Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
01/02 Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai
- Viết bởi Mc 5, 21-43
Thứ Ba: Mt 6, 25-34
Thứ Ba 01/02/2022 – Phó thác cho Chúa của mùa xuân.
01/02 – Thứ Ba tuần 4 thường niên.
MỒNG MỘT TẾT NHÂM DẦN. CẦU BÌNH AN CHO NĂM MỚI.
"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".
Lời Chúa: Mt 6,25-34
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con. Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?
Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư?
Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đóa hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin? Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì, hoặc sẽ lấy gì mà mặc?"
Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó.
Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Đừng lo lắng gì cả (Mc 6, 25-34)--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy niệm:
Ngày Tết báo hiệu một năm cũ đã qua và một năm mới đang đến.
Chúng ta cần nhìn lại một năm qua với cái nhìn của Chúa
để thấy tất cả là hồng ân,
kể cả những gì người đời coi là xui xẻo, bất hạnh.
Chúa đã cho chúng ta sống thêm một thời gian, thêm một năm trên đời.
Chúng ta nhận ra thời gian một ngày nhờ mặt trời mọc lên rồi lặn xuống.
Nhà nông nhận ra thời gian một tháng nhờ mặt trăng tròn rồi lại khuyết.
Tạ ơn Chúa vì hai nguồn sáng quý báu như vậy trên bầu trời.
Thời gian theo Kitô giáo không đi theo đường xoắn ốc, nhưng theo đường thẳng.
Thời điểm nào cũng là duy nhất, đi rồi không trở lại, nên rất đáng quý.
Con Thiên Chúa làm người đã đằm mình trong dòng thời gian như ta.
Nhờ Ngài, dòng thời gian này sẽ đưa ta vào vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Ngày Tết người ta thường hay chúc nhau.
Chúc sức khỏe, chúc làm ăn phát đạt, chúc mọi sự như ý…
Chúng ta có thể học được một cách chúc rất đẹp trong sách Dân Số (6, 22-27).
Đức Chúa chỉ dạy cho ông Môsê
để ông này chỉ lại cho ông tư tế Aaron biết cách chúc lành cho dân.
Có ba lời chúc, mỗi lời đều bắt đầu bằng chủ từ là Đức Chúa:
“Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em.
Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em.
Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn anh em và ban bình an cho anh em.”
Ơn bình an là ơn bao gồm mọi ơn về sức khỏe, sống lâu, an ninh, thịnh vượng…
Rốt cuộc chính Đức Chúa mới là Đấng chúc lành cho dân Israel (c. 27).
Chính Đức Chúa đóng ấn Danh của Ngài trên họ để bảo trợ họ.
Và hôm nay chính Ngài cũng ban muôn ơn cho ta nhờ Danh Đức Giêsu.
Trước thềm Năm Mới, con người không tránh khỏi nỗi lo về tương lai.
Có nhiều nỗi lo rất hữu lý, vì khó khăn trước mắt là có thật.
Có nhiều nỗi lo âu chỉ vì con người thấy mình quá đỗi mong manh.
Nỗi lo quấn lấy con người và làm tâm con người không yên.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu bốn lần nhắc chúng ta “Đừng lo.”
Nếu Kitô hữu không bị quay quắt vì lo âu
thì không phải vì họ là người vô lo, hay vì họ tự tin, giỏi giang hơn người khác.
Đơn giản chỉ vì họ có một Người Cha quan tâm đến mọi nhu cầu của họ.
Kitô hữu tận tụy hết mình cho công việc, nhưng lại không bất an, lo âu.
Tín thác như một đứa con ngồi trong lòng cha,
họ đặt vinh quang Thiên Chúa lên trên hết,
và tin mọi sự khác sẽ được Ngài lo liệu.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
Cha đã cho chúng con sống thêm một năm,
đi thêm một đoạn đường đời.
Nhìn lại đoạn đường đã qua,
chúng con chỉ biết nói lên lời tạ ơn chân thành,
vì Cha vẫn cho chúng con sống,
và sống trong tình yêu.
Mọi biến cố vui buồn của năm qua
đều là những lời mời gọi kín đáo của Cha
để thức tỉnh, nâng đỡ và đưa chúng con lên cao.
Tạ ơn Cha
vì những gì cuộc đời đã làm cho chúng con,
và những gì chúng con đã làm được cho cuộc đời.
Xin cho chúng con sống những ngày Tết dân tộc
trong tinh thần vui tươi, hòa nhã,
và không quên những ai nghèo khổ, cô đơn.
Ước gì những lời chúng con chúc cho nhau
là những lời chúc lành
xuất phát từ trái tim yêu thương.
Và lạy Cha, năm mới đã đến,
trái đất lại xoay một vòng mới quanh mặt trời,
chúng con cũng muốn
ở lại trong quỹ đạo của Cha,
nhận Cha là trung tâm cuộc sống,
và nhận mọi người là anh em. Amen.
2. Xin dạy con biết tìm kiếm Nước Chúa--Mt 6,25-34--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Người Kitô hữu không được quá lo lắng về cuộc sống vật chất vì tin tưởng nơi Thiên Chúa là Cha Toàn Năng và đầy yêu thương. Với niềm tin ấy, người Kitô hữu chu toàn bổn phận hằng ngày và quy hướng tất cả cuộc sống về Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, bước vào năm mới, chúng con quây quần bên nhau lúc này để chung tiếng dâng lời tạ ơn Chúa. Một năm đã qua với bao nhiêu hồng ân Chúa tuôn đổ trên con, trên gia đình con, trên cộng đoàn giáo xứ và trên đất nước Việt Nam thân yêu. Và giờ đây, một năm mới lại đến. Ngày qua tháng lại, năm này nối tiếp năm kia, cuộc đời con là một chuỗi hồng ân Chúa. Thời gian Chúa ban là thời gian của tình yêu. Con hết lòng cảm tạ Chúa.
Trước thềm năm mới, con hết lòng vui sướng. Nhưng lạy Chúa, chắc chắn Chúa cũng nhìn thấu suốt cả những lo lắng của con nữa. Một năm mới mở ra cũng là một năm với nhiều vất vả mới, khó khăn mới, gian khổ mới, âu lo mới. Tất cả đang chờ đợi con. Cuộc sống hằng ngày càng khó khăn phức tạp đặt ra cho con bao nỗi ưu tư lo lắng về cuộc sống ngày mai.
Lạy Chúa, con tin Chúa là Cha của con, Chúa là Cha đầy quyền năng và yêu thương. Chúa luôn quan phòng ban cho con những gì cần thiết cho cuộc sống. Con xin phó thác cho Chúa bản thân con, gia đình con, quê hương con. Xin Chúa ban bình an cho chúng con, bình an bên ngoài và nhất là bình an nội tâm. Con xin dâng lên Chúa cuộc sống con. Xin Chúa luôn ở bên con và nâng đỡ con. Con sẽ cố gắng chu toàn bổn phận hằng ngày để cuộc đời mỗi ngày một thêm tốt đẹp hơn. Nhưng trước hết, xin dạy con biết tìm kiếm Nước Chúa, xin Chúa chúc lành cho chúng con. Amen.
Ghi nhớ: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy”.
3. Xin ơn bình an--GM. Gioan Baotixita Bùi Tuần
Để mừng Xuân mới, theo thông lệ, tôi xin Chúa ban cho đại gia đình chúng ta một Lộc thánh.
Lộc thánh nói đây là Lời Chúa. Lời Chúa sẽ mang lại cho ta nguồn ánh sáng và hy vọng. Đó là lợi lộc tốt nhất cho hành trình cuộc sống ta trong năm mới.
Vậy, Lộc thánh mà Chúa gởi chung cho chúng ta đầu năm nay là Lời nào của Chúa? Thưa là lời Chúa Giêsu đã chào chúc các môn đệ yêu dấu của Người chiều Phục sinh. Lời đó là: “Bình an cho các con” (Ga 20,20).
Theo tôi, bình an là điều mà chúng ta luôn rất cần. Bình an là món quà tặng quý nhất cho mọi hoàn cảnh đời ta.
Nhưng, để lời chào chúc bình an của Chúa trở thành một mùa Xuân thiêng liêng thực sự cho ta, ta nên đón nhận ý Chúa đi liền với ơn bình an.
Ý Chúa là thế này:
Ngay sau lời chào chúc bình an cho các môn đệ, Chúa Giêsu đã thân mật truyền đạt rõ ràng quyết định của Người: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21).
Như vậy, ơn bình an luôn gắn liền với ơn gọi sai đi. Phải sống đúng ơn gọi sai đi, mới đón nhận được ơn bình an. Xin nói ngay rằng: Mọi người chúng ta, ai cũng được Chúa sai đi. Sai vào đời. Sai vào nơi mình ở và làm việc. Sai vào lịch sử của Đất Nước và của Hội Thánh đang cưu mang mình.
Chúa sai ta đi để làm gì? Chúa phán: “Các con hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,15). Tin Mừng Chúa bảo chúng ta loan báo là “Sám hối, để được ơn tha tội” (Lc 24,53), và đi theo Người “là đường, là sự thực và là sự sống” (Ga 14,6) hầu được về với “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8).
Chúng ta loan báo Tin Mừng đó ít ra bằng cách chúng ta thực hiện Tin Mừng đó nơi bản thân ta. Nếu ta hiểu ơn gọi là như vậy, thì, ngay ngày đầu năm, ta đã có một cái nhìn đúng về hướng đi đời ta trong năm Ất Dậu này.
Năm Ất Dậu này, cho dù đang được mở đầu với những vẻ đẹp huy hoàng và với những hứa hẹn tốt, nó vẫn không che giấu được nhiều băn khoăn, nhiều lo lắng, nhiều trăn trở của biết bao người, nhất là của những người thiện tâm, thiện chí.
Thực tế cho thấy:
Có những cái mong manh bên cạnh những cái ổn định. Những mối đe doạ sát liền với những thành công. Những cái ta tự chọn có thể bị lung lay và tan vỡ bởi những gì vượt khỏi ý muốn và khả năng của ta.
Trên đây là chút nhìn xa. Không bi quan, nhưng là sự thực. Nhận thức sự thực này, để biết sống ơn gọi của mình, theo thánh ý Chúa, đó là cách ta đón nhận ơn bình an của Chúa. Một sự bình an không đồng nghĩa với nghỉ ngơi, nhưng là phấn đấu, là làm việc, là tin cậy, theo ơn gọi của mình. Chúa Giêsu phán: “Như Cha Thầy luôn làm việc, thì Thầy cũng luôn làm việc” (Ga 5,17). Chúng ta cũng làm việc và phấn đấu, trong thánh ý Chúa như vậy.
Với vài tâm tình trên đây, tôi xin cùng với Đức Cha Cố Micae và Đức Cha Giuse Giám mục giáo phận xin tha thiết cầu chúc anh chị em một năm mới đầy bình an của Chúa.
4. Đầu năm tạ ơn và khám phá--GM. Gioan Baotixita Bùi Tuần
Đầu năm là mốc thời gian trọng đại. Dịp này, con cái Chúa hướng lòng về Cha trên trời. Một việc không thể thiếu là tạ ơn Cha.
Trong tâm tình tạ ơn thường có cảm nhận tình thương của Chúa. Cảm nhận sẽ trở thành khám phá, khi linh hồn được đưa vào một cõi tình yêu mênh mông êm đềm, mà Chúa dành riêng cho họ.
1/ Bài học tạ ơn và khám phá
Khám phá riêng tư ấy không luôn xảy ra trong việc tạ ơn. Khám phá đó là do Chúa ban. Không phải bất cứ ai cũng được ơn riêng ấy. Vậy những người được Chúa ban ơn đặc biệt đó là ai? Chúng ta tìm được câu đáp ở lời sau đây của Chúa Giêsu: “Ngay giờ ấy, được Thánh Thần thúc đẩy, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói: ‘Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha’” (Lc 10,21).
Như vậy, những người được Chúa ban ơn khám phá thấy tình xót thương Chúa chính là những kẻ bé mọn.
Để hiểu thế nào là kẻ bé mọn, mà Chúa Giêsu đề cao ở đây, trước hết chúng ta nên đọc lại đoạn Phúc Âm sau đây:
“Nhóm Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: ‘Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng phải khuất phục chúng con’, Chúa Giêsu bảo các ông: ‘Thầy đã thấy Satan như một tia chớp từ trời sa xuống. Đây, Thầy đã ban cho anh em quyền năng để đạp trên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có gì làm hại được anh em. Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời’” (Lc 10,17-20).
Đoạn Phúc Âm trên đây cho chúng ta thấy: Những kẻ bé mọn Chúa Giêsu muốn đề cao chính là nhóm Bảy Mươi Hai.
Họ đã được Chúa sai đi.
Họ đã đến với những người nghèo hèn, cùng khổ, để tiếp cận, để cứu giúp, để loan báo Tin Mừng, để giúp sám hối, để xua đuổi quỷ dữ.
Họ làm những việc bác ái đó nhân danh Chúa Giêsu với nhận thức tự mình chẳng có gì.
Đang khi họ vui mừng vì những thành công đó, Chúa Giêsu đã cho họ khám phá thấy tình xót thương Chúa dành cho họ còn cao quý hơn nhiều, đó là tên họ được ghi trên trời.
Nói tóm lại, nhóm Bảy Mươi Hai được Chúa Giêsu gọi là những kẻ bé mọn, vì hai lý do:
Họ đã đến với những kẻ nghèo hèn, cùng khổ, để cứu giúp và chia sẻ. Họ khiêm tốn trở thành bé mọn với bất cứ kẻ bé mọn nào.
Họ khiêm tốn nhận mình đã cho đi những gì mình đã nhận từ lòng xót thương Chúa. Họ chỉ làm theo ý Chúa và nhân danh Chúa, Đấng đã sai họ đi. Họ luôn bé mọn, nghèo khó.
Chúa dạy họ không nên vui vì những thành công trước mắt, nhưng hãy vui vì phần thưởng cao quý Chúa dành riêng cho họ, đó là tên họ được ghi trên trời. Nghĩa là họ được Chúa cứu độ, được Chúa thánh hoá, được Chúa tuyển chọn. Khám phá đó sẽ cho họ thấy tình thương Chúa là vô biên, vô bờ, đem lại cho họ sự bình an và hạnh phúc đời đời, không gì sánh kịp.
Chúa Giêsu đã hớn hở vui mừng tạ ơn Đức Chúa Cha, vì những lạ lùng đã xảy ra cho những kẻ bé mọn. “Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì… đã mạc khải những điều này cho những kẻ bé mọn”
2/ Thực hiện bài học tạ ơn và khám phá
Những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm trên đây, nên được coi là bài học quý giá cho chúng ta mọi ngày, nhất là những dịp tạ ơn Chúa. Bài học đó có thể thực hiện bằng những việc sau đây:
Chúng ta khiêm tốn nhận mình hèn mọn, yếu đuối, bé nhỏ. Nếu ta có điều gì tốt, làm được việc gì lành, thì đều do Chúa ban ơn.
Chúng ta khiêm tốn cầu xin Chúa giúp chúng ta khám phá ra những ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta. Tôi được Chúa ban ơn trở về, tôi được Chúa cứu độ, tôi được Chúa kêu gọi, tôi được Chúa tha thứ, tôi được Chúa sai đi, tôi được Chúa ban ơn chia sẻ tình Chúa cho người khác, tôi được Chúa yêu thương đặc biệt.
Chúng ta khiêm tốn vui mừng trong tình yêu của Chúa, theo gương Chúa và Đức Mẹ. Chúa Giêsu “hớn hở vui mừng, ca ngợi Chúa Cha”. Tình cảm đó cũng được thấy nơi Đức Mẹ Maria, khi Mẹ đi viếng thăm bà chị họ Isave. Mẹ đã khám phá thấy tình Chúa xót thương Mẹ là hết sức lạ lùng, nên lòng Mẹ trào dâng lên những lời cảm tạ đầy hớn hở, vui mừng, ca ngợi Chúa: “Linh hồn tôi tung hô Chúa”. Tình cảm vui mừng cảm tạ Chúa có hương sắc thiêng liêng siêu thoát, có sức nâng tâm hồn lên với Chúa. Không một chút vẩn đục bởi bất cứ tư tưởng thế tục nào.
Chúng ta khiêm tốn để lòng mình nghỉ ngơi trong sự chiêm niệm ngắm nhìn Chúa, với hết lòng tin tưởng phó thác nơi Chúa. Chúa là nguồn mọi sự tốt lành. Chúa là cùng đích cuộc đời của ta.
3/ Tỉnh thức trong tạ ơn và khám phá
Thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy tỉnh thức mà cầu nguyện và tạ ơn” (Cl 4,2). Lời khuyên trên đây của thánh Tông đồ nên được áp dụng thường xuyên trong tạ ơn và khám phá.
Trước hết, cần tỉnh thức về phương diện khiêm tốn. Khiêm tốn thực chất, khiêm tốn luôn luôn, khiêm tốn trong mọi sự. Có thể nói, cái làm cho việc tạ ơn và khám phá đẹp lòng Chúa chính là sự khiêm tốn. Đức Mẹ Maria suốt đời khiêm tốn, nên suốt đời Mẹ là lễ tạ ơn và khám phá tình xót thương của Chúa.
Khiêm tốn, nên luôn giữ tự do tâm hồn. Tỉnh thức không để mình bị áp lực do bất cứ quyền lực nào của ma quỷ, thế gian và xác thịt. Tâm hồn nhờ vậy sẽ rất nhẹ nhàng vâng phục thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa là muốn chúng ta sẵn sàng phục vụ.
Vì thế, cũng cần tỉnh thức trong việc phục vụ. Mỗi nơi ta ở, mỗi thời ta sống, đều có những dấu chỉ về thánh ý Chúa. Ta sẽ nghe được tiếng gọi của Chúa trong các dấu chỉ đó, để phục vụ. Không thể tạ ơn, nếu phục vụ sai thánh ý Chúa.
Nhờ tỉnh thức, chúng ta sẽ khám phá thấy tình Chúa thương chúng ta, ngay cả khi chúng ta sống trong muôn vàn đau khổ. Trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, chúng ta cũng sẽ khám phá thấy Chúa ban cho chúng ta vẫn có khả năng phục vụ các linh hồn bằng nhiều cách hiệu nghiệm.
Nếu không tỉnh thức, việc gọi là tạ ơn Chúa có thể sẽ trở thành dịp phô trương cái tôi, và việc gọi là khám phá tình yêu Chúa cũng dễ là dịp khoe khoang thành tích. Tệ hại nhất là vô ơn và lạm dụng ơn Chúa cũng như danh nghĩa Chúa.
Cúi xin Mẹ Maria thương giúp chúng ta biết noi gương Mẹ mà tạ ơn Chúa và khám phá tình Chúa xót thương.
5. Những nét đẹp Tin Mừng của ngày tết--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mùa Xuân đến làm đẹp đất trời. Những cành đào đua nhau khoe sắc. Những chồi non bụ bẫm nhú ra khỏi cành cây khô khẳng. Chợ búa đông vui và đẹp đẽ với những hàng hoá đủ mọi loại. Những tà áo mới tha thướt làm đẹp phố phường. Trong khung cảnh vui tươi tấp nập ấy, khuôn mặt mọi người như rạng rỡ tươi cười. Mùa Xuân đem đến nhiều vẻ đẹp. Cao quý nhất là những nét đẹp văn hoá dân tộc đậm đà mầu sắc Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của lòng biết ơn. Năm hết Tết đến, người Việt nam thường nhớ đến công ơn của những người đã giúp đỡ mình trong năm qua. Biết ơn là một nét đẹp văn hoá đáng trân trọng và cũng là một điều hợp lý. Năm 2000 phải biết ơn 1999 năm qua. Dòng sông lớn phải mang ơn những con suối nhỏ. Hạt lúa phải nhớ ơn những hạt mưa, hạt nắng, hạt phân. Ngày hôm nay phải biết ơn ngày hôm qua. Thế hệ này phải nhớ ơn thế hệ trước. Đời sống ta chịu ơn biết bao người. Cảm nghiệm sâu xa chân lý này, nên mỗi dịp Tết đến, người Việt nam ta thường bày tỏ lòng biết ơn với ông bà, cha mẹ và các ân nhân. Những món quà nho nhỏ nhưng thắm đượm tình nghĩa làm vui cả người nhận lẫn người cho. Riêng với người Công giáo, bày tỏ lòng tri ân đối với Thiên chúa là một bổn phận không thể thiếu. Vì Thiên chúa chính là tổ tiên đã sinh thành nên ta. Vì Thiên chúa là ân nhân lớn nhất đời ta. Chính Người đã ban cho ta món quà cao quý nhất: đó là sự sống. Chính Người tiếp tục chăm sóc gìn giữ ta từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây. Biết ơn là việc làm của lương tri, cổ võ cho một thế giới mới chan chứa tình người. Biết ơn cũng là một giá trị đạo đức được Chúa Giêsu đề cao trong Tin Mừng.
Ngày Tết có nét đẹp của sự cho đi. Ta gửi đi những cánh thiệp như những sứ giả của tình cảm yêu thương. Ta gửi đi những lời cầu chúc như tâm tình mến yêu tha thiết dành cho nhau. Ta sửa sang quét dọn nhà cửa để đón tiếp nhau. Ta dành thời giờ viếng thăm nhau để xiết chặt thêm tình thân ái. Ta ăn mặc tề chỉnh để tỏ lòng kính trọng nhau. Ta nói năng tế nhị để làm vui lòng nhau. Ta rộng rãi tặng tiền mừng tuổi cho con cháu. Tóm lại, tất cả những gì ta làm trong ngày Tết đều vì người khác và cho người khác. Đặc biệt trong lãnh vực ăn uống. Ngày Tết, nhà nào cũng chuẩn bị sẵn đồ ăn thức uống cho gia đình, nhưng nhất là để mời khách. Khách vào nhà bao giờ cũng được mời thưởng thức ấm chè mới, nếm kẹo bánh ngon. Sự chiếu cố của khách làm vui lòng cho chủ. Sự vui vẻ của người nhận là hạnh phúc của người cho. Có niềm vui cho đi và có niềm vui lãnh nhận. Những niềm vui ấy tạo cho ngày Tết một nét đẹp đầy mầu sắc Tin Mừng: nét đẹp của sự quên mình, của sự quảng đại cho đi, của sự khiêm tốn đón nhận, của tình liên đới.
Ngày Tết có nét đẹp của sự đổi mới. Thiên nhiên đổi mới với sự hồi sinh của cây cỏ. Phố phường đổi mới với những căn nhà mới, với những gian hàng mới và với quần áo mới. Hoà vào cái mới của đất trời, của xã hội, lòng người cũng nôn nao trong niềm hy vọng đổi mới bản thân và cuộc đời. Ai cũng mong tống tiễn những điều xấu vào quá khứ. Ai cũng mong đón nhận một tương lai tươi đẹp. Niềm mong ước đổi mới được thể hiện qua những cố gắng giữ vẻ mặt tươi cười, không tức giận, không nói những lời thô tục, những điều rủi ro, nhưng chỉ nói những điều tốt đẹp, đối xử hoà nhã với mọi người trong những ngày Tết. Phút giao thừa thật thiêng liêng. Nó đánh dấu một khởi đầu mới. Người ta tin rằng sống tốt đẹp những giây phút đầu tiên sẽ có ảnh hưởng tốt đến cả năm. Nên mỗi dịp Tết là một lần khuyến khích ta cố gắng đổi mới đời sống, đổi mới bản thân.
Đổi mới đời sống là điều Chúa Giêsu tha thiết mong muốn nơi ta. Người không ngừng mời gọi ta hãy từ bỏ con đường tội lỗi xưa cũ, bước vào con đường mới, con đường tự do, thánh thiện của con cái Thiên chúa. Người không ngừng mời gọi ta trở thành bầu da mới để có thể chứa đựng thứ rượu mới là giáo lý của Người. Ngày Tết chính là một cơ hội cho ta thực hành Lời Chúa dạy, tích cực đổi mới đời sống nên tốt đẹp hơn.
Với tất cả những nét đẹp trên đây, tinh thần ngày Tết cổ truyền dân tộc rất gần gũi với Tin Mừng. Rõ ràng nét đẹp văn hoá Việt nam đã chất chứa những giá trị Tin Mừng. Rõ ràng Tin Mừng đang đi vào cuộc sống của người Việt nam.
Vì thế, người Việt nam Công giáo không những có trách nhiệm gìn giữ những nét đẹp văn hoá của ngày Tết cổ truyền mà còn phải biến những nét đẹp ấy thành những trang Tin Mừng sống động. Khi ta sống tâm tình biết ơn trong ngày Tết, đừng chỉ giữ hình thức bề ngoài hay chỉ chú ý tới khía cạnh vật chất. Hãy có tâm tình biết ơn sâu xa. Hãy nhìn thấy ơn Chúa ban qua mọi ân huệ nhận được. Khi ta cho đi trong ngày Tết, đừng chỉ cho đi như một hình thức xã giao hay như một thói tục bắt buộc. Hãy cho đi với tâm tình yêu mến, kính trọng thực sự. Hãy đón tiếp khách thăm viếng như đón tiếp chính Chúa. Khi ta muốn đổi mới đời sống, đừng chỉ giữ như một hình thức và không chỉ giữ trong những ngày Tết, nhưng duy trì sự cố gắng đổi mới trong suốt cả đời với quyết tâm thực sự đổi mới đời sống.
Khi ta sống tinh thần Tin Mừng trong những phong tục ngày Tết, ta góp phần xây dựng một mùa Xuân mới, một mùa Xuân dân tộc, một mùa Xuân tình thương. Mùa Xuân ấy sẽ vĩnh cửu vì sẽ dẫn đến mùa Xuân Nước Trời.
Lạy Đức Kitô là mùa Xuân đích thực, không bao giờ tàn úa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen
6. Phấn đấu tạo mùa xuân--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mùa Xuân là màu của hoa. Những bông hoa góp phần làm thành nét đẹp của ngày Tết. Ngày Tết mà thiếu hoa sẽ mất đi rất nhiều vẻ đẹp đẽ vui tươi.
Tại Việt nam, hai loại hoa tiêu biểu cho ngày Tết là mai và đào. Trong Nam, mai rộ nở như ganh đua với nắng vàng rực rỡ. Ngoài Bắc, trong cái buốt giá của mùa Đông kéo dài, những cành đào tươi thắm chen giữa đám lộc non xanh biếc là một cánh thiệp báo tin vui mùa Xuân đến.
Nhìn những cánh hoa tươi thắm như đang cười đùa với nắng Xuân, mấy ai nghĩ rằng những cánh hoa kia đã phải trải qua một quá trình phấn đấu gian nan.
Thật vậy, trước khi mùa Xuân đến, những cây đào trơ trụi như những xác chết không hồn. Những cây mai cũng bị tuốt sạch lá để trơ những cành khẳng khiu nom đến tội nghiệp.
Nhưng ai đã trồng hoa đều có kinh nghiệm là càng tuốt sạch lá càng có nhiều hoa. Chính những thân cây khẳng khiu trơ trụi ấy đã góp phần làm nên những bông hoa tươi đẹp trang điểm cho mùa Xuân, đem niềm vui đến cho con người, trở thành dấu hiệu của hạnh phúc, của thành công.
Mùa Xuân, ta thường chúc nhau thành công, hạnh phúc. Đã thấy những cành cây trơ trụi mùa đông, rồi nhìn những bông hoa rực rỡ hôm nay, tôi hiểu rằng thành công và hạnh phúc ta đạt được cũng phải trải qua những phấn đấu như loài hoa. Để đạt được những thành công thiêng liêng và hạnh phục vĩnh cửu, ta càng phải noi gương loài hoa mà phấn đấu rất nhiều.
Phấn đấu loại bỏ những gì xưa cũ. Nếu những cây hoa không chịu tước bỏ lớp lá cũ già nua xấu xí thì làm sao có được những cánh lá non mơn mởn và nhất là làm sao có được những nụ hoa lộng lẫy vào mùa xuân?
Tương tự như thế, muốn đời sống thiêng liêng sinh hoa kết quả, ta cũng phải từ bỏ những gì xưa cũ trong bản thân. Những gì xưa cũ là những gì không phù hợp với Phúc Âm, những gì ngăn cản ta tiến bước như thói lười biếng, thói giận hờn ganh ghét, thói ích kỷ, thói chia rẽ bất hoà, thói tự kiêu tư đại.
Phấn đấu dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mùa đông, người làm vườn tuốt lá, tỉa cành để khi mùa đến, nhựa cây phong phú không phải tốn phí nuôi dưỡng những chiếc lá già nua, những cành cây thừa thãi vô bổ, nhưng dồn hết sức sống cho hoa, cho lá mới. Nhờ thế hoa càng thêm tươi, lá càng thêm xanh.
Con người cũng thế, muốn thành công và hạnh phúc, phải loại bỏ những gì tiêu phí năng lực, để dồn hết năng lực vào mục tiêu chính. Mục tiêu chính của ta là tập luyện lòng mến Chúa yêu người, là sống theo Tám mối phúc thật. Chuyên tâm vào mục tiêu chính, ta sẽ dễ thành công.
Sau cùng, phải phấn đấu vượt qua mọi gian khổ. Khi tuốt lá những cây mai, tôi thầm nghĩ: Nếu cây mai biết nói, chắc nó sẽ kêu lên đau đớn. Tuốt lá, tỉa cành làm cho cây đau đớn, mất mát, xấu xí khó coi. Nhưng chính nhờ vượt qua được những gian nan thử thách ấy mà cây hoa mới đạt đến mùa xuân tươi đẹp đem hương sắc cho đời.
Để loại bỏ những gì xưa cũ và dồn hết năng lực vào mục tiêu chính, con người cũng phải phấn đấu rất nhiều. Phấn đấu từ bỏ mình. Không hành động theo bản năng, dục vọng. Không hành động theo ý riêng. Chỉ tìm thánh ý Thiên Chúa. Những phấn đấu từ bỏ mình làm cho ta đớn đau. Nhưng chính những đớn đau đó góp phần tạo nên mùa xuân tươi đẹp.
Năm Mới, tôi cầu chúc tất cả anh chị em được nhiều ơn chúa để có sức phấn đấu, tạo nên một mùa xuân tươi đẹp cho gia đình, cho đất nước và cho nước Trời.
7. Mồng Một Tết: Cầu bình an cho năm mới Tân Sửu (Mt 6,25-34)--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Đọc kỹ bản văn Mátthêu, chúng ta thấy có sáu lần Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến mất tin cậy vào Thiên Chúa. Khi nói thế, Ngài muốn chúng ta đừng tìm bảo đảm vào của cải nay còn mai mất, mà phải tìm cái cốt yếu cho cuộc đời trước đã, rồi mọi sự khác sẽ được thêm cho. Lo lắng quá cũng chẳng giải quyết được gì: “Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo dài đời mình thêm được một vài gang tấc không?” Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy ơn gọi của mỗi người: hãy giúp mình rồi trời sẽ giúp cho.
Đừng quá lo lắng về những nhu cầu của cuộc sống thể xác (của ăn, áo mặc, tuổi thọ), vì đã có Chúa lo cho ta những thứ đó. Điều cần lo trước hết là tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Sở dĩ con người lo lắng thái quá mà mất đi cả hạnh phúc trong cuộc sống, là vì con người không tin ở sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Chim trời không gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội không canh cửi mà vẫn xinh đẹp rực rỡ. Con người còn hơn chim trời cũng như hoa cỏ đồng nội bội phần. Nếu con người biết tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa, biết đón nhận từng giây phút hiện tại Ngài ban cho, thì con người sẽ tìm được niềm vui và hạnh phúc cho cuộc sống của mình. Ngược lại, con người sẽ phải vất vả cực nhọc và cuối cùng, cũng chỉ là người bắt bóng.
Hãy tin vào Chúa quan phòng
Chúa Giêsu không chủ trương cho chúng ta lười biếng hay ỷ lại, mà là muốn chúng ta đừng quá tin cậy vào sức mình, nhưng cần đến sự tin tưởng phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Sự tin tưởng vào Chúa quan phòng không có tính cách thụ động, khoanh tay ngồi chờ “trời sinh voi, trời sinh cỏ”, không phải thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy theo ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ giúp cho.
“Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc làm”, càng tin, càng phải đem “hết sức mình, hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn” cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu thế của Thiên Chúa: Biết xây dựng trần thế tốt đẹp như khi Người dựng nên mọi sự tốt đẹp, biết xây dựng Nước trời cho tình thương của Thiên Chúa trải rộng khắp mọi nơi (Hiền Lâm).
“Chỉ có một đường đến hạnh phúc, đó là ngừng lo lắng về những gì vượt khả năng ý muốn của mình” (Triết gia Epictetus). Trong Tin mừng hôm nay, kiểu nói đừng lo được lặp lại đến 6 lần, điều đó cho thấy Chúa Giêsu lưu ý ta đừng để những nỗi lo về nhu cầu của cuộc sống này khiến ta quên đi, - hoặc gạt qua một bên, hoặc coi như chuyện nhỏ, - việc tìm kiếm Nước trời cũng như việc nên thánh trong cuộc đời ta. Ngài không bảo ta vô trách nhiệm với bản thân và gia đình, lười biếng làm việc mưu sinh, vô lo về ngày mai. Trái lại, Ngài dạy ta tin tưởng, cậy trông nơi Thiên Chúa là Cha quan phòng yêu thương. Cha lo liệu cho chim trời, hoa huệ, huống chi con người được Cha yêu thương, đến nỗi ban Con Một cho ta, dẫn ta đến Nước trời (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Đừng quá lo cho ngày mai
Một thương gia giàu có nọ đi dạo trên bờ biển, tình cờ ông thấy có những ngư phủ nằm ngủ một cách ngon lành trên thuyền, mặc cho sóng nước chòng chành. Tò mò ông đến hỏi một ngư phủ:
- Sao anh không đi đánh cá?
Chàng ngư phủ trả lời:
- Tôi đã đánh bắt số cá đủ cho ngày hôm nay rồi.
Thấy câu trả lời chưa được thoả mãn, thương gia hỏi tiếp:
- Sao anh không tiếp tục đi đánh, để bắt thêm nhiều cá hơn?
Thay vì trả lời, chàng ngư phủ hỏi lại: - Nhưng thưa ông để làm gì?
Với đầu óc kinh doanh sẵn có, thương gia kia như muốn vạch đường hướng làm ăn cho anh chàng ngư phủ, nên đã trả lời:
- Càng đánh bắt được nhiều cá, anh càng kiếm được nhiều tiền. Có nhiều tiền anh có thể mua được chiếc thuyền lớn hơn, để có thể ra xa hơn, bắt được nhiều cá hơn. Rồi từ một thuyền, anh sẽ có thể có hai, ba, bốn chiếc... và như thế anh sẽ là một người giàu có.
Chàng ngư phủ xem chừng như không thiết tha với kế hoạch làm giàu của thương gia kia nên hỏi tiếp: - Giàu có rồi làm gì nữa?
Thấy như người đối thoại với mình quá chất phác, nên thương gia trả lời:
- Rồi anh sẽ được vui hưởng cuộc sống.
Lúc ấy, chàng ngư phủ mỉm cười nói:
- Thế tôi nằm đây để ngắm nhìn trời biển như thế này không phải là vui sướng cuộc đời hay sao?
8. Một năm mới tốt đẹp—Lm Giuse Đinh Lập Liễm
I. NĂM MỚI VỚI LỜI CHÚA
Bài đọc 1: St 1,14-18.
Thiên Chúa là Alpha và Oméga, nghĩa là Khởi Nguyên và Cùng Tận của vũ trụ muôn loài. Ngài sáng tạo thời gian và không gian, chính Ngài ấn định năm tháng ngày giờ và đặt ra các chu kỳ đại lễ.
Một năm mới bắt đầu là một khoảng thời gian nữa được ban cho chúng ta. Có thời gian là một ơn rất quí. Chúng ta có thời giờ để làm ăn sinh sống, nhưng cũng có thời giờ để chuẩn bị cho đời sống vĩnh cửu.
Bài đọc 2: Pl 4,4-8
Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Không phải ngẫu nhiên mà thánh Phaolô lại thêm chữ niềm vui của Chúa, vì niềm vui của Chúa thì khác với niềm vui của người ta. Niềm vui của người ta thì tùy ở nhiều yếu tố vật chất bên ngoài; còn niềm vui của Chúa thì nhẹ nhàng thanh thoát và tùy thuộc những điều kiện bên trong nhiều hơn như: tính hiền hòa, lòng quảng đại và tinh thần cầu nguyện. Có được những điều kiện đó là chúng ta có thể vui luôn trong Chúa.
Bài Tin mừng: Mt 6,25-34
Bài Tin mừng mời gọi chúng ta an tâm bước vào năm mới với niềm tin tưởng phó thác cho Chúa. Chúng ta phải biết cái gì đáng lo, đó là sống công chính, lo xây dựng Nước Trời. Xây dựng Nước Trời, có nghĩa là thực thi công bình bác ái, kiến tạo hòa bình và tạo dựng hạnh phúc cho mọi người. Có được Nước Trời như thế, thì còn gì phải lo lắng cho vấn đề cơm ăn áo mặc nữa: tất cả những cái mà chúng ta cho là thiết yếu nhất, chẳng qua chỉ là những cái được “thêm cho” mà thôi.
II. XUÂN ĐẾN XUÂN ĐI, XUÂN BẤT TẬN
Người ta thường nói:
Xuân khứ xuân lai, xuân bất tận,
Nhân hòa nhân thỉnh, nhân trường sinh.
Xuân đến xuân lại đi và sang năm xuân sẽ tới vì quả đất tròn quay mãi không ngừng. Dù có ai yêu hay ghét xuân thì xuân vẫn đến, không phụ thuộc ai dù già trẻ, lớn bé, giầu nghèo, trí thức hay dốt nát, xuân đến một cách nhẹ nhàng, đều đặn.
Chúng ta hãy trở lại với sách Sáng thế. Sách cho biết Thiên Chúa dựng nên trời đất muôn vật và Ngài đã tách ánh sáng ra khỏi bóng tối để làm ra ngày và đêm phân biệt. Ngày và đêm thay đổi nhau để làm nên năm tháng. Ngày đêm thay đổi nhau 365 lần làm nên một năm (x. St 1,14-18)
Sau 365 ngày lại có một năm khác mà ta gọi là “Năm Mới” mà năm nay là năm Tân Mão. Ai trong chúng ta cũng gọi năm nay là năm mới, nhưng có thật là mới không vì có người cho rằng chả có gì là mới cả, năm nào cũng vậy thôi và năm nay có thể cũ hơn năm ngoái.
Trước đây, thi sĩ Trần Tế Xương có cái nhìn khác không giống như mọi người, khi ông nói:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ai trong đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Thực ra, nếu xét theo xuân cảnh vật thì càng ngày càng cũ đi như 70 tuổi thì phải cũ đi hơn là 20 tuổi. Nhưng nếu xét theo xuân trong tâm hồn, tức là xuân của ơn thánh thì có thể gọi là năm mới.
Francis Bacon đã có cái nhìn sâu sắc về vấn đề này khi ông nói: “Con người thời nay đã già cỗi, cần phải trở lại “thời thanh xuân” của con người nguyên thủy”.
Đúng vậy, con người trẻ trung ngày xưa đã bị vật dục làm hư hỏng đã trở nên già khọm. Phải làm sao canh tân con người già cả của chúng ta để trở nên người trẻ trung tươi mát vì nó phải trở nên trẻ thơ mới được vào Nước Trời (x. Mt 19,13-15).
III. NGƯỜI TA CHÚC NHAU NHỮNG GÌ?
Chúng ta cứ coi năm Tân Mão này là Năm Mới đi và cùng mọi người chúc nhau. Vậy người ta thường chúc nhau những gì? Người ta thường chúc nhau một: Năm Mới Tốt Đẹp, Bonne année hay Happy new year. Câu chúc cổ điển nhất của xã hội chúng ta vừa súc tích vừa vắn gọn nhất bằng 3 chữ là: PHÚC, LỘC, THỌ.
Cũng có người chúc nhau nhiều hơn bằng 5 chữ: PHÚ, QUÍ, THỌ, KHANG, NINH. Nhưng có lẽ chữ Phúc luôn đứng hàng đầu vì nếu được tất cả mà thiếu Hạnh phúc thì cuộc đời trở nên vô nghĩa. Chúng ta hãy xem thi sĩ Trần tế Xương nói chuyện với chúng ta về lời chúc Năm Mới như thế nào:
1. Chúc cho sống lâu.
Có người cho rằng năm mới tốt đẹp là ở tại chỗ sống thật lâu thật bền cho đến lúc đầu phủ tuyết, da đồi mồi. Thi sĩ nói:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau:
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Nhưng sống lâu có hạnh phúc không? Tại sao người ta thường nói: “đa thọ, đa nhục” hoặc thành ngữ có câu: “Trẻ khôn qua, già lú lại”. Đã “lú lại” sẽ bị con trẻ chê bai! Đã “lú lại” tất không thể trốn đâu được cái nhục. Không thiếu gì các ông già bà cả bị bỏ rơi, đang sống tủi sống nhục trong tuổi già. Ít có người già nào nói: mình được hạnh phúc trong tuổi già.
Ngắm nhìn ngày tháng dần trôi, người già mới thấm thía câu ca dao:
Còn duyên như tượng tô vàng
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa.
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa… một mình.
Trước cảnh tượng phũ phàng ấy, người ta tự nhiên cảm thấy ù tai chóng mặt. Để cứu vãn tình thế, tranh thủ thời gian, họ đâm ra ăn chơi phóng đãng:
Ai ơi, chơi lấy kẻo già,
Măng mọc có lứa, người ta có thì.
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Cái già xống xộc nó thì theo sau.
2. Chúc cho giầu có.
Có người cho rằng: năm mới tốt đẹp là ở chỗ làm ăn phát tài phát lộc, tiền chảy vào túi như nước như non. Người ta chúc nhau: “Nhất bản vạn lợi” hay “Một vốn bốn lời”:
Nó lại chúc nhau cái sự giầu
Trăm ngàn vạn mớ để vào đâu?
Người ta chúc nhau giầu có, nhưng thử hỏi giầu có đến đâu là đã thỏa mãn? Chắc chẳng bao giờ ngươi ta thỏa mãn với cái lòng tham vô đáy, nên chẳng bao giờ người ta đạt được sự giầu có như lòng mong ước?. Người ta vẫn khát khao sự giầu có mà không được.
Nhiều người đã tôn vinh tiền của lên hàng thần thánh: thần MAMMON (thần Tiền Của). Vị thần này rất quyền năng, trở thành ông chủ khắc nghiệt tuyệt đối chi phối con người họ, bắt họ làm nô lệ cho mình, và có ai thấy mình được hạnh phúc khi phải sống kiếp nô lệ không?
Ngày 06/06/1976 ông Paul Getty, một người giầu có, đã qua đời. thọ 83 tuổi. Ông để lại khoảng 4 tỉ Mỹ kim. Sau 5 lần ly dị, trong một cuộc phỏng vấn, ông đã tuyên bố: “Tôi đã mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi sợ mình không thành công. Tôi sợ không thể tạo được hạnh phúc hôn nhân ấy”.
Một lần khác, ông đã phải thú nhận với một phóng viên là ông đã không đạt được hạnh phúc gia đình.
Một lần khác nữa, ông Paul Getty xác nhận: tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Hơn nữa, ông còn tin rằng tiền bạc có bà con với nỗi bất hạnh.
3. Chúc cho vinh sang
Có người cho rằng một năm tốt đẹp là được mọi người ca tụng, tiếng tăm được vang khắp bốn bể, được thiên hạ nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa:
Nó lại chúc nhau cái sự sang
Đứa thì buôn tước, đứa buôn quan.
Danh tiếng vang lừng bốn bể có làm cho người ta được hạnh phúc không? Đây là một chứng từ mà người ta đã biết: ông Anatole France là một người giầu có, được mọi người hoan nghênh, được nếm đủ các thứ khoái lạc trên đời, đã phải thú nhận rằng: “Nếu anh có thể đọc được trong tâm hồn tôi, anh sẽ rùng mình. Trong trời đất không có vật nào vô phúc bằng tôi: người ta tưởng tôi sống hạnh phúc. Thật ra, không bao giờ được sung sướng cả, dầu trong một giờ, dẫu trong một ngày”.
Còn một chứng từ khác của một người còn sang hơn quan nữa, tiếng tăm lừng lẫy khắp muôn phương, được thiên hạ học từ lời ăn tiếng nói, được theo dõi, từ chân tơ kẽ tóc như cô đào minh tinh màn bạc Brigitte Bardot mà cũng không thấy được hạnh phúc.
–?
– Mộng tôi bây giờ không phải là thủ vai tài tử quan trọng. Mộng tôi bây giờ là làm thế nào có đủ can đảm rút lui khỏi màn bạc.
– Thế thì tất cả những công danh của cô xưa rầy là mây, là khói hay sao?
– Phải! Brigitte Bardot đáp lại những câu hỏi bồi hồi của một ký giả báo Văn Đàn. Phải! Tất cả là mây khói, là hư vô.
IV. CHÚNG TA NÊN CHÚC NHAU NHỮNG GÌ?
Nếu chúc cho ông bà anh chị em được sống lâu, giầu có, được vinh sang… thì thấy không ổn vì tất cả những cái đó chưa làm nên hạnh phúc vì nó vẫn là mây khói. Xin được lấy lại câu chúc của thi sĩ Trần Tế Xương một lần nữa:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết ai trong đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giống người.
Câu chúc của thi sĩ “Sao được cho ra cái giống người” xem ra có vẻ hài hước và mang tính cách châm biếm. Nhưng cái nhìn của ông về con người cũng giống như cái nhìn của nhà hiền triết Diogène ngày xưa. Đang giữa trưa ông cầm đèn ra giữa thành phố Athènes để đi tìm cài gì đó. Người ta hỏi tìm gì. Ông trả lời: đi tìm người! Thiếu gì người ở giữa thành phố mà phải đi tìm? Nhưng ông cho rằng những đám người này chưa phải là người đúng nghĩa, ông đi tìm một con người chính danh, con người xứng đáng “linh ư vạn vật” kia!
Năm mới chúng ta chúc nhau hãy trở nên con người đúng nghĩa, phải “linh ư vạn vật ” mới được.
Đối với người Việt nam Công giáo chúng ta, thời gian được ban cho chúng ta trong Năm mới này là để chúng ta “làm người” và “làm con Chúa”. Chúng ta không tự nhiên là người hay là con Chúa được, có là hay không còn tùy thuộc ở chỗ chúng ta có “làm” và có “làm” được hay không. Hạt giống không tự nhiên có thể nở thành cây và sinh hoa kết quả: nó cần phải được gieo cấy trong ruộng trong vườn, và cần phải có thời gian để phát triển. Con người chúng ta cũng vậy, chúng ta là những cái “nhân” được gieo cấy trong ruộng đồng là thế gian này và thời gian được ban cho chúng ta làm nên đời mình bằng cách cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa: ân sủng này cũng ví như ánh sáng và sương mưa cần thiết cho sự sinh trưởng của cây.
Chúng ta sẽ trở nên người con có Thiên Chúa là Cha, để chúng ta có thể thưa với Chúa là “Abba, Cha ơi” (Mc 14,36), và chúng ta có mọi người là anh chị em, và đây là một vinh dự lớn lao đối với con người hèn mọn chúng ta, như người ta nói:
Con có cha như nhà có nóc
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
Cha chúng ta điều khiển muôn loài muôn vật, Ngài nuôi chim trời cá biển, săn sóc từng cây cỏ nơi đồng nội. Ngài lại càng săn sóc chúng ta hơn nhiều vì chúng ta là con của Ngài. Vì thế, chúng ta đừng quá bồn chồn lo lắng về đời sống vật chất cho có cơm ăn áo mặc, hãy tin vào Chúa quan phòng.
Có một điều khác biệt nơi người tin và người không tin là người tin thì một đàng ra sức xây dựng và phát triển những giá trị trần gian (trong đó có sự tích lũy tiền của), một đàng vẫn hướng mắt, hướng lòng, hướng lời cầu về với Thiên Chúa là Cha, là Nguồn Mạch mọi sự giầu có và hạnh phúc.
Nhân dịp Năm Mới, xin chúc ông bà anh chị em một năm mới tốt đẹp và một năm mới tốt đẹp như lời Chúa dạy: “Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và ăn ở công chính như Người đòi hỏi; còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho”(Mt (Mt 6,23). Còn ăn ở công chính đây là sống Tám mối Phúc thật như Chúa đã dạy trong bài giảng trên núi (x. Mt 5,3-12).
9. Mồng Một Tết: Cần lo cái gì và không nên lo cái gì--Mt 6,25-34—Lm Carôlô Hồ Bạc Xái
A. Hạt giống...
Từ chìa khóa là “đừng lo”, từ nghịch nghĩa là “hãy lo”.
Như thế đoạn Tin Mừng này dạy về những gì không nên phải lo và những gì phải lo:
- Đừng lo tìm của ăn cho mạng sống và quần áo cho thân thể (câu 25)
- Tại sao đừng lo những thứ đó? Vì chúng ta có Cha trên trời lo sẵn cho ta rồi (câu 26 và 32).
- Cũng đừng lo cho ngày mai (câu 34)
- Điều quan trọng duy nhất phải lo là: tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài (câu 33). Trong bộ ngữ vựng của Mt, “công chính” có nghĩa là làm theo ý Thiên Chúa.
B.... nẩy mầm.
1. Ngay ngày đầu năm mà đoạn Tin Mừng này bảo đừng lo thì xem ra không hợp. Thực ra đây là đoạn Tin Mừng này định hướng cho cả năm: cần lo cái gì và không nên lo cái gì.
- Chúa Giêsu đã nhắc ta nhớ đến một Đấng rất quan trọng là Cha trên trời. Hãy đặt mình vào vai đứa con nhỏ trong gia đình: Cha nó muốn gì nơi nó? Không phải là muốn nó đi làm ăn kiếm tiền đem về nhà để góp phần mua cơm gạo áo quần thuốc men. Những thứ đó người cha đã lo sẵn hết. Điều người cha muốn là đứa con lo làm theo những diều cha dạy, như học hành, sống ngoan ngoãn, vâng lời v.v. Một đứa trẻ mồ côi phải lo kiếm ăn cho mình thì không ai trách; nhưng một đứa con có cha mà cãi lời cha, không lo học, trái lại trốn học để đi kiếm tiền thì cha sẽ buồn, hàng xóm chê cười cha nó. Bởi thế Chúa Giêsu bảo “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài. Mọi sự khác Ngài sẽ thêm cho”.
2. Điểm lại những thứ chúng ta thường lo, ta sẽ thấy lo làm ăn sinh sống là lớn nhất, còn lo tìm biết đề sống theo ý Chúa là ít nhất, thậm chí ta không hề nghĩ tới. Bài Tin Mừng này dạy ta đảo ngược thứ tự lại.
3. Ba người bạn: Người kia có 3 người bạn. 2 người trước là bạn rất thân, người thứ ba thường thường vậy thôi. Ngày kia ông bị tòa bắt xử liền xin 3 người bạn đi theo để biện hộ. Người bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến cửa quan nhưng lại không dám vào. Chỉ có người thứ ba tuy không được ông yêu thích nhưng tỏ ra trung thành vào tận tòa án biện hộ cho ông ta không những trắng án mà còn được thưởng nữa.
Người bạn thứ nhất là Tiền bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta, chỉ để lại cho ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Người bạn thứ hai là Bà Con Bạn Hữu. Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt rồi về. Người bạn thứ ba là các Việc Lành. Chúng theo ta đến tòa phán xét và đưa ta vào cửa thiên đàng. (Trích "Phúc")
10. Hãy chăm chú vào ngay hôm nay (Mt 6,25-34)--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Chỉ còn không đầy 6 giờ đồng hồ nữa là chúng ta bước vào một năm mới. Hôm nay thay vì suy niệm dựa trên bài Tin Mừng, tôi xin được dành ít phút này để đi tìm một lời chúc gửi đến Anh chị em nhân dịp đầu năm mới. Tôi sẽ chúc Anh chị em cái gì đây?
Hồi tôi còn nhỏ, tôi thấy vào mỗi dịp tết, người ta thường chúc cho nhau: Đa tử, đa tôn, đa phú quí. Hãy tạm gác lời chúc đa phú quí sang một bên. Và nếu bây giờ tôi lặp lại lời chúc như thuở hôm nao “đa tử, đa tôn” thì chắc là Anh chị em sẽ “dội” hết. Xã hội hôm nay người ta đang sợ có những con người mới xuất hiện trên đời. Con cái ngày nay xem ra là một gánh nặng hơn là một hạnh phúc cho một gia đình. Và xem như là khi có một con người mới được sinh ra đời thì cuộc sống của những người đang sống trên đời sẽ bị thiệt thòi về một phương diện nào đó. Tôi không muốn đưa ra một lời nhận định về vấn đề này. Cứ nhìn đang 'hot' ở bên Mỹ hôm nay về vấn đề phá thai và những bảng hiệu được dựng lên ở khắp nơi và những lời khuyến cáo được nhắc đi nhắc lại về vấn đề kế hoạch hóa gia đình mỗi ngày nhiều lần trên các phương tiện truyền thông thì chúng ta đã đủ rõ. Bởi vậy tôi không dám chúc cho Anh chị em như những người xưa vốn chúc cho nhau mỗi độ Xuân về.
Ngày tết tôi thường thấy người ta chúc cho nhau ba chữ Phúc-Lộc-Thọ,
Chúc cho nhau hạnh phúc.
Hạnh phúc thì ai mà chẳng muốn. Thậm chí có người còn định nghĩa cuộc đời là cuộc săn tìm hạnh phúc. Hạnh phúc quả là một khát vọng lớn nhất của loài người. Thế nhưng hạnh phúc có thể có được do lời người ta chúc hay không thì điều đó phải suy nghĩ lại. Nếu hạnh phúc do lời chúc mà có được thì tôi chắc là trên đời này sẽ chẳng còn ai đau khổ. Thế nhưng thực tế của cuộc sống không cho phép chúng ta nghĩ như thế. Trong Tin Mừng Anh chị em thấy Chúa Giêsu có đề cập đến vấn đề hạnh phúc cho con người chúng ta, nhưng rõ ràng là Chúa không muốn nói tới một thứ hạnh phúc từ trời rơi xuống. Có lẽ phải nói ngược lại mới đúng. Chúa vạch ra cho người con đường dẫn tới hạnh phúc và muốn có hạnh phúc thì chính con người phải cất bước đi theo con đường đó với tất cả nỗ lực và cố gắng của mình. Có lẽ trong chính ý nghĩa đó mà Cha Teilhard de Chardin đã gọi “Hạnh phúc là kết quả của nỗ lực”. Bởi vậy nếu chính chúng ta không xây dựng hạnh phúc cho chúng ta thì dù là chúng ta có nhận được bao nhiêu lời cầu chúc hạnh phúc đi nữa cũng chỉ là vô ích. Bởi vậy tôi cũng không dám chúc hạnh phúc cho Anh chị em. Chúc một điều mà thực tế không thể có được đó là một việc làm vô ích. Tôi không muốn làm một điều vô ích.
Chúc Lộc cho Anh chị em chăng?.
Nhiều tiền nhiều bạc ai mà chẳng ham. Tiền bạc giúp ta giải quyết được rất nhiều vấn đề trong cuộc sống nhất là ngày hôm nay khi tiền bạc được nhiều người dùng nó như một chuẩn mực để lượng giá. Không có tiền cuộc đời mất đi nhiều thứ...
Thế nhưng tôi không dám chúc cho Anh chị em có nhiều tiền nhiều bạc. Lý do duy nhất là vì tôi sợ. Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt nhưng là một ông chủ xấu, rất xấu.
Bình thường thì chẳng có gì mà phải sợ. Bởi tiền bạc có là gì đi nữa thì cũng chỉ là dụng cụ để trao đổi trong cuộc sống. Nó là một tên đầy tớ và chỉ đáng là một tên đầy tớ. Nhưng nó đáng sợ vì người ta dễ phong thần phong thánh cho nó và biến nó thành một Ông chủ, thậm chí một thứ Siêu Thượng đế, siêu quyền lực. Cứ nhìn vào thế giới hôm nay thì chúng ta đủ rõ. Và đó là lý do cho tôi phải sợ. Khi tiền bạc có được một địa vị như thế rồi thì sức tác oai tác quái của nó thật không thể lường được.
Tôi nhớ một sự kiện chính mắt tôi được nhìn thấy và chính tai tôi nghe thấy cách đây khoảng hơn hai mười năm, nhưng không bao giờ tôi quên được. Hôm ấy tôi đi chợ tết. Tôi dừng lại ở một gian hàng nhỏ bán đồ trang trí bằng gỗ bên vỉa hè trước Nhà Sách Khai Trí cũ. Gian hàng ế ẩm không có khách mua. Người bán hàng là một thanh niên trạc độ trên hai mươi tuổi. Có lẽ vì sự ế ẩm mà anh ta không để ý đến sự có mặt của tôi. Tay anh ta vân ve một cái khung ảnh nhỏ, miệng anh ta ca lên những lời ca thật mùi theo giọng cổ nhạc của miền Nam. Tôi không nhớ hết những lời trong bài anh ta ca, nhưng có một câu, anh lên giọng rất cao và rên rỉ rất mùi... làm cho tôi phải nhớ mãi. Câu đó như thế này: “Hết tiền tiêu thì người yêu anh cũng bán”
Mặc dù tôi không biết người yêu của anh ta là ai nhưng lòng tôi tôi cũng cảm thấy đau xót. Sau đó tôi đi vào trong một tiện bán đồ trang sức gần đó, tôi đang quan sát thì bỗng tôi nghe thấy mấy đứa trẻ kháo láo với nhau: “Chúng mày ơi, Chúa Giêsu mà có 3O đồng à”. Tôi chợt nhớ lại câu chuyện của Giuđa. Giuđa bán Thầy Chí Thánh của mình cũng với giá 3O đồng.
Tiền bạc thưa Anh chị em! Thật đáng sợ. Khi nó đã là một chủ nhân ông thì nó có thể tiêu diệt một cánh thật hiệu quả cả những giá trị cao đẹp nhất trong cuộc đời của chúng ta. Có lẽ cũng vì thấy tính cách nguy hiểm của nó cho nên Chúa đã nhiều lần cảnh cáo “Những người cậy dựa vào tiền bạc thật khó vào nước Thiên đàng biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên đàng”.
Vì tiền vì bạc mà mất cả tình nghĩa, vì tiền vì bạc mà đánh mất cả nhân phẩm, đánh mất cả những giá trị cao quí của một con người và hơn nữa của một Người con Thiên Chúa thì tôi nghĩ thà đừng có tiền bạc còn hơn. Bởi vậy mà tôi sợ không dám chúc cho Anh chị em nhiều tiền nhiều bạc. Tôi không sợ tiền bạc nhưng sợ sự yếu đuối trong cõi lòng của mỗi người chúng ta.
Chúc thọ cho Anh chị em chăng?
Điều này thì tôi càng không dám nữa. Vì sự sống hay sự chết hoàn toàn nằm trong tay của Thiên Chúa thưa Anh chị em.
Sự sống quí giá vô cùng nhưng nó không nằm trong tay của chúng ta. Nữ hoàng Êlizabeth bên nước Anh sẵn sàng trả 1 triệu Anh Kim cho những ai có thể kéo dài đời của Bà được thêm được 5 phút thôi, để Bà giải quyết cho xong những việc cần còn lại trước khi nhắm mắt, thế mà chẳng ai làm nổi. Tới thời giờ Chúa gọi thì tất cả phải chắp tay lại mà thưa hai tiếng xin vâng... không có cách nào khác. Bởi vậy mà tôi không dám chúc thọ cho Anh chị em. Giả như cứ chúc thì lời chúc cũng chẳng có giá trị gì. Lại làm thêm một việc vô ích nữa.
Ngày hôm nay, người ta thường chúc cho nhau sức khỏe.
Trong một cuộc phỏng vấn gần đây dành cho báo chí, công chúa Masako Owada đã cho biết ý kiến của mình như sau về hạnh phúc và Tình yêu. Bà nói: Đối với người Châu Âu thì hạnh phúc được gói trọn trong ba chữ: Tuổi trẻ, sắc đẹp và quyền lực. Còn đối với người Á châu thì là Tình yêu, sức khỏe và gia đình”.
Sức khỏe là một trong những yếu tố rất quan trọng làm nên hạnh phúc cho chúng ta, nhưng sức khỏe cũng không thể do lời chúc mà có. Nó còn tùy thuộc vào nhiều điều kiện khác như dinh dưỡng, vệ sinh, sự điều độ trong cuộc sống.. vân vân...
Và bây giờ tôi xin chúc: Xin Chúa cho Anh chị em được sống trọn vẹn và đầy đủ những phút giây hiện tại của cuộc sống trên trần gian này.
Quá khứ đã khép lại....quá khứ đã chết rồi thưa Anh chị em. Tương lai thì chưa tới. Bác sĩ Osler nói: “Cách hay nhất và độc nhất để sửa soạn cho ngày mai là đem tất cả thông minh hăng hái của ta tập trung vào công việc hôm nay”
Robert Louis Stevenson cũng nói: “Bất cứ ai cũng có thể sống một cách êm đềm, trong sạch, kiên nhẫn đầy tình thương chan chứa trong lòng từ lúc mặt trời mọc cho tới khi mặt trời lặn. Đó là ý nghĩa của cuộc đời”
Edwards Evan bảo: “Đời sống nằm ở trong hiện tại, trong mỗi ngày chúng ta sống, trong mỗi giờ chúng ta sống, trong mỗi phút chúng ta sống”
Kalidasa một kịch sĩ nổi tiếng của Ấn độ có viết một bài thơ nổi tiếng sau đây: “Hãy chăm chú vào ngày hôm nay, vì nó là đời sống, chính là sự sống của đời sống.
Nó tuy ngắn ngủi, nhưng chứa tất cả chân lý về cuộc đời của ta:
Sự sung sướng khi tiến phát
Sự vẻ vang của hành động
Sự rực rỡ của thành công
Vì hôm qua chỉ là một giấc mộng
Và ngày mai chỉ là một ảo tưởng
Nhưng hôm nay nếu biết sống đầy đủ, ta sẽ thấy hôm qua là một giấc mộng êm đềm và ngày mai là hình ảnh của hy vọng.
Vậy ta hãy chăm chú vào ngay hôm nay
Và những lời này của Chúa Giêsu: “Anh em đừng lo cho ngày mai. Nước Trời đang ở giữa anh em. Thiên đàng ở trong lòng anh em”
Xin chúc Anh chị em được như thế...
Và nếu chúng ta sống được như thế, chúng ta sẽ có sức khỏe, sẽ dễ làm ra tiền bạc, sẽ có đời sống vui tươi, và cuối cùng dù không đi tìm, hạnh phúc cũng sẽ đến với chúng ta. Amen.
11. Lễ giao thừa 2021--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Anh chị em thân mến
Năm cũ đang dần dần khép lại và năm mới đang dần dần mở ra cho chúng ta. Năm cũ đang lui dần vào quá khứ và năm mới đang từ từ dẫn chúng ta vào tương lai. Quá khứ - Tương lai - không nằm ở trong tay chúng ta. Một giây qua đi chúng ta không thể nào tìm lại được. Một phút chưa tới chúng ta cũng chẳng có cách nào để có được nó trong tay. Thời gian không nằm trong tay của con người nhưng nằm trong tay của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa mới là chủ của thời gian nhưng Thiên Chúa lại ban thời gian đó cho con người để con người sử dụng. Con người sử dụng thời gian để làm gì thì Sách Giảng Viên đã có những gợi ý rất hay:
Ở dưới bầu trời này,
mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời:
có thời để chào đời, có thời để lìa thế;
có thời để trồng cây, có thời để nhổ cây;
có thời để giết chết, có thời để chữa lành;
có thời để phá đổ, có thời để xây dựng;
có thời để khóc lóc, có thời để vui cười;
có thời để than van, có thời để múa nhảy;
có thời để quăng đá, có thời để lượm đá;
có thời để ôm hôn, có thời để tránh hôn;
có thời để kiếm tìm, có thời để đánh mất;
có thời để giữ lại, có thời để vất đi;
có thời để xé rách, có thời để vá khâu;
có thời để làm Thiên, có thời để lên tiếng;
có thời để yêu thương, có thời để thù ghét;
có thời để gây chiến, có thời để làm hoà.
Vì mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi.
Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt.
Điều gì đang có, xưa kia đã có,
điều gì sẽ có, xưa đã có rồi.
Người công chính cũng như kẻ gian ác đều sẽ bị Thiên Chúa xét xử.
Vì mọi sự, mọi việc, đều có thời, có lúc. (GV 3,1-8;14-15)
Vâng quả đúng như vậy: mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời và thời giờ đi thật mau.
Dù ta muốn hay không muốn,
bằng lòng hay không bằng lòng,
vui hay buồn,
sướng hay khổ,
thời giờ vẫn cứ đi, luôn luôn đi về phía trước.
Trong một bài thơ cổ, người ta đọc thấy những dòng chữ này:
Khi tôi là một đứa trẻ, tôi cười tôi khóc
thì lúc đó thời gian bò tới
Khi tôi là một thanh niên, tôi táo bạo hơn
thì thời gian đi bộ
Khi tôi trưởng thành, tôi là người chững chạc
thì thời gian chạy
Cuối cùng khi tôi bước vào tuổi chín mùi, tuổi già
thì thời gian bay
Chẳng bao lâu nữa là tôi chết
Thì thời gian đi mất
Ôi lạy Chúa, khi cái chết đến
thì ngoài Chúa ra, không còn gì là quan trọng nữa.
Như vậy vấn đề còn lại là tôi phải sử dụng thời giờ Chúa ban cho tôi như thế nào?
Vào một ngày cuối năm khi những giờ phút cuối cùng của năm cũ đang dần dần lui vào quá khứ, và giờ phút giao thừa đang dần dần đi tới với tất cả những huyền bí của thời gian.
Trong một túp lều tranh nhỏ bé, một bác nhà quê đang ngồi lim dim, lẻ loi một mình trong cô quạnh. Trí khôn bác đang dồn dập những ý tưởng mơ hồ viển vông về ngày Tết đang tới.
Tết tới, những gia đình bác quá nghèo thành thử chẳng thấy được hương vị gì của của ngày tết.
Đang khi tâm hồn của bác còn phảng phất trong trong cõi mông lung vô hạn, thì bỗng tự trên ngọn tháp nhà thờ đồng hồ buông xuống 12 tiếng chuông vàng, thanh trong hoan hỉ. Giây phút linh thiêng của đêm giao thừa vừa mới bắt đầu, thì đột nhiên bác ta thấy một chàng thanh niên lạ mặt xô cửa bước vào, đi thẳng tới, nặng nề đặt xuống trước mặt bác một gói gì nằng nặng. Sau đó người thanh niên nhìn chằm chằm vào đôi mắt còn đang ngỡ ngàng của bác và nói:
- Đây là một túi vàng. Túi vàng này ngươi hãy dùng cho khôn ngoan, rồi ngươi sẽ gặp được hạnh phúc.
Nói xong người thanh niên lạ mặt ấy nhún chân một cái rồi bay thẳng lên nóc nhà và biến đi trong đêm tối vào cõi thanh không.
Trước cảnh tượng vừa lạ lùng vừa đột ngột đó bác nhà quê cảm thấy rất sửng sốt và hoang mang. Bác đưa tay lên dụi mạnh vào mắt xem mình còn thức hay đã ngủ,
- Tôi mơ chăng?
Không! Bác không mơ. Hay có thể nói một giấc mơ đã trở thành sự thật.
Tâm hồn bác dần dần chấn tỉnh lại và thấy đây không phải là một giấc mơ mà là một sự thật, một sự thật hoàn toàn hiển nhiên.
Sau một vài phút suy nghĩ, bác liền nghiêm chỉnh tự nói với chính mình:
"Với số vàng này, một phần tôi sẽ dùng để trả nợ.
Còn dư bao nhiêu, tôi phải tiêu xài cho thật khôn ngoan."
Kính thưa anh chị em
Câu chuyện trên đây là câu chuyện của tôi, của anh chị em, của mỗi người chúng ta. Một năm mới nữa lại sắp tới. Đây là thời gian Chúa ban chúng ta. Chúng quí hơn túi bạc túi vàng. Thánh Bernađinô nói: "Thời giờ quí bằng Thiên Chúa"
Thời giờ quí hơn vàng hơn bạc. Vàng bạc mất đi chúng ta có thể có lại. Vàng bạc mất đi chúng ta có thể tìm thấy. Nhưng một giây một phút qua đi là qua đi mãi mãi. Cho dù có là thần là thánh đi nữa chúng ta cũng không thể nào tìm lại được một giây, một phút đã qua đi.
Thời giờ quí giá hơn vàng bạc. Vậy tôi phải bắt chước bác nhà quê kia. Một mặt tôi dùng thời giờ Chúa ban cho tôi trong năm mới này để trả nợ những gì tôi mắc nợ Chúa. Trong suốt một năm qua, Người đã ban cho tôi muôn vàn ơn cao qui: Ơn Bình an, ơn trung thành, ơn được sống trong ơn thánh. Chúa chăn nuôi tôi như mục tử chăn dắt đoàn chiên. Thế nhưng trong suốt năm qua, rất nhiều lần tôi đáp lại bằng những thất tín nặng nề. Trước thềm năm mới, tôi xin dâng lên Chúa Xuân những lời cáo lỗi chân thành.
Mặt khác, tôi sẽ dùng năm mới này cho khôn ngoan, lợi dụng từng giây từng phút mà góp công chuộc tội.
Nếu trong năm mới này hình ảnh Chúa Xuân trong hồn tôi được thêm tốt đẹp, thì năm mới này sẽ là một năm hồng ân và cuộc đời tôi sẽ ngập tràn hạnh phúc.
Lạy Cha
Cha đã cho chúng con được sống thêm một năm
đi thêm được một đoạn đường đời
Nhìn lại đoạn đường đời đã qua
Chúng con chỉ biết nói lên lời tạ ơn chân thành
Vì Cha vẫn cho chúng con sống
Và sống trong tình yêu
Mọi biến cố vui buồn của năm qua
Đều là những mời gọi kín đáo của Cha
Để thức tỉnh, nâng đỡ và đưa chúng con lên Cha
Tạ ơn Cha,
Vì những gì cuộc đời đã làm cho chúng con
Và những gì chúng con đã làm được cho cuộc đời
Xin cho chúng con sống những ngày Tết Dân tộc
Trong tinh thần vui tươi, hòa nhã
Và không quên những ai nghèo khổ cô đơn
Ước gì những lời chúng con chúc cho nhau
Là những lời chúc lành
Xuất phát từ trái tim yêu thương
Và Lạy Cha, năm mới sắp đến
Trái đất lại xoay một vòng mới quanh mặt trời
Chúng con cũng muốn
Ở lại trong quỹ đạo của Cha
Nhận Cha làm trung tâm của cuộc sống
Và nhận mọi người là anh em. Amen.
12. Cầu bình an--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Anh chị em thân mến,
Chúng ta vừa nghe một trong những đoạn Tin Mừng hay nhất của sách Tin Mừng. Cá nhân của tôi đã đọc đoạn Tin Mừng này không biết bao nhiêu lần và lần nào khi đọc xong tôi cũng cảm thấy một cảm giác thật phấn khởi.
Chọn bài Tin Mừng này để đọc vào thời điểm chúng ta bắt đầu một năm mới tôi cho là một chọn lựa tuyệt vời. Đây không phải là một đoạn Tin Mừng chỉ đòi đòi hỏi chúng ta phải rà lại cách sống của chúng ta trước mặt Chúa mà nó còn là một đoạn Tin Mừng giúp chúng ta định hướng cho những ngày chúng ta sắp sống trong một tương lai đang đi tới của chúng ta.
Đây là một việc làm rất cần thiết. Nó quyết định cho sự thành – bại, vui tươi hạnh phúc – hay bất hạnh của cuộc đời mỗi người chúng ta.
Đọc cả đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu Chúa của chúng ta là một con người rất thực tế. Ngài biết thật rõ cuộc đời của mỗi con người. Ngài biết thật rõ cuộc đời không chỉ toàn là mầu hồng mà bên cạnh đó còn có cả những khốn khó gian nan và những khốn khó gian nan này thì hầu như ngày nào cũng có. Bởi vậy khi phác họa ra một thái độ sống cho mỗi ngày như trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ muốn nhắm tới một mục đích là giúp cho mỗi người chúng ta có thể tìm thấy niềm vui và hạnh phúc cho cuộc sống của mình.
Đừng lo:
Dale Carnegie cắt nói thêm:”Đừng lo không có nghĩa là đừng nghĩ. Bạn cứ việc nghĩ tới ngày mai đi, cứ cẩn thận suy nghĩ, cứ dự tính, cứ sửa soạn, nhưng đừng lo lắng gì hết”
Đừng lo lắng gì hết bởi vì con người dù có lo lắng đến đâu đi nữa, như Chúa Giêsu nói, cũng chẳng có thể kéo dài cuộc đời của mình dù là chỉ thêm vài gang tấc.
Đàng khác lo lắng còn là thái độ của một người không có lòng tin. Nếu thực sự con người biết tin nơi Thiên Chúa thì chắc chắn họ sẽ không có gì phải lo lắng.
Chúa Giêsu nói thật rõ: “Cha chúng con biết chúng con cần gì” Nói thế không có nghĩa là Chúa bảo chúng ta chẳng cần phải làm gì cả. “Tình phụ tử của Thiên Chúa không phải là chính sách phụ mẫu, nghĩa là một sự che chở đầy ủy mị, bao bọc khỏi mọi may rủi bất trắc của cuộc đời. Một người cha biết yêu con không phải bao giờ cũng có ý tránh cho con mình khỏi mọi thử thách, đau khổ hay chiến đấu. Nhưng theo sức của ông, ông sẽ biến đau khổ thử thách thành kinh nghiệm có ích lợi cho đứa con” Tình yêu như thế mới là tình yêu thật sự.
Hơn nữa khi tin vào Thiên Chúa con người cũng còn phải biết phó thác tất cả cho Người. Phải tin vào giá trị của mình cũng như phải tin vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Chim chóc hoa cỏ mà còn được Chúa để ý chăm nom thì huống chi là con người. Bởi thế nói theo kiểu của Thánh Phaolô thì “ngay cả khi ta phục vụ Thiên Chúa mà ta vẫn bị đói rách hay bị chết chóc thì ta vẫn không phải là kẻ bị quyền năng Thiên Chúa tử bỏ (Rom 8,28; Mt 10,28-31) mà đó còn là một cái phúc.(Mt 5,3-12) Chỉ có Thiên Chúa mới hiểu hết được những sự tốt lành mà Ngài làm cho các con cái của Người.
Hoài Nam Tử có thuật lại một câu truyện như sau: có một ông lão ở gần cửa ải có một con ngựa tự nhiên bỏ sang nước Hồ. Láng giềng biết tin đó đến hỏi thăm.
Ông lão nói:
– Mất ngựa thế mà biết đâu lại là cái phúc.
Cách mấy tháng con ngựa của ông tự nhiên quay trở về, lại về với một con ngựa khác. Láng giềng nghe tin đến mừng. Ông lão nói:
– Được ngựa thế biết đâu lại là một mối họa.
Từ khi có con ngựa hay, đứa con ông lão ngày ngày mải mê tập dượt. Một hôm chẳng may bị té ngã và què mất một chân.
Láng giềng nghe tin lại đến chia buồn.
Ông lão nói:
– Con tôi què thế nhưng biết đâu lại là một cái phúc.
Một năm sau bỗng có giặc Hồ xâm lăng, nhà vua hạ lệnh tổng động binh. Con ông lão vì què chân cho nên được miễn nhập ngũ. Trận chiến ác liệt chưa từng thấy. Tướng sĩ lâm trận mười phần tử trận mất chín. Nhờ được ở nhà mà con ông lão thoát được hiểm nguy chết chóc và nhờ đó mà hai cha con vẫn còn được sống bên nhau.
Vậy trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người… Còn tất cả những thứ khác Người sẽ thêm cho”
Đây là câu nói thật quan trọng và cũng là điều kiên tất yếu mà khoa Thần học gọi là điều kiện “sine qua non” có nghĩa là điều kiện không thể không có để cho một điều gì đó được thành sự hay được xẩy ra.
Theo bản văn Thánh Kinh hôm nay thì việc “trước hết phải tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người” là điều kiện để Chúa thực hiện lời hứa “Còn các điều khác sẽ được ban thêm cho”
Việc tìm kiếm nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu nói ở đây không phải là sự tìm kiếm giống như tìm kiếm một đồ vật nhưng là thái độ gồm cả ý chí, nỗ lực và hành động hướng về Thiên Chúa, để cho Thiên Chúa chi phối và điều khiển mọi suy nghĩ và hành động của mình sao cho những hành động đó thể hiện được thánh ý của Người. Làm được như vậy là con người đã làm được điều mà bài Tin Mừng hôm nay gọi là tìm kiếm nước Thiên Chúa.
Và sau đó chắc chắn Thiên Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã hứa cho chúng ta.
Câu truyện số 33 trong Góp nhặt B kể lại một biến cố rất đặc biệt xẩy ra trong Công đoàn các chị nữ tu Bác ái của Mẹ Têrêxa thành Calcutta. Kể câu truyện này để anh chị em thấy việc Thiên Chúa làm lạ lùng như thế nào. Mỗi ngày tại Calcutta hội dòng phải chăm sóc cho khoảng chừng 7000 người một số người bằng cả giáo xứ Bùi Phát của chúng ta – rồi còn phải lo cung cấp thực phẩm cho họ nữa. Vào một ngày thứ sáu nọ, chị nữ tu coi sóc nhà bếp đến thưa với mẹ:
– Thưa mẹ, trong nhà không còn gì ăn cho hôm nay và ngày mai nữa.Tốt hơn hết là chúng ta nên bo cho họ biết điều đó.
Nghe điều đó, mẹ không biết phải trả lời cho chị phụ trách nhà bếp như thế nào. Cả 7000 ngàn người ăn chứ đâu phải ít.
Thế nhưng vào khoảng 9 giờ sáng hôm đó không hiểu vì lý do gì mà chính quyền Ấn độ tuyên bố đóng cửa tất cả các trường công lập. Thế là số bánh mì làm sẵn cung cấp cho các học sinh không có chỗ sử dụng và chúng được chở thẳng tới cho mẹ Têrêxa. Và tất cả 7000 người từ nhỏ tới lớn có đủ bánh mì ăn trong hai ngày và hơn nữa còn được ăn no nê hơn cả những lần khác.
Chẳng ai hiểu được lý do. Nhưng mẹ Têrêxa thì thấy thật rõ. Mẹ nói: “Đó chính là dấu chỉ của Tình thương Thiên Chúa. Người là người Cha giầu lòng yêu thương đối với con cái mình”
Thánh Phanxicô Assisi khi trình bản nội qui lên Đức Thánh Cha để xin Ngài chuẩn y. Sau khi Đức Thánh Cha đọc xong, ngài hỏi Phanxicô Assisi:
– Các tu sĩ của con sẽ sống bằng cái gì?
– Tâu Đức Thánh Cha, Thiên Chúa là một người Cha đầy uy quyền, nhưng Người cũng là một người Mẹ nhân từ.” (?!)
Một hôm đang trên con đường vào Giêricô Chúa Giêsu nghe thấy có một tiếng than từ xa xa vọng lại: – Lạy Ngài Giêsu, con Vua Đavid, xin thương xót con.
Chúa Giêsu dừng chân lại:
– Con muốn xin gì đây?
– Lạy Thầy, xin cho con được sáng mắt.
Thấy anh ta mạnh tin, Chúa hiền từ đáp:
– Được lắm. Lòng tin của anh đã cứu anh.” (Lc 18,35)
Lòng tin vào Chúa quan phòng là con đường giải thoát rực rỡ huy hoàng cho mọi người nhất là trong thời đại này.
13. Thời gian (Mt 6,25-34)
Một năm mới đã bắt đầu, nhưng cũng một năm cũ đã qua đi trong dòng đời của chúng ta. Vậy đâu là ý nghĩa của thời gian, của cuộc đời chúng ta đang sống?
Người xưa đã bảo: thời giờ thấm thoát thoi đưa. Một khi đã qua đi thì không bao giờ trở lại. Cũng như chẳng ai tắm hai lần ở cùng một dòng sông. Cuộc đời chúng ta trải dài 60 năm hay 100 năm là cùng. Thế nhưng 60 năm ấy, 100 năm ấy có là gì so với khoảng thời gian bao la của vũ trụ. Bởi đó, người xưa đã phải thốt lên một cách não nề khi nghĩ đến cuộc đời ngắn ngủi: Ôi nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười. Và Thánh Vịnh cũng đã sánh ví: Cuộc đời như cánh hoa đồng nội, sớm nở chiều tàn.
Bởi đó, tự ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, con người đã tìm mọi cách để kéo dài cuộc sống và khát vọng được sống vĩnh cửu vẫn là niềm day dứt nhất của con người. Ngày xưa, có những người đã phải vào tận rừng sâu để tìm cho được trái đào trường thọ. Có những người đã phải khổ công tu luyện để chến biến cho được những viên thuốc bất tử. Có một ông vua, đã phải xây những ngọn tháp cao vút để hứng lấy những giọt sương thuần khiết nhất mà uống vì nghĩ rằng những giọt sương thuần khiết ấy có sức kéo dài sự sống con người. Ngày nay y khoa luôn cố gắng tìm ra những phương thuốc hiệu nghiệm tăng thêm tuổi thọ cho con người. Tuy nhiên cái chết vẫn là một thách thức, một thực tại ngàn đời không thể lẩn trách và ước vọng được sống mãi vẫn còn ở ngoài tầm tay của chúng ta, nếu không muốn nói là một huyền thoại, một ảo vọng như câu chuyện dưới đây đã minh chứng:
Thời Chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người đó bưng thuốc vào thì viên canh cửa bèn hỏi: Vị thuốc này có ăn được không? Người ấy đáp: Ăn được. Tức thì viên canh cửa bèn giật lấy vị thuốc ấy mà ăn. Nhà vua biết được câu chuyện thì giận lắm, bèn truyền bắt viên quan ấy mà đem đi chém đầu. Viên quan ấy kêu lên rằng: Thần đã hỏi người đem dâng và được biết đó là một vị thuốc bất tử, nghĩa là ăn vào thì sẽ không chết nữa. Thế mà thần vừa mới ăn, thì đã phải tội chết. Như vậy, đây là thuốc tử thuốc chết, chứ sao lại gọi là bất tử cho được. Nhà vua giết thần là bắt lỗi một con người vô tội, đồng thời tỏ ra rằng thiên hạ dối gạt nhà vua mà nhà vua vẫn tin. Nghe nói có lý, nhà vua bèn tha cho viên canh cửa.
Câu chuyện trên muốn chứng tỏ rằng: Có sinh thì phải có tử. Thuốc bất tử chỉ là chuyện bịa đặt mà thôi. Tuy nhiên, ước vọng được sống mãi, được sống đời đời vẫn còn đó. Mỗi độ xuân về, chúng ta thường cầu chúc cho nhau được trường thọ khang an, bách niên giai lão. Và những bức tranh bình dân của mấy ngày tết là gì, nếu không phải là diễn tả ba niềm vui lớn của con người, là Phúc Lộc Thọ. Cho dù cuộc đời có cay đắng thì sự sống vẫn là một cái gì quý giá cần phải bảo vệ. Còn sự chết vẫn là một cái gì đáng lo sợ.
Chúng ta bất lực trước khát vọng được sống mãi và người khác cũng không thể thực hiện cho chúng ta lời chúc trường thọ. Chỉ mình Chúa mới là Đấng dư quyền năng và tình thương để làm cho chúng ta được sống như lời Ngài đã phán: “Ta là Đường, là sự thật và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ được sống đời đời. Ta đến để họ được sống và được sống dồi dào”. Thực vậy, Thiên Chúa đã xuống thế làm người để chỉ cho chúng ta con đường dẫn đến sự sống. Đạo của chúng ta là đạo của Tin Mừng, của niềm vui, của sự sống. Vậy muốn được sống, chúng ta phải đi trên con đường Chúa đã chỉ vẽ. Phải tuân giữ những điều Ngài đã truyền dạy, phải thực thi cái đạo mà Ngài đã tỏ lộ. Con đường ấy, cái đạo ấy gồm hai chiều kích: hàng dọc và hàng ngang.
Trước hết, hàng dọc là phải kính mến Chúa vì đó chính là bổn phận của một kẻ nhận ơn đối với Đấng đã ban ơn, của thụ tạo đối với Đấng tạo hoá, của kẻ làm con đối với người cha của mình: Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn như Chúa đã dạy. Tiếp đến, hàng ngang đó là phải yêu thương mọi người như chính mình, không trừ một ai, kể cả kẻ thù địch như Chúa đã dạy: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình. Phải đủ cả hai mới là đạo. Vì nếu chỉ mến Chúa mà không yêu người, thì chúng ta là kẻ nói dối. Còn nếu chỉ yêu người mà không mến Chúa, thì mọi hành động của chúng ta đều trống rỗng và vô nghĩa như tiếng não bạt ầm vang. Người vô thần không tin thờ Chúa, chúng ta gọi họ là kẻ vô đạo. Còn chúng ta, mặc dù đã tin Chúa, nhưng lại không yêu thương anh em, thì chúng ta cũng chỉ là một thứ vô đạo mà thôi.
Hãy mến Chúa và yêu người, để nhờ đó, lời cầu chúc trường thọ của chúng ta sẽ được Chúa thực hiện cho cá nhân chúng ta cũng như cho những người mà chúng ta cầu chúc.
14. Nhìn lại và nhìn đi (Mt 5,1-12)
Chúng ta đã bước qua ranh của năm cũ và đang đứng ở đầu ranh của năm mới. Năm cũ là một chặng đường dài và năm mới cũng sẽ là một chặng đường dài. Đứng ở giáp ranh hai chặng đường dài ấy, chúng ta thường có hai hướng nhìn. Một là nhìn lại, hai là nhìn đi. Nhưng đâu là ý nghĩa mà hai cái nhìn ấy muốn gửi đến với chúng ta trong giây phút linh thiêng này?
Trước hết khi nhìn lại, chúng ta nghe vọng lên nỗi niềm biết ơn. Đúng thế, hãy biết ơn những gì đã lãnh nhận. Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy trong năm qua chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều mà cho đi chẳng bao nhiêu, vì chúng ta là những kẻ thiếu thốn luôn cần đến người khác. Cần để sống, cần để nên người, cần để thắng lợi. Từ đồng bạc cắc đến một sản nghiệp. Từ nụ cười đến tình thương, từ lời chào đến tiếng khuyên. Tất cả những gì chúng ta nhận lãnh đều là những viên gạch xây dựng cuộc đời chúng ta. Đừng chỉ coi những gì sung sướng hay lớn lao mới là ơn. Dù cuộc đời chúng ta có như chiếc xe đò ồn ào, đông đảo, chen lấn, nhưng sau cùng xe lại trống trơn, thì chúng ta cũng đừng cho mình là cô đơn vì thực sự chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều.
Dù cuộc đời chúng ta có như một cành mai báo hiệu mùa xuân, nhưng chính mình lại không có mùa xuân vì mau tàn vội héo, thì cũng đừng cho mình là phù hoa chẳng chịu ơn, vì thực sự chúng ta cũng đã lãnh nhận rất nhiều. Dù cuộc đời chúng ta có như một khúc sông, nuôi dưỡng bao nhiêu ruộng đồng, thì cũng đừng kiêu hãnh cho rằng chỉ có mình, vì khúc sông này bao giờ cũng mắc nợ những khúc sông khác, nhất là mắc nợ với nguồn mạch yêu thương. Dù cuộc đời chúng ta có như một ngôi nhà lộng lẫy, thì cũng đừng tự đắc cho rằng tất cả là do ở mình, vì ngôi nhà vẫn mắc nợ với từng hạt cát, từng viên gạch, từng giọt mồ hôi và biết bao những công lao vất vả. Dù cuộc đời chúng ta có như Saolô ngã ngựa thì cũng đừng cho rằng mình vô phước, vì thực sự chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều, và biết đâu chính sự ngã ngựa ấy, lại là một ơn huệ.
Tóm lại, cuộc đời của chúng ta là kết tinh của biết bao công ơn. Mà đã chịu ơn thì phải biết ơn. Còn biết ơn những ai, thì mỗi người có thể tự trả lời. Hãy biết ơn, đó là tiếng vọng chúng ta nghe được khi nhìn lại quá khứ. Còn khi nhìn đến tương lai, chúng ta ghi nhận những gì?
Tôi xin thưa, đó là hãy tiến bộ, hãy phát triển, bởi vì sống là tiến bộ, sống là phát triển. Không tiến tức lùi, không cố gắng bơi thì sẽ bị giòng nước cuốn trôi. Phát triển không phải chỉ về phần xác, to bề ngang, cao bề đứng, nhưng còn về tinh thần. Tiến bộ không phải chỉ về sản xuất mà còn về đạo đức. Cặp mắt phải biết nhìn cuộc đời một cách thực tế hơn, không để mình bị ru ngủ bởi những ảo vọng hão huyền. Con tim phải biết khử trừ những nghi kỵ hận thù, để đoàn kết và mở rộng cánh cửa thương yêu. Trí khôn phải biết tin tưởng vào Chúa và rút ra từ lòng cuộc đời những bài học bổ ích cho tâm hồn. Bản thân phải biết bấu víu vào Đấng có thể an ủi mình ở đời này và ban cho mình hạnh phúc ở đời sau, cũng như phải biết thu tích những sự thiêng liêng không bao giờ hư mất.
Dĩ vãng kêu gọi chúng ta hãy biết ơn, tương lai kêu gọi chúng ta hãy tiến bộ, đó là sứ điệp mà chúng ta ghi nhận trong dịp đầu xuân, khi chúng ta đứng giáp ranh giữa năm cũ và năm mới vậy.
15. May mắn (Mt 5,1-10)
Trong dịp đầu xuân, người ta thường gửi cho nhau những tấm thiệp với lời nguyện chúc tốt đẹp nhất. Rồi trong những ngày tết, bước chân ra đường, chúng ta sẵn sàng nở một nụ cười thật tươi và không ngần ngại cầu chúc cho nhau một năm mới nhiều may mắn. Đó cũng là lời cầu chúc tôi xin thành thật gửi đến cho anh chị em. Thế nhưng chúng ta cần phải tìm hiểu xem sự may mắn là gì? Bởi vì năm người thì mười ý, mỗi người hiểu sự may mắn theo một quan niệm riêng.
Thực vậy, nếu tôi hỏi bác nông dân:
– Một năm mới nhiều may mắn là gì?
Bác sẽ vuốt chòm râu bạc hay lau khô những giọt mồ hôi trên trán và trả lời:
– Đó là một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, lúa thóc đầy bồ.
Nếu tôi hỏi một cô gái đi buôn:
– Thế nào là một năm mới nhiều may mắn?
Chắc hẳn cô ta sẽ trả lời:
– Đó là một năm trúng mánh, đi chuyến nào trót lọt chuyến ấy, không bao giờ bị bắt và nếu có bị bắt, thì cũng gãi đầu gãi tai, năn nỉ ỉ ôi mà xin lại được.
Nếu tôi hỏi đôi vợ chồng trẻ:
– Năm mới nhiều may mắn là gì?
Họ sẽ trả lời:
– Đó là một năm không bao giờ xảy ra cái cảnh nồi niêu xoong chảo, chổi cùn rế rách bay ra ngoài sân, hay thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau. Rồi đầu năm sinh con trai và không chừng cuối năm sinh con gái. Hay là trúng số cặp hai, đẻ sinh đôi, nuôi luôn một thể.
Cái được gọi là may mắn của nhiều người thời nay là gì, nếu không phải là những thành công, những tiến bộ. Và nhất là tiền bạc phải rủng rỉnh. Bởi vì trong mọi sinh hoạt, thì vấn đề đầu tiên bao giờ cũng là vấn đề tiền đâu.
Dĩ nhiên chúng ta phải nghĩ đến sinh kế làm ăn và mong ước có được một cuộc sống tương đối đầy đủ. Thế nhưng thành công trong nghề nghiệp, chiếm được một địa vị khả quan ngoài xã hội, lãnh được một số lương hậu hĩnh, tạo được những thành tích sáng chói mà thôi chưa đủ để nói được rằng: đó là một năm mới nhiều may mắn. Điều quan trọng hơn hết là phải biết kết hiệp với Chúa, phải biết làm việc cho Ngài, để mỗi hành động của chúng ta có được một giá trị vĩnh cửu. Những việc còn lại sẽ không mấy quan trọng, vì tất cả rồi sẽ qua đi.
Thực vậy, Chúa đã phán:
– Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi.
Phúc âm đã kể lại câu chuyện về ông phú nông như sau: Năm đó, mưa thuận gió hòa, mùa màng trúng lớn. Ông ta thu tích không biết cơ man nào lúa thóc. Cho nên ông ta đã quyết định phá kho lẫm cũ nhỏ bé, để xây kho lẫm mới to lớn hơn nhiều. Rồi đưa mắt nhìn về tương lai giữa lúc ông cảm thấy được bảo đảm thì lời Chúa vang lên:
– Hỡi kẻ điên khùng và dại dột, nếu như đêm hôm nay người ta đến đòi linh hồn ngươi, thì ngươi sẽ ăn nói làm sao bây giờ, và những của cải ngươi chắt chiu thu tích sẽ để lại cho ai?
Thánh nữ Têrêxa Avilla đã nói:
– Tất cả sẽ qua đi, chỉ mình Chúa mới tồn tại muôn đời.
Với Chúa, chúng ta sẽ có được mọi sự. Một mình Chúa mà thôi, thì cũng đã đủ. Giữa những lao công vất vả, giữa những giọt mồ hôi và nước mắt, giữa những quyến dũ trần gian, thì đôi mắt chúng ta vẫn hướng nhìn về Chúa. Chỉ có một sự cần đó là sống cho Chúa để cứu rỗi linh hồn mình.
Ngày kia quận công Toscane đi tham dự thánh lễ tại nhà thờ chính tòa. Ông ta nhìn thấy những em bé được rước lễ lần đầu đang quỳ cầu nguyện thật sốt sắng, nên sai một tên cận vệ bí mật trèo lên nóc thánh đường, rỡ một viên ngói, rồi từ đó ném xuống những đồng tiền vàng. Những đồng tiền vàng rơi trên nền gạch, tạo thành những tiếng động trong bầu khí thinh lặng, trang nghiêm và thánh thiện này, rồi lăn đi khắp mọi nơi… Tuy nhiên, không một em nhỏ nào đã cúi xuống lượm những đồng tiền vàng ấy. Không một em nhỏ nào đã chia trí và lo ra.
Chút nữa đây trong thánh lễ vị linh mục sẽ mời gọi chúng ta:
– Hãy nâng tâm hồn lên.
Và chúng ta đáp lại:
– Chúng con đang hướng về Chúa.
Đúng thế, mọi tư tưởng, mọi lời nói, mọi việc làm của chúng ta phải qui hướng về Chúa, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô:
– Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.
Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì bản thân và cuộc đời chúng ta cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy. Nghĩa là chúng ta phải sống cho Chúa, bởi vì Chúa là hạnh phúc, Chúa là tất cả. Một khi mất Chúa thì cũng sẽ mất mọi sự và chẳng còn lại gì nữa.
Và như thế, một lần nữa, tôi xin cầu chúc mỗi người chúng ta một năm mới nhiều may mắn.
16. Tin tưởng vào Chúa Quan Phòng (Mt 6, 25-34)
Ngày Tết là ngày ai nấy đều no đủ, kể cả những người nghèo nhất trong xã hội, vì theo truyền thống văn hóa của dân tộc, dù quanh năm có đói khát, túng thiếu thì ngày Tết cũng phải là ngày no say, đầy đủ nhất. Thế có nghĩa là đối với nhiều người, vấn đề cơm-áo-gạo-tiền vẫn còn là vấn đề nhức nhối và ưu phiền nhất. Sau hơn hai ngàn năm, dù khoa học tiến bộ đã đưa con người lên không gian và sống trên đó một thời gian dài, thì con người vẫn chưa giải quyết được vấn đề ăn và uống cơ bản của mình. Thế giới vẫn đang phải vật lộn với vấn đề nước sạch, lương thực tối thiếu và thuốc men cần thiết.
Tại sao vậy? Tại vì có tình trạng quá chênh lệch về sở hữu của cải trần gian trong các xã hội: một số người lòng tham không đáy, tìm hết mọi cách – kể cả những cách ô nhục và thấp hèn – để chiếm đoạt tài sản chung của xã hội và nhân loại. Còn một số người khác không làm sao có được các điều kiện tối thiểu để sống cho ra người. Ở Việt Nam chúng ta hãy nghĩ đến những số tiền thất thoát trong các công trình xây dựng hạ tầng cơ sở ở khắp cả nước và con số chạy vào túi riêng cán bộ thuộc các sở, ban, ngành, công ty, tỉnh, huyện, xã v.v… thì chúng ta hiểu tại sao dân Việt Nam vẫn còn bị xếp vào loại các nước nghèo nhất trên thế giới dù chiến tranh đã chấm dứt gần 28 năm rồi!
Vậy thử hỏi việc tin tưởng vào Thiên Chúa Quan Phòng mà Đức Giêsu dạy chúng ta hôm nay có ý nghĩa gì trong một bối cảnh xã hội và thế giới như thế? Chắc đối với những người có “của ăn của để” thì không thành vấn đề vì họ đâu có bao giờ phải lo ngày mai sẽ sống ra sao, ngày mốt sẽ lấy đâu ra tiền để mua gạo cho gia đình, để trả tiền học phí cho con hoặc trả tiền bệnh viện cho cha hay mẹ già! Nhưng đối với những người tối ngày phải vật lộn với cuộc sống (chỉ để sống, chưa nói đến làm giầu) thì quả là vô cùng khó mà tin vào lời của Đức Giêsu! Lời ấy có xa vời và viển vông không? Lời ấy có sức ru ngủ không? Lời ấy chỉ để đánh lừa những kẻ nhẹ dạ dễ tin? Hay Lời ấy là Lời hằng sống và chân thật?
Nếu đi sâu vào đời sống của giáo dân và kể cả lương dân, chúng ta sẽ thấy có không ít người nghèo xác tín rằng họ được Thiên Chúa hay Trời Phật chăm lo cho cuộc sống gia đình của họ. Họ là những người chịu thương chịu khó làm việc chứ không phải là những hạng ươn lười biếng nhác. Nhưng cứ nói theo cách bình thường thì họ không thể có đủ tiền đủ bạc để lo cho vợ chồng con cái vì hoàn cảnh eo hẹp và công ăn việc làm thu nhập chẳng là bao. Thế mà trên thực tế họ vẫn sống. Họ vừa lao động vừa cậy trông vào Chúa, vào Trời Phật. Và gia đình họ vẫn bình yên hạnh phúc, vì họ dám liều mà giao phó mọi sự cho Thiên Chúa, cho Trời Phật (trời sinh voi trời sinh cỏ) nên họ cảm nghiệm được là có một bàn tay vô hình thu xếp, giải quyết mọi khó khăn cho họ.
Ngày đầu năm mà suy nghĩ một chút về vấn đề vật chất trong cuộc sống chắc không phải là vô bổ. Nếu chúng ta không phải chạy ăn chạy uống thì chúng ta đừng quên cảm tạ Thiên Chúa Quan Phòng. Cách thể hiện lòng biết ơn tốt nhất, đẹp lòng Thiên Chúa nhất, là chúng ta biết chia sẻ một phần của cải mà mình đã nhận được cho những người túng thiếu hơn chúng ta. Còn nếu chúng ta đang sống trong cảnh nghèo túng, thì chúng ta hãy mạnh dạn phó dâng và tin tưởng ở Lời của Thiên Chúa. Chỉ cần Đức Tin nhỏ bằng hạt cải là chúng ta sẽ chứng kiến chuyện động trời và bất ngờ thú vị: Thiên Chúa không bỏ ai phải đói, phải khổ! Bình an cho Năm Mới không phải được bảo đảm bằng của cải vật chất mà bằng sự tin tưởng phó thác vào Đấng Thiên Chúa là Cha yêu thương biết chúng ta cần gì và không bao giờ làm ngơ trước các nhu cầu đích thực của chúng ta.
17. Hạnh phúc (Mt 6,25-34)
Trong giờ phút giao thừa, nghĩa là trong lúc năm cũ sắp qua đi, nhường bước cho năm mới, chúng ta hướng về Đức Kitô, Đấng vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời, đồng thời trao phó cho Ngài vận mạng của chúng ta, của loài người và của cả vũ trụ. Chúng ta phó thác cho Ngài cuộc đời và những dự phóng của chúng ta: Tất cả những gì chúng ta đang thực hiện và muốn tiếp tục hoàn thành, tất cả những gì chúng ta muốn làm nhưng chưa muốn hay chưa dám kởi công, cũng như tất cả những gì mới chỉ là những mơ ước, những nguyện vọng. Chúng ta phó thác cho Ngài tất cả mọi người thân yêu, bè bạn.
Chúng ta xin Ngài bảo đảm cho những lời nguyện chúc của chúng ta được trở thành sự thật. Nhưng đồng thời, chúng ta cũng phải biết noi gương Chúa Giêsu, nghĩa là đừng chỉ chúc suông cho nhau hạnh phúc mà phải thực sự chia sẻ hay ít ra nếu chúng ta chưa có hạnh phúc để chia sẻ, thì cũng biết cùng nhau xây dựng hạnh phúc cho nhau.
Chúng ta đừng chỉ chúc hay hứa cho nhau hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng, tuy đó là hạnh phúc thật nhưng có lẽ vẫn còn xa. Chúa không chỉ hứa cho chúng ta hạnh phúc thật đời sau, nhưng đàng khác, Ngài cũng không muốn chúng ta phải khổ cực ở đời này, hay là muốn chúng ta mua sắm hạnh phúc tương lai bằng cách trả giá quá đắt là những đau khổ hôm nay.
Thiên Chúa là Cha của chúng ta ngay từ bây giờ, ngay hôm nay, chứ không là người Cha của tương lai mà thôi. Vì thế, Ngài muốn chúng ta ngay từ hôm nay phải được hạnh phúc. Chỉ có điều là hạnh phúc đó, hạnh phúc của hôm nay, hạnh phúc tại đời này cũng chỉ có thể xây dựng bằng mồ hôi nước mắt, bằng sự nhọc nhằn, thậm chí bằng đau khổ. Thế nhưng, tình yêu sẽ làm vơi bớt đau thương và còn có thế biến đổi gánh nặng của chúng ta thành nhẹ nhàng êm ái.
Một cách cụ thể, chúc cho nhau được hạnh phúc trong ngày đầu xuân, không nên chỉ là phát biểu trên đầu môi chót lưỡi, mà là tự thâm tâm, tự đáy lòng, chúng ta cam kết đem lại hạnh phúc đó bằng cách quyết tâm sống đơn sơ, nghèo khó, hiền từ, biết xót thương, biết sẵn sàng chịu đau khổ vì Chúa, vì anh em đồng loại.
Chúng ta không thể cầu chúc cho nhau hạnh phúc, nếu cứ tiếp tục sống ích kỷ, để mạc anh em phải đói khổ. Chúng ta không thể cầu chúc cho nhau được hạnh phúc, nếu cứ tiếp tục sống tàn bạo, độc ác, hay sống bất chính, bất công với một tâm hồn khô cằn sỏi đá, chẳng biết xót thương. Chúng ta không thể chúc cho nhau được hạnh phúc, nếu không sẵn sàng chịu gian khổ để giúp đỡ, giải thoát họ khỏi tình trạng đói nghèo, khỏi cảnh bị bóc lột, hay không tìm cách gỡ họ ra khỏi cảnh chia rẽ và thù oán.
Đừng để những lời giả dối thốt ra từ môi miệng chúng ta trong những giờ phút đầu tiên của năm mới. Trái lại hãy đem trót cả tâm tình mà cầu chúc cho nhau biết đón nhận hạnh phúc mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đem lại cho chúng ta.
Lời cầu chúc đầy ý nghĩa nhất đối với người Kitô hữu đó là cầu chúc cho nhau biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa, và đó chính là chiếc chìa khoá đem lại cho mỗi người hạnh phúc đích thực.
18. Niềm vui và nỗi buồn (Mt 6, 25-34)
Không gì cần thiết cho chúng ta bằng niềm vui. Phải, niềm vui cũng cần thiết như cơm để ăn, áo để mặc và khí trời để thở. Niềm vui được biểu lộ nơi ánh mắt, nơi nụ cười, phản ảnh cho một tâm hồn trong sạch và một trái tim nhiệt thành. Vì thế mà người ta đã bảo:
– Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn vậy.
Thế nhưng đâu là chiếc chìa khóa đem lại niềm vui cho chúng ta?
Sau khi Chúa Giêsu sống lại, vấn đề quan trọng đối với các tông đồ chính là niềm vui, bấy giờ tâm hồn các ông ngập tràn hạnh phúc, bởi vì Chúa Giêsu vẫn còn đó, bên cạnh các ông. Nhưng rồi các ông sẽ phải buồn phiền vì Chúa Giêsu sẽ từ giã các ông mà về cùng Chúa Cha. Điều cần thiết cho các tông đồ cũng là điều cần thiết cho chúng ta, những người tín hữu, đó là niềm vui được kết hiệp với Chúa.
Thực vậy, bao lâu xa cách Chúa, tâm hồn chúng ta sẽ phải khắc khoải u sầu. Tại sao lại như thế?
Trước hết vì Chúa Giêsu là Đấng đem lại cho chúng ta niềm vui đích thực. Có một gia đình giàu sang, chuẩn bị cho cô gái út của mình trong ngày rước lễ lần đầu. Bà mẹ đã may cho cô bé những bộ quần áo lộng lẫy. Cô bé yên lặng suy nghĩ, rồi với cặp mắt long lanh, cô bé nói:
– Xin mẹ cứ mặc cho con những bộ quần áo bình thường như những nhỏ bạn nghèo khổ của con. Niềm vui của con chính là được gặp gỡ và kết hiệp với Chúa trong ngày trọng đại ấy.
Phải, một khi ngự vào tâm hồn chúng ta, Chúa sẽ đem đến niềm vui và sự bình an. Vì thế, chỉ có một nỗi buồn day dứt, đó là chúng ta bị xa cách Chúa bởi tội lỗi mà thôi.
Vua thánh Louis hồi còn nhỏ, thường ngồi dưới chân mẹ là hoàng hậu Blanche de Castille, ngước mắt nhìn mẹ và chăm chú lắng nghe những lời mẹ dạy. Ngày kia, người mẹ đặt một tay lên vai con rồi nghẹn ngào nói:
– Hẳn con biết rằng mẹ yêu con nhiều lắm, nhưng thà rằng mẹ thấy con chết dưới chân mẹ còn hơn là thấy con phạm một tội trọng mất lòng Chúa.
Cậu bé yên lặng và suy nghĩ, rồi trên khuôn mặt cậu bé biểu lộ một điều dốc quyết thật can cảm:
– Thà chết chẳng thà phạm tội.
Với các tông đồ ngày xưa, hẳn rằng Chúa Giêsu đã chiếm một địa vị quan trọng. Các ông không thể sống thiếu vắng Ngài. Và Ngài đã là tất cả cho các ông. Thế nhưng ngày nay, không thiếu gì những tín hữu và ngay cả chúng ta nữa, chỉ vì một lợi lộc nhỏ mọn, chỉ vì một vui thú tầm thường, chúng ta đã bỏ Chúa như các môn đệ, đã bán Chúa như Giuđa và đã chối Chúa như Phêrô. Mặc dù trong ngày chịu phép Rửa tội và hằng năm trong đêm thánh vọng Phục sinh chúng ta đã thề hứa: Từ bỏ ma quỉ, từ bỏ những công việc và những quyến dũ của nó, để kết hiệp với Chúa mãi mãi. Nhưng rồi chúng ta lại mau quên đi những lời thề hứa ấy, bỏ mặc Chúa trong sự quên lãng.
Nếu chẳng may tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa Chúa, thì hãy mau mắn chạy đến nơi tòa cáo giải với tâm tình sám hối ăn năn, để được tha thứ, để được hòa giải với Ngài hầu lấy lại sự bình an và niềm vui.
Chúng ta không biết mình sẽ sống được bao lâu: Bảy tám chục năm hay chỉ một vài bữa nữa mà thôi. Tuy nhiên, những tháng ngày hiện tại không thể nào sánh với cuộc sống vĩnh cửu, khi chúng ta được trở về nhà Chúa, được nhìn thấy Ngài mặt đối mặt. Lúc đó, niềm vui của chúng ta sẽ tràn đầy, hạnh phúc của chúng ta sẽ trọn hảo, và chẳng một ai có thể lấy mất được.
Đạo của Chúa là đạo của niềm vui. Tin mà Chúa đem đến là Tin mừng. Vì thế, xin cầu chúc cho mỗi người chúng ta luôn gắn bó mật thiết với Chúa, để hiện tại chúng ta được hưởng một năm mới ngập tràn niềm vui và mai ngày chúng ta sẽ được hưởng một mùa xuân vĩnh cửu trong tình thương của Chúa.
19. Năm mới bình an và hạnh phúc (Mt 6,25-34)
Một năm cũ đã qua và một năm mới đã tới,trong giây phút linh thiêng này, chúng ta thường làm gì? Tôi xin thưa: Chúng ta thường gửi đến cho nhau những lời cầu chúc. Thế nhưng, nhiều người đã không ý thức được tập tục tốt đẹp này. Họ không hề nghĩ tới những điều họ nói, để rồi những lời cầu chúc ấy trở thành bôi bác.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta cầu chúc cho nhau những gì? Và chúng ta nghĩ sao về những lời cầu chúc ấy? Tôi xin thưa: Chúng ta cầu chúc cho nhau một năm mới hạnh phúc. Vậy thế nào là một năm mới hạnh phúc?
Khi em bé nhặt được một tờ giấy bạc trên hè phố, tụi bạn sẽ bảo em là một người hạnh phúc và may mắn. Khi chúng ta trúng số độc đắc, bà con lối xóm cũng bảo chúng ta là người hạnh phúc và may mắn. Tại sao lại như thế? Vì đối với nhiều người, hạnh phúc hệ tại giàu sang, tiền nhiều bạc lắm.
Nhưng theo tôi, đó mới chỉ là một thứ hạnh phúc giả hiệu và thời gian của nó kéo dài không quá một kiếp của con thiêu thân, như lời một câu danh ngôn đã bảo:
– Hạnh phúc của người giàu cũng dễ bể như một chiếc ly thủy tinh.
Chẳng hạn vì chiến tranh, vì bệnh tật, vì tai ương hoạn nạn…mà nhiều người đã mất đi tất cả sản nghiệp đã được chắt chiu gầy dựng: Bừng con mắt dậy thấy mình tay không. Điều đó chứng tỏ rằng giàu sang không đủ đảm bảo và đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc.
Đối với nhiều người khác, một năm mới hạnh phúc sẽ là một năm mới khỏe mạnh, gặp nhiều may mắn trong công ăn việc làm. Đúng thế, khỏe mạnh và may mắn cũng là những điều chúng ta thường cầu chúc cho nhau, nhưng vẫn chưa phải là niềm hạnh phúc đích thực.
Nếu sức khỏe là niềm hạnh phúc, thì chắc hẳn những lực sĩ sẽ là những người hạnh phúc nhất. Thế nhưng, không phải vậy. Bởi vì có những người đau yếu, sức khỏe thì èo uột, thế mà nụ cười vẫn tươi nở trên cặp môi khô héo của họ.
Còn về sự may mắn trong công ăn việc làm, nếu quả đúng như vậy, kẻ nào càng kiếm được nhiều tiền, thì càng hạnh phúc. Thế nhưng, trong cuộc sống, những người kiếm được ít tiền chưa chắc đã là những kẻ khổ đau, vì như chúng ta thường bảo:
– Lòng tham thì vô đáy…Đứng núi này trông núi nọ…Được voi đòi tiên…
Và như thế, khát vọng này nảy sinh ra khát vọng khác và sẽ chẳng bao giờ được thỏa mãn. Rất nhiều người đã mong ước có được một việc làm dễ dãi, khả dĩ kiếm được nhiều tiền, nhiều bạc để rồi sống một cuộc sống an nhàn và hạnh phúc, vì họ thầm nghĩ:
– Có tiền mua tiên cũng được.
– Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lý.
Có tiền là sẽ có nhà lầu xe hơi, là sẽ có Tv tủ lạnh và nhất là sẽ được mọi người kính nể. Thế nhưng, họ đã lầm. Tôi xin đưa ra một thí dụ đẻ chứng minh cho sự thật trên.
Paul Getty là ông chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Khu đất ông ở rộng bốn mươi mẫu tây. Tài sản của ông trị giá hàng tỷ mỹ kim. Thế mà mỗi ngày ông đều phải làm việc từ ba giờ sáng. Chung quanh ông có tới mười cảnh sát bảo vệ. Mỗi ngày, ông nhận được hàng trăm bức thư hăm dọa sẽ ám sát và ông đã phải thốt lên:
– Tôi là người chẳng bao giờ biết đến hạnh phúc.
Thí dụ trên cho chúng ta thấy: Hạnh phúc thật không hệ tại nơi tiền bạc vật chất. Vậy chúng ta phải đi tìm hạnh phúc ở đâu bây giờ?
Hẳn chúng ta đã biết: Con người không phải chỉ có thân xác, mà còn có linh hồn. Bởi đó, không phải chỉ cần có của cải vật chất bên ngoài, mà còn cần phải có những nhu cầu thiêng liêng, xuất phát tự bên trong. Và như thế, niềm hạnh phúc đích thật hệ tại sự bình an trong tâm hồn.
Nhìn vào đời sống các thánh, chúng ta sẽ thấy được điều đó. Chẳng hạn thánh Giuse và Mẹ Maria. Chắc hẳn các ngài không có nhiều tiền bạc, không ở trong những tòa nhà tráng lệ và tiện nghi. Trái lại, các ngài sống rất nghèo nàn, đến nỗi không tìm được một chỗ trú chân. Dầu vậy, các ngài vẫn hạnh phúc. Tại sao lại như thế? Tôi xin thưa: Vì Chúa Giêsu luôn ở với các ngài.
Thực vậy, nơi nào có Chúa, nơi ấy có hạnh phúc. Và ai yêu mến Chúa, người ấy sẽ được hạnh phúc thực sự. Bởi vậy, muốn được hạnh phúc, chúng ta cần phải có Chúa ở cùng, nghĩa là tâm hồn chúng ta phải trong sạch, xứng đáng làm nơi cho Chúa ngự trị.
Nếu trót sai lỗi vấp phạm, chúng ta hãy chạy đến với bí tích của lòng khoan dung với tâm tình sám hối, để được tha thứ, bởi vì sự bình an phải là kết quả của việc hòa giải giữa chúng ta với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau.
Niềm hạnh phúc của một tâm hồn trong sạch và có Chúa ở cùng, cũng chính là niềm hạnh phúc chúng ta cần phải cầu chúc cho nhau trong năm mới này.
Thực vậy, dù năm mới này có nhiều khổ đau và cay đắng, nhưng nếu tâm hồn chúng ta thực sự có Chúa ở cùng, chúng ta vẫn cảm thấy vui mừng và hy vọng. Chính trong ý nghĩ ấy mà trong giây phút linh thiêng này, tôi xin cầu chúc cho anh chị em một năm mới bình an và hạnh phúc.
20. Tôi là người hạnh phúc nhất – Mt 6,25-34
Một ông vua giàu có nọ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, bởi vì tất cả tài sản mà ông có đều do sự miễn cưỡng đóng góp của thần dân. Ông tự so sánh mình với những người hành khất: người hành khất nhận được tiền của do lòng thương của người khác, còn ông, ông nhận được tiền do sự cưỡng bách.
Ngày nọ, ông vua giàu có đã quyết định làm một việc táo bạo: đó là cải trang thành người hành khất để cảm nghiệm được những đồng tiền bố thí… Thế là mỗi ngày Chúa Nhật, ông biến mình thành một người ăn xin lê lết trước cửa giáo đường. Ông cho tất cả những tiền ăn xin được vào một chiếc hộp nhỏ. Tuy không là bao so với cả kho tàng của ông, nhưng có lẽ nó vẫn có giá trị hơn… Ông tự nghĩ: bây giờ ta nới thực sự là người giàu có nhất trên đời, bởi vì tiền của ta nhận được là do lòng thương xót của con người, chứ không do một sự cưỡng bách nào.
Khi đã gom góp được một số tiền khá lớn sau những năm tháng ăn xin trước cửa các giáo đường, ông đã xin từ chức khỏi ngai vàng và đi đến một phương xa, nơi không ai có thể nhận ra ông. Ông mua một mảnh đất, và tự tay cất được một ngôi nhà tranh đơn sơ. Không mấy chốc, do sự hòa nhã, vui tươi của ông, mọi người trong lối xóm đều mến thương ông, nhất là các em bé. Ông kể chuyện cho chúng nghe, ông đem chúng đi câu cá, ông dạy chúng ca hát.
Trong đám trẻ nhỏ, có một cậu bé gia đình còn nghèo hơn cả ông nữa. Cậu bé chỉ có vỏn vẹn một con chim họa mi. Nghe tin ông đau nặng, cậu bé đã vội vàng mang con chim đến tặng ông, với hy vọng rằng con chim sẽ hót cho ông được khuây khỏa.
Đón nhận món quà, con người đã từng là vua của một nước mới thốt lên: “Từ trước đến nay, tất cả những gì tôi có, tôi đều lãnh nhận do lòng thương xót của người khác. Người ta cho tôi, nhưng không phải là cho tôi mà là cho một người hành khất. Giờ đây, với món quà tặng là con chim này, người ta tặng cho tôi với tất cả tấm lòng yêu thương… Chắc chắn, tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian”.
Một thời gian sau đó, trong vùng, có một người táđiền nghèo bị người chủ đe dọa lấy nhà và trục xuất ra khỏi mảnh vườn đang canh tác. Nghĩ đến cảnh hai vợ chồng và 7 đứa con dại bị đuổi ra khỏi nhà, ông vua không thể nào ăn ngủ được… Cuối cùng, ông quyết định tặng chính mảnh vườn và ngôi nhà của mình cho gia đình người tá điền nghèo… Và một lần nữa, không một đồng xu dính túi, ông lên đường trẩy đi một nơi khác.
Bùi ngùi vì phải chia tay với những người quen biết trong vùng, nhưng ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng, bởi vì lần đầu tiên ông cảm nghiệm được niềm vui của sự ban tặng. Ông hiểu được rằng cho thì có phúc hơn là nhận lãnh… Lần này, ông thốt lên với tất cả xác tín: “Tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian này”.
Câu chuyện của ông vua đi tìm hạnh phúc trên đây có thể gợi lên cho chúng ta về hình ảnh của chuyến đi cuộc đời của chúng ta… Người Kitô là một người lữ hành đi tìm hạnh phúc. Và hạnh phúc đích thực của chúng ta là gì nếu không phải là trao tặng, trao tặng cho đến lúc trống rỗng, nhưng bù lại, chúng ta được lấp đầy bằng chính Chúa.
21. Thiên Chúa hay thần tài?--Lm Nguyễn Hồng Giáo
Trong bài Phúc Âm Mt 6, 24-34 mà chúng ta nghe đọc trong Chúa Nhật 8 Thường Niên năm A, và trong dịp tết nguyên đán, Đức Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm để chỉ cho chúng ta thấy một sự lo lắng thái quá về đời sống vật chất là vô lý nếu như chúng ta còn tin có Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ví dụ thứ nhất: chim trời không gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống. Ví dụ thứ hai: cuộc đời của mỗi người chúng ta có một quảng thời gian nhất định sống ở trần gian này, – điều đó chúng ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc! Và cuối cùng: hoa huệ ngoài đồng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc cũng không mặc đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố: “Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó”
Chúng ta đồng ý rằng lời Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay thật là hấp dẫn. Có gì đáng mong ước hơn là có Cha Trên Trời lo lắng cho ta? Tuy nhiên, càng suy nghĩ và đi sâu vào thực tế, chúng ta càng thấy mọi sự chẳng đơn giản chút nào.
Những lo lắng chính đáng
Con người thời đại ta cũng như mọi thời đại, đều có trăm ngàn nỗi lo, và những nỗi lo chính đáng. Đừng nói gì xa xôi, chỉ nguyên những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống đã làm điên đầu nhiều bậc cha mẹ gia đình: lo sao cho có cái ăn, cái mặc, cho căn nhà ở khỏi giột nát khi tới mùa mưa, cho con cái được học hành, cho có thuốc thang khi bệnh tật, cho giá cả đừng tăng vọt, mùa màng không thất thoát… Những nỗi lo như thế phát xuất từ trách nhiệm của mỗi người, đều chính đáng và đẹp lòng Chúa.
Chúa Giêsu không muốn cho chúng ta lười biếng hoặc sống vô trách nhiệm. Chim trời cũng phải vất vả tìm mồi. Có những thứ chim phải bay thật xa mới tới chỗ có thức ăn. Hoa huệ ngoài đồng cũng có khi phải đâm rễ len lỏi giữa sỏi đá để tìm chất nuôi sống. Đàng khác chính Chúa cũng nói rằng: “Ngày nào có cái khó, cái khổ của ngày đó”. Vậy khó nhọc, gian khổ là điều có thực, gắn vào thân phận con người.
Không những Chúa không muốn ta sống lười biếng, vô lo, vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải làm việc để cùng với Người hoàn hiện thế giới này và góp phần vào công cuộc cứu độ thế giới. Ngay lúc vừa mới dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25, 15-25), Chúa Giêsu đã hỏi mỗi người đã dùng tài năng Chúa ban mà làm lợi cho Người được bao nhiêu, chứ không phải đã chôn giấu nó an toàn như thế nào. Thế thì ta có quyền và có bổn phận phải lo lắng, tính toán, phải có kế hoạch, phải phòng xa. Điều Chúa không chấp nhận là chúng ta lo lắng về đời sống vật chất như thể đó đã là cùng đích của đời sống, là tuyệt đối cho đời mình.
Thiên Chúa hay Thần Tài?
Câu then chốt nhất của bài Phúc Âm hôm nay là: “Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Chúa và đời sống công chính như Nguời đòi hỏi, còn các thứ kia (nghĩa là của cải vật chất), Người sẽ thêm cho.” Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa: đây mới là vấn đề ưu tiên.
Nỗi lo số một của người môn đệ Chúa Giêsu là nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết. Nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.
Lời dạy của Chúa Giêsu là hệ trọng. Và nó cũng phù hợp với kinh nghiệm sống của chúng ta. Người ta thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Nhưng thực tế luôn luôn chứng minh rằng suy nghĩ và hành động như thế là sai lầm. Xã hội tư bản lấy sự sản xuất của cải hàng hoá dư dật và sự hưởng thụ tự do làm mục tiêu, và bắt mọi sự khác phải phục vụ cho mục tiêu ấy, nên đã rơi vào khủng hoảng về tinh thần, về lý tưởng sống. Và vì mục tiêu ấy, người ta khai thác các tài nguyên thiên nhiên một cách vô độ và ngày nay thiên nhiên quay lại “trả thù” con người, đe dọa cuộc sống trên trái đất. Ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, theo lý thuyết người ta coi kinh tế là yếu tố quyết định mọi sự khác, và tuy vẫn nói kinh tế phải phục vụ con người, nhưng trên thực tế con người và các giá trị đạo đức bị chà đạp trầm trọng… Sau khi hàng loạt nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, những nước khác đã quay sang kinh tế thị trường và cũng đang phát triển theo hướng phương Tây, liệu có tránh nổi những tiêu cực gắn liền vào tư bản chủ nghĩa không? Của cải vật chất là ông chủ không dễ gì khuất phục nổi. Tinh thần thường tỏ ra yếu đuối và không hấp dẫn bằng của cải giàu sang. Ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa “thời mở cửa”, điều đó cũng đang được chứng minh.
Của cải là cần thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với bất cứ giá nào.
“Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi”: Sống theo ưu tiên đó, có nghĩa là chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất.
Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
22. Bình an
(Bài đọc 1: St 1, 14-18; Bài đọc 2: Pl 4, 4-8; Tin mừng: Mt 6, 25-34)
Một trong những nét đẹp của nền văn hoá Á Đông nói chung và của Việt Nam chúng ta nói riêng, đó là phong tục đi chúc Tết trong những ngày đầu năm. Trong những ngày đầu năm này, chúng ta luôn cầu chúc cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất. Chúng ta ước mơ và chúc cho nhau trong năm mới này được thịnh vượng, may mắn, làm ăn phát tài…và nhiều điều may mắn khác nữa, nhưng có lẽ điều mà tất cả từng người chúng ta đây ước mơ nhiều nhất và cũng được cầu chúc nhiều nhất là sự bình an trong năm mới. Vâng, hai chữ “bình an” chính là ước vọng sâu xa nhất của từng người chúng ta. Nếu suy xét kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng tất cả mọi việc chúng ta làm tựu trung cũng là để có được sự bình an. Thế nhưng, thực tế, chúng ta vẫn chưa có được sự bình an thực sự.
Do đó, trong giờ chia sẻ này, tôi muốn cùng quý ông bà anh chị em dựa vào ánh sáng của Lời Chúa để tìm ra phương thế đạt được sự bình an đích thực trong năm mới này.
1. Thiên Chúa, nguồn bình an:
Trước khi nói đến sự bình an, có lẽ chúng ta cũng cần nhìn qua những lý do làm cho chúng ta mất bình an. Lý do thì nhiều, nào là làm ăn thất bại, bị hiểu lầm, gặp tai ương, bệnh tật…, nhưng xâu xa hơn, có lẽ vì mọi việc không xảy ra đúng với ý muốn, dự định của chúng ta nên chúng ta bất an. Hay nói một cách khác, chúng ta nghĩ rằng mình là chủ cuộc sống của mình và mình có thể kiểm soát được tất cả mọi việc, nên khi có một điều gì đó không đúng với chương trình của mình, chúng ta liền khó chịu bất an.
Do đó, tôi thiết nghĩ để có sự bình an thật sự, từng người chúng ta cần xác tín với nhau một điều: Thiên Chúa là Đấng quan phòng, làm chủ mọi sự. Chính Ngài là Đấng tạo dựng muôn loài, như trình thuật của sách Sáng Thế: “Thiên Chúa phán: Phải có những vầng sáng trên vòm trời…. Liền có như vậy…. Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp”. Không chỉ là Đấng Sáng Tạo, Thiên Chúa còn là người Cha đầy yêu thương sẵn sàng lo cho chúng ta mọi sự. Chính Đức Giêsu đã khẳng định với chúng ta điều này như chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng: “Anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cũng cần tất cả những thứ đó”. Cha chúng ta thừa biết chúng ta cần gì và Ngài sẵn sàng ban cho chúng ta điều chúng ta cần. Điều quan trọng là chúng ta có dám đặt mình vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, và để cho Ngài lo hay không mà thôi. Thật vậy, kinh nghiệm hàng ngày cho thấy: trong thân phận làm con thì điều quan trọng nhất là ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ, rồi cha mẹ sẽ lo cho con tất cả mọi sự. Và lúc đó, chúng ta sẽ có bình an, vì mọi chuyện đã có cha mẹ lo cho rồi.
Như thế, để có được sự bình an, điều đầu tiên mỗi người chúng ta cần thực hiện đó là hướng tâm hồn và con người chúng ta lên Thiên Chúa, nhận Ngài là chủ mọi sự kể cả cuộc đời của mỗi người chúng ta. Đây là một sự thật căn bản đầu tiên làm nền tảng cho một tâm hồn bình an.
2. Con đường bình an:
Hướng tâm hồn lên với Thiên Chúa, chính là luôn gắn bó với Chúa là nguồn bình an, lúc đó chúng ta sẽ nhận được sự bình an. Tuy nhiên, thánh Phaolô nhắc nhở mỗi người chúng ta: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em”. Điều đó cho thấy, niềm tin tưởng và phó thác của chúng ta nơi Chúa không miễn trừ cho chúng ta các khó khăn, trở ngại trong cuộc sống hiện tại, nhưng sẽ giúp chúng ta có được sức mạnh nội tâm và làm cho tâm hồn chúng ta được thanh thản để vượt qua những khó khăn đó. Như vậy, cho dù ngoại cảnh bên ngoài không làm cho chúng ta vui, nhưng trong Chúa, chúng ta vẫn có thể vui được. Đây chính là kinh nghiệm của Đức Maria: giữa những khó khăn của cuộc sống nghèo khổ, và án tử có thể đến vì mang thai trong lúc chưa về nhà chồng. Mẹ vẫn cất tiếng ca vang: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi”. Mẹ đã vui vì Mẹ luôn tin tưởng vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ tin chắc rằng, Chúa sẽ có cách để giải quyết vấn đề của Mẹ. Tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca cũng xác tín như thế khi nói: “Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”. Vịnh gia còn mời gọi chúng ta: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”.
Kế đến, sự bình an thật sự chỉ có nơi những tâm hồn thanh sạch, bởi vì “cây ngay không sợ chết đứng”. Những người công chính luôn cậy trông vào Chúa có thể vẫn còn phải gặp những khó khăn bên ngoài, nhưng chắc chắn họ không cùng đường, tuyệt vọng, tâm hồn họ vẫn luôn bình an, vì họ tin vào lời hứa của Đức Giêsu: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người; còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”. Thật vậy, với kinh nghiệm của mình chắc hẳn mỗi người trong chúng ta có cùng xác tín của tác giả Thánh vịnh: “Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, chưa thấy người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ”. Do đó, để có bình an thật sự trong tâm hồn, chúng ta cần lánh xa tội lỗi và thực hành những điều công chính như lời dạy của thánh Phaolô: “Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và mang lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen thì xin anh em hãy để ý”.
23. Chúng ta là người hành khất
“Chúng ta là người hành khất!” lời tâm sự này Martinô Lutherô, cha đẻ của đạo Tin lành Thệ Phản bên Đức, đã thốt lên năm 1546 vào những ngày cuối cùng cuộc sống trên trần gian của ông. Lời tâm sự này của ông biểu lộ niềm tin mối tương giao giữa Thiên Chúa và con người. Người có tâm hồn niềm tin vào Thiên Chúa trông mong chờ đợi đón nhận từ nơi Ngài, những sự cần thiết cho đời sống. Và đồng thời cũng nói lên tâm tình niềm tin: Thiên Chúa là Đấng ban phát mọi ân đức tặng phẩm cho đời sống, con cám ơn Ngài! “Chúng ta là người hành khất!” tâm tình này cũng có thể là một suy tư gợi ý vào những giờ phút cuối cùng của năm hiện tại đang đi vào qúa khứ. Nhưng tại sao lại đem tâm tình này vào đời sống ngày cuối năm?
Khi nghe đến “hành khất” ta nghĩ ngay tới nghèo khổ, đói khát, túng thiếu, yếu đau, bơ vơ không nhà cửa… Không lẽ cuộc sống chỉ tiêu cực như thế sao? Không, chúng ta không dừng lại ở điểm tiêu cực đó. Ngày nay, nơi nhiều quốc gia tình trạng xóa đói, giảm nghèo, vệ sinh bệnh tật đang dần dà được đẩy mạnh bài trừ cải tiến. Và mức sống no cơm ấm áo dần được nâng cao, cho xứng với phẩm gía con người. Trong cuộc sống, lẽ dĩ nhiên rất nhiều người, nhất là ở trong xã hội văn minh đầy đủ hay đang mở cửa phát triển, đã đạt được những thành công rực rỡ về mặt chính trị, kinh tế, học hành, nghề nghiệp, y tế, của cải tài sản, cuộc sống gia đình hòa hợp êm ấm… Những điều đó đối với người có lòng tin vào Thiên Chúa, khi nhìn lại cũng có tâm tình gần giống như của Martinô Lutherô: Vâng, chúng con là người hành khất!
Tâm tình này muốn nói lên: Con cám ơn Thiên Chúa đã ban cho chúng con cơ hội sống, cơ hội góp phần vào cuộc sống. Những gì con có hay đạt được, là những ân đức qùa tặng Thiên Chúa ban cho. Cuộc sống xã hội và đời sống từng người không chỉ có mặt sáng đẹp đó. Nhưng còn có mặt với nhiều bóng tối tiêu cực nữa: chiến tranh, thiên tai, lo âu, tai nạn, đau khổ bệnh tật, chạy loạn tỵ nạn tha hương … Trước những cảnh tượng đó, không ai muốn, nhưng chúng xảy ra đó và mọi người phải đối diện với! Trong cơn tuyệt vọng như thế, đâu đâu vào thời đại nào, hầu như bất cứ ai cũng đều cúi đầu hướng tâm hồn lên cao, thành tâm khấn vái xin Thiên Chúa, xin Thượng Đế, xin Trời phù hộ cho đời sống, cho thế giới khỏi cơn khốn khó đó.Tâm tình này càng vẽ rõ nét hơn “Chúng ta là người hành khất!” Người tin vào Thiên Chúa, khi nhận lãnh một tin lành bằng an, một tin vui, họ đều thắp sáng cây nến lòng biết ơn cho Đấng đã ban cho mình ân đức cao qúi đó và cho người nào đó đã liên đới trao tặng giúp đỡ mình. Cung cách sống đạo đức tình người này muốn nói lên: “Chúng ta là người hành khất!”
Trước ngưỡng cửa Năm Mới đang tiến dần vào hiện tại, niềm vui mừng đang khơi dậy trong lòng. Nhưng nào ai có thể biết đươc tương lai ngày mai trong năm mới sẽ đến như thế nào. Rồi trong đời sống vào nhiều hoàn cảnh giai đoạn cuộc sống, chúng ta thường lâm vào ngõ bí đường cùng, không biết nên làm sao nữa… Là người có niềm tin, ta đặt niềm tin tưởng nơi Thiên Chúa, Đấng biết sự gì cần thiết cho đời sống của ta. Chúng ta thường cầu nguyện cùng Đức Chúa Thánh Thần: lạy Cha kẻ khó khăn bần hàn, xin đến trợ giúp ban cho chúng con ân đức gìn giữ cuộc sống hôm nay và ngày mai! Đó cũng là tâm tình: “Chúng ta là người hành khất!”
24. Lễ Tân Niên- Cầu Bình An Cho Năm Mới
ĐỊNH HƯỚNG
Năm hết tết đến, ai trong chúng ta mà lại chẳng cảm thấy một chút gì náo nức: trẻ em thì mong đợi những bộ quần áo mới và những đồng tiền lì xì mừng tuổi, người lớn thì tính sổ công việc làm ăn trong năm qua và hoạch định chương trình cho thời gian sắp tới. Mọi người đều tạm gác những âu lo thường ngày để thăm viếng, để gặp gỡ và chúc mừng nhau một năm mới nhiều may mắn và hạnh phúc.
Thế nhưng giờ đây, chúng ta hãy bỏ qua những náo nức ấy để suy nghĩ một chút. Năm cũ đã trôi qua như một giấc chiêm bao và năm mới lại trở về. Chúng ta sống thêm một năm, nhưng cũng mất đi một năm trong dòng đời của chúng ta. Vậy đâu là hướng đi, đâu là ý nghĩa, đâu là trọng tâm của cuộc đời, để nhờ đó chúng ta sẽ đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu?
Có lẽ chúng ta đã đánh mất phần nào cái trọng tâm của cuộc đời. Trọng tâm ấy chính là Thiên Chúa. Thực vậy, chúng ta từ bỏ Thiên Chúa để chạy theo những thần tượng giả trá, do những đam mê, những ước vọng riêng tư của mình tạo nên. Bởi đó, chúng ta bôn ba vất vưởng trên dòng thời gian, như thuyền không lái, như ngựa không cương. Khi thì chúng ta tìm cái này, lúc thì chúng ta kiếm cái kia. Vì thế, cuộc đời chúng ta chất đầy như bồn chồn và lo lắng. Chúng ta lo sợ tương lai có nhiều bất trắc, vì thế mới cầu chúc cho nhau được may mắn. Có người còn cẩn thận kiêng cữ để khỏi rước cái xui vào nhà.
Tuy nhiên, những may mắn và niềm hạnh phúc chúng ta cầu chúc cho nhau lại không treo trên đỉnh cây nêu, cũng không nằm trong những tấm thiệp. Ngay cả những lời cầu chúc chân thành và nồng hậu nhất cũng không phải là những vị sứ giả mang lại hạnh phúc.
Thực vậy, hạnh phúc không do những tiện nghi vật chất đem đến, vì những tiện nghi này nay còn mai mất. Hạnh phúc không do bản thân chúng ta gầy dựng nên, vì bản thân chúng ta vốn đã chìm ngập trong khổ đau và nghèo túng. Hạnh phúc ấy cũng không do người khác tạo thành vì người khác không có đủ quyền năng và tình thương để thực hiện những mộng ước của họ và của chúng ta.
Như thế, chúng ta nhận ra rằng chỉ mình Chúa mới là Đấng có thể đem lại hạnh phúc cho chúng ta mà thôi. Chỉ mình Chúa mới là Đấng có thể thực hiện được những lời mừng chúc của chúng ta mà thôi. Thực vậy, thánh Augustinô đã nói:
– Linh hồn tôi chỉ được nghỉ yên khi nó nằm gọn trong lòng bàn tay của Chúa.
Bao lâu chúng ta còn chạy theo những ảo ảnh của đam mê và dục vọng, thì bấy lâu cuộc đời chúng ta vẫn còn vất vưởng và xao xuyến. Khát vọng như một thứ rượu nồng, càng uống lại càng khát. Chúng ta sẽ đi từ khát vọng này đến khát vọng khác và chẳng bao giờ được no thỏa.
Niềm hạnh phúc đích thực chính là sự bình an trong tâm hồn. Và sự bình an này chỉ có được khi chúng ta đã ở trong tình thương của Chúa, khi chúng ta đã hòa giải với Ngài. Vì thế, Thiên Chúa phải là trọng tâm của cuộc đời chúng ta, phải là cùng đích của mọi vệc chúng ta làm. Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm của chúng ta cũng phải xoay quanh Thiên Chúa như vậy. Có nghĩa là suốt dọc cuộc đời, chúng ta phải bước đi trong quĩ đạo của Thiên Chúa.
Ngài là Đấng nhân từ và hay thương xót. Sống trong Ngài, chúng ta sẽ không còn lo âu và sợ hãi, như một câu danh ngôn đã bảo:
– Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành, còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Dưới mắt Ngài, không có gì là may mắn hay xui xẻo. Những điều chúng ta gọi là hên hay xui, thực ra chỉ là hai tên gọi của cùng một thực tại, đó là tình yêu của Chúa. Hay nói một cách khác: tất cả đều là hồng ân của Ngài.
Hướng đi và ý nghĩa, trọng tâm và hạnh phúc của cuộc đời chúng ta là chính Thiên Chúa. Bởi vì Ngài là ơn cứu độ, là tình yêu, là sức sống của chúng ta. Ý thức được như vậy, nên các thánh bao giờ cũng bắt đầu công việc bằng thái độ cầu nguyện, kêu xin Chúa.
Một ngày sống được khởi đầu như thế, chắc chắn sẽ hạnh phúc hơn nhiều so với khi chúng ta bắt đầu bằng một điếu thuốc lá, bằng một ly rượu mạnh hay bằng cách lo láng đưa mắt nhìn lên tờ lịch và nghĩ ngay đến những món nợ phải trả, những công việc phải làm hay những vui thú phải kiếm.
Giả như trong đêm giao thừa, khi chuông đồng hồ vừa đổ mười hai tiếng cuối cùng của năm cũ, mọi người chúng ta hãy tuyệt đối yên lặng trong giây lát, rồi sau đó mới mở tiệc và mừng chúc nhau. Trong khoảng khắc thinh lặng này, chúng ta sẽ nhận ra đâu là mục đích, đâu là hướng đi chúng ta cần phải thực hiện và theo đuổi cho năm mới, cũng như cho suốt cả cuộc đời chúng ta.
Chính trong ý nghĩa ấy, tôi xin thành thực cầu chúc cho mỗi người một năm mới ngập tràn hạnh phúc trong tình yêu thương của Chúa.
25. Lời hứa năm mới
Đứng trước thềm ngưỡng cửa Năm Mới, niềm vui mừng hân hoan bừng lên từ trong tâm hồn trái tim ta, lộ hiện ra nơi khuôn mặt ánh mắt. Đàng sau niềm vui mừng hân hoan đó ẩn dấu niềm trông mong chờ đợi: lời cầu chúc tốt đẹp, qùa tặng và lời hứa. Niềm tin tôn giáo nói cho ta: Thiên Chúa là Đấng làm chủ, trao tặng thời gian năm mới cho con người vũ trụ.Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, từ trời cao hạ sinh làm người là lời cầu chúc bình an tốt đẹp cho nhân loại: Bình an dưới thế cho người Chúa thương.Lời Chúa đã được loan tuyền qua Chúa Giêsu cho con người trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Lời Ngài là lời hứa, là thức ăn cho cuộc sống tâm hồn niềm tin con người.
Với Bạn Trẻ lời hứa của Chúa nói với họ: Các Bạn thân yêu, thời gian Năm Mới là cơ hội tốt đẹp cho cuộc sống của tuổi trẻ đang vươn lên. Các Bạn là niềm hy vọng, là tương lai của xã hội, của Hội Thánh, của gia đình, của nhân loại, của phát triển. Các Bạn hãy cùng Thầy bước đi vào Năm Mới với những mơ ước, đích điểm mong chờ, với lòng khao khát và cả với những lo ngại áy náy hay cả với nỗi niềm lo âu sợ sệt của các Bạn. Cho dù thế nào đi chăng nữa, các Bạn không đi một mình và đó chưa phải là tất cả đâu!Thầy hằng cùng đồng hành bên cạnh trợ giúp Bạn!
Với những người lớn tuổi, lời hứa của Chúa cũng là hành trang cho họ cùng bước vào năm mới: Các Ông, các Bà là những người đã sống trải qua nhiều chặng đường đời sống từ hăng chục năm, có người gần thế kỷ với nhiều thăng trầm buồn vui, thành công thất bại, cay đắng nọt bùi, đau khổ bệnh tật khoẻ mạnh, gánh nặng lo âu và được an ủi… Nhưng các Ông Bà đã sẵn có kinh nghiệm một đời sống thản nhiên, hãy cùng con cháu, cùng mọi người và với niềm tin vào Thiên Chúa bước đi vào thời gian năm mới. Xin các Ông Bà đừng quên những gì đã xảy ra trong đời mình, cho dù là cay đắng thất bại. Vì đó là những ân đức giúp xây dựng cuộc sống qúa khứ để có ngày hôm nay và ngày mai.
Thầy đến mang sự an ủi và ơn cứu rỗi cho con người. Thầy thông cảm và luôn hằng cùng ở bên cạnh trợ giúp niềm tin tinh thần cho con người: Hỡi những ai gánh nặng mệt nhọc, hãy đến cùng Thầy, để sẽ an ủi bồi bổ sức lực cho tâm hồn. Với mọi người lời hứa của Chúa nhắn gửi: Hãy đạt niềm tin tưởng phó thác vào Thầy. Trong đời sống thời gian năm mới cũng như những năm tháng đã qua, chúng ta, mọi người sẽ sống trải qua cảnh hầu như cô đơn, nhìn xung quanh đâu có thấy gì ngoài mình, tâm hồn chán nản. Lúc đó sao chẳng thấy Thiên Chúa đồng hành Cha không để con một mình!
“Có đêm tôi nằm mơ: thấy mình cùng Chúa đi dọc bờ biển. Những hình ảnh đời tôi hiện dần ra trước mắt, hình ảnh nào tôi cũng thấy có những dấu chân in trên cát. Thường thường tôi thấy rõ dấu chân của hai người, nhưng đôi lúc lại chỉ thấy dấu chân một người.Tôi phân vân, vì những lúc chỉ thấy dấu chân của một người như thế là những lúc đời tôi gặp thất bại, lo âu và piền muộn. Vì thế tôi quay sang hỏi Chúa: Lạy Cha, Cha đã hứa với con là nếu con theo Cha, Cha luôn luôn ở bên con. Nhưng sao trong những lúc khó khăn nhất đời con, con chỉ thấy dấu chân một người. Những khi con cần Cha như vậy, sao Cha không ở bên con? húa quay sang bảo tôi: “Con ơi! dấu chân của một người đó là dấu chân Cha. Vì trong những lúc con gặp khó khăn, chịu đau khổ, Cha đâu có bỏ con một mình, nhưng Cha đã cõng con trên vai Cha!”. Niềm tin vào lời hứa của Chúa đồng hành trong Năm mới, tất nhiên không làm ta giàu có thêm tiền bạc của cải, nhà cửa vườn tược. Nhưng lời hứa cùng đồng hành trợ giúp của Chúa trong Năm mới làm tinh thần tâm hồn ta phấn khởi, vui tươi hăng hái vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Điều này cần thiết cho cuộc sống con người với Chúa và con người với nhau.
26. Xin cho tất cả đều mới--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Đêm giao thừa khởi đầu một năm mới. Người Việt Nam có tục xông nhà, xông đất các gia chủ mong có người hiền, nhanh nhẹn, tử tế đến xông nhà đầu tiên để gia đình có người tốt đặt chân đầu tiên sẽ gặp những điều mới, điều tốt lành trong năm mới. Người Kitô hữu cũng có tập tục, truyền thống rất quí quá là dâng ngày đầu năm cho Thiên Chúa. Dâng những giây phút đầu của một năm, người Kitô hữu mong Chúa đổi mới và chúc lành cho năm mới.
NHỮNG ƯỚC NGUYỆN MỚI CHO MỘT NĂM MỚI:
Ngay ca nhập lễ thánh lễ minh niên đã viết: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 66, 2-3). Từ cái giây phút linh thiêng của đêm giao thừa khi trời đất giao hòa, năm cũ bàn giao cho năm mới.
Con người trước bàn thờ nghi ngút hương trầm bay đã cầu xin Thiên Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn phúc cho năm mới và qua những chén trà, ly rượu chúc mừng, con người đã muốn cầu chúc cho nhau sức khỏe, điều lành, điều tốt. Và chính ngay lúc khởi đầu của những ngày mới, con người quả đã muốn mọi sự cũ phải được qua đi, cái mới, cái đẹp phải loé rạng, tỏa sáng. Trong thánh lễ tân niên, người Kitô hữu luôn đặt tin tưởng, cậy trông và phó thác. Mọi sự đều do Chúa, đều bởi Ngài vì thế như lời thánh vịnh viết: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh, công lý bạn, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ” và như Tin Mừng đọc trong thánh lễ này, thánh sử Matthêu đã viết: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.
Ngày mồng một và suốt cả năm mới, người Kitô hữu luôn ước nguyện làm theo ý Chúa và tin tưởng, phó thác cho Chúa vì mọi sự sự đều do Ngài, bởi Ngài. Thánh Phaolô nhấn mạnh: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!”. Nguyện ước cho mọi sự được mới, cho tất cả tỏa sáng trong Chúa, cho mọi người được an lành, vui khỏe. Đó là những ước nguyện chân thực của con người…
TRÊN HẾT MỌI SỰ HÃY VUI LÊN:
“Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng” (Tv 36). Để có được lòng tin tỏa chiếu, người Kitô hữu ngoài những nguyện ước bình thường cho cuộc đời thường ngày, họ còn phải có lòng tín thác tuyệt đối cho Thiên Chúa, Đấng tác sinh nên họ và họ phải đi đến chỗ tin tưởng phó thác: “… ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy”. Năm mới, người Kitô hữu cầu xin cho được sức khỏe, an bình và thịnh vượng, nhưng điều chính yếu họ sống tin, yêu, cậy trông và phó thác: “Vì Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó “ (Mt 6, 32).
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới chúng con họp nhau đây để dâng lòi chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm 2004 này được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào” (Lời nguyện nhập lễ, thánh lễ minh niên).
27. Thánh Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Thánh vịnh 66, 2-3 có viết: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài “. Một năm mới tới: 365 ngày cứ xoay đổi vần xoay, luân chuyển không ngừng. Khắp nơi trên quê hương Việt Nam thân yêu, giờ này người ta đang hân hoan mừng năm mới Quí Mùi. Năm mới, tôi nghiệm ra xuân hay nói nôm na là Ân Huệ, là Phúc, là Lộc, là Thọ.
XUÂN LÀ MỘT ÂN HUỆ CHÚA TRAO BAN
Gọi là Ân Huệ vì con người có cơ hội nghỉ ngơi, giãn xả và sống cái tâm tình cảm tạ, biết ơn Thiên Chúa, Đấng tạo hóa vô cùng diệu vợi, vô cùng thánh thiêng, vô cùng quyền phép. Nói theo một cách nào đó, Thiên Chúa là Đấng cực kỳ quyền năng. Vậy, sống ngày đầu xuân, con người hướng trọn tâm tình và cuộc đời của mình để tạ ơn Thiên Chúa vì một năm qua đi trong tình thương che chở của Chúa. Tạ ơn, biết ơn vì những thất bại, những chua cay, đau khổ tưởng rằng sẽ vùi dập con người, cuộc đời trong bể dâu, thê lương, nhưng tạ ơn vì Chúa cho qua đi những ngày đen tối và cả những ngày hạnh phúc tràn đầy. Biết ơn Chúa để quên đi quá khứ mà lao tới tương lai mà tương lai có thể sẽ vô cùng vô tận, sẽ kéo dài mãi trong những ngày sắp tới và trong cả đời người. Nên, đời là một cuộc tri ân, biết ơn liên lỉ đối với Chúa của mùa xuân vĩnh cửu là Đức Giêsu Kitô.
Gọi là Ân Huệ vì con người có dịp, có giây phút gọi là thảnh thơi để dừng lại dẫu chỉ là một thoáng để nhìn lại quãng đường đã đi trong cuộc hành trình cuộc đời để xem những gì cần nhân lên, cần làm cho tỏa sáng hay những gì cần phải khắc phục sửa đổi và như thế cuộc đời là một cuộc quay trở về không ngừng để hoán cải, ăn năn và làm mới nội tâm để sống tốt hơn, đẹp hơn.
Gọi là Ân Huệ vì con người sẽ có cơ hội sống tình thân, tình máu mủ ruột thịt, sống cái tình đầm ấm gia đình: trở về với cội nguồn, ông bà, cha mẹ, anh em, họ hàng để tỏ tình hiếu thảo, báo đáp nghĩa tình với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Và như thế rất thích hợp với điều 04 của 10 thập giới: “Hãy thảo kính cha mẹ”. Sống tâm tình ấy là phù hợp mãi mãi với Đạo của Chúa và làm tỏa sáng năm thánh hóa gia đình.
Gọi là Ân Huệ vì con người có dịp sống tâm tình chia sẻ, làm quen, sống tình làng nghĩa xóm hài hòa để nâng cao tình người và sống trọn kiếp người như Chúa đã sống với các tông đồ xưa. Đó là hồng ân cao cả Thiên Chúa trao ban cho con người để con người sống niềm vui, sự hạnh phúc và lòng quảng đại hầu con người mãi mãi sống con đường làm người của Con-Thiên-Chúa là Đức Giêsu Kitô.
Sống Ân Huệ Chúa ban là con người sống cái Phúc, cái Lộc, cái Thọ mà Thiên Chúa dành riêng cho con người.
Nhân dịp năm mới, xin cho mọi người được ấm cái lòng, no cái bụng, đẹp cái mặt, mát cái dạ và như thế là con người sống mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân múc từ ngọn nguồn Tình Yêu là Chúa Giêsu Kitô, Đấng là Mùa Xuân bất diệt.
LỜI CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới, chúng con họp nhau đây để dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm Quí Mùi này được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào (Lời nguyện nhập lễ, lễ Minh Niên).
Lạy Chúa, xin cho mọi người chúng con biết ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay (Tv 36,3-4.5-6.23-24.25-26).
28. Hãy tìm Nước Thiên Chúa (Mt 6, 25-34)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Lại một mùa xuân qua đi nhường chỗ cho những ngày mới khai mở một năm mới với biết bao ước vọng, với biết bao dự kiến, biết bao mơ ước và những kế hoạch, dự phóng cho một năm mới. Ngày xuân với bao lời chúc tụng cho nhau, chúc nhau an bình, thịnh vượng, may mắn. Đối với người Công giáo, ngày xuân ngoài những lời nguyện chúc bình thường mà bất cứ người nào cũng có thể chúc tụng nhau được thì người Kitô hữu còn chúc cho nhau được tràn đầy ơn Chúa, giữ vững đức tin và luôn sống đời sống của Chúa như Thầy đã yêu (Ga 15, 12).
ĐỔI MỚI VÀ MÃI MÃI ĐỔI MỚI: Năm cũ đã qua: năm con chuột đi vào quá khứ với những niềm vui, nỗi buồn. Năm con chuột có nhiều biến cố tốt đẹp nhưng cũng có những điều chưa được đối với từng người, đối với mọi người. Nhưng phải công nhận năm Mậu tý qua đi bình dị và vui tươi, hạnh phúc.Năm mới hy vọng với những ước mơ, với những dự tính xem ra sáng sủa và tốt đẹp hơn. Con người sẽ đẹp nếu họ biết quay trở về với chính mình để sửa đổi, để vươn tiến. Cuộc đời chỉ đẹp khi con người biết vươn lên, biết sửa đổi, biết làm cho cuộc đời sáng tươi, trong sáng. Năm con trâu với sự cần cù của loài vật đã có nhiều thập kỷ trở thành công cụ lao động quí hóa và mang lại nhiều lợi ích cho con người khi con người biết dùng sức lao động của con vật này trở nên bạn với người nông dân. Đã có một thời ” Con trâu đi trước, cái cầy đi sau ” luôn luôn gần gũi với người lao động Việt Nam. Bây giờ với thời đại khoa khoa, văn minh đi lên, con trâu không còn là công cụ duy nhất để cùng với người nông dân làm ra của cải. Ngày nay đã có máy móc, đã có khoa học kỹ thuật, người ta luôn đổi mới và luôn mãi mãi đổi mới để làm cho việc lao động mang lại nhiều của cải cho con người, cho loài người.
HÃY TÌM KIẾM NƯỚC TRỜI: Bài Tin Mừng của thánh Mathêu 6, 25-34 trình bầy cho mọi người một quan niệm. một tư tưởng, một lối đi chúng ta phải chọn lựa: “chọn Chúa hay tiền của “. Đã chọn rồi, chúng ta phải sống theo điều đã chọn lựa. Nếu chúng ta chọn Chúa, chúng ta phải lo phụng sự Chúa, lo lắng làm những điều Chúa dạy, Chúa làm. Tuy nhiên, nếu đã chọn tiền của, con người sẽ làm tôi ma quỉ, làm tôi Mammôn và như thế con người sẽ xa Chúa và mất Chúa. Con người chọn Chúa sẽ được hai phần: được Chúa và Chúa ban cho con người tùy theo nhu cầu của con người. Do đó, suốt bài Tin Mừng, Chúa dạy con người đừng lo lắng thái quá về những điều phụ thuộc, không chính yếu lắm như của ăn, của mặc, nhưng phải tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Để làm nổi bật ý tưởng này, Chúa dùng hai hình ảnh rất thực tế như chim trời và hoa huệ ngoài đồng. Chim trời và hoa huệ ngoài đồng không lo lắng gì cả nhưng Thiên Chúa vẫn luôn chăm sóc chúng. Chúa dạy chúng ta hãy nhìn vào chim trời và hoa huệ để bắt chước, để học bài học quan phòng của Thiên Chúa. Chúa minh chứng và xác nhận con người cao quý hơn chim trời hơn hoa huệ nhiều vì con người có trí khôn, lý trí, có lương tâm, có đạo đức để phân biệt lành và dữ, biết phân biệt hạnh phúc và sự xấu số vv…Chim trời, hoa huệ vẫn làm việc vì không bay đi để kiếm ăn, không hút nước, hút tinh hoa trong lòng đất, hoa huệ sẽ chết. Chính vì thế, Chúa không khuyên chúng ta đừng làm việc, nhưng Ngài dạy chúng ta phải cần mẫn làm việc và phó thác tất cả cho Chúa để Chúa hướng dẫn và chỉ bảo.
NĂM MỚI VỚI NHỮNG ƯỚC MƠ MỚI: Năm mới mở ra cho con người, cho mỗi người hãy sống và hãy phục vụ với tình yêu, với đức tin. Chúa luôn yêu thương con người và dạy con người phải yêu thương như Ngài đã yêu. Bởi vậy, năm mới ai cũng có dự phóng, cũng có những ước mơ nhưng tất cả còn tùy thuộc nơi sự quan phòng của Chúa. Điều gì Chúa thấy cần, Ngài sẽ ban cho con người chúng ta. Chúa bảo”đừng lo ” không có nghĩa là Chúa bảo đừng làm việc, đừng lao động, đừng lo cho nhu cầu phần xác và trần gian, nhưng Ngài nói hãy cần cù lao động theo ý Chúa và phó thác thành công và thất bại nơi Chúa.Ước mơ luôn là mơ ước nhưng chính Chúa mới là người định đoạt: “Bạn hãy ký thác đường đời cho Chúa. Chúa, Chúa chính Chúa Ngài sẽ ra tay “.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ: Xuân đem lại những gì tốt đẹp cho con người nếu con người biết thánh hóa những ngày xuân và năm mới.Tuy nhiên, còn nhiều người chưa chắc đã được hưởng một ngày xuân ấm áp, đẹp tươi: những mảnh đời tang thương, những mảnh đời rách nát. Chúng ta được diễm phúc hơn những hạng người nghèo khổ.Chúng ta hãy mở lòng để giúp đỡ những mảnh đời đau thương và cố gắng sưởi ấm tâm hồn họ.Năm mới, chúng ta cầu xin Chúa ban bình an để cuộc đời mỗi người, mỗi gia đình luôn đầy ắp tình thương và ân huệ của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Mùa Xuân vĩnh cửu, xin ban cho chúng con luôn biết phó thác nơi bàn tay yêu thương của Chúa. Amen.
29. Chúa Giê-su là mùa xuân của nhân loại--Lm Ignatio Trần Ngà
Nguyện xin Chúa Giê-su là Mùa Xuân vĩnh cửu biến đổi chúng ta nên những người có phẩm chất cao đẹp.
Tết đến, xuân về, ai ai cũng hân hoan đón mừng năm mới; nhà nhà rộn rã sửa soạn mừng xuân.
Bầu trời ảm đạm của mùa đông đã được Xuân về nhuộm màu thắm tươi rực rỡ.
Xuân xua tan băng giá của mùa đông và đem lại ấm áp cho con người.
Xuân tô điểm cảnh vật, cho hoa trổ hương sắc, cho cây cối đâm chồi nẩy lộc, chim chóc ríu rít vui ca.
Xuân đổi mới vạn vật, xuân làm phấn chấn lòng người nên mọi người đều tưng bừng mừng xuân, chào đón xuân và cầu mong xuân sẽ đem lại nhiều điều tốt đẹp cho bản thân, cho gia đình mình, cho đất nước mình trong năm mới.
Thế nhưng còn có một Mùa Xuân khác tuyệt vời hơn mùa xuân của thời gian. Đó là Mùa Xuân Giê-su.
Chúa Giê-su chính là Mùa Xuân tươi đẹp đã và đang đến với nhân loại. Mùa Xuân Giê-su đi đến đâu thì tô đẹp cuộc đời và thăng hoa con người đến đó.
Mùa Xuân Giê-su hôm xưa đã hồi sinh những người đã chết: cho La-da-rô đã chết bốn ngày rồi được sống lại, cho con trai bà goá thành Na-im và cô con gái ông Giai-rô được hồi sinh.
Mùa Xuân Giê-su đã làm cho những người đau bệnh được chữa lành, người mù tối được sáng mắt, cho người điếc được nghe, cho kẻ què đi được, người phong được sạch.
Mùa Xuân Giê-su đã hồi sinh những tâm hồn héo hắt trong tội và giúp họ trở về nẻo chính đường ngay: hoán cải Gia-kêu bóc lột trở thành người quảng đại dám đem nửa gia tài bố thí cho người nghèo, đền gấp bốn những thiệt hại đã gây ra; biến người đàn bà tội lỗi trở thành người loan tin vui, biến người thu thuế thành tông đồ, biến Sao-lô bách hại trở nên chiến sĩ anh dũng loan Tin Mừng…
Nhưng điều đáng tiếc là mặc dù Mùa Xuân Giê-su đã đến trong cuộc đời chúng ta từ lâu nhưng chúng ta không chịu để cho Mùa Xuân Giê-su đổi mới đời mình. Vì thế, hôm nay, chúng ta hãy tha thiết cầu xin Mùa Xuân Giê-su tô điểm cuộc đời chúng ta nên tươi đẹp hơn.
Quý trọng nét đẹp tâm hồn
Ai ai cũng quý trọng sắc đẹp phần xác. Ngược lại, người ta cảm thấy buồn tủi nếu mình không được xinh đẹp duyên dáng.
Nhưng hãy nhớ rằng vẻ đẹp của tâm hồn đáng quý hơn vẻ đẹp thân xác. Vì thế, người ta thường nói: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người” hoặc: “Cái nết đánh chết cái đẹp.”
Đúng vậy, nét đẹp của tâm hồn, nét đẹp phát xuất từ phẩm chất cao quý của con người đáng trân trọng và quý mến hơn vẻ đẹp thân xác.
Bằng chứng là Mẹ Tê-rê-xa Calcutta, một nữ tu già nua, nghèo nàn, thấp bé và không có nhan sắc, vậy mà nhờ Mẹ có một thái độ tôn trọng mọi người như tôn kính Chúa, có một trái tim nhân ái đầy ắp yêu thương, có một tâm hồn quảng đại quên mình vì mọi người, có một tinh thần sẵn sàng phục vụ những người bần cùng khốn khổ khắp nơi trên thế giới… nên Mẹ được thế giới kính trọng và xem như là người phụ nữ cao quý nhất. Đúng là “xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.”
Trang điểm tâm hồn
Muốn trở nên xinh đẹp, cần phải tẩy xoá đi những gì làm cho đời ta hoá nên xấu xí.
Trong giao tiếp hằng ngày, phải loại trừ những lời nói thô lỗ, những ngôn từ thô bỉ, thiếu văn hoá… vì nó làm mất thanh danh phẩm giá của người thốt ra những lời đó.
Cố gắng loại trừ những hành động vũ phu, những hành vi côn đồ, thiếu văn hoá, thiếu văn minh và đạo đức… vì ai thực hiện những hành vi đó là tự làm hại chính mình, đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Đồng thời chúng ta cố gắng trang điểm đời mình bằng cung cách lịch sự, bằng những hành vi cao thượng, bác ái, vị tha… Chính những hành vi cao đẹp nầy làm cho bản thân chúng ta thực sự trở nên cao cả.
Ngôi nhà chúng ta ở đã được nâng cấp (trước đây ở nhà tranh nay lên nhà ngói), phương tiện đi lại của chúng ta đã được nâng cấp (trước đi xe đạp nay lên xe máy), các mặt hàng tiêu dùng trong nhà đều đã được nâng cấp thì lẽ nào bản thân chúng ta lại không được nâng cấp sao?
Nguyện xin Chúa Giê-su là Mùa Xuân vĩnh cửu biến đổi chúng ta nên những người có phẩm chất cao đẹp, càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và nhân đức, được Thiên Chúa và mọi người yêu mến (theo Luca 2,39).
30. Lễ Minh Niên (Mt 6, 25-34)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Hãy ký thác đường đời cho Chúa. Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Xem ra con người chúng ta thường vất vả, bon chen để sinh sống và để kiếm cho được một chỗ đứng nào đó trong xã hội. Đó là lẽ thường tình của con người. Tuy nhiên, đường của những môn đệ của Chúa lại khác bởi vì Chúa nói: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho “.
Những giây phút đầu năm mới là những giây phút thật đẹp Chúa trao ban cho nhân loại, cho con người, cho mỗi người. Chúa trao cho mỗi người, người năm nén, người ba nén, người một nén và Chúa đòi hỏi con người phải làm lợi ra cho Chúa. Mỗi ngày có 24 tiếng, 365 ngày một năm là món tiền Chúa trao ban cho mỗi người đồng đều để mỗi người làm lợi ra cho Chúa. Vâng, Chúa tạo dựng nên vũ trụ, con người, Chúa giao cho con người làm chủ vũ trụ, làm đẹp công trình sáng tạo của Chúa. Con người có đức tin, nên thánh Phaolô khuyên nhủ mỗi người hãy vui luôn trong Chúa. Như thế, con người chẳng lo lắng gì vì Chúa luôn quan phòng. Một sợi tóc trên đầu rơi xuống cũng nằm trong bàn tay quan phòng của Chúa. Con chim sẻ, hoa huệ là tạo vật, Chúa vẫn an bài huống chi là con người…Do đó, mỗi người hay tín thác vào Chúa và đặt hết sinh mạng, đời sống của mình nơi bàn tay an bài của Chúa: “Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”.
Chúa là Đấng chí công, Ngài là Đấng giầu lòng nhân hậu và giầu tình thương, Ngài sẽ ban ơn phù giúp cho mỗi người chúng ta. Đầu năm mới, chúng ta tiến thêm một bước nữa trong cuộc hành trình đức tin. Chắc chắn, mỗi người cần sự an bình bởi vì sự bình an là điều rất cần thiết để con người lãnh nhận ân huệ của Chúa. Sự bình an mà các thiên thần năm xưa hát vang trên không trung ngày Chúa giáng trần: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm “. Chúng ta phải có sự an bình trong tâm hồn, mới hiểu được những nấc thang giá trị của cuộc sống. Của cải vật chất cần thật để sinh tồn nhưng xin Chúa là sự khôn ngoan, sự bình an ban cho mỗi người chúng ta biết sáng suốt khước từ những gian tà, những bất chính, những thỏa hiệp để chỉ biết làm giầu cho cá nhân, cho bản thân mình. Chúng ta phải luôn tín thác nơi Chúa vì có Chúa mới giúp chúng ta biết quảng đại, chia sẻ với những người khổ đau, đói nghèo.
Tiết Đông nay đã qua rồi, mưa phùn lạnh lẽo ngừng rơi bên thềm. Ngàn hoa rực rỡ vươn lên, tỏa hương ngào ngạt khắp miền đồng quê. Mùa vui hát lại trở về, tiếng chim gáy đã vẳng nghe thôn làng (Dc 2, 11-12). Cuộc đời con người giống như Xuân, Hạ, Thu, Đông cứ xoay chuyển vần xoay và rồi năm này tiếp qua năm nọ. Con người rồi cũng có lúc tàn phai. Nhưng Chúa là mùa xuân vĩnh cửu, Chúa là Chúa của muôn xuân. Ngài hôm qua, hôm nay và mãi mãi muôn đời vẫn tươi xinh, tốt đẹp. Con người chỉ biết cúi đầu trước Đấng tạo hóa tối cao: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài ” (Tv 66, 2-3).
Và rồi con người chúng ta luôn hiểu lời này: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh. Công lý ban, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ “.
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới chúng con họp nhau đây để dâng lời chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm Nhâm Thìn được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào (Lời nguyện nhập lễ, lễ Mồng Một Tết).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Ngày đầu năm có ý nghĩa gì?
2. Thánh Lễ Minh Niên để làm gì?
3. An bình có cần thiết cho con người không?
4. Phúc Lộc Thọ là gì?
5. Tại sao lại gọi Chúa là mùa xuân vĩnh cửu?
31. “Những Dấu lặng của Mùa Xuân”!
Năm cũ đi. Năm mới đến. Người ta lại bắt tay vào những công việc quen thuộc. Người thì lo tính toán sổ sách, hoàn tất công việc. Kẻ thì đi sắm sửa quần áo, giày dép, hoa kiểng, bánh mứt, quà cáp … Người khác lại lo chuẩn bị các mặt hàng để buôn bán ở chợ Tết. Năm nào cũng vậy, Mùa Xuân nào cũng thế. Nhưng thử hỏi nếu không có Mùa Xuân? Thì…?
Chuyện kể rằng:
“Ngày kia, có vài người đến thưa với Thượng Đế rằng: Tết năm nào cũng có bấy nhiêu việc. Chán quá! Chỉ có bọn con nít vô tư ham Tết chứ người lớn như chúng con chẳng ham gì Tết vì còn vất vả, tốn kém hơn ngày thường. Xin Ngài xem xét cho”! Suy đi nghĩ lại, Thượng Đế quyết định gọi Mùa Xuân trở về Thiên Quốc.
Thế là ba trăm sáu mươi lăm ngày này trôi qua, lại đến ba trăm sáu mươi lăm ngày khác tiếp nối nhau liên tục. Trẻ con cứ vùi đầu vào sách vở. Người lớn thì miệt mài chạy theo công việc làm ăn. Nhà cửa chẳng bao giờ được trang hoàng bởi những nhánh mai vàng rực rỡ và những chậu hoa kiểng xinh xắn, dễ thương. Các ông bà cụ mỏi mòn bên song cửa ngày này qua tháng nọ mà bóng dáng con cháu vẫn biền biệt. Bạn bè không có dịp họp mặt nhau bên ly rượu, mâm cơm để gặp gỡ, chia sẻ tâm tình … Và rồi dần dần, hoa cỏ nhợt nhạt vì thiếu làn gió xuân ấm áp và những đôi tay chăm sóc. Con người cũng dần dần xa cách nhau vì thiếu sự quan tâm và tình thương nồng nàn.
Chịu hết nổi, một ngày nọ, con người lại đến van xin Thượng Đế: “Xin Ngài đem Mùa Xuân trở về với chúng tôi. Không có Mùa Xuân, có ngày chúng tôi phát điên lên mất”.
Khi Mùa Xuân trở lại, sức sống và niềm vui lại chan hòa trên cảnh vật và con người …”
Có lẽ Mùa Xuân là một quà tặng tuyệt vời mà Thượng Đế gửi đến cho vũ trụ và con người. Quà tặng đó là thời gian, là những vẻ đẹp được kết tinh từ cả một chiều dài lịch sử văn hóa dân tộc, và sâu xa hơn, đó là một “món ăn” bổ ích cả thể xác lẫn tinh thần cho con người.
Có lẽ tùy vào hoàn cảnh và tâm trạng của mình mà mỗi người có những cảm xúc khác nhau trước Mùa Xuân.
Tôi rất thích Mùa xuân! Bao năm rồi vẫn vậy. Ngày xuân! Chợ và siêu thị nào cũng đầy ắp các loại bánh mứt, trái cây … được trưng bày đủ kiểu, đủ dáng thật đẹp; tấp nập kẻ bán, người mua. Bước ra hội chợ Hoa Xuân dường như … hoa cả mắt bởi các loại hoa kiểng xinh xắn, rực rỡ và mới lạ – đủ các dáng kiểu. Các Hội Xuân tưng bừng các trò chơi vui nhộn. Đường phố “dập dìu tài tử giai nhân” rạng rỡ trong những bộ quần áo thật đẹp và “model”. Trong các nhà thờ thì càng vui hơn nữa: mọi người hăng hái quét dọn, treo lộc xuân và những câu đối. Cảnh đẹp và người đẹp! Nhất là được trở về xum họp với gia đình và những người thương mến sau những tháng ngày xa cách, vì thế mà tôi vẫn cứ thích Mùa Xuân!
Đón mừng Xuân Mới. Ai cũng cũng có nhiều công việc phải làm: những chương trình vui xuân và những dự tính mới cho ba trăm sáu mươi lăm ngày sắp tới. Giữa những ồn ào náo nhiệt ấy, cần lắm một chút lắng đọng lại để lắng nghe “lời thì thầm của Mùa Xuân”!
Sau một năm dài bôn ba, mỏi mệt bởi công việc và tất bật chạy đua với thời gian, tôi cần có những giây phút dừng lại để nghỉ ngơi và “nạp năng lượng”; để đọc lại những bài học may, rủi, thành công và thất bại đã qua; để vun tưới cho những tương quan và tình cảm tốt đẹp với bao người thân yêu mà nhiều khi vì vô tình và vội vã, tôi đã đi lướt qua họ và bỏ mặc họ.
Đón Xuân không chỉ là dọn dẹp, trang hoàng nhà cửa cho đẹp và mặc những bộ quần áo mới, hay có những kế hoạch vui chơi giải trí cho thật hấp dẫn, mới mẻ và thỏa thích. Điều quan trọng hơn, đón xuân là làm mới lại tất cả: tâm hồn, cách sống, công việc và đời sống gia đình, cũng như các mối tương quan xã hội. Khi đã “gạn đục khơi trong” con người mình bằng cách loại bỏ tư tưởng và những điều tiêu cực, đồng thời chắt lọc những giá trị tích cực và bổ ích, tôi sẽ có được sức mạnh và nghị lực mới để bước tiếp chặng đường mới một cách tự tin và vững vàng hơn.
Mùa Xuân mở đầu cho một năm mới. Hoa lá khoe sắc mới và gió xuân thổi vào lòng người niềm vui và hy vọng của những may mắn mới. Người người phơi phới niềm vui, hân hoan trao nhau những lời chúc tốt đẹp nhất: Phúc, Lộc, Thọ … và gửi biếu nhau những món quà thể hiện lòng biết ơn, sự trân trọng, quý mến và chia sẻ. Xin đừng quên nói lời cảm ơn những người bạn thân thiết đã chia sẻ cùng mình những niềm vui, nỗi buồn, thành công và thất bại. Hãy nói lời cảm ơn người cha, người mẹ, người chồng, người vợ và những người bà con thân quyến … đã gắn bó và nâng đỡ mình trong những ngày tháng qua. Hãy cảm ơn chính mình về những nổ lực và nhiệt tâm … Và đừng quên cất lời cảm tạ Thượng Đế về bao ơn lành Ngài đã ban cho ta trong một năm qua nơi mọi biến cố vui, buồn, may, rủi …
Có thể ví cuộc đời mỗi người như một bản nhạc được dệt bởi những cung bậc trầm bổng của thời gian. Giữa những cung bậc tưng bừng và náo nhiệt của Mùa Xuân, có “những dấu lặng” thật tuyệt vời để ta nghe lại âm hưởng của đoạn nhạc phía trước và bắt đầu những giai đoạn mới ở phía sau. Khi ấy, Mùa Xuân mới thật sự là “một phần tất yếu của cuộc sống” chúng ta. Cuộc đời chúng ta sẽ là Khúc Nhạc Mùa Xuân mà Thượng Đế ban tặng để làm phong phú hơn cho vẻ đẹp của con người.
32. Vạn sự như ý… Chúa
Dịp tết tôi có nhận được lá thư của người thân ở nước ngoài, cầu chúc cho tôi “vạn sự như ý” được nhắc đi nhắc lại gần ba lần Tôi hiểu người thân của tôi rất thương mến tôi, quan tâm nhiều tới tôi, mong ước cho tôi được may mắn điều này điều kia, không muốn tôi phải khổ, không muốn tôi gặp những khó khăn… Vạn sự đây chắc không phải chỉ có mười ngàn lần mà là mọi việc xẩy ra đều tốt đẹp như ý muốn, và đó là hạnh phúc nhất của con người, rất là tự nhiên thôi. Thử hỏi trên đời này có ai lại “mát” đến cỡ muốn đau khổ, muốn phiền toái, muốn thất bại, mọi việc xẩy ra đều ngoài ý muốn bao giờ đâu. Các tôn giáo này các giáo phái kia đều muốn giúp con người cách này cách khác thoát khỏi khổ, vì không được như ý muốn là khổ, muốn giầu mà cứ nghèo mãi chẳng khổ là gì? Muốn bình yên mà cứ gặp tai nạn hoài chẳng khổ là gì?
Xưa nay người ta vẫn hiểu công khai hoặc hiểu ngầm là Ý Chúa thì luôn ngược với ý người ta nên người ta phải khổ. Khi phải khổ thì người ta chẳng còn tha thiết gì với Đấng ấy, càng xa càng tốt, càng dửng dưng càng khỏe, càng tránh được bao nhiêu càng đỡ phiền toái bấy nhiêu… Bởi vì đấng ấy có nhiều quyền hành muốn sao nên vậy, mọi vật đều phải tuân thủ. Khi nổi cơn ngông lên thì giáng họa, đánh phạt, răn đe đủ điều, có khi dùng tạo vật làm những trò tiêu khiển; Ngài như con muỗi sốt rét lâu lâu chích cho ta một phát chơi đỡ buồn. Gặp đường cùng con người quay lại chống đối, giơ nắm đấm, vênh mặt lên nghênh hoặc con người không tìm được lối thoát thì đành phải ngậm bồ hòn chịu vậy. Có người gắng công gồng mình tập chịu vậy, rồi cho đó là một nhân đức, lập công; khi chịu vậy đã quen thì cho đó là đỉnh cao của đời sống đức tin, và đi đến đâu cũng khuyên bảo người khác một cách rất sốt sắng là “Ý Chúa đấy, hãy… chịu vậy”. Gặp người chịu vậy thì họ lại chịu vậy, gặp người không chịu vậy thì họ dù không tỏ thái độ ra bên ngoài nhưng bên trong cũng giận điên lên!!!
Có điều con người muốn nhận diện rõ ràng đâu là ý Chúa, đâu là ý người ta, đâu là ý Bề trên? Hay bị lẫn lộn. Ý Chúa thì ráng cúi đầu chịu vậy, chứ còn ý người ta thì….. không thể chịu được, ăn thua đủ, sòng phẳng. Ông muốn gà bà muốn vịt, ông muốn không bà muốn có, muốn có điện lại bị cúp điện, muốn làm hòa mà nó lại chẳng cần… như thế có phải ý Chúa không?
33. Hạnh phúc đích thật
Tai nạn giao thông ở ngoại ô thành phố Paris năm nào đã cướp đi mạng sống của công nương Diana. Cái chết của bà làm hàng triệu người xúc động. Người ta thương bà vì bà xinh đẹp, bà nhân từ và vì bà phải mất đi cuộc sống này khi tuổi đời còn qúa trẻ, chưa được hưởng trọn vẹn niềm vui hạnh phúc. Hạnh phúc là niềm khát khao của mọi người. Con người sinh ra là để được sống hạnh phúc. Cả đời người là cuộc hành trình kiếm tìm hạnh phúc. Vậy hạnh phúc ở đâu? Hạnh phúc là gì?
Bạn thân mến! Thiên Chúa cũng bận tâm đến hạnh phúc của con người. Những gì Ngài làm cho ta như tạo dựng, nhập thể, cứu chuộc, thánh hóa..v..v.. Tất cả đều nhằm đem lại hạnh phúc cho ta trong cuộc đời này và cả cuộc đời mai sau nữa. Hạnh phúc của Thiên Chúa như gắn liền với hạnh phúc của con người. Thiên Chúa vui khi thấy con người hạnh phúc.
Định nghĩa hạnh phúc là điều không dễ làm, vì mỗi người có một quan niệm khác nhau về hạnh phúc, và nơi mỗi người, quan niệm này cũng biến đổi theo thời gian. Thường ta hay chạy theo những cái bóng của hạnh phúc, để rồi vỡ mộng, nhưng nhờ đó ta dần dần hiểu hơn thế nào là “hạnh phúc đích thật”: Hạnh phúc đích thật không nằm nơi của cải; kiến thức hay quyền uy. Hạnh phúc đích thật không do chiếm đoạt những gì mình muốn, nhưng do trao hiến những điều quý nhất của mình. Hạnh phúc đích thật là mãn nguyện với những gì mình được ban tặng; là niềm vui nhẹ nhàng, là bình an sâu lắng. Hạnh phúc đích thật là sự an bình ổn thỏa giữa tôi với Chúa, giữa tôi với anh em, và giữa tôi với chính tôi…
Sống ở đời, con người thấy mình không hạnh phúc trọn vẹn. Hạnh phúc bao giờ cũng được pha trộn với mồ hôi và nước mắt. Nhưng có hạnh phúc thật nào lại không mua bằng khổ đau? Chỉ ai biết yêu thực sự, mới cảm thấy hạnh phúc thực sự.
Chúng ta cần nhiều thời gian để suy đi nghĩ lại, và nhất là cần nhiều ơn ban từ trời cao giúp ta thấu hiểu được các mối phúc. Cũng như trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, những điều người đời coi là bất hạnh, Đức Giêsu bảo đó là hạnh phúc đích thật: nghèo, đói, khóc than, bị oán ghét, bị khai trừ, bị sỉ vả..v..v.. những điều đó tự chúng chẳng có giá trị gì. Nhưng nếu ta nghèo vì thanh liêm, đói vì ngay thẳng, khóc vì đại nghĩa, bị ghét bỏ vì nói lên dự thật, bị sỉ vả vì Chúa..v..v..thì ta thật là người có phúc. Hạnh phúc đó xảy ra ngay trong hiện tại, nơi một lương tâm thanh thản. Ta thấy mình giàu lên trong cảnh nghèo khó, no thỏa khi đói khát, vui tươi khi rơi lệ, và nhảy mừng khi bị bách hại.
Trải qua bao nhiêu thế hệ, có biết bao Kitô hữu đã sống các mối phúc thật trong đời mình. Họ cảm nghiệm được cái nghịch lý dễ thương; cái thâm sâu cao cả của Lời Chúa đã khắc ghi trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay.
Không phải chỉ có bốn hay tám mối phúc trong Tin Mừng. Phúc cho ai nghe và giữ Lời Chúa, phúc cho ai không thấy mà tin… Đức Giêsu có thể kéo dài các mối phúc đến vô tận, để các mối phúc đi vào mọi ngõ ngách của đời thường. Ước gì mỗi người trong chúng ta biết noi gương bắt chước Đức Giêsu, biết viết lên những mối phúc mới, cậy dựa vào những niềm vui và ơn ban Chúa dành cho ta trong cuộc sống hàng ngày.
Lạy Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng chẳng khi nào nói Chúa cười, nhưng con tin Chúa vẫn cười khi thấy các trẻ em quấn quýt bên Chúa. Chúa vẫn cười khi hồn nhiên ăn uống với các tội nhân. Chúa đã cố giấu nụ cười trước hai môn đệ trên đường Emmau khi Chúa giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nụ cười của Chúa luôn ẩn hiện trong Tin Mừng. Nụ cười ấy hòa lẫn với niềm vui trào dâng của người được lành bệnh; của người chết sống lại và của người đàn bà tội lỗi được ơn tha thứ …
Lạy Chúa, có những niềm vui Chúa muốn trao cho con hôm nay, có sự bình an sâu lắng Chúa muốn để lại trong con. Xin dạy con biết tươi cười, cả khi cuộc đời chẳng mỉm cười với con. Xin cho con biết mến yêu cuộc sống, dù không phải tất cả đều là màu hồng. Con hay lo âu và chản nản, nhưng xin đừng để nụ cười tắt trên môi của con. Xin cho con luôn cảm thấy hạnh phúc, vì biết mình được Chúa yêu thương, và được sai đi để thông truyền tình thương ấy cho anh chị em của con. Amen.
34. Ngày đầu năm--R. Veritas
Tâm tình tạ ơn và phó thác trong cuộc sống.
Một nhà tư tưởng người Đức sống vào thế kỷ thứ 14 được tôn làm bậc tôn sư đưa ra khuôn vàng thước ngọc như sau:
– Người quan trọng nhất trong lúc này là người đối diện với ta.
– Giờ phút quan trọng nhất đối với ta lúc này là giờ phút hiện tại.
– Công việc quan trọng nhất là công việc bác ái yêu thương.
Chỉ chú ý vào người đối dịện, vào giờ phút hiện tại vào công việc ta đang làm. Đó là bí quyết sống hạnh phúc.
Người Nga cũng có một châm ngôn tương tự:
– Chỗ quan trọng nhất là chỗ bạn đang đứng này đây.
– Con người quan trọng nhất là con nguời đang đứng trước mặt bạn và đang cần bạn.
Đầu năm mới, có lẽ ai trong chúng ta cũng có một quyết tâm. Có người quyết tâm bỏ thuốc lá. Có người quyết tâm bỏ uống rượu. Có người quyết tâm dành thêm tiền bạc để đi buôn, để xây nhà,v.v… Có người quyết tâm hăng hái học hành để chuẩn bị cho một tương lai sáng lạn. Có quyết tâm và có quyết tâm, nhưng lắm khi sức người có hạn, chúng ta lại bỏ cuộc giữa đàng, đâu lại vào đó, con sâu của chán nản, của thất vọng lúc nào cũng chực sẵn để gậm nhấm tâm hồn chúng ta.
– Hãy sống giây phút hiện tại với tất cả tâm tình lạc quan và phó thác. Đó phải là quyết tâm mà chúng ta có thể làm tức khắc trong giây phút này.
– Hãy hưởng nếm những niềm vui nhỏ trong cuộc sống như ân tình diệu vợi của Chúa.
– Hãy trao vào tay Ngài mọi sầu muộn lắng lo. Chúng ta hãy để cho mọi lo âu lắng đọng xuống.
Chúng ta hãy chấm dứt mọi bài ca than vãn của thất vọng để chỉ còn lại một tâm tình duy nhất xứng hợp với người có lòng tin: Đó là tâm tình phó thác và tri ân.
– Tạ ơn Chúa đã ban cho ta chào đón năm mới.
– Tạ ơn Chúa đã luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta để dẫn dắt chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống.
– Tạ ơn Chúa đã giữ vững chúng ta trong niềm tin vào Tình Yêu của Ngài.
– Tạ ơn Chúa cho riêng chúng ta. Tạ ơn Chúa cho tất cả mọi người.
– Tạ ơn Chúa chúng ta cũng không quên tạ ơn người:
– Tạ ơn ông bà tổ tiên đã cho chúng ta được sinh ra làm người Việt Nam. Tạ ơn cha mẹ đã sinh ra và giáo dục chúng ta nên người. Tạ ơn những người thân thương ruột thịt đã đùm bọc chúng ta. Tạ ơn những người bạn tốt đã nâng đỡ chúng ta bằng muôn nghìn cách thể hiện của tình yêu. Tạ ơn những người vô danh mà sự hiện diện và âm thầm đồng hành đã giúp chúng ta được sống như con người. Tạ ơn tất cả những người khốn khổ kém may mắn hơn chúng ta: Nhờ đó tiếng gọi sống yêu thương huynh đệ liên đới còn vang vọng trong tâm hồn chúng ta. Tạ ơn nhiều người mà chúng ta thù ghét. Tạ ơn những người thù ghét chúng ta. Tạ ơn tất cả bởi vì cách này hay cách khác họ vẫn luôn luôn là tiếng gọi để chúng ta sống tinh thần Kitô hữu nhiều hơn.
Với tất cả tâm tình tạ ơn. Chúng ta hãy dâng lên Chúa một năm mới.
Xin đâng lên Ngài tất cả niềm cảm mến tri ân của chúng ta.
35. Năm mới cầu gì?--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Năm mới, mọi người thường trao tặng nhau những lời cầu chúc thật tốt đẹp. Một trong những lời chúc được ưa chuộng nhất đó là lời chúc: Phúc – Lộc – Thọ. Lời chúc này được tạo nên bởi một hình tượng khá rõ nét với bộ Tam Đa: ông Phúc bế đứa trẻ; ông Lộc mặc phẩm phục đeo đai, trên đầu đội mão cánh chuồn; ông Thọ, người lùn thấp, đầu nhẵn bóng trán dô lên, một tay chống gậy, một tay cầm quả đào
. Cả ba ông đều có chòm râu dài bạc trắng, nét mặt hồng hào, cười tươi rạng rỡ.
Vậy, Phúc- Lộc- Thọ: Các ông là ai?
Ông Phúc là Quách Tử Nghi – Thừa tướng thời nhà Đường. Ông là một vị quan thanh liêm nên cũng nghèo. Đổi lại nhà ông ngũ đại đồng đường, con cháu đề huề. Lúc ông mất, con cháu năm đời đều có đủ.
Ông Lộc là Đậu Tử Quân, làm Thừa tướng thời nhà Tấn. Trái ngược với Quách, Đậu là quan tham, tiền của như núi nhưng khi trăm tuổi không có người nối dõi.
Ông Thọ là Đông Phương Sóc, làm Thừa tướng thời nhà Hán. Ông này giỏi xu nịnh, được lòng vua nên hưởng nhiều bổng lộc. Ông mang lộc vua ban mua nhiều gái đẹp làm thê thiếp, mục đích dưỡng sinh. Và cũng sống dai, trên trăm tuổi. Khi chết thì chỉ có đứa chút bốn đời lo tang ma, còn cháu chắt chết hết cả.
Ba vị đó được người Trung Quốc dựng lên ba hình tượng, không phải để thờ mà để người đời nhìn gương đó mà lựa chọn cách sống cho phù hợp. Phúc –Lộc – Thọ có lối sống khác nhau. Phúc thì tử tế, còn cầu như Lộc Thọ là cầu cái vô phúc, liệu có ai muốn không?
Xem ra lời cầu chúc “Phúc – Lộc – Thọ” đã được hiểu sang một ý khác không còn mang ý nghĩa ban đầu của hình tượng Tam Đa. Nhưng thực tế, có lộc mà không có an bình, có Thọ mà không có niềm vui cũng là điều bất hạnh cho con người. Thế nên, không cần cầu cho có nhiều tiền, không cần cầu cho sống dai mà là cầu cho có phúc được hưởng niềm vui trong cuộc sống mới là quan yếu.
Có ai đó đã nói rằng: “Ghế cao chẳng bằng tuổi thọ cao. Tuổi thọ cao chẳng bằng niềm vui thanh cao”. Có được niềm vui thanh cao là hạnh phúc. Đây mới là mục đích tìm kiếm của đời người. Con người sinh ra để đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là điều ai cũng khao khát, tìm kiếm suốt cả cuộc đời.
Tóm lại, Phúc – Lộc – Thọ là ước nguyện lớn nhất của mọi người. Thế nhưng, trong ba điều ước Phúc – Lộc – Thọ thì Phúc mới là điều chính yếu mà chúng ta cần cầu mong. Vì được đông con, có tiền, sống dai mà không có hạnh phúc thì cũng là những tháng ngày bất hạnh cho cuộc đời chúng ta.
Chúa Giê-su ngay trong bài giảng đầu tiên Ngài cũng nhắc đến cái Phúc của con người. Cái phúc của Chúa Giê-su không phải là con cháu đầy nhà. Cũng không phải là nhiều tiền nhiều của. Cũng không phải là sống lâu đến độ “bách niên giai lão”. Cái phúc mà Chúa mời gọi chúng ta ao ước, tìm kiếm là có Chúa ở cùng. Có Chúa làm gia nghiệp. Hay được Chúa xót thương….
Những mối phúc này hoàn toàn lệ thuộc vào sự tự do chọn lựa của chúng ta. Chọn Chúa để sống khó nghèo, thanh sạch, hiền lành, nhẫn nại, hy sinh…; Đổi lại người ấy được nhìn xem Thiên Chúa và có Chúa làm gia nghiệp đời đời.
Nhưng ở đời hôm nay người ta ít chọn Chúa khi mà nhu cầu hưởng thụ mỗi ngày một cao hơn. Người ta cần tiền để thoả mãn nhu cầu vật chất của mình lên không chịu sống khó nghèo. Có tiền người ta rải tiền trong các cuộc truy hoan trụỵ lạc. Thế nên, người ta ít sống thanh sạch. Cuộc sống luôn tất bật, bon chen, xô đẩy con người, khiến có mấy ai hiền lành, nhẫn nại, hy sinh…?
Hôm nay ngày đầu năm, chúng ta cầu chúc cho nhau một năm mới chứa chan ơn Phúc từ Trời. Xin cho chúng ta luôn là người có Phúc khi chọn Chúa làm gia nghiệp, khi chọn Chúa hơn những của cải mau qua trần gian. Xin cho chúng ta luôn tìm được niềm vui có Chúa ở cùng khi biết sống phụng sự Chúa với hết cả tấm lòng. Amen
36. Bình An Năm Mới 2013--Mt 6, 25-34--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Cả trời bỗng diêu diêu như báu vỡ:
Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm,
Mà ta ngỡ Đấng Tiên Tri muôn thuở
Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm.
Đó là những câu thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử, đã viết lên để ca ngơi Đấng Tiên Tri muôn thuở, xin Ngài giáng phúc thi ân, ban phước lộc cho muôn người, muôn nhà trong năm mới. Bởi vì năm cũ Nhâm Thìn đã qua đi nhường chỗ cho năm Quý Tỵ.Mọi Kitô hữu hãy ngước mắt lên trời, xin Thiên Chúa chúc lành cho năm mới này, để muôn người, muôn nhà được sống trong sự an bình của Chúa…
Tiết Đông nay đã qua rồi,
Mưa phùn lạnh lẽo ngừng rơi bên thềm.
Ngàn hoa rực rỡ vươn lên,
Tỏa hương ngào ngạt khắp miền đồng quê.
Mùa vui hát lại trở về,
Tiếng chim gáy đã vẳng nghe thôn làng (Tv 66,2-3).
Sự an bình, vui nhộn của đồng quê, làng mạc, thôn xóm trong những ngày xuân nói lên rằng Thiên Chúa yêu thương con người, quan tâm đến con người cả tinh thần đến vật chất. Đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay nói đến sự quan phòng của Thiên Chúa: chim trời, hoa huệ và mọi sự đều được Chúa an bài, ngay cả sợi tóc trên đầu rơi xuống đất cũng do Thiên Chúa định liệu. Con người quý trọng hơn hoa huệ, chim trời biết bao! Người Kitô hữu hãy ký thác đường đời cho Chúa, tín thác nơi Chúa: “Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn.Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng “.
Suốt một năm qua, chắc chắn mỗi người đã được Thiên Chúa ban cho những ân huệ đặc biệt tùy theo lòng thương xót của Ngài…Năm mới tới, chúng ta luôn tin như thánh Phaolô viết: “Anh em đừng lo lắng gì cả.Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu “.
Năm mới, chúng ta luôn xác tín rằng Thiên Chúa sẽ luôn ở cùng chúng ta. Nên, Lời Chúa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế ” (Mt 28, 20) an ủi, nâng đỡ và giúp chúng ta tin tưởng tiến bước vì chúng ta cảm nghiệm sâu xa Chúa ở cùng chúng ta trong mọi hoàn cảnh của đời sống chúng ta.
Ngày lại ngày, chúng con ca ngợi Chúa, mãi ngàn năm, xin chúc tụng danh Ngài, lời Thánh Vịnh là động lực giúp chúng con luôn bám chặt vào Chúa và tôn vinh, ca ngợi Chúa. Kinh tiền tụng lễ Minh Niên nhắc nhở chúng ta: “…Riêng con người, Cha đã tạo nên giống hình ảnh Cha và cho điều khiển mọi công trình kỳ diệu trong hoàn vũ trụ, để họ thay quyền Cha làm chủ mọi loài, và khi chiêm ngưỡng những kỳ công Cha đã thực hiện, họ hát mừng ca tụng Cha luôn mãi, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con “. Chúng ta vững bước, tin tưởng ký thác nơi Chúa, chính Người sẽ hướng dẫn và điều khiển cuộc đời của mỗi người.
Lạy Chúa, Chúa đã trao cho loài người chúng con trách nhiệm trông coi vũ trụ. Nay chúng con hoan hỷ dâng lên Chúa những lễ vật đầu xuân, chọn lựa trong tinh hoa của ruộng vườn.Xin cho chúng con không ngừng cảm tạ tri ân, và chu toàn sứ mệnh làm chủ trái đất (Lời nguyện tiến lễ, lễ Minh Niên).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tết có ý ngjĩa gì?
2. Tại sao chúng ta lại ký thác đường đời cho Chúa?
3. Bình an của Chúa có khác với hòa bình của con người?
4. Phúc Lộc Thọ là gì?
5. Tại sao lại gọi Chúa là Mùa Xuân vĩnh cửu?
37. Tết cho mọi người--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa với nền văn minh lúa nước vốn có những ngày Tết truyền thống, những ngày lễ hội dân gian đầy ý vị và vui tươi. Từ Tết cơm mới cuối vụ mùa cho đến lễ mở rừng đi săn. Đến như lễ tết ra giêng để vào hè thì có Tết Thượng Nguyên, Tết Hàn Thực, Tết Đoan Ngọ. Đặc biệt để tiễn mùa đông người Việt đã ăn Tết Nguyên Đán. Bên cạnh đó còn có nhiều tết khác như Tết Trung Nguyên (rằm tháng bảy) của Phật Giáo, Tết Trung Thu (dành cho thiếu nhi), Tết Trùng Dương, Tết Ông Táo… Tất cả đều có sự tính toán dựa theo sự chuyển đổi của thời tiết trong năm và căn cứ vào nông lịch phương Đông.
Chữ “Tết” ngày nay đã được một số quốc gia sử dụng như là một “Lễ” hết sức độc đáo của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng chữ “Tết” bắt nguồn từ “Lễ Tiết” bên Trung Quốc. Tết do Tiết đọc chệch đi. Từ chữ Tết người ta còn ghép theo từ Nhứt nữa nghe thật thú vị, như ‘Tết Nhứt’ là do đọc chệch đi từ hai âm Hán Việt “Tiết Nhựt”, có nghĩa là ngày Tết. Còn Nguyên Đán, theo chữ Nôm: Nguyên là bắt đầu, Đán là buổi sớm mai, Nguyên Đán là sớm mai đầu năm. Nguyên Đán còn gọi là “Chính Đán” tức là “Chính Nguyệt Chi Đán” (buổi sớm mai tháng giêng), ngoài ra còn sử dụng từ tam chiêu, là ba cái sớm mai (sớm mai đầu năm, sớm mai đầu mùa, sớm mai đầu tháng).
Tự xưa nay, là người Việt Nam, dẫu ở bất cứ nơi đâu vẫn xem trọng ngày Tết Nguyên Đán. Một năm làm lụng vất vả mưu toan cho cuộc sống; một năm xa gia đình bôn ba mọi nơi, ba ngày Tết Nhứt vui vẻ, đoàn tụ, mọi chuyện buồn phiền lo toan đời thường tạm gác sang một bên để mọi người cùng hưởng niềm vui đón xuân về, tết đến.
Người Việt Nam vui hưởng Tết và luôn nhớ về Tổ tiên ông bà cha mẹ, nhưng không quên nghĩ đến người nghèo, thương đến những người đã khuất núi.
Tết cho người trần
“Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết”, câu nói ấy đủ cho thấy người Việt chú trọng đến ngày Tết như thế nào. Dù khốn dù khó thì ngày Tết cũng phải có cặp bánh chưng, khoanh giò lụa, nải chuối, hộp mứt. Nhà có điều kiện thì mua sắm đủ thứ, nào là mâm ngũ quả thật đẹp, các loại bánh mứt thật hảo hạng, cây giò thật to, gà, thịt thật nhiều, bánh chưng và nhiều loại bánh khác. Cùng với những thứ ăn, là những chậu hoa, cây cảnh, chậu quất sai qủa, gốc mai cành đào đầy đủ lộc, nụ, hoa…
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ” là cái Tết truyền thống của người Việt Nam. Ý nói cái Tết có cả phần vật chất lẫn tinh thần. “Câu đối đỏ” ngày nay được cải tiến rất nhiều. Bên cạnh những đôi câu đối viết bằng mực đen trên nền giấy điều, giấy lụa là những câu đối in trên loại giấy bóng tốt, nhiều nhà còn sắm về những hoành phi câu đối bằng gỗ, khảm trai hay những đôi câu đối thêu… Quan niệm của người Việt, ngày Tết tiễn cái cũ đi, đón cái mới về. Chính vì vậy, cùng với việc mua sắm, nhiều nhà có điều kiện, những tháng cuối năm thay đổi những cái cũ trong nhà như thay đổi tivi mới to hơn, đổi cái tủ lạnh, cái máy giặt hay thay xe… nhà không có điều kiện thì cũng cố gắng làm cho căn nhà mới hơn bằng việc quét vôi lại hoặc kê dọn đồ đạc trong nhà, lau chùi đánh bóng lư hương bát đèn, dọn dẹp sân vườn sạch sẽ…
Ngày Tết, còn là dịp để người người vui chơi. Bên cạnh việc “Ăn Tết”, người ta nghĩ đến việc “Chơi Tết”. Chơi Tết có thể kéo dài từ những ngày áp Tết 27, 28, 29 Tết với những cuộc đi ngắm chợ hoa, đi chợ Tết và ngày nay còn cả việc đi vào các siêu thị. Có thể mua hoặc có thể chẳng mua gì, song việc đi chợ như là niềm vui của ngày Tết, đặc biệt đối với giới nữ. Vì vậy, chợ là nơi thu hút đông người. Chợ vốn dĩ đã ồn ào, náo nhiệt thì những ngày áp Tết chợ càng thêm tưng bừng, rộn rã hơn. Nói đến “Chơi Tết” thì không thể không nói đến chuyện đi thăm hỏi, chúc Tết nhau, con cái đi chúc Tết cha mẹ, anh em, họ hàng, thân bằng cố hữu đến chúc Tết nhau. Trong nhà, ngoài đường vui như trẩy hội. Việc “Chơi Tết” không chỉ dừng lại ở ngày Mùng Một, Mùng Hai. Nó có thể kéo dài hết tháng giêng, tháng hai và cả tháng ba với những lễ hội, đình đám. Vì thế mà người ta có câu: Tháng giêng là tháng ăn chơi, tháng hai đình đám, tháng ba hội hè. Có lẽ người người chờ đón Tết, thích Tết cũng vì lẽ đó.
Tết cho người âm
Người Việt rất trọng chữ “Lễ nghĩa – trước sau”. Ngày Tết nhà ai cũng phải có mâm ngũ quả, mâm cơm thắp hương tổ tiên. Quan niệm “Trần sao, âm vậy” nên dễ thấy những ngày trước Tết, trong các chợ, quầy bán hàng mã cũng rất đông người. Người ta mua tiền, vàng, mua quần áo, có nhà chu đáo còn mua cả tivi, tủ lạnh, xe đạp, xe honda hay cả xe hơi, điện thoại di động, toà nhà nhiều tầng về đốt cho người thân ở cõi âm.
Ở nhiều làng quê, người ta còn nghĩ về người âm, lo Tết cho những người âm không có nhà cửa bằng việc nấu cháo hay cơm nát đơm từng thìa cho vào lá sung hoặc lá ổi đã được cuộn tròn như cái phễu đem để bụi tre, dọc đường vào đêm ba mươi. Và cũng trong đêm ba mươi, ngày mùng một chủ nhà nào cẩn thận còn bảo con cháu ra mở cửa, mở cả cửa trước, cửa sau, ngoài ý niệm trần thế đón Xuân vào nhà còn hàm ý mở cửa mời ông bà, tổ tiên về cùng vui đón Tết.
Tết cho người âm còn thể hiện ở việc người trần đi tảo mộ. Thường người ta đi tảo mộ vào sáng sớm mùng hai hoặc mùng ba Tết với mâm cơm nhỏ để ông bà, cụ kị chứng cho con, cho cháu, hoặc với những người trẻ xấu số thì mâm cơm tảo mộ còn để cho hương hồn họ không cảm thấy cô quạnh.
Tết cho hai phần thế giới… giao thoa
Ngày Tết, đất trời giao hòa, người người gần gũi nhau hơn. Trong cái không khí ấm áp lạ thường của ngày Tết, người đi xa lại thêm nhớ về nhà, về quê hương, nơi đó có những người thân yêu, ruột thịt. Bên mâm cơm gia đình, gợi nhớ những người ở xa, ngậm ngùi nghĩ về những người thân đã khuất. Trong cái khối đất trời hoà quyện, người người muốn tìm và gặp nhau có lẽ cũng xuất phát từ những ước nguyện ấy.
Những ngày Tết, người ta đến với cửa chùa, cửa đền nhiều hơn. Tuỳ từng điều kiện của mỗi gia đình, tuỳ vào lòng thành của mỗi người song hầu hết đến chùa ai cũng có được lễ vật để dâng. Ở nơi này, trong bảng lảng của khói hương, người người cầu ước và hy vọng những ông quan với bộ mặt hiền từ ngồi kia cùng những linh hồn quanh đó nghe được và giúp họ thực hiện những điều ước tốt đẹp trong năm mới. Trong dân gian, người ta cũng truyền miệng nhau rằng, ngày Tết, các quan trông coi các chùa cũng rất bận rộn. Họ phải cắt cử nhau ở chùa để ghi lại những điều mong ước của người trần. Sau đó báo cáo lên thiên đình, rồi căn cứ vào những việc làm thiện, ác của từng người, của từng gia đình mà thiên triều cho người đó được hưởng hạnh phúc hay khổ đau trong năm đó. Những vong hồn cũng quanh quẩn cửa chùa thường là những vong hồn phiêu dạt không cửa nhà, họ tìm đến đây để xin được ăn. Và cửa chùa chính là nơi giúp người âm và người dương gần nhau hơn. (Tổng hợp từ các báo xuân: tuổi trẻ, phụ nữ, nhân đạo, kinh tế, công giáo dân tộc).
Tết nơi xứ đạo
Những ngày giáp Tết mọi nhà tất bật bận rộn công việc bán mua, sắm sửa cho ngày Tết. Chợ búa đông vui nhộn nhịp.
Xứ đạo tôi thuộc miền quê, rộn ràng bao lo toan đón Tết. Chuẩn bị quà Tết cho người nghèo. Năm nay mất mùa, người nghèo nhiều hơn. Quà Tết cho người nghèo là lương thực cứu đói. Huy động hết mọi đoàn thể, mọi giới trong xứ đi lạc quyên giúp người nghèo được “Ăn Tết” cùng với mọi nhà, bởi lẽ “giàu thì ngày ăn ba bữa, nghèo thì cũng đỏ lửa ba lần”. Quà cho các cụ già trên 70 tuổi như tấm lòng biết ơn cùng với lời chúc thọ của con cháu trong thánh lễ Mồng Hai Tết.
Năm nào giáo xứ cũng tổ chức hội thao cho giới trẻ, thiếu nhi, bóng đá bóng chuyền. Thêm ba đêm hội chợ, văn nghệ vui xuân. Vì thế khuôn viên Nhà thờ tấp nập mọi đoàn thể ngày đêm tập luyện, chuẩn bị cho ba ngày Tết. Vui Tết lành mạnh, ở làng quê giảm đi bao tệ nạn cờ bạc rượu chè say sưa.
Đất Thánh cũng đông người đến tảo mộ, sửa soạn cho Thánh Lễ sáng Mồng Hai Tết. Những ngày cận Tết, nghĩa trang lung linh ánh sáng đèn nến, nhập nhoà hương khói.
Chuyện Tết cho người trần, Tết cho người âm, Tết cho người nghèo chính là cuộc sống mà người người đang hối hả khi cái Tết bắt đầu gõ cửa.
38. Hạnh phúc trường sinh--Lm Giuse Tạ duy Tuyền
Người đời vẫn coi ba hạnh phúc lớn nhất của con người là Phúc – Lộc – Thọ. Phúc là công danh chức tước – Lộc là con cháu đông đảo – Và thọ là tuổi già.
Có công danh, sinh con cái là những dịp để người ta khao vọng, mừng rỡ, và khi hưởng tuổi già người ta lại càng cần phải mừng rỡ hơn để tạ ơn trời đất tiên tổ đã phù hộ cho được sống lâu. Vì đây là nỗi khao khát của con người vượt qua mọi thời đại. Dân tộc nào cũng ước mơ trường thọ, thời đại nào cũng mong được trường sinh bất tử. Dân tộc Việt Nam cũng biểu lộ sự khao khát trường sinh bất tử qua câu truyện Từ Thức lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh. Nỗi khao khát này còn được biểu lộ nơi chúng ta trong những dịp lễ tết đầu năm thường chúc nhau mạnh khỏe sống lâu, và trong đám cưới người ta vẫn thường cầu chúc cô dâu chú rể trăm năm hạnh phúc.
Vâng, sống hạnh phúc và trường thọ là nỗi khao khát nhất của đời người. Người đời không chỉ mong sống lâu mà còn mong được sống hạnh phúc và bình an. Hôm nay ngày đầu năm, mỗi người chúng ta đều chúc nhau hạnh phúc. Chúng ta cầu chúc cho nhau một năm an khang thịnh vượng. Chúng ta mong ước cho nhau luôn mạnh khoẻ sống lâu và làm ăn phát đạt. Đây chính là những ước mơ rất chính đáng của con người. Là người ai cũng mong được sống trường sinh và hạnh phúc.
Chính Chúa Giê-su cũng định hướng cho chúng ta một con đường dẫn tới bến bờ hạnh phúc và trường sinh. Đó chính là con đường của tám mối phúc. Đây là con đường đòi hỏi sự dấn thân quên mình, đòi hỏi phải hy sinh những cái nhỏ để được cái lớn hơn. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, có tấm lòng hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, giữ lòng trong sạch, và biết xây dựng hoà bình. Đây cũng là một đòi hỏi kiên quyết của người môn đệ Đức Kytô. Họ phải là những người nghèo trước mặt Thiên Chúa. Người nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, biết sống cho Chúa và cho anh em đồng loại của mình, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu người. Cho dù mình có bị thiệt thòi một chút, đau khổ một chút nhưng họ lại có ích cho gia đình, cho xã hội và đồng loại. Cuộc sống của ta chỉ có niềm vui trong những gì chúng ta cho đi. Cho thì có phúc hơn nhận lãnh. Một con người không bao giờ biết cho đi, không bao giờ biết hy sinh vì người khác, hay không bao giờ sống thanh sạch lòng thanh – gìn giữ công lý và xây dựng hoà bình, họ chỉ là một ốc đảo xa xăm, tự nhốt kín đời mình trong ngục tù cô đơn. Họ là những con người vô dụng, vô tâm, sống xa rời tình Chúa – tình người nên họ chỉ là những cây xanh thiếu lá, xem ra trơ trụi, trơ trẽn giữa cuộc đời.
Năm nay được gọi là Năm Con Rồng. Con Rồng là linh vật đứng thứ 5 trong 12 con giáp, rồng được coi là là sản phẩm của truyền thuyết và các huyền thoại, biểu tượng của sự may mắn, thịnh vượng cũng như quyền lực mạnh mẽ. Rồng còn là biểu tượng của lòng bái ái bao dung. Theo truyền thuyết, khi Rồng vừa bay tới vừa nhả lửa trên bầu trời. Thượng Đế thắc mắc tại sao một con vật mạnh mẽ như Rồng lại không đến đích đầu tiên, Rồng trả lời vì nó còn phải dừng lại giữa đường, làm mưa giúp dân dưới trần thế.
Năm Rồng chúng ta cầu chúc nhau nhiều điều may mắn đến với chúng ta trong năm, đồng thời cũng cầu chúc nhau biết xây dựng hạnh phúc đời mình như con Rồng bằng việc thi ân cứu đời. Sống thanh cao như Rồng. Sống vươn lên khỏi những đam mê xác thịt thấp hèn. Sống thanh thoát khỏi những bon chen vật chất tầm thường, những danh lợi thú mau qua, và biết tìm niềm vui trong đời sống hiến dâng phục vụ cho đời.
Nguyện xin Chúa Xuân ban cho chúng ta một năm mạnh mẽ như rồng và nhiều điều may mắn đến với chúng ta. Xin Chúa Xuân chúc lành cho chúng ta một năm vạn sự như ý. Xin Chúa giúp chúng ta biết vươn lên trong nhân đức và mạnh mẽ trong đức tin đức cậy và đức mến. Amen
39. Hạnh phúc đầu năm (Mt 5,1-10)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Mỗi năm vào ngày đầu năm mới người ta vẫn chúc tụng nhau và cầu chúc cho nhau những điều may mắn, những điều tốt đẹp nhất, những điều hạnh phúc nhất.Hôm nay ngày 01 tết Canh Dần, phụng vụ cho chúng ta đọc lại tám mối phúc thật của Chúa Giêsu để chúng ta hiểu được thế nào là hạnh phúc thật, thế là là những người được Chúa chúc phúc.
Sống nơi cõi trần, con người ai cũng muốn mình được may mắn, được tốt đẹp, đặc biệt được hạnh phúc. Do đó, con người tranh đấu để sinh tồn, con người phấn đấu để vượt khó, vượt lên cả số phận của mình. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã hứa ban Nước Trời là hạnh phúc đích thật cho các môn đệ Chúa. Chúa cũng đảm bảo cho những con người hiền lành, sầu khổ, có tâm hồn trong sạch, bị bách hại sẽ được” đất nước làm cơ nghiệp ” được ” Thiên Chúa xót thương” được ” nhìn thấy Thiên Chúa ” được ” gọi là con Thiên Chúa “. Và để những lời chúc phúc của Chúa trở nên hiện thực cho đời sống, cho con người, Chúa mời gọi các môn đệ Chúa phải trải qua đau khổ, vác thập giá và trải qua cái chết với Ngài trên thập giá. Đối với Chúa phải qua thập giá mới tới được vinh quang. Chính vì thế, người môn đệ Chúa sẽ không thể nhận được lời chúc phúc, sẽ không thể nào được hạnh phúc nếu không trải qua cuộc hành trình thập giá. Không có đau khổ không có vinh quang. Không có cái chết, không có sự phục sinh. Chúa muốn dạy chúng ta rằng muốn có hạnh phúc, muốn được tài lộc phải hy sinh, chịu khó, đổ mồ hôi sôi nước mắt. Bởi vì, không ai nằm chờ sung rụng rồi sẽ được giầu có nếu họ không chịu khó, phấn đấu, cực nhọc. Không ai muốn sống lâu mà cứ luôn phung phí sức khỏe, không biết tập luyện, kiêng khem vv…
Ngày đầu năm mới, chúng ta cảm tạ hồng ân Thiên Chúa vì Người đã dựng nên chúng ta giống hình ảnh của Người và còn hứa ban ” Nước Trời ” cho chúng ta.
Chúng ta cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta một năm qua được lãnh nhận nơi Ngài biết bao hồng ân, Ngài yêu thương và thành tín với chúng ta dù rằng nhiều khi chúng ta phản bội Ngài.
Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài luôn là người Cha đầy tình thương xót, luôn tha thứ mỗi lần chúng ta xúc phạm đến ngài và chẳng trách cứ chúng ta.
Đầu năm mới chúng ta hãy sống và chúc cho nhau một năm mới đầy yêu thương, đầy ý nghĩa vì Chúa là mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân không bao giờ tàn úa, nhạt phai.
Chúa là mùa xuân, chúng ta hãy mở tung cõi lòng để đón nhận những lời chúc phúc của Thiên Chúa, đồng thời, chúng ta phải sống yêu thương như Ngài yêu thương chúng ta và Ngài đã hy sinh mạng sống vì yêu thương chúng ta.
Tạ ơn Chúa vì lời chúc phúc của Chúa vẫn luôn hiện thực trong đời sống của mọi người.
Tạ ơn Chúa vì hạnh phúc được làm con Chúa trong tin yêu và hy vọng và như thế lời chúc đầu năm mới: an bình, tuổi mới và sống lâu vẫn là những điều quí hóa bởi vì đó là hoa quả của tình yêu của Chúa là mùa xuân vĩnh cửu.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một năm mới vui tươi và hạnh phúc. Amen.
40. Bình an và hạnh phúc—Lm Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Anh Chị em rất thân yêu,
Ngày đầu năm đâu đâu cũng rộn rã tiếng cầu chúc bình an và hạnh phúc. Xuyên qua những lời chúc xuân ấy, chúng ta có thể nắm bắt được những ý nghĩ căn bản của nhân thế về hạnh phúc và bình an:
Sức khoẻ và tuổi thọ, tiền tài và thịnh vượng, công danh và thành đạt, tình yêu và đại gia đình, đó là những gì làm nên an bình và hạnh phúc cho con người.
Lời Chúa chúng ta mới nghe cũng là những lời cầu chúc bình an và hạnh phúc. Nhưng Lời Chúa có một cách nhìn hoàn toàn mới mẻ và dường như trái nghịch với ước mơ thường tình của con người:
Trước hết nền tảng của hạnh phúc và bình an chính là sự bảo trợ của Danh Thiên Chúa và Chúc Lành của Người. Dân Chúa khi còn ở Ai Cập cũng thường nghĩ chính công ăn việc làm, chính đất đai nhà cửa, chính những tài sản tích lũy là sự bảo trợ của hạnh phúc và an bình. Cho nên 40 năm trong sa mạc, khi phải vứt bỏ tất cả, thậm chí ngay đến những gì gồng gánh đem theo cũng phải tiêu tán trong cát bụi, không ít lần họ đã nổi loạn chống lại Môsê… nhưng Thiên Chúa không khoan nhượng… Ngài đã chôn vùi và lột trần tất cả trở thành những con người sống từng bữa bởi lòng thương xót của duy mình Thiên Chúa. Những kẻ đã ra khỏi Ai Cập phải phơi xương trên biển cát mênh mang, và còn lại chỉ là một lớp người mới sinh ra trong hoang điạ, chỉ lúc ấy Dân Chúa mới chiếm được Đất hứa và trở nên Dân Ưu Tuyển và hùng cường.
Chúa Giêsu đã rút từ lịch sử Thánh ấy điều cốt lõi khi công bố Hiến Chương Nước Trời cho Dân Mới: Phúc cho ai có tinh thần khó nghèo: Phải xây dựng Hạnh Phúc của mình, của gia đình, của xã hội dựa vào hành động yêu thương của Chúa Dù sao Israel vẫn còn được cưng chiều hơn, giữa sa mạc, họ vẫn còn khí trời, vẫn còn cột mây che mát, vẫn còn cột lửa sáng soi…và vẫn còn tình huyết tộc bao bọc chở che, Hội Thánh của Đức Kitô phải chôn vùi sự sống của mình trên 300 năm trong các hang toại đạo, phải phiêu dạt tứ xứ nơi đất lạ…chịu muôn vàn bách hại và truy sát… Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa không khoan nhượng trong đòi buộc vứt bỏ tất cả để hoàn toàn chỉ sống nhờ sự bảo trợ của Người. Sau này, khi hòa bình bên ngoài được thiết lập, không thiếu thành phần con cái Hội Thánh quên đi cái nôi sự sống của mình chính là Khó Nghèo ấy, Thiên Chúa đã làm nẩy sinh phong trào ẩn tu, và Hội Thánh đã được tái sinh chung quanh những trung tâm ẩn tu ấy. Gần chúng ta hơn, khi Hội Thánh sa lầy trong nhung lụa và quyền bính thời Trung Cổ, là cái cớ của sự phân hóa của những giáo phái Tin Lành, Chúa đã một lần nữa tái sinh Giáo Hội như một Bà Chúa Nghèo của Phanxicô thành Assisie… Lịch sử Dân Chúa chính là lịch sử đầy tính hiện sinh của cái nghèo chân thực. Hạnh Phúc được neo trong sự nghèo khó ấy.
Thánh Phaolô đã không làm giảm thiểu tính quyết liệt ấy khi xác định cách chắc chắn rằng, không phải là sự khó nghèo luân lý đạo đức nào đó là nền tảng của Hạnh Phúc và bình an, nhưng chính là con người nghèo của Đức Giêsu Kitô, và vì vậy trong mọi hoàn cảnh sự nghèo khó của Người Kitô chính là được kết hiệp với Đức Giêsu Kitô. Và qủa thực, những ai thuộc về Đức Kitô thì luôn sẵn sàng đi từ hang BeLem cho tới Núi Sọ và cách riêng là trở thành Tấm Bánh bị bẻ ra cho những con người nghèo.
Anh Chị Em rất thân yêu,
Đứng trước đòi hỏi của Hiến Chương Hạnh Phúc Nước Trời, và sự đòi hỏi phải trở nên Tấm Bánh bị bẻ ra ấy, tôi có thể nào trong lúc này không nhận ra tính nghịch thường ấy giữa một quang cảnh nhộn nhịp của ngày tết. Tuy nhiên, bên dưới lớp vỏ vui xuân, lại chỉ là những con tim khô quạnh và nhức nhối. Còn nơi bàn thờ này sự nghèo khó cô đơn đến lạnh lùng lại là con tim rộn ràng sức sống yêu thương.
Ngày đầu năm, tôi kính chúc Qúy Cha rất đáng yêu mến của tôi, kính chúc Thầy Phó Tế, Quý Tu Sỹ nam nữ, Qúy Chủng Sinh, Quý Cố Ông, Cố Bà, và toàn thể Anh chị em thân yêu được chính Thiên Chúa bằng Thánh Thần trong Đức Giêsu thánh hóa và gìn giữ vẹn toàn trong năm mới, để chúng ta tất cả trở nên nhân chứng của Hạnh Phúc đích thật cho mọi người, mọi gia đình và toàn thể xã hội.
Kính Chúc
41. Xuân Tạ Ơn (Mt 5, 1-10)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Giây phút linh thiêng của những giờ phút của đêm giao thừa luôn có một ý nghĩa nhiệm mầu. Giây phút mà Hàn Mặc Tử đã viết: “Đây phút linh thiêng đã khởi đầu…”Giây phút giao thoa giữa năm cũ và năm mới. Giây phút mà những cái cũ được đẩy qua một bên để nhường cho những giây phút linh thiêng nhất, quí hoá nhất. Giây phút dành để cho Thiên chúa vì chỉ có mình Người là Đấng tạo dựng vũ trụ, tạo dựng con người. ” Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời ” như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Do Thái 13, 8 đã viết. Do đó, những giờ phút quan trọng của đêm giao thừa là để tạ ơn Thiên Chúa.
TẠ ƠN LÀ ĐIỀU TỐI CẦN THIẾT: Sống trên gian trần, chúng ta mọi người đều mang ơn nhau, nặng nợ với nhau. Do đó, việc tri ân cảm tạ là điều cần thiết mọi người phải có với nhau. Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa chúng ta trả ơn không bao giờ cho cân xứng, Thiên Chúa không cần chúng ta cảm ơn Ngài, nhưng cảm tạ lại cần thiết và sinh ơn cứu độ cho chúng ta vì như lời nguyện nhập lễ chúng ta đọc thấy: “Lạy Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh”. Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, chúng ta phải biết ơn Ngài và luôn luôn hướng về Ngài để cảm tạ tri ân Ngài và cầu khẩn Ngài vì ” Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời “.Chính vì thế, giây phút giao thừa là giây phút huyền nhiệm, linh thiêng để chúng ta dừng lại tạ lỗi với Chúa vì những thiếu xót trong năm vừa qua và kính dâng Chúa năm mới với những cố gắng của mỗi người chúng ta với sự bảo trợ của Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Một phút quay lại với tâm tình thống hối và những quyết tâm với những ước mơ mới. Tạ ơn Thiên Chúa là điều tối cần thiết vì những hồng ân vô giá Thiên Chúa trao ban cho con người, cho loài người, cho mỗi người: “Lạy Thiên Chúa chí nhân chí thánh, Chúa là Đấng tạo thành vạn vật. Thời gian không gian là của Chúa, Chúa ban cho chúng con được hưởng dùng. Nay, trước thềm một mùa xuân mới, chúng con đến dâng lời tán tụng. Cùng với lời cảm mến tri ân. Năm cũ vừa qua được an bình, năm mới sắp tới muôn phần tốt đẹp. Chúng con xin cúi đầu cảm tạ”.
LỜI CẦU NGUYỆN TRI ÂN: Lạy Chúa, trước thềm năm mới, năm Đinh Hợi, chúng con cầu xin cho ánh sáng của Chúa chiếu toả khắp nơi trên vũ trụ, trần gian. Xin ơn hòa bình ngự trị mọi tâm hồn của những con người thành tâm thiện chí ” Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương “. Xin cho Quê Hương, Đất Nước chúng con luôn được niềm hạnh phúc của mùa xuân vĩnh cửu ngự trị và muôn dân được ấm no hạnh phúc.
Lạy Chúa, xin cho mọi tâm hồn của con người luôn được thanh luyện trong Thánh Thần. Xin cho tất cả mọi người có niềm tin và không có niềm tin đều ước nguyện một mùa xuân vĩnh cửu không bao giờ tàn úa.
Xin cho những Kitô hữu luôn biết sống lời Chúa và yêu thương phục vụ.
Xin cho chúng con luôn biết hiếu đễ để mọi người luôn biết nói lời cảm tạ tri ân. Xin cho chúng con luôn là những dòng suối mát vun tưới cho cành xuân của chúng con được nở rộ trong mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân như ý, mùa xuân cứu độ.
Lạy Chúa, trước thềm năm mới Đinh Hợi, chúng con xin cảm tạ tri ân Chúa vì những ân huệ quí báu Thiên Chúa ban cho chúng con nhưng không. Xin cảm tạ Chúa vì mùa xuân bất diệt Chúa tặng ban cho nhân loại, cho con người, cho gian trần.
Xin cho giây phút giao thừa của xuân Đinh Hợi mang lại cho chúng con ơn bình an và hạnh phúc.
42. Việc gì phải lo, có Chúa an bài--Mt 6, 25-34--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Trong muôn loài được Thiên Chúa dựng nên, con người là hình ảnh Chúa. Do đó, con người có nhiều đặc ân mà không loài nào trên trần thế có thể so ví với con người.Loài người có suy tư, suy nghĩ và tư duy biết phán đoán, ưu tư, quan tâm đến người khác và quay lại với chính mình. Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người, Ngài luôn yêu thương săn sóc, lo lắng, quan phòng. Hoa huệ ngoài đồng, chim se sẻ Chúa cũng còn quan tâm huống chi con người. Chính vì thế, Chúa nói: “…Cha trên trời thừa biết anh em cần những gì?…”.
CHÚA NÓI ĐỪNG QUÁ LO LẮNG NHỮNG CÁI PHÙ PHIẾM: Nghĩ cũng nực cười khi con người hết thế hệ này qua thế hệ khác, chẳng có gì mới mẻ, vẫn cứ ngựa y đường cũ nghĩa là cứ đầu tắt mặt tối lo lắng cơm, gạo, bạc, tiền vv…Có người suốt đời cơm vẫn thiếu, áo vẫn không đủ mặc ấm. Tại sao lại như vậy? Nghĩ cũng buồn và cười ra nước mắt, thật là thê lương. Tuy nhiên, đọc lại Tin Mừng của thánh Matthêu 6, 25-34, Chúa nói: “Đừng lo “. Con người là loài thụ tạo cao hơn mọi loài Chúa dựng nên. Hoa huệ đẹp ngoài đồng mà vua Salomon tuy vinh sang như thế nhưng cũng không mặc đẹp như đóa hoa đó. Con chịm se sẻ, Chúa cũng nuôi. Hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin (Mt 6, 30). Loài người, con người họa lại hình ảnh vô song, toàn mỹ của Thiên Chúa. Do đó, con người được Chúa quan phòng, lo toan vì họ trọng hơn hoa, quí hơn muông thú. Ngài quan tâm đến từng nhu cầu của mỗi người theo cách thức tế nhị nhiệm mầu cao sâu của Ngài. Thánh Phaolô đã viết rất chí lý rằng: “Sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào!…Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời.Amen. “(Rm 11, 33-36).
CỨ TIN TƯỞNG, KÝ THÁC CHO CHÚA: Thánh vịnh 13 có câu: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa.Tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”. Chúa bảo” đừng lo”, không có nghĩa Chúa nói chúng ta lười biếng, ỷ lại, không chịu làm việc, đừng lo cho nhu cầu thể xác và trần thế này. Chúa không hề nương chiều con người, cũng như ủng hộ cho những con người lười biếng, liều lĩnh. Thánh Phaolô đã từng nói: “Không làm việc thì đừng ăn…”. Đúng sự đời là như thế, con người quả tuyệt vời vì có lý trí để suy luận, có đạo đức để biết phân biệt điều phải, điều ác, điều ngay, điều gian và có hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Loài chịm, loài thú, chúng ta cứ tưởng chúng không vất vả, kỳ thực ra chúng vất vả nhiều, chúng phải bay đi hoặc đi xa để kiếm mồi, kiếm thức ăn nuôi sống…Loài hoa, loài cây cũng phải nhờ rễ đâm sâu, nhờ hút nước ở dưới đất, nhờ hấp thụ sương, mặt trời vv…Con người Chúa luôn khuyên nhủ hãy phó thác, nghĩa là hãy để tâm hồn bình an, đừng bôn ba quá đáng, đừng lạc quan đến bất cần, nhưng ” Hãy lấy Chúa làm niềm vui…Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”(Tv 36). Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philipphê 4, 4-8 cũng đã viết: “Anh em đừng lo lắng gì cả…”.
Tết là dịp để con người dừng lại, chiêm ngắm những kỳ công hết sức tuyệt vời của Thiên Chúa: chim chóc, thú rừng, cây cỏ, hoa lá vv… ngắm lại chính bản thân của mình: “Con người là hình ảnh của Thiên Chúa Giavê”. Và đã là hình ảnh của Thiên Chúa, con người sẽ sống sự sống của Thiên Chúa. Sự sống của Thiên Chúa vĩnh cửu, trường sinh. Do đó, sự phó thác luôn là cần thiết của mọi người…
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết phó thác vào bàn tay uy quyền của Chúa. Amen.
43. Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
Năm mới đang đến, mở ra một giai đoạn mới của cuộc sống. Và ở thời khắc linh thiêng này, có lời của Thiên Chúa nói với chúng ta qua Tin Mừng mà Hội Thánh công bố.
Vài phút suy niệm về lời được công bố ấy, tưởng cũng là điều rất cần thiết cho chúng ta lúc này. Vậy ta hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng lại mà đối diện với lời Chúa.
1. Mt 6,25-32: Đừng lo lắng khi phải đối diện với những vấn đề của cuộc sống
Những của cải trần gian có thể chiếm trọn trái tim, chi phối hành động và biến thành một thứ thước đo giá trị của con người. Con người bị các thực tại phàm trần tác động và điều kiện hoá, vì ai cũng phải đối diện với những nhu cầu rất căn bản của cuộc sống như cái ăn, cái mặc… Các thực tại vật chất là rất cần thiết để con người có thể sống được: chúng ta không thể chỉ sống bằng suy tưởng hay bằng ý chí và không cần bất cứ thứ gì khác. Để sống, người ta buộc phải ăn, phải uống, phải mặc; và chính trong sự tuỳ thuộc vào các thực tại vật chất như thế mà mối tương quan của người ta với của cải trần gian được thực hiện. Không ai có thể tránh né được mối tương quan này. Vấn đề là chúng ta phải sống sự tuỳ thuộc đó như thế nào. Phần thứ nhất của bài tin mừng hôm nay (cc.25-32) trả lời cho chúng ta câu hỏi ấy.
Với một loạt những quan sát và suy tư, Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa biết rất rõ chúng ta và Người luôn sẵn sàng bảo đảm cho cuộc sống của chúng ta. Người đã ban cho chúng ta món quà lớn lao hơn tất cả: thân thể và mạng sống, lẽ nào Người lại chẳng sẵn sàng ban cho chúng ta những món quà nhỏ hơn, tức là những phương tiện giúp chúng ta gìn giữ quà tặng lớn lao kia? Chim trời vẫn tìm được của ăn, cho dù không gieo không gặt. Đoá huệ ngoài đồng vẫn được trang điểm diễm lệ, cho dù không làm lụng canh cửi. Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, luôn lo liệu mọi sự cho chúng. Há Người lại chẳng làm như thế cho con người, vốn là những con cái mà Người quý hơn tất cả và hằng ấu yếm lấy tình phụ tử mà chăm nom gìn giữ? Và cuối cùng là một suy tư đơn giản: Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? (c.27). Chúng ta được mời gọi đón nhận những thực tại căn bản, ví dụ như độ dài của cuộc sống trần gian của mỗi người, như Thiên Chúa đã ấn định.
Đức Giêsu không có ý nói rằng chúng ta đừng làm lụng canh cửi, đừng gieo gặt trồng cấy, đừng để ý lưu tâm hay đừng xây dựng những dự phóng tương lai… Người muốn nói rằng tất cả những điều đó phải được thực hiện nhưng không phải là với một sự lo lắng bận tâm thái quá và mù quáng, mà là với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho con người bàn tay và khối óc, tức là Người đã lo liệu trước để chúng ta có thể xây dựng cuộc sống cho phù hợp với phẩm giá cao cả của mình.
Đức Giêsu biết rõ sự vận hành bình thường của cuộc đời. Người không phủ nhận rằng đôi khi chim trời và con người vẫn phải chết vì đói. Nhưng ngay cả trong những trường hợp cực đoan đó, sự lo lắng thái quá cũng không hề giúp chúng ta tiến bước bình an và chắc chắn trong cuộc sống trần gian này. Trái lại, trong những trường hợp cực đoan bi đát đó, chúng ta càng có lý do để trông cậy và hy vọng nơi Thiên Chúa, không chỉ hy vọng về những thực tại trần gian mà thôi, mà nhất là hy vọng về những thực tại Nước Trời, là nơi duy nhất có cuộc sống viên mãn thật sự.
Sự “không lo lắng” của chúng ta, như vậy, theo lời của Đức Giêsu, không đặt cơ sở trên một sự lạc quan ngây thơ hay trên khả năng làm chủ cuộc sống của chúng ta (khả năng ấy quá bé nhỏ). Sự “không lo lắng” đó được đặt cơ sở trên sự thực vững chắc, rằng Thiên Chúa quyền năng và thông biết mọi sự, rằng Thiên Chúa luôn luôn nhân lành yêu thương ta, rằng Thiên Chúa luôn luôn trung thành với lời sáng tạo của Người.
2. Mt 6,33-34: Chọn lựa căn bản của cuộc sống: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người
Sau khi đã dạy chúng ta đừng lo lắng, Đức Giêsu nói cho chúng ta biết đâu là thực tại phải chi phối ước muốn của chúng ta, lấp đầy con tim của chúng ta, xác định thước đo giá trị của chúng ta và đòi hỏi những hoạt động của chúng ta: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Đó là những giá trị cao cả nhất và sâu xa nhất; và chúng ta được mời gọi hoàn toàn quy hướng tất cả con người của mình về những thực tại đó.
Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa đang tỏ mình hoàn toàn cho chúng ta trong tư cách là Đức Chúa quyền năng và tràn đầy ân nghĩa, Đấng luôn đón nhận và yêu thương che chở chúng ta trong sự hiệp thông vào sự sống của chính Người. Tất cả lòng tin của chúng ta, tất cả niềm hy vọng của chúng ta và tất cả lòng yêu mến của chúng ta đều phải được quy hướng về Người trong một ý hướng hoàn toàn thuần khiết. Đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Sự công chính của Thiên Chúa là sự công chính đến từ chính Thiên Chúa. Đó là cách hành xử của người công chính, phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và được Đức Giêsu nói rõ trong bài giảng trên núi. Tất cả nỗ lực của chúng ta và tất cả sức mạnh của chúng ta, đều phải được huy động để thực hiện sự công chính ấy.
Nếu chúng ta trước hết chỉ tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người như thế, thì những điều khác sẽ được ban cho chúng ta như những phương tiện để chúng ta thực hiện chọn lựa căn bản đó của cuộc đời. Ý nghĩa của sự hiện hữu của chúng ta không tuỳ thuộc vào những mối bận tâm về cuộc sống hiện tại này, mà là ở sự hoàn toàn quy chiếu của chúng ta, ngay trong cuộc sống thế tạm hôm nay, vào Thiên Chúa, và ở sự chuẩn bị của chúng ta, nhờ những hành động công chính, cho cuộc hiệp thông viên mãn vĩnh cửu với chính Thiên Chúa.
Đó mới là tương lai đích thật mà chúng ta hướng tới, chứ không phải là cái ngày mai trong cuộc đời thế tạm này. Vì thật ra, cái ngày mai thế tạm vẫn sẽ là cái ngày mai vất vả: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (c.34). Nhưng sự vất vả trong ngày mai thế tạm sẽ rất khác nhau. Đó sẽ là sự vất vả nhọc nhằn và cay đắng, nếu chúng ta vất vả vì những lo lắng cho cuộc sống thế tạm và vật chất này. Trái lại, đó sẽ là vất vả phúc lạc và bình an, nếu chúng ta tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, tức là nếu chúng ta hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa và sống theo những mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi (5,3-12).
Ngày Tết, chúng ta cầu chúc cho nhau một cuộc sống bình an và hạnh phúc, bởi biết rằng tất cả chúng ta đều chịu tác động của các thực tại thế tạm. Nhưng lời Chúa nhắc cho chúng ta rằng: ngay trong mối tương quan của chúng ta với những thực tại cần thiết cho cuộc sống thế tạm, Thiên Chúa vẫn phải chiếm vị trí mang tính quyết định. Ta được mời gọi đừng để cho những lo toan về các nhu cầu (cho dù là khẩn thiết nhất) của cuộc sống, hoàn toàn chi phối tâm trí chúng ta, đến nỗi chúng ta đánh mất sự tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Quan trọng hơn tất cả những bận tâm lớn nhỏ của cuộc sống, là lòng tin và niềm xác tín rằng: “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (c.32). Nếu lòng tin tưởng vững chắc vào Thiên Chúa và xác tín mạnh mẽ về sự nhân lành vô biên của Người, làm người bạn đồng hành với những mối bận tâm về cuộc sống vật chất của chúng ta, thì chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình an, và chúng ta sẽ đối diện với cuộc sống (có khi rất khắc nghiệt) này với một sự tự do nội tâm đích thực. “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người” (Mt 5,33).
44. Tám Mối Phúc (Mt 6,25-34)--Lm. Trần Bình Trọng
Tư tưởng cũng như văn chương bình dân Việt Nam hàm chứa những quan niệm về thời giờ như: Thời giờ là vàng bạc; thời giờ thấm thoắt tựa thoi đưa, cứ đi đi mãi, không chờ đợi ai. Thường khi người ta nhìn tới thì thấy lâu dài, nhưng khi nhìn lại thì thấy mau lẹ. Người ta nói mới ngày nào đó, chúng mình thế nọ thế kia, mà nay đã hai mươi năm, ba mươi năm rồi. Khi bận rộn với công việc làm hay chương trình hoạt động, người ta cảm thấy thời giờ đi mau lẹ. Những lúc nhàn rỗi hay không bị hoàn cảnh thúc ép, người ta lại cảm thấy thời giờ đi chậm. Cho dù người ta cảm thấy thời giờ đi mau hay chậm, thời giờ vẫn xoay đều không thay đổi. Người ta không thể đi trước thời giờ, cũng không thể kéo dài thời gian.
Cho dù Tết đến sớm hay muộn, mùa Xuân đến mau hay chậm, người ta cũng phải theo chu kì tuần hoàn của vũ trụ mà đón nhận giây phút bàn giao của thời giờ mới cũ ở lúc không giờ của đêm giao thừa, là giây phút tống cựu nghinh tân. Người Việt xưa kia coi đêm giao thừa là giây phút linh thiêng, giao hoà giữa trời và đất. Gần đến giây phút giao thừa, người ta cứ ngồi đợi để hoà nhịp với giây phút giao hoà của trời đất, không được nói hay làm gì. Vừa tới lúc giao thừa thì họ vỗ tay vang động hay cho nổ pháo: đạch, đạch… đạch, đùng. Đạch, đùng … đùng … Đốt pháo để mừng xuân mới sang. Đốt pháo theo quan niệm của nhiều người Việt trước đây còn để xua đuổi ma qủi. Có người còn nghĩ: pháo nổ càng lớn, ma quỉ càng sợ. Vậy phải đốt pháo cối.
Người Công giáo thì coi ông trời là Thượng Đế, là Thiên Chúa và chỉ có Chúa mới làm chủ được thời giờ và thời gian. Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân, Hạ, Thu, Đông. Chúa có quyền trên mưa nắng, sóng gió, bão táp… như trong lời nguyện đầu lễ Giao thừa, linh mục chủ tế cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa là Đấng vô thuỷ vô chung, là căn nguyên và cùng đích vạn vật, trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc.
Bài Tin Mừng lễ Giao thừa bàn về Tám mối Phúc thật. Vào dịp Tết, mọi người đều chúc cho nhau những điều tốt đẹp, thì Giáo Hội cũng dùng những lời Thánh Kinh có chứa đựng những lời chúc phúc của Thiên Chúa. Trong khi thiên hạ chúc cho nhau mọi sự giàu sang phú quí và may mắn, thì Thiên Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật trong đó có một lời chúc cho những ai sống tinh thần nghèo khó. Thật là một điều nghịch lý và mâu thuẫn! Có một người dự tòng kia hỏi linh mục chánh xứ nọ: Thưa cha khi cha giảng về Tám mối Phúc thật, con không thể chấp nhận được bởi vì những điều Chúa dạy trong Tám mối Phúc thật đi ngược lại với quan niệm của người đời và ngược lại với những gì con đã sống. Nhưng rồi con vẫn tiếp tục đi lễ, nghe cha giảng Lời Chúa. Bây giờ thì con đã chấp nhận. Mỗi lần sau khi dâng thánh lễ, con cảm thấy được bình an trong tâm hồn.
Chúa chúc phúc cho những người sống Tám mối Phúc thật. Và không phải họ chỉ được hạnh phúc đời sau, nhưng còn được hưởng hạnh phúc ngay tại đời này. Hạnh phúc đó là một tâm hồn bình an, thư thái. Được Chúa chúc phúc là được tất cả: đời này cũng như đời sau. Có những người có thể hiểu lầm cho rằng Chúa muốn người ta sống nghèo khó, khắc khổ. Thực sự thì Chúa đến giải thoát con người khỏi cảnh nghèo đói. Chúa bảo: Nào những kẻ được Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa, Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống (Mt 25,34-35).
Người đời còn cho rằng Giáo Hội dùng mối Phúc thật thứ nhất để cổ võ đời sống nghèo khó. Sự thực thì Giáo Hội không chủ trương như vậy. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lần đã tố cáo chính sách cấm vận của Hoa kỳ khiến cho dân nghèo Cuba càng nghèo, thiếu những phương tiện tối thiểu cho nhân phẩm con người. Trước đó ngài còn kêu gọi dịp Tết dương lịch 1998 hoàn cầu hoá việc phát triển kinh tế và phát triển kinh tế phải nằm trong vòng liên đới các quốc gia chứ không nhắm đến việc ăn mảnh và đánh lẻ. Đức Thánh Cha còn khuyến khích những quốc gia giàu mạnh xoá nợ cho những quốc gia nghèo đói. Như vậy Giáo Hội không khuyến khích thực tại nghèo khó, nhưng là sống tinh thần nghèo khó, nghĩa là tinh thần siêu thoát, không để lòng dính bén vào của cải trần thế.
Trong thư gửi tín hữu Galát, thánh Phaolô chúc cho họ như sau: Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn (1Tx 5,23). Trong bài trích sách Dân Số, Chúa dạy Môsê chúc phúc cho dân chúng như sau: Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện xin Thiên Chúa tươi nét mặt gìn giữ anh em, và dủ lòng thương anh em! Nguyện xin Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em (Ds 6,24-26).
Đọc Thánh Kinh Cựu Ước, ta thấy dân được chọn kêu cầu đến Chúa mà chúc lành lẫn cho nhau. Bố cũng chúc lành cho con cái như ông Raguên chúc lành cho con rể là Tôbia và con gái là Xara như sau: Con đi mạnh giỏi và bình an! Xin Chúa trời cho con và Xara vợ con thành đạt, và ước gì cha được nhìn thấy con cái của chúng con trước khi nhắm mắt (Tb 10,11). Bà Étna cũng nại đến Chúa để chúc lành cho con gái và con rể như sau: Trước mặt Chúa, mẹ kí thác Xara cho con, con rể của mẹ! Suốt đời con, đừng bao giờ làm cho nó phải buồn (Tb 10,13).
Chúc Tết và chúc tuổi cho nhau mà nại đến Thiên Chúa và kêu cầu đến ân sủng và quyền năng của Chúa là đặt người mà mình cầu chúc dưới sự che chở và bảo vệ của Chúa. Việc cầu chúc cho nhau mà nói ra tiếng để người được cầu chúc có thể nghe thấy còn có tác dụng tâm lý là khiến cho người được chúc phúc cảm động và tự cố gắng thế nào để lời cầu chúc được thực hiện nơi mình.
Để áp dụng thực hành, ta nguyện xin Chúa chúc lành cho ông bà cha mẹ, anh chị em họ hàng. Và nguyện xin Chúa chúc lành lẫn cho nhau trong năm mới. Ta cũng không quên xin Chúa tha thứ những lỗi lầm, những thiếu sót trong năm cũ, những lúc ta phí phạm thời giờ Chúa ban, cũng như việc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa tha thứ những lần ta không dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình: cha mẹ, vợ chồng và con cái; những lần ta không dành thời giờ cho chính mình để suy tư về thân phận làm người trong mối tương quan với Đấng tác thành nên mình.
Lời nguyện xin Chúa chúc lành cho Năm mới:
Lạy Chúa, Chúa là Chúa của tứ thời bát tiết, của Xuân Hạ Thu Đông. Chúng con xin tạ ơn Chúa cho thời giờ, năm tháng Chúa ban trong năm cũ. Xin Chúa tha thứ những lần chúng con phí phạm thời giờ hoặc tiếc rẻ và lạm dụng thời giờ. Xin Chúa thánh hoá thời giờ chúng con xử dụng để chúng con biết dùng thời giờ làm vinh quang nước Chúa. Amen.
45. Ơn Bình An (Mt 6,25-34)
Mùa xuân đang đến với quê hương, gia đình và mỗi tâm hồn.
Mùa xuân đến mang thêm tuổi đời, niềm vui và hy vọng.
Mùa xuân đến làm tươi nở cuộc đời với hương trời, gió xuân, hoa thắm.
Mùa xuân đến đem niềm an bình và hạnh phúc cho con người.
Vâng, tất cả chúng ta đang được tận hưởng tràn trào hương xuân trong ngày đầu năm mới với muôn ngàn lời chúc tốt đẹp. Chúng ta chúc nhau năm mới an khang hạnh phúc, an bình phúc lộc, an mạnh trường thọ, an lành thánh đức… Những lời cầu chúc thân thương ấy đã diễn tả phần nào nguyện ước sâu xa của cõi lòng con người. Hơn hẳn những nhu cầu thiết thực khác của cuộc sống, chúng ta mong ước được an bình từ nội tâm đến cuộc sống ngoại tại, từ mối tương giao thân tình giữa người với người đến sự hòa hợp thích ứng với thiên nhiên và các tạo vật.
Thế nhưng, đâu là phương thức chính đáng nhất để chúng ta có được sự bình an đích thực như lòng mình mong muốn? Câu trả lời được tìm thấy trong bài Tin Mừng mà Giáo hội đã chọn đọc trong ngày đầu năm mới hôm nay.
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vững mạnh vào Thiên Chúa quan phòng, để đừng quá bận tâm vào những nhu cầu của cuộc sống thực tại, vì chính Chúa Cha sẽ ân ban cho chúng ta tất cả. Điều quan trọng và cần thiết nhất trong lúc này là chúng ta hãy ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (x.c.33). Đó là thái độ mà chúng ta cần kiên quyết thực hiện ngay trong ngày đầu năm mới này. Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người chính là trạm dừng chân lý tưởng nhất để chúng ta có được sự bình an như lòng mình mong ước. Trong sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới năm nay, Đức Thánh Cha Bênêđictô cũng xác nhận: “Một xã hội được hòa giải với Thiên Chúa thì gần gũi với hòa bình hơn… Hòa bình là kết quả của một tiến trình thanh tẩy…” (số 15).
Quả thật, sự bình an đích thực mà chúng ta đang khát khao chính là việc thiết lập được mối tương giao thuận thảo giữa chúng ta với Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta cho Ngài, nên tâm hồn chúng ta còn mãi băn khoăn khắc khoải cho đến khi nào được an nghỉ trong Chúa (thánh Augustin). Thánh nhân đã nói lên được tâm tư nguyện vọng nơi thẳm sâu tâm hồn của mỗi người chúng ta. Thật vậy, chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới có được sự bình an đích thực. Chính sự an bình tràn ngập tình yêu thương này, khiến chúng ta luôn luôn muốn sống thân tình với Thiên Chúa, kết hiệp thâm sâu với Ngài trong tình yêu, chu toàn thánh ý Ngài trong cuộc sống, tận tâm giới thiệu Chúa cho người khác, mong cho Danh Ngài tỏa lan đến mọi người mọi nơi. Đây cũng chính là phần ưu tiên mà chúng ta phải chọn lựa theo giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng. Bởi lẽ, một khi có Chúa trong cuộc đời, ta sẽ được tận hưởng một sự bình an vô hạn. Với Chúa, chúng ta cùng đi gieo rắc niềm an bình đến mọi nơi. Và vì Chúa, chúng ta cũng sẽ biết trân trọng, gìn giữ và bảo vệ sự bình an mà Ngài đã ân ban.
Hôm nay, ngày đầu năm mới, chúng ta cùng nguyện cầu ơn bình an được tỏa lan đến khắp mọi nhà và mọi tâm hồn. Cầu mong ơn bình an được chan hòa trên khắp miền quê hương đất nước. Chúng ta ước nguyện quê hương được thái bình thịnh vượng, nhà nhà an hòa, người người an lòng, để cùng chung tay xây dựng quê hương ngày một tốt đẹp hơn. Thế nhưng, để có được sự bình an như lòng mong ước, chúng ta phải biết ngước nhìn lên Đấng là chính nguồn cội sự bình an. Xin Ngài thương ban tặng cho chúng ta niềm an bình và hạnh phúc đích thực trong năm mới này.
Tuy nhiên, sự bình an không chỉ dừng lại nơi bản thân của mỗi người, mà cần phải được chia sẻ đến mọi người và mọi nơi. Chúng ta cần trao tặng cho tha nhân sự bình an của Chúa qua thái độ biết quảng đại tha thứ để sống yêu thương hơn, biết trân trọng người khác với những khả năng và khác biệt nơi họ, biết ân cần quan tâm đến nhau nhiều hơn, biết nhiệt tâm phục vụ với tất cả lòng từ tâm và nhân ái, biết cảm thông trước những nỗi khổ đau hay giới hạn của người khác… Vâng, trong mùa xuân này, Thiên Chúa đang ngỏ lời với chúng ta, đang mong chờ một vòng tay yêu thương rộng mở của chúng ta để đón nhận, để sẻ chia cho những tâm hồn bé nhỏ là hình ảnh thân thương của Ngài. Những hiện thân ấy đang ở chung quanh chúng ta, bên lề đường, trong những túp lều ẩm thấp, trong những cơn bệnh thập tử nhất sinh, hay trong những mái nhà xiêu vẹo vắng bóng tiếng cười, vắng luôn cả miếng cơm manh áo… Chúng ta cần đáp trả thế nào trước tiếng kêu than của người anh em chúng ta? Đó chính là tiếng kêu gào của một vị Thiên Chúa đang nhập thể từng ngày trên quê hương này, ngay trong mùa xuân này.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một mùa xuân an bình hạnh phúc. Quê hương con giờ đây không còn chiến tranh, không còn bạo lực, chúng con được thoải mái vui chơi và tận hưởng mùa xuân an bình trên quê hương dấu yêu. Thế nhưng, Chúa thấy đấy, khung cảnh bên ngoài thì bình an thư thái, nhưng bên trong chiều sâu thăm thẳm của lòng người, của xã hội, thì cũng còn đầy dẫy những kiểu “chiến tranh không đổ máu”. Từ những lối sống ích kỷ, thụ hưởng với những đam mê khoái lạc, rồi những thái độ gian dối lừa lọc, cư xử bất công, hành xử đầy tính cách bạo lực… đã tạo nên những hố sâu ngăn cách giữa người với người. Để rồi còn tìm đâu ra sự bình an trong những cảnh tượng như thế? Một điều làm cho Chúa đau lòng hơn cả là từ nội tâm con người đã tự nguyện giết chết sự bình an của một lương tâm trong sáng, khi sẵn sàng ngăn cản sự ra đời của một thai nhi bé bỏng vô tội. Thật xót xa cho Chúa khi từng ngày và mỗi phút giây trên quê hương con, hàng chục thai nhi bị giết chết mà không kịp tận hưởng một chút hương vị mùa xuân cuộc đời.
Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng con, xin canh tân đổi mới tâm hồn chúng con, đặc biệt là tâm hồn các bà mẹ trẻ, để trong năm mới này, mọi người đều biết duy trì được sự bình an đích thực trong tâm hồn mà Chúa đã ban tặng.
Xin cho mùa xuân này đem lại nhiều niềm vui và sự an bình cho mọi tâm hồn, nhất là những tâm hồn đang cô đơn sầu khổ.
Xin cho mùa xuân này là lời động viên, nhắc nhở hay cảnh báo cho tất cả mọi người, để cùng với ơn thánh, chúng con luôn biết nỗ lực sống yêu thương và an bình trong tình Chúa và tình người chân thành. Amen.
46. Quê hương thật (Ga 14,23-27)
Trong những ngày Tết, chúng ta thường cầu chúc cho nhau được khoẻ mạnh, được nhiều may mắn, được gặt hái những thành quả tốt đẹp. Thế rồi khi năm mới bắt đầu, chúng ta thường ra sức làm việc, nhưng phần lớn là để tìm lấy những vinh quang, những lợi ích cho riêng mình. Và nếu có lỡ thất bại, chúng ta cảm thấy buồn chán, và nhất là chúng ta hậm hực tức tối khi người khác trổi vượt hơn chúng ta. Chính vì thế, đây là lúc chúng ta phải đặt lại vấn đề, phải xác định phương hướng cho cuộc đời chúng ta. Chúng ta sống là để làm gì? Và đâu mới là quê hương thật của chúng ta? Trả lời cho những câu hỏi này chúng ta mới có thể đi đúng con đường mà Chúa muốn chúng ta đi cũng như mới có thể tìm thấy được những giá trị trường tồn và vĩnh cửu.
Khi ông Roosevelt còn làm tổng thống nước Mỹ, có lần đã đi nghỉ hè tận Phi Châu để săn những con hươu cao cổ. Trên chuyến bay từ Phi Châu trở về Hoa Kỳ, có một nhà truyền giáo đã hy sinh phục vụ những dân Phi Châu suốt 40 năm trời. Khi phi cơ hạ cánh, nhà truyền giáo ấy chứng kiến đông đảo dân chúng cùng một phái đoàn cao cấp trong chính phủ ra đón mừng tổng thống trở về bằng yên, không ai để ý tới nhà truyền giáo đang lủi thủi một mình. Bấy giờ nhà truyền giáo than thở với Chúa trong cõi lòng của mình: Lạy Chúa, Chúa biết không, một vị tổng thống đi nghỉ hè trở về mà được nhiều người đón rước như vậy. Còn con đây, con đã hy sinh vì Chúa để phục vụ những người anh em cùng khổ tại Phi Châu suốt 40 năm thế mà giờ đây, khi trở về, lại không một ai thèm nhớ đến con. Quả là bất công và tủi hổ cho thân phận của con. Thế nhưng lúc đó, dường như có tiếng Chúa trả lời trong tâm hồn nhà truyền giáo: Này con, đừng vội thất vọng, vì con chưa trở về quê hương thật của con cơ mà.
Có thể đôi lúc chúng ta cũng than phiền với Chúa như thế. Và câu trả lời của Chúa cho nhà truyền giáo cũng là câu trả lời cho mỗi người chúng ta: Con chưa trở về quê hương thật của con. Trần gian chỉ là nơi tạm gởi và vinh quang của nó tựa cánh hoa đồng nội, sớm nở chiều tàn. Vì thế, đừng quá bận tâm tới tiền bạc vật chất, địa vị danh vọng, cũng đừng ganh tỵ với những may mắn của kẻ khác, nhưng hãy cố gắng tạo cho mình một kho tàng thiêng liêng, có giá trị trường cửu, để nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
Với những chia sẻ ngắn ngủi trên, tôi xin cầu chúc anh chị em một năm mới bình an và hạnh phúc trong tình yêu thương của Thiên Chúa.
47. Cầu bình an trong năm mới
Không biết có ai trong chúng ta thắc mắc “tại sao Giáo hội lại chọn đọc bài Tin Mừng này vào ngày đầu năm mới? Ngày cầu bình an?” Thiết tưởng Giáo hội là mẹ cũng muốn dạy con cái mình những điều thật hữu ích. Vì thế, có lẽ chúng ta cũng nên đặt thêm một vài câu hỏi: Tại sao lại phải cầu bình an trước tiên ngay trong ngày đầu năm mới? Điều gì đem lại bình an? Điều gì làm mất bình an? Lời Chúa hôm nay có giúp gì cho việc giải quyết những vấn nạn này không?
Xin thưa câu trả lời chắc chắn là có. Lời Chúa hôm nay sẽ giúp cho mỗi người tìm được bình an. Vì bình an là gốc của mọi điều tốt lành khác. Có bình an con người sẽ có được những thứ khác. “Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?”.
Lời Chúa thật là chí lý: xét đi xét lại chúng ta thường lo cho mình “của ăn, áo mặc”, mà cái lo này thường làm cho chúng ta quên đi cái chính yếu mình đang có đó là “mạng sống và thân thể”. Chúa nhắc chúng ta nhìn về điều chính yếu Chúa ban cho, Chúa đã trao cho chúng ta mạng sống, cái mà chúng ta không thể làm gì trên nó được, không kéo dài cũng không rút ngắn, không sớm cũng không muộn… mạng sống của chúng ta tùy thuộc vào tay Chúa. Nhưng ngay cả điều quý giá nhất là mạng sống thì Chúa cũng đã ban cho và được đặt vào trong một thân thể rồi. Thân thể cũng vậy, một món quà quý giá không ai có thể làm cho mình cao hơn lên, hoặc đầy đủ hơn. Chúng ta không can thiệp được về thân thể của chúng ta, có chăng chúng ta chỉ có thể giúp mạng sống và thân thể an toàn và tốt đẹp thêm như nó đã được trao tặng. Vậy mà nhiều khi trong cuộc sống chúng ta lại quên, đánh mất, hoặc làm tổn hại cái chính mà mình đang có để lo tìm cái phụ. Những cái phụ thuộc ấy nếu lo lắng quá đáng chúng ta sẽ làm cho mất bình an.
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng cuộc sống ngày hôm nay có quá nhiều khó khăn và thử thách. Công ăn việc làm hết sức bấp bênh. Việc học hành và tương lai của con cái đáng phải lo nghĩ. An sinh xã hội không được bảo đảm. An ninh chính trị thì luôn bất ổn. Xung đột và khủng bố diễn ra khắp nơi. Những điều ấy đã làm cho cuộc sống chúng ta đôi khi mất bình an và luôn phải lo nghĩ để tìm cách ứng phó. Chúng ta vẫn có quyền lo nghĩ và sắp xếp tương lai của mình cho tốt đẹp nhất nhưng đừng để những thứ ấy làm ảnh hưởng đến sự bình an mà Chúa đã ban cho mỗi một người.
Chúng ta là những người đã dám tin vào vào quyền năng và ân sủng của Chúa, chúng ta phải có một lối sống và cách hành xử khác, dám để cho Lời Chúa hướng dẫn vì “Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó”. Không phải ỉ nại vào sự quan phòng của Chúa, nhưng là cộng tác với Chúa, và khi đã nỗ lực hết sức để cộng tác với Chúa, thì tin tưởng Chúa sẽ chúc lành.
Như vậy điều đem lại bình an là vui với những hồng ân mà mỗi chúng ta được nhận lãnh hằng ngày cách nhưng không: mưa thuận gió hòa, mặt trời mọc và lặn đúng thời đúng buổi, không khí trong lành và những dòng nước mát, những người thân yêu và tình bằng hữu… Và điều làm mất bình an là chúng ta lo lắng tìm kiếm những cái phụ quá đáng, đôi khi lo lắng tìm cái phụ mà chúng ta tranh giành làm tương tổn nhau, đôi khi lo tìm những cái phụ mà đánh mất cả những giây phút hạnh phúc hiện tại mà mỗi chúng ta đang có.
Cầu xin bình an trong năm mới, là cầu xin cho chúng ta cảm nghiệm những hồng ân Thiên Chúa ban cách nhưng không. Cầu xin bình an trong năm mới là cầu xin cho có lòng tin vào bàn tay Chúa quan phòng. Cầu xin bình an trong năm mới là cầu xin cho biết lượng giá và tìm kiếm những điều chính yếu, tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, giữa cuộc sống có quá nhiều bề bộn và lo toan hôm nay, xin cho con được giữ mãi trong lòng hơi ấm bình an của Chúa. Nhiều khi cơm, áo, gạo, tiền đã làm chúng con quá mỏi mệt mà quên đi sự hiện diện nhiệm mầu của Tình Yêu Chúa.
Chúa biết đó, chúng con đang còn phải vật lộn mỗi ngày với cuộc sống nhiều cam go và thử thách hôm nay. Những khó khăn và thử thách từ ngoài tác động vào lòng chúng con và có những thử thách tự chúng con gây ra cho chính mình. Trong tất cả những vấn đề ấy, xin cho chúng con tìm ra được hướng giải quyết và tháo gỡ. Nhưng trên hết, xin cho chúng con luôn biết đặt trọn niềm tin tưởng nơi Chúa và trao đời mình trong vòng tay yêu thương quan phòng của Chúa luôn.
Amen
48. Bình An – Quà Tặng Năm Mới--J.B. Nguyễn Quốc Tuấn
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Kitô.
Bình an, đó là điều mà chúng ta mong ước và cầu chúc cho nhau mỗi dịp Tết đến xuân về. Bình an là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người kể cả trên bình diện xã hội và tâm linh. Bình an như là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang đồng hành giữa nhân loại và thái độ đáp trả của con người bằng đời sống yêu thương. Vì khi sống yêu thương, chúng ta cũng đồng thời được tận hưởng một thế giới an bình.
1. Thiên Chúa là nguồn mạch bình an
Nguồn bình an đích thực đến từ Thiên Chúa. Từ tạo thiên lập địa, chính Thiên Chúa đã khai thông nguồn bình an ấy đến tận muôn loài. Riêng đối với con người, Ngài đã ưu ái đặc biệt khi cho chúng ta được cộng tác với Ngài trong việc tạo lập bình an cho thế giới. Nhưng chúng ta đã khước từ tình yêu của Thiên Chúa, lạm dụng quyền tự do Ngài ban theo chiều hướng xấu dẫn đến bất an, đau khổ.
Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Khi nhân loại bị tước mất nguồn bình an vì phải xa lìa Thiên Chúa, thì chính Ngài lại tiếp tục nâng đỡ và kêu mời chúng ta trở về nhận lại ơn bình an nơi Con Một Người là Đức Giêsu Kitô.
“Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1Tx 5, 23-24).
Một khi ý định của Thiên Chúa đã được thành toàn nơi Đức Kitô, nhân loại thực sự được mời gọi bước vào sống trong thế giới của nguồn bình an vô tận. Khi đã được tháp nhập vào thân thể huyền nhiệm của Đức Kitô, chúng ta không còn phải bất an vì lo sợ quyền lực sự dữ thống trị.
“Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó” (Cl 3, 15).
Cuộc lữ hành trong Đức tin của người môn đệ dù phải đối diện với muôn vàn mối hiểm nguy luôn rình rập đe doạ, nhưng đó sẽ là cơ hội quý giá cho chúng ta tận hưởng bình an chân thật do chính Thập giá mang lại.
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi” (Ga 14, 27).
2. Không có bình an nếu thiếu tình yêu
Như vậy, bình an là quà tặng vô giá do bởi tình yêu mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Điều này cho thấy bản chất của bình an được khởi đi từ tình yêu. Tình yêu vừa là động lực, vừa là cốt tuỷ của sự bình an. Bình an mà Đức Kitô đã dành trọn cho nhân loại trong công cuộc cứu độ của Ngài, chính là nguồn bình an mà nhờ đó con người được sống trong tình yêu Thiên Chúa và anh em.
Kitô giáo đã mở ra cho chúng ta một hướng nhìn toàn diện khi nghiệm xét điều mà nhân loại hôm nay không ngừng vươn tới: Bình An. Đích điểm mà con người bao đời vẫn kỳ vọng là được sống trong một thế giới hoà bình sẽ trở thành ảo tưởng, nếu thế giới ấy thiếu đi tình thương.
Vẫn còn đó những bất an khi con người chưa đáp ứng lời mời gọi của Đức Kitô: hoà giải, thứ tha.
Vẫn còn đó những bất an khi những nhóm, hay cá nhân bất chấp các nguyên tắc luân lý nền tảng của sự sống và nhân phẩm con người.
Vẫn còn đó những những bất an khi người ta nhân danh quyền lực để xâm hại quyền lợi đồng bào vô tội.
Vẫn còn đó những bất an khi đồng tiền được đặt trên tình thương…
Vẫn còn đó những bất an khi chúng ta chưa chịu xả thân hết mình để chia sẻ những mất mát, đau thương của bao người…
3. Bình an – quà tặng năm mới
BÌNH AN - Món quà thiêng liêng nhất mà chúng ta trao đến nhau trong ngày đầu năm mới. Nó không là một lời chúc suông hoa mỹ, mà hàm chứa một thái độ sống, một nỗ lực sống của chúng ta trên chặng đường những tháng ngày mới đang mở ra.
Món quà BÌNH AN chỉ thực sự sinh động và và có ý nghĩa khi chúng ta gói gém vào trong đó những nguyện ước chân thành và thiện chí xây dựng một cuộc sống êm ấm tốt đẹp cho nhau.
Món quà BÌNH AN chỉ có thể đem lại bầu khí an bình đích thực khi nó được khắc vào đó dấu ấn Thân Ái – Thứ Tha.
Một năm mới bình an khi mỗi người dành cho nhau nhiều thời giờ trao đổi, chia sẻ, nâng đỡ và cùng nhau thăng tiến trong hiệp nhất.
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Kitô. Do vậy, thực chất của ơn bình an chính là một cuộc sống luôn kết hiệp với Đức Kitô trên tinh thần tôn trọng sự thật và xây dựng một xã hội công bình, yêu thương.
“Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3, 14).
49. Mùa Xuân là Mùa của Hy Vọng--Lm Giuse Nguyễn Văn Thành
Mùa xuân lại về trên quê hương đất nước chúng ta. Người người náo nức. Chúng ta thường chúc nhau những lời tốt đẹp nhất.
Theo qui luật của Tạo hóa, thời tiết thay đổi nối tiếp nhau theo một chu kỳ: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Mùa nào mang tính độc đáo của mùa ấy, nhưng Xuân vẫn được gọi là mùa của sự đâm chồi nảy lộc, mùa hoa đua nở, cảnh khoe sắc, bởi thời tiết ấm áp hơn. Phong cảnh xinh tươi báo hiệu sức sống dồi dào. Xuân cũng báo hiệu nhiều niềm vui, nhất là các bạn trẻ.
Xuân nào xuân tuổi nhỏ
Trong trắng ấy xuân ơi.
Hầu như tất cả các nước trên thế giới đón mừng năm mới, vào ngày mồng một của tháng đầu năm. Riêng Việt Nam và những nước Châu Á đón Tết theo giờ, ngày của lịch Can Chi năm đó. Lịch Can Chi là Nhân lịch. Sự vận động của thời gian tương ứng với các vị trí không gian trong vũ trụ được thể hiện qua năm, tháng, ngày, giờ. Tết Nguyên Đán là quan trọng nhất đối với chúng ta.
Tết Nguyên Đán được tổ chức rất long trọng cả về tinh thần lẫn vật chất. Nó đã đi vào thói quen của người Việt Nam và đã trở thành nét đẹp văn hoá.
Ngay cả khi nền kinh tế của chúng ta vẫn còn eo hẹp thì ngày Tết vẫn được coi là “no ba ngày Tết, đói ba tháng hè”. Cho dù thiếu thốn đến đâu, người ta cũng sẵn sàng làm Tết trong ba ngày cho thịnh soạn. Vì thế, gia đình nào cũng phải mua sắm ngũ quả, gói mứt, chai rượu, trước hết để thắp hương kính tổ tiên, sau để tết ông bà, cha mẹ…. Ngày xưa, nhiều người còn quan niệm những thứ làm nên ngày Tết:
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh”.
Người ta vẫn coi ngày Tết là ngày rất thiêng liêng, nên trong gia đình có điều gì khúc mắc thì cha mẹ, con cái hay vợ chồng sẽ xin lỗi nhau để hi vọng một năm mới sẽ có nhiều sự may mắn.
Đối với người Công Giáo, chúng ta hãy vui và đón Tết với tất cả tâm tình của người con Đất Việt, cùng đồng hành với dân tộc. Những hành vi thảo hiếu, tình bằng hữu cũng như tình làng nghĩa xóm cần phải được giữ cho trọn. Bởi Chúa chính là chủ của mùa xuân. Ngài đến ban sức sống dồi dào cho muôn loài thụ tạo. Mọi hoạt động của vũ trụ vạn vật đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Cho nên, Ngài là hi vọng của thế giới.
“Bốn mùa Chúa đổ hồng ân,
Ngài cho mầu mỡ ngập tràn lối đi”.(Tv 64,12)
Vì thế, nó rất hợp với ý Chúa và Giáo Hội kêu mời. Đây là thời gian thuận tiện để chúng ta thi hành những công việc của người con cái Chúa. Chúng ta làm chứng cho Chúa trước mặt người khác bằng đời sống vui Tết nhưng không quên bổn phận thiêng liêng và chơi Tết mà không sa vào những tệ nạn xã hội.
Hơn nữa, với người Kitô hữu, Tết cổ truyền còn được gọi là dịp biết ơn và báo hiếu, mùa của đổi mới và hi vọng nữa.
Chúng ta cầu nguyện cho hoà bình trên quê hương đất nước.
Chúng ta quan tâm đến những người kém may mắn để họ cũng được hưởng một cái Tết vui vẻ, khoẻ mạnh và tràn đầy hồng ân Chúa.
50. Suy niệm Mồng Một Tết--Mt 6,25-34--Lm Thaddaeus. M. Lê Văn Ý
Một mùa xuân nữa lại về trên quê hương Việt Nam. Nói đến mùa xuân, Tết cổ truyền ai nấy cũng đều háo hức vì đó là ngày lễ hội truyền thống của dân tộc. Vào những ngày cuối năm cũ, người ta lo trang hoàng nhà cửa, sắm sửa mọi thứ đều mới để vui chơi trong những ngày đầu xuân.
Những ngày Tết là những ngày vui. Người ta vui mừng vì gia đình được đoàn tụ, được sum họp sau những ngày tháng làm lụng vất vả: con trẻ vui vì được lì xì, người già vui vì được mừng tuổi và chúc thọ. Bao người đi xa, dù Bắc hay Nam, dù tận phương trời Tây cũng tìm về với gia đình, dòng họ để chung vui.
Ngày đầu năm còn là dịp để người ta xích lại gần nhau hơn, quên đi những điều không may trong năm cũ, đến với nhau và chúc mừng năm mới cho nhau: chúc cho nhau sống lâu trăm tuổi, an khang thịnh vượng và hy vọng mọi việc sẽ được an lành mỹ mãn.
Theo truyền thống của người công giáo Việt Nam, ngày đầu năm mới ngày cầu xin Chúa ban bình an. Ai ai cũng mong được bình yên trong tình yêu quan phòng của Chúa. Khởi đầu năm mới, mọi người đều cảm thấy cần khẩn cầu cho những ngày sắp tới được bình yên thịnh vượng. Đang khi đó ai ai cũng tự hiểu tương lai không ai nắm chắc được điều gì. Người Việt Nam cho rằng “Vạn sự khởi đầu nan”. Khởi đầu năm mới, bên cạnh những niềm vui sum họp, nhưng cũng cảm thấy nỗi lo lắng dâng tràn cho một năm mới đang đến. Vì thế, những người sống niềm tin, chạy đến với Ông Trời, người công giáo tìm đến Chúa để cầu xin được bình an, mong sao được Chúa phù hộ chở che, như trong thánh vịnh 121 đã nói:
“Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi,
Ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao?
Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa
Là Đấng dựng nên cả đất trời,
Xin Đấng gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật bước,
Xin Người chớ ngủ quên.
Đấng gìn giữ Israel, lẽ chợp mắt ngủ quên cho đành!
Chính Chúa là Đấng gìn giữ bạn,
Chính Chúa là Đấng vẫn chở che,
Người luôn luôn ở gần kề.
Ngày sáu khắc, vầng ô không tác họa,
Đêm năm canh, vành nguyệt chẳng hại.
Chúa giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh,
Gìn giữ cho sinh mệnh an toàn.
Chúa gìn giữ bạn lúc ra vào lui tới,
Từ giờ đây cho mãi muôn đời”.
Đông qua, xuân lại đến. Dù muốn hay không, qui luật vận hành của đất trời cứ thế mà xoay chuyển, và đó là điều người ta nhận ra Thiên Chúa là Đấng làm ra và nắm giữ mọi điều, thời gian là của Chúa ban cho con người trên mặt đất này.
Thiên Chúa là Chúa của mùa xuân, là Chúa của trời đất vạn vật. Chính Người là Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật ngay từ thuở ban đầu, “từ những vật sáng trên vòm trời, đến những vầng sáng lớn và các tinh tú” (St 1,14-18). Mùa xuân đầu tiên ngập tràn hạnh phúc được Thiên Chúa tạo lập trong vườn Địa Đàng năm xưa chính là mùa xuân tình yêu dành cho Ađam - Evà. Tuy nhiên, hai ông bà đã để mùa xuân yêu thương ấy kết thúc trong sự sa ngã nuối tiếc.
Ngày Tân Niên, chúng ta đến với Thiên Chúa để mừng tuổi Chúa, đến với Đấng làm chủ thời gian để xin Người chúc phúc cho chúng ta:
“Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc,
xin tỏa ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con,
cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa,
và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài”. (Tv 66,2-3).
Điều mà ai cũng ao ước trong những ngày đầu xuân đó là sự bình an. Một khi có sự bình an thực sự, con người sẽ có được những thứ khác. Một khi có sự bình an thực sự, chúng ta sẽ luôn vui mừng trong Chúa: “Bình an của Thiên Chúa vượt mọi trí hiểu, sẽ giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô” (Pl 4,7).
Trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu trong ngày Tân Niên, Đức Giêsu chỉ cho chúng ta một phương thế để có được sự bình an, đó là tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, qua hai cách nói “đừng lo” và “hãy lo”:
"Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?... Tiên vàn, anh em hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,25.33).
Không lo sao được vì với những người có dư thừa vật chất thì không có vấn đề. Nhưng đối với những người mà mỗi ngày phải lo tìm kế sinh nhai cho đủ ăn đủ mặc, sống lây lất qua ngày, chứ chưa nói đến làm giàu thì rõ ràng đây lại là một vấn đề to lớn. Giữa thế giới tục hóa của thời đại cơm áo gạo tiền này, vấn đề vật chất tiền của đã chiếm chỗ rộng lớn trong tâm trí. Vì thế, nhiều người mãi mê tự mình đi tìm kiếm kinh tế, tiền tài để tiêu dùng và hưởng thụ.
Tuy nhiên, điều Chúa muốn nơi mỗi người là: chúng ta không được phép ỷ lại vào sự quan phòng của Chúa một cách quá đáng, nhưng cũng đừng lo lắng thái quá về tiền của, cái ăn cái mặc cho ngày mai, như kiểu của người không có niềm tin: Chúng ta sẽ ra sao, sẽ ăn gì, uống gì, mặc gì? Kinh thánh khuyên bảo chúng ta sống tín thác vào tình yêu của Chúa:
“Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện
Thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn.
Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn,
Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng.
Hãy ký thác đường đời cho Chúa,
Chính người sẽ ra tay” (Tv 37; 4 – 5)
Hạnh phúc đích thực chỉ có cho những ai biết tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước tiên. Chúa không muốn con cái của Chúa lo lắng quá nhiều, Chúa chỉ muốn chúng ta tin cậy vào tình yêu của Người, bởi lẽ “ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34b). Còn sự công chính của Thiên Chúa được tỏ lộ qua lời giảng dạy của Người (x.Mt 5,6.10.20).
Cùng đích của đời người không hệ tại ở vật chất, tiền bạc của cải, quyền lực,... mà là cuộc sống mai hậu. Chúa biết chúng ta cần gì muốn gì và chính Người sẽ bảo đảm cuộc sống cho chúng ta. Vì thế, chúng ta “hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37,5).
Trong giờ phút linh thiêng của ngày đầu năm, thiết nghĩ tâm tình của người Kitô hữu trong Thánh Lễ Tân Niên phải là tâm tình phó thác, trông cậy cầu xin những ơn lành từ lòng thương xót của Chúa cùng với tâm tình tạ ơn. Đặc biệt chúng ta mừng đón tết trong khung cảnh của Năm thánh giáo phận Qui Nhơn mừng kỷ niệm bốn trăm năm loan báo Tin Mừng, càng làm cho mỗi người suy gẫm về sự quan phòng, yêu thương của Chúa đã ban xuống cho chúng ta biết bao hồng ân. Một năm đã qua với biết bao biến cố vui buồn trong cuộc sống, chúng ta đều cảm tạ Chúa vì muôn phúc lành mà Chúa đã thương ban. Tình yêu thương mà chúng ta có thể cảm nghiệm là ngay trong giây phút này đây mình vẫn đang sống, vẫn đang hiện diện, để được cùng sum họp với gia đình, với cộng đoàn giáo xứ. Đồng tiền mà chúng ta dâng lên Chúa trong ngày đầu xuân tượng trưng cho lòng thành tri ân cảm tạ của chúng ta.
Đồng thời mỗi người chúng ta cũng xin lỗi Chúa vì những do dự, yếu đuối, thiếu sót, vì những phận sự mà mình chưa chu toàn với trách nhiệm làm cha mẹ, vợ chồng, con cái,... trong gia đình và bổn phận truyền giáo của người Kitô hữu.
Và sau cùng, bước sang Năm Mới, ai trong chúng ta cũng mơ ước cho mình và cho người khác mọi điều may mắn tốt đẹp. Chúng ta hy vọng một năm Mậu Tuất sẽ đầy thuận lợi hơn năm Đinh Dậu đã qua với nhiều ân sủng Chúa. Việc hái lộc lời Chúa trong ngày đầu năm sẽ giúp chúng ta suy niệm và thực hành trong một năm mới dưới sự soi sáng và nâng đỡ của Chúa quan phòng, giúp ta luôn trông cậy vào Chúa, vượt qua lo lắng thái quá cho ngày mai. “Hãy vui lên anh em!” (Pl 4,4), chính cái vui này giúp chúng ta sống đời phó thác “ngày mai, cứ để ngày mai lo” (Mt 6,34) để sống tròn đầy giây phút ân huệ hiện tại.
Chúng ta cùng cầu chúc cho nhau một mùa xuân nhiều PHÚC LỘC THỌ, một mùa xuân đầy AN BÌNH VUI TƯƠI HY VỌNG, một mùa xuân thêm lòng TIN CẬY MẾN. “Càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và thêm ân nghĩa với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).
51. Tin vào tình yêu quan phòng của Chúa--Mt 6,25-34--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Một trong những thực hành mê tín của dân ngoại đang ảnh hưởng đến đời sống của người tín hữu, đó là sự tin kiêng mù quáng và phong thủy sai lầm. Những người này, mặc dù vẫn tin Chúa, nhưng đồng thời họ lại tin kiêng vào những lời lẽ của ông thày và những thói quen của người ngoại. Ví dụ như chọn người xông nhà, chọn ngày khởi công, khai trương, xây nhà phải đếm bậc, đếm đòn tay. Người dân ngoại, vì không biết Chúa, họ cho rằng sự may mắn trong năm là do ông thầy hướng dẫn; sự thành công của công việc là do chọn đúng ngày, gia đình hạnh phúc là do phong thủy.
Người Công giáo khi tin và thực hành như thế, có nghĩa là chối bỏ quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa, và cho rằng sự thành công hay thất bại, khỏe manh hay đau ốm, may mắn hay bắt hạnh, là do tài khéo của bản thân hoặc do một sức mạnh nào đó không phải là Thiên Chúa. Khi cố tình tin và thực hành như vậy, chúng ta xúc phạm trầm trọng đến Thiên Chúa và đức tin của mình.
Trong giây phút đầu năm hôm nay, chúng ta đến đây để dâng lên Thiên Chúa những giây phút đầu xuân, cầu xin Chúa ban cho một năm mới thuận lợi trong công việc, gia đình bằng an, mạnh khỏe, hạnh phúc, con cháu ngoan hiền. Trong ngày đầu năm này, Lời Chúa mời gọi chúng ta tái khăng định niềm tin của mình vào quyền năng, tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa.
Bài đọc một cho chúng ta thấy: Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và làm chủ mọi vật mọi loài, không có một thần linh nào khác ngoại trừ Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa dựng nên vũ trụ trời đất, Ngài dùng lời quyền năng, chỉ phán: hãy có, mọi vật, mọi loài liền có. Ngài là Đấng quan phòng, sắp xếp thời gian, cho mặt trời soi sáng ban ngày và mặt trăng soi đường ban đêm; Ngài chi phối hướng dẫn vũ trụ và điều khiển cuộc đời của từng con người. Vì thế, tất cả những việc cúng bái tin kiêng vào các thần linh theo kiểu của dân ngoại đều là phản bội lại niềm tin vào Thiên Chúa tạo dựng.
Thánh Kinh không chỉ khẳng định cho chúng ta về một Thiên Chúa tạo dựng quyền năng, nhưng trước hết, và trên hết, Thiên Chúa thực sự là một người Cha giàu lòng thương xót. Thiên Chúa yêu thương các tạo vật Ngài đã dựng nên, nhưng Ngài vẫn dành cho con người một tình yêu thương đặc biệt. Vì yêu thương cách đặc biệt, nên đã tạo dựng con người theo hình ảnh của Thiên Chúa giống như Thiên Chúa. Con người được nâng cao và trao ban một phẩm giá đặc biệt trên tất cả mọi loài. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến độ, Ngài trở nên bạn hữu với con người; mỗi buổi chiều, Thiên Chúa ngự xuống đi dạo với con người, trò chuyện với con người.
Tình thương của Thiên Chúa dành cho con người thật cao cả lớn lao, Ngài đã chấp nhận cho Con của Ngài là Chúa Giêsu xuống thế làm người, để ở với con người. Chúa Giêsu là hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa, Ngài đến thế gian để nói cho mọi người biết rằng: Con người được Chúa yêu thương. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã quả quyết về tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Ngài nói cho mọi người biết rằng, Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn muốn và làm điều tốt đẹp cho con người. Vì thế, con người đừng cậy dựa vào sức lực khả năng của mình, nhưng hãy tin tưởng, cậy dựa và phó thác cuộc sống mình cho Thiên Chúa.
Đừng lo cho mạng sống lấy gì mà ăn, cũng đừng lo cho thân xác lầy gì mà mặc…hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, vậy mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Căn dặn chúng ta như thế, Chúa Giêsu không khuyến khích chúng ta lười biếng, thụ động, cũng không ù lỳ, lười suy nghĩ tính toán. Nhưng nói như thế, để nhắc chúng ta nhớ rằng: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Chúng ta tính toán làm ăn, nhưng vẫn phải biết trông cậy và cầu xin cùng Thiên Chúa và phó thác công việc cùng toan tính của ta cho Chúa. Vì cho dù chúng ta lên kế hoạc, đầu tư làm ăn, nếu Chúa không trợ giúp, không ban, chúng ta cũng không thể thành công được.
Cũng vậy, cơm ăn áo mặc hằng ngày, chúng ta vẫn phải vất vả lào động để tìm kiếm, nhưng đừng vì quá lo chuyện ngày mai ăn gì mặc gì, mà quên Thiên Chúa là Cha yêu thương, Ngài không ngừng chăm sóc cho chúng ta. Vì thế, đừng bao giờ mất niềm tin vào Thiên Chúa, cho dù cuốc sống có muôn vàn khó khăn, Thiên Chúa vẫn tìm cho ta một giải pháp tốt nhất. Do đó, hãy lao động làm việc trong tư cách là con của Thiên Chúa, làm với lòng tin tưởng và yêu mến. Đừng biến mình trở nên như một kẻ nô lệ, lệ thuộc vào công việc và lệ thuộc vào miếng cơm manh áo, đến độ, làm giảm phẩm giá làm người làm con Chúa. Vì là con của Thiên Chúa, nên dù có gian lao vất và, chúng ta vẫn phải ưu tiên tìm kiếm Thiên Chúa và hạnh phúc đời đời cho linh hồn của ta và của người thân trong gia đình. Vì thế, Chúa căn dặn chúng ta: Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ khác Người sẽ ban cho.
Một khi đã cảm nhận được tình Chúa yêu thương, quan phòng, chăm sóc cho từng người chúng ta, thánh Phaolô mời gọi: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi. Điều đó có nghĩa là, mỗi chúng ta đón nhận được Tin Mừng yêu thương của Thiên Chúa, chúng ta không thể để mình sống trong u bồn sầu não, cũng không bi quan chán nản, nhưng trong mọi hoàn cảnh chúng ta luôn vui. Vui, vì dù trong đau khổ, khó khăn nhất, chúng ta vẫn thấy Chúa hiện diện bên cạnh nâng đỡ; vui vì biết mình luôn được Chúa yêu thương, Chúa chia sẻ và nâng đỡ.
Thánh Phaolô căn dặn: Trong mọi hoàn cảnh, anh em hãy tạ ơn Thiên Chúa và giãi bày trước Thiên Chúa mọi điều anh em khẩn nguyện. Vì vậy, trong giờ phút đầu năm quy tụ trong nhà Chúa đây, nhìn lại một năm qua, không phải tất cả mọi người đều thành công thành đạt, nhưng tất cả cùng chung một lời để tạ ơn Thiên Chúa. Tạ ơn Chúa vì món quà thời gian, năm mới, Chúa ban tặng; tạ ơn vì bao thăng trầm cũng đã trôi qua, bao khó khăn phía trước, xin Chúa giải gỡ; tạ ơn vì Chúa luôn quan phòng chở che bênh đỡ.
Ngày nay, nhiều người không hề biết phong thủy là gì nhưng vẫn tin kiêng một cách mù quáng vào phong thủy và nhiều thứ khác nữa. Họ tin như thể rằng, mọi sự họ đang có, đang hưởng là do phong thủy, do tin kiêng, do hên, hơn là do Thiên Chúa. Điều này đang là một cám dỗ và là nguy cơ phá vỡ đức tin của chúng ta.
Phong thủy theo nghĩa của người Hoa, có nghĩa là gió và nước. Hợp phong thủy, là sự hòa hợp của đất trời, của nắng của gió, sự hòa hợp của thiên nhiên. Khi con người biết tôn trọng thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên, con người sẽ mạnh khỏe. Phong thủy có nghĩa như thế.
Theo cái nhìn của Kitô giáo, khi con người sống hòa hợp với Thiên Chúa, với tha nhân và với thiên nhiên vũ trụ, con người sẽ đạt được hạnh phúc. Tỗi lỗi và ma quỷ, chính là kẻ gây sự bất hòa giữa con người và Thiên Chúa, cũng như với tha nhân và vũ trụ. Vì thế, chỉ khi loại trừ tội lỗi, ma quỷ trong tâm hồn, chúng loại trừ được nguyên nhân gây xáo trộn bất hòa.
Ngày tết, mọi người đều muốn có một bầu khí hòa hợp vui tươi, quảng đại, dễ dàng bỏ qua cho nhau những xích mích. Vì vậy, hãy tận dụng những ngày tết này, để giao hòa với Thiên Chúa, đem lại cho gia đình nhiều niềm vui tiếng cười. Hãy chủ động bước đến thăm nhau và thật lòng mong muốn, cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp. Quan trọng hơn, là hãy làm những điều tốt đẹp cho gia đình, cho nhau, không chỉ trong ngày tết, mà kéo dài tâm tình hòa thuận vui tươi của ngày tết trong suốt cả năm mới này.
Cầu chúc cho mọi người năm mới Đinh Dậu sống hòa hợp vui tươi, luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh vui buồn, xin Chúa giúp ta nhận ra sự hiện diện đồng hành của Chúa. Amen.
52. Lễ minh niên--Tin vào tình yêu quan phòng của Chúa--Mt 6,25-34--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Kính thưa quý OBACE, có lẽ trong chúng ta ai cũng cảm nhận được sự thay đổi của đất trời khi bước vào năm mới. Vẫn là ánh nắng ấy, ngọn gió ấy, nhưng hôm nay dường như nó mang một hương vị khác hơn của ngày hôm qua. Ngày hôm nay đất trời chuyển mình từ mùa đông qua mùa xuân, vũ trụ dường như khoác trên mình một bộ áo mới, cây cối đâm chồi nảy lộc, ngàn hoa khoe sắc. Sự chuyển vận của đất trời cũng làm cho tâm hồn con người thêm vui tươi, phấn khởi và hy vọng. Mọi người đều mong chờ năm mới đến sẽ đem theo sự đổi mới không chỉ của vũ trụ, mà còn là sự đổi mới của con người, của gia đình và của xã hội. Chính vì sự khát khao đổi mới, mà chúng ta dành những giây phút đầu tiên của năm mới để đến với Thiên Chúa, bày tỏ lòng biết ơn và cầu xin cho một năm mới an lành.
Các bài đọc của ngày đầu năm hôm nay gợi lên nhiều điểm giáo lý quan trọng: Bài đọc một nhắc nhớ rằng, tất cả vũ trụ và trật tự lạ lùng trong đó, cùng muôn vật muôn loài là do Thiên Chúa dựng nên. Chính Chúa làm chủ thời gian không gian, và cả mọi vật mọi loài. Sách Sáng Thế chúng ta vừa nghe giới thiệu cho chúng ta một Thiên Chúa quyền năng, tạo dưng nên trời đất và tinh tú chí bằng một mệnh lệnh: Hãy có … thì mọi sư liền có. Điều này diễn tả rằng Thiên Chúa là Đấng quyền năng, làm chủ vũ trụ, các thần linh của dân ngoại không thể sánh ví được với Thiên Chúa. Chính Ngài làm chủ thời gian, phân chia ngày đêm và bốn mùa thay đổi nối tiếp nhau. Thánh kinh khẳng định: Thiên Chúa thấy mọi sự là tốt đẹp. Khẳng định như thế để cho chúng ta xác tín một cách chắc chắn rằng Thiên Chúa luôn muốn điều tốt đẹp cho con người và làm mọi điều tốt đẹp cho chúng ta. Vì thế con người phải đặt trọn niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Khẳng định như vậy, để loại trừ những tập tục của dân ngoại, tin kiêng những điều vớ vẩn, coi ngày coi giờ, hoặc là gán cho vũ trụ thiên nhiên những sức mạnh như thần thánh.
Ngày nay, nhiều người mang danh là Kitô hữu, nhưng họ không tin vào sự quan phòng xếp đặt của Thiên Chúa. Họ không tin Thiên Chúa luôn làm điều tốt cho con người, nên khi gặp khó khăn thử thách họ muốn tìm giải pháp của người đời, tìm đến sức mạnh của ma quỷ qua việc bói toán bùa ngải. Nhiều người không tin Thiên Chúa là Đấng làm chủ thời gian và không gian, nên mỗi khi làm việc gì họ tìm thầy coi ngày coi giờ, coi hướng coi tuổi, coi ngày khai trương… thay vì tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Những việc làm ấy ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống đạo, thể hiện sự yếu kém trong đức tin của người tín hữu.
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy mỗi người chúng ta tin tưởng hoàn toàn vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa: Các con chớ lo lắng sẽ ăn gì uống gì, lấy gì mà mặc? Vì chưng dân ngoại cũng tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần những điều đó. Tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, không có nghĩa là lười biếng ỷ nại và không làm việc gì, nhưng biết tính toán sắp đặt công việc và làm việc với hết khả năng của mình trong sự tin tưởng và biết phó thác kết quả công việc cho Chúa.
Lời Chúa còn dạy ta phải biết xếp đặt thứ tự ưu tiên trong chọn lựa mục tiêu đời mình, biết phân biệt đâu là điều chính yếu, đâu là điều tùy phụ. Dù có bận rộn với cuộc sống thì cũng biết đặt ưu tiên tuyệt đối cho việc tìm kiếm nước Trời và hạnh phúc đời đời. Vì hạnh phúc nước trời mới là mục đích cuối cùng của cuộc đời mỗi người chúng ta. Không đạt được công danh, con người vẫn có thể sống, nhưng không có Thiên Chúa, và không đạt được Nước Trời đó điều thất bại và bất hạnh lớn nhất. Chúa Giêsu nhấn mạnh: Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các sự khác Thiên Chúa sẽ ban cho. Đừng để sự lo âu sợ hãi gặm nhấm cuộc đời và làm lung lạc đức tin của chúng ta; cũng đừng để đau khổ đè bẹp và làm cho chúng ta mất lòng cậy trông nơi quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Vì trong mọi đau khổ, ơn Chúa vẫ đủ để chúng ta có thể vượt qua những đau khổ ấy.
Thánh Phaolô là người đã trải qua biết bao gian lao thử thách song Ngài vẫn kiên trì trong đức tin, chính từ kinh nghiệm sống đức tin ấy thánh nhân đã khuyên các tin hữu Philipphê: Anh em hãy vui luôn trong Chúa, tôi nhắc lai một lần nữa: anh em hãy vui lên. Niềm vui là một trong những nét đặc trưng của người Kitô hữu, vì chúng ta là những người đang sống tin mừng của Đức Giêsu và đang rao truyền tin mừng ấy, thì cuộc sống của mỗi người phải la cuộc sống ngập tràn niềm vui. Tuy nhiên niềm vui của chúng ta phải là niềm vui khác với những thú vui của trần gian. Thế gian vui những cái vui hời hợt bên ngoài, vui với thỏa mãn dục vọng xác thịt ăn uống say sưa, còn chúng ta vui với một niềm vui sâu xa phát xuất từ trong tâm hồn. Đó là niềm vui được hưởng ơn cứu độ, được làm con cái Chúa, được hưởng hạnh phúc đời đời, được gọi Thiên Chúa là Cha.
Khác với dân ngoại, đời sống của người tín hữu còn phải được thể hiện ra bên ngoài bằng sự ôn hòa nhẫn nại, bằng sự tin tưởng cầu nguyện và không ngừng tạ ơn Thiên Chúa. Điều này có nghĩa rằng dù khi vui cũng như khi buồn, dù thành công hay thất bại chúng ta vẫn được mời gọi nhận ra bàn tay của Thiên Chúa đang điều khiển cuộc đời chúng ta.
Ngày nay vật chất và các lối sống hưởng thụ đang tấn công người tín hữu, đang bào mòn và có nguy cơ làm lung lạc đời sống đức tin của chúng ta. Nhiều người lấy lý do: có thực mới vực được đạo, họ đã đặt của cải vật chất ở trên Thiên Chúa, biến của cải vật chất trở thành thần linh và là mục đích cuộc đời của mình. Nhiều người chỉ còn biết tìm tiền bạc của cải và gạt Thiên Chúa qua một bên. Trong bối cảnh ấy chúng ta được mời gọi tin vào tình yêu và lòng thương xót của Chúa, Đấng quyền năng quan phòng và an bài mọi điều tốt lành cho con người. Việc làm chứng cho lòng thương xót Chúa, không chỉ là những lời kinh đọc trên môi, mà phải được thể hiện qua việc cử hành mỗi ngày, tức là cùng nhau cử hành thánh lễ và các bí tích. Vì thánh lễ và các bí tích là nơi chúng ta đón nhận lòng thương xót Chúa. Khi ý thức và tích cực siêng năng tham dự thánh lễ và rước lễ mỗi ngày là chúng ta đang đón nhận lòng xót thương và cùng với mọi người chúng ta làm chứng cho tình yêu của Chúa. Người đời sẽ không thể đụng chạm được lòng thương của chúng ta, họ chỉ có thể cảm nhận qua thái độ yêu thương của chúng ta mỗi ngày.
Trong giờ phút đầu năm xum họp nơi đây để tạ ơn Thiên Chúa và để cầu xin ơn phúc lành và sư bình an cho năm mới. Trong Năm Thánh Lòng Thương xót Chúa, xin Chúa đổ tràn lòng thương xót xuống trên chúng ta và biến chúng ta trở thành hiện thân lòng thương xót của Chúa cho anh em. Amen.
53. Chúc nhau mọi điều tốt lành--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Ngày tết của người Việt hoàn toàn với ngày tết dương lịch, và cách đón tết của người Việt cũng khác với các dân tộc khác. Ngày tết của người Việt là ngày của tình thân, ngày của gia đình và là dịp ước nguyện, vì mọi người tin rằng ngày đầu năm khi có nguyện ước tốt đẹp thì cả năm sẽ tốt đẹp. Chính vì thế, ngày tết người ta tránh nói là làm những gì mích lòng nhau, và dù rất quen tai với lời chúc xuân, nhưng khi gặp nhau ngày tết dù quen hay lạ, mọi người luôn cầu chúc cho nhau và cho gia đình những điều chúc tốt đẹp, nào là gia đình hạnh phúc, sức khỏe dồi dào, an khang thịnh vượng…đó là nét văn hóa rất tốt đẹp của người Việt chúng ta.
Tuy nhiên dầu có nhiều lời cầu chúc và những ước mơ tốt đẹp, nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận tình hình cuộc sống kinh tế xã hội được dự báo cho năm mới còn rất nhiều khó khăn đòi mỗi người mỗi gia đình phải nỗ lực hết mình. Cũng vì thế ai cũng tin rằng những điều tốt đẹp chúng ta cầu chúc cho nhau, chỉ là bày tỏ ước nguyện điều tốt lành cho nhau, còn điều quan trọng là tất cả ơn lành là do Trời ban, mà người Công Giáo gọi là ơn do Thiên Chúa ban.
Chúng ta tin rằng chính Thiên Chúa là Đấng tạo dựng và làm chủ vũ trụ và con người, Ngài còn tiếp tục quan phòng và điều khiển vũ trụ này cho nó xoay vần thời tiết thay đổi nối tiếp nhau hết mùa hạ, đến mùa thu, mùa đông rồi sang xuân để phục vụ cho con người, và tất cả mọi sự tốt lành mà chúng ta cầu chúc cho nhau đều đến từ Thiên Chúa.
Lời Chúa của ngày Mồng Một tết nhắc lại cho chúng ta giáo lý quan trọng: Thiên Chúa là Đấng tao dựng nên vũ trụ, Ngài lại là người Cha yêu thương chúng ta và luôn muốn và làm điều tốt đẹp cho chúng ta là con cái Ngài. Sách Sáng Thế đã nhắc lại “Bài ca Tạo dựng” của Thiên Chúa để khẳng định về một Thiên Chúa quyền năng vượt trội trên tất cả, không có một thần linh nào sánh kịp Ngài, Ngài đã chỉ cần phán một lời: Hãy có, thì mọi vật liền từ không nên có. Thánh Kinh còn cho thấy Thiên Chúa tạo nên vũ trụ này không phải như một vật vô hồn, mà là một tuyệt tác kỳ công của Ngài, và Ngài thấy thế là tốt đẹp. Nó tốt đẹp không chỉ vì nó thỏa mãn cái nhìn của con người, mà Ngài còn thấy tất cả công trình Ngài tạo dựng nó tốt đẹp và mang lại lợi ích cho con người là tạo vật được Chúa yêu thương và nâng niu nhất. Điều quan trọng hơn nữa, Thiên Chúa giống như một nghệ nhân đã trao tặng tác phẩm của mình cho con người để con người làm chủ.
Con người được Thiên Chúa yêu thương, Ngài trao tất cả mọi loài mọi vật và cả vũ trụ này cho con người, và Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục chăm sóc và mời gọi con người tin tưởng vào tình yêu thương quan phòng của Ngài. Hôm nay trước những lo lắng của cuộc sống của con người Chúa Giêsu đã khuyên chúng ta: Đừng lo lắng cho mạng sống: lấy gì mà ăn, cũng đừng lo cho thân thể lấy gì mà mặc, hãy xem chim trời nó không gieo không gặt mà Cha anh em vẫn nuôi nó… Có ai nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được một gang nữa không? Khuyên chúng ta như thế trong ngày đầu năm, không có nghĩa là Chúa muốn chúng ta lười biếng thụ động không suy nghĩ, không tính toán, ngồi chờ sung rụng, nhưng Chúa muốn chúng ta vẫn phải làm việc hết mình hết khả năng, và còn phải làm trong sự tin tưởng và phó thác cho quyền năng và tình thương của Chúa, vì mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên, việc tính toán là của con người còn thành quả là do Chúa ban. Khi làm việc với tinh thần như thế, chúng ta sẽ không trở thành nô lệ cho công việc, nhưng trong tư cách là cộng tác viên của Thiên Chúa, cùng với Thiên Chúa làm cho cuộc sống thêm tốt đẹp hơn.
Cái ăn và cái mặc là những nhu cầu căn bản của cuộc sống, nó khiến cho con người phải vất vả tất bật sớm hôm, mỗi ngày mở mắt ra con người đều phải nghĩ đến việc ngày hôm nay mình sẽ ăn gì mặc gì? Tuy nhiên Chúa Giêsu đã cho chúng ta những hình ảnh làm ví dụ về bông hoa ngoài đồng được Chúa tô điểm cho thật rực rỡ dù nó không phải may vá gì, cũng vậy lũ chim sẻ không gieo không cấy mà Thiên Chúa vẫn nuôi nó, để cho chúng ta thấy một ý nghĩa cao hơn nữa, đó là khi chúng ta sống và làm việc trong sự phó thác hoàn toàn cho Chúa thì Chúa sẽ lo liệu cho ta còn tốt hơn rất nhiều lần chúng ta tự lo cho mình. Thiên Chúa làm tất cả điều tốt đẹp cho con người chỉ vì Ngài là Cha yêu thương chúng ta.
Điều này làm cho chúng ta khác với những người không có đức tin, người không có đức tin làm việc trong sự lẻ loi một mình, còn người có đức tin làm việc trong sự hiện diện và trợ giúp của Thiên Chúa, và khác với người không có đức tin, vì chúng ta biết Thiên Chúa yêu thương ta và trợ giúp ta. Vì thế Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta: Đừng để cho công việc và những lo toan cuộc sống chiếm hết chỗ trong cuộc sống, nhưng hãy biết dành lại chỗ cho Thiên Chúa, hay nói đúng hơn, là dù có bận rộn với cuộc sống và công việc thì đừng quên tim kiếm Nước Trời và hạnh phúc đời đời. Vì chúng ta sẽ không mãi ở trên mặt đất này, mà chúng ta sẽ phải trở về với Thiên Chúa, thì ngay hôm nay chúng ta phải làm việc trong tư thế của một người sẽ phải trở về, đừng để mình lệ thuộc vào trần gian này.
Trong niềm xác tin như thế, thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa,… sao cho mọi người thấy anh em ăn ở hiền hòa rộng rãi. Trong mọi hoàn cảnh cứ cầu khẩn, vàn xin và tạ ơn mà giải bày trước mặt Thiên Chúa điều anh em thỉnh nguyện. Như thế niềm vui phải là nét đặc trưng và luôn được thể hiện trên cuộc đời và gương mặt người tín hữu. Chúng ta luôn vui vì chúng ta sống trong sự chở che của Thiên Chúa, vui vì có Chúa là bạn và là Đấng cùng chia sẻ gánh nặng cuộc đời với chúng ta và luôn tạo mọi điều tốt đẹp cho ta. Đồng thời thể hiện niềm vui qua cuộc sống tin tưởng, vui tươi, hiền hòa nhân ái, đó phải là những nét đặc trưng của người tín hữu chúng ta.
Thưa quý OBACE, trong ngày đầu năm này, chúng ta mang trong mình bao nguyện ước cho mình cho gia đình và người thân, đừng ngại ngần bày tỏ những ước nguyện ấy với Chúa, hãy nói với Chúa về toan tính của mình để xin Chúa chỉ bảo cho chúng ta biết phải làm gì và làm thế nào. Mong điều tốt lành cho nhau đã là điều tốt, song mỗi người còn phải đem đến cho nhau, cho gia đình những điều tốt lành.
Ngày tết không chỉ tránh cho nhau những điều không hay không đẹp, mà hãy tránh cho nhau tất cả những điều không hay không đẹp trong suốt cả năm. Các bậc cha mẹ chính là người tạo nên sự may lành tốt đẹp cho gia đình. Hãy mang về cho gia đình nhiều niềm vui, nhiều nụ cười thân thương, nhiều bữa cơm ấm cúng tình gia đình. Hãy làm việc và nuôi sống gia đình trong sự tin tưởng và cậy trông phó thác nơi Chúa. Hãy nuôi gia đình không chỉ bằng cơm gạo mà còn cần phải được nuôi bằng tình yêu thương, sự hy sinh và sư ân cần dành cho nhau. Các bậc làm cha mẹ đừng xả xui cho mình bằng cờ bạc rượu chè, đề đóm, tất cả những điều đó không những không xả xui, mà còn đem đến đổ vỡ cho gia đình. Trái lại hãy hiện diện nhiều hơn bên vợ chồng bên con cái, hãy dành những ngày tết này để chuyện trò để hiểu nhau và thông cảm cho nhau hơn.
Cũng vậy những người làm con không chỉ bày tỏ lòng thảo hiếu bằng tấm bánh hay một vài lời cầu chúc, mà hãy đem đến cho cha cha mẹ niềm vui bằng sự ngoan ngoãn, thảo hiếu, biết ơn và vâng lời. Con cái là mùa xuân của gia đình, hãy làm cho gia đình mình rộn rã tiếng cười vui, hãy làm cho cha mẹ vơi đi sự nhọc nhằn bằng việc chăm chỉ học hành, đem về cho cha mẹ những kết qua học tập thật tốt và những thành công nho nhỏ, đó là những món qua mà các bậc cha mẹ nào cũng cảm thấy hạnh phúc và tự hào để đón nhận.
Xin Đức Maria ở mãi với các gia đình, đem đến cho các gia đình và mọi người người một mùa xuân mới đầy tràn ơn Thánh Chúa và cho các gia đình được tràn đầy niềm vui và hạnh phúc. Amen
54. Cầu bình an cho năm mới--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Bước vào năm mới, mỗi khi gặp nhau dù quen hay lạ, mọi người đều chúc cho nhau sự bình an. Điều đó cho thấy, bình an là khao khát sâu thẳm trong tâm hồn con người. Con người sống trong xã hội dù có được xem là an toàn đến mấy, vẫn cảm thấy cần sự bình an, vì chỉ khi có bình an cuộc sống mới an vui, hạnh phúc. Thực tế từ xã hội và thế giới cho thấy, nhân loại dường như luôn phải sống trong chiến tranh bạo lực, thiên tai, nhân tai có thể ập xuống bất cứ lúc nào trên con người. Con người cảm thấy cuộc sống của mình thật mong manh, giới hạn trước sự xoay vần của vũ trụ, trước những tai họa từ thiên nhiên hoặc từ con người gây ra cho nhau. Vì vậy con người luôn cầu xin và cầu chúc cho nhau được bình an.
Tại sao con người cầu mong bình an mà không được, chờ đợi hòa bình mà không thấy? phải chăng Thiên Chúa đã giữ độc quyền sự bình an trong tay Ngài? - Thiên Chúa không giữ độc quyền sự bình an. Sách Sáng Thế cho thấy, ngay từ đầu khi tạo dựng nên vũ trụ và con người, Thiên Chúa đã an bài cho chúng có một trật tự hài hòa rất đẹp, mặt trời chiếu sáng ban ngày để sưới ấm cho vũ trụ, cung cấp năng lượng cho muôn loài và soi đường dẫn lối cho con người, mặt trăng nhẹ nhàng trong mát để soi sáng ban đêm và ru giấc ngủ ngon cho vũ trụ cùng muôn loài, các tinh tú khác tô điểm cho vũ trụ thêm xinh đẹp hơn. Tất cả muôn loài, mặt trăng, mặt trời và các tinh tú đều chuyển động hài hòa theo một quỹ đạo đã được bàn tay Thiên chúa chỉ vẽ. Từ những chuyển động này đã làm nên thời tiết, mùa màng cho trái đất: xuân, hạ, thu, đông, nắng, mưa cân bằng. Tuy nhiên sự hài hòa tốt đẹp ban đầu Thiên Chúa ban tặng đã bị phá vỡ bởi sự tham lam, ích kỷ và kiêu ngạo của con người. Con người đã muốn tôn mình làm Chúa, muốn thống trị người khác, giành về cho mình thật nhiều của cải, tài nguyên thiên nhiên, đã phá vỡ sự cân bằng hài hòa, gây bất ổn, bất thuận và dẫn đến những thảm họa cho con người.
Như thế, thủ phạm gây ra bất hòa bất ổn, lo âu cho con người lại chính là tội lỗi của con người cùng với sự hợp tác của Satan. Ngay từ đầu, Satan đã đánh lừa con người để gieo tội và sự chết vào thế gian. Tội lỗi là nguyên nhân đem đến sự bất an trong tâm hồn và làm đảo lộn trật tự của cuộc sống. Chúng ta có thể thấy, chỉ vì tham vọng quyền lực cá nhân mà con người không ngần ngại chém giết loại trừ lẫn nhau: Hitler đã gây ra cái chết cho hàng triệu người Do Thái; Polpot đã gây ra cuộc diệt chủng cho người Campuchia...
Mọi người cầu chúc cho nhau sự bình an trong ngày đầu năm mới là điều rất tốt, nhưng tốt hơn và quan trọng hơn là phải cùng nhau xây dựng sự bình an và đem bình an đến cho gia đình và mọi người. Thư Philiphê dạy chúng ta phải tái lập lại sự trật tự trong tâm hồn, sống niềm vui thánh thiện xuất phát từ trong tâm hồn. Đây là bước căn bản để ta đem bình an đến cho mình và người khác. Tác giả kêu gọi chúng ta: “anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: Vui lên anh em” sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi. Trong mọi hoàn cãnh hãy cầu nguyện và trải lòng ra trước mặt Thiên Chúa. Như thế có nghĩa là khi mỗi người cố gắng sống ngay thẳng trước mặt Thiên Chúa, xây dựng một tương quan tốt đẹp thuận thảo với Thiên Chúa, thì chính Chúa sẽ là bình an và nguồn vui trong tâm hồn. Nói cách khác đó là mỗi người cần tẩy rửa khỏi mình tình trạng tội lỗi, giữa một lương tâm ngay thẳng trong sáng trước mặt Chúa, chúng ta sẽ cảm nhận được bình an và niềm vui. Thánh Phaolô còn nói thêm: Khi mỗi người sống trong bình an Thiên Chúa như thế, chúng ta sẽ phải sống tích cực hơn để đem bình an đến cho người khác bằng cách: Những gì là chân thật là cao quý, những gì là đáng mến đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen thì hãy có mà gìn giữ và thực hành.
Hiểu được tâm trạng bất an của con người trước sự bấp bênh của cuộc sống, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta vượt lên trên những lo âu thường ngày để dám sống phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa. Sống phó thác cho sự quan phòng, không có nghĩa là ỷ nại, lười biếng, lười suy nghĩ, lười làm việc. Trái lại, làm việc, suy nghĩ tình toán trong sự quan phòng trợ giúp của Thiên Chúa.
Đừng lo lắng cho mạng sống lấy gì mà ăn, lấy gì mà mặc, vì mạng sống chẳng trọng hơn của ăn và thân thể chẳng quý hơn áo mặc sao? Nhắc điều này vì có nhiều người dồn cả cuộc đời công sức của mình để tìm kiếm những điều hết sức tùy phụ và bỏ qua điều chính yếu. Nhiều người tìm kiếm của ăn, tiền bạc vật chất mà không quan tâm đến mạng sống sức khỏe của mình; lo tìm kiếm thật nhiều vật chất của cải mà không lo đến mạng sống thiêng liêng, tức là sự sống của linh hồn mình. Cũng vậy, con người ngày nay tiêu tốn rất nhiều tiền của cho sắc đẹp và mỹ phẩm, quần áo và các đồ trang sức bên ngoài, nhưng lại không quan tâm tô điểm nhân cách tác phong, phẩm giá của mình. Tương tự như thế, nhiều người cung cấp cho cơ thể đủ mọi chất dinh dưỡng và phụ kiện đắt tiền, nhưng lại để tâm hồn mình bẩn thỉu, hôi thối bởi một đời sống tội lỗi bê tha.
Chúa muốn mỗi người biết đâu là mối lo chính yếu, đâu là điều cần quan tâm nhất trong cuộc đời. Điều quan trọng nhất trong cuộc đời là có một tâm hồn khỏe mạnh trong sáng, vì loại trừ được tội và những thói xấu, không để mình bị lạm dụng và lợi dụng của ma quỷ. Khi có một đời sống tinh thần thoải mái thanh thản như thế, chúng ta sẽ cảm nhận được sự bình an hạnh phúc vì chính Chúa ở trong những tâm hồn như thế.
Chúa Giêsu cũng cho một ví dụ minh họa về sự quan phòng của Thiên Chúa dành cho vũ trụ và con người. Về vũ trụ, Chúa so sánh một bông hoa ngoài đồng, không may không dệt, nhưng Thiên Chúa vẫn tô điểm cho nó màu sắc hương thơm theo từng loại. Có loài có sắc thì không có hương, có loài có hương thì không có sắc để chúng bổ xung cho nhau, cũng có những loại được ưu ái hơn, Thiên Chúa ban cho nó cả hương lẫn sắc. Tất cả là do tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, Thiên Chúa muốn cho nó tốt đẹp để tô điểm cho vũ trụ. Chúa Giêsu nhấn mạnh, đến hoa cỏ ngoài đồng còn được Chúa quan phòng cho mọi sự tốt đẹp như vậy, huống hồ là con người là con của Thiên Chúa, chẳng lẽ Chúa không quan phòng cho nó tốt đẹp hơn bội phần những loài khác sao?
Trong những giờ phút đầu tiên của năm mới, chúng ta đến với Chúa nơi đây, được Lời Chúa soi sáng, mỗi chúng ta biết đặt mối lo của chúng ta vào đúng nơi, đúng việc. Chúng ta mong ước sự bình an và cầu chúc cho nhau được bình an, thì trước hết hãy cầu xin Thiên Chúa là Chúa của sự bình an ban bình an xuống trên những người chúng ta cầu chúc. Kế đến chúng ta phải trở thành người xây dựng và đem bình an đến cho người chung quanh.
Hãy bắt đầu từ nơi bản thân: Tìm kiếm sự bình an đích thực trong tâm hồn qua bí tích Giải tội, tẩy rửa khỏi mình tội lỗi và những sự dày vò do tội gây ra; gạt bỏ khỏi mình sự kiêu căng ích kỷ cũng như tham lam thu vén tích góp cho cá nhân mình. Kế đến, chúng ta đem bình an và niềm vui đến cho người khác bằng sự chân thành, cảm thông. Cần gạt bỏ khỏi mỗi người sự say sưa rượu chè, nóng nảy, bài bạc gây bất an, bất ổn cho gia đình vợ chồng, con cái. Hãy bước đến với những gia đình hành xóm láng giềng, gạt bỏ những giận dỗi khó chịu với nhau để chân thành cầu chúc và cầu nguyện cho nhau, đem đến cho nhau niềm vui và bình an.
Bước vào năm mới với lòng tin tưởng phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Chúng ta cố gắng vận dụng hết khả năng, trí tuệ, sức khỏe và những điều kiện hiện tại để đem đến cho gia đình và cộng đoàn một cuộc sống an vui hạnh phúc, còn kết quả như thế nào, chúng ta phó dâng cho Chúa. Chắc chắn, dù một năm mới sắp tời sẽ thành công hoặc không được như ý muốn, chúng ta vẫn tin rằng đó cũng là ý Chúa muốn để chúng ta thêm lòng tin tưởng vào chúa hơn.
Cầu chúc cho mọi người, mọi gia đình năm mới Mậu Tuất này được luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh. Amen.
55. Tạ ơn và cầu bình an cho năm mới--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Người Việt Nam chúng ta có một tập tục rất đẹp, đó là sáng sớm mồng một tết, chuẩn bị ít thức ăn hoặc trái cây và một ít hoa tươi, đứng trước Bàn Thiên ở cửa nhà hoặc Bàn thờ Tổ tiên trong gia đinh để thắp lên một nén nhang với lòng thành biết ơn trời đất và tổ tiên ông bà.
Kính thưa quý OBACE, đối với người Việt Nam Công Giáo, tập tục tốt đẹp ấy được thể hiện trong giờ phút đầu tiên của năm mới này. Chúng ta họp nhau nơi đây không phải trước Bàn Thiên mà là trước tôn nhan Thiên Chúa, để dâng lên Chúa tâm tình Tạ Ơn và cầu xin Chúa ban cho một Năm Mới bình an; đồng thời, nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng điều khiển cả vụ trụ này và tất cả mọi việc xảy ra đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Cũng vì thế, con người luôn luôn cảm thấy mình nhỏ bé và hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Sự lệ thuộc vào Thiên Chúa không làm hạ thấp giá trị con người, nhưng lại làm gia tăng phẩm giá của con người. Vì mỗi chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng, cứu chuộc, được nhận làm con và Thiên Chúa còn quan phòng ban cho muôn điều kỳ diệu, tốt đẹp cho mỗi người.
Các bài đọc được chọn cho ngày Mồng Một Tết nhắm đến các ý tưởng ấy. Trước hết, bài đọc sách Sáng Thế nhắc lại cho chúng ta về công trình tạo dựng của Thiên Chúa: Chính Ngài dựng nên trời đất, tinh tú muôn loài và cũng chính Ngài là Đấng điều khiển bốn mùa luân chuyển, thay đổi nối tiếp nhau, làm nên nhịp sống cho con người và phân định thời gian cho vũ trụ. Cũng mặt trời ấy, cũng ánh nắng ấy, nhưng những ngày đầu năm này, mọi sự dường như khác, từ vạn vật đến con người như đang khoác lên mình một bộ áo mới, một sức sống mới của mùa xuân sau những ngày mùa đông lạnh giá. Cũng chính vì thế, mọi người đều muốn bắt đầu một năm mới với một sự đổi mới, một kế hoạch mới và một quyết tâm mới. Song vì con người ý thức được rằng “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, kế hoạch là của mỗi người đưa ra, song sự thành hay bại còn do trời ban hay nói theo ngôn ngữ nhà đạo của chúng ta đó là: Con người cố gắng với hết khả năng của mình, còn kết qủa thì phó dâng cho Chúa. Ý thức như thế để chúng ta không quá cậy dựa vào sức mình, nhưng biết khiêm nhường tạ ơn Thiên Chúa về những thành quả chúng ta đã đạt được và bằng lòng với những gì Chúa ban, đồng thời cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho những dự tính của chúng ta trong năm mới.
Trong bài đọc hai, Thánh Phaolô đã khuyên cộng đoàn Philipphê hãy luôn vui mừng và tín thác vào Thiên Chúa. Niềm vui cũng là ước nguyện của ngày đầu năm: Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: Anh em hãy vui lên… Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, hãy trình bày ước vọng lên cùng Chúa. Như thế có nghĩa là chúng ta sẽ vẫn phải sống và làm việc, vẫn gặp những thành công và thất bại, vui và buồn, nhưng khác ở chỗ là dù trong những hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn giữ được niềm vui và sự bình an trong tâm hồn. Niềm vui và sự bình an này là bình an vì có Chúa ở trong chúng ta, và tin rằng Chúa đang điều khiển cuộc đời mình. Chúng ta cũng vẫn phải lo toan cho cuộc sống, song chúng ta không lo lắng theo kiểu của những người không có niềm tin, nhưng lo liệu công việc trong sự trợ giúp của Thiên Chúa và làm mọi công việc thường ngày trong tinh thần cầu nguyện, tin tưởng, phó thác. Khi sống và làm việc như thế, chúng ta sẽ cảm nhận được niềm vui trong chính công việc của mình và sẽ thấy tâm hồn mình thực sự bình an.
Ước nguyện Bình an cho gia đình là một trong những ước nguyện đầu tiên của năm mới. Thế nhưng, để có bình an, mỗi người phải nỗ lực thật nhiều. Trước hết là phải tìm được sự bình an trong tâm hồn. Sự bình an này đến từ Thiên Chúa và chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng. Đó là sự bình an của một tâm hồn thanh thản trước mặt Thiên Chúa, một tâm hồn được thứ tha và chữa lành nhờ Bí tích Giải tội, luôn sống thuận thảo với Chúa. Chúng ta chỉ thực sự bình an khi không để mình sống trong tình trạng thù nghịch tội lỗi trước mặt Thiên Chúa, siêng năng gặp gỡ Thiên Chúa trong công việc, trong cầu nguyện và trong các việc phụng thờ Thiên Chúa.
Kế đến là sự bình an đối với nhưng người chung quanh, tức là phải dám gỡ khỏi tâm hồn mình những bất hòa, những bất đồng và xung khắc đối với vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em, láng giềng. Bước đến với nhau trong sự tha thứ, làm hòa và thông cảm, đây cũng là nét đẹp của người Việt Nam. Năm mới, cũng cần phải đổi mới lại tương quan tình nghĩa giữa những người thân và anh em, gạt bỏ đi những tranh chấp để đến với nhau và nhìn nhau một cách chân tình hơn, hãy can đảm nói với nhau một lời xin lỗi và tha thứ.
Ước nguyện bình an trong công việc là một ước nguyện thật tốt, vì ai làm nghề gì thì cũng mong muốn được thuận lợi, bình an. Bình an ở đây không chỉ là tránh khỏi rủi ro tai nạn, mà còn ước mong bình an trong mọi việc. Sự bình an này chỉ có ở những con người có những cách làm việc tôn trọng sự công bằng và bác ái, tôn trọng sự thật, không gian dối, không lừa đảo và biết tôn trọng quyền lợi của người khác. Kinh doanh buôn bán với một lương tâm ngay thẳng như thế thì mới có được sự bình an trong công việc và bình an trong tâm hồn.
Thịnh vượng là một trong những ước nguyện đầu năm, giàu có sung túc là một ước muốn tốt đẹp. Theo truyền thống của Kinh Thánh thì sự giàu sang còn là dấu chỉ chúc lành của Thiên Chúa. Thế nhưng làm giàu bằng cách nào và sử dụng sự giàu sang Chúa ban như thế nào mới là điều quan trọng.
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ cho chúng ta cách thế sống và vui hưởng những của cải Chúa ban, đó là tin tưởng và phó thác tất cả cho Chúa: Đừng lo lắng cho ngày mai vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Nói như thế không có nghĩa là chúng không lo lắng và không suy nghĩ đầu tư. Chúng ta không được phép ỷ nại vào sự quan phòng của Chúa để lười biếng, nhưng cũng đừng lo lắng quá mức về cái ăn cái mặc cho ngày mai, như kiểu của người không có niềm tin: Chúng ta sẽ ăn uống gì mặc gì? Trái lại, chúng ta biết lo liệu và tin rằng Thiên Chúa là cha, Ngài biết những nhu cầu, những ước muốn của chúng ta ngay trước khi chúng ta mở miệng cầu xin và Ngài sẽ trợ giúp chúng ta. Vì thế, hãy sống thật tốt giây phút hiện tại của ngày hôm nay và vui hưởng những gì Chúa ban cho ngày hôm nay.
Chúa vẫn lưy ý chúng ta rằng dù ăn gì, uống gì và làm gì thì cũng vẫn cần có một ưu tiên tuyệt đối đó là: Tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều khác Chúa sẽ ban cho. Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính có nghĩa là lo tìm kiếm và làm giàu trước mặt Thiên Chúa; đừng chỉ làm giàu của cải vật chất, nhà cửa xe cộ mà để mình nghèo nàn công phúc trước mặt Chúa. Nhiều người cầu nguyện đầu năm cho gia đình mình thịnh vượng vật chất, mà quên cầu xin cho mình và gia đình được giàu có thịnh vượng trước mặt Thiên Chúa. Làm giàu trước mặt Thiên Chúa là làm nhiều việc lành và công phúc, việc lành ở đây chính là những việc tông đồ, bác ái, là công việc phục Chúa và phục vụ anh em. Làm giàu trước mặt Chúa còn là những việc hy sinh thầm lặng, hy sinh tiền của, thời giờ, sức khỏe cho Chúa. Những công việc cụ thể như thế sẽ làm cho chúng ta trở nên giàu có, thịnh vượng trước mặt Thiên Chúa.
Cầu chúc cho mọi người, mọi gia đình một Năm Mới đầy tràn Bình an của Chúa và sự Thịnh vượng, không chỉ của cải vật chất mà là thịnh vượng, giàu có của cải thiêng liêng trước mặt Thiên Chúa. Cầu chúc cho mọi gia đình luôn hạnh phúc vì có Chúa ở cùng. Amen.
56. Ngày Mồng Một Để Có Niềm Vui Xuân--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày đầu năm chúng ta hướng về Đấng tạo thành. Đấng đã làm cho con tạo xoay vần, cho trời đất luân chuyển Xuân – Hạ – Thu – Đông. Hướng về Ngài để phó dâng về một năm mới bắt đầu. Một khởi sự mong được vẹn toàn nhờ ơn trên phù hộ. Hướng về Đấng tạo thành cũng mời gọi con người nhìn nhận sự quan phòng che chở, phù trì của Ngài để dâng lời tạ ơn về những ơn lành Ngài ban.
Đó là lý do mà người Việt Nam đi lễ hội đầu năm rất đông. Họ đi vì lòng tạ ơn. Họ đi vì mong muốn được Trời phù hộ chúc phúc cho một năm an bình. Đây cũng là một truyền thống tốt đẹp của người dân Việt Nam. Cha ông ta luôn tin vào vận Trời. Cha ông ta luôn phó thác cho Trời. Và ngày đầu năm là dịp thuận lợi nhất để tri ân và cầu xin với Đấng tạo hóa đã làm nên muôn loài.
Điều này ta có thể thấy qua sự tích bánh chưng bành dày. Chuyện kể rằng: Đời Hùng Vương thứ Sáu, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân bên Tàu, vua có ý định truyền ngôi cho con.
Nhân dịp đầu Xuân, vua họp các hoàng tử lại, bảo rằng: - "Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho".
Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng.
Trong khi đó, người con trai thứ 18 tên là Tiết Liêu có tính tình hiền hậu, lối sống đạo hạnh, hiếu thảo với cha mẹ, nhưng vì mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào tìm được của ăn ngon và có ý nghĩa.
Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo:
- "Này con, trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy lấy gạo nếp làm 2 thứ bánh: bánh dầy và bánh chưng. Thần còn dặn kỹ càng cách làm.
Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Trời ơi! đầy các món ăn vừa thơm ngon vừa lạ mắt. Hoàng tử Tiết Liêu trên mâm chỉ có 2 tấm bánh Chưng và bánh Dầy. Vua cha lấy làm lạ hỏi lý do. Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng dạy cách làm, giải thích ý nghĩa của 2 thứ bánh. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Tiết Liêu.
Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, theo lệnh vua, dân chúng làm bánh Dầy và bánh Chưng để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.
Bánh chưng bánh dầy tượng trưng cho Trời Đất. Trời Đất ở đây không hiểu theo nghĩa vật chất mà là tượng trưng cho Đấng tạo thành trời đất. Con người phải biết ơn Đấng tạo thành. Con người dâng cho Đấng tạo thành hạt gạo là tinh hoa của đất trời, là ân lộc trời ban. Con người dùng hạt gạo trời cho để kết thành tấm bánh như nói lên tấm bánh là ân lộc trời ban và cũng là công sức con người làm nên.
Đấng tạo hóa càn khôn mà nhân loại hướng về với lòng biết ơn chính là Thiên Chúa toàn năng. Ngài đã làm nên hoàn vũ. Ngài đã cho định luật bốn mùa vần xoay như tình yêu của Ngài vẫn đong đầy cho nhân gian vượt mọi thời gian. Chính Ngài làm chủ vận mạng của lịch sử nhân loại. Chính Ngài mới có thể phù hộ, che chở gìn gìn con người, vì Ngài là Đấng quyền năng.
Thiên Chúa lại không xa lạ với con người. Ngài là Cha muôn loài và cũng là Cha của loài người chúng ta. Ngài là một người Cha rất tốt lành. Ngài luôn cho mưa thuận gió hòa. Không phân biệt lành dữ. Không phân biệt màu da. Ngài luôn cho mưa ơn trên xuống cho kẻ lành người dữ.
Lời Chúa ngày đầu năm hôm nay mời gọi chúng ta hãy tín thác đường đời cho Thiên Chúa. Hãy để Chúa chúc phúc cho một năm bình an. Hãy để Chúa làm chủ vận mệnh của mình theo thánh ý Chúa. Vả lại, cuộc sống đâu mấy khi theo ý chúng ta, vì “Mưu sự tại nhân – Thành sự tại thiên”. Sự khôn ngoan mời gọi chúng ta hãy để Chúa khởi sự và hoàn tất mọi việc theo ý Ngài. Điều này không có nghĩa là ta phó mặc cho Thiên Chúa, còn mình thì “ngồi chờ sung rụng”. Điều này chỉ nhắc nhở chúng ta hãy khiêm tốn nhìn nhận sự bất toàn của mình để trông cậy vào sự phù hộ của Thiên Chúa cho công việc của mình được mọi sự như ý.
Hãy nhìn xem muôn triệu đóa hoa chỉ đẹp xinh khi hướng về mặt trời. Hãy nhìn xem vạn vật vần xoay chung quanh mặt trời để tạo nên muôn điều kỳ diệu đẹp xinh. Đó là quy luật của vạn vật. Đó cũng là quy luật của loài người khi biết quy hướng về Thiên Chúa, và chỉ trong Thiên Chúa con người mới hạnh phúc bình an. Xin cho mỗi người chúng ta biết quy phục Thiên Chuá, biết dành cho Ngài vị trí tôn thờ tuyệt đối trong lòng chúng ta. Và với lòng tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, chúng ta hãy phó dâng mọi sự cho Chúa. Xin Chúa chúc phúc cho chúng ta một năm bình an và vạn sự cát tường. Amen.
57. Lễ minh niên 2019: Cầu xin một năm mới an vui--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Cuộc sống xã hôi ngày nay dường như tạo ra quá nhiều sự bất an lo lắng cho con người: Lo có công ăn việc làm ổn định, lo cho gia đình bằng an, êm ấm, hạnh phúc, mọi người khỏe mạnh. Bước ra ngoài lo lắng về an toàn giao thông, an toàn xã hội, lo những chuyện bất ưng, tai bay vạ gió xảy ra cho mình vv. Chúng ta hình dung, một gia đình bỗng dưng nghe tin con cái bị quẹt xe, bị tai nạn, vợ chồng phải cấp cứu… tâm trạng mọi người trong nhà sẽ bất an và cả gia đình lo lắng. Chúng ta đặt mình trong hoàn cảnh của các gia đình tại Lộc Hưng, Sài Gòn: trong không khí tưng bừng mọi người đang chuẩn bị đón tết, xum họp gia đình, thì bỗng dưng một ngày đi làm về, thấy cả ngôi nhà và đồ đạc bị chính quyền ủi tan hoang, tâm trạng của chúng ta sẽ thế nào?
Thưa quý OBACE, xã hội tiềm ẩn nhiểu rủi ro bất trắc, khiến cho con người lắng bất an, lo sợ; đời sống nhiều cá nhân và gia đình thiếu vắng niềm vui, khiến cho cuộc sống trở nên nặng nề mỏi mệt. Vì thế, ngày đầu năm mới ai trong chúng ta cũng mong ước, cầu chúc cho nhau, cầu xin cho mình và gia đình được bình an, vui tươi. Lời Chúa trong ngày đầu năm mới mời gọi chúng ta luôn sống trong niềm vui, như lời kêu gọi của thánh Phaolô: Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần đến.
Kêu gọi như thế không phải là thánh Phaolô không hiểu gì về tình hình thực tế của cuộc sống. Ngày xưa dân Philipphê cũng sống trong tình trạng lo âu khắc khoải như chúng ta hôm nay, khi chứng kiến sự nhiễu nhương của cái xấu và bất công trong xã hội; đời sống của cộng đoàn có nhiều vấn đề, cuộc sống gia đình gặp nhiều khó khăn. Thánh Phaolô thấu hiểu, nhưng vẫn mời gọi cộng đoàn Philipphê hãy vượt qua những lo âu sợ hãi bất an đó, để sống vui, để chờ đợi Chúa trở lại. Chúa sẽ trả lại sự công bằng và đem đến niềm vui đích thực. Niềm vui mà thánh Phaolô mời gọi không phải bất cứ niềm vui nào, mà phải là niềm vui của Chúa, niềm vui vì có Chúa và hy vọng nơi Chúa.
Thánh Phaolô còn chỉ cho chúng ta sống niềm vui của Chúa bằng cách, trong mọi hoàn cảnh, cho dù gặp phải sự bất công, bất trắc, chúng ta vẫn phải cư xử hiền hòa rộng rãi. Không dùng ác báo ác, không gây thù gây oán, không đồng lõa với điều xấu, nhưng phải chống lại bất công và cái ác bằng sự hiền hòa quảng đại. Đó là cách cư xử của người con Chúa. Trên hết, thánh nhân mời gọi chúng ta, trong mọi hoàn cảnh cứ tin tưởng và giãi bầy với Chúa về nỗi lòng của mình, vì Thiên Chúa là Cha Ngài sẽ lắng nghe lời con cái nài van; Thiên Chúa là nguồn Bình an sẽ ban lại bình an cho chúng ta. Vì là con của Chúa, chúng ta luôn phải thể hiện mình là những người công minh chính trực, chân thật ngay thẳng. Khi dám sống và cư xử như thế, Thiên Chúa sẽ ban niềm vui và bình an xuống trong tâm hồn chúng ta.
Bài đọc sách Sáng Thế cho chúng ta một lý do quan trọng để chúng ta gạt bớt những lo âu, sống trong niềm vui, đó là: hết lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và quan phòng. Thiên Chúa dùng quyền năng để sáng tạo nên mọi vật, mọi loài trong sự tốt đẹp. Ngài cho vũ trụ thiên nhiên và vạn vật xoay vần để hỗ trợ cho nhau, loài này giúp cho loài khác phát triển. Thiên Chúa là Cha, Ngài tiếp túc quan phòng chăm lo và xếp đặt mọi sự tốt đẹp cho con người, vì muốn cho con người được hạnh phúc. Mỗi người có mặt trên trần gian này không phải là sự ngẫu nhiên, nhưng là do tình yêu thương quan phòng của Chúa. Từng ngày qua đi là từng ngày Thiên chúa chăm sóc và yêu thương ta, như cha mẹ lo liệu, xếp đặt cho con cái. Vì thế, chúng ta được mời gọi sống trong sự tin tưởng phó thác cho tình yêu và sự quan phòng của Chúa.
Cuộc sống dường như ai cũng có mối lo riêng, nhưng nhiều khi chúng ta biến cái lo, thành lo lắng, lo âu, lo sợ, đến độ quên sự hiện diện quan phòng của Chúa. Qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta biết phải lo những gì là quan trọng và chính đáng. Chúa dạy chúng ta đừng quá lo lắng đến cái ăn, cái mặc, nhưng biết lo điều chính yếu là phát triển con người và sự sống của mình: Vì mạng sống chẳng trọng hơn của ăn và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Thực tế có nhiều người chỉ chăm sóc cho áo quần, tóc tai và chuyện ăn uống bên ngoài, nhưng lại thiếu quan tâm làm cho con người, sức khỏe và phẩm giá của mình được nâng cao và phát triển. Con người chúng ta được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa và được trao ban phẩm giá là con Thiên Chúa. Vì thế, khi chăm lo cho mình có một cuộc sống lành mạnh và khỏe mạnh, trí tuệ, nhân cách và phẩm giá được nâng cao, được tôn trọng, đó là là sự lo liệu chính đáng. Nếu chỉ lo cái ăn cái mặc và dáng vẻ bên ngoài mà quên chăm lo đời sống thiêng liêng, đạo đức của mình và sự lớn mạnh của linh hồn, thì chúng ta vẫn chưa hơn được những động vật khác. Do đó, lo liệu cho sự sống thiêng liêng và phần rỗi đời đời của linh phải là mối lo chính yếu của chúng ta.
Chúa Giêsu cũng cảnh báo chúng ta đừng để mình rơi vào lối sống của dân ngoại hoặc người vô thần. Cùng đích cuộc đời của họ là thế gian này, chúa của họ là của cải vật chất, danh vọng. Vì thế, nhiều người trong họ đã bất chấp tất cả, chỉ để giành giật cướp bóc, thâu tích thật nhiều tiền bạc, của cải, đất đai, địa vị. Mục tiêu và lo lắng của họ chỉ là vật chất và hưởng thụ mà thôi. Chúng ta là con Thiên Chúa, ưu tiên tìm kiếm và cùng đích cuộc đời của chúng ta phải là Thiên Chúa và sự công chính thánh thiện, còn những thứ khác, Thiên Chúa là Cha sẽ lo liệu cho chúng ta: Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, người sẽ thêm cho. Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai cứ để ngày mai lo, ngày nào có cái khổ của ngày ấy.
Khi dạy như thế, Chúa Giêsu không bảo chúng ta sống ỷ nại, lười biếng, lười suy nghĩ, không làm việc. Trái lại, Thiên Chúa ban cho con người có trí óc và đôi bàn tay, chúng ta phải phát huy khả năng của trí óc, suy nghĩ và làm việc hết khả năng hết sức mình. Chúng ta cũng tin rằng, mỗi người Chúa ban cho có sức khỏe, khả năng khác nhau, vì thế tất cả mỗi người đều phải suy nghĩ, tính toán và làm việc theo khả năng Chúa ban và biết nâng đỡ trợ giúp người kém khả năng hơn. Nhưng trong tất cả mọi công việc, chúng ta làm trong sự trợ giúp và hướng dẫn của Thiên Chúa, làm việc hết mình và phó dâng kết quả công việc cho Thiên Chúa vì: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Biết như vậy để dù thành công như ý muốn, chúng ta không kiêu ngạo và không được như ý, ta không thất vọng oán trách Chúa.
Thưa quý OBACE, sự lo âu và buồn chán đang gặm nhấm nhiều tâm hồn và nhiều gia đình. Nhiều người đang lo buồn đến héo hắt vì chồng, vì vợ, vì con; nhiều gia đình từ lâu đã trở nên u ám tăm tối không còn ánh sáng, không còn niềm vui tiếng cười. Nhiều gia đình trong những ngày tết này, bầu khí gia đình vẫn rất nặng nề, căng thẳng, thiếu sự xum họp, thiếu bữa cơm chung. Vì thế, trong lúc này chúng ta đang khẩn xin Chúa ban lại cho tâm hồn và gia đình tìm lại được bình an và vui tươi. Thiên Chúa là Cha, Ngài luôn lắng nghe và thấu hiểu, Ngài trợ giúp ta bằng ơn soi sáng trong tâm hồn, và hướng dẫn ta bằng Tin Mừng. Nhiều người đã không dám làm theo sự hướng dẫn của Chúa, để ngòai tai những giáo huấn của Tin Mừng. Vì thế, chúng ta không thoát ra được những lo lắng thế gian và ưu tư cuộc sống, để phó thác cho Chúa và sống trong niềm vui của Chúa. Sở dĩ sự lo âu buồn bã cứ mãi đeo bám trong cuộc đời ta, vì ta không chấp nhận sự thay đổi bản thân, thay đổi tình trạng hiện tại của gia đình.
Thiên Chúa còn ban cho chúng ta Chúa Thánh Thần, là Thầy dạy sự khôn ngoan, là thần sức mạnh ở với chúng ta, để trợ giúp và hướng dẫn chúng ta trong mọi việc. Xin Chúa Thánh Thần gạt bỏ khỏi chúng ta sự lo âu, lo lắng, lo buồn và ban cho chúng ta ơn Biết Lo Liệu của Ngài, để nhờ ơn soi sáng của Thánh Thần chúng ta bắt đầu một năm mới trong niềm vui tươi phấn khởi. Amen.
58. Mồng Một Tết Kỷ Hợi 2019: Trời Ban Heo Đất Trong Nhà--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Hôm nay ngày đầu năm Con Lợn tôi xin kể một câu chuyện cười ra nước mắt của tôi về con lợn.
Một buổi chiều trước khi tắm tôi mở tivi, thấy con bé trên ti vi nói: da hồng hào, lông tơ mịn màng là dấu chỉ khỏe mạnh. Tôi liền ngó vào gương thấy mặt cũng hồng, xoa vào tay thấy lông cũng mịn, lòng mừng phấn khởi, tôi mỉm cười một mình thì nghe con bé nói tiếp: “kính thưa, quý bà con cô bác, chương trình chăn nuôi lợn tới đây là hết”! Hoá ra nó nói con lợn các bác ạ! Xâu hổ quá thôi đành đi tắm vậy!
Nói gì thì nói: con lợn vẫn là hình ảnh của sự nhàn hạ, có của ăn của để và là dấu chỉ sự khỏe mạnh:
"Trông mặt mà bắt hình dong
Con lợn có béo thì lòng mới ngon"
Lợn còn làm biểu tượng cho sự giàu có sung túc qua các lễ hội, đám đình vì thế dân gian Việt đã đặt ra bài ca dao sau đây:
Thịt lợn nấu với măng hầm
Chờ ba ngày Tết, bà… quằm với ông.
Đối với người Việt Nam con lợn còn là vốn liếng để dành mà nhà nào cũng cần có để khi hữu sự mang ra dùng. Nhưng nuôi thì nuôi chứ cũng phải nhờ Trời chúc phúc mới có của dư của để, bằng không lại ế dài như câu ca dao đùa cợt cảnh mấy bà gánh heo đi rồi lại gánh về:
"Ba bà đi bán lợn con
Bán đi chẳng được lon ton chạy về
Ba bà đi bán lợn sề
Bán đi chẳng được chạy về lon ton"
Ngày đầu năm chúng ta hay thăm hỏi nhau bạn làm ăn thế nào? Cuộc sống của bạn có bình an không? Dường như ai cũng khiêm tốn trả lời: nhờ ơn Trời mà năm nay làm ăn tốt hơn. Nhờ ơn Chúa mà được bình an mọi sự. Như năm nay nhiều nhà không bị dịch tai xanh thì nói: nhờ ơn Trời mà nhà con không bị một con nào.
Nhà thơ Nguyễn Du năm xưa cũng từng tin vào Trời. Ông Trời định đoạt mọi sự cho nhân gian.
Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
Quả thực, “Trời còn để có hôm nay” để sống, để nhìn thấy nhau, là ân ban bởi Trời. Mỗi ngày là một tặng phẩm của đất trời. Dầu không biết ngày mai sẽ ra sao nhưng vẫn phải trân quý giây phút hiện tại để cám tạ ơn Trời đã ban cho chúng ta được đoàn viên hôm nay. Dẫu rằng có những lúc: “Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”, thế nhưng sau những rủi ro, cùng cực, khổ đau, thao thức, ba đào... Trời vẫn cho chúng ta có ngày hôm nay để có thề sum vầy bên nhau.
Với tâm tình mùa xuân không chỉ hướng lòng con người đến với nhau trong hội hè, đoàn tụ gia đình hay dòng tộc. Mùa Xuân còn hướng chúng ta đến Đấng tạo thành. Chính Ngài đã làm cho con tạo xoay vần có Xuân – Hạ – Thu - Đông. Chính Ngài đã tô điểm cho mùa xuân thêm rạng ngời với ánh nắng lung linh, với gió nhè nhẹ lượn quanh người. Ngài là chủ mùa Xuân. Ngài đã ban mùa xuân đến cho nhân trần. Ngài đã chúc phúc cho mùa xuân với biết bao niềm vui của hội hè đình đám. Chính Ngài đã tạo dựng mùa xuân đầu tiên nơi vườn địa đàng để Adam – Eva ngập tràn hạnh phúc yêu thương. Đó là một mùa xuân bất tận. Một mùa xuân trường sinh. Mùa xuân ấy đã kết thúc khi Adam – Eva quay lưng lại với Đấng tạo thành. Vườn xuân cũng khép lại. Cỏ dại và sự dữ đã đi vào trần gian.
Thế nên, hướng về mùa xuân con người được mời gọi giữ mãi mùa xuân trong lòng mình. Một mùa xuân ngập tràn niềm vui hạnh phúc khi con người sống trong ân nghĩa với Đấng tạo thành. Một mùa xuân ngập tràn yêu thương khi con người sống hòa thuận với nhau, tránh xa những đố kỵ ghen tương và cùng nhau xây dựng hòa bình. Đó chính là cách chúng ta gìn giữ mùa xuân trong cuộc đời chúng ta. Đừng như Adam đã đánh mất mùa xuân khi phạm tội quay lưng lại với Đấng tạo thành.
Hôm nay ngày đầu xuân chúng ta cũng cám ơn Ngài đã ban cho một Mùa Xuân với bao hương tình nồng ấm. Cám ơn Ngài đã dẫn dắt cuộc đời chúng ta đi qua những thăng trầm của dòng đời. Một dòng đời có xen lẫn buồn vui sướng khổ. Có nước mắt và nụ cười nhưng bàn tay quan phòng của Đấng tạo hóa luôn làm chủ mọi biến cố xảy ra trong cuộc đời con người. Đồng thời cũng phó dâng lên Ngài một năm mới vừa mới bắt đầu. Xin Ngài lì xì cho chúng ta một năm mới thuận buồm xuôi gió, vạn sự như ý. Một năm mới ngày nào cũng có “Thịt heo nấu với măng hầm” với của ăn của để như tích được heo đất trong nhà. Xin Ngài làm chủ cuộc sống của chúng ta hôm nay và mãi mãi.
Ước gì mùa xuân mãi ở lại đây trong tâm hồn chúng ta khi có Chúa đồng hành, khi trung thành với giáo huấn của Chúa. Ước gì cuộc đời chúng ta luôn tươi trẻ vì có Chúa Xuân hiện diện chúc phúc cho cuộc đời chúng ta. Amen
59. Mồng Một Tết 2018: Ước mơ ngày xuân--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Mùa Xuân luôn mang lại cho ta một niềm vui, một hạnh phúc. Mùa Xuân cho ta một hy vọng ngày mai sẽ tốt hơn. Đó là lý do mọi chữ ghép vào chữ Xuân đều biểu lộ sự hồi sinh và tràn đầy sự sống như: Xuân thì, Xuân tình, Xuân nồng, Xuân ngời... Dẫu dòng đời luôn vần xoay cứ xuân đến rồi xuân đi nhưng mỗi mùa xuân đến lại cho ta một niềm hy vọng, một ước mơ mới trong cuộc đời.
Ước mơ thì ai cũng có. Ước mơ cho mình đẹp. Ước mơ được đóng góp phần mình tô thắm cho đời đẹp hơn. Ước mơ lớn dần theo từng lứa tuổi. Ước mơ cũng thay đổi theo thời gian. Bài hát “tuổi mộng mơ” dường như đã diễn tả thật gần gũi điều đó.
Em ước mơ mơ gì, tuổi mười hɑi, tuổi mười bɑ?
Em ước mơ ℮m là, ℮m được là tiên nữ
ßɑn ρhéρ tiên cho hoɑ biết nói cả tiếng người
ßɑn ρhéρ tiên cho người chắρ cánh bɑу giữɑ trời.
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ tiên!
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ tiên!
Ước mơ của tuổi thần tiên thật đẹp. Đẹp trong tâm hồn và thể xác. Cái đẹp của thiên thần không có giận hờn ghen ghét chỉ có niềm vui và hạnh phúc đón nhận và trao ban.
Qua cái tuổi dậy thì ai cũng mơ mộng xa xăm, sống thiếu thực tế nhưng vẫn mang hoài bão xây dựng cho đời tươi đẹp hơn.
Em ước mơ mơ gì, tuổi mười bɑ, tuổi mười bốn?
Em ước mơ mɑng hồn, ℮m mɑng hồn thi sĩ
Ƭh℮o gió mưɑ ℮m đi, hát xâу mộng cho người
Ƭrên cánh thơ tuуệt νời, hát уên νui cõi đời.
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ hoɑ!
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ hoɑ!
Rồi tới tuổi trăng tròn trông ai cũng xinh xắn, luôn nở nụ cười tươi và dáng đi đầy kiêu hãnh làm thổn thức bao trái tim rung nhịp tình yêu.
Em ước mơ mơ gì, tuổi mười tư, tuổi mười lăm?
Em ước mơ ℮m đẹρ như trăng rằm tươi tắn
Ƭhoɑ ρhấn son ℮m mɑng chiếc áo dài ƙhăn hồng
Em sẽ thi đuɑ cùng νới hoɑ ƙhôi ƙhắρ νùng.
Rồi khi cái tuổi mộng mơ không còn thì ước mơ của người ta thực tế hơn, gần gũi hơn với cuộc sống.
Em ước mơ mơ gì, tuổi mười lăm, tuổi mười sáu?
Em ước mơ ƙhông nhiều, xin một điều уêu dấu
ĸhông ước mơ xɑ xôi, ước mơ được nên người
Ϲô gái уêu nước Ѵiệt bước chân th℮o giống nòi.
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ ngoɑn!
Ƭhật đẹρ thɑу! Ƭhật đẹρ thɑу! Giấc mơ ngoɑn!
Ngày đầu xuân, theo thói quen của nhân gian người ta thừơng rủ nhau đi hái lộc xuân. Gọi là hái lộc nhưng thực ra người hái đã có sẵn những ước mơ, những ước nguyện trước khi đón nhận lộc xuân. Lộc xuân như là dấu chỉ ân lộc trời ban hay như là sự chúc lành của Đấng hoá công tạo dựng đất trời cho ước nguyện ngày xuân.
Ước mơ ngày xuân luôn là những ước mơ chân thực nhất, vì nó chính là nỗi khát khao từ trong sâu thẳm của từng người, là nỗi niềm riêng mà người ta muốn đổi thay cuộc đời hoà nhịp với sự đổi thay của đất trời.
Ước mơ có thể là những dự định mà ta muốn thực hiện trong cuộc đời. Nhưng dầu sao, ước mơ vẫn là những điều vượt ngoài tầm tay, là những hoài bão, mong ước nhưng chưa đạt được hay chưa có cơ hội thực hiện.
Ngày xuân chúng ta trao gởi nỗi niềm ước mơ của mình cho Đấng Tạo hoá – Đấng Càn Khôn. Ngài là Đấng làm cho đất trời thay đổi theo bốn mùa: Xuân – Hạ – Thu – Đông. Và chỉ có Ngài mới làm cho ước mơ ngày xuân trở thành hiện thực. Vì “mưu sự tại nhân – thành sự tại thiên”. Sự toan tính là của con người, nhưng điều đó có thành hiện thực hay không lại tùy thuộc vào ơn ban của Trời. Đây cũng là niềm tin của người kytô hữu, vì mọi sự đều nhờ bởi ơn Chúa, chính Chúa là Đấng ban phát mọi ơn lành, là Đấng phù trợ và bảo vệ cuộc đời chúng ta. Niềm tin này không phải là niềm tin mông lung, nhưng dựa trên chính lời hứa của Chúa Giêsu: “Các con đừng lo chi ngày mai sẽ ra sao. Hãy xem chim trời, hãy nhìn xem hoa huệ ngoài đồng, chúng không hề lo lắng ngày mai sẽ ra sao”.
“Hãy trút mọi nỗi lo âu cho Người và Người sẽ lo cho anh em”. Chúng ta hãy dâng lên Chúa Xuân những ước mơ, những hoài bão của chúng ta trong niềm tín thác vào Chúa. Xin cho ước mơ ngày xuân của chúng ta được Thiên Chúa chúc phúc cho một năm an khang thịnh vượng. với hai câu đối:
Sống tu thân tích đức, mở rộng lòng, Sống sao cho đáng sống
Xuân phúc lộc bình an, tràn muôn lối, Xuân mãi vẫn là xuân
Amen.
60. Mồng Một Tết 2012: Tạ ơn và cầu bình an cho năm mới--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Người Việt Nam chúng ta có một tập tục rất đẹp trong ngày đầu năm mà những người thờ Trời hay thờ Ông Bà họ thường làm đó là sáng sớm ngày mồng một, người ta làm một ít đồ ăn hoặc là trái cây và một ít hoa tươi đứng trước Bàn Thiên ở cửa nhà hoặc Bàn thờ Tổ tiên trong gia đinh để thắp lên một nén nhang với lòng thành biết ơn trời đất và tổ tiên ông bà.
Kính thưa quý OBACE, đối với người Việt Nam Công Giáo, tập tục tốt đẹp ấy được thể hiện trong giờ phút đầu tiên của năm mới Nhâm Thìn này, chúng ta họp nhau không phải trước bàn thiên mà là trước tôn nhan Thiên Chúa, để dâng lên Chúa tâm tình Tạ Ơn và cầu xin Chúa ban cho một Năm Mới bình an, đồng thời cũng là nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng điều khiển cả vụ trụ này và tất cả mọi việc xảy ra đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Cũng vì thế con người luôn luôn cảm thấy mình nhỏ bé và hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Sự lệ thuộc vào Thiên Chúa không làm hạ thấp giá trị con người, nhưng lại làm gia tăng phẩm giá của con người vì con người chúng ta đã dược Thiên Chúa yêu thương tạo dựng, cứu chuộc, được nhận làm con và Thiên Chúa còn quan phòng ban cho muôn điều kỳ diệu tốt đẹp cho con người.
Các bài đọc được chọn cho ngày Mồng Một Tết nhắm đến các ý tưởng ấy- Trước hết bài sách Sáng Thế nhắc lại cho chúng ta về công trình tạo dựng của Thiên Chúa, chính Ngài dựng nên trời đất tinh tú muôn loài và cũng chính Ngài là Đấng điều khiển để cho bốn mùa luân chuyển thay đổi nối tiếp nhau, để làm nên nhịp sống cho con người và phân định thời gian cho vũ trụ. Cũng mặt trời ấy, cũng ánh nắng ấy, nhưng những ngày đầu năm này, chúng ta nhìn thấy mọi sự đều khác, từ vạn vật đến con người như đang khoác lên mình một bộ áo mới một sức sống mới của mùa xuân sau những ngày mùa đông lạnh giá. Cũng chính vì thế, mà mọi người đều muốn bắt đầu một năm mới với một sư đổi mới, một kế hoạch mới và một quyết tâm mới. Song vì con người ý thức được rằng: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” kế hoạch là của mỗi người đưa ra, song sự thành hay bại còn do trời ban hay nói theo ngôn ngữ nhà đạo của chúng ta đó là: Con người cố gắng với hết khả năng của mình còn kết qua thì phó dâng cho Chúa. Ý thức như thế để chúng ta không quá cậy dựa vào sức mình, nhưng biết khiêm nhường tạ ơn Thiên Chúa về những thành quả chúng ta đã đạt được và bằng lòng với những gì Chúa ban đồng thời cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho những toan tính của chúng ta trong năm mới.
Trong bài đọc hai Thánh Phaolô đã khuyên cộng đoàn Philipphê hãy luôn vui mừng và tín thác vào Thiên Chúa, niềm vui cũng là ước nguyện của ngày đầu năm: Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên… Anh em đừng lo lắng gì hết nhưng trong khi cầu nguyện hãy trình bày ước vọng lên cùng Chúa. Như thế có nghĩa là chúng ta sẽ vẫn phải sống và làm việc, vẫn gặp những thành công và thất bại, vui và buồn, nhưng khác ở chỗ là dù trong những hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn giữ được niềm vui và sự bình an trong tâm hồn, niềm vui và sự bình an này là bình an vì có Chúa ở trong chúng ta, và tin rằng Chúa đang điều khiển cuộc đời chúng ta. Chúng ta cũng vẫn phải lo toan cho cuộc sống, song chúng ta không lo lắng theo kiểu của những người không có niềm tin, nhưng lo liệu công việc trong sự trợ giúp của Thiên Chúa và nhất là làm mọi công việc thường ngày trong tinh thần cầu nguyện tin tửơng phó thác. Khi sống và làm việc như thế, chúng ta sẽ càm nhận được niềm vui trong chính công việc của mình và sẽ thấy tâm hồn mình thực sự bình an.
Ước nguyện Bình an cho gia đình là một trong những ước nguyện đầu tiên của năm mới, thế nhưng để có bình an đòi mỗi người phải nỗ lực thật nhiều. Trước hết là phải tìm được sự bình an trong tâm hồn, sự bình an này đến từ nơi Thiên Chúa, và chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban tặng, đó là sự bình an của một tâm hồn thanh thản trước mặt Thiên Chúa, một tâm hồn được thứ tha và chữa lành nhờ Bí tích Giải tội, một tâm hồn luôn sống thuận thảo với Chúa, tức là không để mình sống trong tình trạng thù nghịch tội lỗi trước mặt Thiên Chúa, siêng năng gặp gỡ Thiên Chúa trong công việc, trong cầu nguyện trong các việc phụng thờ Thiên Chúa.
Kế đến là sự bình an đối với nhưng người chung quanh, tức là phải dám gỡ khỏi tâm hồn mình những bất hòa những bất đồng và xung khắc đối với vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh em, láng giềng, hãy bước đến với nhau trong sự tha thứ, làm hòa và thông cảm, đây cũng là nét đẹp của người Việt Nam, mỗi dịp tết gặp nhau, người ta thường xin lỗi nhau về những gì làm mất lòng nhau trong năm cũ, cũng vậy, năm mới, chúng ta cũng cần đổi mới lại tương quan tình nghĩa giữa những người thân và anh em, gạt bỏ đi những tranh chấp để đến với nhau và nhìn nhau một cách chân tình hơn hãy can đảm nói với nhau một lời xin lỗi và tha thứ.
Ước nguyện bình an trong công việc là một ước nguyện thật tốt, vì ai làm nghề gì thì cũng mong muốn được thuận lợi bình an. Bình an ở đây không chỉ là tránh khỏi rủi ro tai nạn, nhưng sự bình an thật sự chỉ có ở những con người có những cách làm việc trong tôn trọng sự công bằng và bác ái, tôn trọng sự thật, không gian dối không lừa đảo, và biết tôn trọng quyền lợi của người khác. Kinh doanh buôn bán với một lương tâm ngay thẳng như thế thì mới có được sự bình an trong công việc và bình an trong tâm hồn.
Thịnh vượng là một trong những ước nguyện đầu năm, giàu có sung túc là một ước muốn tốt đẹp và theo truyền thống của Kinh Thánh thì sự giàu sang còn là dấu chỉ sự chúc lành của Thiên Chúa, thế nhưng làm giàu bằng cách nào và sử dụng sự giàu sang Chúa ban như thế nào mới là điều quan trọng.
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ cho chúng ta cách thế sống và vui hưởng những của cải Chúa ban đó là tin tưởng và phó thác tất cả cho Chúa: Đừng lo lắng cho ngày mai vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Nói như thế không có nghĩa là chúng không lo lắng và không suy nghĩ đầu tư. Chúng ta không được phép ỷ nại vào sự quan phòng của Chúa để lười biếng, nhưng cũng đừng lo lắng đến quá mức về cái ăn cái mặc cho ngày mai, lo như kiểu của người không có niềm tin: Chúng ta sẽ ăn uống gì mặc gì? Trái lại chúng ta biết lo liệu và tin rằng Thiên Chúa là cha chúng ta Ngài biết những nhu cầu những ước muốn của chúng ta ngay trước khi chúng ta mở miệng cầu xin, và Ngài sẽ trợ giúp chúng ta, vì thế hãy sống thật tốt giây phút hiện tại của ngày hôm nay và vui hưởng những gì Chúa ban cho ngày hôm nay.
Thế nhưng Chúa vẫn lưy ý chúng ta rằng dù ăn gì, uống gì và làm gì thì cũng vẫn cần có một ưu tiên tuyệt đối đó là: Tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều khác Chúa sẽ ban cho. Tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính có nghĩa là lo tìm kiếm và làm giàu trước mặt Thiên Chúa, đừng chỉ làm giàu của cải vật chất nhà cửa xe cộ mà để mình nghèo nàn công phúc trước mặt Chúa. Nhiều người cầu nguyện đầu năm cho gia đình mình thịnh vượng vật chất, mà quên cầu xin cho mình và gia đình được giàu có thịnh vượng trước mặt Thiên Chúa, và không làm giàu trước mặt Thiên Chúa. Làm giàu trước mặt Thiên Chúa là làm nhiều việc lành và công phúc, việc lành ở đây chính là những việc tông đồ, bác ái, là công việc phục Chúa và phục vụ anh em, và còn là những việc hy sinh thầm lặng, là hy sinh tiền của thời giờ, sức khỏe cho Chúa; Công phúc trước mặt Chúa chính là sự bác ái, tình yêu thương giúp đỡ, sự chia sẻ cụ thể với những người bất hạnh, những người đang cần đến chúng ta. Vì chỉ những công việc cụ thể như thế mới làm cho chúng ta trở nên giàu có thịnh vượng trước mặt Thiên Chúa mà thôi.
Cầu chúc cho mọi người mọi gia đình một Năm Mới đầy tràn Bình an của Chúa và sự Thịnh vượng không chỉ của cải vật chất và là thịnh vượng, giàu có của cải thiêng liêng trước mặt Thiên Chúa, cầu chúc cho mọi gia đình luôn hạnh phúc vì có Chúa ở cùng. Amen.
61. Thánh lễ minh niên Mồng Một Tết Canh Tý--Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
1. “Hãy có những vật sáng trên vòm trời và hãy phân chia ngày và đêm, và trở thành dấu chỉ thời gian, ngày và năm tháng, để soi sáng trên vòm trời và giãi sáng mặt đất” “Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp.”
Bước vào đầu năm mới một câu hỏi tự nhiên đến với mỗi người chúng ta cùng sống trong một thời gian mà tại sao nó lại mang những ý nghĩa vô cùng khác biệt nơi người này và nơi người khác? Thời gian có thực sự là tốt đẹp như “Thiên Chúa thấy nó tốt đẹp” mà bài sách Sáng Thế vừa công bố? Trải qua giòng đời, người thì thấy nó quý báu đến nỗi phải tranh thủ từng giây phút, người thì lại thấy nó như là một gánh nặng đến nỗi mong nó mau chấm dứt.
Câu trả lời đến từ những suy nghĩ của chúng ta về SỰ SỐNG, và tùy theo ý nghĩa về sự sống mà thời gian có ý nghĩa thế nào.
Để cho sự sống, và đặc biệt là sự sống của con người xuất hiện trong vũ trụ, Thiên Chúa đã phải tạo dựng không gian, thời gian với sự hoàn mỹ thế nào để có thể làm cho SỰ SỐNG nên giống Hình Ảnh Ngài. Nói khác đi khi SỰ SỐNG không còn là Hình Ảnh Thiên Chúa ở những mức độ khác nhau thì nó cũng hủy hoại luôn sự tốt đẹp của không gian và thời gian ở những mức độ khác nhau. Và đó chính là điều chúng ta cảm nghiệm được ngày hôm nay, khi con người không chấp nhận Thiên Chúa trong lòng mình, thì họ cũng đang ra sức tàn phá môi trường sống của mình.
2. Để trả lại cho thời gian vẻ tốt đẹp ban đầu, Thiên Chúa đã phải sai CON MỘT Ngài sinh ra trong thời gian để như thánh Phaolô nói “giữ gìn lòng trí anh em trong Chúa Giêsu Kitô”, cũng là gìn giữ lòng trí chúng ta về SỰ SỐNG trong Chúa Giêsu. Bởi vì với Chúa Giêsu thì thời gian đã đi đến sự viên mãn như chính Người công bố "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,15). Chính SỰ SỐNG của Chúa Giêsu là ý nghĩa, là ánh sáng cho thời gian một ý nghĩa tốt đẹp nhất, như Người đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối”. Vì thế Thánh Phaolô mới nói “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi.” Nhưng điều này không thật dẽ dàng, vì vậy thánh Tông đồ mời gọi “Anh em đừng lo lắng gì hết, nhưng trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ.”
3. Cầu nguyện để chúng ta không dùng thời gian để tìm kiếm những gì “dân ngoại tìm kiếm” nhưng “tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người”. Và đó là ý nghĩa đích thật của thời gian. Đức Ki-tô là hiện thân của nước Thiên Chúa. Đức Kitô đã đến. Người không những ở trong chúng ta mà còn ở giữa chúng ta nơi những người anh chị em sống chung quanh ta. Và hơn nữa, Người còn đồng hóa mình với những người nghèo nàn, bất hạnh. Vì vậy, chúng ta không thể chỉ tìm Chúa trong nhà thờ hay khi đọc kinh cầu nguyện mà còn phải tìm và phục vụ Người trong cuộc sống, nơi tha nhân, nhất là những người chúng ta có bổn phận và trách nhiệm. Chúng ta khát khao ước ao nước Cha hiển trị bởi vì đó là lẽ sống đích thực của chúng ta – sống trong nước tình yêu. Vì thế ý nghĩa thời gian của chúng ta còn phải là thời gian để xây dựng Giáo Xứ thành cộng đoàn của Đức Kitô vậy.
4. Xin cầu chúc quý Cha, Quý Thầy, Quý Soeurs và mọi gia đình anh chị em NĂM MỚI LUÔN TRÀN ĐẦY SỰ SỐNG CỦA ĐỨC KITÔ.
62. Mồng Một Tết--Mt 6,25-34—Phó thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa—Lm Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Vậy anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6,34).
2. CÂU CHUYỆN:
1) HỌA PHÚC KHÓ LƯỜNG:
Có một người đi biển, gặp cơn bão lớn, chìm tàu, anh may mắn sống còn và trôi dạt vào một hoang đảo. Muốn tồn tại, anh phải tự lo tất cả từ hai bàn tay trắng. Một cái nhà nhỏ trú mưa trú nắng, hàng rào chống thú dữ, tự làm quần áo che thân, tìm kiếm thức ăn. Khó nhất là lửa. Khó khăn lắm anh mới dùng đá đập vào nhau để có được lửa. Anh nuôi lửa cẩn thận, không để lửa tắt. Một đêm nọ, khi anh đi tìm săn tìm thức ăn về, thì anh thấy ngôi nhà của mình đã cháy rụi! Một cơn gió lốc làm ngọn lửa bùng lên và cháy rụi căn nhà anh. Bao nhiêu công khó gầy dựng cái “gia sản” tối thiểu để được sống còn bây giờ ra tro bụi! Anh ngửa mặt lên trời than trách sao Chúa lại có thể đối xử với anh tệ bạc đến thế!
Mệt mỏi và chán nản, anh ngủ thiếp đi trong đêm thảm họa ấy!
Bừng con mắt dậy, trong ánh nắng bình minh rực rỡ của ngày mới trên hoang đảo, anh chợt thấy một vết chấm to xa xa trên bờ biển. Nhìn kỹ, anh nhận ra đó là một con tàu.
“Chúng tôi đã thấy ngọn lửa làm hiệu của anh. Chúng tôi đến cứu giúp anh đây!”. Những người trên tàu đã tìm gặp anh và nói với anh như thế.
Anh chắp tay ngửa mặt lên trời, nghẹn ngào nói: “Tạ ơn Chúa! Xin tha thứ cho con!”
2) TÁI ÔNG THẤT MÃ, AN TRI HỌA PHÚC
Sách Hoài Nam Tử có ghi lại một câu chuyện dạy đời như sau:
Một ông lão ở gần biên giới giáp với nước Hồ phía Bắc nước Tàu, gần bên Trường thành có nuôi một con ngựa. Một hôm con của ông lão dẫn ngựa ra gần biên giới cho nó ăn cỏ, vì lơ đễnh nên con ngựa vọt chạy qua bên nước Hồ mất dạng. Những người trong xóm nghe tin đến chia buồn với ông lão. Ông lão bình tỉnh nói: “Các ông bà đừng lo cho tôi. Biết đâu con ngựa chạy mất kia sau này sẽ đem lại những điều tốt cho tôi”. Vài tháng sau, con ngựa chạy mất tự nhiên quay về nhà, dẫn theo một con ngựa của nước Hồ, cao lớn và mạnh mẽ. Người trong xóm hay tin liền đến chúc mừng ông lão và nhắc lại lời ông đã nói trước đó. Ông lão không tỏ vẻ vui mừng mà nói: “Ông bà đừng vội chia vui với tôi. Biết đâu việc được ngựa Hồ nầy về sau sẽ dẫn đến tai họa cho tôi”.
Quả nhiên con trai của ông lão rất thích cưỡi ngựa, thấy con ngựa Hồ cao lớn mạnh mẽ thì thích lắm, liền nhảy lên lưng cỡi nó chạy đi. Con ngựa Hồ chưa thuần nết, chưa quen người nên nhảy loạn lên, khiến đứa con trai ông lão bị ngựa Hồ hất xuống đất, bị gãy một xương đùi thành ra bị què chân mang cảnh tật nguyền. Người trong xóm vội đến chia buồn với ông lão vì không ngờ con ngựa không tốn tiền mua nầy lại gây ra tai họa cho con trai của ông như thế. Ông lão thản nhiên nói: “Xin các vị cũng đừng lo cho tôi, con tôi bị ngã gãy chân, tuy bất hạnh đó, nhưng biết đâu nhờ cái họa nầy mà về sau sẽ biến thành phúc đó”.
Một năm sau, nước Hồ kéo quân sang xâm lấn Trung nguyên. Các trai tráng trong vùng biên giới đều phải sung vào quân ngũ để ngăn chặn giặc Hồ. Quân Hồ thiện chiến, đánh tan đạo quân mới nhập ngũ và nhiều trai tráng đều bị tử trận, riêng con trai ông lão vì bị què chân được miền đi lính, nên còn sống sót.
3. THẢO LUẬN: 1) Qua câu chuyện “Tái ông thất mã, an tri họa phúc” nghĩa là: Lão ông mất ngựa, họa hay là phúc?, bạn suy nghĩ thế nào về các điều phúc họa trong cuộc sống của bạn? 2) Tin Mừng trong thánh lễ Mùng Một Tết hôm nay dạy thế nào về sự quan phòng của Thiên Chúa trước những điều may rủi gặp phải giữa đời thường?
4. SUY NIỆM:
1) Nội dung Tin Mừng ngày đầu Năm Mới:
Tin Mừng thánh lễ ngày đầu Năm Mới hôm nay, Đức Giê-su đã dạy môn đệ đừng quá lo lắng về đời sống cho bản thân nhưng phải tin cậy vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa qua ba ví dụ cụ thể như sau:
Một là loài chim trời không gieo không gặt nhưng Cha trên trời vẫn nuôi sống chúng.
Về việc sống lâu thì dù lo lắng cũng không thể kéo dài đời mình thêm một vài gang tấc!
Về cơm ăn áo mặc: Như loài hoa huệ ngoài đồng không kéo sợi may mặc, thế mà Cha trên trời vẫn cho chúng mặc áo đẹp hơn long bào của vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc.
Từ đó Đức Giê-su dạy các môn đệ phải biết phó thác cậy trông vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa: Nếu loài chim trời chẳng đáng giá là bao, và loài hoa đồng nội chỉ sớm nở tối tàn mà Cha trên trời còn chăm sóc cho như thế, phương chi con cái loài người chúng ta còn đáng giá hơn muôn phần lại không được Thiên Chúa quan phòng gìn giữ sao? Và Đức Giê-su kết luận: "Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó".
2) Phân biệt lo liệu với lo lắng:
“Đừng quá lo lắng” không có nghĩa là “không cần lo liệu”. Người biết lo liệu là người khôn ngoan. Tùy sự tính toán lo liệu mà người ta có thể thấy mức độ khôn ngoan của một người. Chúa phán: “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cái tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: ‘Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc’. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa”. (Lc.14,28).
Biết lo liệu không chỉ để làm tốt công việc thường nhật, mà còn thăng tiến trong Đức Tin, trong đàng Nhân Đức. Đó không chỉ là nỗ lực bình thường của con người mà còn là ơn Chúa Thánh Thần. như lời cầu xin ơn Thánh Thần trong lễ ban phwps Thêm Sức:
“Lạy Chúa, xin ban Chúa Thánh Thần, Đấng an ủi đến trong những người này. Xin ban cho nhứng người này thần trí khôn ngoan và thông hiểu; thần trí lo liệu và sức mạnh; thần trí suy biết và đạo đức; xin ban cho người này đầy ơn kính sợ Chúa. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con”
3) Phải tránh thói ỷ lại lười biếng và vô trách nhiệm:
Chim trời tuy không phải vất vả gieo gặt như loài người, nhưng chúng cũng phải bay đi đó đây để tìm mồi. Hoa huệ ngoài đồng tuy không phải dệt may nhưng cũng phải đâm rễ tìm chất bổ dưỡng. Đàng khác chính Đức Giê-su đã nói: "Ngày nào có cái khổ của ngày ấy" (Mt 6,34).
Không những Đức Giê-su không muốn chúng ta rơi vào thói hư lười biếng vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải chịu khó làm việc để góp phần làm cho môi trường mình đang sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, cho thế giới này ngày một hoàn thiện hơn. Ngay từ khi dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x. Mt 25,15-25), Đức Giê-su đã đòi mỗi đầy tớ phải làm lợi cho chủ gấp đôi các nén bạc được trao, chứ không được mang đi chôn giấu. Như vậy, chúng ta có bổn phận phải lo lắng, tiên liệu cho tương lai. Điều Chúa không chấp nhận là quá lo lắng về vật chất, coi nó là cùng đích đời mình.
4) Tiên vàn phải lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa:
Người môn đệ Đức Giê-su phải coi trọng Nước Thiên Chúa. Những điều khác cũng cần phải quan tâm, nhưng không được coi chúng hơn Nước Thiên Chúa. Người ta thường coi tiền bạc vật chất là số một và có khả năng giải quyết được mọi vấn đề của con người. Nhưng thực tế chứng minh suy nghĩ ấy thật sai lầm. Thực ra tiền bạc của cải là phương tiện cần để giúp con người có đời sống tốt hơn như người ta thường nói: “Phú quý sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc”. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc. Nó chỉ tốt khi chúng ta biết dùng nó như phương tiện, như đầy tớ của chúng ta. Nhưng tên đầy tớ tiền bạc này lại rất có uy, rất dễ tự coi mình là ông chủ lúc nào không hay. Khi nó đã nắm quyền làm chủ, nó sẽ bắt chúng ta là đầy tớ phải phụng sự nó với bất cứ giá nào.
Ưu tiên tìm nước Thiên Chúa là phải chịu khó làm việc với hết khả năng, tìm kiếm đối sách và nhìn xa trông rộng để giải quyết các vấn đề mới phát sinh theo khả năng của mình. Cần tránh thái độ ỷ lại vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Khi gặp sự khó, chúng ta tránh thụ động, nhưng phải biết chủ động xin ơn Thánh thần soi sáng để tìm ra cách giải quyết theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giê-su trong Tin Mừng. Cần thực hành lời người xưa dạy: “Hãy làm hết sức mình, rồi trời sẽ giúp”, hoặc: “Hãy thắp sáng lên ngọn đèn, chứ đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Hôm nay Chúa đã dạy chúng con phải biết ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính, còn những thứ khác như ăn gì mặc gì, thì phó thác vào tình thương quan phòng của Chúa Cha trên trời. Xin cho chúng con ý thức rằng: “Đồng tiền chính là đầy tớ tốt nhưng lại là ông chủ xấu”. Nhờ biết sử dụng đồng tiền phụng sự cho Nước Chúa và phục vụ tha nhân, mà chúng con sẽ có bình an nội tâm và sẽ nên chứng nhân của Chúa trước mặt người đời, góp phần xây dựng một thế giới mới là Nước Trời đời sau.- AMEN.
63. Năm mới đường hướng mới--Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
Vạn vật đều có cội nguồn, xuất xứ của nó, có bắt đầu phải có kết thúc. Thời gian cũng vậy, nó là thước đo của sự hao mòn, hủy diệt. Với quan niệm Á đông “Đầu xuôi đuôi lọt”, nên những ngày đầu năm là những ngày hệ trọng, được lưu ý nhiều nhất. Vì nó tiêu biễu cho 365 ngày sau đó, nếu những ngày đầu năm -nhất là ngày Tết- gặp may mắn, xuông sẻ thì cả năm sẽ tốt đẹp. Chuẩn bị cho năm mới Giáp Thân này, chúng ta cùng chia sẻ với nhau cảm nghiệm về tương quan giữa tạo vật và tạo hóa cùng tìm kiếm phương hướng thích hợp cho năm mới này.
Mùa xuân về báo hiệu năm cũ sắp qua đi. Năm mới đến thế nào cũng kéo theo những thay đổi, những thách đố mới cho từng cá nhân, gia đình… Với người Kitô hữu, mỗi mùa xuân đến không phải là biến cố nhắc nhớ mình già thêm một tuổi, nhưng là mỗi cột mốc đánh dấu một bước tiến chúng ta đến gần ‘quê hương thật’ hơn. Những ngày đầu năm là thời điểm để chúng ta hoạch định, lên chương trình cho cả một năm. Nhiều khi chúng ta tự hỏi, tại sao với kế hoạch rất bài bản, tinh vi, thế mà chúng ta vẫn thất bại, nhiều phen chán nản, tuyệt vọng. Phải chăng Thiên Chúa đã bỏ rơi con cái Ngài!
Chúng ta nghi oan cho Thiên Chúa rồi đó, sở dĩ chúng ta thất bại vì chúng ta “dốt”, chúng ta tự mãn với kiến thức sẵn có để lên kế hoạch thật hay, và tin tưởng nó sẽ thành công. Chúng ta quên rằng Thiên Chúa vừa là nhà kế hoạch tài ba, lỗi lạc nhất, vừa là kẻ duy nhất quyết định mọi kế hoạch của nhân loại thành công hay thất bại, Thí dụ đơn giản: chúng ta cần nhất là sự sống, Ngài là kẻ ban sự sống, đồng thời là sự sống cho mỗi người, tại vì chúng ta kiêu ngạo, vô ơn nên không tìm đến Ngài, mặc dù Ngài luôn có sẵn kế hoạch cho bạn, tôi, và mọi người, chỉ cần chúng ta biết triển khai chi tiết, hợp tác cùng Ngài, rồi mọi sự sẽ tốt đẹp.
Thiên Chúa biết chúng ta loay hoay kiếm tìm những nhu cầu ở thế gian mà chúng ta gọi là hạnh phúc. Ngài đã trả lời một cách giản dị, dứt khoát trong bài Tin Mừng hôm nay, thế nhưng chúng ta nhận không ra: “Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho…”. Rõ ràng Ngài dạy rằng hạnh phúc không phải là đối tượng chính để chúng tìm kiếm; hạnh phúc sẽ đến vì nó là kết quả tất yếu, phát xuất từ yếu tố thứ nhất, tự nó sẽ đến, đừng tìm nó. Nói cách khác sẽ không bao giờ có hạnh phúc nếu điều kiện thứ nhất -tìm kiếm nước Thiên Chúa- chưa bắt đầu thực hiện. Như thế, biết bao nhiêu lần trong đời, chúng ta thất bại -dù kế hoạch thật ưng ý-, chúng ta đừng hỏi tại sao.
Một điểm nữa đó là chúng ta được dựng nên không phải cho bất cứ tạo vật nào, nhưng tất cả mọi tạo vật được dựng nên cho con người sử dụng, phục vụ con người, nó là phương tiện để chúng ta có thể đạt đến đích điểm của cuộc đời, chứ nó không phải là đích điểm. Cái mê muội của con người là chỉ tìm kiếm phương tiện, lầm tưởng phương tiện với cứu cánh. Trong năm mới này, xin nêu lên ba điểm như là yếu tố, phương hướng mới để hoạt động.
Thứ nhất: Nhiều lần trong Phúc Âm, Chúa nhắc nhở chúng ta chớ áy náy, lo lắng về những nhu cầu cho sự sống ở đời này, vì nó có thể cướp mất sự vui sống, làm mất ngủ triền miên, hủy hoại lần hồi thể xác và tinh thần của chúng ta. Vậy muốn thoát khỏi sự ngu dốt nêu trên -do tội nguyên tổ-, cũng như đáp trả tình yêu vô biên Thiên Chúa dành cho nhân loại: chúng ta hãy đặt hết tin tưởng vào Thiên Chúa Ba Ngôi, một cách tuyệt đối, không điều kiện; biết phó thác triệt để vào Đức Trinh nữ Maria -Đấng trung gian quyền thế-, là một bảo đảm chắc chắn cho hạnh phúc mỗi người bây giờ và mãi mãi.
Thứ hai: Không ai biết được điều gì sẽ xảy ra trong năm mới này, có người được nhiều may mắn, thành đạt, có kẻ đau ốm buồn phiền, người khác ra đi vĩnh viễn…, là con cái Chúa chúng ta xin chấp nhận tất cả, vì tin rằng mọi sự đều nằm trong kế hoạch từ ngàn đời của Thiên Chúa. Chúa đã dạy: “Ngày nào có sự khốn khó của ngày ấy”, vì chính Chúa Kitô không bao giờ tách rời khỏi thập giá, điều này minh chứng vinh quang luôn gắn liền với đau khổ. Là con cái, môn đệ Ngài làm sao chúng ta thoát khỏi! Nhiều khi chúng ta cầu xin mà không được Chúa nhậm lời, cảm thấy bị hụt hẫng! Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi tạo vật của Ngài, Ngài không muốn một ai hư mất -đó là điều chắc chắn-, khi Ngài nhìn một tạo vật, Ngài thấy hết một trật: quá khứ, hiện tại và tương lai của tạo vật đó. Bởi vậy khi Ngài giải quyết là Ngài nhắm đến cái chung cuộc, cái lợi ích sau cùng, chứ không phải chỉ riêng cho hiện tại, bởi vậy nhiều khi chúng ta không nhận ra, không hiểu, nên oán trách Ngài!
Thứ ba: Thời gian là món quà vô cùng quí giá của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Ngài không chỉ là Đấng tạo nên thời gian, nhưng còn là Đấng làm chủ, quản lý, điều khiển thời gian. Cũng như Ngài đã đi vào thế gian để điều khiển, chi phối lịch sữ nhân loại, thời gian thật sự có ý nghĩa kể từ khi Ngôi Lời Nhập Thể. Bởi vậy thời gian hết sức quý báu, chúng ta đừng lãng phí nó, hãy quan niệm rằng thời gian quá ngắn ngủi, nên dành thời gian còn lại cho Thiên Chúa.
Tóm lại, năm mới bắt đầu cho một chu kỳ mới, ước gì trong năm Giáp Thân này, chúng ta cùng bước đi bằng những bước chân mới mẻ, bằng cái nhìn đổi khác, đầy lạc quan, hoan hỷ, hy vọng tiến về “Đất Hứa”, nơi có Đấng Cứu Độ đang chờ. Bao lâu ta chưa đến được bến bờ Thiên quốc, Chúa Kitô vẫn còn vẫy gọi ta. Cứ tín thác tuyệt đối, triệt để vào Thiên Chúa, để Ngài điều khiển cuộc đời và kế hoạch của ta, bám chặt vào Mẹ Ngài là Đấng bầu cử thần thế, ban phát ân sủng; cứ chấp nhận những nhọc nhằn, khốn khổ ở đời, vì sự đau khổ đã được Chúa Kitô thánh hóa trên thập giá; đừng lãng phí thời gian một cách vô ích, vì thời gian là của Chúa. Chắc chắn chúng ta sẽ đi đúng hướng mà Thiên Chúa muốn. Chỉ có Thiên Chúa mới ban bình an và hạnh phúc cho nhân loại. Để kết thúc, tôi xin mượn Thánh vịnh 127, 1-2 sau đây:
“Ví như Chúa chẳng xây nhà,
thợ nề vất vả cũng là uổng công.
Thành kia mà Chúa không phòng giữ,
uổng công người trấn thủ canh đêm.
Bạn có thức khua hay dậy sớm,
khó nhọc làm ăn cũng hoài công.
Còn kẻ Chúa thương dầu có ngủ,
Người vẫn ban cho đủ tiêu dùng”.
64. Chúa quan phòng--Lm. Giuse Nguyễn Văn Khánh
Người ta hay kể câu chuyện sau đây để nói về sự quan phòng của Thiên Chúa:
Có hai người bộ hành đi lên đường đi đến một phương xa. Họ dùng một con lừa để chuyên chở hành lý, và mang theo một chú gà cồ làm bạn. Ban đêm đến họ đốt đuốc để soi đường.
Một trong hai người là một tín hữu rất đạo đức, luôn miệng nói: “Chúa là Ðấng tốt lành quan phòng mọi sự”. Người kia thì rất cứng lòng tin. Ông rất bực mình mỗi khi nghe người bạn đồng hành hơi một tí là cầu nguyện “phó thác cho Chúa lòng lành”.Trước khi mặt trời lặn, họ đến một ngôi làng nhỏ. Họ tìm một nơi để qua đêm. Họ gõ cửa khắp nơi, nhưng không có ai đón tiếp họ. Cuối cùng họ đành phải ra khỏi làng và tìm đến bìa rừng để qua đêm. Trong cảnh màn trời chiếu đất, người bạn không có lòng tin mới thốt lên: “Nào, Chúa tốt lành của anh ở đâu rồi?”. Người kia bình tĩnh đáp lại: “Ðây là chỗ tốt nhất Chúa dành cho chúng ta ngủ qua đêm này”.
Ðêm đó, họ nằm ngủ dưới một gốc cây lớn nằm sát bìa rừng. Họ cột chú lừa vào một gốc cây gần đó. Họ chưa kịp đốt lên ngọn đuốc thì một tiếng động mạnh từ xa vang lại. Thì ra, chỉ trong chớp nhoáng, một chú sư tử đã đến cắn xé con lừa và mang đi. Vừa thương tiếc cho chú lừa, vừa lo sợ cho thân phận của mình, hai người bộ hành chỉ còn biết leo lên cây để tránh tai họa.Vừa tức giận, vừa mỉa mai, người bạn cứng lòng mới thốt lên: “Nào, Chúa quan phòng của anh còn tốt nữa không?”. Người tín hữu ngoan đạo dõng dạc tuyên bố: “Nếu con sư tử không bắt gặp con lừa trước, thì chắc chắn nó đã bổ nhào trên chúng ta rồi. Tạ ơn Chúa là Ðấng tốt lành”.
Một vài phút sau, con gà cồ bỗng kêu la thất thanh. Hai người bộ hành mới trèo cao hơn. Họ nhận ra con gà cồ đang nằm trong nanh vuốt của một chú mèo rừng. Họa vô đơn chí! Chỉ vài phút sau đó, một cơn gió mạnh ùa đến, ngọn đuốc bỗng tắt ngụm đưa hai người vào trong cảnh tối tăm ghê rợn. Lần này, người tín hữu ngoan đạo chỉ biết giữ thinh lặng trước lời xiên xỏ của người bạn không tin Chúa của mình.
Sáng hôm sau, hai người mon men trở lại làng để mua thức ăn. Họ mới hay biết rằng đêm hôm đó một băng cướp đã đột nhập vào làng cướp của giết người. Nhìn cảnh tượng hoang tàn của ngôi làng, người có lòng tin mới giải thích cho người bạn như sau: “Anh đã chứng kiến từ đầu đến cuối. Giá như đêm hôm qua, chúng ta thuê được một chỗ trọ trong làng, thì có lẽ chúng ta cũng không thoát khỏi tay của bọn cướp. Nếu cơn gió lớn không làm tắt ngọn đuốc của chúng ta, thì hẳn bọn chúng đã nhìn thấy chúng ta. Bạn thấy chưa, trong tất cả mọi sự, Thiên Chúa luôn là Ðấng quan phòng tuyệt hảo”.
Thiên Chúa không muốn cho chúng ta gặp phải sự dữ. Trong Cựu ước sự kiện thiên thần Raphael phù hộ cho ông Tobia trên đường đi cưới vợ, hay là Thiên Chúa có thể biến sự dữ thành điều lành cho chúng ta như trường hợp ông Giuse bị bán sang Ai Cập,tất cả nói lên sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu dùng hình ảnh con chim sẻ chẳng đáng mấy đồng hay bông huệ ngoài đồng nay còn mai mất mà vẫn được Thiên Chúa chăm sóc, huống hồ là con người chúng ta…
– Ngày đầu năm mới,người ta thường cầu chúc cho nhau mạnh khỏe,bằng an, hạnh phúc… Những gì người ta đã có thì không cần chúc nữa. Vậy thì khi cầu chúc cho người khác điều gì là cũng hàm chứa một chút lo lắng trong đó. Chúng ta lo ngại người thân có thể gặp rắc rối vì bệnh tật nên mới chúc “mạnh khỏe”. Vì chưa giàu đủ nên mới chúc “Phát tài”, sợ tai nạn hay chuyện này chuyện nọ xảy ra nên mới chúc “bình an”. Mỗi lời chúc đều hàm chứa một phần sự thiện mà chúng ta ao ước và đồng thời cũng hàm chứa một “nỗi lo”. Tuy nhiên lời Chúa hôm nay lại là tin vui cho chúng ta. Bởi vì Chúa Giêsu cho chúng ta biết chúng ta có một người Cha là Thiên Chúa rất quyền năng mà lại nhân lành luôn quan tâm đến mỗi người đến độ một sợi tóc trên đầu rụng xuống Chúa cũng tính cả rồi. Như vậy thì chăng việc gì phải lo những chuyện không đâu,như là lo động đất,lo thiên thạch lao vào trái đất, lo tận thế…
– Chớ lo lắng về ngày mai không có nghĩa là cứ nằm chờ sung rụng. Các nhà tu đức dạy rằng: Cầu nguyện mà không hành động là sự xúc phạm đến Thiên Chúa.Cũng như một người bị bệnh cầu xin Chúa chữa cho mình mà không thèm sử dụng những phương thế y học mà Thiên Chúa đã ban cho con người khám phá ra…
– Tin vào Chúa quan phòng, chúng ta yên tâm mạnh dạn sắp xếp chương trình sống cho gia đình của mình trong đó ưu tiên cho việc kiếm tìm Nước Thiên Chúa. Ưu tiên cho việc cầu nguyện và các việc đạo đức thay vì dành hết tất cả thời gian cho công việc làm ăn mà thôi. Ưu tiên cho việc kiếm tìm Nước Thiên Chúa cũng có nghĩa là chúng ta phải dám hy sinh chấp nhận một phần thiệt thòi nào đó về vật chất, dành một phần kinh phí cho việc đạo thay vì sợ tốn tiền xăng rồi không dám đi lễ…
Để kết thúc, chúng ta tin tưởng nhắc lại lời Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI trong phần mở đầu sứ điệp Hòa Bình: “Năm mới luôn mang lại cho chúng ta niềm hy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn. Trong ánh sáng này, tôi nguyện xin Thiên Chúa, là Cha của nhân loại, ban cho tất cả chúng ta sự hoà thuận và bình an để những khao khát của chúng ta về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng có thể được thành tựu.”
65. Bình an, quà tặng năm mới--Lm. Gioan Baotixita Nguyễn Quốc Hoan
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Kitô.
Bình an, đó là điều mà chúng ta mong ước và cầu chúc cho nhau mỗi dịp Tết đến xuân về. Bình an là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người kể cả trên bình diện xã hội và tâm linh. Bình an như là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang đồng hành giữa nhân loại và thái độ đáp trả của con người bằng đời sống yêu thương. Vì khi sống yêu thương, chúng ta cũng đồng thời được tận hưởng một thế giới an bình.
Thiên Chúa là nguồn mạch bình an
Nguồn bình an đích thực đến từ Thiên Chúa. Từ tạo thiên lập địa, chính Thiên Chúa đã khai thông nguồn bình an ấy đến tận muôn loài. Riêng đối với con người, Ngài đã ưu ái đặc biệt khi cho chúng ta được cộng tác với Ngài trong việc tạo lập bình an cho thế giới. Nhưng chúng ta đã khước từ tình yêu của Thiên Chúa, lạm dụng quyền tự do Ngài ban theo chiều hướng xấu dẫn đến bất an, đau khổ.
Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Khi nhân loại bị tước mất nguồn bình an vì phải xa lìa Thiên Chúa, thì chính Ngài lại tiếp tục nâng đỡ và kêu mời chúng ta trở về nhận lại ơn bình an nơi Con Một Người là Đức Giêsu Kitô.
“Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1Tx 5, 23-24).
Một khi ý định của Thiên Chúa đã được thành toàn nơi Đức Kitô, nhân loại thực sự được mời gọi bước vào sống trong thế giới của nguồn bình an vô tận. Khi đã được tháp nhập vào thân thể huyền nhiệm của Đức Kitô, chúng ta không còn phải bất an vì lo sợ quyền lực sự dữ thống trị.
“Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó” (Cl 3, 15).
Cuộc lữ hành trong Đức tin của người môn đệ dù phải đối diện với muôn vàn mối hiểm nguy luôn rình rập đe doạ, nhưng đó sẽ là cơ hội quý giá cho chúng ta tận hưởng bình an chân thật do chính Thập giá mang lại.
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi” (Ga 14, 27).
Không có bình an nếu thiếu tình yêu
Như vậy, bình an là quà tặng vô giá do bởi tình yêu mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Điều này cho thấy bản chất của bình an được khởi đi từ tình yêu. Tình yêu vừa là động lực, vừa là cốt tuỷ của sự bình an. Bình an mà Đức Kitô đã dành trọn cho nhân loại trong công cuộc cứu độ của Ngài, chính là nguồn bình an mà nhờ đó con người được sống trong tình yêu Thiên Chúa và anh em.
Kitô giáo đã mở ra cho chúng ta một hướng nhìn toàn diện khi nghiệm xét điều mà nhân loại hôm nay không ngừng vươn tới: Bình An. Đích điểm mà con người bao đời vẫn kỳ vọng là được sống trong một thế giới hoà bình sẽ trở thành ảo tưởng, nếu thế giới ấy thiếu đi tình thương.
Vẫn còn đó những bất an khi con người chưa đáp ứng lời mời gọi của Đức Kitô: hoà giải, thứ tha.
Vẫn còn đó những bất an khi những nhóm, hay cá nhân bất chấp các nguyên tắc luân lý nền tảng của sự sống và nhân phẩm con người.
Vẫn còn đó những những bất an khi người ta nhân danh quyền lực để xâm hại quyền lợi đồng bào vô tội.
Vẫn còn đó những bất an khi đồng tiền được đặt trên tình thương…
Vẫn còn đó những bất an khi chúng ta chưa chịu xả thân hết mình để chia sẻ những mất mát, đau thương của bao người…
Bình an – quà tặng năm mới
BÌNH AN- Món quà thiêng liêng nhất mà chúng ta trao đến nhau trong ngày đầu năm mới. Nó không là một lời chúc suông hoa mỹ, mà hàm chứa một thái độ sống, một nỗ lực sống của chúng ta trên chặng đường những tháng ngày mới đang mở ra.
Món quà BÌNH AN chỉ thực sự sinh động và và có ý nghĩa khi chúng ta gói gém vào trong đó những nguyện ước chân thành và thiện chí xây dựng một cuộc sống êm ấm tốt đẹp cho nhau.
Món quà BÌNH AN chỉ có thể đem lại bầu khí an bình đích thực khi nó được khắc vào đó dấu ấn Thân Ái – Thứ Tha.
Một năm mới bình an khi mỗi người dành cho nhau nhiều thời giờ trao đổi, chia sẻ, nâng đỡ và cùng nhau thăng tiến trong hiệp nhất.
Bình an là ân ban của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua Đức Kitô. Do vậy, thực chất của ơn bình an chính là một cuộc sống luôn kết hiệp với Đức Kitô trên tinh thần tôn trọng sự thật và xây dựng một xã hội công bình, yêu thương.
“Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo” (Cl 3, 14).
66. Lời chúc đầu năm--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tết đến, lời chúc đầu năm mang nhiều ý nghĩa, và là biểu trưng thiêng liêng cho tình cảm giữa con người với nhau. Tết mang đến những gì mới mẻ, trẻ trung, sức sống, cho nên ai cũng muốn chúc Tết và được chúc Tết.
Ngày thường gặp nhau “tiếng chào cao hơn mâm cỗ”. Người Việt lấy ứng xử nhân nghĩa ở đời làm thước đo văn hóa nên chào hỏi trở thành nghi lễ trong xã giao, và nó trở thành nét đẹp văn hóa đời thường. Lời chúc đầu năm thiêng liêng là lời hay ý đẹp dành tặng cho nhau.
Thi sĩ Bùi Nghiệp có bài thơ “Chúc Tết” ngũ phúc lâm môn.
Chẳng có món gì mừng tuổi nhau
Gọi là năm mới tết thêm màu
Thôi thì mượn chữ người xưa cũ
Mến chúc xuân này ngũ phúc sâu
Phước ngập gia đình lẫn tổ gia
Niềm vui trên dưới sống chan hòa
Ân tình nghĩa thiết luôn đằm thắm
Vắng mặt gần lòng chẳng có xa
Lộc nảy mầm tươi kết tựu thành
Xum xuê cành lá trổ vươn xanh
Đơm hoa kết trái mau thông đạt
Phấn khởi tiền tài lợi tức nhanh
Thọ với đất trời tựa núi sông
Tuổi già dù đến cứ ung dung
Bên đàn con cháu đông vui đủ
Ríu rít xum xuê cội bách tùng
Khang an tráng kiện tháng ngày vui
Gân cốt bền dai dạo chợ đời
Thời tiết bốn mùa xem nhẹ hẫng
Nắng mưa nóng lạnh chuyện thường thôi
Ninh tĩnh bình yên dưới mái nhà
Khó khăn trắc trở đẩy lùi xa
An cư lạc nghiệp thuyền xuôi mái
Gia tộc luôn vui sống thuận hòa
Ngũ phúc lâm môn đón quý thần
Cận kề gia tộc suốt hằng năm
Đầu xuân mến chúc chư bằng hữu
Vạn sự hanh thông phúc đức tràn…
Những ngày đầu năm, lời chúc trước tiên là dành cho người thân ruột thịt trong gia đình dòng tộc. Đêm 30 Tết, tham dự thánh lễ tất niên, gia đình đoàn viên, cả nhà quây quần nói chuyện tâm tình, ôn lại buồn vui được mất của năm qua đón chờ giao thừa. Thắp nến sáng lung linh trên bàn thờ, đốt nén nhang thơm tỏa ngát. Chuông nhà thờ ngân vang đúng lúc giao thừa. Mọi người dâng lời kinh hạt đầu năm mới, sau đó vui vẻ chúc mừng nhau. Con cháu chúc ông bà cha mẹ, anh chị chúc mừng em, ba mẹ chúc con cái, ông bà chúc con cháu. Lòng ai cũng nao nao thời khắc giao thừa vui vầy trang trọng, gần gũi thiêng liêng ấm áp tình thân.
Sáng Mồng Một, thánh lễ Minh niên, đến nhà thờ gặp nhau ai cũng rôm rã lời chúc mừng năm mới. Cha xứ chúc cộng đoàn, mọi người chúc mừng nhau những lời tốt đẹp. Những ngày tết đến thăm nhau, gia chủ mời ly trà ly rượu thân tình và cầu chúc những lời hay nhất: ơn thánh dồi dào, sức khỏe bình an, hạnh phúc thành đạt, làm ăn tấn tới. Hàng xóm thân quen, người này đến thăm người kia, rộn ràng vui vẻ, nén nhang thắp trên bàn thờ gia tiên, ly rượu đầu xuân mời nhau thân thiết, nói chuyện đầu năm nụ cười tươi nở. Đơn sơ mà ấm áp, thăm nhau chúc nhau mấy ngày xuân được xem như nghiã cử ở đời thật đáng quý đáng trân trọng. Tiếng Việt vốn phong phú nên lời chúc Tết cũng muôn hình vạn trạng, không cứng nhắc và không sáo ngữ. Ai cũng chọn lọc câu chữ tinh tế để người nghe cảm thấy vui lòng tin tưởng. Lời chúc làm cho tâm hồn cảm thấy thăng hoa hạnh phúc, niềm vui dâng tràn. Gặp nhau đầu năm mới, lời chúc Tết bao hàm nhiều ý nghĩa tốt đẹp. Ngày thường giận nhau ghét nhau thế nào đi nữa, nhưng Tết đến Xuân về mọi lời chúc đều trở nên chan hòa trân trọng tràn ngập yêu thương gắn bó mọi người, mọi gia đình trong giáo xứ. Lời chúc đầu năm trở thành văn hóa thẩm mỹ mang nhiều ý nghĩa thiêng liêng của dân tộc Việt Nam.
Đối với người Kitô hữu, lời chúc Tết hay nhất, mang đến hạnh phúc và niềm vui trọn vẹn chính là Lời Chúa trong sách Dân Số:
“Đức Chúa phán với ông Môsê: Hãy nói với Aharon và các con nó rằng:
Khi chúc lành cho con cái Ítraen, anh em hãy nói thế này:
“Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em!
Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em!
Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!
Chúc như thế là đặt con cái Ítraen dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng” (Ds 6, 22-27).
Chúa Giêsu không chúc theo kiểu thế gian. Khi Chúa Giáng Sinh, các thiên thần đã chúc bình an cho người thiện tâm. Khi Phục Sinh, Chúa cũng chúc bình an cho các môn đệ trung thành. Bài giảng trên núi “Tám mối phúc thật” là Hiến Chương Nước Trời, Chúa Giêsu chúc phúc cho những thân phận nhỏ bé, bị thua thiệt hay bị áp bức đáng thương, cùng những tâm hồn biết hướng về Chúa, về tha nhân.
Chúa Giêsu không chúc “phú quý thọ khang ninh” mà chúc phúc Nước Trời cho những ai có tâm hồn nghèo khó, không nô lệ tiền bạc vật chất hay tiện nghi, những người bé mọn, yếu đuối, oan ức, đau buồn, khóc lóc. Khi có tấm lòng thanh thoát, sẵn sàng đón nhận Lời Chúa gieo vào, bén rễ và sinh hoa kết trái, là phúc trường sinh sau này.
Mừng Xuân và vui Tết nhưng phải luôn nhớ “mình là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19). Vì thế người tín hữu luôn tâm niệm lời Chúa dặn dò: “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia (nghĩa là của cải vật chất), Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 33). Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
Sẽ không mong là an khang thịnh vượng, là công thành danh toại, là buôn may bán đắt, là vạn sự như ý, là… là… Nhưng chỉ cần tâm nguyện là một năm mới trong tình thương của Chúa, một năm mới bình an, một năm mới theo thánh ý Chúa, một năm mới thuộc về Chúa. Niềm hạnh phúc của một tâm hồn trong sạch và có Chúa ở cùng, cũng chính là niềm hạnh phúc mà chúng ta cầu chúc cho nhau trong năm mới Mậu Tuất này.
Lạy Chúa, mỗi lần Tết đến, chúng con dành cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất và ước ao cho tất cả cầu chúc ấy trở nên hiện thực trong năm mới. Giờ đây, dưới ánh sáng của Lời Chúa, chúng con biết rằng Chúa là khởi nguyên và cùng đích của mọi phúc lành. Chúng con xin đặt đất nước chúng con, gia đình, bạn bè thân hữu, và tất cả anh chị em chúng con dưới sự bảo trợ của danh Chúa trong năm mới này. Xin Chúa chúc lành cho chúng con.
Lạy Chúa, khi chúng con chúc lành cho nhau, xin hướng lòng chúng con về Chúa và thưa lên: Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh chị em!
Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh chị em và dủ lòng thương anh chị em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em!
67. Mùa xuân phó thác--Trích Logos A
Ngày xưa, tại ngôi làng thuộc một vùng núi, người dân có tục lệ rất hay. Hằng năm, cứ mỗi độ xuân về, mọi người già trẻ lớn bé đều tham dự cuộc thi đua tìm bông hoa đầu tiên của mùa xuân. Ai tìm thấy và hái được bông hoa ấy, sẽ được xem là người may mắn nhất trong năm.
Một năm nọ, tuyết đông vừa tan, mặt trời vừa ló dạng, mọi người trong làng kéo nhau lên núi tham gia cuộc thi. Buổi sáng trôi qua mà không có ai tìm được bông hoa nào. Giữa lúc mọi người đang chán nản định bỏ cuộc, thì trên triền núi cao, có tiếng reo hò mừng rỡ:
– Tôi đã tìm thấy rồi!
Đó là tiếng reo hò của một cậu bé trong làng. Mọi người chạy đến chia sẻ niềm vui với cậu bé. Nhưng không may cho cậu, bông hoa nằm kẹt trong một khe đá dưới vực sâu. Muốn được xem là người may mắn nhất trong năm, chính cậu phải là người đích thân hái bông hoa ấy.
Năm người đàn ông lực lưỡng nhất trong làng đem một sợi dây thừng đến giúp cậu bé leo xuống vực. Nhưng cậu bé không dám leo xuống. Người ta đem đến một sợi dây thừng khác, chắc chắn hơn và huy động tất cả trai tráng trong làng giữ dây thừng cho cậu. Nhưng cậu cũng không chịu leo xuống. Mọi người hết lời khích lệ, cổ vũ nhưng vô vọng. Cuối cùng, cậu bé nói một cách quả quyết:
Tôi sẽ leo xuống vực, với điều kiện để cho bố tôi nắm dây thừng.
Có lẽ mọi người chúng ta đều mong ước hái được những bông hoa đầu xuân và trở thành những người may mắn như vậy. Tuy nhiên, cũng giống như bàn tay hái hoa hồng, phải chấp nhận bị gai nhọn đâm, thì để có được những bông hoa rực rỡ trong cuộc sống, người ta cũng phải trả một giá đắt. Cậu bé trong câu chuyện chỉ dám leo xuống vực sâu vì có bàn tay người cha bảo vệ.
Hôm nay, chúng ta bước vào ngưỡng cửa của năm mới với tâm hồn đầy âu lo khi nhìn vào năm mới với nhiều bất trắc và thử thách. Nhưng chúng ta cũng vững tâm vì luôn có bàn tay Chúa bảo vệ và dẫn đưa. Lời Chúa trong bài Tin Mừng theo thánh Matthêu khiến chúng ta an lòng: “Các con đừng lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo”.
Thêm tuổi, thêm phúc lộc.
Khi cuốn sách cuộc đời mở thêm một trang mới, tâm hồn chúng ta nặng trĩu lo âu vì có biết bao gian khổ đang chờ đón trước mặt. Gánh nặng cuộc sống luôn đè nặng trên vai chúng ta: làm sao để đủ ăn, đủ mặc? Làm sao chu toàn bổn phận đối với bản thân, gia đình và xã hội? Điều gì sẽ xảy ra trong tương lai? Bất hạnh hay may lành? Những nỗi xao xuyến và lo lắng ấy theo chúng ta bước vào năm mới này.
Chúng ta hãy nhớ rằng: dù đau khổ, đói nghèo, dù chết chóc ly biệt, cuộc sống này tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống. Chúa mời gọi chúng ta hãy có thái độ hân hoan và lạc quan, vui tươi và an bình. Chúng ta hãy đặt trọn tương lai vào bàn tay quan phòng của Chúa. chính Chúa đã mở thêm một trang sách cuộc đời chúng ta, Ngài sẽ viết lên đó những nét mực yêu thương, sẽ giữ gìn cuốn sách đời ta luôn nguyên vẹn. Ngài sẽ che chở và dưỡng nuôi chúng ta bằng tấm lòng của Người Cha Nhân Lành, miễn là chúng ta luôn phó thác và cậy trông vào Ngài.
Vì thế, thêm tuổi là thêm những phúc lộc mới. Chúa trao cho ta tuổi mới, Ngài cũng trao ban những ân huệ mới. Ngài luôn canh giữ và bảo vệ chúng ta trong vòng tay nhân từ của Ngài.
Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa.
Năm 1923, một nhóm người giàu có nổi tiếng của nước Mỹ đã gặp gỡ nhau trong một khách sạn miền Viễn Tây. Họ trao đổi với nhau những kinh nghiệm làm giàu. Nhưng 25 năm sau, những gì đã xảy đến cho họ?
Charles Schwab, giám đốc công ty thép lớn nhất ở Mỹ, đã chết vì bị phá sản.
Samuel Insull, giám đốc công ty sản xuất đồ gia dụng, đã bỏ nước ra đi và chết không một đồng xu dính túi.
Howard Hopson, giám đốc hãng Gas, đã trở thành điên loạn. Arthur Cutten, nhà xuất nhập cảng lúa mì, cũng chết ở nước ngoài trong cảnh nghèo túng.
Richard Whitney, giám đốc hối đoái New York, đã lên cơn điên phải vào bệnh viện.
Albert Fall, nhân vật cao cấp trong chính phủ, phải vào tù vì tham nhũng.
Bức tranh trên đây khiến chúng ta phải suy nghĩ và tự hỏi: sự giàu sang thật sự có phải là niềm hạnh phúc không? Tiền bạc của cải tự nó không phải là điều xấu. Ai trong chúng ta cũng cần có tiền bạc của cải để sống xứng với phẩm giá của mình.
Tuy nhiên, tiền bạc của cải luôn là con dao hai lưỡi: nếu được xử dụng như phương tiện, sẽ giúp chúng ta nên thánh, nếu được coi như thần tượng, sẽ sai khiến và đè bẹp chúng ta.
Hôm nay, ngày đầu năm mới, Chúa mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn lên cao, vượt lên những lo lắng thế tục, những dục vọng trần gian, để thấy Chúa chính là cùng đích mà chúng ta kiếm tìm: “Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”.
Chúng ta hãy đặt vào bàn tay Thiên Chúa tất cả những chương trình và dự định của mình trong năm mới. Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo, là Chủ thời gian và toàn thể vũ trụ (bài đọc 1, trích sách Sáng Thế). Thiên Chúa sẽ dìu dắt chúng ta bằng đôi tay của Đấng Quan Phòng và bằng trái tim của Người Cha Nhân Lành.
Điều quan trọng là chúng ta phải luôn hướng về Chúa với lòng cậy trông và lời nguyện cầu hằng ngày, kèm theo tâm tình tạ ơn như lời thánh Phaolô dạy: “Trong khi cầu nguyện, anh em hãy trình bày những ước vọng lên cùng Chúa, bằng kinh nguyện và lời cầu xin đi đôi với lời cảm tạ…” (bài đọc 2, trích thư Philipphê).
Người ta kể lại câu chuyện sau:
Có một người sống trên tầng 80 của một chung cư cao ngất. Ngày kia, về nhà sau giờ làm việc, người đó choáng váng nhận ra thang máy của chung cư bị hư. Anh ta buộc phải leo bộ lên căn hộ của mình.
Anh ta leo đến tầng 20 rất nhanh nhẹn. Thậm chí còn xách hộ đồ cho người khác. Khi đến tầng 40, anh ta bắt đầu mệt mỏi, trả lại túi đồ cho người bạn và quyết định để lại cả túi xách của mình, dự định sẽ quay lại lấy vào ngày hôm sau. Khi lên đến tầng 60, anh ta dừng lại nghỉ chân nhiều hơn, kéo lê từng bước lên thang lầu.
Cuối cùng, người đó cũng lên đến căn hộ của mình. Nhưng lên đến nơi, anh ta mới phát hiện ra mình để quên chìa khóa phòng trong túi xách để lại ở tầng 40. Thế là anh ta đành phải ngủ ngoài hành lang cho đến khi thang máy được sửa xong.
Câu chuyện này cũng là câu chuyện của chúng ta. Tòa nhà 80 tầng là cuộc đời của mỗi người. Mỗi tầng lầu là một tuổi mà chúng ta đã trải qua.
Khi bước vào tuổi 20, chúng ta hăng hái và đầy quảng đại bước đi trên cuộc hành trình đức tin. Đến tuổi 40, chúng ta bắt đầu tính toán hơn thiệt, chỉ nghĩ đến mình và thu quén cho mình. Đến tuổi 60, chúng ta bắt đầu mệt mỏi, lê bước trên đường sống đạo. Điều quan trọng nhất, khi bước lên tầng 80 của đời người, đứng trước cánh cửa cuối cùng, có thể chúng ta đã đánh mất chiếc chìa khóa mở ra phần rỗi cho đời mình.
Hôm nay, bắt đầu năm mới, chúng ta bước lên một tầng lầu mới của tòa nhà cuộc đời. Chúng ta hãy đặt bàn tay mình vào bàn tay Chúa. Chúa sẽ nâng đỡ dìu dắt chúng ta bước lên một cách vững vàng.
Đừng mang theo hành trang cồng kềnh của tiền bạc danh vọng chóng qua, nhưng hãy mang theo trái tim đầy tình yêu chia sẻ.
Đừng đánh mất chiếc chìa khóa của niềm tin, chiếc chìa khóa mở ra cho chúng ta cánh cửa hạnh phúc đời đời.
68. Thánh Lễ Giao Thừa
Trong những ngày này và cách riêng trong những giờ phút linh thiêng của năm cũ sắp qua đi, nhường chỗ cho thời gian năm mới đến, tự nhiên mỗi người, mỗi gia đình và toàn xã hội đều muốn có cái nhìn tổng kết mọi mặt về một năm đã qua. Tất nhiên anh chị em cũng muốn chúng tôi trình bày một bản báo cáo tổng kết về Giáo Xứ để định hướng cho tương lai. Nhưng những báo cáo tổng kết chúng ta thường thấy dường như không phản ảnh những gì mà Lời Chúa đòi hỏi.
Trước hết Bài Sách Dân Số, chúng ta vừa nghe công bố, muốn khẳng định cuộc sống mỗi người, mỗi gia đình và của cả Dân Tộc, tất cả đều tùy thuộc vào CHÚC LÀNH của Thiên Chúa. Nói cách khác thời gian là HỒNG ÂN Thiên Chúa trao ban cho con người. Và vì thế cũng là Thời Gian mà con người phải công bố Phúc Lành của Thiên Chúa cho mọi người. Hơn thế nữa, Lời Chúa còn xác định thật rõ ràng: Chúc Lành của Thiên Chúa chính là việc "Chúa tỏ Nhan Thánh Chúa", là việc "Chúa ghé mặt lại". Nhan Thánh Chúa là Nhan Thánh của lòng thương xót, khuôn mặt Chúa là khuôn mặt của bình an. Tất nhiên, những công trình vật chất như nhà cửa, ruộng vườn, công ăn việc làm, những ngày lễ, ngày hội... tất cả đều có thể là những dấu chỉ của hồng ân, nhưng không phải là chính Hồng Ân nếu chúng không vén mở cho chúng ta thấy NHAN THÁNH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT VÀ KHUÔN MẶT CỦA BÌNH AN của Chúa. Với quan điểm ấy, chúng ta thấy trong năm đã qua, Chúa đã tỏ Nhan Thánh Lòng Thương Xót Chúa qua rất nhiều cơ hội cách đặc biệt dành cho Giáo Xứ chúng ta. Nhưng khi đón nhận Hồng Ân Nhan Thánh, chúng ta cách nào đó lại đã che lấp Nhan Thánh mà phô trương khuôn mặt trần tục vinh vang của xác thịt. Chúng ta đã xúc phạm Nhan Thánh.
Để thấy rõ sự sai lạc của mình, chúng ta hãy nghe Thánh Phaolô minh giải về các Hồng Ân Chúa ban. Theo thánh Tông Đồ, mọi Hồng Ân đều đã được ban tặng cho chúng ta trong Chúa Giêsu Kitô. Và Hồng Ân trong Đức Giêsu chính là Thánh Thần và Lời Thiên Chúa. Hồng ân Thánh Thần và Lời Thiên Chúa nhằm thanh tẩy chúng ta, biến đổi chúng ta nên một thân thể trong Đức Kitô. Lẽ ra khi đón nhận những dấu chỉ của Hồng Ân, thánh Phaolô nói chúng ta phải tránh xa sự dữ dưới mọi hình thức, và giữ lại những điều gì tốt, nhưng thực tế xem ra không được như thế: khi sự dữ càng ngày càng xâm chiếm cuộc sống chúng ta.
Hồng ân Chúa nhằm đưa cuộc sống của Chúa Giêsu Kitô vào trong cuộc sống chúng ta để chúng ta được nên đồng hình đồng dạng với Người. Con người mà chính Người đã diễn tả trong bài Tin Mừng: đó là một người nghèo, một người hiền lành, một người than khóc, một người đói khát công chính, một người biết thương xót, một người trong sạch, một người kiến tạo hòa bình, một người chấp nhận bị bách hại vì lẽ công chính. Thế nhưng, mặc dù có thể được qúa nhiều dấu chỉ của hồng ân, nhưng chúng ta lại biến những dấu chỉ trở thành quyền lực của bản thân, để tự cao tự đại, để áp bức và khinh khi tha nhân! Và nhất là làm suy giảm sự hiệp nhất trong Giáo Xứ.
Vậy làm sao tôi có thể làm bản tổng kết của Giáo Xứ này trong năm qua. Thánh Phaolô cũng từng nói với giáo dân của mình "Anh chị em chính là triều thiên của tôi, anh chị em chính là chứng thư của tôi trước Nhan Thánh Chúa". Nhưng triều thiên tôi có, chứng thư tôi cầm trong tay là gì đây?
Nhìn lại năm cũ thực tế là như vậy, nhưng tôi không bi quan, tôi vẫn hướng về năm sắp tới với tâm tình tri ân và đền tạ, đồng thời vẫn kiên vững trong niềm hy vọng Chúa là Đấng Trung Tín, chính Người sẽ thực hiện điều Người muốn cho Giáo Xứ.
Dẫu sao trong tư cách là chủ chăn riêng của Giáo Xứ, tôi nhận mình có phần trách nhiệm chính yếu về những yếu kém của Giáo Xứ, do những thiếu sót và tội lỗi của chính mình. Vì vậy lẽ ra như thư Do Thái đã viết, hằng ngày tôi phải dâng của lễ đền tội bản thân đã lỗi phạm và cũng đền tội cho dân chúng nữa. Nhưng có lẽ chính những lễ dâng đền tội này chưa đủ đẹp lòng Chúa, vậy tôi xin anh chị em tha thiết cầu nguyện cách riêng cho tôi ngay từ giây phút này và trong năm mới biết dâng lên những lễ tế xuất phát từ "tấm lòng tan nát giày vò" để Chúa chẳng khinh chê mà ban cho Giáo xứ rực rỡ ánh Tôn Nhan Thương Xót và Bình An của Người, để Giáo Xứ trở nên dấu chỉ và thực tại của sự hiệp nhất yêu thương của Chúa giữa lòng xã hội hôm nay. Amen.
69. Giao Thừa Đoàn Tụ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Tết là khởi đầu của một năm, là dịp lễ quan trọng và linh thiêng nhất trong một năm. Ngày Tết ai cũng ao ước khởi đầu lại. Ai cũng muốn rũ bỏ những gì không tốt đẹp của năm qua để đón nhận một luồng sinh khí mới. Thế nên, mọi người đều cố gắng vui vẻ độ lượng với nhau, bỏ qua hiềm khích cũ. Sống tình thân ái trong những ngày Tết. Lòng người ai cũng tràn đầy hoài bão về hạnh phúc và thịnh vượng cho năm mới.
Ngày tết với những giờ phút rất linh thiêng gọi là giao thừa. Một thời khắc giao thoa giữa cũ và mới. Giữa quá khứ và hiện tại. Một thời khắc con người như muốn chuyển mình cùng vạn vật, hoà mình vào chốn tâm linh, bỏ lại phía sau bao nỗi ưu tư, vất vả truân chuyên trong cuộc sống. Một thời khắc tràn đầy niềm lạc quan hy vọng cho một năm mới an bình, hạnh phúc và thịnh vượng.
Ngày Tết còn là dịp để gia đình dòng tộc sum họp. Dù ai đi ngược về xuôi cũng muốn trở về đoàn tụ với gia đình trong giây phút linh thiêng ấy. Quây quần bên bàn thờ, thắp lên nén hương trầm trên bàn thờ tổ tiên để tưởng nhớ tới ông bà, cha mẹ những người đã nuôi nấng sinh thành ra mình nay đã khuất. Vì cây có cội, nước có nguồn. Con người cũng phải nhớ về tổ tiên để tỏ lòng tri ân và cầu mong các ngài chúc phúc cho một năm mới bình an.
Trong giây phút giao thừa, mỗi thành viên trong gia đình thường lần lượt chúc tuổi nhau. Con cháu chúc mừng ông bà mạnh khoẻ sống lâu. Ông bà cha mẹ mừng tuổi lại con cháu chăm ngoan, học giỏi, thảo hiếu, vâng lời. ... Ngày tết người lớn thường không quên lì xì cho con cháu với một ý nghĩa tượng trưng, mong sang một năm mới con cháu sẽ gặt hái được nhiều điều tốt đẹp.
Một việc làm trong Ba ngày tết có lẽ không thể thiếu chính là lễ hội tâm linh. Ngày tết người Phật Giáo rủ nhau đi Chùa. Người Công Giáo đến Nhà Thờ như muốn hoà vào dòng người đi lễ để cảm nhận được sự giao hoà của trời đất. Để gởi gắm vào chốn linh thiêng những ưu từ hoài bão lên Đấng Tạo Thành. Chính nơi đây, con người cũng tìm thấy sự thanh thoát, nhẹ nhàng cho tâm hồn như những làn khói nhẹ bay vào chốn không trung.
Người Công Giáo chúng ta luôn nhìn nhận Thiên Chúa là chủ thời gian. Thiên Chúa sắp đặt mọi vận hành của trời đất và con người. Thế nên, gửi gắm tâm tình lên Đấng Tạo Thành trời đất là lẽ thường tình. Chỉ có Ngài mới làm cho "con tạo xoay vần" theo chu kỳ của nó. Chỉ có Ngài mới giúp con người đạt được ước nguyện của mình.
Thế nê, hôm nay trong giây phút giao thừa, mỗi người hãy để lòng mình thanh thản nương theo thánh ý Chúa. Hãy trao vào tay Chúa những ưu phiền lắng lo. Hãy đặt niềm tin trọn vẹn vào Thiên Chúa có thể xoay vần cuộc đời theo như ý Ngài. Xin phó thác mọi sự trong tay Ngài. Và trước thềm một năm mới, chúng ta cùng kính chúc nhau:
- Vừa đủ HẠNH PHÚC để giữ tâm hồn luôn ngọt ngào
- Vừa đủ THỬ THÁCH để luôn kiên nhẫn trung kiên
- Vừa đủ HY VỌNG để luôn hạnh phúc
- Vừa đủ THẤT BẠI để luôn khiêm nhường
- Vừa đủ THÀNH CÔNG để luôn nhiệt tâm
- Vừa đủ BẠN BÈ để được an ủi
- Vừa đủ VẬT CHẤT để đáp ứng mọi nhu cầu
- Vừa đủ NHIỆT TÌNH để đời thêm hân hoan
- Vừa đủ NIỀM TIN để xua tan thất bại
Xin cầu chúc cho nhau một đêm giao thừa ấm áp Tình Chúa – Tình Người. Amen
70. Bàn giao năm cũ – Mt 5, 1-10--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Giây phút huyền nhiệm của đêm giao thừa như có một sự gì đó hết sức linh thiêng vì năm cũ chuyển giao cho năm mới. Đây là giây phút trời với đất gặp nhau, trời và đất giao hòa như lời Thánh vịnh 133,3 viết:" Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion ". Lời khẩn cầu ấy phải là lời nguyện xin của mỗi người, mỗi gia đình khấn van Chúa tưới đổ muôn hồng ân xuống năm mới để người người, nhà nhà được an bình, thịnh vượng và hạnh phúc.
Với truyền của người Việt Nam, đêm giao thừa là đêm thánh thiêng, đêm con người gặp gỡ thần linh, đêm con người gặp gỡ trời và đất. Thường người lớn trong gia đình đứng trước bàn thờ tổ tiên, ông bà để khấn vái tổ tiên, khấn xin người trên ban cho gia đình được nhiều hồng phúc, ban cho gia đình được dồi dào sức khỏe, may mắn và bình an. Đối với các Kitô hữu, giây phút giao thừa là giây phút con người gặp gỡ Thiên Chúa để nói lời cảm tạ tri ân Ngài vì muôn ân phúc Ngài đã ban cho con người, cho mỗi người, cho gia đình trong suốt một năm qua. Do đó, giây phút giao thừa là giây phút linh thiêng nhất: Thiên Chúa gặp gỡ con người và con người gặp gỡ Thiên Chúa. Giây phút linh thánh trời và đất gặp nhau, Thiên Chúa đang ở với con người và con người đang đối diện với Thiên Chúa. Giây phút huyền diệu này con người không biết diễn tả sao cho hết tình Chúa thương yêu con người. Trong giây phút ấy, con người chỉ biết hợp cùng Giáo Hội ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa:" Lạy Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Trong Cha chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con hằng nghiệm thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn nhận bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng, muôn đời được sống lại từ cõi chết " (Lời Kinh Tiền Tụng Chúa Nhật IV Thường niên). Chúng ta có thể nói không ngoa vì giây phút này là giây phút tuyệt hảo, giây phút hạnh phúc nhất con người gặp gỡ Đấng vô cùng chí thánh, giống như giây phút trên núi Sinai, Môsê không dám nhìn vào bụi gai đang cháy khi Thiên Chúa đang ở đó. Môsê phải cúi mặt xuống, không dám nhìn vào Chúa.
Vâng, mỗi nước, mỗi dân tộc có một tập tục, một cách thể hiện để đón năm mới, nhưng dù với cách nào, với tập tục nào, truyền thống nào, người môn đệ Chúa luôn coi giây phút giao thừa là giây phút linh thiêng, giây phút năm cũ sẽ nhường chỗ cho một năm mới tới. Người môn đệ Chúa luôn ước mong năm mới sẽ đẹp hơn, tốt hơn năm cũ. Người môn đệ Chúa sẽ xua đi tất cả những gì được coi như xui xẻo, coi như không được may mắn của năm cũ và đón chào những gì tốt hơn, quí hơn của năm mới mà Thiên Chúa sẽ trao ban cho họ.
Lạy Chúa Giêsu, trong giây phút linh thánh của đêm giao thừa, xin cho mọi người môn đệ Chúa luôn biết nói lời cảm tạ tri ân Thiên Chúa vì những ơn huệ đã nhận lãnh và nhận ra những hồng ân mà Ngài sẽ ban cho nhân loại, cho con người, cho mỗi gia đình trong năm mới bắt đầu này. Amen.
71. Xin cho tất cả đều mới—Lm. Jos Nguyễn Hưng Lợi
Đêm giao thừa khởi đầu một năm mới. Người Việt Nam có tục xông nhà, xông đất các gia chủ mong có người hiền, nhanh nhẹn, tử tế đến xông nhà đầu tiên để gia đình có người tốt đặt chân đầu tiên sẽ gặp những điều mới, điều tốt lành trong năm mới. Người Kitô hữu cũng có tập tục, truyền thống rất quí quá là dâng ngày đầu năm cho Thiên Chúa. Dâng những giây phút đầu của một năm, người Kitô hữu mong Chúa đổi mới và chúc lành cho năm mới.
NHỮNG ƯỚC NGUYỆN MỚI CHO MỘT NĂM MỚI:
Ngay ca nhập lễ thánh lễ minh niên đã viết:" Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài"(Tv 66, 2-3). Từ cái giây phút linh thiêng của đêm giao thừa khi trời đất giao hòa, năm cũ bàn giao cho năm mới.
Con người trước bàn thờ nghi ngút hương trầm bay đã cầu xin Thiên Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn phúc cho năm mới và qua những chén trà, ly rượu chúc mừng, con người đã muốn cầu chúc cho nhau sức khỏe, điều lành, điều tốt. Và chính ngay lúc khởi đầu của những ngày mới, con người quả đã muốn mọi sự cũ phải được qua đi, cái mới, cái đẹp phải loé rạng, tỏa sáng. Trong thánh lễ tân niên, người Kitô hữu luôn đặt tin tưởng, cậy trông và phó thác. Mọi sự đều do Chúa, đều bởi Ngài vì thế như lời thánh vịnh viết:" Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người sẽ ra tay. Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh, công lý bạn, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ" và như Tin Mừng đọc trong thánh lễ này, thánh sử Matthêu đã viết:" Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho". Ngày mồng một và suốt cả năm mới, người Kitô hữu luôn ước nguyện làm theo ý Chúa và tin tưởng, phó thác cho Chúa vì mọi sự sự đều do Ngài, bởi Ngài. Thánh Phaolô nhấn mạnh:" Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!". Nguyện ước cho mọi sự được mới, cho tất cả tỏa sáng trong Chúa, cho mọi người được an lành, vui khỏe. Đó là những ước nguyện chân thực của con người...
TRÊN HẾT MỌI SỰ HÃY VUI LÊN:
"Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng"(Tv 36).Để có được lòng tin tỏa chiếu, người Kitô hữu ngoài những nguyện ước bình thường cho cuộc đời thường ngày, họ còn phải có lòng tín thác tuyệt đối cho Thiên Chúa, Đấng tác sinh nên họ và họ phải đi đến chỗ tin tưởng phó thác:" ...ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy". Năm mới, người Kitô hữu cầu xin cho được sức khỏe, an bình và thịnh vượng, nhưng điều chính yếu họ sống tin, yêu, cậy trông và phó thác:" Vì Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó "(Mt 6, 32).
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, trong ngày đầu năm mới chúng con họp nhau đây để dâng lòi chúc tụng ngợi khen Chúa. Cúi xin Chúa mở lượng hải hà, ban cho hết mọi người chúng con trong năm 2004 này được bình an mạnh khỏe, càng thêm tuổi càng thêm nhân đức hầu đáng hưởng phúc lộc dồi dào"(Lời nguyện nhập lễ, thánh lễ minh niên).
72. Thánh Lễ Giao Thừa (Mt 5, 1-10)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Thế là 365 ngày đã qua đi. Đêm nay trời và đất như giao hòa, kết duyên. Giây phút mà thi sĩ Hàn Mạc Tử đã nói:" Giây phút thiêng liêng đã khởi đầu". Giờ này, nhân loại, con người đối diện với Thiên Chúa, Đấng là chủ thời gian, là Chúa của vũ trụ, của nhân loại, của con người. Vào phút giây huyền diệu này, thời gian cũ như ngừng lại, bàn giao cho một thời gian mới, một năm mới. Con người chỉ còn biết dâng lên Thiên chúa, vua mùa xuân lời cảm tạ sâu xa và tha thiết xin Chúa giáng phúc lành cho năm mới được phúc lộc miên trường.
GIÂY PHÚT LINH THIÊNG
Con người trong đêm thiêng liêng của sự giao hòa đất trời, luôn cảm nghiệm có một cái gì đó rất đời thường nhưng cũng vô cùng linh thiêng. Cái giờ phút những ngày cũ của một năm cũ đã qua đi. Thời gian như đi mãi, đi hoài và hầu như không dừng lại. Nhưng giữa cái mốc điểm của đêm giao thừa huyền nhiệm: đêm đẩy lùi quá khứ hướng về tương lai, đêm linh thánh báo hiệu những ngày mới của một năm mới đã ló rạng. Đêm mà con người đối diện với Thiên Chúa, Chúa của mùa xuân, Chúa của lịch sử, Chúa của loài người, đêm giao thừa, con người chỉ có thể khẩn cầu Thiên Chúa như thánh vịnh 133, 3 đã viết:" Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion" và như ca nhập lễ đêm giao thừa đã thốt lên: "trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh". Đêm hôm nay, trong cõi u tịch của sự bàn giao thời gian, con người chỉ có thể hiểu được: Vũ Trụ, Xuân, Hạ, Thu, Đông luôn vần xoay, xoay chuyển và con người có là gì đều do Thiên Chúa. Nên, tâm tình đầu tiên trong giây phút linh thánh của đêm giao thừa là sám hối, tạ ơn. Sám hối để luôn đón nhận Chúa và tạ ơn để hiểu mọi sự đều bởi Chúa. Sách dân số 6, 22-27 đã viết:".khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này: nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!". Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của Danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng. Đêm giao thừa trong giây phút thiêng liêng nhất: phút giây trời đất giao hòa, con người hãy hướng cả tâm hồn của mình lên Thiên Chúa, Chúa của mùa xuân vĩnh cửu để tạ ơn và xin Chúa chúc lành:" Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh em, gìn giữ mọi người"(Dân số 6, 22-27).
HÃY TẠ ƠN VÀ CẦU NGUYỆN KHÔNG NGỪNG
Thánh Phaolô đã viết:" Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh"(1thes. 5, 16). Con người và nhân loại trong giây phút thiêng liêng của đêm giao thừa hãy tạ ơn Chúa, kết hiệp mật thiết với Chúa bằng lời cầu nguyện liên lỉ. Những ngày tháng năm cũ, chắc chắn có lúc ta gặp những điều thuận lợi, nhưng có nhiều lúc ta gặp những sự bất trắc, thử thách khó khăn. Tất cả những điều đó là những thánh đố của mỗi người. Con người dù có thêm tuổi, dù gánh nặng chồng chất trên vai, dù có sự thay đổi của tuổi tác, của trí tuệ, của khả năng, của sức khỏe. Nhưng, tất cả đều là ân huệ của Chúa. Tất cả đều làm vinh quang cho Ngài. Và rồi, con người chỉ có thể đứng vững khi họ biết bước trên từng nấc thang của tám mối phúc thật. Và như thế, con người sẽ vĩnh viễn ở trước mặt Chúa cho dù thời gian có đi qua. Con người không chỉ sống đơn độc một mình, họ còn có một mái ấm gia đình. Giờ phút linh thiêng của một năm mới đã khởi đầu: xin Chúa thánh hóa các gia đình và để các gia đình có thể gần gũi Chúa, phương thế các gia đình phải thực hiện là lần chuỗi mân côi. Xin cho từng người và mọi người, mọi gia đình biết tạ ơn Chúa không ngừng và cầu nguyện liên lỉ để ý Chúa được thực hiện dưới đất cũng như trên trời. Có như thế, thời gian sẽ trở thành vĩnh cửu và xuân sẽ là cái mốc cho con người càng lúc càng gần Thiên Chúa.
Lạy Chúa là Chúa xuân vĩnh cửu:" Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao? Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời"(Tv 120,1.).
Xin Chúa ban cho chúng con biết biến giây phút linh thiêng đêm giao thừa này trở nên lời ca ngợi tình thương vô biên của Chúa.
Lạy Chúa, xin nhìn đến lòng tin của chúng con mà luôn luôn che chở giữ gìn, hầu suốt cả năm nay chúng con được sống trong tình thương của Chúa (lời nguyện hiệp lễ, lễ giao thừa).
73. Giây phút thiêng liêng (Mt 5, 1-10)
Cứ mỗi giao thừa, tôi lại có những cảm nghiệm về giây phút linh thiêng, giây phút bàn giao giữa năm cũ và năm mới. Mà sao không lạ lùng và hồi hộp khi năm cũ nhường bước cho những giây phút linh thiêng nhất, giây phút đẹp nhất cho một năm mới khởi đầu. Và Hàn Mạc Tử đã không ngần ngại viết những câu thơ thật truyền cảm, nhẹ nhàng như đưa hồn cao người vào chốn linh thiêng, tuyệt diệu:" Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu. Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ! Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt. Như đón từ xa một ý thơ ".
GIÂY PHÚT LINH THIÊNG CỦA MỘT ĐÊM KHAI MÀO NĂM MỚI: Sự linh thánh của đêm giao thưa như gợi trong trí của mỗi người về giây phút hết sức huyền diệu, giây phút hết sức linh thánh, giây phút đong đưa giữa cái cũ và cái mới. Lời thánh vịnh:" Cúi xin Đấng tạo thành trời đất, xuống cho đoàn con muôn ngàn phúc cả từ núi thánh Sion " (Tv 133, 3).
Lời thánh vịnh này là lời khẩn cầu Thiên Chúa tưới xuống muôn hồng ân để con người, mỗi người được sống trong niềm vui, hạnh phúc và sự an bình.Giây phút giao thừa vẫn là giây phút đẹp, giây phút thiêng liêng, giây phút mà mỗi người đều cảm thấy như có một cái gì đó thôi thúc, như có một cái gì đó níu kéo con người và làm cho con hướng tâm hồn lên cao, hướng tâm hồn lên Thiên Chúa để xin Thiên Chúa gia ân giáng phúc cho cho mọi người, mọi nhà hầu con người được sống trong hòa bình và sống trong yêu thương. Đêm giao thừa, người ta vẫn có tục lệ khấn vái cầu xin ơn trên đổ muôn ơn hồng phúc xuống cho con người. Đối với với người công giáo, đêm giao thừa sẽ là đêm người Kitô hữu ngước mặt lên Chúa và cầu khẩn nguyện xin:" Trong giờ phút giao thừa này, chúng con hướng tâm hồn lên Chúa. Cúi xin Chúa rộng ban cho chúng con một năm dồi dào phúc lộc, và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh ". Giây phút giao thừa là giây phút trời đất giao hòa: Năm cũ nhường cho năm mới. Một năm mới đã mở ra và mọi người sống giây phút này trong niềm tin, trong hy vọng và sống trong sự yêu thương bởi chính Thiên Chúa là tình yêu.
GIÂY PHÚT GIAO HÒA GIỮA THIÊN CHÚA VÀ CON NGƯỜI: Trong đêm giao thừa, trong giây phút linh thiêng, con người đứng trước bàn thờ, dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân vì muôn vàn hồng ân Thiên Chúa đã ban cho con người, đã ban cho từng người trong suốt một năm qua. Giây phút giao hòa trời đất là giây phút con người gặp gỡ Thiên Chúa, con người gặp gỡ Đấng vô cùng thánh thiện. Thiên Chúa đang ở với con người, sống với con người và sống vì con người.Trong giây phút Thiên Chúa gặp con người và con người đối diện với Thiên Chúa. Con người hiệp với Hội Thánh ca tụng tình thương vô biên của Thiên Chúa:" Lạy Cha Chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Trong Cha chúng con được hiện hữu, được sống và hoạt động. Ngay trên cõi đời này, chẳng những chúng con hằng nghiệm thấy hiệu quả tình thương của Cha, mà còn nhận bảo chứng sự sống muôn đời. Quả vậy, chúng con được nhận lãnh ân huệ mở đầu là Chúa Thánh Thần, nhờ Người, Cha đã cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết; do đó, chúng con hy vọng, muôn đời được sống lại từ cõi chết"
(Lời Tiền Tụng Chúa Nhật IV thường niên). Giây phút Thiên Chúa và con người là giây phút thánh thiêng, giây phút hạnh phúc nhất vì Thiên Chúa là Tình Yêu, là Mùa Xuân vĩnh cửu.
MUÔN ĐỜI VẪN LÀ LỜI CẢM TẠ: Cảm tạ là một hồng ân. Chính vì thế, con người, mỗi người luôn phải nói lời tri ân cảm tạ. Bởi vì, Thiên Chúa không cần lời cảm tạ của chúng ta, nhưng nói lên lời cảm tạ lại là một hồng ân Chúa ban.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa ban sự sống cho chúng ta.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì phép lạ lớn nhất Thiên Chúa đang làm cho chúng ta là cho chúng ta còn sống tới giờ phút này.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa còn cho chúng ta thấy ngày khởi đầu của một năm mới.
Chúng ta cảm tạ Chúa vì Chúa còn cho chúng ta gặp gỡ mọi người.
Tình thương của Chúa đời con ca tụng (Tv 88). Lời Thánh vịnh này luôn thúc bách chúng ta hãy tạ ơn tình thương vô biên, tình thương tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, trong giây phút giao thừa linh thiêng đêm nay, xin củng cố đức tin cho chúng con, để chúng con luôn nhìn ra tình thương tuyệt vời của Chúa và để chúng con nhận ra những giây phút mở đầu của ngày mới là giây phút quý hóa nhất cho một năm mới tốt đẹp và trong lành. Amen.
74. Hãy phó thác cho Chúa tương lai đời ta 2017--Mt 6, 25-34--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúng ta vừa bước sang năm mới, năm Đinh Dậu, năm con gà. Con gà, đặc biệt là gà trống hiện diện nhiều trong nhiều nền văn hóa Phương Đông và Phương Tây. Là vật nuôi từ được thuần hóa từ lâu trong lịch sử, gà gắn bó với cuộc sống con người, nhất là trong tôn giáo và thần thoại. Từ thời cổ đại, gà đã là một loài vật linh thiêng trong một số nền văn hóa và gắn chặt với nhiều hệ thống tín ngưỡng và thờ cúng tôn giáo với tư cách là lễ vật (vật hiến tế hay vật tế thần). Gà có vai trò quan trọng trong đời sống người dân, ở vùng nông thôn, tiếng gà trống gáy là tiếng đồng hồ báo thức cho con người ở những vùng quê êm ả. Trong văn hóa phương Đông, gà là một trong 12 con giáp với biểu tượng Dậu và cũng nằm trong lục súc.
Trong nhà đạo, có lắm chuyện về con gà, từ chuyện vui đến chuyện thật. Chúng ta cùng mở Kinh Thánh để tìm chuyện con gà, hầu có thể đem ra suy gẫm nhân ngày đầu năm mới. Nếu có gà trống nghênh ngang như sách Gióp mô tả:
“Ai làm cho cò lửa khôn ngoan,
Ai ban trí tuệ cho gà trống? ” (Gióp 38,36),
Thì cũng có gà mái hiền lành luôn chăm sóc cho đàn con thơ bé. Mở Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta tìm thấy hình ảnh đàn gà mẹ con ấy được Chúa Giêsu sánh ví như là tình thương của Chúa đối với loài người: “Đã bao lần ta muốn tập họp các ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh” (Mt 23,37; Lc 13,3).
Nếu tiếng gà gáy biểu hiện một sự kêu gọi tỉnh thức trong cuộc sống thường ngày, cụ thể tại các nước Á Đông như Việt Nam, tiếng gáy của gà trống như báo hiệu nhiều may mắn và tốt đẹp cho ngày mới, thì tiếng gà làm ông Phêrô giật mình bừng tỉnh, nhớ lại lời Đức Giêsu nói tối hôm qua: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần” (x. Mt 26, 75; Mc 14, 30; Lc 22,61). Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Kể từ đó, ông Phêrô đã thống hối liên lỉ như Ngắm Đứng đã mô tả: “Lọn đời đến sớm mai gà gáy, nhớ đến tội xưa liền khóc lóc”.
Vào thế kỷ VI, Đức Giáo hoàng Grêgôriô I tuyên bố gà trống là biểu tượng của Kitô giáo. Vì thế, nhiều nhà thờ bên Âu Châu có đặt hình một con gà trống ở trên nóc. Tại Việt Nam, nhà thờ chính toà Đà Lạt cũng được gọi là “nhà thờ con gà”.
Ở các nước châu Á, con gà gắn liền với nhiều hệ thống tín ngưỡng và thờ cúng tôn giáo với tư cách là lễ vật. Ở Việt Nam, gà là một dấu tích của văn minh nông nghiệp, thường được nhắc đến trong sách báo, hình ảnh con gà cục tác lá chanh là những nét chấm phá về một làng quê an bình với những triết lý sống nhân bản, thiên nhiên. Những nhà nho xưa cho rằng gà trống có đủ ngũ đức, gồm cả văn, vũ, nhân, trí và dũng:
Mào gà là mũ quan văn,
Cựa gà: võ khí của quan vũ tài.
Gà trống có cái dũng oai,
Xông vào địch thù đá hoài không ngơi.
Chữ nhân: khi kiếm được mồi,
Nhắc lên gà trống kêu mời mái ăn.
Chữ trí: gà biết đêm tàn,
Gáy vang báo thức cả làng tỉnh mơ.
Vì đủ ngũ đức như vậy nên gà trống có được cái oai phong lẫm liệt, uy dũng của một tổng tư lệnh điều binh khiển tướng. Sách Cách Ngôn đã tả cái dáng đường bệ của gà trống như một ông vua xuất chinh dẹp loạn.
Thôi thì cho dù năm Khỉ, Heo, Mèo, Gà thì cả tháng nay, mọi người đã sắm Tết, ăn Tết rồi. Hôm nay ngày đầu năm mới, ai cũng có cảm tưởng là có cái gì đó mơi mới, nên dùng chữ năm mới. Năm mới mọi cái đều phải mới.
Từ mấy hôm nay, chúng ta đã đi chúc tết nhau, và sẽ còn chúc tết nhau nữa. Thường người dướt tết người trên: con cháu tết ông bà cha mẹ, em tết anh chị, công nhân viên tết thủ trưởng, kèm theo món quà, tượng trưng cho tấm lòng thơm thảo. Ngoài bánh chưng bánh tét, hoa đào, hoa mai... có lẽ không gì nhiều bằng “lời chúc”. Ai cũng muốn dành những lời chúc tốt đẹp nhất cho gia đình, người thân, bạn bè trong những ngày này và ngược lại, ai cũng muốn mình được nhận nhiều những lời chúc. Muốn lời chúc của chúng ta trở thành hiện thực, hãy đặt tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa, bởi tất cả mọi sự đều do Chúa như lời thánh vịnh viết: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 36, 5).
Các Kitô hữu cũng có tập tục, truyền thống rất quí là dâng những giây phút đầu năm cho Thiên Chúa. Kitô hữu mong Chúa đổi mới và chúc lành cho năm mới. Lời nguyện nhập lễ chúng ta xin:"Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài" (Tv 66, 2-3). Chúa mới chính là gia nghiệp, là cùng đích mà con người cần phải kiếm tìm và đó cũng chính là sự tồn tại của con người.
“Các con chớ áy náy về ngày mai” (Mt 6,34). Chúa luôn muốn mọi người nghĩ đến hạnh phúc mai hậu của cuộc sống mình. Tương lai mỗi người đều nằm trong tay Thiên Chúa. Với tình thương và lòng nhân hậu của Ngài, chúng ta luôn tin tưởng và phó thác, bởi Ngài là người Cha luôn muốn những điều tốt nhất cho con cái. Lo lắng, bận rộn, tất bật làm việc để tích luỹ và để bảo đảm cho tương lai... tất cả đều tốt và cần thiết, nhưng cũng nên nhớ một điều “nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công”. Hãy làm tốt bao nhiêu có thể, những bổn phận và trách nhiệm của mình, phần còn lại hãy phó thác trong tay quan phòng của Thiên Chúa. Ngài sẽ hoàn tất những gì còn lại.
Kinh Thánh còn có những câu khác nói đến con gà trong năm mới Đinh Dậu. Nhưng thiết nghĩ trưng ra mấy câu trên cũng đủ chứng tỏ con vật cầm tinh trong năm Dậu cũng đã được Thánh Kinh nhắc đến.
Kính chúc mọi người một năm mới con gà đầy tràn ngũ đức: văn, vũ, nhân, trí, dũng, những đức tính mà các cụ xưa đã ca tụng con gà trống. Amen.
75. Chúa là mùa xuân vĩnh cửu--Giuse Vinh Sơn Ngọc Biển, S.S.P.
Trong bầu không khí hân hoan của cả dân tộc đón mừng năm mới, chúng ta quy tụ nhau nơi ngôi nhà thờ thân thương này, để cùng nhau ca tụng Thiên Chúa là Mùa Xuân Vĩnh Cửu thì thật là ý nghĩa và hợp lý biết chừng nào!
Khi niềm vui của chúng ta được quyện vào tình thương của Chúa, thì niềm vui của mỗi người được trở nên trọn vẹn. Điều này đã được thánh Phaolô nhắc các tín hữu của Ngài: “Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em” (Pl 4,4).
Không vui sao được, vì đối với người Công Giáo, niềm vui không chỉ dừng lại ở mùa xuân tự nhiên, mùa xuân của đất trời, hay mùa xuân của lòng người, mà niềm vui ấy còn được dâng cao để hòa quyện vào niềm vui Ơn Thánh, niềm vui của Mùa Xuân Vĩnh Cửu.
1. Niềm vui khi mùa xuân tự nhiên đến
Một quy luật tuần hoàn, sau 365 ngày, đất trời lại có mùa xuân mới. Cứ thế, nó đã đi vào quy luật tự nhiên. Quả thật: “Xuân khứ, xuân lai, xuân bất tận. Xuân đến, xuân đi, xuân lại về”. Có mùa xuân, bởi vì trái đất vần xoay, nên hết xuân sang hạ, hết hạ sang thu, hết thu sang đông và hết đông lại sang xuân.
Đây là quy luật của Tạo Hóa, Đấng đã cho tứ thời bát tiết chuyển xoay... khi mùa xuân đến, mọi người, mọi nhà, đều được hưởng niềm vui!
Vì thế, trên khuôn mặt mỗi người đều nở những nụ cười tươi vui, hạnh phúc, vì ai ai cũng được tận hưởng mùa xuân. Niềm vui ấy không thể giữ lại cho riêng mình, vì thế, chúng ta thường trao tặng cho nhau những lời cầu chúc tốt đẹp. Mong cho mọi người phúc ấm bền lâu, khang an thịnh đạt, phúc, lộc, thọ...
Thật là ý nghĩa khi mỗi người đều mong cho mình và cho tha nhân được:
“Tân niên thánh đức bao ân phúc,
Xuân nhật an hòa mãi phú vinh”
Tại sao có được niềm vui dạt dào nơi mọi người như vậy, thưa, bởi vì tự đáy lòng, con người cũng nở rộ mùa xuân.
2. Mùa Xuân của lòng người
Nếu xuân tự nhiên nơi đất trời là do quy luật tuần hoàn, thì xuân của lòng người hoàn toàn khác, bởi nó không tự đến rồi lại tự đi, mà phải do dày công vun đắp màu xuân mới có.
Vì thế, mùa xuân nơi lòng người, mỗi người cảm nghiệm mỗi khác, không ai giống ai. Có người thì vui, có kẻ lại buồn. Có người hạnh phúc, có người bất an. Có người được quây quần, có người chia ly. Có người được đoàn tụ, có kẻ bị cô đơn. Có người ấm lòng, có người lạnh tanh...
Như vậy, mùa xuân năm nay, có lẽ phải đặt ra cho mỗi người chúng ta một câu hỏi mà có nhiều người xem ra thật vớ vẩn, ngẩn ngơ, đó là: tết năm nay, xuân năm nay, bạn buồn hay vui???
Nhưng nghĩ suy một chút thì phải chăng câu hỏi đó không đến nỗi hẩm hiu, nhưng nó gợi lại cho chúng ta về niềm vui, hạnh phúc có hay không trong năm mới, trong mùa xuân này!
Thật ra thì năm hết, tết đến, có người vui vì thu được nhiều tiền, buôn may bán đắt, gia đình xum họp, thêm con dâu, có con dể, đầy đủ ấm êm...
Nhưng cũng có biết bao nhiêu cảnh đời éo le! Năm mới mà nhà nghèo hơn ngày thường! Không có tiền, không có tình yêu! Cha mẹ ly tán, con cái bơ vơ...!
Hay nhìn rộng ra, mùa xuân là mùa của niềm vui, của hy vọng, nhưng niềm vui đâu chẳng thấy, hy vọng có lẽ là thứ xa xỉ phẩm khi thấy quá nhiều bất công, áp bức, bóc lột, đâm chém, xì ke ma túy; đạo đức giáo dục xuống cấp, học sinh như người vô học, con cái lếu láo với cha mẹ, cha mẹ vô trách nhiệm với con cái, bạn bè phản bội nhau...
Khi suy nghĩ như thế, chúng ta thấy, niềm vui của lòng người bị giới hạn vào tâm trạng nội tâm, vì thế cảm xúc hoàn toàn khác nhau!
Tuy nhiên, với người Công Giáo, chúng ta gặp nhau ở một điểm, đó là mùa xuân tự nhiên, kết hợp với lòng người và vươn tới Mùa Xuân Ơn Thánh.
3. Mùa Xuân Ơn Thánh
Nếu mùa xuân tự nhiên cứ đều đặn tuần hoàn nối tiếp: “Xuân khứ, xuân lai, xuân bất tận”, hay mùa xuân của lòng người phụ thuộc vào thành quả hay tâm trạng chủ quan, thì Mùa Xuân Ơn Thánh là một mùa xuân bất diệt, toàn diện và được trao tặng cho hết mọi người...
Tuy nhiên, Mùa Xuân Ơn Thánh này lại phụ thuộc vào mỗi người, nếu đón nhận thì được dồi dào, phong phú, nhưng không đón nhận thì trơ trụi, cằn khô.
Một trong những nguyên nhân khiến con người không có Mùa Xuân Ơn Thánh, đó là: tâm hồn tràn ngập tội lỗi, ích kỷ, kiêu ngạo, bất công... Những người như thế, họ luôn mang trong tâm hồn mình một trạng thái bất an, tù túng, và không chừng, linh hồn sẽ bị chết chóc, sầu thương ảm đạm!
Chỉ khi nào con người biết khôn ngoan quay trở về với Chúa, rộng tay làm phúc cho kẻ túng nghèo và lo sống một cuộc đời thánh thiện, thì sẽ được Thiên Chúa ân chúc phúc. Lúc đó, con người mới hưởng được Mùa Xuân Ơn Thánh, nói cách khác, lúc đó Mùa Xuân Vĩnh Cửu mới hiện về trong tâm hồn của con người.
Nói cách cụ thể hơn, nếu muốn cho mùa xuân trở về trong trái tim chúng ta, thì chúng ta phải thực sự trở nên giống trẻ thơ để đón nhận tình thương của Thiên Chúa, vì Mùa Xuân Ơn Thánh chỉ đến với tâm hồn đơn sơ trong trắng mà thôi.
Khi có tâm hồn đơn sơ trong trắng, chúng ta phó thác đường đời cho Chúa, và phần còn lại, đó là chúng ta đi trong đường lối của Ngài để được dồi dào ân lộc: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”. Vì “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?”.
Hôm nay, ngày đầu năm mới, mỗi người chúng ta hãy cầu chúc cho nhau một năm mới không chỉ dừng lại ở niềm vui của mùa xuân đất trời, cũng không hệ tại lòng người, nhưng chúng ta luôn hướng lòng về Mùa Xuân Ơn Thánh – Vĩnh Cửu.
Ước mong Mùa Xuân Ơn Thánh – Mùa Xuân Vĩnh Cửu luôn ngự trị trong tâm hồn của chúng ta, để mỗi người chan chứa ân sủng và bình an trong năm mới này.
Kính chúc cộng đoàn một năm mới luôn luôn dạt dào Ơn Thánh, để:
“Xuân sang cội phúc sinh nhành lộc
Tết về cây đức trổ thêm hoa”
76. Lựa chọn đầu năm: Ưu tiên cho Thiên Chúa--Lm Giuse Nguyễn Văn Hữu
Năm hết, Tết đến, Xuân về, có nhiều điều khiến ta phải ưu tư lo lắng: Tết này ta ăn gì, mặc gì? Ta đi đâu để chơi xuân? Công việc làm ăn của ta sẽ như thế nào?
Chúa Giêsu dạy ta, đừng lo lắng cho mạng sống lấy gì mà ăn và cũng đừng lo lắng cho thân thể lấy gì mà mặc. Nhưng hãy phó thác mạng sống cho tình yêu quan phòng của Thiên Chúa. Điều ta cần phải làm và cần phải tìm kiếm trong suốt cả năm là “Tiên vàn các ngươi hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn các sự khác Người sẽ ban thêm cho sau.” Nghĩa là Chúa Giêsu bảo ta phải ưu tiên cho Thiên Chúa, lo tìm kiếm Nước Trời và sống công chính thánh thiện đẹp lòng Chúa. Nếu trọn đời ta sống theo lời Chúa dạy, chắc chắn trong cuộc sống ta sẽ được Chúa quan phòng chăn nuôi, gìn giữ như Người đã từng làm cho chim trời và hoa cỏ đồng nội.
Điều Chúa dạy sao mà giống điều cha ông chúng ta dạy thế ! Cha ông chúng ta đã từng dạy con cháu rằng: “Đầu xuôi thì đuôi lọt”.
Người không tin Chúa, thì đầu năm người ta nô nức rủ nhau đi lên đình lên chùa xin lộc thánh lộc thần, cuối năm người ta rộn ràng đến với thần thánh để tạ ơn.
Có một bài báo viết rằng những ngày đầu năm cũng như cuối năm lượng người đến với Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh rất đông. Có những người bận trăm công, nghìn việc cuối năm nhưng cũng không quên đến trả nợ Bà. Đầu năm đã đi vay của Bà thì cuối năm dù giàu hay nghèo, làm ăn phát tài hay thất bát vẫn phải trả đủ Bà và trả thêm phần lãi. Người vay nhiều thì trả nhiều, vay ít thì trả ít. Có người vay vài chục tỷ, cuối năm thuê cả xe tải chở lễ vật đến trả.
Có mặt tại đền, một tiểu thương ở Bắc Ninh cho biết: từ ngày lấy vợ, mở cửa hàng buôn bán năm nào anh cũng đến vay ít vốn. Đầu năm, anh vay của Bà 100 triệu đồng nên hôm nay anh và vợ anh mang đến cả gốc lẫn lãi lên đến 300 triệu.
Anh vui vẻ: “Mặc dù năm nay làm ăn cũng được, tiền làm ra lắm nhưng tiêu nhiều hơn. Mình tự nhủ có lẽ đầu năm có người cầm nhầm lễ của mình nên hơi xáo trộn trong buôn bán”. Anh nhớ lại hôm mùng 6 Tết năm ngoái, hai vợ chồng anh đi vay vốn trong cảnh người chen lấn. Khi đặt được lễ xuống đất, khấn lạy bà rồi lại chen ra để... thở, một lát sau anh vào không nhận ra nổi mâm cúng của mình đâu. Anh đành ngậm ngùi bê tạm một mâm của người khác ra hoá vàng.
Đầu năm anh chị em đến nhà thờ rất đông. Đến nhà thờ để xin ơn xin lộc Chúa. Chúa không cho mượn cũng không cho vay, nhưng Chúa ban tặng, biếu không cho ta tất cả. Nhưng lễ tạ ơn cuối năm được mấy chục người, được mấy gia đình. Cuối năm người đi chợ đông hơn đi nhà thờ, tất bật làm ăn, rộn ràng lo sắm tết hơn là tất bật và rộn ràng lo tạ ơn Chúa.
Ta xử sự như thế phải chăng ta vô ơn và coi thường ơn Chúa? Phải chăng ta không nhận ra, không nhình thấy ơn lành của Chúa trong đời sống cũng như trong những thành quả lao động?
Một dấu chỉ sự chúc lành của Chúa, một điều lạ lùng xảy ra nhãn tiền trong năm qua là mỗi người và mỗi gia đình chúng ta dù yếu đuối, tội lỗi, bất trung, nhưng chúng ta vẫn lãnh nhận biết bao tình thương, sự tha thứ và ơn lành của Chúa về phần hồn cũng như phần xác. Thế mà cuối năm, nhà thờ, thánh lễ vẫn vắng bóng người đến tạ ơn Chúa. Ta xử sự với Chúa như thế chẳng phải là ta chỉ lo tìm kiếm cái ăn cái mặc, ta chỉ lo lắng xây dựng trần thế này mà thôi, còn việc tìm kiếm Nước Thiên Chúa và làm đẹp lòng Chúa, thì ta chẳng cần quan tâm. Nói khác đi ta chỉ cần lo cho “đầu xuôi”, chẳng cần phải lo cho “đuôi lọt.”
Lạy Chúa, xin cho con trọn đời biết ưu tiên cho Chúa và tìm kiếm Nước Trời cũng như đức công chính của Người, để con luôn được Chúa quan phòng, gìn giữ chở che ở đời này và đời sau. Amen.
***************************************************
Thứ Ba: Mc 5, 21-43
Thứ Ba 01/02/2022 – Tin nơi Chúa Giêsu.
01/02 – Thứ Ba tuần 4 thường niên.
"Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy".
Lời Chúa: Mc 5, 21-43
Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng:: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống". Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía.
Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ:: “Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành". Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi:: “Ai đã chạm đến áo Ta?" Các môn đệ thưa Người rằng:: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi: “Ai chạm đến Ta?" Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà:: “Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh".
Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng:: “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?" Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng:: “Ông đừng sợ, hãy cứ tin". Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê.
Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ:: “Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó". Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng:: “Talitha, Koumi!", nghĩa là:: “Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!" Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho em bé ăn.
Suy Niệm 1: Đụng đến áo
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Giữa đám đông chen lấn chung quanh Ðức Giêsu,
có những người đụng vào áo Ngài.
Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý,
đụng lén như sợ bị bắt quả tang.
Ðó là cái đụng của một người phụ nữ,
mười hai năm mắc bệnh băng huyết,
mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi,
mười hai năm bị coi là ô nhơ:
không được đụng đến người khác,
không được tham dự nghi lễ ở Ðền thờ.
Người phụ nữ đụng vào áo Ðức Giêsu
bằng tay và bằng lòng tin,
một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ.
“Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.”
Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.
Trong đời sống Kitô hữu,
chúng ta đã nhiều lần đụng vào Chúa.
Ðụng đến Lời Ngài, đụng đến Mình Máu Thánh Ngài.
Ðụng bằng tay, bằng miệng, bằng rung động của trái tim.
Có những lần đụng chạm hời hợt vì thói quen,
không để lại một âm vang nào,
không đem lại một biến đổi nào trong cuộc sống.
Nhưng cũng có lần, như người phụ nữ,
ta run rẩy đụng vào Ngài, dù biết mình ô nhơ tội lỗi.
Hay nói đúng hơn,
vì biết mình ô nhơ tội lỗi mà ta cả dám đụng vào Ngài.
Ðụng vào Ðấng Thánh để được nên trong sạch.
Chúng ta cần đụng đến Ðức Giêsu mỗi ngày
và chúng ta cũng cần được Ngài đụng đến.
Ông trưởng hội đường xin Ngài đặt tay trên con mình.
Ngài đã cầm tay cô bé để kéo cô ra khỏi cái chết.
Như con gái của ông trưởng hội đường,
chúng ta cần được Chúa cầm tay và bảo:: “Hãy trỗi dậy.”
Trỗi dậy khỏi bệnh tật và cái chết.
Trỗi dậy và đi lại, ăn uống như người bình thường.
Trỗi dậy và sống vui tươi, tự do như con cái Thiên Chúa.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin.
Ðức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ:
“Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (c.34).
Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đảo của Giarô:
“Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (c.36).
Cần có lòng tin khi đụng chạm Chúa Giêsu.
Cần nhạy cảm để nhận ra cái đụng nhẹ của Ngài.
Khi đụng vào Thân Mình Ngài nơi bí tích Thánh Thể,
ta được mời gọi đụng đến nỗi khổ của anh em,
là những chi thể của Nhiệm Thể Ngài.
Khi đụng đến Lời Chúa nơi những trang Tin Mừng,
ta được mời gọi chạm đến Lời Chúa nơi mọi biến cố.
Chỉ cần để Chúa đụng đến bạn một lần thôi,
đời bạn sẽ hoàn toàn đổi mới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
Suy Niệm 2: Sự ân cần
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Bài Tin mừng cho thấy quyền năng phi phàm nhưng đồng thời cũng cho thấy sự ân cần của Chúa. Giữa những người chen lấn vẫn có sự quan tâm đến từng người. Giữa những người cao sang vẫn còn thì giờ quan tâm đến những người bé nhỏ. Quan tâm đến một phụ nữ vô danh. Đưa chị ra ánh sáng để ca ngợi đức tin mạnh mẽ của chị. Con người này cao quí vì có đức tin mạnh mẽ chứ không vì có địa vị trong xã hội. Quan tâm nên đến tận nhà một em bé. Thời xưa, trẻ con, nhất là trẻ gái, thường không được quan tâm. Huống hồ đây là một trẻ gái đã chết. Thái độ của Chúa thật ân cần. Chúa cầm tay và nói với em. Vừa yêu thương. Vừa trân trọng.. Và còn ân cần hơn nữa. Khi mọi người tíu tít mừng rỡ thì Chúa quan tâm lo cho em ăn uống.
Điều này khiến ta an tâm tin tưởng. Vì Chúa yêu thương và quan tâm đến từng người chúng ta. Dù chúng ta là những người bé nhỏ nghèo hèn, vô danh tiểu tốt. Còn hơn cả quan tâm, Chúa hi sinh vì chúng ta. Chúa gánh lấy mọi bệnh hoạn, đau khổ tật nguyền của chúng ta. Để chúng ta được lành mạnh. Người còn cam lòng chịu chết cho ta được sống. Như thư Do thái khẳng định:: “Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nhớ Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình như thế, để anh em khỏi sờn lòng nản chí”. Vì thế nếu ta gặp khó khăn thử thách, hãy vững lòng tin tưởng chiến đấu. Vì Chúa sẽ trợ giúp và giải thoát ta.: “Hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (năm lẻ).
Chúa bày tỏ tấm lòng của người cha yêu thương con. Nếu Đa-vít tiếc thương Áp-sa-lôm là đứa con phản bội. Thánh vương còn muốn chết thay cho con. Khi Áp-sa-lôm đã chết, nhà vua khóc thương:: “Áp-sa-lôm con ơi! Phải chi cha chết thay con”. Nhưng Chúa không chỉ muốn chết thay cho ta. Chúa thực sự đã chết cho ta (năm chẵn).
Vì thế dù tội lỗi đến đâu, ta hãy tin tưởng. Đứng dậy trở về. Vì Chúa quan tâm yêu thương từng người. Chúa đến tìm con chiên lạc. Chúa sẵn sàng chết cho ta được sống.
Suy Niệm 3: Nhận ra phép lạ mỗi ngày
Ngày 17/9/1961, máy bay chở ông Ðavít Hamacon, Tổng thư ký Liên hiệp quốc, đã ngộ nạn trên không phận nước Congo, Phi Châu. Ông Hamacon không chỉ là người hoạt động cho hòa bình và là một nhà chính trị lỗi lạc, ông còn là một nhà tu đức có chiều sâu. Sau khi ông qua đời, tại căn phòng của ông ở Nữu Ước, người ta đã tìm được tập tài liệu đánh máy, ghi lại những suy tư và cầu nguyện hằng ngày của ông. Trong tập tài liệu này người ta đọc thấy những dòng như sau:: “Thiên Chúa sẽ không chết, ngày mà chúng ta không còn tin ở thần linh nào nữa. Nhưng chính chúng ta sẽ chết, ngày nào cuộc sống của chúng ta không còn thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ không ngừng xảy ra, phép lạ mà lý trí chúng ta không biết từ đâu tới".
Cái chết mà ông Ðavít Hamacon nói trên đây chính là cái chết của tinh thần con người. Khi tinh thần con người không còn vượt qua khỏi chính mình để đi vào chiêm niệm, nghĩa là đi vào thế giới ở bên ngoài khả năng nắm bắt của lý trí, thì đó là lúc nó trở nên cằn cỗi và chết dần chết mòn.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới ấy, thế giới của những câu hỏi: “tại sao", mà lý trí con người không thể lý giải được. Phép lạ một người đàn bà bị băng huyết được chữa lành nhờ chỉ chạm đến áo của Chúa Giêsu, và phép lạ một em bé gái chết được Chúa Giêsu cho sống lại; cả hai phép lạ đều phát xuất từ lòng tin của con người. Ông trưởng hội đường đã biểu lộ lòng tin bằng cách lặn lội tìm đến với Chúa Giêsu xin Ngài tới đặt tay trên con gái của ông; người đàn bà băng huyết tin một cách mãnh liệt nơi sức mạnh phát xuất từ con người Chúa Giêsu. Nơi ông trưởng hội đường, lòng tin được tuyên xưng tỏ tường; nơi người đàn bà băng huyết, niềm tin rụt rè kín đáo. Nhưng dù tỏ tường hay kín đáo, chính lòng tin đã giúp cho phép lạ xảy ra, như Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà:: “Lòng tin của con đã cứu chữa con".
Niềm tin làm cho con người được sống, điều này vẫn thường xảy ra trong đời sống con người. Tất cả những thành công trong cuộc sống đều nhờ ở niềm tin, nhưng niềm tin tôn giáo thì quan trọng hơn, bởi vì chính sự sống tinh thần và tâm linh mới là điều cần thiết cho con người đạt được thành công. Có tất cả, nhưng thiếu đời sống tâm linh, con người vẫn như sống dở. Sống sung mãn, sống dồi dào, chính là sống nội tâm. Chỉ có một đời sống nội tâm sung mãn mới giúp con người thấy được, cảm nhận được những gì mà giác quan và lý trí không thể đạt được.
Cuộc sống vốn là một phép lạ, từng hơi thở con người là một phép lạ, mỗi ngày là một phép lạ, mỗi phút giây là một phép lạ. Chỉ có đôi mắt nội tâm mới cho con người cảm nhận được phép lạ triền miên ấy. Sống đích thực, sống dồi dào, là biết chiêm ngưỡng để đón nhận phép lạ từng ngày ấy.
Nguyện xin Chúa ban cho cuộc sống chúng ta luôn được thấm nhập bởi ánh sáng của phép lạ triền miên ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Một y dược mới lạ
Đức Giêsu xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp xuống dưới chân Người, và khẩn khoản nài xin:: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.” (Mc. 5, 21-23)
Tương truyền thánh Maccô là một y sĩ. Phúc âm của ngài đầy rẫy những chi tiết về thuốc men cùng những ngón nghề trị bệnh. Nhưng hình như ngài đã tự ý bỏ nghề làm thuốc sau khi đã so sánh những thành công về y khoa của mình với những thành công của Tin Mừng nơi Đức Giêsu Kitô. Thế nên, trong bài tường thuật này, Maccô muốn minh chứng sự đụng chạm đến Chúa Giêsu, dù là kín đáo, cũng tạo được một khả năng hữu hiệu là phục hồi sức khỏe hay phục sinh.
Đụng chạm đến Chúa Giêsu
Chúa Giêsu thực hiện một số phép lạ: “từ xa” hoặc bằng lời nói của Người. Trong trường hợp này, Maccô nhấn mạnh đến chi tiết này là phép lạ đã xảy ra nhờ tiếp xúc với Chúa:: “Ai đã sờ vào tôi?”,: “Người cầm lấy tay đứa bé”.
Chúng ta biết Chúa Giêsu có thể chữa bệnh từ xa, nhưng cũng phải biết rằng Người có thể tác động cách gần gũi, cảm thấy được. Các Bí tích là gì, nếu không phải là những cử chỉ và hành động của Đức Kitô – như trong Bí tích Thánh Thể – của chính Đức Kitô.
Nhưng chúng ta có giống như đám đông chen lấn Chúa, đụng chạm đến Người, mà chẳng sinh được hiệu quả gì chăng? Hay sẽ như người đàn bà nọ bị bệnh băng huyết tiến đến gần Người với lòng tin nên được khỏi bệnh chăng? Chúng ta đến lãnh nhận các Bí tích với tinh thần nào?
Dù là kín đáo không ai hay biết
Có nhiều phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện trước công chúng, mà mọi người được mắt thấy tai nghe. Trong trường hợp phép lạ ở đây, lại khác hẳn. Việc người phụ nữ bị bệnh loạn huyết được khỏi, chẳng có ai hay biết, còn số người chứng kiến việc con gái ông Giai-ia được phục sinh cũng chỉ có mấy người. Việc Chúa Giêsu hành động cách kín đáo, hoặc Người bảo người ta phải kín miệng cảnh báo chúng ta phải coi chừng những phép lạ hàng loạt, và những trường hợp lành bệnh có tính cách phô trương rùm beng. Mỗi người cần có niềm tin sâu xa tự đáy lòng mình, đó mới là điều cốt yếu.
Tiến tới một sự phục hồi toàn diện
Cuối cùng, sự tiếp xúc với chính Chúa Kitô và đụng chạm đến Người phải đưa đến một sự phục hồi toàn diện con người. Chúa Giêsu không ngừng làm cho ta đứng thẳng, trong tư thế của người đang làm việc; Người làm cho chúng ta trở thành người hữu ích, đảm đang. Và cứ như thế cho đến giai đoạn phục hồi chung cuộc, khi con người toàn diện của chúng ta, luôn tỉnh thức phục vụ, được phục sinh trong ngày Chúa ngự đến.
Suy Niệm 5: Tin sẽ được khỏi
Trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu gặp rất nhiều người đến xin Ngài chữa bệnh hoặc người ta tự ý đụng chạm đến Ngài để được khỏi bệnh. Trong mọi trường hợp, Ngài đều khơi gợi lên nơi họ một mối tương quan trực tiếp với Ngài. Mối liên hệ đó chính là đức tin. Có đức tin sẽ được lành. Không có đức tin thì không thể khỏi.
Hôm nay Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành một người đàn bà bị băng huyết và cho em bé 12 tuổi đã chết được sống lại.
Trường hợp người đàn bà băng huyết thì Đức Giêsu đòi hỏi bà ta phải có niềm tin trực tiếp vào Ngài. Còn với em bé được Ngài cho sống lại thì chính đức tin của cha em đã làm Đức Giêsu chạnh lòng thương và cứu sống em.
Trong cuộc sống đạo của chúng ta, nhiều khi chúng ta tin Chúa, nhưng tin nửa vời, tức là tin khi thành công, thuận lợi, nhưng khi đức tin bị thử thách, chúng ta sẵn sàng buông xuôi. Như vậy, nếu không có lợi thì tức khắc chúng ta chuyển niềm tin sang đối tượng khác! Chúa không còn là Đấng duy nhất chúng ta tin tưởng!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết cộng tác với ơn Chúa để làm cho đức tin của mình được triển nở. Bởi vì đức tin mà không việc làm thì đức tin chết. Đức tin phải được thanh uyện bằng những thử thách. Có thế, chúng ta mới có kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của mình, và mình mới đủ can đảm để làm chứng cho Chúa ngay trong những lúc khó khăn, thử thách nhất.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chính nhờ đức tin của chúng con vào Chúa, chúng con được sự sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Sờ vào áo Người, là sẽ được cứu
Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
Câu chuyện
Một tác giả người Mỹ đã ghi lại một câu chuyện về niềm tin như sau: Tại một vùng bên Hoa Kỳ, những tháng ngày nắng hạn kéo dài đã làm cho những cánh đồng nứt nẻ vàng úa. Ngày nào người dân trong vùng cũng ngước mắt nhìn lên trên trời với niềm mong đợi sẽ có một tín hiệu tốt, nhưng đất vẫn khô cằn, mưa vẫn không chịu rơi.
Một ngày Chúa nhật nọ, tất cả các vị mục sư tại các nhà thờ trong vùng kêu gọi mọi người đến tham dự một buổi cầu nguyện chung tại quảng trường thành phố để xin trời đổ mưa. Mọi người được yêu cầu đừng mang theo bất cứ điều gì ngoài niềm tin của mình.
Vào giữa trưa một ngày thứ Bảy, tất cả mọi cư dân trong vùng tập trung tại quảng trường. Tất cả mọi người đều tin tưởng ở sức mạnh của lời cầu nguyện. Họ đến đó tràn trề hy vọng. Các vị mục sư rất cảm động khi nhìn thấy đám đông đã hưởng ứng lời kêu gọi của họ. Từng đám đông đứng sát bên nhau, nắm tay nhau liên kết với nhau trong cùng một niềm tin và hy vọng. Những bài thánh ca được cất lên một cách sốt sắng. Mọi người đều tin tưởng và chờ đợi phép lạ. Khi buổi cầu nguyện vừa kết thúc, như có một lệnh thần diệu nào đó, những giọt mưa nhỏ đã bắt đầu rơi, những tiếng reo hò cũng bắt đầu vang lên. Mọi người đều phấn khởi trước phép lạ tỏ tường. Cầm trong tay bất cứ đồ vật gì, người ta cũng giơ lên để biểu lộ niềm hân hoan. Nhưng từ xa nhìn về đám đông người ta chỉ thấy có một biểu tượng đáng chú ý, đó là hình ảnh một cậu bé trai chín tuổi cầm dù gương lên cao. Em là người duy nhất mang theo dù để chuẩn bị đón mưa (Theo Radio Véritas).
Suy Niệm
Bà góa bị bệnh băng huyết, theo quan niệm của người Do Thái xưa, máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi bà mất dần đi, tiêu hao đi coi như bà là người đang đi vào cõi chết. Hơn thế nữa, theo Luật Môisê (x. Lv 15,25) bệnh xuất huyết là thứ bệnh dơ nhớp, bệnh nhân không được công khai giao thiệp với dân chúng: Bà có thể làm cho những người khác cũng bị nhơ vì tiếp xúc với bà. Cho nên, bà không chỉ đau đớn về bệnh tật hoành hành cả đời bà, niềm đau hơn nữa là bà bị loại ra khỏi mọi sinh hoạt xã hội, khỏi cộng đoàn tôn giáo. Trong cơn thất vọng về tình trạng bệnh tật và tâm linh, bà tin Đức Kitô có thể chữa bà khỏi cơn bạo bệnh và qua đó còn đưa bà trở về với cuộc sống xã hội. Bà tin và chân thành xin một chút sức mạnh từ nơi Đấng Mêssia bằng cử chỉ đụng vào áo Ngài, lòng tin đơn sơ nhưng thật mạnh mẽ:: “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi” (Mc 5,28). Và bà: “chạm đến áo Người” trong lúc bà mang cơn bệnh là thái độ liều lĩnh vì đã xé rào Luật Lệ ngăn cấm, nhưng đó cũng là thái độ đức tin vững vàng của bà. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.Ông Giairô đã không hề ngại đến thân thế của mình là trưởng hội đường, ông khiêm tốn nài xin Chúa Giêsu đến thăm viếng để cứu chữa người con gái ông đang bị bệnh nặng:: “Xin Ngài đặt tay trên nó”(Mc 5,23). Cử chỉ đặt tay trên bệnh nhân là cử chỉ Chúa thường dùng khi cứu chữa bệnh nhân và họ được khỏi bệnh (x. Mc 6,5; 7,32; 8,23). Xin Chúa đặt tay tức là tin rằng: Ngài sẽ chữa khỏi được bệnh cho con ông. Ông xác tín cử chỉ đặt tay của Thầy - Đấng Mêssia mang đến cho con ông được cứu như ông tuyên tín:: “Để nó được khỏi và được sống” (Mc 5,23b), dù em bé bệnh rất nặng và đang hấp hối nguy ngập. Thái độ này của Giairô biểu lộ một đức tin vững vàng, xác tín vào quyền năng của Chúa Giêsu và con ông đã được sống dù nó đã chết như người nhà loan báo khi Chúa đến đầu ngõ nhà ông.
Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin mà Đức Giêsu xác nhận. Với người phụ nữ đau khổ góa bụa mắc bệnh băng huyết có lòng tin vững vàng:: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,34) như mỗi lần chữa lành bệnh tật, Ngài thường khẳng định:: “Niềm tin của con đã cứu chữa con” (Mt 9,22; Lc 8,48; 17,19; 18,42…). Được lành bệnh, được phục hồi, người được chữa lành không chỉ tìm lại được sức khỏe thể lý mà còn có cuộc sống mới trong niềm tin và họ đã tuyên xưng. Còn ông Giairô, Ngài nâng đỡ ông hãy vững lòng tin:: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), khi ông muốn ngã quỵ vì nhận được tin dữ như sét đánh ngang tai:: “Con ông đã chết rồi: “ (Mc 5,35).
Sống đức tin là dám sẵn sàng ra khỏi chính mình để đi theo tiếng gọi của niềm tin, sẵn sàng đi ra khỏi tư tưởng áp đặt đám đông để sống thực cho những đòi hỏi của đức tin. Sống đức tin đích thực là sẵn sàng lội ngược dòng như bà góa vượt qua lề luật để gặp và sờ áo Chúa và ông Giairô vượt qua thân phận chủ hội đường mà đến với Đức Kitô.
Ngày hôm nay, mỗi chúng ta đều mang bệnh tật: Có thể về thể xác như mang các cơn bệnh, có thể là những thứ bệnh tâm lý như lo lắng, cô đơn, cay đắng, giận hờn, stress, có thể là những cơn bạo bệnh tâm linh khi sống mất phương hướng, hoang tàn trong cuộc đời, còn tệ hơn nữa là chết về tâm hồn... Chúng ta luôn cần được chữa lành như người phụ nữ mang bệnh tật đến với Đức Giêsu với niềm tin vào Ngài, như người cha Giairô xin Thầy đến bên con gái ông đang bị bệnh gần chết với niềm tin con ông được sống.
Mỗi giây phút cuộc đời, với tất cả tình trạng của mình, chúng ta hãy chạy đến với Thầy:: “Như trẻ thơ đặt hết niềm tin nơi Chúa” (Tv 131,2).
Suy Niệm 7: Chữa bệnh và cho sống lại
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay thánh Marcô thuật lạ cho chúng ta hai phép lạ. Khi Chúa Giêsu đang đứng trên bãi biển thì ông trưởng hội đường đến sấp mình van xin Người cứu chữa con gái ông sắp chết. Người liền đi với ông, và dân chúng kéo theo rất đông. Dọc đường, có người đàn bà mắc bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã tìm thầy chạy thuốc hết tiền hết của mà không hết bệnh. Khi nghe nói đến Chúa Giêsu, bà thầm nghĩ: nếu sờ được áo Người chắc khỏi bệnh, nên bà lẩn vào đám đông và sờ vào áo Chúa. Tức thì bà được lành bệnh.
Lúc ấy người nhà ông trưởng hội đường đến đưa tin con gái ông đã chết và khuyên đừng rước Chúa đi nữa. Nhưng Chúa bảo ông cứ vững tin. Rồi Người cùng với Phêrô, Giacôbê và Gioan đến nhà ông. Người cầm tay đứa bé và bảo: “Hỡi con, Ta truyền cho con chỗi dậy”. Tức thì đứa bé chỗi dậy, trước sự kinh ngạc của mọi người.
2. Muốn có phép lạ phải có đức tin đi trước.
Tất cả các phép lạ Chúa Giêsu làm đều có ý khơi dậy lòng tin cho người ta. Không ai có thể chối cãi đuợc những phép lạ Người đã làm như chữa bệnh, trừ quỉ, dẹp yên sóng gió, làm cho kẻ chết sống lại... Vì những phép lạ này làm công khai trước mặt mọi người và làm ngay tức khắc nên mọi người phải công nhận. Khi chữa bệnh xong, Chúa Giêsu hay nói với bệnh nhân: ”Đức tin của con đã chữa con”.
Người đàn bà bị băng huyết này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà, nhưng bà tự nhủ: “Tôi chỉ cần sờ vào gấu áo Người thì tôi sẽ được khỏi”. Nghĩ thế và bà đã dám làm, bất chấp luật lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe. Điều đó chứng tỏ bà đã có đức tin vững mạnh, và thúc đẩy Chúa làm phép lạ. Kết quả là bà đã được như ý khi Chúa nói với bà: “Đức tin của con đã chữa con”.
3. Phép lạ còn đòi phải có lòng khiêm nhường.
Ông trưởng hội đường Giairô hôm nay đã diễn tả lòng tin tưởng với khiêm nhường thẩm sâu. Ông là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm có ý thức và có thế giá. Thái độ khiêm nhường của ông trước mặt Chúa Giêsu diễn tả niềm tin sâu sắc của ông, ông đã quỳ mọp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Như vậy ông này phải tin Đức Giêsu là ai, có quyền phép thế nào mới có cử chỉ và thái độ khiêm nhường và kêu xin như thế. Qua thái độ tin tưởng và lời cầu xin ấy, ông đã được toại nguyện.
4. Qua việc chữa lành cho người đàn bà bị xuất huyết và phục sinh cho con gái ông trưởng hội đường, Chúa Giêsu đã tỏ bầy lòng thông cảm và quan tâm đến những nỗi khổ của con người.
Trong cuộc sống hằng ngày mà ai ai cũng biết thông cảm và quan tâm đến nhau thì đau khổ sẽ bị chế ngự và hạnh phúc sẽ ngự trị nơi mỗi người và trong xã hội.
Mỗi người trong chúng ta có một vai diễn trên sân khấu của cuộc đời.
Mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm với mọi người xung quanh, nói với họ rằng chúng ta yêu mến họ.
Nếu bạn không quan tâm đến người khác, bạn sẽ không bị trừng phạt đâu, đơn giản bạn chỉ bị lãng quên, hững hờ y như bạn đã từng đối với người khác.
Vậy từ hôm nay, chúng ta hãy tập thói quen bày tỏ sự quan tâm đến người khác. Đâu mất gì khi chúng ta nở một nụ cười, siết chặt một bàn tay, thốt lên một lời khích lệ hoặc đơn giản nói rằng chúng ta muốn lắng nghe.
5. Truyện: Biết lưu tâm đến người khác.
Vào tháng hai của một khóa học tại trường đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên chúng tôi làm một bài kiểm tra về kiến thức phổ thông.
Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối: “Chị tạp vụ ở trường tên là gì”? Tôi nghĩ đó chỉ là câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy chị vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sậm và khoảng 50 tuổi, nhưng làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ trống không trả lời câu hỏi đó.
Trước khi tan học, một sinh viên đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa làm. Giáo sư bộ môn trả lời:
- Tất nhiên là có tính điểm. Trong mọi ngành nghề, các anh chị luôn phải gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người. Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một nụ cười.
Tôi đã không quên bài học đó trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên của chị tạp vụ trong trường. Chị tên là Mai Hương.
Vâng, chúng ta hãy học tập cho mình một thói quen biết cảm thông và chia sẻ. Một trái tim biết cảm thông và chia sẻ là trái tim của con người.
Các nhà đạo đức ngày nay đã nói nhiều về sự: “dửng dưng và vô cảm” của người thời đại. Hình như cuộc sống càng cao, càng sung túc thì con người lại càng ích kỷ thêm. Nhiều người đã biến trái tim của mình thành vô cảm trước những nỗi khổ đau của người khác, nhất là những người nghèo khó đau khổ.
Là những người con của Chúa, chúng ta đừng bao giờ làm như thế. Hãy nhớ: Niềm vui biết chia sẻ là niềm vui sẽ được nhân lên gấp bội và nỗi buồn được chia sẻ là nỗi buồn sẽ vơi đi một nửa.
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu là chủ và nguồn của sự sống
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Phép lạ cuối cùng trong loạt 3 phép lạ mặc khải uy quyền của Chúa Giêsu trên sự sống và sự chết
- Nơi đứa con gái của ông Giairô sự sống đã mất hẳn vì nó đã chết, ai nấy cũng xác nhận cái chết ấy vì họ đã bắt đầu khóc than kêu la ầm ĩ, người ta còn cười nhạo khi Chúa Giêsu bảo nó chưa chết.
- Nơi người phụ nữ bị băng huyết sự sống đang mất dần (máu là biểu tượng của sự sống).
- Chúa Giêsu là chủ và là nguồn của sự sống:
a/ Người phụ nữ bị băng huyết chỉ cần sờ đến gấu áo Ngài thì sự sống được phục hồi;
b/ Ngài gọi cô bé sống lại cách dễ dàng như đánh thức một người khỏi giấc ngủ.
B.... nẩy mầm.
1. "Đứa bé có chết đâu. Nó ngủ đấy thôi". Khi Ladarô chết, Chúa Giêsu cũng nói "Ladarô bạn của ta đang yên giấc. Thầy đi đánh thức anh ấy dậy" (Ga 11,11). Đối với Chúa, chết chỉ là một giấc ngủ, mở mắt thức dậy là một cuộc sống thật, vĩnh cửu.
2. Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng: "Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng."
Bà cầu nguyện suốt ba ngày vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn thờ: "Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai."
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện. (Góp nhặt)
Ta chỉ tin suông vào sự sống thật mai sau. Thực chất là ta vẫn còn coi trọng sự sống đời này hơn.
3. Một ông lão ở Marocco đến gặp một nhà truyền giáo để tìm con đường cứu độ, vì ông biết mình chẳng sống bao lâu nữa. Để giúp ông, nhà truyền giáo dùng một cuốn sách, trong đó trang 1 màu đen tượng trưng cho tội lỗi, trang 2 màu đỏ tượng trưng máu Chúa Kitô, trang 3 màu trắng chỉ lương tâm trong sạch, trang 4 màu vàng chỉ vinh quang Nước Trời.
Sau khi nhập đạo ít lâu, người đó lâm cơn hấp hối. Bà vợ là người theo đạo Hồi khuyên ông kêu cầu đức Mahomet, nhưng ông không chịu, bảo Chúa của ông là Đức Kitô.
Bà vợ nói: "Vậy ông hãy lấy cuốn sách nhà truyền giáo cho, mở trang 3, hi vọng Chúa sẽ cho ông sạch tội mà vào thiên đàng."
Ông đáp: "Không, hãy mở trang 2 cho tôi." Và ông chết trong lúc tựa đầu vào trang sách tượng trưng máu Chúa Kitô. (Góp nhặt)
4. Một vị giám mục nổi tiếng hiền hoà, dễ mến. Khi được hỏi bí quyết, ngài đáp bí quyết đó là:
-Thứ nhất, tôi nhìn lên trời để nhớ rằng đời tôi phải tới đó.
-Thứ hai, tôi nhìn xuống đất để thấy phần mộ tôi sau này thật nhỏ hẹp.
-Thứ ba, tôi nhìn chung quanh để thấy bao người nghèo khổ mà đáng kính trọng hơn tôi.
-Thứ bốn, tôi học để biết hạnh phúc thật nằm ở đâu, mọi nổ lực của tôi sẽ chấm dứt thế nào và những than thở của tôi thật vô cớ biết bao! (Góp nhặt).
5. "Người phụ nữ lách qua đám đông tiến đến phía sau Chúa Giêsu và sờ vào áo của Người, vì bà tự nhủ Tôi mà sờ được vào áo Người thôi là sẽ được cứu. Tức khắc bà đã được khỏi bệnh" (Mc 5,27-29)
Băng huyết là bệnh nan y trong thời Chúa Giêsu. Người mắc bệnh này thường tuyệt vọng. Nhưng người phụ nữ trong câu chuyện Tin Mừng đã không giam mình trong nỗi thất vọng. Chị đã đến với Chúa và hết lòng tin tưởng vào Người, tin rằng Người có thể lấp đầy những khát vọng của mình.
Dù cách biểu lộ niềm tin của chị còn thô thiển là tìm cách sờ vào áo của Người, nhưng chỉ cần ngần ấy thôi cũng đủ để Chúa Giêsu nhận ra lòng tin mãnh liệt của chị, lòng tin mà, theo Người, đã cứu chữa chị và đem lại cho chị sự bình an.
Tôi chợt nghĩ đến căn bệnh của thời đại, đến những người đang thất vọng vì nhiễm HIV, và thầm nguyện cho họ được vững một niềm tin vào Chúa, Đấng duy nhất có thể thoả mãn những mong đợi mà Người đã đặt trong trái tim của mỗi người. Chính Người đã đến để loan báo cho ta niềm hy vọng tuyệt vời, vì Người là tác giả của sự sống.
Lạy Chúa Giêsu, con cảm tạ Chúa vì nhờ Người mà con đã khám phá ra khuôn mặt mới của Thiên Chúa một Thiên Chúa giàu lòng thương xót và yêu thương hết mọi người. (Epphata)
31/01 Người bị quỷ ám và đàn heo
- Viết bởi Mc 5, 1-20
Người bị quỷ ám và đàn heo.
Thứ Hai tuần 4 thường niên. – Thánh Gioan Boscô, linh mục. Lễ nhớ
"Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này".
* Chào đời năm 1815 tại Cáttennôvô, giáo phận Tôrinô, Gioan đã trải qua thời thơ ấu trong hoàn cảnh khó khăn, vì thế, khi làm linh mục, người dấn thân lo việc giáo dục thanh thiếu niên. Người lập dòng các tu sĩ Salêdiêng và dòng Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu để huấn luyện thanh thiếu niên về nghề nghiệp và đời sống đạo. Người qua đời năm 1888.
LỜI CHÚA: Mc 5, 1-20
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ sang bờ biển bên kia, đến địa hạt Giêrasa. Chúa Giêsu vừa ở thuyền lên, thì một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra gặp Người. Người đó vẫn ở trong các mồ mả mà không ai có thể trói nổi, dù dùng cả đến dây xích, vì nhiều lần người ta đã trói anh ta, gông cùm xiềng xích lại, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích, phá gông cùm, và không ai có thể trị nổi anh ta. Suốt ngày đêm anh ta ở trong mồ mả và trong núi, kêu la và lấy đá rạch mình mẩy. Thấy Chúa Giêsu ở đàng xa, anh ta chạy đến sụp lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: "Hỡi ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với tôi có liên hệ gì đâu? Vì danh Thiên Chúa, tôi van ông, xin chớ hành hạ tôi". Nhưng Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này". Và Người hỏi nó: "Tên ngươi là gì?" Nó thưa: "Tên tôi là cơ binh, vì chúng tôi đông lắm". Và nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy.
Gần đó, có một đàn heo đông đảo đang ăn trên núi, những thần ô uế liền xin Chúa Giêsu rằng: "Hãy cho chúng tôi đến nhập vào đàn heo". Và Chúa Giêsu liền cho phép. Các thần ô uế liền xuất ra và nhập vào đàn heo, rồi cả đàn chừng hai ngàn con lao mình xuống biển và chết đuối. Những kẻ chăn heo chạy trốn và loan tin đó trong thành phố và các trại. Người ta liền đến xem việc gì vừa xảy ra. Họ tới bên Chúa Giêsu, nhìn thấy kẻ trước kia bị quỷ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng. Những người đã được chứng kiến thuật lại cho họ nghe mọi sự đã xảy ra như thế nào đối với người bị quỷ ám và đàn heo. Họ liền xin Chúa Giêsu rời khỏi ranh giới họ. Khi Người xuống thuyền, kẻ trước kia bị quỷ ám xin theo Người. Nhưng người không cho mà rằng: "Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con". Người đó liền đi và bắt đầu tuyên xưng trong miền thập tỉnh, tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm cho anh ta, và mọi người đều thán phục.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tên tôi là đạo binh
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trừ quỷ là việc Đức Giêsu vẫn hay làm.
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Ngài trừ quỷ ở vùng đất dân Ngoại.
Tài kể chuyện của Máccô được thể hiện rõ nét qua bài Tin Mừng này.
Hiếm khi có câu chuyện sống động và ly kỳ đến thế!
Đức Giêsu và các môn đệ vượt biển để đến vùng đất Ghêrasa.
Vừa ra khỏi thuyền thì gặp ngay người bị ám bởi thần ô uế.
Anh sống ở nơi mồ mả, nơi thường được coi là chỗ ở của quỷ ma.
Anh mạnh ghê gớm đến nỗi không xiềng xích nào có thể kiềm chế được.
Sống cô độc, đe dọa người khác, tự hành hạ và làm hại chính bản thân,
đó là thân phận bi đát mà anh không sao thoát khỏi (cc. 3-5).
Rõ ràng anh hoàn toàn bị quỷ dữ chiếm đoạt, chẳng còn chút tự do.
Nhưng lạ thay, chính anh lại chạy đến với Đức Giêsu để gặp Ngài.
Quỷ dữ nơi anh biết rõ Đức Giêsu là ai, là Con Thiên Chúa Tối Cao.
Nhưng cái biết đó lại khiến nó phải run sợ xin Ngài đừng hành hạ (c. 7).
Quỷ dữ biết danh tánh của Đức Giêsu, nhưng không chế ngự được Ngài.
Bây giờ Ngài bắt nó phải khai danh tánh của nó, trước khi Ngài hành động.
Hóa ra đây không phải là một quỷ, mà là một lũ quỷ đông đảo (c. 9).
Đạo binh quỷ này khẩn khoản xin Đức Giêsu một ơn,
đó là chỉ đuổi chúng ra khỏi người này, chứ đừng đuổi ra khỏi vùng này,
vì chúng hy vọng sẽ tìm được một con mồi khác (c. 10).
Đạo binh thần ô uế xin được nhập vào đàn heo vốn bị coi là ô uế.
Sự đồng ý của Đức Giêsu khiến toàn bộ những gì ô uế bị hủy diệt.
Ngài đã thanh tẩy chẳng những anh bị quỷ ám, mà cả vùng anh ở nữa.
Khi người bị quỷ ám được tự do, anh ấy trở nên khác xưa.
Anh ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi, trí khôn tỉnh táo (c. 15).
Người dân trong vùng khiếp sợ nên xin Đức Giêsu đi khỏi đất của họ.
Chỉ có anh vừa được trừ quỷ là xin ở với Ngài như môn đệ (c. 18).
Nhưng ơn gọi làm môn đệ phải đến từ Thầy Giêsu.
Ngài khuyên anh nên về nhà, ở lại vùng đất của mình,
để loan báo mọi điều Chúa đã làm cho anh và thương xót anh (c. 19).
Anh đã vâng lời và trở nên người loan báo về Đức Giêsu nơi dân Ngoại.
Đối với anh, Đức Giêsu chính là Chúa.
Thế giới chúng ta sống thì văn minh hơn, khoa học hơn, hạnh phúc hơn,
nhưng vẫn không thiếu cảnh những người sống như bị ám, như bị ma nhập.
Có những người sống trong cô độc và trở nên nguy hiểm cho tha nhân.
Có những kẻ tự giết mình từng ngày trước khi tự tử.
Tru tréo và lấy đá rạch mình không phải là chuyện hiếm (c. 5).
Ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo
là niềm mơ ước của biết bao gia đình có người thân bị bệnh.
Bệnh tâm thần là căn bệnh mà ít nhiều chúng ta đều dễ mắc.
Lắm khi con người thấy bó tay, không tự mình giải thoát mình được.
Xin Chúa Giêsu tiếp tục trừ quỷ cho chúng ta, cho vùng đất chúng ta sống.
Xin Ngài tiếp tục tẩy trừ sự ô uế đang thao túng ở lòng con người.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự:
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao. Amen.
Suy Niệm 2: Cuộc chiến xây dựng Nước Thiên Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Xây dựng Nước Thiên Chúa là xây dựng hạnh phúc. Nhưng đó không là hạnh phúc có sẵn. Đó thực sự là một cuộc chiến. Cuộc chiến chống ma quỉ. Cuộc chiến rất khốc liệt. Vì ma quỉ rất mạnh và rất đông: “Tên chúng tôi là đạo binh. Vì chúng tôi đông lắm”.
Ma quỉ là lực lượng sự chết. Chúng muốn tiêu diệt con người. Giam cầm con người trong bóng tối của thế giới kẻ chết. “Từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám liên ra đón Người. Anh này thường sống trong đám mồ mả”. Chưa hoàn toàn giết chết anh, nhưng ma quỉ làm cho anh chết dần mòn. Trước hết là tâm trí mê man, mụ mẫm. Không còn sáng suốt. Không còn tỉnh táo. Vì bị ma quỉ khống chế. Không có tự do để làm điều tốt. “Suốt đêm ngày, anh ta cứ ở trong đám mồ mả và trên núi đồi, tru tréo và lấy đá rạch mình”. Chỉ làm theo sự sai khiến của ma quỉ. Và tiếp tay với ma quỉ tàn phá. “Anh bị gông cùm và bị xiềng xích, nhưng anh đã bẻ gãy xiềng xích, và đập tan gông cùm. Và không ai có thể kiềm chế anh được”.
Chỉ có Thiên Chúa và Đấng Người sai đến, là Chúa Giê-su Ki-tô, mới chiến thắng ma quỉ. Chúa truyền lệnh. Ma quỉ phải ra khỏi con người. Khi thoát khỏi ách ma quỉ, con người sống lại “ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo”. Và có thể làm việc lành. “Anh nài xin được ở với Người”.
Ma quỉ có thể dùng con người giết hại lẫn nhau. Như Áp-sa-lôm, đòi giết vua cha Đa-vít để cướp ngôi. Như Sim-y, nguyền rủa và ném đá vua Đa-vít. Đa-vít đã dùng quyền năng Thiên Chúa chiến thắng. Nhận mình tội lỗi. Không phản ứng lại các xúc phạm. Để Thiên Chúa phân xử và hành động theo ý Chúa. “Cứ để nó nguyền rủa, nếu Đức Chúa đã bảo nó. May ra Đức Chúa sẽ đoái nhìn đến nỗi khổ cực của ta, và Đức Chúa sẽ trả lại cho ta hạnh phúc” (năm chẵn).
Ma quỉ có thể dùng vua chúa bắt đạo. Môn đệ Chúa phải chống lại bằng sự hi sinh quên mình. Dâng hiến mạng sống. Để xây dựng Nước Thiên Chúa. Chiến thắng ma quỉ. Nhờ đức tin, các ngài chiến thắng bằng sức mạnh của Thiên Chúa. “Có những người bị tra tấn mà không muốn được giải thoát, để được hưởng một sự sống lại tốt đẹp hơn”. Nhờ đó các ngài xây dựng Nước Thiên Chúa. Làm cho Nước Thiên Chúa lớn mạnh.
Suy Niệm 3: Số phận của Chúa Giêsu
Người Do thái thời Chúa Giêsu có một cái nhìn rất miệt thị đối với dân ngoại, họ xem dân ngoại là những kẻ sống dưới ách nô lệ của ma quỷ, do đó cũng cư trú trong những vùng nhơ bẩn chẳng kém gì bãi tha ma. Nhưng đối với Chúa Giêsu, ranh giới giữa Do thái và dân ngoại không còn nữa. Ngài không chỉ đến với dân Do thái, mà cả với dân ngoại nữa. Chính cho dân ngoại mà Chúa Giêsu cũng mang ơn cứu độ đến, và ơn cứu độ ấy được thánh Marcô mô tả bằng những hình ảnh rất sống động: Chúa Giêsu trục xuất cả một đạo binh ma quỷ ra khỏi người bị quỷ ám, nguyên một bầy heo lao mình xuống biển. Tin Mừng được loan báo cho dân ngoại qua miệng người vừa được chữa lành.
Thế nhưng, sự thành công của Chúa Giêsu dưới cái nhìn của Marcô thật là yếu ớt. Dường như tất cả những người mà Ngài tìm đến đều có thái độ dè dặt đối với Ngài. Chỉ có ma quỷ là kẻ duy nhất biết rõ Ngài là ai nhưng chẳng bao giờ có thể hoán cải được nữa. Các luật sĩ và biệt phái thì càng lúc càng tỏ ra chai lỳ, bà con thân thuộc thì chỉ nhìn về Ngài với những tính toán vụ lợi, đám đông dân chúng thì không nhận ra được ý nghĩa đích thực của sứ mệnh thiên sai của Ngài, còn dân ngoại thì nài nỉ Ngài quay trở lại quê hương Ngài để họ khỏi phải mang họa vào thân, và khi Chúa Giêsu chiến thắng được ma quỷ, thì đó cũng là lúc loài người tẩy chay Ngài. Trong một tình thế bi đát như vậy, cái chết trên Thập giá là chuyện tất yếu đối với Chúa Giêsu. Trong cái nhìn của Marcô, mỗi cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với người đương thời của Ngài là một tiên báo về cuộc tử nạn của Ngài, Ngài là một con người triền miên bị khước từ.
Suy nghĩ về số phận của Chúa Giêsu, chúng ta cũng được mời gọi nhìn lại thân phận của người Kitô hữu chúng ta trong trần thế. Là môn đệ Chúa Giêsu, là chấp nhận lội ngược dòng. Không thể đi theo Chúa Giêsu mà lại sống theo triết lý: người ta sao, tôi vậy. Làm chứng cho Ðấng đã từng bị khước từ, người Kitô hữu bị khước từ đã đành, mà ngay cả khi phục vụ một cách vô vụ lợi, họ cũng không hẳn được người đời thương mến. Nói như thánh Phaolô: bổ khuyết những gì còn thiếu trong cuộc Tử nạn của Chúa Giêsu, đó là số phận của người Kitô hữu trong trần thế này.
Nguyện xin Chúa ban thêm can đảm và sức mạnh, để chúng ta kiên trì trong mọi khổ đau vì Danh Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Chúa Giêsu chế ngự ma quỷ
Đức Giêsu và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghê-ra-sa. Người vừa ra khỏi thuyền, thì từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám liền ra đón Người. Anh này thường sống trong đám mồ mả và không ai có thể trói anh ta lại được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích. (Mc. 5, 1-3)
Trình thuật về phép lạ Chúa chữa người bị quỷ ám và đàn heo biến mất đặt ra những vấn đề khó xử và có nhiều điều khác thường tưởng chừng như mê tín dị đoan.
Hình như đây là những sự kiện biệt lập được ghép lại với nhau. Chúa Giêsu lúc đó đang ở vùng Ghêrasa nằm ở phía đông Biển Hồ Ghen-nê-xa-rét là vùng đất dân ngoại, nơi nuôi heo là thú vật ô uế đối với người Do thái. Khi Chúa chữa cho một người bị quỷ ám ở đây thì có một sự cố xảy ra trong một trại nuôi heo lớn. Có lẽ là hai sự kiện này xảy ra vào cùng kỳ, nên được tác giả lợi dụng ghép lại với nhau để sự kiện này giải thích cho sự kiện kia và rút ra một bài học luân lý. Đó cũng là một lối kết cấu câu chuyện có tính cách bình dân vậy.
Nhưng sự ghép nối này trở nên có ý nghĩa. Thánh sử Maccô dùng nó để minh họa cho điều ngài muốn chứng minh: Chúa Giêsu tỏ bày quyền năng của Người đối với thần ô uế ở vùng đất thuộc dân ngoại. Sức mạnh của Người là sức mạnh vô địch. Chẳng những Người trừ thần ô uế, mà còn tiêu diệt chúng để giải thoát con người khỏi tình trạng tha hóa thiêng liêng và tâm tình sợ hãi.
Một quyền năng vô địch
Để chứng tỏ Chúa Giêsu có một sức mạnh vô song, trước tiên Maccô nhấn mạnh đến tính cách trầm trọng của cơn bệnh mà người bị quỷ ám đã phải chịu. Rõ ràng là bệnh tật, sự ác càng trầm trọng thì người chữa trị càng phải cao tay. Nếu “bị gông cùm và bị xiềng xích”, nhưng người bị quỷ ám ấy “đã bẻ gẫy xiềng xích và đập tan gông cùm”, thì phải nói gì về quyền lực của Đấng đã bắt qủy phải xưng tên mình ra – điều đó theo ý kiến các vị trừ tà thời ấy - là dấu chứng tỏ một sự chế ngự hoàn toàn.
Một xứ sở được thanh tẩy
Còn về chuyện bầy heo cả chừng hai ngàn con nhảy xô xuống biển và chết ngộp dưới đó, thì đó là dấu chỉ rằng một người được ơn giải thoát có ảnh hưởng tới người xung quanh. Vì đối với người Do thái, heo là con vật biểu tượng của sự ô uế. Sự chết chìm bi thảm của cả bầy heo cũng ngụ ý sự chấm dứt quyền lực của sự ác vốn ngự trị trên miền đất này và càng làm sáng tỏ ảnh hưởng phấn khởi của ơn giải thoát do Chúa Kitô mang lại vậy.
Suy Niệm 5: Chúa tỏ bày quyền năng, và …
Sau phép lạ dẹp yên sóng gió, hôm nay trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu lại tỏ bày quyền năng của Ngài ở vùng đất dân ngoại.
Sức mạnh của sự dữ thật lớn, nhưng Ðức Giêsu không gặp khó khăn nào khi xua trừ ma quỉ. Vậy mà Ngài phải khựng lại trước thái độ của con người.
Trình thuật kết thúc bằng sự thất bại bi thảm: Ðức Giêsu bị người ta trục xuất khéo léo. Thiên Chúa luôn mở rộng con đường hạnh phúc, nhưng Satan thì cản lối và con người lại nhát đảm dấn thân. Họ khước từ bởi họ quyến luyến với trần thế hơn.
Suy Niệm 6: Sứ vụ của Đấng Thiên Sai
Có những cái nhìn và lối suy nghĩ đã đi vào truyền kiếp. Nếu cái nhìn tích cực thì lối suy nghĩ cũng tích cực, nếu không thì ngược lại!
Người Do thái thời Đức Giêsu cũng vậy! Họ đã nhìn ai với cái nhìn khinh bỉ thì muôn đời, con người đó không có điểm nào tốt được!
Thật vậy, vào thời Đức Giêsu, dưới con mắt của người Do thái, dân ngoại là dân đáng bị miệt thị, là dân luôn sống trong tội lỗi và dưới ách thống trị của Ma Quỷ.
Tuy nhiên, khi Đức Giêsu đến, Ngài không còn phân biệt lằn ranh giữa Do thái hay dân ngoại, nhưng sứ vụ của Ngài là đem ơn cứu độ đến với muôn dân.
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu đến vùng Ghêrasa và làm phép lạ xua đuổi Ma Quỷ ra khỏi người bị quỷ ám.
Qua phép lạ này, dưới con mắt người đời, thì đây là một sự thành công, vì người bị Quỷ ám có một sức mạnh phi thường, không ai đụng tới hắn được, bởi lẽ anh ta bị cả một cơ binh Quỷ nhập vào. Một cơ binh chính là tên gọi của một đạo quân Lamã thời ấy và có khoảng 6.826 người lính. Như vậy, số Quỷ nhập vào người này cũng đông vô số kể như vậy. Khi Ma Quỷ nhập vào người thanh niên này, anh ta mạnh khỏe phi thường.
Phép lạ này cho thấy, Đức Giêsu có quyền năng trên Ma Quỷ, Ngài đến để giải thoát con người khỏi bị ràng buộc bởi sự dữ. Đem lại cho họ cuộc sống tự do.
Nhưng cái giá mà Ngài phải chịu, chính là sự loại trừ của những Luật Sĩ và Pharisêu.
Suy nghĩ về sứ vụ và thân phận ngôn sứ của Đức Giêsu, một lần nữa chúng ta ý thức hơn về sứ mạng và số phận của mỗi người chúng ta trên hành trình sống đạo và loan báo Tin Mừng. Số phận của Thầy cũng là của trò. Muốn trở nên môn đệ đích thực của Thầy Giêsu, hẳn chúng ta phải lội ngược dòng. Đi ngược quy luật tự nhiên để hiểu được giá trị của những nghịch cảnh khi chúng ta bị người đời phản đối, khước từ, cho dù những việc làm của chúng ta là những hy sinh vô vị lợi!
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời của Chúa đã không ngừng thi ân giáng phúc, nhưng Chúa đã không được người đời coi trọng, mà luôn bị khinh khi! Xin Chúa cho chúng con hiểu được sự thật này để chỉ tìm vinh danh Chúa và mong sao cho Nước Chúa được hiển trị muôn nơi, còn chuyện khen chê, xin cho chúng con không coi trọng nó mà ảnh hưởng đến sứ vụ được trao. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Chúa giải thoát con người khỏi ma quỷ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Ma quỷ có sức mạnh phi thường. Nhưng sức mạnh phi thường của ma quỷ cũng phải phục tùng Chúa Giêsu. Chúa muốn mỗi người chúng ta làm chứng nhân cho Thiên Chúa toàn năng và từ bi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, không phải chỉ người thanh niên miền Ghê-ra-sa kia mới là nạn nhân của ma quỷ, nhưng cả con nữa. Ma quỷ không ngừng đến cám dỗ loài người, trong đó có con. Evà xưa kia đã bị thua, và bà cùng con cháu là loài người chúng con đã bị thảm hại với sức mạnh độc dữ của ma quỷ. Con đã được Chúa cứu chuộc, nhưng ma quỷ vẫn không ngừng tìm cách thống trị con.
Người Ghê-ra-sa bị trần trụi, sống chui rúc ở các mồ mả, anh bẻ gãy xiềng xích gông cùm, lấy đá vạch hết mình mẩy và tru trếu, nghe dễ sợ và không ai trị nổi. Anh bị quỷ ô uế làm cho ra như thế, nhưng Chúa đã giải thoát anh.
Lạy Chúa Giêsu, con dễ dàng bị ma quỷ khéo léo lôi con vào cảnh tương tự. Con sẽ trần trụi, mất hết mọi nhân đức và công phúc. Con sẽ sống chui rúc và cứ lén lút phạm tội. Con sẽ có sức mạnh của ma quỷ vì con không sao bỏ được những thói quen xấu xa. Con cũng làm khổ chính mình vì hàng ngày bị bối rối lo âu, và không ai có thể đem lại cho con sự bình an nội tâm.
Chỉ có Chúa là Đấng Thánh, là Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ mới có thể giải thoát con. Lạy Chúa, xin cứu giúp con.
Chúa không muốn cho người thanh niên Ghê-ra-sa đi cùng Chúa, nhưng muốn anh ở lại với thân nhân và làm chứng về Chúa cho họ. Chúa cũng không cất con khỏi thế gian, nhưng muốn con loan truyền quyền năng và lòng thương xót của Chúa. Xin giúp con trong sứ vụ này. Amen.
Ghi nhớ: “Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này”.
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu chữa người bị quỷ ô uế ám ở Ghêrasa
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Bị cám dỗ, Samson vào bẫy của Philitin khi bị cạo trọc đầu, ông mất sức, không còn được sức mạnh như trước đó, nên bị quân Philitin bắt trói, khoét mắt, xiềng lại, bỏ tù và bắt xay cối xay (x. Tph 16,19-21).
Ma quỷ cũng vậy, chúng cám dỗ chúng ta theo chúng, rồi chúng khoét mắt đức tin của chúng ta. Và khi chúng ta không còn ánh sáng đức tin chiếu soi nữa, ma quỷ dẫn chúng ta dễ dàng đi trên con đường tội lỗi để sa xuống hỏa ngục với chúng.
Suy Niệm
Ngay từ thuở tạo thiên lập địa… khi ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ của con rắn là Satan, một thế lực đối nghịch với “Thiên Chúa - Đấng Thánh” và ảnh hưởng của chúng lan tràn trên cuộc sống con người.
Tin Mừng hôm nay cho thấy ma quỷ bị Chúa Giêsu vạch mặt chỉ tên là “thần ô uế”. Như thế, “thần ô uế” - ma quỷ là có thật, có thể gây ảnh hưởng trên con người như: quấy, phá, hành, hại, ám và nhập.
Chúa Giêsu Kitô là “Đấng Thánh” đến cứu vớt tất cả mọi người, đặc biệt những ai đang bị quyền lực Satan trói buộc. Ngài dùng uy quyền của mình xua đuổi “thần ô uế” cho người đang bị chúng khống chế được tự do.
Qua mọi thời, ma quỷ vẫn luôn tìm cách ảnh hưởng trên cuộc sống con người. Chúng là dối gian; hận thù; ghen ghét… Chúng ta chỉ thật sự thoát khỏi sự khống chế của “thần ô uế”, của ma quỷ, khi tin và phó thác hoàn toàn vào quyền năng Thiên Chúa - Đấng Thánh là ánh sáng chiến thắng bóng tối - Satan để người tin sống trong tự do hoàn toàn của con cái Thiên Chúa…
Suy Niệm 9: Chúa Kitô trừ quỷ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Vừa đến miền Ghêrasa, Chúa Giêsu gặp ngay một người bị quỷ ám. Anh ta thường ở nơi mồ mả. Thấy Chúa Giêsu, anh ta tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa và xin Người đừng làm khổ anh. Chúa đuổi quỷ ra khỏi anh. Ma quỷ liền xuất ra khỏi người đó và nhập vào đàn heo, làm cho đàn heo lao mình xuống biển chết hết! Những người chăn heo thấy vậy hoảng hốt chạy báo tin khắp nơi. Dân chúng tuốn đến thì thấy người trước kia bị quỷ ám đang tề chỉnh ngồi đó. Họ khiếp sợ nên xin Chúa rời khỏi địa hạt của họ.
2. Người Do thái thời Chúa Giêsu có cái nhìn rất miệt thị đối với dân ngoại, họ xem dân ngoại là những kẻ sống dưới ách nô lệ của ma quỷ, do đó, cũng cư trú trong những vùng nhơ bẩn chẳng kém gì bãi tha ma. Nhưng đối với Chúa Giêsu, ranh giới giữa Do thái và dân ngoại không còn nữa. Ngài không chỉ đến với dân Do thái, mà cả với dân ngoại nữa. Chính cho dân ngoại mà Chúa Giêsu cũng mang ơn cứu độ đến, và ơn cứu độ ấy được thánh Marcô mô tả bằng những hình anh rất sống động: Chúa Giêsu đã trục xuất cả đạo binh ma quỉ ra khỏi người bị quỉ ám, nguyên một bầy heo lao mình xuống biển. Tin Mừng được loan báo cho dân ngoại qua miệng người vừa được chữa lành.
3. Tình trạng người bị quỉ ám được nói đến trong Tin Mừng hôm nay rất đáng thương. Dưới sự kềm tỏa của thần ô uế, anh ta đã bị tước mất tình người và bị cách ly với cộng đoàn. Đó là hình ảnh của những ai đang còn sống dưới sự chi phối của ma quỷ. Họ có thể là những người tôn thờ ma quỷ, qua việc sử dụng bùa ngải; hoặc đang sống trong sự chối bỏ Thiên Chúa và chìm đắm trong tội lỗi. Họ có thể là những dân tộc chưa được đón nhận Tin Mừng, đang sống trong sự tối tăm lầm lạc.
4. Chúa Giêsu đối diện với cả một “cơ binh quỷ dữ” để dành lấy một con người. Chúa Giêsu không chỉ kéo một con người ra khỏi tội lỗi và đời sống xấu xa, mà còn nhấn chìm tận căn cả bè lũ satan cùng với sự ô uế tội lỗi, mà chuyện gần cả hai ngàn con heo từ “trên núi” lao “xuống biển” chết sạch là một biểu tượng.
Cả đàn heo đã lao từ trên núi xuổng chết đuối nói lên ý nghĩa: Núi trong quan niệm Thánh Kinh của Do thái là nơi hiện diện của thần linh; biển là nơi ẩn náu của ma quỷ xấu xa tội lỗi. Chúa Giêsu đã tống xuống biển cả và dìm chết ma quỷ và sự ô uế, đòi lại chủ quyền cho Thiên Chúa, lấy lại sự thánh thiện và đời sống thiêng liêng trong sạch cho con người. Đó là nội dung Tin Mừng cần chuyển tải, chứ không phải tính lịch sử của câu chuyện.
Như vậy, trước ánh sáng thần hóa của Thiên Chúa thì mọi thứ nhơ uế bị quét sạch; có Chúa Giêsu ngự trong con người thì quỷ ma không thể làm gì được. Chúng ta là Kitô hữu, chúng ta đang được ở trên “núi thánh” của Chúa, chúng ta hãy năng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để Ngài xua đuổi “bầy heo ma quỷ” ra khỏi tâm hồn chúng ta (Hiền Lâm).
5. Chúa Giêsu đã bầy tỏ quyền năng của Người. Sức mạnh của Người là sức mạnh vô song. Chẳng những Người trừ thần ô uế, mà còn tiêu diệt chúng để giải thoát con người khỏi tình trạng tha hóa thiêng liêng và tâm tình sợ hãi.
Để chứng tỏ Chúa Giêsu có sức mạnh vô song, trước tiên thánh Marcô nhấn mạnh đến tính cách trầm trọng của cơn bệnh mà người bị quỷ ám đã phải chịu. Rõ ràng là bệnh tật, sức ác càng trầm trọng thì người chữa trị càng phải cao tay. Tên quỷ đã bẻ cong được gông cùm và xiềng xích, thì Đấng chế ngự được nó nhất định phải mạnh hơn. Chúa đã trừ khử được tên quỷ đó, chứng tỏ sức mạnh của Chúa là sức mạnh vô địch.
6. Truyện: Ai lớn hơn.
Một bé trai hỏi bố:
- Quỷ lớn hơn con không?
- Lớn hơn.
- Quỷ lớn hơn bố không?
- Lớn hơn.
- Quỷ lớn hơn Chúa Giêsu không?
- Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn quỷ.
Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười:
- Vậy con không sợ quỷ.
Suy Niệm 10: Quyền của Chúa Giêsu trên ma quỷ
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Các đoạn Tin Mừng từ Thứ Bảy tuần trước đến Thứ Ba tuần này lần lượt kể các phép lạ của Chúa Giêsu, mỗi phép lạ mặc khải một khía cạnh của mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Phép lạ này mặc khải uy quyền Chúa Giêsu chiến thắng uy quyền ma quỷ
- Người bị quỷ ám trong chuyện này là sào huyệt của tất cả quyền lực ma quỷ được tổng động viên. Hắn tự xưng "Tên tôi là đạo binh" (câu 9).
- Ảnh hưởng của việc bị quỷ khống chế
a/ Mất tương giao hài hòa với đồng loại ""Anh ta thường sống trong đám mồ mả" (câu 3)
b/ Mất tự do đích thực "bị gông cùm xiềng xích" (câu 4)
c/ Tự hại mình "Lấy đá đập vào mình" (câu 5)
d/ Mất nhân phẩm "tru tréo" (câu 5), không ăn mặc đàng hoàng, muốn nhập vào đàn heo (câu 12).
- Kết quả khi được Chúa giải thoát
a/ Nhân phẩm được trả lại "Anh ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi, trí khôn tỉnh táo" (câu 15)
b/ Gắn bó với Chúa "Anh nài xin được ở với Ngài" (câu 18)
c/ Hội nhập lại trong tương giao đồng loại "Anh cứ về nhà với thân nhân" (câu 19).
d/ Thành sứ giả của Tin Mừng "Anh ra đi và bắt đầu rao truyền... tất cả những gì Thiên Chúa đã làm cho anh" (câu 20).
Thế nhưng dân làng xin Chúa Giêsu rời khỏi vùng đất của họ vì tiếc của (đã bị chết chừng 2000 con heo), họ từ chối Đấng Messia!
B.... nẩy mầm.
1. Phản ứng của người bị quỷ khống chế là không muốn được giải thoát khỏi sự khống chế đó Người bị quỷ ám này nói với Chúa Giêsu "Chuyện tôi can gì đến ông?... Tôi van ông đừng hành hạ tôi". Chúa phải hành động mạnh "Thần ô uế kia, hãy xuất khỏi người này" - Khi ma quỷ khống chế ta, nó cũng xúi ta trốn tránh Chúa và không muốn được giải thoát. Xin cho con đừng mù quáng muốn ở lì mãi trong tội và trốn tránh những người thiện chí Chúa gởi đến cứu giúp con...
2. Chúa Giêsu phân biệt rất rõ Ngài cương quyết tiêu diệt thế lực của ma quỷ, nhưng vẫn yêu thương và muốn giải thoát những kẻ bị ma quỷ khống chế.
3. Trong Thánh Kinh, heo là hình ảnh của ô uế và của thế lực gian tà. Làng Ghêrasa này đầy heo nhưng lại tiếc rẻ khi đàn heo ấy chết đuối. Họ lại còn xin Chúa Giêsu rời khỏi làng họ. Khi ta bám vào của cải vật chất thì ma quỷ cũng theo đó mà bám víu ta.
4. Có lần Napoleon cầm tấm bản đồ thế giới, chỉ vào nước Anh, tức tối nhận xét "Nếu không có cái chấm đỏ này thì Ta đã là bá chủ thế giới.
Ma quỉ cũng chỉ vào thánh giá Đức Kitô nói "Nếu không có chấm đỏ này thì ta đã bá chủ thế giới." (Góp nhặt)
5. Một thanh niên say rượu, đi ngang qua đám đông đang nghe giảng. Anh muốn tỏ ra "ta đây" và làm cho nhà giảng thuyết mất mặt chơi. "Chào, này ông ơi, về nhà đi thôi, đừng giảng nữa, ma quỉ chết hết rồi!" Vị giảng thuyết lạnh lùng nhìn anh nói "Ma quỉ chết rồi à ? Vậy là từ nay anh mồ côi rồi!" Chàng ta xấu hổ lủi mất, trong khi đám đông được trận cười khoái chí. (Góp nhặt)
6. "Chúa Giêsu bảo kẻ trước kia đã bị quỷ ám ‘Anh cứ về nhà với thân nhân và loan tin cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh và Người đã thương anh như thế nào" (Mc 5,19)
Sau khi được chữa lành, người trước kia đã bị quỷ ám nài xin Chúa cho được ở với Người. Nhưng Người đã không đồng ý và bảo anh trở về nhà loan truyền và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa giữa những người thân yêu của mình.
Chúa Giêsu đã làm ơn cho anh nhưng không muốn giữ anh lại với Người để kẻ chịu ơn phải suốt đời đền ơn đáp nghĩa. Người chỉ muốn ơn ban chảy tràn đến mọi người, qua trung gian của những kẻ đã một lần được yêu thương và chữa lành.
Con đường dẫn ta đến với Chúa chẳng bao giờ là đường cùng hay ngõ cụt nhưng luôn dẫn ta đến với mọi người, trước hết là những người thân cận, rồi đến những người đáng thương hay đang cần được yêu thương và giúp đỡ.
Chúa ơi! Đường của con là Chúa. Tình yêu của con là Chúa. Và quê hương của con cũng là Chúa. (Epphata)
Suy Niệm 11: Uy quyền của Chúa Giêsu trên ma quỉ
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Tin Mừng thứ bảy tuần trước cho chúng ta thấy uy quyền của Chúa trên sức mạnh của thiên nhiên: Chúa dẹp yên sóng gió bão táp.
Phép lạ trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy uy quyền của Chúa Giêsu trên ma quỉ: Chúa chiến thắng ma quỷ.
Khi được Chúa giải thoát thì kết quả hết sức tốt đẹp:
1. Chúa Giêsu đã bày tỏ bày quyền năng của Người. Sức mạnh của Người là sức mạnh vô địch. Chẳng những Người trừ thần ô uế, mà còn tiêu diệt chúng để giải thoát con người khỏi tình trạng tha hóa thiêng liêng và tâm tình sợ hãi.
Chúa Giêsu có một quyền năng vô địch.
Một bé trai hỏi bố: - Quỉ lớn hơn con không?
- Lớn hơn.
- Quỉ lớn hơn bố không?
- Lớn hơn.
- Quỉ lơn hơn Chúa Giêsu không?
- Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn quỉ.
Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười:
- Vậy con không sợ quỉ,
Để chứng tỏ Chúa Giêsu có một sức mạnh vô song, trước tiên Marcô nhấn mạnh đến tính cách trầm trọng của cơn bệnh mà người bị quỷ ám đã phải chịu. Rõ ràng là bệnh tật, sự ác càng trầm trọng thì người chữa trị càng phải cao tay. Tên quỉ đã bẻ cong được gông cùm và xiềng xích, thì Đấng chế ngự được nó nhất định là phải mạnh hơn. Chúa đã trừ khử được tên quỉ đó, chứng tỏ sức mạnh của Chúa là sức mạnh vô địch.
Hơn nữa việc xua đuổi cả một bày quỉ cho nó nhập vào đàn heo làm cho đàn heo chừng hai ngàn con nhảy xô xuống biển và chết ngộp dưới đó, thì đó là dấu chỉ một người được ơn giải thoát đã có ảnh hưởng tới người xung quanh. Vì đối với người Do Thái, heo là con vật biểu tượng của sự ô uế. Sự chết chìm bi thảm của cả bầy heo cũng ngụ ý sự chấm dứt quyền lực của sự ác vốn ngự trị trên miền đất này và càng làm sáng tỏ hơn ảnh hưởng phấn khởi của ơn giải thoát do Chúa Kitô mang lại vậy.
2. Việc Chúa Giêsu làm phép lạ này ở miền đất của dân ngoại chứng tỏ sứ mạng của Chúa Giêsu không còn đóng khung trong miền đất của người Do Thái nữa. Ngài đến để cứu vớt tất cả mọi người. Và sau khi Phục Sinh, Chúa còn sai các Tông Đồ đi rao giảng cho muôn dân. Rồi khi các người Kitô hữu đầu tiên ở Jêrusalem bị bắt bớ thì họ đã chạy sang tận bên kia bờ Địa Trung Hải. Tại đây họ cũng đã bắt đầu rao giảng về Chúa cho những cư dân ở đó. Rồi từ đó, Tin Mừng được loan đến cho những nơi khác.
Tin Mừng được loan báo cũng có nghĩa là quyền lực của Satan bị đẩy lui.
Có một người đàn ông ở Scotland. Người này bị ngã gãy lưng vào năm 15 tuổi. Suốt 40 nằm trên giường bịnh, nỗi đau của ông không thề nào tả xiết. Nhưng ơn Chúa đã giúp ông luôn bình tâm chấp nhận. Có lần ông được hỏi:
- Có bao giờ ma quỉ cám dỗ ông không, chẳng hạn nó bảo ông Thiên Chúa là quan án nghiêm khắc để ông nghi ngờ tình Ngài.
Ông đáp: “Có chứ, nhiều lần lắm. Khi thấy người khác giàu có, Satan bảo: nếu Chúa tốt lành, hẳn Ngài đã cho anh khỏe mạnh giàu sang, chứ đâu anh phải khốn khổ như vậy.
- Thế ông làm gì khi Satan cám dỗ?
- À, con dẫn Satan đến núi Calvê, chỉ cho nó thấy Đức Giêsu với các dấu đinh và nói: “Ngài không yêu tôi đó sao? Thế là nó cút, để tôi yên”.
3. Sau khi được chữa lành, người trước kia đã bị quỷ ám nài xin Chúa cho được ở với Người. Nhưng Người đã không đồng ý và bảo anh trở về nhà loan truyền và làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa giữa những người thân yêu của mình.
Chúa Giêsu đã làm ơn cho anh nhưng không muốn giữ anh lại với Người để kẻ chịu ơn phải suốt đời đền ơn đáp nghĩa. Người chỉ muốn ơn ban chảy tràn đến mọi người, qua trung gian của những kẻ đã một lần được yêu thương và chữa lành.
Con đường dẫn ta đến với Chúa chẳng bao giờ là đường cùng hay ngõ cụt nhưng luôn dẫn ta đến với mọi người, trước hết là những người thân cận, rồi đến những người đáng thương hay đang cần được yêu thương và giúp đỡ.
Chúa ơi! Đường của con là Chúa. Tình yêu của con là Chúa. Và quê hương của con cũng là Chúa. (Epphata)
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao
người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát. (Rabboni).
30/01 Không tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương
- Viết bởi Lc 4, 21-30
Không tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương.
CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN Năm C.
"Chúa Giêsu, như Êlia và Êlisê, không phải chỉ được sai đến với người Do-thái".
Lời Chúa: Lc 4, 21-30
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói trong hội đường rằng: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse sao?"
Và Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: 'Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình!' Ðiều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông'".
Người nói tiếp: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật với các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Elia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria".
Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN C
Lời Chúa: Gr 1,4-5.17-19; 1Cr 12,31 - 13,13; Lc 4,21-30
1. Không được chấp nhận--‘Manna’
Suy Niệm
Tin là thái độ căn bản trong cuộc sống.
Chẳng ai có thể sống mà không tin.
Không tin người này nhưng lại tin người kia.
Không tin lý thuyết này nhưng lại tin giả thuyết nọ.
Thành ra ai cũng phải chọn một niềm tin.
Không phải chọn một cách vu vơ, mù quáng,
nhưng một cách sáng suốt và tự do.
Điều khó là giữ cho lòng mình được tự do thanh thoát,
không bị những định kiến ràng buộc hay tư lợi chi phối,
nhờ đó chúng ta dám chọn sự thật,
dù sự thật đó làm đổ nhào mọi điều ta nghĩ,
và xoay lại hướng đi của cả đời ta.
Có lẽ dân làng Nagiarét ít có thứ tự do này.
Khi Đức Giêsu giảng trong hội đường Nagiarét thân quen,
họ đã ngỡ ngàng thán phục trước lời Ngài nói.
Hãnh diện biết mấy khi một thành viên trong làng
nay được tiếng tăm lẫy lừng khắp miền Galilê!
Nhưng tin Đức Giêsu là một ngôn sứ lại là điều họ không làm được.
"Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?"
Ký ức của họ vẫn còn giữ nguyên
những hình ảnh của Đức Giêsu
sống tại đây hơn ba mươi năm qua.
Một cuộc sống quá đỗi bình thường!
Một ông thợ mộc, con một ông thợ mộc khác.
Gốc gác, họ hàng của Đức Giêsu, họ đều nắm rõ.
Tiếc là họ đã không thể đi xa hơn.
Cái hiểu biết trước đây khiến họ mãn nguyện, tự hào,
và tưởng mình chẳng còn gì để biết thêm về Giêsu.
"Những gì ông đã làm ở Caphácnaum, hãy làm ở đây xem."
Người làng Nagiarét không tin Đức Giêsu là ngôn sứ.
Họ muốn Ngài chứng minh bằng phép lạ.
Họ muốn thấy tận mắt, chứ không chỉ nghe nói thôi.
Nhưng Đức Giêsu không làm phép lạ để ép người ta tin.
Chính lòng tin đưa đến phép lạ,
mà Ngài lại chẳng gặp lòng tin nào nơi người đồng hương.
Lòng chai đá cứng cỏi của họ chuyển thành sự phẫn nộ,
khi Đức Giêsu kể chuyện hai ngôn sứ Êlia và Êlisa
được Thiên Chúa sai đến thi ân cho dân ngoại.
Dân làng không giữ được Đức Giêsu cho riêng mình.
Khi thấy mình chẳng còn chút đặc quyền, đặc lợi, thì họ tìm cách thủ tiêu Ngài.
Tin Đức Giêsu là ngôn sứ, là Mêsia, là Con Thiên Chúa,
điều đó chẳng dễ dàng chút nào.
Người không tin cũng có thể đưa ra bao lập luận.
Điều cần thiết là phải tìm kiếm chân lý với cả tâm hồn.
Chúa Thánh Thần vẫn soi sáng cho người thành tâm thiện chí.
Hôm nay, chúng ta đã biết, tin và gần gũi Đức Giêsu,
nhưng chúng ta vẫn có nguy cơ tương tự như người Nagiarét:
tưởng mình đã múc cạn được mầu nhiệm
hay muốn độc quyền giữ Đức Giêsu cho mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, dựa vào đâu để bạn tin người khác? Dựa vào đâu để bạn biết người đó thành thật?
Người dân làng Nagiarét gặp khó khăn khi phải tin Đức Giêsu. Con người hôm nay gặp khó khăn nào khi tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, dân làng Nagiarét đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con không tin
Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
2. Điều kiện để đón tiếp Chúa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Sau khi rao giảng một thời gian, Chúa Giêsu trở về làng cũ. Thoạt nghe Chúa rao giảng, họ khâm phục tán thành. Nhưng sau đó họ lại xua đuổi và muốn giết Chúa. Thật là đáng buồn. Đúng như lời thánh Gioan đã viết: “Người đã đến nhà nhưng người nhà không nhận biết Người”. Tại sao có cảnh trái ngang đau lòng như thế? Thưa vì tư tưởng của Thiên Chúa khác với tư tưởng của họ.
Chúa đi tìm đức tin còn họ đi tìm lợi lộc. Khi đi rao giảng, Chúa muốn đem cho ta niềm tin. Niềm tin đã là khởi điểm của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta có niềm tin. Niềm tin đã là kết quả của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi phép lạ dẫn đến niềm tin. Nhưng dân làng Nazareth không nhìn thấy điều đó. Họ không tin Người là Đấng Cứu Thế. Lời giảng của Người không đưa họ tới đức tin và Thiên Chúa, vào Nước Trời. Họ chỉ mong được có phép lạ. Vì họ chỉ mong được lợi lộc vật chất: được khỏi bệnh; được ăn no. Mong ước của họ không gặp được mong ước của Chúa.
Chúa sống trong khiêm nhường nhưng họ sống trong kiêu căng. Chúa không bao giờ làm phép lạ với mục đích biểu diễn. Chúa chỉ làm phép lạ đê giải nghĩa mầu nhiệm Nước Chúa. Chúa không làm phép lạ khi ma quỷ cám dỗ Chúa trong hoang địa. Chúa không xuống khỏi thập giá khi dân chúng thách thức Chúa trên Núi Sọ. Nên hôm nay Chúa cũng không làm phép lạ để thoả mãn tính hiếu kỳ và tính kiêu căng của dân làng Nazareth. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ được vinh dự có người đồng hương quyền phép. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ cũng được nở mày nở mặt với Capharnaum. Suy nghĩ của họ rất khác với suy nghĩ của Chúa.
Chúa có tâm hồn mở rộng trong khi tâm hồn họ hẹp hòi. Họ mong ước Chúa là người làng Nazareth thì phải dành mọi ưu tiên cho dân làng từ việc rao giảng cho đến việc làm phép lạ. Tất cả phải bắt đầu và bó gọn trong làng. Nhưng Chúa Giêsu, khi trích dẫn chuyện tiên tri Elia ở nhà bà goá Sarepta trong thời hạn hán, làm cho bình dầu và hũ bột của gia đình bà không bao giờ vơi và chuyện tiên tri Elisa chữa tướng Naaman, người Syria khỏi bệnh phong, đã cho thấy Nước Chúa không chỉ bó hẹp lại trong phạm vi người thân thuộc nhưng phải mở rộng tới tất cả mọi người. Không chỉ những người trong đạo Do Thái mà cho cả những người ngoại đạo nữa. Hai nhãn quan khác hẳn nhau.
Tôi là người có đạo. Nhưng biết đâu tôi không đón nhận được Chúa vì tôi cũng giống như dân làng Nazareth, đến với Chúa chỉ mong được lợi lộc vật chất, đến với Chúa chỉ vì hư danh, đến với Chúa với tâm hồn hẹp hòi. Hôm nay tôi xin Chúa thanh tẩy tâm hồn tôi khỏi thói ham mê lợi lộc, thói phô trương bề ngoài và thói hẹp hòi khép kín, để tôi được đón nhận Chúa và để tôi trở nên tông đồ của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Giữ đạo tốt để được may mắn. Bạn có ý nghĩ như thế không?
2. Bạn khó chịu khi người ngoại đạo được may mắn. Thái độ này có đúng không?
3. Thường thường, bạn đi tìm Chúa, tha thiết cầu nguyện để đạt được điều gì? Để được may mắn, khỏi tai hoạ, hay để được hiểu biết, yêu mến Chúa?
3. Phản ứng của hội đường thành Nadarét--Giải Nghĩa Lời Chúa--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Chúa nhật trước, chúng ta thấy Ðức Giêsu khởi sự đi giảng đạo, Người đã vào hội đường Nadarét, xưng mình là vị tiên tri Thiên Chúa hứa sẽ gởi đến cho dân Người. Hơn nữa, khi áp dụng lời sách Isaia về người Tôi tớ Thiên Chúa vào cho mình, Ðức Giêsu đã khẳng định Người là Cứu thế đến công bố năm hồng ân của Thiên Chúa tức là khai mạc thời đại cứu độ mọi người. Hôm nay, thánh Luca cho chúng ta thấy phản ứng của người đồng hương với Ðức Giêsu trước những lời xác quyết của Người.
Ðó là thái độ cố hữu của người Do Thái, như Giêrêmia đã kinh nghiệm. Ðó cũng có thể là cách trả lời của chúng ta đối với mọi mạc khải của Thiên Chúa nơi các ngôn sứ của Người, nếu chúng ta không nghe lời thánh Phaolô mà đặt đức ái lên trên hết. Vậy chúng ta hãy suy nghĩ về cả ba bài Kinh Thánh hôm nay để hiểu mình và sửa mình cho xứng đáng với ơn Chúa muốn cứu độ chúng ta.
1. Thái độ cố hữu của người Do Thái
Không dân tộc nào được Chúa yêu thương như cộng đồng con cái Israen. Không phải vì họ có những đức tính trổi vượt hơn hết mọi dân tộc; nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã khấng chọn họ làm dân riêng của Người. Họ có luật pháp là mạc khải khôn ngoan cao cả của Thiên Chúa. Họ còn thường được các tiên tri đến dạy dỗ. Ðó là những ngôn sứ thay mặt Thiên Chúa đến soi sáng và hướng dẫn họ sống theo luật pháp, hầu được đẹp lòng Chúa và hưởng các ân huệ Người ban.
Nhưng Do Thái lại là dân cứng đầu cứng cổ. Họ vứt bỏ đường lối của Thiên Chúa để đi theo lòng dục của mình. Vị tiên tri nào Chúa gửi tới cũng gặp nhiều chống đối và khó khăn. Một phần nữa cũng vì có quá nhiều những tay bịp bợm, lạm dụng sự mê tín của quần chúng tự xưng là sứ giả của Thiên Chúa. Nên bên cạnh một số ít tiên tri thật, có nhan nhản những tiên tri giả và những kẻ "muốn làm nghề tiên tri". Vì sự hiện diện và hoạt động của những kẻ này, các ngôn sứ của Chúa phải tăng thêm nỗ lực để khẳng định Lời Chúa và ơn gọi của mình. Và thường khi các ngài phải "chết để nói lên lời". Giêrêmia là một trong những vị đại tiên tri. Ông là một trong 4 đại tiên tri còn để lại văn phẩm. Không vị tiên tri nào đã gặp nhiều đau khổ vì ơn gọi như ông.
Thế nên, xét về phương diện đau khổ, ông là vị tiên tri gần với Ðức Giêsu Kitô hơn hết. và Phụng Vụ hôm nay đã theo truyền thống coi ông là hình ảnh báo trước về nhà tiên tri thành Nadarét có định mệnh "phải chịu đau khổ". Chúng ta đọc lại những chương 36-45 trong sách Giêrêmia để xem nhà tiên tri này đã khổ sở thế nào. Người ta chống đối, muốn bịt miệng ông, bắt ông phải vào tù ra khám, và có lần đã muốn chấm dứt đời ông rồi. Nhưng trong mọi trường hợp, Giêrêmia vẫn cương quyết công bố Lời Chúa và khẳng định ơn gọi thiêng liêng của mình.
Bài đọc hôm nay không cố ý mô tả cuộc đời thơ ấu của Giêrêmia đâu. Nhưng đây là cái nhìn của một người rất đứng tuổi và chín chắn nghĩ lại ơn gọi của mình, để làm chứng cho mọi người thấy thiên mệnh đã đè xuống trên ông.
Ðồng bào của Giêrêmia, tức là cộng đồng con cái Israen vẫn tin rằng Thiên Chúa là nguồn gốc mọi sự và con người cũng do tay Người nặn lên. Nhưng điều ít ai để ý, là trước khi Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ và muôn vật hữu hình này, Người đã có một kế hoạch rất rõ ràng. Ơn gọi của các tiên tri nằm trong kế hoạch ấy.
Thế nên "trước khi Ta nắn ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi; và trước khi lọt dạ mẹ, Ta đã tác thánh ngươi. Ta đã đặt ngươì làm tiên tri cho các dân tộc". Và để chứng minh điều này, Giêrêmia nói thêm rằng: khi được gọi, ông chưa biết nói, nhưng Chúa bảo chính Người sẽ ban Lời cho ông để ông chỉ có việc nói những lời của Người mà thôi.
Ðó là những lời thành thật. Chúng ta không có gì phải nói thêm. Chúng ta chỉ để ý đến lời Giêrêmia khẳng định mình đã được đặt làm tiên tri cho "các dân tộc". Ý ông muốn nói sấm ngôn của Chúa, mạc khải của Người, không dành riêng gì cho dân Do Thái, nhưng cho mọi dân nước và thời đại. Tính cách phổ cập này thêm vinh dự cho ơn gọi tiên tri tự nó đã cao quý vì phát xuất từ Thiên Chúa. Tuy nhiên ơn gọi này lại rất bi đát. Những lời sau của Giêrêmia tóm tắt định mệnh của ông.
Ông phải "nai lưng", tức là phải lấy thế để chiến đấu, vì người ta sẽ tuyên chiến với ông. Họ cưỡng lại mọi lời ông nói, vì lời của ông diễn tả ý Chúa chứ không chiều theo dục vọng của loài người.
Ðó là tiêu chuẩn để phân biệt các tiên tri giả và các tiên tri thật. Những người này dù bị chống đối và đau khổ vẫn như thành trì, trụ sắt và tường đồng, cự lại các vua và khanh tướng. Không phải vì họ có can đảm phi thường, nhưng chỉ vì Chúa đã giữ lời hứa với các tiên tri của Người "Ta sẽ ở với ngươi khiến chúng không làm gì được ngươi".
Thật ra không phải vị tiên tri nào cũng thoát khỏi bàn tay sát nhân của loài người độc dữ đến nỗi sau này có lần Ðức Giêsu phải kêu lên "Giêrusalem, Giêrusalem, kẻ giết hại các tiên tri" (Mt 23,37). Và có như thế, các tiên tri mới là những người báo trước vị tiên tri sẽ phải đến trong thời kỳ sau hết, Người cũng sẽ bị giết, nhưng sự sống lại của Người sẽ làm chỗi dậy mọi bậc tiên tri đến trước hầu cho thấy "thủ lãnh thế gian bị luận phạt".
Hôm nay bài Tin Mừng Luca cho chúng ta thấy vị tiên tri này. Không những Người đã gợi lại mà còn thực hiện bài sách Giêrêmia. Chúng ta hãy quan sát Người theo lời thuật của Luca.
2. Phản ứng của hội đường thành Nadarét
Ðức Giêsu bấy giờ vừa giảng xong. Người ta thán phục Người. Họ cảm thấy như có một nguồn ân sủng thoát ra từ môi miệng của Người. Nhưng Người không là con nhà ông Giuse sao? Suy nghĩ này làm chứng họ không muốn khiêm nhường đón nhận sứ điệp cứu độ đến với họ qua một con người bình thường ở giữa họ. Ðức Giêsu chua chát nghĩ đến câu: "Không tiên tri nào được tôn trọng ở quê nhà".
Và từ đó, Luca nghĩ rằng Ðức Giêsu đã nhìn xa hơn nữa, không những Người thấy những kẻ đồng hương với Người ở Nadarét không muốn chấp nhận Người; nhưng qua họ, Người còn thấy rõ cả dân tộc Do Thái nữa cũng sẽ không đón nhận. Họ cậy mình đã có luật pháp và không muốn bị xáo trọn bởi một luồng gió mới nào nếu người khởi xướng không làm được những dấu lạ điềm thiêng như Môsê ngày trước. Nghĩa là họ chỉ muốn mãi mãi là những người xác thịt, coi trọng những cái bề ngoài và không bao giờ muốn trở nên trưởng thành, biết ý thức về ý nghĩa của luật pháp như các tiên tri thường hướng dẫn. Tín ngưỡng của họ trở thành thứ tôn giáo của chữ viết, và của hình thức, chứ không muốn là sự sống tinh thần như Thiên Chúa kêu gọi. Do đó, họ rất ít nghe lời các tiên tri. Hơn nữa, họ còn bỏ rơi các ngài. Thường khi họ còn giết chết các ngài nữa. Mà các ngài đâu có thiếu gì các quyền năng? Êlya không có quyền đóng góp cửa trời và làm mưa sao? Thế mà có ai trong dân Do Thái được nhờ ông? Trái lại một góa phụ ở Sarepta thuộc dân ngoại đã được ông cứu đói. Êlisê cũng vậy. Ông là tiên tri rất mạnh thế.
Tuy nhiên cũng chẳng ai trong dân Do Thái được cho lành bệnh, đang khi Naaman, một bậc khanh tướng ngoại đạo đã được ông chữa khỏi bệnh cùi. Luca trích dẫn những câu chuyện này để phục vụ ý kiến của ông khi viết cuốn Tin Mừng thứ ba. Ông có ý diễn tả rằng dân Do Thái đã không biết đón nhận nhà tiên tri ở giữa họ là Ðức Giêsu thành Nadarét. Và vì vậy sự nghiệp ân sủng của Người đã được chuyển sang cho dân ngoại là Hội Thánh hiện nay.
Luca đã không muốn lợi dụng câu chuyện đã xảy ra trong Hội đường Nadarét để tổng quát hóa công cuộc cứu thế của Ðức Giêsu Kitô và để báo trước đau khổ vinh quang đang chờ đợi Người. Người đã đến giữa dân Người, rao truyền tin mừng cứu độ, nhưng thân nhân của Người và dân Người đã không đón nhận, nên ơn cứu độ của Người mang đến đã chuyển sang dân ngoại là Hội Thánh chúng ta ngày nay.
Lời khẳng định này, làm sao người Do Thái có thể chịu đựng được? Họ đã nhất tề đứng lên, hung hăng lôi Ðức Giêsu ra khỏi thành, đưa Người lên một sườn đồi và định tâm đẩy Người xuống cho chết đi. Nhưng Người đã nhẹ nhàng đi qua mặt họ để tiếp tục cuộc hành trình.
Bằng những lời đơn sơ này, Luca muốn báo trước cuộc tử nạn của Ðức Giêsu. Người sẽ bị người Do Thái kéo ra khỏi thành và đóng đinh trên sườn đồi... Nhưng Người sẽ nhẹ nhàng linh diệu thoát khỏi nơi họ đẩy Người tới để sống lại vinh quang, tiếp tục công việc cứu thế của Người.
Như vậy, có thể nói, bài Tin Mừng hôm nay không chỉ đơn sơ thuật lại những gì xảy ra trong hội đường ở Nadarét. Hoặc Luca đã dùng câu chuyện này để vẽ ra trước tất cả định mệnh của vị tiên tri đến rao giảng ơn cứu độ cho dân Người. Người cũng bị đối xử không hơn gì các tiên tri đi trước. Như bài sách Giêrêmia đã nói. Nhưng cũng như tiên tri này đã loan báo, Người thật là sứ giả của Thiên Chúa gửi đến báo cho các dân tộc. Hoặc đúng hơn, Luca đã dùng những biến cố trong cuộc đời của Ðức Giêsu Kitô, và đặc biệt những sự kiện tử nạn và phục sinh của Người, làm đèn chiếu sáng lên câu chuyện xảy ra tại hội đường ở Nadarét và thuật lại sự kiện theo ánh sáng mầu nhiệm chết và sống lại của Ðức Giêsu Kitô.
Dù sao, bài Tin Mừng hôm nay không những cho chúng ta thấy cuộc đời vất vả của Chúa Cứu Thế, nhưng còn muốn gợi lên phản ứng tự nhiên của loài người xác thịt đối với tin mừng cứu độ và hạnh phúc đang dành cho lương dân đón nhận tin mừng.
Chúng ta dĩ nhiên không muốn cư xử như người Do Thái. Nhưng để được như vậy, phải làm gì? Xin vị tông đồ các dân ngoại soi sáng giúp đỡ chúng ta.
3. Con đường chúng ta phải đi
Thánh Phaolô gởi thư cho giáo dân Côrintô. Ở đây người ta đang háo hức được các ơn lạ để phục vụ Chúa, họ thèm ơn nói tiếng lạ, ơn tiên tri, ơn chữa bệnh, ơn xưng đạo mạnh mẽ hơn. Nhưng thánh tông đồ thấy có nhiều khuynh hướng chuộng hào nhoáng trong những sự háo hức này. Ðó không phải là con đường nên đi vào. Nó sẽ biến những tín hữu trở thành những con người xác thịt như dân Do Thái ngày trước.
Và thánh nhân đã chỉ cho mọi người thấy con đường phải đi vào. Ðó là bác ái. Thiếu bác ái mọi đặc sủng kia sẽ rỗng tuyếch. Vì người ta muốn phục vụ ư? Ao ước làm được những sự ngoạn mục, thật là vô ích. Ðức Giêsu đến phục vụ không làm như vậy. Người đã yêu thương chúng ta và yêu thương cho đến chết. Thế nên đối với thánh Phaolô, ở đây, con đường bác ái yêu thương rất cụ thể.
Nó có hai hạng người làm đối tượng: kiên nhẫn với kẻ thiếu nhân đức và giúp đỡ những kẻ thiếu thốn. Ðối với cả hai hạng người, kẻ bác ái phải có những thái độ chứng tỏ lòng kiên nhẫn và bộc lộ lòng quảng đại. Tiêu cực, họ không được nóng nảy, bực tức, hoặc chán nản, tuyệt vọng; còn tích cực, họ phải duy trì niềm vui, tin tưởng và kiên trì. Ðược như vậy, đức bác ái sẽ toàn thắng sự dữ và giúp đỡ được hiệu năng.
Thế nên, so sánh với những đặc sủng mà người ta ao ước như các ơn nói tiếng lạ, ơn nói tiên tri, ơn chữa bệnh, ơn giảng đạo, đức bác ái rõ ràng trổi vượt. Tất cả các ơn kia có ngày sẽ hết. Chúng chỉ cần cho đời tạm này. Nhưng lòng bác ái sẽ tồn tại mãi mãi đi theo ta sang cả thế giới bên kia. Mà sánh với hai nhân đức khác là đức tin và đức cậy, nhân đức bác ái vẫn trổi hơn. Cả ba nhân đức này đều cần thiết cho đời sống đạo và cho mọi nhân đức khác. Cả ba cũng theo ta sang cả đời sau, theo nghĩa đức tin là trạng thái cởi mở tâm hồn nhận biết Chúa thì đời sau vẫn cần; và đức cậy cũng sẽ cần vì là trạng thái của linh hồn muốn được Chúa yêu thương. Nhưng đức mến sẽ tồn tại và cao quý hơn hết vì nó làm cho chúng ta kết hợp với Thiên Chúa là bản chất của đời sóng hạnh phúc sau này ở trên trời.
Thế nên chúng ta hãy đi vào con đường bác ái. Trươc đây, người Do Thái không đi con đường ấy nhưng bước theo hướng xác thịt hời hợt bề ngoài vì họ như là trẻ con đối với thời đại Thánh Thần yêu mến đã được đổ xuống trong Hội Thánh. Ngày nay được phúc ở trong thời đại sung mãn, chúng ta phải đi vào con đường trưởng thành là bác ái.
Và giờ đây hơn bao giờ hết khi cử hành thánh lễ, chúng ta được đưa vào con đường bác ái. Không những chúng ta được thấy Ðức Giêsu đến rao giảng tin mừng cứu độ như là vị tiên tri cao trọng hơn mọi tiên tri. Người còn thể hiện mầu nhiệm tử nạn phục sinh để hoàn thành sứ mệnh tiên tri của Người một cách siêu việt hẳn hơn Giêrêmia ngày trước... Và hơn cả hôm Người ở trong hội đường ở Nadarét.
Mầu nhiệm bàn thờ đây còn tuôn đổ Thánh Thần yêu mến cho những ai thành khẩn tham dự. Nhưng cử hành thánh lễ sốt sắng bao nhiêu, họ phải sống bác ái chân thật và cụ thể bấy nhiêu để lấy kiên nhẫn lướt thắng sự tội và lấy phục vụ xóa bỏ nghèo khó. Phấn đấu hết mình cả về phương diện tinh thần cả về phương diện vật chất là nhiệm vụ của những ai đi trong con đường bác ái. Ai đã dự lễ mà có thể từ chối đi vào con đường ấy?
4. Ngôn sứ bị từ chối--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
"Họ kéo Ngài lên tận đỉnh núi để xô Ngài xuống vực"
(Lc 4,29)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Tục ngữ có câu "Lời thật mất lòng". Chúa Giêsu ưu tiên loan Tin Mừng cho những người đồng hương của Ngài ở Nadarét, thế mà họ lại xua đuổi Ngài. Thời bây giờ cũng vậy, nhiều người không muốn nghe những lời xây dựng chân thành, thậm chí còn ghét những người nói thẳng nói thật.
Hôm nay chúng ta hãy suy gẫm về thực tế chua chát ấy, và xin Chúa giúp chúng ta đừng rơi vào thói xấu ấy.
II. Gợi ý sám hối
Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con bỏ ra ngoài tai những lời xây dựng chân thành của kẻ khác.
Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con có phản ứng không tốt với người khác chỉ vì họ đã nói thẳng nói thật.
Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con đối xử bất công: vui vẻ với người khen nịnh, và khó chịu với người chân thành góp ý.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Gr 1,4-5,17-19)
Giêrêmia tự thuật về việc Thiên Chúa gọi ông làm ngôn sứ: Thực ra Giêrêmia không muốn làm ngôn sứ chút nào cả vì ông biết mình không có khả năng, và ông cũng ý thức rằng ông sẽ gặp rất nhiều chống đối và đau khổ vì nhiệm vụ ấy. Nhưng vì tin tưởng vào sự trợ giúp của Chúa nên ông đã can đảm đáp lại lời Chúa gọi.
2. Đáp ca (Tv 70)
Thánh vịnh 70 quãng diễn tâm tình của ngôn sứ Giêrêmia. Đó là tâm tình cậy trông và phó thác: "Con ẩn náu bên Ngài lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ... Xin Ngài như núi đá cho con tru ẩn, như thành trì để cứu độ con".
3. Tin Mừng (Lc 4,21-30)
Đoạn Tin Mừng hôm nay nói về hoạt động của Chúa Giêsu ở Nadarét quê hương Ngài:
Ngày Sabát, Ngài vào hội đường, dựa trên đoạn sách Isaia để công bố chương trình hành động của Ngài. Đó là mang Tin Mừng và ơn cứu độ cho những người nghèo khổ.
Bài giảng đã gây hứng khởi trong lòng thính giả. Họ thầm mong rằng, vì tình đồng hương, Ngài sẽ ưu tiên làm phép lạ cho họ. Nhưng Ngài đã từ chối, bởi vì Ngài là Đấng cứu độ của mọi người chứ không của riêng ai.
Thất vọng, dân Nadarét đã trục xuất Ngài khỏi thành và còn muốn giết Ngài.
4. Bài đọc II (1 Cr 12,31--13,13) (Chủ đề phụ)
Sau khi giải thích cho tín hữu Côrintô về các đặc sủng nhằm phục vụ cộng đoàn (Chúa nhật trước), Thánh Phaolô nói đến ân sủng cao quý nhất trong mọi ân sủng, đó là Đức Mến.
Đức Mến làm cho các ơn khác có giá trị thực ("Giả như tôi có nói được các thứ tiếng... mà không có đức mến thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chủm choẹ xoang xoảng").
Đức Mến cao trọng hơn mọi nhân đức khác ("Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là Đức Mến")
IV. Gợi ý giảng
* 1. Cần có ngôn sứ
Mỗi thời kỳ lịch sử đều có ngôn sứ. Mỗi thời kỳ lịch sử đều cần ngôn sứ. Bởi vì "ngôn sứ" là sứ giả của Lời Chúa, nếu không có ngôn sứ thì có thể Lời Chúa sẽ bị yếu đi.
Thời Cựu Ước có các ngôn sứ Isaia, Giêrêmia, Êdêkiên v.v. Thời Tân Ước có Chúa Giêsu, có các tông đồ... Thế kỷ XIII có Phanxicô Assisi... Thế kỷ XVII có Vinh Sơn Phaolô... Thế kỷ XX có Têrêsa Calcutta v.v.
Thực ra con người ngôn sứ chẳng có gì khác lạ hơn người thường: dân làng Nadarét đã nhận định về Chúa Giêsu "Ông ta chẳng phải là con bác thợ mộc Giuse đó sao?" Ở một vài phương diện nào đó, ngôn sứ còn thua kém người khác nữa: Giêrêmia đã thành thật thưa với Chúa "Lạy Chúa, con không biết nói. Con chỉ là một đứa trẻ".
Nhưng ngôn sứ hơn người là do Lời Chúa: ngôn sứ nghe được Lời Chúa, tin tưởng vào Lời Chúa, và nhiệt thành chuyển đạt Lời Chúa đến cho mọi người.
Dù "hơn người", nhưng không hẳn ngôn sứ được người quý mến, trái lại thường bị người chống đối và bách hại, bởi vì "Lời thật mất lòng".
Tuy thường bị người ta đối xử tệ, nhưng ngôn sứ chính là kẻ làm ơn cho người. Nhờ ngôn sứ nhắc người ta sống đúng lời Chúa.
Sứ mạng ngôn sứ rất khó khăn và bạc bẽo. Nhưng ngôn sứ sẽ chu toàn sứ mạng nhờ cậy dựa vào sự trợ giúp của Chúa.
Qua bí tích Rửa Tội, mỗi kitô hữu chúng ta đều được Chúa trao sứ mạng là ngôn sứ của Ngài.
* 2. Kiên vững - Dịu hiền
Thôi Trữ là quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại cùng nhau thề thốt. Ai nấy đều sợ hãi, răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề.
Thôi Trữ bảo Án Tử: "Ngươi nghe ta. Ta lấy được nước, thì ta cho một nửa. Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức".
Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm những muốn đưa gươm giáo ra đâm chém Án Tử. Chết đến nơi, mà Án Tử vẫn không biến sắc, ung dung nói rằng:
"Lấy lợi nhử người ta, bảo người ta phản bội quân thượng là bất nhân; lấy binh khí hiếp người ta, làm người ta mất chí khí là bất dũng. Giết thì giết, ta đây không theo việc bất nhân của nhà ngươi đâu".
Thôi Trữ nghe nói, không dám làm gì Án Tử. Án Tử đứng dậy, ung dung bước ra.
****
Thôi Trữ quyền hành là thế, mà chỉ một câu nói của Án Tử cũng đủ làm ông phải chùn bước. Thế mới biết sự thật có sức mạnh hơn bạo lực quyền uy.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại: "Mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành: Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi" (Lc 4,29-30). Chúa Giêsu chính là Sự Thật tuyệt đối, nên từ nơi Người toát ra sức mạnh phi thường, khiến đám người bạo động phải đứng như trời trồng để Người đi qua.
Những người đồng hương với Chúa Giêsu cảm thấy khó chịu, vì họ không thể tin rằng "Thần khí Chúa" lại ngự xuống trên con ông Giuse thợ mộc.
Họ cảm thấy nghi ngờ, vì họ không thể chấp nhận một con người nghèo khổ làng Nadarét lại là tiên tri, là Đấng Thiên sai.
Họ càng căm phẫn, khi con người ấy không chịu thực hiện những phép lạ mà họ yêu cầu. Thế là bạo động nảy sinh, họ muốn tiêu diệt Người cho khuất mắt. Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: "Không một tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương mình" (Lc 4,24).
Thế mới ứng nghiệm lời ông Simêon: "Trẻ này là dấu hiệu bị ngưới đời chống báng" (Lc 2,34). Lời tiên tri này còn theo Người suốt cả cuộc đời.
Nếu dân làng Nadarét ép Chúa Giêsu làm phép lạ để minh chứng Người là tiên tri, thì các đầu mục Do Thái cũng đòi Chúa Giêsu chứng minh giáo lý của Người là chính thống.
Nếu dân làng Nadarét tố cáo Chúa Giêsu là lộng ngôn phạm thượng, thì các người Pharisêu cũng kết tội Người dựa vào thế giá cửa quỉ vương.
Nếu dân làng Nadarét cố tìm cách giết Chúa Giêsu, thì dân thành Gíêrusalem cũng quyết tâm đóng đinh Người trên thập giá.
Mỗi người tín hữu Kitô đều có thể hiểu được thế nào là bị xua đuổi, bị loại trừ, bị kỳ thị và bị bỏ rơi, vì "Nếu thế gian đã ghen ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Ta trước" (Ga 15,18), nhưng ít có ai cảm nhận được tâm trạng của Chúa Giêsu vào những lúc như thế này: Người có căm thù những kẻ ruồng rẫy Người không? Người có đầu hàng trước nghịch cảnh này chăng? Nói như Martin Luther King: "Tôi vui mừng vì Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa có tinh thần kiên vững và con tim dịu hiền".
Vâng, nếu Thiên Chúa chỉ là Đấng có tinh thần kiên vững, thì Người sẽ là một Thiên Chúa xa cách, lạnh lùng, ngự trị tại một nơi nào đó trên chốn trời cao để ngắm nhìn thế sự thăng trầm. Nhưng nếu Người chỉ là Đấng có con tim dịu hiền, thì Người sẽ là một Thiên Chúa uỷ rnị nhu nhược, không thể hành động khi mọi sự đi lệch hướng.
Đứng trước cảnh bị ruồng rẫy hôm nay, con tim của Người không hề chai đá và tinh thần của Người không chút bạc nhược. Người có tinh thần đủ kiên vững để vượt trên thế giới, và có con tim đủ dịu hiền để ở giữa con người.
Nếu có một bài học nào được rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay thì đó chính là: Thiên Chúa mạnh mẽ vô song, có thể "băng qua giữa họ mà đi", nhưng Người cũng là Đấng giàu lòng thương xót. Khi chúng ta ngỗ nghịch xúc phạm đến Người, khi chúng ta muốn "xô Người xuống vực thẳm", thì chúng ta cần biết rằng, chính lúc đó Người đang yêu thương chúng ta và sẵn sàng cho chúng ta một cơ hội để quay trở về.
Thiên Chúa là Đấng có tinh thần kiên vững trong phán quyết công minh, nhưng Người cũng là Đấng có tính dịu hiền trong tình thương và ân sủng.
Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ cho hết mọi người, chứ không chỉ dành riêng cho một số người được đặc ân.
Thiên Chúa ban ân sủng Cứu độ để chúng ta sinh ích cho mình và làm lợi cho anh em, chứ không phải để chúng ta khư khư giữ lấy cho riêng mình.
***
Lạy Chúa, Tiên Tri là ơn gọi và là sứ mạng của mỗi người tín hữu chúng con.
Xin cho chúng con luôn can đảm nói điều Chúa muôn nói, và nói nhân danh Chúa, cho dù có phải bị chống đối, phẫn nộ.
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng: Chúa đầy quyền năng cả nhưng cũng rất giàu lòng xót thương, luôn dẫn dắt chúng con từ những hố sâu tăm tối đến những nẻo đường chan hoà ánh sáng, tràn đầy hy vọng, nhờ đó, cuộc đời chúng con được viên mãn. Amen. (Thiên Phúc)
* 3. Ưu tiên cho ai?
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với dân làng Nadarét ban đầu rất tốt đẹp: "Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài". Nhưng sau đó là đổ vỡ hoàn toàn: "Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy lôi Ngài ra khỏi thành.... Họ kéo Ngài lên tận đỉnh núi, để xô Ngài xuống vực"
Nguyên do gây đổ vỡ là quan niệm về ưu tiên. Dân làng Nadarét nghĩ rằng Chúa Giêsu phải ưu tiên cho họ, bởi vì họ là đồng hương của Ngài. Ngài đã từng làm phép lạ ở thành Capharnaum xa lạ thì Ngài phải làm nhiều phép lạ hơn nữa ở Nadarét này mới phải, vì đây chính là quê hương của Ngài kia mà: "Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào". Phần Chúa Giêsu thì muốn dành ưu tiên cho những người nghèo khổ: "Thần khí Chúa ngự trên tôi... để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức..."
Nói cách khác, dân làng Nadarét muốn ưu tiên theo tình cảm, còn Chúa Giêsu thì chủ trương ưu tiên theo sứ mạng. Tình cảm thường hẹp hòi, sứ mạng thì bao la. Tình cảm thường mù quáng, sứ mạng mới sáng ngời.
Chúng ta thường bị tình cảm làm mù quáng và lệch lạc, ngay cả khi chúng ta làm việc bác ái và làm công tác tông đồ. Gương Chúa Giêsu nhắc ta phải luôn ý thức đến sứ mạng. Nếu có ưu tiên thì hãy ưu tiên cho những người nghèo nàn, khổ sở.
* 4. Trở lại quê hương
Sau nhiều năm xa cách ngôi làng Transkei là nơi ông đã sinh ra và lớn lên, Nelson Mandela có dịp trở lại đấy. Lúc bấy giờ ông đã là một luật sư có nhà cửa ở thủ đô Johannesburg. Ông đã ghi lại cảm tưởng như sau: "Trở lại một nơi chẳng có gì thay đổi để khám phá ra rằng mình đã đổi thay. Quê hương thì vẫn như xưa, chẳng có gì khác hơn hồi mình sinh ra và lớn lên ở đấy. Nhưng tôi nhận ra rằng suy nghĩ và cách nhìn của mình đã khác xưa rất nhiều". Vì thế Nelson Mendela rất hạnh phúc khi trở về thăm lại quê cũ, nhưng ông không ở lại đó, vì nó đã trở thành quá chật hẹp đối với ông.
Có lẽ cảm nghĩ của Chúa Giêsu cũng giống như thế khi Ngài trở về Nadarét. Những người đồng hương của Ngài chẳng có gì thay đổi: họ vẫn mãi coi Ngài là con bác thợ mộc chứ không phải là Đấng Messia; họ vẫn quen lối suy nghĩ hẹp hòi cho rằng ơn cứu độ là đặc ân của người Do Thái, chứ không thể chấp nhận rằng mọi người đều được hưởng ơn cứu độ.
Chúa Giêsu trở về quê hương để mang cho đồng hương của Ngài một sự đổi mới. Tuy nhiên họ không chịu thay đổi. Vì thế nên Ngài không thể ở lại quê hương, Ngài đành ra đi, tiếp tục đến những nơi khác. (FM)
* 5. Đức Mến
Có một sự liên kết thiết yếu giữa Đức Tin và Đức Mến. Câu chuyện sau đây cho thấy rõ điều ấy:
George Herbert là một Linh mục, một thi sĩ và một nhạc sĩ nghiệp dư. Một hôm khi ông đang trên đường đến tham dự một cuộc hòa nhạc thì gặp một người nghèo bị té ngựa. Ông đã dừng lại, cởi áo dòng, xắn tay áo để đỡ người ấy lên, đỡ con ngựa lên và giúp chất hành lý người ấy lên lưng ngựa. Xong xuôi mọi chuyện, ông mới tiếp tục đến phòng hòa nhạc.
Bình thường ông ăn mặc rất sạch sẽ. Nhưng hôm nay tay chân và quần áo của ông đều dính đầy bụi bẩn. Vì thế bạn bè rất ngạc nhiên. Khi ông kể lại chuyện mình đã làm dọc đường thì một trong các người bạn tỏ ra không đồng ý vì cho rằng việc đó không cần thiết và cũng không phải là trách nhiệm của ông. George Herbert đã trả lời như sau: "Tôi thường cầu nguyện cho những người nghèo khổ. Hôm nay tôi có dịp giúp đỡ người nghèo khổ. Nếu tôi không ra tay giúp thì tức là tôi không làm đúng như lời mình cầu nguyện. Cũng giống như cây đàn chưa lên dây đúng cung vậy."
Thánh Giacôbê đã nói: "Đức tin mà không có việc làm là đức tin chết". Những việc làm biểu lộ đức tin dễ thấy nhất là những việc bác ái.
Ngày nay, hai chữ được người ta nói nhiều nhất là "tình yêu". Nhưng hình như cái mà người ta gọi là tình yêu trong các phim ảnh và bài hát thường chẳng phải là tình yêu gì cả. Đó chỉ là khát vọng, chiếm hữu và chế ngự. Nó ngược hẳn với tình yêu.
Một trong những lý do là ngày nay người ta đã hiểu rõ hơn về tính phức tạp - hay phức hợp - trong bản chất con người. Từ đó người ta làm gì cũng do bị thúc đẩy bởi nhiều động cơ. Đàng sau một việc xem ra bất vụ lợi thì cũng có động cơ vụ lợi.
Bởi thế, Thánh Phaolô khuyến cáo chúng ta coi chừng những động cơ đàng sau những việc tốt chúng ta làm. Ngài nói rằng Đức Mến đích thực thì "không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc". Ngài còn nói "Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi". (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu những lời Kinh thánh chúng ta vừa nghe. Nhờ Người, chúng ta dâng lên Chúa Cha những lời nguyện xin tha thiết của chúng ta:
1. Hội thánh được Chúa Giêsu thiết lập để đem Tin mừng đến cho muôn dân trên khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho công cuộc rao giảng Tin mừng của Hội thánh / luôn đạt được nhiều thành quả tốt đẹp.
2. Khát vọng sâu xa nhất của con người ngày nay / là được sống trong hòa bình và thịnh vượng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Chúa / ban hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh.
3. Hiện nay đức tin / đức cậy / đức mến / cả ba đều tồn tại / nhưng cao trọng hơn cả là đức mến / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / luôn cố gắng sống trọn vẹn nhân đức quan trọng này.
4. Nhờ bí tích Thánh Tẩy / người Kitô hữu trở nên anh em với nhau / vì có cùng một niềm tin và một Cha chung trên trời / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết dẹp bỏ mọi kỳ thị hẹp hòi / những chia rẽ bất hòa / để tất cả chúng ta nên một trong Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con luôn biết vâng nghe lời Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta đang ở trong ngôi Nhà Thờ này như những anh chị em ruột thịt sum họp trong mái ấm gia đình. Đúng vậy, vì chúng ta đều là con của cùng một Cha chung trên trời. Giờ đây chúng ta hãy nghĩ đến Cha chúng ta và hãy cùng nhau thưa chuyện với Ngài qua lời kinh Lạy Cha.
VII. Giải tán
Do Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được chia xẻ sứ mạng ngôn sứ của Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta hãy can đảm thi hành sứ mạng vừa cao đẹp vừa khó khăn ấy. Nguyện xin ơn sủng Chúa luôn phù giúp anh chị em. Chúc anh chị em ra về bình an.
5. Thất bại tại Nagiarét 4, 22-30--Lm. Carôlô
I. VẤN ĐỀ CHÚ GIẢI
1) A. George đã nhận xét rằng đoạn Tin Mừng này có nhiều điểm không mạch lạc, những điểm không mạch lạc "rất lạ đối với một tác giả kỹ lưỡng như Luca".
- Không mạch lạc trong thái độ của dân Nagiarét: vừa mới thán phục Đức Giêsu đó, nhưng ngay sau đó lại mỉa mai Ngài "Há ông này chẳng phải là con bác thợ mộc Giuse sao" (c.22)
- Không mạch lạc trong lời nói của Đức Giêsu: Ngài nói "không một ngôn sứ nào được hoan nghênh nơi quê hương mình" (c.24), sau đó dẫn chứng trường hợp Êlia và Êlisê: hai vị này không phải bị ngược đãi nơi quê hương, nhưng trái lại ưu đãi người ngoài quê hương.
2) Sở dĩ người ta nói đoạn Tin Mừng này không mạch lạc là vì cách chú giải một từ then chốt, dektos, ở c.24b theo nghĩa thụ động: được hoan nghênh. Nếu chú giải từ đó theo một nghĩa chủ động: hoan nghênh thì câu chuyện sẽ hoàn toàn mạch lạc.
Đây là một cách chú giải độc đáo giúp cho câu chuyện được mạch lạc nên chúng ta sẽ theo.
II. GIẢI THÍCH
22 - "Ai cũng làm chứng cho Ngài": động từ này nơi Luca chỉ thiện chí của những người sẵn sàng ủng hộ. (x.Cv 6,3; 10,22; 16,2; 22,12).
- "Ngạc nhiên trước những lời ân phúc": có khi là một sự ngạc nhiên vì khó chịu (x.Mc 6,6; Lc 11,38), nhưng có khi là một sự ngạc nhiên thán phục (1,63; 2,18; 2,33; 7,9; 8,25; 9,43; 11,14; 20,26; Cv 3,12; 4,13). Nếu muốn cho đoạn Tin Mừng này có mạch lạc, phải hiểu sự ngạc nhiên ở đây theo nghĩa thán phục.
- "Ông này há không phải là con bác Giuse ư?": câu này có thể là mỉa mai (khinh chê nguồn gốc nghèo nàn của Đức Giêsu), mà cũng có thể là hãnh diện (ông này là con của một người thuộc làng của chúng ta mà nay đã giỏi giang như thế). Muốn cho đoạn Tin Mừng này mạch lạc, phải hiểu câu này là hãnh diện.
* Tóm ý: Sau khi Đức Giêsu đọc và giảng đoạn sách Isaia, những người đồng hương Nagiarét của Ngài vui mừng, thán phục và hãnh diện vì có một người đồng hương giỏi giang như Ngài.
23 - "Thầy lang ơi hãy cứu chính mình": phải sử dụng khả năng mình để lo cho bản thân mình trước.
- "Hết mọi sự chúng tôi nghe nói ở Capharnaum, xin thử làm ở đây, nơi quê hương của Thầy": hãy làm những phép lạ (đã làm ở Capharnaum) tại chính Nagiarét này.
* Tóm ý: Đức Giêsu đoán được tâm trạng của dân Nagiarét: họ đang nuôi hy vọng rằng Ngài vì là đồng hương với họ nên sẽ ưu tiên làm nhiều phép lạ cho họ hưởng.
24 - "Rồi Ngài tiếp": nguyên ngữ Hy Lạp là chữ de. Chữ này có nghĩa là đối nghịch lại. Nên dịch "rồi" không đúng, phải dịch là "nhưng": Đức Giêsu sắp nói một điều ngược lại với mong ước của họ.
- "Được hoan nghênh nơi xứ sở mình": nguyên ngữ Hy Lạp là dektos. Chữ này có thể mang nghĩa thụ động ("được hoan nghênh"). Nhưng cũng có thể mang nghĩa chủ động ("hoan nghênh"). Nếu muốn cho đoạn Tin Mừng này mạch lạc thì phải hiểu theo nghĩa chủ động.
* Tóm ý: Đức Giêsu nói ngược lại với mong ước của dân Nagiarét: họ mong Đức Giêsu ưu tiên làm phép lạ tại quê hương mình, nhưng Ngài trích một câu ngạn ngữ để từ chối điều đó. Ngôn sứ không được vì liên hệ quê hương mà dành ưu tiên cho quê hương mình.
25-27 Rồi Đức Giêsu kể chuyện hai ngôn sứ Êlia và Êlisê: hai vị này đã làm phép lạ để cứu giúp những người ngoại. Như thế, Đức Giêsu từ chối thỏa mãn ước muốn có tính cách thiên vị của dân Nagiarét, đồng thời cho thấy tính cách phổ quát của sứ mạng Ngài.
28 Dân Nagiarét phừng phừng giận dữ: vì Đức Giêsu không làm theo ý họ.
29 Họ định ném đá Ngài: Lv 24 dành hình phạt ném đá cho tội phạm thượng. Ở đây dân Nagiarét coi Đức Giêsu đã phạm thượng, vì Ngài đã không công nhận một "tín điều" của họ là ơn cứu độ chỉ dành riêng cho Israel. Thực ra chung quanh Nagiarét chẳng có nơi nào họ định xây thành. Luca nói hơi quá đi, vì ông nghĩ đến việc Israel sẽ từ chối và giết Đức Giêsu.
30 "Nhưng Ngài rẽ qua giữa họ mà đi": không biết đây có phải là một phép lạ hay chăng. Nhưng điều quan trọng nên chú ý là "con đường đi" của Đức Giêsu. Luca hay nói về con đường ấy (9,51; 13,22-23; 17,11; 19,28). Con đường Đức Giêsu sẽ hướng về Giêrusalem và kết thúc ở đấy. Như vậy câu này có thêm hai nghĩa:
- Một là: dù dân Nagiarét phản đối kế hoạch phổ quát của Đức Giêsu, nhưng Ngài không vì thế mà từ bỏ chương trình đã vạch ra.
- Hai là: Ngài phải đi trọn con đường của mình đến Giêrusalem, chừng nào chưa hoàn thành nó thì không có gì có thể cản trở Ngài (x.Ga 7,30; 7,44; 8,59; 10,39).
III. KẾT LUẬN
Ơn cứu độ là một ơn hoàn toàn miễn phí mà Thiên Chúa ban chỉ vì thương chứ không phải do công lao của loài người. Hơn nữa, Thiên Chúa muốn ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người chứ không dành riêng cho một giới người ưu đãi nào.
Đó là điều mà Đức Giêsu muốn cho dân Nagiarét biết, và qua dân Nagiarét, Ngài cũng muốn cho mọi người biết. Thế nhưng dân Nagiarét và sau này, cả dân Israel cũng không chấp nhận, họ đã từ chối Đức Giêsu.
6. Thân phận tiên tri--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Thời xưa, khi Thiên Chúa muốn dạy dân Chúa một điều gì, Ngài không trực tiếp hiện ra dạy dỗ, nhưng Ngài dùng các tổ phụ hay các tiên tri để tuyên sấm Lời Chúa. Tiên tri phải được Thiên Chúa chọn. Tiên tri không được lựa chọn lời Chúa mà phải trung thành nói hết những lời Ngài muốn nói, không được thêm bớt. Những lời tiên tri nói ra thường không dễ nghe và khó được chấp nhận vì những lời ấy vạch trần những sự sai trái của mọi người, nhất là của cấp lãnh đạo trong đạo cũng như ngoài đời. Vì thế, tiên tri thường bị người ta chống đối, nhạo báng, lăng nhục và có khi bị giết vì sứ mạng. Tiên tri Giêrêmia là bằng chứng khẳng định điều trên.
Đức Giêsu cũng là vị tiên tri, vì Ngài được Thánh Thần xức dầu, sai đi rao giảng Tin mừng cho muôn dân. Ngài nói lên sự thật, nhưng Ngài đã bị những người đồng hương chống đối, không chấp nhận mà còn muốn giết đi nữa. Người ta chấp nhận “sứ điệp” của Ngài nhưng không nhận sứ điệp từ nơi Ngài, vì Ngài cũng chỉ là một người Nazareth như ai, con bác thợ mộc Giuse… Vì vậy, số phận của Ngài cũng giống như số phận của các tiên tri bởi vì “Không một tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương mình”.
Mỗi Kitô hữu, qua Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, cũng là tiên tri của Chúa, vì đó là một trong ba chức năng của Đức Kitô mà mọi người được tham gia. Vì thế, mọi Kitô hữu có sứ mạng loan báo Tin mừng cho người khác. Nhiệm vụ ấy đòi hỏi mỗi Kitô hữu phải can đảm thi hành một cách triệt để trong cuộc sống hằng ngày, bằng chứng tá sống động, mặc dầu bị người ta chối bỏ hay chống đối.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Gr 1,4-5.17-19.
Giêrêmia là một trong những tiên tri lôi cuốn nhất. Tính ôn hòa và nhạy cảm của ông không thích hợp để trở thành tiên tri đối với một xã hội suy đồi. Nhưng Thiên Chúa đã gọi ông và ông phải vâng lời. Ông vẫn biết mình không có khả năng, và cũng ý thức rằng ông sẽ gặp rất nhiều chống đối và đau khổ vì nhiệm vụ ấy. Vì thế, ông đã phải cố gắng đi rao truyền Lời Chúa trước mặt dân Israel và các dân ngoại. Trước sự chống đối và bắt bớ, ông vẫn tin tưởng vào sự trợ giúp của Chúa nên ông không hề nao núng. Tiên tri Giêrêmia chính là hình ảnh của người Kitô hữu.
+ Bài đọc 2: 1Cr 12,31 – 13,13.
Trong đoạn thư gửi cho tín hữu Corintô, thánh Phaolô khẳng định sự cao trọng của đức Mến. Chúa ban cho Kitô hữu nhiều ơn riêng để họ góp phần xây dựng cộng đoàn (Chúa nhật trước), nhưng đức Mến vẫn là cao trọng hơn cả.
Đức Mến làm cho các ơn khác có giá trị, bởi lẽ nếu không có đức mến thì những ơn khác chỉ là hư không, và đức mến mới khiến chúng ta tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa.
+ Bài Tin Mừng: Lc 4,21-30.
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp theo bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước nói về những hoạt động của Đức Giêsu tại quê hương Nazareth của mình. Theo đó, chúng ta thấy có ba ý chính:
- Ngày sabat, Đức Giêsu vào hội đường Nazareth đọc Sách Thánh. Nhân dịp này, Ngài tuyện bố lời tiên tri Isaia cách đó 8 thế kỷ mà Ngài mới đọc, được áp dụng vào chính Ngài, và Ngài công bố sứ mạng của Ngài là mang Tin mừng và ơn cứu độ cho những người nghèo khổ.
- Dựa trên lời đồn thổi về Ngài, người đồng hương cảm thấy phấn khởi qua bài giảng của Ngài. Họ hy vọng Ngài sẽ ưu tiên làm nhiều phép lạ tại quê hương, nhưng đã bị từ chối, bởi vì Ngài là Đấng cứu độ của mọi người chứ không phải của riêng ai: ”mọi xác thịt sẽ được thấy ơn cứu độ của Chúa” (Lc 3,6).
- Thất vọng vì sự từ chối của Đức Giêsu, họ tức giận và trục xuất Ngài khỏi thành bằng cách đưa Ngài lên đồi cao để xô xuống vực. Điều này hé mở cho ta thấy bóng dáng ngọn đồi Golgotha, nơi họ sẽ giết Ngài, như cha ông họ đã từng giết các tiên tri.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Hãy làm tiên tri của Chúa.
I. NGƯỜI LÀM TIÊN TRI.
1. Ơn gọi Tiên tri.
Trong đạo cũ, muốn dạy dân một điều gì thì Thiên Chúa thường gửi những vị Tiên tri đến để tuyên sấm lời Chúa. Tiên tri, theo từ gốc Hy lạp, có nghĩa là người nói nhân danh người khác. Thánh Kinh nhắc đến 16 vị Tiên tri tất cả, gồm 4 Tiên tri lớn và 12 Tiên tri nhỏ. Không phải ai muốn làm tiên tri thì làm nhưng phải được Thiên Chúa chọn như Tiên tri Eâlia, Giêrêmia…
2. Tiên tri Giêrêmia.
Giêrêmia là một trong 4 tiên tri lớn thời Cựu ước, đã được Thiên Chúa cho biết: ”Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi, Ta đặt ngươi làm tiên tri cho chư dân”. Đúng là Thiên Chúa đã chuẩn bị, Ngài chọn Giêrêmia từ xa xưa, sai ông đi “để nhổ và lật đổ, để hủy và để phá”.Ôâng dám tuyên bố thẳng thắn với dân chúng con đường sống còn duy nhất của họ là phải canh tân đời sống, hướng về Chúa và kêu cầu Ngài cứu giúp. Nghe ông thuyết giảng như thế, đám dân liền nổi giận. Họ lẩm bẩm kêu lên: ”Ôâng nội Giêrêmia này dám nghĩ mình là ai mà bầy đặt phê phán chúng ta, vì dầu sao chúng ta cũng là đồng bào của ông ấy”.
Tiếc thay, sứ vụ của ông quả đã thất bại, chính ông cũng chết tại Ai cập, nhưng dung mạo của ông không ngừng lớn lên sau khi ông chết. Ôâng là người có tâm hồn dịu hiền, sinh ra để được yêu mến, luôn luôn nêu cao những liên lạc thân mật tâm hồn phải có đối với Thiên Chúa, ông đã quên mình, chịu đau khổ để phục vụ Thiên Chúa, nên ông trở thành một dung mạo của Chúa Kitô.
3. Sứ mạng của tiên tri.
Tiên tri là phát ngôn nhân của Thiên Chúa. Làm tiên tri chẳng dễ chịu chút nào, phiền toái là đàng khác. Tiên tri không thể chọn lựa điều phải nói, mà phải nói điều Thiên Chúa muốn, ông nói và nói nhân danh Chúa. Tiên tri phải tập trung vào việc diễn tả Lời Chúa, cho dù dân chúng đón nhận hay không (1Cr 9,15-16)). Các tiên tri phải nói sự thật (2Cr 11,10; 13,8) và sự thật thì hay mất lòng. Vì thế, mệnh lệnh ông mang lại cho dân chúng và cách riêng cho giới cầm quyền, nhiều khi bị đả kích chống đối và nhà tiên tri phải chết vì sứ mạng.
Giêrêmia trong bài đọc 1 hôm nay nói với chúng ta điều đó một cách thật đau đớn. Thiên Chúa không phải lúc nào cũng nói những lời dễ nghe, làm vừa lòng người ta. Chính vì tính chất khó nghe ấy mà tiên tri phải chết: ”Giêrusalem! Ngươi giết các tiên tri và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi” (Mt 23,37).
Truyện: Án Tử cương trực.
Thôi Trữ quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại cùng nhau thề thốt. Ai nấy đều sợ hãi, răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề.
Thôi Trữ bảo Án Tử:
- Ngươi nghe ta. Ta lấy được nước, thì ta cho một nửa. Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức.
Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm muốn đưa gươm giáo ra đâm chém Án Tử. Chết đến nơi, mà Án Tử vẫn không biến sắc, ung dung nói rằng:
- Lấy lợi nhử người ta, bảo người ta phản bội quân thượng là bất nhân; lấy binh khí hiếp người ta, làm người ta mất chí khí là bất dũng. Giết thì giết, ta đây không theo việc bất nhân của nhà ngươi đâu (Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, năm C, tr 51).
II. ĐỨC GIÊSU, VỊ TIÊN TRI TUYỆT VỜI.
1. Giảng dạy tại hội đường Nazareth.
Bài Tin mừng hôm nay cũng giống như Tin mừng của thánh Marcô,( Chúa nhật 14 B). Thánh Luca kể chung vào làm một hai lần Đức Giêsu trở về Nazareth. Có lẽ cả hai lần, người đồng hương của Ngài đối xử với Ngài cùng một cách, nên thánh Luca kể chung vào một.
Ngày sabat, Đức Giêsu vào hội đường cầu nguyện với bà con đồng hương và chú giải đoạn Sách Thánh vừa mới đọc, tức là đoạn sách của tiên tri Isaia nói về Đấng Cứu thế: ”Thánh Thần Chúa ngự trên tôi…”. Mọi người chăm chú nghe Ngài giảng vì danh tiếng Ngài đã vang rộng. Ngài nói đơn sơ, hùng hồn, hấp dẫn, khôn ngoan và sâu sắc, khiến tất cả ai nghe đều thán phục. Họ ngạc nhiên về sự khôn ngoan của Ngài: ”Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài”.
2. Người đồng hương thay đổi thái độ.
Người đồng hương hài lòng với “sứ điệp” của Đức Giêsu, nhưng người ta không muốn nhận sứ điệp ấy từ Ngài. Vì sao? Vì Ngài là con ông Giuse! Họ thấy trước đây Ngài làm nghề thợ mộc như ai, cha mẹ bình thường như họ, vì thế họ đâm ra hoài nghi và đòi Ngài làm phép lạ như đã làm ở Capharnaum. Ngài thấy họ không có lòng tin nên không làm cho họ phép lạ nào.
Thế là từ sự thán phục, thình lình đổi sang ghen tức. Họ ghen tức và trách Ngài tại sao không làm phép lạ nào nơi quê hương mà lại làm ở Capharnaum chỉ cách đó có 30 km! Nhưng Đức Giêsu đã “đi guốc trong bụng họ”, Ngài biết họ đang nghĩ gì, nên Ngài nói đón đầu ngay: ”Có lẽ các ông muốn mượn câu ngạn ngữ: ”Hỡi thầy thuốc hãy chữa lấy mình” và các ông đòi tôi làm những việc hiển hách ở quê hương trước các nơi khác. Nhưng tôi bảo cho các ông biết: ”Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình”. Ngài đem câu ngạn ngữ đó ra để chứng minh cho thái độ của Ngài. Vì trước đây tiên tri Êlia được sai đến cùng bà góa ở Sarepta làm cho hũ bột của bà không vơi đi, bình dầu không bao giờ cạn. Và tiên tri Êâlisê được sai đến cùng ông Naaman, người Syria, khiến ông được khỏi bệnh cùi. Còn người Nazareth cứng lòng thì Ngài không làm phép lạ. Vả lại, Ngài cũng cho họ thấy họ có thể bị loại để nhường chỗ cho dân ngoại, là những dân có thiện chí và ngay thẳng hơn họ.
Họ đã hiểu hai ví dụ trên ám chỉ về họ, nên họ nổi giận, lòng đầy căm phẫn trục xuất Ngài ra khỏi thành, và còn định dẫn Ngài lên triền núi và xô Ngài xuống vực cho chết quách đi. Đây là sự tiên báo số phận sau cùng của Đức Giêsu. Ngài bị giết bên ngoài thành (Lc 20,15; Cv 7,57).
III. THỰC HÀNH SỨ MẠNG TIÊN TRI.
1. Chúng ta cũng làm tiên tri.
Nhà thần học Karl Rahner của thế kỷ 20 viết: ”… Chính bản thân Giáo hội là sự hiện diện vĩnh cửu của Lời tiên tri, Đức Giêsu Kitô”. Bởi thế Giáo hội phải tiếp tục nhiệm vụ tiên tri, nói lên tiếng nói của Thiên Chúa. Điều này luôn luôn là một thách đố lớn trong mọi thời đại, cho từng người Kitô hữu. Giáo hội thật khôn ngoan khi sắp xếp bài đọc của thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại muốn dạy chúng ta về đức “Ái”, dạy chúng ta đừng cay đắng cáu kỉnh khi người khác không đồng ý với niềm tin của mình. Ngược lại, Giáo hội dạy chúng ta tiếp tục can đảm làm nhân chứng, làm tiên tri qua lời nói và việc làm.
Người tín hữu chúng ta hôm nay cũng được kêu mời sống, làm tiên tri cho Đức Giêsu, trở thành một dung mạo của Ngài. Chúng ta hãy nhớ cho chỉ có Chúa mới ban dức tin cho chúng ta, đây là một ơn nhưng không. Chính Ngài đã có kế hoạch riêng cho từng người, còn kết quả thành hay bại là do từng người chúng ta quyết định. Biết bao lần ta được nghe Ngài, hay Giáo hội của Ngài nhắc nhở, thế nhưng chúng ta vẫn sợ thiên hạ hơn sợ các giáo huấn của Ngài. Đến nỗi nhiều người không dám làm một việc tuyên xưng đức tin dù đơn giản như không dám làm dấu thánh giá trước mặt người ta…
2. Những việc cần tránh.
a) Tránh thành kiến.
Thành kiến hay định kiến là ý kiến đã có lâu không thể thay đổi được. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người, không ai thoát khỏi: ”Bụt nhà không thiêng”. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cũng một câu văn, một lời nói, một việc làm do người này thì có giá trị, do người kia thì vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở vô cùng.
Đứng trước thái độ khinh khi đó, Đức Giêsu đã cho người Nazareth thấy rằng tiên tri không bao giờ được tôn trọng trên chính quê hương mình. Xét về mặt tâm lý, điều này thật chính xác. Bởi sự thường cho dù một người có tài năng, giúp ích và phục vụ rất hiệu quả cho nhiều người, nhiều nơi, nhưng khi trở về gia đình, trở về nơi sinh trưởng của mình thì lại bị những người bà con xóm giềng chỉ xem ở “mức độ thường thường”, do ảnh hưởng điều mà chúng ta vẫn thường gọi: ”Gần chùa gọi bụt bằng anh”. Đức Giêsu không nằm ngoài sự thường này.
Truyện: Sư huynh hỗn xược.
Ở Canada, trong tỉnh Québec, một sư huynh dòng Thiện giáo (Frères de l’Enseignement chrétien) giáo viên trường trung học Alma, vừa xuất bản một cuốn sách bàn về đường lối giáo dục, nhan đề “Những sự hỗn xược của một sư huynh” (Les Insolences du Frère Un Tel). Tác giả đã khéo áp dụng một lối văn châm biếm, trào phúng nhí nhảnh, làm cho quyển sách được đệ nhất ăn khách trong năm. Chỉ trong vòng một tháng trời thôi, sách đã bán ra được một số kỷ lục là 30.000 cuốn.
Một hôm trường Đại học Công giáo Montréal bỗng nhộn nhịp hẳn lên như đàn ong vỡ tổ: Sư huynh Pierre Jérome, tác giả cuốn sách “Những sự hỗn xược” nói trên, sắp đến viếng trường. Toàn thể nhà trường náo động lên. Từ Viện trưởng, các Giáo sư, các sinh viên, cho đến anh gác cổng, đều hăng say phấn khởi tổ chức cuộc tiếp rước.
Đức thượng khách đã từ từ tiến vào khung cảnh văn vật của trường Đại học, giữa một cuộc khải hoàn trọng thể vĩ đại. Sau đó, Sư huynh đã lộng lẫy ung dung bước lên diễn đàn ngỏ lời cùng 650 Giáo sư và sinh viên.
Diễn giả đã thao thao bất tuyệt một thôi, lả lướt như rồng bay phượng múa, như hoa nở suối reo. Những tràng pháo tay nổ vang lên liên tiếp, liên tiếp, chứùng tỏ các thính giả được kích thích đến tột độ.
Cả trường Đại học Montréal hôm đó như rượu nếp lên men. Trong lịch sử trường đã bao giờ có sự phấn khởi nô nức phấn khởi như lần này chưa? Tác giả “Những sự hỗn xược” sao mà huy hoàng trác tuyệt đến thế?
… Nhưng sáng ngày hôm sau, họ đã phải một phen hú vía, tưởng chừng hồn lìa khỏi xác. Có người đến tiết lộ rằng sư huynh Pierre Jérome hôm qua chỉ là một sư huynh … thứ giả! Chàng là một sinh viên quèn của trường Kịch nghệ, cải trang trong bộ áo dòng và cổ trắng của các Sư huynh… để thực tập một phen!
Cả trường uất lên, tưởng ai nấy hộc máu chết tươi tại chỗ trước “sự hỗn xược của một Sư huynh” chưa từng thấy này.
Thế mới hay sức ám thị của những người có tên tuổi mãnh liệt đến chừng nào.
(Vũ minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 337-339).
b) Tránh thói vị kỷ.
Phần đầu bài giảng bữa trước đã được những người đồng hương nhiệt liệt khen ngợi: ”Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài”. Nhưng trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu áp dụng bài giảng của Ngài để chứng tỏ cho người Do thái thấy rằng chương trình cứu độ của Thiên Chúa cũng bao gồm cả những dân ngoại. Để chứng minh, Ngài đã dùng câu chuyện của tiên tri Êlia đang bị đói và người đàn bà góa đã giúp ông lại là một người dân xứ Siđon. Thời tiên tri Êâlisê, những người cùi Do thái đã không được chữa lành mà là một người cùi dân ngoại, ông Naaman, xứ Syria. Điều này làm cho họ giận dữ.
Đức Giêsu không muốn cho dân đồng hương của Ngài có đặc quyền hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa mà Ngài muốn cho mọi người, kể cả dân ngoại cũng được hưởng. Ngài dạy họ hãy tránh thái độ ích kỷ, phải biết mở rộng lòng ra đối với mọi người. Thiên Chúa là Chúa của mọi người chứ không của một riêng ai hay của một dân tộc nào.
Truyện: Thái độ ích kỷ
Xưa kia có một bà nông dân dữ tợn. Khi bà chết chẳng để lại một việc lành phúc đức nào, do đó ma quỉ chờ lệnh của Thiên Chúa đưa bà xuống hỏa ngục để dìm vào trong hồ lửa. Nhưng thiên thần bản mệnh vẫn đứng bên cạnh bà, cố gắng suy nghĩ, may ra tìm được một việc lành nào do bà đã làm để bầu cử cho bà trước tòa Thiên Chúa. Sau cùng, thiên thần nhớ ra một điều: nó không lớn lắm, nhưng là điều thiên thần có thể đưa ra biện minh trước Thiên Chúa. Thiên thần nói với Thiên Chúa:
- Xưa kia, bà đã nhổ một cọng hành trong vườn của bà và đem cho một người ăn xin nghèo khó.
Thiên Chúa trả lời:
- Được lắm. Hãy lấy cọng hành, để bà bám chặt vào nó, rồi kéo bà lên thiên đàng. Nếu thiên thần kéo bà lên được, hãy cho bà vào thiên đàng. Còn nếu cọng hành bị đứt, bà ấy sẽ ở dưới hỏa ngục muôn đời.
Thiên thần đưa cho bà cọng hành:
- Nào, mau lên! Hãy nắm chặt lấy nó để ta kéo ngươi lên thiên đàng.
Và thiên thần kéo rất cẩn thận. Vừa kéo bà lên được một chút, những người tội lỗi khác nhìn thấy bèn cố gắng giành nhau bám vào chân của bà để họ cũng sẽ được cứu thoát. Nhưng người đàn bà đã vùng vẫy dữ dội, đá họ văng ra, đồng thời la hét rằng:
- Ta đã được cứu chứ không phải các ngươi. Đây là cọng hành của ta, không phải của các ngươi.
Ngay khi bà vùng vẫy la hét như vậy, cọng hành đã bị đứt, và bà bị rơi xuống hồ lửa.Vị thiên thần bản mạnh chỉ thương tiếc cho thân phận của bà rồi quay bước ra đi mà thôi.
(Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 74)
3. Những việc cần làm.
Hãy nhớ lại lời Chúa: ”Không tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương mình”. Số phận của tiên tri là thế đó. Làm tiên tri không phải là chuyện dễ. Phức tạp lắm! Một đàng phải nói lời Chúa một cách trung thực, một đàng lời Chúa không mấy êm tai dễ nghe vì vạch những cái xấu của họ ra. Nhưng đã là tiên tri thì phải nói lời Chúa và đồng thời cũng phải nhận những đau khổ màø người nghe dành cho kẻ làm tiên tri.
Chính Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta trước. Ngài từng bảo các môn đệ: ”Nếu thế gian ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Thầy trước … Đầy tớ không lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con” (Ga 15,18-20). Bất cứ ai sống đúng là Kitô hữu sẽ hiểu được những lời nói trên chân thực thế nào.
Làm tiên tri nhiều khi phải lội ngược dòng, không thể sống theo phong trào, sống theo dư luận hay theo chủ trương của một số người nào, mà phải sống theo chân lý, sống theo lời Chúa qua Sách Thánh hay qua lời giáo huấn của Giáo hội. Chính cách sống như thế làm cho người làm tiên tri cảm thấy lẻ loi, lạc lõng và đau khổ giữa những người khác. Có những người không dám tuyên xưng đức tin như không dám làm dấu thánh giá trong quán cơm, trong sở làm. Có người không dám khước từ để không đến những nơi gặp dịp tội như sòng bài, quán rượu, quán karaokê… Có người không dám giữ mình trong tiệc vui giữa những bạn đang “quậy” tứ tung…
Người làm tiên tri cũng đừng đòi Chúa làm phép lạ khi gặp sự khó khăn. Chúng ta muốn có một Thiên Chúa tỏ mình ra thêm chút nữa, một Thiên Chúa giải quyết những vấn đề của chúng ta thay cho chúng ta. Vả lại, Thiên Chúa không thích vai trò mà chúng ta ép Ngài làm. Thiên Chúa không thích điều ngoại lệ, kỳ diệu và ly kỳ… Khi Ngài chữa lành một người mù không phải để làm cho chúng ta kinh ngạc mà để ám chỉ cho chúng ta biết rằng Ngài muốn chữa sự mù lòa vốn có của tất cả chúng ta. Khi chữa lành một người bị liệt nằm trên cáng, vì Ngài muốn chữa lành mọi người chúng ta khỏi bệnh liệt còn nặng hơn nhiều là tội lỗi chúng ta. Điều đó được nói rõ ràng trong Tin mừng (Lc 5,17-26).
Chúng ta là Kitô hữu được kêu gọi làm tiên tri của Chúa Cha cho thời đại chúng ta, cũng như Đức Giêsu từng là tiên tri của Chúa Cha cho thời đại của Ngài. Đây chính là sứ vụ mà chúng ta lãnh nhận khi chịu phép rửa tội và thêm sức. Chúng ta hãy lặp lại lời thánh Phaolô: ”Người Kitô hữu chúng ta được Chúa kêu gọi để tỏa sáng như các vì sao giữa lòng thế giới tối tăm này” (Pl 2,15).
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện nói lên cảm nghĩ của bất cứ ai đã từng cố gắng trung thành bước theo Chúa Giêsu:
“Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa, vì đôi khi chúng con bị cám dỗ căm thù đám người ruồng rẫy chúng con.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh của Chúa, vì đôi khi chúng con như muốn ngã lòng trước những cảnh ngộ gai góc.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng dũng cảm, vì đôi khi chúng con như muốn đầu hàng trước những gánh quá nặng đè lên chúng con.
Xin giúp chúng con là muối ướp mọi người, là đèn soi thế giới. Xin giúp chúng con tỏa sáng như những vì sao trong thế giới tăm tối này” (M. Link).
7. Thân phận ngôn sứ - ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Một tân Linh mục tự nhiên bộc lộ tâm sự: Bao nhiêu năm làm thầy ở Giáo xứ, người ta coi thường mình quá! Thế mà chỉ sau một giờ thụ phong Linh Mục, ai ai cũng kính trọng cúi chào và chúc mừng nồng nhiệt.
Một cảm giác thật kỳ diệu!
Nếu Đức Giêsu cũng được tấn phong theo nghi lễ bên ngoài cho người ta trông thấy, chắc chắn sẽ được dân làng Nazareth kính trọng biết bao. Đằng này Đức Giêsu chỉ nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”. Lời Kinh thánh đó đã được đọc Chúa nhật trước là: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi…”. Họ không thấy Thánh thần xức dầu tấn phong người làm Ngôn sứ như Êlia xức dầu tấn phong Êlisê (1V. 19,16), làm Linh mục như Môise xức dầu tấn phong cho Aharon (Lv. 8,13), làm vua như Samuel xức dầu tấn phong cho David (1S. 16,13). Dầu mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp Người đã nói. Họ không tin lời Tiên tri Isaia đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu vì hai lý do:
1) Thứ nhất: “gần chùa gọi bụt bằng anh”.
Họ nói: “Ông này không phải là con Ông Giuse đó sao?” cảm tưởng thán phục về Đức Giêsu thoát chốc biến mất khi họ nhận ra Người là con ông Giuse, con bác thợ mộc vẫn lang thang làm mướn cho hết nhà này cho đến nhà kia. Gần suốt ba mươi năm, Người sống với họ trong một miền quê nghèo nàn nhỏ bé, làm sao có thể bỗng chốc trở thành Ngôn sứ, trở thành vĩ nhân được. Họ đã biết rất rõ nguồn gốc Người thuộc dòng dõi những kẻ tầm thường từ Giuse đến Eli con ông Mátthát, tới ông cụ ông kỵ là dòng dõi Lêvi như thánh Luca đã kể đoạn gia phả (Lc. 3, 23. 24). Và họ đã vấp phạm vì họ quá bám vào thành kiến loài người: “Con Vua thì lại làm Vua. Con bác Sãi Chùa thì quét lá đa”.
Làm sao loài người thoát khỏi những thành kiến nô lệ đó. Họ phải biết rằng: Xưa kia đã có những kẻ mục đồng tầm thường như Saulê, như David đã được tấn phong làm Vua, những bác nông phu đi cầy, đang hái nho như Êlisê, Amos cũng được sai làm Ngôn sứ. Ở Việt Nam cũng có người dân áo vải đã trở nên những vị Vua anh hùng như Lê Lợi, Quang Trung. Nhiều con nhà nghèo cũng được bầu làm Giáo Hoàng như Piô 10, Gioan 23.
Đức Giêsu chẳng những là người dân lao động mà còn có nguồn gốc dòng dõi siêu phàm. Hôm nay Người tỏ ra cho họ biết Người đã thực hiện sứ mệnh siêu phàm đó là cho người nghèo được nghe Tin Mừng, những tâm hồn tan nát được băng bó, người mù được sáng…
Họ cũng đã nghe thấy Người làm ở Caphanaum “cho người què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại” (Mt. 11, 5).
2) Thứ hai, từ coi thường đến thách thức và phẫn nộ:
“Ông cũng hãy làm tại đây, tại quê hương Ông xem nào!”. Đây là một thách thức ghê gớm để thử Người như Satan đã thử Người từ trên nóc đền thờ lao mình xuống đất, như những kẻ đòi Người làm một dấu tạ từ trời (Lc. 11, 16). Họ cũng hy vọng như những kẻ lười biếng, ỷ lại ích kỷ muốn: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Họ muốn Đức Giêsu phải làm cho họ hơn những người khác vì họ đồng hương với Người. Đó là óc gia đình trị, bè đảng trị. Chúng ta cũng giống như những người làng Nazaneth muốn Thiên Chúa giải quyết cho chúng ta mọi vấn đề. Nhưng Thiên Chúa không thiên vị ai. Chỉ những ai thành tâm mến Ngài, trông cậy phó thác và thực thi Thánh ý Ngài, sống theo đường Thánh giá của Đức Giêsu, lúc đó Ngài mới ra tay cứu thoát.
Thấy họ ngạo mạn, ích kỷ vụ lợi như thế, Đức Giêsu đã nói thật về họ. Họ giống như tổ tiên họ thời các tiên tri Êlia và Êlisê.
Trong thời Êlia, nạn đói do hạn hán hoành hành trong ba năm sáu tháng, Thiên Chúa sai Êlia đến cứu giúp bà goá lương dân thành Sarépta, còn bao nhiêu bà nghèo đói khác trong dân Israel lại không được cứu giúp. Tại sao thế? Thưa vì bà góa dân ngoại này đã có lòng thương người biết chia cơm, sẻ nước cho người khách lạ là Êlia, còn các bà dân Israel theo nhà Vua A-kháp và Hoàng Hậu Iza-bel đi cầu khẩn tà thần Ba-al (1V. 16, 30-17,15)
Trong thời Êlisê, bao nhiêu người phong cùi trong dân Israel không đến xin Êlisê, tiên tri của Thiên Chúa cứu chữa, mà chỉ có đại tướng Naaman, người dân ngoại nước Syri, cùng đoàn tùy tùng đông đảo đến nài xin Êlisê cứu và đã nghe lời tiên tri dậy bảo xuống sông Gióc-đan thanh tẩy và đã được khỏi (2V. 5,1-15). Những lời nói thật đó lại làm họ phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, kéo lên đỉnh đồi, để xô Người xuống vực thẳm. Đáng lý ra, nghe những lời giảng dậy cao siêu lạ lùng đó, họ phải thán phục, kính trọng lãnh nhận để suy niệm. Đáng lý ra, biết Người làm nhiều phép lạ ở Caphanaum, họ phải tin quyền phép Thiên Chúa nơi Người và khiêm tốn cầu xin cứu chữa. Đáng lý ra, khi Người vạch ra cho họ thấy rõ sự thật, họ phải đau đớn ăn năn sám hối, cải thiện để được ơn tha thứ. Nhưng họ lại khinh bỉ, tự ái kiêu căng lao đầu theo dục vọng phẫn nộ điên cuồng của tội ác giết người.
Ngày nay, Đức Giêsu cũng đang nói với chúng ta những sự thật đó: Những sự thật phũ phàng đang xẩy ra, những nạn kỳ thị khủng khiếp đe dọa tiêu diệt lẫn nhau giữa các nước, các chủng tộc, tôn giáo, giai cấp, trong xóm làng và trong gia đình. Có những người công chính dám nói lên những sự thật đó, đều bị thảm sát như Grandhi ngày 14/01/1948, Luther King ngày 04/04/1968, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bị sát hại hai lần ngày 13/05/1981 tại Roma và 05/05/1982 tại Tây Ban Nha.
Lời Chúa hôm nay cho thấy: người ta cũng muốn sát hại Đức Giêsu và tiên tri Giêrêmia. Để mỗi người chúng ta, trong gia đình, trong giáo xứ tránh khỏi nạn kỳ thị lẫn nhau, thánh Phaolô trong bài đọc II kêu gọi chúng ta phải sống bác ái theo gương Đức Giêsu: Đem Tin Mừng đến cho nhau, chứ đừng đem sầu khổ; băng bó những tâm hồn tan nát, chứ đừng đâm bị thóc, chọc bị gạo; giải thoát cho kẻ bị áp bức, đem ánh sáng Đức Kitô cho kẻ ngồi trong bóng tối tội lỗi; ban bố hồng ân của Chúa, chứ đừng gieo tai bay vạ gió.
Lạy Chúa, Chúa đã thương chọn mỗi người chúng con làm ngôn sứ của Chúa ngay khi chúng con chịu phép Rửa tội: “Thánh Thần Chúa đã xức dầu chúng con để nhập đoàn dân Người, chúng con mãi mãi làm chi thể của Đức Kitô là tư tế, tiên tri và vương đế đến cõi sống đời đời”. Xin cho chúng con quyết tâm thực thi sứ mệnh cao cả đó, dù có bị phẫn nộ, xô đẩy xuống hố sâu, thì Chúa cũng cho chúng con “băng qua giữa họ mà đi”.
8. Cần cái nhìn mới để đón nhận sự thật--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài được nuôi dưỡng và trưởng thành, để rao giảng.
Cái nhìn cũ không thể nhận ra và đón nhận Đức Giêsu
“Hôm nay đoạn sách thánh các người vừa nghe được ứng nghiệm.” Dân làng Nadarét hỏi nhau: “đây không phải là con ông Giuse sao?” Nếu người này là con ông thợ Giuse, thì có gì lạ? Liệu ông ta có thể là người đặc biệt sao, vì từ trước đến nay ông ta quá bình thường? Dân làng Nadarét không thể tin được, một người bình thường trong làng ai cũng biết, lại có thể là một người đặc biệt, Đấng Kinh Thánh đề cập tới.
Cái nhìn của người làng Nadarét cũng rất phổ thông đối với con người thời đại này. Phán đoán đánh giá con người qua dáng vẻ bên ngoài, qua qúa khứ. Nếu không dựa vào qúa khứ của một người mà xét đoán, thì dựa vào đâu? Nhưng khi làm như vậy, là đã có thành kiến về người đó. Trong một làng quê, người ta biết nhau từ nhỏ, biết cả tông ti họ hàng, nếu ai phạm một lầm lỗi nghiêm trọng, người đó và họ hàng rất khó sống tại địa phương đó. Chỉ còn cách bỏ làng mà đi. Trong một xã hội thời xưa, không dễ gì bỏ làng đi được, những người đó khổ như thế nào.
“Đừng kết án để khỏi bị kết án”. Hơn nữa, cần có cái nhìn rộng mở với mọi người, để có thể đón nhận những gì Thiên Chúa đang làm qua một người. Một người qúa khứ tội lỗi, bây giờ Thiên Chúa có thể biến đổi họ, có thể họ không như trước, có thể hiện tại họ là những người tuyệt vời. Theo kinh nghiệm sống, điều này rất khó xảy ra, nhưng khó không có nghĩa là không có. Đối với Thiên Chúa, tất cả đều có thể. Chị Maria Magdala là một điển hình.
Năm mới, xin cho chúng ta có cái nhìn “mới” về con người, đặc biệt những người vẫn sống với chúng ta, để chúng ta lạc quan và trông cậy vào Thiên Chúa hơn.
Khiêm tốn để đón nhận và cho đi
Sự đối kháng không chỉ ở mức độ không thích, không muốn nghe, nhưng đã đến độ người làng Nadarét muốn giết Đức Giêsu. Họ dẫn Đức Giêsu tới sườn đồi, và muốn xô Đức Giêsu xuống vực, nhưng Ngài đã băng qua giữa họ mà đi. Được sống với Đức Giêsu, được là người đồng hương (cùng làng) với Đức Giêsu, đáng lẽ là một ơn phúc, nhưng bây giờ lại là mối họa, là điều ngăn cản nhận biết Đức Giêsu. Tại sao vậy?
Tiên tri không được đón nhận tại quê hương mình. Vì người ta cho rằng họ đã biết rõ về con người đó. Và như vậy, con người đó đâu có gì để mình học, đâu có gì đặc sắc để mình phải lắng lòng. Không cần gì thêm, là một thái độ tự mãn, không thể đón nhận gì khác được, ngay cả Thiên Chúa. Người ta thường ví người tự mãn như một ly đầy nên không thể nhận gì hơn. Nếu không nhận, đâu có gì để cho. Một đại dương hay một dòng sông, luôn sẵn sàng đón nhận khe suối hay những giọt nước dù rất nhỏ, nên có thể cho mãi mãi mà không bao giờ cạn.
Một người tự mãn tự kiêu thường lấy mình làm tiêu chuẩn, và không mở lòng ra đón nhận sự thật. Vì coi mình vượt trên người khác, nên khi thấy người khác “có vẻ” coi thường mình, thì họ sẵn sàng hạ bệ hoặc tiêu diệt người khác. Đó là lý do tại sao người làng Nadarét muốn xô Đức Giêsu xuống vực.
Xin cho con có tâm hồn khiêm tốn, để con có thể đón nhận Đức Giêsu và Tin Mừng cứu độ trong đời sống từng ngày của con.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Hiện tại không ai trong chúng ta thấy Thiên Chúa bằng mắt trần, nhưng bạn có tin rằng Thiên Chúa đến với bạn mỗi ngày không? Xin bạn cho vài thí dụ.
2. Có khi nào bạn “thấy” Thiên Chúa đến với một người bạn quen qua biến cố nào đó, nhưng người đó không nhận ra? Tại sao vậy, và làm sao để có thể nhận ra Thiên Chúa đến với mình?
3. Tết này dịp bạn về quê, đâu là dự định của bạn? Điều bạn dự tính có ích lợi gì cho cha mẹ, anh chị em, bạn bè, người thân, người yêu không?
4. Năm mới, nếu cho bạn một điều ước, bạn sẽ ước điều gì?
9. Thi hành sứ vụ Ngôn sứ hôm nay--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Đức Giêsu bị người đồng hương bách hại.
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đã bị người đồng hương Na-da-rét không tin và bách hại: vì họ đã không được thỏa mãn khi đòi hỏi Người phép lạ để chứng minh sứ mệnh Thiên Sai. Người đòi họ phải có đức tin là điều kiện để có phép lạ, Người trưng dẫn hai nhân vật là bà góa nghèo ở Sa-rép-ta thời Ê-li-a và quan Na-a-man ở xứ Sy-ri-a thời Ê-li-sa đã được phép lạ nhờ có đức tin. Do không được thỏa mãn yêu cầu, nên dân Na-da-rét đã biến từ thán phục ban đầu sang tức tối muốn bách hại Người.
CHÚ THÍCH:
- C 21-22: + “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe”: Đức Giêsu trình bày sự xuất hiện của Người như khai mở thời kỳ hồng ân mà các ngôn sứ đã loan báo, nhưng không dành riêng cho dân Ít-ra-en mà dành cho mọi dân tộc. Tin mừng Luca thường nhấn mạnh đến tính cách hiện tại của ơn cứu độ bằng từ “hôm nay” (x. Lc 2,11). + “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?”: Khi ra giảng đạo Đức Giêsu được 30 tuổi và thiên hạ vẫn cho rằng Người là con của ông Giu-se (x. Lc 3,23).
- C 23-24: + “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy chính mình!”: Đức Giêsu đã dùng câu tục ngữ này để nói lên tâm trạng của dân Na-da-rét, muốn được ưu tiên nhìn thấy Người làm phép lạ phục vụ đồng hương như Người đã từng làm ở nhiều nơi khác. + Ca-phác-na-um: là một thành phố nằm về hướng Tây Bắc biển hồ Ga-li-lê, và là trung tâm hoạt động của Đức Giêsu. Tại đây, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân và làm nhiều phép lạ (x. Mc 1,21-28), tha tội cho người bại liệt (x. Mc 2,1-12), quan tâm những người tội lỗi (x. Mc 2,15-17), khoan dung về luật ăn chay và hưu lễ (x. Mc 2,18-27). + “Ông cũng hãy làm tại đây, tại quê hương ông xem nào!”: Dân Na-da-rét đang lặp lại cơn cám dỗ của Xa-tan là muốn thử thách Người. Họ tính lợi dụng lòng tốt của Người để phục vụ cho ích lợi của họ (x. Lc 4,1-14). Cũng vì tưởng mình đã biết rõ nguồn gốc Đức Giêsu, nên họ không tin Người là Con Thiên Chúa từ trời mà đến. Họ đòi Người phải làm phép lạ để chứng minh sứ mệnh Thiên Sai của Người (x. Lc 11,16). + “Không một Ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”: Ngôn sứ hay tiên tri là phát ngôn viên của Thiên Chúa để an ủi những người đau khổ tuyệt vọng, tiên báo một tương lai tốt đẹp sắp dến và động viên dân trung thành với đức tin vào Thiên Chúa (x. Is 49,8-15); Cáo trách tội của vua quan và dân chúng như Sa-mu-en đã trách phạt vua Sa-un (x. 1 V 15,12-23); Na-than cáo trách tội “giết chồng đoạt vợ” của vua Đa-vít (x. 2 Si-mon 12,1-15); Giê-rê-mi-a lên án dân chúng phụng thờ tà thần (x. Gr 7,30-34)... Chính vì “Trung ngôn nghịch nhĩ”-“Lời thật khó nghe” mà nhiều ngôn sứ đã bị người đời giết hại (x. Lc 6,23b). Câu “Không một ngôn sứ nào được tiếp nhận tại quê hương mình” ở đây đồng nghĩa với câu “Bụt nhà không thiêng” của Việt Nam chúng ta.
- C 25-27: + Tôi nói cho các ông hay: Đức Giêsu muốn trình bày tính phổ quát của ơn cứu độ, nghĩa là cho mọi dân mọi nước, chứ không chỉ dành cho dân Ít-ra-en hay cho quê hương Na-da-rét mà thôi. Trong thời gian giảng đạo, Đức Giêsu cũng thường đề cao đức tin của dân ngọai như: khen viên đại đội trưởng Rô-ma (x. Lc 7,9); Dạy làm theo người Sa-ma-ri (x. Lc 10,36-37); Khen người đàn bà Ca-na-an (x. Mt 15,28). + Ê-li-a và bà góa ngoại giáo thành Xa-rép-ta được qua cơn đói kém: Ê-li-a là một ngôn sứ rất nổi tiếng, sống vào thế kỷ thứ chín trước công nguyên. Một bà góa ở thành Xa-rép-ta miền Xi-đon sắp bị chết đói vì nạn hạn hán mất mùa. Bà may mắn gặp được ngôn sứ Ê-li-a. Nhờ tin và làm theo lời Ê-li-a dạy mà bà đã được ông làm phép lạ cho hũ bột và bình dầu nhà bà đầy mãi cho tới khi hết nạn hạn hán (x. 1 V 18,1tt). + Ê-li-sa và quan Na-a-man ngoại giáo bị phong cùi: Ê-li-sa là đồ đệ của Ê-li-a, nổi tiếng vì khả năng chữa bệnh lạ lùng. Tại xứ Xy-ri-a có viên sĩ quan Na-a-man bị bệnh phong cùi. Nhờ được một nữ tì mách bảo, ông đã sang nước Ít-ra-en tìm tới ngôn sứ Ê-li-sa để xin chữa bệnh. Nhờ tin vào quyền năng của Thiên Chúa và khiêm tốn làm theo lời ngôn sứ xuống sông Gio-đan tắm 7 lần và sau đó ông đã được khỏi bệnh (x. 2 V 5,1-14).
- C 28-30: + Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ: Họ phẫn nộ vì Đức Giêsu đã không thỏa mãn đòi hỏi của họ muốn xem phép lạ. Họ còn tức giận vì Người đã đề cao dân ngoại hơn dân Do thái được Đức Chúa ưu tuyển. Họ ganh tị vì Người coi trọng thành Ca-phác-na-um ngoại giáo, hơn quê hương Na-da-rét của Người. Sự kiện này tiên báo Người sẽ bị người đời chống đối, mà ông già Si-mê-on đã báo trước (x. Lc 2,34), và sau này Người sẽ bị kết án tử hình thập giá (x. Lc 20,15). + Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi: Trước sự chống đối của dân Na-da-rét, Đức Giêsu đã băng qua giữa họ mà đi trên đường của Người sẽ chỉ kết thúc tại thành Giêrusalem (x. Lc 13,33).
CÂU HỎI:
1) Tin mừng Luca cho biết khi ra giảng đạo Đức Giêsu được bao nhiêu tuổi và người đời nghĩ Người là con của ai? 2) Ngôn sứ và tiên tri giống hay khác nhau và sứ vụ của họ là gì? 3) Tại sao dân Na-da-rét đòi Đức Giêsu phải làm phép lạ cho họ xem và họ đã có thái độ thế nào khi không được như ý? 4) Hãy kể ra một số trường hợp Đức Giêsu đã đề cao đức tin của dân ngọai? 5) Khi nêu ra hai phép lạ của ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa đã làm cho hai người thuộc dân ngoại, Đức Giêsu muốn nói gì với người đồng hương Na-da-rét? 6) Tại sao các người Na-da-rét nổi giận và muốn giết hại Đức Giêsu?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Sức mạnh của sự thật.
Thôi Trữ là một quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công để đoạt ngôi báu. Ông ta cho mời các quan chức triều đình đến tư dinh để cùng bàn mưu tính kế và uống máu ăn thề với nhau. Sau khi nghe Thôi Trữ công khai tuyên bố chống lại nhà vua, các quan chức triều đình có mặt đều tỏ ra khiếp nhược trước uy thế của Thôi Trữ và răm rắp nghe theo. Duy chỉ có Án Tử là vẫn điềm nhiên tự tại và không chịu thề hứa chi cả. Bấy giờ Thôi Trữ bảo Án Tử rằng: “Nếu ngươi theo ta, thì sau khi ta thâu đoạt được ngai vàng, ta sẽ chia một nửa nước cho. Còn nếu không nghe ta thì ngươi sẽ lập tức bị tiêu diệt!”. Trước khí thế của quân phản loạn, Án Tử vẫn giữ bình tĩnh. Ông trả lời rằng: “Lấy cái lợi để nhử và bắt người ta chống lại Quân vương là bất trung. Lấy binh khí để hiếp đáp làm lòng người sợ hãi phải nghe theo là thất đức. Giết thì giết! Ta đây quyết không làm theo việc bất trung thất đức của ngươi đâu!”. Nói xong Án Tử đứng dậy ung dung ra về, thế mà Thôi Trữ cũng không dám ra lệnh cho quân lính ngăn lại và giết hại như đã đe dọa trước đó.
2) Ngôn sứ Nathan khôn ngoan sửa lỗi vua Đavít (x.II Sm 12,1-13):
Sau khi vua Đavít phạm tội ngoại tình với nàng Bátseva là vợ tướng Urigia và ngầm ra lệnh cho đại tướng Gioáp mượn tay quân địch để giết chết tướng Urigia ngoài mặt trận, Nathan đã được Đức Chúa sai đến làm ngôn sứ cáo trách tội giết chồng đoạt vợ của nhà vua. Nathan đã vào gặp đền vua và bày ra một câu chuyện hư cấu về một nhà phú hộ có 10 ngàn con chiên, nhưng đã sai gia nhân đến nhà một người nông dân chỉ có một con chiên cái mà anh ta rất mực yêu mến, bắt con chiên cái này về làm thịt đãi bạn đến chơi. Rồi từ phản ứng giận dữ của vua Đavít khi nghe về hành động thất nhân ác đức của nhà phú hộ, Nathan mới thẳng thắn nói cho nhà vua biết: tên phú hộ ấy chính là nhà vua. Vua đã phạm tội ngoại tình với Bátseva rồi còn giết chồng là tướng Urigia để đoạt vợ của ông ta. Nhờ cách cáo tội khôn ngoan của Nathan này mà Vua Đavít đã dễ dàng nhận ra tội lớn lao của mình và sẵn sàng sám hối làm việc đền tội.
3. THẢO LUẬN:
Đức Giêsu đã luôn tỏ ra ưu ái và đề cao dân ngoại. Vậy noi gương Đức Giêsu, chúng ta sẽ phải đối xử thế nào với anh em lương dân mà chúng ta có dịp gặp gỡ tiếp xúc hằng ngày, để giới thiệu Chúa cho họ?
4. SUY NIỆM:
1. Đức Giêsu thi hành sứ vụ ngôn sứ tại quê hương và bị phủ nhận:
Tin Mừng CN hôm nay thuật lại như sau: Trong Hội đường làng Nadarét, sau khi đã đọc đoạn sách của Ngôn sứ Isaia về sứ vụ của Đấng Thiên Sai, Đức Giêsu đã chính thức tuyên bố như sau: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Lúc đầu dân làng Nadarét thán phục về tài ăn nói khôn ngoan của Đức Giêsu, nhưng do thành kiến về nghề nghiệp thấp kém và gia thế tầm thường của Người, nên họ đã không tin Người là Đấng Thiên Sai. Họ muốn Đức Giêsu phải làm các phép lạ như họ nghe Người đã làm tại thành Caphácnaum trước đó. Nhưng Người đã không làm một phép lạ nào tại đây vì họ không tin. Trong lời giải thích, Đức Giêsu cho biết lý do dân ngoại thời ngôn sứ Êlia và Êlisa đã được hưởng phép lạ vì họ đã tin và làm theo lời các ngôn sứ dạy. Rồi Người kết luận: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ vì cho rằng Đức Giêsu coi trọng dân ngoại hơn dân Do thái, và còn khinh thường đồng hương. Họ hè nhau lôi Người lên triền núi để xô Người xuống vực, nhưng “người đã băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,30).
2. Sứ vụ ngôn sứ của người tín hữu nói chung:
Mỗi tín hữu chúng ta nhờ phép rửa tội và phép thêm sức cũng được tham phần vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Giêsu. Để chu toàn được sứ vụ cao quý này, dựa vào Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm xem chúng ta cần tránh những gì và cần phải làm những gì?
- Cần tránh thành kiến với tha nhân: Dân làng Nadarét do có thành kiến về nghề nghiệp và gia cảnh của Đức Giêsu, nên đã không tin vào sứ vụ Thiên Sai của Người. Thành kiến là thói xấu mà có lẽ ai trong chúng ta ít nhiều cũng đều mắc phải: Cùng một lời nói hay một việc làm nơi một người có địa vị cao hay có uy tín thì được mọi người nghĩ tốt và đánh giá cao, đang khi nếu do một người bình thường làm lại sẽ bị lên án và đánh giá thấp!
- Cần tránh thái độ ích kỷ cục bộ: Qua câu chuyện hũ bột nhà bà góa nghèo thời ngôn sứ Êlia không bị cạn, và bệnh cùi của quan Naaman thời ngôn sứ Êlisa được khỏi cách lạ thường, Đức Giêsu cho thấy mọi dân tộc đều được hưởng ơn cứu độ chứ không riêng dân Do thái, miễn là người ta phải có lòng tin thể hiện qua việc thực hành Lời Chúa dạy qua các ngôn sứ. Đức Giêsu muốn chúng ta không được đóng khung các họat động truyền giảng Tin Mừng hay chia sẻ bác ái trong phạm vi hạn hẹp của mình, mà phải biết mở rộng tình thương đến hết mọi người.
- Cần nói lời Chúa cách trung thực: Làm ngôn sứ không dễ, vì phải nói lời Chúa cách trung thực, dù sự thật thường hay mất lòng. Nhưng đã là ngôn sứ thì chúng ta phải trung thành nói lời Chúa và sẵn sàng đón nhận hậu quả bị người ta thù ghét bách hại.
- Cần dũng cảm bênh vực công lý: Làm ngôn sứ đôi khi cũng phải lội ngược dòng, khi không chiều theo dư luận xấu hay theo số đông lầm lạc và bất công. Trái lại, chúng ta phải khôn ngoan ứng xử phù hợp với lời Chúa. Điều này đòi hỏi vừa phải dũng cảm đứng về phía sự thật lại vừa phải khôn ngoan để giữ được hòa khí với mọi người. Chính thái độ can đảm và khôn ngoan bênh vực công lý này của các tín hữu sẽ giúp người đời nhận biết tôn thờ Thiên Chúa như lời Chúa Giêsu: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
3. Phải thi hành sứ vụ Ngôn sứ thế nào trong Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót?
- Gương thi hành sứ vụ ngôn sứ cách khôn ngoan của Nathan: Sứ vụ ngôn sứ không dễ thực hiện. Mỗi người chúng ta cần noi gương khôn ngoan của ngôn sứ Nathan khi tuyên sấm lời Chúa sửa lỗi cho vua Đavít (x. II Sm 12,1-13).
- Cần sửa lỗi tha nhân thế nào cho hữu hiệu?: Ngày nay, để việc sửa lỗi đạt kết quả, chúng ta cần áp dụng các phương cách noi gương Thiên Chúa giàu lòng thương xót như sau:
Cần ý thức tầm quan trọng của ơn Chúa bằng việc xin ơn Chúa giúp trước khi sửa lỗi, như lời Chúa dạy: “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,8).
Cần tạo uy tín trước khi sửa lỗi, nên trước khi sửa lỗi cho anh em, cần tự sửa lỗi mình để tránh tình trạng: “Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”;
Cần sửa lỗi vì yêu thương trong sự cảm thông chứ không do mâu thuẫn, thù ghét thôi thúc;
Cần áp dụng phương pháp “viên thuốc bọc đường”, nghĩa là “khen trước chê sau”, “khen nhiều chê ít”;
Cần sửa lỗi từng bước theo Lời Chúa dạy: Một là chỉ nói riêng một mình với kẻ có lỗi; Hai là mang theo một hai nhân chứng; Ba là đưa kẻ có lỗi không chịu sửa sai ra cộng đoàn; Bốn là coi kẻ cố chấp như dân ngoại và phó thác họ cho lòng Chúa thương xót (x. Mt 18,15-17).
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu. Xin giúp chúng con chu tòan sứ vụ làm ngôn sứ là rao giảng Lời Chúa trong xã hội hôm nay. Để chu toàn sứ vụ, xin cho chúng con siêng năng học sống Lời Chúa tại nhà thờ và đọc Lời Chúa trong giờ kinh tối gia đình hằng ngày. Xin cho chúng con biết làm chứng cho Chúa là “Sự Thật” (x Ga 14,6) bằng lối ứng xử thân thiện và khiêm tốn phục vụ những người đau khổ bất hạnh đang lạc xa Chúa. Xin cho chúng con luôn tin vào sức mạnh của sự thật như Chúa đã dạy: “Sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8,32).
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
10. Ơn cứu độ nhưng không của Thiên Chúa--Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Trong bài diễn từ đầu tiên của mình tại Hội đường Nazareth, Chúa Giêsu không những đã nói rõ sứ mạng của Ngài khi đến trần gian là để hoàn tất, để làm “ứng nghiệm” tất cả những gì mà các tiên tri đã loan báo, mà còn cho những người đồng hương của Ngài biết những chiều kích sâu xa của ơn cứu độ mà Ngài mang đến cho con người.
1. Trước hết, ơn cứu độ của Đức Kitô - Ơn cứu độ mang tính thần linh
Đức Kitô không loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ con người, cho dù người đó là một anh hùng, hay một siêu nhân, mà Ngài loan báo một thứ ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa. Ngài không phải là một nhà cách mạng, một nhà giải phóng dân tộc thuần tuý phàm trần. Do đó, ơn cứu độ mà Ngài đem đến không phải là ơn cứu độ thuộc hạ giới. Ơn cứu độ của Ngài là ơn cứu độ đến từ thượng giới, vì Ngài là Đấng Thiên Sai, Đấng từ Thiên Chúa Cha mà đến.
Và chính vì ơn cứu độ đến từ thượng giới, nên để có thể đón nhận, cần có niềm tin. Điều này dân làng Nazareth không có. Mặc dù, họ hài lòng với sứ điệp của Chúa Giêsu, họ vỗ tay tán thưởng những lời từ miệng Người thốt ra; nhưng họ đã từ chối đón nhận sứ điệp ấy từ Người. Trở ngại lớn nhất nơi họ chính là “định kiến” về một Giêsu, con bác thợ mộc Giuse: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” (Lc 4,22). Vì không ra khỏi óc thành kiến hẹp hòi đó, nên họ không thể nhìn thấy nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu quê làng Nazareth.
Tôi có thường “đóng khung” Thiên Chúa và các mạc khải của Ngài trong cái nhìn hẹp hòi thành kiến không?
2. Thứ đến, ơn cứu độ của Đức Kitô - Ơn cứu độ mang tính nhưng không
Ơn cứu độ mà Thiên Chúa tặng ban cho con người qua Đức Giêsu Kitô hoàn toàn xuất phát tình yêu nhưng không của Ngài, chứ không phải vì con người xứng đáng. Thân phận con người là tội lỗi và ngàn lần bất xứng. Không ai có quyền đòi hỏi và cho rằng mình có công trạng.
Vì thế, để có thể đón nhận ơn cứu độ nhưng không ấy, cần có một thái độ khác đó là thái độ chân thành tri ân. Dân làng Nazareth nghĩ rằng mình xứng đáng với những phép lạ và những đặc ân đến từ Chúa Giêsu. Họ thiếu sự chân thành để đón nhận. Hơn thế, họ còn yêu sách đối với Chúa Giêsu: bắt Chúa Giêsu phải đáp ứng theo những đòi hỏi của họ, và vì thế khi Chúa Giêsu không đáp ứng theo ý muốn của họ, lập tức họ nổi giận trục xuất Ngài ra khỏi hội đường.
Tôi có thường đỏi hỏi, yêu sách Chúa làm theo ý mình hay lời cầu xin của mình vì nghĩ mình xứng đáng, mình có công đức hay không? Nếu tôi áp lực, yêu sách Chúa làm theo ý muốn của mình thì một ngày nào đó, tôi sẽ “nghỉ chơi” với Chúa, thậm chí là “khai tử” Chúa chỉ vì không được Chúa đáp ứng. (Dẫn chuyện minh hoạ: Phơi nắng Chúa Giêsu).
3. Sau nữa, ơn cứu độ của Đức Kitô - Ơn cứu độ mang tính phổ quát
Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Ơn cứu độ của Ngài không dành cho một dân tộc, một quốc gia, hay một nhóm người nào. Tin Mừng cứu độ phải đến với hết mọi người (x. Lc 4,42); Tin Mừng không chỉ dành cho một số người độc quyền. Những người không phải Do Thái không nằm bên ngoài ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Đối với Chúa Giêsu, mọi thứ tước hiệu “bà con”, “họ hàng”, “đồng hương đồng khói”, “dòng dõi Abraham”… đều không có ý nghĩa gì, càng không thể đổi lấy ơn cứu độ được.
Vì thế, để có thể đón nhận, cần có thái độ khiêm tốn cởi mở. Dân làng Nazareth vì cho rằng mình có đặc quyền đặc lợi, mình là “con cháu Abraham”, là “dân Chúa chọn”, là “người làng” của Chúa Giêsu, nên họ không muốn những người khác được hưởng ơn cứu độ. Vì thiếu sự quảng đại và cởi mở, nên họ đã nổi giận khi Chúa Giêsu có vẻ đề cao dân ngoại, ưu tiên cho dân ngoại. Và cũng vì thiếu khiêm tốn và vị tha, nên khi Chúa Giêsu từ chối làm theo ý họ và ưu ái đối với họ, họ đã tìm cách loại trừ Chúa Giêsu, theo kiểu “ăn không được thì đạp cho đổ”. Tắt một lời, vì hẹp hòi, không muốn cho dân ngoại được hưởng những ân huệ từ Thiên Chúa, nên dân làng Nazareth đã có ý hãm hại Chúa Giêsu, một người đồng hương với mình. Thật phũ phàng! Tin Mừng thánh Luca cho thấy rõ điều đó: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành và kéo Người lên tới đỉnh núi, để xô Người xuống vực” (Lc 4,29).
Tôi có nhận ra mình ở trong số những người đồng hương của Chúa Giêsu, khi sống hẹp hòi ích kỷ không? Tôi có muốn giữ Chúa cho riêng mình, giữ chân lý do cho riêng mình, và giữ những ân huệ của Thiên Chúa cho riêng mình không?
11. Kiên vững và dịu hiền – Thiên Phúc--‘Như Thầy Đã Yêu’
Thôi Trữ là quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại cùng nhau thề thốt. Ai nấy đều sợ hãi răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề. Thôi Trữ bảo: Nếu ngươi nghe ta, khi lấy được nước, ta sẽ cho một nửa. Bằng không, ta giết ngay lập tức. Án Tử vẫn không biến sắc ung dung nói: lấy lợi nhử người ta, bảo người ta phản bội vua là bất nhân; lấy binh khí hiếp người ta, làm người ta mất chí khí là bất dũng. Giết thì giết, ta đây không theo việc bất nhân của nhà ngươi đâu. Thôi Trữ nghe nói vậy, không dám làm gì. Án Tử đứng dậy, ung dung bước ra.
Thôi Trữ quyền hành là thế, mà chỉ một câu nói của Án Tử cũng đủ làm ông phải chùn bước. Thế mới biết sự thật có sức mạnh hơn bạo lực quyền uy.
***
Bài Tin mừng hôm nay kể lại: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy lòng tức tối; đứng dậy họ đuổi Ngài ra ngoài thành, và điệu Ngài lên tận triền núi nơi thành họ đã được xây cất, có ý xô Ngài xuống. Nhưng Ngài đã ngang qua giữa họ mà đi” (Lc 4,28-30). Những người đồng hương với Chúa Giêsu cảm thấy khó chịu vì họ không thể tin rằng “Thần khí Chúa” lại ngự xuống trên con ông Giuse thợ mộc. Họ cảm thấy nghi ngờ vì không thể chấp nhận một con người nghèo khổ làng Nagiarét lại là tiên tri, lại là Đấng Thiên sai. Họ càng căm phẫn khi con người ấy không chịu thực hiện những phép lạ mà họ yêu cầu. Thế là bạo động nảy sinh, họ muốn tiêu diệt Ngài cho khuất mắt. Đúng như lời Ngài đã nói: “Không một tiên tri nào được tiếp đón nơi quê hương mình”. Thế mới ứng nghiệm lời ông già Simêon: Trẻ này là dấy hiệu bị người đời chống báng. Lời tiên tri này còn theo Người suốt cả cuộc đời.
Nếu dân làng Nagiarét ép Ngài làm phép lạ để minh chứng Ngài là tiên tri, thì các đầu mục Do Thái cũng đòi Ngài chứng minh giáo lý của Ngài là chính thống. Nếu dân làng Nagiarét tố cáo Ngài là lộng ngôn phạm thượng thì bọn pharisêu cũng kết tội Ngài dựa vào thế gía của quỉ vương. Nếu dân làng Nagiarét cố tìm cách giết Ngài, thì dân thành Giêrusalem cũng quyết tâm đóng đinh Ngài vào thập giá. Mỗi người Kitô hữu đều có thể hiểu được thế nào là bị xua đuổi, bị loại trừ, bị kỳ thị và bị bỏ rơi, vì “nếu thế gian đã ghen ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Thầy trước”. Thế nhưng ít có ai cảm nghiệm được tâm trạng của Chúa Giêsu vào những lúc như thế này: Ngài có căn thù những kẻ ruồng rẫy Ngài không? Ngài có đầu hàng trước nghịch cảnh không? Nói như Martin Luther King: Tôi vui mừng vì Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa có tinh thần kiên vững và có con tim dịu hiền.
Vâng, nếu Thiên Chúa chỉ là Đấng có tinh thần kiên vững, thì Ngài sẽ là một Thiên Chúa xa cách, lạnh lùng, ngự trị một nơi nào đó trên chốn trời cao để ngắm nhìn thế sự thăng trầm. Nhưng nếu Ngài chỉ có con tim dịu hiền, thì Ngài sẽ là một Thiên Chúa ủy mị nhu nhược, không thể hành động khi mọi sự đi lệch hướng. Đứng trước cảnh bị ruồng rẫy hôm nay, con tim của Ngài không hề chai đá và tinh thần của Ngài không chút bạc nhược. Ngài có đủ tinh thần kiên vững để vượt trên thế giới và có con tim đủ dịu hiền để ở giữa con người.
Bài học chúng ta cần rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay, đó là: Thiên Chúa mạnh mẽ vô song, có thể băng qua giữa họ mà đi, nhưng Ngài cũng là Đấng giàu lòng thương xót. Khi chúng ta ngỗ nghịch xúc phạm đến Ngài, khi chúng ta muốn xô Ngài xuống vực thẳm, thì chúng ta cần biết rằng chính lúc đó Ngài đang yêu thương chúng ta và sẵn sàng cho chúng ta một cơ hội để quay trở về. Thiên Chúa là Đấng có tinh thần kiên vững trong phán quyết công minh, nhưng Ngài cũng là Đấng có tình dịu hiện trong tình thương và ân sủng.
Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ cho hết mọi người, chứ không chỉ dành riêng cho một số người được đặc ân.
Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ để chúng ta sinh ích cho mình và làm lợi cho anh em, chứ không phải để chúng ta khư khư giữ lấy cho riêng mình.
Lạy Chúa, Tiên Tri là ơn gọi và là sứ mạng của mỗi người tín hữu chúng con. Xin cho chúng con luôn can đảm nói điều Chúa muốn nói, và nói nhân danh Chúa, cho dù có phải bị chống đối, phẫn nộ.
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng: Chúa đầy quyền năng cao cả nhưng cũng rất giàu lòng xót thương, luôn dẫn dắt chúng con từ những hố sâu tăm tối đến những nẻo đường chan hoà ánh sáng, tràn đầy hy vọng, nhờ đó, cuộc đời chúng con được viên mãn. Amen.
12. Những người thân.
Như chúng ta đã thấy Chúa Giêsu khởi sự công việc rao giảng của Ngài. Thoạt đầu, Ngài đã gây được hứng khởi nơi người nghe. Thánh Luca viết về những hoạt động của Ngài trong lúc này như sau: Danh tiếng Ngài lan tràn cả miền chung quanh. Ngài giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng. Nhưng cũng chính thánh Luca đã cho chúng ta thấy một cách sống động rằng ngay từ điểm khởi đầu này, lời giảng dạy của Chúa Giêsu đã tạo nên những chống đối. Chẳng hạn ngày hôm nay, những người làng Nadarét sau khi đã ca ngợi Ngài, thì họ bắt đầu thắc mắc về Ngài. Họ bàn tán: Ông này hẳn không phải là con bác phó mộc Giuse hay sao? Và từ thắc mắc, họ đi đến chỗ căm thù, thậm chí còn muốn thủ tiêu Ngài, như lời thánh Luca đã viết: Mọi người trong hội đường đều đầy lòng căm phẫn, họ đứng dậy, đuổi Ngài ra ngoài thành và điệu Ngài lên tận triền núi, nơi thành họ được xây cất, cố ý xô Ngài xuống cho chết.
Qua đoạn Tin Mừng này, chúng ta không khỏi liên tưởng tới lời mở đầu của Tin Mừng theo thánh Gioan, trong đó thánh Gioan cũng đã viết: Ánh sáng đã chiếu soi trong u tối, nhưng u tối không tiếp nhận ánh sáng. Ngài đã đến nhà nhưng gia nhân đã không tiếp nhận Ngài. Từ đó chúng ta đi tới hai nhận định cho việc sống đạo.
Nhận định thứ nhất đó là mầu nhiệm làm người và mầu nhiệm cứu rỗi của Chúa Giêsu phải chăng chỉ là một? Cuộc khổ nạn ngày thứ Sáu Tuần Thánh và cuộc sống lại vinh hiển ngày phục sinh, chỉ là phần kết thúc của một tiến trình duy nhất, bắt nguồn từ lúc giáng sinh làm người? Thái độ từ chối và chống đối của người Do Thái, không phải chỉ xuất phát từ những tình cảm hời hợt bên ngoài, nhưng bắt nguồn từ một lựa chọn căn bản giữa ánh sáng và u tối, giữa yêu thương độ lượng và hận thù ích kỷ. Chúng ta không thể vừa theo Chúa lại vừa phủ nhận chương trình và đường lối cứu chuộc của Ngài.
Nhận định thứ hai đó là như chúng ta đã biết: Dân làng Nadarét đã tỏ ra cứng lòng, không tin những điều Ngài giảng dạy. Sở dĩ như vậy là vì họ đã quá quen thuộc với bản thân Ngài, gia đình Ngài nên mới có thái độ: Gần chùa gọi bụt bằng anh. Tại Nadarét, Chúa Giêsu bị chống đối không phải bởi những người ngoại đạo, mà bởi những người có đạo, bị oán ghét không phải bởi kẻ thù địch, mà bởi những người họ hàng thân thích.
Hình ảnh những người làng Nadarét của thánh Luca, cũng như những hình ảnh gia nhân không tiếp đón Ngài của thánh Gioan, phải chăng là những hình ảnh tượng trưng cho người tín hữu chúng ta. Bởi vì mặc dù đã biết Chúa mà nhiều lúc chúng ta vẫn không tin Chúa. Mặc dù nhận lãnh những ơn lành của Chúa mà nhiều lúc chúng ta vẫn lăng nhục và thù ghét Chúa. Mặc dù đã được Chúa thứ tha, mà nhiều lúc chúng ta vẫn xua đuổi Chúa. Hãy khử trừ tội lỗi và hãy thực thi những điều Chúa truyền dạy, để nhờ đó chúng ta không cứng lòng như những người làng Nadarét, cũng như không xua đuổi Chúa như những gia nhân mà thánh Gioan đã nói đến.
13. Để yêu như Đức Kitô yêu--‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của Charles E. Miller, C.M.
Một thiếu niên đã ném những cái túi ra xa lộ trước mặt nhà của hắn ta, hắn ta mất một trong những kiếng sát tròng của mình, hắn ta tìm kiếm nhưng không tìm thấy nó. Hắn vào nhà và nói: “Bố ơi con mất kiếng sát tròng rồi và con không tìm thấy nó”. Cha của cậu ta đứng dậy rời khỏi tờ báo và đi ra ngoài, một lúc sau thì ông trở lại với cái kiếng sát tròng. Đứa con trai kinh ngạc: “Cha ơi làm sao cha tìm thấy nó?”. Nó hỏi, cha nó trả lời”“Mày tìm kiếm một miếng plastic. Còn tao, tao tìm kiếm vì một trăm năm mươi đô”.
Khi chúng ta không nắm vững ý nghĩa đúng của những giá trị, chúng ta có thể thất bại trong việc tìm thấy những thực tại quan trọng của đời sống. Đó là lý do vì sao mà nhiều người trong bài Phúc Âm hôm nay đã từ bỏ Chúa Giêsu. Họ không thể chấp nhận được một thanh niên sinh đẻ tại đây là Đấng Mêsia của họ, họ bỏ sót những gì thật sự là quan trọng. Đối với họ Chúa Giêsu không khác gì một miếng plastic.
Một điều gì đó cũng tương tự như thế xảy ra ở Corintho và Thánh Phaolô đã viết thư cho tín hữu ở đây. Họ đã trở nên say mê bởi những món quà đặc sủng, một số có thể nói những ngôn ngữ khác nhau, số khác cắt nghĩa được những ngôn ngữ đó, một số được đặc ân chữa lành, một số khác được nói tiên tri. Những đặc ân này thì tốt cho dân chúng, nhưng những người Corintho thì thất bại trong việc nắm bắt được giá trị của đặc ân lớn nhất đó là đặc ân tình yêu.
Đó là lý do vì sao Thánh Phaolô nói với họ: “Tôi sẽ trình bày cho các bạn biết điều vượt trên những điều đó”. Đó là con đường tình yêu. Nhưng với Thánh Phaolô, tình yêu không chỉ hấp dẫn hoặc không đơn giản chỉ là lý thuyết. Ngài không nghĩ về một tuần trăng mật hay một tình yêu lãng mạn. Đối với thánh nhân, tình yêu là thực tế, là hiện diện nơi trái đất này, là diễn ra ngày này qua ngày nọ khi giao dịch với những người khác.
“Tình yêu thì tử tế”, thánh nhân có thể đặt nó một cách đơn giản và trực tiếp hơn không? Chúng ta phải tử tế với nhau nên mới nói: “xin vui lòng”,”cám ơn” hay”xin lỗi”.”Tình yêu thì kiên nhẫn”. Thật khó để mà luôn luôn kiên nhẫn với những người mà chúng ta cùng sống hoặc làm việc, nếu họ không làm cho thần kinh chúng ta căng thẳng thì cũng làm phiền chúng ta bởi những điều mà chúng ta không thích. Tình yêu thì không ghen tỵ. Tình yêu thì không làm bộ làm tịch. Tình yêu thì không thô lỗ. Tình yêu không nói lời hư từ. Mọi đề mục trong danh sách của thánh nhân đều là thực tế. Trên tất cả, tình yêu là không kiếm tìm chính mình. Tình yêu luon luôn quảng đại và không ích kỷ. Cuối cùng, tình yêu không bao giờ thất vọng. Tình yêu thật sự không chỉ ở giữa người chồng và người vợ, để tốt hơn hoặc xấu hơn, để giàu hơn hoặc nghèo hơn, lúc bệnh hoạn hay khi khỏe manh.
Những tác giả thiêng liêng đã nhận thấy nơi thư của Thánh Phaolô từ”tình yêu” có thể được thay thế với tên”Đức Kitô”. Đức Kitô thì kiên nhẫn, Đức Kitô thì tử tế, Đức Kitô không nói lời hư từ, Đức Kitô không tìm kiếm chính mình, Đức Kitô thì không bao giờ thất vọng. Chân lý này giúp chúng ta nhận thấy lý tưởng cao vời của một tình yêu thật sự và chúng ta sẽ không đạt được nó nếu dựa vào chính chúng ta. Thánh Thể là ý nghĩa để chúng ta lớn lên trong tình yêu giống như Đức Kitô. Chúng ta lãnh nhận Thánh Thể, chúng ta cầu nguyện: “Lạy Chúa xin biến đổi con và những tình yêu của con. Xin giúp con yêu mến như chính Chúa yêu. Xin giúp con mỗi khi con gặp khó khăn”.
Thánh Phaolô đã nhận biết có ba nhân đức lớn lao là đức tin, đức cậy và đức mến. Khi chúng ta lên thiên đàng chúng ta không còn cần đến đức tin, bởi vì chúng ta đã thấy Thiên Chúa diện đối diện. Và cũng khong còn cần đức cậy bởi vì chúng ta đã đạt được mục đích của chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ có nhân đức lớn hơn mọi nhân đức; chúng ta sẽ có tình yêu. Chúng ta sẽ bắt đầu từ bây giờ cho đến đời đời, bởi việc cầu xin và đem ra thực hành một tình yêu giống như Đức Kitô là yêu thương anh em.
14. Truyền giáo
Hôm nay đã ứng nghiệm lời tiên tri các ngươi vừa nghe. Nhìn vào cuộc đời của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài đã thực hiện tất cả những gì Cựu ước và nhất là các tiên tri đã nói về Ngài.
Thực vậy, Ngài đã đến cho những người nghèo túng, cho những người đau yếu và cho những người bị bóc lột. Trong suốt quãng đời công khai, Ngài đã cúi xuống xoa dịu mọi khổ đau cũa những người Ngài gặp thấy trên khắp các nẻo đường. Làm sao chúng ta có thể kể hết những phép lạ Ngài đã làm, những lời nói cảm động và những cử chỉ ủi an Ngài đã thực hiện.
Thế nhưng, Ngài không dừng lại ở những thiếu thốn vật chất, ở những khổ đau thân xác, mà Ngài còn đi xa hơn nhữa, tới những thiếu thốn của ơn sủng và những khổ đau của tâm hồn, bởi vì những khổ đau ngoài thân xác chỉ là một phản ảnh, một dấu chỉ của những khổ đau trong tâm hồn.
Chính vì thế, trong khi chữa lành những tật bệnh phần xác, trong khi làm cho người chết sống lại, cũng như trong khi làm cho bánh hóa nhiều, Ngài đã dẫn chúng ta vào một cảnh vực thần linh, vào thế giới siêu nhiên. Ngài muốn giải phóng con tim chúng ta khỏi những trói buộc của tội lỗi. Ngài muốn khủ trừ ảnh hưởng của ma quỉ, cũng như muốn mở cho chúng ta cặp mắt đức tin.
Tuy nhiên, những hành động yêu thương này, không phải chỉ được thực hiện trong ba năm của quãng đời công khai, mà hơn thế nữa, còn được tiếp tục qua dòng thời gian trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội.
Thực vậy, Giáo Hội là hiền thê của Đức Kitô, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, Giáo Hội chính là Đức Kitô được kéo dài trong lịch sử. Giáo Hội tiếp nối sứ mạng cứu độ của Đức Kitô. Nhờ các bí tích trong Giáo Hội, Đức Kitô tiếp tục giải phóng chúng ta khỏi những trói buộc của tội lỗi,nuôi sống chúng ta bằng lương thực thần linh và bổ sức cho chúng ta bằng muôn vàn ơn sủng của Ngài.
Nhờ những lời giảng dạy và giáo huấn của Giáo Hội, Đức Kitô tiếp tục truyền thông ánh sáng cho những kẻ còn ngồi trong bóng tối. Thế nhưng, để Giáo Hội hoàn tất được sứ mạng của mình ở trần gian, thì mỗi phần tử, hay nói đúng hơn, mỗi người chúng ta phải ý thức bổn phận truyền giáo, bổn phận làm việc tông đồ, bổn phận góp phần nhỏ bé của của mình trong công cuộc loan báo Tin mừng của Giáo Hội.
Thực vậy, trước khi về trời, Đức Kitô đã phán:
- Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh thần…
Chúng ta cần phải đánh tan một quan niệm sai lạc cho rằng: việc tông đồ truyền giáo là việc riêng của các linh mục, tu sĩ, hay một số người nào đó. Không phải là như vậy. Đây là một trách nhiệm, một bổn phận của mỗi người Kitô hữu, bởi vì đã là chi thể trong nhiệm thể Đức Kitô, chúng ta có trách nhiệm, có bổn phận phải làm cho nhiệm thể ấy lớn mạnh và phát triển.
Nếu không thể đi rao giảng như các thánh tông đồ, như các vị thừa sai, hay như các nhà truyền giáo, thì ít nữa là chúng ta phải sống đức tin, phải làm chứng cho Đức Kitô ngay giữa lòng cuộc đời của mình, bằng một cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái va yêu thương, vì:
- Lời nói như gió lung lay,
Việc làm như tay lôi kéo.
Chính gương sáng mới là một bài giảng hùng hồn nhất, có sức hấp dẫn và lôi cuốn những người chung quanh, để rồi dẫn đưa họ trở về cùng Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta phải ý thức bổn phận tông đồ và phải kêu lên như thánh Phaolô:
- Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng.
Mỗi người chúng ta phải ý thức sứ mạng truyền giáo và phải van xin như thánh Phanxicô Xaviê:
- Lạy Chúa, xin ban thêm nữa cho con những linh hồn.
Mỗi người chúng ta phải cố gắng góp phần nhỏ bé vào công cuộc phát triển của Giáo Hội và phải nói được như thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu:
- Nếu như tôi đã vào thiên đàng, mà thấy ở trần gian còn có một linh hồn sắp sa hỏa ngục, thì tôi xin tình nguyện trở lại trần gian để cứu vớt linh hồn ấy.
Mỗi người chúng ta đã đón nhận tình yêu thương của Chúa, thì bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải chuyển thông tình yêu thương ấy cho những người chung quanh, như lời Chúa đã dạy:
- Được nhưng không, thì phải cho nhưng không.
Mỗi người chúng ta phải là một Đức Kitô khác, một Đức Kitô thứ hai, hay nói cách cụ thể, phải là một hiện thân, một chứng tá cho Đức Kitô giữa môi trường chúng ta đang sống. Mỗi người chúng ta phải kéo dài sự hiện diện của Đức Kitô trong thời gian và không gian. Mỗi người chúng ta phải tiếp nối những hành động của Đức Kitô bằng cách đem tình thương vào nơi oán thù, đem tha thứ vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm, đem tin kính vào nơi nghi nan, đem trông cậy vào nơi thất vọng, đem ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn u sầu…
Ngày kia, khi sắp phải giao tranh một trận quyết liệt, Napoléon đã lên tiếng khuyến dụ các binh sĩ như sau:
- Hỡi anh em chiến hữu, tôi cần đến các bạn.
Giáo Hội cũng đang đứng trước một trận chiến đầy cam go, chống lại ma quỉ, thế gian và tội lỗi, nên đã nói với chúng ta:
- Hỡi các con, ta cần đến các con.
Napoléon kêu gọi các binh sĩ để giết chết những thường dân vô tội, nhưng Giáo Hội kêu gọi chúng ta để cứu vớt những người anh em. Napoléon kêu gọi các binh sĩ để giúp ông được vinh quang, nhưng Giáo Hội kêu gọi chúng ta để làm cho Nước Chúa được trị đến.
Người ta kể lại rằng: khi Ringhoff, một thương gia người Đức, mừng thượng thọ 80 tuổi,rất nhiều người đã gửi lời chúc mừng, trong số đó có ông bộ trưởng công chánh. Lý do: trong thời gian hành nghề, nhà thủy thủ này đã vớt được 120 người khỏi chết đuối.
Cứu thân xác kẻ khác khỏi chết đã là một công việc tốt đẹp, thế nhưng, công việc đó chẳng thể nào so sánh được với công việc của người làm tông đồ, cứu linh hồn kẻ khác khỏi chết, bởi vì chính Chúa sẽ chúc phúc cho họ.
Nếu mỗi người chúng ta đều trung thành với bổn phận tông đồ, thì hẳn lời tiên tri Isaia cũng đã được thực hiện trong thời buổi hôm nay, đó là: Tin mừng được rao giảng cho người nghèo khó, năm hồng ân được công bố và Nước Chúa dã hiện diện giữa chúng ta.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, ngày hôm nay Chúa lên tiếng kêu mời chúng con cộng tác với Chúa trong công cuộc truyền bá Tin mừng. Xin cho chúng con bết quảng đại đáp trả tiếng gọi của Chúa. Bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, chúng con góp phần nhỏ bé làm cho Danh Chúa được cả sáng, Nước Chúa được trị đến và ý Chúa được chu toàn.
15. Tiên tri
Giêrêmia là một vị tiên tri sống vào thời dân Do Thái bị băng hoại từ bên trong, và bị kẻ thù đe doạ từ bên ngoài. Tình hình ấy đã làm cho ông hết sức đau xót. Có lẽ vì thế Chúa đã kêu gọi ông làm tiên tri cho đồng bào của ông. Tuy nhiên, lần nào được Chúa kêu gọi, thì ông cũng đáp lại bằng một thái độ miễn cưỡng vì ông biết rằng làm tiên tri nơi quê hương mình là điều rất khó khăn. Nhưng rồi ông cũng phải lên tiếng và thẳng thắn nói với dân chúng con đường duy nhất họ phải đi là canh tân đời sống, quay trở về với Chúa. Nghe ông rao giảng dân chúng bèn nổi giận: Ông ấy là ai mà dám phê phán chúng ta.
Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm được những khó khăn và bẽ bàng khi lãnh nhận sứ mạng làm tiên tri ngay trong xứ sở mình. Đoạn Tin Mừng cho thấy, dân làng Nadarét đã tức tối và lẩm bẩm: Anh ta là ai mà dám tự nhận mình là Đấng Thiên Sai. Anh ta há chẳng phải là con ông Giuse thợ mộc đó sao? Sự căm tức lên tới cao điểm khi họ định xô Ngài xuống vực thẳm.
Hẳn chúng ta còn nhớ lời ông già Simêon nơi cửa đền thờ: Trẻ này sẽ là dấu chỉ cho người ta chống đối.
Nếu dân làng Nadarét đã đòi Ngài phải đưa ra bằng cớ chính mình Ngài là tiên tri thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái cũng đòi buộc Ngài phải chứng minh giáo lý của Ngài là chân thật. Nếu dân làng Nadarét đã tố cáo Ngài là kẻ lộng ngôn phạm thượng thế nào, thì bọn biệt phái cũng đã thẳng thừng kết án Ngài là khí cụ của ma quỷ. Nếu dân làng Nadarét đã tìm cách giết Chúa thế nào, thì dân thành Giêrusalem cũng đã kêu la: Đóng đinh nó vào thập giá.
Số phận của Chúa Giêsu cũng là số phận của chúng ta, nhưng môn đệ của Ngài: Nếu họ đã bắt bớ Thầy thì họ cũng sẽ bắt bớ các con. Bất cứ ai sống đúng địa vị người Kitô hữu cũng sẽ nhận ra sự thật ấy.
Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta đón gió trở cờ, thấy khó khăn là xoá bỏ đức tin, khước từ lối sống lành mạnh và lương thiện. Bởi vì Chúa đã từng nói với chúng ta: Các con là muối ướp cho đời khỏi ươn thối. Các con là tấm men làm cho khối bột là xã hội đang băng hoại phề phương diện đạo đức, được dậy lên sự thánh thiện. Các con là ánh sáng chiếu soi vào thế gian tăm tối. Ánh sáng của các con phải toả ra trước mặt mọi người, để họ nhìn thấy những việc thiện các con làm, mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.
Để kết thúc, tôi xin ghi lại nơi đây lời thánh Phaolô viết: Người Kitô hữu chúng ta được Chúa kêu gọi để toả sáng như những vì sao giữa lòng thế giới tối tăm này.
16. Hiến thân làm chứng nhân cho ánh sáng--‘Suy Niệm Lời Chúa’--Radio Veritas Asia
Hằng năm, cứ vào ngày thứ 40 sau lễ Giáng sinh, Giáo Hội cử hành lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thờ cũng gọi là lễ Nến. Các Giáo Hội Tây Âu đã chỉ bắt đầu cử hành ngày lễ này từ thế kỷ thứ VII và thứ VIII trở đi. Trước khi khởi sự thánh lễ có cuộc rước đèn trọng thể, mọi người cầm đèn sáng trong tay tượng trưng cho Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng cứu độ hiện diện giữa lòng trần gian tăm tối. Ánh đèn sáng cũng diễn tả ơn đức tin, mà mỗi tín hữu đã nhận lãnh trong bí tích Rửa tội, đồng thời nó cũng diễn tả ơn gọi Kitô, là phản chiếu ánh sáng ơn cứu độ của Chúa trong cuộc sống thường ngày. Ngày nay, trong lễ này, nhiều dòng tu đặc biệt là các dòng tu nữ có thói quen tận hiến trong thánh lễ này, nhất quyết dấn thân làm chứng nhân cho ánh sáng cứu độ của Chúa giữa lòng thế giới.
Trong ngày lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thờ, Giáo Hội cũng kêu mời mỗi người trong chúng ta hiến thân làm chứng nhân cho ánh sáng cứu độ của Chúa và đem ánh sáng cứu độ đó đến cho tất cả những ai chưa biết Ngài. Giữa lòng xã hội, mỗi một Kitô hữu phải là một sứ giả dọn đường cho Chúa đến trong tâm lòng con người. Ðây là hình ảnh được tiên tri Malakia miêu tả trong chương 3,1-4. Trong dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã gởi các sứ giả của Ngài đến trước để dọn đường cho Ngài. Họ là các tiên tri có nhiệm vụ chuyển sứ điệp của Chúa đến cho con người và giúp mọi thành phần xã hội tẩy rửa tâm lòng thay đổi lối sống. Những lời rao giảng và khuyến cáo của các vị giống như lửa nóng trong lò luyện kim, đốt cháy và nung chảy mọi sự để thanh lọc vàng bạc khỏi tất cả mọi chất cặn bã dơ bẩn, hầu khiến cho chúng trở nên tinh ròng trong sáng. Những lời cảnh cáo kêu mời của các vị giống như thuốc giặt có sức mạnh gột rửa mọi vết ô uế trong tâm lòng và cuộc sống con người. Lửa và thuốc giặt, thiêu đốt và chà xát khiến cho tâm lòng và cuộc đời con người có đau xót thật, nhưng đó là cái đau xót cần thiết cho việc thanh luyện và biến đổi.
Tầng lớp xã hội đầu tiên mà vị sứ giả của Chúa phải thanh tẩy là hàng giáo sĩ, nơi người có nhiệm vụ lãnh đạo cuộc sống tinh thần của dân. Bởi vì hàng giáo sĩ không thể chỉ đường cho dân đến với Chúa, nếu chính họ là những người sống xa Chúa, phản chứng, bê tha, tội lỗi mù lòa, tâm linh yếu ớt và bệnh hoạn tinh thần. Và cuộc thanh tẩy ấy sẽ lan dần cho các thành phần xã hội khác, đặc biệt là giới lãnh đạo xã hội, dân sự là những người có phần vụ liên hệ tới cuộc sống hạnh phúc hay khốn khổ của toàn dân. Mục đích tối hậu của cuộc thanh tẩy toàn diện ấy là chuẩn bị cho Thiên Chúa đến xét xử loài người và thế giới. Là các sứ giả của Chúa, Kitô hữu có một sứ mạng vô vùng cao trọng giữa lòng trần gian, ơn cứu độ của thế giới tùy thuộc một phần nơi ý thức trách nhiệm, nơi thái độ sống chứng tá và hành xử của họ. Chúa Giêsu Kitô nhập thể làm người, là hiện thân của Giavê Thiên Chúa vào trần gian để xét xử thế giới, và thánh Gioan Tẩy Giả là tiên tri cuối cùng của Thiên Chúa gởi tới để dọn đường cho Ngài. Khi kể ra các nhân tố lịch sử và địa lý trong chương 2,22-40, thánh sử Luca muốn chứng minh rằng Chúa Giêsu đã thật sự nhập thể làm người, bởi vì Ngài đã chấp nhận sinh ra trong một gia đình, thuộc một dân tộc, sống trong một vùng đất nhất định của thế giới này với những tập tục và luật lệ riêng. Khi tuân phục các phong tục tập quán và lề luật đó. Ngài hoàn toàn chấp nhận mọi hệ lụy của kiếp sống con người. Trong tường thuật này của thánh Luca, cần phân biệt hai tập tục khác nhau. Thứ nhất là tập tục dâng hiến hay sát tế lễ vật và con trai đầu lòng cho các thần linh, và thứ hai là tập tục cha mẹ đem con cái lên đền thờ Giêrusalem, dâng chúng cho Thiên Chúa vào ngày thứ 40 sau khi sinh. Các dân tộc Sémite và nhiều dân tộc trên thế giới bên Châu Phi và Châu Mỹ Latinh thời rất xa xưa, đã có thói quen dâng hiến tất cả mọi thứ đầu mùa cho các thần linh, hoa trái đầu mùa, con đầu lòng của súc vật và con trai đầu lòng của họ nữa. Sở dĩ họ làm như thế trước hết vì xác tín rằng, tất cả đều thuộc về các thần linh. Sau đó vì tin rằng, hiến dâng hay sát tế cho các thần linh những súc vật và con đầu lòng nghĩa là những gì quí báu nhất đối với họ, là diễn tả lòng thành kính đối với các vị, và qua đó, kéo được phúc lành của các thần linh xuống trên cuộc sống của họ.
Dân Do Thái cũng lấy lại thói quen này nhưng không chấp nhận việc sát tế người, vì luật Do Thái cấm sát tế người như đã viết trong sách Lêvi đoạn 18,21. Sách Xuất Hành đoạn 13 có nhắc đến luật hiến tế con trai đầu lòng của người và vật cho Thiên Chúa, khi viết: "Thiên Chúa phán với Môisen: Hãy thánh hiến cho Ta tất cả con trai đầu lòng, lọt lòng mẹ giữa con cái Israel, giữa con người cũng như súc vật vì nó thuộc về Ta". Nhưng sau đó trong câu 13, thì lại cho chuộc lại đứa con đầu lòng với một con lừa, nếu không thì phải giết nhưng trong hình thức không đổ máu, bởi vì lừa lại là loại vật ô uế không làm loài vật sát tế như cừu được. Câu 13 cũng xác định rằng phải chuộc con trai đầu lòng. Luật thánh hiến con trai đầu lòng này được soạn giả lồng khung trong biến cố xuất hành và lễ nghi sát tế chiên vượt qua, lễ nghi này được dân du mục cử hành vào mùa xuân khi họ sát tế con chiên đầu lòng cho các thần linh. Chúa Giêsu sau này sẽ được các soạn giả Tân Ước coi là Chiên Vượt Qua bị sát tế để đền bù tội lỗi cho loài người.
Tập tục hay luật lệ tôn giáo thứ hai được thánh Luca nói đến trong tường thuật là thanh tẩy người mẹ sau khi sinh con, như ghi trong sách Lêvi chương 12: "Khi sinh nở phụ nữ bị băng huyết nên bị coi là ở trong tình trạng ô uế". Quan niệm về ô uế hay tinh sạch trong Kinh Thánh Cựu Ước không có ý nghĩa luân lý như chúng ta thường hiểu ngày nay, mà có nghĩa là thánh thiện. Tất cả những gì là ngoại lệ bất thường, tất cả mọi thái độ, trạng thái được bị coi là một đe dọa, biểu lộ quyền lực nhiệm mầu linh thiêng, quyền lực ấy có thể là tốt hay là xấu. Do đó con người phải làm một lễ nghi thanh tẩy để giải thoát mình khỏi bị lây quyền lực đó. Ðối với dân Do Thái, máu là một nhân tố diễn tả sự sống nhiệm mầu và thánh thiêng đáng sợ, vì thế khi ở trong tình trạng băng huyết sau khi sinh con, là người mẹ đang trong tình trạng ô uế, là mất bình thường, do đó, phải làm lễ nghi thanh tẩy. Lễ nghi này người mẹ phải thi hành sau mỗi lần sinh con. Con trai thì phải đợi 40 ngày sau lễ nghi cắt bì tức 48 ngày sau khi sinh; trong khi con gái thì phải đợi 70 ngày nên kể thêm 2 tuần kiêng cữ từ khi sinh thì tổng cộng là 84 ngày tất cả. Nếu là người giàu thì người mẹ dâng một con chiên một tuổi làm lễ vật toàn thiêu và một con bồ câu hay chim gáy làm lễ vật đền tội. Còn nếu nghèo không có khả năng thì dâng một đôi bồ câu hay một đôi chim gáy cho các lễ nghi này.
Nói cách khác, tường thuật dâng Chúa Giêsu trong đền thờ của thánh sử Luca, chọn lễ nghi dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa ghi trong chương 13 sách Xuất hành, với lễ nghi thanh tẩy người mẹ sau khi sinh con của sách Lêvi chương 12. Khi lặp lại nhiều lần kiểu nói: "Theo luật Chúa truyền", thánh Luca muốn khẳng định rằng, sự kiện Chúa Giêsu và Mẹ Maria tuân hành mọi luật lệ tôn giáo, là một thứ dấu ấn của biến cố nhập thể làm người. Chúa Giêsu hiện thân của Thiên Chúa là đền thờ mới bằng xương bằng thịt, nơi Thiên Chúa ngự trị một cách toàn vẹn. Thân xác Chúa Giêsu chính là đền thờ thánh thiện của Thiên Chúa. Ngôi Lời của Thiên Chúa nhập thể làm người đã cắm lều sống giữa chúng ta. "Các ngươi hãy phá hủy đền thờ này, trong ba ngày Ta sẽ xây cất lại." Chúa Giêsu có ý ám chỉ thân thể của Ngài. Nói cách khác, Chúa Giêsu là Hòm Bia mới vẹn toàn và sống động của Thiên Chúa.
Ý nghĩa thứ hai được nêu bật trong tường thuật của thánh Luca đó là Chúa Giêsu là ánh sáng cứu độ chiếu soi trần gian. Bài ca của cụ già Siméon là một trong những bài thánh ca mục vụ cổ xưa nhất, diễn tả tương quan giữa thị kiến và ánh sáng cứu độ mà những người thánh thiện như cụ được xem thấy trong cuộc sống của mình. Chúa Kitô là ánh sáng chiếu soi Israel và toàn thế giới. Sự kiện Chúa Giêsu, ánh sáng cứu độ, bước vào đền thờ cũng biểu tượng cho biến cố Ngài bước vào dòng lịch sử và thế giới con người. Nhưng để có thể nhận biết Chúa Giêsu là ánh sáng và là niềm hy vọng cứu độ, cần phải có ơn Chúa Thánh Thần trợ lực như cụ già Siméon và bà Anna. Cả hai người đều là những mẫu gương của đời cầu nguyện và cuộc sống thánh thiện và là các tiên tri của Thiên Chúa đã hiểu được biến cố lịch sử và sứ điệp của Thiên Chúa giấu ẩn trong đó. Cụ Siméon trông thấy Chúa Giêsu sẽ là dấu chỉ của sự chống đối và chia rẽ, bởi vì con người hoàn toàn tự do chấp nhận hay từ chối Chúa Giêsu, và sự kiện Ngài đã bị khước từ, bắt bớ, kết án và xử tử sẽ là lưỡi gươm đâm thấu con tim từ mẫu của Mẹ Maria. Khác với ông Siméon, bà Anna không trông chờ Ðấng Cứu Thế vì biết rằng Ngài hiện diện giữa trần gian. Sau khi được gặp Chúa Giêsu trong đền thờ, bà bắt đầu loan báo Ngài cho mọi người dân trong thành Giêrusalem đang trông chờ ơn cứu độ.
Chương 2 thơ gởi giáo đoàn Do Thái cũng nêu bật sự kiện Chúa Giêsu nhập thể, bằng cách chấp nhận cuộc sinh ly của số phận làm người kể cả cái chết. Và Chúa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện qua Lời Ngài, qua sự hiện diện sống động của Ngài trong bí tích Thánh Thể, trong tâm lòng và cuộc sống của chúng ta, mỗi một tín hữu là một đền thờ sống động nơi Thiên Chúa ngự trị và sứ mạng là Giáo Hội là Mình mầu nhiệm Chúa mà các kitô hữu là chi thể của Ngài.
17. Mù quáng
Nhà văn Dickens có kể một câu chuyện như thế này: Số là có một anh thợ đóng giày vì quá nóng giận đã dùng búa đập chết một khách hàng. Anh ta liền bị bắt, ra tòa và bị giam cầm lâu năm ở ngục Castille. Trong thời gian ngồi tù, anh phải làm một công việc là đóng giày, vá giày. Suốt ngày anh ta cứ ngồi dán lưng vào tường, trong bóng tối mờ ảo và chăm chú làm các công đoạn: đóng, vá, cắt, may đều đều một cách vô vị đến nỗi có ai gọi hay bảo anh ta làm một việc gì đó thì hầu như điếc không nghe. Và rồi trong một dịp ân xá, anh ta được tha về nhà ở Luân đôn. Đáng lẽ như mọi người tù được thả về đều vui mừng, ăn uống vui vẻ, gặp gỡ thăm viếng bà con bạn bè để hàn huyên, đàng này anh ta vừa mới về nhà chân ướt chân ráo, liền bắt tay làm ngay một phòng giam ở giữa nhà. Trong lúc mọi người vui sống, hưởng trăng thanh gió mát, nghe chim chóc ca hót, riêng anh thợ giày tự giam mình trong phòng kín và mọi người chỉ nghe tiếng kéo kìm lạch cạch của anh thợ giày ngồi lì trong bóng tối.
Trên đời này không thiếu gì những chuyện kỳ cục và cũng có lắm người sống không giống ai. Và biết đâu chính chúng ta là những con người đang có lối suy nghĩ và cách sống kỳ cục đến khó tin mà chúng ta không biết
Vì thật ra, sự kỳ cục, bất thường đến khó hiểu của con người do một trong hai nguyên nhân này gây ra: một là điên, mát, khùng, bốc đồng dở hơi; hai là do suy nghĩ, hành động một chiều quá lâu ngày thành thói quen mất hết khả năng thay đổi, trở nên máy móc cứng nhắc. Chính vì thế mà anh thợ giày trở thành một con người có lối sống kỳ cục đến nỗi anh ta không còn cảm thấy mình kỳ cục nữa.
Và đây cũng chính là lý do khiến dân làng Nagiareth đã có những phản ứng kỳ cục, độc ác, bất công đối với Chúa. Bởi vì do thói quen thân thường ngày của họ nên anh chàng Giêsu, suốt trong 30 năm từ lúc còn bé đến khi lớn khôn, không có gì lấy làm đặc sắc, nổi bật và ngay cả cha mẹ, họ hàng cũng chả có gì nổi đình nổi đám cả. Thế mà, giờ đây anh ta phút chốc trở thành nổi tiếng khắp nơi. Điều đó vừa làm họ hãnh diện đôi chút, nhưng cũng vừa làm mích lòng tự tôn tự mãn của họ không ít vì nó đi ngược lại với cảm nghĩ, thành kiến xưa nay của họ về anh ta thuộc một gia đình tầm thường. Do đó, cho dù Chúa Giêsu có làm được những gì tốt đẹp, có ăn nói giỏi giang đến mấy cũng không thể vượt khỏi thiện kiến có sẵn trong ký ức của họ. Và nếu có điều gì trái ngược với cảm nghĩ xưa nay của họ thì họ lên án, tẩy chay ngay, bất xét phải trái.
Như thế thói quen, thành kiến đã làm cho anh thợ giày và dân làng Nagiareth trở nên kỳ cục, bất thường, lầm lạc. Vì những ai quá nặng óc thành kiến, quen thói chủ quan sẽ dễ dàng trở nên mù quáng khi đánh giá về người khác cách thiên lệch khiến ý kiến của họ chẳng những vô giá trị mà nhiều khi còn trở thành những mũi tên tẩm độc giết hại danh giá người khác nữa. Riêng đối với bản thân, kẻ hay phán đoán một chiều thường để lộ chân tướng xấu xa của mình vì thiên lệch, nặng chủ quan. Càng chủ quan càng cố chấp cứng đầu. Mà càng cố chấp càng biểu lộ sự ngu dốt và điên khùng của mình.
Nếu thế, xem ra ai trong chúng ta ít hay nhiều cũng đều đã có những thành kiến thiên lệch, những thói quen chủ quan khiến cách suy nghĩ, cách sống, cách đối xử với nhau, với Chúa kỳ cục, tai hại, sai trái xưa nay mà chúng ta cứ tưởng là đúng đắn.
Vì như người ta thường nói “xa thì thương, gần thì thường” nên khi chúng ta sống bên nhau lâu ngày như vợ chồng, cha mẹ, con cái, bạn bè, chòm xóm… và biết rõ tính tình nhau, giọng nói cử chỉ của nhau, thói quen, cách sống của nhau. Do quá hiểu nhau nên cách đối xử với nhau dễ sinh nhạt nhẽo, coi thường, thiếu kính trọng, ít thông cảm. Nếu có mang nặng thành kiến với nhau mà đã thương thì thương mù quáng, đã ghét thì ghét cay ghét đắng. Từ đó, người ta dễ làm bất công cho nhau như làm hại danh giá nhau bằng cách phê bình chỉ trích ác ý, phê phán sai lạc sự thật, nhất là lỗi bác ái nặng nề khi đối xử với nhau thiếu lòng quảng đại, khoan dung.
Có lẽ, nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng đối với Chúa mình không thể cư xử hỗn láo như dân làng Nagiareth, nhưng trong đời sống thực tế người ta tôn thờ Chúa, tìm đến Chúa không phải vì yêu mến Chúa hay vì giáo lý của Ngài mà là vì chính bản thân họ. Nói khác đi, lối sống đạo và cách suy nghĩ của chúng ta đã thành thói quen máy móc, đã coi trọng hình thức bên ngoài đến độ tê liệt mọi tình cảm bên trong. Bởi vì, người ta yêu mình hơn yêu Chúa, đặt mình làm trung tâm, bắt Chúa và giáo lý của Ngài phải phục vụ cho mọi ý đồ, ước muốn của chúng ta. Suốt đời ai mà chẳng nghe Lời Chúa răn dạy, thường xuyên tham dự các lễ nghi, năng lãnh nhận các Bí tích, nhưng vì quá quen thuộc, quá lặp đi lặp lại nên sinh ra coi thường, mất cảm giác sốt sắng, biến mình thành một cỗ máy vô hồn.
Tóm lại, thói quen và thành kiến đã đưa đẩy con người đến chỗ sống mất tình cảm, điên loạn. Hơn nữa, trong cuộc sống đừng bao giờ dại dột bắt Chúa phải làm theo ý nghĩ ngông cuồng của mình, nhưng hãy biết khiêm tốn thú nhận mình bất lực, thiếu sót, nghèo hèn, yếu đuối và chỉ tồn tại được là nhờ tình thương của Chúa mà thôi.
18. Thành kiến
Anh chị em thân mến!
Với thành kiến có sẵn đối với người da đen mà bà Anna cho là lười biếng, nếu không lười biếng thì cũng là những kẻ trộm cắp, những kẻ nghiền ma túy hay độc ác giết người không gớm tay. Với những thành kiến như vậy, bà Anna luôn luôn lưu ý đến những nơi mình đi qua. Mỗi lần thấy bóng dáng một người da đen là bà lánh sang một nơi khác ngay, nhưng một hôm bà vừa bước vào thang máy thì một bóng người da đen to lớn cùng bước vào thang máy sau lưng bà và cửa thang máy đóng lại làm bà không kịp trở lui, bà chết điếng người và té xỉu. Tỉnh dậy nơi nhà thương, bà rất lấy làm hổ thẹn trong lòng khi biêt được rằng chính người da đen to lớn kia cùng bước vào thang máy với bà là một ca sĩ nổi tiếng là Leonard Vichy được mọi người mộ mến và cũng chính anh này là người đã đỡ bà khi té xỉu trong thang máy và đưa bà đến nhà thương.Thành kiến đã làm cho ta ra mù quáng không thể nhận diện được thực tại hay những người anh chị em mà ta gặp hằng ngày một cách đúng thật. Những người làng Nagiareth của Chúa Giêsu mà chúng ta vừa nghe Phúc âm thánh Luca kể lại một biến cố về những người làng Nagiareth cũng mắc phải khuyết điểm như bà Anna trong câu chuyện trên.
Sau thời gian rao giảng tại thành Caphanaum, Chúa Giêsu trở lại rao giảng tại hội đường của chính quê hương Ngài tại Nagiareth. Dân chúng biết rõ nguồn gốc nhân trần của Chúa Giêsu: “Người này không phải là con ông thợ mộc Giuse sao?”. Họ đã nghe biết những sự lạ Chúa đã làm tại Caphanaum, và với những dấu lạ chứng minh nguồn gốc thần linh của Chúa, chứng minh Ngài là Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu rỗi con người. Nhưng những thành kiến đã không cho phép những người làng Nagiareth của Chúa Giêsu nhìn xa hơn, họ bị giới hạn trong những cảm nghĩ trần tục của họ, muốn Chúa Giêsu thực hiện những sự lạ để hưởng lợi, để làm ích cho quê hương. Họ không vượt qua khỏi khía cạnh nhân trần, khía cạnh lợi lộc vật chất, ích kỷ, để hiểu rằng người ta cần lòng tin thanh sạch hơn, thanh cao hơn vào Chúa Giêsu. Vì thế, họ đã bị Chúa nhăc khéo để nhớ lại câu chuyện xưa đã xảy ra trong cuộc sống của hai vị tiên tri nổi tiếng, đó là tiên tri Êlia và Êlisiêu. Một bà góa ở Sérepta, một viên quan ngoại giáo Naaman, là những kẻ duy nhất đón nhận những tiên tri này như là người của Thiên Chúa với hết lòng tin tưởng. Trong khi đó thì dân chúng ở Israel khinh thường các ngài, từ bỏ các ngài, không lắng nghe lời các ngài.
Lời nhắc nhủ của Chúa Giêsu làm cho những người làng Nagiareth bực tức, chống đối Chúa nhiều hơn nữa, họ bắt đưa Chúa lên nơi cao, toan tính xô xuống vực thẳm cho chết đi. Thành kiến đã làm cho họ mù quáng và bực tức đến hành động điên rồ như vậy.
Hôm nay, khi lắng nghe đoạn Phúc âm trên, chúng ta cũng được mời gọi để xét mình, chúng ta đang tin nhận và tôn thờ một Chúa Giêsu nào đây? Chúa Giêsu Kitô mà chúng ta tin nhận và tôn thờ phải chăng là một Chúa Giêsu Kitô chỉ làm phép lạ để thỏa mãn cho những nhu cầu ích kỷ của riêng mình? Hay là một Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Đâng ban cho mỗi người chúng ta một ơn thánh hóa, ban cho chúng ta sự sống đời đời. Làm sao để chứng thực trong đời sống của mình là chúng ta tin vào một vị Thiên Chúa làm người để cứu rỗi chúng ta, không có cách nào khác ngoài con đường sống tình yêu thương bác ái cụ thể trong đời sống hàng ngày.
Đây là mẫu gương của thánh Phaolô tông đồ và cũng là lời khuyên của thánh nhân mà chúng ta đã nghe qua bài đọc II. Thánh Phaolô đã ý thức mình là tông đồ của Chúa, là môn đệ của Chúa Kitô, là Đấng làm chứng cho Chúa. Thánh nhân nói: “Nếu không có đức bác ái thì tất cả những lời rao giảng, những lời chứng của ngài chỉ là vô ích mà thôi”.
Mỗi người chúng ta được mời gọi đón nhận Chúa, tin nhận Chúa Giêsu Kitô và làm chứng cho Chúa. Chúng ta cũng như thánh Phaolô tông đồ chỉ có thể làm chứng một cách hữu hiêu hơn, nếu chúng ta sống đức bác ái, như thánh Phaolô đã khuyên những người con tinh thần của ngài tại Côrintô.
Lạy Chúa, xin giải thoát con khỏi những thành kiến làm cho con không nhìn thấy Chúa đã đến với con nơi dung mạo nhân trần, nơi những anh chị em, nơi những biến cố của cuộc sống hằng ngày. Vì thành kiến, con không nhận ra điều tốt nơi anh chị em, mà nếu không nhận ra nơi anh chị em những điều tốt thật cụ thể, thì làm sao con có thể nhận diện ra Chúa nơi anh chị em được. Lạy Chúa, xin thương giải thoát con khỏi những tâm tình hẹp hòi, khỏi tất cả những gì không phù hợp với đức bác ái mà Chúa đã trao ban cho mỗi người chúng con để tâm hồn chúng con trở nên trinh trong hơn mà nhận ra Chúa và tin vào Chúa để được ơn cứu rỗi.
19. Tiên tri.
Có người đã mô tả các tiên tri trong Cựu Ước là những kẻ an ủi những ai phiền não, nhưng đồng thời cũng là những kẻ gây phiền não cho những ai tự mãn.
Chẳng hạn như tiên tri Giêrêmia. Ông sống vào thời kỳ dân Do Thái đang bị băng hoại từ bên trong và bị quân đội ngoại bang đe doạ từ bên ngoài. Tình thế như vậy làm cho ông rất đau xót vì ông yêu mến tổ quốc và đồng bào của mình. Có lẽ vì thế, Chúa đã kêu gọi ông làm tiên tri cho quê hương mình. Thế nhưng lần nào được kêu gọi ông cũng đáp lại một cách miễn cưỡng vì ông biết rằng làm tiên tri nơi xứ sở mình là điều rất khó. Nhưng rồi ông cũng phải rao giảng cho dân chúng con đường sống còn duy nhất là phải canh tân đời sống, quay trở lại với Ngài. Nghe ông rao giảng như thế, dân chúng đã nổi giận và căm ghét ông, đến ỗi co lần ông đã bị đánh đòn, có lần ông đã bị cột vào trong bao, có lần ông đã bị xô vào đống phân.
Chúa Giêsu cũng đã cảm nhận được những khó khăn khi lãnh nhận sứ mệnh làm tiên tri ngay trên quê hương mình. Ngài đã từng bị bà còn lối xóm ruồng rẫy, họ định xô Ngài xuống vực thẳm cho chết luôn.
Suy nghĩ về thái độ của dân làng Nagiarét, chúng ta bỗng nhớ tới lời tiên báo của ông già Simêon: Trẻ nhỏ này sẽ nên như dấu chỉ cho người ta chống đối.
Lời tiên báo này đã trở thành sự thật. Nếu dân làng Nagiarét đã từng đòi Chúa Giêsu trưng ra bằng chứng xác minh Ngài là tiên tri thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái cũng buộc Ngài phải xác minh Ngài là Con Thiên Chúa như vậy.
Nếu dân làng Nagiarét đã từng tố cáo Ngài là kẻ lộng ngôn thế nào, thì bọn biệt phái cũng đã kêt án Ngài là dụng cụ của ma quỷ như vậy.
Nếu dân làng Nagiarét đã từng tìm cách giết Ngài thế nào, thì đám đông dân thành Giêrusalem cũng hò hét: Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào cây thập giá.
Chúa Giêsu quả là đã bị chống đối và bị khích bác. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa đã nói với các môn đệ: Nếu thế gian đã ghét Thầy, thì họ cũng sẽ ghét các con.
Bất cứ ai cố gắng sống đúng danh hiệu người Kitô hữu sẽ hiểu được những lời nói trên có giá trị như thế nào? Tuy nhiên, cho dù chúng ta có bị ghét bỏ, có bị nhạo cười, nhưng cũng đừng vì thế mà từ bỏ nếp sống lương thiện và trong sạch của mình. Lý do thật đơn giản vì Chúa đã từng nói với chúng ta: Các con là muối đất. Các con là ánh sáng. Người ta không đốt đèn rồi để dưới đáy thùng nhưng đặt trên giá đèn. Cũng thế, ánh sáng của các con phải toả ra trước mặt mọi người để họ nhìn thấy việc thiện các con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.
Hay như lời thánh Phaolô: Là Kitô hữu, chúng ta được Chúa mời gọi để toả sáng như những vì sao giữa lòng một thế giới đầy tăm tối.
20. Đức ái--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Giêrêmia được sinh ra trong một gia đình thuộc dòng tư tế ở miền Bắc Giêrusalem. Thiên Chúa đã gọi, thúc giục và tác động cách mạnh mẽ trong tâm hồn của ông ngay khi còn thơ trẻ. Giêrêmia chấp nhận sứ mệnh ra đi giữa bao thử thách và khó khăn. Sứ mệnh của ngài kéo dài qua nhiều thập niên trong lịch sử của cộng đồng Giêrusalem. Ngài đã tiên báo về sự đe doạ và sụp đổ của thành Giêrusalem. Tiên tri có cá tính riêng và rất mạnh mẽ chịu đựng những khổ cực cùng với đoàn dân. Giêrêmia đã giúp mọi người nhận ra những hậu qủa xấu mà họ phải gánh chịu do sự bất trung và tội lỗi gây nên. Đôi khi ông cũng cảm thấy đuối sức và ngại ngùng, nên đã muốn chối từ sứ vụ đặc biệt này. Nhưng cánh tay của Chúa luôn dẫn dắt ông trong mọi nẻo đường. Ông thố lộ tâm tư qua sự mạc khải: "Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân." (Gr 1,5). Chúng ta biết rằng sứ mệnh tiên tri là một ơn gọi đặc biệt vì là trung gian giữa Thiên Chúa và dân Người. Thiên Chúa hứa ban sức mạnh và đồng hành cùng ông trong cuộc hành trình đầy gian nan này. Đối diện với sự ruồng bắt và cái chết, ai mà không lo sợ cho tính mạng của mình. Giêrêmia cũng không ngoại lệ, ông cũng là con người mang nhiều sự yếu đuối và lỗi lầm như mọi người. Sứ điệp của ông là kêu gọi mọi người hãy ăn năn sám hối để trở về cùng Thiên Chúa. Ông đã đặt niềm tin vào Chúa là kiên thuẫn và dũng lực. Thiên Chúa hứa: "Chúng sẽ giao chiến với ngươi, nhưng sẽ không làm gì được, vì sấm ngôn của Thiên Chúa, có Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi." (Gr 1,19) Giêrêmia đã trung thành với sứ vụ được trao ban và đã chứng kiến bao cảnh thăng trầm của Dân Dothái từ năm 627 tới khoảng năm 587 BC.
Sứ mệnh khó khăn của các tiên tri là phải đối đầu với đời sống con người thế tục. Các nhà cầm quyền đã dùng mọi ảnh hưởng để loại trừ thần quyền ra khỏi cuộc sống. Họ dùng sức mạnh và bạo lực của thế quyền để đàn áp, tẩy chay và loại trừ các nhân chứng của sự thật và công chính. Lòng người thế trần bị nhuốm màu tội lỗi vì sống thả theo bản năng thú tính và tìm thoả mãn mọi đòi hỏi của tham sân si. Nhiều người không còn muốn nghe những lời khuyên răn luân lý đạo đức. Đôi khi họ cho rằng những người sống đạo hạnh, công chính và chân thật là những người dại khờ. Phải tranh đấu để sống. Sống là phải hưởng thụ. Chúng ta biết đời sống là cuộc chạy đua. Không phải mọi người đều nhận ra được con đường chính thật. Người ngu mà biết mình ngu là người có trí. Người ngu mà tưởng mình có trí thì càng ngu hơn. Không biết chính mình là người vô minh và ngu đần. Đôi khi họ lại tưởng nghĩ mình là người khôn ngoan và sành đời. Luôn tìm cách tiêu diệt những người công chính và coi họ như là cản mũi kỳ đà.
Chúa Giêsu biết rất rõ về số phận của các nhân chứng cho sự thật. Từ xưa, số phận các tiên tri hoặc ngôn sứ đã thường bị bách hại, xua đuổi và tẩy chay. Chính Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm điều này ngay tại quê quán mình: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình." (Lc 4,24). Làm nhân chứng cho sự thật giữa một xã hội bị tục hoá như hiện nay là một sự dấn thân hy sinh và từ bỏ. Các trào lưu xuôi dòng đang cuồn cuộn kéo lôi con người như thác lũ đi vào cuộc sống hưởng thụ thế tục. Nhiều nhà cầm quyền có xu hướng chạy theo thị yếu và mị dân chấp thuận những khuynh hướng của nền văn minh sự chết. Các thế hệ trẻ hiện nay dễ bị đầu độc bởi nền văn hóa thụ hưởng rất tinh tế và nhẹ nhàng qua cách suy tưởng và phán đoán thuận theo đa số. Là Kitô hữu, chúng ta không thể chạy theo những trào lưu hào phóng bên ngoài, nhưng phải biết tìm kiếm nguồn chân thiện mỹ. Hãy yêu chuộng những vẻ đẹp của đời sống lương tâm tự nhiên đã được in ghi trong tâm hồn. Chúa Giêsu về lại làng quê mình để gặp gỡ và truyền rao sứ mạng cứu độ. Người đồng hương ngạc nhiên về lời giảng dạy của Chúa nhưng họ không mở lòng đón nhận chân lý. Họ đòi hỏi và thách thức quyền năng của Chúa: "Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành, thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực." (Lc 4,29) Chúa Giêsu đâu làm gì nên tội để bị đối xử tệ như thế. Có lẽ tâm hồn của họ bị khép kín và trái tim bị đóng băng lạnh lùng. Họ không chấp nhận lời giảng và cũng không đón nhận chính Chúa. Họ đã vào hùa với nhau chống báng và xua trừ Chúa để khỏi phải nghe những lời chân thật. Chúa Giêsu cùng đồng số phận với các tiên tri bị người đời ngược đãi và thế gian chống đối ghét bỏ.
Số phận các ngôn sứ hôm nay cũng không khá hơn các vị tiền bối. Những nhà truyền giáo và các nhân chứng sự thật đều phải đối diện với hiện trạng thờ ơ và lạnh nhạt trong đời sống luân lý, đạo đức. Dù trong hoàn cảnh nào, xem ra sự kiện có thực mới vực được đạo hay đi đạo lấy gạo mà ăn vẫn có thể kéo lôi nhiều người. Khi cuộc sống ổn định về kinh tế và tài chính, đời sống đạo cũng nhờ đó mà thăng hoa. Chúng ta chấp nhận rằng thực tế cuộc sống luôn đòi hỏi phải đáp ứng những nhu cầu cụ thể trước. Chính Giáo Hội cũng đang nỗ lực giúp đỡ những vùng truyền giáo xa xôi. Họ thiếu thốn cả tinh thần lẫn vật chất. Nhân chứng sự thật không thể tách rời khỏi những nhu cầu căn bản cuộc sống của người dân.
Một điều rất quan trọng mà thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta: "Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi." (1 Cr 13,3) Đức mến là cốt lõi của việc ra đi làm nhân chứng. Là nhân chứng cho Chúa Kitô, chúng ta không thể thiếu tình yêu chia sẻ. Nếu tất cả mọi việc phục vụ tha nhân với trái tim yêu thương, sẽ mang lại niềm vui và ý nghĩa đích thực. Yêu rồi làm. Tình yêu sẽ thăng hoa tất cả. Phaolô khuyên dạy: "Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật." (1 Cr 13,4-6)
Đức ái là nhân đức tuyệt hảo. Chỉ có tình yêu mới có thể tha thứ, bao dung và liên kết nên một. Tình yêu như lửa hun đốt và hâm nóng những tâm hồn nguội lạnh. Một thái độ cảm thông yêu mến có thể xoá nhoà mọi lỗi lầm. Một cử chỉ yêu thương có thể khơi dậy niềm hy vọng. Một dấu ấn tình yêu có thể đổi đời. Một lời nói dễ thương có thể vỗ về tâm hồn nguội lạnh. Ôi tình yêu thật diệu vời! Ai trong chúng ta cũng có trái tim để yêu, chỉ cần chúng ta biết mở cửa trái tim để trao ban và đón nhận. Tình yêu như dòng sông nước chảy, càng chảy càng thấm nhuần. Yêu là cho đi và cũng là đón nhận. Một tình yêu tuôn trào sẽ tạo nguồn sống tươi vui và hạnh phúc. Chúng ta đang ngụp lặn trong biển tình: tình Chúa, tình gia đình và tình nhân lọai. Tình yêu chính là lẽ sống. Lạy Chúa, Chúa là Tình Yêu. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ dám hiến thân mình vì bạn hữu. Chúa đã hiến mình vì yêu thương chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân. Chỉ có đức mến mới tồn tại muôn đời: "Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến." (1 Cr 13,13).
21. Sự thật mất lòng--Lm. Anphong Trần Đức Phương
Trong tiếng Việt Nam có câu nói “Sự Thật mất lòng!” và Chúa Giêsu nói “Sự Thật giải thoát anh em!” (Ga 8: 32). Chúng ta thường không thích nghe những lời “nói thẳng và nói thật” vì va chạm tự ái của chúng ta; nhưng nếu biết khiêm tốn lắng nghe và sửa đổi, thì “Sự Thật lại giải thoát chúng ta” khỏi những khuyết điểm mà mình không nhìn ra, và như thế “Sự Thật” xây dựng chúng ta. Trái lại, những lời nịnh bợ tâng bốc thường làm chúng ta ra mù quáng và không nhìn được rõ những khuyết điểm để sửa đổi.
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy nhân dịp về thăm quê hương Nagiaret, vào ngày Sabbat, Chúa Giêsu cũng vào sinh hoạt tại Hội Đường và nhân dịp được mời đọc Sách Thánh, Chúa Giêsu đã chia sẻ với cộng đoàn về lời trong Thánh Kinh: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, xức dầu cho tôi và sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó…” Thánh Luca ghi lại: “mọi người đều thán phục những lời Ngài nói…” Nhưng vẫn có những người đặt vấn đề “Ông này không phải là con bác thợ mộc đó sao?” Biết phản ứng của họ như vậy, Chúa Giêsu đã nói rõ sự thực về tâm tính ngang bướng của họ và của cha ông họ thời xưa, và đưa ra những bằng chứng rất rõ ràng. Thế là “mọi người trong hội đường (bị chạm tự ái) đã nổi giận, lôi Chúa Giêsu lên đỉnh đồi và định xô Ngài xuống vực thẳm.”
Đúng là sự thật mất lòng và đưa đến thù hận. Nhưng trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu đã không sợ nói sự thật và thường được dân chúng hân hoan đón nhận. Tuy nhiên, vẫn có những người đầy tự ái, như các kinh sư, biệt phái, họ không muốn nghe sự thật; họ căm phẫn, và nhiều lần họ đã âm mưu giết Chúa. Cuối cùng họ đã lên án và giết Người trên Thánh Giá. Nhưng đó lại là chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Thực ra, Chúa Giêsu không phải vì ghét họ mà nói sự thật. Nhưng Ngài muốn “nói thẳng, nói thật” để cảnh tỉnh họ và giúp họ sửa đổi, và có thể nhận ra chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nơi Chúa Giêsu. Bằng chứng là trong cuộc đời rao giảng, Chúa Giêsu đã đến với người bệnh hoạn, nghèo khó, bị bỏ rơi để giúp đỡ và rao giảng cho họ và khi có dịp, Chúa Giêsu cũng vẫn đến thăm nhà và dùng bữa với những người biệt phái, những kinh sư, đến với những người tội lỗi, những người thu thuế (Matthêu 9: 10-13). Tất cả là vì tình thương của Chúa đối với mọi người, và mong muốn mọi người sửa đổi cuộc sống để được hưởng ơn cứu độ.
Nhìn vào đời sống của các Tiên Tri thời Cựu Ước, chúng ta thấy các tiên tri được Chúa sai đến để nói sự thật với Dân Chúa cũng chỉ với mục đích kêu gọi họ bỏ cuộc sống tội lỗi, vô luân để sống theo lề luật Chúa, sống xứng đáng con cái Chúa. Dân chúng thường đón nhận lời các tiên tri; nhưng cũng vẫn có những kẻ chống đối, và có những tiên tri bị bách hại, bị xua đuổi và có khi bị giết chết nữa (Matthêu 23: 34-36). Vị tiên tri cuối cùng là Thánh Gioan Baotixita cũng bị tù đày và giết hại.
Hôm nay, trong bài Đọc I, chúng ta thấy Thiên Chúa đã chọn Giêrêmia (sinh khoảng 650 trước Chúa Giáng Sinh) làm Tiên Tri cho Chúa. Chúa bảo ông: “Hãy nói cho dân chúng những điều Ta truyền ngươi nói với họ. Đừng run sợ trước mặt họ!... Họ sẽ chiến đấu chống ngươi, nhưng họ sẽ không thắng được ngươi, vì ta ở với ngươi để giải thoát ngươi.” Đúng như lời Chúa nói, trong cuộc đời rao giảng những mệnh lệnh của Chúa, tiên tri Giêrêmia đã phải nói những sự thật để giúp họ sửa đổi ‘lòng chai đá của họ’, vì thế mà tiên tri đã gặp rất nhiều chống đối, thù ghét. Sau cùng tiên tri bị giết chết (vào khoảng 580 trước Chúa Giáng Sinh) trong thời bị lưu đày ở Ai-Cập. Chính sau cái chết thảm khốc của ông mà dân chúng càng hiểu ông hơn và đem lòng sùng mộ, và nhận ra những điều chân thật tiên tri đã giảng dạy ho.
Mỗi tín hữu chúng ta, sau khi được Chúa Thánh Thần thánh hiến qua Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, chúng ta cũng đều có bổn phận phải làm “tiên tri”, làm “chứng nhân” cho Chúa để loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa cho mọi người. Trong khi loan truyền Lời Chúa, thường khi chúng ta cũng gặp được những con người vui vẻ đón nhận, nhưng cũng có những trường hợp bị phản ứng bất lợi. Chúng ta luôn phải kiên nhẫn chịu đựng, và cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần thánh hóa chính chúng ta, và thánh hóa những người chúng ta rao giảng; cầu nguyện đặc biệt cho những người chống đối chúng ta (Matthêu 5: 43-48). Tất cả chỉ vì lòng “mến Chúa và yêu người” mà chúng ta làm nhiệm vụ “tiên tri” và chứng nhân cho Chúa.. “Lòng mến Chúa yêu người” tức là đức Bác Ái, như Thánh Phaolô nói với chúng ta trong Bài Đọc II hôm nay: “Đức Bác Ái thì nhẫn nhục… tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả…”
Mong rằng từ nay chúng ta biết ý thức hơn về bổn phận rao giảng Lời Chúa, làm chứng cho Chúa (nhất là bằng chính đời sống gương mẫu của chúng ta) trong cuộc sống hàng ngày nơi gia đình, sở làm, trường học, với mọi người chúng ta có dịp tiếp xúc. Trong cuộc hành trình Đức Tin, chúng ta không đi một mình, nhưng cùng đồng hành với anh chị em chúng ta, chúng ta cần nâng đỡ nhau, cầu nguyện cho nhau, luôn giữ vững Đức Tin, duy trì Đức Bác Ái, và cùng nhau giúp đỡ những người chưa nhận biết Chúa được nhận ra Chúa là Cha, và Chúa Giêsu Kitô đã xuống thế làm người rao giảng Tin Mừng cứu độ, đã chịu nạn chịu chết để cứu chuộc chúng ta; Người đã sống lại và về trời để mở đường cứu rỗi chúng ta. Ai tin và sống theo giới răn của Người, thì được ơn cứu chuộc.
Cuộc sống mỗi người ở trần gian này rồi sẽ qua đi, chúng ta hãy biết dùng mọi thời gian còn lại, mọi phương thế có thể được để giúp đỡ mọi người, không phải chỉ bằng vật chất, nhưng cả về đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng, để mọi người có thể hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa.
“Thần Khí Chúa đã sai tôi đi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng. Thần Khí Chúa đã thánh hiến tôi, sai tôi đi, Ngài sai tôi đi, Sai tôi đến với người nghèo khó, sai tôi đến với người lao tù, Mang Tin Mừng giải thóat, Thiên Chúa đã cứu tôi…”
(Thiên Lan: Thánh Ca: “Thần Khí Chúa”)
22. Để tiếp đón Chúa--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Đức Giêsu trở về thăm quê nhà. Ngày Sabat, ngày lễ nghĩ hàng tuần, dân làng đến hội đường nghe đọc Sách Thánh và hát thánh ca từ 9 giờ đến 12 giờ trưa.
Đức Giêsu và các môn đệ cùng tiến vào hội đường cầu nguyện. Đọc sách luật và thánh vịnh xong, Đức Giêsu đăng đàn giảng thuyết như một giáo dân tham dự vào chức tư tế. Vẻ uy nghi trang trọng của Ngài khác thường. Gương mặt Ngài luôn tỏa ra nét dịu hiền, mến yêu, đầy thiện cảm. Giọng nói tự nhiên của Ngài càng hấp dẫn dân chúng hơn. Ý tứ Ngài trình bày đơn sơ trong sáng hợp với tâm trí mọi người. Họ cảm thấy thấm thía sự kỳ diệu của nước Thiên Chúa. Họ cảm nhận lòng nhân ái Chúa Cha trên trời. Họ cảm phục về tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu đòi hỏi mọi người phải sống thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Họ ngạc nhiên thì thầm với nhau: "Bởi đâu ông ta được như thế? Sao ông ta được khôn ngoan như vậy? Ông ta làm được nhiều phép lạ, như thế nghĩa là gì?".
Họ chẳng biết sự khôn ngoan và quyền phép của Đức Giêsu bởi đâu? Họ tìm về nguồn gốc chỉ thấy: "Mẹ ông là bà Maria, anh em họ hàng là Giacôbê, Giosê, Giuđa và Simon". Tất cả bà con lối xóm đều coi ông như bạn bè từ gần 30 năm nay ở Nagiarét này, một thôn ấp nhỏ bé chỉ có độ 150 gia đình nghèo nàn, tối tăm, mấy ai quan tâm đâu. Ông ấy lại là bác thợ mộc, con nhà lao động, làm thuê làm mướn, lang thang từ nhà này sang nhà khác, đóng bàn sửa ghế, ráp giường ghép tủ, đục đẽo cày bừa, thành phần địa vị thấp kém trong xã hội. Có bao giờ thấy ông ấy nói năng, làm được gì hay lạ đâu? Ông ta bỏ quê nhà đi lang thang mấy tháng, nay trở về, sao thay đổi nhanh như thế! Một quá khứ và hiện tại như thế đã khiến họ vấp phạm. Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ, lại càng không thể tin Ngài là Mêsia, và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Còn Đức Giêsu, ai đã huấn luyện Ngài? Ai đã ban quyền phép làm những việc kỳ diệu như thế? Thân nhân bảo Ngài "mất trí". Kinh sư chụp mũ Ngài "nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ". Dân chúng chỉ biết ngạc nhiên: chưa từng thấy ai ăn nói, hành động có uy quyền lạ lùng như vậy. Môn đệ đi theo sát Ngài cũng chỉ biết hỏi: "Ngài là ai mà bão biển phải tuân lệnh". Chẳng thấy ai huấn luyện Ngài, chẳng thấy Ngài học tập kinh sư nào. Chỉ thấy Ngài vào nơi thanh vắng, ngước mắt lên trời cầu nguyện. Trong âm thầm Ngài cầu nguyện cùng Chúa Cha trên trời. Đó chính là bí quyết làm cho Ngài khôn ngoan và đầy quyền phép để trừ hàng ngàn quỷ dữ, chữa hàng trăm bệnh nhân mà loài người phải bó tay, cho kẻ chết sống lại, bắt cuồng phong lặng yên...
Dân làng biết Ngài khôn ngoan. Kinh sư thấy Ngài trừ quỷ. Môn đệ được Ngài cứu khỏi chết giữa biển cuồng phong. Nhưng họ chẳng biết Ngài là Con Một Thiên Chúa, chẳng biết Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa; vì thương yêu loài người, đã xuống thế làm người sống với họ như anh em, như bạn bè, để cứu họ khỏi chết đời đời.
Dân làng Nagiarét quá biết về gốc gác, gia cảnh, biết rõ ràng lý lịch của Đức Giêsu. Với đầu óc thủ cựu, lại nặng thành kiến nên họ không thể nhận ra thiên tính nơi con người của Ngài. Đức Giêsu trở thành nạn nhân của "chủ nghĩa lý lịch". Mc. Kenzie nói: Người có tình yêu nhìn bằng viễn vọng kính, còn người định kiến hẹp hòi nhìn bằng kính hiển vi.
Còn Đức Giêsu thì luôn âm thầm, kiên nhẫn, nhỏ nhẹ nói với họ bằng câu ngạn ngữ: "Không ai là tiên tri cho xứ sở mình". Một câu chuyện quen thuộc nhưng đáng buồn "Ngôn sứ không được quê hương mình chấp nhận". Đức Giêsu thật ngạc nhiên vì thấy họ không tin. Ngài rất muốn giúp đỡ họ nhưng cũng đành phải bó tay. Họ chỉ biết nhìn Ngài theo lối nhìn bên ngoài đầy thành kiến, chẳng thấy được những điều sâu lắng bên trong, những cái tinh thần cao thượng, những mầu nhiệm thiêng liêng chân thật.
Chính những điều sâu xa bí ẩn mới làm ích rất lớn cho con người. Chính những chất màu mỡ nằm ẩn trong đất mới làm cho cây trái, hoa mầu trổ sinh tươi tốt, đâm chồi nẩy lộc, nuôi sống muôn người, muôn vật. Chính những kho tàng nằm sâu trong lòng đất, như mỏ dầu, mỏ vàng, mỏ bạc, đồng, sắt, kim cương, đá quý mới là nguồn tài nguyên phong phú giúp phát triển nền văn minh nhân loại. Chính những tài năng thượng đẳng, thiêng liêng trong con người như: tinh thần tự do, trí khôn sáng suốt, ý chí mạnh mẽ, tình cảm nhân từ mới có sức thăng tiến con người hơn chân tay, mắt mũi. Thế nhưng loài người vẫn thích thờ bò vàng óng ánh hơn thờ Thiên Chúa siêu việt.
Chuyện ngày xưa cũng như chuyện ngày nay. Rất nhiều khi chúng ta phán đoán giá trị lời nói của một người dựa trên bằng cấp, sự giàu có, uy tín của họ nhiều hơn là dựa vào sự hợp lý, tính chính xác của câu nói ấy. Hễ ai có chức có quyền, có địa vị, có của cải, có học vấn mà nói thì chúng ta tiên thiên cho rằng họ nói đúng. Còn ai nghèo nàn, rách rưới, thấp cổ bé miệng, ít học mà nói thì ta tiên thiên cho rằng họ nói sai hoặc chẳng có giá trị gì. Chính vì tâm lý sai lạc này mà các ngôn sứ giả thường được người đời ưu đãi, còn ngôn sứ thật thì thường bị bạc đãi (x. Lc 6,23.26). Lối hành xử như vậy là coi trọng của cải, tiền bạc, chức quyền, địa vị chứ không phải là người coi trọng chân lý, công lý và tình thương. Thực ra, một điều sai trái, dù kẻ nói ra có quyền thế, học vấn hay giàu sang tới đâu thì cũng vẫn là sai trái. Còn một điều đúng, thì dù người nói ra một đứa trẻ, một người nghèo thì cũng vẫn là đúng. Lời nói sai đâu thể biến thành đúng, hay lời nói đúng đâu thể biến thành sai vì thế giá hay trình độ học vấn của người nói ra câu nói đó.
Đức Giêsu buồn phiền nhưng không cay cú, thất vọng chứ không tức giận. Ngài quyết định đem ánh sáng và quà tặng thần linh đi đến nơi khác.Những người ở làng quê Nagiarét đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Con Thiên Chúa làm một thường dân đến sống giữa họ mà họ không biết. Họ chỉ biết đó là con ông thợ mộc Giuse. Họ chỉ biết gia đình Ngài rất nghèo, chẳng có danh giá gì trong làng. Họ coi thường Ngài. Họ không tin Ngài. Họ hất hủi Ngài. Họ đã để lỡ cơ hội nghìn năm một thuở. Đức Giêsu không làm một phép lạ nào ở đó. Ngài bỏ Nagiarét đi đến các làng chung quanh. Và Ngài sẽ chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa. Một cơ hội vàng đã không được đón nhận nên dân làng Nagiarét đánh mất hồng ân vô giá.
Hằng ngày chúng ta cũng đã bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội như thế. Ta đã bỏ lỡ không tiếp đón Chúa đến thăm khi ta bịt mắt không nhìn thấy những cảnh khổ chung quanh; khi ta bưng tai không nghe những tiếng kêu than khóc lóc; khi ta làm ngơ trước những cảnh ngộ nghiệt ngã, khi ta ngoảnh mặt quay lưng trước những nạn nhân của thiên tai hoạn nạn. Nhất là ta bỏ lỡ không nghe thấy tiếng Chúa cảnh báo để ăn năn sám hối. Chúa đã nhắc nhở ta nhiều lần nhiều cách: qua các vị bề trên; qua các tai nạn; qua lời khuyên của những người thân; qua lời phê phán của những người thù ghét ta... Hôm nay, Chúa còn tiếp tục nhắc nhở. Nếu ta không nghe, biết đâu hôm nay sẽ là lần cuối cùng. Chúa sẽ không bao giờ nhắc nhở nữa. Chúa sẽ bỏ ta mà đi như đã bỏ làng Nagiarét và không bao giờ trở lại. Như thế thì thật nguy hiểm cho linh hồn ta. Để nhận biết Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một đức tin mạnh mẽ. Ánh mắt đức tin giống như ngọn đèn soi chiếu vào đêm đen giúp ta nhận ra Chúa trong anh em, trong những biến cố Chúa gửi đến. (Đức TGM Ngô Quang Kiệt).
Để đón tiếp Chúa, ta phải rèn luyện cho mình một trái tim luôn luôn rộng mở yêu thương. Một trái tim yêu thương sẽ rất bén nhạy để nghe được tiếng nói của Chúa, dù tiếng nói ấy chỉ thì thầm trong sâu thẳm lòng mình; hiểu được những dấu chỉ của Chúa, dù những dấu chỉ ấy chỉ mơ hồ thoáng qua; nhận được khuôn mặt của Chúa, dù khuôn mặt ấy đã bị biến dạng qua những đau thương của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con tỉnh thức để nhận ra và đón nhận Chúa mỗi lần Chúa đến với con. Amen.
23. Nói lời tình yêu bằng trái tim lửa cháy--Jos Hiền
1. Lời Chúa thường hay gây “dị ứng”:
Lời Chúa là “Lời sáng tạo”, “Lời quyền năng”, “Lời yêu thương”, “Lời an ủi”… nhưng cũng là “Lời thường gây dị ứng”. Thông thường, ai cũng thích gặp được những “lời yêu thương”, “lời an ủi”. Nhất là cứ mỗi độ Tết đến, ai ai cũng mong “bốc” được một câu Lời Chúa đầy khích lệ, an ủi như “Hỡi những ai lao đao vất vả, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho…”, hoặc “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm sẽ gặp…”, hoặc “Phúc cho biết xót thương vì họ sẽ được thương xót”, v.v... hoặc ít ra, một Lời khuyến thiện chung chung như “Thầy là đường, sự thật, sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Nhưng nhiều người sợ nhất là “bốc phải” những câu như “Khốn cho các ngươi bọn biệt phái giả hình…”, hoặc “hỡi nòi rắn độc, trốn đâu cho khỏi cơn thịnh nộ sắp đến…”; thậm chí có người sợ những câu có liên hệ tới tài chánh như “Ngươi hãy về bán hết của cải phân phát cho kẻ nghèo rồi hãy đến theo ta”, hoặc dị ứng cả với những câu có liên quan tới việc làm hòa, nhường nhịn, tha thứ: “Ta không bảo phải tha bảy lần mà là bảy mươi lần bảy lần”, “hãy về làm hòa đã rồi đến dâng lễ…”
Tại sao lại sợ những câu Lời Chúa như thế. Đơn giản, vì tin và hiểu rằng: Chúa đã nói thì không thể sai được, và Chúa Phán mà cố tình không thực hiện là mắc lỗi với Chúa, là không toàn tâm toàn ý với Lời Chúa.
Trích đoạn Tin Mừng thánh Luca liên tiếp hai Chúa Nhật, vừa rồi và hôm nay, đã cho thấy rõ hai thái độ của dân Na-da-rét trước Lời Chúa. Vừa nghe Chúa công bố lời của Ngon sứ I-sa-ia “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó…” họ liền phấn khởi “tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”. Nhưng sau đó, khi nghe chính những Lời của Đấng là “Ngôn sứ trên mọi sứ ngôn” phán “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình … vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phung hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Sy-ri thôi”, thì “mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ”, đến độ muốn thủ tiêu Người bằng cách xô xuống núi.]
Quả thật, Lời Chúa thường hay gây dị ứng là thế. Cho nên bài học đầu tiên của “chương trình lời Chúa” hôm nay đó chính là: xin cho con thành tâm đón nhận Lời Chúa, cho dù Lời đó có gây dị ứng, có làm “trầy vi tróc vảy”, có kết án con, có bôi nhọ con, có làm cho con bầm dập, có khiến con hổ ngươi… đúng như lời trong thư Do Thái đã dạy:
"Lời Thiên Chúa là Lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4,12).
Để có được một thái độ như thế trước Lời Chúa không phải là chuyện của một sớm một chiều, mà là một cuộc “trường chinh” của nguyện cầu và cố gắng, và trên hết, là thái độ khiêm hạ. Khiêm hạ tự nhận sự yếu đuối, tội lỗi, bất toàn trước Lời Chúa, như người trộm lành thuở xưa: “Chúng ta chịu như thế nầy là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông nầy đâu có làm điều gì trái” (Lc 23,41). Chỉ với thái độ đó, Lời Chúa sẽ đưa chúng ta đến ngưỡng cửa của sự giải thoát đích thực, của hạnh phúc vĩnh hằng: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đường” (Lc 23,43).
2. Không tránh né sứ vụ “mang lời Chúa”.
Chính vì “Lời Chúa hay gây dị ứng cho người nghe” như thế, nên, không ít người đã thoái thác nghĩa vụ mang lời Chúa, tránh né “sứ vụ ngôn sứ”. Chuyện nầy đã từng xảy ra với các vị đại ngôn sứ như Mô-sê: “Con là ai mà dám đến với vua Pha-ra-ô…” (Xh 3,11), như Ê-li-a xin cho được chết “Lạy Chúa, đủ rồi! Bấy giờ xin Chúa lấy mạng con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông con” (1 V 19,4), như Giê-rê-mi-a: “Ôi lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói” (Gr 1,6), và đặc biệt như trường hợp Giô-na: Chúa bảo “mang Lời Chúa tuyên rao” ở Ni-ni-vê, ông ta đã trốn đi lối khác: “Ông Giô-na đứng dậy nhưng là là để trốn đi Tác-sít, tránh nhan Đức Chúa” (Gn 1,3).
Đức Kitô trong Tin Mừng vừa được công bố, không dừng lại ở “khoản” dân chúng thán phục, hoan hô để tận hưởng cái “thành công ban đầu tại quê hương” trong sứ vụ ngôn sứ vừa mới khởi sự; mà Ngài đã “tới luôn bác tài”, sẵn sàng vạch trần thói xấu của dân chúng đồng hương Na-da-rét, cái thói “coi mặt mà bắt hình dong”, đánh giá con người chỉ bằng cái mã hình thức và coi thường những thân phận thấp cổ bé miệng. “Ông nầy không phải là con ông Giu-se đó sao?” Và dĩ nhiên, cái cung cách hành xử sứ vụ ngôn sứ như thế, hầu hết đều dẫn tới “thiệt thân”. Nhẹ là bị săn đuổi như Ê-li-a, Giê-rê-mia…nặng là “đi đứt cuộc đời” như Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu, mục sư Luther King, Đức Giám mục Rômêrô…
Và như thế bài học thứ hai trong “câu chuyện Lời Chúa” hôm nay đó chính là hãy can đảm “mang lấy Lời Chúa và tuyên rao” cách thành tâm, can đảm. Dĩ nhiên, không đợi đến lúc có được quyền cao chức trọng mới thi hành hiệu quả sứ vụ nầy, mà mỗi một cuộc đời đều là một cuộc lên đường thi hành sứ vụ ngôn sứ.
3. Nói Lời Chúa làm sao cho thuyết phục:
Còn nếu hỏi: Phải rao giảng Lời Chúa làm sao, phải thể hiện sứ vụ ngôn sứ thế nào? thì Bài Đọc II hôm nay với chủ đề “Bài ca Đức Mến” trong thư của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Cô-rin-tô là một câu trả lời tuyệt vời nhất: “Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người, và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì…” (1Cr 13,1-2)
Hình như có một điệp khúc trong một bài ca của nhạc sĩ Trần Tiến đó là “hãy hát lời tình yêu bằng trái tim lửa cháy, háy hát lời lửa cháy bằng trái tim tình yêu…” Vâng, làm ngôn sứ, thi hành sứ vụ rao giảng Lời Chúa đó chính là “nói lời tình yêu bằng trái tim lửa cháy”. Nếu lời Chúa không được chuyển tải bằng ngôn ngữ của tình yêu, một tình yêu đã được cảm nghiệm, đã được sống, thì chỉ là một cuộc “tuyên truyền, một cuộc vận động chính trị, một cuộc ba hoa quảng cáo…” của trường phái “mồm loa mép dãi”, chứ không bao giờ là thuộc trường học của Chúa Giêsu, của Tin Mừng. Mà để “nói lời tình yêu” như thế, thì người mẹ người cha nào không nói được với con cái trong mái ấm gia đình của mình, người chồng người vợ nào không nói được với nhau trong cuộc sống lứa đôi? Anh chị em ruột thịt lẽ nào không nói được hai tiếng thương nhau, bạn bè cùng trang lứa, cùng học hành, cùng nghề nghiệp, cùng cảnh ngộ… lẽ nào không trao cho nhau được một ánh mắt thân thiện, một tiếng nói chân tình? Những người chưa một lần được nghe nói đến giới luật tình yêu, chưa một lần nhìn thấy cây Thánh giá với một con người bị chết trần truồng vì yêu… thì có thể ngập ngừng với hai tiếng “yêu thương”, chứ chúng ta, những người Kitô hữu, chúng ta đã được đào tạo, trui rèn trong cái trường dạy yêu thương từ Bê-lem đến Đồi Sọ, từ cái dấu chỉ Thánh giá đơn sơ nhất được vẽ trên mình đến cả 365 ngày cử hành hy lễ tình yêu, thì không thuộc được hai chữ “yêu thương” mới là lạ.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau đừng để hôm nay “Chúa Giêsu băng qua giữa chúng ta mà đi” như một người khách lạ, nhưng xin Người hãy ở lại trong tâm hồn mỗi người chúng ta để dạy bảo chúng ta học thuộc ngôn ngữ tình yêu của chính Ngài, hầu ra đi mang Lời Chúa chia sẻ cho anh em chung quanh bằng chính cuộc sống thấm tràn Đức Mến. Amen.
24. Tin Mừng vượt biên cương--Lm Hồng Phúc
Trong đạo cũ, Thiên Chúa thường gửi những nhà Tiên tri đến dạy dỗ dân riêng của Ngài. Thánh Kinh nhắc đến tên 16 vị Tiên tri tất cả, gồm 4 vị Tiên tri lớn và 12 vị Tiên tri nhỏ.
Tiên tri là người phát ngôn nhân của Thiên Chúa. Và làm phát ngôn nhân của Thiên Chúa không phải là dễ. Ông không thể chọn lựa điều phải nói, mà phải nói điều Chúa muốn ông nói và nói nhân danh Chúa. Vì thế, mệnh lệnh ông mang lại cho dân chúng và cách riêng cho giới cầm quyền, nhiều khi bị đả kích chống đối và nhà Tiên tri phải chết vì sứ mạng. Nhiều đấng run sợ bị chọn làm Tiên tri. Tiên tri Giona nghe Chúa gọi đã xuống thuyền trốn tiệt.
Chúa Giêsu, vị phát ngôn nhân của Đức Chúa Cha, cũng không tránh khỏi định luật hy sinh ấy. Bài Phúc Âm hôm nay kể lại diễn tiến của cuộc thuyết giảng trong Hội đường Nagiaret, quê hương Ngài.
Ngài tuyên bố thẳng thừng: “Lời tiên báo của Thánh Kinh về Đấng Messia hôm nay đã thực hiện”. Thính giả đều hiểu: Ngài tuyên bố mình là Đấng Messia phải đến và đã đến.
Sau những phút kinh hoàng bở ngỡ, họ đòi Ngài phải đưa ra bằng chứng: “Chúng tôi nghe ông làm nhiều phép lạ ở Caphanaum, thì ông hãy làm ở đây nơi quê hương ông, cho chúng tôi xem nào!” (Lc. 4, 23). Nhưng, Chúa Giêsu không muốn cho họ một dấu, một phép lạ nào cả, để họ khỏi lầm tưởng về sứ mạng của Ngài… Sứ mạng đó không bị gò bó hạn hẹp trong phạm vi gia đình quê quán, không dành riêng cho dân Do-thái thôi. Tin Mừng sẽ vượt biên cương, kêu gọi mọi người thiện chí. Để chứng minh, Chúa nhắc đến gương của hai nhà Tiên tri Elia và Êlisê mà dân chúng đều biết. Hai vị đã thi ân giáng phúc cho bà góa xứ Sêrepta và Naaman, sĩ quan ngoại bang thuộc xứ Syria.
Ơn cứu độ không dành riêng cho một số người được đặc ân mà là một ân sủng cho hết mọi người. Phản ứng đồng hương của Ngài rất dễ hiểu; lòng tự ái bị tổn thương, họ căm phẫn, đồng loạt đứng dậy, tống xuất Ngài ra khỏi thành và muốn xô Ngài xuống hố thẳm cho chết đi.
“Không một Tiên tri nào được tiếp đón nơi quê hương mình”.
Câu chuyện Nagiaret mở màn cho những diễn tiến tương lai. Các Giáo phụ coi đó là điềm báo của lối đối xử của toàn dân Do-thái dành cho Chúa. Ngài cũng sẽ bị kết án, dẫn ra khỏi thành và bị đóng đinh trên cây Thập giá. Luca, tác giả sách Công vụ Tông đồ còn muốn đối chiếu việc Chúa bị tống xuất khỏi thành với việc Stêphanô bị lôi ra khỏi thành và bị ném đá chết (CV. 7, 58). Cuộc bách hại tiếp theo sau cuộc tuẫn tiết của Stephanô đã làm cho Tin Mừng loan đi khắp vạn nẻo đường thế giới. Lịch sử của Chúa Giêsu tiếp diễn trong lịch sử Giáo hội. Giáo hội mở rộng vòng tay đón cả nhân loại.
Lạy Chúa, xin đừng để con ỷ lại vào ơn cứu độ đã được Chúa ban nhưng không. Trái lại, biết làm lợi cho mình và làm lợi cho kẻ khác để Nước Chúa trị đến.
25. Kitô Hữu - Tiên tri của Tin Mừng--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Tin mừng Lc 4: 21-30 Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta một mối tương quan gay go của Đức Giêsu với người đồng hương và cũng như với một số người bà con thân thuộc của Người.
Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta một mối tương quan gay go của Đức Giêsu với người đồng hương và cũng như với một số người bà con thân thuộc của Người. Khi Người trở về Nagiarét, trong hội đường, Người xuất hiện như Đấng Messia dân đang chờ mong. Người trực tiếp bị chống đối và bị đe dọa trong cuộc sống.
I. Tìm Hiểu Lời Chúa: Lc 4, 21-30
Đức Kitô Bị Nghi Kỵ Tại Quê Hương Nagiarét
Bản văn Tin Mừng được tuyên đọc hôm nay tiếp nối đoạn được đọc Chúa nhật trước. Tại hội đường Nagiarét vào ngày Sabbat, anh em đồng hương của Đức Giêsu không thừa nhận Người là Đấng Messia và họ trục xuất Người cách tàn nhẫn.
Sự nổi tiếng của Đức Giêsu và sự ca tụng mà Người nhận được trong cả vùng khiến cho những người đồng hương của Người ngạc nhiên. Tuy nhiên, họ lại trở nên phẫn nộ khi Người hé lộ cho họ biết Người là Đấng Messia được các Tiên Tri loan báo.
Đức Giêsu khiển trách sự cứng lòng tin của những người Nagiarét. Người báo cho họ biết sứ điệp mà họ chối bỏ sẽ được mang khỏi dân Do Thái. Phát điên vì tức giận, họ muốn giết Người nhưng không được.
Bị đóng khung trong những thành kiến, những thực hành truyền thống, chúng ta cũng có thể tỏ ra cách nào đó sự thiếu hiểu biết, thù nghịch và định kiến với sự hướng dẫn của Giáo Hội; làm tê liệt sự phát triển đức tin của bản thân và của anh chị em.
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Đón nhận Đức Giêsu Kitô: Tin mừng hôn nay trình thuật sự kiện Đức Giêsu về thăm Nagiarét, quê hương của Người. Khởi đầu mọi người vui vẻ đón tiếp Người và rất thám phục những gì Người giảng dạy, Người làm. Thế nhưng, sau đó thì hoàn toàn thay đổi thái độ đến mức khó tin: không chấp nhận Người, đòi giết Người. Tại sao họ lại có thái độ như thế? Thái độ đó của họ chính Chúa đã biết trước khi Người khẳng định với họ: " Hẳn các ngươi sắp nói cho ta nghe câu ngạn ngữ: hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình! Điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông … không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình." Lời Chúa đã đi đúng vào tim đem của họ, nên họ phẫn nộ với Người. Những người đồng hương của Chúa dĩ nhiên là tự hào vì danh tiếng của Chúa, tuy nhiên, sự tự hào đó đã đưa họ đến chỗ muốn sở hữu, muốn độc quyền Người. Những gì Người có khả năng làm thì phải làm cho họ và chỉ cho họ mà thôi. Cho nên, khi Người cho họ biết Người phải loan báo Tin mừng cho mọi dân tộc, cho người khác thì họ thấy khó chịu. Não trạng "một người làm quan cả họ được nhờ" đã ăn sâu vào vào tâm khảm của những người Nagiarét, quê hương của Chúa. Não trạng đó khiến họ không nhận ra tính phổ quát của ơn cứu độ, thấy được sứ mạng của Chúa Giêsu là đến với toàn thể nhân loại để rồi không thể đón nhận Người. Điều này cũng xảy ra với mọi người dân Israel khi cho rằng họ là dân được Chúa chọn, dân duy nhất đáng hưởng ơn cứu độ, dân duy nhất được Chúa thương nên vượt hơn hẳn các dân khác. Do đó, họ đã lên án và giết Chúa vì đã không thoả mãn những yêu sách của họ.
Ngày nay, thái độ của nhiều Kitô hữu cũng giống như thái độ của những người Nagiarét xưa: lúc đầu theo Chúa, hay nghe được một câu lời Chúa nào đó phù hợp với mình thì thấy thích thú, phấn chấn và nhiệt tình nhưng theo thời gian thì thái độ trở nên dửng dưng với Tin mừng thận chí còn oán trách Chúa vì theo Người xem ra chẳng lợi lộc gì cả mà chỉ thấy thiệt thòi, thấy phải cho đi. Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người suy nghĩ lại thái độ đức tin của mình "tôi có thực sự đón nhận Chúa hay không?"
2. Đón nhận và cùng lên đường với Đức Giêsu Kitô: Bài đọc I, Tiên tri Giêrêmia kể lại ơn gọi và sứ mạng tiên tri của mình. Thực hiện sứ mạng đó không dễ dàng chút nào mà luôn phải đối diện với khó khăn thử thách và chống đối. Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn ở với ông để ông vượt qua tất cả, những người chống đối sẽ không làm gì được ông, ông sẽ chiến thắng tất cả. Trong Tin mừng Chúa Giêsu khi thi hành sứ vụ rao giảng của mình cũng bị chống đối, đau buồn hơn khi bị chính những anh chị em đồng hương của mình chống đối. Nhưng không vì thế mà Người chán nản bỏ cuộc. Trái lại, Người còn thực hiện với sự kiên cường hơn. Hình ảnh những người đồng hương lên án Chúa, chống Chúa, chối bỏ Chúa như nói trước vận số của Chúa Giêsu khi chính người Do Thái, anh em đồng bào của Người đã kết án tử hình Người. Dù là sứ mạng Tiên tri của Giêrêmia hay sứ mạng cứu độ của Chúa Giêsu, đều có một mục đích là loan báo ý định yêu thương của Chúa Cha và trong khi thi hành sứ mạng luôn luôn phải đối diện với khó khăn thử thách và chống đối. Mỗi người Kitô hữu hôm nay, qua bí tích Thanh Tẩy cũng được Thiên Chúa mời gọi tham dự vào sứ mạng loan báo Tin mừng, nghĩa là tham dự vào sứ vụ Tiên tri của chính Chúa Giêsu Kitô. Kitô hữu sẽ lên đường đồng hành cùng với Người để loan báo, để làm sứ giả cho Người tại quê hương đất nước của mình. Và như thế, chắn chắn một điều là cũng sẽ mang lấy phận số của Người nghĩa là cũng phải chấp nhận chịu phỉ báng, chịu khó khăn và chịu chống đối thận chí phải liều mình hy sinh tính mạng như Người đã kinh qua. Đó là con đường Kitô hữu phải bước vào, không thể khác được. Thế nhưng, cho dẫu thế nào đi nữa, Kitô hữu, sứ giả của Tin mừng vẫn hân hoan bước tới, vẫn mạnh mẽ lên đường đến trao ban sứ điệp cứu độ đến anh chị em mình. Vì một lẽ đơn giản có Chúa ở cùng. Chúa Giêsu khi bị những người đồng hương muốn xô xuống vực đã 'rẽ qua giữa họ mà đi' vì giờ Người chưa tới; cho dầu có phải bị người Do Thái giết chết đi nữa, ngày thứ ba Người vẫn sống lại. Chúng ta, những Kitô hữu cũng thế sẽ qua giữa mọi hiểm nguy mà bước tới, sẽ vượt qua cái chết để phục sinh với Chúa Giêsu Kitô.
3. Đón nhận và khám phá Đức Giêsu Kitô: Những người Nagiarét quay mặt với Đức Giêsu, chống đối và toan giết Người bởi vì trước mắt họ vẫn chỉ là một anh chàng Giêsu tầm thường, con bác thợ mộc Giuse tầm thường. Có chăng thì chỉ có một tí tiếng tăm nào đó, một số khả năng nào đó sau môt thời gian xa nhà, xa quê hương. Vậy mà xem ra có vẻ lên mặt dạy đời hàng xóm láng giềng, nên họ tức giận với Người. Họ không nhận biết, không khám phá ra Người đích thực là Đấng Messia mà mọi người đang trông đợi. Lòng họ mù tối và nói chung nhiều người Do Thái bấy giờ cũng đã mù tối. Họ có Kinh Thánh, có các Tiên Tri, có Gioan tẩy Giả nhưng lòng đã chai đá nên chẳng nhận ra chân tính đích thực của Đức Giêsu Kitô. Họ bị tính tự kiêu, tự phụ che mắt nên không thấy được nơi sự tầm thường của anh chàng Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa; họ bị những truyền thống hủ lậu, những thành kiến che mắt khiến không thể nhận ra nơi con người dung dị có khả năng thuyết giảng làm phép lạ chính là Đấng Messia họ chờ mong để rối lên án Người; họ bị quyền lợi và tham vọng che mắt nên không thể thấy được con người có khả năng thu phục nhân tâm, cứu vớt người sầu khổ là Đấng Gánh Tội trần gian mà chỉ thấy đó là người có thể đe dọa cuộc sống của họ. Kinh nghiệm của người Nagiarét và của những anh em Do Thái ngày xưa là một bài học cho Kitô hữu chúng ta hôm nay. Phải biết đón nhận và không ngừng khám phá về Đức Giêsu Kitô. Người luôn đến trong sự tầm thường: hang đá Belem, con người lang thang không có chỗ gối đầu, tên tử tội trên thập gía … để mạc khải sự siêu thường của Thiên Chúa, của tình yêu. Không thể bằng lòng với vài câu Kinh Thánh, vài câu kinh thuộc lòng; không thể hài lòng với một thói quen đạo đức giả hình bên ngoài và không thể vừa ý với một vài việc bác ái để rồi cho rằng đã đón nhận Đức Giêsu, đã biết và đã theo Người. Ngày nay Người không hiện diện bằng xương bằng thịt với chúng ta nữa mà hiện diện trong Lời Người được công bố trong Hội Thánh, trong thánh lễ chúng ta dâng và trong những anh chị em nghèo hèn, bần cùng chung quanh ta. Phải lên đường khám phá về Người càng khám phá càng thấy được sự nhiệm màu của tình yêu và thập giá của Người; càng khám phá càng yêu mến và mạnh bước theo Người trên đường trọn hảo.
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu Kitô được Chúa Cha sai đến thực hiện ơn cứu độ nhân loại do tình yêu thương của Ngài. Trong niềm tri ân cảm tạ chúng ta cùng dâng lên Chúa những ước nguyện của chúng ta.
1. Giáo Hội có sứ mạng mang Tin mừng cứu độ đến với mọi người và thế giới hôm nay. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi thành phần trong Giáo Hội, nhất là các nhà Thừa sai, các chủ chăn luôn được Chúa Thánh Thần ban ơn hướng dẫn để vượt qua được mọi thử thách, trở ngại ngõ hầu hoàn thành được sứ mạng của mình.
2. Xã hội ngày nay đã và đang phát triển những xu hướng muốn loại Thiên Chúa ra khỏi thế giới. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người, nhất là những nhà lãnh đạo Quốc gia luôn biết sống và thực thi những gía trị công lý, tự do và hòa bình; biết tôn trọng và bảo vệ tự do tôn giáo.
3. Chúa đã đến để công bố Tin mừng cứu độ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người, mọi nhà trong cộng đoàn chúng ta luôn biết đón Chúa đến với bản thân, với gia đình qua việc siêng năng cầu nguyện, học hỏi và thực thi Lời Chúa.
* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha nhân ái! Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương sai Đức Giêsu Kitô, con yêu dấu của Chúa đến mời gọi chúng con vào gia đình của Chúa và được trở nên con cái Chúa. Xin cho chúng con luôn biết gắn bó cuộc đời mình với Người để trong Người và cùng Người chúng con thực sự trở nên những người con chí ái của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
26. Biết can đảm chấp nhận lỗi lầm--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hôm ấy, Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét. Vì ưu ái người đồng hương, Ngài ưu tiên tỏ cho họ nhận biết vai trò và sứ mạng của Ngài là Người được Thánh Thần xức dầu, được sai đi loan Tin Mừng cho người nghèo khó, công bố ân xá cho những kẻ bị giam cầm, cho người mù tối đón nhận ánh sáng, cho người bị áp bức được tự do và công bố thời kỳ hồng ân của Thiên Chúa... với hy vọng là những người đồng hương cốt nhục của mình được đón nhận ơn cứu độ trước hết.
Thế nhưng đôi mắt của người dân Na-da-rét đã bị che phủ bởi thành kiến nên họ đã không nhận ra vai trò và sứ mạng cao cả của Chúa Giêsu. Với thành kiến rằng Đức Giêsu chỉ là một anh thợ mộc bình thường con của bác thợ Giu-se, bà con thân thích của Ngài đâu có ai sáng giá... nên họ đã không tin Ngài. Họ đã để tuột khỏi tầm tay một cơ hội ngàn vàng, đã đánh mất hồng ân vô giá.
Để cảnh tỉnh họ, Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy chỉ vì tổ tiên họ ngày trước đã không đón nhận các ngôn sứ Thiên Chúa gửi đến cho mình, nên đã đánh mất những ân huệ lớn lao. Cụ thể là vào thời ngôn sứ Isaia, khi trời hạn hạn suốt ba năm sáu tháng, dân Ít-ra-en phải lâm vào cơn đói khát trầm trọng, vậy mà ngôn sứ Isaia được sai đến, không phải để cứu giúp các bà goá trong dân Ít-ra-en thời đó, mà là để cứu đói cho hai mẹ con bà goá ngoại giáo nghèo khổ thành Xa-rép-ta, miền Xi-đôn.
Một sự kiện khác tương tự là vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, đang khi có nhiều người phong cùi trong dân Israen cần được cứu chữa, thế mà không ai trong bọn họ được vị ngôn sứ chữa lành, ngoại trừ tướng Na-a-man ngoại giáo, người nước Sy-ri.
Thế nhưng, những lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu không làm cho họ tỉnh ngộ, trái lại càng khiến họ oán ghét Ngài khủng khiếp!
Họ oán ghét và nổi cơn phẫn nộ với Ngài chỉ vì Ngài đã chỉ cho họ thấy những sự thật phũ phàng liên quan đến họ. Họ nhất tề đứng dậy, xông vào túm lấy Ngài, lôi Ngài ra khỏi hội đường rồi kéo ra khỏi thành.
Thế mà vẫn chưa hả giận, họ còn kéo Ngài lên tận đỉnh núi, để xô Ngài xuống vực, cho Ngài nát thịt tan xương, để vĩnh viễn loại trừ Ngài ra khỏi cuộc sống, vì Ngài đã dám nói lên sự thật, một sự thật phũ phàng, đen tối liên quan đến họ...
Ôi, khủng khiếp thay cơn giận của đám dân thành Na-da-rét!
Hành động như thế là thiếu tinh thần phục thiện, là hèn nhát không dám đối diện với sự thật. Đúng ra, họ phải cám ơn Chúa Giêsu vì Ngài đã giúp họ thấy được sai lầm của mình để sửa chữa cho tốt hơn. Đúng ra họ nên nhìn lại sai lầm của mình thật rõ và những hậu quả do đó mà ra để rồi không còn tái phạm nữa.
Tiếc thay họ đã đi vào vết chân của cha ông họ nhưng còn tồi tệ hơn. Cha ông họ bạc đãi các tiên tri, còn chính họ thì toan giết hại Con Thiên Chúa.
Thế nhưng hôm nay soi lại bản thân, chúng ta cũng thấy đôi khi mình cũng đi theo vết chân đó. Khi có ai đó chỉ cho ta thấy những lầm lỗi khuyết điểm của chúng ta, những sự thật đen tối về bản thân ta, thì thay vì cám ơn người đã chỉ bảo cho mình điều hay lẽ phải, chúng ta lại lồng lên như một thú dữ bị thương, gầm lên dữ dội và có thể có thái độ hung hãn đối với người đã vạch ra lầm lỗi của mình. Thế rồi mình cứ cố chấp trong tội lỗi của mình. Và như thế, chúng ta cứ mang thói hư tật xấu xuống mồ và sẽ không bao giờ biết cải thiện. Thật đáng tiếc lắm thay!
Nếu ngôi nhà chúng ta bén lửa, bỗng có người phát hiện và báo cho ta biết để chữa cháy, thì hẵn là chúng ta sẽ rất biết ơn người ấy và khẩn trương chữa cháy cho ngôi nhà.
Còn nếu trong hoàn cảnh đó, thay vì cám ơn và lo chữa cháy, chúng ta lại quay ra căm giận, hành hung người báo cháy cho mình thì thật là điên rồ không thể chấp nhận được.
Thói hư tật xấu và những đam mê tội lỗi cũng là những ngọn lửa âm ỉ đốt cháy đời mình mà chúng ta không hay biết. Vậy nếu có ai đó báo cho chúng ta biết lỗi của mình, tức là báo cho biết có 'lửa' đang bén vào 'căn nhà cuộc đời' của mình, thì đừng phẫn nộ với người đó như người dân thành Nadarét năm xưa. Cần biết ơn họ sâu sắc vì nhờ họ cảnh báo mà chúng ta biết được những 'ngọn lửa' lầm lỗi, âm ỉ đốt cháy cuộc đời mình, để rồi cấp tốc cứu đời mình khỏi cháy.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho Lời Chúa soi dọi vào những ngóc ngách đen tối trong tâm hồn chúng con để vạch cho chúng con thấy những sự thật đen tối trong đời mình.
Xin cho chúng con can đảm lắng nghe những lời phê bình chân thực của người khác mà không tìm cách biện minh hay chống chế.
Xin cho chúng con dám nhìn thẳng vào những thói xấu của mình, gọi đúng tên chúng, quan sát cách vận hành hay biểu lộ của chúng qua hành vi, lời nói, và cách cư xử hằng ngày của chúng con...
May ra lúc đó, chúng con mới có thể cải thiện và đổi đời.
27. Ta về ta tắm ao ta--Lm Jos. Tạ Duy Tuyền--‘Cùng Nhau Suy Niệm’
Theo báo chí nhận xét: "Tết năm nay (2010) lượng trái cây của Trung Quốc nhập về giảm mạnh. Các năm trước, đến thời điểm này, hàng trái cây Trung Quốc đã chất hàng ngàn tấn tại chợ nhưng năm nay thì lại chưa thấy gì". Có người còn độc miệng nói rằng: các loại trái cây của Trung Quốc chủ yếu là lê, táo, nho... màu đẹp, bóng, để được lâu (khoảng tháng rưỡi) nên một số người mua để cúng chứ không dám ăn. Không chỉ trái cây nhưng rất nhiều mặt hàng Trung quốc đến nay người dân đã tẩy chay vì hàng kém chất lượng, nhất là lại chứa nhiều độc tố. Điều đó dẫn đến một làn sóng trở về với dân tộc: "Ta về ta tắm ao ta - Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn".
Thực vậy, với xu hướng xính ngoại, lâu nay nhiều người không dùng hàng Việt. Thích dùng hàng ngoại. Hậu quả là hàng ngoại kém chất lượng, quá date, hàng giả... tràn ngập thị trường Việt Nam. Điều này không chỉ dừng lại ở hàng hóa mà ngay cả trong vấn đề hôn nhân cũng vậy. Nhiều cô gái thích lấy chồng ngoại. Đến nỗi có cả một thị trường tuyển chọn cô dâu. Nhưng có mấy ai lấy chồng ngoại được yên bề gia thất? Có mấy ai thực sự hạnh phúc với hôn nhân thiếu vắng tình yêu?
Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài cũng từng cay đắng để thốt lên rằng: "không một tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương mình". Người ta dễ "gần chùa gọi Bụt bằng anh". Người ta xem thường đồng hương. Dù biết rằng tình đồng hương rất cần vì "tối lửa tắt đèn có nhau". Dù biết rằng kẻ láng giềng rất cần thiết, cần thiết hơn là anh em ruột thịt mà ở xa, như lời cha ông đã nói: "bán anh em xa, mua láng giềng gần". Thế nhưng, thực tế cho thấy, người hàng xóm lại dễ mất lòng nhau. Người hàng xóm lại dễ ganh tỵ với nhau. Thay vì sống với nhau để mang lại sự chia sẻ, cảm thông, nhưng lại gây sóng gió cho nhau. Có mấy ai ở bên nhau mà không lời qua tiếng lại? Có mấy ai ở bên nhau mà đùm bọc lấy nhau như là bí với bầu "tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn"? Chúa Giêsu cũng từng bị đồng hương tìm cách loại trừ. Đã có lần người ta cho rằng Người đang bị mất trí. Chính vì cái nhìn thiển cận và đầy thành kiến của người đồng hương nên Chúa Giêsu đã không thể làm một phép lạ nào nơi quê hương mình. Hôm nay, sau thời gian dài, Ngài đi rao giảng và làm nhiều phép lạ, Ngài trở về dưới cái nhìn xem thường của đồng hương. Họ không tin một Giêsu con bác thợ mộc lại có thể làm nhiều phép lạ như lời đồn. Nói đúng hơn, là họ không thể chấp nhận sự thật về con người Giêsu mà họ đã biết từ khi ấu thơ, nay lại có thể có những khả năng phi thường như vậy. Họ đã bị vấp phạm vì Người. Họ đã tìm cách loại trừ Chúa Giêsu, nhưng Người đã băng qua giữa họ mà đi.
Vâng, cuộc sống của chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao khi người người biết tôn trọng lẫn nhau, biết cảm thông, tha thứ và nâng đỡ lẫn nhau. Thay cho lời kết án, ghen tỵ là lời chúc mừng, khuyến khích. Thay cho những cái nhìn thiển cẩn, hẹp hòi là những cái nhìn nhân ái, bao dung. Cuộc sống sẽ thật hạnh phúc biết bao khi chúng ta biết nhìn cái tốt nơi nhau, để khen ngợi, để khuyến khích nhau, thay vì nhìn điểm yếu của nhau để kết án, xem thường nhau. Cuộc sống sẽ hạnh phúc biết bao khi chúng ta biết trân trọng những thành quả, những đóng góp của anh em, thay vì ghen ghét, dửng dưng.
Ước gì mỗi người chúng ta biết khiêm tốn để nhận ra sự cần thiết của tha nhân trong đời sống của mình. Vợ chồng cần có nhau để bổ túc và mang lại hạnh phúc cho nhau. Con cái cần đến cha mẹ để nương nhờ cậy trông. Hàng xóm cần đến nhau để "tốt lửa tắt đèn có nhau". Và một khi đã nhận ra sự cần thiết của tha nhân trong đời sống của mình, thì hãy sống tôn trọng và kính trọng lẫn nhau, để cùng nhau xây dựng cuộc sống cho nhau những niềm vui và hạnh phúc. Amen.
28. Đừng đánh giá nhau vì quá khứ--Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Khi đọc câu lời Chúa: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” (Lc 4,24) cho tôi nhớ lại câu chuyện của người bạn kể với tôi rằng:
Một lần họp lớp trước khi ăn, mình lấy thuốc đau bao tử ra uống, liền được một cô bạn học hướng dẫn tôi cách dùng thuốc như sau:
“Nếu bị đau bao tử, bạn đừng uống thuốc này, sẽ có nhiều tác dụng xấu…” . Cô bạn ấy chỉ dẫn cho tôi cách cặn kẽ, tự tin.
Thật không ngờ cô bạn ấy lại có phong thái tự tin, vững vàng đó. Năm lớp 9, cô ấy chỉ là cô bé nhút nhát có phần chậm hiểu nữa. Có những lần tôi đã phải mất hàng giờ để giảng cho cô ấy một bài toán đơn giản. Vậy mà trong lần gặp gỡ này, cô ta lại khác hẳn.
Chúng tôi thực sự ngạc nhiên vì cô bạn tôi có một kiến thức thực phong phú, sâu rộng. Có nhiều điểm trong học tập tôi chiếm ưu thế; thế mà bây giờ chưa chắc tôi đã hiểu được chuyên môn cách sâu sắc như vậy. Tự nhiên tôi cảm thấy tức tối. Thay vì biết xấu hổ vì mình thụt lùi, tôi lại tự mãn nghĩ rằng “Dẫu sao nó cũng chỉ học đến Trung cấp y tế thôi”.
Đây là lối nhìn của người hẹp hòi, cố chấp và lạc hậu. Họ đâu nghĩ rằng mình đã lạc hậu và bạn bè chung quanh đã tiến xa và vượt trội mình. Với cái nhìn hẹp hòi sẽ nảy sinh tính ghen tị, cáu giận, gièm pha, đôi khi còn hại người vô tội.
Nhà văn Balzac từng nói: “Người có tính ghen tị đau khổ hơn bất cứ một người bất hạnh nào, bởi hạnh phúc của người khác cộng với sự bất hạnh của mình làm cho ta đau khổ gấp nhiều lần”.
Cuộc sống đôi khi vì thành kiến chúng ta cũng phán xét anh em mình một cách bất công. Chúng ta không nhìn nhận cái tốt, cái hay nơi anh em mà còn hạ bệ bêu xấu về những tiêu cực quá khứ của anh em. Họ không biết rằng: sông có khúc người có lúc, để biết có cái nhìn nhận tích cực về hiện tại của nhau hơn là đánh giá nhau dựa trên quá khứ.
Thật khó tin, nhưng vẫn có những người Kitô hữu sống thiếu yêu thương và bởi ghen ghét đã gây nên biết bao phiền muộn, đau khổ, bất an cho anh em mình. Họ luôn làm mất bình an trong tâm hồn và thanh danh của người lối xóm bằng những mẩu chuyện ngồi lê đôi mách, họ khinh dể những người khác địa vị xã hội và kinh tế, họ dửng dưng với những mảnh đời bất hạnh, kẻ thiếu thốn ngay bên cạnh mình. Họ sống như thể chưa bao giờ nghe Chúa nói: “hãy yêu mến người thân cận”, như thể họ chưa bao giờ nghe thánh Phaolô tông đồ khuyên: Tình yêu thì nhân hậu, khoan dung, không đố kỵ, ghen tương và luôn lấy mối dây thân ái để sống liên đới với tha nhân. Trái lại họ sống quá tàn nhẫn với người lân cận. Họ dùng thủ đoạn để lừa dối anh em, để kết án, hạ bệ và xô đẩy anh em nhằm thỏa mãn tính tự tôn tự đại của mình. Năm xưa Chúa Giêsu đã bị người đồng hương kết án, phải chăng hôm nay vẫn còn đó những người ki-tô hữu bị những người đồng đạo hãm hại, nhục mạ và đẩy vào đường cùng của lầm than?
Vâng, vẫn còn đó sự khinh dể, xa lánh của người đồng đạo với những người nghèo khổ, bệnh tật và lầm than. . .
Vẫn còn đó sự kết án vô căn cứ bằng lời ra tiếng vào, thêm mắm thêm muối để hại người vô tội.
Vẫn còn đó những sự ghen ghét để rồi không nhìn nhận sự thăng tiến của bạn bè, người thân mà chỉ nhìn quá khứ của họ để khinh chê coi thường.
Thế nhưng, chúng ta vẫn cảm tạ Chúa, vì nhân loại hôm nay vẫn còn có những con người đang cố gắng thực hành giới luật yêu thương với những người thân cận mình. Họ vẫn sống bao dung, độ lượng. Họ vẫn miệt mài xây dựng tình hiệp nhất cho cộng đoàn mình.
Ước gì những người mang danh ki-tô hữu đừng bao giờ hạ thủ anh em mình chỉ nhằm thoã mãn thói kiêu căng, tự cao tự đại của mình. Xin đừng cố chấp để rồi đả phá anh em mình mà hãy đón nhận anh em với tất cảkhảnăng và giá trịcủa họ. Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết sống theo lòng nhân hậu của Chúa để mở rộng đôi tay đón nhận anh em, để nâng đỡ, bảo vệ anh em và biết nắm lấy tay nhau tạo thành một vòng tròn thân ái, hiệp nhất và yêu thương. Amen.
29. Khổ vì đồng hương--Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có hai thanh niên lớn lên trong gia đình có một người cha nghiện rượu. Vì còn trẻ, mỗi cậu sống theo ý riêng mình.
Nhiều năm sau, một cậu trở nên người nghiện rượu không thể cải thiện. Cậu kia là người chống uống rượu. Một tâm lý gia tìm hiểu hậu quả của việc nghiện rượu gây cho những đứa trẻ trong gia đình hỏi cậu thứ nhất: “Tại sao anh trở nên người nghiện rượu?” và cậu thứ hai: “Tại sao anh trở nên người chống rượu?”
Cả hai có cùng câu trả lời: “Ông có thể mong đợi điều gì khác khi ông có người cha như tôi?”
Đôi khi gia đình có thể trở thành trợ lực cho ta thăng tiến, nhưng cũng có thể là trở lực khiến ta không thể làm người. Gương sáng hay gương mù của người thân luôn ảnh hưởng đến chúng ta. Sự khích lệ hay chê bai cũng ảnh hưởng đến công việc của chúng ta.
Trong đời sống tôn giáo, cộng đoàn đôi khi cũng giúp cho một con người nên thánh nhưng cũng có thể đẩy một người lao xuống hảo ngục. Nhất là thực trạng “Bụt nhà không thiêng” đã khiến bao nhiêu người không thể phát huy tài năng ngay giữa anh em mình. Sự chê bai, xem thường còn làm cho chính những người đang sống với mình luôn cảm thấy bất an, đau khổ vì những lời chê bai, vu khống bâng quơ, đầy ác ý.
Thật khó tin, nhưng vẫn có những người Kitô hữu bách hại anh em mình: Họ luôn làm mất bình an trong tâm hồn và thanh danh của người lối xóm bằng những mẩu chuyện ngồi lê đôi mách, họ khinh dể những người khác địa vị xã hội và kinh tế, họ dửng dưng với những mảnh đời bất hạnh, kẻ thiếu thốn ngay bên cạnh mình. Họ sống như thể chưa bao giờ nghe Chúa nói: “hãy yêu mến người thân cận”, như thể họ chưa bao giờ nghe thánh Phaolô tông đồ khuyên: Tình yêu thì nhân hậu, khoan dung, không đố kỵ, ghen tương và luôn lấy mối dây thân ái để sống liên đới với tha nhân. Trái lại họ sống quá tàn nhẫn với người lân cận. Họ dùng thủ đoạn để lừa dối anh em, để kết án, hạ bệ và xô đẩy anh em nhằm thỏa mãn tính tự tôn tự đại của mình. Năm xưa Chúa Giêsu đã bị người đồng hương kết án, phải chăng hôm nay vẫn còn đó những người kytô hữu bị những người đồng đạo hãm hại, nhục mạ và đẩy vào đường cùng của lầm than?
Vâng, vẫn còn đó sự khinh dể, xa lánh của người đồng đạo với những người nghèo khổ, bệnh tật và lầm than...
Vẫn còn đó sự kết án vô căn cứ bằng lời ra tiếng vào, thêm mắm thêm muối để hại người vô tội.
Vẫn còn đó sự toa rập với nhau để loại trừ kẻ yếu, kẻ thân cô thế cô...
Và vẫn còn đó những giọt nước mặt bị hàm oan, bỏ rơi ngay giữa anh chị em mình.
Thế nhưng, chúng ta vẫn cảm tạ Chúa, vì nhân loại hôm nay vẫn còn có những con người đang cố gắng thực hành giới luật yêu thương với những người thân cận mình. Họ vẫn sống bao dung, độ lượng. Họ vẫn miệt mài xây dựng tình hiệp nhất cho cộng đoàn mình.
Ước gì những người mang danh Kytô hữu đừng bao giờ hạ thủ anh em mình chỉ nhằm thoã mãn thói kiêu căng, tự cao tự đại của mình. Xin đừng tiếp tay với những kẻ muốn xô đẩy Đức Kitô xuống vực thẳm bởi hành vi tàn bạo với người lân cận. Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết sống theo lòng nhân hậu của Chúa để mở rộng đôi tay đón nhận anh em, để nâng đỡ, bảo vệ anh em và biết nắm lấy tay nhau tạo thành một vòng tròn thân ái, hiệp nhất và yêu thương. Amen.
30. Người Việt hay dìm hàng--Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Người Việt có câu "thà chết cả đống còn hơn sống một mình". Đây là câu cô đọng về thói đố kỵ, không muốn ai hơn mình, đôi khi lại còn muốn kéo mọi người xuống ngang bằng với mình. Tôi cũng từng nghe một người đã nói giỡn vui rằng: “nếu mỗi quốc gia đều có một chiếc chảo dầu dưới âm phủ cho những kẻ phạm tội bị thảy vào thì chắc chắn chảo dầu của người Việt Nam không cần đậy nắp. Đơn giản, nếu kẻ nào ngoi lên là ngay lập tức bị kéo xuống”.
Sự đố kỵ là lý do dẫn đến người Việt hay ghen tương, dìm hàng, nói xấu, tẩy chay nhau. Sự đố kỵ ấy lại thường xảy ra nơi những bà con láng giềng với nhau. Hai nhà đang sống cạnh nhau có thể rất thân thiết khi cơ hàn như nhau, nhưng chắc chắn sẽ có chuyện khi một nhà tự dưng phất lên. Sống trong một tập thể dường như có ai thành công thì ắt sẽ bị gièm pha, nhòm ngó.
Sự đố kỵ không chỉ muốn người khác thua kém mình mà thậm chí còn cầu mong cho họ gặp thất bại cay đắng mới hả dạ.
Có một nhà buôn rất sùng đạo. Dù hoàn cảnh cuộc sống vất vả thế nào thì cũng không bỏ việc cúng vái thần thánh. Lời khẩn cầu vang lên tới trời, và thần tiên xuất hiện và ban cho ông ta những điều ước, nhưng với điều kiện sẽ cho hàng xóm ông được gấp đôi. Ông vui mừng, nhưng rồi lại buồn, vì nếu:
- Bây giờ mình xin một chiếc xe thì sợ tiên lại cho họ hai chiếc.
- Xin một căn nhà thì sợ họ được hai căn.
- Xin 1 tỷ thì hàng xóm được 2 tỷ.
- Và cứ thế, ông đưa ra đủ thứ ước muốn, nhưng lại không chọn gì cả, vì sợ mình được một thì người khác được hai.
- Cuối cùng ông quyết định: xin thần tiên cho con bị mù một mắt. Vì ông nghĩ nếu mình bị mù một thì người kia sẽ bị mù hai con mắt.
Những người biệt phái năm xưa dường như cũng muốn dìm hàng với Chúa Giê-su. Họ không muốn Chúa Giê-su nổi lên giữa họ. Họ chỉ muốn Chúa sống bình dị an phận trong sự dẫn dắt của họ. Đó là lý do họ gièm pha, khó chịu khi Chúa Giê-su nổi lên với lời giảng dạy và việc làm đầy uy quyền. Họ không phục vì bản tính cố chấp không muốn ai hơn mình. Họ đã đánh mất niềm vui khi nhìn thấy thành công của người đồng hương. Và dường như Chúa Giê-su cũng không thể làm điều gì cho họ vì họ quá cứng lòng tin.
Ở đời vẫn còn đó sự đố kỵ dẫn đến ghen tương mà làm hại lẫn nhau.
Tôi vẫn nghe những lời nói xấu ông A, bà B nhưng đều phát xuất từ ghen tỵ mà dựng chuyện bêu xấu nhau.
Tôi vẫn thấy những người làm việc tông đồ nhưng vẫn rỉ tai nhau để kết bè, kết phái để loại trừ nhau.
Tôi vẫn thấy những ý tốt bị mọi người loại trừ chỉ vì “trứng mà khôn hơn rận” nên cố chấp loại trừ nhau.
Tôi vẫn thấy những người môn đệ của Chúa vẫn đố kỵ dìm hàng nhau bằng nói xấu, gièm pha và bất hợp tác với nhau.
Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu sống bên nhau mà thôi đố kỵ nhau. Cuộc sống sẽ thăng tiến nếu ai cũng hợp tác và khích lệ nhau thay cho sự chê bai, dìm hàng nhau. Đặc biệt những người trong một tổ chức, một hội đoàn cần có tình yêu thương hiệp nhất với nhau. Xin đừng đố kỵ ghen tương với nhau nhưng luôn hợp tác và chia sẻ thành công và thất bại với nhau.
Xin Chúa giúp chúng ta học nơi Chúa Giê-su luôn hiền lành và khiêm nhường để hòa hợp với mọi người. Xin đừng vì cố chấp mà dèm pha lẫn nhau gây mất tình hiệp nhất trong cộng đoàn. Xin loại bỏ trong chúng ta tính đố kỵ để sống hòa hợp với nhau. Amen.
31. Ngôn sứ không được chấp nhận tại quê hương--Lm. Alfonso
Tin mừng Lc 4: 21-30 Trên hành trình đi rao giảng đó đây, Chúa Giêsu cũng nhớ về quê hương Nazareth, nơi Người đã lớn lên, nên đã trở về quê loan báo Tin Mừng.
Suy niệm
Trong những ngày cuối năm Âm lịch, đó đây chúng ta thấy trên báo đài đưa tin nào là ở tại phi trường, người người đến đón người thân về quê ăn Tết; tại các ga xe lửa, hành khách nằm đầy ở ga chờ “chuyến tàu về quê hương”; hay dọc theo các quốc lộ, có những hành khách thức suốt đêm nô nức chờ đón chuyến xe khách về quê. Có một số công ty có sáng kiến tổ chức mướn xe đưa nhân viên về tận quê nên họ an tâm làm đến ngày cuối cùng. Vâng, quê hương là một điều gì đó thiêng liêng trong trái tim của mỗi người, mà thi sĩ Đỗ Trung Quân đã viết lên bài thơ “Bài học đầu cho con”
“Quê hương là gì hả mẹ
Mà cô giáo dạy hãy yêu?
Quê hương là gì hả mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều?
……
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người.”
Trong tâm tình ấy, trên hành trình đi rao giảng đó đây, Chúa Giêsu cũng nhớ về quê hương Nazareth, nơi Người đã lớn lên, nên đã trở về quê loan báo Tin Mừng. Thế nhưng, thay vì đón nhận, thán phục về những lời từ miệng Chúa Giêsu thốt ra, về những điều nghe biết từ việc Người làm phép lạ tại Capharnaum, người Do Thái đồng hương lại bị che khuất không nhận ra Đấng Messia đang ở giữa họ, chỉ bởi vì Chúa Giêsu suốt ba mươi năm sống gần gũi với họ trong một miền quê nhỏ bé Nazaréth.
Như người ta thường nói “xa thì thương, gần thì thường”, những người đồng hương với Chúa Giêsu do “quen quá hóa nhàm” thành ra thiếu sự trân trọng nên dễ vấp phạm: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?” Họ ám chỉ tới nghề thợ mộc tầm thường của cha Giuse, tới sự giản dị mộc mạc của bà mẹ quê Maria, khiến cho cảm tưởng thán phục về Chúa Giêsu, người mà họ xem là một ngôn sứ vĩ đại mau chóng vụt tắt. Chính những thành kiến, suy nghĩ chủ quan khiến cách nhìn sai lệch, cách đối xử với nhau thiếu sự trân trọng. Trong việc thờ phượng Thiên Chúa cũng không tránh khỏi, nếu chúng ta không biết tôn kính đủ thì rất dễ “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Và từ chỗ coi thường dễ dẫn con người ta đến phẫn nộ, thách thức Chúa: “Điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông xem nào”.
Chúa Giêsu biết rõ người Do Thái chỉ biết nghĩ đến mình, hay mang tính vụ lợi, nên người thẳng thắn dạy dỗ họ: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình.” Từ đây, Chúa Giêsu cho thấy sứ vụ của Người đến thế gian không bó buộc cho dân Do Thái thôi, nhưng là cho tất cả những ai thành tâm tìm kiếm Chúa và trân trọng mở lòng đón nhận những ơn Chúa ban. Người đã trích dẫn từ trong sách Cựu Ước rất quen thuộc với họ thời các tiên tri Êlia và Êlisêô. “Đã có nhiều bà goá trong Israel thời Elia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Elia không được sai đến cùng một nguời nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon vùng dân ngoại này vì bà đã có lòng thương người biết chia cơm, sẻ nước cho người khách lạ là Êlia, còn các bà dân Israel theo nhà Vua Akháp và hoàng hậu Izabel đi cầu khẩn tà thần Baal (1V 16,30-17,15). Cũng có nhiều người bệnh tật trong dân Israel, thế nhưng chỉ có đại tướng Naaman, người dân ngoại nước Syri cùng đoàn tùy tùng đông đảo đến nài xin tiên tri Êlisêô của Thiên Chúa cứu. Ông đã nghe lời tiên tri chỉ bảo xuống sông Giođan thanh tẩy và đã được khỏi (2V 5,1-15).
Thực ra, Thiên Chúa đã yêu thương kêu gọi chúng ta qua việc cho chúng ta làm người như lời kinh Cám Ơn chúng ta đọc sau khi kết thúc Thánh lễ: “Con cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành vô cùng, chẳng bỏ con, chẳng để con không đời đời mà lại sinh ra con, cho con được làm người, cùng hằng gìn giữ con, hằng che chở con…” như Chúa đã chọn gọi tiên tri Giêrêmia ngay từ trong lòng mẹ, Chúa cũng kêu gọi ngay cả khi chúng ta chưa ý thức: "Trước khi Ta tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm tiên tri trong các dân tộc”.
Như thế, mỗi người chúng ta cũng được giao phó một sứ vụ, loan báo tình yêu thương của Thiên Chúa đến cho anh chị em mình.
Chuyện kể về một nhà buôn rất sùng đạo, dù hoàn cảnh cuộc sống vất vả thế nào, ngày ngày ông không quên khấn vái thần linh. Lời khẩn cầu vang lên tới trời, và một ông bụt xuất hiện, hứa ban cho nhà buôn này một điều ước, nhưng với điều kiện người hàng xóm nhà ông sẽ được gấp đôi. Ông vui mừng, nhưng rồi lại đắn đo: “Bây giờ mình xin một chiếc xe thì sợ bụt lại cho ông hàng xóm hai chiếc; xin một căn nhà thì sợ người kia được hai căn, xin cho được đàn bò thì cũng lo người kia được gấp đôi”. Ông đưa ra đủ thứ ước muốn, nhưng tính ích kỷ khiến ông lại không chọn gì cả. Cuối cùng ông quyết định: “Xin bụt cho con bị chột một mắt. Vì ông nghĩ nếu mình bị chột một mắt thì người kia sẽ bị mù hai con mắt”. Chính tính ích kỷ đã khiến con người ta đóng lòng lại với anh em mình, mà đã đóng lòng lại với người thân cận thì cũng đóng lòng lại với chính Thiên Chúa.
Chính thánh Phaolô cũng đã ưu tư tới đời sống đạo của các tín hữu nên đã dạy dỗ qua bài ca Đức Mến nổi tiếng trong thư thứ II gởi tín hữu Côrintô. Ngài cho thấy dù làm bất kỳ việc gì mà không có đức mến thì công cốc. Ngay cả trong việc thờ phượng Chúa cũng thế. Ba nhân đức Tin- Cậy-Mến tự bản chất đều là tốt lành, thế nhưng “cao trọng hơn hết vẫn là đức mến”. “Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công, nhưng chia vui cùng chân lý, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, trông cậy tất cả, chịu đựng tất cả”. Đức Mến không khi nào qua đi ngay cả ơn tiên tri sẽ bị huỷ diệt, ơn ngôn ngữ sẽ chấm dứt, ơn thông minh sẽ biến mất đi nữa.
Vậy trong năm Giáo phận Phú Cường đề ra chủ đề sống “Hiệp thông trong bác ái”, chúng ta tập sống bác ái với nhau ngay từ trong chính suy nghĩ, đến lời nói và hành động: luôn nghĩ tốt về nhau, nói tốt cho nhau và làm việc tốt dẫu với những người chưa được tốt với mình hoặc ngay cả mình chưa được tốt lành gì. Xin Chúa thương đón nhận thiện chí muốn nên sống thánh hơn từng ngày của mỗi chúng ta. Amen.
32. Khiêm nhường để khám phá sự thật--Lm. Vũ Xuân Hạnh
Tắc… tắc… tắc… cụp! Đêm đã khuya lắm, những âm thanh nghe khô khốc ấy còn vang. Một chú bé dáng nhỏ nhắn, đi mải miết vào lòng con hẻm nhỏ, tiếp theo sau là những tiếng gõ. Chú bé bước nhanh nhưng gật gà gật gù, chắc cậu ta buồn ngủ.
- Ê! hủ tiếu mì…! Bộ điếc hả?
Sực tỉnh vì tiếng gọi giật giọng từ ban-công một căn lầu, chú bé quay bước tiến tới, hỏi:
- Thưa chú, mấy tô?
- Ba!
- Dạ! Chú bé đáp nhanh và chạy vụt đi.
Một lát sau, chú bé khệ nệ bưng cái mâm xếp đầy những tô hủ tiếu đến trước căn lầu khi nảy. Anh thanh niên gắt gỏng:
- Tưởng mày ngủ quên ở ngoài đó rồi.
Chú bé lại cố nở nụ cười để làm dịu lòng người khách khó tính rồi tất tả bưng tiếp những tô mì còn lại đi về cuối hẻm. Vô ý thế nào mà… oạch, chú bé trợt chân vào vũng nước té sóng soài trên mặt sàn xi-măng. Những sợi hủ tiếu trộn lẫn cát bụi, xà lách, giá, thịt nằm vương vãi, tô đũa lăn lóc khắp nơi. Tiếng cười trong đêm vắng của mấy thanh niên kia lại ré lên, đeo lấy chú bé.
Chắc hẳn thằng bé tủi buồn, mà tôi cũng thấy xót xa trong dạ. Xót xa cho chú bé nghèo, phải vất vả lặn lội, bằng ấy tuổi phải cõng trên vai cuộc đời đã vậy. Càng xót xa hơn cho những người giàu tiền của lại nghèo yêu thương, sao nỡ nhẫn tâm cất tiếng cười không đúng lúc, đến mức quá quắc như thế. Một tràn cườI chẳng những không vui cho những ai phải nghe nhưng chẳng muốn nghe, ngược lại còn khắc trong lòng một sự đáng giá chẳng hay ho gì: khả ố. Ai đó hay chăng, nụ cười khả ố là nụ cười đánh mất giá trị của chính con người mình…
Những tràng cười như thế, chắc không bao giờ xuất hiện nơi những anh chị em lấy đức khiêm nhường làm thước đo cho mọi tương quan sống của mình. Chắc chắn chỉ có những kẻ kiêu ngạo, trong lòng chứa đầy nỗi tự phụ, hóng hách… mới có thái độ khiếm nhã đến thế.
Trong cuộc sống thường ngày của bạn và tôi, xét lại bản thân, có lẽ chúng ta đã từng cũng có những kiểu cười khả ố tương tự. thêm một lần nhắc lại những hình ảnh như thế này, để một lần nữa, chúng ta ý thức rằng, mình phải sống đẹp và đừng vô tình trước nỗi bất hạnh của anh chị em. Nhất là hãy loại trừ thái độ kiêu căng, tự phụ để có thể đón nhận và sống Lời Chúa trong cuộc sống thường ngày với anh chị em.
1. Giêsu trong Tin Mừng
Đi từ cụ thể của đời thường, ta lại bắt gặp hình ảnh của một Giêsu trong Tin Mừng. Bởi Chúa Giêsu cũng đã từng bị khinh miệt như thế. Đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay, người đồng hương của Chúa đã có thái độ coi thường Chúa. Phải chăng đó cũng là biểu hiện của lòng kiêu căng, của thái độ tự phụ, hách dịch? Một mặt nghe những lời giảng dạy, họ khen ngợi nhưng liền sau đó, do lý lịch không mấy nổi nang, có khi còn tầm thường, những người đồng hương của Chúa đã vấp phạm.
Từ lời nhận xét thiếu thiện cảm, thiếu tế nhị: “Người này không phải là con ông Giuse sao?”, cho thấy cả một cái nhìn đầy thành kiến, tiêu cực, có cái gì như xoi mói và thiếu chấp nhận nơi những người đồng hương của Chúa Giêsu. Từ đó phản ánh lòng đầy kiêu căng qua thái độ mà họ dành cho một người con của quê hương của họ là chính Chúa Giêsu. Họ thật đáng trách, vì lẽ ra, khi nhận thấy sự khôn ngoan lạ thường của Chúa, họ phải chân thành ghi nhận, đàng này chỉ vì một chút tự phụ, họ đã để ký ức về gia cảnh của Chúa ngự trị trong tim não: Và như thế, họ chỉ thấy một Giêsu hơn ba mươi năm bình dị đến mức tầm thường. Người có một cuộc sống quá đơn sơ: Một thợ mộc, con của một ông thợ mộc khác. Gốc gác, họ hàng của Giêsu cũng chẳng lạ gì, chẳng hề nổi danh nổi tiếng bao giờ. Chính lòng kiêu ngạo mà đôi mắt của họ bị che mù.
Cũng chính lòng kiêu ngạo ấy đã biến họ thành những kẻ thiệt thòi lớn. Nếu từ xa xưa, vào thời đói kém, tiên tri Êlia đã không thể làm gì cho quê hương ông; Hay tiên tri Êlisêô cũng đã từng không chữa một người cùi nào ở chính nơi chôn nhau cắt rốn của mình, thì hôm nay cũng thế, Chúa Giêsu cũng chẳng làm được gì hơn trên chính nơi mà Người sinh ra và lớn lên.
Lấy tích xưa để nói chuyện mình, Chúa Giêsu như muốn dạy người đồng hương và cả chúng ta nữa, kinh nghiệm ngu dại của thói kiêu căng. Sự kiêu ngạo làm ta bị đánh mất, bị tước mất tất cả những gì là ân huệ, là tốt đẹp. Và cái mất lớn nhấn là mất chính Chúa.
Tưởng chỉ có cha ông mình từ ngàn xưa, vì thiếu hiểu biết mới tự phụ như thế. Nào ngờ, bài học của cha ông đã qua bao nhiêu thế hệ, con cháu vẫn chưa thuộc. Vì thế, bạn và tôi càng đáng trách hơn, trách nhiệm của chúng ta càng nặng hơn. Thật là xót xa và đáng thương, nếu chúng ta thiếu ý thức điều này.
2. Giêsu trong đời
Nếu đã có lần Chúa Giêsu khẳng định: Ai cho anh chị em mình, dù chỉ một chén nước lả là làm cho chính Chúa (Mt 10, 40-42), hơn thế, Người đã tự đồng hóa mình với biết bao nhiêu anh chị em nghèo đói, bất hạnh, bị bỏ rơi… (Mt 25, 40), thì hôm nay, Người vẫn hiện diện với ta, trong ta và nơi mọi người cùng ta đang sống, nhất là nơi những anh chị em khổ nghèo.
Bởi đó, nếu một Giêsu trong Tin Mừng bị khinh miệt, thì khi Giêsu ấy hiện diện giữa đời, chắc còn chịu nhiều khinh miệt hơn. Câu chuyện về cậu bé bưng hũ tiếu mì bên trên là một bằng chứng rất thật trong cuộc đời, xung quanh chúng ta.
Chỉ có khiêm tốn mới có thể yêu thương. Và khi yêu thương, người ta sẽ càng khiêm tốn hơn. Chỉ có khiêm tốn và yêu thương, người ta mới trao cho nhau tâm hồn khả ái, chứ không phải những cái cười vô tình đến mức vô tâm và khả ố.
Chỉ có khiêm tốn và yêu thương, người ta mới có thể có lòng chân thành tìm kiếm sự thật. Nhưng sự thật ấy, có khi như ngọc lẫn trong đá, phải bới, phải tìm mới thấy, mới khám phá. Những người đồng hương của Chúa Giêsu vấp phải khuyết điểm này, bởi họ đã không đủ thiện chí để tìm kiếm, ngược lại còn kiêu căng, tự phụ, nên họ chẳng những bị Chúa chê trách, mà còn không nhận được bất cứ điều gì do Chúa ban.
Nguyện xin cho lòng chúng ta luôn khiêm nhường để có thể nhận ra Chúa nơi anh chị em; Và khiêm nhường để nhờ đó, chân thành tìm kiếm những sự thật khác nhau, được khoác những màu sắc khác nhau trong cuộc đời. Có chân nhận như thế, ta mới không lên án, không kỳ thị anh chị em, nhưng luôn sống điều mà trong bài đọc II, thánh Phaolô dạy: khoan dung, nhân hậu, tha thứ, “không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu, không vui mừng trước bất công…” (1Cr 13, 4-7).
Chỉ có một đời sống khiêm nhường, ta mới khám phá được điều mà thánh Phaolô đã khám phá. Đó mới là sự thật mà mỗi một Kitô hữu cần phải sống. Bởi vậy, khiêm nhường thật cần thiết để ta nhận biết Thiên Chúa, nhận biết cuộc đời, và nhận biết anh chị em quanh mình. Nhờ đó, sống cho Thiên Chúa, sống vì cuộc đời và bác ái với anh em.
33. Người đồng hương--Nguyễn Thái
“Chúa Giêsu, như Elia và Elisa, không phải chỉ được sai đến với người Do Thái”.
Trong thời gian theo học tại đại chủng viện St. Mary of The Lake, Mundelein thuộc tổng giáo phận Chiacago, tôi có dịp học chung với một thầy người Nigeria ở Phi Châu sang Mỹ du học. Thầy chia sẻ lý do tại sao người dân Nigeria vẫn còn giữ tục lệ đa thê. Sự chênh lệch giữa những người giầu và nghèo là một trong những nguyên nhân làm cho vấn dề đa thê vẫn còn phổ biến. Các ông điền chủ giàu sang có nhiều ruộng đất, một mình không thể trông coi hết được. Ông cần có nhiều người coi sóc và nhiều con cháu chia nhau trách nhiệm lo việc ruộng rẫy. Vì thế cứ mỗi nơi có ruộng ông điền chủ để lại đó một bà vợ cùng với một bầy con chăm sóc mùa màng. Có nhiều ông có đến trên 10 bà vợ, vì ruộng đất ở rải rác nhiều nơi.
Chuyện kể về một trong những vị giám mục đầu tiên người bổn xứ Nigeria. Sau khi đã được thụ phong Giám mục, ngài trở về quê quán cho dâng làng chúc mừng. Dân làng của ngài là những điền chủ giàu có, nên họ tổ chức một buổi tiệc liên hoan vĩ đại để vinh danh ngài. Nhưng họ cũng lại là những người không mấy có thiện cảm với luật lệ hôn nhân của Công giáo. Trong bài diễn văn, vị bô lão đại diện lên phát biểu. Họ rất hãnh diện vì một trong những người con cháu được cất nhắc lên một chức vị danh dự và lớn lao trong giáo hội, đại diện cho Thiên Chúa. Họ hứa sẽ gia nhập đạo Công giáo, nếu với tư cách là Giám mục, ngài dùng quyền của ngài bỏ đi một trong 10 điều răn cho họ. Đó là điều răn thứ sáu, “chớ mê dâm dục!”
Trong bài đáp từ, vì tân giám mục trẻ mượn cơ hội này để giảng cho những người đồng hương một bài học. Mười điều răn là luật lệ và ý muốn của Thiên Chúa chứ không phải của loài người. Do đấy không thể thay đổi được. Buổi tiệc chúc mừng bỗng trở nên ngột ngạt và tuyệt vọng. Sau đó vị tân Giám mục bèn vội vã từ biệt dân làng ra đi.
Giống như vị tân giám mục, Chúa Giêsu về thăm gia đình và những người đồng hương ngay sau khi chịu phép rửa ở sông Giodan, nơi Thần khí ngự xuống trên Ngài và công khai tuyên bố Ngài là Con Thiên Chúa.
Giống như vị tân Giám Mục, đồng hương của Chúa Giêsu cũng đón tiếp Ngài với sự kinh ngạc và ca ngợi: “Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: Người này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4:22)
Giống như vị tân giám mục, đồng hương cũng mong chờ Ngài dùng quyền bính làm cho họ được hưởng những ân huệ đặc biệt, vì họ tự coi mình là dân riêng của Ngài.
Và sau cùng, giống như vị tân giám mục, Chúa Giêsu đã nói sự thật rằng Thiên Chúa không thiên vị một người nào, nhưng đối xử với toàn thể nhân loại như nhau. Nghe thế họ tuyệt vọng, quay ra chống đối Ngài, tìm cách xô Ngài xuống vực thẳm. Nhưng Ngài thoát khỏi họ mà đi. Vì: “Không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình” (Lc 4:24).
Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước nỗi tuyệt vọng của những người đồng hương, vì Ngài đã hiểu thấu đáo sứ mệnh tiên tri của ngài. Theo từ ngữ của Thánh Kinh, một tiên tri không chỉ là người nói trước việc tương lai sẽ xảy đến, nhưng tự bản chất, tiên tri là người nói thay cho Thiên Chúa, là xướng ngôn viên của Thiên Chúa. Vì thế, ngôn ngữ của vị tiên tri được Thánh Kinh diễn tả theo khuôn mẫu như sau: “Do đó, Thiên Chúa phán…” Tiên tri phải tập trung vào việc diễn tả lời của Chua, cho dù được dân chúng đón nhận hay không (1Cr 9:15-16). Các tiên tri phải nói lên sự thật (2Cr 11:10; 13,8). Mà sự thật thì mất lòng. Sự thật làm các ngài bị từ chối, bị bắt bớ, và khốn khổ! (Pl 1:29-30; 1Pr 4:12-14).
Chúa Giêsu phải nói cho những người đồng hương Do thái biết sự thật rằng đức tin, ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa được ban phát cho tất cả mọi người (Rm 1:16), gồm toàn thể nhân loại, chứ không riêng gì dân Do Thái, hay đồng hương. Sự cứu rỗi đã đến với toàn thể nhân loại, không phải chỉ giới hạn cho dân tộc được “tuyển chọn”. Óc địa phương, phe nhóm, chủng tộc, màu da… đều không phải là tiêu chuẩn của một Thiên Chúa yêu thương và công bằng.
Đối với Thiên Chúa, tiêu chuẩn để ban ơn cứu rỗi là đức tin và lòng sám hối.“Con người cần phải được mời gọi để tin và hoán cải” (Sacrosanctum Concilium đoạn 9), “Giáo hội phải tiến bước trên con đường của sám hối và đổi mới” (Lumen Gentium đoạn 171; GLCG #827,853). Bởi Chúa Kitô đã chết cho tất cả chúng ta là những người tội lỗi (Ga 3:14-16; Rm 5:8-10; Gaudium et Spes đoan 38).
Xưa kia có một bà nông dân dữ tợn. Khi bà chết chẳng để lại một việc lành phúc đức nào, do đó mà quỷ chờ lệnh cuả Thiên Chúa đưa bà xuống hỏa ngục để dìm vào trong hồ lửa. Nhưng thiên thần bản mệnh vẫn đứng bên cạnh bà, cố gắng suy nghĩ, may ra tìm được một việc lành nào đó bà đã làm để bầu cử cho bà trước tòa Thiên Chúa. Sau cùng, thiên thần nhớ ra một điều; nó không lớn lắm, nhưng là điều thiên thần có thể đưa ra biện minh trước Thiên Chúa. “Xưa kia, bà đã nhổ một cọng hành trong vườn của bà và đem cho một người ăn xin nghèo khó,” thiên thần nói với Thiên Chúa. Thiên Chúa trả lời: “Được lắm. Hãy lấy cọng hành, để bà bám chặt vào nó, rồi kéo bà lên thiên đàng. Nếu thiên thần kéo bà lên được, hãy cho bà vào thiên đàng. Còn nếu cọng hành bị đứt, bà ấy sẽ ở dưới hỏa ngục muôn đời”.
Thiên thần đưa cho bà cọng hành: “Nào, mau lên! Hãy nắm chặt lấy nó để ta kéo ngươi lên thiên đàng.” Và thiên thần bắt đầu kéo rất cẩn thận. Vừa kéo bà lên được một chút, những người tội lỗi khác nhìn thấy bèn cố gắng giành nhau bám vào chân của bà để họ cũng sẽ được cứu thoát. Nhưng người đàn bà đã vùng vẫy dữ dội, đá họ văng ra, đồng thời la hét rằng: “Ta đã được cứu chứ không phải các ngươi!” “Đây là cọng hành của ta, không phải của các ngươi!” Ngay khi bà vùng vẫy la hét như vậy cọng hành đã bị đứt, và bà bị rơi xuống hồ lửa. Vị thiên thần bản mệnh chỉ thương tiếc cho thân phận của bà rồi quay bước ra đi mà thôi!
Chúa nhật tuần trước, chúng ta đã nghe bản tuyên ngôn của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng cho những người đồng hương của Ngài ở Nagiaret. Phần đầu của bài giảng đã được những người đồng hương nhiệt liệt khen ngợi. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Lc. 4:21-30, Chúa Giêsu áp dụng bài giảng của Ngài để chứng tỏ cho những người Do Thiếu thấy rằng chương trình cứu độ của Thiên Chúa cũng bao gồm cả những người dân ngoại. Để chứng minh, Người đã dùng câu chuyện của tiên tri Elia đang bị đói và người đàn bà góa đã giúp ông lại là một người dân ngoại xứ Xiđon. Thời tiên tri Êlisa, những người cùi Do Thái đã không được chữa lành, mà là một người cùi dân ngoại, Naaman, xứ Syria. Điều này đã làm cho họ giận dữ!
Dân chúng ngày nay cũng vẫn tự hào rằng họ tốt hơn những người khác. Dân tộc, quốc gia, cộng đoàn, gia đình, và bản thân mình là nhất! Nhìn vào các biểu tượng của lá cờ và huyền thoại của các quốc gia đủ biết rằng lòng tự ái dân tộc trong tâm tư của con người rất cao độ.
Các nhà đạo đức thường khuyên rằng lòng kính sợ Thiên Chúa chính là khởi điểm của sự khôn ngoan (Hc 1:14; Gn 1:7). Vì biết kính sợ Thiên Chúa tức là biết mình tội lỗi và cần đến ơn cứu rỗi của Thiên Chúa.
Câu chuyện thần thoại Hy lạp cổ kể rằng ở bên ngoài thành phố Thebes có một quái vật gọi là Sphinx. Mọi người đi ngang con quái vật này phải trả lời một câu đố, nếu trả lời sai sẽ bị giết chết. Câu đố như sau: Con vật nào vào ban sáng bước đi bằng bốn chân, vào ban trưa, bước hai chân, và vào ban tối bước đi bằng ba chân? Nhiều người đã phải chết vì không trả lời được! Cuối cùng chỉ có Oedipus trả lời đúng câu hỏi này mà thôi. Đó là con người, khi còn nhỏ bò bằng hai tay và hai chân, khi trưởng thành bước đi bằng hai chân, và khi về già phải chống thêm cây gậy nữa mới bước đi được.
Thế hệ của chúng ta cũng đang đối diện với cùng một câu hỏi, trả lời được câu hỏi này hay không sẽ liên hệ tới sự sống còn của đời sống tâm linh. “Tôi là ai? Cuộc đời có nghĩa lý gì?” là câu hỏi rất quan trọng. Thái độ của chúng ta đối với chính chúng ta, sự liên hệ của chúng ta với tha nhân và Thiên Chúa, sự tham gia của chúng ta vào trong thế giới đều tùy thuộc vào câu trả lời này.
Vào những năm xảy ra chiến tranh tại Sarajevo, thủ đô Bosnia. Báo chí đã đăng tải câu chuyện sau đây của một anh phóng viên chiến trường. Trong khi đôi bên đang bắn nhau dữ dội, một em bé gái bị trúng đạn. Người đầy máu, em bước đi thất thểu dọc theo vệ đường nơi hai bên đang giao tranh. Trước khi anh phóng viên ra tay hành động, đã có một người đàn ông nhào ra ôm lấy em, và năn nỉ anh phóng viên lái xe đưa họ tới bệnh viện:
“Anh có xe không?” người đàn ông hỏi. “Anh làm ơn đưa chúng tôi đến bệnh viện ngay được không?” không do dự, anh phóng viên chiến trường vội vàng đưa họ lên xe ngồi ở băng ghế phía sau đưa tới bệnh viện. Sau đó vài phút, người đàn ông hối thúc: “Làm ơn chạy mau đi! Cháu vẫn còn sống!” Anh phóng viêng tăng ga, chạy mau hơn. Vài phút sau, người đàn ông lại hối thúc: “Chạy lẹ đi, làm ơn làm phúc mà! Cháu vẫn còn thở!” Anh phóng viên nhấn thêm ga, chạy mau hơn nữa. Tuy nhiên, sau đó, người đàn ông lại hối: “Làm ơn chạy lẹ nữa đi! Cháu vẫn còn ấm!”
Sau cùng, họ đã đậu xe ngay trước cửa bệnh viện. Nhưng em bé gái đã chết! Người đàn ông và anh phóng viên chiến trường cùng đi vào phòng vệ sinh để rửa những vết máu dính trên tay. Người đàn ông nói: “Và bây giờ đến phần khó khăn nhất đây!” “Chuyện gì vậy?” Anh Phóng viên hỏi. “Bây giờ tôi phải đi tìm người cha của em bé gái này để báo cho biết, con gái ông ấy đã chết!” Trong kinh ngạc anh phóng viên nói: “Tôi lại cứ tưởng ông là cha của em gái ấy! Và em gái là con của ông chứ!”
Tất cả chúng ta lại không phải là con cái của Thiên Chúa sao? (1Ga 3:1-2; Rm 8:16-17). Trong tình thương - sự nhân đạo và ơn cứu rỗi – tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa yêu thương như nhau, không thiên vị (1Pr 1:17; Rm 2:11; Cv 10:34; Gl 2:6).
34. Thân phận ngôn sứ--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Có người đã mô tả các ngôn sứ trong Kinh Thánh như những người an ủi những ai phiền não và cũng là những người gây phiền não cho những kẻ giàu sang, tự mãn. Chẳng hạn như ngôn sứ Giêrêmia. Ông sống vào thời kỳ Israel đang bị băng hoại từ bên trong và bị quân đội ngoại bang hùng mạnh đe dọa từ bên ngoài. Tình hình như thế làm cho Giêrêmia hết sức đau xót vì ông yêu tổ quốc và đồng bào mình. Có lẽ vì vậy mà Chúa đã kêu gọi Giêrêmia làm ngôn sứ cho đồng bào của ông. Nhưng lần nào được Chúa kêu gọi, Giêrêmia cũng đáp lại một cách miễn cưỡng, vì ông biết rằng làm ngôn sứ nơi quê hương mình rất là khó khăn. Nhưng rồi Giêrêmia phải giảng, ông tuyên bố thẳng thắn với dân chúng con đường sống còn duy nhất của họ là phải canh tân đời sống, hướng về Chúa và kêu cầu Ngài cứu giúp.
Nghe ông thuyết giảng như thế, đám dân liền nổi giận. Họ lẩm bẩm kêu lên: “Ông nội Giêrêmia nầy dám nghĩ mình là ai mà bày đặt phê phán chúng ta, vì dầu sao chúng ta cũng là đồng bào của ông ấy?”. Tình trạng căm ghét ngày càng dâng cao đến nỗi có lần nhà cầm quyền đã công khai đánh đòn Giêrêmia, lần khác thì cột ông vào trong bao, lần khác nữa thì xô ông vào một đống phân.
Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm được những khó khăn và đau đớn ấy khi lãnh nhận sứ mạng làm ngôn sứ ngay trong xứ sở của Ngài. Ngài đã từng bị bạn bè và láng giềng ruồng rẫy. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những gì đã xảy ra khi Chúa Giêsu lần đầu tiên thuyết giảng nơi quê nhà Ngài, sau khi lãnh nhận phép Rửa từ sông Giođan trở về. Khi Chúa đứng lên tuyên bố với đồng bào đồng hương rằng Thần Khí Chúa ngự xuống trên Ngài và chính Ngài làm ứng nghiệm lời Thánh Kinh, thì lập tức họ cảm thấy khó chịu ngay. Khắp hội đường đều nghi hoặc và dân chúng xầm xì bàn tán với nhau: “Anh ta không phải là con ông Giuse sao? Anh ta chẳng phải là một người nghèo khổ trong làng Nagiareth sao? Anh ta nghĩ mình là ai mà dám tự nhận mình là ngôn sứ? Đâu là bằng chứng cho thấy anh ta là Đấng Thiên Sai chứ không phải là tên mạo nhận?”. Lời xầm xì càng lúc càng lớn và chẳng bao lâu đám dân bắt đầu la lên. Rồi tình hình đột nhiên không thể kiềm chế được nữa. Thánh Luca kể lại trong Tin Mừng như sau: “Dân chúng đứng dậy kéo Chúa Giêsu ra khỏi thành và dẫn Ngài lên đỉnh đồi trong thành phố dự tính xô Ngài lộn đầu xuống dưới. Nhưng Ngài đã bước qua giữa họ và bỏ đi nơi khác”.
Nếu đọc tiếp Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu phải đi tiếp tới tận Giêrusalem. Trên con đường ấy, Ngài sẽ tiếp tục bị người Do Thái xô đẩy. Cuối cùng họ lôi được Ngài lên thập giá trên đồi Golgotha, xô được Ngài xuống mồ. Nhưng Ngài lại chỗi dậy từ trong cõi chết và tiếp tục con đường của Ngài: đem lại ơn cứu độ cho muôn dân. Ngài còn sai các môn đệ tiếp tục con đường của Ngài: đi làm chứng cho Ngài đến tận cùng trái đất.
Bài mô tả của Thánh Luca về những khó khăn đầu tiên Chúa Giêsu gặp phải tại Nagiaret khiến cho người Kitô hữu đang hăng hái phấn khởi bỗng như bị “té cái bịch” xuống đất. Nhưng sau khi suy niệm về kinh nghiệm chua chát đó, chúng ta bỗng nhớ lại những lời phiền não cụ già Simêon đã thốt ra khi Chúa Giêsu được dâng vào đền thánh: “Trẻ nầy… là một dấu chỉ cho người ta chống đối” (Lc 2,34). Lời nói nầy sẽ còn vang đi vọng lại suốt thời kỳ giảng thuyết của Chúa Giêsu. Nếu dân làng Nagiaret từng đòi Chúa Giêsu trưng ra bằng chứng xác minh Ngài là Ngôn sứ thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Israel cũng buộc Ngài chứng minh giáo lý của Ngài là chính thống y như vậy. Nếu dân làng Nagiaret từng tố cáo Chúa Giêsu là kẻ dối trá, là kẻ lộng ngôn phạm thượng thế nào thì bọn Biệt phái cũng thẳng thừng buộc tội Ngài là khí cụ của chính ma quỷ y như thế (x. Mt 12,24). Và nếu dân làng Nagiaret đã từng cố công tìm cách giết Chúa Giêsu vì lời tuyên bố của Ngài như thế nào, thì đám dân thành Giêrusalem cũng hò hét khản cổ: “Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó đi!” y hệt như vậy. Thực sự mà nói, Chúa Giêsu quả là một kẻ bị nhiều người chống đối và khích bác. Lời tiên tri của cụ già Simêon về con trẻ Giêsu sẽ theo sát Đức Giêsu trong suốt cuộc đời dương thế của Ngài.
Cùng với Giêrêmia, Chúa Giêsu đã là gương mẫu cho các sứ giả Tin Mừng hôm nay. Phải luôn luôn ý thức về sứ vụ mang Lời Chúa của mình, biết rõ những khó khăn, thử thách và nguy hiểm sẽ gặp, nhưng vẫn một lòng trung thành hòa tất sứ vụ, liều chết vì sứ vụ Chúa đã trao phó để làm sáng danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Ngay nay sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa vẫn được Giáo Hội tiếp tục thi hành trên khắp thế giới. Biết bao người đã được ơn gọi lãnh lấy sứ vụ đó và đã hân hoan đón nhận, đang thi hành sứ vụ của mình một cách can đảm, nhiệt thành và kiên trì rất đáng thán phục. Họ cũng đang gặp đủ mọi thử thách, chống đối, ghen ghét, hãm hại bởi những người không muốn đón nhận Tin Mừng họ rao giảng. Họ đã sẵn sàng chịu đủ thứ hình khổ và cả cái chết nữa vì sứ vụ chuyển thông Lời Chúa theo gương Đức Kitô. Chúng ta tiếp tục cầu xin Chúa ban sức mạnh tinh thần cũng như thể xác cho họ như Chúa đã ban cho các vị Ngôn sứ, các Tông đồ ngày xưa và cho các vị tử đạo.
Chúng ta cầu xin cách riêng cho những người đã lãnh sứ vụ mang Lời Chúa, vì lý do nầy hay lý do khác mà sợ hãi, muốn tháo lui, muốn nín thinh… biết nhìn vào gương của Giêrêmia, của Đức Giêsu, của các Tông đồ và bao nhiêu người đã và đang hết sức trung thành với sứ vụ của mình trong đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần.
Và chính chúng ta nữa, thưa anh chị em, chúng ta cũng được tham dự vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Kitô khi chúng ta được xức dầu trong Bí tích Rửa Tội, khi chúng ta được trở nên thành phần của Giáo Hội truyền giáo; vì thế chẳng những chúng ta chỉ nghe Lời Chúa, sống Lời Chúa cho mình mà thôi, nhưng còn phải để tâm đem Lời Chúa, những giáo huấn của Lời Chúa, của Giáo Hội đến cho những người chung quanh, nhất là những người trong gia đình, hầu thánh hóa xã hội chúng ta đang sống.
Hạnh phúc của chúng ta là còn đang được nghe Tin Mừng của Chúa qua tiếng nói của các sứ giả Ngài đã chọn và sai đi. Ước chi chúng ta biết mau mắn, chăm chú nghe Lời Chúa, suy nghĩ và đem áp dụng vào đời sống thường nhật. Chớ gì chúng ta biết thay đổi đời sống, biết xây dựng cuộc sống của chúng ta trên nền tảng Lời Chúa, trên giáo huấn của Giáo Hội.
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện nói lên cảm nghĩ của bất cứ ai đã từng cố gắng trung thành bước theo Chúa Giêsu:
“Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa vì đôi khi chúng con bị cám dỗ căm thù đám người ruồng rẫy chúng con.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh của Chúa, vì đôi khi chúng con như muốn ngã lòng trước những cảnh ngộ gai góc.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng dũng cảm, vì đôi khi chúng con như muốn đầu hàng trước nhữn gánh quá nặng đè lên chúng con.
Xin giúp chúng con là muốn ướp mọi người, là đèn soi thế giới. Xin hãy giúp chúng con tỏa sáng như những vì sao trong thế giới tăm tối nầy”. Amen.
35. Đức Giêsu không chỉ đến với dân Do Thái--Lm. Trầm Phúc
Tuần trước chúng ta đã suy nghĩ đến việc Chúa Giêsu rao giảng tại hội đường Nadaret và chỉ nói đến đoạn đầu, hôm nay chúng ta tiếp tục suy nghĩ về phản ứng của dân chúng trước những lời của Chúa Giêsu. Ngài tuyên bố: “Hôm nay ứng nghiệm lời các ngươi vừa nghe”. Chúa Giêsu giải thích đoạn Kinh Thánh đó, nhưng rất tiếc, thánh Luca không ghi lại những gì Ngài giảng mà chỉ kết luận: “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”.
Chúa Giêsu là Lời hằng sống, vì thế lời Ngài nói đều mang một tầm vóc đặc biệt, đánh động người nghe. Không chỉ có Luca mới nói về điều này mà các thánh sử khác cũng ghi lại điều đó. Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền chứ không như những kinh sư.
Lời Ngài xua đuổi ma quỷ khiến mọi người đều kinh ngạc sững sờ. Thánh Gioan kể lại câu chuyện xảy ra trong Đền Thờ: “Các Thượng tế sai một đội lính ra bắt Chúa Giêsu khi Ngài đang giảng ở Đền thờ. Họ tuân lệnh ra đi, nhưng khi họ trở về thì không có Chúa Giêsu. Các Thượng tế hỏi: “Sao các anh không bắt hắn? Họ thưa: “Không ai nói như ông ấy”.
Dân Nadaret cũng thán phục trước những lời giảng dạy của Ngài. Họ ngạc nhiên và tự hỏi sao Ngài lại thông minh như thế? Họ nhìn về thân thế của Ngài. Trước mắt họ, Ngài chỉ là con ông thợ mộc Giuse mà ai cũng biết, nhưng điều đáng ngạc nhiên là họ không thể hiểu tại sao Ngài được như vậy. Ngài sống giữa họ hơn 30 năm, lớn lên làm lụng như mọi người, nghèo nàn chứ có ăn học gì nhiều đâu! Thế mà hôm nay Ngài lại xuất chúng, lỗi lạc như vậy. Nếu họ chấp nhận sự thật như thế thì có chuyện gì phải nói? Nhưng họ lại cứ thắc mắc. Chính Chúa Giêsu giải đáp và vạch trần cho họ thấy họ đang ganh tị với những người khác, những người dân ở Caphacnaum. Ngài đã làm một số phép lạ ở đó, họ cũng muốn được như thế, họ muốn được ưu tiên hơn những người nơi khác vì họ là đồng hương của Ngài.
Con người luôn muốn được ưu tiên. Có lẽ chúng ta không khác gì dân Nadaret bao nhiêu. Hãy nhìn lại chính bản thân chúng ta. Bao giờ chúng ta cũng muốn được người ta chú ý, khen ngợi hay ít ra cũng tán thành, ủng hộ.
Chúa Giêsu không như chúng ta, Ngài luôn sống cho sứ mệnh. Đứng trước những đòi hỏi của dân Nadaret, Ngài xác nhận: “Tôi bảo thật các ông không một ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê hương mình.”
Nói như thế, đương nhiên chứng minh rằng Ngài là ngôn sứ. Thân phận của Ngài cũng như thân phận các ngôn sứ khác là phải bị bách hại, bị từ chối.
Trong lịch sử dân Chúa, các ngôn sứ như Êlia, Amốt, Hôsê, Giêrêmia, nhất là Giêrêmia đã bị dân Do Thái xua đuổi, bách hại. Các ngài phải rên siết, cảm thấy mình bất lực trước sự cứng lòng của dân chúng. Môsê đã từng nói với Chúa: “Có phải con đã cưu mang dân này đâu! Có phải con đã sinh ra nó đâu mà Chúa lại bảo con: Hãy bồng ẵm vào lòng như vú nuôi bồng trẻ thơ! Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con.” Giêrêmia cũng thế, cũng nản lòng đến nỗi ông thối thoát, không còn muốn nói tiên tri nữa. Các tiên tri đã bị giết dưới thời các vua vô đạo như Akháp, Mơnase…
Chúa Giêsu cũng đồng số phận. Trước tiên Ngài bị các đồng hương từ chối, và muốn tiêu diệt Ngài. Tại sao? Vì Ngài luôn đi ngược lại những ước muốn xấu xa của họ.
Chạm trán với sự cứng tin của dân Nadaret, Chúa Giêsu cho họ thấy rằng, họ đã mất tất cả những hồng ân của Chúa cũng như xưa kia, trong thời ngôn sứ Êlia và Êlisa, những người ngoại giáo được cứu giúp, như bà góa thành Xarepta và ông quan Naaman, đang lúc đó những người Do Thái lại không. Vì họ không xứng đáng được hưởng những hồng ân ấy. Chạm tự ái họ phẫn nộ và muốn giết Ngài.
Sau này, thánh Phaolô cũng vậy. Khi ngài rao giảng cho người Do Thái, họ từ chối và ngài phải quay về phía dân ngoại.
Chúng ta có chối từ như thế không? Hãy thành thật với chính mình, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta đã từ chối Chúa rất nhiều vì lười biếng, vì tự ái, vì kiêu căng, vì ham mê thế gian… Chúng ta đã đánh mất nhiều cơ hội có thể giúp chúng ta tiến nhanh hơn trên con đường nên thánh. Chúng ta cứ muốn “ngồi mát, ăn bát vàng”. Chúng ta ngại khó, ngại bỏ ý riêng, ngại con đường hẹp của Chúa. Chúa bảo chúng ta: “Hãy đứng dậy, chúng ta đi thôi”. Không thể nằm lì trong sự chối từ của chúng ta. Có lẽ chúng ta không minh nhiên chối từ lời mời gọi của Chúa, nhưng trong thâm tâm, chúng ta đồng lõa với con người xác thịt.
Chúng ta được gì khi chúng ta sống theo xác thịt? Chúng ta gặt hái được gì khi chúng ta chỉ muốn an nhàn, yên tâm trong lúc Chúa chúng ta bị loại trừ, bị mọi người khinh khi nhạo báng? Chúng ta không thể hạnh phúc khi anh chị em chúng ta đang ngột ngạt trong một thế giới đầy hận thù và tội ác. Hãy can đảm chấp nhận ra đi với Chúa. Chấp nhận thân phận ngôn sứ của chúng ta như Chúa Giêsu của chúng ta. Chúa đang tin tưởng vào chúng ta và giao trách nhiệm cho chúng ta phải cứu vớt anh chị em chúng ta. Người Công giáo là người đã được chọn để làm ngôn sứ, thông phần tính ngôn sứ của Chúa khi đã lãnh nhận bí tích rửa tội. Chúng ta không thể chối từ ơn gọi cao quý đó. Giáo hội cũng đang mời gọi chúng ta trở thành nhân chứng đáng tin trong thế giới hôm nay. (Xem Tự sắc Cửa đức tin,số 14-15).
Hãy sống những gì chúng ta đã lãnh nhận. Hãy yêu thương thật tình. Chúa không đòi hỏi những gì quá sức chúng ta, nhưng Chúa sẽ không bao giờ bỏ quên chúng ta, nếu chúng ta dám quên mình vì người khác. Thế giới càng vô đạo, ơn Chúa càng thúc bách chúng ta. Trách nhiệm chúng ta càng nặng nề, nhưng trong cái nặng nề đó, chúng ta sẽ cảm thấy vui mừng vì Chúa sẽ là niềm vui độc nhất. Chúng ta sẽ gặt hái được Thiên Chúa là phần thưởng vô giá. Các thánh đã kinh nghiệm một cách chính xác điều đó, điều mà thế gian không thể hiểu được.
Hôm nay, chúng ta đã lãnh nhận được phần thưởng rồi khi chúng ta tham dự vào hiến tế này, vì chính Chúa trở thành của ăn cho chúng ta. Còn gì cao quý hơn Chúa Giêsu? Thế mà chúng ta đã có được Ngài trong thân xác hay chết của chúng ta, và như thế chúng ta không cần cái gì khác trên đời này, chúng ta đã có tất cả.
36. Thân phận Ngôn Sứ--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
Tin mừng Lc 4: 21-30 Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những gì đã xảy ra khi Chúa Giêsu lần đầu tiên thuyết giảng nơi quê nhà Ngài, sau khi lãnh nhận phép rửa từ sông Giođan trở về.
Có người đã mô tả các ngôn sứ trong Kinh Thánh như những người an ủi những ai phiền não và cũng là những người gây phiền não cho những ai giàu sang, tự mãn. Chẳng hạn như ngôn sứ Giêrêmia. Ông sống vào thời kỳ Israel đang bị băng hoại từ bên trong và bị quân đội ngoại bang hùng mạnh đe dọa từ bên ngoài. Tình hình như thế làm cho Giêrêmia hết sức đau xót vì ông yêu tổ quốc và đồng bào mình. Có lẽ vì vậy mà Chúa đã kêu gọi Giêrêmia làm ngôn sứ cho đồng bào của ông. Nhưng lần nào được Chúa kêu gọi, Giêrêmia cũng đáp lại một cách miễn cưỡng, vì ông biết rằng làm ngôn sứ nơi quê hương mình rất là khó khăn. Nhưng rồi Giêrêmia cũng phải thuyết giảng, ông tuyên bố thẳng thắn với dân chúng con đường sống còn duy nhất của họ là phải canh tân đời sống, hướng về Chúa và kêu cầu Ngài cứu giúp.
Nghe ông thuyết giảng như thế, đám dân liền nổi giận. Họ lẩm bẩm kêu lên: "Ông nội Giêrêmia nầy dám nghĩ mình là ai mà bày đặt phê phán chúng ta, vì dầu sao chúng ta cũng là đồng bào của ông ấy?". Tình trạng căm ghét ngày càng dâng cao đến nỗi có lần nhà cầm quyền đã công khai đánh đòn Giêrêmia, lần khác thì cột ông vào trong bao, lần khác nữa thì xô ông vào một đống phân.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm được những khó khăn và đau đớn ấy khi lãnh nhận sứ mạng làm ngôn sứ ngay trong xứ sở của Ngài. Ngài đã từng bị bạn bè và láng giềng ruồng rẫy. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những gì đã xảy ra khi Chúa Giêsu lần đầu tiên thuyết giảng nơi quê nhà Ngài, sau khi lãnh nhận phép rửa từ sông Giođan trở về. Khi Chúa đứng lên tuyên bố với đồng bào đồng hương rằng Thần Khí Chúa ngự xuống trên Ngài và chính Ngài làm ứng nghiệm lời Thánh Kinh, thì lập tức họ cảm thấy khó chịu ngay. Khắp hội đường đều nghi hoặc và dân chúng xầm xì bàn tán với nhau: "Anh ta không phải là con ông Giuse sao? Anh ta chẳng phải là một người nghèo khổ trong làng Nagiarét sao? Anh ta nghĩ mình là ai mà dám tự nhận mình là ngôn sứ? Đâu là bằng chứng cho thấy anh ta là Đấng Thiên Sai chứ không phải là tên mạo nhận?". Lời xầm xì càng lúc càng lớn và chẳng bao lâu đám dân bắt đầu la lên. Rồi tình hình đột nhiên không thể kiềm chế được nữa. Thánh Luca kể lại trong Tin Mừng như sau: "Dân chúng đứng dậy kéo Chúa Giêsu ra khỏi thành và dẫn Ngài lên đỉnh đồi trong thành phố dự tính xô Ngài lộn đầu xuống dưới. Nhưng Ngài đã bước qua giữa họ và bỏ đi nơi khác".
Nếu đọc tiếp Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu phải đi tiếp tới tận Giêrusalem. Trên con đường ấy, Ngài sẽ tiếp tục bị người Do Thái xô đẩy. Cuối cùng họ lôi được Ngài lên thập giá trên đồi Golgotha, xô được Ngài xuống mồ. Nhưng Ngài lại chỗi dậy từ trong cõi chết và tiếp tục con đường của Ngài: đem ơn cứu độ cho muôn dân. Ngài còn sai các môn đệ tiếp tục con đường của Ngài: đi làm chứng cho Ngài đến tận cùng trái đất.
Anh chị em thân mến,
Bài mô tả của Thánh Luca về khó khăn đầu tiên Chúa Giêsu gặp phải tại Nagiarét khiến cho người kitô hữu đang hăng hái phấn khởi bỗng như bị "té cái bịch" xuống đất. Nhưng sau khi suy niệm về kinh nghiệm chua chát đó, chúng ta bỗng nhớ lại những lời phiền não cụ già Simêon đã thốt ra khi Chúa Giêsu được dâng vào đền thánh: "Trẻ nầy … là một dấu chỉ cho người ta chống đối" (Lc 2,34). Lời nói nầy sẽ còn vang đi vọng lại suốt thời kỳ giảng thuyết của Chúa Giêsu. Nếu dân làng Nagiarét từng đòi Chúa Giêsu trưng ra bằng chứng xác minh Ngài là Ngôn sứ thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Israel cũng buộc Ngài chứng minh giáo lý của Ngài là chính thống y như vậy. Nếu dân làng Nagiarét từng tố cáo Chúa Giêsu là kẻ dối trá, là kẻ lộng ngôn phạm thượng thế nào thì bọn Biệt phái cũng thẳng thừng buộc tội Ngài là khí cụ của chính ma quỷ y như thế (x.Mt 12,24). Và nếu dân làng Nagiarét từng cố tìm cách giết Chúa Giêsu vì lời tuyên bố của Ngài như thế nào, thì đám dân thành Giêrusalem cũng hò hét khản cổ: "Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó đi!" y hệt như vậy. Thực sự mà nói, Chúa Giêsu quả là một kẻ bị nhiều người chống đối và khích bác. Lời tiên tri của cụ già Simêon về con trẻ Giêsu sẽ theo sát Đức Giêsu trong suốt cuộc đời dương thế của Ngài.
Cùng với Giêrêmia, Chúa Giêsu đã là gương mẫu cho các sứ giả Tin Mừng hôm nay. Phải luôn luôn ý thức về sứ vụ mang Lời Chúa của mình, biết rõ những khó khăn, thử thách và nguy hiểm sẽ gặp, nhưng vẫn một lòng trung thành hoàn tất sứ vụ, liều chết vì sứ vụ Chúa đã trao phó để làm sáng danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Ngày nay sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa vẫn được Giáo Hội tiếp tục thi hành trên khắp thế giới. Biết bao người đã được ơn gọi lãnh lấy sứ vụ đó và đã hân hoan đón nhận, đang thi hành sứ vụ của mình một cách can đảm, nhiệt thành và kiên trì rất đáng thán phục. Họ cũng đang gặp đủ mọi thử thách, chống đối, ghen ghét, hãm hại bởi những người không muốn đón nhận Tin Mừng họ rao giảng. Họ đã sẵn sàng chịu đủ thứ hình khổ và cả cái chết nữa vì sứ vụ chuyển thông Lời Chúa theo gương Đức Kitô. Chúng ta tiếp tục cầu xin Chúa ban sức mạnh tinh thần cũng như thể xác cho họ như Chúa đã ban cho các vị Ngôn sứ, các Tông đồ ngày xưa và cho các vị tử đạo.
Chúng ta cầu xin cách riêng cho những người đã lãnh sứ vụ mang Lời Chúa, vì lý do nầy hay lý do khác mà sợ hãi, muốn tháo lui, muốn nín thinh… biết nhìn vào gương của Giêrêmia, của Đức Giêsu, của các Tông đồ và bao nhiêu người đã và đang hết sức trung thành với sứ vụ của mình trong đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần.
Và chính chúng ta nữa, thưa anh chị em, chúng ta cũng được tham dự vào sứ vụ ngôn sứ của Đức Kitô khi chúng ta được xức dầu trong Bí tích Rửa Tội, khi chúng ta được trở nên thành phần của Giáo Hội truyền giáo; vì thế chẳng những chúng ta chỉ nghe Lời Chúa, sống Lời Chúa cho mình mà thôi, nhưng còn phải để tâm đem Lời Chúa, những giáo huấn của Lời Chúa, của Giáo Hội đến cho những người chung quanh, nhất là những người trong gia đình, hầu thánh hóa xã hội.
Hạnh phúc của chúng ta là còn đang được nghe Tin Mừng của Chúa qua tiếng nói của các sứ giả Ngài đã chọn và sai đi. Ước chi chúng ta biết mau mắn, chăm chú nghe Lời Chúa, suy nghĩ và đem áp dụng vào đời sống thường nhật. Chớ gì chúng ta biết thay đổi đời sống, biết xây dựng cuộc sống của chúng ta trên nền tảng Lời Chúa, trên giáo huấn của Giáo Hội.
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện nói lên cảm nghĩ của bất cứ ai đã từng cố gắng trung thành bước theo Chúa Giêsu:
"Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa, vì đôi khi chúng con bị cám dỗ căm thù đám người ruồng rẫy chúng con.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh của Chúa, vì đôi khi chúng con như muốn ngã lòng trước những cảnh ngộ gai góc.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng dũng cảm, vì đôi khi chúng con như muốn đầu hàng trước những gánh quá nặng đè lên chúng con.
Xin giúp chúng con là muối ướp mọi người, là đèn soi thế giới. Xin hãy giúp chúng con tỏa sáng như những vì sao trong thế giới tăm tối nầy". Amen.
37. Trở về quê hương--Lm. John Nguyễn Tươi
Quê hương… mỗi người đều có
Vừa khi mở mắt chào đời
Quê hương …là dòng sữa mẹ
Thơm thơm giọt xuống bên nôi
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ...
Sẽ không lớn nổi thành người.
(Quê Hương- Đỗ Trung Quân)
Trong trái tim của mỗi người, quê hương được gắn liền với tuổi thơ, với tình yêu thương con người. Khi đi xa quê hương, thì lòng người càng thêm nhớ thương. Nhớ về cha mẹ, nhớ anh chị em, nhớ những người thân quen trong tình làng nghĩa xóm, nhớ những người bạn cũ một thời cắp sách đến trường. Quê hương được ví như dòng sữa mẹ nuôi dưỡng đời con. Quê hương được khắc ghi trong trái tim của mỗi con người. Quê hương nếu ai không nhớ, thì sẽ không lớn nổi thành người. Đọc lại bài thơ quê hương, nó đã gợi lại cho tôi nhiều kỷ niệm của tuổi thơ nơi tôi được sinh ra và lớn lên. Càng xa quê hương thì lòng càng thêm nhớ thương. Dù đi đến đâu thì lòng tôi vẫn muốn trở về thăm lại mái nhà xưa.
Trong hành trình đi rao giảng khắp nơi, Chúa Giê-su cũng tranh thủ trở về quê hương Nazaret, nơi Ngài đã được dưỡng dục và lớn lên. Chúa Giêsu vào Hội đường, Ngài đọc và giảng dạy Kinh Thánh cho dân chúng: "Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Mọi người đều kinh ngạc và thán phục về giáo huấn của Ngài. Chúa Giê-su dùng từ "hôm nay" có nghĩa là hiện tại ngay bây giờ quý vị vừa nghe. Nó không phải là ngày mai hay là tương lai mà là ngày hôm nay. Lời Chúa phải được ứng nghiệm trong chính tâm hồn mọi người. Nhưng chúng ta phải biết mở rộng con tim, thì Lời Chúa mới có thể gieo vào, lớn lên và sống được. Giống như hạt lúa được gieo vào mảnh đất tốt, nó sẽ đơm hoa kết trái.
Tuy nhiên, có những kẻ nghe Lời Chúa, nhưng họ còn mang nặng thành kiến, vì do lối sống của họ đi ngược lại với đường lối của Thiên Chúa, nên họ tìm cách chống đối, phủ nhận và không muốn nghe Lời Chúa. Chẳng ai xa lạ, họ là những người đồng hương của Chúa Giê-su. Họ nói rằng: "Người này không phải là con ông bác thợ mộc sao?". Hóa ra bụt nhà không thiêng là vậy. Cho dù, Chúa Giê-su đã làm nhiều phép lạ chữa lành bệnh tật cho nhiều người để cho họ nhận ra ơn cứu độ và quyền năng của Thiên Chúa. Thế nhưng, họ đã từ chối đón nhận ơn thánh, mà đáng lẽ họ được ân hưởng.
Chúa Giê-su đã thấu hiểu cõi lòng của họ, Ngài nói tiếp: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình". Thật là đau lòng. Chúa Giê-su yêu quê hương da diết, muốn trở về để chia sẻ và ban ân phúc cho những người đồng hương và cho mảnh đất quê hương, mà Ngài gắn bó như ruột thịt máu mủ. Ấy thế mà họ đã phủ nhận và không đón tiếp với những gì Chúa Giê-su giảng dạy và làm cho họ. Vì lòng ganh tỵ, ích kỷ và thành kiến, họ không còn nghĩ đến những gì Ngài đã làm cho họ. Họ cắt đứt mối dây liên kết tình đồng hương, và cũng không chấp nhận sự thật hay biến cố đã xẩy ra tại quê hương mình. Họ nói: Người ấy không phải là con bác thợ mộc sao? Hoàn cảnh của ông ta có gì hơn người khác đâu! Một gia đình nghèo nàn, đơn sơ trong cái làng này.
Hơn nữa, điều làm cho chúng ta đáng suy nghĩ trong đoạn cuối của bài Tin mừng hôm nay, khi Chúa Giê-su chỉ cho họ biết lý do tại sao các phép lạ chỉ xẩy ra cho các người dân ngoại Ca-phác-na-um trong thời các tiên tri, mà không thực hiện cho những người Itrael. Lời nói này đã đụng chạm đến lòng tự ái dân tộc, vì họ luôn tự cho mình là một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn. Họ tự cho mình đạo đức thánh thiện hơn người nên họ đã phẫn nộ, trục xuất Chúa Giê-su ra khỏi thành. Họ dẫn Ngài lên núi để xô Ngài xuống vực thẳm cho chết. Nhưng Ngài rẽ qua giữa họ mà đi. Thật là phủ phàng.
Cuộc trở về quê hương của Chúa Giê-su đã thất bại. Ngài đã bị người đồng hương xua đuổi, coi thường, khinh dễ. Điều Chúa Giê-su muốn nói với đám đông không phải là coi thường họ, hay bình phẩm về lối sống đạo hình thức giả tạo bên ngoài của họ, nhưng Ngài muốn chỉ cho họ thấy rằng, ơn cứu độ của Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho dân Itrael mà còn cho những người dân ngoại nữa. Sự cứu rỗi không tùy thuộc vào công việc họ đã làm, mà chính là ân sủng và nhờ lòng tin mà họ được ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đó là ân huệ lớn lao của Thiên Chúa ban cho. Ơn cứu độ được mở ra cho tất cả mọi người và ơn thánh đó cần được ứng ngiệm trong cuộc sống mỗi người chúng ta hôm nay.
Mỗi ngày là một cuộc trở về. Trở về với gia đình. Trở về với chính mình. Trở về với căn tính của mình. Trở về với Thiên Chúa của mình. Trở về để biết mình đang đi về đâu. Mỗi người chúng ta có thể đi nhiều nơi, nhưng quê hương mỗi người chỉ một. Đó là quê hương trên trời, mà mỗi người chúng ta mong đợi khi kết thúc hành trình trên trần gian này. Thế gian là quán trọ dừng chân, để cho ta bước về quê hương vĩnh cửu. Chỉ có quê hương của Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta mới là quê hương thật. Nếu chúng ta không nhớ thì không thể lớn thành người con dân của nước Thiên Chúa.
Ước gì, Lời Chúa hôm nay được ứng nghiệm trong mỗi người chúng con. Amen.
38. Được kêu gọi trở nên những vì sao--Lm. Mark Link, SJ
Chủ đề: "Chúng ta được kêu gọi trở nên những vì sao chiếu sáng trong cõi trần u ám này"
Có người đã mô tả các tiên tri trong Kinh Thánh như những người an ủi những ai phiền não, và cũng là người gây phiền não cho những ai giầu sang, tự mãn. Chẳng hạn như tiên tri Giêrêmia. Vị tiên tri này sống vào thời kỳ Isael đang bị băng hoại từ bên trong. Và bị quân đội ngoại bang hùng mạnh đe doạ từ bên ngoài. Tình hình như thế làm cho Giêrêmia hết sức đau xót vì Ngài yêu mến tổ quốc và đồng bào mình. Có lẽ vì thế mà Chúa đã kêu gọi Giêrêmia làm ngôn sứ cho bạn hữu và láng giềng của ông.
Nhưng lần nào được Chúa kêu gọi, Giêrêmia cũng đáp lại một cách hết sức miễn cưỡng, vì ông biết rằng làm tiên tri nơi quê hương mình rất là khó khăn. Nhưng rồi Giêrêmia cũng phải thuyết giảng, ông tuyên bố thẳng thắn với dân chúng con đường sống còn duy nhất của họ là phải canh tân đời sống hướng về Chúa và kêu cầu Ngài cứu giúp.
Nghe ông giảng thuyết như thế, đám dân liền nổi giận. Họ lầm bầm kêu: "Ông nội Giêrêmia này dám nghĩ mình là ai mà bày đặt phê phán chúng ta, vì dầu sao chúng ta cũng là đồng bào của ông ấy?" Tình trạng căm ghét này càng dâng cao đến nỗi có lần nhà cầm quyền đã công khai đánh đòn ông, lần khác thì cột ông vào trong bao, lần khác nữa thì xô ông vào một đống phân.
Chúa Giêsu cũng đã cảm nghiệm được những khó khăn và đau đớn ấy khi lãnh nhận sứ mệnh làm tiên tri ngay trong xứ sở của Ngài. Ngài đã từng bị bạn bè láng giềng ruồng rẫy. Chẳng hạn bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy những gì đã xảy ra khi Chúa Giêsu lần đầu thuyết giảng nơi quê nhà Ngài, sau khi lãnh nhận phép rửa từ sông Giodan trở về. Khi Chúa đứng lên tuyên bố với bạn bè và láng giềng rằng: "Thần Khí Chúa ngự xuống trên Ngài và chính Ngài làm ứng nghiệm lời Thánh Kinh", thì lập tức họ cảm thấy khó chịu ngay. Khắp hội đường đều nghi hoặc và dân chúng xầm xì bàn tán với nhau: "Anh ta không phải là con ông Giuse sao? Anh ta nghĩ mình là ai mà dám tự nhận mình là tiên tri? Đâu là bằng chứng cho thấy anh ta là Đấng Thiên Sai chứ không phải là tên mạo nhận?". Lời xầm xì càng lúc càng lớn và chẳng bao lâu đám dân chúng bắt đầu la lên. Rồi tình hình đột nhiên không thể kiềm chế được nữa. Thánh Luca kể lại trong Phúc Âm như sau: "Dân chúng đứng dậy kéo Chúa Giêsu ra khỏi thành và dẫn Ngài lên đỉnh đồi trong thành phố dự tính xô Ngài lộn đầu xuống dưới. Nhưng Ngài bước qua giữa họ và bỏ đi chỗ khác" (Lc 4: 29-30)
Bài mô tả của thánh Luca về khó khăn đầu tiên Chúa Giêsu gặp phải tại Nagiarét khiến cho người Kitô hữu đang hăng hái phấn khởi bỗng như bị "té cái bịch" xuống đất. Nhưng sau khi suy niệm về Kinh nghiệm chua chát đó, chúng ta bỗng nhớ lại những lời phiền não cụ già Simeon đã thốt ra khi Chúa Giêsu được dâng vào đền thánh "Trẻ này… là một dấu chỉ cho người ta chống đối" (Lc 2:34). Lời nói này sẽ còn vang đi vọng lại suốt thời kỳ giảng thuyết của Chúa Giêsu. Nếu dân làng Nagiaret từng đòi Chúa Giêsu trưng ra bằng cớ xác minh Ngài là tiên tri thế nào, thì các nhà lãnh đạo tôn giáo Irsael cũng buộc Ngài chứng minh giáo lý của Ngài là chính thống y như vậy (Mc 2: 18). Nếu dân làng Nagiaret từng tố cáo Chúa Giêsu là kẻ dối trá, là kẻ lộng ngôn phạm thượng thế nào thì bọn biệt phái cũng thẳng thừng buộc tội Ngài là khí cụ của chính ma quỉ y thế ấy (Mt 12:24). Và nếu dân làng Nagiaret từng cố tìm cách giết Chúa Giêsu vì lời tuyên bố của Ngài như thế nào, thì đám dân thành Giêrusalem cũng hò hét khản cổ: "Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó đi!" y hệt như vậy. Thực sự mà nói, Chúa Giêsu quả là một kẻ bị nhiều người chống đối và khích bác. Lời tiên báo của cụ già Simeon về con trẻ Giêsu sẽ theo sát Đức Giêsu trong suốt cuộc đời dương thế Ngài.
Làm sao áp dụng những điều nói trên vào cuộc sống của chúng ta? Chính Chúa Giêsu đã từng nêu gương cho chúng ta trước. Ngài từng bảo các môn đệ: "Nếu thế gian ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Ta trước… Đầy tớ không lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Ta thì họ cũng sẽ bắt bớ các con" (Ga 15:18-20). Bất cứ ai cố gắng sống đúng là Kitô hữu sẽ hiểu được những lời nói trên chân thực thế nào. Chúng ta thử xét trường hợp những thanh niên đang học trung học hay đại học. Cách đây không lâu, trong đám thanh niên có một số cảm nhận được những điều Chúa Giêsu đang đề cập đến. Chúng ta hãy hỏi họ xem điều gì đã xảy đến cho họ khi họ cố gắng thật thà trong cuộc thi đang khi bạn bè xung quanh gian lận? Điều gì đã xảy đến cho họ khi họ cố gắng giữ mình đúng đắn trong một buổi tiệc vui, đang khi chung quanh họ lũ bạn đang "quậy" tứ tung? Điều gì đã xảy ra cho họ khi họ lên tiếng chống lại việc phá thai trong khi những người xung quanh họ lên tiếng ủng hộ việc ấy? Điều gì đã xảy ra cho họ khi họ tuyên bố chống nạn kỳ thị chủng tộc, đang khi quanh họ người ta đang tìm cách tiêu diệt cá tính của những dân tộc thiểu sổ? Điều gì đã xảy ra cho những thanh niên này thì cũng xảy ra tương tự cho những người lớn tuổi hơn. Quả thế, nhiều lúc chúng ta đã từng bị ruồng bỏ và bắt bớ vì niềm tin của chúng ta.
Tuy nhiên chúng ta không nên vì thế mà từ bỏ lối sống lương thiện và trong sạch. Không nên vì thế mà từ chối không dám bảo vệ quyền lợi trẻ em và nhóm người thiểu số. Lý do thật rõ ràng là vì Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ trong bài giảng trên núi: "Các con là muối đất… Các con là ánh sáng thế gian… Người ta không đốt đèn rồi đặt dưới đáy thùng nhưng đặt nó trên giá đèn… Cũng thế, ánh sáng của các con phải toả sáng trước mọi người để họ trông thấy việc thiện các con làm và ngợi khen Cha các con ở trên trời" (Mt 5:13-15).
Chúng ta là Kitô hữu được kêu gọi làm tiên tri của Chúa Cha cho thời đại chúng ta, cũng như Chúa Giêsu từng là tiên tri của Chúa Cha cho thời đại của Ngài. Đây chính là sứ vụ mà chúng ta lãnh nhận khi chịu phép rửa tội và thêm sức. Chúng ta hãy lập lại lời thánh Phaolô; "Người Kitô hữu chúng ta được Chúa kêu gọi để toả sáng như các vì sao giữa lòng thế giới tăm tối này" (Pl 2:15)
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện nói lên cảm nghĩ của bất cứ ai đã từng cố gắng trung thành bước theo Chúa Giêsu.
"Lạy Chúa xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa, vì đôi khi chúng con bị cám dỗ căm thù đám người ruồng rẫy chúng con.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh của Chúa. Vì đôi khi chúng con như muốn ngã lòng trước những cảnh ngộ gai góc.
Lạy Chúa xin ban cho chúng con lòng dũng cảm vì đôi khi chúng con như muốn đầu hàng trước những gánh nặng đè lên chúng con.
Xin giúp chúng con là muối ướp mọi người, là đèn soi thế giới. Xin hãy giúp chúng con toả sáng như những vì sao trong thế giới tăm tối này. Amen".
39. Chúa Giêsu Kitô, vị thầy thuốc cao tay đầy lòng thương xót--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nếu như Chúa nhật thứ Ba Mùa Thường niên, Đức Giêsu đã thực hiện lời ngôn sứ đã loan báo về mình, thì bước vào Chúa nhật thứ Bốn Mùa Thường niên, Chúa Giêsu tiếp tục thi hành sứ vụ Thiên sai. Ngài dạy dỗ chúng ta những Mối Phúc tuyệt vời mà chúng ta cần phải sống mỗi ngày để đạt được hạnh phúc thật là Nước Trời (Phụng vụ Năm A). Ngài chữa lành những người bị quỉ ám (Phụng vụ Năm B), nhưng Lời Ngài là Chân lý, nên được lan truyền khắp mọi nơi một cách nhanh chóng, khiến cho những người mù sáng mắt, người què đi được, người điếc nghe được, nói chung là vui mừng sung sướng; mọi người đều...thán phục Người; các thần ô uế phải vâng lệnh, nhưng ngược lại, những người Do thái đầy căm phẫn, chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm " (Lc 4, 29) (Phụng vụ Năm C).
* Phụng vụ Lời Chúa Năm A
- Soph 2, 3; 3, 12-13: Thiên Chúa muốn một dân tộc khiêm tốn, nhỏ bé và nghèo hèn
- Tv 146, 7: Phúc thay ai có lòng khó nghèo, vì Nước Trời là của họ
- 1 Cr 1, 26-31: Những điều Chúa chọn
- Mt 5, 1-12a: Bài giảng trên núi: Tám Mối Phúc
* Phụng vụ Lời Chúa Năm B
- Đnl 18, 15-20: Môisen loan báo vị tiên tri trong thời sắp tới
- Tv 95, 1: Hôm nay, các ngươi đừng cứng lòng nữa
- 1 Cr 7, 32-35: Sự trinh trong đối với Thiên Chúa
- Mc 1, 21-28: Đức Giêsu rao giảng và chữa lành người bị quỉ ám
* Phụng vụ Lời Chúa Năm C
- Gr 1, 4-5;17-19: "Ta sẽ làm cho ngươi trở thành tiên tri của nhiều dân tộc"
- Tv 71, 5: Tới muôn đời, tôi sẽ loan báo sự chiến thắng và ơn cứu độ của Người.
- 1 Cr 12, 31 à 13, 13: Bài ca Đức Aí
- Lc 4, 21-30: Sứ mạng phổ quát của Chúa Giêsu
Về điều này, thánh Augustinô (354-430), Giám mục thành Hippôn (Bắc Phi), tiến sĩ Hội Thánh đã chủ giải như sau:
Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.
Một thầy thuốc cao tay là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta đã đến giữa chúng ta. Ngài đã rẽ ngang qua cuộc đời của mỗi chúng ta để làm cho chúng ta được khỏe mạnh. Đức Giêsu đã đến, và Ngài thấy hội chứng mù lòa trong lòng nhân loại, Ngài liền hứa trao ban sự sáng cho chúng ta được thấy, thật đúng là: “Những điều mắt chẳng hề thấy, tai không hề nghe, và đã không hề nảy lên nơi lòng một người phàm”. ( 1Cr 2, 9).
Thiên Chúa, Thầy thuốc đến để chữa bệnh gì cho nhân loại? Ngài đã dùng phương thuốc nào? Ngài đến để chữa nhiều thứ bệnh, trong đó có bệnh kiêu ngạo. Phương thuốc chữa trị cho căn bệnh kiêu ngạo là sự khiêm của Đức Giêsu Kitô. Một vị thầy thuốc tôn trọng bệnh nhân khi chữa trị cho các bệnh nhân, với phương thuốc: Hãy học cùng Người vì Người là Thiên Chúa khiêm nhường trong lòng, như Ngài mời gọi ta. Thật vậy, Ngài biết rằng phương thuốc để chữa lành bệnh tật của ta là sự khiêm nhường. Người biết rõ căn nguyên của bệnh tật và bốc đúng liều lượng để chữa trị. Trong thực tế, người bệnh là chúng ta không thể chạy đến cùng thầy thuốc, vậy mà đích thân thầy thuốc đã đến nhà chúng ta, Ngài đến cứu giúp ta, vì Ngài biết điều chúng ta cần.
Thiên Chúa đã đến với con người trong sự khiêm nhường, để con người có thể noi gương bắt chước Thiên Chúa. Ngài vẫn ở trên cao, làm thế nào để ta có thể bắt chước Ngài được? Và, nếu không bắt chước được, thì làm sao con người có thể được chữa lành? Ngài đến trong sự khiêm nhường, vì Ngài biết rõ tính tự nhiên của một thầy thuốc là phải túc trực thường xuyên bên người bệnh: thuốc có đắng, mới chữa được bệnh. Còn con người, con người tiếp tục nhạo báng Ngài, tay cầm chén, và nói: "Lạy Thiên Chúa của con, Ngài là Đấng nào? Ngài được sinh ra, Ngài đã chịu khổ hình, chịu đội mạo gai, bị đóng đanh và chịu chết trên cây thập giá! Ôi, tâm hồn sầu khổ! Ta chứng kiến sự khiêm tốn của thầy thuốc, mà lại không thấy được căn bệnh ung thư kiêu ngạo tiềm ẩn trong ta, đó là lý do tại sao ta không thích sự khiêm nhường.
Thường thì kẻ mặc bệnh tâm thần mới đánh lại bác sĩ khi bác sĩ đang chữa trị bệnh tật cho mình. Trong trường hợp này, bác sĩ đầy lòng thương xót không chỉ không tức giận chống lại người đánh, nhưng bác sĩ còn sẽ cố gắng để chữa bệnh cho người ốm. Bác sĩ của chúng ta là Đức Giêsu Kitô, Ngài không sợ bị giết bởi bệnh nhân điên rồ: Ngài đã làm cho cái chết của mình trở nên thần dược chữa lành họ, Ngài đã chết và đã sống lại.
Như thế, Đức Giêsu, Chúa chúng ta đã không cứu chúng ta bằng cách làm phép lạ, nhưng bằng việc loan báo Tin Mừng, từ bỏ và hy sinh mạng sống cho chúng ta. Chính lập trường của Đức Giêsu củng cố niềm tin của chúng ta. Người chính là Đấng Mêsia đích thực của Thiên Chúa, một Đấng Mêsia không vận dụng quyền lực mình để thực hiện một hoàn cảnh cứu độ trần thế, nhưng đặt tại trung tâm sứ điệp về Thiên Chúa. Ngài đã chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền của chúng ta bằng liều thuốc khiêm nhường, để khi chúng ta sống trong một hoàn cảnh khó khăn, cùng quẫn, ta có thể khiêm nhường đặt trọn niềm tin nơi Ngài, bởi vì chính Ngài sẽ ban cho chúng ta ơn cứu độ vẹn toàn.
40. Chúa Giêsu không được chấp nhận--‘Tin Mừng Chúa Nhật’
Sau khi đã sai nhóm Mười Hai đi từng hai người để thực tập việc tông đồ tại miền quê xứ Galilê, Đức Giêsu một mình trở về thăm Nagiarét, nơi mà Ngài đã được nuôi dưỡng và lớn lên trong mái ấm gia đình dứoi sự chăm sóc của mẹ Maria và thánh Giuse. Sau khi làm cho cô bé con ông Giairô viên trưởng hội đường sống lại, Ngài dừng chân tại Ca-phác-na-um. Các môn đệ đi theo Ngài ít ngày đầu, nhưng sau đó, một mình Ngài trở về thăm quê, và tới dự một buổi thờ phựơng nhằm ngày sabat. Được mời lên tiếng, Ngài có cơ hội đưa ra một thông điệp quan trọng.
Các khán giả nghe Ngài với nỗi kinh ngạc. Họ không thể nào chống lại vẻ dịu dàng của bài giảng, hoặc chối bỏ vẻ quyến rũ của lời Ngài nói, nhưng họ cũng không thể chấp nhận lời tuyên bố của Ngài. Họ biểu lộ lòng không tin bằng một câu hỏi: “Hẳn không phải là con ông Giuse sao?” Ý họ muốn nói: “Đây không phải là người lân cận với chúng ta, một người thợ mộc mà chúng ta đều quen biết, chúng ta đã không biết bản thân anh ta và cả gia đình anh ta sao? Chắc chắn anh ta không thể là Đấng Mêsia được!”
Câu trả lời của Chúa Giêsu ngụ ý nói sở dĩ họ không nhận Ngài, vì Ngài không làm trước mặt họ những phép là mà Ngài đã làm ở nơi khác. Khi Ngài trích dẫn câu tục ngữ: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình” là Ngài có ý nói: “Hãy chứng thực lời tuyên bố của anh ở đây như anh đã làm ở các nơi khác. Nếu anh muốn chúng tôi nhận anh là Đấng Kitô.” Chúa cũng trích dẫn một câu tục ngữ khác cắt nghĩa đầy đủ hơn về mối nghi ngờ ghen ghét của họ: “Không có ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê hương mình.” Những kẻ quá quen thuộc với những bậc vĩ nhân thường không thể nhận biết được sự vĩ đại của họ. “Quen quá hóa lờn” (Bụt nhà không thiêng) vì người ta có khuynh hướng phán đoán kẻ khác theo tiêu chuẩn giả dối, theo hình thức bên ngoài, vì người ta không hiểu biết những kẻ mà họ tưởng họ từng quen biết hơn cả. Chính những nhận xét nông cạn này đã làm tài hại cho đời sống ngày nay. Nó khiến ta không nhận thức được giá trị của bạn hữu, của cơ hội để khi biết được thì quá trễ. Chính cái đó đã có một ảnh hưởng bi đát trên chức vụ của Chúa Giêsu, có người chối bỏ Ngài vì những lý do hết sức nông cạn và điên rồ, tưởng rằng họ đã biết Ngài vì đã quen thuộc với tên Ngài từ lâu, trong khi trên thực tế họ không thể hiểu được vẻ đẹp của nhân vị Ngài và quyền năng hối cải của ân điển Ngài.
Thái độ của khán giả biến thành tức giận khi Chúa Giêsu lấy hai thí dụ trong Cựu ước, cả hai câu đều ám chỉ rằng dầu người đồng hương của Ngài biết rõ về Ngài hơn hết, nhưng họ vẫn không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi do chức vụ của Ngài đem lại hơn những người ngoại bang. Ngài tự ví sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã đem ơn phúc lớn cho người ở Siđon và Êlisê cho người ở Syri, trong khi dân Israel vẫn không nhận được ơn vì lòng họ cứng cỏi. Như vậy các dân tộc trên thế giới sẽ nhận được ơn phúc cho Chúa Cứu Thế mang lại trong khi những kẻ quen biết Ngài lại phải khổ sở vì không tin. Họ đâu có chịu nổi lời quở trách nghiêm khắc ấy, điều làm họ tức giận là Ngài khen tụng dân ngoại. Người Do thái vẫn đinh ninh rằng chỉ có họ là dân của Thiên Chúa, cho nên họ xem khinh các dân tộc khác. Họ tin rằng “Chúa đã dựng nên các dân ngoại để làm chất đốt cho lửa hỏa ngục”. Thế mà giờ đây chàng thanh niên Giêsu này, người mà hết thảy họ đều biết, lại giảng như thể dân ngoại được Thiên Chúa ưu đãi, họ nổi xung lên đuổi Ngài ra khỏi thành và toan làm hại mạng sống Ngài.
Ngay từ khi mới sinh ra, Đức Giêsu nhận được một định mệnh “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng.” (Lc 2,34), lời tiên tri ấy nay đã thành sự thật.
Hẳn thật, sau khi đã suy gẫm lâu dài về cuộc đời Thầy mình, Gioan tông đồ đã phải đưa ra một nhận định cay đắng: “Ngài đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận!” (Ga 1,11). Việc xảy ra thật đáng buồn nhất cho Chúa Giêsu là người giàu tình cảm đối với quê hương xứ sở. Đáng lẽ họ phải mở rộng vòng tay đón tiếp Ngài, đáng lẽ Ngài được tiếp rước như một người đi xa trở về, người đã làm mở mày mở mặt cho quê hương xứ sở. Nhưng Ngài đã bị chối bỏ.
Bài học của Nagiarét đây vẫn luôn được lặp lại, nhiều người có cơ hội để biết Chúa lại chối bỏ Ngài, nhưng nơi nào có đức tin thì những tấm lòng tan vỡ được hàn gắn như thời Êlia, và những người phong sẽ được lành mạnh như Na-a-man nhờ lời của Êlisê. Vậy trong khung cảnh nhà hội Nagiarét, Chúa Giêsu đã nói, chẳng những về ơn lành của chức vụ Ngài mà còn về quyền năng phổ thông của chức vụ ấy nữa. Ngài đến để thỏa mãn những nhu cầu của nhân loại trong cả thế gian.
Jelana là một trong sáu em đã được phúc nhìn thấy Đức Mẹ trong suốt mười tám năm, và được đích thân Đức Mẹ dạy dỗ, một lần có người hỏi cô về số phận của những người theo đạo Công giáo, cô kể lại lời Đức Mẹ dạy: “Có lần Đức Mẹ cho biết có một phụ nữ đang sống ở Mễ Du, bà ấy đã gần đạt tới sự thánh thiện. Các thị nhân hỏi tên bà ấy, Đức Mẹ trả lời: bà ấy là một người Hồi giáo. Nghe câu trả lời ấy, các thị nhân sửng sốt hỏi lại: sao lại thế được. Đức Mẹ trả lời: “Chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán về những điều ấy.” Sau đó Đức Mẹ giải thích: “Các con hãy nói cho mọi người biết là chính các con tự chia rẽ nhau ở trần gian. Người Hồi giáo và Chính thống giáo cũng một thể như người Công giáo, đều bình đẳng với nhau trước Con Mẹ và Mẹ. Các con hết thảy đều là con cái Mẹ. Thật ra mọi tôn giáo không phải đều bằng nhau, nhưng hết mọi người đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Không phải cứ thuộc về Giáo Hội Công giáo là đủ để được cứu rỗi… Những người không Công giáo không phải là những thọ tạo kém hơn đâu. Họ cũng được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được định phần chung là cuộc sống trong nhà Thiên Chúa, Cha chúng ta. Ơn cứu độ được cống hiến cho hết mọi người không trừ ai. Chúa Giêsu Con mẹ đã cứu chuộc toàn thể nhân loại trên địa cầu. Chỉ những ai từ chối Thiên Chúa một cách cố tình thì bị kết án, do bởi sự lựa chọn của chính họ.
41. Khước từ vì ghen tương--R. Gutzwiller
Theo sau Lời Chúa Giêsu giải thích là một hồi thinh lặng. Cử toạ nói với nhau, trao đổi cảm tưởng. Trước hết đây là một sự lôi cuốn pha lẫn vui mừng, rồi lần lần có nhiều tiếng nói khác nổi lên, trước tiên là tiếng của các luật sĩ có mặt trong buổi họp ấy. Bầu khí từ từ đổi thay, rồi biến đổi hẳn. Phần thứ hai trong hoạt cảnh này diễn biến theo một chiều hướng hoàn toàn ngược hẳn.
Nếu truy tầm lý do tại sao có sự thay đổi này, ta sẽ thấy phần nào cách suy tư, lời nói và con người Đức Giêsu làm cho dân chúng Nagiarét bị chưng hửng đối với ý tưởng họ sẵn có về Đức Messia và sứ mạng của Ngài. Con người của Ngài không am hợp với những gì họ tưởng tượng. Ngài cũng giống như bất cứ ai trong họ; chẳng có gì tỏ ra là người thiên thai cả. Ở đây Ngài cũng chẳng thực hiện phép lạ nào trước mặt họ. Rồi sứ điệp của Ngài cũng chẳng nói lên những điều họ đang thực sự ước ao: bởi lẽ Ngài không loan báo cho họ một cuộc sống thế trần tiện nghi thoải mái, cũng không loan báo một nước Israel hùng cường vĩ đại. Chắc chắn họ mong chờ nơi Chúa Giêsu những gì Ngài đã từ khước khi bị cám dỗ trong sa mạc: bánh, sự lạ và quyền thế. Thế nhưng Ngài lại mang đến Lời Chúa, mang đến một nước Thiên Chúa tuy đơn sơ nhưng thật là vĩ đại. Các tiến sĩ luật mớm những chuyện đó cho dân chúng và làm thay đổi bầu không khí.
Hơn nữa, Ngài đã thực hiện những phép lạ ở chỗ khác, trước hết là ở là ở Caphanaum chứ không làm ở Nagiarét nơi họ cư ngụ; điều đó đụng chạm đến lòng ái quốc quá khích của họ khiến họ nói: ‘Thày lang ơi! Hãy chữa lấy mình. Mọi điều chúng tôi đã nghe xảy ra ở Caphanaum, thì ông hãy làm ở nơi quê hương ông đây nữa đi!’ Chúa Giêsu trả lời: ‘Không có tiên tri nào được sùng mộ ở quê hương mình’, Ngài không chút nhượng bộ lòng ái quốc sai lầm của họ. Ngài không theo họ hướng dẫn, chính họ mới phải theo sự chỉ đạo của Ngài.
Ngài đi xa hơn nữa và cho họ thấy rằng việc họ được thuộc về dân Thiên Chúa tuyển chọn không hẳn là bảo đảm được cứu độ, chỉ có những tâm hồn biết chuẩn bị mới nhận được chứ không phải là những liên hệ máu mủ.
Xưa tiên tri Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp một người ngoại bang: vì bà goá Sarepta thuộc xứ Siđon này đã tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu ông. Rồi Naaman, người Syria cũng thế, ông đến với tiên tri Êlisêô và được chữa lành, còn những người đồng quê với tiên tri lại luôn cản mũi kỳ đà. Vậy hai người của Thiên Chúa đó đã đủ để cho thấy rằng cứ là người Israel mà thôi không đủ; người ta chỉ có thể lãnh nhận ơn cứu độ bằng một con tim ngay thẳng và một tinh thần chân thành.
Dân cư Nagiarét đã hiểu được lời đe doạ. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu tỏ cho họ thấy rằng Ngài không theo cùng một lối suy tưởng như họ, không cùng hy vọng như họ và họ cần thay đổi não trạng. Nhưng họ lại không chịu, thế nên mới có sự thù địch giữa Ngài với họ.
Nhiệt tình ban đầu dựa trên tình cảm bỗng dưng đổi thành ghen ghét. Họ biết rõ Chúa đòi hỏi phải hoán cải, nhưng họ lại không muốn quay lại. Như thế là họ đã xua đuổi Ngài và ồn ào giận dữ, họ đuổi Ngài ra khỏi hội đường đến cuối làng để rồi xô Ngài từ trên triền đá xuống. Nhưng Ngài đi qua giữa họ mà họ chẳng thể hại được Ngài. Ngài ra đi để chẳng bao giờ trở lại Nagiarét nữa.
Đối với chúng ta, việc Ngài từ bỏ ngôi làng nơi Ngài lớn lên là một sơ thảo về những biến cố sẽ xảy ra trong tương lai: bị dân riêng khai trừ, từ nay Ngài đi về phía các dân ngoại.
Sự thay đổi bất ưng và thiếu suy nghĩ, việc biến thương yêu ra hận thù, tán dương thành bài xích ấy đáng cho ta suy nghĩ. Tự bản chất, Kitô giáo khơi dậy nơi những ai không thành kiến một sự hấp dẫn tự phát, bởi vì Tin mừng trả lời cho những vấn nạn thâm sâu nhất của con người và đáp lại nỗi thất vong thầm kín nhất của tâm hồn. Nhưng rõ ràng con người lại tiếp nhận với tất cả định kiến. Họ xét đoán theo mặt trái, nông cạn, dựa trên những thiên kiến đã được hấp thụ qua nền giáo dục. Họ quan niệm ơn cứu chuộc, trợ giúp theo cách thế của họ, kẻ theo chiều hướng coi trọng vật chất, ngưới lại theo xu hướng chính trị hay xã hội. Họ không có ý nghe để hấp thụ mà để biện minh cho những gì họ tưởng nghĩ hay mong ước. Họ lấy phán đoán cá nhân họ để đo lường Lời Chúa.
Nếu Lời Chúa không am hợp với những tư tưởng và ước muốn của họ thì họ liền kết án và khu trừ. Họ không muốn để mình được điều gì khác cân đo, nhưng muốn mình là khuôn là thước cho chính mình; họ không muốn cái gì khác thẩm định họ, nhưng muốn tự phán xét chính bản thân mình.
Bối cảnh đã xảy ra ở Nagiarét vẫn không ngừng tiếp diễn. Trong lần xuất hiện đầu tiên này, Chúa Giêsu khuyên bảo và cảnh giác. Mặc kệ tất cả, Ngài cứ bước đi giữa họ, đến với người khác, điều đó có nghĩa là sự bài xích chẳng thể làm gì được Ngài, nhưng sẽ trở lại chính họ. Chúa Giêsu sẽ đi xa, chính khi con người không muốn tiếp nhận Ngài. Khi họ ghét Ngài, thì Ngài đem tình thương đi chỗ khác; khi họ có ý giết Ngài thì Ngài vẫn không ngừng trao ban sự sống. Họ bị huỷ diệt, còn Ngài vẫn tiến bước đi.
42. Loại trừ Chúa Giêsu chăng?
Đây là một trang dễ sợ. Trang này bắt đầu bằng một phản ứng đúng ra là đầy cảm tình: “họ thán phục các lời về ân sủng xuất bởi miệng Ngài”. Nhưng kết thúc bằng sự bạo động: “mọi người trong hội đường đầy lòng tức tối; đứng dậy họ đuổi Ngài ra ngoài thành”.
Loại trừ Chúa Giêsu! Loại bỏ Đấng là những cánh tay của Thiên Chúa rộng mở để tiếp đón tất cả mọi người. Thật là dễ sợ! Điều này không thể xảy đến với chúng ta.
Chúng ta hãy hy vọng điều đó, nhưng Tin Mừng cần phải luôn báo động cho chúng ta. Tại sao những người Nagiarét đi từ khâm phục đến căm ghét?
Chúa Giêsu đã phải cảm thấy những thái độ ngập ngừng mạnh hơn trong bài Tin Mừng này và Ngài không ngần ngại rút ra những hệ quả từ đó: những ơn cứu độ mà ta vừa mang lại cho các ngươi, những người khác sẽ nhận lãnh, như xưa kia bà goá người Phênixi và người cùi Syri là những người được nhậm lời chứ không phải người Do thái.
Việc mở rộng cho dân ngoại xúc phạm đến người Do thái. Họ không còn có thể tin vào người này nữa. Trong suốt các thế kỷ, người ta sẽ loại trừ Chúa Giêsu vì những lý do khác nữa nhưng nền tảng của tất cả những sự loại trừ này sẽ có chính sự từ chối cơ bản được gợi ra đây do sự bối rối của thính giả: “Không phải ông ấy là con bác Giuse sao?”; đây chỉ là con trai của Giuse mà thôi. Những người nghĩ rằng Chúa Giêsu chỉ là một con người mà thôi, mặc dầu họ khâm phục Ngài nhiều, họ vẫn không thể gán cho Ngài trong tư tưởng và trong cuộc sống của họ vị trí to lớn mà Ngài đòi hỏi. Họ chấp nhận con người, họ loại trừ Con Thiên Chúa.
Lại một lần nữa đây không phải là trường hợp của chúng ta hay sao? Không, nhưng chúng ta phải coi chừng một số loại trừ âm ỉ hơn thế nữa. Trước tiên có một cách để sát nhập Chúa Giêsu vào các ý nghĩ của chúng ta hoặc vào môi trường của chúng ta, mà môi trường này tương đương với việc từ chối tinh thần của Ngài và do đó từ chối chính Ngài. Chúng ta hãy xác minh chẳng hạn như những ngập ngừng của chúng ta và có thể là những giận dữ của chúng ta trước những cởi mở của Giáo Hội, của Giám mục này, của linh mục nọ. “Tốt hơn hết là chăm sóc các Kitô hữu tốt”. Mỗi lần chúng ta hạn hẹp món quà cứu độ là chúng ta loại trừ Chúa Giêsu.
Tôi cũng gặp những tín hữu sẵn sàng chấp nhận Chúa Giêsu mà không suy xét tỉ mỉ, bao lâu cuộc sống của họ yên ả. Nhưng một biến cố nào đó đã đặt họ trước một sự bó buộc của Tin Mừng là điều đối với họ dường như không thể chấp nhận được đến độ họ thốt lên sự từ chối: “Ngài không thể yêu cầu tôi làm điều này!”. Họ loại bỏ Chúa Giêsu ‘ra ngoài thành’, ra ngoài cuộc sống của họ. Không có gì ngao ngán cho bằng thấy biết bao niềm tin và thậm chí một cuộc đời trung thành lâu dài chuyển đổi thành sự không biết, sự bỏ rơi, sự căm ghét. Tôi nghĩ rằng phải rất thận trọng trong việc chọn lựa trong Tin Mừng điều hợp và điều không hợp với chúng ta: chúng ta có nguy cơ chuẩn bị trong một góc nào đó của con tim chúng ta sự loại trừ Chúa Giêsu.
“Ngài đã ngang qua giữa họ mà đi”. Chúa Giêsu đi qua với những lời mời gọi và những dâng hiến của Ngài. Nói chung, nói vâng với Ngài là điều rất dễ. Tin Mừng không phải được viết ra cho những người xuất chúng, mà là cho những người bé mọn. Dầu sao nếu điều này trở nên khó hơn, chúng ta đừng buông Đấng duy nhất “có lời ban sự sống đời đời”. Ngài đi con đường của Ngài, hướng về những người khác có niềm tin và lòng can đảm hơn.
43. “Người nhà đã không tiếp nhận Ngài”
Sau khi đã sai nhóm Mười Hai đi từng hai người để thực tập việc tông đồ tại miền quê xứ Galilê, Chúa Giêsu trở về thăm Nagiarét, nơi mà Ngài đã được nuôi dưỡng và lớn lên trong mái ấm gia đình dưới sự chăm sóc của Mẹ Maria và thánh Giuse. Sau khi làm cho cô bé con ông Giairô viên trưởng hội đường sống lại, Ngài dừng chân tại Capharnaum. Các môn đệ đi theo Ngài ít ngày đầu, nhưng sau đó, một mình Ngài trở về thăm quê, và dự một buổi thờ phượng nhằm ngày sabát. Được mời lên tiếng, Ngài có cơ hội đưa ra một thông điệp quan trọng.
Các khán giả nghe Ngài với nỗi kinh ngạc. Họ không thể nào chống lại vẻ dịu dàng của bài giảng, hoặc chối bỏ vẻ quyến rũ của lời Ngài nói, nhưng họ cũng không thể chấp nhận lời tuyên bố của Ngài. Họ biểu lộ thái độ không tin bằng một câu hỏi: “Không phải ông ấy là con bác Giuse sao?”. Ý họ muốn nói: “Đây không phải là người thân cận với chúng ta, một người thợ mộc mà chúng ta đều quen biết, chúng ta đã không biết bản thân anh ta và cả gia đình anh ta sao? Chắc chắn anh ta không thể là Đấng Messia được!”.
Câu trả lời của Chúa Giêsu ngụ ý nói sở dĩ họ không nhận Ngài, vì Ngài không làm trước mặt họ những phép lạ mà Ngài đã làm ở nơi khác. Khi Ngài trích dẫn câu tục ngữ: “Thầy lang ơi! hãy chữa lấy mình!” là Ngài có ý nói: “Hãy chứng thực lời tuyên bố của anh ở đây như anh đã làm ở các nơi khác, nếu anh muốn chúng tôi nhận anh là Đấng Kitô”. Chúa cũng trích dẫn câu tục ngữ khác cắt nghĩa đầy đủ hơn về mối nghi ngờ ghen ghét của họ: “Không có tiên tri nào được sủng mộ nơi quê quán mình!". Những kẻ quá quen thuộc với những bậc vĩ nhân thường không thể nhận biết được sự vĩ đại của các vĩ nhân đó. “Quen quá hoá lờn” (Bụt nhà không thiêng) vì người ta có khuynh hướng phán đoán kẻ khác theo tiêu chuẩn giả dối, theo hình thức bên ngoài, vì người ta không hiểu biết những kẻ mà họ tưởng họ từng quen biết hơn cả. Chính những nhận xét nông cạn này đã làm tàn hại cho đời sống ngày nay. Nó khiến ta không nhận thức được giá trị của bạn hữu, của cơ hội để khi biết được thì quá trễ. Chính cái đó đã có một ảnh hưởng bi đát trên sứ vụ của Chúa Giêsu. Người ta chối bỏ Ngài vì những lý do hết sức nông cạn và điên rồ. Họ tưởng rằng họ đã biết Ngài vì đã quen thuộc với tên Ngài từ lâu, trong khi thực tế họ không thể hiểu được vẻ đẹp của nhân vị Ngài và quyền năng của Ngài.
Thái độ của khán giả trở thành tức giận khi Chúa Giêsu lấy hai thí dụ trong Cựu Ước, cả hai đều ám chỉ rằng dầu người đồng hương của Ngài biết rõ về Ngài, nhưng họ vẫn không xứng đáng hưởng ơn sủng do chức vụ của Ngài đem lại hơn những người ngoại. Ngài tự sánh ví mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã đem ân phúc lớn cho người ở Siđon và Êlisê cho người ở Syri, trong khi dân Israel vẫn không nhận được ơn vì lòng họ cứng cỏi. Như vậy, các dân tộc trên thế giới sẽ nhận được ân phúc do Chúa Cứu Thế mang lại trong khi những kẻ quen biết Ngài lại phải khổ sở vì không tin. Họ đâu có chịu nổi lời quở trách nghiêm khắc ấy. Điều làm họ tức giận là Ngài khen tụng dân ngoại. Người Do thái vẫn đinh ninh rằng chỉ có mình họ là dân của Thiên Chúa, cho nên họ khinh thường các dân tộc khác. Họ tin rằng “Chúa đã dựng nên các dân ngoại để làm chất đốt cho lửa hoả ngục”. Thế mà giờ đây, chàng thanh niên Giêsu này, người mà hết thảy họ đều biết, lại giảng như thể dân ngoại được Thiên Chúa ưu đãi. Họ nổi xung lên, đuổi Chúa Giêsu ra khỏi thành và toan làm hại mạng sống Ngài.
Ngay từ khi mới sinh ra, Chúa Giêsu nhận được một định mệnh “Ngài có mệnh làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy trong Israel, và làm dấu gợi lên chống đối” (Lc 2,34), lời tiên tri ấy nay đã thành sự thật.
Hẳn thật, sau khi đã suy gẫm lâu dài về cuộc đời Thầy mình, thánh Gioan tông đồ đã phải đưa ra một nhận định cay đắng: “Ngài đã đến nơi nhà của Ngài, mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài” (Ga 1,11). Việc xảy ra thật đáng buồn nhất là cho Chúa Giêsu là người giàu tình cảm đối với quê hương xứ sở. Đáng lẽ họ phải mở rộng vòng tay đón tiếp Ngài, đáng lẽ Ngài được tiếp rước như một người đi xa trở về, người đã làm nở mày nở mặt cho quê hương xứ sở. Nhưng Ngài đã bị chối bỏ.
Bài học của Nagiarét đây vẫn luôn được lập lại, nhiều người có cơ hội để biết Chúa lại chối bỏ Ngài, nhưng nơi nào có đức tin thì những tấm lòng tan vỡ được hàn gắn như thời Êlia, và những người phong sẽ được lành mạnh như Naaman nhờ lời của Êlisê. Vậy trong khung cảnh nhà hội Nagiarét, Chúa Giêsu đã nói, chẳng những về ơn lành của chức vụ Ngài mà còn về quyền năng phổ quát của chức vụ ấy nữa. Ngài đến để thoả mãn những nhu cầu của nhân loại trong cả thế gian.
Jelana là một trong sáu em đã được phúc nhìn thấy Đức Mẹ trong suốt mười tám năm, và được Đức Mẹ đích thân dạy dỗ, có lần có người hỏi cô về số phận của những người theo đạo Công giáo, cô kể lại lời Đức Mẹ dạy: “Có lần Đức Mẹ cho biết có một phụ nữ đang sống ở Mễ Du, bà ấy đã gần đạt tới sự thánh thiện. Các thị nhân hỏi tên bà ấy, Đức Mẹ trả lời: bà ấy là một người Hồi Giáo. Nghe câu trả lời ấy, các thị nhân sửng sốt hỏi lại: sao lại thế được. Đức Mẹ trả lời: “Chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán về những điều ấy”. Sau đó Đức Mẹ giải thích: “Các con hãy nói cho mọi người biết là chính các con tự chia rẽ nhau ở trần gian. Người Hồi Giáo và Chính Thống Giáo cũng một thể như người Công Giáo, đều bình đẳng với nhau trước Con Mẹ và Mẹ. Các con hết thảy đều là con cái Mẹ. Thật ra mọi tôn giáo không phải đều bằng nhau, nhưng hết mọi người đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Không phải cứ thuộc về Giáo Hội Công Giáo là đủ để được cứu rỗi … Những người không Công Giáo không phải là những thụ tạo kém hơn đâu. Họ cũng được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được định phần chung cuộc là sống trong nhà Thiên Chúa, Cha chúng ta. Ơn cứu độ được cống hiến cho hết mọi người không trừ ai. Chúa Giêsu Con Mẹ đã cứu chuộc toàn thể nhân loại trên địa cầu. Chỉ những ai từ chối Thiên Chúa một cách cố tình thì bị kết án, do bởi sự lựa chọn của chính họ.
44. Con cái trong nhà
Đọc lại Kinh thánh, chúng ta thấy Thiên Chúa đã xác quyết:
- Tư tưởng và đường nẻo của Ta không giống với tư tưởng và đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo của Ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo của các ngươi bấy nhiêu.
Thực vậy, trong cuộc sống chúng ta thường yêu thương những người thân cận và đặc biệt là con cái trong nhà. Còn Thiên Chúa thì chưa hẳn đã là như vậy, bởi vì Ngài vừa là Đấng giàu lòng thương xót, lại vừa là Đấng rất mực công bằng và ngay thẳng.
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra hai trường hợp để chứng minh sự thật trên.
Trường hợp thứ nhất, đó là là khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng dưới thời tiên tri Elia khiến cho các dân nước lâm vào cảnh đói kém. Lúc bấy giờ trong Israel không thiếu gì những bà góa, thế nhưng Thiên Chúa không sai tiên tri Elia đến giúp cho một bà góa nào cả, mà chỉ sai đến giúp cho bà góa tại Sarepta mà thôi.
Trường hợp thứ hai đó là dưới thời tiên tri Elisê, trong dân Israel không thiếu gì những người phong cùi, thế nhưng chẳng một ai trong bọn họ được tiên tri Elisê chữa lành, mà chỉ có một mình tướng Naaman, người Syria mà thôi.
Từ đó, chúng ta có thể kết luận:
- Không phải cứ là người Do Thái, không phải cứ là người thuộc về dân riêng của Chúa thì sẽ được Chúa yêu thương và chúc phúc.
Sự thật này còn được chứng tỏ rất nhiều lần trong Phúc âm. Thực vậy, rất nhiều lần Chúa đã lên tiếng khen ngợi lòng tin của những người ngoại giáo và Ngài còn xác quyết mạnh mẽ hơn nữa khi nói:
- Những kẻ tội lỗi, thu thuế và gái điếm sẽ được vào Nước Trời, còn con cái trong nhà thì sẽ bị đuổi ra ngoài.
Đoạn Tin mừng hôm nay cũng cho thấy: Chúa Giêsu đã không làm một phép lạ nào cho dân làng Nagiarét, những người thân cận và đồng hương với Ngài, như đã từng làm ở những nơi khác, chỉ vì họ cứng lòng tin.
Vì thế, không phải cứ là bà con họ hàng với Chúa mà dành được từ những ưu đãi này đến những ưu đãi khác. Chính Chúa Giêsu có lần cũng đã nói:
- Thiên Chúa có thể biến những hòn đá này trở nên con cháu Abraham.
Lần khác Ngài cũng đã xác quyết:
- Mẹ Ta và anh em Ta chính là những người biết lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.
Với chúng ta cũng vậy. Chúng ta vốn tự hào vì mình là người đạo dòng, đạo gốc. Chúng ta vốn hãnh diện vì mình đã được lãnh nhận bí tích Rửa tội cũng như đã tin vào Chúa từ hồi còn tấm bé. Và chúng ta yên trí rằng: chắc chắn mình sẽ được cứu rỗi.
Nếu quả thực đã nghĩ như vậy, thì chúng ta đã lầm to. Có tên trong sổ sách của giáo xứ, có giấy chứng nhận đã chịu phép Rửa tội mà thôi cũng chưa chắc là sẽ chiếm lấy được phần thưởng Nước Trời, bởi vì trong ngày sau hết rất có thể con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài.
Bởi đó, cách thức bảo đảm nhất để chiếm lấy niềm hạnh phúc vĩnh cửu, đó là hãy tuân giữ lời Chúa, hãy thực thi những điều Ngài truyền dạy, nhất là giới luật yêu thương, như Ngài đã từng nói:
- Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con yêu thương nhau.
45. Nguyên nhân Đức Giêsu bị khước từ tại quê hương--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Ở đời, người ta vẫn thường nói: “Bụt nhà không thiêng”, để nói lên thái độ khinh thường những gì là gần gũi. Nguyên nhân dẫn đến thái độ trên chính là do thói kiêu ngạo, tự mãn...
Thật vậy, kiêu ngạo là đầu mối sinh ra mọi giống tội.
Trong lịch sử cứu độ, chúng ta thấy rất nhiều thái độ kiêu ngạo đã từng xảy ra. Chẳng hạn như:
Lucifer đã muốn ngang bằng Thiên Chúa; Adam và Eva đã chống lại lệnh truyền của Người (x St 3, 1-20). Dân chúng muốn xây tháp Babel chọc trời...(x. St 11, 1-9).
Tuy nhiên, những điều tưởng chừng như thay thế Thiên Chúa, thì lại là mối họa cho con người, bởi lẽ nó được khởi xướng từ Ma Quỷ, qua thái độ kiêu ngạo.
Vì thế, không lạ gì, khi con người kiêu ngạo với Thiên Chúa, thì đương nhiêu họ cũng khước từ anh chị em đồng loại và có nguy cơ giết chết đời sống tâm linh, đánh mất đức tin và không đón nhận được nguồn sống từ Thiên Chúa. Suốt ngày, họ chỉ quay quắt với chính mình, và không chừng đánh mất luôn chính bản thân!
Như vậy, sự kiêu ngạo là con đường không thể đến với Thiên Chúa, ngược lại, nó dẫn đưa kẻ tự mãn đến hố diệt vong.
Đây chính là khinh nghiệm từ tạo thiên lập địa và đến muôn đời sau cho tất cả mọi người Kitô hữu.
Vì kiêu ngạo nên họ không chấp nhận Đức Giêsu
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu bị đồng hương khước từ. Nguyên nhân cũng không là gì khác, đó chính là sự kiêu ngạo của người đồng hương.
Vì kiêu ngạo, nên trước mặt họ, Đức Giêsu chỉ là người bình thường nếu không muốn nói là tầm thường. Vì thế, mắt họ mờ đi và lương tâm trở nên trai cứng. Những dấu lạ điềm thiêng nơi Đức Giêsu đã không làm họ rung động và thay đổi đời sống, ngược lại, trước mặt họ: “Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao?”.
Tại sao vậy? Thưa sự kiêu ngạo đã là đó ngáng chỗ và lòng kiêu căng đã chiếm mất chỗ của Chúa trong cuộc đời của họ.
Trước thái độ trên, Đức Giêsu đã tuyên bố một câu mà muôn đời vẫn giữ nguyên giá trị: Đó là: “Tiên tri không bao giờ được tôn trọng trên chính quê hương mình”.
Qủa đúng như vậy, vì xét theo lẽ tự nhiên, một con người dù tài giỏi đến đâu, làm việc hiệu quả thế nào, và thành đạt trên nhiều lãnh vực hay nhiều nơi đi nữa, thì khi trở về gia đình, quê hương, họ luôn bị chính những người thân cận, làng xóm coi ở mức độ “thường thường bậc chung” vì lối suy nghĩ thiển cận, nên: “Gần chùa gọi bụt bằng anh”.
Điều này Đức Giêsu đã trải qua khi Ngài trở về quê hương của mình!
Chính vì sự coi thường này đã khiến cho ơn cứu độ của Thiên Chúa vuột mất khỏi họ, và suốt bao thế kỷ, họ vẫn đang chờ đợi một Đấng Kitô khác chứ không phải Đức Giêsu, Đấng đã hiện diện giữa họ cách đây hơn 2.000 năm.
Thực trạng kiêu ngạo của con người hôm nay
Thực trạng ấy nơi những người đồng hương với Đức Giêsu khi xưa, hôm nay vẫn còn đây đó nơi chúng ta, vì: thói ích kỷ, kỳ thị, chấp nhất, định kiến, ác cảm, nên ta hay giam người anh chị em mình trong quá khứ và không bao giờ cho họ cơ hội để mở ra một tương lai tốt đẹp hơn...
Lý do họ không nhìn anh chị em mình dưới lăng kính màu hồng, mà toàn màu đen, bởi mắt họ đang đeo cặp kính râm của sự kiêu ngạo! Vì thế, lối suy nghĩ nông cạn, vu vơ và trống rỗng đã dẫn đến việc đánh giá, đối xử lệch lạc và thiếu công bằng cũng như bất nhân. Quả đúng là: “Yêu ai thì nói quá ưa – Ghét ai nói thiếu nói thừa như không”.
Những người nông nổi như vậy, họ đâu có hiểu được rằng: “Sông có khúc, người có lúc”.
Thật vậy, có người bị coi là không tốt, đồ bỏ, vứt đi ở chỗ này, nhưng họ lại được nhiều người coi trọng và kính nể ở một nơi khác... Còn có nhiều người được xem là nhẹ nhàng, tao nhã, lịch thiệp chốn quan trường, ngoài xã hội, nhưng khi về đến gia đình, họ lại là kẻ bất nhân, vô liêm sỉ với gia đình. Mở miệng ra là quát tháo, chửi bới nên “thượng thẳng tay, hạ thẳng chân” với người thân. Họ thuộc hạng “khôn nhà dại chợ”; “làm phúc nơi nao để cầu ao rách nát”;... hay có những người ăn nói ngọt như đường mía lau, nhưng thực ra họ thuộc dạng: “Đội trên, đạp dưới” nên tâm địa bỉ ổi, xấu xa chẳng khác gì kẻ: “Miệng thì thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay vừa nhắc nhở, vừa mời gọi chúng ta ý thức sứ mạng tiên tri cũng như lối sống và cách thức loan báo Tin Mừng!
Trước tiên, sứ mạng tiên tri được trao ban cho chúng ta ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Sứ mạng ấy càng thôi thúc mãnh liệt khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức.
Vì thế, mỗi người phải có trách nhiệm loan báo Lời Chúa, thi hành sứ mạng ở mọi nơi, mọi lúc, dù: “Thuận tiện hay không thuận tiện”; được ủng hộ hay chống đối, được đón nhận hay bị khước từ... được tôn vinh hay giết chết... Mặt khác, khi thi hành sứ vụ, chúng ta không thể chọn lựa theo ý mình, mà phải nói và làm điều Thiên Chúa muốn một cách trung thành (x. 1Cr 9,15-16); không được giả hình và bóp méo Lời Chúa (x. 2Cr 11,10; 13,8).
Thứ đến, khi thi hành sứ vụ, cần nhớ nằm lòng câu nói của Đức Giêsu: “Không tiên tri nào được kính trọng nơi quê hương mình”.
Bởi vì làm tiên tri không phải là chuyện đơn giản, mà là: “Vô cùng phong nhiêu”, phúc tạp! Vì Lời Chúa một đàng là lời tình yêu, nhưng một đàng là lời cật vấn lương tâm, vạch trần tội ác, bất công, gian dối, hình thức... nên: “Nếu thế gian ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Thầy trước … Đầy tớ không lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con” (Ga 15,18-20).
Thật vậy, sứ mạng tiên tri đòi chúng ta chấp nhận lội ngược dòng, không thể sống theo phong trào hay “hiệu ứng đám đông”. Đôi khi chấp nhận điên vì sứ vụ, khùng Tin Mừng, khi dám nói lên tiếng nói công lý, công bằng ngay tại những nơi nguy hiểm như: sòng bài, quán rượu, quán karaokê…, nơi những con người đang “quậy” tứ tung hay “điên cuồng” trong những cuộc chơi bất chính...
Khi lựa chọn như thế, sự lẻ loi, cô lập và chống đối hay phải thí mạng là lẽ đương nhiên!
Mong sao, sứ mạng và số phận tiên tri của Đức Giêsu trong thời của Ngài, cũng là của chúng ta trong thời đại hôm nay.
Ước gì vì: “Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” là lựa chọn của mỗi người Kitô hữu, vì: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta” nên chúng ta “được Chúa kêu gọi để tỏa sáng như các vì sao giữa lòng thế giới tối tăm này” (Pl 2,15).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tình yêu của Chúa, để chúng con yêu cả những người thù ghét mình. Xin ban sức mạnh của Chúa, để chúng con can đảm, vững bước trên con đường thi hành sứ vụ.
Xin cho chúng con mặc lấy lòng bao dung, nhân hậu của Chúa, để chúng con đón nhận anh chị em chúng con trong tình Chúa và tình người. Amen.
46. Giáo Hội không biên giới--Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Đoạn Phúc âm tuần này tiếp nối sự kiện Đức Giêsu trở về Galilê, như là cứ điểm xuất phát đầu tiên cho chương trình cứu thế của Ngài.
Galilê, miền bắc của nước Palestine, có kích thước khoảng 50 dặm từ bắc xuống nam và 25 dặm từ đông sang tây. Danh xưng Galilê tự nó, trong tiếng Do thái, có nghĩa là vòng tròn. Vùng đất này được đặt tên như thế là vì vây quanh nó toàn là dân ngoại. Đã có thời các sử gia ghi nhận Galilê có đến 204 ngôi làng, với số dân trong mỗi làng không dưới 15 ngàn người. Vị chi có tới 3 triệu người từng cư ngụ chen chúc nhau nơi đây.
Galilê còn là vùng đất màu mỡ phì nhiêu. Văn học dân gian Do thái từng ví “Trồng một rừng cây ôliu ở Galilê còn dễ hơn nuôi một đứa bé ở Giuđêa.” Khí hậu tươi mát và nguồn nước ngọt phong phú từ hồ Tibêria đã biến Galilê thành vườn cây thiên nhiên trù phú của Palestine.
Riêng người dân Galilê thì được mô tả là “rất có óc sáng tạo, hay canh tân đổi mới, và rất thích dấy động. Họ sẵn sàng đi theo bất kỳ người nào dám đứng lên lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa. Dân Galilê dễ nổi nóng và ưa tranh biện. Họ không thiếu can đảm, nhưng bao giờ cũng lưu tâm đến danh dự hơn vật chất bên ngoài.”
Đó là những nét đặc thù của Galilê, “cứ điểm cứu thế”. Đức Kitô đã bắt đầu sứ vụ từ đó, trong một hội đường của người Do thái.
Hội đường là trung tâm sinh hoạt tôn giáo. Theo qui định, bất cứ nơi đâu có 10 gia đình Do thái trở lên, chỗ đó phải có một hội đường cho vấn đề phụng tự. Việc giảng dạy được thực thi trong các hội đường, còn việc sát tế súc vật để dâng lên Thiên Chúa thì được cử hành tại Đền thờ Giêrusalem.
Chính trong một hội đường nơi làng Nazaret mà Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ cứu thế, bằng một bản tuyên ngôn hùng hồn: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, ban bố ân xá cho kẻ tù đày, cho người đui mù được xem thấy, kẻ bị áp bức được giải oan, và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4:18-19).
Có lẽ bản tuyên ngôn trên không có gì mới lạ đối với dân Do thái. Không chừng họ còn nghe nằm lòng. Chắc chắn đã vài ba lần, những người được vinh dự công bố sách Luật và các Tiên tri đã đọc cho họ nghe lời tiên báo trên đây. Nó được trích trong sách tiên tri Isaiah, chương 61, nói về Đấng Cứu Thế.
Nhưng điều lạ lùng đến sinh ra bối rối kinh ngạc nơi người Do thái là vì sau khi đọc lên đoạn ấy, Đức Giêsu gấp sách lại, dõng dạc tuyên bố với cử toạ: “Hôm nay, lời Kinh thánh các ngươi vừa nghe đã ứng nghiệm” (Lc 4:21).
“Ôi! Đã ứng nghiệm rồi sao lời tiên báo của các tiên tri về Đấng Cứu Thế? Phải chăng niềm an ủi của Israel, nỗi trông chờ trải bao thế kỷ đã thành sự trước mắt chúng ta? Nhưng sao lại như thế được? Chàng Giêsu này thì ai mà không biết. Chàng đã sống giữa chúng ta. Từng giúp đỡ chúng ta chuyện này việc kia. Mới đây tự nhiên chàng bỏ làng ra đi. Không biết đi đâu. Nhưng tin đồn thì cứ đổ về làng. Nào là chàng đã làm phép lạ hoá rượu ra hàng mấy trăm lít bên làng Cana. Nào là chàng đã trừ ma diệt quỉ, chữa lành người bệnh bên làng Caphanaum. Bây giờ trở về cố hương, chàng lại tự xưng là Messiah-Đấng Cứu Thế. Chà, sao mà nghe chói tai quá,” có lẽ người Do thái xì xào bàn tán với nhau như vậy.
Thế rồi tiếng xì xào lớn dần thành lời hằn học: “Tại sao hắn lại không làm những sự cả thể thế kia nơi đây mà lại trổ tài nơi khác. Người nhà bao giờ cũng phải được ưu tiên hơn chứ…. Nhưng kìa, tại sao hắn lại nói cái gì về chuyện Êlia cứu giúp bà goá tại Sarepta trong thời kỳ hạn hán và Êlisê chữa lành cho Naaman người Syria, khi ông này bị bịnh phung cùi. Mà mấy kẻ đó đâu có phải là dân Do thái. Họ là những người ngoại, những người đáng bị kinh tởm. Ấy thế mà họ lại được ưu tiên cứu chữa mới tức chứ… Còn tên Giêsu này, nghề ngỗng thì có gì đặc biệt đâu. Anh ta không làm vài phép lạ cho bà con đồng hương xem chơi đã đành, lại còn nhắc đến mấy cái chuyện chạm tự ái dân tộc thế kia thì chịu sao nỗi.” Thế là họ đồng loạt xông lên, căm tức vô bờ, nhất tề tống xuất Đức Giêsu ra khỏi hội đường. Kinh khiếp hơn, họ còn muốn đẩy ngài xuống chân núi cho chết.
Thế mới hay lòng tự ái và ích kỷ của con người thật khủng khiếp, chỉ mong đẩy kẻ khác đi đến cái chết! Nhưng Đức Giêsu không chấp nhận thái độ ích kỷ và cục bộ đó. Tin mừng Nước Trời, niềm vui ơn cứu độ không thể giới hạn trong một làng hay một dân tộc nào, nhưng tin mừng và niềm vui đó phải được phổ quát đến tất cả mọi nước mọi dân.
Như lời tiên tri của Isaia đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu thế nào, thì lời của ngôn sứ Giêrêmia cũng thành sự nơi Ngài như vậy: “Thiên Chúa phán cùng tôi rằng; Trước khi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi. Ta đã đặt ngươi làm tiên tri cho các dân tộc” (Grr 1:4-5).
Không phải chỉ nơi dân tộc Israel mới có người “nghèo khó” cần cứu giúp, người “tù đày” cần tự do, người “đui mù” muốn nhìn chân lý, kẻ bị “áp bức” cần được minh oan, nhưng là khắp mọi nơi. Tin Mừng của “năm hồng ân” phải vượt khỏi ranh giới Nazaret, vươn ra ngoài biên cương Galilê và Palestine, đến cùng các dân tộc và mọi tâm hồn.
Thế nên, bao lâu mà người Kitô hữu vẫn chỉ lưu lại trong cái nhìn cục bộ, lo tìm tư lợi hơn là mưu cầu ích chung, đòi hỏi ơn riêng thay vì rộng tay ban phúc, chắc chắn “Chúa phải băng ngang giữa họ mà đi” (Lc 4:30). Vì đạo Chúa phải là đạo Công giáo, đạo cho mọi người.
47. Nói tốt
Khi Đức Giêsu trở lại quê hương Nagiarét; người ta đã mời Ngài giảng dạy ở hội đường. Phản ứng đầu tiên của họ đối với Ngài hết sức thuận lợi. Họ ngạc nhiên về những lời nhân từ của Ngài. Tuy nhiên, sự thán phục của họ chẳng bao lâu đã đổi thành nghi ngờ và kế đó là thù hận. Có lầm lẫn nào đã xảy ra.
Họ vẫn còn coi Ngài chỉ là con ông Giuse. Và họ cảm thấy rằng nếu Ngài có điều gì ban phát thì những người đồng hương như họ phải được hưởng trước tiên. Không hề bày tỏ một niềm tin chân thật vào Ngài, họ yêu cầu Ngài thực hiện ở Nagiarét một số phép lạ mà họ thấy Ngài đã làm ở nơi khác – dù sao, bác ái phải bắt đầu ở tại nhà mình. Họ cảm thấy họ có quyền thiêng liêng được hưởng những ơn của Ngài trước tiên.
Nhưng Ngài đã nói bất kể anh em là ai, điều quan trọng là anh em có đức tin hay không. Không có chỗ trong vương quốc của Thiên Chúa cho những kẻ có đặc quyền. Bác ái của Thiên Chúa bắt đầu ở bất cứ nơi nào mà con người đang cần, và đức tin là điều kiện để nhận lãnh nó. Đức Giêsu đã cho hai ví dụ – cứu chữa cho bà góa ở Xadépta và cho ông Naaman, và cả hai người này đều là dân ngoại. Khi nghe những ơn huệ mà họ đã từ khước (vì thiếu niềm tin vào Đức Giêsu) sẽ được ban cho dân ngoại, người dân Nagiarét đã phẫn nộ. Là những người Do thái, họ là dân Thiên Chúa. Những người khác đều là những kẻ bên lề và tội lỗi. Làm sao Đức Giêsu lại dám cho rằng dân ngoại sẽ được ưa thích hơn họ. Trong sự bùng phát nhiệt tình của chủ nghĩa dân tộc, họ quay lưng với Ngài. Họ đưa Ngài ra khỏi hội đường, và tìm cách thủ tiêu Ngài. Tại sao họ đã quay ra phẫn nộ với Ngài như thế? Bởi vì những điều Ngài đã nói. Đó là lý do đầu tiên. Nhưng có một lý do sâu xa hơn. Đó là vì Ngài đã nói ra những điều xấu xa nằm ẩn kín trong lòng họ. Nếu bạn khuấy nước ao tù lên một lớp bùn sẽ nổi lên trên mặt nước. Điều đáng tiếc là đôi khi tôn giáo làm lộ rõ điều xấu nhất trong lòng người. Điều này làm cho họ trở nên hẹp hòi hơn, mù quáng hơn và có khả năng thù ghét và giết chóc hơn. Chúng ta thấy một gương xấu của điều đó trong những người dân Nagiarét. Nhưng những sự việc như thế vẫn còn xảy ra. Tôn giáo có thể bị bóp méo và trở thành một điều ghê tởm như cuồng tín và mù quáng. Tôn giáo trở thành đồng nghĩa với tâm lý hẹp hòi, nhỏ nhen và không dung thứ.
Nhưng tôn giáo cũng có thể nói lên điều tốt nhất trong con người. Nó làm cho họ trở nên bao dung và có lòng yêu thương hơn. Tôn giáo chân thật giải phóng tâm hồn và trí tuệ con người, và nuôi dưỡng những mối quan hệ hài hòa với những người khác. Tôn giáo có như thế mới tốt đẹp. Mỗi người trong chúng ta phải tự hỏi: “Tôn giáo thể hiện điều gì nơi tôi?” Có một dây liên kết chủ yếu giữa đức tin và tình yêu, hay đức mến. Thánh Phaolô nói: “Đức tin, đức cậy, đức mến cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”. (Bài đọc 2) Có đức tin và đức cậy để làm gì nếu chúng ta thiếu lòng yêu mến?
48. Loại bỏ
Sau nhiều năm rời bỏ ngôi làng nơi ông đã chào đời ở Transkei, Nelson Mandela đã trở về thăm quê hương. Lúc bấy giờ ông đã là một luật sư và sống ở Johannesburg. Sau này ông đã viết về cuộc thăm viếng đó: “Không có gì giống như khi ta trở về một nơi vẫn không thay đổi để tìm lại những con đường trong đó chính bạn đã đổi thay. Chốn cũ tiếp tục như trước đây, không đổi khác với khi tôi lớn lên ở đó. Nhưng tôi nhận ra rằng quan điểm của tôi và thế giới quan của tôi đã tiến triển”. Thật vậy, ông đã nói điều đó đúng lúc ông trở về quê hương, ông không thể sống ở đó nữa – nó trở nên quá nhỏ đối với ông.
Đức Giêsu đã trở lại Nagiarét và với dân làng. Ngài đã lớn lên ở giữa họ. Người cũng muốn đem lại cho họ những ơn ích của Người. Họ là những người biết rõ Người. Hẳn bạn nghĩ rằng họ sẽ đánh giá Người cao nhất. Đáng buồn là họ không tin Người.
Quang cảnh mà bạn có về một nhà thờ lớn thì một khoảng cách rất khác với quang cảnh khi bạn ở thật gần. Từ một khoảng cách, ngôi nhà thờ đứng rực rỡ trong khung cảnh xung quanh. Bạn có thể nhìn thấy những đường nét, hình thể và vẻ đẹp của nó. Nhưng khi ở thật gần, bạn thấy toàn là bụi bẩn và rạn nứt.
Một điều tương tự xảy ra với người ta. Một người không bao giờ là một anh hùng với những người thân. Một thiên tài dường như không được chính bạn bè mình khám phá. Những người ở gần phải chịu đựng vì các khuyết điểm và giới hạn quá rõ ràng. Những người ở xa, trái lại, được sự quí trọng cổ vũ vì chỉ những đức hạnh của người ấy được thấy rõ.
Nhưng điều đã xảy ra với Đức Giêsu ở Nagiarét còn sâu xa hơn thế. Không phải chỉ vì họ không đánh giá đúng Đức Giêsu. Họ khước từ Người. Tại sao? Bởi vì Người đã chỉ ra sự thiếu đức tin của họ và nói với họ rằng dân ngoại còn cởi mở với Thiên Chúa hơn họ. Những ơn ích từ lời hứa trong giao ước không có ý nghĩa là tất cả.
Đức Giêsu đã chịu đựng số phận của mọi ngôn sứ – bị dân của Người khước từ. Lời ngôn sứ không phải để làm vui lòng người ta, nhưng để nói lên sự thật mà người ta không muốn nghe, sự thật mà người ta thường che đậy. Nhưng động lực khiến Đức Giêsu nói lên sự thật là lòng thương xót của Người.
Người phải làm gì? Hẳn Người có thể nói: “Tôi đã chán họ! Tôi đã chán mọi người. Vì vậy tôi sẽ rút lui vào một cái lều trong rừng và để cho cỏ dại mọc quanh trên mặt đất”.
Hoặc Người có thể nói: “Họ muốn gì nào?” Và khi đã tìm ra điều họ muốn, Người có thể xúc tiến cho họ điều đó. Nhưng trong trường hợp này, ơn đặc biệt mà Người muốn cho họ và họ hết sức cần sẽ bị bỏ mất.
Sau cùng, Người có thể cố gắng tìm ra một số ít người sẵn sàng đón nhận điều Người muốn cho họ. Nếu Người tìm được ít người đó, Người có thể cho họ điều đó tùy theo khả năng họ đón nhận. Đó là điều Người đã chọn để thực hiện.
Bị những người thân quen của mình khước từ là một việc tổn thương sâu sắc. Đức Giêsu đã đau buồn bởi những điều xảy đến với Người ở Nagiarét, nhưng Người đã không trở nên cay cú và chôn vùi những ân huệ của Người. Người làm điều Người có thể làm cho những kẻ đã tin Người ở Nagiarét, và rồi Người mang những ân huệ của Người đi nơi khác.
49. Sứ vụ.
Người xưa thường nói: “Vạn sự khởi đầu nan”. Điều này cũng đã xảy ra ngay khi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai của Người tại hội đường Nagiarét, nơi sinh trưởng của Người. Thành công vừa mới chớm nở, thì khó khăn, thử thách, không mời đã chợt ập đến, không chịu uốn mình chiều theo những toan tính vị kỷ của những người đồng hương, Chúa Giêsu đã bị chống đối khước từ, thậm chí họ muốn thủ tiêu Người. Dẫu sao, Chúa vẫn dũng mạnh thi hành sứ vụ của Người bằng một trái tim rộng mở, luôn đập những nhịp đập của yêu thương.
Thánh Luca đã ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Sau khi nghe Chúa Giêsu đọc và giải thích đoạn sách của tiên tri Isaia, những người trong hội đường xì xầm với nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao? “. Có lẽ, câu nói này không diễn tả một thái độ nghi ngờ, trần tục hóa sự thiêng liêng cao cả của Đức Giêsu, bởi vì họ vừa mới chăm chú lắng nghe và thán phục những lời thốt ra từ miệng Người. Đúng hơn, câu nói đó như diễn tả một sự toan tính đầy ích kỷ, tư lợi của những người đồng hương với Chúa. Họ mang một tâm tính vốn rất thường gặp ở đời: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Nếu người này là con ông Giuse, bây giờ trở thành tiên tri và làm được các phép lạ, vậy tại sao chúng ta lại không lợi dụng địa vị đó để mưu ích cho thôn xóm, bản làng của mình. Câu ngạn ngữ Chúa Giêsu trưng dẫn để nói với họ: “Thầy lang ơi! Hãy chữa lấy mình” cho thấy, họ muốn Chúa hãy làm cho họ hưởng các phép lạ trước rồi sau đó mới cho người khác được hưởng. Họ muốn đưa ra một tối hậu thư bi đát ép Chúa phải phục vụ họ trước. Vậy Chúa Giêsu đã xử trí thế nào trước thái độ hẹp hòi của họ.
Biết rõ đầu óc cục bộ địa phương, còn nhiều ganh tỵ, mang đậm tính mầu cờ sắc áo Nazareth của những người đồng hương như thế, Chúa Giêsu muốn từ chối ràng buộc ơn cứu độ của Người trong mối liên hệ máu mủ thân quen nên Người đã nói rõ ý định của Người: “Tôi bảo thật các ông, không một tiên tri nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Nghĩa là, vị tiên tri không có tình cảm ưu ái với những người đồng hương hơn những người xa lạ. Chúa đã trưng dẫn hai vị tiên tri lớn trong Cựu ước là Elia và Elisa đã có những hoạt động vượt ra ngoài ranh giới tôn giáo cũng như lãnh thổ, để từ chối không ban cho những người Nazareth, mà cả dân tộc Israel độc quyền chiếm hữu ơn cứu độ. Ý thức mình là dân riêng Chúa chọn, nên người Do thái không thể tưởng tượng được một Đấng Cứu thế được Thiên Chúa sai đến lại lưu tâm đến dân ngoại là người tội lỗi, hơn là ghé mắt chiếu cố đến họ. Chính điều này đã khiến họ tức giận. Họ lôi Người ra khỏi thành và xô Người xuống vực. Tuy nhiên, thánh Luca đã ghi lại: “Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi”. Nghĩa là, Chúa vẫn bình tĩnh thi hành sứ vụ trước thái độ “được ăn cả, ngã về không” hay “không ăn được thì đạp đổ” của họ.
Thái độ hẹp hòi của người Nazareth và phản ứng của Chúa Giêsu như thế có giúp chúng ta rút ra bài học gì cho cuộc sống hôm nay không?
Trong cuộc sống, người tín hữu nếu không tỉnh thức, không xét mình đấm ngực hằng ngày và không thắp lên trong tim ngọn lửa truyền giáo sẽ dễ trượt theo “vết xe đổ” của những người Do thái thời xưa.
Tự hào mình thuộc dòng dõi đạo gốc lâu đời, được rửa tội, được hưởng nền giáo dục và đời sống ơn thánh, dễ làm cho người Công giáo có cảm tưởng, Thiên Chúa thuộc về người Công giáo và phục vụ cho người Công giáo. Và điều này dễ dẫn đến khuynh hướng đóng khung giam hãm Thiên Chúa để độc quyền chiếm hữu Chúa Kitô và ơn cứu độ của Người hơn là chia sẻ cho những anh em chưa được biết Chúa.
Có thể nói khuynh hướng này là “Tội thứ nhất, tội của những người được soi sáng mà không sáng tỏa ra. Họ biết ý nghĩa của cuộc sống, biết hướng đi, biết những điểm có nước, những trạm có xăng dầu nhưng họ không chỉ dẫn cho ai”. Thế nên, thay vì là những rào cản, sẽ tốt hơn, đẹp hơn, ý nghĩa hơn nếu mỗi người trở nên những nhịp cầu dẫn đưa người khác đến với Chúa. Đừng vô tình tự nguyện biến mình thành một trở lực, nhưng hãy cố tình biến đổi thành một trợ lực cho tha nhân.
Một nhà thần học rất nổi tiếng người Đức là cha Karl Rahner có một ý tưởng rất đáng cho chúng ta lưu ý. Ngài nói: “Một cách nào đó, tất cả chúng ta đều là những Kitô hữu ngoại đạo; trong số những người Công giáo, không phải tất cả đều thực sự là con cái của Nước Trời. Bao nhiêu kẻ xem ra ở bên ngoài thực sự lại ở trong, còn những người bẩm sinh là công dân Nước Trời thì sẽ bị ném vào nơi tối tăm dầy đặc”.
Vì thế, sứ mạng loan báo Tin Mừng đòi hỏi chúng ta phải cố gắng khám phá “những người ngoại có tâm hồn Kitô hữu”. Họ là những người ở gần Thiên Chúa mà không hay biết. Họ bị bóng tối vị kỷ của chúng ta làm che mất ánh sáng. Tuy nhiên, không thể có tâm hồn truyền giáo nếu không có đức ái. Không phải vô tình mà thánh Phaolô đã dùng tới 10 lần chữ “đức ái” trong bài đọc 2 để nhấn mạnh đức ái là nhân đức tuyệt đối cần và quí trọng nhất. Người loan báo Tin Mừng cần phải có và cầu xin hơn cả, vì đây chính là con đường hoàn hảo.
Có lẽ là không quá cường điệu khi nhà bác học Pascal nói rằng: “Tất cả mọi vật chất gộp chung lại, cộng với tất cả mọi tinh thần gộp chung lại, cộng với tất cả mọi sản phẩm của hai thứ đó gộp chung lại, cũng không có giá trị bằng một chút bác ái. Đó là một trật tự khác hẳn, vô cùng cao cả hơn”.
Ước chi “vết đen” của những người Nazareth thời xưa không lập lại và trở thành “phách mạnh” trong đời sống chúng ta, nhưng chớ gì tấm gương đời sống của Chúa hôm nay giúp chúng ta ý thức và mở lòng mình ra trước sứ vụ truyền giáo, dẫu có gặp khó khăn thử thách, thậm chí là chống đối bách hại, vẫn kiên trì và dũng mạnh thi hành sứ vụ bằng một trái tim chan chứa tình yêu như Ngài, trong Ngài và nhờ Ngài.
50. Ân huệ
Đoạn Tin Mừng hôm nay tiếp liền đoạn Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, kể lại diễn tiến buổi thuyết giảng của Chúa Giêsu trong hội đường Nagiaret. Thánh Luca, tác giả đoạn Tin Mừng này chỉ kể lại việc Chúa Giêsu đọc sách thánh và câu mở đầu bài giảng của Chúa: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe”. Rồi ngừng lại ở đây, không cho biết thêm Chúa Giêsu đã giảng dạy những gì ngày hôm ấy, để nói về phản ứng của những người nghe: “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người”. Thái độ này diễn tả một sự cảm phục, sung sướng, đồng thời nhận rằng những điều họ đang nghe vượt khỏi sự chờ đợi, tức là họ không ngờ rằng: Người đang nói với họ thông điệp ân sủng của Thiên Chúa lại chính là người làng của họ, người mà ngôn sứ Isaia loan báo lại chính là con ông Giuse và bà Maria ở làng họ.
Nhưng Chúa Giêsu không muốn cho niềm thích thú bất ngờ này trở thành một thái độ ích kỷ, muốn nhân danh tư cách đồng hương để đòi hỏi, chiếm lãnh cho mình quyền hưởng thụ ân huệ của Đấng Mêsia. Chúa Giêsu phanh phui tâm địa của họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình!”, ý các ông muốn bảo tôi: Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!”. Qua lời phanh phui của Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu tâm trạng của dân làng Nagiarét là muốn đòi quyền ưu tiên hưởng những ân huệ Chúa mang đến. Vì thế, Chúa đưa ra hai thí dụ trong Cựu ước để từ chối không thỏa mãn yêu sách đó. Thí dụ thứ nhất xảy ra thời ngôn sứ Elia, khi trời hạn hán, ông Elia chẳng được Thiên Chúa sai đến với người đàn bà góa nào trong dân Israel, nhưng chỉ được sai đến xứ Xiđôn, đến với một bà góa ở Xarépta. Thí dụ thứ hai xảy ra thời ngôn sứ Elisa, có nhiều người phong hủi tại Israel, nhưng chẳng ai được lành sạch, chỉ có ông Naaman, người xứ Xyri.
Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự tự do của Thiên Chúa khi ban ơn, và vai trò của ngôn sứ là người được Thiên Chúa dùng để ban ơn. Thiên Chúa sai các ngôn sứ Elia và Elisa đem ân huệ của Ngài cho người ngoại giáo. Đối chiếu lại trường hợp Chúa Giêsu, Chúa được sai đến làm phép lạ ở Capharnaum chứ không phải ở Nagiarét. Như thế, qua hai thí dụ rút từ Cựu ước, Chúa Giêsu muốn bảo cho dân làng thấy tính phổ quát của ơn cứu độ. Chúa được sai đến không phải để cứu riêng người Do thái mà là cứu tất cả mọi người. Phản ứng cuối cùng của thính giả là sự công phẫn tột độ. Họ đứng dậy, xô Chúa Giêsu ra ngoài, đẩy Ngài lên đồi, để xô Ngài xuống vực thẳm cho chết đi. Nhưng Chúa Giêsu ngang qua giữa họ mà tiếp tục con đường của Ngài. Con đường của Ngài phải đưa Ngài tới Giêrusalem. Trên con đường ấy Ngài tiếp tục bị người Do thái xô đẩy, và cuối cùng họ xô được Ngài lên thập giá trên đồi Gôngôtha, xô được Ngài xuống mồ. Nhưng Ngài lại chỗi dậy từ trong cõi chết và tiếp tục con đường của Ngài: Ngài đem ơn cứu độ đến cho muôn dân. Ngài sai các môn đệ của Ngài tiếp tục con đường: đi làm chứng cho Ngài đến tận cùng mặt đất.
Từ chối hay đón nhận Chúa là những thái độ hoàn toàn tự do của con người. Người ta có quyền chối bỏ hay có quyền chấp nhận. Thiên Chúa không áp đặt ai hay cố tình đưa họ vào một thế triệt buộc nào đó. Nhưng thời nào cái quyền tự do kia cũng là con dao hai lưỡi khiến phải đề phòng. Kẻ khôn ngoan bao giờ cũng dè dặt. Giả như chúng ta thử đặt mình vào số những người có mặt trong hội đường Nagiarét ấy để nghe Chúa Giêsu, chúng ta sẽ phản ứng thế nào? Người bên tả, kẻ bên hữu tôi sao vội vàng đến nóng nảy như vậy trước câu Kinh Thánh và những lời chú giải tuyệt mỹ xuất phát từ miệng Chúa. Chúa đã lặp lại lời ngôn sứ Isaia, một vị ngôn sứ được kính trọng nhất của niềm hy vọng Israel, rồi Ngài đã bình giảng những lời đó. Nhưng sau khi nghe, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, trục xuất Ngài và muốn giết Ngài. Chứng kiến cảnh tượng ấy chúng ta có quyền trách họ vội nóng, hay tiếc thay cho họ bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng. Nhưng nếu suy nghĩ kỹ, chúng ta sẽ tự trách mình và còn tiếc xót biết bao cơ may trong đời chúng ta đã đánh mất.
Chúa muốn chúng ta trở về với đời sống cụ thể của mình để nhận ra những ơn cao cả Chúa ban cho chúng ta. Phải nhận ra mình được yêu thương, cũng như phải yêu thương đáp trả. Chúng ta hãy nhớ lại biết bao hồng ân đã lãnh nhận để tạ ơn Chúa và cố gắng sống tốt hơn với những hồng ân ấy.
51. Thành kiến
Với thành kiến sẵn có đối với những người da đen,bà Anna cho họ là những kẻ lười biếng, trộm cắp, nghiện ngập, độc ác và giết người không gớm tay. Bà luôn lưu ý những nơi mình đi qua và mỗi lần thấy bóng dáng một người da đen là bà lánh sang nơi khác. Một hôm bà vừa bước vào thang máy thì một bóng người da đen to lớn cùng bước vào đóng ngay cửa lại làm bà không thể trở lui, bà chết điếng người và té xỉu. Tỉnh dậy nơi nhà thương, bàrất lấy làm hổ thẹn khi biết được rằng chính người da đen cùng đi trong thang máy với bà là một ca sĩ nổi tiếng tên là Vicky. Anh được mọi người mộ mến và chính anh đã đỡ bà khi té xỉu và đưa đến nhà thương.
Thành kiến làm chúng ta ra mù quáng không thể nhận diện được thực tại về những người chúng ta gặp thường ngày một cách đúng sự thật. Những người làng Nagiarét thời Chúa Giêsu cũng mắc phải khuyết điểm như bà Anna. Sau thời gian rao giảng tại Capharnaum, Chúa Giêsu trở về quê hương Nagiarét và rao giảng tại hội đường. Dân chúng biết rõ nguồn gốc nhân trần của Ngài nên nói: Người này không phải là con ông thợ mộc Giuse hay sao? Họ đã nghe biết những sự lạ Ngài thực hiện tại Capharnaum, những sự lạ chứng minh nguồn gốc thần linh, Ngài là con Thiên Chúa được Chúa Cha sai xuống trần gian để cứu rỗi con người. Bởi vậy, những thành kiến không cho phép những họ nhìn xa hơn. Họ bị giới hạn trong cảm nghĩ trần tục của họ, muốn Ngài thực hiện những sự lạ để hưởng lợi. Họ không thể vượt qua khía cạnh trần tục, khía cạnh vật chất ích kỷ để có lòng tin vào Chúa. Vì thế họ đã bị Chúa nhắc khéo nhớ lại chuyện xưa đã xảy ra trong cuộc đời của tiên tri Elia và Elisêô, đó là trường hợp của bà góa tại Sarepta và tướng Naaman người Syria. Lời nhắc khéo của Chúa làm cho họ bực tức và chống đối. Họ đem Ngài lên nơi cao để xô Ngài xuống vực thẳm cho chết. Quả thật, thành kiến đã làm cho họ mù quáng và dẫn đến những hành động điên rồ như vậy.
Nhưng thử hỏi chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta tin thờ Đức Kitô nào đây? Một Đức Kitô chỉ àm phép lạ để thỏa mãn những nhu cầu ích kỷ của riêng mình? Hay một Đức Kitô Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta và mời gọi chúng ta bước theo Ngài? Làm thế nào để chứng thực trong đời sống là chúng ta đã tin vào một vị Thiên Chúa làm người để cứu rỗi chúng ta? Không có cách nào khác ngoài con đường bác ái yêu thương trong cuộc sống thường ngày.
Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi những thành kiến ngăn cản chúng ta nhìn thấy Chúa đến với dung mạo con người nơi những người anh chị em, nơi những biến cố của cuộc sống. Vì thành kiến, chúng ta đã không nhận ra điều tốt nơi những người anh chị em và vì không nhận ra những điều tốt ấy, thì làm sao chúng ta có thể nhận ra Chúa thực sự hiện diện nơi họ được.
52. Người tốt thì khó tìm
Chúng ta đã nghe câu đố: "Con gì buổi sáng thì đi bằng bốn chân, buổi trưa bằng hai chân, và buổi chiều bằng ba chân?" Có người giải thích rằng đó là con người. Khi còn bé, con người đi bằng cả hai tay và hai chân. Đến khi trưởng thành thì con người đi bằng hai chân, tuy nhiên, đến tuổi già thì con người đi bằng ba chân bởi vì đó là cây gậy. Điều thú vị ở trong câu truyện này đó chính là thế hệ của chúng ta đang sống đây cũng phải đương đầu với câu hỏi liên quan đến con người: "Tôi là ai và con người là gì?" Trừ phi chúng ta trả lời được câu hỏi này, nếu không thì cuộc sống của chúng ta sẽ dần dần chấm dứt một cách vô ích. "Tôi là ai?" là một câu hỏi thúc bách trong thời đại chúng ta. Herman Hesse, một tác giả người Thụy Sĩ mà nhiều bạn trẻ rất thích, đã nói rằng "Who I Am?" là một câu hỏi rất quan trọng bởi vì nó là cốt lõi và nền tảng của tất cả những câu hỏi khác, cách xử sự của chúng ta với chính chúng ta, sự giao tế với những người khác, và sự tiếp xúc với thế giới của chúng ta. Đúng thế, một trong những vấn đề mà chúng ta đã phải đương đầu, ở trong xã hội thế giới này, những người không biết họ là ai đang chạy vòng quanh thế giới để nói với chúng ta trở nên những con người như thế nào. Và như thế sự lộn xộn càng thêm lộn xộn. Chúng ta sẽ không tiến lên được một chút nào hết cho tới khi chúng ta trả lời câu hỏi này.
Thiên Chúa nhân từ, người đã dựng nên chúng ta, đã cho chúng ta câu trả lời cho câu hỏi "Tôi là ai?" Ngài đã không trả lời chúng ta cách trừu tượng và chúng ta nên tạ ơn Ngài về điều này. Thường thường những câu hỏi này được đặt ra và chúng ta bị điên đảo với những câu trả lời trừu tượng. Platô, một triết gia nổi tiếng, định nghĩa con người là con vật hai chân và ít lông lá. Diogenes ngay sau đó đã bắt một con gà, nhổ hết lông của nó và giơ lên cho Platô coi và nói, "Này triết gia, đây là con người!" Đây là chuyện xảy ra khi chúng ta dùng triết lý để định nghĩa tôn giáo một cách chung chung. Thiên Chúa đã làm một cách khác. Các bạn hãy suy nghĩ một phút, hãy suy nghĩ xem coi nếu chúng ta nhìn thấy một tấm gương tốt của một người thì điều đó có nghĩa là gì. Không phải là nguyên lý hoặc chung chung, nhưng là điều mà khoa học thường nói rất nhiều ngày nay: một thần tượng, một mẫu người tốt. Tuy nhiên người tốt thì thật là khó tìm!
"Anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu" (Pl 2:5), chính là điều mà Thánh Phaolô đã viết. Tất cả khoa thần học đều dựa trên câu nói này. "Hãy lấy Chúa Kitô làm biểu tượng." Chúng ta vẫn thường nghe câu nói này trong cuộc sống của mình. Hết nhà giảng thuyết này đến nhà giảng thuyết khác cũng đều lập đi lập lại câu nói này, "Hãy lấy Chúa Kitô là khuôn mẫu cho cuộc sống." Thế nhưng vấn đề mà nhiều người chúng ta gặp đó là chúng ta chỉ nghe và biết câu nói này một cách hời hợt bên ngoài mà không biết đem vào thực hành trong cuộc sống để thân thể, tinh thần, lý trí của chúng ta trở nên giống Chúa Kitô. Đây là điều mà Thánh Phaolô đề cập đến. Ngài van nài chúng ta hãy hiểu điều vĩ đại mà Thiên Chúa đang làm cho chúng ta; hãy hiểu Thiên Chúa đang chỉ cho chúng ta một Thần Tượng, một Con Người tốt, Ngài sẽ nói cho chúng ta cách làm người.
Nếu Chúa Kitô là thần tượng, thì chúng ta cần phải hiểu biết Ngài. Tuy nhiên, đó là chỗ mà chúng ta sẽ phải đương đầu với nhiều khó khăn. Có rất nhiều người mang danh là Kitô hữu, đi nhà thờ đều đặn, nhưng không biết một tí chút gì về đời sống và sứ mạng của Chúa Kitô. Đó thật là một điều phi lý khi chúng ta gọi mình là Kitô hữu, mà chúng ta không biết Chúa Giêsu Kitô. Một cách ngẫu nhiên, đó là điều mà nhiều người trên thế giới đang nói với chúng ta. Có lẽ đang có những điều xảy ra trong giây phút chúng ta tụ họp nơi đây, tuy nhiên có thể có một điều gì đó đặc biệt sẽ xảy ra. Chúng ta nên dành thêm thời giờ để học hiểu về Chúa Giêsu. Chúng ta nên quyết định, ngay bây giờ, sẽ tìm giờ để đọc Thánh Kinh theo chiều sâu của nó. Chúng ta sẽ được biến đổi thành người tốt như Chúa Giêsu.
Trong câu truyện "Cry the Beloved Country" của tác giả Alan Paton, một người thanh niên trẻ được sinh ra khi cả hai bố mẹ anh đã đứng tuổi. Khi lớn lên, anh đã bỏ nhà và đi đến thành phố để kiếm sống. Anh đã không có liên lạc gì với gia đình cả. Sau cùng, người cha già đã quyết định vào thành phố để thăm người con. Bởi vì ông không quen thành thị, nên ông đã gặp nhiều vất vả không biết phải bắt đầu từ con đường nào để tìm con ông. Sau đó, ông bắt gặp được một vị mục sư và được vị này giúp đỡ để đi tìm con của ông. Khi sự việc được tiến triển tốt đẹp, người cha già đã cố gắng để tìm những lời lẽ đẹp đẽ để cám ơn vị ân nhân của mình, nhưng ông không biết phải nói làm sao, chỉ biết nói câu, "Mục sư là một người tốt!" Vị mục sư trả lời, "Tôi không phải là một người tốt. Tôi là một kẻ tội lỗi và ích kỷ. Thế nhưng nhờ Chúa Giêsu đã đặt tay Ngài trên tôi, chỉ có vậy thôi."
Một người tốt thì thật là khó tìm, nhưng Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một người rất tốt, đó chính là Con Một Ngài, Đức Giêsu để chúng ta có thể noi theo mà không sợ bị lừa dối.
53. Suy niệm của JKN
Có bao giờ chính người Kitô hữu chối bỏ Đức Kitô không?
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Đức Giêsu lại bị từ chối tại chính làng của mình? tại chính đất nước Do Thái? còn dân ngoại thì lại đón nhận Ngài để cuối cùng trở nên Dân Ngài? Liệu lịch sử có thể tái diễn tương tự như thế đối với Kitô giáo không?
2. Đức Giêsu có muốn dành ưu tiên cho quê hương hay dân tộc mình không? Ngài có thành công trong việc dành ưu tiên ấy cho quê hương hay dân tộc mình không? Tại sao?
3. Điều đã xảy ra với Do Thái có thể xảy ra tương tự với Kitô giáo không? Chúng ta phải làm gì để tránh vết xe đã đổ?
CHIA SẺ
1. Các ngôn sứ thường bị từ chối tại chính quê hương mình
Đoạn Tin Mừng hôm nay và những đoạn khác tương tự trong các sách Tin Mừng khác cho thấy: những người cùng quê cùng làng với Đức Giêsu có vẻ coi thường Ngài và không tin ở Ngài cho lắm. Vì đối với họ, Đức Giêsu chỉ là con của một bác thợ mộc nghèo hèn, và của một phụ nữ không danh giá gì trong làng. Nếu chúng ta ở vào địa vị của dân chúng làng Nagiarét, chưa chắc chúng ta đã suy nghĩ và đánh giá về Ngài khác hơn họ. Và nếu có một ngôn sứ nào xuất hiện ở thời đại này, tại thành phố hay tỉnh ta đang sống, chưa chắc ta đã nhận ra và đánh giá vị ấy một cách đúng đắn.
Thông thường, người ta thường đánh giá một người tùy theo những gì thấy được ở bên ngoài, chứ không thấy được giá trị thâm sâu ở bên trong. Và càng là người thân quen với vị ngôn sứ, thì càng khó đánh giá đúng đắn vị ngôn sứ ấy, vì các ngôn sứ thường mặc lấy những dáng vẻ bên ngoài rất bình thường, và cũng thường có quan niệm rất khác với người đương thời. Chính vì thế, các ngôn sứ ít được người đồng thời và đồng hương biết được giá trị con người mình, thậm chí còn bị coi thường, khi rẻ, kết án. Vì thế, Đức Giêsu nói: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”.
2. Các ngôn sứ có muốn ưu đãi quê hương mình cũng không được
Vì thường bị người đồng thời, đồng hương hay đồng đạo coi thường và không tin, nên các ngôn sứ thường không thể hoạt động hữu hiệu hay có kết quả tốt đẹp tại quê hương hay thời đại mình. Chẳng hạn Đức Giêsu không thể làm được nhiều phép lạ tại Nagiarét, vì họ cứng lòng tin (x. Mt 13,58); đồng bào và đồng đạo của Ngài chẳng những không tin Ngài mà còn tìm cách giết Ngài nữa. Thái độ của những người đồng hương, đồng đạo hoặc đồng thời với Ngài như thế, khiến họ không được lợi lộc gì vì được làm người đồng hương, đồng đạo hay đồng thời với vị ngôn sứ cả.
Đức Giêsu đã kể ra những trường hợp cụ thể minh chứng điều ấy, chẳng hạn trường hợp của hai ngôn sứ Êlia và Êlisa. Thời Êlia, khi Israel bị đói, ông chẳng giúp một bà góa khốn khổ nào trong nước cả, mà lại giúp một bà góa ở tận đâu đâu, vì bà này tỏ ra yêu quí, tin tưởng và trọng vọng ông một cách đặc biệt. Thời Êlisa, biết bao người Israel bị phong hủi thì ông chẳng chữa cho ai, mà lại chữa cho một người từ ngoại quốc đến.
3. Thực tế ấy đã xảy ra trên nhiều bình diện khác nhau
Do tình cảm tự nhiên, ngôn sứ nào cũng đều muốn dành ưu tiên quyền lợi cho quê hương mình, nhưng nhiều khi vì thái độ khinh thường và cố chấp của người đồng hương, nên quê hương của các vị không hưởng được cái quyền ưu tiên mà các vị muốn đặc biệt dành cho. Để rồi cuối cùng sự ưu đãi đó lại được dành cho những người hay dân tộc xa lạ ở đâu đâu nhưng lại xứng đáng với sự ưu đãi đó hơn.
Thật vậy, Đức Giêsu luôn luôn muốn dành ơn cứu độ ưu tiên cho người Do Thái (x. Ga 4,22; Mt 10,6; 15,24). Nhưng Người Do Thái lại từ chối sự ưu tiên đó, nên ơn cứu độ lại được đem đến cho các dân tộc khác. Nhiều dụ ngôn của Đức Giêsu nói lên thực trạng đó. Chẳng hạn dụ ngôn những tá điền sát nhân (x. Mt 21,33-46; Mc 12,1-12; Lc 20,9-19), dụ ngôn tiệc cưới (x. Mt 22,1-14; Lc 14,15-24).
Bài Tin Mừng lễ Hiển Linh cho thấy các kinh sư Do Thái - đại diện cho dân tộc được Thiên Chúa ưu tiên dành cho mọi quyền lợi thiêng liêng - mặc dù có Kinh Thánh trong tay và biết được chính xác Đức Giêsu sinh ra ở đâu, nhưng họ lại không thèm tìm đến Ngài, mà lại còn muốn làm hại Ngài. Còn các đạo sĩ - đại diện cho dân ngoại, dân không được ưu tiên - từ mãi đâu đâu tới và phải nhờ tới các kinh sư Do Thái mới biết được Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, thì lại quyết tâm tìm kiếm Ngài và họ đã tìm thấy.
Sự việc ấy là hình bóng của thực tế xảy ra sau đó: Mặc dù Đức Giêsu sinh ra tại Do Thái, và dân Do Thái là dân được ưu tiên hưởng ơn cứu độ, thì thực tế là cho tới nay, dân Do Thái vẫn chưa nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh Nhân Loại, mà vẫn còn tiếp tục chờ đợi. Còn những dân tộc đang tin vào Đức Giêsu hiện nay thì lại là những dân tộc bị dân Do Thái xưa khinh thị và gọi là dân ngoại. Thế là ứng nghiệm điều Đức Giêsu tiên báo trong hai dụ ngôn vừa nêu trên.
4. Nói người lại nghĩ đến ta
Lịch sử thường hay tái diễn lại theo kiểu tương tự. Điều đó khiến ta phải suy nghĩ vì nó có thể xảy ra cho chính chúng ta. Hiện nay, Kitô giáo luôn tự hào mình là tôn giáo do chính Thiên Chúa thiết lập, được chính Thiên Chúa mặc khải những chân lý thâm diệu nhất, và là con đường chính thống nhất dẫn đến ơn cứu độ. Kitô giáo với các tôn giáo khác cũng phần nào tương tự như Do Thái giáo với dân ngoại xưa. Liệu điều đã đúng với Do Thái giáo có đúng một cách tương tự với Kitô giáo không?
Dân Do Thái xưa lúc nào cũng tự hào về tôn giáo của mình là tôn giáo duy nhất đúng đắn vì là tôn giáo duy nhất được Thiên Chúa mặc khải. Còn các dân tộc khác thì thờ thần tượng, đi trong sai lạc. Nhưng kết cục ra sao? Dân Do Thái không chỉ phủ nhận Đức Giêsu mà còn giết Ngài nữa. Họ từ chối ơn cứu độ, và ơn cứu độ đã được trao cho dân ngoại. Dân ngoại lại đón nhận ơn cứu độ và gia nhập Giáo Hội. Thế thì xét cho cùng, đối với dân Do Thái, việc có tôn giáo duy nhất đúng đắn, việc nắm được nhiều chân lý hơn các dân tộc khác có ích lợi gì?
Như thế, xem ra điều quan trọng không phải là có tôn giáo chân chính cho bằng sống đúng những gì tôn giáo mình đòi hỏi, sống đúng theo lương tâm của mình. Hãy nghe thánh Phaolô nói: “Người ta được Thiên Chúa coi là công chính, không phải vì nghe biết Lề Luật, nhưng là vì tuân giữ Lề Luật” (Rm 2,13). Vì thế, nếu “bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, thì như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa!” (Rm 2,23). Tương tự, nếu chúng ta có tôn giáo chân chính mà lại không thèm sống đúng theo tôn giáo ấy, thì ta cũng làm nhục Thiên Chúa, Đấng thiết lập tôn giáo ấy. Lúc ấy chúng ta rất xứng đáng với lời kết án của thánh Phaolô: “Thật đúng như lời chép: Chính vì các người mà danh Thiên Chúa bị phỉ báng giữa chư dân” (Rm 2,24). Lúc ấy, tôn giáo chân chính có ích lợi gì cho ta, hay đó chính là lý do để Thiên Chúa kết án chúng ta?
Bài Tin Mừng hôm nay chính là lời cảnh tỉnh chúng ta: Đừng để tinh thần yêu thương của Kitô giáo lại bị chính các Kitô hữu như chúng ta coi thường, không thèm sống, mà người sống tinh thần ấy lại là những người thuộc các tôn giáo khác. Vậy tốt nhất, chúng ta hãy đem tinh thần yêu thương của Đức Giêsu ra áp dụng thật sự vào đời sống. Đừng để trường hợp của Do Thái giáo lại tái diễn một cách tương tự với Kitô giáo, trong đó người chủ động tái diễn trường hợp ấy lại chính là chúng ta!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã gián tiếp cảnh giác chúng con: chính quê hương, đất nước, dân tộc và đồng đạo của Ngài - là những người mà Ngài muốn dành ưu tiên hưởng ơn cứu độ Ngài đem lại - lại từ chối Ngài. Hiện nay, rất có thể chúng con đang đi vào vết xe đã đổ ấy: ngoài miệng chúng con luôn tuyên xưng mạnh mẽ niềm tin vào Đức Giêsu, nhưng đời sống của chúng con thì lại đi ngược lại những điều Ngài dạy. Chúng con tuyên xưng hay biểu lộ đức tin mạnh mẽ ra ngoài để che lấp thực tế phủ nhận đức tin ấy ở bên trong. Xin giúp chúng con ý thức rằng thái độ giả hình ấy vô cùng có hại cho chúng con. Xin Cha cứu chữa chúng con khỏi thái độ ấy.
54. Không được tôn trọng trong xứ mình--William Barclay
Không Được Tôn Trọng Trong Xứ Mình: 4,16-30
Một trong những nơi thăm viếng đầu tiên của Chúa Giêsu là Nazaret, quê nhà của Ngài. Nazaret không phải là một làng, nó được gọi là một polis, nghĩa là một thành hay một thị trấn, và có thể có tới 20.000 dân. Nazaret toạ lạc trong một vùng đất của sườn đồi núi Galilê gần cánh đồng Gitrien. Chỉ cần leo lên đỉnh đồi vượt cao trên mặt thành là có thể thấy toàn cảnh bao la hàng dặm chung quanh đó. George Adm Simth diễn tả phong cảnh từ trên đỉnh đồi như sau: Lịch sử của dân Israel mở ra trước mắt chúng ta. Kia là cánh đồng Esdraelon, nơi Đêhôra và Barac đã chiến đấu, nơi Ghêđêon đã thắng trận vẻ vang, nơi Saulê đã thảm bai và chính nơi này Giôsia đã bị giết trong chiến trận. Kìa là vườn nho của Nabôt, chỗ Giêhu giết Giêsabên, kìa nữa là đất Sunem, nơi ngôn sứ Elia đã sống, kìa là núi Cácmen, nơi Êlia đã đánh trận oanh liệt với các tiên tri Baan, và xanh xanh ở đằng xa là Đia Trung Hải và các hải đảo! Nhưng không phải chỉ có lịch sử Israel ở đó mà lịch sử thế giới cũng mở ra trên đỉnh đồi Nazaret. Có ba đường lớn vây quanh Nazaret. Có con đường từ phía Nam đưa các khách hành hương lên Giêrusalem. Có con đường lớn dọc bờ biển để đưa những đoàn thương gia chở nặng hàng hoá từ Ai Cập lên tới Đamas. Có con đường lớn đi về Phương Đông, cho những đoàn doanh thương từ Ai Cập đến, và cũng có những đoàn quân viễn chinh Rôma tiến về các biên giới miền Đông của đế quốc. Thật sai lầm nếu nghĩ rằng Chúa Giêsu lớn lên tại một nơi hẻo lánh; Ngài lớn lên trong một thành có tầm cỡ lịch sử và có các trục lo giao thông của thế giới chạy qua ngay trước ngõ.
Chúng tôi đã phác hoạ giờ thờ phượng tại hội đường và đoạn sách này cho ta thấy cả một bức tranh sống động về hoạt động phụng vụ ở đó. Không phải Chúa Giêsu cầm một quyển sách, vì thời đó mọi sự được viết trên những cuộn da. Ngài đã đọc Is 61. Trong câu 20, bản dịch King James đã nói sai về “kẻ giúp việc”. Thực ra vị này là một viên Chazzan đảm nhiệm nhiều thứ công tác. Ông có bổn phận lấy ra và cất vào những cuộn Kinh Thánh, có bổn phận giữ cho hội đường sạch sẽ, có bổn phận thổi ba hồi kèn bạc từ trên nóc hội đường loan báo ngày Sabat, ông cũng là giáo viên trong trường học của vùng ấy nữa. Câu 20 nói rằng Chúa Giêsu ngồi xuống, khiến ta có cảm tưởng Ngài đã làm xong công việc. Thực ra, Ngài sắp sửa bắt đầu, vì diễn giả ngồi mà giảng và các rabi cũng ngồi khi giảng dạy (do tục lệ này mà chúng ta thường nói ghế của giáo sư).
Điều lam dân chúng tức giận là họ nghe Chúa Giêsu khen dân ngoại. Người Do Thái đinh ninh rằng chỉ có mình họ là dân của Chúa, cho nên họ coi thường các dân khác. Họ tin rằng “Chúa đã dựng nên các dân ngoại để làm chất đốt cho lửa địa ngục”. Thế mà ở đây chàng thanh niên Giêsu này, người mà hết thảy họ đều biết, lại giảng như thể dân ngoại được Chúa ưu đãi. Họ bắt đầu cảm thấy trong sứ điệp mới lạ này có những điều họ chưa từng nghĩ đến bao giờ.
Trước khi qua đoạn Kinh Thánh này, chúng ta cần để ý tới hai điều khác nữa:
1. Chúa Giêsu có thói quen vào hội đường vào ngày Sabat. Tại đó hẳn có nhiều điều Ngài hoàn toàn không đồng ý và làm Ngài cảm thấy khó chịu, nhưng Ngài đã đến đó. Việc thờ phượng tại nhà hội có thể có nhiều thiếu sót, nhưng Chúa Giêsu không bao giờ bỏ qua hiệp thông với dân Chúa bằng thờ phượng trong Ngày của Chúa.
2. Đọc lại đoạn Kinh Thánh trong Isaia mà Chúa Giêsu đã đọc hẳn chúng ta nhận thấy sự khác biệt giữa Chúa Giêsu với Gioan Tẩy Giả. Gioan giảng về tai hoạ, và khi nghe sứ điệp của ông, người ta phải rùng mình kinh sợ. Còn Chúa Giêsu đem Phúc Âm-Tin Mừng đến. Chúa Giêsu biết cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng bao giờ cũng là thịnh nộ do tình thương.
55. Chúa Giêsu thất bại tại Nagiarét--Lm. PX. Vũ Phan Long
Với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu, bắt đầu tiến trình kết án sẽ đưa Người đến thập giá. Nhưng chính lập trường của Đức Giêsu củng cố niềm tin của chúng ta.
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay nằm trong bối cảnh là "Hoạt động rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê" (Lc 3,1–9,50), và thuộc về phân đoạn 4,16-30, "Đức Giêsu tại Nadarét". Chúng ta có thể xác định cầu trúc của bản văn 4,16-30 như sau:
+ Mở: Đức Giêsu đến Nadarét (c. 16a); Người vào hội đường (c. 16b).
I. Đọc sách Isaia
a) Dẫn nhập (c. 16c)
b) Chuẩn bị đọc (c. 17)
c) Bản văn Isaia (cc. 18-19)
b') Kết thúc việc đọc (c. 20ab)
a') Kết luận (c. 20c)
- Chuyển tiếp: Mọi người trong hội đường chăm chú nhìn Người (c. 20d)
II. Các lời nói của Đức Giêsu
A- Can thiệp thứ nhất của Đức Giêsu
a) lời nói về hoàn tất (c. 21)
b) các hậu quả đầu tiên nơi các thính giả (c. 22)
B- Can thiệp thứ hai của Đức Giêsu
a) lời nói về thầy thuốc (c. 23)
b) lời nói về ngôn sứ (c. 24)
C- Can thiệp thứ ba của Đức Giêsu
a) dân Israel trước Êlia (cc. 25-26)
b) dân Israel trước Êlisa (c. 27)
+ Kết: Dân Nadarét đuổi Đức Giêsu khỏi hội đường (cc. 28-29)
Người rời Nadarét (c. 30)
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Phản ứng tích cực của cử tọa đối với các lời Đức Giêsu nói (4,21-22);
2) Đức Giêsu xác định chiều hướng của sứ vụ của Người (4,23-24);
3) Đức Giêsu chứng minh bằng các lối xử sự của các ngôn sứ (4,25-27);
4) Dân chúng loại trừ Đức Giêsu (4,28-30).
3.- Vài điểm chú giải
- Hôm nay (21): Trạng từ sêmeron hiếm khi được hiểu theo nghĩa tổng quát là "vào ngày hôm nay, nowadays". Do vị trí nhấn mạnh ở đầu câu, trạng từ này đánh dấu một điểm quan trọng trong các nhìn lịch sử của tác giả Lc (x. 4,21; 5,26; 19,5.9; 23,43): những điểm này, những lời nói này của Đức Giêsu vẫn còn giá trị cho cuộc sống của người Kitô hữu hôm nay.
- đều tán thành (22): dịch sát là "đều làm chứng cho (emartyroun) cho điều này? / cho ngài?". Đa số các nhà chú giải hiều là đại từ autô ở tặng cách (dative) nam-tính và có nghĩa là "cho Người", tức là ca ngợi Người. Chúng tôi nghĩ rằng giáo sư Fitzmyer có lý khi cho rằng đại từ autô ở tặng cách (dative) trung-tính (neuter) và có nghĩa là "về điều này".
- thán phục (22): Động từ thaumazein có thể diễn tả sự kinh ngạc (đi đôi với chỉ trích, nghi ngờ, phê phán; x. Lc 11,38) hoặc sự thán phục (đi đôi với sự thích thú bất ngờ; x. Lc 1,63; 2,18; 2,33; 7,9.8.25; 9,43;11,14; 20,26...). Theo ngữ cảnh (đến sau "tán thành" và được nối với động từ bằng "và"), chỉ có thể chọn nghĩa "thán phục".
- không phải là con ông Giuse đó sao? (22): Câu này có thể diễn tả sự khó chịu, bực bội, khinh bỉ hoặc một sự ngạc nhiên đầy thích thú, sự thán phục. Theo ngữ cảnh, có thể hiểu là sự thán phục.
- Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình (23): Đức Giêsu dùng câu tục ngữ này để diễn tả ra nguyện vọng thầm kín của người Do Thái: Vì họ đã nghe biết nhiều về hoạt động của Đức Giêsu tại Caphácnaum, họ ước muốn Người cũng làm như thế cho quê hương. Câu nói tiếp theo câu tục ngữ đã giải thích ý nghĩa của câu tục ngữ. Người dân Nadarét đang tính toán vụ lợi.
- không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương (24): Khi dịch tính từ dektos bằng "được chấp nhận", Bản Dịch CGKPV đã coi dektos có ý nghĩa tương tự như atimos trong Mc 6,4 và Mt 13,57, mà thật ra đây cũng là cách dịch của các Bản dịch nổi tiếng thế giới là BJ, TOB và NAB, và là ý kiến của một giáo sư chuyên về truyền thống Luca, J.A. Fitzmyer (x. The Gospel according to Luke I-IX, The Anchor Bible, Doubleday NY 1970, 537). Tuy nhiên, lúc ấy ta thấy là phản ứng mạnh của Đức Giêsu như thế không phù hợp với thái độ của cử tọa. Hơn nữa, các lời Đức Giêsu nói lại không thống nhất: người ta xin Người làm phép lạ (điều này giả thiết là người ta có tin, dù chút ít), Người lại than trách là bị tiếp đón tệ bạc (c. 24). Đã thế, các ví dụ Người nêu ra ở cc. 25-27 lại không phù hợp với hoàn cảnh: không phải là các ngôn sứ bị tiếp đón tệ bạc (như Người), nhưng lại là các ngôn sứ mới từ chối làm những phép lạ để giúp đỡ người đồng hương. Như vậy, phải kết luận là bản văn Lc thiếu mạch lạc?
Vấn đề là các học giả đã hiểu bản văn Lc theo hướng của các bản văn song song Mc và Mt, thế mà bản văn Lc lại khác: thay vì dùng từ atimos ("bị khinh bỉ"), tác giả dùng dektos. Dektos là một tính từ phái sinh từ động từ dechomai ("đón nhận, đón tiếp, chấp nhận") và thường có nghĩa bị động (passive); trong trường hợp này, dektos tương đương với atimos. Tuy nhiên, tính từ này cũng có một nghĩa chủ động (active) (x. M. Zerwick, Biblical Greek, Rome 1963, số 142), "đón nhận, ân cần, thuận thảo, thuận lợi". Và trong thực tế, cách đó năm câu, từ dektos có ý nghĩa chủ động ("Năm hồng ân = năm thuận lợi; năm đón nhận"). Nếu như thế, câu nói của Đức Giêsu hẳn sẽ có nghĩa là: không một ngôn sứ nào dành ưu tiên / thiên vị cho / với quê hương; và hiểu cụm từ "không một ngôn sứ nào" là một cụm từ nói "ngoa", chứ không theo nghĩa chữ và nghĩa xấu (= một ngôn sứ luôn luôn tỏ ra bất thuận lợi với quê hương mình), bởi vì trong thực tế Mt 13,58 và Mc 6,5 cho thấy là Đức Giêsu cũng có làm một vài phép lạ tại Nadarét. Cuối cùng, câu nói của Đức Giêsu có ý nghĩa là: Một ngôn sứ không tỏ ra thuận thảo với quê hương mình hơn là với người ngoại quốc; tất cả là vấn đề đức tin và tình trạng tâm hồn sẵn sàng. Hiểu như thế, bản văn rất mạch lạc.
Có người bẻ lại: bản văn nói "en tê patridi": patri, "quê hương"; giới từ en, "tại, trong"; vậy en tê patridi có nghĩa là "tại quê hương", mà như thế, nghĩa bị động của dektos được biện minh. Thật ra, trong hy-ngữ phổ thông [koinê] (hy-ngữ Tân Ước là hy-ngữ này), en không chỉ có nghĩa nơi chốn, mà còn có nghĩa thời gian, dụng cụ, nguyên nhân, v.v. Trong nhiều cách sử dụng ấy, en thường được dùng với các động từ nói về tình cảm để diễn tả "điều mà tâm tình hướng về" (W. Bauer, A Greek-English Lexicon of the New Testament and Other Early Christian Literature, The University of Chicago Press, Chicago 1957, tr 160: III,3b).
- nhưng quả thật, tôi nói cho các ông hay (25): De, "nhưng", tiêu từ ở đầu c. 25 này rất quan trọng, diễn tả một ý đối lập.
- hạn hán ba năm sáu tháng (25): 1 V 18,1 nói rằng có mưa "vào năm thứ ba". Ở đây, tác giả Lc kế thừa một truyền thống khác, có được nhắc đến trong Gc 5,17. Theo truyền thống này, thời gian hạn hán kéo dài bằng thời gian khốn quẫn trong văn chương khải huyền (thời gian này được rút ra từ thời gian cuộc bách hại dưới triều Antiôkhô IV Êpiphanê: Đn 7,25; 12,7; x. Kh 11,2; 12,6.14. Tác giả Lc không quan tâm đến ý nghĩa khải huyền. Trời hạn hán": dịch sát là "trời bị đóng [cửa] lại": thái bị động thay tên Thiên Chúa.
- không được sai đến (26): Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa. Xem cả c. 27, "được sạch".
- bà góa thành Sarépta (26): xem 1 V 17,9 (LXX).
- ông Naaman (27): xem 2 V 5,1-19
- thành này được xây trên cao (29): Nadarét hiện đại được xây trên một triền đồi, xung quanh có các đồi khác vây bọc. Nhưng ta không thể xác định được nơi nào đã xảy ra sự cố kể đây; với lại, thật ra cũng khó tìm được một chỗ nào ở đây có dốc núi để có thể xô người ta xuống cho chết, hoặc để ném đá. Vào thế kỷ ix, có một truyền thống đã coi địa điểm này là một chỗ cách Nadarét khoảng ba cây số về phía đông nam, nhưng nay người ta không chấp nhận giả thuyết này nữa. Đây rất có thể là dấu chứng tỏ Lc không biết rõ địa lý Paléttina và cũng có thể cho hiểu là tác giả đã ép các dữ kiện để báo trước việc Israel giết Đức Giêsu.
- Người băng qua giữa họ mà đi (30): Không nhất thiết đây là một phép lạ. Điều chính yếu đối với Lc là cho thấy Đức Giêsu còn phải tiếp tục con đường của Người để loan báo Tin Mừng, và con đường này chỉ kết thúc tại Giêrusalem (x. 13,33).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Phản ứng tích cực của cử tọa đối với các lời Đức Giêsu nói (21-22)
Người dân Nadarét đang ca ngợi và thán phục Đức Giêsu. Do đó, họ bắt đầu tính toán: "Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?" (c. 22). Nếu đây đúng là con ông Giuse, nay đã thành ngôn sứ và thầy chuyên làm phép lạ, sao ta lại không tận dụng cơ hội để có lợi cho làng ta? Câu trả lời sau đó của Đức Giêsu cho hiểu là quả thật dân chúng đang tính toán như thế.
* Đức Giêsu xác định chiều hướng của sứ vụ của Người (23-24)
Đức Giêsu đã dùng một tục ngữ để lật tẩy lối giải thích của những người đồng hương về sứ mạng của Người: "Thầy lang ơi, hãy chữa lấy chính mình" (c. 23); "chính mình" đây là dân làng của Người. Người lập luận: Đơn giản chỉ vì các ông là người đồng hương với tôi, mà các ông đòi hỏi tôi phải làm ở đây những phép lạ giống như tôi đã làm ở Caphácnaum! Họ muốn Nadarét cũng được hưởng nhờ quyền lực của Người là "thầy thuốc-thầy làm phép lạ". Nhưng một ngôn sứ không hề chiếu cố riêng đến quê hương mình (c. 24). Người phải làm việc theo kế hoạch của Thiên Chúa.
* Đức Giêsu chứng minh bằng các lối xử sự của các ngôn sứ (25-27)
Các ông cứ nghĩ đến trường hợp ngôn sứ Êlia và Êlisa. Có biết bao bà góa Israel phải đói, khi trời hạn hán ba năm sáu tháng; thế mà Êlia lại chỉ nuôi bà góa Sarépta mà thôi (1 V 17,9-16). Vào thời Êlisa, tại Israel đâu có thiếu người phong hủi; thế mà Êlisa chỉ chữa lành một người ngoại quốc mà thôi (2 V 5,1-19). Đức Giêsu từ chối liên kết các ân huệ thiên sai với những quan hệ thân tộc hoặc tình làng nghĩa xóm. Người là ngôn sứ; Người phải chu toàn một sứ mạng Thiên Chúa giao; chẳng phải là những yêu cầu của dân Nadarét có thể xác định hướng hoạt động cho Người. Đứng trước Thiên Chúa, phải bỏ đi mọi yêu sách, mọi đòi hỏi: Thiên Chúa hòan toàn tự do trong việc ban tặng các ân huệ; chỉ có một đức tin khiêm nhường và tín thác mới có thể trông chờ (chứ không đòi hỏi) một phép lạ.
* Dân chúng loại trừ Đức Giêsu (28-30)
Bởi vì Đức Giêsu không chiều theo ý họ, họ đã nổi giận và loại trừ Người. Nhưng Người còn phải tiếp tục ra đi để loan báo Tin Mừng và tiến về Giêrusalem (9,51; 13,22.33; 17,11; 19,28), tiến đến thập giá và vinh quang. Lúc này người ta chưa chặn được sứ vụ của Người. Người sẽ tiếp tục phục vụ những người nghèo ở Israel và cả các dân nước.
+ Kết luận
Con người không có quyền gì để được hưởng các ân huệ của Thiên Chúa. Không một tư cách nào cho phép con người được quyền hưởng ơn cứu độ thiên sai. Ơn cứu độ được ban cho nhân loại, nơi bản thân Đức Giêsu, hoàn toàn là ân huệ. Đó là điều mà dân Nadarét đã không muốn hiểu. Chính thái độ này, khi đã phổ biến khắp Israel, đã khiến Đức Giêsu đi ngỏ lời với mọi người ngoài Do Thái.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Vì thấy Đức Giêsu là đồng hương, dân Nadarét nghĩ Người có bổn phận chiếu cố đến họ trước. Đức Giêsu đã thẳng thắn đánh tan ngộ nhận này. Sự sai lầm của người Nadarét, người tín hữu vẫn có thể mắc phải, khi nại ra tư cách đã được rửa tội, đã sống đạo lâu năm (là người "đạo dòng, đạo gốc", là tu sĩ, là linh mục...), đã đóng góp nhiều cho Giáo Hội bằng công sức và của cải... Thiên Chúa hoàn toàn tự do ban phát các ân huệ cho bất cứ ai, như và khi Ngài muốn. Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta mãi mãi là những con người nghèo hèn, bất xứng, luôn luôn cần được Ngài chiếu cố đến. Đức Giêsu không cứu chúng ta bằng cách làm phép lạ, nhưng bách cách loan báo Tin Mừng của Người và hy sinh mạng sống cho chúng ta. Phép lạ chính là Lời của Người; chính Lời này làm ra các phép lạ và biến đổi dân chúng và sẽ tạo ra một thế giới mới.
2. Bằng cách nêu bật sứ mạng của hai ngôn sứ Êlia và Êlisa, Đức Giêsu cho hiểu rằng hoạt động của Người cũng nhằm chiếu cố đặc biệt đến Dân ngoại. Đấy là điều Đức Giêsu còn chứng tỏ khi đến sống tại Capha1cnaum, một thành đầy người ngoại giáo. Ở đây sứ mạng của người Kitô hữu được phác họa ra. Họ cũng được sai đi để chuyển trao ân phúc của Thiên Chúa cho Dân ngoại, như Đức Giêsu ngày trước, và như thế, chương trình sống của Đức Giêsu được công bố tại Nadarét (Is 61,1-2; 58,6) cũng phải là chương trình sống của mỗi Kitô hữu.
3. Với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu, bắt đầu tiến trình kết án sẽ đưa Người đến thập giá. Nhưng chính lập trường của Đức Giêsu củng cố niềm tin của chúng ta. Người chính là Đấng Mêsia đích thực của Thiên Chúa, một Đấng Mêsia không vận dụng quyền lực mình để thực hiện một hoàn cảnh cứu độ trần thế, nhưng đặt tại trung tâm sứ điệp về Thiên Chúa. Nhu thế, khi sống trong một hoàn cảnh khó khăn, cùng quẫn, ta có thể đặt trọn niềm tin nơi Ngài, bởi vì chính Ngài sẽ ban cho chúng ta ơn cứu độ trọn vẹn.
4. Trong tư cách là Con Thiên Chúa, với uy quyền lớn lao nhất, Đức Giêsu loan báo Tin Mừng cho người nghèo. Là Đấng sống một cuộc sống nghèo, Đức Giêsu chính là lời chuẩn nhận rằng Thiên Chúa dủ thương chiếu cố đến những người nghèo. Đức Giêsu quy hướng niềm hy vọng của loài người không vào của cải trần thế, nhưng vào lòng nhân lành của Thiên Chúa.
5. Đức Giêsu nói năng tự do bởi vì Người không lo lắng tìm kiếm thành công riêng tư hay lợi lộc hoặc tránh né tiếng xấu có thể lan tỏa đi các làng phụ cận, hoặc mất sự tín nhiệm nơi các thính giả. Người chứng tỏ là một nhà rao giảng có tinh thần hoàn toàn tự do. Người cho thấy có một tầm nhìn bao trùm thế giới, nhìn tới các chân trời của chính Thiên Chúa.
56. Chú giải của Noel Quesson
Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe
Đấy là kết luận bài giảng đầu tiên của Đức Giêsu trong hội trường làng quê Nagiarét: Qua bài đọc của ngôn sứ Isaia, Đức Giêsu vừa đưa ra một chương trình hành động: Rao giảng Tin Mừng cho Người nghèo hèn, giải phóng những tù nhân, đem lại sự giải thoát cho những người bị áp bức, loan báo năm hồng ân của Chúa. Lời chú giải duy nhất của Đức Giêsu nói rằng! Hôm nay, mọi sự ấy đã ứng nghiệm. Trước sự ngạc nhiên của cử tọa, Người khẳng định rằng bản thân Người đã đáp lại trọn vẹn mọi sự chờ đợi của Israel. Đức Giêsu kéo Lời Chúa từ "quá khứ" xa xôi nơi người ta muốn luôn luôn giam hãm Lời Chúa. Người yêu cầu nhân loại chớ đặt Thiên Chúa "trong quá khứ” hoặc "trong tương lai": phải là sự lan tỏa của Thiên Chúa, dự án của Thiên Chúa, trong đời sống hàng ngày của chúng ta... Hôm nay!
Và hôm nay, chẳng phải chúng ta cũng đã cố gắng kéo lui Tin Mừng trở về phía sau, vào hai mươi thế kỷ trước đây đó sao? Vậy còn những người nghèo hèn nào, những tù nhân và người bị áp bức nào hôm nay ở chung quanh chúng ta? Chúng ta sẽ mang đến cho họ Tin Mừng nào?
Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người
Tôi chiêm ngưỡng "miệng" Đức Giêsu mà Luca là người duy nhất thường nói với chúng ta (Lc 4,22; 11,54; 22,71). Những "lời ân sủng" từ miệng Đức Giêsu mà ra. Như thế, sự rao giảng của Đức Giêsu đã bắt đầu với việc khẳng định rằng thời kỳ mà Thiên Chúa ban ơn "không mất tiền" và ban sự tha thứ đã đến và đó là hôm nay: ý nghĩa sít sao của từ "giải phóng" trả lại tự do, hay "giải thoát" ("aphésis" trong tiếng Hy Lạp) là thế. Đức Giêsu đến để mang lại một "sứ điệp của ân sủng", một sự ban ơn, một quà tặng vô giá mà không ai xứng đáng được. Chúng ta phải ghi nhận rằng toàn bộ thần học của thánh Phaolô về "ân sủng" trong thư gởi tín hữu Rôma đã được viết ra khi Luca soạn thảo Tin Mừng của Người. "Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội" (Rm 5,20).
Luca đã là một môn đệ và một người bạn đồng hành của Phaolô. Không giống như Máccô (6,1-6), trước tiên Luca ghi nhận rằng việc rao giảng của Đức Giêsu được đón nhận: “Mọi người đều tán thành và thán phục?". Những người dân ở Nagiarét không xấu xa hơn ở những nơi khác: Vậy thì, tại sao họ sắp sửa trở mặt?
Họ bảo nhau: "Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?
Luca biết rất rõ đó là một biểu lộ sự ngu dốt của họ về nguồn gốc thật sự của Đức Giêsu như ngài vừa viết ra trên giấy trắng mực đen: "Thiên hạ vẫn coi Người là con ông Giuse" (Lc 3,23). Vậy thì, người ta hài lòng với "sứ điệp của Đức Giêsu, nhưng Người ta không muốn nhận sứ điệp ấy từ Người: Đó là cớ vấp phạm rất thông thường của nhân loại! Dẫu sao, đó chỉ là "con ông Giuse". Giáo Hội cũng luôn gây ra cùng một cớ vấp phạm. Người ta sẵn sàng tiếp đón sứ điệp của Giáo Hội, nhưng người ta không chấp nhận sự yếu đuối của con người trong Giáo Hội.
Giáo Hội cơ cấu giống như phần lớn các hiệp hội, với tài chính của nó, với sự nặng nề trong việc điều hành, nhưng sơ cứng của sức nặng quá khứ trong huyết quản, những tội lỗi của cách thành viên, chứng nhận định thiếu sót của một số viên chức, sự sợ hãi canh tân, những mâu thuẫn giữa “nói" và "làm". Người ta không bao giờ nhận xét hết những khía cạnh "quá" con người của Giáo Hội. Như thế, những người dân ở Nagiarét bị kẹt cứng trong định kiến "con ông Giuse".
Người nói với họ: "Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!
Đức Giêsu không tìm cách làm giảm nhẹ cuộc xung đột mà Người đoán trước: Chính Người đã tấn công. "Vậy ông hãy làm cho chúng tôi những phép lạ như ông đã làm ở những miền lân cận!". Người ta không ngừng đặt "cơn cám dỗ" lớn ấy dưới chân Đức Giêsu. Đó là cơn cám dỗ của satan (Lc 4,l-14). Người ta đòi hỏi Đức Giêsu những "dấu chỉ từ trời xuống" (Lc 11,16).
Một trong những cách chối bỏ Thiên Chúa là yêu cầu Chúa làm các phép lạ. Chúng ta tiếp tục có thái độ của người dân ở Nagiarét. Chúng ta muốn có một Thiên Chúa tỏ mình ra thêm chút nữa, một Thiên Chúa giải quyết những vấn đề của chúng ta thay cho chúng ta. Vả lại Thiên Chúa không thích vai trò mà chúng ta muốn ép Người làm. Thiên Chúa không thích điều ngoại lệ, kỳ diệu và ly kỳ. Khi Người chữa lành một người mù không phải để làm cho chúng ta kinh ngạc mà để ám chỉ cho chúng ta biết rằng Người muốn chữa sự mù lòa vốn có của tất cả chúng ta. Khi Người chữa lành một người bị liệt nằm trên cáng, vì Người mong muốn chữa lành mọi người chúng ta khỏi một bệnh liệt còn nặng hơn nhiều là tội lỗi của chúng ta. Điều đó được nói rõ ràng trong Tin Mừng (Lc 5,17-26).
“Vậy ông cũng hãy làm tại đây một phép lạ cho chúng tôi”. Chúng ta cũng thế, có lúc chúng ta tưởng rằng mình phục vụ Thiên Chúa theo cách đó. Vả lại, muốn xếp đặt Thiên Chúa "để phục vụ chúng ta" chính là chối bỏ Người. Tối hậu thư bi đát. Tối hậu thư buồn cười. Con người tìm đến trước mặt Chúa và yêu cầu Người "làm" điều mà mình mong mỏi, điều phục vụ cho mình? Thách thức Thiên Chúa? Giảm lược Thiên Chúa để Người chỉ còn là một "động cơ phụ gỡ rối cho chúng ta khi cái xe: không còn chạy được nữa. Oi! Lạy Chúa, con nhận ra mình ở trong số những người đồng hương của Chúa ở Nagiarét! Xin Chúa giúp con trở lại với lòng con để bắt đầu phục vụ Chúa, thay vì đòi Chúa phục vụ con. Thay vì lúc nào cũng nói ‘nguyện ý con được thể hiện bởi Chúa, con phải nói trong chân lý rằng nguyện ý Cha được thể hiện bởi con’
Người nói tiếp: "Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình
Không, người ta chẳng chịu nghe cách ngôn sứ.
Làm ngôn sứ chẳng dễ chịu chút nào, phiền toái là đằng khác! Nghĩa là làm “người phát ngôn" của Thiên Chúa. Giêrêmia trong bài đọc một của chủ nhật này nói với chúng ta điều đó một cách thật đau đớn. Thiên Chúa không phải lúc nào cũng nói những lời dễ nghe. Vì thế nhiều ngôn sứ đã phải chết: "Giêrusalem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi!” (Mt 23,37). Đấy là một chủ đề của Luca (6,23; 11,47-50; 13,33-34; Cv 7,52).
Còn chúng ta, trong thế giới mà đa số là vô tín và duy vật, nhưng chúng ta có phải là những ngôn sứ không? không phải trong những lúc đặc biệt mà trong đời thường mỗi ngày; nắm chắc "chính nghĩa của Thiên Chúa", nắm chắc lời "vì Chúa” (từ ngôn sứ trong tiếng Hy Lạp do chữ "pro-phèmi" có nghĩa là "tôi nói vì").
Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Êlia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xarépta miền Xiđôn.
Luca, môn đệ của thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại, là người duy nhất đưa ra sự so sánh này lấy ra từ Cựu ước để nhấn mạnh đến những ân huệ mà Thiên Chúa ban cho những người không phải là dân Do Thái. Biến cố ở Nagiarét mang dáng dấp của một chủ đề thần học: ơn cứu độ không dành riêng cho một số người đặc quyền. Thiên Chúa muốn cứu chuộc mọi người. Thiên Chúa yêu thương dân ngoại. Không có Đất Thánh, không có Dân được chọn. Chúng ta sẽ lạm dụng ngôn ngữ mạc khải nếu chúng ta sử dụng những cách diễn tả của Kinh Thánh một cách cố chấp như thể những miền đất khác bên ngoài Israel là phàm tục, như thể các dấn tộc khác bị loại trừ khỏi Giao ước Thiên Chúa không có biên giới! Thiên Chúa còn bao la, cao cả hơn những chân trời nhỏ bé của bản thân chúng ta! Người ta không thể giam hãm con ông Giuse trong cái "hố" ở Nagiarét của Người. Thiên Chúa cao cả hơn Giáo Hội hữu hình. Những người ngoài Kitô giáo không nằm bên ngoài ân sủng của Thiên Chúa.
Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Êlisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ co ông Naaman, người xứ Xyri thôi
Trong sự so sánh giữa Israel và các dân ngoại, mọi ưu điểm thuộc về dân ngoại. Khi nào có thể, Đức Giêsu đều thán phục đức tin của các dân ngoại, những người không phải là Do Thái, những người Samari dị giáo (Lc 9,23.47; 10,33; 17,16). Thật lạ lùng khi tôn giáo có thể làm sơ cứng lòng người. Từ hai ngàn năm rồi Israel đã chờ đợi Đấng Mêsia, nhưng đức tin của họ bị sơ cứng. Đó là lời cảnh báo cho tất cả những ai tưởng rằng mình thân thiết với những việc của Thiên Chúa, tưởng rằng mình được hưởng, một nền giáo dục Kitô giáo tốt đẹp, và việc thường xuyên tham dự các bí tích bảo đảm. "Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông" (Lc 7,34).
Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực
Đây là sự tiên báo số phận sau cùng của Đức Giêsu. Người bị giết bên ngoài thành (Lc 20,15; Cv 7,57). Chúng ta hẳn sẽ lầm khi vội vã tưởng rằng mình ở về phía những người lương thiện và được miễn trừ thái độ của những người đồng hương với Đức Giêsu. Rất nhiều lần, chúng ta cũng "lôi" Đức Giêsu ra khỏi những quyết định của chúng ta, nhà chúng ta, nghề nghiệp chúng ta. Ong không can dự gì ở nhà tôi! Hỡí ngôn sứ, đi chỗ khác mà thuyết giáo.
Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi
Những từ khước của tôi không thể ngăn Con Thiên Chúa theo đuổi kế hoạch của Người với những người khác. Điều tệ hại là tôi không biết ngạc nhiên nhiều hơn! Giữa những trào lưu của lịch sử, những từ khước của con người, Đức Giêsu tiếp tục "con đường của Người”. Lạy Chúa, cám ơn Chúa!
29/01 Chúa Giêsu quyền năng
- Viết bởi Mc 4, 35-41
Chúa Giêsu quyền năng.
Thứ Bảy tuần 3 thường niên.
"Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
LỜI CHÚA: Mc 4, 35-41
Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ". Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người.
Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?"
Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi". Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?" Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tại sao anh em sợ?
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Chẳng hiểu tại sao lúc chiều xuống,
Đức Giêsu lại bảo các môn đệ đưa mình qua bờ phía đông của Biển hồ,
trên con thuyền mà Ngài ngồi giảng các dụ ngôn (Mc 4,1).
Do địa thế đặc biệt, hồ Galilê hay có những trận cuồng phong ập đến bất chợt,
tạo ra những cơn bão lớn trên sóng nước.
Tối hôm ấy, thầy trò đã gặp một cơn bão như vậy.
Thầy Giêsu phó thác mọi sự cho các môn đệ vốn là ngư phủ lành nghề.
Thầy mệt nên ngủ say ở đuôi thuyền, ngủ trên một cái gối.
Trong khi đó các môn đệ phải vật lộn với sóng gió, nước tràn đầy thuyền.
Họ có vẻ mất bình tĩnh khi thấy cơn giông bão không đánh thức Thầy được.
Chính họ đánh thức Thầy bằng một lời trách móc:
“Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi mà Thầy chẳng lo gì sao?” (c.38).
Thầy Giêsu đã thức dậy, và đã làm cho biển lặng, gió yên.
Đời con người ai tránh được sóng gió bất chợt.
Nếu biết trước sẽ gặp sóng gió, ai dám vượt biến ban đêm.
Sóng gió xảy ra trong đời riêng của mỗi người, trong gia đình,
trong đất nước, trong Giáo Hội, trên thế giới.
Sóng gió làm ta thấy mình con thuyền đời mình chòng chành, mong manh,
và khiến ta sợ hãi, hoảng loạn.
Giữa cơn sóng gió có khi người tín hữu lại thấy Chúa lạnh lùng, vô cảm.
Như các môn đệ, chúng ta không hiểu tại sao Chúa có thể ngủ được
khi đời ta bị đe dọa bởi cuồng phong,
tại sao Chúa vắng mặt, thinh lặng và khoanh tay
vào lúc chúng ta cần đến Ngài hơn cả.
“Tại sao anh em sợ? Anh em không có lòng tin sao?” (c.40).
Anh em không tin là Thầy đang ở trong cùng một con thuyền với anh em sao?
Lẽ ra chúng ta phải cảm thấy yên tâm
khi nhìn Chúa ngủ giấc ngủ tín thác của trẻ thơ ngay giữa cơn giông bão.
Nhìn Chúa ngủ bình an, chúng ta hiểu rằng chẳng có gì đáng sợ.
Vâng lời Chúa để qua bờ bên kia, và có Chúa trong con thuyền đời mình,
điều đó không làm chúng ta tránh được giông bão,
có khi lại gặp bão tố nhiều hơn.
Nhưng điều chắc chắn là chúng ta sẽ qua được bờ bên kia
với lòng tin được tôi luyện của người tín hữu dày dạn.
Chúng ta dám tin Chúa có quyền trên sóng gió của đời ta không?
Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
Suy Niệm 2: Chưa có lòng tin
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Biển khơi là một sức mạnh đáng sợ. Nhất là khi biển nổi sóng gió. Các môn đệ sợ hãi là bình thường. Tại sao Chúa mắng các ông: “Sao nhát thế? Anh em vẫn chưa có lòng tin sao”. Vì đã trải qua nhiều sự kiện như phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa Giê-su đi trên mặt nước. Tất cả chứng tỏ Chúa làm chủ vật chất. Là Chúa Tể muôn loài. Đã được chứng kiến những phép lạ như thế mà các ông vẫn còn chưa có lòng tin. Đó là điều khiến Chúa buồn. Và hôm nay nữa. Sau khi Chúa quát mắng “ngăm đe gió, và truyền cho biển: “Im đi! Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ”. Thế mà các ông vẫn chưa nhận biết Chúa. Lại còn thắc mắc hỏi nhau: “Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”
Chẳng sánh được với tổ phụ Áp-ra-ham. Luôn tin tưởng nơi Chúa. Tin vào lời Chúa hứa cho một miền đất chảy sữa và mật. Nên sẵn sàng ra đi. “Ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu”. Tin vào lời Chúa hứa cho một dòng dõi đông như sao trên trời như cát dưới biển. nên “bà Xa-ra, vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín”. “Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa”. Dám sát tế I-xa-ác, đứa con duy nhất. “Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết trỗi dậy”. Quả là một đức tin lớn lao. Trọn vẹn. Không lay chuyển (năm lẻ).
Có lẽ Đa-vít gần gũi với ta hơn. Vì tuy tin Chúa. Nhưng có lúc yếu đuối mất đức tin. Ông đã cư xử như người không có đức tin. Đã chiếm đoạt vợ của U-ri-gia. Lại còn giết chết ông này nữa. Nhưng khi được tiên tri Na-than cảnh tỉnh, ông đã ăn năn sám hối. Ông chấp nhận những hình phạt của Chúa với tinh thần sám hối, vâng phục sâu xa. “Đa-vít nói với ông Na-than: “Tôi đắc tội với Đức Chúa”. Ông đã biểu lộ đức tin sâu xa. Khi đứa trẻ bị bệnh nặng, “Vua Đa-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất”. Cũng như Áp-ra-ham, vua Đa-vít tin tưởng, dù không hi vọng gì. Đó cũng là một đức tin lớn lao (năm chẵn).
Xin cho chúng ta có một đức tin vững vàng vì “đức tin là bảo đảm cho những điều ta hi vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”. Để ta an vui sống giữa dòng đời đầy biến động thăng trầm này.
Suy Niệm 3: Sóng gió cuộc đời
Sự kiện Chúa Giêsu và các môn đệ sang bên kia biển hồ, như được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, không phải chỉ có ý nghĩa địa lý: di chuyển từ nơi này sang nơi nọ, cũng như sóng gió nổi lên không chỉ mang ý nghĩa về khí tượng thuần tuý; nhưng các biến cố đó còn mang ý nghĩa thần học nữa. Chúa Giêsu và các môn đệ rời bỏ miền đất Israel để đi sang phía dân ngoại, điều đó mang ý nghĩa truyền giáo; sóng gió nổi lên tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ, của ma quỷ nổi lên chống lại Chúa và các môn đệ.
Tuy nhiên, như trình thuật Tin Mừng cho thấy, lúc đó Chúa Giêsu đang ở đàng lái, gối đầu mà ngủ. Giấc ngủ ấy khiến ta liên tưởng đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá. Trong cái chết đó, Chúa Giêsu dường như đã thất bại, trong khi đó các quyền lực sự dữ tưởng chừng như đã thành công, vì đã thủ tiêu được người mà họ coi như kẻ thù, như kẻ quấy rầy nền đạo đức tôn giáo của họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã thức dậy, nghĩa là Ngài đã phục sinh, và sự Phục Sinh của Ngài loan báo cuộc chiến thắng vĩ đại của Ngài trên mọi quyền lực của ma quỷ và sự dữ cũng như của bất cứ thế lực nào chống đối Giáo Hội.
Ðời sống của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt trong những thử thách, phong ba của cuộc đời. Ðiều quan trọng là chúng ta biết chạy đến cầu nguyện với Chúa để Ngài làm yên cơn sóng gió và dẫn đưa con thuyền cuộc đời chúng ta về tới bến bờ bình an.
Ước gì chúng ta luôn có được xác tín của thánh Phaolô Tông đồ: Thiên Chúa không để chúng ta bị thử thách quá sức chịu đựng, Ngài sẽ ra tay cứu giúp mỗi khi chúng ta kêu cầu đến Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Một thế giới thù địch và đầy biến động
Hôm ấy, khi chiều đến, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta sang bờ bên kia đi!” Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên thuyền; có những thuyền khác cùng đi theo Người. Và một trận cuồng phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. (Mc. 4, 35-37)
Tôi mượn lời một bài ca của John Littleton làm đầu đề cho bài suy niệm này, bởi vì hai phẩm tính trên đây giải thích khá rõ kinh nghiệm các môn đệ Chúa đã sống ở trên Biển Hồ, buổi chiều hôm đó.
Một thế giới thù địch
Câu chuyện Chúa dẹp yên sóng gió có thể được nhìn ở hai bình diện: biểu tượng và mô tả. Về mặt biểu tượng thì biển động là hình ảnh tượng trưng cho những thế lực chống đối Thiên Chúa. Đó là hình ảnh nói lên mối thù địch giữa dòng dõi những kẻ bất phục tùng Thiên Chúa và chính Thiên Chúa. Do đó trên bình diện này, việc Đức Kitô dùng quyền năng dẹp yên sóng gió là dấu chỉ không những Người làm chủ các mãnh lực thiên nhiên và vũ trụ, mà nhất là Người có quyền năng trừ quỷ, bá chủ các thế lực bất phục tùng và sức mạnh của tội lỗi.
Thế nên các Tông đồ cũng giống như các người Pharisiêu thường đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: Vậy người này là ai mà có quyền tha tội, chữa lành bệnh? Vậy người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?
Còn chúng ta, chúng ta có tin tưởng vào Đức Kitô này không? Người là Đấng Cứu chuộc có khả năng trấn áp và cứu chuộc chúng ta khỏi mọi thế lực địch thù, ta có tin tưởng vào Người không?
Một thế giới đầy biến động
Về mặt mô tả, câu chuyện này cũng tra vấn cuộc đời của ta. Cuộc hành trình vượt biển này mô tả khá rõ cuộc sống đời thường của ta.
Sau một ngày vất vả với đám đông, Chúa Giêsu cảm thấy mệt mỏi và muốn tìm được nghỉ ngơi yên tĩnh và thân tình: “Người ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ”.
Chính lúc đó, một trận cuồng phong nổi lên, và sóng ập vào thuyền. Phải chăng là một trận cuồng phong quá lớn? Có lẽ không, vì Chúa Giêsu dầu sao vẫn ngủ được, nhưng cơn biển động này làm cho các người vượt biển phải bất an.
Mỗi ngày, ta xao xuyến lo âu vì thế giới biến đọng: những vụ đình công, những cảnh cướp đọat, những tai nạn, nếp sống cuồng lọan, những cuộc biểu tình… Chúng ta như đang ở trong thuyền, có Chúa Giêsu ở đó, nhưng Người đang ngủ.
Phải chăng chúng ta không nghe lời Chúa phán với Mác-ta khi cô quá lo lắng cho bữa ăn tối: “Mác-ta còn lo lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá!” Chỉ có một chuyện cần thiết, đó là Thầy đang ở đây… mặc dầu Thầy đang ngủ…
Gần Đức Giêsu, con người không có quyền sợ hãi, mất lòng tin tưởng.
Suy Niệm 5: Có Chúa, sẽ bình an
Trong một trại tù nọ, người ta nhận thấy có một vị giám mục khoảng ngoài 60 tuổi. Họ thấy ngài rất bình an và vui tươi, mặc dù bản án dành cho ngài là bất công, và hình khổ mà ngài phải chịu quả là đớn đau.
Khi được hỏi: “Thưa đức cha, tại sao đức cha bình an đến như vậy? Người ta bỏ vạ, vu khống đức cha mà đức cha vẫn vui tươi??”
Đức cha trả lời rằng: “Thưa, tôi làm gì và ở đâu đều có Chúa. có Chúa là niềm vui và bình an. Hạnh phúc của đời người là khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa và được sống với Ngài. Tôi được sống với Ngài và trong Ngài, lẽ nào tôi không vui!”.
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu và các môn đệ đang trèo thuyền sang bờ bên kia. Đang khi thuyền ra giữa biển thì bị trận cuồng phong ập tới, khiến thuyền của họ đầy nước và có nguy cơ chìm. Các môn đệ thi nhau tát nước và trèo trống... Đến khi họ không còn trụ nổi nữa, lúc đó, họ gọi Đức Giêsu và trách móc Ngài: “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?”. Đức Giêsu liền thức dạy và ngăm đe gió, tức thì thuyền yên biển lặng. Mọi người ngỡ ngàng và thốt lên: “Ông này là ai mà gió và biển cũng phải tuân lệnh?”
Trong hành trình theo Chúa, có nhiều lúc chúng ta gặp phải những thử thách gian nan, những đêm tối đức tin, làm cho chúng ta hoang mang! Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng: trong con thuyền cuộc đời của mỗi người luôn có Chúa ở cùng, điều quan trọng là chúng ta có nhận ra sự hiện diện của Chúa hay không? Nếu chúng ta nhận ra Chúa có mặt thì hẳn tất cả những điều nghịch cảnh đến với ta, ta không hoang mang, hốt hoảng như các môn đệ của Ngài khi xưa, ngược lại, chúng ta khám phá ra giá trị và ý nghĩa của nó, lúc đó, chúng ta sẽ vui tươi và bình an ngay trong những thử thách của cuộc đời, vì có Chúa là có tất cả.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con niềm tin vào Chúa. Xin cho chúng con biết Chúa quyền năng để chúng con nương tựa vào Chúa trong mọi nơi, mọi lúc của cuộc đời chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Thiên Chúa quyền uy và đầy sức mạnh
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu đang ở trên thuyền với các môn đệ. Ngài dùng quyền năng để dẹp tan sóng gió. Hôm nay Chúa cũng đang hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy lên tiếng cầu cứu, Chúa sẽ ra tay cứu giúp.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thật là thú vị khi chứng kiến cảnh Chúa dẹp tan bão táp giữa biển khơi. Phép lạ Chúa làm thật bất ngờ. Điều đó khơi dậy nơi tâm hồn con ý thức về một Thiên Chúa quyền uy và đầy sức mạnh.
Sống giữa biển đời với bao sóng gió gian nan thử thách, tâm hồn con chao đảo tưởng chừng như đắm chìm. Lạy Chúa, xin ban thêm niềm tin để con nhận ra Chúa đang hiện diện nơi cuộc đời con. Chúa vẫn “hiện diện một cách vắng mặt”, hiện diện một cách kín đáo.
Con muốn xác tín rằng: Thiên Chúa con tin thờ là Thiên Chúa quyền uy. Con biết rằng nếu Chúa muốn, Chúa sẽ ra tay dẹp yên sóng biển. Nhưng đối với con, điều quan trọng nhất là xin Chúa nâng đỡ cuộc đời con, để con vượt thắng những gian nan thử thách trong cuộc sống: một sự hiểu lầm, người thân đau ốm lâu ngày, mùa màng thất thu, con cái ngỗ nghịch ngang bướng…
Con tin Chúa vẫn đang hiện diện nơi cuộc đời con. Đôi vai trĩu nặng những trái ý, con không chịu đựng một mình nhưng được chia sẻ trên đôi vai của Chúa nữa. Xin giúp con nhận ra được sự hiện diện của Chúa trong gia đình. Sự hiện diện ấy là ánh sáng giúp nhận ra con người thật của con, như luồng sáng soi tỏ những hạt bụi li ti. Sự hiện diện ấy là sức mạnh đỡ nâng và giải thoát, như hôm nào trên biển, Chúa uy quyền dẹp yên bão tố. Amen.
Ghi nhớ: “Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?”
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Gióp là một người công chính, ngay thẳng, thế nhưng ông đã gặp biết bao thử thách trong đời… Gióp đã có lúc mất hy vọng:
“Tôi thừa hưởng, những tháng ngày tuyệt vọng. Ngả lưng nằm, tôi thầm nhủ: Khi nào trời sáng đây? Vừa thức giấc, tôi đã lại hỏi: Khi nào trời lại tối?... Và ngày qua ngày: Một ngày đời tôi, thấm thoắt hơn thoi đưa, và tàn lụi không hy vọng” (G 7,4.6).
“Từ cơn dông tố” của cuộc đời Gióp và giữa những phát biểu nhân sinh quan để giải thích sự đau khổ theo lý thuyết suông, dựa trên tư tưởng của con người, Thiên Chúa đã nói với Gióp: Trong những đau khổ, những sự việc khó hiểu và bí ẩn của một cuộc đời, hãy luôn xác tín vào Thiên Chúa, Ngài là chủ vũ trụ vạn vật, Ngài hiển trị trên tất cả, Ngài sẽ dẹp tan mọi sóng gió của cuộc đời như Lời Ngài ra lệnh với nỗi khổ của Gióp: “Vỗ sóng ba đào cũng phải dừng tại đây” (G 38,11).
Những gì Gióp trải qua, Thiên Chúa mời gọi ông hãy tin tưởng, phó thác và cậy trông vào Người! Thật thế, Gióp đã tín thác vào sự cứu giúp của Thiên Chúa như Thánh Vịnh đã phác họa: Quyền năng và tình thương của Chúa luôn làm cho con vững dạ an lòng (x. Tv 23,4). Niềm tin của ông, của Vịnh Gia cũng là niềm tin và hy vọng của mỗi người chúng ta khi vượt qua biển đời đầy sóng gió…
Suy niệm
Trong Kinh Thánh, gió và biển luôn tượng trưng cho náo loạn và sự dữ, luôn đối nghịch với Thiên Chúa.
“Chiều tối đến” thuyền vẫn lướt sóng để mong về đến bến. “Chiều tối đến”, không chỉ là màn đêm buông xuống, mà còn là “giờ của bóng tối”, giờ của thử thách (x. Mc 14,17; Ga 9,4-13.30) của cuồng phong nổi lên. Bão táp với những cơn sóng nhấp nhô như muốn nhấn chìm con thuyền, mọi người đều cố gắng chống chọi với cơn phong ba mà lòng đầy sợ hãi.
Thầy đâu rồi, Thầy đâu rồi,… “Đức Giêsu đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ” (Mc 4,38a). “Đức Kitô ngủ”, hình ảnh phác họa như là Thiên Chúa bỏ mặc con người trước phong ba bão tố cuộc đời, “Ngài ngủ” như là hình ảnh bất lực của Thiên Chúa giữa những tuyệt vọng, đau khổ của con người, hình ảnh bất lực của Thiên Chúa trước sự dữ.
“Trỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: “Hãy im đi, hãy lặng đi”. Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ”. Ngài trỗi dậy từ giấc ngủ và Ngài chế ngự mọi sóng gió phong ba.
Vượt biển đời, Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh tôi và bạn ngay cả khi bình an hay chúng ta vất vả lao đao giữa giông tố ngoài biển khơi. Trong bão tố phong ba đâu là thái độ của chúng ta:
Như các tông đồ, chúng ta đánh thức Ngài trỗi dậy để xin Ngài xin cứu giúp: Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chúng con chết mất.
Hay chính chúng ta lại hốt hoảng, tuyệt vọng trước sóng gió biển đời và buông xuôi tất cả để cho thuyền bị phong ba nhấn chìm vì không cố gắng tìm kiếm sự hiện diện của Ngài.
Nỗi sợ hãi làm chúng ta quên sự hiện diện và quyền năng của Ngài.
Giữa sóng gió bão tố cuộc đời, con luôn vững tin và hy vọng, chính vì tin vào Ngài làm nên sức mạnh khiến con có thể đứng vững trước tất cả mọi giông tố cuộc đời.
Ý lực sống:
“Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa,
Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân” (Tv 107,13).
Suy Niệm 8: Chúa dẹp yên sóng gió
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1 Sau một loạt bài nói về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, hôm nay thánh Marcô kể lại cho chúng ta phép lạ Chúa dẹp yên sóng gió trên biển cả. Chúa Giêsu ngồi trên thuyền giảng dạy dân chúng. Giảng xong, Người bảo các môn đệ chèo thuyền qua biển hồ Tibêriat mà sang miền Ghêrasa... Bỗng cơn bão lớn nổi lên, sóng tạt nước vào thuyền sắp chìm. Các môn đệ sợ hãi, còn Chúa thì nằm ngủ ở sau lái. Các ông vội vã đánh thức Người và nói: “Thầy ơi! Chúng ta chết mất”. Người chỗi dậy truyền khiến sóng gió yên lặng, rồi bảo các ông: “Sao anh em nhát đảm quá! Anh em chưa tin Thầy sao”? Còn các ông thì khiếp vía hỏi nhau: Người là ai mà sóng gió phải vâng phục Người?
2. Biển hồ Tibêriat này cũng có tên gọi là Galilê. Biển có chiều dài 21 km và chỗ rộng nhất là 13 km. Thung lũng Jordan là một vết nứt sâu trên mặt đất và biển Tibêriat là một phần của vết nứt đó. Nó thấp hơn mặt biển 200 mét nên khí hậu ấm áp dễ chịu, nhưng cũng đem lại nhiều nguy hiểm. Bên phía tây có núi non, thung lũng, khe suối, nên khi gió lạnh từ phía tây thổi đến thì thung lũng, khe suối này có tác dụng như những cái phễu lớn. Gió bị nén trong đó và thổi ào ào xuống hồ bất thình lình với sức gió dữ dội đến nỗi mặt hồ phẳng lặng biến thành sóng gió gào thét. Vì thế, biển Tibêriat hay nổi lên những cơn sóng gió bão táp vào ban chiều hay ban đêm.
3. Các môn đệ chưa hiểu rõ con người Đức Giêsu, các ông coi Ngài cũng chỉ là một Đấng tiên tri có quyền phép, làm được nhiều phép lạ để cho nhiều người tin theo, nên các ông mới thắc mắc với câu hỏi “Người này là ai”? Khi bão tố yên lặng, các ông chứng kiến một việc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn thành. Điều đó có ý nghĩa là Đức Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa. Thực ra, họ mới biết Đức Giêsu theo quan niệm của người đương thời. Đồng thời, nhờ phép lạ này cho thấy Đức Giêsu chăm sóc các môn đệ của Ngài.
Theo suy luận của J. Hervieux thì “khi đọc lại câu chuyện Chúa đi qua biển và dẹp yên sóng gió như vậy, Marcô cố gắng đáp ứng những nhu cầu hiện thực của Giáo hội thời Ngài. Những tín hữu Rôma đang phải điêu đứng vì những cuộc bách hại. Họ đang sống trong nỗi lo sợ, giống như các môn đệ trong con thuyền vượt biển xưa. Đối với họ, Đức Kitô hình như đang ngủ. Việc Ngài “vắng mặt” rõ ràng trong những biến cố bi thảm họ đang sống, tạo cho họ thêm e dè sợ sệt! Chúa phải làm gì để giải thoát họ khỏi cảnh chết chóc đang rình rập” (Fiches dominicales, năm B, tr 207).
4. Đường lối sư phạm của Chúa rất huyền diệu, ta không hiểu nổi, nhưng dầu sao nó cũng nhắm giúp chúng ta tin tưởng rằng trong mọi nơi mọi lúc “Con thuyền Giáo hội lúc nào cũng bị sóng gió dập dồn” (theo Tertullianô), nhưng không sao, không bị chìm được vì luôn có Ngài ở đó, Ngài có vẻ ngủ nhưng thực ra Ngài vẫn thức để theo dõi chúng ta chèo chống và chờ đợi chúng ta kêu cầu Ngài giúp đỡ. Theo nhận xét của chúng ta, dù có Đức Giêsu ở trong thuyền với các môn đệ thì bão tố vẫn xẩy ra. Vì thế, dù bão tố có chụp xuống chúng ta, điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa đã bỏ rơi chúng ta. Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ không nghi ngờ Ngài ở với chúng ta, và chúng ta sẽ hướng về Ngài để cầu xin và tin chắc rằng Ngài sẽ đến giúp đỡ.
5. Một ngày kia, viên lái đò chở hoàng đế César qua sông, thấy sóng cả đã ngả tay chèo, được hoàng đế phán ra một câu bất hủ: “Anh không biết là anh đang chở hoàng đế César sao”?
Một vị hoàng đế bất lực trước cơn cuồng phong dữ dội, thế mà dám nói những lời như thế! Thì huống hồ ở đây, không phải là vị vua trần thế mà là vua cả trên trời Ngài làm sao cho sóng gió bão táp phải lặng yên sao! Thánh vịnh đã nói:
Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng
Sóng đang gầm, bỗng im tiếng.
Họ vui mừng vì trời yên bể lặng
Và Chúa dẫn đưa về bến mong chờ. (Tv 107,29-30)
6. Mỗi người chúng ta không khác gì chiếc thuyền nan chông chênh giữa biển trần gian đầy sóng gió bão táp, khó khăn nối tiếp khó khăn. Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mình hay dựa vào một quyền năng nào đó thì chúng ta sẽ thất bại. Ai có thể cứu chúng ta thoát khỏi sóng gió ba đào khi chiếc thuyền của chúng ta sắp chìm? Chỉ còn có Thiên Chúa. Ngài như người Cha lái con tầu vững chắc trên biển cả, chúng ta là con chỉ biết tin tưởng vào quyền năng của Người Cha trên trời. Có Chúa trong đời, Ngài sẽ hướng dẫn cuộc đời của mỗi chúng ta. Lúc đó, những cô đơn như bị xóa nhòa, những khó khăn dường như nhỏ lại, những yếu đuối như được sức mạnh. Chúng ta không cầu xin cho cuộc đời mình như biển lặng, nhưng xin cho cõi lòng chúng ta được tĩnh lặng ngay giữa lúc biển động.
7. Truyện: Cha tôi cầm lái con tầu.
Một thi sĩ người Anh, ông Byron, có viết một câu chuyện như sau:
Hôm ấy, một con tầu đang rẽ sóng lướt đi trên mặt biển mênh mông. Bỗng chốc, bầu trời kéo mây đen đặc. Rồi giông tố âm ầm nổi lên, sấm chớp kinh hoàng. Mưa càng lớn, gió càng mạnh. Các hành khách kêu la hỗn loạn. Duy có một em bé cứ ngồi chơi trên boong tầu như không có gì xẩy ra cả.
Lạ lùng, một thủy thủ dương to đôi mắt hỏi em:
- Em không sợ chết sao?
Cậu bé thản nhiên trả lời:
- Sao lại sợ? Chính ba em cầm lái con tầu này mà!
Suy Niệm 9: Phép lạ dẹp yên bão tố
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Các đoạn Tin mừng từ thứ Bảy tuần này đến thứ ba tuần sau lần lượt kể các phép lạ của Chúa Giêsu, mỗi phép lạ mặc khải một khía cạnh khác của mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Phép lạ dẹp yên bão tố này chứng tỏ uy quyền của Chúa Giêsu trên sức mạnh của thiên nhiên:
- Những chi tiết mô tả sức mạnh của thiên nhiên: Một trận cuồng phong, sóng ập vào thuyền, thuyền đầy nước, các môn đệ hoảng sợ...
- Những chi tiết mô tả sức mạnh ưu việt của Chúa Giêsu: Ngài vẫn ngủ, Ngài hăm đe gió và truyền cho biển, sau chỉ một lời truyền của Ngài gió liền tắt và biển lặng như tờ, sau phép lạ các môn đệ hỏi nhau: "Người là ai mà cả đến gió lẫn biển cũng tuân lệnh?"
B. Suy niệm (...nảy mầm)
1. Vì Chúa là Chúa tể thiên nhiên nên khi nhìn thiên nhiên, chúng ta phải dâng lời ca tụng Chúa:
Chúc tụng Chúa đi mọi cơ binh thượng giới
Chúc tụng Chúa đi mặt trời với mặt trăng
Chúc tụng Chúa đi hỡi tinh tú muôn ngàn
Chúc tụng Chúa đi nào mưa sương tất cả
Chúc tụng Chúa đi mọi luồng gió cơn giông
Chúc tụng Chúa đi sức nóng với lửa hồng
Chúc tụng Chúa đi trời nồng và khí lạnh
Chúc tụng Chúa đi nào sương đọng mưa tuôn
Chúc tụng Chúa đi kìa trời đông tiết giá
Chúc tụng Chúa đi băng phủ tuyết rơi
Chúc tụng Chúa đi hỡi đêm ngày đắp đổi
Chúc tụng Chúa đi ánh sáng và bóng tối
Chúc tụng Chúa đi chớp giật với mây trôi. (Tv 62)
2. Sức mạnh thiên nhiên cũng là những hiện tượng tự nhiên xảy đến trong cơ thể ta. Thí dụ: lúc ta khỏe khi ta bệnh, khi ta trẻ lúc ta già...
Có lúc sức khỏe suy sụp làm ta tưởng mình đang ở trên một chiếc thuyền gặp cuồng phong bão táp. Và khi đó hình như Chúa vẫn ngủ. Những thực sự Ngài không ngủ, Ngài vẫn là người lèo lái dẫn dắt thuyền đời của ta. Hãy phó thác cho Ngài dẫn dắt.
3. Thi sĩ Lord Tennyson và một người bạn đang đi dạo trong vườn hoa và cùng nhau trao đổi về những chủ đề thời thượng của quần chúng. Là một Kitô hữu, người bạn muốn biết thái độ của thi sĩ dối với Đức Kitô như thế nào. Sau mấy giây thinh lặng người bạn hỏi: "Anh có khi nào nghĩ về Đức Kitô không?"
Tennyson đưa tay ngắt một bông hoa rực rỡ tỏa hương bên đường và nói: "Như mặt trời dối với đóa hoa thế nào, thì Đức Kitô dối với tôi cũng vậy." (Góp nhặt)
4. "Người này là ai mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?"
Khi cuộc chiến tranh kết thúc, tôi và các con di cư vào nam để tìm chống. Chúng tôi đã bám trụ trên mảnh đất Sài Gòn cho đến khi được tin tức chồng và biết được nơi ở hiện tại của anh ấy. Chúng tôi mừng lắm, vội vã tìm đến địa chỉ đó thì hỡi ơi, anh ấy đã phản bội đi theo người đàn khác bà giầu sang hơn. Cuộc đời tôi đến đây như đã hết. Tôi đau khổ và chỉ muốn chết thôi. Vì các con nên tôi đã tiếp tục sống và vượt qua tất cả những bất công, những cay đắng của cuộc đời. Trở về Hà nội ư? Cón mặt mũi nào! Ở lại Saigòn này ư? Tôi thẫn thờ bước đi cho đến khi gặp được một ngôi thánh đường. Tiếng chuông chiều như mời gọi. Thế là chúng tôi bước vào ngôi thánh đường. Chúng tôi bắt gặp một người đàn ông trần trụi trên Thập giá, trông còn tội nghiệp hơn chúng tôi nhiều. Như gặp được người đồng cảm với mình, chúng tôi liền quì xuống và thổ lộ tâm tình....Giờ thì tôi tìm được một nơi ở và công việc ổn định cho cuộc sống. Và Ngài đã trở thành người yêu của tôi, người cha của những đứa con tôi" (Trích lời tâm sự của một phụ nữ tân tòng)
Cuộc sống quanh ta có biết bao điều kỳ diệu. Và khám phá được quyền năng của Thiên Chúa, Đấng giúp chị ta khỏi những hụt hẵng của cuộc sống, hiểu được ý nghĩa của hai tiếng yêu thương và tìm lại cho mình một cuộc sống hứng khởi.
Luôn có Chúa trong tâm hồn
Có một người đàn bà đạo đức nọ trong cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ có hy vọng duy nhất để cứu sống là phải chịu một cuộc giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận cuộc giải phẫu với hy vọng còn tiếp tục sống để lo cho người con trai của bà.
Khi người ta bắt đầu giải phẫu, bà yêu cầu cho con bà được chứng kiến những giờ phút đau đớn của bà. Thời đó chưa có thuốc tê cho nên bệnh nhân thường phải trải qua những đau đớn khủng khiếp.
Mặc dù đau đớn, nhưng người đàn bà xem ra vẫn can đảm chịu đựng được. Thế nhưng vào tới những giây phút cuối, khi lưỡi dao mổ của các bác sĩ chạm đến gần trái tim thì người đàn bà rùng minh và miệng kêu lên: "Lạy Chúa!"
Chứng kiến cảnh đau đớn của người mẹ, đứa copn trai không cầm được cảm xúc đã thốt lên những lời xúc phạm đến Thiên Chúa. Ngay lúc đó người đàn bà nghiêm chỉnh bảo con: "Hỡi con, im đi, con làm mẹ đau đớn hơn lưỡi dao mổ của các bác sĩ nhiều. Con đã làm xỉ nhục Đấng ban sức mạnh và an ủi cho mẹ"
Nói xong, bà mở bàn tay ra cho mọi người xem một tượng chịu nạn nhỏ mà bà nắm chặt trong tay suốt từ lúc bắt đầu cuộc giải phẫu đến giờ. Đó là thuốc tê đã làm dịu những cơn đau của bà.
Sau mấy tháng quần quại đau đớn trên giường bệnh, người đàn bà đã an nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà đã trao ảnh chuộc tội đó lại cho người con trai và dặn cậu: "Con hãy giữ lấy ảnh này vì đó sẽ là niềm an ủi cho con".
Suy Niệm 10: Thiên Chúa vẫn hiện diện cùng con thuyền Giáo Hội
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Các nhà tu đức thường ví đời sống của Giáo Hội cũng như đời sống của mỗi Kitô hữu chúng ta như một con thuyền ở giữa biển khơi. Mặc dầu ở giữa biển khơi, nhưng con thuyền Giáo Hội cũng như con thuyền của những người tin luôn có Chúa hiện diện.
1. Đối với Giáo Hội chúng ta đã thấy quá rõ. Từ khi được Chúa thành lập đến nay, con thuyền Giáo Hội đã phải trải qua không biết bao nhiêu là những cơn sóng gió, bão táp phũ phàng nhưng Giáo Hội vẫn luôn được Chúa che chở giữ gìn. Xin được trích ra đây một ít sự kiện:
* Saladin là một vua Hồi Giáo. Có lần ông vua này đã gởi cho Đức Giáo Hoàng một lá thư trong đó vỏn vẹn có một dòng.
- Ta sẽ lấy Đền thờ Phêrô làm Đền thờ Mohamét!
Và Đức Giáo Hoàng cũng trả lời chỉ vỏn vẹn có một câu: “Thuyền Thánh Phêrô có thể có lúc lắc nhưng nhất định không chìm” (Fluctuat nec mergitur).
Câu nói thời danh này đã đi vào lịch sử.
* Suốt cuộc đời, Luther đã dùng mọi phương thế để lăng nhục và đánh đổ Hội Thánh, nhưng rồi những mong ước của ông ta không thành tựu. Trên giường bệnh, ông còn xin cục phấn và gắng gượng viết lên vách câu này: “Lúc sinh thời, ta là thứ dịch tễ cho mi thì khi chết, ta sẽ chôn vùi mi theo”. Thế nhưng, Luther đã chẳng mang theo được gì ngoài sự thất vọng của ông.
* Nối chí Luther có ông Voltaire ở thế kỷ XVIII. Thông minh, nhưng nham hiểm, ông đã viết bao nhiêu sách và đã diễn thuyết bao nhiêu bài để cổ động, hô hào tiêu diệt Hội Thánh Công giáo. Ông công khai tuyên bố rằng, chỉ 20 năm nữa thôi, Hội Thánh Công giáo sẽ đi đời. Thế nhưng, thật là trớ trêu: Đúng 20 năm sau lời tuyên bố đó, thì ông chết, còn Giáo Hội của Chúa vẫn kiên vững!
* Năm 1903, Jaurès (1859-1914), nhà hùng biện người Pháp thấy Hội Thánh phải đương đầu với nhiều khó khăn, cùng lúc có nhiều nước có đạo đã bỏ rơi, ông vui mừng reo lên: “Sóng đưa thuyền Phêrô vào bờ, bây giờ nước rút, thuyền mắc cạn, nằm trơ trên bãi cát”. Nhưng sự thực nước rút rồi thì nước lại lên, và thuyền Phêrô lại tiếp tục ra khơi!
* Cũng ở nước Pháp, trước Jaurès, có Napoléon, một nhân vật đã từng làm chấn động trời Âu, đã bắt và đem Đức Giáo Hoàng Piô VII (1742 -1823) về giam giữ tại lâu đài Fontainebleau bên Pháp. Lúc đó những kẻ nghịch với Giáo Hội đã vui sướng reo lên:
- Đây là Đức Giáo Hoàng cuối cùng.
Nhưng rồi Napoléon thất bại, bị cầm tù tại đảo St. Hèlene, và Đức Giáo Hoàng lại trở về Rôma. Chính Đức Giáo Hoàng Piô VII đã đứng lên và đón rước gia đình tan rã của Napoléon gồm một mẹ già, 04 anh chị em là Lucien, Jérôme, Louis và Pauline, kể cả ông cậu là Hồng y Fesch, sau khi ông bị đi đày.
Tóm lại, trước đây cũng như mãi mãi về sau, dù Giáo Hội có thể bị nhiều thử thách, nhưng Hội Thánh nhất định sẽ mãi mãi tồn tại. Henrich Heine (1797-1856) thi hào người Đức, đã ý thức rất rõ về điều đó cho nên ông viết: “Đã lâu rồi, tôi không còn công kích Hội Thánh Công giáo nữa. Tôi đã đọ sức trí khôn ngoan của loài người và nhận thấy rằng: Các đợt tấn công vào tảng đá khổng lồ và kiên cố đó không thể làm cho tảng đá sứt mẻ hoặc nhúc nhích được”.
2. Đó là Giáo Hội còn cuộc đời của chúng ta thì sao? Câu chuyện sau đây sẽ là câu trả lời cho tất cả chúng ta.
Một chiếc thuyền đi trên biển và gặp giông bão. Sóng rất lớn làm con thuyền chao đảo. Mọi người lo lắng chạy tới chạy lui kêu cứu. Một hành khách đi ngang qua phòng, thấy cậu thiếu niên con của viên thuyền trưởng vẫn còn đang say ngủ, không biết gì. Người khách vội lay em dậy và cho biết tàu đang lâm nguy, sắp chìm, em phải lo tìm phao cấp cứu.
Em bé dụi mắt hỏi lại ngay: - Thế ai đang lái tàu vậy hả bác?
Người hành khách trả lời: - Cha của cháu.
Nghe thấy thế, em lại tiếp tục nằm xuống, ngủ tiếp một cách bình thản.
Người này lấy làm lạ hỏi: - Tại sao trong khi mọi người đang lo lắng, riêng cháu lại có thể bình an mà ngủ được chứ, cháu không sợ sao?
Em hãnh diện trả lời:
- Hễ cha cháu mà còn lái tàu, thì chắc chắn con tàu sẽ an toàn, cháu đã trải qua nhiều phen như thế này rồi, ba cháu dư sức để lo liệu, bác cứ yên tâm đi.
Vâng! Đời sống của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt,, nhất là trong những lúc gặp những thử thách phong ba. Điều quan trọng trong những lúc như thế là phải tin tưởng nơi Chúa, đồng thời biết chạy đến cầu nguyện với Ngài để Ngài dẹp yên bão tố sóng gió và đưa con thuyền cuộc đời chúng ta hay con thuyền Giáo Hội về tới bến bờ bình an.
Lạy Chúa, xin thêm niềm tin cho chúng con. Amen.
28/01 Nước Thiên Chúa phát triển.
- Viết bởi Mc 4, 26-34
Nước Thiên Chúa phát triển.
Thứ Sáu tuần 3 thường niên. – Thánh Tôma Aquinô, linh mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết".
* Sinh năm 1225 trong một gia đình quý tộc ở Aquinô, rồi theo học tại đan viện Montê Cátxinô, tiếp đến tại đại học Napôli, cuối cùng Tôma nhập dòng Anh Em Thuyết Giáo và hoàn tất việc học tại Pari và Côlônhơ, dưới sự dẫn dắt của một bậc thánh sư là Anbêtô Cả. Thánh Tôma đã thể hiện trọn vẹn lý tưởng dòng thánh Đaminh là chiêm niệm và truyền đạt cho tha nhân điều mình đã chiêm niệm. Vừa là triết gia, vừa là thần học gia, trong vai trò giáo sư, thánh nhân đã suy nghĩ, giảng dạy và viết rất nhiều. Nhưng trước hết và trên hết, thánh nhân là người chiêm niệm, người đã cầu nguyện nhiều và đã tuân thủ một kỷ luật nghiêm khắc để có thể đạt tới ánh sáng tinh tuyền. Thánh nhân qua đời ngày 7 tháng 3 năm 1274 tại đan viện Xitô ở Phốtxanôva. Ngày 28 tháng Giêng là ngày thi hài thánh nhân được cải táng đưa về Tuludơ năm 1369.
LỜI CHÚA: Mc 4, 26-34
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Ðất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa".
Người còn phán: "Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung nước Thiên Chúa? hay dùng dụ ngôn nào mà so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được".
Người dùng nhiều dụ ngôn như thế mà rao giảng lời Chúa cho họ, tuỳ sức họ có thể hiểu được, và Người chỉ nói với họ bằng dụ ngôn, nhưng khi ở riêng với các môn đệ, Người giải thích tất cả cho các ông.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Bông lúa trĩu hạt
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Một người có cái nhìn bi quan về Hội Thánh
chắc sẽ tìm được nhiều dữ kiện để chứng minh.
Tại một số nước phương Tây, có nhiều nhà thờ vắng người,
chủng viện thiếu chủng sinh, tập viện tạm đóng cửa.
Kitô hữu càng lúc càng chiếm tỉ lệ nhỏ
trong tổng số dân trên thế giới.
Có những khủng hoảng đức tin trong giới trẻ.
Người ta tự hỏi Hội Thánh đã lỗi thời chưa.
Có cần phải tin vào Ðức Kitô nữa không?
Vào thời thánh Máccô viết sách Tin Mừng,
cũng có những Kitô hữu bi quan về Hội Thánh.
Hội Thánh ở Rôma chỉ là một thiểu số nhỏ nhoi
chịu bách hại dưới ách của bạo chúa Nêrô.
Liệu Hội Thánh có tồn tại và phát triển không
dưới sức mạnh hùng hậu của đế quốc?
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta niềm lạc quan.
Ðó là hai dụ ngôn về Nước Thiên Chúa,
cũng là hai dụ ngôn về hạt giống.
Trong dụ ngôn thứ nhất, hạt giống được gieo xuống đất
là bắt đầu nảy mầm và lớn lên,
theo một tiến trình không gì ngăn cản nổi.
Trước hết mọc lên thành cây lúa, rồi trổ đòng đòng
và sau cùng thành bông lúa trĩu hạt.
Tự nó, hạt giống mang một sức sống mạnh mẽ.
Nó lớn lên cả đêm lẫn ngày,
chẳng cần con người can thiệp.
Có cái gì mầu nhiệm trong sự tăng trưởng này
khiến chính người gieo cũng không sao hiểu nổi.
Một cách âm thầm, chậm rãi nhưng vững vàng,
hạt lúa đạt đến kết quả mỹ mãn.
Dụ ngôn thứ hai lại cho thấy một sự tương phản.
Nước Thiên Chúa như một hạt cải nhỏ xíu,
vậy mà theo thời gian, nó mọc lên thành cây,
và cây này lớn hơn mọi thứ cây cỏ khác.
Hạt bé nhất lại cho cây lớn nhất.
Nước Trời khởi đầu bằng Ðức Giêsu
và một nhóm nhỏ môn đệ làm nghề chài lưới.
Sau hai mươi thế kỷ,
Kitô giáo đã lan khắp thế giới, đến với mọi dân tộc.
Tuy nhiên, Nước Trời chỉ đến trọn vẹn vào ngày cánh chung.
Thái độ ta phải có là kiên nhẫn chờ đợi.
Hạt giống nào cũng phải vùi sâu dưới đất,
và phải đương đầu với những khó khăn khi thành cây.
Có lúc ta thấy nó như bị chững lại hay suy thoái.
Có lúc ta sợ nó không đứng vững trước bão bùng.
Ðây là lúc ta phải sống niềm tin:
tin rằng Thiên Chúa sẽ đưa Nước Ngài đến thành tựu,
bất chấp những khiếm khuyết và cản trở của con người.
Ðừng nản chí mà ngừng gieo vãi hạt giống Lời Chúa,
dù nhiều khi chúng ta không thấy hạt giống lớn lên.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Suy Niệm 2: Hạt giống tự mọc
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nước Thiên Chúa là công trình của Thiên Chúa. Không phải của con người. Như hạt giống tự mọc. Người gieo rồi về nằm ngủ. Hạt giống nảy mầm và mọc lên thế nào, không ai biết. Người gieo chỉ biết gieo và vun trồng. Nhưng không thể làm cho hạt giống nảy mầm và mọc lên. Vì đó là việc của Thiên Chúa. Việc Thiên Chúa làm rất khác với việc của con người. Như hạt cải gieo trong vườn. Khi gieo xuống là hạt bé nhỏ nhất. Chịu vùi lấp dưới lòng đất. Chịu huỷ hoại đi. Mất cả hình dáng. Nhưng khi mọc lên lại thành cây cao lớn, cành lá xum xuê. Đến nỗi chim trời đến trú ẩn.
Giáo hội, hình ảnh hữu hình của Nước Thiên Chúa, đã từng trải qua kinh nghiệm hạt giống tự mọc. Khởi đầu Giáo hội rất bé nhỏ. Nghèo hèn. Bị khinh miệt. Và bị bách hại. Tưởng như bị tận diệt. Điều đó khiến nhiều người chán nản. Nhưng thánh Phao-lô khuyên nhủ ta hãy tin tưởng vào lời Chúa hứa. “Xin anh em nhớ lại những ngày đầu: lúc vừa được ơn chiếu sáng, anh em đã phải đối phó với bao nỗi đau khổ dồn dập. Khi thì anh em bị sỉ nhục và hành hạ trước mặt mọi người, khi thì phải liên đới với những người cùng cảnh ngộ. Quả thật, anh em đã thông phần đau khổ với những người bị tù tội, và đã vui mừng để cho người ta tước đoạt của cải…Anh em cần phải kiên nhẫn, để sau khi thi hành ý Thiên Chúa, anh em được hưởng điều Người đã hứa” (năm lẻ).
Có khi đau khổ yếu đuối đến từ chính bản thân. Như trường hợp Đa-vít. Ông vóc người bé nhỏ. Nhưng phạm phải những lỗi lầm lớn lao. Cướp vợ của U-ri-gia. Lại còn giết chết U-ri-gia. Chúa trừng phạt ông vì tội lỗi của ông. Nhưng Chúa vẫn trung tín giữ lời hứa cho dòng dõi ông trường tồn. Cho Đấng Cứu Thế sinh bởi dòng dõi ông. Cho thấy đó là kế hoạch của Thiên Chúa. Đó là quyền năng của Thiên Chúa. Đó là lòng thương xót của Thiên Chúa (năm chẵn).
Hạt giống tự mọc. Vì thế tôi phải biết khiêm nhường nhận biết mình yếu hèn kém cỏi. Hạt giống tự mọc. Tôi không nản lòng khi sự ác có vẻ thắng thế, lấn át sự thiện. Hạt giống tự mọc. Tôi kiên trì khi những chương trình mục vụ truyền giáo thất bại, Hạt giống tự mọc. Tôi xin Chúa tha thứ những lỗi lầm của bản thân. Hạt giống tự mọc. Tôi vững tin rằng sau khi gặp nhiều thử thách thất bại Nước Chúa sẽ lớn mạnh. Trở thành nơi cho mọi người nương ẩn.
Suy Niệm 3: Hạt giống, hạt cải
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hạt giống và hạt cải làm ví dụ để nói về Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như một tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt nẩy sinh thành cây, rồi thành bông lúc. Như người dân Palestina, sau khi gieo hạt giống, họ âm thầm chờ đợi lúa chín để gặt hái, chứ không hề biết hạt giống được gieo xuống đất đã phát triển như thế nào: Chúa Giêsu cũng gieo hạt giống Nước Trời nơi tấm lòng con người, cùng với ơn Chúa, Nước đó âm thầm phát triển lan rộng khắp thế giới, tạo nên mùa gặt các linh hồn. Chúa Giêsu chỉ đích thân có mặt trong mùa gieo giống và mùa gặt hái. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian chờ đợi, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động một cách vô hình, qua Chúa Thánh Thần và Giáo Hội. Khi Nước Thiên Chúa đã phát triển đến mức tối đo, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang, thu hoạch mùa gặt của Ngài.
Dụ ngôn hạt cải là dụ ngôn cuối cùng trong năm dụ ngôn về Nước Thiên Chúa. Cũng như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn: hạt cải nhỏ xíu trở thành một cây to lớn. Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịch lý tương tự: Dưới cái nhìn của thánh Marcô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời về bí mật Mêsia. Cho đến lúc này, hành vi của Chúa Giêsu có thể bị coi là vô nghĩa và Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dù vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của nó như các Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Chính Giáo Hội tiên khởi, dù yếu đuối, vẫn ý thức được mình đang tham dự vào sự thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt tới mức hoàn vũ vào cuối giai đoạn phát triển của nó.
Hạt giống đã trải qua một quá trình phát triển âm thầm trước khi tới mùa gặt; hạt cải được trồng dưới đất cũng phải trải qua một quá trình cho đến khi trở thành một cây lớn. Trong những bổn phận dù âm thầm hằng ngày, chúng ta hãy tin tưởng phó thác cho quyền năng yêu thương của Chúa, chính Ngài sẽ làm cho công việc chúng ta thực hiện theo ý Chúa đạt tới kết quả vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta, và như vậy chúng ta sẽ làm ích cho chính bản thân, cho tha nhân và cho Nước Chúa.
Xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín đó.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Vấn đề thân cận
Người nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bắng cách nào thì người ấy không biết.” (Mc. 4. 26-27)
Phúc âm hôm nay lấy chủ đề là việc gieo giống. Nhưng những lời lẽ được dùng lại vang lên những âm điệu mới lạ đáng chúng ta quan tâm suy nghĩ: mầu nhiệm Đức Kitô có một sức mạnh âm thầm hằng thúc đẩy để mầu nhiệm ấy được thực hiện trọn vẹn; dầu có tính cách mong manh, mầu nhiệm ấy vẫn có một sức mạnh vô địch; sau cùng lòng gắn bó hoặc tin cậy vào Chúa Giêsu giúp ta hiểu biết đầy đủ về mầu nhiệm này.
Một sức mạnh âm thầm
Mỗi ngày ta khó nhọc vất vả gieo hạt giống Nước Trời, mong cho Nước Chúa trị đến. Nào là: kinh lễ, hội họp, thảo luận, phục vụ, thăm viếng tình nghĩa, dạy giáo lý, hoạt động nghề nghiệp, săn sóc bệnh nhân, dạy học, làm việc chân tay… Chúng ta tin rằng thực hiện một trong những công việc kể trên là làm cho chúng ta sống mầu nhiệm phục sinh, là đưa mọi loài thụ tạo đến sự phục hồi. Ta tin nhưng mắt không nhìn thấy gì cả. Những kết quả công khó của ta thường âm thầm kín đáo. Chúng ta phải khiêm tốn và có khi phải cay đắng chấp nhận những giới hạn của thân phận con người.
“Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như …”, Chúa Kitô nói với chúng ta như vậy mà, …
Ta hãy kiên nhẫn và tin tưởng!
Một sức mạnh vô địch
Chúa còn kể dụ ngôn thứ hai, dụ ngôn hạt cải, để ta thêm vững lòng. Thực vậy, Chúa đặt đối chọi nhau hai sự thể: một bên là cái mong manh bé nhỏ, bên kia lại là những kết quả to lớn đạt được. “Cây cải mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.
Chúng ta không thường sống sự tương phản này sao, sự tương phản giữa một bên là những dấu chỉ mong manh, còn bên kia là những kết quả to lớn đạt được? Tất cả đời sống bí tích chỉ là việc xử dụng một loại hạt giống nhỏ nhất để rồi hạt giống đó trở thành một dấu chỉ sinh ân sủng vô vàn của Chúa.
Chỉ có ai yêu mến mới hiểu được
Sau cùng, những dụ ngôn này kết thúc với lời ghi nhận rằng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Chúa Giêsu giải nghĩa hết cho các Tông đồ. Sự gắn bó, gần gũi với Chúa giúp ta tiến tới Người vượt xa mức bình thường mà quần chúng có thể tiếp cận được, bởi vì xét cho cùng người ta chỉ có thể hiểu biết rõ được một người khi ta yêu mến người đó.
Suy Niệm 5: Muốn được cứu độ, phải kiên trì
Trong thời đại kinh tế thị trường, khái niệm “ăn sổi ở thì” rất quen thuộc. Quen đến độ đi đâu người ta cũng thích nhanh. Ăn gì cũng muốn có ngay. Làm gì cũng muốn thành công tức thời!
Sống trong thời đại chóng vánh như thế, con người luôn luôn bị đối diện với sự đổi thay, phải trái, trắng đen... từ thực tế cuộc sống, con người cũng phỏng chiếu đời sống tâm linh của mình theo khuôn mẫu đó.
Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu dùng dụ ngôn để rao giảng về Nước Trời. Nước Trời được ví như chuyện người gieo hạt giống, dù đêm hay ngày, người đó cứ gieo, hạt giống mọc lên lúc nào tùy ý, chỉ biết rằng, đến mùa là Chủ đi gặt lúa về. Đức Giêsu còn nói đến Nước Trời được ví như hạt cải nhỏ tý teo, nhưng khi gieo xuống, nó lớn mạnh đến nỗi chim trời đến làm tổ...
Qua hai dụ ngôn đó, Đức Giêsu cho thấy: trước tiên, Thiên Chúa là Đấng luôn kiên trì như người gieo giống. Người không trần trừ, không đòi hỏi... Người cứ gieo và kiên nhẫn chờ đợi. Tiếp theo, Nước Thiên Chúa lúc ban đầu thì khiêm tốn, nhỏ nhoi, nhưng với thời gian và ân sủng, nước ấy lớn mạnh đến phi thường.
Trong đời sống đức tin, nhiều khi chúng ta bị thử thách trong đêm tối! Có những điều chúng ta xin Chúa mà mãi không được, làm cho mình mất đức tin hay đức tin bị lung lay.
Tuy nhiên, chúng ta nhớ một chân lý muôn đời rằng: lửa thử vàng, gian nan thứ đức. Có cố gắng, kiên trì thì khi thành công mới thấy được ý nghĩa. Cũng vậy, đời sống đức tin cần phải được thanh luyện bằng sự kiên trì, trung thành và cố gắng, thì mới thực sự có giá trị cứu chuộc. Ơn cứu độ không đến như chuyện “ăn sổi ở thì” mà con người vẫn quan niệm.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa vì hôm nay Chúa dạy cho chúng con bài học về sự kiên trì, nhẫn nại, hy sinh. Xin Chúa ban cho chúng con biết trung thành với Chúa để được cứu độ. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Chúa vẫn hiện diện kín đáo và âm thầm hoạt động
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã gieo hạt giống Tin Mừng Nước Thiên Chúa vào trần gian. Chính Thiên Chúa đang âm thầm hoạt động để Nước Thiên Chúa lớn lên và đạt tới thành công. Thực tế đôi khi xem ra bi quan, nhưng ta phải biết tin tưởng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, thế giới ngày càng lao mình vào tương lai. Với sự phát triển không ngừng, những thành quả của khoa học kỹ thuật, nhiều người tự mãn, nghĩ mình có thể làm chủ được mọi sự mà không cần một bàn tay nào khác. Nhưng lạy Chúa, thật ra thế giới được Chúa tạo dựng để đi đến cùng đích dưới sự quan phòng của tình yêu Chúa. Dù con không nhận ra, nhưng Chúa vẫn luôn hiện diện và hướng dẫn lịch sử loài người chúng con.
Lạy Chúa, lịch sử nhân loại đã từng gây ra bao thảm họa cho con người: chiến tranh, hận thù, ích kỷ, giá trị đạo đức ngày càng đi xuống, con người đối xử với nhau thiếu tình người. Vì thế nhiều lúc con tự hỏi: Thiên Chúa đâu rồi trong thế giới này.
Lạy Chúa, Chúa không vắng mặt, Chúa không bỏ rơi thế giới chúng con. Chính Chúa vẫn hiện diện cách kín đáo và âm thầm hoạt động để cứu độ chúng con. Xin Chúa ban cho con đôi mắt đức tin để nhận ra tình thương và quyền năng Chúa vẫn đang âm thầm hoạt động biến đổi cuộc sống loài người mỗi ngày một tốt hơn. Tin Mừng Chúa ban cho Hội Thánh đang nâng cao thế giới. Bên ngoài thế giới dường như xuống dốc, Hội Thánh dường như nhỏ bé, Tin Mừng dường như bất lực. Nhưng dù vậy, xin Chúa đừng để con bi quan, xin giữ lòng con luôn tin tưởng. Xin Chúa giúp con biết kiên nhẫn và góp phần nhỏ bé để tình yêu và ánh sáng của Chúa mỗi ngày một lớn thêm lên trong thế giới này. Amen.
Ghi nhớ: “Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết”.
Suy Niệm 7: Dụ ngôn về nước Trời
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Nhà tâm lý học Weldon cho rằng, hạt giống kỳ lạ nhất thế giới là hạt giống của một giống tre bên Trung Quốc. Hạt giống nằm yên dưới lòng đất đến 5 năm, rồi mới nhú chồi non lên mặt đất. Suốt thời gian 5 năm này, người trồng phải vất vả chăm sóc tre, nào là tưới nước, nào là bón phân, mà họ không hề nhìn thấy hệ thống rễ phức tạp đang sinh sôi lan tràn trong lòng đất.
Cuối cùng, một sự sống đã vươn lên đầy kinh ngạc: Chỉ trong 6 tuần sau khi nhú lên khỏi mặt đất, cây tre đã mọc cao lên gần 3 mét... Một sức sống mãnh liệt đã vươn lên mạnh mẽ nhờ hệ thống rễ được nuôi dưỡng 5 năm trong lòng đất, chính những hệ thống rễ này tiếp sức cho mầm non để nó có thể tăng trưởng một cách mau chóng thần kỳ…
Hạt giống của cây tre lạ kỳ này lớn mạnh đầy sức sống gợi cho chúng ta hình ảnh của hạt giống nước Trời: Hạt gieo vào lòng đất được nuôi dưỡng bởi đất, nảy mầm và lớn lên với thời gian. Hạt giống nước Trời sẽ trưởng thành như là hạt cải - “hạt bé nhất” nhưng khi nảy mầm và lớn lên lại thành cây lớn nhất trong các loại rau. Nước Trời được khởi đầu rất nhỏ bé là Chúa Giêsu cùng nhóm nhỏ môn đệ. Sau 20 thế kỷ, Kitô giáo đã lan tràn khắp nơi, đến với mọi dân tộc…
Suy niệm
Tin Mừng theo thánh Máccô 4,26-34 thuật lại việc Chúa Giêsu giảng dạy về nước Trời qua hai dụ ngôn:
Dụ ngôn thứ nhất: Nước Thiên Chúa ví như một hạt lúa được gieo vào lòng đất tự nó nảy mầm, thành cây và trổ bông nặng trĩu hạt lúa mới cho mùa gặt bội thu (Mc 4,26-29). Trong ngữ cảnh so sánh với nước Thiên Chúa, hạt giống ẩn giấu và tiệm tiến trong sự quan phòng của Thiên Chúa cho nước Trời, không gì ngăn cản được, theo một tiến trình đưa hạt giống lớn lên cả đêm lẫn ngày để đạt tăng trưởng hoàn toàn.
Dụ ngôn thứ hai: Nước Thiên Chúa giống như hạt cải bé nhỏ, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng (Mc 4,30-32).
Cây cải ở xứ Palestine khác với cây rau cải ở Việt Nam. Ở xứ Palestine hạt cải mọc lên thành cây to đến nỗi chim trời có thể đến trú ẩn. Dụ ngôn cho thấy một sự tương phản về nước Thiên Chúa: Ban đầu như một hạt cải nhỏ xíu, theo thời gian mọc lên thành cây và cây này lớn hơn mọi thứ rau khác.
Qua hai dụ ngôn, dụ ngôn đầu tiên: Hạt giống tự nảy mầm mang lời kêu gọi cần có lòng trông cậy. Mặc dù hạt giống bị tiêu mất đi, nhưng đất màu mỡ đã cho nó hoa màu gấp trăm khi nảy mầm sinh hoa kết trái. Mặc dù gặp bao nhiêu thất bại, nước Chúa chắc chắn sẽ thành công. Dụ ngôn thứ hai: Hạt cải lớn thành cây đã minh họa sự tăng trưởng của nước Trời theo chiều rộng.
Cả hai dụ ngôn mang ý nghĩa: Nước Trời phát triển nhờ hoạt động và lời rao giảng của Đức Giêsu dù khiêm nhường, nhỏ bé và cộng đoàn các môn đệ của Ngài là Giáo hội. Và dù có yếu đuối, thất bại, thì tất cả đều đang tham gia vào thành tựu vẻ vang của một công trình tràn đầy sức sống và khi tới giai đoạn chung cuộc với sự phát triển toàn diện.
Thật thế, như hạt giống ngày đêm không ngừng lớn lên, ước chi những khó khăn không làm con chùn bước. Trước dễ dãi, thành công cũng không làm chúng con ngủ quên... Nhưng sẽ là hạt giống không ngừng lớn lên thành cây cao bóng cả...
Ý lực sống:
“Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên.
Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả,
nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể” (1Cr 3,6-7).
Suy Niệm 8: Dụ ngôn hạt cải
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Hôm nay Đức Giêsu đưa ra hai dụ ngôn để nói về Nước Trời. Chúa ví Nước Trời như hạt giống được gieo xuống đất. Nó tự mọc lên rồi trổ bông sinh trái, người gieo giống không hay biết gì hết. Còn dụ ngôn hạt cải nói lên sức phát triển mạnh mẽ của nó. Hạt cải là loại hạt nhỏ bé nhất trong các hạt giống nhưng khi nó mọc lên nó sẽ thành cây lớn đến nỗi chim trời có thể đến trú ẩn dưới bóng nó được. Đức Giêsu dùng hai dụ ngôn này để ví với Hội thánh. Lúc đầu chỉ có ít người tin theo, nhưng dần dần, Hội thánh sẽ lan rộng khắp nơi, làm chốn nương tựa cho mọi người được hạnh phúc và được rỗi.
2. Nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt nảy sinh thành cây, rồi thành bông trái. Như người dân Palestine, sau khi gieo hạt giống, họ âm thầm chờ đợi lúa chín để gặt hái, chứ không hề biết hạt giống được gieo xuống đất đã phát triển như thế nào: Đức Giêsu cũng gieo hạt giống Nước Trời nơi tấm lòng con người, cùng với ơn Chúa, Nước đó âm thầm phát triển lan rộng khắp thế giới, tạo nên mùa gặt các linh hồn. Đức Giêsu chỉ đích thân có mặt trong mùa gieo giống và mùa gặt hái. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian chờ đợi, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động một cách vô hình, qua Chúa Thánh Thần và Giáo hội. Khi Nước Thiên Chúa đã phát triển đến mức tột độ, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang, thu hoạch mùa gặt của Ngài.
3. Đức Giêsu sánh ví Nước Thiên Chúa như hạt cải. Dụ ngôn này cho thấy vẻ tương phản rõ rệt giữa một bên là sự nhỏ bé, vô nghĩa lúc ban đầu, và bên kia là kết quả cuối cùng lại phong phú không ngờ. Chúng ta nên nhớ: cây cải ở xứ Palestine khác với cây cải ở xứ ta. Ở Palestine hạt cải mọc lên thành cây to đến nỗi chim trời có thể đến trú ẩn.
Ông Thompson trong cuốn “Xứ thánh và Kinh thánh” đã viết: ”Tôi đã thấy cây này trong cánh đồng phì nhiêu ở Akka, nó cao bằng con ngựa và người cưỡi ngựa. Với sự giúp đỡ của người hướng dẫn, tôi đã nhổ được một cây cao hơn 4 mét”
Ví dụ này của Đức Giêsu không thổi phồng sự thật chút nào. Người ta vẫn thấy những loại cải hay cây cải to như vậy có bầy chim bu quanh, vì chim thích những hạt cải đen nên chúng đậu trên cây để ăn. Vì thế, Đức Giêsu mới nói rằng Nước Ngài giống như hạt cải lớn lên thành cây.
4. Dụ ngôn hạt cải là dụ ngôn cuối cùng về Nước Thiên Chúa. Cũng như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn: hạt cải nhỏ xíu trở thành một cây to lớn.
Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịch lý tương tự: Dưới cái nhìn của Marcô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời về bí mật Messia. Cho đến lúc này, hành vi của Đức Giêsu có thể bị coi là vô nghĩa và Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dù vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của nó như các Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Chính Giáo hội tiên khởi, dù yếu đuối, vẫn ý thức được mình đang tham dự vào sự thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt tới mức hoàn vũ vào cuối giai đoạn phát triển của nó.
5. Qua bài Tin Mừng này, chúng ta hãy tin tưởng vào sức phát triển của Nước Thiên Chúa. Nước Chúa vẫn âm thầm phát triển, nhưng Chúa cũng cần chúng ta góp phần vào, dù ít dù nhiều như thánh Phaolô đã nói: ”Tôi trồng, Apollô tưới, nhưng chính Thiên Chúa cho mọc lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả. Nhưng Thiên Chúa Đấng làm cho lớn lên mới đáng kể” (1Cr 3,6-7). Nếu chúng ta biết nghĩ như thánh Phaolô thì chúng ta không còn ngại gieo hạt giống Nước Chúa, cũng không vội ngã lòng khi thấy công gieo vãi của mình chưa sinh kết quả.
6. Truyện: Giải đáp ba thắc mắc.
Một hôm, cha Petitjean đến giảng đạo tại Nagasaki cho một số đông người Nhật. Nghĩ rằng họ đều là người bên lương nên sau bài giảng, ngài tươi cười hỏi:
- Anh em có thắc mắc gì không?
Một người đưa tay đặt câu hỏi:
- Chúng tôi muốn được hỏi ông ba điều, yêu cầu ông trả lời có hay không? Câu hỏi thứ nhất, các ông có tin Đức Mẹ Đồng trinh không?
- Có.
- Câu hỏi thứ hai: các ông có vâng lời và thông hiệp với Đức Thánh Cha không?
- Có.
- Câu hỏi thứ ba: Là Linh mục, các ông có giữ mình đồng trinh và sống độc thân không?
- Có.
- Vậy thì mấy trăm người chúng tôi đây với ông là đồng đạo. Chúng tôi là người Công giáo cả đây.
Cha Petitjean bàng hoàng như từ cung trăng rơi xuống. Cha con âu yếm ôm cổ nhau. Nhà truyền giáo hỏi:
- Bấy lâu nay, có ai giảng dạy cho các anh không?
- Thưa cha, không có ai suốt hai thế kỷ rồi! Đó là nhờ ông bà tổ tiên chúng con truyền lại, rồi chúng con âm thầm cầu nguyện, dạy giáo lý cho con em, đoàn kết đùm bọc nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ: Sau này có ai đến giảng đạo hãy cảnh giác, phải lấy ba tiêu chuẩn ấy mà nhận xem họ có phải là các cha đích thực, là người của Hội thánh sai đến.
Giáo hội Nhật Bản đã tái sinh.
Suy Niệm 9: Sức sống và sức lớn lên của Nước Thiên Chúa
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Những dụ ngôn về sức sống và sức lớn lên của Nước Thiên Chúa:
- Dụ ngôn hạt giống âm thầm: Nước Thiên Chúa cũng như hạt giống có sức sống và sức phát triển nội tại. Dù hoàn cảnh thuận tiện hay không thuận tiện (“đêm hay ngày”), dù người ta có chăm sóc hay không (“người ấy ngủ hay thức”, “bằng cách nào người ấy không biết”), Nước Thiên Chúa vẫn cứ phát triển.
- Dụ ngôn hạt cải: mới ban đầu, Nước Thiên Chúa rất nhỏ bé như hạt cải, nhưng rồi nó sẽ phát triển thành một cây to.
* Có lẽ những dụ ngôn này nhằm mục đích trấn an:
a/ Trấn an các môn đệ thời Chúa Giêsu: có lúc họ ngã lòng vì thấy mình chỉ là một nhóm người ít oi, nhỏ bé, sợ không đủ khả năng mở mang Nước Thiên Chúa nổi.
b/ Trấn an các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai: họ là một tập thể ít oi giữa lòng thế giới rộng lớn, họ lại gặp rất nhiều khó khăn. Chúa Giêsu muốn trấn an tất cả rằng chắc chắn Nước Thiên Chúa sẽ tồn tại và phát triển mạnh.
B. Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Chúa Giêsu cho biết hạt giống Lời Chúa có sức phát triển nội tại, tuy âm thầm nhưng liên lỉ và mạnh mẽ.
Nhiều khi vì cho rằng đọc và suy gẫm Lời Chúa không sinh kết quả gì cả nên tôi đã thôi không tiếp tục nữa. Dụ ngôn này dạy tôi hãy bỏ lối suy nghĩ ấy đi và kiên trì tiếp tục, vì kẻ làm cho hạt giống mọc lên không phải là tôi mà là chính Chúa.
2. “Tôi trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa cho mọc lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả. Nhưng Thiên Chúa Đấng làm cho lớn lên mới đáng kể” (1 Cr 3,6-7). Nếu chúng ta biết nghĩ như Phaolô thì chúng ta không còn ngại gieo hạt giống Nước Chúa, cũng không vội ngã lòng khi thấy công gieo vãi của mình chưa sinh kết quả.
3. Một ngày kia, một tông đồ giáo dân dẫn tôi đến gia đình của một người lương làm nghề kéo xe lôi. Đến đấy tôi nhận được một món quà rất bất ngờ và rất to lớn: cả nhà gồm vợ chồng và 7 đứa con xin theo đạo. Khi được tôi hỏi lý do thì người chồng cho biết: Mười mấy năm trước, khi còn nhỏ, anh học trường các sư huynh Lasan và đã có lòng mộ mến Đạo Chúa. Lòng mộ mến ấy vẫn âm ỉ trong lòng anh. Tuần trước, khi anh gặp người tông đồ giáo dân này, tàn lửa âm ỉ đó bỗng bùng lên thành một ngọn lửa thôi thúc anh phải xin theo Chúa. Nếu các sư huynh Lasan của trường kia và những tông đồ giáo dân nọ đã không chịu khó gieo giống vì nghĩ rằng có gieo cũng vô ích thì hôm nay tôi đã không gặt được thành quả này. “Người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa.” (câu 27-28) (Chia sẻ).
4. Hạt giống Nước Chúa mà chúng ta gieo vào lòng anh chị em quanh ta mọc lên rất nhiều cách và nhiều dạng: có thể thành những Kitô hữu như chia xẻ phía trên, có thể thành những người tuy còn là lương dân nhưng thiện cảm với Kitô giáo, có khi thành những ý lực hướng dẫn cuộc sống của những người vì lý do nào đó chưa thể theo đạo. Văn hào Tagore thuộc loại thứ ba: tuy ông không là Kitô hữu nhưng cuộc sống của ông được hướng dẫn bởi những giá trị Phúc Âm.
Suy Niệm 10: Chính Thiên Chúa cho mọc lên
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai dụ ngôn nhỏ. Qua hai dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta về sức sống và sức lớn lên của Nước Thiên Chúa. Lời của Chúa có một sức mạnh nội tại - không ai, không gì có thể cản trở được sự nảy mầm, bèn rễ, lớn lên rồi đơm bông kết trái theo trình tự của thời gian.
1. Trước hết, Chúa Giêsu cho biết Lời của Chúa có sức phát triển ngay từ bên trong, tuy âm thầm nhưng liên lỉ và rất mạnh mẽ.
Một giáo sư thực vật học kia tay cầm một hạt giống nhỏ màu nâu và nói với cả lớp rằng:
- Tôi biết rõ hợp chất của hạt giống này. Nó gồm hydro, carbon và nitro. Tôi biết đúng tỉ lệ và có thể tạo ra một hạt giống khác trông y như hạt giống này.
Một học sinh đứng lên hỏi: - Thưa thầy, nếu đem hạt giống thầy chế tạo đó mà gieo xuống đất, nó có thể mọc lên không ạ?
Giáo sư trả lời:
- Với hạt giống của tôi, điều đó không thể được. Nhưng nếu tôi đem hạt giống mà Thiên Chúa đã làm ra, nó sẽ mọc lên thành cây, vì nó chứa đựng nguyên tắc nhiệm mầu mà chúng ta gọi là nguyên tắc sinh tồn.
Hạt giống chứa đựng sự sống. Con người, dù có tài giỏi tới đâu đi nữa cũng chỉ có thể tạo ra những hạt giống tương tự hoặc tạo ra những người máy robot, nhưng không thể nào tạo ra sự sống được.
2. Thánh Phaolô đã nói rất hay: “Tôi trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa cho mọc lên”. Kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, Thiên Chúa là Đấng làm cho lớn lên mới đáng kể” (1Cr 3,6-7). Nếu chúng ta biết nghĩ như Phaolô thì chúng ta sẽ không còn ngại ngùng đi gieo hạt giống Lời Chúa và nhất là sẽ không vội ngã lòng khi thấy công gieo vãi của mình chưa sinh kết quả.
Đây là một câu chuyện có thật. Câu chuyện này nói về nguồn gốc của một khu rừng. Câu chuyện như sau:
Một ông lão người Pháp nọ, sau khi vợ qua đời đã mang đứa con trai duy nhất của ông đến một vùng đất khô cằn nhất của miền Trung nước Pháp để lập nghiệp. Thật ra, người đàn ông này chỉ muốn quên đi cái quá khứ quá khó khăn vất vả của mình. Miền đất khô cằn nơi ông đặt chân đến còn vỏn vẹn chỉ có 5 ngôi làng nhỏ, Dân cư thì thưa thớt. Họ sống trong những căn nhà xiêu vẹo đổ nát. Đa số đã bỏ đi đến những thành phố lớn để tìm công ăn việc làm.
Ông lão trên 60 tuổi đưa mắt nhìn khung cảnh chung quanh và đi đến kết luận như sau: “Nếu không có cây cối thì chỉ trong vòng một thời gian ngắn nữa, cả vùng này sẽ trở thành sa mạc hoang vu”. Sau khi đã dọn chỗ cho đàn cừu và một số gia súc khác, ông lão tự đi bộ dọc theo các lối đi và cúi xuống nhặt từng hạt dẻ. Ông lựa những hạt tốt để làm giống. Ông ngâm vào nước. Khi mặt trời vừa lên, ông dùng ruột thanh sắt nhọn moi những lỗ nhỏ và cứ mỗi lỗ ông đặt một hạt dẻ vào đó.
Ngày qua ngày, liên tiếp trong ba năm trời như thế, ông lão đã trồng được tất cả 100.000 cây dẻ con. Ông hy vọng rằng, dù chúng có chết đi thì ít ra cũng phải có 10 ngàn cây còn sống sót. Ông cũng hy vọng rằng, Chúa sẽ cho ông được sống thêm vài năm để làm cho xong công tác trồng cây này. Ông qua đời năm 1947, hưởng thọ 89 tuổi.
Từ những hạt dẻ ông đã cặm cụi moi từng lỗ nhỏ để đặt vào bây giờ nước Pháp có một trong những khu rừng đẹp nhất thế giới. Trong ba khóm rừng, mỗi khóm dài 1 cây số, rộng 3 cây số, những cây dẻ xinh tươi to lớn đã có mặt để chứa được nước mưa, làm cho cây cối xung quanh được xinh tươi và biến khu đồi khô cằn ngày xưa thành những dòng suối róc rách, chim chóc đã trở lại. Sự sống cũng bắt đầu chớm nở... Dân chúng từ từ trở lại với ngôi làng cũ để xây nhà và làm lại cuộc đời.
Lúc đầu hạt giống Nước Trời quả thật là khiêm tốn, nhỏ bé. Thế nhưng, ngày hôm nay thì nào có ai dám hồ nghi về những khu rừng Giáo Hội đang hiện diện trên hành tinh mà chúng ta gọi là thế giới kỳ diệu này.
Lạy Chúa,
xin chiếu tỏa trên con ánh sáng của Chúa
và dạy con bước đi ngay trong đêm tối
cũng như giữa ban ngày.
Xin truyền cho con sức mạnh của Người.
Ước gì những cánh tay rã rời
vì thất bại của con tìm lại được sức trẻ
để gieo trồng hàng ngàn cây xanh
cho một thế giới mới.
Ước gì mồ hôi con pha lẫn mồ hôi của Chúa
trong Vườn Cây Dầu.
Ước gì máu con hòa lẫn với Máu Chúa
trên Núi Sọ để tưới gội cho mảnh đất
đã bị khô cằn vì bất công và ích kỷ.
Chúc tụng Chúa là Cha
đã dẫn con đi đến cùng,
đến tận Emmau, nơi Chúa hiển dung
và tràn trề bình an và niềm vui của Chúa Amen.
(ĐHY Roger Etchegaray)
27/01 Đèn đặt trên đế cao
- Viết bởi Mc 4, 21-25
Đèn đặt trên đế cao.
Thứ Năm tuần 3 thường niên.
"Ðèn đốt lên là để đặt trên giá đèn. Các ngươi đong đấu nào, thì người ta sẽ đong đấu ấy cho các ngươi".
LỜI CHÚA: Mc 4, 21-25
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Có ai đem đèn sáng đặt trong thùng hay dưới gầm giường chăng? Chẳng phải là để đặt trên giá đèn sao? Vì chẳng có gì giấu kín mà chẳng tố lộ ra và chẳng có gì kín đáo mà không bị đưa ra ánh sáng. Ai có tai để nghe, thì hãy nghe".
Và Người bảo họ rằng: "Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy, và người ta còn thêm nữa. Vì ai có, sẽ được cho thêm; và ai không có, cả cái đang có cũng bị lấy mất".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đặt trên đế
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bài Tin Mừng hôm nay gồm bốn câu có vẻ rời rạc
được Đức Giêsu nói trong những dịp khác nhau.
Thánh Máccô chia bốn câu này thành hai cặp (cc. 21-22 và 24b-25).
Trong mỗi cặp, câu thứ hai được nối với câu thứ nhất bằng chữ “vì”.
Đức Giêsu nhấn mạnh tầm quan trọng của bốn câu nói trên
qua việc Ngài nhắc nhở ta phải nghe một cách nghiêm túc (cc. 23. 24a).
Thầy Giêsu vẫn quen giảng khởi đi từ những chuyện hàng ngày.
Thời xưa, khi chưa có điện, ngọn đèn dầu đem lại ánh sáng cho cả căn nhà.
Bởi vậy không thể nào hiểu được chuyện ai đó thắp đèn lên,
rồi lại đặt nó dưới cái thùng hay gầm giường.
Cứ sự thường phải đặt nó trên đế để soi sáng mọi sự.
Ngọn đèn mà Thầy Giêsu nói ở đây có thể ám chỉ Tin Mừng của Ngài,
và cũng có thể ám chỉ chính Con Người của Ngài.
Tin Mừng ấy không được phép đem giấu đi,
nhưng phải được quảng bá và rao giảng.
Con Người Đức Giêsu không được che kín sau bức màn,
nhưng phải được từ từ vén mở cho mọi người thấy.
Trong sách Tin Mừng theo thánh Máccô,
Đức Giêsu cấm các môn đệ không được nói với ai Ngài là Đức Kitô (8, 30),
vì chữ “Kitô” khiến người ta lầm tưởng Ngài sẽ đứng lên làm cách mạng.
Nhưng vào cuối đời, khi tay không đứng trước vị thượng tế (14, 61-62),
Đức Giêsu đã nhìn nhận tước vị này, vì nó không còn có thể bị hiểu lầm nữa.
Như thế, những gì được tạm thời che giấu, cuối cùng đã được tỏ lộ,
những gì bí ẩn đã được đưa ra ánh sáng (c. 22).
Đức Giêsu là Kitô, nhưng là một Kitô chịu đau khổ như Người Tôi Tớ (Is 53).
Cuộc đời người Kitô hữu, người đã lãnh nhận phép thanh tẩy,
cũng giống như ngọn đèn đã thắp sáng đặt trên đế.
Không được vì bất cứ lý do gì mà che giấu đi:
vì khiêm tốn không muốn cho ai thấy ánh sáng của mình,
hay vì không dám đương đầu với sức mạnh của bóng tối.
Thế giới hôm nay cần những ngọn đèn Kitô hữu.
Hai tỷ Kitô hữu làm nên hai tỷ ngọn đèn.
Ánh sáng bừng lên xua tan bóng tối của dối trá, hận thù, sa đọa.
Ánh sáng đem lại sự ấm áp của cảm thông, an bình và nâng đỡ.
Khi cảm nhận được ánh sáng, người ta sẽ nhận ra được Kitô hữu là ai.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến.
Xin đừng mỉm cười mà nói rằng
Chúa đã ở bên chúng con rồi.
Có cả triệu người chưa biết Chúa.
Nhưng biết Chúa thì được cái gì?
Chúa đến để làm gì
nếu đời sống con cái của Chúa
cứ tiếp tục y như cũ?
Xin hoán cải chúng con.
Xin lay chuyển chúng con.
Ước gì sứ điệp của Chúa
trở nên máu thịt của chúng con,
trở nên lẽ sống của cuộc đời chúng con.
Ước gì sứ điệp đó
lôi chúng con ra khỏi sự an nhiên tự tại,
và đòi buộc chúng con,
làm chúng con không yên.
Bởi lẽ chỉ như thế,
sứ điệp đó mới mang lại cho chúng con
bình an sâu xa,
thứ bình an khác hẳn,
đó là Bình An của Chúa. (Helder Câmara)
Suy Niệm 2 : Đặt trên giá đèn
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đoạn này nối tiếp dụ ngôn “Người gieo giống”. Lại hai lần nói về lắng nghe. Nên hầu chắc nói về thái độ đối với Lời Chúa.
Lời Chúa là ngọn đèn sáng phải đặt trên giá để soi đường cho mọi người đi lại. Không chỉ soi bên ngoài. Nhưng quan trọng hơn soi trong tâm hồn. Lời Chúa sẽ soi sáng mọi ngõ ngách tối tăm nhất của tâm hồn con người. Chẳng điều gì có thể che giấu được ánh sáng Lời Chúa.Khi trong ngoài sáng tỏ ta sẽ sống trong sự sáng. Làm con sự sáng. Nhưng liệu ta có tai lắng nghe không? Lắng nghe là để Lời Chúa soi rọi vào đáy sâu tâm hồn.
Ai càng lắng nghe lại càng được Lời Chúa soi sáng. Càng hiểu biết lại càng say mê Lời Chúa. Đã có lại cho thêm. Như mảnh đất tốt khiến hạt giống sinh bông hạt trăm nghìn.
Đa-vít là một chiếc giá đèn. Lời Chúa soi sáng cuộc đời ông. Ông lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Nên Chúa không ngừng ban ân huệ cho ông. Đã chọn ông làm vua. Lại còn hứa cho dòng dõi ông trường tồn. Khiến chính ông phải ngạc nhiên: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con là ai và nhà của con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này? Nhưng lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, Ngài còn coi đó là quá ít; Ngài lại hứa cho nhà của tôi tớ Ngài một tương lai lâu dài”. Và Đa-vít trở thành mẫu mực cho toàn dân noi theo. Để biết lắng nghe và thực hành thánh ý (năm chẵn).
Chúa Giê-su là Lời Thiên Chúa bằng xương bằng thịt. Là ánh sáng soi dẫn đường ta đi. Vì Người đã đổ máu để mở cho ta con đường mới. Con đường dẫn đến Thiên Chúa. Chính Đức Chúa Cha đã tuyên dương Người và mời gọi ta hãy nghe lời Người. Theo Chúa Giê-su ta tràn trề hi vọng. “Vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (năm lẻ).
Nếu ta tuân giữ Lời Chúa, ta sẽ càng thêm phong phú. “Vì ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy đi”.
Suy Niệm 3: Ðong đấu nào
Thi hào Tagore có kể câu truyện ngụ ngôn như sau: Có một người hành khất nọ ngồi bên vệ đường. Hôm ấy, đức vua ngự giá đi ngang qua. Người hành khất cố lê lết đến cổng làng, ngồi đó và nhủ thầm: "Ðây là dịp may hiếm có, tôi sẽ xin đức vua bố thí cho tôi".
Từ xa, khi thấy xe đức vua, người hành khất đã vẫy tay chào. Nhưng không ai ngờ, khi xe dừng lại, vua chẳng cho gì mà còn giơ tay xin người hành khất bố thí. Người hành khất liền đưa tay vào cái bị, lấy ra một nắm thóc và đặt vào bàn tay vua một hạt thóc. Ðức vua cám ơn, rồi tặng lại một món quà nhỏ bỏ vào cái bị ấy.
Khi về đến nhà, người hành khất mở bị ra, thì thấy giữa những hạt thóc một hạt kim cương sáng ngời. Lúc đó, người hành khất mới hối tiếc: "Phải chi ta cho đức vua cả bị thóc này, thì ta đã được cả một bị kim cương".
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Các con đong đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho các con đấu ấy, và còn cho các con hơn nữa". Nói khác đi, chỉ có một đấu duy nhất, là nếu chúng ta làm điều gì đó cho người anh em, thì chính đấu ấy sẽ đong lại cho chúng ta. Có một tội mà ít ai tránh khỏi, đó là tội ích kỷ. Vì ích kỷ là chỉ muốn thu vén điều tốt cho mình, còn dành điều xấu cho người khác, do đó chẳng quan tâm gì đến những bất hạnh của người khác.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta suy xét và điều chỉnh lại cuộc sống trong tương quan với tha nhân, với ý thức rằng những gì chúng ta làm cho người anh em, là làm cho chính Chúa, và rằng Chúa sẽ đối xử với chúng ta theo cung cách chúng ta đối xử với người khác.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Hãy coi chừng!
Người nói với các ông: “Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường? nào chẳng phải là để đặt trên đế sao? Vì chẳng có gì bí ẩn mà không phải là hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà không phải là để đưa ra ánh sáng. Ai có tai thì nghe!” (Mc. 4, 21-23)
Khi ta nhắc nhở dặn dò ai điều gì thì lời ấy thường có hai ý nghĩa. Đôi khi ta muốn người ta phải dè chừng, có khi ta muốn họ phải cẩn thận, phải cân nhắc lời nói việc làm. Hai ý nghĩa này đều nằm trong những lời răn bảo của Chúa Giêsu. “Hãy coi chừng các người Pharisiêu, Người phán, vì họ nói mà không làm!” “Anh em hãy coi chừng, vì anh em không biết ngày nào giờ nào kẻ trộm đến!”. Đó là hai lời cảnh báo phải khôn ngoan và coi chừng.
Trái lại trong trích đoạn Phúc âm ta đọc sáng nay, lời răn bảo phải coi chừng có một tính cách tích cực, với nghĩa là “anh em hãy để ý đến điều anh em nghe”.
Thực vậy, trong trích đoạn này, những tiếng “điều anh em nghe, chính là mấu chốt điều Chúa Giêsu muốn giáo huấn ta. Vì thế, muón hiểu được giáo huấn này của Chúa, ta cần phải có một sự quan tâm để ý đặc biệt, nếu không ta sẽ chẳng lĩnh hội được gì. Nội dung lời giáo huấn của Chúa cũng gói ghém trong những câu sau: “Anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em bằng đấu ấy và còn cho anh em hơn nữa”, có nghĩa là Lời Chúa chỉ đem lại hiệu quả tốt, tùy theo sự quan tâm chú ý của người nghe. Mức độ lắng nghe là thước đo hoạt động của Lời Chúa. Sau nữa chỉ có Lời Chúa mới có khả năng cho thêm, cho vượt cả mức lòng ta mong đợi nữa.
Ý nghĩa của câu sau cùng, giờ đây được sáng tỏ: “Ai đã có thì được cho thêm, còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy mất” - hoặc nói khác đi: ai không chú ý lắng nghe, không mở lòng ra đón nhận, thì cái đã được gieo cũng sẽ mất đi, còn ai càng mở ra và càng cẩn thận thì càng nhận được hồng ân Thiên Chúa và giữ được cái đã được gieo vào lòng mình.
Ta có lắng nghe Lời Chúa không?
Nhiều người đã chịu phép Rửa tội, đã được học giáo lý đầy đủ: vỡ lòng, rước lễ, thêm sức, bao đồng v.v. Họ đã nghe đã học cả đấy. Vậy mà ngày nay họ chẳng giữ đạo, chẳng đi lễ, mà còn không tin nữa. Vì chểnh mảng, coi thường, họ chẳng còn gốc gác gì với cha ông họ là những người đạo dòng. Đức tin mai một như vậy đó. Chúng ta hãy coi chừng! Hãy coi chừng sự không quan tâm chú ý của ta. Lời Chúa không chịu cảnh người ta bịt tai hay lơ đãng. Ta không biết được rồi đây chính ta có thể trở thành con người không tin hay không? Nếu có, sẽ là bởi tại ta đã quá keo kiệt khi đong cho việc lắng nghe Lời Chúa vậy.
Suy Niệm 5: Hãy chiếu dãi ánh sáng cho mọi người
Thật là kỳ dị khi chúng ta thắp đèn rồi đem đặt ở gầm giường, hay lấy thùng úp lên. Chỉ những người khùng thì mới làm những chuyện như vậy!
Đức Giêsu đã có lần nói: Ta là ánh sáng thế gian. Đồng thời Ngài cũng mời gọi mỗi chúng ta đi theo Ngài. Như vậy, khi chúng ta tin và đi theo Đức Giêsu, tức là chúng ta đi trong ánh sáng của Ngài.
Không chỉ dừng lại ở đó, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy tỏa ánh sáng đó cho mọi người được thấy. Nói cách khác: chúng ta phải trở nên sứ giả Tin Mừng, chứng nhân của tình yêu. Đức Giêsu không chấp nhận chuyện chúng ta chỉ nói tin Chúa, nhưng trong đời sống thực tế, không sống chứng nhân. Không! Ngài mời gọi chúng ta phải thắp đèn cho sáng và để trên đế nhằm cho mọi người được thấy ánh sáng (x. Mc 4, 21).
Như vậy, để trở thành một người Kitô hữu thực thụ, chúng ta phải hội đủ hai yếu tố, đó là:
Một là tin và đi theo Đức Giêsu; hai là sống chứng nhân, tức là chiếu tỏa các chân lý Tin Mừng của Đức Giêsu ngang qua cuộc sống của mình. Hội đủ hai yếu tố đó, chúng ta mới xứng đáng trở thành môn đệ của Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng của Chúa cho anh chị em chúng con, nhờ đó, mọi người cũng đón nhận được chính Chúa là nguồn sáng đích thực soi chiếu cuộc đời và thế gian này đi tới sự sống vĩnh cửu. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Mỗi Kitô hữu phải biết chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng cho những người xung quanh. Càng biết mở lòng đón nhận và chiếu tỏa Tin Mừng, thì lại càng đón nhận được nhiều ơn Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, một bức họa hay một bông hoa dù đẹp đẽ đến đâu, nhưng nếu không có ánh sáng, thì cũng chẳng có giá trị gì. Chính Chúa là ánh sáng chiếu soi trần gian. Nếu không có Chúa là ánh sáng, chúng con không thể sống, không thể tăng trưởng và cũng chẳng có giá trị gì.
Con cảm tạ Chúa đã cho con được đón nhận Ánh Sáng Tin Mừng. Nhờ đón nhận Chúa vào đời, cuộc sống của con thay đổi biết bao. Nhờ bước theo Ánh Sáng Phúc âm, cuộc đời con tươi đẹp hơn và đang tiến dần tới hạnh phúc. Con tạ ơn Chúa và cố gắng trung thành với Tin Mừng của Chúa. Chiếc đấu con đong cho Chúa còn quá nhỏ bé, nên con cũng chỉ nhận được ơn Chúa quá ít. Xin Chúa giúp con biết sống quảng đại, biết mở rộng tâm hồn để con xứng đáng lãnh nhận ơn Chúa nhiều hơn.
Lạy Chúa, không những Chúa thắp sáng đời con. Chúa còn muốn nhờ con chiếu tỏa Ánh Sáng Tin Mừng cho tất cả mọi người, vì Chúa cũng yêu thương họ như thương yêu con. Xin Chúa giúp con đặt đèn trên đế cao, cho con biết chiếu tỏa Ánh Sáng Tin Mừng bằng lời nói và đời sống thánh thiện bác ái. Mỗi một linh hồn đều có giá trị lớn trước mặt Chúa. Xin Chúa dạy cho con biết quan tâm đến đời sống hạnh phúc đời đời của họ. Chiếc đèn không thể đặt dưới thùng hay gầm giường. Con cũng không thể sống ích kỷ, co cụm cho riêng mình. Xin Chúa cho đời sống Kitô hữu nơi con được tỏa sáng rạng ngời để có thể thắp lên những ngọn đèn nơi cuộc đời người khác. Con chỉ sợ ngọn đèn của con tắt. Xin Chúa thương giữ gìn con. Amen.
Ghi nhớ: “Ðèn đốt lên là để đặt trên giá đèn. Các ngươi đong đấu nào, thì người ta sẽ đong đấu ấy cho các ngươi”.
Suy Niệm 7: Cây nến trong tay Thiên Chúa
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Buổi chiều, người nọ lấy cây nến nhỏ từ trong hộp ra và leo lên tầng tháp cao. Cây nến hỏi:
- Chúng ta đi đâu?
- Đi lên cao hơn để chỉ đường cho tàu bè vào cảng.
- Nhưng tôi nhỏ bé thế này làm sao tàu bè thấy được?
- Chỉ cần ngươi cứ cháy sáng thôi, còn mọi việc ta lo.
Tới đỉnh tháp, người nọ đặt cây nến vào trong một cái đèn có ghép những tấm kính phản quang. Nhờ đó, ánh sáng lan tỏa và mọi tàu bè đều thấy.
Chúng ta cũng là cây nến trong tay Thiên Chúa. Chỉ cần ta cháy sáng, còn kết quả là ở Thiên Chúa.
Suy niệm
Ánh sáng phải được đặt trên giá tỏa sáng, chính Chúa Giêsu là ánh sáng thật, ánh sáng được thắp lên để soi chiếu cho mọi người, ai nghe và đón nhận ánh sáng và toả sáng thì sẽ được hạnh phúc muôn đời: “Kitô hữu là cây đèn sáng chiếu vào thế gian bày tỏ Lời sự sống” (x. Pl 2,15b-16a).
Đèn Kitô hữu muốn sáng lâu, phải đổ nhiều “dầu Lời Chúa” vào tâm hồn và muốn sáng mạnh phải tiêu hao “đời mình vì Lời Chúa”, đó là sự quảng đại vì anh em theo Lời Chúa dạy…
Xu hướng của con người là hưởng thụ và ích kỷ. Ích kỷ là chỉ muốn thu vén điều tốt cho mình, còn dành điều xấu cho người khác, do đó chẳng quan tâm gì đến những bất hạnh của người khác.
Chúa Giêsu dạy tỏa sáng khi làm một đấu duy nhất cho Chúa qua anh em: Nếu chúng ta làm điều gì đó cho người anh em, thì chính đấu ấy sẽ đong lại cho chúng ta. Quảng đại sinh quảng đại, bác ái sinh bác ái. Đó là ánh sáng được ánh sáng…
Ý lực sống:
“Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
Suy Niệm 8: Dụ ngôn về cái đèn và cái đấu
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Hôm nay Đức Giêsu đưa ra hai dụ ngôn nói về cái đèn và cái đấu để nói về việc nghe Lời Chúa và giới thiệu cho người khác. Chúa nói: ”chẳng ai mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường”. Chúng ta đã nghe Lời Chúa, chúng ta không được giữ kín cho riêng mình. Chúng ta phải đem Lời Chúa đến cho mọi người. Chúng ta càng nhiệt tâm giảng dạy Lời Chúa cho kẻ khác thì Chúa càng ban thêm cho chúng ta. Còn nếu chúng ta ích kỷ giữ riêng cho mình thì dần dần cũng sẽ mất hết ơn Chúa.
2. Có hai chữ chúng ta phải biết để hiểu đúng Lời Chúa: đó là”cái đèn” và “cái đấu. Đức Giêsu muốn dùng cái đèn để ám chỉ Tin Mừng của Ngài. Kẻ nghe Tin Mừng giống như chiếc đèn. Họ phải loan báo Tin Mừng cho những người khác nữa và họ phải sống những gì đã nghe, có như thế cuộc sống họ sẽ chiếu tỏa ánh sáng ra những người chung quanh.
Cái “đấu” là mức độ tâm hồn mở ra để đón nhận. Con người càng mở ra, càng sống Lời Chúa, thì càng nhận được nhiều hồng ân Thiên Chúa; trái lại, kẻ chỉ nghe mà không sống Lời Chúa thì không được ban thêm, mà cả những ơn họ đang có cũng bị lấy đi mất.
3. “Có ai đốt đèn rồi đem để ở trong thùng hay dưới gầm giường không? Nào chẳng phải là đặt trên giá đèn sao” (Mc 4,21).
Lý do hiện hữu của cây đèn là để soi sáng. Vậy khi cây đèn không soi sáng cho ai, thì nó không còn phải là cây đèn nữa. Cũng thế, lý do hiện hữu của người Kitô hữu là phải tỏa sáng niềm tin của mình ra, để cho người khác, nhờ ánh sáng đó mà được dẫn đưa đến chân lý và hy vọng; hay nói cách khác, trực tiếp hay gián tiếp, âm thầm hay hiển hiện, việc làm chứng cho Đức tin trong cuộc sống hằng ngày của những người Kitô hữu chúng ta, không phải là một việc làm có tính cách nhiệm ý, nghĩa là muốn làm hay không tùy ý, mà trái lại đó là một đòi hỏi tất yếu, bao trùm cả cuộc sống Kitô hữu của chúng ta.
4. “Một ngọn nến nhỏ tỏa sáng xa biết bao! Cũng vậy, một việc làm tốt tỏa sáng biết bao trong một thế giới mệt mỏi”(Văn hào W. Shakespeare).
Ngọn đèn muốn tỏa sáng xa thì phải được đặt trên đế cao có lẽ là chuyện chẳng cần bàn cãi. Thế nhưng, ngọn đèn mà Đức Giêsu muốn ta đặt trên đế lại là chuyện khác, vì đèn ấy chính là Tin Mừng của Ngài. Có vẻ ta có khuynh hướng che giấu, ngại bầy tỏ - nghĩa là đặt dưới thùng hay gầm giường – thay vì loan báo, trình bầy cho người lân cận. Sống triệt để tinh thần Tin Mừng của Chúa là phương thế hữu hiệu nhất để đặt Tin Mừng ấy trên đế cao. Ngược lại, coi thường Tin Mừng, không quan tâm đếnTin Mừng ấy là cung cách thích hợp nhất cất giấu dưới thùng hay gầm giường.
5. Là ánh sáng, chúng ta phải chiếu soi cho thế gian bằng đời sống gương sáng và đem tinh thần Chúa Kitô thấm nhiễm vào môi trường sống của mình. Chúa bảo chúng ta: ”Các con là chứng nhân của Thầy”, nhưng nhiều khi chúng ta vô tình hay hữu ý đã trở thành phản chứng, làm méo mó khuôn mặt của Đức Kitô, khiến người ta không muốn theo Chúa.
Vì thế, năm 1937, ông Gandhi, một lãnh tụ vĩ đại của Ấn độ, đã nói với các nhà truyền giáo câu này để chúng ta suy nghĩ: ”Hãy để cho đời sống của các ngài nói với chúng tôi như đóa hoa hồng không cần ngôn ngữ, mà chỉ cần đơn sơ để cho hương thơm lan tỏa. Cả người mù không xem thấy hoa hồng, vẫn nhận ra được mùi thơm của nó. Hãy để chúng tôi nghĩ đến sự cao cả của người Kitô hữu khi họ tỏa hương thơm đời sống. Đối với tôi đó là tiêu chuẩn duy nhất. Tất cả những gì tôi muốn họ làm là sống đời Kitô hữu, chứ không phải là chú giải nó”.
6. Lời Chúa có sức chiếu sáng rất mạnh. Chỉ tiếc rằng Lời Chúa rót vào tai một số người giống như dầu châm vào những cây đèn không chịu cháysáng cho nên cũng vô ích. Bà Chiara Lubich nói: “Chúng ta phải sống thế nào để cho dù các sách Tin Mừng trên khắp thế giới có bị đốt hết đi thì người ta nhìn vào cuộc sống chúng ta vẫn có thể chép lại Tin Mừng ấy đúng từng câu, từng chữ”.
7. Truyện: Ngọn hải đăng.
Vào một đêm mưa bão, ngọn hải đăng bị mất điện tắt ngấm. Người phụ trách hải đăng vội vã đốt một cây nến nhỏ và cầm cây nến theo đường cầu thang leo lên sân thượng để đốt đèn lên. Bấy giờ cây nến mới lên tiếng hỏi người phụ trách rằng:
- Ông đem tôi đi đâu vậy?
Ông trả lời:
- Ta mang nhà ngươi lên sân thượng để chiếu sáng giúp tầu bè từ ngoài khơi biết đường trở về và cập bến an toàn.
Cây nến lại nói:
- Nhưng tôi chỉ là cây nên nhỏ bé thế này thì tầu bè ở tận ngoài khơi làm sao nhìn thấy ánh sáng của tôi được?
Người phụ trách trả lời:
- Bây giờ ta chỉ cần nhà ngươi đừng bị gió thổi tắt là được. Còn các chuyện khác thì đã có ta lo liệu.
Khi cả hai leo lên đến nơi, thì người phụ trách đã dùng cây nến châm lửa và trong giây lát ánh sáng từ cây đèn lồng rực lên chiếu tỏa ra chung quanh. Chiếc đèn lồng này đã được thiết kế để khi cần có thể xử dụng thay bóng đèn điện. Ánh sáng của nó có sức chiếu ra tận ngoài khơi, hầu giúp tầu bè dễ dàng định hướng để quay về cập bến an toàn.
Suy Niệm 9: Sống Phúc Âm
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Hai dụ ngôn nhỏ này tiếp liền những đoạn Phúc Âm của các ngày trước và triển khai thêm chủ đề nghe Lời Chúa.
- Dụ ngôn chiếc đèn: kẻ nghe Phúc Âm giống như chiếc đèn:
a/ Họ phải loan truyền Phúc Âm cho những người khác biết nữa.
b/ Họ phải sống những gì đã nghe, có như thế cuộc sống họ sẽ chiếu tỏa ánh sáng ra những người chung quanh.
- Dụ ngôn cái đấu: người nào càng biết nghe Lời Chúa và sống Lời Chúa thì càng được ban thêm ơn; trái lại kẻ chỉ nghe mà không sống thì không được ban thêm ơn gì, mà cả những ơn họ đang có cũng bị lấy đi mất.
B. Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Lời Chúa quả có sức chiếu sáng rất mạnh. Chỉ tiếc rằng Lời Chúa rót vào tai một số người giống như dầu châm vào những cây đèn không chịu cháy sáng cho nên cũng vô ích. Chiara Lubich nói: “Chúng ta phải sống thế nào để cho dù các sách Phúc Âm trên khắp thế giới có bị đốt hết đi thì người ta nhìn vào cuộc sống chúng ta vẫn có thể chép lại Phúc Âm ấy đúng từng câu, từng chữ”.
2. “Hãy coi chừng điều các ngươi nghe thấy. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy”: nhiều khi tôi thấy có những người khác đã hiểu và sống Lời Chúa một cách rất sâu sắc, rồi nhìn lại mình mà tự xấu hổ. Tại sao thế? Chính Chúa Giêsu giải thích: tại vì “cách nghe”. Họ chẳng những “nghe” mà còn “đón nhận” và “sinh hoa kết quả” cho nên “đã có thì lại được cho thêm”; còn tôi, có lẽ tôi chỉ “nghe” suông, cho nên “ngay cái đang có cũng bị lấy mất đi”.
3. Buổi chiều, người nọ lấy cây nến nhỏ từ trong hộp ra và leo lên tầng tháp cao. Cây nến hỏi:
- Chúng ta đi đâu?
- Đi lên cao hơn để chỉ đường cho tàu bè vào cảng.
- Nhưng tôi nhỏ bé thế này làm sao tàu bè thấy được?
- Chỉ cần ngươi cứ cháy sáng thôi, còn mọi việc ta lo.
Tới đỉnh tháp, người nọ đặt cây nến vào trong một cái đèn có ghép những tấm kính phản quang. Nhờ đó, ánh sáng lan tỏa và mọi tầu bè đều thấy.
Chúng ta cũng là cây nến trong tay Thiên Chúa. Chỉ cần ta cháy sáng, còn kết quả là ở Thiên Chúa (Góp nhặt)
4. Một nông dân nghèo Nhật bản vào thiên đàng và điều đầu tiên ông nhìn thấy là một kệ dài với những vật rất kỳ lạ. Ông hỏi:
- Cái gì thế? Có phải để nấu xúp?
- Không, đó là những cái tai. Chúng là của những người khi sống ở đời nghe được những điều tốt, nhưng họ không làm. Nên khi chết, tai họ vào thiên đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không.
Một lát sau, ông lại thấy một kệ khác với những vật kỳ quái. Ông hỏi:
- Cái gì thế? Có phải để nấu xúp?
- Không, đó là những cái lưỡi. Chúng là của những người sống ở đời bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ không làm hoặc không sống điều đó. Nên khi chết, lưỡi họ vào thiên đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không (Góp nhặt)
Suy Niệm 10: Tỏa sáng niềm tin
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Hai dụ ngôn nhỏ này tiếp liền những đoạn Tin mừng của mấy ngày hôm nay triển khai thêm chủ đề về việc nghe Lời Chúa.
* Dụ ngôn chiếc đèn: kẻ nghe Tin Mừng giống như chiếc đèn: Họ phải sống những gì đã nghe, có như thế cuộc sống họ mới chiếu tỏa ánh sáng ra những người chung quanh.
* Dụ ngôn cái đấu: càng biết nghe Lời Chúa và sống Lời Chúa thì càng được ban thêm ơn; trái lại kẻ chỉ nghe mà không sống thì không được ban thêm ơn gì, mà cả những ơn họ đang có cũng bị lấy đi mất.
Lời Chúa quả có sức chiếu sáng rất mạnh. Chỉ tiếc rằng, Lời Chúa rót vào tai một số người giống như dầu châm vào những cây đèn không chịu cháy sáng cho nên cũng vô ích. Bà Chiara Lubich nói: “Chúng ta phải sống thế nào để cho dù các sách Tin Mừng trên khắp thế giới có bị đốt hết đi thì người ta cũng vẫn có thể nhìn vào cuộc sống chúng ta mà chép lại Tin Mừng đúng từng câu, từng chữ”.
Chiara rất thích thể thao, nhưng rồi một hôm khi dang chơi tennis, cô thấy đau ở vai. Sau khi chẩn bệnh, bác sĩ cho cô biết cô đã bị ung thư và phải nằm viện. Trong thời gian điều trị, cô đã cố quên cái đau đớn trong thân xác để giúp đỡ mọi người. Khi cô thấy tóc mình rụng quá nhiều vì xạ trị cô đã nói: - Con xin dâng tất cả cho Chúa Giêsu.
Trước khi lìa đời, Chiara dặn dò mọi người:
- Xin đừng khóc cho tôi, tôi đang đến với Chúa Giêsu. Trong lễ an táng của tôi, tôi muốn mọi người đều ca hát ngợi khen Chúa.
Đức Cha Jean Koret, vị Giám Mục Tiệp Khắc đã từng phải sống lén lút dưới chế độ Cộng Sản của Tiệp Khắc trước kia, tâm sự rằng: Ngài đã gặp gỡ được nhiều người tốt, lúc Ngài phải đi làm việc như một công nhân, hơn là lúc Ngài ở trong toà Giám Mục.
Tiết lộ trên đây của Đức Cha Jean Koret, đã phản ánh trung thực điều Chúa Giêsu đã phán: “Có ai đốt đèn rồi đem để ở trong thùng hay dưới gầm giường không? Nào chẳng phải là đặt trên giá đèn sao?” (Mc 4,21).
Lý do hiện hữu của cây đèn là để soi sáng. Vậy khi cây đèn không soi sáng cho ai, thì nó không còn phải là cây đèn nữa.
Cũng thế, lý do hiện hữu của người Kitô hữu là phải tỏa sáng niềm tin của chúng ta, để cho người khác, nhờ ánh sáng đó mà được dẫn đưa đến chân lý và hy vọng, hay nói một cách khác, trực tiếp hay gián tiếp, âm thầm hay hiển hiện, việc làm chứng cho Đức tin trong cuộc sống hằng ngày của những người Kitô hữu chúng ta, không phải là một việc làm có tính cách nhiệm ý, nghĩa là muốn làm hay không tùy ý, mà trái lại đó là một đòi hỏi tất yếu, bao trùm tất cả cuộc sống Kitô hữu của chúng ta.
Như thế, đời sống của những người Kitô hữu phải là những ngọn đèn thắp sáng và được đặt trên giá đèn. Thực vậy, giữa biển khơi đầy những phong ba bão táp của cuộc đời này, con người luôn khát khao nhìn thấy ánh sáng chỉ đường của những ngọn “ Hải Đăng”.
Vào một buổi chiều nọ, một người lấy từ trong hộp ra một cây nến nhỏ và leo lên tầng tháp cao. Cây nến hỏi:
- Chúng ta đi đâu?
- Đi lên cao hơn để chỉ đường cho tàu bè vào cảng.
- Nhưng tôi nhỏ bé thế này làm sao tàu bè thấy được?
- Chỉ cần ngươi cứ cháy sáng thôi, còn mọi việc để ta lo.
Tới đỉnh tháp, người ấy đặt cây nến vào trong một cái đèn có ghép những tấm kính phản quang. Nhờ đó, mà ánh sáng lan tỏa ra và mọi tầu bè đều thấy.
Chúng ta cũng là cây nến trong tay Thiên Chúa. Chỉ cần ta cháy sáng, còn kết quả là ở Thiên Chúa (Góp nhặt).
2. “Hãy để ý điều anh em nghe. Anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em bằng đấu ấy” (Mc 4,24).
Có một nông dân nghèo Nhật bản vào Thiên Đàng và điều đầu tiên ông nhìn thấy là một kệ dài với những vật rất kỳ lạ. Ông hỏi:
- Cái gì thế? Có phải để nấu xúp không?
- Không, đó là những cái tai. Chúng là của những người khi sống ở đời nghe được những điều tốt, nhưng họ không làm. Nên khi chết, tai họ vào Thiên Đàng, còn các phần khác của cơ thể thì không.
Một lát sau, ông lại thấy một kệ khác với những vật kỳ quái. Ông hỏi:
- Cái gì thế? Có phải để nấu xúp không?
- Không, đó là những cái lưỡi. Chúng là của những người sống ở đời bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ không làm hoặc không sống điều đó. Nên khi chết, lưỡi họ vào Thiên Đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không (Góp nhặt)
Hãy cầu xin cho mọi Kitô hữu chúng ta, luôn ý thức tầm quan trọng của việc sống niềm tin trong cuộc sống và quyết tâm sống niềm tin ấy, để mỗi người trở thành những ngọn đèn được thắp sáng giữa môi trường mà chúng ta đang sống. Amen.
26/01 Diễn Văn Truyền Giáo
- Viết bởi Lc 10, 1-9
Diễn Văn Truyền Giáo.
Thứ Tư tuần 3 thường niên – Thánh Timôthê và thánh Titô, giám mục. Lễ nhớ.
“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít”.
* Cùng với thánh Luca, thánh Timôthê và thánh Titô là những cộng tác viên trung thành của thánh Phaolô. Mẹ thánh Timôthê là người Do thái, còn chính ông thì đã được thánh Phaolô thanh tẩy. Ông đã theo thánh Phaolô trong các chuyến đi truyền giáo, rồi sau được đặt làm thủ lãnh giáo đoàn Êphêxô.
Còn thánh Titô đã được thánh Phaolô nhận ở Antiôkhia ngay từ đầu sứ vụ tông đồ. Sau đó, ông được trao nhiệm vụ loan báo Tin Mừng.
Thư thánh Phaolô gửi cho ông Timôthê và thư gửi cho ông Titô được gọi là các thư mục vụ, vì trong đó có nhiều lời khuyên dành cho cả những người lãnh đạo cũng như cho hết mọi thành phần trong giáo đoàn.
Lời Chúa: Lc 10, 1-9
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: ”Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của người.
Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: ”Bình an cho nhà này”. Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: ”Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Vào nhà, vào thành phố
(Lm. Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm:
Dân số Châu Á chiếm gần hai phần ba thế giới
nhưng số người nhận biết Chúa chưa tới 3%.
Cánh đồng lúa chín mênh mông đang cần thợ gặt.
Ðức Giêsu hôm nay vẫn có nhiều nơi Ngài muốn đến,
nhiều căn nhà, nhiều thành phố Ngài muốn đặt chân.
Ngài cần những người đi trước để chuẩn bị cuộc gặp gỡ
giữa Ngài với con người.
Khoa học càng tiến bộ, cuộc sống càng văn minh
thì càng có nhiều lãnh vực mới Ðức Giêsu cần vào.
Ðưa Ngài vào thật là một thách đố cho chúng ta.
Ngài phải vào cả những nơi tưởng như bị cấm.
Nhưng nếu chúng ta được Ngài sai vào trước,
thì thế nào cuối cùng Ngài cũng vào được.
Nếp sống cao ở thành thị vừa gây cản trở,
vừa cung ứng cho ta nhiều phương tiện để đưa Ngài vào.
Hãy chuẩn bị cho Ngài vào thành phố của bạn,
vào trường học, sân vận động, vào xí nghiệp, công ty...
Hãy chuẩn bị để Ngài vào từng nhà, gặp từng người.
Mọi Kitô hữu đều được mời gọi để làm việc đó.
***
Ðâu là khuôn mặt của người được sai hôm xưa?
Hiền lành như chiên giữa bầy sói.
Khó nghèo thanh bạch, không túi tiền, giầy dép, bao bị.
Khiêm tốn đón nhận sự giúp đỡ về nhà ở cơm ăn.
Tôn trọng tự do tha nhân, chấp nhận bị từ chối.
Người Châu Á hôm nay dễ đón nhận người tông đồ
sống khổ hạnh, thoát tục, sống thư thái, trầm tư,
sống nhân từ, phục vụ.
Cuộc sống của họ phải tỏa hương thơm của thế giới mai sau,
phải có khả năng nâng con người lên Ðấng Tuyệt Ðối.
***
Ðâu là đóng góp của người được sai hôm xưa?
Vừa chữa người đau yếu và trừ quỷ,
vừa loan báo về triều đại Thiên Chúa gần đến.
Việc làm chứng thực lời giảng, lời giảng soi sáng việc làm.
Cả hai đều đem lại niềm vui, bình an và hạnh phúc.
Thế giới hôm nay vẫn là một thế giới bệnh tật,
một thế giới thèm khát tự do, thèm được là mình.
Chúng ta sẽ rao giảng gì cho 97% dân Châu Á
mà phần đông đã tin vào một Ðấng Cứu Ðộ?
Ðức Giêsu đem đến cho nhân loại quà tặng đặc biệt nào?
Chúng ta phải tập trình bày sứ điệp Kitô giáo,
nên cũng phải học nhiều nơi các tôn giáo Á Châu.
***
Các giám mục Malaysia, Singapore và Brunei
đã liệt kê những gì có thể học được nơi họ.
Học cầu nguyện, ăn chay, bố thí nơi người Hồi giáo.
Học Suy niệm và chiêm niệm nơi người Ấn giáo.
Học từ bỏ của cải và trọng sự sống nơi người Phật tử.
Học thái độ thảo hiếu, tôn lão kính trưởng nơi đạo Khổng.
Học sự đơn sơ, khiêm tốn nơi người theo đạo Lão.
Càng học, ta càng dễ giới thiệu Ðức Giêsu,
và càng thấy Ngài đang ẩn mình nơi những tôn giáo khác.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Suy niệm 2: Diễn Văn Truyền Giáo
Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc và Suy niệm những câu đầu tiên của chương 10 Phúc Âm theo thánh Luca. Ðây là bài diễn văn truyền giáo số 2. Bài diễn văn truyền giáo số 1 là chương 9, Phúc Âm thánh Luca. Trong bài diễn văn truyền giáo số 2, Chúa Giêsu ngỏ lời căn dặn bảy mươi hai môn đệ mà Ngài sai đi từng nhóm hai người một để làm như một cộng đoàn làm việc chung với nhau, chứ không phải một cách riêng rẽ. Con số mười hai tông đồ nhắc đến mười hai chi họ Israel; con số bảy mươi hai môn đệ nhắc đến chi tiết nơi chương 10 sách Sáng Thế: "Khi tất cả các dân nước trên mặt đất".
Như thế, chúng ta có thể nói rằng bài diễn văn truyền giáo số 2 của Chúa Giêsu trong đoạn Phúc Âm thánh Luca mà hôm nay chúng ta Suy niệm là những lời căn dặn của Chúa Giêsu cho tất cả mọi thành phần Giáo Hội Dân Chúa đến từ khắp mọi nơi không phân biệt màu da, chủng tộc, tiếng nói. Tất cả mọi người đồ đệ của Chúa đều phải là những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Chúa và phải tuân giữ những gì Chúa căn dặn nơi chương 10 này.
Những lời dặn dò trên của Chúa Giêsu thật là cặn kẽ, cụ thể, với những chi tiết hết sức thực tế. Dĩ nhiên, tinh thần phải có khi thực hiện những việc làm trên là điều quan trọng hơn. Thời đại đã thay đổi, thời chúng ta đang sống khác với thời của Chúa Giêsu. Những hành động cụ thể của một thời đã thay đổi, chẳng hạn như ngày xưa đi bộ, cầm gậy thì ngày nay đã có các phương tiện giao thông liên lạc khác, nhưng tinh thần của những hành động cụ thể mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ có không bao giờ thay đổi. Trong những giây phút ngắn ngủi Suy niệm này chúng ta không thể nào Suy niệm tất cả mọi khía cạnh của tinh thần truyền giáo nơi môn đệ của Chúa.
Ước chi mỗi người chúng ta tìm thì giờ rảnh rỗi trong ngày, trong tuần để trở lại Suy niệm thêm về những lời căn dặn của Chúa nơi chương 10 Phúc Âm thánh Luca.
Chúng ta hãy nhớ lại những lời đầu tiên Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người, các con hãy ra đi". Qua câu đầu tiên này của đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta điểm khởi đầu căn bản của mọi hoạt động truyền giáo: trước hết là nhận thức nhu cầu của anh chị em chung quanh, thứ hai là đưa nhu cầu đó vào trong lời cầu nguyện của chính mình và thứ ba là sẵn sàng để được sai và hăng say ra đi khi được trao phó cho sứ mạng. Chúng ta hãy tự vấn xem chính mình đã có những tư tưởng căn bản này chưa? Những quan tâm truyền giáo làm chứng cho Chúa có được chúng ta đưa vào trong lời cầu nguyện của chính mình chưa? Trong cuộc đối thoại giữa mình với Thiên Chúa chưa?
Lạy Chúa,
Này con đây đã sẵn sàng, Chúa muốn con làm gì xin hãy phán và con xin lắng nghe. Xin ban ơn biến đổi mỗi người chúng con trở thành những chứng nhân đích thực của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Suy niệm 3: Quốc Khánh của Australia
Ngày 26 tháng 01 là ngày quốc khánh của người Australia.
Ngày 26/01/1788, lá cờ của nước Anh lần đầu tiên được cắm trên lãnh thổ của Australia, đánh dấu đợt định cư đầu tiên của 730 người. 730 cựu tù nhân này đã được coi như là thủy tổ của đa số người dân Australia này nay.
Ðối với chính phủ Anh thời bấy giờ, việc lưu đày các tù nhân qua một vùng đất xa lạ là một biện pháp giúp giải quyết vấn đề ứ đọng tại các nhà tù trong nước. Nhưng đối với 730 người lần đầu tiên của Australia này, thì đây là cơ hội để làm lại cuộc đời. Dù muốn dù không, người dân Australia chính hiệu ngày nay không thể phủ nhận được sự kiện là quốc gia của họ đẫ được lhai sinh do những con người mà xã hội muốn xua đuổi cho rảnh tay.
Ngày nay, Australia được xếp vào hạng những nước tiên tiến về mọi mặt. Nhưng có lẽ họ không thể quên được công ơn xây dựng của cha ông họ, dù tông tích của họ có là một quá khứ xấu xa đến đâu.
Câu chuyện lập quốc của nước Australia có thể giúp chúng ta hiểu được phần nào hai chữ Quan Phòng trong Kitô giáo của chúng ta. Lời của thánh Phaolô là một xác quyết về sự quan phòng ấy: nơi nào có tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng ban ơn dồi dào.
Lịch sử của dân Israel và lịch sử ơn cứu rỗi cũng cho chúng ta thấy một chuỗi những vấp ngã của con người và một chuỗi những can thiệp kỳ diệu của Thiên Chúa. Mỗi lần con người phạm tội là mỗi lần Thiên Chúa ban ơn như một khởi điểm cho một công trình mới tốt đẹp hơn.
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ hai Thánh Timôtê và Titô, hai người con tinh thần và cộng sự viên gần gũi của thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại ngày hôm qua.
Cũng giống như Thánh Phaolô, Timôtê mang hai dòng máu Hy Lạp và Do Thái. Do Thái xem Ngài như một đứa con ngoại hôn. Nhưng cái tư thế bị ruồng rẫy đó đã khiến cho Timôtê trở thành gạch nối giữa Tin Mừng và văn minh của những dân tộc ở ngoài Do Thái giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh Thánh Phaolô để phục vụ các cộng đoàn Ephêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ.
Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật.
Ôn lại cuộc đời của ba vị Thánh thuộc thế giới dân ngoại này, chúng ta thấy động tác lạ lùng của ơn Chúa. Mọi người, dù thấp hèn đến đâu, cũng đều có một chỗ đứng trong chương trình cứu rỗi của Chúa. Mọi người đều có thể là trung gian nhờ đó ơn Chúa được thông ban cho người khác. Thế giới không được cứu rỗi nhờ những gì chúng ta làm, mà nhờ những gì Thiên Chúa thực hiện qua cuộc sống của chúng ta.
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ – Radio Veritas Asia)
Suy niệm 4: Thánh Timôthê và thánh Titô
(http://tinvuixuanloc.vn)
Ti-mô-thể và Ti-tô là hai môn đệ nổi tiếng của thánh Phaolô, chính vì thế được mừng kính chung trong dịp lễ thánh Phaolô trở lại.
Ti-mô-thê sinh tại Lít-tra, ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ; cha là một người ngoại giáo, mẹ theo Do Thái giáo. Thánh Phaolô, trong chuyến truyền giáo lần thứ nhất, đã rửa tội cho Ti-mô-thê; từ đó Ti-mô-thê luôn theo Phaolô và trở thành cộng tác viên đắc lực cho thánh nhân. Cả khi Phaolô bị tù đày, Ti-mô-thê vẫn ở với ngài. Theo truyền thuyết, Ti-mô-thê là giám mục tiên khởi của giáo đoàn Êphêsô. Hai thơ Phaolô được đề tựa gửi cho ngài.
Ti-tô là con của một gia đình hoàn toàn ngoại giáo. Trong Công vụ Tông đồ, Ti-tô không bao giờ được nhắc đến; nhưng trong các lá thơ, thánh Phaolô đều gọi ông Ti-tô là cộng tác viên. Phaolô đã rửa tội cho Ti-tô, đem theo lên Giêrusalem để dự Công đồng các Tông đồ. Phaolô đã trao cho Ti-tô nhiều trách vụ quan trọng. Theo truyền thuyết, thánh Phaolô đã đặt Ti-tô làm giám mục cho giáo đoàn Cờ-rê-ta.
CẦU NGUYỆN: Lạy Cha, Cha đã ban cho hai thánh Ti-mô-thê và Ti-tô những đức tính xứng bậc tông đồ. Xin nhận lời các thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho chúng, khi còn ở đời này, biết sống ngay lành và thánh thiện, hầu xứng đáng đạt tới quê trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Suy niệm 5: Tông đồ đoàn của Chúa Giêsu
(Linh mục Giuse Đinh Quang Thịnh)
Hội Thánh muốn phát triển, cần có nhiều môn đệ Đức Kitô đi làm việc Tông Đồ, để tập họp thêm nhiều người về cho Chúa. Việc Tông Đồ không phải chỉ dành riêng cho hàng giáo sĩ, mà là của toàn thể giáo dân biết cộng tác với các chủ chăn của mình. Vấn đề này ông Luca đã cho chúng ta nhận thức về sứ mệnh Tông Đồ của mọi Kitô hữu như sau:
1. Mọi Kitô hữu phải làm Tông Đồ cho Chúa.
2. Làm Tông Đồ là làm chứng cho sự thật.
3. Người Tông Đồ xin Chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa.
4. Muốn làm Tông Đồ phải được Hội Thánh sai đi.
5. Con đường Tông Đồ là con đường chông gai.
6. Tông Đồ phải sống tinh thần nghèo khó.
7. Làm Tông Đồ là đi cấp cứu người.
8. Muốn được bình an phải loan báo Tin Mừng.
1/ MỌI KITÔ HỮU PHẢI LÀM TÔNG ĐỒ CHO CHÚA
Đức Giêsu không chỉ muốn chọn 12 người đàn ông Do Thái làm môn đệ để họ làm việc Tông Đồ cho Ngài, mà Ngài còn muốn mời gọi muôn dân tộc. Bởi đó Ngài chọn 70 hay 72 môn đệ (x Lc 10,1a: Tin Mừng). Ta biết con số 70 (theo bản văn tiếng Hipri) hay số 72 (theo bản văn tiếng Hy-Lạp) môn đệ Đức Giêsu chọn là hình ảnh con cháu ông Noe sau lụt Hồng Thủy (x St 10), mà lụt Hồng Thủy là hình ảnh tiên báo về Bí tích Thánh Tẩy (x 1Pr 3, 20-21); đồng thời số 72 cũng là dòng giống dân Israel (x Xh 1,5). Do đó những ai đã nhận Bí tích Thánh Tẩy đều thuộc về dòng giống Israel mới, để Chúa Giêsu (Giacob mới) có thêm nhiều môn đệ cộng tác vào việc xây dựng và phát triển Nước Thiên Chúa, như thuở xưa một mình ông Môsê điều hành Israel không nổi, nhạc phụ ông đã khuyên nên chọn lấy 72 vị kỳ lão để tiếp tay với ông (x Xh 18,13t).
Vào thời Tân Ước, các Giám mục là hiện thân Nhóm Mười Hai của Đức Giêsu chọn, cũng cần mọi thành phần trong Hội Thánh cộng tác, như Đức Giêsu trước khi lìa biệt Nhóm Mười Một về cùng Cha, Ngài truyền lệnh cho môn đệ đi khắp thế gian tập họp thêm môn đệ cho Ngài bằng hai việc: Làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy họ tuân giữ những Lời Chúa Giê-su đã truyền (x Mt 28, 19-20), thì công việc Mục Vụ của Hội Thánh mới đạt được kết quả cao.
Vì thế giáo huấn Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Hội Thánh số 35 dạy: “Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế”. Loan báo Tin Mừng có khi trực tiếp, có khi gián tiếp cộng tác giúp đỡ các chủ chăn. Đan cử: Thánh Phaolô đã nhận ra nơi ông Timôthê có Đức Tin sâu xa, phong phú và vững chắc, vì ngay khi còn nhỏ, ông được ngồi trong lòng bà ngoại, cụ Lôít, hoặc trong vòng tay mẹ, bà Êunikê, để nghe giáo lý. Nhất là từ khi ông được thánh Tông Đồ đặt tay trong Nghi Lễ tấn phong Giám mục. Từ đó, ông Timôthê nhận được Thần Khí đầy sức mạnh, tình thương, biết tự chủ, nên không còn nhút nhát, không hổ thẹn làm chứng cho Chúa. Ông Timôthê đã đồng lao cộng khổ với ông Phaolô loan báo Tin Mừng, nhất là lúc ông Phaolô ngồi trong tù (x 2Tm 1, 1-8: Bài đọc). Như thế, ông Phaolô và ông Timôthê đã thực hành lời kinh: “Hãy kể cho muôn dân biết những kỳ công Chúa làm” (Tv 96/95,3: Đáp ca). Và các ông đã chu toàn sứ mệnh: “Chúa đã sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha” (Lc 4,18: Tung Hô Tin Mừng).
2/ LÀM TÔNG ĐỒ LÀ LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT
Đó là lý do Đức Giêsu sai từng hai người môn đệ đi làm việc Tông Đồ (x Lc 10,1b: Tin Mừng). Không phải chỉ để giúp đỡ nhau, mà “đôi chứng nhân” nhằm khẳng định: làm Tông Đồ là đi loan báo sự thật. Vì theo theo luật Do Thái, một điều được xác định là chân lý, phải có ít một hay hai nhân chứng (x Dnl 19,15), hầu tất cả công việc được đoán định do miệng hai, ba người (x Mt 18,16). Nhưng chứng của hai hay nhiều người có khi còn gia tăng sự gian ác, như các chứng gian trong phiên tòa xử Đức Giêsu! Vậy “cặp chứng nhân” chỉ có giá trị khi người Tông Đồ của Chúa ý thức sống những điều sau:
- Mến Chúa phải thể hiện bằng yêu người (x Mt 22,34).
- Làm trước rồi dạy sau (x Mc 6,30).
- Phá hủy để xây dựng (x Gr 1,10).
- Đau khổ đến vinh quang (x Lc 24,26).
- Nô lệ mới làm chủ (x Mc 10,35).
- Lãnh nhận để dâng hiến (x Mc 10,28t).
- Biết chia sẻ của cải đời này mới đạt ơn cứu độ (x Lc 19,9).
Sống được những đòi hỏi như trên là dọn chỗ tâm hồn đồng loại để Chúa Giêsu đến ban phát ơn cứu độ (x Lc 10,1b).
3/ NGƯỜI TÔNG ĐỒ XIN CHỦ RUỘNG SAI THỢ ĐI GẶT LÚA
Đức Giêsu nói: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2a: Tin Mừng).
Thợ gặt ít: Suốt ba năm Đức Giêsu chọn và huấn luyện các Tông Đồ (Nhóm 12). Thế mà khi Ngài về trời, chỉ còn 11 người được Ngài sai đi. Đấy là thiếu về lượng! Còn về phẩm chất, Đức Tin thiếu mới đáng lo. Thực vậy trong số những người Đức Giêsu sai đi, có kẻ còn hoài nghi! (x Mt 28,16-17).
Muốn thêm người tham gia việc Tông Đồ, muốn bớt hoài nghi về Đức Tin, ta cần phải tích cực loan báo Tin Mừng, để quy tụ thêm nhiều người đến gặt lúa Nước Thiên Chúa, tức làm là cho nhiều người đón nhận được ơn cứu độ từ Hy Tế của Chúa Giêsu thiết lập, như Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Bốn tháng có qua, mùa màng mới đến! Này: Ta bảo các ngươi hãy ngước mắt lên mà nhìn: đồng lúa đã chín vàng chờ gặt! Rồi kìa thợ gặt lĩnh công và thu lượm hoa mầu cho sự sống đời đời, để cho kẻ gieo một thể cùng người gặt đều hoan hỷ. Vì đây lời tục ngữ cũng thật: Người này gieo kẻ khác gặt! Ta sai các ngươi đi gặt điều các ngươi không vất vả làm ra! Có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các ngươi đã đến thừa hưởng công lao của họ” (Ga 4, 35-38).
Lý do Đức Giêsu nói: “Bốn tháng có qua mùa màng mới đến” là vì người Do Thái xuống giống vào tháng 11 đến 12 (mùa Giáng Sinh); mùa gặt vào giữa tháng 4 (mùa Phục Sinh). Thế thì từ mùa Giáng Sinh đến mùa Phục Sinh là bốn tháng, đây là cao điểm thời gian Đức Giêsu thực thi chức Tư Tế của Ngài trên trần gian, rồi Ngài về ngự bên hữu Chúa Cha hằng chuyển cầu cho tất cả những ai đến tham dự Thánh Lễ mà Hội Thánh được Chúa Giêsu truyền làm hiện tại hóa Hy Tế của Ngài (x 1Cr 11,23-27). Cho nên đi dự Lễ là gặt hái hoa trái cứu độ được Đức Giêsu cùng các thánh đã vất vả làm ra “mùa lúa chín vàng”.
Thế mà có mấy người biết quý trọng Thánh Lễ, đúng là mùa lúa chín thiếu thợ gặt! Thật là chua xót đối với Đức Giêsu, mới hơn 20 thế kỷ nay, những người mang danh Công Giáo nhất là bên Âu Châu hầu hết bỏ dự Lễ và tệ hơn không quan tâm đến việc rước Lễ, không gặt hái mùa lúa chín vàng do Đức Giêsu và bao nhiêu chứng nhân đã vất vả trồng hạt Lời, và tưới bón bằng máu thịt của mình, để có mùa lúa chín chờ người gặt.
4/ MUỐN LÀM TÔNG ĐỒ, PHẢI ĐƯỢC HỘI THÁNH SAI ĐI
Đức Giêsu dạy: “Chúng con hãy xin chủ mùa sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2b: Tin Mừng). Cụ thể qua đời sống ông Phaolô, là một Biệt phái rất nhiệt thành thờ Chúa theo Luật Mô-sê, ông đã trở thành kẻ giết Chúa Giê-su Phục Sinh (x Cv 9,4). Nhưng khi được Ngài chộp lấy, huấn luyện và sai ông đi làm vườn nho cho Ngài, ông mới ý thức về tầm quan trọng việc Tông Đồ mà Ngài trao cho Hội Thánh, ông nói: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?” (Rm 10,14-15a). Với lòng xác tín như trên, ông Phaolô trước khi đi truyền giảng Tin Mừng, ông đã đến gặp các thủ lãnh của Hội Thánh để nhận quyền Sai Đi, bằng không việc phục vụ của ông trở nên vô ích (x Gl 2,1-2).
5/ CON ĐƯỜNG TÔNG ĐỒ LÀ CON ĐƯỜNG CHÔNG GAI
Đức Giê-su dạy: “Thầy sai anh em đi như chiên vào giữa bầy sói” (Lc 10,3 Tin Mừng). Niềm tin “ở hiền gặp lành” chỉ có thể thấy đúng trong thế giới Phục Sinh. Còn đời này phải biết rằng “Ai càng thiết tha sống chân lý, càng gặp nhiều chống đối, nhiều kẻ ghét, và cuối cùng cô đơn"
Ta cứ nhìn vào mẫu gương sống của Đức Giêsu: Ai thánh thiện bằng Ngài? Ai thương người bằng Ngài? Thế mà Đức Giêsu làm Tông Đồ cho Chúa Cha chưa tròn ba năm, thì chính những kẻ đã từng thụ ơn Ngài lại đồng lõa với những kẻ giết Ngài! Trên thập gía, Ngài nhìn xuống tìm những người đã thụ ơn, họ đều trốn mất! Chỉ còn lại bọn chế diễu Ngài! Ngài cất tiếng kêu cứu nơi Chúa Cha, nhưng Cha Ngài im lặng! Thì Ngài cầu nguyện bằng Thánh vịnh 22/21,2: “Lạy Thiên Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi, nhân sao Người lại bỏ tôi!” (Mt 27,46).
Lời cầu của Tv này nói lên lời than van của người bị ngược đãi, rồi viễn tượng các dân sẽ nhận vương quyền của Thiên Chúa và họ sẽ được nghe nói về Thiên Chúa.
Thánh Phaolô cũng nói lên sự cô đơn này: “Vì anh Đê-ma đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian này; A-lê-xan-đê, người thợ rèn, đã gây cho tôi nhiều khốn khổ; Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng” (2 Tm 4,10a.14a.16-17). Loan báo Tin Mừng có chấp nhận gian khổ mới thực sự là phục vụ vì yêu, chứ không phải vì thương mại, và lời rao giảng đến đổ máu mới minh chứng điều ta nói là chân lý quan trọng nhất.
Thánh Tông Đồ ý thức con đường theo Chúa là thế, nên ông đã nói: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập gía Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” (Gl 6,14). Mà nếu ta theo Đức Giêsu chỉ dừng chân ở thập giá thì ta là kẻ khốn nạn nhất trên đời (1Cr 15,19), nên ta phải hướng về mầu nhiệm Phục Sinh. Chính ông Gióp lúc quá khổ, không thể lý giải sự đau khổ của mình bằng lý luận loài người. Đau khổ của ông cũng như của loài người chỉ có thể lý giải được ý nghĩa và hiệu quả trong thế giới Phục Sinh, nên ông nói: “Tôi biết rằng Đấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa. Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ. Lòng tôi những tha thiết mong chờ” (G 19,25-27).
Bởi vậy, chỉ trong mầu nhiệm Phục Sinh, “tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban, trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27/26,13).
6/ TÔNG ĐỒ PHẢI SỐNG TINH THẦN NGHÈO KHÓ
Đức Giêsu dạy: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép.” (Lc 10,4a: Tin Mừng). Nghĩa là phải sống theo gương Đức Giêsu: “Ngài vốn dĩ là Đấng giàu có, nhưng vì chúng ta, Ngài đã trở nên nghèo khó, để chúng ta được giàu có, nhờ sự nghèo khó của Ngài!” (2 Cr 8,9). Thì người môn đệ của Đức Giêsu cũng phải cần cù làm việc mong có thu nhập cao, đạt chỉ tiêu giàu có giống Đức Giêsu, nhưng vì phục vụ Tin Mừng mà trở nên nghèo để đồng loại được giàu có về Đức Tin; còn ta chấp nhận nghèo khó như Thầy Giêsu không có nơi ngả đầu (x Lc 9, 58).
Vậy người môn đệ Đức Giêsu hãy sống nghèo cách cụ thể như Ngài dạy:
- Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép! (x Lc 10,4a: Tin Mừng).
- Người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho. (Lc 10, 7-8: Tin Mừng).
- Chính Chúa mới là gia nghiệp đời mình. (x Tv 16/15,5)
7/ LÀM TÔNG ĐỒ LÀ ĐI CẤP CỨU NGƯỜI
Đức Giêsu dạy: “Đừng chào hỏi ai dọc đường” (Lc 10,4b: Tin Mừng). Lời căn dặn này nhắc lại cho ta chuyện ngôn sứ Ê-ly-sa sai đầy tớ là anh Ghêkhaji, cầm gậy của thầy chạy mau đến nhà bà lớn thành Su-nem để đặt gậy lên xác con trai bà, làm cho cậu hồi sinh. Đó là việc cấp bách, nên ngôn sứ Êlysa dặn đầy tớ: “Đừng chào hỏi ai” (x 2V 4,18-37). Thế thì việc loan báo Tin Mừng là hành động cứu cấp đồng loại thoát tay tử thần, nên không còn để ý đến việc chào hỏi hay từ giã ai (x Lc 9, 61t). Nghĩa là không có gì làm bận tâm để phải trì hoãn việc loan báo Tin Mừng.
Vì mục đích loan báo Tin Mừng là để cho những người có trái tim biết nghe, thì Lời Chúa sẽ thanh tẩy tội lỗi tâm hồn họ (x Ga 15,3), để đưa họ gia nhập Hội Thánh, qua dấu chỉ các Tông Đồ chữa lành những người đau yếu trong thành, mà chữa lành bệnh chính là đã tha tội cho họ, cất nguyên nhân gây ra bệnh (x Ga 9,2), và nói với họ: “Triều đại Thiên Chúa (Hội Thánh) đã đến gần các ông” (Lc 10,9: Tin Mừng)
8/ MUỐN ĐƯỢC BÌNH AN PHẢI LOAN BÁO TIN MỪNG
Đức Giêsu dạy: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này!” Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an sẽ trở lại với anh em” (Lc 10, 5-6: Tin Mừng). Rõ ràng việc rao giảng Tin Mừng luôn luôn phát sinh sự bình an: Ai biết đón nhận Tin Mừng, sự bình an đến với họ; bằng không sự bình an trở về cho sứ giả Tin Mừng. Nói cách khác, làm Tông Đồ là đem bình an cho môi trường sống và phát sinh bình an trong nội tâm người loan báo. Bởi vì chính Tin Mừng có sức mạnh ban ơn, như Chúa nói: “Mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.” (Is 55,10-11).
THUỘC LÒNG: Giáo dân có thể và phải có một hoạt động cao quý là truyền bá Tin Mừng cho thế giới cả những lúc họ bận tâm lo lắng việc trần thế (HCHT số 35).
Suy niệm 6: Thánh Timôthê và thánh Titô
(http://www.giaolyductin.net)
Thánh Timôthê sinh tại Lystres, miền Lycaonia Thổ Nhĩ Kỳ. Cha ngài là người ngoại giáo, còn mẹ ngài theo Do Thái Giáo, nhưng sau đã trở lại. Theo lời truyền tụng thì thánh nhân đã tin theo Tin Mừng nhờ lời giảng dạy của thánh Phaolô tông đồ trong cuộc du hành duy nhất của ngài. Khi đến lần thứ hai, thánh Phaolô đã chọn ngài làm phụ tá, và ngài theo thánh tông đồ đi giảng khắp miền Tiểu Á, Macedoine và Hy Lạp. Ngài được đặt làm Giám Mục coi sóc giáo đoàn Êphêsô. Thánh Phaolô đã đặc biệt nâng đỡ chỉ dạy và khích lệ ngài trong nhiệm vụ coi sóc đàn chiên Chúa qua những bức thư gửi cho ngài.
Nhân một buổi lễ tế dâng kính thần Điana của dân thành Êphêsô, ngài đã công khai chỉ trích và chính ngài bị dân chúng bắt và ném đá (24/01/97). Thi hài được giáo dân đem chôn ở đỉnh núi gần đấy.
Thánh Titô cũng trở lại đạo nhờ lời thánh Phaolô và được chọn làm cộng sự viên của ngài, chia sẻ mọi công việc tại Corintô và tại Crêta. Vì lòng nhiệt thành và trung tín trong việc rao giảng Tin Mừng, ngài đã trở nên bạn nghĩa thiết của thánh Phaolô. Chính trong thư (2 Cor 4, 6) thánh Phaolô viết khi còn ở Troas, đã thú nhận điều này: "Nhưng Thiên Chúa, Đấng an ủi những người cùng khốn, đã đến viếng thăm chúng tôi qua sự đến thăm của Titô". Ngài được thánh tông đồ sai đến Corintô với xứ mạng đặc biệt là quyên góp tiền để an ủi và giúp đỡ giáo dân Do Thái. Ngài đã hoàn tất sứ mạng cách hết sức khôn ngoan. Ngài cũng đã hướng dẫn vị tông đồ đến Crêta, và sau cùng ngài được thánh Phaolô đặt làm Giám Mục tại đây. Vì thập giá Đức Kitô, ngài đã phải chịu khổ sở cùng cực đối với dân Dalmatas. Sau cùng, ngài đã kết thúc cuộc đời trong tay Chúa, hưởng thọ 94 tuổi.
Suy niệm 7: THÁNH TIMÔTHÊ VÀ THÁNH TITÔ
(http://tgpsaigon.net)
Ai được mời gọi gặt lúa? Không phải chỉ là nhóm Mười Hai tông đồ, mà là 72 môn đệ; không phải chỉ là 12 chi tộc Israel, mà là mọi người thuộc mọi dân nước. Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Mọi Kitô hữu đều được mời làm thợ gặt. Cả linh mục, tu sĩ, giáo dân đều được sai đến với cánh đồng hôm nay.
Một lời rao giảng làm rộn lên niềm vui: Nước Thiên Chúa đã đến gần anh chị em. Một lời chào thân thiện: Bình an cho nhà này.
Một thứ hành trang nhẹ tênh: không túi tiền, bao bị, giày dép. Một việc phải làm: chữa lành những người ốm đau. Một thái độ phải có: khiêm tốn và siêu thoát, đón nhận những gì người ta cung cấp cho, không tìm kiếm tiện nghi, dễ chịu.
Nếu hôm nay Ðức Giêsu sai chúng ta đi, Ngài sẽ dặn chúng ta điều gì? Chắc Ngài sẽ dặn khác, vì cánh đồng con người đã đổi khác. Chúng ta phải hiểu thấu nỗi khát vọng của bạn bè, phải biết nói sao để họ hiểu được, nhạy cảm để thấy điều họ thực sự đang cần, và sống hài hòa với lời mình giảng.
Có thể chúng ta sẽ đi giày, và có ba, bốn áo, sẽ có ví tiền và máy tính xách tay, sẽ có văn phòng, máy fax và điện thoại. Nhưng những thứ đó không làm chúng ta nặng nề. Hành trang không được trở thành những cản trở khiến ta mất sự tín thác vào Thiên Chúa và xa lạ với con người, nhất là những người nghèo khổ.
Hôm nay Chúa sai chúng ta làm chứng giữa đời, đôi khi ta thấy mình như chiên non giữa bầy sói. Chúng ta cứ phải trăn trở hoài để Tin Mừng chúng ta rao giảng cho bạn bè thực sự đáp ứng những khát khao thầm kín của họ: khát khao an bình, tự do, niềm tin và hạnh phúc, khát khao tình huynh đệ, sự chia sẻ, tha thứ, cảm thông; để những việc chúng ta làm cho họ xoa dịu được nỗi đau nhức nhối, và giải phóng họ khỏi xiềng xích của ác thần, đang nô lệ hoá con người dưới muôn vàn hình thức.
Các môn đệ hớn hở mừng vui khi lần đầu tiên họ trừ được quỷ nhân danh Thầy. Vương quốc của Satan bị đẩy lui bởi những con người bình thường và yếu đuối. Hôm nay, khi xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương chúng ta tiếp tục đẩy lui Satan, để Nước Chúa lớn lên trên mặt đất này, và trở nên viên mãn trong ngày sau hết.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin sai chúng con lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những người ốm đau. Xin cho chúng con biết nói Tin Mừng với niềm vui, như người tìm được viênsw ngọc quý, biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.Xin ban cho chúng con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa. Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần. Lạy Chúa Giêsu, thế giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
Suy niệm 8: Thánh Timôthê và Thánh Titô
(Tâm Phúc)
Sau khi tuyển chọn nhóm Mười Hai, Chúa Giêsu tiếp tục chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác để các ông đi rao giảng Tin Mừng. Chúa mời gọi họ hãy ra đi như những thợ gặt trên cánh đồng lúa chín mênh mông. Lời mời gọi truyền giáo của Chúa cũng được gửi đến với tất cả mọi người. Với Thánh Timôthê và Thánh Titô, các ngài cũng đã đáp lại lời mời gọi của Chúa khi cộng tác đắc lực với Thánh Phaolô trở nên những thợ gặt nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo.
Trong thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Phaolô khẳng định “tin là do bởi nghe, còn nghe là nhờ rao giảng lời Đức Giêsu”. Quả thật, sứ vụ rao giảng Tin Mừng xuất phát từ chính lệnh truyền của Chúa Kitô. Khi bắt đầu cuộc đời công khai, Chúa đã tuyển chọn nhóm Mười Hai và giờ đây Chúa lại “chỉ định bảy mươi hai môn đệ khác” để các ông đem bình an và Tin Mừng đến cho mọi người. Lệnh truyền đó xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa trước thực tế “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít”. Vì thế, Chúa đã mời gọi các môn đệ “hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. Trên hành trình truyền giáo, Chúa Giêsu đã chỉ ra cho các ông thấy những khó khăn tựa như “chiên con đi vào giữa bầy sói”. Người cũng không quên căn dặn các ông cần chuẩn bị những hành trang cần thiết. Đó là tinh thần nghèo khó, thanh thoát khỏi của cải vật chất để chỉ chú tâm vào lời rao giảng về niềm vui của Tin Mừng.
Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, thánh thánh Timôthê và thánh Titô mau mắn đáp lại. Các ngài đã nhiệt thành cộng tác với thánh Phaolô trong việc truyền giáo. Trong 15 năm sát cánh bên cạnh thánh Phaolô, cả khi Phaolô bị tù đày, Timôthê vẫn ở với ngài. Ngài được thánh Phaolô gửi đi truyền giáo, thường phải đương đầu với những xáo trộn trong các giáo đoàn mà thánh Phaolô thành lập. Khi phục vụ các cộng đoàn Êphêsô, Timôtê đã để lại một mẫu gương hy sinh, nhẫn nhục và bác ái cao độ. Cũng giống như Phaolô và Timôtê, Titô cũng đến từ thế giới dân ngoại. Ngài cũng được Chúa sử dụng để loan báo Tình Thương của Ngài cho mọi tạo vật. Trong Thư Gửi Titô, lúc ấy thánh Titô được coi như quản đốc của cộng đồng Kitô giáo trên đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức, chấn chỉnh những lạm dụng và bổ nhiệm các giám mục phụ tá.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa không ngừng mời gọi mỗi người chúng con hãy hăng say ra đi rao giảng Tin Mừng. Dẫu biết rằng, hành trình truyền giáo sẽ không thiếu những khó khăn, gian khổ, nhưng xin cho chúng con noi gương nhân đức của hai thánh Timôthê và thánh Titô, biết nhiệt thành rao truyền tình yêu của Chúa đến cho mọi người. Amen.
Suy niệm 9: Thánh Timôthê và Thánh Titô
(Lm. Đaminh Phạm Xuân Uyển SDB)
Ghi nhận lịch sử – Phụng vụ
Ghi chú cổ nhất về Thánh lễ kính thánh Timôtê (thế kỷ XII), thường được mừng ngày áp lễ trở lại của thánh Phaolô (tức là ngày 24.01). Hiện tại được mừng vào ngày 26.01, không nhắm tới hai vị Giám mục tử đạo. Lời kinh riêng cho thánh Titô chỉ xuất hiện trong lịch Rôma vào ngày 06.02.1854; lời kinh này thành kinh chung cho cả hai vị thánh.
Thánh Kinh cho biết, Timôtê, người môn đệ yêu dấu của thánh Phaolô, có người cha ngoại giáo và người mẹ Do Thái tên Eunice, đã trở lại (2 Tm 1,5); ngài được dạy dỗ trong một gia đình có đức tin; thánh Phaolô ghi chú bà nội Lois đã dạy cho Timôtê biết luật Chúa (2 Tm 3,14-15). Nhờ thánh Phaolô, Timôtê trở lại trong chuyến truyền giáo lần đầu; Timôtê cũng đi theo thánh Phaolô trong chuyến truyền giáo lần thứ hai và thứ ba, theo yêu cầu của giáo đoàn Lystre (Cv 16,1-3) và lần này, ngài đã chạm trán với những khó khăn của đời Tông đồ (Cv 17,14-15; 18,5-6). Thánh Phaolô buộc ngài phải cắt bì để có thể dễ dàng chu toàn sứ vụ giữa người Do Thái. Người ta thấy ngài đi theo thánh Phaolô và được gởi sang Macédoine (Cv 19,22) và được phó thác các cộng đoàn vùng Thessalonique (1 Tx 3), sau đó là Côrinthô (1 Cr 4,17; 16,10); rồi người ta lại gặp ngài trong nhóm đi theo thánh Phaolô (Cv 10,24). Thánh Phaolô gởi cho ngài một lá thơ từ Êphêsô (1 Tm 1,3) là nơi ngài đang thực hiện sứ vụ giữa cộng đoàn, sau đó một thư khác, trong đó thánh Phaolô gợi lại những giọt nước mắt khi chia tay (2 Tm 1,4).
Thánh Phaolô nhấn mạnh sự trung kiên của Timôtê trong các cơn thử thách. Tình bạn đã nối kết cả hai (x.Pl 2,19-33) thúc đẩy Timôtê ở lại với thánh Phaolô trong lần bị bắt thứ nhất; cũng chính thánh Phaolô cho gọi ngài đến Rôma trong lần bị bắt thứ hai. Chúng ta không biết lúc nào ngài đã lãnh nhận việc đặt tay; có lẽ chúng ta có thể thấy trong đoạn 1Tm 6,12: “Anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng”. Không có gì minh chứng rằng Timôtê đã chịu tử đạo, có lẽ ngài đã qua đời tại Êphêsô.
Về thánh Titô, sinh ra trong một gia đình ngoại giáo, đã được thánh Phaolô rửa tội trong chuyến truyền giáo lần thứ nhất. Ngài theo thánh Phaolô và Barnaba lên Giêrusalem (Gl 2,1-3), tại đây thánh Phaolô chống đối việc ngài bị bắt phải cắt bì, vì xuất thân từ ngoại giáo. Khi thánh Phaolô thuật lại việc đến Troa, ngài muốn gặp Titô, “người anh em của tôi” (2 Cr 2,13), cho thấy ngài rất tin tưởng Titô, như người phục vụ trung gian giữa thánh nhân và cộng đoàn Côrinthô để tái lập lại sự hoà thuận giữa Giáo hội này với thánh nhân (2 Cr 7,5-7). Thánh Phaolô đặt Titô đứng đầu cộng đoàn ở Crète. Trong đoạn Titô 1,4 thánh Phaolô còn gọi Titô là “người con tôi thực sự sinh ra trong cùng một đức tin chung”. Thánh Phaolô còn viết thư bảo ngài đi theo mình từ Nicopolis đến Épire, có lẽ từ đây thánh Phaolô đã sai ngài đi rao giảng vùng Dalmatie. Thánh Timôtê được vùng này tôn kính cách đặc biệt. Theo truyền thuyết, thánh Titô qua đời trong cộng đoàn của ngài tại Crète, lúc tuổi đã xế chiều.
Thông điệp và tính thời sự
Kinh Tổng nguyện, chung cho cả hai vị thánh, gợi lên nhân đức xứng đáng với chức vị Tông đồ mà Thiên Chúa ban cho hai môn đệ trung thành của thánh Phaolô. Lá thư thứ hai gởi cho Timôtê ca tụng đức tin chân thành của người con yêu quí, đã khuyến khích: Tôi nhắc nhớ anh phải luôn gợi lên trong anh ân sủng của Thiên Chúa mà anh đã lãnh nhận khi tôi đặt tay cho anh.
Ân sủng của Thiên Chúa mà thánh Phaolô nói đến là “đặc sủng” mà Timôtê đã lãnh nhận và Thánh hiến ngài trong sứ vụ mục tử. Đánh thức ân sủng này, có nghĩa là làm sống lại ân sủng của Thiên Chúa, Đấng là Thần trí sức mạnh, tình yêu và làm chủ bản thân.
Cũng trong lá thư gởi cho Timôtê, thánh Phaolô nói với người môn đệ của mình: “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” thánh Phaolô đã nhắc nhở ngài việc sửa sai anh em: “Hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (2 Tm 4,2). Đó chính là các nhân đức Tông đồ mà các mục tử luôn cần thiết, được kêu gọi tỉnh thức, không yếu đuối và không thoả thuận.
Kinh Tổng nguyện kêu gọi chúng ta sống công chính và đạo đức trong thế giới này, lấy hứng từ lá thư thánh Phaolô gởi cho Titô: “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang (Tit 2,11-13). Câu đáp cho bài kinh Magnificat: “Chúng ta hãy sống công chính và ngay thẳng, chờ đợi ngày Chúa đến”, cũng nhấn mạnh lời đòi hỏi trung tín theo nghĩa cánh chung của cuộc đời Kitô hữu.
Trong lá thư gởi cho Titô, thánh Phaolô xin người môn đệ của mình minh chứng một mẫu gương đức hạnh ngay trong chính bản thân (2,7); cũng thế, ngài động viên mọi hạng người sống theo tình trạng và điều kiện của mình. Dù vậy, nền tảng tín lý của các trách nhiệm chính yếu và đặc thù đều là một cho mọi người: “Niềm hy vọng được sự sống đời đời mà Thiên Chúa, Đấng không hề nói dối, đã hứa từ thuở đời đời” (1,2). Những việc dấn thân của chúng ta trong hiện tại là sống trong một tình trạng tỉnh thức, sẵn sàng chờ đợi sự kiện cánh chung của Chúa. Sự công chính và lòng đạo đức mà chúng ta được gọi để sống, là trung tâm của nền luân lý Kitô giáo. Sự công chính (theo nghĩa Thánh Kinh) đi kèm theo lòng đạo đức, có nghĩa là tình yêu bác ái sẽ làm cho các mệnh lệnh và trách nhiệm trở thành một ách êm ái và một gánh thật nhẹ nhàng,
25/01 Tông Đồ Phaolô Trở Lại.
- Viết bởi Mc 16, 15-18
Tông Đồ Phaolô Trở Lại.
Thứ Ba tuần 3 thường niên – THÁNH PHAOLÔ TÔNG ĐỒ TRỞ LẠI. Lễ kính.
Kết thúc tuần lễ cầu cho các Kitô hữu hợp nhất.
“Các con hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian”.
* Trên đường đi Đamát, ông Saolô quê thành Tácxô đã khám phá ra hai điều: Trước hết, Đức Giêsu Nadarét là Đấng đã phục sinh, cũng là Đấng được Thiên Chúa ban phúc lành; thứ đến, Đấng phục sinh với các Kitô hữu là các anh em người, chỉ là một.
Khám phá này là nguồn ánh sáng soi chiếu cả cuộc đời thánh nhân.
Lời Chúa: Mc 16, 15-18
Khi ấy, Chúa Giêsu (hiện ra với mười một môn đệ và) nói: ”Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.
Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những dấu lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân được lành mạnh”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Con phải làm gì?
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể về một cuộc gặp gỡ lạ lùng
giữa Đức Giêsu Nadarét với anh Saun, kẻ đang bách hại các Kitô hữu.
Chính Ngài muốn gặp anh trên con đường anh đang đi.
Dưới mắt Saun, Kitô hữu là những kẻ bỏ đạo Do Thái chính thống,
để chạy theo một tà phái của ông Giêsu nào đó mà họ tin là đã phục sinh.
Trong tư cách là một người Pharisêu nhiệt thành và nghiêm túc (c. 3),
Sa-un thấy mình có bổn phận phải trừng trị những kẻ phản đạo,
bằng cách bắt bớ, xiềng xích, tống ngục, thậm chí thủ tiêu (cc. 4-5).
Chính lúc đang say sưa đến gần thành Đamát thì anh bị quật ngã.
Cuộc gặp gỡ bắt đầu, đời anh từ nay giở sang một trang mới.
Khi anh đang tự tin và hiên ngang tiến bước,
thì ánh sáng chói lòa từ trời làm anh ngã quỵ (c. 7).
Khi Saun nghĩ mình là người sáng mắt,
thì ngay giữa trưa, anh trở nên mù lòa (c. 11).
Khi anh định chỉ đạo cho những kẻ lầm đường lạc lối,
thì bây giờ anh lại cần một người cầm tay dắt đi (c. 11).
Cuộc đối thoại bắt đầu giữa anh với người mà anh chỉ nghe tiếng nói.
Ngài âu yếm gọi tên anh hai lần và tự giới thiệu:
“Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta?
Ta là Giêsu Nadarét mà ngươi đang bắt bớ” (c. 8).
Bắt bớ các Kitô hữu là bắt bớ chính Đức Giêsu.
Đức Giêsu và các Kitô hữu là một.
Bài học đầu tiên này Saun sẽ chẳng thể nào quên.
“Lạy Chúa, con phải làm gì?” (c. 10).
Lần đầu tiên Saun gọi người mà anh không hề tin là Chúa.
Khi tuyên xưng Đức Giêsu Nadarét là Chúa,
anh lập tức phó thác cho Ngài, để Ngài chỉ bảo điều mình phải làm.
Nhưng Chúa Giêsu phục sinh đã không nói gì.
Ngài trao anh cho ông Khanania, một người chưa phải là Kitô hữu.
Chính ông này cho mắt anh thấy lại và cho anh biết
anh được chọn để làm chứng nhân cho Ngài trước mặt mọi người.
Đamát là nơi Đức Giêsu tỏ mình cho Saun, cũng được gọi là Phaolô,
là nơi ông nghe tiếng gọi trở nên tông đồ cho dân Ngoại,
và cũng là nơi khởi đầu cho cuộc hoán cải tận căn của ông.
Chính mặc khải của Đấng phục sinh dẫn đến ơn gọi và hoán cải.
Từ nay cuộc đời của Phaolô đi sang một hướng mới.
Giêsu đã trở nên trung tâm của đời ông.
“Tôi coi tất cả như đồ bỏ, để chiếm được Đức Kitô” (Ph 3, 8).
Biến cố trên đường đi Đamát đã chia đời ông làm hai.
“Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua,
để lao mình về phía trước” (Ph 3, 13).
Chúng ta cũng có những kinh nghiệm như Phaolô:
ngã ngựa, mù lòa, nghe và gặp Đức Kitô, rồi hoán cải.
Như Phaolô, mong chúng ta để cho Đức Kitô Giêsu chiếm lấy mình,
và trở nên người tông đồ nhiệt thành cho thế giới.
Cầu nguyện:
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ cõi chết đến sự sống,
từ lầm lạc đến chân lý.
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ thất vọng đến hy vọng,
từ sợ hãi đến tín thác.
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ ghen ghét đến yêu thương,
từ chiến tranh đến hòa bình.
Xin hãy đổ đầy bình an
trong trái tim chúng con,
trong thế giới chúng con,
trong vũ trụ chúng con. Amen.
(Chân phước Têrêxa Calcutta)
Suy niệm 2: Hoán cải theo gương thánh Phaolô
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Mỗi người môn đệ đều được Chúa Giêsu Phục Sinh sai đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Nhưng trước hết phải hoán cải theo gương thánh Phaolô tông đồ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa thường làm con ngạc nhiên ngỡ ngàng. Mỗi trang Tin Mừng đều đưa con đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Người ta đánh mất sự ngạc nhiên khi quen coi thường những điều nghiêm chỉnh. Thực sự con cảm thấy ngỡ ngàng và thật bất ngờ khi con được Chúa sai đi làm sứ giả Tin Mừng cho Chúa. Lạy Chúa, thật thế sao? Con là một kẻ tội lỗi, tầm thường, một kẻ tài trí kém cỏi, một kẻ nhiều tính xấu, nhiều khuyết điểm, lại được Chúa nhờ cậy và giao trọng trách sao? Lạy Chúa, Chúa có lầm chăng?
Con hỏi Chúa, nhưng câu trả lời đã có. Con biết không phải Chúa lầm, nhưng Chúa thương con và tín nhiệm con. Đối với Chúa, không ai là quá xấu đến độ phải loại bỏ. Chúa muốn mọi người làm tông đồ, làm chứng nhân cho Chúa, bởi vì dù chúng con có tội lỗi yếu hèn đến đâu, ân sủng và tình yêu của Chúa vẫn mạnh hơn tội lỗi và yếu hèn của chúng con. Không ai ngờ thánh Phaolô, kẻ bách hại đạo Chúa, lại trở nên vị tông đồ thừa sai số một của Hội Thánh. Không ai ngờ thánh Phêrô, kẻ chối Chúa, lại là thủ lãnh tiên khởi của Hội Thánh. Lạy Chúa, chính ơn Chúa đã làm cho các ngài hoán cải và hiến thân trọn vẹn cho Chúa.
Phần con, con cũng không ngờ, con chỉ biết cảm tạ tình thương Chúa dành cho con. Xin Chúa giúp con dám lãnh trách nhiệm. Xin giúp con không ngừng hoán cải mỗi ngày để con có thể theo Chúa sát hơn và hiến thân nhiều hơn. Con đặt trọn niềm tin tưởng vào ơn thánh Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Các con hãy đi rao giảng Tin mừng khắp thế gian”.
Suy niệm 3: Cây nến trong tay Thiên Chúa
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Hai dụ ngôn nhỏ này tiếp liền những đoạn Tin mừng của các ngày trước và triển khai thêm chủ đề nghe Lời Chúa.
- Dụ ngôn chiếc đèn: kẻ nghe Tin Mừng giống như chiếc đèn:
a/ Họ phải loan Tin Mừng cho những người khác biết nữa;
b/ Họ phải sống những gì đã nghe, có như thế cuộc sống họ sẽ chiếu tỏa ánh sáng ra những người chung quanh.
- Dụ ngôn cái đấu: người nào càng biết nghe Lời Chúa và sống Lời Chúa thì càng được ban thêm ơn; trái lại kẻ chỉ nghe mà không sống thì không được ban thêm ơn gì, mà cả những ơn họ đang có cũng bị lấy đi mất.
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Lời Chúa quả có sức chiếu sáng rất mạnh. Chỉ tiếc rằng Lời Chúa rót vào tai một số người giống như dầu châm vào những cây đèn không chịu cháy sáng cho nên cũng vô ích. Bà Chiara Lubich nói: "Chúng ta phải sống thế nào để cho dù các sách Tin Mừng trên khắp thế giới có bị đốt hết đi thì người ta nhìn vào cuộc sống chúng ta vẫn có thể chép lại Tin Mừng ấy đúng từng câu, từng chữ".
2. "Hãy để ý điều anh em nghe. Anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em bằng đấu ấy": nhiều khi tôi thấy có những người khác đã hiểu và sống Lời Chúa một cách rất sâu sắc, rồi nhìn lại mình mà tự xấu hổ. Tại sao thế? Chính Chúa Giêsu giải thích: tại vì "cách nghe". Họ chẳng những "nghe" mà còn "đón nhận" và "sinh hoa kết quả" cho nên "đã có thì lại được cho thêm"; còn tôi, có lẽ tôi chỉ "nghe" suông, cho nên "ngay cái đang có cũng bị lấy mất đi".
3. Buổi chiều, người nọ lấy cây nến nhỏ từ trong hộp ra và leo lên tầng tháp cao. Cây nến hỏi:
- Chúng ta đi đâu?
- Đi lên cao hơn để chỉ đường cho tàu bè vào cảng.
- Nhưng tôi nhỏ bé thế này làm sao tàu bè thấy được?
- Chỉ cần ngươi cứ cháy sáng thôi, còn mọi việc ta lo.
Tới đỉnh tháp, người nọ đặt cây nến vào trong một cái đèn có ghép những tấm kính phản quang. Nhờ đó, ánh sáng lan tỏa và mọi tầu bè đều thấy.
Chúng ta cũng là cây nến trong tay Thiên Chúa. Chỉ cần ta cháy sáng, còn kết quả là ở Thiên Chúa (Góp nhặt)
4. Một nông dân nghèo Nhật bản vào thiên đàng và điều đầu tiên ông nhìn thấy là một kệ dài với những vật rất kỳ lạ. Ông hỏi:
- Cái gì thế? Có phải để nấu xúp?
- Không, đó là những cái tai. Chúng là của những người khi sống ở đời nghe được những điều tốt, nhưng họ không làm. Nên khi chết, tai họ vào thiên đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không.
Một lát sau, ông lại thấy một kệ khác với những vật kỳ quái. Ông hỏi:
- Cái gì thế? Có phải để nấu xúp?
- Không, đó là những cái lưỡi. Chúng là của những người sống ở đời bảo người khác làm điều tốt và sống tốt, nhưng chính họ không làm hoặc không sống điều đó. Nên khi chết, lưỡi họ vào thiên đàng, nhưng các phần khác của cơ thể thì không (Góp nhặt)
Suy niệm 4: Thánh Phaolô Tông đồ trở lại
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
--- Chọn thêm Dụ ngôn hai người con (Mt 21,28-32)
Đứng trước lời rao giảng Tin mừng của Đức Giêsu, có hai hạng người với hai thái độ trái ngược nhau, đó là giới lãnh đạo Do thái và những người tội lỗi và dân chúng. Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn hai người con để làm nổi bật sự tương phản giữa lời nói và việc làm: nói có mà không làm; nói không nhưng lại làm. Giữa sự đối nghịch này, hành động được đánh giá là quan trọng, vì hành động là dấu hiệu của một tâm hồn trong sáng, biểu hiện qua những hành động ngay thẳng. Vì thế, Đức Giêsu đã thẳng thắn tuyên bố: “Không phải những người nói: Lạy Chúa! Lạy Chúa, là được vào Nước trời, nhưng chỉ những kẻ thi hành ý Cha trên trời”.
Cần tìm hiểu hình bóng của dụ ngôn này:
- Người con thứ nhất thưa “không đi”, nhưng sau hối hận và đã đi làm: ám chỉ những người tội lỗi, thu thuế, đĩ điếm và chư dân. Những người này thoạt mới nghe giảng, họ ngại ngùng không theo; nhưng sau họ đã nghe Gioan Tẩy giả và lời giảng của Đức Giêsu nên đã sám hối ăn năn.
- Người con thứ hai là đứa con “thưa vâng” rồi không đi làm: ám chỉ những nhà lãnh đạo Do thái và tất cả những ai vâng lệnh bằng lời nói mà không thực hành. Những người này vẫn tự xưng là giới đạo đức và lên mặt mô phạm với đời. Nhưng họ từ chối ơn Thiên Chúa, không nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, mặc dầu trước khi Người đến, họ vẫn khát vọng Người.
- Áp dụng vào trường hợp ông Saolô là người con thứ nhất: đã không đi lại còn chống đối và âm mưu ám hại, nhưng đã hối hận và trở lại để trở thành Tông đồ Phaolô nhiệt thành.
Kết luận dụ ngôn Đức Giêsu nói: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm, sẽ vào Nước trời trước các ông”. Chưa bao giờ ta thấy Đức Giêsu đã nói thẳng với các người biệt phái như lần này. Chính họ có lẽ cũng không ngờ. Còn thánh Phaolô thì không ngờ được Chúa đón nhận.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta phải có thái độ nào với tư cách là một Kitô hữu, một chứng nhân của Chúa? Chúng ta sẽ cố gắng:
- Đừng nghĩ rằng mình thuộc hàng “công chính” để rồi ngủ mê trong ảo tưởng đạo đức về mình.
- Cũng đừng cho rằng mình thuộc hàng “thu thuế và đĩ điếm” để rồi buông xuôi cho dòng đời lôi cuốn.
Hãy sống trung thực với lòng mình. Hãy sám hối và chỉnh sửa lại cuộc sống, sao cho mình xứng đáng là con Chúa, là Kitô hữu để cuộc sống tốt lành của mình toả ra mùi thơm tho nhân đức vì “hữu xạ tự nhiên hương”. Lúc đó không cần phải phô trương, tự cuộc sống của mình sẽ chứng minh.
Suy niệm 5: Thánh Phaolô trở lại
(Lm.Giuse Đinh Tất Quý)
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo hội mừng ngày Thánh Phaolô được ơn trở lại. Bây giờ tôi xin chia sẻ một vài suy nghĩ của tôi nhân dịp mừng ngày lễ trọng đại này.
A. Một chút về lịch sử
Trong khi thánh Phêrô được xác định là “đá tảng cho Hội Thánh” (Mt 16,18), thì Phaolô được gọi là “thầy dạy của dân ngoại về đức tin và chân lý” (1Tm 2,7). Đối với Phaolô, đây là cả một mầu nhiệm. Trước đấy, ngài đã khinh khi những người Kitô hữu, khi họ tôn kính một đấng Mê-si-a bị xử tử như một tử tội.
Sự kiện ở cổng thành Đa-mát đã biến đổi tất cả. Thiên Chúa mà ngài tôn thờ trong cương vị là một người Pharisêu đạo đức, đã biến đổi ngài trở thành kẻ rao giảng cho Tin Mừng của Đức Giêsu chịu đóng đinh (Gl 1,11-16).
Lễ thánh Phao-lô trở lại đã được tìm thấy trong phụng vụ Ga-li-en, từ thế kỷ thứ 8. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
B. BƯỚC QUA BÀI SÁCH TĐCV.
Trong sách Công vụ, chính Phaolô đã tự thuật về ơn gọi của mình. Ơn gọi ấy bắt đầu từ một biến cố trên đường ông đi Đamát. Câu chuyện này được tường thuật tới 3 lần: 9,3-7; 22,3-16 và 26,13-15. Bài sách thánh chúng ta vừa nghe là đoạn tường thuật thứ hai.
Có một chi tiết nổi bật trong câu chuyện này. Đó là sự mù lòa và sự sáng mắt của Phaolô. Sự kiện này có thể phân ra thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn trước khi Phaolô gặp Chúa Giêsu: ông là một người nhiệt thành. Nhưng chính sự nhiệt thành ấy đã làm ông thành mù quáng khiến ông chống lại Giáo Hội của Ngài (cũng giống như những người biệt phái).
- Giai đoạn 2: Sau khi ông gặp được Chúa Giêsu: hoạt động mù quáng chống phá Giáo Hội đã ngưng lại, nhưng ông vẫn còn mù (“Ánh sáng chói lòa kia làm cho tôi không trông thấy nữa”). Sự mù này một phần vì Phaolô chưa thích ứng nổi với ánh sáng quá rực rỡ của Chúa Giêsu, một phần vì ông chưa được chỉ dẫn về đường lối của Ngài
- Giai đoạn 3: Khi gặp được Khanania, thì Phaolô được sáng mắt, vì đã được chỉ dẫn (“Thiên Chúa đã chọn anh để anh được biết ý muốn của Ngài và được thấy Đấng Công Chính... Anh sẽ làm chứng nhân... về các điều anh đã thấy và đã nghe”).
C. BƯỚC QUA BÀI TIN MỪNG.
Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời cuối cùng của Chúa Giêsu nói với các môn đệ:
- Chúa sai các ông đi loan Tin Mừng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”.
- Sai đi với một lời hứa: Hứa hỗ trợ đặc biệt cho các ông: “Nhân danh Thầy họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu có uống phải chất độc thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”. Những “dấu lạ” mà Chúa Giêsu hứa có thể mang 2 nghĩa:
a/ Nghĩa bóng: Chúa giúp các ông chiến thắng thế lực của sự dữ;
b/ Nghĩa đen: các ông sẽ thật sự làm được những phép lạ
D. BÀI HỌC
1. Khi chọn ai, Chúa không theo những tiêu chuẩn thường tình của con người nhưng theo những tiêu chuẩn rất lạ: không cần học thức cao, không cần tài ba lỗi lạc, không cần khả năng khéo làm việc...
Đọc lịch sử Giáo hội, tuy chúng ta thấy không có một vị thánh nào khả dĩ so sánh được với thánh Phaolô. Thánh Phaolô là một bậc thầy, một vĩ nhân, một nhà mô phạm. Chính Giáo hội, mẹ chúng ta cũng đã đề cao thánh Phaolô như một vị hướng đạo tối cao và có nhiều uy tín nhất. Giáo hội đã dành cho thánh Phaolô một điạ vị khá quan trọng trong địa hạt giáo huấn các Kitô hữu. Đa số các bài sách thánh Giáo hội đọc hàng ngày trong Thánh lễ hoặc trong kinh nhật khóa đều trích dẫn trong các thư phong phú, sâu sắc, thực tế, nhiều tính chất thời sự.
Thế nhưng hầu như không bao giờ Ngài tỏ ra có vẻ hơn người. Nếu có nói, có khoe thì chỉ là nói và khoe những cái yếu đuối, những cái ngu dại, những cái hèn mọn, những cái bị khinh thường và những cái hư không để nhờ đó mà thấy rõ hơn tình yêu thương của Chúa đã dành cho mình (Sunday School Times).
2. Sự việc Ngài trở lại cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ thật nhiều.
Thế nào là trở lại? Trở lại là đang đi trên một con đường, rồi biết rằng đường đó là sai lạc, nên dứt khoát quay lại. Nếu chỉ biết mà không quay lại thì không phải là trở lại. Thánh Phaolô đã quay lại một cách dứt khoát đúng 180 độ, và quay rất nhanh.
Bà Reside là nhà truyền giáo đầu tiên cho những người da đỏ bộ lạc Kiowa ở Oklahoma. Bà được họ thương mến đặt tên là Aim-day-co, nghĩa là “Hãy quay lại”. Khi giải thích lý do chọn cái tên đó để đặt cho bà, vị tù trưởng nói: “Khi những người bộ lạc Kiowa chúng tôi thấy ai đang đi lạc hướng thì chúng tôi nói với họ “Aim-day-co”. Họ nghe và quay lại đúng hướng. Bà này từ một nơi xa xôi đến với chúng tôi. Bà thấy chúng tôi đang đi lạc và bà đã chỉ cho chúng tôi con đường đúng, đó là con đường của Chúa Giêsu Kitô. Xin Ngài chúc lành cho bà Aim-day-co” (Moody Monthly).
Xin cho mỗi người chúng ta cũng biết trở lại với Chúa mỗi khi chúng ta lỡ lạc đường.
Suy niệm 6: mầu nhiệm ơn gọi tông đồ của thánh Phaolô
( Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ)
Nói đến thánh Phaolô là nói đến mầu nhiệm ơn gọi tông đồ cũng như sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa trên cuộc đời sứ vụ của ông.
Đọc Công vụ Tông tồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một chàng có tên gọi là Saolô, ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, có thể nói ông là người đẹp trai, con nhà giầu, học giỏi, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem, nhiệt thành đến nỗi, tham gia vào vụ giết Têphanô và rong ruổi mọi đường Đamát truy lùng các Kitô hữu.
Nói đến Phaolô là nói đến sự cải đạo của ông
Đối với Phaolô, con đường Damas là con đường thiên mệnh, con đường của Ý Trời. Con đường ấy đã thay đổi con người và cuộc đời của Phaolô 180 độ. Và con đường đó cũng đã thay đổi hoàn toàn chiều hướng của lịch sử nhân loại.
Trong ánh sáng huy hoàng, Chúa Kitô phục sinh đã ngỏ lời và đối thoại với Saolô. Thần Khí của Đấng Phục Sinh đã tác động và thay đổi hoàn toàn con người của ông. Ánh sáng ấy làm cho Saolô mù mắt, diễn tả sự mù quáng của ông trước việc bắt bớ các người Kitô hữu. Sự mù lòa còn tượng trưng cho sự “vô tri”: Saolô không thấy Thiên Chúa, không biết Thiên Chúa, mà cứ tưởng như mình biết.
Chúa Kitô Phục Sinh muốn nhờ Giáo hội, qua Phép rửa, giải thoát Saolô khỏi sự “u mê lầm lạc”, vô tri. Phaolô đã được thấy lại nhờ ánh sáng của Chúa qua Phép rửa, bấy giờ mới nhận biết Đức Kitô và khám phá ra Thiên Chúa, chính là Cha của Đức Giêsu Kitô. Phaolô ngã xuống đất và suốt ba ngày không nhìn thấy, không ăn, không uống, giống như người “chết rồi mới sống lại với Chúa”. Saolô được thông phần cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu, được Chúa Cha mạc khải cho biết mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh của Chúa Giêsu. Từ đó trở nên “chứng nhân” được sai đi loan báo Tin mừng Phục Sinh cho các dân ngoại.
Rõ ràng là ý Trời, Trời đã can thiệp vào cuộc đời của Saolô bằng Tình yêu đặc biệt. Chính Thiên Chúa đã nói qua miệng ông Khanania, và Phaolô sau này lập đi lập lại nhiều lần. Thiên Chúa đã tuyển chọn Saolô một người duy nhất giữa muôn người. Cú ngã ngựa trên đường Đamat, biến Saolô thành chứng nhân vĩ đại là Phaolô, một người ngoài nhóm 12 tông đồ, để trao cho sứ mạng làm “Tông đồ Dân ngoại”, biệt danh này không ai có, ngoại trừ Phaolô. Và từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Ý Trời, hay ý muốn của Chúa Giêsu, Người mà ông đã ghét cay ghét đắng, căm thù đến tận xương tủy, khi chưa có dịp gặp, mà chỉ nghe nói đến do những kẻ thù của Chúa. Nhưng khi ông đã gặp Chúa Giêsu, tất cả đều thay đổi.
Chúa Kitô Phục Sinh đã đổi mới tư tưởng và trái tim của Phaolô. Không biết Đức Giêsu tại thế, Phaolô đã ghét cay ghét đắng và sát hại không thương tiếc các môn đệ của Người. Giờ đây trái tim của Phaolô được Chúa Giêsu chiếm lĩnh như chiếm đoạt trái tim của người yêu ( Pl 3, 12 ). Và Phaolô trở nên như một “người tình” của Chúa Giêsu, đến nỗi Phaolô phải thú nhận: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” ( Gl 2, 20 ).
Đúng như Phaolô viết: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi” (2 Cr 5, 14), tất cả nhiệt tình nơi con người và cuộc đời Phaolô đều phát xuất từ mối tình đó: Tình yêu của Chúa Kitô là “chủ thể yêu thương Phaolô”, Tình yêu Chúa Kitô là “đối tượng mà Phaolô yêu mến”. Tâm trí của Phaolô đã hoàn toàn mở ra cho Chúa Kitô, và vì thế có khả năng mở rộng cho mọi người, Phaolô trở nên tất cả cho mọi người (1 Cr 9, 12), sẵn sàng làm mọi sự cho “Tin mừng Tình yêu” mà người rao giảng.
Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9,3-18; 2 Cr11,8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại hùng hồn kể về những ”… lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi”; Phải chịu đủ thứ nguy hiểm và ra vào tù nhiều lần.
Nói đến Phaolô là nói đến vị Tông đồ của mọi thời đại
Phaolô đã trở thành vị “Tông đồ của mọi thời đại”. Là Do thái với người Do thái, Hy lạp với người Hy lạp, là người tự do, nhưng trở thành nô lệ của mọi người để phục vụ mọi người (1 Cr 9, 19– 21), Phaolô cũng có thể là Việt Nam với người Việt Nam, là Thái với người Thái, Phi với người Phi, Hàn quốc với người Hàn quốc.
Không những là “con người của Tình yêu”, Phaolô còn là “con người của chân lý”. Đối với Phaolô, chân lý là “Tin mừng Chúa Giêsu Kitô” “Chân Lý về một Tình Yêu mạnh hơn sự chết”, đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ cõi chết, trở thành nơi hội tụ của toàn thể nhân loại, toàn thể thế giới thụ tạo của Thiên Chúa.
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 54 ngày cầu nguyện cho sự Hiệp nhất các Kitô hữu, Đức Thánh Cha Phanxicô lưu ý rằng, ngày quan trọng này với chủ đề: “Lời khẩn cầu của Chúa Giêsu”. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho chúng ta tuân hành giới luật yêu thương, hầu chúng ta có thể gặt hái được nhiều hoa trái. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện để nguyện vọng của Chúa Giêsu được hoàn thành, tất cả chúng nên một: tình hiệp nhất luôn luôn cao trọng hơn những xung đột. Amen.
Suy niệm 7: Tông Đồ Phaolô Trở Lại
Người ta gọi Ngài một biệt danh như thế, nhưng Ngài không được hân hạnh như nhóm 12 các ông, đã được trông thấy Người, được nghe, được đi theo sau khi được Người chọn các ông. Đối với 12 vị, Đức Ki-tô không phải là người xa lạ, đó là người cùng làng xóm. Một người cùng chi họ. Còn Phaolô, ông không bao giờ trông thấy Đức Ki-tô. Nếu ông là kẻ bắt bớ các tông đồ và các môn đệ, không phải vì các ông này tuyên xưng danh Đức Ki-tô, nhưng các ông cũng như Đức Ki-tô, đã làm rối trật tự, Phaolô là người biệt phái, công dân Rôma, môn sinh của các thầy nổi tiếng thời đó. Ong không đấu tranh chống lại một bóng ma, nhưng chống lại những kẻ theo một giáo lý mới làm điên cuồng.
Một thế hệ mới...
Phaolô đã là một người thuộc thế hệ mới của các tông đồ. Công vụ tông đồ kể lại một cách tóm tắt cho chúng ta đoán được Phaolô chắc chắn đã tiêu hao nhiều năm đi bắt bớ các tín hữu, trước khi bị té ngựa trước ánh sáng Đức Ki-tô. Sứ điệp của Đức Ki-tô đã ban bố và được đón nhận khắp xứ Giuđa. Trước khi Phaolô xuất hiện. Phêrô đã làm cho nhiều người ngoài Do Thái trở lại rửa tội.
Phaolô, một người thuộc thế hệ mới, vì ông sống trong nền văn hóa Hy lạp, được giáo dục Rôma. Và cuộc trở lại của ông là nhờ ơn Chúa biến đổi ông tận gốc.
Cho tới ông, Tin Mừng còn hạn chế chỉ giảng cho người Do Thái, trừ Phêrô mới giảng một lần cho dân ngoại. Nhưng khi đến thời giảng Tin Mừng cho dân ngoại, thì Phaolô trở thành một Tarrê, một bổn đạo mới đã được trao trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.
Thánh Thần đổi mới.
Phải trông cậy vào Thánh Thần, Ngài đến canh tân mọi sự, Thánh Thần muôn đời tươi trẻ. Ngài không bảo chúng ta phải chiều theo những tính hay thay đổi của tuổi trẻ, bắt chước những tính đó là làm trò hề và ngu muội, Ngài bảo chúng ta phải biết lắng nghe những gì cao đẹp và tươi trẻ, và thi hành trọn vẹn những đòi hỏi của chân lý của chân thành, của ân huệ và hướng dẫn những tính tự nhiên đó sống theo Thánh Thần.
Ước mong những người đạo lâu đời trở nên những người đầu trong tình yêu và tái sinh thành trẻ trung và đổi mới theo Thánh Thần.
J.M
Suy niệm 8: Thánh Phaolô Trở lại
Hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của Thánh Phaolô.
Theo Sách Công Vụ các sứ đồ, quyển sử ký ghi lại trong giai đoạn tiên khởi của Giáo Hội, Saolê, tên gọi Do Thái của Phaolô, là một thanh niên phong thái và đầy nhiệt huyết đối với Ðạo. Vừa thụ huấn xong với một thầy Rabbi nổi tiếng trong nước, Saolê xung phong đi săn lùng những người môn đệ của Ðức Kitô mà anh cho là một bè phái đi ngược lại với Ðạo giáo.
Một hôm, đang trên đường đi Damascô để lùng bắt các môn đệ của Chúa Giêsu, anh đã bị một luồng Sáng đánh quật té xuống khỏi ngựa và từ trong ánh sáng ấy, anh đã nhận ra tiếng nói của Chúa Giêsu: "Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt hại".
Từ đó, sự hăng say bách hại các Kitô hữu đã biến thành lòng nhiệt thành phụng sự Giáo Hội của Ðức Kitô. Thiên Chúa đã sử dụng Phaolô làm khí cụ Truyền Giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại, tức là các dân tộc ở ngoại Do Thái Giáo.
Cuộc trở lại của Thánh Phaolô đã đánh dấu một khúc quan trọng nhất trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi. Tin Mừng không chỉ giới hạn trong ranh giới của Do Thái cũng như lề luật Maisen, Tin Mừng còn là một nối dài của Do Thái Giáo, nhưng chính là một Tôn Giáo mới cho mọi dân tộc, mọi văn hóa.
Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của thánh Phaolô như cao điểm của tuần lễ cầu cho hiệp nhất. Nơi thánh Phaolô, con người đã dám vượt ra khỏi ranh giới của dân tộc, của Ðạo Giáo của mình, để tuyên bố: Hãy trở thành Hy Lạp với người Hy Lạp, La Mã với người La Mã, nô lệ với người nô lệ. Giáo Hội nhận ra kiểu mẫu đích thực của hiệp nhất. Sự hiệp nhất chỉ có thể thực hiện được, nếu mỗi người môn đệ của Chúa Giêsu có đủ can đảm ra khỏi chính mình. Phải chăng đó không là đòi hỏi đầu tiên của sự trở lại?
Theo từ điển tiếng Việt của Nhà Xuất bản Khoa Học Xã Hội, "trở lại" nghĩa là về nơi mình ra đi.
Nơi mình đã xuất phát, nơi mình đã ra đi đối với người Kitô chúng ta là gì nếu không phải là Thiên Chúa. Như vậy, trở lại chính là quay trở về với Thiên Chúa.
Sự quay trở lại ấy đòi hỏi một sự từ bỏ tận căn và một thái độ sẵn sàng tuyệt đối. Chúng ta phải đọc lại sự trở lại của Thánh Phaolô: Phaolô là một người thanh niên hăng say với lý tưởng. Lý tưởng của anh chính là phụng sự Chúa hết mình bằng cách tiêu diệt những kẻ mà anh cho là Tà Ðạo. Nhưng trong phút chốc, lần ngã ngựa đau điếng cả người hôm đó đã buộc anh phải xoay chiều hoàn toàn: Những gì anh cho là Tà Ðạo trước kia nay anh phải xem lại Chính Ðạo. Phaolô phải quay ngược đường trở lại. Từ bỏ tất cả những gì mình hằng ôm ấp từ trước đến nay, từ bỏ con đường mình đang đi, Phaolô đã trở thành một khí cụ mềm nhũn trong tay Chúa.
Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa: đó là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta.
Sự trở lại đó không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ chối Giáo Hội khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người Kitô. Mỗi lúc một đến gần với cùng đích của chúng ta là chính Chúa: đó là lý tưởng của người Kitô chúng ta.
Càng đến gần với Chúa càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa, chúng ta càng đến gần với tha nhân.
Xin Thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại hôm nay, giúp chúng ta hiểu được sự trở lại đích thực mà người Kitô chúng ta phải theo đuổi mỗi ngày.
(Trích trong ‘Lẽ Sống’ – Radio Veritas Asia)
Suy niệm 9: Thánh Phaolô Trở lại
(http://tinvuixuanloc.vn)
Trong khi thánh Phêrô được xác định là “đá tảng cho Hội Thánh” (Mt 16,18), thì Phaolô được gọi là “thầy dậy các dân ngoại về đức tin và chân lý” (1 Tm 2,7).
Đối với Phaolô, đây là cả một mầu nhiệm. Trước đấy, ngài đã khinh khi những người kitô hữu, khi họ tôn kính một đấng Mêxia bị xử tử như một tội đồ.
Sự kiện ở cổng thành Đa-mát đã biến đổi tất cả. Thiên Chúa mà ngài tôn thờ trong cương vị là một người Pharisiêu đạo đức, đã biến đổi ngài thành kẻ rao giảng cho Tin Mừng của Đức Giêsu chịu đóng đinh (Gal 1,11-16).
Lễ thánh Phaolô trở lại đã được tìm thấy trong phụng vụ Galien từ thế kỷ thứ 8.
CẦU NGUYỆN: Lạy Cha, Cha đã dùng lời rao giảng của thánh Phaolô tông đồ để dạy dỗ muôn dân. Hôm nay mừng kỷ niệm ngày thánh nhân trở lại tin theo Đức Kitô, xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà tiến đến gần Cha và trở nên chứng nhân của Tin Mừng. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
Suy niệm 10: Người hùng của Tin Mừng
(http://giesu.net)
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15)
Suy niệm: Phaolô là người hùng của Luca trong sách Công vụ Tông đồ, một người hùng không phải vì những chiến công đánh đông dẹp bắc, nhưng là người hùng trong công cuộc loan báo Tin Mừng. Khởi điểm của người hùng ấy lại là sự kiện ngã ngựa đau đớn và rồi chịu khuất phục hoàn toàn trước vị vua vũ trụ Giêsu. Từ khi tỉnh ngộ, nhận biết Đức Giêsu, cuộc đời Phaolô chuyển sang một hướng mới: nghĩ mọi cách, làm mọi sự, đi mọi nơi, gặp mọi người, miễn là Tin Mừng của Đức Giêsu được loan báo, để mọi người cũng được nghe, biết và rồi đón nhận Tin Mừng ấy như mình. Vì yêu mến Đức Giêsu, người hùng Phaolô luôn lao mình về phía trước, bất kể thử thách, chống đối và thậm chí bách hại.
Mời Bạn: Từ người hùng bách hại đạo Chúa, Phaolô trở thành người hùng phụng thờ Ngài. Từ chỗ cậy dựa vào công trạng cá nhân, sau cú ngã ngựa, Phaolô nhận ra mọi vinh quang cá nhân phát xuất từ ơn cứu độ, sự sống mới của Đức Giêsu. Còn bạn, bạn dám hoán cải triệt để như Phaolô không, nghĩa là mạnh dạn thay đổi cái nhìn về Chúa, người khác và chính mình không?
Sống Lời Chúa: Noi gương thánh Phaolô, tôi sẽ nỗ lực vượt lên tính an phận, để trở thành “người hùng” trong việc loan báo Tin Mừng và phụng thờ Chúa, bằng cách sống những việc bình thường với lòng yêu mến Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hoán cải một người bách hại đạo Chúa trở thành người loan truyền Tin Mừng. Xin cũng biến đổi chúng con, những môn đệ yếu hèn, nhát đảm, trở thành những chứng nhân hăng say và nhiệt thành của Nước Trời. Amen.
Suy niệm 11: Thánh Phaolô tông đồ trở lại
(http://www.simonhoadalat.com)
Thánh Phaolô đã viết: “Tôi biết tôi tin vào ai và xác tín rằng: Ðức Kitô là Vị Thẩm Phán chí công có đủ quyền năng bảo toàn Giáo lý đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới ngày Người ngự đến" (2Tm 1.12; 4, 8). Thánh Phaolô đã có một cảm nghiệm sâu xa về Chúa Kitô khi Ngài bị đánh ngã ngựa trên đường đi Ðamas.
PHAOLÔ LÀ AI?
Phaolô là người Do Thái thuộc chi tộc Benjamin, tên của Ngài là Saolô, quê Tarsê xứ Xilixia. Gia đình của Phaolô đã nhập tịch làm dân Roma, nên Ngài cũng là dân Roma. Saolô ngay từ thuở thiếu thời luôn trung thành với truyền thống của cha ông mình. Saolô là một phần tử hăng say thuộc nhóm biệt phái, luôn thù ghét các Kitô hữu, thù ghét Giáo Hội của Chúa Giêsu. Saolô đã tham dự vào việc ném đá Têphanô: "Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Saolô"(Cv 7, 58). “Phần ông Saolô, ông tán thành việc giết ông Têphanô" (Cv 8, 1). Saolê bắt đầu từ lúc đó càng hăng say bắt bớ Giáo Hội Chúa Kitô: “Còn ông Saolô thì cứ phá hoại Hội Thánh: Ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn bà đi tống ngục" (Cv 8, 3). Saolô đã được các thượng tế Do Thái cho phép, đồng ý nên đã đến các hội đường ở Ðamát, để nếu thấy những người theo Ðạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giêrusalem (Cv 9, 1).
CHÚA KÊU GỌI SAOLÔ
Chúa luôn có con đường của Ngài và nẻo đường của Ngài không ai biết trước, không ai hiểu rõ như thánh Phaolô đã viết: “Sự giầu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Ðường lối của Người, ai theo dõi được" (Rm 11, 33). Trên đường đi Ðamát với một khí thế hung hăng, đằng đằng sát khí, Saolô muốn tiêu diệt Giáo Hội của Chúa, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe có tiếng nói với Ông: “Sa-un, Sa-un, tại sao Ngươi bắt bớ Ta" (Cv 9, 4). Saolô liền hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai?" (Cv 9, 5)
Người đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ" (Cv 9, 5). Và Saolô đã khuất phục: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?". Chúa truyền cho Saolô vào thành và gặp Khanania, nơi đó Khanania đã nói với Saolô: “Anh Sa-un, Chúa đã sai tôi đến đây, Người là Ðức Giêsu, Ðấng đã hiện ra với anh trên đường anh tới đây. Người sai tôi đến để anh lại thấy được và để anh được đầy Thánh Thần" (Cv 9, 17) và "Lập tức có những cái gì như vảy bong ra khỏi mắt ông Saolô, và ông lại thấy được. Ông đứng dậy và chịu phép rửa" (Cv 9, 18). Saolô từ lúc sáng mắt đã hoàn toàn được đổi mới. Ông nhiệt thành đi rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa. Với tên mới Phaolô, vị tông đồ được Chúa chữa sáng mắt đã nong nả đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng, và trở nên vị tông đồ dân ngoại rất lừng danh. Thánh nhân đã luôn tin tưởng vào Chúa, Ngài viết: “Tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Ðấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi" (Gl 2, 20).
Lạy Chúa, Chúa đã dùng lời rao giảng của thánh Phaolô tông đồ để dạy dỗ muôn dân. Hôm nay, mừng kỷ niệm ngày thánh nhân trở lại tin theo Ðức Kitô, xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân để lại mà tiến đến gần Chúa, và trở nên chứng nhân của Tin Mừng" (lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Phaolô trở lại).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Suy niệm 12: Thánh Phaolô Tông Đồ Trở Lại – Cú ngã ngựa lịch sử
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Đọc lại cuộc đời Thánh Phaolô, ta nhận thấy sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ơn Gọi Tông Đồ quả là một mầu nhiệm lạ lùng.
Đọc Công vụ Tông đồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một Saolô, ở Tacxô, là người Do thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do thái – Hy lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Saolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Têphanô và rong ruổi mọi đường Đamát truy lùng các Kitô hữu.
Được ơn trở lại qua cú ngã ngựa trên đường Đamat, Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô, Tông Đồ dân ngoại. Từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông Đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Cuộc sống bôn ba vì Nước Trời được điểm tô muôn ngàn vạn nét đẹp của Phaolô mãi mãi được hát lên như một bài ca khải hoàn "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?... Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8, 35-39).
Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống đã viết rằng: nét đẹp nhất nơi Phaolô là cú ngã ngựa lịch sử. Cuộc đời Thánh Phaolô có nhiều hình ảnh đẹp. Chẳng hạn khi ngài xuất thần thì được đưa lên tầng trời thứ ba; chẳng hạn khi ngài ứng khẩu rao giảng Tin Mừng nơi Nghị viện Hy lạp; chẳng hạn khi Ngài lênh đênh trên biển đi tìm vùng đất mới đem về cho Chúa bao nhiêu linh hồn; và còn rất nhiều hình ảnh đẹp khác nữa. Nhưng tại sao Giáo Hội không chọn trong số những hình ảnh đẹp ấy, mà lại lấy hình ảnh ngã ngựa để đem mừng kính trong một ngày lễ? Thưa vì đó là một biến cố quan trọng phân chia cuộc đời ngài ra làm hai nửa theo hai hướng đối nghịch nhau, nhưng cùng làm nên một cuộc đời có tội lỗi và ân sủng, có yếu đuối và sức mạnh, đồng thời cũng có thất bại và thành công.
Hai hình ảnh ấy dường như hội tụ lại trong chân dung thánh Phaolô ngã ngựa mà Giáo hội mừng kính hôm nay.
1. Cú ngã ngựa chia đôi cuộc đời.
- Về danh xưng, nửa đời trước là Saolô với một câu hỏi "tại sao?" đang cưỡi ngựa vút lao đi tìm giải đáp cho cuộc đời; còn nửa đời sau là "Phaolô" đã trở thành chiếc phao cứu tử cho cả lô linh hồn ngài gặp trên đường truyền giáo.
- Về vị thế, nửa đời trước là một người Biệt phái chính cống, được giáo dục đường hoàng bởi ông thầy trứ danh Gamaliel, nhiệt thành với truyền thống cha ông; còn nửa đời sau là một vị Tông đồ thông minh uyên bác, vô cùng nhiệt thành với tình yêu Thiên Chúa, như ngài thú nhận "tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi"
- Về hoạt động, nửa đời trước là một chàng thanh niên tin tưởng cuồng nhiệt vào luật lệ Do Thái, tự tay vấy máu trong những cuộc bách hại Kitô hữu, cụ thể là cộng tác vào việc ném đá Stêphanô và tự ý đến xin các Thượng tế cấp giấy phép cho mình được quyền bắt bớ bất cứ ai tin vào Chúa Kitô nơi Hội đường Do Thái; thế mà nửa đời sau lại trở thành một người hăng say can đảm tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Kitô mà ông đã bách hại trước đó, bất kể ánh nhìn e dè nghi ngại của những người Kitô hữu và bất kể sự nguy hại tính mạng do những người Biệt phái cũ của ông.
- Về tình cảm, nửa đời trước là một Saolô mù quáng hận thù, nhưng từ khi gặp được ánh sáng Chúa Kitô bao phủ, ông đã bị choáng ngợp mù lòa, để cặp mắt mình được thanh tẩy, mở đầu cho một nửa đời khác bước đi trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa.
- Về hướng đi bản thân, nửa đời trước là một Saolô kiêu căng tin vào sức mạnh của con người, đang xây dựng những mưu đồ tiến thân của mình, bất kể những khổ đau của người khác; nhưng nửa đời sau là một Phaolô bị quật ngã biết mình yếu đuối, nên chỉ tin vào sức mạnh của Thiên Chúa, đang gieo bước hân hoan trong ý hướng hiến thân phụng sự Thiên Chúa bất kể những đau khổ mình phải chịu: "Tôi có thể làm mọi sự trong Đấng là sức mạnh tôi".
Tóm lại, biến cố ngã ngựa là một tổng hợp tiêu biểu cho cuộc đời Thánh Phaolô. Nó nói lên sự thất bại của mưu đồ của con người và xác định sự thành công trong ý hướng Thiên Chúa. (x Bài giảng Chúa nhật, TGP Sàigòn, tháng 01. 2008).
2. Cú ngã ngựa, một dấu ấn không phai.
Biến cố ngã ngựa đã ghi dấu đậm nét trong cuộc đời Phaolô. Sách Công vụ Tông đồ kể lại: thình lình ánh sáng từ trời loé rạng bao lấy ông. Không bao giờ Phaolô còn thoát được ra ngoài ánh sáng đó. Từ đó trở đi, Chúa Kitô đã trở thành tất cả đối với Phaolô. Từ đó trở đi, chỉ có Chúa Kitô là đáng kể. Khi đã biết Chúa Kitô thì "Những điều kể được như lợi lộc cho tôi đó, tôi đã coi là thua lỗ bất lợi vì Đức Kitô. Mà chẳng những thế, tôi còn coi mọi sự hết thảy là thua lỗ, là bất lợi cả, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự và coi là phân bón cả, để lợi được Đức Kitô, và được thuộc về Ngài, không có sự sông chính của riêng tôi, sự công chính nại vào Lề luật, song là sự công chính nhờ vào lòng tin của Đức Kitô... ( Pl 3, 7-9). Từ đó trở đi, Phaolô hiên ngang vì tư cách làm môn đệ Chúa Kitô và với tư cách ấy Ngài tuyên xưng sự duy nhất, sự bình đẳng, tình huynh đệ thực sự giữa tất cả mọi người: "vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, thì đã được mặc lấy Đức Kitô: không còn Do thái hay Hy lạp; không còn nô lệ hay tự do; không còn nam hay nữ; vì anh em hết thảy là một trong Đức Kitô Giêsu" (Gal 3, 27-28). Vì Đức Kitô là "tất cả mọi sự và trong mọi người" ( Cl 3, 11). Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9, 3-18; 2Cr 11, 8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại trở nên hùng hồn kể về những "... lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi"; Phải chịu đủ thứ nguy hiểm bởi "phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em;phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng" (2Cor 11, 23-27). Phaolô ra vào tù nhiều lần. Có lần Ngài viết từ ngục thất cho Timôthê, người môn đệ có khi không khỏi nao núng: “ anh đừng hổ thẹn làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, là kẻ bị tù vì Ngài". Phaolô không hổ thẹn vì tôi biết tôi đã tin vào ai... (2 Tim 1, 8-12). Vì đức Kitô "tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi, nhưng Lời Thiên Chúa không bị xiềng xích" (2Tim 2, 9). Phaolô đã sung sướng tự hào cả khi ý thức những yếu đuối của mình "Ơn Ta đủ cho con vì chưng quyền năng trong yếu đuối mới viên thành" (2Cor 12, 9). Không gì có thể làm nao núng lòng tin ấy "chúng tôi bị dồn ép mọi mặt nhưng không bị nghẽn; lâm bĩ nhưng không mạt lộ; bị bắt bớ nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt" (2Cor 4, 8-9) Phaolô nhiệt thành loan truyền Chúa Kitô với tất cả thao thức "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cor 5,14). Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài " tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi"(Gal 2, 20).
3. Những cú "ngã ngựa" trong đời tín hữu.
Biến cố ngã ngựa đã chia đôi cuộc đời Thánh Phaolô. Từ một kẻ thù, Chúa đã biến ngài thành một người bạn, một người tình. Từ một người đi lùng bắt những Kitô hữu, Chúa đã biến ngài trở thành người rao giảng về Người và sẵn sàng chết vì Người.
Phaolô đã viết những lời thật cảm động: "Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô. Dù là gian truân, bĩ cực, đói khát trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo.... Tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, dù quyền năng, dù chiều cao hay chiều sâu hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa được thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (x. 2 Tm 4, 6-8; Rm 8, 18-19. 32. 33. 38. 39)
Nhìn vào biến cố "ngã ngựa" của Thánh Phaolô để rồi nhìn lại cuộc đời mình, biết đâu ta cũng gặp thấy rất nhiều những cú "ngã ngựa". Có những cú "ngã ngựa" trong đời sống thiêng liêng liên hệ với Chúa; có những cú "ngã ngựa" trong đời sống tình cảm liên hệ với tha nhân; có những cú "ngã ngựa" trong đời sống chiến đấu nội tâm; và có những cú "ngã ngựa" trong đời sống xác thân bên ngoài như công ăn việc làm, học hành, danh dự, tình yêu, tương lai, hạnh phúc, sức khỏe...
Nhưng điều quan trọng là đừng nhìn "ngã ngựa" chỉ như một thất bại để rồi cuốn theo thất vọng quỵ ngã không gượng dậy được. Hãy nhìn "ngã ngựa" như một thất bại cho một thành công lớn hơn trong ơn thánh. Ăn trái cấm là một thất bại của Ađam - Evà trong quyền làm chủ, nhưng lại là một điều kiện bật mở chương trình cứu độ với việc Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. "Tội hồng phúc" là thế. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại đau đớn trước mặt trần thế, lại là một thành công trong chiến thắng cứu độ vinh quang.
Và cú "ngã ngựa" của Thánh Phaolô hôm nay là một thất bại chấm dứt cuộc đời săn bắt Kitô hữu, nhưng lại là một thành công mở đầu cuộc sống lên đường truyền giáo của vị Tông đồ dân ngoại.
Như vậy người ngã ngựa không chỉ nhìn vào mình để cay cú cuộc đời, mà nhìn vào Chúa để tìm sức mạnh đứng lên trong ánh sánh niềm tin. Nếu "ngã ngựa" là điều không thể tránh được, thì điều quan trọng là luôn sẵn sàng để biết đứng dậy. Không phải khi ngã người ta trở nên mạnh mẽ mà là khi biết đứng dậy người ta mới chứng minh được bản lĩnh mạnh mẽ của mình.
24/01 Ngoan cố, tội phạm đến Chúa Thánh Thần
- Viết bởi Mc 3, 22-30
Ngoan cố, tội phạm đến Chúa Thánh Thần.
Thứ Hai tuần 3 thường niên. – Thánh Phanxicô Salêsiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Satan phải diệt vong".
* Thánh nhân sinh tại Xavoa năm 1567. Sau khi làm linh mục, người tận tuỵ với công việc canh tân Hội Thánh công giáo tại quê hương. Được chọn làm giám mục Geneve, người tỏ ra là một mục tử lo lắng cho giáo sĩ và giáo dân. Người là vị sáng lập dòng các nữ tu thăm viếng cùng với chị Phanxica đờ Săngtan. Suốt cuộc đời, người trở nên mọi sự cho mọi người qua lời nói và chữ viết, cũng như khi tranh luận thần học với anh em Tin Lành, khi giúp cho giáo dân biết sống đời sống thiêng liêng, lo lắng chăm nom cả kẻ bé lẫn người lớn. Thánh nhân qua đời ở Lyon ngày 28 tháng 12 năm 1622.
LỜI CHÚA: Mc 3, 22-30
Khi ấy, những luật sĩ từ Giêrusalem xuống nói rằng: "Ông ấy bị quỷ Belgiêbút ám", và nói thêm rằng: "Chính nhờ tướng quỷ mà ông ấy trừ quỷ".
Khi đã gọi họ lại, Chúa Giêsu phán bằng dụ ngôn rằng: "Satan lại trừ Satan làm sao được? Nếu một nước mà tự chia rẽ nhau, thì nước đó tồn tại làm sao được? Vậy nếu Satan dấy lên chống đối với chính mình và tự phân tán, thì nó không thể đứng vững được mà phải diệt vong. Chẳng ai có thể vào nhà một người khoẻ mạnh và cướp của y, nếu không trói được y trước đã, rồi sau mới cướp phá nhà y.
Quả thật, Ta bảo các ông hay, mọi tội lỗi và mọi lời phạm thượng của con cái loài người sẽ được tha hết, nhưng kẻ nào nói phạm đến Chúa Thánh Thần, sẽ muôn đời không bao giờ được tha: nó mắc tội muôn đời". Ðó là vì họ nói "Người bị thần ô uế ám".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Vào nhà một người mạnh
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Thân nhân của Đức Giêsu đã tưởng Ngài bị mất trí (c. 21),
nhưng có thể họ không nghĩ Ngài bị quỷ ám,
dù trong thế giới ngày xưa, mất trí thường bị coi là do quỷ ám.
Các kinh sư đến từ thủ đô Giêrusalem có thái độ quyết liệt hơn nhiều.
Họ tố cáo Đức Giêsu là người bị quỷ ám,
không phải quỷ thường, mà là quỷ vương Bêendêbun.
Hơn nữa, họ cho rằng Ngài trừ quỷ nhờ dựa thế của quỷ vương (c. 22).
Lời tố cáo trên đây của những kinh sư thật là nghiêm trọng,
vì ai dựa thế như vậy là thông đồng với quỷ, có thể bị xử tử.
Đức Giêsu đã trả lời tố cáo này bằng hai hình ảnh về Nước và Nhà.
Đức Giêsu nhìn nhận sự hiện diện
và hoạt động của Nước Xatan trong thế gian này.
Nước này có tôn ti trật tự, được lãnh đạo bởi quỷ vương,
đó là Xatan hay Bêendêbun, kẻ cầm đầu các quỷ nhỏ (c. 22).
Xatan muốn bành trướng Nước của mình trong thế giới loài người.
Nó sai các quỷ nhỏ đi khắp nơi lôi kéo mọi người chẳng trừ ai.
Theo thánh Inhaxiô, Xatan thường cám dỗ ta theo ba bước:
từ sự ham muốn của cải, đến hư danh thế gian, và cuối cùng là kiêu ngạo,
rồi sau đó đi đến mọi nết xấu khác (Linh Thao 142).
Như thế Xatan khôn khéo đánh bẫy và trói buộc con người.
Đức Giêsu đã không bắt tay với Xatan để đuổi các quỷ cấp dưới.
Ngài tấn công trực diện vào Nước của Xatan,
phá đổ Nước này và khai mở Nước Thiên Chúa (Lc 11, 20).
Cuộc chiến không dễ dàng và còn kéo dài đến tận thế.
Thế giới hôm qua cũng như hôm nay được ví như một ngôi nhà.
Tiếc thay ngôi nhà đó ít nhiều đã bị Xatan cưỡng đoạt.
Xatan chính là kẻ mạnh đã biến ngôi nhà đó thành của mình (c. 27).
Nhưng Đức Giêsu lại là người mạnh hơn (Mc 1, 7).
Người mạnh hơn đã trói kẻ mạnh lại và tước đoạt những gì nó đã chiếm.
Tước đoạt chính là giải thoát những ai bị Xatan cầm giữ,
và trả lại cho họ quyền làm chủ đời mình, quyền sở hữu căn nhà của họ.
Hôm nay, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục tấn công Xatan.
Ngài không ngừng chinh phục thế giới này cho Thiên Chúa,
và mời chúng ta cộng tác để xây dựng Nước Chúa trên trần gian.
Nhờ Thánh Thần của Thiên Chúa mà Đức Giêsu trừ quỷ (Mt 12, 28),
nên ai bảo Ngài trừ quỷ nhờ quỷ vương Xatan hay Bêendêbun,
thì xúc phạm đến Thánh Thần, coi Thánh Thần như thần ô uế (c. 30).
Đức Giêsu không phải là người có thần ô uế.
Ngài có đầy ắp Thánh Thần trong mọi lời nói việc làm.
Chỉ ai cố chấp, bướng bỉnh mới không nhận ra điều đó.
Mọi tội lỗi đều có thể được thứ tha (c. 28),
trừ tội khép lòng từ chối ơn tha thứ của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu.
Làm sao giúp con người hôm nay mềm mại mở ra
để nhận thấy Thánh Thần vẫn đang hiện diện trong Giáo Hội?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống. Amen.
Suy Niệm 2: Sức mạnh của Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Dân Ít-ra-en khi tấn phong Đa-vít làm vua đã trích dẫn lời Chúa: “Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Ít-ra-en”. Quả thực “Vua Đa-vít ngày càng mạnh thế, và Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh ở với vua”. Nên vua đánh đâu thắng đó. Thu thập các dân tộc chung quanh. Thu hồi đất đai Chúa hứa. Xây dựng vương quốc hùng mạnh. Danh tiếng lừng lẫy. Trở thành vị vua mẫu mực. Dân Ít-ra-en muôn đời tưởng nhớ. Và chờ mong một vị vua mới từ dòng dõi vua Đa-vít sẽ xuất hiện. Phục hồi vương quốc hùng mạnh, danh tiếng thuở xưa (năm chẵn).
Lời tiên báo đến thời thực hiện. Niềm chờ mong đã được đáp đền. Chúa Giê-su đến với sức mạnh vô biên của Thiên Chúa. Con người dẫu mạnh mẽ cũng chỉ thắng được con người thôi. Chưa có ai thắng được ma quỉ. Thế lực siêu nhiên luôn thống trị con người. Thế mà Chúa Giê-su đã chiến thắng ma quỉ. Ra lệnh cho ma quỉ. Xua trừ ma quỉ ra khỏi con người. Các kinh sư thấy sức mạnh của Chúa không những không tin mà còn vu cáo Chúa chính là tướng quỉ nên ma qủi mới thuần phục. Chúa Giê-su đã vạch rõ ác ý của họ khi chứng minh lời họ là sai ở cả hai phía. Xa-tan tự chia rẽ cũng tận số. Và nếu có người mạnh đến chiến thắng thì Xa-tan cũng tận số: “Nếu Xa-tan mà chống Xa-tan, Xa-tan mà tự chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. Không ai có thể vào nhà kẻ mạnh mà cướp của được, nêu không trói kẻ mạnh ấy trước đã, rồi mới cướp sạch nhà nó”.
Sức mạnh vô biên của Thiên Chúa thể hiện nơi Chúa Giê-su là tình yêu. Tình yêu lớn lao chưa từng có. Là dám hi sinh tính mạng vì người mình yêu. Chúa Giê-su bày tỏ sức mạnh vô biên trong tình yêu vô biên dám chấp nhận cái chết. Đã trở thành “trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ”. Với quyền năng vô biên, ngài chỉ dâng hiến một lần là đủ: “Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình”. Ma quỉ chỉ mạnh khi người ta tội lỗi. Nay Chúa Giê-su tiêu diệt tội lỗi. Nên ma quỉ mất hết quyền lực. Con người được giải phóng, được “kêu gọi lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu” (năm lẻ).
Tình yêu Chúa lớn vô biên. Tình yêu trở thành quyền năng vô biên. Đó là điều làm cho ta tin tưởng. Trong quyền năng Chúa ta được cứu chuộc. Trong tình yêu Chúa ta được yêu thương. Lạy Chúa, xin hãy đến giải thoát con khỏi mọi thế lực của ma quỉ.
Suy Niệm 3: Tội ngoan cố
Hoạt động của Chúa Giêsu ở Capharnaum, miền Bắc Galilê, đã có một tiếng vang đến Yêrusalem, là trung tâm sinh hoạt tôn giáo của Israel thời Chúa Giêsu. Tuy nhiên, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các luật sĩ từ Yêrusalem đến chẳng có gì là tốt đẹp, mà chỉ phơi bày sự ngoan cố của các kẻ thù của Chúa. Sự ngoan cố khước từ đó đạt tới cao điểm khi họ giải thích sai lạc việc Chúa Giêsu dùng quyền năng của mình xua trừ ma quỷ ra khỏi con người, mang lại sức khỏe cho con người.
Chúa Giêsu đã rao giảng một cách có uy tín trong vùng Galilê, quanh thành Capharnaum, cùng với những dấu chỉ kỳ diệu chứng tỏ lòng nhân từ của Chúa đối với con người, đồng thời chứng minh quyền năng thần linh của Ngài. Các luật sĩ từ Yêrusalem đến, lẽ ra hơn ai hết, họ phải hiểu được những dấu chỉ kỳ diệu này, vì họ là những con người tôn giáo chuyên môn về Lời Chúa. Nếu Chúa Giêsu chỉ nói suông mà thôi, thì sự ngoan cố của các kẻ chống đối Chúa có thể còn tha thứ được, nhưng đàng này, Ngài đã thực hiện những dấu lạ để chứng tỏ quyền năng thần linh của Ngài: Ngài đã chữa người bại liệt để chứng minh Ngài có quyền tha tội; Ngài đã ra lệnh cho quỷ dữ ra khỏi nhiều người và chúng đã vâng phục.
Trước những hành động kỳ diệu của quyền năng Thiên Chúa, những kẻ chống đối Ngài nói rằng Ngài đã bị quỷ Beelzebul ám và đã dùng quyền của quỷ vương để trừ quỷ. Thật không có sự ngoan cố nào nặng nề hơn: một vị Thiên Chúa mà lại bị các nhà thông luật gán cho tước hiệu đầu mục của quỷ. Ðó là một sự xúc phạm không thể tha thứ được, vì là tội phạm đến Thánh Thần. Thiên Chúa quyền năng có thể tha thứ mọi tội lỗi nhưng Ngài không thể cứu con người, nếu con người cứ đóng kín tâm hồn mình trước ân sủng và sự soi sáng của Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta xác tín vào chương trình cứu rỗi yêu thương của Ngài được thực hiện qua Chúa Giêsu Kitô, để chúng ta đáng được hưởng ơn cứu độ của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Nguyên tắc sống không mâu thuẫn
Người trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn uống được. Người liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: “Sa tan làm sao trừ Sa tan được? Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền.” (Mc. 3, 20. 23-24)
Chúa Giêsu vẫn có những kẻ luôn rình mò Người, họ không ngại đẩy Người vào những cuộc tranh luận ở nơi công cộng. Hôm nay, các kinh sư từ Giêrusalem xuống đả kích chính tư cách bản thân Người: “Ông ấy bị thần ô uế ám”.
Tố cáo
Theo cái nhìn của những kinh sư, Chúa Giêsu là con người có nhiều mâu thuẫn. Người cho mình là Thiên Chúa mà lại không tôn trọng luật giữ ngày sa-bát? Người giao du quá dễ dàng với những người tội lỗi và quân thu thuế. Người giảng dạy và chữa bệnh với uy quyền như vậy mà lại không giữ được tư cách đàng hoàng. Tại sao và tại sao? Tóm lại, những kinh sư cho rằng Chúa Giêsu chẳng có gì phù hợp với quan niệm hay mô hình về một ngôn sứ hoặc người công chính theo như họ tưởng.
Bào chữa
Đáp lại những lời tố cáo của các kinh sư, Chúa Giêsu cho họ thấy nơi Người không có gì là mâu thuẫn cả, viện lẽ rằng không ai lại tự hủy diệt chính mình. Khi giao tiếp với ác thần, Người có tiêu diệt được nó không? Khi can thiệp để chữa cho một người bị qủy ám, chẳng phải vì Người có quyền trên thần ô uế đó sao?
Chúng ta có liên đới vơi Người không?
Đến lượt mình, người tín hữu cũng sẽ bị người đời chất vấn: bạn theo ai? Người tín hữu cũng như bất cứ ai hằng gắn bó với một giáo thuyết hay một mẫu gương nào đó và muốn sống trọn với điều ôm ấp ấy, sớm muộn gì cũng sẽ phải trả lời cho biết hành động của mình có đi đôi với giáo thuyết mình tán dương không.
Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng, ngày nay chúng ta phải chịu nhiều tố cáo và phê phán, là bởi tại đời sống làm chứng của ta không thật trong sáng, vả chăng lại còn nhiều cách biệt và mâu thuẫn giữa việc ta làm và lời Chúa dạy. Ta vẫn biết cầu nguyện là cần thiết và phải dành thời giờ cho việc ấy, nhưng sự cần thiết và thời gian được dành có phù hợp với nhau không? Ta có phấn đấu và tẩy sạch những lu mờ để đời sống bác ái của ta là tấm gương sáng phản ảnh Chúa, và trở nên Thân thể Chúa Kitô không?
Tóm lại, các kinh sư là những người hay chất vấn. Những kinh sư của thời nay cũng vẫn còn dựa vào nguyên tắc “Ngôn hành tương ứng” nói sao làm vậy để đo lường giá trị con người của ta: cây tốt thì sinh quả tốt…. Cây tốt không thể sinh quả xấu. Họ không lầm để kiểm tra ta trong vấn đề này.
Suy Niệm 5: Thích ứng để truyền giáo
Đọc lại lịch sử truyền giáo của các nhà thừa sai trên Miền Thượng (Tây Nguyên – Việt Nam) trong cuốn: “Dân Làng Hồ”, tác giả cho thấy rất rõ yếu tố sống còn, thành công hay thất bại, phụ thuộc rất nhiều vào việc thích ứng hay không thích ứng của các thừa sai!
Khi nói đến truyền giáo, yếu tố thích ứng là điều rất quan trọng, vì thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến yếu tố này khi sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng và truyền cho họ đừng mang theo bao bị, giày dép, túi tiền... Người ta cho ăn thức ăn gì thì hãy ăn. Điều này ngược lại với quan niệm của người Pharisêu, vì mỗi khi họ đi đâu xa, thường thì họ luôn chuẩn bị cho mình những thứ căn bản như tiền, bao bị và thức ăn để đảm bảo sự thanh sạch, vì nếu không có những thứ đó, họ e sợ bị nhiễm uế nơi dân ngoại...
Người môn đệ của Đức Giêsu phải khác! Khác để hiệp nhất, hiệp thông, hòa đồng; khác để sống tình huynh đệ, bác ái; khác để thích ứng và hội nhập; khác để làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa; khác để sống phó thác trong sự an bài của Thiên Chúa.
Điều quan trọng là nhà thừa sai phải là người cảm nghiệm được sự bình an sâu xa từ trong nội tâm khi phó thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và sống hết mình với anh chị em mình, có thế, món quà quý giá mà người thừa sai trao ban cho con người chính là sự bình an, niềm vui và hạnh phúc.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người được trao phó trách nhiệm làm ngôn sứ cho Chúa. Tức là chúng ta có trách nhiệm giới thiệu Chúa cho người khác. Trở nên chứng nhân trong cuộc sống đời thường của mình. Đây là sứ mạng mà Chúa tin tưởng, ủy thác cho chúng ta. Vậy, chúng ta đã ý thức và thi hành sứ vụ đó ra sao?
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con bình an của Chúa, để chúng con biết chia sẻ sự bình an đó cho người khác. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Chúa lấy quyền nào?
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu chữa lành cho những người bị quỉ ám. Các luật sĩ không tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên cho rằng Ngài lấy quyền của tướng quỉ Bengiêbút mà trừ quỉ. Nhưng Chúa nói cho họ biết: nước nào tự chia rẽ thì làm sao tồn tại được. Ma quỉ cũng vậy, nếu nó chia rẽ, nó sẽ tiêu vong. Còn nếu Ngài nhờ tướng quỉ mà trừ quỉ thì ma quỉ đã tự chia rẽ nhau rồi, làm sao nó đứng vững được?
2. Các luật sĩ nói Chúa Giêsu bị quỉ vương Bengiêbút ám và dựa vào thế quỉ vương để trừ quỉ. Theo Chúa Giêsu, lời tố cáo đó là một điều vô lý. Quả thật, Satan không thể chống Satan. Nước nào, nhà nào chia rẽ thì sẽ đi tới chỗ diệt vong. Satan cũng vậy. Marcô 3,27 cho thấy: chẳng những Chúa Giêsu không bị quỉ chi phối, không theo phe quỉ, Ngài còn chống quỉ; quỉ là người mạnh, Chúa Giêsu còn mạnh hơn quỉ nữa” (Chú thích của bản dịch nhóm CGKPV).
3. Những luật sĩ ấy chẳng những không nhìn nhận quyền phép Chúa Giêsu trong việc Ngài trừ quỉ mà còn xuyên tạc rằng Ngài dựa thế quỉ vương. Thái độ ấy bị Chúa Giêsu gọi là tội phạm đến Chúa Thánh Thần và là thứ tội duy nhất không được tha. Chúa Thánh Thần là nguồn bảy ân sủng, là Đấng được ban để tha tội qua công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô. Vì vậy, phạm đến Chúa Thánh Thần, nghĩa là khước từ ơn thánh và khước từ được cứu độ. Chúng ta chỉ được cứu độ nhờ đón nhận, còn khước từ thì Chúa cũng chịu vì sự tự do Chúa ban cho chúng ta. Chúng ta từ chối thì chúng ta mất linh hồn, không phải là Chúa không tha, mà là chúng ta khước từ sự tha thứ đó. Thánh Augustinô từng dạy: ”Chúa dựng nên ta không cần ta, nhưng Chúa muốn cứu chuộc ta thì cần có ta cộng tác”. Chúa Thánh Thần hoạt động trong ta, mà ta xúc phạm đẩy Ngài ra để chỗ cho tà thần, thì làm sao được cứu độ? (Mỗi ngày một tin vui).
4. Có lẽ chúng ta không đến nỗi “tệ” tới mức “nghi” Chúa Giêsu bị quỉ Bengiêbút ám, nhưng nghi sự trái cho người khác, hoặc thấy việc tốt người khác làm, không khen ngợi thì chớ, lại còn “tán chuyện” ra để đàm tiếu thì phải chăng đó là “chuyện thường ngày ở...” sở làm, trong xóm ngõ của chúng ta? Để không mắc tội phạm đến Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy nhìn nhận việc tốt của người khác một cách trân trọng, và nếu cần phải phân định việc gì hãy làm với tinh thần bác ái.
5. Trong thời đại hôm nay nhiều giá trị, nhiều nguyên tắc đạo đức và luân lý đang bị đảo lộn khắp các tầng lớp xã hội. Nếu đưa mắt nhìn quanh, người ta sẽ thấy trong các tầng lớp xã hội, gia đình và tôn giáo đều có sự chia rẽ. Bao nhiêu giáo phái Kitô giáo khác nhau trên thế giới được tìm thấy xuất hiện, phái nào cũng mạo nhận là theo gót chân Chúa một cách trung thực. Ngay cả trong một giáo phái, cũng có sự chia rẽ và phe phái. Chính điều này đã làm cho nhiệm thể Chúa Kitô bị phân rẽ và tổn thương. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã cảnh báo điều đó khi trả lời cho người Do thái kết án Người là lấy quyền tướng quỉ đè bẹp lính quỉ.
6. Những người luật sĩ bị coi là phạm đến Chúa Thánh Thần vì họ chối bỏ chân lý, không chấp nhận sự sám hối thì làm sao có thể tha tội được. Qua lời phân định của Chúa Giêsu về mức độ tội trạng được tha và không được tha, mỗi người chúng ta, một đàng ý thức về tội trạng của mình khi xét mình trước mặt Chúa để khơi dậy lòng thống hối; đàng khác phải luôn luôn bảo vệ và phát triển lòng tin cùng kính mến Chúa để tránh những xúc phạm đến Chúa. Nếu đã đã trót phạm tội mà ăn năn sám hối thì tội bao nhiêu cũng được tha. Cứ vững lòng tin.
7. Truyện: Không nghi ngờ và thất vọng.
Người ta kể: một hôm có một chàng thanh niên đến gặp cha Placido Vicardi, dòng Biển Đức, ở Italia, để xin xưng tội. Chàng thanh niên này quì xuống và thưa với cha Vicardi:
- Thưa cha, con là kẻ tội lỗi khốn nạn nhất, vì con đã phạm đủ mọi thứ tội.
Cha Vicarđi đáp:
- Đúng, con đã phạm đủ mọi thứ tội, nhưng con không phải là kẻ có tội khốn nạn nhất, vì có một tội nặng nhất mà con đã không phạm tội ấy.
Chàng thanh niên ngẩng đầu lên nhìn cha Vicardi ngạc nhiên hỏi:
- Thưa cha, làm sao cha biết? Tội đó là tội nào vậy?
Cha Vicardi trả lời:
- Tội nặng nhất mà con đã không phạm, đó là con đã không nghi ngờ và thất vọng về lòng từ bi của Chúa. Sở dĩ cha biết như thế, vì nếu không, thì con đã không đến đây để xin lãnh nhận Bí tích Giải tội. Vậy, nhân danh Đấng giầu lòng từ bi và yêu thương mà con vẫn hằng tin tưởng cậy trông, cha tha thứ hết mọi tội lỗi cho con. Con hãy về, và cố gắng đền đáp lòng yêu thương tha thứ của Chúa nhá.
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu là Đấng mạnh nhất
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. "Các kinh sư nói Chúa Giêsu bị quỷ vương Bêendêbun ám và dựa vào thế quỷ vương để trừ quỷ. Theo Chúa Giêsu, lời tố cáo đó là một điều vô lý. Quả thật, Satan không thể chống Satan (3,23b). Nước nào, nhà nào chia rẽ thì sẽ đi tới chỗ diệt vong (3,24-25); Satan cũng vậy (3,26). Mc 3,27 cho thấy chẳng những Chúa Giêsu không bị quỷ chi phối, không theo phe quỷ, Ngài còn chống quỷ; quỷ là người mạnh, Chúa Giêsu còn mạnh hơn quỷ nữa" (Chú thích của bản dịch nhóm CGKPV).
2. Những luật sĩ ấy chẳng những không nhìn nhận quyền phép Chúa Giêsu trong việc Ngài trừ quỷ mà còn xuyên tạc rằng Ngài dựa thế quỷ vương. Thái độ ấy bị Chúa Giêsu gọi là tội phạm đến Chúa Thánh Thần và là thứ tội duy nhất không được tha. Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng lương tâm cho người ta thấy rõ sự thật, thấy tội lỗi của mình để sám hối và được tha. Từ chối sự thật, không chịu sám hối thì không thể nào được tha. Không được tha không phải vì Chúa không tha mà vì mình không muốn được tha.
B.... nẩy mầm.
1. Chuyện này nhắc ta hai sự thật:
a/ Quả thực có hoạt động của Satan trong thế giới này và trong bản thân mỗi người, sức hoạt động này rất mạnh;
b/ Nhưng quả thật, Chúa Giêsu mạnh hơn. Chuyện này cũng làm ta liên tưởng tới những lời chia xẻ kinh nghiệm của thánh Phaolô "Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay... Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?" (Rm 7,21.24); "Thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Satan được sai đến vả mặt tôi để tôi khỏi tự cao tự đại... Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, đề sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi... Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,7.10)
2. Đây là nội dung cuộc nói chuyện giữa hai em nhỏ:
- Nếu Satan đến cám dỗ, bạn làm sao chống trả ?
- Mình biết Satan đến để cám dỗ, nhưng khi nó gõ cửa lòng mình, mình bảo Có phải Chúa Giêsu gõ cửa đấy không ạ? Khi Satan nghe tên Giêsu là nó biến ngay!
Người mạnh nhất cũng không thể một mình chống lại Satan (Góp nhặt).
3. Phải hiểu cho đúng câu Tin Mừng Luca 4,13: "Và sau khi chấm dứt mọi cám dỗ, quỉ bỏ đi chờ đợi thời cơ". Câu đó không có nghĩa là sau khi ma quỉ cám dỗ, nó để cho ta yên một thời gian. Cũng không phải là nó để ta có giờ nghỉ ngơi hầu lấy lại sức mạnh cho cuộc chiến sau. Cũng không phải Chúa ngăn cản, không để quỉ cám dỗ ta trong một thời gian. Dịch cho đúng: câu đó có nghĩa là quỉ tạm lánh vào bóng tối, khi có thời cơ thuận tiện sẽ quay lại và tiếp tục tấn công. Nên khi quỉ thôi cám dỗ ta, chính là lúc nó đang tìm cách để đánh úp ta. (Góp nhặt)
4. "Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền. Nhà nào tự chia rẽ, nhà ấy không thể vững" (Mc 3,24)
Trong cuộc sống, khi cộng tác với người khác, tôi thường có những thành kiến, không tin vào thiện chí của họ, không vượt qua được những tự ái nhỏ nhen, những tham vọng ích kỷ và những định kiến hẹp hòi, là vì tôi đã không dám từ bỏ chính mình để đi tìm chân lý ở mọi người.
Rồi cuộc sống chỉ có mình tôi, thế giới đối với tôi thật nghèo nàn, và cuộc sống trở nên vô nghĩa.
Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe nhau bằng quả tim yêu thương. Xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau trong việc xây dựng Nước Trời ngay trong cuộc sống trần gian. (Epphata)
23/01 Thánh Thần Chúa ngự trên tôi.
- Viết bởi Lc 1, 1-4; 4, 14-21
Thánh Thần Chúa ngự trên tôi
CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN Năm C.
"Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh này".
Lời Chúa: Lc 1, 1-4; 4, 14-21
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Vì có nhiều người khởi công chép lại những biến cố đã xảy ra giữa chúng ta, theo như các kẻ từ đầu đã chứng kiến và phục vụ lời Chúa, đã truyền lại cho chúng ta, phần tôi, thưa ngài Thêophilê, sau khi tìm hỏi cẩn thận mọi sự từ đầu, tôi quyết định viết cho ngài bài tường thuật sau đây, để ngài hiểu chân lý các giáo huấn ngài đã lãnh nhận.
Bấy giờ Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền lực Thánh Thần, và danh tiếng Người lan tràn khắp cả miền chung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường và được mọi người ca tụng.
Người đến Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày nghỉ lễ, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng:
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN C
Lời Chúa: Nkm 8,2-4a.5-6.8-10; 1Cr 12,12-30; Lc 1,1-4; 4,14-21
1. Năm hồng ân của Chúa--‘Manna’
Khi đã khá có tiếng tăm ở vùng Galilê,
Đức Giêsu trở về Nadarét, nơi Ngài sinh trưởng.
Làm sao Ngài quên được mảnh đất làng quê đã ấp ủ mình,
nơi có bà con họ hàng, láng giềng, bè bạn.
Hơn nữa Ngài cũng không cắt đứt với tôn giáo của cha ông.
Ngài vẫn là một người Do Thái ngoan đạo,
quen lui tới hội đường cùng với dân làng vào ngày sa-bát,
để thờ phượng Thiên Chúa mà Ngài âu yếm gọi là Cha.
Chúng ta cần chiêm ngắm Đức Giêsu đứng đọc Sách Thánh.
rồi ngồi xuống giải thích Lời Chúa cho mọi người.
Cử chỉ của Ngài thật trang trọng, đĩnh đạc,
khi nhận sách, mở sách, cũng như khi cuộn sách để trả lại.
Có một bầu khí cầu nguyện sâu lắng ở hội đường.
Mọi người đều chăm chú nghe lời Ngài giảng.
Đoạn sách Ngài đọc hôm ấy là của ngôn sứ Isaia.
Isaia đã nói lên ơn gọi và sứ mạng của mình.
Ông được xức dầu để trở thành ngôn sứ
cho những người Do Thái mới thoát khỏi cảnh lưu đày.
Ông được sai đi để loan báo thời cùng khốn đã chấm dứt
và công bố khai mở một thời kỳ đầy ân sủng và tự do.
Đức Giêsu đã bị đánh động bởi đoạn sách này.
Ngài thấy nó phản ánh chính ơn gọi và sứ mạng của mình.
Đây là một hướng đi mà Ngài phải theo đuổi,
một chương trình hành động mà Ngài muốn hoàn thành.
Đức Giêsu là người đầy tràn Thánh Thần cách đặc biệt.
Thánh Thần chi phối toàn bộ lời nói, việc làm của Ngài.
Ngài được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo,
nghèo tiền bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tiếng nói.
Ngài được sai đến với những kẻ bị giam cầm
bởi nỗi lo sợ, bởi thành kiến, bởi ích kỷ tham lam.
Ngài cho người mù được sáng mắt và thấy trong niềm tin.
Ngài trả lại tự do cho cả người bị áp bức
lẫn người gây áp bức bóc lột.
Ngài mời gọi cả hai sống thanh thoát như Ngài,
sống như con của Cha và anh em của nhau.
Ngài khai mạc một Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ.
"Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe."
Chúng ta phải có thể nói một câu tương tự như Đức Giêsu.
Có nhiều đoạn Lời Chúa chẳng được ứng nghiệm bao giờ
vì thiếu sự cộng tác của bản thân tôi.
Con người hôm nay khao khát niềm vui, ánh sáng, tự do,
nhưng ít người chịu tin vào Đức Kitô
chỉ vì đời tôi đầy sầu muộn, bóng tối và nô lệ.
Thậm chí có khi tôi lại là kẻ áp bức anh em,
kẻ bịt mắt và giam hãm tha nhân trong ngục tù.
Lời ngôn sứ Isaia đã được ứng nghiệm trong đời Đức Giêsu.
Ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong đời tôi,
để ngày hôm nay của Chúa được kéo dài đến tận thế.
Đại Năm Thánh 2000 đã kết thúc,
nhưng kết thúc là để tôi bắt đầu sống quảng đại
một thiên niên kỷ mới chan chứa hồng ân.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Thánh Cha đã mời gọi các nước giàu xóa nợ cho các nước nghèo nhân dịp Năm Thánh 2000. Bạn nghĩ mình có thể làm gì để những người chung quanh được vui tươi hơn, nhẹ nhàng hơn?
Thế giới hôm nay vẫn còn nhiều xung đột, chiến tranh. Bạn có thể kể ra những cuộc xung đột hay chiến tranh mà bạn biết? Đâu là lý do gây ra chúng?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần, Xin cho chúng con nhận ra
sự hiện diện của Ngài giữa lòng thế giới, trong lòng mọi người.
Thế giới hôm nay còn nhiều điểm tối,
nhưng vẫn có những đóm sáng rực rỡ:
khi con người ngồi lại gần nhau,
để giải quyết tranh chấp, tìm kiếm hòa bình;
khi cả thế giới lo chung một mối lo:
bảo vệ trái đất, ngăn chận sida, tận diệt ma tuý;
khi có những người nghèo quan tâm đến những người nghèo hơn;
khi trẻ thơ và người già được chăm sóc;
khi hàng rào ngăn cách các nước được tháo gỡ;
khi không còn nạn kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, màu da;
khi những tiến bộ của khoa học kỹ thuật
làm cho con người sống hạnh phúc;
khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau,
liên đới với nhau và chịu trách nhiệm về nhau,
sống trên cùng một hành tinh, dưới mái nhà bầu trời.
Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin cho chúng con thấy Ngài
nơi nụ cười người ta trao cho nhau trên đường phố,
nơi những hy sinh vô vị lợi,
và cả nơi những thao thức của ai đó,
muốn xây dựng một thế giới huynh đệ hơn.
2. Suy niệm của TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Tin Mừng nhiều lần đề cập đến điều này. Chẳng hạn như: được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện. Hôm nay được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người đi rao giảng khắp miền Galilê. Trở về Nagiaréth, Người đọc Sách Thánh trong hội đường đúng đoạn nói về Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Nhiều lần Tin Mừng nói Chúa Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Nhờ đâu được như thế? Một phần nhờ việc đọc Sách Thánh.
Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Tim hôm nay diễn tả: “Rồi Chúa Giêsu đến Nagiaréth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabbat, và đứng lên đọc Sách Thánh”. Yêu mến và gắn bó với hội đường, nên Chúa Giêsu thường xuyên đến sinh hoạt với mọi người trong hội đường. Yêu mến và gắn bó với Sách Thánh nên Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Còn hơn thế nữa, sau khi đọc, Người đứng ra giải nghĩa cho mọi người. Đó là nếp sinh hoạt bình thường của Người. Nếp sinh hoạt này đã thành thói quen từ khi Người còn nhỏ bé. Nên ngay từ khi lên 12 tuổi, Người đã có thể đối đáp với các bậc tiến sĩ trong Đền Thờ Giêrusalem.
Chúa Giêsu kính cẩn đọc Sách Thánh. Chúa Giêsu không đọc Sách Thánh theo thói quen. Người đọc một cách trịnh trọng kính cẩn. Ta hãy chiêm ngắm thái độ của Người theo lời diễn tả của thánh Luca: “Họ trao cho Người cuốn sách tiên tri Isaia. Người mở ra và đọc… Người cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ”. Thật là trang nghiêm kính cẩn. Thái độ của Người ảnh hưởng đến cả hội đường. Nên khi Người đọc mọi người chăm chú nhìn Người. Chúa Giêsu trân trọng việc đọc Sách Thánh vì Người luôn thao thức tìm thánh ý Chúa Cha. Người đọc Sách Thánh để tìm hướng dẫn cho cuộc đời. Người đọc Sách Thánh để mong chu toàn thánh ý Chúa Cha. Người nhận biết thánh ý Chúa Cha qua những trang Sách Thánh. Người cố đọc giữa những hàng chữ để tìm thánh ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu nghiêm túc thực hành lời Sách Thánh. Khi nói với mọi người rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói đến hai điều. Điều thứ nhất: Người tìm thấy thánh ý Chúa Cha qua đoạn Sách Thánh. Với thái độ kính cẩn, với lòng khiêm tốn hiếu thảo lắng nghe, Chúa Giêsu đã đọc được thánh ý Chúa Cha qua đoạn sách tiên tri Isaia. Biết lời tiên tri Isaia ứng nghiệm vào sứ mạng của mình. Điều thứ hai: Biết được thánh ý Chúa Cha rồi, Chúa Giêsu cương quyết thực hành. Người coi đó là chương trình hành động. Người coi đó là chỉ nam hướng dẫn. Dù sứ mạng của Người vừa mới khởi đầu, Người cũng cương quyết hoàn thành. Suốt đời Người sẽ thực hành chương trình này. Vì thế đoạn sách Isaia ứng nghiệm vừa do thánh ý Chúa Cha vừa do ý chí của Chúa Giêsu quyết tâm thực hành thánh ý Chúa Cha.
Đây là mẫu gương cho ta. Đó là kết quả của Ơn Chúa Thánh Thần. Hãy thường xuyên đọc Kinh Thánh để ta luôn được tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy kính cẩn tìm thánh ý Chúa trong Kinh Thánh chắc chắn ta sẽ được ơn Chúa soi sáng cho biết đường đi. Nhất là hãy quyết tâm thực hành Lời Chúa mà ta đã đọc. Ta sẽ được tràn đầy Ơn Chúa Thánh Thần. Thật vậy, chẳng ai có thể say mê Kinh Thánh nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần lôi cuốn. Chẳng ai tìm được thánh ý Thiên Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Chẳng ai có thể thực hành Lời Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Như một phản hồi hai chiều. Càng được Ơn Chúa Thánh Thần ta càng say mê Kinh Thánh. Càng say mê Kinh Thánh ta lại càng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời. Cuộc đời sống theo Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ hoàn toàn ứng nghiệm ý định của Thiên Chúa cho bản thân và cho tha nhân. Đó chính là cuộc đời đạt được mục đích cao quý nhất.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có thường xuyên đọc Kinh Thánh không?
2. Bạn tìm gì trong sách Kinh Thánh: khôn ngoan, lịch sử hay thánh ý Thiên Chúa cho đời bạn?
3. Khi đọc Kinh Thánh bạn có nghĩ rằng Chúa đang nói với bạn không?
4. Bạn có thấy một câu Kinh Thánh ứng nghiệm vào bạn và bạn quyết tâm thực hiện không?
3. Hôm nay đã ứng nghiệm ...—Lm G. Nguyễn Cao Luật, OP
Truyền thống cũng là sáng tạo
''Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo thánh Luca.''
Để hiểu ý nghĩa của câu này, cần phải biết rằng Tin Mừng hoàn toàn không phải là một bộ sưu tập những mẩu chuyện liên quan đến Đức Giêsu và các giáo huấn của Người. Mỗi tác giả Tin Mừng đều là một chứng nhân về Con Thiên Chúa, và khi viết Tin Mừng, tác giả có ý trả lời vấn đề vẫn thường được nêu lên: Đức Giêsu là ai? để nhờ đó mỗi người có thể gặp được Đức Giêsu khi nghe nói về Người, hay khám phá ra Người qua cuộc sống của các môn đệ. Mỗi nhân chứng này kể lại lòng tin của mình vào Đức Giêsu dựa theo một lịch sử: những sự kiện và những lời Đức Giêsu nói. Tuy nhiên mỗi tác giả còn dựa vào kinh nghiệm riêng của mình và của môi trường sống. Điều này giải thích vì sao mỗi tác giả có nét đặc trưng và âm giọng khác nhau.
Dù vậy, vẫn luôn chỉ có một Tin Mừng, bởi vì chỉ có một Đức Giêsu Kitô. Mọi bản văn trong Kinh Thánh đều quy hướng về Người.
Bản văn được phụng vụ sử dụng hôm nay là một thứ sắp xếp lại. Đây là một cách thức đọc Tin Mừng. Cách thức này làm nổi lên ba đề tài: Luca quyết định viết một quyển sách; Đức Giêsu mở quyển sách; Người gấp sách lại và bắt đầu hoạt động.
Thánh Luca biên soạn theo một trật tự có sẵn. Người ta nhận ra ngay đây là một ông thầy đang nghiên cứu và soạn thảo nhằm hiểu các biến cố cách khách quan. Mục đích của tác giả thật rõ ràng: giúp người đọc nhận thức được rằng giáo huấn mình đã học hỏi thật là vững chắc. Chính vì vậy, những chữ được viết ra phải đem lại điều chắc chắn. Tác giả mong muốn mỗi người cảm nhận được sự vững chắc này và mỗi người phải tự kiểm chứng lại giá trị của điều đã được viết ra. Nói cách khác, mỗi người phải chọn lựa và dấn thân. Một truyền thống được gọi là đích thực khi truyền thống ấy luôn khơi dậy sức sáng tạo.
Khi vào hội đường Na-da-rét và đọc bản văn ngôn sứ Isaia, Đức Giêsu cũng không làm gì khác hơn. Người không lặp lại bản văn, không bình luận về bản văn lâu đời này; Người cũng không đưa ra những nhận định uyên bác về thời kỳ bản văn được soạn thảo. Trái lại, Người làm nảy sinh một ý nghĩa mới, Người đem lại sức sống cho những chữ chết. Chữ viết không chỉ là chứng từ của quá khứ, nhưng trở thành nguồn mạch cho hoạt động. Đức Giêsu không phải là nhà khảo cổ hay người chú giải. Người hoàn tất điều bản văn đã nói. Người mở ra một thế giới mới. Vì vậy, Người quả quyết: ''Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.''
Đức Giêsu là Đấng mà mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là ''có'' nơi Người (2 Cr 1,20), Người không thể đọc lời Chúa mà không thi hành, không hoàn tất ngay tức khắc. Chính vì thế, theo bước chân Người đi, các phép lạ được thực hiện cho những người nghèo khó, những kẻ bị tù đày, người mù, người bị áp bức ...
Như vậy, quả là điều vô ích khi một số Kitô hữu muốn đóng khung truyền thống, đóng khung lời nói và hoạt động của Đức Giêsu. Người ta muốn hiểu chính các điều đã xảy ra trong quá khứ, thế nhưng người ta lại quên rằng, những điều ấy được truyền lại cho thế hệ sau với mục đích mỗi thế hệ phải đọc lại theo một cung cách mới, phù hợp với bối cảnh sống hiện tại của mình. Dấn thân phục vụ lời Chúa, đó là bước vào một hoạt động sáng tạo, đó là biến mình trở thành người phục vụ cho những khởi đầu mới.
Lời Chúa không thể mất đi
Tin Mừng cứ chạy, chạy mãi: từ Luca đến Ti-mô-thêu, từ những nhân chứng tai nghe mắt thấy đến tất cả chúng tôi - tức là những cộng đoàn tiên khởi, từ ngôn sứ Isaia đến Đức Giêsu, từ Đức Giêsu đến những người Do-thái đang tụ họp trong hội đường, và đến cả những người ngày nay - tại sao lại không?
Lời Thiên Chúa do Đức Giêsu công bố, dù mọi người đã biết, nhưng vẫn có tính cách đặc biệt. Người ta chẳng hiểu vì sao Người có uy quyền như thế.
Trước đấy, danh tiếng Đức Giêsu đã lan rộng ra khắp miền Galilê. Nhưng khi trở về quê hương, Người biết rõ là người ta không để ý lắng nghe lời Người nói. Tại những miền khác, Người thường đến với những kẻ bị bỏ rơi, những kẻ bị tù đày, những người mắc bệnh phong hủi, hay với kẻ mù loà, với người đàn bà goá ... Còn hôm nay, Người xuất hiện trong một cuộc hội họp: Người tỏ mình ra trong Hội Đường của người Do-thái.
Đức Giêsu đứng lên, đọc sách, và ngồi xuống như những người khác. Thế nhưng điều Người nói quả là lạ lùng, khó có thể tin được:
Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Người đã sai tôi đi công bố
cho kẻ giam cầm biết họ được tha,
cho người mù biết họ được sáng mắt,
trả lại tự do cho người bị áp bức,
công bố một năm hồng ân của Chúa.
…
Hôm nay dã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe
Các lời Đức Giêsu nói và những việc Người làm vừa có tương quan hỗ tương với nhau, vừa có liên hệ tới toàn bộ sứ điệp Cựu ước. Vì vậy, các thính giả nhận ra một sự thật rõ ràng: Thần Khí Thiên Chúa luôn có mặt!
Người ta vẫn gặp thấy những người hăng hái dấn thân phục vụ người nghèo, mặc dù hoàn cảnh của họ không thuận lợi lắm -nếu không muốn nói là bi đát, và công việc phục vụ của họ rất khiêm tốn. Chính lúc ấy, dường như lời họ nói có sức thuyết phục hơn, chặt chẽ hơn, làm cho người nghe phải bối rối. Trước những mẫu gương này, thường có hai phản ứng: một là bịt tai lại, không muốn lắng nghe, hai là để ý và theo dõi bước chân người đi trước.
Theo cái nhìn trong đức tin, các vị thánh, các ngôn sứ hay những người được Chúa xức dầu là những người dùng lời nói hay hành động của mình để thúc đẩy người khác nói và hành động, làm cho vương quốc tự do của Chúa được xuất hiện.
Như thế, Thần Khí Thiên Chúa luôn hoạt động trong mọi người và trong mọi thời để người nghèo, kẻ tù đày, người bị áp bức trong mỗi thời đại được giải thoát, về cả đời sống vật chất lẫn những khát vọng sâu xa của con người.
Và như vậy, Tin Mừng không bao giờ bị mất đi.
"Ngày hôm nay''
Tất cả được bắt đầu vào ngày Đức Giêsu mở sách ra và đọc lại lời ngôn sứ Isaia, và tuyên bố với mọi người: ''Hôm nay'' đã ứng nghiệm ...
Không ai, có thể lầm lẫn về lời tuyên bố này, vì đoạn sách Đức Giêsu vừa đọc lại nói về Đấng Mê-si-a. Và Đức Giêsu quả quyết: Hôm nay và chính tôi.
Lời tuyên bố này không phải là một lời sấm, nhưng là một biến cố, một biến cố duy nhất và không thể đảo ngược lại. Lời tuyên bố này đòi mỗi người phải tự xác định lại mình trong tương quan với Đức Giêsu. Bởi vì vẫn chỉ là một lời duy nhất, một lời luôn có tính hiện đại: lời Đức Giêsu nói tại hội đường Na-da-rét, lời thánh Luca viết cho ông Thê-ô-phi-lô, và lời chúng ta đang nghe hôm nay.
Chính ngày hôm nay mà mỗi người nhận ra Thiên Chúa đang can thiệp vào lịch sử cửa toàn thể nhân loại và của mỗi người. Chính ngày hôm nay mà mỗi người nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương mình. Chính ngày hôm nay mà mỗi người phải hành động vì cuộc sống vĩnh cửu của mình.
Chính ngày hôm nay mà mỗi người bước vào mối hiệp thông với Thiên Chúa, Đấng duy nhất.
Chính ngày hôm nay là một cuộc truyền tin cho mỗi người, bởi vì họ phải lắng nghe và chọn lựa.
Chính ngày hôm nay, Thiên Chúa đang đến với mỗi người. Chính Người đang hiện diện, qua Hội Thánh, qua các bí tích. Chính ngày hôm nay mà mỗi người phải đón tiếp Thiên Chúa.
Phần chúng ta, chúng ta sống ngày hôm nay như thế nào, chúng ta làm gì?
Thánh Luca đã khởi đầu Tin Mừng từ ngày hôm nay. Đó cũng là khởi đầu cho mọi cuộc loan báo Tin Mừng. Ngày hôm nay là một biến cố, người ta không chỉ bình luận về biến cố, nhưng người ta sống và loan báo.
4. Đức Giêsu - Tin Mừng cho mọi người--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Tin Mừng Luca cho thấy Đức Giêsu được đầy Thánh Thần, Ngài trở về Galilê, và tiếng tăm Ngài được đồn ra khắp vùng. Ngài bắt đầu giảng dạy trong các hội đường của người Do Thái, cụ thể ở hội đường làng Nadarét.
Thánh Thần Chúa ngự trên tôi
Đức Giêsu luôn sống dưới tác động của Thánh Thần. Ngài làm tất cả dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần, cụ thể Ngài đi chịu phép rửa tại sông Yordan, Ngài vào hoang địa ăn chay cầu nguyện, và hôm này Ngài ra đi rao giảng. Dưới tác động của Thánh Thần, Đức Giêsu là người mang tin mừng cho người có tinh thần nghèo, loan báo tự do cho kẻ bị tù đầy, cho người mù được sáng, cho người áp bức được giải thoát, và năm hồng ân của Thiên Chúa cho mọi người.
Thánh Thần ở trong Hội Thánh như hồn ở trong thân xác. Trong Hội Thánh có nhiều chức vụ, nhưng tất cả đều do Thánh Thần ban tặng và tác động: người làm đầu người làm mắt người làm chân tay. Tất cả đều thuộc về Hội Thánh, và không thể thiếu một chức vụ nào, cũng như một thân xác không thể thiếu một bộ phận nào. Không một bộ phận nào trong thân thể bị thiếu mà lại không ảnh hưởng đến bộ phận khác và toàn thân thể, cũng tương tự vậy những chức vụ trong Hội Thánh.
Ước gì mỗi người đều ý thức Thánh Thần luôn gần gũi, luôn ở với, và luôn hướng dẫn mình cùng Hội Thánh trong mọi hành động.
Đức Giêsu- Tin Mừng
Thiên Chúa chúc lành cho con người, làm tất cả cho con người qua Đức Giêsu.
Có ai hiểu được những người bị tù đầy mong được ngày ra khỏi tù như thế nào? “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”: một ngày trong tù, lâu như thể ngàn năm ở ngoài. Ở đây người ta nói tới thời gian tâm lý, và qua đó diễn tả mong ước ngày được tự do đến độ nào! Đức Giêsu là người công bố ơn đại xá, được miễn án và ra khỏi tù. Nếu ai hiểu được người mù cực khổ như thế nào, và người mù mong được sáng đến độ nào, sẽ dễ dàng hiểu câu “Đức Giêsu là người làm cho người mù được sáng” có nghĩa gì với người mù. Những người bị áp bức hà hiếp, cực khổ như thế nào, mong được minh oan và được giải thoát đến độ nào! Đức Giêsu là người giải phóng họ.
Người ta có thể bị tù đày nô lệ trong không gian như bị giam cầm trong một nơi chốn nào đó, nhưng người ta cũng có thể bị giam hãm trong một cái nhìn nào đó, có thể bị nô lệ với một thành kiến mà người ta không biết. Đức Giêsu tới, cho người ta nhận ra giá trị chân thực, giúp con người biết tiêu chuẩn chân thực để phán đoán. “Chân lý” giải phóng con người khỏi nô lệ, làm người bị u mê nhận ra sự thật và nhờ đó được tự do.
Tin Mừng cho người nghèo
Tin Mừng Đức Giêsu, không phải mọi người đều nhận ra. Những người Do Thái không nhận ra, nên muốn giết Đức Giêsu. Để nhận ra Đức Giêsu là Tin Mừng, cần phải có con mắt của người nghèo, người thấy mình “còn thiếu”, người thấy mình cần được soi sáng, người sẵn sàng và luôn ngóng chờ Thiên Chúa nói với mình.
Những người tự mãn, tự cho mình đã đủ không còn thiếu gì nữa, rất khó đón nhận Tin Mừng Đức Giêsu. Những người này có thể là những người cho rằng mình đã đạo đức đủ, không nhận ra mình yếu đuối tội lỗi cần Thiên Chúa thương xót và trợ giúp. Họ cũng có thể là những người cho mình có học, không sẵn sàng đón nhận mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu với cuộc sống “bình thường”. Cũng có thể họ là những người giầu, và Đức Giêsu không thêm gì cho họ: Ngài không làm cho họ giầu hơn hoặc danh tiếng hơn hoặc có địa vị cao hơn.
“Phúc cho người có tinh thần nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của họ” (Mt.5, 3). Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, người giầu cũng như người nghèo. Người giầu có nhiều thứ và nhiều bận tâm, nên không còn chỗ và không sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa, chứ không phải Thiên Chúa không yêu thương họ. “Nghèo” như thái độ, là mối phúc thật sự.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đức Giêsu có là Tin Mừng cho bạn không? Xin bạn cho một vài thí dụ cụ thể trong đời bạn.
2. Thánh Thần là ai? Bạn hiểu gì về Thánh Thần?
3. Bạn có thấy ai ganh tị vì không được làm “đầu” hoặc “mắt” trong thân thể (Hội Thánh) không? Tại sao họ như vậy?
5. Suy niệm của GM. Bart. Nguyễn Sơn Lâm
ÐỨC GIÊSU RAO GIẢNG TIN MỪNG TRONG NGUYỆN ĐƯỜNG Ở NADARÉT
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa - của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Trọng tâm của bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe cũng là đề tài chính của toàn thể Lời Chúa hôm nay: chúng ta thấy Ðức Giêsu đứng công bố Tin Mừng trong nguyện đường ở Nadarét. Như vậy, câu chuyện Ezra đứng đọc luật pháp Môsê ở trước mặt con cái Israen như bài đọc I hôm nay kể lại, chỉ là hình ảnh báo trước việc Chúa Kitô sẽ rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Và như thế sinh hoạt của Hội Thánh hiện nay như thư Côrintô kể, cũng chỉ là hiệu quả của việc công bố Tin Mừng này. Chúng ta hãy suy nghĩ về cả ba bài đọc để hiểu rõ Lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta những gì chung quanh việc công bố Tin Mừng.
1. Công bố Tin Mừng để triệu tập dân Chúa
Bài sách Nêhêmya đưa chúng ta trở về thời sau lưu đày trong lịch sử Israen, vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước Ðức Giêsu giáng sinh... Nhà cầm quyền Ba Tư bấy giờ cho phép các dân bị trị được phục hồi các truyền thống của dân tộc mình. Con cái Israen được khuyến khích bỏ đất Babylon để trở về quên quán. Họ dựng lại đền thờ và tái thiết Giêrusalem. Công việc gặp nhiều khó khăn.
Trước hết phần lớn những người Do Thái làm ăn được ở đất khách, không muốn trở về. Những người yêu nước và tha thiết với quê cha đất tổ, muốn trở về nhưng lại ít phương tiện. Rồi về đến nơi, họ lại gặp thái độ thù địch của dân đã đến sinh sống tại Giêrusalem trong thời gian lưu đày. Do đó việc trùng tu thánh điện tiến hành rất chậm. May có Ezra và Nêhêmya.
Hai người có uy tín với triều đình Ba Tư. Ezra là tư tế. Nhưng ở đất lưu đày không có nơi phụng thờ Giavê, ông đã chuyên khảo và suy niệm luật pháp Môsê. Ðang khi ấy Nêhêmya được giữ chức tiến rượu trong đền Vua, nhưng lòng vẫn hướng về Giêrusalem. Khi được tin công việc phục hưng xứ sở gặp nhiều khó khăn, ông đã xin phép hồi hương và được nhà vua phong làm Tổng đốc Giêrusalem. Nhờ sắc phong này ông đã giúp đồng bào xây dựng lại được tường thành để có thể sống yên ổn đối với dân đã đến lập cư tại Giêrusalem trong thời gian lưu đày. Nhưng thành quách chỉ là giới hạn bên ngoài. Muốn củng cố tinh thần của đồng bào ông và xây dựng lại cộng đồng con cái Israen, cần phải có luật pháp. Và đây là phần đóng góp của Ezra.
Bài đọc I hôm nay giới thiệu ông trong vai trò luật sĩ hơn là tư tế. Và rõ ràng con cái Israen đã cử hành phụng vụ Lời Chúa chứ không phải là phụng vụ tế lễ.
Ðó là đặc điểm của Do Thái giáo sau lưu đày. Toàn dân tập họp lại đủ mọi thành phần già trẻ, trai gái. Và trăm người như một. Tất cả đều chăm chú nhìn vào thầy Ezra đang "kiệu" sách Luật lên đứng trên một bục gỗ cao, kê quay xuống quần chúng... chung quanh thầy có các phụ tế, tăng thêm vẻ trang trọng cho việc công bố Lời Chúa sắp cử hành. Thầy Ezra bắt đầu bằng mấy lời chúc tụng danh Chúa. Cộng đoàn sốt sắng đáp lại bằng những chữ "Amen, Amen", kèm theo lễ nghi phủ phục thờ lạy. Rồi Thầy Ezra bắt đầu đọc Lời Chúa trong sách Luật. Thầy đọc dễ dàng, trang trọng. Nhưng sách viết bằng chữ Hipri. Rất nhiều người trong dân chúng không hiểu thứ tiếng ấy một cách dễ dàng nữa. Ít ra họ cũng thấy có nhiều điều khó hiểu khiến Nêhêmya và các phụ tế phải giúp thầy Ezra giải nghĩa cho dân. Càng nghe con cái Israen càng bùi ngùi xót xa. Họ thấy Chúa thương dân đến như vậy mà cha ông họ đã không nghe tiếng Người. họ thấm thía những hình phạt mà Người đã buộc lòng phải gửi đến. Nước mắt họ trào ra... Cả Nêhêmya và Ezra phải vội vàng tuyên bố: Hôm nay là ngày thánh, không được khóc như vậy... Ðúng hơn phải biến những giọt lệ xót xa vì tội lỗi nên niềm tin và ơn Chúa cứu độ. Nên hãy ăn uống và chia phần cho mọi kẻ đang túng thiếu.
Rõ ràng buổi phụng vụ Lời Chúa theo sách Nêhêmya chúng ta vừa đọc có những nét rất gần với nghi thức công bố Lời Chúa trong các buổi phụng vụ của chúng ta ngày nay. Ðó là khởi nguyên để chúng ta hoàn thành. Chúng ta nhất định phải làm tốt hơn con cái Israen ngày xưa. Họ đã tập họp đầy đủ, các thành phần già trẻ, trai gái. Gia đình chúng ta có thể làm được như vậy chứ! Họ đã nghiêm chỉnh, chăm chú nhìn vào người đọc và lắng nghe Lời Chúa. Họ lại chẳng chịu để lời nào nghe mà không hiểu, nhưng đã đòi được giải thích. Chúng ta có làm như vậy không? Nhất là họ để cho Lời Chúa, lương tâm khiến họ có thái độ thống hối ăn năn và quyết tâm sửa mình. Chúng ta cũng cần biến việc đọc và nghe Lời Chúa nên như cơ hội để thực hiện mầu nhiệm tử nạn phục sinh hầu tìm thấy ơn cứu độ của Chúa trong việc đọc và nghe Lời sách thánh.
Ước gì Lời Chúa từ nay trở thành sức mạnh tập họp và thánh hóa gia đình chúng ta và giáo xứ chúng ta. Có như vậy chúng ta mới hơn được con cái Israen ngày xưa.
Tuy nhiên chúng ta phải dành cho việc công bố Lời Chúa trong nhà thờ một địa vị quan trọng hơn. Và cho được như thế chúng ta hãy xem bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Ðức Giêsu rao giảng Tin Mừng trong nguyện đường ở Nadarét.
2. Dân Chúa hiểu Tin Mừng theo Ðức Giêsu
Chúng ta hãy tạm không nói đến những lời đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay. Ðó cũng là những lời mở đầu của sách Tin Mừng theo thánh Luca. Rồi đây, chúng ta sẽ thấy rất ý nghĩa. Nhưng chúng ta hãy nhìn thẳng vào trọng tâm của bài Tin Mừng này.
Luca tóm tắt cho chúng ta thấy, Ðức Giêsu bấy giờ đầy Thánh Thần. Người ra khỏi sa mạc hẻo lánh sau 40 ngày đêm chay tịnh. Người trở về Galilê. Chắc chắn đi đến đâu Người cũng rao giảng Tin Mừng và chữa nhiều bệnh tật. Thế nên tiếng tăm Người đã đồn ra khắp nơi. Người ta đã nhiều lần hoan hô Người khi Người lên tiếng giảng dạy trong các hội đường. Vậy, Người đến Nadarét nơi Người sinh trưởng. Và theo tục lệ, người ta trao sách Thánh cho Người đọc... Người mở ra gặp trúng đoạn Isaia nói về người tôi tớ. Ðọc xong, Người gấp sách lại. Và trước mắt của trăm người như một đang hướng về Người. Người đã khởi sự giải thích Lời Chúa bằng những lời dễ dàng sau đây: "Lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe đọc, nay đang diễn ra".
Là vì người Tôi Tớ mà Thiên Chúa đã xức dầu Thánh Thần trong sách Isaia, không ai khác chính Người đang nói trước cử tọa trong nguyện đường ở Nadarét. Có lẽ khi viết những lời này, tác giả Isaia chỉ muốn chép quan niệm của các tiên tri về ơn gọi và sứ mạng của những người được Thiên Chúa cử làm ngôn sứ cho Người. Hết mọi người được trao phó sứ mạng rao truyền Lời Chúa đều được Người đổ Thần Linh của Người trong nghi lễ xức dầu mà sách các Vua I còn kể lại (19,16). Và sứ điệp mà họ phải tuyên bố chính là tin mừng cứu độ dành cho người khó nghèo, tù đày, để mọi nơi như được hân hoan cử hành những năm hồng ân đại xá mà nhân dân hằng mong ước. Những lời Isaia ấy hợp cho mọi ơn gọi ngôn sứ. Nhưng chắc chắn phải được dành riêng để nói về Người Tôi Tớ Ðức Giavê, một nhân vật mầu nhiệm trong sách Isaia mà chắc chắn chính là hình ảnh về Ðức Giêsu Kitô cứu thế.
Quả thật, ai đã được xức dầu Thánh Thần rõ ràng và dồi dào phong phú như chính Người sau khi chịu phép rửa ở sông Hòa Giang? Và vị tiên tri nào đã giảng dạy mà gây được niềm vui cứu độ như Người đã làm khi bỏ sa mạc trở về Galiêa? Nhiều bệnh nhân đã khỏi. Có những kẻ mù được trông thấy. Con người khó nghèo, tù đàuytrong cảnh lầm than không đang được giải thoát đó sao? Và khắp nơi đang nổi lên bầu khí hân hoan của những năm hồng ân đại xá. Ðức Giêsu thật có lý để tuyên bố: những lời tiên tri đang được thực hiện... và được thực hiện nhờ Người, do Người. Và người ta phải công nhận như vậy.
Có điều người ta chưa nhận ra đủ là Ðức Giêsu còn muốn đồng hóa mình với Người Tôi Tớ của Thiên Chúa mà Isaia muốn nói đến trong đoạn tiên tri này. Người không phải chỉ là tiên tri nhưng còn hơn tiên tri. Người đến không phải để chỉ công bố năm hồng ân, nhưng còn để thực hiện ơn cứu độ. Bà con thân thuộc của Người ở Nadarét chưa nhận ra điều ấy và sẽ không chấp nhận như chúng ta sẽ thấy trong ngày Chúa nhật sau. Họ không bằng lòng khi vừa nghe Người khẳng định Người là Ðấng Thiên Chúa sai đến vì trong thâm tâm, họ chỉ chờ được hưởng thụ những phép lạ mà Isaia đã loan báo và nghe rằng Người đã làm ở những nơi khác.
Luca viết đoạn Tin Mừng này không nhằm vào chúng ta đó sao? Lòng tin của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô dường như chưa thật vững chắc vì âm thầm có lẽ chúng ta cũng đang tiếc xót việc người không làm nhiều phép lạ ở giữa chúng ta. Người đã làm ở đất thánh ngày xưa, cho những người thời bấy giờ. Còn ngày nay đối với chúng ta, dường như Người không làm gì cả nhưng chỉ đòi chúng ta tuyên xưng Người là Ðấng Thiên Chúa xức dầu và sai đến...
Chính vì vậy Luca đã viết đoạn Tin Mừng này. Người viết cả quyển Tin Mừng thứ ba để, như trong lời mở đầu, chúng ta được am tường rằng giáo huấn chúng ta thụ lĩnh thực là đích xác. Và cho được như vậy Luca đã phải truy tầm gốc ngọn về mọi sự một cách tường tận rồi theo thứ tự đầu đuôi mà viết lại theo như các kẻ từ đầu đã được chứng kiến và phục vụ Lời Chúa đã truyền lại. Luca đã muốn cho tác phẩm của Người có giá trị đích xác để giúp chúng ta tin.
Nhưng thiết tưởng Người cũng đã làm gương để những ai muốn tin Chúa Giêsu Kitô cũng phải đào sâu giáo lý đã thụ lãnh. Không có sự truy tầm và suy niệm này, đức tin sẽ không chắc chắn và đích xác. Chúa Giêsu Kitô sẽ không rõ rệt ở trước mắt chúng ta. Người sẽ trở thành một nhân vật thuộc quá khứ hơn là hiện tại. Chúng ta sẽ thấy Người sống với dân Do Thái hơn là sống với chúng ta. Là vì chúng ta không thấy lời tiên tri đang thực hiện ở giữa chúng ta. Chúng ta đọc Kinh Thánh như những sự việc đã xảy ra mà đồng thời không thấy chúng diễn tả mầu nhiệm Ðức Kitô đang muốn ban ơn cứu độ cho mọi người. Nghĩa là không những chúng ta phải biết cử hành phụng vụ Lời Chúa như bài đọc I hôm nay đã cho chúng ta thấy. Nhưng chúng ta còn phải biết cử hành mầu nhiệm Ðức Kitô để Lời Chúa trở nên bánh nuôi tinh thần nữa. Và chúng ta chỉ làm được công việc này nhờ Hội Thánh và trong Hội Thánh vì chỉ ở đây mới có phụng vụ Lời Chúa. Nhưng phải làm thế nào để có thể ở trong Hội Thánh?
3. Chúa Giêsu kết hợp chúng ta trong Hội Thánh
Bài thư Phaolô hôm nay viết về Hội Thánh một cách đơn sơ nhưng không kém phần sâu xa, và nhất là có giá trị rất thực tiễn. Tất cả chúng ta ở trong Chúa Giêsu như các chi thể khác nhau ở trong cùng một thân thể. Thế thì cũng như các chi thể của một thân thể không phủ nhận và từ chối nhau, thì chúng ta cũng phải chấp nhận và mật thiết kết hợp với nhau ở trong Chúa Giêsu. Các phận vụ ở trong Hội Thánh rất khác nhau, vì Người được ơn gọi làm tông đồ, kẻ được Chúa gọi làm tiên tri... nhưng đó là để ai theo phận nấy mà làm bộ phận cho thân thể. Không do một thân thể con người? Chẳng bao giờ mắt muốn mọi bộ phận khác trong con người phải như mình... vì như vậy chỉ có ngàn mắt mà không có thân thể.
Cũng thế muốn có thân thể mầu nhiệm của Ðức Kitô, mỗi người phải chấp nhận cho người khác đóng vai trò của họ và hơn nữa phải biết đau với bộ phận đau, vinh dự với bộ phận cinh dự. Nói cách khác, theo kiểu so sánh này, muốn thấy Chúa Giêsu Kitô còn tiếp tục hoạt động trong Hội Thánh để chúng ta được kết hợp với Người, ai ai cũng phải tôn trọng người khác và liên kết cộng tá với họ như các bộ phận trong một thân thể.
Hơn nữa, như lời Phaolô ám chỉ trong bài thư hôm nay mọi người phải chiếu cố hơn đến những bộ phận được coi như yếu hơn và không trang nhã mấy.
Ðó chẳng phải là thái độ và sứ mệnh của chính Ðức Kitô sao? Người được sai đến như người tôi tớ được xức dầu Thánh Thần để đem Tin Mừng đến cho người nghèo khó, kẻ tù đày... Bài Tin Mừng Luca đã cho chúng ta thấy rõ Người đến thực hiện mọi lời Tiên Tri. Người thật là vị được tuyển chọn để công bố lời cứu độ mà Ezra xưa chỉ là hình bóng xa xôi. Người còn tiếp tục sứ mạng ấy trong Hội Thánh là thân thể có đầy đủ mọi bộ phận khác nhau nhưng bổ túc cho nhau. Chính khi kết hiệp với nhau mà các phần tử trong Hội Thánh thấy mình đang được thần trí của Chúa Giêsu Kitô làm cho sống động và mới thấy Người dang sống động trong Hội Thánh.
Thế nên chúng ta họp nhau lại để nghe Lời Chúa như con cái Israen xưa, thì chưa đủ. Chúng ta cùng nhau tham dự vào Mình Máu Chúa Giêsu để kết hợp với Người, như Người đã ở giữa cử tọa hội đường Nadarét xưa cũng chưa đủ. Nhận lãnh thần trí của Người rồi, chúng ta còn phải tôn trọng và muốn hợp tác với anh em, trong các công việc chung nữa, thì mới hiện đại hóa mầu nhiệm Chúa Giêsu đang cứu độ và cứu thế.
6. Lời tiên tri đã ứng nghiệm--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Trong cuộc lưu đầy ở Babylon, dân Do thái bị quân thù hành hạ áp bức, nhiều người đã tuyệt vọng vì tương lai rất mịt mờ, nhưng tiên tri Isaia đã báo cho họ biết là họ sẽ được giải phóng. Khi trở về quê hương, họ đã qui tụ lại làm việc thờ phượng Chúa, ghi lại các hồng ân Thiên Chúa đã ban cho họ suốt dòng lịch sử và nhớ lại Giao ước bị bỏ quên (Bài đọc 1).
Từ nhiều thế kỷ trước, tiên tri Isaia đã báo cho họ biết sẽ có Đấng Messia đến giải thoát họ và họ nóng lòng chờ đợi. Nhân dịp về thăm quê hương Nazareth, ngày sabat, Đức Giêsu vào giảng ở hội đường, đọc nhằêm đoạn sách tiên tri Isaia mô tả về Đấng Messia và Ngài xác nhận chính Ngài là Đấng Messia ấy, khi Ngài nói: ”Hôm nay ứng nghiệm lời Sách thánh mà quí vị vừa nghe” (Lc 4,21). Nhân dịp này Ngài đọc bản tuyên ngôn mô tả sứ mạng và chương trình hành động của Ngài, chính yếu là Ngài được sai đi loan báo Tin mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo hèn, khốn khổ… Và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Ngày nay, Hội thánh và mọi Kitô hữu, theo căn tính, phải tiếp tục sứ mạng mà Đức Giêsu đã làm: ”Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con ra đi” (Ga 17,18). Sứ mạng của Kitô hữu được sai đi là làm tông đồ cho Chúa, loan báo Tin mừng Đức Kitô cho mọi người bằng đời sống chứng tá, yêu thương và hiệp nhất.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Nhm 8,2-6.8-10.
Lần đầu tiên khi từ chốn lưu đầy trở về, dân Do thái đã tụ họp lại để làm việc thờ phượng, được tiên tri Nêhêmia trình bầy như một lễ hội, nhắc lại Giao ước. Tư tế Esdras tập họp mọi người lại tại quảng trường và đọc Sách Luật cho họ nghe. Esdras đọc và giải thích cho họ hiểu, và khi đã thông suốt thì họ đồng thanh thưa: ”Amen”.
Khi nghe đọc Sách Thánh, họ cảm động đến muốn khóc. Họ khóc một phần vì nhớ đến những hồng ân Thiên Chúa đã ban cho họ qua dòng lịch sử, phần khác vì họ hối tiếc vì sự bất trung của họ đối với tình thương bao lao của Thiên Chúa.
Vì thế, tư tế Esdras yên ủi họ: ”Anh em đừng sầu thương khóc lóc, đừng buồn bã vì niềm vui của Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (Nhm 8,10).
+ Bài đọc 2: 1Cr 12,12-30.
Thánh Phaolô gửi thư cho tín hữu Côrintô để tiếp tục việc giáo huấn cho họ bằng một ví dụ cụ thể, dễ hiểu: “một thân thể có nhiều chi thể”. Cũng giống như một thân thể có nhiều chi thể, Giáo hội dù bao gồm nhiều thành viên với những ơn gọi khác nhau tạo thành một sự thống nhất trong Đức Kitô.
Qua đoạn thư này, chúng ta có thể rút ra được 3 ý chính:
- Giáo hội là thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, trong đó Đức Giêsu là đầu, và các Kitô hữu là chi thể.
- Các chi thể khác nhau nên cũng có những nhiệm vụ khác nhau, nhưng không chống đối nhau mà còn bổ túc cho nhau.
- Mọi chi thể phải đoàn kết với nhau và phải dùng những đặc ân Chúa ban cho mình để phục vụ ích lợi chung của Hội thánh.
+ Bài Tin Mừng: Lc 1,11-4 ; 4,14-21.
Trong lời mở đầu sách Tin mừng của mình (Lc 1,1-4), thánh Luca nói lên mục đích của sách Tin mừng Luca là điểm qua lịch sử đời Chúa Giêsu, để giáo hữu thêm lòng tin. Truyện về Chúa được truyền qua lời kể của các môn đệ của Chúa, là những người đã tận mắt chứng kiến việc Chúa làm và tận tai nghe lời Chúa nói.
Trong đoạn sau (Lc 4,14-21) thánh Luca cho biết Đức Giêsu sau một thời gian hoạt động, đã trở về Nazareth và giảng dạy trong hội đường. Ngài đọc một đoạn sách về lời sấm của tiên tri Isaia (61,1-2) và Ngài kết luận: ”Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh mà quí vị vừa nghe” (Lc 4,21). Theo đó, Ngài xác nhận mình chính là Messia mà tiên tri Isaia đã loan báo từ lâu. Với tư cách là Messia vừa được xức dầu tấn phong, Ngài được sai đi loan báo Tin mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo hèn, khốn khổ… và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Sứ vụ của Ngài là mở ra một kỷ nguyên hồng ân, tức là kỷ nguyên của Tin mừng.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Loan báo Tin mừng cho mọi ngươi
I. SỨ MẠNG CỦA ĐỨC GIÊSU.
1. Đức Giêsu là ai?
Xét về nguồn gốc, ai cũng biết Đức Giêsu xuất thân từ Nazareth xứ Galilê, con bác thợ mộc Giuse và bà nội trợ Maria. Còn người đồng hương thì quá biết Ngài vì đã sinh sống với họ gần 30 năm, và xét theo bề ngoài, Đức Giêsu không có gì đặc biệt, chưa hề làm một phép lạ nào, chỉ là một thanh niên lam lũ, kiếm sống bằng nghề thợ mộc.
Rời khỏi Nazareth một thời gian, tự nhiên danh tiếng Ngài đã vang dội khắp nơi qua việc rao giảng Tin mừng và làm nhiều phép lạ chữa mọi bệnh tật, trừ quỉ và làm cho kẻ chết sống lại. Tuy thế, đối với dân làng thì họ vẫn còn nhửng nhưng, hoặc bán tín bán nghi. Nói chung, đối với dân làng Nazareth, Ngài vẫn chỉ là một thanh niên xuất thân từ Nazareth không hơn không kém. Nay trở về quê hương, dân làng cũng chỉ coi Ngài bình thường như các thanh niên khác, chưa tỏ ra thái độ kính trọng hay kiêng nể gì.
2. Quang cảnh làng Nazareth.
Nazareth có lẽ không phải là một thôn làng, nó được gọi là “Polis” nghĩa là một thành hay một thị trấn, và có thể có tới 20.000 dân. Nazareth tọa lạc trong vùng đất của sườn đồi của Galliê, có ba con đường lớn vòng quanh, tiện lợi cho việc thông thương và kinh doanh.
Có lẽ người ta sai lầm nếu nghĩ rằng Đức Giêsu lớn lên tại một làng quê hẻo lánh. Ngài lớn lên trong một thành có trục lộ giao thông của thế giới chạy qua ngay trước ngõ. Chính nơi đây Đức Giêsu đã giảng một bài quan trọng trình bầy nội dung chương trình hành động của Ngài, hay cũng có thể được gọi là bản tuyên ngôn về công tác cứu rỗi mà Ngài đến thực hiện.
3. Đức Giêsu giảng ở hội đường.
Sau một thời gian đi rao giảng Tin mừng và làm phép lạ, danh tiếng Đức Giêsu đã lan rộng khắp nơi, Ngài trở về thăm quê hương Nazareth. Vào một ngày sabat, Ngài vào hội đường cùng với bà con cô bác để ca tụng Chúa và nghe đọc Sách Thánh, tất cả mọi người nóng lòng muốn nghe một người mà họ quen biết nhiều, thình lình nổi tiếng. Có thể là Ngài yêu cầu, hoặc là người phụ trách hội đường đưa cho Ngài cuộn da ghi lời Kinh thánh của tiên tri Isaia để hướng dẫn giờ đọc Lời Chúa.
Ngài mở nhằm chỗ nói về niềm vui của năm hồng ân, tác giả mô tả sự vui mừng của những kẻ trở về sau cuộc lưu đầy từ Babylon. Hay nói đúng hơn đoạn sách nói về Đấng Cứu thế: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng” (Lc 4,18-19). Đọc xong, gấp sách lại, ngồi xuống như các diễn giả thường làm. Tất cả đều chăm chú nhìn Ngài chờ đợi, xem Ngài cắt nghĩa đoạn sách này như thế nào. Ngài lợi dụng dịp này để công bố lời tiên tri này được ứng nghiệm nơi chính Ngài. Ngài tuyên bố chính Ngài là Messia (Cứu thế) đã được hứa, khi trịnh trọng nói: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các vị vừa nghe” (Lc 4,18-19).
Chúng ta nhận thấy trong các buổi nhậm chức của tân Tổng thống, bao giờ cũng đọc một bài diễn văn quan trọng đầu tiên, trong đó ông vạch ra đường hướng, chính sách và chương trình hành động trong nhiệm kỳ mới. Bài Tin mừng hôm nay miêu tả bài diễn văn đầu tiên của một vị tân Lãnh đạo tôn giáo. Đó là bài nói chuyện đầu tiên của Đức Giêsu Kitô tại Nazareth, quê quán của Ngài. Ngài đưa ra một phác thảo về đường hướng và sứ mạng của Ngài, Đấng Thiên Sai, qua lời tiên tri Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi…” (Lc 4,14-21)
So sánh lời công bố của Đức Giêsu Kitô và các diễn văn của các tân tổng thống trong ngày nhậm chức, chúng ta thấy có sự khác biệt rõ ràng. Quí vị tổng thống nói rất nhiều, hứa đủ thứ, nhưng sau cùng chẳng thực hiện được bao nhiêu trong thời gian tại chức. Trái lại, Đức Giêsu đã nói rất ít nhưng đã thực hiện tất cả những điều Ngài đã tuyên bố.
4. Chương trình hành động của Ngài.
Nếu ngày xưa tác giả sách tiên tri Isaia loan báo một thời kỳ cứu độ chỉ để cho dân Chúa được bình an mà sống những ngày tháng sau lưu đầy, thì đây, với lời tuyên bố: ”Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh thánh mà tai các vị vừa nghe” (Lc 4,21), Đức Kitô đã chính thức công bố thời kỳ cứu độ ấy đã đến. Ngài không chỉ ban bình an trong cuộc đời mà còn là bình an vĩnh cửu.
Ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu là đến để giải phóng con người một cách toàn diện, cả tâm linh lẫn thể xác, cả cá nhân đến xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo: chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23). Về tâm linh, Ngài giải phóng con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, của lề luật, của thói hư tật xấu, khỏi tính yếu đuối của bản tính con người. Thánh Phaolô viết: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13). Ngài cũng đến để giải phóng con người về mặt thể chất: “Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 7,24-25). Về mặt xã hội, Ngài đến để thực hiện một xã hội lý tưởng là Nước Trời, không chỉ tại thiên mà còn tại thế , trong đó mọi người đối xử với nhau bằêng chân lý, công lý và tình thương.
Truyện: Xóa nợ.
Ngày xưa có một lãnh chúa, và các tá đền của ông thì nợ ông tiền thuê đất. Chẳng bao lâu họ thấy mình nợ nần chồng chất. Họ thấy mình không tài nào thoát ra tình cảnh khó khăn ấy, tuy ông lãnh chúa là người nhân ái và nhẫn nại. Nhưng các tá điền tự hỏi, ông cho họ thêm bao nhiêu thời gian để trả hết nợ. Điều đáng sợ là cả khi ông cho họ đến ngày họ chết, họ cũng không thể trả hết nợ.
Kế đó một quản lý mới của lãnh chúa xuất hiện và bắt đầu làm một cuộc kinh lý. Trong suốt cuộc kinh lý ấy, quản lý đã hỏi mỗi tá điền mắc nợ bao nhiêu. Nhưng thật đáng kinh ngạc, quản lý không dừng ở đó. Ôâng đi thăm từng nhà, ông hỏi người ta ăn uống ra sao. Ôâng hỏi thăm người già, người bệnh, người khó ở. Chính ông thấùu hiểu những vấn đề và những lo lắng của họ.
Rồi một ngày kia, ông tập họp họ lại, nói rằng ông có một sứ điệp quan trọng mà lãnh chúa tức chủ đất gởi cho họ. Các tá điền họp lại trong sợ hãi và run rẩy, tưởng rằng cái ngày thanh toán khủng khiếp sau cùng đã đến. Các tá điền đã biết hoặc nghĩ rằng mình đã biết những lời mà ông quản lý sắp nói. Hẳn ông sẽ nói rằng: “Trong suốt cuộc kinh lý, tôi đã khám phá rằng không một người nào trong các anh lo lắng việc trả nợ. Các anh chỉ nên tự trách mình. Các anh chỉ là một đám lười biếng, chẳng làm được việc gì. Chủ đất đã chán ngấy các anh. Ôâng ấy đã cho các anh vô số cơ hội, nhưng các anh vẫn không làm ra của cải. Các anh khiến ông ấy không còn chọn lựa nào khác là lấy lại đất đai khỏi tay các anh và đưa nó cho những người khác và họ sẽ trả được nợ của họ”.
Đó là những gì họ chờ đợi ông quản lý nói, dù rằng trong lòng họ, họ mong mỏi một điều gì khác. Rồi người quản lý bắt đầu nói: “Chủ đất biết rằng tất cả các anh đều mắc nợ số tiền lớn. Oâng ấy nhờ tôi nói với các anh những điều sau đây”. Quản lý ngừng nói. Họ chờ đợi cơn bão ập tới và gắng hết sức mình để chống lại nó. “Thế thì”, quản lý nói tiếp “Tôi có một tin mừng cho các anh”. Một lần nữa ông ngừng lại. Tin mừng! Họ không thể tin điều họ nghe.”Chủ đất nhờ tôi nói với các anh rằng các anh có thể quên hết nợ nần. Ông ấy xóa hết nợ nần cho các anh. Từ hôm nay, các anh có thể bắt đầu lại từ đầu”.
Họ reo hò mừng rỡ. Các tá điền ôm hôn nhau. Một số người bắt đầu nhảy múa, đã lâu rồi họ không nhảy múa. Khi họ trở về nhà mình với tâm hồn thanh thản, lần đầu tiên trong nhiều năm, họ nhận thấy mặt trời chiếu sáng, chim hát ca và những bông hoa rực rỡ nở rộ trong các cánh đồng.
Tin mừng Đức Giêsu loan báo trong hội đường Nazareth cũng như thế. Ngài là người quản lý mới mà Thiên Chúa sai đến với dân mắc nợ Người. Theo người Pharisêu, ngày của Chúa phải là ngày phán xét. Và ở đây, Đức Giêsu tuyên bố rằng đó là ngày của ân huệ Thiên Chúa, không chỉ dành cho những người đáng khen mà dành cho tất cả mọi người.
(Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr 365-366).
II. SỨ MẠNG CỦA CHÚNG TA.
1. Sứ mạng của Giáo hội.
Sứ mạng của Đức Giêsu, ngày hôm nay, vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo hội và trong Giáo hội. Thực vậy, Khi Đức Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gửi Thánh Thần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ tuần phải tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách tiên tri Isaia thâu tóm sứ mạng của Đức Giêsu cũng là lời thâu tóm sứ mạng của Giáo hội mọi thời đại. Hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
2. Sứ mạng của mỗi Kitô hữu.
a) Mỗi người được sai đi.
Qua bài Tin mừng này, thánh Luca trình bầy Đức Giêsu như một kẻ được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần và sai đi. Tất cả chúng ta là những kẻ được Chúa sai đi. Mỗi người chúng ta cũng được Chúa sai đi. Ngày trước, Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu đi, rồi đến phiên Đức Giêsu lại sai chúng ta đi. Đức Giêsu đã phán: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con ra đi” (Ga 17,18). Bởi vậy lời Thánh Kinh mà Đức Giêsu đã áp dụng cho bản thân Ngài “Chúa đã sai tôi đi”, cũng phải được chính chúng ta áp dụng cho chúng ta “Chúa cũng sai tôi đi”.
Sai đi để làm gì? Thưa sai đi để làm tông đồ cho Chúa. Mỗi Kitô hữu là một tông đồ. Công đồng Vatican II còn nói mạnh hơn: “Làm tông đồ là bản tính chủa người Kitô hữu”. Nói khác đi, nếu không làm tông đồ thì không còn phải là Kitô hữu nữa.
b) Phải mộ mến Lời Chúa.
Muốn đi loan báo Tin mừng thì phải biết Tin mừng, muốn biết Tin mừng mà không mộ mến Lời Chúa thì làm thế nào mà biết rao giảng Lời Chúa, nhất là biết sống theo lời Chúa dạy. Dĩ nhiên, nếu chỉ tin rằng những gì được nói trong Thánh kinh, nhất là Tin mừng, đều là sự thật mà thôi thì chưa đủ, vì đó là thái độ luôn phải có đối với bất cứ cuốn sách phàm tục nào mà chúng ta cho là đúng đắn. Trái lại, khi đọc Tin mừng là phải đọc với tất cả niềm tin cao độ và lòng mến thiết tha nghĩa là tin tưởng tất cả những gì trong đó đang được thực hiện. Thánh Giêrônimô nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Khi đọc Kinh thánh, chúng ta hẵy lắng nghe những điều Chúa nói với chúng ta qua ân sủng, với tất cả con tim nồng cháy của mình.
Truyện: Chẳng nghe được gì hết.
Trong vở kịch “The Royal Hunt of the sun” (Hoàng gia đi săn mặt trời) có kểû lại cuộc chinh phục dân da đỏ ở Pêru của người Tây ban nha vào thế kỷ 16, trong đó có một màn kể lại câu chuyện một người nọ biếu cho tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn Thánh Kinh và bảo ông ta: “Đây là Lời Chúa, Ngài nói với chúng ta qua cuốn sách này”. Viên tù trưởng nghiêm trang cầm cuốn Thánh Kinh lên, xem xét kỹ lưỡng và dịu dàng đặt nó vào lỗ tai. Ôâng cố gắng nghe đi nghe lại nhưng chẳng nghe được gì hết. Thế là ông ta nghĩ rằng mình bị phỉnh gạt, nên giận dữ dằn mạnh cuốn sách xuống đất.
Màn bi kịch trên khiến chúng ta tự nhủ: “Vậy chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa như thế nào”? Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng ba cách thức: bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của linh hồn… (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm C, tr 166-167).
Chúng ta phải làm sao để Lời Chúa được diễn lại sống động nơi tâm trí chúng ta, phải ghi khắc lời ấy vào trái tim chúng ta và phải bàn bạc với Chúa cũng như lắng nghe điều Ngài nhắn nhủ chúng ta qua lời ấy.
III. CÁCH THI HÀNH SỨ MẠNG.
1. Sống đời chứng tá.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Người thời nay thích những chứng tá hơn là thầy dạy”. Đúng thế, lời dạy dỗ không hấp dẫn và thuyết phục bằng chứng tá vì người ta thường nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Nếu thầy dạy mà thực hành điều mình dạy thì lời ấy càng có tính thuyết phục; nếu ngược lại, những lời giảng dạy ấy hoàn toàn trở nên vô ích, có khi còn phản tác dụng: không làm cho người ta đến với Chúa mà còn làm cho người ta lìa xa Chúa nữa. Muốn cho lời rao giảng của mình có tác dụng, người truyền giáo nên thực hành lời Đức Giám mục chủ phong trong thánh lễ truyền chức Linh mục khuyên tân Linh mục:
“Hãy tin vào điều con đọc,
Hãy giảng điều con tin,
Và hãy thực hành điều con giảng dạy”.
Về vấn đề làm chứng này, chúng ta hãy trở lại thời Giáo hội sơ khai, các tín hũu đầu tiên đãõ sống với nhau như thế nào theo một tác giả thế kỷ thứ ba:
“Người Kitô hữu không khác với những kẻ khác về cư trú, về ngôn ngữ hay lối sống. Bởi vì họ không cư ngụ một thành nào riêng biệt, cũng không dùng ngôn ngữ nào khác thường và nếp sống của họ chẳng có chi khác biệt. Không phải do suy tư hay bận tâm tra cứu mà họ khám phá được các giáo thuyết. Họ không chủ trương một giáo điều nào của loài người như một số người nọ…
Họ ở trong xác thịt nhưng chẳng theo xác thịt. Họ cư ngụ trên mặt đất nhưng có thành trì ở trên thiên đàng. Họ tuân theo mọi lề luật đã được đặt ra, nhưng lối sống của họ còn hơn cả lề luật. Họ yêu mến mọi người mà mọi người bách hại họ. Họ bị giết nhưng nhờ vậy mà được tái sinh. Họ thật nghèo nhưng lại làm cho bao người trở nên giầu có. Thiếu thốn mọi sự nhưng họ được tràn đầy mọi sự. Người ta khinh khi họ, nhưng trong sự khinh dể đó họ tìm được vinh quang. Danh giá họ bị nhục mạ nhưng nhờ đó họ được minh chứng là công chính. Bị chửi bới, họ chúc lành cho người ta, người khác hành hạ họ nhưng họ một niềm kính trọng. Khi làm lành họ bị trừng phạt như những kẻ bất lương, và chính lúc bị trừng phạt như vậy họ lại vui mừng, dường như được sống. Người Do thái khai chiến với họ như với những kẻ ngoại, đang khi đó dân ngoại bắt bớ họ, nhưng chẳng ai có thể nói tại sao lại thù ghét người Kitô hữu như vậy” (Trích Các bài đọc 2, mùa Phục sinh, tr 84-85).
2. Sống đời yêu thương.
Đức Giêsu đã phán: “Người ta cứ dấu này mà biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,35). Cốt lõi của đạo Công giáo là Bác ái bởi vì chỉ có một lề luật là mến Chúa yêu người. Nếu người ta chỉ yêu Chúa mà không thương yêu tha nhân là một điều khó hiểu vì như thánh Gioan nói, những người chung quanh sờ sờ ra trước mắt mà người ta không yêu thương được, thì làm sao người ta có thể yêu thương Thiên Chúa là Đấng vô hình? Vậy nếu muốn giới thiệu cho người khác Đấng mà thánh Gioan gọi “Thiên Chúa là tình yêu” thì phải có một hình ảnh nào, để qua đó người ta biết Thiên Chúa yêu thương nhân loại. Hình ảnh đó chính là tha nhân và nếu yêu tha nhân là hình ảnh của Chúa thì người ta sẽ dễ nhận ra Chúa hơn.
Truyện: Bà có họ hàng với Chúa.
Dan Clack kể lại một câu chuyện rất ngắn nhưng cũng rất ấn tượng: Vào một buổi tối trời tuyết lạnh, một em bé khoảng sáu, bảy tuổi đang đứng tần ngần trước một siêu thị sang trọng. Đứa bé đi chân đất, khoác trên người bộ quần áo cũ kỹ, tơi tả, trông như miếng giẻ rách. Có một thiếu phụ đi ngang qua trông thấy cậu bé và đọc được nỗi thèm muốn trong đôi mắt mầu xanh đó. Bà cầm tay đứa trẻû, dẫn vào tiệm và mua cho em đôi giầy mới và bộ quần áo ấm.
Sau đó, họ bước ra phố, và thiếu phụ nói với cậu bé:
- Chúc cháu vui vẻ và một đêm ngủ ngon.
Đứa bé trố mắt nhìn thiếu phụ, rụt rè hỏi:
- Thưa bà, bà có phải là Chúa không?
Bà cúi xuống mỉm cười với cậu bé, vỗ nhẹ vào vai cậu trả lời:
- Con ơi, không phải đâu, bà chỉ là một trong những đứa con của Ngài thôi!
Cậu bé như khám phá được điều gì mới lạ:
- Cháu đã biết ngay là bà có họ hàng với Chúa mà.
(Thiên Phúc, Lời gọi yêu thương, tr 3-4).
Sống đời bác ái yêu thương là dấu chỉ con cái Chúa và là dấu chỉ anh em với nhau. Đức Giêsu đã xác nhận: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 6,21). Quả thật, thiếu phụ trong câu chuyện trên đã nghe và thi hành lời gọi yêu thương của Chúa: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Được làm anh em, họ hàng của Chúa không là một vinh dự vô cùng lớn lao cho con người sao?
3. Đời sống hiệp nhất.
Trong thân thể con người có rất nhiều chi thể. Thân thể tạo nên một thể thống nhất dù bao gồm nhiềâu chi thể. Những chi thể này rất khác nhau và có những chức năng rất khác nhau: dĩ nhiên có một số chi thể quan trọng hơn những chi thể khác. Nhưng một thân thể đầy đủ cần có mọi chi thể và các chi thể cần lẫn nhau.
Giáo hội cũng như thế. Chúng ta dù nhiều nhưng cùng tạo thành một thân thể trong Đức Kitô. Nhận thấy trong giáo đoàn Corintô có sự chia rẽ, thánh Phaolô đã viết thư khuyên nhủ các tín hữu tránh sự chia rẽ mà phải hợp nhất trong Chúa Kitô: “Tất cả chúng ta, dầu là Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể… Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (Bài đọc 2).
Gia đình là Hội thánh tại gia. Hội thánh tại gia cũng phải có những đặc tính như Hội thánh toàn cầu: duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Một trong các đặc tính là sự hiệp nhất. Thánh Phaolô cũng trưng Sách Thánh ra để nói lên sự hiệp nhất vợ chồng là cần thiết: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Ep 5,32). Nếu trong gia đình Kitô hữu, mọi người hiệp nhất với nhau, nhất là vợ chồng không ly dị, thì đây là chứng tá hùng hồn để giới thiệu cho người ta một Chúa Ba Ngôi duy nhất, nguyên lý của mọi tạo vật, và mọi loài thọ sinh phải tùng phục thờ lạy Ngài.
7. Tin Mừng được loan báo cho người nghèo--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi.
Ngài sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho người nghèo"
(Lc 4,18)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài với lời tuyên bố "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho những người nghèo". Chúng ta đều là những người nghèo: kẻ thì nghèo vật chất, người thì nghèo tinh thần. Như vậy Tin Mừng của Chúa được loan báo cho chính chúng ta. Chúng ta hãy mở rộng lòng mình ra đón nhận Tin Mừng của Chúa.
II. Gợi ý sám hối
Chúng con thường khư khư bám lấy ý riêng, không mở lòng ra đón nhận ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu đã mang Tin Mừng đến cho chúng con, nhưng chúng con không nhiệt tình đón nhận.
Do cuộc sống ích kỷ và khô cằn, chúng con không làm cho Tin Mừng của Chúa trở nên hấp dẫn đối với những người chưa biết Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Nkm 8,1-10)
Dân Do Thái vừa từ chốn lưu đày trở về. Tư tế Ét-ra tập họp mọi người tại quảng trường và đọc Sách Luật cho họ nghe. Có lẽ đây chính là bộ Ngũ Thư mà Ét-ra đã sưu tập lại từ những nguồn tài liệu rải rác có sẵn trước đó (các nguồn tài liệu J, E, D, P), vì thế mà thời gian đọc kéo dài rất lâu, từ sáng tới trưa.
Khi nghe đọc, toàn dân đều khóc. Có lẽ một phần do cảm động vì thấy được tình thương của Thiên Chúa đối với họ qua dòng lịch sử; phần khác là do hối tiếc bởi họ đã không đáp ứng tốt với tình thương Thiên Chúa.
Ét-ra an ủi dân: "Anh em đừng sầu thương khóc lóc, đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em".
2. Đáp ca (Tv 18)
Nối tiếp ý tưởng của bài đọc I, Tv 18 ca tụng Luật Chúa: "Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn"
3. Tin Mừng (Lc 1,1-4 và 4,14-21)
Sau một thời gian hoạt động, Chúa Giêsu trở về rao giảng tại chính quê hương mình là Nadarét miền Galilê. Tại đây, trong một bối cảnh trang nghiêm và chính thức (ngày Sabbat, trong hội đường), Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động của Ngài: Với tư cách là Messia vừa được tấn phong, Ngài được sai đi loan Tin Mừng cho những người nghèo hèn, khốn khổ. Như thế là Ngài thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia.
4. Bài đọc II (1 Cr 12,12-30) (Chủ đề phụ)
Tiếp tục huấn đức cho tín hữu giáo đoàn Côrintô đang chia rẻ nhau, Thánh Phaolô dùng hình ảnh nhiệm thể Đức Kitô.
Giáo Hội là một thân thể mầu nhiệm, trong đó Chúa Giêsu là đầu và các tín hữu là chi thể.
Các chi thể tuy khác nhau, nhưng mỗi chi thể có chức năng riêng của mình.
Do đó các chi thể phải bổ túc cho nhau, đoàn kết với nhau, và nhất là luôn kết hợp với đầu.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Có phải là Tin Mừng không?
Quyển sách ghi lại cuộc đời và giáo huấn của Chúa Giêsu ngày xưa được gọi là "Ê Vang", trước đây không lâu lắm được gọi là Phúc Âm, còn ngày nay thì thường được gọi là Tin Mừng.
Xét theo thần học Thánh Kinh thì hai chữ "Tin Mừng" là đúng nghĩa nhất. Nhưng nếu xét về ảnh hưởng của nó trên cuộc sống thì sao?
Trên thực tế, có nhiều người không thích đọc Tin Mừng. Nhiều người ngán không muốn nghe Tin Mừng. Tại sao? Vì họ thấy trong đó toàn là những bổn phận và những đòi buộc. Không nghe, không biết thì không phải làm theo.
Sở dĩ có cảm giác ngán và sợ như thế là vì người ta chỉ mới thấy được những chi tiết phụ, chứ chưa hiểu thấu tới cốt lõi.
Cốt lõi là một lời loan báo rất phấn khởi: Xin hãy nghe đây. Thiên Chúa rất yêu thương loài người nên đã sai Con của Ngài đến dạy cho loài người con đường hạnh phúc. Biết được con đường dẫn tới hạnh phúc chẳng phải là một Tin Mừng sao?
Dĩ nhiên những lời Chúa Giêsu dạy là những điều ta phải làm theo, mà làm theo thì phải cố gắng, phải cực khổ, phải hy sinh v.v. Nhưng làm theo như vậy thì sẽ được hạnh phúc.
Một bà kia rất thường đọc Sách Tin Mừng và đọc rất sốt sắng. Khi được hỏi tại sao thì bà dùng một thí dụ để giải thích: Hôm qua tôi nhận được một bức thư của một người tôi rất quý mến. Tôi đã đọc rất chăm chú và đọc đi đọc lại tới năm lần. Không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong thư vốn đã quá rõ, nhưng vì tôi biết đó là những lời của một người rất thương tôi và tôi cũng rất thương người đó.
Chúng ta đừng coi những lời trong sách Tin Mừng là những đòi hỏi của một người xa lạ đâu đâu. Hãy xem đó là những lời khuyên dạy chí tình của Đấng đã không quản ngại từ trời xuống thế, chịu cực chịu khổ đến gần chúng ta và chịu chết vì chúng ta. Ngài đã làm tất cả chỉ vì thương chúng ta và Ngài không muốn gì khác hơn là muốn cho chúng ta được hạnh phúc.
* 2. Tin Mừng cho người nghèo
Không phải Chúa Giêsu được sai đi để loan Tin Mừng cho tất cả mọi người sao? Vậy tại sao Ngài lại nói "Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo"?
Chúng ta hãy phân tích kỹ toàn văn đoạn sách Isaia mà Chúa Giêsu đã áp dụng cho sứ mạng của Ngài:
Sau khi công bố "Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo", Chúa Giêsu đã đưa thêm một số thí dụ để giải thích thế nào là loan báo Tin Mừng cho người nghèo:
Công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha
Cho người mù biết họ được sáng mắt
Trả tự do cho người bị áp bức
Công bố một năm hồng ân của Chúa
Như vậy, "người nghèo" là những kẻ đang ở trong tình cảnh khổ sở, thiếu thốn như bị giam cầm, bị mù, bị áp bức... và đang mong thoát khỏi cảnh ấy. Đối với những người như thế, lời công bố của Chúa Giêsu mới thực sự là Tin Mừng. Còn những ai không khổ sở thiếu thốn thì lời Chúa Giêsu như nói với ai đó chứ chẳng liên can gì tới họ, cho nên chẳng phải là Tin Mừng gì cả. Bởi vậy Chúa Giêsu cũng chẳng cần loan báo cho họ.
Nhưng xét cho cùng, ai mà không khổ sở thiếu thốn? Ai mà không "bị giam cầm" trong một thứ tù ngục nào đó? Ai mà không "mù" một cách nào đó? Ai mà không "bị áp bức" bởi một thế lực gian tà nào đó?
Thành thử Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng cho tất cả mọi người. Tuy nhiên Tin Mừng ấy chỉ có hiệu quả đối với những ai ý thức mình là người nghèo.
* 3. "Chúa đã sai tôi đi..."
Qua bài Tin Mừng này, Thánh Luca trình bày Chúa Giêsu như một kẻ được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần và sai đi.
Bất cứ ai khi được sai đi làm một nhiệm vụ thì sẽ cố gắng để làm cho thật tốt:
- Khi còn nhỏ, chúng ta thường được cha mẹ sai đi tới những nhà hàng xóm để mượn một món đồ, hay để biếu xén vài món quà. Bình thường thì ta nói năng hồ đồ, cộc lốc. Nhưng khi được sai đi làm những nhiệm vụ đó, chúng ta lựa lời nói, lựa cung cách xử sự, có khi suốt doc đường cứ lẩm nhẩm những câu lễ phép mà cha mẹ đã dạy để chút nữa nói năng cho đàng hoàng.
- Thỉnh thoảng cha sở sai một người giáo dân trong họ đi đến một gia đình nguội lạnh rối rắm để làm việc tông đồ. Người tông đồ ấy đến gia đình bê trễ nọ phải biết cách tỏ ra lịch thiệp, giúp đỡ, phải dám nói về đạo, và đồng thời cũng phải tỏ ra mình có đôi chút đạo đức để khỏi bị người bê trễ kia hạch sách "Ông cũng bê bối như ai thôi đừng khuyên tôi".
Dĩ nhiên khi đóng vai trò một kẻ được sai đi làm tông đồ thì người ta phải cố gắng tỏ ra mình là người tốt, trong khi thực tế thì đời sống của họ chưa chắc là tốt được như thế. Điều đó xem ra là một sự giả hình, vì cái mình tỏ ra bên ngoài không đúng với cái đời sống thực sự của mình. Tuy nhiên có lẽ không nên nặng lời dùng chữ "giả hình" trong trường hợp này. Bởi vì người tông đồ ấy có tỏ ta như vậy cũng chỉ vì muốn cho sứ mạng tông đồ của mình được hoàn thành tốt đẹp thôi. Và hơn nữa, nhờ cố gắng tỏ ra tốt hơn như thế trước mắt người khác mà dần dà chính đời sống của người tông đồ thực sự trở thành tốt hơn thật.
Tất cả chúng ta đều là những kẻ được Chúa sai đi. Mỗi người chúng ta đều được Chúa sai đi. Ngày trước, Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đi, rồi đến phiên Chúa Giêsu lại sai chúng ta đi. Chúa Giêsu đã phán "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con ra đi". Bởi vậy lời Thánh kinh mà Chúa Giêsu đã áp dụng cho bản thân Người " Chúa đã sai tôi đi", cũng phải được chính chúng ta áp dụng cho chúng ta "Chúa cũng sai tôi đi".
Sai đi để làm gì? Thưa sai đi để làm tông đồ cho Chúa. Mỗi người Kitô hữu là một tông đồ. Công đồng Vaticanô 2 còn nói mạnh hơn: "Làm Tông đồ là bản tính của người Kitô hữu". Nói khác đi, nếu không làm tông đồ thì không còn phải là Kitô hữu nữa.
Nhưng sai đi làm tông đồ với ai? Bài Tin Mừng hôm nay kể rõ những hạng người mà Chúa sai ta đến với họ:
a/ Trước tiên là những người nghèo: Số người này thật là nhiều, hàng ngày ta gặp thiếu gì người như vậy. Thế nhưng, khi ta gặp một người nghèo tôi có cư xử lễ độ với họ không hay là khinh bỉ họ? Ta có tìm cách giúp đỡ họ, hay nếu không có khả năng giúp đỡ thì ta có vận động người khác giúp đỡ không? hay ta tìm cách tránh xa họ, đuổi khéo họ để mình khỏi bị quấy rầy? Ta có cố gắng an ủi họ để họ đừng vì cảnh nghèo mà phải xa đạo, xa Chúa không? Trước những câu hỏi đó, nếu ta chỉ biết trả lời "không" thì sứ mạng tông đồ của ta như một kẻ được Chúa sai đi đã bị thất bại.
b/ Chúa còn sai ta đi tới những người đau khổ. Những người này cũng không thiếu trong khu xóm của ta, có khi ở cạnh nhà ta nữa. Nhưng phải chăng mặc dù Chúa đã sai ta đi, ta vẫn cứ ở nhà chưa đến thăm viếng họ? Và khi đến với họ, ta có đem lại cho họ được thêm một chút bình an, một chút tin tưởng nào không? Chúng ta đừng quên câu Tin Mừng hôm nay "Chúa đã sai tôi đi rao giảng Tin mừng, nghĩa là phải làm cho người ta được thật sự vui mừng, tin tưởng, hy vọng.
c/ Chúa còn sai ta đi đến với những người tội lỗi. Những người này cũng không thiếu trong họ đạo. Nhưng có lẽ đối với họ, chúng ta lại cũng quên lời Chúa "Chúa đã sai tôi đi đến với họ". Vì quên mà thường chúng ta cứ lảng tránh họ, cứ kết án họ. Chúng ta không thực hiện Lời Chúa dạy ta đến với họ để an ủi họ, khích lệ và dẫn họ trở về tình thương của Thiên Chúa.
d/ Cuối cùng trong xã hội ngày nay, Chúa còn sai ta đi đến với những kẻ không tin. Những người này cũng có mặt rất nhiều: trong sở làm của ta, ngoài đường phố chung với ta, trong buổi họp với chúng ta. Đừng quên Chúa sai ta đi tới họ để cũng rao giảng Tin mừng cho họ. Nếu ta ngại, hay thấy bất tiện không dám nói thẳng với họ về Chúa về đạo thì ít ra đời sống của chúng ta, cách làm việc của chúng ta, lương tâm của chúng ta có thể thay cho lời nói của chúng ta không?
Ngôn sứ Isaia đã hát lên rằng "Đẹp thay bước chân của những kẻ được sai đi rao giảng Tin mừng". Những kẻ được sai đi rao giảng Tin mừng ấy là chính chúng ta, mỗi người hết thảy trong chúng ta. Xưa nay có lẽ chúng ta quên điều đó. Nhưng hôm nay Lời Chúa nhắc chúng ta nhớ lại. vậy dưới sự hướng dẫn và ban ơn của Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy mạnh dạn bước đi. Đi đến với những người nghèo khó, những người đau khổ, những kẻ tội lỗi và những kẻ không tin. Đến với họ để rao giảng Tin mừng cho họ bằng cách này hay cách khác tùy hoàn cảnh. Và hãy an ủi mình rằng những bước chân được sai đi như vậy thật là đẹp!
* 4. "Ngày của Chúa"
Ngày một vị Thủ Tướng nhậm chức, ông đọc một bài diễn văn để công bố cho dân biết chương trình hoạt động của ông trong nhiệm kỳ. Khởi đầu sứ vụ của mình, Chúa Giêsu cũng làm như vậy. Tại hội đường Nadarét, Chúa Giêsu đã dùng một đoạn trích từ sách ngôn sứ Isaia để phác họa sứ mạng của Ngài. Chúa Giêsu loan báo rằng cái "Ngày của Chúa" mà dân chúng bấy lâu nay hằng mong đợi thì nay đã đến. Đó là một ngày hồng ân cho mọi người, cách riêng là những người nghèo.
Mẫu chuyện sau đây có thể giúp chúng ta hiểu lời công bố ấy của Chúa Giêsu tuyệt diệu đến chừng nào.
Ngày xưa có một ông điền chủ có đất đai rất nhiều. Ông cho các tá điền mướn đất làm ăn. Một thời gian sau, các tá điền lâm cảnh túng thiếu nợ nần. Họ rất lo lắng vì không đóng tô đúng hạn cho chủ được. Dù họ biết ông chủ rất tốt bụng không đến nỗi làm khó dễ họ, nhưng họ vẫn áy náy không biết chủ sẽ hoãn nợ cho họ bao lâu.
Thế rồi một hôm viên quản lý đi đến từng nhà các tá điền. Ông này hỏi mỗi người thiếu nợ bao nhiêu, trong nhà có bao nhiêu người, hằng ngày ăn uống thế nào, gia đình có ai già yếu bệnh tật gì không v.v. Cách chung nhà ai cũng túng thiếu và đang gặp rất nhiều khó khăn.
Một ít ngày sau, các tá điền được mời đến gặp chủ. Ai nấy đều hồi hộp, tin chắc là ông chủ sẽ lấy lại đất, bởi họ không còn khả năng đóng tô nữa. Khi mọi người đã đủ mặt, viên quản lý bước ra, bắt đầu nói: "Ông chủ biết là các người ai cũng rất nghèo nên không còn khả năng đóng tô nữa. Vì thế ông bảo tôi báo cho các người hay". Nói tới đây viên quản lý bỗng ngừng lại. Con tim của các tá điền cũng như ngừng đập. Viên quản lý nói tiếp: "Tôi có một Tin Mừng muốn loan báo cho các người". Mọi người xôn xao: "Tin Mừng ư! Tin Mừng gì vậy?" Lúc đó viên quản lý hô lớn: "Ông chủ tha hết nợ cho các người. Từ nay các người cứ an tâm làm ăn nuôi sống gia đình".
Thế là mọi người reo hò sung sướng. Họ ôm nhau nhảy múa hát ca. Sau đó ai nấy trở về nhà mình. Sau bao năm trời, hôm nay họ mới chợt nhận thấy ánh nắng mặt trời rất là tươi đẹp, tiếng chim hót trên cành rất líu lo, hoa cỏ hai bên đường và trên khắp cánh đồng vô cùng rực rỡ.
Lời loan báo của Chúa Giêsu tại hội đường Nadarét cũng là một Tin Mừng như thế. Chúa Giêsu là viên quản lý của Thiên Chúa. Ngài được sai đến để báo tin Thiên Chúa đã xóa nợ cho loài người.
Những người pharisêu nghĩ rằng "Ngày của Chúa" là một ngày phán xét. Còn Chúa Giêsu thì loan báo "Ngày của Chúa" là người xóa nợ, ngày hồng ân.
"Ngày của Chúa" không phải là một ngày nhất định ghi trong lịch, mà là mọi ngày. Thực vậy, ngày nào cũng là "Ngày của Chúa" hết. Tin Mừng về "Ngày của Chúa" là: ơn giải thoát chúng ta không tùy thuộc vào công nghiệp của chúng ta, mà hoàn toàn do lòng tốt của Thiên Chúa. Điều duy nhất chúng ta phải làm là mở rộng cửa lòng cho Chúa Giêsu ngự vào mang ơn đến cho chúng ta. (FM)
* 5. Quyển sách
Sau nửa thế kỷ bị lưu đày bên Babylon, dân Do Thái được hồi hương. Tư tế Ét-ra tập họp họ lại để tái hiến dâng họ cho Thiên Chúa. Ét-ra bắt đầu bằng việc đọc cho họ nghe sách luật của Môsê. Từ đó trở đi, đời sống và tín ngưỡng của dân Do Thái gắn chặt với quyển Sách Luật ấy. Có thể nói, đó là một dân "sống với sách".
Kitô hữu chúng ta cũng là những người "sống với sách". Chỉ khác một điều là quyển sách chúng ta sống với là quyển Tin Mừng.
Có một chuyện kể về một dân kia chưa từng nghe nói tới quyển Tin Mừng. Một hôm có một người lạ đến báo cho họ rằng "Tôi đến đây mang cho các người một tin mừng". Rủi thay người ấy mang bệnh và chết trước khi nói rõ cho họ biết tin mừng ấy là gì. Họ mới lục lúi của người ấy và gặp một quyển sách có tựa đề là "Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô". Họ đoán rằng đó chính là cái tin mừng mà người kia muốn báo cho họ biết. Thế là họ bắt đầu đọc quyển sách ấy. Sách viết về một nhân vật giàu lòng nhân ái, làm nhiều việc lạ lùng để giúp cho những người khốn khổ và dạy nhiều điều rất cao thượng.
Đọc xong quyển sách, một người trong họ nói: "Tiếc thay người mang quyển sách này đã chết. Chắc là một môn đệ của ông Kitô ấy". Một người nói: "Nhưng chắc là ở nơi ông ấy sống cũng có nhiều một đệ khác của ông Kitô". Một người khác nữa góp ý: "Chúng ta thử gởi người đến đấy xem các môn đệ ông Kitô sống những lời ngài dạy thế nào". Mọi người tán thành.
Họ cử Francis đi. Đây là một chàng trai rất chín chắn. Chàng đã tìm đến nơi, tiếp xúc với rất nhiều người, sau đó trở về. Khi chàng vừa về tới nơi thì những người đồng hương của chàng đặt những câu hỏi tới tấp:
"Những tín đồ của quyển sách ấy có thương yêu nhau không?"
"Họ có hòa thuận với nhau không?"
"Họ có đơn sơ không?"
Họ có hạnh phúc không?"
Tất cả các câu hỏi đều có thể tóm trong một câu duy nhất này: "Những môn đệ của ông Kitô ấy có sống theo quyển sách của Ông ta không?".
Và sau đây là báo cáo của Francis:
Trên căn bản, tôi đã gặp được 5 hạng môn đệ của ông Kitô ấy:
Hạng thứ nhất chỉ mang danh Kitô thôi. Dù họ có rửa tội nhưng họ chẳng sống theo một lời dạy nào của Ngài cả.
Hạng thứ hai là những người làm môn đệ Đức Kitô theo thói quen. Mặc dù người ta thấy họ giữ những điều Đức Kitô dạy, nhưng những điều đó chẳng ảnh hưởng gì đến cách sống của họ cả. Tôi đã quan sát cách sống của họ một thời gian lâu và thấy ra rằng thực ra họ sống theo những nguyên tắc không liên can gì tới lời dạy của Đức Kitô, một số còn ngược lại nữa.
Hạng thứ ba gồm một số người rõ ràng là sùng mộ đức tin Kitô. Họ cố sức làm những việc tốt, nhưng xem ra họ thiếu sức sống, họ không thực sự có được những đức tính của Thầy họ.
Hạng thứ tư có thể được gọi là những Kitô hữu thực hành. Dường như họ đã nắm được trọng tâm của Tin Mừng. Họ biết quan tâm đến người khác và không xấu hổ vì người khác biết họ là Kitô hữu. Ở một vài nơi tôi thấy họ bị bách hại. Ở một vài nơi khác tôi thấy họ phải gặp tình cảnh có lẽ còn tồi tệ hơn nữa, đó là bị đồng bào của chính họ đối xử lạnh nhạt.
Hạng thứ năm không nhiều. Đó là những người mà tôi không ngại gọi là những Kitô hữu chính danh. Họ sống Tin Mừng cách sâu sắc. Khi gặp họ, tôi tưởng là gặp chính Đức Kitô.
Câu chuyện kết thúc ở đó, nên không biết dân chúng xứ đó có đón nhận Tin Mừng hay không.
Ngày nay rao giảng Tin Mừng cho thế giới là nhiệm vụ của chúng ta. Đó là một đặc ân to lớn nhưng cũng là một trách nhiệm nặng nề. Tuy nhiên, cũng như Đức Kitô, chúng ta được Chúa Thánh Thần giúp đỡ. Cách tốt nhất để rao giảng Tin Mừng là sống tốt đời Kitô hữu. Quyển sách duy nhất mà nhiều người chưa bao giờ đọc để hiểu Tin Mừng, đó chính là quyển sách của đời sống chúng ta. (FM)
* 6. Xóa nợ cho nhau
Trước lúc lìa đời, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có giao cho con cháu một cái ống tre sơn son thếp vàng gắn bít hai đầu và dặn đến đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh tổng đốc Hải Dương, trao cái ống này cho quan thì sẽ cứu vãn được tình thế gia đình nhưng tuyệt đối không được ai mở ra xem, trừ quan tổng đốc.
Cái ống tre ấy truyền đến người cháu bảy đời của Trạng, mới rước lên dinh quan tổng đốc, đúng vào ngày giờ đã ghi trong gia phả. Khi quan mở ống thấy một cuộn giấy, ông rút ra xem thấy có hai câu chữ nho:
Ngã cứu nhi thượng lương chi ách
Nhĩ cứu ngã thất thế chi bần!
Nghĩa là:
Ta cứu ngươi khỏi xà nhà đổ,
Ngươi cứu cháu bảy đời của ta còn nghèo.
Đang lúc bận việc, quan tổng đốc thấy hai câu nói xấc xược ấy, ông liền nổi giận. Sẵn cầm chiếc quạt trên tay, ông đứng phắt dậy, chạy lại định đánh người cháu bảy đời của Trạng. Nhưng vừa bước khỏi sập, chiếc xà nhà ngay trên đỉnh đầu đổ xuống đánh rầm một cái. Phúc bảy mươi đời, ông mới vừa bước ra, nên không sao cả.
Quan tổng đốc lúc đó mới giật mình hiểu rõ Trạng đã cứu mình khỏi cái chết bất đắc kỳ tử. Quan ân cần xin lỗi người cháu ông, mời về tư thất đãi cơm rượu rồi cho một số tiền khá lớn, để cứu giúp cho gia đình cháu của Trạng đang lâm hoàn cảnh cực kỳ túng thiếu.
****
Nói đến các bậc tiên tri ở nước ta, trước hết phải kể đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sinh thời ông đã nổi tiếng về các giai thoại tiên tri, đến nỗi các sĩ tử nô nức xin theo học và thiên hạ đua nhau tìm đến hỏi về những việc tương lai.
Tuy nhiên, các lời sấm của ông được ứng nghiệm là do trí thông minh của ông đã mách bảo. Còn hôm nay, nơi Chúa Giêsu đã ứng nghiệm sấm ngôn của Isaia do Thánh Thần linh ứng. Chính Chúa Giêsu cũng là một tiên tri được đầy tràn Thánh Thần. Một tiên tri cao cả mang ơn gọi và sứ mạng cứu độ.
Khi chịu phép rửa, Người đã nhận lãnh Thánh Thần như một việc xức dầu.
Người được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo hèn, những kẻ nghèo tiền, nghèo bạn, nghèo văn hoá.
Người được sai đến với những kẻ bị giam cầm trong lao tù, trong ích kỷ, trong tham lam.
Người cho kẻ mù được sáng mắt, kẻ u mê thoát vòng tối tăm.
Người trả tự do cho người bị áp bức, phá xiềng xích cho những tội nhân.
Người khai mở một Năm Toàn Xá, Năm Thánh, Năm Hồng Ân cứu độ.
Chúng ta cũng đã được xức dầu để trở thành tiên tri, đi loan báo Tin Mứng cứu độ.
Nếu Thánh Thần đã chi phối toàn bộ ngôn từ, hành vi của Chúa Giêsu, chúng ta cũng hãy ngoan nguỳ để Thánh Thần hướng dẫn tất cả lời nói, việc làm của mình.
Nếu sấm ngôn của Isaia đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu; ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong cuộc đời chúng ta, bằng sự cộng tác tích cực của bản thân mỗi người.
Con người ngày nay khắc khoải trong lo âu sầu muộn, người tín hữu Kitô phải là chứng nhân của niềm vui.
Con người ngày nay ngụp lặn trong bóng tối của lầm lạc, người tín hữu Kitô phải chiếu toả ánh sáng của đức tin.
Con người ngày nay bị kìm toả trong vòng nô lệ của tiền bạc, danh vọng; ngườt tín hữu Kitô phải loan báo sự tự do của con cái Chúa.
Nếu những người đã chịu phép Rửa trong Thánh Thần, mà còn làm ngơ trước những con người nghèo hèn, áp bức kẻ cô thân cô thế, bịt mắt những anh em dốt nát, và giam hãm tha nhân trong ngục tù dưới nhiều hình thức; thì quả thật, Lời Chúa chẳng bao giờ được ứng nghiệm trong cuộc đời họ.
***
Lạy Chúa, xin cho chúng con cũng biết xoá nợ cho nhau, không chỉ xoá nợ tiền bạc mà còn xoá đi những bất bình, nghi kỵ thành kiến, hiểu lầm nhau..., để mọi người chung quanh chúng con được nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn, vui tươi hơn.
Xin cho chúng con luôn là những sứ giả đi loan báo và chứng tá cho tình yêu cứu độ của Chúa. Amen. (Thiên Phúc)
* 7. Giáo Hội là nhiệm thể Đức Kitô
Ngày nay trong y khoa có quá nhiều chuyên khoa khiến cho cơ thể như bị tách rời thành nhiều phần. Một số bác sĩ chuyên về tim, một số khác chuyên về não, một số khác chuyên về mắt, một số khác chuyên về tai, vân vân. Chuyên môn là tốt nhưng cũng có mặt trái của nó. Các bác sĩ ấy có thể hiểu biết rất ít về con người mà họ đang điều trị về mắt, hay tim, hay chân tay...
Cơ thể con người là một toàn thể thống nhất mặc dù nó gồm bởi nhiều bộ phận. Những bộ phận này rất khác nhau và có những chức năng khác nhau. Chắc hẳn là một số bộ phận quan trọng hơn những bộ phận kia. Tuy nhiên chúng đều cần cho cơ thể và đều cần cho nhau.
Giáo Hội cũng thế. Chúng ta tuy nhiều nhưng tạo thành một thân thể duy nhất trong Đức Kitô (Bài đọc II). Bởi Phép Rửa, chúng ta đã trở thành chi thể của thân thể Đức Kitô, tức là Giáo Hội. Có lẽ có "người" nào đó muốn sống một mình, không lệ thuộc cộng đoàn. Nhưng không thể nào có "người kitô hữu" đơn độc được. Kitô hữu nào tự ý cắt mình rời khỏi cộng đoàn thì làm cho cộng đoàn bị đau như một cơ thể bị cắt lìa một chi thể.
Cộng đoàn đòi hỏi chúng ta. Vì lý do đó nên nhiều người bị cám dỗ sống một mình, tìm ơn cứu độ một mình không cần đến người khác. Nhưng không thể như thế được. Chúng ta cần nhau, cũng như các chi thể cần nhau vậy. Và Giáo Hội cần tất cả chúng ta. Chúng ta cần ý thức tùy thuộc nhau và tùy thuộc Đức Kitô. Chúng ta vẫn liên đới với nhau dù khi chúng ta chỉ muốn nghĩ đến bản thân mình.
Sự tùy thuộc vào cộng đoàn có nhiều lợi ích rõ ràng. Hãy lấy cây sậy làm thí dụ. Nếu chỉ có một mình thì nó rất yếu và dễ gãy đổ. Nhưng nhiều cây bó chung lại với nhau thì không thể nào bẻ gãy được. Đối với con người cũng thế. Sức mạnh là do hợp quần. Người ta sẽ can đảm hơn khi quen biết nhau, khuyến khích nhau và sát cánh cùng nhau chiến đấu. Nhiều công trình to lớn đã được thực hiện nhờ người ta biết làm việc chung với nhau.
Tinh thần cộng đoàn được chính Chúa Giêsu nhấn mạnh khi Ngài kể dụ ngôn cây nho và cành nho: "Thầy là cây nho, chúng con là cành". Một hình ảnh thật đơn sơ nhưng cũng thật sâu sắc về sự hợp nhất và tùy thuộc lẫn nhau.
Rõ ràng là các cành nho cần đến cây nho. Nhưng cây nho cũng cần đến cành nho vậy, bởi vì chính cành nho sinh trái. Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn có giữa Ngài và các môn đệ của Ngài. Ngài là cây nho, chúng ta là cành nho. Hay nói như Thánh Phaolô: "Chúa Giêsu là đầu của thân thể, chúng ta là chi thể của thân thể ấy". Nếu không ý thức về sự tùy thuộc lẫn nhau, chăm sóc cho nhau và chịu trách nhiệm về nhau thì ta không còn là Kitô hữu nữa.
Hoa trái mà Chúa Giêsu mong muốn nơi chúng ta trước hết chính là sự hiệp nhất giữa chúng ta với nhau. Dấu chỉ cho mọi người biết chúng ta thuộc về Ngài là chúng ta yêu thương nhau và chăm sóc nhau. (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa là núi đá cho ta trú ẩn, là thành trì bảo vệ ta. Với lòng tin tưởng Chúa là Đấng phù trợ, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Thần Khí Chúa sai tôi đi loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / hết lòng yêu thương và tận tình giúp đỡ những ai khó nghèo.
2. Thần Khí Chúa sai tôi đi băng bó những tấm lòng tan nát / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều Kitô hữu / dám xả thân phục vụ những ai đang gặp đau khổ trong cuộc sống thường ngày.
3. Ngày nay / nghèo đói và bệnh tật / dốt nát và bất công / vẫn còn ngự trị ở khắp mọi nơi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết chân thành cộng tác với hết thảy mọi người để xóa đói giảm nghèo / tiêu diệt dốt nát / giảm thiếu bất công / và khống chế bệnh tật / để ai nấy đều được sống trong hạnh phúc và an bình.
4. Hằng ngày / có biết bao lời nói độc ác / thiếu bác ái / góp phần giết chết / hoặc làm sứt mẻ tình thân hữu giữa con người với nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn dùng lời nói và việc làm để kiến tạo hòa bình / xây dựng tình thương và xóa bỏ hận thù.
Chủ tế: Lạy Chúa, khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, chúng con trở nên anh em một nhà và có cùng một Cha chung trên trời. Xin Chúa cho chúng con luôn sống hiệp nhất và yêu thương nhau. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Tất cả chúng ta đều được Rửa tội trong cùng một Chúa Thánh Thần. Giờ đây chúng ta hãy kết hợp với Thánh Thần mà dâng lên Chúa Cha lời kinh nguyện mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta.
VII. Giải tán
Chúa Giêsu đã được đầy tràn Thánh Thần và được sai đi loan Tin Mừng cho những người nghèo khó. Anh chị em cũng đã đón nhận tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần và Chúa cũng sai anh em đi. Vậy anh chị em hãy hăng hái ra đi loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người anh chị em gặp gỡ.
8. Thi hành sứ mạng--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng OP
Sau khi kể lại những sự kiện thời thơ ấu của Chúa Giêsu, thánh Luca nói đến hoạt động của Chúa ở Ga-li-lê. tại đây, Chúa bắt đầu bằng một biến cố bất ngờ ở hội đường Na-da-rét. Vào ngày hưu lễ, người ta phải đến hội đường để nghe đọc Sách Thánh và hát thánh vịnh. Nhân dịp Chúa Giêsu trở về quê nhà, Ngài cũng vào hội đường với mọi người. Đây là lần đầu tiên Chúa về Na-da-rét trong quãng đời công khai.
Theo luật lệ Do Thái, bất cứ ai cũng có thể lên diễn đàn đọc và giải thích Kinh Thánh. Nhưng thường người có trách nhiệm coi sóc hội đường trao công việc đó cho những người am tường Kinh Thánh. Vì Chúa Giêsu đã giảng dạy ở nhiều nơi trước khi về Na-da-rét, nên việc người ta mời Ngài lên diễn đàn là chuyện bình thường. Theo thông lệ, vị diễn giảng đứng dậy đọc Sách Thánh, rồi ngồi xuống giải thích bài đọc đó. Hôm nay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa cuốn Sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn ngôn sứ I-sai-a nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Người sẽ làm. Đọc xong, Chúa gấp sách lại và ngồi xuống. Mọi người đều chăm chú nhìn Ngài và chờ đợi những lời giải thích của Ngài.
Ngài dõng dạc tuyên bố: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe". Tất cả bài giảng hôm ấy thế nào chúng ta không được biết, thánh Lu-ca chỉ ghi lại có một câu mở đầu ấy, nhưng thật đầy đủ ý nghĩa. Lịch sử cứu chuộc là quá trình giữa lời hứa của Thiên Chúa và sự thực hiện lời hứa ấy. Các vị ngôn sứ được sai đến để công bố lời hứa và loan báo sự thực hiện. I-sai-a công bố về một người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ đem ơn lành của Thiên Chúa đến cho mọi người. Chúa muốn nói cho những người đang nghe Ngài biết: hôm nay họ đang được nghe chính người tôi tớ mà ngôn sứ I-sai-a đã loan báo. Người tôi tớ ấy chính là tôi, người đang nói với quý vị, tôi chính là Đấng Cứu Thế, và sứ mạng của tôi là thực hiện những điều I-sai-a đã nói.
Quả thực, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện từng chi tiết đoạn Sách Thánh này. Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Ngài đã cảm thông, an ủi những tấm lòng sầu muộn. Ngài đã giải phóng những người bị tà ma ám ảnh, chữa lành tất cả những bệnh tât. Ngài đã khích lệ, tha thứ cho những người tội lỗi. Ngài đã hòa đồng với những người hèn hạ nghèo khó. Ngài không hề xua đuổi bất cứ ai. Ngài dạy phải quảng đại, bác ái, yêu thương đối với mọi người, kể cả kẻ thù, và không bao giờ được xét đoán bất công. Ngài muốn mọi giao tế giữa loài người với nhau phải được thể hiện trong yêu thương. Những dẫn chứng trên cho chúng ta thấy những lời ngôn sứ I-sai-a đã loan báo trước được ứng nghiệm đầy đủ nơi Chúa Giêsu, Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng Thiên Sai, đã thi hành trọn vẹn sứ mạng Thiên Chúa trao phó cho Ngài.
Sứ mạng của Chúa Giêsu, ngày hôm nay, vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo Hội và trong Giáo Hội. Thực vậy, khi Chúa Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gởi Thánh Thần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin Mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo Hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ Tuần phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách I-sai-a thâu tóm sứ mạng của Chúa Giêsu cũng là lời thâu tóm sứ mạng của Giáo Hội mọi thời đại. Hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
Từ Công đồng Va-ti-ca-nô II, Giáo Hội đã ý thức sâu xa hơn về sứ mạng của mình. Điều này không có nghĩa là trước đây Giáo Hội đã quên con người mà chỉ nghĩ đến "linh hồn". Thử hỏi: ai đã khai sinh ra các bệnh viện, các cô nhi viện, các trại phong, trại tế bần, trại dưỡng lão...Ai đã khai hóa cho thế giới "Mandi" của Âu Châu thời hậu đế quốc Rô-ma? Chính là Giáo Hội. Cái mới của Va-ti-ca-nô II là quan niệm lại cho phù hợp với thời đại mà thôi.
Bài học cho chúng ta: Chúa Giêsu đã thực hiện đầy đủ, trọn vẹn những lời Kinh Thánh nói về Ngài. Chúng ta cũng vậy, chúng ta có bổn phận thực hiện những lời Chúa đã giảng dạy. Nghĩa là chúng ta phải sống những lời Chúa đã giảng dạy. Bởi vì đời sống của người tín hữu rất hệ trọng trong việc mời gọi mọi người đến với Chúa. Đời sống của chúng ta có thể hoặc xua đuổi hoặc giữ người khác lại cho Chúa Ki-tô.
Đối với óc thực nghiệm và đời sống thực dụng ngày nay, cái gì người ta cũng đòi phải có bằng chứng. Chúng ta là Ki-tô hữu, chúng ta đi lễ nhà thờ, chúng ta làm các việc đạo đức đầy đủ. Nhưng tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Ki-tô đích thực không? Đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Nhìn vào đời sống chúng ta, người ta có nhận ra chúng ta là người Ki-tô hữu không? Vì vậy, để truyền giáo, để làm chứng cho Chúa, cho đạo, cách hay nhất là chúng ta hãy sống tốt trong gia đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với người chung quanh, bất cứ là lương hay giáo, mà sống tốt cụ thể nhất là hãy sống bác ái.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức mình là Ki-tô hữu, và xin cho chúng ta hiểu rằng làm Ki-tô hữu có nghĩa là sống trọn vẹn ơn gọi làm người bằng một cuộc sống quảng đại, yêu thương và đầy tình người.
9. Tôn giáo của Chúa Giêsu--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Bài Tin Mừng hôm nay thánh Luca kể lại một lần Chúa Giêsu về thăm Na-da-rét, nơi Ngài sinh trưởng, Ngài vào hội đường với mọi người trong ngày Sa-bát, như từ nhỏ đến lớn Ngài vẫn tới hội đường này. Cũng như tại các nơi khác, Ngài đã làm như thế từ lúc bắt đầu sứ mạng rao giảng. Có lẽ vì đã nghe tiếng đồn về công cuộc rao giảng của Ngài nên người ta trao Sách Thánh cho Ngài đọc, Ngài mở ra và đọc trúng đoạn ngôn sứ Isaia nói về sứ mạng người tôi tớ của Thiên Chúa.
Đọc xong, Ngài gấp sách lại và dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Tất cả bài giảng hôm ấy thế nào chúng ta không được biết, thánh Luca chỉ ghi lại một câu mở đầu ấy, nhưng thật đầy đủ ý nghĩa. Isaia công bố về một người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ đem ơn lành của Thiên Chúa đến cho mọi người. Chúa Giêsu muốn nói cho những người đang nghe Ngài biết rằng: hôm nay họ đang được nghe chính người tôi tớ mà Isaia đã loan báo, người tôi tớ ấy chính là tôi.
Suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện lời Sách Thánh ấy. Ơn cứu độ Chúa Giêsu công bố và thực hiện không phải chỉ là “cứu các linh hồn” nhưng là sự giải phóng toàn diện con người và xã hội khỏi nghèo đói, bệnh tật, tù đày, áp bức, bất công… Chúa cho người ta hưởng một phần hiệu quả của sự giải phóng ấy qua lời giảng dạy và những phép lạ Ngài làm. Ngài cho người ta nếm những ân huệ của “Năm Toàn Xá của Thiên Chúa”. Như vậy, chính Chúa Giêsu đã tự giới thiệu sứ mạng của Ngài tại hội đường Na-da-rét, và qua ba năm cuộc đời công khai, quả thực Ngài đã thực hiện trọn vẹn sứ mạng ấy.
Ngày hôm nay, sứ mạng của Chúa Giêsu vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo hội và trong Giáo hội. Thực vậy, khi Chúa Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gửi Thánh Thần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin Mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ Tuần phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu. Như vậy, lời sách Isaia thâu tóm sứ mạng của Chúa Giêsu cũng là lời thâu tóm sứ mạng của Giáo hội mọi thời đại, hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
Đối với chúng ta hôm nay, nhờ bí tích rửa tội, chúng ta đều thuộc về Giáo hội, chúng ta đã và đang thụ hưởng những hồng ân cao cả của Chúa, chúng ta phải làm sao cho những người mình gặp gỡ, tiếp xúc, được hưởng những ân huệ ấy như mình. Vậy chúng ta phải làm gì và làm thế nào? Chúng ta hãy sống cho thật tốt đẹp ơn gọi làm người của mình. Tại một bộ lạc trong rừng già Phi châu, có ba thanh niên, sau khi trải qua một số thử thách, đã đến trình diện với viên tù trưởng của họ. Ông nhìn từng người rồi nói: “Trong sáu ngày qua, các ngươi đã được đưa vào rừng sâu để trải qua một cuộc thử thách, sau không biết bao nhiêu gian khổ và nguy hiểm, các ngươi đã trở về bình an vô sự, nhưng vẫn chưa đủ, các ngươi hãy kể lại cho ta nghe tất cả những gì các ngươi đã làm trong sáu ngày qua để xứng đáng được gọi là chiến sĩ”.
Lần lượt mỗi người kể lại thành tích của mình. Người thứ nhất cho biết là anh đã giết được con báo. Người thứ hai kể lại anh đã hạ được một con trăn khổng lồ. Đến phiên mình, người thứ ba chỉ biết đứng im lặng, tên anh là Ma-ma-đu. Ông tù trưởng hỏi anh: “Nào Ma-ma-đu, ngươi đã làm được gì?”. Một cách nhỏ nhẹ, anh nói rằng anh đã lấy được một tảng mật ong. Nghe thế mọi người cười ồ lên, bởi vì họ cho rằng lấy được mật ong thì có gì đáng gọi là một thành tích. Ông tù trưởng hỏi anh: “Tại sao ngươi lấy mật ong mà không chịu đi săn thú dữ?”. Ma-ma-đu trả lời: “Cha mẹ tôi đã già yếu bệnh tật, tôi luôn nghĩ đến các ngài, cho nên tôi đã lấy mật ong mang về biếu các ngài”. Nghe thế, viên tù trưởng liền đứng dậy, ông lấy cây đao trao cho người thanh niên và tuyên bố: “Ngươi hãy cầm lấy cây đao, bởi vì ngươi là người xứng đáng để lãnh nhận danh hiệu chiến sĩ hơn cả. Trước khi trở thành một người thợ săn giỏi, cần phải nên người đã, và chỉ có một cách duy nhất để biết một kẻ nào đó đã thực sự nên người là kẻ đó biết đặt tình thương trên tất cả mọi sự và hiếu thảo với cha mẹ mình”.
Trước khi trở thành một chiến sĩ, phải sống xứng đáng như một con người đã. Người dân nước Mỹ có thể sẽ nói: “Trước khi trở thành tổng thống, hãy sống xứng đáng như một con người đã”. Đó là lý do tại sao người Mỹ đòi hỏi vị tổng thống của họ phải là một người có đời sống trong sạch, gương mẫu. Tất cả những ứng cử viên bị phát giác có những lem nhem, lăng nhăng đều bị cử tri tẩy chay.
Chúng ta cũng có thể nói: Trước khi là một tín hữu Chúa Kitô, hãy sống xứng đáng như một con người đã. Thực ra ơn gọi làm Kitô hữu không loại bỏ hoặc chồng lên ơn gọi làm người. Thiên chức Kitô hữu phải là một thể hiện cao độ của chính ơn gọi làm người. Và ngược lại, sống cho ra người, sống xứng với những đòi hỏi của phẩm giá con người, đó cũng có thể là một cách thế làm Kitô hữu.
Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn ơn gọi làm người của Ngài. Ba mươi năm thinh lặng của Ngài ở Na-da-rét là một thể hiện trọn vẹn ơn gọi làm người ấy. Sống cho tha nhân, chết cho tha nhân, đó cũng chỉ là đòi hỏi tất yếu của ơn gọi làm người mà thôi. Con người không thể làm người một cách thành toàn nếu không đặt tình yêu thương trên tất cả mọi sự. Chúa Giêsu đã đi cho đến tận cùng ơn gọi làm người ấy khi Ngài dốc cạn giọt máu cuối cùng, Ngài đã trở thành con người kiểu mẫu, bởi vì Ngài đã sống trọn vẹn cho tha nhân. Vì thế, đạo của Chúa Giêsu, tôn giáo của Chúa Giêsu cũng chính là đạo, là tôn giáo của con người. Chúng ta chỉ có thể là tín đồ đích thực của tôn giáo ấy nếu chúng ta biết yêu thương mọi người như anh em của mình.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức mình là Kitô hữu, và xin cho chúng ta hiểu rằng làm Kitô hữu có nghĩa là sống trọn vẹn ơn gọi làm người bằng một cuộc sống quảng đại, yêu thương và đầy tình người.
10. Góp phần thi hành sứ vụ Thiên Sai--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Đức Giêsu công bố về năm hồng ân của Chúa
Tin Mừng hôm nay gồm có bài tựa mở đầu sách Tin Mừng thứ ba, nêu ra lý do khiến Lu-ca viết Tin Mừng dựa vào truyền thống và có tính khoa học, và việc Đức Giê-su khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng với một chương trình hành động cụ thể, đã được ngôn sứ I-sai-a tuyên sấm trước đó khá lâu.
CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính: Thê-ô-phi-lô là một người giàu có và đáng kính thời bấy giờ. Ong này đã được tác giả Lu-ca gửi tặng cuốn Tin Mừng để nhờ ông làm người bảo trợ cho việc sao chép ra nhiều cuốn sách trên các tấm da thuộc, hầu có thể phổ biến đi nhiều nơi.
- C 3-4: + Cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự: Vì Lu-ca không thuộc Nhóm 12 Tông đồ theo Đức Giê-su ngay từ đầu, nên ông phải tra cứu đầu mối căn nguyên về cuộc đời và Tin Mừng của Người rồi viết lại. +Tuần tự viết ra: Ông viết Tin mừng theo thứ tự văn chương và các đề tài giảng huấn, chứ không theo đúng thứ tự thời gian trước sau.
- C 14-15: + Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy: Đức Giê-su được Thần Khí dẫn vào hoang địa để ăn chay và chịu ma quỷ thử thách. Giờ đây Thần Khí lại thúc đẩy Người trở về Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng. +Người giảng dạy trong các hội đường của họ: Hội đường là nơi người Do thái đến hội họp, cầu nguyện và nghe giảng Kinh thánh vào các ngày Sa-bát. Ở mỗi làng khắp xứ Pa-lét-tin cũng như tại những nơi có người Do thái cư ngụ đều có hội đường.
- C 17b-19: + Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Chữ gặp ở đây cho thấy Đức Giê-su đã không chọn hay sửa soạn trước, nhưng mở ra đã gặp ngay một đoạn sách phù hợp cho thấy có sự can thiệp của Thiên Chúa,. +Thần Khí Chúa ngự trên tôi...: Đoạn văn được trích dẫn trong sách I-sai-a (x. Is 61,1-2) nói về việc xức dầu tấn phong của một ngôn sứ (x. 1 V 19,16). Nhưng Đức Giê-su đã ứng dụng vào sứ mệnh của Người: Người mới được lãnh nhận Thần Khí khi chịu phép rửa của Gio-an, và coi đó là nguồn gốc phát sinh các hoạt động cứu độ của Người. +Công bố một năm hồng ân của Chúa: Năm Hồng Ân hay năm Toàn Xá của Thiên Chúa. Theo Luật Mô-sê, cứ năm mươi năm lại cử hành một lần (x Lv 25,10-13). Năm Toàn Xá là hình thức mở rộng của Năm Sa-bát được cử hành cứ bảy năm một lần (Đnl 15: 1-11). Năm này tiêu biểu lý tưởng công bình xã hội một cách thiết thực cụ thể. Đây là tin mừng giải thoát cho những người nghèo, những kẻ cô thân cố thế bị chèn ép áp bức, dưới bất kỳ hình thức nào, đến nỗi phải mất nhà cửa đất đai, trở nên nghèo khổ và đem thân làm nô lệ cho những kẻ giàu có quyền thế. Đó cũng là năm mời gọi hết mọi người hãy ăn năn sám hối, vì đã góp phần vào sự bất công hay đã nhắm mắt làm ngơ trước những đau khổ của đồng loại.
- C 20-21: + Hôm nay: Chữ này xuất hiện nhiều lần trong Tin Mừng Lu-ca, để nhấn mạnh tính cách hiện tại của ơn cứu độ. Chẳng hạn: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2,11); “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22); “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21); “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19,5b); “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (Lc 19,9); “Hôm nay gà chưa kịp gáy, thì ba lần anh đã chối không biết Thầy” (Lc 22,34.61); “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43).
CÂU HỎI:
1) Lu-ca đã viết lời tựa sách Tin Mừng gửi cho ông Thê-ô-phi-lô nhằm mục đích gì? 2) Lu-ca không thuộc Nhóm 12 Tông đồ. Vậy ông đã làm gì để có thể viết về cuộc đời và lời rao giảng của Đức Giê-su cách chính xác được? 3) Hội đường Do thái là gì và dùng để làm gì? 4) Câu trích trong sách ngôn sứ I-sai-a được Đức Giê-su đọc tại hội đường Na-da-rét đã ứng nghiệm vào sứ mệnh cứu thế của Người như thế nào? 5) Bạn hãy kể ra 5 câu Kinh thánh có chữ “hôm nay” trong Tin mừng Lu-ca.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,18).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Nên thân nhân của Chúa nhờ sống giới răn yêu thương của Người:
Dan Clack kể lại một câu chuyện như sau: Vào một buổi tối trời tuyết lạnh, một bé trai khoảng sáu, bảy tuổi đang đứng tần ngần nhìn vào gian hàng trưng bày quần áo trước một cửa hàng sang trọng. Em đi chân đất, khoác trên người bộ quần áo cũ kỹ tơi tả, trông như một mảnh giẻ rách. Một bà sang trọng đi ngang qua trông thấy và đọc được ước muốn trong đôi mắt của em. Bà liền đến cầm tay em dẫn vào tiệm và mua cho em một đôi giầy mới và bộ quần áo ấm.
Sau đó, khi cả hai bước ra ngoài phố, người đàn bà tốt bụng liền nói với cậu bé:
- Chúc cháu vui vẻ và một đêm ngủ ngon.
Cậu bé trố mắt nhìn người vừa cho quà và hỏi:
- Thưa bà, bà có phải là Chúa không?
Bà cúi xuống mỉm cười vỗ nhẹ vào vai cậu và trả lời:
- Con ơi, không phải đâu, ta chỉ là một trong những đứa con của Chúa thôi!
Cậu bé như khám phá được điều gì mới lạ:
- Cháu đã sớm biết ngay là bà có họ hàng với Chúa mà.
Câu nói của cậu bé trong câu chuyện trên cho thấy: Chính lối sống yêu thương vị tha là dấu chỉ giúp tha nhân nhận biết chúng ta là môn đệ thực sự của Chúa Giêsu (x. Ga 13,35), và việc thực hành yêu thương cũng làm cho chúng ta trở nên con cái trong đại gia đình của Chúa như Người đã nói: ”Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 6,21). Quả thật, người phụ nữ trong câu chuyện trên đã thực hành lời dạy quảng đại yêu thương của Chúa: ”Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em bằng cái đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Vậy mỗi người chúng ta trong những ngày này sẽ làm gì cụ thể giúp đỡ tha nhân để nên con cái Thiên Chúa và nên môn đệ thực sự của Đức Giêsu?
2) Chúa nói với chúng ta bằng những cách nào?
Cách đây khá lâu, một vở kịch mang tựa đề là “Hoàng Gia đi săn mặt trời” kể lại cuộc chinh phục của người Tây ban nha đối với dân da đỏ ở Pê-ru. Trong đó có một màn kịch kể lại câu chuyện về một người Tây ban nha đã tặng cho viên tù trưởng của bộ lạc da đỏ một cuốn Thánh Kinh và nói với viên tù trưởng rằng: “Đây là Lời Chúa. Ngài nói với chúng ta trong cuốn sách này”. Viên tù trưởng cầm lấy cuốn Thánh Kinh, xem xét thật kỹ và sau đó áp cuốn sách vào một bên tai nghe ngóng. Nhưng dù đã cố gắng hết sức mà ông ta cũng chẳng nghe thấy có tiếng nói nào phát ra từ cuốn sách. Cử chỉ ngây thơ của viên tù trưởng khiến những người Tây ban nha có mặt cười ồ lên. Viên tù trưởng nghĩ mình bị mấy người ngoại quốc kia chơi khăm, liền nổi giận và ném mạnh cuốn Kinh Thánh xuống mặt bàn trước mặt!
3. THẢO LUẬN: Một gia trưởng kia muốn mọi người trong gia đình thực hành Lời Chúa, nên đã treo một tấm bảng trên bức tường trong phòng ăn. Mỗi Chúa Nhật ông sai cô con gái lớn trong nhà viết lên bảng một câu Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật và một lời nguyện quyết tâm thực hành Lời Chúa bằng một việc cụ thể. Trước mỗi bữa ăn và trong giờ kinh tối gia đình, các thành viên sẽ đọc chung lời nguyện hoặc một người sẽ cầu nguyện tự phát ngắn gọn, kết thúc bằng lời thưa Amen của mọi người. Theo bạn, cách làm này có dễ thực hiện không? Có giúp cho mọi người trong gia đình bạn thực hành được Lời Chúa không? Tại sao?
4. SUY NIỆM:
1) Đức Giêsu công bố Tin Mừng về sứ vụ Thiên Sai:
Sau một thời gian đi rao giảng Tin mừng và làm phép lạ khắp miền Ga-li-lê, danh tiếng Đức Giêsu đã lan truyền khắp nơi, Người trở về thăm quê hương Na-da-rét. Vào ngày sa-bat, Người đến hội đường cầu nguyện theo thông lệ, viên trưởng hội đường đưa cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở trúng ngay đọan nói về sứ vụ của Đấng Thiên Sai như sau: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Sau đó gấp sách lại, Người ngồi xuống và tuyên bố: ”Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,18-19).
2) Hội Thánh có bổn phận tiếp tục thi hành sứ vụ Thiên Sai:
Trong Tin Mừng Luca, từ "Hôm nay" xuất hiện tại một số đoạn: Trong ngày Giáng Sinh, chúng ta đã nghe các thiên thần loan báo "Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra" (Lc 2,11). Khi Chúa Giêsu đến nhà ông Giakêu, Người nói với ông "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này" (Lc 19,9). Chúa Giêsu cũng hứa với kẻ trộm cướp bị đóng đinh bên phải rằng "Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23,43). Ý nghĩa của từ "Hôm nay" mà Chúa Giêsu công bố không những là "hôm nay" khi Người còn đang sống, mà còn là "hôm nay", khi Người tiếp tục sứ vụ Thiên Sai trong và nhờ Hội Thánh là các tín hữu chúng ta.
3) Thi hành sứ vụ Thiên Sai hôm nay là đem Tin Mừng cho người nghèo hèn:
Là loan báo cho những kẻ đang bị giam trong lao tù ngục thất được tha hay đang bị giam hãm trong thói ích kỷ tham lam biết họ được Chúa đến cứu thoát.
Là góp phần chữa lành những kẻ đang bị mù tối thể xác được nhìn thấy, hoặc đang lầm lạc được thoát vòng u mê tối tăm.
Là khai mở một năm Toàn Xá ban Hồng Ân cứu độ.
Mỗi Kitô hữu có sứ vụ tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ cả về thể xác cũng như tinh thần, an ủi những người cô thế cô thân, xoa dịu các vết thương, loại trừ những sự sợ hãi, giải thoát những người đang bị áp bức... Mỗi tín hữu chúng ta cần trung thành thi hành sứ vụ đã được Đức Kitô trao phó, là góp phần làm cho sấm ngôn của ngôn sứ Isaia sớm trở thành hiện thực, công bố năm hồng ân của Chúa và Nước Trời an lành hạnh phúc sớm được thực hiện trong cuộc sống xã hội Việt Nam hôm nay.
4) Làm tông đồ là sống bác ái để làm chứng cho Chúa:
Là ki-tô hữu, chúng ta phải trở thành cánh tay nối dài của Đức Giê-su. Mỗi người chúng ta đều được Chúa mời gọi cộng tác để làm bùng lên ngọn lửa tin yêu mà Người đem xuống trần gian, bằng việc thực thi giới luật yêu thương từ trong gia đình ra đến khu xóm, giáo xứ và ngòai xã hội. Đó chính là đường nên thánh, là chìa khoá mở cửa thiên đàng cho mọi người chúng ta.
Đức Gio-an Phao-lô II đã nói: “Người thời nay thích nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có nghe những thầy dạy thì đó là vì những thầy dạy này đồng thời cũng là những chứng nhân”. Thực vậy, lời giảng suông thường khó thuyết phục người khác cho bằng gương sáng, như người ta thường nói: ”Trăm nghe không bằng một thấy”. Lời giảng mà thiếu gương sáng sẽ trở thành vô ích và có khi còn phản tác dụng: làm cho người ta ghét đạo Chúa hơn. Các tín hữu cần thực hành theo lời khuyên trong lễ phong chức linh mục như sau: “Con hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy”. Cần áp dụng lời Chúa trong cách suy nghĩ, cách ứng xử giữa đời thường.
Mỗi người chúng ta cần sống hiệp nhất yêu thương nhau noi gương các tín hữu thời Hội Thánh sơ khai như sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại như sau: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn sống hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng…Tất cả đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được tòan dân thương mến. Và Chúa cho cộng đòan mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,42-47).
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con nhận ra Thánh Thần Chúa vẫn đang ngự giữa thế giới và trong lòng mọi người. Thế giới hôm nay tuy còn nhiều tội lỗi, nhưng vẫn chan hòa ánh sáng tin yêu nơi các gia đình tín hữu, trong các xóm đạo, nơi các cộng đoàn quyết tâm học sống Lời Chúa. Ngày nay người ta đã biết ngồi lại với nhau để giải quyết các tranh chấp và tìm kiếm hòa bình; Các tổ chức quốc tế thường hợp tác với nhau để chống lại sự kỳ thị chủng tộc, mầu da, tôn giáo, phái tính, bệnh tật; Các cơ quan đoàn thể đã biết hợp tác để chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác... Xin cho các tín hữu chúng con cũng biết hợp tác với tha nhân để góp phần làm cho ngôi nhà chung của nhân lọai là trái đất ngày một an toàn tốt đẹp hơn.
- Lạy Chúa. Xin cho chúng con cũng được đầy Thánh Thần để sẵn sàng đi bước trước đến với tha nhân: nở nụ cười thân thiện với một người chưa quen, dấn thân phục vụ dân nghèo ở những vùng sâu vùng xa... Xin cho mọi người không còn bị đau khổ, không còn nước mắt và thù hận, nhưng chỉ còn tình thương thể hiện qua thái độ biết quan tâm chia sẻ và phục vụ cho nhau.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
11. Đức Giêsu tại Nadarét--Lm. PX Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Tác giả Lc đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn cảnh chính trị và tôn giáo của đế quốc Rôma và của Israel. Qua cái cổng này, ngài lấy lại các chặng của TM Mc.
Lc đặt phần 1 của Tin Mừng dưới dấu chỉ là việc mạc khải của Đức Giêsu tại Nadarét; các hoạt động đầu tiên của Người tại Caphácnaum và Galilê đến tiếp vào (Lc 4,14-5,16). Bên trong đoạn này, tác giả bố trí các hoạt cảnh theo nhiều cách: ngài cố tình nêu bật Galilê. Hơn các tác giả Nhất Lãm khác, ngài nhấn mạnh việc Đức Giêsu trở về miền Galilê “trong quyền năng Thánh Thần” (4,14). Ở 4,44, ngài thay thế Galilê bằng Giuđê, nhưng để nói về toàn lãnh thổ của người Do Thái; đứng đầu các thành phố và làng mạc được loan báo Tin Mừng, ngài đặt Nadarét (4,16); tại Galilê, nơi có vai trò quan trọng là Caphácnaum (4,31; 7,1).
Vậy, chỉ có miền Galilê nằm trong nhãn quan của Lc ở đoạn này. Chuyển động không nằm trong việc thay đổi nơi chốn, nhưng trong việc rao giảng về Nước Trời: Bằng việc hoán chuyển vị trí của câu truyện Nadarét, Lc cho thấy rằng con người và sứ mạng của Đức Giêsu mới là ưu tiên (Lc 4,13-30 = Mc 6,1-10; Mt 13,53-58).
2.- Bố cục
Sách Bài đọc gộp vào đây hai bản văn xa nhau ba chương trong TM Lc. Khó mà thấy được ý hướng của sự ghép nối này; có lẽ các chuyên viên Phụng vụ chỉ muốn nối với nhau hai bản văn “mở đầu”: mở đầu Tin Mừng theo Lc (1,1-4) và khởi đầu việc rao giảng của Đức Giêsu tại Nadarét (4,14tt).
Bản văn Phụng vụ có thể chia thành ba phần:
1) Mở đầu Tin Mừng (1,1-4);
2) Tóm: Bắt đầu sứ vụ (4,14-15);
3) Thăm viếng Nadarét (4,16-21):
a) Thăm viếng hội đường Nadarét (c. 16),
b) Đọc Kinh Thánh (cc. 17-20),
c) Giảng dạy (c. 21).
3.- Vài điểm chú giải
- Nadarét (16): chính xác là Nadara. Đây là lần duy nhất tác giả Lc gọi quê hương Đức Giêsu bằng cái tên A-ram Nadara (tương tự Mt 4,13), nhưng lại không gọi là “quê hương/quê quán” của Đức Giêsu (khác với Mc 6,1 và Mt 13,54): có lẽ bởi vì Đức Giêsu không sinh ra tại đó (2,4-7), nhất là bởi vì đối với Lc, “quê hương” của Đức Giêsu là toàn thể đất Israel (x. cc. 24-27).
- đứng lên đọc Sách Thánh (16): Tác giả Lc cho thấy Đức Giêsu giảng dạy dựa trên Kinh Thánh. Ta có thể hiểu ngầm rằng ở đây Đức Giêsu đã được ông trưởng hội đường (archisynagôgos) mời đọc và trình bày mộtbản văn Kinh Thánh (như Phaolô và Banaba ở Antiôkhia miền Pisiđia; x. Cv 13,15). Tại Paléttina vào thế kỷ đầu tiên, việc cử hành ngày sabát tại hội đường dường như gồm có việc hát một thánh vịnh, đọc kinh Shema (Đnl 6,4-9; 11,13-21; Ds 15,37-41) và tơphillâh [lời cầu khẩn] (hoặc shơmôneh esrêh = “Mười Tám [lời chúc lành]” và đọc một seder (quyển nghi thức) hay một pârâshâh trích từ tôrah (Lề Luật = Ngũ Thư) và mộtđoạn các Ngôn sứ (haptârâh; x. Cv 13,15). Sau đó là bài diễn giải các bản văn Kinh Thánh đã đọc. Cuộc cử hành chấm dứt bằng lời chúc lành của ông trưởng hội đường và lời chúc lành tư tế (x. Ds 6,24-26).
Tác giả Lc không nhắc đến bài đọc Tôrah, nhưng phải hiểu là có. Ngài chỉ quan tâm hơn đến việc ứng nghiệm các lời sấm Đệ II Isaia và cách sử dụng Cựu Ước theo quan điểm Kitô học.
- cuốn sách ngôn sứ Isaia (17): Người ta yêu cầu Đức Giêsu đọc mộtđoạn Ngôn sứ bằng tiếng Hípri. Tác giả không nói đến Targum, tức dịch bản Hípri ra tiếng Aram, nhưng có thể giả thiết là có, vì vào lúc ấy, người Do Thái dùng tiếng Aram chứ không còn hiểu tiếng Hípri nữa. Sự kiện người ta “trao cho” Đức Giêsu cuốn sách Isaia cho hiểu rằng người ta quy định phải đọc một đoạn văn Isaia, tức là có mộtchu kỳ các bài đọc Ngôn sứ cũng như các bài đọc Lề Luật. Nhưng dường như người đọc có thể chọn (x. câu 17b).
- Thần Khí Chúa ngự trên tôi (18): Bản văn trích Đệ II Isaia trong Lc là mộtđoạn tổng hợp Is 61,1a.b.d; 58,6d; 61,2a. Hai câu bị bỏ là Is 61,1c ở cuối Lc 4,18 (“băng bó những tấm lòng tan nát”) và Is 61,2b ở cuối Lc 4,19 (“một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta”). Bỏ Is 61,1c thì không có hậu quả gì đáng kể, nhưng bỏ Is 61,2b là cố tình bỏ đi mộtphương diện tiêu cực của sứ điệp II Is.
- vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi (18): Bản văn cho thấy là chính Thiên Chúa đã cử Thánh Thần xuống trên Đấng Mêsia như mộtchất dầu xức cho Đấng Mêsia, hầu Người lên đường thi hành sứ mạng cứu thế.
- để tôi loan báo Tin Mừng (18): Bản văn Is Hy Lạp không rõ là “để loan báo Tin Mừng” là mục tiêu của “Chúa đã xức dầu” hay là mục tiêu của “Người đã sai tôi”. Giáo sư Fitzmyer dịch theo bản gốc Hípri, “he has sent me to preach good news to the poor” (dịch sát là “to announce good news to the poor he sent me”).
- người giúp việc hội đường (20): Ngoài ông trưởng hội đường (archisynagôgos), còn có các nhân viên là “các kỳ mục” (prebyteroi, Lc 7,3) và “các người giúp việc” (“người cán sự”, NTT) (hypêretês, Cv 13,5) giống như “ông từ nhà thờ, người phụ trách phòng thánh”.
- ngồi xuống (20): Khi đọc Kinh Thánh, người ta đứng; còn khi trình bày ý nghĩa bản văn (logos paraklêseôs, Cv 13,15), người ta ngồi.
- chăm chú nhìn Người (20): Động từ atenizein là động từ Lc ưa chuộng (x. Lc 22,56; Cv 1,10; 3,4.12; 6,15; 7,55; 10,4; 11,6; 13,9; 14,9; 23,1). Thường động từ này diễn tả sự trân trọng và tin tưởng (là điểm của bản văn này).
- Hôm nay (21; HL. sêmeron, x. 2,11 [Giáng sinh]; 3,22 [phép Rửa]; 4,21; 5,26 [người bại liệt]; 13,32-33; 19,5.9 [Dakêu]; 23,43 [người trộm lành]): Đây là từ ngữ quan trọng của Lc, có nghĩa là: Sau một thời gian dài chờ đợi và hy vọng, lịch sử cứu độ đã tới đỉnh cao hoàn tất. Tất cả những gì các ngôn sứ nói đã thành sự trong các hành động và các lời nói của Đức Giêsu (x. 4,18.19; 5,26; 19,9).
- đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh (21): Kiểu nói này tương ứng với kiểu nói “thời kỳ đã mãn của Mc 1,15. Hôm nay, niềm an ủi cho Sion lại được gửi đến cho dân Thiên Chúa (x. Lc 2,25; 7,22).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở đầu Tin Mừng (1,1-4)
Lời mở này phù hợp với quy tắc viết thời tác giả Lc. Qua đoạn văn ngắn ngủi này, chúng ta biết về phương pháp làm việc của tác giả. Hôm nay chúng ta thừa kế vốn hiểu biết về Đức Giêsu từ bao thế hệ. Các thông tin được những con người có lương tâm đánh giá, cân nhắc rồi viết ra. Như thế, đức tin chúng ta không dựa trên những chuyện hoang đường hoặc những chuyện ngụ ngôn do tưởng tượng, nhưng chủ yếu dựa trên các sự kiện lịch sử được đảm bảo bởi các chứng nhân thà đổ máu ra chứ không chịu phủ nhận các sự kiện ấy.
* Tóm: Bắt đầu sứ vụ (4,14-15)
Trong khi các TMNL liên kết khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu với việc Gioan Tẩy Giả bị tù (Mc 1,14; Mt 4,12), Lc lại bắt đầu Tin Mừng của ngài bằng mộttóm tắt; còn chuyện Gioan bị tù đã được ngài đưa lên phía trước (3,19-20). Đoạn tóm tắt này cho mộtcái nhìn tổng quát trên sứ vụ của Đức Giêsu tại Galilê (những tóm tắt: 4,31-32.40-41; 6,17-19; 8,1-3; 19,47-48; 21,37-38). Tuy đoạn tóm này không nhắc tới nội dung lời rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa hay lời lêu gọi hoán cải, bản văn vẫn chứa ba nét đặc trưng của Lc: (a) Một leitmotiv là “quyền năng Thần Khí” (c. 14). (b) Hoạt động của Đức Giêsu được mô tả trước tiên như mộtviệc “giảng dạy” (c. 15); ta hiểu Đức Giêsu “giảng dạy” dưới quyền năng Thần Khí. (c) Tính phổ quát vẫn được Lc nhấn mạnh nơi câu “được mọi người tôn vinh”.
* Thăm viếng Nadarét (4,16-21)
Sau đó, Đức Giêsu “đến Nadara, là nơi Người sinh trưởng”. Theo thói quen, Người đi vào hội đường ngày sabát. Qua vài câu đó, Lc nhắc lại những gì ngài đã kể thuộc thời thơ ấu của Đức Giêsu (x. 2,39-40.51-52). Thành này được ngài gọi mộtlần duy nhất ở đây là Nadara, nhưng không được gọi là “quê hương” của Đức Giêsu, có thể vì Đức Giêsu không chào đời tại đây, hoặc đúng hơn, bởi vì ngài coi cả đất Israel là “quê hương” Đức Giêsu (x. cc. 24-27). Trong cuộc cử hành, Người đứng lên để đọc Sách Thánh (c. 16). Theo tập tục, Người đứng lên sau bài đọc Lề Luật (Ngũ Thư) để đọc mộtđoạn sách các Ngôn sứ. Dường như vào thời Đức Giêsu, người ta không quy định rõ mộtchương trình đọc các bản văn Ngôn sứ. Do đó, Đức Giêsu đã chọn đọc Is 61. Bản văn được Lc ghi lại là Is 61,1-2 theo Bản LXX, với một vài sửa đổi.
Đối với các thính giả của Đức Giêsu, bản văn này là lời của mộtngôn sứ, mà họ có thể nói là Người Tôi tớ Đức Chúa với bốn Bài ca trứ danh (Is 42,1-7 có những gặp gỡ rất gần với Is 61,1). Ngài loan báo mộtnăm hồng ân có thể so sánh với năm đại xá theo luật Môsê (Lv 25,8-17), nhưng ở đây không phải là con người nhưng chính Thiên Chúa sẽ can thiệp với ân sủng của Ngài. Còn tự do mà Ngài loan báo không phải là việc tha hoàn toàn các món nợ giữa người Do Thái với nhau, mà là mộtơn cứu độ tuyệt vời thuộc về thời cánh chung, cũng có thể gọi là Nước Thiên Chúa, mộtthời đại được nồng nhiệt chờ mong.
Nghe đọc đoạn sách ấy, niềm hy vọng bùng lên trong các con tim, và tất cả các thính giả của Đức Giêsu chờ đợi bài giảng minh giải bản văn đầy hứa hẹn ấy.
“Người bắt đầu nói với họ: «Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe»” (4,21). Qua câu này, Đức Giêsu cho thấy chiều hướng của bài giảng của Người. Người sẽ hiện tại hóa nơi bản thân Người nội dung của lời sấm Người vừa đọc. Khi làm như thế, Người đã xử sự như ngôn sứ.
Từ ngữ đầu tiên rất hệ trọng: sự hiện diện của Đức Giêsu chính là mộtgiai đoạn độc đáo trong thời gian cứu độ, được diễn tả bằng “hôm nay”. Đức Giêsu áp dụng sấm ngôn Is cho chính mình. Khi chịu phép rửa, Người đã nhận lấy Thánh Thần như mộtviệc xức dầu đã đưa lại cho Người phận vụ thánh thiêng là làm Đấng Mêsia. Nhưng Người không phải là mộtMêsia như mộtvị vua trần thế; để tránh hiểu lầm, Đức Giêsu không xác định công khai Người là Đấng Mêsia (x. 4,41) và chỉ mạc khải như thế cho riêng các môn đệ (9,18-21). Tại Nadarét, vào lúc bắt đầu sức mạng, Người chỉ nhận mình là như vị ngôn sứ mang Tin Mừng cứu độ. Bản văn Is có lẽ đã cung cấp cho Người dung mạo Người Tôi Tớ của Đức Chúa (Yhwh), và chắc chắn các đề tài cốt yếu của Tin Mừng của Người: ưu tiên cho người nghèo, giải phóng những kẻ bị giam cầm và những người bị áp bức, cho người mù được thấy. Những từ ngữ này cho thấy Đức Giêsu chiếu cố đến những người thấp hèn. Nhưng các từ ngữ này còn cho thấy rõ hơn nữa các đòi hỏi và các ân huệ của Người: kêu gọi làm tâm hồn nghèo hèn, hứa ban sự giải phóng cho những người tội lỗi đang bị sự dữ khống chế, ban khả năng nhìn cho những ai sẽ đi đến với với đức tin (trong cách giải thích cái nhìn theo nghĩa “thiêng liêng” này, Đức Giêsu trung thành với tư tưởng của Is 29,18-19 và 35,5-6).
Trong Is 61,2, vị ngôn sứ vừa công bố mộtnăm hồng ân, vừa loan báo ngày báo phục; đây là đề tài truyền thống của các ngôn sứ liên quan đến Ngày của Đức Chúa, mộtngày vừa là ngày phán xét vừa là ngày cứu độ. Đức Giêsu không nói đến phán xét. Thật ra sau này Người có ám chỉ nhiều đến phán xét (x. Lc 6,20-26; 9,26; 10,12-15; 11,30-32; 12,8-9; 12,35-48.49-59; 13,23-30; 16,1-8; 17,1-2; 17,22-37; 18,8; 19,11-27), còn ở đây Người chỉ nhìn đến đến sứ mạng trần thế của Người, là “thời gian” ơn cứu độ được ban cho Israel; chính thời gian này được Người gọi là “năm hồng ân của Đức Chúa”, thời gian Thiên Chúa chiếu cố đến dân. Nói tóm, tư tưởng của Đức Giêsu ở đây trong Tin Mừng Lc giống với lời Đức Giêsu loan báo trong Mc 1,15 và Mt 4,17, “Nước Trời đã đến gần”, người ta có thể đi vào Nước Thiên Chúa nhờ sứ mạng của Đức Giêsu. Tuy nhiên, công thức của Lc chính xác hơn: nó phân biệt thời gian hoạt động của Đức Giêsu và thời gian hoàn tất cánh chung; nó xác định chính xác hơn vai trò của Đức Giêsu, các ân huệ và các đòi hỏi của Người.
Tác giả Lc biết rõ là trước sự cố Nadarét này, Đức Giêsu đã hoạt động ở Caphácnaum và ngài cũng cho biết như thế (4,14-15; 4,23; x. Cv 1,8). Nhưng ngài vẫn muốn đặt truyện này vào ngày khai mạc công việc rao giảng của Đức Giêsu và cho thấy chính Đức Giêsu xác định sứ mạng của Người ngay đầu Tin Mừng. Câu truyện đã xảy ra trong mộthội đường: đó là phương pháp của Đức Giêsu (4,15.33.44; 6,6; 13,10); đó cũng là cách thực hành của các nhà truyền giáo trong các xứ sở ngoại giáo (Cv 9,20; 13,3.14.44; 14,1; 17,1.10.17; 18,4.7.19; 19,8). Tác giả muốn cho thấy rằng sứ điệp cứu độ được bao giờ cũng được ngỏ với người Do Thái trước khởi đi từ Kinh Thánh và trong hành vi phụng tự: Tân Ước hoàn tất Cựu Ước.
+ Kết luận
Qua bản văn Lc, ta thấy Đức Giêsu giới thiệu chương trình hoạt động của Người: Người là Đấng Mêsia được giới thiệu ở phép rửa nay xuất hiện trước công chúng như là vị ngôn sứ có quyền năng Thánh Thần; Người sẽ ưu tiên ngỏ lời với những người nghèo, những người chịu đau khổ, những người bị áp bức; Người mang đến cho họ sự giải phóng thiêng liêng, cho họ thấy chương trình của Thiên Chúa. Đối với Israel, sứ mạng trần thế của Người là thời gian ân sủng, mà họ phải tận dụng “hôm nay”. Nay không còn phải là những con người được tha các món nợ và tìm lại được tự do dân sự. Nay chính là Đức Chúa (Yhwh), thân hành đến nơi bản thân Đấng được xức dầu của Ngài, để tha nợ cho nhân loại và giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ sự dữ.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Sự kiện Kitô giáo chủ yếu dựa trên can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử cho thấy Kitô giáo khác mọi tôn giáo khác. Thiên Chúa chúng ta là mộtThiên Chúa của các sự kiện, những sự kiện thực hữu; Ngài không phải là mộtthần tượng hoặc mộttư tưởng thuần túy. Vị Thiên Chúa này lại rất quan tâm đến con người đến độ đi vào trong lịch sử cụ thể của con người. Chính vị Thiên Chúa này hôm nay vẫn đang kêu gọi chúng ta qua Đức Giêsu, con người cụ thể làng Nadarét.
2. Ngay từ đầu, Đức Giêsu liên kết hoạt động của Người với Kinh Thánh, với Lời Chúa. Người khẳng định mạnh mẽ rằng nhờ Người, Thiên Chúa hoàn tất các lời Ngài đã hứa. Như thế, ngay từ đầu đã có câu trả lời về uy quyền của Đức Giêsu, nghĩa là về quyền bính đang đứng đàng sau Người: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”. Đức Giêsu có sức mạnh và quyền năng Thiên Chúa. Người cũng khẳng định rằng Thiên Chúa đã sai phái Người. Lời khẳng định này có giá trị cho Người hơn là cho bất cứ ngôn sứ nào, bởi vì Người phát xuất trực tiếp từ Thiên Chúa trong tư cách là Con Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa nói và hành động qua Người, toàn thể công trình của Người là công trình cứu độ và phải được đón tiếp với lòng biết ơn và lòng tin.
3. Tại sao lại có hoàn cảnh của những người nghèo, những người đói khát, những người bị hành hạ, những người đau ốm, tuyệt vọng và mọi kẻ thất thế và phải gánh chịu một số phận gian khổ? Họ không may, trong khi những người khác được may mắn? Có thể có chăng cho họ việc thay đổi số phận, hay là họ cứ phải cam chịu như thế? Phải chăng Thiên Chúa muốn như thế? Đức Giêsu đã loan báo sứ điệp của Người cho những con người như thế. Thiên Chúa không hất hủi họ. Thiên Chúa ở về phía họ và chiếu cố đến họ. Thật ra sứ điệp của Đức Giêsu không phải là mộtchương trình cải cách xã hội. Người không cổ võ việc phân chia đồng đều các của cải. Sứ điệp của Người hướng niềm hy vọng của người nghèo không vào của cải vật chất, nhưng vào Thiên Chúa.
4. Tuy nhiên, chúng ta phải ra sức loại trừ các hoàn cảnh túng quẫn và bất công. Niềm hy vọng Đức Giêsu mang lại không phải là mộtngày nào đó, loài người sẽ đạt tới chỗ loại từ mọi túng quẫn và có thể thiết lập công lý bình đẳng. Sứ điệp của Ngài nói rằng Thiên Chúa sẽ ban cho người nghèo ơn cứu độ trọn vẹn. Đàng khác, chỉ nguyên việc là người nghèo, người sa cơ thất thế, không phải là đã đủ. Một người nghèo mà đặt hết niềm cậy trông nơi của cải trần thế thì vẫn đang lạc đường. Hôm nay, Đức Giêsu tiếp tục công cuộc cứu thế trong Hội Thánh và nhờ Hội Thánh. Người cứu thế qua các bí tích. Người đến với con người qua các thừa tác viên và qua tất cả các Kitô hữu đã hưởng nhờ hoạt động từ bi thương xót của Người. Chúng ta phải nối dài hoạt động của Đức Kitô ra, bằng cách gieo rắc niềm vui và ánh sáng, thoa dịu các nỗi khốn cùng về thể lý và tinh thần, giải thoát người ta khỏi những nỗi lo sợ khiến tê liệt, đưa người rta ra khỏi sự dốt nát, nâng đỡ người sống trong cô đơn, chế giảm các nỗi hiềm khích…
12. Xóa nợ cho nhau – Thiên Phúc--‘Như Thầy Đã Yêu’
Trước lúc lìa đời, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có giao cho con cháu một cái ống tre sơn son thếp vàng gắn bít hai đầu và dặn đến đúng năm tháng ấy, ngày giờ ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh tổng đốc Hải Dương, trao cái ống này cho quan thì sẽ cứu vãn được tình thế gia đình nhưng tuyệt đối không được ai mở ra xem, trừ quan tổng đốc.
Cái ống tre ấy truyền đến người cháu bảy đời của Trạng, mới rước lên dinh quan tổng đốc, đúng vào ngày giờ đã ghi trong gia phả. Khi quan mở ống thấy một cuộn giấy, ông rút ra xem thấy có hai câu chữ nho: ‘Ngã cứu nhi thượng lương chi ách. Nhĩ cứu ngã thất thế chi bần’. Nghĩa là: ‘Ta cứu ngươi khỏi xà nhà đổ. Ngươi cứu cháu bảy đời của ta còn nghèo’.
Đang lúc bận việc, quan tổng đốc thấy hai câu nói xấc xược ấy, ông liền nổi giận. Sẵn cầm chiếc quạt trên tay, ông đứng phắt dậy, chạy lại định đánh người cháu bảy đời của Trạng. Nhưng vừa bước khỏi sập, chiếc xà nhà ngay trên đỉnh đầu đổ xuống đánh rầm một cái. Phúc bảy mươi đời, ông mới vừa bước ra, nên không sao cả.
Quan tổng đốc lúc đó mới giật mình hiểu rõ Trạng đã cứu mình khỏi cái chết bất đắc kỳ tử. Quan ân cần xin lỗi người cháu ông, mời về tư thất đãi cơm rượu, rồi cho một số tiền khá lớn, để cứu giúp cho gia đình cháu của Trạng đang lâm hoàn cảnh cực kỳ túng thiếu.
Nói đến các bậc tiên tri ở nước ta, trước hết phải kể đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sinh thời ông đã nổi tiếng về các giai thoại tiên tri, đến nỗi các sĩ tử nô nức xin theo học và thiên hạ đua nhau tìm đến hỏi về những việc tương lai.
Tuy nhiên, các lời sấm của ông được ứng nghiệm là do trí thông minh của ông đã mách bảo. Còn hôm nay, nơi Đức Giêsu đã ứng nghiệm sấm ngôn của Isaia do Thánh Thần linh ứng. Chính Đức Giêsu cũng là một tiên tri được đầy tràn Thánh Thần. Một tiên tri cao cả mang ơn gọi và sứ mạng cứu độ.
Khi chịu phép rửa, Người đã nhận lãnh Thánh Thần như một việc xức dầu.
Người được sai đi đem Tin Mừng cho người nghèo hèn, những kẻ nghèo tiền, nghèo bạn, nghèo văn hóa.
Người được sai đến với những kẻ bị giam cầm trong lao tù, trong ích kỷ, trong tham lam.
Người cho kẻ mù được sáng mắt, kẻ u mê thoát vòng tối tăm.
Người trả tự do cho người bị áp bức, phá xiềng xích cho những tội nhân.
Người khai mở một năm Toàn Xá, Năm Thánh, năm Hồng Ân cứu độ.
Chúng ta cũng đã được xức dầu để trở thành tiên tri, đi loan báo Tin Mừng cứu độ.
Nếu Thánh Thần đã chi phối toàn bộ ngôn từ, hành vi của Đức Giêsu, chúng ta cũng hãy ngoan ngùy để Thánh Thần hướng dẫn tất cả lời nói, việc làm của mình.
Nếu sấm ngôn của Isaia đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu; ước gì Lời Chúa cũng được ứng nghiệm trong cuộc đời chúng ta, bằng sự cộng tác tích cực của bản thân mỗi người.
Con người ngày nay khắc khoải trong lo âu sầu muộn, người tín hữu Kitô phải là chứng nhân của niềm vui.
Con người ngày nay ngụp lặn trong bóng tối của lầm lạc, người tín hữu Kitô phải chiếu tỏa ánh sáng của đức tin.
Con người ngày nay bị kìm tỏa trong vòng nô lệ của tiền bạc, danh vọng; người tín hữu Kitô phải loan báo sự tự do của con cái Chúa.
Nếu những người đã chịu phép Rửa trong Thánh Thần, mà còn làm ngơ trước những con người nghèo hèn, áp bức kẻ cô thân cô thế, bịt mắt những anh em dốt nát, và giam hãm tha nhân trong ngục tù dưới nhiều hình thức; thì quả thật, Lời Chúa chẳng bao giờ được ứng nghiệm trong cuộc đời họ. Và Năm Đức Tin qua đi trong cuộc đời mà họ không hề nhận được một chút Hồng Ân nào của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Đức Thánh Cha đã kêu gọi các nước giàu xóa nợ cho các nước nghèo. Xin cho chúng con cũng biết xóa nợ cho nhau, không chỉ xóa nợ tiền bạc mà còn xóa đi những bất bình, nghi kỵ, thành kiến, hiểu lầm nhau…, để mọi người chung quanh chúng con được nhẹ nhàng hơn, thanh thoát hơn, vui tươi hơn.
Xin cho chúng con luôn là những sứ giả đi loan báo và chứng tá cho tình yêu cứu độ của Chúa. Amen.
13. Ơn gọi Kitô hữu
Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại sự việc Chúa Giêsu trở về quê nhà. Trong khi gửi tới dân làng Nagiarét, nơi Ngài đa lớn lên, một trong những sứ điệp quan trọng, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy một tình yêu thương chân thành và nồng thắm. Thực vậy, lúc bấy giờ Ngài đã nổi tiếng khắp miền Galilêa và nhiều nơi khác, thế nhưng, Ngài đã không quên thôn ấp nhỏ bé Ngài đã sống suốt những năm tháng dài của tuổi ấu thơ và trưởng thành. Ngài muốn chuyển thông Tin mừng cứu rỗi cho những người bà con họ hàng.
Là Con Thiên Chúa, sinh bởi Đức Trinh nữ Maria do quyền năng Chúa Thánh Thần, Ngài đã không chối từ những liên hệ của con người, nối kết ngài với Nagiarét. Và như thế, ơn thánh không phá hủy, mà trái lại còn kiện toàn bản tính tự nhiên của chúng ta.
Nếu nhìn lại cuộc sống của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ thấy Ngài không đến để công bố những lề luật, rồi sau đó Ngài đứng bên lề cuộc đời. Trái lại, Ngài đã làm người, đã hóa thành nhục thể, trở nên một người như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã dấn thân vào số kiếp con người, đã nhập cuộc vào trò chơi của lịch sữ nhân loại. Trước hết, Ngài đã tuân giữ những luật lệ phần đạo cũng như phần đời.
Phần đạo, Ngài cũng đã chịu phép cắt bì, hằng ngày Ngài vẫn đến hội đường để nghe đọc Kinh thánh, hằng năm Ngài vẫn lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt qua….Phần đời, Ngài đã biểu lộ lập trường của mình về việc nộp thuế:
- Của Cêsar hãy trả cho Cêsar. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Ngài đã thực sự hòa mình vào nếp sống của mọi người: vui niềm vui của họ, buồn nỗi buồn của họ. Thực vậy, Ngài đã đi ăn cưới tại Cana để chia sẻ niềm vui của đôi tân hôn. Trái lại, Ngài đã xúc động trước đám tang người con trai của một bà góa thành Naim, Ngài đã khóc thương trước nấm mộ của Lagiarô cũng như trước viễn cảnh của một Giêrusalem sẽ bị đổ vỡ hoang tàn…Hơn thế nữa, Ngài còn cúi xuống xoa dịu mọi nỗi khổ đau của những người chung quanh: Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi sống đám đông trong hoang địa, Ngài đã xua trừ ma quỉ, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền, cho kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, kẻ điếc được nghe, và người chết được sống lại. Ngài đã chu toàn những công việc của nhân loại theo cách thức của Thiên Chúa để thánh hóa và đem lại cho chúng một giá trị tuyệt vời.
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta rút ra được một quan niệm sống cho người Kitô hữu. Thực vậy, người Kitô hữu phải sống trọn vẹn cuộc đời của mình trong những giây phút hiện tại. Họ không được phép chê ghét và xa tránh những người bà con lối xóm. Họ không được phép chạy trốn và khước từ những thực tại trần gian. Trái lại, họ phải dấn thân, phải nhập cuộc như Đức Kitô ngày xưa. Tuy nhiên, họ dấn thân không phải là để cho thế gian lôi kéo. Họ nhập cuộc không phải là để cho tội lỗi vùi dập trong đám bùn nhơ. Đời sống của họ phải trở nên như một bông sen: gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Hơn thế nữa, họ dấn thân và nhập cuộc là để lôi kéo thế gian trở về cùng Chúa. Họ chính là muối mặn ướp cho đời khỏi ươn thối. Họ chính là ánh sáng chiếu tỏa vào thế gian còn chìm ngập trong tăm tối. Họ chính là men làm cho nhân loại này dậy lên hương thơm đạo đức và thánh thiện. Ơn gọi của người Kitô hữu là làm chứng cho Đức Kitô, là sống đức tin của mình giữa lòng cuộc đời, để thánh hóa bản thân và những người chung quanh.
Nếu so sánh quan niệm trên với những luồng tư tưởng lớn của Đông phương, chúng ta sẽ nhận ra được một sự khác biệt.
Thực vậy, Lão giáo thì ngần ngại trước cuộc sống ngắn ngủi phù du, nên đã đi tìm lãng quên trong men rượu, trong vui thú để rồi đã có một cái nhìn thật bi quan và yếm thế.
Khổng giáo thì hăm hở bước vào đời để cải tạo xã hội va đem lại cho bản thân mình chút vinh quang phù phiếm:
- Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,
Không công danh thà nát với cỏ cây.
Và sau cùng, Phật giáo thì ý thức rằng đời là bể khổ, mà mỗi người là như một cánh bèo trôi dạt trên đó, để rồi lên đường kiếm tìn sự giải thoát cho cá nhân mình.
Chỉ Kitô giáo mới đưa ra một cái nhìn vừa lạc quan lại vừa đúng đắn, để xây dựng cho bản thân cũng như cho xã hội.
Có một người đã nhiều năm vui vẻ chấp nhận cuộc sống với những thiếu thốn về tiền bạc và những buồn phiền trong gia đình. Người ta hỏi ông:
- Tại sao lại có thể an vui được như thế?
Ông ta đã trả lời:
- Sở dĩ như vậy vì tôi biết sử dụng cái nhìn của tôi với đôi mắt sáng suốt.
Người ta tò mò hỏi:
- Như thế có nghĩa là gì?
Ông ta nói:
- Trước hết tôi nhìn lên trời và nhớ rằng việc chính của tôi là đạt tới trời. Rồi tôi nhìn xuống đất và hình dung ra nắm đất thân xác tôi sẽ trở thành. Sau cùng tôi nhìn sang bên cạnh và tôi nhận thấy có biết bao nhiêu người còn khốn khổ hơn tôi rất nhiều. Chính ba cái nhìn này đã làm cho tôi sung sướng và bàing lòng với cuộc sống mà không than van trách móc.
Người Kitô hữu sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian. Bởi đó, hãy biết chấp nhận những thực tại trần gian, để nhờ đó thánh hóa bản thân và những người chung quanh trên con đường trở về cùng Chúa, bởi vì tất cả đều là hồng ân.
14. Giá trị Tin Mừng – ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Bài Tin Mừng này nhấn mạnh đến giá trị lịch sử và nội dung của lời Chúa.
Xét về giá trị lịch sử, Thánh Luca đã mở đầu sách Tin Mừng bằng dựa vào thế giá “các người đã được chứng kiến ngay từ đầu đã phục vụ lời Chúa, truyền lại cho chúng ta”. Thánh Luca còn “cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự … để gởi “Ông Thêôphilô nhận thức được rằng giáo huấn Ông đã học hỏi thật là vững chắc”.
Trước hết, thánh Luca tra cứu nơi chính Đức Mẹ Maria, vì các biến cố đời thơ ấu của Đức Giêsu, từ lúc Thiên thần truyền tin cho Đức Mẹ đến lúc Đức Giêsu lên 12 tuổi đi lễ đền thờ, Thánh Mathêu chỉ kể vài việc: Truyền tin cho Thánh Giuse biết Đức Maria thụ thai bởi phép Thánh thần, các hiền sĩ, Thánh gia trốn sang Ai Cập. Thánh Marcô và Gioan không kể gì. Thánh Luca kể khá nhiều về đời sống ẩn dật mà chỉ Đức Mẹ biết rõ thôi.
Thứ đến, Thánh Luca tra cứu nơi các tông đồ đã sống bên Đức Giêsu suốt ba năm giảng đạo. Hơn nữa, nhờ Gioan và Giacôbê là anh em họ hàng với Đức Giêsu nên có thể giúp thánh Luca biết về đời sống của Đức Giêsu lúc Người giảng đạo.
Sau nữa, Thánh Luca còn tra cứu rất đông các môn đệ mà Thánh Phaolô kể trong thư Côrintô, có tới 500 người tiễn Đức Giêsu về trời (1Cor. 15, 5-8).
Ngoài ra, Thánh Luca còn tra cứu nơi biết bao nhiêu bệnh nhân đã được Đức Giêsu cứu chữa có thể nói toàn dân Do Thái đã chứng kiến cuộc suy tôn Đức Giêsu làm vua và cuộc khổ nạn của Người trong ngày đại lễ quốc khánh của nước Do Thái.
Phần đông những người đã chứng kiến cuộc đời của Đức Giêsu vẫn còn sống lúc Tin Mừng Thánh Luca ra đời, vì Thánh Luca chép Tin Mừng khoảng năm 60-70 hay 70-80 nghĩa là khoảng 30-40 năm sau Đức Giêsu chịu chết. Như vậy những người chứng kiến đó cũng chỉ 50, 60 tuổi. Họ biết rất rõ về Đức Giêsu nên Luca không thể bịa đặt, thêm thắt, làm sai lịch sử về Đức Giêsu.
Thánh Luca lại là thầy thuốc, ở địa vị thầy thuốc, tất nhiên phải nghiên cứu học hỏi kỹ lưỡng cẩn thận. Trước khi cho một toa thuốc, Ông phải tỉ mỉ xem xét những triệu chứng gây ra bệnh tật, mới dám viết đơn thuốc. Sai trệch, cẩu thả là nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân và đe dọa chính thầy thuốc nữa. Tin Mừng Thánh Luca thật là một toa thuốc vô cùng quan trọng, vì đó là thuốc trường sinh cho cơn bệnh trầm trọng của nhân loại đang hấp hối. Thánh Luca cắt toa thuốc này không phải cho Ngài Thêôphilô và những người mới trở lại đạo, mà còn cho cả thế giới từ nay cho đến tận thế.
Ngài Thêôphilô là bậc thế giá, hàng trí thức và còn bao nhiêu Ngài trí thức vị vọng khác của hàng ngàn năm đã nhận biết chân giá trị thực sự về lịch sử của Đấng Cứu thế nhờ Tin Mừng của Luca. Nếu Luca viết sai lầm, giả dối, thì đã mất hết giá trị từ lâu rồi. Thế mà trải qua hai ngàn năm thử lửa, giá trị lịch sử về Tin Mừng càng ngày càng vững chắc. Không có một cuốn sách nào được in ra hàng ngàn thứ tiếng với hơn năm trăm triệu bản in và hơn hai tỷ cuốn sách như Tin Mừng Đức Giêsu.
Một thế giá khác hơn thế giá lịch sử, nó có giá trị tồn tại trong thời gian như lịch sử, mà còn vượt thời gian đến vô cùng, đó là thế giá nội dung của chính Tin Mừng. Thánh Luca đã tóm tắt nội dung của Tin Mừng vào mấy câu khởi đầu sau đây: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Chúa”.
Mấy câu mở đầu đó cho ta thấy rõ: Tin Mừng là của Thần khí, việc rao giảng Tin Mừng là do Thiên Chúa sai đi. Đó là thế giá tuyệt đối của Tin Mừng, không một giá trị nào của trần gian có thể sánh được. Dù bao nhiêu công trình vĩ đại của loài người cũng chỉ có giá trị tương đối, chúng luôn luôn bị thời gian xoi mòn, cuối cùng sẽ bị cạn kiệt, tiêu tan. Còn Tin Mừng của Thần khí: “Dù trời đất này qua đi, thì lời Ta, một chấm, một phẩy trong Tin Mừng cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (Mt. 5, 18). Thần khí Chúa đã khởi đầu công trình sáng tạo thế nào, thì khởi đầu công trình Tin Mừng cứu chuộc còn kỳ diệu hơn thế nữa. Thần khí đã khởi đầu công cuộc nhập thể của Ngôi Hai xuống thế làm người, đã khởi đầu cuộc giảng đạo Đức Giêsu, khởi đầu công vụ Tông Đồ và muôn ngàn công cuộc của Hội Thánh, của các thánh nhân, những cuộc canh tân, cải thiện đời sống muôn dân về tinh thần cũng như thể chất.
Chính Thần khí của Đức Kitô đã báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, đói khát: hèn về địa vị, thấp mồm bé miệng trong xã hội; nghèo về đói khát của ăn tthể xác, nhất là đói Lời Hằng Sống và hèn do tội lỗi đè nén trên lương tâm, đang mong chờ Thần khí đến giải thoát khỏi bị giam cầm trong tối tăm áp bức, đưa về cùng Thiên Chúa là ánh sáng vinh quang của mình.
Đại văn hào Don. Dostoievski của Liên Xô, lúc sinh thời đã ghét đạo vì bao nhiêu áp bức tối tăm đã đè nặng trên tâm trí ông, khi tuổi đời đã xế bóng Thần khí của Tin Mừng đã giải thoát ông. Ông đã ăn năn sám hối và nói với vợ ông: “Tôi biết hôm nay tôi chết, hãy đốt nến sáng lên và đưa cho tôi một cuốn sách Tin Mừng”
Lạy Thần Khí Đức Kitô, xin hãy đốt nến sáng lên trong tâm hồn chúng con, không phải chỉ đến lúc hấp hối mà ngay bây giờ biết sốt sắng chiêm niệm Tin Mừng của Đức Giêsu trong Thần khí và Chân lý, cho chúng con được sống hạnh phúc trong tình thương bao la của Thiên Chúa. Amen.
15. Tin Mừng
Đoạn tin mừng vừa đọc trên đây, tóm gọn chương trình hoạt động của Chúa Giêsu trong ba năm truyền giáo của Ngài: đó là loan báo tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được xem thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức. Đọc xong đoạn sách tiên tri Isaia, Chúa Giêsu xếp sách lại nói với mọi người: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn sách thánh anh chị em vừa nghe”.
Và quả thực như vậy, trong ba năm truyền đạo, Chúa Giêsu đã biểu lộ tình thương yêu bao la của Thiên Chúa cho loài người, nhất là những người tàn tật, yếu đuối và tội lỗi, những người bị xã hội gạt ra ngoài lề.
Chúa Giêsu đã lấy máu đào trên thập giá, để giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, và bao tính mê tật xấu khác do dục vọng và lòng ích kỷ của con người sinh ra.
Là tín hữu của Chúa Giêsu, Giáo Hội ngày nay cũng tiếp tục sứ mạng loan báo tin mừng cho người nghèo khó, đang góp phần vào công cuộc giải thoát những người bị áp bức, những nạn nhân của chiến tranh…Tin mừng của Chúa Kitô, không phải chỉ nói với nhân loại ngày nay về sự giải thoát khỏi án phạt đời đời mai sau, nhưng còn góp phần thăng tiến cuộc sống cụ thể của con người. đạo Kitô không phải là thuốc phiện ru ngủ quần chúng cắn răng chấp nhận bất công xã hội, mang lại niềm hy vọng cho nhiều người đau khổ, nghèo đói.
Điển hình là những đóng góp đáng kể về sức người, sức của và tài năng của đồng bào Thiên Chúa giáo cho việc đổi mới đất nước của chúng ta hiện nay. Vào còn bao chiến sĩ phúc âm: điển hình như các nữ tu dòng Sainta Paul, dòng nữ tử Bác Ái…cùng bao chứng tá Kitô âm thầm khác theo gương Chúa Kitô đem nguồn vui đến cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ.
Một tín hữu công giáo cùng người bạn dạo chơi trong vườn hoa. Giữa mùa hoa, nên hoa nở thật đẹp. Người bạn hỏi tín đồ công giáo rằng: “Anh thường nói với tôi về Chúa Kitô; Vậy, Ngài với anh có liên hệ thế nào?” Tín đồ dừng bước hỉ vào một đóa hồng tươi thắm nói: mặt trời có liện hệ với hoa kia thế nào, thì Chúa Kitô cũng liên hệ với tôi như thế.
Người Kitô hữu phải là bằng chứng của Chúa Kitô, cũng như bông hồng là bằng chứng tác dụng của ánh sáng mặt trời.
16. Ghen tỵ
Có hai đệ tử sau nhiều năm luyện tập, được sư phụ cho xuống núi để cứu nhân độ thế. Sau nhiều tháng đi khắp nơi giúp đỡ dân lành, họ trở về núi để tường trình lại cho sư phụ những việc họ đã thực hiện. Sau khi báo cáo, sư phụ thấy đệ tử A làm thật khá, nhưng đệ tử B còn khá hơn. Sự phụ cảm thấy rất hài lòng, liền nói: Hai con làm rất tốt. Ta sẽ ban thưởng cho hai con. Tuy nhiên đệ tử B lập nhiều công trạng hơn, để được công bằng, ta cho đệ tử A xin trước. Nếu đệ tử A xin một thì ta sẽ cho đệ tử B hai. Suy nghĩ giây lát, đệ tử A, trong lòng rất bất mãn, bèn nói: Xin sư phụ cho con chột một con mắt.
Trong câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy thái độ và hành động ghen tỵ của đệ tử A đối với đệ tử B cũng là thái độ và hành động ghen tỵ, thù hiềm của thính giả đối với Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay. Họ không bằng lòng đối với sự thành công của Chúa Giêsu. Đây là con ông Giuse thợ mộc, nghèo nàn. Tại sao ông ta nói hay như thế. Đối với nhà lãnh đạo tôn giáo thì họ cảm thấy bị đe doạ khi Chúa Giêsu giảng dạy hay. Chúa Giêsu được đưa lên cao, còn họ bị lép vế. Chiến thuật ghen tỵ của họ rất là đơn giản: Tìm cách hạ Chúa Giêsu xuống để họ được đưa lên cao. Thái độ ghen tỵ, hiềm thù của họ đã dẫn đến hành động đả phá. Họ dẫn đưa Người lên triền núi, để xô Người xuống vực thẳm.
Rút từ bài học Phúc Âm và nhìn vào cuộc sống của mỗi người chúng ta nói riêng và xã hội nói chung, chúng ta phải chân nhận rằng lòng ghen tỵ của con người len lỏi khắp nơi trong cuộc sống từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội.
Trong gia đình anh chị em ghen tỵ nhau khi cảm thấy rằng mình không được thương yêu hơn anh chị em khác trong gia đình. Nơi nhà trường học sinh này ghen tỵ học sinh khác trong khía cạnh học hành. Nơi xưởng thơ nhân công này cảm thấy không bằng lòng với nhân công khác trong vấn đề tiền lương.
Quả thật, sống trong xã hội ngày hôm nay, chúng ta thường dễ đem chính mình so sánh với người khác. Chúng ta so sánh quần áo, xe cộ, nhà cửa, công danh, sự nghiệp. So sánh để rút ra điều hay điều dở làm cho cuộc sống chính mình và người khác khá hơn là rất tốt. Tuy nhiên so sánh để rồi mang đến thái độ ghen tỵ, hiềm thù, đả phá, đè bẹp, gièm pha người khác vì người khác thành công hơn mình là điều không tốt. Con người ghen tỵ sẽ không tìm thấy chính mình và không có hạnh phúc vì họ luôn ao ước vài tìm kiếm nơi người khác điều mà không phải là của họ.
Ước gì mỗi người nhìn vào chính mình để làm sao chúng ta thay đổi con người cũ đầy ghen tỵ, hiềm thù để mặc lấy con người mới đầy yêu thương, bác ái của Chúa.
17. Bụt nhà
Không thể làm tiên tri mà không trải qua bách hại, khổ đau, thử thách. Đó là số phận chung của các tiên tri từ Cựu ước qua Tân ước. Những kẻ không được sai đi, tự lấy danh mình mà nói, đó là những tiên tri giả ; còn các tiên tri thật ý thức mình được Chúa sai đi và chỉ nói những gì Ngài muốn, một sứ mệnh như thế thường tạo ra nơi vị tiên tri một cuộc chiến nội tâm mãnh liệt. Môsê và Êlia đã trải qua khủng hoảng và ngay cả thất vọng khi phải trung thành với lời Chúa, Yêrêmia đã nhiều lần ca thán và có lúc chỉ muốn đào thoát. Đau khổ nhất cho các tiên tri là thấy lời nói của mình không được lắng nghe.
Chúa Giêsu không chỉ đến để làm cho lời các tiên tri được ứng nhiệm, Ngài cũng là vị tiên tri đúng nghĩa nhất. Nơi Ngài cũng có những đặc điểm của các tiên tri: đối đầu với những giá trị sẵn có, Ngài tỏ thái độ như các tiên tri: Ngài nghiêm khắc với những khóa Nước Trời không cho người khác vào. Ngài nổi giận trước sự giả hình của những người Biệt phái, Ngài đặt lại vấn đề tư cách là con cháu Tổ phụ Abraham mà người Do Thái vẫn tự hào, nhất là Ngài rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc sống của Ngài ; do đó, bị chống đối, bị bách hại là số phận tất yếu của Ngài.
Tin mừng hôm nay là lời tiên báo về sự chống đối và bách hại mà Chúa Giêsu sẽ trải qua. Sau một thời gian rao giảng và làm nhiều phép lạ, danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến. Thế nhưng, khi trờ về quê hương, Ngài chỉ nhận được sự hững hờ và khinh rẻ của người đồng hương mà thôi. Quả thật, như Ngài đã trích dẫn câu tục ngữ quen thuộc:’’không tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương của mình’’, đó là định luật tâm lý mà chính Ngài cũng không thoát khỏi. Nhưng quê hương đối với Chúa Giêsu không chỉ là ngôi làng Nazarét nhỏ bé, mà sẽ là toàn cõi Palestine. Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà của Ngài đã không đón tiếp Ngài. Cái chết trên thập giá là tuyệt đỉnh sứ mệnh tiên tri của của Chúa Giêsu, là lời nói cuối cùng của Ngài như một vị tiên tri.
Là thân thể, là sự nối dàicủa Chúa Kitô, Giáo Hội cũng đang tiếp tục sứ mệnh tiên tri của Ngài trong trần thế, do đó, Giáo Hội không thoát khỏi số phận bị chống đối và bách hại. Một Giáo Hội không bị chống đối và bách hại là một Giáo Hội thỏa hiệp, nghĩa là đánh mất vai trò tiên tri của mình.
Nhờ phép rửa, người kitô hữu cũng được tham dự vào sứ mệnh tiên tri của Chúa Kitô; bằng lời nói, và nhất là chứng tá cuộc sống, chúng ta thực thi vai trò tiên tri của mình trong xã hội. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta được Thánh Thần xức dầu và sai vào trần thế. Ước gì chúng ta luôn kiên trì rao giảng Tin mừng của Chúa dù gặp thời thuận tiện hay không thuận tiên, vì biết rằng mình đang sống ơn gọi tiên tri.
18. Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh
MINH HỌA LỜI CHÚA - Nguyễn Hiếu
1. Họa lại Chúa Giêsu
Một trong những dung mạo Chúa Giêsu cổ nhất là của tổng trấn xứ Duđêa phát họa năm thứ 32.
Lúc đó có một người tên là Giêsu Kitô được coi như là tiên tri, có sức mạnh phi thường, cao lớn, vóc dáng thanh lịch điềm đạm, mái tóc phủ dài xuống đôi vai. Vàng trán ông cao, nghiêm nghị, đôi má không một vết nhăn, moi miệng cân đối hiền hòa, râu dài chẻ ra ở giữa, mắt tươi sáng dịu dàng. Theo nhiều học giả, bức chân dung này được mang về Vatican vào khoảng thế kỷ thứ 19.
Trong các sách Tin mừng, chúng ta có tất cả thông tin về cuộc sống Chúa Giêsu, nhưng không thấy một chân dung nào của Người. Tại sao? Vì Thiên Chúa muốn chúng ta ý thức: Những việc Chúa Giêsu làm quan trọng hơn là những đường nét trong con người của Người.
*****
Mục đích và lý tưởng của Kitô hữu chúng ta là được nên đồng hành với Chúa Giêsu. Các tác giả sách Tin mừng không mô tả cho chúng ta biết Chúa Giêsu giống ai, vì ngoại diện của Người không quan trọng, không đáng chúng ta quan tâm. Điều quan trọng để chúng ta đồng hành với Người là thi hành việc Người làm. Người làm gì? Tin mừng hôm nay trả lời cho chúng ta:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa xức dần tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho con người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc.4,18-19).
Nét nổi bật nhất trong con người Chúa Giêsu là sự “cảm thông”. Người luôn tìm đến những kẻ bị xã hội và mọi người ruồng bỏ, Người đau khổ với niềm đau của con người. Người đến với những người mà không ai muốn đến. Người cứu giúp những kẻ bị gạt ra bên lề. Người là hiện thân của tình yêu. Giống Người là đi vào tình yêu của Người. Mỗi cử chỉ yêu thương của chúng ta là một đắp bồi cho dung mạo Chúa Giêsu. Cả cuộc sống bác ái của chúng ta là họa lại dung mạo Chúa Giêsu trong cuộc đời chúng ta. (Theo “Chờ đợi Chúa”).
2. Chúa Giêsu ra mắt đồng hương
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dần tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha… Công bố năm hồng ân của Chúa” (Lc.4,18-19).
Sau khi tuyên thệ nhậm chức, các tổng thống Mỹ đua ra lời phát biểu đầu tiên. Bài phát biểu thường cho thấy sự hiểu biết sâu sắc về những gì người ta chờ đợi nơi họ.
Tin mừng hôm nay cũng giống như một bài phát biểu. Chúa Giêsu được Chúa Cha chọn vào sứ vụ của Đấng Mêsia. Ngài bắt đầu sứ vụ bằng cách đứng giữa công chúng và nói cho ta biết điều ta chờ đơi nơi Ngài trong sứ mệnh cứu thế.
Điều gì làm tôi ngạc nhiên, ít là về những gì Chúa Giêsu đã nói trong sứ điệp khai mạc của Người? Tại sao?
“Tôi biết rõ con người, và tôi nói với các bạn rằng: Chúa Giêsu Kitô không phải là một con người” (Napoléon Bonaparte) (Trích “Viễn tượng 2000”).
3. Tấm lòng vàng
Tại California bên Hoa Kỳ có một người ăn xin được nhiều người biết là ông En-đi-va-gát 70 tuổi. Ngày ngày ông đi nhặt những chiếc lông nhung. Ông không phải là kẻ ăn xin tầm thường, mà là người ăn xin triệu phú. Ông được trúng số độc đắc, thế là từ một người ăn xin nghèo khó nay trở thành triệu phú.
Nhưng ông không quên nguồn gốc của ông. Và vì đó mà ông rất thương yêu những người đồng cảnh ngộ. Sở dĩ ông tiếp tục ăn xin là để gần gũi những người nghèo khổ bất hạnh để ông giúp đỡ. Tiền xin được ông đem giúp trẻ em nghèo được tiếp tục đến trường, các sinh viên theo đuổi việc học. Ngay lúc trúng số, ông đã biếu ngay 20 ngàn mỹ kim vào quỹ học bổng.
Ông là một triệu phú đích thực. Ông giàu không phải vì trúng số mà giàu vì tấm lòng vàng.
---------
Nét đẹp của câu chuyện trên đây là người triệu phú lại chấp nhận ăn xin cho người nghèo. Cũng như trong Tin mừng hôm nay, Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong nghĩa là được phong vương lại được sai đi để chăm lo cho những người nghèo khó, tù đày, đui mù, bị áp bức…
Chính nét đẹp đó cũng đòi hỏi nơi người Kitô hữu chúng ta “đem Tin mừng cho người nghèo khó”.
Thế giới mỗi ngày vẫn có đến 40 ngàn trẻ em chết vì đói. Có lẽ nhân loại chúng ta không chết đói vì thiếu lương thực cho bằng vì thiếu tình thương.
Con người cần cơm bánh để sống, nhưng con người cũng cần tình thương để tồn tại. Kẻ đón nhận tình thương cũng được sống mà người san sẻ tình thương cũng được sống, vì ai sống trong tình yêu người ấy sống trong Thiên Chúa. (Trích “Tất cả là hồng ân”).
4. Vì hạnh phúc tha nhân
Truyện cổ Trung Hoa kể lại: Hai nước kia định giao chiến với nhau. Quân đội đôi bên đã đặt trong tình thế ứng chiến. Cả hai nước đều cho người đi trinh thám để tìm địa điểm tấn công thuận lợi nhất. Thế là chiến tranh xem ra không thể tránh.
Sau một thời gian quan sát kỹ lưỡng, đội trinh sát đôi bên đều về trình lên thượng cấp:
“Có một địa điểm nằm trên khu vực thuận lợi cho cuộc tấn công. Nhưng ngay tại địa điểm đó có một gia đình sinh sống, gồm hai vợ chồng và đàn con thơ đang sống đầm ấm hạnh phúc trong một mái nhà tranh xiêu vẹo. Chúng tôi đã tìm cách tiếp xúc với gia đình này. Họ là những người rất chân chất làm ăn và rất hiếu khách. Họ tha thiết được sống yên ổn trong mái chòi tranh nhỏ bé của họ. Nếu chúng ta tấn công vào đất địch, buộc lòng chúng ta phải tiêu hủy căn nhà của họ và sát hại chính họ nữa; như thế là chúng ta cướp mất hạnh phúc của họ. Chúng ta nghĩ rằng cuộc tấn công không thể diễn ra được”. Nghe xong báo cáo, bộ tổng tham mưu hai nước đều thấy hợp lý, nên chiến tranh đã không xảy ra.
*****
Chỉ vì hạnh phúc của một gia đình mà chiến tranh đã không diễn ra giữa hai nước. Nếu ai hành động vì hạnh phúc của người khác, nhất là những người bé nhỏ bất hạnh thì chiến tranh đã không xảy ra giữa người với người. Tận trong thẳm sâu của tâm hồn, ai cũng khao khát hạnh phúc, ai cũng muốn người khác mang lại cho mình hạnh phúc, nhưng người ta quên rằng: Hạnh phúc chỉ đến với chúng ta khi chúng ta biết tạo hạnh phúc cho người khác.
Trong Tin mừng hôm nay, chúng ta được Thiên Chúa sai Con Một của Người là Đức Giêsu đến đem hạnh phúc cho ta, nhất là cho những “kẻ nghèo hèn, kẻ bị giam cầm, người mù, người bị áp bức!!!” Còn chúng ta, chúng ta có biết đem hạnh phúc niềm vui cho anh chị em chúng ta không? Chúng ta có chia sẻ niềm vui Chúa ban cho đồng bào đồng loại chúng ta chăng? Hay chúng ta ích kỷ giữ riêng cho chúng ta?
Trong cái nhìn của đức tin, tất cả những gì chúng ta có đều là quà tặng nhưng không (free) của Chúa, tất cả những gì chúng ta làm được cho đến đức tin đều phát xuất từ lòng quảng đại của Thiên Chúa. Chính vì nhận lãnh nhưng không (free) mà chúng ta cũng được mời gọi để trao ban nhưng không(free). Nếu chúng ta biết trao ban những gì Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta thì chắc chắn chúng ta sẽ được hạnh phúc, như Lời Người hứa; “Các con cho bằng đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy, và đã dằn đã lắc…” (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập IV).
5. Nghe bằng ba lỗ tai
Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần tấn phong để loan báo Tin mừng cho chúng ta.
Chúng ta cần phải nghe Lời Chúa bằng ba cách: bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của tâm hồn.
Nghe Lời Chúa bằng lỗ tai tâm trí là gì? Đó là cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, làm cho lời đó sống động như chúng ta đang nghe chính Chúa nói với chúng ta.
Thánh Inhatiô Loyola thường nghe Lời Chúa bằng cách này. Ngài nhắm mắt lại và tưởng tưởng như mình đang ở trong hội đường Do thái xưa nghe chính Chúa nói.
Lắng nghe Lời Chúa bằng lỗ tai của trái tim là ghi tạc Lời Chúa vào trái tim, và cố gắng áp dụng lời đó vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống chúng ta như Charlic Pitts. Ông là chủ công ty xây dựng ở Toronto, Canađa. Ông càng làm ăn phát đạt thì cá nhân và gia đình ông càng bê bối sa đọa. Ông phải cầu cứu tới việc đọc Kinh Thánh. Tình cờ ông đọc thấy: “Kẻ nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân thì nào có ích lợi gì” (Lc.9,25). Ông ghi khắc lời đó vào trái tim và suy nghĩ xem phải áp dụng lời đó vào hoàn cảnh của ông thế nào.
Và nghe Lời Chúa bằng lỗ tai tâm hồn là xin Chúa hướng dẫn phải làm gì theo Lời Chúa, như Charlie Pitts làm sau đây. Sau khi cầu nguyện, ông bàn luận với vợ con rồi bán công ty, lấy tiền mua một khách sạn, lợi tức của việc kinh doanh này ông dùng để giúp công cuộc truyền giáo.
Bởi thế, mỗi khi sắp nghe Linh mục đọc Tin mừng trong Thánh lễ, mỗi người Kitô hữu chúng ta làm dấu thánh giá trên trán, trên miệng và trên ngực: làm dấu thánh giá trên trán có ý xin cho chúng ta hiểu được Lời Chúa; làm dấu thánh giá trên miệng để xin cho chúng ta biết nói Lời Chúa cho kẻ khác; làm dấu thánh giá trên ngực có ý xin Chúa cho chúng ta biết mến mộ Lời Chúa.
Như thế việc nghe Lời Chúa mới đem lại lợi ích cho chúng ta, gia đình chúng ta và tha nhân. (Theo “Sunday Homilies”).
Chúa Nhật 3 Thường Niên (Cha Phong, FB)
NĂM HỒNG ÂN CỦA CHÚA
* LỜI CHÚA: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4,18-19)
* CHIA SẺ:
Có thể nói, cuộc sống luôn là một sự biến chuyển không ngừng. Có những sự kiện, biến cố xảy ra, đem lại niềm vui hạnh phúc cho nhiều người; nhưng cũng có những sự kiện, biến cố xảy ra làm cho cả thế giới phải lo âu, sợ sệt.
Ngày 29 tháng 6 năm 2014, những người Hồi giáo cực đoan đã thành lập nên nhà nước Hồi giáo tự xưng tại vùng đất Irắc, từ đó, họ đặt ra những luật lệ khắc nghiệt, tàn độc, họ tiến hành các cuộc đánh bom liều chết, những vụ khủng bố kinh hoàng khắp nơi trên thế giới … làm cho tình hình thế giới trở nên rối ren, sự hận thù lên đến đỉnh điểm.
Ngày 13 tháng 3 năm 2013 Khi Đức Thánh Cha Phanxicô được chọn làm giáo hoàng của giáo hội hòan vũ, với một con người gốc Á Căn Đình, có lẽ thế giới đang còn tranh luận tại sao Đức Bênêdictô 16 lại từ chức. Do Chúa muốn, từ đó đến giờ Đức Phanxicô đã mang lại cho giáo hội nhiều điều thay đổi, nhiều luồng gió mới của Chúa Thánh Thần hoạt động. Năm vừa qua tháng 9 đã đến đất nước Hoa Kỳ, có bài tại Hội đồng liên hiệp quốc, tại thủ đô của hoa kỳ, và nhất là có sự khuyến khích cho các gia đình nhân đại hội gia đình thế giới tại Philadelphia. Nhưng tháng 11 vừa qua 2015, ngài đến Trung Phi thật như một phép lạ, vì an ninh không bảo đảm và ba quốc gia rất nghèo, chính ngài đã mở cửa năm thánh lòng thương xót Chúa tại đây cho toàn khối trung phi để Chúa Thương xót an ủi họ. Đây là sinh khí của Chúa Thánh Thần rất mạnh cho giáo hội chúng ta, trong thời đại này.
Cách đây hơn 2000 năm, một con người đã đem đến cho nhân loại sự bình an, tình yêu và hạnh phúc tràn ngập – đó là Chúa Giêsu Kitô – Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Ngài đến để cho con người được sống và sống đời đời. “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.”
Chỉ có Chúa Giêsu Kitô mới đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc.
Chỉ có Chúa Giêsu Kitô mới đem lại cho con người sự sống đời đời.
Chỉ có những ai tin vào Chúa Giêsu, yêu mến Chúa Giêsu, tín thác vào Chúa Giêsu, những người đó mới được hưởng sự bình an và tình yêu viên mãn.
Một khi con người càng loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình, con người chỉ nhận lãnh sự đau thương và chết chóc.
Một khi con người càng loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình, chiến tranh, hận thù, khủng bố càng ngày càng gia tăng.
Chỉ có tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa mới xóa đi sự hận thù, chia rẽ, chiến tranh đang tràn lan khắp nơi trên thế giới này.
* CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa! Xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Amen.
19. Người nghèo của Chúa
"Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin mừng cho người nghèo khó" (Lc 1, 18-19). Nhưng ai là người nghèo trước mặt Thiên Chúa?
Trang Website "Một Góc Trời" có mục "100 bức ảnh làm thay đổi thế giới". Có 2 bức ảnh làm tôi xúc động đến ngậm ngùi. Bức ảnh thứ nhất đăng hình một bàn tay bé nhỏ, gân gốc, đen đủi, xấu xí của một người Uganda (mà tôi đoán là bàn tay của một bà lão) đưa ra và đặt lên một bàn tay trắng trẻo, mập tròn của một nhân viên cứu trợ đến làm việc ở đất nước này. Một hình ảnh thật xúc động làm sao! Bức ảnh đó làm tôi suy nghĩ đến thân phận của con người trước Thiên Chúa. Thiên Chúa đã giơ tay ra nâng đỡ bàn tay đen đủi và khẳng khiu của con người.
Bức ảnh thứ hai chụp hình một đức bé khoảng 5 tuổi ở, trần truồng, ốm yếu ở Xuđăng (chỉ còn da bọc xương), đang đói lả nhưng vẫn cố bò về phía trại phân phát lương thực của Liên Hợp Quốc, cách đó khoảng 1km. Phía sau em là một con chim Kên Kên đang chờ đứa trẻ bị chết để nó có thể ăn thịt. Bức ảnh đã làm cho cả thế giới bàng hoàng. Không ai biết điều gì xảy ra với em bé, kể cả nhà nhiếp ảnh Kevin Carter, người đã rời ngay khỏi hiện trường sau khi chụp. Người ta cũng nói rằng ba tháng sau, Kevin đã tự sát.
Hai hình ảnh vừa kể cho chúng ta thấy rõ thực tế rất đáng buồn trên thế giới ngày nay là tình trạng nghèo khổ của hơn 1 tỷ người không có thức ăn hàng ngày, đặc biệt là ở các nước Châu Phi, chiến tranh và thiên tai nặng nề. Cái nghèo đói về mặt thân xác đã làm cho con người ta khổ đau đến thế. Người nghèo được Chúa Giêsu giải thích còn là những kẻ bị giam cầm, người mù, người bị áp bức... họ đang mong được thoát khỏi tình trạng ấy. Cho nên, Tin mừng của Chúa Giêsu mang đến cho họ quả là tin vui và tin mừng trọng đại.
Nhưng nếu người nghèo chỉ là những người nghèo về cơm bánh, những người bị giam cầm, bị mù loà, bị áp bức mà thôi, thì có lẽ đa số chúng ta đang ngồi đây không thuộc về hạng người đó. Vậy thì việc Chúa nói "loan Tin Mừng cho người nghèo khó" xem ra không liên hệ gì đến chúng ta rồi! Nhưng tinh thần của Tin Mừng hôm nay còn vượt xa phạm vi ấy rất nhiều. Theo nghĩa đen, thì chúng ta có thể là những người không bị giam cần, không bị mù loà, không bị áp bức về thể xác. Nhưng xét cho cùng, ai trong chúng ta mà không khổ sở thiếu thốn về một thứ gì đó: hoặc là vật chất hoặc là tinh thần. Ai trong chúng ta mà không bị "giam cầm" bởi một thứ "tù ngục" nào đó. Trong thực tế, chúng ta thấy có những kiểu nhà tù không chấn song, nhưng đã giam hảm con người trong đó. Có người bị "giam cầm" bởi những đam mê về tình, tiền hay tửu (rượu). Trong thực tế, ai trong chúng ta lại không bị "mù" một cách nào đó trước những vấn đề của cuộc sống: "mù" về nhận thức (không nhìn thấy chân lý), "mù" trong những chọn lựa (nhất là tình yêu mù quáng), "mù" trong cách hành xử đối với nhau...Cách đây 3 ngày, có một chuyện gây náo động cả thành phố Huế. Đó là câu chuyện liên quan đến anh chàng tên Minh, đang là một quân nhân phục vụ trong sư đoàn 968 đóng quân tại Cam Lộ, Quảng trị. Vì nghĩ rằng bị gia đình người yêu (đã đính hôn) ở thành phố Huế khinh thường vì mình nghèo, nên đã lén lấy súng của đơn vị đi tìm người yêu để nói chuyện. Vì được báo trước nên người yêu kịp lánh mặt, nhưng không may cho một cô nữ sinh đang học lớp 10 tình cờ bị hắn bắt làm con tin và đem vào một Khách Sạn ở Huế. Sau gần một đêm không ngủ của người dân cả khu vực gần đó và một lực lượng cảnh sát chuyên nghiệp, cuối cùng anh chàng Minh ấy đã bị trúng hơi cay của cảnh sát nghiệp vụ (cả cô gái nữ sinh cũng bị) và đã bị bắt. Đó là một thứ "mù quáng" trong những chọn lựa và hành động của con người! Cũng vậy, ai trong chúng ta lại không bị "áp bức" bởi một thế lực gian tà nào đó trong thế gian này. Đến như thánh Phaolô mà còn phải nhìn nhận rằng: "điều tôi muốn làm thì tôi không làm, điều tôi không muốn làm thì tôi lại cứ làm". Đó lại không phải là mình đang bị "áp bức" bởi dục vọng thấp hèn đó sao?!... Vì thế, Tin Mừng mà Chúa Giêsu đem đến cho trần gian và rao giảng là Tin Mừng dành cho tất cả mọi người, trong đó có chúng ta. Tin mừng có sức mạnh giải thoát, cứu sống và ban niềm vui cũng như hạnh phúc đích thực cho con người. Tuy nhiên, Tin Mừng mà Chúa Giêsu loan báo chỉ có hiệu quả đối đích thực đối với những ai ý thức về thân phận của mình là người nghèo, những người cần được Thiên Chúa cứu giúp.
Vậy chúng ta hãy xét lại xem mình là người thế nào trước mặt Thiên Chúa. Nếu thấy mình là "người nghèo" của Thiên Chúa, thì chúng ta hãy nhanh chóng chạy đến với Chúa và mở lòng mình ra đón nhận Tin mừng cứu độ của Ngài, vui vẻ sống theo những gì mà Chúa chỉ dạy để chúng ta là những người hạnh phúc ngay ở trần gian này: "Phúc cho những ai biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa". Amen.
20. Đường nẻo Chúa--Thu Băng, CRM
Sau phép lạ ở tiệc cưới Cana, tiếng tăm Ngài đồn ra khắp xóm. Ngài vào hội đường giảng dạy. Ngài đọc Thánh Kinh, gặp thấy đoạn sách: “Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng cho người nghèo khó, ban bố thứ tha cho mọi kẻ giam cầm, người mù được chữa lành, người áp bức được tự do và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa”. (Lc.04:14-21).
Thánh Luca nhắc lại lời của ngôn sứ Isaia như nhắc đến đường lối hoạt động của Chúa, khác xa với đường lối hoạt động của chúng ta. Chúng ta chỉ đánh giá qua biểu tượng bên ngoài, chỉ dựa trên thế quyền (lý của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng), dựa trên danh giá (có thế mới bế nổi người), dựa trên giấu sang (Miệng nhà giầu có gang cò thép, nén bạc đâm toạc tờ giấy), và dựa trên kiến thức (có văn hóa cao). Còn đường lối của Chúa là đem Tin Mừng cho người nghèo khó, khổ sở, đói khát…
Một Đavid bé con Chúa làm cho thắng nổi Goliat đồ sộ to lớn. Maria hè mọn Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Các môn đệ quê mùa dốt nát Chúa cho làm môn đệ giảng giải sự chân thật. Đường lối của người đời thì kiêu căng, kiêu ngạo, lên mặt, còn đường lối của Chúa thì khiêm hèn, đơn sơ, chất phác, đem hạnh phúc cho người khiêm tốn. Thánh Grêgoriô nói:
- Kiêu căng là dấu rõ ràng nhất của kẻ đã bị loại trừ, còn kẻ hèn yếu thì đặt niềm tin, cậy và phó thác vào Chúa, dễ đón nhận tin mừng và được Chúa chúc phúc. Cũng thế, kẻ kiêu căng chất đầy tâm hồn những tự phụ, tự mãn, tự cao thì đâu có chỗ cho Chúa nữa.
Từ đó chúng ta suy ra: Người nào coi mình chỉ là số không, thì có đủ chỗ cho Đấng vô cùng, còn kẻ nào coi mình là vô cùng thì trước mặt Chúa họ chỉ là hư vô mà thôi.
Xưa có ông Trần Công, là người tốt, gặp ai cũng giúp, gặp việc gì cũng làm. Một hôm ông đến làng Hòa Đa, nơi đây đang bị hạn hán, đồng ruộng nứt nẻ, sông ngòi khô quêo không một giọt nước. Đi cả ngày, thấy khô cổ, ông vào làng kiếm nước, nhà nào cũng bỏ đi nơi khác. Ông trèo lên một ngọn núi cao, thấy xa xa một toán người cầm bình nước, ông gọi xin. Người kia nói:
- Làng chúng tôi bị hạn hán 6 tháng trời, dân làng bỏ đo nơi khác hết trọi Giá có người nào lên thỉnh thần mưa, nhắc khéo hộ chút thì tốt quá. Trần Công nói ngy:
- Tôi đây, chứ ai nữa. Rồi ông xấn xả đi liền, đi cả ngày chưa tới. Ông trèo lên đồi trọc, thấy bà già khòm lưng bị nhốt trong nhà kêu cứu:
- Cứu tôi với. Ông chạy đến thả tự do cho bà. Bà hỏi:
- Ông đi đâu đấy? Ông trả lời:
- Tôi đi tìm thần mưa giúp làng Hòa Đa, họ bị hạn hán lâu ngày rồi, xin thần mưa thương họ chút.
- Nhà Thần mưa còn xa lắm. Để tôi biếu ông cái này, nó có phép thần thông thu ngắn đoạn đường. Chỉ cần nói mình muốn đi đâu là đủ. Trần Công vui vẻ nhận tặng vật, cảm ơn, rồi bảo gậy:
- Hỡi gậy thần, hãy đưa ta tới xứ thần mưa. Tự nhiên ông thấy hoa mắt, cây nối, núi non chạy như bay về phía sau. Phút chốc ông thấy mình đến xứ Thần mư. Ông đến gọi cổng thì một người trương phi xuất hiện tự xưng là Thần mưa. Trần Công nói:
- Xin Thần mưa giáng phúc cho làng Hòa Đa, lâu quá rồi không có một giọt nước. Thần Mưa chỉ cho ông một con tuấn nã và một bình nước, rồi sai ông cỡi tuấn mã đi rảni nước xuống các làng ông muốn. Bỗng chốc, nước vẩy nước mưa lai láng cả mặt đất. Đến làng Hòa Đa Trần Công dội cả bình nước xuống, khiến thành bão lụt, trôi chảy cả nhà cữa, đất đai. Hôm sau ông từ giã ra về, cái gậy thần lại cuốn ông như lần trước. Đến làng Hòa Đa, nhà cửa, đất đai trôi sạch, khiến ông tiếc xót chép miệng than “Làm ơn nên oán”.
Đường lối của con người nghĩ là tốt, là hay nhưng đường lối Chúa thì khác. Chúa đã muốn phạt ai thì dù có tìm mọi cách để đem lại bình an cho họ, cũng sẽ bị Chúa trừng trị cách khác. Chi bằng lặng yên theo đàng nẻo Chúa thì hơn.
21. Sứ mạng của chúng ta đối với Lời Chúa?--Lm. Anthony Trung Thành
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Sau khi đọc xong lời Kinh Thánh trên đây tại hội đường Nazarét, Chúa Giêsu đã tuyên bố rằng: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các người vừa nghe” (Lc 4,21). Vâng, đó chính là sứ mạng của Ngài. Trong ba năm hoạt động công khai, Ngài đã chu toàn trọn vẹn sứ mạng cao cả đó. Trước khi về trời, Ngài đã trao sứ mạng đó cho các Tông đồ và mỗi người chúng ta: “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15. Vậy, chúng ta phải làm gì để chu toàn sứ mạng đó?
1. Đọc và suy gẫm Lời Chúa
Để loan báo về Đức Kitô thì trước hết phải biết về Ngài. Muốn biết về Đức Kitô một cách chính xác cần phải biết Kinh Thánh. Thánh Giêrônimô nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Đức Kitô”. Để biết về Kinh Thánh, cần phải đọc Kinh Thánh dưới sự hướng dẫn của Giáo Hội và sự linh hứng của Chúa Thánh Thần. Để hiểu ý nghĩa từng câu, từng đoạn trong Kinh Thánh cần phải liên kết nó với toàn bộ Kinh Thánh. Kinh Thánh là Lời Chúa. Lời Chúa là chính Chúa. Bởi vậy, cần phải đọc Kinh Thánh với một thái độ tôn kính và yêu mến. Chúng ta thường thấy ở phần cung thánh của nhiều thánh đường đã thiết kế hai nhà tạm: Một bên để Lời Chúa và bên kia là Thánh Thể. Lời Chúa và Thánh Thể ngang hàng với nhau.
Trong bài đọc I, khi Esdras đọc Lời Chúa: Tất cả dân chúng đều lắng nghe ông đọc sách luật; tất cả đều đứng lên; toàn dân cảm động đến muốn khóc (x. Bài đọc I). Trong bài Tin Mừng, Thánh Luca tường thuật lại: Chúa Giêsu đứng dậy đọc Sách Thánh. Đọc xong, Ngài gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống(x. Lc 4,20). Tất cả các cụm từ: Lắng nghe, đứng lên, cảm động, gấp sách lại…Là những thái độ thể hiện sự tôn kính, yêu mến Lời Chúa. Cũng vì để thể hiện sự tôn kính, yêu mến Lời Chúa, Giáo hội có thói quen đứng dậy khi đọc Lời Chúa, đặc biệt là đọc Tin Mừng. Sau bài Tin Mừng trong thánh lễ, các linh mục hôn kính Sách Thánh.
Để nhằm mục đích cho con cái được đọc và nghe Lời Chúa thường xuyên, trong các ngày thường quanh năm, ngoài bài Tin Mừng ra, Giáo hội sắp xếp các bài đọc trong thánh lễ thành năm chẵn, năm lẽ. Trong các ngày Chúa nhật, ngoài bài đọc I và II, Bài Tin Mừng được sắp xếp theo chu kỳ A,B,C. Ngoài ra, Giáo Hội còn đưa các bài đọc vào các Giờ Kinh Phụng Vụ. Giáo Hội còn khuyến khích các gia đình đọc Lời Chúa trong các giờ kinh tối sáng. Giáo hội còn mong muốn con cái của mình đọc một đoạn Lời Chúa: Trước các buổi sinh hoạt của các tổ liên gia hay trong các cuộc hội họp của hội đoàn, đặc biệt là tại các buổi chia sẻ Lời Chúa…Giáo Hội làm hết sức mình để mỗi người có thể tiếp xúc với Lời Chúa, đọc và suy gẫm Lời Chúa hằng ngày. Chính vì vậy, mỗi chúng ta cần phải dành nhiều thời gian để đọc và suy gẫm Lời Chúa như Giáo Hội mong muốn.
2. Phổ biến Lời Chúa
Khi đã đọc và suy gẫm Lời Chúa, người Kitô hữu chúng ta còn cần phải tìm cách phổ biến Lời Chúa cho những người khác. Thánh Phaolô nói: “Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng?” (Rm 10,14). Đối tượng để chúng ta phổ biến Lời Chúa là hết thảy mọi người.
Trước hết, phải phổ biến Lời Chúa cho những người thân trong gia đình. Mỗi thành viên trong gia đình có trách nhiệm phổ biến Lời Chúa cho nhau. Đặc biệt, cha mẹ có trách nhiệm phổ biến Lời Chúa cho con cái. Nhiều cha mẹ thường đưa những kinh nghiệm rút ra từ các câu ca dao, tục ngữ để dạy con cái. Điều đó rất tốt. Nhưng sẽ tốt hơn, nếu cha mẹ biết vận dụng những câu Kinh Thánh, những câu chuyện được rút ta từ Kinh Thánh để dạy cho con cái mình. Để làm tốt điều đó, mỗi gia đình cần có ít nhất là một cuốn Kinh Thánh.
Thứ đến, chúng ta có trách nhiệm phổ biến Lời Chúa cho những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Thánh Ingatiô đã lặp đi lặp lại câu Lời Chúa "Có lợi ích gì nếu được cả thế gian mà mất sự sống?" (Mt. 16,26a). Nhờ thế, Ngài đã thuyết phục được chàng trai trẻ là Phanxicô Xaviê từ bỏ mọi vinh hoa phú quý để trở thành vị Tông đồ đem Tin Mừng cho người Á Đông. Theo gương Thánh Ignatiô, chúng ta có thể tặng cho bạn bè, tặng cho anh em lương dân, những người chúng ta gặp gỡ các câu Lời Chúa, sách Kinh Thánh. Và nếu có thể, hãy dạy giáo lý cho họ khi có cơ hội. Thánh Phanxicô viết cho Thánh Ignatiô từ Viễn Đông rằng: “Khi tôi đến các làng, trẻ em không để cho tôi đọc kinh nhật tụng, ăn uống, ngủ nghỉ, nếu tôi chưa dạy cho một kinh…Tôi đã bắt đầu dạy cho chúng làm dấu thánh giá mà tuyên xưng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và dạy cho chúng kinh Tin Kính, kinh Lạy Cha, kinh Kính Mừng” (x. Bài đọc 2, Kinh Sách ngày 3/12).
Thứ ba, hãy phổ biến Lời Chúa qua các phương tiện truyền thông đại chúng: Internet; sách báo... Hiện nay, hầu hết các Giáo Phận, các Dòng Tu và nhiều Giáo Xứ có trang Web riêng. Đa số các trang web đó đều phổ biến Lời Chúa và các bài suy niệm Lời Chúa hằng ngày. Ngoài ra, trên các trang mạng xã hội, có rất nhiều cộng đoàn, cá nhân đăng tải các bài Lời Chúa, các câu Lời Chúa, các bài suy niệm…Thiết nghĩ, đó là cách phổ biến Lời Chúa rất hữu dụng. Đành rằng, phương tiện nào cũng có hai mặt: Mặt phải và mặt trái; mặt tốt và mặt xấu. Đừng vì mặt trái, mặt xấu mà chúng ta bỏ lỡ cơ hội để phát huy mặt tốt. Trong mảnh ruộng đầy cỏ gú, cách tốt nhất để diệt chúng là trồng thế vào đó những cây giống tốt.
Ngoài ra, chúng ta có thể phổ biến Lời Chúa bằng nhiều cách khác nữa, tuỳ vào hoàn cảnh và điều kiện của chúng ta. Tôi thấy nhiều nhà thờ có chương trình hái lộc Thánh Lời Chúa trong đêm giao thừa hay trong ngày mùng một tết. Mỗi gia đình cử một đại diện lên hái lộc Lời Chúa, câu Lời Chúa hái được là châm ngôn sống của cả gia đình mình trong năm mới. Đó là cách làm rất có ý nghĩa.
3. Thực hành Lời Chúa
Sau khi đọc sách tiên tri Isaia(x. Is 61,1-2). Chúa Giêsu dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay, ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe” (x.Lc 1,21). Chúa Giêsu không những tuyên bố mà Ngài còn thực hiện trọn vẹn lời tiên báo của tiên tri Isaia: Ngài đã đi khắp nơi rao giảng Tin mừng; giải thoát cho những kẻ bị giam cầm trong tội; trả tự do cho kẻ bị áp bức; chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền...Chúng ta cũng vậy, không chỉ đọc, suy gẫm và phổ biến Lời Chúa mà còn cần phải thực hành Lời Chúa, nghĩa là sống chứng nhân Tin Mừng. Đây là cách loan báo Tin Mừng có sức thuyết phục nhất. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Con người thời nay thích lắng nghe các chứng nhân hơn là nghe những thầy dạy, và nếu họ lắng nghe những thầy dạy thì bởi vì những thầy dạy ấy là các chứng nhân”. Có nhiều cách sống chứng nhân Tin Mừng, nhưng thiết nghĩ cách tốt nhất là sống hiệp nhất yêu thương: Sự hiệp nhất yêu thương đó đã được Thánh Phaolô diễn tả một cách rõ ràng trong bài đọc II, Ngài nói: “Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1Cr 12, 12-13). Đức Kitô là thân nho, mỗi thành phần trong Giáo hội là những cành nho. Cành nho phải liên kết với thân nho (x. Ga 15,1-8). Mặc dầu mỗi thành phần trong Giáo hội khác nhau về tiếng nói, màu da, chủng tộc… Nhưng đều là chi thể trong một thân thể là Đức Kitô. Vì vậy, cần phải liên kết với nhau, cần phải hiệp nhất yêu thương nhau. Hiệp nhất yêu thương giữa các thành viên trong gia đình, trong các cộng đoàn và trong toàn thể Giáo Hội. Các Kitô hữu đầu tiên đã sống hiệp nhất yêu thương khi tất cả các tín hữu chỉ có một lòng một ý, và để mọi sự làm của chung (x. Cv 2,44). Khi đạo Công Giáo mới du nhập vào nước ta, người ngoại giáo chưa biết gọi tên đạo chúng ta là gì, nhưng họ nhìn thấy các kitô hữu sống hiệp nhất yêu thương nhau nên họ gọi đạo chúng ta là đạo yêu thương. Cho nên, có thể nói “Yêu Thương” là tên gọi khác của đạo Công Giáo. Xin cho mọi người kitô hữu chúng ta biết sống hiệp nhất yêu thương để mọi người nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa, như Chúa Giêsu đã từng nói: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xưa Chúa đã hoàn thành sứ mạng loan báo Tin Mừng. Trước khi về trời, Chúa đã trao phó sứ mạng đó cho Giáo Hội và mỗi người chúng con. Xin giúp chúng con chu toàn sứ mạng đó bằng cách siêng năng đọc, phổ biến và thực hành Lời Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
22. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
"Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh qúy vị vừa nghe", lời kết luận trên đây của Ðức Giêsu tại Hội Ðường Nazareth phải là Kim Chỉ Nam cho mọi nỗ lực loan báo Tin Mừng. Có lẽ chúng ta vì miệt mài trong công tác rao giảng, nên ít có thời gian nghiêm túc xem xét lại hướng đi của mình.
Lời Kinh Thánh Ðức Giêsu vừa công bố tuy vắn gọn, nhưng lại có cái nhìn bao quát về hoạt động loan báo Tin Mừng:
1. Tin Mừng trước hết không phải là sản phẩm của trí tuệ con người, càng không phải là thành qủa lao động của con người, nhưng Tin Mừng là hành động của Thánh Thần Thiên Chúa trong lịch sử. "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi sai tôi đi loan báo Tin Mừng." Vì là công việc của Thánh Thần, người loan báo cũng như người lãnh nhận chỉ có thể được coi là cộng sự viên, nếu họ đặt mình dưới tác động của Thánh Thần. Ðây là điểm then chốt, nhưng thường lại dễ bị lãng quên. Người loan báo cũng như người lắng nghe thường dễ để mình bị lôi cuốn vào dòng suy nghĩ của trần thế.
2. Tin Mừng được loan báo "cho kẻ nghèo hèn", "những tấm lòng tan nát", "những kẻ bị giam cầm", "những người bị áp bức". Tin Mừng vì thế luôn là "công bố năm hồng ân của Thiên Chúa": sự tha thứ và giải thoát. Cảm nghiệm ấy đã trở thành nền tảng lòng tin của Dân Chúa ngay từ lúc được khai sinh trên đất Ai Cập khi Thiên Chúa quy tụ dân Người, dắt họ ra khỏi cảnh nô lệ, đưa họ về đất hứa. Và như đoạn sách Nêhêmi vừa trình bầy cảm nghiệm ấy một lần nữa trở nên sự sống của dân Chúa sau thời lưu đầy. Tin Mừng luôn là một việc tái tạo lại lịch sử: can dự vào chính cuộc sống, cầy xới, lật tung những tầng lớp khố đế thâm căn của con người, để đưa họ vào một thay đổi từ bản thân, đến gia đình và xã hội, trong chiều hướng thiết định một sự bình an mới, sự bình an dựa trên sự tha thứ và giải thoát.
3. Thánh Phaolô chỉ cho thấy đây là công việc vô cùng phong phú muôn hình muôn vẻ của quyền năng Thiên Chúa, và con người thật mỏng manh, chỉ có thể tiếp nhận một góc độ hạn hẹp: vì vậy Thiên Chúa ban cho mỗi người một ân điển, để họ cùng nhau diễn tả sự phong phú vô lường của Tin Mừng. Ðáng tiếc là con người thường có khuynh hướng giam hãm Tin Mừng trong cái vỏ mong manh của họ, không khai mở đón nhận sự cộng tác của anh em mình.
Tin Mừng vì thế có một năng động tính đến nỗi chúng ta có thể qủa quyết rằng không ai có thể nghĩ mình có thể đáp ứng sức linh hoạt của Tin Mừng, nếu không được Thần Khí Thiên Chúa tác động.
23. Chúa Nhật 3 Thường Niên
Con người ngày nay tự hào về sự hiểu biết của mình, nhờ trí khôn ngoan, con người phát minh khoa học,...Thế nhưng đứng trước mầu nhiệm về Thiên Chúa, trí khôn con người không sao hiểu nổi và ngôn ngữ của con người làm sao có thể diễn tả hết được? Bởi vì con người mang bản tính giới hạn, bất toàn. Chỉ Thiên Chúa mới có thể giúp con người hiểu Lời Ngài cách xứng hợp.
Hôm nay chúng ta được nghe chính Đức Giêsu đọc lại lời tiên tri Isaia và giải thích: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết họ sẽ được sáng mắt, trả lại tự do người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa" (Lc 4, 18 - 19). Đọc xong, Ngài ngồi xuống. Mọi người nhìn thẳng vào Ngài mà chờ đợi. Trong khung cảnh im lặng linh thiêng ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe" (Lc 4, 20 - 21).
Phải, Đức Giêsu đã làm ứng nghiệm mọi lời tiên tri nói về Ngài từ hàng trăm năm trước. Đó là bằng chứng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến, Ngài thật là Con Thiên Chúa. Một bằng chứng khác nữa là những phép lạ Ngài làm đã có rất nhiều lời tiên tri trong Cựu Ước tiên báo. Hơn nữa, suốt thời gian Ngài sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện lời tiên tri tiên báo: "Ngài công bố Tin Mừng cho người nghèo". Ngay lúc mới sinh ra, những mục đồng nghèo khó là những người đầu tiên được loan báo Tin Mừng. Sau này, khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả đến hỏi Ngài có phải là Đấng Cứu Thế không, Ngài đã bảo họ về kể lại cho ông Gioan biết những gì Ngài đã làm; người mù được thấy, người què được đi, người điếc được nghe, người câm được nói...đúng như lời tiên tri Isaia đã tiên báo.
Hôm nay, trong hội đường ở Nagiarét, giữa người đồng hương của Ngài, Đức Giêsu đã tuyên bố: "Ngài đến thể thực hiện những lời tiên tri Isaia mà họ vừa nghe Ngài đọc". Ngài có sứ mạng đem ơn cứu độ đến cho những người nghèo đói, bệnh tật, kẻ bị tù đày, bị áp bức, qua lời giảng dạy và những phép lạ Ngài làm. Nói như thế có nghĩa là Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến công bố năm hồng ân cho những người nghèo khổ. Ngài quan tâm đến những khổ đau của những con người đau khổ; Ngài giải thoát của họ và ban ơn cứu độ, trước mắt Ngài, là trái lập trật tự trong xã hội con người và trong thế giới, nơi đó, công lý, yêu thương và hòa bình phải ngự trị.
Đức Giêsu đã trao sứ mạng của Ngài cho Giáo Hội. Do đó, Giáo Hội luôn ý thức sứ mạng của mình trong thế giới. Suốt chiều dài lịch sử, Giáo Hội luôn nổ lực thực hiện sứ mạng của Đức Giêsu là đem Tin Mừng cho người nghèo khó...Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm ngày nay vẫn còn giá trị. Và ngày nay sứ mạng của Giáo Hội có lẽ còn khẩn thiết hơn nữa, vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ ngày nay phải bao gồm cả những vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết nhất, liên quan đến công lý, phát triển và hòa bình.
Mỗi người trong phạm vi của mình, không được nản chí, đừng chê việc nhỏ, vì hành động của tình yêu không có gì là nhỏ, là không đáng kể. Còn biết bao người nghèo đói, khốn cùng chung quanh chúng ta. Đến bao giờ chúng ta mới có thể nói được như Chúa Giêsu: "Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe". Mỗi người hãy tiếp nối công việc của Đức Giêsu chung quanh mình, bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người dốt nát, xoa dịu các oán nhờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng hoạt động của mình.
Nếu chúng ta trung thành thực thi nhiệm vụ của người môn đệ Chúa Kitô như đoạn Phúc âm hôm nay, thì lời tiên tri Isaia hôm nay cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa hôm nay đã được công bố và Nước Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta ngay từ bây giờ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con là những môn đệ của Chúa biết bắt chước theo gương Chúa, tiếp nối công việc của Chúa đem tình thương, công lý đến cho người khác. Amen.
24. Chúa Nhật 3 Thường Niên--Lm. Alfonso
Tin mừng Lc 1:1-4; 4:14-21 Chúa Giêsu đã xuất hiện như một con người nhân từ và dịu hiền, luôn quan tâm tới những đau khổ của con người, lấy việc giải thoát họ như là nội dung của sứ mạng mình được sai đến.
Suy niệm:
Chúng ta biết Thánh lễ gồm hai phần chính liên kết với nhau là Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể. Với Phụng vụ Lời Chúa, chúng ta được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa hằng sống, tiếp nối là Phụng vụ Thánh Thể, chúng ta được nuôi dưỡng bằng chính Thịt và Máu Thánh của Người.
Nghi thức Phụng vụ Lời Chúa có từ xa xưa, được biết đến với thầy tư tế tên là Esdras, sống vào thế kỷ thứ V trước Thiên Chúa Giáng Sinh. Trong bài đọc I hôm nay, sách Nơkhemia kể lại việc Esdras tập họp dân chúng, mở sách Luật ra đọc và giải thích từ sang tới trưa mà dân chúng vẫn lắng nghe, tung hô, và phủ phục cầu nguyện.
Và đoạn Tin mừng hôm nay cho biết Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, Người trở về Galilê, và tiếng tăm Người được đồn ra khắp vùng. Người bắt đầu giảng dạy trong các hội đường của người Do Thái. Ở hội đường làng Nadaréth, Chúa mượn lời ngôn sứ Isaia tuyên bố: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Như vậy Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết sứ mạng của Đấng Cứu Thế đến để thực hiện những lời tiên tri Isaia loan báo trong Cựu Ước. Người được Chúa Cha xức dầu và được đổ tràn đầy Thánh Thần để “đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng”.
Lời giải thích của Chúa Giêsu thật ngắn gọn nhưng lại vô cùng quan trọng, đặt người nghe trước một bối cảnh mới, một thời đại mới: Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai quý vị vừa nghe. Chúa Giêsu đã xuất hiện như một con người nhân từ và dịu hiền, luôn quan tâm tới những đau khổ của con người, lấy việc giải thoát họ như là nội dung của sứ mạng mình được sai đến.
Thánh Thần hoạt động nơi Chúa Giêsu thế nào thì Ngài cũng hoạt động nơi mỗi chúng ta là thành phần trong Giáo hội để chúng ta hợp nhất với nhau nhờ một Thánh Thần. Thánh Phaolô ví Giáo hội như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau. Mỗi chi thể đóng một vai trò nhưng bổ túc cho nhau và phục vụ cho lợi ích chung. Chân không thể nói với tay: “Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể,” hay các bộ phận khác cũng thế. Mỗi bộ phận có sự lớn nhỏ, mạnh yếu khác nhau nhưng để giúp đỡ nhau. Trong thân thể Giáo Hội cũng vậy, Thiên Chúa đặt người làm Tông Đồ, người làm ngôn sứ, kẻ làm thầy dạy, người được ơn làm phép lạ, người được ơn chữa bệnh để giúp kẻ khác… Trong một giáo xứ các thành phần dân Chúa khác nhau với những đặc sủng khác nhau nhưng đều đến từ một Chúa Thánh Thần, có một mục đích chung là phục vụ lợi ích của Giáo hội. Đây là những chi thể làm nên thân thể Giáo hội của Chúa Kitô. Như một vườn hoa với đủ loại hoa, mỗi loài hoa làm nên vẻ đẹp phong phú của vườn hoa Giáo Hội muôn sắc.
Năm nay, Giáo phận chúng ta sống chủ đề: “Hiệp thông trong đức ái” là dịp để chúng ta chú tâm hơn trong cung cách phục vụ. Chính việc hiệp thông trong đức ái, yêu thương phục vụ quên mình là chúng ta đang thực thi tiếp nối sứ vụ của Chúa Kitô. Như Đức Thánh cha Phanxicô khi được bầu làm Giáo hoàng, người bạn ngồi bên cạnh là Đức Hồng y Hummes đã nói với ngài một câu “Đừng quên người nghèo” khiến ngài lấy khẩu hiệu Phanxicô Assisi cho đời Giáo hoàng của mình.
Trong xã hội hôm nay còn đó những người nghèo, nghèo về vật chất đã đành, lại có người nghèo về tinh thần là những tâm hồn đau thương, kẻ bị giam cầm, người mù lòa về thể lý hay đức tin, kẻ bị áp bức... Chính Chúa Giêsu đã đồng hóa kiếp nghèo hèn, mỏng giòn của con người để cứu chuộc con người như lời một bài hát: “Chúa Giêsu là người là một người rất nghèo, sinh thì nghèo, sống cũng nghèo, chết cũng nghèo. Chúa Giêsu yêu thương người nghèo muốn cho họ được sống, được kính trọng, được quan tâm, được yêu thương”, chúng ta cũng được mời gọi học nơi Người như vậy.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Thánh Thần xuống trên chúng con, để chúng con cam đảm dấn thân loan báo Tin mừng Chúa cho những người đang cần đến tình thương của Chúa. Amen.
25. Sống sứ vụ của Chúa--Anmai
Giêsu đã đến trong cuộc đời này. Lời Hứa Cứu Độ đã hoàn thành nơi Chúa Giêsu. Lời Hứa Cứu Độ ấy được báo trước qua miệng các ngôn sứ. Các ngôn sứ loan báo hình ảnh của Đấng Cứu Độ. Có lẽ rõ nét nhất là hình ảnh của ngôn sứ Isaia, một ngôn sứ quá đau khổ.
Mở sách ngôn sứ Isaia, ở Is 52, 13-53 chúng ta bắt gặp ngay: “Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật và được suy tôn đến tột cùng.” Đọc những dòn tiếp theo, một mảng tối thật u ám nơi cuộc đời của vị ngôn sứ đau khổ này. Một bản mô tả rất sống động về sự thất thế, đau khổ cũng của người tôi tớ đó. Ông sẽ không còn được nhận ra nữa: “Khi thấy tôi trung của Ta, mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa.” Mọi người ngoảnh mặt đi chẳng dám nhìn người tôi tớ đau khổ. Điều gây sửng sốt nhất là hình phạt này xem ra là do Thiên Chúa gây nên. Xưa nay vẫn giải thích như vậy. Thực thế bản văn có một câu làm tôi lưu ý mãi: “Đức Chúa hài lòng khi thấy người bị nghiền nát trong yếu đuối.” Đức Chúa này là Thiên Chúa nào mà lại hài lòng vì người vô tội bị nghiền nát?
Nhìn hình ảnh người tôi tớ như thế này, độc giả sẽ nghĩ ngay trong lòng“Ông Trời đáng ghét của Cựu ước.” Nhưng nhìn kỹ hơn vào toàn thể bài ca thì đoạn văn này được viết dưới dạng kịch nghệ. Tức có sự thay đổi về người nói. Khởi đầu thì Thiên Chúa nói, sau đó đến các khách bàng quan bàn tán khi quan sát người tôi tớ trong khổ đau. Đối với những người này thì rõ ràng Thiên Chúa đang nghiền nát người tôi tớ vô tội. Chuyện này giống như khi chúng ta kêu ca về những đau đớn của mình: “Chúa thử thách đức tin của tôi quá sức chịu đựng. Thật ngã lòng, chẳng thể còn kiên nhẫn hơn nữa.” Đúng vậy, thượng đế đã đẩy người ta đến bờ vực thẳm của thất vọng?
Rồi thay đổi vai trò của khách bàng quan: Họ cố gắng tìm hiểu căn do sự đau khổ của người tôi tớ, và khám phá ra rằng chính vì tội lỗi của mình mà người tôi tớ phải chịu cực hình. Thật là điều gây ngỡ ngàng hết cỡ. Ông ta chịu đựng đau khổ để cứu chuộc thiên hạ. Họ đã sai lầm khi lên án ông, coi ông như kẻ có tội. Họ ăn năn hối lỗi, thú nhận sai lầm của mình. Sự thật là người tôi tớ đã gánh lấy tội thiên hạ và chính họ là những kẻ được hưởng sự tha thứ của Thượng đế: “Tôi trung của Ta sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ”.
Do đó, ý muốn của Đức Chúa Trời là tội lỗi nhân loại được tẩy sạch nhờ đau khổ và cái chết của người tôi tớ. Đúng là một mầu nhiệm. Đường lối suy nghĩ của chúng ta hoàn toàn sụp đổ, bởi lẽ công việc vĩ đại như gánh tội và xoá tội trần gian lại không theo lối nhìn cũng như cách hiểu của con người. Với Thiên Chúa thì khác, người tôi tớ của Thiên Chúa là người khiêm nhường, nhịn nhục và là người yếu đuối, dễ bị tổn thương, một dấu chỉ của sự chống đối. Cho nên chẳng lạ gì các tác giả Tân ước sử dụng những bài ca này để nói về Chúa Giêsu và lòng nhân từ, thương xót của Đức Chúa Trời. Thí dụ, thánh Phaolô nhiều lần đã chỉ ra cho chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô khi Ngài bị dân Do thái khước từ, chối bỏ. Chính trong công việc này mà nhân loại được lợi không kể xiết. Tác giả thư Do thái cũng thường khích lệ độc giả của ông không nên hổ thẹn vì thập giá Đức Ki-tô, ngược lại “hãy mạnh dạn tiến lại gần Ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần”. Bởi lẽ Thiên Chúa đã cho phép Đức Giêsu, người tôi tớ, chia sẻ những yếu hèn và đau khổ với nhân loại. Cho nên quan niệm về “ông Trời đáng ghét của Cựu ước” là sai lầm. Chính qua người tôi tớ khiêm nhường mà Thiên Chúa mặc khải gương mặt yêu thương, nhân từ của Ngài.
Người tôi tớ Giavê đứng làm trung gian cho cả Thiên Chúa và loài người. Một sự tổng hợp kỳ lạ giữa thần linh và nhân loại. Ông là đại diện cho thần linh, đứng về phía Thiên Chúa, Ngài gọi ông: “Tôi tớ của Ta”. Trong ông, ý muốn của Đức Chúa hoàn toàn được thành tựu. Ông cũng đại diện cho nhân loại tội lỗi, mặt mày tan nát, chịu khổ đau đến cùng cực, chịu chung số phận với loài người, đồng hoá với anh em mình. Chúng ta nhìn nơi ông hành động của thượng đế trên nhân loại và vì nhân loại. Chính trong nơi người tôi tớ mà chúng ta cảm thấy được Thiên Chúa cứu độ.
Nhưng người tôi trung cũng có tham gia phần của mình vào cuộc đau khổ mà Thiên Chúa đã chỉ định cho ông. Ông đồng ý với chương trình của Đức Chúa, gánh chịu hậu quả của tội lỗi người khác, vâng lời Thiên Chúa cho đến mức bằng lòng chịu chết thay cho thiên hạ. Ông là một nhân tố tự do và tự nguyện, không ai ép buộc ông, nhưng hoàn toàn hiến dâng cho Thượng đế. Đây là một sự cộng tác lạ lùng giữa Thiên Chúa và nhân loại để mưu ích cho loài người. Kết quả là một công trình vĩ đại. Bởi người tôi tớ đã “xoá tội trần gian và tranh thủ được ơn tha thứ cho những kẻ xúc phạm”. Ai đã thi hành cuộc hy sinh? Thiên Chúa hay người tôi tớ? Câu trả lời là cả hai. Thiên Chúa đã hy sinh người tôi trung. Người tôi trung đã bằng lòng hiến tế. Trường hợp của Abraham và người con duy nhất Isaac. Trong văn bản, kẻ có lỗi dùng ở đại từ “chúng ta”: “Sự thật, chính Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta… Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội… Chúng ta đã đi lạc như chiên cừu v.v…” Hoá ra người tôi tớ này không phải là kẻ phạm tội. Đau khổ của ông có mục đích duy nhất là thức tỉnh ý thức tội lỗi của nhân loại!
Ngày hôm nay, người tôi tớ mà Isaia loan báo đó đã trở thành hiện thực nơi cuộc đời ngôn sứ Giêsu. và ngôn sứ Giêsu hôm nay tiến vào hội đường như là việc hết sức bình thường. Những người trong Hội Đường đã trao cho ngôn sứ Giêsu sách Isaia và mở ra, bất chợt bắt gặp lại hình ảnh của người tôi tớ đau khổ cũng như sứ mạng của người ngôn sứ đó Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Sau đó, Chúa Giêsu đã nói với những người ở trong hội đường rằng: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Một lần nữa, Chúa Giêsu khẳng định lại vai trò của Ngài. Ngài đến để đem niềm vui, đem bình an, đem hạnh phúc cho con người.
Sứ vụ của Chúa Giêsu cũng đã được ông Etra nói với dân sau khi nghe sách Luật mà ông mở ra đọc cho dân: "Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em."
Vẫn là loan báo Tin Mừng cho người nghèo.
Chúng ta sẽ tự hỏi rằng chúng ta có giàu có gì đâu để loan báo cho người nghèo?
Và, có ai hỏi ta, ta cũng sẽ nói rằng tôi nghèo lắm, tôi đâu có gì để mà cho, có gì để mà chia sẻ? Nói như thế mà không biết ngượng.
Thử, lúc nào đó trong lặng thầm, nhìn lại cuộc đời chúng ta xem, chúng ta được Chúa ban cho quá nhiều ơn đó nhưng chúng ta đã không nhận ra.
Có lúc nào đó, người hằng nghiền ngẫm suy tư
Cảm thấy đời ta, chứa chan hồng ân Chúa ban
còn chờ gì nữa? Không vang khúc hát tri ân Ngài?
Lạy Chúa, con xin cảm tạ, Lạy Chúa con xin cảm tạ
Ôi lạ lùng hồng ân Chúa đã ban cho đời!
Chúa ơi, sao con suy thấu tỏ tường?
Ôi, nhiệm mầu tình yêu thánh thiêng dâng cao vời!
Chúa ơi, tình Ngài tuyệt diệu xiết bao
Nghiền ngẫm thử đi sẽ rõ! Những ngày này, những ngày Tết Nguyên Đán cận kề. Giữa dòng đời ngược xuôi đi tìm miếng cơm manh áo, ta hạnh phúc hơn nhiều người đó chứ! Ta hạnh phúc hơn nhiều người nhưng ta đâu nhận ra để rồi ta oán trách Chúa thế này thế kia.
Cứ thử đặt mình vào vai một người di dân xa quê nghèo vì miếng cơm manh áo ta sẽ rõ hơn ai hết. Đi làm tháng vài triệu bạc, thuê căn phòng trọ ọp ẹp gần triệu bạc. Cơm ăn, áo mặc nữa, quay đi quay lại hết tháng phải đóng tiền phòng trọ, tiền điện tiền nước, thử hỏi còn bao nhiêu. Và, những ngày này dắt díu nhau về quê gặp gia đình được dăm ba bữa. Những ngày này, ra các bến xe, ta thấy những người nghèo ngược xuôi để về quê với hai bàn tay chai sạm và bờ vai gầy guộc nhỏ ta mới thấy được Chúa thương ta là dường nào.
Và, nhất là cuộc đời của ta là ta hạnh phúc, ta có Chúa trong đời.
Một chút, một chút thôi một bữa ăn, một chầu karaoke ta có thể làm ấm lòng những người nghèo. Những người nghèo đó ở đâu xa? Những người nghèo đó ngay bên cạnh nhà ta mà bấy lâu nay ta vô tâm vô tình không nhớ đến họ.
Có cái để cho nữa đó chứ! Là chút tấm lòng với những người bất hạnh.
Sứ vụ của Chúa mở ra cho mỗi người chúng ta, chuyện quan trọng là chúng ta có sống sứ vụ mà Chúa đã sống, đã mời gọi chúng ta hay không mà thôi.
26. Cộng đồng--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sách của Nơkhemia diễn tả cuộc lưu đày của dân Dothái từ Babylon trở về xây lại tường thành Giêrusalem. Khi vua nước Babylon chiếm hữu thành Giêrusalem và đánh đổ nước Giuđa, đã bắt dân Dothái cư ngụ ở Palestine đi làm tôi đòi nô lệ tại Babylon. Sau khi các vua nước Medes và Persians đánh thắng dân thành Babylon vào năm 538 BC, vua Cyrus đã cho phép dân Dothái trở về quê hương. Đúng ra, có 3 nhóm trở về vào 3 thời kỳ khác nhau. Nhóm thứ nhất dưới sự hướng dẫn của Zerubbabel vào năm 536 BC. Nhóm thứ hai được dẫn dắt bởi Ezra vào năm 458 BC và nhóm sau cùng được Nehemia dẫn về quê hương vào năm 445 BC. Sách của Nehemiah được viết vào trong khoảng thời gian (465-423 BC).
Sách Nơkhemia diễn tả việc ông thư ký Ezra đã quy tụ dân chúng đến lắng nghe sách lề luật của Chúa: "Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật." (Nkm 8,3) Chúng ta biết Sách Luật đã được ghi chép trên các tấm da thuộc hoặc viết trên cuộn giấy Papyrus. Khắc ghi những lề luật và huấn lệnh được truyền tụng qua nhiều đời. Các luật lệ bắt nguồn từ Mười Điều Răn mà Chúa đã truyền cho ông Môisen trên núi Sinai. Dân chúng chăm chú lắng nghe sách Luật từ sớm tới trưa và họ đã vui mừng hân hoan: Bấy giờ ông Ezra chúc tụng Thiên Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: "Amen! Amen! Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Thiên Chúa." (Nkm 8,6). Dân Dothái là dân được tuyển chọn. Họ được Thiên Chúa dẫn dắt qua sự hướng dẫn của các tiên tri và các vị tư tế cùng các bô lão. Họ sống liên kết thành cộng đồng tin thờ Thiên Chúa duy nhất.
Từ xa xưa, dưới thời vua Salômon, dân Dothái đã xây dựng đền thánh để tôn thờ Thiên Chúa. Họ đã có tổ chức xã hội về mọi mặt. Hàng tư tế đã có những nghi thức thánh hiến và dâng lễ toàn thiêu đền tội. Đền thờ là nơi mọi người dân tụ lại làm nên một cộng đồng dân Chúa. Đền thờ là trung tâm của cuộc sống đạo và là trái tim của mọi sinh hoạt. Dân chúng xum họp tại đền thờ để lắng nghe Lời Chúa, giải thích Kinh Thánh và dâng tiến lễ vật đền tạ. Niềm tin vào Thiên Chúa độc nhất được hun đúc và phát triển qua đời sống cộng đồng. Trải qua lịch sử ngàn năm, đạo Dothái vẫn luôn trung thành với các nghi lễ, giờ cầu nguyện, giữ ngày sabát, tuân giữ các giới răn và huấn lệnh. Ngoài trung tâm đền thờ chính, nhiều nhóm tại địa phương đã xây dựng nhiều Hội đường để cùng tụ họp nghe giảng và học hỏi Kinh Thánh.
Khi ra giảng đạo, Chúa đã đi cùng khắp mọi miền. Có khi Chúa giảng ngoài bãi biển, nơi chân đồi, ngoài cánh đồng, trong tư gia, ngoài đường phố và hôm nay Chúa đã vào Hội đường: "Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh." (Lc 4,15) Nhiều người đi theo Chúa và chăm chú lắng nghe. Chúa giảng với uy quyền và lời Chúa có sức biến đổi tận tâm can. Khi vào Hội đường, Chúa Giêsu đã đứng lên đọc sách Tiên tri Isaia với đoạn này: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa." (Lc 4,18-19) Đây là đoạn sách quan trọng nhất nói về Đấng Thiên Sai đã được chính Chúa Giêsu xác nhận: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." (Lc 4, 21). Trong 3 năm giảng dạy, Chúa đã hoàn thành mọi lời tiên tri đã loan báo về Ngài.
Chúa Giêsu đã lập Giáo Hội, khởi đầu với một nhóm nhỏ các tông đồ, môn đệ và các thân hữu. Giáo Hội phát triển như hạt giống được gieo vào lòng đất, nẩy mầm, lớn lên và sinh nhiều bông hạt. Giáo Hội bao gồm những người cùng lãnh nhận một phép rửa, một đức tin, đức cậy, đức mến và một niềm hy vọng vào ơn cứu độ. Chúa Giêsu đã thi hành sứ mệnh của Chúa Cha đã trao và hoàn tất qua việc hiến thân mình chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Các tông đồ là những vị đầu tiên ra đi làm nhân chứng cho Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ trần gian. Các nhân chứng sống động được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần đã không ngừng rao giảng và thiết lập các giáo đoàn phụng vụ khắp nơi. Số tín hữu ngày thêm đông đảo và đa dạng. Giáo Hội mở cửa đón nhận mọi thành thành qua Bí tích Rửa Tội và lòng tin ao ước.
Giáo Hội khởi đi từ niềm tin yêu trong lòng người. Niềm tin qui tụ mọi dân, mọi nước, mọi chủng tộc, ngôn ngữ và văn hoá truyền thống. Thánh Phaolô Tông đồ đã dùng những hình ảnh rất cụ thể để diễn tả sự liên kết giữa các thành phần trong Giáo Hội: "Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy." (1 Cr 12,12) Giáo Hội là một xã hội của loài người. Cần có các tổ chức phẩm trật, vai trò nghĩa vụ, mục vụ, phục vụ và cộng đồng tin yêu. Giáo Hội cần có sự hỗ tương trong tất cả các sinh hoạt đời sống. Giáo Hội mỗi ngày thêm đông số các thành viên nên phải kết hợp và gắn bó đoàn kết trong một nguồn sức sống. Kết hợp giống như các nhành nho được liên kết với cây nho là Chúa Giêsu Kitô. Thánh Phaolô tả hình ảnh bộ phận của thân thể: "Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một." (1 Cr 12,20)
Chúng ta quan sát một cộng đoàn phụng vụ trong khi cử hành thánh lễ. Mỗi thành viên có trách nhiệm riêng theo chức vụ của mình. Trong tập thể bao gồm: cộng đoàn dân Chúa, các thừa tác viên thánh thể, đọc sách, các em giúp lễ, các vị tiếp tân, ban trật tự, xin tiền, dâng của lễ, ca đoàn và linh mục chủ tế. Mỗi người có một nhiệm vụ cần được chu toàn ăn khớp với nhau. Chúng ta biết rằng những bộ phận xem ra yếu đuối và có vẻ thụ động nhưng đây lại là bộ phận cần thiết nhất, đó là mọi tín hữu tham dự phụng vụ: "Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất." (1 Cr 12,22) Không có cộng đoàn dân Chúa, chúng ta sẽ không có các cuộc cử hành phụng vụ cách long trọng. Mỗi thành viên đều rất quan trọng tùy theo vai trò của mình, trong đó có các cụ ông cụ bà, các trẻ em và mọi thành phần dân Chúa.
Bí tích Thánh Thể liên kết chúng ta nên một. Trong niềm tin yêu, chúng ta hỗ trợ và nâng đỡ nhau sống hoàn thiện. Chưa hẳn các linh mục chủ tế là những người đạo đức tốt lành hơn các thành viên khác. Chủ tế nên chu toàn các nghi thức và cử hành thánh lễ cách nghiêm trang và sốt sáng. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng, không ai hơn ai. Điều quan trọng là trái tim yêu thương và sự gắn bó với thân thể mầu nhiệm của Chúa: "Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận." (1 Cr 12,27) Các bộ phận trong cơ thể tuần hoàn phát sinh sự sống khoẻ mạnh và cường tráng. Các thành viên trong cộng đồng dân Chúa phải gắn kết yêu thương, đùm bọc và nâng đỡ nhau để chu toàn sứ vụ trong sự hài hoà và thuần thiện.
Chúa Giêsu không đến để kêu gọi nhưng người công chính và thánh thiện, nhưng là những kẻ tội lỗi. Những thành phần yếu bệnh cả hồn lẫn xác cần được sự nâng đỡ chở che và chữa lành. Họ là những bộ phận cần được quan tâm nhất vì: "Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung." (1 Cr 12,26) Chúng ta không thể lên thiên đàng một mình, cần có những anh chị em xung quanh cùng đồng hành dìu dắt và đỡ nâng. Mỗi người đều có bổn phận làm cho thân thể mầu nhiệm được triển nở và phát sinh kết quả đời này và đời sau.
Lạy Chúa, đừng để chúng con bị lạc xa đường lối Chúa. Xin cho chúng con biết lắng nghe các huấn lệnh, điều răn, chỉ thị và giáo huấn của Chúa và Giáo Hội, để chúng con tuân cứ luật pháp của Chúa đêm ngày. Ước mong tên của mỗi chúng con sẽ được ghi vào sổ hằng sống đời đời, vì: "Ai không có tên ghi trong Sổ Trường Sinh thì bị quăng vào hồ lửa." (Kh 20,15).
27. Cùng uống Thần Khí độc nhất--AM. Trần Bình An
Thánh Philip Neri, biệt danh là “Tông đồ thành Rôma” là một trong những khuôn mặt vĩ đại đã đóng góp vào việc cải tổ Giáo Hội thời bây giờ. Ngài đã ảnh hưởng dân chúng bằng chính đời sống của mình. Ngài không viết một quyển sách, cũng không đưa ra một lý thuyết thần học nào, hoặc một đường hướng tinh thần nào. Neri sinh ở Florence năm 1515. Gia đình ngài sống chật vật nên đã gởi ngài đến ở với người bà con buôn bán giàu có. Trong thời gian này, Neri thường đến một hang đá gần nhà đã biến thành nhà nguyện, mà đọc kinh cầu nguyện. Trong lúc cầu nguyện Neri được soi sáng nên quyết định rời bỏ việc buôn bán mà tận hiến đời sống mình lên Thiên Chúa.
Sau khi từ giã người bà con, Neri đi lên Rôma vào năm 1533 và sinh sống bằng cách dạy kèm cho mấy đứa con của một người đồng hương. Neri theo học triết và thần học cho đến lúc Neri nhận thấy việc học đã cản trở việc kinh nguyện, nên Neri liền bỏ việc học mà sống như một vị ẩn tu. Ðêm đêm, Neri thường ra ngoài đường phố, lắm lúc đi vào trong nhà thờ, nhưng thường xuyên là đến hầm mộ của thánh Sebastiano mà cầu nguyện.
Thánh Philip Neri lúc 29 tuổi, nhận được một quà lớn lao của Chúa Thánh Thần. Khi ngài sốt sắng cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần hãy ban cho ngài những ơn đặc sủng của Chúa, thì một có một trái cầu bằng lửa rớt vào miệng ngài và nằm trong ngực ngài. Lúc ấy, ngài ngạc nhiên vì nhận được lửa tình yêu của Chúa Thánh Thần. Vì không thể chịu được sức nóng của tình yêu Thiên Chúa, nên ngài phải ném mình xuống mặt đất để làm cho thân xác được mát mẻ hơn. Trong khi đó nơi lồng ngực ngài thì có lửa tình yêu thiêng liêng bốc cháy. Ngài phải nằm yên trong một hồi lâu để được phục hồị. Sau đó ngài ngồi dậy với tràn đầy niềm vui. Trái tim ngài sưng to lên như có một cái bướu lớn bằng nắm tay của một người lớn. Nhưng sau đó ngài không còn đau đớn nữa, trong suốt 50 năm của cuộc đời. Ngài cương quyết từ bỏ tất cả để đi theo Chúa. Giúp việc tại bệnh viện của những người bệnh gần chết và ngài bắt đầu rao giảng cho mọi người về Thiên Chúa, từ người ăn xin ngoài đường cho đến những chủ nhà băng.
Năm 1548 Neri thành lập một hội đoàn, cầu nguyện giúp đỡ những người hành hương đến Roma, thiếu thốn lương thực và nơi trú ngụ. Vi linh hướng của cộng đoàn khuyến khích Neri làm linh mục, thì sẽ giúp ích được nhiều hơn. Sau khi đã theo học đầy đủ, Neri được lãnh nhận chức linh mục vào năm 1551.
Tại trú sở mới, nhà thờ San Girolamo, ngài yêu mến phép giải tội. Những người trẻ tìm thấy nơi Neri những lời khuyên giải khôn ngoan và giúp cho đời sống thiêng liêng lớn mạnh. Neri cảm thấy những ngưòi trẻ này không chỉ cần tha tội, nhưng cần được hướng dẫn trong đời sống thường nhật nữa, nên Neri mời gọi họ đến nhà thờ mỗi buổi chiều, để đọc và học hỏi Kinh Thánh và cùng nhau cầu nguyện. Số người đến tham dự càng ngày càng gia tăng, nên ngài cùng Cha Buonsignore Cacciaguerra chính thức thành lập một Hội đoàn cầu nguyện để hướng dẫn họ. Năm 1575, Hội đoàn này được Đức Giáo Hoàng Gregory XIII thừa nhận và những qui luật của Hội đoàn phản ảnh tính phóng khoáng của thánh nhân. Thánh Philip Neri đã làm nhiều phép lạ, trong dịp lễ Hiện Xuống năm 1544, Neri đã xuất thần và cảm thấy tim mình tràn đầy tình yêu của Thiên Chúa. Sau đó khi dâng Thánh Lễ thì mặt ngài sáng rực một cách lạ lùng. Vào ngày 25 tháng 5 năm 1595, như thường lệ, Thánh Neri ngồi tòa giải tội và tiếp những người đến thăm viếng. Trước khi đi về nghỉ ngài nói: “Cuối cùng rồi chúng ta cũng phải chết.” Và đêm đó ngài về với Chúa. (Kim Hà, 7 Vị Thánh Tràn Đầy Ơn Chúa Thánh Thần. MeMaria.org)
Tin Mừng Chúa Nhật 3 TN hôm nay, thánh sử Luca thuật lại Đức Giêsu về Nazareth, vào hội đường ngày Sabat, đọc sách ngôn sứ Isaia: “Thần Khí Chúa ở trên tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, ban bố ân xá cho kẻ tù đầy, cho người đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được giải oan; loan báo năm hồng ân của Chúa.” Với tràn đầy Thần Khí Thiên Chúa, thánh Philip Neri đã bước theo bước chân Đức Giêsu, chu toàn cả ba sứ vụ: tư tế, ngôn sứ và vương giả. Đây cũng chính là ơn gọi và sứ mạng của người Kitô hữu trong Giáo Hội và trong thế giới.
Tư tế
“Thần Khí Chúa ở trên tôi” Qua Bí Tích Thánh Tẩy, Thần Khí Chúa thánh hoá người lãnh nhận, trở nên con cái Thiên Chúa, chi thể của Đức Giêsu. "Bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Ðức Kitô, đều mặc lấy Ðức Kitô." (Gl 3, 27) Người Kitô hữu bất cứ ở đâu, hay bất cứ thân phận nào được xức dầu trong Thần Khí đều trở nên đền thờ thiêng liêng, hiệp nhất với Đức Giêsu và Hội Thánh. Như thánh Phaolô đã mạnh mẽ minh xác với tín hữu Côrintô: "Vì trong Thần Khí độc nhất, hết thảy ta được thanh tẩy mà nhập vào Thân Mình độc nhất, dù là Do thái hay Hy lạp, dù là nô lệ hay tự do, và hết thảy ta đã được cùng uống Thần Khí độc nhất. (1Cr 12,13 Bản dịch của Lm Nguyễn Thế Thuấn, DCCT)
Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu được tham dự vào chức năng tư tế của Ðức Kitô, theo cách thức riêng của mình, trở nên đền thờ Thiên Chúa, chiếu tỏa sự thánh thiện và thánh hiến con người cho Thiên Chúa Cha. "Thực vậy, mọi hành động, kinh nguyện và công việc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm hàng ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, nếu họ chu toàn trong Thánh Thần, và cả đến những thử thách của cuộc sống, nếu họ kiên trì đón nhận, thì tất cả đều trở nên của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô." (Hiến Chế Lumen Gentium, 34, đ 2)
Chức năng tư tế của tín hữu là hiệp dâng lên Thiên Chúa tất cả bổn phận, lẫn trách nhiệm theo ơn gọi, noi gương cuộc đời Ðức Giêsu hiến dâng, phục vụ cho Thiên Chúa và con người. Hằng ngày, người Kitô hữu tiến dâng lên Chúa những thành quả, lẫn thất bại, niềm vui lẫn nỗi buồn, âu lo và hy vọng, để biết ơn, cảm tạ, ngợi khen, cũng như để được an ủi, cứu giúp.
Ngôn sứ
“ (Thánh Thần Chúa,) sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.” Người Kitô hữu còn có chức năng ngôn sứ, đem Tin Mừng đến mọi người, nhất là người nghèo hèn, đau khổ, bệnh tật, qua chính cuộc sống bản thân, qua chứng tá đức tin, qua lời nói chân thành và việc làm bác ái, tương thân, tương ái với tha nhân.
Nhân Năm Thánh Lòng Thương Xót, từng Kitô hữu có thể tự kiểm điểm vai trò ngôn sứ của mình qua kinh Thương Người Có Mười Bốn Mối. Thương Xác Bảy Mối thì tương đối dễ dàng thực hành, còn Thương Linh Hồn Bảy Mối thì người tín hữu Kitô đã chu toàn hay đã bỏ quên, chỉ vì lối sống vị kỷ mackeno, chẳng muốn dây dưa với tha nhân, khỏi phiền luỵ. Nếu thế, đến ngày cánh chung, Chúa cũng sẽ ngoảnh mặt làm ngơ, không biết chúng ta là ai, mà cho vào hưởng Nước Chúa.
“Gia đình Kitô giáo lớn tiếng loan truyền sức mạnh của Nước Thiên Chúa và niềm cậy trông vào một đời sống hạnh phúc. Như thế, bằng gương lành và chứng tá, gia đình Kitô giáo làm cho thế gian nhận biết tội lỗi mình, đồng thời sáng soi những kẻ đang kiếm tìm chân lý." (Hiến Chế Lumen Gentium 35, đ. 3)
Vương giả
“Ban bố ân xá cho kẻ tù đầy, cho người đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được giải oan; loan báo năm hồng ân của Chúa.” Hơn nữa, nhờ thuộc về Đức Giêsu người Kitô hữu còn dược vinh dự thông phần vào chức năng vương giả của Người. Đem ánh sáng Tin Mừng giải thoát tha nhân khỏi ngục tù tội lỗi chế ngự, khai sáng những kẻ mù loà, hoa mắt trong thế giới vật chất phù phiếm hấp dẫn, đem sự thật, công lý và tình thương đến những kẻ bị sự dữ khai trừ, đàn áp, bị bỏ rơi. Như thế, người Kitô hữu được mời gọi phục vụ, xây dựng và phát triển Nước Chúa ngay tại thế.
Nhưng trước hết, người Kitô hữu phải chiến đấu với chính mình, tỉnh thức vượt qua các chước cám dỗ hằng ngày, cũng như luôn ăn năn sám hối tội lỗi đã vấp phạm. Nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng và ban sức mạnh, canh tân, đổi mới, người Kitô hữu mới có thể phục vụ Đức Giêsu đang hiện hữu trong mọi người. Như thánh Phaolô chân thành khuyên nhủ tín hữu Roma: “Anh em là những người sống đã từ cõi chết trở về, anh em hãy hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ, để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa.” (Rm 6, 13)
Nếu con bảo "giáo dân có ơn đặc sủng của Chúa Thánh Thần" có người sẽ cho rằng con nhạo báng họ! Nếu con bảo "giáo dân là tư tế, tiên tri, vương giả", có người sẽ cho con là thệ phản! Có mấy giáo dân ý thức họ được Chúa gọi? Chúa cần họ? Hãnh diện và tri ân vì được làm con Chúa nhờ phép Thánh Tẩy? Làm chiến sĩ, chứng nhân cho phép Thêm Sức? (Đường Hy Vọng, số 333)
Lạy Chúa Thánh Thần xin thương xót, giúp chúng con noi gương Đức Giêsu, chu toàn ba chức năng Tư Tế, Ngôn sứ và Vương Giả với người thân thuộc đến Giáo xứ, Cộng đoàn và tất cả tha nhân.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ soi sáng chúng con ý thức rằng, nhờ Đức Giêsu Kitô nhập thể làm người, chúng con luôn được vinh hưởng Lòng Thương Xót, trở nên đồng hình, đồng dạng Con Chúa, cũng như biến thành chi thể của Người. Xin Mẹ luôn nhắc nhủ chúng con chân thành tri ân, cảm tạ, ca tụng và ngợi khen Thiên Chúa chí nhân chí ái muôn đời. Amen.
28. Người phá tan xiềng xích lầm than--AM Trần Bình An
Mỗi ngày với ba giọt rượu và một giọt nước trong lòng bàn tay, tôi dâng thánh lễ. Lúc đã quen với thời khóa biểu của trại, tôi dâng lễ ban đêm, vì chúng tôi được chia thành từng đội 50 người, ngủ chung trên một láng gỗ, mỗi người được 50 cm, đầu đụng nhau, chân quay ra ngoài.
Chúng tôi đã tự thu xếp để năm anh em Công giáo nằm quanh tôi. Ðến 9 giờ rưỡi đêm, nghe tiếng kẻng là tắt đèn và mọi người phải nằm trong mùng muỗi cá nhân; tôi ngồi cúi sát xuống để dâng lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay dưới mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu lễ. Chúng tôi nhặt giấy nylon bọc bao thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng Mình Thánh. Như thế Chúa Giêsu luôn ở giữa chúng tôi. Chúng tôi tin một sức mạnh: Thánh Thể. Thịt Máu Chúa làm cho chúng tôi sống, "Ta đã đến là để chúng được có sự sống, và có một cách dồi dào" (Ga 10, 10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường về Ðất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng. (Ga 6, 53)
Ai cũng biết có Chúa Giêsu Thánh Thể đang ở giữa trại tù với họ. Chính Ngài an ủi, xoa dịu những khổ đau thể xác và tinh thần; chính Ngài thêm can đảm chịu đựng cho họ. Ban đêm, họ thay phiên nhau làm giờ thánh. Sự hiện diện thinh lặng của phép Thánh Thể biến đổi họ cách lạ lùng. Nhiều người Công giáo trở lại sống đạo đức hơn; nhiều anh em không Công giáo, Phật giáo tìm hiểu Phúc âm và lãnh phép Thánh tẩy trong trại cải tạo, hoặc sau lúc được tự do. Không có gì cưỡng lại được tình yêu Chúa Giêsu. Ðêm tối của ngục tù trở thành ánh sáng, hạt giống đã đâm chồi dưới đất đang lúc trời giông tố phong ba. Những ơn trọng này do Chúa Giêsu Thánh Thể chứ không phải do sức loài người. (ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, Năm Chiếc Bánh và Hai Con Cá)
Bài Phúc Âm hôm nay, Thánh sữ Luca giới thiệu sứ mạng loan báo Tin Mừng của Đấng Cứu Thế. Đấng Messia mà Ngôn sứ Isaia đã loan báo hàng trăm năm trước.
Đem Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn
Người đến không đem Tin Mừng đến cho quý bậc vương giả, quý chánh khách, quý nhân sĩ học cao hiểu rộng, quý vị kiêu căng, hợm hĩnh tự phụ về tài năng, về chức tước, bổng lộc. Mà Người đến với những thân phận nghèo hèn, những kẻ cùng đinh, những thân phận bên lề xã hội, những người bé nhỏ, khiêm tốn, nhường nhịn, tự hạ, vị tha, chân thành ý thức bản thân như cát bụi với Đấng Tạo Hóa.
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.” (Lc 4, 18)
Đến thờ lạy Đấng Cứu Thế trong hang đá Bê Lem, những trẻ mục đồng chăn chiên khốn khó, với tâm hồn chân thành, trong sáng, những nhà chiêm tinh thiện tâm, nhiệt tình khao khát yết kiến Vua Vũ Trụ.
Khởi sự đi rao giảng, Người cũng kêu gọi và chọn những tông đồ từ dân thuyền chài tầm thường, nghèo khó, đơn sơ, mộc mạc. Những người sẵn sàng từ bỏ hết mọi sự thế gian, công việc, gia đình, để đi theo Chúa.
Trong khi đó, bao nhiêu luật sĩ, kinh sư, tư tế và cư dân thành Giêrusalem đều nghe biết Đấng Messia được sinh hạ ở Bêlem, nhưng vẫn lạnh nhạt, hờ hững, làm ngơ, chẳng hề đoái hoài đón nhận Ngươì.
Cũng như trào lưu xã hội hiện nay, đang đua nhau phủ nhận Chúa, đang xua đuổi Người ra khỏi mọi lãnh vực. Khi đua nhau vái lạy những con Bò Vàng tiền tài, danh vọng, sắc đẹp, lạc thú, thay vì kính Chúa, yêu người, thì Tin Mừng đương nhiên trở nên điều xa xỉ, không cần thiết với họ.
Do vậy, Tin Mừng chỉ có thể đến được với những tâm hồn khiêm cung, nhỏ bé, đói khát sự công chính, sự thật và chân lý. Chúa Giêsu vẫn khuyên nhủ mọi người, hãy trở nên trong sáng, hồn nhiên, đơn sơ như trẻ thơ, dễ dàng nhận được những hạt giốngTin Mừng, ươm chồi, nảy lộc, thành cây xanh tươi, sinh hoa thơm trái ngọt sau này.
Đem tự do cho người tù và bị áp bức
Chúa Giêsu đến thế gian không phải làm chiến sĩ anh hùng, giải thoát dân Israel khỏi ách đô hộ La Mã, không giải thoát những tù binh hay nô lệ. Nhưng giải thoát con người khỏi xiềng xích ma quỷ, khỏi quyền lực thế gian đen tối độc ác, khỏi cạm bẫy cám dỗ, khỏi đam mê xác thịt. Dẫn dắt con người đến bến bờ hy vọng cứu rỗi.
“Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha,…,trả lại tự do cho người bị áp bức” (Lc 4, 18)
Ngay nơi tù ngục,Tin Mừng vẫn đem lại ánh sáng tự do cho những ai đang quằn quại chịu nhục hình. Giải thoát tâm hồn họ khỏi ách tù đày, khỏi áp bức tra tấn, khỏi thù hận, nghi kỵ, bất mãn, như ĐHY Phanxicô Xaviê đã trải nghiệm “Dẫu qua thung lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.” (Tv 23, 4)
Nhất là Tin Mừng còn phá tan vòng kiềm tỏa của ma quỷ, giam hãm con người trong ngục thất tội lỗi u mê, tìm được lối thoát an toàn. Những tù nhân của đam mê vật chất, những con tin của cuộc sống trụy lạc, sớm thức tỉnh, sẽ được tự do trở về với Lòng Thương Xót vô bờ.
Đem ánh sáng cho người mù
“Người sai tôi đi công bố cho người mù biết họ được sáng mắt.” (Lc 4, 18)
Người đem Tin Mừng đến dẫn dắt, soi sáng, hướng dẫn những ai mù lòa lạc đường trong tối tăm, trong bóng đêm vô thần. Những người đang bị chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng, khuynh đảo che mất tầm nhìn về tương lai. Nhất là chủ nghĩa duy tương đối và khuynh hướng tục hóa đang thách thức và đe dọa thô bạo đến niềm tin Kitô hữu. Vì “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119, 105)
Trước cái bả danh lợi, sắc dục, của cải, con người dễ dàng mù quáng lao theo chước cám dỗ chiếm đoạt, không còn biết đến công bằng, chánh trực và đạo nghĩa. Trước những lời nói có cánh, khen ngợi, dụ dỗ, khích động, con người cũng dễ dàng gục ngã, a dua, tán đồng, hoặc bị phỉnh lừa. Đó là chính là lúc cần đến Lời Chúa đến soi sáng phân minh, đâu là thật giả, đâu là con đường chính đáng phải theo.
Ban phúc Hồng Ân
Đấng Cứu Thế công bố năm hồng ân của Chúa, không chỉ là một năm duy nhất, mà kéo dài cho đến ngày chung thẩm. Nay thời thế mạt sắp đến gần, thế nhưng có bao nhiêu người chịu lắng tai nghe, tiếng kêu khần thiết trong hoang mạc của ông Gioan Tiền Hô, để kịp thời ăn năn sám hối?
Nhiều người đang trở nên điếc đặc, hay mù lòa trong cái xã hội hỗn độn, phù phiếm, gian manh, lừa đảo, bóc lột, đàn áp, bất nhân, bất nghĩa. Trong đó, con người coi nhau như cừu địch, chỉ biết đua nhau bước lên đầu lên cổ người khác để tiến thân, để hưởng thụ. Nhưng Đấng Cứu Thế đã kịp thời đến xua tan bóng đêm hãi hùng, chiếu dọi ánh sáng Tin Mừng, hóa giải những mưu ma, chước quỷ, mời gọi mọi người quay trở về đường ngay, nẻo chính, về với quê hương Nước Trời.
Lạy Chúa, xin hãy giải thoát con khỏi xiềng xích tội lỗi, xin mở mắt, mở tai con ra, để biết đón nhận Tin Mừng, áp dụng vào đời sống thường ngày.
Lạy Mẹ Maria, xin cầu bầu cho con biết ăn năn sám hối, trở về cùng Chúa nhân lành, hầu con xứng đáng hưởng hồng ân cứu độ. Amen.
29. Con người sống trong sự giải thoát của Thiên Chúa
Là con người chắc hẳn ai trong chúng ta cũng mong muốn được tự do và hạnh phúc. Xã hội phong kiến thời xưa đã làm cho người Việt nam sống trong sự nô lệ của những người giàu sang và có quyền thế. Sống trong tâm trạng như thế thật là thê thảm. Chính những người Do thái ngày xưa cũng đã hết sức cực khổ vì phải làm tôi mọi cho người Ai Cập. Nhờ Thiên Chúa mà họ đã được giải thoát để trở về sống an bình trong vùng đất Chúa hứa.
Hình ảnh ấy báo trước một sự giải thoát quý báu thiêng liêng hơn mà Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi thời Tân Ước. Thiên Chúa thực hiện điều ấy nơi Chúa Giêsu, Con duy nhất của Ngài.
Hôm nay, Chúa Giêsu vào hội đường Nagiaret và người ta trao cho Người đoạn sách thánh. Ðây là việc làm mà Chúa Giêsu thường làm trong mỗi ngày Sabat. Ðoạn sách thánh hôm nay được trích từ sách tiên tri Isaia: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa" (Lc 4, 28 - 19).
Có một sự lạ thường đối với Chúa Giêsu trong ngày hôm nay là đọc xong đoạn sách thánh này Người mạnh dạn tuyên bố: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." (Lc 4, 21b). Nghĩa là chính Chúa Giêsu sẽ làm những điều này cho toàn thể nhân loại. Người đem đến cho con người sự giải thoát. Giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết đời đời.
Từ khi tổ tông phạm tội thì con người đã đánh mất sự tự do thiêng liêng Thiên Chúa ban. Mà hậu quả của tội lỗi là sự chết. Dầu rằng chính con người tự chọn lấy điều ấy cho mình, nhưng Thiên Chúa vẫn không nỡ lòng nào để cho các con cái của Người phải gánh chịu mãi những hậu quả ấy. Ðó là hậu quả hết sức đát. Thiên Chúa tìm mọi cách để giải thoát con người. Và chính Chúa Giêsu là Ðấng đến đem cho con người sự giải thoát thiêng liêng vô cùng cao quý.
Cả cuộc đời của Chúa Giêsu nơi trần thế này là bằng chứng hùng hồn nhất về sự giải thoát mà Thiên Chúa đem đến cho con người. Chúa Giêsu đi đến đâu là bao nhiêu bệnh hoạn tật nguyền và nhất là tội lỗi của con người được cứu chữa và tha thứ đến đó. Trước khi về trời Chúa Giêsu đã ban quyền lại cho các tông đồ và những người kế vị: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (Ga 20, 22b - 23)
Ðược nhận lãnh ơn tha thứ mỗi khi phạm tội là một ơn vô cùng cao quý. Ðặc biệt, cùng với Giáo hội chúng ta đang sống trong Năm thánh về linh mục và Năm thánh 2010. Ðây là một thời gian hết sức thuận tiện để chúng ta được lãnh nhận những ơn tha thứ của Chúa. Hãy biết tận dụng thời gian này cho thật sự có ích lợi.
30. Lựa chọn ưu tiên vì sứ vụ--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Vào năm 1969, Dòng Chúa Cứu Thế có chương trình truyền giáo tại Miền Thượng của các tỉnh Cao Nguyên - Việt Nam.
Vì thế, một số linh mục đã khởi hành từ Sài Gòn, các ngài tiến về Tòa Giám Mục Kontum theo đường quốc lộ 14. Khi đến nơi, các cha chào thăm Đức Giám Mục Paul Léon Seitz Kim và bày tỏ ước nguyện muốn dấn thân cho vùng truyền giáo nơi đây. Đức Giám Mục vui mừng đón nhận tâm nguyện cao quý của các cha. Sau khi trò chuyện thân tình, ngài dẫn các thừa sai đi trên một chiếc xe tới vùng truyền giáo. Đến nơi, đức cha đọc đoạn Tin Mừng theo thánh Luca 10, 1-11 nói về việc Đức Giêsu sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng. Đọc xong, ngài làm dấu 4 hướng và chỉ cho các cha thấy vùng đất rộng lớn, mênh mông, bao la và chính thức sai các ngài đi loan báo Tin Mừng cứu độ cho anh em dân tộc nơi đây (x. Thường huấn các bề trên liên Dòng mến Thánh Giá 2015).
Sau gần 20 năm, Chúa đã ân thưởng bằng việc ban cho các ngài một mùa lúa bội thu với cả ngàn người xin theo đạo.
Nhờ đời sống gương sáng, nhất là lòng thương yêu người nghèo, giúp đỡ người cô thế cô thân, bênh cực người bị áp bức... nên những anh chị em dân tộc nơi núi rừng Tây Nguyên này đã nhận ra Thiên Chúa là Tình Yêu và tin theo.
1. Sứ mạng của Đức Giêsu
Hôm nay, thánh sử Luca trình thuật cho chúng ta biết: nhân dịp thuận tiện, Đức Giêsu trở về nơi chôn nhau cắt rốn của mình để thăm quê hương. Vì là Con Thiên Chúa, nên Đức Giêsu rất yêu mến, quý trọng Hội Đường là nơi tôn thờ Cha của mình. Bởi vậy, Ngài thường xuất hiện nơi đây vào những ngày Sabát để tham dự giờ Kinh Thánh. Tuy nhiên, lần này, Đức Giêsu trở về quê hương, Ngài vào Hội Đường trong tư cách là Đấng Mêsia và chính thức công bố chương trình hoạt động, những lựa chọn ưu tiên cũng như đối tượng mà Ngài nhắm đến trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Tất cả những gì Đức Giêsu đọc thấy trong Sách Thánh hôm nay thì đã được tiên tri Isaia loan báo trong thời Cựu Ước, vì thế: “Hôm nay ứng nghiệm nơi Ngài”.
Ứng nghiệm, bởi vì: Đức Giêsu được chính Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong, trở thành Đấng Kitô của Thiên Chúa. Ngài là vị lãnh đạo tôn giáo, đến để giải thoát con người cách toàn diện cả tâm linh lẫn thể xác, cá nhân đến xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo, đó là: chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23).
Về tâm linh, Đức Giêsu đến để giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, đem lại cho nhân loại sự tự do trong ân sủng. Vì thế, thánh Phaolô viết: “Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13).
Về mặt thể xác, Đức Giêsu đứng về phía người nghèo để yêu thương, nâng đỡ và bảo vệ khỏi bị tấn công bởi sự bất nhân, ích kỷ của con người và loan báo cho họ biết gia tài, kho báu, niềm vui và hạnh phúc đích thực của họ ở nơi Thiên Chúa.
Về mặt xã hội, Ngài đến để thiết lập triều đại mới, triều đại của ân sủng và tình thương, của công lý và sự thật, đồng thời mời gọi mọi người hãy sáp nhập vào nước đó để được tự do và được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
2. Sứ mạng của Giáo Hội
Sứ mạng ấy không chỉ dừng lại nơi Đức Giêsu, mà: “Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian” (Ga 17,18); và: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).
Thật vậy, “Truyền giáo là một ân sủng, ơn gọi xứng hợp, và là căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội” (Phaolô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 14). Vì thế: “Giáo Hội vẫn sẽ tiếp tục là một Giáo Hội truyền giáo trong tương lai, bởi vì đặc tính truyền giáo thuộc về bản chất của Giáo Hội” (Gioan Phao lô II, Thông điệp Tertio Millennio Adveniente, năm 1994, số 57). Đây là nguồn gốc, căn nguyên và sứ mạng chính yếu của Giáo Hội. Giáo Hội không thể đứng nhìn và an tâm bởi những gì đã đạt được, nhưng Giáo Hội luôn luôn mang trong mình mọi thành phần, để cũng cùng một sứ vụ như Đức Giêsu, đó là: giải thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, đem lại cho nhân loại một nền hòa bình trong công lý và tình thương, xây dựng một xã hội mang đậm dấu ấn yêu thương, bác ái.
Bao lâu còn người nghèo, bấy lâu sứ mạng còn cấp bách; bao lâu còn gian dối lọc lừa, Giáo Hội có trách nhiệm lên tiếng và thanh tẩy để nó trong sáng hơn; bao lâu con người còn thất vọng, Giáo Hội sẽ loan báo và trả lời những chất vấn về niềm hy vọng của nhân loại hôm nay (x. 1 Pr 3, 15).
Nếu Giáo Hội không lựa chọn người nghèo, không tiến ra chỗ nước sâu mà thả lưới, không vượt ra khỏi vỏ bọc an thân để đi đến những vùng ngoại vi, thì Giáo Hội vẫn chỉ trơ trơ như một cái máy, hay như con rô bốt không hồn!
Nếu Giáo Hội không lựa chọn ưu tiên vì sứ vụ như Đức Giêsu, thì một lúc nào đó, nhân loại sẽ không cần đến Giáo Hội vì Giáo Hội chỉ là một thể chế công chức xã hội thuần túy. Và, lẽ đương nhiên, nhân loại không còn tin tưởng Giáo Hội nữa, vì đã thất trung, bội ước với Đấng sáng lập nên mình!
Thật vậy, Giáo Hội sẽ mất đi bản chất nếu không rập đời sống và hoạt động của mình theo khuôn mẫu của Thầy Giêsu. Bởi lẽ: “Nếu Giáo Hội chỉ đi với kẻ có quyền, người ta sợ; chỉ đi với người giàu có, người ta khinh bỉ; nhưng đi với người nghèo thì được cả hai đối tượng trên và được tất cả mọi sự”.
3. Sứ mạng của chúng ta
Từ sứ mạng của Đức Giêsu, rồi đến sứ mạng của Giáo Hội và tới sứ mạng của mỗi chúng ta như một mạch liền lạc không thể tách rời. Tuy nhiên, điều chúng ta đặt ra, đó là: làm tông đồ bằng cách thế nào? Đức Phaolô VI đã vạch ra cho chúng ta một tiêu chuẩn để làm chứng cho Chúa, đó là: “Người thời nay thích nghe những chứng nhân hơn thầy dạy, bởi vì thầy dạy cũng là chứng nhân”. Đúng thế, lời dạy dỗ không hấp dẫn và thuyết phục bằng chứng tá vì người ta thường nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”.
Lời nhắn nhủ của đức giám mục trong thánh lễ phong chức linh mục muốn nhắc cho các mục tử về vai trò chứng tá. Tuy nhiên, lời nhắn gửi này có thể hiểu rộng cho mỗi người Kitô hữu, vì theo nghĩa phổ quát, mỗi chúng ta đều là mục tử vì được tham dự vào chức Tư Tế của Đức Giêsu ngày lãnh Bí tích Rửa Tội. Ngài khuyên: các con “hãy tin vào điều con đọc. Hãy giảng điều con tin. Và hãy thực hành điều con giảng dạy”.
Mong sao lời đó sẽ được mỗi người suy đi và nghĩ lại trong lòng, để trở nên chứng tá của tình yêu Thiên Chúa trong lòng xã hội hôm nay!
Được như thế, Thiên Đàng không chỉ tại Thiên mà đã ở giữa nhân loại ngay trong giây phút hiện tại.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con ý thức được sứ mạng của mình, đồng thời, biết noi gương Chúa để loan báo Tin Mừng cho con người cách toàn diện, ngõ hầu nhân loại này được an vui, hạnh phúc và bình an khi sđược sống trong tình yêu, công lý và sự thật. Amen.
31. Đức tin hoàn hảo--Lm. Nguyễn Chánh
1/ Trong những lời cuối cùng để kết thúc Tin Mừng thứ tư, tác giả Gioan Tông Đồ nói đến mục đích của cuốn sách mà mình biên soạn, nghĩa là nhằm giúp độc giả được đón nhận đức tin vào Đức Giêsu Kitô, nhờ đó mà họ sẽ được sống. Vì thế Thánh Gioan đã kết luận: "Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ Danh Người” (Ga 20,31). Như vậy theo nét nhìn của Thánh Gioan thì: Đức Giêsu Kitô là đối tượng của đức tin chúng ta; Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, là nguồn ơn cứu độ của chúng ta. Nhưng thực tế thì như thế nào?.
2/ Đó là một sự thật phũ phàng.
Gọi là phũ phàng vì qua trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe, phần nào đã tỏ được thái độ của người làng quê Nazarét, đồng hương với Chúa Giêsu khi Chúa về thăm họ: Đó là thái độ phẫn nộ hơn là vui vẻ; thái độ xua đuổi hơn là đón tiếp. Thái độ căm phẫn còn thể hiện khi những người trong Hội đường muốn lôi Chúa Giêsu lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực thẳm nhằm làm nguy hại đến tính mạng Ngài (x. Lc4,30).
Hơn nữa, gọi là phũ phàng, vì đọc xuyên suốt Tin Mừng chúng ta luôn bắt gặp một Đức Kitô luôn bị từ khước, cho dẫu Ngài là Con Thiên Chúa; rồi một hình ảnh của Đấng đến nói lời Chúa Cha, nhưng thường bị mọi người hững hờ, vì có lúc họ đã nói: “ lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi” (Ga6,60). Rồi chúng ta còn gặp hình ảnh của Đấng bị thất bại trong các phép lạ Ngài làm. Mặc dù phép lạ Chúa làm là do quyền năng Thánh Thần, nhưng lại bị người ta coi đó là sức mạnh của ma quỷ. Vì họ nói những phép lạ Chúa làm"là dựa thế quỷ vương Bêendêbun mà trừ quỳ” (Lc 11,15). Rồi cuối cùng chúng ta lại thấy sự thật phũ phàng đã bao trùm lên Đức Giêsu Kitô là Vua dân Do thái, khi vị Vua này đã bị chính người đồng hương của mình tước đọat hết phẩm giá của một con người, khi họ nhục mạ, chế giễu, khạc nhổ, đánh đập, đóng đinh, và cuối cùng chính họ đã giết Ngài trên thập giá với một thân hình trơ trọi.
3/ Nguyên nhân nào đã làm ra những sự thật phũ phàng đáng tiếc như thế?
Đó cũng là vì thái độ thiếu khiêm nhường. Vì thiếu khiêm nhường nên đa số người Do thái luôn khẳng định những giáo lý, những truyền thống mà họ đã lãnh nhận từ cha ông của họ đó là tuyệt đối. Vì tuyệt đối nên họ không cúi mình xuống để nhận lấy lời dạy mới mẻ của Chúa Giêsu như "ách êm ái và gánh nhẹ nhàng” (Mt 11,30). Vì là tuyệt đối nên họ không cúi mình xuống để đón nhận lời giải thích của Chúa Giêsu về niềm tin của họ. Mục đích là Chúa giúp họ có một đức tin hoàn hảo. Đức tin hoàn hảo là đức tin phải được xây dựng trên lời nói và cách sống của Chúa. Rất tiếc cho những người đồng hương của Chúa Giêsu. Vì Chúa đến với mục đích để giúp cho người nhà của mình có một đức tin tuyệt đối, nhưng họ không muốn. Ngược lại vì sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa dân tộc Do thái, đã bị mọi người coi như một cái gai trong mắt mình, nên họ đã đi đến một hành động tuyệt đối mù quáng, đó là khử trừ Chúa ra khỏi đức tin của họ, ra khỏi cộng đoàn mà họ đang sống.
4/ Sự thật chối bỏ Chúa cách đây hơn hai ngàn năm vẫn chưa chấm dứt. Sự thật này vẫn lan tràn nơi đây nơi đó, ngay cả trong cộng đoàn chúng ta, và trong cách sống chúng ta. Vì thực tế để đạt đến đức tin hoàn hảo nơi Chúa đó không phải là chuyện đơn giản. Vì tin Chúa thì Chúa luôn mong muốn chúng ta phải sống như Chúa: chịu hiểu lầm, chịu nhục mạ vì Tin Mừng, chịu đau khổ, chịu hy sinh, chịu mất đi những của cải mình có để đổi lấy yêu thương theo Tin Mừng. Nói chung để có đức tin hoàn hảo là chúng ta phải đi trên con đường hẹp, con đường thập giá. Đây chính là hành động của đức tin.
Khi đối diện với con đường thập giá, chúng ta cảm thấy mình bị thiệt thòi, thấy cuộc sống bị gò bó, trước mắt đó là những gian truân thử thách. Vì thế chúng thường rút lui, không muốn đi theo con đường hẹp của Chúa nữa, không muốn hành động vì đức tin nữa. Từ nguyên nhân đó chúng ta rất dễ rơi vào thái độ lệch lạc đức tin và dễ bị đánh mất đức tin trong cuộc sống, cũng vì muốn sống ích kỷ, không muốn sống theo đòi hỏi của Tin Mừng.
5/ Theo thống kê ngày 31-1-2006 của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng cho các dân tộc: Trong năm 2006 đã có 24 linh mục, tu sĩ và anh chị em giáo dân đã bỏ mình trên đường truyền giáo, khi phục vụ tại các miền truyền giáo hay giữa các thành phần kém may mắn trong xã hội. Sự hy sinh của những anh hùng truyền giáo này, đã làm cho dấu ấn đức tin không thể phai nhoà trong lịch sử Giáo Hội.
Vì muốn có một đức tin "hoàn tất", nên các ngài phải chấp nhận chịu ngược đãi. Vì muốn có một đức tin "hoàn chỉnh", nên các ngài phải chấp nhận bách hại. Vì muốn có một đức tin "hoàn hảo" nên các ngài rất vui lòng chấp nhận hy sinh. Đó là một đức tin tuyệt đối vô cùng.
6/ Hôm nay khi hướng ánh mắt nhìn lên ơn cứu độ, mỗi người chúng ta hãy can đảm chọn cho mình một con đường thật chắc chắn, thật bảo đảm để tiến bước về ơn cứu độ. Con đường chúng ta đi để được ơn cứu độ không gì khác hơn là con đường đức tin, con đường sống đức tin. Sống đức tin để chúng ta có một đức tin hoàn hảo. Nhưng để có một đức tin hoàn hảo đòi hỏi chúng ta phải gánh chịu những hy sinh thử thách, chính những hy sinh này sẽ dẫn đưa chúng ta đến sự sống muôn đời. Vì thánh Giacôbê đã quả quyết: "Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người" (Gc 1,12)
32. Phải nghe bằng ba lỗ tai--Lm. Mark Link, SJ
Chủ đề: "Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng 3 lỗ tai: Lỗ tai của tâm trí, lỗ tai của trái tim và lỗ tai của linh hồn"
Vào thời Chúa Giêsu, tại Israel có hai nơi dành cho việc phụng tự, là Đền thờ và Hội đường (Sy-nagogue). Đền thờ thì chỉ có một cái, tức Đền thờ tại Giêrusalem, nhưng có tới hàng trăm hội đường, hầu như mỗi làng đều có một cái. Đền thờ là nơi dân Do Thái dâng hy lễ cho Chúa, chẳng hạn chiên, cừu và bồ câu. Còn hội đường là nơi dành cho việc giảng thuyết nơi dân chúng lắng nghe Lời Chúa và cố gắng áp dụng lời ấy vào cuộc sống của họ. Như chúng ta thấy, nghi thức phụng tự trong hội đường và trong đền thờ tương ứng với nghi thức phụng tự trong thánh lễ Misa của chúng ta. Nửa phần đầu của thánh lễ tương ứng với nghi thức trong hội đường được gọi là phần phụng vụ Lời Chúa, bao gồm việc nghe đọc các bài Kinh Thánh và áp dụng chúng vào cuộc sống chúng ta giống như Chúa Giêsu đã chỉ dẫn cho dân Nagiarét trong Phúc Âm hôm nay. Nửa phần sau của thánh lễ tương ứng với nghi thức phụng tự trong đền thờ, được gọi là phục vụ Thánh Thể, liên quan đến việc dâng hy lễ; giống như Chúa Giêsu đã thực hiện trong bữa Tiệc Ly; "Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Ngài cầm chén lên và nói: "Đây là chén của giao ước mới ký kết trong máu Ta, máu sẽ đổ ra vì các con" (Lc 22:20)
Giờ đây chúng ta hãy xét một cách sâu sát hơn phần đầu của thánh lễ, tức phần phụng vụ Lời Chúa. Trong phần này nhiệm vụ chính của chúng ta là lắng nghe Kinh Thánh. Vấn đề then chốt ở đây là lắng nghe. Cách đây nhiều năm có một vở kịch ở Broadway tựa đề là The Royal Hunt of the Sun (Hoàng gia đi săn mặt trời). Vở này kể lại cuộc chinh phục dân da đỏ ở Pêru của người Tây Ban Nha vào thế kỷ 16, trong đó có một màn kể lại câu chuyện một người nọ biếu cho tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn Kinh Thánh và bảo ông ta; "Đây là Lời Chúa, Ngài nói với chúng ta qua cuốn sách này" Viên tù trưởng nghiêm trang cầm cuốn Thánh Kinh lên, xem xét kỹ lưỡng và dịu dàng đặt nó vào lỗ tai. Ông cố gắng nghe đi nghe lại nhưng chẳng nghe được gì hết. Thế là ông ta nghĩ rằng mình bị phỉnh gạt, nên giận dữ dằn mạnh cuốn sách xuống đất. Màn bi kịch trên khiến chúng ta tự nhủ; "Vậy thì chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa thế nào đây?"
Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng cả ba cách thức: bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của linh hồn.
Trước hết, thế nào là nghe bằng lỗ tai tâm trí. Đó là cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, và hơn nữa, làm cho lời ấy sống động y như chúng ta đang nghe chính Chúa nói. Chẳng hạn, thánh Ignatiô Loyola thường nghe lời Chúa theo kiểu này bằng cách nhắm mắt lại và tưởng tượng mình đang có mặt trong hội đường Do Thái để nghe Chúa Giêsu nói. Ngài tưởng tượng ra niềm xúc động khiến giọng nói Chúa Giêsu nghẹn ngào khi Chúa đọc đến câu; "Thần khí Chúa ngự trên tôi. Và Ngài còn tưởng tượng ra nỗi phấn khích như điện giật lan chuyền nơi cộng đoàn tham dự khi Chúa Giêsu tuyên bố "Hôm nay, lời Kinh Thánh trên đã ứng nghiệm khi anh chị em nghe đọc nó".
Như thế nghe bằng tâm trí tức là không những chỉ hiểu Lời Chúa, mà còn làm cho lời ấy trở nên sống động như thể nghe từ miệng Chúa nói ra.
Cách thứ hai là lắng nghe Lời Chúa bằng lỗ tai của trái tim, nghĩa là ghi tạc Lời Chúa vào trái tim và cố gắng tìm cách áp dụng Lời ấy vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống chúng ta. Cách đây nhiều năm, Charlie Pitts là chủ nhân một công ty xây dựng chuyên xây dựng điện ngầm ở Toronto, Canada. Công việc làm ăn của ông càng khuếch trương bao nhiêu thì đời sống cá nhân và gia đình ông càng khốn đốn bấy nhiêu. Ngày nọ, vì thấy tình thế tồi tệ quá, Charlie phải cầu cứu tới việc đọc Kinh Thánh. Tình cờ trong lúc đọc Kinh Thánh, một câu nói đập mạnh vào mắt ông; "Được lời lãi cả thế gian mà mất đi chính mình thì lợi ích gì đâu?" (Lc 9:25). Những lời này như nói trực tiếp với Charlie, như hàm ý bảo ông: "Này Charlie, chính điều ấy đang xảy đến cho ông đó!". Như thế, nghe bằng trái tim tức là ghi khắc Lời Chúa vào trái tim và xét xem có thể áp dụng lời ấy vào hoàn cảnh cụ thể của chúng ta như thế nào.
Và cách lắng nghe Lời Chúa sau cùng là nghe bằng lỗ tai của linh hồn, nghĩa là ngoài việc ghi khắc Lời Chúa vào trái tim, chúng ta còn chuyện vãn với Ngài về Lời ấy, đồng thời làm những gì mà Charlie Pitts đã làm. Chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta thực hiện những bước cần thiết để làm cho cuộc sống phù hợp với Lời Ngài. Chẳng hạn, sau khi Charlie Pitts cầu nguyện về tình trạng sống của ông và bàn luận với vợ xong, ông liền bán toàn bộ công ty của ông trước khi hủy diệt đời sống ông. Tiếp đó, Charlie bỏ tiền ra mua một khách sạn có bãi sân gôn rổi quản trị nó". Lợi tức của công việc kinh doanh này ông dùng để truyền bá Phúc Âm.
Như thế bước thứ ba trong việc lắng nghe Lời Chúa là tâm sự với Ngài để xem Ngài muốn chúng ta làm gì khi nghe lời đọc trên. Dĩ nhiên, chúng ta không mong Chúa dùng lời nói để đáp trả lại lời nói của chúng ta, vì Ngài thường nói với chúng ta một cách thiêng liêng từ thâm sâu linh hồn ta. Và hơn nữa, không phải là Ngài sẽ luôn luôn đáp lời chúng ta ngay lập tức trong giờ cầu nguyện, mà Ngài thường đáp lời chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, ngoài phút giây chúng ta cầu nguyện chẳng hạn, Ngài làm cho chúng ta từ từ cảm nghiệm được niềm mơ ước muốn cải tạo hoàn cảnh hiện tại, Ngài khiến chúng ta tìm ra những ý tưởng về cách thức cải tạo cảnh ngộ chúng ta về môt trong những ý tưởng trên. Nói rõ hơn, những chuyển biến tâm linh này có thể là do Lời Chúa đang âm thầm nói với chúng ta từ sâu thẳm của linh hồn
Tóm lại, chúng ta phải lắng nghe Chúa bằng ba cách;
Bằng lỗ tai tâm trí,
bằng lỗ tai trái tim
và bằng lỗ tai linh hồn.
Nói cách khác, chúng ta phải làm sao để Lời Chúa dược diễn lại sống động nơi tâm trí chúng ta, phải ghi khắc lời ấy vào trái tim chúng ta, và phải bàn bạc với Chúa cũng như lắng nghe điều Ngài muốn nhắn nhủ chúng ta qua lời ấy.
33. Lời quyền năng là Thần trí và là sự sống--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Mở cuốn Thánh Kinh, chúng ta thấy ngay sức mạnh của Lời, đó là tạo dựng nên vũ trụ vạn vật. “Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng…” (x.St 1). Thánh Gioan khởi đầu Tin Mừng bằng những dòng tuyên tín về tính siêu việt, sự tiền hữu cũng như quyền năng của Ngôi Lời: “ Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3).
Thành thật cám ơn anh em Tin Lành đã góp phần một cách nào đó để rồi trong Công Đồng Vatican II Giáo hội Công giáo mạnh mẽ khẳng định rằng Giáo hội luôn tôn kính Lời Chúa ngang hàng với Thánh Thể Chúa Kitô (x.MK số 21). Với các bài Thánh Kinh trích đọc trong Chúa Nhật III TN C này, cách riêng bài đọc thứ nhất, Thánh vịnh đáp ca và bài Tin mừng, khiến chúng ta dễ nhận ra chủ đề là Lời Chúa và hiệu năng của Lời.
Khi khẳng định mình luôn tôn kính Lời Chúa như Thánh Thể Chúa Kitô, thì Giáo hội tuyên tín rằng Lời Chúa không chỉ là những gì được Chúa phán dạy mà còn chính là một Hữu thể, một Ngôi vị siêu việt, có từ đời đời và đầy quyền năng. Và Lời quyền năng ấy cũng là Lời Tình Yêu. Chính vì thế hiệu quả của Lời được tuyên ban luôn là những sự tốt đẹp cả về sự hiện hữu lẫn cách thế hiện hữu (x. St 1). “Lạy Chúa, Lời Chúa là thần trí và là sự sống” (Đáp ca). Qua bài trích Tin Mừng thánh Luca của Chúa Nhật III TN C, chúng ta cùng xem xét một vài hiệu quả của Lời được tuyên ban vốn đã được Chúa Giêsu minh nhiên khẳng định “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 1,21).
Lấy lại lời Ngôn sứ Isaia, Chúa Giêsu minh định rằng Thánh Thần ngự trên Người, xức dầu tấn phong cho Người để Người loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Và những hiệu quả của Lời Người loan báo đó là: “công bố cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19).
Công bố năm hồng ân của Thiên Chúa: Đây là năm toàn xá đã được Thiên Chúa thiết lập trong Cựu Ước. Cuối một chu kỳ bảy năm là năm Sabat, thì phải để cho đất đai được nghỉ ngơi, không canh tác. Các nô lệ cũng được trả tự do …(x.Xh 21,2; Lv 25,1-7). Cuối chu kỳ bảy lần bảy năm và bắt đầu ngày mồng mười tháng bảy năm thứ bốn mười chín thì khởi đầu một năm toàn xá (x.Lv 25,8-54). Trong năm này đặc biệt cần phải thực thi ân tình cách khoáng đạt với người nô lệ, người nghèo, khách ngụ cư…như tha nợ, trả tự do, trả lại đồ cầm cố… Những quy định của năm toàn xá không nguyên chỉ để tái lập sự công bằng theo nghĩa công bằng phân phối, vì “ai giàu ba họ, ai lại khó ba đời!”, mà còn nói lên lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa, đặc biệt dành cho những người nghèo hèn, bé mọn, cô thân, yếu thế. Tự sức mình, những người này như bất lực để giải thoát mình khỏi cảnh bần hàn, túng khổ. Và chỉ có Thiên Chúa mới có thể giải thoát họ.
Khi công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Chúa Giêsu muốn nói đến tình yêu vô điều kiện của Cha trên trời, Đấng đã yêu thế gian đến nỗi ban chính Con Một để cho thế gian được sống và sống dồi dào (x.Ga 3,16). Sự kiện Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta là một hồng ân vô giá, vượt quá mọi công trạng của loài người. Đấng Siêu Việt mà xưa dân Chúa rất đổi kính sợ và cả kinh sợ, vì bất cứ ai thấy long nhan thảy đều phải chết, thì nay hiện diện giữa loài người và người ta có thể diện kiến, tiếp xúc, đụng chạm cách trực tiếp để được lãnh nhận ân phúc (x.1Ga 1,1).
Cho người mù được sáng mắt: Quả thật Chúa Giêsu đã dùng lời quyền năng của Người cho một vài người mù trong dân Israel thời bấy giờ được nhìn thấy ánh sáng. Tuy nhiên chắc chắn vẫn còn đó nhiều người về thể lý lúc bấy giờ chưa được lãnh nhận ân phúc. Như thế việc công bố lời ở đây không nhắm đến sự mù hay sáng của đôi mắt thể lý. Chúa đến để công bố lời giúp nhân loại nhìn thấy chân lý. Chân lý ấy chính là Người, Giêsu Kitô, cuộc sống, các hoạt động và những lời giảng dạy của Người. “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chúng cho sự thật” (Ga 18,37).
Chân lý nền tảng mà Chúa Giêsu đã từng long trọng khẳng định lại lời Kinh Thánh đó là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Đấng dựng nên mọi sự và là Cha chung của mọi người. Chúng ta phải tôn thờ, yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Yêu mến Chúa thì phải thực thi lời người phán dạy. Vì thế chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính bản thân mình, dù họ thương ta hay ghét ta, dù họ làm ơn cho chúng ta hay bách hại chúng ta (x.Mc 12,28-34; Mt 5,43-48). Chính khi bước đi trong ánh sáng chân lý thì chúng ta sẽ được tự do. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi cảnh tình nô lệ.
Giải thoát, trả tự do cho người bị áp bức, kẻ bị giam cầm: Chúng ta chớ quên rằng khi Chúa Giêsu công bố những lời này và khẳng định chúng đang ứng nghiệm thì người anh em họ của Chúa là Gioan Tẩy giả đang ở trong ngục tù. Khi sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu rằng Người có phải là Đấng phải đến chăng, thì có lẽ Gioan Tẩy giả đang băn khoăn và ít nhiều cũng đang ở trong đêm tối của đức tin (x.Lc 7,18-23).
“Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do” (Ga 8,34-36). Những lời khẳng định trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ sứ mạng của Người. Người đến thế gian là để giải phóng chúng ta khỏi cảnh nô lệ thần dữ, khỏi cảnh ngục tù của tội lỗi. Các bức tường gỗ đá của chốn lao tù vẫn không thể cướp đi sự tự do của tâm hồn. Chính tội lỗi mới làm cho chúng ta thành người nô lệ, mặc dù chân vẫn thong dong ngoài đời.
Sau lời tuyên phán “Ta truyền cho anh: Hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà” đôi chân của người bất toại được giải phóng.
Nhưng rồi phải đến ngày đôi chân ấy lại bất động vì bệnh tật hay vì tuổi tác. Chính lời truyền phán: “ Tội lỗi anh được tha” mới là lời giải thoát người bất toại khỏi cảnh nô lệ, giam cầm. (x.Mc 2,1-12)
Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã ban Ngôi Lời. Ngôi Lời là Ánh Sáng thế gian. Ánh sáng chân lý dẫn đưa con người thoát cảnh nô lệ tội lỗi đến cảnh đời tự do của phận người con được sống và sống mãi trong tình Cha trên trời. Hãy lắng nghe lời của Esdra: Đừng sầu thảm khóc lóc, nhưng hãy hân hoan vui mừng đón nhận Lời giải thoát, Lời yêu thương. Vậy hãy xét xem, bạn, tôi, chúng ta đã tham dự phần Phụng Vụ lời Chúa trong các Thánh Lễ, đặc biệt Thánh Lễ Chúa Nhật ra sao? Cũng hy vọng rằng các thừa tác viên của Lời trên giảng đài chớ quên rằng những chia sẻ của mình là một phần của Phụng Vụ Lời Chúa. Mong sao những lời ấy cũng có “quyền năng” vì là thần trí và là sự sống.
34. Sự gần gũi hằng ngày của Thiên Chúa--Lm. Nguyễn Hữu Thy
Những người có mặt trong Hội Ðường Na-da-rét hôm đó thật vô cùng kinh ngạc khi nghe Ðức Giêsu tuyên bố: Những lời hứa về Ðấng Messia mà các vị đã nghe, nay đã được hiện thực nơi tôi! Và chúng ta có thể dễ dàng hiểu được sự bất bình của những người Na-da-rét, vì trên thực tế tình hình nơi chính chúng ta cũng không khác lắm so với hoàn cảnh của họ. Vâng, chúng ta đã nghe biết sứ điệp của Giao Hội và sự đòi hỏi của nó là loan truyền ơn cứu rỗi của Thiên Chúa, nhưng ngay trong Giáo Hội, chúng ta lại cảm nghiệm được rất ít ơn cứu rỗi đó. Cách đây mấy năm, có một bạn thanh niên nói: “Giáo Hội muốn tìm cách giải thoát thế gian ra khỏi sự dữ, nhưng chính Giáo Hội lại là sự dữ!” Có lẽ đây là một lời nói quá nặng của một người đang trong tâm trạng thiếu bình tĩnh! Nhưng trong thực tế, lời nói đó đã bộc lộ điều mà nhiều người từng thầm che đậy trong lòng, khi họ cảm thấy đau khổ và thất vọng về Giáo Hội, về những tính cách nhân loại bất toàn trong Giáo Hội, như: Trước những yếu đuối, những lầm lỗi và những luật lệ khe khắt của Giáo Hội, v.v...Vì thế nhiều người đã tỏ ra dè dặt trước sứ điệp cứu rỗi mang tính cách thiên sai do Giáo Hội loan báo, cũng như đã đánh mất dần lòng tin tưởng vào sứ vụ và sự thánh thiện của Giáo Hội.
Vấn đề khó khăn đó của con người ngày nay, cũng chính là vấn đề của những người Do-thái ở Na-da-rét xưa kia. Họ biết Ðức Giêsu là ai, và họ cũng cho là mình biết rõ Ðấng Messia phải như thế nào. Theo họ, Ðức Giêsu, người đồng hương của họ và hình ảnh mà họ vẫn có được về một Ðấng Messia, hoàn toàn không trùng hợp với nhau. Nói cách khác, người anh em đồng bào Giêsu này của họ không thể là Ðấng Thiên Sai từng được toàn dân mong chờ từ hàng thế kỷ nay.
Thế mà ngày nay, tuy chúng ta nhận thức được rằng Thiên Chúa đã xuất hiện trong thế gian qua con người Ðức Giêsu Na-da-rét, một cách hoàn toàn bất ngờ và trái ngược với quan điểm và sự chờ đợi của những người Do-thái xưa kia, nhưng tương tự như hai môn đệ Em-mau xưa (x Lc 24,25), chúng ta vẫn không tránh được những khó khăn, một khi chúng được mời gọi: Phải rút tỉa ra từ sự nhận thức về sự kiện Thiên Chúa nhập thể trong con người Ðức Giêsu, những hiệu quả cụ thể cho cuộc sống của mình và đồng thời không còn đem những quan niệm nhân loại hẹp hòi của mình ra để đo lường và phê phán về Thiên Chúa và chương trình cứu rỗi của Người nữa. Thí dụ: Khi chúng ta khắt khe đòi hỏi Giáo Hội phải hoàn toàn tinh tuyền và hoàn hảo thế này thế kia, thì chúng ta đã quên đi là chính mình đang ngồi trên cùng “một hàng ghế” với những người Do-thái xưa kia ở trong Hội Ðường Na-da-rét, những người đã chờ đợi một Ðấng Messia xuất hiện uy hùng trong vinh quang Thiên Chúa, đến nỗi không một ai còn dám nghi ngờ được sứ vụ thiên sai của Người nữa! Trong khi đó, Ðấng Messia, Ðấng Thiên Sai lại đã xuất hiện trong thế gian hoàn toàn khác hẳn: Người đã đến như một người bình thường, yếu đuối, chứ không có hào quang rực rỡ nào cả; nhưng lòng tin tưởng phó thác của Người vào sự cứu rỗi và sức mạnh của Thiên Chúa thì hoàn toàn tuyệt đối. Ðức Giêsu không cần đến quyền bính hay sự vinh quang rực rỡ bên ngoài. Người chỉ biết tuân phục và thực hiện thánh ý Thiên Chúa Cha, và Người hoàn toàn phó mặc cho Thiên Chúa hướng dẫn sứ mệnh của Người đến chỗ thành công, cũng vì thế Người đã khước từ tất cả mọi phẩm chất thần thiêng, để sống hòa mình vào cuộc sống hằng ngày của con người như một người trong họ. Thánh Phaolô viết trong Thư gửi Phi-líp-pê: “Ðức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như mọi người trần thế” (Pl 2,6-7).
Do đó, kể từ Ðức Giêsu cuộc sống hằng ngày của con người mang dấu ấn thần thiêng. Ðể tìm gặp Thiên Chúa, con người không cần phải rời bỏ thế gian, và con người cũng không cần phải chờ đợi một dấu hiệu đặc biệt về sự gần gủi của Thiên Chúa. Thay vào đó, con người cần phải tin vào sự gần gủi của Thiên Chúa trong chính cuộc sống hằng ngày của mình, và qua chính những kinh nghiệm về nghèo khổ, tật nguyền, mù lòa và đau ốm (x. Lc 4,18). Tuy nhiên, để đạt được điều ấy, trước tiên chính con người phải có những kinh nghiệm đó đã. Vâng, khi một người càng ý thức được sự nghèo nàn của mình, thì càng hiểu rõ được “Năm hồng ân của Thiên Chúa” có ý nghĩa gì; đó chính là: Dù cho vương vấn mọi lầm lẫn và tội lổi, con người vẫn không bị xua đuổi loại trừ và không phải lo âu bối rối. Niềm hy vọng và tương lai luôn mở rộng trước mắt con người. Giáo Hội luôn ý thức được điều đó, nên luôn tìm cách gần gủi với con người để giúp cho con người đạt tới được một cuộc sống sung mãn. Dĩ nhiên, Giáo Hội đã và sẽ không luôn luôn thành công trong công tác nâng đỡ con người như thế. Giáo Hội còn có thể làm nhiều hơn nữa, nhân bản hơn nữa, hành động đầy yêu thương hơn và bộc lộc được sức sống của mình một cách mãnh liệt hơn nữa, v.v...!
Thiên Chúa đã xuất hiện trong thế giới này qua con người Ðức Giêsu và chỉ cho chúng ta biết phải sống và phải cư xử thế nào: Ðó là phải bắt chước gương Ðức Giêsu mà biết thông cảm nỗi cơ cực của kẻ khác và tìm cách mang tới cho họ sức sống mà chính Thiên Chúa đã ban cho chúng ta và còn tiếp tục ban cho chúng ta.
Những con người biết ý thức và thực thi được điều đó, thì không còn khổ sở và khó chịu về những yếu đuối và lầm lỗi của kẻ khác nữa, trái lại tìm cách giúp đỡ họ điều họ đang cần, như: Một lời nói đầy thông cảm, một cử chỉ thân thiện, một cái mĩm cười thanh thản vui tươi, dành cho họ một chút thời giờ, v.v... Tất cả những điều đó hoàn toàn phản chiếu tinh thần Phúc Âm - và đều nằm trong tầm tay của chúng ta, bất cứ ai cũng đều làm được - vì thế chúng là dấu chỉ sự gần gủi của Thiên Chúa - cả hôm nay nữa -, là dấu chỉ tiên báo ơn cứu rỗi mà Ðức Giêsu đã công bố trong Hội Ðường Na-da-rét năm xưa, tức: “Giải phóng người bị cầm tù, mang lại ánh sáng cho người mù lòa, trả tự do người bị áp bức và loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ” (Lc 4,18). Amen.
35. Đấng Cứu Thế.
Hội đường là nơi tụ họp có tính cách tôn giáo của người Do Thái. Đồng thời, ngày Sabat, tức là ngày nghỉ lễ được cử hành tại hội đường, với việc nghe đọc Thánh Kinh và diễn giảng. Mọi người Do Thái trưởng thành, tức là từ 30 tuổi trở lên đều có thể được đề nghị hay tình nguyện lên đọc và giải thích Kinh Thánh.
Trở về Nadarét lúc này, Chúa Giêsu đã trên 30 tuổi, cho nên Ngài đã tham dự vào sinh hoạt của cộng đồng tại quê nhà. Theo thánh Luca cho biết, Chúa Giêsu đã nhiều lần giảng dạy trong các hội đường và lời giảng dạy của Ngài hẳn đã có được một sức lôi cuốn và hấp dẫn, vì chẳng bao lâu, tiếng tăm Ngài đã được làn truyền khắp vùng. Tất cả bầu khí phấn khởi này được sử dụng như là phần nhập đề cho Tin Mừng lớn lao, mà Ngài sẽ rao giảng tại hội đường Nadarét, như là một xác định lập trường và công bố chương trình hành động của Ngài. Vậy lập trường ấy như thế nào và chương trình hành động của Ngài ra làm sao?
Tôi xin thưa: Lập trường ấy, chương trình hành động ấy xoay quanh lời loan báo của tiên tri Isaia: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu tấn phong tôi và sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, giải phóng những kẻ bị giam cầm, làm cho người mù được sáng, trả lại tự do cho những người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Lời loan báo này có nghĩa là thời cứu chuộc đã bắt đầu, và Chúa Giêsu, người đang đọc và cắt nghĩa đoạn tiên tri này, chính là Đấng đã được Thiên Chúa xức dầu và sai đến để thực hiện ý định cứu chuộc mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.
Lời giải thích của Chúa Giêsu thật ngắn gọn nhưng lại vô cùng quan trọng, đặt người nghe trước một bối cảnh mới, trước một thời đại mới: Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe. Có thể xưa cũng như nay, nhiều người đã chờ đợi ở Vị Cứu Tinh những việc cả thể và lớn lao, những chiến công lừng lẫy và oanh liệt. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã xuất hiện như một con người nhân từ và dịu hiền, luôn quan tâm tới những đau khổ của con người khổ đau, lấy việc giải thoát họ như là nội dung của sứ mạng mình được sai đến và phải thực hiện. Trước mặt Ngài, thời cứu độ là thời tái lập lại trật tự và tình thương giữa người với người.
Lời tuyên bố của Chúa Giêsu tại hội đường năm xưa chính là một sự thách đố đối với cá nhân mỗi người chúng ta, cũng như đối với toàn thể Giáo Hội, bởi vì cá nhân chúng ta cũng như Giáo Hội có nhiệm vụ tiếp nối sứ mạng cứu độ của Chúa nơi trần gian, thế nhưng cá nhân chúng ta cũng như Giáo Hội đã thực sự tái lập trật tự và tình thương yêu giữa người với người hay chưa?
36. Lời trên đôi tay - Dã Quỳ
Khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu được Thần Khí thúc đẩy, hướng dẫn, ngự trị và tràn đầy quyền năng. Đây là một hành trình, là thời gian đặc biệt cho một cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Đây là thời gian hồng ân của Chúa cho nhân loại (Lc 4, 19), nhưng cũng là thời gian thách đố của con người trước Tin Mừng Chúa Giêsu loan báo và mời gọi thực thi.
- Đây Là Thời Gian Hồng Ân vì là thời Thiên Chúa trực tiếp gặp gỡ con người qua Đức Giêsu Kitô - Đấng được Xức Dầu và tràn đầy Thần Khí. Là lúc Thiên Chúa thi ân giáng phúc cho con người, nhất là những người nghèo khó: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19). Đây có thể được gọi là tuyên ngôn cứu thế của Chúa Giêsu. Với những từ ngữ, những cử chỉ, những việc làm cụ thể và sự đón tiếp của Chúa Giêsu với những người nhỏ bé nghèo hèn, những người bị tước đoạt tự do, họ đang bị giam cầm trong nhiều hình thức, những người mù không thấy được vẻ đẹp của vũ trụ và muôn tạo vật, những người đang đau khổ vì bất công, những người đang bị gạt ra lề của tôn giáo và xã hội, những người tội lỗi đang sống với tâm hồn tan nát... và Người mở lòng cho tất cả những ai khốn cùng.
Chúa Giêsu diễn tả lời của Thiên Chúa cách xác thực, nghe được, thấy được và hiện diện giữa con người. Người trở nên dấu chỉ tình yêu hữu hình của Chúa Cha cho nhân loại. Người hiến thân cho Tin Mừng mà Người vừa công bố và làm cho Tin Mừng ấy hiện thực để con người có thể mắt thấy tai nghe và hưởng tràn trề hồng ân cứu độ của Thiên Chúa "Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng...” (Lc 7, 22-23).
Bằng lời giảng dạy, qua lối sống và những hành động cụ thể, Chúa Giêsu mạc khải và thể hiện tình yêu của Người đối với nhân loại. Người xót thương thân phận con người hữu hạn và mong manh của chúng ta nên Người biểu lộ lòng thương xót đặc biệt cho những ai đau khổ, bất hạnh, tội lỗi. Và tình yêu thương xót ấy không chỉ là Lời chúng ta nghe nhưng là việc làm trên đôi tay của Chúa Giêsu mà chúng ta có thể thấy, chứng nghiệm vì: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe.” (Lc 4, 21) Lời ứng nghiệm trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu và đỉnh cao là cái chết và sự phục sinh của Người để giải thoát, để cứu nhân loại cách trọn vẹn.
- Thế Nhưng Đây Cũng Là Thời Gian Thách Đố Của Chúng Ta, vì đứng trước tình yêu thương của Thiên Chúa và Tin Mừng Chúa Giêsu loan báo, chúng ta không chỉ lãnh nhận, nghe, thấy nhưng Người đòi hỏi chúng ta phải để cho tình yêu và Tin Mừng hướng dẫn cuộc sống chúng ta. Sứ mạng của Chúa được tiếp nối nơi chính chúng ta là những Kitô hữu, như lời nhắn nhủ của ĐTC Phanxicô: "Ước gì những lời Chúa Giêsu công bố sẽ được trở nên tái rõ ràng trong việc đáp trả phát xuất từ đức tin, cũng như trong chứng tá đời sống mà tất cả các Kitô hữu đều được mời gọi để cho đi.” (Trích Tông Sắc Misericordiae Vultus số 16)
Chúa Giêsu đã trở nên mẫu gương cho chúng ta bằng những việc làm cụ thể biểu lộ tình yêu và Người mời gọi chúng ta là những môn sinh của Người đã lãnh nhận nhưng không thì cũng hãy trao ban cách nhưng không. Người đã từng mời gọi các môn đệ "Thì chính anh em hãy cho họ ăn đi.” (Mc 6, 37) Hãy yêu thương bởi vì đó là huấn lệnh của Chúa và là giới luật cốt yếu của Tin Mừng. Chúng ta là chi thể của thân thể Chúa Kitô, mỗi người có trách nhiệm và bổn phận yêu thương, nâng đỡ những chi thể khác như lời thánh Phaolô khuyên: “Vậy anh em là thân thể Đức Kitô và mỗi người là một bộ phận. Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau.” (1Cr 12, 27.25) Chúng ta hãy là những cánh tay nối dài của Chúa, mang đến cho người nghèo một cử chỉ ủi an, nâng đỡ và trao lại ánh nhìn tin yêu hy vọng cho những ai thất vọng sầu khổ...Hãy họa lại khuôn mặt của Chúa Kitô, hãy đặt Lời của Người trên bàn tay của chúng ta và hãy để Thần Khí hướng dẫn chúng ta trong từng việc phục vụ, trong từng nhịp sống bác ái xót thương.
Nguyện xin Chúa Giêsu- Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa ở cùng chúng con và xin ban tràn đầy quyền năng Thánh Thần, giúp chúng con biết đem Tin Mừng thực thi cách thiết thực trong cuộc sống chúng con. Amen.
37. Lời Kinh Thánh được ứng nghiệm
Hôm nay lời Kinh Thánh đã được ứng nghiệm. Nếu tìm hiểu Kinh Thánh, chúng ta sẽ thấy Chúa Giêsu đã thực thi mọi lời tiên tri nói về Ngài từ hàng trăm năm trước. Đó là một bằng chứng xác quyết Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại.
Chẳng hạn về việc Ngài được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria, thì tiên tri Isaia đã loan báo:
- Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi con trẻ ấy là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Chẳng hạn về việc Ngài sinh ra ở Bêlem, thì tiên tri Mikêa đã nói:
- Và ngươi hỡi Bêlem xứ Giuđêa, ngươi không phải là một thành trì nhỏ bé, bởi vì từ nơi ngươi sẽ xuất hiện Đấng cai trị nhà Israel.
Chẳng hạn việc Thánh Gia trốn sang Ai Cập, tiên tri Ôsê đã loan báo:
- Ta sẽ gọi con Ta ra khỏi đất Ai Cập.
Nhất là những biến cố trong quãng đời công khai và cuộc tử nạn của Ngài, cũng đã được ứng nghiệm một cách hết sức đầy đủ, chẳng hạn về cuộc khải hoàn, tiến vào Giêrusalem một cách long trọng, thì tiên tri Giacaria đã mô tả:
- Hỡi Giêrusalem, này vua ngươi đang đến, Ngài cưỡi trên lừa con.
Về cái chết của Ngài, tiên tri Isaia đã công bố:
- Người ta đánh đập Ngài, nhưng Ngài đã bằng lòng chấp nhận, như con chiên yên lặng trước người thợ xén lông.
Và còn nhiều biến cố, còn nhiều sự việc khác nữa, Chúa Giêsu đã thực hiện đúng như lời các tiên tri đã loan báo. Và như chúng ta đã xác quyết: Điều đó chứng tỏ Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa.
Mỗi lời tiên tri là một lời nói trước, về một biến cố nào đó sẽ xảy ra, liên quan đến hành động tự do của Thiên Chúa. Những lời nói trước về Đức Kitô, được Thiên Chúa tỏ bày cho các tiên tri, để rồi chính các tiên tri đã công bố hàng trăm năm về trước cho dân Do Thái.
Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta phải tin nhận rằng Đức Kitô đã đến với chúng ta, Ngài là Thiên Chúa, là Đấng cứu độ muôn dân mong đợi, như trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã dẫn chứng lời tiên tri Isaia, để xác quyết rằng Ngài là Thiên Chúa đã đến trong trần gian để cứu chuộc những người nghèo đó, khổ đau và bất hạnh. Hơn thế nữa, chính Chúa Giêsu cũng nói tiên tri về những chuyện sẽ xảy ra và tất cả đều đã được ứng nghiệm. Chẳng hạn Ngài đã tiên báo về sự sụp đổ của Giêrusalem: Rồi đây sẽ không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào.
Và sự thực đã xảy ra như vậy. Vào năm 70, tướng Titus, người Rôma, đã mang quân vây hãm Giêrusalem. Sau khi đã lọt được vào trong thành, họ đã đốt phá và san bằng thành phố.
Còn chúng ta thì sao? Trong giờ phút quan trọng này, chúng ta cũng đang sống lại những biến cố đã được ứng nghiệm: Thánh lễ là sự giáng sinh, là cái chết và phục sinh của Đức Kitô được lặp lại trên bàn thờ này. Thế nhưng chúng ta có đón nhận lời Chúa cùng với Bí tích Thánh Thể một cách trang nghiêm và sốt sắng, hay chúng ta lại cứng lòng như dân làng Nadarét, để cuối cùng đã xua đuổi Chúa, và tìm cách xô Ngài xuống vực sâu.
38. Đón nhận
Trong quyển sách mang tựa đề "Chuyện ở đời", có một câu chuyện như thế này: Ông chủ điền nọ rất giàu có. Ông cho các tá điền mướn đất làm ăn canh tác. Nhưng rồi sau một thời gian làm ăn thất bại, các tá điền lâm vào cảnh túng th iếu nợ nần, nên không thể đóng thuế cho chủ theo đúng kỳ hạn được. Và dù biết rằng ông chủ mình rất tốt bụng, nhưng họ vẫn áy náy lo sợ vì không biết chủ sẽ hoãn nợ cho mình được bao lâu. Một ngày nọ, tất cả các tá điền được mời tới để ông chủ gặp mặt. Ai nấy đều hồi hộp sợ ông chủ thu hồi lại đất vì họ không còn khã năng để đóng thuế nữa. Khi mọi người có mặt đông đủ thì người quản lý của ông chủ bước ra và nói: "ông chủ biết chắc là ai trong các ngươi cũng không đủ khả năng để đóng thuế, cho nên ông chủ nhờ tôi nói cho các người hay " Nói tới đây, viên quản lý ngừng lại, và dường như tim của các tá điền cũng ngừng đập theo, và rối viên quản lý nói tiếp: "..hôm nay tôi mang đến cho các ngươi một tin mừng, đó là ông chủ quyết định tha hết nợ nần cho các ngươi. Từ nay các ngươi cứ an tâm làm ăn sinh sống ". Thế là mọi người sung sướng reo hò. Họ ôm nhau múa nhảy hát ca. Sau nhiều năm vất vã cực nhọc, hôm nay họ mới nhận thấy ánh sáng mặt trời là tươi đẹp, tiếng chim hót trên cành rất thanh thót, cây cỏ chung q uanh mình thật rực rỡ và đáng yêu.
Thưa quý ông bà và anh chị em! Câu chuyện trên đây phần nào giúp chúng ta hiểu được điều mà Giáo hội muốn trình bày trong phần Phụng vụ Lời Chúa của Thánh lễ hôm nay: "Chúa Giêsu là niềm vui cứu độ". Niềm vui đó không phải là những lời loan báo suông với những hứa hẹn, mà là chính con người của Chúa Giêsu, cùng với những lời loan báo thật chính xác của tiên tri Isaia về Người: "Thánh Thần chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo tin mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, Công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng". Đây là một tin mừng mà Người Quản Lý của Thiên Chúa mang tên là Đức Giêsu Kitô đã đem đến cho tất cả mọi người. Quả thật, nếu đọc lại tất cả những gì đã được ghi chép trong phúc âm, chúng ta sẽ th ầy được rằng: Đức Giêsu đã thực hiện từng câu từng chữ một trong lời giới thiệu của tiên tri Isaia qua những lời dạy dỗ, các phép lạ, và qua cung cách ứng xử của Người. Chính vì thế mà hôm nay Người hoàn toàn có đầy đủ tư cách để tuyên bố trước mặt mọi người rằng: "Hôm nay đã ứng nghiệm đoạn Thánh Kinh mà tai các ngươi vừa nghe". Nói khác đi là hôm nay, Đức Giêsu muốn nói cho mọi người biết rằng: Người chính là Đấng Cứu Thế, là người Tôi Tớ Giavê mà Isaia đã loan báo thủơ nào. Lời của tiên tri Isaia vi ết về sứ mạng của chúa Giêsu, cũng là lời viết cho sứ mạng của Giáo hội ở mọi nơi và mọi thời, nhất là trong thời đại này, sứ mạng ấy càng trở nên cấp bách và khẩn thiết hơn.
Đứng trong ngôi nhà Giáo hội, chúng ta cũng mang lấy chính vai trò của người mẹ mình, đó là tiếp tục sứ mạng của Chúa, là nối dài những công việc mà Người đã làm, là đem tinh thần của Người đến với tất cả các môi trường mà chúng ta đang sinh sống và làm việc. Sứ mạng này chúng ta đã nhận lấy trong ngày lãnh Bí tích Rữa tội khi Giáo hội tuyên bố: "Con đã trở nên ánh sáng Chúa Kitô. Con hãy dùng chính đời sống tốt lành của con để giúp những người chung quanh nhận biết được ánh sáng của Chúa". Thế nhưng bây giờ thử hỏi rằng: Chúng ta đã đón nhận lời đó ra sao? Chúng ta đã sống, chúng ta đã thực hiện lời đó trong mức độ nào? Có bao giờ chúng ta đón nhận lời của Chúa giống như là dân Do Thái trong câu chuyện của bài đọc thứ nhất không? Tác giả của bài đọc một thuật lại là: ngày hôm ấy, Thầy Tư Tế Esdras không phải là chỉ đọc vài ba phút như chúng ta ở đây, mà Thầy đã đọc từ sáng cho tới trưa. Vậy mà không ai càn nhằn trách móc, không ai bỏ ra về cả. Khi Thầy Tư Tế mở sách ra thì toàn dân đều đứng dậy, họ cúi mình, họ phủ phục sát đất để nghe lời của Chúa. Và tác giả cho biết thêm là mọi người đều khóc trong ngày hôm đó.
Họ khóc không phải mỏi chân hay dài dòng, cũng chẳng phải vì đó là những luật lệ mà họ phải gánh vác, mà họ khóc vì họ đã cảm nghiệm được tình thương của Chúa dành cho họ. Vì tình thương, vì muốm bảo vệ, vì muốn họ nên tốt hơn, mà Chúa đã ân cần ban lời của Chúa cho họ.
Thưa anh chị em! Chúa chúng ta đã hứa rằng:
"Điều Ta dạy, con ơi giữ cho thật đúng
Tuân cứ lệnh Ta, con sẽ sống một đời ".
Vâng! quá rõ ràng, quá dứt khoát. Lắng nghe và sống Lời Chúa là con đường duy nhất dẫn chúng ta về "Trời mới đất mới", nơi mà ánh sáng mặt trời luôn tươi đẹp, tiếng chim trên cành luôn thánh thót, cây cỏ luôn rực rỡ muôn màu. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho nhau, để khi bước qua năm mới dương lịch này, chúng ta cãm nhận được tình thương của Chúa trong cuộc sống của mình, thì chúng ta cũng sẵn lòng đón nhận lời dạy của Người như là một hướng dẫn tốt nhất cho con thuyền cuộc đời của mình. Đón nhận không phải là để cho riêng mình, nhưng là để chia sẻ lại những lời đó cho người khác bằng một đời sống chân thành đầy bác ái, để qua đó, mọi người khi nhìn thấy đời sống tốt lành của mình thì cũng thốt lên rằng: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Thánh Kinh mà chúng tôi vừa nghe".
39. Chúa yêu người nghèo--Lm. Vũ Xuân Hạnh
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” Đây là lời đã được tiên tri Isaia tuyên sấm từ xa xưa trong Cựu Ước. Hôm nay Chúa Kitô nhắc lại và tuyên bố: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”, Chúa đã làm cho lời sấm của tiên tri Isaia thành hiện thực và chính Chúa là người thực hiện lời sấm ấy.
Chúa đến để “mang Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”. Đó là những người nghèo tiền bạc, nghèo sức khỏe, nghèo tiếng nói… Chúa Kitô được sai đến với những người bị giam cầm, thiếu thốn tự do bởi nhiều sự trói buộc. Những trói buộc đó có thể là nỗi lo sợ về muôn điều đe dọa về vật chất cũng như tinh thần; hoặc có thể là sự hoang mang bởi nhiều nỗi lo, nỗi chán chường; hoặc bị trói buộc bởi những ích kỷ tham lam…
Chúa Kitô ưu tiên dành cho người nghèo trong trái tim của Người. Đúng thôi, bởi người giàu có thì có quá nhiều việc phải lo. Thời gian đâu còn, cả tâm hồn cũng không lúc nào trống để Lời Chúa có thể đến và lớn lên. Vì thế, trong Tin Mừng, chúng ta nhận ra, những lời ngọt ngào, dịu dàng, Chúa Kitô đều dành cho những người nghèo khó, người bé mọn: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5, 11); Hoặc: “Đức Giêsu cất tiếng nói: ‘Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (11, 25)…
Trong khi những lời gay gắt nặng nề, Chúa lại không tiếc để chỉnh đốn, trách cứ người giàu có, người có quyền hành: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ vào” (Mt 23, 13); “Chúa nói rằng: ‘Thật, nhóm Pharisêu các ngươi, bên ngoài chén đĩa, thì các ngươi rửa sạch nhưng bên trong các ngươi thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. Đồ ngốc! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao? Tốt hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các ngươi” (Lc 11, 39-41).
Đọc Lời Chúa hôm nay, chúng ta ý thức hơn thế giới quanh chúng ta còn nhiều người nghèo. Họ nghèo từ tinh thần đến vật chất. Họ cần sự quan tâm, chia sẻ của chúng ta. Ước gì mỗi người đều hiểu rằng, cuộc sống sẽ đẹp hơn, hạnh phúc hơn khi có những người giàu quan tâm đến người nghèo, người nghèo quan tâm đến người nghèo hơn, khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau mà sống liên đới đùm bọc lấy nhau…
Lạy Chúa Thánh Thần, xin đến tràn ngập tâm hồn chúng con, như xưa Chúa đến và hoạt động nơi Chúa Kitô, để chúng con cũng có một tấm lòng giàu tình yêu thương bác ái như Chúa Kitô. Xin cho chúng con luôn tìm đến vơi anh chị em hơn là tìm an thân cho mình, để nhờ biết quan tâm lẫn nhau, chúng con có hạnh phúc và bình an. Amen.
40. Lời Chúa có được ứng nghiệm nơi tôi?--Lm. Đaminh Hương Quất
Tại Hội Đường quê nhà, hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố lời tiên báo cúa sứ ngôn Isaia: “Thần khí Chúa ngự trên tôi... sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” đã được ứng nghiệm nơi chính Ngài. Ngài chính là Đấng Kitô đem Loan báo và đem Tin Mừng Cứu độ cho dân tộc cho muôn dân.
Cụ thể hơn, Chúa Giêsu sau một thời gian đi Rao giảng Tin Mừng Ngài nổi tiếng khắp nơi. Hôm nay Người trở về quên hương Nararet, vào Hội trường quen thuộc, nơi mà những năm sống ẩn dật Chúa vẫn thường đến, nhất là Ngày xa bát để như mọi người Do Thái đạo đức khác để tôn thờ và nghe Lời Chúa. Tại đây, trong một bối cảnh trang nghiêm và chính thức, Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động của Ngài: Với tư cách là Messia được Thánh Thân Chúa tấn phong, Ngài được sai đi loan Tin Mừng cho những người nghèo hèn, khốn khổ. Như thế là Ngài thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia. (x.HGNM)
Sau khi công bố lời Sứ ngôn Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tơi, vì Ngà xức dầu cho tơi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng".
Ngay sau đó, Chúa Giêsu công bố: Lời sứ ngôn trên đã được ứng nghiệm nơi chính Ngài. Trong Chúa Thánh Thần Chúa Giêsu đã hoàn thành viên mãn sứ vụ Loan báo Tin Mừng cứu độ mà chính ngài là Tin Mừng Cứu độ.
Điểm độc đáo, công cuộc Công bố Tin Mừng Cứu độ Chúa Giêsu không chỉ cho riêng Ngài. Ngài ủy quyền cho Giáo hội và không ngừng mời Giáo hội tiếp tục thực thi công cuộc Loan báo Tin Mừng mang tính bản chất của Giáo hội.
Quả thế, Chúa Giêsu ngay sau khi Phục Sinh đã ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ để tiếp tục sứ vụ Loan báo Tin Mừng Cứu độ đến với muôn dân, cho đến ngày tận thế. Đấng Phục Sinh nói: ‘Như Cha đã sai Thầy Thầy cũng sai anh em… Anh em hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần” (Ga 21, 21-23)
Tuy nhiên, chỉ khi nhận ơn Chúa Thánh Thần trong biến cố Ngũ Tuần Giáo hội mới chính thức khai mạc sứ vụ Loan báo Tin Mừng cho muôn dân.
Thật vậy, khi nhận viên mãn ơn Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ Tuần, các Tông đồ, các Kitô hữu tiên khởi của Giáo hội sơ khai đã hăng say, can đảm dấn thân phục vụ cho công cuộc Truyền giảng Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, không sợ gian khó, chẳng ngại hiểm nguy, ngay cả tính mạng cũng chẳng nề. Thậm chí, các ngại có kinh nghiệm sống động: “Khốn cho tôi nếu không rao giảng Tin Mừng’…
Nhờ Bí tích Rửa Tội mỗi chúng ta đã được Thánh hiến cho Chúa Giêsu, trở thành chi thể của Chúa Giêsu. Thánh Phaolo trong bài đọc 2 đã khẳng định rõ điều đó. Thánh nhân quả quyết Mỗi Kitô hữu là thân thể, là chi thể của Chúa Giêsu.
Trong Giáo hội Hiệp thông và Sứ vụ, là chi thể của Chúa Giêsu vấn đề trong Chúa Thánh Thần ta có tiếp tục Công cuộc loan truyền Tin Mừng của Chúa Giêsu không; có để Chúa Thánh Thần biến đổi để như Chúa Giêsu tích cực sống đời chứng nhân Tin Mừng…
Nói cách khác,
Trong sức mạnh Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu quả quyết: Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe"
Đây chính là điều đáng để mỗi chúng ta nghiệm xét.
Tôi là chi thể- thân thể Chúa Giêsu, vậy ta có tiếp tục để cho Lời Chúa ứng nghiệm trong đời sống mình hay chưa?
Ta có là dấu chỉ, là hiện thân của Thiên Chúa Tình yêu hay chưa?.
Chủ để sống Năm thánh của Giáo phận: ‘Sống và Loan báo Lòng thương xót của Chúa’ có hiện tại hóa trong lời nói việc làm của mình hay chưa?.
Ngày 25.01 tới, giáo xứ chúng ta có niềm vui Hồng ân được Đức cha Giuse về làm phép nhà Giáo lý, nhất là Ban Bí tích Thêm Sức cho hàng trăm con em chúng ta.
Khi cử hành Bí tích Thêm Sức, Mẹ Giáo hội hiện tại hóa Ngày lễ Ngũ Tuần xin Chúa Ban Chúa Thánh Thần cho các thụ nhân để kiện toàn ơn Bí tích Rửa Tội. Để chứng thực và giúp trở thành chiến sĩ Loan báo Tin Mừng, can đảm sống Đức tin.
Đấy cũng là dịp tốt để mỗi chúng ta nhìn lại Bí tích Thêm Sức mà mình đã lãnh nhận, xem mình có để Chúa Thánh Thần giúp sống Đức tin, để Lời Chúa ừng nghiệm nơi đời sống mình hay chưa.
Bài đọc 1 trích sách Nơ- khê-mi-a cho ta hình ảnh đáng suy nghĩ. Dân Do Thái, cách đây hơn 2500 năm, sau nhiều năm lưu đầy, lần dầu tiên toàn thể dân Chúa đã được quy tụ tại quảng trường để nghe kinh sư Ét-ra, thống đóc Nơ-khơ-mi-a và các thầy Lêvi giải thích Lời Chúa. Khi nghe Lời Chúa, dân đã ăn năn khóc lóc, phủ phục thờ lạy Đức Chúa [1].
Họ đã để cho Lời Chúa đụng chạm đến đời mình, còn chúng ta, mang danh là Kitô hữu – là thân thể- chi thể của Chúa Giêsu có để Lời Chúa đụng chạm đến con tim mình chưa!
Quả là rất buồn, khi nghe đây đó trong chúng ta, giữa chúng ta còn những hiềm khích, đố kỵ, gian tham, nghi ngờ làm hại nhau…. Chỉ vì vài trăm ngàn ta sẵn sàng xâm hại đến phẩm giá người khác, chà đạp tín uy, xúc phạm đến tình người… Nhiều khi ta sống còn tệ hơn những người chưa biết Chúa. Không đâu xa, đôi khi là hàng xóm của nhau, anh chị em nhau, thậm chí ngay trong một gia đình.
Giáo hội đang trong tuần lễ cầu nguyện cho sự Hiệp nhất Giáo hội, liệu ta có ý thức để xây dựng gia đình hiệp nhất, công đoàn hiệp thông trong yêu thương; Giao hòa với Chúa gắn liền với giáo hòa anh chị em.
Xin Thánh Thần của Chúa Giêsu hãy đến và thúc đẩy mỗi chúng con ý thức, hăng say và can đảm dấn thân trong sứ vụ loan báo Tin Mừng, biết Sống Và Loan Báo Lòng Thương Xót Của Chúa.
-----------------------
[1] Lm Phaolo Nguyễn Văn Đông, Tin Mừng Chúa Nhật Năm C, tr.176
41. Thần Linh Chúa ngự trên tôi--Lm. Trầm Phúc
Thánh Luca đã đề tặng sách Tin Mừng của ngài cho một người tên Thêôphilê. Ông này là ai?
Không ai biết. Thánh Luca viết bằng tiếng Hy Lạp và độc giả của ông là một người mang tên Hy Lạp có nghĩa là “người yêu mến Thiên Chúa”. Theo những nhà chuyên môn về Kinh Thánh, thì có lẽ có một người nào đó thân với thánh sử và ngài đã đề tặng sách Tin Mừng này cho ông, nhưng cũng có thể là một tên tượng trưng mà thôi chỉ những người “yêu mến Thiên Chúa” tức là những tín hữu.
Thánh Luca công nhận rằng, “đã có nhiều người ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã xảy ra giữa chúng ta…” và họ đã viết theo những chứng nhân trực tiếp của những biến cố này, đó là các Tông đồ.
Thánh Luca là đồ đệ của thánh Phaolô, ngài không trực tiếp gặp các Tông đồ, nhưng đã “cẩn thận điều tra”, vì thế sách Tin Mừng của Ngài có thể được xem là đáng tin và vững chắc.
Mặc cho những nhà chú giải (thường là Tin Lành) nghi ngờ sự xác thực của các sách Tin Mừng, chúng ta vẫn tin theo sự hướng dẫn của Giáo hội, và chúng ta được bảo đảm khỏi những nghi ngờ lầm lạc.
Đạo Công giáo không phải là một lý thuyết như bao nhiêu lý thuyết khác, luôn thay đổi và sai lầm. Đạo Công giáo là đón nhận Thiên Chúa, được mạc khải qua Chúa Giêsu Kitô, Con Một Chúa Cha hằng hữu,
- đón nhận những gì Thánh Truyền của các Tông đồ là những chứng nhân trực tiếp của Chúa Giêsu, truyền lại,
- đón nhận trong sự vâng phục theo ánh sáng của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta không phải là những nhà chuyên môn, họ đã tìm kiếm suy nghĩ thay chúng ta và nhờ đó đức tin của chúng ta không bị sai lệch, không tròng trành theo chiều gió của những lý thuyết linh tinh”.
Sau khi đã xác định ý hướng của ngài khi viết sách Tin Mừng (mà chúng ta gọi là Tin Mừng thứ ba), ngài đưa chúng ta đối diện với chính Chúa Kitô nhập thể.
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta ngắm nhìn Chúa Giêsu khi Ngài giảng ở Hội đường Nadaret, nơi chôn nhao cắt rốn của Ngài. Ngài vào hội đường ngày sabat. Ngài giữ Luật như mọi người Do Thái.
Theo tập tục của người Do Thái, trong phụng vụ của Hội đường thì có hai phần trong việc đọc Kinh Thánh ngày sabat: một bài đọc về Luật thì do một vị trong Hội đường đọc và giải thích, bài đọc thứ hai là bài đọc các tiên tri, thì do một người nào đó “có máu mặt” trong dân được mời đọc, miễn là trên ba mươi tuổi.
Chúa Giêsu đã từng rao giảng nhiều nơi và thánh Luca ghi rõ: “Được quyền năng Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê và tiếng tăm Người đồn ra khắp miền lân cận” (Lc 4,14). Ngài đã nổi tiếng, vì thế khi về Nadaret, người ta mời Ngài đọc Sách Thánh và giảng dạy.
Ngài đọc đoạn tiên tri Isaia: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. “Gấp sách lại đưa cho ngườigiúp và công bố: “Hôm nay, đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. (Lc 4,18-21)
Một lời tuyên bố thật lạ lùng!
Lời tiên tri được viết cách đó hơn năm trăm năm, hôm nay được ứng nghiệm. Được ứng nghiệm như thế nào? Nơi tôi. Chính tôi làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh đó. Rất tiếc rằng thánh Luca không ghi lại nội dung bài giảng hôm đó. Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng Chúa Giêsu đã cho mọi người hiểu rằng hồng ân Chúa đã đến, không còn trì hoãn nữa. Những lời tiên tri đó báo trước những hồng ân của Thiên Chúa ban cho dân Người là hôm nay, trong lúc hiện tại này. Ơn tha thứ đã đến.
Từ hôm nay của Chúa Giêsu là thời gian của lòng thương xót, của ánh sáng. Dân không còn đi trong tăm tối nữa. Đó là Tin Mừng cho mọi người. Tin Mừng đó chính là Ngài.
Thiên Chúa không lệ thuộc vào thời gian. Ngài không lệ thuộc vào lịch sử, Ngài siêu vượt thời gian. Ngài vẫn luôn là hiện tại, là hôm nay. Tình thương của Ngài không bị hạn chế trong thời gian. Muôn đời đối với Ngài vẫn là hôm nay. Hôm nay, tiếng gọi của Ngài luôn thối thúc con người đứng dậy, không ngủ mê trong những giấc mơ trần thế nữa mà phải nhìn về tương lai đang đợi chờ, tương lai đó chính là chấp nhận Thiên Chúa trong cuộc sống, trong cái hôm nay của mình. Thiên Chúa đã đến trong trần gian, không phải để rong chơi mà biến đổi trần gian thành vương quốc của tình yêu, của ơn tha thứ. Ơn cứu độ là như thế.
Hôm nay, nghĩa là Thiên Chúa đã sẵn sàng đón tiếp con người vào tình yêu của Ngài. Không còn có đợi chờ trông ngóng nữa mà là hiện thực, là hôm nay. Chúng ta có sẵn sàng đón nhận cái hôm nay của Thiên Chúa không? Chúng ta có muốn được cứu độ không, muốn sống trong ánh sáng của tình yêu không?
Đó là những gì Thiên Chúa muốn nói với chúng ta qua người Con Một của Người.
Muốn thế, phải theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Thánh Thần đó đã đến trên Chúa Giêsu thì cũng được Ngài ban cho những ai tin vào Ngài.
Thánh Luca luôn nhấn mạnh đến hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi Chúa Giêsu và trong suốt sách Tin Mừng của thánh sử, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và hoạt động. Tin Mừng của thánh Luca và cả sách Tông đồ Công vụ, cũng do thánh nhân viết, Thánh Thần luôn hoạt động mãnh liệt nơi các Tông Đồ. Có thể nói, sách Tin Mừng thứ ba là sách Tin Mừng của Chúa Thánh Thần.
Thánh Thần Chúa đã đến trên Đức Maria và đem Chúa Giêsu đến trong trần gian. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta đang đọc, thánh sử đã nói rõ ràng: “Được quyền năng Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Chúa Giêsu đến miền Galilê…” Và khi đọc sách tiên tri Isaia, Ngài đọc đoạn nói về Chúa Thánh Thần, chứng tỏ Ngài luôn hoạt động trong Thánh Thần, nhất là khi Ngài tuyên bố: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi…”
Chúng ta chỉ có thể bước vào con đường cứu độ khi chúng ta đón nhận Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta. Không thể có con đường nào khác. Muốn thế, chỉ cần tin vào Chúa Giêsu. Ngài cũng là con đường duy nhất dẫn đến sự sống vì Ngài cũng chính là sự sống. Trong suốt lịch sử của Giáo hội, Chúa Thánh Thần cũng là sức mạnh cần thiết giúp Giáo hội vượt qua tất cả mọi trở lực để mang Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Tin Mừng Cứu Độ đó đã khởi đầu nơi Chúa Giêsu Nadaret và sẽ hoàn tất trong Ngài mà thôi. Công Đồng Vatican II luôn nhắc đến hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội, trong mọi tầng lớp tín hữu từ giám mục đến người giáo dân.
Sức sống mãnh liệt của Giáo hội nằm trong sự trung thành lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần. Trong đời sống tín hữu cũng vậy, không thể quên Chúa Thánh Thần vì chính Người đang hoạt động và giúp chúng ta nhận ra cái HÔM NAY của Chúa trong cuộc sống chúng ta.
Hôm nay, trong hiến tế này, Chúa Giêsu đến với chúng ta qua Thánh Thần. Linh mục, trước khi truyền phép, đã đặt tay lên của lễ và cầu xin Thánh Thần đến thánh hóa bánh rượu để biến thành Mình và Máu Chúa Kitô, cho chúng ta luôn được đầy no của ăn trên trời và giúp chúng ta luôn sống trong cái HÔM NAY của Chúa, là sống trong tình yêu. Hãy ăn lấy tấm bánh Tình Yêu để luôn là tình yêu giữa cuộc sống đầy gian lao của chúng ta.
42. Thiên Chúa, Đấng Giải Thoát--Lm An Phong, OP
Tin mừng hôm nay gồm hai phần: Lời mở đầu Tin mừng thánh Luca, với lời "Kính gửi ông Thêôphilê"; và trình thuật Đức Giêsu trở về quê hương là Nagiarét, miền Galilê "trong quyền lực của Thánh Thần". Trong lời mở đầu Tin mừng của mình, thánh Luca đã tuyên bố những sự kiện mà ngài viết ở đây là "cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự... và giáo huấn... thật là vững chắc." Trong trình thuật Đức Giêsu trở về quê hương, thánh Luca thuật lại việc Đức Giêsu vào Hội đường và đọc đoạn sách ngôn sứ Isaia: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi... xức dầu cho tôi... sai tôi đi rao giảng Tin mừng cho người nghèo khó... ân xá cho kẻ tù đày... cho kẻ đui mù được thấy... trả lại tự do cho người bị áp bức... công bố năm hồng ân của Chúa".
Đây thật là những dấu chỉ của thời đại cứu thế, thời đại Thiên Chúa thực hiện ơn cứu độ.
Khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, Đức Giêsu trở về quê hương xứ sở của mình. Điều này cho thấy sứ vụ công khai đầu tiên của Người được thực hiện nơi quê quán. Người đã trở nên nỗi tiếng "danh tiếng Người lan tràn khắp miền chung quanh". Người muốn mang tin mừng cứu độ, "năm hồng ân của Chúa" khởi đi từ những người thân thuộc, họ hàng, đồng hương đến toàn thể thế giới. Như thế, Đức Giêsu, tuy là con Thiên Chúa, sinh ra bởi quyền năng Thánh Thần, vẫn gắn bó mật thiết với quê hương của mình. Việc trở về quê cha đất tổ nói lên mối thâm tình nhân loại. Việc loan báo năm hồng ân của Chúa nơi quê nhà nói lên ân sủng tràn đầy nhờ sự hiện diện của Người.
Đời sống công giáo là gì, nếu không phải là "gắn bó với nơi mình sinh ra", nhưng làm cho nơi đó trở thành nơi hồng ân. "Ân sủng không phá hủy tự nhiên, nhưng kiện toàn" (thánh Tôma Aquinô). Một đời sống công giáo thực sự không tách rời chúng ta khỏi người đồng hương của mình, người hàng xóm láng giềng, người thân quen, nhưng làm cho chúng ta gần gũi với họ, có khả năng yêu mến họ, để biến cuộc sống trở nên hồng ân.
Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ nơi những người nghèo, những người bị áp bức, những người khuyết tật, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Lời ngôn sứ Isaia sẽ được Đức Giêsu thực hiện trong sứ vụ công khai. Người là tình yêu, niềm vui, bình an, hạnh phúc và hồng ân của Chúa. Người quan tâm đến những nỗi khổ về thân xác cũng như tâm hồn của con người. Người giải thoát con người khỏi tội lỗi, sự dữ, đồng thời mở con mắt đức tin cho họ. Tình yêu, bình an, hạnh phúc và hồng ân của Chúa vẫn được tiếp tục trong và qua Hội thánh của Người. Nhờ các bí tích, Đức Giêsu tiếp tục giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi, nuôi dưỡng chúng ta bằng Thánh Thể Người, củng cố chúng ta bằng ân sủng của Người. Qua lời rao giảng và giáo huấn của Hội thánh, Đức Giêsu vẫn đang chiếu dọi ánh sáng Người vào nơi tối tăm. Năm hồng ân của Thiên Chúa vẫn đang được thực hiện nơi những tâm hồn đón nhận Tin mừng và ánh sáng của Đức Giêsu. Đức Giêsu giải thoát chúng ta khỏi lo âu, sợ hãi, đơn độc, ích kỷ...miễn là chúng ta biết lắng nghe Lời Người. Đức Giêsu đổ tràn ân sủng người trên những ai thành tâm tìm kiếm "hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ cửa thì sẽ mở cho".
Như thế, Đức Giêsu chính là tình yêu, niềm vui, bình an, hạnh phúc và là hồng ân. Người đang hiện diện để cứu độ con người.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, trường cửu,
Chúa tạo dựng và Chúa hoàn tất.
Một năm dưới mắt Chúa chỉ là một phút chóng qua.
Nhưng đối với chúng con là tạo vật,
đôi mắt đâu có thấy được chiều dài cũng như chiều sâu
của chuỗi ngày chất chứa những điềm tốt và điềm xấu.
Chúng con biết chắc một điều:
Mỗi năm là một bước tiến đến gần Chúa.
Người đời tiến đến tuổi già, người kitô hữu tiến về ngày mới.
Năm cũ đang trôi qua, tựa như một con đường cái,
lúc thì thẳng tuột, lúc thì quanh co,
lúc lên đèo, lúc xuống dốc, lúc đầy ổ gà.
Đã có lúc chúng con đến chậm, bị kẹt xe, chúng con lỡ hẹn.
Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh trong năm mới sắp đến.
Xin cho con khao khát Lời Chúa. Amen.
(Lời nguyện cầu Phi châu)
43. Những lời tiên tri được ứng nghiệm--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
Tin mừng Lc 1:1-4; 4:14-21 Hôm nay, trong Hội đường ở Nagiarét, giữa đồng bào đồng hương của Ngài, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Ngài đến để thực hiện những lời Tiên tri Isaia mà họ vừa nghe Ngài đọc.
Nhiều tu sĩ cao niên đến gặp thầy Antôn. Ở giữa là thầy Giuse. Muốn thử họ, thầy Antôn đưa ra cho họ một lời Thánh Kinh, và bắt đầu từ tu sĩ trẻ nhất, thầy hỏi ý nghĩa của lời ấy. Mỗi tu sĩ đều nói theo khả năng của mình. Nhưng với tu sĩ nào thì thầy Antôn cũng nói: "Anh chưa tìm ra ý nghĩa".
Tu sĩ cuối cùng nói với thầy Giuse:
- "Còn thầy, thầy giải thích lời đó ra sao?"
Thầy Giuse đáp:
- "Tôi không biết".
Lúc ấy thầy Antôn nói:
- "Đúng, thầy Giuse đã tìm được giải đáp, vì Thầy nói: tôi không biết".
Trước lời giải đáp của những vị tu sĩ cao niên đã nhiều năm sống đời tu hành trong hoang địa, ngày đêm không ngừng suy niệm Lời Chúa, thầy Antôn vẫn nhất mực nói: "Anh chưa tìm ra ý nghĩa". Nhưng với thầy Giuse, người có uy tín nhất, người đã trả lời "tôi không biết", thầy Antôn lại bảo: "chính thầy Giuse đã tìm được giải đáp".
Thưa anh chị em,
Phải chăng có một nghịch lý trong giai thoại trên đây?
Trước mầu nhiệm của Thiên Chúa, trí khôn con người làm sao có thể hiểu nổi và ngôn ngữ của con người làm sao có thể diễn tả được? Bởi vậy, cách giải thích Lời Chúa trung thực nhất là thú nhận rằng mình không giải thích nổi. Chỉ Thiên Chúa mới hiểu biết Lời Ngài và nói Lời Ngài cách thích đáng và xứng hợp. Hôm nay chúng ta được nghe chính Chúa Giêsu đọc lại lời tiên tri Isaia và giải thích cho chúng ta:
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa". Đọc xong, Ngài ngồi xuống. Mọi người nhìn thẳng vào Ngài mà chờ đợi. Trong khung cảnh im lặng linh thiêng ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe".
Phải, Chúa Giêsu đã làm ứng nghiệm mọi lời tiên tri nói về Ngài từ hàng trăm năm trước. Đó là bằng chứng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến, Ngài thật là Con Thiên Chúa. Một bằng chứng khác nữa là những phép lạ Ngài làm đã có rất nhiều lời Tiên tri trong Cựu Ước tiên báo, trước khi Ngài sinh ra hàng trăm năm và đã ứng nghiệm từng chữ trong đời sống của Ngài.
Thật vậy, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện lời Tiên tri tiên báo: Ngài công bố Tin Mừng cho người nghèo. Ngay lúc mới sinh ra, những mục đồng nghèo khó là những người đầu tiên được loan báo Tin Mừng. Sau nầy, khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả đến hỏi Ngài có phải Ngài là Đấng Cứu Thế không, Ngài đã bảo họ về kể lại cho ông Gioan biết những gì Ngài đã làm: người mù được thấy, người què được đi, người điếc được nghe, người câm được nói v.v… đúng như lời Tiên tri Isaia tiên báo.
Hôm nay, trong Hội đường ở Nagiarét, giữa đồng bào đồng hương của Ngài, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Ngài đến để thực hiện những lời Tiên tri Isaia mà họ vừa nghe Ngài đọc. Ngài có sứ mạng đem ơn Cứu độ đến cho những người nghèo đói, bệnh tật, tù đầy, bị áp bức, qua lời giảng dạy và những phép lạ Ngài làm. Nói như thế có nghĩa là Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến công bố năm hồng ân cho những người nghèo khổ. Ngài quan tâm đến những khổ đau của những con người đau khổ ; Ngài lấy việc giải thoát họ làm sứ mạng của mình, và ơn cứu độ, trước mắt Ngài, là tái lập trật tự trong xã hội con người và trong thế giới, nơi đó, công lý, yêu thương và hòa bình phải ngự trị.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã trao sứ mạng của Ngài cho Giáo Hội. Và Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Qua suốt chiều dài lịch sử, Giáo Hội luôn nổ lực thực hiện sứ mạng của Chúa Kitô, đem Tin Mừng cho người nghèo khó. Chính Giáo Hội đã khai sinh ra các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, trại tế bần, nhà dưỡng lão. Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm, ngày nay vẫn còn giá trị. Và hôm nay sứ mạng của Giáo Hội có lẽ còn khẩn trương hơn nữa, vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ ngày nay phải bao gồm cả những vấn đề hết sức quan trọng và sôi nổi nhất, liên quan đến công lý, giải phóng, phát triển và hòa bình.
Mẹ Têrêxa Calcutta trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô. Mẹ đã bị sốt liệt giường. Trong cơn mê sảng, Mẹ bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt Thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên đàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho Mẹ Têrêxa vào Thiên đàng. Thánh Phêrô nói: "Không để cho một người ở khu ổ chuột được vào Thiên đàng: Thiên đàng không có nơi cùng khổ".
Mẹ Têrêxa tức giận nói với Thánh Phêrô: "Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên đàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên đàng".
Tội nghiệp Thánh Phêrô. Kể từ sau giấc mơ đó, Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ đã không để cho Ngài được ở yên phút nào. Không biết bao nhiêu người cùng khổ và cô đơn đã qua đời trong vòng tay ôm ấp của Mẹ và các nữ tu. Thiên đàng đã trở thành nơi cư trú của những người cùng khổ.
Ngày nay với gần 3000 nữ tu đang dấn thân với danh nghĩa là "thừa sai bác ái" trong 350 cơ sở xã hội, thuộc gần 100 quốc gia, những thừa sai bác ái ấy là những nhân chứng cho Chúa Kitô, cho sức mạnh của Tin Mừng, sức mạnh giải phóng những người nghèo khổ trên thế giới.
Nhắc lại thành quả của Mẹ Têrêxa, không nhằm làm chúng ta hãnh diện cho bằng thúc giục chúng ta, mỗi người trong phạm vi của mình, không được nản chí, đừng chê việc nhỏ, vì hành động của tình yêu không có gì là nhỏ, là không đáng kể. Còn biết bao người nghèo đói, khốn cùng chung quanh chúng ta. Đến bao giờ chúng ta mới có thể nói được như Chúa Giêsu: "Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe ". Mỗi người hãy tiếp nối công việc của Chúa Kitô chung quanh mình, bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người dốt nát, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng hoạt động của mình.
Nếu chúng ta trung thành thực thi nhiệm vụ môn đồ Chúa Kitô như thế, thì lời Tiên tri Isaia hôm nay cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa hôm nay đã được công bố và Nước Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta ngay từ bây giờ.
44. Thời gian cứu độ đã đến--Lm. Hồng Phúc
Chúng ta đều biết rằng Thánh lễ gồm hai phần liên kết chặt chẽ là Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể. Trong Phụng vụ Lời Chúa, Thiên Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng lời hằng sống của Chúa. Trong Phụng vụ Thánh Thể, Chúa nuôi dưỡng chúng ta bằng chính Thịt và Máu Thánh của Ngài.
Nghi thức Phụng vụ Lời Chúa có từ xa xưa trong đạo cũ Do-thái và người khởi xướng ra là một tư tế tên là Esdras, sống vào thế kỷ thứ V trước Thiên Chúa GS. Trong bài đọc I hôm nay, sách Nohemi kể lại việc ông tập họp dân chúng, mở sách Luật ra đọc và giải thích. Dân chúng nghe, tung hô, rồi phủ phục trước Thiên Chúa cầu nguyện.
Đó là nghi thức Phụng vụ Lời Chúa thường được tổ chức tại Hội đường Do-thái trong ngày Sabba.
Thì, trong bài Phúc Âm, Luca kể lại một nghi thức Phụng vụ đặc biệt tại Hội đường Nagiaret, quê quán của Chúa Giêsu. Trong xóm nghèo Nagiaret, ai cũng biết Ngài là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria. Ngài đã từng sống giữa họ, chia sẻ đời sống của họ. Rồi gần đây, Ngài bỏ họ, bỏ nghề, bỏ làng đi rao giảng Tin Mừng, làm nhiều phép lạ. Danh tiếng đồn thổi khắp nơi. Hôm nay, ngày Sabba lễ nghỉ, họ được tin Ngài trở về làng. Thế là họ ùn ùn kéo đến Hội đường nơi người sẽ giảng, đến vì muốn xem sự việc xảy ra làm sao. Con bác thợ mộc, ít học trở thành một Rabbi!
Người ta trao cho Ngài sách Tiên tri Isaia, Ngài mở đúng vào nơi có chép: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chữa những tâm hồn xám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, trả tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.”
Đoạn đó trích ở Isaia, chương 61, tiên báo về Đấng Messia. Đến đây, không có gì lạ. Đoạn ấy dân chúng đã nghe nằm lòng. Sự lạ lớn lao như quả bom nổ là: Người gấp sách lại và dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay, Lời Thánh Kinh mà các ông vừa nghe, đã thực hiện.” Chưa một tiên tri nào nói như thế hay cả dám nói như thế. Chữ “hôm nay” thật là quan trọng. Lời của Thiên Chúa mà đem áp dụng vào mình, y rằng mình là Thiên Chúa. Họ ngạc nhiên, họ bàn tán, họ châm biếm: Đó là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria đầu xóm kia mà. Trong Hội đường, có lẽ chỉ có một người đàn bà hiểu, một người đang đứng với chị em phụ nữ bên kia tấm chấn song ngăn cách. Đó là Đức Mẹ.
Ngài tuyên bố: Thời gian cứu độ đã đến. Chính Ngài là Đấng “hôm nay” đến để cứu chuộc nhân loại, khai mạc mùa hồng ân cứu rỗi. Ơn cứu chuộc đó, mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận, thì trong bài đọc II, Thánh Phaolô dạy chúng ta phải ăn ở xứng đáng vì “chúng ta là chi thể của Ngài.” Mỗi người trong thân phận của mình hãy làm sáng danh Chúa.
Lạy Chúa, “giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can, mệnh lệnh Chúa sáng ngời”, xin sáng soi con mắt và đường lối con đi.
45. Phát huy cuộc sống tâm linh và các giá trị tinh thần--‘Suy Niệm Lời Chúa’--Radio Veritas Asia
Người ta kể: "Có ông nhà giàu Do Thái kia có tên là Rabba, nhiều ruộng vườn, gia nhân đầy tớ và thợ làm công. Một hôm có người thợ làm việc cho ông lỡ làm bể một thùng rượu, ông giận dữ mắng, chửi thậm tệ và buộc bồi thường. Bọn thợ đến than phiền với một tiến sĩ luật, vị này khuyên ông Rabba tha cho đám thợ nghèo. Ông Rabba hỏi vị luật sĩ: "Đây có phải là luật Chúa không?" Vị tiến sĩ trả lời: "Phải, nếu ông hiểu biết tinh thần luật". Nghe thấy, Rabba tha không đòi đám thợ bồi thường nữa. Có lần khác, đám thợ can đảm than thở thẳng với ông chủ của họ: "Thưa ông, chúng tôi quá nghèo túng, mặc dầu được ông thương cho việc làm và chúng tôi cũng đã làm hết sức như ông thấy, nhưng chúng tôi cũng đói khổ và thiếu thốn mọi sự". Vị tiến sĩ biết chuyện, nói với ông Rabba: "Ông hãy cho họ lãnh lương tháng trước đi, nhưng đừng ghi sổ và sau đó sẽ quên chuyện này". Ông Rabba hỏi: "Đây có phải là luật Chúa không?" Vị tiến sĩ luật trả lời: "Phải, nếu ông hiểu tinh thần luật, vì thật ra luật Chúa đòi buộc công bằng, nhưng có chủ đích làm cho con người trở nên tốt lành hơn".
Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa, mở mắt tinh thần canh tân tâm lòng và sống tốt lành hơn giữa những suy đồi xã hội một cách đích thực. Esdra và Nêhêmia là hai vị lãnh đạo Do Thái đã có công rất lớn trong nỗ lực hồi sinh dân Israel, tái thiết thành Giêrusalem và xây lại đền thờ sau khi họ từ Babylon trở về nước vào năm 537 trước Tây Lịch. Hai tác phẩm mang tên hai vị tường thuật công tác tái thiết cuộc sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và tôn giáo của dân Do Thái trong thời ấy. Chương VIII sách Nêhêmia nêu bật vai trò của Lời Chúa trong công trình tái thiết. Thật vậy, đối với dân Do Thái là dân riêng Chúa chọn, đã nhận được luật lệ Chúa ban, nghĩa là Lời Người nói với họ, thì công trình tái thiết không thể chỉ hạn hẹp trên bình diện vật chất như xây lại nhà cửa đền đài, tổ chức trở lại bộ máy chính trị, kinh tế và các dịch vụ hành chánh của cuộc sống thường ngày, mà còn phải tái thiết cuộc sống tinh thần nữa.
Tái thiết ở đây, trước tiên có nghĩa là trở về với các đòi buộc của Giáo Hội, tuân giữ các luật lệ của Chúa, sống chìm ngập trở lại trong bầu khí đạo hạnh, tin tưởng vững mạnh vào các Lời Chúa hứa vào giao ước và các phúc lành của Chúa. Nói cách khác, dưới ánh sáng Lời Chúa, việc tái thiết đầu tiên mà dân Do Thái phải làm là công cuộc tái thiết cuộc sống nội tâm, cuộc sống tinh thần bị tội lỗi phá hủy. Vì nếu không thì công cuộc tái thiết vật chất cũng sẽ không giúp dân Do Thái hồi sinh thật sự. Có đền thờ đẹp mà làm gì với tâm lòng con người đầy tràn tội lỗi và xa rời Thiên Chúa. Đây là lý do giải thích tại sao mặc dầu có rất nhiều điều phải làm trong giai đoạn tái thiết, ông Nêhêmia vẫn tổ chức các buổi cử hành Phụng vụ Lời Chúa và dành thời giờ cho việc đọc, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, và toàn dân tán thành việc tái thiết cuộc sống tinh thần do ông đề xướng.
Mặc dầu giờ đây họ cũng đang rách rưới, đói khát cơm bánh, cần đến nhà cửa và công ăn việc làm, nhưng người dân hiểu rằng trong quá khứ, kiểu cách sống tội lỗi sa đọa của họ đã khiến cho Giêrusalem bị đánh chiếm và thành thánh bị phá hủy bình địa, thì giờ đây, chỉ có cuộc sống tâm linh mới giúp họ duy trì những gì họ sẽ xây dựng mà thôi. Nếu không có nếp sống tinh thần mạnh mẽ, nền văn minh vật chất cao, sớm muộn gì cũng dẫn đưa con người đến chỗ diệt vong.
Lịch sử thăng trầm của mỗi dân tộc trên thế giới đều minh xác sự thật này. Sự suy đồi luân lý đạo đức và các giá trị tinh thần là dấu chỉ các bước đầu suy thoái của một xã hội. Do đó phát huy cuộc sống tâm linh và các giá trị tinh thần là cách thế hữu hiệu nhất giúp duy trì và thăng tiến cuộc sống xã hội. Ngay trên bình diện vật chất, lập trường của ông Nêhêmia là một bài học quí báu cho các vị lãnh đạo tinh thần, cho các cộng đoàn dân Chúa. Công việc cấp thiết nhất luôn luôn là việc đào tạo nhân lực, củng cố tinh thần sống đạo sâu đậm của tín hữu, chớ không phải là xây thêm nhiều nhà thờ và cơ sở cho to, cho lớn, cho đẹp. Các cơ sở cần thiết nhưng chúng không làm nên sức mạnh của cộng đoàn dân Chúa. Nguyên tắc này đã được thánh Phaolô áp dụng như tường thuật trong chương 12 thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô.
Cộng đoàn này hồi đó bị chia rẽ nội bộ trầm trọng, các cuộc cải vã, tranh chấp giành địa vị xảy ra trong các tầng lớp trong cộng đoàn, thêm vào đó là kiểu cách sống và hành xử đi ngược tinh thần Kitô. Trong các tín hữu có người sống dâm loạn, buông thả các nhân đức Kitô, đặc biệt là đức bác ái bị lãng quên. Để tái tạo sự hiệp nhất giữa các thành phần cộng đoàn và cho thấy tất cả mọi người đều có một chỗ đứng quan trọng và một phận vụ cần thiết đối với cộng đoàn, thánh Phaolô đã dùng lại hình ảnh thân mình và các chi thể là một hình ảnh quen thuộc trong nền văn chương Ai cập, và nhà văn Rôma, Titô Liviô, đã dùng lại để diễn tả nỗ lực của hoàng đế Agrippa làm hòa lại giữa hai nhóm cùng đinh và quý tộc Rôma tranh chấp chống đối nhau. Tuy nhiên, thánh Phaolô không chỉ dùng hình ảnh thân mình và chi thể như một kiểu nói ám chỉ, diễn tả tính cách bổ túc và phối hợp điều hòa giữa các chi thể với nhau trong thân thể con người, mà thánh nhân cũng còn rất thường hay nói đến thân mình thật sự của Chúa Kitô là bí tích Thánh Thể và thân mình mầu nhiệm của Chúa Kitô là cộng đoàn tín hữu, là Giáo Hội. Cộng đoàn tín hữu phải có khả năng diễn tả cho mọi sinh hoạt và kiểu cách sống của mình, những gì được biểu lộ trong bí tích Thánh Thể, nghĩa là diễn tả sự hiệp nhất tinh thần, chia sẻ ơn thánh, thái độ sống tận hiến cho nhau, hòa tan trong nhau và xây dựng cho nhau và với nhau. Điều đó cũng có nghĩa là các tương quan giữa các tín hữu với cộng đoàn và nhiệm vụ mỗi người giữa lòng Giáo Hội, phải được sống như trong bí tích Thánh Thể, phục vụ, hy sinh và tận hiến, chớ không được để cho chủ trương tranh giành địa vị, đòi hỏi quyền lợi như các thái độ vụ lợi trần tục chi phối và hướng dẫn.
Trong viễn tượng và tinh thần đó, mỗi một Kitô hữu đều tìm ra chỗ đứng của mình trong lòng cộng đoàn Giáo Hội mà không bị rơi vào chước cám dỗ coi mình là có nhiều khả năng nhất, tài giỏi nhất và giữ địa vị quan trọng nhất, không có mình thì không xong. Thay vì cố gắng xây dựng vun trồng cộng đoàn Giáo Hội vững mạnh thì lại sống phản chứng, ích kỷ, kiêu căng ngạo mạn để đi đến chỗ trở thành dụng cụ của Satan, đánh phá Giáo Hội, gây chia rẽ kỳ thị khiến cho cộng đoàn Giáo Hội bị thương tích tan rã và suy yếu đi.
Mỗi khi không sống theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô và không diễn tả những gì được thể hiện qua bí tích Thánh Thể, là người tín hữu chối bỏ ơn cứu độ mà Chúa Giêsu Kitô đã đem đến cho nhân loại khi nhập thể làm người, khi bước vào lịch sử và sống giữa lòng xã hội con người. Trong chương 1 và 4, thánh Luca có ý củng cố niềm tin của tín hữu, đặc biệt những người nghi ngờ nền tảng lịch sử của ơn cứu độ. Thánh nhân đề nghị với mọi người theo sát chương trình sống của Chúa Giêsu Kitô, chương trình này hiện thực Lời Thiên Chúa hứa, vĩnh viễn can thiệp vào cuộc sống của con người đã bị tội lỗi biến sự sống trở thành cái chết. Tất cả những động từ thánh Luca dùng trong chương 4,14-21, như giải thoát, chữa lành, trao ban ơn thánh cho con người, diễn tả ơn cứu độ toàn vẹn mà Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại. Chúng cũng phải là kiểu cách sống của một Kitô hữu, khi nào và ở đâu có bóng dáng Kitô hữu, thì ở đó bóng tối của sự dữ cũng phải bị đẩy lui. Khi đó, ở con người cũng có cuộc sống sung túc lành mạnh hơn trên thân xác mà nhất là trong tinh thần. Đây là lý do giải thích mọi nỗ lực và mọi sinh hoạt của xã hội trong việc củng cố cuộc sống tâm linh và thăng tiến cuộc sống xã hội cho con người. Tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện, một thân thể có to lớn mập mạp béo tốt đến đâu mà không có tinh thần và tâm trí lành mạnh, thì cũng chỉ là một thân thể bệnh hoạn đáng thương.
46. Xin hãy sai con--Lm. Ignatiô Trần Ngà.
Sau khi nghe giảng về Thiên Chúa là Cha nhân lành, là Chúa đầy lòng yêu thương, một thính giả không đồng tình với vị giảng thuyết. Đầu óc ông quay cuồng bởi những câu hỏi như:
Làm sao người ta có thể tin Thiên Chúa là Đấng nhân lành khi Ngài nhắm mắt làm ngơ trước cảnh biết bao nhiêu người nghèo khổ, tuyệt vọng, mất phương hướng phải sống trong sầu đau mà không ban cho họ một tin mừng, một tia hy vọng?
Làm sao người ta tin được Thiên Chúa là Cha nhân ái khi có biết bao người phải chịu cảnh giam cầm trong ngục tù vật chất, trong sự trói buộc của các đam mê mà Ngài không ra tay giải thoát?
Thật khó tin có Thiên Chúa là Đấng tốt lành khi Ngài để cho những người mù, nhất là mù tối trong tâm hồn, không được nhìn thấy ánh sáng chân lý.
Và bao nhiêu người bị áp bức, bị gông cùm sao Chúa không giải thoát họ?
Đêm hôm ấy, trằn trọc không ngủ được vì những câu hỏi ấy lởn vởn trong đầu, ông chợt nhận ra câu đáp của Thiên Chúa từ trong vắng lặng của đêm trường:
- Ta đã ra tay rồi đó, sao con còn trách Ta?
- Ngài ra tay lúc nào đâu? Ngài đã làm gì để cứu vớt những người tuyệt vọng, những người bị giam cầm, những người mù tối, những người bị áp bức?
- Ta đã dựng nên con và đặt con hiện diện giữa lòng đời để con thay Ta mà hành động. Thế sao còn trách Ta?
Có một điều quan trọng nhưng thường bị lãng quên, đó là chúng ta là những cánh tay, là những bàn tay của Thiên Chúa và Ngài hành động, Ngài thực hiện mọi việc qua chúng ta. Thiên Chúa có làm gia tăng số người trên mặt đất thì Ngài cũng thực hiện việc đó qua trung gian một người cha và một người mẹ trong gia đình. Thiên Chúa muốn nuôi dạy cho thiếu nhi nên tốt thì Ngài cũng thực hiện điều đó qua cha mẹ thầy cô.
Xưa kia Thiên Chúa Cha đã nhờ đến Chúa Giê-su để đem Tin Mừng cho người nghèo, giải thoát cho kẻ bị giam cầm, đem ánh sáng cho người mù tối, trả tự do cho người bị áp bức thế nào, thì hôm nay, Ngài cũng cần đến chúng ta để thực hiện những công việc đó.
Thế là chúng ta phải lựa chọn: Hoặc là chúng ta chấp nhận ở lại trong nhiệm thể Chúa Giê-su, trở thành cánh tay nối dài của Ngài để tiếp tục sứ mạng của Ngài, hoặc là chúng ta tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa Giê-su để khỏi bị Ngài sử dụng và sai khiến.
Tờ Times, một tờ báo nổi tiếng nhất thế giới, vào dịp cuối năm có thói quen giới thiệu cho độc giả biết những con người làm nên lịch sử của từng năm. Năm 2004, tờ báo bình chọn tổng thống Bush làm nhân vật quan trọng nhất trong năm. Năm 2005, tờ báo chọn vợ chồng Bill Gates vì những hoạt động từ thiện của hai vợ chồng nầy. Cuối năm 2006 vừa qua, báo Times chọn một nhân vật chẳng ai ngờ, nhân vật đó là, là... "Bạn" (You). Tức là mỗi một người trong quý ông bà anh chị em.
Đúng vậy, đó không phải là chuỵên đùa. Mỗi người trong chúng ta làm nên lịch sử. Thế giới nầy có được đổi mới, có được tiến bộ hay không cũng là nhờ sự cộng tác của từng người, của mỗi một người trong cộng đồng nhân loại.
Đừng nghĩ rằng mình chỉ là một hạt cát bé nhỏ vô ích, vì những bãi cát mênh mông được tạo nên bằng những hạt cát bé nhỏ như thế đó.
Đừng nghĩ rằng mình chỉ là một giọt nước li ti không nghĩa lý gì, vì cả đại dương bao la cũng được tạo nên bằng những giọt nước li ti như vậy đó.
Hãy nhận ra rằng mình là chi thể của Chúa, là khí cụ cứu rỗi của Ngài. Hãy để Chúa sử dụng chúng ta như khí cụ xây dựng hoà bình của Chúa.
Điều chính yếu và quan trọng là chúng ta hãy hiến dâng đời mình cho Chúa, hãy thưa với Chúa rằng: Lạy Chúa, nầy con đây, xin hãy sai con.
Một khi chúng ta đã hành động theo lời sách tiên tri Isaia hôm nay, để cho "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức"..., chúng ta có thể mãn nguyện và nói như Chúa Giê-su hôm xưa rằng: "hôm nay, đã ứng nghiệm nơi tôi đoạn sách mà quý vị vừa nghe".
47. Chúa Nhật 3 Thường Niên
"Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabat, và đứng lên đọc Sách Thánh (Lc 4,16)
Những ngày đầu ra đi rao giảng Tin Mừng, danh tiếng của Chúa Giêsu đã lan rộng, được mọi người tôn vinh khắp nơi trong đất nước của mình và một trong những nơi quan trọng Ngài muốn gởi sứ điệp đó là ở các hội trường.
Hội đường đã gắn liền với đời sống tôn giáo của dân tộc Do Thái, một nơi biểu lộ nhu cầu tâm linh không thể thiếu của họ. Ở đây, họ được nghe và đọc Kinh Thánh, học hỏi Lề Luật, Giáo Lý và mục đích trên hết là học đến để tôn thờ Thiên Chúa. Chúa Giêsu luôn sống đúng với tinh thần quí báo của cha ông, của dân tộc mình. Có rất nhiều đoạn Phúc âm mô tả Chúa Giêsu là mẫu mực tuân giữ tinh thần này. Cũng như hôm nay: "Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabat, và đứng lên đọc Sách Thánh (Lc 4,16).
Giờ đây ngoài tư cách là một công dân thông thường của đất nước mình, theo thói quen đến hội đường vào ngày Sabát để nghe Kinh Thánh, Ngài còn là người đại diện để công bố Lời Chúa và đặc biệt hơn cả chính Ngài lại là nhân vật mà Lời Chúa đề cập. Đoạn Kinh Thánh thật đẹp mô tả về một Đấng Cứu Thế với những đặc tính lý tưởng làm cho lòng người bình an và hạnh phúc khi vị này xuất hiện và bây giờ Chúa Giêsu đang ở ngay trước mặt mọi người.
Ngày hôm nay hằng tuần vào mỗi ngày Chúa nhật chúng ta tụ họp nhau để nghe Lời Chúa, học hỏi Lời Chúa và để thờ phượng Thiên Chúa. Đời sống đạo của chúng ta thật sự hạnh phúc và ý nghĩa khi cùng nhau một lòng một ý hướng lòng lên Chúa, yêu mến và thờ phượng Ngài. Chúng ta thử nghĩ xem nếu đời sống đạo thiếu vắng ngày Chúa nhật và những buổi tụ họp nhau để cử hành Phụng Vụ, cử hành Lời Chúa, cùng nhau chia sẻ bàn tiệc Thánh Thể sẽ như thế nào? Ngày Chúa nhật quí báu biết bao, bằng những lời kinh tiếng hát chúng ta cùng nhau thờ phượng để khi ra về lòng đầy hớn hở vui tươi. Đời sống đạo thật sự hạnh phúc, đầy đủ cũng từ những của ăn thiêng liêng nuôi dưỡng tâm hồn nó là động lực vững vàng để chúng ta bước vào cuộc sống thường ngày với những trăn trở, lo toan, mạnh dạn đối diện với cuộc sống bấp bênh, nhiều cám dỗ. Cuộc đời có Chúa, luôn có Lời Chúa dẫn dắt và hướng dẫn chúng ta.
Nhìn vào gương Chúa Giêsu, chúng ta học nơi Ngài lòng trung thành với Lề Luật, không chỉ với lòng trung thành mà đó còn một bổn phận nhưng trên hết vẫn là lòng yêu mến Thiên Chúa, Đấng là Cha dựng nên và yêu thương chúng ta.
Với những tâm tình đó chúng ta cảm ơn Chúa vì những ơn lành Ngài ban cho chúng ta. Có Chúa cuộc sống chúng ta luôn có điểm tựa vững chắc và biểu hiện cụ thể của người con thảo, chúng ta trung thành giữ và yêu mến ngày Chúa Nhật.
48. Ngày Hôm Nay Của Chúa--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Tin mừng Lc 1:1-4; 4:14-21 "Ngày hôm nay…" Từ ngữ này của Tin mừng cho chúng ta hiểu rằng chúng ta đang sống thời hiện tại. Bây giờ, tại đây, Đức Kitô đối với chúng ta, Ngài là Đấng Giải Phóng, Đấng Thánh, Đấng mang sứ điệp cứu độ. Đây quả là niềm vui lớn lao của chúng ta.
I. Tìm Hiểu Lời Chúa:
Bản văn này thâu tập hai đoạn trích Tin mừng theo Thánh Luca, không có sự nối kết rõ ràng giữa chúng. Đoạn trước là Lời tựa, phần khởi đầu của Tin mừng; đoạn sau trình thuật về vai trò của Đức Giêsu trong Hội đường vào một ngày Sabbat.
Ngay từ đầu, để gây lòng tin ở độc giả của mình, Thánh Luca đã xác định nghiêm túc về tác phẩm của mình: Trước khi viết, Ngài đã tự mình tiến hành tìm hiểu tỉ mỉ, cẩn thận mọi sự.
Sau đó, trình thuật câu chuyện sảy ra tại Hội đường ở Nagiarét. Đức Giêsu khéo léo dùng lời Kinh Thánh để mạc khải về Thiên tính của mình: Ngài là Đấng Messia mà các Tiên Tri loan báo.
"Ngày hôm nay…" Từ ngữ này của Tin mừng cho chúng ta hiểu rằng chúng ta đang sống thời hiện tại. Bây giờ, tại đây, Đức Kitô đối với chúng ta, Ngài là Đấng Giải Phóng, Đấng Thánh, Đấng mang sứ điệp cứu độ. Đây quả là niềm vui lớn lao của chúng ta.
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Đức Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa: Tin mừng hôm nay trình thuật việc Chúa Giêsu vào hội đường Nagiarét để đọc và giải thích Kinh Thánh cho dân chúng. Sự kiện này diễn ra khi Người danh tiếng của Người đã vang xa. Người nổi danh về các phép lạ và đặc biệt là về các lời giảng dạy, về giáo huấn của Người. Kinh Thánh là những văn tự nằm chết trong sách nhưng một khi được công bố từ môi miệng của Đức Giêsu lại có được sức sống, trở thành lời mang ân sủng cho những người nghe. Cùng với Đức Giêsu và trong Đức Giêsu tất cả những lời Kinh Thánh loan báo đều ứng nghiệm. Thánh Gioan Tông đồ xác tín Đức Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Ngày nay, Đức Giêsu vẫn đang hiện diện nơi lời Tin mừng được công bố trong Hội Thánh, trong phụng vụ của Hội Thánh, nghe lời Tin mừng là nghe chính Đức Giêsu. Sống Tin mừng là sống với và sống trong chính Đức Giêsu. Nghe Đức Giêsu là nghe chính Thiên Chúa Cha. Mỗi người Kitô hữu chúng ta qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta có xác tín niềm tin của mình vào Lời Chúa; có chân nhận Lời Chúa là sức mạnh là hồng ân cho cuộc đời?
2. Đức Giêsu Kitô, Lời Giải Phóng _ Lời Cứu Độ: "Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Chắc chắn không phải ngẫu nhiên tình cờ mà Đức Giêsu mở ra đúng ngay đoạn sách Isaia 61 này, nhưng điều quan trọng ở đây khi Người khẳng định sự ứng nghiệm của đoạn Kinh Thánh này, Người muốn áp dụng cho mình những gì Tiên Tri Isaia đã loan báo. Khi chiu phép rửa tại sông Gioađan Người đã nhận lãnh Thánh Thần như một sự xức dầu trở nên Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa. Tất cả những gì Người đã nói và làm trong suốt cuộc đời dương thế chứng tỏ rằng lời Kinh Thánh đã ưng nghiệm: Người đến để giải phóng kẻ tù đầy khỏi sự giam hãm của tội lỗi, ma quỉ và sự chết; cứu chữa bệnh nhân làm cho người mù được sáng, người què được đi và người câm được nói … Tắt một lời, Người đã đến để ban ơn cứu độ cho nhân loại. Với con người và thế giới hôm nay, sứ điệp Tin mừng của Đức Giêsu vẫn còn nguyên gía trị, Người vẫn cần thiết đối với tất cả qua mọi thời đại. Kitô hữu là Người thuộc về Đức Giêsu, mang sứ điệp Tin mừng của Người phải có trách nhiệm làm cho ơn Cứu độ của Người thực sự được trao ban cho thế giới mình. Nhưng trước hết làm sao phải nhận được Đức Giêsu là Đấng giải phóng mình, cứu độ mình trước đã.
3. Đức Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa cho con người hôm nay: Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai các ngươi vừa nghe. Từ ngữ 'hôm nay' theo ý nghĩa Tin mừng cho chúng ta hiểu rằng đây không phải là sứ điệp của hôm qua mà là của hôm nay. Mãi mãi Tin mừng luôn mang tính hiện tại, 'Trời đất có qua đi, nhưng lời Ta không bao giờ qua đi.'Vì thế, sứ điệp Tin mừng vẫn là Lời Chúa nói, vẫn là sự hiện diện sống động của Đức Giêsu Kitô giữa lòng trần thế hôm nay. Cho dù cách thế hiện diện của Đức Giêsu có khác nhưng tình yêu, sức sống, ơn cứu độ của Người vẫn là thế, bất biến không thay đổi. Do đó, nghe Lời Chúa, gặp gỡ với Đức Giêsu không phải là lật lại tìm kiếm một nhân vật lịch sử đã qua, hay tìm đọc một huyền thoại và càng không thể là môt chuyện mê tín dị đoan, nhưng là gặp gỡ và tiếp xúc với một con người, một Ngôi Vị Thiên Chúa sống động. Ngày nay, xem ra người ta thích đi tìm kiếm những kiến thức về Đức Giêsu, về Hội Thánh của Người, về Thiên Chúa mà Người mạc khải để thoả mãn trí tò mò tri thức hơn là muốn gắn bó cuộc đời với Người. Cũng có người chỉ muốn phá đổ công trình của Người, lên án và tiêu diệt Người hơn là đón nhận người. Thái độ của Kitô hữu ngày nay sẽ như thế nào khi đón nhận Lời Chúa, sống với Đức Giêsu Kitô?
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu Kitô là Đấng Messia được Chúa Cha sai đến để cứu độ loài người chúng ta. Với tâm tình tri ân cảm tạ Thiên Chúa, chúng ta cùng sốt sắng dâng lời nguyện xin.
1. Chính Giáo Hội do Đức Giêsu thiết lập đã được Người uỷ thác sứ mạng cống bố sứ điệp Tin mừng cho con người và thế giới hôm nay. Chúng ta cùng cầu xin cho Giáo Hội chu toàn sứ mạng của mình với lòng tín trung, kiên nhẫn và sức mạnh của lòng mến.
2. Thế giới hôm nay đang chịu đựng biết bao thảm cảnh: đói nghèo, thiên tai, chiến tranh và nhiều sự suy đồi luân lý đạo đức. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các Quốc gia, các dân tộc trên thế giới biết nỗ lực cộng tác với nhau xây dựng hòa bình; biết hợp nhất với nhau cùng phát triển.
3. Đức Giêsu đã đến để khơi lên niềm hy vọng, niềm vui sống và ban ơn cứu độ. Chúng ta cùng cầu xin cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta luôn có nơi con tim của mình tình yêu và sự công chính của Đức Giêsu. Xin cho tất cả mọi người Công Giáo Việt Nam trong năm thánh này trở nên chứng nhân của niềm tin yêu, hy vong và công bình bác ái cho mọi người trên quê hương đất Việt thân yêu này.
* Kết Nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã khẳng định: " Ngày hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh …" Ngày hôm nay chính là chúng con, là xã hội chúng con đây. Xin cho chúng con luôn ý thức sống những giá trị của Tin mừng trong cuộc sống hàng ngày, để qua đó, mọi người nhận ra được ơn cứu độ của Chúa. Chúa là Đấng hàng sống và hiển trị muôn đời.
49. Chúa Nhật 3 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Nhìn vào xã hội ngày hôm nay, đâu đâu anh chị em cũng thấy trường học, từ những trường cho các cháu bé đến những trường cao cấp, đủ mọi ngành nghề. Mọi người trong chúng ta, nếu có đủ điều kiện thì cũng lo đến trường học, để lo tương lai bản thân, gia đình. Khi có con cái cũng thế. Ai cũng cố gắng cho con mình đến trường, để học những điều hay, điều tốt, học để bảo đảm cho tương lai. Thật thế những người có học, thì tương lai không đến nỗi tệ, cho dù về mặt vật chất của cải không sung túc, nhưng ít ra họ cũng biết cách sống làm người. Cũng có những người có vốn học thức, nhưng không biết đem những gì mình đã học để áp dụng vào đời sống, thì cũng trở nên vô ích. Còn có những người không chịu đến trường, không nghe lời cha mẹ, cũng không chịu học một người nào để biết những điều tốt đẹp của cuộc sống, thử nghĩ xem, đời sống của những người đó sẽ như thế nào, khi họ chỉ biết cậy dựa vào bản thân, chỉ học hỏi nơi bản thân.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, mặc lấy thân phận con người, Ngài sống thật sự gương mẫu cho con người: " Theo thói quen, Người vào hội đường". Như vậy từ lâu,Ngài đã có thói quen như những người thời bấy giờ, đến hội đường để học hỏi những điều cần thiết cho cuộc sống. Trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe, Ngài đến hội đường, mọi người cũng đến hội đường và chăm chú nghe. Mọi người thời bấy giờ nhận thấy: hội đường là một trường học, là một ngôi nhà mà Thiên Chúa là Cha còn tất cả mọi người là anh em. Gia đình hội đường là nơi họ sống và lớn lên, cho nên hội đường không thể thiếu được trong đời sống của họ. Nhờ hội đường mà đời sống về phần đạo cũng như đời thường, được nuôi dưỡng, bồi bổ mỗi ngày được lớn mạnh thêm.
Thiên Chúa ban cho mỗi người một hoàn cảnh sống, Ngài còn cho mỗi người có trí thông minh và sự tự do, để biết chọn lựa tốt xấu cho cuộc sống. Chúng ta những người đang ngồi trong nhà thờ này, ai cũng có điều kiện để học biết. Trước tiên là cha mẹ, trường học đầu tiên mà mỗi người đều được trải qua. Kẻ đến là những người thân thuộc chung quanh. Đó là những ngôi trường tự nhiên không thể thiếu được trong cuộc sống làm người. Đa số trong chúng ta đều được đến trường học, để trao dồi thêm kiến thức. Nhưng những gì mà mình đã học biết, những gì đã tích lũy bao nhiêu năm qua, có sinh lợi ích thật sự cho chúng ta không? Đặt biệt, chúng ta còn là người Công Giáo, từ nhỏ đến giờ, chúng ta đã đến nhà thờ, đã nghe, đã biết, đã học, đã nhận lãnh rất nhiều. Nhưng những điều đó có sinh ích lợi gì cho chúng ta không? Hay chúng ta giống như những người học mà không biết đem áp dụng những gì mình đã học, để sinh lợi cho cuộc sống, như thế thì phí đi những gì mình đã vất vả đầu tư. Nếu như thế, thì buồn thay cho Đấng đã từng hy vọng nơi chúng ta, khi cố công chỉ dạy. Đó là Thiên Chúa, Ngài từng thương yêu mỗi người, chăm sóc cách đặt biệt, tạo nên những phương tiện cần thiết để chúng ta được học biết. Thế mà chẳng đem lại kết quả gì sao? Như vậy, nhà thờ của ngày hôm, có phải là ngôi nhà hội họp, là hội đường, là nơi không thể thiếu được trong đời sống của chúng ta không? Chúng ta có thấy cần thiết để đến nhà thờ nhận lấy sự hiểu biết để mà sống, nhận lấy sự bồi bổ cho đức tin, nhận lấy những lẽ phải để sống xứng đáng là con Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Hay là chúng ta sợ nhà thờ, chúng ta không quen đến nhà thờ, chúng ta thấy không cần thiết để lắng nghe, để học biết. Nếu như thế thì chúng ta sẽ ra sao, khi không học, không biết gì hết?
Mỗi người nhìn vào chính mình, nhìn vào những ngày tháng đã qua. Có những lúc chúng ta chìm đắm trong cô đơn thất vọng, cuộc đời không lối thoát, đó là những lúc chúng ta không biết đến với Chúa, không biết lắng nghe, không biết đem ra áp dụng những gì Thiên Chúa đã chỉ dạy chúng ta phải sống. Cũng có những lúc chúng ta can đảm đứng vững vàng trước những sống gió của cuộc đời, chúng ta vượt qua được những khó khăn của cuộc sống mà hiên ngang bước đi. Đó là những lúc chúng ta luôn có Chúa bên cạnh, luôn biết chạy đến với Ngài, luôn biết học nơi Chúa. Đó cũng là những lúc chúng ta cảm nhận được rằng: Thiên Chúa không thể thiếu vắng trong đời sống của chúng ta được.
Xin Chúa cho chúng ta biết siêng năng đến với Ngài.
50. Sống cho người nghèo--Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
Mẹ Têrêsa Calcuta đã trở nên mẹ của người nghèo, mẹ của những con người cùng khổ, bất hạnh và bị bỏ rơi. Với cuộc đời luôn sống với người nghèo, cho người nghèo, mẹ càng trở nên cao trọng giữa muôn người trong thế kỷ thứ 20. Mẹ đã được cả thế giới gọi mẹ bằng một tên gọi đầy kính trọng Mẹ Têrêsa Calcutta. Và có lẽ chẳng mấy ai còn nhớ đến tên gọi của mẹ do hai cụ thân sinh đã đặt từ ấu thơ Agnes Gonxha Bojaxhiu.
Trong thánh lễ phong Chân phước cho Mẹ, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cao mẹ như là một chứng nhân phục vụ theo gương Thầy Chí Thánh Giêsu. Ngài nói: "Mẹ Têrêsa không những đã chọn chỗ thấp nhất mà còn muốn đi phục vụ những người hèn mọn nhất của xã hội. Tựa như một người mẹ của những người nghèo. Người nghiêng mình xuống trên những người cùng khổ vì đủ mọi thứ nghèo khổ". Mẹ đã dấn thân đến với người nghèo hầu mong nâng cao phẩm giá họ lên giữa một xã hội còn đầy những kỳ thị chủng tộc, kỳ thị sang hèn, giai cấp... Chính Mẹ đã từng nói: "Cái nghèo khổ nhất trên đời này là bị xua đuổi, không còn được ai đoái hoài đến nữa". Mẹ còn muốn cho công việc của Mẹ được nhân rộng thêm lên, Mẹ đã thành lập hội dòng Thừa sai bác ái với ước nguyện: "Thiên Chúa vẫn mãi yêu thương thế gian và Người sai chị em chúng ta ra đi biểu lộ tình yêu và lòng thương cảm của Người đối với người nghèo".
Lời Chúa hôm nay có thể nói là tin vui cho những người nghèo khổ, những người bất hạnh và bị bỏ rơi. Chúa Giêsu đã chọn người nghèo để dấn thân, để phục vụ. Không phải là Chúa Giêsu khinh bỉ người giầu, người quyền thế mà có thể nói Ngài đến để giúp cho những con người thấp hèn kia được nâng cao, được tôn trọng như những con người giầu có, quyền quý. Chính Ngài đã chọn sinh ra trong thân phận một người nghèo. Chính Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó. Nghèo khó đến nối "không có nơi gối đầu". Mỗi bước chân của Ngài đều hướng đến những người khổ đau. Mỗi ánh mắt của Ngài đều hướng về những con người bất hạnh. Mỗi cái nhìn của Ngài đều chạnh lòng thương những ai đang đau khổ bơ vơ vì bị bỏ rơi, vì thiếu thốn tư bề. Ngài đã thực hiện trọn vẹn sứ vụ của Đấng Messia mà các tiên tri đã loan báo. "Khi Người đến mắt người mù sẽ được nhìn thấy. Tai người điếc sẽ được nghe. Người câm nói được và người què nhảy nhót như nai". Tất cả những điều đó hôm nay đã ứng nghiệm trong con người Đức Giêsu miền Nagiaret. Thiên Chúa đã nhập thể làm người để nâng con người nên làm con Thiên Chúa. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở lại luôn mãi với nhân trần. Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người để yêu thương và ban phát ơn lành. Đấng Thiên Sai đã chọn người nghèo, người cùng khổ để dấn thân phục vụ. Đấng Thiên Sai đã sống một kiếp người trong nghèo khó, thiếu thốn tư bề để cảm thông với những lắng lo của kiếp người truân chuyên.
Đó cũng là sứ điệp mà Lời Chúa muốn nhắn nhủ con người hôm nay. Giữa một xã hội quá chênh lệch giầu nghèo, địa vị. Giữa một xã hội quá phân biệt giai cấp và địa vị. Mức sống của từng giai cấp, địa vị đều khác nhau. Có những người ăn tiêu một bữa ăn bằng tiền lương cả một tháng lao động vất vả của một công nhân quèn. Ở Việt Nam hôm nay có những trường học phổ thông dành cho con nhà giầu, mỗi tháng thu lệ phí mỗi em cả hàng chục triệu đồng, trong khi đó nhiều gia đình phải chật vật để kiếm vài trăm ngàn cho con có cơ hội đến trường, đến lớp. Có những người ốm đau bệnh tật kéo dài cả cuộc đời vì không có tiền trang trải cho viện phí nên đành chấp nhận đau đớn mỗi khi trái gió trở trời, đang khi đó có biết bao người giầu có dư tiền dư của đến nỗi bỏ ra hàng triệu đồng để lột da cho tươi trẻ, và còn khoét thêm má lún đồng tiền để thêm phần duyên dáng thanh cao. Có những người cơm không đủ no, áo không đủ mặc đang khi đó có biết bao người áo chỉ mặc một lần và đồ ăn thức uống vất ngổn ngang quanh nhà.
Giữa một xã hội quá nhiều những thị phi như thế, Chúa đang cần chúng ta hãy tiếp tục công việc của Chúa. Hãy là những chứng nhân cho công việc phục vụ anh em. Hãy đem tình yêu Chúa trải rộng khắp mọi nẻo đường chúng ta đi. Hãy biết chạnh lòng thương với những ai đang khốn khổ lầm than. Hãy biết chia sẻ cơm bánh cho những anh em nghèo đói. Hãy cúi mình phục vụ những ai không có gì để đền đáp lại chúng ta.
Năm nay, Giáo hội Việt Nam hân hoan đón mừng năm Đức Tin, là dịp để chúng ta nhìn vào cung cách sống phục vụ quên mình của các nhà truyền giáo đã không quản ngại vất vả, gian truân, đói khát, thiếu thốn để vun trồng tin mừng cho quê hương Việt Nam. Chính đời sống yêu thương phục vụ của các nhà truyền giáo và của các bậc cha ông chúng ta ngày xưa đã đánh động những người dân Thăng Long đến nỗi họ đã từng nói với nhau: "Kìa nhìn xem người ky-tô hữu họ yêu thương nhau biết bao". Đó cũng phải là cung cách sống của chúng ta, những con người thời đại hôm nay hãy biết sống quên mình, biết sống phục vụ vì lợi ích anh em để làm chứng cho Chúa. Ước gì với tinh thần sống đời kytô giáo yêu thương và phục vụ sẽ là dấu chỉ thật đẹp của người môn đệ Chúa Kytô giữa thế giới hôm nay. Amen.
51. Kinh Thánh, một bản tình ca
Từ thuở khai thiên lập địa, Thiên Chúa đã tạo dựng nên loài người và Ngài đã yêu thương con người cách rất đặc biệt. Ngài coi con người như con cái của Ngài, cho hưởng hạnh phúc trong khu vườn địa đàng. Từ khi con người phạm tội, xa cách Thiên Chúa, Thiên Chúa như người Cha già luôn mong nhớ đứa con đi hoang. Bởi không hiểu tình Cha mà con dại khờ nghe theo lời dụ dỗ của kẻ ác.
Ðể cứu giúp con mình trong cảnh lầm than, Cha đã sai biết bao sứ giả đến bày tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Dù loài người thế nào, dù con người phản bội, tội lỗi, Chúa vẫn một lòng yêu thương sẵn sàng đón nhận trở về. Tình yêu Thiên Chúa vơi con người là tình yêu của một người Cha, và có thể ví như tình yêu khắng khít của tân lang với tân nương.
Khi dân Do Thái phản nghịch với Chúa, bỏ Chúa theo các thần khác, họ phải chịu cảnh lưu đày nơi đất nước mà các thần này được tôn thờ. Nhưng rồi khi họ có lòng hối cải, Chúa lại qui tụ họ lại như trong bài đọc II chúng ta thấy: Yavê Thiên Chúa thức tỉnh vua Kyrô để ông ban sắc chỉ cho dân Israel trở về nước tái thiết lại đền thờ Giêrusalem. Và khi dân chúng đã trở về định cư, chính tư tế Esdras đã quy tụ họ lại, giáo huấn họ bằng cách mang sách luật ra đọc cho toàn dân Israel nghe. Dân chúng hiểu được tình thương của Chúa đối với họ và nhận ra những sự xúc phạm của mình đối với tình thương của Ngài. Họ ăn năn khóc lóc khi nghe những lời trong sách luật và quyết tâm sống trung thành với Chúa, tuân giữ những lời Chúa dạy trong sách luật.
Sách luật mà tư tế Esdras đọc đây không phải là bộ luật hình sự của một quốc gia thế gian toàn là những quy định cấm đoán và mức hình phạt. Sách luật này là bộ Ngũ kinh, là lời Chúa dạy. Đó là luật tình thương, bồi bổ tâm linh như bài đáp ca thánh vịnh 18. Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can, mệnh lệnh Chúa trong ngời sáng soi con mắt. Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh, phán quyết của Chúa chân thật, công minh hết thảy. Vì vậy, luật Chúa đem lại sự sống, đem lại sự giải phóng, đem lại hạnh phúc thật cho con người.
Trong bài Phúc âm, chúng ta thấy chính Chúa Giêsu là Lời Thiên Chúa, Ngài đến làm ứng nghiệm tất cả những gì sách thánh Cựu Ước đã tiên báo. Ngài là Ðấng của lời hứa, Ngài là Ðấng Kitô của Thiên Chúa. Khi đọc đoạn sách tiên tri Isaia này, Ngài cảm nghiệm rất rõ sứ mạng của Ngài: Thiên Chúa xức dầu cho Ngài, sai đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho những kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng.
Chúa Giêsu là Ðấng cứu tinh của chúng ta. Chúng ta có nhận thức rõ tình thương của Ngài đối với chúng ta chưa? Ngài là Thiên Chúa đến không phải để lấy uy quyền trách phạt chúng ta nhưng để phục vụ bằng lời rao giảng, bằng sống hy sinh và nhất là bằng cái chết trên thập giá vì chúng ta. Chúng ta hãy đáp tình thương yêu ấy. Một tình yêu chung thủy vì loài người được đáp trả bằng sự thờ ơ của nhân loại. Một mối tình không nói được hết bằng lời nhưng bằng sự hy sinh đổ hết máu mình ra để chuộc lấy linh hồn chúng ta.
Chúng ta hãy yêu mến Chúa, hãy cảm nghiệm tình thương Chúa trong cầu nguyện, trong hy tế thánh lễ và đáp trả bằng những việc hy sinh cụ thể để có thể xứng đáng với tình thương hy sinh của Người.
52. “Bản tuyên ngôn tình thương”
(Suy niệm của Nguyễn Chí Thanh, OP)
Ngày 10-12-1948. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã long trọng tuyên bố bản tuyên ngôn quyền con người… đây là lần đầu tiên trong lịch nhân loại, cộng đồng thế giới đã đảm nhận trách nhiệm quảng bá và bênh vực quyền của con người như một nghĩa vụ trường kỳ. Bản tuyên ngôn nhân quyền đã được công bố một thời gian ngắn sau đệ nhị thế chiến.
Thảm kịch chiến tranh cho nhân loại mỗi lúc hiểu rằng hòa bình chỉ có thật sự có khi con người biết tôn trọng những quyền lợi và tự do căn bản của con người. Ngược lại, nơi nào quyền con người bị phủ nhận và chà đạp, thì cho dẫu không có chiến tranh đẫm máu, người ta cũng chỉ sống trong một thứ hòa bình giả tạo mà thôi.
Thưa cộng đoàn, nếu bản tuyên ngôn ở trên được con người đặt ra để cử xử với nhau trong cuộc sống ở trần gian này, cho dù thế nào đi nữa nó vẫn có những bất toàn của nó. Thì trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã công bố “bản tuyên ngôn tình thương”, bản tuyên ngôn ấy vượt ra khỏi không gian và thời gian, và được thể hiện bằng thần khí, bằng sự thật, bằng cuộc sống, bằng tình yêu, bằng tình người và sẽ bằng chính máu – thập giá của Người
Trở lại với trình thuật Tin Mừng, chúng ta thấy thánh Mát Thêu diễn tả: Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Thưa cộng đoàn, đã ứng nghiệm vì Đức Giêsu đến trần gian và đi vào cuộc sống làm người chỉ trừ tội lỗi, vì vậy “Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế ”.
Đã ứng nghiệm vì Đức Giêsu là sợi chỉ nối kết giữa Cựu Ước và Tân Ước. Do đó Người đến không phải là để phá đổ những cái cũ nhưng là để kiện toàn và tạo cho nó một sinh khí mới.
Thưa cộng đoàn, qua bài đọc một chúng ta thấy rất rõ sách luật đã nói đến “hôm nay là ngày thánh hiến Đức Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc”
Đó cũng chính là điều đã ứng nghiệm rằng một viễn tượng hết sức tốt đẹp là sẽ có một đấng thiên sai đến với toàn dân, sẽ giải phóng họ thoát khỏi cảnh lầm than cơ cực, khỏi cảnh bị áp bức bóc lột; vì thế “ hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em ”
Và vì vậy đã ứng nghiệm qua trình thuật Tin Mừng của thánh Mátthêu được Đức Giêsu công bố, chúng ta thấy “Bản tuyên ngôn tình thương” đã được ngôn sứ Isaia tiên báo trước đó năm thế kỷ là “Thần khí chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”.
Nhưng để thực hiện, để mở ra bản tuyên ngôn này thì chỉ có Đức Giêsu là người duy nhất có chìa khóa mở ra.
Điểm cốt yếu của bản tuyên ngôn tình thương tại thủ phủ Nazaret được Đức Giêsu công bố ít nhiều đã làm xáo trộn trật tự sẵn có. Vì đối với não trạng của người Do Thái, đặc biệt của các thượng tế và kinh sư, thường coi những kẻ nghèo hèn, những kẻ khố rách áo ôm, những kẻ đui mù câm điếc… là do Thiên Chúa chúc dữ, do đó cần loại những kẻ ấy ra ngoài đời sống sinh hoạt của tôn giáo, của phụng tự, của xã hội. Thế mà một Đấng Thiên Sai lại đi rao giảng sự giải phóng cho những người ấy. Vâng thưa công đoàn, sao mà có thể chấp nhận cho được! .
Nhưng đã ứng nghiệm vì Đức Giêsu đến loan báo một thứ Tin Mừng khác hẳn, không phải là một thứ Tin Mừng chỉ dành riêng cho một dân tộc ưu tuyển nào, hay chỉ dành riêng cho các thượng tế và kinh sư, nhưng Đức Giêsu còn mang đến một thứ Tin Mừng cho những người đang sầu khổ, đui mù, câm điếc và những dân ngoại đang khao khát lời Chúa.
Thưa cộng đoàn, bản tuyên ngôn được Đức Giêsu công bố, đã biến Đức Giêsu trở thành một vị Thiên Chúa ngôi vị, đã trở thành anh cả giữa một đàn em đông đúc mà qua bài đọc hai cho chúng ta thấy Đức Giêsu là Đầu, là Trưởng Tử, còn chúng ta là những thành phần được kết hợp với người, được thông phần với người vì chúng ta đã được đầy tràn một thần khí duy nhất.
Chính vì vậy Đức Giêsu đã sống đồng hành, sống cùng sống với thân phận của mỗi con người; lúc thì thủ thỉ như cha con, lúc thì chung chạ như anh em, lúc thì đồng bàn như bạn hữu.
Đức Giêsu không chỉ dừng lại đồng hành bên cạnh những thân phận ấy, nhưng Người nhận thấy nơi những con người bệnh tật, bần cùng đói khổ, tội lỗi ấy một giá trị mới, một phẩm giá mới; là được làm con Thiên Chúa. Một cách quyết liệt hơn nữa nói như tôn sư Eckhart “ Thiên Chúa xuống làm người để con người trở thành Thiên Chúa” là vậy.
Thưa cộng đoàn, bản tuyên ngôn tình thương được Đức Giêsu công bố vẫn còn rất thời sự, vẫn còn rất nóng hổi đối với thế giới của chúng ta đang sống. Vậy mỗi người ki tô hữu chúng ta sẽ thực hành bản tuyên ngôn ấy như thế nào trong thế giới hôm nay?. Đây là vấn đề tôi cũng như các quý ông bà anh chị em phải suy nghĩ rất nhiều trước bối cảnh chúng ta đang sống.
Ắt hẳn cũng còn rất nhiều điều chưa ứng nghiệm là bởi vì qua thái độ sống của mỗi người chúng ta chưa thực hiện được qua bản tuyên ngôn của Đức Giêsu;
Chưa ứng nghiệm là vì chúng ta chưa sống đúng với chứng tá là một ngôn sứ đến với những con người bất hạnh, và vẫn còn những thái độ tránh xa họ.
Chưa ứng nghiệm là vì chúng ta chưa mở rộng tấm lòng ra để đón nhận những nỗi đau của đồng loại, bởi vì chúng ta sợ không dám chia sẻ những gì chúng ta có như tinh thần và vật chất.
Chưa ứng nghiệm là vì chúng ta chưa công bố một sứ điệp Tin Mừng chân thật, sứ điệp Tin Mừng đó chính là thể hiện cách sống của chúng ta đối với những người bất hạnh.
Vâng, đúng vậy, khi chúng ta lãnh nhận bí tích thánh tẩy, chúng ta được tháp nhập vào chức vụ tư tế, ngôn sứ, vương đế phổ quát của Đức Giêsu.
Cho nên mỗi ki tô hữu chúng ta cũng phải có trách nhiệm loan báo, công bố, và thực hiện bản tuyên ngôn đó; là loan báo niềm vui đến với những người đang khát khao lời Chúa biết rằng Thiên Chúa luôn luôn đón chờ, luôn dang rộng cánh tay để dìu dắt nâng đỡ, an ủi một khi trông cậy vào Người
Và công bố niềm hy vọng đối với những người tội lỗi, sầu khổ, bệnh tật, đui mù câm điếc về cả tinh thần lẫn thể xác là Thiên Chúa luôn luôn đồng hành với mỗi người chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống, và luôn luôn ôm trọn tất cả những tội lỗi, sầu khổ, bệnh tật của mỗi người chúng ta bằng trái tim đầy thương yêu của Người và chữa lành những vết thương ấy qua Bí Tích Thánh Thể mà chúng ta đón nhận mỗi ngày.
Chính vì vậy mỗi người chúng ta cầu xin Chúa luôn tăng thêm thần khí để dẫn dắt chúng ta dám sống, dám xả thân phục vụ và thực hiện bản tuyên ngôn tình thương mà Đức Giêsu đã trao lại là: mang Tin Mừng đến với mọi người, qua đó nhận biết tình yêu thương của Thiên Chúa. Vì chỉ có như vậy chúng con mới có thể thực hiện lời Người đã dạy “anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, và loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”.
Và cũng chỉ có như vậy thì “hôm nay sẽ ứng nghiệm lời kinh thánh” trong bối cảnh chúng ta đang sống và qua đó làm bật dậy sức sống mới trong từng tâm hồn mỗi người chúng ta. Amen.
53. Niềm tin vào Đức Kitô giải phóng con người--Achille Degeest
Trong phần đầu bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thu hẹp nhận định vào điểm thánh Luca đã soạn thảo Phúc Âm của ngài với tất cả thái độ nghiêm túc của giới trí thức đương thời. Chúng ta dừng lại ở phương cách Đức Giêsu thuyết giáo trong nhà hội ở Nagiarét. Chúa tham gia đầy đủ vào những tục lệ dân tộc, tuân giữ ngày hưu lễ như những người Do Thái khác, nghĩa là đến tụ họp tại hội đường nghe đọc Lề Luật rồi nghe người ta bình giải. Người giữ hội đường đưa cho Chúa một cuốn sách về Cựu Ước (thời đó sách là một tờ giấy rất dài cuộn lại). Chúa đọc trong đó một bản văn mang ý nghĩa lời sấm về Đấng Mêsia. Chúa đọc xong, tất cả mọi người, kể cả Chúa, ngồi xuống. Bấy giờ Chúa loan báo cho đám thính giả rằng thời đại cứu độ mà nhân loại mong đợi đang mở ra cho họ, Chúa dùng lối nói bóng cho họ linh cảm rằng Đấng Mêsia đang hiện diện trước mắt họ.
Đoạn Phúc Âm cho chúng ta biết giảng thuyết của Đức Giêsu bắt nguồn từ đâu và nhằm mục đích gì?
1) Bắt nguồn từ quyền phép Chúa Thánh Linh. Một trong những nét được coi là đặc điểm của Đấng Mêsia hiện rõ lên ở đây: đó là quyền phép Chúa Thánh Linh. Sở dĩ Đức Giêsu có được quyền phép ấy vì Người là Con Thiên Chúa. Tuy vậy, trên bình diện nhân tính, quyền phép ấy Chúa có được cũng là do sự Người cầu nguyện liên tục. Chúng ta có thể nghĩ rằng mỗi lần trước khi nói và hành động, Chúa cầu xin Chúa Thánh Linh soi sáng hướng dẫn Người. Nhờ mối liên hệ tâm linh ấy, Chúa là một người có những lời nói châu ngọc khiến người nghe ngưỡng mộ, và có một quyền năng làm phép lạ khi nào Chúa muốn. Đây là một quy luật căn bản cho tất cả những ai sau này đến lượt mình mang sứ vụ loan báo cho thế gian rằng thời đại cứu độ đã tới. Dẫu cho ngày nay không cần phải làm phép lạ, sự giảng dạy về đức tin vẫn phải bắt nguồn từ tâm tình tuỳ thuộc hoàn toàn vào Chúa Thánh Linh.
2) Mục đích giảng thuyết của Đức Giêsu là loan tin một sự giải phóng. Chúng ta nói rõ, không phải là một sự giải phóng về chính trị, nhưng là giải phóng về tâm hồn: mở ra một vận hội hy vọng cho những kẻ vô vọng. Được dễ dàng chuẩn bị nhất để đón sứ điệp ấy, là những kẻ nghèo, những kẻ bị áp bức, những kẻ đi tìm sự thật cho trí óc và giải thoát cho tâm hồn. Chúa phán rằng sự hiện diện của Người mở ra một năm ân sủng của Thiên Chúa, nghĩa là khai mạc một thời đại mới, thời đại cứu độ. Chúa tuyên bố điều ấy một cách dè dặt. Chúa để cho người ta phỏng Chúa là AI hơn là Chúa xác nhận. Chúa biết rõ sự áp bức thật sự là những thiên kiến của trí óc và những mờ ám của tâm hồn. Suốt ba năm giảng dạy, Đức Kitô giáo dục dân chúng cách tuần tự, cho họ quyền tự do nghe hay không nghe, dẫn dắt họ tiến dần đến chỗ hiểu biết rằng niềm tin vào Chúa đem đến sự giải phóng thật sự. Tất cả những cuộc giải phóng khác đều xuất phát từ sự giải phóng Chúa đề nghị với nhân loại.
54. Này là thân mình của Đức Kitô! – Charles E. Miller--‘Mở Ra Những Kho Tàng’
Một số người Công Giáo đã thất vọng nơi những cấu trúc gần đây của những nhà thờ, họ nhìn thấy chúng quá tiêu điều, không trang trí những đồ dùng sốt sắng và thiếu đi vẻ đẹp. Một số khác thì nhắm đến những nhà thờ cổ hơn thì quá cầu kỳ. Chúng ta hãy hướng đến bài đọc thứ hai ngày hôm nay. Đúng hơn là hãy quan sát những cấu trúc và trang trí của tòa nhà, hãy nhìn xem những người ở bên trong nhà thờ. Với đôi mắt đức tin Công Giáo của bạn hãy nhìn họ như họ thật sự là: Thân Mình của Đức Kitô, được làm nên bởi nhiều phần tử khác nhau. Bên trong mỗi con người là ánh sáng rực rỡ của con người Đức Kitô, Đầu của thân mình là Giáo Hội. Ánh sáng rực rỡ ấy chiếu sáng không chỉ trên những người mà đôi mắt của họ được soi sáng bởi chân lý và những người của Giáo Hội thật sự là thân mình của Đức Kitô, bên trong mỗi người là một vẻ đẹp đặc biệt và lạ lùng. Lúc ấy tôi ước ao, chúng ta có một cái nhìn quang tuyến X thiêng liêng cho phép chúng ta trong suốt Thánh Lễ nhìn xuyên được vẻ đẹp bên trong. Và tiếp theo chúng ta sẽ thấy đôi hôn phối ở gần chúng ta thì phải tranh đấu để giữ cho cuộc hôn nhân của họ được tồn tại, họ phải cầu nguyện nồng nhiệt biết bao để nắm bắt lại ân sủng thời họ mới cưới, tất cả bởi vì họ thật sự tin đó là ý muốn của Thiên Chúa, họ là hai trong một xác thịt. Đức tin của họ thì rất xinh đẹp.
Chúng ta thấy một người thanh niên ăn mặc lịch lãm. Với một cái nhìn đặc biệt chúng ta có thể biết anh ta đang nài xin Chúa giải thoát anh ta khỏi ách nô lệ của một đam mê đang đe dọa phá hủy đời sống của anh. Kế bên anh là một người thanh niên khác cũng đang cảm tạ Chúa vì những ân phúc trong đời sống của anh và xin Chúa hãy cho anh biết anh phải làm gì, để dâng mình cho Giáo Hội như là một linh mục. Bên trong cả hai con người đều rực lên ánh sáng xinh đẹp của đức tin. Chung quanh chúng ta, chúng ta nghe nhiều người đang nhiệt tình đọc kinh hoặc hát những bài hát sốt sắng. Họ là những thành phần rất khác biệt nhau trừ sự kiện họ là những người trưởng thành trẻ đã không còn đến với Thánh Lễ nữa. Tất cả bọn họ đều đã xa rời Giáo Hội Công giáo, một số khác đã kết hợp vời các tôn giáo khác, một số người nghĩ cuộc sống sẽ rất đẹp nếu Thiên Chúa không hiện hữu. Tiếp đó, một điều gì đã xảy ra, điều gì khác cho mỗi một người, làm cho họ nhận biết rằng họ cần có Thiên Chúa và Giáo Hội của Người biết bao. Bởi vì họ có hạt giống đức tin gieo bên trong họ, họ biết phải trở lại tìm kiếm Thiên Chúa ở đâu. Họ trở lại để nâng niu Giáo Hội với một sự nhiệt tình, cũng giống như những người mới gia nhập Giáo Hội vào ngày lễ Phục Sinh. Chúng ta chú ý đến những đứa trẻ. Nếu không có tia X quang, chúng ta vẫn có thể thấy sự đơn sơ và khiêm nhường của chúng. Chúng ta được nhắc nhở khi Chúa Giêsu cảnh cáo chúng ta: “Nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ thì các con sẽ không được vào Nước Thiên Chúa”. Trẻ em là một cuốn Phúc Âm sống động và chúng thì giống như những bông hoa đáng yêu trang trí cho Giáo Hội.
Thánh Phaolô đã suy niệm về sự hiệp nhất Đức Kitô với dân Người là Giáo Hội. Thánh nhân đã viết cho các tín hữu thành Corintho rằng: “Thân Mình của Đức Kitô thì có nhiều chi thể, tất cả những chi thể mặc dù chúng có nhiều nhưng chỉ là một Thân Thể, đó là Đức Kitô”. Bài học đầu tiên nói với chúng ta, dân chúng đã hạnh phúc biết bao khi họ tái khám phá cuốn sách Luật (ở đây có thể là Đệ nhị luật). Chúng ta sẽ hạnh phúc trong ngày của Chúa đã khám phá Thân Mình của Đức Kitô ở giữa chúng ta. Trong bài đọc của thánh Phaolô nơi Thánh Lễ ngày Chúa Nhật ngày hôm nay đã ứng nghiệm giữa chúng ta. Hãy nhìn chung quanh bạn. Hãy chiêm ngắm Thân mình của Đức Kitô. Vẻ đẹp thật của ngôi nhà thờ. Chân lý lớn lao này đã cho chúng ta một tiếng Amen sốt sắng.
55. Sứ mệnh được sai đi
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đến với trần gian. Ngài đã sống một cuộc đời của người được sai đi. Khoảng thời gian sống ẩn dật và những năm rao giảng Tin Mừng, Ngài luôn thực hiện trọn vẹn công việc của một ngôn sứ: “Rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó", sống chứng nhân tình yêu giữa đời.
Chúa Giêsu xuất hiện công khai giữa đời với những chuỗi ngày rao giảng không mệt mỏi. Khắp những nẻo đường xứ Galilê đều ghi dấu bước chân của Ngài. Danh tiếng Ngài được nhiều người biết đến với nhiều lời khen tặng. Chính nơi vùng đất Galilê này Ngài bắt đầu sứ mệnh với nhiều thành công. Nhiều người đã đón nhận và say sưa với sự hiện diện của Ngài. Giai đoạn này được gọi là Mùa Xuân của Galilê. Ngài đến như mang lại một luồng gió ấm áp từ nơi Thiên Chúa. Chưa có phe đối lập nào xuất hiện, lòng người đang còn khát khao lời hằng sống đem lại sự tươi mới cho cuộc đời. Bởi lẽ bản tính con người Galilê ưa chuộng những gì mới mẻ và thích đổi thay.
Hôm nay Chúa Giêsu vào hội đường như thói quen Người vẫn làm trong ngày Sabbat. Tại đây, trong bối cảnh trang nghiêm, Ngài chính thức công bố chương trình hoạt động của mình: Ngài được sai đi để loan báo Tin Mừng cho những người nghèo nàn, khốn khổ. Như thế, Ngài đến để thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia.
Tin mừng Chúa Giêsu được rao giảng cho hết mọi người nhưng đối với những người không khổ sở thiếu thốn thì Lời Chúa như đang nói với ai đó, chẳng liên can gì đến họ. Cho nên đối với họ đó chẳng phải là Tin Mừng gì cả. Nhưng đối với những người nghèo là những kẻ đang ở trong tình cảnh khổ sở, bị giam cầm, bị áp bức, bệnh tật.. họ đang mong thoát khỏi cảnh ấy. Với những người như thế, họ thật sự cần đến Chúa Giêsu. Do đó, những lời công bố của Chúa Giêsu mới thật sự là Tin Mừng cho họ.
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, mỗi người nhận lấy sứ mệnh là ngôn sứ của Chúa, là người được Thiên Chúa sai đi. Ngài sai ta làm tông đồ cho Ngài. Công việc tông đồ là gì? Chúa Giêsu đã cụ thể đó là loan Tin Mừng cho người nghèo khổ. Ngày nay có những hạng nghèo mà người tông đồ phải đến loan tin: nghèo vật chất, nghèo tình thương, nghèo ân sủng, nghèo đức tin.
Những người nghèo về vật chất: cuộc sống của họ thường vất vả, cơ cực. Ta có đủ tôn trọng và cư xử lễ độ với họ không? Ta có giúp đỡ họ hay tìm cách vận động để ngượi khác giúp đỡ không? Ta có những lời an ủi động viên để họ đừng vì cảnh nghèo mà phải xa Chúa không? Hãy đến cảm thông, chia sẻ và an ủi họ. Hãy cho họ biết rằng họ là những người Thiên Chúa đặc biệt yêu thương.
Những người nghèo tình thương: đó là những người cô đơn, không nhà cửa, những người đau bệnh ít người đến viếng thăm. Họ là những người bị bỏ rơi phải lang thang lề đường, phố chợ. Có thể họ là những người gần cạnh bên ta. Ta có đến thăm nom họ không? Ta có gieo chút bình an, chút tình thương nào không? Người được sai đi loan Tin Mừng phải cho người khác một hy vọng và tin tưởng rằng Thiên chúa vẫn đoái nhìn đến họ.
Những người nghèo ân sủng: đó là những người tội lỗi, bê trễ trong đời sống đạo. Ta có mạnh dạn nhắc nhở để họ trở về với tình thương của Chúa không?
Sau cùng, những người nghèo đức tin: hạng này rất đông. Những người này hiện nay gặp rất nhiều nơi sở làm, trong đám tiệc, xóm giềng...Đừng quên Chúa sai ta đến với họ để cũng rao giảng Tin Mừng cho họ. Nếu ta ngại ngùng không dám nói thẳng thì ít ra đời sống của ta phải tỏ ra mình là người tông đồ thật sự và luôn sống tốt với mọi người.
Sứ mệnh đến với người nghèo của Đức Giêsu luôn được tiếp tục trong Giáo hội và qua Giáo hội. Chúa Giêsu mong muốn là môn đệ Ngài tiếp tục sứ mạng ấy. Vì được nhận lãnh Tin mừng và hồng ân từ Thiên Chúa, ta cũng phải làm cho ơn ấy tiếp tục đến với nhiều người: gặp nhau trong niềm vui, nâng đỡ ai đau khổ, xoa dịu các oán hờn. Tình yêu Chúa sẽ đổ tràn cho những người biết rộng tay đón nhận và mạnh dạn dấn thân.
56. Lời tiên tri ứng nghiệm
Nhiều tu sĩ cao niên đến gặp thầy Antôn. Ở giữa là thầy Giuse. Muốn thử họ, thầy Antôn đưa ra cho họ một lời Thánh Kinh, và bắt đầu từ tu sĩ trẻ nhất, thầy hỏi ý nghĩa của lời ấy. Mỗi tu sĩ đều nói theo khả năng của mình. Nhưng với tu sĩ nào thì thầy Antôn cũng nói: “Anh chưa tìm ra ý nghĩa”.
Tu sĩ cuối cùng nói với thầy Giuse:
- “Còn thầy, thầy giải thích lời đó ra sao?”
Thầy Giuse đáp:
- “Tôi không biết”.
Lúc ấy thầy Antôn nói:
- “Đúng, thầy Giuse đã tìm được giải đáp, vì Thầy nói: tôi không biết”.
Trước lời giải đáp của những vị tu sĩ cao niên đã nhiều năm sống đời tu hành trong hoang địa, ngày đêm không ngừng suy niệm Lời Chúa, thầy Antôn vẫn nhất mực nói: “Anh chưa tìm ra ý nghĩa”. Nhưng với thầy Giuse người có uy tín nhất, người đã trả lời “tôi không biết”, thầy Antôn lại bảo: “Chính thầy Giuse đã tìm được giải đáp”.
Thưa anh chị em,
Phải chăng có một nghịch lý trong giai thoại trên đây?
Trước mầu nhiệm của Thiên Chúa, trí khôn con người làm sao có thể hiểu nổi và ngôn ngữ của con người làm sao có thể diễn tả được? Bởi vậy, cách giải thích Lời Chúa trung thực nhất là thú nhận rằng mình không giải thích nổi. Chỉ Thiên Chúa mới hiểu biết Lời Ngài và nói Lời Ngài cách thích đáng và xứng hợp. Hôm nay chúng ta được nghe chính Chúa Giêsu đọc lại lời tiên tri Isaia và giải thích cho chúng ta:
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết họ sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”. Đọc xong, Ngài ngồi xuống. Mọi người nhìn thẳng vào Ngài mà chờ đợi. Trong khung cảnh im lặng linh thiêng ấy, Chúa Giêsu bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe”.
Phải, Chúa Giêsu đã làm ứng nghiệm mọi lời tiên tri nói về Ngài từ hàng trăm năm trước. Đó là bằng chứng Đức Kitô là Đấng Thiên Chúa sai đến, Ngài thật là Con Thiên Chúa. Một bằng chứng khác nữa là những phép lạ Ngài làm đã có rất nhiều lời tiên tru trong Cựu ước tiên báo, trước khi Ngài sinh ra hàng trăm năm và đã ứng nghiệm từng chữ trong đời sống của Ngài.
Thật vậy, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện lời tiên tri tiên báo: Ngài công bố Tin Mừng cho người nghèo. Ngay lúc mới sinh ra, những mục đồng nghèo khó là những người đầu tiên được loan báo Tin Mừng. Sau nầy, khi các môn đệ của Gioan Tẩy Giả đến hỏi Ngài có phải Ngài là Đấng Cứu Thế không, Ngài đã bảo họ về kể lại cho ông Gioan biết những gì Ngài đã làm: người mù được thấy, người què được đi, người điếc được nghe, người câm nói được v.v… đúng như lời tiên tri Isaia tiên báo.
Hôm nay, trong hội đường ở Nagiarét, giữa đồng bào đồng hương của Ngài, Chúa Giêsu đã tuyên bố: Ngài đến để thực hiện những lời tiên tri Isaia mà họ vừa nghe Ngài đọc. Ngài có sứ mạng đem ơn cứu độ đến cho những người nghèo đói, bệnh tật, kẻ bị tù đầy, bị áp bức, qua lời giảng dạy và những phép lạ Ngài làm. Nói như thế có nghĩa là Chúa Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai đến công bố năm hồng ân cho những người nghèo khổ; Ngài quan tâm đến những khổ đau của những con người đau khổ; Ngài lấy việc giải thoát họ làm sứ mạng của mình, và ơn cứu độ, trước mắt Ngài, là tái lập trật tự trong xã hội con người và trong thế giới, nơi đó, công lý, yêu thương và hòa bình phải ngự trị.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã trao sứ mạng của Ngài cho Giáo Hội. Và Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Qua suốt chiều dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng của Chúa Kitô là đem Tin Mừng cho người nghèo khó. Chính Giáo Hội đã khai sinh ra các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, trại tế bần, nhà dưỡng lão… Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm ngày nay vẫn còn giá trị. Và hôm nay sứ mạng của Giáo Hội có lẽ còn khẩn trương hơn nữa, vì sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ ngày nay phải bao gồm cả những vấn đề hết sức quan trọng và cấp bách nhất, liên quan đến công lý, giải phóng, phát triển và hòa bình.
Mẹ Têrêsa Calcutta trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhất trong vùng ngoại ô. Mẹ đã bị sốt liệt giường. Trong cơ mê sảng, Mẹ bỗng thấy mình được đến trình diện trước mặt Thánh Phêrô, người giữ cửa Thiên đàng. Nhưng Thánh Phêrô chận lại không cho Mẹ Têrêsa vào Thiên đàng. Thánh Phêrô nói: “Không để cho một người ở khu ổ chuột được vào Thiên đàng: Thiên đàng không có nơi cùng khổ”.
Mẹ Têrêsa tức giận nói với Thánh Phêrô: “Thế ư? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho Thiên đàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, Ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào Thiên đàng”.
Tội nghiệp Thánh Phêrô. Kể từ sau giấc mơ đó, Mẹ Têrêsa và các nữ tu của Mẹ đã không để cho ngài được ở yên phút nào. Không biết bao nhiều người cùng khổ và cô dơn đã qua đời trong vòng tay ôm ấp của Mẹ và các nữ tu. Thiên đàng đã trở thành nơi cư trú của những người cùng khổ.
Ngày nay với gần 3000 nữ tu đang dấn thân với danh nghĩa là “thừa sai bác ái” trong 350 cơ sở xã hội, thuộc gần 100 quốc gia, những thừa sai bác ái ấy là những nhân chứng cho Chúa Kitô, cho sức mạnh của Tin Mừng, sức mạnh giải phóng những người nghèo khổ trên thế giới.
Nhắc lại thành quả của Mẹ Têrêsa, không nhằm làm chúng ta hãnh diện cho bằng thúc giục chúng ta, mỗi người trong phạm vi của mình, không được nản chí, đừng chê việc nhỏ, vì hành động của tình yêu không có gì là nhỏ, là không đáng kể. Còn biết bao người nghèo đói, khốn cùng chung quanh chúng ta. Đến bao giờ chúng ta mới có thể nói được như Chúa Giêsu: “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh chị em vừa nghe”. Mỗi người hãy tiếp nối công việc của Chúa Kitô chung quanh mình, bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người dốt nát, xoa dịu các oán hơn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng hoạt động của mình.
Nếu chúng ta trung thành thực thi nhiệm vụ của người môn đệ Chúa Kitô như trang Tin Mừng nêu lên, thì lời tiên tri Isaia hôm nay cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa hôm nay đã được công bố và nước Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta ngay từ bây giờ.
57. Giải thoát
Ta đang sống trong một thế giới mà dường như người ta đang rất đề cao sự tự do. Tự do đi lại, tự do ăn uống, tự do mua sắm... Dường như càng ngày con người càng không muốn lệ thuộc vào bất cứ thứ gì hay bất cứ ai. Họ chỉ muốn tự mình giải quyết tất cả những vấn đề của cuộc sống. Thế nhưng, trớ trêu thay khi càng tự mình đi tìm tự do theo ý mình bao nhiêu thì người ta lại càng tự trói buộc mình bấy nhiêu. Như vậy, tự mình chúng ta không thể giải thoát được mình. Chúng ta phải cần nhờ đến Thiên Chúa.
Các thầy tư tế và Lêvi sau khi đọc sách luật đã giải thích cho dân chúng nghe. Họ bảo dân chúng hãy vui lên và đừng buồn nữa vì Thiên Chúa là thành trì bảo vệ. Đây là điều ta thấy được trong bài đọc 1.
Con Chúa Giêsu trong bài Tin mừng sau khi đọc đoạn sách ngôn sứ: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa"Người đã tuyên bố: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe". Nghĩa là chính Chúa Giêsu đang đến và ngay hôm nay Người đang thực hiện những việc đó cho con người chúng ta.
Chắc chắn từ trước đến giờ và mãi mãi về sau không có ai dám tuyên bố như Chúa Giêsu hôm nay. Chỉ có Con Thiên Chúa mới dám khẳng định như vậy. Bởi lẽ, sứ mạng chính của Người khi đến trần gian là đem ơn cứu độ và ơn giải thoát cho muôn người.
Nhìn lại lịch sử cứu độ ta cũng sẽ thấy sau khi Tổ tông phạm tội, Thiên Chúa đã không vì thế mà bỏ rơi con người. Thiên Chúa tìm mọi cách để giải thoát họ. Thiên Chúa cứu gia đình ông Nôe khỏi lụt Đại hồng thuỷ. Thiên Chúa chọn Ông Abraham để thành lập dân riêng....Nổi bật nhất là qua Môsê, Thiên Chúa đã giải thoát dân Người khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Còn với Chúa Giêsu thì chỉ trong 3 năm mà Người đã giải thoát cho không biết bao nhiêu người bị đủ các thứ bệnh hoạn tật nguyền. Người đã giải thoát cho nhiều người từ bị đui mù, què quặt đến bị quỷ ám. Bên cạnh đó, Người còn giải thoát cho nhiều người bị xã hội và lề luật chèn ép như người phụ nữ tội lỗi, ông Dakêu người thu thuế, người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình...
Ngày nay, Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục giải thoát ta. Những Lời Chúa dạy trong Kinh Thánh, những chỉ dẫn của Giáo hội, các Bí tích... là những phương thế Thiên Chúa dùng để giải thoát ta. Quan trọng nhất là qua đó Thiên Chúa sẽ giải thoát ta khỏi tội lỗi và sự chết.
Như thế, chỉ có đặt niềm tin và phó thác nơi Thiên Chúa thì ta mới mong được thoát khỏi tội lỗi và sự chết.
58. Lời các bạn nghe đã thành tựu--McCarthy
Suy Niệm 1. CUỐN SÁCH
Khi dân Do Thái trở về quê hương sau nửa thế kỷ lưu đày ở Babylon, họ phải xây dựng lại quốc gia họ. Ét-ra đã kêu gọi dân chúng thánh hiến chính mình cho Thiên Chúa. Ông bắt đầu đọc cho họ nghe sách luật của Môsê. Từ thời kỳ đó, đời sống và tôn giáo của người Do Thái có nền tảng là sự tuân thủ chính xác Luật Môsê. Là những Kitô hữu, chúng ta cũng là một dân của “sách Thánh”, tuy nhiên trong trường hợp của chúng ta là sách Tin Mừng.
Có một câu chuyện về một dân tộc chưa bao giờ nghe nói về Tin Mừng. Một ngày kia, một người nước ngoài đến và loan báo: “Tôi đến và mang cho các bạn một Tin Mừng”. Khổ nỗi, ông ta bị mắc bệnh và chết trước khi ông có thể nói cho họ nghe Tin Mừng. Người ta tìm thấy một cuốn sách nhỏ trong ba-lô của ông. Nhan đề cuốn sách là: “Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”. Họ kết luận rằng đó là điều mà người nước ngoài muốn nói với họ. Họ bắt đầu đọc cuốn sách ấy.
Dù cuốn sách đã cũ, sứ điệp xem ra vẫn mới toanh. Nhân cách trung tâm hiện rõ ra với họ từ những trang sách mốc meo. Đó là một con người đầy sức sống, đã có được sự hiền lành và lòng thương xót cao cả. Họ đọc các tường thuật về những phép lạ. Người đã thực hiện cho những người bệnh và những người quẫn bách. Họ đọc thấy Người đã đi ra khỏi đường lối thông thường để liên kết với những người bị gạt bỏ. Lời Người tốt đẹp và có quyền bính gây một ấn tường sâu sắc trong lòng họ. Quả là một cuốn sách lạ lùng và lôi cuốn!
Tội nghiệp cho ông mang cuốn sách này đến đây và đã chết, có người nói: “Rõ ràng ông ta là một môn đệ của Đấng Kitô đó”.
“Nhưng ở xứ sở của ông ta, hẳn phải còn có nhiều môn đệ”, một người khác nói. “Chúng ta có nên sai một người đến đó để xem người dân sống giáo huấn mới này như thế nào hay không? Rồi người ấy sẽ trở về, tường thuật lại và có lẽ sau đó chính chúng ta có thể cố gắng sống giáo huấn ấy?”.
Họ chọn Francis, một thanh niên chính trực. Anh đã đi du hành khắp nơi và quan sát kỹ lưỡng. Anh sẵn sàng tìm gặp các thành phần tiêu biểu của quần chúng rộng rãi. Anh không vội vàng đưa ra kết luận và phán đoán. Sau cùng đến ngày mà anh cảm thấy đã quan sát đủ, anh liền trở về quê hương. Vừa mới về đến, đồng bào anh đã đặt ra cho anh những câu hỏi dồn dập:
“Những môn đệ của Sách Thánh có yêu thương nhau không?”
“Họ có sống hoà bình với nhau không?”
“Họ có sống một cách đơn sơ không?”
“Họ có hạnh phúc không?”
Nhưng mọi câu hỏi có thể tóm gọn trong câu hỏi này: “Các môn đệ của Đức Kitô có sống theo đúng Sách Thánh không?”.
Và đây là một bản báo cáo tóm tắt về những gì Francis nhận thấy, được anh trao cho đồng bào anh:
“Về cơ bản, tôi thấy có năm loại Kitô hữu. Trước hết, tôi nhận thấy một số người là Kitô hữu nhưng chỉ trên danh nghĩa. Dù rằng họ đã được rửa tội, họ không tuân giữ một điều gì trong đạo và cũng không cam kết điều gì.
“Thứ hai, tôi nhận thấy một số người là Kitô hữu chỉ bởi thói quen. Dù rằng họ công khai cam kết tuân giữ theo giáo huấn của Đức Kitô, nhưng điều đó không ảnh hưởng gì đến cách họ sống. Thậm chị, tôi còn thấy họ sống theo những nguyên tắc không liên quan gì đến những lời dạy trong Sách Thánh, mà trong nhiều trường hợp còn ngược lại với những lời dạy ấy.
“Thứ ba, tôi nhận thấy một số người rõ ràng là có lòng nhiệt thành với đức tin Kitô giáo. Họ dấn thân trong những công việc tốt lành. Nhưng dường như họ còn thiếu một yếu tố quan trọng. Họ dường như có ít hoặc chỉ có một bài phẩm chất mà Thầy họ yêu cầu.
“Thứ tư, tôi nhận thấy những người mà các bạn có thể gọi là các Kitô hữu hành đạo. Theo tôi những người này đã hiểu rõ tinh thần của Sách Thánh. Họ thật sự quan tâm đến người khác và không hổ thẹn là những Kitô hữu. Tôi thấy họ bị bách hại ở một số nơi. Ở những nơi khác, họ gặp phải tình cảnh có lẽ là tệ hại nhất: sự dửng dưng khủng khiếp của đồng bào họ.
“Sau cùng, tôi đã gặp một số người, phải thừa nhận là không nhiều, và tôi không ngần ngại gọi họ là những Kitô hữu đích thực. Họ là những người có đời sống tâm linh sâu xa. Khi gặp họ, tôi cảm thấy mình gặp được chính Đức Kitô”.
Câu chuyện không cho chúng ta biết dân tộc ấy có đón nhận Tin Mừng hay không. Ngày nay, nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho thế giới tuỳ thuộc vào chúng ta. Có là một đặc ân to lớn nhưng là một công việc làm nản chí. Cũng như Đức Giêsu, chúng ta được Chúa Thánh Thần ban ơn phù trợ. Cách tốt nhất để rao giảng Tin Mừng là sống một đời sống Kitô hữu đích thực. Cuốn sách duy nhất mà nhiều người sẽ đọc biết Tin Mừng chính là cuốn sách của đời sống chúng ta.
Suy Niệm 2. GIÁO HỘI LÀ NHIỆM THỂ ĐỨC KITÔ.
Ngày nay trong y học, có rất nhiều chuyên khoa đến nỗi thân thể con người được chia ra làm nhiều phần. Một số bác sĩ chuyên về tim, những bác sĩ khác chuyên về não bộ hoặc về mắt, về tai v.v… Sự chuyên môn hoá là điều tốt như có thể có một khía cạnh tiêu cực. Nhà chuyên môn có thể chỉ quan tâm đến các bộ phận của con người mà không quan tâm đến chính con người. Họ hiếm khi hiểu rõ con người có mắt, hoặc tai hoặc hông đang được điều trị.
Thân thể con người tạo nên một thể thống nhất dù nó bao gồm nhiều chi thể. Những chi thể này rất khác nhau và có những chức năng rất khác nhau: dĩ nhiên có một số chi thể quan trọng hơn những chi thể khác. Nhưng một thân thể đầy đủ cần có mọi chi thể và các chi thể cần lẫn nhau.
Giáo Hội cũng thế. Chúng ta dù nhiều nhưng cùng tạo thành một thân thể trong Đức Kitô (Bài đọc 2). Qua phép Rửa Tội, chúng ta đã trở thành những chi thể của Thân Thể Đức Kitô, tức là Hội Thánh. Một số người muốn sống một mình, không nhờ cậy vào ai, được độc lập với cộng đoàn. Nhưng không thể có một Kitô hữu cô lập như thế. Những người chủ tâm tách lìa mình ra sẽ làm tổn thương cộng đoàn. Chúng ta là một phần của người khác và phải cố gắng không để mình sống biệt lập.
Cộng đoàn có những yêu cầu đối với chúng ta. Vì lẽ đó, cám dỗ muốn sống một mình, không cần đến ai, muốn tìm kiếm sự cứu độ độc lập với những người khác là một cám dỗ mạnh mẽ. Nhưng điều đó không thể có được. Chúng ta cần cho nhau, giống như những phần của một thân thể cần lẫn nhau.
Và Giáo Hội cần đến mọi người chúng ta. Chúng ta cần có ý thức mình thuộc về nhau và thuộc về Đức Kitô. Chúng ta phải được bao gồm cả khi chúng ta chỉ muốn tốt hơn là lo cho chính mình.
Thuộc về một cộng đoàn có những lợi ích rõ ràng. Hãy lấy những cây sậy làm ví dụ. Từng cây một, chúng mềm yếu và bị bẻ gãy dễ dàng. Nhưng khi cột chúng lại với nhau thành bó, chúng thật sự không thể bẻ gẫy được. Điều đó cũng đúng với con người.
Sức mạnh to lớn là kết quả của sự hợp quần. Người ta có thêm lòng can đảm khi hiểu biết nhau, động viên nhau, và nương tựa nhau. Khi ta cùng nhau làm việc thì có thể làm được nhiều điều vĩ đại.
Tầm quan trọng của cộng đoàn được Đức Giêsu nhấn mạnh và Người dùng một hình ảnh khác để mô tả nó. Đó là hình ảnh cây nho và cành nho: “Thầy là cây nho, anh em là cành”.
Hình ảnh tuy đơn sơ nhưng đã minh hoạ sâu sắc tính hiệp nhất và lệ thuộc lẫn nhau.
Rõ ràng là cành nho cần có cây nho. Nhưng cây nho cũng cần có cành, bởi vì chính cành sinh ra quả.
Đức Giêsu muốn tương quan ấy tồn tại giữa Người và các môn đệ. Đó là cách mà Người muốn có ở giữa Người với chúng ta. Người là cây nho, chúng ta là cành. Vả lại, nếu nói theo ngôn ngữ của Phaolô: “Đức Giêsu là đầu của thân thể, chúng ta là những chi thể”. Nếu một người không có ý thức thuộc về cùng một cộng đoàn, chăm sóc và chịu trách nhiệm cho nhau, người ấy không thật sự là một Kitô hữu.
Hoa quả mà Đức Giêsu mong muốn nơi chúng ta, trước tiên là sự hiệp nhất ở giữa chúng ta. Bởi sự hiệp nhất ấy, mọi người sẽ biết rằng chúng ta thuộc về Đức Giêsu, nói cách khác là bởi sự liên kết có ở giữa chúng ta và sự chăm sóc mà chúng ta thực hiện cho nhau.
59. Trọn vẹn
"Người đến Nagiaret, nơi sinh trưởng..."
Một trong những điều bắt buộc với nhà truyền giáo là học tiếng nói của người bản xứ. Điều này không đơn giản là chỉ học để giao tiếp thông thường mà phải trao dồi càng chuẩn xác bao nhiêu càng tốt. Đến khi nào mà ngay chính người sở tại cũng không nhận ra được đây là một giọng nói của người nước ngoài nói tiếng nước mình mà như người bản xứ thật sự thì mới được coi là đạt yêu cầu. Thực tế điều này rất khó, đòi hỏi nhiểu tời gian và lòng kiên nhẫn. Tuy vậy, điều thú vị là khi am tường được ngôn ngữ của một dân tộc thì gần như thấu hiểu được trọn vẹn nền văn hóa của họ.
Ngược lại khi đến một xứ truyền giáo thì ít nhiều nhà truyền giáo cũng mang theo những nét văn hoá của xứ sở họ. Do đó, nếu biết khôn ngoan chắc lọc thì những xứ truyền giáo sẽ có nhiều cơ hội làm giàu thêm cho nền văn hoá vốn có của dân tộc mình. Được như vậy thật là điều đáng coi trọng.
Theo chân Đức Giêsu, hôm nay chúng ta trở về Nagiaret, nơi chôn nhau cắt rốn của Người, nơi đã in đầy những dấu chân của Người, cũng là nơi chứng kiến Ngài lớn lên trong suốt 30 năm ẩn dật. Từ ngày từ giã đất mẹ ra đi làm loan báo Tin Mừng cứu độ theo ý Cha đến nay, Đức Giêsu mới có dịp trở về thăm quê. Lần trở về quê này quả thật có nhiều điều để nói. Ngài trở về "trong quyền lực Thánh Thần" và trong cái "danh tiếng đang lan tràn khắp chung quanh". Có lẽ dân chúng đã chờ đợi ngày này lâu lắm rồi. Chờ đợi để được chiêm ngưỡng người con đã làm rạng danh xứ sở. Nhưng quan trọng hơn là chờ đợi để được nghe những "cung vàng thước ngọc" từ miệng Người thốt ra. Và họ đã được toại nguyện. Ngài vào hội đường. Vị cai quản hội đường không ngần ngại trao cho Ngài Thánh Kinh, và ưu ái dành cho Ngài công việc giảng giải Lời Chúa.
Quả thật, Đức Giêsu hôm nay không như một Giêsu, con một người thợ mộc ngày xưa. Giêsu hôm nay là Con Một Thiên Chúa đã được chứng nhận rõ ràng. Hàng thật đã được đóng ấn và xức dầu.
Ấy vậy mà trong mắt dân chúng Ngài vẫn rất thân quen, gần gũi, dễ thương như ngày nào. Ngài cao vời hơn chính tầng mây nhưng cũng thật đơn sơ và thân thuộctrong vị trí của những ngưòi bà con họ hàng, trong cái tình làng nghĩa xóm chân chất nhưng dạt dào nghĩa nhân. Là bởi đức Giêsu không phủ nhận cái nhân tính của mình. Ngài vẫn không từ chối quê hương máu thịt trần gian. Hơn thế, Ngài đã dùng chính cái thiên tính, và sức mạnh Thánh Thần để thánh hóa, truyền cho cái trần gian ấy một sức sống thiêng liêng, làm cho nó nên trọn vẹn theo ý Ngài.
Không biết vô tình hay hữu ý mà nhiều người vẫn còn ngộ nhận rằng theo đạo Công giáo là theo tà đạo, là chối bỏ truyền thống dân tộc, là bất hiếu. Tôi không phủ nhận có sự hiểu lầm hoặc là trong chính nội dung giáo lý, hoặc là trong cách ứng xử của những người có đạo. Đây thật sự là điều đáng tiếc. Nhưng phải nói ngay rằng, không bao giờ có sự mâu thuẫn đó. Bằng chứng là khi các nhà truyền giáo Tây phương sang Việt Nam thì chưa bao giờ các ngài cố gắng để xóa bỏ những truyền thống của dân Việt. Nếu có sự sai lầm là bởi các ngài đã hiểu không đúng và do đó đã áp dụng không phù hợp.
Ơn siêu nhiên không làm mất ơn tự nhiên. Nhưng thánh hoá con người, bổ túc cho những bất toàn của con người và tăng thêm sức mạnh để giúp chúng ta sống trọn vẹn và tốt đẹp hơn trong cuộc sống tự nhiên. Sự mất thăng bằng hay nói cách khác tại sao chúng ta không mở rộng được tâm hồn, không hoà nhập được với vũ trụ vạn vật và con người. Tại sao ta không giúp được gì cho người khác mà ngược lại còn cản trở họ tiến triển cũng do ta thiếu ơn Chúa mà ra. Tại sao ta khắc khoải, đau khổ, chán chường, thất vọng... bởi vì ta không nhận ra được những may lành mà Chúa đã ban. Với lòng tin, phó thác, và sự trợ giúp của Chúa ta dễ dàng vượt qua những trở ngại và hân hoan tiến bước.
Ước gì, ơn Chúa không trở nên hư mất mà còn làm cho chúng ta thêm triển nở trọn vẹn hồn xác.
60. Công bố năm hồng ân--‘Tin Mừng Chúa Nhật’
Sau khi Chúa Giêsu đã lãnh nhận lễ rửa của Gioan và vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ. Ngài ở lại Giuđê một thời gian rồi quay về Galilê. Nơi đây Ngài bắt đầu một chức vụ mà Luca để dành sáu đoạn trong Phúc Âm ông viết để nói đến. Ông kể ra ba đặc điểm của chức vụ này: được thi hành do quyền năng của Chúa Thánh Thần, danh tiếng Ngài được dồn rộng khắp xứ, cách giảng dạy có uy quyền giữa công chúng.
Nơi đâu tiên Ngài thăm viếng và giảng bài giảng đầu tiên là tại hội đường Nadaret không phải là một làng, nó được gọi là ‘Polis’ nghĩa một thành hay một thị trấn, và có thể có tới hai mươi ngàn dân. Nadaret tọa lạc trong một vùng đất của sườn đồi của Galilê gần cánh đồng Gitrien. Chỉ cần leo lên đỉnh đồi vượt cao trên mặt thành là có thể thấy toàn cảnh bao la hàng dặm chung quanh đó. Geoge Ađam Smith diễn ra phong cảnh từ đỉnh đó như sau: “Lịch sử của Israel mở ra trước mặt chúng ta: kia là cánh đồng Edroelon, nơi Đêbora và Barac đã chiến đấu, nơi Giêđêon đã thắng trận vẻ vang, nơi vua Saolê đã thảm bại, và chính nơi này Giosia đã bị giết trong chiến trận. Kia là vườn nho của Na-bốt, chỗ Giêhu giết Giêsaben, kìa nữa là đất Sunem, nơi tiên tri Êlia đã sống, kìa là núi Các-men, nơi tiên tri Êlia đã đánh trận oanh liệt với các tiên tri Ba-an, và xanh canh ở đàng xa là Địa Trung Hải và các đảo. Nhưng không phải chỉ có lịch sử Israel ở đó, mà lịch sử thế giới cũng mở ea từ trên đỉnh đồi Nagiarét. Có ba con đường lớn vây quanh Nagiarét. Có con đường từ phía nam đưa các khách hành hương lên Giêrusalem. Có con đường lớn dọc bờ biển để đưa những đoàn thường gia chở nặng hàng háo từ Ai-cập lên tới Đa-mát. Có con đường lớn đi về Phương Đông cho những đoàn doanh thương từ xứ Arabi tới, và cũng có những đoàn quân viễn chinh La-mã tiến về các biên giới miền Đông của đế quốc. Thật sai lầm nếu nghĩ rằng Chúa Giêsu lớn lên tại một nơi hẻo lánh. Ngài lớn lên trong một thành có tầm cỡ lịch sử và có các trục lộ giao thương của thế giới chạy qua ngay trước ngọ. Chính nơi đây Chúa Giêsu đã giảng bài quan trọng chứa đựng cả chương trình chức vụ của Ngài hay cũng có thể gọi được là bản tuyên ngôn về công tác cứu rỗi mà Ngài đến thực hiện.
Hôm ấy là ngày sabat. Các bà con bạn hữu và những người đồng hương của Chúa Giêsu đều hội họp đông đảo tại nơi thờ phượng chung là hội đường. Tất cả đều nóng lòng muốn được nghe một người mà họ quen biết nhiều, một người mới thình lình nổi tiếng. Có thể là Ngài yêu cầu hoặc là người phụ trách hội đường đưa cho Ngài cuộn da ghi lời Kinh Thánh của tiên tri Isaia để hướng dẫn giờ đọc Lời Chúa. Ngài mở nhằm chỗ nói về niềm vui của năm hồng ân, tác giả mô tả sự vui mừng của những kẻ trở về sau cuộc lưu đày từ Babylon. Chúa Giêsu đọc xong thì ngồi xuống như cách các giáo sư nhà hội thường làm. Tất cả đều chăm chú nhìn Ngài chờ đợi, Ngài lợi dụng dịp này để công bố lời tiên tri này được ứng nghiệm nơi chính Ngài, Ngài tuyên bố Ngài chính là Đấng Mêsia (Cứu Thế) đã được hứa. Lời tiên tri bắt đâu với câu “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi”, đem áp dụng cho Ngài, có nghĩa rằng ngài đã được xức dầu tấn phong, không phải bằng dầu thương như các tiên tri, thượng tế hay vua, nhưng bằng Thánh Thần để làm Đấng Được Xức Dầu hay Đấng Kitô của Thiên Chúa. Với tư cách ấy, Ngài sẽ giảng Tin Mừng cho người nghèo về thuộc thể cũng như thuộc linh. Ngài sẽ công bố sự giải póng hco những kẻ bị tù đày vì tội lỗi, và thiết lập những nguyên tắc rồi đây sẽ đem lại sự tự do cho nhân loại. Ngài sẽ giúp cho kẻ bị áp bức được tự do, nghĩa là cởi bỏ những hậu quả và sự độc ác của lòng ích kỷ và tội lỗi. Ngài sẽ rao truyền một thời đại ân điển cho tất cả. Như vậy với những lời mô tả về sự giải póng nô lệ và niềm vui của năm hồng ân, Chúa Giêsu đã diễn đạt tính chất ân điển và phước hạnh của chức vụ Ngài.
Chúng ta cần xem xét kỹ lưỡng hơn để thấy được dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Đức Giêsu đã vận dụng Kinh Thánh Cựu ước như thế nào cho sứ mệnh cứu thế của Ngài.
Khi Chúa Giêsu giảng dậy trong các nhà hội, thường vẫn có đọc Sách Thánh, như đây là cơ hội duy nhất chúng ta được biết Ngài chọn bản văn. Và những lời đầu tiên được Ngài công bố trong bản văn Thánh “Thần Khí Chúa ngự trên tôi.” Người có thể nhận thấy niềm hoan lạc tỏa ra từ giọng nói và nét mặt khi Ngài thốt ra Thần Khí Chúa, lời mà tiên tri Isaia đã ghi lại mà không nắm bắt hết nội dung, còn Ngài thấu hiểu trọn vẹn ý nghĩa. Khi công bố “Thần Khí Chúa”, Ngài muốn tôn vinh tác giả Thần Linh, Đấng đã linh hứng lời tiên tri và bây giờ đây hướng dẫn việc thực hiện. Âm thầm và mau mắn, Chúa muốn cho thấy chính Thần Khí Chúa là nguồn gốc sứ mệnh của Ngài và hướng dẫn mọi đường đi nước bước. Ngài dùng chính từ ngữ mà chính Thần Khí đã bảo nhà tiên tri.
Trước những người đồng hương Nagiarét, việc nêu rõ tên như thế này mang lại một tầm quan trọng hơn. Chúa Giêsu đang ở trong làng nơi đã nhiều năm sinh sống, ai cũng biết rõ gia đình Ngài: “Đây không phải là con ông Giuse sao?” Câu nói biểu lộ sự ngạc nhiên thấy con của một người thợ tầm thường lại có được khôn ngoan và quyền năng như thế. Nhưng cũng hé mở cho thấy niềm xác tín rằng một giá trị cao cả như thế không thể do nguồn gốc gia đình mang lại. Chúa Kitô lập tức phải đối đầu với nhóm thính giả gợi ra gia đình thần linh mà Ngài đang thuộc về. Chẳng phải gia đình nhân loại đem lại cho Ngài những danh hiệu cho công trình Ngài đang đảm nhiệm, nhưng là Thần Khí của Đức Chúa. Ít ra các thính giả hiểu rằng Ngài đang nại đến uy quyền thần linh, Ngài tuyên bố giáo ký và hành động của Ngài là do Thiên Chúa đặt định. Ngay lúc này họ chưa có thể nhẫn ra Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến một ngôi vị thần linh khác, vì cho đến lúc này họ chưa hề có được ý tưởng Thần Khí là một Ngôi vị Thiên Chúa. Nhưng ý tưởng này đã bao hàm trong lời nói của Chúa Cứu Thế.
May mắn hơn dân làng Nagiarét, chúng ta biết được nghĩa Chúa Giêsu áp dụng cho lời tiên tri. Chúa Giêsu áp dụng cho Ngôi vị thần linh khác là nguồn gốc và điều khiển sứ mệnh cứu thế của Ngài. Để sứ mệnh của Ngài được điều hành do Thiên Chúa, chỉ cần Ngôi Hai Thiên Chúa làm người hoàn thành cũng đủ, thế nhưng Chúa Giêsu dựa vào sự hiện diện của Đức Chúa trên Ngài. Ngài xác nhận vai trò chủ quản của Thần Khí, và hơn thế, ở phía sau vai trò nguyên thủy tối quan trọng của Chúa Cha, là nguồn gốc của tất cả; vì nếu từ “Thần Khí” hướng về Chúa Thánh Thần, thì từ “Đức Chúa” trong ý của Chúa Giêsu phải quy hướng đặc biệt về Ngôi Cha, và như thế tất cả gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa được gợi lên. Như thế là theo chương trình của Thiên Chúa, Đức Kitô hoạt động nhờ Chúa Thánh Thần là Thần của Chúa Cha, đang ngự trong Ngài.
Cần hiểu đúng ý nghĩa việc Thần Khí ngự trên Đức Giêsu. Lời sấm trong sách tiên tri Isaia cho thấy một sự hiện diện qua việc xức đầu và trao ban một sứ mệnh. Nếu Thần Khí của Đức Chúa ngự trên Ngài là vì Đức Chúa đã xức dầu cho Ngài. Xức dầu là dấu chỉ thánh hiến một người, biệt riêng ra để phục vụ Thiên Chúa và mặc lấy quyền năng do Chúa ban như xưa trong Cựu ước, quyền làm vua, làm tiên tri, làm tư tế.
Chúa Kitô quả quyết Ngài được xức dầu do Đức Chúa, từ Thiên Chúa Cha. Không phải dầu vật chất, nhưng là chính Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Chúa Giêsu được thánh hiến để phục vụ Chúa Cha, chính do Thánh Thần mà Ngài nhận được quyền năng. Danh hiệu Kitô của Chúa Giêsu là do Thánh Thần, vì danh hiệu này theo nguyên ngữ là “Đấng được xức dầu”. Vì thế mỗi khi nhắc tới danh hiệu Kitô là nêu ra việc Ngài được Chúa Thánh Thần thánh hiến.
Việc xức dầu là đề hoàn thành một sứ mạng. Khi đọc lời tiên tri, Đức Giêsu loan báo sứ mạng mà Thần Khí Chúa trao cho Ngài thi hành. Điều đáng lưu ý là Ngài cắt ngang ngay giữa câu. Lời sấm ghi: “Thần Khí của Đức Chúa là Chúa Thượng… Ngài sai tôi công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta.” (61,2), Chúa Giêsu ngừng lại sau “Năm hồng ân” và bỏ qua loan báo “ngày báo phục”. Ngài không đến để loan báo ngày báo phục của Thiên Chúa, nhưng để công bố năm hồng ân. Như thế chữ cuối cùng “Năm hồng ân” diễn tả phúc lộc của Thiên Chúa phù hợp với chữ đầu tiên “Thần Khí Chúa”. Thần Khí Chúa làm cho sứ điệp và công việc của Chúa Giêsu thành dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa. Khi bỏ đi phần báo phục, Chúa Kitô muốn chứng tỏ rằng Chúa Thánh Thần chỉ thông chuyển tình yêu qua Ngài. Có thể coi Chúa Thánh Thần như là hồn của sứ mệnh Đức Giêsu. Chính Chúa Cha giao nhiệm vụ cho Chúa Con, khi thi hành sứ mệnh này, Chúa Thánh Thần đã tác động cho Chúa Con, chính Ngài qua Chúa con “loan báo Tin Mừng cho người nghèo khổ.” Khi Chúa Giêsu hăng say rao giảng cho quần chúng, chính Thánh Thần linh động lời Ngài và thấu vào tâm trí người nghe. Chính Chúa Giêsu cũng không đưa ra dấu hiệu nào khác minh chứng cho sứ mệnh của Ngài bằng nại đến ban phát tình thương. Khi Gioan Tẩy giả nóng lòng chờ đợi thiết lập vương quốc thiên sai, từ trong ngục tù sai người hỏi Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải chờ đợi đấng nào khác?” Chúa Giêsu trả lời bằng cách nhắc cho vị Tiền Hô lưu ý tới thể hiện tinh thần yêu thương, Thần Khí đã giáng xuống dưới hình chim bồ câu để làm cho dung nhan Đấng Cứu Thế có diện mạo Con Chiên lành. Đừng chờ đợi nơi Đấng Cứu Thế một quyền năng nào khác ngoài tình yêu được ban phát giờ đây. Để nhắc lại Thần Khí Chúa ngự trên Ngài, Chúa Giêsu trích dẫn chính lời tiên tri Isaia, và kể lại cho Gioan điều mắt thấy tai nghe: “Mù được thấy, què được đi, phong cùi được khỏi, điếc được nghe, kẻ chết sống lại và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo.” (Mt 11,4,6)
Chúng ta đã được tháp nhập vào Đức Kitô với Bí tích Rửa tội. Không gì thích hợp hơn để chúng ta áp dụng trong thực tế lời kinh Năm Thánh 2000: “Lạy Cha, xin cho chúng con trong Năm Toàn Xá, biết vâng nghe tiếng Chúa Thánh Thần, biết trung thành theo Đức Kitô, biết chuyên cần lắng nghe lời Chúa, và năng đến với nguồn mạch ân sủng.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh,
Chỉ có Chúa là Thiên Chúa và là Đấng Tối Cao,
Chúng con xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời.
Lạy Cha, xin dùng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, làm cho Hội Thánh thêm nhiệt tâm loan báo Tin Mừng, cách thích hợp trong thời đại mới. Xin dẫn bước chúng con trên khắp nẻo đường trần gian, để rao giảng Đức Kitô bằng tất cả đời sống, và hướng cuộc lữ hành dương thế của chúng con, tiến về thành đô ánh sáng trên trời. Xin cho các môn đệ Đức Kitô được tỏa sáng nhờ biết yêu thương những kẻ nghèo hèn và những người bị áp bức. Xin cho họ biết liên đới với những kẻ khốn cùng và quảng đại sống bác ái yêu thương. Xin cho họ biết khoan dung với mọi người hầu chính họ cũng được hưởng lòng Cha tha thứ khoan dung…”
61. Hôm nay
Câu kết của bài hát "Bài ca cây lúa" được hát như thế này "Ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay". Trong ca dao, tục ngữ Việt Nam chúng ta cũng bắt gặp nhiều tư tưởng đề cao giá trị của thời phút hiện tại, cái "hôm nay" của cuộc sống. Đặc biệt trong các sách Tin Mừng Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần dùng "thì hiện tại" trong các cuộc đối thoại của Ngài "hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe", "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ", "Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất... "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng."... Thế giá trị của cái hôm nay quan trọng như thế nào cho ơn cứu độ của chúng ta?
Hôm qua là lịch sử, ngày mai thì bí ẩn chỉ có hôm nay là quà tặng, quà tặng của cuộc sống. Cuộc sống người Kitô hữu của chúng ta cũng thế, Chúa vẫn hằng đến với chúng ta hằng ngày và đặc biệt trong ngày hôm nay của cuộc sống. Trong bài Phúc Âm Luca chúng ta được nghe hôm nay, sau khi Chúa Giêsu đọc đoạn sách Tiên Tri Isaia thì Ngài nói "Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà quý vị vừa nghe". Ứng nghiệm là ứng nghiệm cái gì? Thưa là ứng nghiệm lời tiên tri Isaia loan báo ngay chính lúc này, chính ngày hôm nay. Chúa Giêsu nhận mình là người mà Tiên Tri Isaia loan báo, là người được xức dầu, để loan báo Tin Mừng cho người nghèo hèn, công bố cho người bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Đối với Thiên Chúa không có quá khứ cũng chẳng có tương lai mọi sự đối với Chúa chỉ toàn là hiện tại. Qua mỗi trang Tin Mừng ta dễ dàng thấy nếu ai biết nhận ra Chúa đến với họ và họ biết nhanh chóng đón Chúa thì họ như được tất cả do Thiên Chúa ban cho, còn ai ngập ngừng lần lựa thì Chúa kể như "đồ ngốc" và như họ bị vuột mất mọi thứ.
Đơn cử như trường hợp Dakêu, ông nghe biết Chúa Giêsu tiến vào thành Ghêrikhô thì ông đã phải vượt qua những rào cản hữu hình cũng như vô hình, từ những khiếm khuyết thể lý cho đến những khiếm khuyết luân lý. Ông vượt qua tất cả. Chúa Giêsu thấy sự nỗ lực của ông và Chúa đã đáp lại hơn cả sự mong đợi của ông. Chúa còn ban ơn cứu độ cho gia đình ông"Hôm nay nhà này. được ơn cứu độ...".Về phía Dakêu sau khi đón nhận Chúa vào nhà mình, ông đã biến đổi: từ một con người coi tiền tài danh vọng là tất cả mọi sự thì nay ông nhận ra Chúa và ơn cứu rỗi của Người là cùng đích đời ông nên ông nói "Này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi cưỡng đoạt của ai cái gì, thì tôi xin đền gấp bốn". Rõ ràng khi Dakêu thấy Chúa Giêsu thì ông không chần chừ, lần lựa mà ông đón Chúa và nhà mình và ông nhận được ơn cứu rỗi.
Người giàu có trong dụ ngôn của Chúa Giêsu thì ngược lại. Sau khi thấy mình có đầy dư gạo thóc, ông định phá bỏ những kho lẫm cũ để xây dựng những kho lẫm mới lớn hơn và ông cho rằng lúc đó mình sẽ an tâm cho số phận của mình. Chúa bảo "Đồ ngốc vì đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi". Người nhà giàu này chần chừ lần lựa, tự lo cho chính mình, đợi kế hoạch của mình hoàn thành đã thì mới tính tiếp. Chúa không coi đó là cách thức khôn ngoan vì đối với Chúa mọi sự phải là hiện tại.
Trở lại bài đọc I, Tiên Tri Nơkhemia và tư tế Et-ra sau khi giảng giải lề luật cho dân chúng thì các ông nói "Hôm nay là ngày thánh hiến cho Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, anh em đừng sầu thương khóc lóc..."và chính ngày hôm nay là ngày hồng phúc Thiên Chúa dành cho chúng ta, ngày Thiên Chúa mang Tin Mừng đến cho những người nghèo hèn.... ngày Thiên Chúa thi ân giáng phúc.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy sống "ngày hôm nay" như là hồng ân của Chúa, Chúa đến với ta từng giây, từng phút trong cuộc đời, ta phải nhận ra Chúa qua từng biến cố, từng cảnh sống. Chính Chúa Giêsu cũng đã chấp nhận cuộc sống trần thế và Ngài đón nhận nó như là ân ban và Ngài đã thánh hoá đem lại ơn cứu độ cho những ai biết thánh hoá từng ngày sống của mình.
62. Thánh Thần Chúa ngự trên tôi--Lm. Paul-Maurice Lâm Thái Sơn
"Thánh Thần Chúa ngự trên tôi... sai tôi đi rao giảng Tin Mừng"
Thông thường chúng ta nghĩ rằng Chúa Giêsu chỉ đi giảng dạy trên khắp bờ cõi xứ Giuđêa, mà quên rằng Ngài vẫn hành đạo như mọi người Do Thái thời đó, và theo thói quen, thì ngày nghỉ lễ, Ngài vào Hội Đường. Hôm đó Ngài được mời đọc sách, vừa mở ra Ngài gặp đoạn chép rằng: “ Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó..." Sứ mệnh của Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế là: rao giảng Tin Mừng để làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Là những người tin theo Ngài, sứ mệnh của chúng ta, qua lời nói và hành động, cần phải phản ảnh Tình thương Thiên Chúa đến biến đổi tất cả, như Chúa Giêsu đã đến để thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức...
Khi đề cập đến Tình Yêu, hẳn nhiên chúng ta không thể nào không biết đến nhiều phong trào hiện đại với chủ đề "yêu cuồng sống vội" hoặc những trào lưu tư tưởng chủ trương tự do luyến ái... do đó những từ ngữ "yêu-thương" được quá thông dụng đến độ không còn mang ý nghĩa đặc thù, và đôi khi giá trị của những chữ đó cũng bị giảm sút.
Và lúc còn nhỏ, khi được dạy bảo phải thương yêu nhau, qua những câu ca dao: anh em như thể tay chân... thương người như thể thương thân... bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy không cùng giống nhưng chung một giàn v.v... chúng ta nghĩ rằng thương yêu là ngoan ngoãn, vâng lời, không làm buồn lòng người trong gia đình hay bạn bè. Nhưng khi lớn khôn, ta lại hiểu thêm tình yêu không chỉ giới hạn một cách tiêu cực ở mức không làm hại kẻ khác, và nếu chúng ta là chứng tá của Đức Kitô thì mức độ Yêu Thương cần phải vượt xa hơn nữa. Yêu Thương là cổ động bênh vực lẽ phải chống lại những gì làm nguy hại đến đời sống con người, là đứng về phía bảo vệ quyền lợi những người bị bất công áp bức hoặc bị ruồng bỏ, là dấn thân đấu tranh cho công ích để mọi người đều có phần trong miếng cơm manh áo, được hưởng hạnh phúc trong công lý và bình đẳng. Đó chính là điều mà Chúa Giêsu nắm rõ từ lúc bắt đầu đi rao giảng Tin Mừng.
Cựu Ước, đối với Đức Kitô, là Lời của Thiên Chúa tác động trên "Đấng được xức dầu" sẽ phải đến (còn được gọi là: "Đấng thiên sai"), và gợi ra hai đường hướng có vẻ khác nhau: trong nhiều trường hợp, đấng thiên sai được coi như một tướng lãnh hùng mạnh dẫn đưa dân Ít-diên làm bá chủ thế giới và áp đặt lề luật Thiên Chúa ở khắp nơi. Nhiều nhà chú giải còn thêm rằng vị thiên sai đó sẽ xét đoán, lên án và tiêu diệt những ai không chấp nhận lề luật này. Ngược lại trong những đoạn khác, vị thiên sai được xem như là người của Thiên Chúa đến để liên kết Dân của Ngài trong một giao ước tình yêu và tha thứ, vì Thiên Chúa là Đấng ban tặng tình thương và ân sủng, ban phát một cách nhưng không, Ngài không áp đặt và hoàn toàn tôn trọng sự tự do của những ai ngỏ lời cùng Ngài. Vậy thì tràn đầy Thánh Thần, "đấng được xức dầu" (Đấng Thiên Sai) sẽ không đè bẹp ngọn lau bị dập nát, Ngài không dập tắt ngọn đèn lu mờ, nhưng sẽ nâng đỡ những người nghèo khổ, goá bụa và mồ côi, Ngài sẽ mang ánh sáng, sự giải thoát và hoà bình đến cho những ai tiếp nhận Ngài.
"Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe". Qua đoạn cuối Phúc Âm của Chúa Nhật này, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã quyết định, Ngài tuyên bố: Ngài là Đấng được xức dầu và được sai đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chứ không phải là một tướng lãnh hùng mạnh. Và cách thức loan báo Tình Yêu Thiên Chúa không chỉ là vấn đề ngoan ngoãn lịch thiệp, nhưng là những hành động dũng cảm ưu đãi những kẻ bất hạnh, tội lỗi, bị đàn áp dưới đủ mọi hình thức. Như thế mới thật là Tin Mừng.
Riêng chúng ta, thế nào là thực hiện Tin Mừng cho những người khác? Cách thức nào chúng ta nối tiếp công việc rao giảng của Đức Kitô? Nếu viện lý không va chạm với ai để an tâm và an phận trong cuộc sống thì rất dễ, như vậy thì đời sống của chúng ta có phải là Tin Mừng cho trần gian này hay không? Sống đạo và hành đạo không chỉ là tham dự Thánh Lễ ngày Chúa Nhật hoặc các Lễ trọng trong năm, mà còn phải thực thi Yêu-Thương bằng hành động. Điển hình nhất (ví dụ): sẵn sàng đóng góp vào quỹ cứu trợ đồng bào bị nạn lụt, tùy theo khả năng... quyết tâm không làm tổn thương đến thanh danh của người khác, nhất là sống trong một Cộng Đoàn... gia nhập các Hội từ thiện hoặc các đoàn thể chống kỳ thị, chống vi phạm nhân quyền v.v... tuỳ mỗi người tự tìm những phương thức thực hiện Tình Yêu tha nhân, để cuộc sống của chúng ta trở nên ánh sáng và niềm vui cho kẻ khác.
Ước gì câu "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó" được áp dụng cho cuộc sống hôm nay và từng ngày của chúng ta.
63. Chúa Giêsu và chỗ đứng của người nghèo hèn--Lm Phan Kế Sự
“Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho: kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe."
Kinh sư Esdra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, khi nhắc lại những ân huệ mà Giavê Thiên Chúa dành riêng cho dân tộc Israel, đã làm cho nhiều người cảm động đến rơi lệ. Qủa vậy, tình yêu của Giavê Thiên Chúa luôn đồng hành và cứu giúp dân chúng trong mọi hòan cảnh, đặc biệt trong những ngày khốn khổ và cùng cực của những ngày là nô lệ dân ngọai. Thiên Chúa đã không bỏ rơi, nhưng trái lại, Ngài hằng thương xót và bảo vệ dân riêng của Ngài, dẫu họ có phản bội và nhiều lần chối bỏ Ngài mà thờ cúng bụt thần của dân ngọai. “Ông Ét-ra còn nói với dân chúng rằng: "Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của ĐỨC CHÚA là thành trì bảo vệ anh em."
Khi trở về quê hương của Mình, Chúa Giêsu mặc khải sứ mạng Mình cho chính những người bà con thân yêu của Mình, như là một lời giới thiệu về những việc Mình đã và đang làm cho mọi người. Sứ mạng đó đã được các tiên tri tiên báo, và Ngài chính là Người đến để hòan tất. Ngài cũng chính là đầu của thân thể mầu nhiệm, mà mọi chi thể đều phải lệ thuộc và hướng về. Ngài muốn mọi người đều được cứu rỗi và khỏe mạnh, bởi với Ngài, mọi người đều được Thiên Chúa quan tâm,yêu thương và chăm sóc. “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận.”
Mỗi người chúng ta là một chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa, đặc biệt là những người nghèo. Ngay từ những bài giảng đầu tiên, cho đến những phép lạ, Chúa Giêsu luôn quan tâm đến những ai không có chỗ tựa nương, không có chỗ trông nhờ,không có ai giúp đỡ. Sự xuất hiện của Ngài ở đâu,bất cứ lúc nào, cũng đều là tâm điểm lôi cuốn tất cả mọi người.Ngài đã đồng hành với mọi người bằng những tiêu chí: cùng ăn, cùng ở và cùng sống với những người đói khổ, khó nghèo cả tinh thần lẫn vật chất. Ngài không sống riêng cho mình, nhưng trái lại bị quấy rầy suốt ngày, thậm chí không còn giờ để ăn uống, gia đình cũng tưởng “Ngài đã mất trí”.
Năm đức tin, năm mà Giáo Hội muốn tất cả chúng ta trở về nguồn, vừa để học hỏi và đào sâu những Lời Chúa dạy; và cũng để soi dọi lại cách sống của mình có còn thích hợp với những gì Chúa dạy và những gì Chúa muốn cho xứng với bậc mình. Thường chúng ta vẫn tự mãn về cái gốc gác của mình: nào là 50 năm đạo gốc, nào là những chức vụ mình đang mang trên thân mình, nào là những thành tích rỗng tuếch bằng những con số thống kê ảo, nào là những công trình hòanh tráng đã thực hiện cho Giáo Hội.
- Liệu những khoe khoang, khoác lác đó có thực sự thích hợp với cái nhìn và cách sống của Chúa.
- Liệu những con số thống kê có thực sự nói lên những nỗ lực của chính mình hay cũng chỉ là những nhận vơ, cho những khó nhọc và đóng góp của những đồng trinh nhỏ của những bà góa nghèo hằng ngày kiếm được bằng cả cuộc sống cơ cực.
- Liệu cách sống giầu sang khoe mẽ, những thói quen tiêu xài phung phí, những thái độ chơi ngông có thực sự thích hợp với lời giảng dạy như chính Chúa đã sống.
- Liệu những hành động tiêu cực hoặc cách đối xử với anh em mình bằng những thái độ “lọai trừ” có thực sự xứng đáng là những ngừơi đem Chúa Kitô đến cho người khác, hay chỉ là những lời phản chứng đang ngày đêm âm thầm phá họai Giáo Hội.
Lời cầu nguyện:
Lạy Thánh Thần Chúa, xin hãy đến trên tất cả chúng con.Xin hãy làm cho tất cả chúng con trở thành những nhân chứng thực sự của tình thương Chúa giữa trần thế, để trong mọi hòan cảnh, chúng con là những hiện thân đích thực của Chúa.
Xin hãy thanh luyện và thanh lọc khỏi chúng con những gì là giả dối,giả hình và thiếu sót để mỗi người chúng con xứng đáng là những chi thể lành mạnh và có ích trong thân thể mầu nhiệm của Chúa.
Lạy Chúa xin hãy thánh hóa chúng con. Amen.
64. Hợp nhất
Nhìn vào xã hội, chúng ta nhận thấy con người thời nay đang bị giằng co, đang bị lôi kéo bởi hai ước muốn, đều tích cực, đều hợp lý như nhau nhưng chưa bao giờ được dung hòa một cách tốt đẹp.
Thực vậy, từ thẳm sâu cõi lòng, chúng ta đều mong muốn người khác biết đến những tư tưởng, những tài năng của mình, đòi hỏi họ phải tôn trọng và giúp đỡ để chúng ta phát triển được toàn diện con người. Khuynh hướng này có tính cách cá nhân.
Đằng khác, con người lại ước muốn hợp nhất, để xã hội này trở thành một cộng đồng hợp nhất và thương yêu, trong đó, con người không còn phải trải qua những sự trống vắng và cô đơn. Ước mơ này ngày càng trở nên mãnh liệt trong một thế giới bị phân hóa trầm trọng. Đây là một khuynh hướng có tính cách cộng đồng.
Hai ước mơ trên đây càng mãnh liệt bao nhiêu thì lại càng va chạm dữ dội bấy nhiêu, và cho đến nay chưa ai có thể dung hòa được một cách tốt đẹp.
Riêng với những người Công giáo, những người có đức tin, thì sự dung hòa ấy khả dĩ có thể tìm thấy được nơi Đức Kitô và lời Ngài phán dạy. Thực vậy, qua bài đọc thứ nhất, tiên tri Giêrêmia đã mô tả cái quang cảnh hùng vĩ: Dân Chúa tụ tập để lắng nghe lời Ngài. Esdras đọc và chú giải lời Chúa, còn dân Chúa thì vui mừng đến rơi lệ bởi vì Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài. Cảnh tượng trên đây đã được chính Đức Kitô thực hiện trong Tân ước. Đúng thế, Ngài đến để thực hiện sự hiệp nhất giữa muôn người. Ngài đến để thực hiện những lời hứa đã được tiên báo. Ngài đến để phá vỡ những bức tường ngăn cách, như nghèo đói, bệnh tật và dốt nát. Công cuộc hợp nhất này, cho đến ngày hôm nay, vẫn không ngừng được thực hiện dưới tác động của Chúa Thánh Thần…
Thực vậy, Chúa Thánh Thần luôn thúc đẩy chúng ta tìm về gặp gỡ để tạo thành một thân thể, tuy một mà nhiều, tuy duy nhất mà lại đa diện, trong muôn ngàn sắc thái của ơn Chúa. Nếu suy nghĩ chúng ta cũng sẽ nhận thấy nhân loại tự bản tính vốn đa diện: Có Do Thái, có Hy lạp, có nam có nữ, có trắng có đen, nhưng nhờ bí tích Rửa tội, con người đã gặp gỡ, đã hiệp nhất và trở nên một.
Vì thế sự hiệp nhất không phải chỉ là kết quả của những cố gắng giữa người với người, mà hơn thế nữa còn là một ơn Thiên Chúa trao ban. Bởi vì, nếu chỉ cậy dựa vào sức người, chắc chắn chúng ta sẽ thất bại, hay nếu có đạt được thì đó chỉ là một sự hiệp nhất dổm, một sự hiệp nhất giả hiệu mà thôi.
Sự hiệp nhất đích thực chỉ được tìm thấy trong việc lắng nghe và thực thi lời Chúa. Nó là kết quả của một công trình lâu dài, của một nỗ lực không ngừng để tẩy rửa, để tinh luyện tư tưởng dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần.
Tuy nhiên, hiệp nhất không có nghĩa là phải dẹp bỏ, phải bóp chết các tài năng, các ơn thánh cá nhân. Vườn hoa chỉ đẹp, khi mỗi cánh hoa đều phô diễn trọn vẹn cái sắc thắm của mình. Cũng thế, tất cả các ơn Chúa ban, đều phải được xử dụng để làm vinh danh Chúa và góp phần đem lại lợi ích chung.
Thế nhưng trở ngại vẫn còn đó, nào ích kỷ, nào tự ái, nào kiêu căng. Con đường tiến về hiệp nhất vẫn còn nhiều chông gai và sỏi đá, tuy nhiên, chúng ta chắc chắn sẽ đạt tới đích, nếu như chúng ta luôn trung thành với lời Chúa và với Kinh Thánh.
Ước chi hôm nay chúng ta bắt đầu sống sự trung thành ấy trong chính cuộc sống của mình, bằng cách chấp nhận người khác, để cộng đồng nhân loại sẽ là một vườn hoa đủ màu đủ sắc của Thiên Chúa.
65. Phải nghe bằng ba lỗ tai
Vào thời Chúa Giêsu, tại Israel có hai nơi dành cho việc phụng tự, là Đền thờ và Hội đường. Đền thờ thì chỉ có một, tức là Đền thờ tại Giêrusalem, nhưng có tới hàng trăm hội đường, hầu như mỗi làng đều có một cái. Đền thờ là nơi dân Do thái dâng hy lễ cho Chúa, chẳng hạn chiên, cừu, bồ câu… Còn hội đường là nơi dành cho việc giảng huấn, nơi dân chúng lắng nghe Lời Chúa và cố gắng áp dụng lời ấy vào cuộc sống của họ. Như chúng ta thấy, nghi thức phụng tự trong hội đường và trong Đền thờ tương ứng với nghi thức phụng tự trong thánh lễ của chúng ta. Nửa phần đầu của thánh lễ tương ứng với nghi thức trong hội đường được gọi là phần phụng vụ Lời Chúa, bao gồm việc nghe đọc các bài Kinh Thánh và áp dụng chúng vào cuộc sống giống như Chúa Giêsu đã chỉ dẫn cho dân Nagiarét trong Phúc Âm hôm nay. Nửa phần sau của thánh lễ tương ứng với nghi thức phụng tự trong đền thờ, được gọi là phụng vụ Thánh Thể, liên quan đến việc dâng hy lễ, giống như Chúa Giêsu đã thực hiện trong bữa Tiệc ly: “Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: "Chén này là giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,20)
Giờ đây chúng ta hãy xét một cách sâu sát hơn phần đầu của thánh lễ, tức phần phụng vụ Lời Chúa. Trong phần này nhiệm vụ chính của chúng ta là lắng nghe Kinh Thánh. Vấn đề then chốt ở đây là ‘lắng nghe’. Cách đây nhiều năm có một vở kịch ở Broadway tựa là ‘Hoàng gia đi săn mặt trời’ (The Royal Hunt of the Sun). Vở kịch kể lại cuộc chinh phục dân da đỏ ở Pêru của người Tây Ban Nha vào thế kỷ 16, trong đó có một màn kể lại câu chuyện một người nọ biếu cho tù trưởng bộ lạc da đỏ một cuốn Kinh Thánh và bảo ông ta: “Đây là Lời Chúa, Ngài nói với chúng ta qua cuốn sách này”. Viên tù trưởng nghiêm trang cầm cuốn Kinh Thánh lên, xem xét kỹ lưỡng và dịu dàng đặt nó vào lỗ tai. Ông cố gắng nghe đi nghe lại nhưng chẳng nghe được gì hết. Thế là ông ta nghĩ rằng mình bị phỉnh gạt, nên giận dữ dằn mạnh cuốn sách xuống đất. Màn bi kịch trên khiến chúng ta tự nhủ: “Vậy thì chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa thế nào đây?” Chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng cả ba cách thức: bằng lỗ tai của tâm trí, bằng lỗ tai của trái tim và bằng lỗ tai của linh hồn.
Trước hết, thế nào là nghe bằng lỗ tai tâm trí?
Đó là cố gắng tìm hiểu Lời Chúa, và hơn nữa, làm cho lời ấy sống động y như chúng ta đang nghe chính Chúa nói. Chẳng hạn, thánh Ignatiô Loyola thường nghe Lời Chúa theo kiểu này bằng cách nhắm mắt lại và tưởng tượng mình đang có mặt trong hội đường Do thái để nghe Chúa Giêsu nói. Thánh nhân tưởng tượng ra niềm xúc động khiến giọng nói của Chúa Giêsu nghẹn ngào khi Chúa đọc đến câu: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”, và thánh nhân còn tưởng tượng ra nỗi phấn kích như điện giật lan truyền nơi cộng đoàn tham dự khi Chúa Giêsu tuyên bố “Hôm nay, lời Kinh Thánh trên đã được ứng nghiệm khi anh chị em nghe đọc nó”. Như thế, nghe bằng tâm trí tức là không những chỉ hiểu Lời Chúa, mà còn làm cho Lời ấy trở nên sống động như thể nghe từ miệng Chúa nói ra.
Cách thứ hai là lắng nghe Lời Chúa bằng lỗ tai trái tim, nghĩa là ghi tạc Lời Chúa vào trái tim và cố gắng tìm cách áp dụng lời ấy vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống chúng ta. Cách đây nhiều năm, Charlie Pitts là chủ nhân một công ty xây dựng chuyên xây đường điện ngầm ở Toronto, Canada. Công việc làm ăn của ông càng khuếch trương bao nhiêu thì đời sống cá nhân và gia đình ông càng khốn đốn bấy nhiêu. Ngày nọ, vì thấy tình thế tồi tệ quá, Charlie phải cầu cứu tới việc đọc Kinh Thánh. Tình cờ trong lúc đọc Kinh Thánh, một câu nói đập mạnh vào mắt ông: “Nào người ta được ích gì khi được lời lãi tất cả thế gian, mà lại mất hay thiệt chính mình?” (Lc 9,25). Những lời này như nói trực tiếp với Charlie, như hàm ý bảo ông: “Này Charlie, chính điều ấy đang xảy đến cho ông đó!”. Như thế, nghe bằng trái tim tức là ghi khắc Lời Chúa vào trái tim và xét xem có thể áp dụng lời ấy vào hoàn cảnh cụ thể của chúng ta như thế nào.
Và cách thức lắng nghe Lời Chúa sau cùng là lắng nghe bằng lỗ tai của linh hồn, nghĩa là ngoài việc ghi khắc Lời Chúa vào trái tim, chúng ta còn chuyện vãn với Ngài về lời ấy, đồng thời làm những gì mà Charlie Pitts đã làm. Chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta thực hiện những bước cần thiết để làm cho cuộc sống chúng ta phù hợp với Lời Ngài. Chẳng hạn, sau khi Charlie Pitts cầu nguyện về tình trạng sống của ông và bàn luận với vợ xong, ông liền bán toàn bộ công ty của ông trước khi nó huỷ diệt đời sống của ông. Tiếp đó, Charlie bỏ tiền ra mua một khách sạn có bãi sân gôn rồi quản trị nó. Lợi tức của công việc kinh doanh này ông dùng để truyền bá Phúc Âm.
Như thế bước thứ ba trong việc lắng nghe Lời Chúa là tâm sự với Ngài để xem Ngài muốn chúng ta làm gì khi nghe lời đọc trên. Dĩ nhiên, chúng ta không mong Chúa dùng lời nói để đáp trả lại lời nói của chúng ta, vì Ngài thường nói với chúng ta một cách thiêng liêng từ thâm sâu linh hồn ta. Và hơn nữa, không phải là Ngài sẽ luôn luôn đáp lời chúng ta ngay lập tức trong giờ cầu nguyện, mà Ngài thường đáp lời chúng ta trong cuộc sống hàng ngày, ngoài giây phút chúng ta cầu nguyện. Chẳng hạn, Ngài làm cho chúng ta từ từ cảm nghiệm được niềm ước muốn đang lớn mạnh, khiến ta phải làm một điều gì đó để cải tạo hoàn cảnh hiện tại; Ngài khiến chúng ta tìm ra những ý tưởng về cách thức cải tạo cảnh ngộ chúng ta; hoặc Ngài khiến chúng ta cảm thấy nghiêng chiều về một trong những ý tưởng trên. Nói rõ hơn, nhưng chuyển biến tâm linh này có thể là do Lời Chúa đang âm thầm nói với chúng ta từ sâu thẳm của linh hồn.
Tóm lại, chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa bằng ba cách thức: Bằng lỗ tai tâm trí, bằng lỗ tai trái tim và bằng lỗ tai linh hồn. Nói cách khác, chúng ta phải làm sao để Lời Chúa được diễn lại sống động nơi tâm trí chúng ta; phải ghi khắc lời ấy vào trái tim chúng ta; và phải bàn bạc với Chúa cũng như lắng nghe điều Ngài muốn nhắn nhủ chúng ta qua lời ấy.
66. Hồng ân cứu độ--Lm. JB. Nguyễn Minh Phương, CSsR
Trước khi nhậm chức, các nguyên thủ quốc gia thường công bố diễn văn thể hiện đường hướng hoạt động sẽ mang lại lợi ích cho đất nước.
Trong thực tế, "nhân vô thập toàn". Mọi cố gắng của con người luôn giới hạn nên tôn giáo mới chính là lời đáp cho con người tìm về lẽ sống.
Hôm nay, khai mạc sứ vụ loan báo Tin Mừng cứu độ, Đức Giê-su đã công bố lời ngôn sứ I-sai-i-a. Lời ấy không lý thuyết phô trương, nhưng ứng nghiệm nơi cuộc đời của Người.
Ngày Sa-bát, Người Do Thái vào hội đường để nghe công bố và giải thích lời Chúa. Họ đón nhận giáo huấn của Đức Chúa nhờ nghe và suy gẫm lời của Người.
Ngày nọ, trong hội đường Do Thái, một nhân vật đặc biệt xuất hiện giữa đám đông dân chúng. Sau khi công lời ngôn sứ I-sai-i-a, người ấy khẳng định những lời ông ta vừa công bố hôm nay đã ứng nghiệm (x. Lc 4, 20). Người ấy chính là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người mang tên Giê-su.
Bằng ngôn ngữ và văn hóa của nhân loại, Đức Giê-su đã công bố lời Thiên Chúa và quả quyết lời Thiên đã ứng nghiệm nơi sứ vụ cứu thế của Người. Một sứ vụ do Chúa Cha sai thực hiện trong sự thông hiệp của Chúa Thánh Thần: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn..." (Lc 4, 18).
Như vậy, đón nhận Chúa Giê-su và lời của Người là đón nhận giáo huấn của Thiên Chúa trong ân sủng của Chúa Thánh Thần. Nói cách khác, muốn đón nhận giáo huấn của Thiên Chúa người ta phải đón nhận ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần trong sự thần phục suy tôn Chúa Giê-su là Cứu Chúa. "Nơi Người ơn cứu độ chan chứa" (Tv 129, 7).
Ơn cứu độ nơi Chúa Giê-su không mơ hồ trừu tượng. Sự hiện diện của Người ở đâu đều mang lại ơn đổi mới đến đó:
- Được Đức Giê-su chữa lành, mẹ vợ ông Phê-rô đã trỗi dậy phục vụ (x. Mc 1, 31).
- Đón tiếp Đức Giê-su đến nhà, ông Gia-kêu đã được ơn hoán cải nên đã quyết tâm đền bù thiệt hại gấp bốn, và chia nửa gia tài cho người nghèo (x. Lc 19, 8).
- Nghe lời Đức Giê-su chỉ dạy, gười phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp đã nhận ra sự thật nên nhanh chóng trở về làng kêu gọi mọi người ra gặp Đức Giê-su (x. Ga 4, 28).
- Ánh mắt của Đức Giê-su đã giúp ông Phê-rô hoán cải (x. Lc 22, 61).
- Lời hứa của Đức Giê-su trên thập giá, đã bảo đảm cho người trộm lành được phúc thiên đàng (x. Lc 23, 43).
- Cuộc sống và sự chết của Đức Giê-su đã giúp cho viên sĩ quan chỉ huy nhận ra Người là Con Thiên Chúa (Mt 27, 54).
- Nghe lời Chúa Giê-su Phục Sinh cắt nghĩa Sách Thánh và tham dự Thánh Lễ do chính Đấng Phục sinh dâng hai môn đệ trên đường Em-mau, đã phục hồi tinh thần, ngay trong đêm trỗi dậy trở lại Giê-ru-sa-lem (x. Lc 23, 33).
- Tiếng Chúa Giê-su Phục Sinh gọi đã giúp bà Ma-ri-a Mác-đa-la nhận ra Chúa và hăng hái lên đường loan báo tin vui Chúa đã phục sinh (x. Ga 20, 16).
- Nghe lời Chúa Giê-su Phục sinh, các Tông Đồ đã vượt qua cơn mệt mỏi chán chường hầu vững vàng thả lưới bắt cá (x. Ga 21, 6) và hân hoan ra đi khắp nơi loan báo tin vui cứu độ có Chúa cùng hiện diện và dấu lạ kèm theo (x. Mc 16, 20).
Như vậy, Chúa Giê-su chính là Lời Chúa đã thành xác phàm. Lời ấy đã: phục sinh người chết, xua trừ quỉ mà, mang lại niềm hy vọng, chữa lành bệnh tật thân xác và tâm linh: người điếc nghe được, người mù xem thất, người câm nói được, người què đi được... công bố năm hồng ân cứu độ và vẫn đang được tiếp nối nơi những hoạt động của Hội Thánh Chúa.
Hoạt động cứu thế của Chúa Giê-su đã khởi đi từ việc công bố lời Thiên Chúa, thứ đến là những hoạt động cứu sống nhân mạng, chữa lành bệnh tật thân xác và tâm linh. Đỉnh cao của hoạt động cứu thế là: Công bố năm hồng ân với ơn giải thoát: "kẻ giam cầm biết họ được tha... trả tự do cho người bị áp bức" (Lc 4, 18).
Năm hồng ân chính là thời gian Thiên Chúa ban ơn đặc biệt cho con người. Trong Chúa Giê-su, Thiên Chúa đã thi ân cho nhân lọai. Chính việc Chúa Giê-su đến trong thế gian đã thực sự đem lại thời hồng phúc, thời cứu rỗi.
Trong Chúa Giê-su, phẩm giá con người được nâng cao. Họ không còn bị nô lệ cho bất cứ một thể chế nào hay hệ tư tưởng nào. Thiên Chúa đã giải thoát họ để họ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và thờ phượng Người trong chân lý và sự thật.
Nối tiếp họat động cứu thế của Chúa Giê-su, Hội Thánh không ngừng loan báo tin vui cứu độ bằng lời, bằng tình yêu với những họat động trợ giúp cụ thể, nhất là bằng chính mạng sống của mình.
Ngày nay, theo định kỳ 25 năm và những dịp đặc biệt, Hội Thánh mở Năm Thánh hầu giúp dân Chúa ý thức sâu sắc thời gian thánh là thời gian hồng ân Thiên Chúa ban cho con người để họ thánh hóa cuộc sống, củng cố đức tin, sống tình hiệp nhất yêu thương và hiệp thông huynh đệ trong lòng Hội Thánh và thế giới, và nhất là tuyên xưng đức tin một cách chân thành và sống sống động nơi Chúa Giê-su Cứu Thế.
Hội Thánh đang đồng hành với nhân nhân loại đây đó vẫn còn nhiều vấn nạn về phận con người: Con người hiện diện trên đời để làm gì? Sau khi chết con người đi về đâu? Đâu là con đường giải thoát?... Tự sức con người, những câu hỏi này mãi mãi chỉ là vấn nạn. Do đó, Hội Thánh mang nơi mình sứ vụ làm chứng cho niềm tin, trở nên trung gian để muôn người tìm đến với Chúa Giê-su, đón nhận lời của Người hầu khám phá lẽ sống cho đời mình.
Tuyên ngôn của tân nguyên thủ quốc gia là những thiện chí giúp ích cho đất nước an bình thịnh vượng.
Tuy nhiên,giữa lý thuyết và thực tế luôn có khoảng cách.
Trong khi đồng hành với cuộc đời, người tín hữu chọn bước theo Chúa Giê-su, tin Người là con đường là sự thật và là sự sống, "Nơi Người ơn cứu độ chan chứa" (Tv 129, 7).
67. Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày 21 tháng 1 (theo giờ Mỹ), Tổng thống Obama và "phó tướng" Biden đã tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ 2. Hình ảnh "bộ đôi quyền lực" này đặt tay lên cuốn Kinh Thánh và đọc lời tuyên thệ theo quy định của Hiến pháp là một hình ảnh rất đặc biệt, gây sự chú ý mạnh mẽ.Báo chí đưa tin, khi thực hiện nghi thức tuyên thệ, ông Obama giơ tay phải lên và tay trái đặt lên 2 cuốn Kinh Thánh lịch sử của nhà lãnh đạo nhân quyền huyền thoại Luther King Jr và cố Tổng thống Abraham Lincoln, vị tổng thống thứ 16 của Mỹ. Chánh án Toà Tối cao John Roberts chủ trì nghi thức này. Phó Tổng thống Biden đặt tay lên cuốn Kinh Thánh mà dòng họ của ông sử dụng từ năm 1893. Thẩm phán tòa tối cao Sonia Sotomayor chủ trì lễ tuyên thệ của Biden. (Antoine Nguyễn).
Các nguyên thủ quốc gia, sau khi được toàn dân tín nhiệm qua lá phiếu bầu cử, thường đọc diễn văn quan trọng khởi đầu một nhiệm kỳ mới. Nội dung diễn văn trình bày hành động bao quát nhắm đến lợi ích của đồng bào đang mong đợi.
Tại quê hương Nazaret, Chúa Giêsu đã mượn bản văn của ngôn sứ Isaia để chính thức công bố với đồng hương chương trình hành động của mình: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan Tin Mừng cho người nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho những người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa". Người nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe".
Trước đó ít lâu, khi Gioan Tiền Hô nghe nói về hoạt động của Chúa Giêsu, từ trong tù ông đã sai môn đệ đến hỏi Ngài, có phải là Đấng thiên sai hay không? Chúa Giêsu thẳng thắn trả lời: "Các anh về thuật lại cho ông Gioan những gì mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què đi được, người phong cùi được lành sạch, người điếc nghe được, kẻ chết sống lại, người nghèo được nghe Tin Mừng" (Mt 11,4-5). Qua câu trả lời gián tiếp này, Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, dấu chỉ hiển nhiên của Đấng thiên sai là hành động chọn lựa đứng về phía những người nghèo khổ, bé mọn, tật nguyền và xấu số. Ngài tự đồng hóa với những người đói khát, rách rưới, trần truồng, bệnh tật, đau yếu, tù tội...Bất cứ những gì đụng chạm đến họ là đụng chạm đến bản thân Ngài. Tất cả những gì chúng ta làm cho họ là làm cho chính Ngài. Và tất cả những gì chúng ta không làm cho một trong những người bé mọn nhất của nhân loại khổ đau này là đã không làm cho chính Ngài (x. Mt 25,31-45). Sau Công Đồng Vaticanô II, một số thần học gia đã khai triển bản văn này và đặt nổi ba hình thức hiện diện đặc biệt của Đức Kitô: trong Thánh thể (Lc 22,19-20; 1Cr 11,23-25), trong cộng đoàn (Mt 18,20) và trong người nghèo (Mt 25,31-45).(x. ĐGM Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Bước theo Đức Kitô, trang 32-33).
Chúa Giêsu thực hiện chương trình hoạt động cứu độ dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Sứ điệp đó, Giáo hội luôn thực thi suốt dòng lịch sử.
1. Sứ điệp và hoạt động cứu độ của Chúa Giêsu
"Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.Người đã sai tôi đi công bố...". Nội dung của sứ điệp nói lên đầy đủ sứ mệnh Chúa Giêsu sẽ thi hành gồm bốn hoạt động là rao giảng Tin Mừng cho người nghèo hèn, công bố sự giải thoát cho người tù đày, sự sáng mắt cho người mù loà, trả tự do cho người bị áp bức và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.
Như vậy sứ điệp gồm hai điểm chính là loan báo Tin Mừng và đi công bố những gì Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại.
Tin Mừng được loan báo là: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời" (Ga 3,16).
Sứ điệp công bố là những gì Thiên Chúa muốn làm cho nhân loại khốn cùng. Chúa Giêsu đã công bố bằng lời nói và bằng việc làm. Chính nơi Chúa Giêsu, người tội lỗi nhận được ơn tha thứ, người đau khổ gặp được nguồn an ủi, người chán nản gặp được niềm vui và người thất vọng tìm lại niềm hy vọng. Biết bao người tội lỗi đã "bị giam cầm" nay được thứ tha. Ánh sáng là một báu vật cho những người đang chìm trong tăm tối. Người mù thể lý được Chúa mở mắt. Người mù thiêng liêng được mở mắt đức tin để nhìn thấy và tin vào Chúa. Tự do là quà tặng quí giá nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Những người bị áp bức, bị vùi dập, bị đè nén, những thống khổ nay được giải thoát. Những lo lắng, bệnh tật, bất công... làm cho con người trở nên nô lệ, mất đi phẩm giá, nay được Chúa chữa lành bệnh tật, bênh vực kẻ yếu, duy trì công bình xã hội và phục hồi phẩm giá cho họ. Đó là hồng ân Chúa Giêsu công bố và thực hiện. Đây là sứ mạng giải thoát con người hoàn toàn khỏi mọi cảnh bất công xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Trong Nước Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa. Hình ảnh lý tưởng ấy đang hiện diện một cách huyền nhiệm trong Giáo Hội (x. Lumen Gentium, 3).
2. Chúa Thánh Thần, thúc đẩy và hướng dẫn.
Cơ chế xã hội bất công đã tạo nên bao thảm cảnh trong cuộc đời. Người nghèo chính là nạn nhân của những cơ chế bất công. Vấn đề muôn thuở đó vẫn luôn mang tính thời sự. Chúa Giêsu có sứ mạng giải thoát những người nghèo khổ và bị áp bức. Nhưng sứ mạng đó chỉ có thể thực hiện được khi có Thánh Thần hướng dẫn và Chúa Cha ủy thác.
Nhiều lần Tin Mừng nói, Chúa Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Từ ngày Truyền Tin, Thiên Thần đã loan báo: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa" (Lc 1,35). Trong cuộc đời thơ ấu và ẩn dật của Chúa Giêsu, sách Tin Mừng nói rất ít về Người. Dù vậy, chắc chắn đó phải là những ngày Thần Khí Thiên Chúa giúp cho Chúa Giêsu "ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa" (Lc 2,40); "ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến" (Lc 2,52). Khi Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ, vai trò của Chúa Thánh Thần thường được nhắc tới dưới hình thức, Chúa Giêsu "được đầy Thánh Thần, được Thánh Thần dẫn đi, được quyền năng Thánh Thần thúc đẩy". Vào ngày chịu phép rửa tại sông Giođan, Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần ngự xuống. Thánh Luca coi đây như là việc "xức dầu", được tấn phong làm "Đấng được xức dầu" (Cv 10,37-38; Lc 4,18; x. Is 61,1). Xức dầu tấn phong là nghi thức trao ban sứ mệnh, không chỉ là sứ mệnh của ngôn sứ mà còn là sứ mệnh cứu độ của Đấng đến để chu toàn tất cả những gì Lề Luật và các Ngôn Sứ đã nói về Người.
3. Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu
Chúa Giêsu xác định: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe." Trải suốt Tin Mừng Luca, từ "Hôm nay" xuất hiện tại những đoạn then chốt. Trong ngày Lễ Giáng Sinh, chúng ta đã nghe các thiên thần loan báo "Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra" (2,11). Khi Chúa Giêsu gặp ông Giakêu, Người nói với ông "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này" (19,9). Chúa Giêsu hứa với người trộm bị đóng đinh bên phải rằng "Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (23,43). Ý nghĩa của từ "Hôm nay" mà Chúa Giêsu công bố không chỉ là "ngày hôm nay" vào lúc Người tại thế, mà còn là "ngày hôm nay" của Giáo Hội nữa.
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục công cuộc cứu thế trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội.
Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Người. Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Giáo Hội nối dài hoạt động của Đức Kitô. Qua dọc dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng đem Tin Mừng cho người nghèo hèn. Giáo Hội đã thiết lập các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, nhà dưỡng lão...Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm và đang tiếp tục làm: “Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ" (Lumen Gentium, 8). Thời đại hôm nay, sứ mạng của Giáo Hội còn quan trọng và thiết thực hơn nữa, liên quan đến tự do, công lý, nhân quyền, phát triển và hòa bình. Những hoạt động bác ái và y tế xã hội chỉ xoa dịu phần nào nỗi đau khổ của những người nghèo hèn. Còn những người bị giam cầm trong các trại tù cải tạo, những người bị áp bức đến mất tự do ngoài xã hội và những người dân đang bị hạn chế tự do, đói khát nhân quyền. Giáo Hội quan tâm nhiều đến họ và trợ giúp cho họ. Phương tiện của Giáo Hội luôn là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là "sự thật giải thoát" (Ga 8,32).
"Có nhiều Kitô hữu hiến đời mình để yêu thương những người cô thế, bị gạt ra ngoài lề, bị loại trừ, coi họ là những người đầu tiên cần phải đến gặp và là những người chủ yếu phải được nâng đỡ, vì nơi họ phản chiếu gương mặt của chính Chúa Kitô. Nhờ đức tin, chúng ta có thể nhận ra gương mặt Chúa phục sinh nơi những người đang mong được chúng ta yêu thương". (Cánh cửa đức tin, số 13). Mỗi Kitô hữu tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng những hoạt động bác ái của mình. Trung thành thực thi sứ vụ của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta góp phần làm cho lời tiên tri Isaia cũng được ứng nghiệm, năm hồng ân của Chúa được công bố và Nước Thiên Chúa hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay.
68. Tiếp nối sứ vụ--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Sau một thời gian ngược xuôi giảng dạy ở nhiều nơi, Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét yêu dấu thăm viếng. Vào ngày Sabát, Ngài đến hội đường, người ta mời Ngài đọc sách thánh và giảng dạy. Thời đó, tại Israel có hai nơi dành cho việc phụng tự là Đền thờ và Hội đường. Chỉ có một Đền thờ tại Giêrusalem. Hội đường rất nhiều, hầu như mỗi làng đều có một cái. Đền thờ là nơi dân Do thái dâng hy lễ cho Thiên Chúa, như chiên, cừu, bồ câu… Còn Hội đường là nơi dành cho việc giảng huấn, nơi dân chúng lắng nghe Lời Chúa và cố gắng áp dụng lời ấy vào cuộc sống của họ.
Ngày Sabát, người ta thường đọc sách Luật, các sách Ngôn sứ rồi tiếp theo là một bài giảng giải. Người Do thái trưởng thành nào cũng có quyền được lên tiếng ở đó, nhưng thường những người coi sóc hội đường hay giao cho ai thông thạo Kinh Thánh làm việc này. Hôm nay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa Giêsu cuốn Sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn ngôn sứ Isaia nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Ngài sẽ làm.
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó.Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,19-19). Chúa Giêsu xác nhận lời tiên báo được thực hiện nơi chính bản thân Ngài: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”.
Nội dung của sứ điệp ngôn sứ được ứng nghiệm nói lên công việc Chúa Giêsu sẽ thi hành. Công việc gồm hai điểm chính là loan báo Tin Mừng và đi công bố những gì Thiên Chúa muốn thực hiện cho nhân loại.
Loan báo Tin Mừng
Tin Mừng được loan báo là: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Chúa Giêsu nói rõ đối tượng ưu tiên của việc rao giảng Tin Mừng là đến với những người nghèo khó: “Người sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khó”. Mọi người đều là những người nghèo: kẻ thì nghèo vật chất, người thì nghèo tinh thần. Như vậy Tin Mừng của Chúa được loan báo cho tất cả mọi người.Giáo Hội luôn phục vụ những người nghèo.Sống nghèo, tận tụy phục vụ người nghèo, đó là những nét nổi bật của Giáo Hội. Sứ vụ ấy làm nên tinh thần khó nghèo của Tám Mối Phúc.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Khi tôi được bầu, tôi đã có bên cạnh người bạn của tôi là Đức Hồng y Hummes. Bởi vì chúng tôi ngồi cạnh nhau. Chính ngài đã nói với tôi một câu khiến tôi hạnh phúc: ‘Đừng quên người nghèo’. Thật là đẹp”. (x.Bài phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô dành cho Đài truyền hình Braxin Globo sau kết thúc ngày Giới Trẻ tại Rio de Janeiro).
Thực sự, “Đừng quên người nghèo” là một lời khuyên đơn sơ. Nhưng là một lời khuyên rất đạo đức, rất Phúc Âm, rất thời sự. Lời khuyên đó trong giây phút lịch sử trọng đại bầu Giáo hoàng đã và đang đánh thức lương tâm rất nhiều người. “Đừng quên người nghèo” cũng được coi là lời khuyên, chính Chúa gởi tới mọi người có trách nhiệm lo cho nhân loại hiện nay. Đức Giêsu, không những đã không quên người nghèo mà còn rất thương họ. Người thương người nghèo, trước hết bằng cách mặc lấy thân phận người nghèo. Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-7). Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem trong hang đá với những hoàn cảnh cực nghèo. Người sống 30 năm ở Nadarét, như một người thợ mộc, thuộc gia đình nghèo. Quê Người thuộc vùng dân nghèo. Người đi giảng trên đất những người nghèo. Những nơi mà Chúa Giêsu sinh sống và hoạt động đều không thuộc về trung tâm của Đời và Đạo. Những người mà Chúa Giêsu năng lui tới hầu hết thuộc loại bên lề xã hội và tôn giáo, như những người tàn tật, bệnh hoạn, nghèo túng, tội lỗi.
Thuộc về trung tâm tôn giáo hồi đó là các thượng tế, các luật sĩ, và các thầy Lêvi. Họ có nhiều chức, nhiều quyền, nhiều lợi. Còn Chúa Giêsu thì thuộc loại bên lề. Đặc biệt là lúc sinh ra và lúc chết. Sở dĩ Chúa Giêsu chọn ở bên lề như vậy, là để những người ở bên lề vốn bị khinh chê và bị loại trừ, thấy được là họ được Chúa yêu thương, được Chúa chia sẻ, được Chúa lo giải cứu. Chúa Giêsu giải cứu họ bằng sự lo chữa bệnh tật cho họ, trừ quỷ cho họ, cho họ có của ăn khi cần, bênh quyền lợi của họ, loan báo Tin Mừng cho họ, nhất là bằng việc Người hy sinh mạng sống mình. Người chết, nhưng đã sống lại, để rồi mọi kẻ tin theo Người, cho dù bị Đời và Đạo lúc đó loại trừ, cũng sẽ được sống lại hiển vinh như chính Người. Theo cung cách đó, Tin Mừng cho người nghèo và người tội lỗi chính là điều Chúa mạc khải và đã thực hiện như được kể trong Phúc Âm.Những gì xưa Chúa Giêsu đã làm cho người nghèo, vẫn được các môn đệ Chúa trong mọi thời mọi nơi tiếp tục thực hiện.
Thế nào là đừng quên người nghèo? Theo các bài giảng của Đức Thánh Cha Phanxicô, khi còn là Hồng y, và khi đã làm Giáo hoàng, xin tóm lược ý của Ngài về đừng quên người nghèo.
Đừng quên người nghèo là cố gắng cứu giúp người nghèo một cách cụ thể tế nhị và quảng đại, tùy khả năng. Đừng quên người nghèo là hãy có một thái độ gần gũi với họ. Họ là những trẻ em nghèo, những người già yếu, bệnh tật, những người lỡ lầm, những người bị xã hội loại trừ. Đừng quên người nghèo là hãy có một đời sống giản dị, không xa cách người nghèo. Không cấm có những tiện nghi cần thiết, nhưng đừng sang trọng xa hoa. Đừng quên người nghèo là hãy đơn sơ trong việc giảng dạy, để người nghèo dễ hiểu. Đừng quên người nghèo là hãy lắng nghe những người yếu đuối nhất. Đừng quên người nghèo là hãy tìm hiểu hoàn cảnh nhiều người bỏ đạo, lấy tình thương mà giúp họ trở về. Đừng quên người nghèo là hãy biết ân cần đón nhận bất cứ dấu chỉ thiện chí nào của những người tội lỗi, nghèo túng, để nhờ đó mà có những bắt đầu dọn đường cho tình yêu thương xót Chúa, giúp họ làm lại cuộc đời. Đừng quên người nghèo là hãy khiêm tốn học nơi nhiều người nghèo những đức tính tốt. Đừng quên người nghèo là phải có tấm lòng yêu thương nồng nàn chân thật và kiên trì đối với người nghèo theo gương Chúa Giêsu. Thiết tưởng có một trái tim đầy lửa tình yêu thương xót chính là mấu chốt của “đừng quên người nghèo”. Để yêu thương, Đức Phanxicô nhắc đến thánh giá và sự từ bỏ mình. Ngài nhận đó là điều khó chịu, nhưng không phải là vô bổ trong tình yêu thương xót đối với người nghèo khổ. “Đừng quên người nghèo” đang được khơi động sâu rộng trong Hội Thánh do Đức Phanxicô. Đây là một lựa chọn vừa thần học và cũng vừa tiên tri. Có thể tính cách tiên tri vượt nổi hơn.Đạo nơi nào không quên người nghèo sẽ tồn tại và phát triển. Đạo nơi nào quên người nghèo sẽ tự biến chất và tự hủy. Đó là một lời tiên tri không nên coi thường. (x. Đừng quên người nghèo, ĐGM Bùi Tuần).
Đại Hội Đồng các Giám Mục Mỹ Châu La Tinh đã tuyên bố tại Puebca năm 1979 rằng: “Việc phục vụ con người tốt đẹp nhất là loan báo Tin Mừng. Công việc đó giúp con người phát triển như con cái Thiên Chúa, giải thoát con người khỏi những bất công và thúc đẩy công trình phát triển toàn diện con người”.
Đi công bố
Sau khi công bố "Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo", Chúa Giêsu đã đưa thêm một số thí dụ để giải thích thế nào là loan báo Tin Mừng cho người nghèo:
- Công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha.
- Cho người mù biết họ được sáng mắt.
- Trả tự do cho người bị áp bức.
- Công bố một năm hồng ân của Chúa.
Như vậy, "người nghèo" là những kẻ đang ở trong tình cảnh khổ sở, thiếu thốn như bị giam cầm, bị mù, bị áp bức… và đang mong thoát khỏi cảnh ấy. Đối với những người như thế, lời công bố của Chúa Giêsu mới thực sự là Tin Mừng. Còn những ai không khổ sở thiếu thốn thì lời Chúa Giêsu như nói với ai đó chứ chẳng liên can gì tới họ, cho nên chẳng phải là Tin Mừng gì cả. Bởi vậy Chúa Giêsu cũng chẳng cần loan báo cho họ. Nhưng xét cho cùng, ai mà không khổ sở thiếu thốn? Ai mà không "bị giam cầm" trong một thứ tù ngục nào đó? Ai mà không "mù" một cách nào đó? Ai mà không "bị áp bức" bởi một thế lực gian tà nào đó? Thành thử Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng cho tất cả mọi người. Tuy nhiên Tin Mừng ấy chỉ có hiệu quả đối với những ai ý thức mình là người nghèo. (x. Sợi chỉ đỏ, CN 3 thường niên C).
Sứ điệp công bố là những gì Thiên Chúa muốn làm cho nhân loại khốn cùng. Chúa Giêsu đã công bố bằng lời nói và bằng việc làm. Chính nơi Chúa Giêsu, người tội lỗi nhận được ơn tha thứ, người đau khổ gặp được nguồn an ủi, người chán nản gặp được niềm vui và người thất vọng tìm lại niềm hy vọng. Biết bao người tội lỗi đã “bị giam cầm” nay được thứ tha. Ánh sáng là một báu vật cho những người đang chìm trong tăm tối. Người mù thể lý được Chúa mở mắt. Người mù thiêng liêng được mở mắt đức tin để nhìn thấy và tin vào Chúa. Tự do là quà tặng quí giá nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại. Những người bị áp bức, bị vùi dập, bị đè nén, những thống khổ nay được giải thoát. Những lo lắng, bệnh tật, bất công... làm cho con người trở nên nô lệ, mất đi phẩm giá, nay được Chúa chữa lành bệnh tật, bênh vực kẻ yếu, duy trì công bình xã hội và phục hồi phẩm giá cho họ. Đó là hồng ân Chúa Giêsu công bố và thực hiện. Đây là sứ mạng giải thoát con người hoàn toàn khỏi mọi cảnh bất công xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa hay tôn giáo. Trong Nước Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng trước nhan Thiên Chúa. Hình ảnh lý tưởng ấy đang hiện diện một cách huyền nhiệm trong Giáo Hội (x. Lumen Gentium, 3).
Giáo Hội tiếp nối sứ vụ.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Sức thuyết phục của Chúa Giêsu chỉ có thể giải thích được là tất cả lời giảng, dụ ngôn và suy luận của Người không bao giờ tách khỏi đời sống của Người. Theo nghĩa đó, tất cả cuộc đời của Người là một bài giảng liên tục…” (Catechesi tradendae số 9). Chúa Giêsu đã trao cho Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Ngài. Giáo Hội luôn ý thức về sứ mạng của mình trong thế giới. Giáo Hội nối dài hoạt động của Chúa Giêsu. Qua dọc dài lịch sử, Giáo Hội luôn nỗ lực thực hiện sứ mạng đem Tin Mừng cho người nghèo hèn. Giáo Hội đã thiết lập các bệnh viện, các trường học, các cô nhi viện, các trại cùi, nhà dưỡng lão…Những công việc từ thiện, bác ái, xã hội, văn hóa, Giáo Hội đã làm và đang tiếp tục làm: “Giáo Hội trìu mến và ấp ủ tất cả những ai đau khổ vì sự yếu hèn của con người, nhất là nhận biết nơi những người nghèo khó và đau khổ hình ảnh Đấng Sáng Lập khó nghèo và đau khổ, ra sức giảm bớt nỗi cơ cực của họ và nhằm phụng sự Chúa Kitô trong họ” (Lumen Gentium, 8).
Thời đại hôm nay, sứ mạng của Giáo Hội còn quan trọng và thiết thực hơn nữa, liên quan đến tự do, công lý, nhân quyền, phát triển và hòa bình.Những hoạt động bác ái và y tế xã hội chỉ xoa dịu phần nào nỗi đau khổ của những người nghèo hèn. Còn những người bị giam cầm trong các trại tù cải tạo, những người bị áp bức đến mất tự do ngoài xã hội và những người dân đang bị hạn chế tự do, đói khát nhân quyền. Giáo Hội quan tâm nhiều đến họ và trợ giúp cho họ. Phương tiện của Giáo Hội luôn là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Tin Mừng là “sự thật giải thoát” (Ga 8,32). Trong Tông huấn “Niềm Vui Tin mừng”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi các Kitô hữu cùng với ngài đem Tin Mừng cứu độ đến cho thế giới: “Sứ mạng của Hội Thánh là đi ra để cung cấp cho tất cả mọi người sự sống của Đức Kitô” (số 49). Giáo hội thực thi sứ vụ ấy không phải bằng uy quyền sức mạnh của trần gian, nhưng bằng ân sủng của Tin Mừng.
Mỗi Kitô hữu tiếp nối công việc của Chúa Giêsu bằng cách chia sẻ niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người bị áp bức, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng những hoạt động bác ái của mình. Trung thành thực thi sứ vụ của người môn đệ Chúa Kitô, chúng ta góp phần làm cho lời tiên tri Isaia cũng được ứng nghiệm,năm hồng ân của Chúa được công bố và Nước Thiên Chúa hiện diện giữa lòng cuộc sống hôm nay.Chúa luôn đồng hành với chúng ta. Chúa luôn luôn ở bên trong sứ vụ tình yêu của chúng ta.
69. Đường nẻo Chúa
Trong một vài phút ngắn ngủi này, tôi xin chia sẻ một vài ý tưởng đơn sơ chung quanh lời nói của tiên tri Isaia, mà thánh Luca đã nhắc lại qua đoạn Tin mừng hôm nay:
- Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy được rằng: tư tưởng và đường nẻo của Chúa thật khác với tư tưởng và đường nẻo của chúng ta. Như trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo của Chúa cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo của chúng ta bấy nhiêu.
Thực vậy, chúng ta thường đánh giá người khác qua những biểu hiện bên ngoài, dựa trên quyền lực và giàu sang. Đúng thế, người có tiền thì được yêu mến:
- Bần cư chung thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khác tầm. Có nghĩa là ngèo mà ở giữa phố chợ cũng chẳng ai thăm, còn giàu mà ở trên rừng trên núi, đèo heo hút gió cũng vẫn có kẻ chịu khó tìm đến. Hay: Thấy người sang bắt quàng làm họ. Miệng nhà giàu có gang có thép. Nén bạc đâm toạc tờ giấy.
Còn người có quyền, thì được vị nể, trọng kính:
- Lý kẻ mạnh bao giờ cũng thắng.
Bởi đó, người đời thường mơ ước được giàu sang và quyền thế. Trong khi đó, Chúa Giêsu lại đem Tin mừng đến cho những kẻ nghèo hèn. Trong bài giảng trên núi Ngài còn chúc phúc cho những người nghèo khó, đói khát, đau khổ và bị bách hại. Lần khác, Ngài cũng đã nguyện cầu:
- Lạy Cha, con xin cảm tạ Cha, vì Cha đã dấu không cho những người thông thái biết những sự mầu nhiệm này, mà lại tỏ ra cho những kẻ bé mọn.
Chúa không phải chỉ nói, mà Ngài còn làm như vậy. Một Đavít nhỏ yếu với vóc dáng của một cậu bé chăn chiên, thế mà Chúa đã cho thắng được Golíat, lên ngai vàng và trở thành một vị vua hùng mạnh, dẫn đưa dân Do Thái tời một thời đại hoàng kim. Một Maria khiêm tốn với thân phận của một nữ tì, thế mà Chúa đã chọn làm mẹ Đấng Cứu Thế. Và khi Chúa đến, thì ai là những người đầu tiên được diễm phúc đón nhận tin mừng giáng sinh, nếu không phải là những mục đồng, những kẻ chăn chiên vất vả nghèo túng. Rồi những môn đệ được Chúa mời gọi để cộng tác với Ngài trong việc rao giảng Phúc âm là ai nếu không phải là những bác tuyền chài quê mùa và dốt nát.
Chính Chúa cũng vậy. Ngài không đến với binh đội hùng hậu, nhưng đến dưới vóc dáng của một hài nhi bé nhỏ, nghèo túng, không một mái nhà ẩn náu. Vậy tại sao Ngài lại dành Tin mừng và phúc lành cho những kẻ khó nghèo và dành yêu thương cho những người bất hạnh?
Dĩ nhiên có nhiều lý do, nhưng hôm nay tôi chỉ xin đưa ra một lý do rất đơn giản mà thôi. Sở dĩ Chúa hành động như vậy là vì người giàu sang và quyền thế thường hay cậy dựa vào sức riêng của mình, nên rất dễ sinh ra kiêu căng. Mà đã kiêu căng, thì chắc chắn sẽ bị Chúa loại trừ. Trong Kinh thánh, Chúa đã phán:
- Ta chống lại kẻ kiêu căng.
Hay trong lời kinh ngợi khen, Mẹ Maria cũng đã nói:
- Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao nhưng người phận nhỏ.
Vì thế, thánh Gregorio đã nói:
- Kiêu căng là dấu chỉ rõ ràng nhất của kẻ đã bị Chúa loại trừ.
Trái lại, người nghèo hèn và bất hạnh sẽ cảm thấy mình yếu đuối, thấp hèn và thiếu thốn, nên dễ đặt trót niềm tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa, dễ đón nhận Tin mừng và được Chúa chúc phúc.
Muốn bỏ một vật gì vào túi, thì chiếc túi phải rỗng. Nếu túi đã đầy thì làm sao nhét vào cho được. Cũng thế, kẻ kiêu căng chất đầy tâm hồn những tự phụ, tự mãn, tự cao thì đâu còn chỗ cho Chúa nữa. Trong khi đó người nghèo hèn và bất hạnh luôn cảm thấy tâm hồn mình trống để cho tình thương của Chúa hoạt động.
Từ đó, chúng ta đi tới kết luận: người nào coi mình chỉ là một con số không, thì sẽ có đủ chỗ cho Đấng vô cùng. Trái lại, kẻ nào coi mình là vô cùng, thì trước mặt Chúa chỉ là một con số không mà thôi.
70. Lời Chúa
Tác giả tập sách có tựa đề: “Cuộc Săn Đuổi Mặt Trời” kể lại cuộc mạo hiểm của những người lính Hoàng Gia Tây Ban Nha trong thế kỷ XIX đi chiếm thuộc địa bên Nam Mỹ, tại vùng đất mà ngày nay gọi là quốc gia Pe-ru.
Một người trong nhóm đem tặng cho viên tù trưởng trong bộ lạc da đỏ một quyển Kinh Thánh và nói: Đây là quyển sách Thánh, nơi Thiên Chúa nói với con người và ban cho con, những ai lắng nghe được lời Ngài, một sức mạnh phi thường vượt qua được mọi gian nan thử thách và được hạnh phúc trường sinh.
Đón nhận quyển sách,viên tù trưởng kia vui mừng vội mau tìm nơi vắng đưa sách lên tai để lắng nghe Thiên Chúa nói. Nhưng thật là vôi ích, ông cầm lên, đưa xuống đủ cách mà im lặng vẫn hoàn im lặng, không có tiếng Thiên Chúa nào phán cả. Bực mình, viên tù trưởng ném sách đi và lẩm bẩm: Ta bị gạt, ta đã bị gạt.
Có thể ta sẽ cười thái độ ngớ ngẩn của cả hai người, người cho cũng như kẻ nhận. Không chỉ cầm quyển sách Kinh Thánh trong tay là nghe được Lời Chúa. Người cho cũng như người nhận cần phải thực thi một vài điều kiện để giúp cho mình và kẻ khác được nghe Lời Chúa. Bài Phúc Âm của Chúa Nhật III Mùa thường niên được trích từ Phúc Âm thánh Luca, tác giả đã cẩn thận ghi lại như sau:
Kinh thánh là sách bán chạy nhất thế giới, vượt mọi kỷ lục từ xưa đến nay. Kinh thánh được ham mộ vì đó là một cuốn sách chứa đựng kho tàng Lời Chúa, chứa đựng đầy dẫy những bí quyết giúp con người sống ơn gọi làm người của mình, đứng đắn và hạnh phúc. Biết lắng nghe lời Chúa và để cho lời Chúa thấm nhập tấm lòng rồi đem ra thực hiện trong cuộc sống của mình là con người thành công trong nỗ lực sống ơn gọi làm người hạnh phúc. Cũng chính vì thế nên Mẹ Giáo Hội cống hiến Lời Chúa cho tín hữu qua các bài đọc phụng vụ mỗi ngày. Từ sau Công Đồng Vaticano II đến nay, các bài Tin Mừng ngày Chúa Nhật được phân chia như sau: Hãy Ra Khơi
Chu kỳ A theo Phúc Âm thánh Matthêu.
Chu kỳ B theo Phúc Âm thánh Marcô.
Chu kỳ C theo Phúc Âm thánh Luca.
Còn Tin Mừng theo thánh Gioan thì đặc biệt dùng cho mùa Phục Sinh và mùa phụng vụ khác.
Trong số bốn thánh sử, thánh Luca là người có óc sử gia hơn cả. Trong những câu mở đầu đọan Tin Mừng hôm nay, thánh sử cho biết ngài đã sưu tầm, tra cứu kỹ lưỡng các loại tài liệu truyền miệng cũng như viết tay để viết ra sách Tin mừng.
Là người gốc Siry Antiôkia, thánh sử Luca không thuộc Do Thái giáo. Nghề bác sĩ y khoa khiến thánh sử đặc biệt chú ý đến các phép lạ chữa lành bệnh tật. Thánh sử đã từng là môn đệ của các Tông đồ, bạn đồng hành và cộng sự viên của thánh Phaolô. Vì là người ngoài Do Thái giáo theo Kitô giáo, thánh Luca chú ý viết Tin Mừng cho anh chị em không Do Thái giáo, nên hay cắt nghĩa các tập tục Do Thái để giúp họ hiểu dễ dàng hơn. Thánh sử không chủ ý viết lịch sử cuộc đời Chúa Giêsu mà chỉ kể lại chứng tích lịch sử. Chứng tích lịch sử của Thánh sử Luca nhấn mạnh đến mấy mấu điểm thần học chính yếu sau đây:
Chúa Giêsu là ánh sáng chiếu soi cho những người ngoài Do Thái thấy con đường ơn cứu độ. Ngài thuyết giáo lưu động nhưng là hiện thân tình yêu thương Thiên Chúa có đối với loài người, đặc biệt đối với những người tội lỗi, yếu đau, bé nhỏ, bị bỏ rơi, bị khinh miệt ngoài lề xã hội, không tiếng nói, không quyền lợi, bị áp bức, chèn ép, bóc lột và đối xử tàn tệ nhất. Vì thế, ở đâu có bước chân và sự hiện diện của Ngài là ở đó bừng lên ánh sáng cứu độ, niềm an vui và tình yêu thương hòa hợp.
Chúa Giêsu cống hiến ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người, không trừ một ai và ngay trong thời điểm của hiện tại, ngày hôm nay trong lúc này và ở đây. Qua Ngài, Thiên Chúa đến thăm và cứu rỗi con người, thế nên mọi người cần phải biết tỉnh thức, chăm chú lắng nghe, nhìn xem và nhận ra sự hiện diện cứu độ của Chúa Giêsu, đón nhận Ngài và sống theo Ngài, vượt qua cái chết để đạt đến cuộc sống Phục Sinh vĩnh cửu mà Thiên Chúa muốn trao ban và dành để cho con người.
Nơi phần hai của bài Phúc Âm Chúa Nhật III Mùa thường niên chúng ta thấy thánh sử Luca nhấn mạnh đến sự hiện diện của Thánh Thần Thiên Chúa trong cuộc đời hoạt động của Chúa Giêsu. Ngài chịu phép thanh tẩy của thánh Gioan Tiền Hô tại sông Giócđan và Thánh Thần Thiên Chúa đã hiện diện trên Chúa Giêsu trong những lúc bị cám dỗ. Thánh Thần Thiên Chúa đã hướng dẫn Chúa Giêsu và giờ đây trong bài giảng đầu tiên tại thành Nagiaréth, Chúa Giêsu cũng được tràn đầy sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Đây là ngày Chúa Giêsu tỏ mình ra cho những người đồng hương của Ngài khi Ngài nói: “Đoạn Sách Thánh hôm nay đã được ứng nghiệm”. Chúa Giêsu muốn nói rằng, ơn cứu độc được Thiên Chúa hứa ban ngày xưa, hôm nay hiện diện trong con người của Ngài. Sự hiện diện của ơn cứu rỗi đó không theo quan niệm và tiêu chuẩn của loài người, nhưng là theo chương trình của Thiên Chúa. Ơn cứu rỗi đó nằm trên một bình diện cao cả hơn, rộng lớn hơn và sâu xa hơn. Nó không chỉ hạn hẹp trong một số người hay một dân tộc, lại càng không phải là sự giải phóng về chính trị, kinh tế, văn hóa cấp thời trần thế. Ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu đem lại cho con người được dành để cho tất cả mọi người tin và chấp nhận Tin Mừng của Ngài, không phân biệt giai cấp, màu da và chủng tộc.
71. Niềm vui
Trong những tuần lễ đầu của mùa thường niên. Giáo Hội mời gọi chúng ta đi vào những sự kiện khởi đầu cuộc đời công khai của Đức Kitô. Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca tường thuật lại sứ vụ rao giảng của Đức Kitô tại hội đường Nagiaréth, chính Đức Kitô đã công bố cho mọi người biết “niềm vui cứu độ” đã khởi sự. Vì “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh anh em vừa nghe”.
Với lời khẳng định này, Đức Kitô chứng tỏ cho thấy Ngài chính là “niềm vui cứu độ”., mà chúng ta là những Kitô hữu đã thực sự tin và đón nhận niềm vui đó chưa? Chúng ta đã làm gì cho niềm vui ấy được triển nở trong thế giới hôm nay?
1. Đức Kitô chính là niềm vui cứu độ
Câu chuyện tư tế Esdras đã nỗ lực canh tân đời sống dân Chúa và củng cố giao ước cũ. Cũng như việc ông đứng đọc Luật Môsê trước mặt con cái Israel, trong bài đọc 1. Đó chỉ là hình ảnh báo trước việc Đức Kitô sẽ rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Chính Đức Kitô mới là Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong, Ngài đến để hoàn tất và kiện toàn Lề luật, bằng chính cuộc khổ nạn và phục sinh, Ngài thiết lập giao ước mới, giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và loài người.
Hôm nay tại hội đường, Đức Kitô đã khẳng định Ngài chính là Đấng Cứu Thế mà tiên tri Isaia đã loan báo.
“Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó, băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên cáo luật ân xá cho kẻ bị giam cầm, loan tin cho người mù biết sẽ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa”.
Đức Kitô đã tự giới thiệu mình là vị ngôn sứ phải đến loan báo “niềm vui cứu độ”. Sự hiện diện của Ngài đã khai mở một giai đoạn mới, giai đoạn của năm hồng ấn cứu độ.
Hôm nay, Chúa Thánh Thần đã được ban xuống ngay trong lời của Đức Kitô, nhờ Thánh Thần mà Lời đã trở thành hiện thực. Người nghèo được ưu ái, kẻ tù đầy được giải phóng, người mù được xem thấy. Những điều này rõ ràng nói lên tình yêu thương của Chúa dành cho những kẻ biết đón nhận Đức Kitô bằng một lòng tin. Đức Kitô đến tái lập trật tự và mặc cho thế giới này một khuôn mặt mới của công bình tình thương và an vui. Cho nên, việc tuyên xưng niềm tin nơi Đức Kitô là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng cứu độ, là chúng ta đón nhận chính niềm vui cứu độ ngay giữa những gì là tang thương và bi đát.
2. Đón nhận niềm vui cứu độ
Trong Tông thư “Khởi đầu thiên niên kỷ mới”, Đức Gioan Phaolô II mở ra cho chúng ta một hướng đi tiến vào thiên niên kỷ mới. Đó là “Gặp gỡ Đức Kitô, chiêm ngắm Đức Kitô, bước theo Đức Kitô và làm chứng cho tình yêu của Đức Kitô”.
Đức Kitô đã đem “niềm vui cứu độ” đến thế gian. Ngài biến những đau buồn thành niêm vui nội giới cho chúng ta… Một niềm vui trọn hảo không gì có thể làm lu mờ đi được. Niềm vui đó không chỉ ấp ủ trong lòng mà phải được tuôn trào ra bên ngoài bằng cuộc sống đan kết bởi những việc làm lành thánh.
Như Thánh Phaolô luôn miệng nhắn nhủ tín hữu Philipphê rằng “hãy vui lên”, mặc dù chính ông đang bị cầm tù và Giáo Hội đang rơi vào cảnh bị bách hại.
Để được niềm vui đích thực như Thánh Phaolô đã lãnh nhận nơi Đức Kitô. Chúng ta phải biết thay đổi cách sống bằng tình yêu thương, công bằng bác ái. Khi đó chúng ta mới thực sự cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Kitô, chiêm ngắm Ngài và bước theo Ngài bằng chính những việc làm tốt đẹp của chúng ta. Bằng không, bóng tối của tội lỗi của ích kỷ sẽ bao phủ cõi lòng, cho dù bên ngoài chúng ta vẫn tỏ ra vui cười, nhưng bên trong sẽ không có được niềm vui bình an. Vì chỉ có Chúa mới là tình yêu và là “niềm vui cứu độ” cho chúng ta, “Đức Kitô là đường là sự thật và là sự sống”… Khi chúng ta có Chúa trong lòng rồi, chính niềm vui sẽ thúc đẩy và biến đổi chúng ta trở thành những chứng nhân cho tình yêu của Đức Kitô bằng việc đem Tin Mừng Cứu độ đến với những người anh em vẫn chưa biết Chúa. Đó chính là cách chúng ta trao ban “niềm vui cứu độ” là chính Đức Kitô…
3. Trao ban niềm vui cứu độ.
Vì chỉ có một Tin Mừng Cứu độ duy nhất cho mọi người mọi thời. Đó là Đức Kitô, trong Ngài Thiên Chúa đã, đang và sẽ còn biểu lộ “niềm vui cứu độ” cho nhân loại. Nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần mà công cuộc cứu độ của Chúa vẫn đang sinh hoa trái trong Giáo Hội và qua Giáo Hội từ bây giờ cho đến muôn đời.
Khi chúng ta lãnh nhận các bí tích là chúng ta lãnh nhận chính Đức Kitô trong ân sủng của Chúa Thánh Thần. Đó là hệ quả của “niềm vui cứu độ” mà chính Đức Kitô đã đem đến để giải thoát chúng ta khỏi nô lệ tội lỗi và nuôi dưỡng chúng ta bằng Thánh Thể. Nhờ lời rao giảng và giáo huấn của Giáo hội, Đức Kitô tiếp tục thông truyền ánh sáng của Ngài cho những ai đang ngồi trong tối tăm.
Một trong những mẫu gương mà chúng ta có thể noi theo chính là Mẹ Maria, khi vừa có trong lòng, Mẹ đã vội vã lên đường đem Chúa đến cho gia đình bà Isave. Chúng ta là những kitô hữu đã được lãnh nhận hồng ân Cứu độ trong ngày chịu phép Rửa tội, chúng ta cũng phải tiếp tục đem “niềm vui cứu độ” đến cho những anh chị em vẫn chưa biết Chúa, bằng việc rao giảng Tim Mừng và qua chính đời sống thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Ước chi sứ điệp Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta chân nhận và xá tín rằng “Đức Kitô chính là niềm vui cứu độ” duy nhất, hôm qua, hôm nay và mãi mãi…Nhờ Ngài mà tâm hồn mọi người được hoan lạc va bình an, nếu biết mở lòng ra đón nhận thần lương nuôi hồn và mở đôi tay ra để trao ban niềm vui cứu độc cho những ai còn ngồi trong bóng đêm của tội lôi.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết mở lòng đón nhận “niềm vui cứu độ”, để rồi niềm vui đó không ngừng triển nở trong tâm hồn chúng con. Amen.
72. Sứ mạng
Sau khi để lại những sự kiện thời thơ ấu của Chúa Giêsu, thánh Luca nói đến hoạt động của Chúa ở Galilê. Tại đây, Chúa bắt đầu bằng một biến cố bất ngờ ở hội đường Nadarét. Vào ngày hưu lễ, người ta phải đến hội đường để nghe đọc Sách Thánh và hát thánh vịnh. Nhân dịp Chúa Giêsu trở về quê nhà, Ngài cũng vào hội đường với mọi người. Đây là lần đầu tiên Chúa về Nadarét trong quãng đời công khai.
Theo luật lệ Do thái, bất cứ ai cũng có thể lên diễn đàn đọc và giải thích Kinh Thánh. Nhưng thường người có trách nhiệm coi sóc hội đường trao công việc đó cho những người đã am tường Kinh Thánh. Vì Chúa Giêsu đã giảng dạy ở nhiều nơi trước khi về Nadarét, nên việc người ta mời Ngài lên diễn đàn là chuyện bình thường. Theo thông lệ, vị diễn giảng đứng dậy đọc Sách Thánh, rồi ngồi xuống giải thích bài đọc đó. Hômnay cũng vậy, người ta đưa cho Chúa cuốn sách Thánh. Mở sách ra, Ngài gặp ngay đoạn ngôn sứ Isaia nói về Đấng Cứu Thế sẽ đến và những việc Người sẽ làm. Đọc xong, Chúa gấp sách lại và ngồi xuống. Mọi người đều chăm chú nhìn Ngài và chờ đọi những lời giải thích của Ngài.
Ngài dõng dạc tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vụi vừa nghe”. Tất cả bài giảng hôm ấy thế nào chúng ta không được b iết, thánh Luca chỉ ghi lại có một câu mở đầu ấy, nhưng thật đầy đủ ý nghĩa. Lịch sử cứu chuộc là quá trình giữa lời hứa của Thiên Chúa và sự thực hiện lời hứa ấy. Các vị ngôn sứ được sai đến để công bố lời hứa và loan báo sự thực hiện. Isaia công bố về một người tôi tớ của Thiên Chúa sẽ đem ơn lành của Thiên Chúa đến cho mọi người. Chúa muốn nói cho những người đang nghe Ngài biết: hôm nay họ đang được nghe chính người tôi tớ mà người đang nói với quý vị, tôi chính là Đấng Cứu Thế, và sứ mạng của tôi là thực hiện những điều Isaia đã nói.
Quả thực, suốt thời gian Chúa Giêsu sống và rao giảng, Ngài đã thực hiện từng chi tiết đoạn sách Thánh này.Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Ngài đã cảm thông, an ủi những tấm lòng sầu muộn. Ngài đã giải phóng những người bị tà ma ám ảnh, chữa lành tất cả những bệnh tật. Ngài đã khích lệ, tha thứ cho những người tội lội. Ngài đã hòa đồng với những người hèn hạ nghèo khó. Ngài không hề xua đuổi bất cứ ai. Ngài dạy phải quảng đại, bác ái, yêu thương đối với mọi người, kể cả kẻ thù, và không bao giờ được xét đoán bất công. Ngài muốn mọi giao tế giữa loài người với nhau phải được thể hiện trong yêu thương. những dẫn chứng trên cho chúng ta thấy những lời ngôn sứ Isaia đã loan báo trước được ứng nghiệm đầy đủ nơi Chúa Giêsu. Ngài là Đấng Cứu Thế, Đấng Thiên Sai, đã thi hành trọn vẹn sứ mạng Thiên Chúa trao phó cho Ngài.
Sứ mạng của Chúa Giêsu, ngày hôm nay, vẫn được tiếp tục thực hiện qua Giáo hội và trong Giáo hội. Thực vậy, khi Chúa Giêsu hoàn thành thời gian sứ mạng của Ngài, Ngài gởi Thánh tần đến cho các môn đệ để họ tiếp tục công bố Năm Toàn Xá của Thiên Chúa, loan Tin Mừng cho mọi người, rao giảng và thực hiện sự giải phóng toàn diện con người và xã hội. Nói rõ hơn, Giáo hội được đầy Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ Tuần phải tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu trong lịch sử. Như vậy, lời sách Isaia thâu tóm sứ mạng của Chúa Giêsu cũng là lời theu tóm sứ mạng của Giáo hội mọi thời đại. Hôm nay sứ mạng ấy càng trở nên khẩn trương hơn.
Từ Công đồng Vaticanô II, Giáo hội đã ý thức sâu xa hơn về sứ mạng của mình. Điều này không có nghĩa là trước đây Giáo hội đã quên con người mà chỉ nghĩ đến “linh hồn”. Thử hỏi: ai đã khai sinh ra các bệnh viện, các cô nhi viện,m các trại phong, trai tế bần, trại dưỡng lãi…Ai đã khai hóa cho thế giới “Man di” của Âu Châu thời hậu đế quốc Rô-ma? Chính là Giáo hội. Cái mới của Va-ti-ca-nô II là quan niệm lại cho phù hợp với thời đại mà thôi.
Bài học cho chúng ta: Chúa Giêsu đã thực hiện đầy đủ, trọn vẹn những lời Kinh Thánh nói về Ngài. Chúng ta cũng vậy, chúng ta có bộn phận thực hiện những lời Chúa đã giảng dạy. Nghĩa là chúng ta phải sống những lời Chúa đã giảng dạy. Bởi vì đời sống của người tín hứu rất hệ trọng trong việc mời gọi mọi người đến với Chúa. Đời sống của chúng ta có thể hoạc xua đuổi hoặc giũ người khác lại cho Chúa Kitô.
Đối với óc thực nghiệm và đời sống thực dụng ngày nay, cái gì người ta cũng đòi phải có bằng chứng. Chúng ta là Ki-ti hữu, chúng ta đi lễ đi nhà thờ, chúng ta làm các việc đạo đức đầy đủ. Nhưng tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Ki-tô đích thực không? Đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Nhìn vào đời sống chúng ta, người ta có nhận ra chúng ta là người Ki-tô hữu không? Vì vậy, để truyền giáo, để làm chứng cho Chúa, cho đạo, cách hay nhất là chúng ta hãy sống tốt trong gia đình, với xóm ngõ, trong họ đạo và với người chung quanh, bất cứ là lương hay giáo, mà sống tốt cụ thể nhất là hãy sống bác ái.
Xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức mình là Kitô hữu, và xin cho chúng ta hiểu rằng làm Ki-tô hữu có nghĩa là sống trọn vẹn ơn gọi làm người bằng một cuộc sống quảng đại, yêu thương và đầy tình yêu.
73. Những bàn tay Kitô giáo
Có một câu truyện cổ tích kể về một tên cướp khét tiếng tại vùng Viễn Đông bị trọng thương và được chở đến một nhà thương của các nhà truyền giáo. Sau một vài tuần tịnh dưỡng và được săn sóc đầy đủ, tên cướp đã được phục hồi hoàn toàn. Tên cướp rất biết ơn các nhà truyền giáo và tự hứa là sẽ không bao giờ ăn cướp của bất cứ Kitô hữu nào. Lời hứa của tên cướp đã được đồn ra và hễ ai gặp tên cướp ấy đều thú rằng, "Tôi là Kitô hữu." Như thế, tên cướp đã gặp vấn đề và hắn thắc mắc làm sao biết được ai là Kitô hữu và ai không phải là Kitô hữu. Hắn đã trở lại nhà thương và hỏi các nhà truyền giáo. Các nhà truyền giáo đã nói với hắn rằng nếu ai là Kitô hữu thì tất nhiên phải biết Kinh Lạy Cha và 10 Giới Răn. Từ hôm đó, ai tự xưng với hắn là Kitô hữu thì đều phải đọc Kinh Lạy Cha và Thập Giới.
Nếu mọi người đang hiện diện nơi đây được hỏi để chứng minh đức tin của mình bằng Kinh Lạy Cha và Thập Giới, tôi không biết có bao nhiêu người sẽ thi đậu, tuy nhiên tôi cho rằng đó không hẳn là bài thi của đức tin.
Bạn có thể đọc Kinh Lạy Cha, Thập Giới, và Kinh Tin Kính, và những bài Thánh Vịnh, thậm chí cả Tám Mối Phúc Thật. Tuy nhiên, tất cả những lời kinh này không đủ để trả lời cho câu hỏi, "Bạn có phải là Kitô hữu không?" Nói như vậy có nghĩa là "Bạn có biết khuôn đúc hóa chính mình theo cuộc sống của Chúa Kitô không? Bạn có cố gắng để sống đời Kitô hữu không? Bạn có trở nên một với Thiên Chúa trong Chúa Giêsu hay bạn là người xa lạ đối với Thiên Chúa?
Qua bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Luca kể lại cho chúng ta về cuộc cấm phòng của Chúa Giêsu trong hoang địa và bị cám dỗ do ma quỉ, Ngài "được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận. Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh" (Lc 4:14-15). Chúa Giêsu bắt đầu thu hút dân chúng đến với Ngài để nghe giảng dạy. Sứ mệnh công khai của Chúa Giêsu được bắt đầu bằng một cách tốt đẹp. "Rồi Đức Giêsu đến Nagiarét", Thánh Luca tiếp, "là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày Sabát" (Lc 4:16). Ngài đứng trước dân chúng và đọc một đoạn sách trong sách Isaiah: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa" (Lc 4:18).
Tất cả những con mắt trong hội đường đều tập trung vào Chúa Giêsu, như Thánh Luca đã kể lại. Thêm một lần nữa, Chúa Giêsu lại gây thêm một ấn tượng mạnh mẽ trên dân chúng. Sau đó Ngài bắt đầu nói với dân chúng, "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe." Nói một cách khác, "Đoạn văn vừa rồi trích từ trong sách Isia thật ra là nói về tôi. Thần Khí Chúa ngự trên tôi, và tôi là người được xức dầu để rao giảng cho người nghèo khổ, mùa lòa, và trả tự do cho người bị áp bức. Đi xa hơn một chút nữa trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy rằng "mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người" (Lc 4:19). Nhưng những người vừa mới khen Chúa Giêsu họ đã trở thành một đám côn đồ muốn giết chết Ngài.
Thánh Phaolô đã nhắn nhủ chúng ta rằng chúng ta phải có thái độ giống như của Chúa Kitô. Nói một cách khác, hiểu biết Chúa Kitô đem Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa đến và giải thoát cho nhân loại vẫn chưa đủ. Chúng ta còn phải biết đem Tin Mừng đó thấm nhập vào con người của mình và để cho nó sinh hoa kết quả. Qua đó, chúng ta biết cử xử làm sao với chính mình và với người khác giống như Chúa Kitô.
Thái độ này được diễn tả cách sống động qua một câu truyện nhỏ "Bàn Tay" của tác giả Sylvia Sunderlin.
Vào ngày mừng sinh nhật thứ 100 của người bố chồng, tôi quì bên bố và nắm lấy bàn tay nhợt nhạt và yếu ớt của ông. Bố chồng tôi nghiêng mình về phía tai tôi và nói nhẹ, "Con có một đôi bàn tay tuyệt vời." Những lời khen đó xem như là quá đáng. Tôi vẫn thường cảm thấy xấu hổ với bàn tay của tôi bởi vì nó xấu quá. Các khớp đốt ngón tay thì không còn xinh xắn, ngón tay cái thì bị cong sang một bên, còn ngón trỏ thì bị một cái lồi lên nữa. Nghe bố chồng tôi khen như vậy, tôi thật cảm động và chỉ còn biết thì thào, "Cám ơn bố!"
Những giây phút đó còn vang vọng trong tôi. Thỉnh thoảng, tôi nhìn bàn tay mình, và suy nghĩ rằng bố chồng mình thật hiền lành. Nhưng có lẽ ông đã nói sai... Tuy nhiên, dần dần, tôi bắt đầu quan sát bàn tay của tôi kỹ lưỡng hơn. Tôi bắt đầu khám phá ra những việc nó đang làm.
Nó đang cầm cây bút chì và kim chỉ, cái chổi và cái xẻng, cuốn sách và cây vợt tenis. Trộn bột pha bánh và đốt lên những ngọn nến sinh nhật. Các ngón tay ấn lên ấn xuống trên phím đàn dương cầm và bàn chữ, sử dụng cây cọ để vẽ và chiếc bàn ủi. Bàn tay này đã dùng để chải tóc cho con cái, gạt đi những dòng nước mắt, băng bó vết thương, và vỗ vễ những ai sầu khổ...
Rồi một ngày nọ, tôi nhìn bày tay của tôi và nhận ra chúng thật đẹp đẽ. Bố chồng tôi đã giúp cho tôi nhìn ra cái đẹp mà Thiên Chúa đã muốn tôi phải nhìn: các món quà quí giá từ Ngài, đã được ban cho tôi để phục vụ!
Thái độ của các bạn phải là thái độ của Chúa Kitô để người khác có thể nhìn thấy bàn tay của các bạn đẹp đẽ, là những bàn tay Kitô giáo, được ban tặng để phục vụ.
74. Trở về--Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Đức Giêsu trở về Galilê trong quyền năng của Thánh Thần” (Lc 4:14a).
Đang khi quân Pháp đánh nhau dữ dội với quân Nga, Napôlêon được mật báo sắp có một cuộc đảo chánh tại Pháp nhằm truất phế ông ta. Tức khắc, vị tướng lừng danh khắp cõi Châu Âu vội cải trang, lén lút đem theo vài cận vệ rời khỏi cuộc chiến đang hồi ác liệt để trở về Pháp, nhằm trừng phạt bọn phản loạn và để bảo tồn ngai triều hoàng đế của mình.
Đến một con sông, đoàn người phải thuê một bác chèo đò đưa qua bờ bên kia. Đang lúc sang sông, Napôlêon buộc miệng hỏi lão chèo đò: “Ông có thấy người lính Pháp nào trốn qua khúc sông này không?” Người lái đò, một công dân Pháp, không biết trước mắt mình là hoàng đế Napôlêon đang cải trang, nên vô tình mỉa mai đáp lại: “Tôi chỉ thấy ông và những kẻ theo ông là những người lính Pháp hèn nhát trốn về ngang đây đầu tiên.”
Người kể truyện không nói rõ Napôlêon, vị tướng hùng của dân tộc Pháp, kẻ chưa từng nếm mùi chiến bại đã phản ứng thế nào với lão chèo đò dám có những lời khinh thị kia, người viết chỉ kết bằng một câu chua chát: “Đây là một cuộc trở về ê chề nhất trong đời Hoàng đế.”
Trước đây, mỗi khi Napôlêon với đoàn quân viễn chinh trở về là những lúc kinh thành Balê tưng bừng náo nhiệt và ngập tràn ánh sáng. Người ta tung hô, múa nhảy, ăn mừng, bởi vì hoàng đế của họ đang mang lại chiến thắng, danh dự, an bình, vinh quang cho đất nước và dân tộc. Thế nhưng, hôm nay Napôlêon đã trở về không phải cho dân hay cho nước, song là cho chính mình-cho chính ngai vàng và quyền bính của mình, mà nghe đâu đang có kẻ đe doạ lật đổ. Hậu quả, vị tướng tài đã phải nhục nhã vô cùng khi nghe câu nói châm biếm của lão chèo đò.
Biến cố trở về của Napôlêon nhắc người ta nhớ đến hình ảnh nổi loạn của dân Do thái ngày xưa trong sa mạc: giữa một cuộc chiến đang hồi ác liệt với đói khát, thiếu thốn, nắng nôi trên con đường tiến về miền đất Chúa hứa, dân Do thái đã trở lòng. Họ muốn quay lui. Họ mơ tưởng đến những nồi súp, miếng thịt, củ hành, tép tỏi bên vùng đất Ai cập, nơi họ từng phải làm nô lệ, tôi đòi. Mơ chưa đủ, họ còn nổi loạn bắt Môisen phải cho phép quay về vùng đất đó. Không tha thiết gì với vùng đất “chảy sữa và mật ong” nữa.
Thế đấy, cả Napôlêon lẫn dân Do thái xưa, tuy khác nhau ở chỗ một bên đang trên đường trở về, một bên mong mỏi và nổi loạn đòi trở về, nhưng cả hai đều có cùng một mục tiêu trần tục và phù vân như nhau. Họ điên cuồng tức giận, bỏ mặc quân lính giữa cuộc chiến đang hồi nóng bỏng để trở về với nồi khoai, nồi thịt nay đầy mai hết, với những thứ mà Thánh Phaolô cho là “việc vàn của xác thịt.”
Hôm nay, Phúc Âm Luca cũng nhắc đến việc Đức Giêsu trở về (Lc 4:14). Cuộc trở về này xảy ra ngay sau một cuộc chiến ác liệt: cuộc chiến chống lại cám dỗ của quỉ ma trong sa mạc, suốt 40 ngày đêm liên tiếp.
Nhưng ngay từ khởi đầu, bài Phúc âm đã không nhắc đến việc Chúa Giêsu trở về với những gì liên quan đến xác thịt, nhưng lại nhấn mạnh: “Ngài trở về trong quyền năng của Thần khí.” Chúa Giêsu đã trở về trong quyền năng của Thánh Thần vì Ngài đã chiến thắng, vượt qua cuộc cám dỗ gay go về cơm bánh, vinh quang, và uy quyền thế gian. Ngài đã trở về không cho chính mình, song là cho mọi người, những ai cần đến ơn cứu độ.
Con người gồm có xác hồn, một tổng thể của vật chất và linh thiêng, của xác thịt và thần khí. Nhưng theo lời Thánh Phaolô trong thư Galata thì xác thịt và Thần khí luôn chống lại nhau. Nếu phần xác thịt-những đam mê, ham muốn, dục vọng, vật chất-thắng thế thì phần thiêng liêng tất sẽ bị suy yếu. Song nếu phần thiêng liêng hay Thần khí trong ta thắng thế thì sẽ chế ngự được những đòi hỏi của xác thịt.
Đức Giêsu trở về trong Thần khí. Ngài không để cho phần xác thịt là những đam mê vượt thắng. Ngài không quì gối bái lạy Satan để có được một chút vinh quang, danh dự, uy quyền. Ngài không để cho cái bao tử hay đồng tiền vật chất khuất phục mình, khi cương quyết không làm đá hoá bánh, không làm điều trái nghịch với tự nhiên để thoả mãn những tham muốn hay dục vọng riêng tư.
Trái lại, đối với Đức Giêsu, mọi vinh quang, danh dự, hay sự sống đều phải qui hướng về Thiên Chúa, chứ không phải Satan hay cá nhân mình. Đây chính là tinh thần của Đức Kitô. Đây cũng chính là Thần khí mà Ngài đã có khi trở về đất Galilê để khởi đầu sứ mạng rao giảng.
Có trở về trong Thánh Thần, tức có hướng lòng lên Thiên Chúa để vươn mình thắng vượt những tham lam, tiền bạc, bất công, và chế ngự những khát vọng uy quyền, xác thịt, danh lợi, thì mới có thể đem Tin Mừng cho người nghèo khó, mới giải phóng cho kẻ tù đày, và mới mở mắt cho người đui mù được. Còn nếu tôi cứ tự cột trói và giam hãm trong đau khổ và lo lắng thái quá về đồng tiền, của ăn, thế giá thì làm sao ta đem được Tin Mừng hay niềm vui cho người khác; có chăng chỉ là tranh chấp, gian dối, và u buồn thôi!
Người ta hay nói “đời là một cuộc trở về.” Đúng lắm! Và dưới cái nhìn của con mắt đức tin, mọi người đang trở về quê trời. Đây là một cuộc trở về vinh quang cuối cùng này, tôi vẫn cần luôn những cuộc trở về nho nhỏ, hằng ngày. Rất bình thường, nhưng không kém quan trọng.
Thử hỏi có hôm nào trong cuộc sống mà tôi lại không có một chuyến trở về nào đó: trở về từ sở làm, trở về sau khi đi nhà thờ, trở về sau lúc đi chợ, đi chơi, đi học, đi nhậu, trở về sau những cuộc hẹn hò, tiệc tùng v.v.. Nhưng thử hỏi với lần trở về như vậy, tôi mang theo được điều gì? Tôi mang về bực bội, khó chịu, cay chua, nóng nảy, giận hờn, ghen tuông hay đưa về Thần khí của Đức Kitô, thứ Thần khí hoa trái là mến yêu, vui mừng, bình an, quảng đại, hiền từ, tiết độ.
Chợt giật mình tự vấn: “Không biết mỗi ngày khi về nhà, tôi có đem về niềm vui, sự sống, an bình và thoải mái cho tâm hồn tha nhân, hay vợ chồng con cái của mình chăng?”
Cách nay không lâu, trên tờ báo Catholic Register người ta học thấy có câu chuyện “Trở Về” rất đáng suy tư. Số là anh Jim O’Donnell, một công dân Hoa kỳ 36 tuổi đang làm việc tại Luân Đôn, Anh quốc, cho một nhóm các ngân hàng của Hồng Kông và Shangai. Jim O’Donnell đã gây sửng sốt cho giới doanh thương Hồng Kông, Luân Đôn và cả New York khi tuyên bố rằng anh sẽ về nước, nghỉ việc, mặc dầu khi ấy các ngân hàng vừa tăng lương cho anh với số tiền là 1.650.000 đôla một năm.
Nhiều người thắc mắc tại sao anh Jim không tiếp tục công việc để hưởng số lương bổng mà không ít kẻ nằm mơ cũng chưa thấy được số lẻ của nó. Bạn có biết lý do anh trở về nước không?
Rất lạ! Anh về nước là để cho kịp niên học tại một chủng viện vào mùa Thu 98. Anh muốn đi học để trở thành linh mục. Đúng là anh trở về với tâm hồn của Đức Kitô, với Thần khí của Thiên Chúa, với tinh thần hy sinh những gì thuộc về xác thịt, quyền lợi, sở thích riêng tư, để thực hiện một ước vọng mới là mang Tin mừng, niềm vui và sự sống chân lý cho muôn người.
Xin Chúa cũng ban cho bạn trong những lần trở về với gia đình, cộng đoàn, có được chính Thần khí của Đức Kitô tác động và dẫn lối.
75. Đức Giêsu đến giải phóng con người--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ là gì? Có phải sứ mạng đó chỉ liên quan đến tâm linh và tôn giáo, không liên quan gì đến cuộc sống đời thường của con người?
2. Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ có bao trùm những lãnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội không? Có thể tránh được sự bao trùm ấy không? Tại sao?
3. Người Kitô hữu có bổn phận phải tranh đấu cho quyền sống và quyền sống cho ra con người không? Tránh né việc tranh đấu ấy có phải là thái độ đúng đắn không?
Suy tư gợi ý:
1. Sứ mạng của Đức Giêsu và các ngôn sứ
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đọc sách của Isaia nói về sứ mạng ngôn sứ của ông. Đức Giêsu cũng áp dụng sứ mạng ấy cho chính Ngài qua câu: «Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe». Đức Giêsu hay các ngôn sứ được «Thiên Chúa xức dầu tấn phong» và được Thần Khí Chúa ở cùng, để làm gì? Chắc chắn không phải chỉ để tế lễ hay đọc kinh cầu nguyện, cũng không phải chỉ để lo những chuyện thuần túy tôn giáo như «loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn», mà còn để làm cả những công việc xã hội, việc ngoài đời, như «cho người mù được sáng mắt», cho «kẻ bị giam cầm được tha», «trả lại tự do cho người bị áp bức». Sách Châm ngôn cũng nói lên một trong những công việc quan trọng mang tính xã hội của người ngôn sứ: «Con hãy mở miệng nói thay cho người câm, và biện hộ cho mọi người bất hạnh. Hãy mở miệng phán xử thật công minh, biện hộ cho những kẻ nghèo nàn khốn khổ» (Cn 31,8-9).
Thật vậy, cuộc đời của Đức Giêsu và của các tông đồ đầy dẫy những công việc như: chữa lành đủ mọi chứng bệnh, trừ khử đủ mọi thứ quỉ, hóa bánh ra nhiều để lo cho người đói… Sách Công Vụ Tông đồ nói về Đức Giêsu: «Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó» (Cv 10,38). Việc thi ân giáng phúc của Ngài không phân biệt lãnh vực nào là đạo, lãnh vực nào là đời. Gioan Tẩy Giả - cũng là một ngôn sứ - ngoài việc dọn đường cho Đức Giêsu, rao giảng sự hối cải, ông còn làm những công việc mang tính xã hội như lên tiếng cảnh cáo vua Hêrốt không được lấy vợ của anh ruột mình, bất chấp việc cảnh cáo ấy có thể dẫn ông vào tù hay mất mạng (x. Mt 14,3-12). Các ngôn sứ thời trước, ngoài những công việc mang tính tâm linh và tôn giáo, cũng đã từng dấn thân vào những việc xã hội như lên tiếng cảnh cáo vua cũng như toàn dân chúng về những tội ác của họ.
2. Đức Giêsu đến để giải phóng con người toàn diện
Ta thấy sứ mạng của Đức Giêsu là đến để giải phóng con người một cách toàn diện, cả tâm linh lẫn thể xác, cả cá nhân lẫn xã hội, bao hàm cả ba lãnh vực chính yếu của Kitô giáo là: chân lý, công lý và tình thương (x. Mt 23,23). Về tâm linh, Ngài giải phóng con người khỏi ách thống trị của tội lỗi, của lề luật, của thói hư tật xấu, khỏi tính yếu đuối của bản tính con người. Thánh Phaolô viết: «Chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta» (Gl 5,1; x. Rm 6,18; Cl 1,13). Ngài cũng đến để giải phóng con người về mặt thể chất: «Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta» (Rm 7,24-25); «Anh em đã chết cùng Đức Kitô và được giải thoát khỏi các yếu tố của vũ trụ» (Cl 2,20). Về mặt xã hội, Ngài đến để thực hiện một xã hội lý tưởng là Nước Trời, không chỉ tại thiên mà còn tại thế, trong đó mọi người đối xử với nhau bằng chân lý, công lý và tình thương.
Vì thế, từ khi thành lập đến nay, Giáo Hội vẫn tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu là cứu độ con người một cách toàn diện. Chủ trương đó phần nào được diễn tả trong kinh «Thương người có 14 mối», trong đó không chỉ có 7 mối về linh hồn mà còn có 7 mối về thể xác.7 mối về thể xác rất cụ thể là: cứu giúp những kẻ thiếu thốn vật chất (thiếu ăn, thiếu uống, thiếu mặc, thiếu chỗ ở…); an ủi, giúp đỡ và chữa lành những kẻ ốm đau bệnh tật; thăm viếng và tìm cách giải phóng những kẻ bị giam cầm một cách oan ức hoặc bị làm nô lệ; giúp kẻ chết trong cảnh nghèo khổ được chôn cất tử tế. Tất cả đều nhằm giúp cho mọi người - đặc biệt những kẻ nghèo khổ - được sống và chết xứng với phẩm giá cao trọng của con người, là con cái và là hình ảnh của Thiên Chúa.
3. Người Kitô hữu phải bảo vệ quyền sống cho ra người
Theo gương Đức Giêsu, tiếp tục thực hiện sứ mạng toàn diện của Ngài, nhiều Kitô hữu đã tranh đấu rất mạnh, rất hăng hái để bảo vệ sự sống, chẳng hạn chống phá thai, chống ngừa thai theo những phương pháp trái tự nhiên. Điều đó thật đáng khích lệ! Nhưng phần còn lại cũng rất quan trọng - là làm cho sự sống mà mình đã bảo vệ được sống cho xứng với phẩm giá con người - thì rất nhiều Kitô hữu lại coi nhẹ hoặc không đặt nặng. Như thế có khác nào «đánh trống bỏ dùi», «đem con bỏ chợ», «đầu voi đuôi chuột»? Thử hỏi: bảo vệ cho các thai nhi được quyền sống trên đời, nhưng lại không bảo vệ cho chúng quyền được sống hạnh phúc, sống đúng với phẩm giá con người, thì việc bảo vệ sự sống cho chúng có ích lợi gì? Ngoài việc bảo vệ sự sống, ta còn có bổn phận phát triển sự sống, để sống có chất lượng. Đừng để những thai nhi mà chúng ta cứu sống phải sống bất hạnh đến nỗi chúng phải than trách ta, những kẻ cứu sống chúng: «Thà để chúng tôi đừng sinh ra thì hơn!», «Tranh đấu cho chúng tôi sinh ra làm gì nếu sau đó lại để chúng tôi lâm vào cảnh lầm than khổ sở thế này?»
4. Phải tranh đấu cho công lý
Muốn mọi người được sống đúng phẩm giá của con người, xứng với địa vị của con cái Thiên Chúa, chúng ta phải loại trừ mọi hình thức bất công trong xã hội. Hiện nay, trong xã hội, sự xuất hiện hay sự thịnh vượng của người này có thể gây khó khăn hay làm giảm bớt quyền lợi của người kia. Vì thế, người ta tìm đủ mọi cách để tước đoạt hoặc giảm thiểu quyền sống và quyền sống cho ra người của nhau. Vì thế, muốn mọi người được sống đúng với phẩm giá của con người, phải có những người tranh đấu cho quyền ấy. Những kẻ đang tước đoạt quyền làm người của kẻ khác hầu như không bao giờ tự động trả lại quyền ấy cho người bị tước đoạt cả. Họ chỉ trả lại quyền đó khi chúng ta hoặc chính người bị tước đoạt tranh đấu đòi buộc họ phải trả lại. Hy vọng dùng cầu nguyện hoặc lời năn nỉ van xin để kẻ ác tự động trả lại sự công bằng cho mọi người quả là một ảo vọng.
Muốn cho mọi người đang sống được sống đúng với phẩm giá của mình, thiết tưởng chúng ta phải tranh đấu mới được, dù là tranh đấu trong ôn hòa, trật tự. Và chúng ta cần tranh đấu cho quyền sống cho ra người một cách cũng hăng hái và hữu hiệu như chúng ta đã từng tranh đấu để bảo vệ sự sống vậy! Là người Kitô hữu, được thúc đẩy bởi đức ái Kitô giáo, chúng ta có bổn phận phải tranh đấu cho mọi người có quyền sống và quyền sống cho ra người. Muốn thế, phải lên tiếng bảo vệ công lý, chống lại những cơ chế phát sinh bất công, nghèo khổ, đồng thời cổ võ mọi người - mà trước hết là chúng ta - sống yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
5. Tranh đấu như thế có hợp với tinh thần Kitô hữu không?
Việc tranh đấu cho quyền làm người và sống cho ra người như thế tất nhiên ít nhiều phải liên quan tới chính trị. Các ngôn sứ của Thiên Chúa không hề chủ trương làm chính trị. Nhưng khi thực hiện sứ mạng của mình, là làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương, các ông không ngại ngùng khi việc làm chứng ấy có vẻ như dính líu đến những vấn đề chính trị, hay mang tính cách chính trị. Việc lên tiếng hay làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương trong xã hội, làm sao tránh được chuyện liên can đến chính trị? cũng như làm sao tránh được chuyện liên can đến văn hóa, xã hội, kinh tế…? Tất cả mọi vấn đề trong xã hội con người đều liên quan đến nhau một cách chặt chẽ. Không thể làm một việc gì trong xã hội mà không bị liên can đến những vấn đề ấy! Không muốn liên can đến những vấn đề ấy thì làm sao lên tiếng hay làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương trong xã hội được? Muốn vô can thì chỉ có nước là im lặng, bất động, không nói không làm gì cả, và cũng hãy từ bỏ ý muốn làm ngôn sứ!
Cũng tương tự như các ngôn sứ không chủ trương làm mất lòng ai, hay làm ai ghét mình, nhưng nếu vì sứ mạng mà phải làm mất lòng, phải nên cớ cho người ta ghét, thì cũng đành phải chấp nhận. Chẳng lẽ vì sợ làm mất lòng, sợ bị người ta ghét mà mình đành lỗi sứ mạng của mình?! Phải chăng người ngôn sứ được miễn thi hành sứ mạng của mình khi việc thi hành sứ mạng ấy có liên can đến chính trị?
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, nhiều khi chúng con coi những gì liên quan đến chính trị như những điều kỵ húy, như thể chúng phản lại tinh thần Kitô hữu. Thực ra chúng con không thể tránh được sự liên quan ấy khi chúng con làm theo tiếng lương tâm, khi chúng con bảo vệ chân lý, công lý và tình thương. Chúng con đã coi chuyện tránh né những vấn đề chính trị còn quan trọng hơn cả việc tuân giữ lề luật của Thiên Chúa là luật yêu thương: chúng con sẵn sàng bỏ thi hành luật Chúa khi việc thi hành này có liên quan đến chính trị! Xin cho chúng con ý thức được quan niệm sai lầm của mình.
76. Sống đức tin hiện tại--Lm Trần Bình Trọng
Theo truyền thống tại giáo đường Do thái, thì trong việc thờ phượng, người ta thường cho đọc một bài Sách Luật, một bài sách tiên tri, theo sau là bài giảng. Trong Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu được mời vừa làm người đọc sách thánh, vừa là người diễn giảng. Chúa chọn bài trích sách tiên tri Isaia: “Thánh thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để loan báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4:18). Rồi Người ban lời huấn dụ, những lời đơn giản, nhưng quan hệ, những lời vượt trí hiểu của người nghe. Phúc âm thuật lại: Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người (Lc 4:20). Rồi Người gấp sách lại nói: Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh qúi vị vừa nghe (Lc 4:21).
Thực ra thì không phải chỉ có đoạn Kinh Thánh này mới được ứng nghiệm, mà tất cả toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu là Người đã hoàn tất mọi điều viết trong Kinh Thánh Cựu Ước. Bằng việc tỏ ra là Người ứng nghiệm lời Kinh Thánh Cựu Ước, Chúa Giêsu biểu lộ cái căn tính thực sự của Người. Người biết rõ Người là AI, và tại sao Người đến trong thế gian.
Cho tới lúc này, người Do thái tự vinh quang hoá cái dĩ vãng của họ. Họ được nhắc nhở họ là dòng dõi được lựa chọn, hàng tư tế vương giả, chủng tộc thánh thiện và dân riêng của Chúa. Họ được dạy bảo về Apraham mà họ coi là tổ phụ. Họ lắng nghe những câu chuyện về Môisê, người đã đưa họ thoát khỏi vòng nô lệ bên Ai-cập, vượt qua biển đỏ. Họ học biết về vua Solomon đã xây dựng đền thờ Giêrusalem đồ sộ và nguy nga, và làm sao Nơ-khe-mi-a đi tiên phong trong việc tái thiết đền thờ sau cuộc lưu đầy bên xứ Babylon.
Cũng vào thời kỳ đó, người Do thái mơ tưởng về tương lai của họ. Điều họ chú tâm và tầm quan trọng của họ trong lịch sử xem ra nằm trong tương lai. Họ hướng về cái ngày tái thiết vương quốc của họ. Vì thế chính Đấng cứu thế đang ở giữa họ, nhưng họ không nhìn thấy, hay không chấp nhận. Cho nên họ vẫn mong đợi vị cứu tinh khác.
Những cái tự hào của người Do thái cổ xưa một phần nào cũng giống những cái tự hào riêng của mỗi người chúng ta. Ta có thể tự hào là gia đình tôi theo đạo gốc, gia đình tôi có người làm linh mục, làm giám mục, làm bà sơ. Tôi đã được chụp hình và bắt tay với hồng y nọ kia, ngay cả với đức giáo hoàng. Tổ tiên tôi là thánh tử đạo nọ, thánh tử đạo kia. Quê tôi có nhà thờ lớn được kiến trúc theo kiểu này kiểu nọ. Những cái tự hào đó cũng là tốt bao lâu giúp cho mình sống theo mẫu gương đạo hạnh của tiền nhân. Tuy nhiên những cái tự hào đó có thể khiến cho mình trở nên tự mãn và dựa thế, không muốn tiến thân trên cuộc hành trình đức tin và sống đạo. Ta để cho mình sống như cây tầm gửi. Cái việc tổ tiên ta là người thế nọ thế kia, hay làm được chuyện nọ việc kia là một chuyện. Còn cái việc chính ta có sống đạo và thực thi đức tin hay không lại là chuyện khác.
Trong khi ta đang sống trong thời gian ở giữa, giữa cái thời gian Chúa Cứu Thế đã đến trong lịch sử loài người và cái thời gian Người sẽ đến để kết thúc lịch sử loài ngưòi, ta không được ngồi đó với thái độ tự mãn hoặc thờ ơ lãnh đạm. Ta phải sống cái đức tin hiện tại ở đây và bây giờ với khả năng và phưong tiện có thể. Nếu ta coi việc Đấng Cứu Thế đã đến như một biến cố thuộc dĩ vãng, không ăn nhập gì tới nếp sống hiện tại, là ta để cho đức tin dựa vào quá vãng. Đức tin của ta không phải là đức tin dựa trên quá vãng hay hướng về tương lai. Nhiều người trong chúng ta cũng đặt đức tin vào tương lai. Họ tự nhủ mình: Ngày nào đó họ sẽ đi xưng tội để làm hoà với Chúa, họ sẽ sống đạo hạnh hơn; họ sẽ làm lại cuộc đời, sẽ sống đạo hạnh hơn. Và cái ngày đó không bao giờ đến, hay đến quá trễ vì bất thình lình họ đã trở thành người thiên cổ.
77. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
TIỀN NGÔN (1,1-4)
Trong phần Tiền ngôn này Luca sử dụng một thể loại văn xuôi tuyệt hảo trong Hy ngữ – toàn bộ, chẳng hạn chỉ là một câu chuyện nguyên bản – và một từ vựng rất giống với các bản khảo luận Hy Lạp thời đó về nhiều vấn đề khác nhau. Từ đó, Luca muốn nói rõ rằng sách của ông là một tác phẩm có tính cách thời sự dành cho những người cùng thời ông không phải là người Do Thái và dùng những cấu trúc riêng. Do đó, truyền thống Tin Mừng được nâng lên như một tác phẩm văn chương.
Trước hết, Luca tự định vị mình trong tương quan với những người đi trước đã viết trình thuật; những phẩm chất mà ông hy vọng làm sáng tỏ (một thông tin cẩn thận về những gì đã xảy ra từ lúc khởi đầu để viết một trình thuật liên tục) mà theo ông nghĩ là họ còn thiếu – điều đó giải thích công việc của ông. Ít nhất việc này nhằm đến hai nguồn mà Luca sẽ dùng; Tin Mừng của Maccô, chẳng hạn, không ghi lại cuộc sinh hạ của Chúa Giêsu cũng như những lần hiện ra sau Phục Sinh, và một tập hợp những lời của Thầy (nguồn “Q”), dường như trong đó không có một trình thuật nào.
Những người đi trước ông đã kín múc từ truyền thống một thuật ngữ có gốc gác Kinh sư, để chỉ việc lưu truyền bằng miệng các Tin Mừng do các chứng nhân chính thức. Những người này đã thay đổi nếp sống: lúc đầu – Lc 3,23 sẽ chỉ cho thấy từ ngữ chỉ lúc khởi đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu chứ không phải là lúc Ngài sinh ra – họ đã là những chứng nhân mắt thấy tai nghe những hành động và giáo huấn của Chúa Giêsu (đó là nội dung qnt), rồi họ đã trở thành những tôi tớ phục vụ Lời (quyển thứ hai: Công vụ Tông đồ). Luca cho thấy hai mức độ sống này khi kể lại chuyện Matthêu giữa nhóm Mười Hai: nhân chứng mới này được chọn từ những kẻ đã theo Chúa Kitô từ khi Ngài chịu Gioan làm phép rửa cho đến ngày Ngài được nâng lên (Cv 1,21-22). Nhưng ở đây Luca không nhắc đến tên Giêsu, ông thích đặt mình trong một bối cảnh lớn hơn, đó là những biến cố đã được Thiên Chúa thực hiện, qua sứ vụ của Chúa Giêsu nơi chứng tá của các tông đồ.
Như thế Luca tường thuật nhờ bốn đặc tính đã được nên ở trên (một thông tin cẩn thận về tất cả những gì từ lúc khởi đầu để viết một trình thuật liên tục), đó là phong cách riêng của ông. Ông đã có ý cẩn thận lắng nghe truyền thống Giáo Hội và viết một trình thuật liên tục. Liên tục ở đây trước hết không có nghĩa là theo trật tự thời gian đúng hơn phải cho thấy rằng tác phẩm của ông soi sáng cách thức mà Thiên Chúa thể hiện từ biến cố này đến biến cố khác, ý định cứu độ của Người trong lịch sử. Không thể chối cãi rằng Luca có quan tâm đến lịch sử, nhưng khi đã biết các tác phẩm của những sử gia Hy Lạp và Latinh đồng thời với ông, chúng ta đừng đánh giá dự phóng của Luca theo quan niệm ngày nay về việc nghiên cứu lịch sử.
Tất cả các tác phẩm được đề tặng ông Thêôphilê rất đáng kính, một người mới trở lại, gốc ngoại giáo, có lẽ giữ một địa vị quan trọng trong hành chánh La Mã. Mục đích Luca theo đuổi là thuyết phục Thêôphilê về sự vững chắc của giáo lý mà ông đã nhận – bày tỏ một phong cách làm việc rõ ràng có tính cách Giáo Hội.
Tiền ngôn được viết bằng một ngôn ngữ Hy Lạp rất hay. Điều đó cho thấy sự tương phản lớn lao với “Tin Mừng thời thơ ấu”. Để nói lên rằng những biến cố đương thời mà ông kể vẫn tiếp tục lịch sử thánh, Luca đã sử dụng một ngòi bút khác và bắt chước thể văn của bản dịch Thánh Kinh sang tiếng Hy Lạp, tức bản Bảy Mươi. Chúng ta thử tưởng tượng Jean Laconture mô phỏng Bossuet để tả lại thời thơ ấu của De Gaulle... Có những lối mô phỏng thể văn đầy ý nghĩa. Để hiểu Luca, ta cũng phải biết rằng, trong thế giới Hy Lạp thời ông, chỉ có những gì “cổ điển” mới có thế giá, còn những gì “mới mẻ” thì đáng ngờ vực. Hơn nữa, bản Bảy Mươi cung cấp cho Luca từ vựng và những kiểu mẫu tư tưởng để nói về biến cố Giêsu Kitô.
RAO GIẢNG TẠI NAGIARÉT
Gần như được sáng tác hoàn toàn bởi Luca, cảnh rao giảng của Chúa Giêsu trong một thành nơi Người đã được nuôi dưỡng có một tính cách chương trình hóa rất rõ nét; thực vậy, nó loan báo những chủ đề sẽ chiếm một chỗ trung tâm trong toàn bộ Luca-Công vụ.
Phần tóm tắt dẫn nhập (14,15) nói lại một lần nữa việc Chúa Giêsu được trang bị bằng Thần Khí tiên tri, Đấng, sau thời gian ở sa mạc, sẽ dẫn dắt Người trên các nẻo đường của sứ vụ. Nội dung giáo huấn của Chúa Giêsu không được nhắc đến – trong khi ở Mc 1,15 Người rao giảng một cách rõ ràng về Vương Quốc của Thiên Chúa, như vậy lời giảng đại khái đầu tiên của Chúa Kitô sẽ là giải thích lời tiên tri Isaia. Luca sẽ rất thường ghi chú rằng Chúa Giêsu giảng dạy mà không nói nội dung; đó là vì nói lên lời là một hành động, không lệ thuộc vào nội dung. Trái ngược với vị Tẩy Giả, Chúa Giêsu thường giảng dạy trong những nơi chốn và những thời gian đặc biệt gắn liền với công việc này: Chúa Giêsu có thói quen vào một hội đường trong ngày Sabat. Hãy chú ý sự phân biệt khi Luca nói về những hội đường của họ (c. 15); bởi vì vào quãng năm 85-90 khi Luca viết Tin Mừng, thì việc đoạn tuyệt với đối tượng đã tới cao điểm, thẩm quyền Do Thái giáo cấm các Kitô hữu từ nay không được rao giảng khi cử hành nghi thức tại hội đường. Cuối cùng, lần thứ nhất ta gặp chủ đề về danh tiếng của Chúa Giêsu và phát sinh từ lời giảng có quyền uy của Ngài.
Phần thứ nhất của trình thuật (cc. 16-22) diễn tả một phần phụng tự hội đường. Phần này bỏ lời kinh khai mạc và bài đọc thứ nhất trích từ Luật Môsê, để chỉ giữ lại trích dẫn dài của phần hai: sấm ngôn Is 61,1-2, Luca chỉ bỏ một lời đe dọa: “Công bố ngày báo oán của Thiên Chúa chúng ta”… Theo sấm ngôn trên đây, vai trò của sứ giả là loan báo một cách có hiệu quả việc chấm dứt những gì làm cho người nghèo phải đau khổ và những kẻ tàn phế trong cuộc sống, công bố khai mạc một thời kỳ trong đó con người sẽ được Thiên Chúa tiếp nhận. Cấu trúc của các câu 16-20 rất kỹ lưỡng:
(Người) đứng lên
họ trao cho Người cuốn sách
Người mở ra
Gặp đoạn chép rằng (Is 61,1-2)
(Người) cuộn sách lại
trả cho người giúp việc
rồi ngồi xuống.
Như vậy độc giả của Luca, vừa được soi sáng bởi cuộc hiển linh dịp Chúa Giêsu chịu phép rửa, hiểu rất rõ rằng người hùng của Thiên Chúa, được xức dầu bằng Thần Khí, chính là Đức Giêsu và sứ vụ được diễn tả đó là sứ vụ Người sẽ thi hành như được kể trong phần tiếp theo của Tin Mừng Luca.
Tuy nhiên, ngay khi ngồi xuống –ở Palestin khi giảng thì ngồi, nhưng trong các hội đường ở hải ngoại thì lại đứng (Cv 13,16)- Chúa Giêsu giải thích cho người Nagiarét: “Hôm nay, đoạn đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. Người không nói rõ ra: “bởi vì Kinh Thánh nói về tôi và các ông có thể thấy điều đó” –cũng như Người không bao giờ nói mình là Đức Kitô hay vị tiên tri. Người cung cấp cho các thính giả các dấu chỉ, nhưng để họ tự do dùng trí thông minh mà đón nhận hay từ chối dấu chỉ được trao ban: Người mời họ nhận cái mới mẻ đã xảy đến giữa họ. Nhưng, tuy tỏ ra tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Chúa Giêsu, những người Nagiarét chỉ nhìn thấy một phương diện của Chúa Giêsu (con ông Giuse); họ không thể nhận ra nơi Người vị Ngôn Sứ cuối cùng mà Is 61 đã ám chỉ.
78. Chú giải của R. Gutzwiller
LỜI TỰA CỦA THÁNH KÝ.
Lời mở đầu Tin mừng của Thánh Luca đưa ra ánh sáng hai ý niệm quan trọng:
1. Tin mừng muốn chuyển đạt một sự xác thực. Điều này được nói rõ như là mục đích riêng của Tin mừng. Sự xác thực này dựa trên những yếu tố khác biệt nhưng trước hết dựa trên chính nội dung của Tin mừng. Tin mừng trước hết không phải là một giáo thuyết, nghĩa là không phải là một kiến trúc trí thức, cũng chẳng phải là một bộ luật với những giới luật và cấm đoán, hay là một vòng hoa gồm những chuyện thần tiên mà một thế hệ sau đã thêu dệt lên chung quanh con người Giêsu; hơn thế Tin mừng càng không phải là một huyền thoại, nói khác đi, là một tư tưởng viết lên thành kịch. Trái lại, trong Tin mừng, các sự kiện thực sự đã được kể lại. Lòng đạo đức đích thực phải khách quan, xây trên những thực tại.
Thiên Chúa là nguyên nhân đầu tiên, và việc Ngài đến trong thế gian này là một việc lớn lao nhất, chính yếu nhất trong các chân lý. Ở đây phát sinh một sự kiện hiển nhiên, có thể sờ thấy đuợc, nhờ đó mà tất cả mọi hoạt động của nhân loại và tất cả các sự vật khác có được một giá trị và một ý nghĩa mới mẻ. Đó là những sự kiện cụ thể mà Tin mừng kể lại.
Tiếp đến là chủ ý nói tới những biến cố xảy ra giữa chúng ta, ‘trong môi trường của chúng ta’. Thánh Luca không phải như là một sử gia cố gắng tái lập những biến cố cổ xưa từ nhiều thế kỷ nhờ vào các nguồn mạch. Ngài viết trong chính miền mà những sự việc đã xẩy ra và thuộc về thế hệ chứng nhân của những việc đó.
Những nguồn mạch Ngài múc ra bảo đảm được sự đích thực. Ngài không trực tiếp là Tông đồ hay môn đệ của Đức Giêsu. Ngài cũng chẳng hề được diện kiến Thày hay nghe chính lời Thày. Nhưng những cái Ngài biết, dựa vào những chứng nhân tận mặt, họ làm chứng về những cái họ đã chứng kiến, mà không phải chỉ là đứng ngoài nhìn, nhưng còn được tham gia việc phục vụ Lời Chúa nữa. Nhiệm vụ chính của họ là truyền đạt Tin mừng và tất cả hoạt động của họ đều nhằm vào viễn tượng này. Họ không nói lại lời nào khác mà trao lại ‘lời’, trao lại ‘những lời của Ngôi Lời’, những ngôn từ thần linh nhân loại của Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể.
Thánh Luca đã dùng đến nhiều nguồn khác nhau. Ngoài những bản văn chính lục của Matthêu và Máccô, Ngài còn sử dụng những nguồn khác và hơn thế, Ngài đã dùng một số lớn những bằng chứng khẩu truyền. Một khi biết được sự chính xác của trí nhớ người Phương đông cổ xưa, người ta sẽ hiểu được những chuyện kể truyền khẩu được quy định nhanh chóng trong một hình thức cố định được truyền lại hết sức là chính xác.
Cuối cùng, chính Thánh Luca là con người được coi là chắc chắn. Ngài chú trọng đến tất cả những gì được cung cấp từ nguồn ngọn, Ngài không phải là con người dễ tin và nhẹ dạ: là người Hy lạp và là thày thuốc, Ngài là một quan sát viên biết cân nhắc, có tài đánh giá thực tại, không ưa những chuyện mơ mộng và huyền hoặc. Ngài không hài lòng với việc chỉ nhắc lại cái chính yếu thôi, nhưng nhấn mạnh tới các nguồn mạch. Tin mừng của Thánh Luca không bắt đầu như Thánh Máccô bằng cuộc đời công khai của của Chúa Giêsu. Nhưng hơn ai hết, Ngài thuật lại với nhiều chi tiết, những khởi đầu của một sứ điệp lạ lùng: truyền tin, giáng sinh và hơn thế nữa sự mong đợi và sinh nhật của Vị Tiền hô.
Cuối cùng, Ngài quyết định ‘cứ tuần tự’ kể lại các biến cố, không phải kéo dài từ đầu chí cuối mà sắp xếp theo một lược đồ rõ rệt, một tổng hợp gồm nhiều yếu tố được thích ứng một cách rành mạch, hợp lý.
Như vậy, dưới cái nhìn thế trần, Tin mừng theo Thánh Luca đã làm thành một văn phẩm chính xác. Còn với các tín hữu, chúng ta chỉ biết dưới những lời này Thần Khí Thiên Chúa, Đấng linh ứng cho tác giả Tin mừng, tuy dấu mình, chính Thần khí này là tác giả thực sự của Tin mừng, Đấng ban cho chúng ta niềm chính xác hoàn toàn do sự thật bất-khả-ngộ.
2. Cùng với mục đích của nó, lời tựa này còn cho chúng ta thấy ít nhiều đặc tính cá biệt của Tin mừng. Tác giả là người Hy lạp và là một y sĩ. Hai sự việc này có tầm mức quan trọng đặc biệt: là thày thuốc, Thánh Luca đã chú trọng rất nhiều tới tác động cứu độ và chữa trị của Đức Giêsu. Vì thế, Ngài đã học lại cho chúng ta cách dồi dào những cử chỉ giúp đỡ và chưã lành bệnh nhân thể xác, khuyên nhủ và thứ tha bệnh nhân tinh thần, những tội nhân.
Vậy hình ảnh Đức Kitô đây mới là dung mạo của Đấng Cứu đời đích thực. Đức Giêsu chữa cả xác lẫn hồn. Qua các cuộc tranh luận, chiến đấu hay qua đau khổ, tử nạn và sống lại hoặc qua sự thảm bại hay chiến thắng, tất cả đều được biến đổi dưới sự từ tâm sáng ngời đầy nhân đạo và lòng bác aí của Ngài.
Thánh Luca không phải là một dân thường như Thánh Máccô hay một nhà tranh luận học thức như Thánh Matthêu, hoặc một thần học gia và một nhà thần bí như Thánh Gioan, nhưng là một y sĩ, hiểu được nỗi thống khổ của con người và sự trợ giúp của Thiên Chúa, hiểu được bệnh tật và việc chữa trị được tội lỗi và ơn tha thứ.
Thánh Luca là người Hy lạp, là dân ngoại chứ không phải là Do thái. Vì thế sứ điệp của Ngài đã làm nổ tung những khuôn khổ chật hẹp của người Do thái. Cái nhìn của Ngài bao gồm cả nhân loại, chân trời của Ngài rộng như vũ trụ. Ngài nhấn mạnh tới yếu tố mới mà Chúa Giêsu đem đến, đó là Tân ước và việc tạo dựng một dân mới của Thiên Chúa; Lời mời gọi được trao đến tất cả mọi người như đã âm vang tới cả hoàn vũ, đến nỗi Giáo Hội phổ quát trở thành công việc của Đấng cứu độ toàn cầu.
Lời tựa ngắn gọn và trọng yếu này thực sự sửa soạn cho yếu tố cấu thành nên mục đích và nguồn gốc của Tin mừng theo Thánh Luca. Vì thế nó cho thấy nơi tác giả thái độ trí thức xứng hợp và việc chuẩn bị nội tâm.
Chúa Giêsu tới, đòi hỏi một sự thay đổi toàn bộ cả bên ngoài lẫn bên trong.. Con người sẵn sàng đáp ứng đòi hỏi đó nếu nó dựa trên sự chính xác và mở rộng ra được những viễn tượng lớn lao và rộng rãi. Mục đích, đặc tính của Tin mừng Luca đã bảo đảm được cả hai điểm đó.
TRỞ VỀ GALILÊ
Trước khi thuật lại một giai đoạn quan trọng trong việc giảng Tin mừng ở Galilêa, Thánh Luca đã viết một dấu nhập nhắn làm nổi bật tất cả hành năng của Chúa Giêsu trong giai đoạn này.
‘Chúa Giêsu trở về Galilêa’. Điều này tự nó không hiển nhiên. Hoạt động có tính cách chờ mong Đấng Messia đã được Gioan Tẩy giả mở đầu ở xứ Giuđêa; như vậy, khởi đầu công cuộc giảng Tin mừng ở đó hợp lý biết bao.
Hơn nữa, Chúa Giêsu còn được chuẩn bị để đi vào xứ này bằng bao biến cố xảy ra bên bờ sông Giođan, vì xứ Giuđêa với thủ phủ là Giêrusalem, quê hương riêng của dân Thiên Chúa. Chính ở đây có đền thờ, ở đây các lễ hy sinh được dâng tiến và muôn dân tuôn về đó, ở đây người ta thấy có giai cấp tư tế, các trường phaí bác học và rồi truyền thống các tiên tri cũng được lưu giữ ở đây.
Thế nhưng, trái với sự mong chờ, Chúa Giêsu lại trở về Galilêa. Sau này, Ngài mới lên Giuđêa, ở đó Ngài sẽ đương đầu với các thù địch, sẽ hiến mạng sống mình làm lễ hy sinh và kết thúc công trình cứu độ của Ngài. Nhưng giờ ấy chưa đến.
Trước hết, Ngài muốn thư thả để tiếp tục loan báo Nước Thiên Chúa, đặt nền móng cho Giáo Hội, thu họp những người tin. Ngài thấy xứ Galilêa có số dân chúng sẵn sàng hơn. Nước Thiên Chúa là một hồng ân: vì thế, những người quyền cao chức trọng, những người giàu có, những đầu óc kiêu căng không thể chấp nhận được. Họ ngỡ rằng mình có thể giúp mình được rồi; kẻ tự tin ở sức riêng mình đâu có hy vọng nơi Đấng Cứu Chuộc. Kẻ câỵ dựa vào sức lực riêng mình, thì không biết chuẩn bị để đón nhận ơn sủng.
Từ đây, những nét chính trong bố cục Tin mừng của Thánh Luca đã lộ ra. Xứ Galilêa là điểm khởi hành. Những phân chia chính yếu trong cuốn sách Thánh này được sắp xếp theo những nơi chốn địa dư: phần thứ nhất diễn biến trong xứ Galilêa, phần thứ hai trên đường từ Galilêa đến Giuđêa, phần thứ ba ở ngay trong xứ Giuđêa.
Bên trong hai miền trên, Thánh Luca xen lẫn và phối trí theo một mức độ nào đó, một loạt các biến cố theo thứ tự niên biểu, nhưng chỉ phác hoạ những nét chính, vì đó bao giờ cũng là sự liên tục có tính cách luân lý hơn là vấn đề niên biểu.
‘Trong quyền năng của Thánh Thần. Cũng một Thần trí đã đưa dẫn Chúa vào chốn cô tịch, bây giờ lại đưa dẫn Ngài đến giữa loài người. Điều này có ý nói Chúa Giêsu hoàn toàn để cho Thần trí hướng dẫn.
Ai muốn hướng dẫn đời mình chỉ bằng những ý tưởng của riêng mình, và tin tưởng ở cảm hứng của mình thì sẽ không tìm được vị thế đúng đắn của mình trong trật tự cao sang và thánh thiện của Thiên Chúa. Còn người nào biết cầu nguyện, mở cửa lòng mình đón nhận những sự trên cao, hẳn được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn, dầu trong cảnh tĩnh mịch hay giữa lòng đại chúng. Chúng ta đã đánh mất tâm tình sẵn sàng để được dẫn dắt như thế, đó là căn cớ của mọi hỗn độn, vô trật tự.
Thánh Thần Thiên Chúa đồng thời cũng tượng trưng cho mầu nhiệm riêng tư thâm tình nhất của Chúa Giêsu. Ngài hoàn toàn thấu suốt bí nhiệm đó, hành động và quyết định của Ngài.
Tin mừng nói về sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Những lời giảng mạnh mẽ của Chúa Giêsu, sức mạnh của các phép lạ Ngài làm hết thảy đều phát xuất từ nguồn phong phú mãnh liệt là Thánh Thần Thiên Chúa. Từ ngữ Hy lạp ‘dunamis’ gồm có ý tưởng chuyển động. Ở đâu Thần trí Chúa hoạt động, ở đó hẳn sẽ có chuyện lạ. Đây không phải là sự yên nghỉ suông, mà là một hoạt động đang trên đường đi đến hiện thực.
Những khả năng thực hiện việc lớn, khả năng sáng tạo của Thánh nhân không thể đem đồng hoá với hoạt động bên ngoài; đó là một năng động, một năng động tính thực sự, kín múc từ trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Nhiều vị thánh nhân xác yếu đuối, dễ bị bệnh tật, thế nhưng sức làm việc của các Ngài chưa chắc người khoẻ mạnh cường tráng có thể theo đuợc. Sức mạnh của các Ngài là sức mạnh của Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng muốn làm những việc vĩ đại bằng những công cụ mỏng dòn.
‘Tiếng tăm Ngài lan ra khắp miền xung quanh’. Vẻ tĩnh mịch của làng Nagiarét, sự cô tịch của vùng hoang địa từ nay thuộc về quá khứ. Chúa Giêsu đã xuất hiện giữa con người. Sứ điệp của Ngài không còn chi bí mật cả: tiên vàn lời kêu gọi được chuyển từ làng này qua làng kia, sau được truyền từ xứ này qua xứ nọ và rồi từ dân này tới dân khác.
Viên đá được ném xuống mặt hồ: những gợn sóng, những vòng đồng tâm cứ lan rộng cho đến khi đụng vào ngưỡng cửa của vĩnh cửu. Một âm điệu mới đã vang lên và sẽ chẳng bao giờ ngưng đọng nữa dù là trong thời gian, dù là trong thế giới bên kia.
Sự lan tràn của Tin mừng này ngay từ khởi đầu, công cuộc giảng phúc âm ở Galilêa đã mang lại cho lần xuất hiện đầu tiên của Chúa Giêsu trước quần chúng một tính chất mạnh mẽ vô địch, một vẻ tươi mát của mùa xuân, của giọt sương mai và niềm vui khi hừng đông xuất đầu lộ diện. Một đàng người ta cảm thấy có sự trao ban, một đàng là sự đón tiếp đầy nhiệt tình hoan hỷ. Những dân cư khiêm tốn, quê mùa, những ngư phủ mộc mạc tỏ ra rất sung sướng vì có một vị tiên tri xuất hiện giữa họ, xuất thân từ giai cấp họ; một người hiểu được họ, biết được nếp sinh hoạt của họ, chia sẻ số phận của họ, đồng thời lại cao cả hơn họ, nói năng rõ ràng, hướng dẫn sáng suốt và hành động vì lòng thương yêu.
‘Ngài giảng dạy trong các hội đường của họ’. Chúa Giêsu còn dạy dỗ ở nhiều nơi khác nữa: ở bờ hồ, trên triền núi, trong tư gia; nhưng tiên vàn Ngài năng dạy dỗ trong các hôị đường, bởi chính ở nơi đây, dân chúng tụ tập lại để nghe đọc lề luật và các tiên tri.
Đối vời giáo lý của Thày, lề luật và các tiên tri tượng trưng cho điểm gặp gỡ bề ngoài lẫn bề trong. Nhưng trước hết nhấn mạnh đến giáo huấn. Đấy không phải là điểm quan trọng nhất trong cuộc đời Chúa Giêsu. Cái chết và Phục sinh của Ngài còn vĩ đại hơn nhiều. Nhưng dầu sao, nếu giáo huấn có được đặt lên hàng đầu thì cũng là để chứng tỏ giá trị của Lời giảng.
Ngài tỏ mình ra như một tiến sĩ luật, bởi vì Ngài công bố quan niệm đúng đắn về luật cũ và về luật mới của Tin mừng.
Chúng ta luôn phải lắng nghe Lời Thiên Chúa để khỏi bị những lời của nhân loại dẫn vào mê lộ. Chính Lời của Thiên Chúa, giáo lý của Chúa Giêsu, chứ không phải khoa học, sẽ giúp giải quyết những bí ẩn tối hậu, và giải đáp những vấn đề thâm sâu nhất.
‘Ai nấy đều ca tụng Người”. Con người của Ngài, cách Ngài nói, cách Ngài tỏ mình, thái độ, hành năng của Ngài có một cái gì hấp dẫn khó cưỡng lại được. Ai lắng nghe Ngài mà lòng không thành kiến và nội tâm không chai đá thì hẳn phải thán phục và mến yêu Ngài. Vì Ngài có sức bắt buộc phải chọn lựa. Quần chúng xôn xao, nọi người và mỗi người phải chọn lựa cho mình một thái độ theo hay không theo, không ai được kính nhi viễn chi, dửng dưng, trung lập… Một sự hồ hởi nổ tung. Đây là phản ứng đầu tiên. Từ từ sự chống đối manh nha và rồi lớn mạnh thành cả một mặt trận phản kháng. Nhưng ở khởi đầu, thì chỉ có một đám đông dân cư vui mừng hoan hỉ. Mọi người đều vang tiếng hát bài ca mới; Người ta nói đến cuộc khởi hành mới… Thần khí của Chúa Giêsu Kitô làm phát sinh nhiệt tình phấn khởi.
Bằng vài lời đó, công cuộc rao giảng Tin mừng ở Galilêa được phác hoạ như là một giáo lý và hành năng có sức mạnh lớn lao, một khơi động niềm vui và là công trình của Chúa Thánh Thần.
NAGIARÉT
Theo Thánh Luca, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ chính thức ở Nagiarét. Thánh ký không muốn nói rằng Chúa Giêsu giảng ở đó lần đầu, vì Ngài có nói đến bản văn viết về Chúa đã giảng dạy ở Caphanaum. Nhất là vì Thánh Luca muốn chứng tỏ bằng một thí dụ, và ngay từ đầu cuộc sống công khai của Chúa Giêsu cho thấy lý do hành năng của Ngài đã gây ra sự phân cách, người chấp nhận, kẻ từ bỏ.
Vì thế, quang cảnh tả ở đây cấu thành một thứ lời tựa và mở đầu cho hoạt động của Chúa ở Galilêa, nhờ việc khai triển trình thuật đó cùng với bầu khí của nó.
NHIỆT TÌNH ĐÓN NHẬN.
Trong hội đưỡng, khi hai bài đọc về lề luật và tiên tri chấm dứt, thì một cử toạ có thể đứng lên chú giải bản văn, hoặc là giải thích, hoặc là đưa ra bài giáo huấn xây dựng. Chúa Giêsu cũng làm như thế. Ngài bảo người ta đưa cho Ngài cuốn sách tiên tri Isaia, Ngài đọc bản văn Ngài đã chọn rồi ngồi xuống để giáo huấn. Mọi người chờ đợi với sự kinh ngạc khôn tả. Chúa Giêsu chưa làm gì ở Nagiarét khiến người ta chú tâm đến Ngài. Ngài cũng chẳng là một Ra-bi đã từng tra cứu sách này sách nọ… Bỗng dưng người ta nghe đồn Ngài đã khởi sự giảng dạy trong những thành khác ở xứ Galilêa.
Đây là lần đầu tiên Ngài trở về ngôi làng nơi Ngài sinh trưởng, nơi mà ai nấy đều biết Ngài tỏ tường. Ngài sắp nói gì đây?. Trong bản văn Ngài vừa đọc, tiên tri Isaia mô tả thời cuối cùng kết thúc cuộc lưu đày và mở đầu cho một thời kỳ huy hoàng tương lai, thời kỳ Đấng Cứu Thế xuất hiện. Với một vẻ đơn sơ nhưng trang trọng, Chúa Giêsu đã áp dụng những lời tiên tri vào chính bản thân Ngài cách rất tự nhiên: ‘Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh thánh mà tai các ngươi vừa nghe’.
‘Thánh Thần Chúa ngự trên tôi’. Nếu ai có thể nói được điều đó thì hẳn phải là Chúa Giêsu. Không phải Ngài chỉ xem thấy Thần khí ngự xuống trên mình dưới hình thức mắt trần xem thấy được khi chịu phép rửa ở sông Giođan, đến độ nói theo loài người thì hiển nhiên Ngài đã được tràn đầy Thần Linh Chúa. Nhưng nhờ sự kết hợp bản tính Thiên Chúa với bản tính nhân loại nơi một chủ vị, Ngài còn tràn đầy Thần Linh Thiên Chúa đến độ Thần Linh đồng hoá với Thần Trí của Ngài tự nhiên và ngự lại ở trên Ngài không phải trong chốc lát nhưng là cách chủ yếu và thường tồn. Hơn ai hết, Ngài tỏ ra là một người của Thiên Chúa và một người thiêng liêng.
‘Người đã xức dầu cho tôi’. Chúa Kitô là dầu tuyệt hảo bởi vì Ngài trổi vượt hơn hết thảy mọi tiên tri, và tỏ mình ra cả về phần Thiên Chúa lẫn phần riêng của Ngài, như chưa từng có vị nào trong số các tiên tri đã làm. Ngài là Lơì của Thiên Chúa đã nhập thể; vì là Dầu, nên Ngài là Vua trên hết các vua, là Đấng Thống trị tối cao, bởi vì Nước của Ngài là Nước Thiên Chúa, Đấng không hề biết giới hạn là gì cả về không gian lẫn thời gian. Ngài là vị Tư Tế đã được hiến thánh bởi vì xét như là Người-Chúa, là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại, một hiến lễ của Ngài đã có giá trị mang lại hiệu quả và ý nghĩa cho mọi hiến lễ khác. Ngài là Đấng Messia dân Israel mong đợi, nay đã đến rồi.
‘Người đã sai tôi’. Một ơn gọi trong Tôn giáo bao giờ cũng kèm theoi một sứ mạng Xức dầu không phải để cho riêng ngươì-được-xức-dầu, nhưng là cho những người mà vị này được phái tới. Tự căn bản, Chúa Giêsu là Đấng được sai đi. Sứ vụ của Ngài là một sự kéo dài việc Ngài sinh ra từ Thiên Chúa: Đấng xuất phát từ Cha qua việc nghĩa tử nay đi vào trần gian để đưa dẫn thế gian về với Cha. Cốt tuỷ của sứ vụ Ngài là như thế đó.
‘Đem Tin mừng cho người nghèo khó’. Đây là những người nghèo khó về vật chất, nhưng trước hết là những người nghèo về phần thiêng liêng. Chỉ có ai ý thức được sự khốn khổ của mình mới biết chuẩn bị đón nhận ‘Tin mừng’ ban phát ân sủng. Chúa Giêsu biết không được sai đến với những kẻ ngỡ rằng mình đã đầy đủ rồi, nhưng là đến với những người đau khổ vì hoàn cảnh của bản thân mình và hoàn cảnh của trần gian. Đối với những người này sứ điệp của Ngài thực là một Tin mừng.
‘Loan truyền sự giải thoát cho kẻ tù đày’. Tù đày bề ngoài ở Babilon, rồi được trở về tự do chỉ là một dấu chỉ phớt qua của ý định lớn lao này: ‘giải phóng con người khỏi ách tù đày bề trong do tội lỗi và quỷ ma trói buộc. Nói theo nghĩa chặt, đây mới chính là tù đày và giải phóng. Chúa Giêsu là một chiến sĩ giải phóng vĩ đại nhất của loài người. Vì thế tự do là một trong những chân lý chủ yếu, là một trong những yếu tố căn cơ của sứ điệp Kitô giáo. Ở đâu người ta không còn cảm thấy hơi hướng của tự do này, ở đó câu nệ hình thức, lo âu, sợ hãi một lần nữa lại làm cho mọi sự tê liệt, Tin mừng bị bóp méo ngay từ trong bản chất của nó.
‘Cho người mù được thấy’. Ở đây cũng lại có ý chí sự mù loà nội tâm, sự tối tăm nghi hoặc đối với những vấn đề trọng đại, đêm đen của tâm hồn vì xa cách ánh sáng Thần Linh. Chúa Kitô soi chiếu trần gian. Nhờ Ngài ánh sáng bừng lên trong tâm trí người đi tìm kiếm; soi sáng tâm hồn bị áp bức, soi sáng đêm đen tội lỗi. ‘Người mù loà được xem thấy’. Đức Kitô chỉ cần đụng tay là ánh sáng trở lại với người mù: đây là dấu chỉ mãi mãi mới mẻ về sự soi sáng thật mà Chúa Kitô đã mang đến cho những ai bị mù loà phần linh hồn.
Nhờ ánh sáng mạc khải, ánh sáng của lý trí sẽ trở nên ánh sáng có bản chất đặc biệt cho đến khi nó rạng soi trong ánh sáng vinh quang, không còn pha lẫn chút tăm tối nào nữa. ‘ánh sáng của lý trí’, ‘ánh sáng của mạc khải’ và ‘ánh sáng của vinh quang’ rốt cuộc đều là hoa trái của ‘Ánh Sáng Chúa Kitô’.
‘Trả tự do cho kẻ bị áp bức’. Đức Kitô đứng về phía những người yếu, phía kẻ cô thế, bị bóc lột, áp bức. Sứ điệp của Ngài có tính cách xã hội. Nhưng, ở đây còn có một cái gì thâm thuý hơn. Quyền lực ma quỷ, Satan, áp bức và đe doạ tâm hồn. Một sự áp bức đè nặng con người và làm cho cuộc sống bị bất ổn. Satan là thủ lĩnh thế gian: đó là lý do tại sao Kitô giáo là một cuộc cách mạng tôn giáo, vì nó lật nhào kẻ muốn chiếm đoạt địa vị không thuộc về mình; thay vào đó là quyền năng tối cao của Thiên Chúa, không áp bức nhưng giải phóng.
‘Loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa’. Hừng đông của thời kỳ vĩ đại của ơn cứu độ mở đầu với việc Đức Messia đến. Tất cả mọi năm hoan hỷ của Israel chỉ là điềm báo cho thời tương lai này, thời mà sự vui mừng vô tận phát sinh từ âm hưởng của Tin mừng.
Như thế, khi áp dụng những lời tiên tri vào bản thân mình, Chúa Kitô mô tả con người và sứ vụ của Ngài bằng những từ ngữ đơn sơ nhưng uy nghiêm đến độ dân chúng nín thở, hồi hộp lắng nghe và cảm kích. Họ ngạc nhiên về sự kiện Ngài dạy dỗ, con người chưa bao giờ học hành ở đâu cả; họ kinh ngạc về cách Ngài dạy dỗ, hoàn toàn khác với lề thói của các thày dạy lề luật họ đã quen; và họ bị những điều Ngài giảng dạy hấp dẫn, vì đây là sứ điệp ban ơn cứu độ, ánh sáng, sự trợ giúp và tự do.
Theo sau Lời Chúa Giêsu giải thích là một hồi thinh lặng. Cử toạ nói với nhau, trao đổi cảm tưởng. Trước hết đây là một sự lôi cuốn pha lẫn vui mừng, rồi lần lần có nhiều tiếng nói khác nổi lên, trước tiên là tiếng của các luật sĩ có mặt trong buổi họp ấy. Bầu khí từ từ đổi thay, rồi biến đổi hẳn. Phần thứ hai trong hoạt cảnh này diễn biến theo một chiều hướng hoàn toàn ngược hẳn.
79. Chú giải của Noel Quesson
Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta
Luca khi viết Tin Mừng đã có những người đi trước ngoài. Lúc đó Máccô đã viết Tin Mừng của mình và Luca đã có biết bởi vì ngài đã sử dụng và đôi khi theo khá sát Tin Mừng của Máccô.
Nhưng rõ ràng là có nhiều cách để soạn thảo về cùng một đề tài. Vả lại, không phê phán những người đã viết trước mình, Luca đề ra cho mình cách viết khác, theo phương thức và với những điểm nhấn mạnh của riêng ngài.
Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta
Do đó, như chúng ta, Luca thú nhận mình là một người đã không "thấy" Đức Giêsu: Ngài là một Kitô hữu thuộc "thế hệ thứ hai". Nhưng vì sống rất gần với các biến cố của Đức Giêsu nên ngài đã điều tra... và nhận trách nhiệm truyền đạt lại (đó là Truyền thống) những gì chính ngài đã nhận được. Phần tôi, có phải tôi cũng là một mắt xích truyền đạt Đức Giêsu từ thời này qua thời khác không?
Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc
Luca thừa nhận ý định dạy giáo lý của mình một cách rõ ràng: Người muốn làm cho đức tin của người đọc được vững chắc. Tin Mừng không phải là một điều hư cấu, một huyền thoại. Tin Mừng rất nghiêm túc. Theo gương của Thánh Phaolô, thầy mình, và nhắm đến dân ngoại cải giáo (không phải là người Do Thái), Luca sẽ đề cao một số khía cạnh và giảm nhẹ một số khía cạnh đặc thù của người Do Thái. Tác phẩm của ngài được linh hứng. Nhưng sự Linh hứng của Thiên Chúa không loại trừ vai trò bình thường của các khả năng con người, của các tài năng, của việc tìm tòi của tác giả. Tin Mừng của Thánh Luca là một Tin Mừng độc đáo. Chúng ta hãy tiếp nhận nó như thế.
Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận
Suối nguồn nội tâm của Đức Giêsu chính là Chúa Thánh Thần. Luca sẽ không ngừng lặp lại điều đó: Được thụ thai bởi Chúa Thánh 'Thần (Lc 1,35)... mặc lấy Thần Khí của phép rửa tội (Lc 3,22)... được Thần khí dẫn đưa (Lc 4,l-4,14-4,18)... Nói theo cách của con người, người ta có thể tưởng tượng Đức Giêsu trong sự kết hiệp không ngừng với Đấng vô hình bằng một thứ cầu nguyện liên tục: Người không làm điều gì bởi chính Người. Người sẽ nói như thế (Ga 8,28). Trong Người, về một Hơi Thở là hơi thở của chính Chúa Cha. Trong Người, có một "người nhắc" nói với Người mọi việc Người làm trong sự tự do tuyệt đối. Tôi cũng thế, tôi hãy để cho Thần Khí dần đưa tôi.
Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh
Hơn các thánh sử khác, Luca thường cho biết rằng Đức Giêsu "giảng dạy trong các hội đường" (Lc 4,15; 16,31; 6,6; 13,10) hoặc trong Đền thờ (Lc 19,47; 20,l; 2l,37). Giảng dạy trong hội trường trước hết có nghĩa là chú giải Cựu Ước. Đôi khi chúng ta tự hỏi nội dung các bài giảng của Đức Giêsu là gì. Người mở rộng, đi vào chi tiết, chú giải Kinh Thánh. Tin Mừng của Đức Giêsu, trong sự mới mẻ của Người, dựa vào các lời hứa: của Kinh Thánh một cách sâu xa. Việc Công Đồng đưa Cựu ước vào bài đọc thứ nhất mỗi chủ nhật là một sự đổi mới tìm về một truyền thống cổ xưa! Nhờ có Công Đồng, chúng ta thực hiện lại điều Đức Giêsu đã làm.
Rồi Đức Giêsu đến Nagiarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi
Là Đấng Mêsia của những người nghèo khó, Đức Giêsu không lập dị. Người đến rao giảng không phải ở Giêrusalem, thành phố của các vua và các Thượng Tế; nhưng trong một tỉnh xa xôi và bị coi thường "vùng Galilê của dân ngoại" (Mt 4,15), vùng đất của những người phận nhỏ và nghèo khó. Là Đấng Mêsia và là tư tế, Đức Giêsu không lên Đền Thánh để cử hành các nghi thức thờ phượng, các hy tế, nhưng Người vào trong một Hội đường ở làng quê, nơi khiêm tốn để cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa, mà tất cả lời Chúa đều tập trung trên sách thánh. Như thế, Người biểu lộ chức tư tế của Người trước hết thuộc bình diện ngôn sứ. Ngày nay cũng thế, trước tiên chúng ta hiệp thông với Đức Giêsu trong phần đầu tiên này của thánh lễ mà người ta gọi là "phụng vụ Lời Chúa". Đó không phải là một phần nhập đề phụ thuộc và tùy thích. Thánh lễ đã bắt đầu. Đức Giêsu đã "thánh hiến" một lần duy nhất trong cuộc đời Người vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Nhưng Người đã dùng lời" nhiều lần: "Đó là chức tư tế của Người. Thánh Phaolô đã hiểu rõ điều ấy khi ngài được Đức Giêsu Kitô ban ân sủng làm người phục vụ Đức Giêsu Kitô lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa (Rm 15,16). Cuốn sách mà Đức Giêsu, ngày hôm đó mang theo, mở ra và đọc luôn trường tồn. Tôi có cuốn sách ấy trong nhà tôi không? Tôi có dành thời gian để đọc không? Kinh Thánh có là một phẩm đặc biệt trong việc đọc sách của tôi không? Gặp đoạn chép rằng: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi". Vì thế Đức Giêsu đã xác định sứ mạng của Người là một sứ mạng của ngôn sứ. Trong ngôn ngữ của Israel, những lời ấy có nghĩa: Tôi là ngôn sứ, tôi được Thiên Chúa gọi đến để nói nhân danh Người, để nói sứ điệp của Người. Và Đức Giêsu đặt mình dưới sự bảo trợ của ngôn sứ lớn nhất Isaia. Qua thủ bản Qumram, người ta biết được rằng ngôn sứ Isaia là một ngôn sứ được sử dụng nhiều nhất vào thời. Đức Giêsu: Thủ bản cổ thất thế giới rõ ràng là các cuộn da, đã được tìm thấy trong một: hang động cách nay vài năm và được bảo quản trong Viện Bảo Tàng Kinh Thánh, ở Gìêrusalem, và trên đó là toàn bộ bản viết tay sách Isaia. Như một sự tình cờ, một tài liệu duy nhất thuộc loại này trong toàn bộ văn chương thế giới đến được với chúng ta vào giữa thời kỳ hiện đại. Phải chăng chỉ do sự tình cờ? Chúng ta xúc động nhận rằng Đức Giêsu đọc sách Isaia đó.
Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi
Chúng ta hãy nhận xét thêm một lần nữa từ "xức dầu” được gọi là "chrisma" trong tiếng Hy Lạp, và Đấng được xức dầu được gọi là "christos" do đó mới có danh hiệu Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là Đấng được Thần Khí: Thiên Chúa xức dầu, thâm nhập và thấm nhuần như dầu thấm vào cơ thể. Nơi người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện một cách cụ thể (Côlôsê 2,9).
Để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Những từ "loan báo Tin Mừng" dịch từ một động từ Hy Lạp: euaggehsasthai có nghĩa là "truyền bá phúc âm". Isaia đã viết ra từ ấy, mang đến niềm hy - vọng bao la gởi cho những. người bị lưu đầy ở Babylon để loan báo Tin Mừng họ được giải phóng (Is 52,7-61,1). Tin Mừng chính là sự' "giải phóng"... và sự "phục hưng" Giêrusalem. Nhưng một thất vọng to lớn sẽ tiếp nối những loan báo mang tính ngôn sứ của Isaia. Những người "nghèo hèn" tiếp tục bị đàn áp, và bất hạnh. Dần dần, từ "nghèo hèn" trong Kinh Thánh bắt đầu gợi ra không chỉ một điều kiện khó khăn về kinh tế hoặc xã hội, những còn là thái độ nội tâm của người nào còn tìm được chỗ dựa nơi con người khi đối diện với những kẻ quyền thế của thế gian nên phải quay về Thiên Chúa. Luca đặc biệt thích nhấn mạnh đến chủ đề này: Thiên Chúa đã đặc biệt thi ái "những kẻ nghèo hèn "…
Còn bạn là anh chị em tôi, bạn cảm thấy mình bị loại khỏi hạnh phúc theo kiểu của thế gian, bạn là người mà Lời Đức Giêsu nhắm đến trước tiên. Có một hạnh phúc khả dĩ dành cho bạn: Bạn hãy tìm hạnh phúc đó bên cạnh Thiên Chúa.
Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa
Tùy theo tính khí, người ta sẽ còn tiếp tục giải thích bản văn này theo hai hướng trái ngược nhau, nếu như người ta không chịu chấp nhận cả hai: Vấn đề là sự giải phóng vật chất, chính trị và nhân bản... kẻ bị giậm cầm, người mù và người bị áp bức?... hay vấn đề là một sự giải phóng tâm linh hơn?
Chắc chắn rằng Đức Giêsu đã không mở cửa tất cả các nhà tù, không chữa lành mọi người mù và bệnh tật, đã không từ bỏ mọi áp bức khỏi hành tinh chúng ta. Hỡi ôi như thế chẳng hóa ra là một lời hứa vô ích, lừa phỉnh sao? Tuy nhiên trước hết người nghèo hèn động ở hàng đầu tiên để chờ đợi sự giải phóng về vật chất cho họ. Có lẽ chính chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu sẽ có tội nếu chúng ta không "thực hiện" lời tiên tri ấy. Chúng ta phải làm gì để giải phóng anh em chúng ta? Để làm giảm nhẹ những người bệnh tật? Nhưng cũng chắc chắn rằng sự áp bức tệ hại nhất là sự nô lệ nội tâm mà tội lỗi tạo ra trong chúng ta. Từ được dịch ra ở đây bằng từ "giải phóng" hay trả lại tự do chính là từ "aphésis" cũng có nghĩa là “tha thứ” (Lc 1,77-3,3-24,47; Cv 2,38,5,31 v.v...) Vâng, lạy Chúa, xin giải phóng chúng con xin tha thứ chúng con! ôi! trong tầm hồn con, có sự nô lệ khủng khiếp đó, khi con trở nên tù nhân của xác thịt con, của thù hận, tiền bạc, tiện nghi, khoái cảm! Sự giải phóng mà Đức Giêsu đã hứa cũng dành cho chính con.
Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe."
Ngày nay ở thế kỷ 21, điều đó có liên quan gì với tôi? Thánh Luca sử dụng mười hai lần tiếng "hôm nay" mầu nhiệm và trang nghiêm ấy, trong Tin Mừng của Ngài; từ “Hôm nay” đã sinh ra cho anh em một “Cứu Chúa" cho đến "Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" lúc Người bị treo trên thập giá. (Lc 2,11; 3,22; 4,21; 5,26; 12,28; 13,32; 13,33; 19,5; 19,9; 22,34; 22,61; 23,43).
80. Chú giải của Fiches Dominicales
“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Trang minh họa dự tính của Luca
Vì là người ngoại đến với đức tin Kitô giáo, Luca đã không được biết Đức Giêsu nhiều. Bởi vậy, trước khi viết về Đức Giêsu, Luca đã muốn "cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự" và cố gắng căn cứ vào những nguồn tài liệu có giá trị, để cho tác phẩm của mình hữu ích và có nét độc đáo đối với phần đông độc giả là những người cũng từ ngoại giáo trở lại như ngài, mà điển hình là "ngài Thêôphilê đáng kính ".
Nếu Luca có ý "tuần tự viết ra câu chuyện" thì không phải là viết theo cách thức những nhà nghiên cứu lịch sử ngày nay vốn quan niệm, mà chỉ là để phục vụ và hỗ trợ cho một suy tư thần học mà thôi, như ngài sẽ nói lên điều đó trong các phẩm thứ hai của mình. Dự tính của Luca là chỉ muốn kể lại việc Thiên Chúa mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin như thế nào" (Cv. 14,27). Vì thế tác phầm của Luca gồm hai cuốn sách trình bày chương trình cứu độ về mặt lịch sử và cũng cả về mặt địa lý nữa.
- Chương trình cứu độ xét về mặt lịch sử:
+ Sau thời kỳ LỜI HỨA
+ thì đến thời kỳ THỰC HIỆN
Với thời Chúa Giêsu, Thần Khí xưa đã tác động các ngôn sứ, thì nay càng tỏ hiện tràn đầy trông ngôn ngữ và hành động của Đức Giêsu.
Với thời của Giáo hội, thời của Thần Khí được thông ban tràn đầy qua Đức Kitô phục sinh.
- Chương trình cứu độ về mặt địa lý được diễn ra chung quanh Giêrusalem.
+ Giêrusalem, nơi mọi sự bắt đầu với lời Sứ thần báo tin cho ông Dacaria ở trong Đền thờ, sẽ là thành đô cho Đức Giêsu lên đó để sống trang sử "xuất Hành " của Người và cũng là nơi, như cuối Phúc âm Luca có ghi, để các Tông đồ ngày ngày sẽ lên Đền thờ mà chúc tụng Đức Giêsu như là Đức Chúa phục sinh (Phúc âm theo thánh Luca). Sách Tin Mừng của Luca mở đầu từ trong Đền thờ thì cũng kết thúc ở đây.
+ Giêrusalem, nơi mọi sự bắt đầu với biến cố Thăng thiên, cũng sẽ là thành đô để từ đó các người phục vụ Lời Chúa sẽ bung ra trên mọi nẻo đường nhân loại để mang Tin Mừng "cho đến tận cùng trái đất " (Sách Công vụ Tông đồ).
2. Buổi hội họp ở hội đường
“Được đầy Thánh Thần" khi chịu phép rửa ở sông Giođan, và được Thánh Thần dẫn vào hoang địa để đối đầu quyết liệt với ma quỷ và Người đã chiến thắng, giờ đây Đức Giêsu đã trở về Galilê và đến Nadarét là "nơi Người mới sinh trưởng". Như một người Do thái đạo đức, Người vào hội đường "như Người vẫn quen làm trong ngày sabát".
Khác với Matthêu và Maccô đặt biến cố này – thiết tưởng có vẻ đúng hơn vào cuối thời kỳ thi hành sứ vụ ở Galilê, còn Luca thì đã đặt vào đầu thời kỳ, để phục vụ tốt hơn cho dự tính của mình và đã kết cấu bài tường thuật của mình như một "biến cố điển hình" khai mở và tóm tắt trước những gì sắp xảy ra, tức là việc Đức Giêsu bị dân Người chối bỏ và công cuộc loan báo Tin Mừng cho các dân ngoại.
- Hôm đó là "ngày Sabát” là ngày để nghe đọc Sách Thánh, ngày kỷ niệm cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, ngày mà người có lòng tin trong khi chúc tụng Thiên Chúa giải thoát dân Người thì cũng phải nghĩ đến việc giải thoát chính mình và người khác khỏi ách nô lệ.
- Chúng ta đang "trong hội đường" và Luca đưa ra cho chúng ta một bức tranh quý giá về phụng vụ diễn ra vào mỗi ngày thứ bảy. Nếu như Luca bỏ qua phần nghi thức mở đầu (lời khái quát, kinh cầu nguyện lời chúc lành), cũng như không gợi lại bài đọc thứ nhất, thì ngài lại mô tả cách rất tỉ mỉ và gần như khoan thai, mọi cử chỉ và nghi thức mà Chúa Giêsu đã làm.
3.... lúc ấy Chúa Giêsu loan báo "Tin Mừng"
Theo tập tục để lại từ bao đời (cf. Công vụ Tông đồ 13,15 và tiếp theo: Phaolô và Banaba viếng thăm hội đường ở An-ti-ô-khi-a miền Pixidia), Đức Giêsu được cộng đồng tôn giáo Do thái tiếp đón, mời đứng lên đọc một đoạn sách thánh; sau đó Người ngồi xuống để giải thích đoạn sách Tiên tri vừa đọc.
Đoạn sách của buổi phụng vụ hôm đó đúng là Isaia 61, 1-2: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi". Đây là một trong những lời sấm lớn, vốn nuôi dưỡng niềm hy vọng của dân tộc Do thái. Truyền thống của họ coi đây là lời loan báo về Đấng thiên sai đến; Người đầy tràn Thần Khí, Người đem đến "Tin Mừng", là loan báo về thời đại mới bắt đầu khai mở, dân tộc Israel được giải phóng và khởi đầu triều đại của Thiên Chúa.
4. về "hôm nay” ứng nghiệm lời Kinh Thánh.
Bây giờ là lúc Chúa Giêsu đã cuộn sách lại và trả cho người giúp việc hội đường Người ngồi xuống và bắt đầu giải thích những lời vừa đọc. Một bài giải thích mà Luca đã tóm tắt lại bằng một câu tuyệt vời: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe". R. Meynet chú giải: "Kinh thánh tuy là những lời nằm chết trong sách, lại có được sức sống nhờ được đọc lên lúc này. Được nói lại từ một cửa miệng, Kinh Thánh lại trở thành lời mang ân sủng cho những ai nghe. Phép lạ của việc đọc sách thánh là làm cho những lời xưa của vị tiên tri đã chết rồi, trở thành lời sống động của Đấng được sai đến hôm nay. ("Phúc âm theo thánh Luca. Phân tích tu từ", Cerf, tr. 62).
Cùng với Đức Giêsu và trong Đức Giêsu, tất cả những lời tiên tri loan báo đều ứng nghiệm: Người là Đấng Mêsia được sai đến (Is. 61) tràn đầy Thần Khí của Đức Chúa; bản thân và sứ điệp của Người là "Tin Mừng được loan báo cho kẻ nghèo hèn". Cùng với Người và trong người, thời đại mới của ân sủng, thời đại "công bố một năm hồng ân của Chúa" được khai trương. Cùng với Người và trong Người, Thiên Chúa ra tay hành động để giải thoát mọi người, “người bị giam cầm, người mù, người bị áp bức", tất cả đều được Người ban ơn cứu độ và tha thứ. Cùng với Người và trong Người, "Hôm nay" hồng ân của Chúa ùa tràn vào dòng lịch sử của loài người.
Trong hội đồng Nagiarét, Đức Giêsu khởi đầu sứ mệnh của Người “với quyền năng Thánh Thần” của phép rửa Người chịu. Sứ mệnh đó, Người sẽ theo đuổi xuyên suốt dòng lịch sử trong Giáo hội của Người, "với quyền năng Thánh Thần" của ngày Hiện Xuống.
Chúa nhật tuần tới, chúng ta sẽ chăm chú đọc nốt phần cuối của đoạn Phúc âm này.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Một bản tóm lược về sứ mệnh của Đức Giêsu.
(H. Villliez, trong "Dieu si proche. Năm C", DDB, trg 86)
“Hành động mở màn cho sứ vụ của Đức Giêsu đã diễn ra ở Nadarét... Trong hội đường, vào ngày sabát. Vì là một người ngoại giáo trở lại, nên Thánh sử Luca chủ tâm nêu bật hai điều này: sứ điệp trước tiên đã được gởi đến cho người Do thái, sau đó nhờ một khúc quanh lịch sử nhiệm mầu, sứ điệp ấy sẽ được loan báo cho dân ngoại. Câu chuyện này giống như một việc làm trước thời hạn, diễn tả những gì sẽ sảy ra. Đúng là một bản tóm lược về sứ mệnh của. Đức Giêsu. Câu chuyện vay mượn quá khứ tôn giáo của dân tộc Do thái và sách tiên tri Isaia thứ ba được viết từ năm thế kỷ trước, như để nhấn mạnh rằng cội nguồn không bị đứt đoạn và truyền thống cũng không bị mai một, có nghĩa là cội nguồn và truyền thống vẫn được tiếp nối và duy trì.
Ba từ ngữ mang âm thanh vang dội và làm đảo lộn trật tự sẵn có là: kẻ nghèo, giải phóng, năm hồng ân. Ngươi ta ngờ vực, cũng là điều dễ hiểu thôi. Các đồng bào và đồng hương Nadarét của Đức Giêsu sẽ chống đối quyết liệt. Làm sao mà chấp nhận được một Đấng Mêsia cổ vũ việc giải phóng người nghèo và tuyên bố: "Năm hồng ân là chính hôm nay". Nếu "theo sách Isaia thứ ba", Tin Mừng là lời loan báo cho những người lưu đầy được hồi cư, thì với Đức Giêsu, Tin Mừng lại chính là lời loan báo cho những người nghèo biết rằng họ là “những người được Thiên Chúa yêu thương đặc biệt”, rằng họ được giải phóng. Với Đức Giêsu, hôm nay chấm dứt mọi kiếp nô lệ lầm than. Tóm lại, nhờ Thần Khí và Tình yêu, hôm nay là cuộc giải phóng toàn diện, giải phóng mọi hình thức bất công và tội lỗi.
Sau cùng, loan báo Tin Mừng còn là loan báo "năm hồng ân". Năm nay phải là năm đại xá, năm nợ nần sẽ được tha hết, nô lệ sẽ được giải phóng, là năm mà con người nhờ tuân theo luật Chúa sẽ lập lại được một trật tự trần gian ngày càng nên giống Nước Trời hơn.
2. “Mầu nhiệm của Lời Chúa".
(J Thunus. "Dans vol ascemblées” tập 2. DDB. trg 395)
"Hôm nay, bạn có nghe tiếng Người chăng?" Câu nói trong Thánh vịnh 94 này đã là khởi điểm để bức thư gởi tín hữu Do thái triển khai rộng rãi về tính hôm nay của Lời Chúa (Dt. 3,7- 4,11). Bài giảng của Đức Giêsu ở hội đường Nagiarét càng làm cho tính cách "hôm nay" này mang ý nghĩa đặc biệt.
"Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Rồi người bắt đầu nói với họ: Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe" (Lc. 4,20-21).
Mầu nhiệm sâu xa rõ ràng là nằm trong lời nói đó. Lời Chúa đã được ghi chép lại ở một thời điểm của lịch sử là Lời nói cho mọi thời và là lời hằng sống và thực tế cho người biết lắng nghe trong tâm tình thờ phượng. Sự sống của lời Chúa là sự sống của Thần Khí, Đấng sẽ "dẫn tới sự thật toàn vẹn" (Ga. 16,13)
3. "Loan báo Tin Mừng: một trách vụ của mọi tín hữu”.
(M. Dcgraeve, trong "Unité des chrétiens". Tháng 10-l994) số 96, trg 23 và 24)
“Hiệp thông huynh đệ, sống trong cùng một mái nhà là một thực tại phải xây dựng không ngừng. Sự hiệp thông phải được thể hiện dần dần. Thực sự, sự hiệp thông đã có đó rồi. Rất nhiều khi chúng ta chỉ thấy được những mối chia rẽ giữa các tín hữu, giữa các Giáo hội cùng tin Đức Kitô, nhưng cũng thấy ngay trong nội bộ của mọi Giáo hội, cả trong nội bộ của các cộng đoàn của chúng ta nữa. Nhìn kỹ vào những mối bất hoà kia, ta có thể nghiệm thấy rằng nếu biết dùng những phương tiện của sự hiệp thông, chúng ta sẽ xây dựng được cuộc sống huynh đệ. Để được như vậy, chúng ta phải biết nhìn nhận nhau là những con người khác nhau, nhưng đã được quy tụ lại bởi cùng một Lời và cùng tự nhủ là phải ráo riết thể hiện nước Chúa bằng việc rao giảng Tin Mừng.
Ý muốn chối bỏ những khác biệt thường dẫn tới sự từ chối người khác. Dẫu sao, giữa các cộng đoàn và các Giáo hội của ta cũng như giữa các Giáo hội cùng tin Đức Kitô, tính khác biệt là một quy luật chung, không ai chối cãi được.. Phải tôn trọng tập thể khác đã đành, mà bản thân mỗi người cũng cần biết tôn trọng nhau nữa. Như thế, chúng ta mới có thể chia sẻ những đau khổ của nhau, giống như những phần mình của một thân thể cùng chung phần đau đớn với phần khác trong thân thể vậy: đó chính là giáo huấn bản của thánh Phaolô. Nhận biết điều này và tôn trọng nhau như vậy không gì phù hợp với lẽ phải hơn, bởi lẽ chỉ một Thánh Thần sống trong ta và một Đức Kitô là đầu mới có thể cho phép ta thực hiện được điều này mà thôi. Chính Đức Kitô, Lời nhập thể là sự thiện chung mà mọi người cùng hưởng. Lời Chúa quy tụ chúng ta lại, cách riêng vào mỗi ngày Chúa nhật, ngày mà chúng ta cùng nhau chúc tụng tôn vinh Đức Kitô phục sinh, nên các Giáo hội Kitô của chúng ta, dù khác biệt nhau thế nào, thì Lời này vẫn phải được chia sẻ, hiểu biết, để Lời mang lại hoa trái và hoa trái tồn tại.
Nếu chúng ta thực sự ý thức một cách đầy đủ tầm quan trọng của Lời này, thì ta sẽ càng có khả năng hơn để thực hiện được việc rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khổ, việc giải thoát cho những kẻ bị giam cầm, bị áp bức và đem ánh sáng đến cho kẻ mù lòa. Đây là trách vụ chung mọi người cùng phải gánh vác, dù các Giáo hội và cộng đoàn của ta có là gì chăng nữa. Nếu chúng ta muốn sống tình bác ái huynh đệ giữa các Kitô hữu với nhau, ta phải bắt lay xây dựng một thế giới chan hòa tình huynh đệ.
81. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚA GIÊSU TẠI NAGIARÉT
1. Sách bài đọc của phụng vụ đã tổng hợp làm thành một bài đọc hai đoạn phúc âm cách nhau đến 3 chương trong Phúc Âm thánh Luca. Thực khó tìm thấy được ý hướng xếp đặt này; một cách đơn giản có lẽ phụng vụ muốn ráp nối 2 đoạn văn khai mạc: một đoạn của phần nhập đề Phúc âm Luca và đoạn kia nói đến việc Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy tại Nagiarét. Dù sao, giả thiết phần nhập đề của phúc âm không đặt ra vấn đề gì đặc biệt trong việc chú giải, chúng ta chỉ cần chú giải ở đây phần thứ hai của bài đọc phụng vụ, nghĩa là sự rao giảng của Chúa Giêsu tại Nagiarét.
2. Cả ba Phúc âm nhất lãm đều phù hợp nhau khi kể lại rằng, sau khi được thanh tẩy và bị cám dỗ, Chúa Giêsu trở về Galilêa để bắt đầu rao giảng ở đó (Mc 1,14; Mt 4,12; Lc 4,14). Lời rao giảng công khai của Đấng thiên sai đi liền theo sau các giai thoại siêu nhiên được thực hiện cách âm thầm.
Theo Mc 1,15 và Mt 4,17, Ngài rao giảng nước Thiên Chúa đã gần đến và cần phải thống hối ăn năn để thông dự vào nước ấy (Macco xác định đó là Tin mừng và phải lãnh nhận Tin mừng ấy bằng đức tin). Luca không phải là không biết đến những đề tài này trong lần rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu (4,43; 5,32). Nhưng thay vì tóm lược lời rao giảng ấy trong một câu thì tác giả lại trình bày nó trong một khung cảnh rộng rãi, khung cảnh ấy phác họa những đường hướng hướng căn bản khai mào cho sứ mệnh trần thế của Chúa Giêsu. Đó là một khai mào trọng thể được Thánh Thần hướng dẫn (4,14.18), là Đấng đã tuôn tràn trên Chúa Giêsu từ ngày thanh tẩy (3,22; 4,1).
3. Trình thuật tiếp theo một đoạn tóm lược lời rao giảng của Chúa Giêsu tại Galilêa: Ngài giảng dạy trong các hội đường, gây sự chú ý và lòng nhiệt thành khắp cả vùng (4,14-15). Rồi “trở lại Nagiarét là nơi Ngài đã sinh trưởng, và theo thói quen, thì ngày nghĩ lễ, Ngài vào trong hội đường, đứng dậy đọc sách” (c.16), Luca vắn tắt nhắc lại điều ông đã kể về thời thơ ấu của Chúa Giêsu ở Nagiarét (2,39-40.51-52). Chỉ lần này tác giả gọi thành nhỏ này bằng tiếng Aram Nazara (như trình thuật tương tự của Mt 4,13) nhưng tác giả không gọi thành đó là “quê hương” của Chúa Giêsu (như Mc 6,1 và Mt 13,54 đã gọi): có lẽ vì Chúa Giêsu không sinh ra ở đó (2,4-7), và nhất là vì đối với Luca thì “quê hương” của Chúa Giêsu là tất cả vùng đất Israel (x.các chương 24-27).
Phúc âm của ông đã cho thấy cha mẹ Chúa Giêsu nhiệt thành tuân giữ lề luật (2,21.22-34.39.41-42), tác giả sẽ còn kể nhiều lần Chúa Giêsu vào trong các hội đường ngày hưu lễ (4,31-33; 6,6; 13,10). Nhưng đây là ngày hưu lễ đầu tiên mà Chúa Giêsu lên tiếng công khai trong buổi cầu nguyện ở hội đường. Do đó, theo phong tục thời bấy giờ, Ngài đứng dậy sau khi nghe sách luật và ra mắt quần chúng bằng một bài đọc sách các tiên tri.
4. Cách chung người ta thừa nhận rằng vào thời Chúa Giêsu thì việc đọc các sách tiên tri trong hội đường ngày hưu lễ không theo một lịch trình rõ ràng, nghĩa là không theo một chu kỳ gồm những bài đọc dọn sẵn như phụng vụ chúng ta ngày nay (ít ra đó là ý kiến của phần đông các nhà chú giải Phúc âm Luca. Lập trường của Strack-Billerbeck trong cuốn Commenter zum Neuen Testament, IV Minchen năm 1928, trang 169-170, dầu vậy lập trường này cũng bị chống đối: xem Guilding, The Fourth Gospel and Jewish Waship, Oxford, 1960, tr. 7-10, 21-22, 125-126; vấn đề hình như cũng chưa được giải quyết ổn thỏa). Điều này rất phù hợp với trình thuật của Luca, Chúa Giêsu “gặp ngay” bản văn (chắc chắn sau khi đã tìm kiếm: Chúa Giêsu là người biết rõ Kinh Thánh, có thể dễ dàng tìm được một đoạn nói về Đấng Messia trong hầu hết các sách tiên tri; khi tỏ ý cho người chủ nhà hội mời Ngài giải thích đoạn văn Isaia, chắc chắn Ngài có thể chọn một trong nhiều đoạn văn loan báo về Đấng Messia) có thể giúp Ngài giải thích sứ mạnh của mình.
Bản văn Chúa Giêsu đọc là Is 61,1-2. Luca trích dẫn theo bản văn LXX với một vài thay đổi: nơi câu một của tiên tri, tác giả bỏ sót câu “chữa lành những tâm hồn tan nát” và ngắt câu hai trước những chữ “và ngày báo thù”; tác giả thêm vào câu 1: “trả tự do cho những kẻ bị áp bức”, chắc hẳn là do Is 58,6; từ đầu câu 2, tác giả thay tiếng: “rao” (appeler) bằng “công bố” (proclamer) đã có sẵn ở câu trước.
Đối với thính giả Chúa Giêsu, bản văn này là lời của một tiên tri và họ có thể đồng hóa vị tiên tri ấy với người tôi-tớ-Giavê mà những lời sấm của người tôi tớ ấy được tìm thấy ngay trong chính sách này (nhất là 42,1-7 có những tương quan chặt chẽ với 61,1). Bản văn loan báo một năm hồng ân tương đương với định chế của năm toàn xá theo luật Môisen (Lv 25,8-17). Nhưng mọi người đều hiểu rõ rằng, đối với Isai, điều quan hệ ở đây không phải chỉ đơn giản nói đến những tính toán giữa con người với nhau: chính Thiên Chúa sắp can thiệp bằng ân sủng của Ngài, và sự tự do mà Ngài loan báo hoàn toàn vượt lên trên sự tha nợ giữa những Do thái; đó là sự cứu độ lạ lùng của thời cánh chung và có thể đồng hóa với nước Thiên Chúa, mà người ta sẽ sôi nổi chờ đợi.
5. “Bấy giờ Ngài bắt đầu nói với họ: “Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe”. Trong câu đầu tiên này Chúa Giêsu đưa ra tất cả ý hướng bài giảng. Ngài sắp thực hiện nơi Ngài lời sấm ngôn tiên tri mà chính Ngài vừa đọc. Làm như vậy, Ngài xử sự như một tiên tri.
Tiếng đầu tiên của Chúa Giêsu thật quyết liệt. "Hôm nay” xuất hiện nhiều lần nơi Luca, và chỉ Luca mà thôi, trong những đoạn khác nhau nói đến ơn cứu độ được thực hiện trong suốt cuộc đời Chúa Giêsu: ngày sinh nhật (2,11), chịu thanh tẩy (3,22), chữa lành người bất toại (5,26), những phép lạ và cuộc tiến lên Giêrusalem (13,32-33), tha thứ cho ông Giakêu (19,5-9), lời hứa tha tội người trộm lành (23,43). Tiếng này ám chỉ sự hiện diện của Chúa Giêsu tạo nên một giai thoại thoại đặc sắc trong thời cứu độ. Luca không xem đây là thời thế mạt, vì ông biết Giáo hội đang nối tiếp cuộc đời Chúa Giêsu và ông trông đợi ngày Chúa trở lại (12,40; 17.22-37; 18,8; 21,27). Nhưng ông cũng nhìn thấy trong sứ điệp của Chúa Giêsu, một thời kỳ đặc biệt của lịch sử, một thời đại ân sủng giữa những sửa soạn của Cựu Ước và thời bành trướng của Giáo hội, “trung tâm thời gian”, thành ngữ danh tiếng của Conzelmann.
Chúa Giêsu áp dụng cho chính Ngài sấm ngôn của Is 61. Khi chịu phép rửa Ngài đã nhận lãnh Thánh Thần như một xức dầu ban cho Ngài một phận vụ thánh mà Luca diễn tả như là phận vụ của Messia (hoặc do việc trông đợi Đức Kitô trong 3,15 hoặc do lời Chúa Cha trong 3,22 lấy lại lời sấm phong vương cổ xưa của thánh vịnh 2,7). Nhưng Chúa Giêsu là Đấng Messia khác xa các vua trần gian mà các người đương thời mong đợi. Để tránh hiểu lầm Ngài không công khai minh định mình là Đấng Messia (x.4,11) và chỉ mạc khải điều đó cho nhóm tông đồ này, sau này khi họ đủ khả năng lãnh hội mạc khải đó (9,18-21). Còn bây giờ, lúc mới bắt đầu sứ vụ Ngài thích tự xưng là tiên tri mang tin mừng cứu độ. Có lẽ bản văn Isaia cho thấy Ngài là chân dung người tôi tớ Giavê, và nói lên các đề mục chính yếu của Tin mừng Ngài rao giảng là: người nghèo được ưu đãi, kẻ tù đày bị áp bức được giải phóng tự do, người mù được xem thấy. Những điều đó rõ ràng nói lên lòng ưu ái Ngài dành cho những kẻ khiêm nhu và các phép lạ Ngài sắp làm để thắng bệnh tật thể xác. Đồng thời các lời đó còn đưa ra các yêu sách và ân huệ của Ngài: lời mời gọi có tâm hồn nghèo khó, lời hứa giải phóng tội nhân đắm chìm trong giận dữ, cho người tin được xem thấy (khi chú giải “xem thấy” này, Chúa Giêsu theo sát tư tưởng của Is 29,18-19 và 35,5-6).
Trong Is 61,2 tiên tri vừa loan báo một năm hồng phúc vừa loan báo một ngày báo oán; như thế ông trình bày đề tài cựu truyền về ngày của Giavê, vừa là ngày phán xét vừa là ngày cứu độ. Ở đây Chúa Giêsu không nói đến việc phán xét: không phải là Ngài loại bỏ chủ đề Ngài thường đề cập trong Tin mừng (Lc 6,20-26; 10,12-15; 11,30-32; 12,8-9; 12,35-48.49-59; 13,23-30; 16,1-8; 17,22-37; 18,8; 19,11-27), nhưng trong diễn từ này Ngài chỉ nhắm đến “trung tâm thời gian” là lúc mà ơn cứu độ được ban cho Israel; chính là thời gian mà Ngài gọi là năm hồng phúc của Chúa, là dịp thuận tiện mà dân Ngài phải lợi dụng (thật bạo gan khi muốn tìm ở đây một chỉ dẫn về thời hạn sứ vụ của Chúa Giêsu; bản văn Isaia nói là rao giảng trong một năm, nhưng Chúa Giêsu ở đây không nói chi đến thời gian hoạt động của Ngài).
Tóm lại, theo Luca, tư tưởng Chúa Giêsu ở đây giống như tư tưởng trong lời loan báo: Nước Thiên Chúa đã gần đến, mà Lc 1,15 và Mt 4,17 đã ghi lại vì lời loan báo này cho thấy bây giờ người ta có thể vào nước Thiên Chúa nhờ sứ mệnh của Chúa Giêsu. Nhưng cách diễn tả của Luca chính xác hơn: phân biệt thời gian Chúa Giêsu hoạt động với thời gian hoàn tất có ý nghĩa cánh chung Luca cũng xác định đúng vai trò, hồng ân và các yêu sách của Chúa Giêsu.
6. Giai thoại này bộc lộ các ý hướng chính của Luca. Ông biết giai thoại Nagiarét này nằm sau một chuỗi hoạt động của Chúa Giêsu. Ông nói câu đó trong hai câu đi trước đoản văn này (4,14-15) và gián tiếp ám chỉ ở 4,23. Ông đặt giai thoại này vào lúc Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ rao giảng. Hiển nhiên ông muốn chính Chúa Giêsu xác định sứ mạng ngay từ đầu phúc âm. Ý hướng này cũng có ở đầu sách Cvsđ (Ccsđ 1,8), là câu ghi lời Chúa Giêsu loan báo sứ mệnh truyền giáo của các tông đồ, và cho thấy lược đồ cuốn sách.
Cũng như trong Macco và Matthêu, khung cảnh câu chuyện là hội đường. Đây là một trong những phương pháp của Chúa Giêsu (4,15.33-34; 6,6; 13,10). Đây cũng là cách các nhà truyền giáo (mà Lc được tháp tùng) thường làm; tại mỗi thành, các Ngài bắt đầu rao giảng tại hội đường (Cvsđ 9,20; 13,5.14.44; 14,1; 17,1.10; 18,4.7.19; 19,8). Qua đó tác giả muốn nhấn mạnh sứ điệp cứu rỗi được ban cho Israel trước hết bắt đầu từ thánh kinh và phụng tự; giao ước mới hoàn tất giao ước cũ.
Mc 1,15 và Mt 4,17 tóm tắt sứ điệp đầu tiên của Chúa Giêsu là: công bố nước Thiên Chúa gần đến. Luca làm sáng tỏ điều đó hơn nữa khi trích Is 61 là đoạn mà chắc chắn Chúa Giêsu đã tự áp dụng cho mình. Trong cảnh ở Nagiarét, bản văn cho thấy đấng Messia, được giới thiệu khi chịu phép rửa, đã ra mắt công chúng như là vị tiên tri được Thánh Thần tấn phong; Ngài sắp đặc biệt lưu tâm đến các người nghèo khó, đau khổ, bị áp bức (đây là tư tưởng của riêng Luca); Ngài đến giải thoát họ và cho họ nhìn thấy chương trình của Thiên Chúa. Sứ mệnh tại thế của Chúa Giêsu tạo nên thời đại ân sủng cho Israel, mà họ phải biết lợi dụng ngay từ hôm nay.
KẾT LUẬN
Màn khai diễn là một điểm rất quan trọng để hiểu những chương phúc âm kế tiếp. Một cách nào đó Chúa Giêsu trình bày giáo huấn của Ngài. Trước hết Ngài đem đến ơn cứu độ, giải phóng, ánh sáng, ủi an: tất cả những thứ đó đều dành cho những người nghèo khó và bị áp bức. Thực sự đã bắt đầu một năm mới toàn xá. Nhưng lần này không phải chỉ có con người mới tha nợ và trao trả quyền công dân, tự do. Trong ngôi vị được xức dầu, chính Giavê đến tha nợ cho con người và giải thoát con người khỏi nô lệ sự dữ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Kiến thức về Chúa Giêsu mà chúng ta có được, kiến thức mà các vị thủ lãnh giáo hội, cha mẹ và những nhà giáo dục truyền lại cho ta từ đời nọ sang đời kia, bắt nguồn từ các sách phúc âm. Những sách phúc âm này, như tác giả Phúc âm Luca cho biết trong những câu đầu của Phúc âm ta vừa đọc, đã được viết bởi các nhân chứng đã chứng kiến các biến cố, hay bởi những người cẩn thận như Luca, đã sưu tầm cách chắc chắn trước khi xuất bản. Như vậy có nghĩa là đức tin của chúng ta không phải được dựa trên những dụ ngôn hay thần thoại do trí tưởng tượng bày ra. Đức tin của chúng ta đặt cơ sở trên những sự kiện lịch sử được nhiều người thà đổ máu để làm chứng hơn là chối bỏ những sự kiện này. Điều này mang lại cho Kitô giáo một bộ mặt đặc biệt, độc nhất trong lịch sử nhân loại. Sự kiện Kitô giáo được đặt trên cơ sở chính yếu là sự can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử, phân biệt Kitô giáo với các tôn giáo cũng như với mọi hệ thống tư tưởng khác. Thiên Chúa chúng ta là Chúa tể mọi sự kiện,mọi hành động có thực, không phải là ngẫu tượng hay thuần tư tưởng. Và Thiên Chúa ấy lưu tâm đến lịch sử cụ thể của con người, chính Thiên Chúa ấy ngày nay còn kêu gọi ta qua trung gian Chúa Giêsu, con người cụ thể ở Nagiarét.
2. Khi rao giảng một trong những sứ điệp của mình cách công khai tại Nagiarét là “nơi mình đã sinh trưởng” (c.16), Chúa Giêsu cho thấy rõ sự tế nhị của tâm hồn Ngài. Là người có tiếng tăm khắp vùng Galiles (c.14-15), Ngài không quên nơi mình đã lớn lên. Ngài muốn thông truyền cho người láng giềng, bà con, người đồng hương Tin mừng cứu độ, “năm hồng phúc” mà Thiên Chúa ban cho dân Israel và thế giới qua Ngài. Cho dầu là Con Thiên Chúa, được sinh ra nơi Thánh Thần, Chúa Giêsu cũng không từ chối những tương quan nhân loại nối kết Ngài với thành Nagiarét. Ân sủng không đến để phá hủy nhưng để hoàn hảo những gì tự nhiên: để sống đời Kitô hữu trọn vẹn thay vì làm cho chúng ta tách rời khỏi người đồng hương lại làm cho chúng ta xích lại gần họ hơn và khích lệ ta yêu mến họ một cách trung kiên và tế nhị hơn.
3. Cho dầu là Đấng Cứu thế, Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng tiếp tục lui tới hội đường “theo thói quen của Người: (c.16). “Ngài tự đặt mình dưới lề luật” (Gal 4,4) như trình thuật về thời thơ ấu đã cho thấy điều đó. Ngài không đến để phá bỏ lề luật, nhưng thực thi và kiện toàn Lề luật. Là môn đệ của Ngài, chúng ta phải chọn con đường là vâng lời và tuân theo thánh ý Chúa Cha được bộc lộ trong luật Chúa và luật Giáo hội.
4. Chúa Giêsu đã đến trước hết là để cứu vớt những người nghèo, bị áp bức đui mù. Sứ vụ công khai của Ngài thấy Ngài luôn quan tâm nâng đỡ những người đau khổ Ngài gặp trên đường. Nhưng trước hết Ngài chú ý đến những người đau khổ trong tâm hồn. Vì những người đau khổ phần xác chỉ là hậu quả và dấu chỉ của đau khổ phần hồn. Vì vậy, chính khi chữa lành bệnh nhân, cho kẻ chết sống lại, hóa bánh ra nhiều, trước tiên ngài nhằm giải thoát những tâm hồn tội lỗi, xua đuổi ma quỉ, mở mắt đức tin. Công việc từ bi của Ngài luôn được tiếp tục trong giáo hội và qua giáo hội. Nhờ các nhiệm tích, Chúa Giêsu tiếp tục giải thoát các tín hữu nô lệ tội lỗi, nuôi dưỡng họ bằng bánh Thánh Thể, ban cho họ sức mạnh ân sủng. Nhờ lời giáo huấn của giáo hội, Chúa Giêsu tiếp tục thông truyền ánh sáng Ngài cho những ai đang ngồi trong tối tăm. Và mỗi người chúng ta, trong hoàn cảnh của mình, đã được thụ hưởng hồng ân cao cả ấy của Chúa Kitô, thì đến lượt mình cũng phải làm cho những người mình gặp cũng được hưởng ân huệ ấy như mình. Mỗi người phải tiếp nối công việc của Chúa Kitô quanh mình, bằng cách tuôn tràn niềm vui và ánh sáng, nâng đỡ người đau khổ thể xác và tinh thần, tẩy trừ sợ hãi, giải thoát người dốt nát, xoa dịu các oán hờn, an ủi kẻ cô đơn, biểu lộ sự hiện diện tích cực của Chúa bằng tất cả nhân phẩm của mình. Nếu chúng ta trung thành thực thi nhiệm vụ môn đồ Chúa Kitô như thế, thì lời tiên tri Isaia hôm nay được hoàn tất, năm hồng ân của Chúa hôm nay được công bố, và nước Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa chúng ta ngay từ bây giờ.
82. Chú giải của William Barclay
LỜI GIỚI THIỆU CỦA MỘT SỬ GIA
Lời mở đầu của Luca rất độc đáo vì trong cả ba sách Phúc Âm đầu tiên, đây là chỗ duy nhất có chính tác giả bước lên sân khấu và dùng đại từ “Tôi”. Trong đoạn Kinh Thánh này có ba điều cần chú ý:
1. Đây là một trong những mẫu văn chương Hy Lạp đẹp nhất trong Tân Ước. Luca đã dùng cách giới thiệu sách các đại sử gia Hy Lạp quen dùng. Herodotus, một tác giả nổi tiếng về lịch sử Hy Lạp đã mở đầu cuốn sách của ông như sau: “Đây là những sưu tầm của Herodotus thành Halicarnassus”. Về sau, có một sử gia khác là Dionysius ở thành Halicarnassus viết thư sau ở đầu cuốn sách của ông: “Trước khi bắt đầu viết, tôi đã thu thập tài liệu, một phần do lời tường thuật của những người thông thái tôi từng quen biết”. Khi bắt đầu viết sách Phúc Âm, Luca đã tuân theo những khuôn mẫu cao nhất và bằng một giọng văn Hy Lạp sáng sủa nhất.
Dường như ông đã tự nhủ: “Mình đang tường thuật một truyện vĩ đại nhất thế giới, nên chỉ những gì tuyệt hảo mới xứng hợp với chuyện này”. Có một số bản cổ đã thực là những sản phẩm tuyệt vời, viết bằng mực bạc trên nền vải điều, và người ký lục, khi viết đến danh Thiên Chúa hay Chúa Giêsu thì viết bằng chữ vàng. Tiến sĩ Boreham kể về một người thợ già, mỗi đêm thứ sáu, chọn sẵn những đồng tiền mới nhất, sáng nhất để dâng ở nhà thờ vào ngày Chúa nhật. Sứ giả, viên ký lục và người thợ nói trên đều chung một ý tưởng là chỉ có những gì tốt nhất mới xứng đáng cho Chúa Giêsu. Bao giờ họ cũng muốn dâng điều tốt nhất của mình cho Đấng Tối Cao.
2. Điều rất có ý nghĩa là Luca không thoả mãn với các sách đã chép về Chúa Giêsu. Ông phải viết một cuốn sách về Ngài. Tôn giáo thật không phải là một thứ gì nghe qua người khác. Đó phải là một khám phá cá nhân. Tiến sĩ Gossip của đại học Trinity ở Glasgow thường nói rằng bốn sách Phúc Âm đều quan trọng, nhưng mỗi người cần phải vượt qua đó để tới Phúc Âm của kinh nghiệm cá nhân.
3. Hiếm có đoạn Kinh Thánh nào chiếu toả như tia sáng về tính cách linh cảm của Kinh Thánh đến thế. Không ai phủ nhận Phúc Âm Luca là sách được Chúa linh hứng, tuy vậy ông đã bắt đầu bằng lời quả quyết: đó là một công trình nghiên cứu rất kỹ lưỡng. Ơn linh hứng không ban cho một tâm trí lười biếng, chỉ biết ngồi khoanh tay chờ đợi, nhưng cho tâm trí nào biết suy nghĩ, tìm tòi, nghiên cứu. Ơn linh hứng thật chỉ đến khi trí não tra cứu của con người gặp Thánh Linh mặc khải của Thiên Chúa. Lời Chúa được ban ra, nhưng chỉ cho nhưng người biết tìm kiếm Lời ấy mà thôi. “Hãy tìm sẽ gặp” (Mt 7,7).
MÙA XUÂN XỨ GALILÊ
Chúa Giêsu vừa rời khỏi hoang địa, Ngài liền phải đối diện với một quyết định khác. Ngài biết giờ hành động của Ngài đã đến, Ngài đã xác định phương cách rồi, bây giờ Ngài phải bắt đầu tại đâu?
1. Ngài bắt đầu tại Galilê.
Galilê là một vùng đất phía Bắc xứ Palestine, rộng chừng 80km từ Bắc xuống Nam và 40km từ Đông sang Tây. Galilê có nghĩa là vòng tròn, phát xuất từ chữ Galil trong tiếng Do Thái. Người ta gọi thế bởi vì vùng đất ấy được vây bọc bởi các nước ngoại bang. Chính vì thế mà Galilê luôn bị các thứ ảnh hưởng thâm nhập và đã trở thành phần đất tân tiến, ít bảo thủ. Đó là một vùng đông dân cư nhất của xứ Do Thái. Sử gia Josephus, người đã có lần làm thống đốc tại vùng này cho biết rằng miền đó có 204 làng hoặc thành, làng nào cũng có số dân không dưới 15.000. Hầu như khó tin rằng Galilê có thể lên tới ba triệu dân. Đó là vùng đất phì nhiêu lạ thường. Một tục ngữ đã phản ánh điều này: “nuôi một vạn cây ôliu ở Galilê còn dễ hơn nuôi một đứa con ở xứ Giuđê”. Khí hậu rất tốt và nước uống dư dật khiến Galilê trở thành một vườn cây của xứ Palestine. Danh mục các loại cây mọc ở đó chứng tỏ đất rất tốt: cây nho, ôliu, vả, giẻ, hồ đào, thông, cọ, bá hương, trắc, dầu thơm, thông các loại, sung, dương, sim, anh đào, thạch lựu, chanh, trúc đào… Chính người Galilê là những người vùng cao của xứ Palestine. Josephus nói về những người Galilê rằng: “họ chuộng sự mới mẻ, bản tính họ thích đổi thay, và chỉ thích nổi loạn. Nếu có lãnh tụ nào đứng ra khởi xướng một cuộc nổi dậy là họ sẵn sàng theo ngay. Họ dễ nóng giận và ưa tranh cãi”. Người ta thường nói: “Người Galilê không bao giờ thiếu can đảm”, “người Galilê mê tìm danh tiếng hơn là tìm lợi lộc”. Chúa Giêsu đã bắt đầu sự vụ tại một nơi như vậy. Đó là đất của Ngài, nơi đó đem đến cho Ngài –ít ra lúc ban đầu- một số thính giả biết đón nhận và say sưa với sứ điệp của Ngài.
2. Ngài đã bắt đầu trong hội đường.
Hội đường là trung tâm đời sống tôn giáo ở xứ Palestine. Trong nước chỉ có một Đền Thờ, nhưng luật quy định rằng hễ ở đâu có mười gia đình Do Thái thì ở đấy phải có một hội đường, và như thế ở trong mỗi thành, mỗi làng, dân chúng nhóm họp thờ phượng trong hội đường. Không có tế lễ trong hội đường. Đền Thờ mới là nơi để dâng của lễ, hội đường chỉ để giảng dạy. Làm thế nào Chúa Giêsu có thể vào hội đường và làm sao khi Ngài chỉ là thường dân, một thợ mộc ở Nagiarét, có thể giảng dạy tại đó? Nghi thức thờ phượng ở hội đường có ba phần:
a. Phần thờ phượng bằng cầu nguyện.
b. Phần đọc Kinh Thánh. Có bảy người trong cộng đoàn đứng lên đọc. Vì họ đọc bằng tiếng Do Thái cổ là ngôn ngữ đại đa số dân chúng không còn hiểu nữa, nên phải có các thầy Targum giúp dịch sang tiếng Aram hay Hy Lạp. Khi đọc luật thì mỗi lần một câu, còn đọc sách ngôn sứ thì mỗi lần đọc ba câu.
c. Phần giảng dạy. Tại hội đường không có chức vụ giảng chuyên nghiệp, cũng không có một người biệt riêng để giảng dạy. Vị chủ tịch hội đường sẽ mời một nhân vật đặc biệt nào đó có mặt trong giờ họp nói mấy lời, sau đó tới giờ thảo luận. Như vậy Chúa Giêsu mới có cơ hội tham gia tại đó và toà giảng ở đó đã mở cửa cho Ngài vào giai đoạn này.
3. Đoạn Kinh Thánh cho biết mọi người đều khen ngợi Ngài.
Giai đoạn Chúa Giêsu đang thi hành sứ vụ đây được gọi là Mùa Xuân xứ Galilê. Ngài đã đến đó như một luồng gió từ Thiên Chúa. Phe đối lập chưa xuất đầu lộ diện, lòng người còn đang khao khát lời hằng sống và dân chúng chưa nhận thức được Ngài sẽ đụng chạm mạnh mẽ như thế nào tới niềm tin chính thống đương thời. Rao giảng một sứ điệp đã được thai nghén kỹ càng bao giờ cũng thu hút được thính giả.
Một trong những nơi thăm viếng đầu tiên của Chúa Giêsu là Nagiarét, quê nhà của Ngài. Nagiarét không phải là một làng, nó được gọi là một polis, nghĩa là một thành hay một thị trấn, và có thể có tới 20.000 dân. Nagiarét toạ lạc trong một vùng đất của sườn đồi núi Galilê gần cánh đồng Gitrien. Chỉ cần leo lên đỉnh đồi vượt cao trên mặt thành là có thể thấy toàn cảnh bao la hàng dặm chung quanh đó. George Adm Simth diễn tả phong cảnh từ trên đỉnh đồi như sau: Lịch sử của dân Israel mở ra trước mắt chúng ta. Kia là cánh đồng Esdraelon, nơi Đêhôra và Barac đã chiến đấu, nơi Ghêđêon đã thắng trận vẻ vang, nơi Saulê đã thảm bại và chính nơi này Giôsia đã bị giết trong chiến trận. Kìa là vườn nho của Nabôt, chỗ Giêhu giết Giêsabên, kìa nữa là đất Sunem, nơi ngôn sứ Elia đã sống, kìa là núi Cácmen, nơi Êlia đã đánh trận oanh liệt với các tiên tri Baan, và xanh xanh ở đằng xa là Đia Trung Hải và các hải đảo! Nhưng không phải chỉ có lịch sử Israel ở đó mà lịch sử thế giới cũng mở ra trên đỉnh đồi Nagiarét. Có ba đường lớn vây quanh Nagiarét. Có con đường từ phía Nam đưa các khách hành hương lên Giêrusalem. Có con đường lớn dọc bờ biển để đưa những đoàn thương gia chở nặng hàng hoá từ Ai Cập lên tới Đamas. Có con đường lớn đi về Phương Đông, cho những đoàn doanh thương từ Ai Cập đến, và cũng có những đoàn quân viễn chinh Rôma tiến về các biên giới miền Đông của đế quốc. Thật sai lầm nếu nghĩ rằng Chúa Giêsu lớn lên tại một nơi hẻo lánh; Ngài lớn lên trong một thành có tầm cỡ lịch sử và có các trục lộ giao thông của thế giới chạy qua ngay trước ngõ.
Chúng tôi đã phác hoạ giờ thờ phượng tại hội đường và đoạn sách này cho ta thấy cả một bức tranh sống động về hoạt động phụng vụ ở đó. Không phải Chúa Giêsu cầm một quyển sách, vì thời đó mọi sự được viết trên những cuộn da. Ngài đã đọc Is 61. Trong câu 20, bản dịch King James đã nói sai về “kẻ giúp việc”. Thực ra vị này là một viên Chazzan đảm nhiệm nhiều thứ công tác. Ông có bổn phận lấy ra và cất vào những cuộn Kinh Thánh, có bổn phận giữ cho hội đường sạch sẽ, có bổn phận thổi ba hồi kèn bạc từ trên nóc hội đường loan báo ngày Sabat, ông cũng là giáo viên trong trường học của vùng ấy nữa. Câu 20 nói rằng Chúa Giêsu ngồi xuống, khiến ta có cảm tưởng Ngài đã làm xong công việc. Thực ra, Ngài sắp sửa bắt đầu, vì diễn giả ngồi mà giảng và các rabi cũng ngồi khi giảng dạy (do tục lệ này mà chúng ta thường nói ghế của giáo sư).
Chúng ta cần để ý tới hai điều:
1. Chúa Giêsu có thói quen vào hội đường vào ngày Sabat. Tại đó hẳn có nhiều điều Ngài hoàn toàn không đồng ý và làm Ngài cảm thấy khó chịu, nhưng Ngài đã đến đó. Việc thờ phượng tại nhà hội có thể có nhiều thiếu sót, nhưng Chúa Giêsu không bao giờ bỏ qua hiệp thông với dân Chúa bằng thờ phượng trong Ngày của Chúa.
2. Đọc lại đoạn Kinh Thánh trong Isaia mà Chúa Giêsu đã đọc hẳn chúng ta nhận thấy sự khác biệt giữa Chúa Giêsu với Gioan Tẩy Giả. Gioan giảng về tai hoạ, và khi nghe sứ điệp của ông, người ta phải rùng mình kinh sợ. Còn Chúa Giêsu đem Phúc Âm-Tin Mừng đến. Chúa Giêsu biết cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng bao giờ cũng là thịnh nộ do tình thương.
- 22/01 Thân nhân của Chúa!!!.
- 21/01 Chúa gọi Nhóm Mười Hai
- 20/01 Chúa Giêsu là ai?.
- 19/01 Cần làm việc lành.
- 18/01 Cốt lõi của Lề Luật.
- 17/01 Rượu mới trong bầu da mới.
- 16/01 Hóa nước thành rượu ở Cana.
- 15/01 Thày thuốc cho người đau yếu.
- 14/01 Bệnh tật tâm hồn và bệnh tật thể xác.
- 13/01 Chữa người phong cùi.