Gương Thánh Nhân
Ngày 11/11 Thánh Martin ở Tours (316?-397)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Martin ở Tours (316?-397)
Lược sử
Thánh Martin ở Tours, một trong những vị thánh nổi tiếng, Ngài sinh trong một gia đình vô tôn giáo ở chỗ bây giờ là Hungary và được lớn lên ở Ý. Ngài theo học đạo và được rửa tội lúc 18 tuổi. Người ta kể rằng ngài sống như một tu sĩ hơn là một binh sĩ. Năm 23 tuổi, ngài từ chối tham dự cuộc chiến của Hoàng Đế Julian Caesar chống với thế giới bằng lập luận sau: "Tôi đã phục vụ ngài như một người lính; bây giờ hãy để tôi phục vụ Đức Kitô. Hãy thưởng cho những người muốn chiến đấu. Nhưng tôi là một người lính của Đức Kitô, và thật sai lầm nếu tôi đi đánh nhau." Sau nhiều khó khăn, ngài được giải ngũ và trở thành môn đệ của Đức Giám Mục Hilary ở Poitiers.
Ngài trở thành vị ẩn tu, trước hết sống ở Milan và sau đó sống ở một đảo nhỏ. Khi Đức Hilary được phục hồi quyền bính sau thời gian lưu đầy, Martin trở về Pháp và thành lập tu viện có thể nói đầu tiên ở Pháp, gần Poitiers. Ngài sống ở đó trong 10 năm, đào tạo các môn đệ và đi rao giảng khắp nước.
Dân chúng ở Tours đòi hỏi ngài làm giám mục cho họ. Và ngài bị lừa đến thành phố này và được đưa đến nhà thờ, là nơi ngài lưỡng lự nhận chức giám mục. Một vài giám mục tấn phong nghĩ rằng ngài không xứng đáng làm giám mục vì cái bề ngoài xuề xòa và mái tóc thiếu chải chuốt của ngài.
Cùng với Đức Ambrôsiô, Đức Giám Mục Martin chống với Đức Giám Mục Ithacius về đề nghị xử tử những người lạc giáo -- cũng như sự can thiệp của hoàng đế vào vấn đề này.
Ngài còn muốn cộng tác với Đức Giám Mục Ithacius về một vài lãnh vực, nhưng vì lương tâm không thấy ổn thỏa nên ngài đã bỏ dở ý định ấy.
Suy niệm 1: Vị thánh
Thánh Martin ở Tours, một trong những vị thánh nổi tiếng.
Một người chống đối hành động vô lương tâm muốn trở nên một tu sĩ; một tu sĩ bị gài ép để trở nên một giám mục; một giám mục chống đối những người vô tôn giáo nhưng cũng xin tha thứ cho những người lạc giáo; xuất thân từ một gia đình vô tôn giáo lại trở thành một người lính của Đức Kitô với hoạt động tích cực chống với bè rối Arian, -- đó là Thánh Martin ở Tours, một trong những vị thánh nổi tiếng.
Những mâu thuẩn nội tại trong đời ngài phần nào diễn đạt lại lối sống nghịch dời của bản Hiến Chương Nước Trời mà Đức Giêsu đã mời gọi những ai muốn tiến xa trên đường trọn lành (Mt 5,3-12). Đồng thời đó cũng là một bằng chứng hùng hồn cho một sự thật có thể sống được, vốn dành cho những người thành tâm thiện chí muốn có sự sống đời đời (Mt 19,16).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tự vấn chính mình: người ta sống và nên thánh được, sao tôi lại không?
Suy niệm 2: Lính của Đức Kitô
Tôi là một người lính của Đức Kitô.
Là con của một cựu chiến binh, Martin bị ép buộc phải gia nhập quân đội vào lúc 16 tuổi.
Người ta kể rằng ngài sống như một tu sĩ hơn là một binh sĩ. Năm 23 tuổi, ngài từ chối tham dự cuộc chiến của Hoàng Đế Julian Caesar chống với thế giới bằng lập luận sau: "Tôi đã phục vụ ngài như một người lính; bây giờ hãy để tôi phục vụ Đức Kitô. Hãy thưởng cho những người muốn chiến đấu. Nhưng tôi là một người lính của Đức Kitô, và thật sai lầm nếu tôi đi đánh nhau." Sau nhiều khó khăn, ngài được giải ngũ và trở thành môn đệ của Đức Giám Mục Hilary ở Poitiers.
Là một người lính của Đức Kitô, Martin được tấn phong làm người trừ quỷ và hoạt động tích cực chống với bè rối Arian. Ngài trở thành vị ẩn tu, thành lập tu viện có thể nói đầu tiên ở Pháp, gần Poitiers. Ngài sống ở đó trong 10 năm, đào tạo các môn đệ và đi rao giảng khắp nước. Dân chúng ở Tours đòi hỏi ngài làm giám mục cho họ. Ngài chống với Đức Giám Mục Ithacius về đề nghị xử tử những người lạc giáo, và xin chấm dứt việc bách hại những người ở Tây Ban Nha theo tà thuyết của Priscillian.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn là những chiến sĩ trung thành và anh dũng của Đức Kitô.
Suy niệm 3: Ẩn tu
Martin trở thành vị ẩn tu.
Là một môn đệ của Đức Giám Mục Hilary ở Poitiers, vốn bị đi lưu đày, ngài ước muốn được đi theo để tiếp tục hầu hạ và học hỏi, nhưng không được. Nỗi buồn đau này đã khiến ngài chán chê thế sự đến mức quyết định xa lánh tất cả để tìm đến một nơi hoang vắng tu thân như một vị ẩn tu ở một ngọn đảo nhỏ.
Nhưng bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ cũng như tính manh động của thời binh ngũ vẫn hằng thiêu đốt tâm can ngài, nên khi hay tin sư phụ Hilary được phục hồi quyền bính sau thời gian lưu đầy, Martin trở về Pháp và thành lập tu viện có thể nói đầu tiên ở Pháp, gần Poitiers. Ngài sống ở đó trong 10 năm, đào tạo các môn đệ và đi rao giảng khắp nước.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hiểu rằng Chúa hằng muốn chúng con lên thiên đàng không chỉ một mình mà cùng với bao người khác đang cần nữa.
Suy niệm 4: Bề ngoài
Một vài giám mục tấn phong nghĩ rằng ngài không xứng đáng làm giám mục vì cái bề ngoài xuề xòa và mái tóc thiếu chải chuốt của ngài.
Tâm lý người đời từ xưa đến nay vẫn thường khó vượt qua việc đánh giá tha nhân từ cái vẻ dáng bề ngoài. Không chỉ trẻ Đavít xưa kia đã từng bị đối xử như thế (1Sm 16,6-13) mà hiện tại cũng thế như câu truyện kể: Một đại gia mang tiền hàng tỷ đến ngân hàng không được người bảo vệ và các nhân viên tiếp đón mà còn bị xua đuổi chỉ vì ăn mặc giống như một hành khất. Ngược lại những tướng cướp nỗi danh lại thường ăn mặc bảnh bao để đánh lừa các nạn nhân của mình.
Vận dụng cách đánh giá ấy, nhiều vị hoàng đế trong lịch sử Trung quốc đã vi hành và khám phá được nhiều vụ án ly kỳ. Thật đáng buồn khi tình trạng này cũng xảy ra trong lãnh vực tôn giáo với các vị đại diện Chúa, trong khi chính Chúa "không bao giờ nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Chúa thấy tận đáy lòng" (1Sm 16,7). Và thậm chí tư tưởng của Chúa thì khác và cao vượt hơn hẳn tư tưởng phàm nhân (Is Is 55,8-9).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn ghi nhận bài học cổ nhân: áo dòng không làm nên thầy tu.
Suy niệm 5: Lạc giáo
Cùng với Đức Ambrôsiô, Đức Giám Mục Martin chống với Đức Giám Mục Ithacius về đề nghị xử tử những người lạc giáo -- cũng như sự can thiệp của hoàng đế vào vấn đề này.
Ngài còn thuyết phục được hoàng đế tha chết cho Priscillian (người chủ trương những điều sai lạc về nhân tính của Đức Kitô). Vì những nỗ lực này, Đức Giám Mục Martin bị cho là cùng phía với bọn lạc giáo, và sau cùng Priscillian bị xử tử. Sau đó Đức Giám Mục Martin xin chấm dứt việc bách hại những người ở Tây Ban Nha theo tà thuyết của Priscillian. Lòng bác ái vị tha của ngài thật cao độ khiến ngài có hành vi như thế, mặc dầu vào năm 350, khi Ðức cha Hilariô bị bè rối Ariô bắt giam vì đã dám chống lại họ, ngài cũng bị Giám mục Milan, vốn bênh đỡ bè Ariô trục xuất ra khỏi địa phận và buộc sống trên một hòn đảo với một linh mục khác.
Thật ra lòng bác ái của ngài đã có nền móng vững chắc ngay từ thời còn trai trẻ và chưa được rửa tội. Lúc 16 tuổi, Martinô nhập ngũ và sớm được phái sang miền Gaule ngoại đạo (nước Pháp ngày nay). Các binh sĩ trong trại sống không gương mẫu gì, nhưng Martinô tin vào Chúa Kitô nên sống như một Kitô hữu. Ngài phân phát một phần tiền lương cho người nghèo và có những hành vi bác ái ít gặp thấy, chẳng hạn đảo ngược vai trò để đánh giày cho người hầu. Ở cửa thành Amiens một ngày mùa đông, chàng hiệp sĩ sẽ trẻ gặp người ăn xin dường như trần truồng. Martin nói: Tôi chỉ có áo quần và khí giới. Rồi rút kiếm ra, Ngài xẻ đi chiếc áo cho người ăn xin. Câu chuyện kết thúc với giấc mơ trong đó Martin thấy Chúa Kitô hiện ra mặc nửa chiếc áo và nói với các thiên thần: Chính Martin đã mặc cho Ta đây.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thực hiện đức ái trọn hảo đến mức yêu thương cả kẻ thù (Mt 5,44).
Suy niệm 6: Cộng tác
Đức Giám Mục Martin còn muốn cộng tác với Đức Giám Mục Ithacius về một vài lãnh vực.
Điều Thánh Martin quan tâm về sự cộng tác nhắc nhở cho chúng ta biết hầu như không có gì hoàn toàn trắng hoặc hoàn toàn đen. Các thánh cũng là những tạo vật ở trần gian: Họ cũng phải do dự khi quyết định như chúng ta. Bất cứ quyết định nào của lương tâm đều ít nhiều có sự liều lĩnh. Nếu chúng ta chọn đi hướng bắc, có thể chúng ta không biết được những gì xảy ra ở hướng đông, hướng tây hay hướng nam. Tuy nhiên, quá thận trọng không dám quyết định thì cũng không phải là nhân đức khôn ngoan, thật vậy, nếu cho rằng "không quyết định là sự quyết định" thì đó là một quyết định sai lầm.
Tinh thần cọng tác của ngài thật cao độ đến mức không bao giờ từ chối khi phải cọng tác như ngài tâm tình trước lúc chết, miễn là đúng theo Thiên Ý. Thật thế khi đến giờ chết, các môn đệ xin ngài đừng bỏ họ. Ngài cầu nguyện, "Lạy Chúa, nếu dân của Ngài vẫn còn cần đến con, con sẽ không từ chối làm việc. Nhưng con xin vâng theo ý Chúa."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn dành quyền ưu tiên hàng đầu cho việc thực thi Thiên Ý.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 10/11 Thánh Lêo Cả (c. 461)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Lêo Cả (c. 461)
Ðức Giáo Hoàng Lêô là gương mẫu của một người quản trị biết dùng tài năng của mình trong các lãnh vực mà cơ cấu và tinh thần không thể tách biệt: đó là vấn đề giáo lý, công việc mục vụ và sự hài hòa.
Ý thức được tầm quan trọng của vị Giám Mục Rôma, và của Giáo Hội lữ hành như dấu chỉ sự hiện diện của Ðức Kitô trong trần thế, Thánh Lêo Cả đã hết sức tận tụy trong vai trò của một giáo hoàng. Ðược chọn làm "đấng kế vị Thánh Phêrô" vào năm 440, ngài làm việc không ngừng, hướng dẫn các giám mục dưới quyền như "những người ngang hàng về quyền bính cũng như sự yếu đuối con người."
Thánh Lêô nổi tiếng là một trong các giáo hoàng giỏi về quản trị trong thời Giáo Hội xưa. Sự nghiệp của ngài được chia ra làm bốn lãnh vực chính, chứng tỏ ngài có cái nhìn chính xác về trách nhiệm tổng quát của một giáo hoàng đối với đàn chiên của Ðức Kitô. Thứ nhất, ngài kiên trì chống với bè rối Pelagian, Manichae và các bè rối khác, ngoài ra ngài cũng áp đặt các quy luật để duy trì sự chân thực của đức tin Kitô Giáo. Lãnh vực thứ hai mà ngài lưu tâm là sự mâu thuẫn với Giáo Hội Ðông Phương về bản tính của Ðức Kitô mà ngài đã giải quyết bằng thư từ. Thứ ba, với đức tin mạnh mẽ, ngài còn lãnh đạo Rôma chống lại sự tấn công của quân man rợ, xứng đáng với vai trò bảo vệ hòa bình.
Sự nghiệp của Ðức Giáo Hoàng Lêô luôn được đề cao trong ba lãnh vực này. Ngoài ra, sự thánh thiện của ngài dựa trên nền tảng tâm linh sâu xa mà qua đó ngài thi hành công tác mục vụ cho đoàn chiên là lãnh vực thứ tư mà ngài hằng lưu tâm. Ngài nổi tiếng về những bài giảng thật sâu sắc. Là một khí cụ mời gọi mọi người nên thánh, được thấm nhuần Phúc Âm và luôn ý thức đến Giáo Hội, Ðức Lêô đã đáp ứng được những nhu cầu tâm linh của các tín hữu thời ấy.
Ngài từ trần năm 461, để lại nhiều văn bản và thư từ có giá trị lịch sử.
Lời Bàn
Khi có những chỉ trích về cơ cấu Giáo Hội, thì chúng ta cũng được nghe nói rằng các giám mục, linh mục - có thể nói, tất cả chúng ta - đã quá bận tâm với kiểu cách hành chánh theo thói đời. Ðức Giáo Hoàng Lêô là gương mẫu của một người quản trị biết dùng tài năng của mình trong các lãnh vực mà cơ cấu và tinh thần không thể tách biệt: đó là vấn đề giáo lý, công việc mục vụ và sự hài hòa. Ngài tránh cảnh "đi trên mây," sống mà không có thân xác, nhưng ngài cũng như tránh cảnh "quá thực tế," chỉ lo cho những sự bề ngoài.
Suy niệm hạnh thánh Lêo Cả
(Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)
Ngày 28/10 - THÁNH SIMON VÀ THÁNH GIUĐA, TÔNG ĐỒ
- Viết bởi Thánh Linh
THÁNH SIMON VÀ THÁNH GIUĐA, TÔNG ĐỒ
Lễ kính
PHÚC ÂM: Lc 6, 12-19
"Người chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Trong những ngày ấy Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ: Đó là Simon mà Người đặt tên là Phêrô và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là nhiệt thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt, kẻ phản bội. Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người. Đó là lời Chúa.
CHIA SẺ PHÚC ÂM;
Mười hai Tông đồ được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo Hội, không phải là bậc tài ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê; có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế tức là hạng người thường bị khinh bỉ.
Thánh Luca đã ghi lại một chi tiết rất ý nghĩa trong việc lựa chọn của Chúa Giêsu: Ngài đã cầu nguyện suốt đêm. Không ai biết rõ nội dung, nhưng sự liên kết với Thiên Chúa trong cầu nguyện và việc chọn lựa cho thấy tính cách nhưng không của ơn gọi: Thiên Chúa muốn gọi ai tùy Ngài và sự lựa chọn đúng không dựa vào tài đức của con người. Chúa Giêsu đã cầu nguyện, bởi vì Ngài biết rằng tự sức riêng, con người không thể làm được gì. Phêrô đã cảm nghiệm thế nào là sức riêng của con người khi ông chối Chúa ba lần; sự đào thoát của các môn đệ trong những giờ phút nguy ngập nhất của cuộc đời Chúa, và nhất là sự phản bội của Yuđa, là bằng chứng hùng hồn nhất của sức riêng con người. Bỏ mặc một mình, con người chỉ chìm sâu trong vũng lầy của yếu đuối và phản bội.
Từ mười hai người dân chài thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nền tảng của một Giáo Hội không phải là sức riêng của con người, mà là sức mạnh của Ðấng đã hứa: "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế". Chính sự hiện diện sinh động và ơn thánh của Ngài mới có thể làm cho Giáo Hội ấy đứng vững đến độ sức mạnh của hỏa ngục không làm lay chuyển nổi. Thánh Phaolô, người đã từng là kẻ thù số một của Giáo Hội cũng đã bất thần được Chúa Giêsu chọn làm Tông đồ cho dân ngoại. Ngài luôn luôn cảm nhận được sức mạnh của ơn Chúa: "Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi", hoặc "Nếu phải vinh quang, thì tôi chỉ vinh quang về những yếu đuối của tôi mà thôi, vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh".
Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn mười hai Tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác của chúng ta vào tình yêu của Ngài. Chỉ có một sức mạnh duy nhất để chúng ta nương tựa vào, đó là sức mạnh của ơn Chúa. Với niềm xác tín đó, thì dù phải trải qua lao đao thử thách, chúng ta vẫn luôn hy vọng rằng tình yêu của Chúa sẽ mang lại những điều thiện hảo cho chúng ta.
AMEN.
Ngày 26-10 - Chân Phước Contardo Ferrini (1859-1902)
- Viết bởi Người Tín Hữu
Contardo Ferrini là con của một thầy giáo mà sau này chính ngài cũng trở nên một người có kiến thức, hiểu biết nhiều thứ tiếng khác nhau. Ngày nay, ngài là quan thầy của các đại học.
Sinh ở Milan, ngài có bằng tiến sĩ luật ở Ý và được học bổng để du học ở Bá Linh về luật Rôma-Byzantine. Là một chuyên gia nổi tiếng về luật, ngài dạy ở vài trường cao đẳng trước khi dạy ở Ðại Học Pavia, là nơi ngài được coi là một người có thẩm quyền hiểu biết về luật Rôma.
Contardo cũng học biết về đức tin mà ngài đã sống và quý trọng. Ngài nói, "Ðời sống chúng ta phải vươn đến Ðấng Vô Biên, và từ nguồn cội đó chúng ta mới có thể rút ra được bất cứ những gì được coi là công trạng và phẩm giá." Là một học giả, ngài nghiên cứu cổ ngữ trong Phúc Âm và Sách Thánh. Những bài giảng và văn từ của ngài cho thấy sự hiểu biết của ngài về đức tin và khoa học. Ngài tham dự Thánh Lễ hàng ngày và trở nên một người dòng Ba Phanxicô, trung thành tuân giữ quy luật. Ngài cũng phục vụ trong tổ chức Bác Ái Vincent de Paul.
Ngài từ trần năm 1902 lúc 43 tuổi với nhiều lá thư của các giáo sư đồng viện đã ca tụng ngài như một vị thánh; người dân Suma là nơi ngài sinh sống cũng cả quyết rằng ngài phải được tuyên xưng là một vị thánh.
Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã phong chân phước cho ngài năm 1947.
Người Tín Hữu
Ngày 22/10 - Thánh Gioan Phaolô 2, giáo hoàng.
- Viết bởi RC
Thánh Gioan Phaolô 2, giáo hoàng. Lễ nhớ.
"Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ".
* Karol Jozef Wojtyla sinh ngày 18/05/1920 tại Ba Lan. Giữa bao nhiêu khó khăn cấm cản tại quê hương Ba Lan do bị quân Đức chiếm đóng, Karol khám phá ra ơn gọi tu trì và quyết định xin theo các khóa huấn luyện đào tạo linh mục lén lút tại Cracovia.
Ngày 01.11.1946 thụ phong linh mục. Tháng 07/1958, Đức Giáo Hoàng Piô XII chỉ định cha làm Giám Mục phụ tá Cracovia. Tháng 01/1964, Đức Cha Wojtyla được Đức Giáo Hoàng Phaolo VI chỉ định làm Tổng Giám Mục và năm 1967, nâng lên hàng Hồng Y. Ngày 16/10/1978, ngài được Hồng Y Đoàn bầu lên làm Giáo Hoàng với tên hiệu là Gioan Phaolo 2. Ngài qua đời ngày 02/04/2005 tại Vatican. Lễ phong chân phước cho Đức Gioan Phaolo 2 đã được vị kế nhiệm là Đức Giáo Hoàng Bênêđictô 16, từng là cộng sự viên của ngài trong nhiều năm trời, chủ sự tại quảng trường thánh Phêrô ngày 01/05/2011.
Và ngày Chúa nhật 27/04/2014 ngày mà giới báo chí gọi là "Chúa nhật 4 Giáo Hoàng"; lần đầu tiên hai vị Giáo Hoàng cùng được tôn phong hiển thánh trong một buổi lễ: đó là ĐGH. Gioan 23 và ĐGH. Gioan Phaolô 2 và lần đầu tiên hai vị Giáo Hoàng: một vị đương kim và một vị cựu, cùng hiện diện trong buổi lễ; đó là Đức Phanxicô và Đức Biển Đức 16.
Ngày 20/10 Chân Phước James ở Strepar (c. 1409?)
- Viết bởi Lm. Pherô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngài có lòng sùng kính Ðức Mẹ một cách đặc biệt. Ảnh của Ðức Mẹ được khắc trên con dấu và trên nhẫn giám mục của ngài.
Chân Phước James sinh trưởng trong một gia đình quý tộc ở Ba Lan. Ngài gia nhập dòng Phanxicô từ khi còn nhỏ, giữ nhiệm vụ quản lý ở tu viện Lvov và đã hòa dịu sự căng thẳng giữa các tu sĩ dòng và giáo sĩ địa phận. Ngài rất thích hoạt động cho người Chính Thống Giáo, và đã phục vụ họ trong một thập niên. Ðược sai đến miền tây nước Nga, ngài giữ nhiệm vụ đại diện cho các tu sĩ Phanxicô ở đây, ngài rao giảng phúc âm và hoạt động để giữ vững đức tin của người tín hữu.
Khoảng năm 1360, ngài giữ một vai trò trong nhóm truyền giáo đặc biệt, có tên là Lữ Khách Vì Ðức Kitô, gồm các tu sĩ Phanxicô và Ðaminh. Công việc rao giảng và tổ chức của Chân Phước James được coi là thành công. Sau đó ngài giữ nhiệm vụ Tổng Giám Mục Galich, xây dựng một vài nhà thờ mới ở những nơi hẻo lánh và bổ nhiệm các linh mục kinh nghiệm từ Ba Lan đến hoạt động; ngài cũng thành lập các dòng tu, xây cất trường học, và bệnh viện. Ngài rất bén nhạy về nhu cầu của người dân, nên thường trực tiếp đưa đề nghị lên quốc hội Ba Lan; bởi đó ngài có tước vị là "người bảo vệ vương quốc."
Ngài là tổng giám mục nhưng không giống như các giám mục khác trong thời ấy. Ngài thích mang y phục dòng Phanxicô hơn là phô trương bề ngoài và đi chân đất.
Ngài có lòng sùng kính Ðức Mẹ một cách đặc biệt. Ảnh của Ðức Mẹ được khắc trên con dấu và trên nhẫn giám mục của ngài. Mỗi tối ngài đều cử hành nghi thức sùng kính Ðức Mẹ ở nhà thờ hoặc bất cứ đâu ngài đến.
Sau 19 năm làm giám mục, Chân Phước James đã được phần thưởng nước trời. Ngài được chôn cất trong nhà thờ Phanxicô ở Lvov.
Suy niệm hạnh Chân Phước James ở Strepar
(Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)
Ngày 19/10 Các Thánh Tử Ðạo Bắc Mỹ Châu
- Viết bởi Lm. Pherô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ðức tin và đặc tính anh hùng đã in sâu niềm tin nơi thập giá Ðức Kitô trên quê hương Mỹ Châu. Giáo Hội Bắc Mỹ được phát sinh từ dòng máu tử đạo.
Isaac Jogues (1607-1646): Thánh Isaac Jogues và các bạn là những người tử đạo đầu tiên của Bắc Mỹ Châu. Khi còn là một linh mục dòng Tên trẻ tuổi, ngài là một người có học thức và văn hóa, dạy văn chương ở Pháp. Nhưng ngài đã từ bỏ công việc này để phục vụ người da đỏ Huron ở Tân Thế Giới, vào năm 1636 ngài và các bạn, dưới sự lãnh đạo của Cha Jean de Brebeuf, đã đến Québec. Thời ấy, người Huron thường hay giao chiến với người Iroquois, và chỉ sau vài năm Cha Jogues và các linh mục khác đã bị người Iroquois bắt và cầm tù trong 13 tháng. Các lá thư và nhật ký của ngài cho thấy các ngài đã bị đưa từ làng này sang làng khác, bị đánh đập, bị tra tấn và buộc phải nhìn thấy cảnh những người Huron trở lại đạo bị xẻo thịt và giết chết.
Một cơ hội bất ngờ đã giúp Cha Isaac Jogues vượt thoát đến Hòa Lan, và ngài trở về Pháp với những chứng tích của sự tra tấn. Những ngón tay bị cứa, bị bầm dập và bị cháy nám. Ðức Giáo Hoàng Urbanô VIII đã cho phép ngài cử hành Thánh Lễ với bàn tay tàn tật: "Thật hổ thẹn nếu một vị tử đạo của Ðức Kitô không được phép uống Máu Thánh Ðức Kitô." Sau khi được chào đón như một vị anh hùng, người ta nghĩ Cha Jogues có thể nghỉ ngơi và và sống an nhàn cho đến tuổi già. Nhưng nhiệt huyết rao giảng Tin Mừng lại thúc giục ngài trở về với ước mơ ban đầu. Trong một vài tháng sau, ngài lại dong buồm sang truyền giáo cho người Huron.
Vào năm 1646, Cha Jogues và Cha Jean de Lalande đến phần đất của người Iroquois với sự tin tưởng rằng người da đỏ sẽ tôn trọng hiệp ước hòa bình mới được ký kết. Nhưng ngay lập tức, các ngài đã bị phe gây chiến Mohawk bắt giữ, và vào ngày 18-10 Cha Jogues đã bị tra tấn bằng rìu và bị chặt đầu. Cha Jean de Lalande bị chết vào ngày hôm sau ở Ossernenon, một làng gần Albany, Nữu Ước.
Một trong các vị thừa sai dòng Tên tử đạo đầu tiên là Cha Rene Goupil, là người cùng với Cha Lalande đã hy sinh mạng sống như của tế lễ. Ngài bị tra tấn cùng với Cha Isaac Jogues, và bị chém bằng rìu vì đã làm dấu Thánh Giá trên trán các trẻ em.
Thánh Jean de Brebeuf (1593-1649): Jean de Brebeuf là một linh mục dòng Tên người Pháp, đến Gia Nã Ðại lúc 32 tuổi và làm việc ở đây trong vòng 24 năm. Khi nước Anh xâm chiếm Québec năm 1629 và trục xuất các linh mục dòng Tên thì ngài trở về Pháp, và bốn năm sau ngài trở lại hoạt động. Lúc ấy, người Huron bị dịch đậu mùa và người thầy thuốc của họ đổ lỗi cho các cha dòng Tên, nhưng Cha Jean vẫn ở lại đó.
Ngài đã soạn bộ giáo lý và tự điển tiếng Huron, và được nhìn thấy 7,000 người trở lại đạo trước khi ngài từ trần. Ngài bị người Iroquois bắt và sau bốn giờ tra tấn dã man, ngài đã trút hơi thở cuối cùng ở Sainte Marie, gần Georgian Bay, Gia Nã Ðại.
Cha Anthony Daniel, cũng phục vụ cho người Huron và bị người Iroquois giết chết vào ngày 4 tháng Bảy, 1648. Thi thể của ngài bị ném vào nhà nguyện và sau đó bị đốt cháy.
Thầy Gabrien Lalemant, sau khi chịu chức bốn cũng đã hy sinh mạng sống cho người da đỏ. Cùng với Cha Brebeuf, ngài bị tra tấn cho đến chết.
Cha Charles Garnier bị bắn chết khi ngài rửa tội cho các trẻ em và người dự tòng trong một cuộc tấn công của người Iroquois.
Cha Noel Chabanel bị giết trước khi được gọi về Pháp. Ngài thấy thật khó khăn để thích ứng với đời sống truyền giáo. Ngài không thể học được tiếng thổ âm, và ghê tởm thức ăn và đời sống của người da đỏ, và ngài cảm thấy tinh thần thật khô khan trong thời gian ở Gia Nã Ðại. Tuy nhiên ngài đã giữ lời hứa ở lại đây cho đến chết trong sứ vụ truyền giáo.
Tám vị linh mục dòng Tên tử đạo đầu tiên ở Bắc Mỹ Châu này đã được phong thánh vào năm 1930.
Lời Bàn
Ðức tin và đặc tính anh hùng đã in sâu niềm tin nơi thập giá Ðức Kitô trên quê hương Mỹ Châu. Giáo Hội Bắc Mỹ được phát sinh từ dòng máu tử đạo. Nhưng liệu chúng ta có còn hăng hái để giữ thập giá ấy vươn cao giữa chúng ta hay không? Chúng ta có còn can đảm để làm chứng cho đức tin đã ăn sâu nơi chúng ta, làm chứng cho Tin Mừng của thập giá cứu độ nơi gia đình, sở làm, và ngoài xã hội hay không?
Lời Trích
"Tôi tín thác vào Thiên Chúa là Ðấng không cần đến sự giúp đỡ của chúng ta để hoàn thành công trình của Người. Mỗi một nỗ lực của chúng ta là để giúp lập công và trung tín với Người, vậy chúng ta đừng làm hư hại công trình của Người bằng những khiếm khuyết của chúng ta" (trích từ lá thư Thánh Isaac Jogues gửi cho một linh mục bạn ở Pháp, ngày 12-9-1646, một tháng trước khi ngài tử vì đạo).
Suy niệm hạnh các thánh Tử Ðạo Bắc Mỹ Châu
(Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ)
Ngày 10/10 Thánh Daniel và Các Bạn (c. 1227)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Daniel và Các Bạn (c. 1227)
Cũng như các Kitô Hữu thời tiên khởi ở Colosseum, Daniel và các bạn đã ca hát trên đường tử đạo.
Lược sử
Daniel, vị bề trên dòng Phanxicô ở Calabria, nước Ý, hướng dẫn một nhóm các tu sĩ Phanxicô, là những người theo gương Thánh Berard để đi rao giảng Phúc Âm ở Bắc Phi vào năm 1227. Sáu vị tu sĩ khác là Angelo, Domnus, Hugolino, Leo, Nicolas và Samuel. Họ đến Ceuta, Morocco, là nơi các thương gia Kitô Giáo đã cảnh giác họ về việc bách hại các thừa sai.
Tuy nhiên, vì quá hăng say, các tu sĩ đã rao giảng công khai, nên đã bị bắt ngay lập tức. Không sợ hãi trước những đe dọa hay mua chuộc, họ cương quyết không chối bỏ đức tin. Cũng như các Kitô Hữu thời tiên khởi ở Colosseum, Daniel và các bạn đã ca hát trên đường tử đạo. Sau khi bị chặt đầu, xác của các ngài được đưa về Tây Ban Nha.Tất cả được phong thánh năm 1516.
Suy niệm 1: Gương Thánh Berard
Daniel, vị bề trên dòng Phanxicô ở Calabria, nước Ý, hướng dẫn một nhóm các tu sĩ Phanxicô, là những người theo gương Thánh Berard để đi rao giảng Phúc Âm ở Bắc Phi vào năm 1227.
Cái chết anh hùng của Thánh Berard đã khơi động lòng khát khao truyền giáo của bao người, đặc biệt Thánh Antôn Pađua cũng như Bề trên Daniel và các bạn. Có rất nhiều tu sĩ Phanxicô đã đáp lại lời thách đố của Cha Thánh Phanxicô. Rao giảng Phúc Âm có thể nguy hại đến tính mạng nhưng điều đó không thể ngăn cản các tu sĩ nam nữ của Dòng Phanxicô ngày nay liều mạng sống đi rao giảng khắp nơi trên thế giới.
Trước thời Thánh Phanxicô, Quy Luật của các Dòng không nhắc đến việc rao giảng cho người Hồi Giáo. Trong Quy Luật năm 1223, Thánh Phanxicô viết: "Các tu sĩ là những người được linh ứng để đi rao giảng cho người Saracen (Hồi Giáo và Ả Rập) và những người ngoại giáo khác, phải được phép bề trên của họ. Nhưng các bề trên không được cho phép, trừ khi thấy người ấy thích hợp để được sai đi (Ch 12).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ cảm kích trước tấm gương sáng mà còn phải sống tâm tình ấy.
Suy niệm 2: Bách hại
Thương gia Kitô Giáo đã cảnh giác họ về việc bách hại các thừa sai.
Phải chăng Chúa Kitô và những kẻ theo Ngài luôn luôn bị bách hại?
Suốt dọc giòng lịch sử của nhân loại, ở vào nhiều thời điểm và nơi chốn khác nhau, có hằng hà sa số những tâm hồn cao thượng nghe theo tiếng gọi làm nhân chứng của Chúa Kitô. Họ là những người dấn thân làm chứng tá cho nhân đức, cho giá trị luân lý đạo đức, cho công lý và hòa bình, những người biết thương cảm và muốn hiến mình trong chương trình giải thoát con người khỏi đau khổ khốn cùng! Những con người có lòng hào hiệp như thế luôn luôn bị coi như là chướng ngại vật, những cái gai nhức đối với tầng lớp trong tư thế nắm quyền sinh tử trên dân chúng, nhưng lại dùng quyền bính để mưu đồ bất chánh, nhằm tìm kiếm tư lợi, hưởng thụ, ích kỷ, cầu an và nhu nhược!
Những người đứng về phía người nghèo khổ đói rách vô gia cư, bệnh hoạn tật nguyền, bị xã hội ruồng rẫy, những kẻ dấn thân trong phong trào đấu tranh cho công lý hòa bình, những người can đảm dám nói lên những sự thật đau lòng ngay trong lòng giáo hội và xã hội, họ là những người chiến đấu cho lẽ công chính, những người này muôn đời sẽ bị bách hại bởi chính thiểu số trong hàng thống trị, họ sẽ bị đàn áp bởi những người anh em đồng đạo, đồng lý tưởng với mình! Họ là những người mà Chúa Kitô đã tiên báo trước rằng sẽ bị bách hại vì lẽ công chính! Họ là những người đang đi trong đường nẻo của Nước Thiên Chúa. Họ là những người được Thiên Chúa chúc phúc! Bởi vì khi Nước Chúa đến, họ sẽ được coi như là tâm điểm của Nước Trời! Khi đó sự dữ sẽ bị thiêu hủy trong lửa đời đời. Sự bất công phải được minh oan. Những gì thuộc về Chân, Thiện, Mỹ sẽ tồn tại muôn đời (Nguyễn Quốc Hải).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chấp nhận bị bách hại vì lẽ công chính để được Chúa chúc phúc.
Suy niệm 3: Thừa sai-được sai đi
Thương gia Kitô Giáo đã cảnh giác họ về việc bách hại các thừa sai.
Đức Giêsu Kitô là Vị Đại Thừa Sai của Chúa Cha. Ngài đã được sai xuống trần gian để sống kiếp người như chúng ta. Cuộc đời công khai truyền đạo của Ngài là mẫu mực cho chúng ta nhìn vào đó để xây dựng một nền tu đức thừa sai.
Một trong những nét đặc trưng của linh đạo thừa sai là được sai đi. Chúa Cha đã sai Chúa Con. Chúa Con là Đức Giêsu Kitô lại sai các môn đệ. Trước khi được sai thì nhà thừa sai phải có những điều kiện thích hợp. Những điều kiện đó là tư thế sẵn sàng và khả năng thích ứng với công việc được sai. Sự sẵn sàng đòi đương sự phải tình nguyện dấn thân, và tính thích ứng đòi buộc người ấy phải được rèn luyện và tự rèn luyện cho hợp với công việc. Do đó, khởi đầu nền tu đức thừa sai là tư thế sẵn sàng và khả năng thích ứng để được sai đi trong tinh thần "hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế của Đức Kitô (Pl 2,1). Theo tinh thần này, người được sai noi gương Đức Kitô, tự bóc lột mình, làm cho mình hóa ra không. Như thế, có nghĩa là sống khiêm nhường và từ bỏ (LM Anrê Đỗ Xuân Quế OP).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tập hư vô hóa chính mình để duy chỉ có Chúa, để rồi có thể mang Chúa đến cho tha nhân.
Suy niệm 4: Thừa sai-đến ở với
Thương gia Kitô Giáo đã cảnh giác họ về việc bách hại các thừa sai.
Cũng như Đức Kitô, nhà thừa sai được sai đi và đến ở với: sai đi những nơi xa lạ và ở với những người không quen biết, khác với mình về nhiều phương diện. Nỗ lực đầu tiên của người được sai đi là lo làm sao hòa hợp được với người xa lạ và thích nghi được với cuộc sống mới. Điều này đòi buộc nhà thừa sai phải hy sinh và từ bỏ nhiều lắm.
Điểm tu đức ở đây là chung sống hòa đồng. Điều này không dễ, nhất là khi mình đã quen với một nếp sống cố định, có những điều kiện sinh hoạt thoải mái. Đức Kitô đã ở với các môn đệ và người ta. Ngài đã phải chịu đựng tính tình trái ngược của các môn đệ, sự cứng lòng tin của người Do Thái và thói hiềm khích của phái Pharisêu và các thượng tế. Điểm đặc biệt ở đây là hòa mình và chịu đựng. Nhân đức phải tập ở đây là chấp nhận những sự phiền hà và trái ý (LM Anrê Đỗ Xuân Quế OP).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tự nhắc nhở mình: một sự nhịn bằng chín sự lành.
Suy niệm 5: Thừa sai- nói cho biết
Thương gia Kitô Giáo đã cảnh giác họ về việc bách hại các thừa sai.
Thừa sai là người được cử đi, đến ở với và nói cho biết. Nói cái gì? Nói những điều về Chúa, về đạo. Biết ai? Biết Chúa. Đó là mục đích của công việc truyền giáo được diễn ra bằng nhiều cách và trong nhiều giai đoạn khác nhau, tùy nơi, tùy thời và cũng tùy người nữa. Nhưng trước khi nói, phải làm quen đã. Quen ai thì dễ nói chuyện với người ấy hơn. Vì thế trong khi ở với, nhà thừa sai phải tìm cách làm quen đã. Làm quen thì phải có dịp gặp gỡ, đi tới đi lui, chuyện trò, trao đổi. Điều này khiến nhà thừa sai phải đi ra ngoài con người của mình mà đến với người khác, tìm dịp, tìm cách bắt cầu liên lạc. Có cách nói nghe được, có cách nói khó nghe. Vậy phải tìm cách nào nói cho nghe được và lại làm cho thích nghe nữa. Như vậy, phải học cách nói và tìm dịp hay tạo ra những cơ hội để nói. Nhưng trước khi nói bằng lời thì hãy nói bằng đời sống. Một đời sống tốt lành, đầy vị tha nhân ái, chính là cửa ngỏ mở đường cho đối thoại và khơi gợi cho người ta nói chuyện với mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hỗ trợ hoạt động bằng việc cầu nguyện, như Chúa vẫn hằng tìm đến nơi thanh vắng giao thiệp với Chúa Cha
Suy niệm 6: Tử đạo
Daniel và các bạn đã ca hát trên đường tử đạo.
Các thánh tử đạo nhắc nhở chúng ta về giá máu mà Chúa Giêsu đã phải trả khi loan truyền Tin Mừng. Chúng ta không có chọn lựa nào khác về việc làm chứng cho Đức Kitô và Tin Mừng. Việc nhớ đến các vị tử đạo giúp chúng ta kiên trì sống phúc âm mà chúng ta đã được kêu gọi để tuân giữ.
"Qua sự tử đạo người môn đệ được biến đổi nên giống hình ảnh của Thầy mình, là người đã tự chấp nhận cái chết để cứu chuộc thế gian; và họ cố đạt được hình ảnh ấy dù có phải đổ máu. Tuy không nhiều người được cơ hội ấy, nhưng tất cả phải sẵn sàng để tuyên xưng Đức Kitô trước mặt người đời, và theo Người trên con đường thập giá qua những bách hại mà Giáo Hội từng bị đau khổ" (Hiến Chương về Giáo Hội, #71).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết can đảm làm chứng cho Đức Kitô và Tin Mừng dù có phải đổ máu.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 09/10 Các Thánh Denis, Rusticus và Eleutherius (c. 258?)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Các Thánh Denis, Rusticus và Eleutherius (c. 258?)
Thánh Denis là quan thầy của nước Pháp. Ảnh hưởng sâu đậm của thánh nhân đối với dân chúng trong thời đại của ngài chứng tỏ một đời sống thánh thiện khác thường.
Lược sử
Điều đầu tiên chúng ta được biết về ba vị này là họ được tử đạo khoảng năm 258, theo như văn bản của Thánh Grêgôriô ở Tours thuộc thế kỷ thứ sáu.
Thánh Denis (hay còn được gọi là Dionysius) là người nổi tiếng nhất trong ba vị. Ngài sinh trưởng ở Ý, và vào khoảng năm 250 ngài được sai đi truyền giáo ở Gaul (bây giờ là nước Pháp) bởi Đức Giáo Hoàng Clêmentê cùng với năm vị giám mục khác.Thánh Denis đặt địa bàn truyền giáo ở một hòn đảo trong vùng Seine gần thành phố Lutetia Parisorium - sau này trở thành thủ đô Balê. Vì lý do đó ngài được coi là vị giám mục đầu tiên của Balê và là Tông Đồ nước Pháp. Ở đây ngài bị bắt cùng với Rusticus và Eleutherius. Các học giả sau này đề cập đến Rusticus và Eleutherius như linh mục và thầy sáu của Đức Giám Mục Denis, ngoài ra chúng ta không còn biết gì thêm.
Sau thời gian bị tù đầy và tra tấn, ba vị bị chém đầu và thân thể của họ bị ném xuống sông. Xác của Thánh Denis được những người tân tòng vớt lên và chôn cất. Một nhà nguyện được xây trên phần mộ của ngài mà sau này trở thành tu viện Thánh Denis.
Đến thế kỷ thứ chín, tiểu sử của Thánh Denis bị lẫn lộn với Thánh Dionysius người Areopagite, nhưng sau này các học giả xác định ngài là một vị thánh riêng biệt.
Thánh Denis thường được vẽ khi ngài tử đạo - không có đầu (với một cành nho vươn lên từ cổ) và tay ngài cầm chính đầu của ngài với nón giám mục.
Suy niệm 1: Tử đạo
Họ được tử đạo khoảng năm 258.
Các Thánh tử đạo là những chứng nhân can trường dám chết cho niềm tin, sống cho tình yêu, và loan báo chân lý Tin Mừng. Làm chứng cho Chúa, nếu không phải đổ máu, thì cũng phải chấp nhận mất mát thiệt thòi. Làm chứng đòi trả giá. Giá càng cao thì lời chứng càng đáng tin.
Các Thánh tử đạo đã làm chứng bằng cái chết. Chúng ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống. Các Thánh tử đạo đã làm chứng trong thời bị bách hại. Là con cháu các ngài, chúng ta được mời gọi làm chứng trong bối cảnh xã hội hôm nay. Làm chứng chính là "làm muối", "làm men", "làm ánh sáng"... như những hình ảnh chính Chúa Giêsu đã dùng khi trao sứ mạng cho các môn đệ. Muối, Men, Ánh sánh thì không ồn áo, áp chế, công việc của nó là âm thầm hiện diện, và chỉ cần hiện diện đúng như bản chất của nó, tức khắc môi trường xung quanh nó sẽ thấm mặn, sẽ dậy men, và sẽ đầy ánh sáng (Lm Giuse Nguyễn Hữu An).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống tinh thần chứng nhân trong môi trường hôm nay.
Suy niệm 2: Được sai đi
Denis được sai đi truyền giáo ở Gaul (bây giờ là nước Pháp) bởi Đức Giáo Hoàng Clêmentê cùng với năm vị giám mục khác.
Cùng với năm vị giám mục khác, lần này không phải ngài thực thi quyền sai đi của mình, mà ngược lại chính ngài lại được sai đi truyền giáo ở Gaul bởi Đức Giáo Hoàng Clêmentê. Thái độ của ngài cũng như các đồng nghiệp giám mục của ngài, là vâng lời đúng như lời thề hứa tuân phục lúc được nhận chức.
Quả là một tấm gương sáng. Nhưng đồng thời cũng cho chúng ta thấy thực trạng thiếu các sứ giả Tin Mừng vào giai đoạn đó, nhất là các vị đầy đủ phẩm chất và chân chính, đúng như niềm thao thức của Chúa Giêsu đã bày tỏ: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa sai thợ ra gặt lúa về" (Mt 9,37-38).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có được những vị chủ chăn đúng nghĩa.
Suy niệm 3: Không còn biết gì thêm
Chúng ta không còn biết gì thêm.
Đây là trường hợp của một vị thánh mà chúng ta không biết gì nhiều, nhưng ngài là người được sùng kính trong lịch sử Giáo Hội qua nhiều thế kỷ. Chúng ta chỉ có thể kết luận là ảnh hưởng sâu đậm của thánh nhân đối với dân chúng trong thời đại của ngài chứng tỏ một đời sống thánh thiện khác thường.
Trong những trường hợp như vậy, có hai sự kiện căn bản: Một người vĩ đại đã hy sinh cho Đức Kitô, và Giáo Hội không bao giờ quên họ được - đó là dấu chỉ về sự lưu tâm vĩnh viễn của Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống chủ yếu để được Chúa biết đến, chứ không cần được người lưu tâm.
Suy niệm 4: Tân tòng
Xác của Thánh Denis được những người tân tòng vớt lên và chôn cất.
"Tân" là mới và "Tòng" là theo. Tân tòng là những người mới theo đạo nghĩa là đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội, sau thời gian học hỏi giáo lý.
Dầu là tân tòng, nhưng họ đã sống niềm tin một cách nổi bật và trổi vượt hẳn các tín hữu đạo gốc, khi chính họ là những người can đảm làm công việc vớt và chôn cất xác của Thánh Denis.
Như thế việc học là quan trọng để đào sâu đức tin, nhưng không quan trọng bằng việc sống niềm tin, như một câu nói thường nghe của người dự tòng nhằm đối phó chứ không thực tâm: "Con thờ lạy Chúa Ba Ngôi, con lấy được vợ thì con thôi nhà thờ".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các tín hữu đạo gốc luôn quan tâm đến lời nhận xét của Chúa: "Tôi chưa thấy một người Ítraen nào có lòng tin như thế" (Mt 8,10)
Suy niệm 5: Phần mộ
Một nhà nguyện được xây trên phần mộ của Giám Mục Denis mà sau này trở thành tu viện Thánh Denis.
Với tấm lòng của người tân tòng, một phần mộ cho ngài được xây dựng lên nhằm bảo quản thi thể cũng như bày tỏ tâm tình mộ mến và kính yêu vị chủ chăn đã xã thân vì Chúa và vì đoàn chiên. Và dĩ nhiên khi thời thế thuân lợi, phần mộ này đã được trùng tu cho xứng với vị thánh tử đạo được coi là giám mục đầu tiên của Balê và là Tông Đồ cũng như bổn mạng nước Pháp.
Hơn thế với sự lưu tâm đặc biệt của Thiên Chúa vốn muốn tôn vinh thánh nhân như một mẫu gương cho hậu thế trên hoàn cầu, một nhà nguyện được xây trên phần mộ của Giám Mục Denis do thánh Genevieve vào đầu thế kỷ thứ VI mà sau này trở thành tu viện Thánh Denis, để từ đó hương thơm nhân đức của ngài được lan tỏa rộng rãi hơn.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ghi khắc và sống đáp trả tình yêu vô biên của Chúa hằng chăm sóc con cái Chúa.
Suy niệm 6: Vẽ
Thánh Denis thường được vẽ khi ngài tử đạo - không có đầu (với một cành nho vươn lên từ cổ) và tay ngài cầm chính đầu của ngài với nón giám mục.
Hình vẽ cho thấy ý nghĩa. Khi còn sống, ngài có đầu vì ngài là đầu của giáo hội địa phương, nhưng khi mất đi, ngài không có đầu nghĩa là vai trò này đã được chuyển giao cho vị kế nhiệm mà mọi tín hữu phải tùng phục. Tuy nhiên ăn quả thì phải nhớ kẻ trồng cây, vì thế từ cổ ngài là một cành nho vươn lên từ cây nho là Đức Kitô, còn ngài chỉ là cành đức tin giúp trổ sinh bao hoa quả lá cây đức tin của địa phương, vốn cần gắn chặt vào để phát triển mạnh mẽ.
Tay ngài không còn cầm gậy biểu tượng quyền lãnh đạo nữa, mà cầm đầu với nón giám mục như muốn mời gọi mọi người hãy sống tốt và xứng đáng, để có thể trở thành linh mục hoặc giám mục nhận lấy chiếc nón ấy, đúng như chỉ thị tích cực của Huấn Thị 1659 của Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin: Công việc trước mắt của chư huynh là đưa những người địa phương xứng đáng lên chức Linh Mục và cả Giám Mục nũa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nỗ lực đáp lại lời mời gọi của các Vị Thừa Sai ngoại quốc để thay thế các ngài tiếp nối sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 08/10 Thánh Gioan Leonardi (1541? - 1609)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gioan Leonardi (1541? - 1609)
Thánh Gioan Leonardi rất tích cực hoạt động tông đồ, nhất là ở bệnh viện và nhà tù. Sự tận tụy và gương mẫu đời sống của ngài đã thu hút vài người trẻ, và họ bắt đầu tiếp tay với ngài. Sau này chính họ cũng trở thành linh mục.
Lược sử
Thánh Gioan Leonardi sinh ở Diecimo, nước Ý. Ngài làm phụ tá thầy thuốc ở Lucca, đi tu và thụ phong linh mục năm 1572. Sau khi chịu chức, ngài rất tích cực hoạt động tông đồ, nhất là ở bệnh viện và nhà tù.
Phấn khởi với luồng gió cải cách mà Công Đồng Triđentinô đề ra, Cha Gioan và các linh mục bạn đề nghị một tổ chức cho các linh mục triều. Vào năm 1621, tổ chức này được chính thức đặt tên là Các Tu Sĩ Chuyên Nghiệp của Mẹ Thiên Chúa.
Ngài chết khi mới 68 tuổi vì bị lây bệnh dịch khi chăm sóc các bệnh nhân ở Rôma. Ngài được sùng kính vì những phép lạ và lòng đạo đức nhiệt thành của ngài, và được coi là một trong những sáng lập viên của Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin. Ngài được Đức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh năm 1938.
Suy niệm 1: Thầy thuốc
Thánh Gioan Leonardi sinh ở Diecimo, nước Ý. Ngài làm phụ tá thầy thuốc ở Lucca, đi tu và thụ phong linh mục năm 1572.
Là một thầy thuốc, ngài chuyên tâm điều trị các căn bệnh nhằm chấm dứt những đau đớn tác động trên thân xác các bệnh nhân. Ngài cảm nhận được tầm ảnh hưởng không nhỏ của sức khoẻ thể xác trên tinh thân con người, vì con người là một hữu thể gồm có cả xác và hồn.
Thật thế một chiếc răng đau cũng làm cho đầu óc bệnh nhân quay cuồng không thể cầm trí hay suy nghĩ gì được. Một học sinh bị tai nạn trên đường đến trường phải được điều trị ở bệnh viện đành chấp nhận bỏ học thậm chí bỏ cả thi cử trong suốt thời gian ấy. Đúng là lực bất tòng tâm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhất là giới trẻ đừng ỷ lại vào sức khoẻ đang tốt để rồi lãng phí vào các cuộc vui chơi không lành mạnh.
Suy niệm 2: Linh mục
Thánh Gioan Leonardi sinh ở Diecimo, nước Ý. Ngài làm phụ tá thầy thuốc ở Lucca, đi tu và thụ phong linh mục năm 1572.
"Tôi chỉ là một con người! Tại sao tôi phải làm mọi việc? Điều đó có ích gì cho tôi?" Ngày nay, cũng như bất cứ thời đại nào, người ta thường cảm thấy khó chịu khi rơi vào tình trạng khó xử vì bị liên lụy. Nhưng Thánh Gioan Leonardi đã trả lời những câu hỏi trên trong một phương cách độc đáo. Ngài chọn trở nên một linh mục.
Ngoài lý do nhằm trả lời cho những vấn nạn đến trong cuộc đời, một nguyên nhân khác khiến ngài chọn con đường làm linh mục, đó là việc ngài đang hành nghề y. Qua kinh nghiệm, ngài nhận thấy yếu tố tâm linh cũng đóng góp một phần đáng kể trong việc điều trị bệnh nhân, nếu không nói đền một số bệnh tâm lý.
Mỗi người có thể làm được những gì? Theo ý định và hoạch định của Thiên Chúa cho mỗi người, điều chúng ta có thể làm thì ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Mỗi người, như Thánh Gioan Leonardi, có một nhiệm vụ phải chu toàn trong hoạch định của Thiên Chúa cho thế gian. Mỗi người chúng ta thì độc đáo và được ban cho các khả năng để phục vụ anh chị em chúng ta trong việc xây dựng Nước Trời.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sử dụng hết khả năng Chúa ban dầu chỉ là một nén, và cọng tác vào ơn Chúa vì ơn Chúa luôn đủ thì sẽ làm được những điều hữu ích cho xã hội và Giáo Hội.
Suy niệm 3: Hoạt động tông đồ
Gioan Leonardi rất tích cực hoạt động tông đồ.
Là một linh mục xuất thân từ nghành y, ngài thấu hiểu nỗi đau của các bệnh nhân thân xác lẫn tâm lý. Vì thế ngài mở đường hướng hoạt động tông đồ ở lãnh vực bệnh viện và nhà tù, một cách tích cực đến mức cuối cùng ngài chết khi mới 68 tuổi vì bị lây bệnh dịch, khi chăm sóc các bệnh nhân ở Rôma.
Sự tận tụy và gương mẫu đời sống của ngài đã thu hút vài người trẻ, và họ bắt đầu tiếp tay với ngài. Sau này chính họ cũng trở thành linh mục. Cùng với họ, ngài đi giảng dạy giáo lý cho thanh thiếu niên và chuẩn bị hành trang đức tin cho những người trưởng thành, có đủ đức tin, có đủ kiến thức để đương đầu với những trào lưu của thệ phả, của tin lành đang lan tràn. Ngài nhiệt thành, hăng say chống lại các tệ đoan xã hội, chống lại những thói hư tật xấu của con người trong tập thể, ngoài xã hội.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhiệt thành và hăng say trong nỗ lực đẩy lùi bệnh tật thể xác và tinh thần.
Suy niệm 4: Công Đồng Triđentinô
Phấn khởi với luồng gió cải cách mà Công Đồng Triđentinô đề ra.
Công Đồng Triđentinô là Công Đồng Chung thứ 19 của Giáo Hội Công Giáo Rôma, nhằm khôi phục sự hiệp nhất của Giáo Hội trước thảm họa của giáo phái Tin Lành, được Đức Giáo Hoàng Paul III triệu tập ngày 22/5/1542, nhưng chỉ được bắt đầu vào ngày 13/12/1546. Công Đồng kéo dài 18 năm với 25 khóa họp và dưới triều đại của 5 vị Giáo Hoàng (Đức Paul III, Đức Jules III, Đức Marcel II, Đức Paul IV và Đức Pie IV).
Nhằm đối phó với Tin Lành, Công Đồng Triđentinô có những quyết định về một số giáo điều: Tội Nguyên Tổ, Sự Công Chính Hóa, Thẩm Quyền Kinh Thánh, Bảy Bí Tích, đặc biệt Bí tích Thánh Thể. Đồng thời Công Đồng Triđentinô cũng thống nhất vấn đề thiết lập các chủng viện địa phận để đào tạo các linh mục.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín về giá trị của các Công Đồng bằng việc tích cực học hỏi, đào sâu và thực hành trong cuộc sống.
Suy niệm 5: Các Tu Sĩ Chuyên Nghiệp của Mẹ Thiên Chúa
Tổ chức này được chính thức đặt tên là Các Tu Sĩ Chuyên Nghiệp của Mẹ Thiên Chúa.
Hồi đó tại Lucca, tinh thần đạo đức của dân chúng còn bị hoang mang vì lạc thuyết của Bernađinô thành Sienne gieo vãi. Là linh mục còn đầy nhiệt huyết, Cha Gioan đã tìm cách chấn hưng bằng việc chăm lo giảng dạy và ngồi tòa. Hơn nữa Cha còn lập "hội giáo lý" quy tụ những người có thiện chí lo việc dạy giáo lý cho các thanh thiếu niên. Tuy nhiên, là giáo dân, các hội viên của hội giáo lý còn bị nhiều giới hạn và không thể làm được hết mọi việc. Năm 1574, ngài thành lập một hội dòng, đặt trụ sở tại nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi.
Vào năm 1583, tổ chức của ngài được Đức Giám Mục Lucca công nhận với sự phê chuẩn của Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XIII. Cha Gioan được sự trợ giúp của Thánh Philíp Nêri và Thánh Giuse Calasanctius, và vào năm 1595, tổ chức này được Đức Giáo Hoàng Clêmentê VIII châu phê luật dòng, và đức giáo hoàng đã giao cho Cha Gioan công việc chấn chỉnh các tu sĩ ở Vallombrosa và Monte Vergine. Vào năm 1621, tổ chức này được Đức Phaolô V chính thức đặt tên là Các Tu Sĩ Chuyên Nghiệp của Mẹ Thiên Chúa. Năm 1626, Đức Grêgôriô XV đặt tu hội ngang hàng với các dòng tu kỳ cựu khác.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn gắn kết với Đức Kitô nhờ Mẹ Maria để giữ vững đức tin dầu gặp phải bao phong ba bảo tố.
Suy niệm 6: Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin
Cha Gioan Leonardi được coi là một trong những sáng lập viên của Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin.
Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XV chú trọng đặc biệt việc truyền giáo và thiết lập (Ủy Ban Truyền Bá Đức Tin) Thánh Bộ Truyền Giáo, với mục đích nuôi dưỡng và phối hợp với các trụ sở truyền giáo đây đó trên toàn thế giới. Thánh Bộ Rôma được ngài thành lập ngày 22/6/1622 qua Tông Hiến Inscrutabili Divinae Providentiae. Mục đích là để đảm bảo việc truyền bá đức tin trong thế giới và cai quản những Hội truyền giáo hoặc các Giáo Hội phụ thuộc. Tiền thân là Ủy Ban các Hồng Y do Đức Piô V và Đức Grêgôriô XIII thành lập vào thời hậu Công Đồng Triđentinô. Ngày nay người ta gọi Thánh Bộ này Thánh Bộ Phúc Âm Hóa thế giới.
Thật vậy năm 1622 là khúc ngoặc quan trọng trong lịch sử truyền giáo của Hội Thánh. Trước những lạm dụng của các vị vua Bảo Trợ, Tòa Thánh lấy lại quyền điều hành việc truyền giáo, và thiết lập Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin. Thánh Bộ đã kiểm tra lại toàn bộ sinh hoạt truyền giáo trên thế giới, và cung cấp nhiều phương tiện truyền giáo như mở nhà in đa ngữ, hỗ trợ tài chính, gởi các sách phụng vụ và giáo lý, lập chủng viện Urbano 1627, để đào tạo các chủng sinh ở các miền truyền giáo gởi về, lập ra chức Giám Quản Tông Tòa cho các Giám Mục miền truyền giáo, trực thuộc Tòa Thánh.
Phương pháp truyền giáo ở các nơi đều phải tuân theo sự hướng dẫn của Thánh Bộ, dựa trên bản Huấn Thị 1659, với những chỉ thị tích cực:
Các thừa sai phải được huấn luyện theo luật bác ái Tin Mừng, biết thích nghi với phong tục và tính tình người khác... Công việc trước mắt của chư huynh là đưa những người địa phương xứng đáng lên chức Linh Mục và cả Giám Mục nữa... Hãy rao giảng cho tín hữu bổn phận trung thành với chính quyền... Đừng đưa vào nước họ đất nước của mình mà là Đức Tin. Đức Tin này không hề khai trừ hay làm tổn thương những nghi lễ tập tục của bất cứ dân tộc nào cả.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tuân thủ nghiêm túc các chỉ thị tích cực của Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 07/10 Lễ Ðức Mẹ Mai Khôi
- Ngày 06/10 Thánh Brunô (1030? - 1101)
- Ngày 5/10 Thánh Faustina, Trinh nữ (1905-1938)
- Ngày 04/10 Thánh Phanxicô Assisi (1182-1226)
- Ngày 03/10 Thánh Gioan Dukla (1414-1484)
- Ngày 02/10 Lễ Các Thiên Thần Bản Mệnh
- Ngày 01/10 Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu (1873-1897)
- Ngày 30/9 Thánh Giêrônimô (345 - 420)
- Ngày 29/9 Lễ kính các Tổng Lãnh Thiên Thần Micael, Gabriel, và Raphael
- Ngày 28/9 Thánh Wenceslaus (907? - 929)