Tin Cộng Đoàn
Tin Cộng Đoàn
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝐓𝐡𝐮̛́ 𝐓𝐮̛ 𝐭𝐮𝐚̂̀𝐧 𝐈𝐗 𝐓𝐍 - 𝐍𝐚̆𝐦 𝐥𝐞̉
𝐁𝐚̀𝐢 đ𝐨̣𝐜: 𝐓𝐛 𝟑, 𝟏-𝟏𝟏. 𝟏𝟔; 𝐌𝐜 𝟏𝟐, 𝟏𝟖-𝟐𝟕.
Trong thời Cựu Ước, niềm tin vào sự sống lại và sự sống đời sau được mặc khải cách tiệm tiến, từ từ chưa rõ ràng. Đến thời Tân Ước, Chúa Giê-su mặc khải cách rõ ràng, Ngài đã cho người chết sống lại (con trai bà góa thành Na-im và anh La-da-rô) và chính Ngài đã chết, 3 ngày sau sống lại. Các bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy, một khi con người không có niềm tin vào sự sống lại dễ bị đau khổ và nhầm lẫn trong cuộc sống. Trong bài đọc 1, hai người đau khổ đều muốn đi đến cái chết, vì họ không tin vào sự sống lại (họ chưa hiểu rõ thì đúng hơn). Người thứ nhất, Tô-bít gặp nhiều đau khổ, mù mắt, bị người đời châm biếm, bị vợ mỉa mai, nên ông chỉ biết cầu xin Chúa cho ông chết đi; người thứ hai, cô Xa-ra có 7 đời chồng đều qua đời. Cô bị người đời khinh chê là sát phụ và mỉa mai đủ lời, nên cô định tự tử, nhưng rồi nghĩ đến cha già cô cầu nguyện xin Chúa cất cô ra khỏi đời này. Thiên Chúa đoái nghe lời cầu nguyện của hai người và cho thiên thần Ra-pha-en đến cứu. Trong Tin Mừng, nhóm Sa-đốc không tin vào sự sống đời sau đến gài bẫy Chúa, nhưng được Chúa Giê-su dạy một bài học đích đáng.
𝟏. 𝐗𝐞𝐦
Khi ấy, có những người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Họ hỏi Người : “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta rằng : “Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ goá mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình.” Vậy có bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi mà không có con nối dòng. Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng chết mà không có con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy. Cả bảy người đều không có con nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng chết. Trong ngày sống lại, khi họ sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong số họ ? Vì cả bảy người đều đã lấy bà làm vợ.” Đức Giê-su nói : “Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà các ông lầm sao ? Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, các ông đã không đọc trong sách Mô-sê đoạn nói về bụi gai sao ? Thiên Chúa phán với ông ấy thế nào ? Người phán : ‘Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp’. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to !”
𝟐. 𝐗𝐞́𝐭
Tin Mừng hôm qua, 2 nhóm Biệt phái và Herode chất vấn gài bẫy Đức Giê-su. Hôm nay, nhóm Xa-đốc hạch hỏi cũng cố tình gài bẫy Đức Giê-su. Nhóm Xa-đốc, họ là ai và làm gì? Họ gồm giới giáo sĩ cấp cao, phần lớn các tư tế ở Giêrusalem và nhiều kỳ mục. Nét chung của họ là tính bảo thủ, họ chống lại mọi thay đổi về mặt thần học, phụng tự hay chính trị. Họ có thái độ hòa hoãn với người Rôma, có thể là để duy trì địa vị, bổng lộc. Dầu sao càng ngày họ càng xa rời dân chúng, uy tín của họ chỉ dựa trên chức vụ tư tế mà họ đảm nhận. Bởi vậy khi Đền thờ sụp đổ năm 70, nhóm này cũng biến mất khỏi lịch sử. Họ chỉ tin vào Bộ Ngũ Thư (5 sách Sáng Thế, Xuất Hành, Lê-vi, Dân số, Đệ Nhị Luật) Họ không chấp nhận các sách về sau, tức là Các Sách Ngôn sứ và Các Thư văn khác. Vì nghĩ rằng niềm tin vào sự sống lại không được nói đến trong Bộ Ngũ Thư, nên họ cho rằng đó là một chuyện mới mẻ người ta thêm vào sau, chứ không đặt cơ sở trên mặc khải của Thiên Chúa cho ông Mô-sê.
Nhóm Xa-đốc đưa một luật trong Bộ Luật Môsê làm cơ sở cho câu truyện họ sắp kể ra. Luật đó được trích trong Sách Đệ Nhị Luật (25, 5-6): “Khi có những anh em ở chung với nhau, và một trong những người đó chết mà không có con trai, thì vợ của người chết không được lấy một người xa lạ, ngoài gia đình; một người anh em chồng sẽ đến với nàng, lấy nàng làm vợ và chu toàn bổn phận của một người anh em chồng đối với nàng. Đứa con đầu lòng nàng sinh ra sẽ duy trì tên của người anh em đã chết; như vậy tên của người chết sẽ không bị xoá khỏi Israel.” Dựa vào điều này, họ đặt ra một câu chuyện: “Có bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi mà không có con nối dòng. Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng chết mà không có con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy. Cả bảy người đều không có con nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng chết. Trong ngày sống lại, khi họ sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai trong số họ ? Vì cả bảy người đều đã lấy bà làm vợ.” Họ lấy làm khoái trá và tin Đức Giê-su khó mà trả lời giải thích được.
Đức Giê-su thừa hiểu các ông muốn thử thách và gài bậy, Ngài điềm tĩnh cho các ông biết các ông không hiểu Kinh Thánh mà đòi làm thầy trong dân và không biết quyền năng của Thiên Chúa ra sao. Trong Kinh Thánh, nhất là trong sách Sáng Thế đã mô tả Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Ngài đã dựng nên mọi sự từ không thành có, trong đó có con người. Đây là Công trình Sáng tạo. Như vậy, Ngài không thể cho con người sống lại sao? Thiên Chúa làm chủ cả sự sống lẫn sự chết. Người Xa-đốc quan niệm sai về sự sống lại. Họ nghĩ rằng: Sự sống lại chính là “cuộc sống này kéo dài”. Trong cuộc sống này, người ta dựng vợ gả chồng để duy trì nòi giống thế nào thì trong cuộc sống lại đó, người ta cũng phải dựng vợ gả chồng như thế. Chúa Giêsu đã hé mở cho nhóm Xađốc biết, trong cuộc sống lại đó, nó không phải là cuộc sống này kéo dài, mà người ta bước vào đời sống mới. Chúa Giêsu không nói rõ lúc đó người ta sẽ như thế nào, mà Ngài chỉ hé mở cho biết: Người ta sẽ sống như các Thiên Thần trên trời, có nghĩa đó là cuộc sống thần linh. Người ta sẽ không còn phải chết nữa. Và vì không chết nữa nên việc duy trì nòi giống không cần thiết, đời sống hôn nhân không cần phải có trong đời sau.
𝟑. 𝐋𝐚̀𝐦
Thiên Chúa là Đấng Hằng Hữu, luôn có, luôn sống, thì những kẻ thuộc về Ngài cũng phải sống chứ không thể chết. Thiên Chúa là Đấng toàn năng, người làm chủ cả sự sống lẫn sự chết. nếu Thiên Chúa đã phán một lời liền có mọi sự, chẳng lẽ Ngài không thể làm cho kẻ chết sống lại sao? Sự sống và sự chết đều do Thiên Chúa, vì thế sự sống lại cũng thuộc về Thiên Chúa. Lại nữa, khi sống lại từ cõi chết, thân xác con người được biến đổi hoàn toàn, nó sẽ giống như các thiên thần, giống như Chúa Kitô Phục Sinh, nên không còn phải chết.
Tạ ơn Thiên Chúa đã dựng nên mọi sự, trong đó có chúng ta. Tạ ơn Ngài vì đã chọn chúng ta làm con Ngài qua bí tích Rửa tội. Xin cho chúng ta biết quý trọng sự sống làm người và làm con Chúa ở đời này. Quyết tâm sống trung thành trong đức tin, đặt niềm hy vọng vào sự sống lại mai sau, luôn yêu mến phụng thờ Chúa và phục vụ tha nhân hết tình.
@ 𝐋𝐨̛̀𝐢 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝑳𝒂̣𝒚 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒍𝒂̀ 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒄𝒖̛́𝒖 đ𝒐̣̂, 𝒙𝒊𝒏 𝒏𝒉𝒂̣̂𝒎 𝒍𝒐̛̀𝒊 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏, 𝒙𝒊𝒏 𝒃𝒊𝒆̂́𝒏 đ𝒐̂̉𝒊 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒕𝒉𝒂̀𝒏𝒉 𝒏𝒉𝒖̛̃𝒏𝒈 𝒌𝒆̉ 𝒅𝒐̃𝒊 𝒕𝒉𝒆𝒐 𝒂́𝒏𝒉 𝒔𝒂́𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒅𝒂́𝒎 𝒍𝒂̀𝒎 đ𝒊𝒆̂̀𝒖 𝒄𝒉𝒂̂𝒏 𝒕𝒉𝒂̣̂𝒕, 𝑪𝒉𝒖́𝒂 đ𝒂̃ 𝒔𝒊𝒏𝒉 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒓𝒂 𝒍𝒂̀𝒎 𝒄𝒐𝒏 𝒄𝒂́𝒊 𝒔𝒖̛̣ 𝒔𝒂́𝒏𝒈, 𝒕𝒉𝒊̀ 𝒙𝒊𝒏 𝒄𝒉𝒐 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒄𝒖̃𝒏𝒈 𝒄𝒂𝒏 đ𝒂̉𝒎 𝒍𝒂̀𝒎 𝒄𝒉𝒖̛́𝒏𝒈 𝒄𝒉𝒐 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒕𝒓𝒖̛𝒐̛́𝒄 𝒎𝒂̣̆𝒕 𝒎𝒐̣𝒊 𝒏𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊. 𝑪𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒄𝒂̂̀𝒖 𝒙𝒊𝒏 𝒏𝒉𝒐̛̀ Đ𝒖̛́𝒄 𝑮𝒊𝒆̂-𝒔𝒖 𝑲𝒊-𝒕𝒐̂, 𝑪𝒐𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒍𝒂̀ 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒗𝒂̀ 𝒍𝒂̀ 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏, 𝑵𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒉𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒔𝒐̂́𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒉𝒊𝒆̂̉𝒏 𝒕𝒓𝒊̣ 𝒄𝒖̀𝒏𝒈 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒕𝒓𝒐𝒏𝒈 𝒔𝒖̛̣ 𝒉𝒊𝒆̣̂𝒑 𝒏𝒉𝒂̂́𝒕 𝒄𝒖̉𝒂 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 đ𝒆̂́𝒏 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 đ𝒐̛̀𝒊. 𝑨𝒎𝒆𝒏.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝐓𝐡𝐮̛́ 𝐁𝐚 𝐭𝐮𝐚̂̀𝐧 𝐈𝐗 𝐓𝐍 - 𝐍𝐚̆𝐦 𝐥𝐞̉
𝐁𝐚̀𝐢 đ𝐨̣𝐜: 𝐓𝐛 𝟐, 𝟗-𝟏𝟒; 𝐌𝐜 𝟏𝟐, 𝟏𝟑-𝟏𝟕.
Trong một đất nước, muốn được bình an và phát triển cần có: luật pháp, hành pháp, tư pháp. Mỗi ngành độc lập và không giẫm lên nhau, để khỏi làm xáo trộn xã hội. Mồi tương quan giữa con người với Thiên Chúa cũng vậy, con người phải biết khả năng và giới hạn của mình, đừng thử thánh và can thiệp vào những chuyện của Thiên Chúa. Các bài đọc hôm nay, đưa ra một vài ví dụ minh họa cho chúng ta thấy, một khi vượt khỏi giới hạn của mình là có bất hòa. Trong bài đọc 1, Tô-bít vượt quá giới hạn của mình khi phán đoán vợ mua dê con của phường trộm cắp. Bà Anna, vợ ông, cũng vượt quá giới hạn của mình khi thắc mắc về sự quan phòng của Thiên Chúa, và sự "quá đạo đức" của chồng mình rồi được gì? Trong Tin Mừng, những người thuộc nhóm Biệt phái và nhóm Herode đã vượt quá khả năng của mình khi đặt câu hỏi và gài bẫy Chúa: "Có nên nộp thuế cho Caesar hay không?"
𝟏. 𝐗𝐞𝐦
Khi ấy, người ta cử mấy người Pha-ri-sêu và mấy người thuộc phe Hê-rô-dê đến cùng Đức Giê-su để Người phải lỡ lời mà mắc bẫy. Những người này đến và nói : “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp ?” Biết họ giả hình, Đức Giê-su nói : “Tại sao các người lại thử tôi ? Đem một đồng bạc cho tôi xem !” Họ liền đưa cho Người. Người hỏi : “Hình và danh hiệu này là của ai đây ?” Họ đáp : “Của Xê-da.” Đức Giê-su bảo họ : “Của Xê-da, trả về Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Và họ hết sức ngạc nhiên về Người.
𝟐. 𝐗𝐞́𝐭
Chương 12 của Tin Mừng Mác-cô, trình bày những cuộc tranh luận của hầu hết các nhóm trong Do thái với Chúa Giê-su.
+ Mở đầu là Dụ ngôn Tá điền sát nhân (Mc 12, 1 – 12), dụ ngôn này Chúa Giêsu nhắm thẳng vào nhóm Thượng tế, kỳ lão.
+ Tiếp đến là Bài Tin mừng hôm nay (Mc 12, 13 – 17), Marcô trình bày cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và nhóm Biệt phái và nhóm Hêrôđê về vấn đề nộp thuế cho Xê-da-rê. Đây là vấn đề tế nhị giữa lòng yêu nước và sự “phản động”.
+ Tiếp đến là nhóm Sa-đốc về vấn đề kẻ chết sống lại (Mc 12, 18 – 27).
+ Sau cùng là nhóm kinh sư và luật sĩ về giới răn quan trọng nhất (Mc 12, 28 – 34).
Trong Tin Mừng hôm nay, vào đầu Mác-cô cho chúng ta biết 2 nhóm, Biệt phái và Hê-rô-đê, không thuận nhau bao giờ lại liên minh nhau gài bẫy Đức Giê-su. Đúng như người ta thường nói: “Kẻ thù của kẻ thù tôi, chính là bạn tôi”. Phương châm đó để phân biệt “bạn và thù”, mặc dù là “bạn hay thù” chỉ trong một giai đoạn nào đó thôi. Không ai là bạn suốt đời và cũng chẳng ai là kẻ thù suốt đời. Bạn hay thù chỉ trong một giai đoạn nào đó, hoặc vì quyền lợi nào đó. Như thế, lúc này đây khi Đức Giê-su nổi tiếng, hai nhóm này liên minh đặt câu hỏi với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp?” Họ khôn khéo khen ngợi Đức Giê-su trước, đây cũng là cách của các nhà ngoại giao, “chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai”. Họ nhận xét rất đúng về Đức Giê-su, vì Ngài “chính là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”. Sau đó, họ mới đi vào phần chính là gài bậy bằng một câu hỏi đầy nhạy cảm về vấn đề thuế má: “Vậy có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không? Chúng tôi phải nộp hay không phải nộp?”
Hai nhóm này không bắt bẻ việc làm của Đức Giê-su, vì những việc làm của Ngài được đông đảo dân chúng khen ngợi. Họ chỉ bắt bẻ trong lời nói, vì người ta thường bị lỡ lời nhiều hơn. Cho nên, họ tìm cách gài bậy trong lời nói. Vời câu hỏi hốc búa đó, họ nắm chắc phần thắng. Nếu Đức Giê-su trả lời: phải nộp thuế, nhóm Biệt phái sẽ bắt Đức Giê-su, vì người Do thái nào cũng yêu nước và không muốn đế quốc đô hộ mình; nếu Ngài trả lời: Không nộp thuế, nhóm Herode cho là ‘phản động’ chống chính quyền. Trả lời thế nào cũng chết! Nhưng Đức Giê-su đầy khôn ngoan, vì thế Ngài thoát cái bẫy này dễ dàng. Ngài không trả lời câu hỏi, nhưng Ngài đặt một câu hỏi khác, và rồi Ngài dạy các ông bài học đáng giá với câu nói: “Của Xê-da, trả về Xê-da ; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”
𝟑. 𝐋𝐚̀𝐦
Chúa nhắc khéo cho những người Biệt phái đừng giả hình, vì họ cũng từng lấy mọi thứ thuế của dân đóng vào Đền Thờ. Các tín hữu có hai bổn phận: Họ có bổn phận phải trả lại cho Thiên Chúa những gì Ngài đã ban cho họ. Họ cũng có bổn phận nộp thuế cho chính phủ để bảo vệ an ninh, tu bổ đường xá, và cung cấp các dịch vụ công cộng. Chúa cũng nhắc nhở cho những người thuộc phe Herode biết giới hạn của mình. Họ chỉ có quyền trên những gì thuộc quyền con người; những gì thuộc quyền Thiên Chúa, họ không được đụng tới.
Đó cũng là bài học Chúa muốn nhắn gửi mỗi người chúng ta: Một khi chúng ta đã được hưởng nhờ ơn lộc của ai, thì phải đền ơn đáp nghĩa: con người đã nhận lãnh nhiều ơn huệ của Thiên Chúa, nên cũng phải đền đáp ơn Ngài. Chúa Giêsu nhìn nhận vai trò đúng đắn của của quyền bính trần thế: “Của Xê-da, trả về Xê-da”, nhưng Ngài thêm: “Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
Chúa nhắc nhở rằng quyền bính trần thế không phải là quyền bính duy nhất trên con người, mà còn có quyền bính của Thiên Chúa nữa. Có những điều con người phải trả cho Thiên Chúa, vì con người đã được tạo dựng theo và giống hình ảnh Ngài; con người mắc nợ Thiên Chúa sự sống, nên con người buộc phải dâng hiến mạng sống cho Ngài và để Ngài chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của mình.
@ 𝐋𝐨̛̀𝐢 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝑳𝒂̣𝒚 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒗𝒂̀𝒐 𝒈𝒊𝒐̛̀ 𝒃𝒂 𝒏𝒈𝒂̀𝒚 𝒍𝒆̂̃ 𝑵𝒈𝒖̃ 𝑻𝒖𝒂̂̀𝒏, 𝑪𝒉𝒖́𝒂 đ𝒂̃ 𝒄𝒖̛̉ 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 đ𝒆̂́𝒏 𝒖̉𝒊 𝒂𝒏 𝒅𝒂̣𝒚 𝒅𝒐̂̃ 𝒄𝒂́𝒄 𝑻𝒐̂𝒏𝒈 Đ𝒐̂̀ 𝒗𝒂̀ 𝒎𝒐̂𝒏 đ𝒆̣̂. 𝑮𝒊𝒐̛̀ đ𝒂̂𝒚, 𝒙𝒊𝒏 𝑵𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒄𝒖̃𝒏𝒈 𝒏𝒈𝒖̛̣ 𝒙𝒖𝒐̂́𝒏𝒈 𝒍𝒐̀𝒏𝒈 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏, 𝒈𝒊𝒖́𝒑 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒕𝒓𝒖𝒏𝒈 𝒕𝒉𝒂̀𝒏𝒉 𝒍𝒂̀𝒎 𝒄𝒉𝒖̛́𝒏𝒈 𝒄𝒉𝒐 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒕𝒓𝒖̛𝒐̛́𝒄 𝒎𝒂̣̆𝒕 𝒎𝒐̣𝒊 𝒏𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊. 𝑪𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒄𝒂̂̀𝒖 𝒙𝒊𝒏 𝒏𝒉𝒐̛̀ Đ𝒖̛́𝒄 𝑮𝒊𝒆̂-𝒔𝒖 𝑲𝒊-𝒕𝒐̂, 𝑪𝒐𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒍𝒂̀ 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒗𝒂̀ 𝒍𝒂̀ 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏, 𝑵𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒉𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒔𝒐̂́𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒉𝒊𝒆̂̉𝒏 𝒕𝒓𝒊̣ 𝒄𝒖̀𝒏𝒈 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒕𝒓𝒐𝒏𝒈 𝒔𝒖̛̣ 𝒉𝒊𝒆̣̂𝒑 𝒏𝒉𝒂̂́𝒕 𝒄𝒖̉𝒂 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 đ𝒆̂́𝒏 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 đ𝒐̛̀𝒊. 𝑨𝒎𝒆𝒏.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
Món quà của sự lắng nghe. Nhưng chỉ khi bạn thật sự lắng nghe, không ngắt lời, không hay mơ mộng, cũng không suy nghĩ đến câu trả lời. Chỉ lắng nghe.
Món quà của sự yêu thích. Hãy rộng lòng với những cái ôm, những nụ hôn, những cái vỗ vai, những cái níu tay. Hãy để những hành động nhỏ bé ấy chứng minh tình cảm mà bạn dành cho gia đình và bè bạn của mình.
Món quà của tiếng cười. Hãy sẻ chia những đoạn phim hoạt hình, những mẩu chuyện vui. Món quà này sẽ thay bạn nói lên rằng “Tôi thích được cười đùa cùng bạn”.
Món quà của những mảnh giấy ghi chú. Đó có thể đơn giản chỉ là một dòng chữ “Cảm ơn vì đã giúp đỡ” hoặc cũng có thể là cả một bài thơ trữ tình. Một dòng chữ viết tay ngắn ngủi có thể sẽ được nhớ đến suốt đời hoặc thậm chí là làm thay đổi cuộc sống của một con người.
Món quà của lời khen tặng. Một lời nói ngắn gọn, giản đơn nhưng hết sức chân thành, đại loại như “Bạn trông thật tuyệt với bộ váy đỏ này”, “Bạn làm việc tốt lắm” hay “Thật là một bữa ăn ngon” có thể tạo nên niềm vui trong suốt một ngày đối với người khác.
Món quà của lòng nhân ái. Mỗi ngày, hãy làm một điều gì đó không nằm trong kế hoạch định sẵn của bạn.
Món quà của sự tĩnh mịch. Đó là những khoảnh khắc mà ta chỉ muốn được ở một mình. Hãy hết sức nhạy cảm cùng những thời khắc này, và trao món quà của sự tĩnh lặng đến với những người khác đúng lúc.
Món quà của sự tri ân. Cách dễ dàng nhất để trao một lời nói chân thành đến ai đó, không quá khó như bạn vẫn nghĩ; chỉ cần đơn giản nói “Xin chào” hoặc “Cảm ơn!”.
@ 𝐒𝐮𝐲 𝐧𝐠𝐚̂̃𝐦
+ Có một nghịch lý:
Hạnh phúc thật sự chỉ đến
Khi bạn biết mạnh dạn cho đi
Chứ không phải nắm giữ thật chặt.
+ Giàu có,
không phải là những gì bạn có trong tài khoản ngân hàng,
mà là những gì bạn có trong trái tim.
+ Hãy cứ sống và trao gởi yêu thương
Bởi chỉ yêu thương trao đi
Mời có yêu thương nhận lại!
@ 𝐂𝐚̂̀𝐮 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝐿𝑎̣𝑦 𝑀𝑒̣ 𝑀𝑎𝑟𝑖𝑎!
𝑋𝑖𝑛 𝑢𝑜̂́𝑛 𝑛𝑎̆́𝑛 𝑡𝑖𝑚 𝑐𝑜𝑛 𝑚𝑜̛̉ 𝑟𝑜̣̂𝑛𝑔
Đ𝑎̂̀𝑦 𝑡𝑟𝑎̀𝑛 𝑐ℎ𝑎𝑛 𝑐ℎ𝑢̛́𝑎 𝑏𝑖𝑒̂́𝑡 𝑦𝑒̂𝑢 𝑡ℎ𝑢̛𝑜̛𝑛𝑔
𝑀𝑜̂̃𝑖 𝑛𝑔𝑎̀𝑦 𝑡𝑟𝑎𝑜 𝑡𝑎̣̆𝑛𝑔 𝑞𝑢𝑎̀ 𝑡ℎ𝑢̛𝑜̛𝑛𝑔 𝑥𝑜́𝑡
Đ𝑜̣̂ 𝑙𝑢̛𝑜̛̣𝑛𝑔 𝑏𝑎𝑜 𝑑𝑢𝑛𝑔 𝑚𝑖𝑒̣̂𝑛𝑔 𝑚𝑖̉𝑚 𝑐𝑢̛𝑜̛̀𝑖.
𝑁ℎ𝑖𝑒̂̀𝑢 𝑞𝑢𝑎̀ đ𝑒̂̉ 𝑡𝑎̣̆𝑛𝑔 𝑡ℎ𝑖𝑒̂́𝑢 𝑔𝑖̀ đ𝑎̂𝑢
𝐵𝑖𝑒̂́𝑡 𝑙𝑎̆́𝑛𝑔 𝑙𝑜 𝑞𝑢𝑎𝑛 𝑡𝑎̂𝑚 𝑡ℎ𝑎̣̂𝑡 𝑛ℎ𝑖𝑒̂̀𝑢
𝐿𝑜̀𝑛𝑔 𝑚𝑒̂́𝑛 𝐶ℎ𝑢́𝑎 𝑙𝑎̀𝑚 𝑐𝑜𝑛 𝑠𝑢̛𝑜̛́𝑛𝑔 𝑣𝑢𝑖
𝐻𝑎̆𝑛𝑔 𝑠𝑎𝑦 𝑝ℎ𝑢̣𝑐 𝑣𝑢̣ 𝑡𝑟𝑎𝑜 𝑞𝑢𝑎̀ 𝑡ℎ𝑢̛𝑜̛𝑛𝑔. 𝐴𝑚𝑒𝑛.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝐓𝐡𝐮̛́ 𝐇𝐚𝐢 𝐭𝐮𝐚̂̀𝐧 𝐈𝐗 𝐓𝐍
𝐋𝐞̂̃ 𝐌𝐞̣ đ𝐢 𝐭𝐡𝐚̆𝐦 𝐯𝐢𝐞̂́𝐧𝐠 𝐁𝐚̀ 𝐘𝐬𝐚𝐯𝐞
𝐁𝐚̀𝐢 đ𝐨̣𝐜: 𝐗𝐩 𝟑, 𝟏𝟒-𝟏𝟖𝐚; 𝐋𝐜 𝟏, 𝟑𝟗-𝟓𝟔.
Có một sự tương phản giữa con người với Thiên Chúa. Con người thích quyền cao, chức trọng; Thiên Chúa yêu thương người thấp hèn, bé mọn. Con người thích quyền lợi, bổng lộc; Thiên Chúa yêu người xả thân phục vụ tha nhân. Con người trốn tránh đau khổ; Thiên Chúa yêu thương những người nghèo khổ… Ngài nâng cao những thân phận khiêm nhường, nhỏ mọn. Trong bài đọc I, ngôn sứ Xôphônia tiên báo Chúa sẽ đưa con cái Israel và Judah còn lại từ khắp nơi trở về để xây dựng lại quê hương và Đền Thờ trong vui mừng, giữa lúc không còn tia hy vọng nào nữa, cách nào đó họ là những người nghèo đầy tủi nhục. Trong Tin Mừng, Bà Ê-li-sa-bét nhận ra lòng khiêm tốn của người em họ, Đức Maria, đã tin vào lời của Chúa mà được phúc làm mẹ Đấng Cứu Thế.
𝟏. 𝐗𝐞𝐦
Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường, vội vã đi đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy Thánh Thần. Bà Ê-li-sa-bét kêu lớn tiếng và nói rằng : “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? Quả thật, này tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vì vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” Bấy giờ bà Ma-ri-a nói :
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới ;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn !
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời.”
Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
𝟐. 𝐗𝐞́𝐭
Trong bốn Tin Mừng, Tin Mừng của thánh Luca cho chúng ta biết nhiều nhất vào thời tơi ấu của Chúa Giê-su. Nội trong chương đầu, Ngài đã cho biết:
+ Truyền tin cho ông Dacaria (Lc 1, 5 – 25)
+ Truyền tin cho Đức Maria (Lc 1, 26 – 38)
+ Đức Maria đi thăm viếng bà Elisabeth (Lc 1, 39 – 56) với kinh Magnificat nổi tiếng. Đây là Bài Tin Mừng hôm nay.
Vào đầu, Luca viết: Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường, vội vã đi đến miền núi” để thăm chị họ là Ê-li-sa-bét. Cụm từ ‘vội vã lên miền núi’ cho chúng ta suy nghĩ gì? Tại sao phải ‘vội vã’? Chúng ta biết cô Maria vừa mang thai lại phải đi lên miền núi, từ Ga-li-lê đến miền Giu-đê-a cách nhau 160km, đoạn đường không phải ngắn so với người đi bộ đang lại còn đang mang thai. Cô Maria đến với chị họ, chắc chắn không phải để dò xét xem Sứ Thần có nói đúng không? Vì Maria luôn hằng tin ở lời Chúa như chị họ đã nói: Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” Và cũng chắc chắn không phải để khoe với chị họ mình đang mang thai Đấng Cứu Thế! Vì chính Thánh Thần xuống trên người chị họ, Ê-li-sa-bét, làm chị phát biểu ý kiến mình: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ?” Hơn nữa, Maria chỉ nhận mình là nữ tỳ hèn mọn thôi.
Nhìn cuộc viếng thăm này của Đức Maria, chúng ta thấy 2 điều:
1/ 𝐶𝑢𝑜̣̂𝑐 𝑔𝑎̣̆𝑝 𝑔𝑜̛̃ đ𝑢̛́𝑐 𝑡𝑖𝑛. Tin Mừng viết: Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào bà Ê-li-sa-bét. Đức Maria không chào ông Da-ca-ri-a, vì lúc ấy ông đang bị câm, không nói chuyện được. Chắc có lẽ D(ức Maria chỉ chào bằng cử chỉ thôi. Cuộc đối thoại đầu tiên ta thấy đầy đức tin của hai chị em. Cùng chia sẻ rạng rỡ niềm vui và những kinh nghiệm của đời sống đức tin. Đức Maria đến thăm người chị họ với mục đích giúp đỡ chị trong lúc tuổi già mà còn mang thai vất vã. Đức Maria rất hiểu tâm lý của phụ nữ mang thai cần gì, muốn gì?.
2/ 𝐶𝑢𝑜̣̂𝑐 𝑔𝑎̣̆𝑝 𝑔𝑜̛̃ 𝑔𝑖𝑢̛̃𝑎 𝑇ℎ𝑖𝑒̂𝑛 𝐶ℎ𝑢́𝑎 𝑣𝑎̀ 𝑐𝑜𝑛 𝑛𝑔𝑢̛𝑜̛̀𝑖. Cuộc viếng thăm này, không chỉ là cuộc gặp gỡ giữa hai người phụ nữ mang thai, mà còn là cuộc gặp gỡ giữa hai thai nhi, giữa Thiên Chúa và con người. Đức Maria đem Chúa Ngôi Hai đến gặp Ê-li-sa-bét và Gioan Tẩy Giả, đại diện cho con người. Hình ảnh này được diễn tả qua cảm nhận của Ê-li-sa-bét: “Quả thật, này tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vì vui sướng.” Dĩ nhiên, bà cũng hân hoan mững rỡ.
𝟑. 𝐋𝐚̀𝐦
Cuộc thăm viếng của Đức Maria mang đầy tình tương thân tương ái trong đó. Đó cũng là bài học cho chúng ta hôm nay. Chúng ta có ý thức sự bối rối, neo đơn của người khác để sẵn sàng và vội vã đến với họ không? Hay trong xã hội náo nhiệt này, chúng ta chỉ biết sống cho mình: “đèn nhà ai nấy sáng” hay “sống chết mặc bây”.
Cuộc thăm viếng của Đức Maria còn là việc mang Chúa đến cho gia đình bà Elisabeth nữa. Như xưa, Hòm Bia Thiên Chúa lưu lại 3 tháng tại nhà ông Ô-vét Ê-đom và Chúa đã ban cho gia đình ông rất nhiều phúc lộc, thì việc lưu lại 3 tháng của Đức Maria với Chúa Giêsu trong lòng cũng mang lại bình an và niềm vui cho gia đình ông Dacaria rất nhiều. Noi gương Đức Maria, chúng ta ý thức mỗi khi rước Chúa trong thánh lễ, khi ra về là chúng ta kiệu Chúa đi qua những con đường về đến nhà, luôn nở nụ cười thân thiện và tìm cách giúp đỡ những người gặp gỡ.
@ 𝐋𝐨̛̀𝐢 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝑳𝒂̣𝒚 𝑪𝒉𝒂 𝒍𝒂̀ 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒕𝒐𝒂̀𝒏 𝒏𝒂̆𝒏𝒈 𝒉𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒉𝒖̛̃𝒖, 𝒌𝒉𝒊 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑴𝒂̂̃𝒖 𝑴𝒂-𝒓𝒊-𝒂 𝒗𝒖̛̀𝒂 𝒄𝒖̛𝒖 𝒎𝒂𝒏𝒈 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑮𝒊𝒆̂-𝒔𝒖, 𝑪𝒉𝒂 đ𝒂̃ 𝒔𝒐𝒊 𝒔𝒂́𝒏𝒈 𝒄𝒉𝒐 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑴𝒂̂̃𝒖 đ𝒊 𝒕𝒉𝒂̆𝒎 𝒗𝒊𝒆̂́𝒏𝒈 𝒃𝒂̀ 𝑬̂-𝒍𝒊-𝒔𝒂-𝒃𝒆́𝒕. 𝑿𝒊𝒏 𝒄𝒉𝒐 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒉𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒎𝒂𝒖 𝒎𝒂̆́𝒏 𝒏𝒈𝒉𝒆 𝒕𝒉𝒆𝒐 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 𝒉𝒖̛𝒐̛́𝒏𝒈 𝒅𝒂̂̃𝒏, đ𝒆̂̉ đ𝒖̛𝒐̛̣𝒄 𝒄𝒖̀𝒏𝒈 Đ𝒖̛́𝒄 𝑴𝒂-𝒓𝒊-𝒂 𝒏𝒈𝒐̛̣𝒊 𝒌𝒉𝒆𝒏 𝑪𝒉𝒂 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 đ𝒐̛̀𝒊. 𝑪𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒄𝒂̂̀𝒖 𝒙𝒊𝒏 𝒏𝒉𝒐̛̀ Đ𝒖̛́𝒄 𝑮𝒊𝒆̂-𝒔𝒖 𝑲𝒊-𝒕𝒐̂, 𝑪𝒐𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒍𝒂̀ 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒗𝒂̀ 𝒍𝒂̀ 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏, 𝑵𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒉𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒔𝒐̂́𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒉𝒊𝒆̂̉𝒏 𝒕𝒓𝒊̣ 𝒄𝒖̀𝒏𝒈 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒕𝒓𝒐𝒏𝒈 𝒔𝒖̛̣ 𝒉𝒊𝒆̣̂𝒑 𝒏𝒉𝒂̂́𝒕 𝒄𝒖̉𝒂 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 đ𝒆̂́𝒏 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 đ𝒐̛̀𝒊. 𝑨𝒎𝒆𝒏.
@ 𝐓𝐢𝐞̂̉𝐮 𝐬𝐮̛̉
𝑇𝑟𝑜𝑛𝑔 𝑘ℎ𝑜𝑎̉𝑛𝑔 𝑡ℎ𝑜̛̀𝑖 𝑔𝑖𝑎𝑛 𝑔𝑖𝑢̛̃𝑎 𝑙𝑒̂̃ 𝑇𝑟𝑢𝑦𝑒̂̀𝑛 𝑇𝑖𝑛 𝑣𝑎̀ 𝑙𝑒̂̃ 𝑆𝑖𝑛ℎ 𝑁ℎ𝑎̣̂𝑡 𝑡ℎ𝑎́𝑛ℎ 𝐺𝑖𝑜-𝑎𝑛 𝑇𝑎̂̉𝑦 𝐺𝑖𝑎̉, 𝐻𝑜̣̂𝑖 𝑇ℎ𝑎́𝑛ℎ 𝑚𝑢̛̀𝑛𝑔 𝑙𝑒̂̃ Đ𝑢̛́𝑐 𝑀𝑎-𝑟𝑖-𝑎 đ𝑖 𝑡ℎ𝑎̆𝑚 𝑣𝑖𝑒̂́𝑛𝑔 𝑏𝑎̀ 𝐸̂-𝑙𝑖-𝑠𝑎-𝑏𝑒́𝑡. 𝐿𝑒̂̃ 𝑛𝑎̀𝑦 𝑚𝑢̛̀𝑛𝑔 𝑏𝑖𝑒̂́𝑛 𝑐𝑜̂́ ℎ𝑎𝑖 𝑏𝑎̀ 𝑚𝑒̣ 𝑔𝑎̣̆𝑝 𝑛ℎ𝑎𝑢, 𝑛ℎ𝑢̛𝑛𝑔 𝑛ℎ𝑎̂́𝑡 𝑙𝑎̀, 𝑚𝑢̛̀𝑛𝑔 𝐶ℎ𝑢́𝑎 𝐶𝑢̛́𝑢 𝑇ℎ𝑒̂́ 𝑡𝑟𝑜𝑛𝑔 𝑙𝑜̀𝑛𝑔 Đ𝑢̛́𝑐 𝑀𝑒̣ 𝑔𝑎̣̆𝑝 𝑔𝑜̛̃ 𝑣𝑖̣ 𝑇𝑖𝑒̂̀𝑛 𝐻𝑜̂ 𝑐𝑢̉𝑎 𝑚𝑖̀𝑛ℎ 𝑡𝑟𝑜𝑛𝑔 𝑙𝑜̀𝑛𝑔 𝑏𝑎̀ 𝐸̂-𝑙𝑖-𝑠𝑎-𝑏𝑒́𝑡. 𝐿𝑒̂̃ 𝑛𝑎̀𝑦 𝑡𝑟𝑎̀𝑛 𝑛𝑔𝑎̣̂𝑝 𝑛𝑖𝑒̂̀𝑚 𝑣𝑢𝑖 𝑐𝑢̉𝑎 𝑏𝑎̀𝑖 𝑡ℎ𝑎́𝑛ℎ 𝑐𝑎 “𝑙𝑖𝑛ℎ ℎ𝑜̂̀𝑛 𝑡𝑜̂𝑖 𝑛𝑔𝑜̛̣𝑖 𝑘ℎ𝑒𝑛 Đ𝑢̛́𝑐 𝐶ℎ𝑢́𝑎”.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝐓𝐡𝐮̛́ 𝐁𝐚̉𝐲 𝐭𝐮𝐚̂̀𝐧 𝐕𝐈𝐈𝐈 𝐓𝐍 - 𝐍𝐚̆𝐦 𝐋𝐞̉
𝐁𝐚̀𝐢 đ𝐨̣𝐜: 𝐇𝐜 𝟓𝟏, 𝟏𝟐𝐜-𝟐𝟎; 𝐌𝐜 𝟏𝟏, 𝟐𝟕-𝟑𝟑.
Khôn ngoan là một nhân đức trong 7 ơn Chúa Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận trong hai bì tích Rửa Tội và Thêm Sức. Là ơn Chúa ban, nên cần gìn giữ và thực hành, nếu không sẽ mất đi. Nhân đức Khôn ngoan giúp chúng ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng Chân Thật Hằng Hữu Đời Đời. Trong bài đọc I, tác giả Sách Huấn Ca cho độc giả những cái nhìn rất thâm sâu về Đức Khôn Ngoan: nó là một tiến trình của cả đời người, con người phải cầu nguyện mới có, con người phải thực hành những gì học được, giữ luật Thiên Chúa, và nhất là phải biết giữ tâm hồn trong sạch mới sở hữu được Đức Khôn Ngoan. Trong Tin Mừng, Đức Giê-su Đấng đầy Khôn ngoan sống cho sự thật, bảo vệ Đền thờ nơi thờ phượng Thiên Chúa.
𝟏. 𝐗𝐞𝐦
Khi ấy, Đức Giê-su và các môn đệ lại vào Giê-ru-sa-lem. Đang khi Người đi đi lại lại trong Đền Thờ, thì các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đến cùng Người và hỏi : “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy, hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy ?” Đức Giê-su đáp : “Tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi. Các ông trả lời đi, rồi tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. Vậy, phép rửa của ông Gio-an là do Trời hay do người ta ? Các ông trả lời cho tôi đi !” Họ bàn với nhau : “Nếu mình nói : ‘Do Trời’, thì ông ấy sẽ vặn lại : ‘Thế sao các ông lại không tin ông ấy ?’ Nhưng chẳng lẽ mình nói : ‘Do người ta’ ?” Họ sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gio-an thật là một ngôn sứ. Họ mới trả lời Đức Giê-su : “Chúng tôi không biết.” Đức Giê-su liền bảo họ : “Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy.”
𝟐. 𝐗𝐞́𝐭
Bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giê-su vào thanh tẩy Đền thờ, Ngài lật đổ bàn đổi tiền, xua đuổi những con buôn súc vật ra khỏi, trả lại sự yên tĩnh cho Đền Thờ. Việc làm này là đụng chạm đến các Thượng tế, Kinh sư, vì những người buôn bán không phải tự nhiên vào đó buôn bán, nếu không có được phép của họ. Thậm chí họ còn thu tiền chỗ thật cao trục lợi. Sở dĩ hôm qua họ không ra mặt, giữ im lặng là vì có thể Đức Giê-su làm thanh tẩy cách đột ngột họ không ra tay kịp, hoặc họ sợ vì dân chúng hôm ấy quá đông mà Đức Giê-su được nhiều người hâm mộ. Bằng chứng trước đó, khi Ngài vào thành dân chúng cầm lá tung hô vang dậy, lấy áo lót đường cho Ngài đi qua.
Hôm nay, nhất quyết họ gặp Đức Giê-su chất vấn: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy, hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy ?” Hai câu hỏi hốc búa không dễ trả lời. Về quyền, thật ra Đức Giê-su không có quyền gì cả. Mọi chuyện tổ chức lễ nghi trong Đền thờ là do các Thượng tế, Tư tế, Luật sĩ…Đức Giê-su đâu có chức quyền gì. Về ai là người cho quyền đó? Đây là cái bẫy, trả lời thế nào cũng có tội. Nếu nói là bở Trời, thì họ sẽ cho ông này phạm thượng; nếu nói bởi Tôi, thì rõ ràng chính Ngài phá hủy Đền thờ. Đường nào cũng thua, vì Đức Giê-su đầy khôn ngoan và chân thật, nên thay vì trả lời câu hỏi cho các ông, Ngài đặt một câu hỏi khác cho các ông. Nếu các ông trả lời được, Ngài sẽ nói cho các ông biết Ngài dùng quyền nào mà thanh tẩy Đền thờ. Câu hỏi đó là: “Vậy, phép rửa của ông Gio-an là do Trời hay do người ta ?” Các ông suy nghĩ và bàn tán với nhau: “Nếu mình nói : ‘Do Trời’, thì ông ấy sẽ vặn lại : ‘Thế sao các ông lại không tin ông ấy ?’ Nhưng chẳng lẽ mình nói : ‘Do người ta’ ?” Họ sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gio-an thật là một ngôn sứ. Họ mới trả lời Đức Giê-su : “Chúng tôi không biết.” Thế là Chúa Giê-su không cần thiết trả lời hai câu hỏi các ông chất vấn Ngài. Đây chính là dụng ý của Chúa Giêsu khi đặt cho họ câu hỏi về Phép rửa của Gioan, đó là Ngài muốn mời gọi họ sám hối và trở về với Thiên Chúa.
𝟑. 𝐋𝐚̀𝐦
Thế là Chúa Giêsu đã thoát cãi bẫy của họ quá dễ dàng. Chính vì họ không trả lời câu hỏi của Ngài đặt ra, họ cũng không xứng đáng để nghe câu trả lời của Ngài. Một lần nữa, họ phải nuốt cục giận xuống để tìm cơ hội khác. Nhưng vô tình nó đã đẩy sự căm ghét của các Thượng tế với Chúa Giêsu lên đến cực điểm và chính tại Giêrusalem này, họ đã đóng đinh Ngài.
Khi đứng trước một chân lý, khi phải đối đầu một chân lý, mọi con người trong chúng ta cần phải cúi đầu vâng phục điều đó và phải xem điều đó là cần thiết không những mang lại lợi ích riêng cho mình và còn là một mối lợi cho nhiều người khác nữa. Nếu chúng ta chối từ, hoặc bẻ cong chân lý ấy thì chính mình đã nhận lấy một sự xấu hổ ê chề mà không có lối chạy trốn vào đâu nữa; chính sự bẻ cong chân lý sẽ nhấn chìm bản thân mình và càng ngày càng trở nên tồi tệ hơn; sẽ đưa chúng ta đến tuyệt vọng.
@ 𝐋𝐨̛̀𝐢 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝑳𝒂̣𝒚 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑮𝒊𝒆̂-𝒔𝒖, 𝒉𝒐̂𝒎 𝒏𝒂𝒚 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 đ𝒂̃ 𝒌𝒊́𝒏𝒉 𝒏𝒉𝒐̛́ Đ𝒖̛́𝒄 𝑻𝒓𝒊𝒏𝒉 𝑵𝒖̛̃ 𝑴𝒂-𝒓𝒊-𝒂, 𝒗𝒂̀ 𝒅𝒂̂𝒏𝒈 𝒍𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒍𝒐̛̀𝒊 𝒄𝒂 𝒏𝒈𝒐̛̣𝒊 𝒄𝒉𝒂̂𝒏 𝒕𝒉𝒂̀𝒏𝒉, 𝒙𝒊𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒕𝒉𝒖̛𝒐̛𝒏𝒈 𝒄𝒉𝒂̂́𝒑 𝒏𝒉𝒂̣̂𝒏 𝒎𝒂̀ 𝒍𝒂̀𝒎 𝒄𝒉𝒐 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒄𝒖̃𝒏𝒈 đ𝒖̛𝒐̛̣𝒄 𝒏𝒉𝒖̛ 𝑵𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊, 𝒍𝒂̀ 𝒙𝒖̛́𝒏𝒈 đ𝒂́𝒏𝒈 𝒍𝒂̃𝒏𝒉 𝒍𝒂̂́𝒚 𝒐̛𝒏 𝒄𝒖̛́𝒖 𝒄𝒉𝒖𝒐̣̂𝒄 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒃𝒂𝒏. 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒉𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒔𝒐̂́𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒉𝒊𝒆̂̉𝒏 𝒕𝒓𝒊̣ 𝒄𝒖̀𝒏𝒈 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑪𝒉𝒂, 𝒉𝒐̛̣𝒑 𝒏𝒉𝒂̂́𝒕 𝒗𝒐̛́𝒊 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 đ𝒆̂́𝒏 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 𝒕𝒉𝒖𝒐̛̉ 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 đ𝒐̛̀𝒊. 𝑨𝒎𝒆𝒏.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝐓𝐡𝐮̛́ 𝐒𝐚́𝐮 𝐭𝐮𝐚̂̀𝐧 𝐕𝐈𝐈𝐈 - 𝐓𝐍 - 𝐍𝐚̆𝐦 𝐋𝐞̉
𝐁𝐚̀𝐢 đ𝐨̣𝐜: 𝐇𝐜 𝟒𝟒, 𝟏. 𝟗-𝟏𝟑; 𝐌𝐜 𝟏𝟏, 𝟏𝟏-𝟐𝟔.
Thiên Chúa tạo thành mọi sự tốt đẹp. Tất cả đều có mục đích nhắm tới và theo ý Ngài. Chẳng hạn, cỏ cây là để làm lương thực cho trâu bò… Trâu bò giúp con người cày bừa ruộng nương và cũng là lương thực cho con người. Con người phát triển giúp cho tha nhân hay rao truyền Tin Mừng cho họ nhận biết Thiên Chúa. Tất cả nằm trong tiến trình có mục đích theo sự quan phòng của Chúa. Như Trong bài đọc 1, tác giả Sách Huấn Ca so sánh giữa hai dòng dõi: Một bên là dòng dõi vô danh, chẳng để lại gì cho hậu thế, họ qua đi như chẳng bao giờ có mặt trong cuộc đời, và con cháu họ cũng sống cuộc đời vô nghĩa như họ vậy. Một bên là dòng dõi của những người công chính, họ biết sống theo mục đích mà Thiên Chúa đã tiền định cho họ, con cháu họ cũng biết noi gương sống cuộc đời công chính và ngay lành như họ; và cứ thế dòng dõi họ sẽ tồn tại đến muôn đời. Trong Tin Mừng, Đức Giê-su cho mọi người biết rõ mục đích của Đền thờ được xây là để cầu nguyện chứ không phải trao đổi giao dịch.
𝟏. 𝐗𝐞𝐦
Đang khi đám đông reo hò vang dậy, Đức Giê-su tiến vào Giê-ru-sa-lem và đi vào Đền Thờ. Người rảo mắt nhìn xem mọi sự, và vì giờ đã muộn, Người đi ra Bê-ta-ni-a cùng với Nhóm Mười Hai. Hôm sau, khi thầy trò rời khỏi Bê-ta-ni-a, thì Đức Giê-su cảm thấy đói. Trông thấy ở đàng xa có một cây vả tốt lá, Người đến xem có tìm được trái nào không. Nhưng khi lại gần, Người không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi, vì không phải là mùa vả. Người lên tiếng bảo cây vả : “Muôn đời sẽ chẳng còn ai ăn trái của mày nữa !” Các môn đệ đã nghe Người nói thế. Thầy trò đến Giê-ru-sa-lem. Đức Giê-su vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang mua bán trong Đền Thờ, lật bàn của những người đổi bạc, và xô ghế của những kẻ bán bồ câu. Người không cho ai được mang đồ vật gì đi qua Đền Thờ. Người giảng dạy và nói với họ : “Nào đã chẳng có lời chép rằng : Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc sao ? Thế mà các người đã biến thành sào huyệt của bọn cướp !” Các thượng tế và kinh sư nghe thấy vậy, thì tìm cách giết Đức Giê-su. Quả thế, họ sợ Người, vì cả đám đông đều rất ngạc nhiên về lời giảng dạy của Người. Chiều đến, Đức Giê-su và các môn đệ ra khỏi thành. Sáng sớm, khi đi ngang cây vả, các ngài thấy nó đã chết khô tận rễ. Ông Phê-rô sực nhớ lại, liền thưa Đức Giê-su : “Kìa Thầy xem : cây vả Thầy rủa đã chết khô rồi !” Đức Giê-su nói với các ông : “Anh em hãy tin vào Thiên Chúa. Thầy bảo thật anh em : nếu có ai nói với núi này : ‘Dời chỗ đi, nhào xuống biển !’, mà trong lòng chẳng nghi nan, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì sẽ được như ý. Vì thế, Thầy nói với anh em : tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ được như ý. Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng tha lỗi cho anh em. [Nhưng nếu anh em không tha thứ, thì Cha của anh em là Đấng ngự trên trời, cũng sẽ không tha lỗi cho anh em].”
𝟐. 𝐗𝐞́𝐭
Hôm nay chúng ta bắt đầu đọc chương 11 của Tin Mừng Mác-cô. Chương này trình bày Chúa Giê-su thực hiện sứ vụ tại Giê-ru-sa-lem. Ngài đến Giê-ru-sa-lem lần này là để chị Khổ Nạn ban ơn cứu độ. Khi gần đến thành, Ngài vào làng Bê-ta-ni-a, quê hương 3 chị em Matta, ở đây Ngài sai 2 môn đệ đến làng trước mặt kia dẫn con lừa về để Ngài cỡi lên và tiến vào thành. Người ta tung hô Ngài “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!”. Vào trong thành Ngài rảo mắt nhìn xem. Chắc chắn Ngài đã thấy cảnh bát nháo trong Đền thờ, nhưng Marcô viết: “và lúc trời đã xế chiều, Người ra về Bêtania cùng với nhóm mười hai”. Như vậy Chúa Giêsu lại ra khỏi thành Giêrusalem, về lại Bêtania để hôm sau Ngài mới thực hiện sứ vụ. Đêm ấy, chắc chắn Thầy trò ở nhà của 3 chị em Matta, những người thân của Chúa, được tiếp đãi nồng hậu.
Bài Tin mừng hôm nay (Mc 11, 11-26) bao gồm 2 trình thuật:
+ Trình thuật cây vả bị chúc dữ
+ Trình thuật Thanh tảy Đền thờ.
Cả hai trình thuật đều nói về sự nổi giận của Chúa Giêsu làm cho các môn đệ phải sửng sốt. Vì các ông chưa bao giờ thấy Ngài giận dữ như vậy. Trình thuật Thanh tảy Đền thờ được đặt xen kẽ trong trình thuật cây vả bị chúc dữ.
Điều chúng ta thắc mắc, tại sao Đức Giê-su chúc dữ cho cây vả? Ngài thừa biết chưa tới mùa trổ hoa trái làm gì có cái mà ăn. Chúa thiết định luật tự nhiên tới mùa có trái thì chắc chắn Chúa không hủy bỏ luật đó. Nhưng khi ta thấy Chúa thực hiện cuộc thanh tẩy Đền thờ ta mới hiểu tại sao Chúa chúc dữ cây vả không trổ trái trái mùa. Cây trổ trái theo mùa là đúng luật tự nhiên, còn ‘hoa trái thiêng liêng’ không chỉ theo mùa mà còn phải xuyên suốt trổ sinh. Như mạch nước từ Đền thờ chảy lai láng không dừng, nước chảy đến đâu cây cối xanh tươi, trổ hoa trái đến đó. Đền thờ là nơi cầu nguyện sinh hoa trái thiêng liêng, không phải là nơi giao dịch trao đổi buôn bán làm hoen ố Đền thờ. Điều này nhắc cho chúng ta hiểu rằng, việc sinh hoa trái thiêng liêng phải làm xuyên suốt chứ đừng theo mùa. Cứ mùa Giáng Sinh, Phục Sinh đến là lo xưng tội, tham dự thánh lễ, còn những ngày khác bỏ bê không gì cả.
𝟑. 𝐋𝐚̀𝐦
Sau khi thanh tẩy Đền thờ xong, Đức Giê-su cùng các tông đồ ra khỏi thành và trở về Bê-ta-ni-a. Như vậy, những ngày này Thầy trò ra vào thành liên tục. Sáng hôm sau, khi đi ngang cây vả, các ngài thấy nó đã chết khô tận rễ. Ông Phê-rô sực nhớ lại, liền thưa Đức Giê-su : “Kìa Thầy xem : cây vả Thầy rủa đã chết khô rồi !”. Cây vả trước đó sum xuê, tươi tốt, đầy sức sống mà giờ nó chết tận rễ. Thật khủng khiếp! Chỉ một lời của Chúa Giê-su mà thành hiện thực. Các tông đồ ngạc nhiên hết sức. Trước thái độ sửng sốt của các môn đệ, Chúa Giêsu đã ban ra lời giáo huấn cho các ông. Ngài dạy các ông: “Hãy tin vào Thiên Chúa”, tin tưởng một cách tuyệt đối. Nếu ai đã có niềm tin vững mạnh như vậy, họ có thể làm được những việc vĩ đại, ngay cả bảo một ngọn núi dời đi và gieo mình xuống biển, nó cũng làm theo. Nhưng Marcô nhấn mạnh: “Mà trong lòng không hồ nghi”, có nghĩa phải tin một cách tuyệt đối. Ngay cả trong việc cầu xin, nếu ai tin tưởng vào Thiên Chúa một cách tuyệt đối, thì họ sẽ được Thiên Chúa ban cho.
Chúng ta nên nhớ rằng, cuộc sống làm con Chúa phải luôn biết gắn bó với Chúa, làm sinh hoa trái thiêng liêng xuyên suốt không ngừng nghỉ. Đừng sống đạo theo mùa, nhưng hãy gắn bó mật thiết với Chúa từng ngày qua lời kinh, cầu nguyện, tham dự các bí tích, đặc biệt là thánh lễ để nghe Lời Chúa và đón nhận chính Chúa làm trổ hoa thiêng liêng tốt đẹp.
@ 𝐋𝐨̛̀𝐢 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝑳𝒂̣𝒚 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒍𝒂̀ 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏, 𝒙𝒊𝒏 𝒔𝒐𝒊 𝒕𝒓𝒊́ 𝒎𝒐̛̉ 𝒍𝒐̀𝒏𝒈 𝒄𝒉𝒐 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒂𝒎 𝒉𝒊𝒆̂̉𝒖 𝑲𝒊𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉, 𝒏𝒉𝒖̛ 𝒗𝒂̣̂𝒚, 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒔𝒆̃ 𝒄𝒐́ 𝒕𝒉𝒆̂̉ 𝒍𝒂̀𝒎 𝒄𝒉𝒖̛́𝒏𝒈 𝒄𝒉𝒐 𝑪𝒐𝒏 𝑴𝒐̣̂𝒕 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒍𝒂̀ Đ𝒂̂́𝒏𝒈 đ𝒂̃ 𝒄𝒉𝒆̂́𝒕 𝒗𝒊̀ 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏, 𝑵𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒍𝒂̀ 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒉𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒔𝒐̂́𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒉𝒊𝒆̂̉𝒏 𝒕𝒓𝒊̣ 𝒄𝒖̀𝒏𝒈 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒉𝒐̛̣𝒑 𝒏𝒉𝒂̂́𝒕 𝒗𝒐̛́𝒊 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 đ𝒆̂́𝒏 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 𝒕𝒉𝒖𝒐̛̉ 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 đ𝒐̛̀𝒊.
Lm.Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
Một người đàn ông đi vào tiệm hớt tóc quen thuộc để cắt tóc và cạo râu như thường lệ. Ông ta bắt đầu buôn chuyện với người thợ phục vụ cho mình. Họ nói đủ thứ chuyện trên đời, rồi vô tình họ đụng đến đề tài Chúa trời. Người thợ cắt tóc nói:
“Tôi chẳng tin trên đời này có Thượng Đế như ông đã nói”.
Người khách: “Sao ông lại nói thế?”.
“Chuyện đó cũng dễ thôi, chỉ cần ông bước ra đường là thấy ngay trên đời này chẳng có Chúa trời gì ráo. Nếu thực sự Ngài có tồn tại thì tại sao trên đời này lại có nhiều người bệnh tật như vậy? Sao còn rất nhiều trẻ em bị bỏ rơi. Nếu có Chúa, trên đời này sẽ chẳng có đau khổ. Tôi không thể nghĩ nỗi là Chúa nào lại chấp nhận nhìn những cảnh đó xảy ra”.
Người khách lặng im suy nghĩ nhưng rồi ông không nói gì vì không muốn câu chuyện trở thành cuộc khẩu chiến. Người thợ cắt tóc làm xong công việc của mình và vị khách hàng bước ra khỏi tiệm. Vừa ra ngoài ông liền nhìn thấy một người đàn ông trên đường tóc tai râu ria bù xù (như thể đã lâu lắm rồi ông ta không cắt tóc cạo râu vậy, trông rất bê bối).
Người khách liền quay lại cửa tiệm và nói với người thợ cắt tóc:
“Ông biết gì không? Trên đời này làm gì có thợ cắt tóc”.
“Sao lại không? Tôi đang ở đây và tôi là thợ cắt tóc”.
“Không hề”, vị khách trả lời: “Nếu có thợ cắt tóc thì sao vẫn còn những người tóc tai, râu ria bù xù như người đàn ông đang đi trên đường kia?”.
“À, thợ cắt tóc thì có chứ, chỉ tại những người kia không chịu đến tiệm cắt tóc mà thôi”.
“Chính xác!”. Vị khách như chỉ đợi câu nói đó. “Đó là điều mà tôi muốn nói. Thượng Đế có tồn tại, chỉ là người ta không tin và không tìm đến Ngài mà thôi. Đó là lí do vì sao trên đời này lại có nhiều khổ đau đến như vậy”.
@ 𝐒𝐮𝐲 𝐧𝐠𝐚̂̃𝐦
+ Cành nghiên cứu khoa học
Tôi càng tin vào Thượng Đế.
-Albert Einstein-
+ Khoa học mà thiếu tôn giáo thì khập khiễng
Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng.
¬-Albert Einstein-
+ Người suy nghĩ nửa với sẽ không tin vào Chúa,
Nhưng những người suy nghĩ thấu đáo sẽ phải tin vào Chúa.
-Isaac Newton-
@ 𝐂𝐚̂̀𝐮 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝐿𝑎̣𝑦 𝑀𝑒̣ 𝑀𝑎𝑟𝑖𝑎!
𝐶𝑜𝑛 𝑡𝑖𝑛 𝑐𝑜́ 𝐶ℎ𝑢́𝑎 𝑡𝑟𝑒̂𝑛 𝑐𝑎𝑜
𝐵𝑎 𝑁𝑔𝑜̂𝑖 𝐶ℎ𝑖́ 𝑇ℎ𝑎́𝑛ℎ 𝑞𝑢𝑦𝑒̂̀𝑛 𝑐𝑎𝑜 𝑛𝑔ℎ𝑖̀𝑛 𝑡𝑟𝑢̀𝑛𝑔
𝐴𝑛ℎ 𝑚𝑖𝑛ℎ 𝑠𝑎̆́𝑝 đ𝑎̣̆𝑡 𝑎𝑛 𝑏𝑎̀𝑖
𝑀𝑜̣𝑖 𝑙𝑜𝑎̀𝑖 𝑛𝑔𝑎̆𝑛 𝑛𝑎̆́𝑝 𝑡𝑢𝑦𝑒̣̂𝑡 𝑣𝑜̛̀𝑖 𝑙𝑎̀𝑚 𝑠𝑎𝑜!
𝑀𝑒̣ 𝑜̛𝑖 𝑑𝑎̣𝑦 𝑐𝑜𝑛 𝑏𝑖𝑒̂́𝑡 𝑐𝑎
𝑇𝑢̣𝑛𝑔 𝑘ℎ𝑒𝑛 𝐷𝑎𝑛ℎ 𝐶ℎ𝑢́𝑎 𝐵𝑎 𝑁𝑔𝑜̂𝑖 𝑡𝑟𝑜̣𝑛 đ𝑜̛̀𝑖
𝐿𝑜̛̀𝑖 𝑐𝑎 𝑐ℎ𝑎̂𝑛 𝑡ℎ𝑎̀𝑛ℎ đ𝑜̛𝑛 𝑠𝑜̛
Đ𝑒𝑚 𝑜̛𝑛 𝑐𝑢̛́𝑢 đ𝑜̣̂ 𝑐ℎ𝑜 𝑐𝑜𝑛 𝑠𝑜̂́𝑛𝑔 đ𝑜̛̀𝑖. 𝐴𝑚𝑒𝑛.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝐓𝐡𝐮̛́ 𝐍𝐚̆𝐦 𝐭𝐮𝐚̂̀𝐧 𝐕𝐈𝐈𝐈 - 𝐓𝐍 - 𝐍𝐚̆𝐦 𝐋𝐞̉
𝐁𝐚̀𝐢 đ𝐨̣𝐜: 𝐇𝐜 𝟒𝟐, 𝟏𝟓-𝟐𝟓; 𝐌𝐜 𝟏𝟎, 𝟒𝟔-𝟓𝟐.
Trong năm giác quan, đôi mắt là quan trọng nhất vì nó cung cấp cho trí khôn hình ảnh bên ngoài để suy luận. Đôi mắt dùng để thấy và đọc. Con người thấy những quang cảnh đẹp, những kỳ quan của vũ trụ mà ca ngợi Thiên Chúa. Như trong bài đọc 1, tác giả sách Huấn Ca dùng con mắt để chiêm ngưỡng những kỳ công Thiên Chúa tạo dựng, và dùng trí khôn để suy niệm sự quan phòng của Thiên Chúa, trước khi ông có thể tường thuật lại những gì Ngài làm để cho thế hệ tương lai được biết. Trong Tin Mừng, anh mù Bartimê đã cảm nghiệm được sự đau khổ của việc mù lòa, nên khi biết Đức Kitô đi ngang qua, anh nhất định la to lên xin chữa lành, và Ngài đã cho anh nhìn thấy.
𝟏. 𝐗𝐞𝐦
Khi ấy, Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Khi Đức Giê-su cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-khô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, anh ta tên là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê. Vừa nghe nói đó là Đức Giê-su Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng : “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !” Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng : “Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !” Đức Giê-su đứng lại và nói : “Gọi anh ta lại đây !” Người ta gọi anh mù và bảo : “Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy !” Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su. Người hỏi : “Anh muốn tôi làm gì cho anh ?” Anh mù đáp : “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.” Người nói : “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh !” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi.
𝟐. 𝐗𝐞́𝐭
Đức Giê-su đang tiến về gần Giê-ru-sa-lem để chịu Khổ Nạn. Ngài phải đi qua thành Giê-ri-khô, quê hương của chà là, cách Giê-ru-sa-lem 23km phía Đông Bắc. Vừa ra khỏi Giê-ri-khô có một người mù tên Ba-ti-mê, con ông Ti-mê, chắc trước đây anh cũng thuộc cộng đoàn nào đó, nên Mác-cô biết tên anh rõ ràng và biết cả ba của anh nữa. Có tên gọi, anh ta còn hạnh phúc hơn ông phú hộ trong câu truyện Phú hộ và Ladarô. Ông Phú hộ giàu có thật đấy, ngày ngày yến tiệc linh đình, nhưng ông không có cái mà ai cũng có, đó là cái tên gọi, như vậy ông vẫn là một người nghèo.
Chúng ta biết người mù có đôi tai rất thính. Họ có thể rót nước hay đong xăng không bao giờ để tràn ra ngoài. Anh mù Ba-ti-mê này ngồi bên vệ đường, ngoài thành Giê-ri-khô, nghe người qua lại ồn ào và anh biết Đức Giê-su đang đi ngang qua đây. Đây là cơ hội mà anh hằng mong đợi để được chữa lành. Anh biết và tin chỉ có Đức Giê-su mới chữa được chứ không ai khác. Anh liền thốt lên: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !” Anh kêu tên Giê-su và còn tuyên xưng niềm tin của mình vào Ngài “Con vua Đa-vít”, một danh xưng mà trong Kinh Thánh đã nói đến: ‘Đấng Mê-si-a sẽ đến và xuất thân từ dòng dõi Đa-vít’. Ở đó có nhiều người bắt anh phải im đi. Họ ngăn cản anh không được phép lớn tiếng. Thời nào cũng có những hàng rào ngăn cản lối đi của người nghèo, bệnh tật cả. Đây cũng là điều thử thách đức tin của anh mù Ba-ti-mê này. Anh không chùn bước, không im lặng, anh lớn tiếng hơn “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi !”
Đức Giê-su dừng lại. Ngài cắt bước tiến cùng với mọi người trên một con đường tiến về Giê-ru-sa-lem, để quan tâm phục vụ người khổ hạnh. Ngài bảo các môn đệ dẫn anh mù đến, thực hành bác ái cho người khổ đau ngay lúc đang tiến về Giê-ru-sa-lem thực hiện ơn cứu chuộc. Thật là ý nghĩa và là bài học sâu xa cho các môn đệ.
𝟑. 𝐋𝐚̀𝐦
Chúa Giê-su biết anh mù cần gì, nhưng Ngài vẫn hỏi anh”Anh muốn tôi làm gì cho anh?”, nghĩa là Chúa Giê-su muốn anh nói lên điều mình muốn, nói lên suy nghĩ của mình. Ngài không cấm anh nói, không cản bước anh. Sau khi anh mù nói lên điều ước muốn “Thưa Thầy, xin cho tôi được thấy” và Chúa cho anh thấy mà không đụng chạm đến anh, vì lòng tin của anh vào Chúa rất tuyệt đối. Thế rồi, khi được sáng mắt, anh đi theo Đức Giê-su trên đường Người đi. Từ nay, anh luôn hằng ca tụng Chúa.
Câu nói của anh mù “Thưa Thầy, xin cho tôi thấy được” đáng để cho chúng ta suy nghĩ. Đó cũng là lời nguyện xin của chúng ta mỗi ngày. Xin Chúa mở mắt cho chúng ta thấy những vẻ đẹp của thiên nhiên mà ca tụng Chúa; thấy được những yếu đuối mỏng giòn của kiếp người mà biết chạy đến cùng Chúa van xin phù trợ; thấy được những điều hạnh phúc mà Chúa quan phòng cho mình.
@ 𝐋𝐨̛̀𝐢 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝑳𝒂̣𝒚 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒙𝒊𝒏 𝒕𝒖𝒐̂𝒏 đ𝒐̂̉ 𝒉𝒐̂̀𝒏𝒈 𝒂̂𝒏 𝒕𝒓𝒆̂𝒏 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒍𝒂̀ 𝒏𝒉𝒖̛̃𝒏𝒈 𝒏𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 đ𝒂𝒏𝒈 𝒌𝒆̂𝒖 𝒄𝒂̂̀𝒖 𝑪𝒉𝒖́𝒂. 𝑵𝒉𝒐̛̀ 𝒐̛𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒕𝒓𝒐̛̣ 𝒍𝒖̛̣𝒄, 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒔𝒆̃ 𝒕𝒖𝒂̂𝒏 𝒉𝒂̀𝒏𝒉 𝒏𝒉𝒖̛̃𝒏𝒈 𝒎𝒆̣̂𝒏𝒉 𝒍𝒆̣̂𝒏𝒉 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒃𝒂𝒏, đ𝒆̂̉ 𝒏𝒉𝒐̛̀ đ𝒐́ 𝒎𝒂̀ 𝒕𝒊̀𝒎 đ𝒖̛𝒐̛̣𝒄 𝒉𝒂̣𝒏𝒉 𝒑𝒉𝒖́𝒄 𝒐̛̉ đ𝒐̛̀𝒊 𝒏𝒂̀𝒚, 𝒗𝒂̀ đ𝒐̛̀𝒊 𝒔𝒂𝒖 𝒍𝒂̣𝒊 đ𝒖̛𝒐̛̣𝒄 𝒉𝒖̛𝒐̛̉𝒏𝒈 𝒏𝒊𝒆̂̀𝒎 𝒗𝒖𝒊 𝒃𝒂̂́𝒕 𝒕𝒂̣̂𝒏. 𝑪𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒄𝒂̂̀𝒖 𝒙𝒊𝒏 𝒏𝒉𝒐̛̀ Đ𝒖̛́𝒄 𝑮𝒊𝒆̂-𝒔𝒖 𝑲𝒊-𝒕𝒐̂, 𝑪𝒐𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒍𝒂̀ 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒗𝒂̀ 𝒍𝒂̀ 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏, 𝑵𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒉𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒔𝒐̂́𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒉𝒊𝒆̂̉𝒏 𝒕𝒓𝒊̣ 𝒄𝒖̀𝒏𝒈 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒕𝒓𝒐𝒏𝒈 𝒔𝒖̛̣ 𝒉𝒊𝒆̣̂𝒑 𝒏𝒉𝒂̂́𝒕 𝒄𝒖̉𝒂 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 đ𝒆̂́𝒏 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 đ𝒐̛̀𝒊. 𝑨𝒎𝒆𝒏.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
𝐓𝐡𝐮̛́ 𝐓𝐮̛ 𝐭𝐮𝐚̂̀𝐧 𝐕𝐈𝐈𝐈 - 𝐓𝐍 - 𝐍𝐚̆𝐦 𝐋𝐞̉
𝐁𝐚̀𝐢 đ𝐨̣𝐜: 𝐇𝐜 𝟑𝟔, 𝟏, 𝟒-𝟓𝐚. 𝟏𝟎-𝟏𝟕; 𝐌𝐜 𝟏𝟎, 𝟑𝟐-𝟒𝟓.
Không thể nào so sánh giữa tình yêu Chúa và tình yêu con người được. Vì tình yêu Chúa vô biên, lai láng tràn đầy, vô vị lợi; trong khi tình yêu con người ích kỷ, có ngần có hạn, yêu bản thân nhiều hơn. Thực tế, chúng ta thấy con người được nhận biết bao hồng ân của Chúa qua sáng tạo, quan phòng, cứu chuộc. Tình yêu Chúa bao phủ con người và vũ trụ vạn vật. Trong bài đọc 1, tác giả sách Huấn Ca nhìn nhận tình yêu lớn lao của Chúa, không có Chúa nào khác, đã làm cho Dân Chúa lớn lên mỗi ngày. Tác giả van xin Chúa tiếp tục trãi rộng tình yêu trên Dân mãm mãi. Trong Tin Mừng, hai con ông Dê-bê-đê phũ phàng không nhận ra tình yêu của Thầy, cảm thông với Thầy, mà còn xin Thầy được ở những vị trí cao trong Nước Thầy.
𝟏. 𝐗𝐞𝐦
Khi ấy, Đức Giê-su và các môn đệ đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Người dẫn đầu các ông. Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình : “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người, và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại.” Hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an đến gần Đức Giê-su và nói : “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” Người hỏi : “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì ?” Các ông thưa : “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” Đức Giê-su bảo : “Các anh không biết các anh xin gì ! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không ?” Các ông đáp : “Thưa được.” Đức Giê-su bảo : “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống ; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được.” Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an. Đức Giê-su gọi các ông lại và nói : “Anh em biết : những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy : ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em ; ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến, không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”
𝟐. 𝐗𝐞́𝐭
Chúa Giê-su và các môn đệ đang tiến về Giê-ru-sa-lem chịu Khổ Nạn. Mác-cô viết rõ: Đức Giê-su đi đầu, mọi người theo sau trong tâm trạng kinh hoàng và sợ hãi. Chắc có lẽ khi viết bài Tin Mừng này, Mác-cô chứng kiến cảnh bách hại đạo của đế quốc La Mã bấy giờ. Ông cảm thấy Đức Giê-su vẫn đi đầu, còn mọi tín hữu sợ hãi.
Trên đường đi, Đức Giê-su kéo nhóm Mười Hai riêng ra và báo lần thứ ba cho các ông biết về cuộc Khổ Nạn của mình: “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người, và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại.”
Đức Giê-su cho các ông biết trước cuộc Khổ Nạn sẽ qua hai bước: bước thứ nhất, Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người. Như thế cái chế của Đức Giê-su là do chính người Do thái gây ra chứ không ai khác. Họ đồng tâm hiệp lực loại trừ Đức Giê-su bằng kết án tử; bước thứ hai, họ giao nộp Đức Giê-su cho dân ngoại, ở đây chính là tổng trấn Phi-la-tô đại diện cho hoàng đế Rô-ma cai trị đất nước Do thái. Người Do thái không có quyền ra lệnh tử hình cho bất cứ ai, chỉ có người Rô-ma có quyền đó. Vì vậy Thượng Hội Đồng Do thái đưa Đức Giê-su đến Phi-la-tô quyết định. Cả 3 lần loan báo về cuộc Khổ Nạn, Đức Giê-su cũng đều kết thúc “Ba ngày sau, Người sẽ sống lại”. Đây là niềm vui chiến thắng sự chết và tội lỗi của Chúa Giê-su. Cái chết của Ngài không phải là một thất bại hoàn toàn, Ngài sẽ Phục Sinh và làm cho những kẻ tin vào Ngài tràn đầy hy vọng.
Sau lời loan báo lần thứ ba về cuộc Khổ Nạn, bầu khí buồn đau chưa hết lại xảy ra chuyện vô duyên là hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gioan xin Đức Giê-su ngồi bên tả bên hữu Thầy trong Nước Thầy. Đức Giê-su chắc chắn buồn vì các ông chẳng hiểu vấn đề gì cả. Nếu hai ông xin đi theo Thầy để cảm thông chia sẻ cuộc Thương Khó với Thầy thì hay quá, đàng này giành chức giành ghế, chứng tỏ hai ông quá tham vọng’. Đâu phải chỉ có hai ông mà cả 10 người còn lại cũng đầy tính ‘tham-sân-si’ ganh tức.
Thấy vậy, Đức Giê-su vẫn điềm tĩnh dạy cho các ông bài học khiêm nhường phục vụ “Anh em biết : những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy : ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em ; ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ mọi người.” Trong Nước Chúa, không có chức quyền gì cả, nếu có là để phục vụ chứ không thống trị. Và Đức Giê-su lấy chính mình làm gương cho các ông “Vì Con Người đến, không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”
𝟑. 𝐋𝐚̀𝐦
Tình yêu của Chúa thật lớn lao, trãi dài trãi rộng, cao vút và thẳm sâu, luôn tuôn đổ trên con người và các thụ tạo. Tình yêu của Chúa luôn phong phú và tiến triển không ngừng để đem hạnh phúc cho mọi loài thọ tạo. Vì vậy, chúng ta đừng đòi hỏi Ngài điều gì, ngoài cố gắng cảm nghiệm được tình yêu của Ngài và sống trọn vai trò môn đệ.
“Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ.” Đó là tiêu chí của người môn đệ đích thực, không có con đường nào khác! Phải quyết định lựa chọn dứt khoát: “có” hoặc “không”, không được phép “hồi có – hồi không” hoặc thỏa hiệp bắt cá hai tay. Phục vụ không phải là những mỹ từ để hô hào, quảng cáo mà phải là cuộc sống thực như Chúa đã giảng dạy phải “rửa chân cho nhau”, và đã thực hiện bằng việc “chịu đóng đinh thập giá”; có thế mới cứu độ được thế giới. Chúa cũng hỏi chúng ta: “Con có uống nổi chén đắng mà Thầy sắp uống đây không?” Bạn hãy trả lời cho Chúa đi.
@ 𝐋𝐨̛̀𝐢 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝑳𝒂̣𝒚 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒍𝒂̀ 𝑪𝒉𝒂 𝒄𝒉𝒊́ 𝒕𝒉𝒂́𝒏𝒉, 𝒍𝒂̀ 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒕𝒓𝒖𝒏𝒈 𝒕𝒉𝒂̀𝒏𝒉, 𝑪𝒉𝒖́𝒂 đ𝒂̃ 𝒈𝒊𝒖̛̃ 𝒍𝒐̛̀𝒊 𝒉𝒖̛́𝒂 𝒎𝒂̀ 𝒔𝒂𝒊 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 đ𝒆̂́𝒏 𝒒𝒖𝒚 𝒕𝒖̣ 𝒏𝒉𝒖̛̃𝒏𝒈 𝒏𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 đ𝒂̃ 𝒃𝒊̣ 𝒕𝒐̣̂𝒊 𝒍𝒐̂̃𝒊 𝒍𝒂̀𝒎 𝒍𝒚 𝒕𝒂́𝒏, 𝒙𝒊𝒏 𝒃𝒊𝒆̂́𝒏 đ𝒐̂̉𝒊 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒕𝒉𝒂̀𝒏𝒉 𝒏𝒉𝒖̛̃𝒏𝒈 𝒏𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒌𝒊𝒆̂́𝒏 𝒕𝒂̣𝒐 𝒉𝒐̛̣𝒑 𝒏𝒉𝒂̂́𝒕 𝒗𝒂̀ 𝒉𝒐𝒂̀ 𝒃𝒊̀𝒏𝒉. 𝑪𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏 𝒄𝒂̂̀𝒖 𝒙𝒊𝒏 𝒏𝒉𝒐̛̀ Đ𝒖̛́𝒄 𝑮𝒊𝒆̂-𝒔𝒖 𝑲𝒊-𝒕𝒐̂, 𝑪𝒐𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒍𝒂̀ 𝑻𝒉𝒊𝒆̂𝒏 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒗𝒂̀ 𝒍𝒂̀ 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝒄𝒉𝒖́𝒏𝒈 𝒄𝒐𝒏, 𝑵𝒈𝒖̛𝒐̛̀𝒊 𝒉𝒂̆̀𝒏𝒈 𝒔𝒐̂́𝒏𝒈 𝒗𝒂̀ 𝒉𝒊𝒆̂̉𝒏 𝒕𝒓𝒊̣ 𝒄𝒖̀𝒏𝒈 𝑪𝒉𝒖́𝒂, 𝒕𝒓𝒐𝒏𝒈 𝒔𝒖̛̣ 𝒉𝒊𝒆̣̂𝒑 𝒏𝒉𝒂̂́𝒕 𝒄𝒖̉𝒂 𝑪𝒉𝒖́𝒂 𝑻𝒉𝒂́𝒏𝒉 𝑻𝒉𝒂̂̀𝒏 đ𝒆̂́𝒏 𝒎𝒖𝒐̂𝒏 đ𝒐̛̀𝒊. 𝑨𝒎𝒆𝒏.
Lm. Nhan Quang
- Viết bởi Lm. Nhan Quang
Tôi va phải một người lạ trên phố khi người này đi qua. “Ồ xin lỗi”, tôi nói. Người kia trả lời: “Cũng xin thứ lỗi cho tôi, tôi đã không nhìn cô”. Chúng tôi rất lịch sự với nhau. Nhưng ở nhà thì mọi chuyện lại khác. Tối nọ, lúc tôi đang nấu bếp thì cậu con trai đến đứng sau lưng. Tôi quay người và đụng vào thằng bé làm nó ngã chúi xuống sàn nhà.”Tránh ra chỗ khác”- tôi cau mày nói. Con trai tôi bước đi, trái tim bé nhỏ của nó vỡ tan. Tôi đã không nhận ra là mình đã quá nóng nảy.
Khi đã lên giường, tôi nghe một giọng nói thì thầm: “Khi đối xử với người lạ con rất lịch sự, nhưng với con mình con đã không làm như vậy. Hãy đến tìm trên sàn nhà bếp, có những bông hoa đang nằm ở cửa. Đó là những bông hoa mà con trai con đã mang đến cho con. Tự nó hái lấy những bông hoa này: nào hoa hồng, màu vàng và cả màu xanh. Nó đã yên lặng đứng đó để mang lại cho con điều ngạc nhiên, còn con thì không bao giờ thấy những giọt nước mắt đã chảy đẫm lên trái tim bé nhỏ của nó”.
Lúc này thì tôi bật khóc. Tôi lặng lẽ đến bên giường con trai và quì xuống: “Dậy đi, con trai bé nhỏ, dậy đi. Có phải những bông hoa này con hái cho mẹ không?”. Thằng bé mỉm cười: ”Con tìm thấy chúng ở trên cây kia. Con hái cho mẹ vì chúng đẹp như mẹ. Con biết là mẹ thích lắm, đặc biệt là bông hoa màu xanh”.
Thế bạn có biết từ family có nghĩa là gì không?
FAMILY = Father And Mother, I Love You!
@ 𝐒𝐮𝐲 𝐧𝐠𝐚̂̃𝐦
+ Gia đình là nơi tốt nhất mà bạn tìm về với bình yên,
Là nơi có thể giúp bạn nghỉ ngơi khi vấp ngã,
Là nơi yêu thương mà không cần điều kiện,
Là nơi có cuộc sống tốt nhất để tạo nên vỏ bọc bảo vệ.
+ Không gia đình nào hoàn hảo…
Vẫn có cải vã, vẫn có chiến tranh,
Thậm chí là một sự lạnh lùng trong một thời gian dài,
Nhưng cho đến cuối cùng gia đình vẫn là gia đình…
Nơi tình yêu luôn luôn hiện hữu.
Hãy lấp đầy một ngôi nhà bằng tình yêu
Nó sẽ trở thành gia đình.
+ Có một nơi để về, đó là nhà.
Có những người để yêu thương, đó là gia đình.
Có được cả hai, đó là hạnh phúc.
@ 𝐂𝐚̂̀𝐮 𝐧𝐠𝐮𝐲𝐞̣̂𝐧
𝐿𝑎̣𝑦 𝑀𝑒̣ 𝑀𝑎𝑟𝑖𝑎!
𝑋𝑖𝑛 𝑀𝑒̣ 𝑐ℎ𝑢́𝑐 𝑙𝑎̀𝑛ℎ 𝑡𝑜̂̉ 𝑎̂́𝑚 𝑐𝑜𝑛
𝐺𝑖𝑎 đ𝑖̀𝑛ℎ đ𝑢̀𝑚 𝑏𝑜̣𝑐 𝑚𝑒̂́𝑛 𝑡ℎ𝑢̛𝑜̛𝑛𝑔 𝑛ℎ𝑎𝑢
𝐶𝑢̀𝑛𝑔 𝑛ℎ𝑎𝑢 𝑡𝑎𝑦 𝑛𝑎̆́𝑚 𝑡𝑟𝑜̣𝑛 đ𝑜̛̀𝑖 đ𝑖
𝐷𝑢̀ 𝑐𝑜́ 𝑔𝑖𝑎𝑛 𝑛𝑎𝑛 𝑘ℎ𝑜̂𝑛𝑔 𝑛𝑔𝑎̣𝑖 𝑔𝑖̀.
𝐶ℎ𝑢́𝑎 𝑏𝑎𝑛 𝑜̛𝑛 𝑀𝑒̣ 𝑐𝑢̀𝑛𝑔 𝑡ℎ𝑒̂𝑚 𝑠𝑢̛́𝑐
𝑇ℎ𝑒̂̉ ℎ𝑖𝑒̣̂𝑛 𝑦𝑒̂𝑢 𝑡ℎ𝑢̛𝑜̛𝑛𝑔 𝑐ℎ𝑎̆𝑚 𝑠𝑜́𝑐 𝑛ℎ𝑎𝑢
𝑉𝑢𝑖 𝑣𝑒̉ ℎ𝑎̂𝑛 ℎ𝑜𝑎𝑛 𝑡𝑟𝑜𝑛𝑔 𝑛𝑔𝑢𝑦𝑒̣̂𝑛 𝑐𝑎̂̀𝑢
𝑇ℎ𝑎́𝑛ℎ 𝑎̂𝑛 𝑝ℎ𝑢̉ 𝑙𝑎̂́𝑦 𝑝ℎ𝑢́𝑐 𝑔𝑖𝑎 đ𝑖̀𝑛ℎ. 𝐴𝑚𝑒𝑛.
Lm. Nhan Quang