Gương Thánh Nhân
Ngày 13/01 Thánh Hilariô Giám Mục Tiến Sĩ (320-368)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh HILARIÔ Giám Mục Tiến Sĩ (khoảng 320-368)
Thánh Hilariô chào đời tại Poa-tu (Poitou) Ngài là con một nhà quí tộc làm nghị viên và được giáo dục đầy đủ. Các môn học mà thánh nhân ưa thích là văn chương, thi ca, nhất là triết lý. Việc học tập của Ngài luôn được đào sâu cho tới cùng là Thiên Chúa, Ngài nhận định rằng: hạnh phúc thật của con người không phải bị những thú vui đời này, dù chúng thanh cao đến mấy đi nữa. Trái lại hạnh phúc là được sống cho chân lý ở một cuộc sống khác với cuộc sống tạm trên trần gian này. Ngài nói: - "Tôi khóc lên vì vui sướng mỗi khi nghĩ đến thân xác này chỉ được tiền định để phải chết đi".
Nhưng làm thế nào mà thánh nhân đã gặp được chân lý, gặp được Thiên Chúa mà các triết gia và các tôn giáo thường nói tới một cách mù mờ ? Chính thánh nhân kể lại cuộc khám phá của mình: - "Từ môi trường ngoại giáo, Chúa đã dẫn đưa tôi tới nguồn sáng chân thực. Giữa bao nhiêu hệ thống triết lý và tư tưởng khác nhau, tôi vẫn ưu tư tìm đến Chúa bằng con đường ngay thật, chắc chắn hữu thể thần linh vĩnh cửu phải là đơn thuần và độc nhất, không có gì là không bắt nguồn tự Ngài, vạn vật đều phải thờ phượng Ngài".
Xác tín rằng phải có Chúa, Ngài còn suy nghĩ về các phẩm tính thần linh của Chúa.
- "Nếu một công rình vượt quá trí khôn chúng ta, thì nhà nghệ sĩ thần linh còn trổi vượt công trình đó thế nào ? Vậy phải nhận biết rằng, Thiên Chúa tuyệt mỹ và chúng ta chỉ cảm nhận mà chúng ta không thể thấu hiểu nổi".
Trong khi còn miên man suy nghĩ như vậy. Thánh nhân bỗng gặp được một cuốn kinh thánh. Ngài đọc được đoạn văn trên Chúa hiện ra với Môsê và tự bày tỏ: "Ta là Đấng hiện hữu".
Ngài sung sướng với khám phá này: - "Tôi vui thỏa với danh hiệu mà Thiên Chúa đã tỏ ra cho Môsê. Thánh danh ấy vừa biểu lộ một quan niệm sâu xa về Thiên Chúa, lại vừa tầm với trí óc con người.
Từ đó thánh nhân say mê nghiên cứu thánh kinh, nhất là các sách tiên tri với những đoạn loan báo về Đấng thiên sai. Trong các sách Tin Mừng, Ngài thích nhất tự ngôn của Tin Mừng theo thánh Gioan. - "Trí tôi học biết và Thiên Chúa vượt quá điều nó dám ước mong... lòng tôi run rẩy bồn chồn vì vui sướng trước giáo thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi và trước lời mời gọi tái sinh nhờ đức tin".
Thế là thánh nhân đã lãnh nhận phép rửa tội và cảm thấy hạnh phúc lạ lùng. Ngài đã lập gia đình và có được một người con gái. Rồi đây Ngài sẽ đưa cả vợ con về với đức tin. Khi Ngài muốn trở thành linh mục, vợ Ngài chỉ còn gặp lại Ngài tại bàn thánh và coi Ngài như một người anh. Nhân đức và trí khôn ngoại hạng còn đưa Ngài tới chức giám mục cai quản địa phận Pcachie (Poutiers) năm 350.
Lúc ấy lạc giáo Ariô nổi lên như vũ bão trong Giáo hội. Vua Constantiô ủng hộ lạc giáo và tiếp tay cho cuộc bách hại. Thánh Athanasiô bị bắt đi lưu đày. Thánh Hilariô đứng lên lãnh đạo công cuộc bảo vệ đức tin chân chính. Ngài triệu tập một công đồng để lên án hai giám mục theo lạc giáo. Cộng đồng còn cử Ngài đi thương thuyết với nhà vua. Nhưng lòng can đảm của Ngài đã bị trừng phạt bằng cuộc lưu đày năm 356, chấp nhận gian khổ, Ngài tuyên bố:
- "Người ta có thể bắt các giám mục lưu đày, nhưng có thể trục xuất chân lý được không ?"
Cuộc hành trình tới Phrygia nằm ở cuối miền Tiểu Á thật dài và đầy gian khổ. Nhưng thánh nhân đã không hề phàn nàn mà vẫn bình thản sống mật thiết kết hợp với Chúa. Đầy dũng cảm, Ngài vẫn tiếp tục làm rung chuyển thế giới bằng công việc viết lách của mình.
Ngài nói: - "Dầu bị lưu đày, chúng tôi vẫn tiếp tục nói bằng sách vở, bởi vì người ta không thể giam hãm lời Chúa".
Ngài đã viết 12 khảo luận bàn về Chúa Ba Ngôi, và đưa giáo thuyết chân chính của công giáo với những tư tưởng kinh tế của Hylạp vào thổ ngữ. Ngài tiếp tục điều khiển giáo phận bằng thư tín. Cũng vào thời này, thánh nhân diụ dàng hướng dẫn Ebra, người con gái của mình tới đời sống thánh thện. Một bức thư Ngài viết trong buổi lưu đày còn sót lại có khuyên nhủ nàng tận hiến cho Chúa như sau:
- "Con thân yêu, con là đứa con duy nhất của cha, cha muốn thấy con đẹp nhất và đẹp nhất trong các phụ nữ. Người ta nói với cha về một thanh niên có một viên ngọc quí và một bộ áo quí giá đến nỗi ai mà có được những thứ đó thì sẽ là người giàu có hơn hết mọi người".
Và thánh nhân kể lại rằng: phải khó khăn lâu ngày, Ngài mới gặp được người thanh niên này để xin Người ban viên ngọc và chiếc áo ấy cho Ebra. Bên chiếc áo này, tuyết hết trắng, không có một vết niơ nào có thể bôi bẩn, không một tai nạn nào có thể xé rách. Còn viên ngọc, không vật nào chịu nổi vể rực rỡ huy hoàng, chẳng bao giờ tàn sắc, ai mang được sẽ hết khổ và không phải chết.
Và Ngài tiếp: - "Đấy là những món trang sức mà cha ước ao, những thứ ban ơn cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu".
Ngài còn gửi cho cô những khúc thánh thi để cô ca nguyện sớm chiều. Ebra sớm theo ước nguyện của người cha nhưng cũng sớm lìa trần.
Bốn năm trôi qua, Hoàng đế cho triệu tập công đồng Sêlêucia. May mắn Ngài cũng được mời dự. Tại đây Ngài đã dùng hết tài hùng biện và trí thông minh để chống lạc giáo, bảo vệ đức tin chân chính. Không chịu nổi ảnh hưởng của Ngài. Bọn theo lạc giáo đã can thiệp để Ngài về quê hương cho rảnh rợ. Thế là năm 360, Đức Giám mục Hilariô được trở về Poa-chi-ê.
Cuộc hồi hương của thánh nhân là niềm vui cho toàn dân chứ không riêng gì cho giáo phận Poa-chi-ê. Thánh Hiêrônumô đã nói: "Toàn dân Gôn (Gaules) ôm hôn vị anh hùng tay mang ngành vạn tuế trở về".
Trong đoàn người đông đảo đón mừng người cha già, phải kể đến một người lính trẻ tên là Martinô. Lúc ấy Martinô đang sống ẩn dật ở Ganlinaria và sau này sẽ làm thánh giám mục. Ngày về của vị giám mục già cả còn được ghi dấu bằng một phép lạ nhãn tiền. Một bà mẹ khóc lóc ôm một đứa con mới chết gặp Ngài. Bà tha thiết xin thánh nhân cứu sống con mình, ít ra để nó được rửa tội. Cảm tưởng nỗi niềm đau đớn của người thiếu phụ, Ngài quì gối cầu nguyện và da thịt đứa trẻ dần dần đỏ hồng rồi sống lại.
Tuổi già sức yếu nhưng thánh nhân vẫn nhiệt thành chỉnh đốn lại những tàn phá do bè rối gây nên. Lòng nhiệt thành đã đưa Ngài tới tận Milan khiến bọn lạc giáo kinh hoàng và làm áp lực bắt Ngài phải trở lại Poa-chi-ê. Ngày 13 tháng giêng năm 386 Ngài đã qua đời. Người ta kể lại rằng: lúc thánh nhân tử trần, một luồng chói chang khắp phòng.
Ngày 10 tháng giêng năm 1852, theo lời thỉnh cầu của nhiều vị giám mục. Đức giáo hoàng phong Ngài lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh. Ngài là vị thánh tiến sĩ đầu tiên ở Gôn.
(daminhvn.net)
Ngày 12/01 Thánh Antôn Maria Pucci (1819 - 1892)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Antôn Maria Pucci (1819 - 1892)
Eustacchio là người con thứ trong bảy người con của một gia đình nông dân ở Tuscany, không xa với thành phố Florence là bao. Mặc dù ông bố thường dọn lễ cho nhà thờ trong làng, nhưng ông không thích thú cho lắm khi thấy con mình có ý định đi tu. Tuy nhiên, vào năm 18 tuổi, Eustacchio đã gia nhập dòng Tôi Tớ Ðức Mẹ, và lấy tên là Antôn Maria.
Sau khi được học kinh điển và thần học, ngài được thụ phong linh mục năm 1843. Vào năm 28 tuổi, ngài được bài sai đi coi xứ đầu tiên -- và duy nhất -- ở thành phố Viareggio ven biển. Ngài ở đây trong suốt cuộc đời, tận tụy phục vụ trong 45 năm. Ngài được giáo dân mến mộ đặt cho ngài cái tên dễ mến là "il curatino" (cha sở bé nhỏ). Ngài đặc biệt lưu tâm đến người bệnh, người già và người nghèo, và tận tâm phục vụ họ, nhất là trong hai trận dịch tễ hoành hành ở đây.
Ngài là người biết nhìn xa trông rộng, đã thành lập nhà nuôi trẻ cạnh bờ biển và là người tiên phong của Tổ Chức Thời Thơ Ấu Thánh Thiện ở Ý. Từ 1883 đến 1890, ngài còn là bề trên tỉnh dòng Tôi Tớ Ðức Mẹ ở Tuscan.
Khi ngài từ trần ngày 12-1-1892 ở Viareggio, toàn thể thành phố đã thương tiếc ngài. Ngài được phong thánh năm 1962 trong khoá họp đầu tiên của Công Ðồng Vatican II.
______________________________________________________________________
Thánh Marguerite Bourgeoys
(1620-1700)
"Chúa đóng cánh cửa lớn và mở ra cánh cửa nhỏ," đó là câu người ta thường an ủi chính mình hay người khác khi gặp những thất vọng. Ðiều này rất đúng với trường hợp của Thánh Marguerite.
Marguerite sinh ở Troyes, nước Pháp, nhưng tám mươi năm cuộc đời ngài sống ở Montréal, Canada. Thánh nữ là con thứ sáu trong gia đình mười hai người con. Cha mẹ ngài thật đạo đức. Ngài mồ côi mẹ khi lên chín và Marguerite thay mẹ chăm sóc các em. Khi ngài hai mươi bảy tuổi thì người cha từ trần. Bây giờ, mọi người trong gia đình đều đã lớn và Marguerite nghĩ rằng mình có ơn gọi đi tu. Nhưng việc xin gia nhập dòng Camêlô cũng như dòng Thánh Clara Hèn Mọn đều thất bại. Lúc ấy, Thống Ðốc của Montréal đang thăm viếng nước Pháp nhằm tìm kiếm giáo chức cho Tân Thế Giới. Ông đã mời Marguerite đến Montreal để dạy học cũng như dạy giáo lý, và ngài đã nhận lời.
Marguerite chia tài sản cho các anh chị em trong gia đình. Họ không tin rằng ngài dám từ bỏ một quốc gia văn minh để đến một nơi hoang vu cách xa cả đại dương. Nhưng ngài đã thực hiện điều đó và đã cập bến Canada vào giữa tháng Mười Một. Marguerite bắt đầu xây cất một nguyện đường vào năm 1657 để vinh danh Ðức Bà Hằng Cứu Giúp.
Năm 1658, ngài mở trường học đầu tiên. Khi nhận ra nhu cầu giáo chức, ngài trở về Pháp năm 1670 và đem theo sáu người bạn khác đến Canada. Tất cả các phụ nữ can đảm này đã trở nên các nữ tu đầu tiên của Tu Hội Ðức Bà.
Sơ Marguerite và các nữ tu đã giúp đỡ dân chúng ở thuộc địa sống sót khi nạn đói xảy đến. Họ mở trường dạy nghề để chỉ cho các người trẻ biết xây cất nhà cửa và làm nông trại. Tu hội của Sơ Marguerite cũng phát triển. Vào năm 1681 có mười tám nữ tu. Bảy người gốc Canada. Họ mở thêm các trung tâm truyền giáo và hai nữ tu dạy học cho người thổ dân da đỏ. Chính Sơ Marguerite cũng đã nhận hai phụ nữ da đỏ đầu tiên gia nhập tu hội.
Vào năm 1693, Mẹ Marguerite trao tu hội lại cho người kế vị. Sơ bề trên mới là Marie Barbier, người Canada đầu tiên gia nhập tu hội. Năm 1698, quy luật tu hội được Giáo Hội chấp thuận. Trong những năm cuối đời, Sơ Marguerite dành để cầu nguyện và viết tự truyện. Vào ngày cuối năm 1699, một nữ tu trẻ tuổi đang hấp hối trên giường bệnh. Sơ Marguerite xin Chúa để được chết thay cho nữ tu ấy. Ðến sáng ngày 1 tháng Giêng 1700, nữ tu ấy được lành mạnh, nhưng Sơ Marguerite lại lên cơn sốt. Ngài chịu đau khổ trong mười hai ngày và từ trần ngày 12 tháng Giêng 1700. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh ngày 2 tháng Tư 1982.
Lời Bàn
Thật dễ nản chí khi các kế hoạch mà chúng ta nghĩ rằng Chúa phải tán thành thì bị thất bại. Marguerite không được kêu gọi để trở nên một nữ tu dòng kín nhưng lại là một người sáng lập dòng và một nhà giáo dục. Nói cho cùng, Thiên Chúa không quên thánh nữ.
Lời Trích
Trong bài giảng lễ phong thánh, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói: "... một cách đặc biệt, Thánh Marguerite đã góp phần xây dựng quốc gia mới ấy [Canada], minh định vai trò của phụ nữ, và ngài cần cù tiến đến việc đào tạo một tâm linh Kitô Giáo sâu xa." Ðức thánh cha cũng nhận xét rằng thánh nữ đã trông coi các học sinh với lòng yêu mến và tin tưởng "để chuẩn bị cho các em trở nên các người vợ và người mẹ xứng đáng, là các người mẹ Kitô Hữu có văn hóa, chăm chỉ làm việc và có ảnh hưởng tốt đến người chung quanh."
Trích từ NguoiTinHuu.com
Ngày 11/01 Chân Phước William Carter (c. 1584)
- Viết bởi Guong Thanh Nhan
Chân Phước William Carter
(c. 1584)
Sinh ở Luân Ðôn, William Carter bước vào nghề in ngay từ khi còn nhỏ. Trong nhiều năm, ông phụ việc cho một người thợ in Công Giáo nổi tiếng, người này bị cầm tù vì kiên trì với đức tin Công Giáo. Chính ông William cũng bị tù vì "in những tài liệu bị cấm [Công Giáo]" cũng như cất giữ các sách vở có liên can đến đạo Công Giáo.
Hơn thế nữa, ông còn chống đối nhà cầm quyền bằng cách phát hành các truyền đơn nhằm duy trì đức tin của người Công Giáo. Nhà chức trách lục soát nhà ông còn tìm thấy các áo lễ và sách lễ, ngay cả họ còn tra tấn vợ ông để tra khảo. Trong 18 tháng tiếp đó ông bị cầm tù, bị tra tấn và thật đau khổ khi được biết vợ ông từ trần.
Hiển nhiên ông bị buộc tội in ấn và phát hành tập Luận Án về Ly Giáo mà chính quyền cho là do một người "phản quốc" viết để thúc giục người Công Giáo nổi loạn. Trong khi ông William bình thản phó thác vào Thiên Chúa, bồi thẩm đoàn chỉ họp có 15 phút trước khi kết luận là ông "có tội." Sau khi xưng tội với vị linh mục cùng bị bắt, ông William đã bị treo cổ và phân thây vào ngày 11-1-1584.
Ông được phong chân phước năm 1987.
_______________________________________________________________
Thánh Theodosius
(c. 529)
Theodosius sinh ở Tiểu Á năm 423. Khi thanh niên, ngài thực hiện cuộc hành hương đến Ðất Thánh. Người ta nói rằng ngài được cảm hứng bởi hành trình đức tin của ông Abraham như được viết trong Sáng Thế Ký. Sau khi thăm viếng các linh địa, ngài quyết định theo đuổi một đời sống cầu nguyện. Ngài xin được hướng dẫn bởi một người thánh thiện tên Longinus. Không bao lâu, người ta nhận ra sự thánh thiện của chính Theodosius và nhiều người đã đến xin theo để trở thành đan sĩ.
Thánh Theodosius xây một đan viện lớn ở Cathismus, gần Bêlem. Chẳng bao lâu, đan viện này tràn ngập các đan sĩ từ Hy Lạp, Armenia, Arabia, Persia và các quốc gia vùng Slave. Dần dà, đan viện trở thành một "thành phố nhỏ." Ở đó có một trung tâm cho người bệnh, một trung tâm cho người già và một trung tâm cho người nghèo cũng như người vô gia cư.
Thánh Theodosius luôn luôn độ lượng. Ngài nuôi ăn không biết bao nhiêu người nghèo. Nhiều khi tưởng chừng không còn đủ thức ăn cho các đan sĩ. Nhưng thánh nhân luôn luôn tín thác vào Thiên Chúa. Theodosius không bao giờ làm ngơ trước nhu cầu của người khác. Ðan viện là nơi thật bình an, các đan sĩ sống hoà thuận với nhau trong tình huynh đệ đích thực. Việc điều hành đan viện quá tốt đẹp đến nỗi vị thượng phụ của Giêrusalem đã bổ nhiệm Theodosius làm đan viện trưởng của các đan sĩ đông phương.
Thánh Theodosius từ trần năm 529, hưởng thọ 106 tuổi. Ngài được chôn cất ở nơi đầu tiên ngài sống như một đan sĩ. Nơi đó được gọi là Hang Ðạo Sĩ, vì theo truyền thuyết, các Ðạo Sĩ đã trú ngụ ở đây khi trên đường tìm kiếm Hài Nhi Giêsu.
Trích từ NguoiTinHuu.com
Ngày 10/1 Thánh Grêgôriô ở Nyssa (330 - 395)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Grêgôriô ở Nyssa (330 - 395)
Các học thuyết của thánh Grêgôriô chống với Arian và các sai lầm khác lừng danh đến nỗi ngài được xưng tụng là người bảo vệ chính giáo. Ngài không chỉ được coi là một trụ cột của chính giáo, nhưng còn là người đóng góp quan trọng cho các truyền thống bí nhiệm trong linh đạo Kitô Giáo và cho hệ thống đan viện.
Lược sử
Thánh Grêgôgiô là con út của một gia đình đã góp phần rất lớn cho Giáo Hội và gia đình ấy có ít nhất năm vị thánh.
Sinh trưởng trong thành phố bây giờ là Thổ Nhĩ Kỳ, Grêgôriô là con của hai vị thánh Basil và Emmilia, và lớn lên trong sự dẫn dắt của người anh là Thánh Basil Cả, và người chị Macrina. Sự thành công trong việc học của Grêgôriô tiên đoán một tương lai rạng rỡ. Sau khi là giáo sư hùng biện, ngài được khuyến khích dâng hiến tài năng và hoạt động cho Giáo Hội, và ngài đã gia nhập đan viện của người anh là Basil Cả. Sau khi lập gia đình, Grêgôriô tiếp tục học làm linh mục và được phong chức (vấn đề độc thân thời bấy giờ không phải là điều kiện để làm linh mục).
Ngài được chọn làm Giám Mục của Nyssa năm 372, là giai đoạn nhiều căng thẳng về bè rối Arian, họ từ chối thiên tính của Đức Kitô. Sau một thời gian giam cầm vì bị bè rối Arian vu oan là biển thủ ngân quỹ Giáo Hội, Đức Grêgôgiô được phục hồi quyền bính năm 378.
Chính sau cái chết của người anh yêu quý là Thánh Basil mà Đức Grêgôgiô mới thực sự chứng tỏ khả năng của ngài. Các học thuyết của ngài chống với Arian và các sai lầm khác lừng danh đến nỗi ngài được xưng tụng là người bảo vệ chính giáo. Ngài được sai đi trong các sứ vụ chống trả các bè rối, và giữ một vị thế quan trọng trong Công Đồng Constantinople.
Danh tiếng của ngài kéo dài cho đến khi từ trần, nhưng qua nhiều thế kỷ, danh tiếng ấy lu mờ dần khi người ta không rõ ngài có phải là tác giả của các học thuyết ấy hay không. Tuy nhiên, chúng ta phải cám ơn công trình của các học giả trong thế kỷ 20, vì nhờ đó mà tầm vóc của Thánh Grêgôriô lại được phục hồi. Thật vậy, Thánh Grêgôriô ở Nyssa không chỉ được coi là một trụ cột của chính giáo, nhưng còn là người đóng góp quan trọng cho các truyền thống bí nhiệm trong linh đạo Kitô Giáo và cho hệ thống đan viện.
Suy niệm 1: Con út
Thánh Grêgôgiô là con út của một gia đình đã góp phần rất lớn cho Giáo Hội và gia đình ấy có ít nhất năm vị thánh.
Người Á Đông thường dành nhiều đặc quyền cho người trưởng nam, vì thế ít chú trọng đến người con út. Chính Thiên Chúa đã làm một cuộc cách mạng trong lãnh vực này, khi chọn Giacóp làm tổ phụ chứ không phải anh cả Êxau (St 27,30), cũng như chọn con út Đavít chứ không chọn các anh trong gia đình ông Giesê mà xức dầu phong vương (1Sm 16,11-13).
Có thể nói chính thánh Phaolô là vị tông đồ cuối cùng được Đức Giêsu đích thân kêu gọi (Cv 15,9) trên đường ngài đi Đamát. Dầu vậy ngài lại được Đức Giêsu tuyển chọn làm vị tông đồ dân ngoại (Cv 9,15;22,21) chứ không phải các tông đồ khác thâm niên hơn ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, trong mắt Chúa, người trưởng nam, con thứ hay con út, thậm chí nam hay nữ, tất cả đều bình đẳng, đều là con của Chúa, miễn là hết mình thuộc về Chúa. Xin giúp chúng con tự tin và luôn bền đỗ đến cùng để được cứu thoát (Mt 10,22).
Suy niệm 2: Dẫn dắt
Sinh trưởng trong thành phố bây giờ là Thổ Nhĩ Kỳ, Grêgôriô là con của hai vị thánh Basil và Emmilia, và lớn lên trong sự dẫn dắt của người anh là Thánh Basil Cả, và người chị Macrina.
Nếu mù mà lại dắt mù thì cả hai sẽ lăn cù xuống hố (Mt 15,14). Ngược lại nếu được dẫn dắt bởi những người tốt lành và thánh thiện thì cơ may lành thánh sẽ rất cao. Thật vậy cậu út đã theo gương các anh và ghi khắc các lời khuyên nhủ của thân mẫu, cậu đã bỏ ngoài tai những lời dụ dỗ của vua Antiôkhô, cậu dõng dạc tuyên xưng đức tin và anh dũng đón nhận cực hình cùng với cái chết tử đạo (2Mcb 7,24-40).
Tuy nhiên một yếu tố tối hậu không thể không được đề cập đến, đó là người được dẫn dắt có hết mình sống theo sự chỉ dẫn ấy không. Một Giuđa Ítcariốt được sống tam cùng với Đức Giêsu, và dĩ nhiên được thừa hưởng bao lời dạy dỗ của vị Tôn Sư bậc nhất trần ai này, nhưng vì nghe mà không thực hành nên cuối đời đã phạm tội phản bội Thầy mình và tự sát.
* Lạy Chúa Giêsu, gặp được một thầy tốt quả là một điều tốt, nhưng điều tốt hơn nữa, đó là phải lắng nghe và chăm chỉ thực hành. Xin Chúa thương giúp chúng con.
Suy niệm 3: Giam cầm
Grêgôriô được chọn làm Giám Mục của Nyssa năm 372, là giai đoạn nhiều căng thẳng về bè rối Arian, họ từ chối thiên tính của Đức Kitô. Sau một thời gian giam cầm vì bị bè rối Arian vu oan là biển thủ ngân quỹ Giáo Hội, Đức Grêgôgiô được phục hồi quyền bính năm 378.
Sống trong tình cảnh bị giam cầm, tù nhân thật sự không còn tự do. Tuy nhiên hãy nhớ rõ: tù nhân bị mất tự do về thân thể, chứ nào ai có thể giam cầm được tinh thần. Một Gioan Tẩy Giả vẫn giữ vững lập trường chống đối hôn nhân mang tính loạn luân của hoàng đế Hêrôđê cho đến lúc phải bị chém đầu (Mc 6,27).
Bị giam cầm trong ngục thất ở phòng giam sâu nhất, cả Phaolô và Xila vẫn bình tâm hát thánh ca cầu nguyện với Thiên Chúa. Nhất là dầu ở tình thế lao tù, hai ngài vẫn tiếp tục sứ mạng rao giảng, đã hoán cải và làm phép rửa cho viên cai ngục cùng mọi người trong nhà ông ấy (Cv 16,23-34).
* Lạy Chúa Giêsu, việc bị giam cầm hôm nay trong ngục tù làm sao đáng sợ bằng việc sẽ bị giam cầm đời đời trong lửa hỏa ngục. Xin cho chúng con biết thế và luôn có một chọn lựa đúng đắn.
Suy niệm 4: Bảo vệ
Các học thuyết của Grêgôriô chống với Arian và các sai lầm khác lừng danh đến nỗi ngài được xưng tụng là người bảo vệ chính giáo. Ngài được sai đi trong các sứ vụ chống trả các bè rối, và giữ một vị thế quan trọng trong Công Đồng Constantinople.
Nhằm bảo vệ Lề Luật và Giao Ước của tổ tiên, ông Máttítgia đã cùng với năm người con trai hô hào và quy tụ những người còn tín trung trong việc thờ phượng Thiên Chúa. Họ trốn lên núi, bỏ lại trong thành tất cả tài sản và phát động phong trào chống lại lệnh bài xích đạo của vua Antiôkhô (1Mcb 2,1-28).
Phương án bảo vệ đức tin tinh tuyền đã tìm được hướng đi thích hợp, đó là truyền bá niềm tin. Chính Thiên Chúa đã hé mở cách thế ấy cho vị tông đồ trưởng qua thị kiến buộc Phêrô phải ăn những vật ô uế và không thanh sạch (Cv 11,1-18).
* Lạy Chúa Giêsu, truyền giáo là một lệnh truyền của Chúa trước lúc về trời. Thực tế chúng con thường tách biệt việc bảo vệ và việc truyền giáo là hai việc khác nhau. Cảm tạ Chúa đã chỉ cho chúng con phương cách: truyền giáo là cách bảo vệ hữu hiệu nhất.
Suy niệm 5: Danh tiếng
Danh tiếng của Grêgôriô kéo dài cho đến khi từ trần, nhưng qua nhiều thế kỷ, danh tiếng ấy lu mờ dần khi người ta không rõ ngài có phải là tác giả của các học thuyết ấy hay không.
Xưa có lời: Rắn chết để da, người chết để tiếng. Danh thơm tiếng tốt vốn là một kim chỉ nam cho người đời nói chung. Nhưng vô tình không thiếu người lại để lại tiếng xấu. Vì ganh với danh tiếng Đavít, vua Saun đã rơi vào một sai lầm lớn lao, là đã sống bất nhân bất nghĩa với ân nhân mình (1Sm 18,8-9).
Được nổi danh ở đời nhưng lại làm mất lòng Thiên Chúa, thử hỏi có đáng không? Đức Giêsu đã nêu gương: Hãy là con yêu dấu của Chúa cho dầu phải bị người đời ghét bỏ và giết chết, vì được cả thế giới mà đánh mất phần rỗi mình thì nào được ích gì (Mt 16,26).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu và sống: càng phấn đấu thành nhân càng nỗ lực nên thánh, được vang danh gian trần sao bằng được làm hiển thánh thiên đàng.
Suy niệm 6: Phục hồi
Phải cám ơn công trình của các học giả trong thế kỷ 20, vì nhờ đó mà tầm vóc của Thánh Grêgôriô ở Nyssa lại được phục hồi. Thật vậy, ngài không chỉ được coi là một trụ cột của chính giáo, nhưng còn là người đóng góp quan trọng cho các truyền thống bí nhiệm trong linh đạo Kitô Giáo và cho hệ thống đan viện.
Thánh Grêgôriô được phục hồi tầm vóc. Cá nhân quan chánh chước tửu lại được vua Pharaô cho phục hồi chức vụ (St 40,13). Còn đạo quân Ítraen phục hồi được khí thế và lại dàn trận để chiến đấu sau lần bị bại trận ở Ghípa (Tl 20,21-23).
Bằng cuộc Tử Nạn và Phục Sinh với hiệu năng ban ơn cứu độ, Đức Giêsu đã phục hồi toàn thể thụ tạo. Ngài đã tái mở cửa thiên đàng vốn đã bị đóng lại sau tội nguyên tổ (St 3,24;Kh 4,1). Ngài trở thành chiếc cầu nối giữa đất và trời (Cl 1,20). Ngài là trung gian giao hòa giữa Thiên Chúa và con người với ơn nghĩa tử (2Cr 5,18-19).
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin mượn lời Thánh Vịnh để dâng lời nguyện cầu: Xin phục hồi chúng con, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời để chúng con được ơn cứu độ (Tv 80,4).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 09/1 Tôi tớ Chúa Vicô Nétchi (1876-1930)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Tôi tớ Chúa Vicô Nétchi (1876-1930)
Lược sử
Vào ngày 9 tháng Giêng 1930, Luđôvicô (Vicô) Nétchi, giáo sư y khoa của Đại Học Milan từ trần. Theo di chúc của ông, trên tấm mộ bia chỉ khắc hàng chữ: Vicô Nétchi, Dòng Ba Phanxicô. Là một người phi thường, ông được chôn cất trong nhà nguyện của Đại Học Thánh Tâm ở Milan, với hy vọng một ngày nào đó ông sẽ được tôn kính trên bàn thờ.
Khi là thanh niên, Vicô rất yêu mến Đức Kitô, Thánh Phanxicô và Giáo Hội. Trong tinh thần Dòng Ba, ông sống với nhiệt huyết của Thánh Phaolô và sự nhân từ của Thánh Phanxicô. Với cương vị của một giáo sư ông chống đối các thói đời trái ngược với Kitô Giáo và đưa người ta về với Đức Kitô. Một trong những người nổi tiếng mà ông đã hoán cải là Augúttinô Gemenli, là người đồng sáng lập Đại Học Thánh Tâm với ông Vicô.
Ông Vicô là người siêng năng cầu nguyện, khiêm tốn, duyên dáng và luôn tươi cười, người đứng ở tuyến đầu trong phong trào Tông Đồ Giáo Dân ở Ý. Bất kể những chống đối và thử thách, ông dùng nghề giáo của ông như một khí cụ tông đồ để hoán cải các bệnh nhân, và đặc biệt ông bác ái một cách rộng rãi với các trẻ em bị bệnh chậm phát triển.
Suy niệm 1: Di chúc
Vào ngày 9 tháng Giêng 1930, Luđôvicô (Vicô) Nétchi, giáo sư y khoa của Đại Học Milan từ trần. Theo di chúc của ông, trên tấm mộ bia chỉ khắc hàng chữ: Vicô Nétchi, Dòng Ba Phanxicô.
Di chúc của người sắp lìa đời thường được tôn trọng và thực hiện, vì gói ghém ước nguyện tối thượng của một đời người. Giacóp kêu mời con cháu luôn trung thành với Thiên Chúa (St 49,8-12). Giôsuê đòi buộc Ítraen phải cam kết phụng thờ Thiên chúa (Gs 24). Tôbít trăn trối con cái phải thực thi công chính và làm việc bố thí (Tb 14,8-9).
Trước khi ra đi chịu chết, Đức Giêsu đã trao gởi những lời cáo biệt như một di chúc. Ngài mong ước mọi người sống đoàn kết hiệp nhất nên một (Ga 17,11.21-23), trên nền móng tình thương theo gương Ngài như một điều răn mới (Ga 13,34;15,12), và dĩ nhiên không trên môi miệng mà bằng hành vi phục vụ cụ thể (Ga 13,15;1Ga 3,18).
* Lạy Chúa Giêsu, để tỏ lòng thảo hiếu và quý yêu người quá cố, chúng con luôn hết sức thực thi di chúc của họ. Nếu thế, tại sao chúng con không nỗ lực thực hành di chúc của Chúa, nhất là việc này có hiệu năng mang lại hạnh phúc thiên đàng mai sau?
Suy niệm 2: Chôn cất
Là một người phi thường, Vicô được chôn cất trong nhà nguyện của Đại Học Thánh Tâm ở Milan, với hy vọng một ngày nào đó ông sẽ được tôn kính trên bàn thờ.
Các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp lần lượt qua đời và đều được chôn cất trong các ngôi mộ trong cái hang ở cánh đồng của ông Éprôn, con ông Xôkha, người Khết (St 25,9;35,29;49,29). Ngay cả thi thể Đức Giêsu cũng được chôn cất trong một ngôi mộ đã được đục sẵn trong núi đá (Mt 27,60).
Truyền thống chôn cất thi hài trong thánh đường chỉ có sau khi đã xây dựng được những nơi thờ phượng, và vinh dự này chỉ dành cho những vị đã được tuyển chọn đặc biệt, chứ không phải ai ai cũng được.
* Lạy Chúa Giêsu, được chôn cất ở đâu hoặc được hỏa táng theo hiện luật, điều đó không quan trọng. Cái khẩn thiết là sống thánh để được chết lành hầu bảo đảm được phần rỗi linh hồn.
Suy niệm 3: Thanh niên
Khi là thanh niên, Vicô rất yêu mến Đức Kitô, Thánh Phanxicô và Giáo Hội. Trong tinh thần Dòng Ba, ông sống với nhiệt huyết của Thánh Phaolô và sự nhân từ của Thánh Phanxicô.
Thanh niên Giuse đạo đức thánh thiện giữ sạch tấm thân không sa vào sự quyến rũ của vợ ông chủ (St 39,10), quảng đại bác ái với anh em dầu bị họ ganh ghét đối xử tàn tệ (St 45,14). Do đó Giuse được Thiên Chúa ở cùng, được ơn giải mộng cho quan và vua Pharaô, để rồi làm được tể tướng triều đình Aicập.
Ngược lại hai thanh niên Khópni và Pinkhát, con của tư tế Êli, lại theo đuổi lối sống xấu xa tội lỗi, vừa bất nhân với người, vừa xúc phạm đến Thiên Chúa, nên đã bị phạt chết trong cùng một ngày, và vô tình lôi kéo theo cả cái chết của phụ thân (1Sm 4,17-18).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp cho giới trẻ hết mình sống tốt, đúng theo kỳ vọng của mọi người đặt để là rường cột của xã hội và Giáo Hội.
Suy niệm 4: Hoán cải
Với cương vị của một giáo sư, Vicô chống đối các thói đời trái ngược với Kitô Giáo và đưa người ta về với Đức Kitô. Một trong những người nổi tiếng mà ông đã hoán cải là Augúttinô Gemenli, là người đồng sáng lập Đại Học Thánh Tâm với ông.
"Giáo dục để dẫn đưa người khác về với đức tin là nhiệm vụ của mọi người rao giảng và của mỗi tín hữu. Tuy nhiên, người tông đồ không chỉ làm nhân chứng trong cuộc sống; một người tông đồ đích thực luôn tìm cơ hội để loan báo Đức Kitô cho thế giới, cho người chưa có đức tin... hoặc cho tín hữu" (Giáo Lý Công Giáo).
Đức Giêsu quả là nhà giáo dục đại tài và là một tông đồ đích thực, khi Ngài luôn nắm bắt mọi cơ hội chợt đến. Tại bờ giếng Giacóp, nhân dịp phụ nữ Samari đến lấy nước, Ngài đã giới thiệu nước hằng sống và giúp chị ta hoán cải, cũng như giúp dân làng có được niềm tin vào Ngài là Đấng cứu độ trần gian (Ga 4).
* Lạy Chúa Giêsu, đã gọi là cơ hội thì không phải là thường xuyên xảy ra, và hẳn là không phải lâu dài, xin giúp chúng con luôn nhanh chóng và triệt để tận dụng, để không phải hối tiếc là chúng đã vụt qua như bóng câu qua cửa sổ.
Suy niệm 5: Tươi cười
Ông Vicô là người siêng năng cầu nguyện, khiêm tốn, duyên dáng và luôn tươi cười, người đứng ở tuyến đầu trong phong trào Tông Đồ Giáo Dân ở Ý.
Cổ nhân có lời khuyên dạy: "Giàu hay nghèo, lòng vẫn cứ an vui, lúc nào nét mặt cũng tươi cười" (Hc 26,4). Thật vậy, giàu tiền và giàu của cải, nhưng lòng bất an và luôn bị con sâu sầu muộn đục khoét, thì tinh thần sẽ suy sụp và sớm muộn cũng bị ngã bệnh mà chết, để rồi xuôi tay nhắm mắt chẳng mang theo được gì. Ngược lại nghèo đói mà lạc quan vui vẻ thì đời vẫn thật là đáng sống.
Nhất là trong phạm vi bố thí và dâng cúng, cần phải giữ nét mặt tươi cười với lòng hân hoan vui vẻ (Hc 35,8), vì của cho vốn quý nhưng không thể nào sánh được với cách cho. Người đàn bà góa đã từng được Đức Giêsu khen ngợi hơn bao người giàu có bỏ tiền vào hòm cúng đền thờ (Lc 21,1-4).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống tươi cười vui vẻ với mọi người, vì một vị thánh buồn là một thánh nhân đáng buồn.
Suy niệm 6: Trẻ em
Bất kể những chống đối và thử thách, ông dùng nghề giáo của ông như một khí cụ tông đồ để hoán cải các bệnh nhân, và đặc biệt ông bác ái một cách rộng rãi với các trẻ em bị bệnh chậm phát triển.
Trẻ em thường bị coi thường và hay bị đánh giá là quấy rầy cũng như gây phiền nhiễu cho người lớn. Không lạ gì các tông đồ đã ngăn cản không cho chúng đến gần Đức Giêsu. Ngược lại chính Ngài lại quan tâm và tỏ dấu thân thiện. Ngài bồng bế và cầu nguyện cùng đặt tay chúc lành cho chúng (Mc 10,13-16).
Hơn thế Ngài nâng chúng lên hàng mẫu gương, khi nói: "Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào" (Lc 18,17), "vì Nước Trời là của những ai giống như chúng" (Mt 19,14). Đàng khác Ngài cũng cảnh báo đừng làm gương xấu cho trẻ em phải sa ngã (Mt 18,6).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp giới thiếu nhi đừng bao giờ tự ti mặc cảm đưới góc nhìn chung của xã hội loài người, nhưng luôn vững tin tiến bước theo mẫu gương Trẻ Giêsu: càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và nhân đức trước mặt Thiên Chúa và người đời (Lc 2,40).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Hai thánh Julian và Basilissa
(1248-1309)
Hai vợ chồng nhìn thấy Chúa Giêsu trong những người họ phục vụ. Và họ thi hành công việc này không vì tiền bạc hay bất cứ phần thưởng nào khác.
Hai vợ chồng nhìn thấy Chúa Giêsu trong những người họ phục vụ. Và họ thi hành công việc này không vì tiền bạc hay bất cứ phần thưởng nào khác.
Thánh Julian và Basilissa là hai vợ chồng. Họ sống trong đầu thế kỷ thứ tư. Vì lòng yêu mến Thiên Chúa, họ trở thành các anh hùng khi biến nhà của mình trở thành bệnh viện để chăm sóc người nghèo, người đau yếu cô đơn.
Thánh Julian chăm sóc các ông còn Thánh Basilissa chăm sóc các bà. Hai vợ chồng nhìn thấy Chúa Giêsu trong những người họ phục vụ. Và họ thi hành công việc này không vì tiền bạc hay bất cứ phần thưởng nào khác.
Chúng ta không biết nhiều về cuộc sống hàng ngày của hai vợ chồng này. Tuy nhiên, chúng ta biết Thánh Basilissa từ trần sau khi bị tra tấn vì sự bách hại đức tin. Thánh Julian sống lâu hơn. Ngài tiếp tục công việc phục vụ tha nhân. Sau này, Thánh Julian cũng chết tử vì đạo.
Thánh Basilissa và Julian đã dành trọn cuộc đời để giúp đỡ người khác và phục vụ Thiên Chúa. Họ đã vun trồng hạt giống đức tin bằng một đời sống thánh thiện. Họ đã tưới bón hạt giống đức tin ấy để nó lớn lên bằng chính máu đào của mình đã đổ ra vì Ðức Giêsu Kitô.
Noi gương hai thánh, chúng ta cũng tử đạo hàng ngày khi cố gắng hy sinh các tiện ích của đời sống vật chất mà giúp đỡ người kém may mắn hơn chúng ta.
Suy niệm hạnh Hai thánh Julian và Basilissa
(Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)
Servant of God Vico Necchi
(1876-1930)
Despite opposition and trials, he used his medical profession as a holy apostolate for the conversion of his patients while his charity was being lavished on retarded children.
On January 9, 1930, Ludovico (Vico) Necchi, professor of biology at the University of Milan, died. According to his will, his headstone was to be inscribed with the simple words: Vico Necchi, Franciscan Tertiary. An extraordinary man, he is buried in the chapel of the University of the Sacred Heart in Milan in the expectation that one day he will be raised to the altars.
As a young man Vico was deeply in love with Christ, St. Francis and the Church. Invested in the habit of the Third Order, he displayed the enthusiasm of Paul and the gentleness of Francis. He used his position as a physician to counter the secular, anti-Christian attitudes of his age and to bring others to Christ. One of his converts was the radical, Augustine Gemelli, who with Vico was the cofounder of the University of the Sacred Heart.
Vico himself was a prayerful, humble, charming and cheerful man who stood at the forefront of the new Italian Catholic Action. Despite opposition and trials, he used his medical profession as a holy apostolate for the conversion of his patients while his charity was being lavished on retarded children.
Comment:
One of the documents produced by the Second Vatican Council explored the apostolate of the laity. Vico was born long before that council sat, but he took seriously his role as apostle. We too are called by Christ to be his apostles: to spread his reign of forgiveness and peace, to bring his healing touch wherever we go—at home, at work, to the marketplace or wherever else our daily journey takes us.
Quote:
"To teach in order to lead others to faith is the task of every preacher and of each believer. This witness of life, however, is not the sole element in the apostolate; the true apostle is on the lookout for occasions of announcing Christ by word, either to unbelievers...or to the faithful" (Catechism of the Catholic Church, p. 239).
Suy niệm hạnh tôi tớ TC Vico Necchi
(Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)
Ngày 08/1 Chân Phước Angela ở Foligno (1248-1309)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Angela ở Foligno (1248-1309)
Sau khi nhận ra sự trống rỗng của cuộc đời, Angela Foligno đã tìm đến sự trợ giúp của Thiên Chúa qua Bí Tích Hòa Giải. Những gì trước đây ngài cho là điên khùng thì bây giờ đã trở nên thật quan trọng.
Lược sử
Một số vị thánh ngay từ nhỏ đã có dấu hiệu thánh thiện. Điều này không đúng với Chân Phước Angêla. Được sinh trưởng trong một gia đình quyền thế ở Pholinho, ngài chìm đắm trong việc kiếm tiền và tìm danh vọng xã hội. Ngay khi làm vợ và làm mẹ, ngài vẫn tiếp tục con đường sai lạc này.
Khoảng 40 tuổi, ngài được một thị kiến và sau đó ngài nhận ra sự trống rỗng của cuộc đời nên đã tìm đến sự trợ giúp của Thiên Chúa qua Bí Tích Hòa Giải. Cha giải tội của ngài đã giúp ngài thay đổi đời sống, tận hiến cho sự cầu nguyện và thi hành đức bác ái.
Sau khi bà Angêla hoán cải được ít lâu thì chồng và con đều từ trần. Bà bán hết của cải và gia nhập dòng Ba Phanxicô. Bà miệt mài chiêm niệm trước tượng Đức Kitô trên thập giá và phục vụ người nghèo ở Pholinho như một y tá và sẵn sàng đi xin xỏ khi họ có nhu cầu. Các phụ nữ khác theo gương bà đã đến tiếp tay với công việc của bà trong hội dòng ba này.
Theo lời khuyên của cha giải tội, bà Angela đã viết lại cuốn Sách Thị Kiến và Huấn Thị. Trong sách ấy, bà viết lại những lần bị cám dỗ sau khi hoán cải; cũng như những lần được kết hợp cách bí nhiệm với Đức Kitô và ơn mặc khải. Cuốn sách này và đời sống của bà đã giúp bà được gọi là "Thầy Các Thần Học Gia."
Bà từ trần năm 1309 và được chôn cất trong nhà thờ Thánh Phanxicô ở Pholinho. Nhiều phép lạ được ghi nhận ở đây. Bà được tôn vinh chân phước năm 1693.
Suy niệm 1: Cám dỗ
Một số vị thánh ngay từ nhỏ đã có dấu hiệu thánh thiện. Điều này không đúng với Chân Phước Angêla. Được sinh trưởng trong một gia đình quyền thế ở Pholinho, ngài chìm đắm trong việc kiếm tiền và tìm danh vọng xã hội.
Những ai sống ở Hoa Kỳ ngày nay có thể hiểu được sự cám dỗ của Chân Phước Angela khi cố gia tăng giá trị của mình bằng cách tích lũy tiền của, danh vọng và quyền lực. Càng kiếm thêm cho mình bao nhiêu, ngài càng trở nên ích kỷ bấy nhiêu. Khi nhận ra sự vô giá của chính con người mình, vì được Thiên Chúa tạo dựng và yêu thương, ngài thực sự ăn năn sám hối và sống rất bác ái với người nghèo.
Ở bước đầu sứ vụ, chính Đức Giêsu với thân phận làm người cũng đã bị ma quỷ dẫn vào chước cám dỗ chung của toàn thể nhân loại: tiền của, danh vọng và quyền lực (Mt 4,1-11). Nhưng Ngài đã không sa ngã mà thắng vượt cách anh hùng, trở thành mẫu gương sáng lạng cho mọi người mọi thời.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống niềm xác tín: "Được cả thế giới mà phải thiệt mất linh hồn, thì nào có lợi gì?" (Mt 16,26), để không bao giờ phải sa chước cám dỗ.
Suy niệm 2: Quá khứ
Ngay khi làm vợ và làm mẹ, Angela vẫn tiếp tục con đường sai lạc này, là luôn chạy theo của cải vật chất đời này bất chấp thủ đoạn. Những gì là công chính thánh thiện đều bị ngài cho là điên khùng. Quả thật ngài đã gặt hái được thành công trên đường đời, nhưng đã thất bại trên đường phần rỗi. Quá khứ tội lỗi ấy đã kịp thời kết thúc, để nhường đường cho một hiện tại sám hối và một tương lai cải tà quy chánh, để trở thành thánh nhân.
Đời người ai cũng có một quá khứ. Dầu xấu dầu tốt, đã là quá khứ thì tất cả đều là đã qua. Do đó nếu tốt thì đừng tự hào nhẩm đi nhắc lại để rồi coi khinh người khác, nhưng hãy khiêm tốn và tiếp tục sống tốt. Sống tốt vốn khó nhưng sống tốt mãi đến cuối đời lại càng khó hơn, vì một hảo nhân cũng có thể trở thành một tội nhân trong tương lai, như một vua Salômôn (1V 11,4) hoặc một Giuđa Ítcariốt (Lc 6,16).
Ngược lại nếu đã lỡ trải qua một quá khứ xấu, thì hãy biết rằng tất cả cũng đã qua. Vì thế đừng ngồi trong bóng tối mà nguyền rủa bóng đêm, nhưng hãy sám hối và vội vã chỗi dậy, vì một tội nhân vẫn có thể trở thành thánh nhân, như một vua thánh Đavít (1V 11,6), một thánh Augúttinô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống tốt trong giây phút hiện tại, để nếu đã là tội nhân trong quá khứ thì trở nên thánh nhân trong tương lai, và nếu đã là thánh nhân trong dĩ vãng thì không trở thành tội nhân trong tương lai.
Suy niệm 3: Thị kiến
Khoảng 40 tuổi, Angela được một thị kiến và sau đó ngài nhận ra sự trống rỗng của cuộc đời nên đã tìm đến sự trợ giúp của Thiên Chúa qua Bí Tích Hòa Giải. Theo lời khuyên của cha giải tội, bà Angela đã viết lại cuốn Sách Thị Kiến và Huấn Thị.
Thị kiến là một đặc ân mà chỉ có một số vị được thụ hưởng. Trong nhóm Mười Hai, chỉ có Phêrô, Giacôbê và Gioan được Đức Giêsu cho thấy thị kiến ở núi Tabo (Mt 17,9). Tiếp đó có một môn đệ tên là Khanania ở Đamát (Cv 9,10). Đại đội trưởng Conêliô cũng được diễm phúc này (Cv 10,3). Cả Phêrô và Gioan sau đó cũng được thêm một lần nữa (Cv 11,5;Kh 4,1). Phaolô cũng không ngoại lệ và lại được rất nhiều lần (Cv 16,9;18,9;2Cr 12,1).
Đã là một đặc ân, thị kiến đòi hỏi phải đáp trả cân xứng. Chân Phước Angêla cải tà quy chánh. Conêliô trở lại đạo và giúp cho cả nhà đồng tình theo Chúa. Phaolô chuyển hệ từ bắt đạo sang truyền đạo. Khanania thoạt đầu sợ hãi Saolô nhưng sau đó đã tiếp nhận và rửa tội cho Saolô. Phêrô phá vỡ ốc đảo và thay đổi lập trường đón nhận cả dân ngoại.
* Lạy Chúa Giêsu, mặc dầu không nhận được đặc ân thị kiến, nhưng không thiếu những hồng ân Chúa dành cho chúng con. Chúng con xin hết lòng tri ân và quyết tâm đền đáp ân tình Chúa.
Suy niệm 4: Giải tội
Cha giải tội của Angela đã giúp ngài thay đổi đời sống, tận hiến cho sự cầu nguyện và thi hành đức bác ái. Con đường từ bỏ chính mình mà ngài đã theo là con đường của mọi người thánh thiện.
Ngoài việc ban ơn tha tội, bí tích Giải Tội còn ban thêm những ơn cần thiết khác, chẳng hạn ơn chống lại các chước cám dỗ để giúp chừa bỏ tội lỗi, ơn gia tăng làm việc phúc đức để bù đắp những lỗi lầm đã qua, ơn biết từ bỏ chính mình mà thực thi Thiên Ý để mỗi ngày càng trở nên thánh thiện hơn.
Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII vốn được ca ngợi là đạo đức thánh thiện, thế mà mỗi tối trước khi đi ngủ, ngài luôn lãnh nhận bí tích Giải Tội. Chắc chắn vì càng đến gần Mặt Trời Công Chính, ngài càng muốn hoàn toàn trong sạch để xứng đáng với Chúa hơn, và nhất là để được các ơn khác nữa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con siêng năng xưng tội hơn, vì các ơn ích mà bí tích Giải Tội mang lại cho hối nhân.
Suy niệm 5: Y tá
Sau khi bà Angêla hoán cải được ít lâu thì chồng và con đều từ trần. Bà bán hết của cải và gia nhập dòng Ba Phanxicô. Bà miệt mài chiêm niệm trước tượng Đức Kitô trên thập giá và phục vụ người nghèo ở Pholinho như một y tá và sẵn sàng đi xin xỏ khi họ có nhu cầu. Các phụ nữ khác theo gương bà đã đến tiếp tay với công việc của bà trong hội dòng ba này.
Bằng cách chữa bệnh phần xác, Đức Giêsu chẳng những dễ dàng tiếp cận mà còn lôi cuốn nhiều người thuộc nhiều tầng lấp và tôn giáo khác nhau trong xã hội. Nhưng Ngài không dừng lại đó mà còn hướng đến việc chữa bệnh tâm hồn. Truyền thuyết cho hay: mắt người lính Longinô được chữa lành nhờ một giọt máu của Chúa bắn vào mắt, khi anh dùng ngọn giáo đâm vào trái tim Chúa, và anh đã đáp trả bằng việc trở thành một kitô hữu.
Với y đức và tâm hồn của một từ mẫu, thầy thuốc Luca (Cl 4,14) đã hội đủ điều kiện để giới thiệu Tin Mừng Đức Giêsu cho dân ngoại, bằng một lối văn chương tình thương rất gần gủi và thích hợp cho họ. Cụ thể chỉ có Tin Mừng thứ ba mới có các dụ ngôn con chiên lạc, đồng bạc bị đánh mất và người cha nhân hậu, để diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa (Lc 15).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con trở thành những y tá tinh thần nhằm chữa những căn bệnh thiêng liêng, nối tiếp sứ mạng của Chúa, là Đấng đến không phải để cứu những người công chính mà là những người tội lỗi (Lc 5,32;19,10).
Suy niệm 6: Thầy
Trong sách Thị Kiến và Huấn Thị , bà Angêla viết lại những lần bị cám dỗ sau khi hoán cải, cũng như những lần được kết hợp cách bí nhiệm với Đức Kitô và ơn mặc khải. Cuốn sách này và đời sống của bà đã giúp bà được gọi là "Thầy Các Thần Học Gia."
Thần học gia đã là bậc thầy. Bà Angêla là gì mà lại được tôn lên Thầy Các Thần Học Gia? Điều này cho thấy một tôn sư chân chính luôn có đức hiếu tri. Càng biết nhiều càng nhận thấy sự hiểu biết của mình chưa tới đâu, vì thế cần phải tiếp tục học hỏi hơn nữa, và nhất là bất cứ ai cũng có điều hay để mình tiếp thu, ngay cả một trẻ nhỏ.
Phải chăng đó là một trong các lý do khiến Đức Giêsu quý trọng trẻ nhỏ, và mời gọi những người lớn hãy trở nên như chúng (Mt 18,3). Nhất là với phép lạ hóa bánh và cá, Ngài coi trọng sự cọng tác của một cậu bé (Ga 6,9) về tinh thần vị tha hơn hẳn các người lớn đang hiện diện.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khiêm tốn học lấy các ưu điểm của trẻ thơ, mà chúng con đã đánh mất do tuổi tác chồng chất, và do ảnh hưởng bon chen của xã hội người lớn.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 07/1 Thánh Raymond ở Penafort (1175 - 1275)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Raymond ở Penafort (1175 - 1275)
Qua Thánh Raymond, chúng ta học được sự tôn trọng luật lệ như một phương tiện phục vụ công ích.
Lược sử
Được Thiên Chúa cho hưởng thọ đến 100 tuổi, Thánh Rêmôn có cơ hội để thực hiện được nhiều điều trong đời.
Là một phần tử của dòng dõi quý tộc Tây Ban Nha, ngài có đầy đủ tài nguyên và nền tảng giáo dục vững chắc để bước vào đời. Ngay từ khi còn nhỏ, ngài đã yêu quý và sùng kính Đức Mẹ. Vào lúc 20 tuổi, ngài dạy triết. Trong khoảng 30, ngài đậu bằng tiến sĩ về giáo luật và dân luật. Tuy nhiên, ngài đã từ bỏ tất cả để gia nhập Dòng Thuyết Giáo (Đa Minh) và là một linh mục năm 47 tuổi. Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX gọi ngài về Rôma làm việc cho đức giáo hoàng và cũng là cha giải tội cho người. Môt trong những điều đức giáo hoàng yêu cầu ngài thi hành là thu thập các sắc lệnh của các giáo hoàng và công đồng trong 80 năm, kể từ lần sưu tập sau cùng của Gratianô. Cha Rêmôn biên soạn thành năm cuốn sách được gọi là "Bộ Giáo Lệnh" (Decretals). Những cuốn này được coi là bộ sưu tập giáo luật có giá trị nhất của Giáo Hội mãi cho đến năm 1917 khi giáo luật được hệ thống hóa.
Trước đó, Cha Rêmôn đã viết một cuốn sách dành cho các cha giải tội, được gọi là "Summa de Poenitentia et Matrimonio". Cuốn sách này không chỉ kể ra các tội và việc đền tội, mà còn thảo luận các luật lệ và học thuyết chính đáng của Giáo Hội liên hệ đến vấn đề hay trường hợp mà cha giải tội phải giải quyết.
Khi Cha Rêmô được 60 tuổi, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục của Taragôna, thủ phủ của Aragon nằm về phía đông bắc Tây Ban Nha. Ngài không thích vinh dự này chút nào nên kết quả là ngài bị đau yếu và đã từ nhiệm sau đó hai năm.
Tuy nhiên, ngài không được hưởng sự an bình đó bao lâu, vì khi 63 tuổi ngài được anh em tu sĩ dòng chọn làm bề trên của toàn thể nhà dòng, chỉ sau Thánh Đa Minh. Cha Rêmôn phải vất vả trong các công việc như đi thăm các tu sĩ dòng, cải tổ lại hiến pháp dòng và cố đưa vào hiến pháp dòng điều khoản cho phép vị bề trên có thể từ chức. Khi bản hiến pháp mới được chấp nhận, Cha Rêmôn, lúc ấy 65 tuổi, đã xin từ nhiệm.
Nhưng ngài vẫn còn phải làm việc trong 35 năm nữa để chống với bè rối và hoán cải người Moor ở Tây Ban Nha. Và theo lời yêu cầu của ngài, Thánh Tôma Aquina đã viết cuốn "Summa Contra Gentes".
Mãi cho đến khi ngài được 100 tuổi thì Thiên Chúa mới cho ngài về hưu dưỡng. Năm 1601, Cha Rêmôn được Đức Giáo Hoàng Clêmentê VIII tuyên xưng là thánh.
Suy niệm 1: Tuổi thọ
Được Thiên Chúa cho hưởng thọ đến 100 tuổi, Thánh Rêmôn có cơ hội để thực hiện được nhiều điều trong đời. Năm 1601, ngài được Đức Giáo Hoàng Clêmentê VIII tuyên xưng là thánh.
Con người ngày nay sống được 100 tuổi quả là họa hiếm, nhưng Kinh Thánh cho hay "trăm tuổi mà chết là chết trẻ" (Is 65,20), vì các vị tiền bối còn sống lâu hơn thế: Ađam sống được 930 năm (St 5,5), Ápraham thì 175 (St 25,7), Aharon thọ được 123 tuổi (Ds 33,39), còn Môsê thọ 120 tuổi (Đnl 34,7), Giôsuê, con ông Nun, từ trần, thọ 110 tuổi (Gs 24,29). Giơhôgiađa sống đến già, tuổi thọ rất cao, rồi qua đời. Lúc chết, ông được 130 tuổi (2Sb 24,15).
Ông Tôbít chết bình an, thọ 112 tuổi, ông hay làm phước bố thí. Ông không ngừng chúc tụng Thiên Chúa và tuyên xưng Người là Đấng cao cả (Tb 14,2). Ông Tôbia chết vẻ vang, thọ 117 tuổi, ông đối xử với cha mẹ kể cả cha mẹ vợ rất có hiếu (Tb 14,13-14). Bà Giuđitha tuổi đời rất cao, thọ được 105 tuổi. Bà ăn chay suốt thời gian ở góa. Bà trả tự do cho người nữ tỳ. Không một ai chê trách bà được điều gì (Gđt 8,6-8;16,23).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấu hiểu được rằng: tuổi thọ đáng kính không phải bởi sống lâu, cũng không do số tuổi (Kn 4,8), mà do sống đạo đức lành thánh. Còn sống gian ác thì thà đừng được sinh ra còn hơn (Mt 26,24).
Suy niệm 2: Đức Maria
Là một phần tử của dòng dõi quý tộc Tây Ban Nha, Rêmôn có đầy đủ tài nguyên và nền tảng giáo dục vững chắc để bước vào đời. Ngay từ khi còn nhỏ, ngài đã yêu quý và sùng kính Đức Mẹ.
Ông Antonio Riccarđi người Ý ghi lại chứng từ về ơn lạ nhận được do thân mẫu có lòng sùng kính Đức Maria: Bệnh tình làm biến dạng thân hình tôi. Mọi người thất vọng, nhưng Mẹ tôi thì không, vì luôn tin tưởng nơi sự phù trợ của Đức Maria. Mẹ tôi bồng tôi đến khấn xin ở tận đền thánh Đức Mẹ ở Pompei. Lạ lùng thay, ngay tại đây, dưới chân bức ảnh Đức Mẹ, tôi được khỏi bệnh. Cả bác sĩ lẫn y tá đều kinh ngạc trước sự khỏi bệnh nhanh chóng và lạ lùng của tôi.
Mẹ hiền dạy con tỏ lòng yêu mến Đức Mẹ: Buổi sáng nọ, khi Vica tiến lại hôn chào bà như thường lệ để đi học, bà Sara từ chối với lời giải thích: Má không thích những chuyện không ăn khớp với nhau. Vậy thì hôm nay, má muốn con dứt khoát một lần cho xong, hoặc con phải lần hạt tỏ lòng kính Đức Maria, hoặc con phải chấm dứt việc hôn má để bày tỏ con thương má. Vica hiểu ý và từ đó chuyên chăm lần hạt mỗi ngày.
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin hạ quyết tâm từ nay lần hạt mỗi ngày, cũng như đi dâng lễ và dọn mình rước lễ mỗi thứ bảy, để tỏ lòng yêu mến và sùng kính Đức Maria.
Suy niệm 3: Luật lệ
Thánh Rêmôn là một luật gia và là nhà giáo luật. Trong khoảng 30 tuổi, ngài đậu bằng tiến sĩ về giáo luật và dân luật. Đức giáo hoàng yêu cầu ngài thu thập các sắc lệnh của các giáo hoàng và công đồng trong 80 năm. Ngài biên soạn thành năm cuốn sách được gọi là "Bộ Giáo Lệnh" (Decretals). Những cuốn này được coi là bộ sưu tập giáo luật có giá trị nhất của Giáo Hội mãi cho đến năm 1917 khi giáo luật được hệ thống hóa.
Vì luật gồm tóm toàn thể những ý muốn của Thiên Chúa được diễn tả cách rõ ràng (Đnl 30,10), vì "Ai ghét bỏ luật lệ thì không khôn ngoan, và sẽ bị nghiêng ngả như con tàu giữa cơn phong ba" (Hc 33,2), nên Đức Giêsu chẳng những nghiêm túc giữ luật mà còn truyền dạy phải tuân thủ cách chi tiết đến mức không được bỏ qua dù một chấm một phết (Mt 5,18). Tuy nhiên không được vụ luật, vì "Con Người làm chủ ngày sabát" (Mt 12,8).
Thói vụ luật là một trong những điều mà Giáo Hội cố tránh trong Công Đồng Vatican II. Có sự khác biệt lớn lao giữa các điều khoản với tinh thần và mục đích của luật lệ. Luật lệ tự nó có thể trở thành cùng đích, do đó giá trị mà luật lệ muốn nhắm đến đã bị quên lãng. Nhưng cũng phải thận trọng đừng ngả về thái cực bên kia, coi luật lệ như vô ích hoặc cho đó là một điều tầm thường. Một cách lý tưởng, luật lệ được đặt ra là vì lợi ích của mọi người và phải đảm bảo quyền lợi của mọi người được tôn trọng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con học được sự tôn trọng luật lệ như một phương tiện phục vụ công ích.
Suy niệm 4: Giải tội
Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX gọi Cha Rêmôn về Rôma làm việc cho ngài và cũng là cha giải tội cho ngài. Trước đó, Cha Rêmôn đã viết một cuốn sách dành cho các cha giải tội, được gọi là "Summa de Poenitentia et Matrimonio". Cuốn sách này không chỉ kể ra các tội và việc đền tội, mà còn thảo luận các luật lệ và học thuyết chính đáng của Giáo Hội liên hệ đến vấn đề hay trường hợp mà cha giải tội phải giải quyết.
Ý thức về tầm quan trọng của một lương tâm bình an, nhờ được giao hòa với Thiên Chúa và mọi người, Đức Giêsu đã từng tha tội cho nhiều người (Mt 9,2;Lc 7,48;Ga 8,11). Ngài hoàn tất việc thiết lập nên bí tích Giải Tội khi trao quyền cho Phêrô và các tông đồ (Mt 16,19;Ga 20,23). Đồng thời Ngài cũng mời gọi mọi hối nhân hãy làm một việc đền tội là hãy tha thứ cho nhau (Mc 11,25-26).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con siêng năng lãnh nhận bí tích Giải Tội, và cũng xin Chúa giúp các vị chủ chăn có được tâm tình của Chúa, để sẵn sàng dành thì giờ cũng như có thái độ hiền dịu đối với các hối nhân, vì một người tội lỗi hối cải thì đem lại niềm vui cho cả triều thần thánh trên trời (Lc 15,7.10).
Suy niệm 5: Vinh dự
Khi Cha Rêmôn được 60 tuổi, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục của Taragôna, thủ phủ của Aragon nằm về phía đông bắc Tây Ban Nha. Ngài không thích vinh dự này chút nào nên kết quả là ngài bị đau yếu và đã từ nhiệm sau đó hai năm. Tuy nhiên, ngài không được hưởng sự an bình đó bao lâu, vì khi 63 tuổi ngài được anh em tu sĩ dòng chọn làm bề trên của toàn thể nhà dòng, chỉ sau Thánh Đa Minh.
Càng cao danh vọng càng dày gian lao. Dĩ nhiên cuộc đời lành thánh của ngài không cho phép ngài sợ gian lao vất vả, vì quả thật sau khi từ nhiệm trọng trách của một vị tổng giám mục, thì lại đã phải gánh vác trách nhiệm của một bề trên nhà dòng. Nhưng tất cả chỉ vì lòng khiêm tốn chân thật và thẳm sâu, nhất là triệt để chấp hành Thiên Ý.
Vinh dự đi liền với chức vụ nhưng cũng tùy thuộc rất nhiều vào chính phẩm chất của đương sự. Áo dòng không làm nên thầy tu. Một hoàng đế Saun khiếp nhược trước tướng quân Gôliát, đâu xứng đáng tranh giành niềm vinh dự toàn dân dành cho cậu bé Đavít, với chiến công giải cứu dân thành (1Sm 18,7). Đức Giêsu đã từng dạy: Người làm lớn không để cai trị mà là phục vụ (Mt 20,26).
* Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết sống theo gương Chúa, là không tìm vinh quang cho mình mà là cho Đấng đã sai mình (Ga 7,18;8,50).
Suy niệm 6: Thăm viếng
Cha Rêmôn phải vất vả trong các công việc như đi thăm các tu sĩ dòng, cải tổ lại hiến pháp dòng và cố đưa vào hiến pháp dòng điều khoản cho phép vị bề trên có thể từ chức. Khi bản hiến pháp mới được chấp nhận, Cha Rêmôn, lúc ấy 65 tuổi, đã xin từ nhiệm.
Với sứ mạng loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu cũng rất xem trọng việc thăm viếng mục vụ, vì chính Thiên Chúa cũng từng viếng thăm dân Người (Lc 1,68;7,16). Chẳng lạ gì, Đức Giêsu dành giờ về thăm viếng quê làng (Lc 4,16), thăm bà mẹ vợ của Phêrô (Lc 4,38), thăm gia đình ba chị em Mácta, Maria và Ladarô (Lc 10,38). Nhất là Ngài dùng việc thăm viếng người đau yếu như một tiêu chuẩn để xét xử (Mt 25,36.43).
Theo gương Thầy chí thánh, tông đồ trưởng Phêrô cũng rảo khắp nơi thăm viếng dân thánh (Cv 9,32). Phaolô cũng nhiều lần đến thăm các giáo đoàn (2Cr 13,1) và luôn ước ao cũng như có dự kiến ấy (Rm 15,23;Pl 2,24), cho dầu không thiếu những cản trở (1Tx 2,18). Timôtê cũng thực hiện sứ vụ này (1Tx 3,6).
* Lạy Chúa Giêsu, vì lý do bận rộn, nhiều mục tử ngày nay thường cắm trại trong nhà. Xin giúp các ngài hiểu rằng việc thăm viếng các gia đình cũng là một công việc đáng phải mất thì giờ, để hữu hiệu hóa sứ vụ mục tử, vì có tiếp cận mới thấu hiểu tình cảnh.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 06/1 Chân Phước Andre Bessette (1845 - 1937)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Andre Bessette (1845 - 1937)
Bệnh đau bao tử kinh niên đã khiến Alfred không thể đảm nhận được công việc nào lâu dài. Alfred thật tuyệt vọng, nhưng anh cũng là người siêng năng cầu nguyện và rất thành tâm với Thiên Chúa cũng như sùng kính Thánh Giuse.
Lược sử
Khi Anrê Bêsét đến tu hội Các Thầy Thánh Giá vào năm 1870, anh mang theo tờ giấy giới thiệu của cha xứ viết rằng: "Tôi gửi đến các thầy một vị thánh." Thật khó để các thầy dòng ở đây tin nổi. Bệnh đau bao tử kinh niên đã khiến Anrê không thể đảm nhận được công việc nào lâu dài, ngay từ khi còn nhỏ Anrê đã lang thang từ nông trại này sang nông trại khác, tiệm này sang tiệm khác, ở ngay trên quê hương Gia Nã Đại hoặc ở đất Hoa Kỳ, mà chỉ được có vài hôm là chủ nhân đã phải sa thải vì anh không thể làm được việc nặng nhọc. Công việc của các thầy dòng Thánh Giá là dạy học và dù đã 25 tuổi, Anrê vẫn chưa biết đọc biết viết. Dường như anh đến nhà dòng vì sự tuyệt vọng hơn là vì ơn gọi tu trì.
Anrê thật tuyệt vọng, nhưng anh cũng là người siêng năng cầu nguyện và rất thành tâm với Thiên Chúa cũng như sùng kính Thánh Giuse. Có lẽ anh chẳng còn nơi nào để nương tựa, nhưng anh tin rằng đây là nơi anh phải sống trong suốt cuộc đời.
Nhà dòng nhận anh vào đệ tử nhưng sau đó không lâu họ thấy đúng như những gì trong quá khứ -- dù Anrê, bây giờ là Thầy Anrê, rất muốn làm việc, nhưng sức khoẻ không cho phép. Họ yêu cầu thầy rời nhà dòng, nhưng trong sự tuyệt vọng, thầy đã xin đức giám mục sở tại can thiệp để được ở lại và được giao cho công việc khiêm tốn là gác cổng trường học Đức Bà ở Mônrêan, cùng với các nhiệm vụ phụ là dọn lễ, giặt giũ và đảm trách việc thư từ. Thầy Anrê khôi hài rằng: "Khi tôi gia nhập cộng đoàn này, cha bề trên chỉ cho tôi cánh cửa ấy, và tôi ở đó suốt 40 năm."
Trong căn phòng nhỏ bé của ngài ở gần cổng trường, hầu như suốt đêm ngài quỳ gối cầu nguyện. Trên thành cửa sổ, trông ra đồi Rôgian, là bức tượng Thánh Giuse nhỏ, là người mà thầy hằng sùng kính ngay từ khi còn nhỏ. Khi được hỏi về điều ấy thầy trả lời: "Một ngày nào đó, Thánh Giuse sẽ được tôn kính một cách đặc biệt trên đồi Rôgian!"
Khi biết có ai bị đau yếu, ngài đến thăm để cổ võ tinh thần cũng như để cầu nguyện với họ. Ngài cũng thường thoa lên bệnh nhân chút dầu lấy từ chiếc đèn luôn cháy sáng trước tượng Thánh Giuse trong nguyện đường của trường học. Từ đó tiếng đồn về sức mạnh chữa lành bắt đầu lan tràn.
Khi bệnh dịch bùng nổ từ một trường kế cận, Thầy Anrê đã xung phong đến đó chăm sóc bệnh nhân. Không một ai bị thiệt mạng. Số người bệnh đến với thầy ngày càng gia tăng. Cha bề trên cảm thấy bối rối; giới thẩm quyền địa phận nghi ngờ; các bác sĩ gọi ngài là lang băm. Thầy thường lập đi lập lại rằng "Đâu có phải tôi chữa mà là Thánh Giuse đó." Sau cùng thầy phải cần đến bốn người thư ký để trả lời 80.000 lá thư ngài nhận được hàng năm.
Đã nhiều năm Tu Hội Thánh Giá cố nài nỉ để mua lấy miếng đất trên ngọn đồi Rôgian nhưng không thành công. Thầy Anrê và một vài người khác đã leo lên đó để đặt một tượng Thánh Giuse. Bỗng dưng, chủ đất đồng ý. Thầy Anrê quyên góp được 200$ để xây một nhà nguyện nhỏ và dùng làm nơi tiếp khách thập phương mà ở đó lúc nào thầy cũng tươi cười để thoa dầu Thánh Giuse trên bệnh nhân. Có người được khỏi bệnh, có người không. Số nạng, gậy chống cũng như xe lăn người ta bỏ lại để minh chứng cho sức mạnh chữa lành của Thánh Giuse ngày càng gia tăng.
Nguyện đường cũng cần được nới rộng thêm. Vào năm 1931, một thánh đường to lớn được khởi công xây cất, nhưng tài chánh bị thiếu hụt vì đó là thời kỳ kinh tế đại suy thoái. "Hãy đặt tượng Thánh Giuse vào trong ấy. Nếu ngài muốn có mái che trên đầu thì ngài sẽ giúp cho." Sau cùng, Vương Cung Thánh Đường Thánh Giuse nguy nga trên đồi Rôgian đã hoàn thành sau 50 năm xây cất. Nhưng Thầy Anrê đã không được chứng kiến ngày huy hoàng đó, và đã từ trần năm 1937 khi thầy 92 tuổi.
Suy niệm 1: Chứng thư
Khi Anrê Bêsét đến tu hội Các Thầy Thánh Giá vào năm 1870, anh mang theo tờ giấy giới thiệu của cha xứ viết: "Tôi gửi đến các thầy một vị thánh." Thật khó để các thầy dòng ở đây tin, vì chứng thư thường có giá trị giúp tạo niềm tin chứ chưa hẳn là buộc phải tin, nếu chưa được kiểm chứng.
Giấy giới thiệu thật cần thiết cho một người đi vào một môi trường mới với một sứ mạng mới. Chính vì thế Saolô đã phải đích thân tới gặp thượng tế, để xin chứng thư giới thiệu đến các hội đường Dothái ở Đamát, hầu bắt trói những người theo Đạo và giải về Giêrusalem (Cv 9,1-2).
Đức Giêsu chữa lành người phong hủi, thì cũng truyền cho người thụ ân không cần nói với ai cả, nhưng phải đi trình diện tư tế và dâng của lễ theo Luật Môsê, để làm chứng cho mọi người biết (Mt 8,4), hầu được tự do trở lại nếp sinh hoạt bình thường trong xã hội, như bao người lành mạnh khác.
* Lạy Chúa Giêsu, chứng thư bằng văn tự chỉ có giá trị thật sự để tạo được niềm tin nơi tha nhân, khi được biện minh bằng chính cuộc sống. Xin giúp chúng con hiểu và sống mãi như thế.
Suy niệm 2: Thể trạng
Bệnh đau bao tử kinh niên đã khiến Anrê không thể đảm nhận được công việc nào lâu dài, ngay từ khi còn nhỏ Anrê đã lang thang từ nông trại này sang nông trại khác, tiệm này sang tiệm khác, ở ngay trên quê hương Gia Nã Đại hoặc ở đất Hoa Kỳ, mà chỉ được có vài hôm là chủ nhân đã phải sa thải vì anh không thể làm được việc nặng nhọc.
Thể trạng cũng có thể hiểu là nén bạc Thiên Chúa trao ban cho mỗi người theo sự quan phòng đầy yêu thương của Người. Người không đòi hỏi phải làm gì quá khả năng và quá sức (1Cr 10,13), mà chỉ mong muốn ai nấy phải làm, làm theo thể trạng của mình.
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã phải mang bệnh ngay từ thuở nhỏ đến suốt đời và đã chết vì bệnh lao. Dĩ nhiên vốn biết những việc nặng nhọc không thích hợp với ngài, nên ngài bằng lòng thực hiện những việc nhỏ nhặt và tầm thường: nhặt kim, chăm hoa, tỉa cành, giặt rửa, dọn bàn. Nhưng ngài làm với một tinh thần mến Chúa phi thường.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng ngồi chờ làm những việc vĩ đại để rồi không làm gì cả, nhưng hãy chọn làm những việc tầm thường theo thể trạng, nhưng với một tinh thần mến Chúa yêu người phi thường, để thành nhân và thành thánh nhân.
Suy niệm 3: Hy vọng
Công việc của các thầy dòng Thánh Giá là dạy học và dù đã 25 tuổi, Anrê vẫn chưa biết đọc biết viết. Dường như anh đến nhà dòng vì sự tuyệt vọng hơn là vì ơn gọi tu trì. Nhà dòng yêu cầu thầy rời nhà dòng, nhưng trong sự tuyệt vọng, thầy đã xin đức giám mục sở tại can thiệp để được ở lại.
Tuyệt vọng đến mức rời xa cả Chúa thì thật là đã lâm vào ngõ cụt, như một Giuđa Ítcariốt đã tuyệt vọng đến tuyệt mạng (Mt 27,5). Ngược lại tuyệt vọng nhưng vẫn còn bám víu vào Chúa thì chưa hẳn là tuyệt đường vì vẫn còn lối thoát hiểm: trên đường trốn chạy sự săn đuổi của hoàng hậu Ideven, ngôn sứ Êlia đi một ngày đường trong sa mạc, đến ngồi dưới gốc một cây kim tước và chỉ ước được chết. Thiên sứ đến trợ lực. Ngài được hồi sinh và tiếp tục lên đường để đến được núi Khôrép sau bốn mươi đêm ngày (1V 19,1-8).
Như vậy hy vọng là một ơn huệ lớn lao, như lời phát biểu của tổng thống Václô Haven: Hy vọng là cảm thức rằng cuộc sống và công việc luôn có ý nghĩa. Một cuộc sống không hy vọng là một cuộc sống vô ích, chán chường và trống rỗng. Tôi tạ ơn Chúa vì Người đã ban cho tôi ơn biết hy vọng. Ơn huệ này lớn lao ngang tầm với chính sự sống.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bao giờ thất vọng ngã lòng, nhưng luôn trông cậy vững vàng vào Chúa là chính nguồn hy vọng của chúng con.
Suy niệm 4: Cầu nguyện
Anrê thật tuyệt vọng, nhưng anh cũng là người siêng năng cầu nguyện và rất thành tâm với Thiên Chúa. Có lẽ anh chẳng còn nơi nào để nương tựa, nhưng anh tin rằng đây là nơi anh phải sống trong suốt cuộc đời. Trong căn phòng nhỏ bé của anh ở gần cổng trường, hầu như suốt đêm anh quỳ gối cầu nguyện. Khi biết có ai bị đau yếu, anh đến thăm để cổ võ tinh thần cũng như để cầu nguyện với họ.
Đức Giêsu rất bận rộn với công việc rao giảng, đến mức không có thì giờ ăn uống (Mc 3,20;6,31), thậm chí cả thì giờ nghỉ ngơi cũng không (Mc 10,13-15). Dầu vậy, Ngài vẫn chuyên tâm cầu nguyện, khi lên núi, khi vào nơi thanh vắng, lúc chiều hôm cũng như lúc sáng tinh sương, đặc biệt vào những thời điểm quan trọng, chẳng hạn việc chọn các tông đồ (Lc 6,13), lập bí tích Thánh Thể (Lc 22,19-20), đi vào cuộc Tử Nạn (Mt 26,39).
Cầu nguyện quả là một vũ khí sắc bén mang lại nhiều hiệu quả không tưởng. Sau ba ngày ăn chay cầu nguyện, hoàng hậu Étte đã thuyết phục được vua Asuêrô đổi lòng, mến chuộng dân Dothái, thâu hồi sắc chỉ tru diệt người Dothái (Et 8,12a...). Lời cầu nguyện của ngôn sứ Êlisa cũng làm cho cậu bé con của bà Sunêm bị chết được sống lại (2V 4,32-35).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấy được giá trị của việc cầu nguyện, và nhất là giúp biến đời sống chúng con thành lời cầu nguyện liên lĩ, theo như lời khuyên dạy của thánh Phaolô: "Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa" (1Cr 10,31).
Suy niệm 5: Thánh Giuse
Lòng sùng kính Thánh Giuse từ thuở Anrê còn nhỏ đã bộc lộ cách rõ ràng. Trên thành cửa sổ, trông ra đồi Rôgian, ngài đã đặt một bức tượng Thánh Giuse nhỏ. Khi được hỏi về điều ấy thầy trả lời: "Một ngày nào đó, Thánh Giuse sẽ được tôn kính một cách đặc biệt trên đồi Rôgian!" Vào năm 1931, một thánh đường to lớn được khởi công xây cất, và sau cùng, Vương Cung Thánh Đường Thánh Giuse nguy nga trên đồi Rôgian đã hoàn thành sau 50 năm xây cất.
Đã nhiều năm Tu Hội Thánh Giá cố nài nỉ để mua lấy miếng đất trên ngọn đồi Rôgian nhưng không thành công. Thầy Anrê và một vài người khác đã leo lên đó để đặt một tượng Thánh Giuse. Bỗng dưng, chủ đất đồng ý. Thầy Anrê quyên góp được 200$ để xây một nhà nguyện nhỏ và dùng làm nơi tiếp khách thập phương mà ở đó lúc nào thầy cũng tươi cười để thoa dầu Thánh Giuse trên bệnh nhân.
Chân phước Maria Rêpéttô cũng rất có lòng sùng kính Thánh Giuse. Có thể nói chính Thánh Giuse dẫn chị tới bậc thánh thiện, trao ban cho chị những đặc sủng kỳ diệu, và dùng tay chị mà phân phát ơn lành cho nhiều người. Có ai tìm đến chị xin một lời khuyên, chị thường bảo chờ một chút, rồi chị đi cầu nguyện Thánh Giuse trước tượng Đấng Thánh ở hành lang gần đó. Lát sau chị trở ra, là có câu trả lời mãn nguyện cho họ.
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin hạ quyết tâm đi dâng lễ và dọn mình rước lễ mỗi ngày thứ tư để tỏ lòng sùng kính Thánh Giuse, hầu được mọi ơn theo kinh nghiệm của Mẹ Têrêxa: Chưa bao giờ tôi cầu xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý.
Suy niệm 6: Linh dược đức tin
Anrê cũng thường thoa lên bệnh nhân chút dầu lấy từ chiếc đèn luôn cháy sáng trước tượng Thánh Giuse trong nguyện đường của trường học. Từ đó tiếng đồn về sức mạnh chữa lành bắt đầu lan tràn. Khi bệnh dịch bùng nổ từ một trường kế cận, Thầy Anrê đã xung phong đến đó chăm sóc bệnh nhân. Không một ai bị thiệt mạng. Số người bệnh đến với thầy ngày càng gia tăng. Thầy thường lập đi lập lại rằng "Đâu có phải tôi chữa mà là Thánh Giuse đó" và "Chính cây cọ nhỏ bé đã giúp nghệ nhân hoàn thành bức họa tuyệt mỹ."
Thoa lên vết thương với dầu và ảnh tượng? Đó có phải dị đoan không? Người dị đoan chỉ trông nhờ vào "yêu thuật" của lời nói hay hành động. Dầu và ảnh tượng của Thầy Anrê là những dấu tích đích thực của một đức tin đơn sơ, trọn vẹn nơi Thiên Chúa Cha là Đấng đã giúp vị thánh của thầy chữa lành cho các con cái của Thiên Chúa.
Với quyền năng của vị Thiên Chúa làm người, Đức Giêsu chỉ cần một lời phán là cải tử hoàn sinh được người nô lệ của một đại đội trưởng (Lc 7,7), chàng thanh niên của bà góa Naim (Lc 7,14), anh Ladarô chết chôn bốn ngày (Ga 11,43). Nhưng có lúc Ngài cũng đòi hỏi đức tin như một điều kiện (Mt 10,29), cho dầu đức tin chỉ nhỏ bé bằng hạt cải (Lc 17,6).
* Lạy Chúa Giêsu, đức tin chúng con vốn còn non kém, xin thương ban thêm đức tin cho chúng con, và nhất là giúp chúng con nuôi dưỡng và làm phát triển bằng việc sống đức tin, vì đức tin không hành động là một đức tin chết (Gc 2,17).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 05/1 Thánh Gioan Neumann (1811 - 1860)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gioan Neumann (1811 - 1860)
Thánh Neumann coi trọng lời Chúa là "Hãy đi rao giảng cho muôn dân."
Lược sử
Thánh Gioan Niuman sinh trưởng ở Bôhêmi. Vào năm 1835, ngài trông đợi để được thụ phong linh mục nhưng đức giám mục sở tại quyết định không phong chức thêm. Thật khó để ngày nay chúng ta tưởng tượng rằng Bôhêmi dư thừa linh mục, nhưng thực sự là như vậy. Gioan viết thư cho các giám mục khắp Âu Châu, nhưng câu trả lời ở đâu đâu cũng giống nhau. Tin rằng mình có ơn thiên triệu nhưng mọi cơ hội dẫn đến sứ vụ ấy dường như đều đóng kín.
Không nản chí, và nhờ biết tiếng Anh khi làm việc trong xưởng thợ của người Anh, ngài viết thư cho các giám mục ở Mỹ Châu. Sau cùng, vị giám mục ở Nữu Ước đồng ý truyền chức linh mục cho ngài. Để theo tiếng Chúa gọi, ngài phải từ giã quê nhà vĩnh viễn và vượt đại dương ngàn trùng để đến một vùng đất thật mới mẻ và xa lạ.
Ở Nữu Ước, Cha Gioan là một trong 36 linh mục trông coi 200.000 người Công Giáo. Giáo xứ của ngài ở phía tây Nữu Ước, kéo dài từ Hồ Ontari đến Pensynvani. Nhà thờ của ngài không có tháp chuông nhưng điều đó không quan trọng, vì hầu như lúc nào Cha Gioan cũng di chuyển, từ làng này sang làng khác, lúc thì lên núi để thăm bệnh nhân, lúc thì trong quán trọ hoặc gác xếp để giảng dạy, và cử hành Thánh Lễ ngay trên bàn ăn.
Vì sự nặng nhọc của công việc và vì sự đơn độc của giáo xứ, Cha Gioan khao khát có một cộng đoàn, và ngài đã gia nhập dòng Chúa Cứu Thế, là một tu hội chuyên giúp người nghèo và những người bị bỏ rơi.
Vào năm 1852, Cha Gioan được bổ nhiệm làm giám mục Philađenphia. Việc đầu tiên khi làm giám mục là ngài tổ chức trường Công Giáo trong giáo phận. Là một nhà tiên phong trong việc giáo dục, ngài nâng số trường Công Giáo từ con số đơn vị lên đến 100 trường.
Đức Giám Mục Gioan không bao giờ lãng quên dân chúng, đó là điều làm giới trưởng giả ở Philađenphia khó chịu. Trong một chuyến thăm viếng giáo xứ ở thôn quê, cha xứ thấy ngài ngồi trên chiếc xe bò chở phân hôi hám. Ngất ngưởng ngồi trên mảnh ván bắc ngang trên xe, Đức Gioan khôi hài: "Có bao giờ cha thấy đoàn tùy tùng của một giám mục như vậy chưa!"
Khả năng biết tiếng ngoại quốc đã đưa ngài đến Hoa Kỳ thì nay lại giúp Đức Gioan học tiếng Tây Ban Nha, Pháp, Ý, và Đức để nghe giải tội bằng sáu thứ tiếng. Khi phong trào di dân người Ái Nhĩ Lan bắt đầu, ngài lại học tiếng Galic và sành sõi đến nỗi một bà Ái Nhĩ Lan cũng phải lầm: "Thật tuyệt chừng nào khi chúng ta có được vị giám mục là người đồng hương!"
Trong chuyến công tác mục vụ sang nước Đức, đến nơi ngài ướt đẫm dưới cơn mưa tầm tã. Khi gia chủ đề nghị ngài thay đôi giầy sũng nước, ngài trả lời: "Tôi chỉ có cách đổi giầy từ chân trái sang chân phải thôi. Chứ có một đôi giầy thì làm gì được."
Đức Gioan từ trần ngày 5-1-1860 khi mới 48 tuổi. Ngài nổi tiếng về sự thánh thiện và sở học cũng như các trước tác tôn giáo và bài giảng, do đó ngài được phong chân phước ngày 13-10-1963, và ngày 19-6-1977 ngài được phong thánh.
Suy niệm 1: Trông đợi
Vào năm 1835, Gioan trông đợi để được thụ phong linh mục, nhưng đức giám mục sở tại quyết định không phong chức thêm. Ngài viết thư cho các giám mục khắp Âu Châu, nhưng câu trả lời ở đâu đâu cũng giống nhau. Tin rằng mình có ơn thiên triệu, nhưng mọi cơ hội dẫn đến sứ vụ ấy dường như đều đóng kín.
Thời gian tâm lý trong khi trông đợi thật khó đo lường được. Không lạ gì, người đầy tớ đã xin chủ ruộng cho phép đi nhổ ngay cỏ lùng vốn bị kẻ thù gieo lẫn với lúa, chứ không thể ngồi trông đợi thời điểm của vụ gặt được (Mt 13,24-30).
Thiên Chúa thì khác. Lời hứa ban ơn cứu độ đã có từ lúc hai ông bà nguyên tổ sa ngã phạm tội (St 3,15), nhưng Người vẫn trông đợi. Sau hằng bao thế kỷ mãi cho đến thời sau hết, Đức Giêsu vốn là Thánh Tử mới xuống thế làm người, để thực hiện công cuộc cứu nhân độ thế (Dt 1,1-2).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sống trông đợi cách tích cực, có nghĩa là không phải ngồi ù lì không làm gì cả, mà ngược lại đầu tư thời gian ấy cho việc chuẩn bị đón nhận mục đích đang dần đến.
Suy niệm 2: Kiên nhẫn
Không nản chí, và nhờ biết tiếng Anh khi làm việc trong xưởng thợ của người Anh, ngài viết thư cho các giám mục ở Mỹ Châu. Để theo tiếng Chúa gọi, ngài phải từ giã quê nhà vĩnh viễn và vượt đại dương ngàn trùng để đến một vùng đất thật mới mẻ và xa lạ.
Dân Ítraen bị quân Átsua vây hãm suốt ba mươi bốn ngày, đến mức các vò nước, các bể nước đều cạn sạch. Trẻ con hao mòn, đàn bà và thanh niên kiệt sức. Họ vẫn kiên nhẫn cầm cự chứ không nãn lòng (Gđt 7,20-22.30). Bà Giuđitha xuất hiện, giết tướng quân Hôlôphécnê và giải cứu dân thành (Gđt 13,8).
Trước sự chối bỏ của Phêrô và sự phản bội của Giuđa Ítcariốt, Đức Giêsu không ngã lòng mà kiên nhẫn mời gọi hoán cải bằng một ánh nhìn, bằng một lời tâm tình (Lc 22,48.61). Duy chỉ Giuđa dầu đã tỏ lòng thống hối bằng việc ném tiền trả lại, nhưng không kiên trì giữ vững niềm tin vào tình thương tha thứ của Chúa, nên đã ra đi thắt cổ tự tử (Mt 27,3-5).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết kiêm tâm bền chí để chuyển bại thành thắng, vì có công mài sắt ắt có ngày nên kim.
Suy niệm 3: Mầu nhiệm ơn gọi
Thánh Gioan Niuman sinh trưởng ở Bôhêmi, theo đuổi ơn gọi linh mục tại quê nhà, nhưng rồi lại được thụ phong tại Nữu Ước và trông coi 200.000 người Công Giáo, với một địa bàn kéo dài từ Hồ Ontari đến Pensynvani. Vào năm 1852, Cha Gioan được bổ nhiệm làm giám mục Philađenphia.
Vì là một ơn gọi nhưng không, nên dầu con người muốn mà Chúa không muốn thì cũng không được (Ga 15,16), như trường hợp một kinh sư ngỏ lời xin theo Đức Giêsu, nhưng Ngài đã từ chối cách khéo léo (Mt 8,19-20). Hoặc người bị quỷ ám ở Ghêrasa, sau khi được chữa khỏi đã xin Chúa cho ở lại với Ngài, nhưng Ngài không chấp nhận (Mc 5,19).
Và ngược lại, dầu là một ơn gọi nhưng không, nhưng nếu Chúa muốn mà con người không muốn thì cũng không được, như dụ ngôn tiệc cưới: Tiệc đã dọn sẵn, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, nhưng các quan khách từ chối không chịu đến vì nhiều lý do khác nhau (Mt 22,1-10;Lc 14,15-24).
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con xác tín: nếu có sự hòa điệu giữa việc Chúa chọn gọi và việc con người đáp trả hết mình, thì dù con người có hèn kém thế nào đi nữa, Chúa vẫn bù đắp thích đáng (2Cr 12,9) để hoàn thành chương trình của Người, như bao trường hợp điển hình: một Isaia với môi dơ bẩn (Is 6,4-6), một Môsê cứng miệng cứng lưỡi (Xh 4,10), một Gioan Maria Vianê luôn thi trượt.
Suy niệm 4: Lên đường
Nhà thờ của ngài không có tháp chuông nhưng điều đó không quan trọng, vì hầu như lúc nào Cha Gioan cũng di chuyển, từ làng này sang làng khác, lúc thì lên núi để thăm bệnh nhân, lúc thì trong quán trọ hoặc gác xếp để giảng dạy, và cử hành Thánh Lễ ngay trên bàn ăn.
Đức Giêsu vốn không có nơi gối đầu, không cần thiết đến nhà cư trú, vì Ngài phải luôn lên đường (Lc 13,33). Thật vậy làm sao Ngài có thể chôn chân ở một ngôi nhà cố định được, khi trước mắt Chúa còn biết bao người chưa nhận biết Tin Mừng Cứu Độ cần Chúa đến loan báo (Lc 9,6), bao người đang còn ở trong bóng tối tội lỗi cần Chúa đến chiếu sáng và giải thoát (Mt 4,16).
Các Tông Đồ theo lời mời gọi của Chúa cũng đã ra đi rao giảng khắp nơi (Mc 16,20). Thậm chí những ai không muốn rời bỏ nơi cư ngụ, thì Chúa cũng tạo điều kiện buộc họ phải ra đi, chẳng hạn vì cuộc bách hại xảy ra nhân vụ Têphanô, nhiều người đã phải đi đến tận miền Phênixi, đảo Sýp và thành Antiôkhia, nhờ đó Tin Mừng Chúa đến được với cả người Hylạp (Cv 11,19-21).
* Lạy Chúa Giêsu, người đời vẫn thường chú trọng đến việc an cư lạc nghiệp, nhưng xin Chúa giúp chúng con luôn sẵn sàng lên đường để đem Chúa đến cho mọi người mọi dân.
Suy niệm 5: Cộng đoàn
Vì sự nặng nhọc của công việc và vì sự đơn độc của giáo xứ, Cha Gioan khao khát có một cộng đoàn, và đã ngài gia nhập dòng Chúa Cứu Thế, là một tu hội chuyên giúp người nghèo và những người bị bỏ rơi.
Với chí hướng sống độc thân không vợ con, Đức Giêsu vẫn coi trọng nếp sống cộng đoàn. Ngài lập nhóm Mười Hai và sống tam cùng với họ: cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc với họ.
Ý thức tầm quan trọng của đời sống cộng đoàn, vì con người là một sinh vật mang tính xã hội, các tông đồ đã tổ chức Giáo Hội như một cộng đoàn: Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến (Cv 2,44-47)
* Lạy Chúa Giêsu, vì bá nhân bá tánh nên dầu đời sống cộng đoàn là quan trọng, nhưng không phải dễ sống. Xin giúp chúng con luôn mưu cầu lợi ích chung, mình vì mọi người chứ không ngược lại.
Suy niệm 6: Phương tiện
Trong một chuyến thăm viếng giáo xứ ở thôn quê, cha xứ thấy ngài ngồi trên chiếc xe bò chở phân hôi hám. Ngất ngưởng ngồi trên mảnh ván bắc ngang trên xe, Đức Gioan khôi hài: "Có bao giờ cha thấy đoàn tùy tùng của một giám mục như vậy chưa!"
Trong chuyến công tác mục vụ sang nước Đức, đến nơi ngài ướt đẫm dưới cơn mưa tầm tã. Khi gia chủ đề nghị ngài thay đôi giầy sũng nước, ngài trả lời: "Tôi chỉ có cách đổi giầy từ chân trái sang chân phải thôi. Chứ có một đôi giầy thì làm gì được."
Đức Giêsu đã từng vào thành Giêrusalem như lời ngôn sứ Isaia và Dacaria tiên báo: "Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ" (Mt 21,5;Is 62,11;Dcr 9,9).
* Lạy Chúa Giêsu, có người chủ trương: bất chấp phương tiện miễn đạt được mục đích. Chúng con không sống hoàn toàn như thế, nhưng vô tình cũng xem phương tiện là cứu cánh đến mức xa xỉ và lãng phí trong việc mua sắm. Xin tha thứ cho chúng con.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 04/1 Thánh Elizabeth Ann Seton (1774 - 1821)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Elizabeth Ann Seton (1774 - 1821)
Ba điểm căn bản sau đã đưa bà trở về đạo Công Giáo: tin tưởng sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, sùng kính Ðức Mẹ và tin rằng Giáo Hội Công Giáo là một giáo hội tông truyền do Ðức Kitô thành lập.
Lược sử
Mẹ Xêtông là một trong những rường cột của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ. Ngài sáng lập tu hội đầu tiên dành cho phụ nữ Hoa Kỳ, Dòng Nữ Tu Bác Ái, mở trường học đầu tiên trong giáo xứ Hoa Kỳ và thiết lập cô nhi viện đầu tiên ở Hoa Kỳ. Tất cả những điều trên ngài thực hiện trong vòng 46 năm đồng thời vừa nuôi dưỡng năm người con.
Êlidabét An Bêlê Xêtông quả thực là người của thế hệ Cách Mạng Hoa Kỳ, ngài sinh ngày 28 tháng Tám 1774, chỉ hai năm trước khi có bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Bởi dòng dõi và hôn nhân, ngài có liên hệ đến các thế hệ đầu tiên sống ở Nữu Ước và vui hưởng kết quả của một xã hội tiến bộ. Được nuôi nấng trong một gia đình nề nếp Anh Giáo, ngài biết được giá trị của sự cầu nguyện, Kinh Thánh và sự kiểm điểm lương tâm hàng đêm trước khi đi ngủ. Cha của ngài, Bác Sĩ Risa Bêlê, không đóng góp nhiều cho nhà thờ nhưng ông là người rất nhân đạo, đã dạy được cho cô con gái bài học yêu thương và phục vụ tha nhân.
Sự chết sớm của người mẹ năm 1777 và của bà vú nuôi năm 1778 đã đem lại cho ngài 1 cảm nhận về sự tạm bợ của trần gian và thúc giục ngài hướng về vĩnh cửu. Thay vì ủ rũ chán chường, ngài đối diện với các biến cố mà ngài coi là sự "hủy hoại khủng khiếp" với một hy vọng đầy phấn khởi.
Vào năm 19 tuổi, Êlidabét là hoa khôi của Nữu Ước và kết hôn với một thương gia đẹp trai, giầu có là ông Viliam Magi Xêtông. Họ được năm người con trước khi doanh nghiệp lụn bại và ông chết vì bệnh lao. Vào năm 30 tuổi, bà Elidabét đã là một góa phụ, không một đồng xu và phải nuôi nấng năm đứa con.
Trong khi sống ở Ý, bà được chứng kiến phong trào Tông Đồ Giáo Dân qua gia đình của những người bạn. Ba điểm căn bản sau đã đưa bà trở về đạo Công Giáo: tin tưởng sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, sùng kính Đức Mẹ và tin rằng Giáo Hội Công Giáo là một giáo hội tông truyền do Đức Kitô thành lập. Nhiều người trong chính gia đình bà cũng như bạn hữu bà đã tẩy chay bà khi bà trở lại Công Giáo vào tháng Ba 1805.
Để nuôi con, bà mở trường học ở Bantimo. Ngay từ ban đầu, nhóm giáo chức của bà đã theo khuôn khổ của một tu hội, mà sau đó được chính thức thành lập vào năm 1809.
Hàng ngàn lá thư của Mẹ Xêtông để lại cho thấy sự phát triển đời sống tâm linh của ngài, từ những việc tốt lành bình thường cho đến sự thánh thiện cách anh hùng. Ngài chịu đau khổ vì những thử thách như đau ốm, hiểu lầm, cái chết của những người thân yêu (chồng và hai con gái), cũng như sự lo lắng đến đứa con trai hoang đàng. Ngài từ trần ngày 4 tháng Giêng 1821, và vào ngày 17-3-1963, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã tuyên xưng ngài là vị chân phước đầu tiên người Hoa Kỳ. Ngài được phong thánh ngày 24-9-1975.
Suy niệm 1: Rường cột
Thánh Êlidabét Xêtông quả là rường cột của Giáo Hội Hoa Kỳ, khi ngài xây dựng ngôi nhà bản thân ngài bằng Thiên Ý như là rường cột, đúng như lời ngài ngỏ với các nữ tu: "Tôi thiết nghĩ mục đích trước nhất trong công việc hàng ngày của chúng ta là thi hành thánh ý Thiên Chúa; thứ đến, thi hành điều ấy trong phương cách mà Ngài muốn; và thứ ba, thi hành điều ấy vì đó là ý Chúa".
Hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô cũng được Giáo Hội biểu dương là rường cột, khi thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin, thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho người Ítraen, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân (Kinh Tiền Tụng của ngày lễ).
Còn Đức Giêsu thì được tôn vinh như Đá Tảng góc tường (1Cr 10,4) mà Kinh Thánh đề cập tới (Mt 21,42) trong ngôi nhà của Thiên Chúa với nền móng là các tông đồ và ngôn sứ (Ep 2,20), theo cách cấu trúc của người Ítraen xưa kia.
* Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con được vinh dự làm một viên đá trong tòa nhà Hội Thánh. Xin giúp chúng con đừng coi thường vai trò của mỗi chúng con, để không bao giờ biến thành một con sâu có thể làm rầu cả nồi canh.
Suy niệm 2: Tiên khởi
Thánh Êlidabét Xêtông dầu là giới nữ nhưng đã được Thiên Chúa kén chọn để thực hiện những công trình đầu tiên cho Giáo Hội Hoa Kỳ: Ngài sáng lập tu hội đầu tiên dành cho phụ nữ Hoa Kỳ, Dòng Nữ Tu Bác Ái, mở trường học đầu tiên trong giáo xứ Hoa Kỳ và thiết lập cô nhi viện đầu tiên ở Hoa Kỳ.
Đức Giêsu cũng đã sáng lập Hội Thánh, khi thành lập Nhóm Mười Hai (Mc 3,14) và cải tên Simôn là Phêrô nghĩa là Tảng Đá, với lời công bố: "Trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi" (Mt 16,18).
Trên bước đường rao giảng Tin Mừng, các tông đồ đặc biệt thánh Phaolô đã thiết lập nhiều cộng đoàn tiên khởi. Thánh Têphanô là vị tử đạo tiên khởi (Cv 7,60). Bài giảng ngay sau Ngày lễ Ngũ Tuần của Phêrô đã giúp khoảng ba ngàn người đầu tiên theo đạo (Cv 2,41). Gia đình Têphana là những người đầu tiên trở lại đạo tại xứ Akhaia và đã dấn thân phục vụ dân thánh (1Cr 16,15).
* Lạy Chúa Giêsu, đối với Chúa, đứng đầu hay đứng chót, đạo cũ hay đạo mới không quan trọng bằng việc bền chí đến cùng (Mt 10,22). Xin Chúa giúp chúng con hiểu và sống để được cứu thoát.
Suy niệm 3: Tín ngưỡng
Được nuôi nấng trong một gia đình nề nếp Anh Giáo, thánh Êlidabét Xêtông biết được giá trị của sự cầu nguyện, Kinh Thánh và sự kiểm điểm lương tâm hàng đêm trước khi đi ngủ. Hành trang quý báu này được ngài mang theo và giúp ngài rất nhiều trong chuỗi ngày làm một tín hữu và một nữ tu công giáo.
Đức Giêsu khai mở thời Tân Ước, nhưng Ngài vẫn quý trọng thời Cựu Ước. Ngài vẫn đến hội đường Dothái để tham dự Phụng Vụ hằng tuần vào ngày Sabát (Lc 4,16). Ngài cũng sai các môn đệ đi dọn chỗ để cả cộng đoàn cùng ăn lễ Vượt Qua (Mt 14,12-17). Ngài từng tuyên bố Ngài đến không để bãi bỏ Luật Môsê nhưng để kiện toàn (Mt 5,17).
Tín ngưỡng của mỗi người cần được tôn trọng, cách riêng các điểm hay và tốt cho dầu có dị biệt. Đó là một lý do để có phong trào đại kết giữa các Giáo Hội Kitô và giữa Giáo Hội Kitô với các tôn giáo khác. Đó là một nét độc đáo trong sắc lệnh về Hiệp Nhất của thánh công đồng chung Vaticanô II, sắc lệnh đã được các nghị phụ biểu quyết ngày 21/11/1964 với 2137 phiếu thuận, 11 phiếu chống và đã được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI phê chuẩn và công bố trong ngày.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mặc lấy tâm tình của Giáo Hội, để biết sống tinh thần đối thoại hơn là đối chọi, khi có cơ hội gặp gỡ các anh chị em không đồng tín ngưỡng.
Suy niệm 4: Bài học yêu thương
Một di sản quý giá mà thánh Êlidabét Xêtông thừa hưởng từ bác sĩ Risa Bêlê, thân phụ của ngài, không phải là của cải vật chất, nhưng đó là bài học yêu thương và phục vụ tha nhân. Số vốn tinh thần này đã được ngài làm sinh lời gấp bội, qua các công việc dành cho giới phụ nữ, giới giáo chức và học sinh cũng như giới cô nhi.
Bài học yêu thương và phục vụ tha nhân của Đức Giêsu đã in đậm vào tâm trí các tông đồ qua việc chính Ngài rửa chân cho họ trong bữa Tiệc Ly (Ga 13,14). Bài học thoạt đầu thật khó nuốt trôi, khiến Phêrô phải ngỡ ngàng lên tiếng phản ứng, để rồi sau đó lại hăm hở đón nhận (Ga 13,8-9).
Yêu thương những người yêu thương mình. Phục vụ cho các ân nhân của mình, để càng phục vụ càng nhận được nhiều lợi ích tối đa. Điều này không đáng nói, vì quá dễ thực hiện, vì ai cũng làm được. Nhưng yêu thương và phục vụ kẻ thù ở bất cứ tình huống và dạng thức nào, đó mới là điều đáng kể.
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con quả tim bằng thịt, để chúng con có thể yêu thương phục vụ như chính Chúa đã nêu gương yêu thương phục vụ và đã dạy.
Suy niệm 5: Thế sự phù vân
Sự chết sớm của người mẹ năm 1777 và của bà vú nuôi năm 1778 lúc ngài còn tuổi ấu thơ, cũng như cái chết của những người thân yêu (chồng vào năm 1804 và hai con gái), đã đem lại cho Êlidabét một cảm nhận về sự tạm bợ của trần gian và thúc giục ngài hướng về vĩnh cửu.
Ngay từ thế kỷ III, ông Côhelét đã khắc khoải về ý nghĩa cuộc sống ở trần gian. Ông đã nhận định: "Sau khi nhìn thấy mọi công việc thực hiện dưới ánh mặt trời, tôi nhận ra: tất cả chỉ là phù vân, chỉ là công dã tràng xe cát" (Gv 1,14), và cuối cùng đi đến kết luận: "Phù vân, quả là phù vân, mọi sự đều là phù vân cả!" (Gv 12,8).
Nỗi khắc khoải này đã được Đức Giêsu trả lời dứt khoát với lời răn dạy: "Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu" (Lc 12,15), vì "Kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì là đồ ngốc!" (Lc 12,20-21). Vậy "Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá" (Lc 12,33).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng con hưởng dùng, để rồi phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy chúng con đã tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật (1Tm 6,17-19).
Suy niệm 6: Cái nhìn lạc quan
Thánh Êlidabét Xêtông chịu đau khổ vì những thử thách như đau ốm, hiểu lầm, cũng như sự lo lắng đến đứa con trai hoang đàng. Thay vì ủ rũ và chán chường, ngài đối diện với các biến cố mà ngài coi là sự "hủy hoại khủng khiếp" với một hy vọng đầy phấn khởi.
Với cái nhìn lạc quan, Đức Giêsu không xử sự với người tội lỗi như nhóm người Biệt Phái. Ngài không xa lánh nhưng gần gũi (Lc 15,1), thậm chí còn đồng bàn (Mt 9,10) và đến trọ (Lc 19,5), hầu biến các tội nhân thành thánh nhân. Một người ngoại tình đáng tội bị ném đá chết vẫn được Chúa cứu sống cả phần xác lẫn phần hồn (Ga 8,1-11).
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Như thế, mỗi sự kiện, mỗi biến cố, mỗi môi trường sống đều được mỗi người đọc, hiểu, nhìn theo những cách và ý nghĩa khác nhau. Thế tại sao chúng ta không biết lạc quan nhìn đời, nhìn người và nhìn mình để vui sống và vươn lên.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết nhìn mọi sự dưới khía cạnh tốt, để cuộc đời chúng con không bao giờ bị bóng đêm bi quan phủ lấy, nhưng luôn tươi nở như đóa hoa trong ánh hừng đông lạc quan, để rồi dần dần biến khuyết điểm thành ưu điểm và thất bại thành thành công.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 03/1 Kính Thánh Danh Chúa Giêsu (1815 - 1888)
- Ngày 2/1 Thánh Basil Cả (329 - 379)
- Ngày 01/1 Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa
- Ngày 31/12 Thánh Giáo Hoàng Sylvester I (c. 335)
- Ngày 29/12 Thánh Tôma Becket (1118 - 1170)
- Ngày 27/12 Thánh Gioan Tông Ðồ
- Ngày 26/12 Thánh Stêphanô (c. 36?)
- Ngày 24/12 Thánh Charbel (1828-1898)
- Ngày 23/12 Thánh Gioan ở Kanty (1390 - 1473)
- Ngày 22/12 Thánh Frances Xavier Cabrini (1850-1917)