Gương Thánh Nhân
Ngày 25/01 Thánh Phaolô Tông Đồ Trở Lại
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Phaolô Tông Đồ Trở Lại
Thánh Phaolô tông đồ, vị tông đồ cột trụ của Giáo hội sơ khai và vẫn còn là tông đồ nòng cốt của Giáo hội cho đến cùng. Tuy nhiên, Ngài là vị tông đồ không thuộc nhóm mười hai. Trái lại, Ngài còn có một quá khứ bách hại đạo Chúa nữa. Bởi đó càng nhớ ơn Ngài bao nhiêu, chúng ta càng thấy biến cố xoay đổi vị tông đồ cả quan trọng bấy nhiêu. Trước khi nghe chính Ngài kể lại cuộc trở lại của mình. Chúng ta tìm hiểu vắn tắt quá khứ chống đạo của Ngài.
Phaolô có tên Do thái là Saulê, sinh ra tại Tarsô (Cv 22,3) cha mẹ gốc Do thái thuộc chi họ Benjamin (Rm 11,1; Ph 3,5). Bởi đó Ngài nói được cả hai thứ tiếng Hy lạp và Aram (Cv 21,40.26,14) Ngài lên Giêrusalem theo đuổi việc học hành với thầy Gamaliel (Cv 22,3) và trở thành người biệt phái nghiêm nhặt (Cv 23,6. Lc 15,9. Gl 1,13. Ph 3,5). Do đó khi thấy một nhóm tôn giáo mới xuất hiện, Saulê đã nhiệt thành tìm cách ngăn chận. Nhiệt tâm ấy đã dẫn tới việc đổ máu Stêphanô, trong ấy Saulê không chỉ chứng kiến mà dường như giữ phần chủ chốt (Cv 1,58).
Nhiệt tâm còn thúc đẩy Ngài đi xa hơn nữa trên đường đi Damas tìm bắt người công giáo và trên con đường này Ngài đã được cải hóa. Câu chuyện được Luca kể lại trong sách Công vụ 9,1-23 hoặc chính vị tông đồ cũng đã kể lại, để biện minh trước mặt người Do thái (Cv 22,1-21) hay trước mặt Festô và Agrippa (Cv 26,1-23).
Chúng ta hãy nghe chính vị tông đồ nói về cuộc trở lại của mình: - "Tôi là người Do thái, sinh tại Tarsô, xứ Cilieia, đã được nuôi nấng trong thành này (tức Giêrusalem) đã thụ giáo dưới chân Gamaliel, rập theo khuôn phép nhiệm nhặt của lề luật cha ông, nhiệt tâm thờ phượng Thiên Chúa cũng như các ông hết ngày hôm nay. Tôi đã bắt bớ đạo này, đến chết chóc cũng không từ, xiềng xích đã được các thượng tế cho cầm trát để thông tri cho đồng bào mà lên đường đi Damas, để bắt trói những người Kitô hữu ở đó và giải về Giêrusalem để trừng trị.
Số là dọc đường khi tới gần Đamas, thì vào lối giữa trưa thình lình tự trời, một ánh sáng chói lòa lóe rạng bao phủ lấy tôi, tôi ngã xuống nền đất, và nghe có tiếng nói với tôi: - Saulê, Saulê tại sao ngươi bắt bớ ta ?
Tôi hỏi: "Thưa Ngài, Ngài là ai ?". Và Ngài nói cùng tôi: "Ta là Giêsu Nazareth, ngươi đang bắt bớ". Những người đi với tôi có thấy ánh sáng, nhưng họ không nghe tiếng người nói với tôi. Tôi nói: "Lạy Chúa tôi phải làm gì ?"
Và Chúa nói cùng tôi: - Chỗi dậy mà vào Damas. Ơ đó sẽ nói cho ngươi mọi điều đã định cho ngươi làm. Bởi tôi không còn thấy được, lòa vì ánh sáng của sự sáng kia, nên tôi đã được các người đi với tôi dắt tay vào Damas.
Có Ananis, một người đạo đức chiếu theo lề luật. Và được chứng nhận nơi mọi người Do thái sở tại, ông đến gặp tôi và đứng bên tôi, ông nói: - Anh Saulê, anh được thấy lại. Và ngay giờ ấy tôi đã được thấy lại.
Ông lại nói: - Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã tiền định cho anh được biết thánh ý Ngài, được thấy đấng công chính và nghe tiếng phát xuất tự miệng Ngài, vì anh sẽ là chứng tá cho Ngài trước mặt mọi người về điều anh đã thấy đã nghe. Và bây giờ sao còn lần lựa ? Hãy chỗi dậy chịu thanh tẩy và chịu rửa mình cho sạch các tội của anh, miệng kêu khấn danh Ngài.
Xẩy ra là khi tôi về Giêrusalem, và cầu nguyện trong đền thờ, tôi đã được ngất trí, và được thấy Ngài phán bảo tôi: - Hãy mau ra khỏi Giêrusalem, vì chúng sẽ không đón nhận chứng của người về ta.
Tôi mới nói: - Lạy Chúa, họ biết lắm: chính tôi đã bỏ tù và đánh đòn khắp các hội đường những kẻ tin vào Chúa, và khi người ta đổ máu Stephanô, chứng tá của Người, thì chính tôi đã có mặt và tán đồng, cùng canh giữ áo choàng cho những kẻ giết anh ấy.
Nhưng Ngài phán bảo: - Hãy đi, vì Ta sai ngươi đi xa, đến với dân ngoại (Cv 22-23)
Những tường thuật này cho thấy kinh nghiệm trên đường Damas không chỉ nơi cuộc trở lại của Phaolô mà còn ấn định những tư chất cá nhân trong đức tin và Tin Mừng của vị tông đồ. Tất cả đều tập chú vào Chúa Giêsu là đấng đã sống lại mà vẫn sống trong Giáo hội Người. Kinh nghiệm Damas còn bao hàm sứ mệnh trao cho Phaolô rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, một sứ mệnh thiết định tính cách phổ quát của Tin Mừng mà có lẽ Phaolô chưa nhận thấy ngay. Ngoài ra cuộc trở lại của Phaolô còn cho thấy ngay. Ngoài ra cuộc trở lại của Phaolô còn cho thấy quan niệm về sự kêu gọi và sự chọn lựa do Thiên Chúa thực hiện.
(daminhvn.net)
Ngày 24/01 Thánh PHANXICÔ SALÊ Giám Mục Tiến Sĩ (1567-1622)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh PHANXICÔ SALÊ Giám Mục Tiến Sĩ (1567-1622)
Một đứa trẻ giận dữ nhất cũng phải nói rằng: thánh Phanxicô Salêciô là vị thánh hiền hoà nhất thế giới, Ngài đã biết cách để sửa mình và do đó đưa ra phương thức tốt đẹp để nên thánh: "Tôi chỉ nghĩ tới sự dịu hiền, dĩ nhiên, không phải chỉ có điều đó mà thôi. Sau này các bạn hữu Ngài đã ngạc nhiên vì sự im lặng thánh nhân giữ được trước những lăng nhục.
Ngài nói: - "Gì vậy, bạn muốn tôi bỏ mất trong giây lát một chút dịu dàng mà tôi đã mất 20 năm để thu thập sao ?"
Sự dịu dàng Ngài đã thực hiện với bao nghị lực, bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa, Ngài đã có thể nói với bạn bè sau một cảnh thô tục mà một lãnh Chúa đã làm cho Ngài rằng: - Tôi giận sôi người lên, nhưng tôi thích chết đi còn hơn là nói lên một điều nhỏ nào có thể làm buồn lòng Thiên Chúa.
Thật khó hiểu nổi cách thế mà trong Ngài, một lòng nhân hậu dịu dàng như vậy đã thay thế cho bạo lực. Đối với người dọa nạt, Ngài trả lời: - Thưa ông, nếu ông có một con mắt, tôi sẽ nhìn ông bằng con mắt kia với lòng trìu mến.
Cả thánh Vincentê Phaolô cũng nói: - Khi muốn chiêm ngưỡng sự dịu hiền của Thiên Chúa, tôi nhìn về giám mục thành Ghênêva.
Chào đời ngày 21 tháng tám năm 1567 ở lâu đài Sales, Phanxicô từ trong nôi đã gặp được đức tin và đức ái. Ngài học được từ người mẹ đã từng dẫn Ngài đi thăm các người nghèo khó, để yêu thương và giúp đỡ họ. Năm 1582, Ngài theo học khoa hùng biện và ôn triết tại Paris. Vào tuổi 17 một cơn dằn vặt thiêng liêng kinh khủng ám ảnh Ngài: người tưởng rằng: mình không còn sống trong tình trạng ơn thánh nữa, hoả ngục dành cho Ngài và nơi khủng khiếp này không còn tình yêu Chúa nữa.
Phanxicô cầu khần: - Lạy Chúa ít ra cuộc sống vắn vỏi này con biết dành để yêu mến Chúa.
Kiệt sức, Ngài chạy đến xin đức Trinh nữ gìn giữ mình được trinh trong và cứu thoát cho khỏi cơn thử thách gay go này. Ngài đọc kinh "hãy nhớ" và sau cùng tìm lại được bình an.
Từ năm 1586 -1591, Ngài theo học luật tại Padua và đậu bằng tiến sĩ. Trở lại gia đình gia đình, Ngài được đón tiếp trong niềm hân hoan phấn khởi. Cha mẹ Ngài vui sướng về đám cưới của Ngài. Nhưng Ngài đã từ khước mọi dự định của gia đình. Hạnh phúc và danh vọng trần thế không đáng kể gì đối với Phanxicô, con người đã được tình yêu tuyệt đối chiếm đoạt, Ngài muốn trở thành linh mục. Được phong chức vào ngày 31 thắng 5 năm 1593, Ngài trở thành linh mục hoàn hảo, luôn có Chúa Giêsu ngự trong mình, Ngài sống gần dân làng như một người cha hiền, có mặt trong mọi sự. Gặp cơn dịch hạch lan tràn, ngày đêm người ta thấy Ngài đi từ bệnh nhân này tới bệnh nhân khác, chú ý tới những thể xác lẫn tinh thần đau khổ.
Một sứ mệnh lớn lao kêu gọi tới Phanxicô. Những người theo phái thệ phản thêm nhiều trong xứ sở, phá hủy nhiều nhà thờ và tu viện, lòng nhiệt thành đã đưa Ngài tới với đức Cha Granier, giám mục Ghênêva, Ngài được phép hiến mình thực hịên một nỗ lực dường như không thể được, là đưa dân chúng Chablais trở lại khỏi ảnh hưởng phái ở Calvinnô. Không có đe dọa hay bạo lực nào bắt Người ngừng giảng được. Nơi nào không thể đến rao gảing, Ngài phân phát truyền đơn. Suốt ba năm dưới ảnh hưởng của thánh nhân, 72 ngàn người theo thệ phản đã hoán cải.
Năm 1602, vua Henri IV đã muốn thánh Phanxicô làm giám mục thành Paris nhưng Ngài đã từ khước danh dự này và nói: - Thưa Ngài, tôi đã đính hôn với một bà Chúa nghèo, tôi không thể từ giã bà để theo một bà khác giàu có hơn.
Nhà vua rất thán phục sự độc lập của Ngài và tuyên bố rằng: Phanxicô vĩ đại hơn ông là kẻ làm vua nhiều. Dầu vậy tháng 6 năm 1602, Ngài Ngài đã phải nhận tòa giám mục Annecy - Gheneva.
Các bài giảng thuyết của Ngài sớm lừng danh, đến độ những thành phố lớn đòi được nghe tiếng Ngài. Nhưng giám mục người Xa-voa (Savoie) thích giảng cho dân nghèo hơn. Ngài còn cho họ cả tới áo mặc của mình. Người ta thấy Ngài không giữ lại gì cho mình. Ngài chỉ thánh giá và nói: - Người ta có thể từ chối điều gì được, đối với một Thiên Chúa đã tự đặt mình vào trạng huống này vì chúng ta ?
Đối với các tội nhân, Ngài thân tình đón tiếp họ: - Các con hãy đến đây để cha ôm ẵm và đặt các con vào lòng cha. Cha chỉ đòi các con một điều là không được thất vọng, phần còn lại cha lãnh tất cả.
Đi tìm kiếm một linh hồn, nếu cần Ngài vượt qua rừng trong đêm tối, bất chấp bọn cướp giật hay thú rừng độc dữ, chân Ngài thường rớm máu vì băng giá. Một lần bọn sát nhân nhào tới, Ngài âu yếm bảo họ: - Các bạn không cần đòi mạng tôi làm chi, bởi vì tôi đã hiến mạng sống tôi để bảo tồn sự sống của các bạn.
Người ta có thể thấy rõ là Ngài đã nói thực. Bao người sát nhân đã làm như bao người khác: họ trở thành bạn hữu của Phanxicô. Và làm sao yêu Ngài, mà lại không yêu tôn giáo đã làm cho Ngài hiến thân trọn vẹn cho mỗi tâm hồn như vậy. Ngài nói: - Một linh hồn là một giáo phận rộng đủ cho một giám mục rồi.
Phanxicô không ngừng rao giảng, ngồi tòa, thăm viếng bệnh nhân, giúp đỡ người cùng khổ. Giữa những công việc bề bộn, Ngài còn viết nhiều tác phẩm được nhiều Kitô hữu mến chuộng như quyển: "Đường trọn lành", quyển "Dẫn vào đời sống nhiệt thành" (cuốn này đã được chuyển sang Việt ngữ với tựa đề: sống thánh giữa đời), chứng tỏ rằng: đời nhiệm hiệp và các nhân đức cao cả nhất, đều có thể nảy nở, ngay trong cuộc sống từ cung điện, lẫn "trong binh đội và trong các xưởng máy", Ngài truyền "dệt nên những sợi dây nhân đức nhỏ bé". Cuốn "khảo luận về tình yêu Thiên Chúa" của Ngài đáng cho Ngài được vinh quang như ở giữa bầu lửa, trong khi chuẩn bị viết về tình yêu của Ngôi Lời vĩnh cửu.
Thánh Phanxicô đã lập nhiều tu viện và tiếp tục hứơng dẫn các tu viện ấy. Hai ngàn bức thư của Ngài vẫn còn, Ngài trao dòng "Thăm viếng" cho thánh nữ Chantal, Đấng mà Ngài hiệp nhất bằng một tình yêu trắng hơn tuyết, trong sáng hơn ánh mặt rời.
Thánh nhân kiệt sức khi Ngài nhận giảng dạy tại Lyon dịp lễ Giáng sinh. Ngài ngã bệnh lúc lên đường. Vừa tới nơi Ngài biết mình sắp chết. Người ta chỉ còn nghe thấy Ngài nói: - Lạy Chúa là tất cả của con.
Với các bạn bè đang khóc lóc Ngài nói: - Các bạn lại không muốn ý Chúa được thực hiện sao ?
Trọn đời thánh Phanxicô yêu mến hoàn thành thánh ý Chúa. Bí quyết đời thánh thiện của Ngài diễn tả như sau: - Với giá vĩnh cửu, cái gì chấm đứt với thời gian lại có thể ảnh hưởng trên chúng ta được ? Phải ước muốn một mình Thiên Chúa thôi, một cách tuyệt đối không thay đổi và bất khả xâm phạm.
Ngài qua đời ngày 28 tháng 12 năm 1622 và được Đức Gáio hoàng Alexandre VII tôn phong hiển thánh năm 1665.
(daminhvn.net)
Ngày 23/01 Tôi Tớ Thiên Chúa Juan de Padilla (1492 - 1542)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Tôi Tớ Thiên Chúa
Juan de Padilla (1492 - 1542)
Khi rao giảng Tin Mừng của Ðức Kitô, Cha Juan không biết mình sẽ đến đâu, nhưng ngài tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ ban cho ngài sức mạnh để chu toàn ơn gọi của một nhà thừa sai. Ơn gọi của ngài đã dẫn đến cái chết vì đạo ở Kansas, là một phần của Tân Thế Giới được khám phá vào năm ngài chào đời.
Cha Juan xuất thân từ một thành phố thuộc phía nam Tây Ban Nha, là nơi ngài gia nhập dòng Phanxicô. Năm 1526, ngài đến Mễ Tây Cơ để hoạt động truyền giáo trong các tiểu bang Hidalgo và Jalisco. Năm 1540, ngài tháp tùng Coronado trong chuyến thám hiểm New Mexico. Năm kế đó, ngài đi với đoàn thám hiểm đến Kansas, ở đây ngài gặp gỡ người thổ dân Quivira. Sau khi đoàn thám hiểm trở về Mễ Tây Cơ, Cha Juan vẫn tiếp tục ở lại hoạt động. Ngài bị một vài người Quivira giết chết chỉ vì ngài muốn đến truyền giáo cho người Kaws, là kẻ thù truyền kiếp của người Quivira. Ngài là người đầu tiên trong số tối thiểu 79 tu sĩ Phanxicô tử vì đạo ở Hoa Kỳ.
Lời Bàn
Suy nghĩ về những người tử đạo vì đức tin đôi khi làm chúng ta bồn chồn. Làm sao họ có thể làm như vậy được? Họ có bình thường không? Ao ước loan truyền phúc âm của Cha Juan de Padilla thì lớn hơn nỗi lo sợ cái chết. Ngài nhắc nhở cho chúng ta biết không ai có thể lựa chọn cái chết, nhưng chúng ta có thể lựa chọn lối sống của chúng ta.
Trích từ NguoiTinHuu.com
Ngày 20/01 Thánh Sebastian (257? - 288?)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Sebastian (257? - 288?)
Về phương diện lịch sử, không có gì chắc chắn về Thánh Sebastian, ngoại trừ ngài là một vị tử đạo Rôma, được sùng kính ở Milan ngay trong thời của Thánh Ambrôsiô và được chôn cất ở Appian Way, có lẽ gần Ðền Thánh Sebastian ngày nay. Việc sùng kính ngài lan rộng nhanh chóng, và ngài được nhắc đến trong vài sổ tử đạo ngay từ năm 350.
Truyền thuyết về Thánh Sebastian góp phần quan trọng cho nghệ thuật, có rất nhiều tranh ảnh về thánh nhân. Chỉ có một truyền thuyết mà các học giả ngày nay đồng ý là việc thánh nhân gia nhập quân đội La Mã và được Hoàng Ðế Diocletian giao cho việc chỉ huy đội vệ binh, sau này khi Diocletian đi sang miền Ðông thì Hoàng Ðế Maximian kế vị cũng giao công việc này cho thánh nhân. Không một hoàng đế nào biết Thánh Sebastian là một Kitô Hữu và ngài đã bí mật giúp đỡ các vị tử đạo. Sau cùng, ngài bị bắt gặp, bị đánh đập trước mặt Hoàng Ðế Maximian và được giao cho các cung thủ của Mauritanian để hành hình. Thân thể ngài ghim đầy những mũi tên và bị bỏ mặc cho chết dần mòn. Nhưng khi bà quả phụ Castulus đến tìm xác ngài để đem chôn thì thấy ngài còn sống và bà đã săn sóc, giúp ngài bình phục. Sau khi khoẻ mạnh, thay vì hèn nhát trốn tránh, ngài đã đứng chờ ở chỗ hoàng đế hay đi qua và lớn tiếng lăng mạ ông vì sự tàn nhẫn đối với Kitô Hữu. Lần này thánh nhân bị kết án tử hình, và bị đánh đập bằng gậy cho đến chết.
Trích từ NguoiTinHuu.com
Ngày 19/01 Thánh Fabian (250)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Fabian (250)
Fabian là một giáo dân bình thường ở Rôma từ quê lên tỉnh vào một ngày khi giáo sĩ và dân chúng chuẩn bị chọn vị tân giáo hoàng. Có lẽ ngài đến Rôma cũng giống như nhiều người ngày nay đến Rôma trong thời gian tuyển chọn giáo hoàng: lo lắng cho tương lai của đạo, tò mò muốn biết vị tân giáo hoàng, hoặc tỏ lòng luyến tiếc vị giáo hoàng vừa quá cố. Hơn nữa, được nhìn thấy tất cả các vị chức sắc trong Giáo Hội cùng quy tụ lại để có một quyết định quan trọng cũng là điều thích thú. Ai sẽ là tân giáo hoàng? Ðó là người nhiều quyền thế? Là người có tài hùng biện? Là người dũng cảm?
Theo sử gia Eusebius của Giáo Hội, bỗng dưng có một con chim bồ câu từ trần nhà bay xuống, nhưng không đậu trên "bất cứ ai nổi tiếng". Theo Eusebius, bồ câu "đậu trên đầu Fabian giống hệt như Chúa Thánh Thần ngự trên Ðấng Cứu Thế dưới hình chim bồ câu." Ðiều đó phải có một ý nghĩa gì liên quan đến sự hoạt động của Chúa Thánh Thần, và mọi người đồng thanh tuyên bố Fabian "xứng đáng" là giáo hoàng.
Ðối với chúng ta, bồ câu tượng trưng cho sự hòa bình, và chim bồ câu ấy là điềm báo trước. Bắt đầu từ gần ngày Fabian được tuyển chọn, việc bách hại và đau khôå của Giáo Hội cũng chấm dứt. Hoàng đế Philip, thân thiện với Kitô Hữu và không những ông ngừng bách hại mà còn chấp nhận các nghi lễ của Kitô Giáo.
Trong thời gian hòa bình, Ðức Fabian đã có thể xây dựng cơ cấu Giáo Hội Rôma, ngài chỉ định bảy phó tế và giúp thu thập các chứng thư tử đạo.
Nhưng như ở bất cứ thời gian nào, những người có quyền thường không vui khi thấy các kẻ lạ mặt gia tăng và phát đạt. Có nhiều lần người ngoại giáo đã tấn công Kitô Hữu, và khi hoàng đế Philip từ trần thì thời gian bình an cũng chấm dứt. Hoàng đế mới là Decius, ra lệnh cho mọi Kitô Hữu phải khước từ Ðức Kitô bằng cách thờ cúng tà thần, hoặc tham dự các nghi thức ngoại giáo khác.
Sau một vài năm bình an, Giáo Hội vẫn chưa đủ mạnh. Nhiều người đã không đủ can đảm để tử đạo. Nhưng Ðức Fabian, một biểu tượng hoà bình nổi bật, đã đứng lên để can đảm làm gương cho mọi người trong đàn chiên. Ngài chịu tử đạo năm 250 và được chôn cất trong Nghĩa Trang Calixtus, là nơi chính ngài giúp tân trang.
Trong Nghĩa Trang Calixtus, ngày nay vẫn còn có một bia đá dùng để đậy mồ Thánh Fabian, bị vỡ làm bốn mảnh, có mang dòng chữ Hy Lạp, "Fabian, giám mục, tử đạo."
Lời Bàn
Chúng ta chỉ có thể tin tưởng bước vào tương lai và chấp nhận những thay đổi cần thiết để phát triển nếu chúng ta bám rễ vào quá khứ của một truyền thống sống động. Một vài mảnh đá ở Rôma nhắc nhở rằng, chúng ta là những người của thế kỷ 20 tiếp tục truyền thống đức tin sống động và can đảm thay đổi cuộc đời giống như Ðức Kitô, và làm chứng cho Ngài trong thế gian. Chúng ta đã có các anh chị là những người "ra đi trước chúng ta được ghi dấu đức tin" để dẫn đường cho chúng ta.
Lời Trích
"Máu các vị tử đạo là hạt giống của Giáo Hội" (Tertullian).
Trích từ NguoiTinHuu.com
Ngày 18/01 Thánh Charles ở Sezze (1613 - 1670)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Charles ở Sezze (1613 - 1670)
Thánh Charles nghĩ rằng Thiên Chúa gọi ngài đi truyền giáo ở Ấn Ðộ, nhưng ngài chưa bao giờ được đặt chân đến đó. Thiên Chúa đã có những hoạch định khác tốt đẹp hơn cho ngài.
John Charles Marchioni sinh ở làng Sezze, phía đông nam của Rôma trong một gia đình nghèo nàn. Khi niên thiếu, ngài đi chăn cừu và ao ước trở nên một linh mục. Nhưng ước mơ đó không thành tựu vì hoàn cảnh nghèo nàn nên thiếu học thức (ngài chỉ biết đọc và biết viết căn bản), do đó ngài trở nên một thầy dòng Phanxicô năm 1635. Trong cuốn nhật ký, Thầy Charles cho chúng ta biết, "Thiên Chúa đã gieo vào tâm hồn tôi ao ước muốn trở nên một thầy dòng, với khao khát sống nghèo hèn và đi xin ăn vì tình yêu Thiên Chúa."
Thầy Charles đã làm các công việc như nấu ăn, giữ cửa, dọn lễ, làm vườn và đi xin ăn cho nhiều tu viện ở nước Ý. Câu chuyện sau cho thấy tinh thần Phúc Âm của thầy. Khi là người giữ cửa, cha bề trên ra lệnh cho thầy chỉ được phân phát thực phẩm cho các tu sĩ di chuyển ngang qua vùng mà thôi. Thầy vâng lời theo cách đó, và đồng thời của bố thí cũng vơi dần. Thầy cố thuyết phục cha bề trên về sự liên hệ giữa hai yếu tố này. Khi nhà dòng trở lại truyền thống phân phát thực phẩm cho bất cứ ai đến với họ thì của bố thí lại gia tăng.
Theo chỉ thị của cha giải tội, Thầy Charles viết cuốn nhật ký, Sự Vĩ Ðại của Lòng Thương Xót Chúa. Ngài còn viết một vài cuốn sách khác về tâm linh. Trong nhiều năm trời, ngài biết tận dụng sự hướng dẫn tinh thần của các cha linh hướng khi họ giúp ngài phân biệt đâu là tư tưởng của thầy và đâu là tư tưởng của Thiên Chúa. Và chính thầy cũng được người ta tìm đến để xin hướng dẫn tinh thần. Khi Ðức Giáo Hoàng Clement IX hấp hối, ngài đã cho mời Thầy Charles đến để cầu nguyện và chúc lành cho đức giáo hoàng.
Thầy là người tin tưởng vững vàng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Cha Severino Gori đã nói, "Qua lời nói và hành động, thầy nhắc nhở cho chúng ta biết tất cả những gì chúng ta cần theo đuổi là sự vĩnh cửu" (Leonard Perotti, St. Charles of Sezze: An Autobiography, trang 215).
Ngài từ trần ở San Francesco a Ripa ở Rôma và được chôn cất ở đây. Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã phong thánh cho ngài vào năm 1959.
Lời Bàn
Ðời sống các thánh thì đầy những cuộc chiến nội tâm. Ðời sống Thánh Charles chỉ kỳ diệu khi ngài cộng tác với ơn sủng của Thiên Chúa. Ngài bị quyến rũ bởi vẻ huy hoàng của Thiên Chúa và lòng thương xót tất cả chúng ta.
Lời Trích
Cha Gori cho biết tự truyện của Thánh Charles "là một sự bác bẻ mạnh mẽ những ai cho rằng các thánh sinh ra đã là thánh, các ngài được những ưu tiên ngay khi xuất hiện trên mặt đất. Ðiều này không đúng như vậy. Các ngài trở nên thánh trong phương cách bình thường, nhờ bởi sự trung tín lớn lao khi đáp ứng với ơn sủng của Thiên Chúa. Các ngài cũng phải chiến đấu như chúng ta, và hơn thế nữa, chống với những đam mê, thế gian và ma quỷ" (St. Charles of Sezze: An Autobiography, trang viii).
Trích từ NguoiTinHuu.com
Ngày 17/01 Thánh ANTÔN Viện Phụ (Thế kỷ IV)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh ANTÔN Viện Phụ (Thế kỷ IV)
Thánh Antôn chào đời năm 250 tại Corma, gần Hieraclens, miền thượng Ai cập. Cha mẹ Ngài nổi danh giàu có lẫn đạo đức, đã lo lắng dạy dỗ Ngài sống đạo ngay từ nhỏ.
Khi được 18 tuổi thì cha mẹ Ngài qua đời. Sáu tháng sau ngày mất cha mất mẹ, tại một giáo đường, thánh nhân đã nghe đọc lời sách thánh: "Nếu con muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải và đem phân phát cho kẻ nghèo khó rồi theo Ta" (Mt 19,21). Tưởng như Thiên Chúa nói riêng với mình đã về bán hết của cải và đem phân phát cho người nghèo khó.
Sau khi lo lắng gửi gấm em gái của mình cho một nữ tu viện, Ngài lui vào sa mạc để làm việc và cầu nguyện, Ngài theo đuổi một cuộc sống rất khắc khổ, chỉ ăn bánh với muối và uống nước ngày một lần sau khi mặt trời lặn. Để giữ được sự cô tịch trọn vẹn, Ngài còn ẩn thân vào một ngôi mộ bỏ trống. Thỉnh thoảng một người bạn mang bánh đến cho Ngài bánh đến cho Ngài nhưng ma quỉ đã tìm cách quấy phá để trục Ngài ra khỏi "căn phòng" và cuộc sống khắc khổ, chúng thường hay la hét và hiện hình kỳ quái. Phản ứng lại, thánh nhân thường cầu nguyện nhiều hơn và tăng gấp những việc hãm mình. Giận dữ vì các mưu mô bị thất bại, ma quỉ còn công khai hành hạ Ngài nữa.
Một ngày kia người bạn mang bánh đến, bỗng thấy thánh nhân nửa sống nửa chết, mình đầy thương tích. Nhưng khi vừa bừng tỉnh, thánh nhân liền chỗi dậy và la lớn: - Tôi còn sẵn sàng chiến đấu. Lạy Chúa, không, không gì có thể tách lìa con khỏi lòng yêu mến Chúa được.
Giữa những đau đớn vì các cuộc tấn công của ma quỉ, Ngài khinh bỉ trả lời: - Ồn ào vô ích. Dấu thánh giá và lòng tin tưởng vào Chúa là những thành trì kiên cố.
Thánh nhân luôn tin tưởng nơi Chúa. Ngày kia, được an ủi trong tâm hồn và cảm thấy là ma quỉ đã lùi bước, Ngài cầu nguyện: - Oi, lạy Chúa, Chúa ở đâu ? Sao Chúa không ở đây lau sạch nước mắt và thoa dịu những dày vò của con ?
Tiếng Chúa trả lờ i: - Cha ở gần con, cha giúp con chiến đấu. Bởi vì con đã chống trả lại ma quỉ, cha sẽ bảo vệ quãng đời còn lại của con. Cha sẽ làm cho tên con rạng rỡ trên trời.
Tràn đầy nghị lực, thánh nhân chỗi dậy tạ ơn Chúa. Muốn xa mọi người hơn nữa, Ngài vượt sông Nil đến trú ngụ trong một pháo đài hoang phế đầy những rắn rết. Nhưng sự thánh thiện của Ngài như một sức nam châm, vẫn thu hút nhiều người đến xin làm môn đệ. Thế là một phong trào ẩn tu nổi lên mạnh mẽ. Sa mạc mọc lên những mái tranh, từ đó không ngừng vang lên những lời kinh ca khen Chúa. Thánh nhân trở nên vị thủ lãnh của nếp sống ẩn tu.
Dầu vậy, thánh An tôn đã hai lần từ giã sa mạc. Vào năm 311 khi có cuộc bách hại của Alaximiô, Ngài nói: - Nào ta cùng đi chiến đấu với anh em ta.
Ngài lên đường đi Alexandria. Người ta thấy thánh nhân khích lệ các tù nhân nơi các trại giam, theo họ tới trước quan tòa và khuyên nhủ họ can đảm chết vì đạo, Ngài còn xuống hầm trú để an ủi các linh mục. Ngài thoát chết là một điều lạ lùng.
Cuộc bách hại chấm đứt được một năm, thánh nhân lại tìm về sa mạc. Số các môn sinh ngày càng tăng thêm đông. Sợ bị cám dỗ thành kiêu căng, và thấy gương các thánh tử đạo, thánh Antôn khao khát sống khắc khổ để đền tội. Ngài tiến sâu hơn nữa vào sa mạc. Sau ba ngày đi theo đoàn người buôn bán, Ngài dừng lại gần biển Đỏ, dưới chân núi Kolzim và dựng một căn lều vừa đủ để nằm để ở. Dân Bê-đu-anh (Bédouins) cho Ngài bánh ăn. Về sau các môn sinh tìm tới và mang cho Ngài một cái xuổng với một ít hạt giống, đây là nguồn gốc của tu viện thánh Antôn hay là Deir-el-Arat, một tu viện theo nghi lễ Cốp (Copte) ngày nay vẫn còn.
Lần thứ hai, thánh nhân trở lại Alexandria theo lời mời của đức giám mục Athanasiô, để chống lại lạc giáo. Dân chúng cả thành chen lấn nhau đi đón Ngài. Các lương dân cũng bảo nhau: - Chúng ta đi gặp người của Thiên Chúa.
Nhiều người cảm động vì những bài diễn thuyết và những phép lạ Ngài làm, đã xin lãnh bí tích rửa tội, người ta tưởng sẽ gặp một lão già tám mươi hoang dại, nhưng đã ngạc nhiên khi thấy Ngài rất lịch thiệp, xử dụng ngôn ngữ văn hóa và diễn tả tư tưởng rất uyên thâm. Các triết gia ngoại giáo ngạc nhiên hỏi Ngài:
- Ngài làm gì được trong sa mạc không có sách vở chi hết ? Thánh nhân trả lời:
- Thiên nhiên đối với tôi là một cuốn sách mở rộng.
Và người ta ngỡ ngàng về những điều thánh nhân đã khám phá được trong cuốn sách vĩ đại này của Đấng Tạo hóa.
Điều đáng kể dường như không phải những nhiệm nhặt Ngài theo đuổi, mà là tâm hồn trong trắng Ngài kết hiệp mật thiết với Chúa, Ngài nói: - Hư danh là kẻ thù nguy hiểm nhứt của chúng ta.
Danh tiếng của thánh Antôn lan rộng đến nỗi vua Constantinô và con cái ông đã viết thư tham khảo ý kiến Ngài, Môn sinh của Ngài hãnh diện lắm. Nhưng Ngài bảo họ:
- Đừng ngạc nhiên lắm khi thấy nhà vua là một con người viết thư cho một con người. Đáng ngạc nhiên là chính Thiên Chúa đã muốn viết luật cho loài người, và đã nói với chúng ta qua đức Giêsu Kitô .
Và trả lời cho lớp người vương giả ấy, Ngài dùng những lời cao thượng để khuyên họ biết khinh chê danh vọng mà nhớ tới cuộc chung thẩm.
Khi Ngài đã quá 90 tuổi, Thiên Chúa qua một thị kiến đưa ngài đến thăm thánh Phaolô ẩn tu trong sa mạc. Ngài còn được cho biết là sẽ sống tới tuổi 105.
Biết sắp tới giờ từ giã trần gian, Ngài đi thăm anh em Ngài lần chót. Ngài nói với họ về sự chết với niềm vui của người hồi hương. Họ đã khóc ròng, nhưng Ngài khuyên nhủ họ: - Hãy sống như phải chết mỗi ngày. Hãy cố gắng noi gương các thánh.
Thánh nhân trở lại núi với hai môn sinh. Trong căn phòng nghèo nàn của mình, Ngài đã phó linh hồn trong tay Chúa lúc 105 tuổi. Chúng ta biết được ân sủng giai thoại quý báu của đời thánh An tôn là nhờ thánh Athanasiô kể lại.
(daminhvn.net)
Ngày 16/01 Thánh Berard và Các Bạn (c. 1220)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Berard và Các Bạn (c. 1220)
Rao giảng Tin Mừng thường là công việc nguy hiểm. Rời bỏ quê hương và thích ứng với các nền văn hóa mới, chính phủ mới và ngôn ngữ mới thì đã đủ khó khăn; nhưng đôi khi sự tử đạo còn vượt quá mọi hy sinh này.
Vào năm 1219 với chúc lành của Thánh Phanxicô, Cha Berard rời Ý với các tu sĩ Peter, Adjute, Accurs, Odo và Vitalis để đi rao giảng ở Morocco. Trên đường đến Tây Ban Nha thì Cha Vitalis bị đau nặng và ngài xin các linh mục khác cứ tiếp tục sứ mệnh truyền giáo mà đừng bận tâm đến ngài.
Các cha khác cố gắng đi rao giảng ở Seville nhưng không đạt được kết quả nào. Sau đó họ tiếp tục đến Morocco là nơi họ rao giảng ngay trên đường phố, trong khu thị tứ. Các ngài bị nhà cầm quyền Hồi Giáo khiển trách và ra lệnh cho họ phải rời bỏ nơi đó; nhưng họ từ chối. Khi các ngài lại tiếp tục rao giảng thì vua Thổ Nhĩ Kỳ tức giận đã ra lệnh xử tử họ. Sau khi bị đánh đập và khước từ những dụ dỗ để chối bỏ đức tin, các ngài đã bị chém đầu vào ngày 16 tháng Giêng, 1220.
Họ là các tu sĩ Phanxicô đầu tiên được tử đạo. Khi Thánh Phanxicô nghe tin về cái chết của họ, ngài đã thốt lên, "Bây giờ tôi có thể thực sự nói rằng tôi có được năm Tu Sĩ Dòng!" Di hài của họ được đưa về Bồ Ðào Nha, là nơi một giáo sĩ trẻ của dòng Augustine vì cảm kích trước cái chết anh hùng của họ, đã gia nhập dòng Phanxicô và sang truyền giáo ở Morocco vào năm kế tiếp. Giáo sĩ trẻ tuổi đó là Thánh Antôn ở Padua.
Năm vị tử đạo được phong thánh năm 1481.
Lời Bàn
Cái chết anh hùng của Thánh Berard và các bạn đã khơi dậy lòng khát khao truyền giáo của Thánh Antôn Padua và những người khác. Có rất nhiều tu sĩ Phanxicô đã đáp lại lời thách đố của Cha Thánh Phanxicô. Rao giảng Phúc Âm có thể nguy hại đến tính mạng, nhưng điều đó không thể ngăn cản các tu sĩ nam nữ của dòng Phanxicô ngày nay liều mạng sống đi rao giảng ở khắp nơi trên thế giới.
Lời Trích
Trước thời Thánh Phanxicô, Quy Luật của các dòng không nhắc đến việc rao giảng cho người Hồi Giáo. Trong Quy Luật năm 1223, Thánh Phanxicô viết: "Các tu sĩ, là những người được linh ứng để đi rao giảng cho người Saracen (Hồi Giáo và Ả Rập) và những người ngoại giáo khác, phải xin phép bề trên của họ. Nhưng các bề trên không được cho phép, trừ khi thấy người ấy thích hợp để được sai đi" (Chương 12).
Trích từ NguoiTinHuu.com
Ngày 15/1 Thánh Phaolô Ẩn Tu (233 - 345)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Phaolô Ẩn Tu (233 - 345)
Trong thời kỳ bách hại của vua Decius ở Ai Cập năm 250, ngài buộc phải trốn tránh trong nhà của một người bạn, nhưng cái êm đềm của sự cô quạnh và cái sung sướng của sự chiêm niệm đã khiến ngài thay đổi ý định ban đầu, tiếp tục sống ở đó trong 90 năm.
Lược sử
Gioan sinh trong một gia đình nghèo ở Portugal. Vì mồi côi cha mẹ từ nhỏ, nên trong nhiều năm ngài phải gõ cửa từng nhà để xin ăn. Sau khi tìm được công việc chăn cừu ở Tây Ban Nha, ngài chia sẻ đồng lương ít ỏi cho những người nghèo đói hơn ngài.
Những gì chúng ta thực sự biết về cuộc đời Thánh Phaolô Ẩn Tu thì không rõ đó có phải là dữ kiện hay truyền thuyết.
Được biết ngài sinh ở Ai Cập, là nơi ngài mồ côi cha mẹ khi 15 tuổi. Ngài còn là một thanh niên có học thức và đạo đức. Trong thời kỳ bách hại của vua Decius ở Ai Cập năm 250, ngài buộc phải trốn tránh trong nhà của một người bạn. Sau đó sợ rằng người anh rể của mình sẽ đi tố cáo, ngài trốn vào sa mạc và ở trong một cái hang. Dự định của ngài là sẽ trở về nhà sau khi việc bách hại chấm dứt, nhưng cái êm đềm của sự cô quạnh và cái sung sướng của sự chiêm niệm đã khiến ngài thay đổi ý định ban đầu.
Ngài tiếp tục sống ở đó trong 90 năm. Nước uống thì ngài lấy từ con suối gần đó, thức ăn và vải che thân ngài lấy từ cây chà là. Sau 21 năm sống trong cô độc có một con chim hằng ngày đem cho ngài nửa ổ bánh. Trong cuộc sống tĩnh mịch đó ngài cầu xin cho thế giới được tốt đẹp hơn.
Thánh Antôn làm chứng cho cuộc đời và cái chết thánh thiện của Thánh Phaolô Ẩn Tu. Bị cám dỗ cho rằng mình là người đầu tiên phụng sự Thiên Chúa nơi hoang dã, Thánh Antôn xin Thiên Chúa soi sáng để được biết điều ấy và ngài đã tìm thấy Thánh Phaolô, và thú nhận rằng Thánh Phaolô còn tuyệt hảo hơn ngài. Và Thánh Antôn là người đã chôn cất Thánh Phaolô Ẩn Tu, lúc ấy ngài được 112 tuổi và được coi là vị Ẩn Tu Đầu Tiên.
Ngày lễ kính nhớ ngài được cử hành trong Giáo Hội Đông Phương và ngài còn được nhắc đến trong nghi thức phụng vụ của Giáo Hội Coptic và Armenia.
Suy niệm 1: Mồ côi
Được biết Phaolô sinh ở Ai Cập, là nơi ngài mồ côi cha mẹ khi 15 tuổi. Ngài còn là một thanh niên có học thức và đạo đức.
Số phận kẻ mồ côi thật đáng thương, vì dễ bị bóc lột (Is 10,2), quyền lợi lại bị coi thường (Gr 5,28), chẳng được thi ân (Br 6,37). Nhưng Chúa lại luôn phù trì (Tv 10,14), sẽ nuôi dưỡng (Gr 49,11). Chúa còn mời gọi hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi (Tv 82,3), hãy xử như một người cha (Hc 4,10), không coi thường lời khấn nguyện (Hc 35,14), đừng áp bức (Dcr 7,10).
Đồng cảm với những người cùng chung cảnh ngộ, ông Tôbít lớn lên và dùng tiền của có được để giúp đỡ cho cô nhi, quả phụ và kẻ nghèo (Tb 1,8). Cô nhi Étte khi được làm hoàng hậu cũng đứng về phía người dân thấp cổ bé họng để bênh vực và chở che (Et 2,7;8,5-6).
* Lạy Chúa Giêsu, xin cho người mồ côi được nhiều ân nhân chiếu cố, để giúp họ biết tự tin vượt lên số phận và luôn tiến bước về phía trước.
Suy niệm 2: Bạn hữu
Trong thời kỳ bách hại của vua Decius ở Ai Cập năm 250, Phaolô buộc phải trốn tránh trong nhà của một người bạn.
Một người bạn dám chấp nhận bị kết tội đồng lõa nếu bị phát hiện, nghĩa là dám hy sinh cả tính mạng vì bạn hữu, quả là một người bạn thật (Ga 15,13). Có được một người bạn thật quả là một món quà vô giá (Hc 6,15). Thật phúc cho Thánh Phaolô Ẩn Tu.
Tình bạn thật còn có đặc điểm là thẳng thắn góp ý xây dựng, chứ không dùng những lời gian ngoa xu nịnh bợ đỡ (Cn 24,26). Nhờ tình bạn này mà con người ngày càng trở nên sắc bén hơn sắt (Cn 27,17). Vì thế hãy cố giữ mãi một tình bạn cố tri như thế (Hc 9,10).
* Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hạ mình kết bạn với các đệ tử để dễ bề giáo hóa họ (Ga 15,15). Xin cho chúng con cũng biết dùng mối quan hệ bình đẳng giữa bạn với bạn trong việc sửa dạy tha nhân.
Suy niệm 3: Tố cáo
Sau đó sợ rằng người anh rể của mình sẽ đi tố cáo, Phaolô trốn vào sa mạc và ở trong một cái hang.
Thánh Phaolô Ẩn Tu thật có lý khi lo sợ và đề phòng trước việc người anh rể của mình sẽ đi tố cáo, vì chính Đức Giêsu đã tiên báo những cuộc bách hại: "Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết" (Mt 10,21).
Nghĩa là không chỉ người ngoài như thông thường, mà ngay cả vợ chồng khi chạy tội cũng không ngần ngại tố cáo và đổ tội cho nhau, như trường hợp hai ông bà nguyên tổ (St 3,12-13). Và chính tội lỗi mỗi người cũng trở thành những chứng cớ hùng hồn tố cáo và buộc tội bản thân (Gr 14,7;Hs 5,5).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hãy luôn giữ mình và biết sống làm sao để không bao giờ bị Chúa tố cáo và hạch tội.
Suy niệm 4: Dự định
Dự định của Phaolô là sẽ trở về nhà sau khi việc bách hại chấm dứt, nhưng cái êm đềm của sự cô quạnh và cái sung sướng của sự chiêm niệm đã khiến ngài thay đổi ý định ban đầu.
Thánh ý và đường hướng của Thiên Chúa được thấy trong mọi hoàn cảnh của đời sống. Được hướng dẫn bởi ơn sủng của Ngài, chúng ta có tự do để đáp lại lời mời gọi của Ngài qua những chọn lựa nhằm đưa chúng ta đến gần Chúa hơn, và giúp chúng ta lệ thuộc nhiều hơn vào Thiên Chúa.
Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Có khi những lựa chọn ấy dường như tách biệt chúng ta khỏi người thân quen. Nhưng thực sự, chúng lại đưa chúng ta gần với nhau hơn trong lời cầu nguyện, trong tình bằng hữu, trong tình huynh đệ thiêng liêng.
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin hiệp ý với Chúa để nói lên tâm tình thần phục Thiên Ý: Lạy Cha không theo ý con nhưng theo ý Cha (Mt 26,39).
Suy niệm 5: Tĩnh mịch
Sau 21 năm sống trong cô độc có một con chim hằng ngày đem cho Phaolô nửa ổ bánh. Trong cuộc sống tĩnh mịch đó ngài cầu xin cho thê giới được tốt đẹp hơn.
Rút lui khỏi môi trường xã hội ồn ào và náo nhiệt. Tránh những va chạm muôn thuở giữa người với người do tính khí và ước muốn khác nhau. Khỏi phải bon chen và tranh giành quyền lợi cũng như danh vọng trần thế. Thánh Phaolô tìm vào nơi tĩnh mịch.
Nơi tĩnh mịch chủ yếu phải đạt đến là ở nội tâm. Thật vậy giữa chốn phồn hoa đô thị với bao tiếng động, thật khó nhưng vẫn có thể giữ được sự thinh lặng nội tâm. Ngược lại sống sâu trong lòng đất không có bóng người, nhưng tâm trí vẫn dậy sóng với bao tưởng tượng, bao mơ ước viễn vông.
* Lạy Chúa Giêsu, đặc ân ẩn tu chắc hẳn Chúa không dành để cho mỗi chúng con, nhưng những dịp tĩnh tâm hằng tháng và thường niên thì dĩ nhiên không thiếu, xin cho chúng con biết tận dụng.
Suy niệm 6: Hoang dã
Bị cám dỗ cho rằng mình là người đầu tiên phụng sự Thiên Chúa nơi hoang dã, Thánh Antôn xin Thiên Chúa soi sáng để được biết điều ấy và ngài đã tìm thấy Thánh Phaolô, và thú nhận rằng Thánh Phaolô còn tuyệt hảo hơn ngài.
Hoang dã là nơi thử thách và tinh luyện. Cuộc hành trình của dân Ítraen suốt 40 năm trong sa mạc, với bao biến cố thăng trầm, trước khi đặt chân được vào miền đất hứa, đều xoáy theo chiều hướng này.
Đức Giêsu cũng được Thần Khí đưa đẩy vào miền hoang dã để chịu thử thách. Nhưng khác với các bậc tiền bối, Ngài đã chiến thắng và giữ vững niềm tín trung với Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, chẳng phải chỉ nơi hoang dã mà ở khắp nơi mọi chốn, ma quỷ vẫn luôn rình chực cám dỗ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 14/01 Thánh Macrina
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Macrina
Thánh Macrina là bà nội của Thánh Basil Cả mà chúng ta mừng kính vào ngày 2-1. Dường như Thánh Macrina đã nuôi dưỡng Thánh Basil Cả và khi lớn lên thánh nhân đã không ngớt lời ca tụng công việc lành phúc đức của bà nội. Ðặc biệt, thánh nhân đã nhắc đến việc giáo dục đức tin của bà khi thánh nhân còn nhỏ.
Thánh Macrina và chồng đã phải trả một giá rất đắt khi theo Ðức Kitô. Trong thời kỳ bách hại của các hoàng đế La Mã Galerius và Maximinus, hai ông bà đã phải đi trốn. Họ tìm thấy một nơi ẩn náu trong rừng gần nhà. Bằng cách nào đó, họ đã thoát khỏi sự bách hại. Họ luôn luôn bị đói khát và lo sợ nhưng không mất đức tin. Họ đã kiên nhẫn chờ đợi và cầu nguyện để chấm dứt sự bách hại. Và cuộc bách hại này đã chấm dứt sau bảy năm dài. Thánh Gregory Nazianzen có ghi lại các chi tiết này.
Trong một cuộc bách hại khác, Thánh Macrina và chồng bị mất tất cả tài sản. Họ không còn gì ngoại trừ đức tin và lòng tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Người ta không biết chính xác Thánh Macrina từ trần năm nào, họ phỏng đoán năm 340, và cháu nội của thánh nữ là Thánh Basil Cả từ trần năm 379.
Trích từ NguoiTinHuu.com
- Ngày 13/01 Thánh Hilariô Giám Mục Tiến Sĩ (320-368)
- Ngày 12/01 Thánh Antôn Maria Pucci (1819 - 1892)
- Ngày 11/01 Chân Phước William Carter (c. 1584)
- Ngày 10/1 Thánh Grêgôriô ở Nyssa (330 - 395)
- Ngày 09/1 Tôi tớ Chúa Vicô Nétchi (1876-1930)
- Ngày 08/1 Chân Phước Angela ở Foligno (1248-1309)
- Ngày 07/1 Thánh Raymond ở Penafort (1175 - 1275)
- Ngày 06/1 Chân Phước Andre Bessette (1845 - 1937)
- Ngày 05/1 Thánh Gioan Neumann (1811 - 1860)
- Ngày 04/1 Thánh Elizabeth Ann Seton (1774 - 1821)