Gương Thánh Nhân
Ngày 21/12 Thánh Phêrô Canixio
- Viết bởi Hạnh các Thánh
THÁNH PHÊ-RÔ CA-NI-XI-Ô
Linh Mục Tiến Sĩ
Thánh Phê-rô Ca-ni-xi-ô sinh năm 1521 tại Ni-gi-mê-gen, nước Đức, trong gia đình Công giáo đạo đức. Ngài là một trong những vị Linh mục Dòng Tên nổi tiếng nhất thời đó. Dường như Chúa Quan Phòng dành cho ngài sứ mạng đặc biệt chống lại lạc giáo Lu-te ở Đức, người ta gán cho ngài biệt hiệu "cái búa chống thệ phản", bằng sách vở ngài viết và lời ngài giảng dạy. Ngài vừa là một nhà trí thức, một vị thánh, vừa là một tông đồ hăng say làm vinh danh Chúa, đúng theo đường hướng thánh I-nha-xi-ô.
Lúc nhỏ, thánh nhân đã được giáo dục đạo hạnh đầy đủ ở gia đình. Năm lên 15 tuổi, ngài được cha mẹ gởi đến đại học Cô-lôn, theo học môn triết và hùng biện. Trong thời gian học ở đây, ngài hân hạnh được gặp Chân phước Phê-rô Pháp-vơ là bạn thân của thánh I-nha-xi-ô. Vị Chân phước nầy đã hướng dẫn ngài vào Dòng Tên, để phụng sự Chúa và bênh đỡ Hội thánh đang lúc bị các lạc giáo khuấy phá. Giới Công giáo ở đây đặt ngài làm thủ lãnh điều khiển phong trào chống lại các nhóm ly khai.
Năm 1546, thánh nhân được thụ phong Linh mục. Và năm sau, Đức Tổng Giám mục Au-bua đã cử ngài đến dự Công đồng Tri-đen-ti-nô, với tư cách đại diện. Và từ năm 1549 trở đi, ngài được chọn làm viện trưởng đại học ở In-gô-ta rồi ở Ven-na. Trong thời gian nầy, ngoài ra nhiệm vụ ở trường đại học, thánh nhân đi hầu khắp nước Đức, Thụy-sĩ, Ba-lan, để củng cố đức tin cho người Công giáo đang bị lung lay vì những tư tưởng sai lạc. Đi đến đâu, ngài cũng tiếp xúc gần gũi với các Ki-tô hữu, giảng dạy chân lý Phúc âm cho họ. Nhiều năm liền, ngài là nhà giảng thuyết nổi tiếng ở nhà thờ chính tòa Au-bua. Số người đến nghe giảng ngày càng đông, vì ngài giảng dạy cách nhiệt thành, trong suốt, làm cho người nghe bị thu hút, cảm hóa, tin tưởng. Mỗi khi đi ngang qua nhà thờ nào, ngài đều dừng lại, giảng dạy chân lý đức tin, chỉ vạch cho mọi tín hữu thấy rõ những sai lầm của các lạc giáo, một mặt để cho họ đề phòng cảnh giác, mặt khác cũng để giúp họ sửa chữa lầm lạc.
Và trong thời gian nầy, ngài đã viết ba quyển sách trứ danh, trình bày giáo thuyết tinh tuyền của Hội thánh. Đó là:
- Giáo lý dành cho giáo sĩ và giáo dân trưởng thành.
- Giáo lý sơ cấp dành cho trẻ em.
- Kinh nguyện .
Ba cuốn sách nầy ảnh hưởng sâu rộng trong mọi tầng lớp dân chúng, nhất là giới trí thức hiểu biết. Với lời văn sáng sủa, trình bày giáo thuyết Công giáo đầy đủ khúc chiết, các sách ngài đáp ứng nhu cầu học biết giáo lý cho giáo dân, đồng thời giúp người lầm lạc nhận biết những sai sót của họ, để quay về với Hội thánh.
Ngoài ra lời giảng dạy và sách vở, thánh nhân còn dùng thư từ để củng cố đức tin, sửa chữa sai lầm cho mọi người. Ngài viết thơ cho hết mọi hạng người trong đạo cũng như ngoài đời: từ vua quan đến dân thường, đề cập các vấn đề liên quan đến nhu cầu của tầng người; tất cả chỉ vì lợi ích của Giáo hội và làm sáng danh Chúa.
Nhờ đâu mà thánh nhân làm được nhiều việc ích lợi cho Hội thánh và vinh danh Chúa như thế? Tất cả đều do ơn Chúa ban, tất cả đều là hồng ân của Chúa, như lời ngài thưa với Chúa:
"Cuối cùng, Chúa đã truyền lệnh cho con uống nơi nguồn mạch là trái tim rộng mở của Chúa, nơi Thân Thể rất thánh của Chúa mà con như xem thấy tận mắt, nghĩa là Chúa mời con kín nước cứu độ nơi mạch của Chúa, lạy Đấng cứu chuộc con.
Còn con, con hết lòng ao ước được mạch đó chảy đến cho con những dòng nước tin cậy mến. Con khát uống thanh bần, trinh khiết và vâng lời, con xin Chúa rửa thân con, mặc áo và trang điểm cho con. Bởi thế, sau khi con đã dám tới gần trái tim rất dịu dàng của Chúa và tìm được ở đó sự no thỏa, thì con được Chúa hứa ban cho một áo kết bởi ba tấm để che phủ lình hồn trần trụi của con, và hoàn toàn hợp với lời con khấn hứa. Ba tấm áo đó là: sự bình yên, tình yêu và lòng kiên trì. Được áo cứu độ đó che chở, con tưởng không còn thiếu thốn gì nữa, nhưng con sẽ thành công mọi sự để làm sáng danh Chúa"
Thánh nhân qua đời năm 1597, và được Đức Giáo Hoàng Pi-ô thứ 11 tôn phong Hiển thánh và tiến sĩ Hội thánh ngày 21 tháng 12 năm 1925.
* Quyết tâm
Noi gương thánh Phê-rô Ca-ni-xi-ô, hằng ngày kêu xin Chúa cho biết dùng lời nói, việc làm cũng như sách vở thư từ, để củng cố và bảo vệ niềm tin cho mọi người và làm sáng danh Chúa.
* Lời nguyện
Lạy Chúa, để bảo vệ đức tin của Hội thánh Công giáo, Chúa đã cho xuất hiện một Linh mục đầy lòng dũng cảm và trí thông minh là thánh Phê-rô Ca-ni-xi-ô; vì lời thánh nhân chuyển cầu. Xin cho những ai đang tìm kiếm chân lý được phúc nhận biết Chúa là Thiên Chúa, và xin cho cộng đoàn tín hữu chúng con được trung thành giữ vững đức tin. Chúng con cầu xin...
Nguồn: http://gpcantho.com
Ngày 20/12 Thánh Elizabeth ở Áo (1554 - 1592)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Elizabeth ở Áo (1554 - 1592)
Ðời sống của ngài thật đơn giản, luôn cầu nguyện, siêng đến nhà thờ, tham dự các buổi nguyện ngắm, phục vụ bệnh nhân trong các nhà thương hoặc ở nhà, tiếp tế thuốc men cho những người có nhu cầu.
Lược sử
Là con gái của Hoàng Đế Maximilian II nước Đức, Elizabeth kết hôn với Vua Charles IX của Pháp khi mới 15 tuổi. Bốn năm sau ngài đã thành góa phụ, trở về Vienna, nhất định không tái hôn.
Thánh nữ là một gương mẫu cho tất cả mọi người. Đời sống của ngài thật đơn giản, luôn cầu nguyện, siêng đến nhà thờ, tham dự các buổi nguyện ngắm. Trong khi cố tránh con mắt dòm ngó của công chúng, ngài gia nhập Dòng Ba Phanxicô, phục vụ bệnh nhân trong các nhà thương hoặc ở nhà. Cũng như Cha Thánh Phanxicô, ngài lo lắng đến việc duy trì giáo hội.
Thánh Elizabeth từ trần khi ngài khoảng 38 tuổi, sau khi đã hoàn tất quá nhiều công việc để vinh danh Thiên Chúa và vì lợi ích cho người dân. Nhiều phép lạ đã xảy ra tại ngôi mộ của ngài.
Suy niệm 1: Con gái
Elizabeth là con gái của Hoàng Đế Maximilian II nước Đức.
Ngài là người con thứ năm và là con gái thứ hai trong một gia đình có 16 người con mà đã qua đời hết 8 lúc còn ấu thơ. Ngài sống với người chị Anna và người em trai Matthias trong một dinh thự mới xây gần Vienne. Tại đây họ được giáo dục như những người Công Giáo đạo đức. Thân phụ thường đến thăm ngài và xem ra yêu quý ngài nhất, vì ngài giống ông hơn cả, không chỉ dáng vẽ bên ngoài mà đặc biệt về tính nết: thông minh và xinh đẹp. Nhưng ngài lại trổi vượt về mặt nhân đức khi ngài luôn quyết tâm sống theo gương một thánh nhân có tên như ngài, đó là thánh Elizabeth ở Hungary, mà ngài xem như là thần tượng của ngài.
Thật nhiệm mầu thay! Cuộc đời thánh Elizabeth ở Hungary như tái hiện lại ở thánh Elizabeth ở Áo, với một số điểm tương đồng khó tin được. Cả hai đều là công chúa, được đính hôn và trở nên hoàng hậu ở tuổi 14-15, nhưng cũng trở thành góa phụ rất sớm ở tuổi 20. Dầu sống trong giàu sang danh vọng, hai ngài vẫn chọn lối sống đơn sơ khiêm tốn được hấp thụ từ nhỏ, luôn quan tâm chăm sóc và phục vụ người nghèo khổ, đặc biệt các bệnh nhân, gia nhập vào dòng Ba Phanxicô để sống đời thanh bần và cầu nguyện, qua đời ở lứa tuổi còn rất trẻ: Elizabeth ở Hungary vào tuổi 24 còn Elizabeth ở Áo vào tuổi 38.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con họa lại lối sống của Chúa ở cuộc đời của chúng con.
Suy niệm 2: Kết hôn
Elizabeth kết hôn với Vua Charles IX của Pháp khi mới 15 tuổi.
Vào năm 1562, một sứ giả của Pháp sang Vienne, trông thấy công chúa 7 tuổi liền mừng rỡ thốt lên: Đây là hoàng hậu của Pháp quốc! Thế là hai quốc gia Đức-Pháp tao tặng quà nhau và bắt đầu giao hảo thân thiện.
Mãi đến năm 1569, cuộc hôn nhân mới bắt đầu tiến hành để cùng thắt chặt sự liên minh của người Công giáo trong cuộc chiến với giáo phái Tin Lành. Vào ngày 4.11.1570, ngài rời Áo với đoàn tùy tùng trong đó có Đức Tổng Giám Mục Trier. Đặt chân đến lãnh địa Pháp quốc, do một trận mưa dữ dội, họ phải dừng lại Sedan. Nhà vua tò mò muốn tìm biết vợ tương lai của mình, nên cải trang thành một ngưới lính gác, và cảm thấy thật hạnh phúc khi được nhìn thấy.
Và cuối cùng nghi thức hôn phối giữa Vua Charles IX nước Pháp và Công Chúa xứ Áo Elizabeth được cử hành long trọng tại Mézières do Đức Hồng Y Bourbon vào ngày 26.11.1570.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các đôi phối ngẫu luôn bảo vệ hạnh phúc lứa đôi bằng việc chung thủy trọn đời yêu thương nhau.
Suy niệm 3: Cầu nguyện
Đời sống của Elizabeth thật đơn giản, luôn cầu nguyện.
Vào ngày 25.3.1571, Đức Tổng Giám Mục Reims cử hành Thánh lễ tại Vương Cung thánh Đường Thánh Denis để chính thức tôn phong Elizabeth là Hoàng hậu Pháp quốc. Đây cũng là cột mốc thời gian ngài ẩn dật trong hoàng cung, xa rời nếp sống xô bồ của xã hội, không tham gia chính sự để đi sâu vào tâm tình cầu nguyện với thái độ đơn sơ, hiền dịu đến mức người người nhận xét: Cô gái Đức không làm tôi phải sợ. Việc không thành thạo tiếng Pháp khiến ngài càng không muốn các cuộc tiếp xúc nên lại càng có nhiều thì giờ hơn cho việc gặp gỡ Thiên Chúa.
Mỗi ngày ngài hiệp dâng hai Thánh Lễ cách sốt sắng. Lòng sốt sắng càng gia tăng hơn, sau khi ngài nhận được tin về cuộc thảm sát được gọi là Vụ Thảm Sát Thánh Batôlômêô vào ngày 24.8.1572, khi hàng ngàn người Tin Lành Pháp bị sát hại trên đường phố Ba Lê. Ngài dâng lễ với ý chỉ cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời, và nhất là cầu nguyện cho phu quân mình là người có trách nhiệm khởi xướng vụ việc ấy.
Vài tháng sau vào ngày 27.10.1572, ngài hạ sinh cô gái đầu lòng ở Điện Louvre. Ngài đặt tên là Marie Elizabeth theo tên bà ngoại là Hoàng Thái Hậu Marie và Công Chúa Elizabeth I ở Anh quốc vốn là mẹ đỡ đầu của ngài. Niềm vui trở thành mẹ giúp ngài càng thiết tha cầu nguyện nhiều hơn để tạ ơn Chúa và chuẩn bị con đường tiến đức cho con sau này.
Sau thời gian sinh nở của ngài thì sức khoẻ của Nhà Vua sa sút nhanh chóng. Sự kiện này như dầu đổ thêm vào lò lửa cầu nguyện của ngài với khát mong phu quân được chóng hồi phục. Thế nhưng ông đã qua đời vào ngày 30.5.1574. Hết 40 ngày tang lễ, ngài được gọi là Hoàng Hậu trắng và vào ngày 28.8.1575, trước khi trở về Vienne, ngài đến viếng thăm cô con gái yêu quý Marie Elizabeth đang được bà nội là Hoàng Thái hậu Catherine chăm sóc, và đó là lần cuối cùng vì ngài không bao giờ gặp lại nữa. Sự xa cách này lại thêm động lực để ngài gia tăng đời sống cầu nguyện hướng về cho cô con gái yêu quý.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tìm nguồn trợ lực ở đời sống cầu nguyện.
Suy niệm 4: Phục vụ
Elizabeth gia nhập Dòng Ba Phanxicô, phục vụ bệnh nhân.
Elizabeth đã thành góa phụ và trở về Vienna.
Tại Vienne, vào ngày 12.10.1576, thân phụ Maximilian II của ngài qua đời. và họa vô đơn chí, vào ngày 2.4.1578, cô gái 6 tuổi của ngài cũng được Chúa gọi về. Là con người cầu nguyện, ngài không ngã gục trước nỗi đau mất chồng, mất cha và cả mất con. Không còn vướng bận về đạo hiếu, ngài đầu tư tất cả năng lực cho công việc phục vụ người khổ đau. Ngài tiếp tế thuốc men cho những người có nhu cầu. Nhiều ngày thứ Năm, ngài mời những người nghèo đến ăn cùng bàn với ngài để tưởng nhớ bữa Tiệc Ly. Ngài thường thi hành những công việc hèn mọn ở tu viện Thánh Clara Nghèo Hèn mà ngài giúp thành lập, ở đó ngài nấu ăn cho người nghèo.
Cảm kích trước tấm gương thánh thiện và bác ái của ngài, hoàng đế Philip II của Tây Ban Nha sau cái chết của người vợ Anna vào năm 1580 đã ngỏ lời xin tái hôn với ngài. Nhưng ngài không muốn vướng bận vào bổn phận mới gây tổn hại cho thì giờ phục vụ người nghèo của ngài, ngài đã từ chối khéo bằng việc lặp lại một câu nói thời danh của hoàng hậu Blanche Navarre vốn góa phụ của Vua PhilipVI: Hoàng Hậu Pháp Quốc không bao giờ tái hôn.
Elizabeth tỏ ra luôn bằng lòng về số phận của mình. Là công chúa của một hoàng đế và là hoàng hậu của một nhà vua với nhiều bảo tố, ngài hun đúc cuộc đời ngắn ngủi của ngài trong đời sống cầu nguyện và phục vụ người nghèo. Hoàn cảnh của mổi người chúng ta chắc hẳn không thuộc hoàng tộc nhưng cũng không thiếu giông tố. Ước mong gương sáng của thánh nhân giúp chúng ta không chịu khuất phục nghịch cảnh nhưng tìm nguồn an vui trong các công việc từ thiện phục vụ người nghèo khổ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn bằng lòng về số phận của mình và lạc quan phục vụ người nghèo khổ.
Suy niêm 5: Duy trì
Elizabeth lo lắng đến việc duy trì giáo hội.
Để giúp đỡ cho việc giáo dục người trẻ trong ơn gọi tu trì để phục vụ Giáo Hội, ngài xây dựng một nhà cho các Cha Dòng tên tại Bourges cho dầu ngài không bao giờ nhận được lợi tức từ số đất đai của ngài. Về nữ giới, vào năm 1580, ngài mua đất nằm gần Stallburg và giúp thiết lập Tu viện Thánh Clara Nghèo Hèn vốn được gọi là Tu Viện của Hoàng Hậu và được tôn vinh là Hoàng Hậu Thiên Thần.
Ngài cũng giúp ngân sách để tái thiết nhà thờ Chư Thánh ở Hradcany, Prague, vốn đã bị hỏa hoạn tàn phá vào năm 1541. Đồng thời nhờ sự nhất trí của bào huynh Maximilian vốn là phụ tá của Dòng Teutonic, ngài thỉnh được một số thánh tích của Thánh Nữ Elizabeth Hungary về tu viện vào năm 1588. Ngoài ra ngài cũng để lại hai tác phẩm cho hậu thế với nhan đề: Lời Thiên Chúa và Các Biến Cố Quan Trọng xảy ra tại Pháp vào thời Ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quan tâm đến việc duy trì Giáo Hội vốn tồn tại bền vững (Mt 16.18).
Suy niêm 6: Phép lạ
Nhiều phép lạ đã xảy ra tại ngôi mộ của Elizabeth.
Ngài qua đời vào ngày 22.1.1592 và được chôn cất trong nhà nguyện của tu viện, và sau đó theo lệnh của Hoàng Đế Joseph II được chuyển về Nhà Thờ Chánh Tòa Stephen, Vienne. Nhẫn cưới của ngài được bào huynh Emest cất giữ. Khi hay tin ngài qua đời, thân mẫu ngài nói: Người con tốt nhất của chúng tôi đã mất.
Trong tiến trình lịch sử, đề tài những phép lạ luôn là một trong những điểm gây ra nhiều tranh chấp giữa khoa học và đức tin. Thực thế, phép lạ dường như thách thức lý trí và thế giới duy lý. Giáo Hội định nghĩa phép lạ như thế nào? Phải có gì để phép lạ được nhìn nhận? Báo cáo viên của Bộ Phong Thánh, ÐGM José Luis Gutierrez đã đề cập đến những câu hỏi này hôm thứ ba vừa qua trong cuộc họp được tổ chức trong bối cảnh chương trình cử nhân «Khoa học và Ðức Tin» tại trường Giáo Hoàng Regina Apostolorum.
Phép lạ là gì ? ĐGM Gutierrez giải thích rằng đối với những nhà thần học, phép lạ «thông truyền một thông điệp cứu độ, đó là một điều phi thường đặc biệt làm mọi người khâm phục, một biến cố vượt trên những luật vật chất. Mục đích của phép lạ không nhắm gây thán phục nhưng là thông truyền một thông điệp cứu độ». Dưới khía cạnh học thuyết, ĐGM Gutierrez nói rõ rằng «chỉ có Thiên Chúa mới làm phép lạ, mẹ Maria và các thánh can thiệp vào». Theo thánh Thomas, «phép lạ vượt trên thiên nhiên được tạo dựng và chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm được», Ngài cũng nói: «những phép lạ thật chỉ có thể xảy ra do nhờ Thiên Chúa».
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống sứ điệp qua mỗi phép lạ.
Hạnh thánh tháng 12
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 19/12 Tôi Tớ Thiên Chúa Berthold ở Ratisbon (c. 1272)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Tôi Tớ Thiên Chúa Berthold ở Ratisbon (c. 1272)
Qua sự rao giảng của cha, lời Chúa đánh động những tâm hồn chai đá. Tinh thần của ngài vẫn sống động trong các bài giảng, mà nhiều bài ấy vẫn thích hợp trong thời đại chúng ta.
Lược sử
Sinh ở Đức vào khoảng năm 1220, ngay từ khi còn trẻ, Berthold người xứ Ratisbon đã gia nhập dòng Phanxicô khi mới được thành lập. Ngài đạo đức, chịu khó sống kham khổ, và được hướng dẫn bởi vị linh hướng nổi tiếng là cha David người xứ Augsburg. Nhận thấy Berthold có khoa ăn nói nên cha David đã khuyến khích và giúp vị linh mục trẻ tuổi này trau dồi thêm khả năng đó.
Không bao lâu khắp Đế Quốc Đức, ai ai cũng biết tiếng Cha Berthold là một người rao giảng đại tài.
Cha Berthold có ơn tiên tri và đã tiên đoán đúng nhiều thiên tai và biến cố trong thời ấy. Sau khi ngài từ trần ở Ratisbon năm 1272, ngôi mộ ngài trở nên trung tâm hành hương. Tinh thần của ngài vẫn sống động trong các bài giảng, mà nhiều bài ấy vẫn thích hợp trong thời đại chúng ta.
Suy niệm 1: Linh hướng
Berthold được hướng dẫn bởi vị linh hướng nổi tiếng là cha David người xứ Augsburg.
Theo Shalem: 'Linh hướng là mối liên hệ giữa hai cá nhân với nhau, trong đó vị linh hướng là người hướng dẫn người kia xét lại cuộc sống của họ dưới ánh sáng ơn gọi của mình để họ trở nên người trung thành và vâng lời bằng tận đáy con tim của mình. Người linh hướng là một dụng cụ dùng để mở rộng khả năng nhận thức rõ ràng tiếng nói bên trong của Chúa Thánh Thần và phát triển lòng can đảm, đức tin, cùng sự tự nguyện vâng theo tiếng nói của Chúa một cách thật tự do.'
Thiên Chúa đã dùng con người để thúc giục và hướng dẫn con người tìm ra đường lối của Chúa. Linh hướng đã có từ thời xa xưa trong Giáo Hội. Ta thấy Heli là một vị linh hướng cho Samuel nhận ra được tiếng Chúa muốn nói chuyện với Samuel (1Sm 3,1- 14) Đến thời Chúa Giêsu, ta thấy ngài cũng là một vị linh hướng thật tài giỏi cho riêng biệt từng người, điển hình như Nicôđêmô vào ban đêm (Ga 3, 1- 21), Nathanael (Ga 1, 47- 49), người thanh niên giầu có (Mt 19, 16- 22), người phụ nữ thành Samari (Ga 4,7- 30). Rải rác nhiều chỗ trong Tin Mừng, ta thấy Chúa Giêsu là linh hướng cho các môn đệ. Thời Giáo Hội tiên khởi ta cũng thấy các tông đồ là linh hướng, rồi đến thế kỷ thứ bốn có các thánh tu rừng, đến khoảng thế kỷ thứ sáu linh hướng được bành tướng thêm ở các đan viên.
Thế kỷ 21 này linh hướng không chỉ đơn thuần hướng dẫn đời sống tâm linh cho những người sống cách biệt với xã hội, nhưng nối liền đời sống tâm linh với những thực tại của thế giới với trách nhiệm của một công dân như bình an, công bằng trong gia đình, và công sở. Vậy, linh hướng cần thiết cho mọi Kitô hữu chứ không chỉ dành riêng cho giới tu sĩ (Sr. Nắng Hạ, OP).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có được một vị linh hướng hữu ích cho đời sống đạo của chúng con.
Suy niệm 2: Xứ Augsburg-phép lạ
Berthold được hướng dẫn bởi vị linh hướng nổi tiếng là cha David người xứ Augsburg.
Lịch sử phép lạ này bắt đầu với một người đàn bà ở Augsburg, bà nảy ra ý nghĩ muốn giữ Thánh Thể trong nhà mình. Với mục đích này, vào một buổi sáng nọ, bà đã lên rước lễ và kín đáo lấy Thánh Thể ra khỏi miệng và đưa về nhà. Tại đây, bà đã tạo ra hai miếng sáp, đặt Bánh Thánh giữa rồi hàn kín các mép lại, tạo nên một chiếc hộp đựng thô kệch. Bà đã giữ Thánh Thể như thế suốt năm năm trời; nhưng trong quãng thời gian ấy, lương tâm cắn rứt đến độ bà đã buộc lòng phải đem câu chuyện ấy trình bày với cha sở vào năm 1199, và cha sở đã tức tốc đi đến nhà bà và đưa Bánh Thánh về nhà thờ Thánh Giá.
Trong số những vị linh mục của giáo xứ lúc bấy giờ có một vị tên là Berthold làm ca trưởng ca đoàn được coi là một vị thánh. Cha Berthold được ủy thác mở chiếc hộp sáp, và chính ngài là người đầu tiên nhìn thấy phần Bánh Thánh ấy đã biến nên như thịt, có những gân đỏ rõ ràng. Tất cả các linh mục tại cộng đồng chứng kiến việc mở chiếc hộp sáp đều kinh ngạc. Họ bàn luận vấn đề một lúc lâu, và sau đó quyết định rằng họ có thể xác định tốt hơn tính chất của hiện vật nếu như bẻ làm hai phần. Trước sự ngỡ ngàng của các ngài, Thánh Thể không thể bẻ làm đôi bởi vì đã được kết chặt với nhau bằng những gân máu giống như các sợi chỉ. Khi ấy, các ngài xác nhận hiện vật ấy chính là thịt của Chúa Giêsu Kitô.
Trước cảnh tượng ấy, một số linh mục không nói nên lời, một số kinh hãi, và một số khác đề nghị giữ kín sự kiện biến thể ấy. Tuy nhiên, vị coi phòng áo kiến nghị nên tường trình sự việc cho đức giám mục, và thế là vấn đề lập tức đã được thông tri cho đức giám mục.
Trước sự hiện diện của đức giám mục Udalskalk, người đã cẩn thận xem xét Bánh Thánh phép lạ, nhiều tín hữu trong giáo xứ và các linh mục từ các nơi cũng đến chứng kiến phép lạ. Lúc ấy, đức giám mục ra lệnh đặt Mình Thánh phép lạ vào chiếc hộp sáp và đưa về nhà thờ chính tòa (Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể, Chương 4, Regina xb, USA, 2002).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nhận ra phép lạ Thánh thể hằng tái diễn trên bàn thờ sau lời truyền phép của chủ tế.
Suy niệm 3: Xứ Augsburg-sùng kính
Berthold được hướng dẫn bởi vị linh hướng nổi tiếng là cha David người xứ Augsburg.
Tại nhà thờ chính tòa, Mình Thánh đã được bày kính trong suốt thời gian từ lễ Phục Sinh đến lễ thánh Gioan Tẩy Giả. Trong thời gian này, một phép lạ thứ hai đã xảy ra: người ta nhìn thấy Mình Thánh nở to ra và làm vỡ chiếc hộp sáp và tách ra ngoài. Mình Thánh màu đỏ máu tự động tách khỏi chiếc hộp sáp bên ngoài, không do can thiệp nào của con người.
Theo đề nghị của đức giám mục, Mình Thánh phép lạ và những mảnh sáp bấy giờ được đặt vào trong một chiếc hộp pha lê và được trả về nhà thờ Thánh Giá. Tại nhà thờ này, Mình Thánh phép lạ đã được lưu giữ trong chiếc hộp pha lê ấy một cách hoàn hảo trên 780 năm.
Đức giám mục Dekret, vào ngày 15 tháng 5 năm 1199, đã ấn định tổ chức những nghi lễ đặc biệt hằng năm để ghi nhớ phép lạ này. Ngày lễ kỷ niệm hằng năm được gọi là Fest des Wunderbarlichen Gutes, tức là ngày lễ Báu Tàng Phép Lạ Kỳ Diệu. Hằng năm, cứ vào ngày 11 tháng 5, lễ ngày được cử hành trọng thể, với những lễ phục đặc biệt.
Dần dần, những nhà thờ khác cũng bắt đầu mừng ngày lễ ấy, trong số đó có nhà thờ thánh Moritz; sau đó, năm 1485 là nhà thờ thánh George; năm 1496 là nhà thờ Domkirche; và vào khoảng năm 1639, lễ này đã được cử hành thường niên trong toàn thể giáo phận Augsburg, và các nhà thờ mới cũng sử dụng các nghi thức truyền thống ấy. Nhiều sự kiện được chữa lành bệnh xảy ra trong thời gian cử hành các nghi thức tôn vinh các phép lạ thánh(Joan Carroll Cruz, Phép Lạ Thánh Thể, Chương 4, Regina xb, USA, 2002).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con bày tỏ lòng kính phép lạ Thánh Thể bằng việc siêng năng hiệp dâng Thánh lễ và nhất là dọn mình xứng đáng rước lấy cũng như viếng thăm vào những lúc thuận tiện.
Suy niệm 4: Rao giảng-danh tiếng
Ai ai cũng biết tiếng Cha Berthold là một người rao giảng đại tài.
Các thi sĩ và các sử gia thời ngài thường tham khảo và gọi ngài bằng nhiều danh hiệu: Người anh em ngọt ngào, người dấu ái của Thiên Chúa, vị tiên tri Êlia thứ hai, thầy của mọi đất nước. Chìa khóa của mọi thành công trong lãnh vực này một phần nhờ vào đời sống thánh thiện của ngài và một phần nhờ vào uy lực của thứ ngôn ngữ xuất phát từ lối sống khiêm hạ của ngài. Một trong các bài diễn thuyết trình bày về Cuộc Phán Xét cuối Cùng được quần chúng hâm mộ để trở thành một cuốn sách với nhan đề "The Valleys of Josaphat" (Thung Lũng Giôsaphát).
Các bài giảng của ngài đã được các học giả lưu giữ lâu dài cho hậu thế, như một đóng góp quan trọng cho lịch sử phát triển của nền văn học về giảng thuyết thuộc thế kỷ 13. Các bài giảng ấy được xuất bản vào năm 1824, và ngài được gọi là một nhà học giả Đức quốc và một sử gia của việc phát triển nền văn minh Đức quốc. Ngài cũng được đánh giá như một mẫu gương cho giới giảng dạy trên bục giảng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống khiêm hạ và thánh thiện như là chìa khóa của mọi thành quả.
Suy niệm 5: Rao giảng-hiệu quả
Ai ai cũng biết tiếng Cha Berthold là một người rao giảng đại tài.
Qua sự rao giảng của cha, lời Chúa đánh động những tâm hồn chai đá. Hàng ngàn người đổ về để nghe ngài giảng. Có khi, số người lên đến hơn 100.000, và ngài phải leo lên tòa giảng được dựng trên một cái cây cao để mọi người có thể nghe được. Ngày nay, một cánh đồng thật lớn ở Bohemia vẫn còn được gọi là Cánh Đồng Cha Berthold, vì ngài đã giảng thuyết ở đây. Nhiều người được ơn trở lại, thay đổi đời sống, sám hối tội lỗi. Và họ xây một tu viện và một nguyện đường ở Ratisbon để dâng kính Thánh Maria Mađalêna. Ngày nay tu viện và nhà thờ này vẫn còn đó và do các Nữ Tu Dòng Thánh Clara Nghèo Hèn trông coi.
Công cuộc rao giảng của ngài trải dài 4 năm ở các vùng Rhine, Alsace và Switzerland. Và suốt 10 năm tiếp theo ở Austria, Moravia, Bohemia và Silesia. Vào năm 1263, Đức Giáo Hoàng Urban IV chỉ định ngài giảng thuyết cho Thập Tự Chinh. Vào năm 1270, ngài trở về Ratisbon và lưu lại đây cho đến khi chết vào ngày 14.12.1272.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng khả năng Chúa ban để giúp tha nhân trở về với Chúa.
Suy niệm 6: Ơn tiên tri
Cha Berthold có ơn tiên tri và đã tiên đoán đúng nhiều thiên tai và biến cố trong thời ấy.
Những ngày đầu, sau khi Gioan được sinh ra, thầy cả Dacaria, thân phụ của Gioan, đã nói về Gioan: "Từ nay, con ơi, con sẽ là tiên tri của Đấng Tối Cao" (Lc 1,76). Lời nói trên đây của thầy cả Dacaria là do ơn Chúa Thánh Thần. Vì thế, chúng ta sẽ suy gẫm lời đó. Hiểu về tiên tri Gioan thời đó, cũng sẽ là cách hiểu về sự được chia sẻ ơn tiên tri thời nay. Thời đó, Gioan đã thực thi ơn tiên tri thế nào?
a) Thưa, trước hết Ngài thực thi ơn tiên tri bằng cách loan truyền cái nhìn của Chúa và ý định của Chúa về tình hình lúc đó. Tình hình lúc đó bề ngoài coi như ổn định. Nhưng Gioan được ơn Chúa, đã loan báo rằng: Chúa nhìn tình hình đó một cách khác. Đó là một tình hình có nhiều tội lỗi. Tội lỗi phát triển đều khắp, bề rộng và bề sâu. Đó là một tình hình nguy hiểm. Ý định của Chúa là người ta phải nhận thức về tội lỗi mình, phải sám hối ăn năn về tội lỗi mình. Hơn nữa, người ta phải sẵn sàng đón nhận Đức Kitô. Người là Đấng Cứu Thế. Gioan giới thiệu Chúa Giêsu thế này: "Đây là Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xoá tội trần gian" (Ga 1,29). Nếu không sám hối, người ta sẽ không tránh được hình phạt nặng nề. Thánh Gioan cho thấy hình phạt nặng nề đó đang tới. Như cái rìu đã kề sát cây không sinh trái (x. Mt 3,10).
b) Loan báo những sự thực trên là điều cần. Nhưng chưa đủ. Thánh Gioan đã thực thi ơn tiên tri bằng một bước nữa. Đó là đi trước mặt Chúa (x. Lc 1,76). Đi trước mặt Chúa là phải rất mực khiêm nhường. Thánh Gioan nói: "Tôi không đáng cởi quai giày của Người" (Lc 3,36). Đi trước mặt Chúa còn là tập trung đề cao Chúa Cứu Thế: "Người phải nổi bật, còn tôi thì phải lu mờ" (Ga 3,30). Đi trước mặt Chúa là biết tỉnh thức nhận ra Chúa và giới thiệu Chúa, cho dù Chúa đến dưới hình thức nào, kể cả dưới hình thức kẻ tội lỗi. Như xưa Chúa Giêsu đã đến với Gioan dưới hình thức một người sám hối, xin Gioan làm phép rửa (x. Mt 3,13).
c) Đi trước mặt Chúa và loan truyền ý Chúa đã là những nét đẹp của tiên tri Gioan. Tuy nhiên, Gioan còn thực thi ơn tiên tri bằng một việc nữa, đó là giới thiệu cái hồn tiên tri của Ngài được đào tạo trong sa mạc. "Tôi là tiếng kêu trong sa mạc"(Ga 1,23). Trong Cựu Ước và Tân Ước, sa mạc thường được hiểu là nơi thanh vắng. Tại đó, người ta cầu nguyện, suy niệm, lắng nghe lời Chúa và thờ phượng Chúa. Thánh Gioan đã được đào tạo nhiều năm trong sa mạc mang những ý nghĩa thiêng liêng đó. Từ sa mạc như vậy, Gioan nhận được ơn Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần ở trong Ngài, giúp cho Ngài có những lời nói đúng ý Chúa, và giúp cho Ngài có những tâm tư và thái độ của người đi trước mặt Chúa.
Đến đây, chúng ta dễ thấy nơi thánh Gioan, tiên tri của Đấng Tối Cao:
- Có một sự sâu sắc trong loan báo,
- Có một sự khiêm nhường và tỉnh thức trong việc đi trước mặt Chúa,
- Có một sự trầm lắng của nội tâm được đào tạo trong sa mạc.
Thánh Gioan đã thực hiện ơn tiên tri cho thời đó. Thiết tưởng ơn tiên tri vẫn được Chúa tiếp tục ban cho Hội Thánh, hoặc qua cá nhân, hoặc qua tập thể, hoặc qua cơ chế. Kẻ nhiều người ít. Hoặc cách này hoặc cách khác. Tình hình hiện nay là rất đáng ngại. Bởi vì đạo đức xuống cấp. Rất nhiều người mất ý thức về tội. Hoặc biết là có tội, mà không sám hối. Tội lỗi kéo theo hình phạt, đó là điều không tránh được (Gm. Gioan B. Bùi Tuần).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con được biết đón nhận và được thực thi ơn tiên tri.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 18/12 Chân Phước Anthony Grassi (1592-1671)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Anthony Grassi (1592-1671)
Ngài là vị bề trên trầm lặng và hiền từ không biết thế nào là khắt khe. Nhưng quy luật của dòng luôn được ngài duy trì và buộc mọi tu sĩ phải tôn trọng.
Lược sử
Anthony mồ côi cha khi lên 10 tuổi, nhưng ngài đã học được nơi người cha sự sùng kính Đức Mẹ Loreto. Khi còn là học sinh trung học, ngài thường đến nhà thờ của các cha Oratorian, và gia nhập dòng này khi mới 17 tuổi. Từng nổi tiếng là một học sinh giỏi, nên không bao lâu ngài được mệnh danh là "cuốn tự điển sống" trong cộng đồng tu sĩ, ngài có thể hiểu Kinh thánh và thần học cách mau chóng. Trong một thời gian, ngài bị dằn vặt bởi sự quá đắn đo cân nhắc, nhưng cho đến khi cử hành Thánh Lễ đầu tiên, sự bình thản đã chiếm ngự toàn thể con người ngài.
Ngài cũng nổi tiếng là cha giải tội đơn sơ và thẳng thắn, lắng nghe người xưng tội, và chỉ bảo họ sống phù hợp với lương tâm. Năm 1635, ngài được chọn làm bề trên Tu Viện Fermo, và được tái đắc cử nhiều nhiệm kỳ cho đến khi ngài qua đời. Ngài là vị bề trên trầm lặng và hiền từ không biết thế nào là khắt khe. Nhưng quy luật của dòng luôn được ngài duy trì và buộc mọi tu sĩ phải tôn trọng.
Ngài từ chối các chức vụ dân sự ở ngoài xã hội, và dùng thời giờ để đi thăm người đau yếu, người hấp hối hay bất cứ ai cần đến sự giúp đỡ của ngài. Khi về già, ngài được Chúa ban cho ơn nhận biết tương lai, là một ơn sủng ngài dùng để cảnh giác hay khuyên bảo người khác. Một trong những công việc sau cùng của ngài là hòa giải được sự tranh cãi kịch liệt giữa hai thầy dòng.
Suy niệm 1: Đức Mẹ Loreto
Anthony Grassi đã học được nơi người cha sự sùng kính Đức Mẹ Loreto.
Thành phố Loreto ở miền Trung nước Ý có đền thánh Đức Mẹ Loreto nổi tiếng. Trong đền thánh có căn nhà Đức Mẹ được Thánh Tổng Lãnh Thiên Thần Gabrie truyền tin mà theo tương truyền, căn nhà nhỏ này được các Thánh Thiên Thần đưa từ Nazareth bên nước Palestina về Loreto ngày 10-12-1294. Đền Thánh Đức Mẹ Loreto rất được các tín hữu Công Giáo Ý và tín hữu Công Giáo toàn thế giới yêu mến kính viếng. Hàng năm trong tháng 6 thường có cuộc hành hương đi bộ từ Macerata hướng về đền thánh Loreto. Cuộc hành hương thường quy tụ khoảng 100 ngàn tín hữu Công Giáo Ý.
Còn với chân phước? Vào năm 1621, khi 29 tuổi, Anthony bị sét đánh khi đang cầu nguyện trong nhà thờ ở Loreto. Ngài được đưa vào bệnh viện, và ai cũng nghĩ là ngài sẽ chết. Một vài ngày sau, khi tỉnh dậy, ngài nhận ra rằng căn bệnh đau bao tử dai dẳng của ngài đã biến mất. Quần áo cháy nám của ngài được tặng cho nhà thờ Loreto như một kỷ niệm biến cố lớn trong đời. Quan trọng hơn nữa, ngài cảm thấy cuộc đời mình lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa. Sau đó, hàng năm ngài đều hành hương đến Loreto để dâng lời cảm tạ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sốt sắng sùng kính Đức Maria, Mẹ Chúa.
Suy niệm 2: Đức Mẹ Loreto - phép lạ
Anthony Grassi đã học được nơi người cha sự sùng kính Đức Mẹ Loreto.
Sau đây là ơn lành nhận lãnh nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Loreto.
Để chuẩn bị tinh thần cho các tín hữu Công Giáo Ý sốt sắng cử hành Đại Hội Thánh Thể Toàn Quốc lần thứ XXV diễn ra từ mùng 3 đến 11 tháng 9 năm 2011 tại Ancona, Hội Đồng Giám Mục Ý quyết định đưa bức tượng Đức Mẹ Loreto thánh du các giáo phận nơi vùng Marche trong năm 2010. Chính vào dịp này mà bà Maria Gardini một tín hữu Công Giáo Ý đang sống tại thành phố Fiuminata đã được ơn lạ Đức Mẹ Loreto chữa lành mắt khi bà cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ Loreto. Xin nhường lời cho bà Maria Gardini.
Hiện tại tôi sống ở Fiuminata thuộc tỉnh Macerata nhưng sinh trưởng tại Loreto. Và có một thời gian, tôi từng làm nữ tỳ phục vụ Đền Thánh Loreto. Trong dịp bức tượng Đức Mẹ Loreto thánh du vùng Marche, vào ngày 13-9-2010, tôi vào nhà thờ ở Fiuminata để kính viếng bức tượng Đức Mẹ. Vừa trông thấy bức tượng Đức Mẹ Loreto tôi bỗng òa lên khóc nức nở, khóc không thể nào cầm lại được. Cùng lúc, tôi linh tính như có chuyện gì khác thường xảy ra. Và đúng như vậy. Trước đó tôi bị một lổ thủng nơi võng-mạc trong con mắt và bị mù. Tôi đã tìm thầy chạy thuốc nhưng vẫn không chữa trị được. Và tôi đã van xin Đức Mẹ cứu chữa tôi, xét vì các phương thuốc trần gian không đem lại kết quả nào. Và Đức Mẹ đã nhậm lời tôi nài van và đợi đến giờ phút tôi quỳ gối trước bức tượng Đức Mẹ Loreto để chính thức ban cho tôi ơn lành trọng đại.
Biết mình được lành mắt, tôi đến nhà bác sĩ Marco Rossiello vị bác sĩ chữa mắt cho tôi. Sau khi cẩn thận xem và khám nghiệm, bác sĩ chính thức công nhận tôi đã lành mắt hoàn toàn và tức khắc. Vết lủng, vết rách nơi võng-mạc được nối lại y như trước. Đây là chuyện gần như ít khi xảy ra và khoa học không thể nào giải thích được.
Trong dịp Đại Hội Quốc Tế về Võng-Mạc diễn ra tại thành phố Milano ở Bắc Ý trong ba ngày 9-10-11 tháng 6 năm 2011, bác sĩ Marco Rossiello đã cho Đại Hội xem một số hình ảnh của mắt trước và sau khi lành bệnh. Mọi người kinh ngạc và đồng thanh tuyên bố đây là trường hợp lành bệnh đầu tiên trên thế giới. Bởi lẽ, chẳng những võng-mạc được nối lại, vết thủng được khép kín mà bệnh nhân còn được trông thấy rõ ràng. Đúng là hiện tượng độc nhất vô nhị. Tháng 7 năm nay 2011 tôi cùng với toàn thể gia đình đến Đền Thánh Đức Mẹ Loreto để chính thức tạ ơn Đức Mẹ đã âu yếm ban cho tôi ơn khỏi bệnh mắt cách lạ lùng như thế. Về phần bác sĩ mắt - Marco Rossiello - ông cũng đích thân mang đến Đền Thánh Đức Mẹ Loreto tất cả hình ảnh và tài liệu liên quan đến việc khỏi mắt của tôi. Hôm ấy là ngày 23-7-2011. Sau khi chăm thú theo dõi cuộc trình bày của bác sĩ mắt, mọi người kinh ngạc kêu lên: Thật là diệu kỳ khi tin vào tất cả những gì bác sĩ nói! (Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt).
* Lạy chúa Giêsu, xin giúp chúng con siêng năng chạy đến cùng Mẹ!
Suy niệm 3: Sùng kính Đức Mẹ - trong Giáo hội
Anthony Grassi đã học được nơi người cha sự sùng kính Đức Mẹ Loreto.
Lòng sùng kính Đức Maria đã có từ lâu đời trong Giáo Hội. Các Thánh giáo phụ, đặc biệt thánh Bênađô, dựa vào nền tảng Kinh Thánh, đã rao giảng và viết rất nhiều về lòng sùng kính Đức Maria và giải thích những nhiệm lạ cao siêu Thiên Chúa đã làm nơi Đức Maria.
Theo truyền thống từ lâu đời, hàng ngày vào buổi sáng, buổi trưa, và buổi chiều, các giáo hữu thường nguyện Kinh Truyền Tin (Mùa Phục Sinh thì đọc kinh 'Lạy Nữ Vương Thiên Đàng') để nhớ đến giờ phút vô cùng trọng đại trong lịch sử cứu độ: 'Ngôi Lời xuống thế làm người trong lòng Mẹ Maria'. Giờ phút thiêng liêng nầy cũng chia đôi lịch sử nhân loại: Thời Cựu Ước và thời Tân Ước. Theo tiếng chuông 'Truyền Tin' (cũng gọi là 'chuông nhật một' vì giật từng tiếng) các tín hữu đọc chung, hoặc riêng, Kinh Truyền Tin trong đó có 3 lần xen vào kinh Kính Mừng... để nhắc nhở các tín hữu nhớ đến giờ phút nguyện kinh Truyền Tin, kính nhớ mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, và đồng thời nhớ đến Đức Maria long trọng nhận lời sứ thần truyền tin và Ngôi Lời nhập thể trong lòng Mẹ Maria.
Cũng theo truyền thống lâu đời trong Giáo Hội, ngày thứ Bảy (nhất là ngày thứ Bảy đầu tháng) là ngày đặc biệt dâng kính Mẹ Maria để kính nhớ và đền tạ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ (theo mệnh lệnh Fatima) và cầu nguyện cho hòa bình thế giới.
Trong một năm, có hai tháng đặc biệt dâng kính Mẹ Maria:
Tháng Năm thường được gọi là Tháng Hoa. Các họ đạo tại Việt Nam, và các cộng đoàn Công giáo Việt Nam tại hải ngoại, thường có những đoàn các em dâng hoa, hát vãn kính Đức Mẹ (thường vào những thứ Bảy) rất sốt sắng. Các giáo hữu ngoại quốc khi dự các buổi dâng hoa này cũng tỏ ra rất khâm mộ.
Tháng Mười là tháng Mân Côi (ngày xưa thường gọi là tháng Đức Bà) để kính Mẹ Maria bằng tràng hạt Mân Côi (tràng chuỗi). Thường các tín hữu lần chuỗi Mân Côi hàng ngày (hoặc 'Chuỗi Năm Mươi' hay 'Một Trăm Năm Mươi' ngắm cả 3 mầu nhiệm 'Vui' 'Thương' và 'Mừng'). Nếu lần một chuỗi 'Năm Mươi' thì suy ngắm các 'Mùa' theo ngày. Chúa Nhật: 'Mùa Mừng', thứ Hai: 'Mùa Vui', thứ Ba: 'Mùa Thương', thứ Tư: 'Mùa Mừng'. thứ Năm: 'Mùa Vui', thứ Sáu: 'Mùa Thương'. Từ tháng Mười năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã lập thêm 'Mầu nhiệm Ánh Sáng' và được khuyến khích ngắm vào ngày thứ Năm (Lm Anphong Trần Đức Phương).
* Lạy chúa Giêsu, xin giúp chúng con quý trọng và thực hành các hình thức bày tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ trong Hội Thánh.
Suy niệm 4: Sùng kính Đức Mẹ - người ngoài Công giáo
Anthony Grassi đã học được nơi người cha sự sùng kính Đức Mẹ Loreto.
Riêng về lòng sùng kính Đức Mẹ Maria nơi các người ngoài Công giáo có ở khắp nơi trên thế giới. Tại Việt Nam chẳng hạn, khi còn nhỏ, chúng tôi thấy có nhiều người 'bên lương' đến dâng hoa Kính Đức Mẹ tại Đền Thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Thái Hà Ấp (ngoại ô Hà Nội). Tại Miền Nam, cũng có nhiều người ngoài Công giáo đến dâng hoa, đèn nến và cầu xin với Đức Mẹ như tại Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế (Sài Gòn) hay tại Nhà Thờ Đức Mẹ Bình Triệu (ngoại ô Sài Gòn). Tại nơi Đức Mẹ hiện ra rất nổi tiếng và đã được Giáo Hội công nhận như Lộ Đức (Lourdes ở Pháp, 1858), Fatima (Bồ Đào Nha, 1917), hay Guadalupe (Mexico, 1531) hàng năm có nhiều triệu người đến hành hương kính viếng, trong đó cũng có rất nhiều người không phải Công Giáo.
Có một điều rất quan trọng chúng ta cần lưu ý là: Lòng sùng kính Đức Mẹ Maria trong Giáo Hội Công Giáo không làm giảm đi, hay quên đi lòng tôn kính, thờ phượng cùa chúng ta đối với Thiên Chúa là Cha chúng ta; nhưng qua Mẹ Maria chúng ta đến với Chúa là Cha chúng ta. Như vậy chúng ta thật hạnh phúc khi chúng ta có niềm tin vững chắc nơi Chúa là Cha yêu thương và Đức Maria là Người Mẹ luôn âu yếm, chở che, nâng đở và chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta. Tốt lành biết bao khi chúng ta được sống trong Gia Đình Giáo Hội vừa có Cha quyền năng và nhân từ, vừa có Mẹ đầy tình yêu thương con cái (Lm Anphong Trần Đức Phương).
* Lạy chúa Giêsu, nhờ lời Mẹ Maria chuyển cầu, ban muôn ơn lành cho mỗi người, mỗi gia đình và thế giới chúng con, cũng như cho Quê Hương và Giáo Hội Việt Nam.
Suy niệm 5: Thánh Lễ
Trong một thời gian, ngài bị dằn vặt bởi sự quá đắn đo cân nhắc, nhưng cho đến khi cử hành Thánh Lễ đầu tiên, sự bình thản đã chiếm ngự toàn thể con người ngài.
Giáo hội tôn trọng và quí mến Thánh Lễ Misa thế nào.
Theo lịch sử Giáo hội, việc tập hợp các giáo dân vào ngày Chúa nhật để dâng lễ thờ phượng Chúa đã có ngay từ thời các Tông đồ, Thánh Phaolô viết trong thư gửi người Do thái đã nhắc: "Anh em đừng bỏ việc hội họp riêng của mình như vài người quen làm, nhưng hãy khuyến khích nhau" (Dt 10,25).
Một tác giả vô danh cổ thời đã ghi lại cho hậu thế lời khuyên tốt lành: "Truyền thống vẫn ghi nhớ một lời căn dặn mà nay vẫn còn hợp thời: "Hãy tới nhà thờ sớm, hãy lại gần Chúa mà thú nhận tội mình, hãy sám hối trong lời cầu nguyện...Hãy tham dự phụng vụ thánh thiện và linh thiêng. Hãy hoàn tất việc cầu nguyện và đừng ra về trước khi được mời ra về. Chúng tôi thường nói: Ngày này được ban cho anh em để cầu nguyện và nghỉ ngơi. Đó là ngày Chúa đã làm ra, chúng ta hãy hân hoan và mừng rỡ" (GlCg92 2178).
Thánh Gioan Kim khẩu dẫn giải rất hay về việc tới nhà thờ ngày Chúa nhật, người cho rằng "ở nhà thờ có cái gì hơn ở nhà mình": Ngày Chúa nhật, mời bạn tới nhà thờ để cầu nguyện, để gặp gỡ cộng đoàn huynh đệ, vì "ở nhà, bạn không thể cầu nguyện như ở nhà thờ, nơi có đông người, nơi mà tiếng kêu được đồng thanh kêu cầu Chúa. Ở nhà thờ có cái gì hơn ở nhà mình, vì có sự hiệp nhất các tâm trí, có sự hòa hợp các tâm hồn, có giây liên kết của đức ái, có lời cầu nguyện của các linh mục". (GlCg92 2179).
Chân Phước Anthony Grassi xác tín: "Niềm khát mong duy nhất của cuộc đời chúng ta phải là cầu nguyện và thờ lạy Thiên Chúa trong Hiến Tế Thánh của Thánh Lễ Misa. Ai sốt sắng hiệp dâng mỗi ngày thì chắc chắn luôn là người bạn tình của Chúa". Do đó khi tuổi tác đem lại nhiều thử thách: Ngài phải chấp nhận sự mất mát các khả năng bên ngoài. Trước hết là khả năng rao giảng, là điều đương nhiên xảy đến khi ngài bị rụng răng. Sau đó, ngài không còn nghe xưng tội được nữa. Sau cùng, sau một lần bị ngã, ngài phải nằm liệt giường. Chính đức tổng giám mục phải đến ban Mình Thánh cho ngài hằng ngày.
Giáo hội trình bày về sự quan trọng và đáng quí của Thánh Lễ Misa như sau: "Việc cử hành Ngày của Chúa và Thánh Thể của Chúa mỗi ngày Chúa nhật là trung tâm điểm của sinh hoạt Giáo hội. Ngày Chúa nhật là ngày mà theo truyền thống từ thời tông đồ truyền lại, mầu nhiệm Chúa Phục sinh vẫn được cử hành, sẽ phải được giữ trong toàn thể Giáo hội như ngày lễ buộc chính yếu" (GlCg92 2177). Việc cử hành Thánh Lễ Chúa nhật vừa nói lên "sự hiệp thông vào sự sống của Chúa, vừa hiệp thông vào cộng đoàn Dân Chúa, vừa hiệp thông với Phụng vụ trên trời" GlCg92 1325-26).
* Lạy chúa Giêsu, xin giúp chúng con trân trọng và siêng năng hiệp dâng Thánh Lễ mỗi ngày, ít là ngày Chúa Nhật và các ngày lễ trong và buộc.
Suy niệm 6: Giải tội
Ngài cũng nổi tiếng là cha giải tội đơn sơ và thẳng thắn, lắng nghe người xưng tội, và chỉ bảo họ sống phù hợp với lương tâm.
Trong buổi tiếp kiến sáng ngày 25.3.2011 dành cho 800 tham dự viên khóa học về Bí tích Giải Tội, Ðức Thánh Cha đặc biệt đề cao giá trị sư phạm của Bí tích này đối với các Cha giải tội cũng như các hối nhân.
Ðức Thánh Cha nói đến những điều mà Cha giải tội có thể học hỏi được khi ban Bí tích Giải Tội: vị Linh mục có thể chứng kiến những phép lạ đích thực về sự hoán cải, cảm nhận và chiêm ngắm lòng từ bi của Thiên Chúa. Việc nhận biết chiều sâu của tâm hồn, kể cả những khía cạnh đen tối, có thể là một thử thách đối với đức tin của chính Linh mục, nhưng đàng khác cũng có thể nuôi dưỡng nơi Linh mục xác tín theo đó lời nói cuối cùng trên sự ác của con người và của lịch sử chính là Lời của Thiên Chúa, chính lòng từ bi của Chúa có thể đổi mới mọi sự. Ngoài ra, Cha giải tội có thể học được nơi các hối nhân gương mẫu về đời sống thiêng liêng của họ, sự xét mình nghiêm túc, sự minh bạch trong việc nhận lỗi và tuân theo các giáo huấn của Giáo Hội, cũng như những chỉ dẫn của Cha giải tội.
Về giá trị sư phạm của Bí tích Giải Tội đối với hối nhân, Ðức Thánh Cha đề cao giá trị của sự xét mình: "Việc làm này giúp hối nhân chân thành xem xét cuộc sống của mình, đối chiếu với chân lý Phúc Âm và đánh giá nó theo các tiêu chuẩn con người, nhưng nhất là theo các tiêu chuẩn của Mạc Khải. Sự đối chiếu cuộc sống với các giới răn, các mối phúc thật và nhất là với giới luật yêu thương, chính là một trường học lớn của Bí tích Giải Tội."
Ðức Thánh Cha nói thêm rằng: "Trong thời đại ồn ào ngày nay, với sự chia trí và cô đơn, cuộc nói chuyện của hối nhân với Cha giải tội cũng có thể là một trong những cơ hội, nếu không muốn nói là cơ hội duy nhất, để được thực sự lắng nghe trong chiều sâu. Các Linh mục thân mến, anh em đừng lơ là trong việc dành thời giờ cho việc ban Bí tích Giải Tội: việc được lắng nghe và được đón nhận, chính là một dấu chỉ về sự đón nhận và về lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với con cái của Ngài. Tiếp đến sự xưng thú trọn vẹn các tội lỗi cũng dạy hối nhân về sự khiêm tốn, nhìn nhận sự mong manh yếu đuối của mình, và đồng thời ý thức về sự cần ơn tha thứ của Thiên Chúa, tín thác rằng Ơn thánh của Chúa có thể biến cải cuộc sống. Ngoài ra việc lắng nghe những lời nhắn nhủ và lời khuyên bảo của Cha giải tội là điều quan trọng giúp hối nhân phán đoán về hành vi của họ, để tiến bước trên đường thiêng liêng và được chữa lành trong nội tâm. Chúng ta đừng quên rằng bao nhiêu cuộc hoán cải và bao nhiêu cuộc sống thánh thiện thực sự đã bắt đầu trong một tòa giải tội!"
* Lạy chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín về giá trị sư phạm cũng như linh thánh của Bí tích này.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 17/12 Thánh Lagiarô
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Lagiarô
Ở Tây Phương, Chúa Nhật Thương Khó trước đây được gọi là "Dominica de Lazaro" (Chúa Nhật Lagiarô), và Thánh Augustine cho chúng ta biết ở Phi Châu, phúc âm về đoạn Lagiarô sống lại được đọc trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá.
Lược sử
Lagiarô, người bạn của Đức Giêsu, là anh em của bà Mácta và Maria, được các người Do Thái thời ấy nói rằng, "Kìa xem ngài quý mến ông là chừng nào." Và trước sự chứng kiến của họ, Đức Giêsu đã cho Lagiarô sống lại sau ba ngày nằm trong mộ.
Sau khi Đức Giêsu chết và sống lại, có nhiều truyền thuyết về cuộc đời Thánh Lagiarô.
Một nhà thờ được xây cất để tôn kính ngài ở Constantinople và một số thánh tích được đưa về từ Cyrus vào năm 890. Và Thánh tích của ngài lại được đưa về một vương cung thánh đường mới ở Autun năm 1146.
Có một điều chắc chắn là trước đây người ta đã sùng kính thánh nhân.
Suy niệm 1: Bạn
Lagiarô, người bạn của Đức Giêsu.
Tình bạn là một trong những cảm tình nhân bản cao sang và cao quí được ân sủng thần linh thanh tẩy và biến đổi. Như Thánh Phanxicô và Clare, các vị thánh khác cũng đã cảm nghiệm được một tình thân hữu sâu xa trên cùng một con đường nên trọn lành, chẳng hạn như Thánh Phanxicô Salêsiô và Thánh Jane Frances de Chantal.
Chính Thánh Phanxicô Salêsiô đã viết: "Thật là dễ thương khi có thể yêu mến trên thế gian này như yêu mến trên thiên đàng, và biết yêu nhau trên trần gian này như chúng ta sẽ yêu nhau trong cõi vĩnh hằng đời sau. Ở đây tôi không nói đến thứ tình yêu bình thường theo đức bác ái, vì chúng ta cần phải có tình yêu này đối với tất cả mọi người; tôi đang nói về thứ tình bạn thiêng liêng, trong đó hai, ba hay hơn nữa có những con người trao đổi với nhau lòng đạo đức, những cảm tình thiêng liêng, và thực sự trở nên một tinh thần" (Introduction to the Devout Life, III, 19).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dùng tình bạn để đến với chúa chứ đừng vì tình bạn mà đánh mất Chúa.
Suy niệm 2: Sống lại-một sự lạ
Đức Giêsu đã cho Lagiarô sống lại sau ba ngày nằm trong mộ.
Đứng trước cái chết, mọi người đều tỏ ra bất lực, vì thế thông thường là chăm lo việc hậu sự. Sự kiện sống lại thật lạ lẫm với xã hội loài người. Không lạ gì cả hội đồng Arêôpagô ở thành Athêna đang chăm chú lắng nghe diễn từ của thánh Phaolô bỗng thay đổi thái độ để nhạo cười cắt ngang và xua đuổi ngài, vì ngài đề cập đến vấn đề Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại (Cv 17,32). Thậm chí nhận định này còn được lý thuyết hóa như một chủ trương của nhóm Xađốc (Mt 22,23).
Ngay các tông đồ mang tâm lý thường tình nên cũng tỏ ra yếu và cứng lòng tin. Trước tin báo của Mađalêna, Phêrô và Gioan cùng chạy ra mộ để xem xét (Ga 20,3). Tôma phủ nhận lời chứng của đồng nghiệp và đòi đích thân được diện kiến (Ga 20,25). Hai môn đệ Emmau bỏ cuộc trở về quê nhà (Lc 24,13), khiến Chúa phải lên tiếng khiển trách chậm tin (Lc 24,25).
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con (Lc 17,5).
Suy niệm 3: Sống lại-một sự thật
Đức Giêsu đã cho Lagiarô sống lại sau ba ngày nằm trong mộ.
Thấu hiểu tầm mức của con người, Chúa đã nhiều lần dọn đường bằng việc tiên báo trực tiếp trước việc Chúa chết nhưng rồi sẽ sống lại, như lần vào địa hạt Xêdarê Philiphê (Mt 16,21), biến hình tại núi Tabo (Mt 17,9). Hoặc Chúa nói cách gián tiếp qua hình ảnh đền thánh Giêrusalem bị phá hủy (Ga 2,19-22), và qua câu chuyện Giôna ở trong bụng cá (Mt 12,40), đến mức chính các đầu mục Do Thái đã dựa vào đó mà xin quan Philatô cho lính canh gác ngôi mộ (Mt 27,62-66). Hơn thế Chúa còn khẳng định chính Ngài là sự sống lại (Ga 11,25).
Chẳng những nói bằng lời, Chúa còn dùng quyền năng thực hiện một số trường hợp cho người chết được sống lại tỏ tường, như cô bé con của ông trưởng hội đường Giaia (Mc 5,35-42). Thậm chí một thanh niên đã chết và đang được khiêng đi chôn cất ở thành Nain (Lc 7,11-15). Nhất là sự việc của Lagiarô vốn đã được chôn bốn ngày và nặng mùi rồi (Ga 11,39).
Tất cả nhằm dẫn đến một sự thật dầu lạ lùng, đó là Đức Kitô đã sống lại thật (Mt 28,6) để làm nền tảng cho đức tin (1Cr 15,17) và để mở đường cho những ai chấp nhận cùng chết với Ngài thì cũng sẽ được cùng sống lại với Ngài (Rm 6,8).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn cùng chết với Chúa để được cùng sống lại với Chúa.
Suy niệm 4: Truyền thuyết
Sau khi Đức Giêsu chết và sống lại, có nhiều truyền thuyết về cuộc đời Thánh Lagiarô.
Người ta nói rằng ngài đã viết lại những gì được thấy ở bên kia thế giới trước khi được Đức Giêsu cho sống lại. Có truyền thuyết cho rằng ngài theo Thánh Phêrô đến Syria. Truyền thuyết khác lại nói rằng mặc dù người Do Thái ở Jaffa đã ép buộc ngài và các chị em của ngài lên một chiếc thuyền bị đâm thủng, nhưng họ đã cập Cyrus một cách an toàn. Ở đây, sau khi làm giám mục trong 30 năm, ngài đã từ trần cách bình an.
Truyền thuyết Tây Phương lại nói rằng có một chiếc thuyền không mái chèo cập bến nước Gaul (nước Pháp bây giờ). Ở đây, ngài làm giám mục của Marseilles, bị tử đạo sau khi đã hoán cải nhiều người, và được chôn cất trong một cái hang. Thánh tích của ngài được đưa về một vương cung thánh đường mới ở Autun năm 1146.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương thánh nhân sống xứng với tình bạn hữu mà Chúa hạ cố ban cho.
Suy niệm 5: Vương cung thánh đường
Thánh tích của ngài lại được đưa về một vương cung thánh đường mới ở Autun năm 1146.
Hầu hết các vương cung thánh đường Công giáo đều là các nhà thờ có kiến trúc to lớn và cổ kính. Mặt bằng các công trình này thường mang hình cây thập giá (tượng trưng cho Chúa Giêsu) tạo thành ba gian chính: gian hành lang, gian giáo dân và gian cung thánh. Bên trong có lưu giữ hài cốt các vị tử đạo, thánh nhân hoặc các tác phẩm nghệ thuật Công giáo có giá trị lớn. Hiện nay, Giáo hội Công giáo chia thành 2 loại vương cung thánh đường là:
- Đại vương cung thánh đường (Major Basilica): danh hiệu dành cho bốn vương cung thánh đường nổi tiếng ở Vatican gồm Vương cung thánh đường Thánh Gioan Latêranô (là một nhà thờ chính tòa), Vương cung thánh đường Thánh Phêrô (là một nhà thờ), Vương cung thánh đường Đức Bà Cả (là một đền thờ) và Vương cung thánh đường Thánh Phaolô Ngoại thành (là một thánh địa).
- Tiểu vương cung thánh đường (Minor Basilica): danh hiệu dành cho bất kỳ ngôi thánh đường hay thánh địa quan trọng nào khác tại Rôma hay khắp nơi trên thế giới, do chính giáo hoàng ban tặng. Khi một nhà thờ đã được nâng lên hàng tiểu vương cung thánh đường thì được Tòa Thánh trao cho hai biểu trưng của giáo hoàng: một là cái chuông (tintinnabulum) dùng để báo tin khi giáo hoàng hay người thay mặt giáo hoàng đến, hai là cái dù bằng lụa có hai màu vàng, đỏ (conopaeum) dùng để che cho giáo hoàng.
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2008, có cả thảy 1565 địa điểm trên toàn thế giới được tôn phong Vương cung Thánh đường. Tại Việt Nam, tới năm 2012 có 4 Vương cung Thánh đường là Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, Nhà thờ La Vang (Quảng Trị), Nhà thờ Phú Nhai (Nam Định) và Nhà thờ Sở Kiện (Hà Nam).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hằng quý trọng đền thờ tâm hồn chúng con là nơi Chúa ưa thích ngự trị (Ep 3,17).
Suy niệm 6: Sùng kính
Có một điều chắc chắn là trước đây người ta đã sùng kính thánh nhân.
Khoảng năm 390, vào thứ Bảy trước Chúa Nhật Lễ Lá, người ta thường rước kiệu ngay tại ngôi mộ mà Lagiarô đã được sống lại từ cõi chết. Ở Tây Phương, Chúa Nhật Thương Khó trước đây được gọi là "Dominica de Lazaro" (Chúa Nhật Lagiarô), và Thánh Augustine cho chúng ta biết ở Phi Châu, phúc âm về đoạn Lagiarô sống lại được đọc trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá.
Ngoài ra một nhà thờ được xây cất để tôn kính ngài ở Constantinople và một số thánh tích được đưa về từ Cyrus vào năm 890. Và Thánh tích của ngài lại được đưa về một vương cung thánh đường mới ở Autun năm 1146.
* Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thể hiện lòng sùng kính thánh nhân bằng việc chấp nhận chết vì Chúa (Ga 12,10).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 16/12 Chân Phước Philip Siphong và Các Bạn (c. 1940)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Philip Siphong và Các Bạn (c. 1940)
Lược sử
Trong nhiều thế kỷ, các nhà truyền giáo ở Xiêm (bây giờ là Thái Lan) không những được nhân nhượng nhưng còn được tiếp đón niềm nở bởi quốc gia đa số theo Phật Giáo. Các quốc gia khác ở vùng Viễn Đông không được như vậy, và nhiều nhà truyền giáo đã chịu tử đạo.
Tuy nhiên, tại Songkhon, lần lượt, giáo lý viên Philip Siphong, hai sơ Agnes Phila và Lucia Khambang, ba học sinh và người phụ bếp đều bị tử đạo.
Sau đó, bảy vị tử đạo được chôn chung với ông Philip Siphong. Tất cả được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước vào ngày Chúa Nhật Truyền Giáo, 22 tháng Mười 1989.
Suy niệm 1: Truyền giáo-lệnh truyền
Nhiều nhà truyền giáo đã chịu tử đạo.
Chúa phán: 'Các con hãy đi khắp thế và rao giảng Phúc Âm cho mọi thụ tạo". Mỗi tín hữu cần cảm nghiệm được sự thúc bách phải chu toàn giới lệnh của Chúa Kitô bằng một thái độ can đảm và mạnh dạn trong những hoàn cảnh bình thường của cuộc sống.
Đức Gioan Phaolô II nhắc nhở: Chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta được mời gọi hãy mạnh dạn làm việc tông đồ, với một niềm tin tưởng vững chắc vào Chúa Thánh Thần. Khi nhìn chung quanh, chúng ta nhận thấy nhiều người vẫn chưa biết Chúa Kitô. Nhiều người đã được rửa tội nhưng sống như thể Chúa Kitô vẫn chưa cứu chuộc họ, như thể Người không hiện diện giữa chúng ta. Nhiều người sống qua ngày đoạn tháng như những người đã khiến Chúa Giêsu phải cảm thương vì vất vưởng bơ vơ như những con chiên không có người chăn. Họ bôn ba một đời mà không có mục tiêu rõ rệt. Họ lệch hướng và phung phí thời giờ quí báu, vì không có một chút ý thức về phương hướng. Như Chúa Giêsu, chúng ta cũng hãy cảm thương những con người ấy. Mặc dù đôi khi – nói theo ngôn ngữ loài người – họ có vẻ vui tươi và thành công, nhưng thực chất họ đã thất bại trong điều thiết yếu nhất, bởi vì họ không sống, và cũng không ý thức, họ là con cái của Thiên Chúa đang trên con đường về miền vĩnh cửu là nhà Cha của họ. Chúng ta không thể để cho phần rỗi của bất kỳ một ai lây lất trong nguy hiểm chỉ vì chúng ta thiếu nhiệt tâm tông đồ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tràn đây nhiệt tâm tông đồ.
Suy niệm 2: Truyền giáo-Thêm các tông đồ mới cho Chúa Kitô.
Nhiều nhà truyền giáo đã chịu tử đạo.
Chúng ta được mời gọi hãy chia sẻ đức tin và nhiệt tâm cứu các linh hồn với những người khác. Và đến lượt các linh hồn này cũng sẽ trở nên sứ giả Tin Mừng của Chúa Kitô. Trong những chi tiết muôn mặt của cuộc sống hằng ngày, chúng ta cần làm vọng lên những lời của Đức Gioan Phaolô II đã nói khi viếng thăm miền Xavier, sinh quán của vị thánh được tôn vinh là bổn mạng các xứ truyền giáo là thánh Phanxicô Xavie:
Chúa Kitô cần các bạn và mời gọi các bạn hãy trợ giúp rất nhiều anh chị em của các bạn, để họ cũng được cứu độ và sống trọn nhân phẩm của họ. Các bạn hãy sống theo những lý tưởng chính trực và cao cả. Đừng đầu hàng những cám dỗ của chủ nghĩa hưởng thụ, nạn căm thù, bạo lực, hạ thấp nhân phẩm. Các bạn hãy mở rộng tâm hồn cho Chúa Kitô, cho lề luật và tình yêu của Người. Đừng đặt những giới hạn về khả năng sẵn sàng của các bạn, đừng sợ phải đưa ra một cam kết bền vững, tình yêu và tình thân hữu không có bất kỳ giới hạn nào, bởi vì chúng bền vững. Nếu chúng ta không biết cách thuyết phục người thân và bạn hữu chúng ta dấn thân vào công việc đầy hân hoan của Chúa, chúng ta hãy nhớ lại cách thức thánh Ignatius đã thuyết phục sinh viên trẻ tuổi Xavier dấn thân cho công cuộc của Thiên Chúa: Những lý do ư?... Những lý do gì Ignatius nghèo khó đã đưa ra cho Xavier khôn ngoan? Chắc chắn phải có những nguyên nhân đã gây nên một biến đổi triệt để nơi tâm hồn người bạn của ngài. Lời cầu nguyện đem đến sự hoán cải. Tất cả chúng ta đều được mời gọi hãy dấn thân, hãy luôn tin cậy vào ơn Chúa, vào sự phù trợ của Đức Trinh Nữ và các thiên thần bản mệnh trong công việc truyền bá đức tin.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hăm hở nối tiếp sứ vụ truyền giáo của các vị tiền bối.
Suy niệm 3: Truyền giáo-cầu nguyện và hy sinh
Nhiều nhà truyền giáo đã chịu tử đạo.
Như nhiều vị thánh, thánh Phanxicô Xavier cũng luôn xin người khác giúp đỡ bằng lời cầu nguyện, bởi vì hiệu quả việc tông đồ luôn luôn đặt nền tảng trên lời cầu nguyện và hy sinh. Những khi hoàn cảnh không cho phép thực hiện các công việc tông đồ trực tiếp, chúng ta hãy nhớ rằng, lời cầu nguyện, các công việc được chu toàn tử tế, và những đau khổ luôn đem lại những hiệu quả trong lãnh vực này.
Như thánh Phanxicô, thánh nữ Têrêxa Hài Đồng cũng đã sống một cuộc đời tông đồ để cầu nguyện cho các miền truyền giáo, mặc dù thánh nữ không bao giờ ra khỏi đan viện. Sự quan tâm đến phần rỗi các linh hồn, kể cả những người xa rời đức tin, lúc nào cũng rất bức xúc. Thánh nữ cảm thấy những lời của Chúa Kitô trên thập giá – Ta khát – luôn vọng lên trong tâm hồn. Nội tâm thánh nữ bừng cháy bằng lời cầu nguyện, bằng khát vọng muốn đem ơn thánh cho các linh hồn tại những miền đất xa xăm. Thánh nữ viết: Lạy Chúa, con ước ao đi dọc ngang khắp thế giới, để rao giảng thánh danh Chúa và cắm cờ hy vọng vào thánh giá vinh quang Chúa trong lãnh thổ dân ngoại. Rồi nữa, một miền truyền giáo mà thôi không đủ cho con. Con muốn cùng một lúc được truyền bá Phúc Âm của Chúa khắp thế giới, kể cả những hải đảo heo hút nhất. Con muốn trở thành một nhà thừa sai, không phải chỉ trong một vài năm, nhưng từ khi trời đất được tạo thành cho đến ngày tận thế. Vào cuối đời, khi lâm bệnh nặng, thánh nữ vẫn cố gắng lê bước, một nữ tu nhận ra thánh nữ quá mệt nhọc nên đề nghị ngài hãy nghỉ ngơi. Thánh nữ Têrêxa đã trả lời: Chị biết điều gì đem lại sức mạnh cho em không? Em đang lê bước để mưu ích cho một nhà thừa sai. Em tin rằng có một nhà thừa sai nào đó ở xa xăm lúc này đang chực quị ngã vì những công cuộc tông đồ của ngài. Để giảm bớt nỗi nhọc mệt của ngài, em xin dâng sự mệt nhọc của em lên Chúa. Những ý hướng trong lời cầu nguyện và hy sinh của Bông Hoa Nhỏ chắc chắn đã đem lại hiệu quả đến cho những miền tận cùng thế giới.
Lòng nhiệt thành của chúng ta với các linh hồn lúc nào cũng phải sống động. Bệnh tật, tuổi già hoặc hoàn cảnh cô lẻ cũng không miễn chước cho chúng ta. Nhờ mầu nhiệm Hiệp Thông Các Thánh, chúng ta có thể đem lại sức mạnh cho các linh hồn khắp thế giới. Hiệu năng này tùy thuộc phần lớn vào mức độ tình yêu Chúa của chúng ta. Tóm lại, trọn cuộc đời chúng ta, cho đến hơi thở cuối cùng, có thể trở nên một phương thế thúc đẩy các linh hồn tiến về cuộc sống muôn đời. Đây chính là trường hợp về cuộc đời thánh Phanxicô Xavier. Thánh nhân đã qua đời tại một hải đảo ngoài khơi Trung Quốc, trong khi dâng hiến mọi giây phút đớn đau để nài xin Chúa chiếu giãi Tin Mừng của Người cho những miền đất xa xăm. Không một lời cầu nguyện, một hy sinh nào chúng ta dâng lên Thiên Chúa sẽ bị mất đi vô ích. Nhờ lòng nhân lành Chúa, mọi hành vi của chúng ta đều đem lại hoa trái thiêng liêng, một cách mầu nhiệm, nhưng đích thực. Một ngày kia trên thiên đàng, chúng ta mới nhìn thấy kết quả những nỗ lực của chúng ta.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống đời cầu nguyện và hy sinh như một đóng góp cho công cuộc truyền giáo.
Suy niệm 4: Tử đạo-nguyên nhân xa
Nhiều nhà truyền giáo đã chịu tử đạo.
Vào giữa thập niên 1930, sự ổn định chính trị từ xưa ở Xiêm bắt đầu mất dần. Ảnh hưởng Âu Châu đang trên đà suy thoái, và sự đe dọa xâm lăng của người Nhật đã đưa đẩy nước Xiêm đến một thái độ thiếu thân thiện đối với các thế lực Tây Phương. Vài vụ bạo động đã xảy ra cho người ngoại quốc, kể cả các Kitô Hữu. Nhiều nhà truyền giáo bị tù đầy. Tài sản của Giáo Hội bị tịch thu. Những người Thái Lan tòng giáo bị ép buộc phải công khai bỏ đạo.
Vào năm 1940, áp lực lại càng mạnh mẽ hơn khi Thế Chiến II càn quét Âu Châu và người Nhật xâm lăng dần vào Đông Dương (bây giờ là Việt Nam).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp mọi người sống sự phân định rõ rệt giữa hai lãnh vực chính trị và tôn giáo (Mt 22,21).
Suy niệm 5: Tử đạo-nguyên nhân gần
Nhiều nhà truyền giáo đã chịu tử đạo.
Ở Songkhon, gần biên giới Đông Dương, một tiểu đội cảnh sát võ trang bao vây một ngôi làng và ra lệnh cho mọi Kitô Hữu trong làng phải chối bỏ đức tin. Một nhà truyền giáo bị đuổi ra khỏi làng. Ông Philip Siphong Ouphitah là giáo lý viên cư ngụ gần đó đã lên tiếng phản đối sự ngược đãi này. Ông được bảo rằng phải lên trung tâm cảnh sát để làm đơn khiếu nại, trên đường đi ông đã bị mai phục vào ngày 16 tháng Mười Hai. Sau này, được biết ông đã bị tra tấn trước khi bị bắn chết.
Trong khi đó, các sơ Agnes Phila và Lucia Khambang tiếp tục giảng dạy trong trung tâm truyền giáo. Hai sơ nói với các em rằng ông Philip là vị tử đạo, điều này khiến các viên chức địa phương đã ra lệnh ngăn cấm hai sơ không được dạy giáo lý và phải mặc y phục bình thường của người Thái. Hai sơ đã làm đơn phản đối; cùng ký tên trong tờ đơn có chữ ký của bốn học sinh và người phụ bếp. Vào ngày 26 tháng Mười Hai, tất cả bị điệu ra nghĩa trang là nơi họ bị bắn chết trong khi đang quỳ gối cầu nguyện.
* Lạy Chúa Giêsu, xin đưa công lý đến toàn thắng (Mt 12,20).
Suy niệm 6: Tử đạo-Các Vị Tử Đạo Mới Của Thời Đại
Nhiều nhà truyền giáo đã chịu tử đạo.
Mỗi lần nói đến các thánh tử đạo, là chúng ta nghĩ ngay đến cảnh đầu rơi, máu đổ, gông cùm, gươm giáo... Thế nhưng, ở thời đại hiện tại, những cảnh hành trình tàn bạo, cổ điển ngày xưa và sự bắt đạo của các chính quyền hầu như không thể tái diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Đàng khác, các án tử hình cũng dần dần được loại bỏ trong các bộ luật hình sự trên thế giới.
Ngày nay, khái niệm về tử đạo được hiểu rộng rãi hơn. Vì tử đạo là người dám chết cho công lý, cho hòa bình, chết cho con người, nhất là những người nghèo khổ hay bị áp bức, nói chung là chết vì chính Đạo, chết vì muốn sống theo con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu, sống cho chân lý Phúc Âm. Trường hợp của cha Maximilianô Kolbê, ngài đã tự nguyện chết thay cho một người tù khác có gia đình, trong trại tập trung của Đức Quốc xã. Vào năm 1971, Đức Phaolô VI không coi Cha là vị tử đạo, chỉ coi Cha là một người chịu đau khổ vì đức tin thôi (Confessor). Nhưng khi phong thánh cho cha vào năm 1982, Đức Gioan Phaolô II đã coi cha là một vị tử đạo. Trong bài giảng phong thánh cho Cha Kolbê, Đức Thánh Cha nói: "Cái chết được cha hồn nhiên đón nhận vì yêu người đồng loại, cái chết ấy lại không làm cho cha Kolbê đặc biệt giống Đức Kitô sao, Đức Kitô là mẫu mực của mọi vị tử đạo, là Đấng hiến mạng sống mình cho anh em?"
Trong Tông Thư "Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba" (TMA), Đức Thánh Cha kêu gọi các Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì "trong thế kỷ này lại có những người tử đạo, thường là âm thầm, họ như thể là "những chiến sĩ vô danh" vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thày về đức tin, những nhà truyền giáo, những người tuyên xưng đức tin, những Giám mục, Linh mục, các trinh nữ, những người kết hôn, góa bụa và trẻ em" (TMA. 37).
Các Thánh Tử đạo là những người sống, làm chứng, loan truyền mầu nhiệm Thánh giá. Mỗi Kitô hữu, dầu không phải trải qua cái chết tử đạo thì đời sống vì đạo, sống vì Chúa, cho Chúa, cũng vẫn có thể loan truyền mầu nhiệm Thập giá cho thế giới. Sống như một chứng nhân là điều kiện thiết yếu để có thể chết như một chứng nhân (Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ').
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chẳng sợ mình bỏ đạo, chỉ sợ mình bỏ sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú vui trần thế.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 15/12 Chân Phước Mary Frances Schervier (1819 - 1876)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Mary Frances Schervier (1819 - 1876)
"Chúng ta sẽ cảm nghiệm được chân lý của lời cha Thánh Phanxicô, người đã nói rằng tình yêu làm vơi bớt mọi khó khăn và làm dịu ngọt mọi cay đắng." (Mẹ Frances)
Lược sử
Người phụ nữ này từng ao ước trở nên một nữ tu dòng Trappist, nhưng Thiên Chúa đã dẫn dắt ngài đến việc thành lập một tu hội cho các nữ tu chuyên lo việc chăm sóc bệnh nhân và người già ở Hoa Kỳ và khắp nơi trên thế giới.
Sinh trưởng trong một gia đình có thế giá ở Aix-la-Chapelle, nước Pháp, sau khi người mẹ từ trần cô Frances coi sóc gia đình, và nổi tiếng là người độ lượng với người nghèo. Vào năm 1844, cô gia nhập dòng Ba Phanxicô. Đến năm kế tiếp, cùng với bốn người cộng sự, cô thành lập một tu hội chuyên chăm sóc người nghèo. Năm 1851, tu hội Nữ Tu Nghèo Hèn của Thánh Phanxicô được đức giám mục địa phương chấp thuận thành lập; không bao lâu tu hội phát triển mau chóng. Tại Hoa Kỳ, tu hội được thành lập đầu tiên vào năm 1858.
Vào năm 1863, Mẹ Frances sang Hoa Kỳ để giúp các nữ tu chăm sóc các thương binh của cuộc Nội Chiến. Năm 1868, ngài lại sang Hoa Kỳ một lần nữa. Khi thầy Philip Hoever thiết lập tu hội Anh Em Nghèo Hèn của Thánh Phanxicô, thì đó là nhờ Mẹ Frances khuyến khích.
Khi Mẹ Frances từ trần, lúc ấy đã có khoảng 2.500 thành viên của tu hội trên khắp thế giới. Con số ngày càng gia tăng. Họ vẫn còn hoạt động trong các bệnh viện và trung tâm dưỡng lão ngày nay. Mẹ Frances được phong chân phước năm 1974.
Suy niệm 1: Ao ước
Frances từng ao ước trở nên một nữ tu dòng Trappist.
Niềm ao ước trở nên một nữ tu dòng của ngài đã bị sớm ngưng trệ ở lứa tuổi 13, do cái chết đột ngột của thân mẫu cũng như của hai người chị do bệnh lao vào năm 1832. Ngài buộc phải ở nhà để chăm sóc gia đình. Nhưng ngài không khuất phục số phận mà tiếp tục sống ơn gọi tu trì bằng việc chuyển hướng sang việc phục vụ cho các bệnh nhân và những người nghèo khổ. Lòng quảng đại và vị tha của ngài thật vô bờ như một nhận xét: hằng ngày cô bé mang mọi thứ trong nhà ra giúp người có nhu cầu.
Sau đó ngài gia nhập vào một tổ chức của giới nữ mang tên "Saint John's Kitchen" (Nhà bếp của Thánh Gioan) do cha xứ Istas thành lập nhằm chăm lo cho người nghèo. Để hỗ trợ công việc từ thiện bằng đời sống thiêng liêng như niềm ao ước về một nếp sống tu trì hằng âm ỉ trong lòng, vào năm 1844, ngài gia nhập dòng Ba Phanxicô. Từng bước từng bước một, Chúa quan phòng đang dẫn dắt ngài đi theo niềm khao khát chính đáng của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vững tin vào tình thương Chúa quan phòng để an tâm tiến bước theo Người.
Suy niệm 2: Thành lập
Frances thành lập một tu hội chuyên chăm sóc người nghèo.
Vào năm 1845, thân phụ ngài qua đời. Một người bạn đến thăm và ngỏ lời: Chúa muốn bạn rời bỏ gia đình mà sống cộng đoàn để cứu vớt các linh hồn cho Chúa và cứu giúp các bệnh nhân. Được ơn Chúa đánh động, cùng với 4 thành viên là Catherine Daverkosen, Gertrude Frank, Joanna Bruchhans, and Catherine Lassen của dòng Ba Phanxicô, ngài được phép của cha phụ trách đến chung sống trong một căn nhà nhỏ, và ngài được chọn làm bề trên của cộng đoàn. Sinh hoạt mang tính tu trì như các nữ tu với các giờ phụng vụ, các bổn phận đối nội cũng như đối ngoại theo linh đạo phục vụ các bệnh nhân nghèo, thậm chí cả các gái điếm bị bệnh giang mai. Vào năm 1848, số thành viên đạt được con số 23.
Vào ngày 2.7.1851, cộng đoàn được đức giám mục địa phương chấp thuận thành lập, và ngày 12.8.1851, họ được mặc áo dòng và nhận được danh xưng tu hội Nữ Tu Nghèo Hèn của Thánh Phanxicô. Như thế một tu hội được ngài thành lập tại quê hương Đức Quốc của ngài. Ngoài ra vào năm 1858, một chi nhánh khác cũng được ngài thành lập tại Hoa kỳ, không kể vói sự hỗ trợ và động viên của ngài, Philip Hoever đã thành lập một tu hội Nam Tu Nghèo hèn của Thánh Phanxicô vào năm 1857 dành cho nam giới và nhằm phục vụ các trẻ mồ côi nam cũng như giáo dục giới trẻ thuộc tầng lớp ngèo khổ.
Người đau yếu, nghèo khổ và già nua thường bị nguy hiểm vì bị coi là thành phần "vô dụng" của xã hội, do đó họ bị quên lãng. Chúng ta cần noi gương Mẹ Frances nếu chúng ta tôn trọng phẩm giá và định mệnh của con người mà Thiên Chúa đã ban cho.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thể hiện tinh thần giáo Hội của người nghèo.
Suy niệm 3: Phát triển
Không bao lâu tu hội phát triển mau chóng.
Vào năm 1848, bệnh dịch tả kết hợp với bệnh đậu mùa bùng phát ở Aachen, một bệnh xá của thành phố được thiết lập và các nữ tu được mời đến sống và phục vụ như các y tá. Vào năm 1849, nhiều thành viên được tiếp nhận và đồng thời cũng được mời phụ trách một bệnh xá dành cho các bệnh nhân dịch tả ở Burtscheid. Vào năm 1850, họ xây một bệnh viện ở Dominican và đảm trách một bệnh viện ở Juelich. Vào năm 1851, một công trình được hoàn thành ở Bonn cũng như ở Aachen nhằm chăm sóc các tù nhân nữ. Vào năm 1852, hai nhà được dưng nên ở Cologne và một bệnh viện được mở ở Burtscheid. Tiếp đến nhiều công trình dần dần được thiết lập ở Ratingen, Mayence, Coblenz (854); Kaiserswerth, Crefeld, Euskirchen (1855); Eschweiler (1858); tolberg and Erfurt (1863)... Tính chung vào năm 1911, con số công trình lên đến 49 tại khắp Âu Châu.
Năm 1868, Mẹ Frances viết cho các nữ tu, nhắc nhở họ về lời của Ðức Kitô: "Các con là bạn hữu của Thầy nếu các con thi hành những gì Thầy truyền cho các con... Thầy ban các giới răn này là để các con yêu thương nhau" (Ga 15,14.17). Mẹ Frances viết tiếp: "Nếu chúng ta trung thành và hăng say thi hành điều này, chúng ta sẽ cảm nghiệm được chân lý của lời cha Thánh Phanxicô, là người đã nói rằng tình yêu làm vơi bớt mọi khó khăn và làm dịu ngọt mọi cay đắng. Cũng thế, chúng ta sẽ được hưởng những ơn lành mà Thánh Phanxicô đã hứa ban cho con cái của người, trong hiện tại cũng như tương lai, sau khi nhắc nhở họ hãy yêu thương nhau như người đã và đang yêu thương họ."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nỗ lực tiếp nối các công trình từ thiện ấy để xoa dịu phần nào nỗi khổ đau của bao người.
Suy niệm 4: Hoa Kỳ
Tại Hoa Kỳ, tu hội được thành lập đầu tiên vào năm 1858.
Năm 1858 đánh dấu một thời điểm quan trọng trong việc phát triển của tu hội, và được mệnh danh là tu hội được gieo trồng tại Hoa Kỳ. Bà Sarah Peter, một tân tòng ở Cincinnati, nhận trách nhiệm của Đức Tổng Giám Mục mời các nữ tu người Đức đến giúp số người Đức túng thiếu cũng như các nữ tu Ai-len cho người nghèo Ai-len.
Mẹ Frances nhận lời và quyết định lập một nhà ở Cincinnati. Vào ngày 24.8.1858, Mẹ chọn 6 nữ tu và gởi đến Hoa Kỳ. Đến nơi, họ chú tâm chăm sóc các bệnh nhân. Vào tháng ba năm sau, cùng với 3 nữ tu từ âu Châu đến hiệp lực, họ khởi công xây một bệnh viện. Nhiều nữ tu từ nhà mẹ được gởi đến và vào năm 1860, họ thiết lập một nhà nhánh ở Covington, Ky.
Vào mùa xuân 1861, bà Peter dâng cúng nhà bà cho các nữ tu dùng làm nhà tập, từ đó tu hội phát triển nhanh chóng tại Tân Thế Giới. Nhiều bệnh viện lần lượt được hoàn thành trong các thành phố của Hoa Kỳ: Cincinnati (1858); Covington, Ky. (1860); Columbus, O. (1862); Hoboken, N. J. (1863); Jersey City, N. J. (1864); Brooklyn, N. Y. (1864); 5th St., N. Y. City (1865); Quincy, Ill. (1866); Newark, N. J. (1867); Dayton, O. (1878); N. Y. City (1882); Kansas City, Kan. (1887); Fairmount, Cin., 0. (1888); Columbus, O. (1891); 142nd St., N. Y. City(1906). Vào năm 1896 nhà tập được chuyển đến Hartwell, O., nơi mà tu hội có được một tu viện rộng lớn với nhà nguyện, đất đai và cũng là trung tâm sinh hoạt của lãnh thổ Hoa Kỳ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp cho các tu hội có được nhiều mạnh thường quân hỗ trợ công việc từ thiện của họ.
Suy niệm 5: Di sản
Khi Mẹ Frances từ trần, lúc ấy đã có khoảng 2.500 thành viên của tu hội trên khắp thế giới. Con số ngày càng gia tăng. Họ vẫn còn hoạt động trong các bệnh viện và trung tâm dưỡng lão ngày nay.
Khi Mẹ frances qua đời, tu hội có được 2.500 thành viên ở khắp nơi. Số lượng càng gia tăng cho đến năm 1970, khi đạt đến đỉnh cao thì, như nhiều tu hội khác, một bóng đen của sự sa sút dần dần bao phủ.
Thật ra, một biểu hiện đã hé mở từ năm 1959. Tu hội nhánh ở Hoa Kỳ xin tách ra khỏi nhà mẹ ở Đức để trở thành một tu hội độc lập với danh xưng Các Nữ Tu Phanxicô của Người Nghèo. Họ có 4 cộng đoàn lớn ở Brooklyn, New York. Họ vẫn tiếp tục dấn thân phục vụ bệnh viện và nhà dưỡng lão ở Walden, New York, nhưng đã chuyển giao quyền sở hữu về thể chế cho các tổ chức khác. Tuy nhiên Ngôi Nhà và Bệnh Viện được các nữ tu nguyên thủy xây dựng thì vẫn còn duy trì danh tánh của Mẹ Frances. Hiện nay tu hội này đi theo đường hướng chăm sóc sức khoẻ, mục vụ và công tác xã hội.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hết mình chu toàn bổn phận và phạm vi vủa chính mình, còn tương lai thì hãy dành cho Chúa (1Cr 3,5-9).
Suy niệm 6: Phong chân phước
Mẹ Frances được phong chân phước năm 1974.
Mẹ Frances Schervier qua đời tại Aachen, Đức vào ngày 14.12.1876. Tiến trình phong thánh được khởi sự (1934). Đức Phaolô VI công bố Mẹ là Đấng Đáng Kính (30.1.1969). Phép lạ chữa lành bệnh cho ông Ludwig Braun nhờ lời cầu bàu của Mẹ được xác nhận (18.10.1973) nên được Đức Phaolô VI phong lên Bậc Chân Phước tại Rô Ma (28.4.1974).
Một phép lạ chữa lành bệnh xuất huyết của ông Thomas Siemers được nêu lên. Ba bác sĩ nghiên cứu và một trong ba phát biểu đó là một sự can thiệp thần linh (3.1989). Án phong Hiển Thánh được Bề Trên tu hội Các Nữ Tu Phanxicô của Người Nghèo là Nữ Tu Tiziana Merletti, S.F.P. và Mẹ Tổng Quyền của tu hội Nữ Tu Nghèo Hèn của Thánh Phanxicô là Nữ Tu Katharina Maria Finken, S.P.S.F. trình lên Rô Ma để xin tiếp tục (16.7.2008). Cấp Giáo Phận ở Cincinnati, Ohio được lệnh tiến hành việc điều tra trường hợp của ông Thomas Siemers (17.4.2009) và xác nhận đúng (14.12.2009). Các tài liệu có giá trị pháp lý này của Giáo phận được xem xét tại Rô Ma (17.3.2010) và chưa có kết luận.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con học lấy tính cách nghiêm túc và thận trọng của Giáo Hội trong cách làm việc.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 14/12 Thánh Gioan Thánh Giá (1541 - 1591)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gioan Thánh Giá (1541 - 1591)
Câu nói bất hủ của Ðức Kitô: "Ai muốn theo ta hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo ta" là câu chuyện cuộc đời Thánh Gioan.
Lược sử
Sinh ở Tây Ban Nha năm 1542, Gioan hiểu được sự quan trọng của tình yêu tự hiến là nhờ cha mẹ.
Là một tu sĩ dòng Camêlô, ngài cảm nghiệm sự thanh luyện tâm linh; là vị linh hướng, ngài cảm được cuộc chiến đấu tinh thần nơi người khác; là một thần học-tâm lý gia, ngài diễn tả và phân tích giá trị của sự đau khổ trong các văn bản của ngài. Là một thần học-tâm lý gia, ngài còn được coi là một thi sĩ trữ tình. Hầu hết các văn bản của ngài đều nhấn mạnh đến cái giá phải trả của tinh thần kỷ luật, con đường hiệp nhất với Thiên Chúa là: sống kỷ luật, từ bỏ mình, thanh luyện. Ngài từ trần năm 49 tuổi -- cuộc đời thật ngắn ngủi, nhưng trọn vẹn.
Suy niệm 1: Gioan Thánh Giá
Gioan hiểu được sự quan trọng của tình yêu tự hiến là nhờ cha mẹ.
Khi khai sinh ngôi nhà đầu tiên cho các Nam tu sĩ Cát Minh Nhặt phép ngày 28 tháng 12 năm 1568, tại Duruelo một nơi hẻo lánh trong tỉnh Avila, Gioan cùng 3 tu sĩ khác sống trong tu viện này. Khi canh tân lời khấn sống theo Luật đầu tiên dòng Cát Minh, bốn tu sĩ đổi tên; Gioan lấy tên là Gioan Thánh Giá.
Gioan là thánh vì cuộc đời ngài là một nỗ lực quả cảm dám sống trọn vẹn với tên của ngài: "Gioan của Thánh Giá". Sự điên rồ của thập giá cuối cùng đã được thể hiện. Câu nói bất hủ của Ðức Kitô: "Ai muốn theo ta hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo ta" (Mc 8,34b) là câu chuyện cuộc đời Thánh Gioan. Mầu Nhiệm Vượt Qua -- từ sự chết đến sự sống -- đã được thể hiện trong cuộc đời Thánh Gioan như một người cải cách, một nhà thơ thần bí và là một linh mục thần học.
Sinh ở Tây Ban Nha năm 1542, Gioan hiểu được sự quan trọng của tình yêu tự hiến là nhờ cha mẹ. Cha ngài đã hy sinh của cải, danh vọng và sự an nhàn khi kết hôn với cô con gái của người thợ dệt và vì lý do đó đã bị gia đình từ bỏ. Sau khi cha ngài từ trần, mẹ ngài cố gắng đùm bọc gia đình trong khi họ lang thang đầu đường xó chợ để kiếm việc làm. Những tấm gương hy sinh ấy đã giúp Gioan theo đuổi tình yêu vĩ đại của chính ngài dành cho Thiên Chúa. Dù gia đình đã tìm được việc làm, nhưng vẫn không đủ ăn nên Gioan phải lang thang giữa thành phố giầu có nhất Tây Ban Nha. Năm mười bốn tuổi, Gioan được nhận vào làm việc trong bệnh viện với nhiệm vụ trông coi các bệnh nhân bị chứng bệnh bất trị hoặc bị điên dại. Chính trong sự đau khổ và nghèo nàn này, Gioan đã nhận biết và đã đi tìm hạnh phúc không ở nơi trần gian, nhưng ở nơi Thiên Chúa. Vì niềm vui chỉ xuất phát từ Thiên Chúa nên Thánh Gioan tin rằng những ai tìm kiếm hạnh phúc ở trần gian này thì giống như "một người đang chết đói mà há miệng đớp lấy không khí." Ngài dạy rằng chỉ khi nào chúng ta dám cắt bỏ sợi dây dục vọng thì chúng ta mới có thể bay lên cùng Thiên Chúa.
Tuổi thơ đầy gian khổ và tuổi trưởng thành cũng lắm thánh giá. Thật thế, việc chấp nhận cuộc cải cách đã gây ra nhiều đau khổ cho cha Gioan Thánh Giá. Năm 1577 cha bị cáo gian, bị bắt cóc và bị giam tù trong tu viện Cát Minh Toledo. Tại đây, cha được đặt dưới một chế độ tàn bạo bao gồm bị đánh bằng roi trước mặt toàn thể tu viện ít nhất hàng tuần, và bị tra tấn ba lần một tuần bởi chính các tu sĩ dòng, bị biệt giam trong một căn buồng nhỏ xíu ngột ngạt vừa đủ cho thân xác của cha. Trong nhiều tháng trời cha chịu thiếu thốn và bị áp lực thể lý cũng như luân lý. Trong thời gian này cha sáng tác Thánh Thi Tinh Thần và nhiều bài thơ khác. Đêm 16 rạng ngày 17 năm 1578, sau chín tháng tù đầy, Cha Gioan vượt ngục bằng lối cửa sổ duy nhất của xà lim mà cha đã leo lên đó bằng sợi dây được kết bằng tấm vải trải giường, và đem theo tất cả các bài thơ huyền nhiệm mà cha sáng tác trong thời gian tù đầy. Cha trốn thoát được và ẩn nấp trong tu viện của các nữ tu Cát Minh Nhặt phép của thành phố.
Một cách độc đáo và mạnh mẽ, Thánh Gioan nhấn mạnh đến sự mâu thuẫn của Phúc Âm: Thập giá dẫn đến sự cứu chuộc, đau khổ dẫn đến sự ngất ngây, tăm tối dẫn đến sự sáng, khi từ bỏ là lúc làm sở hữu, hy sinh bản thân để kết hợp với Thiên Chúa. Nếu bạn muốn giữ mạng sống mình thì bạn sẽ mất. Thánh Gioan quả thật là người "của Thánh Giá."
Qua cuộc đời và văn bản, Thánh Gioan đã để lại cho chúng ta những lời quan trọng. Chúng ta muốn giầu có, an nhàn, thoải mái. Chúng ta không muốn nghe những chữ như hy sinh, hãm mình, thanh luyện, khắc khổ, kỷ luật. Chúng ta chạy trốn thập giá. Thông điệp của Thánh Gioan -- cũng như trong Phúc Âm -- thì thật rõ ràng: Ðừng chạy trốn -- nếu bạn thực sự muốn có sự sống!
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cùng vác thánh giá đến tận đỉnh đồi Can vê để được cùng phục sinh vinh quang với Chúa.
Suy niệm 2: Tu sĩ
Là một tu sĩ dòng Camêlô, Thánh Gioan Thánh Giá cảm nghiệm sự thanh luyện tâm linh.
Gioan Thánh Giá sinh năm 1542 trong ngôi làng nhỏ Fontiveros gần thành phố Avila, tại Vecchia Castiglia, là con ông Gonzalo de Yepes và bà Catalina Alvarez, một gia đình gốc Do Thái theo đạo Công giáo với lý do tránh né việc bắt bớ. Gia đình rất nghèo, vì thân phụ tuy là gốc thượng lưu, nhưng bị đuổi khỏi nhà và bị truất hữu hết tài sản vì đã lập gia đình với Catalina, là một thiếu nữ khiêm tốn làm nghề dệt tơ lụa. Mồ côi cha khi lên 9 tuổi, Gioan cùng mẹ và em trai là Franxicô di cư về Medina del Campo vào năm 1551, gần thành phố thương mại và văn hóa Valladolid. Tại đây Gioan theo học trường los Doctrinos và làm vài việc lặt vặt khiêm tốn cho các nữ tu của nhà thờ tu viện thánh nữ Madalena. Sau đó vì các đức tính nhân bản và kết quả việc học hành, Gioan được thu nhận như là y tá trong nhà thương Concezione, rồi năm 18 tuổi gia nhập trường các cha dòng Tên, mới được thành lập tại Medina del Campo, và theo học các khoa nhân văn 3 năm gồm hùng biện và ngôn ngữ cổ điển. Sau thời gian đào tạo, Gioan nhận ra ơn gọi tu trì của mình và chọn dòng Camelô.
Năm 1563 thầy Gioan bắt đầu vào tập viện dòng Cát Minh và lấy tên dòng là Matthia. Năm sau đó thầy được gửi học 3 năm triết và nghệ thuật tại đại học Salamanca. Thời gian tại đây có lẽ đã ảnh hưởng đến tất cả các công trình sau này của Gioan vì có giáo sư Luis de León dạy khoa nghiên cứu Thánh Kinh (giải thích Kinh Thánh Exegesis bằng tiếng Do Thái, tiếng Aram) tại đại học. León là một trong những chuyên gia hàng đầu trong khoa Nghiên cứu Thánh Kinh thời đó và đã viết một bản dịch Sách Diễm Ca bằng tiếng Tây Ban Nha. Thời đó, bản dịch này gây nhiều tranh cãi vì việc chuyển dịch Kinh Thánh sang tiếng địa phương không được cho phép tại Tây Ban Nha.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chuyên tâm học hành vì đó là một trong những con đường cần thiết dẫn đến ơn gọi tu trì.
Suy niệm 3: Linh hướng
Là vị linh hướng, Thánh Gioan Thánh Giá cảm được cuộc chiến đấu tinh thần nơi người khác.
Năm 1567 Gioan Thánh Giá thụ phong linh mục, và trở về Medina del Campo để cử thành thánh lễ mở tay trong tình thương mến của gia đình.
Chính tại đây cha gặp thánh nữ Têrêxa Chúa Giêsu lần đầu tiên. Cuộc gặp gỡ trở thành định đoạt cho cả hai người, cách riêng quyết định hướng đi cho cuộc sống của ngài vốn bị lôi cuốn bởi tính chiêm niệm thinh lặng và ẩn kín. Lúc bấy giờ thánh Têrêxa đang cố gắng đưa dòng Carmêlô trở về tuân giữ những quy chế đầu tiên, đã viết như sau: "Mặc dù thân xác nhỏ bé nhưng tôi tin rằng tâm hồn ngài thật quảng đại dưới mắt Thiên Chúa." Chị Têrêxa Avila chia sẻ với vị linh mục trẻ chương trình canh tân dòng Cát Minh và đề nghị cha yểm trợ "để sáng danh Chúa". Cha Gioan Thánh Giá bị thu hút bởi lý tưởng đó và trở thành người nâng đỡ chị Têrêxa. Cả hai đều tin rằng nhà dòng phải trở về với đời sống cầu nguyện. Hai vị làm việc với nhau trong vài tháng trời, chia sẻ các lý tưởng và đề nghị để khai sinh ngôi nhà đầu tiên cho các Nam tu sĩ Cát Minh Nhặt phép ngày 28 tháng 12 năm 1568, tại Duruelo một nơi hẻo lánh trong tỉnh Avila. Cuối năm 1572 chị Têrêxa Avila xin cha Gioan Thánh Giá làm cha giải tội cho các nữ tu trong tu viện Nhập Thể Avila, nơi chị làm Bề Trên. Đó là các năm cộng tác và sống tình bạn tinh thần sâu xa làm giàu cho cả hai bên. Đây cũng là thời gian chị Têrêxa bắt đầu viết các tác phẩm quan trọng và cha Gioan Thánh Giá viết các tác phẩm đầu tiên của mình. Gioan tiếp tục công việc giúp đỡ nữ tu Têrêsa cho đến năm 1577 để lập nên các tu viện mới xung quanh Tây Ban Nha, năng động giúp đỡ điều hành các tu viện này. Các tu viện cũng như quá trình cải cách này bị nhiều tu sĩ Dòng Cát Minh chống đối vì họ nghĩ rằng tu viện mà Têrêxa lập nên quá khắt khe. Thậm chí, một số nữ tu chống đối này không cho Têrêxa vào các tu viện của họ. Những người ủng hộ công việc của Gioan Thánh Giá và Têrêxa lúc này tự phân biệt họ với nhóm chống đối bằng cách gọi mình là các tu sĩ Cát Minh "không mang giày" (hoặc "đi chân đất") và những người kia là "mang giày".Ngài đã cộng tác trong công việc đó cho đến khi thánh nữ qua đời (1582).
Chúa luôn có con đường của Người, ý của Người khác với sự suy nghĩ của con người. Cuộc cải cách của thánh nhân và các bạn được chấp thuận, thánh Gioan thánh giá được trao cho nhiều chức vụ quan trọng trong dòng. Cuộc đời của ngài tràn lửa tình yêu, soi chiếu cho dòng Carmêlô. Ngài đã sống tình yêu và khích lệ mọi tu sĩ trong dòng hãy sống tình yêu như Chúa đã sống. Quả vậy, cuộc đời của ngài như một ngọn lửa tình yêu soi chiếu trong đêm tối để hướng dẫn cho dòng Carmêlô. Ngài đã bay lên tới đỉnh trọn lành và sẵn sàng nâng đỡ những ai bước theo đức tin với một nếp sống đơn sơ. "Nếu nơi nào không có tình yêu, chúng ta hãy thắp lên một ngọn lửa tình yêu vào đó và chúng ta sẽ nhận được ánh sáng của tình yêu. Và khi cuộc đời chấm dứt, chúng ta sẽ được xét xử căn cứ vào tình yêu." Năm 1591, một cơn bệnh trầm trọng đã đưa ngài về với Chúa.
Lẽ ra cuộc đời nghèo khổ và tù đầy đã biến ngài thành một con người yếm thế cay đắng. Nhưng ngược lại, ngài đã trở thành một người đam mê bí ẩn, sống với sự tin tưởng rằng "Có ai thấy người ta yêu mến Thiên Chúa bởi sự tàn nhẫn đâu?" và "Ở đâu không có tình yêu, hãy đem lại tình yêu -- và bạn sẽ tìm thấy tình yêu." Thomas Merton nói về Thánh Gioan như sau: "Cũng như chúng ta không thể tách rời sự khắc khổ với sự huyền bí thì nơi Thánh Gioan Thánh Giá, chúng ta tìm thấy sự tăm tối và ánh sáng, sự đau khổ và niềm vui, sự hy vinh và tình yêu kết hợp với nhau thật chặt chẽ đến nỗi dường như lúc nào cũng chỉ là một."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống tâm tình của Chúa vốn không loại trừ ai, nhưng luôn sát cánh, bảo vệ và hỗ trợ cho đến khi Thiên ý được thể hiện.
Suy niệm 4: Thần học-tâm lý gia
Là một thần học-tâm lý gia, Thánh Gioan Thánh Giá diễn tả và phân tích giá trị của sự đau khổ trong các văn bản của ngài.
Đề cập tới nét chính yếu trong tư tưởng của thánh Gioan Thánh Giá, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định trước hàng ngàn tín hữu và du khách hành hương tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 16-2-2011 trong đại thính đường Phaolô VI:
Bất cứ điều gì được tạo dựng nên đều là hư vô trước Thiên Chúa và không có gì có giá trị ngoài Thiên Chúa ra. Vì thế, kết quả là để đạt tới tình yêu toàn thiện của Thiên Chúa, mọi tình yêu khác phải phù hợp với tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Từ đây bắt nguồn sự nhấn mạnh của thánh Gioan Thánh Giá trên sự cần thiết của việc thanh tẩy và dốc đổ nội tâm để được biến đổi trong Thiên Chúa, là mục đích duy nhất của sự hoàn thiện.
Sự thanh tẩy đó không hệ tại nơi việc thiếu thốn thể lý các sự vật hay việc sử dụng chúng; điều khiến cho linh hồn được trong trắng và tự do, trái lại, là loại bỏ mọi sự tùy thuộc sự vật một cách vô trật tự. Tất cả đều được đặt để trong Thiên Chúa như trung tâm và cứu cánh của cuộc sống. Tiến trình thanh tẩy mệt nhọc dĩ nhiên đòi hỏi cố gắng cá nhân, nhưng tác nhân chính là Thiên Chúa: tất cả những gì mà con người có thể làm là "sẵn sàng", là rộng mở cho hoạt động của Thiên Chúa và không gây chướng ngại cho hoạt động đó. Khi sống các nhân đức đối thần, con người tự nâng mình lên cao và trao ban giá trị cho dấn thân của mình.
Chúng ta tự hỏi vị thánh thần bí cao siêu này, với con đường gian khó hướng tới đỉnh trọn lành, còn có gì để nói với kitô hữu bình thường sống trong các trạng huống hằng ngày như chúng ta; hay người chỉ là gương mẫu cho một số linh hồn ưu tuyển có thể bước theo con đường thanh tẩy đó? Thật ra, cuộc sống của thánh Gioan Thánh Giá đã không phải là chuyện "bay trên mây trên gió", nhưng là cuộc sống rất khó khăn gian khổ, thực tế và cụ thể, trong việc cải cách dòng với biết bao nhiêu khó khăn chống đối, cũng như trong nhiệm vụ Bề trên tỉnh dòng, hay bị các tu sĩ khác giam tù, bị sỉ vả và hành hạ. Nhưng chính trong những lúc khổ đau khốn khó đó thánh nhân đã viết ra các tác phẩm đẹp nhất. Lộ trình với Chúa Giêsu cũng thế. "Con Đường" không phải là cái gì khó khăn thêm vào gánh nặng cuộc sống thường ngày của chúng ta khiến cho nó nặng nề hơn, nhưng là một ánh sáng, một sức mạnh giúp chúng ta vác gánh nặng đó. Nếu một người có tình yêu trong chính mình, thì tình yêu sẽ cho họ đôi cánh giúp bay cao, và chịu đựng được một cách dễ dàng mọi khốn khó của đời sống, bởi vì nó đem theo một ánh sáng lớn: đó là đức tin, tin rằng chúng ta được Thiên Chúa yêu thương và để cho Thiên Chúa yêu thương chúng ta trong Đức Kitô Giêsu. Để cho Thiên Chúa yêu thương là ánh sáng giúp chúng ta vác gánh nặng mỗi ngày.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hãy luôn để cho Chúa yêu thương.
Suy niệm 5: Thi sĩ
Là một thần học-tâm lý gia, Thánh Gioan Thánh Giá cũng còn được coi như là một trong những thi sĩ trữ tình quan trọng nhất của nền văn chương Tây ban nha.
Trong thời gian bị giam giữ, ngài đã sáng tác một phần lớn của bài thơ nổi tiếng nhất của ngài: Bản Trường ca Thiêng Liêng. Để cảm nhận được phần nào tính thi sĩ trữ tình của ngài, chúng ta cùng nêu lên một đoạn trích trong Thánh Thi - Gioan Thanh Giá – do NT Vĩnh An dịch:
Xin Thiêu Đốt Chúng Con
Lạy Thánh Thần trào tuôn từ Thiên Chúa,
Xin lửa Ngài thiêu đốt chúng con;
Như cành cây nhỏ trong lò lửa,
Cho chúng con cháy bỏng tình Ngài.
Xin nhổ bao cỏ lùng tội lỗi
Trong chúng con đe dọa hạt mầm,
Mầm sự sống Ngài đang gieo vãi,
Bằng chính Lời và Bánh trường sinh.
Xin khắc vào lòng con tên mới:
Danh Giêsu, Đấng đã Phục sinh
Xin thổi hơi và chúng con có thể
Ngợi ca Ngài: chân lý hiển vinh.
Năm 1591 cha được chỉ định sang sống trong tỉnh dòng Mehicô. Nhưng trong khi cùng với 10 tu sĩ khác chuẩn bị cho chuyến đi xa này, cha bị bệnh nặng và qua đời đêm 13 rạng ngày 14 tháng 12 năm 1591. Xác cha được đưa về Segovia sau đó. Năm 1675 Đức Giáo Hoàng Clemente X chủ sự lễ phong Chân Phước cho cha và năm 1726 Đức Giáo Hoàng Biển Đức XIII tôn phong cha lên hàng Hiển Thánh. Vào năm 1926, cha được phong Tiến sĩ Hội thánh bởi Giáo hoàng Piô XI. Giáo hội Anh giáo tưởng nhớ đến cha với tư cách "Thầy dạy Đức tin".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín dầu ở đâu và trong hoàn cảnh nào vẫn luôn có Chúa ở cùng (Mt 1,23).
Suy niệm 6: Văn bản
Hầu hết các văn bản của Thánh Gioan Thánh Giá đều nhấn mạnh đến cái giá phải trả của tinh thần kỷ luật, con đường hiệp nhất với Thiên Chúa là: sống kỷ luật, từ bỏ mình, thanh luyện.
Các tác phẩm lớn của thánh nhân gồm các cuốn: Lên Núi Camêlô, Đêm Tối, Thánh Thi Tinh Thần và Lửa Sống Động Của Tình Yêu.
Trong "Thánh Thi Tinh Thần" thánh Gioan trình bầy con đường thanh tẩy linh hồn, nghĩa là việc chiếm hữu Thiên Chúa từ từ và tươi vui, cho tới khi linh hồn đến chỗ cảm nhận được rằng nó mến yêu Thiên Chúa với chính tình yêu nó được yêu mến. Tác phẩm "Lửa Sống Sộng Của Tình Yêu" tiếp tục viễn tượng này, bằng cách miêu tả chi tiết hơn tình trạng kết hiệp biến đổi với Thiên Chúa. Thánh Gioan Thánh Giá dùng hình ảnh ngọn lửa để so sánh: giống như lửa cháy và thiêu đốt củi đến độ củi trở thành ngọn lửa, Chúa Thánh Thần cũng thiêu đốt và thanh tẩy linh hồn như thế trong đêm đen; với thời gian Người soi sáng và sưởi nóng nó như một ngọn lửa. Cuộc sống của linh hồn là một ngày lễ liên lỉ của Chúa Thánh Thần, là Đấng hé mở cho chúng ta thấy vinh quang của sự kết hiệp với Thiên Chúa trong sự vĩnh cửu.
Tác phẩm "Lên Núi Camêlô" giới thiệu lộ trình thiêng liêng, từ quan điểm của sự thanh tẩy linh hồn từ từ, cần thết để leo lên đỉnh của sự hoàn thiện kitô được biểu tượng bằng đỉnh núi Camêlô. Sự thanh tẩy đó được đề nghị như một con đường phải đi, cộng tác với hoạt động của Thiên Chúa. Để đạt tới sự kết hiệp tình yêu với Thiên Chúa, sự thanh tẩy đó phải hoàn toàn bắt đầu với các giác quan, rồi tiếp tục với ba nhân đức đối thần tin cậy mến, thanh tẩy ý hướng, ký ức và ý chí con người. Tác phẩm "Đêm Tối" miêu tả khía cạnh "thụ động" hay sự can thiệp của Thiên Chúa trong tiến trình thanh tẩy linh hồn. Mục đích tất cả các tác phẩm là miêu tả con đường dẫn đưa tới sự thánh thiện, là tình trạng toàn thiện mà Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người chúng ta. Đối với Thánh Gioan Thánh Giá, mọi sự do Thiên Chúa tạo thành đều tốt lành. Qua các thụ tạo chúng ta có thể khám phá ra Đấng đã để lại dấu vết của Người nơi chúng. Nhưng đức tin là suối nguồn duy nhất được ban cho con ngưới để hiểu biết Thiên Chúa như Người là, như Thiên Chúa Duy Nhất Ba Ngôi. Tất cả những gì Thiên Chúa muốn thông truyền cho loài người Ngài đã làm qua Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể. Chúa Giêsu là con đường duy nhất và định đoạt dẫn đưa tới Chúa Cha (x. Ga 14,6).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hãy luôn đến cùng Chúa để nhờ đó đến được với Chúa Cha (Ga 14,6).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 13/12 Thánh LUCIA Đồng Trinh Tử Đạo - (Thế kỷ IV)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh LUCIA Đồng Trinh Tử Đạo - (Thế kỷ IV)
Theo lịch sử, chắc chắn là đã có một thánh nữ tử đạo tên là Lucia và mộ Ngài được tìm thấy trong hang toại đạo của các Kitô hữu Syracusa. Sau đây là câu chuyện về cuộc tử đạo của Ngài.
Lucia là một thiếu nữ quí phái người Syracusa tại thủ đô miền Sicily. Mẹ Ngài gốc người Hy Lạp tên là Eutychia, có nghĩa là hạnh phúc. Sớm thành goá phụ, bà đã gắng chuẩn bị cho Lucia một điạ vị cao bằng cách dưỡng dục thánh nữ theo tinh thần Kitô giáo. Bà thường nói với con gái mình về lòng can đảm của các vị tử đạo đã tưới máu trên đế quốc hai thế kỷ qua. Như ở Sicily, tại hải cảng Catana, nửa thế kỷ trước thánh nữ Agatha thay vì chối bỏ đức tin, đã khước từ tình yêu của quan cầm quyền và trung thành với Chúa Kitô giữa các cực hình.
Mẫu gương đáng phục này đã ám ảnh Lucia và khi Eutychia nhận lời cầu hôn cho con gái mình, Lucia khẩn cầu Chúa cất xa những cuộc cưới hỏi trần thế để dâng hồn xác phụng sự một mình Ngài thôi. Bỗng Eutychia ngã bệnh, Lucia lấy cớ này để đình hôn. Dầu vậy, Ngài thấy buồn vì mẹ khổ lâu, nên khuyên bà kêu cầu với thánh nữ Agatha, Ngài đưa mẹ đi Cathana để dưỡng bệnh. Khi đó, Ngài xem thường những sắc lệnh bách hại đạo của Điôclêtianô, khấn hiến mình hoàn tòan cho Thiên Chúa. Ngài đòi phân gia tài để phân phát cho người ghèo. Ngài nói: - "Dâng cho Chúa điều người ta không mang theo sau khi chết thì cũng không có gì là nhiều".
Nhưng người theo đuổi Lucia thấy Ngài bán nữ trang và ruộng đất rồi phát cho người khổ cực, liền nổi giận và tố cáo với Paschse là người cầm quyền ở Syracusa. Lucia bị cầm tù. Trước tòa, Ngài đã trả lời cách đáng phục:
"Giờ thì tôi chẳng còn gì nữa để dâng, tôi dâng chính mình như bánh thánh lên Thiên Chúa tôi cao. Ong run rẩy trước mặt Thiên Chúa, còn tôi, tôi kính sợ Thiên Chúa. Ông muốn làm đẹp lòng họ, còn tôi, tôi chỉ có một ước vọng là làm đẹp lòng Chúa Kitô thôi. Những người thiêu huỷ thân xác là những người bỏ niềm vui mau qua để đổi lấy những niềm vui đời đời. Thánh Phaolô tông đồ đã nói: Ai sống trong sạch và đạo đức là đền thờ Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần ở trong họ. Thân thể chỉ ra nhơ uế nếu linh hồn đồng tình với nó".
Nhà cầm quyền truyền trao Lucia cho bọn đâm đãng êể làm nhục cho đến chết. Nhưng Ngài đã thành một sức mạnh khủng khiếp khiến bao sức lực của họ cũng không thể kéo Ngài đi được. Người ta kêu các phù thủy, đưa bò đến kéo nhưng không nghĩa lý gì đối với sự bất động của Trinh nữ.
Người ta đốt lửa cũng không chạm tới Ngài. Sau cùng, người ta dùng giáo đâm cổ Ngài, nhưng Ngài còn tiên báo một cách lạ lùng: - "Tôi báo cho các ngươi biết rằng, Giáo hội Chúa được ơn bình an vì hôm nay Điôclêtiano bị đuổi khỏi đế quốc, Maximianô phải chết. Và như Catana vui sướng được chị tôi là Agatha bảo trợ, thành Syracusa được Chúa ban cho tôi, nếu các ngươi hết lòng thực hiện thánh ý Chúa".
Và dân Sicily thấy Paschase bị xiềng. César biết được rằng ông ta sẽ chiếm thành. Lucia trước khi chết đã được rước Mình Chúa do các linh mục đem đến.
Lucia là tên do từ ngữ Lux, nghĩa là ánh sáng. Như ánh sáng, gương mẫu đời Ngài dẫn các linh hồn lên trời. Tên Ngài khiến những ai đau mắt thường kêu cầu Ngài.
(daminhvn.net)
Ngày 12/12 Lễ Ðức Mẹ Guadalupe
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lễ Ðức Mẹ Guadalupe
Tình yêu Thiên Chúa dành cho người nghèo, và chính Mẹ đồng hóa với người nghèo là một chân lý đã có tự ngàn xưa, được phát xuất từ Phúc Âm.
Lược sử
Một người thổ dân nghèo hèn tên Cuatitlatoatzin được rửa tội và lấy tên là Juan Diego. Ông 57 tuổi, góa vợ và sống trong một làng nhỏ gần Mexico City. Vào buổi sáng thứ Bảy, 9 tháng Mười Hai 1531, ông đến nhà nguyện gần đó để tham dự lễ kính Đức Mẹ.
Khi đang đi trên ngọn đồi gọi là Tepeyac thì ông nghe có tiếng nhạc du dương như tiếng chim hót. Sau đó một đám mây sáng chói xuất hiện, đứng trên đám mây là một trinh nữ người thổ dân mặc y phục như công chúa của bộ lạc Aztec. Trinh nữ nói chuyện với ông bằng tiếng bản xứ và sai ông đến với Đức Giám Mục của Mexico, là một tu sĩ dòng Phanxicô tên Juan de Zumarraga, và yêu cầu đức giám mục xây cất một nguyện đường nơi Trinh Nữ hiện ra.
Dĩ nhiên vị giám mục không tin, và bảo Juan Diego xin Trinh Nữ cho một dấu chỉ. Trong thời gian này, người chú của ông bị bệnh nặng. Điều đó khiến ông cố tránh né không muốn gặp Trinh Nữ. Tuy nhiên, đức trinh nữ tìm ông, đảm bảo với ông là người chú sẽ khỏi bệnh, và bảo ông hái các bông hồng quanh đó để làm bằng chứng với vị giám mục. Lúc ấy là mùa đông thì không thể có bông hoa nào mọc được, nhưng lạ lùng thay, gần chỗ Trinh Nữ hiện ra lại đầy dẫy những hoa hồng tuyệt đẹp. Và ông đã dùng chiếc áo tơi của mình để bọc lấy các bông hồng đem cho vị giám mục.
Trước sự hiện diện của đức giám mục, ông Juan Diego mở áo tơi ra và bông hồng đổ xuống tràn ngập khiến vị giám mục phải quỳ gối trước dấu chỉ lạ lùng ấy. Lạ lùng hơn nữa, trên chiếc áo tơi lại có in hình Đức Trinh Nữ như ngài đã hiện ra với ông ở đồi Tepeyac và tỏ lộ danh tánh: Ðức Bà Guadalupe. Đó là ngày 12 tháng Mười Hai 1531.
Suy niệm 1: Danh hiệu
Đức Trinh Nữ đã hiện ra với Juan Diego ở đồi Tepeyac và tỏ lộ danh tánh: Ðức Bà Guadalupe.
Trong những lần Đức Mẹ hiện ra trên các nơi khác thì Người chỉ xưng là Đức Mẹ đồng trinh hoặc Mẹ Thiên Chúa, và sau đó dân chúng thường lấy địa danh nơi Đức Mẹ hiện ra để làm tên gọi, ví dụ như Đức Mẹ Fatima, Đức Mẹ Lộ Đức. Tại sao lần này Đức Mẹ lại tự cho mình một danh hiệu?
Có nhiều giả thuyết khác nhau được đưa ra để giải thích điều trên. Tuy nhiên, giả thuyết được nhiều người cho là hợp lý nhất đã giải thích như sau: Người ta cho rằng chữ Guadalupe là do chữ "COATLA XOPEUH" trong ngôn ngữ Nahuatl, phát âm là "quatlalsupe", rất gần với âm của chữ Guadalupe trong tiếng Tây Ban Nha. Chữ COATLA XOPEUH có nghĩa là "Vị đạp lên đầu Rắn". Tưởng cũng nên nhắc lại: theo các nghi lễ của dân Aztec thời ấy thì mỗi năm họ dùng rất nhiều đàn ông, đàn bà và trẻ em để làm vật tế lễ cho các thần linh khát máu của họ, nhất là dịp họ vừa hoàn tất công trình kiến trúc ngôi đền mới vĩ đại tên Tenochtitlan. Như vậy thì "con Rắn" mà Đức Mẹ "đạp lên đầu" là một biểu tượng cho các thần linh độc ác này (xem St 3,14-15). Từ đó, Đức Mẹ đem hằng triệu người Da đỏ trở về với Chúa (L.m. Phêrô, CMC).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tỏ lòng sùng kính Mẹ bằng việc hằng trở về với Chúa.
Suy niệm 2: Phép lạ trong hình ảnh
Đức Trinh Nữ đã hiện ra với Juan Diego ở đồi Tepeyac và tỏ lộ danh tánh: Ðức Bà Guadalupe.
Một trong những phép lạ vẫn còn tiếp diễn tới hiện tại là việc bức hình Đức Mẹ Guadalupe in lên trên một tấm vải thô sơ làm từ sợi cây xương rồng, mà bình thường thì tan rã trong vòng mười năm, tới nay vẫn còn nguyên vẹn. Trong mấy chục năm đầu, tấm hình được treo trong nhà nguyện và bao nhiêu dân chúng đã đến đó sờ mó mân mê. Tấm khăn đã bị ảnh hưởng trực tiếp của bao thời gian, thời tiết, và hương khói nghi ngút trong các buổi lễ hơn một trăm năm. Đến năm 1647, tấm khăn mang hình Đức Mẹ Guadalupe mới được lồng vào khuôn kính lần đầu tiên.
Trong mấy thế kỷ qua, những phương thức khoa học kỹ thuật ngày càng tân tiến và tinh vi, các nhà chuyên môn đã tìm mọi cách phân tích để hiểu hiện tượng trên mà họ vẫn không giải đáp được. Họ cũng không phân tích được hóa chất nào đã được dùng làm sơn in hình Đức Mẹ trên tấm vải ấy. Cho tới nay, các màu sắc vẫn còn linh động rực rỡ như lần đầu tiên Juan Diego mở rộng tấm khăn mình ra cho Đức Tổng Giám mục thấy những đóa hoa hồng.
Gần đây nhất, các nhà chuyên khoa về nhãn quang đã rọi lớn, tìm thấy và chứng minh được trong tròng mắt của Đức Mẹ Guadalupe in lên khăn có hình phản ảnh những người có mặt trong căn phòng Đức Tổng Giám mục lúc Đức Mẹ hiện ra.
Việc nghiên cứu này đã được hơn hai mươi bác sĩ chuyên khoa và khoa học gia tham gia từ năm 1979. Bác sĩ Aste Tonsman của Đại học Cornell University là người dẫn đầu cuộc nghiên cứu này và sắp phổ biến một điều mới khám phá lạ lùng mà ông ta kết luận như sau: "Có thể rằng Đức Mẹ Guadalupe không những đã để lại hình ảnh của Người để chứng minh sự kiện Người đã hiện ra, mà còn có thể để lại cho chúng ta một vài điều nhắn nhủ quan trọng khác nữa. Những điều này được che giấu trong con ngươi con mắt trên bức hình cho tới bây giờ, lúc chúng ta có đủ phương tiện khoa học để khám phá, mà cũng là lúc chúng ta cần biết tới điều nhắn nhủ này nhất".
Thật vậy, điều bác sĩ Tonsman khám phá mới nhất là trong con ngươi mắt của Đức Mẹ Guadalupe hình dạng của một gia đình, trong đó có hình một người mẹ đeo con trên lưng như tập tục của người dân thời thế kỷ thứ 16. Theo lời bác sĩ Tonsman, đây là một điều quan trọng cần lưu ý, vì tình trạng gia đình đổ vỡ và giá trị căn bản gia đình bị chà đạp trầm trọng trong xã hội hiện nay (L.m. Phêrô, CMC).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quan tâm đến việc thánh hóa bản thân để thánh hóa gia đình, như một phép lạ Chúa ban.
Suy niệm 3: Lich sử phụng vụ
Đức Trinh Nữ đã hiện ra với Juan Diego ở đồi Tepeyac và tỏ lộ danh tánh: Ðức Bà Guadalupe.
Năm 1555, sau khi đã điều tra xem xét cẩn thận, Đức cha Alonso de Montufar, Giám mục thứ hai của Mễ-Tây-Cơ đã chính thức công nhận biến cố Đức Mẹ hiện ra tại Tepeyac.
Năm 1556, từ nơi có ngôi nhà nguyện bằng đất đơn sơ ban đầu, một nhà thờ rộng lớn hơn đã được xây lên. Năm 1737, Đức Mẹ Guadalupe được tôn nhận là bổn mạng thành phố Mễ Tây Cơ, năm 1746 là bổn mạng miền New Spain gồm từ California xuống đến Guatemala và Salvador. Năm 1754, Đức Beneđictô XIV lập lễ Đức Mẹ Guadalupe vào ngày 12 tháng 12. Năm 1895, Đức Lêô XIII sai sứ thần sang đặt triều thiên cho Đức Mẹ Guadalupe và gửi hai câu thơ tôn vinh Đức Mẹ. Năm 1910, Đức Thánh Piô X tôn đặt Đức Mẹ Guadalupe là bổn mạng Châu Mỹ Latinh và năm 1935 Đức Piô XI tôn đặt Mẹ là bổn mạng Philippines. Năm 1945 kỷ niệm 50 năm đặt triều thiên cho Đức Mẹ Guadalupe, Đức Piô XII tôn đặt Mẹ là Nữ Vương nước Mễ Tây Cơ và là Nữ Hoàng của toàn thể Mỹ châu.
Trải qua nhiều thế kỷ, một vương cung thánh đường khang trang lộng lẫy đã được hoàn thành năm 1976. Và năm 1990 Đức Gioan Phaolô II đã đến hành hương đền thánh Đức Mẹ Guadalupe để tuyên phong chân phước và năm 2002 tuyên phong hiển thánh cho Juan Diego. Hiện nay, trong Đại Đền thánh Phêrô, Rôma, có một ngôi nhà nguyện nhỏ biệt kính Đức Mẹ Guadalupe (L.m. Phêrô, CMC).
Suy niệm 4: Bức hình
Đức Trinh Nữ đã hiện ra với Juan Diego ở đồi Tepeyac và tỏ lộ danh tánh: Ðức Bà Guadalupe.
Có thể nói, đối với những người Công Giáo ở Châu Âu, thì Đức Mẹ Lộ Đức và Đức Mẹ Fatima rất đổi thiêng liêng đối với họ; còn đối với phần còn lại của thế giới tính luôn cả Nam và Bắc Mỹ Châu La Tinh, thì việc sùng kính Đức Mẹ Guadalupe quả cũng thánh thiện và trang trọng không kém. Người Mỹ Châu La Tinh nhìn chung dẫu rất nghèo, rất giản dị, và rất tầm thường - thế nhưng lòng đạo đức và sự chân chất của họ quả đúng là điều đáng học hỏi. Hầu như mọi cử chỉ, hành động của họ đều xuất phát từ lòng kính mến một cách rất đặc biệt đến Đức Mẹ Guadalupe. Bức hình Đức Mẹ Guadalupe cũng rất là linh thiêng. Do đó, vào ngày Lễ Kính Đức Mẹ Guadalupe, rất nhiều các Giáo Phận và Tổng Giáo Phận Công Giáo tại Hoa Kỳ được tái cung kính và dâng lên cho sự bảo trợ và gìn giữ của Đức Mẹ Guadalupe. Hành động này chính là việc lặp lại hành động mà Đức Cố Tổng Giám Mục Juan de Zumarraga đã làm cho Giáo Hội tại Mêhicô trong những năm thuộc thế kỷ thứ 15. Lúc đó, đang diễn ra hàng ngàn vụ tàn sát những người thuộc thổ dân Aztec tại Mêhicô, cũng giống hệt như những vụ thảm sát một cách tương tàn, và vô tội vạ đối với những trẻ sơ sinh chưa được chào đời, cũng như các cuộc chiến có tính chất thảm sát tại khắp mọi nơi trên thế giới vào thời đại ngày nay vậy. Đức Cố Tổng Giám Mục Zumarraga đã khẩn cầu Đức Mẹ hãy gởi đến cho ngài những Cánh Hoa Hồng Castilian (Castilian Roses) như là một dấu chỉ để chấm dứt ngay những vụ thảm sát tương tàn này. Khi Juan Diego mở tilma (trang phục hay áo) của mình ra ngay trước mặt Đức Tổng Giám Mục, tức thì các cành bông hồng tuôn đổ ra như thác nước, bao gồm luôn cả các Cánh Hoa Hồng Castilian, và hình ảnh của Mẹ xuất hiện một cách rất nhiệm mầu trên chiếc áo mà Thánh Juan Diego đang mặc. Hàng triệu người khi đó đã quay trở lại đạo, và tin vào Ba Ngôi Thiên Chúa, thay vì các thần khác mà họ đã tôn thờ trước kia. Rất nhiều phép lạ đã xảy ra tại nơi đó (Anthony Lê).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con gia tăng các hành vi yêu thương để ngăn chận lối sống bạo hành trong xã hội ngày nay.
Suy niệm 5: Bức thông điệp
Đức Trinh Nữ đã hiện ra với Juan Diego ở đồi Tepeyac và tỏ lộ danh tánh: Ðức Bà Guadalupe.
Trong lúc hiện ra với Juan Diego, bức thông điệp mà Mẹ nhắn gửi lại, mãi cho đến ngày hôm nay vẫn còn có giá trị hết sức tỏ tường và đích thực đối với từng người trong chúng ta. Bức thông điệp đó chính là: "Hãy biết chắc rằng, hỡi người con trai của ta, hỡi người con bé bỏng của ta, rằng Ta chính là Đức Nữ Trinh Maria rất Thánh và Hoàn Hảo, là Mẹ của Thiên Chúa thật - Đấng sống và cũng là Đấng Tạo Dựng ra toàn thể nhân loại, Đấng làm chủ tất cả những gì gần hay xa, Đấng làm Chủ cả trời lẫn đất. Ta rất mong ước rằng họ xây dựng một ngôi nhà nhỏ thiêng liêng dành cho ta tại nơi đây, một 'Teocalli,' là nơi mà ta sẽ trình bày Ngài, tán tụng Ngài, và làm cho Ngài được vinh hiển. Là nơi mà ta sẽ dâng lên cho Ngài tất cả mọi người với tất cả tình yêu thương của ta, với cái nhìn của lòng trắc ẩn, với sự trợ giúp và cứu rỗi của ta, bởi vì ta thật sự chính là người mẹ đầy lòng nhân ái của con; của riêng con và cũng là mẹ của tất cả những ai sống đoàn kết trên mãnh đất này, và của tất cả nhân loại; của tất cả những ai mến yêu ta; của tất cả những ai than khóc với ta; của tất cả những ai tìm kiếm ta; của tất cả những ai tín thác vào ta. Ở tại nơi đó Ta sẽ lắng nghe tiếng than khóc của họ, sự sầu não của họ, như là cách để làm cạn vơi đi tất cả những nổi đau khác của họ, những sự thống khổ và não sầu của họ, để cứu chữa và loại bỏ đi tất cả những sự thống khổ của họ." Hình ảnh mà Mẹ đã trao cho Thánh Juan Diego cho thấy Mẹ đang mang thai Chúa Giêsu. Những người thổ dân Aztec đã được Thánh Juan Diego cho nhìn thấy bức ảnh này, đã quyết định chấm dứt đi sự thảm sát tương tàn nhau, vì họ trước đó tin rằng, Thiên Chúa chống đối lại họ. Hình ảnh này công bố ra một sứ điệp của Phúc Âm đó là "Thiên Chúa ở Cùng Với Chúng Ta" (God Is With Us), Ngài chính là Emmanuel, để qua đó chúng ta có thể có được niềm hy vọng, nhằm mang đến cho chúng ta một sự can đảm để có thể nói lên hai tiếng "Xin Vâng" với Sự Sống, như chính Đức Mẹ đã nói lên hai lời đó (Anthony Lê).
Việc Đức Maria hiện ra với Juan Diego dưới hình thức một người đồng hương của ông nhắc nhở cho chúng ta thấy, Đức Maria và Thiên Chúa, là Đấng đã sai ngài đến, chấp nhận mọi dân tộc. Trong hoàn cảnh thời bấy giờ, khi người Tây Ban Nha đối xử tệ hại và dã man với người thổ dân, việc hiện ra là lời khiển trách người Tây Ban Nha cũng như một biến cố trọng đại đối với người thổ dân Mỹ Châu. Trước khi có biến cố này, việc trở lại Kitô Giáo chỉ thưa thớt, nhưng sau đó họ trở lại cả đoàn. Theo một sử gia đương thời, có đến chín triệu người thổ dân trở lại đạo Công Giáo trong một thời gian rất ngắn. Ngày nay, chúng ta thường nghe là Thiên Chúa ưu đãi người nghèo, và Đức Mẹ Guadalupe minh chứng rằng tình yêu Thiên Chúa dành cho người nghèo, và chính Mẹ đồng hóa với người nghèo là một chân lý đã có tự ngàn xưa, được phát xuất từ Phúc Âm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tỏ lòng yêu mến Mẹ bằng việc hết mình sống sứ điệp của Mẹ.
Suy niệm 6: Đền Thờ
Đức Trinh Nữ đã hiện ra với Juan Diego ở đồi Tepeyac và tỏ lộ danh tánh: Ðức Bà Guadalupe.
Đức Maria nói với Juan Diego: "Hỡi con rất yêu dấu của Mẹ, ta là Trinh Nữ Maria, là Mẹ của Thiên Chúa thật, Người là Tác Giả của Sự Sống, là Tạo Hóa của muôn loài và là Chúa của Thiên Đàng cũng như Trái Đất... và điều ta mong muốn là một nhà thờ sẽ được xây cất ở đây cho ta, là nơi ta sẽ chứng tỏ lòng khoan dung và nhân hậu của ta đối với người thổ dân, và tất cả những ai yêu mến và tìm đến ta, như một người Mẹ đầy lòng thương xót của con và của mọi người dân của con..." (trích từ niên sử cổ).
Ước mong của Đức Mẹ đã được thực hiện. Đền Thờ Đức Mẹ Guadalupe ở cách Thành Phố Mễ Tây Cơ 15 cây số, cũng tại địa điểm của đền thờ cũ hồi thế kỷ 16. Hội Đồng Giám Mục Mễ tây Cơ, khi thấy nền đền thờ lung lay có thể gây nguy hiểm cho khách hành hương liền quyết định xây lại, và đặt viên đá đầu tiên vào ngày 12/12/1974, do kiến trúc sư Pedro Ramirez Vasquez và được khánh thành sau đó 2 năm. Đền Thờ Đức Mẹ Guadalupe ngày nay là một đền thờ lớn nhất và được viếng thăm nhiều nhất trên thế giới. Mỗi năm có 20 triệu người hành hương. Nhìn bên ngoài, đền thờ này trông giống như một chiếc lều tròn trong sa mạc để nhớ đến lều tạm của Moisen ở chân Núi Sinai, và được viền bằng những tấm đồng xanh lá cây đậm (mầu áo khoác của Đức Mẹ). Bên trong đền thờ được phủ bằng thông Canada (rộng 6 ngàn thước vuông), nền bằng cẩm thạch Mễ Tây Cơ và ở hàng giữa lòng đền thờ là một mảnh áo khoác của Thánh Juan Diego có hình Đức Mẹ.
Xét về mặt tôn giáo, mỗi ngày quanh năm đều có 30 thánh lễ được cử hành. Bí tích Giải Tội được tiến hành liên tục từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều mỗi ngày suốt năm. Hàng trăm nghi lễ rửa tội được thực hiện hằng tuần, ngoài ra còn có nghi thức hôn phối, rước lễ lần đầu cũng như bí tích thêm sức. Xét về mặt xã hội, đó là một địa danh thăm quan thuộc hàng đầu của Mễ Tây Cơ, nơi còn lưu giữ bức hình gốc của Đức Bà Guadalupe từ thế kỷ thứ 16
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 11/12 Thánh Giáo Hoàng Damasus I (305? - 384)
- Ngày 10/12 Chân Phước Honoratus Kosminski (1829 - 1916)
- Ngày 09/12 Chân Phước Gabriel Ferretti (1385 - 1456)
- Ngày 08/12 Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội
- Ngày 07/12 Thánh Ambrôsiô (340?-397)
- Ngày 06/12 Thánh Nicôla Giám Mục - (Thế kỷ IV)
- Ngày 5/12 Thánh Sabas, Ẩn tu (trước năm 439)
- Ngày 4/12 Thánh Gioan Đa Mát
- Ngày 03/12 Thánh Phanxicô Xaviê (1506-1552)
- Ngày 02/12 Chân Phước Rafal Chylin'ski (1694-1741)