Gương Thánh Nhân
Ngày 08/09 Sinh Nhật Ðức Trinh Nữ Maria
- Viết bởi Hanh Cac Thanh
Sinh Nhật Ðức Trinh Nữ Maria
Giáo Hội mừng kính ngày sinh nhật Ðức Maria từ thế kỷ thứ sáu. Ngày sinh nhật được chọn trong tháng Chín vì Giáo Hội Ðông Phương bắt đầu niên lịch phụng vụ từ tháng Chín. Ngày mùng tám là vì lễ Vô Nhiễm Nguyên Tội là ngày 8 tháng Mười Hai (chín tháng trước).
Kinh Thánh không đề cập gì đến việc sinh hạ Ðức Maria. Tuy nhiên, bản văn mà người ta cho là phúc âm nguyên thủy của Thánh Giacôbê có đề cập đến sự kiện này. Bản văn này không có giá trị lịch sử, nhưng nó cho thấy quá trình sùng đạo của Kitô Hữu. Theo bản văn, bà Anna và ông Gioankim vì hiếm muộn nên cầu xin cho được một đứa con. Họ được hứa cho một người con mà trẻ này sẽ giúp hình thành kế hoạch cứu chuộc trần gian của Thiên Chúa. Câu truyện trên (cũng như nhiều câu truyện khác trong phúc âm) cho thấy sự hiện diện quan trọng của Thiên Chúa trong cuộc đời Ðức Maria ngay từ đầu.
Thánh Augustine nối kết việc sinh hạ của Ðức Maria với công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu. Thánh nhân nói trái đất hãy vui mừng và bừng sáng vì việc sinh hạ Ðức Maria. “Ngài là bông hoa trong cánh đồng mà từ đó đã nẩy sinh hoa huệ quý nhất vùng châu thổ. Qua sự sinh hạ của ngài, bản chất mà chúng ta thừa hưởng từ cha mẹ đã thay đổi.”
Lời Bàn
Chúng ta có thể xem việc sinh hạ của mỗi một người là lời mời gọi đem hy vọng đến cho thế gian. Qua tình yêu, hai cha mẹ đã cộng tác với Thiên Chúa trong công việc sáng tạo. Họ có thể đem lại hy vọng cho một thế giới lao nhọc. Vì mỗi một đứa con đều có thể trở nên máng chuyển tình yêu và bình an của Thiên Chúa đến cho thế giới.
Ðiều này thật đúng với Ðức Maria. Nếu Ðức Giêsu là sự biểu lộ tuyệt đối của tình yêu Thiên Chúa thì Ðức Maria là điềm báo của tình yêu ấy. Nếu Ðức Giêsu đã hoàn tất công trình cứu chuộc thì Ðức Maria là bình minh hé mở của công trình ấy.
Việc mừng sinh nhật đem lại niềm vui cho chính cá nhân cũng như gia đình, bạn hữu. Ngoài việc giáng trần của Ðức Giêsu, việc sinh hạ Ðức Maria đã đem lại niềm vui lớn lao nhất cho nhân trần. Mỗi khi chúng ta cử mừng sinh nhật của ngài, chúng ta có thể hy vọng chắc chắn là sự bình an trong tâm hồn chúng ta và trong thế giới sẽ gia tăng.
Lời Trích
“Ngày hôm nay bà Anna hiếm muộn vỗ tay reo mừng, trái đất bừng sáng, các vua hát mừng, các tư tế hân hoan chúc lành, toàn thể vũ trụ vui mừng, vì ngài là hoàng hậu và là nàng dâu tinh khiết của Chúa Cha đã nẩy sinh từ gốc Jesse” (phỏng theo Kinh Nhật Tụng của Ðông Phương).
Trích NguoiTinHuu.com
Ngày 06/09 Chân Phước Claudio Granzotto (1900-1947)
- Viết bởi Hanh Cac Thanh
Chân Phước Claudio Granzotto
(1900-1947)
Tinh ở Santa Lucia del Piave gần Venice, nước Ý, Claudio là con út trong gia đình chín người con và họ quen với công việc đồng áng thật vất vả. Năm lên chín anh mồ côi cha. Sáu năm sau, anh bị động viên vào quân đội Ý, là nơi anh phục vụ trong ba năm.
Vì có tài trong lãnh vực nghệ thuật, nhất là điêu khắc, nên anh theo học tại Viện Nghệ Thuật Venice và tốt nghiệp năm 1929 với điểm cao nhất lớp. Sau đó, anh đặc biệt lưu ý đến nghệ thuật tôn giáo. Khi Claudio gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn vào bốn năm sau đó, cha sở của anh viết thư giới thiệu, “Nhà dòng không chỉ tiếp nhận một nghệ nhân mà còn là một vị thánh.” Sự cầu nguyện, yêu thương người nghèo cũng như say mê nghệ thuật là đặc điểm cuộc đời Claudio, nhưng tiếc thay cuộc đời ấy không kéo dài được lâu vì bệnh ung thư não. Ngài từ trần vào ngày lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời và được phong chân phước năm 1994.
Lời Bàn
Claudio đã phát triển được tài điêu khắc tuyệt vời đến độ các tác phẩm của ngài vẫn còn giúp con người trở về với Thiên Chúa. Không xa lạ gì với các nghịch cảnh, ngài đã can đảm đối phó mọi trở ngại, phản ánh sự độ lượng, đức tin và niềm vui mà ngài học được từ Thánh Phanxicô Assisi.
Lời Trích
Trong bài giảng lễ phong chân phước, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói rằng Claudio đã dùng tài điêu khắc “như một khí cụ đặc biệt” trong đời sống tông đồ và để phúc âm hóa. “Sự thánh thiện của ngài đặc biệt toả sáng khi chấp nhận đau khổ và cái chết để hiệp thông với Thập Giá Ðức Kitô. Do đó, bởi hiến thân hoàn toàn cho tình yêu Thiên Chúa, ngài trở nên gương mẫu cho các tu sĩ, nghệ sĩ trong việc tìm kiếm sự mỹ miều của Thiên Chúa, và gương mẫu cho người đau yếu qua lòng sùng kính Thánh Giá của ngài” (L’Observatore Romano, Tập 47, Số 1, 1994)
Trích NguoiTinHuu.com
Ngày 05/09 Tôi Tớ Thiên Chúa Anacleto Gonzales (1890 – 1927)
- Viết bởi Hanh Cac Thanh
Tôi Tớ Thiên Chúa Anacleto Gonzales
(1890 – 1927)
Khi là sinh viên luật trong thời kỳ Công Giáo bị bách hại ở Mễ Tây Cơ, Anacleto Gonzales cảm thấy cần phải đương đầu với các giáo sư vô tôn giáo, và vì thế anh đã quy tụ các sinh viên Công Giáo trong một tổ chức với mục đích bảo vệ Giáo Hội. Chính anh gia nhập dòng Ba Phanxicô.
Tin tưởng ở sức mạnh của báo chí, anh sáng lập tờ tuần báo lấy tên Word (Lời), và thường xuyên viết bài cho các tờ báo Công Giáo khác. Anh cũng sáng lập tờ tuần báo thứ hai lấy tên Sword (Kiếm). Nhiều lần nhà cầm quyền đã bịt miệng anh bằng cách tống giam. Nhưng anh lại dùng năng lực của mình trong việc rao giảng Tin Mừng cho các bạn đồng tù.
Sau cùng nhà cầm quyền quyết định dùng Anacleto như một tấm gương để cảnh cáo. Vì anh từ chối không chịu tiết lộ nơi trú ẩn của đức tổng giám mục, anh bị treo lên cao, bị đánh bằng roi và bị rạch bằng dao. Anacleto vẫn giữ im lặng, và anh nói với một tên lý hình, “Tôi hoạt động một cách vô vị lợi để bảo vệ chính nghĩa là Ðức Kitô và Giáo Hội. Anh giết tôi, nhưng chính nghĩa ấy sẽ không chết với tôi. Tôi sẽ ra đi, nhưng tôi tin chắc rằng từ thiên đàng tôi sẽ nhìn ngắm sự chiến thắng của đạo trên quê hương tôi.”
Anacleto bị một lưỡi lê đâm xuyên qua người và sau cùng anh từ trần vì hàng loạt viên đạn bắn vào thân thể. Ðó là ngày 1 tháng Tư, 1927. Anh để lại một vợ và hai con nhỏ.
Ðám tang của anh tạo nên một sức sống đức tin mãnh liệt nơi các tín hữu với những tiếng hô to “Viva Christo Rey!” (Vạn tuế Vua Kitô!), tất cả là nhờ sự hy sinh của một giáo dân đã sống và chết vì nước trời.
Trích NguoiTinHuu.com
Ngày 04/09 Thánh Rosa ở Viterbo (1233-1251)
- Viết bởi Hanh Cac Thanh
Thánh Rosa ở Viterbo
(1233-1251)
T hánh Rosa đạt được sự thánh thiện trong cuộc đời ngắn ngủi 18 năm. Ngay từ khi còn nhỏ, Rosa đã ao ước thiết tha muốn cầu nguyện và giúp đỡ người nghèo. Khi còn trẻ, ngài đã bắt đầu hãm mình. Ngài độ lượng với người nghèo bao nhiêu thì lại khắt khe với chính bản thân bấy nhiêu. Vào lúc 10 tuổi, ngài gia nhập dòng Ba Phanxicô và không lâu sau đó, ngài đi rao giảng về vấn đề tội lỗi và sự đau khổ của Chúa Giêsu.
Thành phố Viterbo, nơi ngài sinh trưởng, đã nổi dậy chống đối đức giáo hoàng. Khi Rosa đứng về phía đức giáo hoàng chống với hoàng đế, ngài và gia đình bị đuổi ra khỏi thành phố. Cho đến khi phe bênh vực đức giáo hoàng chiến thắng ở Viterbo, Rosa mới được phép trở về. Vào năm 15 tuổi, ngài cố gắng thành lập một tu hội nhưng thất bại, sau đó ngài trở về với đời sống cầu nguyện và hãm mình tại nhà của vị thân sinh, cho đến khi lìa đời năm 1251. Rosa được phong thánh năm 1457.
Lời Bàn
Danh sách các thánh dòng Phanxicô dường như bao gồm một ít người không thành đạt được điều gì đáng kể. Thánh Rosa là một trong những người ấy. Ngài không có ảnh hưởng đến đức giáo hoàng hay các vị vua, chưa bao giờ làm phép lạ bánh hoá nhiều để nuôi người đói, và chưa bao giờ thành lập được tu hội như mơ ước. Nhưng ngài đã biến cuộc đời thành một nơi đầy ơn sủng của Thiên Chúa, và như Thánh Phanxicô, ngài coi cái chết như cửa ngõ dẫn đến sự sống mới.
Lời Trích
Di chúc mà Thánh Rosa để lại cho cha mẹ có viết: “Con chết với niềm vui, vì con khao khát được kết hợp với Thiên Chúa. Hãy sống sao để đừng sợ chết. Vì những ai sống tốt lành ở đời này thì không sợ chết, nhưng cái chết sẽ đáng quý và ngọt ngào.”
Trích NguoiTinHuu.com
Ngày 03/09 Thánh Grêgôriô Cả (540?–604)
- Viết bởi Hanh Cac Thanh
Thánh Grêgôriô Cả
(540?–604)
Trong cuộc đời Thánh Grêgôriô Cả, sự nghiệp sau nổi tiếng hơn sự nghiệp trước. Ngài là trưởng thánh bộ Rôma trước khi 30 tuổi. Năm năm sau đó, ngài từ chức, sáng lập sáu đan viện trên các phần đất của ngài ở Sicilia và chính ngài là một tu sĩ dòng Biển Ðức (Benedictine) ở Rôma.
Sau khi thụ phong linh mục, ngài là một trong bảy phó tế của đức giáo hoàng, và ngài còn giữ chức vụ sứ thần tòa thánh ở Constantinople, Ðông Phương. Sau đó ngài được gọi về làm đan viện trưởng, và vào lúc 50 tuổi, ngài được chọn làm giáo hoàng bởi hàng giáo sĩ và giáo dân Rôma.
Ngài thẳng tính và kiên quyết. Ngài cách chức các linh mục bất xứng, cấm không được lấy tiền khi phục vụ, và ngài lấy tất cả quỹ riêng của đức giáo hoàng để chuộc các tù nhân bị phe Lombard bắt, săn sóc những người Do Thái bị bách hại và các nạn nhân của nạn dịch tễ cũng như nạn đói kém. Ngài rất lưu tâm đến việc trở lại của nước Anh nên đã sai 40 đan sĩ của ngài đến hoạt động ở đây. Ngài nổi tiếng vì những cải cách phụng vụ, và củng cố sự tôn trọng học thuyết. Người ta đang tranh luận xem có phải chính ngài là người chịu trách nhiệm phần lớn nhạc bình ca (Gregorian) hay không.
Thánh Grêgôriô sống trong giai đoạn luôn luôn có bất hòa vì sự xâm lăng của phe Lombard và vì những tương giao khó khăn với Giáo Hội Ðông Phương. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài là người đến chất vấn vua Lombard.
Một sử gia Anh Giáo đã viết: “Không thể nào tưởng tượng được những gì sẽ xảy ra trong thời Trung Cổ–thật lộn xộn, vô trật tự–nếu không có triều đại giáo hoàng; và nói về giáo hoàng của thời trung cổ, vị cha chung đích thực là Ðức Grêgôriô Cả.”
Cuốn sách của ngài, Cách Chăm Sóc Mục Vụ, nói về nhiệm vụ và đặc tính của môät giám mục, đã được đọc trong bao thế kỷ sau khi ngài chết. Ngài diễn tả vị giám mục chính yếu như một y sĩ mà nhiệm vụ chính là rao giảng và duy trì kỷ luật. Trong các bài giảng thực tế của ngài, Thánh Grêgôriô có tài áp dụng phúc âm hàng ngày vào nhu cầu đời sống của giáo dân. Ðược gọi là “Cả”, Thánh Grêgôriô được nâng lên một vị trí ngang hàng với Thánh Augustine, Thánh Ambrôsiô và Thánh Giêrôme như một trong bốn vị tiến sĩ nòng cốt của Giáo Hội Tây Phương.
Lời Bàn
Thánh Grêgôriô thích là một đan sĩ, nhưng ngài sẵn sàng phục vụ Giáo Hội trong các phương cách khác khi được yêu cầu. Ngài đã hy sinh những sở thích của ngài trong nhiều phương cách, nhất là khi làm Giám Mục Rôma (Giáo Hoàng). Một khi được kêu gọi để phục vụ công ích, Thánh Grêgôriô đã dùng hết khả năng để chu toàn nhiệm vụ.
Lời Trích
“Nói cho cùng có lẽ không khó để người ta từ bỏ của cải, nhưng chắc chắn là thật khó để từ bỏ chính mình. Khước từ những gì mình có là chuyện nhỏ; nhưng khước từ cái tôi của mình, đó mới thật đáng kể” (Thánh Grêgôriô, Bài Giảng về Phúc Âm).
Trích NguoiTinHuu.com
Ngày 02/09 Chân Phước John Francis Burté và Ðồng Bạn (k. 1792; d.1794)
- Viết bởi Hanh Cac Thanh
Chân Phước John Francis Burté và Ðồng Bạn
(k. 1792; d.1794)
Các linh mục này là nạn nhân của cuộc Cách Mạng Pháp. Mặc dù họ tử đạo trong thời gian khác nhau, nhưng được Giáo Hội mừng kính cùng một lúc vì tất cả đã hy sinh mạng sống với cùng một lý do. Hiến Chương Dân Sự về Tu Sĩ (1791) của nhà cầm quyền buộc tất cả các linh mục phải tuyên thệ những điều chung qui là chối bỏ đức tin. Họ đã từ chối và đã bị hành quyết.
John Francis Burté gia nhập dòng Phanxicô lúc 16 tuổi và sau khi thụ phong linh mục ngài dạy thần học cho các đệ tử sinh. Sau này ngài là giám đốc tu viện lớn ở Balê cho đến khi ngài bị bắt và bị giam trong tu viện dòng Camêlô.
Appolinaris Posat sinh năm 1739 ở Thụy Ðiển. Ngài gia nhập dòng Capuchin và nổi tiếng là một người thuyết giảng, một cha giải tội và nhà giáo dục các tu sĩ. Ðược sai sang Ðông Phương để truyền giáo, ngài đến Balê để học các ngôn ngữ Ðông Phương khi cuộc Cách Mạng Pháp bắt đầu. Từ chối không chịu tuyên thệ, ngài bị bắt và bị giam trong tu viện Camêlô.
Severin Girault, một người Dòng Ba, là tuyên uý cho một số các nữ tu ở Balê. Bị cầm tù với những người khác, ngài là người đầu tiên bị chết trong cuộc tàn sát ở tu viện.
Ba vị này cùng với 182 người khác — kể cả vài giám mục và nhiều linh mục dòng cũng như triều — đã bị thảm sát tại tu viện Camêlô ở Balê ngày 2 tháng Chín, 1792. Tất cả được phong chân phước vào năm 1926.
John Baptist Triquerie, sinh năm 1737, gia nhập Ðan Viện Phanxicô. Ngài là tuyên uý và là cha giải tội cho các tu sĩ dòng Thánh Clara Khó Nghèo trong ba thành phố trước khi ngài bị bắt vì không chịu tuyên thệ. Cùng với 13 linh mục triều, ngài bị chém đầu ở Laval ngày 21 tháng Giêng 1794. Ngài được phong chân phước năm 1955.
Lời Bàn
“Tự Do, Bình Ðẳng, Huynh Ðệ” là châm ngôn của cuộc Cách Mạng Pháp. Nếu mỗi cá nhân có “các quyền lợi không thể thay đổi”, như Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập khẳng định, thì những quyền này không thể xuất phát từ những thoả ước của xã hội (có thể rất mong manh) nhưng phải được phát xuất trực tiếp từ Thiên Chúa. Chúng ta có tin điều đó không? Chúng ta có hành động theo điều đó không?
Lời Trích
“Biến động xảy ra ở Pháp vào cuối thế kỷ 18 đã tàn phá mọi sự thiêng liêng và đã xúc phạm cũng như trút sự tức giận lên Giáo Hội và các mục tử. Những người vô đạo đức lên nắm quyền đã che đậy sự giận dữ Giáo Hội dưới chiêu bài triết lý lừa bịp… Dường như thời bách hại tiên khởi đã trở lại. Giáo Hội, nàng dâu không tì vết của Ðức Kitô, trở nên lộng lẫy với các triều thiên tử đạo” (Sử Liệu Tử Ðạo).
Trích NguoiTinHuu.com
Ngày 01/09 Thánh Beatrice Silva (1424-1491)
- Viết bởi Hanh Cac Thanh
Thánh Beatrice Silva
(1424-1491)
Thánh Beatrice có một liên hệ sơ sài nhưng rõ ràng với phong trào Phanxicô. Dòng tu ngài sáng lập đã không được sát nhập vào dòng Phanxicô cho đến sau khi ngài chết, nhưng ngày nay dòng ấy là một nhánh chính yếu của gia đình Thánh Phanxicô.
Beatrice sinh trưởng ở Ceuta, Morocco. Ngài có liên hệ đến hoàng gia Bồ Ðào Nha và có lúc phục vụ như một thị tỳ cho nữ hoàng Castile. Sau khi từ bỏ công việc ấy, ngài gia nhập tu viện Ða Minh ở Toledo, là nơi ngài sống trong 37 năm (dù rằng ngài chưa bao giờ tuyên khấn lời hứa của dòng này).
Bảy năm trước khi từ trần, Thánh Beatrice thành lập một cộng đoàn chiêm niệm theo luật Dòng Xitô. Sau khi ngài chết được ba năm, Ðức Giáo Hoàng Alexander VI đặt cộng đoàn của thánh nữ trong hệ thống Anh Em Hèn Mọn Phanxicô và theo Luật Thánh Clara. Ngày nay những nữ tu này thường được gọi là Người Theo Linh Ðạo Thánh Clara Khó Nghèo, và vào năm 1968 các nữ tu này chiếm khoảng 20 phần trăm tổng số người trong Dòng Nhì. Sơ Beatrice được phong thánh năm 1976.
Lời Bàn
Nhiều người khiếp sợ sự cầu nguyện và hãm mình của các nữ tu dòng Thánh Clara Khó Nghèo. Những người khác lại được hứng khởi bởi lòng bác ái và hy sinh này, mà linh đạo ấy đã giữ cộng đoàn trung tín với mục đích của dòng: phục vụ Thiên Chúa và Giáo Hội với một tâm hồn ngày càng thanh khiết hơn.
Lời Trích
Celano viết về những người đầu tiên theo Thánh Phanxicô: “Trên tất cả mọi sự, trong cộng đoàn của họ nảy sinh một nhân đức ngoại hạng về lòng bác ái cộng đồng và liên tục, mà nhân đức này đã kết hợp họ thành một, mặc dù bốn năm chục người sống trong một mái nhà, và sự đồng tâm nhất trí của họ đã khuôn đúc thành một tinh thần trong nhiều tinh thần ngoại hạng khác” (I Celano, #19).
Trích NguoiTinHuu.com
Ngày 31/08 Tôi Tớ Thiên Chúa: Cha Martin Valencia (1470 – 1534)
- Viết bởi Hanh Cac Thanh
Tôi Tớ Thiên Chúa: Cha Martin Valencia
(1470 – 1534)
Khi Martin chào đời thì Mỹ Châu chưa được khám phá. Khi ngài từ trần là khi Giáo Hội Công Giáo nỗ lực rao giảng phúc âm ở lục địa ấy.
Sinh trưởng ở một ngôi làng nhỏ bé ở Leon, Juan Martin de Boil gia nhập dòng Phanxicô ở Mayorga thuộc tỉnh Santiago, Tây Ban Nha. Sau khi chịu chức, ngài được bổ nhiệm về quê cũ. Vào năm 1517, khi Martin Luther nổi tiếng ở Ðức, Cha Martin de Boil làm bề trên Tỉnh Dòng St. Gabrien.
Trong thời gian đệ tử, Martin thường bắt chước Thánh Phanxicô, thay đổi đời sống theo gương Ðức Kitô. Nhưng ngài không nhận ra ước vọng truyền giáo đã nhen nhúm ngay từ thuở ban đầu mãi cho đến khi ngài 54 tuổi.
Vào năm 1524, theo lời yêu cầu của Hoàng Ðế Charles V, Cha Martin dẫn 11 tu sĩ sang Mễ Tây Cơ, là nơi họ được gọi là “12 Tông Ðồ của Mễ Tây Cơ.” Tất cả các tu sĩ tiên khởi ở Mễ Tây Cơ đều rất nghèo và rất hãm mình. Thay mặt cho các người địa phương, các tu sĩ lên tiếng phản đối sự bất công của người thực dân Tây Ban Nha.
Bất kể sức khoẻ yếu kém, Cha Martin cũng đi đây đi đó khắp nơi và rao giảng đức tin cho bất cứ ai ngài gặp. Ngài từ trần trong một chuyến đi truyền giáo.
Lời Bàn
Qua bao năm, việc loan truyền Tin Mừng về Ðức Giêsu được coi là một công việc hầu như dành cho linh mục và tu sĩ. Nếu quả thật công việc truyền giáo là “căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội” như lời Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói, thì công việc này cũng hệ tại phần nào nơi mọi phần tử của Giáo Hội. Nhiệm vụ của Cha Martin de Valencia đã hoàn tất, còn của chúng ta thì chưa.
Lời Trích
“Mục đích đặc biệt của hoạt động truyền giáo là rao giảng Phúc Âm và vun trồng Giáo Hội nơi các dân tộc và các tổ chức mà giáo hội chưa bén rễ. Các giáo hội bản xứ trên toàn thế giới phải lớn mạnh từ hạt giống Lời Chúa, các giáo hội nào được tổ chức đầy đủ thì sẽ làm chủ sức mạnh và sự trưởng thành của chính giáo hội ấy” (Công Ðồng Vatican II, Hoạt Ðộng Truyền Giáo của Giáo Hội, #6)
Trích từ NguoiTinHuu.com
Ngày 30/08 Tôi Tớ Thiên Chúa – Mẹ Marianne Molokai (1838-1918)
- Viết bởi Hanh Cac Thanh
Tôi Tớ Thiên Chúa – Mẹ Marianne Molokai
(1838-1918)
Mặc dù bệnh cùi đã làm kinh hãi nhiều người ở Hạ Uy Di trong thế kỷ 19, bệnh dịch đó đã khích động lòng độ lượng vô bờ của Mẹ Marianne. Mẹ đã can đảm tận tình giúp thăng tiến đời sống của những người cùi ở Hạ Uy Di.
Vào ngày 23 tháng Giêng, 1838, một cô gái được chào đời trong gia đình ông Peter và bà Barbara Cope ở Hessen-Darmstadt, nước Ðức. Tên của cô được đặt theo tên người mẹ. Hai năm sau, gia đình ông bà Cope di cư sang Hoa Kỳ và định cư ở Utica, Nữu Ước. Cô Barbara làm việc trong một nhà máy cho đến tháng Tám 1862, là lúc cô gia nhập Nữ Tu Dòng Thánh Phanxicô ở Syracuse, Nữu Ước. Sau khi khấn trọn vào tháng Mười Một vào năm kế đó, cô bắt đầu dạy học tại trường của giáo xứ Assumption.
Sơ Marianne giữ chức vụ hiệu trưởng ở một vài nơi và hai lần làm giám đốc đệ tử viện. Với bản tính lãnh đạo, đã ba lần sơ làm giám đốc bệnh viện Thánh Giuse ở Syracuse, là nơi sơ học được nhiều điều lợi ích cho những năm sau này ở Hạ Uy Di.
Ðược chọn làm bề trên năm 1877, Mẹ Marianne lại tái đắc cử chức vụ bề trên vào năm 1881. Hai năm sau, chính phủ Hạ Uy Di cần tìm những người điều hành trung tâm tiếp nhận người cùi ở Kakaako, và trên 50 tu hội ở Hoa Kỳ và Canada đã được hội ý. Khi lời thỉnh cầu đến tai các sơ ở Syracuse, ngay lập tức đã có đến 35 sơ tình nguyện. Vào ngày 22-10-1883, Mẹ Marianne và sáu sơ đến Hạ Uy Di để điều hành trung tâm người cùi Kakaako, ở ngoại ô Honolulu; và trên bán đảo Maui họ đã mở một bệnh viện và một trường nữ học sinh.
Vào năm 1888, Mẹ Marianne và hai sơ đến Molokai để mở một trung tâm cho “các thiếu nữ và phụ nữ cô thế”. Chính phủ Hạ Uy Di rất do dự khi giao phó cho các phụ nữ một công việc rất khó khăn; nhưng với Mẹ Marianne họ không phải lo lắng gì! Ở Molokai, sơ đảm trách một trung tâm mà Chân Phước Damien Deveuster (chết năm 1889) đã thiết lập cho thanh niên và quý ông bị cùi. Mẹ Marianne đã thay đổi đời sống ở Molokai bằng cách du nhập sự sạch sẽ, sự hãnh diện và vui thích vào cộng đoàn này. Một trong những phương cách ấy là quần áo mầu mè cũng như khăn quàng cổ sặc sỡ.
Chính phủ Hạ Uy Di đã trao tặng cho Mẹ Marianne nhiều huy chương cao quý, và mẹ cũng đã được nhắc đến trong các tác phẩm của nhà thơ Robert Louis Stevenson, nhưng Mẹ Marianne vẫn tiếp tục làm việc một cách trung tín. Công việc của các sơ trong dòng đã thu hút được nhiều ơn gọi tu trì nơi người Hạ Uy Di và họ hiện đang làm việc ở Molokai.
Mẹ Marianne chết ngày 9 tháng Chín, 1918, và sự nghiệp của mẹ đã dẫn đến tiến trình phong thánh ở Rôma.
Lời Bàn
Nhà cầm quyền Hạ Uy Di đã do dự khi để Mẹ Marianne trở thành một bà mẹ ở Molokai. Ba mươi năm kiên trì làm việc đã chứng minh sự lo sợ của họ là vô căn cứ. Bất kể sự thiển cận của loài người, Thiên Chúa đã ban nhiều ơn sủng và cho phép những ơn sủng đó nở hoa vì Nước Trời.
Lời Trích
Sau khi Mẹ Marianne chết không lâu, Bà John F. Bowler đã viết trong tập san Honolulu Advertiser, “Không có nhiều thời cơ cho một phụ nữ mà bà đã dành từng chút giờ một trong 30 năm để săn sóc những người bị tách biệt khỏi thế giới vì lề luật. Bà đã hy sinh trong suốt thời gian đó, và đã chống trả với đủ mọi thứ một cách can đảm không nao núng và với nụ cười luôn tươi nở trên môi.”
Trích từ NguoiTinHuu.com
Ngày 29/08 Thánh Gioan Tẩy Giả Bị Chém Ðầu
- Viết bởi Hanh Cac Thanh
Thánh Gioan Tẩy Giả Bị Chém Ðầu
Lời thề khi say sưa của một vị vua coi thường danh dự, một điệu vũ mê hoặc và một con tim hận thù của hoàng hậu đã đưa đến cái chết của Gioan Tẩy Giả. Vị ngôn sứ vĩ đại nhất đã chịu chung số phận như nhiều ngôn sứ khác trong Cựu Ước: bị tẩy chay và tử đạo. “Tiếng kêu trong sa mạc” không ngần ngại lên án kẻ có tội, và dám nói lên sự thật. Tại sao ngài làm như vậy? Ngài được gì khi hy sinh mạng sống mình?
Nhà cải cách tôn giáo này đã được Thiên Chúa sai đến để chuẩn bị dân chúng đón nhận Ðấng Thiên Sai. Ơn gọi của ngài là một hy sinh cách vị tha. Chỉ có một quyền năng mà ngài công bố là Thần Khí Thiên Chúa. “Tôi làm phép rửa cho các người với nước để giục lòng sám hối, nhưng Ðấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi. Tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các ngươi trong Thánh Thần và lửa” (Mátthêu 3:11). Phúc Âm kể cho chúng ta biết có nhiều người theo Gioan để tìm kiếm hy vọng, có lẽ vì nóng lòng chờ đợi Ðấng Thiên Sai. Gioan không bao giờ tự nhận cho mình cái vinh dự giả dối khi dân chúng tuốn đến với ngài. Ngài biết ơn gọi của mình là sự chuẩn bị. Khi đã đến lúc, ngài dẫn các môn đệ đến với Chúa Giêsu: “Hôm sau, ông Gioan lại có mặt ở đó với hai môn đệ của ông và khi thấy Ðức Giêsu đi ngang qua, ông nói: ‘Ðây là Chiên Thiên Chúa.’ Hai môn đệ nghe nói, liền đi theo Ðức Giêsu” (Gioan 1:35-37)
Chính Gioan Tẩy Giả là người đã chỉ đường đến Ðức Kitô. Ðời sống và cái chết của Gioan là để hy sinh cho Thiên Chúa và loài người. Lối sống đơn giản của ngài thực sự là lối sống tách biệt khỏi vật chất thế gian. Tâm hồn của ngài đặt trọng tâm ở Thiên Chúa và lời mời gọi ngài nghe được từ Thần Khí Thiên Chúa đã đánh động tâm hồn ngài. Tin tưởng ở ơn Chúa, ngài đã can đảm nói những lời kết tội hoặc kêu gọi sám hối, vì sự cứu độ.
Lời Bàn
Mỗi người đều có một ơn gọi mà họ phải lắng nghe. Không ai có thể lập lại sứ vụ của Thánh Gioan, và tất cả chúng ta đều được kêu gọi đến một sứ vụ riêng biệt. Ðó là vai trò làm chứng nhân cho Ðức Giêsu của mỗi một Kitô Hữu. Bất cứ hoàn cảnh nào trong đời sống, chúng ta được mời gọi để trở nên môn đệ của Ðức Kitô. Qua hành động và lời nói, người khác sẽ nhận thấy chúng ta đang sống trong niềm vui khi tin nhận Ðức Giêsu là Chúa chúng ta. Chúng ta không bị gò bó bởi sức mạnh hạn hẹp của chính chúng ta, nhưng chúng ta có thể tìm thấy sức mạnh từ ơn cứu độ bao la của Ðức Kitô.
Lời Trích
“Họ đến gặp Gioan và nói: ‘Thưa thầy, người đã ở với thầy bên kia sông Giođan, và được thầy chứng thực, bây giờ ông ấy đang làm phép rửa, và mọi người đều đến với ông ấy.” Gioan trả lời: ‘Không ai có thể nhận được gì mà không do trời ban. Chính anh em làm chứng là tôi đã nói: tôi không phải là Ðấng Thiên Sai, mà chỉ là kẻ được sai đến trước Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chàng rể; người phù rể đứng ở đó thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng rể. Như vậy niềm vui của tôi đã được trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Gioan 3:26-30).
Trích từ NguoiTinHuu.com
- Ngày 28/08 Thánh Augustine (354-430)
- Ngày 27/08 Thánh Monica (322?-387)
- Ngày 26/08 Thánh Giuse Calasan (1556 -1648)
- Ngày 25/08 Thánh Louis của Pháp (1226-1270)
- Ngày 24/08 Thánh Batôlômêô
- Ngày 22/08 Ðức Maria Nữ Vương
- Ngày 21/08 Thánh Giáo Hoàng Piô X (1835-1914)
- Ngày 20/08 Thánh Bernard ở Clairvaux (1091-1153)
- Ngày 18/08 Thánh Jeanne de Chantal (1572-1641)
- Ngày 17/08 Chân Phước Joan Delanoue (1666-1736)