĩ của nhà vua, thế là nhân lúc nửa đêm lính bên trong bụng con ngựa gỗ thoát ra ngoài, đánh giết quân địch, đốt phá thành, mở cửa cho quân mình vào thành và thành Troia bị thất bại mà không kịp trở tay. Vâng, chính vì sự sơ hở một tí này mà mọi sự bị phá hủy và tiêu diệt cho nên đừng coi thường mà hãy tỉnh thức luôn!
Hôm nay, Chúa Nhật I Mùa Vọng, bắt đầu năm Phụng vụ mới, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta: phải coi chừng thân xác và thức tỉnh tâm hồn để chúng ta trở nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và hiểu biết mầu nhiệm của Người, khiến chúng ta không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người (Lời Chúa trong bài đọc 2 Thánh Phaolô xác quyết như thế).
Trước hết, Chúa Giêsu dạy: “Anh em phải coi chừng thân xác”. Tại sao phải coi chừng thân xác bởi vì thân xác này, mạng sống này là do Chúa tạo ra như Lời Chúa trong bài đọc 1 khẳng định: “Chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Chúa, chính tay Ngài đã làm ra tất cả cho chúng con” (Is 64,7). Hơn nữa, mỗi người là hình ảnh của Chúa và mỗi người đều được Máu Chúa Giêsu đổ ra để cho chúng ta được sống dồi dào ngay ở đời này và vĩnh hằng nữa.
Cho nên, các Đức Giám Mục Việt Nam đã đưa ra chủ đề mục vụ năm nay là: “Đồng hành với gia đình trẻ”. Trong thư mục vụ gửi cộng đồng Dân Chúa, Các Đức Giám mục nói rằng: “Mặc dù có nhiều thách đố và khó khăn trong đời sống gia đình, vẫn có những chứng từ tốt đẹp nơi nhiều cặp vợ chồng trẻ Công giáo. Họ chấp nhận những hy sinh lớn lao, vượt qua mọi khó khăn thử thách để sống trung thành với giao ước hôn nhân. Nhiều cặp vợ chồng đã can đảm giữ mầm sống trong mọi hoàn cảnh. Có những đôi bạn chấp nhận tình trạng son sẻ suốt đời, vượt qua cám dỗ muốn sử dụng những phương pháp trợ giúp Giáo Hội không cho phép, đồng thời đón nhận và thực thi tình phụ mẫu thiêng liêng qua việc đảm nhận những hoạt động tông đồ, bác ái xã hội với lòng nhiệt thành hân hoan. Nhiều bậc cha mẹ dù nghèo về kinh tế, vẫn cố gắng chu toàn bổn phận chăm lo cho con cái được giáo dục toàn diện về thể dục, trí dục, cũng như đức dục và tâm linh. Tuy vậy, phải nhìn nhận rằng do ảnh hưởng trào lưu hưởng thụ, sống ảo, sống gấp và quan niệm lệch lạc về hôn nhân, một số không nhỏ những tiêu cực vẫn tồn tại và có nguy cơ phát triển, ngay trong cộng đồng Công giáo như: phá thai, sống thử, kết hợp đồng tính, ly dị, lựa chọn giới tính. Những hiện tượng này đang làm mất đi những giá trị truyền thống của gia đình Việt Nam, đi ngược lại với ý muốn của Đấng Tạo hoá, để lại những hậu quả nghiêm trọng cho thế hệ mới” (số 2). Vì thế, Lời Chúa hôm nay như là sự cảnh tỉnh cho chúng ta về việc tôn trọng thân xác của nhau, nhất là tôn trọng sự sống, bởi: “Đối với Thiên Chúa, tất cả đều đang sống”. Vì thế, Chúa dạy phải coi chừng thân xác đừng vì tham lợi, háo danh hay dục vọng hay đau khổ mà hủy diệt thân xác người khác hay chính mình để rồi phải chết đời đời thì nào có lợi chi. Vì vậy, điều răn thứ 5 trong Mười Điều Răn, Chúa dạy rằng: Chớ giết người, vì Sách giáo lý Hội Thánh dạy rằng: “Mạng sống con người do Thiên Chúa ban thuộc quyền sở hữu của một mình Chúa: nó là thánh thiêng ngay từ lúc nó hiện hữu đầu tiên, và nó không chịu bất cứ con người nào kiểm soát. Cho nên, Lời Chúa nói “Trước khi ngươi được thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi được sinh ra, Ta đã thánh hiến ngươi (Jr 1,5). [Số 2270-2274, 2322]”. Cho nên, Chúa Giêsu dạy “Ai đã làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án” (Ga 5,29). Kết án đây chính là chết muôn đời, vì vậy, chúng ta phải coi chừng thân xác của chúng khỏi phải chết đời đời coi chừng ở đây nói như lời Thánh Phaolô trong Bài đọc 2 rằng vâng nghe lời chứng về Đức Ki-tô để Lời Chúa thật sự ăn sâu vững chắc vào lòng trí chúng ta, khiến chúng ta không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giê-su Ki-tô đến mặc khải vinh quang của Người. Chính Người sẽ làm cho chúng ta nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được chúng ta trong Ngày của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Ki-tô (1Cr 1,6-9).
Cuối cùng, Chúa Giêsu dạy phải canh thức tâm hồn bởi vì tâm hồn là nơi thánh và là nơi Chúa ngự vì vậy đừng tội lỗi, đừng vì nghen tương, tức giận, ganh ghét, tham lam… mà biến tâm hồn của chúng ta thành nơi ở của quỷ dữ đầy mưu mô xảo nguyệt gian tà và độc ác. Chẳng hạn, Sáng 20.11 vừa qua, bà Phạm Thị Lan (54 tuổi), sống tại khu tập thể giáo viên Trường THPT Đoàn Kết, Tỉnh Đồng Nai, bà thấy phía trước nhà có một gói quà, tưởng quà mừng ngày Nhà giáo Việt Nam, bà lan mở ra xem thì bất ngờ gói quà nổ khiến bà chết tại chỗ. Một ngày, thủ phạm ra đầu thú. Thủ phạm là Nguyễn Thanh Thanh, anh ta nói rằng anh tức bạn gái cũ của anh có quan hệ tình cảm với thầy Nam, con trai bà Lan, nên mua vật liệu về chế mìn để khử thầy Nam ai ngờ bà mẹ chết.
Mùa vọng đã bắt đầu. Đây là thời gian và mọi ngày trong đời sống chúng ta phải coi chừng và canh thức luôn vì như Lời Chúa trong bài đọc I quả quyết rằng: “Thiên Chúa sẽ ngự xuống với ai tin cậy nơi mình. Ngài đón gặp kẻ sống đời công chính mà lấy làm vui và nhớ đến Ngài khi theo đường lối Ngài chỉ dạy. Kìa, Ngài phẫn nộ vì tội lỗi chúng con, nhưng khi mải đi theo các đường lối của Ngài, chúng con sẽ được cứu thoát” (Is 64,2b-4). Hôm nay, bắt đầu năm Phụng vụ mới, năm nay Hội đồng Giám mục Việt Nam mời gọi các thành phần Dân Chúa hãy đồng hành và giúp đỡ các gia đình xây dựng hạnh phúc. Như vậy, bậc sống thánh hiến hay là bậc giáo dân đều phải coi chừng canh thức, có nghĩa rằng phải nhận ra Chúa luôn hiện diện trong ta đồng thời siêng năng lắng nghe và sống Lời Ngài dạy từng giây từng phút trong đời sống hầu tâm hồn và thân xác chúng ta trở nên thánh và thiện để Chúa Giêsu sẽ giáng sinh nơi chúng ta làm cho đời ta tươi sáng và rạng ngời hạnh phúc. Amen.
42. Đón chờ Chúa đến
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Khi màn đêm buông xuống, có những người vẫn thức. Thức vì không ngủ được. Thức để xem nốt một cuốn truyện hay một bộ phim vidéo nhiều tập… Nhưng cũng có người thức để làm việc. Họ trực ở phòng cấp cứu, ở trạm cứu hoả, ở cơ quan an ninh, ở bưu điện. Họ là những công nhân làm ca ba, những tài xế tàu hoả chạy suốt đêm đến sáng, những chuyến bay ban đêm.
Và còn có những người khác cũng thức. Thức không phải vì mất ngủ, không phải để đọc truyện hay xem phim, mà thức để cầu nguyện. Trong các đan viện, các đan sĩ nam nữ là những người không ngủ, với cái nghĩa là họ ca tụng Chúa 24 giờ một ngày luân phiên nhau. Nhiều cộng đoàn tu sĩ nam nữ chầu Mình Thánh Chúa ngày đêm, từ năm này qua năm khác. Họ tỉnh thức và cầu nguyện thay cho chúng ta, trong khi chúng ta ngủ.
Trên trái đất này, không lúc nào mà không có người thức: Đang khi chúng ta lên giường ngủ thì ở bán cầu bên kia, một nửa nhân loại đang vươn vai thức dậy, ăn uống, làm việc, vui chơi, để rồi lại ngủ khi chúng ta ở đây thức dậy.
Như thế, trên thế giới, Thánh lễ được hiến dâng liên tục ngày đêm. Nếu chỉ 2/3 trong số linh mục trên thế giới cử hành Thánh lễ mỗi ngày, thì mỗi giờ ít nhất có hai ngàn linh mục cử hành Thánh lễ, và mỗi phút, ngày cũng như đêm, đều có một số linh mục đang dâng lễ cầu nguyện cho chúng ta.
Tuy nhiên, thức đêm không phải là điều tự nhiên và dễ dàng. Ba môn đệ thân tín của Chúa Giêsu đã từng có kinh nghiệm về điều đó: Trong Vườn Cây Dầu, mặc cho Chúa Giêsu hai lần gọi: Hãy tỉnh thức! Họ vẫn ngủ li bì. Có lẽ lúc đầu, Chúa Giêsu tưởng họ sẽ thức cả đêm với mình để chia sẻ nỗi khổ đau, nhưng cuối cùng, Ngài đau lòng khi thấy họ không thức nổi được một giờ với Ngài (Mc 14,34-37).
Một trong những căn bệnh của thời đại là căn bệnh mất ngủ. Người ta phải dùng thuốc an thần để tìm một giấc ngủ không tự nhiên. Hoặc chán đời, người ta dùng thuốc ngủ quá liều lượng để tìm giấc ngủ ngàn thu!
Thế nhưng, hôm nay, Chúa Giêsu lại kêu gọi: Anh em phải canh thức, kẻo bất thần ông chủ về bắt gặp anh em đang ngủ. Phải chăng Chúa Giêsu muốn các Kitô hữu phải thức suốt đêm để chờ Ngài? Chắc là không! Vậy thì thế nào là thái độ tỉnh thức mà Chúa đòi hỏi nơi chúng ta?
Tỉnh thức không phải là không ngủ: Năm cô trinh nữ khôn ngoan cũng ngủ như năm cô khờ dại (Mt 25,1-13). Điểm khác biệt là vào lúc nửa đêm, khi chàng rể đến, các cô khôn ngoan có thể ra đón với đèn sáng trong tay, vì các cô có mang theo dầu dự trữ. Còn đèn của các cô khờ dại thì đã tắt ngúm mà lại không đem dầu theo. Lúc đó mới chạy đi mua, nên không kịp. Vậy tỉnh thức là ở trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất cứ lúc nào, sẵn sàng cả trong khi ngủ.
Tỉnh thức là chu toàn bổn phận: Người quản gia được giao trách nhiệm phân phát lương thực cho các gia nhân (Mt 24,45-51). Nếu chủ về mà gặp thấy anh đang làm công việc được giao, thì đúng là anh đã có thái độ tỉnh thức. Mê ngủ là bỏ bê trách nhiệm, lạm dụng quyền hành và say sưa chè chén (Mt 24,49).
Tỉnh thức là làm cho những nén vàng, nén bạc Chúa trao được sinh lợi (Mt 25,31-46). Số nén vàng có thể nhiều hay ít tùy người, và mỗi người cũng chỉ phải sinh lợi tùy theo số vốn đã nhận. Mê ngủ là đào lỗ chôn giấu nén bạc của mình, không dám đầu tư vì sợ mất vốn, nhưng cũng có thể vì lười biếng, thụ động. Người tỉnh thức là người được chủ khen là đã trung tín trong việc nhỏ, nghĩa là trung tín với ơn Chúa ban trong hiện tại.
Tỉnh thức là tỉnh táo để nhận ra Chúa bất ngờ đến với mình và nài xin mình trợ giúp. Ngài xuất hiện dưới dáng dấp của một người đói khát, rách rưới, một người yếu đau, lỡ đường, thậm chí một phạm nhân trong nhà giam (Mt 25,31-46). Mê ngủ là để cho Chúa Giêsu ngửa tay đi qua đời mình mà không nhận được chút gì làm quà tặng.
Cuối cùng, tỉnh thức là để cầu nguyện. Tỉnh thức luôn đi đôi với cầu nguyện: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa cơn cám dỗ (Mc 14,38). Chúng ta đã làm nhiều việc cho Chúa, nhưng có thể vẫn chưa phải là con người tỉnh thức và cầu nguyện. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ ngủ quên trong thành công tông đồ, trong tiện nghi dễ dãi.
Tin Mừng hôm nay đưa chúng ta vào bầu khí Mùa Vọng, mùa tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến. Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta phải chờ đợi. Có sự chờ đợi làm ta sốt ruột, khó chịu, nhưng cũng có sự chờ đợi làm cho cuộc sống hiện tại trở nên đầy ý nghĩa. Dân Do Thái từ hơn 2000 năm trước đây cho đến nay vẫn sống nhờ vẫn còn chờ đợi Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai Cứu Thế. Sự chờ đợi như tăng thêm sức mạnh để con người can đảm sống cái hiện tại hơn. Biết sống là biết chờ đợi. Chờ đợi làm nên cuộc sống. Sống mà không còn gì để chờ đợi, kể như đã chết!
Mùa Vọng là thời gian chờ Chúa đến. Cả lịch sử của nhân loại được đánh dấu bằng những lần Chúa đến. Lần nào Ngài cũng đến bất ngờ. Ngài đã đến bất ngờ ở Bêlem, mang hình hài trẻ thơ yếu đuối. Cả cuộc sống, cái chết và sự phục sinh của Ngài cũng là bất ngờ, khiến cho các môn đệ phải ngỡ ngàng. Kitô hữu là người đang chờ, chờ ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang. Đây cũng là một bất ngờ, vì không ai biết được ngày giờ Ngài trở lại. Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra Ngài đến bất thần, bắt gặp anh em đang mê ngủ(Mc 13,33-37).
Chúa đã đến, sẽ đến, nhưng Ngài vẫn đang đến trong thế giới, trong đời từng người, trong đời từng tập thể. Nếu chúng ta tập lắng nghe, chúng ta sẽ nhận ra được tiếng bước chân của Ngài. Chúa đến với ta qua mọi biến cố của cuộc sống, kể cả những biến cố đau buồn. Bước vào Mùa Vọng, cùng với Giáo hội sống một Mùa Vọng mới, chúng ta hãy mở tâm hồn ra tiếp đón Chúa: Maranatha, Lạy Chúa, xin hãy đến! (Kh 22,20).
43. Hãy tỉnh thức – Noel Quesson
(Trích trong ‘Suy Niệm Tin Mừng’)
Ngày kia, một sinh viên Rôma tới gặp thánh Philipphê Nêri. Anh say sưa nói về kế hoạch xây dựng tương lai đời mình. Anh sẽ học luật, anh có đủ khả năng và kế hoạch đạt tiến sĩ luật.
Thánh nhân hỏi anh: - Sau đó thì sao?
Chàng trai hăng hái trả lời: - Con sẽ tham gia bào chữa những vụ kiện lớn và con sẽ thành công.
- Sau đó thì sao? Thánh nhân hỏi tiếp.
- Rồi con nổi tiếng, con sống thoải mái hạnh phúc, giàu sang.
- Rồi sao nữa? Nghe hỏi tiếp, người thanh niên hơi bối rối.
- Dĩ nhiên rồi con cũng chết như mọi người.
Thánh nhân vẫn tiếp tục câu hỏi cũ:
- Sau đó thì sao? Con sẽ là gì khi xuất hiện trước phiên tòa cuối cùng? Con sẽ là bị cáo và Thiên Chúa sẽ là thẩm phán tối cao?
Chàng trai im lặng cúi đầu. Từ đó anh suy nghĩ nhiều về ý nghĩa cuộc đời.
Cuộc sống của mỗi người đều có một sứ mệnh do Chúa trao ban. Có thể đó là một nguồn vốn, một tài năng, một nhiệm vụ. Và sẽ có lúc Chúa đòi ta tính sổ lại với Người. Điều đó chắc chắn, và cũng chắc chắn là ta không biết thời gian phải tính sổ đó là lúc nào.
Để ứng phó với vấn đề này, Chúa dạy ra luôn luôn tỉnh thức. Trong Tin Mừng, Chúa nhắc nhở nhiều lần: Hãy cẩn thận, hãy luôn tỉnh thức. Ở đây, có thể hiểu về việc tính sổ cuối cùng của cuộc đời mỗi người. Ai cũng phải sẵn sàng, bất cứ lúc nào, vì không ai biết ngày giờ Chúa tới. Chúng ta cứ ước mơ, cứ xây dựng và dự tính tương lai, nhưng đừng khi nào quên mục đích cuối cùng của cuộc đời và phải luôn tâm niệm: tất cả đều do Chúa ban và sẽ có lúc Chúa đòi ta tính sổ. Chúa như một ông chủ đi xa, Ngài trao cho các tôi tớ Ngài mỗi người một phần vốn, và một nhiệm vụ cụ thể. Mỗi người phải tự mình xoay xở làm thế nào cho vốn Chúa ký thác được sinh lời.
Cha Charles de Foucault nói: “Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay”. Đó là một lời khuyên khôn ngoan, một lời khuyên lặp lại lời nhắn nhủ của chính Chúa: “Hãy tỉnh thức, vì các con không biết giờ nào chủ sẽ về”.
Nhưng thái độ “tỉnh thức” không chỉ ứng dụng vào cái chết, chúng ta còn phải luôn luôn tỉnh thức trong cuộc sống hằng ngày, nhớ mình đang tham dự một cuộc chiến đấu gay go, trường kỳ. Phải cẩn thận đón nghe, suy niệm Lời Chúa, nếu không, ta sẽ là người nghe mà không hiểu gì (Mc 4,12); cẩn thận tránh men biệt phái và men Hêrôđê (Mc 8,15); cẩn thận đừng lầm lạc theo các ngôn sứ giả mạo có cả những kẻ mạo danh Đức Kitô mà đánh lừa chúng ta (Mc 13,5.23). Phải cầu xin Chúa trợ giúp để biết luôn tỉnh thức hầu sống một đời Kitô hữu trung tín, xứng đáng với các ân huệ Chúa trao ban.
Lạy Chúa, chúng con tin rằng Chúa đang đến và sẽ đến với chúng con bằng nhiều cách. Xin ban Thánh Thần cho chúng con, nhờ Người trợ giúp, chúng con biết tỉnh thức, kiên trì cầu nguyện, suy niệm và thực hành Lời Chúa mỗi ngày; nhờ Người, chúng con biết đón nhận những vui buồn trong cuộc sống như hồng ân Chúa ban. Chúng con xin tạ ơn Chúa.
44. Tỉnh thức – Lm. John Nguyễn Tươi
Mùa vọng là mùa của chờ đợi và hy vọng. Đây là thời gian chuẩn bị đón mừng lễ Giáng sinh, mừng Con Thiên Chúa đến trong thế gian để mang lại sự hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân loại. Trong mỗi chúng ta luôn khát khao được sống trong yêu thương, an lành và hạnh phúc, nhưng trong thực tế thì không phải ai cũng đạt được những điều mình mong ước trong cuộc sống.
Vào Mùa Vọng năm 2008, tôi có dịp đi vào những vùng sâu, và viếng thăm những người nghèo. Tôi đến thăm một bé trai 9 tuổi bị bệnh ung thư máu, em đã nằm trên giường bệnh nhiều năm, thân hình tàn tạ chỉ còn da bọc xương, em đang chờ đợi cái chết sẽ xẩy đến trong một thời gian ngắn. Lúc ấy, tôi thầm nghĩ trong lòng, tôi sẽ đưa em đi bệnh viện vì gia đình em quá nghèo. Họ không có tiền để mua thuốc hay một hộp sữa cho em uống. Tôi hỏi người mẹ có cho em ăn gì chưa? Chị ta trả lời: "Hôm nay, nhà con không còn tiền và cũng không còn thứ gì để ăn". Khi nghe lời chị ta nói, lòng tôi đau thắt lại. Ngôi nhà thì rách nát, tả tơi, ngay cả chỗ em nằm cũng bị ước vì trời mưa. Khi nhìn thấy hoàn cảnh nghèo đói của gia đình cậu bé, tôi thật sự không kèm chế được cảm xúc của mình với nỗi bất hạnh của cậu bé này. Tôi đến cầm lấy tay và đỡ em ngồi dậy. Đôi mắt của em nhìn thẳng vào tôi, hai dòng nước mắt chảy xuống gò má gầy gò, và ngay lúc đó tôi cũng không thể cầm được nước mắt của mình. Tôi không thể nói được điều gì với em, nhưng tôi tin chắc rằng, em sẽ hiểu được tình cảm của tôi. Trước khi từ giã em ra về, tôi hứa với em rằng, tôi sẽ trở lại để đưa em đi bệnh viện. Nhưng tôi chưa kịp quay trở lại, thì em đã vĩnh viễn ra đi.
Thật là đau lòng khi tử thần đã cướp đi mạng sống của em. Cậu bé luôn hy vọng và chờ đợi một tương lai tốt đẹp hơn. Chờ đợi một phép lạ xẩy ra cho em được sống, nhưng tất cả đều vô vọng. Và em đã vĩnh viễn ra đi, còn tôi luôn mang trong mình một nỗi khắc khoải và một ký ức đau buồn với một lời hứa chưa được thực hiện. Kinh nghiệm này giúp cho tôi một chút suy tư về cuộc đời, về những gì Chúa nói trong trang Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói rằng "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến." Phải chăng đây là lời cảnh báo cho mọi người chúng ta! Ngài kêu gọi chúng ta phải tỉnh thức trước mọi biến cố xẩy ra trong cuộc sống, vì khi chúng ta tỉnh thức là lúc chúng ta biết nhìn lại chính mình và thoát ra khỏi tình trạng mê muội, sai lầm bởi bản ngã yếu đuối của con người.
Mùa vọng không chỉ là cơ hội tốt để cho chúng ta nhìn lại thời gian qua, sống đúng với giá trị hiện tại mà còn hướng tới tương lai vĩnh cửu. Lời Chúa nhắc bảo chúng ta là hãy sẵn sàng và tỉnh thức trong mỗi hoàn cảnh và thời khắc, vì chúng ta chẳng biết giờ Chúa đến với mỗi người chúng ta. "Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con, như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất. Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để các con có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!" Và ngày đó, Thiên Chúa sẽ phán xét chúng ta về lòng bác ái và yêu thương, vì chân lý cuối cùng của cuộc đời là tình yêu: Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Vì yêu thương con người, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm Người, sống kiếp con người và ở với chúng ta. Ngài đã chết và sống lại để mang lại hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân loại.
Có những mảnh đời đi qua đời tôi, nhưng tôi vẫn vô tình, thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm, vì cái tôi chật hẹp và ích kỷ. Hình ảnh cậu bé ngày xưa vẫn còn đọng lại trong tôi, như là một lời nhắc nhớ tôi rằng: chờ Chúa đến không phải chỉ là ước mong những điều tốt đẹp cho mình, nhưng là phải biết chia sẻ, cảm thông, yêu thương. Chờ Chúa đến không phải là lúc ta ngồi đó để than vãn, oán trách cho số phận mà là hãy sẵn sàng, tỉnh thức, cầu nguyện và thực thi bác ái trong Mùa Vọng này.
45. Tỉnh thức – ĐGM. Nguyễn Sơn Lâm
(Trích dẫn từ tập sách ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Mở đầu niên lịch Phụng vụ, ba bài đọc Thánh Kinh của Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng năm nay phác họa lại cho chúng ta một vài thái độ trong khung cảnh sống của Dân Chúa: ngay giữa đêm tối của thử thách, nghi ngờ, phấn đấu, tội lỗi, Dân Chúa đã cùng nhau tự thú những lỗi phạm của mình, cương quyết sống trung kiên mong chờ ngày Quang Lâm của Chúa Giêsu Kitô trong niềm tin tưởng và thái độ tỉnh thức.
Quả vậy, bài đọc Isaia 63,16-64,7 trình bày lại bối cảnh của đoàn dân Thiên Chúa sau thời Lưu đày. Kinh nghiệm ê chề của những năm tháng sống kiếp nô dịch trên phần đất ngoại bang đã đem lại cho họ một ý thức tập thể về những lỗi phạm của mình. Họ ngước mắt nhìn về Thiên Chúa là Cha để thốt lên lời khẩn nguyện: "Ôi phải chi Người xé trời ngự xuống, thì núi non cũng sẽ tiêu tan trước Nhan Ngài". Tâm trạng hối lỗi và tha thiết khẩn nài ơn cứu độ đã giúp Dân Chúa nhận định lại ơn gọi của mình để sống trọn vai trò chứng nhân trung thành giữa muôn dân qua thân phận mỏng dòn và hèn yếu của cuộc sống con người.
Bảy thế kỷ sau, khoảng 25 năm sau ngày Đức Kitô về trời, thánh Phaolô cũng đã nhắc nhở lại ơn gọi thực sự của người Kitô hữu: không những chỉ ý thức những sai lỗi của mình, nhưng còn phải sống vươn lên mong chờ ngày Đức Kitô trở lại. Các cộng đoàn tín hữu tiên khởi đã sống trong hoàn cảnh hồi hộp, nao nức mong chờ ngày trọng đại đó. Những lời nguyện: "Maranatha, Lạy Chúa, xin hãy trở lại" (1Cr 16,22) càng đặt họ vào tâm trạng xao xuyến và đầy xúc động. Ngài ở đây! Ngài ở kia! (2Th 2,2). Và có khi vì mỏi mệt đợi chờ, họ đã không ngần ngại thốt lên: "Có lẽ Ngài đến chậm".
Tâm trạng khắc khoải đó cần bắt gặp được một cái gì vững chắc củng cố lòng tin tưởng: nếu không, thái độ tỉnh thức mong chờ của họ sẽ hão huyền, ảo vọng.
Quả vậy, mỗi lần cử hành nghi lễ bẻ bánh, cộng đoàn dân Chúa vẫn long trọng tuyên xưng lại niềm tin của mình:
"Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến".
Nỗi lòng mong chờ khắc khoải đó như được xoa dịu và soi sáng bởi lời Đức Kitô trong đoạn Tin Mừng theo thánh Marcô 13,33-37. Ngài như một chủ nhà phải ra đi, vắng xa và vắng lâu. Sau khi trao phận sự quản lý cơ nghiệp cho gia nhân, mỗi người theo chức vụ của mình, Ngài đặc biệt tín cẩn và căn dặn người canh cửa: "Hãy tỉnh thức". Phải, hãy tỉnh thức để đón chờ ngày tái ngộ. Cuộc tái ngộ có thể xảy ra một cách rất bất ưng vào một lúc nào đó trong ban đêm. Gia nhân và nhất là người canh cửa phải tỉnh thức, luôn sống trong ánh sáng ban ngày để không ngái ngủ, không thất hứa với chủ nhà trước lúc ra đi.
Đặt đoạn văn trên vào khung cảnh lịch sử cứu độ, giữa ngày về trời và ngày trở lại của Đức Kitô, chúng ta có thể nói, thái độ tỉnh thức đó chính là thái độ của Giáo hội, của toàn dân Chúa và nhất là của những người hữu trách các cộng đoàn.
Nhưng tại sao phải tỉnh thức?
Vì trước tiên, đó là ý muốn, là mệnh lệnh của chủ nhà. Để cho cửa nhà êm ấm, an toàn và trường tồn, phận sự của người canh cửa, không phải chỉ lo bảo vệ ngôi nhà, mà còn phải lưu tâm đến những người sống trong đó.
Ngoài ra, tỉnh thức còn là thái độ của một gia nhân trung thành đối với người đã tín nhiệm, ủy thác trách vụ cho mình. Và chắc chắn niềm vui của ngày tái ngộ sẽ trọn vẹn nếu chủ nhà gặp được gia nhân trong tư thế đợi chờ và sẵn sàng.
Hơn thế nữa, tỉnh thức cũng là để khỏi rơi vào giấc ngủ! Mà thường người ta chỉ ngủ lúc ban đêm, trong bóng tối! Theo nghĩa Thánh Kinh, ban đêm, bóng tối, gợi lên cho chúng ta hình ảnh một môi trường đầy nguy hiểm, đầy thử thách. Bóng đêm đối nghịch lại ánh sáng ban ngày. Đó là chiều kích thử thách của cuộc sống. Nó đưa đến tội lỗi, đau khổ, sự dữ... Nó đưa đến sa ngã, nản chí, nghi ngờ. Người canh cửa có thể bội phản người thân xa vắng, để chạy theo những quyến rũ của kẻ khác, của ngẫu tượng đồng lõa với bóng đêm.
Và tỉnh thức như thế nào?
Phải chăng là thắp đèn ngồi chờ? Là sống trong tâm trạng viễn vông! Không! Đọc lại Thánh Kinh và lịch sử dân Chúa, chúng ta thấy việc tỉnh thức đợi chờ không phải là một thái độ thụ động. Nhưng là một hành vi ý thức của người hiểu biết lý do.
Vì thế, thái độ tỉnh thức của Giáo hội và đặc biệt của những người hữu trách dân Chúa phải sống động và đầy tính chất sáng tạo. Đó là thức tỉnh hiệp thông với người bạn của mình. Đó là thái độ của một người bạn trung thành, cởi mở để luôn lắng nghe lời nói của bạn mình. Như thế, tỉnh thức đối với Giáo hội, có nghĩa là không ngừng chiến đấu để sinh tồn, để trung thành với Lời Chúa. Dầu xa vắng, nhưng hầu như tiếng nói, lời hứa và sự hiện diện của Ngài luôn xoáy động trong lòng Giáo hội và chi phối mọi sinh hoạt của dân Chúa. Với ánh đèn soi sáng và sưởi ấm đó, Giáo hội như có một nghị lực để cảm thông và tìm ra được ý muốn của Ngài qua mọi biến cố trong cuộc sống, qua mọi dấu chỉ thời đại.
Sự đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối tạo nên trong tâm hồn mỗi người và trong đời sống Giáo hội một sự giằng co căng thẳng, mà chúng ta phải dùng như một đà tiến để vươn lên, Giáo hội có phận sự rút kinh nghiệm từ các sự kiện xảy ra trong lịch sử quá khứ và hiện tại để sửa chữa lỗi lầm, tự thanh luyện mình để tiến tới sự hoàn thiện như Chúa Kitô mong muốn. Đặc biệt Giáo hội phải sẵn sàng từ bỏ địa vị ưu thế trong xã hội để chấp nhận thân phận đầy tớ phục vụ chủ nhà mình và anh em.
Để tỉnh thức chờ Chúa đến, Giáo hội phải nhẹ lòng đối với của cải trần thế và dứt khoát với những quyến rũ của các ngẫu tượng. Khi làm như thế, Giáo hội thực sự đang cầm đèn trong tay sẵn sàng đợi Đức Kitô, vì ngày trở lại của Ngài sẽ xảy tới bất chợt.
Đồng thời, nếp sống của Giáo hội sẽ là ánh sáng thức tỉnh mọi người để họ nhận ra Đức Kitô là Đấng Cứu Thế đích thực. Giáo hội đang mang trong lòng sức sống và động lực thúc đẩy chính mình và cả thế giới tiến lên gặp Đức Kitô. Thế nên, tỉnh thức là phận sự cần thiết của những con người chứng nhân cho ánh sáng. Và Giáo hội phải là kho dự trữ sức sống phong phú và sung mãn chuẩn bị cho mọi người đón nhận thời viễn lai. Vì thế, khi hướng về ngày Chúa Kitô trở lại, Giáo hội quả là niềm hy vọng cho toàn thể thế giới và vũ trụ.
BÀI GIẢNG
1. Đời sống con người, có thể nói, bao giờ cũng bao hàm một khía cạnh đau thương khổ sở. Không phải chỉ thời nay mới khổ; thời trước cũng đã khổ rồi và bao lâu còn sống ở trần gian thì con người vẫn phải chịu đựng hy sinh và đau khổ. Bài sách Isaia chúng ta đọc hôm nay, đã được viết ra sau thời dân Dothái bị lưu đày bên Babylon. Bài sách ấy cho ta thấy rằng: tuy hết bị lưu đày, nhưng dân Dothái vẫn tiếp tục gánh chịu đau khổ. Điều làm cho họ đau khổ nhất, chính là họ nhận thức ra rằng họ đã "đi lạc xa đường Chúa", đã "phạm tội" và "đã bị phó mặc cho quyền lực tội lỗi".
Tội lỗi của con người, đó chính là nguyên nhân sâu xa gây nên mọi đau khổ. Bài sách Isaia hôm nay thôi thúc ta nhìn vào khổ sở hiện tại như là tiếng gọi cảnh tỉnh ta nhận thức tội lỗi của mỗi người và của cả nhân loại để mau hoán cải trở về với Thiên Chúa. Ngài là Cha yêu thương, là Đấng cứu độ nhân từ và luôn luôn trung thành với lời Ngài đã hứa.
Những khó khăn kinh tế hiện nay cũng gây nên cho ta những khổ sở, nhưng ta nên biết rằng đó là hậu quả không thể tránh được của một nước vừa bị 30 năm chiến tranh tàn phá như nước ta. Và chúng ta, người công giáo còn phải nhìn nhận như dân Chúa thời xưa "Này Chúa thịnh nộ vì chúng tôi đã phạm tội". Với ý chí đổi đời và cải tạo, với quyết tâm từ bỏ mọi ích kỷ cá nhân, mọi tham lam và hận thù, Chúa sẽ ban cho ta nguồn nghị lực mới để xây dựng một xã hội tốt đẹp và huynh đệ hơn.
2. Trong công cuộc này, chúng ta hãy lắng nghe những lời đầy an ủi trong thư thánh Phaolô: "Tôi hằng cảm tạ Chúa thay cho anh em, vì anh em được đầy tràn mọi ơn, trong khi mong chờ Đức Kitô lại đến". Thánh Phaolô ảo tưởng, không nhìn thấy thực tế sao? Ngài không ảo tưởng. Ngài biết rõ các giáo đoàn của ngài. Họ là dân không giàu có, không thế lực. Nhưng hết thảy họ là những người được kêu mời hiệp nhất với Con Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô. Phải, chúng ta là những con người như thế. Chúng ta đừng chỉ nhìn vào đời sống vật chất của mình để thấy xót xa vì thiếu thốn, nhưng còn phải biết nhìn vào tâm hồn, vào tinh thần, vào thiên chức được làm con cái Thiên Chúa, được vinh dự phát huy tình yêu của Ngài đối với trần gian.
Chúng ta cũng hãy hãnh diện, tin vào ý kiên trì của dân tộc Việt Nam trong quá khứ, đã khắc phục được bao khó khăn để vươn lên trong tư thế độc lập tự do, thì trong tương lai cũng sẽ thành công trong việc xây dựng một nước Việt Nam thống nhất, ấm no và có tình yêu thương giữa mọi người đồng bào cùng máu mủ.
3. Mùa Vọng nhắc lại cho ta cả hai chân lý ấy, một đàng dân Chúa như đang lầm than khổ sở, nhưng đàng khác cũng chính dân ấy đã được bảo đảm một tương lai tốt đẹp, trước hết theo ý nghĩa tinh thần, nhưng sau đó cũng kèm theo tất cả mọi khía cạnh được Chúa thánh hóa để làm nên hạnh phúc toàn diện cho con người. Thế nên, Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay dạy ta hãy tỉnh thức đừng mê ngủ. Những than vãn, thở dài, chỉ làm cho thân xác rũ xương và đời sống trở nên đen tối. Trái lại, nếu tỉnh táo, nhìn về tương lai với niềm tin vững mạnh, thì một chân trời mới đang dần dần mở ra trước mắt ta.
Người tín hữu cũng sống trong trần gian và phải hy sinh gian khổ như mọi người. Nhưng nhờ niềm tin như đèn sáng trong tay, chúng ta là những người đang tỉnh thức chờ Đức Kitô trở lại: Ngài là Chúa đem lại hòa bình, là Đấng cứu độ trần gian. Thế nên, lòng ta tràn đầy hy vọng và ta có phận sự chiếu tỏa niềm hy vọng phấn khởi ấy chung quanh ta.
4. Chúng ta hãy mạnh dạn tuyên xưng niềm tin của Giáo hội chúng ta, trước khi đem cuộc đời lam lũ đặt vào đĩa thánh, hiến dâng sự sống và con người của ta cho vinh quang Nước Trời mà Chúa đang dành cho các con cái của Người.
46. Hãy canh thức, hãy sẵn sàng
Anh chị em thân mến.
Trong những ngày này của thời đại chúng ta đang sống, mọi người hết sức lo âu trước căn bệnh của thời đại. Đó là những người bị nhiễm HIV và rơi vào căn bệnh AIDS, gọi là bệnh liệt kháng, làm cho con người mất hết sức đề kháng trong cơ thể. Rất nhiều lời cảnh báo về căn bệnh nầy qua nhiều cách: với phương tiện truyền thông hiện đại, qua TV, qua báo chí và phương tiện truyền thanh, biểu ngữ, tranh ảnh. Mọi người đều nhận được lời cảnh báo này. Nhưng theo số liệu thống kê, thì hằng ngày tại Việt Nam có khoảng thêm một trăm người rơi vào căn bệnh thời đại này. Những người này cũng nghe, cũng nhìn thấy, cũng được kêu gọi nhắc nhở rất nhiều lần, nhưng họ vẫn rơi vào điều nguy hiểm đó. Họ nghe, họ nhìn thấy, họ được nhắc nhở, nhưng tất cả những thứ đó không thức tỉnh được con người của họ, không lay chuyển được họ, không làm họ thay đỗi cuộc sống của mình được. Họ vẫn cứ ung dung tự tại sống theo những gì đã sống mà không cần phải thay đỗi. Họ cứ nhắm mắt, bịt tai lại để có thể tự do sống theo những gì mình thích, không cần biết đến hậu quả như thế nào. Những lời cảnh báo nhắc nhở, không hiệu quả với những người như thế.
Bước vào Mùa Vọng, một lần nữa lại vang lên những lời quen thuộc mà mọi người đã nghe rất nhiều. "hãy tỉnh thức, hãy chuẩn bị tâm hồn để chờ đón Chúa đến...". Những lời nầy đã vang lên rất nhiều lần và từ rất lâu, kéo dài qua mọi thời đại, mãi cho đến ngày hôm nay vẫn còn vang lên. Vậy mà cũng có nhiều người bị bất ngờ khi Chúa đến, không có chuẩn bị được gì khi hoàn cảnh cần thiết đòi hỏi họ. Những người đó cũng được nghe, được kêu mời hết sức thống thiết. Những người đó là những người thuộc hết những lời kêu mời, những lời nhắc nhở. Nhưng những gì họ nghe và biết đó không giúp gì được cho cuộc sống của họ. Họ không thi hành.
Mỗi người trong chúng ta, một lần nữa lại nghe những lời kêu mời hết sức quen thuộc: "hãy tỉnh thức và sẵn sàng...". Chúng ta bảo rằng: mình đang tỉnh thức đây, đang sẵn sàng đây, rồi có lẽ cũng như những lần nghe trước, những lời nầy rồi cũng qua đi.
Bao nhiêu mùa vọng đã đến và đi trong đời sống chúng ta? bao nhiêu lần những lời nhắc nhở đến bảo chuẩn bị, nhưng cho đến ngày hôm nay một lần nữa cũng những lời như thế. Mỗi người trong chúng ta cùng nhau để một chút suy tư, hồi tâm, nhìn lại cuộc sống đời người của chính mình.
Chúng ta tự bảo rằng: mình đang sẵn sàng, mình đang tỉnh thức, không cần phải thay đỗi hay chuẩn bị gì thêm. Những gì của hiện tại đã quá đủ, quá tốt, nên những lời mời gọi trở nên dư thừa. Những lúc đó con người của chúng ta không còn tỉnh thức đủ để lắng nghe, không biết sẵn sàng để đón nhận, vì giấc ngũ của sự tự mãn đã lấp đầy cuộc sống, làm cho con người trở nên mê muội không còn biết gì bên ngoài đưa tới nên không thể tiếp nhận được. Vì mãi mê trong giấc ngũ nên cũng không thể lắng nghe được những gì mà Thiên Chúa kêu mời để làm cho đời sống mình trở nên mới hơn.
Nếu có lúc nào đó trong cuộc sống, chúng ta chợt giậc mình khi nghe lời kêu mời: "hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng"; để nhìn thấy cuộc sống của mình cần thay đổi. Chúng ta chợt giậc mình vì thấy những việc làm của mình không có mục đích, không phục vụ được ai, chỉ thoả mãn những gì hết sức riêng tư của cuộc sống. Cũng chợt giật mình vì những lời nói gây đau thương cho nhiều người, có khi là những lời nói ngay ý nhưng thiếu suy nghĩ, cũng có khi là những lời cân nhắc hết sức chi li và toan tính nhiều ngày.
Nếu chúng ta lắng nghe lời mời goi và tỉnh thức thật sự, biết sẵn sàng phục vụ để những việc làm mang lại niềm vui cho nhiều người, những lời nói đem lại sức sống, đem lại sự cảm thông và an bình cho những người chung quanh. Khi đó thật hạnh phúc cho chúng ta, vì mọi sự trong tình trạng sẵn sàng như Chúa muốn và Ngài có thể đến với chúng ta bất cứ giờ phút nào, không lo sợ những gì bất ngờ xảy đến.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa soi sáng cho mỗi người biết lắng nghe lời Chúa, để biết luôn sẵn sàng trong cuộc sống hiện tại mà đón chờ Chúa đến.
47. Tỉnh thức để bảo toàn sinh mạng
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ của Lm. Trần Ngà)
Tai nạn giao thông ngày càng gia tăng khốc liệt, gây ra chết chóc, thương tật, tai hoạ cho hàng chục ngàn người mỗi năm tại Việt Nam. Chưa từng có trận chiến nào trong lịch sử chiến tranh Việt Nam cận đại ngốn nhiều nhân mạng và gây nhiều thương vong cho bằng tai nạn giao thông trên các tuyến đường dọc theo chiều dài đất nước trong những năm qua.
Nguyên nhân chính gây ra tai nạn giao thông là người lái xe không tỉnh táo. Phải lái xe suốt đêm trường trên những con đường dài thăm thẳm khiến người lái thiếp đi lúc nào không hay. Một số khác mất tỉnh táo vì men rượu, nên không thể chủ động và phản ứng kịp thời khi tình huống xấu xảy ra. Thế là tai hoạ và chết chóc chụp xuống trên đầu nhiều người thật khủng khiếp.
Khi tài xế ngủ gật, say rượu bia thì nguy cơ gây nên cái chết cho mình và cho người liên hệ hầu như chắc chắn. Người lái xe không tỉnh thức, vì ngủ gật hay vì ma men, là kẻ sát nhân và là người tự sát, gây nên những hậu quả nghiêm trọng khôn lường cho nhiều nạn nhân vô tội.
Chính vì thiếu tỉnh thức dễ đưa đến những hậu quả nghiêm trọng khôn lường nên Chúa Giêsu đã nhiều lần kêu gọi mọi người đừng mê ngủ nhưng hãy tỉnh thức dưới nhiều hình thức:
Tỉnh thức như người tôi tớ chong đèn đợi chủ đi ăn cưới mãi đến hai hoặc ba giờ sáng mới về (Luca 12, 35-48); tỉnh thức như người chủ nhà canh phòng kẻ trộm thâm nhập giữa đêm khuya (Mt 24, 42-44); tỉnh thức như người quản lý được người chủ đi xa giao trọng trách quán xuyến việc nhà mà không biết giờ nào chủ trở lại kiểm tra công việc đã được giao phó (Mc 13, 33-37. Lc 12, 42-46); tỉnh thức như những cô phù dâu mang dầu đèn đi đón chàng rể có thể vào giữa đêm khuya mới đến. (Mt 25,1-13)
Trong các trường hợp được nêu trên đây, việc tỉnh thức sẽ mang lại phần thưởng lớn lao và sự ngủ mê sẽ gây hậu quả tai hại.
* * *
Mỗi người chúng ta là những người tài xế điều khiển chiếc xe cuộc đời của mình, có trách nhiệm với vận mệnh đời đời của mình cũng như những người liên hệ.
Những nhà lãnh đạo cao cấp của đất nước là những người lèo lái chiếc tàu quốc gia. Nếu những vị nầy "mê ngủ", chắc chắn sẽ gây ra hậu quả đau thương cho đất nước, cho dân tộc và cho thế giới. Đại biểu cho những "tài xế" kiểu nầy gồm những nhân vật như Hitler, Stalin, Sadam Hussein và rất nhiều tên tuổi khét tiếng khác.
Những nhà lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo là những người cầm lái cỗ xe tôn giáo, có trách nhiệm uốn nắn lương tâm của số đông tín đồ, nếu không tỉnh táo thì cũng sẽ dẫn đưa hàng vạn tín đồ của mình lao xuống vực thẳm bạo lực, chiến tranh tôn giáo hoặc những hình thức khủng bố dã man như đã xảy ra lâu nay.
Những Thầy Cô giáo nắm tay lái cỗ xe học đường, có sứ mạng đào tạo những mầm non hôm nay thành những rường cột cho nước nhà mai sau, nếu không tỉnh táo thì sẽ đưa bao thế hệ học sinh xuống vực.
Vị chủ chăn trong giáo xứ hay bậc phụ huynh trong các gia đình cũng đều là những "tài xế" điều khiển những chiếc xe Chúa trao cho mình quản lý, nếu không tỉnh táo, không sáng suốt thì gây phương hại cho mình cũng như cho vô vàn người khác.
Người lái xe đường dài ban đêm không bao giờ dùng bia, rượu, những chất gây ngủ hoặc bất kỳ loại thức ăn nước uống nào làm cho đầu óc mất tỉnh táo.
Là tài xế cầm lái chiếc xe đời mình, chúng ta quyết không để cho men say của lạc thú, bóng tối của dục vọng, những cơn lốc của đam mê... làm mờ tối lương tri, làm thui chột con mắt linh hồn, làm mê muội tâm trí, khiến chúng ta không còn tỉnh táo để lèo lái đời mình theo đường lối Chúa Giêsu.
Người chạy xe đêm đường dài cần đến cà phê, thuốc lá, nước tăng lực, khăn lạnh... để làm cho đầu óc luôn tỉnh táo hầu tránh được tai nạn giao thông, khỏi làm thiệt hại mạng sống mình cũng như những người liên hệ; thì chúng ta, những người đang lèo lái đời mình qua nhiều khúc quanh của cuộc sống, xuyên qua bóng đêm cuộc đời, cũng luôn cần Lời Chúa lay tỉnh, để khỏi gây gương mù làm hại linh hồn người khác và có thể tỉnh táo, sáng suốt đưa đời mình, linh hồn mình về đến bờ bến bình an.
48. Tỉnh thức để tự cứu mình
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Vào thời Xuân Thu, khoảng 500 năm trước Chúa Giáng Sinh, vua nước Việt (một trong nhiều nước tại Trung Quốc thời đó) tên là Câu Tiễn muốn đánh bại vua Ngô để phục thù mối nhục lớn, nhưng Ngô là nước mạnh, còn Việt là nước yếu, vua nước Việt biết mình không thể thắng Ngô bằng sức mạnh quân sự nên phải dùng những mưu kế sau đây, cốt làm cho vua Ngô trở nên mê muội, mất tỉnh táo mà phải bại vong.
Thứ nhất là tìm cách làm cho vua Ngô mê muội, chẳng còn tỉnh táo trước nguy cơ mất nước.
Để thực hiện được việc nầy, Câu Tiễn dâng cho vua Ngô nhiều gái đẹp, đặc biệt là Tây Thi, được xem là phụ nữ đẹp nhất trong lịch sử Trung Quốc thời Xuân Thu, để làm cho vua Ngô ngày đêm say đắm sắc đẹp và lạc thú mà quên lo việc nước.
Đồng thời, dâng cho vua Ngô nhiều thợ giỏi và gỗ quý để vua Ngô xây dựng lâu đài thật nguy nga tráng lệ, khiến cho ngân quỹ triều đình cạn kiệt, đồng thời lâu đài nầy là nơi cuốn hút vua Ngô hưởng lạc mà bỏ bê công việc triều đình.
Thứ hai là tìm cách làm cho vua bỏ ngoài tai những lời cảnh báo khôn ngoan của Ngũ Viên là vị quan đại thần có lòng giúp vua giữ nước.
Để thực hiện âm mưu nầy, Câu Tiễn mua chuộc một vị đại thần có tính xu nịnh trong triều đình vua Ngô tên là Bá Hi, để ông nầy xui khiến vua Ngô đừng nghe lời can gián sáng suốt và xây dựng của Ngũ Viên là vị quan trung thành cương trực, rồi dần hồi, bức tử Ngũ Viên.
Lâm vào diệu kế của Câu Tiễn, vua Ngô đâm ra mê đắm sắc đẹp của Tây Thi, ngày đêm vui chơi hưởng lạc quên việc triều đình, lại nghe lời nịnh hót của Bá-hy mà giết hại trung thần Ngũ Viên. Thế là từ đó, nhà vua không còn tỉnh táo để nhận ra nguy cơ mất nước vào tay quân thù. Kết cục là vua Ngô bị Câu Tiễn đem quân đánh bại và cuối cùng phải tự đâm vào cổ tự sát.
Như thế, bí quyết để đánh bại một địch thủ hùng mạnh hơn mình, là phải làm cho đối thủ đó trở nên mê muội, mất tỉnh táo, thiếu canh phòng.
Tương tự như thế, để đánh bại chúng ta, ma quỷ cũng dùng chiến thuật làm cho chúng ta ra mê muội, mất hết tỉnh táo, không biết tỉnh thức canh phòng.
Chiến thật thứ nhất, ma quỷ làm cho chúng ta đắm mình trong những lạc thú trần gian, chạy theo những lôi cuốn của tiền bạc, của cải, lợi lộc vật chất mà lãng quên đời sống thiêng liêng, như vua Ngô mê đắm sắc đẹp của Tây Thi mà lãng quên việc nước.
Chiến thuật thứ hai, ma quỷ xui khiến chúng ta bỏ ra ngoài tai những lời dạy khôn ngoan của Thiên Chúa và của Hội Thánh, không lắng nghe tiếng nói lương tâm hay lời khuyên can của bao người thiện chí… như vua Ngô không chịu nghe những lời can gián khôn ngoan của Ngũ Viên, để chúng ta trở nên mù tối, mất tỉnh táo và sáng suốt.
Để cứu chúng ta khỏi mê muội, mất tỉnh táo, Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay kêu gọi chúng ta phải tỉnh thức thường xuyên, như người tôi tớ canh giữ cửa nhà cho chủ, không để quân gian đột nhập vào nhà, để bất cứ giờ nào chủ về cũng gặp anh ta đang tỉnh táo.
Lạy Chúa Giêsu,
Dù đã từng nghe Chúa mời gọi canh phòng, tỉnh thức nhiều lần, nhưng dường như không mấy ai quan tâm thực hiện. Người ta không để cho Lời Chúa lọt tai, như vua Ngô không chịu nghe lời khôn ngoan của Ngũ Viên. Như thế thì không sao tránh khỏi những tai hoạ chụp xuống bất cứ lúc nào.
Xin cho chúng con ghi khắc Lời Chúa dạy hôm nay, luôn luôn tỉnh táo canh phòng, không để cho đôi mắt tâm linh mù tối vì dục vọng và những lôi cuốn thế tục, đồng thời không để cho đôi tai tâm hồn đóng lại trước những lời răn dạy khôn ngoan, nhờ đó, chúng con có thể tự cứu mình khỏi nanh vuốt huỷ diệt của tà thần. Amen.
49. Những cuộc vi hành của Đức Kitô
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Dụ ngôn nhỏ này khuyên nhủ cảnh giác tâm hồn, chủ yếu nói về sự trở lại của Đức Giêsu ngày tận thế. Ông chủ vắng nhà là Đức Kitô sau khi Người lên trời. Người đã thiết lập Giáo Hội và giao cho các môn đệ nhiệm vụ hoạt động cho việc cứu rỗi thế gian. Là thành phần Giáo Hội, chúng ta phải canh thức tích cực để chuẩn bị ngày Chúa trở lại. Dụ ngôn cũng áp dụng cho mỗi chúng ta. Chúng ta phải được báo trước phải tỉnh thức để nghênh tiếp những chuyến thăm viếng bất chợt của Chúa. Người đến trong ân sủng ban phát hàng ngày, hoặc bằng những lời mời gọi chúng ta nhận lấy công việc Người định giao, hoặc ở giây phút cuối cùng đời chúng ta.
Chung cục, điều quan trọng là chúng ta phải lưu ý đến nhiều cách Chúa Giêsu hiện diện trong con người và trong cuộc đời chúng ta. Liệu chúng ta có nhận ra Đức Kitô trong những cuộc vi hành của Người? Chúa đến với chúng ta hằng ngày. Chính vì sự kiện đó, để chuẩn bị Lễ Giáng Sinh, Giáo Hội dạy đọc đoạn Phúc Âm này nói về ngày Chúa trở lại. Nếu chúng ta mong ước, chúng ta sẽ nhận được ân sủng Chúa Giêsu mỗi ngày. Chỉ cần làm thế nào để ơn Chúa gặp chúng ta sẵn sàng đón tiếp. Làm thế nào để cảnh giác, để biết nhận ra Chúa những lúc Ngài đến bất ngờ?
1.- Khởi điểm là một niềm ước nguyện nào đó, ao ước Chúa đến với ta. Ta có thể hình dung khi đọc dụ ngôn, cảnh những đầy tớ bất lương đang khoái trá vì chủ đi vắng, chúng không mong ông về – trong khi đó nhóm đầy tớ tốt thì nóng nảy ước mong chủ chóng về. Ông chủ là Đức Kitô, chúng ta là đầy tớ và cũng là bạn hữu Người. Tất nhiên chúng ta mong ước Người đến, hiện diện và can thiệp vào cuộc đời chúng ta. Tình bạn thiết với Đức Giêsu giữ cho tâm hồn tỉnh thức để đón nhận sự hiện diện tác động của Chúa. Tách rời một điều khỏi bối cảnh đức tin, điều đó có vẻ không quan trọng, nhưng môn đệ Chúa có thể xem đó như là một lời phán của Đức Kitô, một sứ điệp, một lời mời, một phương thế để gặp gỡ và hiệp thông. Vui buồn, thành tựu, đau khổ, lo nghĩ, biến sự cá thể hoặc tập thể, điều gian ác ta phải chịu hoặc cư xử, nhã ý ta nhận được, thành công hoặc thất bại trong hoạt động tông đồ, v.v… - bất kỳ biến sự nào trong cuộc đời cũng có thể, trong môi trường đức tin, trở nên phương thế nghênh đón Đức Giêsu Kitô – nhưng muốn được thế, chúng ta phải mong ước.
2.- Người có tâm hồn cảnh giác thì cũng muốn làm sáng tỏ việc Chúa thăm viếng kẻ khác. Một trong những công việc hòa hợp nhất với sự tôn trọng kẻ khác là giúp đỡ tha nhân nhận biết Chúa khi Người đến trong cuộc đời họ. Chúng ta có thể tự đặt những câu hỏi về ảnh hưởng chúng ta muốn có đối với tha nhân, một ảnh hưởng ít nhiều chính đáng, trong sạch, khéo léo. Nếu ước nguyện sâu rộng của chúng ta là hướng tha nhân chú ý đến Thiên Chúa ngự trong họ, chúng ta sẽ xử sự giống như thánh Gioan Tẩy giả từng chuẩn bị các tâm hồn cho cuộc gặp gỡ Đức Kitô, và trong khi làm công việc đó, ông cố ý khiêm hạ khuất mình đi.
50. Chúng ta có phải là những đứa con hư không?
(Trích trong ‘Giảng Lễ Chúa Nhật’ của Yvane Fournier-Guérard)
Dù chúng ta đã nhận được mọi sự từ Chúa Cha nơi Con Một Ngài, chúng ta cũng phải chu toàn sứ vụ, tỉnh thức và thiết tha ước muốn ơn cứu độ nhờ việc Chúa Kitô đến.
Chẳng bao lâu nữa … có quà.
Mọi sự đều sẵn sàng khi chúng ta mở những gói quà tượng trưng cho Tình yêu mà Chúa Kitô đến đổ tràn trên trần thế.
Hàng nghìn trẻ con sẽ nhận được quà đến nỗi sau khi được đầy dẫy như vậy tâm tình duy nhất còn lại sẽ đôi khi là tâm tình thiếu vắng vô cùng. Vì nhận được quá nhiều nên thường ta có cảm tưởng đã không nhận được gì cả, vậy nên thất vọng chua xót và chờ đợi.
Trái lại, đứa trẻ chỉ mong muốn và xin một điều thôi và được điều này thì sẽ mãn nguyện. Tất cả thời gian chờ đợi, hy vọng có được điều mình ham muốn, mang đến cho điều này một giá trị hầu như vô song.
Bà nội, bà ngoại chúng ta còn nhắc chúng ta nhớ một cách cảm động quả cam và vài cục kẹo đặt trong vớ của họ treo lên trước ngày đầu năm. Quả thật, tầm quan trọng của việc chuẩn bị đón nhận làm cho niềm vui (hoặc nỗi thất vọng) tăng lên khi biến cố xẩy đến. Người ta sẽ nói về đứa trẻ không hài lòng với những món quà của mình rằng nó khổ sở nếu cha mẹ không cho nó những gì nó xin; hoặc nó là con cưng nếu nó nhận được mọi sự mà không gì làm nó hài lòng cả.
Chúng ta có phải là những đứa con hư không?
Chúng ta bắt đầu vào mùa Vọng. Chúng ta chờ đợi gì nơi việc Chúa Kitô đến? Có thể là những đòi hỏi của chúng ta nhiều đến nỗi lời đáp của Chúa có vẻ không làm chúng ta hài lòng? Hoặc hơn nữa chúng ta đã ngưng cầu xin, vì tưởng rằng mọi sự sẽ được ban dư dật không cần cố gắng nào cả?
Tốt nhất là chỉ chờ một điều thôi, điều quan trọng nhất, chờ đợi Chúa Kitô đến trong cuộc đời chúng ta. Ta hãy xem có cách nào để cải tiến cuộc đời mình không.
Một thái độ tỉnh thức.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ về việc Ngài đến. Ngài nhắc cho họ nhớ rằng thế giới cần ơn cứu độ hơn mọi sự khác. Ngài cố gắng làm cho họ hiểu rằng điều chính yếu là Ngài, nhưng phải khát khao, chuẩn vị đón tiếp Ngài.
Như người đầy tớ được chủ giao nhà cho, phải chờ đợi chủ về bất cứ giờ nào, ban ngày và ban đêm, cũng vậy chúng ta phải tỉnh thức, hy vọng, ước mong Chúa đến trong cuộc đời chúng ta.
Ngôi nhà được cho chúng ta mượn chứ không phải cho đứt đâu. Lời Chúa được giao cho chúng ta, nhưng để làm cho chúng ta sống. Lẽ ra việc hiểu biết Chúa phải soi sáng những lựa chọn của chúng ta về cuộc sống. Những ơn thiêng liêng dùng để tôn vinh Ngài và sự kết hợp với Chúa Con giúp chúng ta đứng vững cho đến cùng.
Hiện diện và vắng mặt.
Cuộc nhập thể đã xảy ra. Ngài đã đến trong thế giới chúng ta. Ngài đã bước đi trên những nẻo đường của chúng ta, đã sống cuộc đời làm người hằng ngày của Ngài, đã yêu thương và cầu nguyện. Khi Chúa Giêsu nói với các môn đệ về niềm mong đợi Ngài đến, thì hôm nay chúng ta đã hiểu Ngài muốn nói gì vì chúng ta đang sống vào thời cuối của lịch sử. Ngài sẽ chết, sẽ sống lại, sẽ sai Chúa Thánh Thần đến và sẽ hứa rằng một ngày kia mọi sự sẽ được qui tụ lại trong một Trời mới Đất mới. Đây là cái nhìn về ơn cứu độ theo đường thẳng.
Có một cái nhìn khác, có lẽ đúng theo hình ảnh Thiên Chúa hơn, một cái nhìn của chốn vĩnh hằng nơi mà mọi sự đã có rồi và mọi sự luôn luôn đang thể hiện. Theo cái nhìn này ta có thể chờ mong Ngài đến mọi ngày trong lúc vẫn cám ơn Ngài đang có mặt và đã có mặt ở giữa chúng ta. Món quà của Ngài, ta phải chờ mong, nhưng đồng thời đã được nhìn thấy tất cả những món quà được ban cho ta hằng ngày, biểu lộ tình âu yếm và lòng tốt của Thiên Chúa qua những người xung quanh chúng ta.
Vấn đề của con tim.
Nơi Con Một Ngài. Thiên Chúa trao hiến chính mình để cứu độ nhân loại. Nơi chúng ta, Ngài đã đặt Thần Khí của Ngài và những ân huệ thiêng liêng mà chúng ta phải khám phá ra mỗi ngày để đi vào sự hiệp thông với Ngài. Cuối cùng, việc Con Chúa đến trong lòng chúng ta chỉ được thể hiện tốt đẹp khi chúng ta biết nhận ra Ngài và đồng thời khát khao Ngài.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin “Ngài đến và tỏ Thánh Nhan Ngài cho chúng ta”, để phép lạ của Tình yêu muôn thuở của Ngài được thể hiện, hôm qua, hôm nay và ngày mai.
51. Trách nhiệm
Đoạn Tin Mừng ngắn ngủi chúng ta vừa nghe, lặp đi lặp lại tới bốn lần lời kêu gọi:
- Hãy tỉnh thức.
Nằm giữa những lời kêu gọi ấy là một dụ ngôn ngắn kể lại rằng: Người kia sắp đi xa, để nhà cửa lại, giao trách nhiệm cho đầy tớ trông coi, chỉ định cho mỗi người một việc và dạy phải tỉnh thức luôn vì không biết chừng nào ông ta về. Sẽ không may mắn cho người đầy tớ nào khi chủ bất thần trở về mà bắt gặp còn đang ngủ mê.
Ngôi nhà ông chủ trao cho tôi tớ, chính là thế giới mà Đức Kitô trao cho loài người chúng ta chịu trách nhiệm. Chúng ta có bổn phận phải quản lý nó. Cũng như Chúa dạy chúng ta phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình và phải quản lý cuộc đời mình sao cho phù hợp với ý muốn của Chúa, theo lề luật bác ái yêu thương.
Rồi ngày kia, Ngài sẽ xuất hiện tỏ tường với chúng ta và Ngài sẽ xét xử chúng ta theo cách thức chúng ta hoàn thành nhiệm vụ của mình như thế nào. Chúng ta phải sống cuộc đời hiện tại trong sự tỉnh thức, nghĩa là không quên ngày Chúa đến, đó là ngày tận thế cũng như ngày cuối cùng cuộc đời chúng ta. Vì qui hướng về Đức Kitô như thế, chúng ta sẽ tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cửu của mình.
Chúa Giêsu đã đến, rồi Ngài đã ẩn mình đi khỏi con mắt xác thịt của loài người. Đến ngày quang lâm, Ngài sẽ lại xuất hiện tỏ tường trước mắt muôn dân. Trong thời gian Ngài ẩn mình đi, chúng ta nhiều khi kêu trách Chúa sao như muốn bỏ mặc chúng ta. Nhưng Chúa ẩn khuất như thế chính là vì muốn tôn trọng chúng ta, muốn cho chúng ta nên người trưởng thành.
Thực vậy, làm sao con cái có thể lớn khôn khi cha mẹ cứ bám sát lấy nó, lo cho nó từng ly từng tí. Dĩ nhiên Chúa vẫn lo cho chúng ta ta nhưng có thể nói là một cách kín đáo, tế nhị, không bao giờ dành mất tự do và trách nhiệm của con người.
Có ba quan niệm dễ dàng tạo nên một thái độ tiêu cực trong cuộc đời:
Một là cho rằng chết là hết, không còn gì nữa. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu rồi sẽ như nhau cả, thì người ta có lý để lập luận rằng: Hãy ăn uống, vui chơi, hưởng thụ giây phút hiện tại.
Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là cho rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được định đoạt do các vị thần thánh. Nếu thế thì con người chẳng cần làm gì nữa, chẳng cần cố gắng hy sinh hoặc sáng tạo.
Ba là tin vào thuyết luân hồi, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt hạnh phúc thì ta còn có thể chờ kiếp sau đầu thai lại và tiếp tục xây dựng hạnh phúc.
Quan niệm Kitô giáo về cuộc đời, về thời gian và về lịch sử rất khác với những quan niệm trên. Đó là một quan niệm có tính biện chứng. Người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại hết sức nghiêm chỉnh như thế là sẽ mãi mãi ở đây vì đó là thánh ý Chúa và vì số phận của mình được định đoạt ngay trên cõi đời này, đồng thời họ lại thanh thoát, tự do, sẵn sàng rời bỏ mọi sự bất cứ lúc nào Chúa gọi họ ra đi. Quan niệm Kitô giáo là một quan niệm cho những con người trưởng thành. Bởi vì, hãy tỉnh thức có nghĩa là hãy sống có trách nhiệm.
52. Hãy tỉnh thức và sẵn sàng.
Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy trong bất kỳ lãnh vực nào, người ta cũng cần phải đề cao cảnh giác, có nghĩa là phải tỉnh thức và sẵn sàng.
Thực vậy, trong một quốc gia, để bảo đảm an ninh và trật tự, chính phủ phải luôn tỉnh thức bằng cách đặt các đồn canh ở các nơi trọng yếu, rồi lại còn phải thường xuyên huấn luyện các binh lính, công an và cảnh sát.
Trong một gia đình, muốn không bị trộm cắp, nhất là vào những đêm tối trời, thì chúng ta cũng phải tỉnh thức. Ngoài ra, lại còn phải nuôi thêm chó để canh giữ, làm cổng cho kiên cố, đặt ổ khóa cho chắc chắn.
Trong phạm vi cá nhân cũng thế, muốn được khỏe mạnh, thì phải sắm sẵn mũ áo, phòng lúc trời mưa cũng như lúc trời nắng. Rồi lại còn phải sắm sẵn những thứ thuốc thông thường, phòng khi cảm cúm bất ưng.
Chúng ta có biết khẩu hiệu của hướng đạo là gì hay không? Tôi xin thưa: - Đó là khẩu hiệu: Sắp sẵn.
Powell, ông tổ của ngành hướng đạo, hồi còn là đại tá chỉ huy những cuộc chiến đấu tại Âu Châu, lần kia đoàn quân của ông có một ngàn mà phải đương đầu với địch quân những chín ngàn. Suốt trong 217 ngày đợi chờ được cứu viện, ông đã dùng chiến thuật nghi binh.
Ở mặt trận, ban ngày thỉnh thoảng ông cho nổ chỗ này chỗ khác mấy trái lựu đạn. Còn ban đêm trong một vùng rộng lớn, ông cho thắp đèn sáng tại nhiều nơi, mục đích là để đánh lừa đối phương, khiến chúng tin rằng ông có nhiều lính và hiện diện ở khắp nơi, chớ có liều lĩnh mà tấn công. Khi viện binh tới, ông mới tấn công đối phương và đã dành được thắng lợi.
Giữa lúc chính phủ nước Anh định nâng ông lên cấp bậc thống tướng thì ông lại rút lui, để rồi lập nên phong trào hướng đạo, huấn luyện các em thiếu nhi trở thành những người hữu ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
Mục đích của hướng đạo là lúc nào cũng phải tỉnh thức và sẵn sàng để đương đầu với mọi hoàn cảnh.
Đối với việc linh hồn của chúng ta cũng vậy. Có nghĩa là chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng bằng cách khử trừ tội lỗi, uốn nắn sửa đổi lại những tính hư tật xấu, đồng thời cố gắng thực hiện những hành động bác ái yêu thương, để bất kỳ lúc nào Chúa viếng thăm chúng ta cũng sẵn sàng thưa lên cùng Chúa:
- Lạy Chúa, này con xin đến.
Nhờ đó, chúng ta sẽ được Ngài đón nhận vào quê hương nước trời.
Để kết luận tôi xin kể lại một mẩu chuyện như sau:
Có một du khách, sau khi đã thăm viếng những danh lam thắng cảnh ở Thụy sĩ. Ông ta dừng chân trước một vườn hoa đẹp bao quanh một tòa lâu đài. Người làm vườn mừng rỡ đón chào. Ông bèn lên tiếng hỏi:
- Cụ ở đây đã bao lâu rồi?
- Thưa hai mươi bốn năm.
- Có lẽ chủ của cụ ít khi tới đây.
- Vâng, tôi chỉ mới gặp ông chủ có bốn lần mà thôi và lần cuối cách đây đã mười hai năm.
- Thế thì ai thưởng thức cảnh đẹp mà cụ phải tốn công chăm sóc kỹ lưỡng như vậy?
- Thưa ông, tôi làm như thể chủ tôi sẽ đến hôm nay, ngay bây giờ và ngoài ra, khi chăm sóc cho thửa vườn thì chính vợ chồng tôi được thưởng thức vẻ đẹp của muôn hoa trước hết.
Nếu như Chúa đến viếng thăm chúng ta ngay lúc này thì liệu chúng ta có tỉnh thức và sẵn sàng hay chưa?
53. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 13: 33-37: Tin Mừng hôm nay Chúa nói rõ: Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện đừng để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng việc đời...
Powell, ông tổ của ngành hướng đạo, hồi còn là đại tá chỉ huy những cuộc chiến đấu tại Âu Châu, lần kia đoàn quân của ông có một ngàn mà phải đương đầu với địch quân những chín ngàn. Suốt trong 217 ngày đợi chờ được cứu viện, ông đã dùng chiến thuật nghi binh.
Ở mặt trận, ban ngày thỉnh thoảng ông cho nổ chỗ này chỗ khác mấy trái lựu đạn. Còn ban đêm trong một vùng rộng lớn, ông cho thắp đèn sáng tại nhiều nơi, mục đích là để đánh lừa đối phương, khiến chúng tin rằng ông có nhiều lính và hiện diện ở khắp nơi, chớ có liều lĩnh mà tấn công. Khi viện binh tới, ông mới tấn công đối phương và đã dành được thắng lợi.
Giữa lúc chính phủ nước Anh định nâng ông lên cấp bậc thống tướng thì ông lại rút lui, để rồi lập nên phong trào hướng đạo, huấn luyện các em thiếu nhi trở thành những người hữu ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
Mục đích của hướng đạo là lúc nào cũng phải tỉnh thức và sẵn sàng để đương đầu với mọi hoàn cảnh.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa nói: Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện.
Những lời đó được minh hoạ tức bằng dụ ngôn: một người trẩy đi phương xa, chắc là xa lắm, và trao tất cả quyền hành cho các đầy tớ, sắp đặt mỗi người một việc, và dặn người gác cửa tỉnh thức. Chúa nhấn mạnh đến việc không biết trước ngày giờ sẽ đến, có mục đích duy nhất như một lệnh truyền là hãy tỉnh thức.
Cách chỉ giờ giấc nối tiếp nhau của trình thuật rất có ý nghĩa, chứ không chỉ có tính cách kể chuyện, vừa nói lên cách người Rôma chia đêm thành bốn canh, vừa gợi nhớ bốn giai đoạn của cuộc thương khó, vừa đề ra bốn giai đoạn mà các môn đệ phải tỉnh thức, nghĩa là không những phải chống trả với sự buồn ngủ về thể lý, nhưng còn phải sẵn sàng đối đầu với sự việc sắp đến cách bất ngờ.
Chúa nói: Các con hãy tỉnh thức, vì các con không biết lúc nào chủ sẽ về, hoặc là chiếu tối, hoặc là nửa đêm hoặc lúc gà gáy, hay ban sáng, kẻo khi ông chủ trở về thình thình, bắt gặp các con đang ngủ.
- Chúa nói: Các con hãy tỉnh thức, vì có thể ông chủ sẽ về vào lúc buổi chiều. "Buổi chiều” gợi nhớ lại giờ mà Đức Giêsu đoán trước sự phản bội của Giuđa và sự từ chối của chính Phêrô (14,13-31).
- Chúa nói: Các con hãy tỉnh thức, vì có thể ông chủ sẽ về vào lúc nửa đêm. "Nửa đêm" đó là giờ Chúa hấp hối trong vườn Giếtsêmani, mời gọi các môn đệ tỉnh thức, và ba lần "Người thấy họ ngủ”. Người nói: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (14, 32-42).
- Chúa nói: Các con hãy tỉnh thức, vì có thể ông chủ sẽ về vào lúc gà gáy. "Lúc gà gáy” đó là giờ Phêrô chối Thầy trong sân thượng tế (1 4,66-72).
- Chúa nói: Các con hãy tỉnh thức, vì có thể ông chủ sẽ về vào lúc sáng sớm. "Sáng sớm" đó là giờ các môn đệ bỏ trốn, Đức Giêsu bị Hội Đồng trao nộp cho Philatô (1 5,1...).
Khi nhấn mạnh lệnh truyền của Thầy "Hãy tỉnh thức” trước cuộc tử nạn, thánh Maccô muốn khuyến khích anh chị em ngày hôm qua, hôm nay và ngày mai đừng để cho lòng mình ra nặng nề, rối loạn, thất vọng.
Quả thế, trong đoạn Tin Mừng thánh Mc 13,33-37, Chúa nói rõ: Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện đừng để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng việc đời. Chúa muốn nói với chúng ta về hai phương diện: phương diện tích cực và tiêu cực:
1. Phương diện tiêu cực, tức là những điều phải tránh:
Chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, tức là chạy theo những khoái lạc xác thịt.
Chớ để lòng mình ra nặng nề vì lo lắng việc đời: tức là việc ham mê tiền bạc, của cải, danh vọng…và những thú vui trần thế khiến chúng ta bỏ bê những việc thuộc về Nước Thiên Chúa.
2. Phương diện tích cực, tức là những điều phải làm: Phải tỉnh thức và cầu nguyện.
Phải tỉnh thức là phải ở trong tư thế tỉnh táo, cẩn thận để có thể đối phó kịp thời với mọi cảnh ngộ và sẵn sàng đón tiếp Chúa đến bất cứ lúc nào.
Phải cầu nguyện: vì sức con người yếu đuối, và tự mình không làm được gì, nên cần cầu nguyện để xin sự nâng đỡ từ nơi Thiên Chúa.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin cho đoàn tín hữu chúng con, hàng ngày quyết tâm làm việc thiện mà đón chào Con Chúa đang ngự đến xét xử trần gian. Nhờ đó, chúng con sẽ được Người cho ở bên hữu và gọi vào hưởng phúc Nước Trời. Amen.
54. Khát mưa Giêsu - Trầm Thiên Thu
Đức Công Chính thắt lưng luôn khuya sớm
Lòng Tín Thành buộc bụng suốt tháng ngày
Tân Niên Phụng Vụ khởi đầu, có thể coi đây là “Ngày Tết” Công giáo, là thời điểm khởi đầu một khoảng thời gian mong chờ Ngôi Hai giáng thế để giao hòa trời đất và cứu độ nhân loại.
Bắt đầu năm Phụng Vụ mới cũng là lúc đất trời vào Đông, chút se lạnh buổi sáng chợt khiến lòng người lắng xuống, một cảm giác lạ, chút bâng khuâng thường có trong tình trạng chờ đợi, nhưng với người Công giáo thì sự chờ đợi đó mang ý nghĩa linh thiêng: Khát khao Mưa Giêsu. Khoảng mong chờ này không u buồn mà tràn đầy niềm hy vọng, vì Kinh Thánh đã nói: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel” (Is 7:14). Và Giáo hội thiết tha cầu xin: “Veni Veni Emmanuel – Xin Ngự Đến, Lạy Đấng Emmanuel” (*).
Không nói rõ là niềm khát khao, nhưng danh họa Michelangelo (1475–1564, Ý) đã khéo léo nhận xét: “Mối nguy lớn nhất đối với hầu hết chúng ta không phải là mục đích của chúng ta quá cao và không đạt tới, mà là mục đích của chúng ta quá thấp và chúng ta đạt được”. Khi thao thức mong chờ, Thánh Vịnh gia than thở: “Ngày khốn quẫn, tôi tìm kiếm Chúa, tay vươn lên không biết mỏi lúc đêm trường, hồn tôi nào có thiết lời an ủi! Tưởng nhớ Chúa, tôi thở vắn than dài, suy gẫm hoài nên khí lực tiêu hao” (Tv 77:3-4). Vâng, “lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến!” (Kh 22:20b).
I. KHÁT KHAO – MONG CHỜ
Niềm khát khao và nỗi mong chờ liên quan lẫn nhau. Vì khát khao mà mong chờ, và ngược lại. Nắng lâu ngày hóa hạn hán, không khí oi bức, đất đai khô cằn, cây cối héo úa,… Vì thế mà mọi vật đều khao khát mưa. Khao khát và mong chờ. Cuộc đời luôn có vô số điều khao khát khiến chúng ta mong chờ nối tiếp mong chờ. Càng mong chờ càng khao khát: “Lạy Đức Chúa, tại sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài? Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp của Ngài, xin Ngài mau trở lại” (Is 63:17).
Khi thời tiết khô hạn, mọi người không ngừng vang lên điệp khúc “cầu mưa” như một dạng cầu xin, nhưng người Công giáo mong đợi một loại Mưa “viết hoa”, loại Mưa này vô cùng đặc biệt: Mưa Hồng Ân, Mưa Cứu Độ, Mưa Đấng Thiên Sai, Mưa Đức Giêsu Kitô. Như vậy, cầu nguyện là trách nhiệm chung, và cũng là bổn phận riêng của mỗi người. Khi cầu nguyện, có thể chúng ta cảm thấy như không có gì biến chuyển, nhưng chính lúc “không thấy động tĩnh gì” mới là lúc cầu nguyện hiệu quả. Thực ra không phải không có gì xảy ra, vì Thánh Phaolô đã xác định: “Anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mạc khải vinh quang của Người” (1 Cr 1:7). Thật vậy, “Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1 Cr 1:9). Ngài là Thiên-Chúa-Tình-Yêu, chắc chắn Ngài không thể bỏ mặc chúng ta trong nỗi khát khao và mòn mỏi mong chờ điều thiện hảo.
Đối với xã hội loài người và trong cuộc sống đời thường, người ta thường lý luận: “Không còn tình cũng còn nghĩa”. Đúng vậy, thế nhưng đôi khi cái nghĩa còn trọng hơn cái tình. Cũng với tâm tình đó, Thánh vịnh gia đã tha thiết van xin: “Lạy Chúa Tể càn khôn, xin trở lại, tự cõi trời, xin ngó xuống mà xem, xin Ngài thăm nom vườn nho cũ” (Tv 80:15). Đó là lòng khát khao và nỗi mong chờ triền miên đêm ngày.
Chúng ta phải miệt mài mong chờ như vậy chắc chắn không phải Chúa “ác ý” hay “đùa dai”, mà Ngài muốn chúng ta thực sự đừng xao lãng khi mong chờ, nghĩa là phải toàn tâm toàn ý với Ngài, khát khao Ngài thành tâm chứ không “bắt cá hai tay”, đồng thời phải nhận ra “khoảng trống vắng” trong lòng mình như hai người yêu nhau và tương tư nhau, để rồi chân thành khấn hứa với Chúa: “Chúng con nguyền chẳng xa Chúa nữa đâu, cúi xin Ngài ban cho được sống, để chúng con xưng tụng danh Ngài” (Tv 80:19). Hứa rồi thì chớ quên!
Vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, cuộc sống luôn có những “chuỗi” lô-gích. Khi KHAO KHÁT điều gì thì người ta luôn HY VỌNG và MONG CHỜ, khi MONG CHỜ thì phải TỈNH THỨC. Đó là quy trình rất tự nhiên. Chí lý!
II. CANH THỨC – SẴN SÀNG
Động thái canh thức và sẵn sàng cũng có hệ lụy lẫn nhau. Canh thức thì phải sẵn sàng, không thể ngồi đó canh thức rồi suy nghĩ vu vơ, gặp chăng hay chớ. Trình thuật Mc 13:33-37 (tương đương Mt 24:36-44) là chuyện kể về một người sắp đi xa, để lại nhà cửa và tài sản, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa PHẢI CANH THỨC, cũng có nghĩa là PHẢI SẴN SÀNG.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay ngắn gọn, chỉ có 5 câu, nhưng việc canh thức hoặc tỉnh thức được Chúa Giêsu đề cập tới 4 lần với động từ PHẢI (bắt buộc) ở thể mệnh lệnh cách:
1. Phải coi chừng, PHẢI TỈNH THỨC, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến (Mc 13:33).
2. PHẢI CANH THỨC, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng (Mc 13:35).
3. Anh em PHẢI CANH THỨC, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ (Mc 13:36).
4. Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: PHẢI CANH THỨC! (Mc 13:37).
Như vậy, sự tỉnh thức rất quan trọng, và cũng chứng tỏ sự nhắc nhở của dành cho chúng ta: “Cẩn tắc vô ưu”. Nghe nói về sự canh thức hoặc tỉnh thức, chúng ta thấy có vẻ “nghiêm trọng” hoặc cho là “đao to, búa lớn”, nhưng thực ra cũng là điều rất tự nhiên. Trong cuộc sống đời thường, hàng ngày có rất nhiều điều khiến chúng ta PHẢI COI CHỪNG – tức là canh chừng, canh thức hoặc tỉnh thức: Người mẹ vừa làm việc vừa phải trông chừng đứa con kẻo nó gặp nguy hiểm – ngày nay còn phải đề phòng “bị bắt cóc”; người bà phải trông chừng đứa cháu kẻo nó té vô nồi nước sôi bà vừa nấu xong; bạn để chiếc điện thoại trên bàn cũng phải “mắt trước, mắt sau” khi chạy vô nhà trong lấy vật gì đó; dùng bếp ga cũng không biết nó “thở mạnh sảng” lúc nào; bạn đi đường luôn phải “mở mắt to” vì tai nạn luôn có thể xảy ra bất kỳ lúc nào; dù chỉ là đóng một cây đinh thì bạn cũng phải coi chừng búa đập vào tay; và còn vô vàn những thứ rất đời thường như vậy mà người ta luôn phải tỉnh thức… Chắc chắn động thái cảnh giác rất cần thiết, không bao giờ thừa!
Thật gần gũi và thú vị đối với hình ảnh Chúa Giêsu đưa ra, bởi vì rất cụ thể: Sự trở về bất ngờ của chủ nhân và sự đột nhập bất ngờ của kẻ trộm.
Kinh nghiệm cho chúng ta biết về tình trạng bất ngờ. Dĩ nhiên chẳng ai biết chủ nhân về lúc nào, dù chủ có gọi điện báo trước là 3 giờ về thì cũng không biết kém mấy phút hoặc hơn mấy phút, nhất là đường xá dễ kẹt xe như ngày nay, ngay cả máy bay cũng thường xảy ra trường hợp phải hủy chuyến bay vì lý do này hoặc nguyên nhân nọ. Nghĩa là mọi thứ đều khó có thể chính xác về thời gian, mà khi người ta buồn ngủ rồi thì chỉ lệch 1 giây cũng có thể ngủ quên và chủ sẽ bắt gặp đầy tớ đang say giấc. Thế thì tiêu, không thể biện hộ!
Tương tự, đối với kẻ trộm hoặc kẻ cướp thì càng bất ngờ và nguy hiểm hơn, khỏi chứng minh thì ai cũng biết chắc là thế. Chỉ trong nháy mắt có thể tiêu tan cả sự nghiệp hoặc nguy hiểm tính mạng, nhất là xã hội ngày nay cướp giật như rươi, vì “mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7) trong mọi lĩnh vực, cách riêng với xã hội Việt Nam hiện nay.
Xét cho cùng, lúc nào cũng có thứ để chúng ta phải tỉnh thức, thậm chí vợ chồng hoặc người thân quen cũng còn phải “canh chừng” nhau kia mà. Nói vậy xem chứng có vẻ tiêu cực, nhưng thực tế là thế đấy!
Tuy nhiên, tình trạng tỉnh thức quan trọng nhất vẫn là chúng ta “không biết giờ nào Con Người đến”, tức là Giờ G, giây phút Cánh Chung, thời điểm Chúa Giêsu Quang Lâm. Nhưng tận thế có hai dạng: Tận cùng thế gian và tận cùng đời mình. Tận thế thì quá hiển nhiên, nhưng chưa chắc chúng ta có được diễm phúc chứng kiến giây phút trọng đại đó. Còn “tận thế đời mình” thì ai cũng đích thân “chứng kiến”, vì đó là lúc trút hơi thở cuối cùng của cuộc đời mình. Dẫu biết rằng ai cũng phải chết, bệnh cũng chết mà khỏe cũng chết, chẳng tránh đâu được. Biết chắc như thế mà ai cũng thấy lo và sợ. Bởi vậy mới PHẢI TỈNH THỨC!
Khi mong chờ, khoảng thời gian đó sẽ là niềm vui nếu chúng ta quan niệm rằng “sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi” (Pl 1:21). Có câu chuyện xưa kể thế này…
Trước khi chết, ngài Alexander Đại Đế cho triệu tập các quan trong triều đình đến để truyền đạt ba ý nguyện cuối cùng của mình. Ngài truyền “di chúc” để quần thần tuân thủ:
1. Quan tài của ông phải được CHÍNH CÁC VỊ NGỰ Y GIỎI NHẤT KHIÊNG ĐI.
2. TẤT CẢ VÀNG BẠC CHÂU BÁU của ông phải được RẢI DỌC CON ĐƯỜNG ĐẾN HUYỆT MỘ chôn ông.
3. ĐÔI BÀN TAY ông phải được để THÒ RA NGOÀI QUAN TÀI cho mọi người đều thấy.
Một cận thần rất đỗi ngạc nhiên về những điều yêu cầu kỳ lạ này nên hỏi ngài tại sao lại muốn như thế. Ngài Alexander giải thích:
1. Ta muốn chính các vị ngự y giỏi nhất phải khiêng quan tài của ta để cho mọi người thấy rằng MỘT KHI PHẢI ĐỐI MẶT VỚI CÁI CHẾT thì chính họ, dù là những người tài giỏi nhất, cũng KHÔNG THỂ CỨU CHỮA.
2. Ta muốn châu báu của ta được vung vãi trên mặt đất để mọi người thấy rằng CỦA CẢI VẬT CHẤT mà ta gom góp được sẽ MÃI MÃI Ở LẠI TRÊN THẾ GIAN NÀY khi ta nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời.
3. Ta muốn bàn tay của ta đong đưa ngoài quan tài để mọi người thấy rằng chúng ta đến với thế giới này với HAI BÀN TAY TRẮNG, khi chúng ta rời khỏi thế giới này cũng chỉ có HAI BÀN TAY TRẮNG.
Có nhiều loại kho tàng quý giá, nhưng kho tàng quý giá nhất đời này là Tình Yêu Thương, đó cũng là thứ chúng ta nợ Thiên Chúa và nợ nhau: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8). Thánh Phaolô đã minh định: “Đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại. Nhưng đức mến là quan trọng nhất” (1 Cr 13:13).
Biết sẵn sàng là biết tỉnh thức, biết tỉnh thức là biết mong chờ, biết mong chờ là biết khát khao Chúa. Khi khát khao Chúa cũng là khát khao nên công chính – một trong Bát Phúc (Mt 5:6). Mùa Vọng không chỉ là mong chờ mà còn là ngưỡng vọng, hy vọng – hy vọng nơi Đức Kitô, đồng thời cũng tín thác vào Lòng Thương Xót của Ngài. Và chúng ta cùng trao nhau điều tốt lành này: “Chúc mọi người được đầy ân sủng của Chúa Giêsu” (Kh 22:21). Ước mong mảnh-đất-tâm-hồn-khô-hạn của mỗi chúng ta đều được thỏa niềm khát khao nhờ Cơn-Mưa-Giêsu!
Lạy Thiên Chúa quan phòng và tiền định, xin giúp con biết ngưỡng vọng Đấng là Chính Lộ, Chân Lý và Sự sống (Ga 14:6), luôn miệt mài hướng thượng, kiên trì tỉnh thức và hân hoan mong chờ Ngôi Hai ngự đến. Con cầu xin nhân danh Đức Kitô Giêsu, Thiên Chúa Ngôi Lời và Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
55. Canh thức chờ Chúa đến - Lm Bùi Thượng Lưu
Bắt đầu từ Chúa Nhật 1 Mùa Vọng hôm nay, toàn thể giáo hội chính thức bước vào Năm Phụng Vụ mới, cùng với lời mời gọi của Chúa Giêsu trong Tin Mừng theo thánh Maccô: "Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ "(Mc 13, 33, 35-36).
Tại các nhà thờ Đức có một tục lệ rất ý nghĩa là mỗi nhà thờ đều trang điểm vòng hoa Mùa Vọng với những cành thông tươi xanh và bốn cây nến, tượng trưng cho 4 Chúa nhật Mùa Vọng. Khởi đầu thánh lễ mỗi Chúa nhật, đang khi cộng đoàn hát bài Mùa Vọng, cây nến được thắp sáng. Chúa nhật thứ nhất thắp sáng một cây. Chúa nhật thứ hai thắp sáng hai cây. Khi cả bốn cây được thắp sáng, thì đại lễ giáng sinh cũng đã gần kề. Tục lệ này cũng được lan rộng trong nhân gian, tới hầu hết các công sở, các gia đình. Nơi nào cũng bầy vòng thông Mùa Vọng với đủ loại nến mầu đỏ, tím...
Như vậy ý nghĩa thứ nhất trong Mùa Vọng là mùa canh thức chuẩn bị tâm hồn để đón mừng Chúa Giáng Sinh. Trọng tâm của lịch sử và Tin Mừng cứu độ chính là biến cố: Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu nhân độ thế.
Ngày giáng trần của Chúa Giêsu phải được đón mừng vì đây là Biến Cố có một không hai trong lịch sử cứu độ: nhờ Ngôi Lời nhập thể làm người thì vũ trụ vạn vật lại được đổi mới (TNKB, s. 3). Kể từ Biến Cố này, Trời giao hòa với Đất, nhân loại được Thiên Chúa yêu thương và toàn thể vũ trụ được đón nhận TIN Mừng cứu độ. Chính vì thế, Biến cố Giáng Sinh của Chúa Giêsu đã trở nên Trung Tâm điểm của lịch sử nhân loại, mốc điểm thời gian.
Theo Kinh Thánh, canh thức là thái độ của một người “đang tỉnh thức chờ đợi”, không ngủ mê, không thụ động, nhưng canh chừng, luôn phòng bị để kịp đối phó với kẻ địch tấn công bất ngờ (Tv 127, 1t), lòng nhiệt tâm chu toàn trách nhiệm hiện tại, biết nhận ra những dấu chỉ thời đại, khám phá ra thánh ý Thiên Chúa, kiên tâm phục vụ trong yêu thương, đang khi ngóng chờ một biến cố sắp xẩy đến... sẵn sàng đón tiếp Chúa, khi Ngày của Ngài điểm.
Đây là lời khuyên nhủ, dặn dò chính yếu của Chúa Giêsu dậy các môn đệ của Ngài. Vì Chúa đến bất chợt như kẻ trộm ban đêm (Mt 24,43t), như ông chủ trở về mà không báo cho các đầy tớ biết (Mt 13,35t), như chàng rể đến lúc canh khuya, và chỉ năm cô trinh nữ khôn ngoan đang canh thức với đèn đầy dầu, mới kịp ra đón rước chàng rể vào dự tiệc cưới (Mt 25, 1-13).
Vậy canh thức là đặc tính căn bản, là thái độ sắp sẵn của người môn đệ Chúa, để chỗi dậy khỏi giấc ngủ đam mê, nghĩa là dứt khoát với tội lỗi, dứt bỏ trần thế và những đam mê dục vọng (Lc 21, 34tt). Canh thức là hoán cải và trở về với Chúa, không nằm lì trong tội ác, không cứng lòng và khinh thường tiếng mời gọi thống hối của Chúa. Canh thức trong cầu nguyện, tiết độ, không chè chén say sưa, không cờ bạc, không say đắm nhục dục... quyết không để “ba cái lăng nhăng” nó quấy ta!
Canh thức để nhận diện ra kẻ thù và chiến đấu với thần dữ. Trong giờ kinh tối, các linh mục và tu sĩ thường đọc: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1P 5,8). Ma quỷ có thể ẩn hiện trong những phim ảnh xấu, những sách báo đồi trụy, ma túy... những dịp tội gần xa đưa chúng ta xa Chúa, lạc đường về Quê Trời.
Canh thức để phân biệt phải trái: đừng bị ru ngủ, bị đầu độc, bị tuyên truyền bởi óc hưởng thụ, bởi tinh thần vị kỷ cá nhân, bởi các học thuyết vật chất vô thần, bởi những ông đạo buôn thần bán thánh, bởi những mê tín dị đoan, bởi những quảng cáo quyến rũ, những truyền đơn loan tin thất thiệt ngày tận thế...
Canh thức để khỏi bị chán nản, ngã lòng nản chí, bỏ cuộc. Có những tín hữu gặp thử thách trong đời sống gia đình, gặp những khó khăn về vật chất, bị đau ốm lâu dài... đã nản lòng, kêu trách Chúa, và nhiều khi bỏ nhà thờ, bỏ cầu nguyện, bỏ Giáo hội!
Canh thức trong cầu nguyện theo gương Chúa trong vườn cây dầu. Cầu nguyện ở đây được hiểu là cầu kinh sớm tối. Cầu nguyện là đọc và suy gẫm Lời Chúa trong Thánh Kinh. Cầu nguyện có thể là lần chuỗi Mân Côi, miệng đọc lòng suy. Cầu nguyện cao đẹp nhất là tham dự thánh lễ Chúa nhật... Tất cả những hình thức cầu nguyện trên đây, giúp người tín hữu luôn hiệp thông với Chúa, tâm hồn luôn lắng nghe những “thánh chỉ” của Chúa.
Canh thức để trung tín giữ luật Chúa: luật yêu thương, luật công bằng. Trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, người tín hữu hằng để luật Chúa như đèn soi, như kim chỉ nam cho mọi ước muốn, mọi tư tưởng, mọi lời nói và việc làm của mình.
Canh thức để phục vụ anh em: người tín hữu luôn được Chúa mời gọi để sống đời phục vụ trong bác ái và trong yêu thương. Đời sống gia đình là môi trường phục vụ lý tưởng nhất. Vợ chồng kitô hữu hiến thân cho nhau, tha thứ cho nhau, biết tận tâm giáo dục con cái, biết dùng của cải Chúa ban để mưu sống gia đình, nhưng đồng thời cũng biết chia cơm sẻ bánh cho anh em nghèo đói kém nay mắn hơn trên khắp thế giới. Mỗi tín hữu còn được Chúa mời gọi để phục vụ cộng đồng, các giáo xứ, Hội Thánh, tùy theo khả năng và hoàn cảnh.
Canh thức để đón chờ Chúa đến. Tín hữu Chúa Kitô biết rõ ràng rằng: cuộc sống trần gian, tất cả của cải đều mau qua chóng hết, không ai sống mãi, nhưng đi về vĩnh cửu. Điều chắc chắn là mỗi người chúng ta sẽ có một ngày phải từ giã cõi đời tạm này. Nhưng chết vào ngày giờ nào, chết cách nào, chết ở đâu? Chẳng có ai biết được. Do đó, tín hữu Chúa phải tỉnh thức để đón chờ Chúa đến.
Từ ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy, người tín hữu là con cái của ánh sáng, nên phải luôn tỉnh thức để mình khỏi rơi vào đêm tối của sự chết, không mất mục tiêu, không quên ngày Chúa đến cuối đời của mình...
56. Tỉnh thức đón Chúa
Hôm nay, chúng ta bước vào một chu kỳ phụng vụ mới và bắt đầu vào mùa vọng. Như chúng ta biết: Mùa Vọng là âm đầu tiên gọi tắt của tiếng "Adventus", một tiếng La Tinh, có nghĩa là đến hay sắp đến. Mùa Vọng bao hàm ý nghĩa rõ hơn là mùa hy vọng, mùa trông đợi, mùa chờ mong. Chờ mong vào Đấng Cứu Thế. Vì thế, Mùa Vọng đầu tiên có nghĩa là một thời gian chuẩn bị đạo đức để xứng đáng mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Nhưng đến thế kỷ thứ VII, Mùa Vọng còn mang một ý nghĩa khác là trông đợi, chờ mong Chúa quang lâm, Chúa tái giáng để phán xét nhân loại. Như vậy, Mùa Vọng là mùa nhắc lại thời gian nhân loại chờ đợi Đấng Cứu Thế đến cứu chuộc, và cũng nói lên nỗi chờ đợi của Giáo Hội hôm nay, chờ đợi Đức Kitô đến lần thứ hai khi lịch sử kết thúc để phán xét nhân loại. Ngoài ra, với mỗi người, Mùa Vọng cũng nhắc nhở chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng chờ đón Chúa trong giây phút hiện tại mỗi ngày của đời sống và đặc biệt trong ngày chết khi Chúa đến gọi chúng ta về với Ngài.
Ai trong chúng ta cũng đã kinh nghiệm về sự chờ đợi. Chờ đợi mẹ đi chợ về, chờ đợi bữa ăn, chờ đợi đến cuối tháng lãnh lương, chờ ai đó,... Chờ đợi đòi buộc chúng ta phải tỉnh thức. Tỉnh thức đòi buộc chúng ta ở trong tư thế sẵn sàng.
Tỉnh thức không phải là không ngủ. Các cô trinh nữ khôn ngoan và khờ dại cũng ngủ giống nhau. Điểm khác biệt là các cô khôn ngoan ngủ nhưng có thái độ tỉnh thức, bằng chứng là các cô này đã mang đèn và dầu dự trữ, các cô sống trong sự chuẩn bị, sống trong tư thế sẵn sàng đón chàng rể đến bất cứ lúc nào. Ngược lại, các cô khờ dại thì mang đèn mà không mang theo dầu dự trữ, các cô này không có thái độ chuẩn bị sẵn sàng, không sống trong thái độ tỉnh thức. Vì thế, đến giờ chàng rể đến thì các cô sống trong sự chuẩn bị sẵn sàng sẽ đi theo chàng rể. Họ hưởng sự tốt lành trong vương quốc của chàng rể. Ngược lại ngững người sống mà không chuẩn bị thì sẽ gặp thiệt thòi nên sẽ phải hối hận, đến giờ chót thì không ai có thể giúp mình được. Do đó, cuộc đời của người Kitô hữu chúng ta phải sống trong sự tỉnh thức và cầu nguyện, sống trong tư thế chờ đón Chúa, nghe và thực hành Lời Chúa, làm theo ý Chúa. Chúng ta phải sẵn sàng chờ đón Chúa bất cứ lúc nào.
Khởi đầu của mùa vọng, Lời Chúa của Chúa nhật hôm nay mời gọi chúng ta hãy canh thức, hãy tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến. Chúa Giêsu nói ngày của Chúa không ai biết trước được, và thái độ của chúng ta là luôn luôn tỉnh thức, lúc nào cũng ở trong tư thế sẵn sàng, để ngày ấy dù có bất ngờ tới đâu, cũng là ngày đem lại vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu cho ta. Như vậy, thái độ tỉnh thức là thái độ nào?
Người ta có thể tỉnh thức để tiếp tục làm cho xong một công việc hay bắt đầu từ một việc khác. Vì thế, có những người thức để làm việc, họ làm công việc bảo vệ an ninh, trực ở bưu điện, phòng cấp cứu, trạm cứu hoả, ga xe, tàu, máy bay,... những tài xế chạy xe, chạy tàu suốt chặng đường dài, những chuyến xe bay trong đêm,... và còn có những người khác cũng thức, thức để cầu nguyện. Trong các đan viện, các đan sĩ nam nữ mang một sứ mạng là cầu nguyện, họ ca tụng Chúa, họ tỉnh thức và cầu nguyện thay chúng ta, thay cho mọi người khắp nơi trên thế giới.
Trong cuộc sống, có khi chúng ta chưa sẵn sàng, chưa tỉnh thức khi chúng ta bị thu hút bởi tiền bạc, bởi của cải, bởi danh vọng, bởi quyền lực... đến nỗi quên đi bổn phận mình là thờ phượng Chúa, là yêu mến và giúp đỡ đồng loại như giúp đỡ cho kẻ đói ăn, kẻ khát được uống, lên tiếng trước bất công... Ngược lại thậm chí chúng ta còn làm những điều trái với lương tâm, những điều bất lợi cho tha nhân như vu khống, bất công, thù oán, lăng nhục... Như vậy, một cách cụ thể, chúng ta đề ra những bổn phận như sau:
Tỉnh thức là tỉnh táo để nhận ra Chúa đến bất cứ lúc nào và tha thiết xin Chúa trợ giúp. Rất có thể Chúa đã đến đã đi qua trong cuộc đời chúng ta. Đọc lại Kinh Thánh chúng ta thấy Chúa đến bất ngờ, Chúa đến theo cách của Ngài. Không đủ tỉnh thức thì chúng ta không nhận ra ngài. Ngài đến bất ngờ nơi Belem dưới một trẻ thơ. Cuộc sống, cái chết và sự phục sinh cũng bất ngờ khiến cho các môn đệ ngạc nhiên. Chắc chắn ngài cũng đến bất ngờ như ông chủ trở về mà bài phúc âm nhắc tới. Chúa hiện diện nơi người nghèo đói, lầm than khổ sở, thiếu thốn, … (Mt 25, 31 - 46). Hơn nữa hằng ngày, Chúa Giêsu đến qua bí tích Thánh Thể mà chúng ta lãnh nhận, Chúa đang đến trong ân sủng và các biến cố mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Chúng ta đã gặp, đã thấy nhưng đôi khi chúng ta chưa dùng đức tin cho đủ, cho đúng mà đón nhận ra Ngài. Do đó, chúng ta phải luôn tỉnh thức, tỉnh táo để nhận ra Ngài. Đồng thời chúng ta xin Chúa giúp chúng ta tỉnh thức để nhận ra Chúa đến bất cứ lúc nào.
Tỉnh thức là chu toàn bổn phận và sinh lợi (Mt 25, 31-46). Chúa giao cho chúng ta như những người quản gia nhiệm vụ phân phát lương thực cho gia nhân (Mt 24, 45-51). Nếu chủ về mà gặp thấy chúng ta đang làm công việc được giao thì đúng là chúng ta đang sống trong thái độ tỉnh thức. Mê ngủ là bỏ bê trách nhiệm, lạm dụng quyền hành và say sưa chè chén (Mt 24, 19). Khả năng mỗi người như nén bạc mà chúa trao cho thì chúng ta phải biết chu toàn bổn phận và sinh lợi cho thật nhiều, hết công suất, mỗi người phải sinh lợi tuỳ theo vốn mà mình đã nhận. Nhìn lại bản thân, nhiều và rất nhiều lần chúng ta bỏ qua các bổn phận hoặc chưa chu toàn bổn phận của mình. Chúng ta hãy ý thức chu toàn bổn phận và luôn sống với Chúa từng phút giây.
Khởi đầu Mùa Vọng này, chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn, luôn luôn tỉnh thức để đón chờ ngày Chúa đến. Chúng ta cần phải ra sức chuẩn bị tâm hồn để khỏi hối hận về sự đã rồi. Hãy trở về với nẻo chính đường ngay, ngõ hầu lúc nào cũng sẵn sàng, sẵn sàng và sẵn sàng cho ngày đó hay không?.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến, đang đến và sẽ đến, xin cho chúng con luôn sống trong tâm tỉnh thức chờ đợi và chu toàn bổ phận mình theo ý Chúa muốn. Chúa đang đi qua trong thế giới này, qua các bí tích, hiện diện nơi tha nhân, đi qua những biến cố và đang đi qua trong cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con tỉnh táo nhận ra Chúa đang đi qua các nơi đó. Đồng thời, xin cho chúng con vui vẻ làm tròn bổn phận của mình vì yêu mến Chúa Giêsu Kitô. Amen.
57. Sự mê ngủ
Trong bài Tin Mừng hôm nay, đến bốn lần Đức Giêsu hối thúc các môn đệ “Hãy tỉnh thức”. Lời kêu gọi “Hãy tỉnh thức” này cũng có ý nghĩa cả đối với chúng ta. Đây là một lời kêu gọi rất phù hợp khi mở đầu năm phụng vụ mới.
Người ta nói rằng mỗi năm, những con chim sẻ đều quay trở lại tổ vào đúng thời điểm. Bằng mọi cách, chúng phải kết thúc chuyến bay tại cùng một địa điểm. Điều này nói gì vơi chúng ta về những con chim sẻ? Chúng là những tạo vật sống theo thói quen.
Thói quen đóng một vai trò lớn trong cuộc sống của chúng ta. Ngoại trừ những đứa trẻ còn rất nhỏ, tất cả chúng ta đều là những tạo vật sống theo thói quen ở mức độ lớn. Người ta nói rằng chúng ta sống nửa phần sau của cuộc đời mình tuỳ theo những thói quen đãđược hình thành từ nửa phần đầu cuộc đời. Điều đó sẽ đem lại dễ chịu cho người đã hình thành được nhưng thói quen tốt. Nhưng sẽ gây rắc rối cho người nào đã nhiễm phải những thói quen xấu.
Thói quen có khía cạnh tích cực. Sự lập đi lập lại là điều cần thiết. Đây là một công việc cực nhọc đều đều và là một kỷ luật nghiêm khắc, nhưng có thể đem lại kết quả. Các vận động viên đã chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng sự lập đi lập lại có thể tạo ra những thành quả. Chỉ bằng cách đó, người ta mới làm chủ được một kỹ năng. Từ đó, chúng ta có thể đạt được những hành động hoàn hảo nhất, mà không cần phải cố gắng gì cả, bởi vì qua hàng loạt thói quen đã được khắc sâu, chúng trở thành một bản chất thứ hai đối với chúng ta.
Những thói quen có thể thông truyền và duy trì sức sống. Thói quen và công việc hằng ngày có thể giúp chúng ta tiếp tục tiến tới, và vượt qua được những thời điểm khó khăn, khi mà cả những thói quen hằng ngày nhỏ bé nhất đều trở nên có ý nghĩa.
Nelson Mandela cho chúng ta một ví dụ về điều này. Khi viết về thời gian ở tù, ông nói “Để tồn tại được ở trong tù, người ta phải triển khai những cách thức để đạt được sự thoả mãn trong cuộc sống hằng ngày. Người ta vẫn có thể cảm thấy dễ chịu bằng cách giặt giũ quần áo, quét hành lang…”
Nhưng thói quen cũng có khía cạnh tiêu cực. Cuộc sống có rất nhiều sự lập đi lập lại, đặc biệt trong công việc. Khi làm cùng những công việc đó hết ngày này sang ngày khác, chúng ta dễ đi vào lối mòn, để rồi cuối cùng, chúng ta thường chỉ làm việc theo thói quen mà thôi. Điều này đưa đến hậu quả là chúng ta có thể làm việc mà không ý thức, theo một cách thức vô tình, không cần suy nghĩ gì cả. Trong những công việc này, người ta không hề thực sự có tâm hồn hoặc cảm giác. Tình trạng này thật đáng buồn và huỷ hoại tâm hồn.
Thói quen có thể là một nhân tố gây u mê, làm lu mờ các giác quan, đặc biệt là đối với thị giác và thính giác. Thói quen có thể đưa chúng ta đi vào giấc ngủ mê, để rồi chúng ta không còn sống động nữa, mà chỉ biết hành động theo thói quen mà thôi.
Ngoài ra, thói quen có thể mang tính ích kỷ, rất khó bẻ gẫy, đặc biệt là đối với những thói quen xấu. Chúng ta vẫn có thể quen thuộc đối với bất cứ thứ gì, ngay cả đối với các bức tường của nhà tù. Ban đầu, bạn ghét chúng, thế rồi bạn quen thuộc với chúng, và sau đó, bạn lệ thuộc vào chúng.
Nếu bạn đặt một con ếch vào một nồi nước nóng, thì nó sẽ nhảy ngay ra ngoài. Nhưng nếu bạn đặt một con ếch vào một nồi nước lạnh, rồi từ từ đun sôi lên, thì nó sẽ chỉ ngồi yên ở đó. Hệ thần kinh của nó quá sơ đẳng, nên cần một cú xốc nẩy đột ngột, thì nó mới nhận ra rằng mình đang gặp nguy hiểm.
Có lẽ đó là mục đích của Mùa vọng, khi đưa ra một lời mời gọi tỉnh thức, cung cấp cho chúng ta một cơ hội bắt đầu lại. Chúng ta có thể dễ dàng trở thành những Kitô hữu chỉ theo thói quen. Chúng ta có thể chỉ sinh hoạt, tham gia vào các lễ nghi phụng vụ, nhưng đã bị mất đi tất cả nét tươi mát và ý nghĩa. Chung ta không còn biết lắng nghe Tin mừng nữa.
Mùa vọng kêu gọi chúng ta tỉnh thức, để rũ bỏ lớp bụi của công việc hằng ngày và thói quen, và một lần nữa, để cho Đức Kitô sống động trong đời sống của chúng ta.
58. Mùa hy vọng
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Hằng năm mỗi khi mùa Vọng đến thường cho ta cái cảm giác mong chờ. Bốn tuần lễ Mùa Vọng tượng trưng cho bốn ngàn năm dân chúng trong Cựu Ước mong đợi Đấng Cứu Thế. Vì thế mà lịch sử Cựu ước được gọi là câu chuyện đợi chờ.
Bài trích Sách Tiên Tri Isaia hôm nay được viết vào cái thời mà thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy. Để hiểu rõ cái liên hệ của Giê-ru-sa-lem đối với người Do Thái, ta có thể suy ra cái liên hệ giữa Đền Thánh La Mã đối với người Công giáo. Vào cái thời Giê-ru-sa-lem bị phá hủy thì dân chúng nghèo nàn, khổ cực thế nào! Vì thế, cái cơ hội xây dựng lại đất nước của họ thật là mỏng manh. Do đó hầu như họ để cho thất vọng đè bẹp và bao phủ.
Hôm nay Tiên Tri Isaia đã nhắc nhở cho dân chúng ghi nhớ lời Chúa hứa sai Đấng Cứu Thế và rồi dân chúng cũng nuôi dưỡng cái đời sống thiêng liêng của họ bằng niềm hi vọng đó. Trong khi họ mong đợi Đấng Cứu Thế đến, Tiên Tri Isaia cũng nhắc nhở cho họ là Chúa cũng trông đợi họ trở về bởi vì họ đã quên lãng Chúa và đi lạc đường lối.
Qua những bức Thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, Thánh Phao-lô cho ta thấy giáo dân Cô-rin-tô đang trải qua cuộc khủng hoảng trầm trọng. Cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô thời đó bị phân tán bởi phe nhóm, và họ sống trong cảnh vô trật tự. Vì thế Thánh Phao-lô khuyên họ sống trung thành cho đến cùng và đặt niềm hi vọng vào ngày Chúa sẽ đến lần thứ hai. Còn giáo dân La Mã thời bấy giờ cũng đang trải qua cuộc bách đạo. Như vậy ta thấy dân Do Thái trong Cựu Ước mất niềm hi vọng trong việc xây dựng lại đền thờ. Giáo dân thành Cô-rin-tô thời Giáo Hội sơ khai bị chia thành năm bè bảy mối. Giáo dân La Mã thời khởi đầu Giáo Hội bị bách hại.
Còn giáo dân Việt nam hải ngoại sau 1975 đang gặp những khó khăn nào? Phải chăng người giáo dân Việt Nam cũng đang gặp những khó khăn về vật chất, về tinh thần, cũng như đời sống thiêng liêng? Có những người cảm thấy nhớ nhung cái cảnh thân mật dưới mái gia đình, và cái cảnh quen thuộc của khu xóm, làng mạc, phố chợ. Có người cảm thấy luyến tiếc khi thấy con cháu quên lịch sử, quên nói tiếng mẹ. Có người cảm thấy thua thiệt khi thấy khả năng ngôn ngữ của mình bị giới hạn. Có người cảm thấy tủi hổ khi thấy mình già cả, bị con cháu cho qua mặt, không còn được coi là thích hợp và hữu dụng. Có người cảm thấy ưu tư khi thấy những giá trị luân thường đạo lý cổ truyền đã bị quên lãng. Có người cảm thấy mất mát khi thấy gia đình đổ vỡ, nhưng liên hệ giữa ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt đã trở nên lỏng lẻo, xa cách, nếu không là đã bị cắt đứt. Có người cảm thấy lo âu khi thấy việc thực hành đức tin đã trở nên bê trễ.
Đứng trước những hoàn cảnh kó khăn, trắc trở, Tiên Tri Isaia nhắc nhở cho dân Do Thái đặt niềm hi vọng vào Đấng Cứu Thế sẽ đến. Thánh Phao-lô khuyên giáo dân Cô-rin-tô phải trung thành cho đến cùng. Còn Thánh sử Marcô kêu gọi giáo dân La mã phải tỉnh thức chờ đợi. Như vậy, theo lời Tiên Tri Isaia, lời Thánh Phao-lô, lời Thánh sử Marcô, ta cũng phải cố gắng vươn lên để vượt thắng trở ngại, vượt lên trên hoàn cảnh thay vì để cho hoàn cảnh trở ngại đè bẹp. Mỗi người phải đặt cho mình một niềm hi vọng nào đó: hi vọng có bằng cắp, nghề nghiệp, hi vọng co việc làm tốt, hi vọng đời sống cá nhân sẽ thay đổi, hi vọng những liên hệ gia đình cũng như liên hệ với Chúa sẽ trở nên tốt đẹp hơn, hi vọng con cháu sẽ được thành đạt và hạnh phúc.
Mùa Vọng mà Giáo Hội bắt đầu hôm nay là mùa hi vọng. Giáo Hội dùng phụng vụ để khơi dậy trong ta cái ước muốn, để hun đúc tư tưởng của mỗi người cho việc sửa soạn tâm hồn đón mừng Chúa Cứu Thể đến bằng ơn thánh. Hi vọng là lẽ sống của mỗi người. Đối với người công giáo, thì Chúa Giáng Sinh phải là nguồn hi vọng và là lẽ sống của mỗi người.
59. Những đầy tớ
Trong bài Tin mừng hôm nay, có một dụ ngôn ngắn, nói về người chủ nhà có nhiều đầy tớ. Một lần kia, trước khi trẩy đi phương xa, ông gọi họ lại và trao cho mỗi người một việc. Ông hối thúc họ phải giữ trách nhiệm bằng cách nói với họ “Khi tôi trở về, tôi muốn rằng anh em phải tỉnh thức”. Ông ta ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức đặc biệt.
Câu chuyện của Đức Kitô chấm dứt ở đó, với lời cảnh báo vang lên ở tai chúng ta. Chúng ta hãy xem xet đôi chút, bằng cách tập trung vào người giữ cửa. Có lẽ sự nguy hiểm lớn nhất trước mặt anh ta không quá nhiều, đến nỗi anh có thể ngủ ngay trong giờ làm việc, cho bằng vì anh ta có thể càng ngày càng quen thuộc đối với công việc đó.
Lúc đầu, anh ta hoàn toàn phấn khởi với công việc này. Anh cảm thấy hãnh diện vì được chủ tin tưởng nơi anh nhiều đến thế. Anh thích bộ đồng phục. Khi mặc bộ quần áo này, anh cảm thấy mình trở thành một con người khác hẳn. Anh ý thức rằng mình phải rất cẩn thận. Đối với anh, đó không phải là một việc quá nặng nề, cho bằng đó là một công việc của lòng quí mến.
Nhưng thời gian trôi qua, có thể công việc mở cửa và đóng cửa trở nên nhàm chán, cảm giác mới lạ bị hao mòn. Lớp bụi của thói quen tích lũy trên con người và trên thế giới của anh một cách từ từ nhưng chắc chắn, thay vào đó, là một công việc chán chết. Anh vẫn còn có tinh thần trách nhiệm, vẫn còn liên tục giữ vị trí của mình. Nhưng anh chỉ thuần túy coi đó là công việc mà thôi. Lòng quí mến và cảm hứng ban đầu đã bay đi hết. Anh không còn đặt cả tâm hồn mình vào công việc nữa. Khi ông chủ trở về, chắc chắn ông sẽ nhìn thấy anh ta đang làm việc. Anh ta sẽ tỉnh thức, nhưng anh không còn sống động nữa. Anh sẽ bị tê liệt, bởi vì anh đã đánh mất tâm hồn của mình rồi.
Thói quen bóp chết chúng ta một cách từ từ, và sau cùng tiêu diệt tất cả mọi sự sống. Chúng ta bị chìm ngập trong những lối mòn của truyền thống và sự tùng phục. Chúng ta quên đi rằng mình đã từng có những giấc mơ. Chúng ta cứ ngồi yên một chỗ, trong khi thực hành những thói quen cũ kỹ và không có hiệu quả, rồi phê phán tất cả mọi sự và tất cả mọi người.
Những gì xảy đến cho đời sống bình thường, thì cũng xảy đến cho đời sống kitô hữu của chúng ta. Chúng ta có thể đi vào một lối sống hằng ngày nhàm chán, hậu quả là chúng ta chỉ là những Kitô hữu theo thói quen. Chúng ta chỉ thuần túy coi đó là công việc mà thôi. Chúng ta đang tham gia vào những lễ nghi phụng vụ đã bị mất đi tất cả ý nghĩa và nét tươi mát. Chúng ta không còn biết lắng nghe Tin mừng nữa. Lời Chúa chỉ đi vào tai này rồi trôi qua tai kia. Dưới cái nhìn của chúng ta, gương mặt của Đức Kitô đã bị tiêu tan.
Vậy chúng ta phải có giải pháp nào? Đoi khi, chúng ta cần được xáo động lên. Đó là khi Mùa vọng đến. Mùa vọng đưa ra một lời mời gọi “Tỉnh thức” mạnh mẽ đối với chúng ta, cung cấp cho chúng ta một cơ hội để rũ bỏ lớp bụi của thói quen, và một lần nữa, đe cho Đức Kitô sống động trong đời sống của chúng ta.
Chúa đang đến. Người sẽ đến với chúng ta vào giờ chết, và đến với thế giới vào thời sau hết. Chúng ta không biết Người đến vào ngày nào hoặc giờ nào. Bất cứ thời điểm nào đều cũng không phù hợp đối với người đầy tớ không trung tín. Nhưng bất cứ thời điểm nào đều cũng phù hợp với người đầy tớ tín trung. Người đầy tớ trung tín không e sợ Chúa đến: Họ sẵn sàng tiếp đón ngày đó.
Chúng ta phải luôn sẵn sàng. Bằng cách nào? Bằng cách trở thành những người đầy tớ sống động, cảnh giác và có tinh thần trách nhiệm của Chúa và của nhau.
60. Mong đợi Chúa đến - Lm. Minh Vận
Rất ít người biết câu truyện lý thú về một nhóm Thầy Dòng có biệt hiệu là những người không ngủ. Năm 430, Alexander thành lập một Nhà Dòng gồm chừng 300 người, chia thành 6 nhóm. Mỗi nhóm chia nhau hát Thánh Vịnh ca tụng Chúa suốt ngày đêm 24 giờ mỗi ngày, các Thầy Dòng này hát kinh và chờ đợi Chúa Kitô, Vị Thẩm Phán tối cao, Vị Chủ Nhà đi xa trở về. Đó là lý do tại sao các Thầy Dòng này được gọi là những người không ngủ.
Họ thực hiện điều Chúa truyền dạy trong bài Tin Mừng hôm nay: "Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện" (Mc 13:33). Chúa truyền cho các môn đệ và mỗi người chúng ta nhiều lần, là phải tỉnh thức và sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến phán xét trần gian.
I. CHÚA ĐẾN TRẦN GIAN LẦN THỨ HAI
Các tín hữu hồi Giáo Hội sơ khai thường đinh ninh rằng, ngày Chúa Kitô sẽ xuống trần gian lần thứ hai để phán xét nhân loại đã tới gần. Do đó, họ rất lo sợ, kinh hãi chờ đợi những gì sẽ xảy tới.
Nhưng thực ra, như lời Chúa quả quyết với các môn đệ: "Ngày giờ đó không ai biết được, dầu các Thiên Thần cũng chẳng rõ, trừ một mình Chúa Cha biết mà thôi" (Mc 13:32). Những ngày đó Chúa tuyệt đối giữ bí mật, để chúng ta phải luôn sẵn sàng chờ đợi như lời Chúa nhắn nhủ: "Vậy các con hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng, vì không biết giờ nào ngày nào Chúa các con sẽ đến" (Mc 13:35).
Để nhấn mạnh tới lời nhắn nhủ: "Hãy Tỉnh Thức! Hãy Sẵn Sàng!" Chúa còn dùng nhiều dụ ngôn: Người tôi tớ luôn chu toàn các bổn phận chủ trao phó. Mười trinh nữ chong đèn chờ đợi chàng rể đến. Người bày tôi được trao phó những nén bạc để sinh lời cho chủ. Chúa muốn chúng ta, luon phải quan tâm tới một nhiệm vụ quan trọng là: "Hãy tỉnh thức! Hãy sẵn sàng!". Vì vào lúc bất ngờ, Chúa sẽ đến. Chúa đến để ân thưởng hay luận phạt.
II. CHÚA ĐẾN DƯỚI NHIỀU HÌNH THỨC
Chúa đến với chúng ta dưới nhiều hình thức, bằng nhiều cách thế khác nhau, nếu chúng ta biết tỉnh thức và sẵn sàng tiếp đón Người.
Có khi như một Vua Cao Cả, một thẩm phán chí công, oai nghiêm ngự trên ngai vinh hiển, có muôn Thiên Binh chầu chực, để phán xét trần gian trọng thưởng kẻ lành, nghiêm phạt kẻ dữ trong ngày chung thẩm hãi hùng.
Có khi như một người Cha Nhân Từ, mời gọi con theo Cha vào tận hưởng hạnh phúc Cha dành cho con, sau những ngày tháng con đã trung thành phụng sự Cha, hằng ngoan thảo làm hài lòng Cha.
Có khi như một người Bạn Tình đến kết hợp với mỗi người trong Bí Tích Thánh Thể, khi chúng ta sốt sắng tiếp rước Người vào linh hồn chúng ta.
Có khi như một Thầy Chí Thánh đến dạy dỗ chúng ta qua Thánh Kinh, bằng những Lời Hằng Sống, những giáo lý cao siêu, hướng dẫn chúng ta đi theo đường chân lý hợp thánh ý Chúa, giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban.
Có khi Chúa đến với chung ta qua tha nhân nơi những người đói khát, nơi những lữ khách xa lạ, nơi những người nghèo nàn cùng khổ, nơi những tù nhân nơi ngục thất, nơi những người trần trụi không áo che thân... Nếu chúng ta biết nhận ra Chúa ẩn thân nơi họ, chúng ta sẽ ân cần giúp đỡ họ, bởi vì khi chúng ta làm những điều ấy cho họ là chúng ta làm cho chính Chúa, như chính lời Chúa đã quả quyết: "Bao nhiêu lần các con làm những việc đó, cho một trong những anh chị em bé mọn nhất của Cha, là các con đã làm cho chính Cha vậy" (Mt 25:40).
III. PHƯƠNG THẾ ĐỂ NHẬN RA CHÚA
Để giúp chúng ta dễ nhận ra Chúa và sung sướng tiếp đón Người, Chúa dạy chúng ta 2 phương thế cần thiết là: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn".
1. Tỉnh Thức: Nếu chúng ta biết tỉnh thức và sẵn sàng: Luôn giữ tâm hồn trong sạch, có ơn nghĩa Chúa và làm hài lòng Người, chúng ta sẽ được bình an tâm hồn và luôn cảm nghiệm được nguồn an vui hạnh phúc của con cái Chúa. Khi đó chúng ta sẽ như các Thánh, bằng con mắt Đức Tin luôn nhận ra Chúa, gặp được Người qua tha nhân, qua thụ tạo; trong mọi hoàn cảnh, ở mọi nơi và mọi lúc của cuộc sống.
2. Cầu Nguyện: Lệnh Chúa truyền chúng ta phải cầu nguyện luôn, không có nghĩa là chúng ta phải luôn đến Nhà Thờ quì gối chắp tay, hát xướng liên miên, để ca ngợi, tung hô, thờ phượng Chúa. Nhưng lệnh Chúa truyền rất dễ dàng thực hiện, thích hợp và vừa sức mọi người, chúng ta có thể làm được ở mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh. Đó là chúng ta liên kết với công nghiệp của Chúa Kitô, tất cả các việc to nhỏ chúng ta làm hằng ngày, với chủ ý vì long yêu mến Người. Nhất là mỗi việc bổn phận chúng ta thực hiện dù là những công việc rất nhỏ mọn, rất tầm thường chúng ta biết dâng lên Chúa, hợp với các Thánh Lễ hằng dâng lên thượng tiến Thiên Chúa trên các Bàn Thờ trong khắp thế giới từng phút từng giây. Mọi việc chúng ta làm sẽ có giá trị đền tội, lập công và thánh hóa, cho chính chúng ta và cho các linh hồn; vì tất cả các việc dù rất nhỏ mọn đó, hợp với giá Ơn Cứu Chuộc của Chúa Kitô, đều trở nên hiến lễ đẹp lòng Thiên Chúa.
Kết Luận
Chúa Kitô đến với toàn thể nhân loại và riêng mỗi người chúng ta, như một Quà Tặng, như một Ơn Ban của Thiên Chúa Cha. Nhưng Quà Tặng và Ơn Ban đó, Chúa Cha ban cho trần gian và cho riêng mỗi người chúng ta, qua tay Đức Trinh Nữ Maria, Đấng Chúa Cha đã tuyển chọn làm Mẹ Con Một Chúa và Mẹ riêng mỗi người chúng ta.
Nếu chúng ta muốn lãnh nhận được Chúa Kitô, chúng ta phải đến với Mẹ và chỉ qua Mẹ chúng ta mới có thể lãnh nhận được Người, Đấng là Tình Yêu, là Hạnh Phúc, là Gia Nghiệp đời đời của chúng ta.
61. Tỉnh thức
Có ba cậu cậu thiếu niên lên đường để leo núi. Khi lên được gần ba ngàn mét, thì một cơn bão tuyết bất ngờ thổi tới, khiến cho các ậu phải đào hầm chui vào đống tuyết để thóat khỏi những luồng gió lạnh buốt, cũng như để chờ đợi cho cơn bão qua đi.
Thế nhưng, mười một ngày rồi mà cơn bão vãn còn tiếp tục thổi một cách dữ dội. Những chiếc túi dùng để ngủ đã bị uớt sũng và đông cứng. Thức ăn dự trữ chỉ còn đủ cho mỗi người một ngày hai muỗng bột mà thôi.
Nguồn an ủi duy nhất của các cậu trong thời điểm kinh hoàng này chính là cuốn Kinh Thánh mà một cậu đã mang theo. Các cậu đọc Kinh Thánh mỗi ngày tám tiếng đồng hồ và tìm thấy trong đó một hoàn cảnh giống như hoàn cảnh các cậu đang gặp phải. Đó là hoàn cảnh của Đavit.
Thực vậy, Đavít cũng đã lâm vào tình trạng cô đơn, đói khát và không biết chuyện gì sẽ xảy đến. Cuối cùng, ông chỉ còn biết tin tưởng vào Thiên Chúa.
Các cậu cũng vậy. Không ai có thể giúp đỡ và cứu thoát các cậu được, ngoại trừ chính Thiên Chúa. Vì thế, ngoài việc nghe đọc Kinh Thánh, các cậu đã cầu nguyện với hy vọng cơn bão sẽ chấm dứt và người ta sẽ đến tiếp cứu.
Cuối cùng, vào ngày thứ mười sáu thì trời quang mây tạnh, các cậu bò ra khỏi hầm tuyết của mình. Tình trạng sức khỏe lúc bấy giờ thật bi đát. Các cậu đã yếu lả, không thể bước đi. Tuy nhiên cũng rất may mắn là toán cấp cứu đã tới kịp và tìm thấy các cậu.
Tôi nghĩ rằng câu chuyện trên chính là một hình ảnh sống động giúp chúng ta sống tinh thần mùa vọng.
Thực vậy, mùa vọng là thời gian chúng ta sống lại nỗi chờ mong của dân Do thái, bởi vì suốt dòng lịch sử họ đã mòn mỏi trông đợi Đấng Cứu Thế. Và nỗi trông mong này đã kết đọng lại thành những lời nguyện cầu tha thiết:
- Như người lính gác mong chờ hừng đông, Israen đang mong chờ Chúa.
- Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời.
Tuy nhiên không phải chỉ có thế. Mùa vọng còn là thời gian để chính chúng ta trông chờ việc Đức Kitô sẽ trở lại vào thời điểm cuối cùng của lịch sử, lúc chúng ta ít mong đợi nhất.
Vì thế, Chúa Giêsu đã lên tiếng cảnh giác:
- Hãy tỉnh thức.
Chúng ta đang sóng giữa hai cột mốc của thời gian. Cột mốc đầu tiên là lúc Đức Kitô đến lần thứ nhất trong cảnh khó nghèo của máng cỏ Bêlem. Còn cột mốc tiếp theo là lúc Ngài đến lần thứ hai trong vinh quang của ngày phán xét.
Và như vậy, theo một nghĩa nào đó thì cuộc đời chúng ta cũng chính là một mùa vông liên tục.
Vì thế, công việc của chúng ta không phải chỉ là ngồi yên và chăm chú nhìn theo những ánh sao trên bàu trời để tưởng nhớ việc Ngài đã đến lần thứ nhất, đồng thời trông đợi việc Ngài đến lần thứ hai.
Thế nhưng bổn phận cua chúng ta là phải hoàn tất công việc Ngài đã trao phó. Đó là rao giảng Tin mừng và làm chứng cho Ngài giữa lòng cuộc đời.
Do đó, mùa vọng còn là thời gian để chúng ta kiểm điểm lại xem: chúng ta đã làm những công việc ấy như thế nào? Chúng ta đã thực sự chu toàn sứ mạng Chúa trao phó hay chưa?
Nếu như ngày hôm nay Chúa trở lại và xét xử, thì liệu chúng ta có được Ngài đón nhận vào quê hương Nước Trời hay không?
62. Hãy tỉnh thức
Những ai đã diễm phúc sống qua tuổi học trò thì không thể nào quên được những kỷ niệm muôn đời ghi dấu đó. Tuổi học trò thật dễ thương. Trong những cái dễ thương có cái đẹp, cái chẳng đẹp. Cái không đẹp đó là sự nghịch ngợm của học trò mà người ta thường ví von: “Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò!”.
Tôi còn nhớ khoảng thời gian học lớp đệ lục, đệ ngũ (tức lớp 7, 8 bây giờ). Cứ mỗi khi thầy giáo đang dạy học, phải tạm ngừng để ra khỏi lớp trong vòng 5 hay 10 phút, thầy giáo căn dặn học trò rất kỹ: “Các em lưu ý, thầy có việc phải lên văn phòng gặp ông hiệu trưởng trong giây lát. Trong khi vắng mặt thầy tin tưởng các em sẽ giữ trật tự, ngoan ngoãn. Mỗi em phải làm bài tập sau đây khi thầy trở lại sẽ nộp bài. Thầy nhờ anh trưởng lớp giữ trật tự. Nhớ rằng thầy đi trong vòng vài phút rồi sẽ trở lại ngay”.
Tôi dám chắc các bạn đoán được sự gì xảy ra ngay khi ông thầy rời khỏi lớp. “Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm!” Thầy giáo vắng mặt là một dịp may cho những tên học trò phá phách, là một cám dỗ thử thách cho những học trò thích nghịch nhưng còn nhát sợ. Chỉ có một số nhỏ hiền hoà, nghiêm chỉnh làm bài tập.
Lớp học đang im lặng, từ từ ồn ào lên, bắt đầu từ những tên nghịch ngợm đầu xỏ trước. Thầy giáo vừa ra khỏi lớp, nó liền phóng theo núp ở đằng sau cánh cửa, nhìn xem đã thực sự đi xa chưa. Khi nó ra hiệu, lớp học nhao nhao lên như ong vỡ tổ. Đứa phóng máy bay giấy đảo lượn khắp phòng. Đứa bỏ chỗ chạy đến tán dóc với bạn bè. Đứa phóng lên bảng, viết vẽ bậy bạ, làm trò hề và cả lớp cười ầm lên… Anh lớp trưởng phải lớn tiếng kêu gọi trật tự. Từ kêu gọi sang cảnh cáo. Từ cảnh cáo thành cãi vã, đe doạ. Kêu gọi không được thì đập bàn, gõ thước kẻ. Cả lớp ồn lên như cái chợ. Có những đứa biết sợ, cứ lấp ló nhìn qua khe cửa xem thầy giáo trở lại chưa!
Bây giờ là thời gian thầy giáo vắng mặt. Chúng ta đang sống giữa khoảng thời gian Chúa Giêsu đã đến lần thứ nhất rồi: như một bé thơ trong máng cỏ và chờ đợi Ngài trở lại lần thứ hai: như là Chúa tể đất trời và là thẩm phán. Bài Phúc âm hôm nay, và sách Giáo lý Công giáo số 672 đã dạy: “Thời gian hiện nay, theo lời Chúa, vẫn là thời gian của Chúa Thánh Thần và của việc làm chứng, nhưng cũng là thời gian của “sự khốn khổ”, và những thử thách điều ác sẽ không buông tha Giáo Hội và sẽ mở màn cho những chiến đấu của ngày sau cùng. Đó là thời gian của chờ đợi và cảnh giác.
Lịch sử của Cựu Ước là thời gian mong đợi Đấng Cứu Thế đến. Trong bài đọc thứ nhất tiên tri Isaia diễn tả sự mong đợi này: “Xin Chúa băng qua các tầng trời mà ngự xuống”. Và sự vắng mặt của Thiên Chúa làm con người “luôn luôn ở trong tình trạng tội lỗi… đầy vết nhơ… như chiếc áo bẩn”.
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã giáng trần để cứu chuộc con người theo như lời Thiên Chúa đã hứa. Và lịch sử của Tân Ước với các Kitô hữu tiên khởi là thời gian giải quyết các vấn đề liên quan đến sự vắng mặt của Chúa Giêsu, thời gian chờ đợi ngày Ngài lại đến. Như thánh Phaolô đã khuyên tín hữu Côrintô: “Anh em tràn đầy mọi ơn, ơn ngôn ngữ, và ơn hiểu biết… trong khi mong chờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta tỏ mình ra”.
Tuy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha, nhưng sự hiện diện và ơn cứu rỗi của Ngài mãi mãi ở với chúng ta. Do đó, trong lúc chờ đợi ngày Ngài lại “tỏ mình ra”, hiện nay bằng nhiều cách Ngài vẫn luôn luôn hiện diện để giúp đỡ chúng ta trong cuộc sống đức tin. Nhân dịp mùa vọng đến, Giáo Hội dựa vào lời Chúa kêu gọi chúng ta “hãy tỉnh thức” để nhận ra Ngài, cùng với ơn cứu độ của Ngài.
63. Hãy tỉnh thức
1- Tỉnh thức và ý thức: Cả hai đều có cùng một nội dung diễn tả bản chất thiết yếu của con người có lý trí. Khi ngủ ta mất hay ít ý thức. Ta chỉ hoàn toàn ý thức khi tỉnh thức. Việc Chúa Giêsu đã giáng trần để cứu chuộc nhân loại sẽ chẳng có ảnh hưởng gì tới đời sống con người nếu chúng ta không ý thức. Ngài vẫn còn vắng mặt trong tâm thức của nhiều người. Sự vắng mặt này gây nên các vấn đề rắc rối và tạo nên những bi kịch trong cuộc sống nhân sinh. Nó gây ra đau khổ, và chết chóc.
Trong một cuộc phỏng vấn qua ca khúc “Bông Hồng Cài Ao”, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã chia sẻ rằng nhận thức sự có mặt của mẹ trong đời, đó là điều làm nên hạnh phúc của những người con. Theo cách suy nghĩ này, chúng ta có thể nói rằng nhận thức sự hiện diện của Đức Kitô và ơn cứu rỗi của Người là điều cần thiết tạo nên hạnh phúc của người Kitô hữu.
2. Tỉnh thức để cảm nhận được những dấu tích của Thiên Chúa xung quanh chúng ta nếu chúng ta biết cách đón nhận. Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen, nhà giảng thuyết thời danh của Hoa Kỳ vào những thập niên 60 và 70 thường ví vũ trụ giống như một cửa sổ được ghép bằng những ô kính. Qua cửa sổ ô kính của thế giới hữu hình chúng ta có thể đến để nhìn ra Đấng Vô Hình, sức mạnh và sự hiện diện của Thiên Chúa. Ký giả Kitô giáo Malcolm Muggeridge đã diễn tả điều này như sau: “Mọi điều lớn hay nhỏ xảy ra là một dụ ngôn qua đó Thiên Chúa nói với chúng ta, và nghệ thuật của đời sống chính là thu thập được cái thông điệp đó”. Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy dẫy những làn sóng điện và âm thanh phát ra trong không gian. Chúng ta không biết nó và không nhận ra nó cho đến khi có một cái máy thu nhận làn sóng điện – receiver – như là radio, tivi, điện thoại di động, computer… Bật máy lên sử dụng, một thế giới thông tin với hình ảnh, âm thanh và tin tức mở ra cho chúng ta. Tất cả sự thông tin thú vị và phong phú này đến với chúng ta chỉ khi nào chúng ta biết đón nhận chúng. Tiếng nói của Thiên Chúa giống như những làn sóng radio hay làn sóng điện toán trong không gian, vây quanh và thấm nhập vào thế giới của chúng ta. Và mỗi người có một cái máy tiếp nhận làn sóng tinh thần ở bên trong giúp chúng ta cảm nhận được những dấu chỉ và cho phép lắng nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Tôi nhìn thấy cái radio, computer tinh thần này ở bên trong mỗi người như một thứ giác quan thứ sáu. Giác quan thứ sáu này chính là lương tâm và đức tin. Khi chúng ta qui tụ nhau lại thờ phượng Thiên Chúa nơi nhà thờ, tham dự bàn tiệc Thánh Thể, rước lấy Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô qua hình bánh và rượu, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện ngọt ngào và thánh thiện của Ngài giữa chúng ta.
3. Tỉnh thức để xa tránh tội lỗi: Trong bài Phúc âm, thánh Marcô dùng hình ảnh của một người canh giữ cửa. Một người canh giữ cửa tỉnh thức và chờ đợi chủ trở về. Không ngủ mê trong yếu đuối xác thịt và tội lỗi. Cũng không canh giữ theo kiểu các chú học trò tinh nghịch nhìn qua khe cửa xem thầy giáo đã trở về hay chưa để phá phách! Trước Giáng sinh năm 1980, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II quy tụ hơn 2000 trẻ em của một giáo xứ ở Rôma. Bằng cuộc đối thoại, ngài dạy giáo lý cho các em và hỏi: “Làm thế nào các con sửa soạn mừng lễ Giáng sinh?” “Bằng cầu nguyện” từ phía sau các em la to. “Rất tốt, bằng cầu nguyện, Đức Giáo Hoàng nói, nhưng cũng phải bằng việc đi xưng tội nữa. Các con phải đi xưng tội để có thể lên rước lễ sau đó nữa. Các con có làm như thế không?” Hàng ngàn trẻ em trả lời trong cùng một tiếng lớn giọng hơn: “Chúng con sẽ làm!” Và Đức Giáo Hoàng nói với các em. “Phải, các con nên đi xưng tội”. Rồi ngài hạ thấp giọng xuống thì thầm, “Đức Giáo Hoàng cũng sẽ đi xưng tội để đón tiếp Chúa Giêsu Hài đồng một cách xứng đáng”.
4. Tỉnh thức vì Thiên Chúa đến rất bất ngờ: Thiên Chúa đến với chúng ta qua mọi hình thức, mọi biến cố trong cuộc sống, ngay cả sự chết, và sau cùng trong ngày phán xét chung, tận thế. Chúng ta phải luôn sẵn sàng đón tiếp Ngài, nhất là những lúc chúng ta không ngờ. “Ta đến như một tên ăn trộm, hạnh phúc cho những ai tỉnh thức”. Trên chiếc máy bay phản lực 747 vừa cất cánh rời phi trường ở Nữu Ước bay đi Rôma, có một bà cụ già tên là Maude, ngồi ở bên cửa sổ. Cụ để dành tiền trong nhiều năm trời mới đủ để làm một chuyến hành hương Rôma như cụ hằng mong ước. Đây là lần đầu tiên cụ đi máy bay, nên cụ lo sợ và kinh hoàng. Cụ cứ lầm bầm cầu xin: “Lạy Chúa, con phải làm gì ở trển đây?” Mặc dù phía trước cụ có 4 vị giám mục cùng sang Rôma dự hội nghị, cụ vẫn cứ run sợ. Cụ sợ rớt máy bay mà chết! Sau cùng đang lúc run sợ, cụ liếc trộm ra ngoài cửa sổ, chẳng may gặp đúng lúc một trong bốn động cơ của phản lực không còn hoạt động được nữa, và máy bay biến vào đám mây bên dưới. Cụ la hét lên kinh hoàng: “Chúng ta sắp chết! Chúng ta sắp chết!” Cô trưởng đoàn chiêu đãi viên hàng không lập tức đến bàn hỏi ý kiến với phi hành đoàn, rồi thông báo cho tất cả hành khách biết rằng mọi sự sẽ êm đẹp: “Xin quý vị an tâm, viên trưởng phi công bảo đảm với quý vị rằng ông ta có thể điều khiển máy bay quay trở về New York và đáp xuống an toàn với 3 động cơ”. Nhưng bà cụ cứ la hoảng lên: “Chúng ta sắp chết! Chúng ta sắp chết!” Cô chiêu đãi viên lại phải đến trấn an cụ lần nữa: “Cụ ơi, cụ đừng lo, Chúa đang ở với chúng ta. Máy bay của chúng ta chỉ có 3 động cơ thôi, nhưng xem kìa, chúng ta có tới 4 vị giám mục cơ mà!” Nhưng bà cụ trả lời: “Thôi, tôi muốn có 4 động cơ và chỉ cần 3 giám mục là đủ!” Hôm nay Chúa nói với chúng ta rằng: “Chúng con hãy tỉnh thức, vì chúng con không biết lúc nào chủ nhà trở về… kẻo khi ông trở về thình lình, bắt gặp chúng con đang ngủ”. “Hãy tỉnh thức”. Bà cụ hoảng sợ vì không ngờ thời giờ lại đến ngay vào lúc cụ chưa sẵn sàng. Thánh Phanxicô de Sales nói rằng: “Sự chờ đợi đích thực có nghĩa là chờ đợi mà không lo lắng gì cả “.
64. Mùa vọng
Chúng ta bắt đầu một chu kỳ phụng vụ mới, một năm phụng vụ mới, mùa đầu tiên của năm phụng vụ là Mùa Vọng. Mùa vọng là mùa của hy vọng nở hoa, nếu chúng ta hiểu được nỗi chờ đợi của một em bé mong mẹ đi chợ về, nỗi chờ mong gặp lại một người thân yêu xa vắng, nỗi khát vọng của một người mẹ “bồng con mẹ ải chờ mong, cho lòng chinh phụ hoá thành vọng phu”, nỗi mong chờ của một người cha già Tin Mừng chờ đón con về… thì chúng ta sẽ hiểu được thế nào là Mùa Vọng.
Xưa kia, Mùa Vọng được gọi là mùa At, “At” là âm đầu tiên gọi tắt của tiếng “Adventus”, một tiếng La Tinh, có nghĩa là đến hay sắp đến. Với phong trào Việt hoá, có một thời lại được gọi là Mùa Ap, “Ap” có nghĩa là gần kề hay kề bên, cả hai cách gọi trên tuy cũng nói lên phần nào ý nghĩa của mùa này nhưng chưa được rõ ràng. Ngày nay với hai tiếng “Mùa Vọng” bao hàm ý nghĩa rõ hơn: mùa hy vọng, mùa trông đợi, mùa chờ mong. Hy vọng, trông đợi, chờ mong cái gì? Chờ mong Chúa Giêsu giáng sinh. Vì thế, Mùa Vọng đầu tiên có nghĩa là một thời gian chuẩn bị đạo đức để xứng đáng mừng lễ Giáng Sinh. Nhưng đến thế kỷ thứ VII, Mùa Vọng lại thêm một ý nghĩa nữa: trông đợi, chờ mong Chúa quang lâm, Chúa tái giáng để phán xét nhân loại.
Như vậy, Mùa Vọng là mùa nhắc lại thời gian nhân loại chờ đợi Đấng Cứu Thế đến cứu chuộc, và cũng nói lên nỗi chờ đợi của Giáo Hội hôm nay: đợi Đức Kitô đến lần thứ hai khi lịch sử kết thúc để phán xét nhân loại. Ngoài ra, với mỗi người, Mùa Vọng cũng nhắc nhở chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng chờ đón Chúa trong mỗi ngày của đời sống và đặc biệt trong ngày chết khi Chúa đến gọi chúng ta về với Ngài. Vì thế, lời Chúa của Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta ba điều: thứ nhất về ngày Chúa quang lâm, thứ hai về ngày chúng ta ra khỏi trần gian, thứ ba chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Về ngày Chúa quang lâm, tức là ngày Chúa tái giáng Chúa trở lại trần gian, ngày phán xét chung. Ngày ấy không ai biết khi nào xảy ra, chỉ một mình Thiên Chúa biết mà thôi, một mình Ngài quyết định khi nào Ngài trở lại, và chỉ khi nào ngày ấy xảy ra thì người ta mới biết chứ không ai biết trước. Kinh thánh ví ngày đó như kẻ trộm ban đêm, có bao giờ kẻ trộm lại báo trước ngày nó đến ăn trộm đâu. Cũng vậy, ngày Chúa đến rất bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ. Có thể hôm nay người ta cho rằng ngày Chúa quang lâm là thứ “cọp giấy” tức là không có hay nếu có cũng còn lâu lắm. Xin những ai có ý nghĩ như vậy thì hãy nhớ: lời Kinh Thánh đúng từng dấu phẩy, Kinh thánh ứng nghiệm từng điều từng nét. Hơn nữa, ngày Chúa quang lâm là một chân lý chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính và mỗi khi dự thánh lễ: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”.
Đàng khác, Tin Mừng hôm nay mặc dầu đề cập tới ngày tận thế nhưng cũng nhắc nhở chúng ta suy nghĩ về ngày tận số của mình, tức là về ngày chết của chính chúng ta. Chết là cái mốc cuối cùng mà bất cứ ai đã sinh ra ở đời này thì trước sau gì cũng sẽ tới ngày ấy, vì thế chúng ta phải nghĩ tới nó, chúng ta phải tính toán, phải nghĩ tới ngày chết của mình. Nói khác đi, chúng ta phải nghĩ tới cuộc sống vắn vỏi của mình nơi trần gian. Thật vậy, cuộc đời con người sánh với thời gian đã chẳng là gì, nhưng nếu sánh với sự sống vĩnh cửu lại càng mong manh hơn biết bao. Cuộc đời không những phù du mà còn kèm theo tính cách bất ngờ nữa, không ai biết được khi nào mình chết, ngày giờ chết là bất ngờ nên Chúa dạy chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
“Tỉnh thức”, theo nguyên nghĩa là không ngủ, và cũng có nghĩa là sẵn sàng. Người ta có thể tỉnh thức để tiếp tục làm cho xong một công việc, hoặc để tránh một điều tai hại có thể xảy đến, cho nên, tỉnh thức còn có ý nghĩa là canh phòng, túc trực giao tranh, phấn đấu chống sự lơ đãng cẩu thả để đạt một mục đích đã nhắm. Đó chính là ý nghĩa của tiếng “canh thức” Chúa Giêsu căn dặn chúng ta: hãy chờ đợi Chúa đến trong tinh thần sẵn sàng, là luôn sống trong ơn nghĩa Chúa.
Chúng ta hãy nghĩ tới trường hợp của hai người vợ cùng có chồng đi vắng xa lâu năm: một người, tuy xa chồng nhưng tâm hồn lúc nào cũng tưởng nhớ tới chồng, vẫn coi như chồng đang có mặt ở nhà, bà săn sóc con cái chu đáo, gánh vác phần chồng, tiếp tục gây dựng gia đình như xưa. Còn bà kia, cũng nhớ tới chồng, nhưng chán nản, bỏ bê con cái, chểnh mảng việc nhà, lâu lâu lại tìm vui với những người đàn ông khác, khiến mọi người dị nghị đàm tiếu. Bây giờ, bỗng nghe tin cả hai người chồng đều trở về với gia đình, chắc hẳn hai người vợ trên sẽ đón tin này, mỗi người một cách khác nhau. Cũng thế, nếu chúng ta tỉnh thức mong chờ Chúa thế nào, thì Chúa sẽ đến với chúng ta như vậy. Cho nên, chúng ta phải chuẩn bị đón Chúa luôn luôn, để bất cứ lúc nào Chúa đến chúng ta cũng sẵn sàng: “Cửa trời hẹp lắm ai ơi, muốn vô thì phải ép mình chớ quên”.
65. Mùa loan báo
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Phụng vụ Giáo hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng.
Từ Chúa Nhật I mùa vọng đến ngày 16.12, Phụng vụ nói lên niềm mong đợi ngày Chúa đến khi kết thúc thời gian. Tám ngày cuối cùng, trực tiếp nói đến ngày Giáng Sinh.
Mùa Vọng âm vang những lời loan báo mời gọi tỉnh thức và hy vọng.
1. Mùa Vọng - Mùa loan báo.
Mùa vọng là mùa của những lời loan báo. Loan báo Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Sách Thánh ngày Chúa Nhật.
Bài đọc 1, trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và Ngài sẽ được gọi là Emmanuel.
Bài Phúc Âm: Chúa nhật I mùa vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức; Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa; Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.
2. Mùa Vọng - Mùa chờ đợi
Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Từ ngữ "Chúa đến" thường được hiểu bằng bốn cách:
- Chúa đến trong lịch sử nhân loại.
- Chúa đến trong ngày phán xét chung.
- Chúa đến trong giờ chết của mỗi người.
- Chúa đến trong ơn thánh hằng ngày.
Chúa đến lần thứ nhất: Chúa đã làm người trong nghèo hèn và đau khổ. Chúa được sinh hạ tại hang đá Belem. Chúa đến thế gian để trao ban Ơn Cứu Độ cho nhân loại. Ngày nay nhân loại đợi chờ và hân hoan kỷ niệm ngày Chúa Giáng Sinh.
Chúa đến lần thứ hai: Chúa Giêsu sẽ đến thế gian lần thứ hai để hoàn tất công cuộc cứu độ, gọi là Tận Thế hoặc Cánh Chung. Lần này Chúa đến trong vinh quang với tư thế là Vua Thẩm phán để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Không ai biết được ngày đó sẽ xẩy ra khi nào. Chỉ biết chờ đợi trong hy vọng.
Chúa đến giữa hai lần: Chúa đến với từng người. Đó là giờ chết. Không ai biết được Chúa gọi mình lúc nào và ở đâu. Không ai có thể chọn cho mình ngày giờ ra đi. Lần giữa này là lần thật quan trọng với từng người.
Chúa đến trong ơn thánh: Hàng ngày Chúa đến với ta trong ơn thánh qua các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể.
Mùa Vọng chính là mùa sốt sắng và hân hoan mong đợi Chúa đến.
3. Mùa Vọng - Mùa tỉnh thức
Chúa Giêsu nói đến tư thế của người tỉnh thức là luôn: "đứng thẳng và ngẩng đầu lên". Chúa cũng nói đến thái độ sống của người tỉnh thức là không để " lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời", không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ, không quá mê say danh lợi thú.
- Đứng thẳng: đây là động thái hiên ngang dũng cảm vượt trên mọi đam mê tội lỗi. Đứng thẳng mới khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời.
- Ngẩng đầu lên: đây là động thái hướng thượng, vươn mình lên tới những giá trị cao cả.
Chúng ta sống cuộc đời hiện tại trong tinh thần tỉnh thức. Tại các ngã ba ngã tư của đường phố đều có đèn đỏ đèn xanh rõ ràng, nhắc hướng cần đi vào và cấm vượt ranh giới. Trong lương tâm, chúng ta không thấy rõ hệ thống đèn đỏ đèn xanh. Mình phải tự phán đoán, chọn lựa. Không tỉnh thức là đôi khi mình tự cho phép mình vượt đèn đỏ vô hình, và cũng không đi theo hướng đèn xanh chỉ dẫn. Vài lần thấy quen. Rồi thấy xung quanh vô số người cũng làm như vậy. Thế là thành thói quen phạm lỗi trên hành trình cuộc đời.
Không bao giờ được quên ngày Chúa đến trong thời gian kết thúc của thế giới và đến trong ngày cuối cùng của đời ta. Tích cực dùng thời gian hiện tại để chuẩn bị cho tương lai vĩnh cửu của mình.
Mùa Vọng là mùa mong đợi Chúa đến. Chúa đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa, chúng ta phải tỉnh thức.
Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức.
a. Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về:
Tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là "thắt lưng cho gọn" và "thắp đèn cho sẵn". Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Như thế, tỉnh thức đi kèm với sẵn sàng và nhanh nhẹn. Tỉnh thức để "đợi chủ về". Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế, người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ.
b. Dụ ngôn người quản gia trung thành.
Quản gia chỉ là quản lý mà " ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc". Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Cần phải trung thành trong nhiệm vụ được giao. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp...tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng... giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.
Tại Thụy sĩ, có một vườn hoa tuyệt đẹp, đủ loại hoa, đủ màu sắc. Nằm giữa vườn là một tòa nhà tráng lệ. Nhìn vườn hoa với cảnh phối trí, cắt tỉa, uốn nắn... ai cũng phải công nhận đã có một sự chăm sóc kỹ lưỡng, kèm theo một óc thẩm mỹ hiếm có của người chủ vườn. Một du khách đi qua đây, thoáng nhìn ông đã thấy như say mê. Giữa lúc đó, người làm vườn bước ra. Chủ khách chào hỏi lẫn nhau. Rồi từ chuyện hoa cỏ, cách chăm bón, trồng tỉa, sự phối hợp màu sắc... câu chuyện đi đến chỗ thân tình.
Du khách hỏi: "Xin lỗi cụ, cụ ở đây được bao lâu rồi?"- "Khoảng 40 năm rồi" – "Tôi đoán, có lẽ ông chủ của cụ rất sành về nghề cảnh, chắc giờ này ông có nhà?" – "Ông ta không ở đây, thỉnh thoảng mới ghé qua đây thôi" – "Ông có thư từ gì với cụ không?" – "Không, ông ta bận lắm" – "Ông không về cũng không thư từ, thì ai trả lương cho cụ?" – "Hàng tháng tôi chỉ nhận được ngân phiếu từ ông ta để chi phí mọi sự cho khu vườn này" – "Thế tội gì cụ phải chăm sóc kỹ lưỡng thế này, ông chủ có mấy khi đến thưởng ngoạn đâu?" – "Tôi thì lại không nghĩ thế, mình là một gia nhân được chủ tín nhiệm trao phó việc bảo quản khu vườn này, mình phải tận tụy chứ lúc nào ông về cũng được, ông sẽ hài lòng với công việc của tôi. Hơn nữa, khi làm đẹp khu vườn cho chủ, chính tôi cũng được thưởng ngoạn cảnh đẹp do chính tay mình làm nên".
Người gia nhân trên đây thật đáng ca tụng. Ông làm việc không vì sợ nhưng vì yêu, làm việc với một tinh thần trách nhiệm. Ông coi việc của chủ như việc của mình nên làm việc hết tấm lòng. Ông thực là một gia nhân tốt, một quản lý trung thành.
Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.
Tỉnh thức là tâm trạng của một con người luôn bình an, thư thái. Thái độ sống này giúp người Kitô hữu luôn làm cho mọi công việc hàng ngày trở thành lời nguyện tạ ơn chân thành.
Người tỉnh thức là người luôn cố gắng và nhiệt thành, biết thực thi những gì là chân thật, ngay chính và đáng quý chuộng.
Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu.
Ngày Chúa đến sẽ khủng khiếp hoặc vui mừng là tùy cách sống hiện tại của mỗi người. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra trước ánh sáng của công lý, không ai có thể che dấu một chi tiết nào.
Ngày Chúa đến trong vinh quang để xét xử muôn dân sẽ là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng, nhưng sẽ là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu bên Nhà Tạm, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen.
66. Tỉnh thức và cầu nguyện
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Phụng vụ Giáo hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng.
Mẹ Giáo hội đang ôm ấp tất cả con cái nhân loại đợi chờ Đức Kitô đến trong hai lần Người ngự đến. Ngự đến trong thời gian là Nhập Thể và kết thúc thời gian là Quang Lâm.
Từ Chúa Nhật I Mùa Vọng đến ngày 16.12 phụng vụ nói lên niềm mong đợi ngày Chúa đến khi kết thúc thời gian. Tám ngày cuối cùng trực tiếp nói đến ngày sinh nhật của Người.
Theo tinh thần canh tân phụng vụ, Mùa Vọng không còn là mùa thống hối nữa mà là mùa hân hoan mong đợi. Các Chúa nhật trong Mùa Vọng không đọc kinh Vinh Danh không phải vì đặc tính đền tội của Mùa Chay, nhưng là để bài ca của các Thiên Thần được xem như là một tiếng hát mới mẻ trong đêm Giáng Sinh.
Mùa Vọng cũng là mùa của những lời loan báo. Loan báo việc Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc ngày Chúa nhật.
Bài đọc 1 trích trong sách Isaia, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bêlem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đavit và sẽ được gọi là Emmanuel.
Bài Phúc âm Chúa nhật I Mùa Vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức. Chúa nhật II, III dành cho Gioan Tiền Hô với lời mời gọi: Hãy dọn đường cho Chúa. Chúa nhật IV là Chúa nhật Truyền tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
Các bài đọc 2 là các bài Thánh thư Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.
Tin Mừng Chúa nhật I Mùa Vọng dặn dò mỗi người Kitô hữu là “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện”. Tỉnh thức để đón chờ ngày tái ngộ với Chúa Kitô. Tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Cuộc tái ngộ có thể xảy đến bất ngờ đối với mỗi người và đối với cả nhân loại nên phải luôn tỉnh thức và cầu nguyện.
1. Tỉnh thức
Thánh Kinh kể chuyện: Samson là vị thủ lãnh của dân Do thái. Anh có sức mạnh phi thường, quân Philitinh khiếp sợ.
Ngày kia, một con sư tử gấm bất thần tấn công, Samson xé xác nó với hai bàn tay dũng mãnh. Có lần bị quân Philitinh vây chặt tư bề, Samson chộp lấy một chiếc xương hàm của con lừa gần đó và quật chết rất nhiều đối thủ. Sức mạnh vô song của Samson làm cho quân Philitinh phải khiếp đảm.
Không thắng được Samson bằng sức mạnh, người Philitinh tìm cách tiêu diệt anh bằng mỹ nhân kế. Nàng Đaliđa, một thiếu nữ Philitinh có nhan sắc tuyệt đẹp. Nàng đến với Samson và đã chiếm lấy trái tim vị anh hùng. Đaliđa gạn hỏi: do đâu anh có được sức mạnh phi thường? Samson tiết lộ bí mật, sức mạnh liên hệ đến mái tóc, khi nào tóc bị cắt, sức lực sẽ không còn. Samson ngủ, Đaliđa lén cắt tóc rồi báo tin. Quân Philitinh xông đến tóm lấy anh, xiềng lại bằng những sợi xích đồng. Chúng tàn nhẫn khoét đôi mắt và bắt anh ngày ngày kéo cối xay như một con trâu ngoan.
Một Samson vạm vỡ với sức mạnh kinh hồn bạt vía, tay không quật ngã và xé xác con sư tử gấm to lớn, một thủ lãnh bách chiến bách thắng từng làm cho quân Philitinh phải kinh khiếp. Giờ đây, anh chỉ là một tù nhân mù loà, tay chân mang xiềng xích, một tên nô lệ, ngày ngày cúi đầu làm thân trâu ngựa nhẫn nhục thay trâu bò kéo cối xay! Than ôi! Một thời oanh liệt nay còn đâu!
Chỉ vì không tỉnh táo trước kế mỹ nhân. Samson đã sa cạm bẫy và chịu hậu quả đau thương.
Thảm kịch Samson luôn mang tính thời sự. Nó vẫn tiếp diễn trong cuộc đời con người dưới nhiều dạng thức khác nhau. Hằng ngày báo chí và truyền hình kể lại vô số cảnh đời gục ngã dưới nhiều hình thức: suy sụp vì ma tuý, sa đoạ vì gian dâm, sa ngã vì tham lam và vô vàn hình thức sa bẫy khác.
Mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ngay cả một số những cây cao bóng cả trong xã hội cũng như trong các tôn giáo vì thiếu tỉnh thức nên cũng bị gục ngã, bị lún sâu xuống bùn lầy.
Dân gian nói: "khôn ba năm, dại một giờ". Nhưng có khi khôn đến năm mươi năm, bảy mươi năm rồi cũng hoá dại trong một giờ!
Lời Chúa hôm nay nhắc nhớ: "Anh em hãy tỉnh thức và hãy cầu nguyện luôn!... hãy đề phòng, đừng để cho lòng trí mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em".
Thánh Phaolô khuyên: "những ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã" (1 Cor 10,12).
Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, là đừng quá đam mê những hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, là không quá mê say danh, lợi, thú.
Luôn tỉnh thức như khi đang lái xe, luôn nhìn trước ngó sau, tay ga vững vàng, chân thắng sẵn sàng, đi đường an toàn.
Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng.
Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.
Tỉnh thức để không đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
2. Cầu nguyện
Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh.
Cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.
3. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.
Có tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời. Cầu nguyện trong tỉnh thức để luôn sẵn sàng vì không biết ngày giờ Chúa viếng thăm.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người”.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa.
Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện, chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
Mùa vọng được khai mở với lời mời gọi của Chúa Giêsu: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện.
Bước đầu là bước quyết định cho cả một cuộc đời, một chương trình kế tiếp như như sách Nho có câu: Nhất nhật chi kế tại ư thần, nhất niên chi kế tại ư xuân ( Kế hoạch một ngày hệ tại giờ ban mai, kế hoạch một năm hệ tại mùa xuân).
Tỉnh thức và cầu nguyện là thái độ sống của người tín hữu suốt năm phụng vụ.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu trong nhà thờ, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen.
67. Luôn tỉnh thức – Lm Nguyễn Hữu An
Từ thuở tiểu học chúng ta đã thuộc lòng 2 câu ca dao:
"Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị có chùa Tam Thanh".
Nàng Tô Thị ôm con chờ chồng, mỏi mòn đợi chờ, mịt mù xa thẳm để rồi hóa đá. Hòn vọng phu là một di tích văn hóa của dân tộc. Hòn Vọng Phu như là một biểu tượng lòng thủy chung của người vợ đợi chờ chồng. Linh Mục Thiện Cẩm, Dòng Đaminh, đã ví von: "Đối với tôi, Hòn Vọng Phu có một ý nghĩa biểu tượng khác. Nó như là biểu tượng Giáo Hội đang ôm ấp cả nhân loại trong lòng và đứng thẳng trên cao, nhìn vào chân trời xa thẳm, đợi chờ Đức Giêsu - vị Hôn Phu của mình đang ngự đến, như lời sách Khải Huyền đã viết: Thần Khí và Tân nương nói: "Xin Ngài ngự đến... Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài ngự đến" (Kh 22, 17-20).
Toàn bộ cuốn Thánh Kinh kết thúc như vậy. Hình ảnh Hôn Thê chờ Hôn Phu. Kinh Thánh là một câu chuyện tình giữa Thiên Chúa và nhân loại mà phần lớn được diễn tả bằng ngôn ngữ tình yêu nam nữ, vợ chồng. Xin nhắc lại vài câu Thánh Kinh cũng đủ nói lên điều ấy:
"Ngươi sẽ được Thiên Chúa đem lòng sủng ái
Và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi
Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ
Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về
Như cô dâu là niềm vui cho chú rể
Ngươi cũng là niềm vui cho thiên Chúa ngươi thờ". (Is 66, 4-5)
Thánh Phaolô trong 2 Cr 11, 2; Ep 5, 26-27 đã diễn tả Giáo Hội là Hiền thê, là bạn trăm năm của Đức Kitô. Hình ảnh Hôn Thê chờ Hôn Phu là một hình ảnh đẹp biểu trưng lòng tín trung của Giáo Hội đối với Chúa Kitô.
Phụng Vụ Giáo Hội đã bước vào năm mới với khởi đầu là Mùa Vọng. Mẹ Giáo Hội đang ôm ấp tất cả con cái nhân loại đợi chờ Đức Kitô đến trong hai lần Người ngự đến. Ngự đến trong thời gian là Nhập Thể và kết thúc thời gian là Quang Lâm.
Từ Chúa Nhật I Mùa Vọng đến ngày 16.12, Phụng Vụ nói lên sự mong đợi ngày Chúa đến khi kết thúc thời gian; tám ngày cuối cùng trực tiếp nói đến Sinh Nhật của Đức Giêsu.
Theo tinh thần canh tân Phụng Vụ, Mùa Vọng không còn là mùa thống hối nữa mà là mùa hân hoan mong đợi. Các Chúa Nhật trong Mùa Vọng không đọc Kinh Vinh Danh không phải vì đặc tính đền tội của Mùa Chay, nhưng là để bài ca của các Thiên Thần được xem như là một tiếng hát mới mẻ trong đêm Giáng Sinh.
Mùa Vọng cũng là mùa của những lời loan báo. Loan báo việc Chúa Giêsu sinh ra, loan báo thời gian cứu độ, loan báo ngày trở lại của Chúa Kitô. Những lời loan báo này được công bố rõ ràng trong các bài đọc Chúa Nhật.
- Bài đọc 1 trích trong sách I-sai-a, đó là những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế mà đỉnh cao là Chúa nhật IV, loan báo một trinh nữ sẽ sinh hạ tại Bê-lem một Hài Nhi thuộc chi tộc Đa-vít và sẽ được gọi là Em-ma-nu-en.
- Bài Tin Mừng Chúa Nhật I Mùa Vọng nói lên niềm mong đợi ngày Chúa Kitô trở lại với lời nhắn nhủ: Hãy tỉnh thức. Chúa nhật II, III dành cho Gioan tiền Hô với lời mời gọi: Dọn đường cho Chúa. Chúa nhật IV là Chúa Nhật Truyền Tin cho Đức Mẹ và Thánh Giuse.
- Các bài đọc 2 là các bài Thánh Thư của các Thánh Phaolô, Giacôbê, Phêrô, đặc biệt làm cho Mùa Vọng trở thành một mùa loan báo việc Chúa Kitô trở lại lần thứ hai.
Lời Chúa Chúa Nhật I Mùa Vọng dặn dò mỗi người Kitô hữu là hãy tỉnh thức, tỉnh thức để để đón chờ ngày tái ngộ với Chúa Kitô. Cuộc tái ngộ có thể xảy đến bất ngờ đối với mỗi người và đối với cả nhân loại. Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức vì đó là ý muốn, là mệnh lệnh của Chúa. Tỉnh thức và đợi chờ là lời mời gọi của Chúa đối với mỗi ngày sống của mỗi người.
Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa. Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn. Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi Lời Hứa Cứu Độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.
Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường. Niềm hy vọng cánh chung không cản trở công cuộc xây dựng trần thế và mưu tìm hạnh phúc hiện tại. Trái lại, đó là một động lực thúc đẩy mỗi người góp phần kiến tạo gia đình, làng xóm, xã hội sống công bình, huynh đệ và hạnh phúc hơn. Ai thấy rõ đường đi thì càng vững tâm mà đi.
Chỉ có một Đức Kitô, chỉ có một Giáo Hội là bạn trăm năm của Người. Giáo Hội không chỉ là Trinh Nữ, là Hiền Thê mà còn phải là Mẹ. Do đó hình ảnh người Mẹ bồng con là hình ảnh thích hợp để biểu tượng cho Giáo Hội. Hình ảnh Hòn Vọng Phu tượng trưng cho Mẹ Giáo Hội đứng trên đỉnh núi giữa trời mây sông nước, ẵm chặt vào lòng đứa con của sự sống là tương lai và hạnh phúc của mình hướng về trời cao với niềm hy vọng là Đức Kitô. Mẹ Giáo Hội cưu mang các thực tại của mọi dân tộc là sự sống, là tương lai, là hạnh phúc để nuôi dưỡng và ấp ủ cho đến ngày hoàn toàn viên mãn, ngày Đức Kitô ngự đến.
Mùa Vọng được khai mở với lời mời gọi của Đức Giêsu: Hãy tỉnh thức.
Bước đầu là bước quyết định cho cả một cuộc đời, một chương trình kế tiếp như sách Nho có câu: nhất nhật chi kế tại ư thần, nhất niên chi kế tại ư xuân (Kế hoạch một ngày hệ tại giờ ban mai, kế hoạch một năm hệ tại mùa xuân).
Tỉnh thức là thái độ sống của người tín hữu suốt Năm Phụng Vụ.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu trong Nhà Thờ, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa.
68. Đi trong đường nẻo Chúa
Tất cả đường lối Chúa đều là yêu thương và thành tín đối với những kẻ nào giữ giao ước và lề luật Chúa. ( Tv 25, 10)
Ai theo đạo Chúa lại không biết rằng sống theo ý Thiên Chúa là tuyệt hảo! Chính Thiên Chúa đã đặt vào trong lòng mỗi người xu hướng tìm về chân lý, làm lành lánh dữ và ban ơn cho con người có khả năng giữ điều răn Chúa. Tuy nhiên, con người có thể luôn bị những kẻ thù lừa gạt, làm lệch hướng. Kẻ thù đó là ma quỉ, thế gian và xác thịt. Chúng hay xúi giục chúng ta tìm kiếm sự dễ dãi hơn mức phải làm hoặc cám dỗ chúng ta ngã lòng trước những thử thách của cuộc sống. Vì thế, Lời Chúa trong Mùa Vọng này nhắc chúng ta phải tỉnh trí lòng và cầu nguyện luôn để lòng không u mê chạy theo những sự giả trá thế gian, những cám dỗ do gương xấu hay sự chiều chuộng thân xác của mình.
Mỗi người chúng ta ví như những đầy tớ được chủ trao cho quyền tự do sử dụng một số phương tiện của cải. Khi đã nhận thì chúng ta phải có trách nhiệm bảo quản, giữ gìn, sinh lợi. Chủ đã tin tưởng chúng ta, trao cho chúng ta nhiều khả năng về sức khỏe, trí tuệ, hay những điều kiện phát triển bản thân và nhất là ban cho cả địa vị làm con nữa. Chúng ta không nên phụ lòng tin của Chủ mà làm những chuyện bất xứng với uy tín, phẩm giá của mình trước tình thương của Chủ. Điều chắc chắn là Chủ sẽ trở về. Đó là giờ chết của mỗi người. Lúc đó, chúng ta sẽ trả lời với Chúa ra sao về cuộc sống quá khứ, về thái độ sống đạo của chúng ta trong thời gian trước đó! Chúng ta không thể chắc chắn là mình còn sống đến ngày mai! Nhưng chúng ta ít khi dám nghĩ tới cái chết vốn chực sẵn trong mình.
Thiên Chúa luôn nhìn thấy chúng ta. Chúng ta có thể gọi đến danh Ngài bất cứ nơi đâu. Ngài đến thăm chúng ta từng ngày từng giờ và mong chúng ta luôn chọn làm điều lành, để khi Ngài gọi, chúng ta không phải hổ thẹn trốn lánh mặt Ngài. Chúng ta hãy luôn tự hỏi mình: lúc này, bây giờ, tôi đang làm gì cho Chúa, đang làm việc bổn phận Chúa trao hay đang lạm dụng ơn Chúa. Chúa luôn ban ơn cho chúng ta kéo dài sự sống nhưng chúng ta hay bỏ quên Chúa, đang chạy theo những thụ tạo và coi trọng nó hơn là tìm Chúa. Những thụ tạo đó có thể là của cải, tiền bạc, danh vọng hay một sở thích, đam mê nào đó. Những thứ đó có khi không xấu, nhưng có khi trở thành xấu khi chúng ta quá bám vào chúng, mất tự do và không thể hiện niềm tin mến Chúa. Nếu như Chúa hiện ra đúng lúc đó thì chúng ta sẽ trả lời sao với Ngài?
Để làm vui lòng Chúa, chúng ta cùng nhau sám hối về những thiếu sót, tội lỗi của mình trong thời gian qua. Những việc bác ái, việc đạo đức có thể góp phần đền bù lại phần nào những xúc phạm đến Chúa hoặc những thiệt hại mình đã gây ra cho tha nhân và bản thân để xứng đáng đón nhận mầu nhiệm Chúa Nhập Thể làm người cứu độ chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mềm lòng ra trước lời Chúa và hiểu được tình Chúa dành cho loài người chúng con. Chúng con ở trong tay Chúa như "đất sét" trong tay người "thợ gốm". Xin Chúa cứ uốn nắn chúng con theo ý Chúa muốn để cuộc đời chúng con ghi nhận tràn đầy những dấu ấn tình yêu của Chúa và mai sau được một chỗ trên nước trời nhờ lòng từ bi Chúa.
69. Đợi chờ bình minh đang đến
(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)
Tỉnh thức và chờ đợi
Chỉ trong một đoạn văn ngắn mà thành ngữ anh em hãy tỉnh thức được nhắc đi nhắc lại 4 lần.
Phải tỉnh thức: đây không phải là một lời khuyên đơn giản, được đề nghị cho qua để rồi rơi vào quên lãng. Trái lại, đây là một nhắn nhủ đặc biệt, như một điều cốt yếu. Lời nhắn nhủ cốt yếu này không chỉ gửi đến các ông Phê-rô, Gia-cô-bê, Gio-an và An-rê, là những người đang nghe Đức Giêsu giảng dạy, nhưng còn cho tất cả mọi người, như lời Đức Giêsu nói: "Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người..."
Phải tỉnh thức: một đề tài quan trọng, một chủ đề được nhắc đi nhắc lại, không phải chỉ trong Tin Mừng Mác-cô, nhưng người ta cũng gặp thấy cùng một thành ngữ trong Tin Mừng Mát-thêu và Lu-ca. Như vậy, không chỉ một mình Mác-cô cảm thấy tính cách khẩn thiết trong lời nhắn nhủ của Đức Ki-tô, các tác giả khác cũng cảm thấy như vậy.
Quả thế, đề tài tỉnh thức quan trọng đến nỗi Đức Giêsu thường xuyên khai triển trong các bài giảng tại Hội đường xứ Ga-li-lê. Tại đây, Người đã kể các dụ ngôn về người chủ nhà tỉnh thức và người quản lý trung thành. Người còn nhắc lại đề tài này qua dụ ngôn về 10 cô trinh nữ, trong đó 5 cô dại đã không có đủ dầu để tiếp đón chàng rể.
"Phải tỉnh thức". Đức Giêsu không ngừng lặp lại điều này.
Sau này, người ta còn nghe thấy lời mời gọi này, thiết tha hơn, khi Đức Giêsu cầu nguyện tại vườn Ghết-sê-ma-ni. Trước khi rút ra một nơi riêng biệt để cầu nguyện, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ thân tín: "Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy." Ba lần Người trở lại đều thấy các ông đang ngủ, Người nói: "Thì ra anh em không thức nỗi một giờ với Thầy sao? Anh em phải canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ"
Như thế, tất cả đều sáng tỏ. Vì sao phải tỉnh thức? Thưa để luôn sẵn sàng đáp trả lời mời của Thiên Chúa. Lời mời này không chỉ được đưa ra vào ngày phán xét, vào ngày chết của mỗi người, nhưng đã được đưa ra ngay từ bây giờ và trong từng giây phút.
Thật vậy, trong từng giây phút, Thiên Chúa vẫn đưa ra cho con người những dấu chỉ xuyên qua các biến cố: những người bị hành hạ, bị lưu đày, người hàng xóm đau yếu hay đang khỗ sở, một người già đang cô đơn, một công việc phải làm, cảnh mặt trời lặn, một bông hoa đang nở, một em bé đang mỉm cười. Trước những dấu chỉ như thế, người ta làm gì, hay lại ngáp dài và thiếp ngủ.
Hãy tưởng tượng xem, Đức Giêsu sẽ buồn biết bao nhiêu khi đến ngày Người trở lại, vẫn thấy các tín hữu đang ngủ. Người tín hữu phải là những người biết chờ đợi và biết tỉnh thức, bởi vì họ tin rằng Thiên Chúa vẫn đang có mặt. Chính điều này giúp họ tránh được một cám dỗ lớn: ngủ quên trong lúc cần tỉnh thức.
Chờ đợi đến bao giờ?
Trong bối cảnh của Giu-đa giáo muộn thời và của Ki-tô giáo vừa mới khai sinh, các tín hữu vẫn mơ đến ngày thế giới hiện tại sẽ sụp đỗ và Thiên Chúa sẽ ngự đến tiêu diệt những người gian ác. Còn khoa học hiện đại lại cho biết mặt trời sẽ không còn chiếu sáng... trong 5 tỷ năm nữa. Tuy vậy, khoa học cũng báo trước một cuộc huỷ diệt trong tức khắc nếu xảy ra chiến tranh hạt nhân. Khi nào thế giới sẽ.......?
Ngày nay, những suy tư của Ki-tô giáo không còn đặt vấn đề thời gian; khi nào; nhưng luôn nhắc lại sứ điệp Tin Mừng: Thiên Chúa vẫn ở phía trước. Đức Giêsu đã trả lời cho các môn đệ hiểu là ngày giờ ấy, không ai biết được, kể cả Con Người. Người không muốn các ông rơi vào trạng thái mơ mộng, hoặc quá chú tâm vào quá khứ, hoặc chỉ nghĩ đến tương lai. Người mong muốn các ông tập trung sức chú ý vào hiện tại, vào cái hôm nay của Nước Thiên Chúa.
Dù vậy, dân Thiên Chúa không phải là một dân tộc ở một chỗ cố định. Họ là một dân tộc lữ hành, đang tiến bước. Họ không mưu tìm một chỗ cư ngụ vĩnh viễn, nhưng luôn chấp nhận lên đường, ra đi. Họ không phải là những người mê ngủ, nhưng là những người tỉnh thức. Họ là những người luôn ở trong trạng thái chờ đợi.
Thế nhưng một cám dỗ lớn vẫn thường xảy ra là người ta thích ngủ yên, bằng lòng với những điều đã có, và chỉ nhìn lại đằng sau. Đây chính là chủ trương của những người muốn sống an toàn, của tất cả những người muốn bảo thủ về tinh thần, về thiêng liêng. Những người này phải nhớ rằng thế giới luôn xô đẩy để tiến về phía trước. Trong một bối cảnh như thế, con người có cảm tưởng như mình đã bị lạc đường, họ cảm thấy mình bị mất hút, vì họ không tìm thấy trong thế giới đó quá khứ của chính mình. Vì thế, họ coi thế giới này là một thế giới xa lạ, ngoại đạo.
Nhưng, chính trong thế giới xô bồ này, Thiên Chúa vẫn đang chờ đợi con người. Người vẫn đang âm thầm làm việc, kêu mời con người đến gặp gỡ, và làm cho thế giới nhận ra mầu nhiệm Thiên Chúa. Đó chính là ơn gọi và sứ mạng của người tôi tớ.
Như vậy, việc đón nhận Thiên Chúa trong ngày tận cùng của lịch sử, trong giây phút cuối cùng của cuộc đời sẽ không phải là điều gì lạ lùng, bởi vì, ngay từ bây giờ, con người đã hướng tầm nhìn của mình về Thiên Chúa, và đã biết nhận ra tiếng Thiên Chúa mời gọi trong từng giây phút của cuộc sống. Lời mời gọi này làm cho tương lai trở thành hiện tại, đồng thời làm cho hiện tại có giá trị và ý nghĩa của vĩnh cửu, bởi vì đó là lời mời gọi làm cho con người được sống, ngay tại đời này và trong cuộc sống mai sau.
Mãi mãi là chờ đợi
"Phải chi Ngài xé trời mà ngự xuống..." Một lần nữa, khởi đầu mùa Vọng, chúng ta lại thưa lên với Chúa tiếng kêu này, trong niềm tin chắc chắn vào ơn cứu độ đã được ban tặng, nhưng chưa được thực hiện hoàn toàn. Bởi vì Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa đang đến, và Đức Giêsu Ki-tô đã hoàn toàn dấn mình trong cuộc xuất hiện này: "Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, Đấng đã có, hiện có và đang tới" (Kh 4,8).
Và một lần nữa, chúng ta lại đứng trước mầu nhiệm đang đến. Thật là uỗng công vô ích nếu đặt câu hỏi khi nào Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra cách dứt khoát. Điều chúng ta quan tâm, không phải là ngày giờ diễn ra cuộc Quang Lâm, nhưng chính là tính cách quyết định, là cuộc xét xử về toàn bộ cuộc sống của mỗi cá nhân. Trước cuộc xuất hiện của Con Người, một cuộc xuất hiện mà không ai biết trước, và không ai có thể ngăn cản, trước cuộc đợi chờ trong bóng đêm mà chẳng biết bao giờ mới kết thúc, thì điều tốt hơn hết là chúng ta phải luôn ở trong tình trạng sẵn sàng, luôn ý thức về trách nhiệm của mình với hiện tại, và đem lại cho mỗi khoảnh khắc một sức nặng vĩnh cửu.
Đặc biệt, như lời thánh Phao-lô, chúng ta phải luôn sống trong tâm tình tạ ơn. Thật thế, chúng ta mới chỉ hưởng dùng một phần nhỏ trong toàn bộ ân huệ lớn lao mà Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta trong Đức Giêsu Ki-tô. Tuy vậy, tạ ơn không có nghĩa là thoả mãn để rồi không làm gì thêm nữa. Trái lại, với ý thức về điều chúng ta chưa đạt tới và chưa thực hiện được, chúng ta phải luôn hướng nhìn về Đức Ki-tô, Đấng là khởi đầu và là kết thúc của mọi sự, đồng thời phải gạt đi những gì làm ngăn trở cuộc xuất hiện của Người. Khi đó, như một cái gai đâm vào thớ thịt của cuộc đời, người Ki-tô hữu trở thành dấu chỉ tỉnh thức của trần gian, những người luôn vượt thắng giấc ngủ và công bố niềm hy vọng: "Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến" (Kh 22,20).
Phải tỉnh thức, nhưng làm sao đây? Đức Giêsu dạy chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện, như Người đã làm tại vườn Ghết-sê-ma-ni. Nói thế, vì cầu nguyện chính là chú tâm vào lời mời gọi của Chúa, là sống trong sự hiện diện của Người. Tất cả chúng ta đều là những người tỉnh thức và đợi chờ bình minh đến, vì Thiên Chúa vẫn đang đến và sẽ đến...
* * *
Hoàn cảnh của con người,
trong mối tương giao của họ với Thiên Chúa,
đó là thân phận của một người chưa có, chưa thấy, chưa biết và chưa nắm giữ...
Thật là khó khăn
khi phải sống trong tình trạng không chiếm giữ Thiên Chúa,
nhưng phải chờ đợi Người...
Thiên Chúa không phải là một sự vật
như muôn ngàn sự vật để người ta có thể nắm giữ,
Người là một ngôi vị và người ta phải chờ đợi.
Ngay cả trong tương giao của con người,
người ta vẫn không được quyền chiếm giữ.
Còn Thiên Chúa thì luôn bất ngờ và kỳ diệu,.
.. và người ta phải đợi chờ, đợi chờ thiết tha.
Theo P. Tillich.
70. Phải tỉnh thức và sẵn sàng - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu biết trong tuần tới kẻ trộm sẽ đến nhà bạn, không biết vào lúc nào, ngày hay đêm, bạn có làm gì khác lạ hơn bình thường không? Tại sao?
2. Tỉnh thức nghĩa là là gì? Cho một vài thí dụ khác nhau về tỉnh thức.
3. Để tỉnh thức theo tinh thần bài Tin Mừng hôm nay, một cách cụ thể thì phải làm những gì?
Suy tư gợi ý:
1. Nếu tôi biết tuần này kẻ trộm sẽ đến nhà tôi, thì...
Chúng ta thử xét một cách thật nghiêm túc xem: phản ứng, tư tưởng và thái độ của ta sẽ thế nào khi được báo tin chắc chắn một bọn trộm cướp đã dự định đến “thăm” nhà ta tuần này. Được tin ấy, thử hỏi ban đêm ta còn ngủ yên như mọi khi không? Nếu ta đoán kẻ trộm cũng có thể đến cả vào ban ngày nữa, thì ta có đề phòng cả ban ngày không? Ta có dám bỏ nhà đi đâu xa những ngày này, và giao phó nhà cửa cho đám con cái còn bé nhỏ chưa kinh nghiệm không? - Nếu đoán biết kẻ trộm sẽ đến, chắc chắn ta sẽ gia tăng đề phòng, không để cho chúng lấy đi của ta bất kỳ đồ vật gì. Muốn đề phòng hữu hiệu, ta phải canh thức liên tục, không ngừng nghỉ. Ngừng đề phòng lúc nào là kẻ trộm có thể đến lúc ấy, nhất là vào những lúc chúng biết ta mệt mỏi, lơ là. Nếu đề phòng liên tục, chắc chắn kẻ trộm sẽ thất bại.
Chỉ vì sợ mất của cải vật chất chóng qua mà ta lo canh phòng như vậy, lẽ nào mạng sống tâm linh của ta, của cải tâm linh của ta là cái quí hơn hàng trăm ngàn lần, ta lại không lo lắng canh giữ?
2. Cách sống hiện tại quyết định số phận vĩnh cửu
Số phận vĩnh cửu của ta tùy thuộc cách sống hiện tại của ta. Cuộc sống hiện tại trong thời gian là mầm cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Mầm tốt sẽ trở thành cây tốt, mầm xấu sẽ trở thành cây xấu. Cuộc sống vĩnh cửu đã bắt đầu ngay trong cuộc sống hiện tại, và định hình vĩnh viễn ngay khi ta chấm dứt cuộc sống này, nghĩa là ngay khi ta chết. Nhưng ta chết lúc nào? Không ai biết được! Những người chết trong hai tòa nhà cao tầng ở New York ngày 11-9-2001, hay trong tòa nhà 6 tầng các Trung Tâm Thương Mại tại Sàigòn ngày 29-10-2002 không ai ngờ được trước khi vào đó rằng hôm ấy là ngày tận số cuộc đời mình. Không ngờ được vì thấy rằng còn gì bảo đảm an toàn hơn khi ở trong những tòa nhà kiên cố ấy? Thế mới biết tai họa hay cái chết có thể đến bất kỳ lúc nào, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, ở bất kỳ nơi nào. Đối với cái chết, chẳng lúc nào, chẳng nơi nào, chẳng tình trạng sức khỏe nào là an toàn cả! Thật đúng như thánh Phao-lô nói: “Khi người ta nói: "Bình an biết bao, yên ổn biết bao!" thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống” (1Tx 5,3). Cái chết đến quả thật như kẻ trộm! không thể biết trước hay đoán trước được lúc nào, cách nào, và thế nào! Tuy nhiên, chết lúc nào, cách nào không phải là chuyện quan trọng. Vấn đề hết sức quan trọng chính là: số phận đời sau của mình thế nào?
Số phận của chúng ta đời sau chính là kết quả của cách sống đời này. Nếu đời này chúng ta sống vị tha, yêu thương mọi người đúng theo bản chất của mình là “hình ảnh của Thiên Chúa” cũng là “con cái Thiên Chúa”, thì đời sau chúng ta sẽ được sống trong một môi trường đầy yêu thương, được gần gũi với chính Thiên Chúa của Tình Thương. Trái lại, nếu đời này ta sống ích kỷ, ít tình thương, không tình nghĩa, thường lãnh đạm, nhạt nhẽo, ganh ghét, hận thù… với tha nhân, thì đời sau chúng ta sẽ phải sống trong một môi trường không có tình thương, đầy hận thù và xa cách Thiên Chúa. Điều đó xảy ra không khác gì một quy luật, luật nhân quả: “Cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu” (Mt 7,17). Tương tự như một người luôn yêu thương và vui vẻ với mọi người, dễ dàng hy sinh, sẵn sàng chịu thiệt thòi cho người khác, thì tự nhiên người ấy tạo ra chung quanh mình một bầu khí vui tươi, thoải mái, yêu thương, và những ai ở gần người ấy đều tự nhiên cảm thấy hạnh phúc và quí mến người ấy. Trái lại, một người ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, chẳng biết yêu thương hay hy sinh cho ai, chỉ mong người khác hy sinh, chịu thiệt cho mình, tự nhiên người ấy sẽ tạo ra chung quanh mình một bầu khí ảm đạm, căng thẳng, buồn tẻ, và chẳng mấy ai cảm thấy hứng thú gì khi ở với người ấy.
3. Ngày của Chúa
Đối với mỗi cá nhân, Ngày của Chúa - hay ngày Chúa đến - chính là ngày ta chấm dứt cuộc đời trần thế để đến trình diện trước mặt Chúa hầu được quyết định về số phận vĩnh cửu của mình. Đối với toàn thế giới, Ngày của Chúa chính là ngày tận thế, ngày mà tất cả mọi người đã từng sống trên trần gian đều phải trình diện trước mặt Chúa. Ngài sẽ phán xét Giáo Hội cũng như tất cả mọi thể chế trần gian, mọi tôn giáo, mọi chủ nghĩa, mọi ý thức hệ, mọi nền văn hóa, mọi chế độ, mọi quốc gia, mọi tầng lớp, mọi giai cấp, mọi tập thể... Lúc đó mọi dân mọi nước, mọi tôn giáo, mọi nền văn hóa sẽ biết rõ ràng và dứt khoát đâu là đúng đâu là sai. Lúc đó, tất cả mọi bí mật trên thế giới trong tất cả mọi lãnh vực đều được tỏ lộ, phanh phui cho tất cả mọi người thấy, không một che dấu nào mà không bị hiển lộ... Trước mọi sự được tỏ bày, ai nấy đều tự mình biết mình là công chính hay tội lỗi, và công chính hay tội lỗi ở mức độ nào. Mọi người sẽ tâm phục khẩu phục khi thấy số phận của mình, của mọi người và từng người được ấn định một cách hết sức công bằng, hợp lý và quang minh.
Ngày ấy sẽ là ngày vui mừng, vinh quang cho những người thật sự công chính, vì họ sẽ được giải oan, được mọi người nhìn nhận sự trong sạch, ngay thẳng, và tất cả những gì tốt đẹp của mình, đồng thời được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng ngày ấy sẽ là ngày u buồn, nhục nhã, xấu hổ cho những người giả công chính, giả đạo đức, những kẻ gian ác, vì mọi giả dối, xấu xa, gian ác của họ, dù được giấu diếm kỹ càng đến đâu cũng đều bị lột trần, phanh phui trước mọi người, và số phận của họ sẽ là đau khổ muôn đời.
4. Thái độ tỉnh thức và sẵn sàng
Ngày của Chúa đến như kẻ trộm, không ai biết trước được, và là ngày qui định dứt khoát số phận đời đời của ta. Vì thế, thái độ khôn ngoan nhất của ta là luôn luôn tỉnh thức, lúc nào cũng ở trong tư thế sẵn sàng, để ngày ấy dù có bất ngờ tới đâu, cũng là ngày đem lại vinh quang và hạnh phúc vĩnh cửu cho ta. Như vậy, thái độ tỉnh thức là thái độ nào?
Tỉnh thức trái với ngủ quên, trái với tình trạng mê mải, bị thu hút bởi một sự việc gì, khiến ta quên mất điều ta phải nhớ, phải canh chừng. Một minh họa cụ thể: Nhiều khi người nhà tôi bận việc, yêu cầu tôi canh chừng ấm nước sôi. Tôi nhận lời với tất cả ý thức. Nhưng chờ lâu quá, để tiết kiệm thì giờ, tôi lại tiếp tục viết bài. Tới lúc chợt nhớ tới ấm nước thì đã quá muộn, ấm đã cạn sạch nước. Chậm một chút nữa là ấm sẽ bị cháy! Công việc đã thu hút tôi đến mức làm tôi quên canh chừng!
Tỉnh thức theo nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay là luôn luôn ý thức được mục đích cuộc đời mình là sống xứng với phẩm giá cao cả của mình là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa, nhờ đó đạt hạnh phúc vĩnh cửu. Điều đó đòi hỏi tôi phải sống phù hợp với tinh thần Tin Mừng là tinh thần yêu thương, cụ thể nhất là yêu thương những người gần mình nhất. Điều tôi cần quan tâm không chỉ là tránh gây nên những bất lợi cho tha nhân, mà còn là làm những gì họ cần tôi làm cho họ. Trong đoạn Tin Mừng về ngày phán xét cuối cùng (Mt 25,31-46), ta thấy Thiên Chúa đặc biệt phán xét về những thiếu sót, những điều mà ta không làm cho tha nhân khi họ cần ta làm. Ta thường tưởng rằng mình không làm điều gì bất lợi cho tha nhân thì có nghĩa là mình vô tội, mình công chính. Nhưng thực ra khi mình không làm những việc mình phải làm hoặc có thể làm cho tha nhân, thì mình đã trở thành kẻ có tội và đáng bị kết án rồi. Cụ thể như khi đứng trước một bất công, giả như tôi lên tiếng thì bất công ấy đã không xảy ra, hoặc sự công bằng đã được trả lại cho người bị bất công, nhưng tôi đã không lên tiếng chỉ vì một sợ hãi mơ hồ nào đó. Điều đó chứng tỏ rằng tôi không có đủ tình thương. Chính những tội về thiếu sót ấy làm tôi không xứng đáng với hạnh phúc vĩnh cửu.
Chúng ta có thể trở nên “mê ngủ”, mất tỉnh thức khi ta bị thu hút bởi danh, lợi, quyền, thú vui trần tục. Nhiều người mê mải tìm kiếm tiền bạc, quyền lực... đến nỗi chẳng những quên đi bổn phận mình phải làm cho tha nhân (đói cho ăn, khát cho uống, lên tiếng trước bất công...), mà còn sẵn sàng làm những điều bất lợi cho tha nhân nữa (vu khống, gây bất công, thù oán, giết người...) Bất kỳ điều gì có thể làm chúng ta say mê trong cuộc đời, thậm chí là những điều tốt (công việc, chuyện làm ăn, sở thích...), cũng có thể làm ta mất tỉnh thức. Ngay cả việc thờ phượng Chúa (dâng lễ, đọc kinh, cầu nguyện...) cũng có thể ru ngủ ta, làm ta quên cả bổn phận mình phải làm cho tha nhân. Thờ phượng Chúa kiểu này chắc chắn không phải là kiểu đẹp lòng Thiên Chúa, Ngài rất nhờm tởm kiểu thờ phượng này (x. Is 1,11-19). Đáng lẽ việc thờ phượng Thiên Chúa đích thực phải giúp ta ý thức đến bổn phận của ta đối với tha nhân một cách hữu hiệu. Vậy, một cách cụ thể, tỉnh thức chính là luôn luôn ý thức, quan tâm làm những việc mình phải làm hoặc có thể làm cho tha nhân.
Cầu nguyện
Lạy Cha, thì ra có rất nhiều điều có thể làm con mê ngủ, không tỉnh thức. Điều làm con rất ngạc nhiên là ngay cả những đam mê tốt lành như đam mê đi lễ, đam mê cầu nguyện, đam mê làm tông đồ, đam mê làm ăn... có thể làm con quên đi bổn phận mà con phải làm đối với những người chung quanh con: cha mẹ, anh chị em, vợ con, bạn bè, hàng xóm... Con có bổn phận rất quan trọng là phải làm cho họ nên tốt lành và được hạnh phúc. Xin Cha đừng để những đam mê tốt lành ấy làm con mất tỉnh thức.
71. Hãy tỉnh thức và đợi chờ - Lm Mark Link
“Bạn không biết được lúc nào chủ nhà sẽ về tới”
Một ngày trong tháng 12, cậu Gary Schneider 16 tuổi và hai người bạn lên đường để leo núi Mt.Hood dự tính trong vòng 4 ngày.
Lên được 9.000 bộ (tức gần 3 km), ba cậu bé bị một cơn bão tuyết có lẫn đá thổi tới và vùi lấp. Chẳng bao lâu tuyết đã ngập khỏi đầu các cậu. Các cậu bèn đào hầm chui vào đống tuyết để thoát khỏi những luồng gió lạnh buốt thổi tới và để chờ đợi cho qua trận bão tuyết.
Mười một ngày sau, trận bão tuyết vẫn còn tiếp tục thổi dữ tợn. Các túi dùng để chui vào ngủ của các cậu đã bị ướt và đông cứng lại. Thức ăn dự trù chỉ còn đủ cho mỗi người mỗi ngày được hai muỗng bột làm bánh. Nguồn an ủi duy nhất của các cậu bây giờ là cuốn Thánh kinh gọn nhỏ mà một cậu đã mang theo trong túi hành trang.
Các cậu mở sách Thánh Kinh và đọc mỗi ngày tám tiếng. Đúng là một cảnh tượng ngộ nghĩnh: trong một cái hầm đào trong tuyết rộng 5 bộ vuông (chưa đầy 1m2), có ba cậu bé mới mười mấy tuổi đầu đang ngồi chồm hổm trên những cái túi ngủ đọc sách. Chỉ có một chút ánh sáng mờ ảo phản chiếu từ cái lỗ hầm nho nhỏ ở phía trên.
Tại đó, ba cậu tụm lại với nhau hết giờ này tới giờ khác, ngày này qua ngày khác, cùng nhau lắng nghe Lời Chúa bất chấp tiếng gió hú bên trên.
Cuốn Thánh Vịnh dường như là cuốn nói hay nhất về tình trạng hiện tại của các cậu. Đavid có viết một vài bài khi ông bị lâm vào những tình trạng không khác gì các cậu; đói, cô đơn, không biết chuyện gì sắp xẩy đến, chỉ còn biết tin tưởng ở Chúa.
Nếu có ai cứu giúp, thì người đó chỉ có thể là Thiên Chúa. Chờ đợi như thế không phải chuyện dễ. Các cậu chỉ còn biết cầu nguyện, hy vọng cơn bão tuyết sẽ chấm dứt và sẽ có người tới cứu giúp.
Cuối cùng, vào ngày thứ 16, bầu trời trong sáng trở lại, các cậu bò ra khỏi hầm bằng tuyết của mình. Qua cơn ngặt nghèo ấy các cậu trở thành yếu đuối, và ra khỏi hầm các cậu chỉ có thể bước đi được một ài bước. Ngày hôm sau có một nhóm người cứu trợ bắt gặp cáccậu trong tình trạng như thế. Cuối cùng cơn thử thách khiến các cậu phải chờ đợi lâu dài đó đã chấm dứt.
Câu chuyện của các cậu bé, phải tụm lại với nhau trong hầm bằng tuyết chờ đợi cơn bão chấm dứt, là một hình ảnh tuyệt hảo tượng trưng cho mùa vọng.
Mùa vọng nhắc lại thời gian chờ đợi lâu dài của dân Do Thái mong mỏi Đấng Cứu Thế đến. Họ không biết làm gì để cho Đấng Cứu Thế mau đến hơn họ chỉ biết chờ đợi và cầu nguyện y như các cậu bé kia đã làm trên ngọn núi Mt.Hood. Dân Do Thái chỉ còn biết tin tưởng và chờ đợi Thiên Chúa sẽ đến để giải cứu họ.
Một trong những bài Thánh vịnh mà ba cậu bé cứ đọc đi đọc lại để cầu nguyện trên ngọn núi Mt.Hood là thánh vịnh 130. Trong đó có một câu như sau: “Tôi mòn mỏi trông chờ Chúa cứu độ, và tôi tin tưởng ở lời Ngài. Tôi mòn mỏi trông chờ Chúa còn hơn ngừơi lính gác mong chờ hừng đông”. Nếu không có Lời Chúa nâng đỡ tinh thần, thì các cậu dễ dàng thất vọng lắm. Dân Do Thái cũng như vậy khi họ mong chờ Đấng Cứu Thế. Nếu không có Lời Chúa ủi an họ, thì họ cũng sẽ thất vọng dễ dàng.
Nhưng Mùa vọng không hẳn là thời gian để chúng ta nhớ lại và sống lại việc người Do Thái trông chờ Đấng Cứu Thế là Đức Giêsu. Mùa vọng còn có ý nghĩa hơn như thế nhiều.
Mùa vọng cũng là thời gian để chúng ta tưởng nhớ việc Đức Giêsu sẽ trở lại vào thời cuối cùng của lịch sử, lúc chúng ta ít mong đợi nhất. Chính vì thế mà Thánh sử Marcô nói với chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay như sau:
“Hãy coi chừng, hãy tỉnh thức…Đừng để khi Đức Giêsu bất ngờ đến mà Ngài lại thấy các bạn còn đang ngủ. Những gì tôi nói với các bạn, thì tôi cũng nói với tất cả mọi người: Hãy tỉnh thức”.
Điều này dẫn chúng ta đến quan điểm thứ hai về Mùa vọng. Bạn và tôi, chúng ta đang sống trong khoảng thời gian quan trọng giữ hai thời điểm: lúc Đức Kitô đến lần thứ nhất và lúc Ngài đến lần thứ hai.
Công việc của chúng ta không phải là cứ ngồi chăm chú và thánh thiện nhìn lên bầu trời để tưởng nhớ việc Đức Kitô đến lần thứ nhất và trông chờ Ngài đến lần thứ hai. Bổn phận của chúng ta là hoàn tất công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta làm. Trước khi trở về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu đã nói với kẻ theo Ngài:
“Các con hãy đi khắp nơi, đến với mọi dân tộc, rao giảng cho họ về nước trời, rửa tội cho họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền dạy cho các con. Và Thầy sẽ luôn luôn ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt. 28, 19-20)
Mùa vọng là thời gian để chúng ta kiểm điểm lại xem chúng ta đã làm điều đó tốt đẹp thế nào. Mùa vọng là thời gian để chúng ta tự nhủ một cách đặc biệt rằng: khi Đức Giêsu trở lại, Ngài sẽ xér xử chúng ta xem chúng ta đã làm việc như thế nào để loan truyền nước Thiên Chúa ở trần gian này.
Đức Kitô đã chết. Đức Kitô đã phục sinh. Đức Kitô sẽ trở lại. Cho tới khi Ngài trở lại, chúng ta phải lưu tâm tới công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta làm.
Chúng ta phải cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới mặc, tiếp đón khách đến nhà, làm việc cho hoà bình, và yêu thương nhau như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta.
Đây là sứ điệp mà những bài đọc hôm nay muốn nhắn nhủ chúng ta. Sứ điệp đó là: Chính Đức Giêsu, Đấng đã sống ở trần gian cách đây hơn hai ngàn năm, sẽ trở lại vào ngày tận thế đúng lúc chúng ta không ngờ tới. Khi Ngài trở lại, Ngài sẽ xét xử từng cá nhân mỗi người chúng ta về cách thức chúng ta hoàn thành công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta làm.
Chúng ta hãy hồi tâm lại để cầu nguyện, xin Đức Giêsu giúp chúng ta trung kiên trong công việc mà Ngài đã giao cho chúng ta thực hiện.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban cho chúng con sức mạnh, vì đôi khi chúng con gặp phải những vấn đề khó khăn rắc rối khiến chúng con muốn bỏ cuộc.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tình yêu của Ngài, vì đôi khi chúng con bị người khác hất hủi khiến chúng con bị cám dỗ ghét bỏ họ.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban cho chúng con đôi mắt của Ngài, vì đôi khi cuộc đời trở thành đen tối khiến chúng con không còn biết đâu là đường chúng con phải đi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban chính Ngài cho chúng con. Tâm hồn chúng con đã được dựng nên để yêu Ngài, nên tâm hồn chúng con sẽ không bao giờ an nghỉ cho đến khi nào được nghỉ an trong Ngài.
72. Canh phòng
Mọi sự ở trần gian này đều có khởi đầu và kết thúc. Đó là một thực tại khách quan mà chúng ta phải đối diện và phải sống với nó. Cuộc đời con người đã có sinh ắt phải có tử. Như vậy, chúng ta cần phải có thái độ nào cho đúng đắn trước thực tại xem ra có vẻ bi quan này?
Khởi đầu Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta nghe nghe những đoạn Lời Chúa nói về tình thương tha thứ và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đồng thời, Giáo hội cũng mời gọi con cái mình hãy có thái độ sống tỉnh thức và canh phòng cẩn trọng trong đời sống của mình để biết sống tin tưởng và tín thác vào Chúa hơn.
Cùng đích của đời người chắc chắn rồi sẽ đến. Nhưng không ai biết được ngày giờ mình sẽ ra khỏi thế gian này. Đó là việc của Chúa. Còn việc của chúng ta là gì? Thánh Augustinô đã nói: "Chúa Giêsu không báo cho chúng ta biết ngày cuối cùng của đời mình để ta luôn cảnh giác chờ đợi Chúa". Như vậy, điều chính yếu và bổn phận của chúng ta là phải tỉnh thức để chờ Chúa đến. Nhưng đâu là sự thức tỉnh thật sự và cần thiết cho cuộc đời của người Kitô hữu chúng ta?
1. Biết mình:
Thức tỉnh trước tiên là nhận biết mình. Điều này nghe có vẻ hơi lạ. Nhưng nếu con người thật sự biết mình thì sẽ có rất nhiều vấn nạn trong cuộc đời này sẽ được giải quyết cách tốt đẹp. Chỉ khi con người biết rõ mình là ai? Ơn gọi của mình trong cuộc đời này là gì? Đâu là hạnh phúc đích thực của tôi?... thì con người sẽ có thái độ sống tỉnh thức cách tự nguyện và sốt sắng đúng theo tinh thần Chúa mong muốn nơi người con cái mình.
Biết mình là nhận ra mình là tạo vật của Thiên Chúa, một tạo vật đầy những giới hạn và yếu đuối, nhưng con người cũng là tạo vật được Thiên Chúa rất yêu thương. Thánh Phaolô đã nói: "Anh em là những người được Thiên Chúa yêu thương". Như vậy, tôi bước vào cuộc đời này với một sứ mạng và ơn gọi là làm chứng cho mọi người biết: Thiên Chúa yêu thương mọi người và muốn cứu độ hết mọi người. Vì thế, hạnh phúc đích thực và trọn vẹn của tôi không hệ tại ở nơi con người hay ở thế gian này nhưng là ở nơi Thiên Chúa, ở cuộc sống mai sau. Tôi cũng cần biết mình là một thụ tạo đầy những giới hạn và yếu đuối để tôi thấy cần phải bám chặt vào Thiên Chúa là Đấng tạo thành tôi. Từ đó, tôi biết phải sống như thế nào đối với anh em của tôi: yêu thương, tha thứ, nâng đỡ mọi người... vì họ cũng mang thân phận con người như tôi. Hơn nữa. Yêu thương người khác còn là điều kiện cần thiết để tôi được Thiên Chúa yêu thương.
Biết mình là khởi đầu quan trọng trong đời sống đức tin. Nó còn là dấu chỉ của người biết sống tỉnh thức cách tích cực và hiệu quả theo tinh thần Phúc âm.
2. Chu toàn những công việc bổn phận trong tin yêu và phó thác:
Mỗi người đều đã lãnh nhận một sứ mạng, một ơn gọi từ Chúa. Dù ở địa vị nào, bậc sống nào thì công việc của con người cũng đều có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Điều quan trọng không phải là ai đã lãnh nhận nhiều nén bạc của Chúa ban hơn, nhưng là ai đã biết sinh lợi nhiều hơn từ những nén bạc ấy. Bởi lẽ, Chúa đã ban cho ai nhiều thì Người sẽ đòi kẻ ấy lại nhiều hơn. Vì thế, chúng ta hãy biết trung thành chu toàn những nhiệm vụ của mình trong đời sống cách thánh thiện, ý thức và trung tín.
Những việc bổn phận của con người trong cuộc sống có thể là trách nhiệm là cha làm mẹ trong gia đình, có thể là nhiệm vụ của những người thầy cô giáo ở trường lớp, có thể là việc làm của những công nhân trong nhà máy,xí nghiệp hay căn bản nhất là bổn phận của người Kitô hữu mà chúng ta đã nhận được nhờ qua Bí tích Rửa tội. Những ai biết sống hết mình với những công việc của đấng bậc mình thì người ấy đã sống tinh thần tỉnh thức đúng như ý muốn của Thiên Chúa. Chúng ta cũng cần phải ý thức rằng, việc chu toàn những công việc bổn phận hằng ngày đòi buộc chúng ta phải hy sinh và chịu đựng rất nhiều. Nhưng chúng ta tin tưởng rằng không một việc làm nào của chúng ta ở trần gian này là hoàn toàn vô ích trước mặt Thiên Chúa cả. Chúng ta không làm việc vì phần thưởng thế gian những vì hạnh phúc mai sau trên Quê trời. Chúng ta hãy noi gương hy sinh và phục vụ của thánh Lôrensô Phó Tế, của thánh Vincent de Paul, của Mẹ Têrêsa Caculta... Đó là những chứng nhân sống động của những người sống tinh thần tỉnh thức giữa thế gian này.
Xin Chúa giúp chúng ta biết rõ vai trò và chỗ đứng của mình trong cuộc sống ở trần gian này. Xin Chúa ban cho chúng ta trở thành những người tôi tớ trung thành và tài giỏi trước mặt Thiên Chúa vì biết sinh lợi từ những nén bạc Chúa ban. Amen.
73. Chờ đợi Chúa đến - Lm Luy Hữu Độ
Cách đây khoảng 15 năm, một tờ báo bên Nước Anh mở một cuộc thi tuyển có tên là “Người chồng gương mẫu nhất nước”. Kết quả là ông John Lavangham đã dành được cái tước hiệu này. Không ai phàn nàn về sự tuyển lựa này vì mỗi sáng ông đều mang cà phê vào tận giường cho vợ. Giúp vợ rửa chén bát, đi chợ dùm vợ và nếu có chuyện gì vợ lên tiếng mắng chửi thì ông không bao giờ hé môi nói lại nửa lời. Chỉ có thế thôi khiến ông hạ đo ván 569 đối thủ khác ngon lành. Ngoài tước hiệu “Người chồng gương mẫu nhất nước” ông còn được một giải thưởng bằng Anh kim tương đương 570,000 đô la Mỹ. Thế nhưng oái oăn thay, vừa lãnh tiền xong thì ông đã điện thoại cho một vị luật sư giỏi để làm một lá đơn ly dị vợ. Ông John đã chờ đợi 16 năm trời trong áp bức, khổ sở mà hôm nay ông mớk có hy vọng thoát ra khỏi đó.
Mùa Vọng là mùa chờ đợi Chúa đến. Chờ đợi là một sự kiện rất quen thuộc trong cuộc đời con người. Tôi chờ một cánh thư, một gói hàng, một cú phone, một chuyến bay. Các em thiếu niên chờ đến tuổi lái xe. Đôi bạn trẻ chờ ngày cưới nhau. Công nhân chờ ngày lãnh lãnh check. Đi tàu chờ ngày vào bến. Học sinh chờ ngày nghỉ học... Là con người chúng ta luôn luôn chờ đợi vì cuộc đời tự nó không bao giờ hoàn tất, luôn luôn có một cái gì sẽ tới, sẽ xảy ra. Mùa Vọng dậy chúng ta kiên nhẫn, hân hoan và hy vọng chờ đợi Thiên Chúa đến.
Có 4 giai đoạn Chúa đến với mỗi người chúng ta:
- Giai đoạn thứ nhất Chúa đã đến rồi, đến trong hình ảnh một hài nhi sinh trong máng cỏ. Chúa đến làm người và sống giữa con người. Đây là giai đoạn hồng ân, khởi đầu ơn cứu chuộc.
- Giai đoạn thứ hai là giai đoạn hiện tại, Chúa đến rất bình thản, rất thông thường, qua việc chúng ta rước lễ, đọc Kinh thánh, qua việc chúng ta đi học, đi làm - qua việc chúng ta chịu bệnh tật khổ đau, qua những người chúng ta tiếp xúc, nhất là người nghèo khó, bất hạnh...
- Giai đoạn thứ ba Chúa đến trong lặng lẽ, từ từ - có khi đột ngột, mau chóng. Đó là cái chết của mỗi người. Đây là giai đoạn quyết liệt vì định đoạt số phận đời đời của mình.
- Giai đoạn thứ tư Chúa đến một cách vinh quang, đến trong ngày tận thế. Mọi kẻ thù phải thần phục Ngài, mọi vinh quang, uy quyền đều thuộc về Ngài. Chúa đến để tách chiên ra khỏi dê, lúa mì ra khỏi cỏ lùng. Chúa đến để thưởng nguời lành, phạt kẻ dữ. Đây là giai đoạn quang lâm.
Như vậy cuộc đời của chúng ta đúng lý ra là một mùa Vọng triền miên, vì luôn luôn chúng ta đón chờ Chúa đến. Nếu chúng ta đã đón Chúa đến trong giai đoạn bổn phận một cách tử tế: như làm lành lánh dữ - kính trọng, yêu thương mọi người - giúp đỡ người bất hạnh - năng chịu các bí tích - sống tinh thần Phúc âm... thì khi Chúa đến trong giai đoạn quyết liệt, tức qua cái chết, chúng ta vẫn sẵn sàng thưa: “ Lạy Chúa con đây ”.
Đã có chờ đợi thì không thoát khỏi nhỡ nhàng. Nhỡ một chuyết tàu, nhỡ một cái hẹn, nhỡ một cái thư... Nhưng những cái nhỡ đó có thể bù đắp được. Tuy nhiên nếu “ nhỡ” số phận đời đời của mình thì mất tất cả, ân hận suốt đời. Cái “nhỡ” này nguy hiểm vô cùng, không ai có thể chuộc lại. Chẳng ai sống mãi ở giai đoạn bổn phận vì sẽ có ngày chúng ta chạm tay vào giai đoạn quyết liệt. Nhưng chính giai đoạn bổn phận định đoạt cho ta số phận đời đời ở giai đoạn quyết liệt. Chúng ta biết mình phải sống thế nào để cuối cùng được nghe những lời sau đây: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung thành, hãy vào hưởng phần hoan lạc với chủ ngươi”.
74. Tỉnh thức
Anh chị em thân mến,
Cách đây mấy ngày hôm, một em sinh viên báo cho biết: bạn của em bị đau gan cách nay hơn tháng. Mới đầu chỉ thấy hơi sốt vào buổi chiều, biếng ăn, mất ngủ, sụt cân. Em này đi bác sĩ dưới tỉnh bảo suy nhược cơ thể. Cách nay một tháng đi bác sĩ ở thành phố, làm hết mọi xét nghiệm, mới lòi ra bệnh gan thời kỳ cuối. Hết thuốc chữa; dù vậy gia đình chạy đủ thầy đủ thuốc; thuốc tây không xong, qua thuốc Bắc thuốc Nam, rồi.... hôm nay phải khiêng ra gò! Bó tay! Có người nói: Chúa sao không có lòng thương xót? Mới 23 tuổi mà bỏ thế gian rồi! Thực ra tuổi nào mà không chết? Có điều dưới ánh sáng niềm tin kitô giáo, mỗi người chúng ta có thức tỉnh, sẵn sàng chờ Chúa đến không? Đó chính là điều Hội thánh mong muốn chúng ta suy niệm trong mùa Vọng năm nay...
a/. Tỉnh thức là gì? Marcô muốn nói gì? Thánh Marcô là "thư ký" và là "con" của thánh Phêrô, nên sách Tin mừng của ông, hầu như ghi lại các bài giảng của Phêrô. Riêng với bài Tin Mừng này, Marcô dùng từ "tỉnh thức", hình như có tương quan với nhiệm vụ "trông coi", nhiệm vụ tông đồ của Phêrô. Cũng có thể nhắc đến bài học "tỉnh thức" trong vườn cây dầu, cả đến chuyện "tỉnh thức" để không vấp ngã trước cám dỗ của tội chối Chúa của Phêrô, trước khi gà gáy hai lần.
Từ "tỉnh thức" phải đi liền với "ý thức". Cả hai nội dung đó đều diển tả bản chất của con người có lý trí, vì khi ta ngủ, ta mất ý thức. Ta chỉ hoàn toàn ý thức khi ta tỉnh thức. Việc Chúa sinh làm người sẽ chẳng ảnh hưởng gì đến con người, nếu ta không có ý thức. Thực tế Chúa vẫn còn vắng mặt trong tâm thức của nhiều người; điều đó đưa đến đau khổ, chết chóc, không bình an, đầy chiến tranh...
b/. Bài Tin Mừng hôm nay dạy ta điều gì? Có mấy điều Hội thánh muốn nhắc nhở:
* Tỉnh thức để cảm nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện:
Chúng ta đang sống trong thời đại văn minh của những làn sóng điện, âm thanh đầy dẫy quanh ta. Chúng ta không biết, không nhận ra nó bằng giác quan bình thường. Muốn nhận ra, chỉ cần có cái máy server: là cái radio, cái computer, điện thoại di động, khi mở lên là cả một thế giới thông tin thú vị hiện đến cho chúng ta. Người ta nói: chỉ cần ta biết đón nhận, biết sử dụng mà thôi.- Cùng cách thức tương tự, với mỗi người kitô hữu chúng ta, nếu muốn nhận ra tiếng nói của Chúa, hình ảnh Chúa, sự hiện diện của Người, chúng ta cần một máy server bên trong, đó là lương tâm, là niềm tin của ta. Mùa Vọng là mùa cần tỉnh thức, nhờ lương tâm và niềm tin mà chúng ta nghe được tiếng Chúa nói, cảm nhận sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống và trong các bí tích.
* Tỉnh thức để tránh xa tội lỗi:
Thánh Phêrô và các môn đồ được Chúa Giêsu nhắc nhở trong vườn cây dầu: "hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ"(Mc 14, 38). Thánh Phêrô hiểu rõ điều này lắm vì chính ngài đã một lần, vì không tỉnh thức mà đã 3 lần chối Chúa, trước khi gà gáy 2 lần. Sau này, trong cuộc hành trình truyền giáo, khi giảng dạy, thánh Tông đồ Cả đã không sĩ diện, khi nhắc lại cho mọi người về lầm lỗi của mình. Đó cũng là thái độ can đảm nêu gương thiếu tỉnh thức để mọi người nhìn vào mà tránh xa. Tâm hồn của thánh nhân thật đơn sơ, mà cũng thật khiêm tốn. Đáng kính phục thay!
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong một lần gặp gở 200 trẻ em dịp truớc lễ Giáng sinh 1980, đã nhắc nhở các em: "Các con hãy tỉnh thức, cụ thể các con hãy dọn mình kỷ lưỡng bằng việc đi xưng tội; vì... chính Cha cũng sẽ đi xưng tội, để đón tiếp Chúa Hài nhi cách xứng đáng."
* Tỉnh thức vì Chúa sẽ đến bất ngờ:
Mùa Vọng chính là mùa Hội thánh kêu mời ta hãy tỉnh thức, chờ đón Chúa đến. Chờ đón Chúa đến trong chính ngày lễ Noel, để Chúa ban ánh sáng và sức sống cho ta. Chờ đón Chúa đến mỗi khi ta lãnh nhận các bí tích, để Người ban ơn sủng, thêm sức mạnh cho ta. Chờ đón Chúa đến trong cuộc sống bình thường để Người chia vui xẻ buồn với ta và gia đình ta. Chờ đón Chúa đến trong giờ sau cùng của cuộc đời ta, để Người nâng đở, ban ơn và an ủi trong những giờ phút quyết liệt khi ta sắp giả từ cuộc sống trần thế này.
Nếu hiểu như trên, ta sẽ thấy cuộc đời kitô hữu chính là phải tỉnh thức chờ đợi, từng phút từng giây giờ Chúa đến. Người sẽ đến bất ngờ, "vào lúc ta không ngờ, vào giờ ta không biết" (Mt 24, 44). Câu chuyện ở đầu bài suy niệm sẽ cho ta thấy rõ điều này. Thực tế trên đời ai mà không chết, nhưng điều quan trọng chính là ta đừng để ngày giờ đó bất ngờ xảy tới, mà ta chưa chuẩn bị gì cả....
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Mùa Vọng là mùa hi vọng, chuẩn bị đón Chúa đến, với phúc lành, bình an, niềm vui cho mỗi người chúng ta. Bao lâu nay ta đã chờ đợi Chúa thế nào? Có phải ta chỉ tỉnh thức, chờ đón qua những chuẩn bị rình rang bên ngoài mà thôi? Hay thực tâm chúng ta chờ đón Chúa đến trong tâm hồn, để Người ban phúc hành và bình an cho đời sống mỗi người chúng ta và gia đình chúng ta?
75. Mở rộng tâm hồn đón Chúa - Lm Nguyễn Bình An
“Trời cao xin đổ sương xuống. Mây hãy mưa vị cứu tinh. Đất hãy nẩy sinh Đấng cứu đời và không trung biểu dương oai phong Chúa Trời” là nhưng tiếng ca hy vọng, nức nở và ai oán, diển đạt tâm trạng sa lầy của con người. Sa lầy trong cuộc đời khổ ải và gian truân. Sa lầy vì duyên nợ oan nghiệt và tình đời đắng cay. Sa lầy vì tâm cao hơn trời nhưng đam mê và dục vọng đóng khung và đầy đọa con người dưới đất. Sa lầy vì hạnh phúc vụt bay và tiền, tình, tài chỉ là tai họa. Sa lầy vì thân xác héo khô, mỏi mòn và tâm hồn sầu buồn, khắc khoải.
Con người hoàn toàn bất lực trong tiến trình tu thân tích đức. Con người không thể tự giải phóng bản thân khỏi những đam mê, dục vọng và yếu đuối. Con người không thể giải hóa nổi những đố kị, tranh chấp và tị hiềm. Con người vì thế ngước mắt lên trời cao, thét gào ơn cứu độ và xin mưa ơn công chính. Khát vọng nên công chính là nguyên nhân và ý nghĩa của mùa Vọng. Ơn công chính như nước tưới sa mạc khô cằn để cây cỏ xanh tươi và cuộc đời thêm ý nghĩa và đáng sống.
Ngày rước lễ vỡ lòng, bé Thanh xúng xính trong bộ đồng phục thiên thần. Bé vui nhận những món quả sau nghi thức thánh. Bé ôm chặt mẹ và ngây thơ tâm sự “Mẹ ơi, con muốn chết bây giờ để lên thiên đàng. Con sợ sau này con lớn sẽ có nhiều tội và mất phúc thiên đàng”. Tâm tình đơn thành của em là của mỗi chúng ta. Có lúc chúng ta tươi trẻ và xinh đẹp như thiên thần. Có lúc chúng ta ngã sa và đáng trách như tên quỉ sứ. Lại có những lúc chúng ta hối hả gõ cửa trời và vùng vẫy kêu cứu. Đáng khen! vì đây là dấu hiệu của cuộc chỗi dậy.
Lúc ấy Chúa thân hành đến nâng dậy, vỗ về, thanh tẩy và ban lại niềm vui đã mất. Chúa hành động liên lỉ và mãnh liệt lôi chúng ta ra khỏi vòng kiểm toả của tối tăm. Chúa không vui gì khi nhân loại sống trong sa đọa. Chúa dùng mọi hình thức: dậy dỗ, trách phạt, ngăm đe, những mong cảnh tỉnh và đưa chúng ta ra khỏi bến mê. Có thể khẳng định là Chúa đã dùng mọi phương tiện để ơn cứu độ tuôn tràn vào mỗi cá nhân. Tình trạng sa lầy và dậm chân tại chỗ là do chính chúng ta tạo mãi. Chúng ta xua đuổi và chối từ Chúa. Chúng ta trốn chạy và bịt tai trước những lời kêu mời thân thương và từ ái. Chúng ta đã bỏ lở cơ hội và quay lại tố là Chúa không thương, không giúp.
Trời vẫn ban mưa. Cứu Tinh vẫn đang mời mọc. Đất tiếp tục sinh hoa kết trái. Chỉ có lòng người khô cằn. Tiên tri Isaia cảnh cáo “đời ngươi tội lỗi. Chiếc áo dơ bẩn là công quả đời ngươi. Ngươi không cầu cũng không bám vào Chúa. Vậy ơn cứu độ bởi đâu đến?”
Chúng ta phải moi đá lên, thay đất tốt vào và nhận hạt giống tinh tuyền. Mưa rơi, hạt giống chuyển mình và phát triển. Lời Chúa văng giải quá dư. Tiếng Chúa vang dội khắp chốn. Hôm nay Chúa lại đến gõ cửa nhân loại. “Hãy tỉnh thức vì chủ đến vào lúc người không ngờ”.
Mùa Vọng này chúng ta không mong trời đổ mưa, không cầu mây chuyển Đấng Cứu Độ, không trách đất chưa sinh hoa trái và không phủ nhận vinh quang Chúa nữa. Trái lại chúng ta cầu cho bản thân mình được đứng lên, rướn cao hơn nữa và can đảm bước tới. Vạn sự phải khởi đầu nơi con người yếu đuối và đang sa lầy này. Phản tỉnh là cơ hội và điều kiện để chúng ta kín múc ơn trời, và không lãng phí tình Chúa như những năm trước. Những năm chỉ biết kêu trách và nài xin Chúa bố thí phép lạ nhưng không tích cực cộng tác, thiếu thiện chí thay đổi, chưa can đảm bước tới và không mở lòng đón Chúa.
Chúa trên cao đang giang tay đón chờ. Cửa trời luôn rộng mở. Lời Chúa luôn vang dội. Ơn thánh đang tuôn trào. Bao giờ chúng ta mới tỉnh mộng và sống đúng ý nghĩa mùa Vọng?
76. Chú giải của Fiches Dominicales.
TỈNH THỨC CHỜ NGÀY CHÚA TRỞ LẠI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Trong ánh sáng ngày Con Người trở lại.
Người ta chờ đợi phụng vụ năm B sẽ mở đầu bằng những trang đầu của Tin Mừng theo thánh Maccô là một điều hợp lý. Thế nhưng, không như người ta tưởng, phụng vụ hôm nay lại trích dẫn một đoạn trong phần gần cuối của Tin Mừng Maccô nói về "Ngày Tận Thế" để giúp soi sáng thêm ý nghĩa của Mùa Vọng ta đang bước vào.
Sở dĩ Đức Giêsu nói về ngày Tận Thế là vì các môn đệ đã lo lắng hỏi Người khi nghe Người loan báo đền thờ Giêrusalem sẽ bị tàn phá. Khi nhắc lại những lời Đức Giêsu nói với các môn đệ về ngày Tận Thế, thánh Maccô muốn các độc giả của Ngài hiểu rằng lời Chúa xưa nói với các môn đệ cũng là lời Người nói với họ hôm nay:
- Với những độc giả của Tin Mừng Maccô, là những người đã biết hay sẽ biết những năm tháng bi đát (năm 64 Nêrôn bắt bớ, năm 66 cuộc nổi dậy ở Palestin, năm 70 đạo binh của Titus chiếm đóng và phá hủy đền thờ), thì phải học biết rằng ngày Chúa trở lại mà họ tin là sắp đến còn lâu mới xảy ra.
- Còn với độc giả hôm nay và mọi thời cho đến ngày Đức Giêsu trở lại, lời Chúa loan báo soi sáng cho họ biết tầm quan trọng của thời họ đang sống: lịch sử đang tiến đến viên mãn và Đấng sẽ đến gặp gỡ chúng ta ở thời sau cùng này là Đức Giêsu cũng là "Con Người”.
2. Mạc khải những thách thức thời hiện đại.
Thật ra khi né tránh câu hỏi KHI NÀO - bí mật của Chúa Cha - và NHƯ THẾ NÀO, Đức Giêsu có ý khuyến khích các môn đệ mình sống giây phút hiện tại trong sự dấn thân khiêm tốn và tin tưởng cùng với sự tỉnh thức nhạy bén. Người nói với các ông: "Anh em phải coi chừng (tiếng Hy lap: hãy mở mắt), phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến."
Những lời đó được minh hoạ tức khắc bằng dụ ngôn ngắn gọn cuối cùng: Dụ ngôn một người trẩy đi phương xa, chắc là xa lắm, và trao tất cả quyền hành cho các đầy tớ, sắp đặt mỗi người một việc, và dặn người gác cửa tỉnh thức. Chúa nhấn mạnh đến việc không biết trước ngày giờ sẽ đến (người ta không biết khi nào thời ấy sẽ đến: c. 33, người ta phải chờ đợi việc Chúa trở lại cách thình lình, không báo trước: c. 33,35,36) có mục đích duy nhất như một lệnh truyền hãy tỉnh thức.
Cách chỉ giờ giấc nối tiếp nhau của trình thuật rất có ý nghĩa, chứ không chỉ có tính cách kể chuyện, vừa thể theo cách người Rôma chia đêm thành bốn canh, vừa gợi nhớ bốn giai đoạn của cuộc thương khó, vừa đề ra bốn giai đoạn mà các môn đệ phải tỉnh thức, nghĩa là không những phải chống trả với sự buồn ngủ về thể lý, nhưng còn phải sẵn sàng đối đầu với sự việc sắp đến cách bất ngờ.
- "Buổi chiều”: Giờ mà Đức Giêsu đoán trước sự phản bội của Giuđa và sự từ chối của chính Phêrô (14,13-31).
- "Nửa đêm": Giờ Chúa hấp hối trong vườn Giếtsêmani, mời gọi các môn đệ tỉnh thức, và ba lần "Người thấy họ ngủ”. Người nói: "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (14, 32-42).
- "Lúc gà gáy”: Giờ Phêrô chối Thầy trong sân thượng tế (1 4,66-72).
- "Sáng sớm": Giờ các môn đệ bỏ trốn, Đức Giêsu bị Hội đồng trao nộp cho Philatô (1 5,1...).
Một lần nữa khi nhấn mạnh lệnh truyền của Thầy "Hãy tỉnh thức” trước cuộc tử nạn, thánh sử Maccô muốn khuyến khích anh chị em ngày hôm qua, hôm nay và ngày mai đừng để cho lòng mình ra nặng nề, rối loạn, thất vọng. Nhưng luôn vững tâm tỉnh thức đón tiếp Đấng vẫn đến cho những ai luôn biết hiện diện với Người, và một ngày kia, Người sẽ đến trong vinh quang. Bởi lẽ chính ngay bây giờ, chính trong thực tại khiêm tốn diễn ra hằng ngày, mầu nhiệm cuộc gặp gỡ được thể hiện.
Sau hết, hình như điều quan trọng Đức Giêsu muốn nói với chúng ta không nằm trong chữ KHI NÀO hay BẰNG CÁCH NÀO vào thời sau hết mà nằm trong chữ AI: Phải gặp gỡ AI trong cuộc gặp gỡ sau cùng, cũng như nằm trong sự tỉnh thức tích cục giữa những lo toan của cuộc sống hằng ngày. Đó chính là điều Con người mời gọi mời gọi các tín hữu khi Người đến.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Ơn gọi của các môn-đệ: trở nên người canh thức cho thế giới. (Mgr. L. Daloz, trong "Vậy Ngài là ai?, Desclée de Bouwer, tr. 83-84).
Chương này dựng cảnh trí cho Đức Giêsu nói đến bi kịch của thế giới sẽ diễn ra: viễn ảnh của ngày tận thế. Sự chết và sống lại của đức Giêsu làm cho lịch sử nhân loại có ý nghĩa. Tại núi Câu Dầu, đối diện với Đền thờ, Đức Giêsu tâm sự với bốn môn đệ mà Người kêu gọi trước hết là “Phêrô, Giacôbê, Gioan và Anrê...". Qua các ông, Người mạc khải cho chúng ta ý nghĩa của thời kỳ ta đang sống: đó là thời kỳ chờ đợi, người môn đệ phải là người canh thức, ngóng chờ chủ trở về. Đó là thời kỳ đầy mơ hồ cần sự phân định, và chúng ta được mời gọi phải canh phòng cẩn mật, đừng để bị phỉnh gạt chạy theo những đấng Mêsia giả hiệu. Đó là thời kỳ phấn đấu và chịu bách hại, thời kỳ chuyển bụng của một thế giơi đang đau đớn trước khi sinh con. Đó là thời kỳ được ban cho các nhân chứng để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân mọi nước. Đó là thời kỳ của Thần Khí, Đấng hướng dẫn miệng lưỡi các vị tử đạo.. Sự chết và sự sống lại của đức Giêsu phá vỡ cái vòng luẩn quẩn của những biến cố xoay vần bất tận. Xuyên qua ngay cả những bất an và những cùng khổ, từ nay lịch sử quy hướng về Con Người đang đến. Khi mọi chỗ nương tựa chắc chắn hữu hình và cả đen "trời và đất" đều sụp đổ, Người để lại cho các môn đệ Người một chỗ nương tựa vững chắc, đó là những lời Người không thể qua đi. Họ có bổn phận phải kiên trì quan sát những cành cây vả, để nhận ra và loan báo rằng, cây sắp đâm chồi nẩy lộc, và sau mùa đông rét buốt thì mùa hạ đang đến gần. Họ có bổn phận phải lắng tai để nghe hồi chuông báo hiệu giờ quyết định, mà không ai ngoài Chúa Cha được biết, và phải mở to đôi mắt để chiêm ngắm ngày mới, tỏa ánh vinh quang của Con Người. Từ nay ơn gọi của người môn đệ cho đến ngày tận cùng thời gian là làm người canh thức cho thế giới... "Lạy Đức Giêsu, xin hãy đến!”
2. “Đợi chờ rạng đông”. (H.Vulliez, trong "Thiên Chúa rất gần năm B, Desciée de Brouwer, tr. 9-10).
Đức Giêsu luôn đến với ta cách đột ngột. Ngài loan báo những ngày thống khổ, mặt trời, mặt trăng và tinh tú sẽ không còn chiếu sáng, đồng thời Ngài gợi lên "sự trở lại của Con người” sự trở lại của chính Ngài, "trong uy quyền và vinh quang” viên mãn. Tất cả là để nói lên: "Hãy sẵn sàng, hãy tỉnh thức”.
“Hãy tỉnh thức”, đó là lời mời gọi khẩn cấp vang lên trong khung cảnh cua ngày sau hết trong lúc xuất hiện một thế giờ mới. Trong bài đọc ngày hôm nay, lời mời gọi này được lặp lại bốn lần! Khi nói như thế, không phải Đức Giêsu muốn tung ra một lời đe doạ ghê gớm của ngày chung thẩm, hay muốn tạo cho người nghe cảm giác nổi gai ốc về tai hoạ sắp xảy đến. Nhưng ở đây qua dụ ngôn nén bạc chẳng hạn, không phải là chuyện tính sổ, mà trước hết là đừng ngủ mê, phải tỉnh thức sẵn sàng để đón tiếp, vì bất cư lúc nào Thầy cũng có thể đến một cách bất ngờ. Làm sao các môn đệ hiểu được những lời này khi Đức Giêsu nói với các ông? Phải đợi đến sáng sớm Phục sinh, bóng lên trong ánh sáng mờ ảo của bình minh, dụ ngôn ngắn ngủi nay mới rõ nghĩa. Một chi tiết của bài đọc làm ta ngạc nhiên: Thầy sẽ đến ban đêm, vào bất cứ giờ nào: buốt tối, nửa đêm, lúc gà gáy hay lúc rạng đông? Không ai biết cả. Từ muôn thuở, từ lúc Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối, ngày và đêm chiến đấu với nhau và sẽ như thế mãi cho tới khi Chúa đến chiến thắng vĩnh viễn cho ánh sáng. Chiến thắng trên những quyền lực sự dữ của bóng tối. Thời gian ở đời này là thời gian chiến đấu. Đức Giêsu thúc giục bạn hữu mình và các môn đệ của Ngài hãy tỉnh thức, không như những người lính gác hay người lính tuần đêm, nhưng như người đợi chờ ánh bình minh, mong ngày tới để hưởng niềm vui và loan báo cho mọi người. Người cũng muốn các ông luôn phải sẵn sàng đón người, vì Chúa đến bất cứ lúc nào, chứ không chỉ vào "giờ chết” hay "ngày tận thế” mà thôi đâu. Trong mọi giây phút tăm tối của cuộc đời, ánh sáng soi dẫn của Chúa luôn bên ta. Nhiều người mời gọi người ta ăn năn trở lại bằng cách loan báo những tai hoạ khủng khiếp: "Hãy run sọ, hãy chuẩn bị”. Còn Đức Giêsu kêu mời một cách thanh thản, thực tế. Thanh thản như bầu trời luc bình minh đầy ánh sáng. Thực tế như trái đất sống nhờ ánh sáng. Cái nhìn thanh thản và thực tế này tạo nơi chúng ta niềm cậy trông bởi vì nó đưa chúng ta vượt qua cái chết, vượt qua trần thế này. Cái nhìn ấy cũng hướng về ánh sáng luôn đến gần bên ta. Chúng ta có phải là những người đang mong chờ ánh bình minh không? Bước vào ngượng cửa Mùa Vọng này, chúng ta có sẵn sàng nhìn ngắm và đi theo ngôi sao dẫn chúng ta đến với Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người không?
77. Người giữ cửa canh thức ban đêm
(Chú giải của Lm. FX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Bài này rút từ Diễn từ cánh chung (ch.13) của Tin Mừng Marcô là chương nói về những vấn đề của thời buổi cuối cùng. Diễn từ này kết thúc bằng một lời kêu gọi khẩn thiết hãy tỉnh thức. Lời kêu gọi này không chỉ nhắm đến những người đang được Đức Giêsu ngỏ lời với (13,3), nhưng nhắm đến tất cả mọi người (13,37). Lời kêu gọi nay được tác giả Mc nêu bật bằng hình ảnh người giữ cửa.
Vậy “tỉnh thức” trong Mc 13 có nghĩa là gì? Là không “ngủ” (c. 36). Nhưng hẳn không phải chỉ có nghĩa đen ấy.
2.- Bố cục
Đoạn văn này được bố cục theo kiểu cấu trúc đong tâm (chuyển hoán), với đỉnh cao là c. 35:
a: Lời kêu gọi “tỉnh thức” gửi đến các môn đệ (c. 33);
b: Dụ ngôn người chủ đi xa (c. 34);
c: Lặp lại lời kêu gọi mở đầu và áp dụng theo dụ ngôn (c. 35);
b’: Tiếp nối dụ ngôn người chủ đi xa trở về (c. 36);
a’: Lặp lại lời kêu gọi “tỉnh thức” mở đầu, và gửi đến mọi người (c. 37).
Chúng ta cũng có thể thấy đây là một kết cấu song song, nhằm làm nổi bật ý tưởng ta không biết thời gian quang lâm; do đó, có hệ luận: phải tỉnh thức.
Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức (33a)
Vậy anh em phải canh thức (35a)
vì anh em không biết khi nào thời ấy đến (34c)
vì anh em không biết khi nào (35b)
phải canh thức (34c)
không được ngu (36b)
3.- Vài điểm chú giải
- hãy tỉnh thức (33): Tác giả dùng động từ lạ agrypnete, đồng nghĩa với động từ quen thuộc grçgoreite; đây là một từ của nền văn chương khôn ngoan (G 21,32 LXX; Cn 8,34; Dc 5,2; Kn 6,15; Hc 36,16. Các bản Tân Ước khác cũng có dùng: Lc 21,36; Ep 6,18; Dt 13,17).
- cũng như người kia trẩy phương xa..., và ra lệnh cho người giữ cửa (34): Có một điểm gây thắc mắc: Nếu ông chủ đi phương xa, thì “để nhà lại, trao quyền cho các đay tớ” là hợp lý rồi. Còn “chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức” là cách bố trí của người đi vắng trong một thời gian ngắn. Tại sao lại chỉ lưu ý đến việc “canh thức” ban đêm? Ở đây tác giả Mc nối kết nhiều truyền thống: những lời Đức Giêsu kêu gọi tỉnh thức, dụ ngôn những nén bạc (Mt 24,42; 25,13-15; Lc 12,36-38; 19,12-13), với dụ ngôn người giữ cửa của riêng ông cộng với truyền thống kinh sư về ý nghĩa của “đêm”. Trong TM Mc, không có dụ ngôn “những nén bạc” như trong Mt và Lc.
- lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng (35): Người Rôma chia một đêm thành 4 canh, mỗi canh kéo dài 3 giờ. Còn người Do Thái quen chia đêm thành 3 canh (x. Tl 7,19; Lc 12,38). Nhưng tại sao bài Tin Mừng lại chỉ chú trọng đến “đêm”?
Trong nền văn chương Do Thái giáo, thời gian hiện tại thường được coi như một “đêm”, còn tương lai được ví với một “ngày” hoặc một “buổi sáng”. Những câu Cựu Ước nói về “đêm” theo nghĩa đen thường được áp dụng cho “đêm” của thế gian này. Chẳng hạn lời ông Bôa nói với bà Rút: “Hãy qua đêm ở đây” (R 3,13) được Rabbi Meir (#150 sau CN) trích quy chieu về “thế gian hoàn toàn là đêm tối ấy” (Rút R. 6,4). Các kinh sư thường áp dụng từ ngữ “canh khuya” trong Tv 92 (“Thú vị thay... được tuyên xưng tình thương của Ngài từ buổi sớm, và lòng thành tín của Ngài suốt canh khuya”) cho thời gian hiện tại (Midr. Tv 92,7). Sách Talmud chú giải câu Tv 104, 20a như sau: “Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối” là câu nhắm đến thế giới hiện nay, được so sánh với đêm tối.
Giống như các kinh sư, thánh Phaolô đã dùng những ý tưởng về “đêm” để mô tả thời kỳ hiện tại cho đến ngày Quang Lâm (Rm 13,12). Vì thế, ông đã kêu gọi người Rôma: “Đã đến lúc anh em phải thức dậy” (13,11), vì ơn cứu độ đã gần họ hơn khi họ mới tin, vì “đêm sắp tàn, ngày gần đến” (Rm 13,12; x. 1 Tx 5,5tt). Ông còn nói: “Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2). Hình ảnh “kẻ trộm đến ban đêm” không có trong nền văn chương Do Thái, mà chỉ có trong Tân Ước thôi (Mt 24,42-44; Lc 12,39t; 2 Pr 3,10; Kh 3,3; 16,15). Đây là một yếu tố thuộc truyền thống Ki-tô giáo bắt nguồn từ Đức Giêsu. Từ đó ông khuyên người Thêxalônica hãy tỉnh thức (1 Tx 5,6).
Vậy lời kêu gọi hãy tỉnh thức chờ đợi ông chủ trở về vào một lúc nào đó trong đêm khuya phải được hiểu theo chiều hướng này.
Nhưng làm thế nào dung hòa được hai chi tiết “trẩy phương xa” (đi lâu) và “về lúc chập tối” (đi ngắn hạn)? Trong văn chương Do Thái giáo, có một dụ ngôn na ná với dụ ngôn Mc 13,34tt: Một bà chủ nhà có một nữ tỳ Êtióp. Chồng bà vượt biển đi xa. Suốt đêm, người nữ tỳ nói với bà: “Tôi đẹp hơn bà, đức vua yêu tôi hơn bà”. Bà chủ đáp: “Đến sáng rồi chúng ta sẽ biết ai là người đẹp hơn, ai là người được đức vua yêu thương”. Bài tường thuật tiếp: Các dân nước nói với Israel: “Các hành vi của chúng tôi thật đáng khen, và Đấng Thánh – xin chúc tụng Ngài – hài lòng về chúng tôi”. Rồi bài quy chiếu về Is 21,12 mà giải thích rằng “buổi sáng” đang đến là thời gian tương lai (Dân số R. 16,23 [70b]).
Bài dụ ngôn này cũng có những chỗ không ăn khớp với nhau, và có những chi tiết giúp hiểu bài Mc: đêm tối chính là thời gian hiện tại với những phiền muộn mà dân Chúa phải gánh chịu.
- phải canh thức (36): Trong nền văn chương Do Thái giáo, chủ đề “canh thức” được đề cập đến trong một viễn tượng quốc gia. Israel lúc đó đang bị các vương quốc của thế gian áp bức, chà đạp. Nhưng trong tương lai cánh chung, hoàn cảnh sẽ đảo ngược, Israel sẽ chiến thắng, sẽ nhận được danh dự và vinh quang. Đó là “ngày”.
Trong Tân Ước, giọng điệu ái quốc này không còn nữa. Nay người tín hữu phải chiến đấu “với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này” (Ep 6,12). Thế gian đang nằm dưới quyền của thần dữ (1 Ga 5,19). Thế gian đa quay lưng lại với Ngài, là nguồn ánh sáng. Vì thế, thời gian hiện tại chính là thời kỳ của bóng tối và đêm khuya.
Tuy nhiên, khi Đức Giêsu đến, sấm ngôn Is 9,1 nói về ánh sáng đã ứng nghiệm (x. Mt 4,16). Đức Giêsu là ánh sáng soi chiếu trần gian (x. Lc 2,32; Ga 1,5; 8,12; 12,46). Ai tin vào Đức Giêsu, Đấng Mêsia, thì không phải ở trong bóng tối (Ga 12,46; x. 3,19; Cv 26,18; Cl 1,13; 1 Pr 2,9; Ep 5,8). Nhưng dù đã được giựt ra khỏi vương quyền của bóng tối (Cl 1,13), dù đã trở thành con cái ánh sáng và ban ngày (1 Tx 5,5), người ấy vẫn còn sống trong thời gian của “đêm tối”, vẫn còn ở trong một hoàn cảnh có thể bị cám dỗ, có thể sa ngã, bị tà thần của thế gian hiện tại nắm bắt lại. Để mình bị những sức mạnh thế gian chiến thắng, buông mình theo những chuyện thế gian, đó chính là “mê ngủ”. Trong dụ ngôn, “giấc ngủ” tương ứng với “đêm”: “giấc ngủ” thuộc về “đêm”, bởi vì người ta ngủ ban đêm.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lời kêu gọi “tỉnh thức” gửi đến các môn đệ (33)
Lời kêu gọi mở đầu này xác định chủ đề của đoạn văn: Phải tỉnh thức. Các môn đệ của Đức Kitô cần phải canh thức, bởi vì họ không biết ngày giờ (“thời ấy”) của cuộc Quang Lâm.
* Dụ ngôn người chủ đi xa (34)
Điểm chính của dụ ngôn là: ngày trở về của ông chủ là biến cố người ta không thể tiên liệu. Ông có thể về bất cứ lúc nào: chính khía cạnh này buộc người giữ cửa phải canh thức liên tục. Nhưng ông cũng có thể đi lâu: chính vì thế các gia nhân cứ phải sinh hoạt để điều hành các công việc của nhà và sinh lợi cho chủ. Các môn đệ của Đức Giêsu vừa là “các gia nhan” vừa là “người giữ cửa”; họ phải vừa làm việc vừa canh thức. Có thể hiểu đây là các vị lãnh đạo cộng đoàn Kitô hữu.
* Lặp lại lời kêu gọi mở đầu và áp dụng theo dụ ngôn (35)
Lời kêu gọi được lặp lại như một điệp khúc, nhưng ở đây, công thức “khi nào thời ấy đến” đã được giải thích bởi công thức song song “khi nào chủ nhà đến”. “Thời ấy” chính là lúc chủ nhà trở về, tức ngày Quang Lâm của Đức Giêsu. Tác giả diễn tả sự bấp benh cách biểu tượng theo cái khung một ngày: “lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng”.
* Tiếp nối dụ ngôn người chủ đi xa trở về (36)
Các môn đệ của Đức Giêsu đang ở trong “đêm”, nhưng họ không được “ngủ”; ho vẫn sinh hoạt bởi vì ông chủ có thể về ngay trong đêm nay. Họ phải canh thức. Bởi vì biến cố ông chủ trở về thay đổi mọi sự, ta hiểu “làm việc” là “cùng làm việc”. Đức Giêsu đang hành động trong thế giới để đưa đến mot nhân loại mới. Người lôi kéo con người vào làm việc với Người, làm cho họ thành những đầy tớ phục vụ hoạt động của Người. Nhưng để có thể cộng tác với Đức Giêsu, họ phải tỉnh thức để nhận ra những gì Người đang lam.
* Lặp lại lời kêu gọi “tỉnh thức” mở đầu, và gửi đến mọi người (37)
Lời kêu gọi ở đây chính là lời kêu gọi ở c. 33 được lặp lại. Cùng với lời kêu gọi ở c. 33, lời kêu gọi ở c. 37 này “đóng khung” toàn bài, đã xác nhận toàn bản văn bên trong được triển khai theo chủ đề “Sự tỉnh thức”. Nhưng đến đây, lời kêu gọi được gửi rộng rãi đến tất cả mọi người, nghĩa là không chỉ dành cho các vị lãnh đạo cộng đoàn, nhưng cũng được gửi đến toàn thể cộng đoàn Kitô hữu.
+ Kết luận
Vậy, “phải canh thức”! Đang khi tiến đi trong thế giới của đêm đen, người tín hữu được mời gọi thực hiện ơn gọi của mình và ân huệ đã nhận, đó là được làm con cái ánh sáng, mắt đăm đăm hướng về ngày chủ trở lại và về “ngày” đang đến. Sự canh thức ở đây mang tính cánh chung: hoàn toàn quay hướng về phía trước, về biến cố Đức Kitô sắp ngự đến trong tương lai. Theo nghĩa này, người tín hữu không the canh thức nếu không chấp nhận chiến đấu (Rm 13,11tt; các vũ khí: 1 Tx 5,6-8; 1 Cr 16,13; Ep 6,10-20; 1 Pr 5,8t). Canh thức như thế là ngay từ bây giờ, sống trước đời sống tương lai (x. Rm 13,13). Thái độ cánh chung không khiến người ta phủ nhận thế giới, nhưng giúp người ta có một thái độ tự do lành mạnh, thanh thoát đối với tất cả những gì thuộc về thế giới, không sợ hãi loài người, không tìm danh vọng, không khắc khoải trước gian khó, đau khổ và cái chết (x. 1 Cr 4,3t).
5.- Gợi ý suy niệm
1. “Canh thức” trong đêm tối của thời gian hiện tại trong khi chờ đợi Đức Giêsu trở lại, chính là đang sống trong tư cách những người đã được giải thoát, bởi vì bất cứ khi nào đến, Đức Giêsu sẽ bằng lòng nếu thấy các môn đệ của Người đang sẵn sàng với Người. “Canh thức” chính là một cách thức thường hằng người Kitô hữu theo mà sống trong thế giới.
2. Canh thức như thế cũng là sống trong niềm vui. Niềm vui này không hề lệ thuộc những chuyện thay đổi của thế gian, vì nó trào vọt ra từ một nguồn mạch vĩnh hằng là chính Đức Giêsu Phục Sinh. Canh thức như thế còn là sống trong bình an, cho dù có gặp phong ba bão táp, bởi vì chính Đấng Phục Sinh đã cam đoan: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14,27). Cuối cùng, canh thức như thế cũng là sống niềm hy vọng, bởi vì cái nhìn của chúng ta luôn nhắm về phía trước, về thế giới đang đến, về “ngày” đang lại gần.
3. Tác giả Lohmeyer mô tả canh thức bằng câu nói: “Đời sống của người đạo đức không diễn tiến trong những trạng thái thiu thiu ngủ, những giấc mơ và những đam mê, nhưng trong nỗ lực dấn thân luôn luôn chăm chú và điều độ của con tim nhân loại”. Còn Schweizer định nghĩa canh thức là như “thái độ trong đó con người luôn luôn chờ đợi với tinh thần trách nhiệm Đức Chúa đến và không để mình bị sao nhãng trong thái độ sẵn sàng thường hằng này đối với Ngài bởi bất cứ điều gì”. Đấy là cách tốt để sống giáo huấn của Đức Giêsu.
78. Chú giải của Noel Quesson
Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức
Từ “Hãy tỉnh thức” được Chúa Giêsu nhắc lại bốn lần trong Tin Mừng Maccô.
Đó là lệnh truyền Đức Giêsu, ngay trươc lúc Người lên đường. Bởi vì, trong Tin Mừng Maccô, cuộc Thụ Khổ khởi sự liền sau trang này. Lạy Chúa, Chúa nhấn mạnh, Chúa yeu cầu chúng con luôn luôn sống tỉnh thức “Tỉnh thức”. Khi sắp tới vườn Ghétsêmani. Chúa thấu biết không một môn đệ nào của Chúa đứng vững. Thế nên, Chúa cố đề phòng cho họ: Anh em phải tỉnh thức, tỉnh thức, tỉnh thức!
Lay Chúa, xin hãy lặp lại cho chúng con lời căn dặn như thế.
“Anh em phải coi chừng”. Đức Giêsu thường sử dụng từ này trong một bối cảnh cuộc “giao chiến”. Tình thức là để giao chiên. Tỉnh thức là chú ý đặc biệt, trong trường hợp nguy hiểm. Cần phải “coi chừng” để nghe lời Chúa (Mc 4,12), nếu không ta chỉ đứng bên lề mà để cho lời Chúa vuột qua. Cần phải “ coi chừng”, để ta giữ mình khỏi “men Pharisêu”, nếu không nó thấm nhiễn vào ta mà khong hay biết (Mc 8,15-12,38). Cần phải “coi chừng”, để không tin những kẻ báo trước tương lai, như thể họ nắm vững (Mc 13,5-13).
Thánh Phaolo sẽ sử dụng một thứ ngôn ngữ bi thiết để nói về thái độ tỉnh thức. Ngài đòi hỏi “thức dậy ngay” (Rm 13,11). Chính vì chúng ta đều dễ bị đờ đẫn nên cần phải nghĩ tình trạng mê mẩn sẽ xảy đến, khi ta lạm dụng nhiều thuốc ngủ. Đúng vậy, ta phải coi chừng trước tình trạng mê ngủ của lương tâm: Phản ứng tự vệ không còn hoạt động nữa... cũng như người lái xe vì uống quá nhiều, chỉ còn biết đâm đầu vào vật chắn cản. Như thế cần phải “dứt mình” ra khỏi tình trạng mê ngủ! Hơn nữa, để nói về thái độ “tỉnh thức”. Phaolô không ngần ngại sử dụng đến từ vựng về chiến tranh: Những “vũ khí” trang bị cho thái độ tỉnh thức (Rm 13,12; Ep 6,10; 1 Tx 5,6-8).
Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay, xin hãy lặp lại cho con “phải coi chừng”. Đời sống Kitô hữu luôn là cuộc giao chiến với những quyền lực, xem ra mãnh liệt hơn chúng con. Lạy Chúa xin giữ gìn chúng con biết tỉnh thức, cho giờ Chúa xuất hiện.
Vì anh em không biết khi nào ngày giờ ấy đến...
Môn đệ của Chúa Giêsu đặt cho Ngài câu hỏi: “Bao giờ các sự việc ấy xảy ra, và khi tất cả sắp đến tận cùng thì có điềm gì báo trước?” (Mc 13,4). Đức Giêsu không trả lời câu hỏi này. Các sấm ngôn đủ loại và thuộc mọi thời đại, đã báo trước ngày thế mạt cả rồi! Ơ đây, Ngài trả lời một lần dứt khoát: “Anh không biết được bao giờ”. Đức Giêsu không muốn ta mất giờ mơ tưởng về quá khứ hay tương lai. Ngài đòi hỏi chúng ta phải tập trung vào “giây phút hiện tại”, vào chính ngày Hôm nay: Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết... Anh em hãy luôn sẵn sàng.
Cha Charles de Foucault đã coi lời sau đây như châm ngôn sống: “Cố sống mỗi ngày, như thể chiều tối nay bạn sẽ chết”.
Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại giao trách nhiệm cho đầy tớ trông coi, chỉ định cho mỗi người một việc...
Thiên Chúa xem ra “vắng mặt”, như thể người kia trẩy phương xa! Đây là hình ảnh đẹp, diễn tả chọn vẹn cảm tình mà ta thường nghiện thấy: Lạy Chúa, sao Chúa ở xa quá! Chúa như là kẻ hoàn toàn khác lạ! Nhưng ta nên lưu ý, đối với Đức Giêsu, thời gian vắng mặt nêu trên, trước hết không phải là thời gian bất hạnh hay âu lo, nhưng là một thời mang đầy trách nhiệm: Mỗi người đều nhận một phận vụ, một công việc. Hầu như ta có cảm tưởng rằng ông “Chủ” này cố ý đi xa, để tạo cho các đầy tớ ông, một tầm quan trọng, để họ khỏi phải lúc nào cũng ám ảnh tới ông: Nào, hãy đam nhận lấy trách nhiệm. Các bạn đâu còn là trẻ con nữa. Hãy quyết định, hãy suy nghĩ. Tôi tin tưởng các bạn … Tôi giao cho các bạn “mọi quyền hành”! Lạy Chúa xin giúp chúng con sống xứng đáng với trách nhiệm đã được Chua giao phó: Trong gia đình, trong phạm vi nghề nghiệp, nơi khu phố, trong đoàn thể này hay hiệp hội kia trong Giáo Hội.
Ông ra lệnh cho người giữ cửa canh thức …
Ban đêm, người giữ của có một tầm quan trọng đặc biệt, bởi vì bon phận của ông là phải nghiêm chỉnh “canh thức”, đề phòng để ngôi nhà khỏi bị tấn công bất ngờ, không mở cửa cho bất cứ ai nhưng lại là người đầu tiên mở cửa đón tiếp ông chủ khi ông trở về. Thánh Maccô quen đề cao vai trò của Phêrô trong nhóm Mười Hai. Khi phân biệt được người giữ của với các đầy tớ khác, Đức Giêsu muốn lưu ý rằng, các vị chủ chăn trong Giáo Hội được mời gọi một cách hết sức đặc biệt phải “tỉnh thức”: Phêrô vị Giáo Hoàng, các Giám mục là những người đầu tiên có trách nhiệm tỉnh thức đối với toàn thể dân Chúa, cũng như người giữ cửa có bổn phận chăm sóc toàn thể ngôi nhà này. Lạy Chúa, con cầu xin Chúa cho những vị đang nắm giữ vai trò đó trong Giáo Hội hôm nay.
Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến.
Đức Giêsu đã nói đến thời gian vắng mặt … Ngài cũng loan báo thời gian trở lại … Chúng ta sẽ đi tới cuộc gặp gỡ này. Một ngày kia con sẽ gặp gỡ Chúa, mặt đối mặt và con sẽ thực sự nhận biết Chúa, như Chúa biết con (1Cr 13,12). Cuộc đời Kitô hữu là một hành trình tiến tới cuộc gặp gỡ đó.
Ông chủ sẽ trở về … vào lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng.
Thật là kỳ lạ khi ta nhận thấy Đức Giêsu chi gợi lên một cuộc trở về vào lúc đêm khuya! Thế mà tại Đông phương xưa kia, vì sợ nguy hiểm trên đường đi, người ta thường không du hành vào ban đêm. Chi tiết hơi kỳ di trên đây, mang một ý nghĩa biểu tượng, Kinh Thánh thường nhắc đi nhắc lại. Đêm khuya, đó là thời gian của bóng tối, thời gian của “quyền lực tối tăm” (Lc 22,23; Mc 14,49; Ep 6,12). Do đó đêm tối cũng chính là thời gian của cám dỗ, thời gian của thử thách. Vì thế phải đặc biệt tỉnh thức lúc đêm khuya. Cựu Ước mong đợi thời của Đấng Thiên sai như giai đoạn mà bóng tối sẽ chấm dứt, để nhừng lại chỗ cho ánh sáng. Đe diễn tả nỗi lòng mong ước, ngôn sứ đã cất tiếng nói: “Hỡi người canh thức, đêm còn mấy chốc nữa?” (Is 21,11). Và để tăng cường niềm hy vọng, Thánh Phaolô đã nói: “Đêm sắp tàn, ngày gấn đến” (Rm 13,12). Để loan báo Noen, vào thánh lễ nửa đêm, Giáo Hội hát lên cho chúng ta bài thơ tuyệt diệu của I-sai-a (9,1). “Dân đi trong tăm tối đa thấy bừng lên một luồng sáng lớn”. Và trong mùa vọng, ta vẫn thường ca lên: các dân tộc bước đi trong đem dài, những ngày sắp tới … Đây là lúc hãy ngẩng đầu lên!
Hãy tỉnh thức trong đêm tối. Hãy tỉnh thức trong những khó khăn … Hãy nắm giữ hy vọng, ngay cả khi ta ở trong đêm đêm đen … Hãy đứng vững, khi mọi sự như sụp đổ. Như một bình minh mới đang xuất hiện trong đêm tối đời ta. Thiên Chúa sắp đến để cứu độ dân Người. Chính nhờ đêm tối ta dễ tin vào ánh sáng. Đề tài này Gioan Thánh Giá rút ra được một xác quyết: Thiên Chúa vẫn có đó là nguồn tín nhiệm, hiện diện mãi mãi, nhưng vẫn còn là đêm tối.
Lúc gà gáy …
Maccô, thư ký riêng của Phêrô đã đưa ra một so sánh tực tiếp. Ngay trước khi chịu khổ hình, trước lúc vào vừơn Ghét-sê-ma-ni, nơi Phêrô sẽ ngu thay vì phải tỉnh thức trước khi bước vào đêm bi thảm mà tiếng gà sẽ nhắc cho Phêrô biết mình thiếu tỉnh thức (Mc 14,72), thì Đức Giêsu nói cho “người giữ cửa” của Giáo Hội cần phải tỉnh thức. Nhưng ta biết, ông thiếu thai độ đó. Ôi! lúc gà gáy, Phêrô mới nhận ra tôi lỗi và sự chối bỏ của mình! Điều đó cho ta nhận ra rằng, Giáo Hội cũng mang tính nhân loại biết bao! Và điều đó mời gọi ta không nên thất vọng trước những yêu đuối của Giáo Hội.
Ông chủ có thể đến bất thần …
Thiên Chúa luôn đến bất thần, không ngờ, đột ngột! Hầu như có thể nói được rằng, đó là dâu hiệu của Thiên Chúa đích thực: Đấng hoàn toàn khác lạ! Mỗi lần ta tưởng mình đã xác định phạm vi của Thiên Chúa, thấu hiểu và đặt nhãn hiệu cho Người, chắc chắn là ta đã lầm lẫn về Thiên Chúa, đã lấy ước muốn ta làm thực tại. Lạy Chúa, xin giúp con biết mở rộng tâm trí đón nhận sự mới mẻ trong cách Chúa hiện diện. Xin giữ gìn chúng con luôn sẵn sàng trước việc Chúa đến viếng thăm cách bất ngờ.
Bắt gặp anh em đang ngủ.
Trước Thiên Chúa, ta vẫn thường mê ngủ … nên dễ sửng sốt. Cần phải thoát ra tình trạng mê ngủ thiêng liêng, lờ đờ đó. Cần phải nỗ lực tự tạo một lối sống linh hoạt, cương nghị, thay vì buông xuôi tới ù lì, mê ngủ. Lạy Chúa, xin giữ chúng con trong tình trạng tỉnh táo, luôn tỉnh thức.
Thầy nói với hết thảy mọi người là: Phải canh thức.
Đối với Đức Giêsu, sự “hiện diện” của Chúa vẫn ở đó, giữa các biến cố ta đang sống. Lạy Chúa xin giúp chúng con tỉnh thức, chú ý nhận ra sự hiện diện của Chúa. Xin giài thoát chúng con khỏi tình trạng mê ngủ, khô nhạt, dễ làm chúng con không nhận ra Chúa vẫn thường xuyên đến viếng thăm. Mùa vọng bắt đầu! Đây là thời gian “canh thức”…
79. Cửa trời hẹp lắm ai ơi!
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Chúng ta bắt đầu một chu kỳ phụng vụ mới, một năm phụng vụ mới, mùa đầu tiên của năm phụng vụ là Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa của hy vọng nở hoa, nếu chúng ta hiểu được nỗi chờ đợi của một em bé mong mẹ đi chợ về, nỗi chờ mong gặp lại một người thân yêu xa vắng, nỗi khát vọng của một người mẹ “bồng con mẹ ải chờ mong, cho lòng chinh phụ hóa thành vọng phu”, nỗi mong chờ của một người cha già Tin Mừng chờ đón con về… thì chúng ta sẽ hiểu được thế nào là Mùa Vọng.
Xưa kia, Mùa Vọng được gọi là mùa Át, “Át” là âm đầu tiên gọi tắt của tiếng “Adventus”, một tiếng La Tinh, có nghĩa là đến hay sắp đến. Với phong trào Việt hóa, có một thời lại được gọi là Mùa Áp, “Áp” có nghĩa là gần kề hay kề bên, cả hai cách gọi trên tuy cũng nói lên phần nào ý nghĩa của mùa này nhưng chưa được rõ ràng. Ngày nay với hai tiếng “Mùa Vọng” bao hàm ý nghĩa rõ hơn: mùa hy vọng, mùa trông đợi, mùa chờ mong. Hy vọng, trông đợi, chờ mong cái gì? Chờ mong Chúa Giêsu giáng sinh. Vì thế, Mùa Vọng đầu tiên có nghĩa là một thời gian chuẩn bị đạo đức để xứng đáng mừng lễ Giáng Sinh. Nhưng đến thế kỷ thứ VII, Mùa Vọng lại thêm một ý nghĩa nữa: trông đợi, chờ mong Chúa quang lâm, Chúa tái giáng để phán xét nhân loại.
Như vậy, Mùa Vọng là mùa nhắc lại thời gian nhân loại chờ đợi Đấng Cứu Thế đến cứu chuộc, và cũng nói lên nỗi chờ đợi của Giáo hội hôm nay: đợi Đức Ki-tô đến lần thứ hai khi lịch sử kết thúc để phán xét nhân loại. Ngoài ra, với mỗi người, Mùa Vọng cũng nhắc nhở chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng chờ đón Chúa trong mỗi ngày của đời sống và đặc biệt trong ngày chết khi Chúa đến gọi chúng ta về với Ngài. Vì thế, lời Chúa của Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta ba điều: thứ nhất về ngày Chúa quang lâm, thứ hai về ngày chúng ta ra khỏi trần gian, thứ ba chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Về ngày Chúa quang lâm, tức là ngày Chúa tái giáng, Chúa trở lại trần gian, ngày phán xét chung. Ngày ấy không ai biết khi nào xảy ra, chỉ một mình Thiên Chúa biết mà thôi, một mình Ngài quyết định khi nào Ngài trở lại, và chỉ khi nào ngày ấy xảy ra thì người ta mới biết chứ không ai biết trước. Kinh Thánh ví ngày đó như kẻ trộm ban đêm, có bao giờ kẻ trộm lại báo trước ngày giờ nó đến ăn trộm đâu. Cũng vậy, ngày Chúa đến rất bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ. Có thể hôm nay người ta cho rằng ngày Chúa quang lâm là thứ “cọp giấy” tức là không có hay nếu có cũng còn lâu lắm. Xin những ai có ý nghĩ như vậy thì hãy nhớ: lời Kinh Thánh đúng từng dấu phẩy, Kinh Thánh ứng nghiệm từng điều từng nét. Hơn nữa, ngày Chúa quang lâm là một chân lý chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính và mỗi khi dự thánh lễ: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”.
Đàng khác, Tin Mừng hôm nay mặc dầu đề cập tới ngày tận thế nhưng cũng nhắc nhở chúng ta suy nghĩ về ngày tận số của mình, tức là về ngày chết của chính chúng ta. Chết là cái mốc cuối cùng mà bất cứ ai đã sinh ra ở đời này thì trước sau gì cũng sẽ tới ngày ấy, vì thế chúng ta phải nghĩ tới nó, chúng ta phải tính toán, phải nghĩ tới ngày chết của mình. Nói khác đi, chúng ta phải nghĩ tới cuộc sống vắn vỏi của mình nơi trần gian. Thật vậy, cuộc đời con người sánh với thời gian đã chẳng là gì, nhưng nếu sánh với sự sống vĩnh cửu lại càng mong manh hơn biết bao. Cuộc đới không những phù du mà còn kèm theo tính cách bất ngờ nữa, không ai biết được khi nào mình chết, ngày giờ chết là bất ngờ nên Chúa dạy chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
“Tỉnh thức”, theo nguyên nghĩa là không ngủ, và cũng có nghĩa là sẵn sàng. Người ta có thể tỉnh thức để tiếp tục làm cho xong một công việc, hoặc để tránh một điều tai hại có thể xảy đến, cho nên, tỉnh thức còn có ý nghĩa là canh phòng, túc trực giao tranh, phấn đấu chống sự lơ đãng cẩu thả để đạt một mục đích đã nhắm. Đó chính là ý nghĩa của tiếng “canh thức” Chúa Giêsu căn dặn chúng ta: hãy chờ đợi Chúa đến trong tinh thần sẵn sàng, là luôn sống trong ơn nghĩa Chúa.
Chúng ta hãy nghĩ tới trường hợp của hai người vợ cùng có chồng đi vắng xa lâu năm: một người, tuy xa chồng nhưng tâm hồn lúc nào cũng tưởng nhớ tới chồng, vẫn coi như chồng đang có mặt ở nhà, bà săn sóc con cái chu đáo, gánh vác phần chồng, tiếp tục gây dựng gia đình như xưa. Còn bà kia, cũng nhớ tới chồng, nhưng chán nản, bỏ bê con cái, chểnh mảng việc nhà, lâu lâu lại tìm vui với những người đàn ông khác, khiến mọi người dị nghị đàm tiếu. Bây giờ, bỗng nghe tin cả hai người chồng đều trở về với gia đình, chắc hẳn hai người vợ trên sẽ đón tin này, mỗi người một cách khác nhau. Cũng thế, nếu chúng ta tỉnh thức mong chờ Chúa thế nào, thì Chúa sẽ đến với chúng ta như vậy. Cho nên, chúng ta phải chuẩn bị đón Chúa luôn luôn, để bất cứ lúc nào Chúa đến chúng ta cũng sẵn sàng: “Cửa trời hẹp lắm ai ơi, muốn vô thì phải ép mình chớ quên”.
80. Mong đợi Chúa
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Năm mới theo dương lịch, bắt đầu vào ngày 1 tháng Một mỗi năm. Năm mới theo âm lịch, bắt đầu vào ngày 1 thánh Giêng. Năm mới theo phụng vụ, bắt đầu vào ngày Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng. Mừng lễ Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng là chúng ta bước vào một năm phụng vụ mới.. Như vậy, Mùa Vọng là mùa xuân của năm phụng vụ, từ đó phát sinh hy vọng. Trong mùa xuân, cây cối trổ sinh lộc non lá mới, bắt đầu kết nụ đơm hoa chuẩn bị cho một mùa thu hoạch mới. Và như thế mùa xuân cũng là mùa hy vọng, đó là thời gian trông chờ, mong đợi.
Đối với niềm tin của chúng ta, Mùa Vọng thực sự là mùa trông chờ, mong đợi. Lòng trông đợi mỗi lúc một rộn ràng hơn khi càng gần lễ Giáng Sinh; đồng thời mang nhiều sắc thái và mức độ khác nhau tùy tâm trạng mỗi người: người ta đợi Nô-en như một dịp để ăn chơi, để giao thiệp; đợi Nô-en như một cơ hội "nhất cử lưỡng tiện": tiễn năm cũ và đón chờ năm mới may mắn, phát đạt hơn như phần đông tín hữu các nước theo dương lịch. Hoặc đợi Nô-en theo đúng tinh thần Tin mừng là đón Đấng Cứu Tinh nhân loại. Còn chúng ta, chúng ta mong đợi gì? Niềm trông đợi của chúng ta có ý nghĩa nào?
Chúng ta có thể trả lời: Chúng ta mong đợi Chúa đến. Ý nghĩa "Chúa đến" thường được hiểu ba cách: - Chúa đến trong lịch sử nhân loại - Chúa đến trong ngày thẩm phán chung hoặc riêng - Chúa đến trong tâm hồn mỗi người. Nhiều lúc chúng ta có khuynh hướng coi cả ba ý nghĩa này đều xa lạ với tư tưởng mong đợi. Thực vậy, trong lịch sử, Chúa đã đến từ hai ngàn năm và hiện giờ chúng ta đã kỷ niệm ngày sinh của Chúa từng mấy chục lần trong đời sống rồi. Còn trong ngày chung thẩm, trong cái chết của mỗi người thì sao? Dĩ nhiên Chúa đến, nhưng chẳng lẽ cứ ngồi mà lo sợ chờ chết ư? Cũng phải tạm quên cái chết để vật lộn với cuộc sống chứ? Còn Chúa đến trong cuộc sống mỗi người, thì ngày nào chúng ta chẳng đón Chúa trong kinh lễ, trong giờ cầu nguyện sớm tối? Thế thì chúng ta mong đợi cái gì nữa?
Giáo Hội dạy chúng ta vẫn phải mong đợi. Và hàng năm Giáo Hội tổ chức Mùa Vọng, không phải chỉ cốt để chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, không phải chỉ dạy chúng ta gây dựng tâm tình mong đợi trong mùa đó, nhưng Giáo Hội muốn nhân không khí Giáng Sinh dạy chúng ta phải có tâm tình mong đợi thường xuyên, phải mong đợi Chúa hàng ngày: Chúng ta mong đợi Chúa trong ngày chúng ta từ giã cuộc sống để về với Chúa. Đó cũng là một biến cố đích thực và có ý nghĩa.
Kinh Thánh và giáo lý dạy cho chúng ta biết: mỗi người có hai kiếp được sống và phải sống: một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu; một đời sống hiện tại và một đời sống tương lai; một đời sống hành hương và một đời sống quê thật; một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết duy có một lần, đó là lần bái yết Chúa đầu tiên và duy nhất. Đành rằng có một ít người được ơn lạ chết đi sống lại hai lần, như La-da-rô hay con trai bà góa thành Na-im hay một vài trường hợp nào đó, nhưng hầu hết nhân loại chỉ chết có một lần, vì kiếp sống tạm bợ ở trần gian chỉ diễn ra có một lần.
Sự chết xảy tới với mỗi người được Kinh Thánh gọi là Chúa đến. Và việc Chúa đến này thường xảy ra bất ngờ, bí mật. Thiên Chúa muốn giữ bí mật như vậy để chúng ta luôn luôn sẵn sàng, và do đó luôn cố gắng sống tốt lành thánh thiện. Chẳng hạn như trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô thuật lại dụ ngôn về đầy tớ phải canh thức đợi chủ về: " Anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến". Còn thánh Mát-thêu thì nói rõ: "Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến". Trong cả hai trường hợp, ý nghĩa đều rõ ràng là Chúa Giêsu nói về chính mình Ngài.
Chính vì yếu tố bất ngờ đó mà Chúa dạy chúng ta phải luôn canh thức và sẵn sàng. Bởi vì cuộc đời con người đem so sánh với thời gian đã là một cái gì tạm bợ. Nhưng nếu đem so sánh với sự sống vĩnh cửu, thì nó càng mong manh hơn biết bao. Người ta đã từng ví von: đời người như hơi nước dễ tan, như hơi thở qua mau, như cánh chim lưng trời mất hút, như bông hoa sớm nở chiều tàn. Cuộc đời không những phù du mà còn kèm theo tính cách bất ngờ nữa: không ai biết khi nào mình từ biệt cõi đời, như kinh nghiệm vẫn minh chứng và Kinh Thánh đã nói tới từ khi có con người.
Nhìn chung lại, đoạn Tin mừng này nêu chủ đề: Chúa sẽ đến, nhưng chúng ta không biết ngày nào, vậy phải canh thức để được sẵn sàng đón Ngài khi Ngài đến. Canh thức sẵn sàng như người đầy tớ hoàn thành nhiệm vụ được trao phó, như các trinh nữ khôn ngoan cầm đèn đi đón chàng rể, như người được trao vốn đem kinh doanh sinh lời lãi, và cuối cùng bằng đời sống yêu thương phục vụ. Đó là cách thế chờ đợi Chúa đến.
Mùa Vọng là mùa trông đợi. Trông đợi Chúa đến lần thứ hai trong ngày tận thế. Nhưng cũng là trông đợi giây phút cuối cùng của mỗi người khi ra đi gặp Chúa. Chúng ta đã chuẩn bị hành trang gì cho giây phút gặp gở ấy và có canh thức sẵn sàng chu toàn bổn phận mà Chúa trao cho hay không, để ngày Chúa đến là một niềm vui chứ không phải nỗi buồn, và chúng ta gặp Thiên Chúa tình yêu chứ không phải Thiên Chúa phán xét. Chúng ta canh thức mong chờ Chúa thế nào thì Chúa sẽ đến với chúng ta như vậy. Cho nên, chúng ta phải luôn sống trong tư thế sẵn sàng đón Chúa.
81. Chờ đợi nhưng phải tỉnh thức
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.)
Tại chùa Tô Châu, có một nhà sư tên Viên Phủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có một cái nắp đậy mở được.
Khách đến chơi trông thấy cười và nói rằng:
- “Ngài chế ra cái này dùng để làm gì?”.
Vị sư trả lời:
- “Người ta sống tất có chết, mà chết thì vào ngay cái này. Ta thực lấy làm lạ: người đời ai ai cũng chỉ biết có phú quý, công danh, tài sắc thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời chẳng biết cái chết là gì!
Như ta đây, mỗi khi có việc không được như ý, ta cầm lấy cái này mà ngắm xem, là tức khắc trong lòng được yên ổn, mà muôn nghìn sự tư lự đều biến tan đi” (trích trong sách Lẽ Sống).
Nhà sư Viên Phủ Trung quả là một con người biết đón chờ cái chết trong sự tỉnh thức:
1. Mùa Vọng là gì?
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa Vọng.
Nói đến Mùa Vọng, người ta nghĩ ngay đến sự chờ đợi. Nhưng là chờ đợi trong hy vọng.
Nơi cuộc đời của mỗi người, chúng ta cũng đã trải qua rất nhiều lần chờ đợi, hay chính bây giờ, vẫn đang chờ một cái gì đó!
Sự chờ đợi có thể là tích cực, và cũng có thể là tiêu cực.
Nếu sự chờ đợi mà biết chắc nó sẽ đến, thì trong lòng luôn háo hức, mong ngóng và đợi trông giây phút đó sớm đến. Khi đến, nó sẽ đem lại niềm vui mừng khôn xiết.
Nếu sự chờ đợi mà biết chắc chắn sẽ không bao giờ xảy ra thì đây là một sự chờ đợi trong thất vọng.
Với người Công Giáo, Giáo Hội mời gọi con cái mình sống tinh thần Mùa Vọng trong niềm vui vì chúng ta có niềm hy vọng nơi sự chờ đợi.
Niềm hy vọng ấy là: ngoài việc sống lại tinh thần của dân Dothái khi xưa đón đợi Chúa Cứu Thế, chúng ta còn được mời gọi sống tinh thần đón đợi Ngài đến với mỗi người cũng như nhân loại qua ngày cánh chung lần thứ hai trong vinh quang, oai hùng, khải hoàn với tư cách là vị Vua quyền năng, chí công và xót thương để phán xét và thưởng công mỗi người.
Như vậy, sống tinh thần Mùa Vọng không chỉ dừng lại nơi quá khứ để hoài niệm về một biến cố! Nhưng nó còn đi xa hơn, đó là giúp chúng ta đi vào trọng tâm của sứ điệp yêu thương mà Thiên Chúa ban tặng cho con người nơi Mầu Nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Từ đó, chúng ta được mời gọi chuẩn bị tâm hồn thật tương xứng với hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa trao tặng cho con người.
2. Chờ đợi nhưng phải thức
Như đã trình bày ở trên, Mùa Vọng là mùa chờ đợi, nhưng sự chờ đợi của chúng ta phải luôn gắn liền với tinh thần tỉnh thức.
Tuy nhiên, tỉnh thức như thế nào cho xứng hợp với tinh thần của Mùa Vọng?
Thưa, trước hết: cần loại bỏ những thứ đam mê của tội lỗi. Nếu mải mê và chạy theo cám dỗ và ngủ lỳ trong tội, thì con người sẽ trở nên bạc nhược. Bởi vì, tội lỗi được ví như bức màn che lấp con mắt tâm linh; như hòn đá cản lối bước đi; như đám bèo cản dòng sông chảy….
Thứ đến: cần loại bỏ danh vọng. Danh vọng là thứ rất hấp dẫn con người. Nó làm cho con người nhiều khi mất cả nhân cách để đi tìm cho được danh vọng. Vì thế, đã không ít người tìm đủ mọi cách như nói xấu, vu vạ người khác, hay mua chuộc, kéo bè kéo cánh…, để miễn sao đạt được danh vọng. Tuy nhiên, có những thứ danh vọng hão huyền, nhưng con người lại cứ mê mẩn chạy theo. Chính vì vậy nên họ đi hoài, đi mãi mà không tới đích, đến khi hết giờ mới chợt nhận ra mình đã đi theo ảo vọng.
Tiếp theo: cần loại bỏ những bóng đêm của ham mê xác thịt. Hấp lực của giới tính nó có thể làm thăng hoa con người, để mỗi người sống hài hòa với nhau và cộng tác với Thiên Chúa trong công trình tạo dựng. Tuy nhiên, nó cũng là con dao hai lưỡi cho những ai thượng tôn nó! Khi đã ưu tiên cho nó ở vị trí đặc biệt, thường nó sẽ làm cho chúng ta nhu nhược và sa đà vào những con đường ăn chơi xa đọa, làm mất đi ý nghĩa nguyên thủy khi lý trí đã bị thuần hóa….
Hơn nữa: cần loại bỏ thói ích kỷ. Ích kỷ là chỉ biết nghĩ cho mình, không biết quan tâm đến người khác. Người sống trong sự ích kỷ được ví như con ốc thu mình trong cái vỏ bọc dầy cộm của mình, nên họ thường hay rơi vào tình trạng bảo thủ, kiêu ngạo và thiếu sự liên đới, quan tâm đến anh chị em. Sự ích kỷ được ví như con đường cụt, hay ao tù. Nó sẽ làm cho con người bị cùng đường không lối thoát hay phải sống chung với những xú uế nhơ nhớp….
Cuối cùng: loại bỏ những tham lam về tiền của cách thái quá. Người ta thường nói: đồng tiền liền với ruột. Vì thế, con người thường chạy đua trong cuộc chiến kiếm tiền. Vì tiền, nhiều người đã bất chấp tất cả, ngay cả khi phải cướp đi mạng sống của người vô tội; hay buôn gian bán lận; lừa đảo…. Chính vì thế, đồng tiền nó đã làm lu mờ lương tâm, và lẽ tất yếu, không còn nhạy bén với ơn Chúa nữa.
Như vậy, chúng ta có thể nói, Mùa Vọng là mùa tỉnh thức. Tuy nhiên, tỉnh thức là phải biết phân định để chọn cho mình những gì phù hợp với giá trị Tin Mừng.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Trong đời sống thực tế hôm nay nơi con cái của Giáo Hội cũng như của nhân loại nói chung, người ta quá dửng dưng với tinh thần tỉnh thức. Người ta rất ngại nói hay bàn tới những chuyện đạo đức! Như vậy, đồng nghĩa với việc con người ít quan tâm đến chuyện đời sau!
Nhiều người có suy nghĩ rằng: đời còn dài, chưa đi đâu mà vội! Vì thế, họ thường viện đủ mọi lý do để “đáo hạn” với Chúa.
Tuy nhiên, sự thật đã chứng minh cho thấy: đã có biết bao cuộc ra đi quá bất ngờ! Mới tối qua còn chung mâm, đêm chung giường, thế mà sáng dạy, một người đã ra đi vĩnh viễn. Hay cũng có những trường hợp vừa mới tay bắt mặt mừng vì những thành công, chiến thắng…, nhưng chỉ trong chốc lát, tin tử nạn đã được báo về. Hoặc có biết bao người khỏe mạnh, béo tốt, nhưng chỉ một cơn gió thoảng qua cũng đã làm cho họ trở nên bất động. Rồi biết bao người làm lớn, lắm tiền, nhiều bạc, ăn uống sung túc, cuộc sống giàu sang…, nhưng chỉ tích tắc đã để lại tất cả và ra đi với hai bàn tay trắng!
Từ những thực tế ấy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay gửi đến cho mỗi chúng ta, đó là: “Hãy tỉnh thức”; “hãy sẵn sàng”.
Tỉnh thức để đón chờ Chúa đến. Ngày đó đến như kẻ trộm lúc đêm khua; như câu chuyện lụt hồng thủy thời ông Noe; thình lình như chuyện hai người đàn ông đang làm ruộng hay hai người đàn bà đang kéo cối xay, một người được đem đi và người kia bị bỏ lại.
Nếu không tỉnh thức, chắc chắn chúng ta sẽ không thể là người được cứu sống như những người được ở trong tàu ông Noe. Không tỉnh thức, căn nhà tâm hồn của chúng ta cũng sẽ bị đào ngạch, khoét vách để kẻ trộm lấy đi những giá trị tâm linh của mình. Và, nếu không tỉnh thức, chúng ta cũng sẽ bị để lại như những người bất hạnh....
Mong sao trong Mùa Vọng này, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội để thức tỉnh lương tâm, biết nhạy bén với những dấu chỉ để ăn năn sám hối, ngõ hầu không bị vướng mắc vào cạm bẫy của ma quỷ khi chủ trương cho rằng: đời còn dài, cứ ăn chơi trác táng, đến đâu lo đến đó. Nghĩ như thế, ấy là chúng ta đã mắc câu của Satan, và lẽ tất yếu, mỗi người sẽ phải lãnh bản án mà Thiên Chúa cũng đã dành cho thế giới của chúng khi xưa, đó là bị ném vào nơi khóc lóc và nghiến răng.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết tỉnh thức để đón đợi ngày Chúa đến với chúng con trong vinh quang của ngày cánh chung với tâm hồn trong sạch và tinh thần sẵn sàng. Amen.
82. Đợi trông như thế nào?
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Năm Phụng Vụ cũ đã qua với lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta bước vào một Năm Phụng Vụ mới được đánh dấu bằng Chúa Nhật thứ I Mùa Vọng.
Bước vào một chu kỳ Phụng Vụ mới, mỗi người chúng ta được mời gọi sống tâm tình Mùa Vọng là Mùa trông đợi.
Tuy nhiên, có phải cứ đứng và trông với đợi hay chúng ta phải có một hành động đợi trông xứng hợp với tinh thần của Chúa và lời mời gọi của Giáo Hội?
1. Ý nghĩa của Mùa Vọng
Trước khi tìm hiểu ý nghĩa của Mùa Vọng, chúng ta cùng lội ngược dòng để thấy được dân Israel đã sống sự chờ đợi như thế nào?
Có thể nói ngay, suốt dòng lịch sử dân tộc Israel là một cuộc chờ đợi không ngừng. Xuất phát từ hoàn cảnh bị áp bức, bóc lột trong thân phận nô lệ tại Babylon. Nỗi khổ đau chồng chất đã thức tỉnh sự hy vọng nơi họ. Dân Israel chờ mong một Đấng Mêsia đến để giải thoát mình khỏi cảnh tàn tạ của số phận họ đang chịu và xây dựng một nền hòa bình, công chính, nơi đó không còn cảnh chém giết, bóc lột, áp bức... Lời khẩn cầu xin Chúa tha thứ những tội lỗi và "băng qua các tầng trời mà ngự xuống"; hay "Trời cao hãy đổ sương xuong, và ngàn mây, hãy mưa Đấng Cứu Đời" là nỗi niềm trông mong nơi dân tộc này.
Như vậy, Mùa Vọng là Mùa đợi trông. Đợi trông ơn cứu độ của Thiên Chúa trao ban qua Đức Giêsu. Ngài đến để ban nguồn bình an, hạnh phúc, phá tan đi sự chia rẽ, hận thù và xây dựng một thế giới chan chứa tình yêu, một xã hội luôn được công lý ngự trị và điều khiển tâm can con người.
Tuy nhiên, Mùa Vọng không chỉ là Mùa đợi trông, chuẩn bị đón mừng Chúa Giáng Sinh, nhưng Mùa này còn là Mùa đợi trông Chúa đến với chúng ta trong ngày cánh chung, ngày thế mạt, ngày kết thúc lịch sử loài người.
Ngài đến trong tư cách là vị thẩm phán chí công để xét xử, để phân biệt tốt xấu. Lua và cỏ lùng. Cá tốt và cá xấu. Chiên với dê...
Mùa Vọng cũng là dịp để chúng ta suy nghĩ về thân phận mong manh, mỏng dòn của mình để chuẩn bị cho xứng đáng ngày Chúa đến với từng người trong ngày chúng ta rời xa trần gian để trở về với Chúa qua cái chết của riêng mình.
Tuy nhiên, trong lối nhìn của ân sủng, thì Mùa Vọng còn hiểu theo nghĩa mong chờ Chúa đến với chúng ta từng ngày trong Thánh Lễ, nơi Bí Tích Thánh Thể và ngang qua tình yêu của Ngài trên cuộc đời từng giây, từng phút...
Như vậy, dù hiểu theo nghĩa nào, thì Mùa Vọng vẫn là Mùa trông đợi Chúa đến. Nhưng điều quan trọng là chúng ta cần có thái độ nào trong khi trông đợi như vậy? Ngủ mê hay tỉnh thức; sẵn sàng hay ù lỳ...?
2. Vọng trong tỉnh
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã soi sáng cho các môn đệ và những người đương thời với Ngài một thái độ cần phải có khi trông chờ Chúa đến. Thái độ đó là: "Các con hãy tỉnh thức".
Tỉnh thức như người đầy tớ canh cửa để đón chủ về bất cứ lúc nào. Tỉnh thức là không được ngủ. Tỉnh thức là phải sẵn sàng.
Tỉnh thức còn được ví như 5 cô trinh nữ khôn ngoan cầm đèn ra đi chờ đón chàng rể. Các cô không chỉ có đèn, mà còn có cả dầu phòng bị...
Công đồng Vatican II đã diễn tả tâm tình này trong hiến chế Lumen gentium: "... vì không biết ngày và giờ, chúng ta phải theo lời Chúa dạy, luôn tỉnh thức, để khi cuộc đời độc nhất của chúng ta ở trên trần gian chấm dứt (x. Dt 9,27), chúng ta xứng đáng vào dự tiệc cưới với Người và được liệt vào số những người được chúc phúc (x. Mt 25,31-46) chứ không như những tôi tớ khốn nạn và lười biếng (x. Mt 25,26) sẽ bị đẩy vào lửa đời đời (x. Mt 25,41), vào chốn tối tăm, nơi khóc lóc và nghiến răng (x. Mt 22,13 và 25,30)" (L.G. số 48)).
Thật vậy, cuộc đời của chúng ta sống chết không hề hay biết. Chúng ta không hề biết ngày nào, giờ nào! Chỉ biết rằng chúng ta phải qua ngưỡng cửa của cái chết. Cái chết được Kinh Thánh hé lộ qua hình ảnh ông chủ đi ăn cưới về: có thể ông ta về lúc chập tối, nửa đêm, gà gáy, hay ban mai, và cũng có thể là ngay chính giờ này. Cái chết cũng đến với mỗi người như vậy. Vì thế, điều duy nhất chúng ta biết chắc chắn là sẽ phải chết, và cái chết là ngưỡng cửa để ta bước vào cõi sống vĩnh hằng. Bởi vì cuộc sống trên trần gian là tạm bợ, cuộc sống mai sau mới vĩnh cửu. Cuộc sống này là nhất thời, mai sau mới tồn tại.
Thế nên, cuộc đời của mỗi chúng ta trên trần gian này được ví như một cuộc lữ hành, một chuyến hành hương đi về nhà Cha, nơi quê hương thật là Nước Trời.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Khi nói đến Mùa Vọng, hẳn ai cũng biết là Mùa đợi trông, nên phải tỉnh thức. Tuy nhiên, điều cần bàn là tỉnh thức như thế nào mới là điều quan trọng!
Thiết nghĩ lời của Đức cố Giáo Hoàng Piô XII đã nhận định làm cho chúng ta phải suy nghĩ: "Ngày nay có lẽ cái tôi lớn nhất của thế giới là đánh mất ý thức về tội lỗi". Và ở đời người ta cũng vẫn nói: "Trong cuộc song, người đáng sợ nhất chính là người không biết sợ...".
Thật thế, người ta không còn biết đâu là đúng, đâu là sai! Người ta cũng chẳng cần quan tâm đến hai chữ "Lương Tâm" thì hỏi rằng con người có thái độ tỉnh thức hay không? Hẳn là không rồi!
Thật vậy, nếu còn biết sợ thì họ đã không giết người cướp của. Không hối lộ tham lam. Không bóc lột người nghèo. Không chạy đua hình thức. Không sống giả tạo bên ngoài. Không vô cảm dửng dưng. Không bất nhân tâm... Họ vui vẻ làm những chuyện đó là vì họ đâu có nghĩ đến giờ chết của mình. Họ cứ tưởng mình sống như không bao giờ phải chết, vì thế, họ đâu cần sám hối...!
Tuy nhiên, với người Công Giáo, hẳn chúng ta không được để ngoài tai những lời cảnh tỉnh của Chúa, và cũng không được có thái độ vô cảm trước nỗi khổ của anh chị em...
Nếu là người biết tỉnh thức thì không còn chuyện buôn gian bán lận; cờ bạc trai gái; áp bức, bóc lột; nhưng sống đạo thật tâm, làm ăn chân chính; bác ái sẻ chia; liên đới trách nhiệm... Muốn làm được điều đó, chúng ta cần quay trở về với "Lương Tâm" và nghe theo tiếng mách bảo tự đáy lòng, hầu trong mọi lơi nói, hành động, chúng ta ý thức có cuộc sống mai hậu, có thưởng có phạt và cái chết đến bất thình lình, vì thế, cần phải chuẩn bị ngay giờ này, kẻo khi trời tối không còn kịp nữa.
Lạy Chúa Giêsu, Mùa Vọng là Mùa của chờ đợi, xin Chúa ban cho chúng con biết mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa "hãy tỉnh thức" để ngày giờ Chúa đến, chúng con được gặp Chúa và hân hoan ra đi đón chào Ngài. Amen.
83. Suy niệm của Lm. Anrê Đỗ Xuân Quế O.P.
TÂM TÌNH CỦA NGƯỜI KI-TÔ HỮU TRONG NHỮNG NGÀY CHUẨN BỊ MỪNG CHÚA GIÁNG SINH
1. Vui Mừng
Tâm tình của người Ki-tô hữu trong những ngày chuẩn bị lễ Giáng sinh phải là tâm tình mừng vui, như thánh Phao-lô khuyên nhủ trong thư gửi tín hữu Phi-líp: "Thưa anh em, anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã sắp đến rồi. Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giải bầy trước mặt Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa là bình an không ai hiểu thấu sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hiệp với Đức Giêsu Ki-tô." (Pl 4,1-7)
Ai chẳng muốn vui như thế. Nhưng xem ra khó, vì niềm vui bình thường phát xuất từ con người và sự vật bên ngoài, như vui vì được gặp lại người thân, được người ta hiểu biết thông cảm, được thành công may mắn, không phải lo ăn lo mặc, có công việc làm bảo đảm chắc chắn, có một địa vị nào đó trong xã hội v.v... Thành ra niềm vui phải dựa vào ngoại cảnh. Ngoại cảnh có thuận lợi thì lòng người mới dễ vui. Nếu vui chỉ hiểu theo nghĩa này thôi thì phạm vi khá nhỏ hẹp và cũng chẳng mấy khi chúng ta hoàn toàn được vui, vì có bao giờ chúng ta hội đủ được những điều kiện bên ngoài để vui đâu; mà dù cho có đi nữa thì niềm vui cũng không kéo dài được. Bởi vậy người ta mới phải mua vui, tìm vui. Nhưng rồi những niềm vui này cũng lại mau qua khiến người ta phải tìm những niềm vui khác. Và cứ thế, cái vui này tiếp nối cái vui kia cho đến khi chẳng cái vui nào thỏa mãn hoàn toàn được lòng người.
Nhưng tâm tình mừng vui của người tín hữu trong những ngày này vượt ra ngoài phạm vi của những niềm vui thông thường. Đó là niềm vui trong Chúa. Niềm vui trong Chúa phải chăng là quá lý tưởng không thực tế? Nghe nói thì cũng biết vậy thôi, chứ lý thú gì cho bằng những niềm vui thông thường ở đời! Quả thật, thoạt mới nghe vui trong Chúa có vẻ lý thuyết lắm, nhưng nghĩ kỹ mới thấy thấm thía và chỉ có niềm vui này mới thỏa mãn được khát vọng sâu xa của lòng người.
Vui trong Chúa là thế nào?
Vui trong Chúa là đặt niềm vui nơi Chúa, lấy Chúa làm niềm vui cho mình hay được Chúa đổ đầy Thánh Thần của Người trong chúng ta. Vui trong Chúa, bởi vì chính Chúa là nguồn hoan lạc của ta. Niềm vui này căn cứ trên ơn được Chúa ở cùng. Chúa ở trong linh hồn ta, khi ta sạch tội. Người ban cho ta được bình an trong tâm hồn, được thanh thoát nhẹ nhàng, được nếm tất cả sự ngọt ngào khi kết hợp với Người, qua những lần tiếp xúc với Người trong kinh nguyện ở nhà thờ hay ở những nơi thanh vắng yên lặng, lúc chúng ta cầu nguyện riêng một mình. Chúng ta còn vui khi được Chúa ban cho sức mạnh để đẩy lui các cơn cám dỗ, hoặc chịu đựng và thắng vượt các nghịch cảnh.
Hiệu quả của niềm vui này là chúng ta ăn ở hiền hòa, rộng rãi, tin tưởng phó thác mọi nỗi lo âu của chúng ta trong tay Chúa và thành thật giải bày với Người những điều chúng ta ước ao thỉnh nguyện.
Làm thế nào để có được niềm vui này?
Đây là niềm vui Chúa ban vào thời Đấng Mê-si-a ngự đến, nghĩa là thời Cứu thế, đặc biệt hằng năm vào dịp chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, Người ban cho ai nấy được chan chứa niềm vui, vì được Người đến viếng thăm và ban ơn cứu độ.
Điều kiện để được hưởng niềm vui này, trước hết là chúng ta phải có một tâm hồn đơn sơ nghèo khó, nghĩa là tùy thuộc và trông đợi ở Chúa. Sự nghèo khó ở đây hiểu về một trạng thái tinh thần hơn là một cảnh nghèo thực sự, vì ai cũng có thể tạo cho mình một tâm hồn đơn sơ nghèo khó qui hướng và tùy thuộc vào Chúa như những người con tùy thuộc cha mẹ.
Ngoài ra là khiêm nhường. Người nghèo bên trong cũng như bên ngoài thì dễ khiêm nhường, không tự phụ vì biết mình chẳng có gì đáng tự phụ. Mà Chúa lại đặc biệt ưa thích và ban ơn cho hạng người nghèo vì họ được Thiên Chúa ưu tiên viếng thăm (xem Lc 2,24), chúc lành (Lc 6,20; Mt 5,3).
Cuối cùng là cầu nguyện. Nhưng không phải là cầu nguyện để xin những ơn vật chất mà thôi, nhưng cầu nguyện để kết hợp với Chúa, để tìm ra ý của Người và nhất là để khám phá ra tất cả ý nghĩa của cuộc đời người Ki-tô hữu.
2. Lắng Nghe Tỉnh Thức
Tỉnh thức và lắng nghe là hai thái độ cần thiết của những người sống trong tình trạng chờ đợi và canh chừng. Hiện nay, trong những ngày gần kề chuẩn bị lễ Giáng sinh, chúng ta là những người đang đợi chờ và canh chừng Chúa đến.
Lý do khiến chúng ta phải tỉnh thức, canh chừng, ngoài ý nghĩa tôn giáo sâu xa, là một lý do thuộc phạm vi giao tế do phép lịch sự xui khiến.
Quả vậy, theo phép lịch sự thông thường, khi đã hẹn đón ai thì lúc người ấy đến, ta phải tỏ ra sẵn sàng đón tiếp người ấy. Ta càng quý người mình đón tiếp bao nhiêu thì lại càng tỏ ra mình bằng lòng mất thời giờ vì người ấy, và nếu có bị xáo trộn một chút trong nếp sống hàng ngày thì cũng lấy làm vui.
Đối với Chúa Cứu thế cũng vậy. Sắp đến ngày trọng đại kỷ niệm lễ Giáng sinh của Người rồi; lẽ đương nhiên là chúng ta phải tỉnh thức chờ Người đến. Chúng ta đã biết ngày và giờ Người đến, nhưng ngày và giờ ấy mới chỉ có tính cách kỷ niệm, và nếu chỉ mừng ngày Chúa Giáng sinh như mừng một ngày kỷ niệm thì mọi sự cũng sẽ mau qua lắm. Cho nên hàng năm, chúng ta mừng lễ Giáng sinh như một kỷ niệm đã đành, vì đó là một ngày rất đáng kỷ niệm, một biến cố phân chia lịch sử loài người ra làm hai giai đoạn, mà hơn nữa còn phải mừng ngày ấy như một dịp nhắc nhở và hướng lòng chúng ta về thời viễn lai như chúng ta vẫn thường xưng tụng mỗi ngày trong Thánh lễ: " Lạy Chúa Ki-tô phục sinh, mỗi lần ăn bánh và uống chén này chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết và đợi chờ ngày Chúa quang lâm".
Bây giờ chúng ta chuẩn bị mừng ngày Giáng sinh nhưng chính ra là đợi chờ ngày Chúa quang lâm, nghĩa là ngày Chúa đến lần thứ hai, khi lịch sử loài người kết thúc. Lần thứ nhất, Chúa đến trong hang đá máng cỏ, trong cuộc đời hàng ngày của chúng ta và lần thứ hai Người đến với đầy vẻ oai phong rực rỡ để phán xét người sống cũng như kẻ chết, rồi đưa chúng ta vào vương quốc của Người.
Ban đầu Giáo hội không mừng lễ Giáng sinh mà chỉ mừng lễ Phục sinh. Mãi đến năm 353, ĐGH Li-bê-ri-ô mới ấn định ngày 25 tháng 12 làm ngày mừng Chúa giáng sinh, để thay cho ngày đông chí của người Rô-ma mừng Thần Mặt trời cũng vào những ngày đó. Còn hình thức mừng lễ Giáng sinh như ngày nay với cây thông đèn sao hang đá, máng cỏ mới có từ thế kỷ XIII (1223) vào thời thánh Phan-xi-cô khó khăn, hai năm trước khi thánh nhân qua đời. Sau đó, thánh Clara mới đem phổ biến trong Dòng Anh em hèn mọn, rồi cuối cùng lan rộng khắp thế giới.
Phải tỉnh thức thế nào?
Phải tỉnh thức như những người hoạt động chứ không phải như những kẻ ngồi chờ mà không làm gì cả. Trước hết là tỉnh thức để chỉnh đốn lại linh hồn. Thứ hai là tỉnh thức để nghĩ và hướng về ngày Chúa đến rực rỡ trong vinh quang, bằng những việc làm biểu lộ đức tin của mình. Thứ ba là tỉnh thức để tránh rơi vào cạm bẫy của những hành vi đam mê, dục vọng bất chính.
Có như thế thì việc chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh hằng năm mới có ý nghĩa sâu xa và nhắm tới ngày Chúa lại đến là ngày quyết định cho cuộc đời Ki-tô hữu chúng ta.
3. Lắng Nghe
Trong những ngày này, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta và quả thực Người đã nói nhiều qua những bài sách Thánh chúng ta đã nghe từ đầu Mùa Vọng cho đến bây giờ và đặc biệt từ đầu tuần cho đến nay. Những lời đó là những lời loan báo Chúa Cứu thế đã gần đến và chúng ta phải sửa soạn ra nghênh đón Người.
Thiên Chúa đã nói.
Người đã nói bằng nhiều kiểu nhiều cách với các bậc tổ tiên chúng ta như Áp-ra-ham, Gia-cóp, I-xa-ác và các ngôn sứ như Ê-li, Ê-li-sêu, I-sa-i-a và đến thời cuối cùng này qua chính con Một của Người là Đức Giêsu Ki-tô. Đức Giêsu Ki-tô là chính lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói một cách đặc biệt qua chính Con Người, và cuộc đời của Đức Giêsu Ki-tô mà chúng ta đang chuẩn bị mừng kỷ niệm Giáng sinh.
Ngày nay Thiên Chúa vẫn còn nói:
Trong sách Thánh chúng ta đọc hay nghe hằng ngày, hoặc qua các biến cố xảy đến cho quê hương xứ sở, cho cá nhân, gia đình cũng như cho xã hội. Có thể coi đó là những thời điểm Thiên Chúa muốn dùng để nói với ta một cái gì. Bổn phận của chúng ta là phải tỉnh mắt, thính tai để nhìn thấy sự việc Thiên Chúa muốn chỉ bảo và lắng nghe điều Người muốn nói.
Thiên Chúa nói đặc biệt trong những Mùa Phụng vụ và những dịp lễ lớn.
Trong những Mùa và Lễ này có nhiều cái bên ngoài dễ đánh động chúng ta hơn, như những bài sách Thánh đặc biệt nói riêng về mầu nhiệm chúng ta sắp cử hành, những ngày tĩnh tâm dọn mừng lễ và chính những sự chuẩn bị ở bên ngoài để mừng lễ nữa. Tất cả những thứ đó đều có thể được coi như những cơ hội Thiên Chúa dùng để nói với chúng ta.
Vậy, thái độ chúng ta phải như thế nào?
Trước hết, phải như ngôn sứ Sa-mu-en, nghĩa là xin Chúa nói, vì chúng ta đang sẵn sàng đón nghe. Nghe rồi nhưng không bỏ ngoài tai, mà trái lại cố gắng noi gương Đức Mẹ giữ kỹ và suy đi nghĩ lại, để làm mẫu mực sống cho mình.
Ngoài ra là phải để cho lòng mình lắng xuống trong sự im lặng suy nghĩ, tạm bỏ qua một bên những bận tâm lo lắng của đời sống hàng ngày, vào những thời khắc thuận tiện mình dành cho Chúa, mỗi khi đọc kinh cầu nguyện hay đi lễ đi nhà thờ. Những thời khắc yên lặng đó dù chóng vánh cũng rất cần thiết, để cho Lời Chúa thấm vào lòng ta. Sau khi giảng, hay rước lễ, nếu có ngưng một vài phút cũng là vì vậy.
Bởi thế, lắng nghe là thái độ cần thiết và hợp lý để ý nghĩa của Mầu nhiệm Giáng sinh tràn ngập tâm hồn ta, hầu đem lại cho ta niềm vui và bình an thật sự như lời thần sứ loan báo: " Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương".
28/11 Tỉnh thức cầu nguyện.
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Tỉnh thức cầu nguyện.
Thứ Bảy tuần 34 thường niên.
"Các con hãy tỉnh thức, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến".
Lời Chúa: Lc 21, 34-36
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy giữ mình, kẻo lòng các con ra nặng nề bởi chè chén say sưa và lo lắng việc đời, mà ngày đó thình lình đến với các con như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất.
Vậy các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể thoát khỏi những việc sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người!"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Phải đề phòng
Suy niệm:
Tháng 9-2009, Tổng Thống Nga Medvedev
gọi nạn nghiện rượu là quốc nạn.
Mỗi năm tính bình quân mỗi người dân uống khoảng 18 lít,
gấp đôi lượng rượu được coi là nguy hiểm cho sức khỏe.
Nửa số người Nga chết giữa khoảng 15-54 tuổi là do hậu quả của rượu.
Trẻ em và phụ nữ cũng nghiện.
Tuổi thọ trung bình của đàn ông chỉ còn là 59.
Vì nhiều người chết nên dân số Nga sụt giảm mỗi năm.
Làm gì để cai nghiện cho hơn hai triệu người Nga,
đó là chuyện nhức đầu cho các nhà lãnh đạo.
Nhưng tại sao người ta lại bị nặng nề bởi rượu Vodka?
Bài Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta
về những thứ nặng nề đè trên trái tim người Kitô hữu.
Trong khi chờ đợi Chúa đến vào thời điểm không đoán trước được,
chúng ta có thể bị vướng vào những thú vui buông thả.
Sống bừa bãi, phóng túng, nhậu nhẹt, say sưa,
đó vẫn là cám dỗ muôn thuở của thân xác.
Chỉ cần đi một vòng thành phố hay các vùng quê vào ban đêm,
chúng ta thấy ngay cả một thế giới của ăn uống, hưởng thụ.
Nhưng trái tim con người còn có thể trở nên nặng nề
bởi những lo âu trần thế (x. Lc 8, 14).
Làm sao nhà cửa có thêm tiện nghi? làm sao thêm lương và lên chức?
Những nỗi lo toan về cuộc sống vật chất vắt kiệt con người,
khiến con người không còn khả năng mở ra trước Chúa và tha nhân.
Con người giàu lên, nhưng lại thấy mình bất hạnh và gia đình đổ vỡ.
Mỗi năm ba mươi ngàn người chết vì tự tử ở Nhật.
Trái tim nặng nề nên nhiều người mắc bệnh tim mạch.
Trái tim bị kéo xuống cái thực dụng tầm thường ở trên mặt đất,
nên con người bị còng xuống, không ngước lên được điều trên cao.
Ngày Chúa đến như một bất ngờ, như một cái bẫy sập xuống,
không phải chỉ trên người Do Thái,
nhưng trên mọi dân cư ở khắp mặt địa cầu (c. 35).
Cả thế giới phải chịu phán xét chẳng trừ ai.
Bởi đó thái độ cần có mỗi ngày của người môn đệ
là luôn luôn thức tỉnh và cầu nguyện,
để có sức mà thoát khỏi mọi điều sắp xảy ra (c. 36).
Để chuẩn bị cho cái chung cục, thì phải sống đều đặn cái hàng ngày.
Làm sao để khi Con Người là Đức Giêsu trở lại trên mây trời,
Ngài thấy chúng ta đang ở tư thế đứng thẳng,
không phải xấu hổ cúi đầu, không bị ràng buộc bởi đam mê,
nhưng vui sướng vì mình đã không uổng công chờ đợi.
Có những lo âu vẫn chi phối tôi làm tôi nặng lòng.
Có những mê đắm kéo ghì tôi xuống và bắt tôi làm nô lệ.
Mùa Vọng sắp đến mời tôi tỉnh thức và cầu nguyện, để đứng lên.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: CUỘC CHIẾN CUỐI CÙNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ma quỉ luôn chống phá chương trình của Thiên Chúa. Gây ra cuộc chiến giữa thiện và ác. Ma quỉ muốn bành trướng vương quốc sự dữ của nó. Cuộc chiến khởi đầu từ tạo thiên lập địa. Và sẽ kéo dài cho đến ngày tận thế.
Càng đến cuối thời gian cuộc chiến càng khốc liệt. Vì ma quỉ phải vận dụng hết năng lực tàn phá để giành lấy con người. Đa-ni-en đã thấy những con thú ngày càng hung dữ hơn. Tức là các vua chúa trần gian ngày càng hùng mạnh hơn. Đến vị vua cuối cùng thì quả thực vô đối. Ông tiêu diệt hết các vua trước. Và còn báng bổ cả Thiên Chúa. Vì ông nghiền nát cả vũ trụ dưới chân. Mọi người phải cúi đầu khuất phục trước thế lực hung hãn này. Nhưng cuối cùng thời hạn của thế gian chấm dứt. Thiên Chúa là chủ của lịch sử và vũ trụ sẽ ngự đến xét xử. Tước lấy quyền uy của vua chúa trần gian. Trao vào tay dân thánh của Chúa. Bấy giờ quyền uy mới là tối thượng. Và sẽ bền vững đến muôn đời (năm lẻ).
Chúa Giê-su diễn tả ngày của Chúa đến như chiếc lưới bất ngờ chụp xuống. Không ai và không gì trong vũ trụ thoát khỏi giờ xét xử kinh hoàng ấy. Chỉ duy những kẻ thuộc về Chúa mới được cứu rỗi. Muốn thuộc về Chúa, ta phải “đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời”. Sự đời ngày càng hấp dẫn. Khiến người ta say mê. Càng say mê lòng trí càng nặng nề. Càng sống theo xác thịt ta càng xa Thần Khí. Càng thuộc về trần gian càng xa Nước Chúa. Vì thế Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Tỉnh thức để phân định tốt – xấu, thiện – ác, Thiên Chúa – trần gian. Có những thứ men tinh vi của ma quỉ, xác thịt, thế gian nhiễm vào tâm hồn. Khiến ta lầm lạc lầm tưởng xấu là tốt. Vì thế phải rất tỉnh thức. Nhưng để dứt khoát chối từ ta cần phải can đảm. Trần gian có những giá trị quyến rũ khiến ta khó dứt lìa. Xác thịt yếu đuối lắm. Vì thế phải cầu nguyện ta mới có thể đứng vững trong ngày của Chúa.
Khi ta đã chiến thắng trong cuộc chiến cuối cùng, ta sẽ được đưa vào Nước Chúa. Ở đấy không còn chết chóc nữa. Chỉ có sự sống. Không còn bệnh tật. Chỉ có sức khoẻ. Không còn bóng tối nữa. Chỉ có ánh sáng. Không còn sự ác nữa. Chỉ còn sự thiện. Không còn chiến đấu nữa. Vì ma quỉ xác thịt thế gian đã hoàn toàn bị tiêu diệt. Ta hoàn toàn thuộc về Chúa. Ta được chiêm ngắm dung nhan Thiên Chúa. Được hiển trị với Chúa. Đến muôn thuở muôn đời (năm chẵn).
Chỉ cần một điều. Trong suốt cuộc chiến trần gian, hãy “tuân giữ các sấm ngôn trong sách này”.
Suy Niệm 3: Tỉnh thức cầu nguyện
Kết thúc diễn từ về ngày tận thế, Chúa Giêsu đưa ra hai thái độ sống cụ thể trong khi chờ ngày của Chúa. Thứ nhất là thái độ sống thanh thoát: "Các con phải đề phòng, chớ để lòng mình đắm say tửu sắc, đa mang sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu các con, vì ngày ấy sẽ ập tới mọi dân cư trên khắp mặt đất". Nói khác đi, Chúa muốn chúng ta sống sứ điệp và giá trị Tin Mừng, không để mình bị mê hoặc chạy theo các chủ trương duy vật, hưởng thụ, qua lo thu tích của cải như một bảo đảm an toàn cho cuộc sống mà lãng quên những nhu cầu tâm linh và các giá trị siêu việt của cuộc sống.
Ðể khỏi rơi vào tình trạng thiếu chuẩn bị trong ngày của Chúa, Chúa Giêsu nêu ra điều kiện tiên quyết, đó là tỉnh thức và cầu nguyện: "Các con phải tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có đủ sức thoát khỏi những điều sắp xẩy đến và đứng vững trước mặt Con Người". Cầu nguyện là nhìn nhận Chúa là tất cả, là đặt thánh ý Chúa trên hết. Ðồng thời, cầu nguyện là nhận biết mình yếu đuối và cậy trông vào ơn Chúa. Nhờ cầu nguyện, chúng ta sẽ có thái độ tỉnh thức trong đời sống thường ngày, sẽ nhạy bén với tiếng gọi của Chúa qua những biến cố cuộc sống để luôn tìm đẹp lòng Chúa.
Ngày mai chúng ta không biết sẽ ra sao, ngày cuối đời lại càng mù tịt. Xin Chúa cho chúng ta biết sống từng giây phút hiện tại, sao cho luôn được Chúa chúc lành và được tình thương Chúa che chở, để ngày Chúa đến sẽ là ngày hạnh phúc cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Nền văn hóa của sự chết
Hòa Lan đã dấn sâu hơn vào nền văn hóa của sự chết. Ngày 28/11/2000, quốc hội Hòa Lan đã chính thức thông qua luật mới cho phép các bác sĩ được trợ giúp những bệnh nhân nan y tự tử. Với luật này, Hòa Lan là nước đi tiên phong trong nền văn hóa của sự chết, tuy chưa chính thức ban hành luật cho phép các bác sĩ trợ giúp những bệnh nhân nan y tự tử.
Ngày nay, nhiều nước công nghiệp tiên tiến cũng đang ngày càng bị nhận chìm trong điều thường được gọi là văn hóa của sự chết. Trong khuôn khổ của ngày Năm Thánh dành cho các giáo dân tham gia truyền giáo diễn ra tại Vatican vào tháng 12/2000, một hội nghị về những khó khăn trong cuộc sống chứng nhân giữa đời đã được tổ chức. Nhân dịp này, bà Mêrian Clindon, giáo sư luật học tại đại học Harvard, Hoa Kỳ, và từng được cử làm trưởng đoàn Toà Thánh tham dự diễn đàn phụ nữ tại Bắc Kinh vào năm 1995, đã trình bày cho hội nghị về nền văn hóa chết chóc đang lan rộng trong xã hội Hoa Kỳ. Bà Clindon nói rằng một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất trong nền văn hóa sự chết là con người không còn màng đến các giá trị đạo đức nữa. Quan hệ gia đình ngày càng mong manh. Tình mẫu tử bị khinh miệt. Trẻ con dành ít giờ cho cha mẹ và anh chị em hơn là màn ảnh truyền hình. So với đám đông thầm lặng, nền văn hóa sự chết lại được thịnh hành hơn trong những thành phần ưu tú và lãnh đạo trong xã hội.
Ðặc trưng của nền văn hóa của sự chết ấy là sự phát triển tràn lan của chủ nghĩa duy vật, duy hưởng thụ, duy khoái lạc và tục hóa.
Tựu trung, luật cho phép các bác sĩ trợ giúp những bệnh nhân nan y tự tử là thể hiện cuối cùng của trào lưu khước từ sự sống, chối bỏ ý nghĩa của sự sống. Thật thế, sở dĩ con người có ý tìm đến cái chết là bởi vì họ không còn nhìn thấy giá trị và ý nghĩa của sự sống nữa. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ của Ngài hãy tỉnh thức để không chạy theo nền văn hoá của sự chết ấy. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu được đưa ra liền sau khi Ngài loan báo về ngày tận thế. Chúa Giêsu loan báo về ngày thế tận không phải để đe dọa con người, mà trái lại mời gọi con người mặc lấy thái độ tỉnh thức và tin tưởng phó thác. Ngày thế tận không phải là một biến cố khiến cho con người phải sợ hãi hay thất vọng, mà trái lại là điểm đến tất yếu của lịch sử. Ngày thế tận không phải là tận cùng của lịch sử. Trong ý nghĩa toàn bộ của lịch sử ấy, cuộc sống con người có ý nghĩa và mọi biến cố trong cuộc sống con người đều có ý nghĩa. Niềm vui, nỗi khổ, thành công, thất bại, giàu sang, nghèo hèn, sức khỏe, bệnh tật, tất cả đều có ý nghĩa và giá trị của nó. Nhận ra ý nghĩa của tất cả mọi sự trong cuộc sống, cũng có nghĩa là tuyên xưng rằng Chúa là Chúa tể của lịch sử, và như vậy, thái độ phù hợp nhất là sống mọi biến cố với tâm tình thương yêu và phó thác. Trong một xã hội chối bỏ mọi giá trị đạo đức, cuộc sống con người có niềm tin phải là một chứng tá về những giá trị vĩnh cửu. Trong một xã hội thiếu niềm tin, cuộc sống của người tín hữu phải là một ngọn đèn pha mang lại tia sáng của tin yêu và hy vọng. Trong một xã hội vắng bóng tình yêu, cuộc sống của người môn đệ Chúa Kitô phải chiếu ngời hân hoan và quảng đại. Ðó là thách đố đang được đặt ra cho chúng ta hôm nay.
Nguyện xin Chúa củng cố niềm hy vọng của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Tỉnh thức thật
“Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì ngày ấy ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” (Lc. 21, 34-36)
Ở câu 31 thánh Lu-ca đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tỉnh thức vì nước trời gần rồi, Ngài lấy lại đề tài này vì lý do ngày phán xét đến đột ngột, nên đừng để mình mê ngủ. Lời khuyên tỉnh thức, sẵn sàng là một khía cạnh cốt yếu trong sứ điệp của Đức Giêsu. Giáo hội thời đầu đã nắm bắt rất kỹ tầm quan trọng của lời cảnh giác này, câu sau đây của thánh Phao-lô có thể soi sáng cho tâm trí chúng ta hiểu rõ vấn đề này: “Theo Thần khí hướng dẫn, anh em hãy cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh và hãy tỉnh thức trong mọi lúc với mọi nhẫn nại chờ đợi” (Ep. 6, 18). Những cuộc canh thức đóng một vai trò lớn lao trong phụng vụ như thánh Phao-lô còn chứng tỏ: “Anh em hãy kiên trì cầu nguyện, hãy tỉnh thức cầu nguyện và tạ ơn” (Col. 4, 2). Chuẩn bị như vậy để theo Đức Kitô tiến lên mừng lễ Phục sinh.
Những cuộc canh thức đó diễn tả đúng tư tưởng của Đức Giêsu về chủ đề tỉnh thức, vì lúc đó vấn đề luôn luôn được chú trọng là cầu nguyện mỗi khi chiều đến, vì Tin mừng luôn luôn nhắc nhở: “Chiều đến Đức Giêsu vào nơi thanh vắng cầu nguyện”. Loại canh thức này của Đức Kitô không phải như thứ canh gác của người lính canh coi chừng kẻ phục kích, cũng không phải như võ sĩ luôn luôn sẵn sàng tránh những cú đấm bất ngờ, cũng không phải như con mèo rình bắt chuột. Sự canh thức của chúng ta cũng không phải thứ âm mưu quỷ quyệt của trận chiến giữa ta với Thiên Chúa. Nếu thế thì khốn cho chúng ta.
Từ ngữ tỉnh thức diễn tả chính xác phải theo tư tưởng của Đức Giêsu, tỉnh thức có nghĩa là chăm chú có ý tứ, có ý thức, như đầy tớ khôn ngoan và trung tín, chăm chú làm việc để khi chủ về bất cứ giờ nào trong đêm khuya, nó biết chuẩn bị trước những điều cần, những gì chủ muốn, nó không để thiếu thứ gì cho chủ, người mà nó yêu mến kính trọng. Tỉnh thức như thế cũng giống như bà mẹ rất quan tâm trông coi săn sóc nhà cửa với tâm tình yêu mến, để không một cái gì ở ngoài tầm tay âu yếm của bà. Gia đình sẽ không túng thiếu cái gì, dù có bất ngờ xảy đến.
Nước Thiên Chúa hiện diện trong mỗi biến cố của lịch sử cứu độ, nó không tỏ ra nơi những tiếng sụp đổ ầm ầm của những tai họa kinh hoàng, nó đi qua nhẹ nhàng vô cảm đối với những ai không lo đề phòng. Sau hết, ngôn ngữ thật của tỉnh thức mà Chúa đòi hỏi các môn đệ, đó không phải là thứ ngôn ngữ khá tinh tế sao?
RC
Suy Niệm 6: CẦU NGUYỆN VÀ TỈNH THỨC (Kh 22, 1-7; Lc 21, 34-36)
Nếu chúng ta chỉ còn có một ngày cuối cùng để sống, hẳn sẽ có nhiều điều trăng trối được nhắn gửi tới mọi người. Cũng vậy, nếu còn một ngày để làm việc, người ta sẽ làm nhiều chuyện tốt đẹp để lại cho đời và cho người.
Hôm nay, ngày cuối cùng của năm Phụng Vụ, Giáo Hội cũng muốn nhắn gửi chúng ta một thông điệp căn bản và quan trọng khi dùng đoạn Tin Mừng theo thánh Luca để nói về sự tỉnh thức và cầu nguyện.
Tỉnh thức và cầu nguyện là thái độ cần thiết cho ngày Chúa đến, ngày đó là ngày cuối cùng của cuộc đời con người và nhân loại.
Tỉnh thức và cầu nguyện để biết phải làm gì cho xứng hợp với Nước Trời.
Cầu nguyện và tỉnh thức để loại bỏ những thứ không cần thiết như chè chén, say sưa, mê theo khoái lạc...
Nếu còn ngày cuối cùng thì hẳn chúng ta đừng lo lắng điều gì trần thế, mà hãy chuẩn bị cho tâm hồn thật thanh thoát để được vào chung hưởng hạnh phúc Nước Trời: "Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức Công chính của Người, còn tất cả những cái khác, Người sẽ thêm cho" (Mt 6,33).
Chiếc lưới bất thần chụp xuống cho chúng ta thấy cái chết và số phận của mọi người: không ai thoát được nó. Tuy nhiên, sau đó được đem đi đâu mới là điều quan trọng. Vì thế, nó sẽ trở nên vui mừng cho những ai được đem vào nơi hạnh phúc và bình an. Ngược lại, sẽ là điều kinh hoàng và bất hạnh cho những ai bị loại ra ngoài.
Muốn được đem vào Nước Trời, thì hẳn phải tỉnh thức như chủ nhà canh trộm ban đêm; như đầy tớ mong ông chủ đi ăn cưới về; như năm cô trinh nữ khôn ngoan có đèn và dầu.
Khi cầu nguyện, chúng ta khỏi sa chước cám dỗ và có sức chiến đấu với ma quỷ; và cuối cùng, cầu nguyện để đón nhận được ơn thánh của Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy trung tín với sứ điệp Lời Chúa. Sống bác ái yêu thương. Không bị vướng bận quá nhiều vào của cải ở đời. Sống vô vị lợi, không đòi hưởng thụ. Không để mình bị ngủ mê trong tội hay chạy theo các chủ trương duy vật, hưởng thụ, mà lãng quên những nhu cầu tâm linh và các giá trị siêu việt của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, mỗi ngày chúng con phải đối diện với cái chết. Xin cho chúng con biết chuẩn bị ngày đó đến với chúng con bằng thái độ tỉnh thức và cầu nguyện không ngừng. Amen.
Ngọc Biển SSP
27/11 Nhận ra tiếng Chúa qua các biến cố
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Nhận ra tiếng Chúa qua các biến cố.
Thứ Sáu tuần 34 thường niên.
"Khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến".
Lời Chúa: Lc 21, 29-33
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ thí dụ này rằng: "Các con hãy xem cây vả và mọi thứ cây cối. Khi chúng đâm chồi nảy lộc, thì các con biết rằng mùa hè đã gần đến.
Cũng thế, khi các con xem thấy những sự đó xảy ra, thì hãy biết rằng nước Thiên Chúa đã gần đến. Thầy bảo thật các con, thế hệ này sẽ chẳng qua đi cho đến khi mọi sự ấy xảy đến. Trời đất sẽ qua đi; nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Xem cây vả
Suy niệm:
Cây vả là một cây rất thường thấy ở xứ Paléttin.
Khi nó đâm chồi, người ta biết ngay đã vào mùa hè.
Rồi thì nó sẽ ra hoa và kết trái.
Không phải chỉ có cây vả, mọi cây khác cũng vậy (c.29).
Cứ nhìn tình trạng hiện tại của cây, ta biết được điều gì sắp xảy đến.
Nước Thiên Chúa cũng vậy.
Trước khi Nước Thiên Chúa đến sẽ có những dấu hiệu
ở trên trời, dưới đất hay ngoài biển khơi.
Đức Giêsu đã nhắc cho ta về những dấu hiệu đó (Lc 21, 11. 25-26).
Khi bắt đầu đi rao giảng cách đây hai ngàn năm,
Đức Giêsu tuyên bố: Nước Thiên Chúa đã đến gần (Mc 1, 15).
Và Nước ấy đã được khai mạc với chính con người Đức Giêsu.
Lời nói và việc làm của Ngài đã mở ra Nước ấy trên mặt đất.
Như hạt giống, Nước ấy đã không ngừng lớn lên cả ngày lẫn đêm,
đã ảnh hưởng mạnh mẽ như nhúm men trong đống bột,
và đã phải chịu sự tấn công của kẻ thù gieo cỏ lùng vào giữa lúa.
Với sự phục sinh của Đức Giêsu, Nước ấy chắc chắn sẽ đến.
Chắc chắn Nước Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang,
dù chúng ta không biết rõ khi nào, tuy sẽ có những điềm báo trước.
Ngày Nước Thiên Chúa đến cách huy hoàng trên trái đất
sẽ là ngày tận thế, ngày Đức Giêsu trở lại để phán xét mọi người.
Kitô hữu là người tin vào lời Đức Giêsu.
“Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua” (c. 33).
Chúng ta chờ đợi, vì chúng ta tin Đức Giêsu sẽ trở lại.
Sau hai ngàn năm chờ đợi và nỗ lực dựng xây,
ngày Đức Giêsu quang lâm đã gần hơn nhiều.
Biết đâu câu nói sau của Đức Giêsu
lại chẳng ứng nghiệm cho chính thế hệ chúng ta:
“Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra.” (c. 32).
Không được để mình nguội lạnh và mất đi thái độ chờ đợi.
Không được để chiến thắng tạm thời của sự dữ ở đâu đó
khiến chúng ta mất đi lòng tin,
và những bách hại khiến ta mất đi lòng kiên trì cần thiết (Lc 21, 19).
Nước Thiên Chúa vẫn đến gần hơn mỗi ngày.
Không thiếu dấu chỉ để nhận ra Nước Thiên Chúa đang đến.
Chúng ta phải thấy có biết bao dấu chỉ tích cực, đầy hy vọng,
ngay giữa những khi tưởng như Nước ấy bị xóa sổ, loại trừ.
Đừng để mình rơi vào thái độ bi quan, khoanh tay vì chán nản.
Phải làm sao để ngày tận thế không phải là một ngày buồn,
ngày của những đổ vỡ và mất mát chia ly.
Phải làm sao để ngày ấy là ngày lịch sử nhân loại mở sang trang mới.
Đức Giêsu xuất hiện như Điểm Ômêga, Điểm đến của cả vũ trụ.
Con người và cả vũ trụ đều được hưởng ơn cứu chuộc (Rm 8, 19-23),
và Thiên Chúa Cha được tôn vinh.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: TRỜI MỚI ĐẤT MỚI
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Vũ trụ có một chủ nhân. Và có một lịch sử. Chính Thiên Chúa là chủ nhân của vũ trụ và của lịch sử. Chúa cho phép vũ trụ tồn tại trong một thời gian. Và cho con người tự do sử dụng. Đến thời hạn, vũ trụ chấm dứt. Lịch sử không còn. Nhưng con người sẽ bị xét xử về cách sử dụng vũ trụ. Mọi sự đều sẽ qua đi. Nhưng Lời Chúa luôn tồn tại. Có từ trước muôn đời. Tồn tại đến muôn muôn thuở. Trước khi lịch sử chấm dứt và vũ trụ tiêu tan, sẽ có những biến cố kinh thiên động địa. Dường như thế lực trần gian muốn vùng dậy cố nắm lấy những giây phút cuối cùng.
Từ xa xưa Đa-ni-en đã tiên báo sẽ có những vua chúa trần gian xuất hiện. Ngày càng hung dữ hơn. Bốn con thú lần lượt xuất hiện. Con sau dữ tợn hơn con trước. Con cuối cùng thật là ghê gớm. “Con thú thứ tư đáng kinh đáng sợ và mạnh mẽ vô song; răng của nó bừng sắt và rất to. Nó ăn, nó nghiền, rồi lấy chân chà đạp những gì còn sót lại”. Nhưng rồi thời gian của nó chấm dứt. Quyền thống trị thuộc về Con Người: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một, vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (năm lẻ).
Gio-an cho biết những con thú đó chính là hiện thân của con Mãng Xà xa xưa. Lần này nó bị tiêu diệt vĩnh viễn. Thế lực sự dữ hết thời hạn tồn tại. Tất cả những ai đã chết đều sống lại để chịu xét xử. “Các người chết được xét xử tuỳ theo việc họ đã làm, chiếu theo những gì đã được ghi chép trong sổ sách…Ai không có tên ghi trong Sổ Trường Sinh thì bị quăng vào hồ lửa”. Tuy nhiên trời cũ đất cũ qua đi. Quyền lực trần gian không còn nữa. Nhưng sẽ xuất hiện trời mới đất mới. Xinh đẹp vô cùng. Hạnh phúc vô song. Vững bền thiên thu. Chính Thiên Chúa làm chủ (năm chẵn).
Ai theo con Mãng Xà. Thuộc về thế gian. Sẽ hưởng lợi đời này. Sẽ hối tiếc khi vũ trụ đời này qua đi. Và phải kinh hoàng khi đến trước toà xét xử của Chúa. Ai theo Chúa sẽ chịu thiệt thòi ở đời này. Nhưng đến ngày đời này tiêu tan. Sẽ vô cùng phấn khởi. Vì được giải thoát. Vì được đi vào trời mới đất mới. Được vĩnh viễn hưởng hạnh phúc bên Chúa. Tôi chọn chóng qua hay vĩnh cửu. Đời này hay đời sau. Con Mãng Xà hay Thiên Chúa?
Suy Niệm 3: Dấu Chỉ Thời Ðại
Người ta vẫn thường nói: có nguyên nhân mới phát sinh ra hậu quả. Trong thế giới vật chất này, chẳng có gì là ngẫu nhiên, có lửa thì có khói, các vật rắn chạm vào nhau sinh ra tiếng động.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhắc đến nguyên lý đó. Ngài dạy chúng ta phải biết nhìn vào các biến cố xẩy ra trong thời đại để nhận biết rằng Chúa đang đến: "Các con hãy xem cây vả cũng như các cây khác, khi cây đâm chồi, các con biết rằng mùa hè đã gần đến. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xẩy ra, các con hãy biết rằng Nước Thiên Chúa đã gần đến".
Theo Cha Lausade, Thiên Chúa nói với chúng ta bằng hai cách: hoặc bằng Lời Chúa trong Kinh Thánh, hoặc qua các biến cố xẩy đến trong đời sống thường ngày. Ðiều quan trọng là chúng ta phải quan tâm để nhận ra lời nhắn nhủ của Chúa. Tuy nhiên, chúng ta thường dễ nhận ra Kinh Thánh là Lời Chúa, là giáo huấn của Chúa, mà ít nhận ra các dấu chỉ thời đại cũng là Lời Chúa, là thánh ý Chúa, nói khác đi, chúng ta ít nghe được tiếng Chúa nói với chúng ta qua các tạo vật, qua niềm vui, nỗi buồn, qua cả những lầm lỗi của chúng ta.
Do đó, để có thể nhận ra tiếng Chúa qua các biến cố, chúng ta cần phải có thái độ lắng nghe và yêu mến. Có những người không bao giờ đặt vấn đề: Tại sao tôi sống? Sống để làm gì? Chết rồi đi đâu? Người Kitô hữu chúng ta biết rõ ý nghĩa của cuộc đời, nhưng cũng cần chăm chú lắng nghe để nhận ra ý Chúa trong mọi biến cố cuộc sống, vì đó là tiếng gọi của tình yêu mà chỉ những ai yêu mến Chúa mới nhận ra được.
Xin cho chúng ta nhận ra Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, để chúng ta luôn hân hoan tiến bước và chu toàn thánh ý Chúa mỗi ngày, cho đến ngày chúng ta hưởng nhan Chúa trên Nước Trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Cây vả không trái
Cây vả là một loại cây rất thường thấy khắp nơi tại Thánh Ðịa, là một loại cây có tàn che mát, sai trái và thường được trồng trong vườn nho hoặc cũng để mọc cả những nơi đất cát sỏi đá bên vệ đường. Trong Tân Ước, chúng ta thấy cây vả nhiều lần được Chúa Giêsu nhắc tới, như Chúa đã thấy Nathanael ngồi dưới gốc cây vả trước khi Philipphê dẫn đến gặp Ngài, hoặc ví dụ về cây vả trồng trong vườn nho đã ba năm mà không sinh trái. Thánh Mátthêu cũng ghi lại bài giảng trên núi có đoạn viết như sau: "Cứ xem quả thì biết cây, có ai hái được quả nho trong bụi gai hay trái vả trong khóm nho sao?"
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ trên đường đi về Giêrusalem, Ngài nhìn thấy cây vả bên vệ đường. Ngài lên tiếng nguyền rủa cây vả không có trái để nói về tác động linh nghiệm của đức tin. Nhưng điều đặc biệt nhất của cây vả là khi thu đông về thì lá vả rụng hết trơn, cành khô cứng trơ cọng trông như đã chết khô không còn chút sức sống nào, nhưng bắt đầu mùa xuân sang, cây vả lại trổ lá sớm và cành lá sum suê nhất, hơn nữa nó lại sai trái và trái nó ra rất sớm, đàn chim trời hợp lại líu lo trên cành mang lại sinh khí và vui tươi trong thôn xóm.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mượn một hình ảnh tiên báo mùa hè sắp tới khi thấy cây vả cùng các loại cây khác nẩy lộc. Cây vả và những cây khác đâm chồi nẩy lộc là chuyện thường đối với dân cư trong thôn làng, nhưng thật ra nó đã gói ghém một niềm vui tràn trề của một mùa mới sắp đến. Những biến động trong xã hội và thế giới là những dấu chỉ của Nước Chúa đổi mới mọi sự, như chúng ta đã suy niệm trong bài Tin Mừng hôm qua. Nếu từng giây phút của một năm qua chúng ta đã nhớ lại dấu ấn của hồng ân và tình thương của Chúa, thì chúng ta sẽ thấy hồng ân và tình thương ấy lớn lao đến chừng nào.
Ngày cuối cùng của năm phụng vụ sắp kết thúc và chúng ta sắp bước vào mùa Vọng, mùa trông chờ Chúa đến với ta, với vũ trụ và với nhân loại, một trời mới đất mới sẽ đến. Nước Thiên Chúa đang đến gần, mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Chúa và tình thương của Ngài mới bền vững muôn đời.
Lạy Chúa,
Con biết lấy gì tri ân Chúa. Suốt một năm qua biết bao nhiêu biến động đến với con, trong thôn làng con bao người đã được về cùng Chúa trong ánh sáng bất diệt. Nước Chúa, Nước của tình thương, của ơn Chúa, của an bình mà mỗi giây phút đều chung tiếng hoan ca ca tụng Ngài. Xin cho mỗi người chúng con biết nhận ra dấu tích tình yêu của Chúa. Xin cho chúng con được kể là con dân trong Nước Thiên Chúa đời đời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Nước Trời lên ngôi
“Anh em cũng vậy, khi thấy những điều ấy xảy ra, thì hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Thầy bảo thật anh em: Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.” (Lc. 21, 31-33)
Bài Tin mừng hôm nay tiếp theo ngay bài mô tả cảnh sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu dùng lối văn khải huyền của Do thái tả cảnh tàn phá thành như những tai họa vũ trụ. Dùng thể văn này. Lu-ca không muốn nói với chúng ta về ngày tận thế. Ông muốn trình bày cho chúng ta về ngày sụp đổ của Giê-ru-sa-lem và thay thế Giê-ru-sa-lem là thời kỳ lên ngôi của nước trời. Sau khi đền thờ sụp đổ, thời đại Hội thánh bắt đầu, thời đại của nước trời bất diệt không bao giờ bị thay thế nữa, thời đại của giao ước mới và đời đời.
Mỗi khi có ngôn sứ đến loan báo tận thế, có lẽ vì chúng ta cần một sứ giả mới. Lúc đó mỗi người hoàn toàn phải tính toán “khi thấy cây cối đâm chồi”, mình phải xem “mùa hè đã đến gần” với mình chưa, vì không có ai khác tính toán thay cho mình được. Vả lại, mỗi người cư xử theo cách riêng của mình, chúng ta không có thể cư xử như họ. Chúng ta cũng không cần biết khi nào mặt trời và các tinh tú rơi xuống đầu chúng ta. Nhưng chúng ta biết chắc mỗi người là một vệ tinh, và dại dột thay, nếu tự mình lại làm cho mình bị nổ tung! Chúng ta còn có một sức mạnh tự động phá hủy khác vượt trên sức rung động của trái đất. Nhưng biết được khi nào những biến cố cuối cùng đó đến thì không quan trọng. Điều quan trọng là chắc chắn chúng sẽ xảy ra, và thế kỷ này chưa hết, thì đa số chúng ta đã qua đi theo với vòng quay của trái đất.
Điều cần thiết phải nhớ là chúng ta sẽ qua đi, nhưng lời Chúa nói không bao giờ qua đi. Nếu lời Chúa tồn tại đời đời, thì chúng ta phải cố gắng lắng nghe để được sống chứ đừng giả điếc làm ngơ kẻo chúng ta phải chết đời đời.
Nếu biết nhớ kỹ bài diễn văn này, một bàigiáo thuyết loan báo cho chúng ta biết tất cả mọi sự hiện tại sẽ có ngày chấm dứt. Vậy tốt nhất chúng ta hãy hết lòng trông cậy và đặt lời Chúa vào tận con tim của mình để sinh nhiều hoa trái trong khi đợi chủ về thu hoạch. Chủ sẽ thưởng công cho chúng ta: “Quả thật, quả thật, Tôi bảo thật các anh em, đến giờ và chính bây giờ những người chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai nghe thì sẽ được sống đời đời” (Ga. 5, 25)
RC
Suy Niệm 6: ĐỨNG THẲNG VÀ NGẨNG CAO ĐẦU (Lc 21, 29-33)
Xem CN 33 TN B
Ở miền bắc nước ta, cứ vào độ tháng 1,2,3 âm lịch, các cây cối thường đâm trồi nẩy lộc sau một thời gian dài ngủ yên trong khí hậu mùa đông. Hình ảnh này báo hiệu cho biết mùa xuân ấm áp đã về để đẩy lui cái lạnh của mùa đông tiết giá.
Trong mùa xuân, người ta thường trồng cây cối. Bởi vì ở vào mùa này, khi trồng, cây không bị chột...
Hôm nay, Đức Giêsu dùng hình ảnh cây vả và các loài cây khác để diễn tả mầu nhiệm Nước Thiên Chúa.
Cây vả là thứ cây quen thuộc trong Tin Mừng. Đức Giêsu đã nhắc đến nhiều lần về loại cây này, như: Chúa đã thấy Nathanaen ngồi dưới cây vả trước khi Philipphê dẫn đến gặp Ngài, hoặc thí dụ về cây vả trồng trong vườn nho đã ba năm mà không sinh trái. Thánh Matthêu cũng ghi lại bài giảng trên núi có đoạn như sau: “Cứ xem quả thì biết cây, có ai hái được quả nho trong bụi gai, hay trái vả trong khóm nho sao?”.
Hình ảnh cây vả được Đức Giêsu dùng trong bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến sự xuất hiện của Nước Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu là mùa xuân đến để loan báo lời Chân Lý của Thiên Chúa cho nhân loại. Những ai đón nhận Ngài cũng như Giáo Huấn của Ngài thì sẽ được đâm trồi nẩy lộc như cây cối mùa xuân.
Ai không tin, thì sẽ bị héo úa tàn phai. Nếu cây cối, nó luôn hướng về mặt trời như là sự khao khát cần tiếp nhận ánh sáng để quang hợp thế nào, thì mỗi chúng ta cũng cần phải đứng thẳng trong tư thế của người công chính, để nhạy bén tiếp nhận những lời Chân Lý của Chúa, ngõ hầu được sự sống đời đời như vậy.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đón nhận ơn Chúa trong cuộc sống. Nhạy bén với những dấu chỉ hiện tại. Hướng lòng về những chuyện tương lai. Hành động đón chờ phải là hành động của kẻ đứng thẳng và ngẩng cao đầu trong tư thế tỉnh thức và chờ đợi để đón nhận ơn Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được yêu mến Chúa. Xin cho con được sinh hoa kết quả nhờ được gắn liền với Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
26/11 Giờ cứu rỗi đã gần đến
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Giờ cứu rỗi đã gần đến.
Thứ Năm tuần 34 thường niên.
"Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho các dân ngoại chấm dứt".
Lời Chúa: Lc 21, 20-28
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi các con thấy Giêrusalem bị các đạo binh bao vây, các con hãy biết rằng đã gần đến lúc thành ấy bị tàn phá. Bấy giờ những ai ở trong đất Giuđa, hãy chạy trốn lên núi, những ai ở trong thành, hãy rời xa, và những ai ở vùng quê, chớ có vào thành; vì những ngày ấy là những ngày báo oán, để ứng nghiệm mọi lời đã ghi chép.
"Khốn cho những đàn bà đang mang thai và nuôi con thơ trong những ngày ấy: vì chưng sẽ có sự khốn cực cả thể trong xứ và cơn thịnh nộ trút xuống dân này. Chúng sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ phải bắt đi làm tôi trong các dân, và Giêrusalem sẽ bị các dân ngoại chà đạp, cho đến thời kỳ dành cho dân ngoại chấm dứt.
"Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao; dưới đất, các dân tộc buồn sầu lo lắng, vì biển gầm sóng vỗ. Người ta sợ hãi kinh hồn, chờ đợi những gì sẽ xảy đến trong vũ trụ, vì các tầng trời sẽ rung chuyển. Lúc đó, người ta sẽ thấy trên đám mây, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả. Khi những điều đó bắt đầu xảy đến, các con hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi các con đã gần đến".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Sắp được cứu chuộc
Suy niệm:
Theo Josephus, một sử gia người Do Thái đáng tin cậy,
bốn quân đoàn của vị tướng Rôma là Titus
đã vây hãm thành phố Giêrusalem vào lễ Vượt Qua năm 70,
khiến người dân trong thành rơi vào cảnh đói khát cùng cực.
Ông kể chuyện một phụ nữ quê ở Pêrêa vì quá đói
đã túm lấy đứa con còn thơ dại, giết con và nướng để ăn.
Cũng theo sử gia này, quân Rôma đã dùng gươm
để giết hơn một triệu người ở Giêrusalem và Giuđê.
Những người Do Thái bị bắt làm tù binh là gần một trăm ngàn.
Ai có thể tưởng được điều khủng khiếp như vậy đã xảy ra
chỉ bốn mươi năm, sau khi Đức Giêsu nói những lời tiên báo.
Giêrusalem là thành trì vững chắc, nơi trú ẩn an toàn,
bây giờ lại là nơi nguy hiểm, cần phải tránh xa (c. 21).
Tai họa ập xuống trên phụ nữ mang thai và cho con bú (c. 23).
trên cả tội nhân lẫn trẻ thơ vô tội.
Thành đô đã bị bao vây, bị thiêu rụi, bị quân Rôma giày xéo.
Dân thành bị ngã gục, bị đi đày, phải tản mác khắp nơi.
Sự sụp đổ của thành đô đã là một biến cố trên đất Israel.
Nhưng trước khi Đức Giêsu ngự đến trên mây trời
như Con Người đầy quyền năng và vinh hiển (c. 27),
sẽ có những dấu lạ đáng sợ khác trên bầu trời và ngoài biển cả (c. 25).
Thánh Máccô nói đến hiện tượng mặt trời, mặt trăng mất sáng,
và các vì sao sa xuống từ trời (Mc 13, 24-25).
Thánh Luca nói đến cảnh biển gào, sóng thét.
Những điều đó làm muôn dân hoang mang, hồn xiêu phách lạc,
nhưng không làm các môn đệ hoảng hốt, âu lo.
Ngược lại họ mừng vui vì Đấng họ chờ đợi từ lâu nay đã đến.
“Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (c. 28).
Đứng thẳng để đón Đấng mà họ đã suốt đời thắp đèn chờ đợi.
Ngẩng đầu để mừng giây phút ơn cứu chuộc đã đến gần.
Chỉ khi Đức Giêsu phục sinh trở lại như Đấng xét xử quyền năng,
Ngài mới trọn vẹn hoàn thành Nước Thiên Chúa trên mặt đất.
Vào cuối năm phụng vụ, Lời Chúa nói với chúng ta về ngày tận thế.
Đó là ngày vừa đáng sợ, vừa chan chứa niềm vui,
ngày được gặp mặt Đấng chúng ta đã tin tưởng, mến yêu và hy vọng.
Người ta vẫn hay đoán già đoán non về ngày tận thế.
Nhiều người tưởng là năm 2000, gần đây có người lại nói là 2012.
Điều quan trọng là làm sao tôi có thể đứng thẳng, ngẩng đầu khi Ngài đến,
làm sao nhân loại trên trái đất này sẵn sàng ra nghênh đón Ngài
như đón Đấng Cứu Tinh mà họ nóng lòng chờ đợi.
Nếu ngày mai Ngài đến với cả thế giới hay đến với riêng mình tôi,
tôi có sẵn sàng chưa hay còn bị còng lưng, cúi đầu vì bao gánh nặng?
Mỗi người đều có ngày tận thế của mình.
Xin cho tôi được bình an khi ngày ấy đến mà không có điềm lạ nào báo trước.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: ĐỨNG THẲNG VÀ NGẨNG ĐẦU LÊN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa cho biết sẽ đến ngày khốc hại. Dân ngoại nắm quyền sinh sát. Tàn phá thành thánh. Chà đạp đền thờ. Giết hại tín hữu. “Sẽ có cơn khốn khổ cùng cực trên đất này, và cơn thịnh nộ sẽ giáng xuống dân này. Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo”. Lại còn thêm những điềm lạ trên trời, sóng biển gào thét. Khiến con người hồn xiêu phách lạc. Nhưng trong những tai ương kinh khiếp ấy, người con Chúa “hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc”. Quả thật những ngày cuối cùng của vũ trụ sẽ là nỗi kinh hoàng của dân ngoại. Nhưng đối với con cái Chúa đó lại là niềm hi vọng. Vì đã đến ngày được ơn cứu độ.
Điều đó đã từng xảy ra thời vua Đa-ri-ô. Người Do thái bị bắt làm nô lệ. Bị buộc phải thờ lạy tượng vua. Phải ăn thịt heo. Đa-ni-en, vì trung thành với Chúa. Nên ông bị tố cáo. Và bị ném xuống hầm sư tử. Sư tử là nỗi khốn cùng của dân Ba-by-lon. Nhưng lại là dụng cụ Chúa dùng khiến Đa-ni-en được tôn vinh. Đa-ni-en đã đứng thẳng người hiên ngang ngẩng cao đầu. Vì “Thiên Chúa đã sai thiên sứ đến khoá hàm sư tử khiến chúng không hại được thần”. Trái lại, hang sư tử trở thành nỗi kinh hoàng của những kẻ ác độc, tố cáo gian cho Đa-ni-en. Vì thế xác họ còn chưa đến đáy hang thì sư tử đã chồm lên cắn xé họ. Qua đó Chúa được tôn vinh. Vua Đa-ri-ô viết sắc lệnh đi khắp đế quốc truyền phải kính sợ Thiên Chúa của Đa-ni-en (năm lẻ).
Sách Khải huyền cũng trình bày thời sau hết của thế gian. “Thành Ba-by-lon vĩ đại! Nó đã trở nên sào huyệt của ma quỷ, hang ổ của mọi thứ thần ô uế”. Nhưng rồi đến ngày Chúa ra tay. Ba-by-lon điêu tàn. Mọi người phải chết. “Bởi vì các con buôn của ngươi từng là kẻ quyền thế trên mặt đất, bởi vì ngươi đã dùng phù phép mà làm cho muôn nước mê hoặc”. Còn những người trung tín với Chúa. Đã chịu khổ cực ở trần gian. Đã bị giết chết. Nay được vinh quang. Ca tụng Thiên Cháu: “Thiên Chúa ta thờ là Đấng Cứu Độ, Đấng vinh hiển uy quyền… Vì Người đã xét xử Con Điếm khét tiếng …, và Người đã bắt nó phải đền nợ máu các tôi tớ của Người mà chính tay nó đã giết” (năm chẵn).
Hãy noi gương Đa-ni-en. Không bị Con Điếm cám dỗ. Không khuất phục trước bả vinh hoa của vua chúa trần gian. Chỉ trung tín với Chúa. Dù bị thiệt thòi. Hãy can đảm làm chứng cho Chúa. Rồi đến lúc mọi người chịu khuất phục. Ta sẽ đứng thẳng và ngẩng cao đầu. Vì Thiên Chúa đến cứu ta.
Suy Niệm 3: Giờ Cứu Rỗi Gần Ðến
Từ năm 44 TCN đến năm 66 SCN, các quan toàn quyền Rôma cai trị xứ Giuđê một cách độc ác, dã man, đến nỗi dân Do thái đã nổi dậy, mặc dù họ biết sẽ bị nghiền nát dưới gót giầy của Ðế quốc xâm lăng. Năm 66, tướng Julianô chỉ huy ba đạo quân sang đánh dẹp những cuộc nổi dậy. Năm 70, Julianô lên ngôi Hoàng đế tại Rôma, ông sai con cả là Titô tiếp tục cuộc bình địa Giuđê. Nghe tin Titô kéo quân về Giêrusalem, 25.000 người Do thái thuộc các phe kháng chiến đang tranh giành ảnh hưởng đã hợp lực tổ chức chống cự. Tuy nhiên, lực lượng của Rôma quá hùng hậu: 80.000 quân với đầy đủ quân trang đã bao vây Giêrusalem suốt 6 tháng trời. Ðầu tháng 7 năm 70, Titô lập một tường thành chiến lược vây hãm Giêrusalem. Ngày 6/8 việc tế tự trong Ðền thờ bị đình chỉ. Ngày 28/8 quân Rôma đánh phá và đốt Ðền thờ.
Hai ngày sau, tức ngày 30/8 năm 70 thành Giêrusalem bị thất thủ và bị đốt phá bình địa. 90.000 người Do thái bị bắt làm nô lệ. Tất cả đã xảy ra đúng như lời tiên báo của Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, lời của Chúa không chỉ ứng nghiệm với thành thánh bị phá hủy vào năm 70, mà còn tiên báo về ngày tận cùng của thế giới. Khi Ngài đến trong vinh quang để xét xử, có các tai biến làm cho con người lo âu sợ hãi: "Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh tượng biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các tinh tú bầu trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ Con Người sẽ xuất hiện uy nghi trên đám mây... Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì giờ cứu rỗi đã đến gần".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy nghĩ về ngày sau cùng của mỗi người chúng ta. Trước khi từ giã cõi đời, con người cũng thường bị vây hãm: bởi những lo âu run sợ trước cái chết, bởi những tiếc nuối cho những ngày đã qua, bởi những hành hạ của căn bệnh, bởi sức tấn công của lực lượng sự dữ. Trong những giây phút ấy, Lời của Chúa Giêsu sẽ là kim chỉ nam: "Bấy giờ ai ở miền Giuđê hãy trốn lên núi; ai ở trong thành hãy bỏ đi nơi khác; ai ở vùng quê thì chớ vào thành". Ðành rằng, bấy lâu nay thân xác đã cho con người có được niềm vui, sự hãnh diện, tình yêu thương; thế nhưng, giờ đây thân xác sắp bị hủy hoại, con người không còn lý do gì để cứ bám lấy thân xác, nhưng hãy biết thoát ly những ràng buộc của thân xác, để đi vào ơn cứu độ của Chúa.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết chuẩn bị cho mình một thái độ thích hợp trong ngày Chúa đến.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Chúc Tụng Ðấng Nhân Danh Chúa
Ðoạn Phúc Âm hôm nay gợi lên trong chúng ta hai ý tưởng chính: lời loan báo thành Giêrusalem bị quân địch bao vây và tàn phá, yếu tố thứ hai là những dấu chỉ báo trước biến cố Chúa Kitô trở lại trong vinh quang và đầy quyền năng. Ðây không phải là những dấu chỉ đáng làm cho chúng ta hoang mang lo sợ, mà ngược lại chúng làm cho chúng ta luôn thức tỉnh và hy vọng hướng đến tương lai huy hoàng được Thiên Chúa cứu rỗi.
Như là một biến cố lịch sử, thành Giêrusalem đã bị tàn phá hai lần, lần thứ nhất vào năm 70, do bởi đạo quân viễn chinh Rôma dưới quyền chỉ huy của tướng Titô, và lần thứ hai là vào năm 135, thời của hoàng đế Adriano. Ða số các nhà chú giải hiện nay cho rằng Phúc Âm theo thánh Luca phải được viết ra trong khoảng năm 80-90, vì thế khi viết những dòng Phúc Âm trên, tác giả Phúc Âm theo thánh Luca có biết những biến cố về thành Giêrusalem bị tàn phá năm 70, và tác giả nhìn vào biến cố này không phải một cách thuần túy như là một biến cố chính trị mà thôi, nhưng còn như là một biến cố có ý nghĩa tôn giáo nữa.
Việc thành bị tàn phá là do hậu quả của tội lỗi mà thành đã phạm, bởi vì thành đã từ chối lãnh nhận ơn cứu rỗi Thiên Chúa mang đến cho. Và như thế, ứng nghiệm lời than trách và lời tiên tri của Chúa Giêsu về thành Giêrusalem được tác giả Phúc Âm theo thánh Luca ghi lại trước đó nơi chương 13, câu 34-35 như sau: "Giêrusalem, Giêrusalem, ngươi giết các tiên tri và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi. Ðã bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh mà ngươi không chịu, thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ mặc cho các ngươi, mà Ta nói cho các ngươi hay các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa cho đến thời các ngươi nói: chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Lời Chúa trách Giêrusalem phản bội, chối từ ơn cứu rỗi không kết thúc trong tuyệt vọng nhưng được hướng đến một viễn tượng hy vọng lớn, Chúa sẽ trở lại mang niềm vui và ơn cứu rỗi, và con người sẽ chấp nhận Ngài, sẽ hát lên bài ca "chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Nơi phần hai của bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta đọc được những loan báo hãi hùng của Chúa Giêsu về thế giới, đó là chiến tranh, tàn phá, những biến chuyển đầy lo âu, những tai ương thiên nhiên. Nhưng chúng ta cần hiểu đây là những hình ảnh của một ngôn ngữ được gọi là ngôn ngữ khải huyền của truyền thống Kinh Thánh, để nhắc nhở cho người đồ đệ của Chúa biết rằng thế giới vũ trụ này không phải là một nơi cư ngụ vẹn toàn cho con người. Hơn nữa, những tội lỗi của con người làm cho thế giới vũ trụ không vẹn toàn này thay vì trở nên tốt hơn nhờ có sự cộng tác của con người với ơn Chúa ban, thì lại trở nên tồi tệ hơn và chắc chắn sẽ đi đến lúc tan biến. Trong cái nhìn của lịch sử cứu rỗi thì đây không phải là một sự tan biến vào hư vô mà là một sự biến đổi trong Chúa, nhờ quyền năng của Thiên Chúa mà trở thành trời mới đất mới khi Con Người đầy quyền năng và vinh quang từ trong đám mây mà đến. Cuối cùng, Thiên Chúa ngự đến. Ngài là khởi đầu và là cùng đích của mọi loài, mọi sự.
Trong dòng lịch sử đang diễn ra, chúng ta có thể nói và xác tín rằng Thiên Chúa phạt lỗi theo sự công bằng. Ngài cho phép sự dữ xảy ra, nhưng trong và qua mọi sự, mọi biến cố, Ngài luôn làm chủ và cứu rỗi theo lượng từ bi vô cùng của Ngài. Chính vì thế mà không bao giờ người Kitô được phép để mình rơi vào trong hoàn cảnh tuyệt vọng. Chúng ta cần nhìn lịch sử theo cái nhìn của Chúa, theo cái nhìn của lịch sử cứu rỗi để niềm hy vọng Kitô không bao giờ bị tắt mất đi trong tâm hồn người đồ đệ của Chúa. Chắc chắn sẽ đến lúc chúng ta vui mừng lên mà hát bài ca "Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".
Lạy Chúa
Xin thương giải thoát chúng con khỏi mọi sự dữ. Xin chớ để chúng con sa vào chước cám dỗ phản bội Chúa. Xin đừng để chúng con sống trong tuyệt vọng nhưng luôn hy vọng vào Chúa và hát lên bài ca Chúc Tụng Chúa, Chúc Tụng Ðấng Nhân Danh Chúa Mà Ðến.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Người sẽ trở lại
“Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.” (21, 27-28)
Sau khi mô tả cảnh sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu nói với chúng ta về những điềm báo tận thế và sự trở lại của Người trong vinh quang.
Tận thế
Người ta thường suy tư về tính chất các tai họa và những xáo trộn của vũ trụ trước lúc trở lại của Đức Kitô. Luôn luôn thấy có người dựa vào điểm này điểm kia được loan báo trong bốn Tin mừng để dự đoán tận thế sắp đến. Tuy nhiên tận thế vẫn chưa đến.
Đức Giêsu hẳn đã không muốn cho phép người ta nhận định rõ được khi nào xảy ra tận thế. Người đã quả quyết nhiều lần: Trừ Chúa Cha ra, không ai biết được khi nào điều đó xảy đến. Chỉ có một điều chắc chắn: Sẽ xảy ra những đảo lộn quan trọng, rồi Đức Giêsu sẽ lại đến với loài người. Sự quan trọng và lớn lao của những cuộc đảo lộn làm nổi bật sự quan trọng và vinh quang của ngày Đức Kitô hiện đến gấp bội mọi mô tả theo kiểu khoa học về ngày tận thế.
Đức Kitô lại đến
Đức Kitô đã đến với loài người trong cảnh nghèo khó và khiêm hạ, thì có ngày Người lại đến với họ. Nhưng lần này, Người hiện đến “đầy quyền năng và vinh quang lạ lùng”. Chính là Đấng phục sinh sẽ tỏ mình ra lúc tận thế.
Những ai đã sống mong đợi Người lại đến sẽ không còn sợ hãi, vì đối với họ, đây là ngày cứu độ, ngày những người thiện chí mong đợi sẽ tràn đầy hân hoan.
Thiên Chúa không muốn một thế giới bị quay cuồng trong tai họa. Ngài đã không tạo dựng một loài người phó mặc cho hư vô. Ngài muốn một thế giới và một loài người được phục sinh trong ân sủng của Đức Kitô, và được phát triển dồi dào trước mặt Thiên Chúa.
Lo lắng mong chờ được lại thấy Đức Kitô và được sống trọn vẹn trong Người. Những người Kitô hữu đầu tiên nồng nhiệt hy vọng ngày tận thế. Còn chúng ta, chúng ta có là những người mong đợi như các ngài không?
Suy Niệm 6: SÁM HỐI ĐỂ ĐƯỢC CỨU ĐỘ (Lc 21, 20-28)
Hôm nay, thánh Luca trình thuật việc Đức Giêsu tiên báo trước thành thánh Giêrusalem sẽ bị tàn phá nặng nề. Sự kiện bị phá hủy của đền thờ chính là hình ảnh tiên trưng cho ngày cánh chung của chúng ta. Khi ngày đó đến, hẳn sẽ có nhiều người vui mừng, nhưng cũng không thiếu người đau khổ và thất vọng. Ngày đó sẽ trở nên đáng sợ cho những ai không nhận ra dấu chỉ để sám hối, canh tân. Nhưng cũng ngày đó, nhiều người sẽ vui mừng và hãnh diện vì đã chuẩn bị sẵn sàng bằng việc tỉnh thức và cầu nguyện không ngừng.
Như vậy, hạnh phúc hay đau khổ là do sự lựa chọn của chúng ta ngay trong giây phút hiện tại. Chỉ có sự chuẩn bị trong tỉnh thức thì mới tránh được đau khổ mà thôi. Bởi vì ngày đó không hẹn trước, nó đến với ta bất thình lình, chỉ có những dấu chỉ đi trước báo hiệu. Tuy nhiên, nếu nhạy bén với các dấu chỉ thời đại thì mới nhận ra những điềm báo trước đó, nếu không, chúng ta sẽ chịu những đau khổ, thiệt thòi như những phụ nữ đang mang thai và người đàn bà đang cho con bú. Nếu nằm trong hoàn cảnh này thì hẳn ngày tận thế xảy đến sẽ là ngày u ám cho cuộc đời của chúng ta vì sẽ phải lãnh nhận một bản án khắc nghiệt cho mình vì sự cứng đầu, cố chấp trong tội, và ngoan cố không sám hối để được ơn tha thứ.
Sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn xứng đáng bằng việc trung thành tuân giữ Lời Chúa và ra sức thi hành trong lòng mến. Cần nhận ra các dấu chỉ thời đại để hiểu được thánh ý của Chúa. Phải chuẩn bị cho hành trình tiến về với Chúa qua cái chết bằng những hành trang, như: bác ái, từ bi, nhân hậu, hiền hòa, bao dung, vị tha. Được như thế, thì cái chết đến với chúng ta là một niềm vui chứ không phải là hình phạt và đau khổ...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được luôn yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Biết chuẩn bị cho cuộc sống vĩnh cửu của mình bằng những việc thiện, để ngày Chúa đến với chúng con được trở nên niềm vui mừng. Amen.
Ngọc Biển SSP
25/11 Làm chứng về Chúa.
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Làm chứng về Chúa.
Thứ Tư tuần 34 thường niên.
"Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy, nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất".
Lời Chúa: Lc 21, 12-19
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy: các con sẽ có dịp làm chứng. Vậy các con hãy ghi nhớ điều này trong lòng là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào. Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con.
"Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất. Các con cứ bền đỗ, các con cũng sẽ giữ được linh hồn các con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Một sợi tóc
Suy niệm:
Lúc trời còn tối, ngày 16 tháng 11 năm 1989, tại nước El Salvador,
một nhóm người có vũ trang đã xâm nhập vào Đại Học Trung Mỹ.
Chúng đã giết sáu linh mục Dòng Tên và hai mẹ con người nấu ăn.
Giết xong chúng đã kéo xác ra ngoài vườn và làm những trò man rợ.
Các linh mục này đều là những nhà trí thức, có ảnh hưởng trong xã hội.
Họ muốn nói lên tiếng nói của người nghèo, chịu cảnh bất công,
muốn chấm dứt cuộc nội chiến kéo dài khiến hơn 70 ngàn người chết.
Họ đã phải trả giá bằng vụ thảm sát bất ngờ,
đã chết như những chứng nhân, những vị tử đạo thời mới.
Chuyện ấy đã xảy ra cách đây hai mươi năm rồi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói về những cuộc bách hại
xảy ra trước khi Ngài trở lại trong ngày tận thế.
Các môn đệ sẽ phải chịu những gì Thầy mình đã chịu.
Họ sẽ bị bắt, bị ngược đãi, bị tù đày, bị đem ra tòa đạo, tòa đời (c. 12).
Họ sẽ bị nộp bởi chính người thân, bị mọi người thù ghét,
và thậm chí bị giết hại (cc. 16.17).
Tất cả những gì các môn đệ phải chịu đều là vì danh Thầy (cc. 12. 17).
Chính tình yêu trung tín đối với Thầy và giáo huấn của Thầy
đã khiến bao Kitô hữu tự nguyện đón nhận khổ đau và cái chết.
Không phải chỉ chối Thầy cách công khai mới mang tội bất trung.
Không phải chỉ bước qua thập giá mới là phản bội.
Bất cứ khi nào chúng ta bước qua những giá trị ngàn đời của Kitô giáo,
như sự thật, sự sống, công bằng, bác ái, nhân phẩm, tự do và lương tâm,
khi ấy chúng ta chối bỏ Đức Kitô Giêsu.
Bất cứ khi nào chúng ta dám xả thân để sống cho những giá trị đó,
chúng ta đã làm chứng cho Ngài rồi.
Gioan Tẩy Giả đã chết vì nói sự thật mất lòng với Hêrôđê.
Maria Goretti đã chết vì muốn sống trong sạch.
Maximilien Kônbê đã xin chết thay cho người khác vì lòng bác ái.
Tất cả đều được Giáo Hội tôn kính như những vị tử đạo,
dù họ không chết vì tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô.
Đối với Đức Giêsu, giây phút đứng trước tòa là giây phút quan trọng.
Người môn đệ có cơ hội công khai làm chứng cho Thầy (c. 13).
Đức Giêsu không để họ một mình đối diện với sức mạnh của quyền uy.
Ngài hứa sẽ giúp họ trả lời những cáo buộc của tòa án (c. 15; Cv 6, 10).
Thế nên họ chẳng có gì phải xao xuyến, lo âu (c. 14).
Tòa án trở thành nơi làm chứng tuyệt vời của người môn đệ.
Điều quan trọng khi bị bách hại là phải kiên trì (c. 19).
Có nhiều kiểu hành hạ nhằm làm cho người môn đệ bỏ cuộc.
Nhưng một sợi tóc anh em cũng không bị mất (c. 18)
nghĩa là Chúa sẽ lo từng li từng tí cho môn đệ của mình.
Mạng sống của các môn đệ ở đời này có thể bị mất (c. 16),
nhưng nếu họ kiên trì và trung tín, họ sẽ giữ được nó ở đời sau.
Chúng ta cầu cho nhau được ơn kiên trì giữa thử thách của thời đại mới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau lẫn lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối,
và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian
một linh hồn, một sức sống.
Chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm thấy niềm vui
của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: TIẾNG NÓI CUỐI CÙNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Càng về cuối thời gian người tôi tớ Chúa càng khốn đốn. Vì thế gian càng trở nên điên cuồng. Quyền lực trần gian muốn khẳng định mình. Ra tay bắt bớ hành hạ những người tôi tớ của Thiên Chúa. Quyền lực này thật ghê gớm. Gây nên chia rẽ trong bản thân. Trong người thân. Trong gia đình: “Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em”. Người công chính sẽ bị nộp. Bị kết án. Và bị giết chết. Nhưng Chúa căn dặn ta đừng sợ. Đó chính là cơ hội làm chứng cho Chúa. Và Thánh Thần sẽ soi sáng cho ta biết phải nói gì để chống lại thế gian gian ác bất công. “Cứ kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình”.
Điều đó đã được chứng nghiệm thời ông Đa-ni-en. Đế quốc Ba-by-lon vô đạo quá hùng mạnh. Dân Chúa bị bắt làm nô lệ. Những thanh niên ưu tú như Đa-ni-en phải phục vụ nhà vua. Vua Bên-sát-xa càng ngông cuồng hơn vua cha Na-bu-cô-đô-nô-sô. Coi mình hơn Thiên Chúa. Chúa đã ra tay. Bàn tay hiện lên viết những hàng chữ mà nhà vua không hiểu. Bấy giờ phải thỉnh cầu Đa-ni-en. Đa-ni-en cho biết: “Ngài tự cao tự đại, đã chống lại chúa Tể trời cao….Vì thế, Thiên Chúa đã cho phần bàn tay ấy đến viết những hàng chứ kia…vương quốc của ngài đã bị phân chia và trao cho các dân Mê-đi và Ba-tư”. Đa-ni-en, người nô lệ đã trở thành người làm chứng cho Chúa (năm lẻ).
Thế lực trần gian điên cuồng ngạo mạn. Nhưng rồi sẽ tàn lụi. Thiên Chúa sẽ có tiếng nói cuối cùng. Cơn lôi đình của Thiên Chúa sẽ đến chấm dứt thời gian và không gian của thế lực trần gian. Thiết lập vương quốc mới “như biển trong vắt pha ánh lửa, và những người thắng Con Thú, thắng tượng của nó và con số tương đương với tên nó; tôi thấy họ đứng trên biển trong vắt ấy, họ cầm những cây đàn của Thiên Chúa và hát bài ca của ông Mô-sê, tôi tớ Thiên Chúa, và bài ca của Con Chiên; họ hát rằng: ….Chỉ có Ngài chí thánh chí tôn. Người muôn nước sẽ về phủ phục trước Tôn Nhan, vì ai ai cũng đều thấy rõ những phán quyết công minh của Ngài” (năm chẵn).
Trong thời gian cuối cùng này chúng ta sẽ gặp rất nhiều khốn khó. Sự dữ nổi lên tư bề. Ma quỉ muốn một lần cuối cùng vùng vẫy chống lại Thiên Chúa. Bắt bớ những tôi tớ trung tín. Muốn áp đặt sự dữ và vương quốc của nó trên trần gian. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Hãy can đảm làm chứng cho Chúa trước mặt các vua quan thời đại mới. Bằng đời sống siêu thoát. Không theo thói đời. Hãy tin tưởng. Trần gian rồi sẽ qua đi. Tiếng nói cuối cùng thuộc về Chúa. Cứ kiên trì. Ta sẽ được giải thoát.
Suy Niệm 3: Cơ hội làm chứng
Bài Tin Mừng hôm nay là một đoạn ngắn trong diễn từ về ngày tận thế. Có một câu chúng ta cần lưu ý, trong đó Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Các con sẽ bị người ta bắt bớ, ngược đãi, nộp cho Hội đường, và điệu đến trước nhà cầm quyền, vì Danh Thầy. Ðó là cơ hội để các con làm chứng về Thầy". Thật lạ lùng: bị bắt bớ, ngược đãi, tống ngục là chuyện đau khổ, nhục nhã, thất bại, thế mà Chúa Giêsu lại cho là hân hoan, là cơ hội tốt để làm chứng.
Trong thực tế, các môn đệ đã sống và thực hành điều đó. Phêrô và Gioan bị bắt và bị điệu ra trước Công nghị Do thái, các ngài chẳng những không buồn phiền, lo sợ, mà còn hân hoan, vui vẻ, vì nhờ đó có dịp để nói về Chúa Giêsu cho người khác. Phaolô bị bắt và bị xét xử, ngài cũng mạnh dạn nói về Chúa Giêsu cho các nhân vật cỡ lớn, như Tổng trấn Felix, Festo, và cả Hoàng đế Herode Agrippa nữa.
Nhưng cái gì đã tạo ra sự biến đổi nơi các môn đệ, cũng là bắt bớ, bách hại mà có người cho là thất bại, người khác lại cho là cơ may? Thánh Augustinô giải thích: cuộc sống con người là sự xung đột giữa hai tình yêu: yêu Chúa đến độ khinh mình, hoặc yêu mình đến coi rẻ Thiên Chúa. Nếu tội là yêu mình đến coi rẻ Thiên Chúa thì dĩ nhiên tôi sẽ bám vào những gì tôi cho là sung sướng ở trần gian, như tiền bạc, danh vọng, sắc đẹp, và khi bị bắt bớ, tôi bị mất tất cả, lúc đó, bắt bớ bị coi là thất bại. Nhưng nếu tôi yêu Chúa đến độ coi thường bản thân, thì có bị bắt bớ vì Chúa, cũng chẳng mất mát gì; người ta có thể lấy tiền bạc, danh vọng, địa vị của tôi, chứ không thể lấy mất Chúa của tôi được, và đó còn là dịp để tôi rao giảng về Chúa cho họ là khác. Do đó, chẳng sợ gì hết, chỉ sợ tội mà thôi; cái căn bản là tình yêu đối với Chúa, nó làm thay đổi cuộc đời.
Trong thực tế, muốn biết chúng ta có yêu Chúa hay không, cứ nhìn vào cuộc sống hàng ngày xem chúng ta có dám vì Chúa mà can đảm khước từ những đam mê bất chính, những tham vọng không hợp ý Chúa, những thú vui không đẹp lòng Chúa, cho dẫu có vì thế chúng ta phải nghèo túng, phải vất vả hay không? Nếu trong cuộc sống, chúng ta dám hy sinh tất cả vì Chúa, lúc đó chúng ta mới có thể coi trường hợp bị bắt bớ vì Chúa là cơ hội để làm chứng cho Chúa.
Xin cho chúng ta được luôn mạnh mẽ trong niềm xác tín đó, và sẵn sàng làm chứng cho Chúa trong tất cả cảnh huống nào của cuộc đời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Đối mặt với thử thách
Vì danh Thầy anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình (Lc. 21, 17-19)
Người ta cứ tưởng rằng những người Kitô sẵn lòng tuyên xưng sứ điệp tình yêu và lòng thương xót, thì họ phải luôn luôn được đón rước, được thông cảm và được ca ngợi. Quá ảo tưởng! trái lại, họ là những tuyển sinh hoàn toàn được chỉ định chịu bắt bớ khổ nhục, chỉ vì lý do đơn giản này: sứ điệp của Đức Kitô là cách mạng, nó quấy rầy và phản đối những thói sống và những cách suy nghĩ của người đời.
Người ta chống đối Đức Kitô từ hai ngàn năm rồi. Người ta đã tấn công, hành xích các tông đồ và các Kitô hữu thời đầu tiên. Người ta cũng thấy xảy ra cho các tín hữu thời nay như vậy.
Là dịp để làm chứng
Đối với một Kitô hữu, phải được dự phần vào bị chống đối, bị dẫn đến khổ đau và bị đánh giá là tiêu cực. Sự chống đối cho họ có dịp làm chứng tốt hơn khi được đặc quyền đặc lợi. Người Kitô trở nên tốt hơn cho nhiều người khi người ta tấn công mình. Thử thách làm mình trưởng thành, sửa chữa mình, tăng nghị lực gấp bội cho mình, quyết tâm xác tín hơn và để có thể đạt nhiều thành tích tốt đẹp hơn. Thật ngược đời, chính giữa cơn thử thách và bị hành khổ, người Kitô có thể đạt tới đỉnh phong phú. Tất cả xảy ra đối với mình như xảy ra đối với Đức Kitô. Chính giờ phút này Thiên Chúa ở gần mình nhất và thực hiện một lần nữa mầu nhiệm đau khổ và sự chết để trở thành nguồn sự sống.
Những Kitô hữu quá yên ổn thì sao?
Nếu tất cả những điều trên là đúng, thì chúng ta phải tự hỏi mình: Có khi nào tôi đã chịu bắt bớ vì đức tin chưa? Có khi nào tôi chịu thử thách và chịu đau khổ vì lý do xác tín tôi là Kitô hữu không? Nếu chưa có bao giờ thì có lẽ niềm tin của tôi quá yếu, vì tôi là Kitô hữu quá sống yên ổn, vì tôi là một môn đệ quá yếu hèn của Đức Kitô. Khi một Kitô hữu thật sự không lo lắng tới ai, thì phải dành nhiều giờ để xét mình, để tự tra hỏi mình về giá trị hiện sinh Kitô hữu của mình? Đời sống Kitô hữu của mình có giá trị gì không?
RC
Suy Niệm 5: ĐAU KHỔ VÌ ĐỨC TIN (Lc 21, 12 – 19)
Xem lại thứ Sáu tuần 14 TN
Mang trong mình thân phận con người, với đầy đủ những giới hạn nhất định, chúng ta hẳn không thoát ra khỏi cảnh sợ hãi khi thử thách, đau khổ và cái chết xảy đến. Những người Công Giáo cũng không nằm ngoài quy luật đó. Mặt khác, người Công Giáo cũng không phải là hội của những người liều lĩnh để rồi coi những đau khổ, thử thách và bắt bớ như là một thành tích... Chắc chắn là không, và Đức Giêsu cũng không cổ súy cho chúng ta lựa chọn với thái độ như vậy!
Tuy nhiên, có những thử thách mang lại cho chúng ta niềm tin. Có những đau khổ mang lại cho chúng ta sự hãnh diện. Có những cái chết sẽ trả lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu! Tại sao thế? Thưa chính vì Chúa, vì Đạo mà chúng ta bị như thế thì thật là phúc cho chúng ta.
Theo lẽ thường, những người sống niềm tin của mình, thi hành cốt lõi Tin Mừng trong cuộc sống, thì sự bắt bớ, đàn áp, đánh đập và giết chết là số phận phải trả cho những lựa chọn vì Nước Trời.
Hậu quả này đã đến với Đức Giêsu và tất cả những ai tin cũng như rao giảng danh Ngài thì cùng chung số phận như vậy.
Thật thế, suốt dòng lịch sử hơn 2000 năm, Giáo Hội Công Giáo không ngừng bị bắt bớ... hàng hàng, lớp lớp, những con người trung kiên với đức tin đã phải đầu rơi máu đổ trên khắp mọi nơi... Vì thế, số phận của Thầy cũng là của trò, vì: “Môn đệ không trọng hơn Thầy”.
Ở mọi thời, người ta có thể kết án với đầy đủ mọi thứ tội. Tuy nhiên, mẫu số chung cho các bản án đó là chết vì đức tin, vì đạo, vì danh Chúa Kitô. Như thế, cuộc đời đầy thử thách của các ngài đã ứng nghiệm với Lời của Đức Giêsu: “Vì Danh Thầy, các con sẽ bị mọi người thù ghét”.
Trong cuộc sống hôm nay, những bách hại đó vẫn còn, nhưng có khác hơn vì nó đến từ nhiều phía, như: tự do tôn giáo không được đảm bảo; lương tâm con người bị chà đạp, o ép, công lý thuộc về đám đông. Số phận của những người lương thiện bị coi rẻ. Sự thật không được tôn trọng. Công bằng, công lý bị tước đoạt... Tất cả những thứ đó đưa người Kitô hữu vào một cuộc bách hại tận sâu thẳm từ lương tâm khi khước từ những điều bất chính, nghịch với đạo lý Tin Mừng.
Trước thực trạng đó, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trung thành với Lời Chúa dạy để sống trọn vẹn giá trị của Tin Mừng. Chấp nhận thiệt thòi phần xác để được lợi phần hồn. Đón nhận mọi đau khổ khi đứng lên đấu tranh cho công lý và công bằng. Và, nếu có phải đánh đổi để đón nhận phần thưởng sự sống đời đời thì hãy sẵn sàng và cố gắng, vì quê hương đích thực của chúng ta ở trên trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rằng: con đường đưa đến hạnh phúc thật chính là con đường khổ giá. Xin Chúa ban cho chúng con cam đảm, trung thành đi theo Chúa đến cùng. Amen.
Ngọc Biển SSP
- 24/11 Trung tín và làm chứng vì danh Chúa
- 23/11 Cho Ði Tất Cả
- 22/11 Vua Giêsu-vua tình yêu
- 21/11 Ðức Mẹ Dâng Mình
- 20/11 Ðền thờ, nơi gặp gỡ Chúa.
- 19/11 Chúa Giêsu thương tiếc cho Giêrusalem
- 18/11 Nén bạc sinh lời.
- 17/11 Giakêu thể hiện hoán cải cách cụ thể.
- 16/11 Người mù thành Giêricô
- 14/11 Cầu nguyện là sức mạnh.