Gương Thánh Nhân
Ngày 01/12 Thánh Edmund Campion (c. 1581)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Edmund Campion (c. 1581)
Edmund biết rằng ngài sẽ mất sự yêu quý của nữ hoàng cũng như mọi cơ hội để có một sự nghiệp vĩ đại nếu trở lại Công Giáo. Tuy vậy, sau thời gian cầu nguyện ngài đã trở thành người Công Giáo.
"Ðôi tay để làm việc, trái tim để dâng cho Chúa."
Thánh Mary Joseph sinh ở làng ven biển Albissola, nước Ý, trong một gia đình Công Giáo đông con. Ngay từ khi còn nhỏ, ngài đã có ý định đi tu, nhưng dù lòng khao khát ấy mãnh liệt đến đâu đi nữa, ngài đã bị từ chối chỉ vì quá nghèo, không có của hồi môn. Ðôi vợ chồng đạo đức nhưng hiếm muộn mà ngài giúp việc trong bảy năm, lẽ ra đã có thể giúp ngài thể hiện giấc mơ ấy, nhưng họ không muốn làm như vậy chỉ vì quá yêu quý thánh nữ và họ muốn nhận ngài làm con nuôi.
Nhưng Thiên Chúa Quan Phòng đã can thiệp qua vị giám mục địa phương, là người biết đến tài dạy giáo lý của thánh nữ, nên đã cung cấp cho ngài và các cô dạy giáo lý một ngôi nhà để làm lớp học. Từ một khởi đầu khiêm tốn ấy đã phát triển thành tu hội Nữ Tử của Ðấng Nhân Hậu vào năm 1837.
Vài năm sau, nhóm phụ nữ đạo đức ấy tuyên khấn, và Mary Joseph làm bề trên của tu hội ấy trong 40 năm, ngài đặt cộng đoàn dưới sự bảo trợ của Ðức Mẹ Từ Bi và Thánh Giuse. Câu nói thời danh của thánh nữ là, "Ðôi tay để làm việc, trái tim để dâng cho Chúa."
Ngài muốn cảm nghiệm cay đắng của ngài khi còn nhỏ sẽ không cản trở các thiếu nữ muốn dâng mình cho Chúa. Do đó, bất cứ thiếu nữ nào cũng được nhận vào cộng đoàn của ngài mà không cần của hồi môn.
Các nữ tu nào bị đau yếu đều cảm nhận sự chăm sóc đặc biệt của ngài, như được bày tỏ trong lời nói sau đây: "Qua sự kiên nhẫn, sự đau khổ và lời cầu nguyện của họ, toàn thể cộng đoàn này đã sống còn cho đến ngày nay, nhờ bởi họ luôn luôn tìm kiếm và đạt được những ơn sủng cho chúng ta từ Cha Nhân Lành."
Sơ Mary Joseph từ trần vào tháng Mười Hai năm 1880 và được phong thánh năm 1949.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 30/11 Thánh Anrê
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Anrê
Thánh Anrê được đích thân Ðức Giêsu mời gọi để loan truyền Tin Mừng, để chữa lành nhờ quyền năng của Ðức Giêsu cũng như để chia sẻ sự sống và sự chết của Người.
Lược sử
Trong Phúc Âm không nói nhiều về Thánh Anrê.
Truyền thuyết nói rằng chính Thánh Anrê đã rao giảng Tin Mừng ở những nơi mà bây giờ là Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, và bị chết trên thập giá ở Patras.
Suy niệm 1: Phúc Âm
Trong Phúc Âm không nói nhiều về Thánh Anrê.
Anrê theo tiếng Hy Lạp có ý nghĩa là: trượng phu và thanh nhã. Ngài được nhắc tới một số lần trong Tân Ước. Thánh Anrê là anh của Thánh Phêrô, và cả hai được Chúa Giêsu gọi cùng một lúc (Mt 4,18-20) và như thế là con của ông Giôna (Mt 16,17). Các ngài được sinh ra ở Bếtxaiđa và cả hai đều là ngư phủ nên Chúa kêu gọi họ làm những kẻ lưới người như lưới cá (Mt 4,19). Anrê cũng được đề cập đến như một trong các tông đồ được hiện diện gần gũi với Chúa Giêsu vào một ít trường hợp: Chúa Giêsu ở đền thờ ra đi và nói tiên tri về sự tàn phá thành Thánh, Anrê đã hỏi Chúa xem khi nào việc đó sẽ xảy ra (Mc 13,4). Sau khi Chúa sống lại, Anrê và các tông đồ khác lên đường rao giảng Tin Mừng (Mc 16,20). Người ta nói rằng: để cải hóa một tâm hồn, Ngài ăn chay 5 ngày.
Riêng Thánh Sử Gioan mô tả Thánh Anrê như một môn đệ của Thánh Gioan Tẩy Giả, vốn đã giới thiệu Anrê và môn đệ khác với Chúa Giêsu. Sau khi nhận ra Chúa là Đấng Mêsia, Anrê vội vã giới thiệu Chúa cho em mình (Ga 1,38-40). Lập tức Anrê và Phêrô đã bỏ mọi sự mà theo Chúa. Trong phép lạ bánh hoá nhiều, chính Anrê là người cho biết về đứa bé trai có một ít bánh và cá (Ga 6,8-9). Khi dân ngoại muốn đến gặp Đức Giêsu, họ đến với ông Philíp trước, nhưng ông Philíp lại bàn hỏi với ông Anrê (Ga 12,20-22).
Cũng như các thánh tông đồ khác, ngoại trừ Thánh Phêrô và Gioan, Phúc Âm không cho chúng ta biết gì nhiều về sự thánh thiện của Thánh Anrê. Ngài là tông đồ. Như vậy là đủ. Ngài được đích thân Đức Giêsu mời gọi để loan truyền Tin Mừng, để chữa lành nhờ quyền năng của Đức Giêsu cũng như để chia sẻ sự sống và sự chết của Người. Ngày nay, sự thánh thiện cũng không có gì khác biệt. Đó là một món quà bao gồm lời mời gọi hãy lưu tâm đến Nước Trời, và một thái độ dấn thân với lòng ao ước không muốn gì khác hơn là chia sẻ sự giầu có của Đức Kitô cho tất cả mọi người.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn mau mắn đáp lại tiếng Chúa kêu mời.
Suy niệm 2: Thánh Anrê-tông đồ trước nhát
Trong Phúc Âm không nói nhiều về Thánh Anrê.
Lễ Thánh Anrê là lễ trước nhất trong lịch sử phụng vụ chư thánh, Ngài là người trước nhất đi theo Đức Giêsu và là người trước nhất tuyên bố Đức Giêsu là Đấng Messia. Thánh Gioan kể nhiiều chi tiết về Thánh Anrê hơn Thánh Matthêu cho chúng ta biết thái độ của Thánh Anrê: Anrê là anh của Simon. Ngài đã thuộc nhóm đạo đức của Thánh Gioan tiền hô. Ngài cùng với Thánh Gioan đi tháp tùng Thánh Gioan Tiền Hô. Khi Thày thấy Đức Giêsu đi ngang qua, thày đã nói: "Đây Chiên Thiên Chúa. Anrê đã bỏ thày lại và đi theo Đức Giêsu, đến nơi ở của Người và họ đã ở lại với Người từ ngày đó!" Ngày hôm sau, khi em mình là Simon, Ngài nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu" (Ga 1, 41-42). Theo truyền khẩu Ngài chết ở Patras Hy Lạp, bị đóng đinh vào thập giá hình chữ X.
Ngày nay, ta luôn luôn có cảm tưởng rằng để noi gương các thánh, chúng ta phải thực hành nhân đức đặc sắc của các ngài. Đúng thế! Nhưng suy nghĩ về các Thánh mà chúng ta biết điều thúc giục chúng ta là luôn cầu nguyện theo gương các Ngài, như phụng vụ gợi lên cho chúng ta. Tờ kê khai các nhân đức của các ngài thì dài vô tận và chúng ta sẽ như chim chích vào rừng, nói thế không phải chuyện dỡn! Nhưng thay vì lạc vào rừng, hãy theo Thánh Anrê, cũng như các thánh. Các ngài muốn dạy chúng ta bài học độc nhất là: gặp gỡ Đức Ki-tô và yêu mến Người. Đó là đúng nhất. Không còn bài học nào khác, cũng không phải tìm ai nữa, ngài đã tìm được Đấng giải thích cho lý trí của ngài: "Tôi đã gặp được Đấng tôi yêu và yêu tôi". "Tôi yêu Người trọn vẹn vì lý do đó." Anrê nghĩa là dâng hiến, là trung tín, là tất cả trong tình yêu, tình bạn khiêm tốn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nắm và sống bí quyết nên thánh, là hằng gặp gỡ Chúa và yêu mến Người.
Suy niệm 3: Truyền thuyết-Georgia
Truyền thuyết nói rằng chính Thánh Anrê đã rao giảng Tin Mừng ở những nơi mà bây giờ là Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ.
Truyền thống Giáo Hội Georgia đánh giá Thánh Anrê như vị rao giảng Tin Mừng đầu tiên cho lãnh thổ Georgia cũng như là vị sáng lập tiên khởi của Giáo Hội Georgia. Truyền thống này xuất phát rõ rệt từ các nguồn Byzantine, đặc biệt từ Nicetas of Paphlagonia (mất năm 890), vốn khẳng định: Thánh Anrê rao giảng ở Iberians, Sauromatians, Taurians, và Scythians cũng như mỗi miền và thành phố thuộc Biển Đen cả phía Nam và Bắc. Trình thuật được Giáo Hội Georgia thừa nhận vào thế kỷ 10-11, cũng như được phổ biến với nhiều chi tiết trong sử biên Georgia.
Câu chuyện kể về cuộc truyền giáo của Thánh Anrê ở lãnh thổ Georgia liên quan đến việc ngài xuống ơn phù giúp George the Hagiorite chống lại cuộc xâm lăng của Antiochian. Sự kiện này được ghi nhận trong tấm kính ảnh màu của nhà thờ Georgia. Một tu sĩ Georgia tên là Ephraim the Minor đã làm một luận án minh xác sự kiện này như một căn nguyên giúp người Georgia trở lại vào thế kỷ IV và Thánh Nino giải thích là "cuộc rửa tội lần thứ hai". Luận án này có giá trị kinh điển trong công đồng của Giáo Hội Georgia vào năm 1103.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nhờ thánh nhân chuyển cầu để được nhiều ơn phù giúp.
Suy niệm 4: Truyền thuyết-Cyprus
Truyền thuyết nói rằng chính Thánh Anrê đã rao giảng Tin Mừng ở những nơi mà bây giờ là Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ.
Truyền thống Cyprus xác nhận một chiếc thuyền đang chở Thánh Anrê bị mắc cạn. Ngài đánh vào một tảng đá và một nguồn nước nóng phun ra. Viên thuyền trưởng vốn bị chột một mắt khi uống vào thì được phục hồi nhãn quan. Vị trí đó biến thành chỗ hành hương và một tu viện được xây dựng lên vào thế kỷ 12. Vào thế kỷ 15, một ngôi nhà thờ được mọc lên sát bờ biển.
Nhiều cuộc hành hành hương vẫn tiếp diễn. Chuyện được kể vào năm 1895, quý tử của Maria Georgiou bị bắt cóc. 17 năm sau, bà nằm mơ thấy Thánh Anrê bảo bà cầu nguyện cho con bà trở về. Đang sống tại Anatolia, bà đáp thuyền trực chỉ đến Cyprus với đoàn người đông đảo. Một linh mục trẻ tên Dervish thích thú với câu truyện được kể trong suốt hành trình, nên hỏi bà cậu ấy có dấu chứng gì để nhận ra, bà lấy quần áo cậu ra, và thế là hai mẹ con được trùng phùng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết yêu thương nhau, vì đó là dấu chứng dễ nhận ra là người môn đệ của Chúa (Ga 13,35).
Suy niệm 5: Truyền thuyết-Scotland
Truyền thuyết nói rằng chính Thánh Anrê đã rao giảng Tin Mừng ở những nơi mà bây giờ là Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ.
Vào năm 832, Óengus II chỉ huy một đoàn quân chiến đấu với Æthelstan. Nhận thấy binh lượng của mình quá sút kém đối với quân địch, vào một đêm trước cuộc chiến, Óengus cầu nguyện và khấn hứa nếu được thắng trận, ông sẽ tôn vinh Thánh Anrê là Thánh quan thầy của Scotland. Vào sáng hôm xuất binh, ông thấy xuất hiện một đám mây hình X bao phủ cả bầu trời. Hiện tượng này được giải thích là chính hình thánh giá Thánh Anrê đã chịu tử vì đạo. Ông và cả đạo binh phấn khởi và thêm dũng lực vững tin vào sự trợ giúp của Thánh Anrê qua điềm lạ ấy. Dầu quân số ít hơn, nhưng vẫn toàn thắng. Óengus thực hiện lời hứa, và để biểu hiện việc tôn vinh này, ông cho thiết kế lá cờ quốc gia Scotland với hình thánh giá X màu trắng trên nền xanh để nhắc nhở về điềm lạ ấy. Tuy nhiên lòng sùng kính Thánh Anrê đã có từ trước đó rồi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biểu hiện lòng sùng kính thánh thân bằng việc sống theo gương thánh nhân.
Suy niệm 6: Thập giá
Thánh Anrê bị chết trên thập giá ở Patras.
Chúng ta không có được những sử liệu về cuộc hành trình truyền giáo của ngài, trừ một một đoạn văn sau đây đề cập đến cuộc tử đạo của ngài: "Quan lãnh sự Akai bắt trói thánh nhân vào cột đá để cho chết dần chết mòn. Dân chúng nhất quyết can thiệp để xin quan tha cho ngài, nhưng thánh nhân muốn vui lòng chấp nhận cái chết anh dũng vì danh Chúa để nên giống như Chúa". Năm 357, Giáo Chủ thành Alexandrie đem hài cốt ngài về Constantinople. Nhiều nhà thờ ở La Mã và bên Anh đã được xây cất dâng kính thánh Anrê, Giáo Hội đã ghi tên ngài vào "Lời nguyện hiệp nhất" trong thánh lễ.
Đây là tục truyền kể lại cuộc tử đạo của thánh Anrê ở Taurida: Egêa, tổng trấn tỉnh đó cho biết vị tông đồ có mặt ở Patras, thủ phủ của ông, ông liền vội vã tới nơi: kẻ ngoại lai này muốn phá hủy đền thờ các thần minh ư? Nhưng Anrê không sợ gì Egêa. Ngài đã nắm vững được chân lý. Ngài nói: Tôn thờ loài người chỉ là dị đoan điên khùng. Ông đã lãnh quyền xét xử người ta, trước hết ông phải biết đến vị thẩm phán xét xử mọi người chúng ta ở trên trời và ông phải tôn kính ca ngợi Người. Egêa vặn lại: Vị thẩm phán anh nói là Chúa Giêsu mà lời ông ta thường giảng dạy đã làm cho ông ta phải chết trên thập giá chứ gì? Vậy nếu anh không dâng hương tế thần, anh cũng sẽ phải chết trên thập giá như vậy. Không hề sợ sệt, Anrê như rạng rỡ vì hạnh phúc: làm sao Ngài để mất danh dự được đóng đinh vào cùng một khổ giá như thày mình được? Khi bắt đầu những tra tấn đầu tiên, lòng dũng cảm còn tăng thêm, Ngài nói với Egêa: Cực hình cuối cùng ông đe dọa sẽ được tiếp liền bằng vinh quang bất diệt. Khi thấy thập giá mình sẽ phải chết trên đó, thánh nhân hớn hở chào kính mà người ta thích lập lại lời chào ấy: Ôi thánh giá tốt lành, thánh giá bấy lâu mong chờ, thánh giá nhiệt tình yêu mến, hãy đưa ta tới Thầy Chí Thánh là Đấng đã nhờ ngươi mà cứu chuộc ta. Dịu dàng Anrê giang tay ra. Ngài bị cột bằng giây để cái chết tới chậm hơn. Hình phạt sẽ kéo dài hai ngày và người ta còn nghe Ngài tiếp tục rao truyền đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Dân chúng vây quanh Ngài với niềm thán phục đã xin quan tổng trấn tháo giây cho Ngài. Họ nói: Hãy trả con người thánh thiện cho chúng tôi. Đã hai ngày bị treo, Ngài không ngừng nói những lời tốt lành, đừng giết con người yêu quí của Thiên Chúa. Nhưng Anrê không muốn được trả về cuộc sống khốn cực trần gian này. Ngài cầu nguyện: Lạy Chúa Kitô hãy đón nhận con, ôi thầy con yêu, con biết con ước ao được gặp thầy, trong Thày mà con được thế này. Hãy nhận lấy hồn con, lạy Chúa Giêsu Kitô. Và những người tham dự thấy linh hồn vị tông đồ trong hào quang đã bay về với Chúa tạo thành và cứu chuộc của mình. Tương truyền thánh Anrê đã bị cột vào thánh giá đã có từ thế kỷ XII và chỉ vào thế kỷ XIV... người ta mới tưởng tượng thánh giá đó hình chữ X. Dụng cụ cực hình ấy được mệnh danh là thánh giá thánh Anrê.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con yêu mến thánh giá Chúa và chấp nhận sống chết vì lòng yêu mến này.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 29/11 Thánh Gioan ở Monte Corvino (1247-1328)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gioan ở Monte Corvino (1247-1328)
Lược sử
Vào lúc Giáo Hội dính líu vào những cuộc xung đột giữa các quốc gia ở Âu Châu, thì đó cũng là lúc Giáo Hội đến với Á Châu để loan truyền Tin Mừng của Đức Kitô cho người Mông Cổ.
Trước khi là một tu sĩ, Thánh Gioan đã từng là một quân nhân, một quan tòa và một bác sĩ. Vào năm 1278, trước khi đến Tabriz, Persio (ngày nay là Iran), ngài đã nổi tiếng về rao giảng và giáo dục. Năm 1291, ngài là đại diện cho Đức Giáo Hoàng Nicholas IV để đến Mông Cổ bệ kiến vua Kublai Khan. Trong chuyến đi ấy, cùng đi với ngài còn có một thương gia người Ý và một linh mục Đaminh. Khi phái đoàn đến được phía tây Ấn Độ thì vị linh mục Đa Minh từ trần. Còn lại Cha Gioan và người thương gia Ý, họ đến Trung Quốc vào năm 1291 thì vừa lúc ấy Kublai Khan từ trần.
Cha Gioan thành lập trụ sở truyền giáo ở Khanbalik (bây giờ là Bắc Kinh), là nơi ngài xây cất hai nhà thờ; đó là những nhà thờ truyền giáo đầu tiên của Giáo Hội Công Giáo ở Trung Quốc. Vào năm 1304, ngài chuyển dịch Thánh Vịnh và Kinh Thánh Tân Ước sang tiếng Tatar.
Khi Cha Gioan từ trần năm 1328, ngài được người Kitô Hữu cũng như người không có đạo vô cùng thương tiếc. Sau đó không lâu, ngôi mộ của ngài trở thành nơi hành hương.
Suy niệm 1: Á Châu
Giáo Hội đến với Á Châu để loan truyền Tin Mừng của Đức Kitô.
Vào lúc Giáo Hội dính líu vào những cuộc xung đột giữa các quốc gia ở Âu Châu, thì đó cũng là lúc Giáo Hội đến với Á Châu để loan truyền Tin Mừng của Đức Kitô cho người Mông Cổ.
Tình thương quan phòng của Thiên Chúa thật diệu kỳ và siêu việt (Is 55,9) làm sao trí óc con người có thể hiểu thấu (Gđt 8,14;Tv 139,17). Theo lời mách bảo của Chúa (Mt 10,23). cuộc bách hại đạo Chúa tại Giêrusalem với cái chết tử đạo của phó tế Stêphanô đã giúp cho đạo Chúa lan tràn ra nhiều miền khác (Cv 11,19). Thái độ cứng lòng tin của người Do Thái lại khiến cho công cuộc truyền giáo được mở hướng cho dân ngoại (Cv 13,46). Cũng thế, nhờ Âu Châu gặp nhiều rắc rối mà Á Châu được đón nhận Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn xác tín vào tình thương quan phòng của Chúa (Mt 6,34).
Suy niệm 2: Rao giảng
Thánh Gioan Monte Corvino đã nổi tiếng về rao giảng và giáo dục.
Sau chuyến hành trình đầy mạo hiểm của Marco Polo khám phá Trung quốc, một linh mục người Ý thuộc dòng Phanxicô có tên Gioan Monte Corvino đã xâm mình mang Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô vào vùng đất Á Châu này. Ngài là vị giám mục tiên khởi ở Bắc Kinh ngày nay vào năm 1307. Công cuộc truyền giáo giữa Âu Châu và Trung Quốc được thực hiện nhờ vào sự giúp đỡ của vương quốc Mông Cổ.
Thừa lệnh của Đức Giáo Hoàng Nicholas IV, ngài rời Tauris, một thành phố thuộc Persio vào năm 1291 và đến Ấn Độ. Ngài ở lại nhà thờ Thánh Tôma Tông Đồ 15 tháng và đã rửa tội được chừng 100 người. Sau đó ngài mới thật sự đến được Mông Cổ bệ kiến vua Kublai Khan, một vùng đất chưa một vị tông đồ nào đặt chân lên, ngoại trừ nhóm người theo bè rối Nestoria mà thôi. Họ là con cháu của những người bất đồng quan điểm với Công Đồng Ephêsô, đã từng cư ngụ ở Trung Quốc từ thế kỷ thứ bảy. Họ nói xấu và gây khó dễ với ngài suốt 5 năm trời. Nhưng chính Cha Gioan đã giúp họ trở lại với Giáo Hội, cũng như giúp một số người Trung Hoa ở đây đón nhận đức tin Kitô Giáo, kể cả Thái Tử George của tỉnh Tenduk, nằm về phía tây bắc của Bắc Kinh. Sau này, Thái Tử George đặt tên cho con trai của ông theo tên vị linh mục thánh thiện này.
Từ đó sứ mạng truyền giáo tại Trung quốc-Mông Cổ tiếp tục triển nờ dưới sự dẫn dắt của ngài ngay cả sau khi ngài đã qua đời. Khi ngài từ trần năm 1328, ngài được người Kitô Hữu cũng như người không có đạo vô cùng thương tiếc. Sau đó không lâu, ngôi mộ của ngài trở thành nơi hành hương. Vào năm 1368, Kitô Giáo bị cấm ở Trung Quốc khi người Mông Cổ bị trục xuất và triều đại nhà Minh bắt đầu.
Khi Thánh Gioan đến Trung Quốc, ngài tượng trưng cho niềm khao khát của Giáo Hội muốn loan truyền Tin Mừng đến một nền văn hóa mới và sẽ được phong phú bởi nền văn hóa ấy. Các chuyến tông du của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho thấy tính cách hoàn vũ của Tin Mừng, và nhu cầu cần phải tiếp tục các công cuộc đầy thử thách để Tin Mừng bén rễ vào các nền văn hóa khác biệt.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con can đảm nối tiếp sứ mạng truyền giáo nơi môi trường mình sống theo niềm khao khát của Giáo Hội và lệnh truyền của Chúa (Mt 28,19).
Suy niệm 3: Giáo dục
Thánh Gioan Monte Corvino đã nổi tiếng về rao giảng và giáo dục.
Năm 1975, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI viết: "Qua sức mạnh thần thánh của Tin Mừng mà Giáo Hội rao giảng, hoạt động truyền giáo là để tìm cách thay đổi lương tâm con người về phươ ng diện cá nhân cũng như tập thể, thay đổi các sinh hoạt họ tham dự, và đời sống cũng như môi trường cụ thể của họ" (Truyền Giáo trong Thế Giới Ngày Nay, #18)
Để thay đổi được lương tâm con người như là một đường hướng của hoạt động truyền giáo, Thánh Gioan Monte Corvino đã vận dụng một phương cách, đó là giáo dục. Vì thế ngài đã dần dần mua khoảng 150 bé trai của những cha mẹ lương dân, ở độ tuổi từ 7 đến 11. Ngài dạy chúng tiếng Latinh và Hy Lạp, viết thánh vịnh và các thánh thi cho chúng, cũng như tập chúng giúp lễ và hát trong ca đoàn, với ước mong âm thầm là huấn luyện được một số chúng làm linh mục.
Đồng thời ngài cũng nỗ lực học và giảng dạy chút đỉnh bằng tiếng địa phương, chuyển dịch Tân Ước cũng như Thánh Vịnh, Kinh nhật tụng và các thánh thi dùng trong phụng vụ. Sáu thế kỷ sau, được gợi ý từ ngài, Gabriele Allegra đến Trung quốc và hoàn thành được bản dịch Kinh Thánh Công Giáo đầu tiên bằng tiếng Trung Quốc vào năm 1968.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đánh giá cao vai trò giáo dục trong hoạt động truyền giáo.
Suy niệm 4: Bệ kiến
Thánh Gioan Monte Corvino đến Mông Cổ bệ kiến vua Kublai Khan.
Là người lịch sự, ngài tìm đến trình diện chủ nhà vốn là hoàng đế của một vương quốc ngài đặt chân đến. Ngài cũng khiêm tốn tự giới thiệu mình cho hoàng đế bằng việc trình ủy nhiệm thư của Đức Giáo Hoàng lên nhà vua, để tạo mối thân thiện trong thời gian làm việc tại đây.
Nhất là ngài thấu hiểu được vai trò tối quan trọng của một người làm chủ theo phong tục của người Á Đông, từ phạm vi gia đình đến xã hội, mà ngài đã lãnh hội được qua Kinh Thánh, dặc biệt qua chủ nhà mà cả nhà đều tin và được lãnh nhận phép rửa, như rường hợp của ông Conêliô (Cv 10,48), và của bà Lyđia (Cv 16,15) hoặc của viên cai ngục (Cv 16,33). Chính vì thế trong suốt hai năm đầu, ngài vẫn thường xuyên liên hệ với nhà vua và mời gọi ông đón nhận đức tin Công Giáo. Và ngài đã đạt được phần nào thành quả khi nhà vua tạo điều kiện cho hoạt động truyền giáo được thuận lợi dầu chính nhà vua không tin theo, nhưng lại cho Thái Tử George của tỉnh Tenduk tin nhận.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu rằng đức tin là một ơn Chúa ban (Gc 1,16).
Suy niệm 5: Phái đoàn
Phái đoàn đến được phía tây Ấn Độ.
Theo gương Chúa Giêsu, các sứ giả Tin Mừng không đơn độc lên đường mà thường có đồng đội (Lc 10,1;Cv 13,2.4), Trong chuyến đi khởi đầu, cùng đi với ngài còn có một thương gia người Ý và một linh mục Đaminh tên là Nicholas of Pistoia vốn bị chết thời gian còn ở Ấn Độ.
Sau 11 năm phải vất vả làm việc một mình, vào quãng năm 1304, một tu sĩ Phanxicô người Đức tên là Arnold ở Cologne được gởi đến như là vị đồng nghiệp đầu tiên của ngài tại Trung quốc. Hài lòng về thành quả đạt được tại đây và để đáp ứng với thỉnh cầu của Cha Gioan, vào năm 1307, Đức Giáo Hoàng Clement V đã đặt ngài làm Tổng Giám Mục của Khanbalik (Bắc Kinh ngày nay), và bài sai bảy giám mục Âu Châu đến trông coi các giáo phận lân cận. Một trong bảy vị này chưa bao giờ rời khỏi Âu Châu. Ba vị khác từ trần trên đường đến Trung Quốc; ba vị giám mục còn lại là Gerardus, Peregrinus và Andrew cùng các tu sĩ khác đến Trung Quốc vào năm 1308. Vào năm 1312, ba vị Phanxicô khác được gởi đến bổ sung với tư cách là phó. Ngài qua đời vào năm 1328 với sự ngưỡng mộ của người Kitô Hữu cũng như người không có đạo như một thánh nhân.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín rằng trong hành trình lữ thứ tiến về quê trời với sứ mạng truyền giáo, chúng con không đơn độc nhưng luôn có Chúa cùng đồng hành (Mc 16,19).
Suy niệm 6: Xây cất
Thánh Gioan Monte Corvino xây cất hai nhà thờ.
Vào năm 1299, ngài xây dựng một nhà thờ ở thành phố Khanbaliq nơi có cung điện của nhà vua. Ngài phải mất 6 năm để hoàn thành công trình này, kể cả một tháp chuông với 3 quả chuông lớn ở đó. Chính tại ngôi nhà thờ này, ngài đã rửa rội được 6.000 người vào thời điểm đó. Và vào năm 1305, ngài còn xây dựng một cơ sở gồm có nơi làm việc và chỗ ở cho chừng 200 người.
Nhưng điều quan trọng hơn cả, ngài là vị sáng lập tiên khởi của Giáo Hội Công Giáo Rô Ma tại Ấn Độ và Trung Quốc.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chú tâm xây dựng các đền thờ tâm hồn, vì có nơi thờ phượng mà không còn người thờ phượng thì cũng bằng không.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 28/11 Thánh James ở Marche (1394-1476)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh James ở Marche (1394-1476)
Thánh James muốn lời Chúa ăn sâu trong tâm hồn của người nghe. Lời giảng của ngài là để chuẩn bị mảnh đất tâm hồn, bằng cách lấy đi những sỏi đá và lầm mềm lòng những cuộc đời đã khô cằn vì tội lỗi.
Lược sử
Thánh James sinh ở Marche thuộc tỉnh Ancona miền trung nước Ý, dọc theo bờ biển Adriatic. Sau khi lấy tiến sĩ giáo luật và dân luật tại Ðại Học Perugia, ngài gia nhập dòng Phanxicô và bắt đầu một cuộc sống thật khắc khổ.
Thánh James học thần học với Thánh John ở Capistrano. Ðược thụ phong linh mục năm 1420, Thánh James bắt đầu cuộc đời rao giảng. Ngài giúp lan tràn việc sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu.
Ðể chống với tệ nạn xã hội về số phân lời quá cao, Thánh James thiết lập một tổ chức gọi là "montes pietatis" (núi bác ái)
Ngài từ trần ở Naples ngày 28-11-1476 và được phong thánh năm 1726.
Suy niệm 1: Khắc khổ
Thánh James gia nhập dòng Phanxicô và bắt đầu một cuộc sống thật khắc khổ.
Ngài ăn chay chín tháng trong một năm, và mỗi đêm chỉ ngủ có ba tiếng. Ngài hãm mình đến độ Thánh Bernardine ở Siena phải bảo ngài giảm bớt lại.
Trong buổi tiếp kiến chung vào hôm thứ Tư 27/05/2009, Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã khẳng định rằng chỉ «sự khắc khổ» và sự từ bỏ sở hữu vật chất mới có thể cho phép thực hiện trọn vẹn «vấn đề lớn của sự khó nghèo». Trong bài giáo lý về thánh Théodore le Studite, một đan sĩ canh tân sống vào thế kỷ thứ 8, Đức Thánh Cha đã nói: «Chúng ta không phải lệ thuộc sự sở hữu vật chất». Ngài nói tiếp: «Sự khó nghèo cá nhân» là «một yếu tố chủ yếu của đời sống đan tu» nhưng cũng chỉ ra «một con đường cho hết thảy chúng ta». «Chúng ta phải học biết sự từ bỏ, sự đơn giản, sự khắc khổ, sự tiết độ» vì «chỉ bằng cách này mà một xã hội liên đới mới có thể thịnh vượng và vấn đề lớn về sự khó nghèo mới có thể được vượt qua».
Đức Thánh Cha cũng xin các tín hữu «kháng cự lại cám dỗ biến ý riêng của mình thành quy luật sống đầu tiên của họ». Ngài nói: «Khuynh hướng của con người sau tội nguyên tổ là biến ý muốn của mình thành nguyên tắc sống đầu tiên... đặt mọi sự còn lại phục tùng ý muốn này» nhưng bằng cách này xã hội «không thể vận hành». Ngài kêu gọi «vâng phục các quy luật của đời sống chung». Ngài kêu gọi «phổ biến học thuyết xã hội của Giáo Hội và , nhất là, cho thấy sự gần gũi của ngài với tất cả những ai nghèo khó về vật chất và tinh thần».
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sống khắc khổ, đặc biệt trong việc luôn từ bỏ ý riêng.
Suy niệm 2: Học
Thánh James học thần học với Thánh John ở Capistrano.
Lúc còn nhỏ, ngài khởi sự con đường học vấn ở Offida dưới sự hướng dẫn của người cậu linh mục, và sau đó được gởi đi học ở trường Ascoli Piceno ở một thành phố gần đó. Về sau ngài học ở Đại Học Perugia và lấy bằng Tiến Sĩ dân luật. Sau một thời gian vắn ở Florence với nghề gia sư cho một gia đình quý tộc và quan tòa xử các vụ liên quan đến việc phù phép, ngài được nhận vào Dòng Phanxicô ở nhà thờ Portiuncula ở Assisi vào ngày 26.07.1416. Thời gian này, ngài nhận tên dòng là James. Sau chương trình tập sinh ở Carceri, gần Assisi, ngài học thần học ở Fiesode gần Florence dưới sự hướng dẫn của Thánh Bernardine thành Siena.
Các tác phẩm của ngài không được tập kết mà được lưu giữ rãi rác ở Municipio. Ngài đã viết cuốn "Cuộc Đối thoại chống Nhóm Fraticellos" được in ấn ở Baluze-Mansi. Nhiều bài giảng cũng như luận án về "Các phép lạ của Danh Thánh Chúa Giêsu" không được xuất bản. Cuốn "Các quy luật xưng tội" được xuất bản vài lần bằng tiếng Latinh và tiếng Ý vào thế kỷ thứ 15. Một số bản viết tay và luận án về "Máu Chúa Kitô đổ ra" vẫn còn được lưu trữ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con can đảm và khiêm tốn viết ra các suy tư của minh như một việc bác ái nhằm chia sẻ với tha nhân, và đồng thời đó cũng là một cách học đáng trân trọng.
Suy niệm 3: Rao giảng
Thánh James bắt đầu cuộc đời rao giảng.
Vào ngày 13.06.1420, ngài được thụ phong linh mục và bắt đầu rao giảng ở Tuscany thuộc Marche và ở Umbria. Trong nửa thế kỷ, ngài đã đi khắp nước Ý cũng như đến 13 quốc gia thuộc Trung và Ðông Âu Châu. Bài giảng của ngài thúc giục giáo dân cải thiện đời sống, chống lại các bè rối. Sự hăng say của ngài được hổ trợ bằng nhiều phép lạ đã giúp nhiều người trở lại đạo (người ta ước lượng khoảng 250.000 người), và nhiều thanh niên gia nhập dòng Phanxicô vì sự ảnh hưởng của ngài. Cùng với Thánh John ở Capistrano, Thánh Albert ở Sarteano và Thánh Bernardine ở Siena, Thánh James được coi là một trong "bốn cột trụ" của phong trào Nghiêm Thủ (Observant) của dòng Phanxicô. Các ngài nổi tiếng vì sự rao giảng.
Thánh James muốn lời Chúa ăn sâu trong tâm hồn của người nghe. Ngài nêu lên giá trị của lời Chúa: "Lời Chúa thật thánh thiện và đáng yêu quý dường nào! Chỉ có lời Chúa mới soi tỏ mọi tâm hồn tín hữu, làm thỏa mãn người đói khát, an ủi kẻ đau khổ; lời Chúa giúp linh hồn tạo được công nghiệp và giúp mọi nhân đức phát triển; lời Chúa gìn giữ linh hồn khỏi nanh vuốt ma quỷ, giúp người độc ác nên thánh thiện, và mọi người trên mặt đất trở thành công dân nước trời" Lời giảng của ngài là để chuẩn bị mảnh đất tâm hồn, bằng cách lấy đi những sỏi đá và làm mềm lòng những cuộc đời đã khô cằn vì tội lỗi. Chúa muốn lời của Người bén rễ trong đời sống chúng ta, nhưng để được như thế, không những chúng ta cần người rao giảng đầy sùng tín, nhưng chính chúng ta cũng phải tích cực lắng nghe.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín về giá trị của Lời Chúa để hằng yêu mến, học hỏi và thực hành.
Suy niệm 4: Thánh Danh Chúa Giêsu-lòng sùng kính
Thánh James giúp lan tràn việc sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô xác định: "Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa" (x. Pl 2:9-11). Lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu phổ biến trong các đan viện Xitô (Cistercians) từ thế kỷ XII, nhất là qua giáo huấn của thánh Bernardine Siena, tu sĩ Dòng Phanxicô hồi thế kỷ XV.
Thánh Bernardine dùng lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu là cách vượt qua những cuộc chiến gian lao và thường đổ máu, chống lại sự kình địch gia đình hoặc mối thù truyền kiếp (vendettas) ở Ý. Lòng sùng kính này phát triển, một phần do các tu sĩ Dòng Phanxicô và Đa Minh, thậm chí phát triển rộng rãi hơn sau khi các tu sĩ Dòng Tên bắt đầu truyền bá từ thế kỷ XVI.
Năm 1530, ĐGH Clementô V phê chuẩn Lễ kính Thánh Danh Chúa Giêsu cho các tu sĩ Dòng Phanxicô. Năm 1721, ĐGH Innocent XIII mở rộng lễ này cho Giáo hội toàn cầu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dùng lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu để chiến thắng trong các cuộc chiến quỷ ma.
Suy niệm 5: Thánh Danh Chúa Giêsu-biểu tượng JHS
Thánh James giúp lan tràn việc sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu.
Chữ IHS được viết tắt từ chữ Jesous, tên bằng tiếng Hy Lạp dành cho Chúa Giêsu: Jesus (Giêsu), Homo (Người), Salvator (Đấng Cứu Thế).
Thánh Bernardine nổi tiếng về lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu, di sản của ngài là biểu tượng IHS, viết tắt 3 từ theo tên Chúa Giêsu bằng tiếng Hy Lạp, bằng chữ Gothic trên một mặt nhật sáng chói (a blazing sun). Từ này thay thế các biểu tượng dị đoan (superstitious symbols) của thời đó, kể cả huy hiệu (insignia) của các bè phái (chẳng hạn Guelphs và Ghibellines).
Lòng sùng kính này lan truyền, và biểu tượng này bắt đầu xuất hiện trong các nhà thờ, các gia đình và các tòa nhà chung. Sự chống đối nổi lên từ những người cho đó là sự đổi mới nguy hiểm (dangerous innovation). Người ta kiện cáo ngài 3 lần, nhưng ngài đã chứng minh bằng sự thánh thiện, sự chính thống và sự thông minh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chớ kêu tên Chúa một cách vô cớ kẻo lỗi phạm điều răn thứ hai.
Suy niệm 6: Tệ nạn xã hội
Ðể chống với tệ nạn xã hội về số phân lời quá cao, Thánh James thiết lập một tổ chức gọi là "montes pietatis".
Đó là một tổ chức bất vụ lợi để cầm đồ với lãi suất thật thấp. Dĩ nhiên, các tay cầm đồ ác đức không hài lòng với tổ chức này, nên đã hai lần họ thuê người đến giết ngài, nhưng cứ mỗi lần đối diện với ngài là các hung thủ đều quên hết dự tính ở trong đầu.
Bổn phận giữ đức công bình thật đáng lưu tâm đặc biệt cho thời đại chúng ta được đánh dấu bằng "tệ nạn của các xã hội giàu có ngày nay trong đó người giàu luôn được giàu có hơn, vì sự giàu có phát sinh thêm sự giàu có, còn người nghèo lại luôn trở nên nghèo hơn, vì sự nghèo khó có chiều hướng tạo nên những cái nghèo khác. Tệ nạn này không chỉ tồn tại bên trong các quốc gia khác nhau: nó còn có tầm vóc vượt ra xa ngoài phạm vi biên giới... Thật ra, chính tình liên đới phải được triển nở trong thế giới, để chiến thắng được tính vị kỷ của con người và của các quốc gia (Đức Gioan-Phaolô II, 04.11.2000).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhớ rằng càng sống bác ái chúng con càng dễ sống công bình.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 27/11 Thánh Francesco Antonio Fasani (1681-1742)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Francesco Antonio Fasani (1681-1742)
Sinh ở Lucera (miền nam nước Ý), Francesco gia nhập dòng Phanxicô năm 1695. Mười năm sau khi được chịu chức linh mục, ngài dạy triết cho các đệ tử, làm quản lý nhà dòng và sau đó làm bề trên. Khi nhiệm kỳ chấm dứt, ngài làm giám đốc đệ tử viện và sau cùng trông coi một giáo xứ trong vùng.
Trong các công việc, ngài là một người nhân từ, đạo đức và hãm mình. Ngài được người ta tìm đến để xưng tội và nghe giảng. Một trong những nhân chứng cho việc phong thánh của ngài xác nhận, "Trong bài giảng, ngài nói một cách bình thường, nhưng tâm hồn tràn ngập tình yêu Thiên Chúa và tha nhân; như được Chúa Thánh Thần nung đốt, ngài đưa ra các lời lẽ cũng như hành động trong Phúc Âm, khích động người nghe và thúc giục họ ăn năn sám hối." Thánh Francesco còn là người bạn tốt của người nghèo, ngài không bao giờ do dự tìm đến các ân nhân một khi có nhu cầu cho người nghèo.
Khi ngài từ trần ở Lucera, các trẻ em chạy khắp đường phố và la lớn, "Ông thánh chết rồi! Ông thánh chết rồi!"
Francesco được phong thánh năm 1986.
Lời Bàn: Cuộc đời mỗi người là tùy thuộc chúng ta lựa chọn. Nếu chúng ta keo kiệt, chúng ta sẽ trở nên người bủn xỉn. Nếu chúng ta sống yêu thương, chúng ta sẽ trở nên người nhân hậu. Sự thánh thiện của Thánh Francesco Antonio Fasani là kết quả của những lựa chọn nhỏ bé để cộng tác với ơn sủng của Thiên Chúa.
Lời Trích: Trong bài giảng nhân dịp phong thánh cho Thánh Francesco, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II chia sẻ về đoạn phúc âm Gioan 21:15, trong đó Ðức Giêsu hỏi Thánh Phêrô có yêu Ngài hơn các tông đồ khác không, và sau đó Chúa nói với Thánh Phêrô, "Hãy chăm sóc đàn chiên của Thầy." Ðức giáo hoàng nhận xét yếu tố quyết định sự thánh thiện của một người là tình yêu. "Thánh nhân là người đã biến tình yêu được Ðức Kitô dạy bảo trở thành đức tính căn bản của đời sống, là tiêu chuẩn cho sự suy nghĩ và hoạt động, là đích tối cao cho những khát vọng của ngài" (Trích trong tờ L'Observatore Romano, tập 16, số 3, 1986).
Ngày 26/11 Thánh Catarina Alexandria, Tử đạo (qua đời khoảng năm 310)
- Viết bởi Trầm Thiên Thu
Thánh Catarina Alexandria, Tử đạo (qua đời khoảng năm 310)
Theo truyền thuyết, thánh Catarina trở lại Kitô giáo sau khi thấy một thị kiến. Lúc 18 tuổi, bà đã tranh luận với 50 triết gia ngoại giáo. Ngạc nhiên trước sự không ngoan và kỹ năng tranh luận của bà, họ đã gia nhập Kitô giáo – kể cả khoảng 200 binh sĩ và các thành viên của hoàng gia. Tất cả họ đều tử đạo.
Bị kết án tử và bị treo vào bánh xe, rồi bà bị chém đầu. Những thế kỷ sau, truyền thuyết cho rằng các thiên thần đã đem thi hài bà tới một tu viện ở chân Núi Sinai.
Lòng sùng kính bà phát triển thành Thập tự quân. Bà được coi là bổn mạng của học sinh, sinh viên, giáo viên, quản thủ thư viện và luật sư. Bà là một trong 14 người giúp việc tông đồ, rất được sùng kính ở Đức quốc và Hungary.
Ngày 25/11 Thánh Clêmentê I, giáo hoàng, tử đạo (St. Clement 1)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Clêmentê I, giáo hoàng, tử đạo (St. Clement 1)
(St. Clement 1)
Lc 20, 27-40
Các thánh tử đạo là những người đã can trường làm chứng cho Chúa. Giáo Hội vững mạnh là được xây dựng trên dòng máu các anh hùng tử đạo. Thánh Cơ-lê-men-tê I, giáo hoàng là một nhân chứng của Chúa Giêsu Kitô vào cuối thế kỷ thứ nhất.
THÁNH CƠ-LÊ-MEN-TÊ I
Thánh nhân là vị giáo hoàng thứ 3 trong lịch sử Giáo Hội. Người ta ít biết về thời niên thiếu của thánh nhân.Thánh Cơ-lê-men-tê I sống vào cuối thế kỷ thứ nhất. Ngài là một nhà hùng biện, yêu mến Thánh Kinh và thấu suốt tư tưởng, giáo lý của Chúa Giêsu. Thánh Irênê thuật rằng: thánh Phêrô vị giáo hoàng tiên khởi đã truyền ngôi cho Linô, Anaclê kế vị Linô và sau Anaclê là thánh Cơ-lê-men-tê I. Thánh nhân đăng quang, một trong những việc làm phi thường của Ngài là giàn xếp cuộc nổi loạn của cộng đoàn tín hữu Corintô. Ðọc bức thư Ngài gửi cho cộng đoàn tín hữu Corintô,mọi người nhận ra Ngài là vị mục tử hiền từ, bác ái và khiêm nhượng. Ngài là người đã sống họa lại hình ảnh của Chúa Giêsu nhân từ, hiền hậu. Ngài đã sống trọn vẹn con người của Ngài đến nỗi ta có thể nói được như thánh Phaolô:" Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Ðức Kitô sống trong tôi ". Chính vì sống con đường của Chúa Giêsu, con đường thập giá của Ngài. Thánh nhân đã được phúc tử vì đạo dưới thời Hoàng đế Trajan. Thánh nhân đã bị bắt, bị kết án tử hình. Lý hình đã cột đá nặng vào cổ Ngài, quăng Ngài xuống biển sâu. Người ta đã vớt được xác Ngài và đưa về Lamã, dưới triều Ðức Giáo hoàng Adrianô II. Thiên Chúa và Giáo Hội đã tôn vinh Ngài.
CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con khâm phục Chúa đã làm cho các thánh nên can trường. Chúa đã giúp thánh Cơ-lê-men-tê là tư tế và tử đạo của Ðức Kitô biết lấy máu đào mà minh chứng những mầu nhiệm thánh nhân cử hành,và biết nêu gương sáng để củng cố Tin Mừng người rao giảng. Hôm nay, chúng con mừng kính Người, xin cho chúng con được tràn đầy niềm phấn khởi hân hoan.( Lời nguyện nhập lễ thánh Cơ-lê-men-tê I, giáo hoàng, tử đạo).
Ngày 24/11 Lễ kính Các thánh Tử Đạo Việt Nam
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lễ kính Các thánh Tử Đạo Việt Nam
Thánh Anrê Dũng Lạc và Các Bạn
Có đến ba lần bắt đạo cực kỳ khủng khiếp trong thế kỷ 19. Kể từ năm 1820, trong sáu thập niên, có khoảng 100,000 đến 300,000 người Công Giáo đã bị giết hoặc bị đầy ải.
Lược sử
Thánh Anrê Dũng Lạc là một trong 117 vị tử đạo ở Việt Nam trong những năm từ 1820 đến 1862. Các ngài được phong chân phước làm bốn đợt, từ 1900 đến 1951. Sau cùng, các ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh vào năm 1988.
Kitô Giáo được người Bồ Đào Nha đưa vào Việt Nam qua ba triều đại. Vào năm 1615, các linh mục dòng Tên mở khu hội truyền giáo đầu tiên ở Đà Nẵng. Ở đây các cha coi sóc các người Công Giáo Nhật Bản bị tống ra khỏi nước.
Vua chúa thời ấy cấm các nhà truyền giáo ngoại quốc không được du nhập vào Việt Nam và họ dụ dỗ người Việt chối đạo bằng cách bước qua thập giá. Giống như thời kỳ cấm đạo ở bên Anh, các linh mục ở Việt Nam cũng phải trốn tránh trong nhà của giáo dân.
Có đến ba lần bắt đạo cực kỳ khủng khiếp trong thế kỷ 19. Kể từ năm 1820, trong sáu thập niên, có khoảng 100.000 đến 300.000 người Công Giáo đã bị giết hoặc bi đầy ải. Trong đợt bách hại đầu tiên các nhà truyền giáo ngoại quốc gồm các linh mục của Tu Hội Thừa Sai Ba Lê, cũng như các linh mục Đa Minh người Tây Ban Nha và các người dòng ba.
Vào năm 1847 xảy ra cuộc bách hại lần thứ hai, khi nhà vua nghi ngờ các vị thừa sai và giáo dân Việt Nam đồng lõa với lực lượng phản loạn để giết các con trai của vua.
Các vị tử đạo sau cùng là 17 giáo dân, trong đó có một em 9 tuổi, được tử đạo năm 1862. Chính năm đó một hiệp ước được Việt Nam ký kết với Pháp nhằm đảm bảo sự tự do tôn giáo cho người dân, nhưng hiệp ước đó không được tôn trọng.
Suy niệm 1: Các vị tử đạo Việt Nam-Thủ tục điều tra
Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, Giáo Hội luôn duy trì một thủ tục khắt khe để phong thánh hầu tránh đi mọi lạm dụng có thể xảy ra. Khởi đầu thì bất cứ người giáo dân nào cũng có quyền làm đơn xin Giáo Hội xúc tiến thủ tục điều tra để phong thánh cho một hay nhiều Kitô hữu. Đó là những người công giáo đã qua đời, mà còn để lại những mẫu gương thánh thiện cao độ, nhất là khi họ chết vì đạo với những bằng chứng rõ rệt vì đức tin.
Tất cả 117 vị tử đạo Việt Nam mà chúng ta mừng kính hôm nay đều có đủ bằng chứng đích thực về cái chết anh hùng đó. Qua thủ tục điều tra từ hơn một thế kỷ nay, các vị ấy đã lần lượt được Giáo Hội nhìn nhận là Đấng đáng kính, vì đã nêu gương thánh thiện cho các Kitô hữu.
Tiếp đến là nâng lên hàng Chân phước, tức là các vị ấy được nhìn nhận là đang được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa. Tuy việc tôn kính còn giới hạn chưa phổ quát khắp nơi trên thế giới. Ba đời Giáo Hoàng tuyên dương các ngài: Đức Lêô XII tôn phong 27.05.1900: 64 vị.
- Đức Piô X tôn phong ngày 20.05.1906: 28 vị. - Đức Piô XII tôn phong 29.04.1951: 25 vị. Tổng cộng 117 vị được tôn phong Chân Phước.
Cuối cùng là được phong lên bậc thánh nhân, tức là được tôn vinh hiển thánh với lễ kính có thể được cử hành ở khắp mọi nơi. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong 117 vị lên bậc thánh vào ngày 19.06.1988. Trong đó có 8 Giám mục, 50 linh mục, 15 thầy giảng, 1 chủng sinh, 42 giáo dân.
* Lạy Chúa Giêsu, nhờ lời cầu bàu của các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin cho quê hương đất nước được quốc thái dân an.
Suy niệm 2: Các vị tử đạo Việt Nam-Thành phần
Các vị tử đạo Việt Nam là ai?
Nhìn vào con số 117 vị tử đạo Việt Nam, chúng ta nhận thấy các ngài là những bậc cha ông của chúng ta, trong đó gồm đủ mọi thành phần: 8 giám mục, 50 linh mục, 16 thầy giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.
Các ngài là những nhà truyền giáo đến từ các nước, là các giám mục, các linh mục người Pháp, Tây Ban Nha, nhưng đa số là những người Việt Nam. Ngoài các giám mục và các linh mục là những người lo đáp ứng những nhu cầu thiêng liêng, chúng ta thấy các ngài thuộc đủ mọi giai cấp xã hội. Thánh Hồ Đình Hy là quan thái bộc, đặc trách ngành dệt tơ lụa vải vóc trong cả nước. Thánh Phạm Trọng Khảm là quan án. Thánh Vinh Sơn Tường làm chánh tổng. Thánh Nguyễn Huy Mỹ làm lý trưởng. Các thánh Đạt, Huy, Thể là quân nhân. Có người làm thầy thuốc, làm nhà buôn, làm thợ mộc, thợ may, có người làm ngư phủ hay nông dân.
Các ngài là những công dân hiền hòa, sống đời gương mẫu, nêu gương lý tưởng trung kiên với Thượng Đế, không phò vua bách hại, nhưng một lòng tùng phục quốc gia. Họ bị bắt bớ, tra tấn, ngục tù nhưng không một người nào có ý định cầm khí giới để phòng thân. Trái lại, họ chỉ cam chịu, chỉ cầu nguyện cho tất cả mọi người, cầu cho quốc thái dân an, cầu cho các quan đã ký sắc lệnh tử hình và thật lòng tha thứ cho những kẻ hành quyết mình. Cử chỉ này không phải là hèn nhát, nhưng xứng đáng đối với những bậc thượng nhân như câu: "Đấng thượng phu đừng thù mới đáng. Đấng anh hùng đừng hoảng mới hay".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương các thánh nhân sống mối phúc: Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị bách hại (Mt 5,11).
Suy niệm 3: Các vị tử đạo Việt Nam-gương mẫu
Mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy chiêm ngưỡng những mẫu gương thánh thiện các ngài để lại. Nhưng chiêm ngưỡng mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải cố gắng noi theo và bắt chước, vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.
Là những thanh thiếu niên, chúng ta hãy chiêm ngưỡng và bắt chước một chàng trai tuấn tú 18 tuổi đã trả lời quan toà: Tôi chỉ mong chức quyền trên trời chứ không màng danh vọng trần thế. Chàng trai tuấn tú ấy là thánh Tôma Thiện.
Là những người đang sống trong bậc vợ chồng, chúng ta hãy khắc ghi lời bà lý Mỹ: Gia đình tôi luôn sống trong hòa thuận và yêu thương, nhà tôi chuyên chăm đạo đức, tham dự thánh lễ hằng ngày. Nếu vợ con hay người giúp việc vì bận rộn không đi lễ được, ông bắt phải đọc kinh chung và nghe sách thiêng liêng để suy niệm. Ông xưng tội nhiều lần trong năm. Ông không đánh bạc, không uống rượu hay to tiếng với ai bao giờ. Bà lý Mỹ đã nói như vậy về chồng bà là thánh Nguyễn Huy Mỹ.
Cụ Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi họ yêu cầu cụ đọc kinh, thì cụ lớn tiếng: Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các quan trị nước cho yên, càng ngày càng thịnh. Tại pháp trường, khi chịu xử tử, thánh Lê Văn Phụng còn nhắn nhủ người con trai của mình: Con ơi, hãy tha thứ, đừng báo thù kẻ tố giác ba nhé. Là con cháu của các bậc anh hùng tử đạo chúng ta đã làm được những gì để tuyên xưng đức tin của mình?
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chẳng những chiêm ngưỡng những mẫu gương thánh thiện các ngài để lại, mà còn phải cố gắng noi theo và bắt chước.
Suy niệm 4: Các vị tử đạo Việt Nam-chứng nhân
Chết vì Đạo là một cách làm chứng.
• Làm chứng cho một niềm tin kiên vững: Vì tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ, nên các ngài không bước qua thánh giá.
• Làm chứng cho một tình yêu nỏng bỏng: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu" (Ga 15,13)
• Làm chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt: có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh cửu, cái chết đưa tôi giáp mặt với Đấng tôi yêu.
Các vị tử đạo đã làm chứng bằng cái chết. Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống. Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh, mất mát, thiệt thòi, vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa đọa.
* Lạy Chúa Giêsu, nhờ lời cầu bàu của các thánh tử đạo Việt Nam, xin giúp chúng con biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa.
Suy niệm 5: Các vị tử đạo Việt Nam-hàng giáo phẩm
Mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta cũng kỷ niệm việc thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam với Sắc chỉ Venerabilium Nostrorum ngày 24-11-1960 của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đến nay được hơn 50 năm (24-11-2012). Vì thế trong một vài phút ngắn ngủi này chúng ta cùng ôn lại đôi dòng lịch sử.
Kể từ khi cha Buzomi, vị thừa sai đầu tiên đặt chân lên đất nước này vào năm 1615, cho tới khi hàng giáo phẩm được thiết lập vào năm 1960, thời gian kéo dài là ba thế kỷ rưỡi. Trong khoảng thời gian này, những thành phần nhân sự dần dần được thiết lập để xây dựng cho Giáo Hội Việt Nam.
Trước hết là cha Đắc Lộ đã khai sinh ra hội Thày giảng năm 1650. Chín năm sau, tức là năm 1659, Tòa Thánh thiết lập hai Giáo phận Đàng Trong và Đàng Ngoài, đặt dưới quyền quản trị của hai vị Tân Giám mục là Lambert de la Motte và Francois Pallu, thuộc hồi thừa sai hải ngoại Paris. Chính Đức cha Lambert de la Motte trong ba năm, từ năm 1668-1670 đã truyền chức linh mục cho chín người Việt Nam đầu tiên xuất thân từ hội Thày giảng. Chín linh mục này làm nên hàng giáo sĩ Việt Nam đầu tiên. Từ việc phong chức linh mục đầu tiên này tới cuộc tấn phong Giám mục cho Đức cha Nguyễn Bá Tòng năm 1933, thời gian kéo dài gần hai thế kỷ rưỡi. Rồi từ khi có giám mục Việt Nam cho tới khi hàng giáo phẩm được thiết lập, thời gian chỉ có 37 năm. Về nhân sự của Giáo Hội địa phương, kế tiếp việc thiết lập hàng giáo sĩ Việt Nam là việc thiết lập dòng nữ Mến Thánh Giá tại Kiên Lao (Nam Định) và Bãi Vàng (Hà Nam) do Đức cha Lambert de la Motte, vào năm 1670.
Cũng trong khoảng thời gian ấy, trải dài hơn ba thế kỷ, Giáo Hội Việt Nam đã gặp phải những cuộc bách hại và cấm cách đẫm máu, khiến cho hàng vạn người đã bị mất mát tài sản, hàng ngàn người đã ngã gục ngoài pháp trường, trong đó có 117 vị đã được tôn lên hàng hiển thánh Chính các ngài đã trở thành những hạt giống đức tin, đem lại cho Giáo Hội Việt Nam một vụ mùa bội thu.
Mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cũng như kỷ niệm ngày thành lập hàng giáo phẩm, mỗi người chúng ta hãy hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống xem chúng ta đã thực sự thuộc về Đức Kitô hay chưa? Bởi vì tinh thần của Chúa và tinh thần của thế gian là hai cái gì đối kháng, cho nên chúng ta không được phép bắt cá hai tay, hay lửng lơ con cá vàng, như lời Chúa đã nói: không nóng không lạnh, chỉ dở dở ương ương thì Ta sẽ mửa mi ra. Hơn nữa, Chúa cũng đòi chúng ta phải dứt khoát lập trường và dành cho Ngài địa vị số một trong cuộc đời chúng ta, vì ai đã cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau thì không xứng đáng với Nước Trời. Tuy nhiên chọn lựa Chúa mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải thể hiện sự lựa chọn ấy trong cuộc sống thường ngày bằng cách thực thi những điều Ngài truyền dạy. Bởi vì có thực thi những điều Ngài truyền dạy, chúng ta mới thực sự trở nên là những môn đệ và chứng nhân của Ngài. Mỗi hy sinh chúng ta chấp nhận để chu toàn Lời Chúa, sẽ là một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin cầu bầu cho Giáo Hội Việt Nam được luôn trung thành với niềm tin, đức cậy và lòng mến trung thành. Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
Suy niệm 6: Các vị tử đạo Việt Nam-thánh giá
Không hiểu vì lý do gì mà các vua quan Việt Nam ngày xưa đã dùng Thập giá làm phương tiện để thách đố niềm tin của các vị tử đạo. Họ gọi đó là "Quá Khóa"để dùng Thập giá vạch ranh giới giữa cái sống và cái chết: bước qua hay không bước qua Thập giá. Bước qua là được tiếp tục sống sung sướng an nhàn. Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất chính mạng sống. Chỉ cần một bước chân, là mọi sự thay đổi.
Đã có người bước qua, và cũng có người không. Có người bị khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà tha, như thánh Micae Hồ Đình Hy, nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng. Giây phút đứng trước thánh giá là giây phút quan trọng. Quyết định không bước qua thánh giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất... Thời nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ. Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá, bằng đời sống hưởng thụ và ích kỷ của mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 23/11 Thánh Giáo Hoàng Clement I (c. 101)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giáo Hoàng Clement I (c. 101)
Ðức Clement đã chủ trương dùng đức ái để hàn gắn chia cắt trong Giáo Hội Côrintô, vì "nếu không có đức ái, không có gì làm hài lòng Thiên Chúa."
Lược sử
Đức Clement của giáo phận Rôma là người thứ ba kế vị Thánh Phêrô, và cai quản Giáo Hội trong thập niên cuối cùng của thế kỷ thứ nhất. Lịch sử cho chúng ta biết ngài tử đạo năm 101. Tuy nhiên, chi tiết về sự tử đạo của ngài đều là truyền thuyết, được góp nhặt trong khoảng thế kỷ thứ tư hay thứ năm. Có lẽ Đền Thánh Clement ở Rôma, là một trong những giáo đường đầu tiên ở thành phố này, được xây trên khu đất xưa là nơi cư ngụ của Thánh Clement. Thư đầu tiên của Thánh Clement gửi cho giáo đoàn Côrintô được giữ gìn cẩn thận, và bức thư này được phổ biến rộng rãi trong thời tiên khởi. Đó là lá thư của Giáo Hội Rôma, tác giả là Đức Clement, gửi cho Giáo Hội ở Côrintô về sự chia rẽ đã làm tách biệt giáo dân với giáo sĩ.
Suy niệm 1: Cai quản
Đức Clement của giáo phận Rôma là người thứ ba kế vị Thánh Phêrô, và cai quản Giáo Hội trong thập niên cuối cùng của thế kỷ thứ nhất.
Về vị trí của ngài trong danh sách các giáo hoàng không có sự đồng nhất. Theo thánh Irênê giám mục của Lyons (Adversus haereses III, 3,2-3) viết năm 180 thì Đức Clement được xếp vào hàng thứ ba trong danh sách các giám mục Rôma kế tiếp tông đồ Phêrô (Phêrô, Linô: 67-76; Clêtô hay Aniclêtô: 76-88; Clêmentê: 88-97). Ông Tertulianô (khoảng 199) cho biết thêm là Đức Clement được chính thánh Phêrô truyền chức giám mục (4, Praescriptiones, XXXII) Từ đó nảy ra lưu truyền là Đức Clement kế vị trực tiếp thánh Phêrô, theo thứ tự: Phêrô, Clement, Aniclêtô.
Theo Êusêbiô thành Cêsarê vào thế kỷ thứ IV thì Đức Clement cai trị trong khoảng thời gian từ năm 88 đến 97. Niên giám Tòa thánh năm 1861 thì ngài lên ngôi giáo hoàng năm 90 và cai trị 9 năm. Theo niên giám Tòa thánh 2003 thì ngài cai quản Giáo Hội trong khoảng thời gian từ năm 88 tới 97 của thế kỷ thứ nhất. Ngài được nhiều giáo hội tôn vinh là thánh. Giáo hội công giáo, Anh giáo và Tin lành Luther kính nhớ vào ngày 23 tháng 11. Trong khi các giáo hội đông phương kính nhớ vào ngày 24 hoặc 25 tháng 11.
Người ta ít biết về thời niên thiếu của ngài. Đức Clement I là người Rôma, sống vào cuối thế kỷ thứ nhất. Truyền thống cho rằng Clement là một nhà hùng biện, yêu mến Thánh Kinh và thấu suốt tư tưởng, giáo lý của Chúa Giêsu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương thánh nhân luôn yêu mến Thánh Kinh và thấu suốt tư tưởng, giáo lý của Chúa.
Suy niệm 2: Tử đạo
Lịch sử cho chúng ta biết Đức Clement tử đạo năm 101.
Các thánh tử đạo là những người đã can trường làm chứng cho Chúa. Giáo Hội vững mạnh là được xây dựng trên dòng máu các anh hùng tử đạo. Thánh Clement I, giáo hoàng là một nhân chứng của Chúa Giêsu Kitô vào cuối thế kỷ thứ nhất.
Lịch sử cho chúng ta biết ngài tử đạo năm 101 dưới thời Hoàng đế Marcus Ulpius Nerva Traianus (còn gọi là Trajan). Ngài đã bị bắt, bị hoàng đế kết án lưu đày sang Pontus (Chersonèse (Bắc Hải) (tài liệu khác nói rằng ngài bị kết án tử hình). Ngài bị cột neo quanh cổ và bị quăng xuống biển. Người ta đã vớt được xác ngài và đưa về La Mã, dưới triều Giáo hoàng Adrianô II.
Tuy nhiên, chi tiết về sự tử đạo của Ngài đều là truyền thuyết, được góp nhặt trong khoảng thế kỷ thứ tư hay thứ năm. Một hoặc hai năm trước khi chết (869) thánh Cyril đã tới Rôma và mang theo những gì người ta tin rằng là hài cốt của Clement, xương cùng với cái mỏ neo mà ông tìm thấy ở Crimea. Nó đã được chôn cất tại thánh đường Basilica di San Clemente.
* Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con khâm phục Chúa đã làm cho các thánh nên can trường. Chúa đã giúp thánh Clement là tư tế và tử đạo của Ðức Kitô biết lấy máu đào mà minh chứng những mầu nhiệm thánh nhân cử hành, và biết nêu gương sáng để củng cố Tin Mừng người rao giảng. Hôm nay, chúng con mừng kính ngài, xin cho chúng con được tràn đầy niềm phấn khởi hân hoan.( Lời nguyện nhập lễ thánh Clement I, giáo hoàng, tử đạo).
Suy niệm 3: Đền Thánh Clement ở Rôma
Có lẽ Đền Thánh Clement ở Rôma, là một trong những giáo đường đầu tiên ở thành phố này.
Theo lưu truyền thì đền Thánh Clement ở Rôma, nằm giữa thung lũng Esquilino và Celino, là một trong những giáo đường đầu tiên ở thành phố này, được xây trên khu đất xưa là nơi cư ngụ của Thánh Clement.
Nó được xây dựng lại trong những năm đầu của thế kỷ XII, dưới triều giáo hoàng Paschal II trên nền mòng của một nhà thờ cũ, được xây dựng vào thế kỷ thứ IV, dưới thời Constantinus I (337) hoặc ngay sau đó.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quý trọng đền thờ tâm hồn chúng con nhiều hơn các đền thờ bằng gạch đá dầu có thế giá và quý giá vô ngần.
Suy niệm 4: Thư-tác giả
Thư đầu tiên của Thánh Clement gửi cho giáo đoàn Côrintô được giữ gìn cẩn thận, và bức thư này được phổ biến rộng rãi trong thời tiên khởi.
Thực ra điều chắc chắn là ngài là tác giả của một bức thư là tư liệu đầu tiên để xét đến ưu thế của Giám mục Rôma. Vì ngài phải can thiệp để giải hòa cho Giáo hội Côrintô đang bị giày vò bởi những rối loạn nội bộ nghiêm trọng giữa các phe phái đối thủ tìm hỏi hoặc là đòi hỏi Gioan, vị Tông đồ cuối cùng còn sống, hoặc là Clement. Ngài đã viết một bức thư, bằng tiếng Hy lạp, là một bài thuyết trình thực sự về đức tin như nó đã được viết ra vào cuối thể kỷ thứ nhất đó là vào năm 95. Nó được giữ gìn cẩn thận và được phổ biến rộng rãi trong thời tiên khởi. Ðó là lá thư của Giáo Hội Rôma, tác giả là Ðức Clement, gửi cho Giáo Hội ở Corintô về sự chia rẽ đã làm tách biệt giáo dân với giáo sĩ. Ðức Clement phàn nàn về sự chia rẽ trái phép và vô lý ấy trong Giáo Hội Corintô, và ngài khuyên hãy đoàn kết lại. Ngài coi lý do của sự tranh chấp ấy là vì "đố kỵ và ghen ghét." Ngài đã khéo léo pha trộn một lòng nhân ái phụ mẫu với một sự kiên quyết và một cảm thức bẩm sinh về quyền uy. Ngài áp đặt sự tái lập vào chức năng của họ những linh mục đã bị cách chức và loại ra khỏi Giáo hội những kẻ xúi dục làm loạn.
Tác phẩm bắt đầu bằng những lời như sau: "Hội thánh của Thiên Chúa đang lữ hành tại Rôma gửi Hội thánh của Thiên Chúa đang lữ hành tại Côrintô". Truyền thống cho rằng tác giả là Đức Clement, giám mục Rôma, gửi cho các kỳ mục của giáo đoàn Côrintô. Bức thư được viết vào khoảng giữa năm 94-97 (cuối triều hoàng đế Ðômitianus hay đầu triều hoàng đế Nerva). Tác phẩm này đã được giáo đoàn Ai cập và Syria nhận vào hạng danh sách quy thư Tân ước. Bức thư kết thúc bằng một "lời nguyện chung" cầu cho các Kitô hữu và hết mọi người: "Lạy Chúa, xin ban sự hòa thuận và bình an cho chúng con và mọi dân cư trên trái đất, như Chúa đã ban cho cha ông chúng con khi cha ông chúng con cầu khẩn Danh Chúa trong đức tin và chân lý. Vì thế, xin Ngài hãy làm cho chúng con biết phục tùng Danh toàn năng và chí thánh Ngài, cũng như với các vị đang lãnh đạo và hướng dẫn chúng con dưới thế này. Lạy Chúa, chính Ngài đã ban cho họ quyền năng do uy lực lớn lao và khôn tả của Ngài, để khi đã hiểu rằng chính do ngài, họ nhận được vinh quang và vinh dự, chúng con sẽ tùng phục họ và sẽ không làm gì trái ý Chúa. Xin Chúa ban cho họ sức khỏe, bình an, hòa thuận, ỗn định, để họ thực thi quyền hành Chúa ban cách tốt đẹp."(Clément de Roma, Thư gửi tín hữu Corintô, 60-61 trích trong "Les Ecrits des Pères apostoliques" trang 108).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hằng tùng phục Đấng Bản Quyền và sẽ không làm gì trái ý Chúa.
Suy niệm 5: Thư-giá trị
Thư đầu tiên của Thánh Clement gửi cho giáo đoàn Côrintô được giữ gìn cẩn thận, và bức thư này được phổ biến rộng rãi trong thời tiên khởi.
Bức thư cho thấy Giám mục Lamã có quyền bính và được nhìn nhận. Và chính ngài là người dàn xếp cuộc nổi loạn của cộng đoàn tín hữu Corintô. Ðọc bức thư gửi, mọi người nhận ra ngài là vị mục tử hiền từ, bác ái, khiêm nhượng và yêu mến kinh thánh. Ngài là người đã sống họa lại hình ảnh của Chúa Giêsu nhân từ, hiền hậu. Khi biết tin giáo đoàn Côrintô bị xáo trộn chia rẽ do việc truất chức vài kỳ mục (chương 44,3; 47,6), vị lãnh đạo giáo đoàn Rôma đã viết bức thư để kêu gọi tái lập sự đoàn kết, bằng những lời khuyên lơn răn dạy về các nhân đức khiêm nhường, hòa hợp, bác ái, chống lại sự đố kỵ ghen tương. Truyền thống cho rằng ngài là người đã truyền cử hành bí tích Thêm sức theo lễ nghi của Thánh Phêrô. Tiếng "Amen" trong các nghi thức tôn giáo được cho là phát xuất từ triều đại ông.
Đây được coi là văn bản thần học xưa nhất của Kitô giáo nếu không kể các bản văn tin mừng. Nó đã bị bỏ quyên vào thế kỷ IV, và được tìm thấy vào thế kỷ XVII trong Codex Alexandrinus (Bản Alexanđê). Năm 1894, một tu sĩ Bênêđictô người Bỉ đã tìm được ở Namur một thủ bản của thế kỷ IX có chứa bản dịch bằng tiếng Latinh bình dân bức thư của Clement, bản dịch từ thế kỷ II hoặc III, tức gần như đồng thời với kiểu chữ viết của nó.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương thánh nhân sống họa lại hình ảnh của Chúa nhân từ, hiền hậu.
Suy niệm 6: Chia rẽ
Đó là lá thư của Giáo Hội Rôma, tác giả là Đức Clement, gửi cho Giáo Hội ở Côrintô về sự chia rẽ đã làm tách biệt giáo dân với giáo sĩ.
Đức Clement đã chủ trương dùng đức ái để hàn gắn chia cắt trong Giáo Hội Côrintô, vì "nếu không có đức ái, không có gì làm hài lòng Thiên Chúa." Sau Công Đồng Vatican II, toàn thể Giáo Hội cảm nhận được sự tách biệt giữa mới và cũ. Cầu mong sao mọi Kitô Hữu ngày nay hãy nhớ đến sự cổ vũ của Thánh Clement mà thể hiện lời Thánh Phaolô: "Và trên tất cả những điều ấy hãy có đức yêu thương, đó là giây ràng buộc mọi điều toàn thiện" (Cl 3,14).
"Đức ái kết hợp chúng ta với Thiên Chúa. Trong đức ái không có gì là xấu hổ, không có gì là ngạo mạn. Đức ái không đi với ly giáo, không nổi loạn, nhưng hài hòa mọi sự. Trong đức ái, những người được Thiên Chúa tuyển chọn sẽ trở nên tuyệt hảo" (Thư Thứ Nhất Gửi Giáo Đoàn Corinto).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hãy nhớ đến sự cổ vũ của Thánh Clement mà thể hiện lời Thánh Phaolô: "Và trên tất cả những điều ấy hãy có đức yêu thương, đó là giây ràng buộc mọi điều toàn thiện" (Cl 3,14).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 22/11 Thánh Cecilia (Thế kỷ III)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Cecilia (Thế kỷ III)
Thánh Cecilia dùng miệng lưỡi để ca ngợi Thiên Chúa với tất cả tấm lòng. Ngài tiêu biểu cho sự tin tưởng của Giáo Hội rằng thánh nhạc là một phần căn bản trong phụng vụ, có giá trị lớn lao hơn bất cứ nghệ thuật nào khác.
Lược sử
Mặc dù Thánh Cecilia là vị tử đạo thời danh trong Giáo Hội Rôma, những câu chuyện quen thuộc về thánh nữ thì không thấy ghi chép trong văn bản chính thức. Vào thời tiên khởi cũng không thấy dấu vết của sự tôn kính ngài. Chỉ có một mảnh đá thời thế kỷ thứ tư có ghi khắc tên của một nhà thờ mang tên thánh nữ, và ngày lễ kính được cử hành vào khoảng năm 545.
Theo truyền thuyết, Cecilia là một thiếu nữ Kitô Giáo của giai cấp quyền quý kết hôn với một người La Mã tên là Valerian. Cecilia mặc áo nhặm, ăn chay, và thường cầu khẩn các thánh, các thiên thần, các trinh nữ xin họ gìn giữ sự trinh tiết của ngài.
Ngài gửi đức lang quân đến gặp Thánh Giáo Hoàng Urbanô để được rửa tội; và khi ông trở về nhà, ông thấy Cecilia đang cầu nguyện trong phòng, và cạnh đó là một thiên thần với đôi cánh rực lửa, tay cầm hai triều thiên bằng hoa hồng và hoa huệ đặt trên đầu của hai người, và biến đi. Sau đó, Tibertius, người em của Valerian, bước vào phòng và ông ngạc nhiên khi ngửi thấy mùi hoa nồng nàn cũng như vẻ mỹ miều của các bông hoa.
Khi ông này được kể cho biết các chi tiết của câu chuyện, ông cũng muốn được rửa tội. Sau đó, cả hai anh em ông tận tụy hy sinh chôn cất các vị tử đạo mà thời ấy xảy ra hàng ngày, dưới quyền tổng trấn Turcius Almachius. [Không có tổng trấn nào mang tên này cả]. Họ bị bắt và bị đưa ra trước quan tổng trấn, và khi họ từ chối thờ cúng các tà thần họ đã bị chém đầu.
Trong khi đó, Thánh Cecilia, qua lời rao giảng ngài đã đưa bốn trăm người trở lại đạo và được Đức Giáo Hoàng Urbanô rửa tội. Sau đó thánh nữ bị bắt, và bị xử tử bằng cách trấn nước cho đến chết. Ngài bị dìm trong bồn nước một ngày một đêm, sau đó quan cho nổi lửa đun sôi bồn nước, nhưng thánh nữ không hề hấn gì. Khi tổng trấn Almachius nghe biết điều này, ông sai người đến chặt đầu thánh nữ ngay trong bồn nước. Lý hình chém đến ba lần mà đầu thánh nữ vẫn chưa đứt. Hắn để mặc cho máu tuôn đổ. Đám đông đổ xô đến để thấm máu trong khi ngài vẫn rao giảng cho họ. Ba ngày sau, ngài trút hơi thở cuối cùng, và được Đức Giáo Hoàng Urbanô và các phó tế chôn cất.
Vào thời Phục Hưng, người ta thường vẽ ngài với đàn vĩ cầm và phong cầm nhỏ.
Suy niệm 1: Tử đạo
Thánh Cecilia là vị tử đạo thời danh trong Giáo Hội Rôma.
Theo sử gia C. Erbes viết cuốn PASSIO - THƯƠNG KHÓ, trinh nữ Cecilia tử đạo khoảng năm 229-230, dưới thời hoàng đế Severo Alessandro (222-235) và quan tổng trấn Turcius Almachius trị vì thành Roma. Trước đó, trinh nữ đã đem chồng cùng em chồng là Valerian và Tibertius trở lại Kitô Giáo. Sau đó cả ba cùng được hồng phúc lãnh nhận triều thiên tử đạo.
Cêcilia, Valerian và Tibertius cùng nhau sống đời thánh thiện. Họ phân phát của bố thí cho các Kitô hữu bị bắt bớ, bí mật cầu nguyện với những người bị kết án và khuyến khích họ can đảm chịu cực hình. Đêm về hai anh em lo chôn cất xác các vị tử đạo. Chẳng bao lâu họ bị phát giác. Tổng trấn Almachius ngac nhiên hỏi: Các người quan tâm tới các tử tội bị ta kết án hay sao? Cêcilia trả lời: Thật đẹp lòng Chúa biết bao, nếu chúng tôi xứng đáng được làm nô lệ cho những người mà ngài kết án là tử tội. Quan tổng trấn nhún vai cho rằng: người đàn bà này mất trí. Ông tách riêng Valerian và Tibertius và cũng hỏi như vậy. Nhưng các Ngài đã khinh thường danh vọng với sang giàu mà Almachius rất coi trọng. Ông liền kết án trảm quyết các Ngài. Tác giả kể lại cuộc tử nạn các Ngài đã nói: Người ta thấy các Ngài chạy xô tới cái chết như tới dự một đại lễ. Cêcilia thu lượm và chôn cất xác các Ngài. Nàng vẫn tiếp tục bao bọc cho các Kitô hữu bị bách hại. Almachius liền tống giam Ngài. Bị vấn danh Ngài nói: Tôi tên là Cêcilia, nhưng Kitô hữu là tên đẹp hơn nhiều của tôi. Quan tổng trấn bắt nộp tài sản của Valerian và Tibertius. Cêcilia trả lời tất cả đã được phân phát cho người nghèo rồi. Tức giận Almachius truyền cho Cêcilia phải dâng hương tế thần ngay nếu không sẽ phải chết. Cêcilia cười trả lời: Chư thần của ông chỉ là đá, đồng chì, và Ngài tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô mà thôi. Các binh sĩ xúc động nghị rằng Ngài sắp phải chết nên nài nỉ: Cô sang trọng và trẻ đẹp, hai mươi tuổi đầu hãy dâng hương tế thần đi, đừng để chết uổng. Nhưng Cêcilia trả lời họ rằng: Các ông không biết rằng chết vào tuổi tôi, không phải là đánh mất tuổi trẻ, nhưng là đổi chác vì Thiên Chúa sẽ trả lại gấp trăm cái người ta dâng cho Ngài sao? Nếu người ta đưa quí kim để đổi lấy vật tầm thường, các ông có ngập ngừng không? Nghe Ngài các binh sĩ hoán cải. Almachius mất bình tĩnh truyền giam Ngài vào phòng tắm. Căn phòng đầy hơi nóng. Cêcilia không hề thấy khó chịu. Almachius truyền chém đầu Ngài, lý hình ba lần dùng gươm mà chỉ gây nên được một vết thương ghê rợn. Thánh nữ đã cầu xin để được gặp Đức Giáo Hoàng Urbanô đến lo linh hồn mình. Ngài còn sống được 3 ngày, được gặp Đức Urbanô, rồi lãnh triều thiên thiên thần đã hứa. Các Kitô hữu chôn táng Ngài và tôn trọng thái độ lúc Ngài tắt hơi, đầu không cúi gục như bông hoa không tàn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con được mạnh mẽ, can đảm làm chứng cho Chúa như thánh nhân đã chứng minh cho mọi người.
Suy niệm 2: Kết hôn
Cecilia là một thiếu nữ Kitô Giáo của giai cấp quyền quý kết hôn với một người La Mã tên là Valerian.
Theo lịch sử Giáo hội, Cecilia là con gái quyền quý của một gia đình quý tộc. Từ nhỏ bà đã nguyện cống hiến cả đời cho Chúa và giữ giá. Nhưng gia đình đã gả bà cho một nhà quý tộc trẻ tuổi tên là Valerian.
Ngày cưới, Cêcilia mặc chiếc áo nhặm duới lớp áo ngoài sang trọng và khẩn cầu Chúa giữ cho mình được trinh nguyên. Giữa những tiếng ca vui nhộn, Cêcilia vẫn theo thói quen cùng với các thiên thần ca hát những khúc thánh thi. Bởi đó mà các người Kitô hữu hay nhận Ngài là bổn mạng của các nhạc sĩ. Chúa Giêsu khấng nghe lời ca trong trắng tự lòng vị hôn thê trẻ dâng lên Ngài. Khi chiều về, Cêcilia nói với Valerian: Thưa Chúa công, em có điều này muốn nói với anh, không bàn tay trần tục nào được động tới em, vì em có một thiên thần bảo vệ. Nếu anh tôn trọng em, Ngài cũng yêu mến anh và ban ân phúc cho anh.
Ngạc nhiên và rất cảm kích, Valerian đã ao ước nhìn thấy thiên thần. Cêcilia mới nói rằng: AnH phải chịu phép rửa tội đã, rồi nàng giải thích mầu nhiệm cứu rỗi các linh hồn do Đức Kitô cho ông nghe. Ngài đề nghị: Anh hãy tới đường Apppianô. Anh sẽ gặp những người nghèo khổ và lấy danh nghĩa em để xin họ dẫn anh tới gặp cụ già Urbanô đang ẩn náu trong hang toại đạo. Vị Giám mục này sẽ dạy dỗ anh hay hơn em, Ngài sẽ chúc bình an cho anh, sẽ mặc cho anh bộ áo trắng tinh. Rồi trở lại đây anh sẽ thấy thiên thần của em.
Valerian theo lời vị hôn thê của mình, đến đường Appianô và được dẫn tới vị Giám mục. Ngài dạy đạo và rửa tội cho ông. Trở về với Cêcilia, ông gặp nàng đang cầu nguyện, có thiên thần bên cạnh, khuôn mặt thiên thần rực sáng, tay cầm hai triều thiên kết bằng hoa huệ và hoa hồng. Ngài đặt một chiếc trên đầu Cêcilia và một chiếc trên đầu Valêriô và nói: "Hãy giữ lòng trong trắng để xứng đáng bảo vệ những triều thiên này, chúng từ vườn của Thiên Chúa, không bao giờ tàn tạ, chẳng hề lạt hương." Thiên thần còn nói thêm: "Hỡi Valerian, bởi vì anh đã biết nghe lời hiền thê của anh, vậy anh xin điều gì anh muốn." Valerian có người em ông yêu thương lắm tên là Tibertius, ông xin: "Con muốn em con cũng biết đạo thật như con" Thiên thần trả lời: Điều anh xin rất đẹp lòng Chúa. Vậy hãy biết rằng: Tibertius và anh sẽ lên trời với ngành vạn tuế tử đạo." Ngay lúc ấy Tibertius xuất hiện. Ông thấy mùi hoa huệ và hoa hồng và muốn biết từ đâu mà có hương thơm như vậy giữa mùa này, thứ hương thơm như làm con người ông trẻ lại. Cêcilia đã nói cho ông hiểu sự hư không của các ngẫu thần, đã tỏ cho ông thấy sự rực rỡ của đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Tibertius muốn được sự chỉ dạy, và đến lượt ông, cũng đã lãnh nhận Bí tích Rửa Tội do Đức Giáo Hoàng Urbanô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các vị hôn thê biết thánh hóa phu quân của mình (1Cr 7,14).
Suy niệm 3: Trinh tiết
Cecilia mặc áo nhặm, ăn chay, và thường cầu khẩn các thánh, các thiên thần, các trinh nữ xin họ gìn giữ sự trinh tiết của ngài.
Giáo Hội Chúa Kitô được tô điểm bằng muôn vàn vị thánh. Các thánh là những người đã sống những nhân đức anh hùng, khiến mọi người đều phải công nhận những nét đẹp của các Ngài. Thánh Cecilia là một trong muôn vàn thánh đã bảo vệ đức khiết tịnh của mình đến nỗi đã trở nên con người anh hùng, đã hân hoan được phúc tử vì đạo.
Theo sử liệu để lại, thánh Cecilia thuộc dòng dõi quí phái và có đời sống đạo đức tốt đẹp. Thánh nhân quyết sống thánh thiện, bảo vệ sự khiết tịnh để dâng hiến toàn thân, cuộc đời mình cho Chúa. Với ước nguyện sống trinh tiết để dấn thân trọn vẹn cho Chúa. Thánh nhân dù đã đính hôn với Valerian, một người thuộc gia đình giầu có, nhưng ngài vẫn xác tín một điều là giữ trọn lời đã khấn hứa. Nhờ tinh thần đạo đức, lòng nhiệt thành sốt sắng cầu nguyện, thánh nhân đã thuyết phục được Valerian và đứa em của Valerian trở về với Chúa, trở về với Giáo Hội. Ðức Giáo hoàng Urbanô đã rửa tội cho Valerian và người em của chàng. Với ơn Chúa và do sức mạnh của Chúa Thánh Thần, họ đã khước từ mọi thú vui xác thịt để chỉ chuyên chăm việc phụng sự Chúa và tha nhân.
Trong ngày cưới, ngài đã cầu Chúa và xin Người bảo vệ sự trinh tiết của ngài. Lịch sử chép rằng: "Vào ngày mà lễ cưới sắp được tổ chức, khi âm nhạc bắt đầu ngân lên, ngài đang cầu nguyện một mình rằng: Xin Người giữ trái tim và thân thể con được trong sạch để con không phải hổ thẹn." (McKinnon 46). Lời nguyện cầu của ngài đã được đáp lại, và Valerian sẵn sàng nhận ngài làm vợ mà không phá vỡ lời thề nguyện của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ghi nhận bằng chứng Trinh nữ Cecilia để lại: Để được trông thấy Chúa, cần phải sống trong sạch (Mt 5,8).
Suy niệm 4: Rửa tội
Cecilia gửi đức lang quân đến gặp Thánh Giáo Hoàng Urbanô để được rửa tội.
Hang toại đạo được trang hoàng thật đẹp cho nghi lễ rửa tội của Valerian và Tibertius (em trai của Valerian). Tất cả các tín hữu Kitô hầm trú của thành Roma đều có mặt. Mọi người biểu lộ nổi xúc động và chia sẻ niềm vui với Cecilia, đang sung sướng đứng giữa chồng và em chồng. Valerian và Tibertius đều mặc y phục trắng. Cecilia cũng mặc chiếc áo trắng tinh. Trông nàng giống như một Thiên Thần của Trời Cao.
Trước khi được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, Valerian cảm động thưa với Đức Giáo Hoàng Urbano I: "Tâu Đức Thánh Cha, bởi vì chính Đức Thánh Cha đã giảng giải cho con hiểu rõ giáo lý ngời sáng của Đức Tin Kitô, trong khi Cecilia trao cho con sự dịu ngọt, xin Đức Thánh Cha hãy mở cho con cửa Ơn Thánh. Xin cho con được thuộc về Đức Kitô để con nên giống như vị thiên thần mà Chúa ban làm hiền thê con và xin mở cho con con đường thiên quốc để con bước vào và quên đi tất cả dĩ vãng. Xin Đức Giáo Hoàng đừng trì hoãn nữa. Con tin. Và con nóng lòng tuyên xưng niềm tin để làm vinh danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta". Cecilia đưa chồng và em chồng đến gần nơi đặt nước rửa tội. Đức Giáo Hoàng Urbano I lấy nước dội lên đầu Valerian đang nghiêng xuống và đọc công thức rửa tội. Rồi đến lượt Tibertius. Cecilia khóc vì sung sướng. Trinh nữ mĩm cười và ngước đôi mắt nhìn, nhưng người ta không rõ nàng đang nhìn chồng được diễm phúc lãnh nhận ơn cứu độ hay đang nhìn một vị vô hình nào đó mà chỉ mình nàng trông thấy ..
Sau khi nghi thức rửa tội kết thúc, cộng đoàn cất tiếng hát bài Thánh Thi chúc tụng. Rồi Đức Giáo Hoàng Urbano I giơ tay ban phép lành cho mọi người. Xong mọi người đến trao hôn bình an cho hai tân tín hữu và chúc mừng hai người đã biết can đảm chấp nhận Chân Lý.. Valerian cảm động nói: "Cá nhân tôi không có công gì, tôi, một kẻ ngoại giáo bất hạnh chìm đắm trong lầm lạc. Tất cả mọi công lao đều thuộc về vị hiền thê khả ái của tôi. Vẻ đẹp cùng nét duyên dáng của nàng đã quyến dũ con tim trai tráng của tôi. Nhưng đức tin và sự trong trắng của nàng đã chinh phục tinh thần tôi. Tôi muốn trở nên giống như nàng để có thể yêu nàng và hiểu nàng hơn. Từ một người nóng nảy và đam mê, nàng đã biến đổi tôi thành một người mà anh chị em trông thấy: một người hiền lành và trong sạch, và tôi hy vọng, với sự giúp đỡ của nàng, tôi sẽ tiến mãi trên đường ngay nẻo chính .. Giờ đây con trông thấy ngài, hỡi vị thiên thần của đức trinh khiết tuyệt vời, vị thiên thần bản mệnh của hiền thê con, và con xin mĩm cười với ngài, vì ngài đang mĩm cười với con. Giờ đây con trông thấy ngài, vị thiên thần ngời sáng .. Niềm vui được trông thấy ngài vượt xa mọi cay đắng của nổi đau tử đạo .. Cecilia thánh thiện em ơi, em hãy chuẩn bị cho anh lãnh nhận hồng phúc tử đạo. Trên giải khăn trắng tinh này, anh muốn viết bằng máu anh tên của CON CHIÊN".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu rằng: Phép Rửa Tội trao ban sự trinh khiết nhưng tín hữu phải biết gìn giữ đức trinh khiết bằng cách sống kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, Đức Lang Quân Chí Thánh của mỗi tâm hồn.
Suy niệm 5: Chôn cất
Cecilia trút hơi thở cuối cùng, và được Đức Giáo Hoàng Urbanô và các phó tế chôn cất.
Thánh Cecilia là vị thánh tử vì đạo đầu tiên có nhục thân được bảo tồn nguyên vẹn không bị hủy hoại.
Người ta tin rằng Thánh Cecilia được chôn tại Catacomb ở Callistus sau khi bà tử vì đạo vào năm 177 SCN. Bảy thế kỷ sau, Giáo hoàng Pascal I (817-824) đã cho xây dựng Nhà thờ Thánh Cecilia trên quảng trường Trastevere ở Rome, và muốn chuyển di thể bà về đó. Tuy nhiên lúc đầu, ông không thể tìm thấy di thể bà và tin rằng nó đã bị đánh cắp. Trong một linh ảnh, ngài thấy Thánh Cecilia, vốn thúc đẩy ngài tiếp tục cuộc tìm kiếm, và rằng ngài đã rất gần mộ của bà. Ngài nỗ lực lần nữa, và sớm tìm thấy di thể của vị thánh tử vì đạo được che rèm trong một chiếc màn thêu vàng xa xỉ với những miếng vải thấm máu dưới chân bà, thay vì được cất giữ tại Catacomb ở Callistus. Thi thể bà, cùng với Valerian (chồng bà), Tiburtius, và Maximus (một viên chức La Mã), cũng như các Giáo hoàng Urbanus và Lucius được Giáo hoàng Paschal I đưa đi chôn cất dưới một án thờ Thánh Cecilia ở Trastevere.
Lần tiếp theo khi có người quấy nhiễu giấc ngủ của Cecilia là gần 800 năm sau. Trong đợt phục tích nhà thờ năm 1599, Cardinal Sfondrato chịu trách nhiệm phục chế nhà thờ và có sáng kiến khai quật bên dưới án thờ chính, với hy vọng tìm được thi thể của Cecilia và những người đàn ông tử vì đạo khác được mai táng ở đó bởi Paschal. Ngày 20 tháng 10 năm 1599, những người thợ của Sfondrato đã đào được quan tài bằng đá cẩm thạch của vị thánh. Trước sự chứng kiến của vài nhân chứng, đích thân Hồng y đã mở chiếc quan tài bằng gỗ bách bên trong, và nằm nghiêng một bên là chiếc cổ bị thương với một chiếc bùa vàng.
Giáo hoàng Clement đã đặt làm một chiếc quan tài bằng bạc tinh xảo bọc vàng để chứa chiếc quan tài bằng gỗ bách của Cecilia, và ở ngoài cùng là chiếc quan tài lớn hơn bằng cẩm thạch. Vì sự kính trọng với vị thánh, ngài không cho phép khám xét thêm về thi thể của vị thánh tử vì đạo.
Sự tái xuất hiện di thể Thánh Cecilia đã gây ra một sự xúc động mạnh cho công chúng ở Rome. Sự cuồng nhiệt của đám đông vây quanh Hoàng cung La Mã lớn tới mức Cardinal Sfondrato gần như bị xô đẩy tới chết. Giáo hoàng Clement cuối cùng đã phải cử đội bảo vệ Thụy Sĩ đến khôi phục trật tự. Ngày 22 tháng 11 năm 1599, Clement đã tới Hoàng cung La Mã để tổ chức một ngày hội vinh danh vị thánh. Sau khi di hài Thánh Cecilia được mai táng trở lại bên dưới án thờ, nó đã trở về nơi ban đầu được tìm thấy.
Khi ngôi mộ của vị thánh được mở cửa năm 1599, Stefano Maderno (1566-1636), người xây dựng đài phun nước ở quảng trường Thánh Phêrô, nhận nhiệm vụ tạc lại điều mà ông thấy. Lời đề tặng nói: "Hãy nhìn ngắm di hài của trinh nữ vĩ đại nhất, Cecilia, người mà tôi đã thấy nằm bất hoại trong ngôi mộ. Tôi để tác phẩm cẩm thạch này biểu lộ vị Thánh trong một tư thế tương tự." Bà nằm nghiêng bên phải với chiếc đầu đặt sấp và chiếc khăn quấn quanh đầu bà. Cả hai tay bà đều buông xuống gối và các ngón tay bên phải duỗi ra. Thân thể bà được lại thấy trong tư thế mà nhà điêu khắc thể hiện.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quan tâm thật nhiều đến sự bất tử của linh hồn hơn sự bảo tồn nguyên vẹn của nhục thân.
Suy niệm 6: Phong cầm
Vào thời Phục Hưng, người ta thường vẽ Cecilia với đàn vĩ cầm và phong cầm nhỏ.
Cecilia ra đời trong một gia đình quý tộc vào năm 214 thời đế quốc La Mã. Ngay từ thuở thiếu thời, ngài đã tỏ ra say mê thánh nhạc và đã đóng góp một phần rất lớn khai triển nền thánh nhạc công giáo với những bản thánh ca đã sáng tác. Trong khi tuổi trẻ ngoại giáo mê say nhạc trần tục, lòng Cêcilia hướng về Chúa và ca tụng một mình Người thôi. Vào thế kỷ XVI, các họa sĩ lại vẽ Thánh nữ ôm những nhạc cụ và có năng khiếu về nghệ thuật, thế là nhiều nhạc sĩ đã nhận Thánh nữ là Thánh Quan thầy. Các ca đoàn cũng chọn Thánh nữ làm Thánh Bổn mạng. Đó là truyền thuyết bắt đầu rất trễ trong Hội Thánh. Vì thế ngài được coi là vị thánh bảo hộ cho âm nhạc nhà thờ và là vị thánh quan thầy của các nhạc sĩ sáng tác nhạc trong Kitô giáo.
Như bất cứ Kitô Hữu tốt lành nào khác, Thánh Cecilia dùng miệng lưỡi để ca ngợi Thiên Chúa với tất cả tấm lòng. Ngài tiêu biểu cho sự tin tưởng của Giáo Hội rằng thánh nhạc là một phần căn bản trong phụng vụ, có giá trị lớn lao hơn bất cứ nghệ thuật nào khác. Trong thời đại hỗn độn của âm nhạc ngày nay, có lẽ chúng ta cần đọc lại những lời của Công Đồng Vatican II dưới đây.
"Hành động phụng vụ thêm cao quý khi các nghi thức thánh được âm nhạc trang trọng hóa, với sự phụ giúp của các thừa tác viên chức thánh và sự tham dự của giáo đoàn... Phải luôn luôn khuyến khích các ca đoàn, nhưng các giám mục và cha sở phải để ý rằng, bất cứ lúc nào phụng vụ được cử hành với thánh nhạc, toàn thể giáo đoàn phải có thể góp phần tham dự cách tích cực vì đó là quyền lợi của họ... Bình ca phải có vị trí xứng đáng trong các nghi lễ, so với các loại nhạc khác. Nhưng điều đó không có nghĩa gạt bỏ các loại thánh nhạc khác, nhất là loại đa âm điệu... Thánh ca dành cho giáo dân phải khéo léo chọn lựa, để trong việc phụng tự và nghi lễ, họ có thể cùng góp tiếng hát" (Sắc Lệnh Về Phụng Vụ, 112-118).
* Lạy Chúa Giêsu, nhân ngày lễ kính Thánh Cecilia, xin Chúa cho chúng con được xứng đáng hát mừng Danh Thánh Chúa với lòng yêu mến chân thành.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 21/11 Lễ Dâng Ðức Maria Vào Ðền Thánh
- Ngày 20/11 Thánh Bernward
- Ngày 19/11 Thánh Agnes ở Assisi (1197-1253)
- Ngày 18/11 Thánh Rose Philippine Duchesne (1769-1852)
- Ngày 17/11 Thánh Elizabeth ở Hung Gia Lợi (1207-1231)
- Ngày 16/11 Thánh Magarita Scotia (1045 - 1093)
- Ngày 15/11 Thánh Albert Cả (1206-1280)
- Ngày 14/11 Thánh Gertrude (1256? - 1302)
- Ngày 13/11 Thánh Frances Xavier Cabrini (1850-1917)
- Ngày 12/11 Thánh Josaphat (1580?-1623)