Gương Thánh Nhân
Ngày 03/1 Kính Thánh Danh Chúa Giêsu (1815 - 1888)
- Viết bởi Trầm Thiên Thu
Kính Thánh Danh Chúa Giêsu (1815 - 1888)
Thánh Danh Chúa Giêsu có sức mạnh vô song, và gọi tên Ngài cũng là một cách cầu nguyện.
Thánh Danh Chúa Giêsu có sức mạnh vô song, và gọi tên Ngài cũng là một cách cầu nguyện.
Sử gia H.G. Wells, người Anh, công nhận: "Tôi là một sử gia, tôi không có niềm tin tôn giáo, nhưng tôi phải thú thật với tư cách một sử gia rằng nhà thuyết pháp nghèo kiết xác này (penniless preacher) đến từ Nadarét lại chính là trung tâm của lịch sử. Ông Giêsu Kitô là nhân vật nổi bật nhất trong toàn lịch sử nhân loại". Quả thật, dù không tin ra mặt nhưng người ta vẫn ngầm tin Chúa Giêsu là "siêu nhân" đích thực.
Kinh thánh nói về Đức Kitô: "Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ" (Cv 4:12).
Theo truyền thống, Giáo hội Công giáo dành tháng Giêng để tôn kính Thánh Danh Chúa Giêsu. Qua lòng tôn sùng này, Giáo hội nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của Thánh Danh Đức Kitô, đồng thời khuyến khích chúng ta cầu nguyện nhân Danh Ngài. Trong các lời nguyện trong phụng vụ, chúng ta thấy Giáo hội luôn kết lời nguyện bằng câu: Chúng con cầu xin nhân Danh Đức Giêsu Kitô, Chúa của chúng con. Giữ Thánh Danh Ngài trên đôi môi của chúng ta là cách tốt để bảo đảm rằng chúng ta luôn tiến đến gần Ngài, đặc biệt trong tháng này. Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng lạm dụng Thánh Danh Chúa Giêsu, vì Mười Điều Răn dạy: "Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ".
Từ rất sớm, các Kitô hữu đã hiểu rằng chính Thánh Danh Chúa Giêsu có sức mạnh vô song, và gọi tên Ngài cũng là một cách cầu nguyện. Lời cầu nguyện ngắn gọn này là sự kết hợp của việc hành đạo và lời cầu nguyện của người thu thuế trong dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế (x. Lc 18:9-14). Có thể đó là cách cầu nguyện phổ biến nhất trong Kitô giáo Đông phương, cả Chính thống giáo và Công giáo, họ dùng "dây cầu nguyện" (sợi dây có thắt nhiều nút) tương tự như tràng hạt của Tây phương.
Ngày nay, chúng ta thường xuyên nghe tiếng kêu Thánh Danh Chúa Giêsu và thấy Tên Ngài có ở nhiều nơi, nhất là khi gặp nguy hiểm và bị hàm oan. Hàng ngày, chúng ta rất nhiều lần kêu cầu Thánh Danh Chúa Giêsu, đặc biệt lúc 3 giờ chiều, tại nhiều nhà thờ trên thế giới, điệp khúc Thánh Danh Chúa Giêsu được vang lên râm ran: "Vì cuộc Khổ nạn Đau thương của Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót chúng con và toàn thế giới" và "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài". Khi lần Chuỗi Mân Côi, chúng ta cũng nhiều lần kêu cầu Thánh Danh Chúa Giêsu: "Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con...". Đặc biệt là khi chúng ta đau bệnh, hoặc chăm sóc bệnh nhân, Thánh Danh Chúa Giêsu không ngừng được kêu cầu: "Giêsu...".
Lòng sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu là dạng cầu nguyện ngắn gọn thể hiện lòng khao khát, đôi khi được thốt ra như một phản xạ có điều kiện. Nghĩa là Thánh Danh Chúa Giêsu được chúng ta kêu cầu nhiều lần trong ngày.
Xin hãy nghe chính Chúa Giêsu nói: "Thầy bảo thật: anh chị em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh em nhân danh Thầy. Cho đến nay, anh chị em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn" (Ga 16:23). Chúa Giêsu nói như vậy vừa khuyến khích vừa khuyến cáo mỗi chúng ta.
Kinh cầu Thánh Danh Chúa Giêsu đã được các thánh Bernardine Siena và Gioan Capistrano biên soạn từ đầu thế kỷ XV. Sau khi diễn tả Chúa Giêsu bằng nhiều Danh hiệu và kêu cầu Ngài thương xót chúng ta, kinh cầu này có lời kêu xin Chúa Giêsu giải thoát chúng ta khỏi mọi sự dữ và các mối nguy hiểm mà chúng ta phải đối mặt trong cuộc sống.
Từ lâu, một bài thánh ca quen thuộc thường được sử dụng trong Chúa nhật XXXIV thường niên hàng năm (lễ Chúa Kitô Vua), của cố Lm Ns Vinh Hạnh, có câu: "Khi nghe Tên Thánh Chúa Giêsu, các tầng trời bừng sáng, các tà thần chạy trốn, khắp trái đất khiếp run". Thật vậy, ngay cả những người ngoại giáo cũng cảm thấy "có gì đó khác lạ" khi nghe hoặc nhắc đến Thánh Danh Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu được tôn xưng bằng nhiều danh hiệu: Con Thiên Chúa, Con Đấng Tối Cao, Ngôi Lời, Con Một, Con Người, Emmanuel (Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta), Con Abraham, Con Vua Đavít, Con Đức Maria, Con Thánh Giuse, Con bác thợ mộc, Con Yêu Dấu, Thánh Tử, Thiên Tử, Trưởng Tử, Linh mục thượng phẩm, Tiên tri Vĩ đại, Người Tôi tớ Đau khổ, Tội nhân, Vua các Vua, Chúa các Chúa, Đấng Cứu độ, Thiên sai, Đấng Được Xức Dầu, Chiên Thiên Chúa, Đấng Gánh Tội Trần Gian, Đấng Chăn Chiên Lành, Người Cha Nhân Hậu, Cửa Chuồng Chiên, Gốc Giessê, Cây Nho, Bánh Hằng Sống, Ánh sáng Thế gian, Sức mạnh của Người nghèo, Giao ước Mới, Thành lũy, Núi đá, Nơi Trú ẩn, Mạch suối, Tảng đá Góc tường, Đấng Bào Chữa, Người Được Tuyển Chọn, Vua Công Chính, Hoàng tử Bình an, Đường, Sự thật, Sự sống, Đầu và Cuối, Anpha và Ômêga,... Người ta tính có đến hơn 200 danh xưng dành để tôn xưng Chúa Giêsu Kitô.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết tin cậy và yêu mến Thánh Danh Ngài không ngừng trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi và mọi lúc, để chúng con nhờ chính Thánh Danh Ngài mà được cứu độ. Chúng con cầu xin nhân Danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
Ngày 2/1 Thánh Basil Cả (329 - 379)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Basil Cả (329 - 379)
"Thực phẩm mà bạn không dùng là thực phẩm của người đói; quần áo bạn treo trong tủ là quần áo của người trần truồng; giầy dép bạn không dùng là giầy dép của người chân không; tiền bạc bạn cất giữ là tiền bạc của người nghèo; hành động bác ái mà bạn không thi hành là những bất công mà bạn đã phạm." (thánh Basil)
Lược sử
Thánh Basiliô đang là một thầy giáo nổi tiếng thì ngài quyết định theo đuổi đời sống tu trì nghèo hèn của Phúc Âm. Sau khi tìm hiểu các phương thức tu trì, có thể nói ngài là người sáng lập đan viện đầu tiên ở Tiểu Á. Ngài nổi tiếng đối với các vị ẩn tu Đông Phương, cũng như Thánh Bênêđitô nổi tiếng ở Tây Phương, và quy luật ngài viết đã ảnh hưởng đến đời sống đan viện Đông Phương mãi cho đến ngày nay.
Sau khi thụ phong linh mục, ngài phụ tá cho Đức Tổng Giám Mục của Xêdarêa (bây giờ là vùng đông nam Thổ Nhĩ Kỳ) và sau cùng chính ngài trở thành tổng giám mục, bất kể sự chống đối của các giám mục phó, có lẽ vì ngài đã nhìn thấy những canh tân cần thiết. Trong nhiệm vụ của một tổng giám mục, ngài siêng năng học hỏi và làm việc liên lỉ. Điều này giúp ngài được gọi là "Vĩ đại" ngay trong thời của ngài và là Tiến Sĩ Hội Thánh sau khi ngài chết.
Vào thời ấy, một trong những nguy hại nặng nề cho Giáo Hội là bè rối Arian (họ khước từ thiên tính của Đức Kitô). Hoàng đế Valen bách hại đạo chính thống, và ép buộc Đức Basiliô phải giữ im lặng và chấp nhận cho những người bè rối được rước lễ. Đức Basiliô giữ vững lập trường, và Valen phải nhượng bộ. Nhưng khó khăn vẫn còn. Khi vị đại thánh Athanasiô từ trần, trách nhiệm che chở bảo vệ đức tin chống với bè rối Arian đổ xuống trên Đức Basiliô. Ngài cố gắng khủng khiếp để kết hợp và phục hồi những người Công Giáo theo ngài đang bị tan nát vì sự bạo ngược và vì chia rẽ nội bộ. Có thể nói sự chiến thắng tà thuyết Arian trong Công Đồng Nicê và việc lên án tà thuyết này trong Công Đồng Côngtantinốp năm 381-382, phần lớn là do công lao của ngài.
Ngài làm việc không biết mệt trong công việc mục vu, chống với nạn buôn thần bán thánh, giúp đỡ nạn nhân của hạn hán và đói kém, cố gắng thay đổi hàng giáo sĩ, nhấn mạnh đến tinh thần kỷ luật, ngài không sợ lên án những điều xấu xa một khi được nhận thấy, và ra vạ tuyệt thông những ai dính líu đến nạn mãi dâm ở Capađôcia.
Đức Basiliô nổi tiếng là một nhà diễn thuyết. Các văn bản của ngài, dù thời ấy không nổi tiếng, đã đưa ngài lên hàng các bậc thầy của Giáo Hội. Bảy mươi hai năm sau khi ngài từ trần, Công Đồng Cancêđoan đã đề cập đến ngài là "Đức Basiliô vĩ đại, người thừa tác ơn sủng đã dẫn giải chân lý cho toàn thể trái đất."
Suy niệm 1: Học hành
Thánh Basiliô Cả quả là một thầy giáo chân chính, khi ý thức rằng sự hiểu biết của mình chỉ là hạt cát trên biển cả. Không lạ gì, dầu vốn là một thầy giáo nổi tiếng, ngài vẫn không ngừng tiếp tục học hỏi và tìm hiểu đến suốt đời, ngay cả thời gian đang giữ chức vụ tổng giám mục.
Là vị Tôn Sư được Thiên Chúa sai đến, như thủ lãnh Nicôđêmô xưng tụng (Ga 3,2), Đức Giêsu ngay từ thuở còn niên thiếu đã thấu hiểu chân lý: "Núi này cao còn có núi khác cao hơn". Nên vào dịp hành hương Giêrusalem, Ngài đã hiện diện giữa các thầy Dothái, vừa nghe vừa đặt câu hỏi để trau dồi thêm kiến thức (Lc 2,46).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương thánh Basiliô Cả để say mê việc học hỏi, nhất là học hỏi Lời Chúa. Đừng bao giờ bỏ qua những cơ hội trước mắt, chẳng hạn như giờ giáo lý, giờ giảng lễ, giờ suy niệm Tin Mừng... Đồng thời cũng xin giúp chúng con luôn biết thực hành những gì đã lãnh hội được, vì hành tức là cách học hữu hiệu nhất.
Suy niệm 2: Nghề nghiệp
Nghề thầy giáo không kiếm được nhiều tiền bằng kinh doanh, nhưng vẫn luôn được đánh giá là một nghề thanh cao, đoan chánh. Nhất là một thầy giáo đạt tới đỉnh cao của việc thành danh như một Basiliô. Nhưng để theo Chúa, để làm môn đệ Chúa thì phải từ bỏ mọi sự, kể cả nghề nghiệp mình.
Basiliô đã quyết định theo đuổi nếp sống tu trì, làm linh mục, và sau đó làm tổng giám mục của Xêdarêa. Matthêu cũng đã từ bỏ nghành thu thuế để trở thành tông đồ của Chúa. Các ngư phủ Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan cũng từ bỏ chài lưới và thuyền bè để thành những kẻ lưới người như lưới cá.
* Lạy Chúa Giêsu, xin phù trì cho bao người thành tâm thiện chí nhưng đang gặp phải hoàn cảnh bị thất nghiệp. Xin giúp họ sớm có việc làm, và dĩ nhiên việc làm ăn chân chính. Nghề nghiệp chân chính không có nghề nào thấp hèn, chỉ có con người thấp hèn thôi.
Suy niệm 3: Quy luật
Người sống vô kỷ luật là hạng người tiểu nhân luôn bị người mọi thời phỉ báng. Thánh Phaolô đã từng lấy làm khổ tâm khi phát hiện ngay trong cộng đoàn kitô-hữu cũng hiện diện số người ấy, họ chẳng làm việc gì mà việc gì cũng cứ xen vào (2Tx 3,11).
Để tránh tình trạng đó, Basiliô đã dày công nghiên cứu và viết ra một số quy luật vốn có ảnh hưởng mãi cho đến ngày nay. Vẫn biết các tiểu tiết đều phải được thay đổi cho phù hợp với bước tiến của mỗi thời đại, nhưng nét chính yếu thì vẫn mãi trường tồn.
Là con người luôn nhấn mạnh đến tinh thần kỷ luật, ngài không sợ lên án những điều xấu xa một khi được nhận thấy, và ra vạ tuyệt thông những ai dính líu đến nạn mãi dâm ở Capađôcia. Ngài làm tất cả chỉ nhằm bảo vệ kỷ cương cho cộng đoàn, cũng như duy trì trật tự trong xã hội.
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường rất nhạy cảm về mặt tiêu cực của Lề Luật, với tính gò bó, cứng nhắc, nặng nề. Xin giúp chúng con mở rộng tầm nhìn đến mặt tích cực hơn: phương thế thể hiện tình mến Chúa yêu người, con đường dễ nhất để nên thánh, rào cản bảo vệ đời sống trọn lành.
Suy niệm 4: Chống đối
Chó sói đối xử với nhau như chó sói (lupus). Con người xử sự với con người lại hung dữ hơn cả chó sói (lupior). Giáo sĩ cư xử với giáo sĩ thì lại hung dữ và mưu mô ở bậc cao nhất (lupissimus).
Sự thật cay đắng và phủ phàng này đã ứng dụng chính xác vào trường hợp của Thánh Basiliô. Chiếc ghế Tổng Giám Mục Xêdarêa đã trở thành ngòi nổ đốt cháy hết mọi điều hay lẽ phải nơi các mục tử đã dày công tu luyện và hiện đang giữ chức vụ giám mục phó, khiến các ngài tỏ thái độ chống đối ngài ra mặt.
Vào thế kỷ thứ 19, Thánh Linh Mục Gioan Bốtcô cũng đã phải trải qua kinh nghiệm đau thương này. Khi mở ra đường hướng giáo dục cho các thiếu niên "bụi đời", nhiều linh mục đã chống đối ngài đến mức vu cáo ngài bị điên và lập mưu đưa ngài vào nhà thương điên.
* Lạy Chúa Giêsu, xin thương đến hàng giáo sĩ. Dầu là bậc tu trì, nhưng các ngài không phải là thiên thần mà vẫn là con người, với nhân tính đã bị thương tổn bởi tội nguyên tổ. Xin giúp các ngài luôn là những mục tử nhân lành theo gương Đức Giêsu.
Suy niệm 5: Làm việc liên lĩ
Ở dưng là cội rễ mọi sự dữ. Thấu hiểu lời dạy ấy của cổ nhân, thánh Basiliô đã chọn hướng sống là làm việc liên lĩ. Ngoài thì giờ dành cho các việc thiêng liêng và công tác mục vụ của một tổng giám mục, ngài đầu tư thời gian cho việc chống với nạn buôn thần bán thánh, giúp đỡ nạn nhân của hạn hán và đói kém. Nhất là ngài viết ra quy luật cho đan viện, cũng như các văn bản nhằm bảo vệ đức tin mọi tín hữu trước hiểm họa của bè rối Arian.
Làm việc liên lĩ không chỉ nhằm tránh sự dữ, mà còn là quy luật sống hoàn thiện. Không lạ gì, Thiên Chúa vốn là Đấng ba lần thánh cũng hằng làm việc, và Đức Giêsu vốn là hiện thân của Thiên Chúa tại thế cũng làm việc không ngừng (Ga 5,17). Các tông đồ cũng theo gương ấy để làm việc đêm ngày (1Tx 2,9). Ngay cả loài kiến cũng kiên trì làm việc để trở nên khôn (Cn 6,6).
* Lạy Chúa Giêsu, vẫn biết người biếng nhác việc bổn phận mình là anh em với quân phá hoại (Cn 18,9), nhưng chúng con vẫn thường thích lối sống nhàn cư, xin Chúa thứ tha và giúp chúng con từ nay theo gương thánh Basiliô, để mãi mãi siêng năng làm việc, hầu được hoàn thiện như Cha trên trời (Mt 5,48).
Suy niệm 6: Giữ lập trường
Trong một buổi họp bàn hội ý, nói chung ai cũng dễ giữ vững lập trường, thậm chí sẵn sàng lớn tiếng tranh cãi và chống đối các ý kiến bất đồng. Nhưng với trường hợp bị đe dọa và bị cưỡng bức trước vũ lực đầy quyền uy thì sao? Đó là thảm cảnh của thánh Basiliô, khi hoàng đế Valen ép buộc ngài phải giữ im lặng và chấp nhận cho những người bè rối được rước lễ. Ngài đã cương quyết giữ vững lập trường, bất chấp hậu quả, khiến cuối cùng Valen đã phải nhượng bộ.
Đức Giêsu vào hội đường ngày sa-bát và bắt gặp một người bị bại tay với ước mong được chữa lành. Tranh thủ cơ hội này để tố cáo và kết tội Đức Giêsu vi phạm luật, nhóm Pharisêu đã chất vấn và dò xét Ngài. Bất chấp hậu quả, Đức Giêsu ra tay cứu giúp bệnh nhân theo lập trường: Con Người làm chủ ngày sa-bát, khiến họ căm tức bàn bạc tìm cách giết Ngài (Mt 12,14).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con kiên quyết giữ vững lập trường: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm" (Cv 5,29), cho dầu phải bị điệu ra tòa, bị đòn vọt và thậm chí phải hy sinh mạng sống.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 01/1 Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa
Ðức Maria đóng một vai trò quan trọng trong sự Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Vai trò làm mẹ Thiên Chúa của Ðức Maria đã đặt ngài vào một vị trí độc đáo trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Lược sử
Vai trò người mẹ siêu phàm của Đức Maria đã triển khai tính cách đặc biệt của biến cố Giáng Sinh. Đức Maria đóng một vai trò quan trọng trong sự Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Ngài chấp nhận lời mời của Thiên Chúa đã được sứ thần đưa tin (Lc 1,26-38). Bà Êlizabét đã phải xưng tụng: "Em có phúc hơn mọi người nữ, và phúc thay người con trong lòng em. Bởi đâu tôi được người mẹ của Chúa tôi đến thăm?" (Lc 1,42-43). Vai trò làm mẹ Thiên Chúa của Đức Maria đã đặt ngài vào một vị trí độc đáo trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Tuy không nhắc đến tên Đức Maria, Thánh Phaolô khẳng định rằng "Thiên Chúa đã sai Con Ngài, sinh bởi một phụ nữ, sinh ra dưới chế độ luật" (Gl 4,4). Thánh Phaolô còn nói thêm "Thiên Chúa đã sai thần khí Con Ngài đến trong tâm hồn chúng ta, để kêu lên "Abba, Lạy Cha!" giúp chúng ta nhận thức rằng Đức Maria là mẹ của tất cả các người em Đức Giêsu. Một số thần học gia còn nhấn mạnh rằng vai trò làm mẹ Đức Giêsu của Đức Maria là một yếu tố quan trọng trong chương trình tạo dựng của Thiên Chúa. Ý tưởng "đầu tiên" của Thiên Chúa trong sự tạo dựng là Đức Giêsu. Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, là Đấng có thể dâng lên Thiên Chúa tình yêu và sự thờ phượng tuyệt hảo nhất thay cho mọi tạo vật. Một khi Đức Giêsu có trong tâm trí của Thiên Chúa "đầu tiên", thì "thứ đến" phải là Đức Maria vì ngài đã được chọn từ thuở đời đời để làm mẹ Đức Giêsu.
Danh hiệu "Mẹ Thiên Chúa" đã có từ thế kỷ thứ ba hay thứ tư. Từ tiếng Hy Lạp Theotokos (người mang Thiên Chúa), danh xưng ấy đã trở thành nền tảng cho giáo huấn của Giáo Hội về sự Nhập Thể. Công Đồng Êphêsô năm 431 nhấn mạnh rằng các thánh Giáo Phụ đã có lý khi gọi đức trinh nữ rất thánh là Theotokos. Vào lúc cuối của công đồng đặc biệt này, đám đông dân chúng diễn hành trên đường phố, miệng hô lớn: "Ngợi khen đấng Theotokos!" Truyền thống ấy vẫn còn tiếp diễn cho đến ngày nay. Trong chương về vai trò của Đức Maria trong Giáo Hội, hiến chế Tín Lý về Giáo Hội của Công Đồng Vatican II đã gọi Đức Maria là "Mẹ Thiên Chúa" đến 12 lần.
Suy niệm 1: Chấp nhận là khước từ
Để chấp nhận lời mời gọi của Thiên Chúa, Đức Maria đã phải khước từ chính mình, ngay cả những điều chính đáng nhất, nhưng không phù hợp với Thiên Ý.
Đàn bà có chồng thì bận tâm phục vụ và làm đẹp lòng chồng, còn người trinh nữ thì có thể toàn tâm và toàn ý chuyên lo việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác (1Cr 7,34). Ý thức được thế nên Đức Maria đã có chí nguyện sống đời độc thân vì Nước Trời (Mt 19,12). Chí hướng tốt lành và cao cả này đã được Đức Giêsu thể hiện, cũng như mở đường cho các môn đệ đặc tuyển của Ngài sống theo.
Nhưng Thiên Ý lại khác. Người muốn Đức Maria phải có chồng, để qua mái ấm gia đình, Con Một dấu yêu của Người là Đức Giêsu được chào đời một cách hợp pháp, dưới góc nhìn của xã hội loài người. Là Tôi Tớ trung thành của Người, Đức Maria đã thưa tiếng "Xin Vâng", nghĩa là đã hy sinh ý muốn độc thân vốn tốt lành của mình, để thực thi Thiên Ý.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương Đức Maria luôn biết đặt Thiên Ý trên hết mọi sự, nghĩa là trên cả những ý hướng tốt lành và chính đáng, trên cả mạng sống. Cách cụ thể xin Chúa giúp chúng con quyết tâm từ bỏ các tính hư tật xấu, các ý riêng xa rời đường lối Chúa, bởi lẽ điều tốt còn phải hy sinh vì Chúa, phương chi là điều xấu.
Suy niệm 2: Phục vụ
Đức Maria thật có phúc hơn mọi phụ nữ, như lời xưng tụng của bà Êlizabét, vì Đức Maria vốn là một thụ tạo của Thiên Chúa mà nay lại được đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa. Nhưng Đức Maria đã không tự hào về tước vị siêu vượt ấy để khinh thường người khác, mà Mẹ âm thầm đáp trả hồng ân Thiên Chúa, bằng việc hết mình phục vụ tha nhân.
Mẹ đóng tròn vai một người giúp việc trong nhà bà Êlizabét suốt quãng thời gian ba tháng (Lc 1,56): việc đi chợ, nấu ăn, việc quét dọn, giặt rữa, việc chăm sóc người chị họ sinh nở và ở cữ. Mẹ quên mình và tận tình phục vụ đến mức không một ai chê trách được điều gì.
Đó là hướng sống mà Đức Giêsu đã chỉ đạo cho các môn sinh Ngài sau này: "Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em" (Mt 20,26). Hơn thế, Ngài còn nêu bật tấm gương sáng chói cho mọi người noi theo, khi tâm sự: "Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau" (Ga 13,14), "Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45).
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con thường hành quyền theo cách cai trị chứ không phục vụ (Mt 20,25), như lời khẳng định của viên đại đội trưởng có người nô lệ bệnh nặng gần chết (Lc 7,8). Xin Chúa thương canh tân hướng sống của chúng con từ nay theo gương phục vụ của Đức Maria, cho dầu chúng con không phải là thủ lãnh và cũng chẳng muốn được làm lớn, nhưng chỉ mong ước được trở nên giống Đức Maria, Mẹ Chúa.
Suy niệm 3: Chúa ở cùng
Lòng bà Êlizabét tràn ngập niềm phấn khích hân hoan, khi được Thân Mẫu Chúa đến viếng thăm (Lc 1,43). Nhưng hạnh phúc ấy của bà Êlizabét làm sao sánh được với hồng phúc của Đức Maria, khi Mẹ được chính Ngôi Hai Thiên Chúa chẳng những viếng thăm mà còn nhập thể và cư ngụ trong cung lòng Mẹ.
Đó là cõi phúc mà một người phụ nữ đã cảm hứng và lên tiếng thưa với Đức Giêsu: "Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!" (Lc 11,27). Nhưng tầm nhìn của Đức Giêsu lại bao quát và phổ quát hơn. Ngài cũng tạo điều kiện cho hết thảy mọi người đều tận hưởng được nguồn phúc có Chúa ở cùng. Bằng một cách thế khác và bằng một sáng kiến siêu phàm, Ngài đã hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể.
Để vui hưởng ân phúc này, Đức Maria đã phải chấp nhận trả một giá rất đắt, bằng sứ mạng đồng công cứu chuộc, với bao khổ đau cả tâm hồn lẫn thể xác. Đúng như lời tiên tri Simêôn đã loan báo: "Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà" (Lc 2,35). Và sau này Giáo Hội đã diễn tả trong một Thánh Lễ được gọi là kính Bảy Sự Thương Khó Đức Mẹ hoặc Đức Mẹ Sầu Bi, được mừng vào ngày mười lăm tháng chín.
* Lạy Chúa Giêsu, thật phúc cho chúng con, vì qua việc hiệp lễ, chúng con luôn được Chúa ở cùng mỗi ngày cho đến mãn đời. Xin Chúa giúp chúng con học theo gương Đức Maria biết gặt hái trái hạnh phúc, vốn luôn được gieo trong mầm đau khổ, khi phải giữ tâm hồn trong sạch, khi phải từ bỏ con đường tội lỗi.
Suy niệm 4: Hợp tác
Thiên Chúa vốn là Đấng Toàn Năng làm được mọi sự, nhưng để thực hiện công cuộc cứu chuộc, Người lại phải cần đến tinh thần hợp tác chứ không tự làm một mình.
Đức Giêsu đã bắt tay vào việc hợp tác, bằng việc "không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế" (Pl 2,7).
Sự hợp tác của Đức Giêsu quả là tuyệt vời, nhưng chưa đủ, xét theo cách thế của xã hội loài người: Ngài phải đi vào đời, nhờ trung gian của một người mẹ. Vai trò hợp tác phải có của một nhân vật thứ hai lại được đặt ra. Chính Đức Maria bằng lời "xin vâng" đã tháo gỡ nút thắt này, và đã giúp chương trình cứu nhân độ thế của Thiên Chúa được hoàn thành bằng cuộc sống đồng công.
* Lạy Chúa Giêsu, vì tự ái, vì vị kỷ, chúng con thường phá đám hơn là hợp tác, chúng con thường thọc gậy bánh xe hơn là đồng tâm hiệp lực xây dựng. Xin Chúa giúp chúng con theo gương Đức Maria biết sống khiêm nhường và nhân ái vị tha, nhờ đó dễ dàng cọng tác với mọi người hầu làm sáng danh Thiên Chúa.
Suy niệm 5: Mẹ nhân loại
Vì Đức Giêsu vốn vừa là người vừa là Thiên Chúa, nên một khi Đức Maria nhận được đặc ân làm Mẹ Đức Giêsu, thì Ngài cũng được phú ban đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa, và đồng thời cũng làm Mẹ cả toàn thể nhân loại vốn là em Đức Giêsu.
Nhất là qua lời trăn trối của Đức Giêsu trên thập giá, Đức Maria và môn đệ Gioan đã đón nhận nhau làm mẹ con. Sự kiện này thường được truyền thống Giáo Hội giải thích Đức Maria là Thân Mẫu thực thụ của hết thảy mọi người trên trần thế này.
Với Tình Mẫu Tử bao la, ngay tại thế Đức Maria đã từng thi ân giáng phúc cho người đương thời. Và nay được hiển trị trên thiên quốc, Mẹ vẫn tiếp tục công việc phù giúp, bằng nhiều phép lạ, bằng những lần hiện ra, bằng muôn lời chỉ dạy.
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa đã thương ban cho chúng con một Thân Mẫu quyền uy và nhân ái. Xin giúp chúng con luôn sống theo đường lối Mẹ dạy, đồng thời noi gương Mẹ hết lòng giúp đỡ tha nhân mọi nơi và mọi lúc.
Suy niệm 6: Khiêm tốn
Mọi tác phẩm trong công cuộc tạo dựng trời đất muôn vật của Thiên Chúa đều được khẳng định là rất tốt đẹp (St 1,31). Nhưng phải nói thêm rằng Đức Maria là kiệt tác tuyệt vời nhất của Thiên Chúa, luôn đẹp lòng Thiên Chúa (Lc 1,30). Không lạ gì Mẹ được tô điểm thêm bằng bao đặc sủng vô song không một phàm nhân nào có được.
Việc Mẹ được phú ban đặc ân cũng thật xứng đáng, vì không ai trên đời này so sánh được với Mẹ. Thật vậy trong lúc các thiếu nữ Ítraen hăm hở lập gia đình với khát vọng được sản sinh Đấng Thiên Sai thiên hạ đợi trông, thì Mẹ khiêm tốn muốn sống độc thân để không phải nhận thiên chức ấy.
Quả đúng như lời Đức Giêsu: "Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên" (Mt 23,12). Hơn thế, Ngài còn sống tuyệt đối tinh thần đó, khiến Thánh Phaolô phải cất tiếng ca ngợi: "Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa" (Pl 2,8-11).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giữ chúng con khỏi kiêu ngạo, đừng để tính xấu này thống trị chúng con (Tv 19,14), vì Chúa luôn "thẳng tay trừng trị người ăn ở kiêu căng" (Tv 31,24). Xin giúp chúng con theo gương Đức Maria sống hiền lành khiêm tốn, vì "Lòng tự cao dẫn đến suy sụp, còn đức khiêm tốn đem lại vinh quang" (Cn 18,12).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 31/12 Thánh Giáo Hoàng Sylvester I (c. 335)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giáo Hoàng Sylvester I (c. 335)
Không có ai ngoài vị giáo hoàng này là người có thể duy trì sự độc lập cần thiết cho Giáo Hội khi phải đối diện với nhân vật quyền thế là Hoàng Ðế Constantine.
Lược sử
Khi nghĩ đến vị giáo hoàng này chúng ta phải nghĩ đến Sắc Lệnh Milan, sự xuất hiện của Giáo Hội sau những năm tháng trốn tránh trong hang toại đạo, các vương cung thánh đường như Đền Thánh Gioan Latêranô, Đền Thánh Phêrô, Công Đồng Nicea và các biến cố quan trọng. Nhưng hầu hết các biến cố này được hoạch định và xảy ra là nhờ Hoàng Đế Constantine.
Có nhiều truyền thuyết về con người đức giáo hoàng vào thời điểm cực kỳ quan trọng này, nhưng rất ít sự kiện có thể xác định được về phương diện lịch sử. Chúng ta biết chắc là triều đại giáo hoàng của ngài kéo dài từ năm 314 đến khi ngài từ trần năm 335, sau 22 năm lèo lái con thuyền Hội Thánh. Tìm hiểu ẩn ý của lịch sử, chúng ta biết chắc là không có ai ngoài vị giáo hoàng này là người có thể duy trì sự độc lập cần thiết cho Giáo Hội khi phải đối diện với nhân vật quyền thế là Hoàng Đế Constantine. Các giám mục thời ấy nói chung vẫn trung thành với Tòa Thánh và có lúc cũng phải xót xa cho Đức Sylvester vì phải thi hành những chương trình quan trọng của Giáo Hội dưới sự thúc giục của Constantine.
Suy niệm 1: Giáo hoàng
Khi nghĩ đến vị giáo hoàng này chúng ta phải nghĩ đến Sắc Lệnh Milan.
Năm 314, cha Silvestrê đã được bầu vào ngôi vị Giáo Hoàng với tên là Silvestrê I. Thánh nhân có cái nhìn rộng, óc cầu tiến, Ngài đã thay đổi nhiều chuyện trong Giáo Hội, tổ chức Hội thánh cho có nề nếp, qui củ. Thánh nhân sửa đổi giáo luật, luật lệ, chú ý đặc biệt tới phụng vụ và các tổ chức nghi lễ. Thánh nhân khuyến khích, động viên hàng giáo sĩ và giáo dân xây dựng nhiều thánh đường, trong số đó phải kể đến thánh đường thánh Phêrô tại Roma và thánh đường Chúa Cứu Thế tại Latran.
Ngài là người kế nhiệm giáo hoàng Miltiades và là vị giáo hoàng thứ 33 của giáo hội Công giáo. Năm sinh của ngài không được xác định, hình như ngài được sinh tại Sant'Anglo a Scala, Avellino và mất vào ngày 31 tháng 12 năm 335. Theo niên giám tòa thánh năm 1861 thì ngài lên ngôi năm 314 và ở ngồi trong 21 năm 11 tháng. Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định triều đại của ngài bắt đầu từ ngày 31 tháng 1 năm 314 tới ngày 31 tháng 12 năm 335. Ngài được suy tôn là thánh và được tôn kính cả ở giáo hội Rô-ma và giáo hội chính thống phương Đông. Ngày lễ kính của ngài ở Giáo hội Rô-ma là ngày 31 tháng 12 và ở giáo hội chính thống là ngày 2 tháng 1.
Khi đối diện với sự chỉ trích, một nhà lãnh đạo cần có sự khiêm tốn và can đảm để có thể nhường bước cho các biến cố xảy ra theo tiến trình của lịch sử, một khi sự khẳng định quyền bính của mình chỉ dẫn đến những căng thẳng và xung đột không cần thiết. Thánh Giáo Hoàng Sylvester đã dạy một bài học quý báu cho các vị lãnh đạo Giáo Hội, các chính trị gia, các bậc làm cha mẹ và những người có thẩm quyền.
* Lạy chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn gia tăng lời cầu nguyện cho các vị chủ chăn và hằng vâng phục các ngài.
Suy niệm 2: Sắc Lệnh Milan
Khi nghĩ đến vị giáo hoàng này chúng ta phải nghĩ đến Sắc Lệnh Milan.
Không phải ngẫu nhiên mà hoàng đế Constantine trở lại Công Giáo. Có một giai thoại lưu truyền nhiều nhất: Vào 1 đêm trong trận Milvia Bridge. Ông nhìn thấy một chữ thập đang cháy trên bầu trời cùng với dòng chữ: Với tín hiệu này, con sẽ chiến thắng. Không biết ông đã biến đổi như thế nào, chỉ biết rằng ông trở thành người cống hiến cho Giáo Hội Công Giáo những tiến bộ vượt bậc.
Một trong những hành động tích cực nhất là Sắc Lệnh Milan. Với sắc lệnh này, các Kitô hữu được tự do, sự xuất hiện của Giáo Hội sau những năm tháng trốn tránh trong hang toại đạo nay được công nhận như một tôn giáo hợp lệ. Sắc Lệnh này còn mang lại các tài sản của Giáo Hội bị sung công trong suốt thời gian biến loạn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng chính sách tự do tôn giáo để sống đạo thật tốt và hết mình.
Suy niệm 3: Công Đồng Nicea
Công Đồng Nicea và các biến cố quan trọng được hoạch định và xảy ra là nhờ Hoàng Đế Constantine.
Ngày 20 tháng 5 năm 325, công đồng Nicea được triệu tập theo lệnh của hoàng đế Constantinus. Giáo hoàng Sylvester I vì già yếu không thể đến được đã cử hai đức ông Vitus và Vincentius làm đại diện. Đây được coi là Công đồng chung đầu tiên của Giáo hội công giáo. Công đồng này quy tụ gần 300 giám mục phương Đông và chỉ có 4 giám mục phương Tây.
Công đồng đã soạn thảo một bản tuyên xưng đức tin (là bản sẽ trở thành Kinh Tin Kính Nicêa), trong đó có tuyên bố rằng Con của Thiên Chúa là đồng bản tính (homoousios, consubstantialis) với Đức Chúa Cha. Trong các quyết định khác của công đồng, quyết định quan trọng nhất là xác định các khu vực lớn của Giáo hội. Trong đó cho các Giám mục thành Alécxănđơri và thành Antiốt được toàn quyền cai trị địa hạt của họ, cũng như Giám mục thành Lamã được toàn quyền cai trị địa hạt của mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống niềm tin hằng tuyên xưng trong kinh Tin Kính Nicêa.
Suy niệm 4: Hoàng Đế Constantine
Hầu hết các biến cố này được hoạch định và xảy ra là nhờ Hoàng Đế Constantine.
Có nhiều truyền thuyết về mối quan hệ giữa giáo hoàng Sylvester với hoàng đế Constantine. Những truyền thuyết chủ yếu được nêu lên trong "Vita beati Sylvestri", xuất hiện ở phía Đông bằng tiếng Hy Lạp và tiếng Syriac; và trong "Constitutum Sylvestri" bằng tiếng tiếng Latin. Tiêu biểu về một bản văn mà ngày nay đã được xếp vào hàng ngụy thư được gọi là Donation de Constantin (Sự biếu tặng của Constantinô hay của dâng do Constantinô cho Đức Sylvester) thuật lại món quà mà Constantine đã tặng cho Đức Giáo Hoàng là thành phố Rôma và toàn thể phương Tây.
Trong văn kiện này có điều khoản quan trọng sau đây: "Đức Thánh Cha là đấng thừa kế Thánh Phê-rô sẽ được tôn vinh lên bậc cao cả trong đế quốc chúng ta và còn cao cả hơn ngôi báu thế gian. Đức Thánh Cha cai quản các giám mục ở Antioch, Alexandria, Constantinople và Jerusalem" (The Faith, a history of christianity, Brian Monahan, trang 217, 362). Nó đã được xác định là một sắc lệnh giả được tạo nên vào thế kỷ thứ VIII vào khoảng giữa 752 và 777. Nhằm biện minh cho sự thành lập nước các Giáo Hoàng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin cho các nhà cầm quyền biết ân huệ nhận được từ Chúa (Ga 3,27;19,11) để phục vụ đúng ý Chúa.
Suy niệm 5: Truyền thuyết
Có nhiều truyền thuyết về con người đức giáo hoàng.
Một truyền thuyết nữa là việc Đức Sylvester đã rửa tội cho Constantin tại Giêrusalem trong dịp thánh hiến Giáo Đường Mộ Thánh nhưng điều này đã được chứng mình là Constantine chỉ được rửa tội trên giường bệnh khi sắp chết và do một Giám mục Arien chứ không phải do giáo hoàng Sylvester. Truyền thống thời trung đại, nhất là được truyền lại bởi Truyền thống vàng cho một giải thích là: hoàng đế khắp mình bị một bệnh hủi không thể chữa được và chính khi Sylvester rửa tội ông bằng cách dìm vào trong một bể bơi mà ông đã được chữa khỏi bệnh hủi và điều đó có nghĩa rằng ông phải bảo vệ đức tin Kytô giáo.
Người ta cũng quy cho ngài những phép lạ khác nữa thí dụ như đã làm cho một con bò mộng sống lại và đã thuần hóa một con rồng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức rằng nếu có phép lạ xảy ra thì cũng hoàn toàn do Chúa ban (Mc 16,17;Lc 9,1).
Suy niệm 6: Triều đại giáo hoàng
Triều đại giáo hoàng của ngài kéo dài từ năm 314 đến khi ngài từ trần năm 335.
Trong thời gian làm giáo hoàng của Sylvester, các vương cung thánh đường như Ðền Thánh Gioan Lateran, Ðền Thánh Phêrô trên đồi Vatican đã được xây dựng theo lệnh của hoàng đế Constantine. Ngoài ra còn có thánh đường Santa Croce ở Giesusalem, và một số nhà thờ nơi hầm mộ các vị tử đạo. Ngài là vị giám mục đầu tiên của Rô-ma đã dùng danh xưng "Pope", có nghĩa là "Cha" và được ghi nhận là vị giáo hoàng đầu tiên đội mũ ba tầng. Tuy nhiên điều này rất khó xác minh. Truyền thống cho rằng, giáo hoàng Sylvester I đã ấn định ngày Chúa Nhật là ngày nghỉ việc dành để tưởng niệm Chúa Phục Sinh và đã cho đặt mão gai có đinh sắt trên các tượng chịu nạn.
Năm 321, nổ ra cuộc khủng hoảng của lạc thuyết Arius. Arius là một người xứ Libya. Ông này thụ phong linh mục năm 310 và được cử coi sóc xứ Baucalis, ngoại ô thánh Alexandria. Giáo thuyết của Arius cho rằng Thiên Chúa không thể thông bản tính của mình cho ai được và tất cả mọi vật ngoài Thiên Chúa đều là thụ tạo, trong đó có cả Đấng Kitô ngôi hai Thiên Chúa. Theo Arius, Chúa Kitô không phải là Thiên Chúa, không ngang hàng, không đồng bản tính với Ngôi Cha. Ngài chỉ là một tạo vật hoàn hảo nhất, có trước thời gian, nhưng không phải vô thủy vô chung. Ngài được đặt làm trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Năm 322, công đồng miền Alexandria đã kết án Arius, khiến ông phải đến trú ngụ ở Cesarea (Palestina). Tại đây, ông được sự ủng hộ của giám mục Eusebius. Cuộc tranh luận lại nổ ra.
Để nhấn mạnh đến sự liên tục của Chức Thánh, sách nhật tụng mới đây trong phần tiểu sử các giáo hoàng thường chấm dứt với con số thống kê quan trọng. Về ngày lễ Thánh Sylvester, sách viết: "Ngài chủ tọa bảy lần tấn phong mà trong đó ngài đã tạo được 42 linh mục, 25 phó tế và 65 giám mục cho một vài giáo phận." Quả thật, Đức Thánh Cha là tâm điểm của hệ thống bí tích trong Giáo Hội, là yếu tố cốt yếu cho sự hiệp nhất của Giáo Hội.
* Lạy Chúa, xin nhận lời thánh Silvestrê I Giáo Hoàng khẩn nguyện mà ban ơn trợ giúp dân Chúa, và đưa từ cuộc sống chóng qua đời này đến cuộc sống bất tận đời sau (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Silvestrê I, Giáo Hoàng).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 29/12 Thánh Tôma Becket (1118 - 1170)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Tôma Becket (1118 - 1170)
Thánh Tôma Becket được thụ phong linh mục chỉ một ngày trước khi được tấn phong giám mục. Và ngài quyết liệt thay đổi đời sống bằng sự khổ hạnh.
Lược sử
Là một người kiên quyết dù có đôi lúc giao động, nhưng sau đó biết rằng không thể hòa giải với tội lỗi, ngài trở nên một giáo sĩ hăng say, bị tử đạo và được tuyên xưng là thánh -- đó là cuộc đời Thánh Tôma Becket, Tổng Giám Mục của Canterbury, bị giết ngay trong vương cung thánh đường của ngài vào ngày 29-12-1170.
Ngài nổi tiếng vì lối sống xa hoa và phung phí, nhưng khi Vua Henry chọn ngài làm giám mục chính tòa Canterbury thì cuộc đời ngài thay đổi hoàn toàn. Ngài được thụ phong linh mục chỉ một ngày trước khi được tấn phong giám mục. Và ngài quyết liệt thay đổi đời sống bằng sự khổ hạnh. Không bao lâu, ngài đụng độ với vua về vấn đề quyền lợi của Giáo Hội và hàng giáo sĩ.
Ngài trốn sang Pháp và sống ở đó trong bảy năm. Khi trở về Anh ngài biết mình sẽ bị chết. Vì ngài từ chối không miễn tội cho các giám mục được vua sủng ái, vua Henry đã tức giận kêu lên: "Không có ai đưa tên giáo sĩ rắc rối này khuất mắt ta hay sao!" Bốn hiệp sĩ đã thể hiện lời nguyện ước của vua, và đã hạ sát Đức Tổng Giám Mục Tôma ngay trong vương cung thánh đường Canterbury.
Suy niệm 1: Ân nhân
Tôma Becket là một người kiên quyết dù có đôi lúc giao động.
Ngài sinh ra tại Luân đôn năm 1118. Cha ngài là Gilbert Becket là một hiệp sĩ người Normandy, đã trở thành thương gia giàu có ở Luân đôn. Mẹ ngài cũng là người Normandy. Ngài có ít là hai chị em mà một người sau này làm tu viện trưởng barking, Ngài thừa hưởng từ người mẹ lòng đạo đức, lòng sùng kính đức mẹ và lòng quảng đại đối với người nghèo khó. Từ người cha, ngài thừa hưởng một tính khí kiêu hùng và cương quyết. Dáng người cao ráo, đẹp trai, hấp dẫn và thông minh.
Ngài theo học ở cả hai trường đại học Luân Đôn và Ba lê. Sau cái chết của người cha, ngài bị khánh tận, Đức Tổng Giám Mục Canterbury là Thaobald, là người đã từng sai ngài đến Rôma một vài lần, đã cấp dưỡng và cho ngài theo học giáo luật. Sau khi theo học tại Oxford, Đức Tổng Giám Mục Cantebury đã triệu mời ngài làm quản trị, lo những chuyện liên hệ với Ro Ma. Trong khi làm tổng phó tế cho giáo phận Canterbury, vào lúc 36 tuổi ngài được Vua Henry II, là bạn của ngài, chọn làm thủ tướng Anh, là nhân vật quyền thế thứ nhì trong nước, chỉ sau vua.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có được những ân nhân giúp vượt qua thời điểm khó khăn.
Suy niệm 2: Giám mục
Vua Henry chọn ngài làm giám mục chính tòa Canterbury.
Tổng Giám Mục Theobald qua đời. Nhà vua ép ngài lên chức Tổng giám mục Cantorbéry, nhưng ngài đã từ chối và đáp lại: "Nếu Thiên Chúa muốn hạ thần làm Tổng giám mục Cantorbéry, hạ thần sẽ mất hết ơn nghĩa với hoàng thượng, và lòng ưu ái hoàng thượng dành cho hạ thần trước đây sẽ biến thành sự thù ghét. Hoàng thượng sẽ đòi tôi nhiều điều, và hoàng thượng đã làm nhiều điều chống lại Giáo Hội mà tôi sẽ không thể chịu nổi Tình cảm của hoàng thượng sẽ sớm đổi thành thù hận không chấm dứt nổi".
Dù thế, vâng lệnh Tòa Thánh, ngày 3.6.1162, ngài thụ phong linh mục và ngày hôm sau được làm Tổng giám mục Cantorbéry. Kẻ nô bộc của các hoàng tử đã trở thành nô bộc của Giáo Hội. Ngài trở nên khiêm tốn hơn, mặc áo nhặm, tha thiết yêu thương kẻ nghèo và xa cách đối với người giàu. Nhưng các điều lo ngại của ngài không tự biện minh mãi được.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn vâng lời Chúa hơn vâng lời người đời.
Suy niệm 3: Đụng độ với vua
Tôma Becket đụng độ với vua về vấn đề quyền lợi của Giáo Hội và hàng giáo sĩ.
Đối với Becket, sự tự do của Giáo hội quan trọng hơn là tình bạn đối với vua, cho dù cả hai rất tâm đắc. Cuộc xung đột nảy sinh trầm trọng khi nhà vua muốn tịch thu tài sản của Giáo hội, và nhất quyết nắm lấy quyền điều khiển Giáo Hội. Có khi, vì cố giữ hòa khí, Đức Tổng Tôma phải nhượng bộ. Ngài tạm thời chấp nhận Hiến Chương Clarendon năm 1164, muốn đặt quyền xét xử của Giáo Hội dười quyền Hoàng Gia, không cho phép giáo sĩ được xét xử bởi một tòa án của Giáo Hội và ngăn cản họ không được trực tiếp kháng án lên Rôma. Nhưng sau cùng Đức Tổng Giám Mục Tôma tẩy chay Hiến Chương này. Tức giận, nhà vua triệu vời các giám mục vương quốc lại. Trong căn phòng tụ họp, hiện ra những con người mang khí giới như sẵn sàng tiêu diệt các ngài. Các giám mục và các lãnh chúa kinh hoàng khẩn xin vị giáo chủ nhượng bộ.
Ngài viết thư xin phán định của Đức Thánh Cha, vốn kết án tất cả những ai đã phát thệ. Thế là ngài cương quyết vâng lời Thẩm Quyền Giáo Hội, và cực lực phản đối Hiến Chương Clarendon. Thất vọng nhà vua hô hoán: "Hoặc là ta mất ngôi, hoặc là con người ấy không còn là tổng giám mục nữa". Các hiệp sĩ gọi ngài là kẻ phản bội. Ngài đã trả lời cho một người trong bọn họ: "Nếu đôi tay này không phải đôi tay của một linh mục thì ông phải biết".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con can đảm vâng phục quyền bính Giáo Hội.
Suy niệm 4: Trốn sang Pháp
Ngài trốn sang Pháp và sống ở đó trong bảy năm.
Trong một công đồng ở Nerthampton năm 1164, ngài lại tỏ ra chống đối và khi bị đe dọa đến mạng sống hoặc tù tội. Một đêm kia, ngài đã trốn thoát. Lang thang nhiều ngày, ngài tới bờ biển và được một thuyền đánh cá tiếp nhận và đưa qua Pháp. Vua Louis VII đã hân hạnh tiếp đón ngài, ông nói: "Nước Pháp có thói quen nuôi dưỡng và bảo vệ những người chịu đau khổ, nhất là những người bị lưu đày vì công chính".
Ngài lưu tại tu viện Pontiguy và tăng nếp sống khắc khổ, đến nỗi có thể nói được đây là cuộc "hoán cải thứ nhì, từ đạo đức đến thánh thiện". Ngài có giờ để cầu nguyện và suy gẫm. Ngài tuân theo luật và nếp sống của tu viện. Dầu vậy cuộc trả thù của nhà vua vẫn tiếp tục. Vua Henri loan báo là sẽ tiêu diệt mọi nhà dòng Xitô, nếu một nhà dòng Xitô nào còn tiếp tục dung duõng Ngài. Toma Becket liền đến một nữ tu viện Bênedictô ở Sens. Những năm tháng đau khổ và trơ trọi nối tiếp nhau.
Trong khi đó, nhà vua bị Đức Thánh Cha đe dọa, tỏ ra muốn giao hòa với ngài vào những tháng cuối cùng năm 1169. Một thứ hòa hoãn chẳng dễ gì. Nhưng ngài đã nói với những người muốn ngăn cuộc hồi hương của mình rằng: "Dù có biết chắc mình sẽ bị chặt thành trăm mãnh, tôi vẫn trở về. Đã 6 năm rồi, đoàn chiên của tôi vắng bóng chủ chăn".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn hoán cải để tiến từ đạo đức đến thánh thiện.
Suy niệm 5: Trở về Anh
Khi trở về Anh ngài biết mình sẽ bị chết.
Khi tới Canterbury, dân chúng chen lẫn nhau giữa những khúc thánh ca và những hồi chuông đổ dồn để đến lãnh phép lành của ngài. Những lời đầu tiên ngài nói trên tòa giảng là: "Tôi đã tới để chịu chết giữa anh em".
Nhà vua tức giận với cuộc trở về khải hoàn này của ngài, vốn là một con người không thể lay chuyển trong mọi việc bảo vệ những quyền tự do của Giáo Hội, và nhất là vì ngài từ chối không miễn tội cho các giám mục được vua sủng ái, vua Henry đã tức giận kêu lên: "Không có ai đưa tên giáo sĩ rắc rối này khuất mắt ta hay sao!" Dựa trên một phát biểu thiếu khôn ngoan và vô ý thức của nhà vua, bốn hiệp sĩ trung thàng của ông, đến đại thánh dường Cantorbery, hạ sát thánh nhân giữa buổi kinh chiều ngày 29.12.1170.
Không ai có thể trở nên thánh mà không phải chiến đấu, nhất là với chính bản thân. Thánh Tôma biết ngài phải giữ vững lập trường khi bảo vệ đức tin và quyền lợi Giáo Hội, dù có phải hy sinh mạng sống. Chúng ta cũng phải giữ vững lập trường khi đối diện với những áp lực -- chống với sự bất lương, gian dối, hủy diệt sự sống -- mà hy sinh tham vọng muốn nổi tiếng, muốn đầy đủ tiện nghi, muốn được thăng quan tiến chức và ngay cả muốn giầu của cải.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con lòng quảng đại, dám hy sinh tính mạng vì công lý.
Suy niệm 6: Hạ sát
Bốn hiệp sĩ đã thể hiện lời nguyện ước của vua, và đã hạ sát Đức Tổng Giám Mục Tôma ngay trong vương cung thánh đường Canterbury.
Trong kịch bản "Cuộc thảm sát trong nhà thờ chính tòa", xuất bản năm 1935, văn sĩ Thomas Eliot đã dựng lại cuộc tử đạo của thánh Thomas Becket như sau:
Khi được báo tin là những kẻ muốn giết ngài đang kéo đến nhà thờ chính tòa, từ trong thánh đường, ngài đã ra lệnh cho những người trung thành với ngài như sau: "Hãy kéo cửa lên, hãy mở rộng cửa ra, tôi không muốn rằng nơi cầu nguyện và là cung thánh phải biến thành một pháo đài. Nhà thờ bảo vệ các tín hữu theo cách thế của nó, chứ không như gỗ đá, bởi vì gỗ đá sẽ sụp đổ, còn nhà thờ thì tồn tại, nhà thờ cần phải được mở ra, ngay cả cho kẻ thù, anh em hãy mở rộng cửa". Khi thấy một số người còn chần chờ và muốn tử thủ, ngài đã khuyên mọi người hãy có cái nhìn siêu nhiên và chiến đấu bằng khí giới siêu nhiên, ngài nói: "Chúng ta đã chiến đấu chống lại quái vật và chúng ta đã chiến thắng, chúng ta cần phải chinh phục duy chỉ bằng sự đau khổ mà thôi. Đây là chiến thắng dễ dàng nhất, đây là giờ khải hoàn của Thập Giá, tôi ra lệnh cho anh em hãy mở cửa".
Khi ấy bốn hiệp sĩ tiến đến gặp và nhục mạ ngài, nhưng ngài nói: "Đừng mất thời gian đe dọ tôi. Để sát cánh chiến đấu, các người sẽ thấy tôi luôn luôn ở trong trận chiến của Chúa". Các giáo sĩ trách ngài làm cho họ phải chết, ngài nói với họ: "Tất cả chúng ta hoặc phải chết. Đừng để sự sợ hãi làm cho chúng ta xa rời sự công chính. Tôi sẵn sàng chết vì tình yêu chúa mà những người này giết tôi không phải vì tình yêu như vậy".
Và khi nghe bước chân và tiếng kêu của các hiệp sĩ có võ trang, ngài leo lên thang nhà thờ chánh tòa, ngài nói: "Tôi ra tiền tuyến, tôi sẵn sàng chết vì Chúa, vì lẽ công bằng và để bảo vệ Giáo Hội... Tôi sẽ hạnh phúc biết bao nếu nhờ cái chết của tôi mà Giáo Hội được tự do và an bình". Và trả lời cho những lăng nhục, ngài nói: "Tôi không phải là kẻ phản bội, nhưng là một linh mục. Tôi sẵn sàng vì Danh Đấng đã lấy máu cứu chuộc tôi. Nhưng vì Danh Thiên Chúa, đừng động tới những người này của tôi".
Dựa lưng vào cột, ngài chống lại những người muốn đưa ngài đi. đẩy những người tấn công ngã xuống đất, ngài nói: "Tôi không đi đâu hết, hãy làm việc đó ở đây đi". Họ ngập ngừng. Vị tử đạo lớn tiếng phú mình cho Chúa và Giáo Hội: "Lạy Chúa, con phó linh hồn con trong tay Chúa". Hai nhát gươm tiếp liền, ngài ngã xuống miệng còn nói: "Vì Danh Chúa Giêsu và vì Giáo Hội, tôi bằng lòng chịu chết". Và ngài nằm chết cạnh bàn thờ.
Cuộc tử đạo của thánh Tôma Becket như được ghi lại trên đây nêu bật ý nghĩa đích thực của mọi cuộc tử đạo: tử đạo là chết vì yêu thương và yêu thương ngay cả kẻ thù của mình. Thánh Becket đã muốn nói lên ý nghĩa ấy khi kêu gọi những kẻ trung thành với ngài hãy mở cửa nhà thờ chính tòa. Ngài đã nói: "Nhà thờ cần phải được mở ra ngay cả cho những kẻ thù của chúng ta". Trước cái chết anh dũng của Đức Tổng Giám mục Tôma Becket, Vua Henry II hối hận, tổ chức lễ quốc tang cho ngài. Chỉ ba năm sau (1173), ngài được phong thánh do Đức Alexandre III, và ngôi mộ của ngài trở thành điểm hành hương của Anh Quốc. Đức Tôma Becket vẫn là một thánh nhân anh hùng trong lịch sử Giáo Hội cho đến ngày nay.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chấp nhận chết vì yêu thương và yêu thương ngay cả kẻ thù của mình.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 27/12 Thánh Gioan Tông Ðồ
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gioan Tông Ðồ
Vì ý tưởng thâm thuý trong Phúc Âm của ngài, Thánh Gioan thường được coi như con đại bàng thần học, cất cánh bay cao trong một vùng mà các thánh sử khác không đề cập đến.
Lược sử
Chính Thiên Chúa là người mời gọi, và nhân loại đáp lời.
Đức tin của ba ngư dân -- Phêrô, Giacôbê và Gioan -- đã được phần thưởng, đó là được làm bạn với Đức Giêsu.
Phúc Âm Thánh Gioan đề cập đến ngài như "người môn đệ được Đức Giêsu yêu quý" (x. Ga 13,23;19,26;20,2).
Vì ý tưởng thâm thúy trong Phúc Âm của ngài, Thánh Gioan thường được coi như con đại bàng thần học, cất cánh bay cao trong một vùng mà các thánh sử khác không đề cập đến. Nhưng các cuốn Phúc Âm thật bộc trực ấy cũng tiết lộ một vài nét rất nhân bản. Đức Giêsu đặt biệt hiệu cho ông Gioan và Giacôbê là "con của sấm sét." Thật khó để hiểu được ý nghĩa chính xác của biệt hiệu này, nhưng chúng ta có thể tìm thấy chút manh mối trong hai biến cố sau.
Thánh Sử Gioan đã viết cuốn Phúc Âm vĩ đại, cũng như các lá thư và Sách Khải Huyền.
Suy niệm 1: Ơn gọi
Chính Thiên Chúa là người mời gọi, và nhân loại đáp lời.
Trong Phúc Âm, lời mời gọi ông Gioan và ông Giacôbê, người anh của ông, được bắt đầu rất đơn giản, cũng như lời mời gọi ông Phêrô và Anrê: Đức Giêsu gọi họ; và họ theo Ngài. Sự đáp ứng mau mắn được miêu tả rõ ràng. Các ông Giacôbê và Gioan "đang ở trên thuyền, cùng với người cha là ông Zêbêđê vá lưới. Đức Kitô gọi họ, và ngay lập tức họ bỏ thuyền và từ giã người cha mà theo Ngài" (Mt 4,21b-22).
Thật ra theo một truyền thống có giá trị, ngài thoạt đầu là một môn đệ của Thánh Gioan Tiền Hô. Khi được thầy mình giới thiệu với Đức Giêsu, ngài đã đi theo và đã ở lại ngày hôm ấy (Ga 1,35-39), nhưng rồi lại quay trở về nghề đánh cá, mãi cho đến lần thứ hai, Đức Giêsu gặp lại và chính thức ngỏ lời mời gọi, ngài mới dứt khoát từ bỏ cha cũng như các bạn đồng nghiệp để theo Đức Giêsu và trở thành những tông đồ đầu tiên của Nhóm Mười Hai (Mt 4,18-22).
Theo bảng danh sách lượt kê các Tông Đồ, ngài được xếp hàng thứ ba (Mc 3,17), và thứ tư (Mt 10,2;Lc 6,14) sau Giacôbê, ngoại trừ một lần ở hàng thứ hai (Cv 1,13), nên thường được biết đến như là em của Giacôbê trong hệ huyết thống.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương thánh nhân một khi đã quyết định theo Chúa thì theo cho đến cùng.
Suy niệm 2: Bạn
Gioan được làm bạn với Đức Giêsu.
Mặc dầu cả Nhóm Mười Hai đều được Đức Giêsu nâng lên hàng bạn hữu với Chúa (Ga 15,15), nhưng riêng ngài và anh Giacôbê của ngài cũng như Phêrô là được đặc ân làm bạn nghĩa thân tình hơn, qua việc được hiện diện ở một số biến cố đặc biệt. Ba vị được chứng kiến sự Biến Hình (Mt 17,1), sự sống lại của con gái ông Giairút (mc 5,37), và sự thống khổ trong vườn Giệtsimani của Đức Giêsu (Mt 26,37).
Và chỉ riêng ngài và Phêrô được Đức Giêsu tín nhiệm trao phó cho công tác vào thành dọn bữa ăn lễ Vượt Qua: Đã đến ngày lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua. Đức Giê-su sai ông Phêrô với ông Gioan đi và dặn: "Các anh hãy đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua." Hai ông hỏi: "Thầy muốn chúng con dọn ở đâu?" Người bảo họ: "Này, khi vào thành, các anh sẽ gặp một người mang vò nước. Cứ đi theo người đó, người đó vào nhà nào, thì các anh vào thưa với chủ nhà: 'Thầy nhắn ông: Căn phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu?' Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một căn phòng rộng rãi trên lầu, đã được trang bị: các anh hãy dọn ở đó" (Lc 22,7-12).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sống tình bằng hữu với các người cộng sự của mình.
Suy niệm 3: Được Đức Giêsu yêu quý
Phúc Âm Thánh Gioan đề cập đến ngài như "người môn đệ được Đức Giêsu yêu quý".
Tình bằng hữu giữa Gioan và Đức Giêsu còn đặc biệt hơn nữa, vì chính Gioan tự đề cập đến ngài như "người môn đệ được Đức Giêsu yêu quý" ( Ga 13,23;19,26;20,2). Ngài là người được ngồi cạnh Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly, nhất là được tựa đầu vào lòng Chúa (Ga 13,25) và được Chúa hé lộ cho biết kẻ phản bội (Ga 13,26). Ngài là người "môn đệ khác" vì quen biết vị thượng tế nên cùng dẫn Phêrô vào tư dinh đó (Ga 18,15-16). Ngài là người duy nhất trong số Nhóm Mười Hai đứng dưới chân thánh giá và được Đức Giêsu ban cho một vinh dự độc đáo là được chăm sóc mẹ của Người. "Thưa bà, đây là con bà... Đây là mẹ con" (Ga 19,26b.27b).
Sau ngày Chúa Phục Sinh, ngài và Phêrô là những môn đệ đầu tiên vội vã chạy ra mồ trống, theo động lực của tình yêu, ngài chạy đến trước và là người đầu tiên tin nhận Chúa đã sống lại thật (Ga 20,2-10). Trong lần Chúa hiện ra ở Biển Hồ Tibêria, ngài cũng là người đầu tiên trong số 7 vị tông đồ hiện diện nhận ra chính Chúa đang đứng trên bãi biển (Ga 21,7). Sau ngày Chúa Thăng Thiên và Chúa Thánh Thần Hiện xuống, ngài cùng với Phêrô đóng một vai trò trong việc hướng dẫn Giáo Hội, cụ thể bằng phép lạ chữa lành người què ở đền thờ (Cv 3,1tt) cũng như bị giam cầm trong ngục tù (Cv 4,3), và viếng thăm ban Chúa Thánh Thần cho người dân Samaria (Cv 8,14).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống xứng với tình Chúa yêu thương.
Suy niệm 4: Biểu tượng
Thánh Gioan thường được coi như con đại bàng thần học, cất cánh bay cao trong một vùng mà các thánh sử khác không đề cập đến.
Từ rất sớm nghệ thuật Kytô giáo thường miêu tả ngài như con đại bàng dựa vào viễn tượng cao siêu được ngài trình bày trong chương thứ nhất của cuốn Tin Mừng mang danh ngài.
Cái chén cũng mang một ý nghĩa biểu tượng của ngài nhằm gợi nhớ đến vị thế đặc biệt của ngài ở Bữa Tiệc Ly, cũng như về một truyền thuyết kể rằng chén rược độc trong tay ngài khi ngài làm phép đã biến thành hình thù con rắn. Nhưng đúng hơn lời giải thích siêu nhiên hơn cả là nhắc nhở đến lời Chúa ngỏ với hai anh em: "Chén của Thầy, các người sẽ uống" (Mt 20,23).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sẵn lòng uống lấy chén đắng cuộc đời vì Chúa và vì Phúc âm.
Suy niệm 5: Con của sấm sét
Đức Giêsu đặt biệt hiệu cho ông Gioan và Giacôbê là "con của sấm sét." Thật khó để hiểu được ý nghĩa chính xác của biệt hiệu này, nhưng chúng ta có thể tìm thấy chút manh mối trong hai biến cố sau.
Biến cố thứ nhất, như được Thánh Mátthêu kể lại, bà mẹ của hai ông Giacôbê và Gioan xin cho hai con của bà được ngồi chỗ danh dự trong vương quốc của Đức Giêsu -- một người bên trái, một người bên phải. Khi Đức Giêsu hỏi họ có uống được chén mà Ngài sẽ uống và chịu thanh tẩy trong sự đau khổ mà Ngài sẽ phải chịu không, cả hai ông đều vô tư trả lời, "Thưa có!" Đức Giêsu nói quả thật họ sẽ được chia sẻ chén của Ngài, nhưng việc ngồi bên tả hay bên hữu thì Ngài không có quyền. Đó là chỗ của những người đã được Chúa Cha dành cho. Các tông đồ khác đã phẫn nộ trước tham vọng sai lầm của người anh em, và trong một dịp khác Đức Giêsu đã dạy họ về bản chất thực sự của thẩm quyền: "Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người" (Mt 20,27-28).
Một dịp khác, những "người con của sấm sét" hỏi Đức Giêsu rằng họ có thể khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt những người Samaritan lạnh nhạt không, vì họ không đón tiếp Đức Giêsu đang trên đường đến Giêrusalem. Nhưng Đức Giêsu đã "quay lại và khiển trách họ" (x. Lc 9,51-55).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống hiền lành và khiêm nhường như lời Chúa dạy (Mt 11,29).
Suy niệm 6: Viết
Thánh Sử Gioan đã viết cuốn Phúc Âm vĩ đại, cũng như các lá thư và Sách Khải Huyền.
Truyền thống coi ngài là tác giả cuốn Phúc Âm Thứ Tư, dù rằng hầu hết các học giả Kinh Thánh thời nay không cho rằng vị thánh sử và tông đồ này là một. Cuốn Phúc Âm của ngài là một công trình độc đáo. Ngài nhìn thấy sự vinh hiển và thần thánh của Đức Giêsu ngay trong các biến cố ở trần gian. Trong bữa Tiệc Ly, ngài diễn tả Đức Giêsu với những lời phát biểu như thể Đức Giêsu đã ở thiên đàng. Đó là cuốn Phúc Âm về sự vinh hiển của Đức Giêsu. Ngoài cuốn Tin Mừng thứ tư, 3 lá thư và cuốn Khải Huyền cũng được xét là của ngài qua nội dung gắn liền với kinh nghiệm bản thân của ngài với đời sống và công việc của Đức Giêsu (1Ga 1,1-5;4,14) cũng như thời gian hoạt động của ngài ở Tiểu Á và ở đảo Patmos như một chứng nhân của Đức Giêsu và vị lãnh đạo của Giáo Hội tại các vùng này (Kh 1,9).
Quả thật, đó là một hành trình thật dài để thay đổi từ một người khao khát muốn có uy quyền và muốn sai lửa từ trời xuống thiêu đốt, cho đến một người đã viết những dòng chữ sau: "Phương cách để chúng ta biết được tình yêu là Ngài đã hy sinh mạng sống vì chúng ta; do đó, chúng ta cũng phải hy sinh mạng sống mình vì anh em" (1 Ga 3,16). Có câu chuyện người ta thường kể, là "các giáo dân" của Thánh Gioan quá chán chường với bài giảng của ngài vì ngài luôn luôn nhấn mạnh rằng: "Hãy yêu thương nhau." Dù câu chuyện này có thật hay không, đó là nền tảng của văn bút Thánh Gioan. Những gì ngài viết có thể được coi là tóm lược của Phúc Âm: "Chúng ta đã biết và đã tin vào tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thiên Chúa là tình yêu, và ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong họ" (1 Ga 4,16).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con càng đọc vào các tác phẩm của thánh nhân, chúng con càng hết mình sống đáp trả tình yêu Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 26/12 Thánh Stêphanô (c. 36?)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Stêphanô (c. 36?)
Thánh Stêphanô đã chết như Ðức Kitô: bị kết tội cách sai lầm, bị kết án cách bất công vì ngài dám nói lên sự thật. Ngài chết trong khi mắt nhìn lên Thiên Chúa, và với lời xin tha thứ cho kẻ xúc phạm.
Lược sử
Những gì chúng ta biết về Thánh Stêphanô thì được viết trong sách Công Vụ Tông Đồ 6 và 7. Điều đó đã đủ để biết về con người của ngài.
Suy niệm 1: Thánh Stêphanô-Công Vụ Tông Đồ 6 và 7
Những gì chúng ta biết về Thánh Stêphanô thì được viết trong sách Công Vụ Tông Đồ 6 và 7.
"Thời đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do-thái theo văn hóa Hy-lạp kêu trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà góa trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: 'Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Vậy, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy thần khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa.' Đề nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Stêphanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần..." (Cv 6,1-5)
Sách Công Vụ kể tiếp Stêphanô là một người đầy ơn sủng và sức mạnh, đã làm nhiều việc phi thường trong dân chúng. Một vài người Do Thái thời ấy, là thành viên của hội đường nhóm nô lệ được giải phóng, tranh luận với Stêphanô nhưng không thể địch nổi sự khôn ngoan và thần khí của ngài. Họ xúi giục người khác lên án ngài là lộng ngôn, xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngài bị bắt và bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng.
Trong phần trình bày, ngài nhắc lại sự dẫn dắt của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, cũng như việc thờ tà thần và bất tuân phục Thiên Chúa của dân này. Sau đó ngài cho rằng những người bách hại ngài cũng giống như vậy. "Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy" (Cv 7,51b).
Lời ngài nói đã làm họ tức giận. "Nhưng [Stêphanô], tràn đầy Thánh Thần, đăm đăm nhìn lên trời và thấy vinh hiển của Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô đứng bên hữu Thiên Chúa, và thánh nhân nói: 'Kìa, tôi nhìn thấy thiên đàng mở ra và Con Người đang đứng bên hữu Thiên Chúa.'... Họ đưa ngài ra ngoài thành và bắt đầu ném đá ngài... Trong khi họ ném đá ngài, thánh nhân kêu lớn: 'Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con... Lạy Chúa, xin đừng nhớ tội của họ'" (Cv 7,55-56.58a.59.60b).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con say mê học hỏi Thánh Kinh để biết được nhiều mạc khải của Chúa.
Suy niệm 2: Thánh Stêphanô-tình yêu tha thứ
Những gì chúng ta biết về Thánh Stêphanô thì được viết trong sách Công Vụ Tông Đồ 6 và 7.
Cảm nghiệm sâu xa Lời Chúa: "đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn", thánh Stêphanô đã chấp nhận sự vu khống của những kẻ ghen tỵ, thù hằn ngài, ngài đã làm một cử chỉ rất đẹp, rất thánh thiện: "Họ ném đá Ông Tê-pha-nô, đang lúc Ông cầu xin rằng: " Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con " (Cv 7, 59). Rồi Ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: "Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này". Nói thế rồi, Ông an nghỉ (Cv 7, 60).
Thánh Stêphanô đã chết như Đức Kitô: bị kết tội cách sai lầm, bị kết án cách bất công vì ngài dám nói lên sự thật. Ngài chết trong khi mắt nhìn lên Thiên Chúa, và với lời xin tha thứ cho kẻ xúc phạm. Một cái chết "sung sướng" lúc nào cũng giống nhau, dù chết âm thầm như Thánh Giuse hay chết đau khổ như Thánh Stêphanô, đó là cái chết với sự can đảm, sự tín thác hoàn toàn và với tình yêu tha thứ.
* Lạy Chúa Giêsu, thánh Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên đã biết cầu nguyện cho những kẻ bách hại mình như Chúa Kitô dạy. Hôm nay, mừng thánh nhân được rước về trời, chúng con nài xin Chúa ban ơn để chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà yêu thương ngay cả địch thù (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Stêphanô).
Suy niệm 3: Thánh Stêphanô-được tôn vinh
Những gì chúng ta biết về Thánh Stêphanô thì được viết trong sách Công Vụ Tông Đồ 6 và 7.
Thánh Stêphanô được biết đến như là người tử đạo đầu tiên của Kitô giáo, được xem như là thánh trong Giáo hội Công giáo Rôma, Anh giáo, Giáo hội Luther và Chính Thống giáo Đông phương. Stêphanô nghĩa là "vòng hoa" hoặc "ngôi vua" trong Tiếng Hy Lạp. Theo truyền thống, Thánh Stêphanô được phong cho chức vua của thánh tử đạo của tôn giáo; ngài thường được miêu tả với 3 hòn đá và cây dừa. Trong giáo hội đông phương hình tượng Thánh Stêphanô là người đàn ông trẻ với đầu nhà sư, mặc lễ phục, và thường cầm theo bức tiểu họa về nhà thờ hoặc bình hương.
Dựa vào Sách Công vụ Tông đồ, Stêphanô bị xử tại Sanhedrin (tòa án tối cao) vì tội phỉ báng Mô-Sê và Thiên Chúa (Cv 6,11) cũng như nói chống lại Nơi Thánh và Lề Luật (Cv 6,13-14) (xem chống chủ nghĩa duy danh). Ngài bị ném đá tới chết (năm 34–35 SCN) bởi một đám đông dân chúng trong đó có Phaolô thành Tarsus với sự đồng tình vụ thảm sát Stêphanô (Cv 8,1), và sau này thành thánh. Lời nói cuối cùng của Stêphanô đã lên án người Do Thái về việc hành hung các nhà tiên tri, những người đã tố cáo tội của họ: "Nhà tiên tri nào mà các người không hành hạ, và các người giết người nào tiên đoán việc Đấng Cứu Thế sẽ đến, các người đã trở thành kẻ phản bội và sát nhân." (Cv 7,52)
Ðức Giêsu đến để thi hành sứ mệnh Thiên Sai, sứ mệnh người Tôi Tớ đau khổ của Giavê. Vì thế, con đường Ðức Giêsu đi là con đường thập giá. Môn đệ của Ðức Giêsu cũng phải đi con đường của Thầy mình: Con đường "chết vì yêu". Người môn đệ đích thực của Ðức Giêsu phải đối đầu với những khó khăn, phải dám chiến đấu cho chân lý, phải can đảm chết đi những lợi danh, ích kỷ, để chỉ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban sức mạnh giúp chúng con dám chiến đấu trước những nghịch cảnh, những cám dỗ lôi kéo chúng con đi trái thánh ý Chúa. Xin cho chúng con không sợ gì khác hơn là sợ làm Chúa buồn lòng.
Suy niệm 4: Thánh Stêphanô-vị tử đạo
Những gì chúng ta biết về Thánh Stêphanô thì được viết trong sách Công Vụ Tông Đồ 6 và 7.
Cấm cách đạo, bách hại người giữ đạo luôn có ở mọi thời, tùy vào từng thời mà nó được ngụy trang bằng những danh từ, hình thức hoa mỹ khác nhau. Thế nhưng chính trong những trình trạng ấy, từ trong Giáo Hội lại xuất hiên nhiều gương sáng chứng nhân về đời sống đức tin. Đức tin vào Đấng họ tôn thờ được đẩy lên đến đích điểm, đến độ các ngài sẳn sàng hy sinh cả mạng sống mình để làm chứng. Sự hy sinh của các ngài càng minh chứng cho niềm tin họ đang có và đang giữ, không một thế lực trần thế nào có thể làm lung lay, phá hủy hoặc làm cho tàn lụi được. Đơn giản chỉ vì đó là đức tin chân thật, đức tin vào Đấng Mạc Khải chính Người là Sự Sống và là Đấng đem lại cho con người Sự Sống thật.
Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Stêphanô vị tử đạo tiên khởi, là một trong bảy vị phó tế đầu tiên được các Tông đồ tuyển chọn cộng tác vào việc quản trị cộng đoàn: phân phát thức ăn và chăm lo cho các bà góa trong cộng đoàn Hội Thánh sơ khai. Thánh Stêphanô là người đầu tiên được diễm phúc đón nhận cái chết tử đạo để minh chứng cho đức tin vào Đức Giêsu Kitô. Sách Công Vụ Tông Đồ cho biết ngài là người khôn ngoan và đầy ơn Chúa Thánh Thần, ngài lớn tiếng rao giảng làm chứng cho dân Do Thái rằng Đức Giêsu chính là Đấng Mêssia mà dân Do Thái hằng mong chờ. Nhưng những người Do Thái cứng lòng đã không đón nhận lời rao giảng đó và kết án ngài là kẻ chống lại tôn giáo Môsê và chống lại Thiên Chúa. Họ lên án tử và ném đá ngài cho đến chết. Vị anh hùng đầu tiên trong Giáo Hội đã lấy máu mình làm chứng về đức tin Kitô Giáo. Cái chết của ngài đã làm cho bao tâm hồn được tái sinh trở lại trong Chúa Kitô, trong đó có Phaolô một con người sau này trở nên kẻ nhiệt thành rao giảng Lời Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra giá trị của việc tử đạo là làm cho bao tâm hồn được tái sinh trở lại trong Chúa.
Suy niệm 5: Thánh Stêphanô-sự sống thật
Những gì chúng ta biết về Thánh Stêphanô thì được viết trong sách Công Vụ Tông Đồ 6 và 7.
Qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã loan báo trước những chông gai mà người môn đệ sẽ gặp phải. Họ sẽ phải chịu bắt bớ gông cùm tù tội, bị điệu ra trước quan tòa... thậm chí phải hy sinh cả tính mạng nữa. Nhưng Chúa Giêsu bảo họ đừng sợ phải nói gì vì có Chúa Thánh Thần luôn đồng hành cùng họ để thêm sức mạnh thêm can đảm. Và Chúa hứa rằng: "Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ" (Mt 10,22). Trong Luca, Chúa Giêsu dạy rõ phải sợ Đấng sau khi giết chết còn có thể ném cả hồn lẫn xác vào trong lò lửa, nghĩa là cái chết đời đời. Còn những kẻ chỉ giết được mạng sống đời này rồi sau đó không còn làm gì được nữa thì đừng sợ họ (Lc 12,4). Như thế Tin Mừng cho biết đâu là sự sống thật cần phải tìm và cái chết nào thì không cần phải sợ.
Thực ra tâm lý chung của con người không ai lại không ham sống, không ai lại không sợ cái chết, nhưng sự sống lại bao hàm sự sống thật, sống vĩnh cửu và sự sống tạm; cái chết cũng thế. Có người chọn cho mình cuộc sống tạm, lệ thuộc vào nó để rồi đến lúc kết thúc họ hối hận vì đã chọn lựa sai lầm, có ăn năn hối hận cũng đã muộn. Người chọn sự sống thật, sự sống vĩnh cửu thì họ sẳn sàng hy sinh tất cả tiền bạc của cải, bạn bè người thân thậm chí cả sinh mạng họ để đổi lấy sự sống đời đời. Họ cũng chỉ là những con người như bao con người khác, do đâu mà họ được như thế? Chỉ có thể lý giải cho điều này là họ đã bắt gặp được Đấng Sự Sống, có cơ hội là họ nắm bắt ngay, không bỏ qua. Những người khác không được như thế không phải vì họ không có cơ hội nhưng là vì họ đã không biết nắm lấy hoặc thờ ơ lơ là. Thánh Stêphanô khi đã tìm được nguồn sống thật thì người quyết một lòng tiến bước bất chấp mọi nguy hiểm đang chực chờ, quyết nắm lấy cho bằng được sự sống vĩnh cữu. Giả sử thánh Stêphanô chỉ cần im lặng không lên tiếng, không tranh luận quyết liệt với những người cứng lòng, ai tin thì tốt, không tin thì thôi, chỉ giữ niềm tin cho riêng mình thôi thì nào ai có thể làm gì được mạng sống của ngài. Stêphanô đã không chọn cách làm như thế, ngài không thể lặng thinh khi đã bắt gặp được Sự Sống, Ngài muốn cho tất cả mọi người cũng được biết được đón nhận như ngài cho dù thân xác này phải chịu chết. Đức tin chân thật là một đức tin luôn làm cho nó sống động và được lớn lên, nẩy nở và phát triển; như lời thánh Giacôbê Tông đồ đã nói: " Một đức tin không có việc làm là một đức tin chết" (Gc 2,17.26).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương thánh nhân biết chia sẻ sự sống thật cho tha nhân.
Suy niệm 6: Thánh Stêphanô-chứng nhân
Những gì chúng ta biết về Thánh Stêphanô thì được viết trong sách Công Vụ Tông Đồ 6 và 7.
Trải dài dòng lịch sử, đức tin vào Đức Kitô là Đấng cứu độ đã làm tiền đề cho biết bao cuộc bách hại các người tín hữu Kitô giáo, nhưng các thế lực ấy đã không thể hủy diệt được đức tin vào Thiên Chúa vào Đức Kitô, do Chúa Thánh Thần luôn ở cùng Hội Thánh, ở cùng các tín hữu, Thánh Thần hằng hoạt động không ngừng để gìn giữ, bảo vệ và thêm sức cho họ.
Chúng ta đang sống trong những ngày Giáo Hội long trọng mừng kỷ niệm Chúa Cứu Thế giáng Sinh làm người cứu chuộc nhân loại, Giáo Hội chọn ngày 26/12 để mừng kính vị thánh Stêphanô tử đạo tiên khởi là muốn cho mọi người Kitô hữu nhìn thấy một đời sống chứng nhân anh dũng, một đức tin kiên vững sống động của ngài vào Đức Giêsu bé nhỏ nghèo hèn đang nằm trong máng cỏ hôi tanh chính là Đấng sẽ mang lại sự sống đời đời cho nhân loại, mang lại ơn cứu độ cho những ai tin vào Người. Giáo Hội mời gọi ta hãy biết tìm và đạt cho được một đức tin như thánh Stêphanô, dám sống, dám làm chứng cho Tin Mừng dù phải hy sinh mạng sống đời tạm này, nhưng bù lại sẽ đạt được một sự sống thật đời đời không ai có thể cướp mất được. Noi gương Thánh Stêphanô chúng ta hãy mạnh dạn tiến bước sống dời chứng nhân bạn nhé.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con noi gương thánh nhân hãy mạnh dạn tiến bước sống dời chứng nhân.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 24/12 Thánh Charbel (1828-1898)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Charbel (1828-1898)
Trong khi xã hội chúng ta tuyên dương sự giầu sang và tiện nghi, Thánh Charbel, qua gương mẫu đời sống, ngài đã dạy chúng ta các giá trị khi trở nên nghèo khó, hy sinh và siêng năng cầu nguyện.
Lược sử
Thánh Charbel tên thật là Youssef Makhlouf, sinh ngày 8 tháng Năm 1828 ở một làng vùng cao nguyên Lebanon. Cuộc đời Youssef rất bình thường, cũng đi học, đi nhà thờ như bất cứ ai khác. Ngài yêu quý Đức Mẹ và siêng năng cầu nguyện. Ngài có hai người chú là đan sĩ. Ngài rất yêu quý Thánh Thể.
Vào ngày 16-12-1898, trong khi cử hành Thánh Lễ, ngài bị tai biến mạch máu não và tám ngày sau ngài đã thở hơi cuối cùng vào ngày 24-12-1898.
Phép lạ bắt đầu xảy ra tại ngôi mộ của vị đan sĩ thánh thiện này. Ngài được phong chân phước năm 1965 và sau cùng, Cha Charbel được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI tuyên xưng hiển thánh ngày 9-10-1977.
Suy niệm 1: Bình thường
Cuộc đời Youssef rất bình thường.
Ngài cũng đi học, đi nhà thờ như bất cứ ai khác, nhưng lại có chí hướng khác thường. Khi gia đình muốn ngài kết hôn vì họ thấy có một thiếu nữ rất xinh đẹp trong làng mà họ tin sẽ là người vợ lý tưởng của ngài thì Youssef lại tin rằng đã đến lúc phải theo đuổi ơn gọi làm đan sĩ. Ngài gia nhập đan viện Đức Mẹ ở Mayfuq khi hai mươi ba tuổi, lấy tên Charbel của vị tử đạo người Syria. Ngài khấn trọn năm 1853 khi hai mươi lăm tuổi. Charbel học làm linh mục và được thụ phong năm 1858. Ngài ở tu viện St. Maron trong mười sáu năm tiếp đó.
Vài năm sau thì ngài xin phép được sống một cuộc đời ẩn tu. Ngài vào tu ở nơi vắng vẻ và đã sống đời chiêm niệm và cầu nguyện trong suốt 23 năm liền, tận hiến hoàn toàn trong sự kết hợp với Thiên Chúa. Ngài là niềm hảnh diện của dân chúng ở miền núi thuộc xứ Lebanon. Hàng năm trong dịp mừng lễ Noel, họ đều nhắc nhở đến thánh Charbel với lòng sùng kính và yêu mến như người con vĩ đại của xứ sở mà họ rất hãnh diện mang hình ảnh trong con tim của họ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống ở trần gian nhưng không thuộc về thế gian (Ga 15,19;17,10).
Suy niệm 2: Đức Mẹ
Charbel yêu quý Đức Mẹ và siêng năng cầu nguyện.
Lòng yêu quý Đức Mẹ của ngài đã phát lộ ngay từ thuở còn ấu thơ. Hằng ngày ra đồng chăn chiên, ngài vẫn mang theo bên mình mẫu ảnh Đức Mẹ và tìm đến một hang động, cung kính đặt mẫu ảnh Đức Trinh Nữ rồi cầu nguyện hằng giờ. Ngài âm thầm cầu xin Đức Mẹ giúp ngài trở thành một đan sĩ.
Lòng sùng kính Mẹ Maria giúp chúng ta thêm lòng "Mến Chúa". Lòng sùng kính Mẹ Maria giúp chúng ta thánh hóa bản thân qua việc chiêm niệm các nhân đức tuyệt vời của Mẹ, nhất là lòng khiêm nhường, khó nghèo, vị tha, đời sống khiết tịnh trong bậc tu trì, và vâng theo Thánh Ý Chúa trong mọi sự. Lòng sùng kính Mẹ Maria cũng giúp chúng ta thêm lòng "Yêu Người" để củng cố tình yêu vợ chồng, cha mẹ và con cái, cũng như nhiệt thành trong các công tác xã hội, các việc từ thiện giúp những người nghèo khó, bệnh tật, những người gặp cảnh khó khăn cần giúp đỡ (Linh Mục Anphong Trần Đức Phương).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương thánh nhân luôn yêu quý và sùng kính Đức Mẹ.
Suy niệm 3: Cầu nguyện
Charbel yêu quý Đức Mẹ và siêng năng cầu nguyện.
Từ thở bé và đặc biệt khi lớn lên, vào dòng, làm linh mục, Cha Charbel là một người thâm trầm mà sự yêu quý cầu nguyện là đặc tính nổi bật của ngài. Thỉnh thoảng ngài lui vào nơi ẩn dật của dòng để cầu nguyện. Và trong hai mươi ba năm cuối đời, Cha Charbel sống rất kham khổ. Ăn ít, ngủ trên đất, và cầu nguyện lâu giờ. Nhiều khi, Cha Charbel bay bổng trên không khi cầu nguyện.
Tại sao ta nên cầu nguyện? Ta cần cầu nguyện để lòng trí ta luôn nhớ đến Ngài và trong đời sống của ta luôn có sự hiện diện quan trọng của Ngài. Như thánh Gregory thành Nazianzen nói: "Ta phải nhớ đến Chúa nhiều hơn là ta thở." Giống như ta không thể sống nếu không có hơi thở, thì ta cũng sẽ chết mòn nếu không có cầu nguyện. Cầu nguyện bảo đảm kho tàng quí giá của ta là tình bạn giữa ta và Chúa Giêsu; như Chúa đã nhắc nhở ta: "Kho tàng anh ở đâu thì lòng anh cũng ở đó" (Mt 6:21). Ta cũng nên nhớ rằng, cầu nguyện không buộc Chúa phải "cập nhật hóa" với đời sống của ta; như trong Giáo lý đã dạy: "Cha ta trên trời biết ta cần gì trước khi ta cầu xin Ngài, nhưng Ngài chờ đợi ta cầu xin vì phẩm giá của con cái Ngài ở nơi sự tự do của họ" (số 2736). Ta cần cầu nguyện để thực tập ước muốn tự do của mình trong cách thức mà do đó, nó cho ta biết sự ao ước tối hậu của ta là nên một với Chúa. Trong cầu nguyện, ta tìm ra được phẩm giá thực sự của mình, đó là " Thiên Chúa đặt ta ở thế gian này để ta nhận biết, yêu mến và phụng sự Ngài, và do đó ta được lên thiên đàng" (số 1721). Cầu nguyện cho ta biết thực chất về giới hạn và sự yếu đuối của mình. Vì như thánh Têrêsa Lisieux, một "Bông Hoa Bé Nhỏ" chứng nhận: "Đó là cầu nguyện, đó là sự hy sinh để cho ta đầy sức mạnh; đó là những vũ khí ma quỉ không thể thắng được mà Chúa Giêsu ban cho tôi."
Cầu nguyện thanh lọc và làm cho đời sống ta nên trong trắng khi nó gạt ra ngoài những thú vui thấp hèn, những gian trá và những lừa đảo của thế gian. Cầu nguyện cung cấp cho ta một nền tảng vững chắc để xây dựng và gọt chữa tất cả những liên hệ khác trong đời sống của ta. Cầu nguyện cảnh tỉnh rằng ta không cô đơn trong đời sống đúc tin. Cầu nguyện không chỉ kéo ta đến gần Chúa, nhưng nó còn kết hợp ta với từng người thánh thiện khác mà có lòng yêu mến Chúa giống như ta. Một cách đơn giản, cầu nguyện nhắc nhở rằng ta không thể tiến lại gần Chúa một mình được, chỉ có ai sống trong tình yêu mến mới gặp được Chúa. Ta cần nắm chắc việc cầu nguyện để tìm ra được chân lý và hạnh phúc mà ta hằng luôn kiếm tìm (Lm. Peter John Cameron, OP, Đaminh Nguyễn Việt Hữu chuyển ngữ).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con siêng năng cầu nguyện.
Suy niệm 4: Thánh Thể
Charbel rất yêu quý Thánh Thể.
Ðể cho con người tin Mình và Máu Thánh là thịt và máu thật, Chúa làm nhiều phép lạ để chúng ta tin và năng đến với Phép Thánh Thể:
Mình Thánh bay thoát khỏi tay ăn trộm: Ðời vua Philippe de Hardi (1362-1404) của nước Pháp, một tên ăn trộm vào nhà thờ Saint Denis, lấy chén thánh đựng Mình Thánh Chúa định đem ra ngoài đồng trút Mình Thánh xuống rồi đem chén thánh đi bán. Nhưng Mình Thánh không rớt xuống mà lại bay chung quanh trên đầu tên ăn trộm. Thấy vậy người ta bắt nó nộp cho quan và báo cho cha sở. Cha Mattheu de Vendôme báo ngay và kêu gọi Ðức Cha, các linh mục tu sỹ đến cầu kinh và hát thánh vịnh. Trước sự chứng kiến của đông người, tự nhiên Mình Thánh từ trên không từ từ hạ xuống tay cha sở họ Saint Gervais. Ngày nay, hằng năm, tại nhà thờ Saint Gervais vẫn hát lễ trọng vào Chúa nhật đầu tháng 9 để kỷ niệm phép lạ này. (Bđd)
Không ăn vẫn sống: Thánh Nikolas de Flue có tên gọi thân mật là Bruder Klaus (1417-1487), bổn mạng nước Thụy Sỹ, trước khi qua đời 20 năm, coi như một phép lạ về Phép Thánh Thể. Trong 20 năm, Ngài đã từng sống hạnh phúc trong bậc gia đình với vợ và 10 con, giàu sang và chức quyền. Năm 1467, nghe tiếng Chúa gọi, với sự ưng thuận của vợ con, Ngài từ giã gia đình, bỏ hết mọi sự sống đời ẩn tu, nhiệm nhặt, chay tịnh, ở miền Alsace. Suốt 20 năm không ăn không uống gì cho đến khi qua đời. Xưa và nay, nghe vậy người ta cho là khó tin? Thời ấy, hay tin, dân chúng đã đến bao vây hang động Ranft, một tháng, nơi ngài tu trì, xem có ai ra vào tiếp tế gì không. Sau một tháng canh giữ, không thấy gì, người ta mới cho đó không phải là chuyện bịa đặt. Về Giáo quyền, trước những tin ngược xuôi, đã cử Ðức Cha Thomas, giám mục phụ tá Konstanz, đến tận nơi gặp thánh nhân xem sao. Ðức Cha đem theo bánh rượu để thử nghiệm. Sau khi tìm hiểu về ơn gọi của Nicolas, Ðức Cha hỏi Nicolas: Theo Nicolas, nhân đức nào quan trọng. Nicolas thưa: đức vâng lời. Ðức Cha liền lấy bánh và rượu giấu trong cặp mang theo, bẻ làm 3, đưa cho Nicolas, và bảo: hãy vâng lời, ăn đi. Nicolas cầm một miếng bánh, bẻ làm 3 miếng nhỏ nữa. Lâu ngày không ăn, khó khăn lắm, Nicolas mới ăn hết phần nhỏ bánh và uống chút rượu. Nhưng vừa nuốt khỏi miệng, liền ói ra ngay. Kinh ngạc Ðức cha kính phục Nicolas không ăn không uống mà vẫn sống.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vững tin Chúa là bánh hằng sống (Ga 6,48).
Suy niệm 5: Chết
Charbel đã thở hơi cuối cùng vào ngày 24-12-1898.
Ngài từ giả cuộc đời lúc 70 tuổi. Một chứng nhân di quan tên là George Emmanuel Abi-Saseen ghi lại: Ngài mất vào ngày áp lễ giáng sinh. Trời đổ tuyết nhiều và mây phủ đầy. Khi chúng tôi di quan thì bỗng nhiên mây tan và trời quang đãng. Khi ngài qua đời thì ngài tu viện trưởng đã cho khắc lời tiên tri như sau trên mộ của ngài ở Annaya: "Tôi không có gì để viết về người đan sĩ này. Những gì mà người đan sĩ này thực hiện sau khi qua đời, sẽ nói lên về cuộc sống của người mà tôi không cần thiết phải viết lên." Chỉ trong một thời gian sau thì có những ánh sáng tỏa ra trên mộ ngài, thân xác ngài tỏa ra một mùi thơm thoang thoảng như hoa đồng nội. Dân chúng đến viếng thăm càng ngày càng đông đảo và nhiều người được ơn chữa lành bệnh.
Thánh Charbel là gương mẫu một cuộc sống ẩn dật và khiêm nhượng, không để lại một di tích hoặc sách vở gì, nhưng lòng đạo đức và yêu mến Chúa đã lớn lên "như cây sồi vĩ đại của xứ Lebanon". Cuộc đời của ngài là một tấm gương sáng và sự an nghĩ đời đời trong Thiên Chúa là niềm hy vọng cho tất cả mọi người tín hữu (PhóTế Huỳnh Mai Trác).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống sao để được an nghĩ đời đời trong Chúa.
Suy niệm 6: Được phong
Cha Charbel được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI phong chân phước năm 1965 và sau cùng được tuyên xưng hiển thánh ngày 9-10-1977.
Vào năm 1925, Đức Piô XI mở án phong thánh cho ngài. Một vài phép lạ đã xảy ra nhờ lời cầu bàu của ngài, như trường hợp của bà Nohad El Shami, 55 tuổi bị bán thân bất toại. Bà kể vào một đêm kia bà nằm mơ thấy hai vị đan sĩ đứng cạnh giường bà. Một vị đặt tay ở cổ bà và tiến hành phẫu thuật làm bà hết đau, trong khi vị kia đặt một chiếc gối dưới lưng bà. Thức dậy, bà phát hiện hai vết thương ở cổ mỗi vết một bên. Bà hoàn toàn hồi phục và có thể đi lại được. Bà tin chính Thánh Charbel đã chữa lành bà, còn vị kia thì bà không nhận ra. Đêm sau, bà lại mơ thấy Thánh Charbel vốn nói với bà: Tôi thực hiện ca mỗ này cho bà để giúp người người sống lại niềm tin. Tôi xin bà hằng tháng viếng thăm tu viện vào mỗi ngày 22, và thường xuyên hiệp dâng Thánh lễ trong quảng đời còn lại của bà. Hiện nay quần chúng quy tụ hằng tháng vào ngày 22 để cầu nguyện và dâng lễ tại tu viện của Thánh Charbel ở Annaya.
Vào năm 1950, mồ hôi máu từ thi hài ngài chảy ra thấm ướt quần áo ngài. Vào năm 1954, Đức Piô XII ký sắc lệnh phê chuẩn. Vào ngày 5.12.1965, Đức Phaolô VI cử hành nghi thức phong Chân Phước cho ngài tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô dịp bế mạc Công đồng Vaticanô II. Và đến năm 1976, Đức Phaolô VI ký sắc lệnh phong thánh cho ngài và tuyên xưng hiển thánh ngày 9-10-1977 tại Vaticanô. Đức giáo hoàng giải thích rằng: bằng chính đời sống của mình, Thánh Charbel đã dạy chúng ta con đường đích thực đến với Thiên Chúa. Trong khi xã hội chúng ta tuyên dương sự giầu sang và tiện nghi, Thánh Charbel, qua gương mẫu đời sống, ngài đã dạy chúng ta các giá trị khi trở nên nghèo khó, hy sinh và siêng năng cầu nguyện.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấy được và sống các giá trị khi trở nên nghèo khó, hy sinh và siêng năng cầu nguyện.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 23/12 Thánh Gioan ở Kanty (1390 - 1473)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gioan ở Kanty (1390 - 1473)
"Chiến đấu với mọi sai lầm, nhưng hãy thi hành với sự vui vẻ, kiên nhẫn, ân cần, và bác ái. Sự khắc nghiệt chỉ làm hại chính linh hồn bạn và phá đổ mục đích tốt đẹp nhất." (John of Kanty)
Lược sử
Thánh Gioan là một người sinh trưởng ở thôn quê nhưng biết lợi dụng thị thành cũng như Đại Học Krakow ở Ba Lan để trau dồi thêm kiến thức. Sau khi hoàn tất việc học, ngài được thụ phong linh mục và là giáo sư thần học. Không may, vấn đề phe cánh thời ấy còn rất nặng nề nên những người ganh tị sự nổi tiếng của ngài đã lập mưu để đẩy ngài ra khỏi chức giáo sư. Ngay cả ngài không được phép lên tiếng và dẫn chứng để bào chữa. Bởi thế, vào lúc 41 tuổi, ngài bị đẩy về giáo xứ Olkusz, để học làm cha xứ.
Vì không muốn họ phải gánh chịu những hậu quả của hành động mình nên ngài đã im lặng. Sau 8 năm, ngài được miễn tội và được trở về Krakow. Lúc ấy, ngài đã thu phục được lòng dân ở Olkusz, nên những người từng là thù nghịch trước đây đã tiễn chân ngài đến vài dặm để năn nỉ xin ngài ở lại với họ.
Cha Gioan luôn lập đi lập lại cho các sinh viên về triết lý này: "Chiến đấu với mọi sai lầm, nhưng hãy thi hành với sự vui vẻ, kiên nhẫn, ân cần, và bác ái. Sự khắc nghiệt chỉ làm hại chính linh hồn bạn và phá đổ mục đích tốt đẹp nhất."
Suy niệm 1: Kiến thức
Thánh Gioan là một người sinh trưởng ở thôn quê nhưng biết lợi dụng thị thành cũng như Đại Học Krakow ở Ba Lan để trau dồi thêm kiến thức.
Vị thánh gốc người Ba Lan này sinh năm 1390 tại miền Krakow nước Ba Lan ở Kenty, là con trai của một nông dân tốt lành. Nhận thấy con mình rất thông minh, song thân Gioan đã gởi ngài tới học tại trường đại học Kracow. Gioan Kanty học hành rất giỏi. Ngài có óc thông minh, khôn khéo, học hành giỏi giang, trổi vượt các bạn bè. Ngài sống suốt cuộc đời tại miền Krakow. Sau khi mãn trường ở đây, ngài trở thành linh mục, giáo sư văn chương, khoa trưởng triết học năm 1432 và Ngài cũng là giáo sư thần học vào năm 1443.
Thánh nhân đã làm hết sức mình, đã sống đời sống kết hợp mật thiết Thiên Chúa và hoàn thành một cách xuất sắc nhất mọi công việc bề trên trao phó cho ngài. Ðó là nét rất đặc biệt nơi cuộc sống ngài. Chúa đã thưởng công ngài và Giáo Hội đã nâng ngài lên bậc hiển thánh. Chúng ta hãy học nơi thánh Gioan Kanty sự chuyên cần chu toàn việc học cũng như việc nhà. Thiên Chúa chỉ mong đợi chúng ta cố gắng hết mình và Người sẽ chúc lành cho những nỗ lực của chúng ta. Chúng ta hãy nài xin thánh Gioan Kanty giúp chúng ta làm việc với tinh thần vui tươi phấn khởi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hãy luôn cố gắng hết mình.
Suy niệm 2: Phe cánh
Vấn đề phe cánh thời ấy còn rất nặng nề.
Những người ganh tị sự nổi tiếng của ngài đã lập mưu để đẩy ngài ra khỏi chức giáo sư. Ngay cả ngài không được phép lên tiếng và dẫn chứng để bào chữa.
Nguyên nhân chính của tánh ganh ghét là lòng vị kỷ. Con người khi có tánh ích kỷ và luôn nghĩ đến mình, y chỉ biết sống cho y và nhìn mọi kẻ khác như đối thủ lợi hại. Y ganh ghét sự thành công và tham muốn tài sản của họ. Y không thể tha thứ cho hạnh phúc và tị hiềm về các thành quả của họ. Cuối cùng y hoàn toàn trở nên phần tử nguy hiểm không thích giao tiếp với xã hội và tạo ra nhiều khó khăn. Những khó khăn có thể đến từ nhiều nguyên nhân. Nhiều sự khó khăn phát xuất từ sự thân quen của chúng ta... Một người khi thành công, những kẻ xa lạ thường không quan tâm gì đến y. Nhưng không may nếu y có quen biết vài người bạn hay bà con, những kẻ đó sẽ ganh ghét về thành quả của y. Họ sẽ đặt chuyện, và ngay cả tạo nên những trở ngại cho y. Gặp hoàn cảnh như vậy, y cần phải cố gắng nhẫn nhục. Và có thể hữu ích nếu y nhớ rằng người ta dễ dàng tiếp xúc với những kẻ xa lạ hơn là những người thân quen với y.
Tánh vị kỷ phát sinh từ ý tưởng sai lầm và thiếu sáng suốt không nhận chân được thực tại của cuộc sống. Nó là loại tình cảm rất tai hại, được xây dựng trên lòng tham dục và gây nên nhiều khổ đau, phiền não bất tận. Cần phải áp dụng các phương pháp chân chính và ngăn ngừa để có thể chế ngự những tình cảm không tốt đó. Ðiều thiện được xây dựng trên sức mạnh của tư tưởng và nó có khả năng thu hút điều thiện. Chúng ta gặt hái kết quả theo đúng những ý tưởng chúng ta đã gieo. Sự khổ đau và hạnh phúc của chúng ta là hậu quả trực tiếp của những ý tưởng lành hay ác của chúng ta theo định luật hấp dẫn mà nó được phổ biến ứng dụng trên mọi lãnh vực hoạt động.
Nếu người nào không may có một kẻ thù, điều tệ hại nhất mà y có thể gây ra cho chính y, không phải với người thù, là để cho lòng oán giận xâm nhập vào tâm hồn và khiến sự hận thù trở thành bệnh kinh niên. Tất cả chúng ta đều là những người bạn khổ đau và sống theo một định luật chung. Sự chọn lựa trong việc làm lành hay tạo ác đều tùy thuộc ở chúng ta. Cho nên, nếu bạn không muốn thấy hoặc nghe những thành quả tốt đẹp của kẻ khác, bạn cần phải suy nghĩ lại về cái nhìn của mình (Trích dịch tác phẩm "How To Live Without Fear & Worry").
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con diệt trừ tính ganh ghét bằng việc đem lòng khâm phục và phấn đấu đạt được cái hay của người.
Suy niệm 3: Cha xứ
Gioan Kanty bị đẩy về giáo xứ Olkusz, để học làm cha xứ.
Người dân ở Olkusz, Bohemia có đủ lý do để nghi ngờ vị cha xứ mới. Họ biết một giáo sư đại học nghĩ gì về cái thành phố quê mùa nhỏ bé của họ. Tệ hơn nữa, thành phố của họ đã từng được coi là nơi chứa chấp các linh mục bị "thất sủng." Chắc chắn rằng nếu ngài nổi cơn thịnh nộ trước sự bất công ấy, có lẽ không một người giáo dân nào đổ lỗi cho ngài. Nhưng vì không muốn họ phải gánh chịu những hậu quả của hành động mình nên ngài đã im lặng.
Cuộc sống ở Olkusz cũng không dễ dàng gì. Ngài lo sợ trách nhiệm của một cha xứ. Bất kể ngài có cố gắng đến đâu, giáo dân vẫn giữ một thái độ lạnh lùng, xa cách. Nhưng hoạch định của Cha Gioan rất đơn giản, và hoạch định ấy xuất phát từ con tim chứ không phải trí óc. Trong bất cứ chương trình nào thực hiện, ngài đều cho họ thấy ngài thực sự lưu tâm đến người dân. Mặc dù sau nhiều năm vẫn chưa thấy dấu hiệu của sự thành công, ngài thận trọng không lộ vẻ tức giận hay thiếu kiên nhẫn. Ngài biết, người ta không thể bị ép buộc sống bác ái, bởi thế ngài đã cho họ những gì tốt đẹp nhất mà ngài hy vọng một ngày nào đó họ sẽ tìm thấy. Sau tám năm trường, ngài được miễn tội và được trở về Krakow. Lúc ấy, ngài đã thu phục được lòng dân ở Olkusz, nên những người từng là thù nghịch trước đây đã tiễn chân ngài đến vài dặm để năn nỉ xin ngài ở lại với họ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các cha xứ theo gương thánh nhân luôn làm việc theo chiều hướng quan tâm đến người dân.
Suy niệm 4: Im lặng
Vì không muốn họ phải gánh chịu những hậu quả của hành động mình nên Gioan Kanty đã im lặng.
Thánh Tông đồ nhắn nhủ chúng ta phải giữ thinh lặng khi người truyền cho chúng ta làm việc trong thinh lặng. Và Đấng tiên tri cũng minh thị rằng: Thinh lặng là hoa trái của đức công chính. Ở chỗ khác người dạy: dũng lực của anh em hệ tại ở thinh lặng và cậy trông.
Bởi đó cha truyền cho anh em giữ thinh lặng từ sau kinh tối cho đến hết giờ kinh nhất ngày hôm sau. Thời gian còn lại, mặc dầu luật giữ thinh lặng không nhiệm nhặt bằng, nhưng anh em cũng cố gắng tránh nói nhiều. Vì như có lời chép và kinh nghiệm cho thấy: Nói nhiều không tránh khỏi tội lỗi, ai nói năng không cân nhắc sẽ lãnh nhiều hậu quả xấu; và ở chỗ khác: ai nói nhiều thì làm tổn thương linh hồn mình. Trong Phúc Âm, Chúa cũng phán: Đến ngày phán xét, người ta phải trả lẽ về tất cả những lời bừa bãi mình đã nói. Vậy, mỗi người hãy cân nhắc lời nói của mình kẻo lưỡi sẽ làm cho mình sa ngã mà không chỗi dậy nổi cho tới chết. Hãy noi gương Đấng tiên tri canh giữ đường lối mình kẻo phạm tội do miệng lưỡi và chú trọng giữ thinh lặng, vì trong thinh lặng người ta mới có được đức công chính (Luật thánh Albertô, chương 21).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết giữ im lặng trong khi làm việc cũng như khi bị hiểu lầm, để có được đức công chính.
Suy niệm 5: Tiễn chân
Những người từng là thù nghịch trước đây đã tiễn chân Gioan Kanty.
Người mến chuộng tiễn chân là việc thường xảy ra, nhưng ở trường hợp này lại có cả những người từng là thù nghịch. Và họ tiễn chân không phải tại chỗ mà với vài dặm và nhất là với tâm tình năn nỉ xin ngài ở lại với họ. Vì thấy họ rất buồn khi tiễn đưa mình ra đi, cha Gioan Kanty đã nói với họ: "Sự phiền muộn này không làm hài lòng Thiên Chúa đâu! Nếu trong những năm qua cha đã làm điều gì tốt cho các con, các con hãy ca lên bài ca hân hoan!"
Thiên Chúa luôn có con đường của Ngài. Mỗi vị thánh đều nổi bật về một nhân đức nào đó, chẳng hạn có thánh làm gương về sự trong sạch, có vị thánh về sự khó nghèo hay vâng phục. Tựu trung các vị thánh tuy có nổi bật về một vài nhân đức nào đó, họ vẫn có chung một mẫu số là sống càng giống Chúa Giêsu Kitô bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Thánh Gioan ở Kanty là một vị thánh tiêu biểu: nhân từ, khiêm tốn và độ lượng; bị chống đối và sống kham khổ để ăn năn đền tội. Ngài có tấm lòng hoán cải rất đặc biệt và ý thức việc hành hương Giêrusalem như một phương thế để đền tội, đồng thời cầu nguyện cho các linh hồn. Ngài đã hành hương đất thánh Giêrusalem, viếng mộ Chúa Giêsu nhiều lần và đi Roma viếng mộ hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ bốn lần. Hầu hết mọi Kitô Hữu trong một xã hội giầu sang có thể hiểu được tất cả những đức tính trên, ngoại trừ đức tính sau cùng: bất cứ điều gì đòi hỏi sự rèn luyện dường như người ta cho rằng chỉ dành cho các lực sĩ. Giáng Sinh là thời gian tốt để bỏ bớt những đam mê vật chất.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết đón nhận mọi biến vui buồn đến trong đời như đường lối Chúa muốn rèn luyện chúng con.
Suy niệm 6: Bác ái
Hãy thi hành với sự vui vẻ, kiên nhẫn, ân cần, và bác ái.
Ngài được bổ nhiệm làm cha sở Olkusz, một họ đạo nhỏ bé ở gần Krakow. Với chức vụ nào, Ngài cũng tỏ ra là một người nổi tiếng, xuất sắc không chỉ vì kiến thức sâu rộng, mà còn bởi đức bác ái, lòng thương xót, cảm thông đối với mọi người, đặc biệt là những con người nghèo khó, bơ vơ, vất vưởng. Ngài đã bố thí cho người nghèo tất cả những gì mình có.
Có lần Cha Gioan đang ngồi ăn và thấy người ăn xin đi qua trước cửa, ngài đứng dậy, đi theo, và cho họ tất cả những thức ăn ngài có. Không hỏi một lời, cũng không yêu cầu gì, khi nhận thấy nhu cầu của người khác ngài lập tức giúp đỡ họ với bất cứ gì ngài có.
Ngài được người ta mến chuộng đến nỗi thường được giới quý tộc mời ăn uống. Ngài ăn mặc hết sức giản dị. Có lần, ngài bị người gác cửa từ chối không cho vào dự tiệc chỉ vì chiếc áo chùng thâm bạc phếch của ngài. Ngài cũng không cãi lại mà trở về nhà, thay chiếc áo mới rồi trở lại. Trong bữa tiệc, người hầu bàn sơ ý làm đổ thức ăn trên chiếc áo mới của ngài. Thay vì khó chịu, ngài lại pha trò: "Không có gì. Chiếc áo của tôi cũng được ăn uống chứ. Nếu không vì lý do đó thì tôi đâu có đến đây."
Thánh Gioan Kanty sống thọ 83 tuổi. Trong suốt những năm ấy, rất nhiều lần thánh nhân đã bán những của ngài có để giúp đỡ người nghèo. Khi người ta bật khóc vì nghe biết Gioan Kanty đang hấp hối, thánh nhân đã an ủi họ: "Anh em đừng lo lắng cho cái nhà tù hay hư nát này; một hãy nghĩ tới linh hồn sắp sửa được thoát khỏi chốn ngục tù ấy!" Thánh Gioan Kanty về trời năm 1473; và được đức thánh cha Clêmentê XIII tôn phong lên bậc hiển thánh năm 1767.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng lo lắng cho cái nhà tù bản thân, mà hãy nghĩ tới việc tích lũy của cải trên trời bằng các việc bác ái.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 22/12 Thánh Frances Xavier Cabrini (1850-1917)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
THÁNH NỮ PHANXICA CABRINI
SÁNG LẬP DÒNG CHỊ EM TRUYỀN GIÁO
Trong khi hết mọi xã hội đều phải qua bước suy tàn, và cùng với thời gian mất đi nguồn nhựa sống thì Giáo hội vẫn hằng tỏ ra trẻ trung, mặc dầu trải qua 20 thế kỷ. Cùng với vẻ xuân sắc của mình, Giáo hội luôn luôn sinh ra muôn vàn vị thánh, ở mọi thời mọi nơi, thuộc mọi chủng tộc và ở trong mọi tầng lớp xã hội.
Thế kỷ thứ 19, giữa lúc nhân loại đang đi vào con đường xa Chúa, vùi đầu vào cuộc đời vật chất, không kể gì là công bình bác ái, thì Giáo hội lại xướng xuất ra nhiều phong trào đạo đức. Giáo dân đua nhau tổ chức các hội đoàn để thực hiện chương trình bác ái nhất là nơi dân chúng nghèo khổ.
Thánh nữ Phanxica là một người rất nhiệt thành với mọi công cuộc bác ái. Chính tay bà đã cứu trợ nhiều người Ý tị nạn ở Mỹ châu.
Phanxica sinh ngày 15 tháng 7 năm 1850 trong địa phận Lodi. Người là con thứ 13 của một gia đình nông dân nước Ý. Từ thuở mới lọt lòng mẹ, Phanxica vốn ốm yếu hơn các anh chị em, đến nỗi ai nấy hầu thất vọng không trông cô có thể sống nên thân nên người được. Nhưng, trái lại, với cái thân hình ẻo lả ấy, Phanxica cứ mỗi ngày mỗi khôn lớn đồng thời lòng kính mến Chúa cũng tăng tiến.
Khi vừa chẵn 13 tuổi, Phanxica khấn giữ trinh khiết để suốt đời tận hiến cho Chúa và phục vụ anh em đồng loại. Với thời gian trôi qua, năm 18 tuổi, sau kỳ thi mãn khóa lớp sư phạm, Phanxica trúng tuyển và trở thành một nữ giáo viên.
Dạy học được hai năm thì vào năm 1870, cô phải chịu hai tang lớn của song thân. Sau đó, để tận hiến toàn thân cho Chúa, hầu tròn nhiệm vụ tôi ngay con thảo, Phanxica đến gõ cửa một tu viện, nhưng vì điều kiện sức khỏe quá thiếu thốn, nên không được thâu nhận. Biết đó là ý Chúa, cô liền khiêm tốn quay về sống cuộc đời một giáo dân hết mực đạo đức.
Năm 1874 cha xứ Codogno có ý nhờ Phanxica đứng ra lo việc từ thiện, săn sóc viện mồ côi trong xứ lúc đó đang thiếu người trông nom, nên công việc tổ chức đều không được chu đáo lắm. Vâng lời cha xứ, Phanxica đã nhận trách nhiệm đó và đêm ngày những lo lắng tổ chức cho viện được hoàn hảo. Người đã chăm sóc và giáo dục các em với tất cả tình thương yêu và lòng tận tụy của một người mẹ đạo đức. Trong khi đó, cũng có mấy người phụ nữ khác cùng phụ việc với Phanxica. Lòng đạo đức đã khiến họ ý hợp tâm đồng, để rồi hội nhau cùng soạn thảo một qui luật riêng với những lời khấn hứa để giúp nhau nên trọn lành hơn. Sau khi thảo xong bản nội qui, các chị em cùng nhau thi hành và nhận thánh Phanxicô Xaviê làm bổn mạng của hội.
Ba năm sau, vì công việc trong viện mồ côi không còn nữa, nên viện phải đóng cửa. Tuy nhiên hội đó vẫn tồn tại và đổi sang hoạt động truyền giáo rất mạnh mẽ, đến nỗi đã được Đức Giám mục địa phận chấp thuận và cho phép tổ chức thật hoàn toàn chu đáo.
Năm 1880, tại Codogno một tu viện đầu tiên được thành lập với mục đích huấn luyện các thiếu nữ, nhất là hướng dẫn các thiếu nữ lầm đường lạc lối.
Tới năm 1888, với bộ qui luật mới, tu viện được Toà thánh chính thức châu phê. Ngoài mục đích chính như vừa trình bày, mỗi ngày nữ tu còn phải dành bốn giờ để chuyên việc cầu nguyện và chầu Chúa trong thinh lặng.
Chị Phanxica được đề cử làm bề trên dòng. Mặc dầu phải gánh trọng trách nặng nề, chị cũng không hề quên lý tưởng truyền giáo. Chị mong được sang truyền giáo tại Á đông, nhất là nước Trung hoa, nhưng vì hoàn cảnh chưa cho phép, nên các chị em khuyên chị hãy lưu ý đến các kiều dân Ý bên Mỹ châu. Tại đó có tới hàng vạn người đang cần săn sóc giúp đỡ, vì họ quá túng thiếu về cả vật chất lẫn tinh thần.
Hưởng ứng lời khuyên nhủ của chị em, năm 1889, Phanxica cùng với một số chị em vượt biển sang Mỹ châu để thi hành sứ mạng. Sau nhiều ngày vượt trùng dương gian nguy, các chị mới tới đất Mỹ châu. Tới nơi, dân chúng nhất là những người tỵ nạn, hết sức mừng rỡ và đón tiếp các chị rất nồng hậu. Sau đó họ góp ý kiến giúp đỡ các chị lập một viện cô nhi, mở trường dạy học cho các trẻ em người Ý. Nhưng công việc của các chị đều gặp nhiều cản trở lớn lao. Cản trở thứ nhất là chính Đức Giám mục ở Mỹ châu không muốn tiếp nhận các chị, cản trở thứ hai là vấn đề vật chất rất thiếu kém khiến không thể thi hành chương trình đã hoạch định. Dầu vậy chị Phanxica và các chị đồng hành cũng không hề thất vọng. Các chị hoàn toàn phó mặc Chúa định liệu vì biết rằng, nếu công việc đẹp lòng Chúa nhất định sẽ thành công tốt đẹp. Thật vậy, Chúa đã không phụ lòng tin tưởng của con cái. Người đã cho các chị lượm được nhiều kết quả quá lòng sở ước: một viện cô nhi được thành lập để săn sóc những trẻ em nghèo khó; tiếp đến một học đường được xây cất và chính các chị đảm nhận việc điều khiển và huấn luyện các học sinh. Qua năm này sang năm khác, các cơ sở của tu viện được tuần tự thiết lập để rồi trở nên như trung tâm của dòng chị em truyền giáo.
Say sưa với công việc truyền giáo ấy, chị Phanxica đã xuất toàn lực hầu làm vinh danh Chúa, vì thế thân thể mỗi ngày một hao mòn. Sau một thời gian lâm trọng bệnh, chị được Chúa đem về nơi vĩnh phúc. Hôm đó là ngày 22 tháng 12 năm 1917. Thi hài người được mai táng tại New York.
Để thưởng công và nhất là để nêu gương nhiệt thành truyền giáo của chị Phanxica cho muôn thế hệ ghi nhớ và bắt chước. Đức Giáo Hoàng Piô XI đã tôn phong người lên bậc chân phước vào năm 1938. Tới năm 1949, Thiên Chúa lại muốn làm vinh danh người con yêu dấu của mình hơn nữa, nên đã khiến Đức Thánh Cha Piô XII phong người lên bậc hiển thánh.
- Ngày 21/12 Thánh Phêrô Canixio
- Ngày 20/12 Thánh Elizabeth ở Áo (1554 - 1592)
- Ngày 19/12 Tôi Tớ Thiên Chúa Berthold ở Ratisbon (c. 1272)
- Ngày 18/12 Chân Phước Anthony Grassi (1592-1671)
- Ngày 17/12 Thánh Lagiarô
- Ngày 16/12 Chân Phước Philip Siphong và Các Bạn (c. 1940)
- Ngày 15/12 Chân Phước Mary Frances Schervier (1819 - 1876)
- Ngày 14/12 Thánh Gioan Thánh Giá (1541 - 1591)
- Ngày 13/12 Thánh LUCIA Đồng Trinh Tử Đạo - (Thế kỷ IV)
- Ngày 12/12 Lễ Ðức Mẹ Guadalupe