Gương Thánh Nhân
Ngày 11/12 Thánh Giáo Hoàng Damasus I (305? - 384)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giáo Hoàng Damasus I (305? - 384)
Trong một giai đoạn then chốt và nhiều khó khăn của Giáo Hội, ngài đã xuất hiện như một người bảo vệ đức tin đầy nhiệt huyết, biết khi nào phải tiến và khi nào phải thủ.
Lược sử
Là con của một tư tế Rôma, có lẽ thuộc gốc Tây Ban Nha, Damasus khởi sự là một phó tế trong nhà thờ của cha mình, sau đó ngài là tư tế (linh mục) của một đền thờ mà sau này là vương cung thánh đường San Lorenzo ở Rôma. Ngài phục vụ Đức Giáo Hoàng Liberius (352-366) và đi theo đức giáo hoàng khi bị lưu đầy.
Khi là giáo hoàng, ngài có lối sống thật đơn giản trái ngược với các giáo sĩ ở Rôma, và ngài rất hăng say chống lại tà thuyết Arian và các tà thuyết khác. Một sự hiểu lầm trong văn từ về Ba Ngôi Thiên Chúa đã đe dọa mối giao hảo thân thiện với Giáo Hội Đông Phương, và Đức Damasus là người ôn hòa đã dàn xếp cách tốt đẹp.
Chính trong thời giáo hoàng của ngài (380) mà Kitô Giáo được tuyên bố là tôn giáo chính thức của Rôma, và tiếng Latinh trở nên ngôn ngữ chính thức trong phụng vụ nhờ sự cải cách của đức giáo hoàng.
Suy niệm 1: Damasus
Damasus khởi sự là một phó tế.
Ngài sinh vào khoảng năm 305.
Truyền thống cho rằng, ngài là một giáo hoàng uyên bác. Theo chứng từ của người thư ký là Thánh Giêrôme, Thánh Damasus là "một người không ai sánh bằng, rất hiểu biết Phúc Âm, một tiến sĩ trinh trắng của một Giáo Hội trinh trắng, rất yêu quý sự khiết tịnh." Giáo hoàng Damasus đã ban phép cho các ca đoàn do Thánh Ambrosius sáng lập, luân phiên hát Thánh Vịnh. Ngài giới thiệu cách dùng từ Do Thái "Allelujah" và tìm được bản dịch Thánh Kinh bằng tiếng Do Thái. Ngài đã truyền cho thánh Giêrônimô, lúc đó là thư ký của ngài tại Rôma từ 382 đến 384, lo duyệt lại bản dịch La-tinh xưa của Kinh Thánh. Bộ Vulgate được chào đời, đó là bộ Kinh Thánh bằng tiếng Latinh mà Công Ðồng Trento (11 thế kỷ sau) tuyên bố là "có giá trị để đọc giữa công chúng, được dùng để tranh luận, và để rao giảng." Tiếng Latinh trở thành ngôn ngữ chính thức trong phụng vụ nhờ sự cải cách của Đức Giáo hoàng.
Ngài cũng cổ võ lòng sùng kính và học hỏi về gương các thánh tử vì đạo, khuyến khích các cuộc hành hương bằng cách tu sửa các hang toại đạo. Ngài là tác giả của những bài thơ văn vần (thơ trào phúng) mà ngài đã bảo thợ đá Furiô Điônisiô Philôcalô khắc thật tuyệt vời; các bản khắc này được xem là nằm trong số những bản khắc đẹp nhất thời cổ đại, được đặt trên mộ các vị tử đạo, hoặc trong các vị trí địa hình khác do Damasus bố trí. Làm điều đó, Giáo hoàng thể hiện việc Giáo hội nắm giữ các đền thánh đã được các vị hoàng đế xây dựng.
Truyền thống cho rằng giáo hoàng Ðamasô I qua đời ngày 11 tháng 12 năm 384. Văn mộ chí mà Ðức Damasus đã viết cho chính mình có ghi: "Ngài là Đấng đi trên biển đã làm câm nín các ngọn sóng ác liệt, là Đấng ban sự sống cho những hạt mầm tàn tạ của thế gian; Ngài là đấng tháo gỡ xiềng xích tử thần, và đã đưa về cho Martha người em của cô sau bốn ngày trong mộ tối. Tôi tin rằng, Ngài sẽ đưa Damasus trỗi dậy từ tro bụi."
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn khang an xác hồn cho các vị đại diện Chúa vững tay lèo ái con thuyền Giáo hội.
Suy niệm 2: Giáo Hoàng-Lên ngôi
Khi là giáo hoàng, ngài có lối sống thật đơn giản.
Damasus I là giáo hoàng kế nhiệm giáo hoàng Liberius và là giáo hoàng thứ 37 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì ngài lên ngôi vào năm 366 và ở ngôi trong 18 năm, 2 tháng. Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định triều đại của ngài bắt đầu từ ngày 1 tháng 10 năm 366 và kết thúc vào ngày 11 tháng 12 năm 384.
Khi Liberius từ trần, Damasus được bầu làm Giáo Hoàng thứ 37 kế vị thánh Phêrô và cũng là Giám Mục Rôma ngày 01 tháng 10 năm 366; nhưng có một thiểu số khác bao gồm bảy linh mục và một phó tế lại chọn và tấn phong một phó tế khác là Ursinus làm giáo hoàng. Ông này làm giáo hoàng đối lập từ năm 366 – 367. Cuộc tranh luận giữa Ðức Damasus I và giáo hoàng đối lập gây nên nhiều xung đột trong hai nhà thờ lớn, gây tiếng xấu cho các giám mục Ý.
Trong một thượng hội đồng do Damasus I triệu tập nhân ngày sinh nhật của mình, Damasus yêu cầu các giám mục tán thành các hành động của mình. Nhưng câu trả lời của các giám mục thật cộc lốc: "Chúng tôi quy tụ để mừng sinh nhật, chứ không để kết án một người chưa bao giờ nghe biết." Những người ủng hộ vị giáo hoàng đối lập còn tìm cách đưa Damasus ra toà về một tội phạm – có lẽ tội dâm dục – khoảng năm 378. Ngài đã phải thanh minh trước toà dân sự cũng như trước một thượng hội đồng của Giáo Hội. Phản Giáo hoàng Ursinus đã phải lên đường đi lưu đày và chết năm 384 mà vẫn không từ bỏ những tham vọng của mình.
Lịch sử của triều đại giáo hoàng và lịch sử Giáo Hội đã bị pha trộn với tiểu sử của Đức Damasus. Trong một giai đoạn then chốt và nhiều khó khăn của Giáo Hội, ngài đã xuất hiện như một người bảo vệ đức tin đầy nhiệt huyết, biết khi nào phải tiến và khi nào phải thủ. Thánh Damasus giúp chúng ta ý thức hai đức tính của một người lãnh đạo xứng đáng: luôn nhận ra sự thôi thúc của Thần Khí và phục vụ. Cuộc chiến đấu của ngài nhắc cho chúng ta biết rằng Đức Kitô không bao giờ hứa che chở Đá Tảng của Người khỏi cơn phong ba, bão táp hay những người theo Người không gặp các khó khăn. Người chỉ đảm bảo sự chiến thắng sau cùng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng vì tham vọng mà đánh mất sự hiệp nhất trong cộng đoàn.
Suy niệm 3: Giáo Hoàng-Quyền tối thượng của Rôma
Khi là giáo hoàng, ngài có lối sống thật đơn giản.
Damasus là một người trung thành với truyền thống của Giáo hội. Ngay từ đầu triều Giáo hoàng của ngài, hoàng đế Valentinianô đã ra lệnh tất cả các vụ kiện tôn giáo đều phải được trình lên Giáo hoàng, các thẩm phán thế tục không có quyền can thiệp vào. Người kế vị Valentinianô là Gratianô cũng là một hoàng đế công giáo.
Vào năm 343, Công Ðồng Sardica trao toàn quyền của giáo hội Tây Phương cho vị giám mục Rôma là đức giáo hoàng, và quyết định này được Hoàng Ðế Gratian xác nhận năm 378. Hoàng đế cũng phê chuẩn quyền kháng án lên giáo hoàng. Bất kỳ lời buộc tội nào chống lại vị tổng giám mục đều phải đến trước chính giáo hoàng hoặc một tòa án các giám mục được ngài bổ nhiệm, trong khi tất cả các giám mục (tây phương) đều có quyền kháng cáo từ thượng hội đồng giám mục giáo tỉnh của họ lên Đức Giáo hoàng (Mansi, III, 624).
Ðức Giáo Hoàng Damasus tuyên bố rằng quyền bính của đức giáo hoàng thực sự không do bởi một công đồng hay một hoàng đế nhưng bởi chính Thiên Chúa qua mệnh lệnh của Người ban cho Thánh Phêrô (Mt 16,18). Ðể hỗ trợ cho thẩm quyền của đức giáo hoàng, Thánh Ambrôsiô đồng ý rằng "Ngai tòa Phêrô ở đâu, thì Giáo Hội ở đó". Thánh Giêrôme viết cho Ðức Giáo Hoàng Damasus: Tôi không theo bất cứ nhà lãnh đạo nào khác ngoại trừ Ðức Kitô, và do đó tôi vẫn muốn hiệp thông với ngài trong Giáo Hội, đó là, với ngai tòa Thánh Phêrô. Tôi biết, Giáo Hội được thành lập trên tảng đá này.
Các thượng hội đồng giám mục Rô-ma (369) và Antiôkia (378) đã quyết định một giám mục được xem là hợp pháp khi vị này được Giáo hoàng thừa nhận. Điều này có hiệu quả là Giáo hoàng có quyền truất phế những giám mục còn gắn bó với lạc thuyết Ariô và lạc thuyết này hầu như đã biến mất khỏi đế quốc.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tuyệt đối vâng phục quyền bính của đức giáo hoàng.
Suy niệm 4: Giáo Hoàng- Tôn giáo chính thức duy nhất
Khi là giáo hoàng, ngài có lối sống thật đơn giản.
Năm 381, Theodosius tuyên bố Kitô Giáo là tôn giáo chính thức duy nhất của Ðế Quốc Rôma và ông muốn chấm dứt ngoại giáo. Số người theo Kitô Giáo vút cao và đưa đến vấn đề là nhiều người gia nhập Giáo Hội chỉ vì lợi ích chính trị. Bây giờ, làm người Kitô thì dễ dàng và thoải mái hơn người ngoại giáo, hoặc tín đồ của bất cứ tôn giáo nào khác.
Xứ Gallô được phúc âm hóa một cách hăng say. Các đan viện được thành lập ở đó, bởi Martinô thành Tours, đan viện Ligugé và đan viện Noirmoutiers. Dưới triều Gratianô và Thêôđôsô I, lạc giáo không còn được dung thứ và chỉ một mình Giáo hội mới tồn tại chính thức. Priscillianô đã bị thượng hội đồng Saragosse năm 380 lên án và bị hành hình vì đã phổ biến một lạc thuyết mới đặt cơ sở trên sự giải thích cá nhân về kinh thánh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chỉ biết thờ lạy duy nhất một mình Chúa mà thôi (Mt 4,10).
Suy niệm 5: Giáo Hoàng với các bè rối
Khi là giáo hoàng, ngài có lối sống thật đơn giản.
Giáo hoàng Damasus phải đương đầu với các bè rối: bè rối Ariô, Macêđônia và Apollinariô. Ngài tỏ ra đại lượng, giầu lòng nhân khiến cho nhiều người thuộc các bè rối được ơn ăn năn quay trở lại với Hội Thánh. Một sự hiểu lầm trong văn từ về Ba Ngôi Thiên Chúa đã đe dọa mối giao hảo thân thiện với Giáo Hội Ðông Phương, và Ðức Damasus là người ôn hòa đã dàn xếp cách tốt đẹp.
Macêđônia là một lạc giáo về Chúa Thánh Thần, họ chủ trương Chúa Thánh Thần chỉ là một tạo vật như Chúa Con và thậm chí còn kém hơn. Apollinariô (Apollinarius) giám mục thành Laodicea chủ trương Nhân tính nơi Chúa Giêsu không toàn vẹn, thiếu lý trí nhưng có thiên tính bù vào.
* Lạy Chúa Giêsu, xin cho Giáo Hội được hiệp nhất nên một.
Suy niệm 6: Giáo Hoàng với công đồng
Khi là giáo hoàng, ngài có lối sống thật đơn giản.
Dưới triều Giáo hoàng của ngài đã diến ra nhiều công đồng: Công đồng Rôma (374), Công đồng Constantinôpôli I (381). Công đồng này đã bổ túc cho công đồng Nicêa bằng cách khẳng định Thần tính của Chúa Thánh Thần và triển khai Kinh Tin Kính Nicêa. Công đồng gồm 150 giám mục Công giáo Đông phương và 36 giám mục phe Macedonius. Công đồng chung thứ hai này quy tụ gần 200 giám mục phương Đông. Không có đại diện nào của Đức Damasus đến dự công đồng này. Công đồng đã tiếp tục hoàn chỉnh tín điều về Thiên Chúa Ba Ngôi và lên án lạc thuyết Macedonius.
Năm 381, công đồng Aquilê chống lại những người theo thuyết Ariô, trong đó giám mục Rô-ma đã không thể cử đại diện của mình đến tham dự vì đang phải đấu tranh với phản giáo hoàng Ursinus. Công đồng Rô-ma II (382) dưới sự thúc đẩy của Giêrônimô đã kết án những người theo thuyết Apollinariô.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 10/12 Chân Phước Honoratus Kosminski (1829 - 1916)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Honoratus Kosminski (1829 - 1916)
Chân Phước Honoratus đã thiết lập các tu hội nhằm đáp ứng với hoàn cảnh đặc biệt của Ba Lan thời bấy giờ. Ngài khuyên các thành viên hãy sẵn sàng và vui vẻ vâng phục, đem khả năng của mình để phục vụ Tin Mừng của Ðức Giêsu Kitô.
Lược sử
Ngài sinh ở Biala Podlaska (Ba Lan), và học về kiến trúc tại trường Nghệ Thuật ở Warsaw. Khi Wenceslau lên 16 tuổi thì mồ côi cha. Năm 1848, ngài gia nhập dòng Phanxicô và lấy tên Honoratus Kosminski. Sau 4 năm, ngài được thụ phong linh mục. Năm 1855 ngài giúp Chân Phước Mary Angela Truszkowska thành lập dòng Nữ Tu Felix.
Khi sống ở Zakroczym, Cha Honoratus tiếp tục sứ vụ của ngài và thành lập 16 tu hội nam cũng như nữ.
Các văn bản của Cha Honoratus thì vô số kể.
Vào năm 1895, ngài được bổ nhiệm làm Tổng Đại Diện cho các tu sĩ Capuchin ở Ba Lan. Ngài tới Nowe Miasto, rồi qua đời và an táng tại đây.
Ngài được phong chân phước năm 1988.
Suy niệm 1: Mồ côi cha
Khi Wenceslau lên 16 tuổi thì mồ côi cha.
Vừa lớn lên, một áng mây đen đã bao phủ đời ngài với cái chết của thân phụ, như một tiên báo cho một tương lai dài đầy dẫy giông tố. Thật thế, qua năm 17 tuổi, vì bị tình nghi là có tham gia trong nhóm phản loạn, ngài bị bắt và bị cầm tù từ tháng Tư 1846 đến tháng Ba năm sau.
Tưởng được an cư trong nếp sống tu trì ở cộng đoàn Capuchin, do một cuộc cách mạng năm 1864, các dòng tu bị đàn áp khiến ngài phải rời Warsaw đến sống ở Zakroczym. Tại đây ngài lao tâm lao lực thành lập các tu hội với chức vụ giám đốc, để rồi Giáo quyền không cho phép độc lập và cách chức giám đốc của ngài. Trải qua bao sóng gió, ngài vẫn giữ vững niềm tin tiến bước, không nãn lòng, đúng như một người đương thời với ngài cho biết: Cha Honoratus "luôn luôn bước đi trong con đường của Thiên Chúa."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn luôn bước đi trong con đường của Thiên Chúa.
Suy niệm 2: Linh mục
Sau 4 năm, Honoratus được thụ phong linh mục.
Năm 1855 ngài giúp Chân Phước Mary Angela Truszkowska thành lập dòng Nữ Tu Felix. Năm 1860, ngài làm giám đốc một tu viện ở Warsaw. Ngài dành mọi nỗ lực trong việc rao giảng, hướng dẫn tinh thần các đệ tử sinh và giải tội. Ngoài ra ngài còn làm việc không biết mệt cho dòng Ba Phanxicô.
Khi sống ở Zakroczym, ngài tiếp tục sứ vụ của ngài và thành lập 16 tu hội nam cũng như nữ. Ngài đã làm việc hăng say để phục vụ Giáo Hội, một phần qua việc thiết lập các tu hội nhằm đáp ứng với hoàn cảnh đặc biệt của Ba Lan thời bấy giờ. Ngài đã có thể rút lui một cách cay đắng và oán hờn khi đường hướng các tu hội ấy bị tước đoạt khỏi tầm tay; nhưng ngài đã coi đó là những "niềm vui tuyệt đối." Ngài khuyên các thành viên hãy sẵn sàng và vui vẻ vâng phục, đem khả năng của mình để phục vụ Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hãy luôn sẵn sàng và vui vẻ vâng phục Đấng Bản Quyền.
Suy niệm 3: Dòng Nữ Tu Felix
Năm 1855 Cha Honoratus giúp Chân Phước Mary Angela Truszkowska thành lập dòng Nữ Tu Felix.
Các Nữ Tu Felix được Thiên Chúa mời gọi để cầu nguyện và làm việc ở ngoài khuôn khổ của tu viện. Họ chăm sóc bệnh nhân ngay trong nhà của họ cũng như phục vụ các người tàn tật, người già yếu, trẻ mồ côi và các người vô gia cư. Các nữ tu cũng xây cất các nhà dành riêng cho những người mắc bệnh hay lây ở làng mạc Ba Lan.
Vào năm 1863, khi người Ba Lan vùng lên chống lại sự đô hộ của người Nga, các nữ tu Felix tiếp tục chăm sóc bệnh nhân bất kể quốc tịch nào. Lúc đó, Mẹ Angela ra lệnh cho các nữ tu "không được loại trừ ai" và hãy nhớ rằng "mọi người đều là người thân cận của mình" .
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống đức ái không biên giới.
Suy niệm 4: Tu hội-Thành lập
Cha Honoratus thành lập 16 tu hội nam cũng như nữ.
Cuộc cách mạng năm 1864, nhằm lật đổ Nga hoàng Alexander III, đã bất thành đưa đến việc đàn áp các dòng tu ở Ba Lan. Các tu sĩ Capuchin bị đẩy ra khỏi Warsaw và buộc phải sống ở Zakroczym.
Đó là nơi Cha Honoratus tiếp tục sứ vụ của ngài và thành lập 16 tu hội nam cũng như nữ, mà các thành viên không phải mặc áo tu sĩ cũng như không phải sống trong khuôn viên của tu hội. Họ sinh hoạt giống như các tổ chức dòng ba bây giờ. Cho đến nay, vẫn còn mười bảy tu hội ấy hoạt động.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn lạc quan vượt qua các nghịch cảnh vì ánh sáng vẫn luôn ở cuối đường hầm.
Suy niệm 5: Tu hội-Đức vâng phục
Cha Honoratus thành lập 16 tu hội nam cũng như nữ.
Vào năm 1906, một vài giám mục tìm cách đưa các tu hội ấy dưới thẩm quyền của họ; Cha Honoratus chống lại quyết định đó để bảo vệ sự độc lập của các tu hội, và ngài bị cách chức giám đốc vào năm 1908. Sau đó, ngài khuyên các thành viên của các tu hội hãy vâng phục quyết định của Giáo Hội dù tương lai có ra sao.
Khi Giáo Hội lấy đi quyền điều khiển các tu hội của ngài và thay đổi đường hướng các tu hội ấy, Chân Phước Honoratus viết: "Đấng Đại Diện Đức Kitô đã cho chúng ta biết thánh ý của Thiên Chúa, và tôi lãnh nhận mệnh lệnh này với đức tin. Anh chị em thân mến, hãy nhớ rằng đây là cơ hội để anh chị em chứng tỏ sự tuân phục một cách quả cảm đối với Giáo Hội."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống bài học: vâng lời luôn trọng hơn lễ vật (1Sm 15,22).
Suy niệm 6: Văn bản
Các văn bản của Cha Honoratus thì vô số kể.
42 tập bài giảng, 21 tập thư tín và 52 ấn bản thần học về sự khổ hạnh, sự sùng kính Đức Maria, về lịch sử, về mục vụ -- chưa kể các thư từ ngài viết cho các tu hội mà ngài sáng lập.
Khi bạn yêu mến tha thiết cuộc sống và con người thì sợi dây vô hình kết nối bạn với ngôn ngữ cũng được hình thành. Kí tự chữ nghĩa ra đời nhằm khắc họa những hình ảnh khác nhau của thế giới, tạo dựng cuộc sống với tất cả những phức tạp và hấp dẫn của nó. Nhìn những con chữ nằm ngay ngắn trên mặt giấy, người đọc không chỉ có cảm giác sống lại chính xác cảm xúc của họ vào những thời điểm thực trong cuộc sống mà còn nhìn thấy những tầng ý nghĩa đa chiều đằng sau mỗi sự kiện.
Viết với tôi là một hành trình khởi phát liên tục từ sâu bên trong mình. Khi viết, tôi dường như sống trong một thế giới hiện thực của sự tư duy và suy tưởng. Có lúc tôi phấn khởi, nhiệt huyết, có lúc hoài nghi, hoang mang và hụt hơi vô cùng, bởi viết vốn là một cuộc đối thoại nội tâm và không phải lúc nào người ta cũng có thể dễ dàng nói chuyện với chính mình. Viết giúp tôi mở rộng thế giới mà tôi đang sống sang những bình diện mới mà ở đó cái cảm giác về cuộc sống trở nên sinh động và rộng mở hơn bao giờ hết. Khi bạn bắt đầu viết là lúc bạn khởi đầu hành trình tìm kiếm một lục địa chưa được khám phá từ trong nội tâm mình (Thành Đăng).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 09/12 Chân Phước Gabriel Ferretti (1385 - 1456)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Gabriel Ferretti (1385 - 1456)
Tình yêu Thiên Chúa và Ðức Trinh Nữ Maria của Cha Gabrien được biểu lộ trong các bài giảng. Tình yêu ấy đã được đáp trả bằng cách Thiên Chúa cho ngài được thị kiến Ðức Kitô cũng như Mẹ Maria.
Gabrien sinh trưởng trong một gia đình giầu có, đạo đức nên ngài được thừa hưởng nền giáo dục tôn giáo vững chắc. Vào năm 18 tuổi, ngài gia nhập dòng Phanxicô và được thụ phong linh mục năm 25 tuổi. Sau đó không lâu, ngài đi giảng phòng trong các giáo xứ trên toàn nước Ý, và đó là một công việc ngài đã thi hành trong 25 năm một cách thành công.
Ngài có nhiều nhân đức cũng như nhiều chức vụ mà ngài được giao phó. Ngài không bao giờ né tránh việc lao động, hoặc ngần ngại đương đầu với những vấn đề giao tế cá nhân. Là một người đạo đức và khiêm tốn, có lần trên đường đến Assissi, khi dừng chân cầu nguyện tại nhà thờ ở Foligno, ngài bị tưởng lầm là một thầy dòng Phanxicô nên bị thầy dọn lễ gọi lên giúp lễ cho một linh mục. Cha Gabrien khiêm tốn vâng lời. Thánh Lễ cử hành một cách tốt đẹp, cho đến khi có một linh mục nhận ra ngài là vị bề trên tỉnh dòng thì đã quá trễ, và thầy phụ trách việc dọn lễ bị khiển trách. Cha Gabrien đã bênh vực thầy, và nói, "Ðược giúp lễ là một đặc ân cao trọng. Các thiên thần cũng muốn được như thế. Do đó đừng khiển trách thầy ấy vì đã cho tôi vinh dự này!"
Tình yêu Thiên Chúa và Ðức Trinh Nữ Maria của Cha Gabrien được biểu lộ trong các bài giảng. Tình yêu ấy đã được đáp trả bằng cách Thiên Chúa cho ngài được thị kiến Ðức Kitô cũng như Mẹ Maria.
Ngài từ trần năm 1456 giữa sự luyến tiếc của các anh em tu sĩ dòng.
hiên Chúa muốn Juan Diego đóng một vai trò khiêm tốn nhưng bao la trong việc đem Tin Mừng cho dân Mễ Tây Cơ.
Lúc đầu người ta gọi ngài là Cuauhtlatohuac ("Con đại bàng cất tiếng"), tên Juan Diego thì mãi mãi đi liền với Ðức Mẹ Guadalupe vì chính ngài là người được Ðức Mẹ hiện ra ở đồi Tepeyac lần đầu tiên vào ngày 9-12-1531.
Ông là một thổ dân nghèo hèn, 57 tuổi, goá vợ, tên thật là Cuatitlatoatzin và sau khi rửa tội có tên là Juan Diego. Vào buổi sáng thứ Bảy, 9 tháng Mười Hai 1531, ông đến nhà nguyện gần đó để tham dự lễ kính Ðức Mẹ. Khi đang đi trên ngọn đồi gọi là Tepeyac thì ông nghe có tiếng nhạc du dương như tiếng chim hót. Sau đó một đám mây sáng chói xuất hiện, đứng trên đám mây là một trinh nữ người thổ dân mặc y phục như công chúa của bộ lạc Aztec. Trinh nữ nói chuyện với ông bằng tiếng bản xứ và sai ông đến với Ðức Giám Mục của Mexico, là một tu sĩ dòng Phanxicô tên Juan de Zumarraga, và yêu cầu đức giám mục xây cất một nguyện đường nơi Trinh Nữ hiện ra.
Dĩ nhiên vị giám mục không tin, và bảo Juan Diego xin Trinh Nữ cho một dấu chỉ. Trong thời gian này, người chú của ông bị bệnh nặng. Ðiều đó khiến ông cố tránh né không muốn gặp Trinh Nữ. Tuy nhiên, đức trinh nữ tìm ông, đảm bảo với ông là người chú sẽ khỏi bệnh, và bảo ông hái các bông hồng quanh đó để làm bằng chứng với vị giám mục. Lúc ấy là mùa đông thì không thể có bông hoa nào mọc được, nhưng lạ lùng thay, gần chỗ Trinh Nữ hiện ra lại đầy dẫy những hoa hồng tuyệt đẹp. Và ông đã dùng chiếc áo tơi của mình để bọc lấy các bông hồng đem cho vị giám mục.
Trước sự hiện diện của đức giám mục, ông Juan Diego mở áo tơi ra và bông hồng đổ xuống tràn ngập khiến vị giám mục phải quỳ gối trước dấu chỉ lạ lùng ấy. Lạ lùng hơn nữa, trên chiếc áo tơi lại có in hình Ðức Trinh Nữ như ngài đã hiện ra với ông ở đồi Tepeyac. Ðó là ngày 12 tháng Mười Hai 1531.
Sau đó, người ta không đề cập gì nhiều đến Juan Diego. Có lúc ông sống gần một ngôi đền được dựng ở Tepeyac, được mọi người kính trọng như một giáo lý viên thánh thiện, vô vị lợi và đầy lòng nhân ái qua lời nói cũng như gương mẫu.
Trong chuyến tông du năm 1990 đến Mễ Tây Cơ, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã xác nhận một nghi thức có từ lâu đời nhằm vinh danh Juan Diego qua việc phong chân phước cho ông.
Lời Bàn
Thiên Chúa mong đợi Juan Diego đóng một vai trò khiêm tốn nhưng bao la trong việc đem Tin Mừng cho người dân Mễ Tây Cơ. Cố vượt qua sự lo sợ cũng như sự hồ nghi của Ðức Giám Mục Juan de Zumarraga, chân phước Juan Diego đã cộng tác với ơn sủng của Thiên Chúa khi ông cho dân chúng thấy rằng Tin Mừng của Chúa Giêsu thì không riêng cho một ai. Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng nhân cơ hội phong chân phước này để thúc giục người Mễ Tây Cơ hãy nhận lấy trách nhiệm rao truyền cũng như làm chứng cho Tin Mừng.
Lời Trích
"Cũng như các nhân vật trong phúc âm xưa đại diện chung cho mọi dân tộc, chúng ta cũng có thể nói rằng Juan Diego đại diện cho những người thổ dân đã chấp nhận Tin Mừng của Ðức Giêsu, nhờ sự trợ giúp của Mẹ Maria, là người luôn luôn sát cánh với hành động của Con Mẹ và sự phát triển của Giáo Hội, như khi ngài hiện diện với các Tông Ðồ trong ngày Hiện Xuống" (Bài giảng lễ phong chân phước của ÐGH Gioan Phaolô II).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 08/12 Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
lễ Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội
LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI (c. 350?)
Lược sử
Vào thế kỷ thứ bảy, trong Giáo Hội Đông Phương có một ngày lễ được gọi là Sự Thụ Thai Đức Maria. Lễ này được cử hành trong Giáo Hội Tây Phương vào thế kỷ thứ tám. Đến thế kỷ 11, ngày lễ này có tên như hiện nay, Vô Nhiễm Nguyên Tội. Và vào thế kỷ thứ 18, lễ này trở thành ngày lễ chính thức của Giáo Hội hoàn vũ.
Năm 1854, Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố điều bất khả ngộ: "Đức Trinh Nữ Maria rất thánh, trong giây phút đầu tiên khi thụ thai trong lòng mẹ, bởi một ơn huệ phi thường và đặc biệt do Thiên Chúa toàn năng ban cho, vì công nghiêp của Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc nhân loại, nên ngài được gìn giữ khỏi mọi tì ố của tội nguyên tổ."
Phải mất một thời gian khá lâu mới hình thành tín điều này. Trong khi nhiều Giáo Phụ và Tiến Sĩ Hội Thánh coi Đức Maria như vị thánh cao trọng và thánh thiện nhất trong các thánh, nhưng họ vẫn ngại ngùng để cho rằng Đức Maria là một người không có tội -- hoặc từ lúc thụ thai hoặc trong cuộc sống. Đây là một tín điều của Giáo Hội phát sinh từ lòng đạo đức của tín hữu hơn là sự hiểu biết của các thần học gia sáng giá. Ngay cả các vị lão luyện hiểu biết về Đức Maria như Thánh Bernard và Tôma Aquinas cũng không thấy được lý do về phương diện thần học của tín điều này.
Hai tu sĩ dòng Phanxicô là William ở Ware và John Duns Scotus, đã giúp chúng ta hiểu biết hơn về ý nghĩa thần học. Họ cho rằng sự Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Maria nâng cao giá trị công trình cứu chuộc của Đức Giêsu. Các phần tử khác của gia đình nhân loại chỉ được sạch tội nguyên tổ sau khi sinh. Với Đức Maria, tội nguyên tổ đã bị ngăn chặn ngay từ lúc ban đầu nhờ quyền lực mạnh mẽ của công trình cứu chuộc của Đức Giêsu.
Suy niệm 1: Phụng vụ ngày lễ
Vào thế kỷ thứ bảy, trong Giáo Hội Đông Phương có một ngày lễ được gọi là Sự Thụ Thai Đức Maria.
Đông phương đã mừng lễ Mẹ Vô nhiễm từ thế kỷ VII. Bên Tây phương, Osbertô Clare, một văn sĩ và thi sĩ người Anh, tiên phong vận động mừng lễ Mẹ Vô nhiễm tại Anh hồi thế kỷ XII. Từ Anh lễ này lan nhanh sang Normandie và toàn nước Pháp rồi sang Ý. Năm 1215 các giáo phận nước Pháp được Đức Innocentê III ban phép đầu tiên mừng lễ Mẹ đầu thai. Quãng năm 1241 hay 1242, vì lý do chính trị do Vua Philippe II nước Pháp, Đức Bonifaciô VIII dời giáo triều xuống thành Anagni là nguyên quán của ngài và mừng lễ Mẹ đầu thai tại nhà thờ chính tòa. Năm 1263, Đại Công hội Dòng Phanxicô tại Pise (Ý) ấn định mừng lễ này trong toàn dòng. Đến đời Đức Clêmentê V, vì ảnh hưởng của Vua Philippe II, ngài đặt giáo đô tại Avignon (Pháp). Cả giáo triều mừng lễ Mẹ đầu thai ngày mồng 8 tháng 12 tại nhà thờ Dòng Carmelô. Từ đây, hằng năm giáo triều mừng lễ Mẹ đầu thai và tiếp tục khi trở về Rôma, các Đức Giáo hoàng cũng đích thân tham dự. Năm 1385, sử gia Bellemer và mấy năm sau sử gia Francis Martin còn thấy Đức Giáo hoàng, các Hồng y, Giám mục mừng lễ Mẹ đầu thai tại nguyện đường trong điện Vaticanô.
Thời đó lễ Mẹ đầu thai chỉ có ý nghĩa suông là Đức Mẹ đầu thai thánh thiện trong lòng Bà Thánh Anna. Vấn đề Vô nhiễm chưa được đưa ra khảo sát, và Tòa thánh cũng chưa xét đến điểm tín lý (L.m. Phêrô, CMC).
* Lạy Chúa Giêsu, nhờ Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, xin cho chúng con hiểu được rằng Chúa đã yêu thương Mẹ, yêu thương mọi người chúng con và không có việc gì mà Thiên Chúa không làm được.
Suy niệm 2: Phụng vụ ngày lễ-Yếu tố tín lý
Vào thế kỷ thứ bảy, trong Giáo Hội Đông Phương có một ngày lễ được gọi là Sự Thụ Thai Đức Maria.
Năm 1325 tại Avignon, Đức Gioan XXII chứng giám cuộc tranh luận sôi nổi giữa các linh mục Dòng Phanxicô và Dòng Đaminh về vấn đề Vô nhiễm. Chung cuộc, ngài tuyên bố luận cứ bên Phanxicô đáo lý hơn và có ưu thế hơn, nên ngài truyền dạy mừng lễ Mẹ đầu thai rất trọng thể tại nguyện đường của ngài, nhưng ngài không xác định vấn đề Vô nhiễm. Công đầu tiên thiết lập lễ Mẹ Vô nhiễm là Đức Sixtô IV, một tu sĩ Phanxicô. Năm 1476, ngài dạy Lêonardô Nogarolis soạn kinh lễ với tuần tám. Ngày 27-2-1477, ngài ban hành Trọng sắc "Cum prae-celsa" long trọng thiết lập lễ Đức Mẹ Vô nhiễm. Ngày 4-10-1480, Đức Thánh Cha ban hành Đoản sắc "Libenter" chuẩn nhận Giờ kinh và Bài lễ Mẹ Vô nhiễm do cha Bernadino de Bustis, OFM, soạn thảo.
Năm 1482 và 1483 nổi lên những phản ứng tại miền Lombardy, Bắc Ý, tuyên truyền rằng tin và chủ trương Đức Mẹ Vô nhiễm thai là rối đạo, Đức Sixtô IV ban hành thêm hai Tiền và Hậu đoản sắc "Grave nimis" để chặn đứng luồng tư tưởng lầm lạc đó.
Đức Lêô X tán thành và xác nhận những văn kiện của Đức Sixtô IV. Với Trọng sắc "Sacrosanctae", ngài truyền dạy nước Balan mừng lễ Mẹ đầu thai như ở Rôma, và ban phép Giáo hội Tây Ban Nha tổ chức lễ Mẹ Vô nhiễm nửa đêm ngày 8 tháng 12. Đức Thánh Piô V truyền dạy toàn thể Giáo hội mừng lễ Mẹ đầu thai. Giờ kinh ngày lễ thì lấy giờ kinh lễ Sinh nhật Mẹ, và đặt chữ "Đầu thai" thay chữ "Sinh nhật". Riêng Dòng Phanxicô được dùng giờ kinh Bài lễ của Nogarolis đời Đức Sixtô IV.
Các Đức Giáo hoàng Sixtô V, Grêgôriô XV, Clêmentê IX, Bênêđictô XIV, Clêmentê XIII, Clêmentê XIV, Piô VI, và Đức Piô VII ban phép mừng lễ Mẹ Vô nhiễm cho từng quốc gia, từng giáo phận, từng dòng tu. Riêng Đức Grêgôriô XVI trong vòng mười năm ban phép cho 211 giáo phận và dòng tu mừng lễ Mẹ Vô nhiễm, và thêm danh từ "Vô nhiễm" vào kinh Tiền tụng lễ Mẹ đầu thai. Đức Clêmentê XI, với trọng sắc "Commissioni nobis" năm 1708 truyền dạy lễ Mẹ Vô nhiễm là lễ buộc trong khắp Giáo hội.
Đức Piô IX, ngày 30-9-1847, ngài ký sắc lệnh của Thánh bộ Lễ nghi ban phép đọc Giờ kinh và Bài lễ Mẹ Vô nhiễm cho chính ngày lễ và cả tuần tám, bắt đầu cho giáo phận Rôma và hai năm sau cho toàn thể Giáo hội. Năm 1863 là sau chín năm định tín Mẹ Vô nhiễm, ngài qui định Giờ kinh và Bài lễ Mẹ Vô nhiễm "Gaudens Gaudebo - Tôi sẽ hớn hở vui mừng" như ta thấy ngày nay (L.m. Phêrô, CMC).
* Lạy Chúa Giêsu, nhờ Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, xin xin giúp chúng con luôn biết ngước nhìn lên Mẹ dù cuộc đời chúng con có muôn ngàn vấp ngã, để chúng con luôn chỗi dậy và được Mẹ dắt tay chỗi dậy.
Suy niệm 3: Hình thành tín điều-Giai đoạn trầm lặng từ thế kỷ I đến XI
Phải mất một thời gian khá lâu mới hình thành tín điều này.
Thánh kinh chỉ có kiểu nói mặc nhiên ẩn tàng về vấn đề Vô nhiễm, nên trong những thế kỷ đầu, Giáo hội chưa khám phá ra. Tuy nhiên, từ thời các Thánh Tông đồ qua thời các Thánh Giáo phụ trong những thế kỷ đầu, một ít tia sáng "Vô nhiễm" đã loé lên, nhưng chỉ trong phạm vi cá nhân. Năm 416 Công đồng Carthage và Công đồng Mileviô ở Bắc Phi lên án Pelagiô và Coelestiô chối tội nguyên tổ, mà không đề cập gì đến trường hợp của Đức Mẹ. Năm 431 Công đồng Êphêsô ở Tiểu Á cùng với Thánh Cyrillô Alexanđria luận phi bè rối Nestoriô, để tuyên tín Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Từ đó, lòng sùng kính Đức Mẹ dâng lên cao và tràn lan ra xa rộng. Giáo hội cũng chỉ xác nhận sự trinh trong tuyệt đối của Mẹ. Khi người ta bàn luận về vấn đề tội lỗi, Thánh Augustinô không muốn liên tưởng đến Đức Mẹ. Tư tưởng tiêu cực này đã nên như qui luật cho các Giáo phụ thời đó. Bên Đông phương, người ta nồng nhiệt sùng kính phúc vinh quang Mẹ Thiên Chúa, mà không xác định rõ. Đến thế kỷ VII, bốn vị Giáo hoàng: Đức Honoriô I, Đức Thánh Martinô I, Đức Thánh Agathô, và Đức Thánh Lêô II làm loé lên một vài tia sáng nhưng vẫn ở trong phạm vi hạn hẹp (L.m. Phêrô, CMC).
* Lạy Chúa Giêsu, nhờ Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, xin giúp chúng con và nhân loại biết bước đi trong vâng phục,tin tưởng và cậy trông như Mẹ đã luôn tuân phục ý Chúa, làm theo ý Chúa và thực thi.
Suy niệm 4: Hình thành tín điều-Giai đoạn tranh luận từ t.k XI đến XIV
Phải mất một thời gian khá lâu mới hình thành tín điều này.
Thế kỷ XII, nhà thần học Eadmer sử gia của Thánh Anselmô tại Canturbury (Anh) viết cuốn "Yếu luận về sự đầu thai thánh thiện của Đức Maria" để minh xác ý nghĩa đặc ân làm nền tảng cho Tín lý Vô nhiễm. Eadmer lý luận sâu sắc về việc Mẹ được đặc ân Vô nhiễm với ba lời có tính cách Cách ngôn: Potuit, Decuit, Fecit, nghĩa là Thiên Chúa có thể làm; nếu Người muốn thì Người đã làm. Cũng thời đó, văn sĩ Osbertô Clare đầu tiên vận động truyền bá giáo thuyết này. Đông phương đã mừng lễ Mẹ đầu thai từ thế kỷ VII, nhưng Tây phương mừng lễ này thế kỷ XII. Dẫu thế, một bức màn đen vẫn trùm phủ vấn đề Vô nhiễm, đến nỗi bốn vị Thánh tiến sĩ Bênađô, Albertô, Bônaventura, Tôma, và hai nhà thần học nổi danh Rupertô và Alexanđrô Halès cho rằng Đức Mẹ cũng mắc luật lưu truyền nguyên tội như mọi người dòng dõi Ađam. Thánh Tôma chỉ nói Đức Maria được thánh hóa trong lòng mẹ. Về sau, các ngài mới bỏ tư kiến để thuận theo sự phán quyết của các Đức Giáo hoàng và niềm tin của Giáo hội.
Hai luồng tư tưởng nghịch và thuận vấn đề Vô nhiễm lan tràn sâu rộng gây nên một cuộc tranh luận sôi nổi giữa hai trường phái Tôma và Scôtô tại Avignon (Pháp) năm 1325. Phe thuận là trường phái Scôtô có luận cứ vững mạnh, nên được Đức Gioan XXII tán thành, và được Đại học Paris yểm trợ. Năm 1346 tại phân khoa Thần học Đại học này, không ai được đậu cử nhân, tiến sĩ, nếu không tuyên thệ phải ủng hộ giáo thuyết Vô nhiễm. Sau này hai Đại học Cologne và Mayence noi gương Đại học Paris cũng có qui chế như thế. Còn một cuộc tranh luận khác không kém gay go về vấn đề Vô nhiễm. Phe chống gây ảnh hưởng sâu rộng nhất là miền Bắc Ý, nhưng sau cũng thuận theo, nhờ thái độ cương quyết của Đức Sixtô IV (L.m. Phêrô, CMC).
* Lạy Chúa Giêsu, nhờ Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, xin hãy luôn ở cùng chúng con, và giúp chúng con trong bất cứ cuộc chiến nào chống lại Satan, Ma quỉ và tội lỗi.
Suy niệm 5: Hình thành tín điều-Giai đoạn xác nhận từ tk XIV-XIX
Phải mất một thời gian khá lâu mới hình thành tín điều này.
Năm 1377 cuộc Đức Mẹ mạc khải với Thánh Brigitta được Đức Grêgôriô XI thẩm tra và xác nhận là chân thật. Đức Mẹ nói với Thánh Brigitta: "Đúng sự thật là Mẹ đầu thai vô nhiễm. Hỡi ái nữ của Mẹ. Con hãy tin và thấy rằng những ai tin và tuyên xưng Mẹ đã được gìn giữ khỏi vết nhơ tội tổ là họ nghĩ đúng. Ai nghĩ ngược lại là sai, nhất là họ nghĩ càn giỡ". Năm 1431, Công đồng Basel (Thụy sĩ), công bố một sắc lệnh như sau: "Chúng tôi xác định và tuyên ngôn rằng Đức Trinh Nữ Maria, do đặc ân Thiên Chúa giữ gìn, không bao giờ nhiễm lây vết nhơ nguyên tội, nhưng luôn luôn thánh thiện và vô nhiễm".
Đức Sixtô IV là vị Giáo hoàng đầu tiên minh nhiên xác định vấn đề Vô nhiễm bằng cách ban hành mười sáu Hiến chế về Mẹ Maria Vô nhiễm. Trong số đó, mười hai Hiến chế ban ân xá, bốn Hiến chế thiết lập và củng cố lễ Mẹ Vô nhiễm trong khắp Giáo hội.
Năm 1545, Công đồng Trentô do Đức Phaolô III triệu tập, công bố sắc lệnh có ba khoản nói về Mẹ Vô nhiễm:
1. Đức Maria được miễn trừ khỏi luật chung của Nguyên tội.
2. Đức Maria được gọi là Vô nhiễm. Ý nghĩa danh từ này phải được xác định là khỏi mọi vết nhơ, mà vết nhơ là Nguyên tội. Do đó, gọi Mẹ là Vô nhiễm vì Mẹ đầu thai vô nhiễm nguyên tội.
3. Các Hiến chế của Đức Sixtô IV phải được tôn trọng.
Năm 1567 Đức Thánh Cha Piô V ban hành ba văn kiện về Mẹ Vô nhiễm. Văn kiện thứ nhất luận phi những lầm lạc của Baius cho rằng tin Đức Mẹ vô nhiễm thai là rối đạo.
Đức Clêmentê VIII ca ngợi, khích lệ và cho phát hành cuốn giáo lý do Thánh Bellarminô soạn, trong đó có câu:
H. Đầy ơn phúc nghĩa là gì?
T. Đức Mẹ đầy ơn phúc, vì Người không hề mang vết nhơ tội lỗi, dù là Nguyên tội hay hiện tội, tội trọng hay tội hèn.
Đức Grêgôriô XV ban hành sắc lệnh có một điều đáng chú ý: Những ai phủ nhận Đức Mẹ Vô nhiễm phải tuyệt đối im lặng, vì sinh gương mù và chia rẽ giữa Giáo hội. Mẹ Maria đầu thai mà mắc tội là điều xúc phạm đến niềm tin của tín hữu. Tuy nhiên, được giữ tư kiến cho mình, vì vấn đề chưa được chính thức xác định.
Đức Alexanđrô VII là vị Giáo hoàng quan trọng thứ nhì sau Đức Piô IX trong việc định tín Mẹ Vô nhiễm. Trọng sắc "Sollicitudo Omnium Ecclesianum" của ngài có ba điều quan trọng:
1. Niềm tin Mẹ Maria Vô nhiễm là quan điểm đạo đức (Pia sententia).
2. Sự đầu thai nói về Mẹ Maria có nghĩa là Vô nhiễm.
3. Ngài giải thích các sắc lệnh của các vị tiền nhiệm xác nhận Mẹ Vô nhiễm.
Năm 1830, Đức Mẹ hiện ra ban cho Thánh Catarina Labouré tại Paris lời nguyện vắn tắt: "Lạy Mẹ Maria Vô nhiễm nguyên tội, xin cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi chạy đến cùng Mẹ".
Đức Grêgôriô XVI, vị tiền nhiệm của Đức Piô IX, đã dọn đường rất gần để tiến tới việc định tín. Ngài ban phép cho 133 giáo phận và hội dòng thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: "Nữ Vương chẳng hề mắc tội tổ tông, cầu cho chúng con". Sau này Đức Piô IX mới ấn định câu này trong kinh cầu Đức Bà cho khắp Giáo hội. Lòng sùng kính Mẹ Vô nhiễm đặc biệt của ngài ảnh hưởng sâu rộng trong Giáo hội. Từ năm 1840 đến 1844 có 86 đơn thỉnh nguyện xin định tín của các Hồng y, Giám mục nước Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Đức, và Trung Hoa, và năm 1849 thêm các đơn thỉnh nguyện của Công đồng Baltimore, Hoa kỳ.
Đức Piô IX đã được Thiên Chúa tuyển chọn để định tín Mẹ Vô nhiễm thai, nên lịch sử gọi ngài là Giáo hoàng của Mẹ Vô nhiễm. Từ năm 1846 đến 1849 có thêm 130 đơn thỉnh nguyện, nên ngài quyết tâm tiến hành:
Ngày 1-6-1848 ngài triệu tập Hội đồng Tư vấn gồm các nhà thần học nổi danh, với sứ mệnh thẩm xét vấn đề. Hội đồng Tư vấn biểu quyết tâu xin định tín.
Ngày 22-12-1848 một Hội đồng Tiền chuẩn bị gồm tám Hồng y và năm cố vấn họp tại Naples dưới quyền chủ toạ của Đức Hồng y Lambruschini. Hội đồng tâu xin Đức Thánh Cha gửi một thông điệp cho các Giám mục xin cầu nguyện và hỏi ý kiến.
Ngày 2-2-1849 Đức Thánh Cha liền ban hành Thông điệp "Ubi Primum". Ngài nhận được 603 thư hồi âm tâu xin định tín hoặc xin tùy sự quyết định của Đức Thánh Cha. Với đủ yếu tố trong tay, Đức Piô IX họp Cơ mật viện gồm các Hồng y để quyết định lần cuối cùng và ngài viết Thông điệp "Ineffabilis Deus" (L.m. Phêrô, CMC).
* Lạy Chúa Giêsu, nhờ Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, xin giúp chúng con luôn gìn giữ tâm hồn trinh trong.
Suy niệm 6: Hình thành tín điều-Tuyên tín
Phải mất một thời gian khá lâu mới hình thành tín điều này.
Ngày 8-12-1854, tại đại đền Thánh Phêrô, trước mặt 54 Hồng y, 42 Tổng Giám mục, 92 Giám mục, 300 các viên chức sắc gồm cả ngoại giao đoàn, cùng với chừng 50.000 linh mục, tu sĩ, và giáo dân từ nhiều quốc gia, Đức Piô IX trịnh trọng tuyên bố thông điệp bất hủ "Ineffabilis Deus", và với một giọng cương quyết oai nghiêm, ngài tuyên tín: "Do uy quyền của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, và của riêng Ta, Ta xác nhận, tuyên ngôn và định tín rằng: Rất Thánh Trinh Nữ Maria từ phút đầu thai đã được gìn giữ Vô nhiễm khỏi mọi vết nhơ nguyên tội, do đặc ân của Thiên Chúa toàn năng, nhờ công nghiệp của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu chuộc nhân thế. Tín lý này đã được Thiên Chúa mạc khải. Do vậy, tất cả mọi tín hữu phải tin kiên vững".
Đức Thánh Cha vừa dứt lời, tức thì bài thánh ca "Te Deum" cùng với âm nhạc và tiếng chuông đại đền thánh Phêrô vang lên trầm hùng, biểu lộ niềm phấn khởi hân hoan từ ngàn vạn con tim dào dạt sung sướng trước bước vinh quang của Mẹ Vô nhiễm. Đồng thời, bên ngoài, từng loạt đại bác tại lâu đài Thiên thần nổ vang trời, nhịp với chuông tất cả các đền thờ thành Rôma đổ hồi ngân vang reo mừng Mẹ. Các lâu đài, dinh thự và tất cả các tư gia đều kéo cờ tưng bừng, và đêm đến thì trưng đèn rực sáng để ghi dấu một biến cố vinh quang cho Mẹ Vô nhiễm và vẻ vang cho toàn thể Giáo hội.
Sau bốn năm, năm 1858, Đức Mẹ hiện ra với Thánh Bernađetta tại Lộ Đức nước Pháp. Mẹ xưng mình "Ta là Đấng Vô nhiễm thai" để xác nhận điều tuyên tín của Đức Piô IX.
Năm 1846 công đồng giáo tỉnh Baltimore cung hiến Giáo hội Hoa Kỳ cho Đức Mẹ Vô nhiễm. Và đền thánh Mẹ Vô nhiễm bổn mạng toàn quốc đã được xây cất tại Washington, D.C. Tại Việt Nam, từ năm 1855 đến năm 1862 dưới triều vua Tự Đức, việc cấm đạo khủng khiếp ác liệt hơn hết. Riêng giáo phận Bùi Chu và Hải Phòng đã có trên 2.000 người chết vì đạo. Bởi vậy, các thừa sai Tây Ban Nha tại Giáo phận Bùi Chu khấn dâng giáo phận cho Đức Mẹ Vô nhiễm và khấn hứa Đức Mẹ ban ơn bình an, giáo phận sẽ dâng kính Đức Mẹ một đền thờ rộng lớn. Quả thật đến năm 1888, phong trào cấm đạo chấm dứt. Nhưng mãi đến năm 1916 Giáo phận Bùi Chu mới khởi công kiến thiết đền thờ Đức Mẹ Vô nhiễm đồ sộ nguy nga kiểu Gothic bậc nhất Đông Dương tại Phú Nhai gần Bùi Chu, tới năm 1923 mới khánh thành, năm 1929 bị bão đổ, và năm 1933 được trùng tu uy hùng cho tới ngày nay.
Trải qua nhiều khó khăn sau bao thế kỷ, và nhờ ánh sáng của Chúa Thánh Linh qua Thánh kinh và Thánh truyền, Giáo hội đã đính thêm viên bích ngọc "Vô nhiễm" sáng chói trên vương miện Thiên Mẫu của Mẹ Maria. Chúng ta hãy vui mừng cảm tạ Chúa và Giáo hội, cách riêng Đức Sixtô IV và Đức Piô IX. Với hết tình ngoan thảo, chúng ta hãy hoan hỉ ca mừng chúc tụng Mẹ Vô nhiễm, đặc biệt trong dịp lễ tôn vinh Người (L.m. Phêrô, CMC).
* Lạy Chúa Giêsu, nhờ Mẹ Maria vô nhiễm nguyên tội, xin thanh luyện miệng lưỡi và tâm hồn chúng con để xứng dâng lên Chúa và Mẹ những lời ngợi ca hoan hỉ.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 07/12 Thánh Ambrôsiô (340?-397)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Ambrôsiô (340?-397)
"Ðức Kitô đã sai các tông đồ đi rao giảng mà không có vàng bạc, và cũng không cần vàng bạc để thành lập Giáo Hội của Người. Giáo Hội làm chủ vàng bạc, không phải để tích trữ, nhưng để phân phối và giúp đỡ những người kém may mắn." (Ambrôsiô)
Lược sử
Một trong các người viết tiểu sử về Thánh Ambrôsiô nói rằng: vào ngày Phán Xét Chung sẽ vẫn còn sự tách biệt giữa những người thích thánh nhân và những người cực kỳ ghét bỏ ngài. Thánh Ambrôsiô nổi tiếng là một người có những quyết định táo bạo ảnh hưởng đến đời sống của những người cùng thời.
Vào năm 33 tuổi, Thánh Ambrôsiô đã có tất cả mọi sự -- một sự nghiệp đầy hứa hẹn là luật sư, một vị thế quan trọng trong chính trường là tổng trấn Milan, ngoài ra ngài còn là người bạn và đồng chí với hoàng đế, cùng với một gia tài kếch sù.
Đức Giám Mục Ambrôsiô từ trần năm 397, khoảng 57 tuổi. Lễ kính được đặt vào ngày 7 tháng Mười Hai, là ngày ngài "bị" tấn phong giám mục.
Suy niệm 1: Phán Xét Chung
Vào ngày Phán Xét Chung sẽ vẫn còn sự tách biệt giữa những người thích thánh nhân và những người cực kỳ ghét bỏ ngài.
Ngày tận thế là ngày tận cùng của thế gian, lúc Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang để phán xét chung hết mọi người, và cho mọi sự được hoàn thành trong trời mới đất mới.
Như chúng ta đã biết, chúng ta sẽ trải qua 2 cuộc phán xét: riêng và chung. Phán xét riêng là phán xét riêng một mình ta, liên quan đến đời sống cá nhân của mình. Cuộc phán xét này xảy ra ngay khi ta chết (x. SGLC 1021- 1022). Phán xét chung là phán xét có tính tập thể và bổ túc cho cuộc phán xét riêng. Lúc đó sẽ công khai hóa tất cả những gì đã định đoạt trong cuộc phán xét riêng. Cuộc phán xét này sẽ xảy ra vào ngày tận thế khi thân xác sống lại kết hợp với linh hồn. Chúa sẽ thưởng phạt công khai tùy theo tội phúc của từng người đã làm khi còn sống ở trần gian này (x.SGLC 1001. 1038-1039).
Vào ngày tận thế, thế giới mới hay Trời Mới Đất Mới mà Chúa Giêsu đã bắt đầu khởi sự khi làm người được hoàn tất. Ngày đó, Chúa Giêsu, thủ lãnh vạn vật, sẽ thu họp tất cả trong Ngài trao lại cho Chúa Cha. Và như thế, ơn cứu độ đã hoàn tất. Nói tới Trời Mới Đất Mới là đã có trời cũ đất cũ. Trời cũ đất cũ là gì? Là công trình sáng tạo đầu tiên của Thiên Chúa, nhưng tội lỗi của con người đã làm đổ vỡ khiến Thiên Chúa phải tái tạo lại, gọi là sáng tạo mới.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống trong tinh thần chuẩn bị cái chết, để khi chết thì vượt qua được cuộc phán xét mà sống mãi với Chúa
Suy niệm 2: Quyết định
Thánh Ambrôsiô nổi tiếng là một người có những quyết định táo bạo ảnh hưởng đến đời sống của những người cùng thời.
Khi một số người Công Giáo bắt giữ một linh mục phe Arian và kết án tử hình, Đức Giám Mục Ambrôsiô đã nhân danh hòa bình xin tha cho vị linh mục này và nói rằng: Thiên Chúa sẽ phải đau khổ khi thấy cảnh máu chảy thịt rơi. Đức Ambrôsiô gửi các linh mục và phó tế của ngài đến giải thoát cho vị linh mục Arian này.
Vào Chúa Nhật Lễ Lá, trong bài giảng, Đức Giám Mục Ambrôsiô tuyên bố không nhường lại các nhà thờ. Cả giáo đoàn, vì lo sợ cho tính mạng, đã phòng thủ trong nhà thờ với vị chủ chăn là Đức Giám Mục Ambrôsiô. Quân triều đình bao vây chung quanh ngăn chặn mọi đường tiếp tế, để dân chúng vì đói mà phải ra đầu hàng. Cho đến ngày Chúa Nhật Phục Sinh, tất cả mọi người vẫn kiên trì phòng thủ. Khi chạm trán với lực lượng bao vây, Đức Giám Mục Ambrôsiô nói, "Vũ khí của tôi chỉ là nước mắt. Tôi không muốn từ bỏ nơi đây, nhưng tôi không chống cự bằng võ lực."
Để trấn an dân chúng đang khiếp sợ, Đức Giám Mục Ambrôsiô dạy họ hát thánh vịnh do chính ngài sáng tác. Ngài chia cộng đoàn làm hai bên để đối đáp. Đây là lần đầu tiên việc hát đáp ca được ghi nhận trong lịch sử Giáo Hội. Tiếng nhạc và lời kinh vượt ra ngoài bốn bức tường của thánh đường và làm rúng động tâm hồn các binh lính. Không bao lâu, chính họ cũng cất tiếng phụ họa. Sự vây hãm chấm dứt.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống kết hiệp mật thiết với Chúa để có được những quyết định sáng suốt mang lại hiệu quả ích lợi cho bản thân và tha nhân.
Suy niệm 3: Luật sư
Thánh Ambrôsiô đã có một sự nghiệp đầy hứa hẹn là luật sư.
Phe Arian tưởng rằng Ambrôsiô sẽ là giám mục "của họ" vì ngài từng là một viên chức của triều đình, và nhiều người trong chính quyền đều thuộc phe Arian.
Nhưng Ambrôsiô đã dùng sở trường của một luật sư và tài hùng biện để chống lại phe Arian bất cứ nơi nào, dù ở nhà thờ, triều đình, thượng viện, hay ngay cả trong hoàng tộc. Tính ngoan cố của ngài khi không chấp nhận chức giám mục lúc đầu, nay lại trở thành vũ khí trong cuộc chiến chống lại lạc giáo và giúp ngài quyết tâm theo đuổi sự thánh thiện.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các luật sư sống đúng chức năng là cán cân công lý của mình.
Suy niệm 4: Tổng trấn
Thánh Ambrôsiô đã có một vị thế quan trọng trong chính trường là tổng trấn Milan.
Vị giám mục của Milan từ trần. Vào lúc ấy, khoảng năm 374, nhiều tà giáo muốn tiêu diệt Giáo Hội. Vị cố giám mục Milan từng hậu thuẫn cho lạc giáo Arian chống lại giáo huấn về thiên tính của Đức Kitô. Vậy ai sẽ là người kế vị -- người Công Giáo hay người của phe Arian? Cả hai phe đụng độ nhau ở vương cung thánh đường và một cuộc bạo động xảy ra. Duy trì trật tự công cộng là trách nhiệm của quan tổng trấn Ambrôsiô, nên ngài vội vã chạy đến nhà thờ và hùng hồn lên tiếng, không ủng hộ phe phái nào cả, nhưng ủng hộ sự hòa bình. Ngài xin dân chúng hãy bình tĩnh, kềm chế sự nóng nẩy và chọn lựa giám mục mà không cần phải xô xát. Trong khi ngài đang nói, bỗng dưng có người hô to: "Bầu Ambrôsiô làm giám mục!" Thế là tất cả mọi người đều đồng thanh: "Ambrôsiô là giám mục!"
Các vị giám mục khác của tỉnh thì quá vui mừng khi được phủi tay trước vấn đề khó khăn này. Nhưng Ambrôsiô không dễ hy sinh một sự nghiệp đầy hứa hẹn để chấp nhận công việc của một giám mục đầy nguy hiểm -- một công việc ảnh hưởng đến tính mạng trong thời lạc giáo. Bởi thế Ambrôsiô bỏ trốn. Khi ngài cầu viện đến hoàng đế để thay đổi quyết định nói trên với lý do là ngài chưa rửa tội, vị hoàng đế lại tuyên bố rằng ông rất vui mừng khi chọn được quan tổng trấn thích hợp với chức giám mục. Ambrôsiô trốn tránh trong nhà của một nghị sĩ, nhưng ông này đã đem nộp Ambrôsiô khi ông biết quyết định của hoàng đế. Không còn biết trốn vào đâu nữa, Ambrôsiô ra đầu hàng. Vì ngài bị ép buộc phải chấp nhận chức giám mục, nên sẽ không ai ngạc nhiên nếu ngài vẫn tiếp tục lối sống cũ, như trước khi được tấn phong. Tuy nhiên, ngay sau đó Ambrôsiô đã phân phát tài sản cho người nghèo và tự đặt mình dưới sự chỉ dẫn của Thánh Simplician để học thần học và Kinh Thánh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con can đảm đón nhận lời mời gọi của Chúa và gia tăng học hỏi cho xứng với ơn gọi.
Suy niệm 5: Hoàng đế
Thánh Ambrôsiô còn là người bạn và đồng chí với hoàng đế.
Khi hoàng đế từ trần, Hoàng Hậu Justina, một người phe Arian, trở thành nhiếp chính cho đứa con trai bốn tuổi. Maximus, một cựu sĩ quan Rôma, biết rằng cái chết của hoàng đế sẽ làm suy yếu đế quốc nên dự định tấn công. Justina xin Ambrôsiô thương lượng với tên này. Mặc dù Justina là một kẻ thù, Ambrôsiô đã lên đường thi hành nhiệm vụ và đã thuyết phục được Maxima ngừng xâm lăng. Thay vì biết ơn Ambrôsiô, Hoàng Hậu Justina lại yêu cầu Đức Giám Mục Ambrôsiô trao lại vương cung thánh đường cho phe Arian. Thánh nhân trả lời rằng ngài không bao giờ nhường đền thờ của Thiên Chúa.
Dân chúng đứng về phe Đức Giám Mục Ambrôsiô. Ngài thừa khả năng để thực hiện cuộc đảo chánh lật đổ Justina. Nhưng ngài thận trọng không dùng bất cứ lời nói hay hành động nào để khích động dân chúng.
Sau đó Hoàng Hậu Justina thuyết phục con mình ban bố luật lệ để hợp pháp hóa lạc giáo Arian và cấm người Công Giáo không được chống đối người Arian. Không ai có thể đệ trình một thỉnh cầu chống với một tổ chức tôn giáo đang có thế lực.
Vì biết quân triều đình đang tập trung vào việc chống đối người Công Giáo, Maximus một lần nữa lại quyết định tấn công Rôma. Justina và hoàng tộc thật kinh hãi. Không biết trông vào ai, sau cùng họ lại quay về với người mà họ từng tấn công và đe dọa. Họ xin Đức Giám Mục Ambrôsiô đến gặp Maximus và ngăn chặn sự tấn công. Trong một hành động tha thứ có thể nói lạ lùng, Đức Giám Mục Ambrôsiô lại thi hành nhiệm vụ cho kẻ thù. Khi Maximus từ chối thỏa hiệp, ngài vội vã trở về để chuẩn bị. Justina và hoàng tộc trốn sang Hy Lạp, trong khi Đức Giám Mục Ambrôsiô ở lại chống đỡ. May mắn thay, vị hoàng đế đông phương là Theodosius đã can thiệp và đánh bại Maximus. Tuy nhiên, sau đó Theodosius đã chiếm quyền kiểm soát toàn thể đế quốc Rôma. Theodosius là người Công Giáo và sau này trở thành người bạn chí thiết của Đức Giám Mục Ambrôsiô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tích cực sống đức yêu thương tha thứ và phục vụ như lời Chúa dạy.
Suy niệm 6: Gia tài
Thánh Ambrôsiô đã có tất cả mọi sự cùng với một gia tài kếch sù.
Khi người Goth xâm chiếm đế quốc và bắt nhiều người làm con tin, Đức Giám Mục Ambrôsiô đã phải dùng chính tài sản của mình để chuộc. Ngài nói sự bác ái có giá trị nhất là chuộc kẻ tù đầy. Ngay cả các bình vàng của Giáo Hội, ngài cũng đem bán để lấy tiền chuộc. Ngài nói: "Cứu vớt các linh hồn cho Chúa thì tốt hơn là duy trì tài sản. Đức Kitô đã sai các tông đồ đi rao giảng mà không có vàng bạc, và cũng không cần vàng bạc để thành lập Giáo Hội của Người. Giáo Hội làm chủ vàng bạc, không phải để tích trữ, nhưng để phân phối và giúp đỡ những người kém may mắn."
"Chắc chắn Chúa sẽ hỏi chúng ta: 'Tại sao con lại để quá nhiều người nghèo đói? Vì con có vàng bạc, con phải cấp dưỡng cho họ'. Có thể nào chúng ta trả lời rằng: 'Vì con không muốn để đền thờ của Chúa không được trang hoàng.' Nhưng những gì không mua được bởi vàng bạc thì cũng không có giá trị bởi vàng bạc. Phương cách tốt nhất để sử dụng vàng bạc của Đấng Cứu Thế là hãy cứu vớt những người lâm cảnh hoạn nạn."
Đức Giám Mục Ambrôsiô luôn luôn lưu tâm đến người nghèo hơn là quyền lực. Ngài thường khiển trách người giầu khi lãng quên người nghèo: "Thiên Chúa tạo nên vũ trụ trong một phương cách để tất cả những gì là của chung sẽ đem lại no ấm cho con người, và trái đất là sở hữu chung của tất cả mọi người. Tại sao bạn lại từ chối một người cũng có quyền đối với thiên nhiên như bạn? Của cải bạn cho người ăn xin không phải của chính bạn, nhưng đó là phần của người ấy mà bạn phải hoàn trả cho họ. Trái đất thuộc về tất cả mọi người. Bởi thế, bạn đang trả nợ mà lại nghĩ đang ban bố một ơn huệ."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thực hành đức ái trọn hảo: Đã được ban nhưng không thì cũng cho nhưng không (Mt 10,8).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 06/12 Thánh Nicôla Giám Mục - (Thế kỷ IV)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Nicôla Giám Mục - (Thế kỷ IV)
Thánh Nicôla, vị đại thánh bình dân, nhưng chỉ tìm được tiểu sử 200 năm sau khi Ngài chết. Người ta có thể nói rằng: Ngài đích thực là giám mục Myra, đã hiện ra với vua Constantinô trong một giấc mơ. Sau đó dường như các nhà chép sử lại lẫn lộn với Nicola người Simon đã bị tù dưới thời Diocletianô, đã xây một tu viện và được chôn cất tại vương cung thánh đường thành Myra. Trừ sự kiện trên, nảy sinh ra nhiều huyền thoại và hơn nghìn năm sau, Thánh Nicôla nhân hậu đã thành danh tiếng khắp thế giới.
Huyền thoại kể lại rằng, ở Patara, thuộc tỉnh Lycia, hai vợ chồng giàu có Anna và Euphêmiô vì không con đã cố gắng tìm an ủi trong công việc từ thiện. Thiên Chúa chúc lành cho lòng bác ái của họ. Cuối cùng họ có được một mụn con và đăt tên cho con là Nicôla, có nghĩa là "sự chiến thắng của dân". Đây cũng là tên cậu Ngài, vị giám mục Myra.
Ông cậu đã tiên đoán rằng: Nicôla sẽ là "Mặt trời soi chiếu thế gian". Khi mới tắm rửa lần đầu, con trẻ đặc biệt này đã chắp tay, đứng trong thau nước hai giờ liền, mắt hướng về trời. Thứ tư và thứ sáu, Ngài không chịu bú cho tới chiều để ăn chay. Chị vú nuôi sợ Ngài chết, nhưng trái lại, Ngài đã trở nên một con trẻ kiêu hùng.
Nicôla có nhiều đức tính tốt như một trẻ em gương mẫu. Cha mẹ mất sớm. Nicôla thừa hưởng một gia tài kếch xù. Nhưng Ngài lại coi tất cả tài sản này như của Chúa cho vay. Người phân phát cho những người bất hạnh và thực hiện đức bác ái như một sự tế nhị dễ thương. Chẳng hạn một người cha có ba cô con gái, ông tính cho con làm nghề bất lương để có tiền cưới hỏi. Nhưng rồi đêm kia, ông thấy ba túi vàng chuyển qua cửa sổ, và có thể làm lễ cưới hỏi cách lương thiện cho các cô. Khi biết được người cho, ông đến xin Thánh Nicôla cầu xin ơn tha thứ cho dự tính đáng chúc dữ của mình. Rồi bất kể sự ngăn cấm của thánh nhân, ông đã kể lại khắp nơi cử chỉ bác ái của thánh nhân đã thực hiện để cứu 3 người phụ nữ khỏi cảnh bất lương như thế nào.
Nicôla đã ao ước hiến đời mình cho Thiên Chúa. Ông cậu giám mục của Ngài khi sắp chết đã truyền chức và đặt Ngài làm bề trên tu viện thánh Sion. Khi Ngài du hành qua Thánh địa, cơn bão nổi lên, các hành khách run sợ, Nicôla cầu nguyện cho họ và các cơn sóng dịu xuống, con tàu êm đềm theo đuổi cuộc hành trình. Những cuộc can thiệp khác nữa làm cho Thánh Nicôla trở thành Đấng bảo trợ những người vượt biển. Các thủy thủ làm chứng rằng khi bị đắm chìm, nhớ đến và cầu xin tới Ngài là thấy Ngài đến cầm tay lái đưa tới cảng, rồi biến đi...
Khi những người thoát nạn tới nhà nguyện tu viện tạ ơn, người ta ngạc nhiên vì thấy vị cứu tinh của mình đang chìm đắm trong kinh nguyện như không hề rời bỏ nơi này. Họ không cầm nổi những lời tán tụng biết ơn xuất phát tự cõi lòng, nhưng thánh nhân bảo họ: "Hãy chỉ nên ngợi khen Chúa về cuộc cứu thoát này, bởi vì đối với tôi, tôi chỉ là một tội nhân và một đầy tớ vô dụng."
Và Ngài đã cho biết rằng, nguy hiểm họ vừa trải qua là hình phạt vì các tội kín, cũng như sự hối lỗi của các thủy thủ đã cứu thoát họ.
Nicôla xuống Alexandria là nơi Ngài đã chữa lành các bệnh nhân, rồi đi thăm Thánh Antôn ở Ai cập. Sau cùng, Ngài đến Giêrusalem kính các nơi thánh và trải qua ít tuần trong hang mà Thánh Gia đã dừng lại khi trốn qua Ai cập. Nơi đây, sẽ xây cất một thánh đường Thánh Nicôla. Vừa mới trở về Myra, nơi các tu sĩ đang nóng lòng chờ đợi cha họ trở về, Ngài đã tăng gấp một cách lạ lùng đống bánh cho cả trăm người ăn.
Giám mục Myra qua đời, các giám mục miền Lycia cân nhắc để chọn vị mục tử mới. Một sứ giả từ trời xuống báo tin cho vị niên trưởng biết, người được chọn là linh mục Nicôla ngày mai sẽ tới mhà thờ trước hết. Trời vừa sáng, Nicôla tới nhà thờ theo lòng sốt sắng và nghe loan báo mình làm giám mục. Ngài muốn chạy trốn, nhưng phải theo ý nguyện của Đấng Cao Cả hơn mình, trời cao chúc lành cho Ngài: dịp lễ đầu tay, Thánh Nicôla đã làm cho một em bé bị phỏng sống lại. Từ kỷ niệm này, người ta hay kêu cầu thánh nhân những khi gặp nguy hiểm vì lửa.
Trở thành mục tử cả dân, thánh nhân rất cưng chiều những người bị áp bức, mồ côi, bệnh hoạn và tù tội hơn. Ban đêm, Ngài cầu nguyện, nghỉ một chút trên đất, ăn ngày một bữa, mặc áo quần khiêm tốn khác với hình ảnh ngày nay nhiều. Những y phục lộng lẫy theo hình vẽ ấy, Ngài chỉ mặc vào những ngày đại lễ.
Đời sống tín hữu xáo trộn vì những cuộc bách hại: vị giám mục bị lưu đày, đánh đập. Cuộc trở lại của vua Constantinô đem lại tự do. Trên đường về, Ngài rao giảng Chúa Kitô, cải hóa lương dân, phá đổ các đền thờ và ngẫu tượng. Ngài làm nhiều phép lạ như mưa. Các thế hệ tương lai, còn kể lại huyền thoại của ba đứa trẻ bị một đồ tể tham lam độc ác cắt cổ và để trong thùng muối ướp thịt đã sống lại nhờ lời cầu nguyện của Thánh Nicôla.
Các truyện có nhiều thêm thắt như: Truyện người gian giảo có cây gậy đầy vàng, truyện đứa trẻ bị quỉ giả bộ ăn xin bóp cổ, nhưng đã được thánh nhân cứu sống, truyện thánh nhân dàn xếp giữa thày thuốc với bệnh nhân hiếm muộn con cái, hứa tặng chén vàng mà khi được lại không giữ lời hứa. Gần với sự thực hơn là việc các nhà buôn lúa gạo ở Sycily nhờ sự bao bọc lạ lùng của giám mục đã nuôi những người đói mà không giảm thiểu của dự trữ. Vua Constantinô cũng mơ thấy thánh nhân đến gặp để cứu cuộc xử tội bất công của ba viên chức. Sau đó các người bị giữ kêu cầu Ngài giải cứu và được nhận lời bằng một phép lạ. Thế là các nạn nhân bị xử oan hay kêu cầu Ngài.
Sau khi hoàn tất bao nhiêu việc lành thiêng liêng lẫn vật chất, Thánh Nicôla muốn vào cõi đời đời. Bảo vệ giáo thuyết công giáo tinh tuyền, Ngài đã chống lại lạc giáo tham dự cộng đồng Nicea. Khi thấy sắp kết thúc cuộc đời. Ngài muốn lui về tu viện, nơi mà buổi thiếu thời Ngài đã tự hiến cho Thiên Chúa, và chính tại nơi đây, Ngài phú dâng linh hồn trong tay Chúa.
Năm 1087, Myra rơi vào tay người Thổ, người ta vội đưa hài cốt vị thánh về Bari gần Naples. Từ đó, huyền thoại đời Ngài lại lan rộng. Mỗi miền nói theo cách của mình. Dân ca Đông phương coi Ngài như một vị Chúa trên trời. Đối với người Nga, Ngài là thừa kế thần linh lo chuyện gặt hái. Siberia cho Ngài là người chế tạo rượu "bia".
Các vua nước Pháp sùng kính Ngài. Các chủ tịch luật sư đoàn cầm gậy có hình Thánh Nicôla. Bên tây phương, lễ Thánh Nicôla trở thành lễ của thiếu nhi vì làm sao các em lại không yêu mến vị thánh nhân hậu đã cứu ba đứa trẻ đi mót lúa được? Vị giám mục đầy huyền bí này sau cùng đã trở thành ông già Noel ngày nay.
Nguồn: Theo vết chân Người
Ngày 5/12 Thánh Sabas, Ẩn tu (trước năm 439)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Sabas, Ẩn tu (trước năm 439)
Ngài sinh tại Cappadocia (nay là Thổ Nhĩ Kỳ), là một trong các giáo phụ của Palestine và được coi là một trong những vị sáng lập đời sống tu trì Đông phương.
Tuổi thơ ngài không hạnh phúc, ngài bị lạm dụng và phải bỏ trốn vài lần, cuối cùng xin tị nạn trong một tu viện. Gia đình thuyết phục ngài trở về, nhưng ngài nhất quyết đi tu. Tuy còn trẻ nhưng ngài có tiếng nhân đức.
Lúc 18 tuổi, ngài đi Giêrusalem, tìm cách sống cô tịch. Ngài được coi là người hoàn toàn sống ẩn tu. Mới đầu ngài sống trong tu viện, ban ngày làm việc, ban đêm cầu nguyện. Lúc 30 tuổi, mỗi tuần ngài được phép sống 5 ngày trong một hang động hẻo lánh để cầu nguyện và đan rổ rá. Cố vấn của ngài là thánh Euthymiô. Sau khi thánh Euthymiô qua đời, thánh Sabas chuyển tới sa mạc gần Giêricô. Nngài sống vài năm ở đây trong một hang động gần suối Cedron. Ngài ăn cỏ dại mọc trên đá. Thi thoảng có người đem cho ngài ít thực phẩm khác, còn nước uống phải đi khá xa mới có.
Khi đã ngoài 50 tuổi, ĐGM thuyết phục ngài chịu chức linh mục để phục vụ và lãnh đạo tu viện. Khi làm viện phụ của một cộng đoàn lớn, ngài cảm thấy mình có ơn gọi sống ẩn tu. Vào các mùa Chay, ngài đi xa một thời gian. Khi thấy nhà dòng gặp khó khăn, ngài giúp đỡ nhiều.
Ngài đi khắp Palestine, rao giảng đức tin và đem được nhiều người về với giáo hội. Lúc 91 tuổi, theo lời của giáo phụ Giêrusalem, ngài tới Constantinople. Ngài bị bệnh, ngay khi vừa trở về thì ngài qua đời tại tu viện ở Mar Saba. Ngày nay, tu viện này vẫn có các tu sĩ Chính thống giáo Đông phương sống ở đó.
Ngày 4/12 Thánh Gioan Đa Mát
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Ngày 4 tháng 12
THÁNH GIOAN ĐA-MÁT
Linh Mục Tiến Sĩ
* Gương Thánh nhân
Thánh Gioan sinh năm 776 tại Đa-mát, nước Xy-ri, là nhà viết sách trứ danh thế kỷ thứ tám và là vị thánh có lòng tôn sùng Đức Mẹ đặc biệt.
Sẹt-gi-ô, cha ngài là người Công giáo ngoan đạo, nhưng được vương quốc Hồi giáo tín nhiệm, nên đặt làm nhân viên phục vụ triều đình. Chính nhờ chức vụ nầy mà ông cứu giúp được nhiều người tín hữu khỏi bị vua quan Hồi giáo áp bức bách hại, như trường hợp của tu sĩ Cốt-ma. Vị tu sĩ nầy bị nhóm Hồi giáo bắt và định giết. Ông Sẹt-gi-ô hay tin, liền đến xin vua cho lãnh về để làm thầy dạy cho con là Gio-an.
Gio-an nhờ được sự dạy dỗ nhiệt tình của tu sĩ Cốt-ma mà trở nên khôn ngoan đạo đức. Nhưng lúc đó cha ngài qua đời, ngài phải nối nghiệp cha phục vụ vương quốc Hồi giáo. Đây cũng là ý Chúa quan phòng muốn dùng ngài để cải hóa những người ngoại giáo cuồng tín. Một mặt ngài khuyên bảo họ đối xử công bình nhân ái đối với các tín hữu Công giáo, mặt khác ngài viết thư kêu gọi các Ki-tô hữu can đảm giữ vững đức tin. Nhưng việc ngài làm bị bại lộ. Một nhóm Hồi giáo thấy ngài được nhà vua trọng dụng thì ghen tương, tố cáo ngài xúi giục người Công giáo phản loạn. Nhà vua đòi ngài đến. Và mặc dầu ngài hết lời biện minh cho sự vô tội của mình, nhà vua cũng không chịu tin; ông ta ra lệnh chặt tay phải ngài, để cảnh cáo không cho ngài viết thư từ phản động nữa.
Hết sức đau đớn tủi nhục, thánh nhân trở về nhà, thành khẩn kêu xin Đức Mẹ cứu giúp. Ngài hứa; Nếu Đức Mẹ thuơng cho cánh tay bị chặt được nối liền lại thì suốt đời sẽ viết sách ca tụng Mẹ và Chúa Giê-su Con Mẹ. Tương truyền Đức Mẹ đã nhậm lời Người, cho cánh tay bị chặt được nối liền lại như cũ.
Khi nghe tin đó, vương quốc Hồi giáo không còn nghi ngờ vì sự vô tội của thánh nhân, nên cho đòi ngài đến, và ban lại chức tước quyền hành như trước. Nhưng ngài khước từ mọi chức tước danh vọng thế gian.
Ngài phân phát hết của cải cho người nghèo, rồi xin vào tu viện thánh Sa-ba, sống khắc khổ nghèo hèn, triệt để vâng lời Bề trên.
Lúc đầu, bề trên chưa tin tưởng, giao ngài cho một tu sĩ cao niên chăm sóc. Vị tu sĩ nầy rất khắc khe nghiêm nhặt, cấm không cho ngài viết lách gì, và bắt làm những việc nặng nề hèn hạ, cố ý thử thách ngài. Nhưng ngài vẫn âm thầm vâng phục chịu lụy, sẵn sàng chịu mọi khổ nhục vì Chúa.
Sau khi thấy thánh nhân thực lòng yêu mến Chúa và tuân phục hoàn toàn, Bề trên cho ngài học thần học Thánh Kinh, và phong chức Linh mục cho ngài. Từ đó, ngài dùng hết thời giờ, và sự hiểu biết để viết sách và sáng tác thánh thi, ca ngợi Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a, như lời ngài đã hứa. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ngài là cuốn "Nguồn gốc sự hiểu biết".
Một việc thánh nhân làm đặc biệt lúc đó là bênh vực việc sùng kính ảnh tượng Chúa, Đức Mẹ và các thánh. Ngài tranh luận hùng hồn với những kẻ chủ trương đập phá các ảnh tượng. Và mặc dầu bị nhiều người đe dọa, trong số đó có cả hoàng đế Hy-lạp, ngài cũng không sợ và vẫn giữ vững lập trường.
Thánh nhân qua đời năm 880, hưởng thọ 104 tuổi. Và năm 1890, Đức Giáo Hoàng Lê-ô thứ 13 đã tôn phong ngài lên hàng Tiến sĩ Hội thánh.
* Quyết tâm
Noi gương thánh Gioan Đa-mát, tôi sẵn sàng hy sinh của cải chức tước thế gian mà theo Chúa, giúp việc Chúa, để giữ vững và củng cố niềm tin nơi Chúa.
* Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã cho Thánh Linh mục Gioan Đa-mát được biệt tài trình bày đức tin chân chính của Giáo hội. Nhờ lời chuyển cầu của thánh nhân, xin làm cho đức tin hằng trở nên ánh sáng soi đường, và sức mạnh thúc đẩy chúng con tiến bước. Chúng con cầu xin...
Ngày 03/12 Thánh Phanxicô Xaviê (1506-1552)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Phanxicô Xaviê (1506-1552)
Ðức Kitô hỏi, "Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?" (Mt. 16:26a). Câu hỏi trên đã trở thành lời tâm niệm của một giáo sư triết trẻ tuổi, với một tương lai đầy hứa hẹn trong giới kinh viện mà sự thành công, uy tín và vinh dự đang chờ đón.
Lược sử
Đức Kitô hỏi: "Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?" (Mt 16,26a). Vào lúc đó, Phanxicô Xaviê mới 24 tuổi, đang sinh sống và giảng dạy ở kinh thành Balê. Ngài không thay đổi ngay lập tức khi nghe những lời ấy, nhưng tất cả là nhờ ở người bạn tốt, Cha Ignatius ở Loyola, đã liên lỉ thuyết phục và sau cùng đã chiếm được người thanh niên ấy cho Đức Kitô. Sau đó, Phanxicô tập luyện đời sống tâm linh dưới sự hướng dẫn của Cha Ignatius, và năm 1534 ngài gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của Cha Ignatius (là Dòng Tên thời tiên khởi).
Từ Venice, là nơi ngài thụ phong linh mục năm 1537, Cha Phanxicô Xaviê đến Lisbon và từ đó ngài dong buồm đến Ấn Độ, cập bến làng Goa ở bờ biển phía tây nước Ấn.
Bất cứ chỗ nào ngài đến, ngài đều sống với người nghèo.
Cha Phanxicô đến các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản. Từ Nhật Bản, ngài mơ ước đến Trung Hoa, nhưng dự tính này không bao giờ thực hiện được. Ngài đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.
Năm 1622, ngài được Đức Giáo Hoàng Piô X phong thánh và đặt làm quan thầy các công cuộc truyền giáo nước ngoài.
Suy niệm 1: Đức Kitô hỏi
Đức Kitô hỏi: "Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?" (Mt 16,26a).
Thánh Phanxicô Xaviê sinh ngày 07.04.1506 tại lâu đài Xaviê trong Vương quốc Navarra ở phía bắc nước Tây Ban Nha. Cha thánh nhân là ông Jasso Xaviê, từng làm Bộ trưởng Tài chánh của vương quốc này năm 1472 và chủ tịch Hội đồng vương quốc năm 1485. Mặc dầu có rất nhiều tài sản và đất đai, ông Jasso Xaviê là một người rất đạo đức. Ông xây một nhà nguyện trong lâu đài vào thời gian Phanxicô chào đời. Ông cũng xây một nhà nguyện nhỏ gần lâu đài và có ba linh mục trông coi việc đạo. Phanxicô Xaviê được rửa tội trong nhà nguyện lâu đài và được giáo dục trong nhà từ thuở nhỏ cho đến khi trở thành thanh niên. Người ta nói rằng Phanxicô thường quì trong nhà nguyện dưới ánh đèn mờ nhạt và nói chuyện với Chúa Giêsu. Khi Ngài 5 tuổi, nước Tây ban Nha thôn tính và sát nhập Navarre khiến gia đình Ngài lâm cảnh nước mất nhà tan. Muốn tiến thân bằng con đường trí thức, năm 17 tuổi Ngài đến Paris học (1525-1536). Tám năm sau, Ngài tốt nghiệp văn chương và triết lý và trở thành giáo sư đại học tại đó. Ðược nổi tiếng nhờ trí thông minh, Phanxicô ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng thế tục.
Thành công làm cho ngài thành con người tham vọng. Inhaxiô nói với Ngài về một hội dòng mà thánh nhân muốn thành lập. Nhưng Phanxicô mơ tới danh vọng, Ngài chế nhạo cũng như khinh bỉ nếu sống nghèo tự nguyện của bạn mình. Inhaxiô vui vẻ đón nhận những lời châm biếm, nhưng lặp lại rằng: "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích lợi gì" Những tưởng vị giáo sư trẻ Phanxicô sẽ còn tiến xa hơn trên con đường công danh và sự nghiệp. Những lời của Chúa Giêsu đã đi sâu vào tâm hồn chàng trai Phanxicô Xavier, đã chinh phục và làm thay đổi hoàn toàn nơi vị giáo sư trẻ vốn thông minh và đầy tham vọng. Chúa đã hoàn toàn chiếm đoạt trái tim Thánh nhân, biến Ngài trở thành một khí cụ tuyệt vời cho cánh đồng truyền giáo. Inhaxiô còn đưa ra những lời cao đẹp hơn: - "Một tâm hồn cao cả như anh, không hề chỉ gò bó với cái vinh dự thế trần được. Vinh quang trên trời mới đúng với cao vọng của anh. Thật vô lý, khi ưa chuộng một thứ mây khói chóng tàn hơn là những của cải tồn tại đời đời".
Phanxicô bắt đầu thấy được cái hư không của những sự cao trọng của thế nhân và hướng vọng tới của cải vĩnh cửu. Tất cả những kho tàng trên đời này có giá trị gì nếu như chúng ta đánh mất điều thiết yếu nhất? Thành công và tán dương, vinh thắng và phần thưởng có ích gì nếu như sau cùng chúng ta thấy mình không được Chúa Giêsu đón nhận vào Nước Trời? Cả cuộc đời chúng ta khi ấy sẽ trở nên một sự lãng phí, thời gian quí báu trở nên con số không, và tất cả nỗ lực của chúng ta chỉ đưa đến thất bại não nề. Thánh Phanxicô Xavier coi trọng giá trị linh hồn bất tử của ngài cũng như của tha nhân, kể từ ngày Chúa Kitô trở nên tâm điểm đích thực của cuộc đời ngài. Kể từ đó, ngài chống lại tính kiêu căng bằng mọi loại sám hối. Ngài quyết định theo sát Phúc âm, vâng theo cách cư xử của người bạn thánh thiện và xin được khiêm tốn hãm mình. Nhiệt tâm với các linh hồn đã trở nên một đam mê sôi sục nơi ngài. Tâm hồn thánh nhân cảm nghiệm một sự thao thức vì các linh hồn. Hơn nữa, ngài còn sẵn sàng hiến dâng cuộc đời cho Chúa Kitô để đem lại phần rỗi cho các linh hồn, nghĩa là ngài chỉ còn chú tâm cứu rỗi các linh hồn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con được cháy lên ngọn lửa nhiệt thành vì các linh hồn hơn là công danh sự nghiệp ở đời.
Suy niệm 2: Gia nhập
Phanxicô Xaviê gia nhập cộng đoàn nhỏ bé của Cha Ignatius.
Tháng 9 năm 1525, Phanxicô đi học triết tại Ðại học Paris (Pháp). Chính nơi này, anh đã gặp và chịu ảnh hưởng của Thánh Inhaxiô Loyola. Ngày lễ Mông triệu năm 1533, trong một nhà nguuyện tại Monmartre, trên mộ bia thánh Dénis, Phanxicô, Inhaxiô và 5 bạn khác đã hiến mình cho Chúa. Họ khấn từ bỏ mọi của cải, hành hương thánh địa, làm việc để cải hóa lương dân và hoàn toàn đặt mình dưới sự điều động của Đức Thánh Cha để phục vụ Hội Thánh hầu làm cho danh Chúa được vinh quang hơn và mưu ích cho các linh hồn. Dòng Chúa Giêsu hay còn được gọi là Dòng Tên được ra đời từ đây mặc dầu chưa được giáo quyền chính thức nhìn nhận mãi cho đến ngày 27.09.1540. Phanxicô còn học thần học hai năm nữa, rồi cùng sáu bạn đi Italia. Đi đường, họ chỉ mang theo cuốn kinh thánh và sách nguyện trong bị, cổ đeo tràng hạt. Tuyết lạnh hay khắc khổ cũng không làm họ sợ hãi. Trái lại, Phanxicô lại còn cảm thấy quá êm ái nhẹ nhàng, nên một ngày kia đã cột giây thừng vào chân, khiến dây đó ăn vào thịt và ngay việc được khỏi bệnh đó cũng đã là một phép lạ. Ngày 24.06.1537, Phanxicô cùng với Inhaxiô và 4 anh em khác được Sứ thần Tòa Thánh phong chức linh mục tại Venetia (Ý). Phanxicô đã chuẩn bị thánh lễ mở tay bằng cuộc sám hối kéo dài 40 ngày trong một túp lều tranh bỏ hoang và sống bằng của ăn xin. Rồi do mối đe doạ chiến tranh lúc bấy giờ khiến những anh em đầu tiên của Dòng Tên không thể đi Giêrusalem, họ quyết định thực hiện lời khấn phục vụ Ðức Thánh Cha cùng thêm vào lời khấn vâng lời. Đức thánh cha đã chúc lành cho nhóm bạn cũng như dự định của họ. Năm 35 tuổi ngài xuống tàu đi truyền giáo ở vùng Đông Á theo lệnh Đức Thánh Cha Phaolô III.
Lòng nhiệt thành tông đồ cháy bừng trong tâm hồn thánh Phanxicô Xavier đã khiến ngài phải viết ra những lời sau đây trong thời gian truyền giáo tại Viễn Đông: ... "Vì không có linh mục, những người bản xứ hầu như chẳng biết họ thuộc về Chúa Kitô. Không ai cử hành thánh lễ và chẳng ai dạy cho họ về kinh Tin Kính hoặc kinh Lạy Cha... Vì thế, từ khi đến đây, tôi không có một giây phút nghỉ ngơi. Tôi tranh thủ đi từ làng này qua làng nọ, rửa tội cho các trẻ em, vì chúng chưa được lãnh nhận bí tích này. Cho đến nay, tôi đã rửa tội được một số rất đông các trẻ em, như người ta nói, cả những trẻ chưa biết phân biệt tay phải tay trái. Những đứa trẻ này không cho tôi đọc kinh thần vụ cho đến khi nào tôi dạy xong chúng một lời kinh nào đó mới thôi". Thánh Phanxicô Xavier suy nghĩ về hoàn cảnh của những người chưa bao giờ được nghe nói về Thiên Chúa. Những lời của Chúa Giêsu vẫn vang vọng: Mùa màng thì nhiều nhưng thợ gặt thì ít. Thánh Phanxicô Xavier đã xúc động vì lòng nhiệt thành với các linh hồn khi ngài viết: "Nhiều người quanh đây chưa trở thành tín hữu chỉ vì không có ai dạy cho họ sống đức tin. Tôi vẫn thường ước ao đi thăm các đại học ở Âu Châu, đặc biệt ở Paris, và la lớn như một người điên dại để đánh động những ai có nhiều kiến thức hơn là đức ái: có lẽ đã có nhiều linh hồn bị mất phúc thiên đàng chỉ vì sự hờ hững của các người! Nếu mọi người chúng ta, nam cũng như nữ, biết nỗ lực cứu các linh hồn bằng một nhiệt tâm như đã dành cho việc nghiên cứu học tập, thì khi ấy tất cả chúng ta mới có thể trả lẽ với Chúa về những nén bạc Người giao cho chúng ta".
* Lạy Chúa Giêsu, xin đốt lên trong tâm hồn chúng ta ngọn lửa tình yêu Chúa nồng nàn đã làm cho thánh Phanxicô Xavier cháy lên lòng nhiệt thành vì phần rỗi của các linh hồn.
Suy niệm 3: Ấn Độ
Phanxicô Xaviê dong buồm đến Ấn Độ.
Năm 1539, Phanxicô hăng hái lãnh sứ mạng nơi Ðức Giáo Hoàng Phaolô III là đem ánh sáng Phúc Âm đến cho dân tộc Ấn Ðộ.
Chỉ còn 24 giờ để chuẩn bị lên đường. Nhưng thế đã quá đủ để xếp đặt hành trang. Với vài bộ đồ cũ. Một thánh giá, một cuốn sách nguyện và một cuốn sách thiêng liêng. Ngài đáp tàu. Cuộc hành trình cực khổ vì say sóng. Đau bệnh, Ngài vẫn săn sóc các bệnh nhân. những thủy thủ hư hỏng dường như là đoàn chiên đầu tiên Ngài phải đưa về cho Chúa. Ngài rao giảng cho họ bằng chính việc chia sẻ cuộc sống với họ.
Sau một năm hành trình, Phanxicô cặp bến Goa, thủ đô miền Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha vào tháng 5 năm 1542. Ngài phát khóc vì vui mừng. Nhưng việc cấp thiết, nhất là phải làm cho những người chinh phục Bồ Đào Nha giữ đạo đã. Những tật xấu và tính hung hăng của họ làm ô danh Kitô giáo. Còn dân Ấn thì thờ ngẫu tượng. Vị tông đồ làm thầy thuốc, thẩm phán, giáo viên. Ngài học tiếng một cách khó khăn, thời gian của Ngài dành cho các nhà thương, nhà tù, người nghèo và việc dạy giáo lý. Rảo qua đường phố, ngài rung chuông tập họp trẻ em và dân nô lệ lại, với sự nhẫn nại vô bờ, ngài ghi khắc tình yêu Chúa vào lòng họ. Các trẻ em tham dự lại trở thành các nhà truyền giáo cho cha mẹ và thày dạy của chúng. Chúng mang thánh giá của "ông cha" cho các bệnh nhân. Chúng trở nên hung hăng với các ngẫu tượng. Bây giờ, các cánh đồng lúa vang lên được bài thánh ca. Dần dần, đời sống Kitô giáo đã vững vàng trong lòng các gia đình. Ngài ngủ ít, đêm thức khuya để cầu nguyện. Sống khắc khổ để đền tội cho các tội nhân. Ngài chăm chú đào tạo các tâm hồn thanh thiếu niên địa phương để sai đi làm tông đồ truyền giáo cho các người đồng hương của họ.
Các phép lạ củng cố lời giảng dạy của ngài, nhưng dân chúng bị đánh động nhiều hơn bởi đức tin và lòng can đảm của người ngoại quốc này đã từ xa đến để loan báo cho họ chân lý duy nhất. Ở tỉnh Travancore, trong vòng một tháng, thánh nhân đã rửa tội cho 10.000 người. Người Brames muốn hạ sát Ngài, nhưng ngài đã giữ được mạng sống một cách lạ lùng dưới cơn mưa tên. Ở vương quốc Travance, khi nhóm người man-di muốn tràn ngập, Phanxicô cầm thánh giá trong tay với một số ít tín hữu đã làm cho họ phải tháo lui. Ngài mang Tin Mừng tới Ceylanca, Malacca. Các đảo Molluques vang danh vì sự hung tợn của họ, nhất là đảo của dân More ở phía Bắc...
Mười một năm trường nhiệt thành với nhiệm vụ loan báo Tin Mừng, đời sống Thánh nhân là một cuộc hành trình không ngừng. Ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Bước chân ngài len lỏi qua khắp các thành thị cũng như thôn quê để rao giảng Phúc Âm Chúa Giêsu. Tiếng Ngài vang vọng từ Ấn Ðộ, Tích Lan, Indonésia, Malacca, đảo Moluques đến Nhật Bản.... Riêng tại Ấn Ðộ, Ngài đã đem về cho Chúa hàng trăm ngàn linh hồn và rửa tội cho nhiều vị Quân vương cũng như gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi.. Dù vậy, ngài luôn ấp ủ một tâm hồn khiêm nhường hiếm có. Ngài thường quì gối để viết thư cho Thánh Ignatiô là bề trên của mình. Chúa đã hổ trợ lòng nhiệt thành của Thánh nhân bằng nhiều phép lạ phi thường. Thành quả tông đồ của ngài đã tạo nên một đỉnh cao trong lịch sử truyền giáo của Hội Thánh.
Chuyện kể lại rằng, một đêm kia, trong lúc ngủ, thánh Phanxicô đã kêu lên: "mas, mas, mas". Và sau này, chính ngài giải thích: "Tôi thấy công việc truyền giáo quá mênh mông, nhiều mệt nhọc và nhiều ưu phiền gây nên bởi đói khát, giá lạnh, các chuyến ra đi, những vụ đắm tàu, những cuộc bách hại, những phản bội và nhiều hiểm nguy khác... được gửi đến cho tôi; vì lòng yêu mến mà chính Chúa ban cho tôi và với ơn trợ giúp của Người, tôi chịu đựng được. Vì thấy chưa đủ, tôi xin Người ban thêm và luôn luôn thêm mãi; nên tôi đã thốt lên những lời 'mas, mas, mas', có nghĩa là: 'nhiều hơn nữa, nhiều hơn nữa, nhiều hơn nữa'". Những lời "nhiều hơn nữa" của Thánh Phanxicô dường như là những thúc đẩy thần bí làm cho thánh nhân hoàn toàn tận hiến cho Chúa Kitô để ơn cứu độ của Người đến được với các linh hồn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hãy mạnh dạn nói về Chúa cho những người xung quanh nghe; và hãy nói về những người xung quanh cho Chúa nghe.
Suy niệm 4: Người nghèo
Bất cứ chỗ nào ngài đến, Phanxicô Xaviê đều sống với người nghèo.
Trong khi chờ đợi bắt đầu thực hiện công việc vĩ đại của mình, ngài rao giảng và săn sóc cho người nghèo trong các nhà thương. Ngài còn phải chiến thắng chính mình nữa, chẳng hạn khi băng bó các vết thương lở loét. Ngài luôn đi ăn xin thực phẩm.
Sau bảy tháng hành trình, người ta dừng lại bến Mozambique. Khí trời ngột ngạt. Một cơn bệnh dịch đang hoành hành nơi đây. Phanxicô lại săn sóc các bệnh nhân và muốn sống đời cực khổ nhất. Ngài lặp lại: "Tôi khấn sống nghèo khó, tôi muốn sống và chết giữa người nghèo". Ngài chia sẻ thức ăn và các phương tiện thô sơ với họ. Ngài dành rất nhiều thời giờ để chăm sóc người đau yếu, nghèo khổ, nhất là người cùi. Rất nhiều khi ngài không có thời giờ để ngủ hoặc ngay cả để đọc kinh nhật tụng, nhưng, qua các thư từ ngài để lại chúng ta được biết, ngài luôn tràn ngập niềm vui.
Như thế Thánh Phanxicô Xaviê là vị tông đồ truyền giáo vĩ đại, người tiên phong cho cuộc truyền giáo thời mới. Ngài hòa nhập vào dân mà ngài muốn mang Tin Mừng đến; ngài sống nghèo với những người lao động. Ngài hoạt động thật năng nổ cho cuộc truyền đạo và kích thích được tinh thần này ở Âu Châu. Hàng nghìn người đã theo gương ngài để mang Tin Mừng đi muôn phương.
Tất cả mọi người chúng ta đều được mời gọi để "ra đi và rao giảng cho muôn dân" (x. Mt 28,19). Chúng ta không nhất thiết phải đi đến những nơi xa xôi để rao giảng, mà hãy rao giảng ngay trong gia đình, cho con cái, vợ chồng, và những người cùng làm việc với chúng ta. Và sự rao giảng không chỉ bằng lời nói, nhưng còn qua đời sống hàng ngày. Chính nhờ sự hy sinh, từ bỏ tất cả những gì của riêng mình, mà Thánh Phanxicô mới có tự do để đem Tin Mừng đến cho người khác. Hy sinh là quên đi cái tôi của mình vì lợi ích cao cả hơn, lợi ích của sự cầu nguyện, lợi ích khi giúp đỡ người có nhu cầu, lợi ích khi lắng nghe người khác.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống tinh thần truyền giáo bằng việc biết quên mình mà giúp đỡ tha nhân, đặc biệt người nghèo khổ.
Suy niệm 5: Nhật Bản
Cha Phanxicô đến các quần đảo ở Mã Lai, và Nhật Bản.
Ngày 15.08.1999 đánh dấu kỷ niệm 450 năm ngày Thánh Phanxicô Xaviê đặt chân đến Nhật rao truyền Tin Mừng Ðức Kitô.
Khi vua Bồ Ðào Nha xin Ðức Thánh Cha gửi các thừa sai qua qua miền đông Ấn Ðộ, Cha Inhaxiô đã cử Cha Phanxicô Xaviê. Ngày 07.04.1541, Cha Phanxicô đáp thuyền rời Lisboa, thủ đô Bồ Ðào Nha, đi truyền giáo tại Á Châu. Hôm đó là ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 35 củûa ngài. Từ năm 1541 đến 1549, ngài đi rao giảng tại Ấn Ðộ, Tích Lan (Sri Lanka), Moluccas và Malacca (Mã Lai).Tại Goa (Ấn Ðộ), Cha Phanxicô gặp gỡ một người Nhật tên là Yajiro (Anjiro),
Trên đường về Nhật, vì gặp bão lớn, anh phải quay trở lại Malacca. Thế là vào trung tuần tháng 12, 1547, anh đã gặp Cha Phanxicô tại Nhà thờ Santa Maria trên một ngọn đồi nhìn xuống thị trấn Malacca. Từ cuộc gặp gỡ này, cuộc đời anh Yajiro thay đổi qua những lời giáo huấn của Cha Phanxicô về Chúa Giêsu. Ðồng thời, Cha Phanxicô cũng tỏ ra quan tâm đến việc truyền giáo một nước Nhật nào đó mà Cha chỉ biết qua lời kể của anh Yajiro. Rồi Yajiro theo học tại Trường Thánh Phaolô ở Goa (Ấn Ðộ). Ngày 20.05.1548, Yajiro được rửa tội và là người Kitô hữu đầu tiên của Nhật. Tên thánh của Yajiro là Phaolô.
Ngày 15.08.1549, Cha Phanxicô và Yajiro đặt chân đến Kagoshima, quê nhà của Yajiro. Sau một cuộc hội kiến với Lãnh chúa Takahisa Shimazu, Cha Phanxicô được phép thực hiện sứ vụ thừa sai. Trong những ngày làm việc tại Kagoshima, ngài đã rửa tội hơn 100 người, trong đó có Bênađô vốn là một tay hiệp sĩ đạo. Không biết tên Nhật chính thức của Bênađô là gì, nhưng sau khi đượïc rửa tội, Bênađô đã giúp việc cho Cha Phanxicô trong khi ngài ở Nhật.
Ðược giấy phép của Lãnh chúa Kagoshima, Cha còn đi giảng ở Hirado, Yamaguchi và Sakai. Tháng 1, 1551, cùng với Bênađô, Cha Phanxicô đi Kinh đô Kyoto để hội kiến với Hoàng đế Nhật. Tuy nhiên, lúc đó Kyoto đang tan hoang vì đang xảy ra cuộc nội chiến, Cha Phanxicô không thể gặp Hoàng đế hay giấy phép đi giảng khắp nước Nhật. Thế là hai người đành phải trở lại Kyushu. Tháng 4, 1551, Cha Phanxicô hội kiến với Lãnh chúa Yoshikata Ouchi ở Yamaguchi, được tiếp đón niềm nở. Tại Yamaguchi, Cha đã rửa tội cho hơn 500 người. Tháng 9, 1551, theo lời mời của Lãnh chúa Yoshishige Otomo ở Oita, ngài đến đó giảng đạo.
Ngày 15 tháng 11, 1551, ngài rời Nhật, kết thúc công việc thừa sai tại đây sau 2 năm và 3 tháng. Cùng đi với ngài có Bênađô, người đã tận tụy giúp ngài thi hành sứ vụ thừa sai tại Nhật. Trung tuần tháng 2, 1552, họ đến Goa (Ấn Ðộ). Sau đó, Bênađô được gửi đi học tại Lisboa (Bồ Ðào Nha) và trở thành tu sĩ Dòng Tên. Tháng 12, 1555, Bênađô được yết kiến Ðức Thánh Cha Phaolô IV, và là người Nhật đầu tiên được gặp một Ðức Giáo Hoàng. Bênađô từ trần vào cuối tháng 12, 1557 khi đang học thần học ở Ðại học Combra, Bồ Ðào Nha.
Nhưng sau đó, cuộc bắt đạo xảy ra một cách tàn khốc, như cuộc bắt đạo năm 1597 và thời kỳ từ 1614 đến 1651. Các nhà thừa sai bị cấm đến Nhật trong hai thế kỷ và chỉ có thể trở lại vào giữa thế kỷ 19. Dẫu vậy, đạo Công Giáo vẫn tiếp tục phát triển qua những cuộc bắt bớ. Tự do tôn giáo tại Nhật được bảo đảm tại Nhật kể từ năm 1889 và hàng giáo phẩm Nhật được thiết lập năm 1891. Hiện Giáo hội Công Giáo Nhật có 3 Tổng Giáo phận, 13 Giáo phận, 1 Hồng y, 4 Tổng Giám mục, 25 Giám mục, 1792 linh mục triều và dòng, 6 phó tế vĩnh viễn, 225 chủng sinh, 273 tu huynh, 6.649 nữ tu và gồm tất cả độ 500.000 người Công Giáo (0.35%) trong tổng số dân là 126.000.000 người.
Trong vòng 2 năm (1549-1551) ngài đã thành lập một cộng đoàn tín hữu ở Nhật Bản ; trước khi ra đi, ngài trao lại cho một Linh mục Bồ đào Nha; 20 năm sau, cộng đoàn này đã lên đến 30 ngàn. Cuối cùng vì muốn vào Trung Hoa truyền đạo, ngài đã đến đảo Thượng Xuyên ngay cửa khẩu Quảng Châu, để chờ thuyền lén lút đưa ngài vào Trung quốc. Tiếc rằng tại đây ngài ngã bệnh và qua đời trong một chòi tranh chỉ có anh thanh niên trẻ thông dịch viên bên cạnh. Vài tuần lễ sau, người ta từ Goa đến tìm xác ngài, đem về Goa để chôn cất.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có được những ước muốn lành thánh cho Chúa và Giáo Hội.
Suy niệm 6: Từ trần
Cha Phanxicô đã từ trần trước khi đặt chân đến phần đất này.
Khi đang trên đường đến gần Trung Hoa thì Ngài ngã bệnh và từ trần ngày 02 tháng 12 năm 1552 tại đảo Tân Châu (Sancian) ngoài khơi Hongkong bây giờ, mình nằm dựa vào một thân cây, mắt nhìn về nước Trung Hoa vĩ đại, bên cạnh một người bạn duy nhất, không được chịu các phép cuối cùng. Giữa cơn đau, Ngài đã lập lại: "Lạy Chúa Giêsu, con vua David, xin thương xót con, xin thương đến các tội con". Ngài dứt tiếng và không nhận ra được các bạn hữu nữa. Khi hồi tỉnh, ngài lại kêu cầu Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu và nài xin Đức Mẹ: "Lạy Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, xin hãy nhớ đến con". Sau đó, ngài chết một cách lặng lẽ. Lúc đó, Cha Phanxicô được 46 tuổi và sau 12 năm rao giảng tại Châu Á.
Một người Trung Hoa thấy Ngài hấp hối thì đặt vào tay ngài một cây nến. Phanxicô qua đời ngày 03 tháng 12 năm 1552. Thi thể ngài được chôn tạm thời trên một sườn đồi ở Ðảo Tân Châu. Ba tháng sau, thi thể ngài được bốc lên và đưa về Malacca trên chiếc thuyền Santa Cruz, chiếc thuyền đã đưa ngài đi Châu Á truyền giáo cách 12 năm trước đó. Ðược biết, khi thủy thủ trên thuyền mở nắp quan tài, thân xác ngài trông như còn sống. Về đến Malacca, quan tài ngài được đưa vào Nhà thờ Santa Maria và sau đó lại được đưa về Goa (Ấn Ðộ) chôn cất trọng thể. Tại đây, khi người ta mở quan tài của ngài ra lần nữa, tức là 1 năm và 3 tháng sau khi Cha Phanxicô chết, họ thấy xác Thánh của Ngài được Chúa gìn giữ nguyên vẹn và tốt đẹp, mắt bên phải mở ra và linh động như còn sống, da còn tốt nguyên. Năm 1614, theo lệnh của Cha Bề trên Tổng quyền Dòng Tên là Claudio Aquaviva, cánh tay phải của ngài được lấy ra khỏi thánh thể, đưa về nhà dòng Mẹ tại Rome, đặt trong Nhà thờ Giêsu của Trung ương Dòng tại Roma, đặt bên cạnh di tích của Thánh Ignatiô, vị sáng lập Dòng. Năm 1949, nhân kỷ niệm 400 năm Thánh Phanxicô đặt chân đến Nhật, cánh tay phải của ngài được đưa từ Roma về Kagoshima và sau đó đem đi khắp nước Nhật. Tháng 10 năm 1999, cánh tay của thánh nhân đã được đưa trở lại Kagoshima lần thứ hai.
Xác Ngài được lưu giữ và tôn kính tại Vương cung Thánh đường Chúa Giêsu Thành Goa bên Ấn Ðộ. Từ tháng 1/1974 đến 1/1975, xác Thánh được trưng bày và tôn kính trong những cuộc lễ long trọng, 500 ngàn người đã dự cuộc kiệu ngày bế mạc. Báo Newsweek số ra ngày 30-4-1974 có viết về sự kiện: "Xác Thánh được gìn giữ thật nguyên vẹn một thật cách lạ lùng, như người nằm ngủ."
Năm 1619, Đức Thánh Cha Phaolô V đã suy tôn chân phước cho Ngài cùng với thánh Ignatiô. Và ngài được Đức Thánh Cha Grêgôriô XV phong thánh cùng với thánh Ignatiô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhiệt thành sống cho Chúa suốt đời để được chết trong Chúa và được hưởng phúc vinh quang.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 02/12 Chân Phước Rafal Chylin'ski (1694-1741)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Rafal Chylin'ski (1694-1741)
Chân Phước Rafal Chylin'ski nổi tiếng và có sức thu hút mọi tầng lớp xã hội về sự đơn sơ, các bài giảng bộc trực, sự độ lượng cũng như sự siêng năng giải tội.
Lược sử
Sinh ở Buk trong tỉnh Poznan, Ba Lan, ngay từ nhỏ cậu Melchior đã cho thấy những dấu hiêu thánh thiện, và mọi người trong gia đình thường gọi cậu là "thầy nhỏ." Sau khi học xong ở trường của các cha Dòng Tên ở Poznan, Melchior gia nhập đoàn kỵ binh, và chỉ trong vòng ba năm, ngài đã được lên chức chỉ huy.
Vào năm 1715, trái với sự khuyên lơn của các sĩ quan đồng đội, Melchior gia nhập dòng Phanxicô ở Krakow, lấy tên là Rafal, và hai năm sau đó ngài được thụ phong linh mục. Ở những nơi đặt chân đến, ngài đều nổi tiếng về sự đơn sơ, các bài giảng bộc trực, sự độ lượng cũng như sự siêng năng giải tội.
Cha Rafal có tài chơi đàn thụ cầm, đàn "lute" và "mandolin" để phụ họa cho các bài thánh vịnh. Ngài được phong chân phước ở Warsaw vào năm 1991.
Suy niệm 1: Thầy nhỏ
Mọi người trong gia đình thường gọi Rafal là "thầy nhỏ."
Sở dĩ ngài được gọi như thế là vì ngay từ nhỏ, ngài đã có những biểu hiện của một đời sống thánh thiện như một thầy.
Thật vậy Đức Giêsu, Đấng thánh tuyệt đối, thuở ấu thơ hằng sống vâng phục Thánh Giuse và Đức Maria trong gia đình Nadarét (Lc 2,51). Ngài cũng nêu lên tinh thần ham học hỏi, vì thế khi có cơ hội được hội kiến các bậc thầy, Ngài tận dụng triệt để (Lc 2,46). Nhất là Ngài nghiêm túc giữ luật lệ đề ra, do đó mãi đến lứa tuổi được phép là 12, Ngài mới có thể theo gót cha mẹ đi dự lễ Vượt Qua được tổ chức hằng năm ở Đền Thánh Giêrusalem (Lc 2,41-42).
Theo gương thánh thiện của Đức Giêsu, Rafal cũng sống ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ trong gia đình. Đến trường, ngài cũng chăm chỉ học hành, đặc biệt không có thái độ gian dối khi trả bài hay làm bài, và tuyệt đối không bỏ học trốn đi rong chơi dầu có bị bạn bè xấu nết cù rũ. Trong giáo xứ, ngài siêng năng đi đọc kinh dâng lễ, nghiêm trang với các cử chỉ đứng, quỳ, ngồi, và giữ im lặng trong nhà thờ lúc không phải thưa hoặc hát, chuyên cần và chăm chỉ học giáo lý theo sự sắp xếp của Cha Quản Xứ, tuyệt đối không bao giờ đùa nghịch hay phá phách.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp giới thiếu nhi biết sống đạo đức ngay từ nhỏ để chuẩn bị cho một tương lai thánh thiện sẽ tới theo tuổi.
Suy niệm 2: Đơn sơ
Rafal đều nổi tiếng về sự đơn sơ, các bài giảng bộc trực, sự độ lượng cũng như sự siêng năng giải tội.
Thế nào là đơn sơ thực sự theo quan điểm của Thánh Phanxicô Assisi:
Đức đơn sơ là con của ơn thánh, em của đức khôn ngoan, mẹ của đức công bằng. Đấng thánh gắng sức thực thi nhân đức ấy nơi bản thân và yêu mến những ai có nhân đức ấy. Không phải bất cứ thứ đơn sơ nào cũng được ngài đề cao, song phải là đơn sơ tìm được thỏa nguyện nơi một mình Thiên Chúa, và xem thường mọi sự khác. Nhân đức này đặt niềm tự hào trong lòng kính sợ Thiên Chúa, và không làm hay nói điều gì xấu. Nhân đức này tự xét lấy mình và không xét đoán lên án bất cứ ai. Nhân đức này thích làm hơn là nói hoặc dạy. Trong việc giải thích các luật lệ Chúa truyền, nhân đức đơn sơ bỏ qua những lời lẽ dài dòng, văn vẻ hoa mỹ, những thứ phô trương kiến thức, khoe khoang và cầu kỳ. Đức đơn sơ không tìm cái da bên ngoài nhưng tìm cái cốt tủy, không tìm cái vỏ mà tìm cái nhân, không tìm lượng cho đông mà tìm phẩm cho tốt, đi tìm điều thiện hảo tối cao và trường cửu.
Nhân đức này là điều Cha Thánh muốn thấy hơn cả nơi các anh em, dù là giáo sĩ hay giáo dân. Ngài không nghĩ rằng sự đơn sơ trái ngược với đức khôn ngoan, nhưng đúng thực là em của khôn ngoan, tuy những ai nghèo về học thức có được đức đơn sơ dễ dàng hơn và họ đem ra ứng dụng cũng mau chóng hơn. Vì thế trong bài kinh Kính Chào Các Nhân Đức do ngài soạn, có câu: "Kính chào Nữ Hoàng Khôn Ngoan! Nguyện xin Chúa bảo vệ bà cùng với Người Em của bà là thánh đức Đơn Sơ tinh tuyền!"
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống hiền lành và đơn sơ như chim bồ câu (Mt 10,16).
Suy niệm 3: Bài giảng
Rafal đều nổi tiếng về sự đơn sơ, các bài giảng bộc trực, sự độ lượng cũng như sự siêng năng giải tội.
Bài giảng của ngài có sức thu hút là vì ngài đã sống những gì ngài rao giảng. Người dân thuộc mọi tầng lớp xã hội đều bị thu hút bởi lối sống đầy hy sinh trong thiên chức linh mục của ngài. Chính vì thế sau khi ngài từ trần, nhà thờ dòng Phanxicô ở thành phố ấy trở nên địa điểm hành hương của mọi người dân trên khắp nước Ba Lan.
Chính Đức Giêsu đã đánh giá việc giảng mà không sống là giả hình, khi khuyên bảo quần chúng: hãy giữ những gì họ nói, nhưng đừng làm theo những việc họ làm (Mt 23,3). Biết để trình bày thì tốt, nhưng quan trọng hơn là phải thực hiện sự hiểu biết ấy (Lc 10,28). Đồng thời hãy ý thức rằng không nói về bản thân mà nói về Thiên Chúa như chính Lời của Thiên Chúa (1Pr 4,11), do đó cũng hãy tự xét lời ấy phát xuất từ cá nhân hay tù Thiên Chúa (1Cr 14,36).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống lời giảng trước khi giảng.
Suy niệm 4: Độ lượng
Rafal đều nổi tiếng về sự đơn sơ, các bài giảng bộc trực, sự độ lượng cũng như sự siêng năng giải tội.
Độ lượng thì khác với khoan dung. Khoan dung có nghĩa là có lòng nhân đạo, khoan hồng, tha thứ cho một người nào đó do bị phạm tội mà biết sửa chữa lỗi lầm của mình. Còn độ lượng có nghĩa là con người có lòng rộng lượng, tốt bụng, có chừng mực và mức độ rõ ràng để giúp đỡ mọi người gặp khó khăn trong công việc, trong cuộc sống hằng ngày.
Sau khi thi hành mục vụ trong chín thành phố, cha Rafal trở về Lagiewniki (thuộc miền trung Ba Lan), là nơi ngài sống 13 năm còn lại trong quãng đời ngắn ngủi, không kể đến 20 tháng chăm sóc nạn nhân lũ lụt và bệnh dịch ở Warsaw. Khi ở Lagiewniki, ngài phân phát thực phẩm, đồ tiếp tế và quần áo cho người nghèo. Chinh lối sống độ lượng của ngài đã được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gói ghém trong bài giảng lễ phong chân phước một lời nguyện rằng: "Xin Chân Phước Rafal luôn nhắc nhở chúng ta rằng mỗi một người chúng ta, dù là kẻ tội lỗi, cũng được mời gọi để nên thánh và sống bác ái" (Trích trong tờ L'Observatore Romano, 1991, tập 25, số 19).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sống độ lượng theo gương thánh nhân như một bước đường nên thánh.
Suy niệm 5: Giải tội
Rafal đều nổi tiếng về sự đơn sơ, các bài giảng bộc trực, sự độ lượng cũng như sự siêng năng giải tội.
Giải tội tập thể là gì? Theo LM Gioan Bùi Thái Sơn Đại Diện Tư Pháp giáo phận Sài gòn: "Giải tội tập thể" hay "xá giải chung" (general absolution) là việc linh mục cử hành nghi thức Giải Tội bí tích cho một tập thể hối nhân, mà trước đó không có xưng tội riêng từng người. Đây là một trường hợp rất đặc biệt, không phải là việc được phép thực hành thường xuyên trong Giáo hội.
Kể từ Công đồng Tridentinô vào thế kỷ XVI, Giáo hội Công giáo khẳng định: "Việc xưng tội riêng (cá nhân) và xưng tội đầy đủ cùng với việc xá giải là cách duy nhất và thông thường, nhờ đó một tín hữu ý thức mình có tội trọng được hòa giải với Thiên Chúa và Giáo hội; chỉ có sự bất lực thể lý hay luân lý mới miễn chuẩn việc xưng tội như trên; trường hợp này, việc hòa giải cũng có thể được thực hiện bằng những cách khác". Như vậy, lý do duy nhất có thể miễn xưng tội riêng là bất lực thể lý hay luân lý; chẳng hạn: tình trạng bản thân đau ốm hay không có linh mục giải tội nào có thể gặp được; hay lý do tâm lý như hối nhân quá sợ hãi đến mức tâm thần (hysteria) khi xưng tội cá nhân.
"Giải tội tập thể" trở thành ngoại lệ đầu tiên vào năm 1915 và 1939, khi Đức Bênêđictô XV và Đức Piô XII dành cho các vị Giám Mục năng quyền đặc biệt để: các linh mục tuyên úy quân đội được Giải Tội tập thể cho các quân nhân trước khi ra trận. Hiện nay, các quy định về "Giải tội tập thể" được nêu trong Bộ Giáo Luật 1983 điều 960-963; và Đức Gioan Phaolô II đã giải thích chi tiết trong tông thư dưới dạng motu proprio Misericordia Dei (07.02.2002).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con yêu quý Bí tích Hòa Giải vốn có thể giúp chúng con sống phù hợp với những lời của Đức Kitô đã ảnh hưởng đến đời sống chúng con.
Suy niệm 6: Chơi đàn
Cha Rafal có tài chơi đàn thụ cầm, đàn "lute" và "mandolin" để phụ họa cho các bài thánh vịnh.
1. Giáo Hội đã nói gì về nhạc cụ dùng trong Phụng Vụ ? Từ lâu Giáo Hội vẫn quý trọng và đề cao việc dùng Đại quản cầm trong phụng vụ. Âm thanh của loại đàn này làm "tăng vẻ huy hoàng cho các lễ nghi lại có hiệu lực nâng cao tâm trí lên cùng Chúa và những sự trên trời.Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện nay, ta vẫn có thể dùng những nhạc cụ khác tùy theo sự phán đoán và phê chuẩn của thẫm quyền địa phương, miễn là đã hoặc có thể thích hợp để dùng vào việc Thánh, xứng đáng với vẻ tôn nghiêm của thánh đường và thật sự giúp cảm hóa các tín hữu.
2. Ban Thánh nhạc HĐGMVN đã nói gì về nhạc cụ dùng trong PV ?Ở Việt Nam, việc xử dụng nhạc cụ trong PV đã được thẫm quyền địa phương "phán đoán và phê chuẩn" như thế nào? Cho đến nay, ta chưa hề thấy có một thông cáo nào chính thức đề cập đến nhạc cụ dùng trong PV, ngoại trừ Thông Cáo số 1 của HĐGMVN về Thánh Nhạc. "Trong khi chờ đợi những quy định cụ thể của HĐGM, cần lưu ý và thi hành ngay những điều sau đây:
a.Tiếng hát trong PV chiếm ưu thế, nên luôn phải rõ ràng, các nhạc cụ khác chỉ là đệm theo nên "không bao giờ được lấn át tiếng hát" (Tự sắc Tra le Sollecitudini, số 16). Không được vuốt tay lên phiếm đàn, nhất là organ và piano.
b.Chúng ta có thể dùng organ điện tử trong PV, nhưng: - Những nút "điệu" chỉ nhắm dùng cho sinh hoạt đời. Do đó không nên dùng trong PV. Tuy nhiên có thể dùng lúc luyện tập để quen giữ đúng nhịp. - Phải lựa chọn các nút âm thanh thích hợp với thánh ca (ví dụ organ, violin...), tránh dùng những âm thanh xa lạ với phượng tự vì sẽ gây chia trí hơn là giúp cầu nguyện.- Khi xử dụng các nhạc khí như organ điện tử, guitar, dàn trống, dàn kèn, dàn nhạc hòa tấu...không được dùng các điệu jazz và các điệu phát xuất từ đó để đệm cho người hát khi cử hành phụng vụ." Từ khi có thông cáo của HĐGMVN về thánh nhạc cho đến nay, ngót muời hai năm, vẫn chưa thấy có "những quy định cụ thể " nào về nhạc cụ xử dụng trong Phụng Vụ. Hiện tại, có lẽ đàn organ điện tử được dùng nhiều nhất trong Phụng vụ, hầu hết trong các nhà thờ xứ, cũng như trong các dòng tu và các Đại Chủng Viện. Tiếng đàn thích hợp với thánh ca đã được Ban thánh nhạc đề nghị trước tiên là tiếng organ. Tại sao thế? Tại sao tiếng organ lại chiếm ưu thế trong phụng vụ mà không phải là âm thanh của các nhạc cụ khác? Thiết tưởng là vì từ trước, đàn harmonium đã được dùng rất lâu trong phụng vụ ở Việt nam, nó đã có một chỗ đứng trong văn hóa của người Công Giáo Việt Nam. Nên chọn tiếng organ vì so với nhiều tiếng đàn khác đã được lưu ở organ điện tử, tiếng organ xem ra gần giống với tiếng harmonium. Trong khi đó thì những âm thanh khác không quen thuộc, gợi lên một sự chia trí, làm cho các tín hữu khó tập trung để cầu nguyện. (Sr Maria Đông An).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng các nhạc cụ làm sao để đạt được kết quả: hát là cầu nguyện hai lần.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 01/12 Thánh Edmund Campion (c. 1581)
- Ngày 30/11 Thánh Anrê
- Ngày 29/11 Thánh Gioan ở Monte Corvino (1247-1328)
- Ngày 28/11 Thánh James ở Marche (1394-1476)
- Ngày 27/11 Thánh Francesco Antonio Fasani (1681-1742)
- Ngày 26/11 Thánh Catarina Alexandria, Tử đạo (qua đời khoảng năm 310)
- Ngày 25/11 Thánh Clêmentê I, giáo hoàng, tử đạo (St. Clement 1)
- Ngày 24/11 Lễ kính Các thánh Tử Đạo Việt Nam
- Ngày 23/11 Thánh Giáo Hoàng Clement I (c. 101)
- Ngày 22/11 Thánh Cecilia (Thế kỷ III)