Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
28/02 Điều kiện theo Chúa
- Viết bởi Mc 10, 17-27
Điều kiện theo Chúa.
Thứ Hai tuần 8 thường niên.
"Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta".
Lời Chúa: Mc 10, 17-27
Khi ấy, Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại, quỳ gối xuống trước Người và hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?" Chúa Giêsu trả lời: "Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt, hãy thảo kính cha mẹ". Người ấy thưa: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ".
Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: "Ngươi chỉ còn thiếu một điều là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta".
Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh, và bảo các môn đệ rằng: "Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao". Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó.
Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: "Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa".
Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: "Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tôi phải làm gì?
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
“Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?”
Một anh thanh niên vội vã chạy đến, quỳ trước mặt Đức Giêsu
và hỏi Ngài như thế khi Ngài vừa lên đường.
Rõ ràng anh đang háo hức và thao thức
tìm kiếm một lối sống phù hợp ở đời này,
để nhờ đó được hưởng hạnh phúc vững bền mãi mãi.
Anh đã đến với Thầy Giêsu tốt lành để hỏi câu hỏi này,
và anh thực sự chờ nơi Thầy câu trả lời.
Thầy nhắc anh về những giới răn liên quan đến tha nhân.
Đây là những điều anh đã biết, và hơn nữa,
anh thú nhận mình đã giữ chúng từ khi còn nhỏ (c. 20).
Thầy Giêsu như bị cuốn hút bởi con người đạo đức của anh.
Đưa mắt nhìn anh, Thầy đem lòng yêu mến (c. 21).
Đúng là anh đã không làm hại gì đến tha nhân.
Nhưng anh còn thiếu một điều quan trọng, đó là:
Đi. Bán những gì mình có. Cho người nghèo.
Rồi đến. Và theo Thầy Giêsu.
Thầy mời anh đi một vòng, rồi trở lại.
Lúc trở lại với Thầy, anh sẽ nhẹ hơn nhiều,
vì mọi của cải đã được phân phát cho người nghèo khó.
Thầy Giêsu muốn anh trở nên môn đệ của mình,
sau khi đã trở nên tay trắng, không còn gì để nương tựa.
Anh thanh niên sẽ có kho tàng trên trời,
khi anh được giải phóng khỏi kho tàng của anh dưới đất.
Tiếc thay anh đã từ chối lời mời của vị Thầy có lòng mến anh,
và đã chỉ cho anh điều phải làm.
Lúc nãy anh chạy đến với Thầy, bây giờ anh lại bỏ đi (c. 22).
Lúc nãy anh háo hức, vui tươi, bây giờ anh sa sầm nét mặt.
Anh không ngờ Thầy lại đòi hỏi tận căn đến thế.
Anh mong sự sống vĩnh cửu, anh thích làm môn đệ Thầy Giêsu,
nhưng anh lại không muốn bỏ chỗ dựa là của cải đời này.
Lòng gắn bó với của cải đã là một trở ngại khiến anh mất tự do.
Không phải vì anh chiếm hữu nhiều của cải,
nhưng thực ra, vì của cải đã chiếm hữu anh.
Thầy Giêsu chắc còn buồn hơn anh thanh niên,
vì Thầy bị mất một người mà Thầy ưng gọi làm môn đệ.
Đến bao giờ anh thanh niên mới nguôi ngoai nỗi buồn?
Lời mời của Thầy tốt lành vẫn đeo đuổi tâm trí anh.
Anh vẫn suốt đời thiếu một điều.
Khi về nhà, khi tiếp xúc với của cải dư dật,
có khi nào anh lại thao thức đặt câu hỏi:
Tôi phải làm gì để được thừa hưởng sự sống đời đời?
Có khi nào anh nghĩ đến chuyện chia sẻ cho người nghèo?
Có khi nào anh lại muốn đến với Thầy Giêsu?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Suy Niệm 2: Thanh luyện
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Lời Chúa hôm nay nói về thanh luyện. Trong vũ trụ hiếm có vật gì nguyên tuyền. Vạn vật trong vũ trụ sống bên nhau. Ảnh hưởng lẫn nhau. Xâm nhập vào nhau. Muốn có nguyên tố tinh tuyền. Cần phải thanh luyện.
Thánh Phê-rô cho biết vàng tuy là vật chất ở trần gian. Cũng đòi có cuộc thanh luyện. Huống hồ chúng ta có gia tài cao quí hơn gấp bội trên trời. Có thứ vàng vĩnh cửu. Có gia tài không bao giờ vẩn đục tàn phai. “Chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho anh em”. Để đạt tới gia tài lớn lao cao quí ấy ta cũng phải được thanh luyện bằng những đau khổ lớn lao. “Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội” (năm chẵn).
Hôm nay Chúa Giê-su cho biết cuộc thanh luyện đó thật khốc liệt. Vì rốt ráo. Muốn vào Nước Trời phải thanh luyện tâm hồn khỏi những dính bén trần tục. Kho tàng trần tục đối lập với kho tàng Nước Trời. Giá trị khác nhau. Chất liệu khác nhau. Và cách thức thủ đắc cũng khác nhau. Kho tàng trần gian là vật chất. Kho tàng Nước Trời là ân sủng. Kho tàng trần gian mau qua. Kho tàng Nước Trời vĩnh cửu. Kho tàng trần gian có được nhờ thu góp. Kho tàng Nước Trời thành hình nhờ phân tán. Kho tàng trần gian qui về bản thân. Kho tàng Nước Trời dành cho tha nhân. Như Chúa dạy chàng thanh niên: “Hãy về bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời”. Hai kho tàng này mâu thuẫn nhau. Chỉ được một trong hai. Muốn được kho tàng Nước Trời phải bán hết kho tàng trần gian. “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”.
Gắn bó với của cải trở thành chướng ngại. Chọn trần gian là tội lỗi. Vì quay lưng lại Nước Trời. Vì thế cần sám hối. Cần trở về với Chúa. Xa lánh trần gian. “Hãy trở về với Đức Chúa và từ bỏ tội lỗi, hãy cầu khẩn trước nhan Người, và giảm bớt dịp tội. Hãy đoạn tuyệt với gian ác, trở về cùng Đấng Tối Cao, và cực lực gớm ghét mọi điều ghê tởm”. Không ai ngờ chàng thanh niên kia là tội lỗi. Nhưng anh thực sự chạy theo tội lỗi. Vì trước lựa chọn. Anh từ bỏ Chúa mà chạy theo tiền tài. Mà Chúa đã nói công khai: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của được”(Mt 6, 24) (năm lẻ).
Xin cho con luôn biết sám hối. Thanh luyện tâm hồn khỏi bụi bặm trần gia. Để chọn lựa Chúa. Và sống cho Chúa.
Suy Niệm 3: Khôn ngoan đích thực
Trong truyền thống Kinh Thánh, Vua Salômôn vẫn được coi như mẫu người biết sống khôn ngoan, bởi vì nhà vua hiểu rằng ai có được khôn ngoan là chiếm hữu được bí mật, là chiếm hữu được ý nghĩa cuộc sống, và đó mới là kho tàng quý báu nhất. Người khôn ngoan như thế là người biết đặt vấn đề về ý nghĩa của đời mình, bởi vì có nhiều tiền bạc, danh vọng, quyền bính để làm gì, nếu sống mà không có lý tưởng và mục đích tuyệt đối để đeo đuổi, và bởi vì chỉ có cái đức mới theo con người sau cái chết và thực sự lợi ích cho con người.
Ðây cũng là ý nghĩa của trình thuật kể lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên giàu có, như được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
Trong truyền thống Do Thái, của cải giàu sang là bằng chứng sự hiện diện và chúc lành của Thiên Chúa, còn nghèo khổ là dấu chỉ xa cách Thiên Chúa và bị Ngài chúc dữ. Chúa Giêsu sửa sai quan niệm duy vật đó của người Do Thái, bằng cách đảo lộn bậc thang giá trị của tâm thức trần gian. Thánh Matthêu và Luca trình bày điều đó qua Hiến Chương Tám Mối Phúc Thật, còn thánh Marcô thì lồng khung nó trong con đường của Chúa Giêsu tiến về thập giá và Núi Sọ, trên con đường ấy thái độ sống đúng đắn nhất, đó là tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và Lời Ngài.
Qua cuộc đối thoại với người thanh niên giàu có, Chúa Giêsu cho thấy việc tuân giữ lề luật mà thôi không bảo đảm cho ơn cứu rỗi của con người. Muốn được cứu rỗi, phải chia sẻ của cải cho người nghèo khó để được phần trên trời và bước theo Chúa Giêsu. Nói khác đi, đối với Chúa Giêsu, việc tuân giữ luật lệ không đủ để được ơn cứu rỗi; muốn được ơn cứu rỗi, cần phải sống tin yêu, phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, nghĩa là có được kho tàng trên trời, và yêu thương tha nhân bằng cách cho đi những gì mình có, dù đó là của cải vật chất hay tinh thần.
Chúa Giêsu không dạy chúng ta khinh thường của cải trần gian, nhưng Ngài chỉ khuyến cáo chúng ta rằng của cải trần gian có thể là một chướng ngại trầm trọng cho ơn cứu rỗi. Khi nó không được dùng để phục vụ tha nhân, thì của cải có thể trở thành dụng cụ của ích kỷ, nguồn gốc của bất chính hoặc phô trương lừa gạt. Của cải có thể trở thành sự dữ, khi nó khép kín con tim và tâm trí chúng ta trong ngục tù của ích kỷ và hưởng thụ, khi nó ngăn cản chúng ta sống yêu thương và quảng đại, khi nó không cho chúng ta sống hoàn toàn tự do khỏi mọi tù ngục trói buộc con người.
Lời mời gọi của Chúa Giêsu: hãy bán của cải, chia cho người nghèo, rồi đi theo Ngài, là một lời mời gọi cách mạng, có sức biến đổi tấm lòng và cuộc đời cũng như có sức biến đổi thế giới. Theo Chúa Giêsu là có can đảm từ bỏ tất cả: từ bỏ tội lỗi, từ bỏ kiểu cách sống trái với Tin Mừng yêu thương, từ bỏ tâm thức hẹp hòi ích kỷ, từ bỏ những người thân thương và từ bỏ chính mạng sống của mình nữa. Nhưng tất cả những từ bỏ ấy chỉ có ý nghĩa khi chúng ta chọn Chúa Giêsu và tiến bước theo Ngài. Và đó chính là sự khôn ngoan đích thực của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Đặt câu hỏi không đúng
Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm phần gia nghiệp?”
Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu một điều, là hãy đi bán hết những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mc. 10, 17. 21)
Người giầu có này đặt cho Chúa một câu hỏi kiểu người có óc kinh doanh: “Thưa Thầy, tôi phải đặt gía nào để được thừa hưởng sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Chúa Giêsu trả lời anh rằng Người không có tiền mặt trao đổi cho một vụ giao dịch như thế, và anh chàng “buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” đã hoàn toàn mất giá trong một cuộc trao đổi thuộc loại như thế. Cũng như thể ta đem bánh trao đổi với chủ lò bánh để mua nhà của ông ta vậy. Bánh không thể đổi lấy cái nhà tuy là vật sở hữu nhưng đã tham dự vào cuộc sống của chủ lò bánh. Sự sống đời đời không phải để bán. Chẳng thể dùng tiền mà mua được sự sống ấy; trái lại phải rũ bỏ hết mọi khế sở hữu của mình. Nếu lòng ta để hết cả vào cái sở hữu của ta, thì sự sống đời đời dù là đẹp đẽ đến đâu, cũng sẽ trở nên lê thê, buồn chán, bởi lẽ những khát vọng của ta sẽ chẳng được thỏa mãn. Xem ra ý nghĩa của câu truyện là như vậy.
Bạn để lòng ở đâu, thì ở đó có nguồn vui
Khi nói ta không thể dùng những việc lành, việc thực hành các giới răn mà mua được Sự Sống, thì hoàn toàn không có ý khinh chê những hành động này và nếu vì nghèo đói mà ta chỉ mải mê lo cho cuộc sống vật chất này thì thật bất hạnh! Một việc thiện vẫn là một việc thiện cho dù nó không đáng hưởng một Sự Sống mà không gì xứng đáng. Việc tuân thủ luật pháp vẫn là cần thiết để sinh hoạt của con người được trôi chảy, mặc dầu việc tuân thủ kia không thể cho quyền (theo luật) được hưởng Sự Sống đời đời.
Rất nhiều khi chúng ta thường trình bày Chúa Giêsu như một nhà cách mạng đả kích trật tự xã hội, đang khi Người lại làm hết sức mình để ta phải nhận rằng thái độ trên đây không phải là sứ mệnh của Người. Có những giá trị nhân loại, dầu sao vẫn là những giá trị lớn như công bình, ý thức chia sẻ, dù rằng nó không có một giá trị đời đời. Người tín hữu sẽ tự bôi lọ mình khi không quan tâm đến những giá trị trên đây, viện lẽ rằng mình chỉ phải lo cho những gíá trị đời đời. Dầu sao, trong chính bản thân ta, chúng ta có những cái phải quan tâm để đưa tới mức hoàn thiện. Chúng ta đã chẳng có Mầu nhiệm Nhập thể của Chúa Giêsu để dạy ta làm người hoàn toàn và tuyệt vời sao. Uy thác hoàn toàn cho Chúa sứ mệnh sửa lại một nhân loại đã suy đồi, thiết tưởng là làm hại cho công trình sáng tạo vậy.
Nếu chúng ta được Chúa mời gọi bán hết của cải mà cho người nghèo để đi theo Chúa Giêsu, chính là để ta chọn một con đường mà những của cải này, dù tốt và cần đến đâu để ta sống ở trần gian, thì đều không cần thiết ở nơi ấy, nơi “trời mới đất mới.”
Suy Niệm 5: Khôn ngoan và khôn dại
Trong một dịp nói chuyện với các tu sĩ, một linh mục lớn tuổi được đề nghị chia sẻ về kinh nghiệm cầu nguyện của chính ngài. Lúc đầu ngài không muốn vì e rằng rơi vào tình trạng khoe khoang, nhưng sau khi mọi người thuyết phục trong tinh thần đạo đức, ngài đã nhận lời. Ngài chia sẻ rất nhiều ý tưởng, nhưng điều đáng chú ý nhất, ngoài lời cầu nguyện cho mọi người, ngài dâng lời cầu nguyện cho chính mình. Ngài nói: “Tôi thường xin Chúa cho tôi được ơn khôn ngoan, yêu mến Lời Chúa, can đảm đón nhận đau khổ, trung thành với ơn gọi và được chết lành đang lúc có ơn nghĩa với Chúa”.
Thật vậy, người khôn ngoan theo lối hiểu của Kinh Thánh chính là khám phá ra ý nghĩa của cuộc đời, biết đặt cuộc đời mình trong thánh ý của Thiên Chúa chứ không phải tiền bạc, danh vọng và lợi thú... Biết tìm đến với kho tàng vĩnh cửu, chứ không bám víu và phụ thuộc vào những thứ mau qua, chóng hết ở đời.
Hôm nay, có một chàng thanh niên tốt lành đến để gặp Đức Giêsu nhằm xin Ngài chỉ cho con đường dẫn đến hạnh phúc. Thấy thế, Đức Giêsu đã đem lòng yêu mến và mời gọi anh đi theo mình trên con đường mà chính Ngài đang đi. Tuy nhiên, khi buộc phải để lại mọi sự cho người nghèo thì anh đã không dám và từ từ rút lui!
Như vậy, ơn cứu độ đã đến được với anh thanh niên này, nhưng anh đã để mất bởi sự tham lam, ích kỷ của mình. Anh ta đã coi tiền bạc, của cải là số một trong cuộc đời của anh, nên chính Chúa cũng không còn chỗ đứng nơi tâm hồn người thanh niên đáng thương này thì làm sao ơn cứu độ có thể đến được!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đặt bậc thang giá trị, và biết lựa chọn đúng để được hạnh phúc đời đời. Hãy cẩn trọng với vấn đề tiền bạc vì tiền bạc có thể sẽ là rào cản lớn chắn đường về trời nếu nó trở thành ông chủ.
Nếu bao lâu chúng ta vẫn còn chạy đua với đồng tiền, bất chấp mọi thủ đoạn để chiếm lĩnh, hay sống ích kỷ, dửng dưng với người nghèo khổ, thì bấy lâu lời mời gọi đánh đổi kho báu Nước Trời sẽ là lời mời gọi xa lạ với chúng ta.
Như thế, lẽ đương nhiên, chúng ta đánh mất kho tàng đích thực và trở thành người dại trước mặt Thiên Chúa vì: “Lợi lãi cả thế giới mà mất linh hồn thì còn ích gì?”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết tìm đến với Chúa, vâng nghe và thực hành Lời Chúa, bởi Chúa chính là nguồn mạch khôn ngoan. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Theo Chúa phải khó nghèo
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự chọn lựa của một người đi theo Chúa: chọn của cải trần thế hay kho tàng Nước Trời? Người thanh niên trong bài Tin Mừng là một người giầu có và giữ đạo đức từ thuở nhỏ. Nhưng khi Đức Giêsu đưa ra một điều kiện cao hơn là chia sẻ của cải cho người nghèo, thì anh ta chán nản bỏ đi. Đức Giêsu cho thấy: để được vào Nước Trời, không chỉ giữ đúng, giữ đủ lề luật, không làm gì hại đến ai như anh nhà giầu kia, mà còn phải thực thi bác ái. Vì chỉ ai sẵn sàng trở nên nghèo khó để mưu ích cho anh em, mới xứng đáng đón nhận ơn cứu độ.
2. Nhìn lại cuộc sống của người thanh niên trong Tin Mừng hôm nay, xem ra anh ta quả là một người đạo hạnh, vì tuân giữ các giới luật của Thiên Chúa từ lúc còn nhỏ. Thái độ sống của anh khiến chúng ta phải kính nể. Do đó, ước muốn trở nên hoàn thiện của anh là một điều chính đáng.
Tuy nhiên, khát vọng trở nên hoàn thiện không chỉ là những điều phải tuân giữ như anh ta nghĩ, mà còn phải thể hiện một cách mạnh mẽ hơn và triệt để hơn, đó là dám đánh đổi tất cả để được sự hoàn thiện ấy. Đức Giêsu đã “đánh” vào điểm yếu của người thanh niên, khi Ngài đưa ra một cuộc “trao đổi” cho anh: bán tất cả tài sản để có một kho tàng khác; đổi cả một gia tài cả đời dành dụm để được một sự hoàn thiện, và đổi cái có trong tay lấy cái không thấy được. Kết quả, anh ta không dám đánh đổi. Anh đành rút lui. Vâng, tiền bạc có thể mua được nhiều thứ nhưng không thể mua được sự thánh thiện.
3. Trong truyền thống Do thái, của cải giầu sang là bằng chứng sự hiện diện và chúc lành của Thiên Chúa, còn nghèo khổ là dấu chỉ xa cách Thiên Chúa và bị Ngài chúc dữ. Đức Giêsu sửa sai quan niệm duy vật đó của người Do thái, bằng cách đảo lộn bậc thang giá trị của tâm thức trần gian. Thánh Matthêu và Luca trình bầy điều đó trong Hiến chương Nước Trời hay Tám mối phúc thật, còn thánh Marcô thì lồng khung nó trong con đường của Đức Giêsu tiến về thập giá và Núi Sọ, trên con đường ấy thái độ sống đúng đắn nhất, đó là tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và Lời Ngài.
4. Đức Giêsu không dạy chúng ta khinh thường của cải trần gian, nhưng Ngài chỉ khuyến cáo chúng ta rằng của cải trần gian có thể là một chướng ngại trầm trọng cho ơn cứu rỗi. Khi nó không được dùng để phục vụ tha nhân, thì của cải có thể trở thành dụng cụ ích kỷ, nguồn gốc của bất chính hoặc phô trương lừa gạt. Của cải có thể trở thành sự dữ, khi nó khép kín con tim và tâm trí chúng ta trong ngục tù của ích kỷ và hưởng thụ, khi nó ngăn cản chúng ta sống yêu thương và quảng đại, khi nó không cho chúng ta sống hoàn toàn tự do khỏi mọi tù ngục trói buộc con người.
5. Thực ra, Đức Giêsu không lên án người giầu có, cũng không chúc lành cho người nghèo. Bằng chứng: những người đàn bà thánh thiện đi theo Chúa, họ là những người giầu có, đem tiền của trợ giúp Ngài và các môn đệ trong công việc truyền giáo, họ đâu bị kết án? Cũng như khi Maria, em của Marta và chị của Lazarô, đem bình thuốc thơm mà Giuđa đánh giá đến 300 đồng (công nhật một người thợ thời ấy là một đồng). Ngài đi dự những bữa ăn sang trọng của người biệt phái giầu có (Lc 7,36-38) hay những người thu thuế có tiền (Lc19,1-10).
Vậy Chúa lên án những gì?
Ngài lên án những người không biết dùng tiền của, làm nô lệ cho tiền của.
Thật khó cho người giầu có thể trở nên một Kitô hữu chân thật khi họ coi đồng tiền là chúa tể. Điển hình là người thanh niên hôm nay, anh không dám hay không đành dấn thân theo chân Chúa, như Phêrô và các bạn ông đã làm.
Truyện: Đứng trên của cải.
Có một người giầu có kia thường xuyên đến xưng tội với thánh Philipphê Nêri. Ông có nhiều tiền của, có thiện chí, nhưng ông vẫn cảm thấy mình không đạt được sự tiến bộ nào trên đường thiêng liêng. Từ chán nản đến thất vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc và không trở lại xưng tội với thánh nhân nữa. Thấy ông đã lâu không đến xưng tội, thánh nhân tìm đến nhà ông để gặp ông. Sau một hồi trò truyện, ngài nhìn lên cây Thánh giá trên tường, ngài cân nhắc độ cao của Thánh giá rồi đề nghị với người đàn ông giầu có: “Ông là người cao lớn, ông thử với coi có tới Thánh giá không”. Ông đứng dậy giơ cánh tay lên cố với nhưng không thể nào chạm tới Chúa Giêsu trên Thánh giá. Bấy giờ thánh Philipphê dùng hết sức đẩy cái hòm tiền của người giầu đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái hòm tiền để với tới cây Thánh giá. Ông làm theo ý thánh nhân và sờ được Chúa Giêsu trên Thánh giá. Sau đó ngài nói với ông: “Để có thể nắm lấy được Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng trên tiền bạc của cải”.
Chúa Giêsu bảo chúng ta: hãy dùng tiền của và cư xử cách nào để đem lại ích lợi cho cuộc sống hôm nay, và đồng thời cũng đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau nữa.
Suy Niệm 7: Tinh thần từ bỏ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Muốn được cứu độ, cần phải có ơn Chúa. Nếu chỉ cậy dựa vào sức tự nhiên và tiền của, ắt không thể được cứu rỗi. Chúa quả quyết: “Không có Ta, các con chẳng làm gì được”.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay cho con thấy, vào Nước Trời là một việc khó. Cái khó ấy chính là lòng tham sân si. Người giàu cũng như kẻ nghèo, nam cũng như nữ, ai cũng có thể mắc vào cái khó này. Người giàu thì cứ muốn giữ của mãi, người nghèo thì cứ muốn mơ ước mãi, ít ai có tấm lòng từ bỏ.
Lạy Chúa, con nhớ lại hình ảnh vẽ một người đang hấp hối chết dữ. Kẻ lâm chung được thiên thần và các thánh bay đến bên cạnh tấp nập khuyên lơn van xin. Nhưng ông ta cứ quay mặt nhìn vào bị tiền. Giây phút cuối cùng ấy, thiên thần bản mệnh của ông phải che mặt khóc. Ông ta đã quá gắn bó với tiền của.
Chúa đòi hỏi mỗi người chúng con một cách. Chúa ban cho mỗi người một phương tiện để sống. Xin cho con luôn nhớ rằng sự đời này chóng qua. Quê hương thật của con là Nước Trời. Quê hương thật của con sẽ trường tồn mãi mãi. Và để con được vào quê hương này, xin cho con biết sẵn sàng từ bỏ mọi sự để theo Thánh Ý Chúa. Ngày con sinh ra, con trần truồng, không một đồng bạc dính thân. Trong cả cuộc sống, Chúa trao cho con hành trang tiền của và các tài sản. Nhưng ngày con giã từ trần thế, Chúa gọi con về với cả thân xác linh hồn con, mọi sự đời này được để lại cho trần gian, con sẽ ra đi tay không.
Lạy Chúa, còn ngày nào sống trên đời, xin Chúa cho con luôn sống trong tinh thần từ bỏ. Xin đừng để con vì của cải mà mất quê Trời. Chỉ có Chúa là gia nghiệp muôn đời của con. Amen.
Ghi nhớ: “Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta”.
Suy Niệm 8: Người khôn ngoan thật sự
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
Trong truyền thống Kinh Thánh, vua Salomon vẫn được coi như mẫu người biết sống khôn ngoan, bởi vì nhà vua hiểu rằng ai có được khôn ngoan là chiếm hữu được bí mật, là chiếm hữu được ý nghĩa cuộc sống, và đó mới là kho tàng quý báu nhất. Người khôn ngoan như thế là người biết đặt vấn đề về ý nghĩa của đời mình, bởi vì có nhiều tiền bạc, danh vọng, quyền bính để làm gì, nếu sống mà không có lý tưởng và mục đích tuyệt đối để đeo đuổi, và bởi vì chỉ có cái đức mới theo con người sau cái chết và thực sự lợi ích cho con người.
Đây cũng là ý nghĩa của trình thuật kể lại cuộc đối thoại giữa Chúa và người thanh niên giàu có, như được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
Trong truyền thống Do Thái, của cải giàu sang là bằng chứng sự hiện diện và chúc lành của Thiên Chúa, còn nghèo khổ là dấu chỉ xa cách Thiên Chúa và bị Ngài chúc dữ. Chúa Giêsu sửa sai quan niệm duy vật đó của người Do Thái, bằng cách đảo lộn bậc thang giá trị của tâm thức trần gian. Thánh Matthêu và Luca trình bày điều đó qua Hiến chương Tám Mối Phúc Thật, còn thánh Máccô thì lồng khung nó trong con đường của Chúa Giêsu tiến về Thập Giá và Núi Sọ, trên con đường ấy thái độ sống đúng đắn nhất, đó là tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa và Lời Ngài.
Qua cuộc đối thoại với người thanh niên giàu có, Chúa Giêsu cho thấy việc tuân giữ lề luật mà thôi không bảo đảm cho ơn cứu rỗi của con người. Muốn được ơn cứu rỗi, phải chia sẻ của cải cho người nghèo khó để được phần trên trời và bước theo Chúa Giêsu. Nói khác đi, đối với Chúa Giêsu, việc tuân giữ luật lệ không đủ để được ơn cứu rỗi, cần phải sống tin yêu, phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, nghĩa là có được kho tàng trên trời, và yêu thương tha nhân bằng cách cho đi những gì mình có, dù đó là của cải vật chất hay tinh thần.
Chúa Giêsu không dạy chúng ta khinh thường của cải trần gian, nhưng Ngài chỉ khuyến cáo chúng ta rằng của cải trần gian, có thể là một chướng ngại trầm trọng cho ơn cứu rỗi, khi nó không được dùng để phục vụ tha nhân, thì của cải có thể trở thành dụng cụ của ích kỷ, nguồn gốc của bất chính hoặc phô trương lừa gạt. Của cải có thể trở thành sự dữ, khi nó khép kín con tim và tâm trí chúng ta trong ngục tù của ích kỷ và hưởng thụ, khi nó ngăn cản chúng ta sống yêu thương và quảng đại, khi nó không cho chúng ta sống hoàn toàn tự do khỏi mọi tù ngục trói buộc con người.
Lời mời gọi của Chúa Giêsu: Hãy bán của cải, chia cho người nghèo, rồi đi theo Ngài, là một lời mời gọi cách mạng, có sức biến đổi thế giới. Theo Chúa Giêsu là có can đảm từ bỏ tất cả: từ bỏ tội lỗi, từ bỏ kiểu cách sống trái với Tin Mừng yêu thương, từ bỏ tâm thức hẹp hòi ích kỷ, từ bỏ những người thân thương và từ bỏ chính mạng sống của mình nữa. Nhưng tất cả những từ bỏ ấy chỉ có ý nghĩa khi chúng ta chọn Chúa Giêsu và tiến bước theo Ngài. Và đó chính là sự khôn ngoan đích thực của chúng ta.
Suy Niệm 9: Lý tưởng sống của người theo Chúa
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay là một trong những câu chuyện gây nhiều ấn tượng trong toàn bộ Tin Mừng.
Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã có lần lấy bài Tin Mừng này làm đề tài để chia sẻ với các người trẻ trên thế giới về lý tưởng sống của một người theo Chúa.
Rõ ràng Tin Mừng hôm nay đặt người thanh niên này cũng như chúng ta vào tư thế phải chọn lựa: Theo Chúa hay là theo của cải.
Câu chuyện ban đầu thật tốt đẹp. Anh ta đã chạy đến với Chúa, rồi quì dưới chân Chúa. Một chàng thanh niên giàu có, quí phái quì xuống trước mặt nhà tiên tri người Nazareth không một xu dính túi. Anh ta hỏi Chúa về những việc phải làm để có được sự sống đời đời.
Chúa đã nêu ra các điều răn vốn là nền tảng của một đời sống đạo đức, đáng kính trọng. Chàng thanh niên nọ đã không chút do dự đáp ngay rằng, mình đã giữ trọn tất cả từ thuở nhỏ.
Đối với cái nhìn của một con người thì được như thế quả đã là quá tốt rồi. Thế nhưng, đối với Chúa thì chưa đủ. Ngài muốn anh dấn thân một cách trọn vẹn hơn, bằng một đời sống biết chia sẻ những gì mình có cho những người nghèo khó. Nhưng người thanh niên đã không dám chấp nhận và rồi anh đã bỏ đi.
Và chính trong bối cảnh này mà Chúa đã nói: "Người giàu có khó vào Thiên Đàng biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Chúa" (Mc 10,24).
Vâng! Của cải vật chất như một con dao hai lưỡi. Cái nguy hiểm đầu tiên là nó làm cho con người muốn gắn chặt tấm lòng của mình vào đời tạm này, mà quên đi cuộc sống mai sau. Và nếu mối bận tâm chính yếu của con người chỉ là việc chiếm hữu của cải vật chất càng nhiều càng tốt, thì sớm muộn gì nó cũng khiến người ta nhìn mọi sự trên đời này bằng khuynh hướng lượng giá. Họ sẽ căn cứ vào sự giàu có sang trọng để đánh giá một con người, hơn là căn cứ vào những giá trị tốt đẹp để đánh giá con người đó.
Nếu mối bận tâm chính yếu của một người là của cải vật chất, thì người ấy sẽ chỉ biết có giá cả mà không biết đến giá trị. Người ấy chỉ biết nghĩ đến những gì người ta có thể mua bán bằng tiền bạc, chứ không biết rằng, có những giá trị ở đời người ta không thể nào mua bán bằng tiền bạc được.
George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết: "Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng nếu biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn ".
Có thể kể ra những thứ sau đây mà tiền không mua được:
Tiền không mua được tình bạn chân thực.
Tiền không mua được lương tâm trong sạch.
Tiền không mua được niềm vui mạnh khỏe.
2. Chúng ta hãy cố gắng sống siêu thoát để cho cuộc sống được thanh thản hơn.
Một chàng sinh viên vừa nhận được một phần thưởng. Lúc bước ra tới cổng thì gặp một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy.
- Chú ơi! Chúc mừng chú, thật vinh dự cho chú đã đạt được giải nhất trong cuộc thi khó khăn này. Tôi có một chuyện muốn nói với chú nhưng không biết có tiện không. Nếu chú có con nhỏ chú mới hiểu được điều tôi sắp nói. Con của tôi đang bị ung thư nặng nằm trong bệnh viện, nếu không có một khoản tiền để mổ, chắc em nó không qua khỏi được! Mà nhà tôi thì... không thể lo được một khoản tiền lớn đến như vậy...
- Thế bác cần bao nhiêu? - Anh sinh viên nhìn bà hỏi, lòng cảm thông thật sự.
Sau khi nghe người phụ nữ kể hết sự việc, anh liền rút phong bì đựng số tiền vừa được thưởng và trao hết cho bà.
- Cầu mong cho con bác qua được hiểm nguy. Bác về lo cho em ấy ngay đi.
- Cảm ơn chú, không biết tôi phải lấy gì mà đền ơn chú đây.
Nói rồi, người phụ nữ với vẻ xúc động bước ngay ra cổng.
Vài ngày sau anh có dịp quay lại trường. Một người trông thấy liền tiến tới hỏi:
- Có người kể với tôi, mấy hôm trước anh có gặp một người phụ nữ sau cuộc thi, và anh đã cho bà ấy tiền để chữa bệnh cho đứa con sắp chết của bà ấy, phải không?
Người thanh niên gật đầu xác nhận.
- Vậy thì tôi phải báo với anh tin này để anh biết, bà ta là một tay lừa đảo thật sự đấy. Bà ta chẳng có đứa con nào bị bệnh gần chết cả. Anh cả tin quá! Anh bị lừa rồi, anh bạn ạ!
Một thoáng im lặng, anh thanh niên hỏi lại:
- Có thật là không có đứa bé nào bị bệnh gần chết cả, đúng không?
- Đúng vậy. Tôi bảo đảm là như thế - người đàn ông quả quyết
- Ồ đó là tin tốt lành nhất trong ngày mà tôi được biết đấy - người thanh niên nói.
Đoạn anh nói thêm:
- Chúng ta nên ăn mừng vì không có đứa trẻ nào phải chết cả.
27/02 Cái rác, cái đà
- Viết bởi Lc 6, 39-45
Cái rác, cái đà.
CHÚA NHẬT 8 THƯỜNG NIÊN Năm C.
"Miệng nói những điều đầy ứ trong lòng".
Lời Chúa: Lc 6, 39-45
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Người mù có thể dẫn người mù được chăng? Cả hai lại không sa xuống hố ư? Môn đệ không trọng hơn Thầy: nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi.
"Sao ngươi nhìn cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy? Sao ngươi có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh', trong khi chính ngươi không nhìn thấy cái đà trong mắt ngươi? Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi.
"Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu; và ngược lại, cũng không có cây nào xấu mà sinh trái tốt. Thật vậy, cứ xem trái thì biết cây. Người ta không hái được trái vả ở bụi gai, và cũng không hái được trái nho nơi cây dâu đất. Người hiền, bởi lòng tích chứa điều lành, nên phát xuất sự thiện; và kẻ dữ, bởi tích đầy lòng ác, nên phát xuất điều ác: vì lòng đầy, thì miệng mới nói ra".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 8 THƯỜNG NIÊN C
Lời Chúa: Hc 27,4-7; 1Cr 15,54-58; Lc 6,39-45
1. Nghe mà không thực hành--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Có nhiều cách để nhận biết sự thật về một người.
Chúng ta có thể bị hấp dẫn bởi những lời giảng hùng hồn.
Chúng ta cũng có thể bị đánh lừa bởi thái độ khôn khéo giả tạo.
Đức Giêsu cho chúng ta một tiêu chuẩn để nhận ra con người thật:
“Xem quả thì biết cây” (c. 44).
Quả ở đây là đời sống thực sự của người đó, là những việc họ làm.
Nếu nhìn kỹ công việc của một người, chúng ta có cơ may biết họ là ai.
Đức Giêsu nói lên một luật tự nhiên của cây cỏ.
Cây tốt sẽ sinh trái tốt, cây bị sâu sẽ sinh ra trái không ngon.
Người công chính được nhận biết qua đời sống tốt lành của họ,
qua những thử thách họ đã vượt qua, qua những hy sinh họ dâng hiến.
Người bất chính sẽ lộ ra qua đời sống xấu xa.
Đời sống và hành động của một người phản ánh con người thật của họ.
Bụi gai không sinh được trái vả, bụi rậm không cho được trái nho.
Bụi gai và bụi rậm chẳng thể nào sinh hoa trái tốt đẹp.
Đời sống là tiêu chuẩn để nhận ra người môn đệ thật của Đức Giêsu.
Không phải chỉ là tuyên xưng đức tin vào Thầy
bằng cách kêu lên: “Lạy Chúa! lạy Chúa!”
Vấn đề là làm điều Thầy dạy (c. 46).
Đức Giêsu đặt câu hỏi tại sao đầy ngạc nhiên với các môn đệ:
Tại sao tin vào Thầy mà lại không sống điều Thầy truyền dạy?
Kitô hữu chân chính là người đến với Chúa Giêsu,
lắng nghe những lời của Ngài và thi hành những lời ấy (c. 47).
Nghe thôi thì chưa đủ.
Lời của Chúa Giêsu phải thấm nhuần vào đời sống của ta,
chi phối mọi hành động, quyết định và lựa chọn.
Đức Giêsu kết thúc Bài Giảng của mình bằng dụ ngôn về hai người xây nhà.
Nhiều người đã nghe Bài Giảng này, đã cảm thấy hay,
nhưng có bao nhiêu người sẽ thực hành những giáo huấn trong đó?
Người thực hành Lời Chúa được ví như người xây nhà có nền vững chắc.
Còn người không thực hành thì giống như người làm nhà không nền.
Bề ngoài có vẻ hai căn nhà không khác nhau.
Chỉ khi nước lụt dâng lên, và dòng nước ùa vào nhà, mới thấy sự khác biệt.
Một căn đứng vững vì có nền tử tế, căn kia bị sụp đổ tan tành.
Chúng ta thích xây nhà cao, nhưng lại ít để ý tới nền móng.
Chúng ta đã được nghe quá nhiều đoạn Lời Chúa,
nhưng vẫn chỉ dừng lại ở việc suy niệm, cầu nguyện.
Lời Chúa chưa thực sự bám rễ trong hành động và cuộc sống,
vì điều đó đòi một sự trả giá mà chúng ta muốn quay lưng.
Chính vì thế căn nhà tâm linh của chúng ta vẫn không vững.
Xin Chúa cho chúng ta can đảm để làm lại nền cho căn nhà đời ta.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con đường dài nhất là con đường từ tai đến tay.
Chúng con thường xây nhà trên cát,
vì chỉ biết thích thú nghe Lời Chúa dạy,
nhưng lại không dám đem ra thực hành.
Chính vì thế
Lời Chúa chẳng kết trái nơi chúng con.
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Xin giúp chúng con dọn dẹp mảnh đất đời mình,
để hạt giống Lời Chúa được tự do tăng truởng.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
đó là Lời Chúa,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con.
2. Đạo đức giả--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Sống ở đời chúng ta liên tục phải đưa ra những phán đoán.
Có những phán đoán về người khác: đúng, sai, tốt, xấu.
Giáo dục một người là giúp người đó có được phán đoán khách quan.
Khi Đức Giêsu dạy các môn đệ đừng xét đoán (Lc 6, 37),
Ngài không bảo họ đừng đưa ra những phán đoán hay nhận định.
Ngài cũng không coi thường những phán quyết của quan tòa.
Đơn giản Ngài chỉ muốn chúng ta tránh một khuynh hướng dễ gặp,
đó là chỉ trích phê phán, bới lông tìm vết, đối với tha nhân.
Các môn đệ sẽ phải là những nhà lãnh đạo dân Chúa.
Họ không thể là những người dẫn đường mù lòa.
Chỉ với cặp mắt sáng, họ mới có thể chu toàn nhiệm vụ,
dẫn dắt những người còn trong bóng tối ra ánh sáng bình minh.
Nếu không, mù dắt mù, cả hai sẽ sa xuống hố (c. 39).
Người lãnh đạo sáng suốt là người biết mình,
biết cái mạnh, cái yếu, cái hay, cái dở của mình.
Họ phải thấy rõ cái xà, hay thậm chí cái rác nơi mắt mình.
Thiếu thái độ tự phê phán nghiêm túc, họ không thể dẫn dắt người khác.
“Hãy biết mình” là câu được khắc ở một đền thờ nổi tiếng bên Hy Lạp.
Như thế biết mình không phải là chuyện dễ.
Chẳng ai gần mình, hiểu rõ mình bằng mình.
Nhưng nhiều khi chẳng ai mù mờ về tôi bằng chính tôi.
Lắm khi tôi chạy trốn chính mình, không đủ can đảm để thấy sự thật.
Nói chung tôi không thích nhìn nhận những bóng tối và bóng mờ nơi tôi.
Thậm chí, cái xà nơi mắt tôi, mà tôi cũng không để ý (c. 41).
Tôi chỉ muốn thấy nơi mình toàn những điều trong sáng, tốt đẹp, giỏi giang.
Càng có địa vị cao, càng thành công nhiều, càng có uy tín,
tôi càng khó chấp nhận, khó thấy những nhược điểm của mình,
Những người dưới quyền cũng không dám góp ý,
nên tôi lại càng dễ nghĩ là mình đã thực sự hoàn hảo.
Chắc chúng ta phải giúp người khác lấy rác ra khỏi mắt,
vì họ khó tự mình lấy được, và thật khó chịu khi có rác trong mắt.
Nhưng phải làm điều đó với rất nhiều yêu thương và khiêm hạ,
bởi lẽ chúng ta biết mình cũng cần anh em giúp lấy rác khỏi mắt mình.
Đơn giản là phải thấy cái rác và cả cái xà trong mắt mình trước,
nhờ người lấy ra dùm, sau đó mới thấy rõ để đi giúp người anh em.
Giúp nhau lấy rác trong mắt nhau, giúp nhau thấy rõ hơn sự thật về mình,
đó là công việc bác ái thường ngày mà chúng ta làm cho nhau.
Như thế Hội Thánh của chúng ta sẽ gồm những người sáng mắt,
nhờ biết xin người khác lấy rác ra khỏi mắt mình, và giúp họ lấy rác của họ.
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.
3. Lấy rác, lấy xà
Biết mình là chuyện không dễ.
Ở một đền thờ bên Hy Lạp có khắc câu: Hãy biết mình.
Chẳng ai gần gũi với mình bằng chính bản thân mình.
Vậy mà tôi vẫn là một bí ẩn đối với tôi.
Người ta thích làm những bản trắc nghiệm
để biết về chỉ số thông minh, về tâm lý, tính tình...
Nhưng để biết mình cần trắc nghiệm bằng cả cuộc đời.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu nói về chuyện thấy mình.
Ngài dùng lối ngoa ngữ để dạy dỗ môn đệ.
Tôi không thấy cái xà trong mắt mình,
nghĩa là không nhận ra nơi tôi một khuyết điểm trầm trọng
mà ai ai cũng thấy, trừ chính tôi.
(Tôi không thể thấy hay tôi không muốn thấy!)
Nhưng tôi lại thấy cái rác nhỏ trong mắt anh em.
Dường như thấy cái rác nhỏ nơi mắt người khác
dễ hơn là thấy cái xà nơi mắt mình.
Phải chăng vì đứng gần mình quá nên tôi không thấy rõ,
hay vì tôi vẫn coi mình là hoàn hảo
nên khó chấp nhận những thiếu sót nơi mình?
Ðể thấy mình, cần khiêm tốn hỏi và nghe người khác.
Anh em tôi biết về tôi hơn tôi biết tôi.
"Hãy để tôi lấy cái rác trong mắt anh.
Tôi vẫn thường nói như vậy và làm như vậy.
Hăng hái, vội vã giúp người khác sửa mình,
sửa cả những chuyện chẳng đáng gì.
Ðức Giêsu không cấm ta góp ý cho người khác,
nhưng Ngài dặn ta trước hết hãy lấy xà khỏi mắt mình,
để thấy rõ mà lấy rác nơi mắt anh em.
Bao dung hơn với tha nhân,
và nghiêm khắc hơn với chính mình.
Không coi cái xà của mình nhỏ hơn cái rác của anh em.
Không thổi phồng tội người khác, không thu nhỏ lỗi của mình.
Khiêm tốn sửa mình trước khi góp ý cho tha nhân.
Ðức Giêsu còn cho ta những nguyên tắc nhận định.
Nguyên tắc thứ nhất: xem quả thì biết cây.
Bụi gai không sinh trái vả, bụi rậm không sinh trái nho.
Nhìn hậu quả, ta biết được nguồn gốc, nguyên nhân.
Ðể khỏi bị lừa, hãy để ý đến hậu quả cuối cùng:
quả tốt do cây tốt, quả xấu do cây xấu.
Lắm khi ma quỷ giả dạng thiên thần sáng láng,
lừa phỉnh dụ dỗ, cho ta trái thơm ngon.
Nhưng cuối cùng trái ngon lại là trái độc.
Cần có thời gian lâu dài và theo dõi kỹ lưỡng
ta mới thấy ma quỷ lòi đuôi xấu xa của nó.
Nguyên tắc thứ hai: lòng có đầy, miệng mới nói ra.
Lời nói là hoa quả của lòng dạ con người.
Những lời giả dối sớm muộn cũng sẽ bại lộ.
Nếu chúng ta được Chúa biến đổi cái tâm của mình,
hẳn toàn bộ đời sống bên ngoài của ta cũng đổi.
Nhưng đổi bên ngoài cũng ảnh hưởng đến bên trong.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hiểu rõ về "cái xà" trong mắt bạn không? Nhờ đâu mà bạn biết được "cái xà" này?
Bạn có kinh nghiệm gì về việc "xem quả thì biết cây" và "lòng có đầy, miệng mới nói ra"?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.
Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.
Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.
Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
Không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.
Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước gì đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh. Amen.
(dịch theo Learning Christ)
4. Lời nói-Việc làm-Ơn Chúa--Giải Nghĩa Lời Chúa--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Ðọc và nghe lần đầu, chúng ta khó bắt được ý tưởng của các bài Kinh Thánh hôm nay. Ðó không phải là những lời khó hiểu. Những ý tưởng sở dĩ không dễ bắt vì cấu trúc của những đoạn văn này không chặt chẽ, và các tác giả dường như nói đến những vấn đề rất khác nhau. Chúng ta đừng lấy làm lạ vì trong các Chúa nhật quanh năm, phụng vụ muốn giáo dục chúng ta về đời sống đạo mỗi lần một tí và không cần theo một hệ thống nào. Vì đạo là sự sống chứ không phải là một hệ tư tưởng. Ðối với một hệ tư tưởng, muốn thuyết minh người ta phải theo luận lý đầu đuôi chặt chẻ. Còn đối với sự sống, không có quy luật tăng cường cố hữu nào. Mỗi chân lý đều co thể biệt lập mà vẫn có thể mồi thêm cho sự sống tinh thần của con người.
Tuy nhiên chúng ta có thể nói rằng ba bài Kinh Thánh hôm nay đều muốn nói đến việc phân biệt con người đạo đức thánh thiện, nhờ lời nói, nhờ việc làm, và nhất là nhờ ơn Chúa.
1. Lời nói
Bài sách huấn ca không có vẻ gì là đạo đức cả. Ðó là mấy câu kinh nghiệm. Nó thuộc loại văn khôn ngoan, dạy cách xư xử ở đời. Nhưng nếu đặt những câu dạy khôn ngoan này vào văn mạch và luận lý của tác giả, chúng ta thấy chúng phục vụ đạo đức và rất có giá trị.
Tác giả Ben Sira là một học giả Do Thái, sống ở đầu thế kỷ II trước công nguyên. Như các nhà trí thức đương thời ông hiểu biết nền văn minh Hy Lạp đang thịnh hành ở mọi nơi. Nhưng vì là con người có đạo, ông biết dùng lời Chúa để phê phán nếp sống do nền văn minh ấy tạo ra. Và ông muốn chia sẻ các suy nghĩ của mình với đồng đạo và đặc biệt với lớp trẻ Do Thái đang lớn lên và hít thở nền văn minh Hy Lạp. Ông đã đưa ra nhiều nhận xét mới về đời sống gia đình (25,1-26,18). Ông đã đề cập tới nhiều nét trong đời sống xã hội, mà nổi bật nhất là nền mậu dịch, thương mại thời bấy giờ (26,28-27,15).
Ðây là điểm bén nhậy đối với người Do Thái. Họ biết làm ăn. Có thể nói họ có máu buôn bán. Việc tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp đã tạo nên nơi các cộng đồng Israen nhiều trung tâm thương mại nổi tiếng.
Tại đây người Do Thái buôn bán với dân ngoại. Họ không còn sợ luật pháp và để ý đến các tiêu chuẩn đạo đức nữa. Có thể nói họ như cảm thấy được ra khỏi đạo và các ràng buộc xưa nay của lương tâm công giáo. Chỉ còn một luật chi phối công việc làm ăn của họ là: mua rẻ bán đắt. Và cho được như vậy, môi mép và lời nói là phương tiện được sử dụng tối đa. Các tiên tri đã nhiều lần lên án các thói buôn gian bán lận và đời sống bê bối của các thương gia. Ben Sira cũng nhất trí cảnh cáo: giữa bán và mua tội chen vào giữa. Ông không thích doanh thương vì buôn bán làm sao vô tội? Nhưng ông chẳng cấm được. Và dường như ông biết lời khuyên chẳng công hiệu gì nơi tại kẻ đếm tiền. Có lẽ vì vậy ông quay sang nói với khách hàng, với những người dân vô tội phải đến mua ở các cửa tiệm. Ông thấy họ nhiều khi đã trở thành mồi ngon của các con buôn. Và như vậy chỉ vì họ dễ bị lời nói mua chuộc. Vừa nghe con buôn quảng cáo hàng hóa là họ đã sa bẫy. Thế nên trong đoạn văn vắn tắt này Ben Sira khuyên người ta đừng vội tin lời nói của con buôn. Hãy để cho nó nói mãi đi, cuối cùng điều nó che giấu sẽ lòi ra. Chẳng khác gì cứ sàng mãi, trấu bẩn sẽ còn lại và gạo sẽ lọt xuống... Và cũng như cứ đi qua lò, thì đồ sành thợ gốm sẽ được hay không. Hoặc cũng như phải chờ khi có quả mới biết cây dại hay cây tốt. Và Ben Sira kết luận cứ thong thả nghe lời biện luận của con người sẽ biết tâm tư của họ. Thành ra không nên vội phán đoán một ai trước khi nghe nhiều lời người đó nói.
Như vậy từ thái độ phải có đối với người mua bán, tác giả đã dẫn chúng ta sang thái độ phải có đối với mọi người: đừng vội tin ai và phê phán ai trước khi nghe người đó nói, bởi vì tâm tư con người lộ bày khi biện luận. Tác giả có lạc quan quá không? Có thể luôn luôn căn cứ vào lời nói của con người mà đánh giá họ không, cho dù không phải là tin vào một lời, nhưng là đã nghe người ấy luận lý rất nhiều? Tác giả Luca dường như không hoàn toàn tin như vậy. Người đưa thêm một số tiêu chuẩn nữa để hiểu biết con người như trong bài Tin Mừng sau đây.
2. Việc làm
Chúng ta bảo Luca là tác giả của bài Tin Mừng này, mặc dù đây là Lời Chúa đã thốt ra từ miệng Chúa Giêsu Kitô. Chắc Chúa đã không nói tất cả những lời này một lần và không theo một thứ tự như ở đây. Rõ ràng chẳng có một thứ tự luận lý nào để khẳng định Chúa đã nói luôn một lần những điều ít ăn khớp với nhau. Cũng như tư tưởng này và những câu văn như thế, trong sách Tin Mừng Mátthêu chẳng hạn, lại nằm ở những chỗ khác và phục vụ những chủ đề khác. Như vậy chúng ta có thể nói được rằng, tác giả Luca đã dùng những câu Chúa nói ở những trường hợp khác nhau đem xếp cả vào chỗ này để phục vụ một chủ đề nào đấy.
Nếu chúng ta còn nhớ, thì Chúa nhật trước chúng ta cũng đã đọc sách Tin Mừng của Luca. Ðoạn trích hôm nay tiếp theo bài đọc lần trước. Thế mà hôm đó chúng ta đã thấy rằng Chúa dạy chúng ta phải yêu thù địch, không còn được duy trì đầu óc kỳ thị và phân biệt, và phải coi mọi người là con cái một Cha trên trời và hết thảy là anh em của nhau. Hôm nay dường như tác giả Luca muốn tiếp nối tư tưởng trên và nói đến thái độ bác ái ngay trong cộng đoàn các môn đồ của Chúa, tức là chính trong lòng Hội Thánh và Giáo Hội.
Chắc chắn câu đầu tiên trong bài Tin Mừng hôm nay phải hiểu về các người lãnh đạo cộng đoàn tức là hàng giáo sĩ: linh mục, giám mục hiện nay của chúng ta. Thực ra câu văn có thể dùng trong một trường hợp khác. Và trong Mátthêu câu này đã được tuyên bố về giới tư tế, lãnh đạo trong Do Thái giáo. Họ là những người mù dẫn đàng cho người mù. Nguyên khởi đó chỉ là một câu cách ngôn. Chúa Giêsu có lần dùng để nói về luật sĩ và biệt phái vì họ không biết mở mắt đón nhận đường lối của Thiên Chúa đang bày tỏ nơi công việc của Ðấng Ngài sai đến. Họ ở cương vị lãnh đạo mà mù thì dẫn đàng chỉ lối cho người khác sao được?
Tác giả Luca nhớ có lần Chúa nói như vậy. Nay đang viết những lời Người khuyên bảo môn đồ, Luca sực nhớ câu đó. Người thấy nó vẫn hợp để nói với giới lãnh đạo trong Hội Thánh. Những người này cần nhớ rằng: ở cương vị lãnh đạo, họ phải sáng suốt. Ðó là thái độ bác ái quan trọng nhất họ phải thi hành cho những người được trao phó cho họ.
Nhưng trong Hội Thánh, không phải chỉ có các nhà lãnh đạo. Ðại bộ phận Dân Chúa được gọi là môn đồ. Và tư cách đầu tiên, thái độ bác ái cơ sở của người môn đồ nằm trong quan hệ với Thầy mình. Môn đồ không lẽ hơn Thầy, hoàn bị là mọi kẻ sẽ được như Thầy. Lời này thoạt nghe có vẻ chua chát, nhưng nếu nhớ Thầy của các môn đồ chính là Chúa Giêsu Kitô, thì đây là cả một lý tưởng cao cả: môn đồ phải cố gắng nên hoàn bị như Thầy.
Sau hai câu nói với hai hạng người trong Hội Thánh, những câu sau có thể nói, mới thật sự vào đề và muốn dạy dỗ mọi thành phần trong cộng đoàn tín hữu. Họ không nên để ý đến khuyết điểm của anh em trước, nhưng trước hết hãy muốn nhờ anh em giúp mình sửa đổi tính hư nết xấu. Nếu làm như vậy chắc chắn sẽ không có cãi cọ bất bình; một cộng đoàn như thế chắc chắn mỗi ngày một hoàn toàn hơn. Ai mà không có cảm tình yêu thương đối với người muốn sửa mình? Bác ái cộng đoàn được xây dựng chắc chắn nhất, khi các phần tử trong cộng đoàn luôn ý thức bổn phận phải sửa mình, trước khi nói đến các khuyết điểm của anh em. Nhất là khi trong cộng đoàn ấy, ai cũng theo gương Chúa mà sửa mình như trên vừa nói: hoàn bị là mọi kẻ sẽ được như Thầy?
Thế nên người tốt phải chứng tỏ qua việc làm. Chúng ta đừng tưởng ở đây Luca mâu thuẫn hoặc nói khác với tác giả sách Huấn Ca. Cả hai đã trích câu tục ngữ: Xem quả biết cây. Nơi tác giả sách Huấn Ca, lời nói và biện luận là quả do tâm tư con người. Luca công nhận điều ấy vì ở đây người cũng viết: lòng ứa đầy những gì thì miệng nói ra. Nhưng lời nói nơi Luca không phải chỉ là các âm, các tiếng, mà còn là tất cả mọi việc mà con người làm. Các việc này cũng bày tỏ "lòng" người ta, vì "người lành tự kho lành lòng mình mà đem ra sự lành, và người dữ tự tính ác mà đem ra sự ác".
Như vậy Luca muốn đầy đủ hơn tác giả sách Huấn ca. Người khiến chúng ta nên giải thích bài sách này một cách rộng rãi nhưng vẫn hợp ý với tác giả. Như chúng ta biết, ông viết những lời trên là để cảnh giác con cái Israen đề phòng sự gian dối của phường mua bán. Và sở dĩ như vậy vì ông thấy quá nhiều bất công và tội lỗi trong việc mua đi bán lại. Ông muốn xã hội công bằng huynh đệ hơn.
Vì thế chúng ta có thể hiểu bài sách Cựu Ước hôm nay về lòng bác ái. Cũng như bài Tin Mừng vậy. Nhưng ở một mức độ sâu sắc hơn. Tác giả sách Huấn Ca thấy thiếu bác ái trong việc mua bán. Tác giả Luca còn nhìn thấy trong thái độ người ta hay phê bình và chỉ trích nhau. Cuối cùng cả hai đều công nhận phải sửa chữa từ tâm tư và từ "lòng" con người. Do đó muốn biết người tốt, phải xem lời nói, phải xét việc làm. Nhưng muốn có lời tốt và việc lành, phải sửa đổi tâm tư và lòng trí, là con người bên trong của chúng ta. Có thể làm công việc này không?
3. Ơn Chúa
Theo thánh Phaolô trong bài thư hôm nay, khi xác hay chết này mặc lấy sự trường sinh, thì bấy giờ con người mới thực sự công chính. Và đức bác ái yêu thương mới trọn vẹn. Ðối với chúng ta dĩ nhiên là như vậy rồi. Nhưng các độc giả trực tiếp của thánh Tông đồ, tức là những người Côrintô thời bấy giờ, chân lý ấy nên được giải thích rõ ràng hơn. Bởi vì họ là những người Hy lạp tòng giáo. Ít ra họ là các tín hữu mới mẻ đang hít thở bầu khí văn hóa Hy Lạp. Những người này quan niệm xác và hồn nơi con người là hai yếu tố rất dị biệt, chẳng thể hòa hợp với nhau. Hồn ở trong xác như ở trong tù, chỉ chờ đợi ngày thoát ra khỏi xác để được trở về sống như những thần linh, bởi vì trước kia linh hồn cùng ở chung với các thần thánh, nhưng đã sa đọa nên rơi vào xác thịt và bị giam ở đó. Thành ra bao lâu còn sống trong xác thể, linh hồn còn khổ sở và ấm ức. Con người không có sự hòa hợp ngay trong chính mình, nên cũng chẳng có hòa hợp được trong xã hội. Linh hồn đợi ngày giải thoát ra khỏi thân xác.
Quan niệm như vậy không hợp với đức tin. Ðành rằng xác thịt con người hiện nay là mồi cho sự chết. Nhưng chết không phải là hết. Nhờ sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, thân xác con người cũng sẽ sống lại. Không phải để rồi lại sống như trước đây, nhưng để trường sinh bất tử như "thần thánh". Và sở dĩ như vậy là vì xác thể con người sẽ mặc lấy sự bất hoại, là đặc tính của Thiên Chúa. Lúc ấy con người sẽ ca khúc khải hoàn chế nhạo sự chết: Tử thần hỡi, đắc thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi, nọc của ngươi đâu, ngươi đã dùng tội lỗi làm nọc sát hại con người. Và tội lỗi đã tỏ ra mãnh liệt trong chế độ Lề luật, toàn là cấm đoán mà không có cứu độ. Nhưng nay Chúa Giêsu Kitô đã đem ơn cứu độ đến, tẩy sạch tội lỗi, làm vô hiệu nọc của tử thần, khiến con người có Ơn Chúa không còn chết nữa.
Như vậy ơn của Chúa Giêsu Kitô cứu sống chúng ta khi tiêu diệt tội lỗi, và ban cho ta sự sống mới, sự sống của Thiên Chúa thay thế sự sống của xác thịt tội lỗi trước đây. Do đó ai muốn nên công chính, muốn sống bác ái yêu thương phải để cho Ơn của Chúa Giêsu Kitô biến đổi tâm tư và lòng trí. Và công việc này phải làm trong kiên nhẫn, không nao núng. Phải nhờ làm thêm nhiều việc lành, mà thánh Phaolô gọi là việc của Chúa.
Như vậy, người tốt không phải ở lời nói, nhưng ở việc làm, và nói rõ hơn, ở việc làm của Chúa. Ơn của Chúa là yếu tố cuối cùng quyết định sự công chính của con người chúng ta vậy. Và ơn của Chúa phong phú nơi các Bí Tích, đặc biệt trong mầu nhiệm thánh lễ. Nơi đây Chúa ban cho chúng ta bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng, để chúng ta có sức sống của Thiên Chúa, làm được các việc Chúa là các việc lành, hầu tâm tư, lòng trí chúng ta dần dần được cải hóa nên công chính. Chúng ta sẽ có những lời nói việc làm đầy bác ái yêu thương. Không những đời sống bản thân sẽ đạo đức hơn mà đời sống xã hội cũng công chính hơn. Bài thư Phaolô giúp ta đạt được những điều nhắn nhủ trong hai bài sách Huấn Ca và Tin Mừng vậy.
5. Đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa đoán xét--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su dạy môn đệ 3 điều:
- Phải biết tự sửa lỗi của mình trước khi sửa lỗi cho tha nhân.
- Xem quả biết cây: hành động của một người sẽ chứng tỏ họ là người tốt hay kẻ xấu.
- Lòng người giống như một cái kho. Các môn đệ Đức Giê-su cần đón nhận Lời Chúa trong lòng để từ đó phát sinh những lời nói và việc làm tốt.
CHÚ THÍCH:
- C 39-40: + Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?: Trong Tin Mừng Mát-thêu (Mt 15,14), câu “Mù sắt mù: này nhắm đến các đầu mục dân Do thái là các Kinh sư và người Pha-ri-sêu, là những người lãnh đạo tinh thần của dân nhưng đã bị thói kiêu căng, tự mãn làm cho ra mù lòa, không còn phân biệt được trong Luật Mô-sê điều nào là chính yếu điều nào là tùy phụ khi dạy dỗ dân chúng. Còn trong Tin Mừng Lu-ca, câu này nhằm dạy các môn đệ Đức Giê-su phải biết phân biệt trong tư tưởng lời nói và việc làm, đâu là điều chính yếu đâu chỉ là tùy phụ để khỏi bị lầm lạc khi dẫn dắt tha nhân. Những kẻ ăn nói khoác lác, giả đạo đức chỉ nhất thời lừa được một số người nhẹ dạ dễ tin, nhưng sớm muộn rồi sẽ phải chuốc lấy hậu quả tai hại khôn lường khi con người thật của họ bị lộ ra.
- C 41-42: + Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?: Người ta thường keo kiệt trong lời khen, nhưng lại rộng rãi trong lời chê. Một trong những tội con người thường vấp phạm là thích xét đoán ý trái và kết án tha nhân. Môn đệ cần tránh "bới lông tìm vết" để phê phán các khuyết điểm nhỏ bé như cái rác nơi mắt anh em. Nhưng cần ý thức về "cái đà" kiêu căng tự mãn, thói đạo đức giả nơi bản thân để tu sửa, hầu mắt mình nên trong sáng trước khi sửa lỗi anh em.
- C 43-45: + "Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt: Các môn đệ chỉ sinh ra hoa trái tốt đẹp, nếu năng suy niệm và thực hành Lời Chúa. Những ai có tính ích kỷ kiêu ngạo thường hay xét đoán ý trái, kết án tha nhân. Sớm muộn họ cũng sẽ bị chết trong bóng tối gian ác của lòng mình. + Thật vậy, xem quả thì biết cây: Người tốt sẽ chứng tỏ sự tốt lành của mình qua hành động bên ngoài. + Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra: Tư tưởng chứa đầy trong lòng sẽ phát lộ ra qua lời nói và hành động, nên người ta chỉ cần dựa vào lời nói việc làm của một người mà nhận biết họ có phải là môn đệ đích thực của Đức Giê-su hay không.
CÂU HỎI: 1) Hai câu “Mù dắt mù” của Đức Giê-su trong Tin Mừng Mát-thêu và Lu-ca nhắm tới những đối tượng nào? 2) Khi nói “Cái rác trong mắt anh em” và “Cái xà trong mắt của mình”, Đức Giê-su muốn dạy môn đệ điều gì trong giao tiếp xã hội? 3) Để lời nói việc làm có thể phát sinh hoa trái tốt đẹp thì người ta cần phải làm gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: "Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra", trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6,41-42).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Hậu quả tai hại của kẻ nói hay nhưng làm không hay:
Triệu Quát là con trai của Triệu Xa - một danh tướng thời Chiến Quốc. Thời trai trẻ anh để tâm nghiên cứu học hỏi rất nhiều binh thư. Là một người thông minh, lại có năng khiếu về các đề tài quân sự, nên Quát thường chiến thắng trong các cuộc tranh luận, kể cả với cha anh là Triệu Xa. Từ đó Triệu Quát sinh ra kiêu ngạo, cho mình là người giỏi nhất thiên hạ. Tuy nhiên ông bố Triệu Xa của anh lại rất lo cho tương lai của con trai mình. Ông đánh giá Triệu Quát chỉ là hạng người ăn nói giảo hoạt thích nói thánh nói tướng, Ông còn nói: "Sau này nước Triệu không nên cho nó cầm quân, kẻo nó sẽ làm cho quân đội bị đại bại".
Quả thật, về sau khi quân Tần kéo sang xâm lược nước Triệu, vua nước Triệu cử Triệu Quát thay Liêm Pha làm đại tướng chỉ huy chống lại quân địch. Lạn Tương Như dù đang ốm cũng lên tiếng phản đối như sau: "Triệu Quát chẳng qua chỉ là thứ mọt sách và không có kinh nghiệm vận dụng binh pháp vào thực tế, nên không thể chỉ huy ngoài mặt trận được". Mẹ của Triệu Quát cũng đến xin vua Triệu đừng cho Quát làm đại tướng. Nhưng vua Triệu không nghe, vẫn cử Triệu Quát ra tiền tuyến nghênh địch. Hậu quả là 40 vạn quân Triệu chỉ trong thời gian ngắn đã bị quân Tần đánh bại và bị tiêu diệt hoàn toàn, bản thân Triệu Quát cũng bị chết thảm.
Cha mẹ của Triệu Quát đã hiểu rõ con trai mình không thể đảm nhận được việc lớn điều binh khiển tướng. Nhưng vua Triệu lại cố chấp khi chỉ dựa vào lời nói của Triệu Quát để đánh giá anh là bậc kỳ tài trong thiên hạ và trao cho anh trách nhiệm lớn thống lĩnh quân đội. Kết quả không chỉ Triệu Quát bị hại mà còn liên quan đến tính mạng của 40 vạn quân. “Mù dắt mù” thì việc bị “lăn cù xuống hố” chỉ là chuyện sớm hay muộn mà thôi.
2) Hãy sửa lỗi mình trước khi sửa lỗi anh em:
Trong một tu viện kia có một tu sĩ trẻ đã phạm một tội nặng, lập tức các tu sĩ trong cộng đoàn liền họp nhau lại để kết tội anh ta. Họ cử người đi trình báo sự việc với Bề Trên và mời ngài đứng ra làm quan tòa xét xử. Bề Trên liền đeo một túi cát sau lưng, trên túi có nhiều lỗ thủng đi đến nhà hội. Trên đường đi đến đâu đều có nhiều cát từ túi cát đeo sau lưng bị rơi vãi. Khi có người thắc mắc tại sao lại để cát rơi như vậy thì được bề trên trả lời: "Tôi cũng là người có nhiều tội lỗi mà không tự nhận biết, đang khi mọi người chung quanh đều thấy. Thế mà anh em lại bảo tôi làm quan tòa kết tội một người anh em sao!" Nghe vậy, các tu sĩ trong cộng đoàn đều thấy xấu hổ và bỏ ý định muốn kết án anh tu sĩ trẻ mà chỉ yêu cầu anh ta sửa lỗi.
Ai trong chúng ta cũng có thói hay xét đoán và kết án tha nhân. Nhưng Đức Giêsu lại dạy chúng ta “đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa đoán xét. Đừng kết án để khỏi bị Thiên Chúa kết án”. Để có thể sửa lỗi anh em thì trước hết phải khiêm tốn nhận biết tình trạng tội lỗi của mình để tu sửa, giống như lấy đi cái xà ra khỏi mắt mình, rồi mới thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.
3) Cần năng xét mình và quyết tâm sám hối để ngày một hoàn thiện hơn:
Một người kia có thói quen hút thuốc và trong nhà có nuôi một con vẹt làm thú cưng. Một ngày kia anh thấy con vẹt của anh cứ ho khù khụ. Anh liền mang con vẹt đến bác sĩ thú y xin chữa bệnh ho cho con vẹt. Sau khi khám kỹ, bác sĩ tuyên bố con vẹt không bị bệnh gì cả. Sở dĩ nó ho khù khụ là do bắt chước những cơn ho khù khụ của ông chủ. Bấy giờ người ấy mới biết mình đang bị bệnh ho chứ không phải con vẹt. Từ khi anh quyết tâm cai thuốc và uống thuốc chữa trị hết bệnh ho, thì con vẹt của anh cũng không còn ho khù khụ như trước nữa!
Những kẻ đạo đức giả thường hay lên mặt phê bình sửa lỗi người khác, còn người đạo đức thực sự sẽ khiêm tốn tự kiểm để tìm ra các thói hư của mình mà tu sửa nên hoàn thiện hơn.
4) Nguyên nhân đổi đời của con tê giác:
Ngày xưa có một chú tê giác luôn nghĩ mình có khuôn mặt đẹp nên thường chê khuyết điểm của các con vật khác, nhất là các con có sừng trên đầu. Thế nhưng tê giác lại không biết rằng chính nó cũng đang có một cái sừng mọc trên mũi khiến mặt nó trông thật xấu xí. Các con vật khác tuy biết điều này, nhưng không con nào dám nói sự thật cho tê giác biết.
Một hôm, tê giác đang uống nước ở một dòng suối thì nghe thấy lũ chim chích choè đang thi nhau hót líu lo trên cành cây gần đó. Tê giác rất bực bội nên ra oai thét to: "Lũ chim xấu xa kia có câm miệng đi không? Chúng bay không thấy ông đang uống nước đây sao?". Lũ chim chích choè không chịu thua, con chim đầu đàn liền cãi lại: "Bộ ông nghĩ ông đẹp lắm sao? Ông thử soi mặt mình trên mặt nước thì sẽ biết". Tê giác nghĩ bụng: "Soi thì soi. Ai mà không biết ta có khuôn mặt đẹp nhất". Nhưng khi nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta giật mình khi thấy một chiếc sừng quái dị đang nằm chình ình ngay trên mũi mình. Khi biết mình còn xấu hơn nhiều con vật có sừng khác, tê giác mang mặc cảm xấu hổ. Từ đó, mỗi khi di chuyển, nó luôn cúi gằm mặt xuống đất và ẩn nấp trong các lùm cây, không muốn chường mặt ra cho các con vật khác xem thấy. Nhưng do không thể trốn mãi được vì ngày nào cũng phải ra dòng suối uống nước và phải đi kiếm thức ăn. Cuối cùng nó đành chấp nhận sự thật về khuôn mặt xấu xí có sừng của mình để sẵn sàng đối diện với các con vật khác. Cũng từ ngày đó, tê giác kiêu hãnh ưa chỉ trích trước đây đã biến thành anh tê giác rất hiền hòa dễ thương.
Tê giác trong câu chuyện trên đã thay đổi nên tốt nhờ biết chấp nhận sự thật của mình để không lên mặt phê phán các loài vật khác theo suy nghĩ chủ quan của mình. Nhờ đó nó cũng bỏ đi mặc cảm tự ti, để sẵn sàng gặp gỡ tiếp xũc với các loài vật khác.
3. SUY NIỆM:
1) Phải tránh bệnh mù tâm linh:
“Mù dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố” là một thực tế thường xảy ra trong cuộc sông. Vì thế người mù luôn cần được người sáng mắt trợ giúp để đi đúng hướng và không bị vấp ngã hay đi lạc. Về mặt tâm linh người mù tâm hồn sẽ dễ quyết định sai lạc không những gây hại cho bản thân mà còn tác hại khôn lường cho xã hội. Tuy nhiên, thực tế vẫn có nhiều người mù tâm linh lại không nhận ra mình đang bị mù. Chính do thói xấu tự mãn kiêu ngạo khiến người ta luôn coi mình là trung tâm, suy nghĩ của mình là chân lý, và đánh giá người khác theo tầm nhìn hạn hẹp của mình. Đây chính là nguyên nhân gây ra bao nỗi đau khổ cho nhân loại. Về mặt xã hội, những kẻ mù tâm linh “hữu tài vô hạnh” thường trở thành những quan tham, những kẻ độc tài gây bao đau thương cho tha nhân.
2) Phải tránh xét đoán ý trái cho người khác:
"Sao anh thấy cái rác trong mắt anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới" (Lc 6,41). Người ta thường hà tiện trong lời khen, nhưng lại quảng đại trong lời chê. Có thể nói một trong những tội con người thường sai phạm là thói hay xét đoán, nghĩ xấu, nghĩ quấy cho người khác, nhất là cho những kẻ mình không ưa.
Người xưa có câu: "Việc người thì sáng, việc mình thì quáng", nên việc nhìn lại bản thân để tự kiểm cần phải làm hằng ngày đối với các người tín hữu, nhất là những ai đang giữ vị trí lãnh đạo, có sứ mệnh hướng dẫn các tâm hồn. Chúng ta hãy bắt chước thánh Au-gút-ti-nô dâng lời cầu nguyện như sau:
"Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con".
Xin Chúa cho con:
Biết mình cũng yếu hèn và hay sai lỗi, để con không lên mặt xét đoán và kết án anh em.
Biết mình hay che đậy và giả hình, để sẵn sàng cảm thông và bỏ qua lỗi lầm của kẻ khác.
Biết mình thích được khen khi làm được việc tốt, để con năng khen ngợi động viên người khác.
3) Hãy tự sửa lỗi mình trước khi sửa lỗi anh em:
Người ta thường dễ phát hiện các khuyết điểm lỗi lầm dù nhỏ bé của người khác mà khó nhận ra sai lỗi lớn lao của mình. Nguyên nhân là do chúng ta có thói ích kỷ tự mãn nên bị mù quáng và hay xét đoán kết án anh em.
Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta: Đừng vội kết án tha nhân vì chính mình cũng có đầy khuyết điểm, như người xưa dạy: “Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Tuy nhiên nếu là người giữ địa vị lãnh đạo trong gia đình, học đường hoặc xã hội, có trách nhiệm giữ gìn kỷ cương, thì chúng ta cũng cần sửa dạy những người sai lỗi. Khi đó để lời sửa dạy có sức thuyết phục và đạt kết quả, đòi chúng ta phải sửa mình trước khi răn dạy kẻ khác.
Một nhà thần bí Ấn độ đã phát biểu kinh nghiệm của mình như sau: "Tôi là một nhà cách mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu với Chúa là: "Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để con cải tạo thế giới ngày một nên tốt hơn". Rôì khi tới tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời đã qua đi rồi mà tôi vẫn chưa cải tạo được thế giới, nên tôi đã đổi lại lời cầu: "Lạy Chúa, xin cho con hoán cải những người con có dịp tiếp xúc”. Bây giờ tôi đã về già và sắp kết thúc cuộc đời, tôi thấy mình cũng vẫn chưa biến đổi được một ai, nên cảm thấy mình thật khờ dại. Vì thế tôi lại thay đổi lời cầu như sau: "Lạy Chúa, xin cho con được ơn hoán cải chính mình con". Giả như ngay từ khi còn trẻ tôi đã ý thức về sự bất lực của mình như thế, thì tôi đã không uổng phí cả cuộc đời cách vô ích mà sẽ tập trung để cải tạo bắt đầu từ chính bản thân trước".
4) Chúng tôi phải làm gì?:
Trong cuộc sống, chúng ta thường hay phán xét người khác bằng lời nói, cử chỉ thái độ và luôn đánh giá không tốt về họ. Nhất là những khi chuyện trò với bè bạn, chúng ta thường khoe thành tích của bản thân hay người thân để tự đề cao mình hay đề cao gia đình mình và thường chê trách những người tự nhiên ta có ác cảm. Về vấn đề này, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã dạy: “Những ai phán xét anh chị em mình, nói xấu anh chị em mình thì họ chính là kẻ giả hình. Vì họ không đủ can đảm nhìn lại những thiếu sót, lỗi lầm của bản thân mình”. Đức Giê-su trong cũng dạy các tín hữu: “Sao ngươi nhìn thấy cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy?… Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi”.
Khi phê phán chỉ trích, kết án một người nào đó là chúng ta đã biểu lộ sự ác cảm thù ghét họ. Những người có tình yêu thương sẽ không xét đoán ý trái hoặc kết tội người mình yêu thương, nhưng sẽ biểu lộ sự khoan dung tha thứ, sẽ luôn xét đoán ý tốt, trở thành luật sư bào chữa lỗi lầm thay vì làm công tố viên buộc tội cho họ, Để luôn xét đoán ý tốt cho tha nhân, chúng ta hãy xin Chúa gia tăng tình thương trong lòng chúng ta. Nhờ đó, chúng ta sẽ đối xử khoan dung nhân hậu với những kẻ thù ghét mình để xóa bỏ thù hận, biến thù thành bạn của mình.
4. THẢO LUẬN:
Để chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng, Đức Phao-lô Đệ Lục đã nói: “Con người ngày nay thích nghe nhân chứng hơn thầy dạy. Nếu họ có nghe thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân”. Trong những ngày này chúng ta sẽ làm gì để đem Chúa đến với anh em lương dân?
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu. Xin giúp con thực hành Lời Chúa trong thư thánh Phao-lô: “Lời có ích lợi cho việc dạy dỗ, biện bác, sửa trị và rèn luyện trong công chính: để người của Thiên Chúa trở nên trọn hảo và sẵn sàng thực hiện mọi việc lành.” (2 Tm 1,16–17); Xin cho con có đôi mắt của Chúa, để con nhìn anh em như là hồng ân và là quà tặng Chúa ban; Xin cho con có trái tim của Chúa, để sống yêu thương với lòng bao dung tha thứ và biết xót thương tha nhân. Và cuối cùng xin cho con học nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng để con nên chứng nhân cho tình thương của Chúa trước mặt người đời. Amen.
6. Không biết về chính mình—Lm Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
“Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga.14, 6). Một người vô cùng đặc biệt lại chấp nhận thân phận của một con người “bình thường” và sống rất “bình thường”, trong khi đó những người rất “tầm thường” lại muốn trổi trang trước mặt tất cả mọi người. Qua tấm gương Đức Yêsu, con người có thể nhận biết chính mình.
Yêu là nhân hạnh phúc
Con người ai mà không sợ chết. Có nhiều người, nhất là những bậc vua chúa công hầu muốn mình sống mãi nên mong ước có một liều thuốc trường sinh bất tử. Nhưng giả như ai đó được trường sinh, cái gì xảy ra cho người đó?
Chuyện kể có người tìm được liều thuốc trường sinh bất tử, nên sống hoài không chết. Vợ người đó cũng chết, con cái của người đó cũng chết, cháu chắt cũng chết theo thời gian, và lâu quá những con cháu xa không còn nhận biết ông cụ đó nữa, ông cụ như người xa lạ giữa những con cháu xa bao đời…. Và quá buồn ông cụ ao ước được chết như một người bình thường.
Tôi chứng kiến một người bệnh ung thư bị đau đớn như thế nào! Và ông ta mong được chết, vì sống “đau đớn” quá. Chết lại là điều may mắn vì ông được giải phóng.
Sống lâu không hẳn làm người ta hạnh phúc.
Cái chết thể xác diễn tả phần nào cái chết tinh thần: không còn tương quan với Thiên Chúa và con người nữa. Nếu ai sống thù ghét tất cả những người xung quanh, cuộc đời của họ như thế nào?
Sống cô lập, thù ghét những người quanh mình, là “tự sát”, là tự giết mình. Không thể hạnh phúc với những người như vậy. Họ sẽ chết dần chết mòn.
Yêu những người xung quanh, là đang sống, là đang tạo cho mình những điều kiện để có thể thấy đời đẹp và đáng sống.
Những người yêu người khác, cho dù họ có chết, thì vẫn được người khác nhớ đến và tiếc nuối. Yêu làm người ta sống cho dù đã chết; hơn nữa yêu làm người ta sống đời đời.
Điều tệ là không biết mình
Xem qủa biết cây. Cây tốt sinh trái tốt, người tốt làm những việc tốt lành. Những điều xấu là do người xấu mà ra. Người mù có thể dẫn đường cho người mù được chăng? Một người không biết mình, là người chỉ thấy lỗi của người khác, không thấy lỗi nơi mình, vậy làm sao người đó cải thiện được? Làm sao người đó khá hơn được? Những người kiêu ngạo không nhận lỗi của mình, những người không biết mình chỉ thấy lỗi nơi người khác hoặc không dám nhận lỗi của mình.
Hãy biết mình! Qua cách nhìn của người khác về mình, cũng phản ánh phần nào con người của mình. Có thể họ sai, nhưng thế nào cũng có điểm nào đó đúng. Không sẵn sàng nhận biết chính mình qua những phê bình, qua những lần lẩn tránh của người khác, qua sự sợ hãi hoặc chán nản của họ đối với mình, không sẵn sàng đón nhận lời góp ý của người khác, không thấy người ta nhận xét về mình đúng chút nào, e rằng đó là người “không biết mình”.
Hãy lấy cái “xà nhà” ra khỏi mắt mình, rồi hãy đòi lấy cái “dằm” ra khỏi mắt người khác. Không biết mình, đó là điều tệ hại rất lớn. Hãy xin Chúa cho mỗi người được ơn biết mình, để mình khiêm tốn nhận lỗi của mình, để mình sẵn sàng tha thứ cho người khác, để mình sửa đổi chính mình, để người khác có thể sống và muốn sống với mình, để mình sống an bình và hạnh phúc.
“Lạy Chúa, con là người tội lỗi.
Những gì người khác nhận định về con chắc là đúng, ít là chỉ một mình Chúa biết.
Xin cho con khiêm tốn chấp nhận chính mình, chấp nhận những gì người khác góp ý cho con.
Xin cho con nhận ra sự thật về chính con, để con sửa đổi và tiến bộ.
Xin cho con thành con người mới, dễ thương với mọi người, để người khác được hạnh phúc khi sống với con”.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Cái chết có đáng sợ không? Tại sao? Hành trang một người có thể mang theo là gì?
2. Bạn có kinh nghiệm về một người “không biết mình” không? Những người này có gì đặc biệt?
3. Bạn có kinh nghiệm về một người “không chấp nhận mình” không? Những người này có hạnh phúc không? Tại sao?
7. Cẩn thận về việc xét đoán--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: Cẩn thận về việc xét đoán. “Xem quả thì biết cây” (Lc 6, 44)
I. Dẫn Vào Thánh Lễ
Anh chị em thân mến
Bắt đầu mỗi Thánh lễ, chúng ta đều được kêu gọi hãy kiểm điểm lương tâm và nhận biết tội lỗi. Không phải nhận biết tội lỗi của người khác mà tội lỗi của chính mình ; nhận biết như thế rồi không phải để trách người khác mà để tự trách mình và nhận lãnh trách nhiệm của mình mà sửa đổi. Giờ đây mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lương tâm và thành tâm sám hối.
II. Gợi Ý Sám Hối
Chúng con thường làm ngơ trước khuyết điểm của mình, nhưng lại khắt khe với lỗi lầm của người khác.
Chúng con hay phê phán và lên án người khác.
Chúng con thường sống giả hình.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Hc 27,4-7)
Sách Huấn ca gom góp những giáo huấn giúp sống khôn ngoan. Trong trích đoạn hôm nay, giáo huấn nhắm đến lời nói:
Lời nói bộc lộ cái dở của một con người
Nghe người ta nói, ta mới biết rõ ai rởm ai hay.
Chớ vội khen hay chê khi chưa nghe người ta nói.
2. Đáp ca (Tv 91)
Người công chính thật được nhìn thấy qua cuộc sống tốt lành của mình: họ như cây dừa tươi tốt được trồng nơi Nhà Chúa, già cỗi rồi vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn.
3. Tin Mừng (Lc 6,39-45)
Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy cho môn đệ mình 3 điều:
Dụ ngôn người hướng dẫn mù và cái xà trong mắt: Nếu người môn đệ Chúa mà mù quáng thì sẽ dẫn người khác đi vào sai lầm. Bởi thế, trước khi sửa lỗi người khác, mỗi người hãy tự sửa lỗi của mình.
Dụ ngôn Cây và Trái (cc 43-44): Chỉ có thể tránh nguy hiểm giả hình nếu như hành động bề ngoài của ta hợp với bên trong của ta. Đối với biệt phái và luật sĩ, một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với Luật. Chúa Giêsu sâu sắc hơn: một hành động là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt, một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.
Dụ ngôn kho tàng trong lòng (c 45): Chúa Giêsu so sánh cõi lòng con người như một kho tàng. Nó là nơi xuất phát những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Từ kho tàng tốt thì sẽ phát ra những lời nói việc làm tốt. Bởi thế người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt. Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì?
Đó là những giáo huấn của Chúa Giêsu.
4. Bài đọc II (1 Cr 15,54-58) (Chủ đề phụ)
Đây là đoạn cuối của chương 15 thư I Côrintô bàn về vấn đề kẻ chết sống lại. Trong đoạn này, Thánh Phaolô rút ra những hệ luận từ tín điều sống lại:
Cuối cùng Tử thần cũng phải bị đánh bại.
Tín hữu hãy kiên tâm bền chí, tích cực tham gia vào công việc của Chúa, bởi xác tín rằng trong Chúa thì mọi khó nhọc sẽ không trở nên vô ích.
IV. Gợi Ý Giảng
1. Bàn về lời nói
Ben Sira, tác giả sách Huấn Ca, cho rằng lời nói có giá trị bộc lộ sự thật: dựa vào lời nói của một người, ta có thể biết người ấy thực ra là dở hoặc hay. Hơn nữa, lời nói của một người còn giúp ta hiểu được lòng của người đó.
Nhưng Chúa Giêsu thì dạy khác: điều quan trọng không phải là nói, mà là làm. Người đã trách các kinh sư do thái rằng "Họ nói mà không làm" (Mt 23,3).
Không phải giáo huấn của Cựu Ước và Tân Ước nghịch nhau. "Lời nói" mà Ben Sira đề cập là lời thốt ra cách hồn nhiên, chân thành, chưa bị ngụy trang hay uốn nắn bởi những toan tính quanh co.
Ngày nay người ta phát triển những kỹ thuật để nghiên cứu và khảo sát lời nói: phân tích từng chữ từng câu để khám phá ý nghĩa thật. Các nhà phân tâm còn tìm cách cho bệnh nhân nói để chữa trị tâm bệnh của họ.
Lời khuyên của Ben Sira có lẽ không hợp nếu ta dùng nó để xét đoán lời nói của người khác, nhưng rất hữu ích nếu ta dùng để tự xét đoán bản thân:
Tôi thường nói những chuyện gì? Nói nhiều về một vấn đề chứng tỏ tôi quan tâm nhiều hay bị ám ảnh bởi vấn đề đó.
Tôi thường phê bình chỉ trích hay khích lệ, ủi an? Điều này giúp tôi biết tôi là người hẹp hòi hay rộng lượng ; là người gây chia rẻ xáo trộn hay là người kiến tạo bình an.
Khi nói về bản thân, giọng điệu của tôi thế nào? Điều này cho thấy tôi kiêu căng hay khiêm tốn.
2. Sửa mình trước khi sửa người
Chúa Giêsu chỉ rõ một thực tế rất thông thường: Thấy cái rác nhỏ xíu trong mắt người khác thì dễ hơn thấy cái xà to tướng nằm ngay trong mắt mình. Thấy khuyết điểm của người khác dễ hơn nhận ra khuyết điểm của mình.
Lý do là mình thường dễ dãi với bản thân và khắt khe với người khác. Đó là khuynh hướng tự nhiên. Nhưng đó là một căn bệnh: bệnh mù quáng, bệnh lệch lạc.
Ta có thể áp dụng giáo huấn của Chúa Giêsu vào hai trường hợp:
Áp dụng cho chính bản thân: hãy cẩn thận đừng phê phán người khác, vì chưa chắc gì mình đã tốt hơn ai.
Khi lãnh trách nhiệm lãnh đạo: vì trách nhiệm mà nhiều khi ta phải sửa lỗi người khác. Để cho lời nói của ta không là giả hình, để cho lời sửa dạy của ta có sức thuyết phục, ta hãy lo sửa đổi bản thân trước, nhờ đó ta trở thành một tấm gương, và tấm gương đó hỗ trợ khiến cho lời sửa đổi của ta đáng được người khác nghe theo.
3. Cây đời xanh tươi
Triệu Quát là con trai cha Triệu Xa - một danh tướng thời Chiến Quốc - thời trai trẻ từng đọc rất nhiều binh thư. Là một người khá thông minh, thích nói về quân sự, người khác không nói lại được, cha anh là Triệu Xa đôi khi cũng không tranh luận nổi với anh. Do đó, anh tỏ ra kiêu ngạo, tự cho mình là giỏi nhất thiên hạ.
Tuy nhiên Triệu Xa lại rất lo lắng cho con mình, ông cho rằng Triệu Quát chẳng qua chỉ nói phét. Ông còn nói: "Sau này nước Triệu không nên dùng nó, kẻo nó sẽ làm cho quân Triệu đại bại".
Quả thật, khi quân Tần sang xâm lược, vua Triệu quyết định cử Triệu Quát thay thế Liêm Pha. Lạn Tương Như đang bệnh cũng phản đối: "Triệu Quát chẳng qua chỉ là đọc được một số sách binh thư của cha mình, căn bản không biết vận dụng thế nào, không thể cử hắn làm tướng". Mẹ của Triệu Quát cũng đến gặp vua Triệu nói rằng con mình không thể làm đại tướng.
Nhưng vua Triệu không nghe, vẫn cử Triệu Quát ra tiền tuyến nghênh địch, hậu quả là 40 vạn quân Triệu chỉ trong chốc lát đã bị tiêu diệt hoàn toàn, bản thân Triệu Quát cũng tử trận thê thảm.
"Mù mà lại dẫn mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố" (Lc 6, 39). Làm nhà lãnh đạo hay người hướng dẫn phải có đủ tài đức; phải sáng suốt trong tư tưởng, khôn ngoan trong lời nói, và liêm chính trong việc làm, để khỏi dẫn đưa người khác cũng như chính mình vào con đường lầm lạc hay diệt vong. Những kẻ khoác lác, dối trá, giả hình có thể nhất thời lừa bịp được một số người, nhưng sớm muộn cũng sẽ bị bại lộ và sẽ phải chuốc lấy hậu quả khó lường: "Cây kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra".
Cha mẹ của Triệu Quát vì sống cùng anh ta, nên thấu hiểu lời nói và việc làm của con mình không thể đảm nhận việc lớn. Nhưng vua Triệu không quan tâm đến câu: "Lời nói phải đi đôi với việc làm", cứ cho rằng Triệu Quát là bậc kỳ tài trong thiên hạ và trao cho việc lớn. Kết quả không chỉ Triệu Quát bị hại mà còn liên quan đến tính mạng của 40 vạn quân. Mù mà dẫn mù thì việc sa xuống hố chỉ là sớm hay muộn mà thôi.
"Sao anh thấy cái rác trong mắt anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới" (Lc 6,41). Người ta thường rất hà tiện trong lời khen ngợi, nhưng lại quảng đại trong tiếng chê bai. Có thể nói một trong những tội con người dễ phạm nhất: đó là hay xét đoán, nghĩ xấu, nghĩ sai cho người khác.
Để có đôi mắt trong sáng, chúng ta không nên nhìn vào đôi mắt kẻ khác để thấy "cái rác" trong đó, hay "bới lông tìm vết" để xét đoán, chỉ trích họ, nhưng hãy nhìn vào chính đôi mắt tâm hồn mình, để thấy "cái đà" của kiêu căng tự mãn, của phô trương giả hình, để thanh lọc cho nên trong sáng. Vì người xưa có câu: "Việc người thì sáng, việc mình thì quáng", nên việc nhìn lại chính mình để tự kiểm thảo luôn là điều cần thiết của mỗi tín hữu Ki tô, nhất là những vị lãnh đạo, hướng dẫn các tâm hồn. Triết gia Chilon cũng cho chúng ta một luật sống bất hủ: "Hãy tự biết mình". Thánh Augúttinô thường cầu nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.
Biết mình thường hèn yếu lỗi lầm để đừng bao giờ khắt khe lên án anh em.
Biết mình hay che đậy giả hình để cảm thông dung thứ cho kẻ khác.
Biết mình thích phô trương háo thắng để đừng phê phán nhạo báng một ai."
Một tác giả kia đã nhận định: Những kẻ may mắn thường là những người có tâm hồn lạc quan vui vẻ, họ có thói quen nhìn vào mặt tích cực của sự việc và vào điều tốt của kẻ khác. Trái lại, những kẻ bất hạnh thường có thái độ tiêu cực, thù hằn, họ thích nhìn vào điều tồi tệ nơi kẻ khác, họ rất ham chỉ trích ; và ưa "vạch lá tìm sâu".
Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói trong đoạn Tin Mừng hôm nay: "Cây tốt thì sinh trái rốt, cây xấu thì sinh trái xấu" (Lc 6,43). Lời nói việc làm của người tín hữu Kitô chỉ có thể sinh hoa kết trái tốt tươi, nếu siêng năng suy niệm và thực hành lời Chúa. Đời sống của chúng ta chỉ có thể "phát xuất ra sự lành" nếu chúng ta được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa vì lời Chúa là lời yêu thương và Mình Chúa là Bí tích tình yêu. Những ai sống trong vị kỷ, xét đoán, chỉ trích và thù hằn, kẻ ấy sẽ chết trong bóng tối gian ác của chính mình.
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con khô héo trong thái độ chỉ trích, trong lối nhìn tiêu cực, trong cách nghĩ đen tối, nhưng xin cho cây đời chúng con được xanh tươi để sinh hoa kế trái của an bình, hạnh phúc và yêu thương. Amen. (Thiên Phúc)
4. Phải để ý đến lầm lỗi của chính mình
Một thầy dòng trẻ tuổi kia phạm một lỗi nặng. Lập tức các thầy dòng lớn tuổi họp lại để lên án anh ta. Tuy nhiên cần phải có mặt của Thầy Bề Trên thì phiên họp mới tiến hành được. Vì thế họ phái người đi mời Bề Trên: "Xin Bề trên đến mau, cộng đoàn đang chờ Thầy". Thầy Bề Trên đứng dậy, lấy một chiếc thúng có nhiều lỗ thủng. Thầy đổ đầy cát vào thúng, rồi mang nó sau lưng đi đến phòng họp. Dĩ nhiên cát rơi đầy dọc đường. Các thầy già hỏi Bề Trên làm việc đó vì ý gì thế. Và Thầy Bề trên trả lời: "Tội lỗi tôi rơi đầy sau lưng tôi. Tôi đi đến đâu cũng để lại một dãy tội phía sau. Chỉ có điều là tôi không thấy chúng. Thế mà hôm nay anh em lại bảo tôi ngồi tòa kết tội một người anh em của tôi sao!" Nghe thế, các thầy già xấu hổ và bỏ ý định lên án ông thầy trẻ.
Ai trong chúng ta cũng có thể trở thành những chuyên gia tìm ra tội người khác và phê phán họ. Nhưng những kẻ phê phán không phải là những người cải tạo thế giới. Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy lấy cái xà trong mắt mình ra trước, rồi mới tính đến chuyện lấy cái rác khỏi mắt anh em. Chúng ta phải lo dọn dẹp nhà mình cho ngăn nắp trước, rồi mới bảo người khác dọn dẹp nhà họ. Nếu không làm như thế thì chúng ta không phán đoán anh em vì quan tâm tới họ, mà chỉ vì thù ghét muốn làm hại họ. Ít có việc nào thoả mãn tính ích kỷ của mình cho bằng vạch tội người khác.
Một người dẫn đường chỉ có thể dẫn dắt người khác nếu bản thân người ấy thấy rõ con đường. Một người thầy dạy chỉ có thể chia xẻ cho người khác những kiến thức mà mình đã biết. Nếu không muốn làm một người hướng đạo mù, thì ta phải biết tự phê phán mình.
Chúng ta rất tích cực sửa lỗi người khác vì nghĩ rằng nếu mọi người khác trong cộng đoàn của mình mà biết được lỗi lầm và sửa chữa thì đời sống cộng đoàn sẽ tốt đẹp biết mấy. Nhưng ngược lại chúng ta rất khó chịu khi bị người khác vạch lỗi của chúng ta ra. Phải chăng đó là biểu hiện của tính ích kỷ?
Một người kia có thói quen hút thuốc và có nuôi một con vẹt. Một ngày kia anh thấy con vẹt cứ ho mãi, anh liền bỏ hút thuốc. Anh còn mời một bác sĩ thú y đến khám xem khói thuốc đã làm hại sức khoẻ con vẹt đến mức nào. Sau khi khám rất kỹ, bác sĩ cho biết con vẹt chẳng bị bệnh gì cả. Sở dĩ nó ho là vì nó bắt chước những cơn ho của chủ nó thôi. Khi đó, người ấy mới khám phá mình bị bệnh ho!
Người đạo đức giả – mà Chúa Giêsu gọi là giả hình – là người chỉ lo sửa lỗi kẻ khác. Người đạo đức thật là người biết tự sửa mình. (FM)
5. Cái xà trong con mắt
Không có gì làm ta mù quáng cho bằng để ý đến lỗi lầm của người khác.
Ngày xưa có một con tê giác luôn bị ám ảnh bởi ý tưởng mình là người hoàn hảo. Bởi thế nó tự cho mình có trách nhiệm sửa chữa những khuyết điểm của các con vật khác. Mà theo nó nghĩ, khuyết điểm nghiêm trọng nhất là có sừng trên đầu, cho nên tất cả những con vật có sừng đều không được ở yên với nó.
Thế nhưng nó đâu có biết rằng nó có một cái sừng mọc ngay trên cái mũi xấu xí của nó. Những con vật kia đều thấy rõ điều đó, nhưng chẳng con nào đủ can đảm nói cho nó biết.
Một hôm, con tê giác đang đi uống nước thì nghe tiếng một con chích choè đang hót trên cành cây. Nó bực mình thét to: "Im đi, cái con chim xấu xa. Mầy không thấy tao đang uống nước sao?". Con chích choè không chịu thua, cãi lại: "Bộ ông đẹp đẽ lắm sao? Ông thử soi mặt ông trên mặt nước rồi sẽ biết". Con tê giác nghĩ trong bụng: "Soi thì soi. Ai mà không biết ta là người hoàn hảo". Nhưng vừa nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta bỗng giật mình vì khám phá một chiếc sừng quái dị nằm ngay trên mũi mình. Biết mình còn xấu xí hơn tất cả các con vật có sừng khác, nó xấu hổ quá: "Ta không thể nhìn mặt các con vật khác được. Ta tiều đời rồi". Kể từ hôm đó, khi đi, nó luôn cúi gằm mặt xuống đất. Nó cũng chẳng dám cho ai thấy mặt cả, cứ trốn trong các lùm cây.
Nhưng làm sao trốn tránh mãi được. Cuối cùng nó chẳng còn lựa chọn nào khác là chấp nhận sự thật. Khi đã có can đảm đối diện với chính mình, nó cũng dần dần can đảm đối diện với các con vật khác. Và các con vật kia rất ngạc nhiên khi gặp lại nó: một anh tê giác khác hẳn trước, thật hiền lành và dễ thương làm sao!
Con tê giác của chúng ta đã thay đổi nhờ biết chấp nhận những con vật khác, không phải theo hình ảnh mà nó muốn, nhưng đúng với hình ảnh thật của chúng, nghĩa là có sừng, có gai và có đủ thứ khuyết điểm khác. Nó cũng thay đổi nhờ biết chấp nhận bản thân mình, không xấu hổ vì chiếc sừng của mình nữa và cũng không lo các con vật kia sẽ nghĩ sao về nó nữa.
Chúa Giêsu bảo chúng ta đừng mất công tìm trái vả nơi bụi gai, hay tìm trái nho nơi bụi rậm. Nơi cây nào thì tìm trái của cây ấy. Bài học này có thể áp dụng cho việc đánh giá về người khác và về chính bản thân mình. (FM)
6. Sửa đổi tính tình
Một thầy tu kia có khuynh hướng hay nổi giận. Khuynh hướng này khiến thầy trở thành một gánh nặng không những cho người khác mà còn cho cả bản thân thầy. Thầy tin rằng thầy chẳng tiến bộ chút nào trên đường nhân đức. Thầy nói rằng nhưng người khác khiến thầy phải thụt lùi vì cứ làm phiền thầy và luôn quấy rầy khi thầy cầu nguyện.
Vì thế thầy quyết định rời tu viện để vào rừng ẩn tu. Thầy nghĩ rằng đó là cách khỏi phải bị người khác làm phiền và nhờ đó mà bỏ được tính nóng giận. Thế là thầy dựng một căn lều trong rừng, chẳng mang theo gì khác ngoài một bình nước. Nhưng trong một lần bất cẩn, thầy làm đổ bình nước, nên phải trở về tu viện để lấy bình nước khác. Tuy nhiên khi trở về lều, thầy lại bất cẩn làm đổ nước nữa. Lại chịu khó lần nữa. Nhưng sự việc lại tái diễn lần thứ ba. Khi ấy cơn giận bốc lên ngùn ngụt. Thầy dập chiếc bình vỡ tan tành, rồi ngồi bẹp xuống đất, hoàn toàn thất vọng về bản thân mình.
Khi cơn giận nguội xuống, thầy bắt đầu suy nghĩ và nhận ra rằng cái tính nóng giận của thầy không phải do nơi những thấy khác mà do chính bản thân mình. Tính xấu đó nằm ngay trong con người thầy, cho nên dù thầy đã vào tận trong rừng sâu, nó vẫn còn đi theo thầy.
Thế là thầy quyết định trở lại tu viện, xin lỗi các thầy khác và hứa sẽ cố gắng sửa tính nóng.
Chẳng khó gì nhận ra chính chúng ta trong câu chuyện trên. Khi gặp một vấn đề trục trặc, chúng ta hay đổ lỗi cho người khác. Thế nhưng nguyên do những trục trặc của chúng ta nằm ngay nơi bản thân chúng ta chứ không nơi người khác. Vậy chúng ta phải lo sửa mình trước, rồi mới có thể sống hòa thuận với người khác được. (FM)
7. Chuyện minh họa
Một nhà đại thần bí Ấn độ nói về chính mình: "Tôi là một nhà cách mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu nguyện với Chúa là: 'Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để cải tạo thế giới'.
Khi đến tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời qua đi mà không một tâm hồn nào được thay đổi. Tôi đổi lại lời cầu: 'Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải tất cả những người tiếp xúc với con.'
Bây giờ tôi đã già và gần kết thúc cuộc đời. tôi cảm thấy mình ngu dại biết bao. Lời câu nguyện của tôi bây giờ là: 'Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải chính con'. Nếu tôi xin điều này ngay từ đầu, tôi đã không lãng phí cuộc đời".
V. Lời Nguyện Cho Mọi Người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi hết thảy mọi Kitô hữu hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời. Với ước muốn nên trọn lành, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin:
Hội thánh luôn cần những vị mục tử tài đức và thánh thiện để hướng dẫn Dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho Hội thánh nhiều vị mục tử khôn ngoan / sáng suốt và nhiệt tình trong đời sống mục vụ.
Ngày nay / tội ác diệt chủng vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa hoán cải con tim của người thời nay / để họ biết tránh xa tội ác / và nỗ lực làm nhiều việc thiện / nhờ đó nhân loại tránh được biết bao thảm họa đau lòng.
Trong cuộc sống thường ngày / có những người lúc nào cũng thích ngồi ghế thẩm phán / xét xử và kết án anh em mình cách vô trách nhiệm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / luôn ý thức thân phận tội lỗi yếu đuối của mình / để đừng bao giờ lên án bất cứ ai.
Xét mình là một việc làm hết sức cần thiết trong đời sống đức tin của người Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mỗi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết trung thành xét mình mỗi ngày / để sửa chữa những thiếu sót lỗi lầm.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Chính anh em là muối cho đời và là ánh sáng cho trần gian. Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con luôn giữ vững phẩm chất của người Kitô hữu chân chính. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
8. Biết rõ tốt xấu – ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Câu truyện cổ tích kể: Một hôm con cọp thấy con trâu bị con người bắt kéo cầy. Cọp bảo trâu: Mày to lớn khỏe mạnh thế, sao để thằng người nhỏ bé bắt mày kéo cầy cực khổ vậy? Trâu đáp: nó nhỏ nhưng trí khôn nó lớn. Cọp hỏi người: Trí khôn mày đâu cho tao xem? Người nói: Trí khôn tao để ở nhà, mày muốn xem, tao sẽ về nhà lấy cho xem, nhưng phải để tao trói mày lại, kẻo mày ăn thịt trâu tao. Cọp vui vẻ để người trói. Trói xong, bác nông phu vác cầy đập cọp, vừa đập vừa nói: trí khôn tao đây, trí khôn tao đây. Câu truyện nói lên người hơn vật ở trí khôn, ở hiểu biết. Hiểu biết rất quan trọng, quan trọng nhất là biết nhận rõ tốt xấu, phải trái, đúng sai, hay dở, thật giả, thiện ác.
Tin Mừng nói: “mù dắt mù xuống hố”. Linh mục Thomas Carroll đã viết một cuốn sách được bác sĩ Chi Lan phiên dịch, nói lên những cực khổ của người mù rất tội nghiệp. Con mắt đã chết, làm chết luôn nhân cách, chết năng khiếu, chết nhận thức, chết hoạt động, chết giao tiếp với mọi người, mọi cảnh vật, cuộc đời thật tăm tối và như mất tất cả.
Mù mà Đức Giêsu nói ở đây, không phải là mù mắt, nhưng mù về trí khôn. Trí khôn mù về đạo đức, đạo lý, tâm linh, thiêng liêng. Những thứ mù này tai hại gấp bội mù thể xác. Mù mắt chỉ làm khổ người mắc bệnh và mấy người thân thuộc. Mù về trí thức khoa học cũng chỉ gây chậm tiến, lạc hậu. Còn mù đạo đức, đạo lý đã gây ra bao nhiêu tai họa khủng khiếp cho gia đình, quốc gia và cả thế giới. Một ông bố xì ke, nhiễm Sida lây lan cho vợ con và di truyền cho cả dòng giống, có khi cả làng nước. Một Hít-le đã chôn vùi cả thế giới trong chiến tranh tàn khốc.
Một giáo phái, một lý thuyết vô luân mù quáng lôi cuốn bao nhiêu thế hệ cuồng nhiệt xuống hố tiêu diệt lẫn nhau. Đó là những cây xấu, sinh trái xấu. Trái lại, một ông bố lành mạnh, sáng suốt, đạo đức để phúc cho con cháu đến bao nhiêu đời. Một Đức Khổng, một Đức Phật đã giáo hóa hàng ngàn thế hệ tốt lành. Đó là những cây tốt sinh trái tốt.
Điều cốt yếu của lời Chúa hôm nay là đưa ra những bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần, làm thế nào để biết nhận rõ tốt xấu để nên tốt và sửa xấu.
Theo Tin Mừng, bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần là:
Thứ nhất: Phải khiêm tốn để chữa bệnh kiêu ngạo. Trò tự phụ hơn thầy là thứ trò hỗn láo kiêu ngạo. Muốn học giỏi trò phải biết khiêm tốn. Người xưa khiêm tốn đến độ học được một chữ hay nửa chữ cũng đáng là thầy mình: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Cả khi gặp nhau đi đường cũng nhận ra người tốt là thầy mình, người xấu là bạn mình: “Ba người đồng hành, người tốt là thầy tôi, người xấu là bạn tôi”. Kinh Dịch là sách triết lý lớn nhất của Đông phương đã đặc biệt đề cao đức khiêm nhu của người quân tử: Khiêm là đạo trời, đạo đất và đạo người. Người quân tử khiêm nhu sẽ vượt mọi sông lớn, mọi đại họa: “Khiêm khiêm quân tử, dụng thiệp đại xuyên”. Việc làm khiêm tốn của quân tử sẽ nuôi được vạn dân: “Lao khiêm quân tử, vạn dân phục chi” (Quẻ khiêm). Quân tử là bậc thầy, bậc con trời đã phải khiêm tốn, thì trò là môn đệ cần phải hạ mình xuống hết mức.
Thứ hai là bài thuốc chữa bệnh chủ quan, ta thường thấy cái xấu của người khác nhưng lại mù quáng không thấy mình xấu: Không thấy cái xà trong mắt mình, nhưng lại thấy cái rác, cái bụi trong mắt người. Mù quáng là do tính tự ái: Yêu mình quá nên dù “trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”, do ích kỷ lo kiếm lợi cho mình, nhận lỗi sẽ làm hại danh dự mình. Mù quáng còn do tính kiêu căng, tự cao tự đại che đậy trí khôn, không nhận ra tội mình. Có kẻ bao nhiêu năm không xưng tội, vợ giục đi xưng tội, chồng nói: Có tội đâu mà xưng. Trong khi Đức Piô X, một vị thánh Giáo Hoàng đầu tiên thế kỷ XX, ngày nào cũng xưng tội vì Ngài thấy rõ tí bụi bay vào mắt mình.
Thứ ba là bài thuốc xét mình: phải luôn luôn kiểm tra kết quả lời nói, việc làm của mình tốt hay xấu: “Cây tốt thì sinh trái tốt, cây xấu thì sinh ra trái xấu”. Nhà buôn phải tính sổ hằng ngày để biết mình lỗ hay lời. Lỗ phải tìm cách sửa lại, lời phải duy trì lâu dài. Mạng sống đời đời của chúng ta còn quý giá gấp triệu triệu lần lời lãi thế gian, như Đức Giêsu đã dậy: “Được lời lãi cả thế gian mất mạng sống mình nào được ích gì”. Chỉ lời lãi nhỏ thế gian, nhà buôn còn phải lo tính sổ hằng ngày, huống chi mạng sống đời đời của chúng ta lớn lao quan trọng vô cùng, sao chúng ta không lo xét mình, kiểm tra đời sống của mình: còn hay mất, lời hay lỗ.
Bài đọc I nhắc nhở chúng ta phải cố gắng kiên trì sàng lọc mình cho sạch thói xấu; phải nhiệt tâm đốt mình khỏi mọi bợn nhơ dỉ ghét như lò lửa nung luyện bình sứ, dầu phải gian nan cực khổ đến đâu cũng phải chiến thắng tử thần để nên người công chính bất tử. Lúc đó con người “xác thịt hay chết của ta mới mặc lấy sự trường sinh nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Bài II).
9. Cọng rơm và cái xà
Sống trên đời, chúng ta giống như một người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ phía trước mặt thì đựng những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ phía sau lưng thì chất đầy những sai lỗi của bản thân.
Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ những sau lỗi của người khác để rồi lên tiếng phê bình một cách gay gắt và chỉ trích một cách thậm tệ.
Trong khi đó, những sao lỗi của bản thân thì lại chẳng nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy chăng nữa, thì cũng sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực và bào chữa:
- Vì thế này, bởi thế kia, tại thế nọ… nên mới ra nông nỗi. Còn nếu cứ như thế này, cứ như thế kia, cứ như thế nọ… thì đâu đến nỗi.
Chúng ta nên nhớ một câu danh ngôn của người Pháp:
- Avec les “si”, on peut mettre Paris dans une bouteille. Có nghĩa là với những chữ “nếu”, người ta có thể bỏ cả thành phố Paris vào trong một cái chai.
Sở dĩ như thế nhiều khi chỉ vì cái dã tâm, cái ác ý của chúng ta mà thôi. Thực vậy, rất nhiều lần chúng ta đã muốn vùi dập người khác xuống tận bùn đen, còn bản thân chúng ta thì lại muốn được ca tụng, được vượt trổi lên đến tận mây xanh.
Sự ghen ghét làm mờ cả đôi mắt chúng ta , như tục ngữ đã diễn tả:
- Việc người thì sáng, còn việc mình thì quáng.
- Chân mình những phẩm lê nhê,
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
Đáng lẽ ra chúng ta phải cư xử nghiêm khác với bản thân mình mà rộng rãi với người khác, thì chúng ta lại hành động trái ngược lại, cư xử nghiêm khắc với người khác mà rộng rãi với chính bản thân mình.
Đáng lẽ ra chúng ta phải lấy cái xà ra khỏi mắt chúng ta trước đã, rồi mới thấy mà lấy cái rơm, cái rác ra khỏi mắt anh em mình, thì trái lại, chúng ta chỉ thấy được cái rơm, cái rác trong mắt anh em, mà quên đi cái xà còn đang nằm ở trong mắt mình.
Hơn thế nữa, người xưa đã nói:
- Nhân vô thập toàn, có nghĩa là chẳng ai là người hoàn toàn, trái lại ai cùng có những khuyết điểm của mình.
Hay như Thánh vĩnh cũng đã bảo:
- Người công chính mỗi ngày còn sai lỗi tới bảy lần, huống nữa là chúng ta.
Thân phận con người thật là mỏng dòn và dễ vỡ như một chiếc bình sành, chúng ta có thể vấp ngã bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu. Sở dĩ chúng ta còn đứng vững và trung thành cho tới ngày hôm nay, tất cả đều do sự trợ giúp và nâng đỡ của tình thương và ơn sủng Chúa.
Vì thế, điều quan trọng đó là phải biết nhìn nhận những sai lỗi khuyết điểm của mình, để rồi cố gắng uốn nắn, nỗ lực sửa đổi, nhờ đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Đức Hồng y Verdier đã phát biểu như sau:
- Kể từ khi làm Tổng Giám mục Paris, tôi đã bị thiệt mất ba điều quí giá, một là không còn được đi lại tự do, vì công việc quá nhiều. Hai là không có bạn bè, vì ai cũng sợ làm mất thời giờ của tôi. Ba là không được nghe biết sự thật, vì kính nể nên ai cũng khen ngợi và tâng bốc tôi.
Vì thế, để biết rõ mình hơn, chúng ta cần phải khiêm nhường để hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống xem trong mối liên hệ đối với Thiên Chúa, đối với tha nhân và đối với bản thân có gì là trục trặc, có gì là bất ổn.
Việc xét mình và kiểm điểm như thế giống như việc chúng ta soi mình vào trong gương, xem trên khuôn mặt chúng ta có nhọ nhem và mang vết bẩn hay không, nếu có thì chúng ta phải vội vã cọ rửa và lau chùi ngay.
Người xưa đã từng khuyên nhủ:
- Tri bỉ, tri kỷ, bách chiến bách thắng. Có nghĩa là biết mình, biết người, trăm trận trăm thắng.
Muốn biết mình, không gì hơn là phải xét mình, phải kiểm điểm bản thân và cuộc sống chúng ta.
Ngày xưa, thánh Augustinô vốn thường có thói quen cầu nguyện vời những lời lẽ như thế này:
- Domine, noverim te et noverim me. Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con. Biết Chúa để nhờ đó con sẽ yêu mến Chúa nhiều hơn. Biết con để nhờ đó sẽ uốn nắn sửa đổi nhưng sai lỗi khuyết điểm, hầu luôn sống đẹp lòng Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, nhân vô thập toàn, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi và khuyết điểm của mình. Đứng trước những khuyết điểm của người khác, xin Chúa cho chúng con biết cảm thông và tha thứ, như Chúa đã từng cảm thông và tha thứ cho chúng con cũng như cho những kẻ tội lỗi trong Phúc âm. Còn đứng trước những sai lỗi của bản thân, xin Chúa giúp chúng con biết nhận lỗi, xin lỗi và nhất là sửa lỗi, để nhờ đó chúng con thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời và luôn làm đẹp lòng Chúa.
10. Hãy tự biết mình – Đừng xét đoán--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Ông bà ta dạy: “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”. Lời dạy này hàm nghĩa: Cẩn trọng khi phát ngôn hay xét đoán người ta. Vì sao phải dạy như vậy? Theo quan niệm của ông bà, trong ứng xử hàng ngày, việc phát ngôn và xét đoán rất quan trọng, vì nó ảnh hưởng đến người khác. Nói, là một trong những kỹ năng phải học từ lúc vỡ lòng: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Phát ngôn không chỉ là việc truyền tin, còn là nghệ thuật giao tiếp: “Chim khôn kêu tiếng rảnh rang. Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”. Cho nên, trong đời sống chung, người ta rất tối kỵ việc buông lời xấu hay xét đoán cho người khác vì ông bà dạy: “Ngậm máu phun người trước dơ miệng mình”. Cho nên, khi nói hay xét đoán người khác, ta phải có trách nhiệm rõ ràng, trong sáng, tránh nói lửng lơ dẫn người ta đến tâm lý lo âu, hiểu sai lạc nên ông bà dạy: “Trách ai ăn nói lưng chừng. Để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo”. Có lẽ, đó là lý do vì sao Thiên Chúa dựng nên con người có hai con mắt để nhìn cho kỹ, hai cái tai để nghe cho rõ, hai lỗ mũi để cảm nhận cho đúng mà chỉ có một cái miệng để nói hay xét đoán cho đúng.
Cho nên, Chúa Giêsu hôm nay dạy: "Anh chị em đừng xét đoán, sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em”. Những lời Chúa nói hôm nay không đơn thuần chỉ là bài học có tính cách luân lý rằng Chúa Giêsu không chỉ khuyên chúng ta không nên xét đoán người khác. Ngài còn mời gọi chúng ta tự đặt mình vào mối tương quan với Thiên Chúa: Chỉ có Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng con người mới có thể xét xử con người. Khi chỉ chúng ta nhìn nhận quyền xét xử của Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. “Hãy lấy cái dằm ra khỏi mắt ngươi trước đã”, nghĩa là hãy nhận ra thân phận bất toàn của mình trước rồi mới xét đoán người ta.
Qủa thế, ngày xưa, nhà hiền triết Hy Lạp Socrate đã đề ra khẩu hiệu như bài học vỡ lòng cho các môn sinh của mình: “Hỡi người, hãy tự biết mình”. Chúa Giêsu của chúng ta cũng đề cao sự sám hối: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. “Hãy sám hối” trước tiên là nhận ra thân phận bất toàn đầy dẫy những lỗi lầm thiếu xót của mình, để rồi từ đó chúng ta sẽ biết sống cảm thông, kiên nhẫn, bao dung và tha thứ đối với người khác hơn. Sống như thế, chúng ta mới đạt được cùng đích của mình là trở nên giống Thiên Chúa, chứ không phải trở thành Thiên Chúa để gạt bỏ chính Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống và rồi xét đoán phạt anh chị em mình không thương tiếc.
Cho nên, Chúa Giêsu dạy hãy tự sửa mình nhiều hơn sửa người khác. Vâng, con người thường có tính tự nhiên quan tâm phô trường, khoe khoan tới hành động, thành công, việc làm của mình luôn luôn là tốt hơn người ta cho nên dễ xét nét hành động của người khác. Chúng ta hay tự cho mình là hoàn hảo hơn người khác trong khi đó mình còn thiếu sót sai lầm, cần phải sửa đổi trước đã rồi hẳn phê phán, xét đoán anh chị em khác. Cho nên, chúng ta dễ thấy những lầm lỗi của người khác, cho dù lầm lỗi ấy rất nhỏ. Còn những lầm lỗi của chính mình thì mình lại không thấy, cho dù rất lớn. Nếu một tập thể hay một gia đình mà trong đó ai cũng đều có tính chỉ nhìn thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi của chính mình thì đời sống chung sẽ rất khó chịu, dễ dàng trách móc, bực bội, hờn giận người khác. Thật là thật đau khổ khi phải sống chung với những người không có tự biết mình, không biết uốn lưỡi 7 lần trước khi nói và không nhìn lại mình trước khi xét đoán. Cho nên, Lời Chúa trong bài đọc 1, Sách Huấn Ca dạy: “Sàng rồi, trấu ở lại sàng, nói ra, cái dở rõ ràng thấy ngay. Có thử lửa mới biết bình thợ gốm, nghe lời miệng nói biết ngay lòng người. Chớ vội khen, khi người chưa lên tiếng: muốn biết người, phải nghe miệng nói năng”. Vì thế, Chúa Giêsu khẳng định: “Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra”.
Vì vậy, việc nhìn thấy và sửa đổi chính bản thân mình thì dễ thực hiện vì điều ấy tùy thuộc vào chính mình, do mình làm chủ, nên hễ mình muốn sửa là sửa được. Còn sửa lỗi người khác thì khó hơn rất nhiều vì điều ấy không tùy thuộc vào mình, không do mình làm chủ. Vả lại, chính mình nên thánh trước đã rồi thì cảm hóa hay sửa chữa người khác sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Cho nên, ông bà ta bảo: “Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy mình đã, đừng làm theo kiểu chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, là những Kitô hữu chúng ta hãy hãy tự xét lỗi chính bản thân mình đã, chứ đừng vội xét lỗi người khác. Lạy Chúa, nhân vô thập toàn, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi và khuyết điểm của mình. Đứng trước những khuyết điểm của người khác, xin Chúa cho chúng con biết cảm thông và tha thứ, như Chúa đã từng cảm thông và tha thứ cho chúng con cũng như cho những kẻ tội lỗi trong Phúc âm. Còn đứng trước những sai lỗi của bản thân, xin Chúa giúp chúng con biết nhận lỗi, xin lỗi và nhất là sửa lỗi, để nhờ đó chúng con thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời và luôn làm đẹp lòng Chúa. Amen.
11. Xét đoán và kết án theo Chúa Giêsu--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Con người chúng ta thường quá độ lượng với chính mình, nhưng lại khắt khe với người khác, thấy lỗi người khác mà không thấy lỗi của mình; phê phán người khác mà không tự phê phán mình; đó là thứ mù quáng và giả hình mà Chúa Giêsu nhiều lần cảnh báo.
Nhìn thấy cái rác trong mắt anh em dễ hơn là thấy cây đà trong mắt mình. Không phải ta không thấy vướng mắt, nhưng là vì ta quá quảng đại với bản thân, thậm trí viện dẫn muôn ngàn lý do để cho rằng cái đà trong mắt ta chẳng có là gì trước mặt mọi người. Tình trạng đó đưa ta đến một khả năng rất dễ thấy cái rác trong mắt anh em mình.
Việc Chúa dạy chúng ta phải làm là “trước hết phải lấy cây đà khỏi mắt mình đi” (Lc 6, 42). Chúa muốn thay đổi cái nhìn, nhận ra mình cần được sửa đổi trước đã, để nhờ thay đổi bản thân, ta không còn thấy và muốn nhặt rác trong mắt anh em mình nữa, rộng lượng hơn đối với anh em. Chúa nói: “Môn đệ không trọng hơn Thầy; nếu môn đệ được giống như Thầy, thì kể là hoàn hảo rồi” (Lc 6, 40). Chúa là Thiên Chúa, Người đã không khắt khe với ta, sao ta lại vượt quá cách Chúa đối xử đại lượng với chúng ta.
Thật lỗi phạm biết bao khi ta xét nét anh em! Ta quên rằng chính ta lắm khi còn tệ hơn thế nữa. Chính bản thân ta vẫn còn đầy những thói hư tật xấu. Khi lên án, chỉ trích anh em, tôi làm như thể ta vô tội. Thực ra đó chỉ là cái đà lớn che đi con người của tôi mà thôi. Tất cả chúng ta được Thiên Chúa đối xử khoan hồng với giá máu châu báu của Chúa Kitô. Nhưng thư hỏi: Chúng ta đã được tha thứ điều gì? Hãy nhớ lại những điều tệ hại và xấu xa chính bản thân ta đã làm trong cuộc đời ta. Thế mà Thiên Chúa đã tha thứ tất cả.
Chuyện kể rằng: Có một vị vị ẩn sĩ kia, khi đến thăm một đan viện, thấy một tu sĩ làm điều lỗi, ngài có ý lên án. Khi trở về chòi tong sa mạc, gặp một thiên thần đứn chặn trước cửa và nói: “Ta không cho ngươi vào”. Ngài ngạc nhiên hỏi: “Tại sao thế thưa ngài?” Thiên thần đáp: “Thiên Chúa sai ta đến hỏi ngươi, xem ngươi đẩy vị tu sĩ ấy đi đâu?” Lập tức, vị ấy hối hận thưa: “Tôi đã phạm tội, xin tha cho tôi”. Thiên sứ bao: “Thiên Chúa tha cho ngươi, ngươi hãy giữ mình chớ bao giờ xét đoán ai, trước khi Thiên Chúa xét xử người ấy”.
Chắc chắn không ai muốn sống mà lúc nào cũng bị người khác để ý từng hành vi, cư chi. Vậy đừng làm cho người ta cái gì mình không ưa thích. Chúa nhắc nhớ chúng ta: “Hãy lấy cái đà trong mắt chúng ta trước, rồi lấy rác nơi anh em sau” (Lc 6, 42). Chúa sinh chúng ta ra mỗi người một vẻ để chúng ta đùm bọc nhau, sưa chữa nhau chứ không để hại nhau đâu. Hãy tha thứ và nhiệt tình phục vụ anh em, đừng xét đoánn, đừng lên án. Đó là điều Chúa nhắn nhủ chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết nghe lời Chúa dạy và đem ra thực hành trong đời sống. Amen.
12. Biết mình biết người--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
Tin Mừng Lc 6: 39-45 "Không ai là một hòn đảo". Sống là sống với chứ không phải sống một mình. Quan hệ với tha nhân là điều không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Do đó, cần phải hiểu biết người một cách sáng suốt thận trọng để có thể quan hệ tốt và ích lợi cho nhau, nhất là về mặt tinh thần.
Chuyện kể rằng: Có một người mù đi trong đêm tối, tay xách chiếc đèn, đầu đội cái bình sành. Một người đi đường trông thấy cho là anh mù nầy ngốc nghếch, liền cười nhạo và hỏi anh mù:
- "Này anh ngốc kia, đối với anh thì ban ngày cũng như ban đêm. Vậy anh cầm đèn để làm gì?"
Người mù ôn tồn đáp:
- "Đèn nầy không cần đối với tôi nhưng lại cần thiết đối với anh, để trong đêm tối anh không làm vỡ cái bình sành của tôi".
Người xưa đã nói: "Biết người, biết mình, trăm trận trăm thắng". Các nhà đạo đức cũng thường nói: "Biết mình là đầu mối khôn ngoan", là điều kiện trước tiên của mọi sự cải tiến. Nhưng làm sao để biết được người và làm sao để biết được mình?
Tác giả sách Huấn ca dùng nhiều hình ảnh so sánh để dạy chúng ta biết người như sau:
"Sàng rồi, trấu lại ở sàng.
Nói ra, cái dỡ rõ ràng thấy ngay.
Có thử lửa, mới biết bình thợ gốm.
Có chuyện trò, biết ai rởm ai hay.
Xem quả thì biết vườn cây.
Nghe lời miệng nói biết ngay lòng người.
Chớ vội khen, khi người chưa lên tiếng.
Muốn đo lòng, thì nghe miệng nói năng."
Những châm ngôn ấy dạy chúng ta muốn biết người thì hãy nghe người ấy nói đã. Đừng vội vàng phê phán, đánh giá, khen chê người nầy người khác trước khi đích thân tiếp xúc trao đổi với họ:
"Xem quả thì biết vườn cây.
Nghe lời miệng nói biết ngay lòng người".
Cây tốt thì sinh quả tốt, và cây xấu tất nhiên sẽ sinh quả xấu. Những lời gian dối không thể phát ra từ miệng của một vị thánh. Đúng hơn, đó là lời từ miệng của một người có tâm hồn gian ác: "Lòng có đầy thì miệng mới nói ra". Ở đây cũng cần lưu ý đến những người "Khẩu phật tâm xà" (Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm) – những người giả hình, nói một đàng làm một nẻo. Nói bác ái, nhưng chỉ một chiều: người khác bác ái với mình, hay mình lợi dụng người khác. Vì thế, trái tốt cũng là những việc làm. Nói và làm phải đi đôi với nhau và cả hai là hoa trái cho biết phẩm chất tốt xấu thầm kín bên trong lòng người.
Có lẽ trong quan hệ với tha nhân, nhiều lần ta đã vội vàng phê phán, đánh giá, khen chê người nầy người khác trước khi đích thân tiếp xúc trao đổi với họ, rồi sau đó mới thấy mình đã không bé cái lầm. Sự thực không đúng như thế ! Hại cả cho mình, hại cả cho người.
Tuy nhiên, biết người thì dễ hơn là biết mình. Muốn biết mình, chúng ta cần phải thành thật và khiêm tốn qua việc tự kiểm, luyện tập và sửa chữa. Phải sáng suốt nhìn nhận những sai sót lỗi lầm của mình. Chúa dạy: Đừng có liều lĩnh lên mặt dạy đời khi mình chưa có một cái nhìn trong sáng về chính mình. Kẻo "mù mà dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố".
Tại sao chúng ta lại khó biết mình? Người ta thường nói: "Việc người thì sáng, việc mình thì quáng". Thần thoại Hy Lạp ví con người như một kẻ mang hai cái túi: một cái trước ngực và một cái sau lưng. Cái túi chứa những tật xấu của mình thì đeo đằng sau, nên không thấy gì cả. Còn cái túi đựng những khuyết điểm của những kẻ khác thì đeo phía trước, nên nhìn thấy rõ ràng. Một trong những nguyên nhân làm chúng ta mù quáng đó là có một vật cản lớn ngay trước mắt: cái xà. Cái xà ấy làm cản trở tầm nhìn. Cái xà ấy làm không thấy rõ chính mình cũng như người khác. Cái xà ấy làm không nhìn thấy sự ghê tởm, nhớp nhúa, xấu xa nơi bản thân, để chỉ nhìn thấy vài khiếm khuyết nơi người khác. Đó là thái độ của người giả hình thực sự. Giả hình khi mạnh miệng chỉ trích người khác để người ta tưởng mình là hoàn thiện, trong khi thực chất chỉ là mồ mã tô vôi. Vì thế, Đức Giêsu mời gọi bạn hãy nhanh chóng "lấy cái xà trong mắt bạn ra trước đã rồi bạn sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong mắt anh em".
Nói như thế, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng ai muốn tiến bộ cũng như muốn giúp anh em tiến bộ thì chính mình phải tự kiểm tra chính mình và sửa mình trước đã. Có sửa được mình thì mới sửa được người.
Như thế, để biết mình, trước hết cần phải liệu cho mình có được sự khôn ngoan sáng suốt chân thật, tức là sự hiểu biết về đường lối của Chúa, chân lý của Chúa và phải sống theo giáo lý của Ngài. Đó là cuộc sống của những người chọn Đức Giêsu làm Thầy, làm Người Hướng Đạo.
Anh chị em thân mến,
Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy trở nên "cây tốt" để sinh "trái tốt". Cây tốt là người lắng nghe Lời Chúa, người để ánh sáng Lời Chúa chiếu vào tâm hồn mình, để sinh ra hoa trái tốt bằng các việc bác ái cụ thể, và có thể giúp cho người khác sống điều mình đã sống. Người tốt có lấy "cái rác trong mắt anh em" cũng là vì tình yêu - chứ không vì hận thù, vì ghen tuông - Vì yêu, người tốt sẵn sàng đến với người khác, dùng Lời Chúa để hướng dẫn người khác thoát khỏi đường lầm lạc quay về con đường sống. Lời Chúa có thấm nhập vào thâm sâu cõi lòng thì tư tưởng, lời nói, hành động mới sinh hoa trái tốt. Mỗi người phải là một cây tốt và đem lại hoa trái tốt cho người khác: cha mẹ cho con cái, anh chị cho các em, thầy cho trò, bạn bè cho nhau, và như thế sẽ tạo nên một vườn cây tốt, một xã hội tốt.
"Không ai là một hòn đảo". Sống là sống với chứ không phải sống một mình. Quan hệ với tha nhân là điều không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Do đó, cần phải hiểu biết người một cách sáng suốt thận trọng để có thể quan hệ tốt và ích lợi cho nhau, nhất là về mặt tinh thần.
Tuy nhiên, muốn biết người và biết mình một cách rõ ràng, chân thật, thẳng thắn thì lại phải có sự trong sáng của con mắt, của tâm hồn. Và nếu muốn giúp người lại cần phải có tinh thần phục vụ thật khiêm tốn, tế nhị và phải có đời sống gương mẫu có sức thuyết phục nữa.
Tất cả những điều cần thiết phải có trên đây, đều được thể hiện nơi Đức Kitô. Lời Ngài, việc làm của Ngài, thái độ của Ngài thật là ánh sáng dẫn dắt chúng ta, thật là gương mẫu cho chúng ta bắt chước. Ngài còn là niềm tin, hy vọng và sức mạnh giúp ta vượt thắng tất cả những khó khăn.
Thánh lễ được cử hành với Lời Chúa và với Mình Máu Thánh Chúa Giêsu là dịp cho chúng ta được Ngài soi sáng, là dịp cho chúng ta được chiêm ngưỡng gương sáng của Ngài, là dịp cho chúng ta được Ngài nâng đỡ.
Chúng ta nhận lấy ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta cũng hãy sốt sắng lãnh nhận nguồn sinh lực dồi dào của Mình Chúa và tin tưởng cố gắng tiến lên cùng với anh em chúng ta. Có Chúa giúp đỡ, chúng ta sẽ đạt được kết quả thiêng liêng mỗi ngày một phong phú hơn.
13. Những bậc thầy mới--R. Gutzwiller
1. Tinh thần
Bản tính con người là muốn dạy bảo người khác. Có những người quyền thế luôn cho mình là người hữu lý, họ muốn chinh phục những ai nghĩ tưởng khác họ về với ý kiến của họ. Lối phê bình đó đưa họ tới chỗ xét đoán và kết án mọi chuyện, mọi người, dĩ nhiên là trừ một mình họ. Quả thực, những người ưa phê bình tỏ ra rất nhậy cảm trước những lời người ta ca thán về mình.
Trong nước Chúa, sự việc phải xảy ra khác hẳn: người ta không xét đoán, không trù rủa nhưng cho đi và tha thứ.
Điều này không có nghĩa là mọi phán đoán đều bị đình chỉ. Giữa sự đoán xét của cá nhân và sự xét đoán theo lương tâm chức nghiệp có một sự khác biệt về căn bản. Khi cha mẹ xét đoán con cái, người có bổn phận giáo dục đối với thanh thiếu niên, bề trên đối với bề dưới, quan toà với tội nhân, những người đó hoàn tất một bổn phận cần thiết và do Thiên Chúa muốn. Thái độ của họ tuỳ thuộc vào tinh thần hướng dẫn họ. Và đó phải là một tâm tình khiêm hạ: không coi mình là hay hơn, tốt hơn người khác, phải xét đoán họ theo những quy tắc của họ, và phải áp dụng cho mình những đòi buộc tương tự, nếu không muốn nói là áp dụng cho mình những đòi hỏi cao hơn…
Sự dèm pha chua chát, kiểu phê bình không chút xót thương, những cách kết án phi nhân đạo, chủ nghĩa giáo điều vênh vang tự đắc, tất cả những cái đó nghịch với tinh thần của Đức Kitô.
2. Động lực
Chúa Giêsu đưa ra ba động lực chính để điều chỉnh thái độ của chúng ta:
Thứ nhất và trọng nhất là mối liên hệ của ta với Thiên Chúa. Chúng ta đang đứng trước pháp đình và không thể tự bào chữa cho mình được. Do đó, hẳn ta sẽ nghĩ đến lòng nhân từ. Như vậy ta phải thông cảm với bất cứ con nợ nào, và phải có tâm hồn bao dung, không xét đoán theo những luật lệ khắc nghiệt. Nhưng hành động theo lòng trắc ẩn. Những quan hệ đứng đắn với Thiên Chúa sẽ điều chỉnh các mối quan hệ giữa con người với nhau.
Thứ hai là mối quan hệ giữa người với người. Ai dạy dỗ người khác thì coi mình là người hướng đạo, trường hợp này điều chủ yếu là hướng dẫn viên phải sáng suốt để tránh tình trạng mù lại dẫn mù, và cả hai đều sa xuống hố.
Chỉ có hướng dẫn viên nào biết mình và xét đoán bản thân mình cách quân bình mới có thể hiểu biết và xét đoán tha nhân. Trong việc điều khiển chính xác, những điều kiện đầu tiên nhằm vào vị thủ lãnh. Mọi sự cải tổ đúng nghĩa đều phải khởi sự từ chính bản thân mình. Ta chỉ có thể phê bình người khác sau khi đã tự phê chính bản thân ta.
Thứ ba là phải có một caí nhìn thấu suốt chính bản thân mình. Bởi vì kẻ cho mình là tốt hơn tha nhân, theo lời Chúa Giêsu, là kẻ giả hình. Y tạo cho mình vẻ bề ngoài giả dối và hành động của y cũng như vậy. Y kêu rêu vì cọng rơm trong mắt anh em như thể mắt y không có gì cả, đang khi thực sự mắt y lại có cả một cái xà che khuất.
Như vậy, lý do Chúa Giêsu đưa ra đây hạ dần từ Thiên Chúa xuống tha nhân, và rồi đến chính mình. Ai tỏ ra lạnh nhạt với động lực đạo đức (quan hệ với Thiên Chúa). Thì ít là phải tỏ ra mẫn cảm với động lực xã hội… Nếu không, hẳn sẽ phải nhận mình là dị hợm vì khi đi khiển trách tha nhân và đề cao mình khi tìm cách cải thiện những kẻ tốt hơn mình và khi để ý đến lầm lỗi tha nhân, thì lại bị mọi người chế nhạo.
3. Lửa thử vàng
Muốn biết vị thày nào đáng cho ta tin cậy hay không, nên xem xét những việc ông ta làm, đây là tiêu chuẩn chắc chắn. Xem quả thì biết cây. Những hành vi lương hảo tượng trưng cho hoa trái chín thơm trên thân cây lành mạnh; còn hành động xấu xa là hoa trái ung thối do thân cây sâu bệnh mà ra.
Sự thiếu hoạt động nơi con người, có thể ví như một cây khô héo không còn sinh hoa kết quả: bởi vì không lẽ ta hái vả nơi bụi gai và vặt nho nơi cây dâu đất. Chẳng nên căn cứ vào lời lẽ bay bướm, hứa hẹn hay chương trình ồn ào phĩnh phờ, tình cảm kiểu cách biểu lộ hấp dẫn, hàng chuỗi sưả soạn nội bộ.
Bình tĩnh nhận xét hành vi và nếp sống là tiêu chuẩn định giá trị, là bằng chứng điều họ xác tín, và như thế ta biết có thể tin vào sự hướng dẫn của họ hay không. Nói cho cùng, hành động tinh thần chỉ là một, sự nhất trí này là mức độ sự thành toàn.
Bài giảng trên núi kết thúc bằng hình ảnh đặt quan trọng ở cách cư xử. Một ngôi nhà xây trên nền đá vững chãi, bão tố không làm chi được; còn căn nhà dựng trên bãi cát, sẽ sụp đổ một khi mưa giông, bão giật đổ tới. Người nào không chỉ nghe suông, nhưng mang ra thực hành, thì giống như người xây nhà trên đá; còn người nghe và hồ hởi đón nhận, nhưng tư cách không phù hợp với giáo lý là người xây nhà trên cát.
Chỉ có cách sống được tinh thần Chúa Kitô hướng dẫn mới là một Kitô giáo chân thực mà thôi.
14. Đạo đức giả
Suy Niệm
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một nguyên tắc để sửa lỗi anh em đó là: bản thân mình phải tốt mới có thể sửa dạy người khác.
Tiếng Việt của chúng ta dùng từ “sư phạm” để ám chỉ người dạy học. Sư là thầy, phạm là cái khuôn. Ý nói người làm thầy phải nên gương mẫu để học trò noi theo. Người thầy không chỉ là người truyền thụ một số kiến thức nhưng quan trọng còn là người phải nêu gương về cách sống, đạo đức.
Vì thế, kẻ muốn làm thầy người khác thì trước hết phải biết mình. Biết mình với những tính xấu, tật hư để tự sửa sai bản thân mình: “Tiên trách kỷ” sau đó mới có thể làm thầy, sửa dạy người khác “hậu trách nhân”. Nếu không biết mình để tu thân thì giống như Chúa Giêsu nói: “Mù dắt mù” thì kết quả là cả hai thầy lẫn trò sẽ sa xuống hố.
Đôi mắt của chúng ta thường dùng để nhìn người khác chứ ít khi nhìn mình. Do đó, chúng ta ít thấy lỗi lầm của mình, nhưng lại dễ dàng nhận ra những sai sót của tha nhân: “Sao anh lại có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra', trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?”. Trong nhà thờ, người Công giáo hay đấm ngực mình: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng", nhưng khi ra ngoài nhà thờ thì đấm ngực người khác: “Lỗi tại nó…”.
Chúa Giêsu không ngại quở trách những người không “biết mình”, mà chỉ soi mói anh em giống như những Pharisêu, luật sĩ là những kẻ giả hình: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!”.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn chúng con phải là những con người biết nhìn nhận lỗi lầm của mình, biết tự sửa sai chính mình trước khi sửa sai người khác. Xin Chúa giúp chúng con biết nhận ra những thiếu xót, tội lỗi của bản thân và can đảm sửa đổi. Để nhờ cuộc đời thánh thiện, chúng con góp ý cho nhau trong tình huynh đệ chân thành nhằm làm lợi cho Nước Chúa. Amen.
15. Cái xà và cọng rác trong Tin Mừng--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin Mừng Lc 6: 39-45 Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một nguyên tắc để sửa lỗi anh em đó là bản thân mình phải tốt mới có thể sửa dạy người khác.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một nguyên tắc để sửa lỗi anh em đó là bản thân mình phải tốt mới có thể sửa dạy người khác. Vì thế, kẻ muốn làm thầy người khác thì trước hết phải biết mình. Biết mình với những tật hư nết xấu để tự sửa đổi bản thân, sau đó mới có thể làm thầy, sửa dạy người khác. Nếu không biết mình để tu thân thì giống như Chúa Giêsu nói: “mù dắt mù” thì kết quả là cả hai thầy trò sẽ sa xuống hố.
Quả thật, đôi mắt của chúng ta thường dùng để nhìn người khác chứ ít khi nhìn vào mình, do đó, chúng ta ít thấy lỗi lầm của chúng ta, nhưng lại dễ dàng nhận ra những sai sót của tha nhân: “sao anh lại có thể nói với người anh em: "này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra", trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?
Đức Giêsu thật hài hước khi đưa ra hình ảnh cọng rác và cái xà. Người muốn nhấn mạnh đến mối tương quan để làm nổi bật sự lố bịch của thói xét đoán. Tính hài hước trong cách minh họa của Đức Giêsu làm cho thính giả cũng như độc giả là chúng ta phải nhìn ra tính nghiêm túc của bài học. Chủ nghĩa giữ luật hình thức có thể che mắt người ta để rồi họ chỉ lo “xăm soi” những lỗi lầm nhỏ nhặt của người khác, còn chính họ lại đui mù trước những lầm lỗi nghiêm trọng của mình. Vì hình ảnh minh họa nhắm đến những người hướng dẫn đui mù, nên trước tiên áp dụng cho giới lãnh đạo, nhưng Chúa Giêsu đã dùng từ “anh em”, nên bài học này cũng áp dụng cho cả chúng ta nữa.
Điểm nhấn ở đây không phải là chuyện lên án hay moi móc những lỗi lầm của anh em. Thực ra, mỗi người cần xem xét lại cuộc đời mình để phát hiện và loại bỏ những gì là bất toàn và lỗi tội. Biết xét mình và tự phê phán là mấu chốt cho những tương quan chân thật. Nói cách khác, tương quan của chúng ta thường là giả tạo. Chúng ta đeo mặt nạ để che giấu con người thật của mình. Chúng ta ngụy tạo những điều chúng ta không có. Chính vì thế nhiều khi chúng ta đã muốn vùi dập người khác xuống tận bùn đen, còn bản thân chúng ta thì lại muốn được ca tụng, được vượt trổi lên đến tận mây xanh.
Sự ghen ghét làm mờ đôi mắt chúng ta. Đáng lẽ ra chúng ta phải cư xử nghiêm khác với bản thân mà rộng rãi với người khác, thì chúng ta lại hành động trái ngược lại, cư xử nghiêm khắc với người khác mà rộng rãi với chính bản thân mình.
Đáng lẽ ra chúng ta phải lấy cái xà ra khỏi mắt chúng ta trước đã, rồi mới thấy mà lấy cọng rác ra khỏi mắt anh em mình, thì trái lại, chúng ta chỉ thấy cái rơm, cái rác trong mắt anh em, mà quên đi cái xà còn đang nằm ở trong con mắt của mình. Vì thế, điều quan trọng đó là phải biết nhìn nhận những sai lỗi khuyết điểm của mình, để rồi cố gắng uốn nắn, nỗ lực sửa đổi, nhờ đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Đức Hồng Y Verdier đã chia sẻ như sau: "kể từ khi làm Tổng Giám Mục Paris, tôi đã bị thiệt mất ba điều quí giá: một là không còn được đi lại tự do, vì công việc quá nhiều; hai là không có bạn bè, vì ai cũng sợ làm mất thời giờ của tôi; ba là không được nghe biết sự thật, vì kính nể nên ai cũng khen ngợi và tâng bốc tôi." Vì kính nể nên ai cũng khen ngợi và tâng bốc, nên Đức Hồng Y Verdier sợ không nghe được sự thật, nhất là sự thật về con người của mình. Trái lại, để thấy được con người thật của mình, nhiều khi chúng ta lại phải cần đến những người hay chỉ trích chống đối chúng ta như có có câu chuyện kể rằng:
Một ông vua kia được viên quan cận thần báo cho một tin khẩn như sau:
- Thưa ngài, kẻ đã luôn luôn phê bình chính sách của ngài nay bị bệnh nặng, sắp qua đời, từ nay chúng ta được yên thân rồi.
Nghe tin báo, thay vì vui mừng thì nhà vua lại ra lệnh cho viên quan đại thần như sau:
- Hãy mau đi tìm vị lương y giỏi nhất trong nước đến chữa trị cho bệnh nhân đó. Ta không muốn kẻ đó phải chết, hãy làm mọi cách để cứu sống ông ta.
Quan đại thần ngạc nhiên hỏi lại:
- Thưa ngài, người này là người luôn luôn phê bình đường lối cai trị của ngài. Nếu ông ta mà chết đi, thì có lợi cho ngài hơn, cớ sao ngài lại muốn như vậy, và ra lệnh phải tìm đủ mọi cách chữa trị cho người đó.
Nhà vua trả lời:
- Chính vì người đó dám lên tiếng phê bình ta, nên ta lại càng phải lo cứu sống người đó. Ta cần một con người can đảm như thế hơn là những người lúc nào cũng chỉ biết có tung hô vạn tuế.
Chúng ta thường có khuynh hướng thích được khen thưởng hơn là biết lắng nghe những lời thành thật giúp chúng ta thanh luyện những tiêu cực, nhất là khi chúng ta có chút ít quyền hành. Bởi thế, muốn biết rõ mình hơn, chúng ta lại càng cần phải có những kẻ can đảm, dám nói cho chúng ta biết sự thật, biết những điều lầm lỗi, để chúng ta sửa chữa và vươn lên.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn chúng con phải là những con người biết nhìn nhận lỗi lầm của mình, biết sửa đổi trước khi sửa sai người khác. Xin cho chúng con biết nhìn ra cái xà, một cái xà to lớn đang che mắt chúng con, làm chúng con không thấy được những những khiếm khuyết, lỗi lầm của chúng con. Xin Chúa cất khỏi con cái đà trong mắt con để con nhìn ra những cái hay cái tốt nơi anh chị em chúng con, nhờ đó, chúng con sẽ cùng nhau hăng say loan báo Tin Mừng, làm cho Nước Chúa được mau hiển trị trên thế gian này. Amen.
16. Tự biết để sửa mình--Lm. Inhaxio Trần Ngà
Ông Dale Carnegie, một nhà văn, nhà diễn thuyết và là nhà giáo dục đại tài, nổi tiếng khắp thế giới cho biết rằng: “Tôi đã phải mất 33 năm cuộc đời để khám phá được điều quan trọng này là trong 100 lần phạm lỗi, có đến 99 lần người ta tự xem mình như người vô tội, bất kể tội nặng đến đâu.”
Tự biết chính mình, thấy được những lầm lỗi của mình là điều rất khó, khó đến nỗi, “trong 100 lần phạm lỗi, có đến 99 lần người ta tự xem mình như người vô tội.”
Mà nếu không thấy được lầm lỗi thì làm sao sửa lỗi được, làm sao cải thiện cuộc sống được! Vậy là cứ chứng nào tật nấy!
Vì thế, cách đây hơn 2.500 năm, nhà hiền triết Socrate có để lại cho đời một lời dạy khôn ngoan được mọi người cho là lời khuyên vàng ngọc, tuyệt đối cần thiết cho đời sống con người. Đó là câu nói thời danh: "Hỡi người, hãy tự biết mình."
Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cũng dạy ta phải tự biết mình. Ngài nói: “Sao anh thấy cọng rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà (còn gọi là cái đà, tức cái xà ngang nằm vắt qua 2 đầu cột nhà) trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?”
Vì không biết mình nên dù có cả “cái xà to lớn trong mắt mình”, nghĩa là tội ác tày đình của mình, người ta cũng không tự biết và cũng chẳng quan tâm.
Ngay cả vua Đa-vít, một vị vua tài ba lỗi lạc của người Do-thái, cũng không nhận ra lầm lỗi tày trời của mình.
Một buổi chiều nọ, vua Đavít dạo chơi trên sân thượng và thấy bà Bat-sê-ba, là vợ của U-ri-a đang tắm. Vua sai quân hầu đưa bà đến với vua. Ít lâu sau đó, bà Bat-sê-ba báo tin cho vua hay là bà đã có thai với nhà vua.
Vua Đa-vít tìm cách chạy tội bằng cách truyền lệnh cho chồng của Bát-sê-ba là U-ri-a từ mặt trận về và xúi U-ri-a về nhà ăn ở với vợ, để U-ri-a tưởng rằng chính anh ta là tác giả của bào thai trong dạ Bát-sê-ba. Nhưng việc không thành vì U-ri-a cứ nằm ngủ ở đền vua mà không chịu về nhà.
Thế là vua Đa-vít lập mưu giết chết U-ri-a ở ngoài mặt trận, rồi đón bà Bat-sê-va về cung, làm vợ mình ( II Sam 11 và 12).
Vua Đavít đã phạm một tội tày trời: giết U-ri-a để cướp của anh ta… mà vẫn ung dung như không có gì xảy ra.
Vì thế, Thiên Chúa sai tiên tri Na-tan đến cảnh tỉnh vua.
Nhà tiên tri trình với vua: “Trong thành kia, có một người giàu sang phú quý có cả đến hàng ngàn chiên dê và bò, trong khi đó, một người nghèo bên cạnh chỉ có một con chiên nhỏ mà ông ta rất yêu quý, coi như đứa con gái của ông. Thế rồi khi người giàu có khách, ông không bắt chiên mình đãi khách mà lại cho tôi tớ đi bắt con chiên độc nhất của người nghèo làm thịt.”
Nghe đến đây, vua Đavít bừng bừng nổi giận. Vua quát: “Đồ khốn kiếp! Nó đáng chết! Nó phải bị trừng phạt và phải bồi thường gấp bốn vì việc nó đã làm…” Tên khốn nạn đó ở đâu?
Tiên tri Na-tan thưa: “Tâu bệ hạ. Người ấy chính là vua. Nhà vua đã có nhiều thê thiếp lại còn nhẫn tâm giết chết Uria và cướp người vợ độc nhất của anh ta.”
Bấy giờ vua Đavít mới nhận ra tội mình và ăn năn khóc lóc thảm thiết.
Chua chát thay, vua Đa-vít thấy rõ tội nhỏ của người ta mà không thấy thứ tội tày trời của mình. Tội mình to như núi, mình không thấy; Tội người ta chỉ bằng viên sỏi, ta thấy rõ ràng.
Đúng như lời Chúa nói: Người ta thấy rõ “cọng rác trong con mắt của người khác, mà cái xà ngang trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới.”
Vì thế, Chúa Giê-su dạy: “Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã.” Nghĩa là hãy xét mình cho kỹ để thấy cho rõ lầm lỗi của mình mà chừa bỏ trước đi.
Muốn lấy “cái xà ra khỏi mắt mình”, tức là muốn sửa mình, muốn chừa tội thì trước hết phải biết nhận ra lầm lỗi của mình, đừng mù quáng như vua Đa-vít xưa.
Nếu chúng ta biết cơ thể mình bốc mùi khó chịu, chúng ta sẽ tắm rửa ngay. Nếu không nhận ra mùi hôi của mình, chúng ta cứ để cho mình hôi hám. Nếu chúng ta thấy mặt mình dơ bẩn, chúng ta sẽ lo rửa sạch ngay. Nếu không nhận ra vết nhơ trên khuôn mặt, chúng ta không cần lau mặt. Nếu chúng ta không nhận ra những thói hư tật xấu của mình, những điều xằng bậy của mình, những điều đê tiện của mình… thì làm sao chúng ta có thể sửa mình nên tốt được?
Tuy nhiên, nhận biết được tội của mình là điều rất khó.
Muốn biết mặt mình dơ hay sạch, chúng ta cần tấm gương soi. Muốn biết được lầm lỗi và những thói hư tật xấu của mình, chúng ta cần nhờ đến cha mẹ, thầy cô, cũng như những người chung quanh chỉ lỗi cho.
Ngoài ra, chúng ta cần xem xét mình hằng ngày để nhận ra lầm lỗi của mình mà sám hối.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con thường xuyên nhìn vào nội tâm của mình, vào cách xử sự, vào cách ăn nết ở của mình để nhận ra những sai phạm lỗi lầm trong đó và quyết chí sửa đổi ăn năn. Nhờ đó, chúng con mới có thể cải thiện cuộc sống, để trở thành người có phẩm chất cao đẹp, có đạo đức, xứng tầm người con Thiên Chúa.
17. Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 8 Thường Niên năm C mời gọi chúng ta phải thận trọng trong việc xét đoán người khác.
Hc 27: 4-7:
Trong đoạn trích sách Huấn Ca, hiền nhân Ben Xi-ra khuyên phải cẩn thận trong lời ăn tiếng nói.
1Cr 15: 54-58:
Trong đoạn thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô chia sẻ với độc giả của mình một sự hiểu biết mới liên quan đến cuộc phục sinh của người tín hữu.
Lc 6: 39-45:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su dạy rằng đừng vội xét đoán người khác nhưng hãy xét đoán chính mình.
BÀI ĐỌC I (Hc 27: 4-7)
Tác giả sách Huấn Ca là ông Ben Xi-ra, một hiền nhân Do thái. Ông là người học rộng biết nhiều, trung thành tuân giữ các giới luật, ca ngợi vinh quang của các bậc tổ tiên và hãnh diện về những đặc ân của dân Ít-ra-en, dân của Giao Ước và Minh Triết; nhưng đồng thời có tinh thần cởi mở với thế giới và không ngần ngại xét lại vài vấn đề trong những vấn đề lớn của niềm tin. Với tâm trí sâu sắc, khôn khéo, quân bình, hướng đến những giải pháp mực thước và cẩn trọng, ông là nhà luân lý lão luyện nhất trong tất cả các nhà luân lý Ít-ra-en. Đây là nhà cố vấn khôn ngoan cho mọi cảnh sống trong những thời kỳ yên hàn. Ông không giảng dạy tinh thần anh hùng, đó không là nhân đức thường ngày. Vui vì được phụng sự Thiên Chúa, ông hài lòng truyền đạt cho các môn sinh của ông những nguồn hạnh phúc của mình. Nhưng xin đừng ai coi thường giáo huấn như thế.
Trong đoạn trích dẫn ngắn của sách Huấn Ca hôm nay (Hc 27: 4-7), hiền nhân Ben Xi-ra khuyên phải cẩn thận trong lời nói: Lời nói bộc lộ bản chất của một người, vì thế qua lời nói, chúng ta có thể biết được người ấy như thế nào. Do đó, chớ vội xét đoán khi chưa nghe người ta nói. Câu tục ngữ Việt Nam dạy cách đối nhân xử thế đáng cho chúng ta ghi nhớ:
“Lời nói chẳng mất tiền mua,
lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 54-58)
Trước đây trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh nhân đã giải đáp một vấn nạn mà người tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca nêu ra về số phận của những người đã qua đời trước khi Chúa đến như thế nào: “Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su” (1Tx 4: 13-14). Giờ đây trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân khai sáng một khía cạnh mới của sự phục sinh: “Tất cả chúng ta sẽ được biến đổi” (1Cr 15: 51). Không chỉ chúng ta được ở “với” Chúa, chúng ta cũng sẽ nên giống “như” Ngài. Chính nhờ quyền năng của Thiên Chúa mà chỉ trong nháy mắt hình thể của người sống và kẻ chết được biến đổi thành tình trạng vinh quang (15: 52-53).
1. Vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ được biến đổi như Đức Ki-tô (15: 54-57):
Để chứng minh rằng kẻ chết sống lại luôn luôn thuộc vào kế hoạch của Thiên Chúa, thánh nhân quy chiếu đến Kinh Thánh (15: 54-55): Thiên Chúa có quyền năng trên sự chết. Thánh Phao-lô sánh ví Tử Thần như con bò cọp khổng lồ chích nọc độc tội lỗi vào chúng ta khiến chúng ta chịu thống trị dưới quyền lực của nó. Sức mạnh của nọc độc này được minh họa bởi sự bất lực của Lề Luật trước tội lỗi (15: 56). Từ kinh nghiệm về sức mạnh khủng khiếp của Tử Thần, thánh Phao-lô vỡ tràn thành lời cầu nguyện tạ ơn (15: 57), vì chúng ta trải qua rồi cuộc chiến thắng của Đức Ki-tô Phục Sinh mà Thần Khí của Ngài đang thay hình đổi dạng cuộc sống của chúng ta bằng cách chinh phục tội lỗi trong chúng ta và cướp chúng ta ra khỏi nanh vuốt của Tử Thần.
2. Hiện nay, chúng ta phải sống như những người chiến thắng sự chết (15: 58):
Vì thế, thánh Phao-lô khuyên độc giả của ngài phải sống như thế nào để cuộc chiến thắng thành hiện thực. Lời dạy cốt yếu của thánh nhân chính là toàn bộ con người chúng ta, chứ không chỉ một yếu tố nào, được kêu mời hướng đến sự sống. Con người chúng ta phải được thay hình đổi dạng để càng ngày càng trở nên giống như Đức Ki-tô, do đó hiện nay chúng ta đang phải sống trong cái thân hư nát phải chết này, đừng phạm tội, và “càng ngày càng tích cực tham gia vào công việc của Chúa” (15: 58).
TIN MỪNG (Lc 6: 39-45)
Ngay từ đầu Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca lưu ý với chúng ta rằng chúng ta đang đứng trước dụ ngôn: “Đức Giê-su còn kể cho môn đệ dụ ngôn này”. Với thể loại dụ ngôn, Đức Giê-su mời gọi mỗi người chúng ta tìm ý nghĩa của các câu chứ không dừng lại ở hình ảnh. Điều cốt yếu mà Ngài muốn truyền đạt chính là các môn đệ phải đối nhân xử thế như thế nào trong cuộc sống thường ngày. Chúng ta gặp lại đề tài xét đoán ở đây, trước đó từ chối xét đoán kẻ thù, giờ đây từ chối đoán xét “anh em”, tức là các thành viên trong cộng đoàn Giáo Hội.
1. Hãy tự xét đoán chính mình (6: 39-42):
Với dụ ngôn: “Người mù dắt người mù” (6: 39-40), Đức Giê-su mời gọi đừng xét đoán. Tuy nhiên, không xét đoán không có nghĩa là đặt tất cả trên cùng một bình diện như nhau. Có nhiều Ki-tô hữu còn lâu mới trưởng thành trong đời sống Ki-tô giáo (x. 1Cr 3: 1-3), vì thế, khôn ngoan nhất chính là trước khi xét đoán người khác, hãy tự xét đoán chính mình, vì người mù tối không thể tự phụ hướng dẫn người khác đến ánh sáng trọn vẹn của niềm tin.
Cuộc sống của người tín hữu là một chuẩn bị lâu dài để trở nên hoàn thiện (được dày công huấn luyện đầy đủ) để rồi người ấy sẽ nên giống như Thầy của mình là Đức Giê-su, Đấng hằng tâm niệm rằng mọi người đều có thể hoán cải, thay đổi đời sống. Ước gì mỗi người học sống theo mẫu gương tha thứ và yêu thương của Đức Giê-su đối với tội nhân, nhờ đó họ có khả năng hướng dẫn người khác, như Đức Giê-su đã nói với thánh Phê-rô: “Thầy sẽ cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22: 32). Đó cũng là thái độ của Đức Giê-su Phục Sinh khi Ngài gặp lại thánh Phê-rô bên bờ hồ Ti-bê-ri-a, lúc đó Ngài không một mảy may đá động gì đến ba lần thánh nhân đã chối Thầy, nhưng mời gọi thánh nhân hãy sống kinh nghiệm tha thứ và yêu thương của Thầy mà biết cư xử với đoàn chiên mà Ngài giao phó thánh nhân coi sóc (Ga 21: 15-17).
Với dụ ngôn: “Cái rác trong mắt người cái xà trong mắt ngươi” (6: 41-42), Đức Giê-su dạy rằng con người thường dễ thấy khuyết điểm của người khác mà không thấy khuyết điểm của mình, phê phán người khác mà không tự phê phán chính mình: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?” (6: 41). Đó là thứ mù quáng và giả hình mà Đức Giê-su nhiều lần cảnh báo. Chỉ có một cuộc sống hoán cải liên tục, tự kiểm điểm và tự hoàn thiện bản thân mình, mới giải thoát chúng ta khỏi chứng mù lòa tâm linh và cho phép chúng ta sửa đổi được cách sống của người khác. Dụ ngôn “cái rác” và “cái xà” nhắc nhở chúng ta phải sống tốt trước đã rồi mới bảo người khác sống tốt được.
2. Hãy đổ tràn trong tâm trí giáo huấn của Đức Giê-su (6: 43-45):
Với dụ ngôn: “Cây nào trái nấy” (6: 43-44), Đức Giê-su đưa ra cho chúng ta tiêu chuẩn để phân biệt người tốt kẻ xấu trong cuộc sống. Để phân biệt cây nào tốt cây nào xấu, chúng ta cần chăm chú nhìn vào trái mà cây trổ sinh, chứ không “hoa lá cành” của nó. Cũng vậy, để phân biệt người tốt kẻ xấu chúng ta nhìn vào những việc làm, chứ không những lời nói của người ấy. “Vì không thiếu những người ở đây trên cõi thế, khi tiếp cận với họ, hóa ra họ không là gì cả chỉ là hoa lá cành hào nhoáng bên ngoài. Chỉ là cành lá rậm rạp chứ không có gì thêm. Trong khi đó, nhiều tâm hồn đang chăm chú nhìn vào chúng ta hy vọng được no thỏa cơn đói của họ, cơn đói Thiên Chúa. Chúng ta đừng quên rằng chúng ta có tất cả mọi nguồn chúng ta cần. Chúng ta có đủ đạo lý và thiên ân, bất chấp cảnh đời bất hạnh của chúng ta” (Bl. J. Escriva, Friends of God, 51).
Với dụ ngôn: “Lòng đầy miệng mới nói ra” (6: 45), Đức Giê-su sánh ví cái tâm của con người với một kho tàng: cái tâm tốt thì xuất phát những lời nói và việc làm tốt, cái tâm xấu thì xuất phát những lời nói và việc làm xấu: “Thiện căn bởi tại lòng ta”. Bởi thế, người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng của lòng mình chứa đầy những điều tốt, tức là những giáo huấn của Đức Giê-su. Thánh Bê-na-đô giải thích: “Kho tàng của lòng mình cũng tương tự như cội rể của cái cây. Người nào có một kho tàng của đức nhẫn nại và đức ái hoàn hảo trong lòng mình, người ấy sinh ra hoa trái tuyệt vời; người nào yêu mến người thân cận của mình và có mọi phẩm chất khác mà Đức Giê-su dạy, người ấy yêu thương kẻ thù của mình, đối xử tốt kẻ ghét mình, chúc phúc cho người nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình, không phản ứng chống lại kẻ tấn công mình hay trấn lột mình; người ấy cho những ai xin mà không đòi hỏi những gì họ đã lấy cắp của mình, ước mong không xét đoán và kết án, sửa lỗi một cách kiên nhẫn và đầy lòng nhân ái những người lầm lạc. Nhưng người nào có kho tàng của sự gian ác trong lòng mình, người ấy đúng là hành xử ngược lại: hắn ghét bạn bè của mình, nói xấu người yêu thương mình và làm những điều khác nữa mà Chúa kết án” (In Lucae Evangelium expositio, II, 6).
18. Bài giảng là hoa quả của trái tim--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller
Chúng ta sống trong thời đại kỳ diệu giống như Tivi, máy tính và những cuộc du hành không gian. Hàu như mỗi ngày, những điều kỳ diệu đều hé mở. Ai biết được những gì sẽ xảy ra kế đó? Và một trong những điều kỳ diệu lớn nhất mà chúng ta cảm nghiệm được mỗi ngày sống, cũng giống như là từ khi bình minh của nòi giống con người. Đó là sự kỳ diệu của ngôn ngữ. Quả thật nếu không có ngôn ngữ thì khó thấy được sự kỳ diệu của thời đại chúng ta có thể phát triển bởi vì sự cộng tác giữa những con người với nhau thì quá khó khăn, ngn làm cho mọi sự có thể ngay khi không thể.
Ngôn ngữ của con người không đơn giản được rút ra từ trên một ngàn năm qua do kinh nghiệm. Ngôn ngữ là một đặc ân của Thiên Chúa tuôn trào từ chân lý mà chúng ta đã được tạo dựng nên theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa. Điều đó nâng chúng ta lên như là hữu thể con người vượt trên những tạo vật khác và thật sự đã làm cho chúng ta nên giống Thiên Chúa. Từ đời đời chính Thiên Chúa đã là Ngôi Lời. Ngôi Lời mà chúng ta đã biết từ mạc khải Người Con thần linh của Cha. Ngài đã có từ nguyên thủy với Thiên Chúa và là Thiên Chúa. Tất cả những lời nói của con người chúng ta thì không có vấn đề gì trong ngôn ngữ nhưng được thông dự vào trong Lời của Thiên Chúa. Đặc ân ngôn ngữ của Thiên Chúa thì quý giá biết bao mà chúng ta không được coi thường. Những lời đến từ chúng ta như là hoa quả đến từ cây. Trái xấu thì đến từ cây xấu và sách Khôn ngoan ngày hôm nay đã cảnh cáo chúng ta rằng, những lỗi của con người đã xuất hiện khi hắn nói. Nói một cách khác, trái tốt thì đến từ cây tốt. Như thế Chúa Giêsu đã nói với chúng ta rằng một người tốt sẽ sinh điều tốt, như từ điều tốt ở trong lòng của nó. Những từ ngữ của con người chúng ta sẽ là một diễn tả sự tốt lành của chúng ta.
Dĩ nhiên con người chúng ta được tự do sử dụng những đặc ân của Thiên Chúa theo điều đúng hoặc sai. Có lần chúng ta nói điều tốt nhưng lúc khác chúng ta lại nói điều xấu. Có lần chúng ta diễn tả sự kính trọng và tình yêu với những lời hay ý đẹp, nhưng lúc khác chúng ta lại tỏ ra mất kiên nhẫn và thù hận. Lúc này chúng ta nói sự thật, lúc khác chúng ta lại không nói sự thật.
Chúng ta có thể đồng ý rằng chúng ta không khinh thường những đặc ân của Thiên Chúa, cố gắng để sửa sai những từ ngữ của mình, nhưng sự thay đổi trái tim của chúng ta thì giống như cố gắng sinh sản ra những trái tốt từ cây xấu vậy. Chúng ta cần thay đổi bên trong của chúng ta. Đó là lý do vì sao mà Thiên Chúa muốn khi Ngài nói: “Mỗi người hãy nói từ sự phong nhiêu của lòng mình”.
Sự phong nhiêu nơi tâm hồn của chúng ta là gì? Với sự tốt lành nào mà tâm hồn đó đã được tràn đầy? Không có điều gì hơn sự tốt lành phong phú của Thiên Chúa. Vào mỗi ngày Chúa Nhật nơi Thánh Lễ chúng ta đã nghe những lời, những lời rất quan trọng, những lời phản ảnh Ngôi Lời lớn lao của Thiên Chúa. Chúng ta nghe những lời trong Thánh Kinh. Đức Kitô Ngôi Lời của Thiên Chúa đã nói với chúng ta khi những lời Thánh Kinh được tuyên bố trong phụng vụ. Từ những lời thánh này, chúng ta học được về Thiên Chúa và học được về chúng ta. Thí dụ trong bài đọc thứ hai của Thánh Phaolô ngày hôm nay đã nói với chúng ta về giá trị lớn lao như là con cái của Thiên Chúa. Chúng ta rất giá trị trong đôi mắt của Thiên Chúa, cái chết thì không phải là tận cùng của chúng ta, sự chết đã được Đức Kitô chế ngự, Thánh Phaolô đã tuyên bố chân lý này để cho tâm hồn của chúng ta được tràn đầy sự tốt lành của Thiên Chúa, nhưng ngài cũng trình bày cho chúng ta là lời nói của chúng ta phải tuôn trào một sự hiểu biết về sự nhân lành đó. Ngài cũng nói thêm sự tuôn trào đó sẽ có giá trị phát xuất từ tâm hồn của chúng ta: “Hãy cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.
Nếu tâm hồn của chúng ta được tràn đầy sự nhân lành của Thiên Chúa và những lời của chúng ta được tràn đầy sự nhân lành. Chúng ta sẽ không dùng những lời xấu nhưng là những lời tốt. Chúng ta sẽ làm tốt nếu mọi người nghe chúng ta nói có thể cảm nhận rằng chúng ta nói như Đức Giêsu Kitô đã nói xưa kia trên mặt đất này. Tiếp đó, đối với lời nói của chúng ta, chúng ta có thể đáp cách đúng đắn rằng: “Hãy cảm tạ Thiên Chúa”.
19. Sống những gì Chúa muốn
Những lời trong Bài Tin Mừng hôm nay dường như Chúa muốn nhắm tới các thầy dạy trong đạo Do Thái thời Ngài, tuy nhiên chúng ta cũng có thể tìm ra được một vài áp dụng cho chính chúng ta.
1. Chúa muốn nói rằng muốn hướng đẫn, muốn dạy dỗ người khác thì trước hết phải "biết" điều mình hướng dẫn, mình dạy trước. Vì "mù dắt mù, thì cả hai sẽ lăn cù xuống hố" (Lc 6,39). Mình có biết, có sáng mắt thì mới thấy đường mà hướng dẫn anh em mình.
Bởi thế, điều kiện để được trở thành người hướng dẫn kẻ khác là phải biết mình. Và cách để giúp mình biết mình trước, tốt nhất là phải học và biết lắng nghe, nhất là lắng nghe những người không ưa mình nói về mình.
Một ông vua kia được viên quan cận thần báo cho một tin khẩn như sau:
- Thưa ngài, kẻ đã luôn luôn phê bình chính sách của ngài nay bị bịnh nặng, sắp qua đời, từ nay chúng ta sẽ được yên thân hơn.
Nghe tin báo, thay vì vui mừng thì nhà vua lại ra lệnh cho viên quan đại thần như sau:
- Hãy mau đi tìm vị lương y giỏi nhất nước đến chữa trị cho người bệnh đó. Ta không muốn kẻ đó phải chết, hãy làm mọi cách để cứu sống kẻ đó.
Quan đại thần ngạc nhiên hỏi lại:
- Thưa ngài, người này là người luôn luôn phê bình đường lối cai trị của ngài. Nếu ông ta mà chết đi, thì có lợi cho ngài hơn, cớ sao ngài lại muốn như vậy, và ra lệnh phải tìm đủ mọi cách chữa trị cho người đó sống.
Nhà vua trả lời:
- Chính vì người đó dám lên tiếng phê bình ta, nên ta lại càng phải lo cứu sống người đó. Ta cần một con người can đảm như vậy hơn là những người lúc nào cũng chỉ biết có tung hô vạn tuế.
Chúng ta thường có khuynh hướng thích được khen thưởng hơn là biết lắng nghe những lời thành thật giúp chúng ta thanh luyện khỏi những điều tiêu cực, nhất là khi chúng ta có chút ít quyền hành. Bởi thế, muốn biết rõ về mình nhiều hơn, chúng ta lại càng cần phải có những kẻ can đảm, dám nói cho chúng ta biết những sự thật, điều lầm lỗi của chúng ta, để biết sửa chữa và giúp mình vươn lên.
2. Tiếp đến, Chúa bảo muốn cho lời dạy của mình có sức quyến rũ và thuyết phục được người khác thì phải sống những điều mình dạy trước đã. "Sao anh lại có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra', trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?- Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!"(Lc 6,42)
Trong Tin Mừng chúng ta thấy, khi Chúa muốn dạy điều gì, thì Chúa đã làm trước.
Các việc ở đời cũng vậy.
Cha mẹ muốn con cái siêng năng đạo đức, thì chính cha mẹ hãy siêng năng đạo đức trước. "Chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người" thì không được.
Nói tới đây tôi nhớ tới một câu truyện có thật. Truyện thế này:
Năm 16 tuổi, Albert Einstein thường thích làm bạn với những đứa trẻ chỉ thích ham chơi chứ không thích học hành. Vì thế mà việc học hành của cậu ngày càng kém, thậm chí nhiều lần còn phải thi lại.
Một buổi sáng chủ nhật nọ, Einstein chuẩn bị cần câu để đi câu với bọn trẻ đó thì bị bố ngăn lại và nói:
- Con trai, suốt ngày bố thấy con chỉ biết ham chơi, lại còn vài môn phải thi lại. Bố mẹ rất lo cho tương lai của con.
Einstein thản nhiên đáp lại bố:
- Chẳng có gì đáng lo cả bố ạ. Bố thấy đấy, nhiều đứa cũng phải thi lại, đâu phải vì chúng suốt ngày đi chơi?
Bố ân cần nói với Einstein:
- Con trai, con không được nghĩ như thế. Bố kể cho con nghe một câu chuyện ngụ ngôn nhé. Có hai chú mèo nhỏ chơi đùa cạnh ống khói. Vì không cẩn thận nên cả hai đều rơi xuống ống khói, khó khăn lắm chúng mới bò ra ngoài được. Hai chú mèo nhìn nhau, một chú mèo mặt nhem nhuốc bụi khói, còn chú mèo kia thì rất sạch sẽ. Chú mèo sạch sẽ nhìn chú mèo mặt dính đầy khói, tưởng rằng mặt mình cũng bẩn nên vội vàng chạy đi rửa mặt. Còn chú mèo mặt dínhđầy bụi kia tưởng mặt mình sạch nên chạy đến chỗ khác chơi. Những con vật khác nhìn thấy nó đều bỏ chạy tán loạn, tưởng rằng nhìn thấy yêu quái. Con trai, chúng ta không nên coi người khác là chiếc gương của mình, chỉ có mình mới là chiếc gương cho chính mình thôi.
Sau khi nghe bố kể câu chuyện, Einstein xấu hổ đặt cần câu xuống, quay về phòng học.
Vâng! Muốn cho lời nói có uy, có nghĩa là có sức thuyết phục thì ta phải sống trước.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp cho mỗi người biết sống những gì Chúa muốn, để chúng ta có thể nên những chứng nhân cho Ngài giữa cuộc sống hôm nay. Amen.
20. Ánh sáng thế gian
Ngày 11/09/2003 Hoa Kỳ và cả thế giới đã tưởng niệm các nạn nhân của cuộc khủng bố ngày 11/09/2001. Thế giới không những tưởng nhớ những người đã chết, thế giới còn nhắc nhở để ý thức về những sức mạnh mù quáng của sự dữ đang lôi kéo con người vào vòng tội ác. Những kẻ gây ra đau thương tang tóc cho người đồng loại mà vẫn nghĩ rằng mình đang làm điều tốt. Nhiều người đang bị lôi kéo vào vòng tội ác mà không hay biết.
Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian. Ngài đến để cứu thoát con người khỏi tăm tối của sự dữ. Ngài nói với loài người rằng họ đang bị sức mạnh mù quáng của sự dữ lôi kéo và trói buộc. Ngài đến để mang lại cho chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận thân phận tội lỗi của mình chúng ta mới thấy được sự cần thiết để được giải thoát.
Chúa Giêsu đã khẳng định: "Chỉ có sự thật mới giải thoát các ngươi". Sự thật ở đây trước hết là sự thật về thân phận yếu hèn tội lỗi của chúng ta. Thật thế, chỉ khi nào biết mình đang đi trong bóng tối chúng ta mới cảm thấy cần có ánh sáng. Trái lại bao lâu vẫn không nhận ra thân phận mù lòa của mình, bấy lâu chúng ta sẽ chẳng bao giờ cảm thấy cần có ánh sáng.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh của người mù dắt người mù để nói lên tình trạng khốn khổ của con người. Ðể có thể là người dẫn đường, chúng ta phải là người thấy đường đã. Thấy đường ở đây không hẳn là nắm bắt hay chiếm hữu chân lý. Thấy đường thiết yếu là thấy được thân phận tội lỗi của mình và từ đó có một thái độ khiêm tốn hơn trong quan hệ với người khác. Chính vì thế mà Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy lấy cái xà trong con mắt mình trước đã rồi mới thấy rõ hầu lấy cái rác trong con mắt người anh em.
Tựu trung, chúng ta được mời gọi để sám hối và sống khiêm tốn hơn. Thế giới đang bị những sức mạnh mù quáng của sự dữ lôi kéo, xã hội trong đó chúng ta đang sống cũng đang bị nhận chìm trong tăm tối của sự dữ. Sự dữ đúc chế những danh từ hoa mỹ, sự dữ được cơ chế hóa, sự dữ được luật pháp che chở. Sống trong bóng tối con người chẳng còn phân biệt được ánh sáng và bóng tối. Ði trong tăm tối của sự dữ con người chẳng còn biết thế nào là thiện thế nào là ác, và cuối cùng ý thức về tội lỗi cũng bị đánh mất.
Lời đầu tiên của Chúa Giêsu khi khởi đầu sứ vụ công khai là kêu gọi con người sám hối và tin vào Tin Mừng. Có nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người mới có thể nhận ra được sự cần thiết của ơn cứu rỗi. Ðây chính là điều Giáo Hội nhắc nhở con cái mình mỗi ngày. Ở đầu mỗi thánh lễ chúng ta đấm ngực và xưng thú tội lỗi của mình, làm như thế chúng ta không những nói lên thân phận tội lỗi của mình mà còn mời gọi mọi người ý thức về những sức mạnh của sự dữ đang hoành hành trên thế giới. Sám hối là tâm tình cơ bản nhất của người tín hữu Kitô.
Nguyện xin Chúa cho đôi mắt tâm hồn chúng ta luôn được sáng suốt để nhìn thẳng vào nội tâm sâu kín của chúng ta, hầu nhận ra những bất toàn sai sót của mình. Ý thức về tội lỗi của mình chúng ta mới nhận ra được những sức mạnh của sự dữ đang bủa vây chung quanh chúng ta, và, với sự trợ giúp của ơn Chúa chúng ta mới đủ sức để chiến đấu chống lại sự dữ.
21. Cái rác – cái xà--Lm. Vinc. Đỗ Minh Thăng
Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng một hôm, con tê giác đang đi uống nước thì nghe tiếng một con chích choè đang hót trên cành cây. Nó bực mình thét to: "Im đi, cái con chim xấu xa. Mầy không thấy tao đang uống nước sao?"
Con chích choè không chịu thua, cãi lại: "Bộ ông đẹp đẽ lắm sao? Ông thử soi mặt ông trên mặt nước rồi sẽ biết".
Con tê giác nghĩ trong bụng: "Soi thì soi. Ai mà không biết ta là người hoàn hảo". Nhưng vừa nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta bỗng giật mình vì khám phá một chiếc sừng quái dị nằm ngay trên mũi mình. Biết mình còn xấu xí hơn tất cả các con vật có sừng khác, nó xấu hổ quá.
Anh chị em thân mến,
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường thấy cái rác trong mắt người khác mà không thấy cái xà trong mắt mình; thấy lỗi nho nhỏ của người khác mà không thấy lỗi lầm to lớn nơi bản thân mình; phê phán người khác mà không tự phê phán mình; đó là thứ mù quáng và giả hình mà Chúa Giêsu nhiều lần cảnh cáo bởi vì ai cũng dễ mắc phải.
Chúa Giêsu không cấm ta góp ý, sửa lỗi cho người khác, nhưng Ngài dặn ta trước hết hãy lấy xà khỏi mắt mình, để thấy rõ mà lấy rác nơi mắt anh em. Khi chúng ta lấy cái xà ra khỏi mắt mình rồi thì chúng ta sẽ có cái nhìn bao dung hơn với tha nhân.
Cái nhìn của đôi mắt không có cái xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin yêu, hy vọng.
Lạy Chúa, "Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con". Biết Chúa để thấy lòng quảng đại yêu thương vô bờ của Chúa; biết con để ý thức về sự yếu đuối, bất toàn của con, nhờ đó con sẽ dễ dàng rộng lượng với người khác như Chúa đã đối xử cách đại lượng với con. Amen.
22. Mù không thể dắt mù--Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP
Trong cuộc sống, vẫn còn đó rất nhiều người dốt, nhưng lại được mua chuộc bằng tiền, bằng quyền để lãnh đạo và dạy dỗ người khác. Tệ hơn nữa là những kẻ đạo đức giả tạo lại oang oang nói về lòng nhân từ hay tha thứ một cách “ngọt như đường mía lau”!
Không những thế, những kẻ trá hình này lại còn lôi kéo nhiều người khác đi vào con đường mù quáng, sai trái của mình...
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu răn dạy các môn đệ và những ai bước theo Ngài trong vai trò chứng nhân, phải khôn ngoan, sáng suốt, thông hiểu về Giáo Lý và có đời sống gương mẫu, có đủ tư cách phù hợp với vai trò của mình và nhất là phải giữ vững bản chất của một người thuộc về Chúa để nên giống Chúa.
Nếu người môn đệ mà mù mờ về Giáo Lý, hiểu sai ý Thiên Chúa và sống một cuộc đời phản chứng, gương mù và biến chất, thì sẽ gây nên những hậu quả khôn lường. Bóng tối thêm vào bóng tối vẫn là bóng tối chứ không tạo ra được tia sáng nào. Mù mà dắt mù ắt sẽ rơi xuống hố.
Như vậy, muốn thành công, người môn đệ phải có sự hài hòa giữa đời sống nội tâm và hành động. Nói khác đi, cần phải làm gương trước khi khuyên bảo người khác... để lời nói và hành động của mình trở nên “nhất ngôn, nhất hành”.
Lạy Chúa Giêsu, xin chiếu giãi Ánh Sáng là Chân Lý của Chúa vào trong tâm hồn chúng con. Xin cũng cho chúng con luôn thuộc về Ánh Sáng và phải có trách nhiệm chiếu giãi Ánh Sáng đó cho mọi người. Amen.
23. Hãy tự biết mình
"Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán." (Lc 6,32)
Chỉ là thụ tạo mà muốn làm Thượng đế, đó là ảo tưởng muôn đời của con người. Ngay từ đầu lịch sử nhân loại, Ông Bà nguyên tổ của loài người đã trải qua cơn cám dỗ ấy. Ma quỉ nói với Ông Bà: Các ngươi hãy ăn trái cấm, các ngươi sẽ trở thành Thiên Chúa, nghĩa là các ngươi hãy chối bỏ Thiên Chúa và tự tôn mình thành Thiên Chúa để sống mà không cần có Thiên Chúa. Ðó là cơn cám dỗ triền miên của con người: sống không cần Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, để tự tạo cho mình một bậc thang giá trị và trở thành thẩm phán tối cao cho mọi hành động của mình cũng như của người khác.
Những lời Chúa nói hôm nay không đơn thuần chỉ là bài học có tính cách luân lý. Chúa Giêsu không chỉ khuyên chúng ta không nên xét đoán người khác. Ngài còn mời gọi chúng ta tự đặt mình vào mối tương quan với Thiên Chúa: Chỉ có Thiên Chúa, Đấng thấu suốt lòng con người mới có thể xét xử con người. Nhìn nhận quyền xét xử của Thiên Chúa, con người cũng sẽ nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. “Hãy lấy cái dằm ra khỏi mắt ngươi trước đã”, nghĩa là hãy nhận ra thân phận bất toàn của mình trước.
Có nhận ra mối tương quan đích thực với Thiên Chúa, con người mới thấy được tương quan của mình với tha nhân. Thật thế, chối bỏ và cắt đứt mối tương quan với Thiên Chúa, con người sẽ đi đến chỗ chối bỏ tha nhân. Ngược lại, nhận ra Thiên Chúa là Chủ tể, con người cũng sẽ nhận ra thân phận thụ tạo yếu hèn của mình và tình liên đới với tha nhân.
Ngày xưa, nhà hiền triết Hy Lạp là Socrate đã đề ra khẩu hiệu như bài học vỡ lòng cho các môn sinh của mình: “Hỡi người, hãy tự biết mình”. Chúa Giêsu của chúng ta cũng đề cao sự sám hối: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. “Hãy sám hối” trước tiên là nhận ra thân phận bất toàn đầy dẫy những lỗi lầm thiếu xót của mình, để rồi từ đó con người sẽ biết sống cảm thông, kiên nhẫn, bao dung và tha thứ đối với người khác hơn. Sống như thế, con người mới đạt được cùng đích của mình là trở nên giống Thiên Chúa, chứ không phải trở thành Thiên Chúa để gạt bỏ chính Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Lịch sử đời sống tu trì ở những thế kỷ đầu của Kitô Giáo có ghi lại một giai thoại như sau:
Tại một tu viện nọ, có một tu sĩ bị bắt quả tang phạm một lỗi nặng. Vì ích chung của cộng đoàn, các tu sĩ ở chung nhà liền mở một phiên xử và mời vị Tu Viện Trưởng đến tham dự, nhưng ngài đã từ chối. Một vài người đại diện các tu sĩ đến nài nỉ:
- Xin cha đến giúp chúng con, vì chỉ có cha mới giúp cho chúng con biết phải phán xét và sửa trị người anh em này như thế nào.
Vì thế vị Tu Viện Trưởng nhận lời đến dự phiên xử.
Khi ngài đến thì mọi người ngạc nhiên, vì thấy ngài mang trên vai một cái giỏ đầy cát. Những hạt cát chui theo một lỗ hổng chảy dài trên lưng của ngài. Thấy mọi người ngạc nhiên, ngài giải thích như sau:
- Anh em hẳn đã thấy những hạt cát rơi lã trã trên lưng của tôi, nhưng tôi thì không hề nhìn thấy. Tội lỗi của tôi cũng giống như những hạt cát này, nó chảy tràn lan trong tôi mà tôi không nhìn thấy. Tội lỗi đầy tràn mà tôi không thấy, thì làm sao tôi dám đoán xét người khác.
24. Suy niệm của Lm. Alfonso
Tin Mừng Lc 6: 39-45 Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ rõ một thực tế rất thông thường, con người ta dễ thấy cái rác nhỏ xíu trong mắt người khác hơn là thấy cái xà to tướng nằm ngay trong mắt mình.
Suy niệm:
Trong cuộc sống, khi có dịp tụ lại với nhau ở nhà hay hàng quán, ngồi bên ly nước chén trà, người ta dễ kiếm câu chuyện làm quà. Và trong những cuộc chuyện vãn ấy, người ta hay khoe những điều tốt của bản thân, còn với những cái dở hoặc khuyết điểm của mình thì cố giấu cho bằng được. Thế nhưng, người ta lại thích bơi móc nhau, nhất là nói xấu người vắng mặt. Những khuynh hướng đoán xét vốn có nơi mỗi người chúng ta, lại lấy cớ là nhận định, góp ý, là hệ quả của một thái độ ganh tị, ghen tức, muốn hơn thua.
Vì thế, Bài đọc I trích sách Huấn Ca hôm nay giúp chúng ta học được những giáo huấn khôn ngoan. Khi chưa tìm hiểu kỹ càng, chúng ta sẽ dễ có những thiên kiến sai lệch về một người hay một việc nào đó. Cho nên chúng ta cần lắng nghe, đừng kết luận điều gì quá vội. Triết gia Socrate nói rằng: “Trời ban cho chúng ta có hai lỗ tai, hai con mắt, nhưng có một cái miệng và một cái lưỡi để chúng ta cần nhìn rõ hơn, nghe nhiều hơn và nói ít hơn”. Nếu chúng ta không thể nói tốt về người khác, thì tốt hơn hết, chúng ta hãy thinh lặng, hãy xin Chúa biến đổi anh chị em và biến đổi cả chúng ta nữa. Và để trước tiên chính chúng ta được biến đổi, chúng ta cần được Lời Chúa khai sáng.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ rõ một thực tế rất thông thường, con người ta dễ thấy cái rác nhỏ xíu trong mắt người khác hơn là thấy cái xà to tướng nằm ngay trong mắt mình. Chúng ta dễ nhận ra sai sót của người khác hơn là nhận ra khuyết điểm của bản thân. Đó là do chúng ta dễ dãi với bản thân nhưng lại khắt khe với người khác. Đây là căn bệnh mù quáng trong nhận thức, sẽ dẫn đến cái nhìn thiển cận.
Cho nên, nếu không lo huấn luyện lương tâm, nhận thức thì chúng ta sẽ như người mù vậy, và “Mù mà dắt mù thì cả hai sẽ rơi xuống hố”, đó là chuyện tất nhiên thôi. Nhưng nếu mắt không mù mà lại bị những chướng ngại vật trong mắt làm chúng ta có cái nhìn méo mó, sai lệch thì cần “Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em”. Làm sao chúng ta có thể dẫn đường cho người khác, nếu chúng ta chưa thông suốt.
Chuyện nồi cơm của Khổng tử:
Thời Đông Chu, chiến tranh liên miên, dân chúng phiêu bạt điêu linh. Thầy trò Khổng Tử đi du thuyết từ nước Lỗ sang nước Tề cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi nhưng không một ai kêu than, thoái chí. Trong đám đồ đệ có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai học trò thân tín nhất. Khổng Tử phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc nấu cơm.
Sau khi Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, Nhan Hồi nấu cơm ở nhà bếp, Khổng Tử đang nằm đọc sách đối diện với nhà bếp, chỉ cách một cái sân nhỏ. Đang đọc sách bỗng nghe một tiếng “cộp” từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử nhìn xuống, thấy Nhan Hồi từ từ mở nắp nồi, lấy đũa xới cơm cho vào tay và nắm lại từng nắm nhỏ. Xong, Nhan Hồi đậy nắp lại, liếc mắt nhìn chung quanh rồi từ từ đưa cơm lên miệng. Hành động của Nhan Hồi không lọt qua đôi mắt của vị thầy tôn kính. Khổng Tử thở dài: “Chao ôi! Học trò ta tin tưởng nhất mà lại đốn mạt như thế này ư? Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là tan thành mây khói!” Sau đó, Tử Lộ cùng các môn sinh khác đem rau về. Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên nhà trên; tất cả các môn sinh chắp tay mời Khổng Tử dùng cơm. Khổng Tử ngồi dậy và nói rằng: “Các con ơi! Chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề đường xa vạn dặm, trong hoàn cảnh đói khổ này mà các con vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, yêu thương đùm bọc nhau. Hôm nay, bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm thầy chạnh lòng nhớ đến tổ tiên và quê hương nước Lỗ. Cho nên thầy muốn xới một chén cơm để cúng cha mẹ thầy, nhưng không biết nồi cơm này có sạch hay không?” Bấy giờ Nhan Hồi liền chắp tay thưa: “Dạ thưa thầy, nồi cơm này không được sạch.” Rồi Nhan Hồi thưa: “Khi cơm chín con mở nắp nồi ra xới, chẳng may một cơn gió tạt ngang, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Song, con lại nghĩ: cơm thì ít, anh em lại đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô tình làm mất một phần ăn. Vì thế, con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy và anh em. Vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi, bây giờ, con xin phép không ăn cơm nữa. Và nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ! Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử ngửa mặt lên than rằng: “Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà chưa chắc đúng sự thật! Suýt tí nữa là Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ!”
Chúng ta được chỉ bảo dùng Tin Mừng giúp mở mắt Kitô hữu để nhận ra những giá trị đích thực của cuộc sống. Nếu không để cho Tin mừng soi dẫn, người môn đệ sẽ mãi mãi tiếp tục số kiếp mù lòa tăm tối. Nếu không có ánh sáng Tin Mừng soi chiếu, chúng ta sẽ không có lòng nhân từ như Cha trên trời. Mà chính sức mạnh của lòng nhân từ mới có sức biến đổi lòng con người với nhau. Vậy chúng ta hãy tập cho mình có cái nhìn tốt về người khác, chúng ta mới suy nghĩ tốt và rồi mới nói tốt về người khác.
Lạy Chúa, với lời cầu nguyện của thánh Augustinô: "Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con" cũng là lời cầu nguyện của mỗi người chúng con. Xin cho con nhận ra lòng quảng đại yêu thương vô bờ của Chúa; và biết ý thức về sự yếu đuối của mình, nhờ đó chúng con cũng biết rộng lượng trong cách đối xử với anh chị em như vậy. Amen.
25. Cái rác, cái xà
Sao anh lại có thể nói với người anh em: này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong mắt anh ra, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong mắt người anh em! (Lc. 6, 42)
Chúa có lý, chắc chắn đúng! thực vậy làm sao người mù lại có thể dắt người mù được! nhất là không thấy cái xà trong mắt mình thì làm sao thấy cái rác trong mắt người lân cận được. Kẻ đó quá bệnh tật, không chỉ bệnh mù mắt mà còn mù trí khôn, không thấy và cũng không biết suy nghĩ phán đoán.
Biết bao nhiêu kẻ mù như thế trên con đường nhân trần này! có thể trong đó có tôi! biết bao nhiêu người tưởng mình có cái nhìn sâu sắc thiên bẩm, nhưng chỉ khi nhìn người khác thôi, còn mình thì lại mù. Tất cả chúng ta ít nhiều đều mắc tật đó! nếu chúng ta có cái nhìn khách quan, chúng ta sẽ run sợ vào chính mình và nhận ra tại sao mình lại sùng bái cái xà trong mắt mình mà lại không tôn trọng người khác chỉ có cái rác thôi. Lúc đó chúng ta mới lo sửa mình.
Khi Đức Kitô nói về những người biệt phái và về những tiến sĩ luật: “Hãy làm những điều họ nói và đừng làm như họ sống, họ đặt những gánh nặng cho người khác, còn họ không vác”. Chúng ta có thể chắc rằng họ phải nổi giận bất bình với lời tố cáo như thế vì họ không cho họ là giả hình. Chúng ta có tốt hơn họ chăng?
Chúng ta tố giác anh chị em mình, chê trách họ đủ điều sai trái, chúng ta thấy họ nhiều thiếu xót không thể tha thứ được, không thể khoan hồng, không thể thông cảm và không cần tử tế với họ. Chúng ta sẽ giật mình ghê sợ nếu họ cũng kết án chúng ta như chúng ta kết án họ, nếu họ bảo chúng ta biết rõ những lỗi lầm của chúng ta như chúng ta khám phá thấy nơi họ.
Chúng ta mù lại thích tôn mình hướng dẫn người mù khác!
Trái lại, người khác phải là cái gương giúp ta soi thấy ta, nếu không thì không thể tha thứ cho ta được. Chúng ta thích than trách thảm thiết những nhỏ nhen người ta làm cho ta phải chịu, vậy ta hãy tự hỏi mình xem ta có làm đúng như họ không? Cái xà chống cái xà, cái rác chọi cái rác. Hãy nhớ: “Ác giả ác báo, tích thiện giả thiện”.
26. Cẩn thận về việc xét đoán
"Xem quả thì biết cây" (Lc 6,44)
Sợi chỉ đỏ:
Cuối bài Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu khuyến cáo đừng xét đoán. Lời Chúa hôm nay nói tiếp về đề tài xét đoán:
- Trước khi xét đoán người khác thì phải tự xét đoán bản thân (Bài Tin Mừng)
- Phải xét đoán cẩn thận dựa trên nguyên tắc nhân quả, vì "xem quả thì biết cây" (Bài đọc I và Bài Tin Mừng)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Bắt đầu mỗi Thánh lễ, chúng ta đều được kêu gọi hãy kiểm điểm lương tâm và nhận biết tội lỗi. Không phải nhận biết tội lỗi của người khác mà tội lỗi của chính mình; nhận biết như thế rồi không phải để trách người khác mà để tự trách mình và nhận lãnh trách nhiệm của mình mà sửa đổi.
Giờ đây mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lương tâm và thành tâm sám hối.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng con thường làm ngơ trước khuyết điểm của mình, nhưng lại khắt khe với lỗi lầm của người khác.
- Chúng con hay phê phán và lên án người khác.
- Chúng con thường sống giả hình.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Hc 27,4-7)
Sách Huấn ca gom góp những giáo huấn giúp sống khôn ngoan. Trong trích đoạn hôm nay, giáo huấn nhắm đến lời nói:
- Lời nói bộc lộ cái dở của một con người
- Nghe người ta nói, ta mới biết rõ ai rởm ai hay.
- Chớ vội khen hay chê khi chưa nghe người ta nói.
2. Đáp ca (Tv 91)
Người công chính thật được nhìn thấy qua cuộc sống tốt lành của mình: họ như cây dừa tươi tốt được trồng nơi Nhà Chúa, già cỗi rồi vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn.
3. Tin Mừng (Lc 6,39-45)
Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy cho môn đệ mình 3 điều:
- Dụ ngôn người hướng dẫn mù và cái xà trong mắt: Nếu người môn đệ Chúa mà mù quáng thì sẽ dẫn người khác đi vào sai lầm. Bởi thế, trước khi sửa lỗi người khác, mỗi người hãy tự sửa lỗi của mình.
- Dụ ngôn Cây và Trái (cc 43-44): Chỉ có thể tránh nguy hiểm giả hình nếu như hành động bề ngoài của ta hợp với bên trong của ta. Đối với biệt phái và luật sĩ, một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với Luật. Chúa Giêsu sâu sắc hơn: một hành động là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt, một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.
- Dụ ngôn kho tàng trong lòng (c 45): Chúa Giêsu so sánh cõi lòng con người như một kho tàng. Nó là nơi xuất phát những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Từ kho tàng tốt thì sẽ phát ra những lời nói việc làm tốt. Bởi thế người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt. Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì? Đó là những giáo huấn của Chúa Giêsu.
4. Bài đọc II (1 Cr 15,54-58) (Chủ đề phụ)
Đây là đoạn cuối của chương 15 thư I Côrintô bàn về vấn đề kẻ chết sống lại. Trong đoạn này, Thánh Phaolô rút ra những hệ luận từ tín điều sống lại:
- Cuối cùng Tử thần cũng phải bị đánh bại.
- Tín hữu hãy kiên tâm bền chí, tích cực tham gia vào công việc của Chúa, bởi xác tín rằng trong Chúa thì mọi khó nhọc sẽ không trở nên vô ích.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Bàn về lời nói
Ben Sira, tác giả sách Huấn Ca, cho rằng lời nói có giá trị bộc lộ sự thật: dựa vào lời nói của một người, ta có thể biết người ấy thực ra là dở hoặc hay. Hơn nữa, lời nói của một người còn giúp ta hiểu được lòng của người đó.
Nhưng Chúa Giêsu thì dạy khác: điều quan trọng không phải là nói, mà là làm. Ngài đã trách các kinh sư do thái rằng "Họ nói mà không làm" (Mt 23,3).
Không phải giáo huấn của Cựu Ước và Tân Ước nghịch nhau. "Lời nói" mà Ben Sira đề cập là lời thốt ra cách hồn nhiên, chân thành, chưa bị ngụy trang hay uốn nắn bởi những toan tính quanh co.
Ngày nay người ta phát triển những kỹ thuật để nghiên cứu và khảo sát lời nói: phân tích từng chữ từng câu để khám phá ý nghĩa thật. Các nhà phân tâm còn tìm cách cho bệnh nhân nói để chữa trị tâm bệnh của họ.
Lời khuyên của Ben Sira có lẽ không hợp nếu ta dùng nó để xét đoán lời nói của người khác, nhưng rất hữu ích nếu ta dùng để tự xét đoán bản thân:
- Tôi thường nói những chuyện gì? Nói nhiều về một vấn đề chứng tỏ tôi quan tâm nhiều hay bị ám ảnh bởi vấn đề đó.
- Tôi thường phê bình chỉ trích hay khích lệ, ủi an? Điều này giúp tôi biết tôi là người hẹp hòi hay rộng lượng; là người gây chia rẻ xáo trộn hay là người kiến tạo bình an.
- Khi nói về bản thân, giọng điệu của tôi thế nào? Điều này cho thấy tôi kiêu căng hay khiêm tốn.
* 2. Sửa mình trước khi sửa người
Chúa Giêsu chỉ rõ một thực tế rất thông thường: Thấy cái rác nhỏ xíu trong mắt người khác thì dễ hơn thấy cái xà to tướng nằm ngay trong mắt mình. Thấy khuyết điểm của người khác dễ hơn nhận ra khuyết điểm của mình.
Lý do là mình thường dễ dãi với bản thân và khắt khe với người khác. Đó là khuynh hướng tự nhiên. Nhưng đó là một căn bệnh: bệnh mù quáng, bệnh lệch lạc.
Ta có thể áp dụng giáo huấn của Chúa Giêsu vào hai trường hợp:
- Áp dụng cho chính bản thân: hãy cẩn thận đừng phê phán người khác, vì chưa chắc gì mình đã tốt hơn ai.
- Khi lãnh trách nhiệm lãnh đạo: vì trách nhiệm mà nhiều khi ta phải sửa lỗi người khác. Để cho lời nói của ta không là giả hình, để cho lời sửa dạy của ta có sức thuyết phục, ta hãy lo sửa đổi bản thân trước, nhờ đó ta trở thành một tấm gương, và tấm gương đó hỗ trợ khiến cho lời sửa đổi của ta đáng được người khác nghe theo.
* 3. Cây đời xanh tươi
Triệu Quát là con trai cha Triệu Xa - một danh tướng thời Chiến Quốc - thời trai trẻ từng đọc rất nhiều binh thư. Là một người khá thông minh, thích nói về quân sự, người khác không nói lại được, cha anh là Triệu Xa đôi khi cũng không tranh luận nổi với anh. Do đó, anh tỏ ra kiêu ngạo, tự cho mình là giỏi nhất thiên hạ.
Tuy nhiên Triệu Xa lại rất lo lắng cho con mình, ông cho rằng Triệu Quát chẳng qua chỉ nói phét. Ông còn nói: "Sau này nước Triệu không nên dùng nó, kẻo nó sẽ làm cho quân Triệu đại bại".
Quả thật, khi quân Tần sang xâm lược, vua Triệu quyết định cử Triệu Quát thay thế Liêm Pha. Lạn Tương Như đang bệnh cũng phản đối: "Triệu Quát chẳng qua chỉ là đọc được một số sách binh thư của cha mình, căn bản không biết vận dụng thế nào, không thể cử hắn làm tướng". Mẹ của Triệu Quát cũng đến gặp vua Triệu nói rằng con mình không thể làm đại tướng.
Nhưng vua Triệu không nghe, vẫn cử Triệu Quát ra tiền tuyến nghênh địch, hậu quả là 40 vạn quân Triệu chỉ trong chốc lát đã bị tiêu diệt hoàn toàn, bản thân Triệu Quát cũng tử trận thê thảm.
***
"Mù mà lại dẫn mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố" (Lc 6, 39). Làm nhà lãnh đạo hay người hướng dẫn phải có đủ tài đức; phải sáng suốt trong tư tưởng, khôn ngoan trong lời nói, và liêm chính trong việc làm, để khỏi dẫn đưa người khác cũng như chính mình vào con đường lầm lạc hay diệt vong. Những kẻ khoác lác, dối trá, giả hình có thể nhất thời lừa bịp được một số người, nhưng sớm muộn cũng sẽ bị bại lộ và sẽ phải chuốc lấy hậu quả khó lường: "Cây kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra".
Cha mẹ của Triệu Quát vì sống cùng anh ta, nên thấu hiểu lời nói và việc làm của con mình không thể đảm nhận việc lớn. Nhưng vua Triệu không quan tâm đến câu: "Lời nói phải đi đôi với việc làm", cứ cho rằng Triệu Quát là bậc kỳ tài trong thiên hạ và trao cho việc lớn. Kết quả không chỉ Triệu Quát bị hại mà còn liên quan đến tính mạng của 40 vạn quân. Mù mà dẫn mù thì việc sa xuống hố chỉ là sớm hay muộn mà thôi.
"Sao anh thấy cái rác trong mắt anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới" (Lc 6,41). Người ta thường rất hà tiện trong lời khen ngợi, nhưng lại quảng đại trong tiếng chê bai. Có thể nói một trong những tội con người dễ phạm nhất: đó là hay xét đoán, nghĩ xấu, nghĩ sai cho người khác.
Để có đôi mắt trong sáng, chúng ta không nên nhìn vào đôi mắt kẻ khác để thấy "cái rác" trong đó, hay "bới lông tìm vết" để xét đoán, chỉ trích họ, nhưng hãy nhìn vào chính đôi mắt tâm hồn mình, để thấy "cái đà" của kiêu căng tự mãn, của phô trương giả hình, để thanh lọc cho nên trong sáng. Vì người xưa có câu: "Việc người thì sáng, việc mình thì quáng", nên việc nhìn lại chính mình để tự kiểm thảo luôn là điều cần thiết của mỗi tín hữu Ki tô, nhất là những vị lãnh đạo, hướng dẫn các tâm hồn. Triết gia Chilon cũng cho chúng ta một luật sống bất hủ: "Hãy tự biết mình". Thánh Augúttinô thường cầu nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con".
Biết mình thường hèn yếu lỗi lầm để đừng bao giờ khắt khe lên án anh em.
Biết mình hay che đậy giả hình để cảm thông dung thứ cho kẻ khác.
Biết mình thích phô trương háo thắng để đừng phê phán nhạo báng một ai.
Một tác giả kia đã nhận định: Những kẻ may mắn thường là những người có tâm hồn lạc quan vui vẻ, họ có thói quen nhìn vào mặt tích cực của sự việc và vào điều tốt của kẻ khác. Trái lại, những kẻ bất hạnh thường có thái độ tiêu cực, thù hằn, họ thích nhìn vào điều tồi tệ nơi kẻ khác, họ rất ham chỉ trích; và ưa "vạch lá tìm sâu".
Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói trong đoạn Tin Mừng hôm nay: "Cây tốt thì sinh trái rốt, cây xấu thì sinh trái xấu" (Lc 6,43). Lời nói việc làm của người tín hữu Ki tô chỉ có thể sinh hoa kết trái tốt tươi, nếu siêng năng suy niệm và thực hành Lời Chúa. Đời sống của chúng ta chỉ có thể "phát xuất ra sự lành" nếu chúng ta được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa vì Lời Chúa là lời yêu thương và Mình Chúa là Bí tích tình yêu. Những ai sống trong vị kỷ, xét đoán, chỉ trích và thù hằn, kẻ ấy sẽ chết trong bóng tối gian ác của chính mình.
***
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con khô héo trong thái độ chỉ trích, trong lối nhìn tiêu cực, trong cách nghĩ đen tối, nhưng xin cho cây đời chúng con được xanh tươi để sinh hoa kế trái của an bình, hạnh phúc và yêu thương. Amen. (Thiên Phúc)
* 4. Phải để ý đến lầm lỗi của chính mình
Một thầy dòng trẻ tuổi kia phạm một lỗi nặng. Lập tức các thầy dòng lớn tuổi họp lại để lên án anh ta. Tuy nhiên cần phải có mặt của Thầy Bề Trên thì phiên họp mới tiến hành được. Vì thế họ phái người đi mời Bề Trên: "Xin Bề trên đến mau, cộng đoàn đang chờ Thầy". Thầy Bề Trên đứng dậy, lấy một chiếc thúng có nhiều lỗ thủng. Thầy đổ đầy cát vào thúng, rồi mang nó sau lưng đi đến phòng họp. Dĩ nhiên cát rơi đầy dọc đường. Các Thầy già hỏi Bề Trên làm việc đó vì ý gì thế. Và Thầy Bề trên trả lời: "Tội lỗi tôi rơi đầy sau lưng tôi. Tôi đi đến đâu cũng để lại một dãy tội phía sau. Chỉ có điều là tôi không thấy chúng. Thế mà hôm nay anh em lại bảo tôi ngồi tòa kết tội một người anh em của tôi sao!" Nghe thế, các thầy già xấu hổ và bỏ ý định lên án ông thầy trẻ.
Ai trong chúng ta cũng có thể trở thành những chuyên gia tìm ra tội người khác và phê phán họ. Nhưng những kẻ phê phán không phải là những người cải tạo thế giới. Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy lấy cái xà trong mắt mình ra trước, rồi mới tính đến chuyện lấy cái rác khỏi mắt anh em. Chúng ta phải lo dọn dẹp nhà mình cho ngăn nắp trước, rồi mới bảo người khác dọn dẹp nhà họ. Nếu không làm như thế thì chúng ta không phán đoán anh em vì quan tâm tới họ, mà chỉ vì thù ghét muốn làm hại họ. Ít có việc nào thoả mãn tính ích kỷ của mình cho bằng vạch tội người khác.
Một người dẫn đường chỉ có thể dẫn dắt người khác nếu bản thân người ấy thấy rõ con đường. Một người thầy dạy chỉ có thể chia xẻ cho người khác những kiến thức mà mình đã biết. Nếu không muốn làm một người hướng đạo mù, thì ta phải biết tự phê phán mình.
Chúng ta rất tích cực sửa lỗi người khác vì nghĩ rằng nếu mọi người khác trong cộng đoàn của mình mà biết được lỗi lầm và sửa chữa thì đời sống cộng đoàn sẽ tốt đẹp biết mấy. Nhưng ngược lại chúng ta rất khó chịu khi bị người khác vạch lỗi của chúng ta ra. Phải chăng đó là biểu hiện của tính ích kỷ?
Một người kia có thói quen hút thuốc và có nuôi một con vẹt. Một ngày kia anh thấy con vẹt cứ ho mãi, anh liền bỏ hút thuốc. Anh còn mời một bác sĩ thú y đến khám xem khói thuốc đã làm hại sức khoẻ con vẹt đến mức nào. Sau khi khám rất kỹ, bác sĩ cho biết con vẹt chẳng bị bệnh gì cả. Sở dĩ nó ho là vì nó bắt chước những cơn ho của chủ nó thôi. Khi đó, người ấy mới khám phá mình bị bệnh ho!
Người đạo đức giả – mà Chúa Giêsu gọi là giả hình – là người chỉ lo sửa lỗi kẻ khác. Người đạo đức thật là người biết tự sửa mình. (FM)
* 5. Cái xà trong con mắt
Không có gì làm ta mù quáng cho bằng để ý đến lỗi lầm của người khác.
Ngày xưa có một con tê giác luôn bị ám ảnh bởi ý tưởng mình là người hoàn hảo. Bởi thế nó tự cho mình có trách nhiệm sửa chữa những khuyết điểm của các con vật khác. Mà theo nó nghĩ, khuyết điểm nghiêm trọng nhất là có sừng trên đầu, cho nên tất cả những con vật có sừng đều không được ở yên với nó.
Thế nhưng nó đâu có biết rằng nó có một cái sừng mọc ngay trên cái mũi xấu xí của nó. Những con vật kia đều thấy rõ điều đó, nhưng chẳng con nào đủ can đảm nói cho nó biết.
Một hôm, con tê giác đang đi uống nước thì nghe tiếng một con chích choè đang hót trên cành cây. Nó bực mình thét to: "Im đi, cái con chim xấu xa. Mầy không thấy tao đang uống nước sao?". Con chích choè không chịu thua, cãi lại: "Bộ ông đẹp đẽ lắm sao? Ông thử soi mặt ông trên mặt nước rồi sẽ biết". Con tê giác nghĩ trong bụng: "Soi thì soi. Ai mà không biết ta là người hoàn hảo". Nhưng vừa nhìn xuống mặt nước, tê giác nhà ta bỗng giật mình vì khám phá một chiếc sừng quái dị nằm ngay trên mũi mình. Biết mình còn xấu xí hơn tất cả các con vật có sừng khác, nó xấu hổ quá: "Ta không thể nhìn mặt các con vật khác được. Ta tiều đời rồi". Kể từ hôm đó, khi đi, nó luôn cúi gằm mặt xuống đất. Nó cũng chẳng dám cho ai thấy mặt cả, cứ trốn trong các lùm cây.
Nhưng làm sao trốn tránh mãi được. Cuối cùng nó chẳng còn lựa chọn nào khác là chấp nhận sự thật. Khi đã có can đảm đối diện với chính mình, nó cũng dần dần can đảm đối diện với các con vật khác. Và các con vật kia rất ngạc nhiên khi gặp lại nó: một anh tê giác khác hẳn trước, thật hiền lành và dễ thương làm sao!
Con tê giác của chúng ta đã thay đổi nhờ biết chấp nhận những con vật khác, không phải theo hình ảnh mà nó muốn, nhưng đúng với hình ảnh thật của chúng, nghĩa là có sừng, có gai và có đủ thứ khuyết điểm khác. Nó cũng thay đổi nhờ biết chấp nhận bản thân mình, không xấu hổ vì chiếc sừng của mình nữa và cũng không lo các con vật kia sẽ nghĩ sao về nó nữa.
Chúa Giêsu bảo chúng ta đừng mất công tìm trái vả nơi bụi gai, hay tìm trái nho nơi bụi rậm. Nơi cây nào thì tìm trái của cây ấy. Bài học này có thể áp dụng cho việc đánh giá về người khác và về chính bản thân mình. (FM)
* 6. Sửa đổi tính tình
Một thầy tu kia có khuynh hướng hay nổi giận. Khuynh hướng này khiến thầy trở thành một gánh nặng không những cho người khác mà còn cho cả bản thân thầy. Thầy tin rằng thầy chẳng tiến bộ chút nào trên đường nhân đức. Thầy nói rằng nhưng người khác khiến thầy phải thụt lùi vì cứ làm phiền thầy và luôn quấy rầy khi thầy cầu nguyện.
Vì thế thầy quyết định rời tu viện để vào rừng ẩn tu. Thầy nghĩ rằng đó là cách khỏi phải bị người khác làm phiền và nhờ đó mà bỏ được tính nóng giận. Thế là thầy dựng một căn lều trong rừng, chẳng mang theo gì khác ngoài một bình nước. Nhưng trong một lần bất cẩn, thầy làm đổ bình nước, nên phải trở về tu viện để lấy bình nước khác. Tuy nhiên khi trở về lều, thầy lại bất cẩn làm đổ nước nữa. Lại chịu khó lần nữa. Nhưng sự việc lại tái diễn lần thứ ba. Khi ấy cơn giận bốc lên ngùn ngụt. Thầy dập chiếc bình vỡ tan tành, rồi ngồi bẹp xuống đất, hoàn toàn thất vọng về bản thân mình.
Khi cơn giận nguội xuống, thầy bắt đầu suy nghĩ và nhận ra rằng cái tính nóng giận của Thầy không phải do nơi những thấy khác mà do chính bản thân mình. Tính xấu đó nằm ngay trong con người thầy, cho nên dù thầy đã vào tận trong rừng sâu, nó vẫn còn đi theo thầy.
Thế là Thầy quyết định trở lại tu viện, xin lỗi các thầy khác và hứa sẽ cố gắng sửa tính nóng.
Chẳng khó gì nhận ra chính chúng ta trong câu chuyện trên. Khi gặp một vấn đề trục trặc, chúng ta hay đổ lỗi cho người khác. Thế nhưng nguyên do những trục trặc của chúng ta nằm ngay nơi bản thân chúng ta chứ không nơi người khác. Vậy chúng ta phải lo sửa mình trước, rồi mới có thể sống hòa thuận với người khác được. (FM)
* 7. Chuyện minh họa
Một nhà đại thần bí Ấn độ nói về chính mình: "Tôi là một nhà cách mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu nguyện với Chúa là: "Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để cải tạo thế giới"
Khi đến tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời qua đi mà không một tâm hồn nào được thay đổi. Tôi đổi lại lời cầu: "Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải tất cả những người tiếp xúc với con.
Bây giờ tôi đã già và gần kết thúc cuộc đời. tôi cảm thấy mình ngu dại biết bao. Lời câu nguyện của tôi bây giờ là: "Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải chính con". Nếu tôi xin điều này ngay từ đầu, tôi đã không lãng phí cuộc đời".
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu mời gọi hết thảy mọi Kitô hữu hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời. Với ước muốn nên trọn lành, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin:
1. Hội thánh luôn cần những vị mục tử tài đức và thánh thiện để hướng dẫn Dân Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho Hội thánh nhiều vị mục tử khôn ngoan / sáng suốt và nhiệt tình trong đời sống mục vụ.
2. Ngày nay / tội ác diệt chủng vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa hoán cải con tim của người thời nay / để họ biết tránh xa tội ác / và nỗ lực làm nhiều việc thiện / nhờ đó nhân loại tránh được biết bao thảm họa đau lòng.
3. Trong cuộc sống thường ngày / có những người lúc nào cũng thích ngồi ghế thẩm phán / xét xử và kết án anh em mình cách vô trách nhiệm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / luôn ý thức thân phận tội lỗi yếu đuối của mình / để đừng bao giờ lên án bất cứ ai.
4. Xét mình là một việc làm hết sức cần thiết trong đời sống đức tin của người Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mỗi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết trung thành xét mình mỗi ngày / để sửa chữa những thiếu sót lỗi lầm.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Chính anh em là muối cho đời và là ánh sáng cho trần gian. Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con luôn giữ vững phẩm chất của người Kitô hữu chân chính. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
27. Suy niệm của NCK
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn là người đang có trách nhiệm hướng tinh thần hoặc tâm linh dẫn một số người, chẳng hạn những người trong gia đình bạn, con cái bạn, hay một tập thể lớn nhỏ nào đó. Bạn có ý thức rằng nếu bạn không đủ khôn ngoan sáng suốt thì bạn sẽ dẫn cả gia đình hay tập thể của bạn vào con đường sai lầm tai hại không? Bạn phải làm gì để tránh được tình trạng đó?
2. Có thể căn cứ vào lời nói của một người để biết người đó tốt hay xấu, ngay thẳng thật thà hay quanh co gian dối không? Kinh nghiệm cho bạn thấy thế nào về những người khéo nói, nói hay, nói giỏi?
3. Tại sao thấy lỗi của người thì dễ, mà thấy lỗi của mình thì khó? Bạn có thấy mình có khuynh hướng xấu ấy không? Làm sao để sửa?
Suy tư gợi ý:
1. Những người dẫn lối chỉ đường cần phải sáng mắt
Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?. Đức Giêsu đưa ra một chân lý liên quan đến việc hướng dẫn, lãnh đạo bằng một minh họa rất cụ thể. Về tinh thần hay tâm linh, người không đủ khôn ngoan sáng suốt về mặt này mà lại dẫn lối chỉ đường cho người khác đi, thì chỉ có nước làm hại người ta thôi. Làm hại người ta về mặt vật chất nhiều khi không tai hại bằng làm hại người ta về mặt tâm linh. Vì thế, những người đang có trách nhiệm hướng đạo về mặt tâm linh cần phải có khả năng đích thực, phải biết nhìn xa trông rộng, và nhất là phải có tình yêu rộng mở, có lòng nhiệt thành, và có một đời sống tốt đẹp phù hợp với những hiểu biết về tâm linh.
Những người hướng dẫn người khác về mặt tinh thần hay tâm linh, không những phải có những kiến thức đúng đắn và lành mạnh về tâm linh, mà còn phải có một đời sống tâm linh thật sự và sâu xa nữa. Thời nay, rất nhiều người hướng dẫn tâm linh quá chú trọng tới những kiến thức (về tâm linh, về đời sống tâm linh, về Thiên Chúa, về đạo đức, về những việc phải làm), nhưng lại quá ít chú trọng tới kinh nghiệm đích thực về tâm linh, không chủ yếu giúp người khác cảm nghiệm về Thiên Chúa, có tương quan thật sự cá nhân với Ngài. Người được họ hướng dẫn nhận thấy họ nói quá nhiều và quá hay so với thực tế họ sống và cảm nghiệm được. Họ quên rằng đời sống nội tâm của người hướng dẫn về tâm linh có sâu xa thì mới có khả năng hấp dẫn và lôi cuốn người khác đi vào con đường ấy. Lời nói hay chỉ có tác động thoảng qua, còn gương sống mới có tác dụng lôi cuốn đích thực. Người hướng dẫn sáng suốt là người giúp người khác sống được, thực hành được, chứ không phải chỉ giúp họ hiểu rõ hay hiểu đúng mà thôi.
2. Căn cứ vào hành động mà biết được con người
Ngày nay, người ta chán ngán nhiều người trong xã hội cũng như trong Giáo Hội nói quá hay mà làm chẳng ra làm sao. Nhiều từ ngữ, nhiều tuyên bố kiểu dao to búa lớn, nghe rất kêu nhưng nội dung rỗng tuếch được lập đi lập lại hằng ngày trên các đài phát thanh, trên tivi, trên các chương trình quảng cáo, trên các bài giảng, bài báo, trong các mẩu đối thoại, những cuộc nói chuyện, v.v. Nhiều người lầm tưởng những người nói hay như vậy, là những người tốt. Nhưng Đức Kitô đã đưa ra cho chúng ta một nguyên tắc rất thực tiễn để biết được ai tốt ai xấu: Cứ xem quả thì biết cây. Để biết một người là tốt hay xấu, phải nhìn vào hành động của họ, chứ không chỉ nghe lời họ nói. Lời nói hay chỉ có thể chứng minh được sự thông minh và lanh lợi, khả năng suy nghĩ sâu xa hay nông cạn của người đó, chứ không nói lên được tính đạo đức, tình yêu thương, sự quảng đại, cao thượng, ngay thẳng, trong sáng, can đảm của họ.
Kinh nghiệm đời thường cho thấy người càng hô hào cổ vũ bằng miệng nhiều, càng tuyên bố nảy lửa, giật gân, hùng hồn, thì càng ít hướng về hành động. Nghĩa là càng nói nhiều thì càng làm ít.
Kitô giáo - cũng như linh hạnh Khôi Bình - là một đường lối sống, là một con đường hành động, chứ không phải là một lý thuyết để học hỏi, để bàn luận, tranh cãi. Đặc tính của Kitô giáo - cũng như linh hạnh Khôi Bình - là nghiêng về hành động, hay hướng về hành động. Lý thuyết tuy rất cần thiết, nhưng chỉ là phương tiện để đi đến hành động. Lý thuyết mà không đi đến hành động chỉ là lý thuyết xuông, vô giá trị. Thế giới được biến đổi nên tốt đẹp hơn là nhờ những con người hướng đến hành động hơn là những con người lý thuyết.
Vì thế, mỗi Kitô hữu, mỗi thành viên Khôi Bình, muốn sống đúng lý tưởng hay bản chất của mình, thì phải tự phấn đấu để trở nên một con người của hành động. Nghĩa là phải biến tất cả những điều mình chủ trương thành thực tế, phải biến Tin Mừng của Chúa Kitô thành hành động cụ thể. Tuyệt đối tránh tình trạng nói mà không làm, hay nói nhiều mà làm ít. Tốt nhất người Kitô hữu hay thành viên Khôi Bình nên nói ít mà làm nhiều. Làm cho bằng được rồi mới nói mới khuyên. Chưa làm được thì chưa nói gì, chưa khuyên ai.
3. Tự sửa mình nhiều hơn sửa người khác
Người chủ trương làm nhiều hơn nói, tự nhiên sẽ quan tâm tới hành động của mình hơn là xét nét hành động của người khác. Họ sẽ tự xét xem hành động của mình còn thiếu sót chỗ nào, cần phải sửa chỗ nào. Họ nhận thấy sửa chính bản thân mình thì dễ thực hiện vì điều ấy tùy thuộc vào chính mình, do mình làm chủ, nên hễ mình muốn sửa là sửa được. Còn sửa lỗi người khác thì khó hơn rất nhiều vì điều ấy không tùy thuộc vào mình, không do mình làm chủ. Vả lại, họ muốn chính mình nên thánh trước đã. Mình đã là thánh rồi thì cảm hóa hay sửa chữa người khác sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Nếu bản thân mình còn đầy khiếm khuyết, thì mình sửa sang ai được? Người ta sẽ bảo Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy mình đã, đừng làm theo kiểu Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
Đức Kitô muốn chúng ta - những Kitô hữu, hay những thành viên Khôi Bình - hãy tự xét lỗi chính bản thân mình đã, chứ đừng vội xét lỗi người khác. Thường thì ta dễ thấy những lầm lỗi của người khác, cho dù lầm lỗi ấy rất nhỏ. Còn những lầm lỗi của chính mình thì mình lại không thấy, cho dù rất lớn. Nếu một tập thể hay một gia đình mà trong đó ai cũng đều có tính chỉ nhìn thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi của chính mình thì đời sống chung sẽ rất khó chịu. Khi chỉ thấy lỗi của người khác, thì mình sẽ dễ dàng trách móc, bực bội, hờn giận người khác, và sẽ thấy thật đau khổ khi phải sống chung với những người ấy.
Đây là một khuynh hướng chung trong tâm lý mọi người. Nếu chúng ta không ý thức và phản tỉnh, hay nói theo từ của Tin Mừng là không tỉnh thức, thì chúng ta khó lòng thoát khỏi tật xấu đó. Rất có thể ta đang có tật đó mà không biết, hoặc tưởng là không có. Chính tôi - người viết bài này - nhận thấy nhiều người chung quanh mình được coi là loại khá phản tỉnh mà cũng mắc phải tật này. Và biết đâu người khác nhìn vào tôi cũng thấy tôi có tật như vậy, đang khi chính tôi lại tưởng mình không hề có tật ấy!? Phải xét mình thường xuyên ta mới tránh được tật xấu này.
Nguyện:
Lạy Cha, xin cho con nhận ra những lầm lỗi của con, chứ không phải thấy lỗi của người khác. Thấy được lầm lỗi của mình thì có lợi hơn thấy lầm lỗi kẻ khác. Nhờ đó mà khiêm nhượng hơn, dễ sống với người khác hơn. Xin cho con đủ thành thật và khiêm nhượng để thấy được lỗi của chính mình. Amen.
28. Chớ xét đoán
Vào thời xa xưa, trước khi con người phát sinh ra các phương tiện phát thanh vá phát hình, tại một làng quê nọ có một thân viên nhà nước có bổn phận coi điện và phải trả lời cho những ai trong làng gọi đến muốn biết lúc đó là mấy giờ. Anh nhân viên này luôn luôn cho biết giờ giấc m cách xác tín, vì hằng ngày anh thường có thói quen kiểm soát lại đồng hồ và gờ giấc dựa theo tiếng còi hú gần nhấ của xưởng thợ duy nhất nhất gần đó. Nhưng một hôm đồng hồ của anh bị ngưng bất ngờ và có người gọi điện thoại đến hỏi xem là mấy giờ. Anh nhân viên trả lời rằng: anh đang chờ tiếng còi hú ở xưởng thợ gận bên để điều chỉnh lại đồng hồ, vì anh có thói quen canh giờ và điều chỉnh đồng hồ theo tiếng còi hú của xưởng thợ. Sau một lúc thinh lặng, người hỏi giờ trả lời: tôi là người có trách nhiệm kéo còi hú tại xưởng thợ đây và mỗi ngày tôi đều gọi anh để biết đúng giờ mà kéo còi hú. Vòng luẩn quẩn trên rất thường xảy ra trong cuộc sống và có lẽ trong chúng ta đôi khi có những người đã từng là nạn nhân bị cuốn vào trong cái vòng luẩn quẩn này, đó là trường hợp người mù dẫn người mù mà Chúa Giêsu nói đến trong phúc âm hôm này “thử hỏi người mù có thể dẫn người mù được không? Cả hai không sa xuống hố ứ?”. Trên bình diện thiêng liêng và luân lý khi phải phân biệt giữa điều nào tốt, điều nào xấu thì có những kẻ không biết phân biệt điều nào tốt hoặc xấu, nhưng họ dám lên tiếng góp ý, nếu không muốn nói là ra lệnh về việc tốt xấu, đó là trường hợp người mù dẫn người mù. Chúng ta cần tiến bước theo Đấng là ánh sáng thế gian “Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không bước đi trong tối tăm”. Chúng ta không lo chữa trị chính sự mùa lòa của tinh thần mà lại muốn làm tài khôn lo đi chữa lành sự mù lòa tinh thần của anh em. Chúa Giêsu dạy tiếp như sau: “Sao người nhìn thấy cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong mắt ngươi, người lại không thấy”. Mỗi người cần khiêm tốn đến với Chúa Giêsu, Đấng là Ánh Sáng có quyền trao ban ánh sáng cho chúng ta, có quyền giải thoát chúng ta khỏi tối tăm, khỏi những tật xấu làm lu mờ khả năng phán đoán và che khuất ý nghĩa cùng đích của đời sống con người. “Môn đệ không hơn Thầy”, đó là một chân lý mà Chúa Giêsu đã nói với mỗi người môn đệ muốn đi theo Chúa, vì thế mà chúng ta không thể khôn hơn, cao trọng hơn thầy chúng ta là được như Thầy mình là Chúa Giêsu, nghĩa là được chia sẻ sự sống và sự khôn ngoan của Ngài mỗi ngày một giống Chúa hơn. Đời sống Đức tin đòi môn đệ Chúa phải cố gắng liên lỉ để thanh luyện chính mình luôn mãi và chỉ có khi nào chúng ta thực hiện được điều này cho chính mình, thì chúng ta mới có thể trở thành hữu ích cho anh em, có thể iup anh em nhìn thấy Chúa và chấp nhận những mặc khải. Nếu chúng ta không sống theo ý Chúa, không canh tân chính mình theo giáo huấn của Ngài mà lại cả gan lên tiếng chỉ dạy anh em, thì quả thật chúng ta đáng Chúa trách là kẻ giả hình, là kẻ mù muốn dắt người mù.
29. Tốt xấu
Câu truyện cổ tích kể: một hôm con cọp thấy con trâu bị con người bắt kéo cầy. Cọp bảo trâu: mày to lớn khỏe mạnh thế, sao để thẳng người nhỏ bé bắt mày kéo cầy cực khổ vậy? Trâu đáp: nó nhỏ nhưng trí khôn nó lớn. Cọp hỏi người: trí khôn mày đâu cho tao xem? Người nói: Trí khôn tao để ở nhà, mày muốn xem, tao sẽ về nhà lấy cho xem, nhưng phải để tao trói mày lại, kẻo mày ăn thịt trâu tao. Cọp vui vẻ để người trói. Trói xong, bác nông phu vác cầy đập cọp, vừa đập vừa nói: trí khôn tao đây, trí khôn tao đây. Câu chuyện nói lên người hơn vật ở trí khôn, ở hiểu biết. Hiểu biết rất quan trọng, quan trọng nhất là biết nhận rõ tốt xâu, phải trái, đúng sai, hay dở, thật giả, thiện ác.
Mù mà Đức Giêsu nói ở đây, không phải là mù mắt, nhưng mù về trí khôn. Trí khôn mù về đạo đức, đạo lý, tâm linh, thiêng liêng. Những thứ mù này tai hại gấp bội mù thể xác. Mù mắt chỉ làm khổ người mắc bệnh và mấy người thân thuộc. Mù về trí thức khoa học cũng chỉ gây chậm tiến, lạc hậu. Còn mù đạo đức, đạo lý đã gây ra bao nhiêu tai họa khủng khiếp cho gia đình, quốc gia và cả thế giới. Một ông bố xí ke, nhiễm Sida lây lan cho vơ con và di truyền cho cả dòng giống, có khi cả làng nước. Một Hít-le đã chôn vùi cả thế giới trong chiến tranh tàn khốc.
Một giáo phái, một lý thuyết vô luân mù quáng lôi cuốn bao nhiêu thế hệ cuồng nhiệt xuống hố tiêu diệt lẫn nhau. Đó là những cây xấu, sinh trái xấu. Trái lại, một ông bố lành mạnh, sáng suốt, đạo đức phúc cho con cháu đến bao nhiêu đời. Một Đức Khổng, một Đức Phật đã giáo hóa hàng ngàn thế hệ tốt lành. Đó là những cây tốt sinh trái tốt.
Điều cốt yếu của lời Chúa hôm nay là đưa ra những bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần, làm thế nào để biết nhận rõ tốt xẫu đê nên tốt và sửa xấu.
Theo tin mừng, bài thuốc chữa bệnh mù tinh thần là:
Thứ nhất: là bài thuốc chữa bệnh kiêu ngạo. Trò tự phụ hơn thầy là thứ trò hỗn láo kiêu ngạo. Muốn học giỏi trò phải biết khiêm tốn. Người xưa khiêm tốn đến độ học được một chữ hay nửa chữ cùng đáng là thầy mình: “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”. Cả khi gặp nhau đi đường cũng nhận ra người tốt là thầy mình, người xấu là bạn mình: “Ba người đồng hành, người tốt là thầy tôi, người xấu là bạn tôi”.
Thứ hai là bài thuốc chữa bệnh chủ quan, ta thường thấy cái xấu của người khác nhưng lại mù quáng không thấy mình xấu: không thấy cái xà trong mắt mình, nhưng lại thấy cái rác, cái bụi trong mắt người. Mù quáng là do tính tự ái: yêu mình quá nên dù “trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”, do ích kỷ lo kiếm lợi cho mình, nhận lỗi sẽ làm hại danh dự mình. Mù quáng cn d tính kiêu căng, tự cao tự đại che đậy trí khôn, không nhận ra tội mình. Có kẻ bao nhiêu năm không xưng tội, vợ giục đi xưng tội, chồng nói: có tội đâu mà xưng. Trong khi đức Piô X, ngày nào cũng xưng tội vì Ngài thấy rõ tí bụi bay vò mắt mình.
Thứ ba là bài thuốc xét mình: phải luôn kiểm tra kết quả lời nói, việc làm của mình tốt hay xấu: “Cây tốt sinh trái tốt, cây xấu sinhra trái xấu”. Nha buôn phải tính sổ hằng ngày để biết mình lỗ hay lời. Lỗ phải tìm cách sửa lại, lời phải duy trì lâu dài. Mạng sống đời đời của chúng ta còn quý giá gấp triệu lần lời lãi thế gian, như Đức Giêsu đã dậy: “Được lời lãi cả thế gian mất mạng sống mình nào được ích gì”. Chỉ lời lãi nhỏ thế gian, nhà buôn còn phải lo tính sổ hằng ngày, huống chi mạng sốntg đời đời của chúng ta lớn lao quan trọng vô cùng, sao chúng ta không lo xét mình, kiểm tra đời sống của mình: còn hay mất, lời hay lỗ.
30. Đồng hành với Chúa
Chàng thanh niên trong một họ đạo kia có một lối sống khô khan: hững hờ với Chúa, không tha thiết với những công việc giữ đạo và sống đạo… Một hôm, gặp một linh mục, anh nói: Thưa cha, dầu sao đi nữa thì đời sống cũng vất đi! Vị Linh mục: Tại sao anh nói như vậy? Chành thanh niên: bởi vì sống chính là để chết đi! chết là hết chuyện! Vị linh mục: cha tin rằng con có lý. Sống là để chết đi. Hay đúng hơn là cho đi. Nhưng sống còn là để yêu. Nếu ta dâng hiến đời sống của ta cho những người mình yêu thì cao quí biết bao! Đúng vậy, sống là để yêu. Người ta có thể sống thiếu của cải vật chất, nhưng không thể sống thiếu tình yêu: hoa quả của tình yêu là sư hy sinh. Hy sinh càng nhiều, tình yêu càng tràn đầy. “ không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của kẻ thí mạng sống vì người mình yêu”. Chúa Giêsu đã dạy thế, và Chúa đã minh chứng bằng cái chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Chúa nhật này, chúng ta được nghe tiếng kêu hy vọng của thánh Phaolô: “Hỡi tử thần, chiến thắng của ngươi ở đâu? Hỡi tử thần, nọc độc của ngươi ở đâu?” Chính vì thế, thánh phaolô trấn an chúng ta: “Anh em hãy ăn ở bền đỗ và không nao núng, hãy luôn luôn thăng tiến trong công trình của Chúa. Hãy biết rằng công lao khó nhọc của anh em không phải uổng phí trong Chúa. Nói cách khác, chúng ta phải giữ vững đức tin. Vây, tin vào Chúa, mặc dầu có buồn đau, bệnh tật, chết chóc! Tin vào Chúa mặc dầu thế gian có những thủ đoạn lừa đảo, là những tay chân của thần chết là tội lỗi. Bạn chưa xác tín ư? Điều này không có gì lạ cả. Pascal nói: “Phải biết nghi ngờ đúng, phải biết tin tưởng đúng “. Thánh Tôma tông đồ đã nghi ngờ Chúa sống lại và đã xác tín Chúa sống lại. Như thánh Tôma tông đồ, người Kitô hữu không tin một cách mơ hồ, không tin nhảm nhí, mà là những người biết tin tưởng chắc chắn.
Đức tin công giáo, trước hết không phải là sự hiểu biết, mặc dầu một số cha mẹ vẫn nghĩ như vậy khi cho con đi học giáo lý. Đức tin công giáo không phải là sự khôn ngoan mặc dầu một số tín hữu chỉ biết giữ đạo theo nguyên tắc mà quên đi dự uyển chueỷn của cuộc sống. Đức tin công giáo cúng không phải là một tôn giáo, mặc dầu một số tín hữu đóng khung việc sống bí tích rửa tội trong một số nghi lễ phải giữ. Đức tin công giáo chính là sự tiếp đón, đón tiếp Thiên Chúa, là nhận biết sự hiện diện sống động và mầu nhiệm của Thiên Chúa ở giữa loài người. Đức tin chính là chấp nhận Thiên Chúa đồng hành, để Ngài ban cho ta sự sống của Người.
Chúa nhật này, chúng ta được mời gọi chuẩn bị tâm hồn bước vào mùa Chay. Mùa Chay là mùa bước theo Chúa trên đường khổ nạn để cùng Ngài sống lại vinh quang. Cuộc sống này đã được bắt đầu ngay từ đời này, ngay tại đây. Nó liên hệ tới sự đòi buộc của Phúc Âm hôm nay. “Không có cây nào tốt mà sinh trái xấu… Cứ xem quả thì biết cây”.
31. Đừng lên mặt
Hẳn Chúa Giêsu đã mỉm cười khi vẽ ra bức họa về một người có cây xà trong mắt mình mà cứ gắng moi một mảnh bụi nhỏ ra khỏi mắt kẻ khác. Chúa Giêsu dạy rằng chúng ta không có quyền phê bình khi chúng ta còn khuyết điểm. Điều này có nghĩa là chúng ta không có quyền đoán xét gì cả, bởi vì “có nhiều điều xấu trong những người tốt nhất, có điều tốt nhất trong những người xấu nhất. Giữa chúng ta, đến nỗi ai trong chúng ta cũng phải xấu hổ khi muốn nói tội kẻ khác.”
Một em gái nhỏ vâng lời bà nội bảo đi quét nhà. Quét xong, bé đến thưa bà là mình đã qué sạch rồi. Bà nội hỏi lại: “Có thật quét xong chưa? để bà xem lại.” Nói rồi bà cụ đứng dậy xem khắp nhà. Xem một lượt, bà nói với đứa cháu gái: “Nhà chưa sạch gì cả, chỗ nào cũng đầy bụi. Con quét lại đi!” cô gái nhỏ vâng lời quét thêm một lần nữa, lần này bé quét thật kỹ. Quét xong liền đến trình cho bà nội. Cũng như lần trước, bà cụ xem qua một lượt rồi nói: “Nhà cũng chưa sạch gì cả, chỗ nào cũng đầy bụi. Sao quét dối vậy? Quét lại đi! Cô gái nghĩ rằng mình còn nhỏ quét chưa sạch được, nên cố vâng lời nội đi quét lần nữa. Quét xong, nó cũng đến trình cho nội. Lần này cũng như hai lần trước, bà cụ xem xong lại nói là nhà chưa sạch. Cô gái lấy làm lạ kỳ. Cuối cùng nó phát hiện ra là bà cụ mang cặp kính dính đầy bụi. Thì ra, vì vậy mà bà cụ nhìn đâu cũng thấy toàn là bụi cả. Chỉ có cắp mắt trong sáng, tấm lòng trong sạch mới có thể nhìn thấy sự thực.
Để phân biệt cây tốt xấu phải căn cứ vào quả – công việc – chứ không phải lá – lời nói “vì có nhiều người chỉ tìm thấy lá khi đến gần. Nào là lá to, lá rậm, lá bóng…lá, chỉ có lá, ngoài ra không có gì khác! nhiều người chạy đến chúng ta nói hy vọng tìm được giải khát, họ đang khát mong Thiên Chúa. Chúng ta đừng quên rằng chúng ta đang có trong tay tất cả những điều ấy. Chúng ta có đầy đủ giáo lý, với ơn Chúa, mặc dầu chúng ta không xứng đáng”.
Có người đã nói với một giáo sư rằng: “ tôi không thể nghe lời ông nói vì đã được thấy con người của ông rồi. “ Giảng và dạy, cả hai đều là sự thật qua nhân cách. Lời hay không bao giờ thay thế được việc tốt.
Một nhà chế tạo làm được một con ong, cũng vỗ cánh bay được, cũng kêu vo vo, người đứng xem không tài nào biết được ong giả cho tới khi hỏi rằng: “Nó có làm ra mật không?” Chỉ một sự thí nghiệm đơn sơ ấy đủ phân biệt ong thật với ong giả. Cứ xem quả thì biết cây. Khi có ai khoa khoang về đời sống đạo của họ, chỉ cần hỏi như thánh Phaolô: “Thế thì anh em được kết quả gì?” Con đường duy nhất để chứng tỏ Kitô giáo là đạo thật là chúng ta phải sống thế nào cho mọi người thấy Kitô giáo sản sinh ra những người tốt thật.
32. Lòng an vui thì dường như không xét đoán--Lm. Antôn Nguyễn Văn Dũng, DCCT
Trong cuộc sống thường ngày, con người chúng ta dễ có khuynh hướng khen, chê và phán xét người khác. Ta phán xét người khác có thể bằng lời nói, bằng cử chỉ, hoặc đôi khi chỉ là nghĩ thầm trong bụng về chuyện này chuyện khác của người ta.
Nhất là khi ngồi lại với nhau để chuyện trò, chúng ta thường có khuynh hướng khoe những điều tốt về bản thân mình bằng cách so sánh cái tốt của mình với cái dở của người khác, còn những cái dở, cái xấu của mình thì cố giấu cho bằng được. Gắn với xét đoán tiêu cực người khác thường là một thái độ ganh tị, đả phá, trả thù cho bõ tức. Còn khi nhận xét để góp ý cho người khác sửa sai, tránh lỗi lầm, thì bao giờ ta cũng dễ dàng có sự bao dung, nhẹ nhàng trong cử chỉ và lời nói.
Hơn nữa, có một sự thật khá hiển nhiên: Một khi lòng ta nhẹ nhàng, thanh thản, an vui, thì ta thường nghĩ đến người khác với một thái độ tích cực và đầy bao dung, chứ chẳng muốn phán xét hay nặng lời với họ. Còn khi ta thích phán xét, thích nói xấu người khác thì lại là lúc chính ta thiếu sự bình an, hạnh phúc trong lòng.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô bảo rằng “những ai phán xét anh chị em mình, nói xấu anh chị em mình thì họ chính là kẻ giả hình vì họ không đủ can đảm nhìn lại những thiếu sót, lỗi lầm của bản thân mình.” Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay thì nói trực tiếp vào vấn đề hơn: “Sao người nhìn thấy cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy?… Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi”
Đặt mình trước Lời Chúa hôm nay, tôi với bạn thử ngẫm lại xem, mỗi khi ta chỉ trích, phán xét người khác, thì thật sự trong lòng ta đang an vui, hạnh phúc hay lòng ta đang ấm ức, bức xúc, tị hiềm? Nếu thấy lòng ta còn ấm ức, hậm hực, thì Chúa bảo ta rằng: Con hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ con sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh chị em con!
33. Đừng xét đoán
Cuốn phim “Người lính đại đồng” được trình chiếu tại Manila là một trong những cuốn phim ăn khách nhất hiện nay. Cuốn phim kể lại cuộc chiến một mất một còn của hai người máy. Đây không phải là hai người máy hoàn toàn, mà là hai xác chết được hồi sinh và trang bị bằng hệ thống điện toán tinh vi để sinh hoạt như những con người bằng xương bằng thịt. Trước đây hai người đã từng chiến đấu bên nhau tại Việt Nam. Một hôm, do sự thù hận ngấm ngầm, một người đã nhẫn tâm tàn sát một đôi trai gái Việt Nam. Thế là cuộc xô xát đã diễn ra giữa hai người và kết thúc là cả hai đã tàn sát lẫn nhau. Người ta đã bí mật đưa hai tử thi về Mỹ và biến thành hai người máy chuyên trách diệt trừ khủng bố, cũng như bất cự mục tiêu quân sự nào. Thừa lệnh chủ thi hành bất cứ công tác nào, kể cả việc thủ tiêu những người tình cờ biết được việc làm của chủ, hai người máy này hành động không chút suy nghĩ và do dự. Thế nhưng, một hôm trí nhớ bỗng được phục hồi một trong hai người, cùng với trí nhớ, lương tri cũng được sồng lại. Kể từ đó anh không chỉ là một người máy chỉ biết có chém giết, mà là một con người hành động theo lẽ phải và sự thật. Kể từ đó cuộc chiến của anh đã trở thành cuộc chiến chống lại tội ác mà hiện thân là người máy đã một thời chiến đấu với anh.
Cuốn phim trên hẳn muốn minh hoa cho một luận đề: không người nào sinh ra trên đời này là một con người xấu xa hoàn toàn. Nơi một góc nào đó của tâm hồn, ngọn lửa của nhân tính vẫn luôn âm ỉ cháy, và trong những điều kiện thuận lợi, ngọn lửa ấy sẽ bùng cháy lên. Đó cũng là cái nhìn của Kinh Thánh về con người, con người vốn được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa, do đó dù nghèo hèn, xấu xa đến đâu vẫn luôn mang trong mình khát vọng vô biên về thiện hảo.
Chúa Giêsu đã nhìn con người bằng cái nhìn ấy. Ngài kết thân với những người tội lỗi và giai tầng thấp nhất trong xã hội là để nói với mọi người rằng mỗi người có một giá trị, mỗi người có một chỗ đứng cá biệt trong tình yêu Thiên Chúa. Chính cái nhìn ấy về con người đã khiến Chúa Giêsu luôn tỏ ra cảm thông, khoan dung trước những vấp ngã yếu hèn của con người. Tin mừng kể lại rằng khi đám đông lôi một người đàn bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trước tòa án nhân dân và dựa trên luật Môsê để nám đá chị. Họ chờ đợi một án quyết của Chúa. Ngài với họ: “ Ai vô tội thãy ném đã chị ta trước đi”. Rồi Ngài nói với người Phụ nữ “ Chị hãy về đi, tôi không kết án chị”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta có cái nhìn của Ngài về con người và cư sử như chính Ngài, nghĩa là cảm thông, tha thứ trước những vấp ngã của người anh em Ngài nói với chúng ta “Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước rồi lấy cái rác khỏi mắt anh em”.
Cảm thông tha thứ là thái độ của niềm tin. Người Kitô hữu tin Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn tha thứ cho những vấp ngã của mình. Qua sự tha thứ ấy, người Kitô hữu cảm nhận được cơ may mà Thiên Chúa luôn dành cho họ. Tin ở sự tha thứ của Thiên Chúadành cho mỗi người, người kitô hữu cũng được mời gọi tha thứ cho người anh em và qua đó dành cho người anh em một cơ may mới. Thật vậy, tha thứ cho một người nào đó là muốn nói rằng người đó không hoàn toàn là một con người xấu, rằng sự vấp ngã không phải là một chấm hết. Tha thứ là đánh thức dậy cái phần cao quí nhất trong tâm hồn con người. Tha thứ là tạo ra cơ may mới cho con người. Trong ý nghĩa ấy, tha thứ mà người kitô hữu thể hiện chính là tham dự vào sự tái tọa của Thiên Chúa.
34. Cây đời xanh tươi – Thiên Phúc--‘Như Thầy Đã Yêu’
Triệu Quát là con trai của Triệu Xa – một danh tướng thời Chiến Quốc – thời trai trẻ từng đọc rất nhiều binh thư. Là một người khá thông minh, thích nói về quân sự, người khác không nói lại được, cha anh là Triệu Xa đôi khi cũng không tranh luận nổi với anh. Do đó, anh tỏ ra kiêu ngạo, tự cho mình là giỏi nhất thiên hạ.
Tuy nhiên, Triệu Xa lại rất lo lắng cho con mình, ông cho rằng Triệu Quát chẳng qua chỉ “nói phét”. Ông còn nói: “Sau này nước Triệu không nên dùng nó, kẻo nó sẽ làm cho quân Triệu đại bại”.
Quả thật, khi quân Tần sang xâm lược, vua Triệu quyết định cử Triệu Quát thay thế Liêm Pha. Lạn Tương Như đang bệnh cũng phản đối: “Triệu Quát chẳng qua chỉ là đọc được một số sách binh thư của cha mình, căn bản không biết vận dụng thế nào, không thể cử hắn làm tướng”. Mẹ của Triệu Quát cũng đến gặp vua Triệu nói rằng con mình không thể làm đại tướng.
Nhưng vua Triệu không nghe, vẫn cử Triệu Quát ra tiền tuyến nghênh địch, hậu quả là 40 vạn quân Triệu chỉ trong chốc lát đã bị tiêu diệt hoàn toàn, bản thân Triệu Quát cũng tử trận thê thảm.
***
“Mù mà lại dẫn mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?” (Lc 6,39). Làm nhà lãnh đạo hay người hướng dẫn phải có đủ tài đức; phải sáng suốt trong tư tưởng, khôn ngoan trong lời nói, và liêm chính trong việc làm, để khỏi dẫn đưa người khác cũng như chính mình vào con đường lầm lạc hay diệt vong. Những kẻ khoác lác, dối trá, giả hình có thể nhất thời lừa bịp được một số người, nhưng sớm muộn cũng sẽ bị bại lộ và sẽ phải chuốc lấy hậu quả khó lường: “Cây kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra”.
Cha mẹ của Triệu Quát vì sống cùng anh ta, nên thấy hiểu lời nói và việc làm của con mình không thể đảm nhận việc lớn. Nhưng vua Triệu không quan tâm đến câu: “Lời nói phải đi đôi với việc làm”, cứ cho rằng Triệu Quát là bậc kỳ tài trong thiên hạ và trao cho việc lớn. Kết quả không chỉ Triệu Quát bị hại mà còn liên quan đến tính mạng của 40 vạn quân. Mù mà dẫn mù thì việc sa xuống hố chỉ là sớm hay muộn mà thôi.
“Sao anh thấy cái rác trong mắt anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới” (Lc 6, 41). Người ta thường rất hà tiện trong lời khen ngợi, nhưng lại quảng đại trong tiếng chê bai. Có thể nói một trong những tội con người dễ phạm nhất: đó là hay xét đoán, nghĩ xấu, nghĩ sai cho người khác.
Để có đôi mắt trong sáng, chúng ta không nên nhìn vào đôi mắt kẻ khác để thấy “cái rác” trong đó, hay “bới lông tìm vết” để xét đoán, chỉ trích họ, nhưng hãy nhìn vào chính đôi mắt tâm hồn mình, để thấy “cái đà” của kiêu căng tự mãn, của phô trương giả hình, để thanh lọc cho nên trong sáng. Vì người xưa có câu “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng”, nên việc nhìn lại chính mình để tự kiểm thảo luôn là điều cần thiết của mỗi tín hữu Kitô, nhất là những việc lãnh đạo, hướng dẫn các tâm hồn. Triết gia Chilon cũng cho chúng ta một luật sống bất hủ: “Hãy tự biết mình”. Thánh Âu-tinh thường cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.
Biết mình thường hèn yếu lỗi lầm để đừng bao giờ khắt khe lên án anh em.
Biết mình hay che đậy giả hình để cảm thông dung thứ cho kẻ khác.
Biết mình thích phô trương háo thắng để đừng phê phán nhạo báng một ai.
Một tác giả kia đã nhận định: Những kẻ may mắn thường là những người có tâm hồn lạc quan vui vẻ, họ có thói quen nhìn vào mặt tích cực của sự việc và vào điều tốt của kẻ khác. Trái lại, những kẻ bất hạnh thường có thái độ tiêu cực, thù hằn, họ thích nhìn vào điều tồi tệ nơi kẻ khác, họ rất ham chỉ trích, và ưa “vạch lá tìm sâu”.
Đúng như lời Đức Giêsu đã nói trong đoạn Tin mừng hôm nay: “Cây tốt thì sinh trái tốt, cay xấu thì sinh trái xấu” (Lc 6,43). Lời nói việc làm của người tín hữu Kitô chỉ có thể sinh hoa kết trái tốt tươi, nếu siêng năng suy niệm và thực hành Lời Chúa. Đời sống của chúng ta chỉ có thể “phát xuất ra sự lành” nếu chúng ta được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa vì Lời Chúa là lời yêu thương và Mình Chúa là Bí tích tình yêu. Những ai sống trong vị kỷ, xét đoán, chỉ trích và thù hằn, kẻ ấy sẽ chết trong bóng tối gian ác của chính mình.
***
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con khô héo trong thái độ chỉ trích, trong lối nhìn tiêu cực, trong cách nghĩ đen tối, nhưng xin cho cây đời chúng con được xanh tươi, để sinh hoa kết trái của an bình, hạnh phúc và yêu thương. Amen.
35. Xem quả biết cây
Tại một làng đánh cá bên Ấn độ, một đêm nọ có một ngư phủ nghèo lẻn vào trong đầm của người giàu có để thả lưới. Người ngư phủ nghèo kia chưa kịp kéo lưới lên thì bị phát giác. Người giàu có cho gia nhân bủa đi khắp nơi trong đầm của mình để lùng bắt cho bằng được tên trộm. Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp mọi nơi mà không thấy bóng dáng tên trộm. Trong khi đó, người ngư phủ nghèo lấy tro rắc lên đầy người và ngồi dưới một gốc cây y hệt như một hiền triết hay một đạo sĩ. Đám gia nhân không tìm thấy tên trộm, nhưng chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đắm mình trong suy tư và cầu nguyện. Chỉ trong ngày hôm sau tiếng đồn vang đi rằng có một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ đầm của nhà phú hộ. Thế là thiện nam tín nữ từ các ngả đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng nhà đạo sĩ: người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc, chẳng mấy chốc quà cáp tuôn đổ xuống nhà đạo sĩ bất đắc dĩ. Tất nhiên nhà đạo sĩ nghì thầm: thà đánh lừa dân chúng để sống hơn là nhọc công đánh cá suốt ngày mà không được gì. Nghĩ như thế, ông ta tiếp tục đóng vai nhà đạo sĩ, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự tiếp tế của dân chúng. Người đánh cá bất đắc dĩ trở thành nhà đạo sĩ trên đây có thể là hình ảnh của mỗi người chúng ta. Một cách nào đó, nhiều khi chúng ta cũng tự sơn vẽ cho mình một lớp áo đạo đức để đánh lừa người khác và chính mình. Có những sự kiện đáng chúng ta suy nghĩ: nhà thờ Việt Nam nào xem ra cũng đầy người, người ngoại quốc nào đến Việt Nam lúc đầu cũng cảm kích trước sự sốt sắng của tín hữu Việt Nam. Thế nhưng, liệu đó có là lòng đạo đức đích thực không? Mỗi Chúa nhật tôi đến nhà th để cho người khác thấy rằng tôi đã giữ trọn luật Chúa và luật Giáo Hội. Nhưng tuân giữ như thế đã đủ để được gọi là sống đạo chưa, nếu tôi không màng đến những đòi hỏi của công bằng bác ái trong việc làm của tôi cũng như trong quan hệ của tôi với khác. Cõ lẽ chúng ta giữ đạo nhưng chưa sống đạo, có lẽ chúng ta mang lớp sơn đạo đức bên ngoài những chưa có thực chất của một lòng đạo đức đích thực. Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông, khoan dung đối với tội lỗi và yếu hèn của con người, nhưng Ngài lại có thái độ gay gắt đối với thói giả hình của Biệt Phái. Ngài không ngừng kêu gọi các môn đệ Ngài để phòng trước men gia hình của Biệ Phái. Tin mừng hôm nay một lần nữa lặp lại lời cảnh giác của Chúa Giêsu với hình ảnh cây tốt phải sinh trái tốt và ngôi nhà xây tên nền móng vững chắc. Chúa Giêsu muốn nói chúng ta chúng ta rằng một niềm tin đích thực phải được tuyên xưng và thể hiện bằng những hành động cụ thể, một niềm tin đích thực phải được nuôi dưỡng bằng nền móng của những việc làm tốt.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta kiểm điểm cách thể hiện niềm tin của chúng ta. Nếu chúng ta đóng khung niềm tin ấy trong bốn bức tường nhà thờ hay những kinh kệ dài dòng, mà không thể hiện niềm tin ấy bằng những công việc của công bằng bác ái, thì có lẽ chúng ta chỉ là những căn nhà xây trên cát khó đứng vững được trước sóng gió của cuộc đời.
Nguyện xin Chúa củng cố niềm tin chúng ta và ban cho chúng ta sức sống của Ngài, để trong mọi sự chúng ta luôn thực thi thánh ý Ngài.
36. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Một lần nữa, Lời Chúa lại muốn nói nhiều hơn với những ai được đặt lên làm "lãnh đạo", "làm đầu": "Hãy lấy cái đà ra khỏi con mắt mình trước đã". Cái "đà" Chúa nói ở đây không phải chỉ là những sai lầm thường có, nhưng là những sai lầm cơ bản và nghiêm trọng. Thậm chí có thể nói như Chúa nói, nó làm cho chúng ta trở thành những kẻ mù, và làm tiêu hủy cái sứ vụ. Và dường như Chúa cũng muốn nói nhiều hơn về "lời nói" trên môi miệng người "làm đầu", khi muốn kết thúc lời dạy bằng nhận định " và kẻ dữ, bởi tích đầy lòng ác, nên phát xuất điều ác: vì lòng đầy, thì miệng mới nói ra".
Có thể là có một liên đới trong cùng một suy nghĩ khi bài Đức Huấn Ca kết luận "Lời nói là sự thử thách của con người", vì "nghe lời nói cũng biết tư tưởng lòng người như thể ấy."
Trọng tâm Lời Chúa trong Chúa Nhật hôm nay rõ ràng cảnh báo chúng ta về lời nói, lời rao giảng. Chắc chắn nhiều giáo dân cũng được cởi mở nỗi lòng để tin Chúa hơn, khi thấy Chúa cũng rất là thông cảm với họ khi phải nghe các "lãnh đạo" chúng ta rao giảng. Họ nhận ra rằng dù sao Chúa cũng đích thực có cái tình thương giản đơn nhưng thực tế và mãnh liệt, điều ấy khiến họ yêu Chúa hơn. Ước gì cảm nghiệm đó lớn mạnh lên trong lòng mỗi tín hữu.
Thực vậy, khi nghe các bài giảng ở nhà thờ, ngày nay người tín hữu có một nhạy cảm và "dị ứng" với những bài giảng luân lý-đạo đức. Đó là một thực tiễn, cho dù muốn hiểu và muốn nhìn nó thế nào. Thực ra người giảng trong thời đại này cũng đã tự hạn chế rất nhiều. Cái băn khoăn và trăn trở chính là nền luân lý và đạo đức càng ngày càng suy thoái. Nhưng có lẽ chúng ta hãy trở về với bối cảnh xã hội của Tin Mừng để khám phá lại nguồn mạch của công cuộc loan báo Lời Chúa. Bối cảnh của một xã hội cũng trên đà suy thoái...Những cung đình thời đó cũng là những trung tâm gieo rắc lối sống sa đoạ. Thánh Phaolô từng phải đối diện với một thế giới có lẽ cũng dị ứng với những vấn đề tôn giáo không kém thời đại hôm nay. Đã có những người chủ trương lấy lề luật làm trọng điểm canh tân. Nhưng Phaolô bằng kinh nghiệm bản thân, bằng mạc khải đã lãnh nhận có một chủ trương khác: Người viết "Nọc độc của sự chết là tội, thế lực của tội là lề luật". Bởi vì cũng chính là luật đã thúc bách người lên đường tầm nã các Kitô hữu, cũng chính là luật đã lôi Đức Kitô ra tòa... qủa thật luật là thế lực của tội. Vì vậy Thánh Phaolô luôn khẳng định "chúng tôi không rao giảng điều gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh". Và hôm nay người nói với chúng ta "Cảm tạ ơn Thiên Chúa, Đấng đã ban cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô."
Với Đức Giêsu, Ngài đã đến không phải để hủy bỏ lề luật, nhưng là để kiện toàn. Luật, đối với Ngài, là mặc khải về Thiên Chúa cho con người, do đó người ta phải giải thích lề luật bằng chính mầu nhiệm thẳm sâu của Thiên Chúa. Mầu nhiệm ấy được Đức Giêsu trình bày qua sự chết và sống lại của Ngài: mầu nhiệm của một tình yêu lớn hơn sự chết. Nơi Đức Giêsu, đúng hơn, nơi sự chết và sống lại của Ngài, Luật đã được tôn vinh và đạt tới tầm vóc siêu việt của nó. Trong khi nơi chính những con người hô hào bảo vệ luật pháp, thì Luật đã bị họ chôn vùi và đầy đoạ, trở thành cái thế lực cho họ khống trị và giết chết anh em mình. Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi lời rao giảng luôn bộc lộ Tình Yêu đã thành Luật Vĩnh Hằng nơi Đức Giêsu Kitô.
Sống trong sứ vụ phải rao giảng Lời Chúa, lời "Hỡi kẻ giả hình,, hãy lấy cái đà ra khỏi con mắt mình trước đã..." là lời có ý nghĩa rất đặc biệt. Tôi luôn cảm thấy sức nặng của lời Chúa, luôn nhận ra sự mong manh giữa "giả hình" và suy niệm Lời. Không mấy khi tôi không hãi sợ đến thấm mồ hôi... Nhưng dù sao, chính Đức Giêsu cũng đã thấy rất rõ chân tướng của mình, nên Ngài bảo "Chúng con đừng sợ là phải nói gì. Khi đó sẽ dạy cho chúng con biết phải nói gì" tôi vẫn tin vào cái ơn Chúa hứa, mà tôi quen nghĩ đó là "ơn đấng bậc". Và tôi nghĩ chính ơn này khiến cho lời tôi rao giảng được đón nhận.
37. Đức tin
Một người giầu có nọ muốn thưởng cho người quản lý của mình. Ông cho biết ông sắp đi xa và giao cho người quản lý đứng ra xây cho ông một căn nhà sang trọng, với những vật liệu đắt giá và những nhân công tài giỏi nhất. Người quản lý xem đây là cơ hội để làm giầu: Ông tính toán từng đồng trong việc mua sắm vật liệu cũng như chỉ mướn những thợ xoàng nhất với giả rẻ mạt. Dĩ nhiên, căn nhà cũng được hoàn thành một cách tương đối tốt đẹp.
Khi người giầy có trở về, người quản lý đem tất cả chìa khóa của căn nhà đến cho ông và báo cáo đã làm đúng như chỉ thị của ông. Ông chủ hài lòng, khen người quảnlý và thưởng cho căn nhà đó. Trong những năm kếtiếp, khi phải chi tiền để tu sửa căn nhà, người quản lý không ngừng hối tiếc: giả như tôi biết trước đâh là căn nhà ông chủ tặng cho tôi, thì tôi đã không xây cất nó một cách xoàng xĩnh như thế.
Đức tin có thể ví như một căn nhà Thiên Chúa ban tặng nhưng không cho con người. Tuy nhiên, đón nhận và xây dựng căn nhà ấy là phần của con người; căn nhà ấy có làm cho con người được hạnh phúc hay không là tùy ở việc xây dựng của con người. Chúa Giêsu đã nói: Ngài đến để cho con người được sống và sống dồi dào. Sự sống dồi dào ấy không chỉ ở đời sau; hạnh phúc thật không chỉ được hứa hẹn cho mai sau, nhưng ngay từ đời này, khi con người đón nhận và sống đức tin một cách sung mãn, con người sẽ cảm mến được hạnh phúc. Chính Chúa Giêsu đã hứa cho các môn đệ và những ai từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài sẽ được gấp trăm ngày từ đời này. Và nhận được gấp trăm người từ đời này là gì, nếu không phải là niềm vui và bình an trong tâm hồn. Niềm vui và bình an ấy, con người chỉ có được khi sống cho đến tận cùng những cam kết của niềm tin.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặ lại câu hỏi nền tảng: Chúng ta có thực sự an vui, hạnh phúc và hãnh diện vì được làm môn đệ Chúa Kitô không? Niềm tin của chúng ta có được diễn tả cụ thể bằng những hành động của bác ái yêu thương chưa? Những giá trị của tin mừng có thực sự thấm nhập vào tâm hồn và hướng dẫn cuộc sống chúng ta không?
38. "Coi vậy"--Br. Minh Trân, CRM
Kỳ vừa qua tôi có dịp thăm một gia đình người quen ở Port Arthur. Trước nhà họ có trồng cây hồng mềm, nhiều trái vàng tươi, trông rất bắt mắt. Thấy vậy tôi buột miệng: "Chà! hồng chín xem ngon hén." Nhưng anh chồng nói: "Coi vậy chứ chưa ăn được đâu thầy ơi. Chát lắm... và nhựa không à. Phải đợi cho nó thật chín mềm mới ăn được." Chồng vừa dứt lời thì vợ liền tiếp: "Nhưng mà con nghe người ta mách là nếu muốn ăn trước hình như phải ngâm nước muối một ngày, rồi đem ủ vào hũ gạo thêm một hai ngày nữa thì hồng sẽ hết chát và hết nhựa..." Nhìn mấy trái hồng treo lủng lẳng trên cây, tôi thầm nghĩ ăn được mấy trái hồng này xem ra cũng vất vả thiệt. Và hình như đọc được ý tôi, chị vợ bèn thốt lên: "Coi dzị mà hổng phải dzị đâu thầy ơi."
Qua Lời Chúa hôm nay, tôi rút ra được hai bài học: đối với mình phải sống thế nào, và đối với tha nhân phải xử thế làm sao. Thứ nhất, Chúa dạy rõ: "... giống như những cây tốt sinh trái tốt, người lành phát sinh những việc thiện hảo..." Theo thánh kinh, nói về cây tốt là nói về "phẩm hạnh đi trước hành động." Hay nói cách khác, các việc làm của một người tỏ cho thấy tình trạng "trái tim" của họ. Điều này có nghĩa là Chúa muốn dạy chúng ta phải sống liêm chính, bác ái yêu thương, sống thật thà ngay thẳng, có sao nói vậy, và nói thì phải làm. Đừng nói một đàng rồi làm một nẻo. Thứ hai, đối với người khác Chúa dạy chúng ta nên thận trọng, ý tứ trong việc xử thế -- đừng xét đoán, cũng đừng kết án, vì rất nhiều lần trong cuộc sống chúng ta cũng đã cảm nhận "coi dzị mà hổng phải dzị." Đọc lại mấy câu trước đoạn Phúc âm hôm nay, chúng ta thấy thánh sử Luca ghi rõ: "Hãy từ tâm, cảm thông với người khác như Cha các con trên trời... đừng xét đoán... cũng đừng kết án... hãy tha thứ...." Suy nghĩ kỹ chúng ta thấy xét đoán hoặc kết án người khác thật là một điều bất công. Thử hỏi sao lại không bất công một khi mình không biết rõ họ là ai, không hiểu được hoàn cảnh của họ thế nào, cũng chẳng đả thông ý định trong lòng của họ ra sao... thế mà lại xét đoán, kết án họ? Con người chỉ nhìn thấy bề ngoài. Chỉ Thiên Chúa mới nhìn thấy bên trong, và đó mới là điều can hệ. Hạnh các thánh đã chứng nhận điều đó. Thử hỏi được bao nhiêu vị thánh mà lại không có một quá khứ đáng phàn nàn? Nhưng khác một điều là quá khứ của các ngài đã được nhận ra, được tha thứ, và được khắc phục. "Coi dzị mà hổng phải dzị." Phải chăng Lời Chúa đến với chúng ta hôm nay là một lời cảnh tỉnh? "... Hỡi kẻ giả hình, hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã..." (6:42) Theo tiếng Hy lạp, từ ngữ giả hình chỉ về kịch sĩ. Trong Phúc âm, từ ngữ giả hình luôn luôn làm giảm uy tín cũng như danh dự cá nhân, và ám chỉ đến sự thiếu thành thật. Thánh Luca dùng từ ngữ giả hình ba lần: một lần ám chỉ những người Pharisêu (12:1), và hai lần nhắm đến những người chống đối Chúa Giêsu (12:56, 13:15). Nhìn trái hồng mềm có người biết khi nào ăn được và cũng có người chẳng biết khi nào ăn được. Nhưng nhìn những người sống liêm chính, và năng "để ý đến những lỗi lầm của mình trước" thì có lẽ ai cũng nhận ra. Điều này thường hay được nhắc đi nhắc lại trong nền luân lý Hy lạp, và thiết tưởng cũng chính là lẽ sống mà Chúa Giêsu hằng khuyên dạy chúng ta.
39. Chú giải của Noel Quesson
Luca đã tập họp trong bài diễn từ này của Đức Giêsu, những câu ngắn, những “logia " hoặc “lời” về thái độ của các môn đệ chân chính: Chúa nhật vừa rồi, chúng ta đã nghe giớ răn phải yêu thương các kẻ thù... hôm nay, vấn đề là thái độ của chúng ta đối với anh em trong cộng đoàn...
Đức Giêsu còn kể cho môn đệ dụ ngôn này: “Mù mà lại dắt mù, được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?”
Đây là một dụ ngôn hết sức ngắn như một câu tục ngữ. Chúng ta lưu ý thể nghi vấn của dụ ngôn ấy: Đức Giêsu không trả lời thay chúng ta. Người khêu gợi ý thức của chúng ta. Trong đoạn văn song song của Thánh Mát-thêu: nhận xét này dùng để cảnh giác chống lại: Người Biệt Phái, họ tự hào "hướng dẫn" những người khác nhưng lại là những "người mù " trước biến cố trọng đại của Đức Giêsu.. Đấng. phát ngôn của Thiên Chúa (Mt 15,14; Ga10, 40). Phần Luca, ngài nghĩ nhiều đến những người đứng đầu các cộng đoàn Kitô hữu mà ở nơi khác, ngài gọi là các "người hướng dẫn" (Lc 22.26) "hégouménoi". Ở Đông Phương, các Cha dòng đứng đầu tu viện luôn luôn được gọi là các Hogoumènes.
Lời của Đức Giêsu về những người "hướng dẫn mù” tự hào mình dẫn dắt được những người khác có thể được áp dụng cho tất cả chúng ta bởi vì trong lãnh vực này hay trong lãnh vực khác, chúng ta đều có trách nhiệm "hướng dẫn": một gia đình, một xí nghiệp, một nhóm, một hiệp hội, một đô thị. Trách nhiệm của tôi là gì? Tôi có trách nhiệm với ai? Ai thuộc về tới? Tôi có khả năng không? Tôi có sáng suốt không? Tôi có nhìn thấy rõ ràng không? Lạy Chúa, con cầu xin Chúa cho tất cả những người mà con có trách nhiệm. Xin Chúa giúp con tránh được các cạm bẫy đó, những cái "hố" đó trên đường đi của chúng con. Xin Chúa làm cho con nhìn thấy rõ.
Học trò không hơn thầy, có học hết chứ cũng chỉ bằng thầy mà thôi.
Một dụ ngôn ngắn khác: thầy và trò. Để được sáng suốt để trở nên một' "Người hướng dẫn" tốt, một người phụ trách tốt, phải được một ông thầy tốt đào tạo. Trong việc đào tạo ở trường Đại học, các nhà bác học danh tiếng nhất hôm nay đều nói về các ông thầy "đỡ đầu” của họ với lòng tôn kính và biết ơn; các ông thầy đỡ đầu ấy đã hướng dẫn việc học tập của họ cũng như khi họ làm luận văn và khi họ gặp khó khăn trong công việc, họ lại đến gặp các ông thầy ấy để tham vấn. Cũng thế "Người thợ học việc" phải tôn kính và biết ơn "thầy dạy nghề" của mình.
Tuy nhiên ngày nay, người ta nhận thấy một sự từ khước ông thầy, một sự đề cao bệnh hoạn về tính chất không định hướng trong sư phạm cũng như trong các thương vụ. Thời thượng bây giờ là chia sẻ, giao lưu... và người ta khó mà chấp nhận những bài giảng của các bậc thầy, những bài thuyết giáo. Khía cạnh tích cực của xu hướng này đang được đánh giá: Đó là lúc nào cũng hoạt động hơn và sự tham gia của cá nhân trong việc lãnh hội một kiến thức nào đó. Nhưng khía cạnh tiêu cực của việc từ chối ông thầy là một lòng kiêu ngạo, một sự từ chối tiếp nhận mà trong thực hành dẫn đến một thứ bình quân ở cấp thấp (cào bằng xuống thấp).
Thật vậy không có chân lý hay khoa học nào mà không được tiếp nhận. Điều đó đúng với các chân lý khoa học, chúng chỉ phát triển nhờ một thứ tuân theo thực tại, khuôn mình theo các sự vật. Điều đó càng đúng hơn đối với các chân lý đức tin vốn không phải để chinh phục mà là để tiếp nhận. Khi điều chủ yếu là tiếp nhận sự mạc khải thì học trò không thể hơn thầy... mà chỉ có thể để cho thầy đào tạo. Và Đức Giêsu tự giới thiệu như vị thầy đó; Người biết nhưng việc mà chúng ta không biết.
Nền văn minh của các sách vở in ấn đã thay đổi sâu sắc tương quan "thầy trò" bằng cách trí thức hóa tương quan ấy. Trong những nền văn minh truyền khẩu, người ta không thể học một mình, tiến bộ một mình, nhưng chỉ tiếp xúc lâu dài với "ông Thầy", nhà “hiền triết", "thầy guru”: Lúc đó, không chỉ là sự truyền đạt kiến thức bằng đầu óc nhưng là học tập một nghệ thuật sống... mà không một cuốn sách nào có thể truyền đạt được. Đức tin trước hết được chuyển thông từ người này qua người khác. Còn hơn cả mốt kiến thức, đó chính là một đời sống. Đức Giêsu tự giới thiệu như “vị thầy của sự sống": phải chăng tôi thường tìm gặp Người? phải chăng tôi khao khát sự "đào tạo" sống ấy mà Người đề nghị? Tôi có là một "môn' đệ” chân chính không? Lạy Chúa, xin giúp đỡ chúng con để con không nên bằng lòng với những kiến thức lý thuyết về Tin Mừng, những biết sống với Chúa ngày này qua ngày khác.
Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại có thể nói với người anh em: "Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra", trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?
Chúa nhật vừa rồi, chúng ta đã nghe Đức Giêsu nói với chúng ta đừng xét đoán đừng lên án. Nhưng, khi người ta có trách nhiệm (và chúng ta đều có trách nhiệm ở một số điểm) người ta phải đưa ra những phán đoán, chỉnh, lý những sai lầm, giúp đỡ những người khác thậm chí nói trái ý họ và sẵn sàng xung đột với họ nếu chúng ta nhận thấy có cả điều xấu. Đó là bổn phận của trách nhiệm “cảnh cáo anh em": “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi" (Mt 18,15; Lc17,3) Môn đệ của Đức Giêsu không thể giữ sự trung lập trước một số hoàn cảnh hay tình - thế.Những trong vai trò sửa chữa, chỉnh lý, trong cuộc chiến đấu chống lại điều ác Đức Giêsu cảnh giác chúng ta trước một cám dỗ rất thường gặp: Chúng ta có nguy cơ phóng đại điều xấu nơi những người khác và giảm thiểu điều xấu trong chúng ta! Hình ảnh cái rác và cái xà khó mà quên được và một Câu Chuyện giống vậy thuộc Phương Đông làm cho câu chuyện chua chát hơn. Lạy Chúa, xin Chúa giúp chúng con trước hết phải trở nên đòi hỏi đối với chính mình, phải sắng suốt đối với chính mình. Xin Chúa giúp chúng con nhìn thấy trong những người khác điều tích cực nhiều hơn đều tiêu cực.
Hỡi kẻ đạo đức giả! lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!
Đức Giêsu đối xử mạnh mẽ với Người phóng đại cái rác trong con mắt người anh em, như “kẻ đạo đức giả", trong bản văn tiếng HyLạp là "upocritès:. Từ này dịch ra tiếng Do Thái là "hanef", có nghĩa là "Con Người có phán đoán sai lầm và không biết nhận ra chân lý, còn quay lưng lại với Thiên Chúa". Theo Lu ca, Đức Giêsu còn dùng từ ngữ mạnh mẽ đó trong hai lần khác: "Những kẻ đạo đức giả kia, sao các người lại không biết nhận xét những dấu chỉ của thời đại" (Lc 12,56) "Những kẻ đạo đức giả kia. Thế ngày Sabát ai trong các ngươi không chăm sóc súc vật của mình...?" (Lc 13,15). Từ ngữ còn mạnh hơn sự giả hình. Dụ ngộn này về "cái xà và cái rác" đã trở thành truyền thuyết. Tất cả chúng ta đều bị cám dỗ mà xói rằng: "Quả đúng như thế mà! "... Khi nghĩ về người khác. Nhưng một cách chính xác, Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải cáo giác chính mình... Trước khi thay đổi xã hội, như người ta nói, việc canh tân chính mình không phải là vô ích. Một lần nữa, người ta phải ngạc nhiên mà thừa nhận rằng Đức Giêsu ít khuyến cáo những “canh tân về cơ' cấu” vốn chẳng thay đổi được gì nếu lòng người không thay đổi.
Và chính Giáo Hội phải không ngừng canh tân trước khi có ý định đổi thay thế giới. Và mỗi Kitô hữu phải không ngừng hoán cải bản thân trước khi hoán cải những người khác. Thay vì "kết án", thay vì tuyên bố "rứt phép thông công", thay vì mất thời gian để "xét đoán"... Đức Giêsu mời gọi chúng ta biết khiêm nhượng để cùng nhau tìm cách cải thiện và phải bắt đầu từ chính mình.
Không có cây nào tốt mà lại sinh quả xấu, cũng chẳng có cây nào xấu mà lại sinh quả tốt. Thật vậy xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì hái được nho!
Đây là dụ ngôn cụ thể thứ tư. Đức Giêsu là một người thực tế: người ta phán đoán một con người theo hành động thực tế của người ấy, như nhận xét một cây theo quả, mà không theo những ý định hoặc lời tuyên bố đẹp đẽ. Con người hiện đại cũng có đặc tính quan tâm đến hiệu quả. Đức Giêsu cũng thế. Nhưng Người nhấn mạnh để cái bên ngoài phải tương ứng với cái bên trong.
Vì thế, người ta nhận ra người môn đệ chân chính qua các hành động của người ấy. Một lần nữa, chúng ta nhận ra rằng sự phân biệt "lừng danh": "tín hữu không hành đạo" chỉ là một ảo tưởng và một sự biện minh dễ dãi.
Chính quả cho biết cây tốt hoặc có sâu... sống hoặc có bệnh.
Chính những “hành động" cho biết một người "tin" hay không... Yêu mến hay không... hy vọng hay không. Và Tin Mừng của 'Luca 'tiếp tục bằng những lời này mà sách kinh đã cắt quá sớm: "Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình, kẻ xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra. "...Tại sao anh em gọi Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa mà anh em không làm điều Thầy dạy?" Lạy Chúa, xin giúp chúng con thực hành điều chúng con tin tưởng.
40. Suy niệm của Noel Quesson
Trong bản văn Lc 6, 34-49, ta thấy một chuỗi những phán quyết của Đức Giêsu hơi bất thường, được nối kết giữa những phán quyết này với những phán quyết kia nhờ những từ mốc nối (“mức độ”, “mắt”, “cây”, “miệng”, “nhà”). Sự lặp đi lặp lại những từ thường được gọi là “tiếng này gợi lại tiếng kia”, là một cách thức được sử dụng trong các nền văn minh truyền khẩu, không có chữ viết, để ghi nhớ một số lời nói nào đó. Nhờ đó, ta mới có một bằng chứng tốt về sự nắm giữ Lời Chúa Giêsu mà các thế hệ đầu tiên của Kitô giáo đã bảo trì, không phải ở trong “sách vở”, nhưng ở trong “ký ức và trong lòng họ”.
Còn tôi, tại sao tôi không biết học thuộc lòng một số câu nào của Chúa Giêsu?
Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố?
Qua hình ảnh cụ thể này, Đức Giêsu muốn cảnh giác: hãy có thái độ sáng suốt. Anh em đừng để người ta lôi cuốn mà không kiểm chứng mình đang đi đâu, đang theo ai? Có những người hướng dẫn giả, những ngôn sứ giả, làm dân chúng lầm lạc … Anh em hãy mở to mắt mà nhìn.
Sao ngươi thấy cái rác trong con mắt của anh em, mà cái xà trong con mắt của mình lại không thấy?
(Từ móc nối: người mù, con mắt).
Qua hình ảnh cụ thể khác, Đức Giêsu dạy: anh em hãy tỏ ra sáng suốt đối với chính mình. Anh em biết phòng ngừa biết bao người hướng dẫn giả, các ngôn sứ giả … Anh em thường phẩm bình những vị có trách nhiệm hay các người anh em khác dễ dàng … Vậy anh em hãy nhìn kỹ vào đời sống riêng tư của mình cách sâu xa hơn … Hãy mở to mắt trên chính mình! Hãy tự phê bình mình trước đi.
Anh em rất dễ nhìn thấy khiếm khuyết của Giáo Hội, của các linh mục, các Kitô hữu, thường không đồng lập trường với anh em về một số điểm nào đó … Thế thì, thỉnh thoảng anh em hãy để ý nhìn ra những khiếm khuyết riêng của mình xem sao.
Sao ngươi lại dám nói với người anh em: “Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra”… Đồ giả hình! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã …
Chúng ta không thường làm giảm nhẹ sắc thái của Tin Mừng sao! Ta không ưa những lời nói thẳng nhặt! Nhất là chúng lại nhắm thẳng vào ta. Đức Giêsu có thể đang nói với tôi, tôi thật là giả hình khi mở miệng phẩm bình kẻ khác.
Cuộc sống chung quanh chúng ta sẽ vui thú hơn biết bao, nếu ta đối xử nghiêm chỉnh với mình hơn với người khác, nếu chính ta biết áp dụng cho mình những lời khuyên tốt mà ta thường nhiều lần nhắc nhở kẻ khác, nếu ta cùng mau mắn cải thiện mình, đồng nhịp với việc cải thiện tha nhân.
Ta không luôn đổ thừa rằng, chính vì lỗi lầm của “kẻ khác” mà mọi sự trở nên xấu hơn sao! Chẳng hạn như: Vì chính quyền làm điều này … Các nghiệp đoàn đã không thực hiện việc kia … Giá kể các chủ nhân tăng cường hơn ở lãnh vực này … Giá kể các thợ thuyền tích cực hơn ở vấn đề đó … Nếu các Cha sở đã làm việc tốt hơn … Nếu chồng tôi khá hơn ở điểm này … Nếu những người lối xóm của tôi …
Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt anh em.
“Nhìn lại đời sống” là một tập luyện thiêng liêng phản ánh tinh thần Tin Mừng rất cao: đó là đặt lại vấn đề về chính mình, là ngắm lại, nhìn lại đời sống cá nhân và những dấn thân riêng tư của mình. Nhưng thay vì duyệt xét lại đời sống của mình, ta lại chỉ nhắm đến việc phẩm bình kẻ khác; thì đó là một bức hí họa đáng ghét!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sáng suốt, biết nhìn rõ, nhờ đó chúng con có thể giúp đỡ anh em chúng con nhìn rõ hơn.
41. Chú giải của William Barclay
LUẬT SỐNG
Chúng ta đọc thấy một chuỗi những câu nói có vẻ không liên hệ nhau. Có hai cách giải thích: có thể Luca thâu góp những lời Chúa Giêsu đã nói trong những dịp khác nhau và ông cho chúng ta một bảng tóm lược các luật sống. Hoặc có thể đây là điển hình về phương pháp giảng dạy của Do Thái. Người Do Thái gọi giảng dạy là charaz, nghĩa là xâu chuỗi. Các rapbi có dạy rằng diễn giả không nên nói lâu về một đề tài, nhưng để hấp dẫn thính giả, nên thay đổi mau chóng từ đề tài này sang đề tài khác. Vì thế lời giảng của người Do Thái có vẻ rời rạc đối với chúng ta. Đoạn Kinh Thánh này được chia làm bốn phần.
1. Câu 39-40, Chúa Giêsu cảnh cáo thính giả rằng không giáo sư nào có thể đưa học trò mình đi xa mức độ mà chính mình đã đạt và đây là lời cảnh cáo hai chiều cho chúng ta. Trong khi học, chúng ta chỉ nên học với một giáo sư tốt nhất vì chỉ có giáo sư ấy mới có thể đưa chúng ta tới một độ cao nhất. Trong khi dạy, chúng ta đừng quên rằng chúng ta không thể dạy điều gì mình không biết.
2. Câu 41-42, đây là một tỷ dụ về tính khôi hài của Chúa Giêsu. Hẳn Ngài đã mỉm cười khi vẽ bức hoạ về một người có cái xà trong mắt mình mà cứ cố gắng moi một cái rác ra khỏi mắt kẻ khác. Chúa Giêsu dạy rằng chúng ta không có quyền phê bình khi chúng ta còn khuyết điểm. Điều này có nghĩa là chúng ta không có quyền đoán xét gì cả, bởi “có nhiều điều xấu trong những người tốt nhất, có nhiều điều tốt trong những người xấu nhất giữa chúng ta, đến nỗi ai trong chúng ta cũng phải xấu hổ khi muốn moi tội kẻ khác”.
3. Câu 43-44 nhắc nhở chúng ta chỉ có thể nhận xét người khác qua việc làm của họ. Có người nói với một giáo sư: “tôi không thể nghe lời ông nói vì đã thấy con người của ông rồi”. Giảng và dạy, cả hai điều là “sự thật qua nhân cách”. Lời hay không bao giờ thay thế được việc tốt. Điều đó rất thích hợp cho ngày nay. Chúng ta sợ hãi tiếng đe doạ của các phong trào thế tục. Chúng ta không bao giờ đánh bại được các phong trào đó bằng cách viết nhiều sách báo và tổ chức nhiều cuộc giảng thuyết. Con đường duy nhất để chứng tỏ tính siêu việt của Kitô giáo là chúng ta phải sống thế nào cho mọi người thấy Kitô giáo sản xuất ra những người tốt thật.
4. Câu 45. Trong câu này Chúa Giêsu nhắc chúng ta xét cho cùng, lời nói ở môi miệng chúng ta chỉ là sản phẩm của lòng chúng ta. Không ai có thể mở miệng nói về Chúa nếu Thánh Linh không ở trong lòng người ấy. Không có điều gì bộc lộ rõ tâm trạng của một người cho bằng chính lời nói của họ, khi họ không ý tứ lúc nói năng, khi họ tự do phát ngôn, nghĩ sao nói vậy. Nếu bạn hỏi thăm đường đến một chỗ nào đó, người thì bảo nó ở gần nhà thờ nọ, người khác lại bảo nó ở gần rạp hát kia, người khác lại chỉ nó gần sân bóng đá, người khác nữa nói nó gần một công sở. Chính câu trả lời cho một câu hỏi bất ngờ có thể cho thấy tư tưởng của người đó thường tập chú vào đâu và những sở ước của họ đặt ở đâu. Lời nói của chúng ta phản ánh tâm địa của chúng ta.
42. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
Luca bất ngờ lưu ý độc giả rằng họ đang đứng trước một dụ ngôn, từ này mời gọi tìm ý nghĩa các câu mà không dừng lại ở hình ảnh. Chúng ta thấy ở đây việc từ chối đoán xét người khác, bởi vì những lời nói khác nhau, riêng lẻ của Chúa Giêsu đã được tập họp lại bởi sự liên kết các ý tưởng với nhau. Sự thay đổi thể văn ở câu 39a là có ý nghĩa: nó được dùng để biểu lộ việc thay đổi các nhân vật mà các môn đệ phải tỏ ra nhân ái; sau kẻ thù bây giờ là anh em, là tha nhân trong cộng đoàn Giáo Hội.
Nhưng hãy chú ý! Không đoán xét không có nghĩa là đặt tất cả trên một bình diện (cc. 39-42)! Có nhiều Kitô hữu còn lâu mới trưởng thành trong đời sống Kitô giáo (x. 1Cr 3,1-3); vì người mù tối họ không có thể tự phụ hướng dẫn người khác đến ánh sáng trọn vẹn của niềm tin, cũng không thể phê bình người khác được. Cuộc sống của người tín hữu là một chuẩn bị dài lâu để trở nên hoàn thiện (được huấn luyện đầy đủ); cuối cùng môn đệ sẽ như Thầy là Chúa Kitô: Ngài nghĩ rằng mỗi người có thể hoán cải, thay đổi đời sống. Ước gì mỗi người học sống theo gương mẫu Chúa Giêsu để lòng thương xót của Ngài đối với tội nhân sẽ làm cho họ có khả năng hướng dẫn người khác. Ngoài ra, sẽ là đạo đức giả, là đóng kịch, khi rêu rao về một cuộc sống chính trực mà chính mình lại không dấn thân vào. Chỉ có một cuộc hoán cải liên tục, dẫn tới một cách hành xử đúng đắn, mới giải thoát ta khỏi mù loà và cho phép ta sửa đổi được cách sống của người khác.
Khi mời gọi ta ”quét dọn trước cửa nhà mình”, dụ ngôn cọng rơm và cái xà nhắc ta phải tốt trước đã rồi mới bảo người khác sống tốt được; nó cũng dẫn vào đề tài của các câu 43-49: người môn đệ đích thực phải có những hành vi phù hợp với đức tin của mình. Điều đặc biệt là động từ ”làm” (thực hành) trở đi trở lại năm lần, từ những cây sinh (làm ra) quả tốt (c.43) đến người đem ra thi hành (làm) –hoặc không- những lời của Chúa Giêsu (cc.46-47.49). Một cách có ý nghĩa, người ta thấy hai hạng người (hoặc hai loại cây) đối nghịch nhau, tốt và xấu, như trong các mối phúc.
Hai dụ ngôn về cây và quả, tiếp theo là việc áp dụng, bắt đầu bằng việc soi sáng cho những gì là cội nguồn của hành động (cc. 43-45). Như phẩm chất của trái cho phép lượng giá phẩm chất của cây, cũng vậy, tất cả những gì con người làm nảy sinh ra –cách sống của họ, điều tốt hoặc điều xấu, cũng như những lời họ nói- đều biểu lộ những gì ở tận thâm cung lòng họ. Vì không ai thấy và chỉ có Chúa biết, tâm hồn là một nơi định đoạt phần rỗi của con người, bởi lẽ chính nơi tâm hồn mình mà con người yêu hay ghét.
43. Chú giải của Fiches Dominicales
NHÌN VÀ HÀNH ĐỘNG NHƯ MÔN ĐỆ
ĐÍCH THỰC CỦA ĐỨC GIÊSU
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
l. Một cái nhìn sáng suốt và ân cần,
Hai tuần trước, với "các mối phúc" "những lời than" ta khai mào điện từ trong bình nguyên. Chúa nhật tuần rồi, ta tiếp tục với giáo huấn về tình yêu không giới hạn, tình yêu, như Chúa Cha giàu lòng thương xót, đến độ yêu thương cả kẻ thù Hôm nay, ta sẽ đọc đoạn kết gồm 4 câu riêng rẽ của Đức Giêsu mà Luca tập hợp lại do liên ý, rồi xếp chúng vào mục "các dụ ngôn".
Ba câu đầu nói về cái nhìn. Cái nhìn phải sáng suốt và trước tiên phải nhìn vào chính mình. Với tha nhân, cái nhìn phải ân cần.
Đó là những lời "chỉ nam" cho đời sống cộng đoàn. Vì đôi khi cộng đoàn trở nên mù quáng, lôi kéo những người khác sa ngã theo. Những lời đó cũng có thể nói cho các môn đệ, lúc nào cũng vội vàng xét đoán và chỉ trích người khác hơn là sửa đổi chính mình. Sẽ sai lầm nếu muốn trở nên nhân chứng của lòng xót thương mà lại có trái tim và ánh mắt không thương xót.
Hugues Cousin viết: "Sống đức tin là một cuộc chuẩn bị lâu dài để nên hoàn thiện" (“được đào tạo chu đáo ") theo câu ai cũng có thể hoán cải, thay đổi lối sống. Ước gì mọi người đều được đào tạo trong trường học Đức Giêsu để lòng thương cảm đối với người tội lỗi sẽ khiến họ có khả năng hướng dẫn người khác: Thật là giả hình đóng kín, khi ca tụng một con đường (chính trực mà bản thân không theo. Chỉ có sự hoán cải không ngừng nghỉ mới đưa tới nếp sống chân thực, giúp thoát khỏi cảnh mù tối và cho phép ta sửa lỗi người khác" (L'Evangile de Luc", Ccntunon, trg 98).
2. Một hành động thấm đẫm Tin Mừng:
Câu cuối cùng đề cập đến hành động của Kitô hữu: như ta biết "cây" nhờ "quả", cũng thế hành vị và lời nói bộc lộ cho thấy trái tim người Kitô hữu có thực sự thấm nhuần Tin Mừng không. Louis Monloubou bình luận rất xác đáng rằng: "Vì con người hành động theo bản chất của mình; dù giả dối, hành vi và lời nói cũng phản chiếu chính xác những gì sâu xa trong đáy lòng anh ta. Ai không có tinh thần Tin Mừng không thể nói ra những lời lẽ mang âm hưởng Tin Mừng". (“L’Evangile de Luc", Salvator, tr. 149).
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. Ánh mắt Đức Giêsu.
(Mgr. L. Daloz, trong "Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người", DDB, trg 50-51)
Anh mắt Đức Giêsu nhìn khác ta và Người mong ánh mắt ta cũng được đổi mới: sao cho ánh mắt ấy không phải là ánh mắt đui mù dẫn người khác sa vào hố sâu. Sao cho ánh mắt ta không bị cây xà che kín nhưng được sáng tỏ. Anh mắt Đức Giêsu, ánh mắt Thiên Chúa nhìn vào thực tế hiện hữu của ta, vào sự thực của nếp sống ta, là một ánh mắt khích lệ, khơi gợi, hoạt động. Lời lẽ mà ánh mắt ấy phiên dịch không chỉ là những chỉ dẫn cho trí khôn, nhưng đã trở nên lời lẽ động viên. Lời ấy dẫn đến hành động và xây dựng một đời sống mới trên nền đá vừng chắc. Khi nhìn ai, Người thấy trong đó hình ảnh Thiên Chúa, Cha của Người, Người thấy những đứa con. Người tỏ cho họ biết họ là ai và phải sống như thế nào để trở nên những người con đích thực của Cha".
2. Những người thực sự kiến tạo một thế giới mới.
(“Sách lễ các Chúa nhật Emmaus", trg l012).
Ai chẳng mong muốn kiến tạo một thế giới mới chan hòa mình yêu và bình an?
Nhưng rất nhiều khi, hành động vì thế giới của ta bắt đầu bằng phê phán kẻ khác.
Thế là ta đã tự động chiếm chỗ của Thiên Chúa phán xử. Làm thế, ta chỉ chà đạp những người chung quanh và loại mình ra ngoài cuộc chơi mà thôi. Cứ nghĩ mình ngay tình, cứ tưởng mình hành động cho việc thiện ích, ta tiếp tục gây chia rẽ.
Khi tố cáo giới chức quyền Do Thái, những kẻ thực sự phản chứng do thái độ của họ, Đức Giêsu kết án xu hướng bản năng của mọi người. Chúng ta ai mà chẳng kết án tha nhân, khi cứ tự coi chân lý của riêng mình như là Chân Lý viết hoa. Như thế ta chỉ là những tiên tri giả, phá huỷ thế giới mới mà ta tự hào là góp tay kiến tạo.
3. “Lời lẽ và con tim”.
(Mgr. L. Daloz, trong "Nước Trời đã đến gần" DDB. 1994, trg 182- 183).
"Điều nói ngoài miệng, tràn ra từ tâm hồn..."
Nhiều lần, Đức Giêsu đã phải lên tiếng về tầm quan trọng của lời nói.
Đức Giêsu mời ta khám phá lại nguồn cội của lời nói. Thật hữu ích khi nghe Người, nhất là trong thời buổi mà người ta dễ dãi cho rằng lời nói bay đi. Tìm lại tính chất nghiêm trọng của lời nói, nội dung và hệ quả của nó, là góp phần vào việc sám hối của Kitô hữu. Ngày nay lời nói thường hối hết mau qua. Đức Giêsu tái lập trách nhiệm của con người với lời nói. Người truy nguyên lời nói từ trái tim. Lời nói mang dấu ấn của người nói. Lời nói chứa chất những ý hướng và tình cảm của người nói, ngay cả khi lời nói trung dung hoặc diễn tả dưới hình thức thật khách quan: luật Rôma, luật Napôlêon đều mang dấu ấn tinh thần của thời đại họ sống và quan niệm của những nhà làm luật!... Tin Mừng soi sáng mọi hoàn cảnh, kể cả những hoàn cảnh hiện thực nhất. Lối so sánh mà Đức Giêsu sử dụng thật mạnh mẽ: so sánh cây và quả. So sánh mạnh mẽ và rất ý nghĩa, vì quả lớn lên nhờ nhựa cây nên quả chứa đựng nhiều phẩm chất cũng như những khiếm khuyết của cây...
Cũng vậy, lời lẽ không chỉ bên ngoài con người. Lời nói chính là sự bộc bạch của tâm hồn: "Và lòng có đầy miệng mới thốt ra". Lời nói cho biết con người, và những gì họ chất chứa trong lòng. Lời nói chứa đầy những tư tưởng, tình cảm, đam mê của người nói. Như thường lệ, Đức Giêsu kéo ta chú ý đến nội tâm con người. Người đi đến tận thâm tâm con người. Chẳng có luật lệ bên ngoài để xét xử lời nói. Chính lời nói biểu lộ phẩm chất, con người của họ. "Người tốt rút ra từ kho tàng tốt lành của mình những điều tối dẹp. Người xấu, rút ra từ kho tàng xấu xa của mình những điều xấu xa". Lời nói bộc bạch loại kho tàng mà người nói cất giấu trong mình.
44. Những điều kiện của lòng nhiệt thành
Bố cục: Có thể chia đoạn này thành 5 phần:
- cc 39-40: thí dụ về người hướng đạo mù.
- cc 41-42: thí dụ về cái xà và cọng rác.
- cc 43-44: thí dụ về cây và trái.
- câu 45: thí dụ về "kho tàng" trong lòng.
- câu 46-49: phải thi hành những lời dạy trên
Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu từng phần theo bố cục này.
DẪN NHẬP
Đoạn này là một phần của "Bài giảng trên cánh đồng" (6,17-49).
Bài này giảng cho ai? Cho các môn đệ (c.20 "Đức Giêsu ngước mắt nhìn các môn đệ và nói...").
Nội dung chính: Đức Giêsu dạy cách sống của người môn đệ.
Trong "Bài giảng trên núi" do Mt ghi lại, cách sống của người môn đệ chủ yếu là phải gương mẫu. (như muối ướp trần gian, như đèn tỏa sáng trước mặt mọi người, Mt 5,13-16). Còn trong "Bài giảng trên cánh đồng" do Luca ghi lại. Luca kể ra những điều kiện cần có để có thể là một môn đệ gương mẫu.
I - NGƯỜI HƯỚNG ĐẠO MÙ: 39-40
1) Phần này gồm hai câu nói của Đức Giêsu: c.39 "làm sao kẻ mù dắt được kẻ mù..." và c.40 "môn đệ không hơn Thầy được...".
Hai câu này được Mt ghi lại ở hai nơi khác nhau (Mt 15,14 và Mt 10,24) vậy có lẽ đây là hai logia, nghĩa là hai câu nói rời mà Đức Giêsu đã nói vào hai lúc khác nhau, nhưng ở đây chúng được Luca tập họp chung lại. Vì thế mà ta thấy sự liên hệ giữa chúng không được chặt chẽ, đưa đến một logic cũng lỏng lẻo.
2) Muốn cho có logic, có lẽ ta phải đảo ngược lại như sau:
- Trên nguyên tắc, môn đệ dốt hơn thầy.
- Do đó, nếu thầy mà mù quáng để dạy những điều sai lầm, thì môn đệ còn bị sai lầm hơn nữa.
- Người môn đệ của Đức Giêsu có trách nhiệm hướng dẫn kẻ khác (họ trở nên "thầy" của kẻ khác). Trước khi làm việc hướng dẫn này, họ phải cẩn thận đừng để mình bị sai lầm.
Muốn thế, một mặt họ phải cố gắng rập khuôn theo Đức Giêsu - Tôn sư của họ. Và mặt khác phải tự phê tự sửa trước khi phê bình và sửa chữa người khác.
3) Tóm lại: điều kiện thứ nhất của người môn đệ gương mẫu là phải sáng suốt bằng cách rập khuôn theo Tôn sư Giêsu và tự phê tự sửa.
II - CÁI XÀ VÀ CỌNG RÁC: 41-42
41 - Ngoài trách nhiệm hướng dẫn người khác theo đúng giáo huấn của Tôn sư Giêsu, người môn đệ đôi khi cũng phải sửa lỗi người khác ("lấy cái rác trong con mắt anh em ra"). Những câu trong phần này không cấm đoán việc sửa lỗi, trái lại chúng nói về việc sửa lỗi ấy.
- Nhiều khi việc sửa lỗi không được công bằng vì lý do thành kiến, tự ái, hồ đồ vv... khiến ta xem một lỗi nhỏ của người khác thành lỗi nặng. Ngược lại xem một lỗi nặng của bản thân như lỗi nhỏ. Cho nên để việc sửa lỗi được công bằng và hữu ích thì trước tiên không được sửa lỗi người khác do động cơ tự ái, thành kiến hoặc chỉ để chứng tỏ uy quyền.
42 - Nguy hiểm thứ hai phải đề phòng khi sửa lỗi người khác, đó là giả hình ("Thấy cái rác trong con mắt anh em mà không thấy cái xá trong con mắt mình"; "Hỡi kẻ giả hình"). Nghĩa là bên trong và bên ngoài của ta không hợp nhau: trong lòng mình xấu thế mà mình tỏ ra tốt và muốn sửa cái xấu nơi người khác. Vậy trước khi sửa người thì phải sửa chính mình ("Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ để lấy cái rác trong con mắt người anh em")
III - CÂY VÀ TRÁI: 43-44
1) Chỉ có thể tránh nguy hiểm giả hình nếu như hành động bề ngoài của ta hợp với bên trong của ta. Đối với biệt phái và luật sĩ, một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với Luật. Đức Giêsu sâu sắc hơn: một hành động là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt, một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.
2) Trên thực tế, lòng người không phải tuyệt đối hoặc tốt hoặc xấu, không ai hoàn toàn tốt mà cũng không ai hoàn toàn xấu. Thí dụ về cây và trái ở phần này xem ra không thực tế vì nó giả thuyết lòng người đơn thuần là tốt hẳn hoặc xấu hẳn.
Đây là kiểu nói đơn giản và cường điệu của Đức Giêsu để làm nổi bật bài học của Ngài và cũng dễ hiểu cho độc giả bình dân vốn không quen những phân biệt tế nhị của người trí thức.
IV - KHO TÀNG TRONG LÒNG: 45
1) Trong phần này, Đức Giêsu so sánh cõi lòng con người như một kho tàng. Nó là nơi xuất phát những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Từ kho tàng tốt thì sẽ phát ra những lời nói việc làm tốt. Bởi thế người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt.
2) Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì? Đó là những giáo huấn của Đức Giêsu.
V. PHẢI THI HÀNH: 46-49
Tất cả những lời dạy trên đều rất hay. Nhưng nếu chỉ có nghe suông thôi thì chẳng ích lợi gì, và người như thế cũng chẳng đáng là môn đệ Đức Giêsu. Họ chỉ như một cái nhà được xây trên cát mà thôi. Còn những ai chẳng những nghe mà còn thi hành thì mới xứng đáng là môn đệ Ngài, họ như cái nhà được xây trên đá vững chắc.
KẾT LUẬN
Người môn đệ của Đức Giêsu không phải chỉ là người chấp nhận thương yêu kẻ thù (đoạn trước: cc 27-36), mà còn phải là người nhiệt thành muốn cho người khác tiến bộ trên con đường tốt. Cho nên người môn đệ lo hướng dẫn người khác, đôi khi nếu cần thì sửa lỗi người khác. Nhưng trước khi hướng dẫn người ta thì mình phải sáng suốt theo sự hướng dẫn của Đức Giêsu. Trước khi sửa lỗi người khác thì mình phải tự sửa mình cho đúng với giáo huấn của Đức Giêsu.
45. Từ tự vẫn đến tự lực cánh sinh--Lm. Augustine SJ.
Cha Phêrô (tức Abbé Pierre Grouès sinh ngày 5.8.1912 tại thành phố Lyon, Pháp) là người sáng lập nên cộng đoàn Emmau lo giúp người nghèo, người vô gia cư theo chương trình tự lực cánh sinh, có kể câu chuyện về một người trở nên cộng sự viên đắc lực của cha như sau:
Đó là một người khi ra khỏi tù phải đi lang thang không nơi nương náu. Người đàn ông này thất vọng đến độ lấy dao cắt mạch máu ra! Có người phát hiện ra sự việc chẳng lành đó, liền gọi điện thoại cho cha Phêrô. Cha lập tức tới hiện trường. Nhìn người đàn ông cánh tay máu me chảy đầm đìa, cha Phêrô đã không lên tiếng an ủi mà còn ra lệnh cho anh: "Anh đừng tự vẫn! Có quá nhiều người kém may mắn đang cần tôi giúp đỡ. Tôi cũng đang bệnh và tôi cần anh giúp một tay!"
Những lời cha Phêrô nói vừa tới tai anh liền khiến cặp mắt lờ đờ của anh bỗng sáng lên! Anh để cho người ta băng bó vết thương. Rồi từ đó anh trở nên một trong những cộng sự viên đắc lực nhất của cha Phêrô.
Hình ảnh của cha Phêrô gợi cho thấy hình ảnh của chính Đức Kitô. Còn hình ảnh của người đàn ông lấy dao cắt mạch máu mình ra chỉ vì thất vọng, là hình ảnh của thế giới hôm nay mà Đức Giêsu đến để cứu thoát. Người muốn cứu thế giới loài người bằng cách huy động nơi con người, nguồn ơn chính Người ban cho họ. Họ không những cần cứu lấy bản thân mà còn phải nỗ lực cứu giúp nhiều người theo chương trình cứu nhân độ thế chính Đức Giêsu đứng ra thực hiện.
Băng bó những tấm lòng tan nát
Toàn bộ sách Tin Mừng của Luca là để cho thấy Đức Kitô thực hiện chương trình đó như thế nào. Ngay tại hội đưòng Nadarét, Người đã trích dẫn sách ngôn sứ I-sa-i-a cho thấy Người được sai đến với thế giới là để "Công bố một năm hồng ân của Chúa và băng bó những tấm lòng tan nát" (Is 61,1-2; Lc 4,18). Rồi khi Người đã qui tụ được một số môn đệ và chọn trong số họ mười hai Tông Đồ, tượng trưng mười hai chi tộc của Dân Mới của Thiên Chúa, thì Người giảng bài giảng quan trọng về các mối phúc thật. Đó là lúc Người xuống núi cùng với các môn đệ trong đó có mười hai người mới được chọn làm Tông Đồ. Người dừng lại ở một chỗ đất bằng và đoàn lũ dân chúng từ khắp nơi tuốn đến, kể cả vùng duyên hải Tia và Xiđon ngoại đạo. Thế mà Luca cho thấy Đức Giêsu ngước mắt lên "nhìn các môn đệ và nói với họ" (Lc 6,20) về các mối phúc! Điều đó cho thấy điều kiện tiên quyết để được hạnh phúc thật là phải sống gắn bó với bản thân Đức Kitô trong tư cách là môn đệ của Người. Ai đã được gọi làm môn đệ thì phải duy trì và tăng triển trong ơn đó. Những người hãy còn "chân ướt chân ráo" lần đầu tiên tiếp cận với lời rao giảng của Đức Kitô, họ cũng cần phải có thái độ sẵn sàng bước theo Người, thì mới lãnh hội được điều Ngưòi giảng dạy.
Vậy trong bài giảng quan trọng "nơi đồng bằng" Đức Giêsu lần lượt công bố cho thấy
- Những mối phúc thật và những bất hạnh (Lc 6,20-26)
- Phải yêu kẻ thù để trở nên con Đấng Tối Cao (cc.27-35)
- Đề tài của bài Tin Mừng hôm nay (cc.39-45)
- Phần kết là phải thực hành lời Đức Giêsu dạy (cc.46-49)
Quả thật mối giây liên lạc giữa các câu 39-45 của bài Tin Mừng hôm nay xem ra không được rõ theo ý kiến của nhiều nhà bình giải Kinh Thánh.
Mù lại dắt mù sao được
C.39: "Đức Giêsu còn kể cho môn đệ dụ ngôn này…" Thực ra Người kể 5 dụ ngôn liên tiếp. Mỗi dụ ngôn chỉ là một so sánh ngắn đòi người ta phải suy nghĩ về ẩn ý ở trong đó
Mù lại dắt mù sao được? Mt 15,14 cũng dùng hình ảnh này để áp dụng với người Pharisêu là người dẫn dắt dân chúng đi lạc đường. Ở đây Luca áp dụng hình ảnh "người mù" với các môn đệ và đòi hỏi họ phải sáng suốt trong vai trò lãnh đạo cộng đoàn.
C.40: Đồ đệ không hơn Thầy: câu này có thể được nối kết với câu trước bằng mối giây được hiểu ngầm. Thử hỏi khi nào người môn đệ Đức Kitô được kể là sáng suốt, tức không bị mù quáng? Thưa: đó là lúc người ấy chấp nhận giáo huấn của Thày Giêsu một cách đầy đủ, với niềm thâm tín rằng mình luôn phải cố gắng hơn nữa, không bao giờ được dừng lại trên đường theo sát gót bước Thày.
Tại sao chỉ thấy rác nơi mắt người khác?
C.41-42: Tại sao anh chỉ thấy cái rác nơi con mắt người anh em?… Phải sáng suốt, đó là điều người môn đệ Đức Kitô phải áp dụng cho chính bản thân mình trước đã. Anh phải nhận thấy chính mình cần phải được sửa chữa khi tra tay sửa chữa người khác.
Lời dạy của Đức Kitô ở đây gây nên vấn đề là: nếu mọi người đều phải đấm ngực ăn năn về những lỗi lầm của mình, tức là còn có "rác cả đống" nơi con mắt mình, thì có được lo chuyện sửa chữa anh em mình qua việc rao giảng, huấn dụ và khuyên bảo họ chăng? Chưa sửa chữa mình xong mà cứ còn tiếp tục làm những chuyện đó thì có sợ mình trở nên "người đạo đức giả hình" theo bài Tin Mừng hôm nay chăng? Vấn đề vừa nêu càng trở nên gay cấn đối với thế hệ trẻ ngày nay là thế hệ đòi mọi người phải sống thực với mình. Cần phải thống nhất lại đời sống. Bên trong ăn khít với bên ngoài. Đó là những điều kiện phải có để người ta tin.
Nóng như lửa trở nên dịu hiền!
Vài điều suy nghĩ sau đây có thể là cần thiết:
(1) Chúng ta có gương của các thánh tông đồ, như thánh Phaolô rất ý thức về sự bất toàn của mình (Phi.3,12; 2Co 9,7) nhưng ngài vẫn tiếp tục thi hành bổn phận rao giảng. (2) Thực ra, người lo thừa tác vụ rao giảng chẳng bao giờ được quyền tự đắc cách chung hay cách riêng về đề tài mình trình bày. Ngược lại, phải nói rằng người đó giảng cho chính mình trước khi rao giảng cho người khác. (3) Ai không lo sửa mình thì sớm muộn sẽ bị anh em chỉnh. Chính thánh Phêrô đã bị tông đồ Phaolô chỉnh trong thư cho Ga-lát 2,11-14. (4) Chư thánh nêu gương cho chúng ta về việc rao giảng chống lại những tật xấu mà chính các ngài phải đối phó. Thánh Phanxicô Salêsiô trước nóng như lửa sau trở nên con người hết sức dịu hiền. Thánh Inhaxiô Lôi-ô-la mở ra cả một lối sống khiêm nhường theo bề sâu trong Linh Thao khi chính ngài phải đối phó với tính kiêu căng cả thể. Riêng thánh Âu-tinh đã giảng về khiết tịnh sau khi chính ngài đã từ bỏ con đường đam mê xác thịt.
C.43-45: Cây tốt không sinh trái hư thối… Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau mới tránh được cái gọi là đạo đức giả hình, là điều mà Đức Giêsu luôn chống đối. Nuôi dưỡng ý xấu ở trong lòng sớm muộn sẽ phát sinh ra hành động xấu cũng như cây xấu sẽ sinh ra trái hu thối vậy.
Bật lên tia sáng ở cuối đường hầm
Trở lại câu chuyện cha Phêrô cứu sống con người thất vọng muốn tự huỷ mình. Khi cha Phêrô lên tiếng nói với người ấy "Anh đừng tự vẫn! Có quá nhiều người kém may mắn đang cần tôi giúp đỡ. Tôi cũng đang bệnh và tôi cần anh giúp một tay", lời đó bật lên như một tia sáng ở cuối đường hâm. Lời cha Phêrô thực là trong suốt cho thấy giá trị sự sống của một con người đang sa xuống vực thẳm. Anh cần bước ra khỏi đó vì có nhiều người cần đến anh. Cha Phêrô thực đã thực thi lời Chúa vì biết tránh tình trạng người mù dắt người mù thì cả hai đều sa xuống hố (c.39); ngược lại người sáng mắt là kẻ có khả năng kéo người mù bước ra khỏi vực thẳm.
Cha Phêrô là con người thao thức, luôn cố công theo sát gót bước thầy chí thánh là Chúa Giêsu. Chào đời vào ngày 5.8.1912 tại thành phố Lyon nước Pháp trong một gia đình có 8 người con, mà cha Phêrô là người con thứ 5. Ở tuổi 19, cậu Phêrô đã gia nhập dòng Anh Em Hèn Mọn Ca-pu-xi-nô của thánh Phanxicô Á-xi-di và đã chịu chức linh mục ở tuổi 26. Nhưng vì sức khỏe không cho phép, nên cha đã sống đời linh mục triều. Cha luôn đứng về phía người nghèo và người bị áp bức. Tại nhà thờ chánh toà thành phố Gơ-nốp (Grenoble) cha đã từng bao che cho người Do Thái bị lính Quốc Xã của Hít-le bắt bớ. Năm 1949 cha thiết lập nên cộng đoàn E-mau để giúp những người nghèo và người vô gia cư tự lực cánh sinh. Cha là người có thể hiểu thấu lời Chúa dạy hôm nay là "Học trò không hơn thày, có học hết chữ cũng chỉ bằng thày mà thôi" (c.40).
Lòng có đầy thì miệng mới nói ra
Khi kêu gọi kẻ thất vọng đang tìm đường hủy diệt mạng sống mình, cha Phêrô đã tế nhị xin người đó giúp đỡ mình làm việc thiện để giúp đỡ những người khác không được may mắn trong cuộc sống. Làm như vậy là cha đã thực thi lời Chúa dạy ở cc.41-42. Quả thật, cha đã khéo léo khơi dậy lòng thương người nơi đương sự thay vì lên án đương sự. Vì chính cha luôn nuôi dưỡng lòng thương người nên miệng mới dễ dàng nói lên được điều tốt lành có sức cứu sống một người đang tìm cách tự hủy mình (c.45).
46. Suy niệm của Lm. Damien, OFM.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn người mù và cái rác cái xà để dạy các môn đệ phải nhìn lại chính mình trước khi nhìn kẻ khác; và dụ ngôn xem trái thì biết cây, để dạy các môn đệ cách phân biệt kẻ lành với người bất lương.
Mù lại dắt mù.
Phải chăng khi dùng dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu muốn nhắm đến những Biệt phái và kinh sư Do thái? Họ mù đối với Thiên Chúa vì không nhận ra Ngài là con Thiên Chúa. Họ mù đối với con người vì chỉ đánh giá con người trên luật lệ bề ngoài nhưng lại thiếu lòng nhân ái. Họ mù đối với chính cuộc sống của họ vì họ chỉ chú trọng đến cái bên ngoài mà bỏ quên tâm hồn mình: "Các ngươi như mồ mả,bên ngoài thì sơn phết tốt đẹp, nhưng bên trong thì thối tha."
Ở trong tình trạng mù đó, làm sao họ lại có thể dẫn dắt kẻ khác được: "Mù mà lại dắt mù, cả hai sẽ sa xuống hố".
Cái rác và cái xà.
Trong dụ ngôn nầy cũng thế, Chúa Giê-su nhắm đến những kinh sư và Biệt phái, những kẻ tự cho mình là công chính vì đã giữ đúng luật lệ bề ngoài . Trước người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Chuá Giêsu đã lột mặt nạ họ bằng một câu ngắn gọn: "Ai thấy mình không có tội thì ném đá chị ấy trước đi!" Khi nhìn rõ chính mình, họ liền rút lui có trật tự .
Chúa Giêsu luôn là mục tiêu để Biệt phái và kinh sư rình mò và giăng bẩy để bắt bẻ và lên án: Chúa có vi phạm luật sabbat không, có nói lời phạm thượng không... Và trước các phép lạ hiển nhiên không chối cãi được, họ tìm cách cắt nghĩa sai với ác ý và cố chấp: ông ấy lấy quyền qủi cả mà trừ quỉ. Thái độ hay bắt bẻ , dò xét và sẵn sàng lên án của Biệt phái và Kinh sư hoàn toàn đi ngược với thái độ khoan dung của Chúa Giêsu . Và cuối cùng họ như đã thắng vì họ đã lên án tử được cho Chúa.
Tục ngữ Ba tư có câu: " Mỗi người chúng ta đều mang trên mình hai cái giỏ rác, dỏ rác của mình thì mang sau lưng còn dỏ rác kẻ khác thì mang trước ngực, nên chỉ ngửi thấy mùi hôi thối của kẻ khác mà không bao giờ ngửi thấy mùi hôi thối của chính mình.
Khi suy gẫm những dụ ngôn trên đây, tôi thấy lời Chúa như một luồng ánh sáng chiếu dọi vào cuộc sống của tôi, cũng như vào xã hội mà tôi đang sống. Và tôi không được an tâm lắm . Bởi lẽ nhiều khi vô tình hay hữu ý, tôi cũng sống thiếu lòng nhân ái, cũng có những thái độ hay lời lẽ chỉ trích phê bình hoặc lên án kẻ khác một cách dễ dàng. Những xích mích giữa người với người, trong gia đình, trong cộng đoàn, trong xóm giềng hầu hết là do thái độ tiêu cực trên đây mà ra. Và có lẽ tôi phải luôn lặp lại cho chính mình lời dạy của Chúa: "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng".
Xem trái thì biết cây.
Với dụ ngôn nầy, Chúa Giêsu dạy các môn đệ cách phân biệt người tốt và người xấu: "Lòng có đầy ứ thì miệng mới nói ra". Trái đây là lời nói, căn cứ vào lời nói mà phân biệt kẻ tốt người xấu . Chúa Giêsu cũng đang nhắm đến những người Biệt phái và Kinh sư Do thái là những người luôn rình chực bắt bẻ, lên án Chúa cũng như kẻ khác. Vì tâm địa họ xấu.
Trong xã hội hôm nay, tật xấu mà Chuá Giêsu đề câp đến trên đây chưa phải là hết mà hình như còn gia tăng nữa là đàng khác. Một sự thật hiển nhiên là hễ khi đề cập đến kẻ khác thì không mấy khi nghe nói tốt mà phần nhiều chỉ nghe nói xấu: "Lòng có đầy ứ thì miệng mới nói ra."
Khi suy gẫm lời Chuá trên đây, một lần nữa, tôi cũng không được an tâm cho lắm. Nhiều khi vô tình, tôi cũng không tránh được những lời nói hay thái độ thiếu lòng nhân ái khoan dung đối với kẻ khác. Tôi không có quyền chê trách ai cả, vì chính tôi cũng đang phạm phải cái sai lầm của Biệt phái và Kinh sư xưa.
Lời Chúa luôn là ánh sáng, đang cật vấn tôi và thúc dục tôi phải cố gắng bắt chước Đức Kitô, sống khoan dung như Cha trên Trời.
Tiêu diệt kẻ thù.
Một hoàng đế Trung Hoa nói: " Một khi chinh phục được quốc gia ấy rồi, ta sẽ tiêu diệt hết tất cả địch thù của ta."
Ông đã chinh phục được như lời ông nói. Cả đình thần ai cũng hồi hộp chờ đợi lệnh thảm sát của ông. Họ xì xầm: máu sẽ chảy thành sông! Nhưng họ rất bỡ ngỡ khi thấy tất cả bọn địch thù cùng ngồi ăn với nhà vua, nói nói cười cười rất vui vẻ; họ bèn tâu:
- Muôn tâu hoàng thượng, hoàng thượng đã nói sẽ tiêu diệt tất cả các địch thù kia mà! Sao lại thế nầy? Vị hoàng đế trả lời:
- Thì ta đã tiêu diệt hết cả bọn rồi còn gì, các khanh không thấy sao? Đây toàn là bạn của ta, đâu có địch thù nữa đâu. Ta đã tiêu diệt họ bằng cách biến thù thành bạn.
Đó là cách Thiên Chuá đã tiêu diệt kẻ thù của Người, và vũ khí là lòng nhân hậu.
47. Suy niệm của Lm. Trọng Hương
A. Hạt giống...
Trong đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu dạy cho môn đệ mình 3 điều:
- Dụ ngôn người hướng dẫn mù và cái xà trong mắt: Nếu người môn đệ Chúa mà mù quáng thì sẽ dẫn người khác đi vào sai lầm. Bởi thế, trước khi sửa lỗi người khác, mỗi người hãy tự sửa lỗi của mình.
- Dụ ngôn Cây và Trái (cc 43-44): Chỉ có thể tránh nguy hiểm giả hình nếu như hành động bề ngoài của ta hợp với bên trong của ta. Đối với biệt phái và luật sĩ, một hành động được coi là tốt khi nó phù hợp với Luật. Chúa Giêsu sâu sắc hơn: một hành động là tốt, khi nó hợp với một tâm hồn tốt, một tâm hồn tốt sẽ sinh ra những hành động tốt.
- Dụ ngôn kho tàng trong lòng (c 45): Chúa Giêsu so sánh cõi lòng con người như một kho tàng. Nó là nơi xuất phát những lời nói và việc làm hoặc tốt hoặc xấu. Từ kho tàng tốt thì sẽ phát ra những lời nói việc làm tốt. Bởi thế người môn đệ phải liệu làm sao cho kho tàng lòng mình chứa đầy những điều tốt. Những điều tốt phải chứa trong kho tàng lòng mình là gì? Đó là những giáo huấn của Chúa Giêsu.
B.... nẩy mầm.
1. Thấy lỗi người khác mà không thấy lỗi của mình; phê phán người khác mà không tự phê phán mình. Đó là thứ mù quáng và giả hình mà Chúa Giêsu nhiều lần cảnh cáo bởi vì ai cũng dễ mắc phải. Những người ưu tú nhất thời Chúa Giêsu là biệt phái và luật sĩ đã mắc phải một cách nặng nề đến vô phương cứu chữa…. Huống chi tôi. Chắc chắn tôi đang bị hai thứ bệnh mù quáng và giả hình này. Chỉ cần xét mình một chút là tôi sẽ nhận ra ngay.
2. Tôi xét đoán anh chị em tôi hầu như suốt ngày, còn thời gian dành để tự xét đoán mình chỉ chừng 10 phút, mà nhiều khi tôi cũng để nó trôi qua một cách trống rỗng.
3. Một chiếc đồng hồ chạy sai có thể do rất nhiều nguyên nhân bên trong bộ máy. Muốn xét đoán đúng, thì chẳng những xem hiện tượng bên ngoài mà còn phải hiểu rất rõ những nguyên nhân bên trong. Bởi vậy, có thể nói, kẻ "có gan cùng mình" mới dám xét đoán. Thiên Chúa thấu hiểu mọi ngọn nguồn nhưng cũng không muốn xét đoán: trong chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu đã nói "Tôi không kết án chị đâu"; trong dụ ngôn lúa và cỏ lùng, Ngài nói Ngài vẫn chờ đến phút cuối cùng mới đưa ra lời xét đoán của Ngài.
4. Tôi dễ đưa ra những lời xét đoán, nhưng tôi có nghĩ tới hậu quả của việc tôi làm không? Một quan tòa kết án sai thì sẽ khiến nạn nhân chịu khổ oan trong một thời gian lâu dài. Khi xét đoán, tôi cũng là quan tòa, sao tôi không nghĩ tới nỗi oan của người khác nếu tôi sai?
5. "Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới?" (Lc 6,41)
Truyện kể về một viên tướng, sau khi xông pha trận địa và lập được nhiều chiến công, được nhà vua mở yến tiệc khoản đãi. Trong bữa tiệc, viên tướng vì quá vui đã xúc phạm đến một trong các cung phi. Thế là mọi người đua nhau lên án. Lúc đó, mọi công trạng của ông hầu như biến mất. Trước mắt mọi người, ông chỉ là một tội nhân.
Nói xấu anh em thật dễ lỗi phạm biết bao. Những người ở đó quên rằng chính họ lắm khi còn tệ hơn thế nữa. Và chính bản thân tôi vẫn còn đầy những thói hư tật xấu. Khi lên án, chỉ trích anh em, tôi làm như thể mình vô tội. Thực ra đó chỉ là cái đà lớn che đi con người của tôi mà thôi.
Lạy Cha, con xin đến với Cha như những gì con là, chứ không "tô sơn điểm phấn" (Hosanna)
6. Về dụ ngôn cây và trái: muốn có trái thì phải chăm sóc cây, đó là một quy luật hết sức căn bản mà ai cũng biết. Thế nhưng tôi thường chỉ lo đến những thể hiện bề ngoài chứ không lo bồi dưỡng chính tâm hồn mình.
7. Về kho tàng trong lòng: tôi cũng thường "kiểm kê tài sản" xem mình đang có bao nhiêu tiền, bao nhiêu món đồ v.v. Hôm nay tôi hãy kiểm kê kho tàng trong lòng xem hiện giờ có được những gì.
48. Vạch lá tìm sâu--Huệ Minh
Tin Mừng Lc 6: 39-45 Nhận ra mình tội lỗi đã là khó, nhận ra mình giả dối còn khó gấp bội, bởi vì người đạo đức giả lại cho mình đạo đức hơn ai hết, người giả dối lại nghĩ mình trung thực không ai bằng.
Trong cuộc sống thường nhật, ta dễ thấy con người chúng ta dễ có khuynh hướng khen, chê và phán xét người khác. Ta phán xét người khác có thể bằng lời nói, bằng cử chỉ, hoặc đôi khi chỉ là nghĩ thầm trong bụng về chuyện này chuyện khác của người ta.
Vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết, đó là căn bệnh thâm căn cố đế của con người. Ai cũng thích làm cảnh sát quốc tế để theo dõi rình rập bắt bớ. Tối ngày cứ tìm cách phạt người nầy, lại phạt tới người kia, mà mình thì dính nhiều tội lỗi, sao mình không tự phạt mình đi, vẫn tốt hơn là tìm cách phạt người!
“Sao anh thấy cái rác trong mắt anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới” (Lc 6, 41). Người ta thường rất hà tiện trong lời khen ngợi, nhưng lại quảng đại trong tiếng chê bai. Có thể nói một trong những tội con người dễ phạm nhất: đó là hay xét đoán, nghĩ xấu, nghĩ sai cho người khác.
Để có đôi mắt trong sáng, chúng ta không nên nhìn vào đôi mắt kẻ khác để thấy “cái rác” trong đó, hay “bới lông tìm vết” để xét đoán, chỉ trích họ, nhưng hãy nhìn vào chính đôi mắt tâm hồn mình, để thấy “cái đà” của kiêu căng tự mãn, của phô trương giả hình, để thanh lọc cho nên trong sáng. Vì người xưa có câu “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng”, nên việc nhìn lại chính mình để tự kiểm thảo luôn là điều cần thiết của mỗi tín hữu Kitô, nhất là những việc lãnh đạo, hướng dẫn các tâm hồn. Triết gia Chilon cũng cho chúng ta một luật sống bất hủ: “Hãy tự biết mình”. Thánh Âu-tinh thường cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con”.
Biết mình thường hèn yếu lỗi lầm để đừng bao giờ khắt khe lên án anh em.
Biết mình hay che đậy giả hình để cảm thông dung thứ cho kẻ khác.
Biết mình thích phô trương háo thắng để đừng phê phán nhạo báng một ai.
Hẳn còn nhớ có một người nói rằng: Những kẻ may mắn thường là những người có tâm hồn lạc quan vui vẻ, họ có thói quen nhìn vào mặt tích cực của sự việc và vào điều tốt của kẻ khác. Trái lại, những kẻ bất hạnh thường có thái độ tiêu cực, thù hằn, họ thích nhìn vào điều tồi tệ nơi kẻ khác, họ rất ham chỉ trích, và ưa “vạch lá tìm sâu”.
Thói quen xấu của nhiều người đó là khi ngồi lại với nhau để chuyện trò, chúng ta thường có khuynh hướng khoe những điều tốt về bản thân mình bằng cách so sánh cái tốt của mình với cái dở của người khác, còn những cái dở, cái xấu của mình thì cố giấu cho bằng được. Gắn với xét đoán tiêu cực người khác thường là một thái độ ganh tị, đả phá, trả thù cho bõ tức. Còn khi nhận xét để góp ý cho người khác sửa sai, tránh lỗi lầm, thì bao giờ ta cũng dễ dàng có sự bao dung, nhẹ nhàng trong cử chỉ và lời nói.
Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: “Cây tốt thì sinh trái tốt, cay xấu thì sinh trái xấu” (Lc 6,43). Lời nói việc làm của người tín hữu Kitô chỉ có thể sinh hoa kết trái tốt tươi, nếu siêng năng suy niệm và thực hành Lời Chúa. Đời sống của chúng ta chỉ có thể “phát xuất ra sự lành” nếu chúng ta được nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Chúa vì Lời Chúa là lời yêu thương và Mình Chúa là Bí tích tình yêu. Những ai sống trong vị kỷ, xét đoán, chỉ trích và thù hằn, kẻ ấy sẽ chết trong bóng tối gian ác của chính mình.
Muốn làm thầy người khác thì trước hết phải biết mình. Biết mình với những tính xấu, tật hư để tự sửa sai bản thân mình: “Tiên trách kỷ” sau đó mới có thể làm thầy, sửa dạy người khác “hậu trách nhân”. Nếu không biết mình để tu thân thì giống như Chúa Giêsu nói: “Mù dắt mù” thì kết quả là cả hai thầy lẫn trò sẽ sa xuống hố.
Đôi mắt của chúng ta thường dùng để nhìn người khác chứ ít khi nhìn mình. Do đó, chúng ta ít thấy lỗi lầm của mình, nhưng lại dễ dàng nhận ra những sai sót của tha nhân: “Sao anh lại có thể nói với người anh em: 'Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra', trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình?”. Trong nhà thờ, người Công giáo hay đấm ngực mình: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng", nhưng khi ra ngoài nhà thờ thì đấm ngực người khác: “Lỗi tại nó…”.
Chúa Giêsu không ngại quở trách những người không “biết mình”, mà chỉ soi mói anh em giống như những Pharisêu, luật sĩ là những kẻ giả hình: “Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy cái rác trong con mắt người anh em!”.
Khi chúng ta phát hiện ra những lỗi lầm của người khác, trước tiên ta phải nên can cảm thừa nhận lỗi lầm của mình, rồi phải quán xét tự thân, phải tự mình sám hối, như thế khả dĩ tâm ta sẽ lần hồi trong sáng trở lại, vì không bị phiền não che lấp.
Tại sao chúng ta hay nói lỗi lầm của người khác, mà không nói lỗi của chính mình, bởi vì tâm thị phi ở trong ta quá nhiều. Khi phát hiện ra vấn đề nhạy cảm của người khác, thì phiền não trong ta tự dấy lên làm mình bị dính mắc đủ thứ các điều tốt xấu.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô bảo rằng “những ai phán xét anh chị em mình, nói xấu anh chị em mình thì họ chính là kẻ giả hình vì họ không đủ can đảm nhìn lại những thiếu sót, lỗi lầm của bản thân mình.” Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay thì nói trực tiếp vào vấn đề hơn: “Sao người nhìn thấy cái rác trong mắt anh em, còn cái đà trong chính mắt ngươi thì lại không thấy?… Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt mình trước đã, rồi bấy giờ ngươi sẽ trông rõ để lấy cái rác khỏi mắt anh em ngươi”
Thiên Chúa là Đấng thương xót dân Ngài. Ngài rung động trước nỗi khổ của dân, và Ngài đáp cứu họ. Thiên Chúa tỏ cho dân biết Ngài là Thiên Chúa giầu lòng thương xót, quan tâm đến dân, muốn giải phóng dân thoát khỏi mọi nỗi khổ đau. Thiên Chúa rất gần con người, Ngài luôn ở bên con người để có thể nghe được tiếng họ kêu xin. Thiên Chúa là người kề cận, là người bạn, người anh, người cha và người mẹ đối với con người.
Nhận ra mình tội lỗi đã là khó, nhận ra mình giả dối còn khó gấp bội, bởi vì người đạo đức giả lại cho mình đạo đức hơn ai hết, người giả dối lại nghĩ mình trung thực không ai bằng. Chúa Giêsu khiển trách những người giả hình, giả đạo đức bằng những lời có sức đánh động như thế, may ra họ thức tỉnh và nhận ra chân tướng của mình chăng!
Ông bà thường bảo: “Nhân vô thập toàn”. Ai cũng có những khiếm khuyết nhưng cuộc sống sẽ kém vui nếu ta luôn xét nét “vạch lá tìm sâu”. Vậy thì, có những chuyện đã thấy, đã gặp dù không hài lòng nhưng hãy bình tĩnh suy xét, liệu nó có ảnh hưởng đến “hòa bình thế giới”? Nếu không đáng thì hãy nhìn nhận độ lượng hơn, cảm thông hơn chứ lúc nào cũng xét nét khắt khe, thì ai chịu cho thấu?
49. “Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã!”--Nt. Anna Têrêxa Thiên Hoàng
1. Theo lẽ tự nhiên, đôi mắt được dựng nên, được đặt ở phần trên và phía trước thân thể với nhiệm vụ dẫn đường. Mắt luôn hướng về phía trước và giúp con người tiến về phía trước. Những ai bước lui mà không quay đầu lại, hướng mặt về phía mình đang tới, ắt sẽ khó đi đúng đường, khó tránh được vật cản,...nếu không muốn nói là sẽ gặp tai nạn.
Chúa Giêsu trong trích đoạn Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay dùng hình ảnh đôi mắt nhằm thức gợi ta về sự tối sáng tâm linh. Trạng huống linh hồn được ví với đôi mắt mù hoặc tỏ nơi con người. Khi quá bận tâm đến việc sửa lỗi tha nhân, tỏ ra mình hiểu biết, giỏi giang, rành lẽ thiện,...thì khả năng người ấy bị mù lòa tâm hồn là chắc chắn. Người mù đi đứng rất khó khăn, huống gì là dẫn dắt người khác. Người không hiểu gì về thản thân rất khó mà thành nhân, nói chi việc giúp tha nhân trưởng thành.
2. Là Kitô hữu, ta được mệnh danh là muối và ánh sáng nhằm ướp đời bằng Men Tin Mừng và chỉ lối anh chị em tiến về Quê Thật. Thành ra, sẽ chẳng ai muốn mình bị coi là kẻ mù lòa tâm linh, cũng không ai thích mình bị chê là kẻ giả hình hoặc hợm hĩnh trước mặt Chúa và tha nhân. Nhưng để đời mình tỏa sáng như ánh rạng dầu đèn, để lối sống của ta đủ sức hấp dẫn và gọi mời anh chị em bước theo đường thật, thì hẳn mỗi người phải trải qua hành trình dài thao luyện và chiến đấu.
Đó là hành trình tin nhận Chúa Giêsu là niềm hy vọng duy nhất của bản thân và thế giới; là mong ngóng đón nhận ân sủng, lòng xót thương và bình an do Người ban tặng; là chuyên cần dưỡng nuôi đức tin và đức mến nhờ kết hợp với Người trong tĩnh lặng, kinh nguyện và các bí tích;... Như thế cũng có nghĩa là ta cần có đức tin khiêm hạ, lòng mến thẳm sâu và đức cậy của kẻ hèn mọn đối với tình yêu toàn năng tuyệt đối của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đi trên trục lộ khiêm nhường, ta có nhiều cơ hội nhận ra những thiếu sót, lỗi tội và hèn yếu bản thân; nhận ra lời gọi mời yêu thương, lòng bao dung và ân sủng ngập tràn Chúa ban để ta can đảm tẩy luyện hồn mình, tựa hồ như nỗ lực lấy những cái xà ra khỏi mắt mình trước đã.
3. Ta bắt gặp vóc dáng lời dạy của Chúa Giêsu hôm nay trong câu Hán ngữ tiên trách kỷ, hậu trách nhân, nhưng sứ điệp Tin Mừng lại vượt lên bộ nguyên tắc ứng xử thế thái nhân tình của cổ nhân, đặt người nghe trước tính cấp bách và quyết liệt của sự chọn và xác tín rằng: môn đệ Đức Giêsu thì sẵn sàng nhìn lui. Phải, cần nhìn lui để ta nhận rõ lỗi tội nào đang đeo đẳng khiến tâm linh ta dễ lu mờ hoặc mù tối; cần nhìn lui để tận dụng nhiều hơn những cơ hội sửa mình; cần nhìn lui để dễ nhận ra sự hiện diện của Đấng ưa thích tỏ hiện nơi bí ẩn, nơi thanh nhẹ nhất của tâm hồn để thu nhận sự dẫn dạy của Người. Cần nhìn lui để thấy ta không về trời một mình, mà còn mang trách nhiệm về phần rỗi của anh em, để thấy ta sẽ chu toàn việc dẫn đường cho ai bước về thiên cung khi ta tỏa sáng đời mình bằng ánh nến nhỏ bền của lòng trung tín sắt son, sự khiêm cung sâu thẳm và đức ái say nồng.
Tôi, bạn và anh chị. Ta cùng khiêm cung mở lòng mời Chúa Giêsu ngự vào và xin Người cho ta biết khả năng nhìn lui của ta đang ở mức nào, rồi thành tâm xin Người chỉ dạy.
4. Lạy Nguồn Sáng vô biên, lạy Tình yêu vô tận. Con kính dâng Người lời tri ân thẳm sâu nơi đáy hồn con. Người cho con một lương tri biết biện phân ác thiện. Người cho con một quả tim biết khao khát yêu thương chân thành và một ý chí khao khát vượt thắng những trì kéo của ba thù. Xin tha thứ cho những lần con để lòng xa Chúa; những lần con ngạo nghễ nhận xét, chỉ bảo và lên lớp anh chị em; những lần con hợm hĩnh tiếm quyền Chúa mà xét đoán họ;… Xin thương lấy sự thật của Lời Vĩnh Cửu mà hướng dẫn và thánh hiến con. Xin chỉ dạy con bằng tình thương nhẫn nhịn của Chúa. Xin dùng ánh sáng và sức mạnh từ ngọn lửa Trái Tim Chúa mà giúp con nhận chân con người thật của con và giúp con tiến bước trên hành trình hóa thánh. Amen.
26/02 Điều kiện vào Nước Thiên Chúa
- Viết bởi Mc. 10, 13-16
Điều kiện vào Nước Thiên Chúa.
Thứ Bảy tuần 7 thường niên.
"Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó".
Lời Chúa: Mc. 10, 13-16
Khi ấy, người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ.
Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: "Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những người giống như chúng.
Thầy bảo thật các con: Ai không đón nhận nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó". Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ngài ôm các trẻ em
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu với trẻ em.
Chắc các em còn nhỏ nên cần có người đưa các em đến với Ngài.
Đó có thể là cha mẹ hay một người trong gia tộc.
Những người đưa các em đến phải có lòng tin vào Đức Giêsu.
Họ đưa con của họ đến gặp Đấng mà họ tin là Người của Thiên Chúa.
Họ không mong Thầy Giêsu chữa bệnh hay cho con mình bánh kẹo.
Điều họ mong là được Ngài chạm tay vào chúng (c. 13).
Một cái chạm tay rất nhẹ của Thầy, một cái chạm nhẹ của Thiên Chúa.
Họ mong có sự tiếp xúc giữa chính tay Thầy với thân xác con cái họ.
Ơn phúc lành đến qua tay, qua sự tiếp xúc đơn sơ.
Thầy Giêsu rất vui lòng làm chuyện đó.
Nhưng các môn đệ lại không nghĩ như vậy.
Họ nghĩ chơi với trẻ em chỉ tổ mất thì giờ, bị quấy rầy vì ồn ào, lộn xộn.
Vả lại, trẻ em thì đâu có xứng đáng để được gặp Thầy.
Bởi vậy họ đã ngăn cấm không cho các em đến với Đức Giêsu.
Nói chung họ vẫn chưa hiểu ra bài học mới đây của Thầy (Mc 9, 36-37).
Khi thấy các môn đệ ngăn cản, Thầy Giêsu đã nổi giận thực sự.
Chắc Ngài giận vì không hiểu được sao các ông vẫn hẹp hòi đến thế,
sao các ông vẫn chưa đổi được cái nhìn của mình về trẻ em.
“Hãy để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng” (c. 14).
Đây là một mệnh lệnh nghiêm chỉnh và có giá trị mãi.
Trẻ em có chỗ trong trái tim Giêsu.
Thầy Giêsu dù bận bịu nhưng vẫn có giờ cho các em gặp gỡ.
Ngài không coi chuyện chơi với các em là phiền phức.
Chúng ta chẳng những không được ngăn cản,
mà còn phải giúp đưa các em đến với Thầy Giêsu.
Chúng ta là cha mẹ, là thầy của các em,
nhưng mặt khác chúng ta lại là học trò để học hỏi nơi các em.
“Vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng” (c. 14).
Chúng ta cần học nơi các em lòng biết ơn, sự cậy dựa và khiêm nhu.
“Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em,
thì sẽ chẳng được vào” (c. 15).
Như thế phải học cách đón lấy Nước Trời như trẻ thơ,
nghĩa là đón lấy như một quà tặng mà mình không xứng,
đón lấy với sự ngỡ ngàng, ca ngợi, tri ân.
Hãy nhìn Thầy Giêsu bồng các em nhỏ trên cánh tay (c. 16; Mc 9, 36).
Hãy nhìn nét mặt hạnh phúc của Thầy.
Thầy chẳng những chạm đến các em, mà còn bồng các em.
Thầy còn trịnh trọng chúc lành bằng cách đặt hai bàn tay trên các em.
Rõ ràng Thầy Giêsu quý các em, và Ngài không muốn ta làm hư các em.
Thế giới hôm nay có bao điều ngăn cản không cho trẻ em gặp Chúa.
Bao trẻ thơ đã bị lạm dụng từ nhỏ, bị ngược đãi, bị bắt làm nô lệ,
bị thất học, bị bỏ rơi, bị ném vào cuộc đời quá sớm.
Bao trẻ thơ bị suy dinh dưỡng, bị bệnh tật và chết khi còn trong lòng mẹ.
Bao trẻ thơ thèm được chút hơi ấm của tình thương gia đình.
Nhất là có những trẻ em đã sớm mất tuổi thơ
và dính vào thói hư của người lớn như nghiện ngập, phạm tội hình sự.
Hãy giúp các em làm quen với Giêsu và đừng làm gương xấu cho các em.
Hãy đón tiếp các em để gặp được chính Thầy Giêsu
và gặp được chính Thiên Chúa (Mc 9, 37).
Cầu nguyện :
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,
xin Cha nhìn xuống
những gia đình sống trên mặt đất
trong những khu ổ chuột tồi tàn
hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến
những gia đình thiếu vắng tình yêu
hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu,
những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ
hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục
vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu
đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình;
nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ
hạnh phúc luôn ở trong tầm tay
của từng người chúng con. Amen.
Suy Niệm 2: Bé nhỏ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thế gian trọng lớn khinh nhỏ. Đó là thú tính. Càng văn minh càng biết trân trọng những gì bé nhỏ. Càng thánh thiện càng biết sống bé nhỏ. Vì nhận biết con người thật của mình. Biết Thiên Chúa lớn lao. Biết mình bé nhỏ. Biết Thiên Chúa có tất cả. Mình chỉ là hư vô. Biết Thiên Chúa là Cha. Mình là con. Mình tuỳ thuộc vào Thiên Chúa. Từ mạng sống. Đến sức khoẻ. Tài năng. Hạnh phúc. Tất cả đều bởi Chúa. Vì thế cần sống tâm tình người con bé nhỏ.
Các môn đệ cũng theo thói đời, khinh thường trẻ nhỏ. Nhưng Chúa đã dạy các ông chân lý về Nước Trời. “Khi ấy, người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy họ. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là chủa những ai giống như chúng”.
Sách Huấn ca dạy ta: Ta phải biết mình bé nhỏ. Vì Thiên Chúa tạo dựng ta từ hư vô. Từ bụi đất. Ta phải tạ ơn Chúa không ngừng. Vì Thiên Chúa nâng ta lên làm con cái, cho ta trổi vượt muôn loài. Ta phải tạ ơn Chúa. Vì Thiên Chúa ban cho ta trí khôn phân định phải trái. Phải biết ca tụng, tạ ơn Chúa. Và nhất là phải luôn tuân giữ lề luật và sống trong thánh ý Chúa: “Người đặt con mắt mình vào tâm hồn chúng, để chúng nhận ra các công trình vĩ đại của Người. Danh Thánh Người, chúng sẽ ca ngơi, những công trình vĩ đại của Người, chúng sẽ kể ra… Bổn phận đối với tha nhân, Người truyền cho ai nấy phải thi hành. Đường lối của chúng luôn luôn ở trước mặt Người, và không bao giờ giấu mắt Người được” (năm lẻ).
Khi biết mình hoàn toàn tuỳ thuộc vào Chúa ta sẽ phó thác cho Chúa tất cả. Dù vui. Dù buồn. Dù đau yếu. Dù khoẻ mạnh. “Ai trong anh em đau khổ ư? Người ấy hãy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy hát thánh ca”. Người phó thác cho Chúa sẽ trở thành công chính. Lời cầu nguyện của người công chính sẽ được Chúa nhận lời. Tiên tri Ê-li-a hoàn toàn sống cho Chúa. Phó thác vào Chúa. Nên lời cầu của ngài rất có hiệu lực. “Ông Ê-li-a xưa cũng là người cùng chung một thân phận như chúng ta; ông đã tha thiết cầu xin cho đừng có mưa, thì đã không có mưa xuống trên mặt đất suốt ba năm sáu tháng. Rồi ông lại cầu xin, thì trời liền mưa xuống, và đất đã trổ sinh hoa trái” (năm chẵn).
Hãy sống bé nhỏ. Như người con thơ dại đối với Thiên Chúa. Chúa là Cha nhân từ sẽ lo liệu cho ta mọi sự. Sẽ làm việc thay ta. Sẽ sắp xếp mọi sự thuận lợi cho ta.
Suy Niệm 3: Thương yêu trẻ em
Ðức Giáo Hoàng Piô X khi nhậm chức Giám mục giáo phận Mantova, Ngài đã nghĩ đến người mẹ hiền và trở về thăm mẹ như để nói lên lòng biết ơn. Trong câu chuyện thân mật với mẹ, Ngài vừa nói vừa khoe chiếc nhẫn Giám mục của mình: "Mẹ xem chiếc nhẫn Giám mục của con có đẹp không?"
Người mẹ mỉm cười đưa chiếc nhẫn cũ kỹ trên bàn tay đầy vết nhăn cho con xem và nói: "Nếu không có chiếc nhẫn này, thì đâu có chiếc nhẫn Giám mục của con".
Thật thế, nếu cha mẹ không để tâm giáo dục con cái, làm sao chúng có thể nên người, nhất là nên người con của Chúa được.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy những cha mẹ tìm cách đem con cái đến với Chúa Giêsu để xin Ngài đặt tay và chúc lành cho chúng. Chúa Giêsu rất thương mến trẻ em, Ngài tỏ ra không hài lòng vì các Tông đồ ngăn cản không cho các cha mẹ đem các trẻ em đến với Ngài. Trái ngược với quan niệm coi khinh trẻ em của các tác giả đạo đức Do Thái, Chúa Giêsu đề cao trẻ em như kiểu mẫu đón nhận Nước Trời: "Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào". Nơi khác, Ngài bảo vệ trẻ em một cách quyết liệt: "Ai làm cớ cho một trong những trẻ nhỏ này sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn".
Cha mẹ là những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh dưỡng và giáo dục con cái, để chúng được hạnh phúc đời này, nhất là được hạnh phúc đời sau. Tuy nhiên, có những cha mẹ chỉ lo làm giàu, chứ không quan tâm xây dựng đạo đức cho con cái, cũng có những cha mẹ khoán trắng việc giáo dục đức tin của con cái cho các vị lãnh đạo tinh thần và thiêng liêng, mà quên rằng đó là nhiệm vụ trước tiên của cha mẹ do Bí tích Hôn phối và tình thương yêu đòi buộc. Con cái sống trong gia đình nhiều hơn các nơi khác, và cha mẹ cũng hiểu biết tính tình con cái hơn bất cứ ai khác, đó là những thuận lợi để cha mẹ góp phần vào việc giáo dục con cái.
Nhưng để có thể giáo dục con cái một cách hiệu quả, cha mẹ phải lo trau dồi kiến thức, cách riêng về tôn giáo, và sống đạo gương mẫu, sao cho con cái thực sự là nguồn hạnh phúc của gia đình và là triều thiên của chính cha mẹ.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả các cha mẹ. Xin Ngài soi sáng để các cha mẹ hiểu biết và yêu mến Chúa nhiều hơn, đồng thời nhiệt tâm giáo dục con cái và dẫn đưa chúng đến với Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Chúa Giêsu sống liên hệ với mọi người
Người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người chạm tay vào chúng. Nhưng các môn đệ xẵng giọng với chúng. Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” (Mc. 10, 13-15)
Trích đoạn Phúc âm này tưởng chừng tầm thường, nhưng không phải vậy. Trái lại, mấy câu vắn vỏi này là một mạc khải quan trọng về Thiên Chúa và mối quan hệ của Người với chúng ta. Suốt cuộc đời Người và khi thi hành sứ vụ, Đức Giêsu Kitô đã chỉ có một sứ mệnh duy nhất là làm cho chúng ta nhận biết Thiên Chúa: “Sự sống đời đời, chính là họ nhận biết Cha và Đấng Cha sai.” Và Chúa đã thực hiện tốt sứ mệnh đó bằng việc làm cũng như bằng lời nói; tốt hơn nữa bằng những quan hệ giữa con người cũng như bằng những phép lạ của Người. Các Phúc âm phần lớn đều là tường thuật về những quan hệ của Chúa Giêsu với người ta. Trong mối quan hệ của Người với tha nhân, Chúa Giêsu tỏ ra hoàn toàn tự do, hoàn toàn độc lập đối với dư luận quần chúng và người xung quanh. Các môn đệ thì muốn dân chúng ở xa Người, tạo nên một bức màn che chắn Người. Các ông làm như thể muốn sàng lọc những người có thể đến với Chúa Giêsu. Trước mọt dụng ý như thế, Chúa Giêsu bực mình, nặng lời khiển trách các ông… rồi Người gọi trẻ em đến với mình, đặt tay chúc lành cho chúng và ôm hôn chúng.
Lời mời gọi nên như trẻ thơ
Chúa Giêsu không đành đón tiếp các trẻ em như đón tiếp các người thu thuế và tội lỗi, Người đi xa hơn nhiều; Người lấy chúng làm gương mẫu cho những thính giả cúa mình: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” Nên giống như trẻ em, có nghĩa là gì? Chúng ta vốn nghĩ, trẻ em chẳng có chi hoàn hảo, chẳng có chi đáng bắt chước về mọi phương diện. Ông La Bruyère đã viết một cách cay nghiệt rằng: “Trẻ em là đồ ăn cắp, nói dối, chúng đã là những người lớn đấy.” Cũng không phải là chuyện trở lại vẻ hồn nhiên trong trắng của trẻ em như trở lại vẻ tinh tuyền ban đầu của nguyên tổ khi ở vườn địa đường. Kinh thánh không nhìn trẻ em ở khía cạnh này. Vả lại đòi hỏi một người lớn phải khổ sở vì không còn là một đứa trẻ nữa có lẽ đó là một yêu cầu có phần nào bệnh họan.
Tuổi thơ đồng nghĩa với tươi mát, hồn nhiên, đơn sơ. Chúa mời gọi chúng ta đón nhận Nước Thiên Chúa với những tâm tình này, nghĩa là với niềm hân hoan vui sướng như được một cái mới, không tính toán, không hậu ý, nhưng đồng thời cũng phải nhận thức rằng mình tùy thuộc vào Chúa và liên quan tùy thuộc đối với người khác. Tuy nhiên trong bất cứ trường hợp nào, ta không được là con người ấu trĩ và từ chối làm cho chính ta điều gì có thể làm được.
Bởi lẽ, tinh thần thơ ấu mà Chúa Giêsu đề nghị không phải là một sự “nhõng nhẽo”, ươn lười, nhưng là một tâm hồn rộng mở đón nhận lời Chúa với tinh thần đơn sơ vậy.
Suy Niệm 5: Hãy nên như trẻ nhỏ
Nếu xét về đời sống thiêng liêng: Nước Trời là gia nghiệp của con người, thì đời sống tự nhiên, con cái là gia sản của các bậc cha mẹ.
Muốn cho gia sản ấy thực sự có giá trị và ý nghĩa thì phải lo giáo dục con cái cho đàng hoàng.
Giáo dục đúng thì sẽ được hưởng hoa trái của niềm vui. Giáo dục sai sẽ lãnh hậu quả buồn.
Hôm nay, người ta đem đến cho Đức Giêsu các trẻ em và xin Ngài đặt tay chúc lành cho chúng. Tuy nhiên, các môn đệ đã ngăn cản các bà mẹ khi các bà dẫn các trẻ em đến với Đức Giêsu. Thấy vậy, Đức Giêsu đã lên tiếng quở trách các môn đệ và đề cao các em.
Qua hình ảnh, tính tình của trẻ em mà Đức Giêsu dạy cho các môn đệ bài học quan trọng: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào”. Câu nói này vừa là một giáo huấn về sự chân thành, đơn sơ cần có đối với người môn đệ. Mặt khác, vừa là một mặc khải về quy luật tất yếu để được vào Nước Trời là trong sạch như trẻ thơ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chú tâm đến việc giáo dục con cái. Đồng thời cần phải làm gương cho con cái của mình noi theo.
Nhưng điều chính yếu mà Đức Giêsu muốn mời gọi chúng ta là: hãy sống những đặc tính của trẻ thơ thì sẽ được vào Nước Trời. Đặc tính ấy được thể hiện qua sự chân thành, không lươn lẹo, quanh co, không giam tham, hối lộ, vu vạ, cáo gian, không cướp của, giết người...
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nêu gương sáng cho trẻ em và học được những bài học đơn sơ, trung thành, trong trắng để được vào Nước Trời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Mở rộng vòng tay đón tiếp mọi người
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Lý do khiến người ta đem trẻ nhỏ đến với Chúa Giêsu là để Ngài chúc lành cho chúng ("đặt tay trên chúng").
2. Lý do khiến các môn đệ khiển trách họ là vì thời đó người do thái coi khinh trẻ nhỏ (do chúng chưa biết Luật). Trẻ nhỏ bị coi là hạng còn ở ngoài lề xã hội.
3. Phản ứng của Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ bài học mở rộng vòng tay đón tiếp tất cả mọi người, không loại bỏ bất cứ ai.
4. Chúa còn bảo người lớn phải có tâm thế của trẻ nhỏ thì mới được vào Nước Trời.
B.... nẩy mầm.
1. "Thấy vậy Ngài bất bình": Chúa khó chịu và bất bình khi môn đệ Ngài đuổi xua trẻ nhỏ. Ngày nay Chúa cũng tiếp tục khó chịu và bất bình nếu Ngài thấy tôi có thái độ kỳ thị, phân biệt đối xử và không rộng tay đón tiếp mọi người.
2. "Hãy để trẻ nhỏ đến với": Tôi nên hiểu "trẻ nhỏ" theo nghĩa rộng. Chúa bảo tôi hãy sống làm sao để tất cả mọi người đều có thể gần gũi tôi, hơn nữa đều cảm thấy thoải mái khi ở gần bên tôi. Nhất là những người "nhỏ bé", tức là kém cỏi, vụng về, chậm trí v.v.
3. "Nước Thiên Chúa là của những người giống như trẻ nhỏ". Trẻ nhỏ hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi cha mẹ, trẻ nhỏ biết vâng lời cha mẹ không cần lý luận xem tại sao cha mẹ bảo làm thế, trẻ nhỏ không tính toán lời lỗ thiệt hơn… Đối với trẻ nhỏ, cha mẹ là thần tượng, cha mẹ làm gì cũng đúng, nói gì cũng hay… Tôi đối với Chúa như thế nào? Có giống những nét trên của trẻ nhỏ không?
4. "Những gì tôi cần biết, tôi đều học được lúc tôi còn ở nhà trẻ", đó là tựa đề quyển sách của Mục sư Robert Fangum, một quyển sách bán chạy nhất tại Hoa kỳ trong thời gian gần đây. Tác giả viết "Những bài học chúng ta học được ở nhà trẻ đều là những điều chúng ta cần biết để sống hạnh phúc; nếu tất cả chúng ta đều trở lại nhà trẻ thì có lẽ thế giới này không hỗn loan như hiện nay." Những điều đó là gì?
- Hãy chia xẻ mọi sự, hãy chơi đúng luật, đừng làm tổn thương người khác, và nếu có xúc phạm đến ai thì hãy xin lỗi.
- Lấy đâu thì trả lại đó, dọn dẹp những gì mình bày ra, và nhất là không lấy những gì không thuộc về mình.
- Ra đường phải chú ý đến xe cộ qua lại, phải nắm tay nhau mà đi.
- Biết ngạc nhiên trước những mầu nhiệm của cuộc sống. (Chờ đợi Chúa)
25/02 Bất khả phân ly
- Viết bởi Mc. 10, 1-12
Bất khả phân ly.
Thứ Sáu tuần 7 thường niên.
"Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ".
Lời Chúa: Mc. 10, 1-12
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt xứ Giuđêa và miền bên kia sông Giođan. Dân chúng lại tụ họp bên Người và Người lại dạy dỗ họ như thường lệ.
Những người biệt phát đến gần và hỏi thử Người rằng: "Người ta có được phép ly dị vợ mình chăng?" Người đáp: "Môsê đã truyền cho các ông thế nào?" Họ thưa: "Môsê cho phép làm giấy ly dị và cho ly dị".
Bấy giờ Chúa Giêsu đáp lại: "Chính vì sự cứng lòng của các ông mà Môsê đã viết ra điều luật đó. Nhưng lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Vì thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không thể phân rẽ".
Về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điểm đó. Và Người bảo các ông: "Ai bỏ vợ mình và lấy vợ khác, thì phạm tội ngoại tình đối với người vợ trước. Và người nữ bỏ chồng mà lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Một xương một thịt
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phép phân ly.”
Lời của Đức Giêsu đã vang vọng qua hai mươi thế kỷ,
và vẫn thường được chọn để in trên thiệp cưới.
Phải chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng
ly dị là từ không nên có trong từ điển của các đôi vợ chồng.
Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các kitô hữu đã gia tăng đáng kể.
Sống với nhau đến đầu bạc răng long lại trở thành một giấc mơ.
Có mấy người Pharisêu đến hỏi Đức Giêsu về chuyện chồng ly dị vợ.
Đức Giêsu hỏi ngược họ xem ông Môsê đã truyền dạy thế nào (c. 3).
Những người Pharisêu trích sách Đệ Nhị Luật (24, 1)
để cho thấy ông Môsê cho phép viết giấy ly dị và sau đó ly dị (c. 4).
Dĩ nhiên, cho phép không phải là truyền dạy!
Đức Giêsu đã trích sách Sáng Thế (2, 24)
để nhấn mạnh sự hiệp nhất vĩnh viễn giữa đôi vợ chồng.
“Cả hai thành một xương một thịt” không chỉ về mặt thân xác (c. 8),
mà còn trở nên một lòng, một ý, một ước mơ, một hành động.
Ngài khẳng định điều này đã có từ thuở ban đầu (c. 6)
và nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa.
Việc Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời (c. 5).
Đức Giêsu mới là Đấng đến để hoàn chỉnh Luật Môsê
và khai mở ý muốn trọn vẹn của Thiên Chúa về hôn nhân.
Trong xã hội, văn hóa và Do Thái giáo thời Đức Giêsu,
người phụ nữ không được bình đẳng với nam giới.
Vì vợ là một thứ tài sản thuộc sở hữu của người chồng,
nên thực tế chỉ vợ mới có thể phạm tội ngoại tình đối với chồng,
và chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ.
Đức Giêsu không chấp nhận chuyện coi vợ như một món hàng,
mua về, thích thì dùng, không thích thì bỏ đi.
Vợ đã trở nên xương thịt của chồng, ngang hàng với chồng,
nên khi chồng thiếu chung thủy với vợ, ly dị vợ mà cưới vợ khác
thì anh ta cũng phạm tội ngoại tình đối với vợ (c. 11).
Hôn nhân không phải chỉ là chuyện của hai người yêu nhau và lấy nhau.
Trong Lễ Cưới có sự hiện diện của Thiên Chúa là Đấng phối hợp.
Ngài tiếp tục bảo vệ tình yêu, cả khi hai người cùng muốn chia tay.
Hôn nhân không phải là một bản hợp đồng
mà hai bên được phép xé bỏ khi muốn.
Chung thủy mãi mãi là chuyện khó đối với con người thời nay.
Khi thịnh vượng, lúc gian nan, khi mạnh khỏe, lúc đau yếu,
khi buồn chán và thất vọng về nhau, khi yếu đuối và vấp ngã,
khi đổ vỡ quá lớn tưởng như không sao hàn gắn được,
khi đời sống vợ chồng thành như hỏa ngục trần gian…
khi ấy người ta cần Thiên Chúa để tiếp tục yêu thương và kính trọng nhau.
Xin bớt một chút ích kỷ tự ái, thêm một chút khiêm hạ yêu thương,
bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ…
để gìn giữ tình nghĩa vợ chồng như quà tặng mong manh của trời cao.
Cầu nguyện :
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao,
xin Cha nhìn xuống
những gia đình sống trên mặt đất
trong những khu ổ chuột tồi tàn
hay biệt thự sang trọng.
Xin thương nhìn đến
những gia đình thiếu vắng tình yêu
hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu,
những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ
hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục
vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu
đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình;
nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ
hạnh phúc luôn ở trong tầm tay
của từng người chúng con. Amen.
Suy Niệm 2: Trung tín và yêu thương
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Trung tín là một phẩm chất cao quý của con người. Vì thế nó bao gồm nhiều phẩm chất khác.
Sách Huấn ca đưa ra ba phẩm chất. Trước hết cần có sự cẩn trọng. Đừng vội vàng trong chọn lựa bạn bè. Phải xem xét kỹ lưỡng. “Nếu con muốn làm bạn với ai thì hãy thử người ấy trước, nhưng đừng vội tin tưởng ngay. Vì có kẻ chỉ là bạn nhất thời, ngay con gặp nạn, nó chẳng còn là bạn con nữa”. Kế đến cần có sự trung tín. Muốn có bạn tốt chính ta phải là bạn tốt. Muốn người trung tín với ta chính ta phải trung tín trước. “Vì bản thân mình thế nào, thì cận thân mình cũng thế”. Trên hết phải kính sợ Chúa. Vì “những ai kính sợ Đức Chúa sẽ gặp được người bạn như vậy. Người kính sợ Đức Chúa thì điều khiển được tình bạn của mình”. Yêu mến Chúa sẽ biết trung tín với bạn bè (năm lẻ).
Thư Gia-cô-bê đề nghị hai phẩm chất khác. Trước hết là sự kiên nhẫn. Người trung tín là người kiên nhẫn vượt qua khó khăn. “Phúc thay những kẻ đã có lòng kiên trì! Anh em đã nghe nói đến lòng kiên trì của ông Gióp”. Gióp đã gặp rất nhiều thử thách. Nhưng ông vẫn kiên trì vượt qua. Cuối cùng giữ được lòng trung tín với Chúa. Để trung tín cũng cần ngay thẳng. “Đừng có thề, dù là lấy trời, lấy đất, hay lấy cái gì khsc mà thề. Nhưng hễ “có” thì nói “có”. “Không” thì nói “không”. Trung tín thật thà thì ngay thẳng và đơn sơ. Quanh co phức tạp thường khó thật (năm chẵn).
Tuy nhiên sang đến tình yêu và hôn nhân thì còn đòi thêm phẩm chất tình yêu. Yêu đến độ trở nên một. Đó là ý định của Thiên Chúa: “Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Nếu yêu nhau thật sự hai người sẽ nên một. Nên một rồi không thể lìa xa nhau. Không thể sống thiếu nhau. Đó là tình yêu theo khuôn mẫu của Thiên Chúa. Ba Ngôi Thiên Chúa yêu thương nên không thể tách lìa. Thiên Chúa yêu con người nên luôn trung tín. Dù con người tội lỗi đến đâu Thiên Chúa vẫn tha thứ. Dù con người phản bội muôn ngàn lần, Thiên Chúa vẫn yêu thương. Cứu chuộc. Chết cho con người.
Trung tín giúp đạt tới tình yêu đích thực. Trung tín làm nên phẩm giá của con người có trách nhiệm. Trung tín giúp con người đạt tới Thiên Chúa.
Suy Niệm 3: Mối giây bất khả phân ly
Tin Mừng hôm nay như muốn đưa chúng ta về những trang đầu tiên của lịch sử nhân loại, trong đó Thiên Chúa đã tạo dựng người nam và người nữ để họ chung sống với nhau trong mối giây bất khả phân ly của đời sống đôi lứa. Có thể nói, đó là gia đình đầu tiên của lịch sử loài người. Chúa Giêsu đã nại đến sự kiện này để giải đáp vấn nạn của người Biệt phái: "Người ta có được phép rẫy vợ không?", và như vậy một cách nào đó, Ngài đã đề cập đến hôn nhân, đến giá trị và đòi hỏi của hôn nhân.
Trước hết, hôn nhân là một sự tự do trao đổi yêu thương giữa người nam và người nữ, một sự cam kết sống chung suốt đời. Chiếc nhẫn mà họ trao cho nhau trong ngày cưới là dấu chứng tình yêu, và từ ngày đó mọi hành vi đi ngược với lời cam kết đều bị coi là ngoại tình, bởi vì hôn nhân là do Thiên Chúa thiết lập và con người không thể phân ly những gì Ngài đã kết hợp.
Hôn nhân còn là một cộng đồng kết hợp hai tâm hồn và được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Hôn nhân là giây tình yêu liên kết hai người phối ngẫu, và tình yêu này phản chiếu tình yêu thần diệu giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Thánh Phaolô đã ân cần nhắc nhở: "Chồng hãy yêu thương vợ như Chúa Kitô yêu mến Giáo Hội và phó nộp mình đi". Trong đời sống hôn nhân, hai người nương tựa vào nhau, bổ túc và tài bồi lẫn nhau. Thiên Chúa thấy người nam ở một mình không tốt, Ngài đã dựng nên cho nó một người nữ, rút từ cạnh sườn người nam, và người nam sẽ bỏ cha mẹ để nên một với vợ mình, đó là hình ảnh của một tình yêu kết hợp. Nhờ tình yêu kết hợp trong hôn nhân, người nam và người nữ sẵn sàng chấp nhận việc sinh dưỡng và giáo dục con cái thành những đứa con ngoan của Thiên Chúa, của Giáo Hội, của gia đình và xã hội.
Nhưng một cuộc hôn nhân chỉ thành công khi người nam và người nữ thực tình yêu nhau, có sức hiến thân cho nhau, sẵn sàng chấp nhận mọi thử thách mà hoàn cảnh đè nặng trên con người, trong tâm tình chúc tụng tạ ơn. Thật vậy, việc cam kết trước bàn thờ là một lời khấn trọng thể, một lời hứa thánh thiêng đặt nền tảng trên tình yêu, tình yêu mà Thánh giá là biểu hiện rõ nét nhất, tình yêu mà Chúa Kitô hiến mình cho Giáo Hội đến cùng mức. Hôn nhân không phải luôn luôn là một khúc tình ca, một cuộc ve vãn suốt đời, nhưng là một cuộc sống chung nhiều khi khó khăn. Do đó chỉ có tình yêu đích thực khi đôi bạn có khả năng và muốn giữ lời gắn bó với nhau cho đến chết. Những hy sinh từ bỏ, sự trung tín qua những thử thách, những lần nhượng bộ, đều là bằng chứng của đức tin và sức mạnh nhận được từ Thánh Thần.
Chính vì những giá trị cao đẹp của hôn nhân như thế, nên thái độ của Chúa Giêsu về vấn đề hôn nhân thật dứt khoát. Ngài xác định lại nền tảng thánh thiêng cũng như tính cách bất khả phân ly của giây hôn phối. Ngài mạnh mẽ lên án tội dâm bôn ngoại tình, cả việc rẫy vợ nữa, trừ phi là nố gian dâm, nhưng điều đó có lẽ không nhằm biện minh cho việc ly dị, mà chỉ là đuổi người vợ bất chính, hoặc là ly thân rồi sau đó không được tái hôn nữa. Như thế, chính nhờ Chúa Giêsu, hôn nhân đã được nâng lên hàng Bí Tích và mặc một sắc thái mới phản ánh vẻ đẹp ban đầu đã bị lu mờ vì tội lỗi nhân loại.
Chúng ta hãy cầu xin cho các gia đình được luôn gắn bó với nhau trong tình yêu thương hợp nhất, để làm chứng cho tình yêu duy nhất và vĩnh cửu của Thiên Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Tình yêu, thực phẩm mau hư?
Có mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” Họ nói thế là để thử Người.
“Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” (Mc. 10, 2. 9)
Nền văn minh của chúng ta đã phát triển khả quan lãnh vực thực phẩm. Từ ngữ lương thực mau hư ngày xưa ám chỉ những thực phẩm rất dễ hư thối như: rau cỏ, trái cây, v.v….Thật là điều lạ: kỹ thuật tân tiến tìm cách bảo quản những thực phẩm dễ hư này bằng kỹ thuật đông lạnh, nhưng xã hội tiêu thụ thì lại làm cho những vật không hư hóa ra mau hư. Người ta nghĩ và làm ra những sản phẩm để rồi những sản phẩm ấy lại mau chóng được thay thế bằng những sản phẩm khác. Có những áo dài giấy, những tấn lưỡi dao bào, những bật lửa máy bị “đổ tháo đi.” Nền văn minh “sính-cái-mới”, thích-sắm-sửa, ưa-giục-bỏ! Cái não trạng tiềm ẩn ở bên dưới cách sống này có nguy cơ làm ô nhiễm những quan hệ của con người, làm cho những quan hệ ấy trở nên mau hư. Tình yêu giữa con người trở nên mau hư, hôn nhân, một vấn đề phải giục bỏ, bởi lẽ làm lại cuộc sống với một người khác thì dễ hơn là xây dựng lại những quan hệ đã sứt mẻ với người bạn đời của mình.
Câu trả lời của Chúa Giêsu
Câu hỏi của những người Pharísiêu phản ánh cái não trạng ưa tạm thời, thích mới nới cũ này. Cứ theo mặt chữ thì đây đúng là một câu hỏi của người tiêu thụ: “Thưa Thầy, người ta có được phép (dục) bỏ vợ mình không?” Nói cách khác, tình yêu con người có mau hư không? Câu hỏi thừa, vì luật Mô-sê đã có ghi khoản này cho cặp vợ chồng Do thái. Chỉ cần thời gian ăn xong một bữa cơm là có được tờ giấy ly dị. Phản ứng đầu tiên của Chúa Giêsu là đưa những người chất vấn mình trở về với luật Mô-sê. Rồi Người giải thích điều luật cho phép đó bằng lời này: “Chính vì các ông lòng dạ chai đá …”
Chúa Giêsu sẽ khẳng định điều luật căn bản này, dựa vào sách Sáng Thế: “Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ”. Có nghĩa là con người là một sinh vật có những quan hệ với nhau, rằng, để hiện hữu như là người, con người phải đồng-hiện hữu, nghĩa là cùng sống với người khác: “Không nên để con người sống một mình.” Con người cần một người khác để sống với. Và ước muốn này rất mạnh, thậm chí: ”người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình.”
Thiên Chúa muốn cho tình yêu vợ chồng lớn hơn cả tình yêu đối với cha mẹ nữa. Kết quả khác nữa là hai vợ chồng “sẽ thành một xương một thịt.”, nghĩa là “tuy hai mà một, tuy một mà hai”. Vì thế, không một quyền lực nào của loài người được phép phân ly hai người đã nhờ hôn nhân mà nên một. Cũng như chỉ có sự chết mới phá vỡ được sự duy nhất của con người thế nào, thì cũng chỉ có một sự chết mới cắt đứt được mối giây ràng buộc hai người nam nữ đã nên một mà thôi.
“Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”.
Suy Niệm 5: Thiên Chúa không ly dị con người
Nói về sự chung thủy trong hôn nhân Công Giáo, nhiều người đã không khỏi khó chịu và buông theo những lời chê bai như: Giáo Hội không thích ứng với thời đại; Giáo Hội là một bà già; Giáo Hội bảo thủ...
Khi nhận định như thế, người ta đòi Giáo Hội phải duyệt xét lại vấn đề hôn nhân. Một mặt họ muốn dễ dãi, không muốn ràng buộc. Mặt khác, người ta muốn coi đời sống hôn nhân như là một sự thỏa thuận thuần túy con người, tức là giảm thiêng.
Tuy nhiên, Giáo Hội từ bao đời vẫn luôn trung thành với Giáo Huấn của Đức Giêsu, người sáng lập nên Giáo Hội mà chúng ta là thành phần trong Giáo Hội ấy. Giáo huấn về hôn nhân được khởi đi từ ý định Thiên Chúa, vì thế, nó thuộc Thiên Luật: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phép phân ly”.
Nếu chỉ giải thích như thế, hẳn con người thời nay rất khó đón nhận. Nhưng cần thêm giáo huấn của thánh Phaolô để làm sáng tỏ ý định của Thiên Chúa: “Chồng hãy yêu thương vợ, như Chúa Kitô yêu mến Giáo Hội và phó nộp mình vì Giáo Hội”.
Thật vậy, Thiên Chúa không từ bỏ con người. Đức Giêsu không ly dị Giáo Hội của Ngài, mặc cho con người và Giáo Hội có những điều trái khuấy.
Sự trung thành trong hôn nhân được mời gọi diễn tả tình yêu giữa Thiên Chúa và Giáo Hội. Bí quyết của việc sống chung thủy, đó là sự tha thứ. Cần cảm nghiệm được sự tha thứ của Thiên Chúa cho mình, thì chúng ta mới có thể tha thứ cho nhau và cùng nhau vượt qua thử thách để sống sự chung thủy trong đời sống hôn nhân.
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta đều đã kết ước với Chúa. Chúa thuộc về ta và ta thuộc về Chúa. Chúa làm chủ và ta là thần dân của Ngài. Từ giao ước đó, chúng ta được mời gọi trung thành giữ giáo huấn của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhiều lúc, chúng ta đã bội ước và đã làm cho cuộc hôn nhân thánh của mình bị đứt đoạn.
Nguyên nhân làm cho sự trung thành của chúng ta gãy cánh, đó chính là những tội lỗi, ngờ vực và thiếu tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa khi chúng ta đi tìm những lợi lộc thấp hèn qua những thụ tạo do con người và ma quỷ tạo nên.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết yêu mến luật của Chúa và trung thành với giao ước mà chúng con đã ký kết với Ngài. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Vấn đề li dị
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Những người biệt phái phỏng vấn Chúa Giêsu về vấn đề li dị.
Ngay trong giới biệt phái cũng có hai lập trường ngược nhau về vấn đề này: lập trường dễ dãi (đứng đầu là Rabbi Hillel) cho phép li dị vì những cớ rất tầm thường; lập trường khắt khe (đứng đầu là Rabbi Shammað) chỉ cho li dị trong trường hợp ngoại tình. Tuy khác nhau, nhưng hai lập trường này có điểm chung là cho phép li dị.
Còn lập trường của Chúa Giêsu là tuyệt đối không được li dị: "Điều gì Thiên Chúa kết hợp, loài người không được phân li".
Nhân dịp này, Chúa Giêsu còn dạy cách sống đời hôn nhân: phải yêu thương nhau ("luyến ái") và đồng tâm nhất trí ("nên một huyết nhục") với nhau.
B.... nẩy mầm.
1. Tình trạng li dị ngày càng gia tăng là biểu hiện của những tật xấu căn bản hơn của người thời nay, đó là không trung thành và hay thay đổi, sống theo sở thích hơn là theo trách nhiệm. Tình trạng li dị cũng cho ta hiểu rằng sống thủy chung với một tình yêu là điều rất khó.
Lạy Chúa, mới ngày nào con còn cảm thấy rất yêu mến Chúa, sao hôm nay lòng con đã bớt nồng nàn, và không biết mai ngày sẽ ra thế nào nữa! Phần Chúa thì muôn đời vẫn một mực yêu thương con. Xin gìn giữ con mãi mãi trong tình yêu thương của Chúa.
2. Đời sống độc thân của những người dâng mình cho Chúa là một dấu chỉ và một bằng chứng và một sự khích lệ cho những kẻ sống đời hôn nhân:
- dấu chỉ về một tình yêu hoàn toàn không vị kỷ
- bằng chứng rằng trung thành với tình yêu đã cam kết là một điều có thể
- vì là dấu chỉ và bằng chứng nên nó là một sự khích lệ.
Xin cho các Linh mục, tu sĩ sống đời tận hiến của mình một cách vui vẻ và trung thành.
24/02 Quyết liệt theo Chúa
- Viết bởi Mc. 9, 41–50
Quyết liệt theo Chúa.
Thứ Năm tuần 7 thường niên.
"Thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn đủ cả hai tay mà phải vào hoả ngục".
Lời Chúa: Mc. 9, 41–50
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ai cho các con (uống) một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, thật Thầy bảo các con: kẻ đó sẽ không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống biển thì hơn.
"Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt. Vì mọi người sẽ bị ướp bằng lửa.
"Muối là vật tốt, nhưng nếu muối ra lạt, các con lấy gì mà ướp nó cho mặn lại được? Các con hãy có muối ở trong mình và sống hoà thuận với nhau".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Làm cớ cho anh sa ngã
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Khi nghe một người chịu tháo khớp vì mắc bệnh tiểu đường,
chúng ta chẳng ngạc nhiên mấy.
Mất đi bàn chân mà kéo dài được sự sống
thì còn hơn là giữ lại mà phải chết.
Có bao nhiêu người chịu giải phẫu mỗi ngày.
Họ chấp nhận cắt bỏ một phần thân thể bị hư hoại,
để mong giữ lại được cả mạng sống.
Tuy việc cắt bỏ luôn đi kèm với đau đớn và mất mát suốt đời,
nhưng người ta vẫn vui vì thấy mình còn sống.
Bài Tin Mừng hôm nay có thể làm ta ngạc nhiên và không vui.
Bài này có nhiều câu được lặp lại như một điệp khúc.
‘‘Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì anh hãy chặt nó đi…
Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì anh hãy chặt nó đi…
nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì anh hãy móc nó đi…”
Có cần phải chặt tay, chặt chân hay móc mắt không ?
Có cần phải hiểu các câu này của Chúa theo nghĩa đen không?
Nếu hiểu theo nghĩa đen, chắc khó mà có một kitô hữu lành lặn.
Bởi vậy chúng ta thường dễ bỏ qua hay hiểu theo nghĩa bóng,
và có nguy cơ làm yếu đi sứ điệp mà Đức Giêsu muốn chuyển tải.
Giá Trị tối hậu mà Đức Giêsu muốn chúng ta coi trọng
đó là Sự Sống vĩnh hằng, là Nước Thiên Chúa (cc. 43-47).
Để có được Giá Trị này, ta phải chấp nhận hy sinh nhiều giá trị khác.
Hơn nữa, chúng ta lại càng phải từ bỏ hy sinh
những gì cản trở khiến ta không thể đạt tới mục đích mình theo đuổi.
Tay, chân, mắt là những bộ phận rất quan trọng trong cơ thể.
Chúng là những chi thể không thể thiếu để có một đời sống bình thường.
Tuy nhiên, chúng có thể trở thành duyên cớ khiến ta vấp phạm, sa ngã.
Sa ngã ở đây là thứ sa ngã đưa chúng ta vào cõi chết đời đời,
nơi toàn bộ cuộc đời chúng ta bị đổ vỡ nát tan không sao hàn gắn.
Vì cuộc đời của chúng ta là vô giá,
một cuộc đời đã được chuộc bằng chính Máu Con Thiên Chúa,
một cuộc đời mà chính chúng ta đã dày công xây đắp,
nên việc cắt bỏ những điều phá hoại cuộc đời ấy là chuyện tự nhiên.
Chặt tay, chặt chân hay móc mắt là những điều kinh khủng, gây đau đớn.
Bị què tay, què chân hay chột mắt ở đời này là điều chẳng ai mong.
Nhưng Đức Giêsu mời chúng ta nghĩ đến giá trị của đời sống vĩnh cửu,
để có can đảm cắt đứt với những thụ tạo đang làm hư hỏng đời ta.
Cắt đứt với một thói quen xấu lâu năm,
hay cắt đứt tương quan tội lỗi với một người,
những điều ấy nhiều khi còn khó hơn việc móc mắt hay chặt tay.
Chúng ta chỉ có thể sống Lời Chúa hôm nay
nếu chúng ta không bị hút bởi khoái lạc trần gian ngay trước mắt.
Xin Chúa giúp ta thực hiện những cuộc giải phẫu mỗi ngày,
để đau đớn của đoạn tuyệt hôm nay đem lại hạnh phúc trọn vẹn mãi mãi.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Suy Niệm 2: Mục đích và phương tiện
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Cần biết phân biệt mục đích và phương tiện. Vì phương tiện là để sử dụng. Mục đích là để đạt tới. Phải dùng phương tiện để đạt tới mục đích. Không phải ngược lại. Đừng vì tiếc phương tiện mà để lỡ mục đích. Đừng dừng lại phương tiện. Nếu phương tiện cản trở. Phải mạnh dạn gạt bỏ. Để đạt tới mục đích.
Đời sau là mục đích. Đời này là phương tiện. Linh hồn là mục đích. Thân xác là phương tiện. Phải biết dùng đời này để đạt được đời sau. Phải biết dùng thân xác để đạt tới linh hồn. Hi sinh đời này sẽ đạt được đời sau. Hi sinh một phần thân thể, kể cả mạng sống, sẽ đạt được Nước Trời. “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt”.
Vì thế đừng cậy vào của cải. Đừng chiều theo dục vọng. Tất cả đều chóng qua. Phải mau sám hối. Đừng đợi đến lúc Chúa nổi lôi đình. Sẽ kinh khủng. Và không còn kịp nữa. “Đừng trì hoãn, hãy trở về với đức Chúa đi; đừng lần lữa hết ngày này qua ngày khác, vì thình lình Đức Chúa sẽ nổi cơn thịnh nộ, và trong thời trừng phạt, con sẽ phải tiêu vong. Đừng cậy dựa vào của cải bất chính, vì điều đó chẳng ích gì cho con ngày con gặp bất hạnh” (năm lẻ).
Của cải là phương tiện chứ không phải mục đích. Của cải để sử dụng chứ không phải để tích trữ. Nếu không biết dùng của cải sẽ là bằng chứng tố cáo. Nhất là đừng chiếm đoạt của cải cách bất công. Bất công sẽ bị kết án. Bấy giờ sẽ phải than van khóc lóc. “Giờ đây, hỡi những kẻ giầu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai hoạ sắp đổ xuống trên đầu các người….Vàng bạc của các ngươi đã bị rỉ sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người…Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người, và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh” (năm chẵn).
Đừng vì thân xác mà mất linh hồn. Đừng vì vật chất mà mất Nước Trời. Hãy hi sinh thân xác để được linh hồn. Hãy quảng đại chia sẻ tài sản. Để mua lấy Nước Trời. Đó là thái độ khôn ngoan cần thiết.
Suy Niệm 3: Sẵn sàng hy sinh
Vào thời trước, có một đoàn thám hiểm từ Âu Châu lên đường đi tìm vùng đất mới. Vị trưởng đoàn cho mọi người biết hễ ai chạm đến vùng đất mới trước tiên, người đó sẽ làm chủ vùng đất ấy. Một người trong nhóm quyết chiếm vùng đất mới bằng mọi giá. Ông tận lực chèo thuyền, nhưng một chiếc thuyền bạn đã bắt kịp và đang tiến lên phía trước gần sát bờ. Là một con người có ý chí sắt đá và gan dạ, ông đã can đảm lấy chiếc rìu chặt đứt bàn tay trái của ông, rồi ném lên bờ. Thế là bàn tay ông đã chạm đến đất trước tiên, do đó vùng đất này thuộc về ông.
Câu truyện trên đây giúp chúng ta hiểu rõ hơn Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay: "Nếu tay con làm cớ cho con sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt tay mà được vào cõi trường sinh, còn hơn có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục". Ðiều Chúa muốn nhấn mạnh ở đây là cần phải sẵn sàng hy sinh những gì gần gũi thân thiết nhất, hơn là phạm tội mất lòng Chúa. Như thế, việc chặt chân, chặt tay, móc mắt, không thể hiểu theo nghĩa đen được. Chúa không có ý bảo chúng ta hủy bỏ một phần thân thể, nhưng qua cách nói ấy, Ngài có ý nói rằng Nước Trời đáng cho chúng ta hy sinh tất cả để chiếm hữu, cho dù phải đau đớn như việc chặt chân, chặt tay. Chẳng hạn, hy sinh của cải vật chất cho sự sống và hạnh phúc của đồng loại, cũng đau đớn như hy sinh một phần thân thể, nhưng sẽ chiếm hữu được Nước Trời. Chính Chúa Giêsu đã nói: Ai cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ không nhà trú ngụ, người ấy sẽ được Nước Trời làm cơ nghiệp. Cũng vậy, chúng ta sẽ chiếm hữu Nước Trời, nếu chúng ta dám hy sinh của cải, sức lực để hỗ trợ Giáo Hội và phục vụ cho công cuộc truyền giáo.
Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta, Ngài không chỉ hy sinh một phần nào thôi, mà là dâng hiến toàn thân Ngài. Mỗi ngày trong Thánh Lễ, chúng ta cử hành việc hy hiến của Chúa Giêsu, chúng ta hãy xin Ngài ban sức mạnh để chúng ta cũng biết trao ban chính mình để làm vinh danh Chúa và đem lại hạnh phúc cho đồng loại.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Nước, gương xấu và muối
“Ai cho anh em uống một chén nước lã vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em người đó không mất phần thưởng đâu. Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.” (Mc. 9, 41-42)
Bài Phúc âm ngày hôm nay có vẻ như rất rời rạc. Tuy gồm những câu rời rạc, nhưng tất cả đều liên hệ tới việc gia nhập và đón nhận sư sống Nước Trời. Tiên vàn, đó là chuyện cho các môn đệ uống một chén nước. Trong cuộc đời truyền giáo, các môn đệ sẽ gặp phải những đắng cay, khó khăn và chống đối đủ thứ ngay cả từ nơi những người thân của mình. Nhưng cũng sẽ có những người tử tế sẽ đón tiếp các ông. Chúa Giêsu hứa trước với những tấm lòng hiếu khách này rằng lòng tốt của họ sẽ được trọng thưởng, cho dầu lòng tốt ấy chỉ được biểu lộ bằng một chén nước. Ở đây Chúa Giêsu muốn các môn đệ ghi lòng tạc dạ điều này là các ông được đồng hóa với Người: một việc nhỏ nhất người ta làm cho các ông, là một việc tốt người ta làm cho chính bản thân Người vậy.
Một thái độ triệt để
Về vấn đề gương xấu, Chúa Giêsu tỏ ra một thái độ cương nghị hiếm có, nếu không phải nói là một sự tàn bạo khác thường: phải chết và chặt chân chặt tay. Ý niệm về gương xấu của Người khác với của ta: Đối với chúng ta, chúng ta nghĩ đó là một cử chỉ, một lời nói đụng chạm mạnh đến ý kiến chung, xúc phạm đến những người lành; còn đối với Người thì gương xấu là những gì gây nguy hiểm cho phần rỗi của người ta, chẳng hạn như làm cho những tâm hồn đơn sơ phải lo lắng bối rối về lòng tin của họ đối với Chúa Kitô. Kẻ nào gây một gương xấu như thế, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn. Cái chết thể lý đối với người ấy còn ít nguy hiểm hơn là đe dọa, làm hại đức tin của người khác. Chúa Giêsu dùng hình ảnh dữ tợn này không phải để chỉ sự kết án và hành hình như vậy, nhưng để diễn tả cái trách nhiệm nặng nề đáng sợ mà người gây nên gương xấu phải gánh lấy.
Đức Kitô nói tiếp về gương xấu của bản thân mỗi người, nghĩa là sự đe dọa, làm hại cho phần rỗi do chính những phàn thân thể của mình gây nên như: tay, chân, mắt… Ở đây lệnh truyền vẫn còn mạnh mẽ: “Hãy chặt, hãy móc”. Tuy nhiên ai cũng biết những phần thân thể này quan trọng như thế nào đối với cuộc sống. Mất một chân, một tay, một mắt, đối với một người là mất đi một phần con người của mình, điều mà ai cũng cảm thấy rất xót xa. Phải mất mát, thiệt thòi sự sống như vậy, chỉ đến nước cùng, người ta mới đành phải chịu vậy mà thôi. Và y khoa góp phần xoa dịu nỗi đau phần nào cho con người kém may khi dự liệu những bộ phận giả thay thế.
Vậy mà Chúa lại lệnh cho phải bỏ đi phần mình gây gương xấu. Chắc chắn là tính cách triệt để này không thể được hiểu theo nghĩa đen, bởi lẽ những tín hữu chúng ta sẽ không muốn được liệt vào hàng những kẻ què cụt, đui mù.
Nhưng Chúa chỉ muốn chúng ta ghi tâm khắc cốt điều này là những thái độ nửa vời, không kiên quyết, khi sự sống Nước Trời bị đe dọa, đều là ngoài đề và không thể chấp nhận được.
Suy Niệm 5: Thà mất mà được còn hơn không
Trong cuộc đời sứ vụ của Đức Giêsu, nhiều lần Ngài đã nói đến quy luật được và mất. Chẳng hạn như: hạt lúa mỳ có thối đi thì mới sinh bông hạt; muốn theo Chúa thì phải bỏ mình; con người có chịu đau khổ mới được vinh quang...
Thánh sử Máccô trình thuật bài huấn dụ của Đức Giêsu về cái được và mất như sau: cái được mà Đức Giêsu nói ở đây là Nước Trời; còn cái mất chính là tay, chân, mắt khi chúng gây dịp tội...
Ngài nói: nếu tay con làm cớ cho con sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt tay mà vào cõi trường sinh, còn hơn có đủ hai tay mà phải sa hỏa ngục; với con mắt, Ngài cũng nói như vậy...
Tại sao Đức Giêsu lại cất lên lời dạy dỗ các môn đệ mạnh mẽ như vậy? Thưa là vì tới giờ này, các ông vẫn còn đang hoang tưởng về thân thế và sự nghiệp của Đức Giêsu theo kiểu trần gian. Các ông không chú trọng đến cốt lõi của vấn đề và chẳng hề có cái nhìn Thiên Giới khi chứng kiến những dấu lạ của Đức Giêsu.
Nếu cứ để các môn đệ bám víu vào những chuyện trần tục, thì viên ngọc quý là Nước Trời làm sao các ông có được nếu không chấp nhận đánh đổi bằng những hy sinh. Vì thế, thà mất tất cả mà được hạnh phúc đời đời thì hơn là có mọi thứ mà mất sự sống trường sinh.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết chú trọng đến sự sống mai hậu. Được lợi lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích gì? Ta lấy gì để bù lại? Bởi vì sự sống đời đời mới là nơi mối mọt không thể đục khoét. Còn danh dự, chức quyền, giàu có... chỉ là phương tiện, khi ta chết, nó chào và tiễn ta ngay tại nấm mồ, để lại nơi chúng ta hai bàn tay trắng!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu thấu quy luật được - mất khi kiếm tìm hạnh phúc đích thực là Nước Trời. Xin cho chúng con cũng sẵn sàng thà mất tất cả mà được Nước Trời thì cũng chấp nhận. Ước gì, sau cuộc đời tại thế, chúng con có được gia tài đích thực là Nước Trời làm gia nghiệp. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Giáo huấn của Chúa
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Trong đoạn này, Mc gom chung những giáo huấn mà có lẽ ngày xưa Chúa Giêsu đã dạy trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, do đó ta không thấy được mối liên hệ mạch lạc giữa các ý tưởng.
Có cả thảy 3 giáo huấn:
1. Ai giúp đỡ môn đệ Chúa thì sẽ được Chúa thưởng, dù sự giúp đỡ đó rất nhỏ.
2. Sự tai hại trầm trọng của việc làm gương xấu gây vấp phạm cho "những kẻ bé mọn".
- "Những kẻ bé mọn" không hẳn là trẻ con, mà còn là những người mà đức tin còn non yếu. Ai gây cớ vấp phạm cho họ thì thà buộc cối đá vào cổ nó rồi xô nó xuống biển còn hơn.
- Ngay cả bản thân mình mà gây cớ vấp phạm cho mình thì mình cũng phải tự khắt khe với mình để diệt trừ nguy hiểm tận gốc: "Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt nó đi…"
3. Các môn đệ Chúa phải có "muối" trong mình (Nhóm CGKPV giải thích là "sự từ bỏ") và phải sống hoà thuận với nhau.
B.... nẩy mầm.
1. "Ai cho các con một ly nước lã…": Tục ngữ VN có câu "nước lã mà khuấy nên hồ", nghĩa là từ không có gì cả mà làm nên chuyện. Vậy cho "một ly nước lã" nghĩa là hầu như chẳng cho gì cả, thế mà Thiên Chúa vẫn kể và vẫn thưởng công. Giá trị của tấm lòng kẻ biết phục vụ là như thế.
2. Trong dụ ngôn về ngày phán xét chung, Chúa Giêsu cũng thưởng các kẻ lành vì những việc nhỏ mọn họ đã làm cho "những kẻ bé mọn". Như thế nghĩa là trước mặt Chúa, một việc nhỏ bé nhất làm cho một kẻ nhỏ bé nhất cũng có giá trị rất cao cả. Hay nói cách khác, dưới con mắt Chúa, không có việc làm nào vì tình thương mà nhỏ bé cả.
3. "Ai làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn có lòng tin vào Thầy, thà buộc thốt cối xay vào cổ nó…": Cớ vấp phạm là những lời nói và hành động nhiều khi rất vô tình. Ai ngờ hậu quả chúng gây ra cho người khác và cho chính mình lại to lớn như thế.
Tôi đâu có biết rằng một lời nói của tôi chỉ để chơi thôi nhưng làm cho anh chị em tôi đau lòng đến cả đêm không ngủ. Huống chi một lời nói vì nóng giận mà tôi không kềm lại được…
Chúa dạy tôi phải quan tâm tới anh chị em. Trước khi làm gì hay nói gì tôi cũng phải suy nghĩ xem lời nói và việc làm đó sẽ có tác động gì nơi người anh chị em tôi.
4. "Nếu tay con nên dịp tội, hãy chặt đi… Nếu chân con… Nếu mắt con… Thà có một tay… một chân… một mắt mà được vào Nước Thiên Chúa": Được vào Nước Thiên Chúa là điều quý giá nhất, so với nó không có hy sinh từ bỏ nào là quá đáng cả.
Hiện giờ tôi cần phải "chặt" cái gì?
5. Có một thuyền trưởng ghé tàu qua đảo hoang, bắt gặp một khối lượng nam châm rất lớn. Ông đem hết lên tàu để về làm giàu. Nhưng tàu bị lạc giữa biển không sao định hướng được, kim nam châm hải bàn lúc nào cũng chỉ về phía khoan tàu chứa khối nam châm. Cuối cùng lương thục thiếu, nhiên liệu cạn dần, người thuyền trưởng phải quyết định vất bỏ khối nam châm để hải bàn có thể định hướng đúng mà cứu sống cả con tàu. (Trích "Phúc")
23/02 Cộng tác trong thiện chí
- Viết bởi Mc 9, 37-39
Cộng tác trong thiện chí.
Thứ Tư tuần 7 thường niên. – Thánh Pôlycarpô, giám mục, tử đạo. Lễ nhớ.
"Ai không chống đối các con, là ủng hộ các con".
* Thánh Pôlicáp là môn đệ của thánh Gioan và là chứng nhân cuối cùng của thời các Tông Đồ. Người đã chết trên giàn hoả thiêu, giữa hí trường Miếcna, trước mặt dân chúng. Đang lúc đó, người dâng lời tạ ơn Chúa “vì mình đã được xét là xứng đáng được kể vào số các chứng nhân (tử đạo) và được chia sẻ chén đắng của Chúa Kitô”. Hôm đó là ngày 23 tháng 02 năm 155, thánh nhân được tám mươi sáu tuổi.
Lời Chúa: Mc 9, 37-39
Khi ấy, Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo ta, và chúng con đã ngăn cấm y".
Nhưng Chúa Giêsu phán: "Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy. Ai chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đừng ngăn cản người ta
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Sau khi Thầy Giêsu loan báo cuộc Khổ Nạn và Phục sinh lần hai,
các môn đệ đã cãi nhau ngay ngoài đường xem ai là người lớn nhất.
Như thế tham vọng cá nhân vẫn tồn tại
cả nơi những người đã bỏ mọi sự mà theo Thầy (Mc 9, 33-37).
Sau vụ tranh cãi có tính nội bộ trên,
bài Phúc Âm hôm nay kể lại chuyện tranh cãi với người ngoài nhóm.
Gioan, “con của Thiên Lôi”, là người khởi đầu câu chuyện.
Thực ra ông chỉ là người nói lên phản ứng chung của các anh em.
Họ bực bội vì có người “không theo chúng ta”, không ở trong nhóm,
mà lại dám lấy Danh Thầy Giêsu để trừ quỷ (c. 38).
Và thực sự người đó đã trừ được một cách thành công.
Danh Giêsu có sức mạnh trừ quỷ, đó là điều không thể chối cãi.
Nhưng đối với Gioan và các bạn của ông,
chỉ những người trong nhóm mới có quyền dùng Danh ấy.
Chính vì thế Gioan thú nhận, “chúng con đã cố ngăn cản…”
Họ muốn độc quyền sử dụng Danh Thầy,
nghĩa là muốn bảo vệ quyền lợi và chỗ đứng của nhóm.
Nếu ai cũng lấy Danh Giêsu mà trừ quỷ, thì còn thế giá gì cho các ông!
Chẳng rõ các môn đệ đã làm gì để ngăn cản người kia,
Chỉ biết Thầy Giêsu không chấp nhận thái độ cấm đoán ấy (c. 39).
Thầy bao dung và cởi mở hơn nhiều.
Thầy có cái nhìn lạc quan về người đã nhân danh Thầy mà trừ quỷ.
Hẳn người ấy có niềm tin nào đó vào Thầy, vào quyền năng của Danh Thầy.
Như thế anh ấy đã có tương quan ít nhiều với Thầy,
dù không theo Thầy làm môn đệ chính thức trong nhóm.
“Ai không chống chúng ta là ủng hộ chúng ta” (c. 40).
Nguyên tắc này của Đức Giêsu khiến chúng ta có thêm nhiều bạn,
và bớt số người mà ta nghĩ là kẻ thù.
Nó khiến chúng ta ra khỏi sự lo sợ vì quyền lợi mình bị đe dọa,
và tránh được những tranh chấp không đáng có.
Thật ra thái độ khép kín và độc quyền thường bắt nguồn từ sự ích kỷ
chứ không từ lòng đạo đức thực sự.
Có thứ khép kín ích kỷ của một cá nhân,
nhưng cũng có sự khép kín ích kỷ của một tập thể,
một họ đạo, một dòng tu, một tôn giáo, một quốc gia.
Đức Giêsu mời chúng ta vượt ra khỏi ranh giới của nhóm mình,
để mở ra với thế giới, với các kitô hữu khác, với những người không tin.
Chúng ta cần thấy những điều chân thiện mỹ nơi họ như những tia nắng
đến từ Vừng Đông rực rỡ là Đức Giêsu,
và cảm được mối dây thầm kín kết nối họ với Thiên Chúa.
Cần tập nhận ra Đức Giêsu đang hiện diện và hoạt động
ở những nơi, những tổ chức và những người mà ta không ngờ.
Rao giảng Tin Mừng cho một người là nói với người ấy rằng
anh đã quen biết Giêsu và Giêsu đã ở trong anh từ lâu.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
xin cất khỏi con mọi lo lắng bề ngoài.
Xin tha thứ cho con
vì đã quá bận tâm
đến những điều mình nói,
đến ảnh hưởng của mình,
đến những điều người ta nói và nghĩ về con.
Xin tha thứ cho con
vì muốn nên giống kẻ khác
mà quên mất chính mình,
vì khao khát có được những đức tính của họ,
mà quên phát triển bản thân.
Xin tha thứ cho con
vì đã mất nhiều thời gian
cho việc phô trương
hơn là cho việc xây dựng bản thân.
Xin cho con biết cởi mở với anh em;
nhờ đó, Chúa có thể đến với con
như đến với một người bạn.
Và Chúa sẽ làm cho con trở nên “người”
mà Chúa mong muốn trong tình yêu của Ngài
vì con là con của Chúa
và là anh em của mọi người.
(Michel Quoist)
Suy Niệm 2: Khôn ngoan theo Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người nơi nào thời nào cũng mơ ước được khôn ngoan. Sách Huấn ca hôm nay cho thấy: Khôn ngoan làm cho con người nên cao trọng. Được sự sống. Được vinh quang. Người khôn ngoan sẽ lãnh đạo người khác. Dòng dõi sẽ trường tồn. Tuy nhiên để đạt tới khôn ngoan phải qua một cuộc thử luyện: “Vì ban đầu, khôn ngoan sẽ đồng hành với họ qua nẻo đường quanh co, giáng xuống trên họ hãi hùng run rẩy, và dùng kỷ luật của mình mà tôi luyện bao lâu chưa tin tưởng họ được,; rồi lại thử thách họ qua những phán quyết của mình” (năm lẻ).
Thánh Gia-cô-bê cho biết khôn ngoan chính là người biết từ bỏ ý mình để làm theo ý Chúa. Chúa làm chủ muôn vật muôn loài. Làm chủ cuộc đời chúng ta. Làm chủ cả linh hồn. Cả thân xác. Cả trí tuệ. Cả tài năng. Cả chương trình. Cả thời gian. Vì thế đừng tự mình toan tính gì. Khôn ngoan chính là biết tìm ý Chúa. Làm mọi sự theo ý Chúa. Muốn những gì Chúa muốn. Để Chúa điều khiển cuộc đời. “Thật vậy, các người chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi. Thay vì nói: “Nếu Chúa muốn, chúng ta sẽ sống và làm điều nọ điều kia”, thì các người lại tự phụ vì những chuyện khoác lác của mình. Mọi thứ tự phụ như thế đều xấu” (năm chẵn).
Chúa Giê-su dạy ta biết khôn ngoan là đừng tìm theo ý mình. Chỉ làm vinh danh Thiên Chúa. Các tông đồ thiếu khôn ngoan. Vì bị tính tự ái, phe nhóm, độc quyền chi phối. Chỉ tìm thoả mãn tự ái của mình. Muốn độc quyền thuộc về Chúa và làm chứng về Chúa. Vì thế mà khép kín. Ích kỷ. Nghĩ cho bản thân. Không nghĩ cho Chúa. Cho Nước Chúa. Hẹp hòi. Không chịu mở rộng cánh cửa. Càng không mở rộng tâm hồn. Chúa đã chỉnh đốn các ông. Hãy khôn ngoan. Tìm ý Chúa chứ đừng tìm ý riêng. Tìm đồng thuận chứ đừng tìm đối nghịch. Tìm điểm chung chứ đừng tìm điểm riêng. Tìm hài hoà chứ đừng tìm khác biệt. Tìm hợp nhất chứ đừng tìm chia rẽ. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Thật đơn sơ biết bao. Mà thâm sâu biết bao. Rộng mở. Mà khôn ngoan.
Lạy Chúa, xin ban cho con đức khôn ngoan. Để con biết phục vụ Chúa.
Suy Niệm 3: Cộng tác với nhau
Disney và Roy là hai anh em, mỗi người có một biệt tài và họ đã sớm nhận ra tài năng của nhau. Disney là họa sĩ, còn Roy là một doanh nhân. Họ phân công với nhau: Roy lo sản xuất và tiêu thụ. Disney thì tập trung vào sáng tác. Nhờ sự hợp tác chặt chẽ này, hai anh em đã tạo được sự nghiệp lớn lao.
Nhận ra tài năng của người khác là việc ai cũng có thể làm, nhưng thành thật nhìn nhận tài năng và cùng cộng tác với người khác là điều không dễ thực hiện. Ðó cũng đã là tâm trạng của các môn đệ Chúa Giêsu. Họ khám phá có người nhân danh Chúa để trừ quỷ, nhưng người này lại không thuộc nhóm của họ, thế là họ ngăn cấm người ấy, Chúa Giêsu trả lời: "Ðừng ngăn cấm người ta... Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Qua suốt dòng lịch sử, đặc biệt từ Công đồng Vaticanô II, Giáo Hội không ngừng đẩy mạnh sự hợp nhất giữa các Giáo Hội Kitô, hoặc trong chính nội bộ của mình. Nhu cầu của Giáo Hội thật đa diện, cần có sự đóng góp của nhiều người mới mong đáp ứng đầy đủ. Những khác biệt trong Giáo Hội là vẻ đẹp muôn mầu muôn sắc, nếu tất cả múc lấy nguồi suối từ Chúa Giêsu và sức mạnh từ Thánh Thần.
Ước gì lời Chúa hôm nay hun đúc chúng ta lòng mong muốn làm điều tốt cho người khác, tìm kiếm chân lý hơn là tìm cách thắng cuộc trong tranh luận. Xin Chúa Kitô là nguồn hiệp nhất trong Giáo Hội giúp chúng ta thành tâm hiệp nhất với nhau trong mọi việc.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Lại tranh luận nữa
Ông Gio-an nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.” Đức Giêsu bảo: “Đừng ngăn cản người ta vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy.” (Mc. 9, 38-39)
Có một lúc nào đó các tông đồ đã tranh luận với nhau để xem ai là người lớn nhất. Và đây lại một cuộc cãi cọ nữa, lần này với một người lạ mà Chúa đã lệnh cho thay vào chỗ Người. Chính Gioan là người đến kể lại cho Thầy về trường hợp người trừ quỷ lạ mặt đó. Ông Gioan này, một con người hiền dịu như thế, lại rất có thể nổi nóng, tàn bạo. Ta còn nhớ, một ngày nào đó, ông đã xin Chúa Giêsu cho lửa trời và sấm sét xuống tiêu diệt một làng của người Samari, vì họ đã không chịu tiếp rước các ngài. Ông không gớm cả những biện pháp mạnh. Ở đây, ông lại bực tức với một người ngoại nhập lấy danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ và được thành công. Thật là xì-căng-đan hết chỗ!
Vì “người ấy không theo chúng ta.” Người ấy không phải là người thuộc nhóm chúng ta và kìa anh ta tiếm quyền của chúng ta, dẫm chân lên những mảnh vườn của chúng ta. Đó là một sự lộn xộn mà anh ta xin Chúa Giêsu sửa sai. Vả lại các tông đồ cũng đã bắt đầu xen vào. Các ông đã ngăn cản anh lấy danh nghĩa Chúa mà hành đông và các ông đòi Chúa công nhận hành đông của các ông. Còn Gioan một phần nào như muốn nói: “Khỏi cần đi theo Thầy nữa, làm môn đệ Thầy mà làm chi, khi mà kẻ tới trước đều có thể hành động nhân danh Thầy.”
Đừng là ốc đảo
Phản ứng của Chúa Giêsu, đày lòng bao dung, đã phải làm cho các môn đệ thất vọng: Người lệnh cho các ông cứ để cho người lạ này trừ được bao nhiêu quỷ thì cứ làm, và công việc ấy biện minh cho con người anh: người mới gia nhập này tỏ cho thấy có nhiều dấu hiệu thiện chí, công việc anh làm đều hướng về Chúa Giêsu, và một khi ra đi rồi, chẳng lẽ anh lại đâm ra khinh rể và nhục mạ Người. Ở đây Chúa Giêsu xem ra lạc quan, sẵn sàng kết nạp mọi người ở ngoài, sẵn sàng tỏ thái độ dễ dàng để chiêu mộ những người theo. Thực tế mà nói, Chúa muốn cho các môn đệ thấy rằng thái độ của các ông là không có căn cứ, là hẹp hòi.
Chúa giải thích thêm bằng câu nói bất hủ: “Ai không chống lại tôi, là ủng hộ tôi.” Người truyền lệnh cho các ông phải vượt khỏi những cái nhìn hoàn toàn phàm trần và hẹp hòi của các ông, bỏ ra một bên tinh thần phe nhóm và cởi mở với tất cả mọi người thiện chí. Nhưng thái độ này của Chúa Kitô không phải là “ba phải” chút nào: khi phải chiến đấu chống sự ác, Người tỏ ra kiên quyết và Người sẽ tuyên bố: “Ai không cùng với chúng ta, là chống lại chúng ta.” Có nghĩa là trung lập khi phải đối phó với sự ác chính là đồng lõa với sự ác vậy.
Suy Niệm 5: Ai là người thuộc nhóm chúng ta?
Người ta thường so sánh khả năng làm việc nhóm giữa người Việt Nam và người Nhật Bản, kết quả như sau:
Cùng một công việc, một người Việt và một người Nhật, người Việt hơn hẳn người Nhật.
Hai người Việt làm việc với nhau và hai người Nhật làm với nhau, kết quả bằng nhau.
Ba người Việt làm việc chung và ba người Nhật làm việc chung, thì ba người Nhật hơn hẳn về chất lượng cũng như tinh thần cộng tác.
Tại sao vậy? Thưa không phải người Việt không nhận ra khả năng của nhau! Cả người Việt và Nhật đều nhận ra khả năng của người đối diện. Tuy nhiên, về sự trân trọng tài năng và sử dụng chất xám trong khi làm việc chung thì người Nhật bỏ xa chúng ta!
Đây cũng chính là tâm trạng, thái độ của các môn đệ khi thấy người khác làm việc tốt hơn mình, nhưng chỉ vì họ không thuộc về nhóm của các ông, nên các ông tìm cách ngăn cấm họ.
Với Đức Giêsu thì khác. Khi thấy thái độ kỳ thị của các ông, Ngài đã dạy cho họ bài học về sự hiệp nhất trong đa dạng khi nói: “Đừng ngăn cấm người ta… Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”. Qua câu nói đó, Đức Giêsu muốn dạy các ông bài học về sự đa dạng trong Vương Quốc của Đức Giêsu. Đồng thời cũng mời gọi các ông biết đón nhận những sự khác biệt đó như là một cơ hội để học hỏi và cùng nhau chung tay xây dựng Nước Trời.
Ngày nay, trong đời sống thường nhật, có lẽ nhiều khi chúng ta mong muốn được nhiều người tôn trọng mình và coi thường người khác. Hay có khi chúng ta tìm cách thổi phổng uy tín dởm của mình và luôn tìm cách đạp đổ danh thơm tiếng tốt của đối phương. Hoặc có những lúc chúng ta không ưa ai thì cho dù người đó có tốt lành, gương mẫu thế nào đi nữa, trước mắt và trong lối suy nghĩ của ta, họ chỉ là “con ông nọ, con bà kia ý mà”!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con có được trái tim rộng mở như Chúa, để chúng con biết nhìn thấy điều tốt đẹp nơi anh chị em của mình, và cùng nhau cộng tác nhằm góp phần xây dựng sự hiệp nhất cho Vương Quốc của Chúa trên trần gian. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Bài học bao dung và hợp tác
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Hôm qua, Chúa Giêsu dạy bài học phục vụ và tiếp đón. Hôm nay Ngài dạy bài học bao dung và hợp tác. Khi thấy một số người không thuộc nhóm 12 mà cũng nhân danh Chúa Giêsu để trừ quỷ thì Gioan khó chịu, xin Chúa ngăn cấm. Chúa Giêsu chẳng những không cấm họ mà còn sửa dạy các môn đệ mình.
- Người đời thường có óc bè phái: ích kỷ bảo vệ quyền lợi và danh dự của nhóm mình, và đố kỵ ganh ghét với nhũng nhóm khác. Phương châm của thế gian là "Ai không theo ta tức là nghịch với ta"
- Chúa Giêsu dạy các môn đệ đừng nhìn ai bằng cặp mắt thành kiến đố kỵ, nhưng phải sẵn sàng hợp tác với tất cả mọi người thiện chí. Phương châm Chúa đưa ra là "Ai không chống đối ta tức là ủng hộ ta".
B.... nẩy mầm.
1. Kẻ thốt lên những lời sặc mùi đố kị này là ai? Cũng là kẻ một lần khác đòi khiến lửa trời xuống thiêu rụi một làng Samari không tiếp đón Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài. Đó chính là Gioan, "người môn đệ mà Chúa Giêsu thương yêu". Con người tự nhiên của Gioan vốn xấu như vậy. Nhưng nhờ tình thương của Chúa, sau này Gioan trở nên tốt, có thể nói là tốt hơn những môn đệ khác. Nhìn gương thánh Gioan, tôi không thất vọng về bản chất xấu xa của mình, nhưng tôi càng tin cậy vào tình thương có sức biến đổi tuyệt vời của Chúa.
2. Gioan cũng là một trong 3 môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu. Thế mà vẫn nặng đầu óc phe phái. Gioan đố kị với cả những người "nhân danh Chúa mà trừ quỷ", tức là những người làm việc tốt.
Thánh Gioan mà còn như thế thì huống chi là tôi. Tôi phải khiêm tốn thừa nhận trước Chúa và trước lương tâm rằng tôi đã nhiều lần đố kị ganh ghét các anh chị em tôi, ganh ghét không phải vì họ xấu mà chính vì họ tốt. Và tôi phải hết sức đề phòng không để cho khuynh hướng ganh ghét ấy khuynh đảo tôi nữa.
3. Tôi thường nhìn người khác một cách nghi kị và khắt khe. "Họ không ủng hộ tôi tức là họ chống đối tôi". Do cái nhìn ấy, nếp sống của tôi trở nên bi quan và khép kín. Hôm nay Chúa dạy tôi một cái nhìn rất bao dung và rất lạc quan "Ai không chống đối các con là ủng hộ các con". Chắc chắn với cái nhìn này đời tôi sẽ vui tươi hơn và tôi sẽ làm việc thoải mái hơn.
4. Truyện ngụ ngôn Ấn độ có kể như sau:
Một hôm thần Krisna muốn thử lòng các vua trên trần gian.
Trước tiên thần cho gọi Duriana, một ông vua nổi tiếng tàn ác, đến: "Ta muốn ngươi đi khắp thế giới tìm cho ta một con người có lòng tốt". Duriana đi khắp thế giới một thời gian rồi trở về tâu: "Lạy Ngài, con không thể gặp được một con người nào như thế cả, vì mọi người đều ích kỷ, đê hèn".
Thần gọi tiếp một ông vua khác nổi tiếng quảng đại, tên là Damanatra và ra lệnh ngược lại: "Ngươi hãy đi tìm cho ta một con người thực sự xấu xa". Một thời gian sau, Damanatra trở về buồn bã báo cáo: "Lạy Ngài con xin chịu tội, con đã gặp rất nhiều người hẹp hòi, ích kỷ, gian tham, trộm cắp… nhưng người thực sự xấu xa thì con không gặp.
Cho dù có vấp ngã, mọi người đều có lòng tốt". (Chờ đợi Chúa).
22/02 Tảng đá Phêrô
- Viết bởi Mt 16, 13-19
Tảng đá Phêrô.
Thứ Ba tuần 7 thường niên. – LẬP TÔNG TOÀ THÁNH PHÊRÔ. Lễ kính.
"Con là Ðá, Cha sẽ trao cho con chìa khoá nước trời".
* Được đặt trong nhà thờ chính toà của giáo phận, toà của một vị giám mục là dấu chỉ quyền dạy dỗ, quyền hiến tế và quyền lãnh đạo của giám mục.
Lễ kính Tông toà thánh Phêrô nhắc chúng ta nhớ lại sứ mạng Chúa Kitô đã trao phó cho vị thủ lãnh các Tông Đồ. Nhờ đặc ân không sai lầm, thánh Phêrô là người bảo đảm đức tin của các anh em trong Tông Đồ đoàn. Lòng tin của thánh Phêrô là đá tảng, trên đó Chúa đã xây Hội Thánh của Người
Lời Chúa: Mt 16, 13-19
Khi ấy, Chúa Giêsu đến miền Xêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người là ai?"
Các ông thưa: "Kẻ thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một trong các tiên tri!"
Chúa Giêsu nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?"
Simon Phêrô thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống".
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Trên tảng đá này
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Simon là khuôn mặt nổi bật trong nhóm Mười Hai.
Ông thuộc nhóm những môn đệ đầu tiên theo Ðức Giêsu,
và là một trong ba môn đệ thân tín nhất.
Ông có mặt lúc Chúa hiển dung và trong Vườn Dầu.
Ông thường là phát ngôn viên của cả nhóm (x. Mt 19,27).
Ðức Giêsu phục sinh đã hiện ra cho ông trước tiên (1Cr 15,5),
và giao cho ông chăn dắt đoàn chiên của Ngài (Ga 21,15-17).
Simon có bản tính bộc trực, hăng hái.
Vì quá tin vào sức mình, ông đã sa ngã, chối Chúa.
Bất chấp những yếu đuối và giới hạn của Simon,
Ðức Giêsu vẫn chọn ông đứng đầu nhóm Mười Hai,
và làm nền tảng cho Hội Thánh của Ngài.
Ngài đặt cho Simon một tên mới là Phêrô,
tiếng Aram gọi là Kêpha, nghĩa là Tảng Ðá.
Tên mới này phản ánh sứ mạng Chúa giao cho ông.
Phêrô được tuyên bố là người có phúc,
vì ông đã được Cha trên trời cho biết Ðức Giêsu là ai.
Ông đã tin tưởng đón nhận mạc khải ấy.
“Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Ðó là lời tuyên xưng đức tin của Phêrô.
Nhưng ông không chỉ tuyên xưng đức tin của mình,
ông còn tuyên xưng tình yêu nữa:
“Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.”
Với niềm tin-yêu vào Ðức Giêsu,
Phêrô sẵn sàng chia sẻ sứ mạng Mục Tử của Ngài,
sẵn sàng hiến mình vì đoàn chiên.
Quả thực, Phêrô đã giang tay chịu chết như Thầy Giêsu,
đã theo Thầy và đến nơi mình không muốn đến.
Chúng ta ngỡ ngàng trước sự tin tưởng của Ðức Giêsu.
Ngài cho Phêrô được chia sẻ trách nhiệm với Ngài.
dù ông chỉ là một ngư phủ bình thường, ít học.
Chỉ mình Ðức Giêsu mới là Nền Tảng (x. 1Pr 2,4-5),
nhưng Phêrô cũng được làm nền cho Hội Thánh.
Chỉ mình Ðức Giêsu nắm giữ chìa khóa (x. Kh 3,7),
nhưng Phêrô cũng được trao chìa khóa Nước Trời.
Nếu Phêrô có quyền giáo huấn,
quyền thánh hoá và quản trị Hội Thánh,
thì chỉ nhằm mục đích là phục vụ Dân Chúa.
Hội Thánh đã gặp biết bao khó khăn trong dòng lịch sử.
Không phải chỉ là những cuộc bách hại đẫm máu,
mà còn là những chia rẽ, tranh chấp nội bộ,
những sa sút trầm trọng vì chạy theo thế gian.
Hôm nay, Hội Thánh cũng gặp khó khăn không ít,
khi nhiều người bỏ nhà thờ, bỏ đức tin,
khi ơn gọi giảm sút ở nhiều nơi,
khi Ðức Thánh Cha bị công kích?
Ước gì mỗi người chúng ta ở lại và yêu mến Hội Thánh,
cải tổ và canh tân Hội Thánh
bằng việc canh tân chính bản thân mình.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
Suy niệm 2: Nền tảng đức tin của thánh Phêrô
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu thiết lập Hội Thánh trên nền tảng đức tin của thánh Phêrô. Ngài được Chúa đặt làm thủ lãnh của Hội Thánh. Hiệp thông cùng Hội Thánh có nghĩa là phải hiệp thông với thánh Phêrô và người kế vị là Đức Thánh Cha.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cùng với thánh Phêrô, con tuyên xưng Chúa là Đấng Cứu Thế, là Con Chúa Cha hằng sống. Con thấy mình thật có phúc vì được biết Chúa, tin Chúa và đi theo Chúa, thật có phúc vì được sống trong Hội Thánh của Chúa. Con cảm tạ Chúa.
Lạy Chúa, trải qua hai ngàn năm, Hội Thánh Chúa bước đi giữa muôn ngàn bách hại, cám dỗ, thử thách và đau thương. Có những lúc Hội Thánh tưởng chừng như tiêu tan, hoặc sa lầy hay quỵ ngã. Nhưng cho tới hôm nay, Hội Thánh của Chúa vẫn còn đó giữa lòng thế giới để trở nên dấu chỉ tình thương cứu độ của Chúa. Con tin Chúa vẫn hiện diện và nâng đỡ Hội Thánh như lời Chúa đã hứa. Xin Chúa làm cho Hội Thánh luôn vững tin vào sức mạnh của Chúa.
Con xác tín rằng Chúa là Con Thiên Chúa hằng sống. Chỉ mình Chúa có đủ quyền năng cứu độ thế giới, chỉ có Phúc Âm Chúa là ánh sáng dẫn dắt nhân loại tới hạnh phúc đích thực. Vì thế, xin Chúa giúp con trung thành với Chúa, với Hội Thánh, bằng cách tuân theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha là người thay mặt Chúa trên trần gian. Con đường của Chúa và Hội Thánh thật khác với lối đi của trần gian, nhưng con tín nhiệm vào Chúa và vào giáo huấn của Hội Thánh. Con cầu nguyện xin Chúa ban cho Đức Thánh Cha niềm tin sắt đá, lòng cậy trông vững vàng. Amen.
Ghi nhớ: “Con là Ðá, Cha sẽ trao cho con chìa khóa nước trời”.
Suy niệm 3: Hiểu biết về Chúa Giêsu
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
Tin Mừng cho thấy 3 mức độ hiểu biết về Chúa Giêsu:
1. Mức độ của dân chúng: Nếu chỉ thấy những việc Chúa Giêsu làm và nghe những lời Ngài dạy mà không suy nghĩ thêm thì người ta chỉ biết Ngài là một ngôn sứ thôi.
2. Mức độ của Phêrô: Được ơn Chúa soi sáng, thánh Phêrô hiểu Chúa Giêsu là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Nhưng nếu ơn soi sáng của Thiên Chúa không có sự hợp tác là sự “đi theo” của con người thì dù có hiểu biết Chúa Giêsu, con người vẫn có thể phản đối và cản bước Thiên Chúa.
3. Mức độ Chúa Giêsu đòi hỏi nơi người môn đệ: Hiểu biết Chúa Giêsu cộng thêm sự từ bỏ và vác thập giá đi theo Ngài.
Tôi hiểu biết Chúa Giêsu tới mức độ nào?
- Coi Ngài là một ngôn sứ. Do đó tôi chỉ liên hệ với Ngài để xin ơn?
- Coi Ngài là Đức Kitô Con Thiên Chúa, là lẽ sống đời tôi, nhưng lại sợ khó, ngại khổ?
- Sẵn sàng bỏ tất cả và vác thập giá đi theo Ngài?
“Con là đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”
Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng và cho Giáo Hội.
Chúng ta có nhiều cách để khước từ thập giá: khi không tiếp nhận cuộc sống như một ơn ban, khi chỉ bị quay nhìn về các biến cố và con người, khi bán đứng lương tâm vì chút lợi lộc vật chất, khi đóng kín niềm tin trong các buổi phụng vụ mà quên rằng sống đạo là sống niềm tin Kitô trong từng phút giây cuộc sống.
Ngày kia, Hoàng đế của một vương quốc lớn đã mời gọi các nghệ sĩ từ nhiều nước đến dự cuộc thi “mô tả chân dung hoàng đế”. Các nghệ sĩ Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các thứ đá hoa kim cương quí nhất. Các nghệ sĩ Ai cập thì mang đến đủ thứ đồ nghề và một khối cẩm thạch hảo hạng. Sau cùng người ta rất nhạc nhiên khi thấy phái đoàn Hy Lạp chỉ mang vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.
Mỗi phái đoàn dự thi trong một căn phòng đặc biệt của cung điện. Khi thời gian đã hết, Đức vua cho trưng bày các tác phẩm tranh giải. Ông hết sức khen các bức chân dung của chính mình do các nghệ sĩ Ấn Độ và Ai cập tạc nên. Sau cùng đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, Hoàng đế chỉ thấy duy nhất một bức tường đã được đánh bóng đến độ khi Hoàng đế nhìn vào ông thấy khuôn mặt của mình hiện ra từng nét. Và phái đoàn Hy Lạp đã đoạt giải nhất trong cuộc thi đó.
Sứ mệnh căn bản của mỗi kitô hữu là hoạ lại dung nhan của Đức Kitô nơi cuộc sống và tâm hồn của mình. Để đạt được điều đó, chúng ta phải đục đẽo, phải loại bỏ tất cả những gì là gồ ghề, thô nháp, những thói hư tật xấu và phải cầu xin để có một đức tin vững mạnh.
Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”.
Hằng ngày tôi phải đối mặt với biết bao vấn đề, biết bao chuyện mà Thiên Chúa đòi tôi phải làm chứng cho Ngài. Trước bao vấn đề cần sự can thiệp của tôi: kỷ luật trong lớp học, dàn hoà một cuộc cãi nhau hay một xích mích, giúp đỡ kẻ nghèo... Tôi chỉ biết suy nghĩ tìm hết cách giải quyết này đến cách giải quyết khác. Tất cả chỉ là những lý tưởng, vì chúng chỉ lẩn quẩn trong đầu tôi mà không thể đi tới hành động.
Ông Phêrô đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, nhưng khi chối Chúa ba lần, ông đã không dám dấn thân đến cùng cho niềm tin. Và đức tin không có việc làm là đức tin chết!
Khi xưa Chúa nói với Phêrô: “Anh là Tảng Đá”. Hôm nay nghe lại đoạn Tin Mừng này tôi cảm thấy như Chúa nói với tôi. Mỗi viên đá đều góp phần tạo nên nền móng cho ngôi nhà.
Bé nhỏ, yếu hèn và bất lực, tôi lo sợ viên đá của mình có lúc sẽ vỡ tan. Đó là lúc tôi đánh mất chính mình trong bổn phận hằng ngày.
Thánh Phêrô đã tuyên xưng niềm tin của mình bằng trọn cả tấm lòng của một con người đã từng đi theo Chúa, sống gắn bó với Chúa. Niềm tin được diễn tả bằng trải nghiệm chứ không bằng lời nói suông, bằng con tim cảm mến chứ không bằng trí hiểu. Giờ này nếu Chúa đến hỏi bạn và tôi cũng một câu tương tự, chúng ta sẽ trả lời ra sao?
Suy niệm 4: Lập Tông tòa Thánh Phêrô
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Đức Giêsu nói về ngày Ngài sẽ trở lại vũ trụ để phán xét mọi người. Ngày đó ta quen gọi là ngày cánh chung hay ngày tận thế. Trong bài Tin mừng Đức Giêsu gợi lên hình ảnh của toà phán xét cuối cùng, để dạy chúng ta sống tinh thần tương thân tương ái với hết mọi người. Đó cũng là tinh thần Mùa Chay đích thực mà Giáo hội mời gọi chúng ta.
Trong ngày tận thế, Thiên Chúa sẽ phân chia loài người thành hai nhóm và Chúa ra ví dụ như người mục tử tách chiên ra khỏi dê. Ban ngày người mục tử có thể chăn dắt chiên và dê lẫn lộn với nhau, nhưng đêm đến ông ta phải tách ra, dê để một nơi và chiên một nơi.
Cũng thế, trong cuộc sống hôm nay, nơi trần gian này, Chúa để người lành kẻ dữ, người công chính và kẻ tội lỗi sống chung lẫn lộn với nhau, nhưng trong ngày tận thế, Chúa sẽ tách ra để người lành được hưởng an vui hạnh phúc, còn người tội lỗi phải vào chốn cực hình muôn đời.
Trong ngày phán xét, Chúa chỉ xét xử dựa trên cách chúng ta cư xử với tha nhân mà thôi. Nếu chúng ta khước từ tha nhân, thì tức là chúng ta khước từ chính Chúa Giêsu, và như vậy Ngài cũng chối bỏ chúng ta trong ngày phán xét. Trái lại, mỗi hành động yêu thương mà chúng ta thực thi cho tha nhân cũng chính là một tiếp đón chúng ta dành cho Ngài và Ngài cũng căn cứ vào đó để tiếp đón chúng ta trong ngày phán xét.
Qua mọi thời, Đức Giêsu vẫn luôn hoà đồng với kẻ khốn cùng, những kẻ ngửa tay xin lòng trắc ẩn của nhân loại. Ngài ở trong các anh em bé mọn nhất, những người mù chữ, những trẻ em đường phố, những người bệnh tật lây lất khắp xóm chợ, những người bị suy sụp tinh thần được chia sẻ được yêu thương. Lòng yêu thương kéo sự hiện diện của Thiên Chúa nơi con người, và làm thế giới được tồn tại trong tình yêu như Fyodor Dostoyevky đã cảm nhận: “Lòng trắc ẩn là quy luật chính yếu của sự tồn tại con người”.
Vì thế, chúng ta hiểu vì sao những tấm lòng mang tinh thần bác ái được đứng vào hàng ngũ của những kẻ bên phải trong ngày phán xét chung. Ngày chung cuộc theo Tin mừng, những ai sống trong yêu thương chia sẻ được đón vào Vương quốc vĩnh cửu tình yêu với Đức Kitô.
Lòng yêu thương chân thật phải được thể hiện trong đời sống thực tế chứ không trừu tượng. Bác ái cần hành động chứ không phải lý thuyết suông. Chúa kể ra sáu tình cảnh rất thực tế và là nhu cầu thiết yếu của cuộc sống chứ không phải chuyện cao xa trừu tượng: đói, khát, khách lạ, đau yếu, trần truồng, tù đầy. Nghĩa là đối tượng chúng ta nhắm đến là những thân phận đang cần chúng ta hơn hết. Điều đặc biệt hơn cả là Đức Giêsu đồng hóa mình trong những thân phận bất hạnh đó. Những tình cảnh của những con người đau khổ kia lại là hiện thân của Đức Giêsu và là cơ hội cho chúng ta gặp Chúa: ”Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính ta vậy” (Vinh Sơn).
Như vậy chúng ta thấy Đức Giêsu đặt trước chúng ta một chân lý tuyệt diệu: là tất cả mọi sự giúp đỡ hay không giúp đỡ, chúng ta làm hay không làm cho anh em mình là làm hay không làm cho chính Ngài.
Chị Chiara Lubich, người sáng lập phong trào Focolare chủ trương sống tinh thần Tin mừng, chia sẻ một kinh nghiệm sống như sau: coi những kẻ đang đau khổ là hình ảnh Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi trên Thập giá. Cũng như Chúa Giêsu bị bỏ rơi rất cần người an ủi giúp đỡ, ta cũng hãy giúp đỡ ủi an những kẻ đau khổ ấy.
Truyện: Tìm thấy Chúa trong tha nhân
Một đêm trăng nọ, nhìn qua cửa sổ, một tu sĩ già bỗng nhìn thấy một thiên thần đang ngồi viết trên một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan, vị tu sĩ rón rén đến gần và lên tiếng hỏi:
- Ngài đang viết gì trong quyển sách này thế?
- Ta đang ghi danh những ai yêu mến Thiên Chúa.
Vừa lo lắng vừa hồi hộp, vị tu sĩ mới hỏi xem tên mình có trong sách không. Thiên thần giở từng trang, chăm chú đọc từng hàng, nhưng không thấy tên ông. Thế nhưng điều đó không làm cho tu sĩ thất vọng. Ông nói với thiên thần:
- Xin Ngài vui lòng ghi tên tôi như một thầy dòng lúc nào cũng yêu mến tha nhân.
Thiên thần chiều ý ông. Thế là tên ông được ghi vào sổ vàng.
Sau khi vị tu sĩ già qua đời, xem lại nhật ký của ông, người ta thấy dòng chữ đầu tiên trong nhật ký chính là câu trích dẫn thư 1Ga 4,20: “Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến người anh em nó thấy đó tất không thể yêu mến Thiên Chúa mà nó không thấy”.
Tiếp theo lời trích dẫn vị tu sĩ ghi chú: “Tôi đi tìm kiếm linh hồn tôi, nhưng tôi không thấy; tôi đi tìm Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vượt thoát khỏi tôi; tôi đi tìm người anh em, tôi đã gặp được Thiên Chúa và linh hồn tôi” (Mỗi ngày một tin vui).
Suy niệm 5: Sứ mệnh Chúa giao phó cho Phêrô
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
I. Hôm nay Giáo Hội kính nhớ việc Lập Tông Tòa Thánh Phêrô.
Việc này làm cho chúng ta nhớ đến sứ mệnh Chúa Kitô đã giao phó cho Phêrô. Chúa đã đặt Phêrô làm đầu Giáo Hội là để củng cố niềm tin của chúng ta đối với vị Chủ Chăn. Phụng Vụ hôm nay làm nổi bật lên đức tin mạnh mẽ của Phêrô. Chính đức tin này đã khiến cho Phêrô trở thành đá tảng để trên đó Chúa xây dựng Giáo Hội của Ngài.
Đàng khác, qua Phêrô Chúa tiếp tục chăn dắt đoàn chiên của Ngài. Bằng Lời hằng sống Chúa tiếp tục xây dựng sự hiệp nhất giữa các kitô hữu, làm sao cho mọi người đã chịu phép Rửa Tội cùng được tham dự vào việc chia sẻ với nhau một bánh thánh và cùng uống chung với nhau một chén thánh.
Đây cũng chính là sứ mệnh của các vị kế tiếp Phêrô trên ngai tòa giám mục của thành Roma. Bởi vậy mừng lễ hôm nay chúng ta cùng cầu xin Chúa cho đức giáo hoàng nên “nguyên lý và nền tảng hữu hình hợp nhất toàn dân kitô hữu trong một đức tin và cùng một mối hiệp thông”.
II. BÀI HỌC
Dựa vào tâm tình và ý nghĩa của ngày lễ mà chúng ta vừa nói trên, chúng ta thấy:
1. Người kitô hữu là người có phước vì được vinh dự làm con Chúa qua bí tích Rửa tội.
Idaho người Ấn Độ mới trở lại công giáo và đã được chịu phép rửa tội. Lần kia có người vô thần hỏi:
- Anh là người Kitô hữu, vậy anh có biết gì về Đức Kitô không?
Người tân tòng trả lời tôi có biết.
Người vô thần hỏi thêm:
- Đức Kitô sinh vào năm nào?
Người tân tòng trả lời ấp úng. Người vô thần lại hỏi thêm:
- Đức Kitô chết lúc bao nhiêu tuổi?
Người tân tòng cũng trả lời trật lơ. Nghe thế người vô thần mới bảo:
- Như vậy thì anh có biết gì về Chúa Giêsu đâu?
Anh tân tòng thưa:
- Tôi biết ít lắm, nhưng tôi biết chắc điều này, là hai năm trước đây tôi say xỉn, cờ bạc, nằm đường nằm chợ, lười biếng làm việc. Hai năm trước đây, vợ tôi rất ít mỉm cười, con cái sợ sệt khi gặp tôi. Nhưng ngày nay, tôi là người đàn ông tiết độ, chịu khó làm việc, nên đã nuôi sống gia đình, lại còn đủ tiền mua một căn nhà mới. Ngày nay vợ tôi tươi cười, con cái vui vẻ quấn quít tôi. Chính đức Kitô đã làm cho tôi tất cả những điều ấy. Như vậy mà ông bảo tôi không biết rõ Đức Kitô là Chúa Cứu thế sao. Ngài đã chữa thế gian cho khỏi tội, và Ngài đã cứu chính tôi trước.
Hãy nhớ đến ngày lãnh bí tích rửa tội của mình, để cảm tạ Thiên Chúa đã đoái thương nhận chúng ta, nhận chúng ta vào số những người con cái của Chúa và đồng thời hãy ôn lại lời hứa từ bỏ mà chúng ta đã hứa với Chúa trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội để biết sống xứng đáng với ơn Chúa mỗi ngày.
2. Chúa đã trao quyền cai trị Hội Thánh cho Phêrô. Chúng ta hãy tin tưởng vào những việc Chúa làm.... chúng ta hãy tỏ bày lòng kính mến và vâng phục các vị bản quyền bằng cách thực thi mọi giáo huấn của Hội Thánh và góp phần mình vào việc xây dựng Hội Thánh địa phương cũng như hoàn cầu.
3. Và cuối cùng phải tin tưởng vào sự vững bền của Giáo Hội. Trên Phêrô và trên đức tin của ông, Chúa Giêsu xây Hội Thánh của Người, không một quyền lực nào có thể phá nổi, cho đến khi Con Người lại đến. Vậy phải tin tưởng vào sự vững bền của Giáo Hội trong những lúc thịnh vượng cũng như những lúc bị bách hại hay gặp khó khăn.
Trong một bữa cơm thân mật, có người hỏi Đức ông Polgallo:
- Đức ông là người thân cận Đứa Thánh Cha, vậy có điều gì nơi Đức Thánh Cha đánh động Đức ông hơn cả?
- Dĩ nhiên Đức Thánh Cha Phaolô VI là một vị Giáo Hoàng rất thông minh và thánh thiện. Nhưng riêng tôi, điều làm cho tôi cảm kích hơn cả nơi ngài là lòng ngài muốn hy sinh vì yêu Hội thánh. Mỗi khi hòa mình vào đám đông ở Bombay, ở Manila chẳng hạn, hầu như ngài quên tất cả Ngài để cho mọi người lôi kéo. Chúng tôi, những kẻ có nhiệm vụ bảo vệ ngài, phải lắm phen cực nhọc... Nên những lúc thân mật cha con, chúng tôi vẫn thưa với ngài: “Thưa Đức Thánh Cha, chúng con thấy Đức Thánh Cha vất vả quá với muôn ngàn lo âu, thức khuya dậy sớm, lắm phen nguy hiểm đến tính mạng. Đức Thánh Cha để cho đám đông lạ mặt lôi kéo mình như thế, chúng con ngăn cản bảo vệ không nổi. Xin Đức Thánh Cha giữ gìn sứcc khỏe cho”. Nhưng mỗi lần như thế, ngài đều đáp lại với chúng tôi như một điệp khúc nhỏ nhẹ, dịu dàng: “Tất cả vì Hội thánh! Vì Hội thánh!” Nhiều khi chúng tôi mệt lả, ngao ngán, nhưng nhớ đến câu nói của ngài, chúng tôi phải vươn lên theo ngài, không thể bỏ ngài, và cảm phục kính mến ngài hơn!
Suy niệm 6: Phêrô, con người trong sáng
Người ta nhớ rằng trong Tin Mừng người được nghe thấy luôn luôn chính là Phêrô. Ngài còn để lại hai bức thư, rất ngắn, trong công vụ tông đồ 14 chương đầu nói về Phêrô. Sau công đồng Giê-ru-sa-lem, Luca không nói về Phêrô nữa, phần còn lại dành cho Phaolô.
Biết Đức Giê-su...
Phaolô là nhà luân lý như trong thư Ngài viết, vì Ngài là biệt phái trung thành. Còn Phêrô trong các bài diễn văn như Luca kể lại, Ngài chỉ nói về Đức Giê-su và về Đức Giê-su Phục Sinh.
Phaolô trong những thư Ngài viết, dù bị chi phối về những bài giảng mà Ngài nghe, Ngài vẫn có những trực giác do ân sủng Ngài lãnh nhận.
Nhưng Phêrô còn những hung hăng, mãnh liệt lại bước nhịp nhàng theo chân Đức Ki-tô, Phêrô một con người trong sáng về đức tin. Bài diễn văn của Ngài đầy vẻ an bình. Theo gương Thầy chí thánh, Ngài không pha loãng chân lý bằng những lời nồng nhiệt bốc khói. Nhưng cũng như Thầy, trái tim Ngài cởi mở đón tiếp tất cả. Đức Giê-su rao giảng Chúa Cha cho người Do Thái. Phêrô cũng rao giảng cho người Do Thái về Đức Giê-su Đấng thiên sai cứu thế, Đấng tế lễ và ngôn sứ, Đấng con Thiên Chúa. Và sứ điệp Ngài cũng nói cho chư dân đã được Ngài gặp gỡ và làm cho trở lại đạo trước Phaolô.
Ngài là lời, là mục tử, là đá góc tường, là vị kế nghiệp của Đức Ki-tô.
Tất cả vì Đức Ki-tô...
Đó là sức mạnh con người tự nhiên! Ngài đã theo Đức Ki-tô trong cuộc đời công khai với tất cả bản năng tự nhiên, còn do dự về Đức Ki-tô và về chính mình, thường hay đòi hỏi cho mình làm xúc phạm đến một người cùng làng quê với mình!
Sau lễ hiện xuống thì thật trong sáng, thật vững chắc, Phêrô đã có đức tin sao? chẳng nhưng tin mà còn biết bằng tai nghe, mắt thấy, tay sờ, và lòng mến được những hương vị ngạt ngào êm dịu trước sự hiện diện của Đức Ki-tô cháy đến từng thớ thịt toàn thân.
Ngài có thể nói với chúng ta như Đức Ki-tô nói: “hãy tin tôi đi, tôi đã thấy, đã nghe Người”. Với thánh Phêrô, chúng ta có thể thêm: “Tôi đã chối Chúa, nhưng Người vẫn yêu tôi”.
J.M
Suy niệm 7: Ngai Tòa Thánh Phêrô Tông Ðồ
Hôm nay chúng ta tưởng nhớ việc Ðức Kitô chọn Phêrô là người thay thế Ngài trong việc cai quản Giáo Hội.
Sau một "cuối tuần mất mát" đầy đau khổ, hồ nghi và dằn vặt sau khi Ðức Kitô bị đóng đinh và đem đi chôn, Phêrô đã được nghe Tin Mừng. Thiên thần ở ngôi mộ nói với bà Maria Mađalêna: "Chúa đã sống lại! Hãy đi nói với các môn đệ và Phêrô." Gioan kể lại khi ngài và Phêrô chạy đến mộ, vị tông đồ trẻ đi nhanh hơn tông đồ lớn tuổi kia, nhưng ngài đứng đợi ở ngoài. Khi Phêrô bước vào, thấy các khăn liệm ở dưới đất, khăn che mặt được gói lại để ở đúng vị trí của nó. Gioan trông thấy và tin. Nhưng ngài viết thêm: "... Họ không hiểu rằng theo kinh thánh, Ngài phải sống lại từ cõi chết" (Ga 20:9). Họ về nhà. Ðầu óc họ như nổ tung với một khám phá mới, điều bất khả đã trở thành hiện thực. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn nhà khóa kín. Ngài nói, "Bình an cho anh em," và họ quá đỗi vui mừng (Ga 20:21b).
Và biến cố trong ngày Ngũ Tuần đã giúp Phêrô cảm nhận được Ðức Kitô phục sinh một cách trọn vẹn. "... Tất cả đều tràn đầy Thánh Thần" (Cv 2:4a) và họ bắt đầu rao giảng bằng các thứ tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho.
Chỉ khi ấy Phêrô mới chu toàn nhiệm vụ mà Chúa đã trao cho ngài: "... Một khi anh trở lại, hãy củng cố các anh em" (Lc 22:32). Từ lúc đó, ngài trở nên phát ngôn viên cho nhóm Mười Hai về những gì họ được cảm nghiệm qua Thánh Thần -- trước nhà cầm quyền muốn chặn đứng sự rao giảng, trước thượng hội đồng Giêrusalem, trước cộng đoàn về vấn đề của Ananias và Sapphira. Ngài là người đầu tiên rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại. Sức mạnh chữa lành của Ðức Kitô ở trong Phêrô được chứng tỏ: cho kẻ chết sống lại, chữa người ăn xin tàn tật. Dân chúng khiêng bệnh nhân ra đường phố để khi Phêrô đi ngang qua, bóng của ngài có thể chữa họ lành.
Ngay cả một vị thánh cũng gặp khó khăn của cuộc đời Kitô Hữu. Khi Phêrô không còn ăn uống với Dân Ngoại tòng giáo vì ngài tế nhị không muốn tổn thương đến người Kitô gốc Do Thái, Phaolô viết: "... Tôi chống đối ông ấy ra mặt vì rõ ràng là ông ấy sai... Các ông ấy không đi đúng với chân lý của phúc âm..." (Gl 2:11b, 14a).
Trong đoạn cuối Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói với Phêrô, "Thật, Thầy bảo thật cho anh biết, khi anh còn trẻ, anh muốn mặc quần áo nào và muốn đi đâu tùy ý; nhưng khi anh lớn tuổi, anh sẽ phải giang tay ra, và người khác sẽ mặc áo cho anh và dẫn anh đến nơi anh không muốn" (Ga 21:18). Chúa Giêsu tiên đoán về cái chết mà Phêrô phải chịu để vinh danh Thiên Chúa. Trong thời gian cai trị của Nero, trên Ðồi Vatican ở Rôma, Phêrô đã vinh danh Chúa Giêsu với sự tử đạo, có lẽ cùng với nhiều Kitô Hữu khác.
Lời Trích
Trong Thơ Thứ Nhất, Thánh Phêrô diễn tả ơn gọi của người tín hữu Kitô: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để lãnh nhận niềm hy vọng sống động nhờ Ðức Giêsu Kitô đã sống lại từ cõi chết..." (1 Pr 1:3a).
Suy niệm 8: Kính tông tòa thánh Phêrô
(http://www.tgpsaigon.net)
Cuộc tuyên tín của Thánh Phêrô tại địa hạt Philipphê Cêsarê là một bất ngờ lớn. Khi Phêrô được soi sáng để tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
Trước lời tuyên xưng tuyệt vời của Phêrô: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16), Chúa liền hứa: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16, 18). Thánh Phêrô và những đấng kế vị ngài là những người được Chúa chọn để lãnh đạo Hội Thánh Chúa nơi trần gian. Đặc biệt hơn, sức mạnh chống được sự dữ không phải là sức mạnh của cá nhân Thánh Phêrô, nhưng là chính quyền năng của Chúa hoạt động trong con người Phêrô cũng như trong các đấng kế vị ngài.
Lúc nào cũng vậy, Phêrô là con người nhanh mồm nhanh miệng, luôn nhiệt tình mau mắn để đại diện anh em để tỏ bày tâm tư thay cho anh em như khi Chúa Giêsu nói về Bí tích Thánh Thể, nhiều môn đệ đã bỏ đi. Nhưng Phêrô đã tỏ bày thật dễ thương “Bỏ Thầy chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có lời ban sự sống đời đời.” Rồi trong đêm Chúa bị bắt Phêrô cũng bộc trực thề thốt: “Con thề sống chết với Thầy.” Nhưng rồi Phêrô đã vấp ngã khi chối Thầy ba lần.
Tưởng chừng là dấu chấm hết cho cuộc đời Phêrô. Những giọt nước mắt ăn năn tuôn chảy trước cái nhìn thân thương của Thầy Giêsu. Phêrô vẫn được Chúa Giêsu tín nhiệm trao trách nhiệm đứng đầu Hội Thánh sau lời tuyên xưng ban đầu: “Anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18) bằng lời thân thương: “Phêrô Con có yêu mến Thầy không... Hãy chăn dắt đàn chiên của Thầy.”
Chúa Giêsu gọi Simon là Phêrô, nghĩa là Đá. Điều này diễn tả sự chia sẻ quyền lực của Thiên Chúa cho người đại diện Chúa nơi trần gian là Phêrô và các Đấng kế vị ngài. Chúng ta tin vào sự vững bền của Hội Thánh vì chính Chúa là Đá Tảng đã đặt ngai tòa Phêrô như Đá vững chắc cho ngôi nhà Giáo Hội. Sức mạnh của Đức Giêsu phục sinh là cơ sở cho niềm tin và bình an khi ta sống trong Hội Thánh của Chúa.
Thánh Phêrô đã được Chúa trao cho chìa khóa Nước Trời, có nghĩa là thánh nhân sẽ được tham dự vào quyền bính của Chúa. Chính vì thế, thánh Phêrô cũng như các vị kế nhiệm sẽ đại diện Chúa ở trần gian với quyền giáo huấn, quyền thánh hóa và quyền quản trị để phục vụ Dân Chúa. Do vậy, khi người tín hữu không vâng nghe Đấng kế vị thánh Phêrô cũng chính là không vâng nghe Đức Giêsu.
Điều này cũng như quyền năng của nối kết hoặc cầm buộc và của tách rời hoặc tháo cởi cũng được trao cho cộng đoàn (Mt 18, 18) và cho các môn đệ khác (Ga 20, 23). Một trong những điểm mà sách Tin Mừng Mátthêu nhấn mạnh nhiều nhất là sự hòa giải và tha thứ hoặc khoan dung. Nó là một trong những nhiệm vụ quan trọng hơn đối với các điều hợp viên của cộng đoàn. Bắt chước thánh Phêrô, họ phải cầm buộc hoặc tháo cởi, đó là, làm theo cách để có sự hòa giải, chấp nhận lẫn nhau, xây dựng tinh thần huynh đệ.
Khi cử hành lễ kính Tông Tòa Thánh Phêrô, phụng vụ muốn cho chúng ta thấy ngai tòa vững chắc mà Chúa Giêsu đã nói với Thánh Phêrô ”Anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18), đồng thời trao cho Thánh Phêrô nhiệm vụ chăn dắt. Do đó ngai tòa thánh Phêrô mang một ý nghĩa quan trọng tuyệt đối, Đức Giáo Hoàng là vị kế nhiệm thánh Phêrô hướng dẫn toàn thể Giáo Hội toàn cầu. Vì thế ngày lễ hôm nay là một lời tuyên xưng long trọng về quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng trong toàn thể Hội Thánh.
Ngày lễ lập Tông tòa thánh Phêrô cũng nhắc nhở mỗi người cầu nguyện thật nhiều cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Thời đại nào cũng vậy, con thuyền Giáo hội vẫn luôn gặp những sóng gió của thử thách. Đức Giáo Hoàng luôn phải đối đầu với những khó khăn của Hội Thánh. Chính vì thế ngài luôn phải có ơn Chúa, sự soi sáng khôn ngoan của Chúa Thánh Thần để chu toàn trách nhiệm chăn dắt chiên con chiên mẹ của Chúa.
Mừng Lễ hôm nay, Hội Thánh mời gọi tất cả chúng ta hướng về Đức Giáo Hoàng, đấng kế vị Phêrô. Ngài là vị cha chung của Hội Thánh, có trách nhiệm chăm sóc và hướng dẫn Dân Chúa. Với tấm lòng con thảo, chúng ta hãy yêu mến, vâng lời và siêng năng cầu nguyện cho ngài.
Suy niệm 9: Lập tông tòa thánh Phêrô
(Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Ông Phêrô thưa với Chúa Giêsu: ”Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Chúa Giêsu trả lời: ”Anh là Phêrô nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16, 16.18). Giáo Hội hôm nay cử hành lễ kính tông tòa thánh Phêrô và cũng là lễ để tôn vinh Đức Giáo Hoàng, vị kế nhiệm thánh Phêrô dưới trần gian, cai trị, điều khiển Giáo Hội hoàn vũ.
LỄ LẬP TÔNG TÒA THÁNH PHÊRÔ:
Khi cử hành thánh lễ kính tông tòa thánh Phêrô, phụng vụ muốn cho chúng ta thấy ngai tòa vững chắc mà Chúa Giêsu đã nói với vị thủ lãnh Hội Thánh tiên khởi: ”Phêrô, Con là đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” hay ”Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho những anh em khác vững tin” (Lc 22, 32). Chúa Giêsu đã trao trách nhiệm nặng nề cho Phêrô là chăn dắt các chiên con và chiên mẹ của Ngài. Do đó, ngai tòa thánh Phêrô mang một ý nghĩa quan trọng tuyệt đối: Đức Giáo Hoàng là vị kế nhiệm thánh Phêrô hướng dẫn toàn thể Giáo Hội toàn cầu.
Vì thế, thánh lễ lập tông tòa thánh Phêrô là một lời tuyên xưng hết sức quan trọng nhưng lại rất long trọng về quyền tối thượng của Đức Giáo Hoàng trong toàn thể Hội Thánh. Trước kia, Giáo Hội cử hành hai thánh lễ riêng biệt, một để kính tòa thánh Phêrô ở Antiokia, và một để kính tòa thánh Phêrô ở Roma. Tựu trung hai thánh lễ này đều mang cùng một ý nghĩa, nên ngày nay Giáo Hội chỉ cử hành một thánh lễ là: ”Lập Tông Tòa Thánh Phêrô”.
HÃY CẦU NGUYỆN CHO ĐỨC THÁNH CHA:
Ngày lễ lập tông tòa thánh Phêrô là lời mời gọi toàn thể dân Chúa trên hoàn vũ hãy cầu nguyện thật nhiều, cầu nguyện liên lỉ cho vị Cha chung của Giáo Hội, trước một trọng trách nặng nề mà Chúa và Giáo Hội trao phó cho Ngài. Trước muôn vàn thách đố của một thế giới luôn luôn biến chuyển, Đức Giáo Hoàng luôn phải đối đầu với muôn vàn khó khăn của Hội Thánh, của thế giới. Chính vì vậy, Ngài cần có đầy đủ ơn Chúa và sự soi sáng, khôn ngoan của Chúa Thánh Thầnh để Ngài chu toàn trách nhiệm chăn dắt chiên con và chiên mẹ của Chúa.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã thiết lập Hội Thánh trên nền đá vững bền là lời tuyên xưng đức tin của thánh tông đồ Phêrô. Xin gìn giữ Hội Thánh khỏi nao núng giữa cảnh đời thử thách gian nan (Lời nguyện nhập lễ, lễ lập tông tòa thánh Phêrô).
Suy niệm 10: Lòng tin của Phêrô
"Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." (Mt 16,16)
Suy niệm: Chúng ta nhìn vào đức tin của thánh Phêrô, hầu rút ra bài học cho mình. Phêrô vừa biết Chúa Giêsu thì đã tin vào Ngài, trở nên một trong bốn môn đệ đầu tiên. Ông được nghe lời giảng dạy của Chúa và chứng kiến những phép lạ Chúa làm. Tưởng chừng như lòng tin của ông kiên vững lắm.
Nhưng ta chưng hửng biết bao khi thấy ông tỏ ra yếu tin, ngã lòng, thất đảm, thậm chí chối bỏ đức tin nữa. Các trình thuật về việc Phêrô đi trên mặt nước rồi bị chìm (Mt 14,22-33), chối Chúa ba lần (Mc14,66-72), trốn chạy khi Chúa chịu nạn... cho thấy lòng tin của ông như thế nào! Cuối cùng, sau những lần yếu đuối, Phêrô đã kiên vững trong lòng tin cho đến chết. Gương của Phêrô cho thấy đức tin là một ơn của Chúa, con người khó mà có được lòng tin vững mạnh nếu Chúa không nâng đỡ (Lc 22,31-32). Về phần Chúa, ta thấy Ngài luôn lạc quan, tin tưởng vào Phêrô, dù biết rõ con người của ông.
Mời Bạn: Hẳn bạn không thể tự mãn về lòng tin của mình, dù bạn vẫn giữ đạo tốt, vẫn tin vào Chúa. Bạn cũng chẳng dám cho rằng mình có đức tin "lớn bằng hạt cải" (Lc 17,6). Đức tin của bạn phải trải qua thử thách thì mới là đức tin thật và mạnh mẽ.
Sống Lời Chúa: Khiêm tốn nài xin Chúa nâng đỡ lòng tin yếu kém của bạn, trong sự xác tín rằng đức tin của bạn sẽ được củng cố nhờ cầu nguyện, nhờ Lời Chúa và bí tích Thánh Thể.
Cầu nguyện: Tâm sự với Chúa bằng lời Phúc Âm: "Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con" (Lc 17,5); "Lạy Chúa, con tin, nhưng xin nâng đỡ lòng tin yếu kém của con" (Mc 9,24).
Suy niệm 11: “Abba”
Ông Phêrô thưa: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống." (Mt 16,16)
Suy niệm: Ben Hur trong bộ phim cùng tên đã thốt lên: "Tại sao Con Thiên Chúa không muốn làm vua Do Thái hở mẹ? Những điều kỳ diệu Ngài làm khiến con kinh ngạc. Chỉ cần một hơi thở của Ngài đủ hủy diệt sức mạnh Roma. Thế mà Ngài lại từ chối sự trợ giúp của các binh đoàn, khiến bao gian lao trở thành vô ích? Chúng ta lại phải rên siết dưới sự bảo hộ của Roma và để vũ khí mà ta khổ công rèn đúc phải rỉ sét ư?"
Anh cũng như nhiều đồng hương đã thất vọng về Đức Giêsu, vì chờ đợi Ngài như Đấng Cứu Thế vinh quang bằng cách trừng phạt quân đội Roma, mang lại phồn vinh cho trần thế qua sức mạnh chinh phục. Ngài quả thật là Con Thiên Chúa hằng sống, là Đức Kitô Cứu Thế như Phêrô tuyên xưng. Thế nhưng, là người Con hiếu thảo với Cha, đời Ngài chỉ canh cánh một điều là làm đẹp ý Cha trong mọi sự. Thế mà ý Cha là sai Con mình đến, không phải để luận phạt, nhưng để cứu thế gian và để thế gian nhờ đó được sống dồi dào.
Mời Bạn: Bạn không tin Thiên Chúa cách chung chung như những tín đồ tốt lành của các tôn giáo khác. Bạn tin và đến với Thiên Chúa qua người Anh Cả Đức Giêsu, Đấng là Thiên-Chúa-thần-linh, nhưng đồng thời cũng là con-người-xương-thịt như bạn. Nhờ sống trong tương quan thân thiết với người Anh Cả Thiên-Chúa-con-người này, bạn gặp được Thiên Chúa và dám mở miệng gọi Thiên Chúa: "Abba!" ("Cha ơi").
Sống Lời Chúa: Xem lại cách tôi sống với Đức Giêsu như thế nào: gắn bó thân thiết như nên "một" với Ngài hay hờ hững qua loa? Và tìm mọi cách để có thể như Ngài sống trong tôi mỗi ngày.
Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy Cha.
Suy niệm 12: Công trình Hội Thánh
Đức Giê-su hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15)
Suy niệm: Khi xây nhà, ai cũng thừa biết phải bắt đầu từ nền móng, và là một nền móng được gắn vào đá vững chắc, chứ không ai khờ dại xây nhà hờ hững trên nền cát.
Để xây Hội Thánh, Chúa Ki-tô cũng muốn xác định tính vững chắc của những tảng đá Ngài sẽ dùng để làm nền móng cho Hội Thánh là các tông đồ. Phép thử của Ngài là một câu hỏi. Cần phải biết “Thầy là ai?” để hiểu mục đích mà Thầy nhắm đến khi thiết lập Hội Thánh. Cần phải biết Thầy để biết được giới hạn của mình cũng như để lường trước sức nặng của Hội Thánh mà Thầy sẽ đặt lên vai mình. Qua phép thử này, Chúa Ki-tô cho biết tính vững chắc của Hội Thánh không hệ tại những đầu óc thông thái mà là một niềm xác tín vững vàng vào Đấng mà mình đang đi theo. Với niềm tin vào Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống thì Hội Thánh có sức đứng vững trước mọi thách thức, chống phá, dù là quyền lực của ác thần Sa-tan.
Mời Bạn: Qua hơn hai mươi thế kỷ, biết bao vương quyền hay thể chế trần gian đã sụp đổ, nhưng Hội Thánh Chúa Ki-tô vẫn kiên vững; sự thật này minh chứng cho một nền móng vững chắc của tòa nhà Hội Thánh. Mời bạn tiếp nối lời tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống” để góp phần xây dựng Nước Chúa ở trần gian nay.
Sống Lời Chúa: Nhiệt thành tham gia vào đời sống của Giáo Hội địa phương, là bạn đang góp phần xây dựng Hội Thánh Chúa Ki-tô.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, chúng con tin rằng Hội Thánh Chúa luôn vững bền. Xin gìn giữ chúng con trong Hội Thánh để chúng con thuộc về Chúa luôn.
Suy niệm 13: Lập Tông Tòa thánh Phêrô
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Quyển lịch cổ nhất của Rôma (Depositio martyrum) có từ năm 354, xác nhận Thánh Lễ “Ngai Tòa Thánh Phêrô – Chaire de Saint Pierre” được mừng kính ngày 22.02, ngày dân Rôma nhớ đến những người quá cố. Nhưng sau đó, vì các Giáo Hội xứ Gaule không cử hành trọng thể các lễ trong Mùa Chay, nên Thánh Lễ này được dời vào ngày 18.01, trong khi Giáo Hội Rôma vẫn giữ ngày cũ. Ngày lễ cũng khác và chủ đề cũng khác: trong xứ Gaule, người ta mừng lễ “Ngai Tòa thánh Phêrô tại Rôma”; tại Rôma, người ta mừng lễ “Ngai Tòa thánh Phêrô tại Antiochia”. Cuối cùng hai lễ nhập lại làm một và được xác định vào ngày 22.02, dưới một chủ đề: Ngai Tòa Thánh Phêrô.
Tại Rôma, trong đại thánh đường thánh Phêrô, người ta còn giữ được ngai toà (tiếng La Tinh cathedra) của vị giáo hoàng tiên khởi, có nghĩa là ngai toà, theo truyền thống, thánh Phêrô đã sử dụng. Nó là biểu trưng cho uy quyền của Đức Giáo Hoàng như là Thầy dạy, Thượng Tế và mục tử của Hội Thánh toàn cầu.
2. Thông điệp và tính thời sự
Thánh lễ kính Ngai Tòa Thánh Phêrô giúp chúng ta đào sâu sứ vụ của vị Tông Đồ Phêrô và các đấng kế vị trong Hội Thánh, nhờ phong trào đại kết, tìm cách kết hợp mọi Kitô hữu.
a. Ngai Tòa Thánh Phêrô trước tiên nhắc nhớ đến sứ vụ Đức Giêsu trao phó cho Simon-Phêrô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,32). Mặc cho thử thách mà đức tin các Tông Đồ phải chịu (Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo), đức tin của thánh Phêrô giữ vai trò nền tảng trong Hội thánh tiên khởi. Thánh Phaolô xác nhận Chúa Giêsu đã hiện ra với Céphas (Phêrô), sau đó cho nhóm Mười Hai (1 Cr 15,5); cũng thế, Phúc Âm thánh Luca xác nhận trong câu chuyện hai môn đệ đi làng Emmaus: “Nhóm Mười Một và các bạn hữu nói với họ: Chúa chỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon” (Lc 24,34)
Phụng Vụ nhấn mạnh việc “đức tin của thánh Tông Đồ Phêrô” là đá tảng, trên đó Chúa đã xây dựng chúng ta. Phúc Âm Thánh lễ soi rọi niềm tin này của thánh Phêrô (Mt 16,13-19), trong lời tuyên xưng của Phêrô: “Thầy là Đấng Mêssias, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đức Giêsu đáp: “Anh là đá, trên đá này Tôi sẽ xây Hội Thánh của Tôi” (c 18). Lời tuyên bố của Đức Giêsu là nguồn gốc sứ vụ cao vời thánh Phêrô thực hiện trong cộng đoàn tiên khởi, và theo truyền thống Công Giáo, là nguồn gốc Tối Thượng Quyền mà tất cả các Đức Giáo Hoàng được lãnh nhận từ thánh Phêrô.
b. Sứ vụ của thánh Phêrô, công bố niềm tin đích thực và chân chính vào Đức Giêsu Kitô, cũng là xác nhận niềm tin của anh em và khuyến khích những người có trách nhiệm trong Hội Thánh (Các kỳ mục hay trưởng lão). Vì thế, trong bài đọc một (1 Pr 5,1-4) thánh Phêrô nhắc nhở các kỳ mục, có nghĩa là những người đứng đầu các cộng đoàn, trách nhiệm của họ: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng vì lòng nhiệt thành... Đừng lấy quyền mà thống trị, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên.”
Đoạn Công Vụ Tông Đồ đọc trong Phụng Vụ Giờ Kinh nhắc đến việc những người đã cắt bì tranh luận với Phêrô. Sau khi thánh Tông Đồ “nhắc lại câu chuyện từ đầu và trình bày từng điểm một cho họ, các thính giả bình tĩnh trở lại và ca ngợi Thiên Chúa”. Như thế thánh Phêrô đã củng cố đức tin cho anh em và kết hợp mọi người trong Hội Thánh. Đá góc là Đức Kitô, nhưng Đức Giêsu nói với Phêrô: “Con là đá, có nghĩa là: Ta là đá không thể lay chuyển... còn con, con cũng là đá, con cũng vững vàng nhờ sức mạnh của Ta” (thánh Lêô Cả, Phụng Vụ Giờ Kinh).
Suy niệm 14: Phê-rô đứng dậy sau vấp ngã
Nếu như Thánh Phaolô có ngày té ngựa để làm lại cuộc đời, thì thánh Phêrô có mẻ cá kỳ diệu nhờ vâng lời để đứng dậy làm lại cuộc đời
Hôm nay lễ lập tông tòa thánh Phê-rô, là dịp chúng ta tưởng nhớ việc Đức Kitô chọn Phêrô làm người thay thế Ngài trong việc cai quản Giáo Hội.
Người ta tưởng rằng đêm tối vườn cây dầu đã tiêu huỷ sự nghiệp của một tông đồ miền duyên hải. Một con người mang đậm tính chất phác, bộc trực và ngay thẳng tên là Simon Phêrô. Một con người đã từng tuyên bố: “anh em có bỏ Thầy, riêng con thì không bao giờ”. Thế mà đêm đó, ông đã bỏ chạy tuy đã rút gươm chém đứt một bên tai của người lính. Có lẽ ông đã phản ứng bởi tự nhiên, bởi tự vệ và cũng có thể vì ông nghĩ rằng giờ của Chúa đã đến. Ông sẽ cùng Thầy khôi phục lại nhà Israel. Nhưng ông đã lầm. Chúa Giêsu không những đã không hoan nghênh lại còn oán trách ông là hành động hồ đồ. Dùng gươm sẽ chết vì gươm. Đó không phải là cách Thiên Chúa dùng để thâu nạp muôn dân vào trong Nước của Ngài.
Thất vọng ông đã bỏ chạy trong đêm tối. Đêm tối của đức tin. Đêm tối của tuyệt vọng. Tưởng rằng sau đêm đó người ta sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Ông đã bỏ chạy cao xa, để mặc Thầy bị những con người cuồng nhiệt, nhân danh tôn giáo để giết hại Thầy mình. Nhưng rạng sáng hôm đó, người ta lại thấy ông xuất hiện chen lẫn giữa đám người còn đang cuồng nhiệt đòi giết Thầy mình. Một hành động quá chân thành, đầy cảm thông với Thầy Chí Thánh. Thế mà, ông lại một lần nữa vấp ngã trước sự dữ. Ông đã chối Chúa đến ba lần trong một đêm vì một đứa tớ gái đã vạch mặt chỉ tên là đồng bọn với tử tội Giêsu.
May mắn cho cuộc đời của ông. Tiếng gà gáy đêm khuya tựa như tiếng lương tâm thức tỉnh lòng ông. Ông lấm lét nhìn lên Chúa và bắt gặp ánh mặt đầy nhân từ, cảm thông của Thầy. Chúa không nói lời nào với ông và ông cũng không còn lời nào để nói. Nhưng qua ánh mắt đầy nhân từ của Chúa, ông tin rằng Chúa biết rõ con người của mình. Chúa biết ông yêu mến Ngài.
Ông đã đứng dậy, bước ra ngoài sự dữ. Dứt bỏ nơi chốn nên cớ cho ông vấp phạm và khóc lóc ăn năn.
Và sau một "cuối tuần mất mát" đầy đau khổ, Đức Kitô bị đóng đinh và đem đi chôn, Phêrô đã được nghe Tin Mừng. Thiên thần ở ngôi mộ nói với bà Maria Mađalêna: "Chúa đã sống lại! Hãy đi nói với các môn đệ và Phêrô." Gioan kể lại khi ngài và Phêrô chạy đến mộ, vị tông đồ trẻ đi nhanh hơn tông đồ lớn tuổi kia, nhưng ngài đứng đợi ở ngoài. Khi Phêrô bước vào, thấy các khăn liệm ở dưới đất, khăn che mặt được gói lại để ở đúng vị trí của nó”. Họ về nhà. Đầu óc họ như nổ tung với một khám phá mới, điều bất khả đã trở thành hiện thực. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn nhà khóa kín. Ngài nói: "Bình an cho anh em," và họ quá đỗi vui mừng (Ga 20:21b).
Và biến cố trong ngày Ngũ Tuần đã giúp Phêrô cảm nhận được Ðức Kitô phục sinh một cách trọn vẹn. "... Tất cả đều tràn đầy Thánh Thần". Chỉ khi ấy Phêrô mới chu toàn nhiệm vụ mà Chúa đã trao cho ngài: "... Một khi anh trở lại, hãy củng cố các anh em" (Lc 22:32). Từ lúc đó, ngài trở nên phát ngôn viên cho nhóm Mười Hai về những gì họ được cảm nghiệm qua Thánh Thần trước nhà cầm quyền muốn chặn đứng sự rao giảng, trước thượng hội đồng Giêrusalem, về những vấn đề cấp bách của Giáo hội.
Thánh Phêrô được chọn làm đại diện của Chúa không phải vì Ngài hoàn hảo, cũng không phải vì Ngài tài trí hơn người, mà điều quan yếu hệ tại ở lòng thánh nhân luôn yêu mến Thầy chí thánh Giêsu. Xin cho chúng ta biết học nơi thánh nhân. Biết chỗi dậy sau những vấp ngã. Biết tin tưởng, phó thác cuộc đời trong tình thương quan phòng của Chúa. Đồng thời, xin cho chúng ta luôn biết yêu mến Giáo hội, biết kính trọng vâng phục các người đại diện Chúa nơi trần gian, vì các ngài là hiện thân của Chúa đang dẫn dắt chúng ta. Amen.
Suy niệm 15: Lập Tông Tòa thánh Phêrô
Mừng kính lễ thiết lập ngai toà của thánh Phêrô, chúng ta không tôn thờ chiếc ghế như dấu chỉ của quyền cai quản Giáo Hội mà Chúa đã trao phó cho thánh Phêrô và những người kế vị ngài là các Đức Giáo hoàng. Nhưng chúng ta được mời gọi tôn vinh một tình yêu sẻ chia của Thiên Chúa dành cho chúng ta: “Con là đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”.
Quả thế, Chúa Giêsu đã có lần dạy các môn đệ rằng: “Anh em biết những người được coi là thủ lãnh các dân thì áp đặt trên họ quyền bá chủ, những người làm lớn thì áp đặt trên họ quyền hành của mình. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạnh sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 42-43).
Như thế, khi thiết lập ngai toà thánh Phêrô, Chúa muốn thông chia quyền bính cai trị dân Chúa cho con người, cụ thể là cho thánh Phêrô và các Tông tồ và những người kế vị các ngài là Giáo hoàng và Giám mục. Và những người lãnh nhận nhiệm vụ ấy sẽ phải hành xử theo cung cách của thầy Giêsu: “Thầy ở giữa anh em như người phục vụ” hay “Ta đến để cho chúng được sống dồi dào”.
Như thế, chia sẻ quyền bính cai trị cho con người là Thiên Chúa muốn mời gọi con người đi vào con đường phục vụ trong yêu thương. Và càng phục vụ trong yêu thương như Chúa, chúng ta sẽ tiếp tục làm cho ngai toà tình yêu ấy ngày một triển nở trong xã hội trần thế này. Nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ nhìn thấy một thế giới yêu thương trong hiệp thông với nhau và phục vụ lẫn nhau. Và như vậy chúng ta sẽ đẩy lùi sự hận thù và gian trá, loại bỏ sự bất công và ghen ghét trong cuộc sống này.
Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã yêu thương và chia sẻ quyền bính cai trị dân Chúa trong yêu thương và phục vụ cho chúng con. Xin cho các Đức Giáo hoàng, các Giám mục và tất cả chúng con biết đón nhận hông ân này trong tin yêu và phó thác, để chúng con có thể làm cho nước Chúa được vinh hiển trong cuộc đời này. Amen.
Suy niệm 16: Kính Ngai tòa Thánh Phêrô Tông đồ
Hằng năm, vào ngày 22 tháng 2 tại Rôma, trong Đền thờ Thánh Phêrô ở Vatican, Ngai tòa Thánh Phêrô do Berlini xây năm 1656 được thắp nến sáng.
Ngai tòa Thánh Phêrô tại Rôma là chiếc ngai khổng lồ, bên trong dựng chiếc ghế gỗ khảm xà cừ của Thánh Phêrô, được bốn Thánh Tiến sĩ nâng trên tay: Thánh Augustinô, Thánh Ambrôsiô, Thánh Atanasiô và Thánh Gioan Kim Khẩu. Bên trên có một hào quang rực rỡ bằng cẩm thạch giả, chính giữa có hình chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần.
Bên phải Ngai tòa Phêrô là đài kỷ niệm ÐGH Urbanô VIII và hai tượng biểu trưng cho nhân đức Bác Ái và Công Bằng. Bên trái là đài kỷ niệm ÐGH Phaolô III do G. della Porta tạc: phía trên có tượng của ÐGH, bên dưới là hai tượng biểu trưng cho hai nhân đức Cẩn Trọng và Công Bằng. Trên đường sang cánh trái của gian ngang, bên phải là đài kỷ niệm ÐGH Alessanđrô VIII do E. di S. Martino tạc năm 1725, bên trái là bức tranh Thánh Phêrô chữa người bất toại được khảm đá mầu của F. Mancini.
Chữ “Cathedra” có nghĩa là chiếc ghế hay giảng tòa và có nguồn gốc từ chữ “Cathedral”, nơi một vị giám mục có giảng toà để ngài giảng dạy. Một từ khác được dùng cho “Cathedra” là “sedes” từ chữ “See” nghĩa là Tòa nơi một vị giám mục điều hành giáo phận của mình. Như thế từ “Holy See” nghĩa là Tòa Giám mục Rôma, nơi Ðức Giáo Hoàng ngự trị, hay được gọi là Tòa Thánh.
Trong suốt dòng lịch sử, Ngai tòa Thánh Phêrô mang theo hai nghĩa: Ðó là chiếc ghế như một biểu tượng (biểu tượng quyền tối thượng của Thánh Phêrô); trong thời cổ chiếc ghế hay “cathedra” là một biểu tượng quyền giảng dạy và như thế chiếc ghế được coi như một vật thể (ngai tòa của Charles de Bald được Đức Giáo Hoàng Gioan VIII sử dụng và các vị Giáo Hoàng kế nhiệm).
Lễ lập Tông tòa Thánh Phêrô được kỷ niệm hằng năm vào ngày 22 tháng 2. Vào thời kỳ phụng vụ Rôma còn chịu ảnh hưởng của Giáo Hội Gallica, ngày mừng của Phụng Vụ Gallica, là ngày 18 tháng 1, nhưng ngày 22 tháng 2 vẫn được cử hành với tước hiệu “Lễ lập Tông tòa Phêrô tại Antiôkia”. Ðức Giáo Hoàng Phaolô IV đã truyền vào năm 1558 phải mừng cả hai lễ trọng. Bộ luật Chữ Ðỏ năm 1960 chỉ giữ lại ngày 22 tháng 2 là “Ngày lập Tông tòa Phêrô tại Rôma” cho giáo hội toàn cầu.
Hôm nay, chúng ta cũng tưởng nhớ đến việc Ðức Kitô chọn Phêrô là người thay thế Ngài trong việc cai quản Giáo Hội.
Sau những ngày sống trong đau khổ, hồ nghi và dằn vặt vì chối Thầy, và nhất là phải chứng kiến cảnh Thầy bị đóng đinh, bị chết và được an táng, thì ngày thứ ba, Phêrô đã được nghe Tin Mừng Phục Sinh. Thiên thần ở ngôi mộ nói với bà Maria Mađalêna: “Chúa đã sống lại! Hãy đi nói với các môn đệ và Phêrô”. Thánh Gioan tường thuật lại: khi ngài và Phêrô chạy đến mộ, vị tông đồ trẻ nhanh chân hơn vị tông đồ lớn tuổi kia, đến mộ Thầy trước, nhưng ngài đứng đợi ở ngoài. Khi Phêrô bước vào, thấy các khăn liệm ở dưới đất, khăn che mặt được gói lại để ở đúng vị trí của nó. Gioan trông thấy và tin. Nhưng ngài viết thêm: “... Họ không hiểu rằng theo Kinh Thánh, Ngài phải sống lại từ cõi chết" (x. Ga 20,1-10). Họ về nhà. Ðầu óc họ như nổ tung với một khám phá mới, điều bất khả đã trở thành hiện thực. Chúa Giêsu đã hiện ra với họ trong căn nhà khóa kín. Ngài nói: “Bình an cho các con,” và họ quá đỗi vui mừng (Ga 20,21b).
Và biến cố trong ngày Ngũ Tuần đã giúp Phêrô cảm nhận được Ðức Kitô phục sinh một cách trọn vẹn. “... Tất cả đều tràn đầy Thánh Thần” và họ bắt đầu rao giảng bằng các thứ tiếng khác nhau tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho. (x. Cv 2,1-12)
Chỉ khi ấy Phêrô mới chu toàn nhiệm vụ mà Chúa đã trao cho ngài: “... Một khi anh trở lại, hãy củng cố các anh em” (Lc 22,32). Từ lúc đó, ngài trở nên phát ngôn viên cho nhóm Mười Hai về những gì họ được cảm nghiệm qua Thánh Thần - trước giới thẩm quyền muốn chặn đứng sự rao giảng, trước Thượng hội đồng Giêrusalem, trước cộng đoàn về vấn đề của Ananias và Sapphira. Ngài là người đầu tiên rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Sức mạnh chữa lành của Ðức Kitô ở trong Phêrô được chứng tỏ: cho kẻ chết sống lại, chữa người ăn xin tàn tật. (x. Cv 9,32-42) Dân chúng khiêng bệnh nhân ra đường phố để khi Phêrô đi ngang qua, bóng của ngài có thể chữa họ lành. (x. Cv 5,12-16)
Ngay cả một vị thánh cũng gặp khó khăn của cuộc đời Kitô hữu. Khi Phêrô không còn ăn uống với dân ngoại tòng giáo vì ngài tế nhị không muốn tổn thương đến người Kitô gốc Do Thái, Phaolô viết: “... Tôi chống đối ông ấy ra mặt vì rõ ràng là ông ấy sai... Các ông ấy không đi đúng với chân lý của Phúc âm...” (Gl 2,11b.14a).
Trong đoạn cuối Phúc Âm Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Thật, Thầy bảo thật cho anh biết, khi anh còn trẻ, anh muốn mặc quần áo nào và muốn đi đâu tùy ý; nhưng khi anh lớn tuổi, anh sẽ phải dang tay ra, và người khác sẽ mặc áo cho anh và dẫn anh đến nơi anh không muốn” (Ga 21,18). Chúa Giêsu tiên đoán về cái chết mà Phêrô phải chịu để vinh danh Thiên Chúa. Trong thời gian cai trị của Nerô, trên đồi Vatican ở Rôma, Phêrô đã vinh danh Chúa Giêsu với sự tử đạo, có lẽ cùng với nhiều Kitô hữu khác.
Mừng lễ kính Ngai tòa Thánh Phêrô là một dịp Giáo Hội kêu mời các tín hữu hãy cầu nguyện nhiều cho Ðức Giáo Hoàng trước những khó khăn lớn lao mà ngài phải đương đầu trong thế giới hôm nay.
Suy niệm 17: Lập Tông Tòa Thánh Phêrô
“Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc …”
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Con Người là ai?”. Câu hỏi này thật dễ với những người nhạy tin tức như các tông đồ. Các ông đua nhau trả lời: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia, hay một trong các vị tiên tri”. Các câu trả lời cho thấy dân chúng nhìn nhận Đức Giêsu là người được Thiên Chúa sai đến, là một tiên tri, nhưng vẫn chưa nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia.
Câu hỏi Đức Giêsu là ai, không chỉ là vấn nạn cho những người cùng thời, thắc mắc này cũng mang đến sự hoài nghi ngay giữa các môn đệ thân tín của Đức Giêsu. Khi Người hỏi: “Còn anh em bảo thầy là ai?” Chúa Giêsu đọc thấy được sự im lặng cách bị động từ phía các tông đồ. Các ông không còn tranh nhau nói nữa. Các môn đệ đi theo Đức Giêsu ròng rã gần 3 năm, là những người thân thiết nhất của Ngài, nhưng họ cũng không có câu trả lời xác đáng cho chính mình. Chỉ một mình Phêrô lên tiếng: “Thầy là Đấng Kitô”.
Và Đức Giêsu bảo Phêrô: “Anh thật là có phúc”. Thật là phúc cho Phêrô vì không phải tự ông cảm nghiệm và biết được mầu nhiệm Đấng Kitô đã làm người. Phúc cho ông khi điều ông vừa tuyên xưng được chính Chúa Cha mặc khải cho. Đây là một hồng ân lớn lao dành cho Phêrô. Phêrô không thuộc hàng học giả chuyên nghiên cứu Kinh Thánh như nhóm Pharisêu hay tư tế. Cũng không nằm trong số những bậc trưởng lão đáng kính có tư tưởng cao siêu trong dân. Phêrô chỉ là một anh đánh cá nhà quê ít học, sống bằng nghề chài lưới. Vì thế, việc Phêrô được chọn, được mặc khải là một ơn ban cách đặc biệt.
Chúa đã chọn gọi và trao cho Phêrô sứ vụ xây dựng Hội Thánh của Chúa. Phêrô đã đáp trả bằng hành động tuyên xưng và tin vào Đức Kitô. Vì tin, Phêrô dám bỏ tất cả để theo Thầy. Vì tin, Phêrô dám quay trở lại sau khi chối Thầy. Vì tin, Phêrô đã hiến trọn cuộc sống còn lại ở trần gian vì thập giá của Thầy. Và vì tin, Phêrô dám chết trên cây gỗ như Thầy, nhưng xin treo ngược vì vẫn cảm thấy không xứng đáng với Thầy. Tin nghĩa là yêu. Và yêu tức là tin. Phêrô đã diễn tả niềm tin và tình yêu của mình một cách mạnh mẽ và mãnh liệt nhất để bù lại những yếu đuối và bất xứng của ông.
Lạy Chúa, xin cho con biết noi gương thánh Phêrô. Biết dâng trọn những yếu đuối và bất toàn của con trong bàn tay quan phòng của Chúa, để con được Chúa thánh hóa và trở nên công cụ hữu dụng của Chúa. Xin cho con biết tin yêu Chúa trong mọi hành động, trong mỗi giây phút của cuộc đời con. Amen!
Suy niệm 18: Ngai tòa thánh Phêrô
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Mộ phần của vị tông đồ trưởng Phêrô ở ngay dưới bàn thờ chính của Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô. Truyền tụng từ xưa vẫn tin như thế, và mới đây đã được xác định nhờ các cuộc điều tra khảo cổ. Ngôi mộ này như một biểu tượng bền vững cho chân lý: Simon Phêrô theo sự ưu tuyển của Thiên Chúa, đã là nền móng của Giáo hội. Tiếng nói của Đấng Cứu Thế vẫn được lắng nghe suốt các thế kỷ, qua lời giáo huấn của các Đức Giáo hoàng.
Ngai tòa thánh Phêrô mang một ý nghĩa quan trọng tuyệt đối: Đức Giáo hoàng là vị kế nhiệm thánh Phêrô, đại diện Chúa Kitô ở trần gian hướng dẫn toàn thể Giáo hội toàn cầu. Lễ lập tông tòa thánh Phêrô là một lời tuyên xưng long trọng về quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng trong toàn thể Giáo hội. Trước kia, Giáo hội cử hành hai thánh lễ riêng biệt một để kính tòa thánh Phêrô ở Antiokia (trước khi Ngài đến Rôma) và một để kính tòa thánh Phêrô ở Rôma. Hai thánh lễ này đều mang cùng một ý nghĩa, nên ngày nay Giáo hội chỉ cử hành một thánh lễ: “Lập Tông Tòa Thánh Phêrô”.
Có ba bản văn Kinh Thánh là nền tảng về ngai tòa của Thánh Phêrô: “Con là Phêrô, nghĩa là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo hội… Ta sẽ trao cho con chìa khóa nước Trời…” (Mt 16,13-19). “Con hãy làm cho các anh em của con nên vững mạnh” (Lc 22,31-32). “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21,15-19).
Suy niệm
Sau lời tuyên xưng đức tin của Phêrô: Thầy là Đấng Kitô - Mêssia, là “Con Thiên Chúa”, Đấng Mêssia (tiếng Hy Lạp Christos - Kitô) nghĩa là Đấng được xức dầu mà các ngôn sứ đã tiên báo; Phêrô lại gọi Chúa Giêsu là “Con của Thiên Chúa”, ông khẳng định nguồn gốc thần linh của Ngài… Đức Giêsu đã mời gọi Phêrô đứng lên để cùng cộng tác trong công trình xây dựng Giáo hội của Ngài: “Phêrô! con là Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16,18). Trong ngôn ngữ của Thánh Kinh Cựu ước chỉ có Chúa là Đá Tảng: “Chúa là tảng đá của tôi, là thành trì của tôi” (Tv 72,3), và sau này trong Tân ước, Đức Giêsu là Thiên Chúa Phục Sinh cũng là nền tảng. (x. 1Pr 2,4-5), nhưng Phêrô cũng được Chúa Giêsu đặt làm đá tảng, là nền cho Giáo hội. Ngài cho Phêrô được chia sẻ trách nhiệm với Ngài. Simon như tên căn cước được đặt bởi cha mẹ, nhưng Chúa Giêsu gọi ông là Đá - Phêrô, sau này biệt danh Phêrô luôn gắn liền với ông và theo Kinh Thánh Tân ước, ông đã được cộng đoàn tiên khởi biết đến dưới cái tên Kêphas - Phêrô - nghĩa là đá tảng (x. 1Cr 1,12; 15,5; Gl 1,18; 2,9; 2,11.14). Trong Kinh Thánh về việc đổi tên và với tên mới, ý nghĩa thật quá rõ ràng: Simon sẽ là tảng đá móng, tảng đá vững bền trên đó Chúa Giêsu sẽ xây Hội Thánh của Ngài.
Chúa Giêsu trao cho Phêrô chìa khóa, sách Khải huyền nhấn mạnh chỉ mình Đức Giêsu nắm giữ chìa khóa (x. Kh 3,7), chìa khóa là hình ảnh rất cổ xưa, dấu chỉ sự chính thống về cai quản (x. Is 22,22). Cho nên, người nào giữ chìa khóa của một ngôi nhà, người ấy có toàn quyền trên ngôi nhà đó. Chìa khóa tượng trưng cho quyền hành và trách nhiệm cai quản. Trao chìa khóa theo ngôn ngữ Kinh Thánh tượng trưng cho sự ủy thác trách nhiệm…
Phêrô được trao chìa khóa nước Trời, nghĩa là được tham dự vào quyền bính trách nhiệm của Chúa Giêsu, chính vì thế, Phêrô đại diện Chúa Kitô có quyền giáo huấn, quyền thánh hoá và quản trị Giáo hội, nhằm mục đích là phục vụ dân Chúa. Các Đức Giáo hoàng sau này kế vị thánh Phêrô và là đại diện Chúa Kitô ở trần gian mang trọng trách cùng quyền bính của Phêrô. Thánh Augustinô đã chú giải đoạn Phúc Âm Matthêu (16,13-23) như sau: “Chúc tụng Chúa, Đấng đã đoái thương đặt thánh Phêrô Tông Đồ trên toàn thể Giáo hội. Nền tảng này được tôn kính thật xứng hợp bởi vì đó là phương thế để chúng ta có thể được lên thiên đàng”.
Cho nên, ngai tòa thánh Phêrô mang một ý nghĩa quan trọng tuyệt đối, Đức Giáo hoàng là vị kế nhiệm thánh Phêrô hướng dẫn toàn thể Giáo hội toàn cầu. Vì thế, ngày lễ hôm nay là một lời tuyên xưng long trọng về quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng trong toàn thể Giáo hội. Chúng ta thần phục và lắng nghe giáo huấn của Ngài, cũng như cầu nguyện cho Ngài trong sứ vụ lèo lái con tàu của Giáo hội …
Ý lực sống: “Thánh Phêrô giữ quyền tối thượng để chứng tỏ Giáo hội của Chúa Kitô là duy nhất, và Tòa của ngài là duy nhất. Thiên Chúa là duy nhất. Đức Kitô là duy nhất. Giáo hội là duy nhất. Tòa được Chúa Kitô thiết lập cũng duy nhất” (Thánh Cyprianô vào thế kỷ III).
21/02 Điều kiện trừ quỷ.
- Viết bởi Mc. 9, 14-29
Điều kiện trừ quỷ.
Thứ Hai tuần 7 thường niên.
“Lạy Thầy, tôi tin, xin Thầy trợ giúp đức tin hèn kém của tôi”.
Lời Chúa: Mc. 9, 14-29
Khi ấy, Chúa Giêsu (từ trên núi xuống) và đến cùng các môn đệ, Người thấy một đám đông vây quanh các ông và những luật sĩ đang tranh luận với các ông.
Vừa thấy Người, tất cả đám đông kinh ngạc, họ sợ hãi và chạy đến chào Người. Và Người hỏi họ rằng: "Các ngươi tranh luận gì với nhau đó?" Một người trong đám đông trả lời rằng: "Lạy Thầy, tôi đem đến cùng Thầy đứa con trai tôi đang bị quỷ câm ám. Quỷ đột nhập vào nó bất kỳ ở đâu thì vật nó ngã xuống đất và nó xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ ra. Tôi đã xin các môn đệ Thầy trừ quỷ, nhưng họ bất lực". Người đáp lại: "Hỡi thế hệ cứng lòng tin, Ta còn ở giữa các ngươi đến bao giờ? Ta phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Ðem nó lại đây cho Ta". Và người ta đem nó đến.
Vừa thấy Chúa Giêsu, quỷ liền dằn vặt đứa bé dữ dội, đứa bé ngã ra, xùi bọt mép, lăn lộn trên đất. Chúa Giêsu hỏi cha nó rằng: "Nó bị như thế từ bao giờ?" Ông ta đáp: "Thưa từ lúc bé! Quỷ thường xô nó vào lửa, vào nước để giết nó. Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì thì xin Thầy thương giúp chúng tôi". Chúa Giêsu nói với ông: "Sao lại nói: Nếu Thầy có thể? Với kẻ nào tin, thì mọi sự đều có thể được". Tức thì cha đứa bé khóc lóc kêu lên: "Thưa Thầy tôi tin, xin Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi". Chúa Giêsu thấy đám đông tuôn đến, Người nạt thần ô uế rằng: "Hỡi thần câm điếc, Ta truyền cho mi: hãy xuất ra khỏi nó và không được nhập vào nó nữa". Sau khi kêu thét và dằn vật đứa trẻ dữ dội, quỷ xuất khỏi nó và đứa trẻ ra như chết, khiến đám đông nói: "Nó chết rồi". Nhưng Chúa Giêsu cầm tay nó nâng dậy và nó đứng lên.
Khi Chúa vào trong nhà, các môn đệ hỏi riêng Người: "Tại sao chúng con lại không thể trừ được nó?" Người đáp: "Loại đó không thể trừ được, nếu không cầu nguyện và ăn chay".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Nếu Thầy có thể
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Cha mẹ thường phải chịu đau khổ vì con.
Đức Giêsu đã từng đối diện với sự bối rối của ông trưởng hội đường
khi cô con gái mười hai tuổi của ông gần chết (Mc 5, 22-23).
Ngài cũng đối diện với sự kiên trì của người phụ nữ dân ngoại
khi bà xin Ngài chữa cho cô con gái của bà bị quỷ ám ở nhà (Mc 7, 25).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đứng trước nỗi đau của một người cha
có đứa con trai nhỏ mang triệu chứng của bệnh động kinh.
Nhưng đối với ông, hẳn con ông là người bị quỷ ám.
Ông đã đem cậu con đến với Đức Giêsu, tiếc thay lại không gặp (c. 17).
Bởi vậy ông đã xin các môn đệ của ngài đuổi quỷ dùm.
Tiếc thay họ không làm được (c. 18).
Bây giờ gặp được Ngài, ông tha hồ kể về bệnh tình của con ông.
Mỗi lần quỷ nhập - hay mỗi lần lên cơn động kinh -
con ông bị vật xuống đất, sùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ (c.18).
Nhiều khi quỷ còn xô cậu bé vào nước hay lửa cho chết (c. 22).
Vì chuyện buồn này diễn ra từ hồi cậu còn nhỏ,
nên người cha hẳn đã đau khổ triền miên và căng thẳng từ nhiều năm qua.
Ông gặp Đức Giêsu chỉ mong Ngài giải phóng con mình khỏi quỷ.
“Xin chạnh lòng thương mà giúp chúng tôi.”
Rõ ràng nhiều người khác trong gia đình ông cũng phải chịu đau khổ.
“Nếu Thầy có thể làm được gì”, câu này cho thấy ông tin không mạnh lắm.
Vì thế Đức Giêsu đã bắt bẻ câu nói của ông.
“Mọi sự đều có thể đối với người tin” (c. 23).
Đức Giêsu buồn vì phải ở với và chịu đựng một thế hệ cứng lòng tin (c. 19).
Các môn đệ không đuổi được quỷ vì họ chưa đủ đức tin.
Người cha muốn con mình được khỏi, ông cũng cần có thêm đức tin.
Thái độ nửa tin, nửa ngờ cũng là thái độ của thế hệ chúng ta.
Đức tin là lời đáp trả của con người,
nhưng đức tin cũng là ơn ban của Thiên Chúa.
Có lúc chúng ta cũng kêu lên như người cha đang chới với :
“Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!”(c. 24).
Chúa có khả năng nâng đỡ đức tin của ta trong lúc khủng hoảng.
Có lúc chúng ta thấy không thắng nổi sức mạnh của xác thịt, của quỷ ma.
Và như các môn đệ, chúng ta tự hỏi tại sao (c. 28).
“Giống quỷ ấy chỉ trừ được bằng cầu nguyện” (c. 29).
Cầu nguyện là xin Đức Giêsu thêm sức mạnh và thêm lòng tin cho ta.
Cầu nguyện :
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết, xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con. Amen.
Suy Niệm 2: Khôn ngoan
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chỉ có một sự khôn ngoan đích thực. Đó là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là chính sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan cao vượt đất trời, thống trị vũ trụ muôn loài. “Tất cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa, và khôn ngoan vẫn ở với Người đến muôn đời…Trời cao đất rộng vực sâu và sự khôn ngoan, ai dò cho thấu?...Chỉ có một Đấng Khôn Ngoan rất đáng sợ, ngự trên ngai của Người. Đó chính là Đức Chúa”. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ban sự sống. “Người rộng ban khôn ngoan cho những ai yêu mến Người” (năm lẻ)
Thánh Gia-cô-bê cho biết sự khôn ngoan đích thực phát xuất từ Thiên Chúa. Và làm những điều tốt đẹp. “Người ấy hãy dùng lối sống tốt đẹp mà chứng tỏ rằng: những hành động của họ phát xuất từ lòng hiền hậu và đức khôn ngoan”. Trái lại sự khôn ngoan phát xuất từ thế gian thì làm những việc xấu xa. Gây ra chia rẽ, bất hoà. “Nhưng nếu trong lòng anh em có sự ghen tương, chua chát và tranh chấp, thì anh em đừng có tự cao tự đại mà nói dối, trái với sự thật. Sự khôn ngoan đó không phải từ trời cao ban xuống, nhưng là sự khôn ngoan của thế gian, của con người tự nhiên, của ma quỷ”. Sự khôn ngoan của ma quỷ đưa đến ghen ghét. Ghen ghét dẫn đến chết chóc. Còn sự khôn ngoan từ Thiên Chúa là yêu thương. Dẫn đến sự sống (năm chẵn).
Ma quỷ luôn luôn muốn dùng sự khôn ngoan đen tối ác độc để khống chế con người. Muốn thống trị thế giới. Bằng sự sợ hãi. Bằng nô lệ. Bằng bệnh tật. Bằng cái chết. Ma quỷ luôn muốn giết chết con người. “Nhiều khi quỷ xô nó vào lửa hoặc đẩy xuống nước cho nó chết”. Con người không sao thoát ra khỏi thế lực của ma quỷ. Nói gì đến kháng cự. “Tôi đã nói với các môn đệ Thầy để họ trừ tên quỷ đó, nhưng các ông không làm nổi”. Vâng sức con người không thể chống lại ma quỷ. Phải có sức mạnh của Thiên Chúa. Muốn có sức mạnh của Thiên Chúa cần hai điều kiện. Người bệnh cần có lòng tin “Mọi sự đều có thể dối với người tin”. Người trừ quỷ cần cầu nguyện. “Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi”. Tin để Chúa hành động. Và cầu nguyện để có sức mạnh của Chúa. Chỉ khi sự khôn ngoan của Thiên Chúa đến mới đẩy lui được sự khôn ngoan của ma quỷ.
Suy Niệm 3: Quỷ vẫn còn ám
Có một người suốt đời chỉ biết chăm lo cho mình, vì thế tuy là người giàu có nhưng anh cũng là người keo kiệt nhất. Ngày nọ, sau khi dự đám tang của người thân trở về, anh quyết định đổi mới cuộc sống. Ít lâu sau đó, một người láng giềng bị cháy sạch nhà cửa, đây là cơ hội tốt để anh học biết cho đi. Thế nhưng, khi đứng trước kho lẫm, có tiếng nói thầm vào tai anh: "Hãy cho ít thôi". Một lần nữa anh phải chiến đấu với tính keo kiệt của mình, nhưng lòng quảng đại trong anh đã chiến thắng. Dù vậy, khi người láng giềng cám ơn và ra về, lòng anh vẫn còn vọng lại dư âm như muốn chế nhạo anh: "Chỉ có người điên mới làm như vậy, người láng giềng cũng có đôi tay để làm việc, tội gì phải cho đi như thế, lúc ốm đau thì lấy đâu lo cho thân mình".
Ngày nay, vẫn còn có nhiều người lưu tâm đến việc thờ ma quỷ, không những trên báo chí, phim ảnh, mà còn cả phong trào tôn thờ ma quỷ nữa. Ðiều này dễ làm con người lầm tưởng rằng ma quỷ ở đâu đâu hoặc ở trong một số người nào đó. Kỳ thực, không có những hiện tượng bên ngoài, như bị vật ngã, xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ thân thể, mà Tin Mừng hôm nay ghi lại, nhưng thực tế con người cũng bị ma quỷ ám ảnh tâm trí một cách nào đó. Những quỷ kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, mê ăn uống... không hiện nguyên hình, nhưng ngụy trang thành những bộ mặt đáng yêu để quyến rũ con người: với những lý luận đủ sức thuyết phục con người, như: thu tích tiền của có gì là xấu, có tiền củ tại sao tôi không hưởng thụ. Những ý tưởng đó dần dà chiếm hữu con người hoàn toàn, khiến họ bịt tai nhắm mắt trước những khốn khổ của người khác.
Thật không dễ gì trị được hiện tượng quỷ ám này, nếu không thực hiện Lời Chúa dạy là ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay để nâng con người lên khỏi sức nặng của thân xác và của cám dỗ vật chất; cầu nguyện để đón nhận sức mạnh chiến thắng của Chúa Kitô, Ðấng đã đánh bại được quyền lực của Satan. Cầu nguyện là để cho con người cũ của chúng ta chết đi và để cho Chúa Giêsu mỗi ngày một lớn lên trong chúng ta.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thêm ý thức về thân phận tội lỗi, yếu hèn của chúng ta, và trong mọi sự, chúng ta biết hướng nhìn lên Chúa là sức mạnh, là lẽ sống duy nhất của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Các môn đệ thất bại
Bất cứ ở đâu, hể quỷ nhập vào là vật cháu xuống; Cháu xùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ người ra. Tôi đã nói với các môn đệ Thầy để họ trừ tên quỷ đó, nhưng các ông không làm nổi. Người đáp: “Ôi thế hệ cứng lòng, không có lòng tin! Tôi phải ở cùng các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa? Đem nó lại đây cho tôi.” (Mc. 9, 18-19)
Đang lúc Chúa Giêsu và ba tông đồ còn ở trên núi, thì các môn đệ đã được Chúa sai đi truyền giáo gặp một trở ngại lớn. Đó là chuyện một đứa trẻ bị quỷ ám, quỷ thường hành hạ, xô nó vào lửa hoặc đẩy xuống nước cho chết. Cha đứa bé đã đưa nó đến cho các môn đệ, nhưng các ông này không thể thắng được tên quỷ kia. Bệnh tật khốn khổ của đứa bé, có lẽ là chứng động kinh, đã lôi kéo đám đông và các kính sư, họ bắt đầu tranh luận với các môn đệ. Chắc hẳn mấy ông kinh sư nọ phải vui sướng vì sự thất bại này và phải hỏi các môn đệ ấy xem liệu Ông Thầy của họ sẽ đuổi được tên quỷ này không. Câu truyện tới đây thì Chúa Giêsu xuất hiện và thu hút mọi người. Cha đứa nhỏ len lỏi đến được với Chúa Giêsu và trình bày cho Người hay tình cảnh. Sau khi đã thử lòng tin của ông, Chúa Giêsu chữa cho con trai ông ta được lành. Phép lạ này đặt sức mạnh của Thầy đối chọi với sự yếu kém, bất lực của các môn đệ. Đức Giêsu mặc dầu đang tiến đến cái chết, như Người đã loan báo, thì Người vẫn cứ thảnh thơi hành động nhờ vào tính toàn năng của Thiên Chúa.
Mặt dưới của sự thất bại
Sự các môn đệ thất bại không trừ được quỷ cho Chúa Giêsu cơ hội giáo huấn về lòng tin và sự cầu nguyện, cả hai đều là nền tảng của việc truyền giáo cũng như đời sống Kitô giáo. Về phương diện này, ba giai đoạn của trình thuật thật quan trọng: lời trách móc đám đông, nói chuyện với người cha và nói chuyện với các môn đệ. Khi người cha mô tả cho Chúa Giêsu cơn bệnh của đứa con trai ông và sự bất lực của các môn đệ Người, thì Chúa Giêsu đưa ra một lời trách móc: “Oi thế hệ cứng lòng, không có lòng tin!”. Các ngôn sứ trước thái độ bất trung và cứng lòng của dân Do thái thường kêu lên như vậy. Căn nguyên của sự thất bại nằm trong sự thiếu lòng tin, và điều này khiến Chúa phâỉ bực mình nổi giận: “Tôi còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa?”
Cha của người bệnh nói: “Nếu Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi.” Lời kêu gọi xin thương xót này làm động lòng Chúa, mặc dầu có một sự ngờ vực nào đó về quyền năng của Người. Chúa Giêsu bắt bẻ lại: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin”, có nghĩa là Thiên Chúa toàn năng phục vụ cho kẻ tin. Chúa Giêsu nắm giữ quyền năng thay đổi thực tại vì lợi ích của người tín hữu chân thật. Người cha đã hiểu được tiến trình Chúa Giêsu đề nghị cho ông: “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi”. Thay vì xin chữa khỏi cho con mình, ông lại xin được tăng thêm lòng tin vốn là điều kiện cho phép lạ được thực hiện.
Cầu nguyện cho có lòng tin đã là một thái độ tin rồi và không có được lòng tin vững chắc, nếu không dựa vào ân sủng của Chúa.
Suy Niệm 5: Tại sao các môn đệ không trừ được quỷ?
Ngày nọ, một linh mục đến hỏi thánh Gioan Vianney bí quyết làm cho xứ đạo được thánh thiện. Thánh nhân hỏi: "Ngài đã làm gì ?" Cha kia đáp: "Con tổ chức hội đoàn, con mời gọi học giáo lý, con cho thực hiện những cuộc rước kiệu... Thế nhưng xứ con giáo dân vẫn lười biếng, bê bối".
Thánh Vianney hỏi lại: “Thế cha đã ăn chay và cầu nguyện chưa?". Nghe câu hỏi đó cha sở này thú thực là chưa hề nghĩ tới.
Thấy vậy, cha Gioan Vianney đã chỉ ra cho cha kia biết nguyên nhân là chưa cầu nguyện và ăn chay nên không thành công...
Câu hỏi: "Tại sao chúng con không trừ được quỷ” mà các môn đệ cất lên hỏi Đức Giêsu có lẽ cũng là câu hỏi đầu tiên của chúng ta khi nghe đọc bài Tin Mừng hôm nay!
Khi các môn đệ đang phân vân và không thiếu kinh ngạc trước sự cứng đầu của quỷ, Đức Giêsu đã nói ngay: “Giống quỷ đó chỉ trừ được bằng cầu nguyện”.
Tại sao vậy? Thưa! Rất đơn giản, vì các môn đệ chỉ là người thừa tác để trừ quỷ chứ tự thân, các ông không thể trừ được. Vì thế, các ông phải nhân danh người sai mình. Cầu nguyện chính là sợi chỉ xuyên suốt cuộc đời của người sai và người được sai. Khi cầu nguyện, người thi hành chỉ biết làm khi có lệnh hay đúng hơn là làm theo ý chủ.
Chỉ có sự kết hiệp mật thiết với Chúa, con người mới có khả năng để thống trị ma quỷ. Chỉ có cầu nguyện liên lỷ, con người mới gắn bó và đi trong đường lối của Thiên Chúa, nếu không, người ta dễ làm theo ý riêng và quy chiếu về mình thay về Chúa.
Thật vậy, "Không cầu nguyện thì không có đức tin.
Không có đức tin thì không có tình mến.
Không có tình mến thì sinh kiêu ngạo.
Khi đã kiêu ngạo thì hoàn toàn thuộc về ma quỷ”.
Đây là mấu chốt các môn đệ không trừ được quỷ.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết cậy trông vào Chúa qua việc cầu nguyện. Cần xác định rõ rằng: việc trừ quỷ là việc của Chúa, chúng ta chỉ là dụng cụ Chúa dùng. Tuy nhiên, dụng cụ phải vừa tay ông chủ, tức là chúng ta chỉ hữu dụng khi biết phụ thuộc vào Chúa qua cầu nguyện.
Xin Chúa Giêsu ban cho chúng ta ý thức được sự cao quý của việc cầu nguyện, để đức tin, cậy, mến ngày càng lớn mạnh trong con người và nơi sứ vụ của chúng ta. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Ăn chay và cầu nguyện có thể trừ quỷ
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Đây là nội dung cuộc nói chuyện giữa hai em bé:
- Nếu Satan đến cám dỗ, bạn làm sao chống trả ?
- Mình biết Satan đến để cám dỗ, nhưng khi nó gõ cửa lòng mình, mình bảo: Có phải đức Giêsu gõ cửa đấy không ạ ? Khi Satan nghe tên Giêsu là nó biến ngay!
Người mạnh nhất không thể một mình chống lại Satan.
Suy niệm
Thần ô uế (x. Mt 1,23) cũng như quỷ (x. Mc 1,32; 3,11a.15.22…) luôn tượng trưng quyền lực sự dữ, luôn đối địch với Thiên Chúa và là sự chẳng lành với sức khỏe thể xác và tâm linh cho con người.
Đứa bé bị quỷ ám nên động kinh, người cha đã gặp các môn đệ của Chúa Giêsu để xin cứu chữa cho đứa bé, nhưng các ông không thể trừ quỷ được. Không mất niềm tin ông đi gặp Chúa Giêsu cầu xin: “Nếu Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi”. Đức Giêsu nói với ông ta: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể ? Mọi sự đều có thể đối với người tin”. Chúa quan tâm đến lời cầu xin của ông, đức tin của ông thình lình bùng lên: “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,23-24). Ðức Giêsu dùng uy quyền và phán một lời ra lệnh cho quỷ phải xuất khỏi nạn nhân. Sự hiện diện của Đức Kitô uy quyền với lời giảng dạy đầy uy quyền, khuất phục ma quỷ, tà thần…
Chúa dạy các môn đệ phải ăn chay và cầu nguyện mới có thể trừ quỷ. Ăn chay để nâng con người lên khỏi sức nặng của thân xác và của vật chất; cầu nguyện để đón nhận sức mạnh chiến thắng của Chúa Kitô, Ðấng đã đánh bại được quyền lực của Satan. Cho nên, trong lời cầu chúng ta tin vào Chúa khi nhìn nhận sự bất lực của mình và hoàn toàn cậy dựa vào Chúa.
Chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi, yếu hèn của chúng ta trong tinh thần chay tịnh và hướng nhìn lên Chúa với niềm tin trong lời cầu: Chỉ có Chúa là sức mạnh cho con ẩn thân...
Ý lực sống: “Lạy Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn,
là đồn lũy chở che, con tin tưởng vào Ngài” (Tv 91,2).
Suy Niệm 7: Lòng tin vững chắc, cộng thêm ăn chay và cầu nguyện
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
* Đặt trong sơ đồ chung của Tin Mừng Mc:
Mc 8,31 đến 10,52 (tức là các bài Tin Mừng từ Thứ Năm tuần VI đến Thứ Năm tuần VIII) nằm trong phần thứ hai của tác phẩm mà nội dung chính là vén màn cho độc giả dần dần biết rõ thêm:
a/ về Đức Giêsu,
b/ về Nước Thiên Chúa mà Ngài thiết lập,
c/ về điều kiện làm môn đệ Ngài. Riêng phân đoạn 8,31--10,52 là giai đoạn chót của cuộc vén màn này, sẽ cho ta biết những nét quan trọng nhất của 3 nội dung ấy.
A. Hạt giống...
1. Chuyện xảy ra đang lúc Chúa Giêsu và 3 Môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê đang ở trên núi (Chúa Giêsu biến hình). Trong lúc Chúa Giêsu vắng mặt, người ta đem đến cho 9 Môn đệ kia một đứa trẻ bị quỷ ám làm cho nó bị câm. Nhưng các ông bất lực không trục xuất được tên quỷ ấy. Sự thất bại này khiến các môn đệ mất mặt. Đám đông dân chúng xúm vào phê phán các ông, và các ông cố gắng chống chế. Do đó xảy ra một cuộc tranh luận.
2. Thấy Chúa Giêsu về, người ta mừng rỡ trình bày sự việc cho Ngài. Phản ứng đầu tiên của Chúa Giêsu là khó chịu. Ngài trách và than: "Hỡi thế hệ cứng lòng tin, Ta còn ở giữa các ngươi đến bao giờ nữa! Ta phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa!". Lời than trách này nhắm đến nhiều hạng người: thứ nhất là chính các môn đệ, kế đến là đám đông dân chúng, và sau cùng là người cha của đứa trẻ bị quỷ ám. Chính vì họ chưa đủ lòng tin nên mới có thất bại này.
3. Khi còn lại một mình với Chúa Giêsu, các Môn đệ hỏi tại sao họ thất bại, Chúa Giêsu cho biết thêm lý do thứ hai nữa là vì thiều cầu nguyện và ăn chay.
* Như thế, mặc khải của đoạn Tin Mừng này là: Chúa Giêsu là Đấng mà uy quyền có thể chế ngự cả uy quyền rất mạnh của ma quỷ. Môn đệ Chúa cũng có thể có được uy quyền này nếu có lòng tin vững chắc, ăn chay và cầu nguyện.
B.... nẩy mầm.
1. "Hỡi thế hệ cứng lòng tin, Ta còn ở giữa các ngươi đến bao giờ nữa! Ta phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa!": Tiếng than này của Chúa Giêsu cho thấy việc Ngài ở với những kẻ cứng lòng tin quả là một sự cực khổ và một điều khiến Ngài phải chịu đựng. Chắc hẳn Chúa cũng đã phải khổ vì tôi, Ngài đã phải chịu đựng tôi rất nhiều vì lòng tin yếu kém của tôi.
Tôi phải mượn lời của người cha đứa bé trong chuyện này mà khiêm tốn thưa với Chúa: "Lạy Chúa, con tin, nhưng xin trợ giúp lòng tin yếu kém của con".
2. "Loại đó không thể trừ được nếu không cầu nguyện và ăn chay": Câu này của Chúa Giêsu là để trả lời cho người cha (cũng cho cả các môn đệ và chúng ta ngày nay): muốn được trợ giúp cho đức tin yếu kém của mình thì phải cầu nguyện và ăn chay.
3. Một tướng quân quyết định tấn công cho dù binh lính của ông chỉ bằng một phần mười quân địch. Ông quả quyết rằng sẽ thắng, nhưng lính của ông rất nghi ngờ.
Vì thế, trên đường đi tới trận chiến, ông dừng lại ở một nhà thờ và vào cầu nguyện. Khi ông trở ra, ông nói: “Tôi sẽ tung một đồng tiền lên. Nếu nó ngửa, chúng ta sẽ thắng. Nếu nó sấp, chúng ta sẽ thua. Vận mệnh bây giờ sẽ được tiết lộ nơi nó".
Ông tung đồng tiền lên. Nó ngửa. Những người lính rất hăm hở vào trận đấu và tin rằng họ sẽ thắng cách dễ dàng.
Hôm sau, một sĩ quan có niềm tin mạnh mẽ nói với tướng quân: "Kết quả cho ta thấy rằng không ai có thể thay đổi cánh tay vận mệnh".
Tướng quân trả lời: "Rất đúng", và cho anh hay rằng đồng tiền có hai mặt ngửa. (Góp nhặt).
20/02 Thương xót như Cha hay thương xót
- Viết bởi Lc 6, 27-38
Thương xót như Cha hay thương xót.
CHÚA NHẬT 7 THƯỜNG NIÊN Năm C.
"Các con hãy tỏ lòng thương xót như Cha các con hay thương xót".
Lời Chúa: Lc 6, 27-38
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Ai vả má con bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì con hãy cho và ai lấy gì của con, thì đừng đòi lại.
Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy.
Nếu các con yêu những kẻ yêu các con, thì còn ân nghĩa gì nữa? Vì cả những người tội lỗi cũng yêu những ai yêu họ. Và nếu các con làm ơn cho những kẻ làm ơn cho các con, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng làm như vậy. Và nếu các con cho ai vay mượn mà trông người ta trả lại, thì còn ân nghĩa gì? Cả những người tội lỗi cũng cho những kẻ tội lỗi vay mượn để rồi được trả lại sòng phẳng.
Vậy các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn, và cho vay mượn mà không trông báo đền. Phần thưởng của các con bấy giờ sẽ lớn lao, và các con sẽ là con cái Ðấng Tối Cao, vì Người nhân hậu với những kẻ bội bạc và những kẻ gian ác.
Vậy các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Ðấng nhân từ. Ðừng xét đoán, thì các con sẽ khỏi bị xét đoán; đừng kết án, thì các con khỏi bị kết án. Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ. Hãy cho, thì sẽ cho lại các con; người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong đấu nào, thì cũng sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 7 THƯỜNG NIÊN C
Lời Chúa: 1Sm 26,2.7-9.12-13.22-23; 1Cr 15,45-49; Lc 6,27-38
1. Hãy yêu kẻ thù--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy Niệm
Khi đọc lời nhắn nhủ trên đây của Đức Giêsu,
chúng ta thường thấy đó là chuyện không thể làm nổi,
hay nếu làm được, ắt sẽ sinh ra những hậu quả tồi tệ.
Chắc chắn Đức Giêsu không dạy ta bao che cho kẻ ác,
hay đòi hủy bỏ luật hình sự để phạt các phạm nhân.
Ngài không cổ vũ việc ăn xin khi nói: “Ai xin, con hãy cho.”
Ngài cũng không biến chúng ta thành người bạc nhược.
Bài Tin Mừng hôm nay là một viên ngọc,
vì nó cho thấy nét đặc trưng của người Kitô hữu.
Nó vén mở một lý tưởng mà ta phải vươn tới.
Chúng ta cần vượt lên trên nghĩa đen của mặt chữ
để cảm được tinh thần mà Chúa muốn ta sống.
Không sống lời Ngài, ta vẫn là kẻ đứng ngoài Kitô giáo.
“Hãy yêu kẻ thù”: câu này được nhắc lại hai lần.
Theo bài Tin Mừng này thì kẻ thù của tôi là ai?
Đó là kẻ ghét tôi, kẻ nguyền rủa tôi và vu khống.
Đó là kẻ tát vào mặt tôi và đoạt áo ngoài của tôi.
Như thế kẻ thù tôi chẳng đâu xa, ngày ngày tôi vẫn gặp.
Họ là những người hay làm phiền và lợi dụng tôi,
là những kẻ xúc phạm đến danh dự và quyền lợi của tôi.
Họ là những người tự nhiên tôi không ưa, hay không ưa tôi.
Đức Giêsu không đòi tôi yêu kẻ thù như yêu người thân:
về mặt tình cảm, chuyện đó khó thực hiện.
Nhưng Ngài mời tôi yêu bằng hành động.
Yêu là làm ơn, là chúc lành, là cho vay.
Yêu là cầu nguyện điều lành cho kẻ thù (cc. 27-28).
Khi làm điều tốt cho kẻ thù,
tôi được giải phóng khỏi cái tôi ăn miếng trả miếng,
và nhờ đó chính kẻ thù tôi
cũng có thể được giải phóng khỏi cái tôi ích kỷ của họ.
Khi yêu kẻ thù bằng những hành động tử tế,
tôi không còn coi họ là kẻ thù của tôi nữa.
Dần dần, tình cảm của tôi đối với họ cũng biến đổi.
Cần can đảm biết bao khi chào hỏi,
bắt tay một người làm tôi vô cùng đau khổ.
Đó chẳng phải là một hành động giả hình,
nhưng là một nỗ lực thắng vượt tình cảm tự nhiên.
Đó chẳng phải là một hành vi của kẻ yếu,
nhưng là dấu hiệu của tính quả cảm anh hùng.
Kitô hữu được mời gọi vượt lên trên cái tự nhiên.
Suy nghĩ tự nhiên, tình cảm tự nhiên, phản ứng tự nhiên...
Phải ra khỏi cái tự nhiên, thường tình,
mới vào được thế giới siêu nhiên,
thế giới của những người con, sống nhân hậu như Cha.
Sống nhân hậu như Cha là trở nên hoàn thiện.
Thế giới văn minh không chỉ nhờ tiến bộ của khoa học,
nhưng chủ yếu nhờ những chiến thắng
trên lòng ích kỷ của từng người
cũng như của mọi tập thể lớn nhỏ.
Trái đất chỉ tồn tại nhờ tha thứ yêu thương.
Kitô giáo chỉ sống còn nhờ yêu thương tha thứ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Làm điều tốt cho kẻ thù, bạn có kinh nghiệm về điều này chưa? Bạn có khi nào chinh phục được một người nhờ yêu mến họ không?
Theo ý bạn, tại sao lại không nên xét đoán người khác? Dựa vào hành động bên ngoài, chúng ta có thể xét đoán lòng dạ một con người không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại
như Chúa vươn lên cao,
vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
2. Yêu người như Chúa--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Bài đọc I và bài Tin mừng hôm nay đều nói về sự tha thứ. Nhưng ở mức độ khác nhau.
Bài đọc I tường thuật sự tha thứ của Đa-vít. Đa-vít làm ơn mà mắc oán. Sau khi chiến thắng Gô-li-át, giải phóng dân Do thái khỏi tay người Phi-li-stinh, ông được dân chúng ca ngợi. Sự ngưỡng mộ của dân chúng đối với Đa-vít khiến vua Sa-un ghen tỵ. Sa-un tìm bắt Đa-vít để giết đi. Hôm nay, sau một cuộc săn lùng mệt mỏi, Sa-un ngủ thiếp đi trong hang đá. Đa-vít đến mà không ai hay biết. Có thể giết Sa-un, nhưng Đa-vít đã không làm. Trong Đa-vít có cái mà ta gọi là bao dung, độ lượng, cao thượng. Tuy nhiên sự tha thứ của Đa-vít vẫn chưa hoàn toàn tự phát. Ông không dám giết Sa-un một phần vì sợ xúc phạm đến “người được Thiên chúa xức dầu”.
Trong quan hệ giữa người với người, nếu tha thứ bạn sẽ được tiếng là độ lượng, còn người được tha thứ bị coi là thua kém bạn. Bạn được lợi còn người kia bị thiệt.
Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải vượt qua cái thường tình. Người muốn môn đệ vươn đến sự tha thứ hoàn hảo. Sự tha thứ hoàn hảo của Tin mừng phải biểu lộ bằng hành động cụ thể: “Ai vả anh em má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh em, thì cũng đừng cản họ lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh em, thì đừng đòi lại”.
Không chỉ dừng lại ở hành động bên ngoài, sự tha thứ hoàn hảo phải thấm sâu vào lý trí, không lấy ác báo ác, nhưng cũng không nghĩ xấu về người khác: “Anh em đừng xét đoán, thì sẽ khỏi bị Thiên chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ khỏi bị Thiên chúa lên án”.
Thấm vào lý trí đã là một bước tiến dài nhưng vẫn chưa đủ, sự tha thứ còn phải lan đến tận trái tim là trung tâm của tình yêu. Khi đã chiếm lĩnh được trái tim, sự tha thứ trở nên một sức mạnh kỳ diệu dẫn đến những hành động tích cực, lấy đức báo oán, đem yêu thương xoá bỏ hận thù. Khi ấy ta mới có thể thực hành Lời Chúa dạy: “Anh em phải yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình, phải chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình”.
Với những lời dạy dỗ trên, Đức Giêsu muốn cho môn đệ của Người tha thứ và yêu thương không phải như người thường nhưng như Thiên Chúa “Người nhân hậu cả với những phường vô ân, với những quân độc ác”. Người muốn cho các môn đệ của Người “từ bi như Cha trên trời là Đấng từ bi”.
Với những lời dạy dỗ trên, Đức Giêsu muốn thanh tẩy thế giới sạch mọi oán thù. Không phải chỉ sạch oán thù ngoài mặt nhưng sạch từ trong thâm tâm mỗi người. Không phải chỉ bằng mặt mà còn phải bằng lòng. Sào huyệt vững chắc nhất của oán thù không phải ở nơi người khác nhưng ở trong lòng ta. Muốn thế giới hết oán thù, chính bản thân ta phải từ bỏ oán thù trước. Muốn thế giới sống trong yêu thương, chính ta phải yêu thương trước. Yêu thương giống như ngọn lửa thắp lên rồi sẽ cháy lan mạnh mẽ. Yêu thương giống như bầu khí toả ra sẽ lan tới từng buồng phổi, sẽ thấm vào từng mạch máu. Yêu thương chính là sức mạnh biến đổi thế giới sâu xa nhất. Yêu thương là cuộc cách mạng bền vững nhất.
Đức Giêsu không chỉ nói suông. Chính Người đã thực hành những điều Người nhắn nhủ các môn đệ. Người để cho quân lính bắt đi như con chiên hiền lành đứng trước người thợ xén lông. Người chữa lành tai cho kẻ đến bắt Người. Người không nói một lời nào trách móc những kẻ làm điều ác cho Người. Sau cùng, lúc bị treo trên thánh giá, Người còn cầu nguyện cho những kẻ giết Người. Người đã minh chứng một tình yêu nguyên tuyền không bợn chút oán thù. Người đã minh chứng một tình yêu mãnh liệt vượt qua mọi ghen ghét.
Hạt giống yêu thương Người đã gieo xuống. Người mong ta tiếp tục vun tưới cho cây yêu thương kết trái đơm hoa. Ngọn lửa yêu thương Người đã thắp lên. Người mong ta hãy đem lửa ấy chiếu soi khắp thế giới.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1- Khi có người xúc phạm đến bạn, bạn thường tìm cách báo thù hay tìm cách tha thứ?
2- Mỗi khi mang mối oán thù trong lòng, bạn cảm thấy thế nào? Thanh thản hay bứt rứt?
3- Bạn đã tha thứ cho ai bao giờ chưa? Bạn cảm thấy thế nào sau khi đã tha thứ?
4- Bạn đã được tha thứ nhiều. Bạn cảm thấy thế nào mỗi khi lầm lỗi mà được tha thứ?
3. Tinh thần Phúc Âm mới: Yêu mến thù địch--Giải Nghĩa Lời Chúa--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Có thể nói ai cũng biết bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe đọc, kể cả người ngoài Kitô giáo. Hết mọi người đều biết đạo Chúa dạy phải yêu mến thù địch và làm ơn cho những kẻ oán ghét mình. Hơn nữa, người ta còn biết đến cả chi tiết của lời Chúa dạy: Nào kẻ tát má này thì hãy chìa má kia nữa cho nó, và người đoạt áo choàng cũng đừng cản nó lấy áo lót. Không biết trong thế gian này đã được mấy người thi hành triệt để những điều dạy này? Hay người ta phải giải thích lệnh Chúa truyền một cách “bóng bẩy” hơn? Hai bài Kinh Thánh kia đọc trong thánh lễ hôm nay có giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng chính xác hơn không? Chúng ta cứ thử xem thế nào!
1. Bài sách Cựu Ước
Câu chuyện Ðavít xứng đáng đi trước bài Tin Mừng. Ngay ở thời Cựu Ước, người ta đã biết tha thứ cho cừu địch. Ðavít tha chết cho Saul mặc dù vua này chỉ muốn thủ tiêu Ðavít. Ðọc kỹ lại câu chuyện, chúng ta còn khám phá được nhiều chi tiết đáng kể nữa.
Như mọi người biết Saul là vị vua đầu tiên của con cái Israen. Ông đã có thời được Chúa tin dùng và chúc phúc. Nhưng ông đã bất trung, làm nhiều điều tội lỗi, khiến Chúa phải chọn một người khác để thay thế ông. Ðó là Ðavít, một cậu bé chăn chiên có mái tóc hoe, đôi mắt xinh xắn và dáng vẻ khôi ngô. Chúa cho Ðavít thắng được tên Gôliát từng đe dọa thách thức con cái Israen. Nhờ đó Ðavít được đưa vào đền vua. Nhưng những tiếng ken của dân chúng lại làm cho Saul ghen ghét Ðavít. Bao nhiêu cạm bẫy ông đặt ra, Ðavít đều thoát khỏi. Lòng Saul lại càng như lửa cháy. Ðavít biết thân phận đành bỏ trốn, lang thang lâu năm nơi đất khách quê người và thường phải lấy sa mạc mênh mông làm nơi ẩn núp. Nhưng Saul vẫn không buông thả. Bài sách Samuen hôm nay cho thấy ông lấy cả 3,000 tinh binh, thân hành di truy lùng Ðavít.
Chắc chắn cuộc săn đuổi đã khiến ông mệt nhọc. Ông phải nằm ngủ, nhưng quân binh vẫn đóng trại chung quanh. Ðavít nhìn thấy, Và đem theo một người bộ hạ. Ðavít đã có thể lén đến gần Saul mà chẳng ai biết gì. Sung sướng, tên bộ hạ xin phép hạ thủ Saul. Ðavít không cho, chỉ lấy cây giáo và chóe nước nơi đầu chỗ Saul nằm rồi đi. Sang đến bên kia sườn núi, Ðavít mới lên tiếng đánh thức quân binh của Saul và nói cho họ rõ: Hôm nay nếu muốn sát hại Saul, thì Ðavít đã làm xong.
Người ta có thể nghĩ Ðavít có thái độ quân tử không? Lịch sử cũng kể nhiều vị đại tướng và hoàng đế tha chết cho kẻ thù một cách cao thượng như vậy. Nhưng bấy giờ Ðavít không phải là hoàng đế hoặc đại tướng mà vẫn còn là một kẻ cô đơn phải lẩn trốn sự truy lùng của quân binh nhà vua. Ðavít đã không hành động như các nhà chính trị và quân sự hào hiệp. Chàng nhỏ bé hơn nhiều. Mặc dù được Chúa chọn, chàng vẫn cư xử như kẻ bầy tôi của vua Saul. Chàng chưa thay đổi gì cả, kể từ ngày được xức dầu, ngoại trừ bản chất đơn sơ, đạo đức của kẻ mục tử bây giờ được thêm ơn Chúa đã dám liều mạng trong nhiều cử chỉ hào hiệp.
Chính vì vậy đoạn văn này không thể là một trang anh hùng ca, mặc dù có nhiều yếu tố khiến tác giả có thể dùng để tạo nên một áng văn như thế.
Ở đây, Ðavít không tỏ ra là một tay anh hùng, nhưng chỉ là một tâm hồn đạo đức, Ðavít không để cho bộ hạ lấy đầu Saul chỉ vì chàng kính sợ Chúa và giữ lời Chúa truyền dạy. Chàng biết Saul là đấng đã được xức dầu và Luật pháp không cho phép ai động đến một con người như thế. Chàng không nghĩ đến quyền lợi của mình, chàng tôn trọng ý Chúa. Chàng để Chúa quyết định cho Saul.
Do đó, nếu chỉ đọc đoạn văn hôm nay, chúng ta mới chỉ thấy lòng đạo đức của Ðavít. Lòng kính sợ Chúa đã khiến chàng không muốn tra tay trên đấng được xức dầu của Ðức Giavê. Phải đọc thêm nữa, đọc tất cả những đoạn nói đến quan hệ giữa Saul và Ðavít, chúng ta mới thấy rõ lòng yêu kẻ thù của Ðavít. Mặc dù Saul luôn tìm cách hạ sát mình, Ðavít từ đầu chí cuối vẫn một lòng kính yêu đối với chủ mình. Chàng không xét đến quyền lợi riêng nhưng luôn chỉ muốn cầu hòa và không bao giờ có lòng thù ghét Saul. Với bối cảnh chung như vậy, chúng ta có thể bảo đoạn văn hôm nay cũng nói lên lòng yêu thương thù địch của Ðavít. Chàng đã tha chết cho kẻ luôn tìm cách sát hại mình một cách vô cớ. Và đoạn văn này xứng đáng đi trước bài Tin Mừng hôm nay.
Tuy nhiên một lần nữa chúng ta đừng quên lòng đạo đức của Ðavít. Chính vì kính sợ Chúa mà chàng đã cư xử rất quảng đại và hào hiệp với Saul. Nhà vua không ngớt thù ghét chàng, nhưng chàng lại luôn giữ một lòng kính yêu. Ðavít vẫn còn treo cao tấm gương đó cho chúng ta khi muốn thi hành lời Tin Mừng hôm nay.
2. Bài Tin Mừng
Tác giả Luca trong đoạn văn này tỏ ra không quan tâm nhiều lắm đến khía cạnh văn chương. Nghe đọc lần đầu chúng ta chẳng thấy luận lý gì cả. Các tư tưởng xem ra được viết ra bừa bãi không theo một thứ tự nào cả. Cũng có láy đi láy lại một vài ý nhưng tác giả không dụng ý xếp thành hệ thống, khiến người đọc và nghe khó nhớ được tất cả.
Là vì đây là đoạn văn tiếp nối Bài giảng trên Núi về các Mối phúc thật, diễn tả tinh thần Phúc Âm mới mẻ của Chúa Giêsu. Người tiếp tục bài giảng lạ lùng ấy bằng đoạn văn hôm nay, có thể nói không phải để đưa ra thêm ý tưởng nào, nhưng chỉ để trưng ra một số các thí dụ để giải thích thêm về tinh thần Phúc Âm. Tinh thần này là một sự sống mới, sự sống của chính Thiên Chúa muốn chia sẻ với loài người. Chắc chắn không một công thức nào có thể diễn tả đầy đủ. Một bài thuyết minh dài với cấu trúc chặt chẽ cũng không hứa hẹn hơn. Người ta phải chọn nhiều quan điểm, nhiều khía cạnh để nhìn vào, họa may chân lý mới, hiện lên được trong sự phong phú của nó.
Vậy, ở đây Chúa Giêsu muốn dùng nhiều ví dụ khác nhau để đưa thính giả của Người vào tinh thần mới của Phúc Âm. Và đám thính giả này, theo Luca cho biết ở đầu Bài Giảng Trên Núi, là nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo. Nhưng thật ra khi nói, Chúa Giêsu lại ngước mắt nhìn riêng các tông đồ. Chúng ta có thể hiểu các môn đồ đây là Nhóm 12 tông đồ mà Người mới chọn. Tuy nhiên, đúng hơn nên hiểu từ ngữ theo một nghĩa rộng hơn, bao gồm tất cả các môn đệ. Nhất là nơi Luca, chữ môn đồ thường ám chỉ mọi tín hữu trong Hội Thánh buổi sơ nguyên. Như vậy, có thể nói Luca viết bài này cho tất cả chúng ta nay là môn đồ của Chúa Giêsu.
Người dùng một số ví dụ để đưa chúng ta vào tinh thần Phúc Âm mới của Người. Trước hết, Người dạy chúng ta “hãy yêu mến thù địch và làm ơn cho những người oán ghét các ngươi”. Những ý sau chỉ diễn tả thêm. Nào là hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa, khẩn cầu cho kẻ ngược đãi, kẻ tát má này hãy chìa má kia nữa. Chúng ta không có điều kiện để phân tách tỉ mỉ từng câu từng chữ, nhưng chúng ta phải biết Chúa muốn dạy gì đây.
Người thế gian thường oán ghét thù địch và chỉ muốn làm hại nó hoặc chỉ muốn cho nó bị hại. Còn tinh thần mới của Chúa đem đến là lòng yêu thương và làm ơn. Nhưng để hiểu rõ ý của Chúa, có lẽ tiên vàn chúng ta phải xác định ai là thù địch. Ðối với người Do Thái, hết mọi người không phải là con cái Israen đều là thù địch - vì họ có tôn giáo khác và luôn luôn trở thành cạm bẫy dụ dỗ họ rơi vào đa thần tà giáo. Thế nên có thể nói vì muốn bảo vệ một cách quá khích mà người Do Thái coi mọi người như thù địch... Sang đến môi trường của Luca, nói với các môn đồ của Chúa, thù địch theo nghĩa trên bây giờ lại là những người Do Thái và đặc biệt là hoàng đế Rôma và các khanh tướng của ông đang bắt đạo thời bấy giờ.
Vậy tinh thần mới của Phúc Âm bây giờ không giống như các lệnh truyền thời Cựu Ước nữa. Chúa Giêsu đã đến thiết lập Nước Trời, không đóng khung trong một dân tộc và truyền thống của dân tộc ấy, nhưng mở rộng hai cánh tay trên thập giá để đón nhận mọi tâm hồn thống hối ăn năn. Người đến đem tình yêu cứu độ đến cho mọi người tội lỗi. Môn đệ của Người không còn được kỳ thị ai nữa. Ngay đối với những kẻ bắt bớ mình, họ cũng phải theo gương Chúa trong mầu nhiệm Cứu Thế; chấp nhận sỉ nhục, đau thương và khẩn cầu chúc phúc cho kẻ làm khổ mình “vì chúng không biết việc chúng làm”. Trong mầu nhiệm thánh giá cứu chuộc Chúa Giêsu Kitô giống như Người Tôi Tớ đau khổ trong sách các tiên tri. Thế nên ở đây tác giả Luca gợi lên hình ảnh tát má, giật áo... những điều mà Ðức Giêsu Kitô cũng đã phải chịu. Tác giả không có ý bảo chúng ta phải thi hành theo chữ đen, nhưng dạy chúng ta phải có tinh thần như Chúa chúng ta trong mầu nhiệm Thánh Giá. Hiểu như vậy, chúng ta sẽ đọc thấy một tinh thần mới, tinh thần của các mối phúc thật, được diễn tả trong đoạn văn này, hơn là khẳng định đây là những việc mà chúng ta phải thi hành theo nghĩa đen. Nói đúng hơn, có tinh thần của Chúa Cứu Thế trong mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh rồi, thì mới hiểu và mới làm được những lệnh truyền kia, và còn làm hơn thế nữa, miễn sao chứng tỏ được mình là môn đồ của Chúa.
Cũng vì vậy mà Luca không dừng lại ở những việc trên. Người còn đi xa hơn, nói đến việc cho vay mượn và cho của cải. Người không nghĩ đến những điều người viết trong sách Công vụ Sứ đồ sao? Các môn đồ thời ấy biết chia sẻ cho nhau để ở giữa họ không ai phải thiếu thốn. Lòng yêu mến thù địch đã biến sang tình huynh đệ chân thật mà Chúa Giêsu đã dạy bảo và đã gọi là lệnh truyền và giới răn mới của mình. Và nền tảng, nguồn gốc của tinh thần và lệnh truyền ấy, chính là lòng thương xót của Thiên Chúa. Người thương xót con cái loài người, trước đây thù địch với Người và với nhau. Người cho Con Một của Người xuống thế, đem lòng thương xót đó đến hòa giải hết thảy nên một dân tộc mới là đoàn con và là đoàn chiên của Chúa. Chính lòng thương xót đã đổi mới họ và ban cho họ sự sống mới, sự sống của lòng thương xót, khiến ai có sự sống mới cũng phải đầy lòng thương xót.
Sách Tin Mừng Luca đã được mệnh danh là tác phẩm của lòng thương xót. Ðoạn văn hôm nay nằm trong tác phẩm ấy. Nó cũng chẳng muốn nói gì hơn là dạy ta hãy theo gương lòng thương xót của Chúa biểu lộ đặc biệt trong mầu nhiệm Cứu Thế để chúng ta luôn có nếp sống và thái độ xót thương mọi người, khiến không ai còn là thù địch hoặc xa lạ, nhưng hết thảy đã trở thành anh em vì đã là môn đồ của Chúa. Nếu ngay trong đạo Do Thái cũng chỉ có một loại thù nghịch đáng kể là thù nghịch làm hư hỏng niềm tin; mà tinh thần mới của Phúc Âm đã hủy bỏ loại thù nghịch đó rồi, thì đối với người môn đồ của Chúa không còn có thể có một mối thù nghịch nào nữa, khiến đạo của họ mới thật là bác ái yêu thương. Thực tế họ có thể sống được như vậy không?
3. Bài thơ Phaolô
Thánh Tông Ðồ rất thực tế. Bức thư này của người thường được gọi là Bức Thư của người Công Giáo, nói đến nếp sống Công Giáo trong Hội Thánh Công Giáo, đang khi thư Rôma được gọi là thư của người Tin Lành vì được những người này yêu thích cách riêng. Vậy trong thư nói về nếp sống Công Giáo, Phaolô không ảo tưởng nghĩ rằng mọi môn đồ của Chúa đều đã hoàn toàn và có thể thi hành các lệnh truyền của Chúa cách dễ dàng. Ðặc biệt tinh thần mới mà Chúa Giêsu đã mang đến, theo thánh nhân, chúng ta đón nhận trong thân xác yếu hèn, chẳng khác những bình sành lọ đất. Chúng ta khó giữ được. Và càng khó thi hành được. Bởi vì chúng ta không thần thiêng như Thiên Chúa. Chúng ta được cấu tạo bằng thể xác và linh hồn. Hơn nữa Ơn Chúa đến đổi mới chúng ta, nâng cao bản tính con người lên, kết hợp và chia sẻ sự sống Thiên Chúa, khiến nơi chúng ta vừa có con người cũ do Ađam lưu truyền vừa có con người mới do Chúa Giêsu mặc cho. Con người Ađam do tự đất, nên luôn hướng chiều về đất. Con người Giêsu do tự trời, nên muốn kéo chúng ta lên những sự cao siêu. Con người do đất là người trần ai, muốn sống như người phàm trần, con người do Chúa kéo chúng ta bắt chước nếp sống của Người. Vì người môn đồ ở trong một thế hai chiều như vậy, nên họ luôn bị giằng co. Tự nhiên họ muốn đối xử với mọi người theo cách thế gian là yêu bạn hữu ghét thù địch. Nhưng ơn của Chúa, tinh thần mới của Phúc Âm mà họ nhận được khi tái sinh trong phép rửa, lại thúc giục họ thi hành lệnh truyền của Chúa là yêu mến thù địch.
Do đó, kết luận hiển nhiên là nếu muốn thi hành điều Chúa dạy, họ phải tăng cường tinh thần của Người. Thánh lễ cho ta cơ hội đặc biệt để làm công việc này. Nhờ thân thể vinh quang của Chúa Giêsu mà chúng ta được lãnh nhận, Thánh Thần được ban thêm cho ta, sức sống thần linh được tăng cường để chúng ta lựa chọn nếp sống Phúc Âm. Chúng ta được hạnh phúc hơn đã sống theo tinh thần của Chúa, Ðấng đã đến để thi hành công cuộc hòa giải. Người lôi kéo chúng ta vào mầu nhiệm Cứu Thế, nơi mà kẻ tội lỗi và trước đây là thù địch cũng được hưởng lòng thương xót, để hết thảy trở nên Dân mới và là anh em với nhau. Xin cho chúng ta nhờ thánh lễ này được nhiều tinh thần ấy.
4. Yêu thương kẻ thù--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6,27)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay đề cập đến một vấn đề rất thực tế, đó là đối xử với những kẻ thù ghét mình. Trong cuộc sống nhiều va chạm, ai trong chúng ta mà không có lần bị người khác ganh ghét, làm hại? Nhưng, là môn đệ Chúa, chúng ta phải đối xử với những người ấy thế nào. Xin Chúa giúp chúng ta hiểu Chúa muốn chúng ta sống thế nào.
II. Gợi ý sám hối
Chúng con phạm rất nhiều tội nghịch đức yêu thương, như nói hành nói xấu, giận hờn, ganh ghét, trả đủa, lên án anh chị em.
Chúng con ít biết tha thứ, nhường nhịn Hiện giờ trong lòng chúng con vẫn còn ác cảm với một số người.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (1 Sm 26,2.7-9.12-13.22-23)
Vua Saun dẫn một đạo quân đông tới ba ngàn người đi lùng bắt Đavít. Một đêm, Saun nằm ngủ mê mệt trong trại thì Đavít đột nhập vào. Người tùy tùng của Đavít thấy đây là dịp may hiếm có nên xúi Đavít giết chết Saun. Nhưng Đavít không nghe theo. Ông chỉ lấy cây giáo của Saun rồi sang phía bên kia hô lớn bảo Saun thức dậy cho người sang lấy lại ngọn giáo. Việc này khiến vua Saun cảm động và phải thừa nhận Đavít là người sau này sẽ hoàn thành nghiệp lớn.
2. Đáp ca (Tv 102)
Thánh Vịnh 102 ca tụng Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu: tha thứ muôn ngàn tội lỗi, chữa lành các vết thương, chậm giận và giàu tình thương, không trả báo ta xứng với lỗi lầm...
3. Tin Mừng (Lc 6,27-38)
1. Những lời Chúa Giêsu dạy về cách đối xử với kẻ thù ghét mình:
Đừng thù ghét lại nhưng hãy yêu thương, làm ơn, chúc phúc và cầu nguyện cho họ.
Đừng trả đũa nhưng hãy nhường nhịn.
2. Những lời dạy về cách đối xử với tha nhân cách chung:
Làm ơn và cho đi mà không cần đáp trả. Cư xử nhân hậu Đừng xét đoán và kết án. Hãy tha thứ.
3. Lý do của tất cả những cách cư xử trên là vì Cha trên trời: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”; “Đừng xét đoán thì các con sẽ khỏi bị (Cha trên trời) xét đoán, hãy tha thứ thì các con sẽ được (Cha trên trời) tha thứ; hãy cho thì (Cha trên trời) sẽ cho lại các con...”
4. Bài đọc II (1 Cr 15,45-49) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô so sánh Chúa Giêsu với nguyên tổ Ađam: Ađam bởi đất mà ra, Chúa Giêsu từ trời mà đến; Ađam chỉ có sinh khí, còn Chúa Giêsu có cả thần khí. Rồi thánh Phaolô cho tín hữu biết rằng họ chẳng những được mang hình ảnh của Ađam mà còn được mang hình ảnh của Chúa Giêsu nữa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Tình huynh đệ, nghĩa cha con
Phải công nhận rằng những điều Chúa Giêsu dạy trong đoạn Tin Mừng này là quá khó: khi bị người khác làm hại, chúng ta chẳng những không được trả thù mà còn phải tha thứ, và hơn nữa còn phải làm ơn cho họ.
Nhưng sở dĩ khó là vì chúng ta coi “người ấy” chỉ là “người dưng”. Nếu chúng ta coi người ấy là “anh em” thì sẽ dễ hơn một phần. Và nếu chúng ta biết nghĩ đến “Cha chung” thì lại càng dễ hơn nữa.
Thực ra, tình thương mà người môn đệ đem ra đối xử với kẻ làm hại mình không phải là tình thương nghèo nàn có sẵn trong tim mình, mà là tình thương bắt nguồn từ con tim của Cha mình, tức là Thiên Chúa, “Đấng vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác”.
Khi chúng ta đối xử bằng tình thương của Thiên Chúa như thế thì chúng ta càng là con của Người hơn, và càng là anh em của tha nhân hơn. Đúng như lời Chúa Giêsu nói “Chúng con sẽ là con của Đấng tối cao”.
Và khi chúng ta rộng lượng với anh em mình như thế, thì Cha trên trời sẽ càng rộng lượng hơn đối với chúng ta: “Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo anh em”.
Giáo huấn của Tin Mừng không phải dành cho những kẻ muốn làm anh hùng hay siêu nhân, mà dành cho những ai muốn làm con Thiên Chúa và làm anh em của nhau.
* 2. Tình yêu mặc khải
Chúa Giêsu không phải là một nhà huấn đức, mà là một Đấng mặc khải. Nói cách khác cho dễ hiểu hơn, Người không nhằm dạy cho chúng ta biết những điều tốt, việc tốt, mà nhằm cho chúng ta biết Đấng tốt lành vô cùng.
Muốn thực sự hiểu biết ai thì phải thử sống như người đó, nghĩ như người đó và làm như người đó.
Khi chúng ta thực hành những điều Chúa Giêsu chỉ dạy trong bài Tin Mừng này thì chúng ta sẽ hiểu Thiên Chúa là thế nào. Chẳng những thế, chúng ta còn trở nên giống như Thiên Chúa.
Và khi chúng ta sống như Thiên Chúa, chúng ta sẽ mặc khải cho người khác biết Thiên Chúa là thế nào.
* 3. Tha thứ là trao ban hai lần
Chuyện “Nghìn Lẻ Một đêm” của Ba Tư có kể lại một phiên toà như sau:
Có hai người anh em ruột bắt trói được thủ phạm giết cha mình. Họ đem tên sát nhân đến trước quan toà và yêu cầu xử theo luật “mắt đền mắt răng thế răng”. Kẻ sát nhân đã dùng đá để ném chết cha họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật định.
Trước mặt quan toà, tên sát nhân nhận tội và sẵn sàng chịu hình phạt. Chỉ xin hoãn ba ngày để hắn về giải quyết vấn đề liên quan đến một người cháu được ký thác cho hắn trông coi từ nhỏ. Giữa lúc quan toà đang do dự, thì từ trong đám đông dự phiên toà có một người giơ tay cam kết:
“Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời cam kết của tử tội. Nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi sẽ chết thay cho hắn”.
Tên tử tội được tự do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Đúng kỳ hạn, giữa lúc mọi người đang chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, hắn hiên ngang tiến ra pháp trường, dõng dạc tuyên bố: “Tôi đã giải quyết việc gia đình. Giờ đây, đúng theo lời cam kết, tôi xin trở lại để chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết của mình để người ta sẽ không nói: Chữ tín không còn trên mặt đất này”.
Sau lời phát biểu hùng hồn của tử tội, người đàn ông bảo lãnh cho hắn cũng ra giữa đám đông tuyên bố: “Phần tôi, sỡ dĩ tôi đứng ra bảo lãnh cho người này vì tôi không muốn để cho người ta nói: “Lòng quảng đại không còn trên mặt đất này”.
Sau hai lời tuyên bố trên, đám đông bỗng trở nên thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi để thể hiện những gì là cao quí nhất trong trái tim con người.
Từ giữa đám đông, hai người thanh niên bỗng tiến ra nói với quan toà: “Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta sẽ không còn nói: “Lòng tha thứ không còn hiện hữu trên mặt đất này”.
***
Tha thứ là một cử chỉ anh hùng, là một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, phản ứng thường tình của con người, để bước vào thế giới siêu nhiên của những người con Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.
Tha thứ là thể hiện cao cả nhất của tình yêu. Nếu yêu thương là trao ban thì tha thứ còn lớn hơn cả trao ban, vì tha thứ là trao ban cho kẻ thù của mình.
Quả thật, tha thứ là trao ban hai lần. Nếu chúng ta có thể cho đi của cải mình, có thể cho đi chính mạng sống mình vì người mình yêu, thì tha thứ còn cao cả hơn rất nhiều, vì tha thứ là trao ban cho kẻ thù của mình.
”Hãy yêu kẻ thù”. Đó là lệnh truyền đã được Chúa Giêsu nhắc lại hai lần trong bài tin Mừng hôm nay. Đó cũng là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Người. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Người đã làm gương cho chúng ta khi Người xin Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ mình. Hơn nữa, Người còn minh oan cho họ: “Vì họ lầm chẳng biết”.
Chính hành vi cao cả này mà Chúa Giêsu đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Và đó cũng là nét cao quí nhất trong dung mạo của Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người, Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân, để tái tạo và phục sinh với Người.
Nhưng tại sao chúng ta phải yêu kẻ thù? Yêu người yêu mình thì dễ, ai lại đi yêu kẻ làm hại mình bao giờ. Theo triết gia Nietzsche thì lời khuyên “Hãy yêu kẻ thù” chỉ dành cho người bạc nhược, nhát đảm. Và Chúa Giêsu là con người quá lý tưởng, thiếu thực tế.
Không, Chúa Giêsu không phải là con người quá lý tưởng để quên mất thực tế, Người là con người thực tế đích thực.
Người xưa có câu: “Ác giả ác báo”, làm điều ác thì sẽ gặp điều ác. Lấy oán báo oán chỉ tăng thêm hận thù mà thôi. Chỉ có ánh sáng mới xoá tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Nếu chúng ta không sống theo lời dạy của Chúa Giêsu thì phản ứng dây chuyền của sự ác là hận thù sẽ tăng thêm hận thù, bạo lực sẽ kéo theo bạo lực, và tất cả chúng ta sẽ rơi vào hố sâu diệt vong như cơn lốc xoáy ập tới tiêu diệt mọi người.
Hận thù gây tác hại cho chính con người oán ghét kẻ khác. Nó làm tổn thương tinh thần của người oán thù, đồng thời, huỷ diệt nhân cách của chính họ. Bacon viết: “Khi trả thù, người ta biến mình bằng kẻ thù. Còn khi tha thứ, người ta vượt cao hơn họ”.
Tâm lý học ngày nay khẳng định: “Hận thù thì huỷ diệt, còn yêu thương thì phát triển nhân cách hết sức lạ lùng và hữu hiệu”.
Cuối cùng, tình yêu có phép mầu sẽ biến kẻ thù thành bạn hữu. Nếu hận thù là huỷ diệt, thì tình yêu là xây dựng. Abraham Lincoln có nói: “Biến thù thành bạn, phải chăng là tiêu diệt kẻ thù rồi?” Đó chính là sức mạnh của tình yêu, sức mạnh có tính sáng tạo và cứu độ.
Đối với người tín hữu Ki tô, lý do căn bản nhất để chúng ta yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa trong Luca đoạn 6 câu 35: “Anh em hãy yêu kẻ thù... Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao”. Chúng ta sẽ không bao giờ là con cái đích thực của
Cha trên trời, nếu chúng ta không yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi chúng ta.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một trái tim nhân từ như Chúa, để chúng con vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện, hầu mặc lấy tâm tình bao dung nhân hậu của Người.
Xin cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu sâu xa của Chúa, để chúng con thật tình tha thứ cho nhau. Amen. (Thiên Phúc)
* 4. Yêu thương kẻ thù
Ở Belfast có một gia đình kia. Người chồng bị bắn chết đang khi lái xe đến nhà thờ dự lễ. Sau đó ít lâu, người vợ cùng đứa con đến nhà thờ cầu nguyện. Đứa con hỏi:
- Mẹ ơi, không biết người đã bắn chết cha con có được lên thiên đường không hở mẹ?
Câu hỏi khiến người mẹ bị bất ngờ. Suy nghĩ một lát, bà trả lời:
- Nếu người đó thành thật sám hối thì Chúa cũng tha thứ và cho lên thiên đường.
Đứa con rất khó chịu:
- Nếu có người đó trên thiên đường thì con không muốn lên thiên đường đâu.
Người mẹ càng bối rối hơn nữa. Bà lại suy nghĩ, rồi nói:
- Nếu Chúa đã tha cho ông ta, thì Người cũng sẽ đổi lòng ông ta, khiến ông ta không còn dễ ghét nữa mà thành dễ thương.
Lúc đó đứa con mới thoả mãn. Nó nói với mẹ:
- Vậy thì mẹ con mình hãy cầu nguyện cho ông ta đi.
Bài học quan trọng nhất của đoạn Tin Mừng hôm nay là làm thế nào để chống lại sự ác mà không cần trả thù.
Hầu hết chúng ta nghĩ rằng chỉ cố gắng đừng trả thù là đủ rồi. Nhưng Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta nhiều hơn thế, Người còn muốn chúng ta yêu thương kẻ thù nữa. Mặc dù việc này rất khó, nhưng chúng ta thấy bà mẹ Belfast đã làm được, và đứa con nhỏ của bà cũng làm được.
Chỉ xét trên bình diện nhân loại thôi thì giáo huấn của Chúa Giêsu cũng rất hữu ích: đà leo thang của sự ác chỉ có thể bị dừng lại bằng việc tiêu hủy nó chứ không phải bỏ qua nó. Trả thù và trả đũa là lấy ác báo ác. Khi chọn thái độ báo thù thì chúng ta bị thù hận làm nhiễm độc. Khi
nuôi lòng hận thù trả thù, chúng ta phải tiêu hao nhiều năng lực. Trả thù chỉ thỏa mãn được sự tức giận của ta nhưng lại làm cho con tim ta trống rỗng. Oscar Wilde viết: “Khi Chúa Giêsu dạy hãy tha thứ cho kẻ thù là Người không nhằm đến lợi ích của kẻ thù mà nhắm đến lợi ích của chính bản thân ta. Hơn nữa yêu thương thì đẹp hơn thù hận rất nhiều”.
Nếu lòng thù hận làm tiêu hao năng lực thì ngược lại lòng yêu thương tăng cường nghị lực trong chúng ta. Một trong những việc khó làm nhất là yêu thương kẻ ghét mình. Nhưng tình yêu chân thật là yêu thương cả người khó thương hay không thể thương được. Chỉ người nào rất giàu năng lực mới làm được như thế. Mà việc này có thể làm được, bởi vì sức mạnh của yêu thương lớn hơn sức mạnh của hận thù.
Dù sao thì tha thứ cho kẻ đã làm hại mình là một việc rất khó. Khi bị làm hại, làm sao trong lòng ta không có những cảm giác đau đớn, đắng cay và ý định muốn trả thù? Muốn vượt thắng cảm giác và ý định đó, cần phải chiến đấu rất nhiều. Cầu nguyện chính là sức tăng viện giúp ta chiến
thắng. Bởi đó Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy cầu nguyện. (FM)
* 5. Đừng xét đoán
Chúng ta rất dễ xét đoán người khác. Thế nhưng Chúa Giêsu khuyến cáo rằng khi ta xét đoán người khác tức là ta xét đoán chính mình: “Anh em đừng xét đoán thì anh em sẽ không bị xét đoán”.
Câu chuyện sau đây có thật:
Một buổi sáng, vị linh mục đang dâng Thánh lễ thì thấy một người đàn bà đến trễ. Cha rất bực bội nên khi bà này lên rước lễ thì cha không trao Mình Thánh Chúa. Điều này làm cho bà rất đau lòng.
Thực ra bà là người rất ham dự Lễ. Từ trước tới nay bà không bao giờ đi trễ. Nhưng hôm nay chồng bà đột ngội ngã bệnh; đứa con gái tàn tật lại lên cơn. Bà phải nán lại để chăm sóc chồng con. Nguyên việc trễ lễ đã là một mất mát rất lớn đối với bà rồi. Thế mà cha lại không cho bà rước lễ!
Sở dĩ vị linh mục làm thế vì ã xét đoán một cách hồ đồ. Và cách làm của linh mục này chính là lời kết án tính hồ đồ của người.
Câu chuyện trên phải là một sự cảnh cáo chúng ta đừng xét đoán cách hồ đồ. Thực ra, xét đoán là một điều rất khó. Muốn xét đoán cho đúng thì ta phải thấy đầy đủ hết mọi khía cạnh của sự việc. Thấy mọi khía cạnh của sự việc cũng chưa đủ, cần phải hiểu thêm về hoàn cảnh và động cơ thâm
sâu của sự việc đó nữa. Trong khi đó, thường chúng ta chỉ thấy một phương diện thôi, và chỉ thấy bề ngoài thôi. Tóm lại, chúng ta chưa có đủ yếu tố để xét đoán.
Chắc ai trong chúng ta cũng có lần là nạn nhân bị người khác xét đoán. Hãy nhớ lại xem khi đó chúng ta đau khổ như thế nào. “Điều gì bạn không muốn người khác làm cho bạn thì bạn đừng làm cho người khác” (Hillel).
Vả lại, ai trong chúng ta mà không cần được Thiên Chúa xét đoán khoan hồng, bởi vì “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được?” Vì thế chúng ta cũng phải khoan hồng với anh em chúng ta. “Anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (FM)
* 6. Hãy cho mà không mong được đáp trả
”Thiên Chúa sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và tràn đầy mà đổ vào vạt áo của anh em”.
Trong câu nói trên, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh quen thuộc trong nghề nông. Hay nói rõ hơn, đó là trong việc đong lúa: những người gian lận hoặc keo kiệt thì dùng loại đấu thiếu dung lượng; chẳng những thế khi đong thì đong vội vã để lúa chưa kịp lóng xuống mà đấu đã đầy tới
miệng. Còn người công bình và rộng lượng thí dùng đấu chính xác, lại còn dằn, còn lắc để lúa trong đấu càng nhiều càng tốt.
Chúa Giêsu đã dùng hành ảnh ấy để khuyến khích chúng ta đối xử rộng lượng. Nếu chúng ta rộng lượng thì sẽ được Thiên Chúa rộng lượng lại gấp
bội.
Viktor Frankl là một tù nhân trong trại tù Auschwitz thời Quốc Xã Đức. Ông kể lại rằng một người trong trại tù mà ông lấy làm sung sướng nhất mỗi khi được gặp, đó là anh đầu bếp F. Khi tới giờ ăn, mỗi tù nhân bưng một cái tô, xếp hàng tới lãnh cháo nơi các đầu bếp. Các đầu bếp kia
thường nhìn mặt tù nhân, hễ gặp người nào mà hắn có cảm tình thì hắn múc cho một tô đầy, còn người nào mà hắn không ưa thì chỉ được một tô lưng. Riêng anh đầu bếp F này thì chẳng nhìn mặt ai cả, ai đưa tô ra anh cũng đều múc đầy.
Tại sao anh F làm như thế? Viktor Frankl không biết. Nhưng ta có thể đoán là anh F cũng là một tù nhân, trước đây cũng đã phải bưng tô chờ các đầu bếp đong cháo, một số lần bị đong lưng và một số lần được đong đầy. Nay anh được làm đầu bếp và được trao trách nhiệm đong cho người
khác, anh làm theo lời Chúa Giêsu nói “Anh em muốn người ta làm gì cho mình thì hãy làm cho người ta như vậy”.
Chúng ta càng mở rộng cửa lòng cho người khác thì lòng chúng ta càng được mở rộng để đón nhận ơn ban của Chúa. Cái đấu chúng ta dùng để đong cho người khác cũng là cái đấu Chúa dùng để đong cho chúng ta. (FM)
* 7. Chuyện minh họa
Solzhenitsyn kể một chuyện sau đây xảy ra trong thời Thế chiến thứ hai:
Khi đó là tháng 12 năm 1943. Chiến sự đang diễn ra ác liệt trong lúc tuyết rơi tầm tã đến nỗi người ta không nhìn rõ mặt nhau. Có hai người lính nằm bên cạnh nhau. Phía trước có bóng một người mà họ nghĩ là quân địch. Hai người lính này chỉa súng về phía đó nhả đạn. Họ khuyến khích nhau bắn cho hăng, họ chuyền đạn cho nhau, thỉnh thoảng còn chia nhau khi thì chai nước khi thì gói thuốc hút.
Một lúc sau, cái bóng phía trước biến mất. Hai người lính tạm nghỉ, bỏ súng trường xuống, cởi nón sắt và áo khoác ra. Lúc đó họ mới có dịp nhìn rõ nhau. Một anh đeo quân hiệu con đại bàng, anh kia đeo ngôi sao. Thì ra một anh là lính Đức, một anh là lính Nga, tức là hai kẻ thù của nhau.
Lập tức hai người nhảy một bước ra xa nhau, rút súng ngắn chỉa về phía người kia. May là súng không nổ vì trời quá lạnh. Hai người xông vào ôm nhau vật lộn. Vật chán rồi mệt quá nằm lăn ra tuyết.
Diễn biến sự việc có nhiều điều đáng ta suy nghĩ: a/ Hai người lính ấy đã vật lộn với nhau không phải vì chính trị, cũng chẳng phải vì lòng yêu nước, mà chỉ vì họ đều là nạn nhân của một suy nghĩ sai lầm và mù quáng “Nếu ta thương xót kẻ thù thì kẻ thù sẽ giết chết ta”; b/ Câu chuyện còn
cho thấy một sự thật khác nữa, đó là: kẻ thù cũng dễ thành bạn, mà bạn cũng dễ thành kẻ thù, bởi vì trong kẻ thù cũng có một cái gì đó mà ta thích, và trong người bạn cũng có một cái gì đó mà ta không ưa. (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên kẻ dữ cũng như người lành. Tin tưởng vào tình thương hải hà của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh luôn kêu gọi con cái mình triệt để tuân giữ luật bác ái của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / luôn chân thành yêu thương nhau.
2. Trên thế giới ngày nay / hận thù và bạo lực vẫn còn đang ngự trị trong đời sống của nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho đức bác ái Kitô giáo / thâm nhập vào mọi sinh hoạt trần thế / để hết thảy mọi người được sống trong hòa bình và an vui.
3. Anh em phải có lòng từ bi như Cha anh em là Đấng từ bi / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người Kitô hữu biết chân thành lắng nghe / và cố gắng sống theo Lời Chúa Giêsu đã dạy trong Tin mừng.
4. Anh em đừng xét đoán / thì sẽ khỏi bị Thiên Chúa xét đoán / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết can đảm từ bỏ tật xấu hay xét đoán người khác cách bất công / vì không ai là người hoàn toàn vô tội trước mặt Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin hãy dùng chúng con như khí cụ bình an của Chúa, để chúng con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, và đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Trong số 7 lời xin trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu đặc biệt nhấn mạnh đến lời xin ơn biết tha thứ. Chúng ta cũng hãy tha thiết xin Cha trên trời giúp chúng ta biết tha thứ cho anh chị em chúng ta.
VII. Giải tán
Thánh lễ đã xong, anh chị em hãy ra về và nhớ thực hiện lời Chúa dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em”.
5. Bác ái vô biên – ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’
Tất cả các nền luân lý của nhân loại đều đề cập đến yêu người, nhưng yêu thương kẻ thù thì đặc biệt chỉ có giáo lý Đức Giêsu đòi hỏi thôi. Kẻ thù được xác định rõ ràng là những kẻ oán ghét, nguyền rủa, nhục mạ mình, là những kẻ vả má đánh đập, làm hại bóc lột mình đến cả áo mặc nữa. Chứ không phải kẻ thù xa lạ của đoàn thể hay đất nước. Kẻ thù chính cá nhân ta mới rất khó tha thứ và yêu thương.
Sách Đông Châu Liệt Quốc có kể hai anh em Cựu Tử và Bạch Tử tranh nhau chiếm ngai vàng nước Tề. Quản Trọng phò Cựu Tử, bạn chí thân của ông là Bào Thúc Nha phò Bạch Tử. Quản Trọng mưu bắn giết Bạch Tử để tôn Cựu Tử làm Vua, Bạch Tử không chết. Nhưng Cựu Tử lại bị Lỗ Hầu giết chết. Bạch Tử sống sót trở về làm Vua nước Tề. Bạch Tử phong Bào Thúc làm tướng quốc. Bào Thúc không dám nhận, lại tiến cử Quản Trọng.Vua rất kinh ngạc hỏi sao ông dám tiến cử kẻ thù đã mưu giết ta?. Bào Thúc nói: Vua muốn giữ nước Tề thì không cần Quản Trọng, nhưng muốn làm Vua thiên hạ thì phải nhờ Quản Trọng. Vua đã quên thù để lập nghiệp lớn.
Có phải Bạch Tử yêu thương kẻ thù như Đức Giêsu dậy chăng? Bạch Tử tha cho Quản Trọng và phong cho làm tể tướng không phải vì yêu kẻ thù, mà chỉ vì yêu mình, muốn Quản Trọng giúp mình làm bá chủ thiên hạ.
Bài đọc I cũng kể David đã không giết Saolê là kẻ thù đang đem 3000 quân đi lùng bắt giết David. Có phải David yêu kẻ thù chăng? Chắc là phải, vì David đã kính trọng Vua Saolê, là người đã được Chúa xức dầu. Như vậy, David vì mến Chúa mà tha thứ cho kẻ thù. Lòng kính mến Thiên Chúa chính là nền tảng đức bác ái vô biên. Ai nhận biết Thiên Chúa là Cha mình, mới nhận ra mọi người là anh em thật của mình và không còn ai là kẻ thù.
Đức Giêsu là con Thiên Chúa, đã muốn cho tất cả mọi người là anh em của Ngài, nhờ đó mọi người được làm con Thiên Chúa, cho nên không còn ai là kẻ thù. Vì thế, dù biết Giuda là kẻ nội phản, dẫn quân dữ đến bắt Ngài, Ngài vẫn hiền từ thương yêu và gọi Giuda là bạn chí thiết. Tên đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai, Ngài vẫn làm ơn chữa lành tai cho nó, không coi nó là kẻ thù. Nhất là khi hấp hối đau đớn cùng cực trên thập giá, Ngài vẫn tha thiết cầu khẩn Đức Chúa Cha tha tội những kẻ giết Ngài vì chúng lầm chẳng biết. Thánh Stêphannô thấm nhuần giáo lý yêu thương vô biên đó, nên khi bị những trận cuồng phong ném đá Ngài như mưa, Thánh nhân đã cầu xin rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con. Rồi ông qùi xuống, kêu lớn tiếng: Lạy Chúa xin đừng chấp họ tội này”. (Cvtđ. 7, 59-60).
Ngày 13/05/1981 cả thế giới đều sửng sốt kinh hoàng về tin Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bị ám sát tại chính công trường Thánh Phêrô. Ali Agca, một thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ, thủ phạm bắn Ngài, lại được Ngài đến thăm, nói chuyện và tha thứ cho anh. Tình yêu nào đã khiến Đức Giáo Hoàng thương yêu kẻ thù như bạn hữu của mình? Chỉ có tình yêu của Đức Giêsu đã thúc đẩy vị đại diện của Người dưới trần gian này đã có lòng bác ái vô biên như vậy. Chính tình yêu của Đức Giêsu cũng đã thúc đẩy ông Grandhi hết lòng thương yêu kẻ thù bằng dùng phương pháp bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn thoát ách nô lệ dân Anh và hòa giải dân Ấn với Hồi không còn coi nhau như kẻ thù truyền kiếp nữa. Họ đã tôn kính Grandhi như Cha già dân tộc và là vị đại ân nhân nhất của họ. Cả thế giới đều gọi ông là thánh Grandhi. Nhưng ngày 30/01/1948 đang lúc ông cầu nguyện tạ ơn vì bản hòa ước đã ký kết giữa hai dân Ấn-Hồi, thì ông bị chính người đồng bào bắn chết. Ông chỉ kêu lên được hai tiếng: Rama, Rama: Chúa ơi, Chúa ơi và giơ tay làm một cử chỉ tha thứ cho kẻ bắn ông.
Nhà văn Nguyễn Hiến Lê trong Gương Danh Nhân đã hỏi: Nhờ đâu, Grandhi lúc còn nhỏ là con người tầm thường, chơi bời, đàng điếm, ghen tương lại trở nên một thánh nhân vĩ đại của Ấn và của cả thế giới? (Tr. 81). Bách khoa tự đển của Punk đã trả lời: “Ông đã thấm nhuần giáo lý của Đức Kitô, như câu: “Ai vả anh em má bên phải, hãy giơ cho nó má bên kia nữa” “He acknowledged a debt to the teaching of Christ as expressed in …”whosoever shall smite thee on the right check, turn to him the other also”. (Punk, Encyclopedia, 9,11. P. 3896). Chính bài Tin Mừng hôm nay đã biến đổi Grandhi từ một con người hèn yếu, thành một thánh nhân vĩ đại của nhân loại.
Còn đối với mỗi người chúng ta, bài Tin Mừng này có biến đổi chúng ta thành con Chúa biết “thương yêu kẻ thù, làm ơn cho kẻ oán ghét mình, chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình, và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình” không?
Lạy Chúa, con đã xúc phạm đến Chúa biết chừng nào! Chúa vẫn tha thứ, hy sinh chịu chết cứu chuộc con và cho con được làm con yêu dấu của Chúa. Xin cho con nhận biết lòng từ bi nhân hậu của Chúa, cho con hết lòng yêu thương mọi người, dù họ thù ghét con mãi mãi.
6. Đối xử với con người, đối xử với Thiên Chúa--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ.
Dường như người ta đối xử với nhau thế nào thì đối xử với Thiên Chúa cũng như vậy! Ngày xưa, người ta đã đối xử với người tên Yêsu làng Nazarét thế nào, thì đó là điều họ đã đối xử với Thiên Chúa. Ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối, vì nếu người anh em họ thấy mà họ không yêu thương thì làm sao họ có thể yêu thương Đấng họ không thấy được (1Ga.4, 20)! “Vì xưa Ta đói ngươi đã cho ăn, Ta khát ngươi đã cho uống… Những gì ngươi làm cho một trong những người bé mọn nhất, là làm cho chính Ta… Những gì ngươi không làm cho những kẻ nghèo hèn nhất, là đã không làm cho chính Ta” (Mt.25, 35.40.45).
Bài đọc thứ nhất trong sách Samuel cho ta thấy cách đối xử rất đẹp của Đavít đối với vua Saolê. Saolê đi lùng bắt giết Đavít, người cô thế cô thân lúc đó; nhưng Đavít đã không giết Saolê khi có dịp. Tại sao? “Vì có ai tra tay hại đấng Đức Chúa xức dầu tấn phong mà vô sự đâu!” Đavít không hạ sát Saolê, vì ông kính sợ Thiên Chúa. Thái độ Đavít đối xử với Saolê, phản ánh thái độ thâm sâu Đavít có đối với Thiên Chúa. Đavít không dám làm trái lệnh Đức Chúa. Đavít không lấy lý trí và lý luận của mình làm tiêu chuẩn hành động, nhưng niềm tin vào Thiên Chúa và cách hiểu về Thiên Chúa. Nếu lấy chính mình là tiêu chuẩn, thì Đavít đã phải giết Saolê vì Saolê đang tìm giết ông, để Saolê sống thì mạng sống Đavít còn bị đe dọa, nên nếu tin vào mình, nếu để tìm sự an toàn theo lý trí mình thì Đavít đã phải giết Saolê. Cách hành xử của Đavít hàm chứa cách đối xử của Đavít đối với Thiên Chúa. Với Đavít, Thiên Chúa là tuyệt đối và là tất cả. Niềm tin và sự an toàn của Đavít tựa trên Thiên Chúa Quyền Năng chứ không dựa trên Đavít với lý trí và sức mạnh của ông.
Đức Yêsu dạy các môn đệ: “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc.6, 27). Tại sao lại phải yêu thương kẻ thù ghét mình? Tại sao lại phải giúp đỡ người không thích mình và tìm cách làm hại mình? Bởi vì nếu mình cư xử như vậy, mình chẳng hơn gì kẻ tội lỗi vì họ cũng làm như vậy! Nhưng đó không phải là lý do chính. Lý do chính là “hãy nhân từ, hãy yêu thương như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc.6, 36).
Thiên Chúa mời gọi con người sống như Ngài. Ngài là Đấng nhân từ yêu thương, Ngài muốn con cái Ngài sống nhân từ yêu thương như Ngài. Nếu ai không sống như Ngài, thì không phải là con cái Ngài. Yêu thương mọi người và ngay cả kẻ thù ghét mình, không phải là việc phải làm vì đó là mệnh lệnh từ ngoài đối với những người con cái Thiên Chúa nhưng vì đó là bản chất người con cái Thiên Chúa. Đã là người con Thiên Chúa thì sống yêu thương, vì họ không có kẻ thù, theo nghĩa họ không thù ghét ai; nếu có ai thù ghét họ, thì đó là do người đó, chứ họ thì không thù ghét bất cứ ai cả. Như Thiên Chúa là Đấng yêu thương và chỉ biết yêu thương, thì những con cái của Thiên Chúa cũng yêu thương và chỉ biết yêu thương.
Yêu thương thuộc bản chất của những người con cái Thiên Chúa. Ai yêu thương thì biết Thiên Chúa, ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa. Ai yêu thương thì là con cái Thiên Chúa, ai không yêu thương thì không là con cái Thiên Chúa. Ai thù ghét là con cái ma quỷ, hiểu theo nghĩa, họ đã hành xử như ma quỷ; trong một cuộc tranh luận, Đức Yêsu đã nói với người Do Thái: “Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian trá” (Ga.8, 44). Yêu thương tha nhân, ở mức độ thứ nhất, là điều phải làm vì đó là giới răn của Thiên Chúa cho con người; nếu mình không thực hiện, mình không làm theo điều Thiên Chúa dạy bảo. Ở mức độ cao hơn, sống yêu thương vì tự bản chất mình thấy mình phải yêu thương; vì mình là con cái Thiên Chúa nên cách hành xử của mình cũng phải giống như cách Thiên Chúa hành xử, nghĩa là sống yêu thương.
Đức Yêsu là người đã yêu thương tất cả mọi người, cả những kẻ giết Ngài. Trên thập giá, Đức Yêsu đã thành khẩn nài xin Thiên Chúa Cha tha cho những kẻ giết Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết” (Lc.23, 34). Đức Yêsu không chỉ dạy, nhưng Ngài đã sống điều mình dạy: “Thầy nói với anh em là những kẻ đang nghe Thầy nói đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho người nguyền rủa anh em, hãy cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc.6, 27-28). Đức Yêsu đã không thù hận người làm hại Ngài, mà Ngài còn yêu thương họ, muốn điều tốt lành cho họ. Ai thù hận, thì không được hạnh phúc. Đức Yêsu không thù hận, Ngài luôn yêu thương, Ngài luôn hy vọng, Ngài luôn mong chờ người tội lỗi ăn năn sám hối để họ được bình an. Đức Yêsu tin tưởng nơi Thiên Chúa, Ngài cầu xin và chờ mong tất cả nơi Thiên Chúa. Người yêu thương là người luôn chờ mong và hy vọng nơi con người, ngay cả những kẻ theo con mắt người đời không còn đáng tin và chẳng còn hy vọng gì nữa. Chỉ những người yêu thương mới còn sức sống; còn những người không hy vọng gì nơi con người, thì họ sống mà như đã chết, và đối tượng mà người này không hy vọng gì, cũng đã chết đối với họ.
Thánh Têphanô, vị tử đạo tiên khởi của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, cũng đã sống như Thầy mình. Ngài đã cầu nguyện cho những kẻ giết Ngài: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv.7, 60). Không thù hận nhưng yêu thương cả những kẻ giết mình, đó là dấu chỉ cho thấy một người đã có cái nhìn và suy nghĩ giống như Đức Yêsu, người con Thiên Chúa đích thực. Bình an hạnh phúc, là tình trạng của người đã được sống trong tình yêu Thiên Chúa, và muốn những điều tốt lành cho tha nhân như chính Thiên Chúa. Khi một người trở nên con Thiên Chúa, suy nghĩ, ao ước như Thiên Chúa, thì Nước Trời đã hiện diện trong lòng họ (Lc.17, 21). Dưới một khía cạnh nào đó có thể nói: thiên đàng đã ở nơi tâm hồn họ.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Đã có khi nào bạn cảm nghiệm bình an hạnh phúc trên đời? Xin chia sẻ nếu được.
2. Lòng thương cảm, động lòng thương, là dấu chỉ của tình yêu thương như Thiên Chúa muốn. Bạn nghĩ sao về quan điểm này?
7. Yêu cả kẻ thù mình--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm SJ.
Sự khôn ngoan đích thực được thể hiện không chủ yếu bằng lời nói nhưng bằng cách sống trong đời sống thường ngày của mỗi người.
Yêu kẻ ghét mình
Đavid bị vua Saul thù ghét, săn đuổi để giết, nhưng Đavid vẫn sống theo Luật Chúa, không hại kẻ Thiên Chúa xức dầu phong vương khi có thể làm điều đó. Dưới cái nhìn nhân loại, Đavid đã hành xử dại dột, bỏ mất một cơ may “nghìn năm một thuở” để khử trừ kẻ thù mình, nhưng Đavid đã chọn Thiên Chúa, không chọn lợi ích trước mắt theo con người. Giữ luật Chúa, là yêu người, và yêu kẻ thù ghét mình.
Chúa Yêsu trong tin mừng theo thánh Luca hôm nay đã dạy: “yêu kẻ thù ngươi, làm điều tốt cho kẻ ghét ngươi, chúc lành cho kẻ nguyền rủa ngươi, cầu nguyện cho kẻ ngược đãi ngươi… Cho kẻ xin ngươi, đừng đòi lại điều người ta lấy của ngươi, làm cho người khác điều ngươi muốn người khác làm cho mình… Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán, không kết án thì sẽ không bị kết án. Tha thứ thì sẽ được tha thứ. Cho thì sẽ được tặng lại… Hãy thương xót như Thiên Chúa Cha là Đấng thương xót”. Nếu mỗi người sống theo những điều Chúa dạy trên, người đó sẽ sống bình an hạnh phúc.
Đức Yêsu là người đã sống trọn vẹn điều Ngài đã dạy. Những người thù ghét Ngài, tìm cách làm hại Ngài, hành hạ Ngài, giết Ngài, Ngài vẫn yêu thương. Trên thập giá Ngài vẫn xin Chúa Cha tha thứ cho họ. Ngài chỉ biết yêu mà thôi.
Không dễ để yêu kẻ ghét mình
Làm sao có thể yêu được kẻ thù ghét mình, luôn nói xấu mình, luôn tìm cách làm hại mình? Nội chuyện nhìn thấy mặt người đó, mình đã cảm thấy khó chịu, làm sao nói đến chuyện yêu người đó, thích người đó?
Yêu có nhiều mức độ, chẳng hạn không ao ước những điều chẳng lành cho họ, không muốn làm hại họ, muốn điều tốt lành cho họ. Về cảm tính, có thể mình không dễ dàng để cười hoặc nói chuyện với họ, nhưng nếu mình cố gắng vượt qua chính mình để nói hoặc cười, là mình đang “yêu” họ đó. Tình yêu không chủ yếu hệ tại cảm tính nhưng do lý trí. Chẳng hạn trong nghi thức bí tích hôn phối, vị đại diện Hội Thánh không điều tra “anh chị có yêu nhau không?”, nhưng “anh chị có tự do không?”, và lời thề hứa không là “yêu nhau” nhưng “sẵn sàng nhận X (hoặc Y) làm chồng (hoặc vợ), và hứa sẽ giữ lòng chung thủy lúc gian nan cũng như lúc thịnh vượng, để yêu thương và tôn trọng suốt đời”. Yêu thương và tôn trọng ở đây được hiểu như hành vi của lý trí và ý muốn, chứ không phải của cảm tính. Nói như vậy không muốn phủ nhận khía cạnh cảm tính, thân xác của tình yêu.
Con vật chỉ sống theo khuynh chiều của thể xác hay bản năng; con người sống theo lý trí. Sống theo lý trí, không là lừa dối mình, nhưng là sống theo ơn gọi làm người. Nếu lý trí thấy điều nào đó là đúng, là phải làm thì mới là người tốt, thì người ta phải sống theo điều đó dù mình thấy sợ, hay điều đó làm tổn hại về lợi ích vật chất của mình. Khi người ta có khunh chiều xác thịt, và lý trí thấy không được làm như vậy, vì như vậy là sai trái, thì người ta không được làm. Xin Chúa giúp mỗi người nhận ra lời mời gọi vươn lên làm con Chúa, và xin Chúa cho mỗi người có nghị lực để thực hiện những gì Thiên Chúa gợi lên trong tâm trí mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Yêu kẻ thù ghét mình, được gì và mất gì?
2. Tại sao Kitô giáo là đạo “yêu thương”?
3. Xin bạn liệt kê những câu Kinh Thánh nói về yêu thương.
8. Thực thi yêu thương để biến thù thành bạn--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay là bản tóm lược các lời Đức Giê-su dạy về cách cư xử đối với kẻ thù và những kẻ gian ác, để xứng đáng làm con Thiên Chúa và tóm lại như sau:
Hãy chúc lành để đáp lại những kẻ nguyền rủa; Hãy xin Chúa ban điều tốt lành cho những kẻ vu khống mình; Hãy dùng nhu thắng cương và lấy ơn báo óan; Hãy làm trước cho kẻ khác điều mình muốn họ làm cho mình. Hãy tỏ lòng khoan dung nhân từ đối với những kẻ vô ơn bạc ác với mình. Làm ơn và cho vay mượn mà không mong báo đền. Không xét đoán ý trái và đừng vội kết án tha nhân. Hãy quảng đại tha thứ và cho đi. Tất cả những điều tốt ấy sẽ không vô ích, nhưng sẽ được Thiên Chúa báo đền ở đời sau.
CHÚ THÍCH:
- C 27-28: +Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em: Kẻ thù ở đây cụ thể là những kẻ ganh ghét làm hại ta, những người nguyền rủa, vu khống, đánh đập và tước đoạt tài sản của ta... Yêu kẻ thù không phải chỉ về phạm vi tình cảm suông, nhưng là đáp trả những việc xấu của kẻ gian ác như: Chúc lành cho kẻ nguyền rủa ta, cầu nguyện cho kẻ vu khống ta.
- C 29-31: +Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy: Đây là một nguyên tắc căn bản trong cách đối nhân xử thế. Tô-bi-a cha cũng khuyên Tô-bi-a con tương tự: “Điều con không thích, thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4,15). Còn Đức Khổng Tử thì dạy: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Điều mình không muốn, thì đừng làm cho người). Lời Đức Giê-su nói đây nhấn mạnh tính tích cực: Các môn đệ cần noi gương Thiên Chúa trên trời, Đấng“luôn tỏ lòng nhân hậu đối với mọi người, ngay cả phường vô ơn và kẻ độc ác”, Người sẵn sàng ban ơn lành cho những kẻ thù ghét mình.
- C 35: +Con Đấng Tối Cao: Ai đối xử khoan dung với kẻ thù như thế sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao”, một danh hiệu được ban cho vị vua thuộc dòng dõi Đa-vít (x. 2 Sm 7,14). Đức Giê-su cũng được gọi bằng danh hiệu này khi sứ thần truyền tin cho Đức Ma-ri-a (x. Lc 1,32). Ngòai ra, những ai “ăn ở thuận hòa” cũng được gọi là “con Thiên Chúa” (x. Mt 5,9).
- C 36-37: +Anh em đừng xét đoán... Đừng lên án... Hãy tha thứ...: Xét đoán là một hành vi nhân linh, mà mọi người cần thực hiện trong cuộc sống. Sự xét đóan khôn ngoan sẽ giúp người ta phân biệt được người tốt kẻ xấu, điều nào đúng hay sai, quan trọng nhiều hay ít, việc gì cần làm trước hay làm sau... Nếu biết xét đoán đúng và áp dụng phương pháp hữu hiệu thì mọi việc sẽ thành công. Ở đây, Đức Giê-su dạy các môn đệ: “Đừng xét đoán”, nghĩa là đừng đoán xét ý trái cách bất công cho người khác, vì việc kết án chỉ dành riêng cho Thiên Chúa, “Đấng thấu suốt mọi bí ẩn” vào ngày tận thế. Còn hiện tại, Thiên Chúa không phán xét ai, không kết tội ai và luôn khoan dung tha thứ cho những kẻ tội lỗi có lòng sám hối ăn năn... Sau này chúng ta có được xét xử khoan dung hay không, là tùy thái độ của ta đối với tha nhân thế nào, như lời Chúa phán: “Anh em đong bằng đấu nào, thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy”. Tùy theo chúng ta có sẵn sàng tha thứ lỗi lầm cho tha nhân hay không, như lời Đức Giê-su đã dạy trong kinh Lạy Cha: “Xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con” (Lc 11,4).
HỎI ĐÁP:
- HỎI: Khi dạy “Giơ má bên kia cho kẻ vả mặt mình, không cản nó lấy luôn cả áo trong.”.. Phải chăng Đức Giê-su muốn các môn đệ cứ để mặc cho kẻ gian ác lộng hành, để chúng tiếp tục làm hại nhiều người hiền lương yếu đuối?
ĐÁP: Thực ra đây chỉ là một kiểu nói nghịch lý, được cường điệu hóa theo cách nói của người Do thái, tương tự như lời Chúa đòi người ta phải tự móc mắt, chặt tay chân, nếu các bộ phận ấy nên dịp tội cho mình (x. Mt 5,29-30). Người ta không được hiểu những lời này hoàn toàn theo nghĩa đen. Bằng chứng là khi bị điệu ra xét xử, Đức Giê-su đã không đưa má kia cho tên thuộc hạ của thượng tế Khan-na khi hắn vả mặt Người, trái lại Người còn hạch lại nó rằng: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; Còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23). Tuy vậy, Đức Giê-su luôn đòi môn đệ phải biết nhẫn nhịn chịu đựng kẻ gian ác. Có lần Người đã quở trách hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an khi họ xin Thầy dùng sấm sét tiêu diệt dân làng Sa-ma-ri vì họ đã từ chối đón tiếp thầy trò vào ở trọ trong làng của họ (x Lc 9,55). Ngôn sứ I-sai-a cũng tuyên sấm về thái độ của người Tôi Trung của Đức Chúa, ứng nghiệm nơi Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn như sau: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6). Ở đây Đức Giê-su chỉ muốn dạy các môn đệ một phương thức đấu tranh bất bạo động: Hãy dùng tình thương để cảm hóa kẻ ác, lấy nhu thắng cương, lấy sự hiền lành chinh phục những kẻ cường bạo, theo nguyên tắc “thêm bạn bớt thù và biến thù thành bạn”, giúp cho những kẻ gian ác có cơ hội hòan lương.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh em hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại” (Lc 6,38a).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Định luật quả báo trong giao tiếp xã hội:
Cách đây ít lâu có một phụ nữ viết một bài đăng trên một tạp chí tôn giáo, kể lại kinh nghiệm về định luật quả báo trong quan hệ giao tiếp với tha nhân như sau:
“Tôi là một phụ nữ tuổi trung niên và tính tình khép kín. Tôi không thích giao tiếp với bất cứ ai vì sợ bị họ quấy rầy. Chính vì thế mà tôi đã sống cô đơn nhiều năm trong một căn hộ chật hẹp với số tiền trợ cấp xã hội ba tháng một lần. Thái độ khép kín đó đã làm cho tôi bị suy nhược thần kinh. Một ngày nọ tôi bị đau nặng phải đi điều trị tại một bệnh viện miễn phí. Nằm viện đã lâu mà bệnh tình cũng không thuyên giảm. Trong thời gian này tôi cảm thấy cô đơn vì không có ai đến thăm. Chỉ có cô em gái của tôi ở nước ngoài là còn nhớ đến tôi và mỗi dịp lễ Giáng Sinh cuối năm đều gửi cho tôi một thùng quà kèm theo một thiệp chúc mừng No-en. Rồi một ngày nọ, cô em gái duy nhất kia lại bị chết đột ngột do tai nạn giao thông. Tin này khiến cho tôi càng thêm tuyệt vọng. Một hôm, tình cờ tôi đọc được một thông báo trong tập san của bệnh viện nơi tôi đang điều trị, nội dung như sau: “Tổ chức thiện nguyện chúng tôi đang cần có thêm người tình nguyện phục vụ các bệnh nhân tê liệt tại tầng lầu ba của bệnh viện”. Thế là tôi quyết định đăng ký làm thử công việc thiện nguyện này để tránh sự nhàm chán trong thời gian nhàn rỗi. Chỉ có Chúa mới biết tại sao tôi lại tình nguyện làm một việc vất vả không lương này. Nhưng theo tôi hiểu thì chắc là Người muốn dùng việc ấy để chữa lành bệnh cho tôi.
Ngày nọ, tôi được bà trưởng hội phân công đến giúp cho một bà cụ bị tê liệt mà đã từ lâu không một thân nhân nào còn đến thăm hỏi giúp đỡ. Bà cụ thường tủi thân và luôn than vãn trách móc con cháu đã đối xử tệ bạc với bà. Nhận thấy cụ cần được động viên an ủi, nên tôi hay đến ngồi bên cạnh, vừa bóp tay chân cho cụ vừa lắng nghe cụ tâm sự. Mỗi lần như vậy, cụ lại có dịp kể cho tôi nghe những nỗi đau khổ mà chồng con đã đối xử tệ bạc với cụ. Một hôm tôi ghé tai khẽ nói với cụ rằng: Tôi có một bà mẹ có nét mặt phúc hậu rất giống cụ. Tôi cảm thấy yêu cụ như yêu mẹ ruột của tôi. Nghe vậy, nét mặt cụ đột nhiên biến đổi: Cụ im lặng nhìn thẳng vào mắt tôi và hỏi: “Có thật vậy không hả cô?”. Tôi trả lời: “Đúng thật như vậy đó! Con rất yêu cụ như yêu mẹ ruột của con!”. Và ngay lúc ấy, tôi cảm thấy trong người tôi một mối xúc cảm lạ lùng, nó làm biến đổi con tim vốn chai lỳ của tôi. Trước đây tôi không có thiện cảm với ai, nhưng giờ đây tôi lại thấy mọi người đều dễ thương và tôi sẵn sàng tiếp xúc với những người đau khổ để đem niềm vui và tình thương đến cho họ. Cũng từ ngày đó tôi không còn cảm thấy căng thẳng thần kinh nữa và tôi quyết định không uống thuốc chữa bệnh thần kinh mỗi ngày như trước nữa. Tôi ăn ngủ bình thường và lên cân. Căn bệnh suy nhược thần kinh của tôi tự nhiên biến mất hẳn. Trong lần tái khám định kỳ, bác sĩ chữa trị cho tôi rất ngạc nhiên khi thấy tôi bình phục rất nhanh mà không cần uống thuốc mỗi ngày như trước”.
Câu chuyện nói trên cho thấy: Chính khi chúng ta thể hiện tình thương đối với tha nhân là lúc chúng ta cũng nhận được ơn chữa lành căn bệnh tinh thần của mình.
2) Phương cách tiêu diệt kẻ thù hữu hiệu nhất:
Trong cuộc nội chiến tại nước Hoa Kỳ, sự hận thù giữa hai miền Nam Bắc ngày một thêm sâu đậm. Lần kia, tổng thống ÁP-RA-HAM LANH-CÔN (Abraham Lĩnoln) đã bị nhiều người Bắc Mỹ chỉ trích khi ông chủ trương cần đối xử khoan dung đối với những đám dân nổi loạn ở miền Nam. Những người này nhắc cho Lincoln nhớ rằng cuộc chiến tranh giữa hai miền vẫn đang tiếp diễn. Theo họ, quân đội miền Nam là kẻ thù, và tất cả bọn họ đều cần phải bị tiêu diệt. Bấy giờ tổng thống LANH-CÔN đáp: “Cách tiêu diệt kẻ thù hữu hiệu nhất chính là biến kẻ thù trở thành bạn hữu của chúng ta bằng lòng khoan dung tha thứ”.
Lời nói của Lanh-côn rất phù hợp với lời Đức Giê-su dạy trong Tin Mừng hôm nay: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em… Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao. Vì Người nhân hậu với cả phường vô ơn và quân độc ác” (Mt 5,27-28.35).
3. THẢO LUẬN: Ta nên làm gì đối với những người đang thù ghét và nói xấu ta?
4. SUY NIỆM:
1) Ác giả ác báo:
Người xưa có câu: “Ác giả ác báo”, “Gieo gió gặt bão”: Ai làm ác thì sẽ gặp điều ác. Lấy oán báo oán chỉ tăng thêm óan thù mà thôi. Chỉ có ánh sáng mới xoá tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới hóa giải hận thù. Nếu chúng ta không sống theo lời dạy của Chúa Giê-su để tha thứ cho tha nhân điều họ đã xúc phạm đến ta thì phản ứng dây chuyền của sự ác là sự hận thù sẽ tăng thêm, rồi bạo lực sẽ kéo theo bạo lực và tất cả chúng ta đều rơi vào hố diệt vong.
2) Hậu quả tai hại của lòng thù hận:
Một nhà tâm lý đã nói rằng: “Nếu anh nuôi lòng thù hận và muốn giết chết kẻ thù đã làm hại anh, thì anh hãy sắm sẵn hai chiếc quan tài: Một chiếc dành cho kẻ thù sắp bị anh giết, còn chiếc kia sẽ dành cho chính anh. Vì anh cũng sẽ bị chết dần chết mòn do sợ hãi bị trả thù hay sợ sự trừng phạt của công lý”. Thực vậy, hận thù gây tác hại. Nó làm tổn thương về tinh thần cho người đang nuôi oán thù trong lòng. Nó còn huỷ diệt nhân cách của họ như Ba-con đã nói: “Khi trả thù, người ta biến mình thành ngang hàng với kẻ thù. Còn khi tha thứ thì người ta sẽ vượt cao hơn kẻ thù của mình”.
3) Phương cách hóa giải hận thù:
Các chuyên gia tâm lý ngày nay đều công nhận rằng: “Hận thù thì hủy diệt, còn yêu thương mới làm phát triển nhân cách con người”. Tình yêu có phép mầu để biến thù thành bạn. Áp-ram Lanh-côn (Abaham Lincon) nói: “Biến thù thành bạn, tức là ta đã tiêu diệt kẻ thù rồi vậy!”. Chính Chúa Giê-su trong Tin mừng hôm nay đã dạy chúng ta: “Anh em hãy yêu kẻ thù... Hãy tha thứ thì sẽ được thứ tha. Hãy cho đi thì sẽ được cho lại!”(Lc 6,35).
4) Chúng ta nên làm gì?:
- Tìm ra nguyên nhân khiến ta bị thù ghét để khắc phục:
Hầu hết sự ganh ghét của người khác đối với ta là do nỗi sợ hãi không còn được tôn trọng và yêu thương. Việc xác định nguyên nhân ta bị ganh ghét là bước đầu cần làm để hóa giải sự thù ghét của kẻ khác. Sự ganh ghét có thể do chúng ta có ngoại hình đep hơn; được nhiều người quý mến hơn; được cấp trên tín nhiệm và trao trách nhiệm cao hơn; được hưởng phúc lộc dồi dào hơn… Sau đó, chúng ta sẽ khắc phục nguyên nhân và tìm cách hóa giải thù ghét như sau:
- Kín đáo khen ngợi những ưu điểm của đối phương:
Lời khen thành thật ưu điểm của đối phương cách tế nhị là một phương thế hữu hiệu để hóa giải hận thù và biến thù thành bạn như Tuân Tử đã nói: “Ai khen ta mà khen phải là bạn ta. Ai chê ta mà chê phải là thầy ta. Ai nịnh hót ta đó chính là kẻ thù của ta vậy.”
- Đi bước trước để làm hòa với kẻ thù ghét mình:
Sự xuất hiện của những người ganh ghét trong cuộc sống là điều không thể tránh khỏi. Ngay cả Đức Giê-su vốn là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Lc 4,34), nhưng vẫn bị các đầu mục dân Do thái thù ghét và chỉ trích: “Ông ta là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi" (Lc 7,34). Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta cách hóa giải những thù ghét của kẻ khác bằng cách đi bước trước đến với họ và “biến thù thành bạn”.
- Biến thù thành bạn bằng việc thực thi Lời Chúa cụ thể như sau:
+ Cầu xin Chúa ban ơn lành cho những kẻ nói xấu và vu khống cho ta;
+ Lấy ơn báo óan: Làm điều tốt cho những kẻ thù ghét làm hại ta;
+ Làm ơn và cho vay mà không mong báo đền;
+ Tránh xét đoán ý trái và không kết án tha nhân cách hồ đồ bất công;
+ Sẵn sàng tha thứ không chỉ bảy lần nhưng tha bảy mươi lần bảy;
+ Quảng đại cho đi bằng lời khen thành thật để động viên tinh thần và chia sẻ vật chất...
Đây là những việc sẽ khó thực hiện nếu không quyết tâm cao và không được ơn Chúa ban ơn trợ giúp. Khi bị người khác thù ghét nói xấu và làm hại, chúng ta cần bình tĩnh tìm cách hóa giải hận thù để ngày một nên môn đệ đích thực của Chúa Giê-su.
5. NGUYỆN CẦU
- Lạy Chúa Giêsu. Xin cho con quả tim của Chúa. Xin cho con đừng khép lại trước tha nhân, nhưng biết quảng đại mở ra, biết vươn tâm hồn lên cao, vượt qua mọi ích kỷ tầm thường của loài người, để mặc lấy tâm tình bao dung nhân hậu của Thiên Chúa. Xin cho con đủ sức vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen cùng mọi trả thù ti tiện. Xin cho con luôn giữ được tâm hồn bình thản, không để cho bất cứ yếu tố bên ngoài nào làm xáo trộn, khuấy động tâm can con.
- Lạy Chúa. Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu được những người tự nhiên con có ác cảm. Xin cho vòng tay con rộng mở để ôm cả những kẻ đang ganh ghét, vu khống và làm hại con. Nhờ đó con hy vọng sẽ được Chúa tha thứ tội lỗi và xứng đáng làm con thảo của Chúa Cha trên trời.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
9. Yêu thương
Huyền thoại Hy lạp kể lại rằng:
Narcisse là một vị thần rất đẹp trai, khiến cho nàng tiên Echo đem lòng yêu thương say đắm. Thế nhưng, Narcisse không những đã cự tuyệt mối tình say đắm ấy, mà còn biến nàng thành tượng đá.
Ngày kia, Narcisse đi lang thang, tình cờ chàng đến bên một giòng suối. Chàng nhìn ngắm bóng hình mình in trên mặt nước và cảm thấy ngất ngây vui sướng. Chàng cố sức nắm bắt bóng hình ấy, nhưng không tài nào nắm bắt được. Chính vì thế, chàng sinh ra buồn sầu, ủ rũ và qua đời. Sau khi chết, chàng hóa nên cây thủy tiên, mọc bên giòng suối.
Bởi đó trong tiếng Pháp, danh từ “narcisse” có nghĩa là kẻ hợm hĩnh về sắc đẹp của mình, còn danh từ “narcissisme” có nghĩa là lòng tự kiêu quá đáng.
Mỗi người chúng ta, không ít thì nhiều, cũng giống như chàng Narcisse đáng buồn ấy, bởi vì ai cũng yêu mình thái quá, ai cũng thích khoe rằng mình tài, mình giỏi, mình đẹp, mình hay… Ai cũng muốn mình là nhân vật số một, mình là “number one”, mình là trung tâm của thế gian, mình là cái rốn của vũ trụ. Ai cũng thường nghĩ rằng kẻ khác sinh ra là để phục vụ cho mình và rồi cuối cùng mình sống trong cô độc và chết trong quạnh hưu, còn bản thân cũng chẳng hóa kiếp thành cánh hoa thủy tiên mọc bên giòng suối hư vô.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã đến để giải thoát con người khỏi tình cảnh đáng thương ấy. Ngài chỉ cho chúng ta phương thức khai thông những bế tắc, bằng cách tận diệt cái tôi ích kỷ và kiêu căng để đến với tha nhân và yêu thương anh em đồng loại.
Cụ Phan bội Châu đã viết trong “Lưu cầu huyết lệ thư” như sau:
- Con chim sắp chết hót tiếng hót bi thương, con người sắp chết nói lời tâm huyết.
Lời tâm huyết của Chúa Giêsu trối lại cho các môn đệ trong phòng tiệc ly, trước khi Ngài ra đi chịu chết, đó là:
- Thày truyền cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau.
Bản tính của Chúa chính là Tinh yêu và cốt lõi của đạo Chúa cũng chính là Tình yêu. Sở dĩ đạo Chúa được gọi là đạo Công giáo vì đã dạy một điều phổ quát, chung cho mọi người, đó là hãy yêu thương nhau.
Tất cả những ai yêu thương anh em, đều là người có đạo, đều là Kitô hữu, đều là môn đệ của Chúa. Thực vậy, Ngài đã truyền day:
- Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con hãy yêu thương nhau.
Trong ngày sau hết, chúng ta sẽ bị tra vấn về những hành động bác ái, và công hay tội của chúng ta được ấn định dựa trên một tiêu chuẩn duy nhất đó là tình yêu, như chúng ta đã thấy trong hoạt cảnh của ngày phán xét:
Ai cho người đói được ăn, người khát được uống, người trần trụi được mặc, ai thăm viếng người đau yếu, người bị giam cầm, ai nhường cơm sẻ áo va tiếp đón khách lạ… thì sẽ được ân thưởng hạnh phúc thiên đàng.
Vậy chúng ta phải yêu thương anh em như thế nào?
Chính Chúa đã dạy:
- Các con hãy yêu thương nhau như Thày đã yêu thương các con.
Đây là một tiêu chuẩn, một đòi hỏi rất cao, cũng cao như tiêu chuẩn và đòi hỏi:
- Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành.
Yêu thương anh em như Chúa đã yêu thương chúng ta. Về số lượng, Chúa đã yêu thương hết mọi người, kể cả những kẻ thù địch, bằng chứng là trên thập giá, Ngài đã cầu nguyện cho những kẻ làm khốn mình:
- Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết việc chúng làm.
Về phẩm chất, Chúa đã yêu thương chúng ta tới mức đã đổ hết máu mình ra để tầy xóa tội lỗi chúng ta như lời Ngài đá phán:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Trong cuộc sống, có những vị thánh, nhờ ơn Chúa, đã thực hiện được một ty cao cả như thế, chẳng hạn các thánh Tử đạo Việt Nam đã đổ máu đào để làm chứng cho Chúa, thánh Maximilianô Kolbê đã tình nguyện chết thay cho một bạn tù, Cha Đamiêng đã tình nguyện sống giữa những người phong cùi ở hải đảo Molokai để giúp đỡ họ, Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã tận tình chăm sóc những người bất hạnh và nghèo khổ.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực thi giới luật yêu thương Chúa truyền dạy hay chưa? Nếu có, thì tình thương của chúng ta đã vượt khỏi những người thân quen, để tìm đến với những kẻ bất hạnh và khổ đau, nhất là đến với kẻ kẻ thù oán, ghét bỏ chúng ta hay chưa?
Chúng ta có giám hy sinh thời giờ, tiền bạc và công sức để giúp đỡ những kẻ chẳng may gặp phải tai ương hoạn nan, như người Samaria nhân từ đã làm cho kẻ gị cướp đánh dọc đường hay không?
Chúng ta có nhớ rằng số phận đời đời của chúng ta lệ thuộc vào những hành động bác ái yêu thương chúng ta đã làm hay đã không làm để giúp đỡ nhung người chung quanh hay không?
Dĩ nhiên, không phải mọi Kitô hữu đều có lòng bác ái yêu thương, nhưng chắc chắn rằng những người có lòng bác ái yêu thương đều là môn đệ của Chúa và như vậy họ đều là Kitô hữu, như lời Ngài đã xác quyết:
- Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con yêu thương nhau.
Nếu bây giờ tạm gác bỏ những việc bên ngoài như xưng tội rước lễ, tới nhà thờ đọc kinh cầu nguyện…để chỉ căn cứ vào những việc bác ái yêu thương, thì liệu người khác có còn nhận ra chúng ta là Kitô hữu, là môn đệ của Đức Kitô nữa hay không?
Cầu nguyện
Lạy Chúa, trong cuộc sống có lẽ chúng con đã nghe và đã nói quá nhiều về tình yêu, nhưng còn việc làm thì lại chẳng được bao nhiêu. Chúng con chỉ mới yêu bằng tai, thương bằng miệng, chứ chưa thực sự yêu thương bằng việc làm, bằng hành động. Xin Chúa giúp chúng con biết giúp đỡ những người chung quanh, nhất là những kẻ nghèo túng và khổ đau, để nhờ đó chúng ta trở nên người môn đệ đích thực của Chúa.
10. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Tòa án nhân dân thành phố Hán Trung, tỉnh Thiêm Tây, Trung Quốc vừa tuyên án tử hình đối với Zhang Koukou, 36 tuổi.
Zhang phạm tội giết hại 3 người hàng xóm, bao gồm ông Wang Zizin (70 tuổi) cùng hai con trai Wang Zhengjun (40 tuổi) và Wang Xiaojun (46 tuổi) ngụ tại huyện Nam Trịnh, thành phố Hán Trung. Án mạng xảy ra ngày 15/12/2017 đúng vào dịp Tết Nguyên Đán.
Mới đây, tại phiên xử ngày 8/1/2019, tòa cho biết bị cáo Zhang đã theo dõi gia đình nạn nhân khi họ viếng mộ vào buổi tối; kế đó đâm chết 2 người con trai của gia đình Wang đang trên đường về nhà.
Tiếp theo, bị cáo đột nhập vào nhà họ Wang, đâm liên tiếp vào nạn nhân Zixin cho đến khi ông cụ thiệt mạng.
Bị cáo trở về nhà lấy 1 con dao khác và 2 bình xăng, sau đó đập nát cửa kính ô tô của Wang Xiaojun, đặt thi thể các nạn nhân vào trong rồi châm lửa đốt để phi tang chứng cứ. Nhưng cuối cùng, sự thật cũng được phơi bày và kẻ thủ ác đã phải trả giá cho tội lỗi của mình.
Theo phiên tòa, động cơ giết người đã bắt nguồn từ 22 năm trước. Năm 1996, mẹ bị cáo cãi nhau với cậu thanh niên nhà hàng xóm là Wang Zhengjun, đập vào đầu anh ta bằng một mảnh kim loại.
Wang Zhengjun kế đó lấy khúc gỗ đập vào đầu người phụ nữ dẫn đến tử vong. Cậu bé Zhang Koukou lúc đó 13 tuổi cũng có mặt tại hiện trường, tận mắt chứng kiến cái chết của mẹ và nung nấu ý định trả thù suốt hơn 20 năm nay.
Trở lại năm 1996, xét thấy Wang Zhengjun chỉ mới 18 tuổi, hơn nữa người phụ nữ còn tấn công trước, tòa đã xử phạt Zhengjun 7 năm tù giam và yêu cầu bồi thường cho gia đình nạn nhân 9.639,3 nhân dân tệ (tương đương 32,8 triệu đồng theo tỷ giá hiện nay). (Theo SCMP)
Nhìn lại lịch sử loài người có lẽ không lúc nào mà không có những câu chuyện thương tâm về việc báo thù: Báo thù giữa các quốc gia, báo thù giữa các bộ lạc, báo thù giữa các dòng họ, báo thù giữa các gia đình, báo thù giữa các tập thể và cá nhân, thậm chí báo thù ngay trong các thành viên của một gia đình. Người ta báo thù vì quyền, vì tiền, vì tình. Người ta cũng có thể báo thù chỉ vì người khác đẹp hơn, giàu có hơn, tài giỏi hơn mình. Trường hợp xảy ra trong bài đọc thứ I là một ví dụ: Vua Saolê ghen tức Đavít, tìm cách trả thù Đavít chỉ vì Đavít tài giỏi hơn, đánh được nhiều kẻ địch hơn, được dân chúng mến mộ hơn mình. Có lẽ nhiều lúc chúng ta cũng nuôi hận thù, tìm cách trả thù người khác vì những lý do trên hay vì những lý do không đâu. Nhưng dầu là lý do nào đi chăng nữa thì đối với người kitô hữu không bao giờ được phép báo thù. Tin mừng hôm nay Đức Giêsu dạy chúng ta rằng: “Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình.” (Lc 6,27-38). Như vậy, Đức Giêsu dạy chúng ta không những không được báo thù mà còn phải yêu kẻ thù, làm ơn, chúc phúc và cầu nguyện cho họ nữa.
Chính Đức Giêsu không chỉ dạy chúng ta mà Ngài còn làm gương cho chúng ta. Trong ba năm cuộc đời công khai, Ngài đã từng tha thứ tội lỗi cho nhiều người: Cho Giakêu, cho Lêvi, cho người phụ nữ phạm tội ngoại tình… Dù biết Giuđa là kẻ phản bội, nhưng Ngài vẫn nhiều lần dùng cách này hay các khác để can ngăn, nhằm giúp Giuđa từ bỏ ý định phản bội của mình. Khi Phêrô chém đứt tai một tên lính đến bắt Ngài, Ngài không coi nó là kẻ thù, trái lại đã lập tức chữa lành tai cho hắn. Đặc biệt, trên thập giá trước khi trút hơi thở cuối cùng, Ngài đã tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23,34).
Các thánh cũng đã làm gương cho chúng ta: Đứng trước những cơn mưa đá người ta ném vào Ngài, Thánh Stêphanô bình tĩnh cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con. Rồi ông qùi xuống, kêu lớn tiếng: Lạy Chúa xin đừng chấp họ tội này.”(x. Cvtđ 7, 59-60). Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến nhà tù thăm, nói chuyện và tha thứ cho Ali Agca là kẻ bắn Ngài tại quảng trường Thánh Phêrô ngày 13/05/1981. Trước khi trút hơn thở cuối cùng, Thánh Maria Goretti đã nói với Cha giải tội rằng: “Con muốn anh Alexandro cũng được ở trên Thiên đàng với con.” Chính Alexandro là kẻ giết Ngài.
Bài đọc thứ nhất hôm nay kể lại cho chúng ta biết về sự kiện vua Saolê cùng với ba ngàn quân sĩ tinh nhuệ của Israel kéo xuống hoang địa Ziphô để vây bắt Ðavít. Nhưng trong một tình huống khó lường. Chẳng những vua Saolê không làm gì được Đavít, trái lại Đavít có thể lấy mạng vua Saolê một cách dễ dàng khi vua còn ngủ. Nhưng Đavít đã không làm thế. Đavít đã không giết kẻ đang làm hại chính mình.
Tóm lại, yêu kẻ thù là lời dạy của Đức Giêsu, là nét đặc trưng trong cách sống của người kitô hữu. Tuy vậy, lời dạy này vẫn luôn khó thực hiện đối với mọi người. Vì thế, trong cuộc sống ít nhiều chúng ta đã nuôi hận thù trong tư tưởng, lời nói, thậm chí đã từng trả thù người khác. Xin Chúa tha thứ cho chúng ta, đồng thời xin cho mọi người chúng ta biết noi gương Chúa, noi gương các thánh, noi gương hành động của Đavít trong bài đọc thứ nhất, luôn biết yêu kẻ thù, làm ơn, chúc phúc và cầu nguyện cho họ nữa. Làm được như vậy mới xứng đáng là người kitô hữu, như một giáo phụ đã khẳng định rằng: “Ai không yêu thương kẻ thù của mình, thì người đó không phải là Kitô hữu.”
11. Lấy ân trả oán--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
Tin mừng Lc 6: 27-38 "Lấy ân trả oán", đó phải là phương châm hành động của người kitô hữu chúng ta. Không có cách trả thù nào cao quý hơn là yêu thương, tha thứ, giúp đỡ chính kẻ thù của mình. Nói như Thánh Phaolô: "Chúng ta đừng mắc nợ nhau điều gì, ngoài tình yêu mến".
Những người thổ dân Nam Phi vẫn thường truyền tụng với nhau câu chuyện sau đây:
Có hai người thổ dân thù ghét nhau. Một hôm, một người bắt gặp cô con gái nhỏ của kẻ thù ở trong rừng một mình, hắn liền bắt lấy và chặt đứt hai ngón tay của cô bé. Cô bé vừa chạy về vừa khóc nức nở đau đớn. Còn tên hung thủ vừa đi vừa hò reo:
- "Ta đã trả được thù rồi!"
…Mười mấy năm sau, cô bé đáng thương ấy đã lớn lên và có gia đình. Một hôm, có một người ăn xin đến gõ cửa nhà cô. Ngay tức khắc, cô nhận ra người hành khất chính là kẻ đã hại cô mười mấy năm về trước. Nhưng cô không hề tỏ lòng oán hờn, không một lời mỉa mai, cô vội vàng xuống bếp lấy thức ăn lên hầu hạ kẻ đã hành hạ mình. Khi người hành khất đã ăn uống no say, người thiếu phụ liền đưa bàn tay bị cụt mất hai ngón ra và nói: "Tôi cũng đã trả được thù rồi!"
Anh chị em thân mến,
"Lấy ân trả oán", đó phải là phương châm hành động của người kitô hữu chúng ta. Không có cách trả thù nào cao quý hơn là yêu thương, tha thứ, giúp đỡ chính kẻ thù của mình. Nói như Thánh Phaolô: "Chúng ta đừng mắc nợ nhau điều gì, ngoài tình yêu mến".
Chỉ có tình thương, chỉ có sự tha thứ mới tiêu diệt được hận thù. Lấy hận thù tiêu diệt hận thù, lấy bạo động trả cho bạo động, con người chỉ đổ thêm dầu vào lửa, thêm lửa vào hận thù và bạo động mà thôi.
Hôm nay Chúa kêu gọi chúng ta: "Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ" - "Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho kẻ vu khống mình"…
Lý tưởng cuộc sống của người con Chúa là nên giống Chúa. Nhưng làm thế nào để nên giống Chúa? Chúa là tình yêu, hoạt động của Chúa là do tình yêu thúc đẩy, là để biểu lộ và phân phát tình yêu cho các loài thụ tạo của Ngài, nhất là cho loài người.
Vì thế, Chúa dạy chúng ta muốn nên giống Chúa phải biết yêu thương. Giới răn của Chúa được tóm tắt trong hai điều là: chúng ta phải kính mến Chúa và yêu thương anh em. Kính mến Chúa thì phải yêu thương anh em, con cái của Ngài, và yêu thương anh em được xem như một dấu chỉ, một sự biểu lộ lòng kính mến Chúa.
Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu phổ quát, nghĩa là không trừ một ai, kể cả những người tội lỗi. Đối với Ngài, có thể nói, những người tội lỗi chính là những người được Chúa yêu thương hơn, đang khi còn hy vọng cứu được: Dụ ngôn người Mục Tử tốt lành đi tìm "chiên lạc" là một bằng chứng rõ rệt. Ngài yêu thương bằng một tình yêu thương vô vị lợi, một tình yêu siêu việt.
Ngài muốn dạy chúng ta yêu thương như Ngài đã yêu, chứ không phải yêu thương một cách tầm thường như lối yêu thương của người "đời". Không phải chỉ yêu thương những người yêu thương mình, không phải chỉ thi ân cho những người làm ơn cho mình, cũng không phải chỉ cho vay mượn nơi những người mà mình còn trông lấy lại được. Nhưng yêu thương cả thù địch. Hãy cho vay, hãy làm ơn dù không trông báo đền.
Yêu thương như Chúa yêu thương thì sẽ được phần thưởng lớn lao, và phần thưởng lớn nhất sẽ là được trở nên "Con Đấng Tối Cao", vì Ngài nhân lành đối với những kẻ vô ơn độc ác.
Chúng ta đã yêu thương như thế nào? Có yêu thương như Chúa đã yêu thương không?
Năm 1995 nầy là năm quốc tế cổ võ lòng khoan dung. Liên Hiệp quốc muốn kêu gọi các dân tộc hãy lấy lòng khoan dung mà đối xử với nhau để dàn xếp các cuộc xung đột, tranh chấp, hận thù đang diễn ra trong các nước. Bởi vì khoan dung và tha thứ chỉ cách nhau có một bước gần nhau mà thôi, đối với những ai thành tâm thiện chí muốn xây dựng hòa bình.
Lòng khoan dung thì yêu thương và tha thứ. Con người sẽ tiêu diệt tất cả địch thù và biến họ thành bạn hữu, không phải với sức mạnh của hận thù và bạo lực, nhưng với sức mạnh của tình thương tha thứ. Yêu thương và tha thứ như thế cũng là cánh cửa mở cho sự sống, sự sống của Thiên Chúa, vốn tràn đầy và phong phú, nhưng con người đã đắp những bờ đê thù hận và ích kỷ để ngăn lối yêu thương. Sự sống cũng vốn có sẵn trong tâm hồn mỗi người, nhưng tất cả cứ then cài cửa đóng, để rồi chỉ đến với nhau bằng những tính toán hơn thua, chất chồng thù oán mà không lối thoát. Chỉ có tình thương mới có sức phá vỡ những rào cản cho mạch sống trào dâng và chan chứa.
Giờ đây, cử hành Bí tích Thánh Thể, kính nhớ sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô, chúng ta thấy rõ hơn lòng thương xót của Chúa đã dành cho chúng ta. Chúng ta phải cảm tạ Chúa và phải quyết tâm làm theo điều Chúa đã dạy, chẳng những bằng Lời Ngài mà còn bằng gương mẫu của Ngài nữa. Biết yêu thương, biết tha thứ như Chúa, đó là bài học để cho chúng ta trở nên con cái Chúa.
12. Luật yêu thương
1. Lời Chúa hôm nay dễ hiểu nhưng khó thực hành.
Luật yêu thương không phải thời Chúa Giêsu mới có. Luật này đã được nói tới từ lâu nhưng nó mới chỉ có tính cách tiêu cực.
Hillel một trong những Rabbit nổi tiếng của Do Thái, đã trả lời cho người đến xin ông ta dạy cho mình biết tất cả luật pháp chỉ trong thời gian anh ta có thể đứng cò cò trên một chân, ông bảo:
“Điều gì đáng ghét cho ngươi thì ngươi đừng làm cho kẻ khác, đó là tất cả luật pháp, các sự khác chỉ là giải thích”.
Philô, một vĩ nhân Do Thái sống tại Alexandria đã nói: “Điều gì anh ghét thì đừng làm cho bất cứ ai”.
Socrates, một nhà hùng biện Hi lạp nói: “Những gì khiến anh bực bội do kẻ khác gây ra cho mình, thì anh cũng đừng làm những sự ấy cho kẻ khác”.
Các triết gia của phái khắc kỷ có một nguyên tắc căn bản hơn: “Điều gì anh không muốn kẻ khác làm cho anh thì anh đừng làm cho ai khác”.
Khi người ta hỏi đức Khổng Tử rằng: “Có lời nào có thể làm luật thực tiễn cho cả đời sống con người không?”. Cụ trả lời: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”.
Tóm lại, tất cả các hình thức trên đều là tiêu cực. Dù không phải dễ để giữ mìnhđừng làm các điều đó, và cũng vô cùng khó khi chúng ta phải ép mình làm cho kẻ khác điều mà chúng ta muốn họ làm cho mình.
Nhưng tới thời Chúa Giêsu thì luật yêu thương đã có một khuôn mặt mới. Nó có tính cách tích cực hơn: “Hãy làm cho kẻ khác những điều như chúng ta muốn kẻ khác làm cho chúng ta.” (Lc 6,31)
Tại Newban (Châu Úc), mẹ Têrêsa có mở một nhà nội trú dành cho các thanh thiếu niên nghèo. Một lần kia, mẹ gặp thấy một thanh niên đang bị đánh đập tàn nhẫn, toàn thể mình mẩy anh ta bầm tím. Mẹ thấy cần phải gọi cảnh sát đến để điều tra và khi cảnh sát đến hỏi anh: “Ai đã đánh anh?” thì người thanh niên này nhất định không chịu trả lời các câu hỏi. Cuối cùng, cảnh sát phải chịu thua anh và bỏ ra về. Lúc đó, mẹ Têrêsa mới ôn tồn hỏi anh:
- Sao con không khai người đánh đập con với cảnh sát?
- Thưa mẹ, - cậu ta trả lời - nếu con khai ra thì người đó sẽ bị trừng phạt và rồi những đau khổ của người đó cũng sẽ không thể làm giảm đi nỗi đau khổ của chính con!
Có lẽ phải can đảm lắm mới có được cách ứng xử như vậy. Nào có ai muốn khổ cho mình đâu….Vậy thì đừng làm cho người khác. Ai mà lại không muốn cho mình được yên hàn bình an, hãy cố mà làm cho người khác như vậy. Đó là điều Chúa muốn.
2. “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”. (Lc 6,31)
Lời Chúa chẳng có gì khó hiểu.
Ông chủ cửa hàng bán thú nuôi mang tấm biển “Tại đây bán chó con” đóng lên cửa ra vào.
Một cậu bé xuất hiện bên dưới tấm biển hỏi:
- Ông định bán những chú chó con này bao nhiêu ạ?
- Cũng tùy, từ 30 - 50 đô-la, cháu ạ.
Cậu bé thò tay vào túi móc ra một ít tiền lẻ:
- Cháu chỉ có 2 đô-la và 37 xu. Ông cho phép cháu ngắm chúng nhé.
Người chủ mỉm cười, huýt sáo ra hiệu. Năm chú chó lơn tơn chạy ra, có một con chậm chạp theo sau. Ngay lập tức cậu bé chỉ vào chú chó khập khiễng:
- Con chó nhỏ ấy làm sao thế ạ?
- Bác sĩ bảo rằng xương chậu nó bị khiếm khuyết nên phải khập khiễng, què quặt suốt đời.
- Đây chính là con chó cháu muốn mua – cậu bé tỏ vẻ rất thích thú.
- Không, ta nghĩ cháu không nên mua nó. Còn nếu cháu thật sự thích nó thì ta tặng cho cháu đó.
Cậu bé hơi bối rối, nhìn thẳng vào mắt ông chủ cửa hàng, rồi chìa tay đáp:
- Cháu không muốn được ông tặng. Nó cũng đáng giá như những con chó khác và cháu sẽ trả đủ tiền cho ông. Đây là 2 đô-la 37 xu và cháu sẽ đưa ông thêm 50 xu mỗi tháng đến khi nào đủ tiền.
- Cháu không nên mua con chó này. Nó không thể chạy nhảy vui đùa với cháu như những con chó khác – người chủ tỏ vẻ phản đối.
Cậu bé lặng lẽ đưa tay kéo ống quần lên, để lộ chiếc chân trái bị teo cơ đang được nâng giữ bằng một khung kim loại. Nhìn lên người chủ, nó dịu dàng nói:
- Cháu cũng đâu thể chạy nhảy vui đùa, và con chó này cần một ai đó thông cảm với nó ông ạ!
Nhìn lại cuộc đời của Chúa ta thấy Chúa đã không chỉ nói suông nhưng những điều Ngài dạy thì Ngài đã làm trước.
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con
đừng hời hợt khi nghe Lời Chúa,
đừng để nỗi đam mê làm Lời Chúa trở nên xa lạ.
Ước gì ngôi nhà đời chúng con
được xây trên nền tảng vững chắc,
là Lời Chúa, Lời linh thiêng, Lời uy quyền, Lời hằng sống,
Lời chi phối toàn bộ cuộc sống chúng con. Amen.
13. Tiến mãi không ngừng--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
Ghi lại kinh nghiệm sống của mình trong tập nhật ký có tựa đề là Những người bạn muôn thuở, bà Ressa Marita, vợ của triết gia công giáo người Pháp Jack Maritain đã viết như sau:
“Trong cuộc sống thiêng liêng, chúng ta không nên so sánh mình với ai cả, mà chỉ so sánh mình với mẫu gương trọn lành của Chúa mà thôi. So sánh mình với kẻ khác, ta sẽ thấy mình dễ bị cám dỗ, thấy những điểm tiêu cực nơi anh chị em và trở nên tự kiêu, luôn cho mình là tốt hơn. Nhưng nếu nhìn vào mẫu gương trọn lành của Chúa, ta được mời gọi canh tân liên lỉ, tiến mãi không ngừng, vì Chúa là Ðấng trọn tốt trọn lành vô cùng”.
Những lời tâm sự của bà Ressa Marita hướng chúng ta đến những lời dạy của Chúa Giêsu cho các môn đệ mà tác giả Phúc Âm thánh Luca đã ghi lại nơi chương 6.
Mức độ đo lường của tình yêu thương chúng ta là không có mức độ nào cả, hay đúng hơn là chính mẫu gương trọn tốt trọn lành vô cùng của Thiên Chúa Cha. Bao lâu còn sống trên trần gian này, chúng ta còn cần tiến thêm mãi trên con đường yêu thương. Không ai dám tự phụ cho rằng mình đã thành toàn, đã đạt đến mức độ trọn lành như Thiên Chúa rồi. Những hành động yêu thương được Chúa Giêsu nhắc đến mà tác giả Phúc Âm theo thánh Luca ghi lại là những hành động yêu thương thiết thực, yêu thương kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét mình, chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.
“Hãy ra đi mà không tính toán hơn thiệt, đừng xét đoán, hãy tha thứ”. Ðó là những chân trời mới, bao la, rộng mở tình yêu thương nơi tâm hồn người môn đệ Chúa. Chúng ta không thể nào chỉ nói ngoài môi miệng mà còn cần phải thực hiện tình yêu thương như Chúa đã nêu gương bằng những hành động cụ thể. Nếu không, ta sẽ bị xét xử như là những kẻ giả hình, nói mà không làm, không sống thật Lời Chúa dạy.
Một cô giáo nọ ra bài cho các học sinh như sau: “Chiều nay về nhà, mỗi em phải làm một việc tốt đối với người thân nào đó trong gia đình”.
Ngày hôm sau, một em học sinh đến trường than phiền với cô giáo như sau: “Thưa cô, con không thể tiếp tục làm công tác này được nữa”.
Trước sự ngạc nhiên của cô giáo, học sinh này giải thích như sau: Bữa cơm tối qua con đã khen mẹ nấu ngon. Thay vì vui mừng, mẹ con nổi giận nói con chọc tức và gián tiếp chê bữa ăn không ngon. Con giải thích với mẹ nhưng mẹ không tin, và nổi giận ra lệnh con phải rửa chén để chứng minh cụ thể bữa ăn ngon.
Tiếc thay, em bé thành tâm khen ngợi mẹ, nhưng người mẹ thì ngược lại không tin, cho rằng em giả vờ khen và có hậu ý nào khác. Thay vì yêu thương thật tình và cảm nhận tình thương của anh chị em đối với mình, thì nhiều lúc ta cũng hành động như người mẹ trong câu chuyện vui trên. Ta nghi ngờ tình thương của anh chị em vì có bao giờ ta yêu thương thật sự anh chị em đâu, có chăng chỉ là những lời nói xã giao bên ngoài cho qua lúc. Thật là, suy bụng ta ra bụng người.
Đọc lại đoạn Tin mừng trên, ta cần xét xem mình đã sống những lời dạy của Chúa Giêsu đến mức độ nào rồi? Thánh Luca đã nhấn mạnh đến tình yêu thương nhân từ, trong khi đó tác giả Mátthêu đã ghi lại nơi câu song song “các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”. Sự trọn lành của Thiên Chúa là sự trọn lành của tình yêu thương và lòng nhân từ, không phải tình yêu nhân từ có giới hạn của con người, nhưng là tình yêu thương vô giới hạn của con người, nhưng là tình yêu thương vô giới hạn của Thiên Chúa “Chúng con hãy nhân từ như Cha các con Đấng ngự trên trời là Đấng nhân từ”. Đây là điều mà chúng ta phải cầu xin hằng ngày để có thể sống như Chúa, yêu thương như Chúa và tha thứ như Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban cho con quả tim của Chúa để con yêu thương như Chúa, nhờ sức mạnh của Chúa nâng đỡ con. Amen.
14. Sự tha thứ cho tất cả--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller
Hầu hết mọi người đều biết câu chuyện chiến đấu của Đavit, một thiếu niên đã chiến thắng Gôliat, người khổng lồ. Bằng việc đó Đavit đã cứu thoát dân Israel khỏi một chiến tranh khủng khiếp với dân Philistines. Chiến thắng trên đã làm cho toàn dân yêu quý Đavit nhưng đã làm cho Saolô oán ghét. Saolô tự nhủ rằng Đavit là kẻ thù của mình và hắn đang cố gắng tranh đoạt ngai vàng. Vua đã cố gắng nhưng không thành công trong việc giết Đavit, trong bài đọc đầu tiên của ngày hôm nay, Đavit có cơ hội giết vua nhưng vì lòng kính trong đấng đã được Thiên Chúa xức dầu, ông đã từ chối làm việc đó. Ông đã thật sự tha thứ cho vua, người đã luôn luôn tìm cách giết ông.
Ngày hôm nay chúng ta có thể tìm thấy đâu một gương mẫu giống như Đavit? Chắc chắn không phải giữa những chính trị gia đang mạt sát nhau bằng lời nói trên Tivi trong suốt thời gian bầu cử. Chúng ta có một mẫu gương tuyệt hảo trong con người của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Sau khi ngài đã được chữa lành khỏi một cuộc tấn công mưu sát, ngài bị bắn nơi quảng trường thánh Phêrô, một trong những việc đầu tiên ngài làm đó là thăm viếng người đã ám sát ngài trong tù và ban cho hắn sự tha thứ và giao hòa.
Một người đàn ông gian dối tố cáo Đức Hồng Y Bernardin, tổng giám mục của Chicago, đã xâm phạm tình dục hắn ta khi còn trẻ. Người đàn ông chẳng bao lâu đã rút lại câu chuyện lố bịch của mình. Thật dễ hiểu nếu Đức Hồng Y đã đưa ra những lời phản bác mạnh mẽ chống lại những lời gian dối kia. Nhưng đúng hơn là Đức Hồng Y đã tìm đến để ban sự tha thứ cho người đàn ông đó.
Đây là hai mẫu gương kỳ diệu của sự tha thứ. Nhưng chúng ta nhìn qua bên kia những mẫu gương của cn tới con người của Đức Giêsu. Chúa Giêsu đã rao giảng sự nhân từ, sự tha thứ và giao hòa như chúng ta đã nghe trong bài Phúc Âm ngày hôm nay. Giáo huấn của Ngài thì rất nhiều và đối nghịch với những gì chúng ta đã nghe và thấy trong xã hội của chúng ta. Chúa Giêsu cũng thực hành những gì Ngài đã rao giảng. Chúa Giêsu đã nhìn xuống những người đóng đinh Ngài và cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”.
Chúng ta phải trở nên những người đi theo giáo huấn và gương mẫu của Chúa Giêsu. Chúng ta phải có lòng thương xót, tha thứ và có lòng kính trọng. Chúng ta phải đi con đường đó cách công khai riêng biệt. Thí dụ, một số người Công Giáo không đồng ý với Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục Mỹ khi họ chống đối lại án tử hình. Đức Giáo Hoàng và các Giám Mục thấy rõ việc hành hình một con người sẽ làm giảm giá trị chúng ta xuống một tình trạng dã man thay vì giáo huấn của Chúa Giêsu đã nâng chúng ta lên. Đó là thời gian mà những người Công Giáo đã bỏ đi những giá trị của một xã hội có tính cách trả thù báo oán để trân trọng nguyên tắc của Đức Kitô. Chúng ta hãy để cho Thiên Chúa ra một hình phạt thích hợp cho những tội nhân tử hình.
Chúng ta được kêu gọi đi theo giáo huấn và gương mẫu của Chúa Giêsu trong những gì đã ảnh hưởng đến cá nhân chúng ta, các bạn không thể sống bao lâu có người nào đó làm tổn thương bạn cách sâu xa hoặc nói những điều xấu xa đằng sau lưng bạn hoặc thật sự làm một điều gì đó hại bạn một cách nghiêm trọng. Những điều tổn thương này chúng ta không được nuôi dưỡng, giữ lại. Chúng ta phải xóa bỏ chúng bằng cách hiến tặng sự tha thứ và giao hòa cho bất cứ ai làm hại mình.
Trong mỗi Thánh Lễ chúng ta nghe tiếng Đức Kitô vang lên: “Này là chén Máu Ta sẽ đổ… Máu này sẽ đổra cho các con và nhiều người được tha tội”. Hãy lãnh nhận Đức Kitô trong phép Thánh Thể, hãy dự phần vào Máu của Ngài đã đổ ra để tha thứ, ban cho chúng ta sức mạnh mà chúng ta cần để tha thứ và giao hòa với mọi người, không được oán ghét hay rắp tâm báo thù. Chúng ta có thể và phải trở nên giống như chính Chúa Kitô.
15. Yêu thương kẻ thù
Thiên Chúa là Tình Yêu, ai sống trong Tình Yêu là sống trong Thiên Chúa; ai sống trong hận thù, người đó cũng chối bỏ Thiên Chúa. Ðã đi vào cuộc sống là đặt mình vào tương quan với Thiên Chúa: hoặc là sống cho và với Thiên Chúa; hoặc là chối bỏ Ngài.
Chúa Giêsu không đến trần gian để thiết lập một hệ thống luân lý, Ngài đến trước hết là để mặc khải tình yêu của Thiên Chúa và đặt con người vào mối tương quan với Thiên Chúa. Vì là hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu nên con người cũng phải sống như Thiên Chúa Tình Yêu. Chỉ có một tình yêu đúng nghĩa nhất, đó là tình yêu của Thiên Chúa, và cũng chỉ có một cách yêu đúng đắn nhất, đó là yêu như Thiên Chúa yêu. Qua cuộc sống của Ngài, qua các quan hệ của Ngài với tha nhân, và nhất là qua cái chết của Ngài trên thập giá, Chúa Giêsu đã tỏ cho con người thấy được tình yêu của Thiên Chúa. Yêu như Thiên Chúa yêu là trao ban và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu; yêu như Thiên Chúa yêu là yêu mọi người, ngay cả kẻ thù mình.
Chúa Giêsu sẽ không mặc khải trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa, nếu từ Thập giá, Ngài không tha thứ cho chính những kẻ đang hành hạ Ngài. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là đang lúc giang tay ra cho kẻ thù đóng đinh vào Thập giá mà vẫn có thể thốt lên: “Lạy Cha! Xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Chúa Giêsu đã không rao giảng bất cứ điều gì mà chính Ngài không sống và minh chứng trước: dạy chúng ta tha thứ cho kẻ thù, Ngài đã chứng minh đó là điều nằm trong khả năng của con người.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về ơn gọi cao cả của người Kitô hữu: Như Chúa Giêsu đã tha thứ cho những kẻ hành hạ Ngài, chúng ta cũng được mời gọi để yêu thương và tha thứ không ngừng, bởi vì chỉ có lòng tha thứ, chúng ta mới thực sự trở thành nhân chứng tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người.
16. Hãy yêu kẻ thù--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Nếu cứ lấy hận thù đáp trả thù hận thì chẳng có thể giải quyết được gì, nhiều khi chỉ gây thêm đau thương tang tóc mà thôi. Nhưng hận thù đã có mặt khắp nơi, nó có mặt giữa anh chị em chúng ta và nó ẩn tàng ngay trong lòng chúng ta. Hận thù đã ăn sâu vào máu thịt được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Trong dân gian, chúng ta thấy đầy dẫy những câu chuyện hận thù, con trả thù cho cha, cha trả thù cho con, không biết bao người đã chạy theo cái kiểu thù hận chồng chất như vậy.
Nếu cứ lấy hận thù đáp trả thù hận thì chẳng có thể giải quyết được gì, nhiều khi chỉ gây thêm đau thương tang tóc mà thôi. Nhưng hận thù đã có mặt khắp nơi, nó có mặt giữa anh chị em chúng ta và nó ẩn tàng ngay trong lòng chúng ta. Hận thù đã ăn sâu vào máu thịt được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Con người ngày nay sống trong một thế giới hoảng loạn của hận thù, không còn biết đi về đâu, không còn biết tin vào ai.
Nhiều người đang sống trong thù hận, suy nghĩ, hành động hay lời nói chất chứa những hờn oán và nguyền rủa.
Họ tìm cách phục thù sau một thời gian thù hận, cứ như thế mãi mà cũng không biết rằng mình sẽ ra sao.
Họ chìm đắm trong những sầu khổ, trong những ý thức hệ, trong đấu tranh hoặc xây dựng một chủ thuyết nào đó.
Họ bị mắc kẹt vào quan niệm hay những ý kiến riêng tư mà quên rằng những điều đó chỉ mang đến những đau khổ mà thôi.
Trong lịch sử nhân loại hận thù đã mang đến cho loài người biết bao đau thương chết chóc, không chỉ trong phạm vi cá nhân, mà nhiều khi cho cả một tập thể lớn rộng như trường hợp của Thành Cát Tư Hãn:
"Ngay sau khi đã thôn tính gần như toàn bộ Châu Á, Thành Cát Tư Hãn tiếp tục tính đến các quốc gia vùng Trung Đông.
Để thể hiện ý muốn của mình, ông đã gửi một món quà gồm nhiều châu báu và mỹ nữ tới Đế quốc Khwarezm, được hộ tống bởi khoảng 500 binh lính.
Tuy nhiên, người Khwarezm tỏ ra không mấy thiện chí với một chủng tộc “sinh sống trong túp lều”, và họ thẳng thừng từ chối bằng cách hạ sát toàn bộ những binh lính hộ tống đoàn vận chuyển.
Cho tới lúc này, Thành Cát Tư Hãn vẫn tỏ ra hết sức bình tĩnh, ông cho người Khwarezm một cơ hội thứ hai khi tiếp tục gửi một sứ giả đến thương lượng với họ. Và người Khwarezm đã mắc một sai lầm khủng khiếp khi gửi trả Thành Cát Tư Hãn cái đầu của vị sứ giả đáng thương này.
Để trả thù cho tất cả những nạn nhân xấu số trên, Thành Cát Tư Hãn đã phát động một cuộc thảm sát với quy mô có lẽ chỉ đứng sau cuộc thế chiến thứ hai.
Bốn vị tướng xuất sắc nhất, trong đó có Bạt Tốc Đài, cùng với binh đoàn gồm 200.000 chiến binh thiện chiến đã tiêu diệt hoàn toàn một đội quân có số lượng lớn gấp năm lần. Toàn bộ đế quốc Khwarezmia bị xóa sổ, với khoảng 4.000.000 người thiệt mạng. Lịch sử mô tả rằng “ngay cả chó mèo cũng không được tha mạng”.
Chưa thỏa mãn cơn giận dữ của mình, Thành Cát Tư Hãn còn cho làm chệch hướng toàn bộ những dòng sông trên lãnh thổ Khwarezmia nhằm mục đích xóa sổ hoàn toàn quốc gia này trên bản đồ thế giới."
Hậu quả của hận thù là như thế đó, nên trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta "hãy yêu kẻ thù". Quả thật, bình thường, yêu tha nhân đã khó, bây giờ lại phải "yêu kẻ thù" làm sao chúng ta thực hiện nổi, nhưng thánh Luca đã ghi lại Lời Chúa hôm nay “hãy yêu kẻ thù”.
"Yêu kẻ thù", nhiều khi chúng ta chỉ đơn giản nghĩ là chúng ta có thể nén giận đối với kẻ thù, nhưng theo quan điểm của Đức Giêsu thì như thế là chưa đủ.
Chúng ta có thể tha thứ, không trả đũa, nhưng như thế vẫn chưa đủ.
Điều Chúa muốn là: "hãy yêu kẻ thù”.
Những kẻ theo Chúa không phải đồng thuận những gì đối phương đã làm cho họ, họ không phải ngưỡng mộ hay ưa thích, nhưng phải yêu mến kẻ thù.
Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta phải "yêu kẻ thù".
Yêu bằng tình yêu agapè chớ không phải là tình yêu Eros.
Eros là thứ tình yêu vị kỷ, chỉ biết thu vào, tìm kiếm mình trong người khác.
Còn Agapè là thứ tình yêu xả kỷ, vị tha, chỉ biết tìm hạnh phúc cho người khác. Đó là tình yêu sẵn sàng hy sinh cho kẻ khác, quên mình, quên hạnh phúc của mình để nghĩ đến người khác. Tính ích kỷ làm cho chúng ta khép kín tâm hồn, nó dựng nên những rào cản giữa chúng ta và tha nhân.
Agapè là một tình yêu rộng mở, không loại trừ. Nó không phải là tình yêu thương chỉ dành cho những người thân thuộc nhưng cho tất cả mọi người, xấu cũng như tốt. Nó không phải là tình yêu theo bản năng, ưa thích những gì tốt đẹp nơi người khác, mà là sẵn lòng vươn tới tha nhân, hành động chỉ vì lợi ích của tha nhân.
Chúa Giêsu còn nhấn mạnh: "hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em (Lc 6,27-28).
Nói như thế là Người đã gợi lên trong chúng ta một ý niệm hoàn toàn mới về sự đòi hỏi của tình yêu. Tình yêu sẽ chẳng là gì nếu không hướng tới hành động. Hành động của tình yêu có khi mang lại những kết quả phi thường, thậm chí có thể biến kẻ thù thành bạn hữu như có câu chuyện kể rằng:
"Có hai người thổ dân rất thù ghét nhau. Một ngày kia, một trong hai người gặp cô con gái nhỏ của kẻ thù mình trong rừng. Hắn đã bắt cô gái và lấy dao chặt đứt hai ngón tay của cô bé. Cô bé vừa chạy về vừa khóc lóc đau đớn, còn tên hung thủ thì vừa đi vừa đắc chí hô lớn: “ta đã trả thù được rồi”.
Mười mấy năm sau, cô bé đáng thương ấy đã lớn lên rồi có gia đinh. Một hôm, có một người ăn xin đến gõ cửa nhà cô. Cô nhận ra ngay ngươi hành khất chính là kẻ đã chặt tay cô cách đây mười mấy năm.
Không một chút oán hờn, không một lời trả đũa, cô vội vàng vào nhà và mang thức ăn ra tiếp đãi kẻ đã từng hành hạ mình. Khi người hành khất đã ăn no rồi, người phụ nữ liền đưa bàn tay cụt mất hai ngón cho ông ta xem vào nói: “tôi cũng đã trả thù được rồi”.
Hận thù không thể được đáp trả bằng hận thù.
Hận thù phải được đáp trả bằng tình thương. Tình thương giống như miếng đá nam châm, nó thu hút những người thương nhau thật sự, để họ tiến lại gần nhau, kết hợp với nhau.
Nó có một mãnh lực bất diệt, mạnh mẽ, trường tồn và chính nhờ tình thương này mà người ta có thể tìm gặp lại nhau, vượt qua không gian và thời gian. Đó chính là mục đích Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay: "hãy yêu kẻ thù". Amen.
17. Yêu người tột độ
“Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù va làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.” (Lc. 6, 27-28)
Qua đoạn Tin Mừng này, Đức Kitô dẫn chúng ta tới đỉnh cao của bác ái, càng đi theo Người càng dốc hết hơi, leo lên cao mãi, cao mãi liên tục.
“Hãy yêu thương kẻ thù”, Chúa dạy thế, không lý thuyết xuông nhưng rất cụ thể. Người cho thấy những công việc rõ ràng trước mắt, không để chúng ta phải tưởng tượng. “Hãy làm ơn cho kẻ ghét anh em, chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em...”. Tất cả những kẻ đó không phải là ảo ảnh ma quái, nhưng là con người bằng xương bằng thịt mà lý tự nhiên mình phải xa lánh, ghét bỏ. Chính những kẻ đó phải được nâng đỡ, phải sẵn lòng mỉm cười với họ.
Đức Kitô nói thêm: “Ai vả má bên này, thì hãy giơ má bên kia. Ai đoạt áo ngoài đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin hãy cho, ai lấy gì của anh thì đừng đòi lại...”.
Có lẽ chúng ta sẽ thẳng thắn trả lời: “Lạy Chúa, Chúa đã đi quá mạnh, không thể tới được”. Nhưng, Đức Kitô vẫn tiếp tục không khoan nhượng: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì còn gì là ân nghĩa? ngay cả những kẻ tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình thì còn gì là ân nghĩa? ngay cả những người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân nghĩa? cả kẻ tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay để được trả lại sòng phẳng.
Không thể tới được bác ái Kitô giáo, chúng ta cần tiếp tục suy nghĩ. Làm sao sống vượt mức như thế! sống yêu thương tột độ! nhiều môn đệ của Chúa đã sống vượt mức như thế và còn sống vượt mọi mức tới tột độ nữa. Họ đã theo Đức Kitô Đấng giầu lòng thương xót và tha thứ. Đức Kitô sẽ hài lòng và âu yếm nhìn Phê-rô và tất cả mọi người đã nên giống Người.
18. “Hãy yêu kẻ thù”--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu so sánh luật mới của Người với luật cũ của Môisen. Luật mới kiện toàn luật cũ. Chúa Giêsu đưa ra 4 trường hợp cụ thể:
- Luật cũ cấm giết người. Luật mới dạy, phải coi người khác là anh em. Thương yêu nhau, nếu có gì bất hòa thì hòa giải với nhau.
- Luật cũ cấm hành vi ngoại tình. Luật mới ngăn chặn ngoại tình từ ước muốn. Cần chặn đứng những gì gây nên ước muốn xấu xa như con mắt, cái tay, cái chân…
- Luật cũ quy định thủ tục li dị. Luật mới triệt để cấm li dị.
- Luật cũ cấm thề gian. Luật mới dạy sống chân thực. Khi đã sống chân thực rồi thì không cần thề nữa.
Trang Tin mừng Chúa Nhật VII, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn hoàn thiện luật cũ.
- Luật cũ dạy yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau. Luật mới dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa.
- Tinh thần luật cũ “mắt đền mắt, răng đền răng”. Pháp lý của Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ. Chúa mở ra con đường mới: thiện thắng ác, tình yêu thắng hận thù.
- Tinh thần luật cũ là chỉ yêu thương người đồng bào. Giáo huấn mới là hãy yêu thương thù địch và làm ơn để báo oán.
“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của Chúa Giêsu. Người đã cắt nghĩa rất cụ thể. Yêu thương kẻ thù là:
- Làm ơn cho kẻ ghét mình.
- Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.
- Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.
- Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.
- Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.
- Ai lấy gì thì đừng đòi lại…
Lý do của thái độ nhân ái, lòng yêu thương bao la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời "Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…".
“Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người.
“Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.
Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quãng đại tha thứ.
“Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân.
Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.
Tại sao phải yêu kẻ thù?
Yêu người yêu mình thì dễ. Yêu kẻ làm hại mình thật khó biết bao! Lấy oán báo oán, oán chập chùng. Lấy đức báo oán, oán tiêu tan. Lấy oán báo oán chỉ thêm hận thù mà thôi. Bạo lực sẽ kéo theo bạo lực. Câu chuyện tình bất hủ Roméo và Juliette đã đi vào lịch sử nhân loại. Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ đã viết thi ca âm nhạc ca tụng tình yêu. Những vỡ kịch những cuốn phim diễn tả hấp dẫn mối tình lãng mạn của đôi tình nhân trẻ. Nếu câu chuyện tình của họ được kết thúc một cách tốt đẹp và bình thường, chắc sẽ không có ai nhắc đến. Nhưng Roméo Juliette là nạn nhân của sự thù hận giữa hai gia tộc. Không ai có thể tìm cách để giải hòa được sự thù hận ấy. Sự thù hận dẫn đến mất mát cho cả hai bên. Sự thù hận đã cướp đi mạng sống của đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết. Sự thù hận giết chết một mối tình đẹp, nhân loại ngàn đời xót xa nuối tiếc. Sự thù hận khởi đi từ tâm hồn ích kỷ. Bảo vệ mình bằng sự trả thù, thì càng mất mát hơn và hận thù hận ngày càng dâng cao.
Nhạc sĩ Phạm Duy viết trong một ca khúc: Kẻ thù tôi đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai? Đã là người thì ai cũng có những sai lỗi. Nhân vô thập toàn. Hơn nữa, mỗi người lại có những tính tình và sở thích riêng biệt, bá nhân bá tánh. Vì vậy, đã sống chung cùng nhau chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền. Vậy nếu hễ tức giận là báo thù, thì tôi sẽ phải báo thù kẻ lạ cũng như người quen, kẻ ngoài xã hội cũng như người trong gia đình, kẻ bên trái cũng như những người bên phải, kẻ đàng trước cũng như người đàng sau, nghĩa là phải tẩy chay, phải thanh toán hết mọi thứ người trên mặt đất này. Phạm Duy khuyên đừng giết người vì tuy là kẻ thù, nhưng họ vẫn là người, vẫn giống chúng ta.
Bài đọc 1 kể chuyện Đavit. Với những chiến thắng ngoài mặt trận, Đavit được quần chúng mến mộ suy tôn. Điều đó khiến vua Saun coi ông như là một mối đe dọa và tìm mọi cách để giết chết. Đavit có một cơ hội để giết chết Saun, nhưng ông đã từ chối làm điều đó vì trong mắt ông, Saun vua Itraen là một nhân vật thiêng liêng.Tình yêu giải phóng những năng lực phi thường trong con người.Quyền năng của tình yêu lớn hơn quyền năng của những điều xấu.Một trong những điều khó khăn nhất của mỗi người là yêu thương một người thù ghét mình.Vì thế, tình yêu đích thực là yêu thương người ghét mình.Lòng nhận hậu mạnh hơn thù oán. Phải có sức mạnh cảu tình yêu để vượt qua những cảm giác đắng cay và lòng muốn trả thù khi bị người khác đối xử tệ hại. Sự tha thứ không bao giờ dễ dàng. Phải cầu nguyện để tha thứ chiến thắng.
Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Chúa, nhân hậu và giàu lòng thương xót. Chúa Giêsu đến thế gian dùng tình yêu để đẩy lui sự ác, xóa bỏ tội lỗi. Chúa không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt. Tình yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù ghen ghét. Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu.Tình yêu có sức mạnh sáng tạo và cứu độ. Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa: ”Anh em hãy yêu kẻ thù…Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).
Câu chuyện ngụ ngôn kể rằng:Sư tử ốm đã một tuần nay và nằm trong hang không dậy được. Nó buồn lắm vì là chúa tể sơn lâm mà chẳng con vật nào đến thăm hỏi hay mang cho nó chút quà gì cả. Nhìn cây hoa hồng bên cạnh, lúc nào cũng có bướm, có ong, có chim chóc ríu rít, đến bay lượn vui vẻ. Sư tử bèn hỏi cây hoa hồng:Hoa hồng ơi, vì sao ngươi mảnh dẻ yếu ớt như thế, mà lúc nào cũng có bạn bè đến thăm vui vẻ, còn ta là chúa tể sơn lâm mà chẳng có con vật nào đến thăm ta cả?
Hoa hồng trả lời:Vì tôi luôn tặng cho mọi loài màu sắc tươi đẹp và hương thơm ngào ngạt khi mọi loài đến với tôi. Còn ngài là chúa tể sơn lâm uy quyền, nhưng ngài có tặng cho những con vật bé nhỏ thuộc hạ của ngài cái gì đâu?
Hoa hồng là hình ảnh của con người biết yêu thương.
Lạy Chúa, trên thập giá, Chúa đã nêu gương tha thứ cho những kẻ giết Chúa. Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong trái tim con, để mỗi ngày con được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng. Xin thánh hóa tình yêu trong con, cho con biết yêu mến mọi người. Amen.
19. Yêu thương--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Khi nói đến Phật giáo thì người ta nghĩ ngay đến cụm từ “từ bi – hỉ xả”, nói đến Khổng giáo thì không thể không liên tưởng đến “trung dung – chính danh chính phận, nói đến Lão giáo thì phải nói đến “vô vi” còn khi nói đến Công Giáo thì người ta thường nhấn mạnh đến “công bình - bác ái”. Có thể nói đó là những nét đặc trưng của từng tôn giáo để người ta phân biệt. Đã từng hỏi bà con tín hữu rằng bác ái là gì thì dễ thường được câu trả lời là yêu thương. Tuy nhiên khi hỏi rằng nếu chỉ hiểu yêu thương theo nghĩa luân lý thì có khác gì tổ tiên ông cha dạy chúng ta “thương người như thể thương thân” hay “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” thì chắc chắn còn đó nhiều tín hữu Kitô không thể trả lời cách rõ ràng và chính xác dĩ nhiên là cách tương đối mang tính khả tín.
Có thể trả lời không sợ sai lầm rằng bác ái là yêu thương nhau nhờ, trong, với và như Chúa đã yêu thương chúng ta, đặc biệt qua Đức Kitô, Con một Thiên Chúa đã làm người. Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật VII TN C mà Giáo hội cho trích đọc, cách riêng qua bài đọc thứ nhất trích Sách Samuel quyển thứ nhất (1Sam 26, 2.7-9.12-13.22-23) và bài Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 6,27-38) trình bày tiến trình yêu thương cách cụ thể khởi đi từ mặt tiêu cực đến động thái tích cực.
- Yêu thương theo nghĩa tiêu cực là không làm hại tha nhân. Các triết gia và hiền giả xưa đã từng khuyên dạy điều này. “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Khổng Tử); “Điều gì anh ghét chịu đựng thì đừng làm cho bất cứ ai” (Philô); “Những gì khiến anh bực bội bởi tay người khác gây ra, thì đừng làm những sự ấy cho tha nhân” (Socrates). Ông Tobia cha cũng khuyên dạy cậu Tôbia con: “Điều gì con không thích, thì cũng đừng làm cho ai cả” (Tb 4,15).
Bài đọc thứ nhất trích Sách Samuel tường thuật câu chuyện Đavít trong một tình huống thuận lợi tình cờ có thể giết chết Saolê nhưng ông đã không ra tay mặc dầu khi ấy Saolê đang lùng giết ông. Lý do mà Đavit đưa ra để ngăn không cho Abisai giết vua Saolê là vì Saolê là người đã được Thiên Chúa xức dầu.
- Yêu thương theo nghĩa tích cực là nỗ lực thực thi điều tốt, điều tốt nhất cho tha nhân theo khả năng và hoàn cảnh của mình bất kể họ là người thân hay kẻ lạ, là người dễ thương hay là đáng ghét, là người yêu thương mình hay là kẻ đang thù ghét mình và làm hại mình. Chúa Giêsu truyền dạy: “Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu kẻ thù, và hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình. Để làm nổi rõ chân lý này Chúa Giêsu đã dùng lối nói ngoa ngữ nghĩa là nói quá đi như “ai vả má con bên này, thì đưa cả má bên kia; ai lột áo ngoài của con, thì con cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6,1-27-30). Và lý do Chúa Giêsu đưa ra để đòi hỏi chúng ta phải sống yêu thương cách tích cực và đến cùng đó là vì tất cả mọi người dù là công chính hay tội nhân đều là con cái của Thiên Chúa, Đấng nhân hậu từ bi, là Cha toàn năng chí ái. Động thái yêu thương theo nghĩa tích cực này được tóm lại trong lề luật vàng mà Chúa Giêsu đã khẳng định là trọng tâm của mọi lề luật và lời các ngôn sứ: “Các con muốn người ta làm điều gì cho các con, thì hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6,31; x.Mt 78,12).
Vấn đề đặt ra là làm sao ta có thể vượt qua tâm lý tự nhiên thường tình để yêu thương kẻ đang thù ghét ta, để làm ơn cho những người đã hãm hại ta cách bất công và vô cớ? Thiết nghĩ rằng chỉ có niềm tin được thể hiện qua việc rèn luyện nhân đức và nhất là biết nhìn vào Chúa Giêsu để biết sống yêu thương đúng cách thế phù hợp với từng đối tượng theo từng hoàn cảnh. Đọc Tin Mừng chúng ta thấy Chúa Giêsu không chỉ bày tỏ tình yêu khi động viên khích lệ người yếu đuối, cùng khổ, khi nhân hậu tha thứ người có tội biết khiêm nhu mà cả khi Người nghiêm khắc vạch trần những sai lầm của nhiều vị lãnh đạo trong Do Thái giáo hay cả vua Hêrôđê thì cũng là yêu thương họ muốn làm ơn cho họ.
Hội Thánh Công Giáo đã cụ thể hóa đạo yêu thương trong kinh “Thương người có mười bốn mối: Thương xác bảy mối – Thương linh hồn bảy mối”. Yêu thương không chỉ là biết cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống… mà còn phải biết răn bảo kẻ có tội, mở dạy kẻ mê muội… Vấn đề là chúng ta phải biết áp dụng mối yêu thương nào cho đối tượng nào, hoàn cảnh nào cho phù hợp với cả tấm lòng son. Để thực hiện lý tưởng này chắc chắn cần phải có sự xác tín và cảm nghiệm sâu xa về tình Cha trên trời được thể hiện qua Đấng làm người là Giêsu Kitô, đồng thời không thể thiếu sự luyện tập sống yêu thương quảng đại cách tiệm tiến cụ thể từng ngày.
20. Ba điều kiện để xét đoán--Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, OFM
Những ai phải dọn bài giảng, gặp được đoạn Tin Mừng hôm nay thì đúng là tin mừng, mừng lắm luôn bởi vì có quá nhiều điều có thể rút ra, có quá nhiều đề tài nói đến, chứ không như một số đoạn PÂ, đọc mãi mà vẫn không giải được một ý gì cả để lên đề tài. Trong khi các đề của đoạn Tin Mừng hôm nay thì nhiều vô kể như:
- Hãy yêu kẻ thù: kẻ thù là ai? Yêu họ thế nào?
- Hãy tha thứ; tha thứ cái gì, có khó không?
- Hãy nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ
- Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán.
Ba cái HÃY và 1 cái ĐỪNG. Tôi xin dừng ở cái Đừng đó với câu hỏi: Tại sao Chúa nói “Đừng xét đoán.” Tại sao Chúa cấm xét đoán?
Trả lời cho câu hỏi này cũng không khó lắm, nhưng chúng ta có thể chuyển đề tài bằng cách trả lời 1 câu hỏi khác mà vẫn không đi xa đề: Tại sao Chúa cấm xét đoán à chuyển thành: Khi nào ta được phép xét đoán?
Theo thánh Tôma, tiến sĩ vĩ đại của Giáo Hội, ta được phép xét đoán khi có đủ 3 điều kiện này:
- khi được trao quyền xét đoán
- khi biết rành mạch sự việc phải xét đoán
- khi hoàn toàn thanh sạch mọi thành kiến.
Cả 3 điều kiện này, được uỷ quyền, biết rành mạch, sạch thành kiến ít ai có thể đạt được cả 3 nên hay nhất là đừng xét đoán. Ta có thể nghe Chúa Giêsu sẽ nói như sau: Các con đừng xét đoán vì các con không hội đủ điều kiện khắt khe của người xét đoán đâu
Được trao quyền xét đoán.
Thánh Giacôbê trong thư của ngài đã nói 1 câu nghe giật mình: Chỉ có một mình Thiên Chúa đặt ra lề luật và có quyền xét xử. Còn ngươi là ai mà dám xét đoán tha nhân. (Gc 4,12)
Chỉ một mình Chúa mới có quyền xét đoán. Nhưng Chúa cũng thông quyền này cho các Tông đồ, Giám Mục, Linh mục. Chúng ta đừng ham quyền này! Khổ lắm. Honor, Onus: vinh quang quàng nặng.
Các LM khi ngồi toà Giải tội là đóng vai trò xét xử. Thử hỏi các LM, nhất là lớn tuổi khổ nhất là gì. Các LM cha xứ: khi người này người kia vào trình bày sự việc, xin cha: ý cha thế nào, kiến cha làm sao? Lại phải xét phải đoán. Chẳng sung sướng gì đâu. Cha mẹ trong gia đình cũng được chia quyền này. Khổ.
Vì thế những ai chẳng được giao phó cho quyền này, hãy vui lên tạ ơn Chúa chứ đừng nhận vào mà lãnh đủ.
Rồi khi hội đủ điều kiện 1, phải có điều kiện 2 nữa:
Phải biết rành mạch sự việc:
Một LM ngồi toà phải trải qua muôn luân lý dài và rắc rối, mới có thể xét định được đâu là tội, đâu là không. Nếu không rành, rất nguy hiểm cho người đi xưng tội: tội giải được không giải, tội không giải được lại giải, có tội thì nói không sao, không sao thì bảo là nặng lắm… Một trong những điều kiện để chọn lựa ơn gọi tu trì, nhất là ơn gọi LM là óc phán đoán, óc phân biệt. Nếu thíếu, nếu yếu, thường được khuyên rút lui. Nếu không tự ý rút lui, sẽ cưỡng chế cho về. Còn khi đã là linh mục, gặp tai nạn chấn thương phần não, trở nên mát mát, hâm hâm, thì có thể làm lễ, nhưng không được ngồi toà… xét xử.
Điều này cho ta thấy để xét đoán, ngoài quyền được trao, còn phải rành sự việc mà sự việc ở đây đâu phải là chiếc búa, cái đinh, mà là con người có dáng vẻ bề ngoài nhưng cũng có phần tâm linh bí ẩn, ai dò cho thấu.
Kinh-thánh đã nói người ta chỉ xem xét được bên ngoài, chỉ có Chúa mới là đấng thấu suốt tâm can. Một việc bề ngoài ta coi là lỗi, nhưng biết đâu lại chẳng trở thành nhân đức.. nhờ thiện chí, nhờ ý tốt. Ta sẽ nói thêm khi kết luận.
Có quyền xét xử rồi lại phải am tường sự việc con người nữa. Nhưng để xét đoán tốt như vậy vẫn chưa đủ, còn phải:
Sạch mọi thành kiến nữa
Einstein nói: Phá vỡ 1 thành kiến còn khó hơn phá vỡ 1 nhân nguyên tử! Do đó, ta thực là khó để loại sạch mọi thành kiến được: không ưa thì dưa có giòi. Đã thích ai thì thích cả lối đi. Đã ghét ai thì ghét cả tông chi họ hàng. Có thiện cảm với ai thì dễ gì nhìn thấy lỗi họ được. Có ác cảm, yên trí với ai rồi, khó xử tốt. Ngôn ngữ bình dân gọi yên trí là tật. Tật là khó chữa. Tật yên trí. Có cả trăm câu chuyện để làm ví dụ cho tật yên trí này. mỗi người trong chúng ta chắc ai cũng đã có hơn một lần kinh nghiệm.
Tại sao Chúa nói: Đừng xét đoán. Ta đã trả lời gián tiếp: vì 3 điều kiện để được xét đoán quá khắt khe ít ai đạt được: quyền xét đoán, biết rành mạch, sạch thành kiến. Nên ta đừng xét đoán. Đây không chỉ là 1 lời khuyên, nhưng còn là 1 lời hứa, mà Chúa nói rõ, đừng xét đoán sẽ không bị Chúa xét đoán. Ta không khai thác điểm này, mà sẽ trở về với điều kiện 2, để xét đoán phải rành sự việc. Số là:
Khổng Tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Ngày đầu tiên đến đất Tề, đói khát, may có người đem biếu ít gạo. Khổng Tử phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi là đệ tử Khổng Tử cưng nhất, ở nhà thổi cơm. Khổng Tử là thầy, nằm đọc sách. Đang đọc, nghe cái “cọc” từ bếp vọng lên. Liếc nhìn xuống bếp thấy Nhan Hồi lấy đũa xới cơm cho vào tay vắt lại, rồi liếc mắt nhìn quanh, không thấy ai, Nhan Hồi đưa cơm vào miệng. Khổng Tử thấy hết, nên ngửa mặt lên trời than: người học trò ta tin tưởng nhất, lại ăn vụng thầy, ăn vụng bạn, đốn mạt đến thế là cùng. Chao ôi, bao kỳ vọng đặt vào Nhan Hồi, thế là trôi theo mây khói.
Sau đó, Tử Lộ và nhóm hái rau từ rừng về. Nhan Hồi lại luộc rau. Khổng Tử nằm im đau khổ. Rồi cơm rau dọn lên, môn sinh chắp tay mời thầy. Khổng Tử ngồi dậy nói:
- Các con ơi, ta đi từ Lỗ sang Tề, đường xa vạn dặm. Hôm nay, ngày đầu tiên trên đất Tề, thầy nhớ quê hương đất Lỗ, nhớ đến tổ tiên, thầy muốn dâng bát cơm đầu tiên nhớ đến cha mẹ thầy. Các con nghĩ có nên không?
Trừ Nhan Hồi, các đệ tử đều đáp, thưa thầy nên. Khổng Tử nói: Nhưng không biết nồi cơm này có sạch không?
Học trò ngơ ngác không hiểu ý thầy, chỉ trừ Nhan Hồi chắp tay nói: thưa thầy nồi cơm này không được sạch. Khổng Tử hỏi tại sao? Nhan Hồi đáp:
- Khi cơm chín, con mở vung xem cơm đã thực chín đều chưa, thì một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi từ trên rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Con cũng nhanh tay đậy vung, nhưng không kịp. Sau đó, xới cơm bẩn định vất đi… thì con chợt nghĩ, cơm thì ít, anh em thì đông, bỏ lớp cơm bẩn đi, vô tình bỏ mất một xuất cơm, anh em phải ăn ít lại, nên con ngưng vất đi và đã mạn phép thầy và anh em con ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn cơm sạch xin để phần thầy và anh em. Như vậy con đã ăn phần cơm, bây giờ chỉ xin ăn phần rau nữa thôi. Và thưa thầy, vì nồi cơm con đã ăn trước rồi, nên không nên dùng để cúng nữa ạ!
Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngửa mặt lên trời mà than: “Chao ôi, thế ra trên đời có nhiều việc chính mắt ta trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu đúng sự thật. Chao ôi, suýt nữa Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ.”
Vậy ta còn ham xét đoán nữa không?
21. Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em--Lm. Alfonso
Tin mừng Lc 6: 27-38 Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi tiến thêm một bước, vì chúng ta có Chúa Kitô trong lòng: “Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả..."
Suy niệm:
Nói đến kẻ thù thì thường chúng ta lên án, kinh tởm, trốn chạy, tránh mặt... Người ta xem là kẻ thù là người không đội trời chung, có nó thì không có tôi... Đó chỉ là suy nghĩ của thế gian, còn với người của Chúa, người thuộc về Chúa, chúng ta được mời gọi sống bao dung hơn.
Bài đọc trích sách Samuel quyển I cho chúng ta bối cảnh Saolê vì ghen tức, tìm cách sát hại Đavid. Ông đem ba ngàn quân sĩ tinh nhuệ của Israel kéo xuống hoang địa Ziphô để vây bắt Ðavít. Ban đêm Ðavíd và Abisai đến nơi quân sĩ của vua đóng, Saolê thì đang nằm ngủ trong lều, cây giáo của ông thì cắm xuống đất ở phía đầu, nhưng rồi Ðavíd chỉ lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu của Saolê trong khi mọi người vẫn ngủ say. Ðavít đã làm một việc nghĩa đáng khâm phục với người đang lùng giết hại mình khi sang phía bên kia, đứng trên ngọn núi đàng xa, ngài hô lên rằng: "Chúa sẽ báo đáp cho mỗi người tuỳ theo sự công minh và thành tín cuả họ, vì hôm nay Chúa trao đức vua trong tay tôi mà tôi không nỡ ra tay giết đấng được Chúa xức dầu".
Vâng, đó cũng chính là giáo huấn của Chúa Giêsu. Không chỉ dạy chúng ta biết yêu mến những người thân cận, người yêu mến mình nhưng Chúa dạy ta còn cần phải yêu mến cả những người làm hại đến ta nữa. Yêu mến những người thân cận, kẻ yêu thương mình, làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì làm gì còn ân với nghĩa. Những người lương dân bên ngoài cũng làm được như thế mà, vậy chúng ta là Kitô hữu có hơn được gì đâu?
Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi tiến thêm một bước, vì chúng ta có Chúa Kitô trong lòng: “Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Ðấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.” Tục ngữ Việt Nam chúng ta có câu: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, vậy chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em Ðấng nhân từ.” Một điều tưởng chừng như vô lý không thể thực hiện được, nhưng không phải là không thể.
Vào 5g17’ chiều ngày 13/5/1981, tại quảng trường Thánh Phêrô, Mehmet Ali Ağca, một sát thủ được các lực đen tối thuê ám sát Đức Gioan Phaolô II. Tên “sói xám” thứ 23 là xạ thủ chuyên nghiệp, ở đằng sau dãy đầu tiên, rất bình thản và dứt khoát; mục tiêu của sát thủ là không phương tiện đề kháng, không có lối thoát, ra tay không thương xót, chỉ cách Đức Thánh cha không đầy 3m. Cuộc tấn công xảy ra trong khi Đức Gioan Phaolô II đang đứng trong một chiếc xe và đi chào thăm, bắt tay tín hữu tại quảng trường. Bốn tiếng súng đột nhiên vang lên và ngài ngã quỵ bên ngoài Vương cung thánh đường Thánh Phêrô (thành Vatican), trong sự hoảng loạn của mọi người xung quanh. Xe cứu thương nhanh chóng đưa ngài đến bệnh viện Gemell trong tình trạng nguy kịch. Một y tá kể lại trước khi các bác sĩ gây mê để tiến hành phẫu thuật, Đức Giáo hoàng đã nói: “Sao họ có thể làm việc này”? Ngài bị trúng 2 phát đạn ở vùng bụng, phải trải qua một ca phẫu thuật kéo dài khoảng hơn 5 tiếng đồng hồ trong khi hàng triệu tín hữu đều cầu nguyện cho ngài.
Cảnh sát cho biết trước đó Mehmet Ali Agca đã bị kết tội vì sát hại biên tập viên của một tờ báo ở Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng 2/1979, tuy nhiên Agca đã trốn thoát khỏi nhà tù vào cuối năm đó. Ngày 20/7/1981, phiên tòa xét xử Agca được diễn ra, tay súng bị kết án tù chung thân. Nhưng hai năm sau biến cố ấy, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II bình phục và đã đến thăm Agca trong nhà tù ở Roma vào ngày 27/12/1983. Ngài và người đã ám sát ngài ngồi nói chuyện thân mật trong tù. Với một thái độ trìu mến, Đức Thánh Cha nghiêng người về phía kẻ đã ám sát mình, và sau đó ngài đã quyết tâm giữ kín nội dung cuộc nói chuyện này. Ngài đã tuyên bố tha thứ cho hành động của Agca, và đã can thiệp để Agca được trả thự do vào năm 2000. Sau đó, Agca còn bị dẫn độ về Thổ Nhĩ Kỳ và phải ngồi tù vì sát hại một biên tập viên báo trước đây, song đã được thả vào năm 2010 do một số lệnh đặc xá.
Qua việc tập luyện các nhân đức Kitô giáo, con người ngày càng đạt tới sự trưởng thành con người Kitô hữu. Có thể nói, đoạn Tin Mừng hôm nay là một viên ngọc, vén mở một lý tưởng mà người Kitô hữu phải vươn tới. Abraham Lincon, vị tổng thống Kitô giáo của nước Mỹ cũng nói, “Chúng ta chỉ có thể tiêu diệt kẻ thù bằng cách biến kẻ thù thành bạn hữu”."Hãy yêu kẻ thù": kẻ thù tôi chẳng đâu xa, ngày ngày tôi vẫn gặp. Đó nhiều khi không phải là kẻ cầm dao muốn sát hại mình nhưng là người vu khống mình. Đó nhiều khi không là kẻ tát vào mặt mình nhưng là người nói xấu sau lưng mình, bằng mặt nhưng không bằng lòng. Đó là người không đoạt áo của mình nhưng tìm cách bêu rếu mình. Đó là những người hay làm phiền và lợi dụng mình, Đó là những người tự nhiên mình không ưa, hay không ưa mình.
Chúa Giêsu không đòi chúng ta yêu kẻ thù như yêu người thân, vì về mặt tình cảm, chuyện đó khó thực hiện. Nhưng Người mời gọi mỗi chúng ta yêu bằng hành động: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại.” Cho không có nghĩa phải là vật chất mà đơn giản có khi chỉ là một nụ cười, một cái nhìn thiện cảm, một lời cầu nguyện cho họ thay đổi và chính chúng ta cũng được biến đổi.
Khi làm điều tốt như thế, ít ra chính mình được giải phóng khỏi cái tôi ăn miếng trả miếng. Khi yêu kẻ thù bằng những hành động tử tế, chúng ta không còn coi họ là kẻ thù của mình nữa, mà là những người anh chị em cũng đáng thương bên cạnh chúng ta vậy. Dần dần, tình cảm của tôi đối với họ cũng biến đổi. Thiết nghĩ, đó chẳng phải là một hành động giả hình, nhưng là một nỗ lực thắng vượt tình cảm tự nhiên, chẳng phải là một hành vi của kẻ nhu nhược, nhưng là dấu hiệu của lòng can đảm dám bỏ qua cho nhau.
Lạy Thiên Chúa là Cha, xin cho con ý thức mình là Kitô hữu, được mời gọi sống nhân hậu như Cha trên trời. Và chính Cha đã diễn tả tình yêu ấy qua Đấng Cứu Thế, Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người, Người đến để tha thứ và canh tân thế giới này, xin cho con nhận ra chỉ có tình yêu mới làm cho con người ta biến đổi nên tốt hơn. Amen.
22. Công lý Chúa--Lm. Vũ Đình Tường
Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm có lúc mình là nạn nhân của bạo hành, lúc khác mình lại gây bạo hành làm tổn thương đến danh dự người khác. Bạo hành gây ra hoặc do lời nói hoặc do việc làm. Khi đau khổ do bạo hành xẩy ra cần phải tìm cách giải quyết. Theo thói thường xã hội quan niệm công bằng theo nghĩa: có ăn, có trả; làm lỗi tất phải thường. Gây thiệt hại, đương nhiên phải đền bù. Đức Kitô dậy các môn đệ cách đối xử cách lành mạnh, cao thượng hơn. Ngài kêu gọi tránh dữ, làm lành; tránh trả đũa nhưng gây thiện cảm. Gây thiện cảm với người làm cho mình đau khổ là điều tưởng khó hơn ngồi tù ngục tối. Theo Đức Kitô, gây thiện cảm không phải là cách hành xử cao thượng mà chính là lối sống của người Kitô hữu. Để giao hoà với kẻ nhục mạ, làm khổ mình, Kitô hữu cần sức mạnh nội tâm qua cầu nguyện, phải can đảm đánh thắng cái tôi trong mình và í chí kiên quyết mới có thể thực hiện được điều đó.
Đức Kitô kêu gọi 'hãy yêu mến kẻ thù' c.27 bởi Kitô hữu cần có thái độ sống, không phải theo lề thói xã hội, mà sống theo gương Thầy Chí Thánh. Hành xử theo gương Đức Kitô chính là không vui mừng khi thấy kẻ làm hại mình gặp đau khổ, trái lại Kitô hữu hãy 'làm ơn cho kẻ ghét anh em'. c. 27b.
Thứ đến 'chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em' c.28a bởi vì thù oán gây chiến tranh; trong khi chúc lành và tha thứ kiến tạo hoà bình.
Quan trọng hơn cả là 'cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em' c.28b. Sức mạnh của cầu nguyện không phải chỉ mang ơn phúc đến cho người mình cầu cho mà chính người cầu nguyện được hưởng ân phúc Chúa ban. Lời cầu giúp Kitô hữu nhận biết không phải nhu cầu của riêng mình, mà giúp nhận ra nhu cầu của kẻ làm hại mình. Họ có đau khổ riêng của họ và chính những đau khổ tiềm ẩn đó là nguyên nhân dẫn đến hành động làm hại người khác. Nhận biết đau khổ của kẻ làm hại mình là bước đầu dẫn đến tha thứ, giao hoà. Sức mạnh của cầu nguyện còn làm cho người làm hại ta nhận biết cái sai trái của chính cá nhân họ và từ đó họ tìm cách thay đổi lối sống tốt lành hơn.
Công lí Đức Kitô truyền dậy không phải là kết án hay luận phạt mà chính là tha thứ và yêu thương. Thiếu đời sống cầu nguyện sẽ rất khó tha thứ bởi tự ta không thể tha thứ dễ dàng cho kẻ làm hại mình. Cần ơn Chúa. Với ơn Chúa thì mọi sự đều có thể bởi lúc đó ta không còn phải tự sức riêng mình, mà có ơn Chúa phù trợ, thúc đẩy việc giao hoà trở nên dễ dàng hơn, dễ thực hiện hơn. Thánh Phaolô đã khẳng định điều trên khi Ngài viết:
Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta'. Rm 8,31
Trả thù, trả đũa chính là hành xử cùng cung cách xã hội quan niệm về công lí. Trả đũa hay trả thù dễ hơn là tha thứ và đại đa số chọn cách dễ. Thực ra, trả đũa là đồng hoá mình thành một thành phần của kẻ làm hại ta. Hành xử cùng cung cách xã hội không phải là cách Đức Kitô hướng dẫn. Đời sống Kitô hữu không theo thói thường là kết án, hay đầy ải, tù đầy mà chính là tha thứ và yêu thương. Đây chính là cách Đức Kitô đối xử với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình: 'Tôi không lên án chị đâu, chị về đi và từ nay đừng phạm tội nữa' Gn 8,11.
Món quà cao quí nhất Kitô có để cho đó là món quà tha thứ. Tha thứ cho lỗi lầm riêng mình và tha thứ cho lỗi lầm của anh em. Kẻ giầu có, quyền thế trong xã hội thường cố gắng có thêm tiền, thêm quyền mà ít quan tâm đến như cầu của người nghèo khó. Kết quả là kẻ giầu càng giầu, kẻ nghèo càng đói. Đức Kitô dậy các Kitô hữu cách sống tha thứ và yêu thương để thay đổi quan niệm sống trong xã hội.
23. Hãy có lòng nhân hậu như Chúa--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Chuyện kể rằng: “Có hai người thổ dân Nam Phi rất giận ghét hiềm khích nhau, mối thù mỗi ngày càng sâu đậm, chỉ mong ước có dịp thuận tiện nào để phục thù cho hả cơn giận. Ngày nọ, người kia gặp thấy một bé gái con của kẻ thù mình trong một khu rừng, anh ta bỗng nổi cơn xung giận tóm lấy cô bé, rút dao chặt cụt hai ngón tay, rồi thả cho đi. Cô bé vừa chạy về nhà vừa khóc nức nở, bàn tay máu chảy ròng ròng. Còn tên hung thủ vừa đi vừa la lớn tiếng tỏ vẻ thỏa chí: “Ta đã trả thù được rồi!” Ngày tháng trôi qua, thấm thoát đã mười mấy năm, cô bé đã lập gia đình, có chồng con và cảnh gia thất đầm ấm sung túc. Bỗng một buổi chiều kia, có một người hành khất đến xin của bố thí. Bà chủ nhà đã nhận diện ra người hành khất đó chính là kẻ đã chặt hai ngón tay mình, vội vã trở vào trong nhà tìm cách “Báo thù”, bằng cách bà đem sữa bánh ra cho ông ta ăn, trao cho ông ta một số tiền để có kế sinh nhai. Khi ấy bà giơ bàn tay cụt ra và nói: “Tôi cũng đã trả thù được rồi! Người hành khất nhận ra người mình trả thù trước kia nay có tấm lòng nhân từ tha thứ “Lấy ân trả oán” cho mình, ông khóc lóc và xin lỗi tủi hỗ vô cùng.
Bài đọc I kể Đavít đã không giết Saolê là kẻ thù đang đem 3000 quân đi lùng bắt giết Đavít. Có phải Đavít yêu kẻ thù chăng? Chắc là phải, vì Đavít đã kính trọng Vua Saolê, là người đã được Chúa xức dầu. Như vậy, Đavít vì mến Chúa mà tha thứ cho kẻ thù. Lòng kính mến Thiên Chúa chính là nền tảng đức bác ái nhân từ vô biên. Ai nhận biết Thiên Chúa là Cha mình, mới nhận ra mọi người là anh em thật của mình và không còn ai là kẻ thù. Vì thế, Chúa Giêsu nói: “Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy”. Rõ ràng, lòng nhân từ của con người gồm hai hành động “yêu thương và tha thứ”, mà lòng nhân từ của con người do Thiên Chúa ban cho. Qủa thế, con người ngay đầu đã “nhân chi sơ tính bản thiện”. Chính tâm thiện này được Thiên Chúa đặt để vào trong lòng con người khi Ngài dựng nên họ và nhờ cái chết của Chúa Giêsu. Cho nên, Chúa Giêsu hằng mong muốn rằng: “Anh em phải có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Mt 5,37).
Khi nói đến lòng nhân hậu, chúng ta nghĩ ngay đến việc ăn ngay ở lành, làm lành lánh dữ hay nói đúng hơn là làm theo tiếng nói của lương tâm, mà tiếng lương tâm chính là tiếng nói của Thiên Chúa ở trong lòng ta (Sách GLTHCG, số 1776). Thế nhưng, ngày nay, lòng người không còn chỗ cho Chúa ngự, tiếng nói của Chúa không còn vang dội trong lòng của họ nữa, tại sao? Vì lòng của họ đầy ắp điều xấu, hay chai lì với tội lỗi, đến nỗi không biết rằng họ đang sống phần “con” mà mất phần “người”, chẳng màng chi tới việc tốt xấu, thiện ác nữa. Cho nên, họ chẳng tha thiết gì với lòng nhân và hạnh phúc đời sau. Nếu con người sinh ra, sớm nở tối tàn như bông hoa và cuối cùng trở về với cái không vô tận, với sự thù hận, gian ác hay với một cõi lòng tan nát và đầy bợn nhơ, thì còn gì là giá trị và ý nghĩa của con người và đời người, cho nên Chúa Giêsu nói: “Thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!” (Mt 26,24).
Vì vậy, để có lòng nhân hậu như Thiên Chúa, trước hết, chúng ta phải tin vào Thiên Chúa, Lời Ngài và sống đúng Lời Ngài dạy vì chưng nếu không có Thiên Chúa và Lời Ngài soi dẫn làm sao chúng ta trở thành người ăn ngay ở lành, làm theo đúng ý Chúa, vì lương tâm con người có thể sai lầm nhưng Lời Chúa chân lý, không bao giờ sai. Bên cạnh đó, chúng ta phải áp dụng Lời Chúa vào ngay trong cuộc sống đời thường của chúng ta qua việc cầu nguyện, hy sinh, yêu thương, tha thứ, phục vụ, sẻ chia đồng hành với hết mọi người trong đó có kẻ thù ta bằng cách cống hiến sức lực, tài năng, và vật chất của mình cho họ, kèm với trái tim thương xót, bao dung, đồng thời tôn trọng nhân phẩm của họ, khi ấy chúng ta mới có phúc và lòng nhân hậu như Thiên Chúa, như lời tha tội của Chúa Giêsu Kitô trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Nghe thấy sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng: "Người này đích thực là người công chính!", “sống không để bụng để không mang theo”
Chúa Giêsu đến thế gian để đẩy lui sự ác, đã chết để tẩy xóa sự hận thù, đã sống lại để tẩy trừ tội lỗi chúng ta. Vì vậy, Người không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt; và lòng nhân hậu yêu thương tha thứ là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui hận thù tội lỗi nơi con người, làm thay đổi đời sống có ý nghĩa hơn. Cho nên, Thánh Phaolô trong bài đọc 2 khẳng định: “Cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến”.
Ngày 13/05/1981 cả thế giới đều sửng sốt kinh hoàng về tin Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bị ám sát tại chính công trường Thánh Phêrô. Ali Agca, một thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ, thủ phạm bắn Ngài, lại được Ngài đến thăm, nói chuyện và tha thứ cho anh. Tình yêu nào đã khiến Đức Giáo Hoàng thương yêu kẻ thù như bạn hữu của mình? Chỉ có tình yêu của Đức Giêsu đã thúc đẩy vị đại diện của Người dưới trần gian này đã có lòng nhân hậu vô biên như vậy. Còn đối với mỗi người chúng ta, ước gì qua Lời Chúa hôm nay biến đổi chúng ta thành con Chúa biết “thương yêu kẻ thù, làm ơn cho kẻ oán ghét mình, chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình, và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình. Lạy Chúa, chúng con đã xúc phạm đến Chúa biết chừng nào! Chúa vẫn tha thứ, hy sinh chịu chết cứu chuộc chúng con và cho chúng con được làm con yêu dấu của Chúa. Xin cho chúng con nhận biết lòng từ bi nhân hậu của Chúa, và cho chúng con hết lòng yêu thương mọi người, dù họ thù ghét con mãi mãi. Amen.
24. Đừng nhìn nhau là kẻ thù--Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Những năm gần đây, trên các phương tiện truyền thông hay xuất hiện cụm từ “những thế lực thù địch” đang chống phá nhà nước Việt Nam. Vậy, những thế lực thù địchnày từ đâu ra, sao càng ngày càng nhiều và gây lo sợ cho chính phủ đến thế?! Nhưng có một điều lạ là không ai giải thích rõ “thế lực này là ai?”, và chỉ thấy những dân oan luôn bị gán ép là bị thế lực thù địch lôi kéo, đôi khi họ cũng gán ép cho các tôn giáo bị thế lực này lôi kéo..
Thực ra, nếu mình sống tốt thì sẽ không bao giờ có thù địch. Nhất là nguời Việt Nam luôn coi nhau là anh em vì “tứ hải giai huynh đệ”. Con người sống biết nhường, biết nhịn, biết phải, biết trái thì sẽ không có tranh chấp thù địch nhau. Gọi nhau là thù địch nghĩa là sợ tranh dành miếng ăn, chỉ biết chiếm phần mình nên ai xen vào quyền lợi của mình tức là thù địch chăng? Nếu sống bên nhau mà vẫn xem nhau là thù địch thì làm sao đất nước phát triển? Nếu vẫn xem nhau là thù địch thì vẫn còn kỳ thị và loại trừ lẫn nhau?
Người Công Giáo không có kẻ thù. Người Công giáo nhìn đâu cũng thấy mọi người là anh em con một Cha trên trời. Nếu ai nói mình là người Công giáo mà còn thù ghét anh em mình tức là không còn là môn đệ của Thầy Giê-su, vì Thầy Giê-su đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”. Điều này chính Chúa Giê-su đã làm gương. Ngài đã dùng tình yêu để có thể xoá bỏ hận thù.Ngài yêu thương con người nên nhẫn nại chờ đợi con ngườiquay trở về để Ngài giang cánh tay ôm ấp thứ tha. Ngài luôn kiên nhẫn trong những lầm lỗi con người. Sự kiên nhẫn của Ngài không phải là ngồi đó mà là dấn thân để giúp họ cải tà quy chính. Ngài đã sống tột đỉnh của tình yêu tha thứ khi Ngài tha thứ cho người giết hại mình. Ngài đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “lạy cha, xin tha cho họ,vì họ làm mà không biết việc họ làm”.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy yêu thương kẻ thù, làm ơn cho kẻ ghét mình, chúc phúc cho kẻ nguyền rủa mình, cầu nguyện cho kẻ vu khống mình. Vượt lên trên tình yêu tha thứ đó là lòng nhân từ bắt nguồn từ Thiên Chúa. Hãy có lòng nhân từ như Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta. Lòng nhân từ của Thiên Chúa không xét đoán tội chúng ta như chúng ta đáng tội. Ngài đã yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Cuộc sống con người luôn có những sai lầm. Sai lầm do vô tri. Sai lầm do nhẹ dạ. Sai lầm do cố ý. Những sai lầm của tha nhân khiến chúng ta bực mình. Đôi khi chúng ta muốn thanh trừng cho hả dạ. Nhưng lời Chúa luôn nhắc chúng ta hãy tha thứ để được tha thứ. Hãy tha thứ để có bình an trong cuộc sống. Không tha thứ là ta đang ôm ung nhọt trong người khiến mình đau nhức cả đời. Chỉ có tha thứ mới hạnh phúc và bình an.
Nhưng đáng tiếc, nhân loại hôm nay luôn chìm đắm trong biển máu của hận thù, chia rẽ, tranh chấp và chiếm đoạt. Bản thân chúng ta đôi khi cũng khó lòng tha thứ cho những người có lỗi với chúng ta. Người trong nhà đôi khi còn nhìn nhau như kẻ thù làm sao sống yêu tha nhân được. Vợ chồng còn không tha thứ cho nhau làm sao sống thuỷ chung với nhau. Người trong một nước mà còn nhìn đâu cũng thấy thù địch làm sao chung sống hoà bình.
Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy biết tha thứ cho nhau để mang lại cho thế giới sự hiệp nhất và bình an. Chúa muốn chúng ta hãy dùng những nghĩa cử tha thứ, bao dung để cho Nước tình thương của Chúa trị đến.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết nhìn nhận sự yếu đuối của mình mà sống khiêm tốn trước lời sửa dạy của anh em. Đồng thời, biết cảm thông tha thứ những lỗi lầm của tha nhân. Amen.
25. Tinh thần mới--R. Gutzwiller
Cho tới nay, Chúa Kitô vẫn ưu tiên cho các môn đệ; giờ đây, lời Ngài nói, rõ rệt nhằm cho mọi thính giả của Ngài. Cái nhìn của Ngài nhắm vào tương lai, đến chỗ kết thúc nước Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đây, Đấng đã tỏ hiện ra nơi Ngài, cũng phải xuất hiện qua những kẻ thuộc về Ngài nữa: bước đầu nhắm vào bề trong và ẩn dật, tuy nhiên, lại là một thực tại sống động.
1. Yêu cầu
Điều Chúa đòi hỏi tiên vàn không phải là cầu nguyện và hành động, nhưng là phải có những tâm tình mới. Ngài muốn có sự canh tân tâm hồn, sự cải cách bên trong con người. Tinh thần đây là lòng yêu mến, lòng yêu mến mà mức độ trải rộng ra hết sức của nó: Hãy yêu thương kẻ thù. Lòng yêu mến phải bao bọc mọi người, không loại trừ ai kể cả những kẻ thù địch dữ tợn nhất. Theo nguyên tắc, lòng yêu thương này vô giới hạn; ánh sáng của nó sẽ chiếu giãi trong khắp các xó xỉnh, và sức nóng của nó sẽ đốt nóng mọi sự.
Tâm tình là điều chính yếu, nhưng chỉ là những tâm tình chân thực khi phát xuất ra các việc làm. Hãy làm ơn cho những kẻ ghen ghét các anh chị.
Tình yêu tự trong bản chất là tốt lành (vì nó sinh ra từ Thiên Chúa là Tình Yêu). Việc làm và ảnh hưởng của Tình yêu sẽ tất nhiên là tốt lành. Hãy làm lành! Ta không được quyền lấy ghen ghét đáp trả ghét ghen, không được ăn miếng trả miếng, nhưng là phải lấy tình thương che phủ mọi sự, bởi vì sự thiện phải mạnh hơn sự ác.
Ta chỉ thực sự có tinh thần mới, một khi ta ao ước điều tốt lành cho chính kẻ thù ghét ta. Hãy chúc lành cho những kẻ nguyền rủa các anh chị. Ta phải cầu Chúa chúc lành cho những kẻ ghen ghét và nguyền rủa, để sự ác bị đánh quỵ ở mọi nơi. Lòng yêu thương chân thật sẽ không gò ép số phận trong sự cứng nhắc, nhưng đặt tất cả trong lòng bàn tay nhân từ của Thiên Chúa.
Hãy cầu xin cho những ai vu khống các anh chị. Im lặng không có nghĩa là tránh né, một sự im lặng giận dữ hoặc một sự từ khước là do sự bực tức hay mệt nhọc. Trái lại phải kiên trì mang lấy gánh nặng của mình, đặt vào tay Thiên Chúa mọi cái đè nén tâm hồn. Thái độ này làm cho tâm hồn con người được thư thái và khiến con người đối diện với những kẻ ghét mình, nguyền rủa hay vu khống mình mà không chút sợ sệt.
Tình yêu chúc lành và cầu nguyện: đó là sức mạnh mới và thần trí mới có khả năng vượt tất cả mọi sự. Mệnh lệnh chặt chẽ của luật pháp khi ấy hoá thành mềm dẻo, tương quan giữa các hữu thể nằm trên một bình diện hoàn toàn mới mẻ. Cộng đồng nhân loại từ đây vâng phục một luật lệ khác: đó là tinh thần mới Chúa Kitô đòi buộc.
2. Thực hiện.
Tinh thần này được trình bày bằng hai thái độ: tích cực và tiêu cực.
Thái độ tích cực
Ai yêu mến thì sẵn sàng chịu đựng và cho đi không ngừng. Ai vả má này hãy đưa má kia nữa; ai lột áo ngoài cũng đừng cản nó lấy áo lót.
Lòng ích kỷ tiêu tan bởi vì cái tôi đã biến vào nơi Thiên Chúa. Con người không còn hành động theo quan điểm của riêng mình, nhưng bao quát mọi biến cố bởi vì việc họ kết hợp với Thiên Chúa làm cho họ vượt quá chính mình. Do đó, bao giờ câu trả lời của Chúa cũng làm cho ta ngạc nhiên vì nó bất ngờ. Lúc nào họ cũng sẵn sàng, tươi vui, chấp nhận điều xấu và thực thi điều thiện. Người đó sống trên bình diện hoàn toàn khác hẳn.
Chính vì đặt căn bản trên nước Thiên Chúa mà họ hành động và suy tưởng trong những phạm vi khác nhau của sinh hoạt nhân loại.
Thái độ tiêu cực.
Lòng yêu mến loại trừ mọi thứ vụ lợi riêng tư. Nếu anh chị yêu mến những kẻ mến thương anh chị, thì còn ân nghĩa gì? Những kẻ tội lỗi cũng yêu mến những kẻ yêu thương họ. Một quy luật đồng nhất đó được dùng cho những ai làm điều thiện, cho vay mượn tiền bạc… Người cho đi chỉ để mong được lại là kẻ tìm kiếm chính mình. Con người mới phải có sự sung mãn nội tâm dồi dào, cho đi không tính toán, không đợi chờ phần thưởng. Mọi tính toán đều đi ngược vơí bản chất thâm sâu nhất của đức bác ái.
Lý do: một thái độ tương tự như thế chỉ có thể có nơi Thiên Chúa, được Ngài gợi ý và hướng về Ngài. Anh chị sẽ là con cái của Đấng Tối cao, vì chính Người nhân lành với những kẻ vô ơn cũng như ác độc.
Bí nhiệm thâm sâu nhất của nước Thiên Chúa là lòng yêu mến của Thiên Chúa. Con người chỉ là con kênh để Thiên Chúa đổ tràn nước của Ngài xuống. Ngài là động lực, là lý do hiện hữu. Con người đón nhận nơi Ngài tất cả để rồi thông chuyển tất cả. Lòng yêu thương của họ không chút sợ sệt, giống như ngọn lửa leo lét trong chiếc lò dương thế: ngọn lửa của Thiên Chúa không ngừng thắp lên và sẽ chẳng bao giờ bị tiêu hao.
Người nào từ Thiên Chúa sinh ra thì có sự sống của Thiên Chúa nơi mình và qua đó có sự sung mãn và phong phú, tất cả những thứ đó chỉ có thể từ Thiên Chúa mà đến. Họ không cần phải so đo hơn thiệt, tính toán cẩn thận, bủn xỉn chi li hay lo lắng cho tương lai. Họ có thể ban phát vơí bàn tay đầy ắp, vẻ mặt tươi vui, không lo lắng đến đáp trả hay kết quả. Họ phân phát nhân danh Chúa, nhờ Chúa và với Chúa; còn hiệu quả về phía nhân loại là một điều hoàn toàn tuỳ thuộc.
Chỉ có con người như thế; sinh vật của Thiên Chúa trong nước Ngài, mới có được tinh thần mới này và mới có thể tìm kiếm và phát triển tinh thần ấy trong bản thân mình theo những yêu cầu của Chúa. Trong trường hợp này, họ đã được thưởng nếm Thiên đàng ở ngay trần gian, và xem như nước Thiên Chúa thực sự đã cất cánh bay.
Như thế các vị thánh, những con người thực sự của Thiên Chúa, tượng trưng cho sự chiếu giãi vinh quang sẽ đến và làm cho người ta tiên cảm được những gì sẽ xảy ra trong ngày Chúa trở lại.
26. Gieo gì, gặt nấy--Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ càn khôn và Ngài đã đặt ra quy luật để điều hành vạn vật. Một trong những quy luật đó là “Gieo gì, gặt nấy.” Đây là quy luật phổ quát, bất di bất dịch, chi phối mọi hoạt động của vũ trụ cũng như con người.
Quy luật này vận hành như sau:
Nếu chúng ta đứng giữa những vách núi bao quanh và thét lên một lời nguyền rủa: “Khốn cho ngươi!” thì sẽ có nhiều lời nguyền rủa “Khốn cho ngươi! Khốn cho ngươi!...” liên tục dội lại bên tai. Trái lại, nếu chúng ta la vang những lời chúc phúc: “Phúc cho anh!” thì sẽ có nhiều lời “phúc cho anh! phúc cho anh!…” vọng về.
Nếu người nông dân mang một thúng lúa đi gieo, thì khi đến mùa, anh ta sẽ thu hoạch về nhà cả trăm thúng lúa khác; Khi anh ta gieo một thúng bắp, thì anh sẽ thu hoạch được hằng trăm thúng bắp. Trái lại, khi anh ta gieo cỏ xấu vào ruộng của mình, thì khi đến mùa, anh ta chỉ thu hoạch toàn cỏ dại.
Quy luật này đã được Thiên Chúa ghi khắc vào lương tâm con người từ khi mới dựng nên họ.
Quy luật này được nhân gian phát biểu như sau:
- “Ác giả ác báo” hay là “Quả báo”.
- “Cha mẹ hiền lành để phúc cho con.”
- “Ở hiền, gặp lành.”
- Còn thánh Phao-lô trong thư Ga-lát (6,7-8) thì dạy rằng: “Gieo giống nào thì gặt giống đó”. Ngài viết: “Ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt, thì sẽ gặt được hoa trái của Thần Khí là sự sống đời đời” (Galat 6,7-8).
- Và Chúa Giê-su cũng dạy cho muôn người ghi nhớ bài học đó như sau: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Ngài sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6, 37-38).
Vì nắm vững quy luật nầy, nên có nhiều người dù không được biết giáo lý của Hội thánh, không biết mười điều răn… nhưng vẫn sống theo lương tâm, ăn ở ngay lành và không dám phạm tội ác, vì họ sợ quả báo, sợ quy luật gieo gì gặt nấy. Họ tin rằng khi gây ra một tội ác thì mai sau sự ác sẽ dội ngược về và giáng xuống trên đầu họ, trên con cháu của họ. Họ cũng tích cực làm từ thiện, làm việc phúc đức… vì tin rằng phúc lộc sẽ quay trở lại với mình.
Đúng vậy, “gieo gì, gặt nấy” là quy luật muôn đời. Khi làm điều ác, con người tự gieo hoạ cho mình. Hôm nay gieo gió, ngày mai sẽ gặt bão. Hôm nay làm điều phúc đức, mai đây sẽ được phúc lành.
Từ lời Chúa dạy, chúng ta có thể rút ra bài học quý báu cho mình: phúc hay hoạ đều do mình mà ra cả.
Nếu chúng ta muốn rước họa vào thân thì cứ làm điều ác, chắc chắn mai đây tai hoạ sẽ giáng xuống trên đầu: “Kẻ nào xét đoán sẽ bị xét đoán, kẻ lên án sẽ bị lên án…” “Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm" (Mt 26, 52).
Nếu chúng ta muốn thu hoạch nhiều ơn phúc thì hãy yêu thương mọi người, hy sinh phục vụ, tha thứ cho người ta, làm ơn làm phúc cho kẻ khác… chắc chắn đời ta sẽ được dồi dào ơn phúc, như lời Chúa phán: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Ngài sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.”
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa dạy chúng con biết rằng làm điều thiện là gieo trồng hạnh phúc; Làm điều ác là tự rước họa vào nhà.
Xin cho chúng con ghi khắc bài học này vào tâm khảm và đem ứng dụng vào cuộc sống hằng ngày để thu hoạch cho mình nhiều hạnh phúc, nhiều niềm vui ở đời này và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
27. Chú giải của Fiches Dominicales
“THƯƠNG XÓT NHƯ CHA LÀ ĐẤNG THƯƠNG XÓT”
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Một tình yêu không loại trừ và vô vi lợi
Thánh sử Luca đã nhập đề bài Chúa giảng "ở chỗ đất bằng" bằng những "mối phúc" "mối họa" Chúa gởi đến cho những người bị cuộc sống bầm dập hoặc phải chịu bách hại vì đức tin. Giờ đây Luca muốn đề cập đến một thái độ hoàn toàn đặc trưng của người môn đệ Đức Giêsu: lòng yêu thương những kẻ thù, những kẻ "ghét " họ, "nguyền rủa" họ, những kẻ muốn chiếm đoạt danh tiếng, của cải và thân xác họ.
Đức Giêsu bắt đầu trình bày đòi hỏi cơ bản này: "Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em".
H. Cousin xác định.' "Đây không phải vì lòng quý nên ta có đối với người trong gia đình, hay là tình bằng hữu đối với người đồng trang lứa, càng không phải là tình yêu say đắm! Đó là vấn đề biết quý trọng và cư xử tốt với kẻ thù và biết biểu lộ tâm tình ấy bằng cử chỉ và lời nói" ( “L'Evangile de Luc ", Centurion, tr. 96)
Tiếp theo là những thí dụ Đức Giêsu đưa ra để mời gọi các môn đệ khi bị người ta đối xử hung bạo, thì đáp lại bằng "thái độ bất hung bạo, hãy nhường nhịn hết mình: "Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong..,"
Sau cùng, Đức Giêsu đưa ra luật vàng cho cung cách cư xử của các môn đệ: không chỉ yêu thương kẻ yêu thương mình, bởi lẽ "ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế", hãy yêu thương nhau cách vô vị lợi, không tính toán, chỉ chờ đợi sự đáp trả ở một mình Chúa mà thôi: "Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao ".
2. Giống lình yêu của Chúa Cha:
Khi cư xử như vậy, khi thực hành yêu thương kẻ thù, khi từ chối cướp quyền thẩm phán của Thiên Chúa, các môn đệ sẽ là "con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác "; khi noi gương lòng nhân hậu của Thiên Chúa, họ sẽ nên giống Người.
- Khi cư xử như vậy, người môn đệ sẽ theo gương Thầy mình là Đấng, suốt cuộc đời và một cách trối vượt trong cuộc Khổ nạn của Người, đã thực thi tình yêu thương và tha thứ, mà Người đã đòi hỏi nơi họ. R. Meynet bình giảng: "Đức Giêsu đã chịu để cho tên đầy tớ Thầy cả Thượng phẩm tát mình, và
đã chịu để cho người ta đánh đòn, Người ta đã lột không chỉ áo ngoài của Người, mà cả áo trong nữa. Người đã giang hai tay và đưa cả hai chân ra cho người ta đóng đinh vào thập giá. Khi sắp trút hơi thở cuối cùng và phó linh hồn, Người còn cầu xin Cha tha thứ cho những kẻ hành hình Người. Thế mới biết, khi Chúa Cha yêu thương phường vô ân và quân độc ác, tình yêu ấy đã dẫn Người đi tới tận đâu: Người đã không từ chối ban chính Con Một mình. Tình yêu của Chúa Cha đối với mọi người đã hóa thân trong con người Đức Giêsu" (L'evangile selon saint Luc. Phân tích tu từ", tập 2, trg 80).
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. “Nếu chúng ta muốn bắt chước Chúa Giêsu”
(L. sintas, trong "Parole de Diêu pour la méditation ét l'homélie. Năm C". Médiaspaul, 1994, trg 83).
Nếu ta đọc những lời này vào lúc lòng ta không có điều chi ray rứt và ta đang vui tính, thì có thể thấy những lời ấy thật tuyệt vời. Trái lại trong trường hợp ta bị nhục mạ, phải cay đắng vì là nạn nhân của một bất công, thì những lời của Đức Giêsu xem ra không thể chịu nổi. Thế nhưng chính trong những giờ phút ấy, Lời Chúa mới tỏ cho thấy nó có sức mạnh và sự thật. Thế nghĩa là thế nào?
Chúa nói với ta rằng: "Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ ". Bằng lời vắn gọn đó, Đức Giêsu ban cho ta một cái nhiệt kế để đo lường mức độ lòng tin của ta.
Thực ra, vấn đề đích thực là thế này: Lòng tin làm thay đổi cái gì trong cuộc sống của tôi? Có khi nào tôi đề ra những việc làm mà giả như không phải là Kitô hữu, thì tôi sẽ không
đặt ra chăng? Yêu thương kẻ làm hại tôi, việc làm đó, một người có lương tri bình thường không nghĩ ra đâu. Để gợi ý cho tôi, Thiên Chúa đã không nề hà, vì tự mình chúng ta sẽ không nghĩ ra được điều đó. Thiên Chúa đã xuống. trần, sống kiếp phàm nhân giống hệt chúng ta. Người đã phải sống trong những hoàn cảnh đáng ghét, hoàn cảnh của một người mà chung quanh chỉ gặp toàn là thù địch. Trong hoàn cảnh như thế đó Đức Giêsu đã xin tha thứ cho những kẻ làm khổ Người. Nếu ta muốn bắt chước Đức Giêsu, thì việc chọn sống những tâm tình và thái độ của Người đến độ biết tha thứ cho kẻ thù, thiết tưởng là điều khẩn thiết!
Là Kitô hữu là tin rằng Đức Giêsu đã cuốn hút ta đến độ chính người sống trong ta. Người muốn nhờ chính con người của ta, con tim và trí tuệ, ánh mắt và lời nói của ta để nói với những con người thời nay, điều mà Người đã nói cách đây hai ngàn năm, trước mặt những người đương thời với Người. Người đã nói gì? Chỉ một sự thật này thôi: Thiên Chúa thương xót tất cả những ai thù ghét Người. Làm sao những người đương thời với chúng ta hôm nay sẽ nghe được lời này của Đức Giêsu nếu chính chúng ta không nói cho họ biết ơn tha thứ của Thiên Chúa là như vậy đó?
2. "Chúng ta được mời gọi phải vượt thắng chính mình"
( “Célébrer” Tạp chí của Trung tâm quốc gia về Mục vụ và
Phụng vụ, số 216, trg 26)
Những lời Tin Mừng này có lẽ khiến ta phải hoài nghi, và xem ra càng không mấy thích hợp với những thực tại khắc nghiệt thường ngày bị chi phối bởi luật rừng. Có người sẽ bĩu
môi cười: "giơ má kia à ".
Ta đừng lẫn lộn tử tế với ngu xuẩn...? Há chính Đức Giêsu đã không vặn hỏi kẻ đánh Người rằng: "Tại sao anh đánh tôi? ", mà không giơ má bên kia đó sao? Ta thấy rõ rằng Đức Giêsu muốn kêu gọi ta vượt lên chính mình; Người thúc ép ta phải có lối cư xử ngoại hạng của người Kitô hữu.
sứ điệp của Người được gởi đến "cho anh em là những người đang nghe tôi đây ", những người đang đón nhận mạc khải của phúc âm. Đó là những người đã chịu phép rửa, những người đã trở lại để sống trong Giáo hội và học dưới mái trường của vị Tôn sư dạy làm điều phi thường. Như ánh sáng đức tin, họ am hiểu lời Người. Có khó tính chăng nữa cũng phải nhận rằng cách cư xử theo Kitô giáo, việc noi gương bắt chước Đấng hằng tha thứ, dù là kẻ hành hình mình, bất quá chẳng phải là điều quá phi lý. Chẳng qua là con đường khôn ngoan vượt bực còn bí ẩn đối với "kẻ phàm nhân" thôi. Há chúng ta chẳng có được kinh nghiệm về niềm vui lớn lao khi ta xử sự theo lòng thương xót hoặc khi ta được chứng kiến những việc làm của tinh thần vị tha, tinh thần chia sẻ, tinh thần tha thứ và tinh thần yêu thương "điên rồ " đó sao? Những lời của Đức Giêsu vẫn có thể được những người sống ngoài Giáo hội hữu hình "nghe ra " và thực hành. Không thiếu những lời nói và hành động phi thường nơi những con người "sống ngoài " Giáo hội. Đó phải là động cơ thúc đẩy ta
dâng lên lòng biết ơn là mềm vui, vì chính họ cũng là con Đấng tối Cao.
Chớ gì lòng thương xót luôn luôn là cái đấu để chúng ta đong cho người khác...nhưng phải là cái đấu đã dằn đã lắc và đầy tràn?.
28. Cho đi
Disraeli, một chính khách nổi tiếng của Anh, lần kia đáp tàu trở về nước. Cùng chung chuyến tàu có một phu nhân mang theo đứa nhỏ, nhưng vì bà không ngó ngàng gì đến con khiến nó cứ khóc thét lên. Hành khách ai cũng bực mình, có người còn dọa ném nó xuống biển. Lúc đó Disraeli đã làm một việc mà có lẽ ít ai ngờ tới: ông ẵm lấy đứa bé, nói chuyện và cười đùa với nó. Đứa bé không khóc nữa và còn vui vẻ hơn khiến ai nấy cũng được vui lấy.
Câu chuyện trên cho thấy cách thức Disraeli thu phục nhân tâm: thay vì dùng uy quyền ra lệnh cho người đàn bà, ông đã dùng tình thương để bù vào sự thiếu sót bổn phận của bà. Đó quả là một minh họa cho lời dạy của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay.
“Ân đền, oán trả” là một áp dụng cụ thể cho các công bằng giao hoán. Từ khi có ý niệm về luật pháp, thì việc báo oán cũng được qui định. Luật clủa người Babylon chẳng hạn: “Nếu kẻ nào làm cho một người thuộc giai cấp dưới mất mắt hay gẫy chân tay, thì phải chịu sự mất mắt hay gẫy chân tay để đền bù”. Người Do thái cũng áp dụng luật này, nhưng không phân biệt giai cấp: “Mắt đền mắt, răng thế răng, mọi người đều có quyền được đền bù xứng đáng”. Thật ra, ý niệm về công bằng này không hoàn toàn chi phối luật lệ Do thái. Sách Lv 19,18 viết: “Ngươi sẽ không báo oán, không căm thù với con cái dân ngươi”. Hoặc Cn 25,21: “Nếu kẻ thù ngươi đói, hãy cho nó ăn, nếu nó khát, hãy cho nó uống”. Tuy nhiên, họ không buộc phải giữ những điều này, họ vẫn có thể đòi “mắt đền mắt, răng đền răng”.
Chúa Giêsu đến để kéo con người khỏi cái vòng oán thù lẩn quẩn này. Có thể xem cái vả má là đụng chạm đến danh dự, một xúc phạm đến vật chất. Dù bị xúc phạm đến vật chất hay tinh thần, người môn đệ của Chúa Giêsu không được vị vào đó để đòi báo oán. Hành động như thế không phải là nhu nhược, nhưng là diễn tả thái độ quả cảm sẵn sàng cho đi. Càng cho đi, người môn đệ càng gần với Chúa Giêsu, Đấng đã cho đi ngay cả mạng sống mình. Đồng thời sự cho đi cũng đưa con người lại gần với nhau, bởi vì trao ban là mở lối cho cảm thông. Thực hành lời Chúa dạy: “Ai xin thì hãy cho, ai vay muợn thì đừng từ chối” tức là đã tạo được một nối kết, nhiều nối kết sẽ tạo nên bền chặt. Một sợi tơ nhện thật mong manh, nhưng nhiều sợi vẫn có thể cầm giữ con mồi. Cũng vậy, một sự cho đi xét cho cùng chẳng đáng gì, nhưng nếu cả thế giới biết cho đi thì vẫn đủ sức cầm giữ sự ác.
Xin Chúa cho chúng ta biết sẵn sàng cho đi để trong trao ban, chúng ta sẽ được nhận lãnh, sẽ gặp được bình an và để người anh em chúng ta cùng hưởng nếm được hạnh phúc thật.
29. Nhìn ra nhau là anh chị em--‘Suy Niệm Lời Chúa’--Radio Veritas Asia
Có một Rabbi nọ hỏi một tín hữu Do Thái: “Có biết khi nào đêm nhường chỗ cho ngày không?” Sau một hồi nghĩ ngợi, tín hữu nọ mới trả lời: “Thưa thầy, đêm nhường chỗ cho ngày có lẽ khi người ta nhận ra ánh sáng bình minh đang ló ở chân trời”. “Không”. “Hay là khi người ta phân biệt được bụi cây với một người chăng?” Rabbi lắc đầu nói: “Không phải thế, đêm nhường chỗ cho ngày là khi mỗi người nhận ra gương mặt người khác là một người anh chị em của mình. Bởi vì cho tới khi nào con người không nhìn ra nhau là anh chị em, thì khi đó, đêm đen vẫn còn dày đặc trong tâm lòng chúng ta”.
Lời nói thâm trầm trên đây của Rabbi Do Thái nọ, có lẽ giúp chúng ta suy hiểu nghĩa sứ điệp mà Giáo Hội nhắn gởi chúng ta hôm nay.
Ơn gọi của chúng ta để trở nên thánh trọn lành như Thiên Chúa, là Ðấng vô cùng xót thương con người và ban giới răn hướng dẫn toàn cuộc sống của chúng ta, là cái lôgic của Tin Mừng yêu thương ấy mà Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta. Sách Samuel có viết về hành xử thánh thiện của vua Ðavít. Mặc dù vua Saolê ghen tương truy nã, nhưng khi có dịp thủ tiêu nhà vua, Ðavít đã không phạm tội giết vua theo ý kiến của hai người anh họ là hai tướng tài của mình. Ðavít minh chứng cho nhà vua thấy ông có thể hạ sát người, nhưng không làm vì ba lý do:
Thứ nhất, nhà vua là người được Thiên Chúa xức dầu tuyển chọn nên là người của Chúa. Do đó cần được tôn trọng, mặc dầu có khuyết điểm và hèn yếu đến đâu đi nữa.
Thứ hai, chính nghĩa là lẽ phải của trung thực đáng tin cậy, thì không dùng bạo lực bất công và các phương thế hèn hạ đen tối của sự dữ.
Và thứ ba, phương thế duy nhất giúp loại bỏ hận thù chống đối một cách vĩnh viễn không phải là giết đi, là triệt hạ, nhưng là cảm hóa để biến thù địch trở thành bạn hữu.
Khi theo ba nguyên tắc hành xử trên đây, Ðavít không chỉ lên tiếng cho nhà vua thấy mình là một tôi trung rất am tường phép Chúa và luật nước, mà còn chứng minh cho nhà vua thấy lòng nhân từ quảng đại của mình nữa. Nghĩa là Ðavít chứng tỏ ông là người vừa có tài, vừa có đức và do đó, là người lãnh đạo lý tưởng và phó thác việc xét xử và thưởng phạt cho Chúa. Ðavít tuyên xưng lòng tin vào sự công thẳng và tình yêu thương quan phòng của Ngài. Ðây là đặc điểm hiếm thấy nơi các nhà lãnh đạo chính trị xã hội trần gian. Trong khi đó, cung cách hành xử của vua Saolê chứng minh cho chúng ta thấy nhà vua đã vừa thiếu tài, thiếu đức, lại không phải là một minh quân. Thấy Ðavít có tài, có được mưu kế hơn người, đánh đâu thắng đó, được quần thần kính nể, được tin tưởng và toàn dân thương mến nên vua ghen tương, mà nhất là sợ Ðavít chiếm ngôi của mình. Thay vì trọng dụng Ðavít, giữ Ðavít ở lại phục vụ và trợ giúp quyền thế của mình, thì vua sanh lòng mấy lần mưu sát Ðavít, khiến cho Ðavít bị bắt buộc phải trở thành người sống ngoài vòng pháp luật. Nghĩa là vua Saolê đã tự chặt lấy cánh tay mặt của mình. Lòng ghen tương đã khiến cho tâm trí nhà vua mờ tối, đem ba ngàn quân truy nã vị tướng tài ba lỗi lạc của đất nước. Chính với thái độ sống hẹp hòi và thiếu sáng suốt, không biết trọng tài trọng hiền trên đây đã dẫn đưa dòng họ đến ngày tận diệt.
Thái độ sống quảng đại liêm chính của Ðavít đã khiến cho chúng ta thấy nơi ông gương mặt của chính Ðức Giêsu Kitô, vẫn luôn luôn tha thứ cho những người lầm lạc và cầu nguyện cho những kẻ giết mình. Các giáo huấn của Chúa Giêsu như ghi trong chương 6,22-38 của thánh Luca, chứng minh cho thấy sự thật này qua hình thái của nền văn chương khôn ngoan. Thánh Luca thu góp các lời rao giảng của Chúa Giêsu liên quan đến luật sống yêu thương đại đồng và kiểu cách hành sự nhân từ, thương xót vô biên theo mẫu gương của chính Thiên Chúa. Khi mời gọi chúng ta yêu thương kể cả kẻ thù địch, là Chúa Giêsu muốn các Kitô hữu sống tình yêu thương vượt xa mực thước và các nấc thang giá trị theo tâm thức của con người trần gian. Người đời thường chỉ yêu kẻ yêu mình và ghét kẻ ghét mình. Những người sống tinh thần Tin Mừng yêu thương của Chúa Giêsu thì yêu cả kẻ thù của mình nữa. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không chỉ rao giảng mà Ngài còn sống làm gương nữa, bằng cách hiến chính mạng sống mình để đền bù tội lỗi cho toàn nhân loại. Ở đây, Chúa Giêsu đề ra ba hình thức cụ thể trong nỗ lực sống yêu thương thù địch:
Thứ nhất, hãy làm điều lành phước đức cho kẻ thù ghét. Chúng ta lo lắng tạo dựng hạnh phúc cho họ sống được như thế, chúng ta mới xứng đáng là con Chúa, nếu Kitô hữu thù hận thì có khác gì họ.
Thứ hai, hãy chúc lành cho những người chúc dữ và nguyền rủa chúng ta. Ơn gọi của Kitô hữu là trở thành chúc lành cho người khác, đổ phước lành của Chúa xuống cho người khác và biến đổi môi trường họ sống trở thành môi trường đầy ơn phước của trời cao. Ơn phước phần hồn và kể cả ơn phước phần xác nữa.
Thứ ba, là cầu nguyện cho kẻ bắt bớ ngược đãi chúng ta để cho họ được ơn hối cải tâm lòng, thay đổi lối sống, từ bỏ kiểu cách sống gian tham độc ác, từ bỏ kiểu cách nói năng và hành xử của dã thú để sống người hơn và tin nhận Chúa và trở thành con cái Ngài.
Yêu người như Chúa Giêsu, đến độ triệt để khai trừ mọi hành động đối chất với bạo lực, luôn luôn sẵn sáng chia sẻ và quảng đại, không từ chối ai điều gì, là một thứ cụ thể cho mọi kiểu cách hành xử, là luật vàng của lòng yêu thương bác ái. Chúng ta muốn người khác làm những gì cho mình thì cũng phải làm tất cả những điều đó cho người khác. Chúng ta muốn người khác kính trọng yêu thương và trợ giúp chúng ta phải không? Hãy biết kính trọng yêu thương và trợ giúp họ như thế. Chúng ta muốn người khác dịu hiền thân thiện và an ủi đỡ nâng chúng ta phải không? Hãy dịu hiền, thân thiện và an ủi đỡ nâng họ như vậy. Chúng ta muốn người khác khoan hồng nhân thứ và cảm thông mọi tội lỗi yếu hèn và thiếu sót của chúng ta phải không? Hãy khoan hồng nhân thứ và thông cảm mọi tội lỗi yếu hèn và thiếu sót của người khác như vậy. Nếu ai cũng đem luật vàng trên đây ra thực hành nơi gia đình, giữa cộng đoàn, ngoài xã hội, thì chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, một cuộc cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử loài người sẽ xảy ra. Hòa bình, hạnh phúc, và thịnh vượng sẽ chan hòa trái đất này, sẽ chan hòa trong tâm lòng mỗi người, trong mọi gia đình, trong mọi quốc gia và trên toàn thế giới mà không cần phung phí biết bao nhiêu tài nguyên và nhân lực cho các dịch vụ chiến tranh; mà không phải mua bán, chế tạo vũ khí; mà không cần phải bắn giết tàn phá lẫn nhau. Cũng không cần phải thương thuyết, vất vả hòa đàm, tranh cãi, tốn tiền, tốn của, tốn giờ hao phí hơi sức, mà thường không đi đến kết quả cụ thể của việc làm. Luật yêu thương dung thứ mà Chúa Giêsu Kitô đề nghị với loài người, không chỉ là giải pháp cho mọi vấn đề xã hội mà loài người chưa sao giải quyết được, nhưng còn là con đường dẫn đưa tín hữu cho đến đỉnh trọn lành và trở nên thánh thiện và dung thứ như Chúa. Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô 15,45, thánh Phaolô cho chúng ta thấy Chúa Giêsu Kitô chính là Ðấng Cứu Thế và là con đường dẫn chúng ta đến cuộc sống thần thiêng bất diệt. Nếu con đường tội lỗi đã đưa Adong và toàn con cái loài người xa rời Thiên Chúa và đánh mất đi cuộc sống hạnh phúc của mình, thì giờ đây, Chúa Giêsu Kitô đến trần gian để dẫn đưa chúng ta trở về với Thiên Chúa. Ngài là Adong mới trao cho con cái loài người cuộc sống mới qua một tinh thần sống mới. Tinh thần của Tin Mừng yêu thương đại đồng, tinh thần của cuộc sống hướng trọn về Thiên Chúa và lấy Ngài làm mẫu mực duy nhất cho cuộc sống. Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta bí quyết làm thế nào để sống hạnh phúc, làm thế nào để tạo dựng hạnh phúc cho nhau và cách mạng thế giới. Chúng ta có can đảm chấp nhận và đem ra thi hành hay không?
30. Yêu thương
Sau hơn 50 ngày bị bắt làm con tin và bị sút gần 20 ký vì sống trong thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần, một nhà truyền giáo nọ đã bình tĩnh trả lời câu hỏi của các phóng viên về những gì mình đang suy tính trong lòng: “Tôi vẫn yêu mến đất nước và dân tộc đó, như ngày tôi mới đến truyền giáo cách đây 40 năm. Tôi đã tha thứ cho những kẻ bắt giữ và hành hạ tôi. Tôi muốn nói với họ rằng tôi không có gì thù ghét họ, nhưng vẫn yêu thương và sẵn sàng trở lại đó làm việc mục vụ”.
Những lời dạy của Chúa Giêsu mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, cũng không mập mờ, không nhượng bộ hay chiều theo khuynh hướng tự nhiên của con người muốn giới hạn tình yêu của mình đối với tha nhân.
“Hãy yêu mến anh em mình”, mệnh lệnh này được ghi rõ trong sách Lêvi 19,18. Những anh em được nhắc đến ở đây chỉ những kẻ thân thuộc, đồng hương, thuộc về dân riêng của Chúa. Còn câu: “Hãy ghét kẻ thù địch” thì chúng ta không gặp thấy công thức nào tương tự như vậy trong Kinh thánh. Những lời này có thể hiểu như một diễn tả tự nhiên của tâm lý thường tình nơi con người, một hậu quả của tình yêu thương có giới hạn trong khung cảnh những kẻ thân thuộc, những người thuộc về cùng một dân tộc, một xã hội. Theo tâm thức hạn hẹp của Cựu ước, bất cứ ai không thuộc về dân Chúa chọn, thì người đó là kẻ xa lạ, là kẻ thù địch, không được yêu thương.
Chúa Giêsu đã đến để mặc khải sứ điệp trọn hảo hơn, bẻ gẫy những giới hạn tự nhiên: “Còn Thầy, Thầy bảo các con: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”. Chúng ta chú ý đến hai chi tiết trong lời dạy của Chúa Giêsu:
* Thứ nhất: không còn ai bị loại ra khỏi tình yêu thương của người môn đệ Chúa và sự phân chia con người ra làm hai loại: thân thuộc và thù địch không còn nữa.
* Thứ hai: tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động cụ thể, và quan trọng nhất, đó là thi ân và cầu nguyện cho những kẻ không tự nhiên được chúng ta yêu thương, và đây không còn là tình yêu thương theo tình cảm, mà tình yêu thương thực sự hướng đến lợi ích của người khác.
Nhưng lại sao phải yêu thương như vậy? Bởi vì chúng ta là con cái của Thiên Chúa và do đó phải noi gương trọn lành của Ngài, đấng cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người lành.
Xin Chúa đổ tràn trên chúng ta tình thương của Chúa, để chúng ta được giải thoát khỏi tình yêu hạn hẹp, có tính toán, mà quảng đại yêu thương tất cả mọi người, ngay cả kẻ chống đối và có ác cảm với chúng ta.
31. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Theo Tin Mừng Mát-thêu, trong bài giảng trên núi, Chúa Giê-su đã đề cập tới những đức tính cốt yếu của người môn đệ Chúa. Đã là cốt yếu thì hẳn cũng là khó khăn vất vả mới tập tành và thể hiện trong cuộc sống. Đặc điểm của những đức tính này là đi ngược với cách ứng xử của con người trong xã hội, do đó những đức tính ấy làm cho khuôn mặt Ki-tô hữu không giống ai, nhiều khi họ thấy mình lạc lõng giữa dòng đời. Nhưng tất cả những đức tính ấy được gồm tóm trong câu kết luận của Chúa Giê-su: “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca sau khi trình bày bài giảng khai mạc của Chúa Giê-su dưới đất bằng, cũng ghi lại một câu kết luận của Chúa về một vấn đề vô cùng gai góc – yêu thương kẻ thù – khi Người lấy Chúa Cha làm tiêu chuẩn: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36). Thật là “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”! Thánh Mát-thêu trình bày con đường nên thánh của Ki-tô hữu một cách bao quát, pháp lý và nguyên tắc. Còn thánh Lu-ca thì vẽ con đường nên thánh cho ta một cách đơn sơ hơn, thực tế hơn, tuy không có nghĩa là dễ dàng hơn đâu. Vậy vấn đề thánh Lu-ca nêu lên gợi cho ta mấy thắc mắc: ai là kẻ thù của ta và tại sao lại lấy lòng nhân từ mà đối xử với kẻ thù?
a) Ai là kẻ thù?
Tôi nhớ câu đầu trong bài hát “Kẻ thù ta” của một ông nhạc sĩ Việt Nam (Phạm Duy) là: “Kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai?” Khi xác định một người là “kẻ thù của ta” thì ta đã ngầm hiểu rằng người ấy có tội đối với ta. Tội lớn thì thù lớn, khó mà tha và quên được; còn tội nhỏ thì cũng có thể tha và quên được vì khi nhìn lại chính mình ta thấy mình cũng có nhiều tội nhỏ đối với người khác.
Trong bài giảng, Chúa Giê-su đã nêu lên một số hành động của kẻ thù ta: nguyền rủa, vu khống, vả má, đoạt áo ngoài của ta. Chắc chắn một điều là thực sự ta không có lỗi gì để đáng chịu những hành vi bất công ấy. Vậy khi làm những hành vi bất công ấy cho ta, họ đã có lỗi với ta và trở thành kẻ thù của ta.
Nói người lại ngẫm đến ta! Khi ta xúc phạm đến một người là ta có tội với người ấy và ở mức độ nào đó ta trở thành kẻ thù của người ấy. Nếu quả như vậy, thì tất cả chúng ta đều là kẻ thù của Thiên Chúa. Đúng thế, kẻ thù đích thực của Thiên Chúa là ma quỷ và sự dữ. Ma quỷ còn muốn kéo theo con người cùng với chúng làm kẻ thù của Chúa khi nó hoạt động trong ta, cám dỗ ta sa ngã phạm giới răn Chúa. Mà ai trong thế gian này chẳng có tội, ngoại trừ Đức Ki-tô? Cho nên tội nguyên tổ đã đưa toàn thể nhân loại vào tư thế kẻ thù của Thiên Chúa. Giả như Thiên Chúa không yêu thương “kẻ thù” của Người là nhân loại tội lỗi, thì Người đã để họ hư mất luôn cho rồi và Người sẽ tạo dựng một nhân loại khác thay thế! Nhưng bản chất của Thiên Chúa là yêu thương và nhân từ, nên Người không hành xử trái với bản tính của Người. Cũng giống như trong Tin Mừng Mát-thêu, bản chất của Thiên Chúa là hoàn thiện, nên ta được mời gọi trở nên hoàn thiện như Người. Do đó, Thiên Chúa mới hoạch định một kế hoạch gọi là nhiệm cục cứu rỗi, để Người lấy lòng nhân từ mà đối xử với kẻ thù của Người.
b) Tại sao phải lấy lòng nhân từ mà đối xử với kẻ thù và biểu lộ lòng nhân từ cách nào?
Một cách cụ thể qua con người Chúa Giê-su, ta có thể nhận ra nhân loại đã xúc phạm Thiên Chúa như thế nào và Thiên Chúa đã đối xử lại với họ ra sao. Ai nói Chúa Giê-su không bị nguyền rủa và chúc dữ? Thân nhân Người cho Người là một tên khùng (Mc 3:21). Các kinh sư bảo Người bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám (Mc 3:22). Trước giờ chết trên thập giá, Thiên Chúa còn bị nguyền rủa và chúc dữ: “Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi và cứu cả chúng tôi với!” (Lc 23:39). Chúa Giê-su đã bao lần bị vu khống lân la với những kẻ xấu nết và tội lỗi. Kẻ thù Chúa muốn kết luận về Người: Gần mực thì đen mà! Bị vả má và đánh đòn thì vô kể, đến nỗi Phi-la-tô muốn dùng hình ảnh đau thương của Thiên Chúa làm người (Ecce homo) để gợi lòng thương hại của con người, vậy mà cũng không xong.
Nhưng Đấng dạy ta phải thương yêu kẻ thù đã sống trọn vẹn bài học ấy trước khi dạy ta. Người chúc lành cho mọi người. Người vẫn một lòng thương cả ông Phê-rô lẫn Giu-đa. Người đã cầu nguyện cho họ, xin Cha tha thứ cho họ. Từ trên thập giá Người đã tha thứ cho kẻ thù của Người. Những tên lính chia nhau áo ngoài, Người cho luôn cả áo trong. Người còn cho nhân loại luôn cả những giọt nước và máu cuối cùng trong trái tim yêu thương của Người. Đó là tất cả những cách cụ thể Chúa Giê-su biểu lộ lòng nhân từ của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Chúa Giê-su bao giờ cũng thực tế. Dạy nhiều quá, chúng ta đâu có nhớ và làm nổi. Cho nên Người đưa ra một vài điều thực tế nhất, những điều ta hay gặp nhất trong đời sống hằng ngày. Đó là đừng xét đoán, đừng lên án, và hãy tha thứ. Lòng nhân từ sẽ là cặp kính để ta nhìn người khác, cặp kính đó chính Thiên Chúa ban cho ta. Nhìn qua đó, ta sẽ không thấy được ai là kẻ thù ta, mà chỉ thấy người khác là con Chúa, là người anh chị em của ta.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Yêu thương kẻ thù và tha thứ cho kẻ thù là hành vi của duy Thiên Chúa nên loài người không thể làm được. Nhưng Thiên Chúa đã cho con người khả năng có thể yêu thương kẻ thù và tha thứ kẻ thù khi Người cho chúng ta một con người mẫu là Chúa Giê-su. Vậy tôi đã học nơi Chúa Giê-su ở những điểm này chưa? Tôi có kết hiệp với Người để yêu thương và tha thứ kẻ thù của tôi không? Nếu không, thì tôi phải làm gì để kết hiệp với Chúa Giê-su?
Ai là kẻ thù gần nhất của tôi? Hoàn cảnh thù ghét như thế nào? Tôi có cách thức cụ thể nào để yêu thương và tha thứ người ấy?
Tôi tập cách nào để không lên án và xét đoán người khác?
“Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận người khác là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
mà yêu mến người khác làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên lời Chúa nói:
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.” - Trích trong PRIER
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 112)
32. Luật yêu thương
Một phụ nữ nọ ngạc nhiên khi nghe tin Abraham Lincoln nói lên sự tử tế của quân đồng minh. Bà ta nói: “Tôi nghĩ tốt hơn chúng ta nên tập trung lại để tiêu diệt kẻ thù hơn là đối xử tốt với họ”.
Linclon trả lời: “Thưa bà, chúng ta tiêu diệt kẻ thù khi đối xử tốt với họ”. Đó cũng chính là sự khôn ngoan và lòng nhân ái toát ra từ lời Chúa dạy trong Tin mừng hôm nay.
Thật vậy, Chúa Giêsu đã đưa ra một phát lý hoàn toàn mới mẻ so với Cựu ước qui định: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. So với các dân tộc chung quanh, luật Cựu ước cho thấy dân Irael đã đạt được một ý thức khá cao về công bình. Nhưng Chúa Giêsu đến kể kiện toàn lề luật: thay cho thứ công bình “Mắt đền mắt, răng đền răng”, Chúa Giêsu đề ra luật của yêu thương và được qui tóm trong một lề luật duy nhất là mến Chúa, yêu người.
Luật yêu thương ấy không có giới hạn, cũng chẳng có luật trừ. Yêu thương là yêu thương mọi người và yêu thương cho đến cùng. Qua cách cư xử của Ngài đối với các tội nhân và ngay cả kẻ thù của Ngài, Chúa Giêsu đã chứng tỏ một tình yêu không điều kiện, không giới hạn, không luật trừ, và tình yêu ấy được thể hiện trọn vẹn qua cái chết của Ngài trên thập giá.
Khi tỏ bày tình yêu của Thiên Chúa và khi nối kết hai giới răn mến Chúa yêu người, Chúa Giêsu cũng chỉ cho con người thấy được ơn gọi đích thực của nó. Chỉ có một cách thể hiện hữu đối với con người đó là sống yêu thương. Khước từ yêu thương, con người tự chối bỏ chính mình. Đón nhận mạc khải của Chúa Giêsu, người Kitô hữu hiểu rằng chỉ bằng yêu thương, họ mới sống đúng ơn gọi làm người, và tỏ bày hình ảnh của Thiên Chúa mà họ mang trong mình.
Ước gì chúng ta ý thức được sứ mệnh cao cả của mình, để trong mọi sự và trong mọi quan hệ, chúng ta luôn thúc đẩy và hướng đến bởi một động lực duy nhất là tình yêu.
33. Kẻ nội thù
Không có gì hủy hoại sức con người bằng lòng thù hận: cừu hận là một hành động tự sát, ghét người cũng có nghĩa là ghét chính bản thân. Truyện Liễu thị Xuân Thu có kể lại như sau: Một người nọ nằm mơ thấy có người đeo gươm tự dưng đi vào tận nhà mắng chửi, nhổ vào mặt, rồi bỏ đi. Giật mình tỉnh dậy, anh ta ngồi bực dọc suốt đêm không sao ngủ được. Sáng hôm sau, anh tâm sự với một người bạn: “Từ thủa nhỏ đến giờ tôi vẫn là người hiếu dũng, chưa hề bị ai làm nhục, thế mà đêm hôm qua bị đứa nào làm nhục, tôi định tìm cho kỳ được đứa ấy để trả thù, nếu tìm thấy nó rồi thì tốt, còn không, chắc tôi phải chất mất”. Từ hôm đó, cùng với người bạn, sáng nào anh cũng ra đứng ngoài đường để rình. Rình ba ngày mà vẫn không thấy bóng dáng kẻ thù. Cuối cùng, anh ta về nhà uất cả người lên mà chết.
Câu truyện trên đây có lẽ chỉ là một dụ ngôn để nói lên sức tác hại của sự hận thù mà con người cưu mang trong tâm hồn. Lòng thù hận chính là kẻ nội thù nguy hiểm nhất, chỉ có một kẻ thù như thế mới có sức hủy hoại con người. Ít hay nhiều, xem ra ai trong chúng ta cũng có kẻ thù. Có những người ghen ghét hoặc tìm cách hãm hại chúng ta đã đành, mà chính chúng ta cũng không thiếu những kẻ để ghét bỏ và thù hận. Chúa Giêsu cũng có nhiều kẻ thù, đó là những kẻ rình rập, đeo đuổi để hãm hại Ngài. Đứng trước sự dữ và hành động gian ác, Chúa Giêsu không hề nhân nhượng. Ngài lên án gắt gao tất cả những gì xúc phạm đến Thiên Chúa và con người. Trong trái tim Ngài không có chỗ cho bất cứ tâm tình bất chính nào. Tuy nhiên, đối với các tội nhân là những kẻ làm điều ác, Chúa Giêsu luôn tỏ ra khoan dung. Ngài tha thứ cho chính những kẻ hành hạ và đóng đinh Ngài vào thập giá. Trong tâm hồn Ngài không có bất cứ tâm tình thù hận nào đối với kẻ thù của Ngài. Qua cử chỉ ấy, Chúa Giêsu đã mạc khải cho con người thấy được tình yêu của Thiên Chúa, đồng thời thể hiện được khả năng và ơn gọi của con người là sống yêu thương. Qua cử chỉ tha thứ ấy, Chúa Giêsu bày tỏ trọn vẹn chân lý về con người. Con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu, cho nên con người chỉ có thể sống trọn vẹn ơn gọi của mình bằng cách sống yêu thương, và yêu thương như chính Thiên Chúa, nghĩa là yêu thương và tha thứ cho kẻ thù của mình. “Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện”. Đây không chỉ là một lý tưởng, mà còn là một đòi hỏi tất yếu đối với con người. con người có sống cho ra người và có đạt được nhân cách của mình hay không, là tùy ở nó có biết sống yêu thương và tha thứ như Thiên Chúa hay không. Nguyện xin Chúa loại trừ khỏi tâm hồn chúng ta mọi thứ cừu hận và ban cho chúng ta tình yêu của Ngài, để chúng ta luôn biết nhìn mọi người như hình ảnh Thiên Chúa, và yêu thương bằng chính tình yêu của Ngài.
34. Yêu thù địch
Trong lịch sử những cuộc đấu tranh dành độc lập, Mahtma Ganhdi là người để lại tấm gương sáng chói nhất. Do cuộc tranh đấu bất bạo động, ông đã dành được sự độc lập cho đất nước khỏi sự đô họ của Anh quốc mà không phải đổ nhiều máu và tốn nhiều nhiều súng đạn. Người Anh ra đi trong danh dự và vẫn được người Ấn xem như những người bạn. Lấy tình thương làm nền tảng, Ganhdi kêu gọi đồng bào ông dù tranh đấu cho sự thật, công lý và quyển lợi của mình, nhưng vẫn yêu thương và tha thứ cho kẻ thù. Chủ trương tranh đấu bất bạo động, như Ganhi đã có lần thú nhận, được múc lấy từ chính giáo lý tình thương của Chúa Giêsu.
Tình thương mà Chúa Giêsu rao giảng là tình thương không biên giới, vượt mọi ranh giới của gia đình, chủng tộc, ngôn ngữ, màu da, để nối kết mọi chiều kích của nhân loại, kể cả kẻ thù địch. Chúa Giêsu không bao giờ rao giảng 1 giáo lý mà chính Ngài không thực hiện trước. Kẻ thù không đội trời chung của người Do Thái là Samari đã được Ngài dành cho một sự ưu ái đặc biệt. Ngài còn thách đố người Do Thái khi giới răn yêu thương. Nhưng có lẽ không có gì vương giả vàng trung thực hơn trong cuộc đời Chúa Giêsu cho bằng khi chịu treo trên thập giá Ngài vẫn mỡ miệng tha thứ cho những kẻ đang hành hạ Ngài.
Cử chỉ tha thứ ấy của Chúa Giêsu là mạc khải tình yệu của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương không loại trừ người nào, Thiên Chúa yêu thương và thức ho cả những kẻ chối bỏ xà xúc phạm đến Ngài. “ Hãy nhân từ như Cha chúng con là Đấng nhân từ”. Kêu gọi các môn đệ noi gương Cha trên trời, Chúa Giêsu mặc cho tình yêu và tha thứ chiều kích của đức tin: sống yêu thương và tha thứ là thể hiện của niềm tin, nghĩa là người ta không thể tôn thờ Thiên Chúa mà không yêu thương và tha thứ cho người đồng loại của mình. Người Kitô hữ yêu thương và tha thứ cho kẻ thù bởi vì họ muốn làm dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Sống trong một xã hội xây dựng trên hận thù, lấy sự phân biệt bạn thù làm châm ngôn xử thế, người kitô hữu vẫn còn có thể chứng minh cho mọi người thấy rng Thiên Chúa đang hiện diện và hành động trong xã hội ấy bằng chính tình yêu thương và lòng tha thứ của các tín hữu của Ngài.
35. Yêu thương
Chúa Giêsu nhắc lại đường lối chung của đời sống rồi Ngài loại bỏ bằng câu hỏi: “Thì còn ân nghĩa gì?’’ Thường thì người ta khoe mình cũng tốt như những người chung quang. Rất có thể họ đúng như vậy. Nhưng Chúa Giêsu hỏi: “Ngươi tốt hơn người thường được bao nhiêu?” Tiêu chuẩn để chúng ta so sánh không phải là với người lân cận, có thể chúng ta bằng họ. Nhưng chúng ta phải so sánh mình với tiêu chuẩn của Thiên Chúa, và như vậy chúng ta còn xa lắm với tiêu chuẩn của Ngài.
Ấy là để chúng ta nên giống như Thiên Chúa, vì đó là ý muốn của Thiên Chúa trong các hoạt động của Ngài. Chúa khiến mưa xuống trên kẻ lành và kẻ dữ. Chúa nhân từ đối với kẻ làm vui lòng Ngài mà cũng nhân từ đối với những kẻ làm buồn lòng Ngài. Tình yêu Thiên Chúa bao bọc thánh nhân cũng như tội nhân. Chúng ta phải noi gương mẫu tình yêu đó. Nếu chúng ta cũng tìm lợi ích cho kẻ thù nghịch, thì chúng ta mới thực sự là con cái Thiên Chúa.
Mội người Ba – Lan đã kể câu chuyện cảm động và người đã chứng tỏ lòng thương yêu của kẻ thù – là anh ta – như sau: “Tôi đã bị bắt, cảnh sát đã tìm thấy tôi. Tôi đã giết bà Hammelmann, và tôi cũng bắt luôn bốn người con của bà. Tôi nhìn thấy họ chết trong vũng máu. Sau khi cảnh sát bắt được tôi, tôi bị đưa ra tòa. Quan tòa tuyên án: “Anh đã làm một việc vô cùng tàn bạo, anh phải ngồi tù hai mươi năm.”
Đang khi ở trong tù, tôi có nhận được một lá thư. Đây là một lá thư hết sức lạ lùng của ông Hammelmann. Ông đã viết lá thư này cho tôi vì ông đã nhận được tin chánh quyền Polish sẽ không cho phép tôi trở về quê hương của tôi là Ba – Lan. Ngay cả cánh quyền Đức cũng để nói rằng: “Chúng tôi không muốn anh sống tại nước Đức.” Bức thư của ông Hammelmann viết: “Tôi tha thứ cho anh về việc anh giết vợ và bốn con tôi. Tôi cũng đang vận động với chánh quyền Đức để họ cho phép anh có thể ở trong nhà tôi và tôi sẽ giúp anh sống một đời sống lương thiện.”
Trong thư ông cắt nghĩa: “Tại sao tôi giúp đợ anh? Tại sao tôi lại có thể tha thứ cho anh về tội anh tàn sát gia đình tôi? Tôi có thể làm điều này vì Thiên Chúa đã làm một điều lạ cho tôi. Ngài đã ban cho tôi Thánh Thần của Ngài. Thánh Thần của Thiên Chúa bây giờ dẫn dắt đời sống tôi và Ngài ban sức cho tôi có thể tha thứ cho anh.”
Bây giờ tôi biết được rằng Thánh Thần của Thiên Chúa phải có một quyền năng siêu việt. Ngài đã cất mối tử thù khỏi lòng một ngày và ban cho ông ta một tấm lòng muốn giúp đỡ tôi mặc dầu tôi đã giết vợ con ông ta.”
36. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Các mối phúc đã phác họa dung mạo người môn đệ Chúa Giêsu, biết chấp nhận những thua thiệt trong cuộc đời và bị bách hại về thể xác cũng như tinh thần vì họ muốn sống theo giáo lý của Người. Phản ứng tự nhiên của người bị bách hại là không thể đội trời chung với kẻ thù là người bách hại mình, chứ nói chi tới việc yêu thương kẻ thù. Có lẽ vì thế mà Tin Mừng Lu-ca đặt vấn đề yêu thương kẻ thù ngay sau các mối phúc, coi như một điều kiện căn bản để có thể sống những mối phúc nói trên. Vậy bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục quảng diễn những mối phúc bằng những trường hợp cụ thể rút từ lối sống của người đời và đòi hỏi người môn đệ phải sống ngược lại lối sống ấy thì mới nói lên được căn tính của người đi theo Chúa.
1) Yêu thương kẻ thù
Đã chọn đi ngược với lối sống của thế gian, môn đệ Chúa không thể đồng hành với người đời ở bất cứ nơi nào và dĩ nhiên đã trở thành thù địch với nhau rồi. Môn đệ Chúa sống theo quy luật của các mối phúc, còn người đời sống theo quy luật của các mối họa. Người môn đệ Đức Ki-tô lấy Thiên Chúa làm điểm tựa, vì chính Người mới là nơi cư ngụ vĩnh viễn (Nước Thiên Chúa), sự no đủ đích thực, hạnh phúc trường sinh và phần thưởng lớn lao. Ngược lại, người đời lấy chính họ làm cứu cánh và lấy thế gian cùng những gì thuộc về nó làm phương tiện, đó là sự giàu có sang trọng, no nê phè phưỡn, vui chơi trác táng và tiếng tăm địa vị.
Từ sự khác biệt ấy, môn đệ Chúa trở thành cái gai trước mắt người đời và luôn luôn phải đối phó với việc bị tẩy chay và bách hại. Trước tình trạng phũ phàng ấy, Chúa Giêsu đưa ra một bài học độc đáo và thực tế. Ở đây ta nhận thấy hoàn cảnh khác với hoàn cảnh trong Tin Mừng Mát-thêu. Là Tin Mừng viết cho người Do-thái, Mát-thêu đưa ra những so sánh như: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa... Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”. Còn Lu-ca là Tin Mừng viết cho anh em Dân ngoại nên không trưng dẫn Lề Luật, mà chỉ đề cao Chúa Giêsu là Luật tối cao: “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây”. Vậy Chúa Giêsu đã nói gì về những điều môn đệ Người phải làm khi gặp trường hợp bị kẻ thù bách hại?
Trước hết, hãy yêu thương kẻ thù, đó là nguyên tắc căn bản thứ nhất. Để sống tình yêu thương này, người môn đệ phải lấy đức mà đáp lại oán, lấy việc lành mà trả cho việc dữ. Nguyên tắc thứ hai là mức độ yêu thương và làm ơn ít ra phải tích cực và hơn mức bình thường, vì yêu thương bao giờ cũng vượt trên mức công bằng. Yêu thương đòi ta phải đi bước trước và chủ động. Với yêu thương, người môn đệ làm chủ được mình. Thay vì theo thói đời là nguyền rủa lại kẻ nguyền rủa mình, người môn đệ biết tự chế, bắt mình phải theo lệnh truyền của lòng yêu thương mà nói điều tốt cho kẻ thù. Họ thắng được lòng tham tự nhiên lúc nào cũng muốn giữ cho mình, mà sẵn sàng quảng đại cho đi.
Tuy nhiên, nghe nói vậy nhưng thực hành lại là vấn đề khó khăn vô cùng. Tại sao ta lại phải làm một điều “trái tự nhiên” như vậy? Chúa Giêsu có đòi hỏi quá đáng không? Dựa vào đâu mà ta có thể biện minh cho việc yêu thương kẻ thù? Chúa Giêsu cho ta câu trả lời.
2) Có yêu thương kẻ thù, “anh em mới là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác”
Cha nào con nấy. Đó là lý do. Ta phải yêu thương kẻ thù, vì chính Thiên Chúa, Cha chúng ta, yêu thương kẻ thù của Người. Nhưng kẻ thù của Thiên Chúa là ai? Là những kẻ dữ, những kẻ tội lỗi. Nói như thế thì mọi người đều là kẻ thù của Thiên Chúa, vì tất cả chúng ta đều là những người tội lỗi, chứ có ai là vô tội trước mặt Người đâu. Thế mà Người vẫn thương ta, vẫn sai Con Một Người đến để kêu gọi những người tội lỗi và Con Một Người còn chấp nhận chết khổ nhục để xóa bỏ tội lỗi ta.
Nếu Thiên Chúa, Cha chúng ta, đã và vẫn đang yêu thương ta là “kẻ thù” của Người, thì ta phận làm con cái Người lại có thể làm ngược lại với đường lối của Người hay sao? Chúa Giêsu đề cập tới vấn đề ân nghĩa ở đây. Việc Thiên Chúa yêu thương ta mặc dù ta thân phận tội lỗi, đó là một ân nghĩa. Ân nghĩa thuộc bình diện yêu thương, chứ không phải công bằng. Cho nên đối với kẻ thù, ta không chỉ đối xử công bằng, nhưng phải tích cực hơn để đi vào lãnh vực yêu thương. Trong công bằng có sự tính toán và sòng phẳng. Còn yêu thương thì chỉ nghĩ đến cho đi, vì yêu thương là ân huệ. Thiên Chúa đã yêu thương ta nên cho ta mọi thứ ân huệ và cuối cùng cho ta Ân Sủng đầy tràn tức là Con Một Người.
3) “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ”
Mỗi tác giả Tin Mừng có một cách để định nghĩa thế nào là nên thánh. Mát-thêu thì nêu lên định luật: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Còn Lu-ca thì thực tế hơn: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36).
Mặc dù ta là “kẻ thù” của Thiên Chúa, nhưng Người vẫn đối xử nhân từ với ta. Đối xử nhân từ là đối xử không theo lẽ công bằng, nhưng theo lẽ tình yêu. Mà tình yêu thì có những lý lẽ riêng của nó, nhiều khi không hiểu được. Cụ thể là tình yêu Thiên Chúa. Con tim của Thiên Chúa có những lý lẽ ở ngoài lối suy nghĩ của con người. Nhân từ của Thiên Chúa là phong cách đặc biệt để biểu lộ tình yêu của Người. Người yêu thương kẻ thù của Người bằng cách tỏ ra nhân hậu đối với chúng. Chẳng những Người không xét đoán, không lên án, mà còn tha thứ nữa. Thật không thể hiểu được Thiên Chúa yêu thương cách đó! Đấy là đấu Thiên Chúa đong cho ta và Người cũng muốn ta đong như vậy cho người khác.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Chúa Giêsu đã sống định luật “yêu thương kẻ thù” như thế nào? Tôi đọc thấy gì trong những sách Tin Mừng về điểm này? Có khi nào tôi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong lãnh vực này không?
Kẻ thù đáng kể nhất của tôi hiện giờ là ai? Tôi có kế hoạch nào thực thi lời Chúa để yêu thương họ?
Hay xét đoán là một nết xấu thường tình. Vậy tôi sẽ làm cách nào để tập không xét đoán người khác? Trong ý nghĩ? Trong lời nói?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
đón nhận những người khác
là điều vượt quá sức con,
vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
con không thể nào kính trọng kẻ khác được,
vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
có những ngày
mà yêu mến người khác
làm cho tim con đau nhói,
vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau
và những giới hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
trong những ngày khó khăn đó,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
tất cả chúng con đều là con cái Chúa
và đừng để con quên lời Chúa nói:
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là làm cho chính Ta.” - Trích trong PRIER
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 112)
37. Hãy yêu kẻ thù
Vào ngày 13.05.1981, cả thế giới đều sửng sốt kinh hoàng trước cái tin Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bị ám sát tại chính công trường thánh Phêrô. A-li Ac-ca (Ali Agca), một thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ thủ phạm bắn ngài, ngay lúc đó đã bị bắt giam. Về phần Đức Giáo Hoàng, sau một thời gian chữa trị đã bình phục và việc đầu tiên Ngài làm là đến nhà tù thăm A-li, nói chuyện lâu giờ với anh ta và sẵn sàng tha thứ tội ám sát ngài của anh ta. Chính tình yêu mến Đức Giêsu đã thúc đẩy vị đại diện của Người dưới trần gian, có lòng bác ái vô biên, là tha thứ cho kẻ giết hại mình, giống như Thầy chí thánh cũng đã từng cầu xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ thù ghét giết hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”.
Người xưa có câu: “Ác gỉa ác báo”; “Gieo gió gặt bão”; Làm điều ác thì sẽ gặp điều ác. Lấy oán báo oán chỉ tăng thêm hận thù mà thôi. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan bóng tối. Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Nếu chúng ta không sống theo lời dạy của Chúa Giêsu để tha thứ cho tha nhân những sự xúc phạm của họ đối với mình thì phản ứng dây chuyền của sự ác là hận thù sẽ tăng thêm, bạo lực sẽ kéo theo bạo lực, và tất cả chúng ta sẽ rơi vào hố sâu diệt vong.
Một nhà tâm lý đã nói rằng: “Nếu anh nuôi lòng thù hận muốn giết kẻ thù đã làm hại anh, thì anh hãy sắm sẵn hai chiếc quan tài: Một chiếc để dành cho kẻ thù sẽ bị anh giết chết, còn chiếc thứ hai sẽ dành cho chính anh. Vì anh cũng sẽ bị chết dần chết mòn do lòng thù hận gây ra”. Thực vậy, hận thù gây tác hại cho chính người thù ghét kẻ khác. Nó làm tổn thương tinh thần của người nuôi sự oán thù trong lòng. Nó hủy diệt nhân cách của họ. Ba-con nói: “Khi trả thù, người ta biến mình ngang hàng với kẻ thù. Còn khi tha thứ thì người ta vượt cao hơn hẳn kẻ thù”.
Các chuyên gia tâm lý ngày nay đều công nhận rằng: “Hận thù thì hủy diệt, còn yêu thương thì phát triển nhân cách một cách lạ lùng và hữu hiệu”. Tình yêu có phép mầu sẽ biến thù thành bạn. Ap-ram Lanh-côn (Abraham Lincon) nói: “Biến thù thành bạn, tức là ta đã tiêu diệt kẻ thù rồi vậy!”. Chính Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đã dạy chúng ta: “Anh em hãy yêu kẻ thù…Hãy tha thứ thì sẽ được thứ tha. Hãy cho đi thì sẽ được cho lại!”.
38. Yêu như Chúa yêu
Chúa yêu quá sức mình. Yêu để rồi, không còn kể gì đến bản thân mình nữa. Yêu đến nỗi tha thứ quá dễ dàng.
Chẳng hạn, trong giờ xử án Chúa Giêsu, thánh Phêrô đã chối Chúa ba lần, nhưng tìm trong Tin Mừng, chẳng thấy có lời nào Chúa trách móc thánh Phêrô về tội chối Thầy. Nếu là tôi, không chừng tôi sẽ ghi lòng, sẽ nhớ mãi khuôn mặt kẻ bội phản và không dễ tha thứ. Hoặc có thể tôi sẽ tức tối, đau buồn vì người môn đệ của mình từ chối mình.Nhưng Chúa Giêsu thì không. Chẳng những Chúa không tức tối, không vạch mặt kẻ phản bội, mà sau khi sống lại, Chúa còn công khai ban quyền cho thánh Phêrô coi sóc Hội Thánh. Chúa lặp đi, lặp lại đến ba lần: “Ngươi hãy chăn dắt đàn chiên của ta”. Chúa yêu quá sức, yêu đến nỗi bất chấp tội của thánh Phêrô.
Khi hấp hối trên thánh giá, người trộm cùng bị đóng đinh bên phải Chúa Giêsu có cả một quá khứ tội lỗi đến nỗi người ta phải giết đi, vậy mà chỉ cần một lời nói thôi: “Thưa Thầy, Khi Thầy về nước của Thầy, thì cho tôi theo với”, ngay tức khắc, quá khứ đen tối của anh được lấp hết. Chúa trả lời dứt khoát: “Ngay hôm nay, anh ở trên thiên đàng với Ta”. Chúa yêu, yêu quá sức lẽ mình. Yêu đến mức, chỉ trong nháy mắt, mọi khuyết điểm, Chúa đều phủ lấp hết, quyên hết, tha thứ hết.
Kinh nghiệm cho thấy: tha thứ là một việc làm khó. Nhưng khó không có nghĩa là không thể làm được, chỉ sợ lòng ta cố chấp, tự ái, kiêu căng và nuôi mãi hận thù. Ước gì mỗi chúng ta luôn ý thức lời Chúa dạy, luôn biết để cho Lời của Người trở thành mọi phản ứng, mọi suy nghĩ và hành động của bản thân mình, để chính Lời Chúa làm sức mạnh, giúp ta xóa bỏ thù hận, xóa bỏ mọi ngăn cách, để tha thứ và để sống yêu thương.
39. Tha thứ
Chuyện “Nghìn Lẻ Một Đêm” của Ba Tư có kể lại một phiên tòa như sau:
Có hai người anh em ruột bắt trói được thủ phạm giết gia đình. Họ đem tên sát nhân đến trước quan tòa và yêu cầu xử theo luật “ Mắt đền mắt răng thế răng”. Kẻ sát nhân đã dùng đá để ném chết cha họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật định.
Trước mặt quan tòa, tên sát nhân nhận tội và sẵn sàng chịu hình phạt. Chỉ xin hoãn ba ngày để hắn về giải quyết vẫn đề liên quan đến một người cháu được ký thác cho hắn trong coi từ nhỏ. Giữa lúc quan tòa đang do dự, thì từ trong đám đông dự phiên tòa, có một người giơ tay cám kết: “Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời cam kết của tử tội. Nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi sẽ chết thay cho hắn”.
Tên tử tội được tự do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Đúng kỳ hạn, giữa lúc mọi người đang chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, hắn hiên ngang tiến ra pháp trường, dõng dạc tuyên bố: “Tôi đã giải quyết việc gia đình. Giờ đây, đúng theo lời cam kết, tôi xin trở lại để chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết của mình để người ta sẽ không nói: Chữ tín không còn trên mặt đất này”.
Sau lời phát biểu hùng hồn của tử tội, người đàn ông bảo lãnh cho hắn cũng ra giữa đám đông tuyên bố: “Phần tôi, sở dĩ tôi đứng ra bảo lãnh cho người này vì tôi không muốn để cho người ta nói: “Lòng quảng đại không còn trên mặt đất này”.
Sau hai lời tuyên bố trên, đám đông bỗng trở nên thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi để thể hiện những gì là cao quí nhất trong trái tim con người.
Từ giữa đám đông, hai người thanh niên bỗng tiến ra nói với quan tòa: “Thưa Ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta sẽ không còn nói: “ Lòng tha thứ không còn hiện hữu trên mặt đất này”.
Tha thứ là một cử chỉ anh hùng, là một lỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, phản ứng thường tình của con người, để bước vào thế giới siêu nhiên của những người con Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.
Tha thứ là thể hiện cao cả nhất của tình yêu. Nếu yêu thương là trao ban thì tha thứ còn lớn hơn cả trao ban, vì tha thứ là trao ban cho kẻ thù của mình.
Quả thật, tha thứ là trao ban hai lần. Nếu chúng ta có thể cho đi của cải mình, có thể cho đi mạng mình vì người mình yêu, thì tha thứ còn cao c hơn rất nhiều, vì tha thứ là trao ban cho kẻ thù của mình.
“Hãy yêu kẻ thù”. Đó là lệnh truyền đã được Đức Giêsu nhắc lại hai lần trong bài tin mừng hôm nay. Đó cũng là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Người. khó như không phải là không có thể. Chính Người đã làm gương cho chúng ta khi Người xin Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ mình. hơn nữa, Người còn minh oan cho họ: “Vì họ lầm chẳng biết”.
Chính hành vi cao cả này mà Đức Giêsu đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. và đó cũng là nét cao quí nhất trong dung mạo của Đấng Cứu Thế. Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người, Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân, để tái tạo và phục sinh với Ngài.
Nhưng tại sao chúng ta phải yêu kẻ thù? Yêu người yêu mình thì dễ, ai lại đi yêu kẻ làm hại mình bao giờ? Theo triết gia Nietzsche thì lời khuyên “Hãy yêu kẻ thù” chỉ dành cho người bạc nhược, nhát đảm. và Đức Giêsu chính là con người quá lý tưởng, thiếu thực tế.
Không, Đức Giêsu không phải là con người quá lý tưởng để quên mất thực tế, Người là con người thự tế đích thực.
Người xưa có câu: “Ác giả ác báo”, làm điều ác thì sẽ gặp điều ác. Lấy oán báo oán chỉ tăng thêm hận thù mà thôi. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Nếu chúng ta không sống theo lời dạy của Đức Giêsu thì phản ứng dây chuyền của sự ác là hận thù sẽ tăng thêm hận thù, bạo lực sẽ kéo theo bạo lực, và tất cả chúng ta sẽ rơi vào hố sâu diệt vong, như cơn lốc xoáy ập tới tiêu diệt mọi người.
Hận thù gây tác hại cho chính con người oán ghét kẻ khác. Nó làm tổn thương tinh thần của người oán thù, đồng thời, hủy diệt nhân cách của chính họ. Bacon viết: “Khi trả thù, người ta biến mình bằng kẻ thù. Còn khi tha thứ, người ta vượt cao hơn họ”.
Tâm lý học ngày nay khẳng định: “Hận thù thì hủy diệt, còn yêu thương thì phát triển nhân cách hết sức lạ lùng và hữu hiệu”.
Cuối cùng, tình yêu có phép mầu sẽ biến kẻ thù thành bạn hữu. Nếu hận thù là hủy diệt, tình yêu là xây dựng. Abraham Lincoln có nói: “biến thù thành bạn, phải chăng là tiêu diệt kẻ thù rồi?” Đó chính là sức mạnh của tình yêu, sức mạnh có tính sáng tạo và cứu độ.
Đối với người tín hữu Kitô, lý do căn bản nhất để chúng ta yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa trong Luca đoạn 6 câu 35: “Anh em hãy yêu kẻ thù… Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao”. chúng ta sẽ không bao giờ là con cái đích thực của Cha trên trời, nếu chúng ta không yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi chúng ta.
40. Lòng nhân từ Chúa
Có hai người thổ dân Nam Phi rất giận ghét hiềm khích nhau, mối thù mỗi ngày càng sâu đậm, chỉ mong ước có dịp thuận tiện nào để phục thù cho hả cơn giận. Ngày kia, một trong hai người gặp thấy một bé gái con của kẻ thù mình trong một khu rừng, anh ta bỗng nổi cơn xung giận tóm lấy cô bé, rút dao chặt cụt hai ngón tay, rồi thả cho đi. Cô bé vừa chạy về nhà vừa khóc nức nở, bàn tay máu chảy ròng ròng. Còn tên hung thủ vừa đi vừa la lớn tiếng tỏ vẻ thỏa chí lắm: “Ta đã trả thù được rồi!”
Ngày tháng trôi qua, thấm thoát đã mười mấy năm, cô bé đã lập gia đình, có chồng con và cảnh gia thất đầm ấm sung túc. Bỗng một buổi chiều kia, có một người hành khất đến xin của bố thí. Bà chủ nhà trẻ nhận diện ra, người hành khất đó chính là kẻ đã chặt hai ngón tay mình, vội vã trở vào trong nhà tìm cách “Báo thù”, bằng cách bảo người giúp việc đem sữa bánh ra cho ông ta ăn, trao cho hắn một số tiền để có kế sinh nhai; Khi ấy bà giơ bàn tay cụt ra và nói: “Tôi cũng đã trả thù được rồi! Người hành khất xúc động khóc ròng, vì cảm phục trước tấm lòng nhân từ tha thứ “Lấy ân trả oán” cho người đã làm hại mình.
Theo thường tình, người ta yêu thương kẻ mến thương mình, đền ơn cho người ân nhân của mình, cho vay mượn để được hoàn lại với lời lãi xòng phẳng. Đó chỉ là luật công bằng giao hoán, không ân nghĩa gì, ai cũng làm được, cả những kẻ thù nghịch cũng đáp trả nhau cân xứng, mắt đền mắt, răng thế răng, ân đền ân, oán trả oán, ân oán công minh. Theá nhöng, giaùo huaán cuûa Chuùa thì khaùc: “Thầy bảo các con đang nghe Thầy đây: Các con hãy yêu thương kẻ thù, hãy làm ơn cho kẻ ghét mình, hãy cầu nguyện cho kẻ vu khống mình”. Là con cái Chúa, chúng ta cần có thái độ nào trước những lời giáo huấn Chúa để lại cho chúng ta? Đã bao nhiêu lần Chúa tha thứ cho chúng ta, những lỗi lầm chúng ta đã phạm đến Người, khi chúng ta thật lòng sám hối và hứa quyết chừa cải nơi Tòa Cáo Giải? Không những Chúa sẵn sàng tha thứ tất cả, mà Chúa còn quên đi mọi lỗi lầm của chúng ta và thương yêu chúng ta hơn nữa, dường như chúng ta chưa hề lỗi phạm đến Người. Để chúng ta ghi tâm khắc cốt bài học bác ái, nhân từ tha thứ như một lẽ sống, giúp chúng ta biết tạo nên một cuộc sống an bình hạnh phúc, biến đổi trần gian nên Thiên Đàng được Chúa hiển ngự, Chúa đã dạy chúng ta hằng ngày dâng lên Chúa lời nguyện này: Xin tha nôï chuùng con, nhö chuùng con cuõng tha keû coù nôï chuùng con. Vì tha thứ cho anh chị em là điều kiện để chúng ta được Chúa thứ tha.
41. Yêu thương kẻ thù
Yêu thương kẻ thù, điều đó khó thật, nhưng không phải là bất khả thi, tức là vẫn có thể thực hiện được, và dĩ nhiên để có thể thực hiện đòi hỏi người ta một tình yêu thương cao hơn quan niệm bình thường. Trong thực tế đã có những người, dù không phải là Ki-tô hữu, dù chưa biết Tin Mừng của Chúa, thực hiện điều này.
Người ta kể rằng: gần biên giới hai nước Lương và Sở, tức Hồ Nam ngày nay, có hai người làm nghề trồng dưa: một người ở nước Lương, một người ở nước Sở. Nhờ sự chăm tưới và bón phân, vườn dưa của người nước Lương lên tốt, kết quả rất mỹ mãn và hàng năm đem lại một mối lợi đáng kể. Còn anh chàng ở nước Sở, lười biếng, cỏ chẳng làm, dưa không tưới và bón phân, dĩ nhiên không kết quả bao nhiêu. Thấy vậy anh ta sinh ghen ghét, đêm đêm lẻn sang vườn người phá hoại. Vườn dưa đang tốt, song mỗi ngày cứ thấy lụi dần, tìm hiểu và biết được kẻ phá hoại, tức mình lắm, định trả đũa. Nhưng trước khi thi hành, anh đem việc đến trình quan huyện là Tống Tựu. Tống Tựu can và nói: “Làm như thế chỉ tổ gây hằn thù, tôi khuyên anh: thay vì trả đũa, mỗi đêm lẻn sang đó tưới và bón phân. Nhưng phải bí mật đừng cho nó trông thấy”. Thấy bên kia không trả đũa, lại nhận ra vườn của mình mỗi ngày xanh tốt. Sau lâu ngày mới biết người kia đã không báo oán mà còn làm ơn, anh liền sang xin lỗi. Hai gia đình đã kết thân và cùng trở nên giàu có.
Với một nền đạo đức tự nhiên người xưa còn thực hiện lòng nhân ái như thế. Vậy tại sao các Ki-tô hữu, được siêu nhiên trợ lực, lại đầu hàng trước huấn lệnh đó sao? Chúa dạy chúng ta hãy yêu thương kẻ thù. Đây là điểm vàng son của tình yêu Ki-tô giáo. Thực vậy, yêu kẻ yêu mình, đó là lẽ thường tình. Nhưng yêu được người không yêu mình, yêu kẻ ghét mình, làm hại mình, đấy mới là yêu thật, đấy mới xứng danh là con Thiên Chúa, là môn đệ của Chúa. Trước nhan Thiên Chúa, không còn là bạn hay thù, nhưng chỉ là đối tượng của tình yêu. Như vậy, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy yêu thương: yêu từng người, yêu hết mọi người, yêu vô tư, yêu quảng đại, yêu với chính tình yêu của Chúa và yêu như Chúa yêu. Một khi có tình yêu như vậy, nhất định chúng ta sẽ xóa bỏ mọi hiềm thù ghen ghét, nhất định chúng ta sẽ khoan dung quảng đại với mọi người. Tóm lại, muốn là một Ki-tô hữu đích thực, chúng ta phải phấn đấu đạt tới cao điểm bác ái đó. Với gương của Chúa và sự trợ lực của Chúa, cùng với thiện chí và cố gắng của chúng ta, chúng ta sẽ thực hiện được giáo huấn Chúa dạy.
42. Yêu thương kẻ thù
Tha thứ và yêu thương, đó là thể hiện lòng nhân từ. Muốn trở nên con của Cha trên Trời thì con người cũng phải sống khoan dung như Ngài. Và sở dĩ Chúa Cha đối xử với kẻ bất lương như với người công chính là vì một lẽ rất đơn giản: tuy là tội lỗi nhưng họ vẫn là hình ảnh của Thiên Chúa, Chuá không thể bỏ rơi những gì Người đã dựng nên, nếu không thì lòng nhân hậu của Chúa lại chịu thua tội lỗi sao? Mọi tội lỗi không xóa được hình ảnh Thiên Chúa nơi con người. Vì Thiên Chúa không chịu bỏ rơi con người tội lỗi, nên người đã sai Con Một Người đến thế gian, để theo đuổi con người cho đến cùng.
Phạm Duy hát: Kẻ thù tôi đâu có phải là người, Giết người đi thì ta ở với ai? Một con người phàm mà còn có lòng nhân ái như thế, huống gì là Thiên Chúa. Phạm Duy khuyên đừng giết người vì tuy là kẻ thù, nhưng họ vẫn là người, vẫn giống chúng ta. Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Chúa, lẽ nào Người lại tiêu diệt nó đi? Chúa Giêsu đến để đẩy lui sự ác là tội lỗi nhưng Người không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt; và lòng khoan dung là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người. Mađalêna là một ví dụ.
Nhưng dù sao thì việc thực hiện những lời dạy của Chúa Giêsu hôm nay không phải là dễ; làm con Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải cố gắng sống khoan dung trong mọi nghịch cảnh. Có điều đáng lưu ý là ơn Chuá luôn luôn đi kèm với sự cố gắng của con người. Và đối với Thiên Chúa thì không có gì mà không thể được.
Sư tử ốm đã một tuần nay và nằm trong hang không dậy được. Nó buồn lắm vì là chúa tể sơn lâm mà chẳng con vật nào đến thăm hỏi hay mang cho nó chút quà gì cả. Nhìn cây hoa hồng bên cạnh, lúc nào cũng có bướm, có ong, có chim chóc ríu rít, đến bay lượn vui vẻ. Sư tử bèn hỏi cây hoa hồng: Hoa hồng ơi, vì sao ngươi mảnh dẻ yếu ớt như thế, mà lúc nào cũng có bạn bè đến thăm vui vẻ, còn ta là chúa tể sơn lâm mà chẳng có con vật nào đến thăm ta cả? Hoa hồng trả lời: Vì tôi luôn tặng cho mọi loài màu sắc tươi đẹp và hương thơm ngào ngạt khi mọi loài đến với tôi. Còn ngài là chúa tể sơn lâm uy quyền, nhưng ngài có tặng cho những con vật bé nhỏ thuộc hạ của ngài cái gì đâu?
Hoa hồng là hình ảnh của con người. Bạn hãy là một đóa hoa hồng nhỏ đối với mọi người.
43. Yêu thương kẻ thù
Khi một cuộc chiến tranh vừa kết thúc, người ta nhận thấy dấu vết của nó còn để lại trên cả một dân tộc: Nào là nghèo đói và túng thiếu, nào là đổ vỡ và tan hoang, nào là những bất công và bóc lột, nào là những cô nhi và quả phụ, nào là những nhà tù và những nghĩa trang…
Thế nhưng, cùng với thời gian người ta dần dần quên đi, để rồi mọi cố gắng, mọi nỗ lực đều được tập trung vào việc kiến thiết lại xứ sở và làm đẹp cho đất nước. Phải chăng đó là một dấu hiệu tốt chứng tỏ các dân tộc đã sẵn sàng tha thứ, lấy tình thương xóa bỏ hận thù và mong muốn được chung sống trong bình an và thịnh vượng.
Còn về phương diện cá nhân thì sao?
Người ta thường diễn tả một cách đáng cay và chua xót như sau:
- Rửa tội và kitô hóa cho cả một dân tộc thì dễ hơn là rửa tội và kitô hóa cho một cá nhân đã mang nặng tinh thần thế gian, tinh thần ngoại giáo, bởi vì khó mà tha thứ cho một kẻ nào đó đã nói hành nói xấu và xúc phạm đến bản thân chúng ta.
Trong những hoàn cảnh cụ thể như thế, trí nhớ của chúng ta không còn là một khả năng hay quên, trái lại nó đã làm việc một cách hăng say và đắc lực với tất cả công suất của nó, mặc dù chúng ta không muốn.
Bởi đó, thánh Phaolô đã khuyên chúng ta:
- Đừng lấy ác báo ác.
Và Chúa Giêsu qua đoạn Tin Mừng hôm nay cũng đã truyền dạy:
- Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.
Điều đó có nghĩa là đừng đánh lại kẻ đã đánh chúng ta, đừng ném lại kẻ đã ném chúng ta, bằng không chúng ta cũng đã chẳng làm gì hơn những người ngoại đạo.
Và Chúa Giêsu còn nói tiếp:
- Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại.
Thế nhưng, có kẻ lại cho rằng:
- Hành động như vậy là hèn nhát. Phải dạy cho chúng một bài học, bằng không chúng cứ lấn át mãi. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ cho thấu đáo, chúng ta thấy đó chỉ là một cái cớ để che dấu việc chúng ta đang chạy theo tinh thần thế gian và rời xa tinh thần của Chúa.
Đừng lấy oán đền oán đã lành, người Kitô hữu chúng ta còn phải đi xa hơn thế nữa, bằng cách lấy ân đền oán, lấy tình thương xóa bỏ hận thù: Nếu kẻ thù đang đói, hãy cho ăn. Nếu kẻ thù đang khát, hãy cho uống. Chính với những việc làm như thế, chúng ta mới có thể cảm hóa được những kẻ thù của chúng ta, bởi vì cách thức hiệu nghiệm nhất để tiêu diệt kẻ thù không phải là chém giết, nhưng là làm cho họ trở thành những người bạn. Đồng thời những việc làm như thế còn là một phản ảnh trung thực cho tinh thần Kitô giáo, biến chúng ta trở thành giống Thiên Chúa, Đấn đã làm cho mặt trời mọc lên và chiếu sáng trên người lành và kẻ dữ, cũng như đã làm mưa xuống cho người công chính và kẻ bất lương. Trên một tờ báo, người ta đã đưa ra một câu hỏi như sau:
- Bạn sẽ hành động thế nào với khẩu hiệu: hãy trả lại cho họ cái họ đã làm cho bạn?
Phần đông các độc giả đã trả lời:
- Hãy trừng phạt. Hãy báo thù. Hãy trả đũa. Hãy dạy cho cho họ một bài học nhớ đời.
Tuy nhiên,trong số các thư gủi về tòa soạn, có bức thư của một em nhỏ. Em nhỏ này đã trả lời như sau:
- Hãy cám ơn.
Ba chữ “hãy cám ơn” của em nhỏ này phải chăng đã phản ảnh đúng tinh thần của Chúa mà chúng ta phải thực thi trong cuộc sống hôm nay, một cuộc sống vốn còn chất đầy những hận thù và ghen ghét.
44. Kẻ thù
Một địa điểm truyền giáo nằm chênh vênh trên sườn núi heo hút nơi cao nguyên Trung Hoa lục địa. Đó là một điểm truyền giáo của các cha thừa sai Milanô, nước Italia. Địa điểm truyền giáo này gồm một bệnh xá và một nhà mồ côi dành cho các em gái do các nữ tu Italia trông coi. Các linh mục thừa sai ít khi có mặt vì phải thường xuyên đi làm mục vụ ở xa. Do đó, các nữ tu đảm trách mọi việc không những liên quan tới bệnh nhân và các em mồ côi, nhưng còn nhiều việc khác nữa, như dạy giáo lý, tổ chức những giờ đọckinh. Đó là vào năm 1951, khi các thừa sai chưa bị trục xuất khỏi Trung Hoa. Nghe biết về lòng tốt của các nữ tu nên bệnh nhân nhiều nơi tìm đến bệnh xá để được các chị khám bệnh và phát thuốc. Riêng các bé gái được đưa tới viện mồ côi phần lớn chỉ vì cha mẹ quá nghèo không thể nuôi chúng được. Nhưng cũng có một số em bị bỏ rơi vì những lý do khác. Dù sao ở đây các em được lớn lên trong niềm tin vào Thiên Chúa quan phòng trong cụ thể dưới sự săn sóc tận tụy của các nữ tu. Ngoài giờ học chữ và học giáo lý, các em còn được dạy nghề đan, thêu và dệt. Nếp sống trầm lặng của nhà mồ côi ở nơi hẻo lánh này không khác chi nếp sống của một đan viện, gồm có học hành, làm việc và cầu nguyện. Mỗi buổi chiều người ta đều nghe lời kinh vang lên từ cửa miệng các em mồ côi “Lạy Chúa Giêsu bé thơ, con yêu mến Chúa!” Nhưng vào một buổi chiều mưa, tại nhà mồ côi bỗng xuất hiện một toán người đàn ông có vũ trang. Họ đứng nghênh ngang trước mặt các chị, súng cầm trong tay, miệng quát tháo: “Muốn sống thì đứng im!” Tên chỉ huy ra lệnh cho đàn em trói các nữ tu lại, cười đắc chí: “Hừ, tốt lắm. Phen này mấy lão Giám Mục phải trả cho chúng tao một khoản tiền lớn. Nếu không chịu, tao sẽ cắt cổ từng mụ một.”
Khi ấy có người đưa tin bệnh đậu mùa đang lan tràn ở vùng Latan, sào huyệt của đảng Hắc Long là đảng cướp cạn đã từng giết nhiều người. Tên đầu đảng bắt đàn em mở các thùng thuốc chúng vừa cướp được. Nhưng chúng thất vọng vì toàn là thuốc với nhãn hiệu Italia, chẳng ai đọc được! Khi ấy chị Nga (Natalia), nữ tu trẻ nhất của địa điểm truyền giáo nói với tên chỉ huy “Tôi là y tá. Tôi biết các tên thuốc và cách dùng” Hắn nhìn chị Nga với cặp mắt nghi ngờ: “Mụ biết chữa bệnh đậu mùa đen à?” Trước câu hỏi vừa khiêu khích lại vừa khinh bạt, chị Nga điềm tĩnh trả lời: “Vâng, tôi biết.” Hắn hỏi tiếp: “Vậy mụ có biết bệnh đậu mùa đen là bệnh giết người không?” Chị Nga trả lời: “Tôi biết chứ!” Hắn lại hỏi: “Thế mụ dám tình nguyện đến Latan sao?” Chị Nga dịu dàng trả lời: “Nếu ông muốn, tôi sẵn sàng đến cứu sống dân chúng vùng Latan.” Hắn liền tươi nét mặt nhưng cũng vẫn ra bộ khinh bạt: “Được rồi, vậy mụ hãy đi theo cái ông Chúa bị đóng đinh của mụ đi.”
Quả là giây phút cảm động khi chị Nga nhìn từng chị em có thể là lần chót: “Xin các chị cầu nguyện cho em, chúng ta hẹn gặp nhau trên trời!” Thấy tay mình còn bị trói, chị Nga nói với bọn cướp: “Xin các ông cởi trói cho tôi chứ!” Đoàn người rời cứ điểm truyền giáo và xuống núi. Bóng dáng chị Nga nữ tu cứ xa dần rồi mất hút sau khúc đường dốc dưới nắng chiều của vùng cao nguyên Trung Quốc.
Câu chuyện nói trên tự nhiên làm cho ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay trở nên sống động. Lời Chúa Giêsu dậy các môn đệ xưa về yêu thương đối lại với thù ghét, chúc lành đối lại với nguyền rủa,
- Người đã “yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình” (c.27).
Người chịu “nhạo báng, đánh đập, xúc phạm” (Lc 22,63-65) chỉ vì yêu và muốn cứu chuộc những kẻ ngược đãi mình. - Người đã “chúc lành” (c.28) cho những kẻ đóng đinh Người trên khổ hình thập giá bằng lời cầu: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23,34). - Ở chặng đường thánh giá thứ mười, Đức Giêsu đã sống theo nghĩa đen những điều Người dạy các môn đệ là: “Ai đoạt áo ngoài của anh thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho. Ai lấy cái gì của anh thì đừng đòi lại.” (cc.29-30).
Vậy khi chị Nga nữ tu hy sinh đi cứu sống bọn cướp Hắc Long là nạn nhân của bệnh đậu mùa đen, thì cũng chỉ là để theo sát gót bước Đức Giêsu, Đấng đã “yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét mình” (c.27) mà thôi.
45. Yêu thương
Theo tờ báo Christian Digest, một người đàn bà làm việc từ thiện ở thành phố Luân Đôn gặp một cô gái giang hồ đang nằm liệt trong một căn phòng trống, vắng lạnh. Như một người mẹ hiền, người đàn bà có đạo này tận tay chăm sóc cô gái từng miếng ăn hớp uống, giặt dũ nệm ra, đốt lửa, và làm cho bầu khí của căn phòng thêm ấm cúng và sáng sủa hơn. Sau khi thu dọn xong, bà nói với cô gái: “Tôi có thể cùng cô cầu nguyện không?” Cô gái làng chơi lạnh lùng đáp: “Không! Bà đâu có thương tôi. Bà làm những việc đó để được về Thiên đàng thôi.” Nhiều ngày trôi qua, người đàn bà vẫn tận tình chăm sóc cô gái, và lòng cô gái vẫn cứ chát chúa, lạnh lùng. Rồi đến một ngày kia khi sức khỏe cô gái gần bình phục, bà khẽ nói với cô gái: “Này cô, cô sắp lành bệnh rồi, tôi sẽ không trở lại đây nữa. Vì là ngày cuối tôi xin phép được hôn cô một lần thôi.” Và rồi đôi môi tinh khiết chỉ biết nói lời dịu ngọt và lời cầu nguyện đã chạm vào đôi môi bị hoen ố với những lời nguyền rủa và tình yêu bất chính. Và lòng cô gái đã mềm ra và bị chinh phục bởi lòng thương xót hầu như không bờ bến của người đàn bà ngoan đạo. Người đàn bà trên có lẽ đã thực hiện đến mức thượng thặng những lời khuyên của Chúa Kitô trên đồi xưa: “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình... hãy cho vay mượn mà không trông báo đền..., hãy tha thứ... đừng xét đoán, đừng kết án... hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ” (Lc 6:27-38). Những lời khuyên trong bài giảng trên đồi dựa trên nguyên tắc “luật vàng” mà các vị lãnh đạo tinh thần vẫn rao giảng. Luật vàng ở dạng tiêu cực: “Đừng xét đoán để các con khỏi bị xét đoán.” Luật vàng ở dạng tích cực: “Hãy tha thứ, thì các con sẽ được tha thứ.” Vì thánh Luca chủ chương viết Sách Tin Mừng cho dân ngoại, những lời khuyên dựa trên nguyên tắc luật vàng sẽ dễ dàng được chấp nhận bởi lương dân. Một khi lương dân đã chấp nhận nguyên tắc luật vàng, họ được mời gọi để sống cách cao thượng hơn theo tinh thần của Chúa Kitô. Là môn đệ của Chúa Kitô, họ được mời gọi để “yêu cả kẻ thù, tha cho người ghét mình, và để cho người ta vả lẫn má bên kia.” Sự mời gọi này không dựa trên nguyên tắc luật vàng, nhưng được đặt nền tảng khác là chính Thiên Chúa, Đấng vốn nhân hậu với những kẻ bội bạc và gian ác (Lc 6:35). Có lẽ người Việt Nam chúng ta phải cố gắng vượt bực mới có thể thực thi lời khuyên của Chúa Giêsu Kitô. Nước Việt Nam đã phải chiến đấu 1000 năm với Nước Hoa xâm lăng, 100 năm với ách đô hộ của Nước Pháp. Không biết đến bao giờ những vết thương đó mới có thể được chữa lành bằng sự tha thứ, cảm thông, và bác ái của Chúa Kitô? Với sức con người, có lẽ những vết thương đó sẽ không bao giờ lành. Nhưng với ơn Chúa và nỗ lực của mỗi người, dân Việt sẽ hưởng bình an thực sự.
46. Yêu thương
Bài Tin Mừng thánh sử Luca kể lại luật yêu thương tuyệt vời của Chúa Kitô. Chúa dạy chúng ta cách sống, cách xử thế đối với mọi người. Chúa dạy hãy yêu người khác như yêu bản thân mình. Người khác đây có thể là người yêu chúng ta, thương chúng ta, nhưng cũng gồm cả những người không yêu chúng ta, ghét chúng ta, và cả những người làm hại chúng ta nữa. Chúng ta thấy luật Chúa dạy cao trọng vượt bậc. Đó là luật vàng trong đạo Chúa. Người Do thái quen sống với luật công bằng: mắt đền mắt, răng đền răng. Nhưng từ đó họ đã đi đến chỗ báo oán báo thù, để rồi lại có những luật lệ nhằm giảm thiểu sự trả thù đó bằng sự tha thứ và kêu gọi yêu thương. Nhưng phải chờ tới Tân ước Chúa Giêsu mới chính thức công bố luật yêu thương, tha thứ. Chúa đưa ra một số thí dụ: “Ai vả má này, hãy đưa thêm má kia”, “ai đòi áo ngoài, hãy đưa cả áo trong”, “ai xin hãy cho, ai chiếm đoạt đừng đòi lại”, “hãy chúc lành cho kẻ chúc dữ mình”, “hãy cầu nguyện cho kẻ sỉ nhục mình”.
Chúa dạy như thế không có nghĩa là Chúa đề cao lối sống buông xuôi, đầu hàng, cam chịu. Nhưng Chúa muốn dạy rằng: hãy khôn ngoan dùng tình thương là thượng sách. Tình thương mới xóa bỏ hận thù, lấy ơn mà đền oán, chứ không thể áp dụng “dĩ độc trị độc”. Thực tế, trả thù không bao giờ xóa bỏ được hận thù, mà còn chồng chất hận thù lên mãi. Cho nên, chúng ta thấy những lời Chúa dạy thật sự là hữu lý và có giá trị cho mọi thời đại. Có lẽ cuộc đời chúng ta vẫn sống theo lối “ăn miếng trả miếng”, “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại” nên chúng ta thấy khó am hợp với những lời Chúa dạy là tha thứ, yêu thương. Chúa dạy chúng ta hãy sống yêu thương tối đa giữa cá nhân với nhau, và giữa cá nhân với nhân quần xã hội. Nếu mỗi người đều cố gắng đối xử như vậy thì cuộc sống này, trần gian này sẽ tốt đẹp, an bình và tươi vui hơn biết bao. Giáo huấn của Chúa, khó thì khó thật, nhưng không phải là bất khả thi, tức là vẫn có thể thực hiện được, và dĩ nhiên để có thể thực hiện đòi hỏi người ta một tình yêu thương cao hơn quan niệm bình thường. Trong thực tế đã có những người, dù không phải là Kitô hữu, dù chưa biết Tin Mừng của Chúa, thực hiện điều này. Người ta kể rằng: gần biên giới hai nước Lương và Sở, tức Hồ nam ngày nay, có hai người làm nghề trồng dưa: một người ở nước Lương, một người ở nước Sở. Nhờ sự chăm tưới và bón phân, vườn dưa của người nước Lương lên tốt, kết quả rất mỹ mãn và hàng năm đem lại một mối lợi đáng kể. Còn anh chàng nước Sở, lười biếng, cỏ chẳng làm, dưa không tưới và bón phân, dĩ nhiên không kết quả bao nhiêu. Thấy vậy anh ta sinh ghen ghét, đêm đêm lẻn sang vườn người phá hoại.
Vườn dưa đang tốt, song mỗi ngày cứ thấy lụi dần, tìm hiểu và biết được kẻ phá hoại, tức mình lắm, định trả đũa. Nhưng trước khi thi hành, anh đem việc đến trình quan huyện là Tống Tựu. Tống Tựu can và nói: “Làm như thế chỉ tổ gây hằn thù, tôi khuyên anh: thay vì trả đũa, mỗi đêm lẻn sang đó tưới và bón phân. Nhưng phải bí mật đừng cho nó trông thấy”. Thấy bên kia không trả đũa, lại nhận ra vườn của mình mỗi ngày xanh tốt. Sau lâu ngày mới biết người kia đã không báo oán mà còn làm ơn, anh liền sang xin lỗi. Hai gia đình đã kết thân và cùng trở nên giàu có.
Với một nền đạo đức tự nhiên người xưa còn thực hiện lòng nhân ái như thế. Vậy tại sao các Kitô hữu, được siêu nhiên trợ lực, lại đầu hàng trước huấn lệnh đó sao?
Hơn nữa, Chúa còn dạy chúng ta hãy yêu thương kẻ thù. Đây là điểm vàng son của tình yêu Kitô giáo. Thực vậy, yêu kẻ yêu mình, đó là lẽ thường tình. Nhưng yêu được người không yêu mình, yêu kẻ ghét mình, làm hại mình, đấy mới là yêu thật, đấy mới xứng danh là con Thiên Chúa, là môn đệ của Chúa. Trước nhan Thiên Chúa, không còn là bạn hay thù, nhưng chỉ là đối tượng của tình yêu.
Như vậy, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy yêu thương: yêu từng người, yêu hết mọi người, yêu vô tư, yêu quảng đại, yêu với chính tình yêu của Chúa và yêu như Chúa yêu. Một khi có tình yêu như vậy, nhất định chúng ta sẽ xóa bỏ mọi hiềm thù ghen ghét, nhất định chúng ta sẽ khoan dung quảng đại với mọi người.
Tóm lại, muốn là một Kitô hữu đích thực, chúng ta phải phấn đấu đạt tới cao điểm bác ái đó. Với gương của Chúa và sự trợ lực của Chúa, cùng với thiện chí và cố gắng của chúng ta, chúng ta sẽ thực hiện được giáo huấn Chúa dạy.
47. Yêu thương kẻ thù
Theo tờ báo Christian Digest, một người đàn bà làm việc từ thiện ở thành phố Luân Đôn gặp một cô gái giang hồ đang nằm la liệt trong một căn phòng trống, vắng lạnh. Như một người mẹ hiền, người đàn bà có đạo này tận tay chăm sóc cô gái từng miếng ăn hớp uống, giặt dũ nệm ra, đốt lửa, và làm cho bầu khí của căn phòng thêm ấm cúng và sáng sủa hơn. Sau khi thu dọn xong, bà nói với cô gái: “Tôi có thể cùng cô cầu nguyện không?” Cô gái làng chơi lạnh lùng đáp: “Không! Bà đâu có thương tôi. Bà làm những việc đó để được về Thiên đàng thôi.” Nhiều ngày trôi qua, người đàn bà vẫn tận tình chăm sóc cô gái, và lòng cô gái vẫn cứ chát chúa, lạnh lùng. Rồi đến một ngày kia khi sức khỏe cô gái gần bình phục, bà khẽ nói với cô gái: “Này cô, cô sắp lành bệnh rồi, tôi sẽ không trở lại đây nữa. Vì là ngày cuối tôi xin phép được hôn cô một lần thôi.” Và rồi đôi môi tinh khiết chỉ biết nói lời dịu ngọt và lời cầu nguyện đã chạm vào đôi môi bị hoen ố với những lời nguyền rủa và tình yêu bất chính. Và lòng cô gái đã mềm ra và bị chinh phục bởi lòng thương xót hầu như không bờ bến của người đàn bà ngoan đạo.
Người đàn bà trên có lẽ đã thực hiện những lời khuyên của Chúa: “Các con hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy cầu nguyện cho những kẻ vu khống mình, hãy cho vay mượn mà không trông báo đền, hãy tha thứ, đừng xét đoán, đừng kết án, hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”.
Thánh Luca chủ chương viết Sách Tin Mừng cho dân ngoại, những lời khuyên dựa trên nguyên tắc luật vàng sẽ dễ dàng được chấp nhận bởi lương dân. Một khi lương dân đã chấp nhận nguyên tắc luật vàng, họ được mời gọi để sống cách cao thượng hơn theo tinh thần của Chúa Kitô. Là môn đệ của Chúa Kitô, họ được mời gọi để “yêu cả kẻ thù, tha cho người ghét mình, và để cho người ta vả lẫn má bên kia.” Sự mời gọi này không dựa trên nguyên tắc luật vàng, nhưng được đặt nền tảng khác là chính Thiên Chúa, Đấng vốn nhân hậu với những kẻ bội bạc và gian ác (Lc 6:35). Phần thưởng của những người thực thi lời huấn dụ này là sẽ được trở nên con cái của Thiên Chúa và sẽ lãnh nhận phần thưởng trọng hậu trong Nước Trời. Những người không tin có Thiên Chúa, không tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, không tin có đời sau, sẽ coi những lời khuyên trên là phi lý và dại dột.
48. Nền văn minh tình thương--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
Ngày Valentine vừa qua tạo bao nhiêu rạo rực cho những người đang yêu nhau. Tình yêu là một sức mạnh vô hình nối kết những người không quen biết vào một thực tại. Thực tại đó là cộng đồng tình yêu. Tình yêu không hề biết đến giới hạn. Nhưng thực tế, nhiều thách đố vẫn đến với tình yêu. Thách đố lớn nhất chính là kẻ thù bị đặt ra ngoài vòng tình yêu và cũng là dấu chứng tỏ tình yêu cũng biết đến giới hạn. Nhưng dưới mắt Đức Giêsu, tự bản chất, tình yêu không có giới hạn, vì chính Người đã phá tung giới hạn đó.
THÁCH ĐỐ
Cuộc sống tự bản chất là một cuộc giao lưu giữa những người đang sống. Từ đó biết bao thái độ và tình cảm đã đưa đẩy con người tới chỗ hợp tan tan hợp. Hỉ nộ ai cụ ái ố dục là thất tình trong nhịp sống trần hoàn. Có cách nào vượt qua những tình cảm đó mà vẫn còn là con người không? Tình cảm có thể đẩy đưa con người vào hố sâu diệt vong hay nâng cao con người tới đỉnh cao hạnh phúc. Làm cách nào Đức Giêsu giúp con người vượt qua những cái tầm thường và sống anh hùng trong tình yêu?
Khi nói “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6:27), Đức Giêsu đã đụng tới một điểm yếu sâu xa nhất của lòng người. Ai có thể chấp nhận được một khuyên nhủ xa rời thực tế như vậy? Nhưng đó lại là đặc điểm trổi vượt nhất của Tin Mừng Cứu Độ. Không chấp nhận đòi hỏi đó, không thể trở nên môn đệ Đức Kitô. Bình thường ai cũng yêu kẻ thương mình, ghét kẻ thù mình. Không ai muốn nhìn chứ đừng nói yêu kẻ thù mình. Đời có vay có trả. Ân oán giang hồ. Không ai có thể xây dựng với kẻ thù. Bởi thế chỉ có hủy hoại, chết chóc, chém giết, giận hờn. Không thể đội trời chung với kẻ thù.
Đức Giêsu không dạy chúng ta cách nhận dạng kẻ thù. Nhưng muốn chúng ta nhận dạng người anh em ngay giữa những kẻ thù đang tìm cách hại chúng ta. Đó là một nghịch lý! Nhưng Tin Mừng thường được thành hình giữa những nghịch lý như thế. Tai chúng ta không vui chút nào khi nghe: “Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6:28-29). Nhưng Tin Mừng không phải là một thứ văn chương hoa mỹ nhằm thỏa mãn thị hiếu người nghe. Tin Mừng đặt vấn đề rất hắc búa, có sức thức tỉnh lòng người. Ý chí lớn lao đang ngủ yên trong lòng người. Đức Giêsu muốn lôi con người vùng dậy khỏi giấc ngủ ngàn năm đó. Người muốn con người đối diện với kẻ thù với một thái độ cao cả. Kẻ thù có thể là một vấn đề hóc búa nhất. Nhưng nếu không giải quyết được vấn đề đó, Tin Mừng cũng chẳng có sức mang lại ơn cứu độ.
Tại sao Đức Giêsu lại đưa ra một đòi hỏi quá gắt gao như vậy? Trước hết, “Đức Giêsu không nói về tình cảm đối với kẻ thù, nhưng về một hành động của ý chí. Bạn không thể hiểu được loại tình yêu này – Nó đòi một nỗ lực đầy ý thức. Yêu thương kẻ thù có nghĩa là hành động vì lợi ích tối đa cho họ. Chúng ta có thể cầu nguyện cho họ, và có thể tìm cách giúp đỡ họ” (Life Application Study Bible 1991:1807).
Cần nhận diện rõ khuôn mặt kẻ thù. Chắc chắn kẻ thù cũng là tha nhân, nhưng là một thứ tha nhân đặc biệt. Không thể vì yêu kẻ thù, chúng ta lại tiết lộ hết bí mật và liều mạng trước âm mưu thâm độc của họ. Yêu kẻ thù một cách thiếu khôn ngoan sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Đối với kẻ thù, Chúa cũng dạy chúng ta “phải khôn như rắn” (Mt 10:16) trước những âm mưu thâm độc. Nhưng đồng thời cũng không nên đề phòng quá đến nỗi kẻ thù luôn giữ một khoảng cách nguy hiểm đối với ta. Trái lại, phải cho họ thấy tất cả sức mạnh Tin Mừng. Chỉ có Tin Mừng mới lấp đầy khoảng cách giữa kẻ thù và chúng ta. Phải cho họ thấy tất cả những nét hào hùng của Tin Mừng trong thái độ và hành động của môn đệ Chúa Kitô. Chỉ có Tin Mừng mới có thể tạo nổi “những hướng dẫn giúp xây dựng Văn Minh Tình Thương bắt đầu từ việc sám hối cá nhân” (Gioan Phaolô II, Catholic World News Service, 14/2/2001). Quả thực, kẻ thù hiện diện như một dấu chỉ hối thúc chúng ta phải sám hối. Đừng mong đợi kẻ thù thay đổi, nếu chúng ta không thay đổi trước.
Khi vấn đề kẻ thù đã được giải quyết bằng tình yêu thương lớn lao đó, tình yêu trở thành sức mạnh vô song. Lịch sử Giáo hội cho thấy Thày Chí Thánh đã vạch ra con đường dẫn kẻ thù vào sự sống đích thực, bình an và hạnh phúc. Muốn đạt đến mục tiêu lớn lao, Kitô hữu cần phải đi bước trước. Bước đầu tiên Thày chí thánh đã thực hiện khi bước lên thập giá. Thày đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ giết mình. Sở dĩ Thày làm được như thế, vì Thày đã noi gương Chúa Cha “là đấng nhân từ” (Lc 6:36). “Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Lc 6:35). Còn hành vi nào vô ân và độc ác bằng việc giết Chúa không? Nhưng chính ở hành vi tha thứ, Đức Giêsu cho thấy tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn tội ác.
NOI GƯƠNG THÀY CHÍ THÁNH
Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha thứ cho kẻ thù. Chúng ta chỉ là phàm nhân, làm sao có một tấm lòng đại lượng như Thiên Chúa? Đòi hỏi của Đức Giêsu thật gắt gao. Nhưng nếu đòi hỏi một điều gắt gao đó, tất nhiên Đức Giêsu muốn nhìn thẳng vào thực tế. Thực tế đó, chính Đức Phật cũng đã vạch ra: “lấy oán báo oán, oán oán chập chùng”. Ngày xưa chính vua Đavít có một hành vi anh hùng chỉ vì ông nhận ra Saulê là “đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong” (1 Sm 26: 11). “Đó là một nhận thức về trách nhiệm thánh, chứ không phải là một hành vi tha thứ hay xót thương” (Faley 1994:177). Cao hơn một bậc, Đức Giêsu đã tha thứ cho kẻ thù ngay khi đang quằn quại trong vũng máu đào. Chính sự tha thứ ấy cho thấy không còn lý do gì khiến chúng ta phải trả miếng cho kẻ thù. Không ai là kẻ thù đối với những người tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tất cả mọi người đều là hình ảnh Thiên Chúa và đều đáng được xót thương. Ngay chính khi tha thứ, chúng ta cũng cần được tha thứ. Thực tế chúng ta cần được tha thứ nhiều hơn mức ta tưởng. Tất cả đều là con cái của Đấng giàu lòng thương xót. Là hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta không thể nào không có tấm lòng bao dung trước những lỗi lầm tha nhân. Nói khác, mỗi lần đối xử tệ hại với người khác, nhất là với kẻ thù, vô tình chúng ta đã làm mờ hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta. Vả lại, nếu không biết thương xót, chúng ta cũng sẽ chẳng được Thiên Chúa xót thương. Đó là điều Chúa nói: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6:37).
Không những là hình ảnh Thiên Chúa, “chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15:49) cứu độ muôn dân. Chính Người là hiện thân của lòng Chúa xót thương. Đó là động lực mạnh nhất giúp ta thắng vượt những xung động hay quyền lợi nhất thời, để hết sức hoạt động phục vụ quyền lợi thiết thực của kẻ thù. Quyền lợi đó chính là ơn cứu độ Chúa đã dầy công tạo lập cho họ. Tất cả sự nghiệp của Người là qui tụ muôn dân. Nếu còn phân biệt bạn với thù, làm sao sự nghiệp của Người có thể hoàn thành trong trần gian? Làm sao chúng ta có thể hoàn thành được những gì còn dở dang trong công cuộc cứu chuộc của Chúa?
Một hoạt động ngoạn mục của Giáo hội đang diễn ra tại Ấn độ. Giữa lúc bị một tổ chức Ấn giáo cực đoan cản trở, Giáo Hội vẫn hiên ngang đến cứu giúp 50,000 gia đình nạn nhân vụ động đất tàn khốc vừa xảy ra ngày 26/01/2001. Tổ chức đó đã từng là thủ phạm giết nhiều linh mục, giáo dân và tấn công nhiều giáo xứ Công giáo tại Ấn độ (VietCatholic, 15/02/2001). Chắc chắn Giáo hội đã vượt qua những ranh giới thường tình để thực hiện đòi hỏi Tin Mừng hôm nay. Giáo hội đã cống hiến cho nhân loại một tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa ngay trên mặt đất này.
49. Nền văn minh tình thương--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực, OP
Ngày Valentine vừa qua tạo bao nhiêu rạo rực cho những người đang yêu nhau. Tình yêu là một sức mạnh vô hình nối kết những người không quen biết vào một thực tại. Thực tại đó là cộng đồng tình yêu. Tình yêu không hề biết đến giới hạn. Nhưng thực tế, nhiều thách đố vẫn đến với tình yêu. Thách đố lớn nhất chính là kẻ thù bị đặt ra ngoài vòng tình yêu và cũng là dấu chứng tỏ tình yêu cũng biết đến giới hạn. Nhưng dưới mắt Đức Giêsu, tự bản chất, tình yêu không có giới hạn, vì chính Người đã phá tung giới hạn đó.
THÁCH ĐỐ
Cuộc sống tự bản chất là một cuộc giao lưu giữa những người đang sống. Từ đó biết bao thái độ và tình cảm đã đưa đẩy con người tới chỗ hợp tan tan hợp. Hỉ nộ ai cụ ái ố dục là thất tình trong nhịp sống trần hoàn. Có cách nào vượt qua những tình cảm đó mà vẫn còn là con người không? Tình cảm có thể đẩy đưa con người vào hố sâu diệt vong hay nâng cao con người tới đỉnh cao hạnh phúc. Làm cách nào Đức Giêsu giúp con người vượt qua những cái tầm thường và sống anh hùng trong tình yêu?
Khi nói “hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6:27), Đức Giêsu đã đụng tới một điểm yếu sâu xa nhất của lòng người. Ai có thể chấp nhận được một khuyên nhủ xa rời thực tế như vậy? Nhưng đó lại là đặc điểm trổi vượt nhất của Tin Mừng Cứu Độ. Không chấp nhận đòi hỏi đó, không thể trở nên môn đệ Đức Kitô. Bình thường ai cũng yêu kẻ thương mình, ghét kẻ thù mình. Không ai muốn nhìn chứ đừng nói yêu kẻ thù mình. Đời có vay có trả. Ân oán giang hồ. Không ai có thể xây dựng với kẻ thù. Bởi thế chỉ có hủy hoại, chết chóc, chém giết, giận hờn. Không thể đội trời chung với kẻ thù.
Đức Giêsu không dạy chúng ta cách nhận dạng kẻ thù. Nhưng muốn chúng ta nhận dạng người anh em ngay giữa những kẻ thù đang tìm cách hại chúng ta. Đó là một nghịch lý! Nhưng Tin Mừng thường được thành hình giữa những nghịch lý như thế. Tai chúng ta không vui chút nào khi nghe: “Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong” (Lc 6:28-29). Nhưng Tin Mừng không phải là một thứ văn chương hoa mỹ nhằm thỏa mãn thị hiếu người nghe. Tin Mừng đặt vấn đề rất hắc búa, có sức thức tỉnh lòng người. Ý chí lớn lao đang ngủ yên trong lòng người. Đức Giêsu muốn lôi con người vùng dậy khỏi giấc ngủ ngàn năm đó. Người muốn con người đối diện với kẻ thù với một thái độ cao cả. Kẻ thù có thể là một vấn đề hóc búa nhất. Nhưng nếu không giải quyết được vấn đề đó, Tin Mừng cũng chẳng có sức mang lại ơn cứu độ.
Tại sao Đức Giêsu lại đưa ra một đòi hỏi quá gắt gao như vậy? Trước hết, “Đức Giêsu không nói về tình cảm đối với kẻ thù, nhưng về một hành động của ý chí. Bạn không thể hiểu được loại tình yêu này – Nó đòi một nỗ lực đầy ý thức. Yêu thương kẻ thù có nghĩa là hành động vì lợi ích tối đa cho họ. Chúng ta có thể cầu nguyện cho họ, và có thể tìm cách giúp đỡ họ” (Life Application Study Bible 1991:1807).
Cần nhận diện rõ khuôn mặt kẻ thù. Chắc chắn kẻ thù cũng là tha nhân, nhưng là một thứ tha nhân đặc biệt. Không thể vì yêu kẻ thù, chúng ta lại tiết lộ hết bí mật và liều mạng trước âm mưu thâm độc của họ. Yêu kẻ thù một cách thiếu khôn ngoan sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Đối với kẻ thù, Chúa cũng dạy chúng ta “phải khôn như rắn” (Mt 10:16) trước những âm mưu thâm độc. Nhưng đồng thời cũng không nên đề phòng quá đến nỗi kẻ thù luôn giữ một khoảng cách nguy hiểm đối với ta. Trái lại, phải cho họ thấy tất cả sức mạnh Tin Mừng. Chỉ có Tin Mừng mới lấp đầy khoảng cách giữa kẻ thù và chúng ta. Phải cho họ thấy tất cả những nét hào hùng của Tin Mừng trong thái độ và hành động của môn đệ Chúa Kitô. Chỉ có Tin Mừng mới có thể tạo nổi “những hướng dẫn giúp xây dựng Văn Minh Tình Thương bắt đầu từ việc sám hối cá nhân” (Gioan Phaolô II, Catholic World News Service, 14/2/2001). Quả thực, kẻ thù hiện diện như một dấu chỉ hối thúc chúng ta phải sám hối. Đừng mong đợi kẻ thù thay đổi, nếu chúng ta không thay đổi trước.
Khi vấn đề kẻ thù đã được giải quyết bằng tình yêu thương lớn lao đó, tình yêu trở thành sức mạnh vô song. Lịch sử Giáo hội cho thấy Thày Chí Thánh đã vạch ra con đường dẫn kẻ thù vào sự sống đích thực, bình an và hạnh phúc. Muốn đạt đến mục tiêu lớn lao, Kitô hữu cần phải đi bước trước. Bước đầu tiên Thày chí thánh đã thực hiện khi bước lên thập giá. Thày đã xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ giết mình. Sở dĩ Thày làm được như thế, vì Thày đã noi gương Chúa Cha “là đấng nhân từ” (Lc 6:36). “Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác” (Lc 6:35). Còn hành vi nào vô ân và độc ác bằng việc giết Chúa không? Nhưng chính ở hành vi tha thứ, Đức Giêsu cho thấy tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn tội ác.
NOI GƯƠNG THÀY CHÍ THÁNH
Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tha thứ cho kẻ thù. Chúng ta chỉ là phàm nhân, làm sao có một tấm lòng đại lượng như Thiên Chúa? Đòi hỏi của Đức Giêsu thật gắt gao. Nhưng nếu đòi hỏi một điều gắt gao đó, tất nhiên Đức Giêsu muốn nhìn thẳng vào thực tế. Thực tế đó, chính Đức Phật cũng đã vạch ra: “lấy oán báo oán, oán oán chập chùng”. Ngày xưa chính vua Đavít có một hành vi anh hùng chỉ vì ông nhận ra Saulê là “đấng Đức Chúa đã xức dầu tấn phong” (1 Sm 26: 11). “Đó là một nhận thức về trách nhiệm thánh, chứ không phải là một hành vi tha thứ hay xót thương” (Faley 1994:177). Cao hơn một bậc, Đức Giêsu đã tha thứ cho kẻ thù ngay khi đang quằn quại trong vũng máu đào. Chính sự tha thứ ấy cho thấy không còn lý do gì khiến chúng ta phải trả miếng cho kẻ thù. Không ai là kẻ thù đối với những người tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tất cả mọi người đều là hình ảnh Thiên Chúa và đều đáng được xót thương. Ngay chính khi tha thứ, chúng ta cũng cần được tha thứ. Thực tế chúng ta cần được tha thứ nhiều hơn mức ta tưởng. Tất cả đều là con cái của Đấng giàu lòng thương xót. Là hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta không thể nào không có tấm lòng bao dung trước những lỗi lầm tha nhân. Nói khác, mỗi lần đối xử tệ hại với người khác, nhất là với kẻ thù, vô tình chúng ta đã làm mờ hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta. Vả lại, nếu không biết thương xót, chúng ta cũng sẽ chẳng được Thiên Chúa xót thương. Đó là điều Chúa nói: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6:37).
Không những là hình ảnh Thiên Chúa, “chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1 Cr 15:49) cứu độ muôn dân. Chính Người là hiện thân của lòng Chúa xót thương. Đó là động lực mạnh nhất giúp ta thắng vượt những xung động hay quyền lợi nhất thời, để hết sức hoạt động phục vụ quyền lợi thiết thực của kẻ thù. Quyền lợi đó chính là ơn cứu độ Chúa đã dầy công tạo lập cho họ. Tất cả sự nghiệp của Người là qui tụ muôn dân. Nếu còn phân biệt bạn với thù, làm sao sự nghiệp của Người có thể hoàn thành trong trần gian? Làm sao chúng ta có thể hoàn thành được những gì còn dở dang trong công cuộc cứu chuộc của Chúa?
Một hoạt động ngoạn mục của Giáo hội đang diễn ra tại Ấn độ. Giữa lúc bị một tổ chức Ấn giáo cực đoan cản trở, Giáo Hội vẫn hiên ngang đến cứu giúp 50,000 gia đình nạn nhân vụ động đất tàn khốc vừa xảy ra ngày 26/01/2001. Tổ chức đó đã từng là thủ phạm giết nhiều linh mục, giáo dân và tấn công nhiều giáo xứ Công giáo tại Ấn độ (VietCatholic, 15/02/2001). Chắc chắn Giáo hội đã vượt qua những ranh giới thường tình để thực hiện đòi hỏi Tin Mừng hôm nay. Giáo hội đã cống hiến cho nhân loại một tình yêu tròn đầy của Thiên Chúa ngay trên mặt đất này.
50. Yêu thương
Có một chị nữ tu nọ đặc trách quán cơm bình dân trong một trường học, vào những giờ đông người đến mua thức ăn cho bữa trưa hoặc bữa chiều thì chị phải chịu nghe không biết bao nhiêu là những lời than phiền, trách móc, đòi hỏi và cả khi bị mắng chửi trước mặt mọi người, vì không đáp ứng được nhu cầu bất chợt của những người mua thức ăn. Nhưng, dù vậy lúc nào chị cũng luôn luôn vui tươi phục vụ như không có gì xảy ra.
Một hôm có người tò mò hỏi chị cho biết lý do tại sao chị vẫn vui tươi phục vụ như vậy? Chị trả lời như sau: Thường tình thái độ sống của chúng ta chịu ảnh hưởng hay đúng hơn bị lèo lái bởi ảnh hưởng của những kẻ khác. Phần tôi thì tôi đã cố gắng không sống theo tâm thức thường tình này, họ bất kính vô lễ đối với tôi, nhưng đó không phải là lý do để tôi trở thành bất kính vô lễ đáp lại họ. Chúng ta dễ dàng theo luật trả thù “mắt đền mắt, răng đền răng”, nhưng Chúa Giêsu trong bài Phúc âm của Chúa nhật VII mùa thường niên năm C hôm nay nhắc lại cho ta một việc quan trọng, chúng ta không dùng lửa để chống lại lửa, nhưng là lấy sự lành đáp lại sự dữ.
Chúa Giêsu, Người giảng dạy và đã sống nêu gương cho ta. Chúng ta có thể đọc lại đoạn Phúc âm Chúa nhật hôm nay như sau:
Tổng thống Abraham Lincol đã bị những người hầu cận phê bình là tỏ ra quá lịch thiệp vui vẻ cả đến những kẻ thù chính trị đã từng lăng nhục ông, nhưng ông thường trả lời họ như sau: Với thái độ thân thiện, tôi đã loại được kẻ thù và biến họ thành bạn của tôi. Các anh không thấy sao? Thật ra, đây là điều dễ nói hơn là làm. Tình yêu thương tự nhiên của chúng ta thường bị giới hạn trong những kẻ thân hay những ai tốt với chúng ta. Chúa Giêsu biết vậy nên Ngài không ngừng khuyến khích chúng ta hãy can đảm đi xa hơn: “Nếu anh em yêu thương ai yêu thương anh em thì có gì đặc biệt hơn đâu? Những kẻ thu thuế cũng làm như vậy”.
Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy bắt chước mẫu gương của Đức Chúa Cha trên trời. Chúng ta không thể nào hy vọng mình có thể làm được, nếu không nhờ sự trợ giúp và sức mạnh của Chúa để vượt qua được vòng luẩn quẩn là lòng hận thù triền miên qua việc trả thù cách này hay cách khác. Cần phải phá bỏ vòng luẩn quẩn này như Chúa Giêsu đã thực hiện qua thập giá, qua cái chết hy sinh chính mình.
Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta canh tân đời sống, yêu thương, tha thứ theo Tin Mừng. Thánh Augustinô đã nói: “Có nhiều cách thức để làm việc bố thí, để giúp ta lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, nhưng không có cách nào cao cả hơn là cách chúng ta tha thứ thật lòng cho người anh em đã xúc phạm đến ta”.
Chúng ta hãy nhớ lại lời kinh Lạy Cha, hãy nghiêm chỉnh xét mình và nhất là hãy xin Chúa ban cho ta sức mạnh thực hành lời xin tha thứ: “Lạy Cha, xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
51. Yêu thương
Phụng vụ lời Chúa hôm nay nêu bật chủ đề đức dung thứ Kitô giáo. Bài Tin Mừng thánh Luca được trích từ những giáo huấn của Chúa Giêsu đã giảng dạy. Cấu trúc song song của Tin Mừng thánh Luca và Tin Mừng thánh Matthêu xếp các qui luật cộng đoàn này sau bài giảng “Tám mối phúc thật”, hay còn được gọi là “Hiến Chương Nước Trời”. Vì đó là những qui tắc nền tảng như một bản hiến pháp để thành lập dân Chúa và định hình cho Hội thánh, thì phần qui luật cộng đoàn cũng có thể được coi là bộ luật luân lý hướng dẫn mọi lãnh vực sinh hoạt, xã hội, tôn giáo của những người tin Đức Kitô.
Một yếu tố không thể không nhấn mạnh, đó là cộng đoàn Hội thánh được qui tụ do niềm tin nơi Đức Kitô Phục Sinh và nhận được sinh khí mới do Thánh Thần của Đấng Phục sinh. Chính trong bối cảnh của cộng đoàn Phục sinh này xuất hiện cảm nghiệm sâu sắc về sức mạnh Thánh Thần, Đức Kitô đã và còn đang biến đổi những gì phàm tục, tội lụy và giới hạn nơi con người cũ xưa thành một con người mới, thụ tạo mới với mọi sức vóc sung mãn theo mô hình của chính Đức Kitô.
Cũng chính trong cộng đoàn nhuệ khí bừng bừng ấy, các quyển Tin Mừng hình thành không như tác phẩm của lý trí suy luận, hoặc của óc sáng tạo giàu chất lãng mạn, nhưng như là tinh hoa tích tụ lại từ vốn sống rất hiện thực, rất sinh động và thánh thiêng. Nói cách khác, cộng đoàn Kitô hữu như được mô tả trong Tin Mừng không chỉ thuần là một lý tưởng, một mẫu mực được phác họa cho một nỗ lực sẽ thành đạt trong tương lai, càng không thể là dấu hiệu của nỗi hoài vọng và một cõi địa đàng trải ra trước mắt, song đúng hơn đây chính là bức tranh xác thực của một nếp sống đã và vẫn còn tiếp diễn xuyên suốt thời gian và không gian, nếp sống của những người được đón nhận thực tại vào Nước Thiên Chúa.
Thánh Phaolô viết cho tín hữu Côrintô: “Những ai thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến”. Nhờ lãnh nhận Thánh Tẩy trong mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô, Kitô hữu đã hoàn toàn chết đi với con người cũ tội lỗi, nô lệ của thế gian để sống lại trong con người mới của ân sủng, tự do, chia sẻ chiến thắng vinh quang bất diệt của Đấng Phục sinh. Do đó, có thể nói qui luật sống của cộng đoàn Kitô hữu được trình bày trong Tin Mừng không thể bị giản lược thành một số lời khuyến thiện đẹp đẽ để ai nấy tùy nghi, tùy sức thực hiện, nhưng phải coi đó là những đức độ tất yếu phải có, phải thi hành nơi mỗi cá nhân và toàn thể cộng đoàn tín hữu Kitô.
Thật vậy, có một sự khác biệt sâu xa giữa hành vi anh hùng mã thượng của bậc trượng phu quân tử, như việc chàng dũng sĩ Đavid tha mạng cho kẻ cựu thù là vua Saolê, mặc dù cơ hội báo oán đang nằm trong tay, so với đức dung thứ của Kitô hữu khi họ bỏ qua cho kẻ xúc phạm hoặc hãm hại mình. Hành vi dẫu cao thượng của chàng Đavid có lẽ do nhiều động lực tình cảm gia đình và chính trị, vua Saolê là nhạc phụ của anh, nên anh phải cân nhắc những hậu quả có thể xảy ra trong cuộc sống gia đình giữa anh và công chúa Micam, nếu như anh sát hại phụ vương của nàng. Mặt khác, vì anh đang rất cần hậu thuẫn của đám quần chúng vốn còn nặng ân tình với Saolê. Chàng Đavid không muốn cho phe bảo hoàng ghép cho mình cái tội thí chúa, và tận thâm tâm chàng Đavid còn muốn ngăn ngừa một điều lệ đe dọa cho chính bản thân mình sau này khi anh tuyên bố: “Vua là thiên tử, là bất khả xâm phạm, vì đã được Giavê Đức Chúa xức dầu tấn phong”.
Trong khi đó, người tín hữu Kitô không toan tính so đo một điều gì khác, trong việc thực thi đức dung thứ ngoài ước muốn được xứng danh là con cái Thiên Chúa, Đấng từ bi nhân hậu, chỉ có vậy và đơn giản như vậy: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Được trở nên hoàn thiện như Hiền Phụ trên trời chính là động lực, là chuẩn mực luân lý Kitô giáo. Kitô hữu thực thi đức dung thứ và yêu thương kẻ thù, đó là một trong những nét độc đáo của Kitô giáo. Không điều kiện, không mong bất kỳ một hình thức đáp trả bồi hoàn nào, họ hành động và ứng xử như thể đó chính là bản chất của họ, là ơn gọi của họ.
Kitô hữu không bận tâm đến việc luận công phạt tội, vì tin đã có Thiên Chúa công minh cầm cân nẩy mực. Được thưởng công và trắng án trước pháp đình Thiên Chúa không thể coi là lý do của đời sống luân lý Kitô hữu, những người đã được giải thoát khỏi gông ách của tội lỗi, những người đã nắm trọn quyền thừa kế Nước Thiên Chúa, những người sẽ ngồi ghế thẩm phán xét xử thế gian. Bằng không, họ vẫn còn sống trong tội lỗi, chung đụng với những kẻ tội lỗi, hành xử như những kẻ tội lỗi: “Nếu anh em yêu thương những kẻ yêu thương mình thì có ơn nghĩa gì đâu, ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ”.
Giả như nói đến phần thưởng dành cho trọn một đời thủy chung với giáo huấn của Chúa, Kitô hữu sẽ chẳng mong mỏi nhận được một phần thưởng nào khác hơn là chính Thiên Chúa, là tình yêu hiền phụ của Người.
52. Yêu thương
Phụng vụ các bài đọc Lời Chúa hôm nay đã phác thảo nên một bức tranh đẹp về lòng yêu thương và tha thứ.
- Bài đọc 1 kể lại câu chuyện xưa giữa vua Saulê và Đavid: vua Saulê vì ganh ghét đã luôn tìm hại Đavid, nhưng Đavid là một con người có tâm hồn cao thượng và lòng đại độ đã tha thứ và thậm chí tha chết cho vua Saulê mặc dù mạng sống của vua Saulê đã được trao vào tay Đavid.
- Bài trích thư của thánh Phaolô đã tô điểm rõ nét hơn về sự sống yêu thương và tha thứ nơi mỗi Kitô hữu, đó là sự sống mới trong Đức Kitô, là sự sống của những người được nhận lãnh và sống bởi Thánh Thần của Đức Kitô Phục sinh.
- Trọng tâm mà hai bài đọc muốn dẫn đến chính là lời mời gọi yêu thương và tha thứ, là nội dung đoạn Lời Chúa trong Phúc âm Luca chúng ta vừa nghe đọc.
Đức Giêsu lên tiếng dạy các tông đồ: “Các con hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các con”.
Quả thực, những lời này mới nghe qua, chúng ta thấy thật là vô lý và khó có thể chấp nhận theo như lẽ thường trong cuộc sống con người: Làm sao tôi có thể yêu thương và tha thứ cho kẻ hay gây rối và luôn tạo nên những phiền phức cho tôi; thật là nhục nhã vô lý và không công bằng chút nào khi phải yêu thương và tha thứ cho kẻ đã hạ nhục tôi, hạ nhục gia đình tôi, những người thân quen của tôi… Chắc hẳn mỗi người hiện diện nơi đây còn có thể đặt ra rất nhiều câu hỏi nữa: tại sao, vì sao tôi phải yêu thương và tha thứ cho kẻ thù nghịch với tôi như lời Đức Giêsu dạy các tông đồ mà chúng ta vừa nghe.
Bình tâm lại, chúng ta thấy đây không chỉ là lời dạy mà còn là lệnh truyền, là lời mời gọi tha thiết của Đức Giêsu mời gọi các tông đồ và những kẻ theo Ngài phải có một tấm lòng yêu thương tha thứ vượt lên trên cách suy nghĩ và hành xử như lối người đời vẫn hằng cư xử với nhau. Quả thật, Đức Giêsu đã nhấn mạnh: Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình thì có ân nghĩa gì đâu? ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ… nếu anh em làm ơn cho những kẻ yêu mình, thì người tội lỗi cũng làm được như thế. Như vậy, Đức Giêsu mời gọi mọi người hãy biết mở lòng mình ra cho tình yêu của Thiên Chúa được thấm nhập hầu biến đổi để chúng ta cũng biết mở rộng tâm hồn để mến yêu và tha thứ những lỗi lầm cho anh em đồng loại như ta được Thiên Chúa yêu mến và thứ tha.
Chúa Giêsu đã không dạy chúng ta một cách bâng quơ hời hợt bên ngoài của lời nói, nhưng Ngài còn đi xa hơn, Ngài lấy chính Thiên Chúa làm khuôn mẫu cho chúng ta về lòng yêu thương và tha thứ, Ngài nói: “Các con hãy có lòng nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”.
Lần giở lại lịch sử cứu độ, chúng ta có thể bắt gặp được vô số chứng cứ và hình ảnh về lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa.
Trong Cựu ước, lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa đối với loài người bày tỏ qua một chuỗi các sự kiện:
. Thiên Chúa đã yêu thương sáng tạo ban lời hứa ơn cứu độ cho nguyên tổ.
. Một Abraham, một Mosê đã được Thiên Chúa tuyển chọn và mạc khải cho biết chính Ngài là Thiên Chúa nhân hậu, từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín.
Còn rất nhiều chứng cứ và hình ảnh mà các tác giả Cựu ước dùng đến để nói lên Thiên Chúa là Đấng yêu thương, bởi vì Ngài là Đấng thánh không thích hủy diệt, không thích tội nhân phải chết nhưng muốn họ hoán cải để được sống và đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa… như lời sách Ezêkiel đã viết: “… vì đường lối của Ngài không giống đường lối của chúng ta, và tư tưởng của Ngài vượt xa tư tưởng của chúng ta một trời một vực”.
Lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa không chỉ dừng lại trước những tội lỗi của nhân loại để chờ đợi họ hoán cải thống hối hầu sửa trị và nhắc nhở họ biết tin tưởng và quay về với Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đã đi bước trước đến với con người, tình yêu tuyệt đỉnh của Thiên Chúa đã được biểu lộ qua việc trao ban người Con Một cho thế gian là chính Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã đến trong thế gian, đó là một hành động, là một hồng ân mà Chúa Cha ban tặng. Ngài đến để loan báo lòng yêu thương nhân hậu của Thiên Chúa. Quả thật, suốt cuộc đời tại thế, trọng tâm lời rao giảng của Đức Giêsu là tình yêu của Thiên Chúa, Đức Giêsu thường dạy dỗ các tông đồ: “… các con hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
… Cao điểm của việc rao truyền lòng yêu thương và tha thứ đó chính là Hy tế thập giá, Đức Giêsu đã đổ máu mình ra để hoàn tất công trình cứu độ hầu ban phát tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại.
Qua Đức Giêsu, chúng ta đã được nhận lãnh lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa. Vậy mỗi Kitô hữu phải làm gì đây để tiếp nối vào sứ mạng yêu thương và tha thứ trong thế giới hôm nay?
Hằng ngày, mỗi người chúng ta vẫn dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện mà Chúa Giêsu đã dạy: Lạy Cha chúng con ở trên trời… xin Cha tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con… Quả thật, đây là lời thú tội và cầu xin trước Thiên Chúa, mỗi người chúng ta cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho mình thì chính bản thân cũng phải biết tha thứ cho anh em khi họ lỗi phạm đến chúng ta.
Lòng yêu thương và tha thứ quả thật là một thách đố lớn lao cho tất cả mọi người nhưng đó vẫn là điều khả thi. Một cách cụ thể trong cuộc sống hôm nay, để có thể hóa giải những tranh chấp, hận thù, oán hờn… thiết nghĩ mỗi người phải tự giác đi bước trước: hãy học biết quảng đại, hãy tôn trọng, chấp nhận nhau trong những khác biệt của cuộc sống, thậm chí trái ngược nhau; đừng tìm cách hạ bệ, tranh chấp thắng thua, nhưng hãy biết cho và đón nhận, hãy cùng nhau nhìn về một hướng và giúp nhau đạt tới chân lý là chính Thiên Chúa. Muốn được như thế, thiết nghĩ mỗi cá nhân với sức riêng thì khó mà thực thi nhưng hãy cậy dựa vào ơn Chúa qua việc cầu nguyện và đến với các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh thể để nhờ việc kết hiệp này, chúng ta cũng biết yêu thương và tha thứ theo gương Chúa Giêsu hầu biết hoán cải nội tâm trở nên người môn đệ đích thực và xứng đáng lãnh nhận lòng yêu thương và tha thứ của Thiên Chúa.
Chúng ta vừa cùng nhau điểm qua một số nét về lòng yêu thương và tha thứ. Quả thật, yêu thương và tha thứ là ý muốn là lệnh truyền của Thiên Chúa vì nó bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa được biểu lộ cách tột đỉnh qua hành động ban tặng chính Con Một là Đức Giêsu Kitô, và nhờ mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh, Đức Giêsu đã hoàn tất công trình cứu độ hầu ban phát tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại. Ước mong nhờ việc chiêm ngắm và suy niệm mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh của Đức Giêsu trong cuộc sống mỗi ngày, chúng ta học được nơi Ngài bài học yêu thương và tha thứ như lời Ngài vẫn hằng dạy bảo các tông đồ xưa kia: Nếu các con không biết tha thứ cho nhau, thì Cha trên trời cũng sẽ không tha thứ cho các con, nhưng nếu các con biết tha thứ cho nhau, thì Cha trên trời cũng sẽ tha thứ cho các con.
53. Tha thứ
Có hai anh em ruột bắt trói được thủ phạm giết cha mình. Họ đem tên sát nhân đến trước tòa và yêu cầu xử theo luật mắt đền mắt, răng thế răng. Kẻ sát nhân đã dùng đá để ném chết cha họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật định. Trước mặt quan tòa, tên sát nhân nhận tội và sẵn sàng chịu hình phạt, nhưng chỉ xin hoãn ba ngày để về giải quyết vấn đề liên quan đến một người cháu gái được ký thác cho hắn trông coi từ thuở nhỏ.
Giữa lúc quan tòa đang do dự thì từ trong đám đông có một người giơ tay cam kết: Tôi xin đứng ra bảo lãnh cho tên tử tội, nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi sẽ chết thay cho hắn. Tên tử tội được tự do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Đúng kỳ hạn, giữa lúc mọi người chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, thì hắn hiên ngang tiến ra pháp trường và dõng dạc tuyên bố: Tôi muốn trung thành với lời cam kết để người ta sẽ không nói: chữ tín không còn trên mặt đất này.
Sau lời phát biểu của tên tử tội, ông bảo lãnh cho hắn cũng tuyên bố: Sở dĩ tôi bảo lãnh cho người này vì tôi không muốn để cho người ta nói: lòng quảng đại không còn trên mặt đất này.
Sau hai lời tuyên bố trên, hai người thanh niên bỗng tiến ra và nói: chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi để người ta sẽ không nói: Lòng tha thứ không còn trên mặt đất này.
Tha thứ là một cử chỉ anh hùng, là một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, phản ứng thường tình của con người để bước vào thế giới siêu nhiên của những người con Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời. Tha thứ là thể hiện cao cả nhất của tình yêu. Nếu chúng ta có thể cho đi của cải và chính mạng sống minh vì người mình yêu, thì tha thứ còn cao cả hơn rất nhiều vì tha thứ là trao ban cho kẻ thù của mình.
Hãy yêu kẻ thù. Đó là lệnh truyền đã được Chúa Giêsu nhắc lại hai lần trong bài Tin mừng hôm nay. Đó cũng là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Ngài. Khó nhưng không phải là không có thể. Chính Ngài đã làm gương cho chúng ta khi Ngài xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đã hành hạ Ngài. Và hơn nữa, Ngài còn minh oan cho họ: Vì họ lầm chẳng biết. Chính hành vi cao cả này mà Chúa Giêsu đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Và đó cũng là nét cao quí nhất trong dung mạo của Đấng Cứu thế. Ngài đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Ngài đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân, tái tạo và phục sinh với Ngài.
Nhưng tại sao chúng ta phải yêu kẻ thù? Yêu người yêu mình thì dễ, ai lại đi yêu kẻ làm hại mình bao giờ. Theo triết gia Nietzche thì lời khuyên yêu kẻ thù chỉ dành cho những kẻ bạc nhược, nhát đảm mà thôi. Và Chúa Giêsu chính là con người quá lý tưởng và thiếu thực tế.
Người xưa có câu “ác giả ác báo”, làm điều ác thì sẽ gặp điều ác. Lấy oán báo oán chỉ tăng thêm hận thù mà thôi. Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối. Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Nếu chúng ta không sống theo lời dạy của Chúa, thì phản ứng dây chuyền của sự ác là hận thù sẽ tăng thêm hận thù, bạo lực sẽ kéo theo bạo lực và tất cả chúng ta sẽ rơi vào hố sâu diệt vong như cơn lốc xoáy ập tới tiêu diệt mọi người.
Hận thù gây tác hại cho chính con người người oán ghét kẻ khác. Nó làm tổn thương tinh thần của người oán thù, đồng thời hủy diệt nhân cách của chính họ: Khi trả thù, người ta biến mình thành kẻ thú. Còn khi tha thứ, người ta vượt cao hơn họ. Tâm lý học ngày nay khẳng định: hận thù thì hủy diệt, còn yêu thương thì phát triển nhân cách hết sức lạ lùng và hữu hiệu. Cuối cùng, tình yêu có phép mầu sẽ biến kẻ thù thành bạn hữu. Nếu hận thù là hủy diệt, thì tình yêu là xây dựng. Biến thù thành bạn, phải chăng là tiêu diệt kẻ thù rồi? Đó chính là sức mạnh của tình yêu, sức mạnh có tính sáng tạo và cứu độ.
Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản nhất để chúng ta yêu thương kẻ thù chính là lời Chúa truyền dạy: Anh em hãy yêu thương kẻ thù…Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao. Chúng ta không bao giờ là con cái đích thực của Cha trên trời, nếu chúng ta không yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi chúng ta.
54. Yêu thương kẻ thù
Trong một gia đình kia, chẳng may người chồng bị bắn chết khi lái xe đến nhà thờ tham dự thánh lễ. Sau đó ít lâu, người vợ cùng đứa con đến nhà thờ cầu nguyện. Đứa con hỏi: Mẹ ơi, không biết kẻ đã bắn chết cha con có được lên thiên đàng không? Câu hỏi khiến người mẹ bị bất ngờ. Suy nghĩ một lát, bà trả lời: Nếu người đó thành thật sám hối, thì Chúa cũng tha thứ và cho lên thiên đàng. Đứa con rất khó chịu: Nếu có kẻ đó trên thiên đàng, thì con không muốn lên thiên đàng đâu. Người mẹ càng bối rối hơn nữa. Bà lại suy nghĩ, rồi nói: Nếu Chúa tha cho ông ta, thì Ngài cũng sẽ đổi lòng ông ta khiến ông ta không còn dễ ghét nữa, mà thành dễ thương. Lúc đó đứa con mới thỏa mãn và nói với mẹ: Vậy thì mẹ con mình hãy cầu nguyện cho ông ta đi.
Bài học quan trọng nhất của Tin mừng hôm nay là làm thế nào chống lại sự ác mà không cần trả thù. Hầu hết chúng ta nghỉ rằng chỉ cố gắng đừng trả thù là đủ rồi. Nhưng Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta nhiều hơn thế, Ngài còn muốn chúng ta yêu thương kẻ thù nữa. Mặc dù việc này rất khó, nhưng chúng ta thấy hai mẹ con trong câu chuyện đã làm được.
Chỉ xét trên bình diện nhân loại mà thôi, thì giáo huấn của Chúa Giêsu cũng rất hữu ích: đà leo thang của sự ác chỉ có thể bị dừng lại bằng việc tiêu hủy nó chứ không phải bỏ qua nó: trả thù và trả đũa là lấy ác báo ác. Khi chọn thái độ báo thù, chúng ta bị thù hận làm nhiễm độc. Khi nuôi lòng hận thù báo oán, chúng ta bị tiêu hao nhiều năng lực. Trả thù chỉ thỏa mãn được sự tức giận của chúng ta, nhưng lại làm cho con tim chúng ta ra trống rỗng. Khi Chúa Giêsu dạy hãy tha thứ cho kẻ thù, Ngài không nhằm đến lợi ích của kẻ thù, mà nhắm đến lợi ích của ban thân chúng ta. Hơn thế nữa, yêu thương thì đẹp hơn hận thù rất nhiều.
Nếu lòng thù hận làm tiêu hao năng lực, thì ngược lại, lòng yêu thương tăng cường nghị lực trong chúng ta. Một trong những việc khó làm nhất là yêu thương kẻ ghét mình. Nhưng tình yêu chân thật là yêu thương cả những người khó thương hay không thể thương được. Chỉ người nào rất giàu năng lực mới làm được mà thôi. Tuy nhiên, việc này có thể làm được bởi vì sức mạnh của yêu thương lớn hơn sức mạnh của hận thù.
Dù sao thì tha thứ cho kẻ làm hại mình là một việc rất khó. Khi bị hại, làm sao trong lòng chúng ta không có những cảm giác đau đớn, đắng cay và ý định trả thù? Muốn vượt thắng cảm giác và ý định đó, cần phải chiến đấu rất nhiều. Cầu nguyện chính là sức tăng viện giúp chúng ta chiến thắng. Bởi đó, Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy cầu nguyện luôn, đừng bao giờ ngừng.
55. Đừng xét đoán
Chúng ta rất dễ xét đoán người khác. Thế nhưng, Chúa Giêsu khuyến cáo rằng khi chúng ta xét đoán người khác, tức là chúng ta xét đoán chính mình: Anh em đừng xét đoán thì anh em sẽ không bị xét đoán.
Vào một buổi sáng, vị linh mục đang dâng thánh lễ thì thấy một người đàn bà đến trễ. Cha rất bực bội, nên khi thấy bà này lên rước lễ, cha không đã trao Mình thánh Chúa. Điều này làm cho bà rất đau lòng. Thực ra, bà là người rất siêng năng tham dự thánh lễ. Từ trước tới nay, bà không bao giờ đi trễ. Nhưng hôm nay, chồng bà đột ngột ngã bệnh, đứa con gái tàn tật lại lên cơn. Bà phải nán lại cham sóc chồng con. Nguyên việc trễ lễ đã là một mất mát rất lớn đối với bà rồi. Thế mà cha lại không cho bà rước lễ. Sở dĩ vị linh mục làm thế là vì ngài đã xét đoán một cách hàm hồ. Và cách làm của ngài là lời kết án tính hàm hồ của ngài.
Câu chuyệntrên phải là một sự cảnh cáo để chúng ta đừng xét đoán một cách hàm hồ. Thực ra xét đoán là một điều rất khó. Muốn xét đoán cho đúng thì chúng ta phải thấy đầy đủ mọi khía cạnh của sự việc. Thấy mọi khía cạnh của sự việc cũng chưa đủ, cần phải hiểu thêm về hoàn cảnh và động cơ thâm sâu của sự việc đó nữa. Trong khi đó, thường chúng ta chỉ thấy một phương diện mà thôi và chỉ thấy bề ngoài. Tóm lại, chúng ta chưa có đủ yết tố để xét đoán.
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng có lần là nạn nhân bị người khác xét đoán. Hãy nhớ lại xem khi đó chúng ta đau khổ như thế nào: Điều gì bạn không muốn người khác làm cho bạn, thì bạn cũng đừng làm cho họ. Vả lại, có ai trong chúng ta không cần được Thiên Chúa xét đoán khoan hồng? Bởi vì nếu Chúa chấp tội, thì nào ai đứng vững được?
Vì thế, chúng ta phải khoan dung với anh em. Các ngươi đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho các ngươi bằng đấu ấy.
56. Hãy cho
Thiên Chúa sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng, đã dằn, đã lắc và tràn đầy mà đổ vào vạt áo của anh em.
Trong câu nói trên, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh quen thuộc của nghề nông. Hay nói rõ hơn, đó là việc đong lúa: những kẻ gian lận hoặc keo kiệt thì dùng loại đấu thiếu, chẳng những thế, khi đong thì đong vội đong vàng để lúa chưa kịp lóng xuống mà đấu đã đầy tới miệng. Còn người công bình và rộng lượng thì dùng đấu chính xác, lại còn dằn, còn lắc để lúa trong đấu càng nhiều càng tốt.
Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh ấy để khuyến khích chúng ta đối xử rộng lượng. Nếu chúng ta đối xử rộng lượng với người khác thì bãn thân chúng ta sẽ được Thiên Chúa đối xử rộng lượng gấp bội.
Một tù nhân kể lại rằng: một người trong trại mà ông lấy làm sung sướng nhất mỗi khi được gặp, đó là anh đầu bếp. Khi tới giờ ăn, mỗi tù nhân bưng một cái tô, xếp hàng tới lãnh cháo nơi những anh đầu bếp, hễ gặp người nào mà họ có cảm tình, thì họ sẽ múc cho một tô đầy, còn người nào mà hắn không ưa, thì hắn chỉ múc cho có lưng tô mà thôi. Riêng anh đầu bếp này thì chẳng cần nhìn mặt ai cả, bởi vì ai đưa tô ra, anh cũng đều múc cho đầy.
Tại sao anh đầu bếp này lại làm như thế? Người tù không biết, nhưng chúng ta có thể đoán ra rằng anh đầu bếp này cũng là một tù nhân, trước khai cũng đã phải bưng tô chờ các đầu bếp múc cháo. Một số lần bị múc cho có nửa tô và một số lần được múc cho đầy tô. Nay anh được làm đầu bếp và được trao trách nhiệm múc cho người khác. Anh đã làm theo lời Chúa Giêsu nói: anh em muốn người ta làm gì cho mình,thì hãy làm cho người ta như vậy.
Chúng ta càng mở rộng cửa lòng cho người khác, thì lòng chúng ta càng được mở rộng để đón nhận những ơn ban của Thiên Chúa. Cái đấu chúng ta dùng để đong cho người khác cũng chính là cái đầu Chúa sẽ dùng để đong lại cho chúng ta.
57. Cuộc thảo luận tốt về Kitô giáo
Trong cuốn sách tựa đề “We Really Do Need Each Other” (Chúng Ta Rất Cần Nhau), một giáo sư về tôn giáo trình bày một cái nhìn cá nhân những điều mà Chúa Giêsu phán trong Phúc Âm:
Tôi không thể nào mà quên được một buổi chiều khi tôi trở về từ một cuộc tĩnh tâm ở trên núi Sierra. Tôi đang trên đường với khoảng 4 hoặc 5 chiếc xe trước tôi cũng đang xuống núi. Chúng tôi vừa lái vừa ngắm cảnh với tốc độ nhanh hơn khoảng chừng 1 hoặc 2 mile với tốc độc đã được ấn định cho đến khi một viên cảnh sát hú còi kêu chúng tôi dừng lại. Trong đám chúng tôi có năm người, và chúng tôi đều nghĩ rằng đây chỉ là một chuyện dở hơi. Trên sườn núi hiu quạnh này cách xa thành thị đến cả 50 miles, năm tài xế giận dữ và một viên cảnh sát trẻ. Chúng tôi phải đứng ở ngoài trời nóng như đốt, và tức tối bởi vì cái chuyện bất công mà viên cảnh sát đang làm. Khi tôi nhìn thấy viên cảnh sát trẻ đang viết ticket thì đồng thời tôi cũng nhận ra một điều là anh ta đang run. Nhìn kiểu điệu của anh ta tôi nhận ra ngay đây là 'lính mới', anh ta đang viết với bàn tay và đôi chân run run. Nhìn thấy anh ta mà sự phản ứng bực bội của tôi đã đổi hẳn. Không phải là bởi vì việc anh ta làm đúng, nhưng là bởi vì thái độ của tôi đối với anh ta đã thay đổi hẳn. Tôi nhìn anh ta không phải như là một kẻ thù, nhưng là một viên cảnh sát trẻ, mới ra nghề, hồi hộp run sợ khi bắt tay làm việc, và muốn làm việc đó cho đúng và mau để khỏi phải phiền phức gì hết.
Anh ta đứng đó, hồi hộp run sợ, tôi biết được cảm nghiệm của anh ta. Ở đằng sau lớp áo cảnh sát của anh chính là một con người sống động.
Đó là một điều tuyệt diệu. Tôi đã học được một vài điều quí giá trên con đường đó, một trong những cái đó chính là không một ai trên đời này là con người vô giá trị.
“Không một ai là người vô giá trị!” Đó là một trong những nguyên tắc chung chung về cách giao tế giữa con người với con người mà nó được bao bọc bằng một chiếc vòng Kitô giáo. Chúng ta thấy điều đó thật là hữu lý. Cũng giống như câu “Hãy yêu thương nhau” và “Yêu thương kẻ thù”, đó là những câu nói mà chúng ta có thể chấp nhận được. Đó là điều mà chúng ta có thể dễ dàng chấp nhận, và bởi vì nó dễ dàng nên chúng ta lập đi lập lại mỗi ngày Chúa nhật. Nói một cách khác chúng ta có thể ghép những câu ở trên thành một câu, “Không một ai là người vô giá trị... Hãy yêu thương nhau... Hãy yêu thương anh em mình.” Đó là một cách nói chuyện tốt của Kitô giáo.
Mỗi người chúng ta hôm nay đến đây với nhiều lý do. Tôi mong rằng một trong những lý do đó chính là các bạn đến đây để nghe lời Chúa nói với chúng ta qua Phúc Âm và bài giảng.
“Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em, và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại” (Lk 6:27-30).
Có phải vấn đề Đạo Chúa Kitô được chấp nhận một cách dễ dàng và trọn vẹn chăng? Nói một cách chung chung, mỗi người đang hiện diện trong nhà thờ này là những Kitô hữu tốt và trung thành. Thế nhưng, cũng phải thú nhận là nhiều lần chúng ta vô nhà thờ, ngồi đó bắt chân chéo, nghe Lời Chúa với những chia trí, nhưng không biết đón nhận để đem ra thực hành.
Các bạn tự hỏi mình xem các bạn có phải là những người lắng nghe Lời Chúa theo thói quen hay không? Có phải có cái gì đó ngăn trở các bạn làm cho các bạn không nhận ra giá trị của người khác? Có phải cuộc sống Kitô hữu của các bạn theo thói quen của các bạn thôi chăng?
“Chúa Giêsu yêu tất cả mọi người.” Đó là câu truyện tốt về Kitô giáo. “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em...” Theo bạn, có phải Lời Chúa trong thời gian khó khăn này không còn tác dụng nữa chăng? Hay đó là bằng chứng cho chúng ta thấy rằng chúng ta đã không cố gắng để thi hành Lời Chúa?
Đa số chúng ta mong muốn sống bằng tình yêu, nhưng chỉ một đôi lúc nào đó thôi. Đa số chúng ta còn chưa hết lòng tin rằng tình yêu sẽ tác dụng trên người khác, trừ những người nào yêu thương chúng ta chẳng hạn vợ, chồng, con cái, cha mẹ, hoặc là bạn bè. Đa số chúng ta còn chưa hết lòng nhìn thấy tất cả vũ trụ là chương trình của tình yêu. Đa số chúng ta còn chưa thấy bản nhạc của tình yêu trên thế giới một cách hoàn toàn.
Đây là Chúa Giêsu Kitô, Tình Yêu nhập thể, đã đến để chỉ cho chúng ta: Tình yêu với một mấy chiếc bánh và vài con cá đã nuôi cả hàng ngàn người; tình yêu chữa lành người phong cùi; ban ánh sáng cho kẻ bị mù lòa; ban lại sự sống cho kẻ đã chết. Tất cả là việc làm của Tình Yêu.
58. Đừng xét đoán
Xét đoán được ghép bởi hai động từ là xét và đoán. Xét là tìm hiểu, đoán là phỏng chừng. Xét thì khó vì phải tìm hiểu hoàn cảnh, nguyên nhân, phân tích để có sự kiện rõ ràng. Đoán thì dễ hơn, chỉ cần ước lượng là thế, phỏng chừng như vậy, đoán thì dựa trên những điều không đủ chắc, không rõ sự thật. Khi nói xét đoán một người thì có phần xét và có phần đoán. Nhiều khi phần đoán lại nhiều hơn phần xét. Sai lầm nảy sinh từ đó.Ngay cả Đức Khổng Phu Tử cũng có khi xét đoán sai lầm về học trò của mình như trong câu chuyện kể sau đây: Hôm đó, Nhan Hồi nấu cơm dưới bếp, Khổng Tử đọc sách ở nhà trên đối diện với nhà bếp cách một cái sân nhỏ. Đang nằm đọc sách bỗng Khổng Tử nghe tiếng cộp từ nhà bếp vọng lên. Khổng Tử ngừng đọc liếc mắt xuống thấy Nhan Hồi từ từ mở vung lấy đũa xới cơm cho vào nắm tay vo chặt, rồi đậy vung lại và từ từ đưa cơm lên miệng. Mọi hành động của Nhan Hồi không qua mắt Khổng Tử. Thở dài, Khổng Tử ngửa mặt lên trời mà than: Chao ôi! học trò đệ nhất của Khổng Tử mà lại ăn vụng thầy, vụng bạn, đốn mạt như thế này ư? Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó thế là nay tan thành mây khói cả! Tröôùc khi aên Khoång Töû hoûi: Hôm nay ngày đầu tiên đến đất Tề, thầy trò ta may mắn có được bữa cơm. Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ, thầy nhớ đến cha mẹ thầy, cho nên thầy muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ thầy. Các con tưởng có nên chăng? Nhan Hồi đứng im, các môn sinh đều chắp tay thưa: Thưa thầy nên lắm! Khổng Tử lại nói: Nhưng không biết nồi cơm này có sạch không? Tất cả các học trò đều không hiểu ý Khổng Tử muốn nói gì nên ngơ ngác nhìn nhau. Bấy giờ Nhan Hồi chắp tay thưa: Thưa thầy nồi cơm này không được sạch. Khổng Tử hỏi: Tại sao? Nhan Hồi đáp: Thưa thầy, khi cơm chín con đã mở vung ra xem thử cơm đã chín đều chưa. Chẳng may một cơn gió thổi tới, bồ hóng và bụi bay vào làm bẩn cả nồi cơ. Con đã nhanh tay đậy vung lại nhưng không kịp. Sau đo, con xới cơm bẩn ra định vứt đi. Nhưng con lại nghĩ: cơm thì ít mà anh em thì đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này đi thì vô tình bỏ mất một phần cơm, anh em phải ăn rút lại. Vì thế cho nên con đã mạn phép thầy và anh em, con ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy cùng tất cả anh em. Thưa thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi, bây giờ con xin phép không ăn nữa, con chỉ ăn phần rau. Và thưa thầy, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa. Nghe Nhan Hồi nói thế, Khổng Tử lại ngửa mặt lên trời mà than: Chao ôi! thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu đúng sự thật! Suýt tí nữa thì Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ!
Đọc xong câu chuyện trên đây chúng ta liên tưởng đến lời Chúa Giêsu dạy “Các con đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán”. Ai đeo kính đen thì nhìn cài gì cũng tối cả. Lưỡi đắng thì ăn cái gì cũng đắng cả.
Đừng xét đoán, đây là lệnh truyền của Chúa. Cần sữa mình trước mới có thể giúp sữa người khác. Không xét đoán trái lẽ, đó là luật yêu thương công bình. Thánh Giuse thấy Đức Mẹ có thai nhưng ngài không xét đoán xấu, ngài chỉ âm thầm ôm lấy nổi đau lặng lẽ ra đi. Nhờ vậy mà ngài đã nên người công chính. Người có lòng mến Chúa, có tâm hồn đơn sơ thì không bao giờ nghĩ xấu cho ai, trái lại họluôn nghĩ tốt, nói tốt về người khác. Thánh Têrêxa Hài Đồng khi thấy chị nào có lỗi thì thường tự bảo mình rằng: chị đó chẳng may lỗi một điều, nhưng biết đâu lại chẳng đã làm được một trăm điều lành mà tôi không thấy. Biết đâu lỗi lầm của chị chỉ là cái màn Chúa dùng để che nhân đức sâu xa của chị.
59. Tinh thần công bằng và yêu thương của Kitô giáo--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Giới bụi đời, dân giang hồ chủ trương «ân đền oán trả», đó có phải là luật công bằng không? luật này có tốt không? Ta đã sống khá hoàn hảo luật này chưa?
2. Sự công bằng mà Đức Giêsu chủ trương, có phải là công bằng kiểu «ân đền oán trả» không? hay Ngài chủ trương không công bằng? Thứ công bằng của Ngài là công bằng gì?
Suy tư gợi ý:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy Đức Giêsu đưa ra hai cách hành xử: một là hành xử dựa trên luật công bằng không tình thương của phường tội lỗi, và hai là hành xử dựa trên luật yêu thương của người môn đệ Chúa.
1. Luật công bằng thiếu tình thương của phường tội lỗi
Theo Đức Giêsu, cách hành xử thường tình của những người thu thuế hay phường tội lỗi là «yêu thương kẻ yêu thương mình», «làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình», «cho vay để được trả lại sòng phẳng». Như vậy, dù là người tội lỗi, họ vẫn chủ trương luật công bằng, sòng phẳng, trong cả chuyện yêu thương, nghĩa là ai yêu thương mình, thì mình phải yêu thương lại người ấy. Vì thế, họ chỉ yêu thương người thân hay bạn bè mình mà thôi, vì yêu những người ấy thì họ sẽ được yêu lại. Họ đòi hỏi: «Có qua có lại mới toại lòng nhau».
Một cách tương tự, giới giang hồ, bụi đời ở khắp nơi đều chủ trương «ân đền, oán trả». Mang ơn ai, thì họ nhất quyết phải biết ơn và đền ơn người ấy. Họ gây oán hay làm thiệt hại ai, thì theo luật giang hồ, họ sẵn sàng bồi thường cho người ấy. Còn ai gây oán hay gây bất công cho họ, thì họ cũng sẵn sàng trả thù, nghĩa là phải tạo thiệt hại trở lại một cách tương xứng cho kẻ đã gây thiệt hại cho mình. Họ chủ trương không khác gì luật Cựu ước: «Mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, vết bỏng đền vết bỏng, vết bầm đền vết bầm, vết thương đền vết thương» (Xh 21,24).
Theo Đức Giêsu, phường tội lỗi hay gian ác đều hành xử như thế. Nếu ta cũng hành xử như thế thì ta có hơn gì họ đâu? Còn nếu ta gây bất công, làm thiệt hại người khác mà không đền bù, sống thiếu công bằng (cho dù là thứ công bằng không tình thương), v.v… thì ta còn xấu xa và tệ hại hơn họ nữa. Hạng người tội lỗi mà còn tôn trọng luật công bằng, nếu ta không tôn trọng luật ấy thì ta thật không đáng được gọi là Kitô hữu, là người theo Chúa. Thế mà khá nhiều người lỗi luật công bằng hằng ngày nhưng vẫn vỗ ngực tự hào mình theo Chúa, mình là môn đệ Chúa!
2. Luật công bằng và yêu thương của người Kitô hữu
Là người Kitô hữu, là môn đệ Đức Giêsu, nếu ta tự cho rằng mình không thuộc hạng người tội lỗi, thì ít ra ta cũng phải giữ được khá hoàn chỉnh những luật mà chính hạng tội lỗi cũng tôn trọng, đó là luật công bằng. Luật công bằng là luật tối thiểu, là luật nền tảng trong xã hội mà chính người xấu cũng chủ trương phải tuân giữ, huống gì những người tự cho mình là tốt.
Nhưng người Kitô hữu không thể tự hài lòng khi mình chỉ giữ được những luật tối thiểu ấy. Đức Giêsu mời gọi những kẻ theo Ngài phải đi xa hơn sự công bằng đó, vì nếu không đi xa hơn thì ta có hơn gì hạng tội lỗi, vì chính họ cũng chủ trương sự công bằng và có thể thực hiện được sự công bằng ấy. Nhưng cho dù có chủ trương và thực hiện được luật ấy, họ vẫn bị liệt vào hàng tội lỗi.
Theo lập luận của Đức Giêsu, nếu ta chỉ giúp đỡ những người mà ta biết họ sẽ giúp đỡ lại ta, chỉ cho vay những ai ta nghĩ là sẽ hoàn trả lại ta, còn nếu cho ai vay mà người ấy không trả được thì ta bực tức, nói xấu, dùng đủ mọi biện pháp để đòi cho bằng được, bất chấp họ bị kẹt, v.v… nếu chỉ hành xử được như thế thì ta tốt hơn hạng tầm thường hay tội lỗi ở chỗ nào? Vì kẻ tầm thường và tội lỗi cũng hành xử y như thế!
Điều quan trọng mà người Kitô hữu - tức những người theo Chúa - phải làm là có tình thương đích thực. Tình thương luôn luôn vượt khỏi sự công bằng thường tình. Nghĩa là: để là một Kitô hữu đích thực, thì một đằng phải luôn giữ luật công bằng một cách hoàn hảo đối với người khác, một đằng phải thực hiện tình thương. Tình thương khiến chúng ta không đòi hỏi những người nghèo khó hơn, những người lâm cảnh khó khăn hơn mình phải giữ sự công bằng như thế đối với mình. Nghĩa là «hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả». Không đòi hỏi như thế không phải là không công bằng, mà là thực hành một thứ công bằng cao hơn: công bằng có tình thương.
3. Công bằng có tình thương
Công bằng có tình thương khác với thứ công bằng máy móc, là công bằng thiếu tình thương. Thứ công bằng có tình thương là thứ công bằng mà ta vẫn áp dụng trong nội bộ gia đình chúng ta. Trong gia đình, chúng ta có thể tốn rất nhiều tiền cho đứa con tàng tật, tốn cho nó hơn tất cả mọi người khác - vì tiền thuốc thang, vì phải ăn uống cách đặc biệt - đang khi chính nó không làm ra tiền và cũng chẳng làm được gì. Những cha mẹ có tình thương đích thực sẽ thương những đứa con tàn tật hoặc hư đốn một cách đặc biệt và sẵn sàng hy sinh cho chúng nhiều hơn những đứa con khác. Đó chính là công bằng có tình thương, thứ công bằng «làm theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu».
Phân phát của cải cho người giầu và người nghèo, người cần ít và người cần nhiều, theo cùng một tiêu chuẩn như nhau, thì đúng là công bằng, nhưng là một thứ công bằng thiếu tình thương, và một cách nào đó không hợp lý. Người giầu mà đòi người nghèo cũng phải sòng phẳng với mình trong vấn đề vật chất tiền bạc, thì đúng là theo luật công bằng, nhưng không phải là thứ công bằng mà Đức Giêsu chủ trương. Ngài chủ trương: «Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy».
Có những chế độ xã hội chủ trương thứ công bằng này - là «làm theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu» - nhưng không thực hiện nổi. Chính Đức Giêsu Chúa chúng ta cũng chủ trương thứ công bằng này khi tuyên bố: «Khi đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế bạn mới thật có phúc» (Lc 14,13-14). Vì thế, đây là thách đố đối với người Kitô hữu. Nếu chúng ta không thực hiện nổi thứ công bằng này trong đời sống chúng ta - ít nhất là giữa Kitô hữu với nhau, hay ít hơn nữa là giữa đám thân nhân bạn bè thân quen của mình - thì một cách nào đó, chúng ta đang chứng tỏ điều Đức Giêsu chủ trương cũng không tưởng như chủ trương của những chế độ xã hội không tưởng kia.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con vẫn tự hào mình là Kitô hữu, nhưng rất nhiều khi con lại chủ trương và ủng hộ một thứ công bằng không tình thương. Xin cho con một trái tim bằng thịt biết yêu thương, để con sống công bằng với mọi người, nhưng là thứ công bằng có tình thương, thứ công bằng mà Đức Giêsu chủ trương như trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.
60. Hãy đối xử nhân từ--Lm. Trần Bình Trọng
Theo khuynh hướng đổi chác tự nhiên của loài người, thì ai làm ơn cho mình, mình nên trả ơn cho họ; ai ghét mình, mình phải ghét lại; ai chửi mình, mình phải chửi lại họ. Theo luật công bình cũng vậy. Luật công bình trong Cựu ước đòi: mắt đền mắt; răng đền răng. Điều đó có nghĩa là ai móc mắt mình, mình có quyền móc lại mắt họ, và ai bẻ gẫy răng mình, mình có quyền bẻ lại răng họ, Luật cônh bình trong xã hội hiện tại cũng vậy. Người phạm pháp phải bị kết án tuỳ theo tội nặng nhe họ đã phạm.
Vì thế mà lời Chúa dạy trong Phúc âm hôm nay phải yêu kẻ thù có thể trở thành đề tài cho người đời nhạo báng. Làm sao người ta có thể yêu kẻ thù? Ai lại nhu nhược đến nỗi theo lời Chúa dạy khi người khác vả má này, mình lại đưa cả má kia cho họ vả. Ai lại khờ dại đến nỗi khi người khác lấy áo ngoài, lại cho cả áo trong. Ai lại vô tư đến nỗi khi người khác lấy gì của mình, mình không đòi lại. Trong cái xã hội hưởng thụ và tranh sống, cái nguyên tắc yêu vô vị lợi của Chúa xem ra như là một giáo lý không tưởng, xa lạ với cuộc sống thực tế.
Chúa đến dạy ta luật từ bi, nhân hậu và bác ái thay vì luật báo thù báo oán. Nếu chỉ nghĩ đến chuyện tư lợi, trao đổi và đề đáp, thì đó là đổi chác và thương mại. Chúa nhận xét: Nếu anh em yêu những kẻ yêu thương mình,.. làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình,.. cho vay mà hi vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa, ngay cả người tội lỗi cũng làm như vậy (Lc 6:32-34). Và rồi Chúa bảo: Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hi vọng được đền trả (Lc 6:35). Và Chúa bảo thêm: Anh em hãy có lòng nhân từ, … Anh em đừng xét đoán, … Anh em đừng lên án, … Anh em hãy tha thứ, … Anh em hãy cho, … (Lc 6:36-38).
Hôm nay ta cần nhận thức rằng xét đoán là quyền của Chúa, và chỉ có Chúa là Đấng phán xét công minh, vì Chúa thấu suốt tâm hồn của mỗi người. Khi ta đoạt lấy quyền xét đoán của Chúa, thì cái xét đoán của ta rất dễ bị sai lầm. Ngay cả tại tòa án dân sự, mặc dầu có luật sư biện hộ cho can phạm, chánh án và bồi thẩm đoàn cũng sai lầm. Theo hiệp hội tranh đấu cho tự do nhân quyền ở Hoa ky, thì từ năm 1900 tới 1992, có 25 người bị hành quyết oan, vì toà kết án lầm và 318 người bị tù cũng vì toà án lầm lẫn. Trước toà án lương tâm của mỗi người, biết bao lần ta cũng kết án người khác cách vô căn cớ. Tệ hơn nữa ta còn kết án người khác là xấu thay vì chỉ kết cái cái hành động xấu của họ. Hành động xấu của một người có thể chỉ xẩy ra một lần vì yếu đuối hay vì bệnh hoạn. Ta kết án người khác nhiều khi chỉ dựa trên một lời nói, một cử chỉ hay một hành động của họ, thay vì dựa trên toàn diện con người của họ và dựa trên tất cả các công việc làm của họ.
Nguyên tắc từ bi, nhân hậu, bác ái của Chúa dạy ta tránh việc phê bình, xét đoán. Tuy nhiên trong cuộc sống hằng ngày, ta vẫn phê bình, chỉ trích và xét đoán. Vậy có lẽ ta cần tìm ra cái căn nguyên cội rễ của việc tại sao có chuyện phê bình, xét đoán vô cớ. Tìm ra cái căn nguyên cội rễ của việc hay phê bình chỉ trích vá xét đoán vô căn cớ là bước khởi đầu cho việc chữa trị tính xét đoán. Sở dĩ người ta phê bình, chỉ trích, xét đoán có thể là để che đậy những cái chướng, những khuyết điểm và thất bại của mình để đánh lạc hướng người khác về mình. Và đó là một hình thức tự vệ.
Sống đức ái chân thực như lời Chúa phán là cái thước đo cái mối liên hệ của mỗi người với Chúa, thước đo mức độ đời sống thiêng liêng của mỗi người. Ta không thể trở nên môn đệ đích thực của Chúa, nếu giáo lý về đức ái chân thực của Chúa không ăn nhập gì đến cuộc sống hiện tại của mỗi người.
61. Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật 7 Thường Niên năm C mời gọi chúng ta phải thương yêu hết mọi người, ngay cả kẻ thù nữa.
1Sm 26: 2, 7, 9, 12-13, 22-23:
Đa-vít có cơ hội thuận tiện để giết vua Sa-un, kẻ đã truy sát mình, nhưng Đa-vít đã tha chết cho vua bởi vì ông tin làm như thế là chống lại với người được Thiên Chúa xức dầu tấn phong.
1Cr 15: 45-49:
Thánh Phao-lô so sánh A-đam với Đức Ki-tô. Nhờ A-đam, chúng ta được sự sống tự nhiên; nhờ Đức Ki-tô, chúng ta có được sự sống thần thiêng.
Lc 6: 27-38:
Đức Giê-su nhấn mạnh đến bổn phận yêu thương kẻ thù và những trách nhiệm của đức ái huynh đệ.
BÀI ĐỌC I (1Sm 26: 2, 7, 9, 12-13, 22-23)
Sách Sa-mu-en quyển một là một tác phẩm quan trọng đặc biệt vì sách ghi lại bước ngoặc “lịch sử” đã dẫn đưa dân Ít-ra-en lần từng bước từ “thể chế các thủ lãnh” sang “thể chế các vua”. Ba vĩ nhân thống trị tất cả mọi biến cố của giai đoạn lịch sử này là ngôn sứ Sa-mu-en, vua Sa-un và vua Đa-vít.
1. Đa-vít là nhân vật hấp dẫn nhất:
Đa-vít là nhân vật hấp dẫn nhất trong toàn bộ lịch sử Ít-ra-en. Ông có tất cả những nét quyến rũ của những anh hùng huyền thoại. Ông khôi ngô tuấn tú: “Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn” (1Sm 16: 12); nghệ sĩ đàn hạc (1Sm 16: 16, 23); dũng cảm đến độ liều lĩnh (1Sm 17: 34-36, 40t; 18: 6-9, 26-27); không biết mệt mõi, hiếu động, nhất là sau khi đã phải trốn chạy khỏi triều đình Sa-un, ông sống cuộc sống phiêu bạt rày đây mai đó (1Sm 21-30).
2. Đa-vít có tấm lòng khoan dung nhân từ:
Sách Sa-mu-en quyển một kể cho chúng ta một trong những câu chuyện Đa-vít phải rời bỏ triều đình vua Sa-un mà trốn chạy khỏi sự truy sát của vua Sa-un. Vua Sa-un dẫn một đạo quân đông tới ba ngàn người đi lùng bắt Đa-vít. Một đêm, vua Sa-un ngủ mê miệt trong trại thì Đa-vít đột nhập vào. Người tùy tùng của Đa-vít thấy đây là một dịp may hiếm có nên xúi Đa-vít giết chết vua Sa-un. Nhưng Đa-vít không nghe theo. Ông chỉ lấy cây giáo của Sa-un rồi sang phía bên kia hô lớn bảo vua Sa-un thức dậy cho người sang lấy lại ngọn giáo. Việc này khiến vua Sa-un cảm động và phải thừa nhận Đa-vít là người sau này sẽ hoàn thành nghiệp lớn.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 45-49)
1. Nhờ A-đam, chúng ta có được sự sống tự nhiên:
Một lần nữa thánh Phao-lô chú ý đến A-đam (x. 15: 22-23). Cách thức chúng ta sống hiện nay, bản chất hiện nay, hình dáng, vẻ bên ngoài của chúng ta (“thân thể” của chúng ta) được tạo dựng theo khuôn mẫu của A-đam. Chúng ta được tạo nên hình thể từ đất nhưng chúng ta sống nhờ hơi thở mà Thiên Chúa thổi vào chúng ta. Chúng ta là một “sinh linh” (St 2: 7); chúng ta là một “thân thể có sinh khí” (1Cr 15: 44). Thân thể này có những đặc tính của một thân thể địa giới: kiếp sống phàm nhân phải chết, hèn hạ và yếu đuối (15: 42-43). Chúng ta ghi nhận rằng ở dây thánh Phao-lô trở lại quan điểm Kinh Thánh cựu trào hơn, khi nối kết cái chết với thân phận con người chứ không với tội lỗi.
2. Nhờ Đức Ki-tô, chúng ta có được sự sống thần thiêng:
Trái lại, nhờ Đức Ki-tô phục sinh, người Ki-tô hữu có được sự sống thần thiêng (15: 45). Thân thể của Ngài từ “trời mà đến” (15: 40), chứ không từ đất mà ra, vì thế là “thân thể có thần khí” (15: 44). Thân thể sống lại của chúng ta sẽ không là thân thể có sinh khí, nhưng thân thể có mối liên hệ với Thần Khí Thiên Chúa. Thân thể chúng ta sẽ không giống như mặt trời, mặt trăng và các tinh tú, nhưng giống như thân thể của Đức Ki-tô phục sinh (15: 49), vì chúng ta được thông phần sự sống của Ngài.
Khi gọi Đức Ki-tô là “A-đam cuối cùng” (15: 45), thánh Phao-lô công bố rằng Ngài là người đầu tiên khai mở mục đích tối hậu của lịch sử. Thánh nhân cũng công bố rằng A-đam đầu tiên dự kiến A-đam sau cùng: con người, như mục đích tự nhiên của mình, phải mang hình ảnh của Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Lc 6: 27-38)
Tin Mừng hôm nay áp dụng “Các Mối Phúc và các Mối Họa” của Tin Mừng tuần trước vào cuộc sống cụ thể của con người. Tin Mừng bắt đầu với lời của Đức Giê-su: “Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây” (6: 27) nhắc nhớ đến đám thính giả vây quanh Đức Giê-su để nghe Người giảng dạy và để được chữa lành bệnh tật (6: 17-19).
1.Yêu thương kẻ thù (6: 27-35):
Sau các Mối Phúc ngỏ lời với những người bị đè bẹp trong cuộc sống và các Mối Họa được gởi đến cho những người chỉ coi sự giàu sang phú quý như cứu cánh cuộc đời mình, thì phần này mở ra và đóng lại với huấn lệnh “hãy yêu thương kẻ thù” (6: 27 và 6: 35). Những kẻ thù ở đây được nhận dạng qua những hành vi họ làm: “nguyền rủa anh em” và “vu khống anh em” (6: 28), đó là những kẻ bách hại các Ki-tô hữu đã được nói đến ở Mối Phúc thứ tư (6: 22).
Ở trung tâm của phân đoạn này là luật vàng: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (6: 31). Luật này được giải thích bởi những huấn lệnh vây quanh, trước hết những huấn lệnh thuộc thể truyền lệnh ở ngôi thứ hai số ít: “Anh” (6: 29-30) và sau đó những mệnh lệnh thuộc thể điều kiện ở ngôi thứ hai số nhiều: “Anh em” (6: 32-34). Hình ảnh đưa cả má bên kia cho người ta tát và trao luôn cả áo trong cho kẻ khác, xin thì cho, lấy thì đừng đòi lại, đó là một thái độ bất bạo động không tìm cách chống cự lại kẻ ác. Để ý đến việc chuyển từ ngôi thứ hai số ít sang ngôi thứ hai số nhiều gợi lên sự vượt quá tương quan liên bản vị. Như thế luật vàng được trình bày một cách tích cực: tính hỗ tương mà luật này phải dựa vào: làm cho người khác điều thiện mà mình muốn người khác làm cho mình được xác định trong các câu 29-30, ngay cả vượt qua trong các câu 32-34. Thực vậy, ba câu hỏi nhắc lại rằng chỉ có việc không tính toán, không cho để được cho lại, hoàn toàn vô vị lợi mới phân biệt cách ăn nếp ở của người tín hữu với cách ăn nếp ở của những người tội lỗi, những người này cũng biết nhân ái đối với những ai đối xử với họ như vậy. Trong phân đoạn này, thính giả được mời gọi hằng ngày phải vượt qua chính mình, phải sáng tạo để “làm điều thiện” cho tha nhân, nhất là cho những kẻ không muốn làm điều thiện cho mình.
Tất cả những thực hành trên phải được hiểu theo quan điểm của cặp đóng khung (6: 27 và 35): lòng yêu thương đối với kẻ thù được đòi hỏi cách triệt để ở đây. Những thực hành như thế không mong được đền ơn đáp nghĩa nào trên bình diện con người; nếu có đó chỉ là phần được ban mà thôi. Người tín hữu chỉ trông chờ lời đáp của Thiên Chúa. Đáp lại ba hành vi phục vụ người khác (6: 35a) là phần thưởng đến từ Thiên Chúa (6: 35b). Ở đây cũng như Mt 5: 9, 45, chính trên cơ sở những tương quan liên vị mà người tín hữu được đồng hóa với Đấng là Con duy nhất của Thiên Chúa. “Ở nơi việc yêu thương kẻ thù chiếu sáng trong chúng ta họa ảnh của Thiên Chúa, Cha chúng ta, Ngài, qua cái chết của Con của Ngài, đã chuộc lại khỏi sự hư mất đời đời và hòa giải với Ngài nòi giống con người, trước đây vốn đã không thân thiện và thù ghét Ngài” (St Pius V Catechism, IV, 14, 19).
2. Phải có lòng nhân từ (6: 36-38)
Lời mời gọi của Đức Giê-su: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ”, là câu then chốt của đoạn Tin Mừng này, tức lả “bắt chước Thiên Chúa”, như Fray Luis giải thích: “Phẩm chất đầu tiên của nhân đức này chính là nó làm cho con người nên giống Thiên Chúa và giống đức tính vinh quang nhất ở nơi Người, lòng từ bi nhận hậu của Ngài (Lc 6: 36). Vì chắc chắn sự hoàn thiện bậc nhất một thọ tạo có thể có là phải nên giống Đấng Tạo Hóa của mình; và càng nên giống Người, càng nên hoàn thiện” (Book of Prayer and Meditation, third part, third treatise).
Khuôn mẫu của lòng nhân từ mà Đức Giê-su phô bày trước chúng ta là chính Thiên Chúa, Đấng mà thánh Phao-lô nói về Người: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn năng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2Cr 1: 3-4). Đức Pi-ô X dạy rằng “Đây là luật mà một người Ki-tô hữu phải áp dụng: phải có lòng nhân từ đối với những ai lâm cảnh gian nan khốn khó như thử chính chúng ta, và cố gắng chữa trị họ. Giáo Hội công bố luật này khi cho chúng ta một loạt những công việc vật chất đầy lòng nhân ái như thăm viếng và săn sóc bệnh nhân, cho người đói khát của ăn thức uống… và những công việc tinh thần đầy lòng nhân ái như dạy những người thất học, sửa lỗi người bị lầm lạc, tha thứ những xúc phạm…”(Catechism, 944t.).
Như vậy, những câu 37-38 cũng minh họa điều mà lòng nhân ái phát sinh. Bằng bốn ý tưởng: hai câu phủ định: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án”, và hai câu khẳng định: “Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ. Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại”, Chúa Giê-su kêu gọi đừng phê phán người khác, đừng giam hãm người ta mãi mãi theo cách đánh giá chắc chắn như đinh đóng cột. Người tín hữu không có thể thay thế Thiên Chúa để lên án người khác, cũng không muốn người khác đối xử với mình như vậy, đấy là công việc của một mình Thiên Chúa mà thôi: rốt cuộc chính Ngài sẽ xét xử, sẽ lên án hay tha thứ, sẽ ban ơn dư dật. Cách hành xử của tôi đối với người khác như thế nào thì Thiên Chúa cũng sẽ cư xử với tôi như vậy.
Chúng ta đã đọc trong Kinh Thánh chuyện tích bà góa xứ Xa-rếp-ta, bà mà Thiên Chúa đã truyền nuôi ngôn sứ Ê-li-a thậm chí dù chỉ với một nắm bột còn lại trong hũ và chút dầu còn lại trong vò. Ấy vậy, Người đã thưởng cho tấm lòng quảng đại của bà với một hũ bột không vơi và vò dầu không cạn (1V 17: 9tt.). Sự việc cũng đã xảy ra như thế khi một cậu bé đã sẵn lòng dâng hiến năm chiếc lúa mạch và hai con cá cho Đức Giê-su mà Người hóa nhiều để nuôi một đám đông dân chúng (x. Ga 6: 9). Đây là hai ví dụ sống động về điều Thiên Chúa làm khi chúng ta cho Ngài điều chúng ta có, ngay cả nếu quà tặng của chúng ta chẳng là bao nhiêu. Thiên Chúa không để cho ai đó vượt qua mình về tấm lòng quảng đại: “Hãy đến với Người với lòng quảng đại và hỏi Người như trẻ thơ: Còn gì mà Chúa không cho con khi Chúa đã đòi con ‘điều này’?” (Bl. J. Escriva, Con Đường, 153). Chúng ta cho Thiên Chúa bao nhiêu trong cuộc đời này, Ngài sẽ cho chúng ta bấy nhiêu, thậm chí còn nhiều hơn trong cuộc đời mai sau.
3. Không thỏa hiệp với sự gian ác:
Tuy nhiên, việc từ chối xét đoán người khác không đồng nghĩa với thái độ dửng dưng với điều chân và thiện. Đôi khi, trong hoàn cảnh mà kẻ gian ác là người có thế lực và quyền hành, viện cứ yêu thương kẻ thù mà từ chối xét đoán lại trở nên đồng lõa với hành động của kẻ gian ác. Đó không là đức ái mà Đức Giê-su đã dạy, như lời dạy của Công Đồng Vatican II: “Thực ra, đức ái và lòng nhân hậu này không bao giờ cho phép chúng ta trở nên dửng dưng với điều chân và thiện. Hơn thế nữa, chính đức ái thúc bách các môn đệ Chúa Ki-tô loan báo cho mọi người chân lý cứu rỗi. Nhưng phải phân biệt lầm lỗi, điều luôn luôn phải loại bỏ, với người lầm lỗi vì người lầm lỗi vẫn còn giữ được nhân phẩm, ngay cả khi họ có những ý niệm sai lầm hoặc hơi lệch lạc về tôn giáo. Chỉ có mình Thiên Chúa là quan tòa và là Đấng thấu suốt mọi tâm hồn: bởi vậy Ngài ngăn cấm chúng ta xét đoán tội lỗi bên trong của bất cứ người nào” (Gaudium et spes, 28).
62. Chú giải của William Barclay
Luật Vàng
Không có giới răn nào của Chúa Giêsu gây nhiều tranh luận bàn cãi cho bằng giới răn dạy yêu kẻ thù mình. Trước khi có thể vâng giữ luật đó, chúng ta phải tìm hiếu ý nghĩa của nó. Ngôn ngữ Hy Lạp có ba từ dùng chỉ yêu thương. Có danh từ “eran” diễn tả ái tình xác thịt, như nam yêu nữ. Có từ “philein” diễn tả tình yêu đối với người thân thuộc, gần gũi, một tình yêu đằm thắm. Cả hai từ này đều không được dùng ở đây. Chữ dùng ở đây là “agapan” mà chúng ta phải phiên dịch khá dài dòng.
Agapan diễn tả một cảm thức của lòng trắc ẩn mạnh mẽ đối với nhưng không, nó có nghĩa là mặc dù người đó cư xử tệ, xấu thế nào đi nữa, chúng ta cũng chỉ mong ước cho người đó được hoàn toàn hạnh phúc, chúng ta sẽ tình nguyện và quyết tâm hy sinh để ăn ở tử tế nhân từ với người đó. Điều này rất có ý nghĩa, chúng ta không thể yêu kẻ thù như yêu những người thân thuộc nhất của chúng ta, vì như thế là phản tự nhiên, không thể có được. Nhưng chúng ta có thể nhận thấy rằng, bất kể người nào đó làm gì với chúng ta, dù họ làm nhục chúng ta, bạc đãi, làm tổn thương chúng ta, thì chúng ta vẫn cứ làm điều tốt lành cho họ. Điều nảy sinh từ chỗ này là tình yêu của chúng ta đối với người thân thuộc là điều tất yếu tự nhiên không tránh được. Chúng ta nói đến sự “phải lòng”, đó là một sự việc xảy đến cho chúng ta. Nhưng tình yêu đối với kẻ thù không những là một việc của trái tim, mà còn là việc của ý chí nữa. Đó là một việc mà nhờ ơn Chúa giúp chúng ta sẽ thực hiện được.
Đoạn Kinh Thánh này gồm hai thực tại lớn về nền luân lý Kitô giáo:
1. Luân lý Kitô giáo là tích cực. Nó không bao gồm những việc cấm, mà nói đến những việc phải làm. Chúa Giêsu ban cho chúng ta Luật Vàng này: chúng ta hãy làm cho kẻ khác y như chúng ta muốn người khác làm cho mình vậy. Luật này thấy trong những bài học của nhiều tác giả dưới hình thức tiêu cực. Hillel một trong những rapbi nổi tiếng của Do Thái, đã trả lời hco người xin ông dạy cho tất cả Lề Luật chỉ trong thời gian anh ta có thể đứng cò một chân, ông bảo: “Điều chi đáng ghét cho người thì ngươi đừng làm cho người khác, đó là tất cả Lề Luật, các sự khác chỉ là giải thích”. Philo, một vĩ nhân Do Thái tại Alexandria đã nói “Điều gì anh ghét chịu đựng thì đừng làm cho bất cứ ai”. Isocrates, một nhà hùng biện Hy Lạp nói: “Những gì khiến anh bực bội bởi tay kẻ khác gây ra, thì đừng làm những sự ấy cho kẻ khác”. Các triết gia thuộc phải Khắc Kỷ có một luật căn bản là: “Điều gì anh không muốn kẻ khác làm cho anh thì anh đừng làm cho ai khác”. Khi có người hỏi Đức Khổng Tử rằng: “Có lời nào có thể làm luật thực tiễn cho cả dao con người không?”. Ông trả lời: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”.
Các hình thức trên đều là tiêu cực. Không phải dễ khi giữ mình đừng làm các việc đó, và càng vô cùng khó khi chúng ta phải ép mình để làm cho kẻ khác điều mà chúng ta muốn họ làm cho mình. Chính bản chất của luân lý Kitô giáo là không phải chỉ không làm điều xấu, nhưng phải tích cực làm điều tốt.
2. Luân lý Kitô giáo đặt nền tảng trên điều vượt mức bình thường. Chúa Giêsu nhắc lại đường lối chung của đời sống rồi Ngài loại bỏ tất cả bằng câu hỏi: “Đieù đó có hơn gì?”. Thường thì người ta khoe mình cũng tốt như những người chung quanh. Rất có thể họ đúng như vậy. Nhưng Chúa Giêsu hỏi: “Ngươi tốt hơn người thường được bao nhiêu?”. Tiêu chuẩn để chúng ta so sánh không phải là với người lân cận, có thể chúng ta bằng họ. Nhưng chúng ta phải so sánh mình với tiêu chuẩn của Chúa, và như vậy, chúng ta còn xa lắm với tiêu chuẩn của Ngài.
3. Lý do cho lối sống Kitô giáo là gì? Là để chúng ta được nên giống như Chúa, vì đó là ý muốn của Chúa trong các hoạt động của Ngài. Chúa khiến mưa xuống trên kẻ lành và kẻ dữ. Chúa nhân từ đối với kẻ làm vui lòng Ngài mà cũng nhân từ đối với kẻ làm buồn lòng Ngài. Tình yêu của Chúa ôm ấp thánh nhân cũng như tội nhân. Chúng ta phải noi gương mẫu tình yêu đó. Nếu chúng ta cũng tìm ích lợi nhất cho kẻ thù, thì chúng ta mới thực sự là con cái Chúa.
Câu 38 nghe có vẻ lạ “họ… mà đổ vào vạt áo anh em”. Người Do Thái mặc chiếc áo dài rộng xuống tới gót chân và thắt một đai ở ngang hông. Khi kéo áo lên cao, người ta có thể để được nhiều thứ ở phần bên trên. Theo ý đó, ngày nay chúng ta sẽ nói “người ta sẽ đổ đầy túi ngươi”.
63. Tha thứ sẽ được thứ tha--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
“Hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn cho những kẻ ghét mình, hãy chúc phúc cho những kẻ nguyền rủa mình”. Đây là lệnh truyền của Đức Giêsu và là nội dung của Luật Thiên Chúa. Khi sống theo tinh thần này của Đức Giêsu, chúng ta đã đi vào cốt lõi của tình yêu, bởi vì nếu yêu thì đâu còn ranh giới giữa bạn và thù!
Hôm nay, Đức Giêsu đã dạy các môn đệ của mình yêu thương kẻ thù. Lấy cái thiện mà thắng cái ác.
Đức Giêsu không chấp nhận sự dữ, lòng gian ác, cũng như tội lỗi. Tuy nhiên, không vì thế mà Ngài loại bỏ họ, vì sứ mạng của Ngài đến để cứu người tội lỗi ra khỏi sự gian ác, biến người tội lỗi thành người công chính. Điều này đã được chứng minh qua hình ảnh nhân từ của Đức Giêsu với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, hay như Giakêu, người thu thuế, như Phêrô kẻ chối Chúa, như người trộm lành bị đóng đinh cùng... Đỉnh cao của sự tha thứ chính là lời cầu xin Chúa Cha tha tội cho kẻ giết mình.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta một định luật căn bản rằng: muốn được yêu thế nào thì hãy yêu người khác như vậy. Ai lại không muốn được kẻ khác yêu thương? Ai lại muốn kẻ khác ghét mình bao giờ?
Nếu yêu được cả kẻ thù thì hẳn sẽ không còn chuyện mắt đền mắt, răng đền răng... Không còn ranh giới giữa bạn và thù, không còn chuyện phe tả phe hữu. Đồng thời, khi có tình yêu với ngay cả kẻ thù, chúng ta sẽ không rơi vào tình trạng mong muốn ơn huệ theo kiểu có qua có lại như: “Ông mất chân giò, bà thò nậm rượu”. Mặt khác, chúng ta sẽ dễ vượt qua chuyện xét đoán, vì ý thức rằng mình cũng đâu hơn gì người khác, thế mà mình đã được Chúa yêu thương bỏ qua, đến lượt mình, hãy tha thứ để được thứ tha, đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn can đảm cho chúng con, để chúng con sẵn sàng đi vào và sống tận căn của Lề Luật, đó là yêu kẻ thù và làm ơn cho những người ghét chúng con. Xin cũng cho chúng con hiểu rằng, đây là điều kiện cần để được Thiên Chúa thứ tha. Amen.
64. Chú giải của Noel Quesson
Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.
Điều hoàn toàn mới mẻ của Tin Mừng nằm trong các lệnh truyền mà Đức Giêsu ban cho những người chấp –nhận lắng nghe người. Đặc tính của đạo Đức Kitô giáo không chỉ là yêu thương bởi vì mọi đạo Đức của cqn người đều đòi hỏi điều đó mà là yêu "kẻ thù của chúng ta". Đây là một tình yêu thương phổ quát không loại trừ một ai.
Từ "kẻ thù mà Đức Giêsu sử dụng là một từ rất mạnh có nguy cơ bị hiểu sai. Người ta thoáng nghe nói "Tôi không có kẻ thừ'. Vả lại Đức Giêsu đã cẩn thận đưa ra các ví dụ không hạn chế về kẻ thù: Những ai ghét tôi... những ai nói xấu tôi... những ai vu khống tôi... Và để nắm hết mọi tâm mức của đạo đức Tin Mừng, chúng ta phải hiện thực hóa từ ngữ "kẻ thù”.
Trên bình diện cá nhân: Đức Giêsu đòi tôi phải yêu thương những ai phê bình tôi... những ai chọc tức tôi... những ai không đồng ý với tôi... những ai công kích tôi bằng mọi cách suy nghĩ, phục sức, cầu nguyện, bỏ phiếu của họ…
Trên bình diện của nhóm và môi trường tôi sống: Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người yêu mến những ai là kẻ thù của nhóm các môn đệ, những người bách hại, những người chống đối, những hạng người và nhóm người không suy nghĩ như tôi.
Quả là một cuộc cách mạng to lớn trên thế giới, nếu mỗi Kitô hữu bắt đầu thực hiện thật sự điều Đức Giêsu đã nói chúng ta phải làm!
Trước khi đi xa hơn trong bài đọc và suy niệm của tôi tôi dừng lại một lúc để đặt những cái tên và những khuôn mặt vào những lời này của Tin Mừng và để cầu mong điều tốt lành, để cầu nguyện thật sự... cho họ.
Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. Ai xin thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại.
Sau những thái độ "nội tâm", luôn luôn đứng đầu trong quan điểm của Đức Giêsu, giờ đây là những thái độ bên ngoài" và là hậu quả cụ thể của thái độ nội tâm. Lòng yêu thương kẻ thù phải đi đến những hành động tích cực đối với họ.
Nhưng cùng với những nhà chú giải, chúng ta hãy quan niệm rằng Đức Giêsu không ban bố một luật pháp gồm bốn điểm về "cái và", "áo ngoài", "sự: xin xỏ", sự "lấy trộm"... Thật vậy, ở đây chúng ta có những ví dụ nhằm minh họa một cách hành động hoàn toàn mới. Những ví dụ này cố tình nghịch lý và dễ nhớ. Người ta sẽ chứng tỏ mình thiếu ý thức về sự chú giải Kinh Thánh và đơn giản là thiếu lương tri khi giải thích theo mặt chữ và theo đường lối chính thống những lời ấy của ngôn ngữ 'Do Thái, như thể thật sự phải đưa má trái cho người đã vả má phải của bạn.
Ví dụ mà Đức Giêsu dùng ở đây liên quan đến cùng một loại nghịch lý như khi Người nói phải móc mắt mình hoặc chặt tay mình (Mt 5,29-30). Trong thực hành, những cách hành động ấy sẽ hoàn toàn vô ích. Mắt bị móc không bảo vệ người ta tránh khỏi một sự vấp phạm khác. Cái vả thứ hai cũng không ngăn cản được cái vả thứ ba và còn lâu mới làm cho kẻ ác có những tình cảm tốt lành hơn! Chính Đức Giêsu sẽ cho lời giải thích tốt nhất về câu nói của Người khi Người không đưa má kia cho người thuộc hạ đã vả Người trước mặt' thượng Tế: "Nếu, tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?" (Ga 18,23).
Nhưng nếu chúng ta phải tìm cho mình những thái độ tương ứng với những công kích mà chúng ta phải chịu, không nên vì thế làm giảm nhẹ yêu sách của Tin Mừng. Thật vậy nếu Đức Giêsu đã không "giơ má kia ra". Người đã đi xa hơn nhiều: Người đã để Người ta đánh đòn Người đến đổ máu, Người đã hiến hoàn toàn thân xác cho những kẻ đánh đập Người... "Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ" (Isaia 50,6). Các "gương ấy ở trong Kinh Thánh. Và Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta điều gì mà Người đã không làm trước.
Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.
Đây chính là điều mà người ta gọi là "quy luật vàng". Một trong các nguyên tắc sơ đẳng của mọi nền đạo đức.
Thầy Hillel, cùng thời với Đức Giêsu đã nói: "Anh không thích điều gì, chớ làm điều đó cho người thân cận". Và các triết gia khắc kỷ đã nói tương tự: "Điều gì anh không muốn người ta làm cho mình, anh đừng làm cho ai khác". Nhưng chúng ta nhận thấy rằng chính Đức Giêsu đem lại cho luật ấy một hình thức tích cực. Phải làm mọi điều tốt lành có thể làm được cho người thân cận... dù với kẻ thù.
Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có ân nghĩa gì đâu? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. Và nếu anh em làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa. Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế. Nếu anh em cho vay mà hy đọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả.
Là những Kitô hữu, những môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta không tốt hớn những người khác... Tuy nhiên, rõ ràng Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta khác những người khác. Sự khác nhau ấy là gì? Điều gì phải là đặc tính của một Kitô hữu? Đó là "yêu thương những người không yêu thương chúng ta". Tư tưởng sâu sắc của Đức Giêsu là tình yêu thương của chúng ta phải được giải phóng khối mới cộng đồng tự nhiên của chúng ta: Gia đình, môi -trường, quốc gia, nòi giống của chúng ta. Giữa những người giống nhau, sự liên đới là tự nhiên, tự phát. Phải dám nói điều này: sự liên đới không phải là một sự thiện tự thân; ngay cả những "người tội lỗi", những người độc ác, những kẻ áp bức, ích kẻ... có thể sống với nhau bằng sự liên đới rất vụ lợi hoàn toàn hướng về lợi lộc và chống lại những người khác. Hỡi ôi! đâu phải vì tính ích kỷ trở thành tập thể mà nó sẽ ít nguy hiểm hơn.
Tình yêu thương của Kitô giáo là một. tình yêu thương không biên giới, không giới hạn.
Nhân đây, chúng ta hãy ghi nhận bằng cách nào mà Luca muốn làm cho người nghe ngài tức là dân ngoại hiểu được nên đã thay đổi câu nói của Đức Giêsu mà Mát-thêu thuật lại trong bản văn bang tiếng Do Thái: "Ngay cả người ngoại cũng chặng làm như thế sao?". (Mt 5.47). Luca đã thay bằng từ “người tội lỗi". Và biến đổi lối nói “nghi vấn" thành lối nói "khẳng định": "Ngay cả người tội lỗi cũng làm như thế" (Lc 6,33)Vì thế, Sự khẳng định của Đức Giêsu trở nên hoàn toàn rõ ràng, và áp dụng cho tất cả mọi người!
Cũng thế, trong đoạn văn song song, Mátthêu không nói, về việc "cho vay". 'Còn Lu ca không bao giờ bỏ mất cơ hội. Rồi về "tiền bạc". Đối với ngài, trong toàn bộ Tin Mừng của mình, việc chia sẻ của cải là dấu chỉ thật sự, rõ ràng của Tình yêu thương. Và chúng ta phải thừa nhận rằng quả thật cho tiền bạc của mình cũng khó như yêu thương các kẻ thù của mình!
Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là còn Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.
Những lời này nhấn mạnh nhân tính thông thường chỉ ở mức trung bình, cách xa dự án của Thiên Chúa biết bao... Và Thần Khí, Vương quyền của Thiên Chúa phải chiếm lĩnh chúng ta từ bên trong để biến đổi chúng ta. Cho đến thời Đức Giêsu, nhân loại đã dùng bạo lực để trả đũa bạo lực. Và, ngay cả trong Kinh Thánh, phải gây ra thánh chiến để tiêu diệt, đập tan kẻ thù, dùng tôn giáo để loại trừ những kẻ thủ của Thiên Chúa! (Đệ nhị luật 7, 1-6-20,10-18 - 25,19; Giosuê 6,17; Dân số 21,2; 1 Samuen 15,18). Cho đến thời Đức Giêsu, và ngay cả trong Kinh Thánh người ta cầu nguyện chống lại các kẻ thù (Tv 17,13; Tv 28,4 - 69,23-29; v.v...). Từ khi Đức Giêsu đến, chúng ta phải "cầu nguyện cho họ ".
Và lý tưởng đề ra sẽ không là gì cả nếu không có Thiên Chúa, chính Thiên Chúa... một lý tưởng phải không ngừng đạt đến và không có giới hạn, Lời nói ấy làm người ta ngạc nhiên! Con người yêu mến kẻ thù sẽ nhận một phần thưởng: Sẽ là "con của Đấng Tối Cao" và rõ ràng là danh hiệu này là danh hiệu đã ban cho Đức Giêsu trong ngày đức Maria!được truyền tin! (Lc 1,32). Ơn làm con Thiên Chúa được ban cho người nào "kiến tạo hòa hình" (Mt 5,9). Yêu thương kẻ thù chúng ta là việc siêu phàm... thánh thiêng! Đó là điều mà Thiên Chúa không những làm... vì Người vẫn" nhân hậu với cả phường vô ân - và quân độc ác", như lời Đức Giêsu đã bày tỏ.
Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị 'Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em dấu đủ lượng đã dằn, đủ lực và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.
Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta bản tính thâm sâu của Chúa Cha: Người nhân hậu và yêu thương đến tận cùng. Người ta sẽ không bao giờ nói lại điều đó cho đủ: Thiên Chúa không phán xét ai, Thiên Chúa không kết tội ai, Thiên Chúa tha thứ cho tất cả các kẻ tội lỗi. Và Người yêu cầu chúng ta bắt chước Người. Và Người còn đi đến chỗ nói với chúng ta rằng sự phán xét của riêng chúng ta có thể nói được trả v~ trong tay chúng ta: "Đó là... anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy... xin tha tội cho chúng con như chúng con lòng tha...".
Điều đó không có nghĩa là Thiên Chúa chấp nhận sự ác! Không có gì giống nhau, và sẽ không bao giờ có gì giống nhau giữa Thiên Chúa và sự bất công, sự hành hạ, độc ác hèn hạ, ích kỷ. Và những người nào làm những việc như thế sẽ không có phần với Người". Những kẻ bất hạnh khốn nạn ấy tự mình làm hại mình, tự mình lên án mình khi ngoan cố từ chối sự tha thứ của người. Và Thiên Chúa sẽ khóc với những giọt lệ đời đời (đó là thập giá! ) trên những ai từ chối yêu mến Người. Hoả ngục, đó là mặt trái của Thiên Chúa, và không do Thiên Chúa tạo ra. Chính Thiên Chúa, chỉ là lòng nhân hậu. Còn bạn, bạn đã ở về phía Thiên Chúa chưa?
65. Suy niệm của Noel Quesson
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Luca tóm tắt một số lời khuyên quan trọng của Đức Giêsu, mà Mát-thêu đã tập họp lại trong Bài giảng trên núi.
Đó là những thái độ chủ yếu của Tin Mừng.
Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: Anh em phải yêu thương kẻ thù …
Trên lý thuyết, chúng ta quá quen “biết” những lời này.
Tuy nhiên, theo Đức Giêsu, đó không phải là điều thuộc phạm vi hiểu biết, hay lý thuyết. Những “kẻ thù” được nói đến, Đức Giêsu liệt kê trong những thí dụ sau đây: Kẻ oán ghét … kẻ nguyền rủa … kẻ nhục mạ … kẻ vu khống … kẻ đánh đập … kẻ lột áo … kẻ cướp đoạt …
Tất cả những hạng người này, không phải là những ý tưởng, cũng không phải là những yêu ma không thực, mà là những con người bằng xương bằng thịt.
Phải dám kiếm tìm chung quanh mình những con người mà để yêu thương họ ta phải khó khăn vất vả nhất … Đó là những kẻ làm “hại” ta cách này hay cách khác.
Hãy yêu thương họ … Hãy làm ơn cho họ … Hãy chúc lành cho họ … Hãy cầu nguyện cho họ … Hãy cho … Đừng đòi lại …
Đó không phải là những ý tưởng, những tình cảm … mà là những hành động thực sự, những thái độ cụ thể.
Quả thực, Tin Mừng không phải là điều dễ sống. Nó không phải là thứ “nước bông” trang điểm!
Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy.
Hãy tự đặt mình vào địa vị người khác. Lạy Chúa, đó là việc khó biết bao! Xin hãy đến giúp con.
Nếu anh em chỉ yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả những người tội lỗi cũng yêu thương kẻ thương họ.
Và nếu anh em chỉ làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả những người tội lỗi cũng làm như thế.
Mát-thêu dùng hai hình ảnh để so sánh “những người thu thuế” và “những người dân ngoại” (Mt 5,46-47). Còn Luca, để khỏi động chạm đến độc giả của mình, là những người anh em dân ngoại trở lại hay sẽ trở lại, ông đã chuyển dịch lời của Đức Giêsu theo kiểu nói dễ hiểu hơn với họ, nên dùng: “những người tội lỗi”. Thực ra, đó cũng chỉ diễn tả một tư tưởng, nhưng với kiểu nói mới mẻ hơn.
Đúng vậy, tư tưởng cốt yếu của Đức Giêsu là: “tình yêu” của chúng ta phải mang tính phổ quát, bằng cách cố giải gỡ mình khỏi những cộng đồng tự nhiên (như gia đình, môi trường sống, quốc gia, chủng tộc): Ở đó, hầu như ta thể hiện yêu thương cách tự phát. Tình liên đới không phải là điều tốt tự nó. Cần phải nói như thế, bởi vì ngay cả những kẻ tội lỗi, những kẻ ác độc, những người chuyên đàn áp, những kẻ ích kỷ … cũng có thể sống tình liên đới rất vụ lợi giữa họ, nhắm tới tư lợi và chống lại kẻ khác!
“Tình yêu không biên giới” là một nhu cầu bức thiết: nó vượt trên mọi luật tâm lý và xã hội, tuy những luật đó rất tự nhiên và thực tế. Tình yêu của chúng ta phải nối kết được mọi chiều kích của toàn thể nhân loại, kể cả những kẻ thù và đối nghịch!
Anh em phải yêu thương kẻ thù, phải làm ơn và cho vay mượn mà không mong đền trả.
Đó là thứ tình yêu vô vị lợi, cho không.
Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao bội phần, và anh em sẽ được gọi là con Đấng Tối Cao, vì Người nhân hậu cả với phương vô ân, với những quân độc ác. Anh em phải có lòng từ bi, như Cha anh em là Đấng từ bi.
Như thế, không chỉ là mọi sự vượt xa về “lượng” (số người được yêu trên toàn thế giới rộng lớn, tăng hơn), mà còn là một vượt xa về “phẩm” (yêu như Thiên Chúa yêu, bằng cách mô phỏng tình yêu vô biên, từ đó trở nên dấu chỉ của tình yêu Chúa Cha, Đấng yêu thương hết mọi người, ngay cả “những kẻ thù của Người”).
Đừng xét đoán … Đừng lên án … Hãy tha thứ … Hãy cho …
Tôi để cho mỗi lời vang lên trong tôi, từng lời một, lời này nối tiếp lời kia. Rồi tôi cầu nguyện …
66. Người đệ tử đích thực--Hugues Cousin
Bài giảng trên cánh đồng của Luca không chỉ ngắn hơn bài giảng của Mt 5-7; mặc dù trong 30 câu phần lớn đều song song với 107 câu của Matthêu nhưng giọng điệu hoàn toàn khác. Chỗ nào Tin Mừng thứ nhất làm nổi bật thái độ tôn giáo của các môn đệ Chúa Kitô khác biệt trong nhiều điểm với thái độ của các Kinh sư Do Thái, thì về phần mình Luca tìm cách liên kết cộng đoàn Kitô hữu với Israel hơn là tạo những khoảng cách –điều mà tự nhiên cộng đoàn đã làm. Ông trình bày cho Thêophilê, trước kia là người ngoại giáo (x. 1,3), như bản mẫu của sứ điệp Tin Mừng, điều độc đáo hơn cả trong lời giảng dạy của Chúa Giêsu, không hề có trong kho tàng khôn ngoan của các dân tộc.
Sau các mối phúc nói cho những người bị đè bẹp trong cuộc sống, thì phần thứ hai, một cách hành xử tuyệt đối đặc biệt trước hết được đề nghị với các môn đệ: yêu thương kẻ thù. Lý lịch của những kẻ thù này được biểu lộ qua các hành vi họ làm (cc. 27-28): đó là những kẻ bách hại các Kitô hữu được nói đến trong mối phúc thứ tư. Nói với những kẻ đang nghe Ngài -một gợi nhớ đến câu 18- Chúa Giêsu yêu cầu họ có tình thương (agapè) đối với những ai ghét họ. Đây không phải là vấn đề tình cảm mà người ta có đối với một phần tử gia đình, cũng không phải tình bằng hữu với một kẻ ngang hàng, càng không phải thứ tình yêu đam mê. Đây là việc tôn trọng và khoan dung đối với kẻ thù, được biểu lộ bằng cử chỉ và lời nói. Một yêu cầu như thế đã thực vậy ở các câu 27-28, được nhắc lại ở câu 35. Vậy, những câu được đóng khung như thế phải được hiểu theo quan điểm này; chúng minh hoạ một đòi hỏi căn bản.
Những thí dụ mới đầu được trình bày ở ngôi thứ hai số ít: sự bất bạo động đối với ai bạo hành người tín hữu, sự trao ban cách thường quen… ngay cả cho kẻ trộm; phải nhường nhịn trong tất cả ý nghĩa của từ này (cc. 29-30). Rồi tới”luật vàng” (c.31) mở ra một triển khai mới bằng từ”anh em”. Hãy để ý: việc chuyển từ ngôi thứ hai số ít (ở đây, (cc. 29-30; xa hơn, (cc. 41-42) qua ngôi thứ hai số nhiều gợi lên sự vượt quá tương quan liên bản vị. Như thế”luật vàng” được trình bày cách tích cực: tính hỗ tương mà luật này phải dựa vào (làm cho người khác điều thiện mà mình muốn nhận nơi họ) được xác định, ngay cả được vượt qua, trong, trong các câu 31-34. Thực vậy, ba câu hỏi nhắc lại rằng chỉ có việc không tính toán và không cho để được cho, chỉ có tính cách vô vị lợi mới phân biệt cách ăn ở của những người tội lỗi, những người này cũng biết yêu thương, nhân ái đối với những ai đối xử với họ như vậy. Trong sáu câu này, thính giả được mời gọi hằng ngày phải vượt qua chính mình, phải sáng tạo để làm điều thiện cho kẻ khác, nhất là cho kẻ không muốn làm điều thiện cho mình.
Có thể rằng một thực hành như thế sẽ ”tước khí giới” đối phương –sức mạnh của những người bất bạo động mà Gandhi đã sử dụng chẳng hạn… nhưng Chúa Giêsu không nói gì đến chuyện đó, bởi vì Ngài nhấn mạnh sự kiện là không được tìm kết quả trên bình diện con người; nếu có thì đó chỉ là phần được ban thôi. Người tín hữu chỉ trông chờ lời đáp của Thiên Chúa. Đáp lại ba hành vi phục vụ người khác (c.35) là lòng biết ơn của Thiên Chúa (nguyên văn là ân sủng, phần thưởng): nó làm cho trở thành con cái của Thiên Chúa. Ở đây cũng như ở Mt 5,9-45, chính trên cơ sở những tương quan liên vị mà có sự đồng hoá của người tín hữu với Đấng là Con duy nhất của Thiên Chúa.
Câu 36 là một câu then chốt, nó vừa đóng lại phần khai triển ở trên vừa mở ra phần hai ngắn gọn: sự từ chối xét đoán người khác (cc. 37-38). Cả hai đều dựa trên việc bắt chước Thiên Chúa. Người tín hữu vừa được hứa ban cho trở thành con của Chúa, ước gì họ đừng quên cách ngôn”Cha nào, con nấy!”. Đã được hình thành ở Lv 19,2 đề tài bắt chước Thiên Chúa nhắm tới sự”thánh thiện”. Trong bài giảng của Matthêu thì nói nên hoàn thiện như Cha trên trời (Mt 5,48). Đó là một ưu phẩm khác của Thiên Chúa được đề cao ở đây: cảm thông, nhân từ, trong chiều hướng của Xh 34,6, nơi đó Thiên Chúa tự tuyên bố là Đấng cảm thông và đầy tình thương xót. Chính cách hành xử của Chúa Cha thiết lập và làm cho khả thi tình yêu của tín hữu đối với kẻ thù, cũng y như việc từ chối không đoán xét anh em.
Như vậy những câu 37-38 cũng minh hoạ điều mà lòng thương xót làm nảy sinh. Bằng bốn ý tưởng –hai câu phủ định và hai khẳng định- Chúa Giêsu kêu gọi người ta mãi mãi trong một lượng giá chắc như đinh đóng cột. Người tín hữu không có thể thay thế Thiên Chúa để lên án người khác, cũng không mong người khác đối xử với mình như vậy, đấy là công việc của một mình Thiên Chúa mà thôi: rốt cuộc chính Người sẽ xét xử, sẽ lên án hay tha thứ, sẽ ban phát dư dật. Cách hành xử của tôi đối với người khác như thế nào thì Thiên Chúa cũng sẽ xử với tôi như vậy.
67. Yêu kẻ thù, lòng nhân ái từ bi (Lc 6,27-38)--Học Viện Piô Giáo Hoàng
1. Những người giàu có mà CGS đã chúc dữ trong đoản văn trước đây đã ra đi, nên bây giờ CGS quay lại nói với các môn đệ đang có mặt. Ngài phán bảo với họ cách uy quyền: "Nhưng Ta bảo các con". Lời Ngài mói là lời đến từ TC. Ngài nói như kẻ có quyền, chứ không như các tiến sĩ luật và các người biệt phái (Mt 7,28). CGS đã thu tóm cả lề luật tức là việc chu toàn ý muốn TC vào giới luật tình yêu: "ngươi phải yêu mến TC, TC ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi; và yêu đồng loại như chính mình" (10,27). Được phần trước với những lời chúc phúc và chúc dữ, CGS đã cho biết cách thế để yêu mến TC hết lòng. Bây giờ Ngài đề cập đến vấn đề yêu thương tha nhân.
CƯ cũng nói đến giới luật yêu thương tha nhân: "Hãy yêu thương tha nhân như chính mình" (Lv 19,18). CGS tách riêng giới luật này và nâng nó lên trên mọi giới luật khác trong lề luật để nói lên tầm quan trọng to lớn của nó: Ngài cũng đem lại một lối giải thích mới. Tha nhân chính là mỗi người. Dù là kẻ thù ta. Từ lối giải thích căn bản về tình yêu, nghĩa là phải yêu cả kẻ thù. Trong Lc, toàn bộ luân lý trong diễn từ công bố trên đồng bằng dựa trên cơ sở lối chú giải căn bản về tình yêu kể cả việc yêu kẻ thù.
"Kẻ thù các con" (c.27) chính là những người thù nghịch với nhóm môn đệ, những kẻ vu khống, những người bách hại, những kẻ thù của mỗi một môn đệ. CGS buộc phải yêu thương họ. Tình yêu lòng thiện cảm, có thể bị ép buộc không? Người ta có thể dễ dàng chiếm được tình cảm, tình yêu chăng? Tình yêu mà CGS truyền dạy chính là làm điều thiện, là chúc phúc, là cầu bầu. Theo CGS, yêu không nhất thiết là cảm nghiệm một tình cảm nào đó (càng tốt nếu từ một tâm tình tiêu cực biến đổi thành một tâm tình tích cực, tuy nhiên, không phải luôn luôn như thế); yêu chích là điều gì đó cho một ai, cho cả người ghét ta, nguyền rủa ta, bạc đãi ta.
Tình yêu tha nhân không chỉ hệ tại việc tha thứ những bất công mình phải chịu. Yêu thì không còn nói đến tha thứ, phải giả thiết là đã tha thứ trước rồi. Môn đệ CGS dĩ nhiên phải chu toàn tát cả những gì có lợi cho kẻ thù. Người môn đệ phải lấy ơn báo oán, chúc phúc cho những người chúc dữ, cầu nguyện cho những người bạc đãi mình. Ai yêu kẻ thù mình thì không chỉ tự mình dấn mình phục vụ kẻ thù bằng việc thiện mình làm cho họ, nhưng còn làm TC nhập cuộc giúp đỡ kẻ thù bằng cách cầu xin Ngài ban cho kẻ thù mình điều mình không có khả năng thực hiện. Đối với các môn đệ thì lòng yêu thương kẻ thù phải thâm nhập vào trong mọi lãnh vực của cuộc sống họ: trong hành động cụ thể bên ngoài, trong những ước muốn, trong lời nói, ngay cả trong tâm hồn.
2. Yêu kẻ thù thật khó, chúng ta phải tự vệ chống bất công, muốn trả thù khi người cư xử bất công với chúng ta. Một cách nào đó chúng ta muốn ngăn cản điều ác lan tràn bằng cách trả đũa, báo phục nghiêm khắc: "Ta làm cho ngươi điều mà ngươi đã làm cho ta: mắt đền mắt, răng đền răng" (x. Mt 5,38). CGS đòi buộc không được lấy ác báo ác, cũng như đừng nên làm gì chống lại điều ác. Ngài đòi buộc phải lấy thiện thắng ác. Những nguyên tắc này có giá trị đối với những bất công cá nhân chúng ta phải chịu: "Với người tát má con..." (c.29) chúng cũng có giá trị khi người ta vi phạm tư sản của chúng ta: "Với người lấy áo choàng con..." (c.29).
Người môn đệ của CGS phải vui mừng phân phát, ban tặng cách vô giới hạn. "Phàm ai xin, con hãy cho" (Lc 30), chứ đừng xét đến quốc tịch, tính ngưỡng, tư tưởng hay thái độ cá nhân, phẩm giá của người đó..." CGS còn đi xa hơn nữa: dù tài sản ta có bị cướp mất do bạo lực hay mưu mô, ta chớ đòi bồi hoàn. Ai phải chịu hoàn cảnh như thế, đừng tự vệ, đừng tìm cách lấy lại những gì đã mất. Sự bất công phải chăng phải trở nên công bình?
Chúng ta không thể bình thản nghe những yêu sách như thế của CGS? Không có gì trong chúng ta phản kháng lại các đòi buộc như thế? Phải chăng thâm tâm ta không có gì biện bác chống lại hay sao? Phải chăng như thế là đã chối bỏ nhân vị và quyền lợi cá nhân? Phải chăng như thế là mở ngõ cho sự ác hoành hành? Là khuyến khích cho những bản năng xấu xa đê hèn nhất của con người tăng triển?
Những gì được đưa ra ở đây gây quá nhiều ngạc nhiên, chúng ta xem ra có vẻ nghịch lý, bởi vì thực tế con người cư xử với nhau theo những luật lệ hoàn toàn khác thế. Các ví dụ này cho thấy lối cư xử thường tình của con người trái ngược biết bao với ý muốn TC và cũng cho thấy Nước TC cần chiếm hữu họ để biến đổi họ. Chúng ta nghĩ sự ác sẽ bị tiêu diệt, nếu chúng ta chống lại sự ác, lấy ác báo ác. Nhưng CGS công bố: chỉ có điều thiện mới thắng điều ác. Ngài mang nước TC đến, và nhờ mọi thiện hảo trong Ngài lan tỏa, sự thiện sẽ chiến thắng sự ác.
Cách thức CGS diễn tả rất gợi hình, cụ thể, cứng rắn. Ngài muốn gieo rắc ưu tư lo lắng, muốn thức tỉnh lay động, hoán cải những tâm hồn xấu xa. Những thí dụ Ngài đưa ra đây minh giải cho một thái độ, một trạng thái tinh thần mà Ngài muốn phổ biến. Đây không phải là một bài học luân lý với những điều kiện này thì phạm tội, những tuân giữ kia thì không phạm tội. Ngài không có chủ ý ban hành một lề luật mới gồm bốn phần: phần thứ nhất: khi ai đánh con má này...Thứ hai: khi ai lấy áo con... Thứ ba:...Nếu hiểu như thế là chưa quán triệt lời Ngài. Những thí dụ này là những hình ảnh nói lên cách cụ thể một thái độ căn bản. Đó là thái độ mà chính CGS muốn có, và môn đệ là người thể hiện hành động trong muôn vàn hoàn cảnh của cuộc sống hiện tại cụ thể.
3. Làm thế nào để thể hiện lòng yêu thương kẻ thù bằng hành động cụ thể? Tôi phải làm gì cho tha nhân? Cho cả kẻ thù tôi? Các bậc khôn ngoan, các tiến sĩ luật Do thái và ngoại giáo đã nói về điều này qua "luật vàng". Ông già Tobia đã truyền luật này lại cho con: "Điều chính con không thích, đừng làm cho kẻ khác" (Tob 4,15). Một tiến sĩ luật Do thái, ông Hillel, phát biểu một châm ngôn tương tự: "Đừng làm cho tha nhân điều ngươi không thích" (x. J.Bonsirven, Textes rabbiniques số 633). Học thuyết khôn ngoan của người Hy lạp cũng đã biết luật này từ lâu. Những người thuộc phái hắc kỷ đã diễn dịch luật này như sau: "Điều ngươi không muốn người ta làm cho chính ngươi, thì ngươi cũng đừng làm cho kẻ khác". Con người mang sẵn trong mình sách Lề luật và qui tắc đích thực về thái độ phải có đối với những người đồng loại. Chính những hoài bão, nhu cầu con người muốn tạo cho họ dạy họ điều phải làm.
"Điều các con muốn... các con hãy làm cho người ta như vậy" (c.31). Các bậc khôn ngoan đưa ra một qui luật để con người đừng làm cho tha nhân điều gì có thể làm cho chính mình khó chịu. Hiển nhiên ở đây họ cũng trình bày "luật vàng" ấy cách tích cực, nhưng họ chú ý ngay đến cả những hậu quả tốt mà người thực thi luật đó được hưởng đến nỗi châm ngôn ấy một cách luẩn quẩn nói lên tính ích kỷ: tôi chỉ làm cho kẻ khác điều tôi mong chờ họ làm cho tôi, hay hơn nữa, tôi có thể làm cho họ điều tôi ước ao cho chính tôi. CGS đổi mới "luật vàng" này trong hai điểm: không phải làm điều tiện để được lại điều thiện, nhưng phải khai mào cho điều thiện mà không cần được đáp trả. Đàng khác (nhưng bản văn Lc không nói đến điểm này vì Lc viết phúc âm cho những Kitô hữu từ ngoại giáo trở lại) luật này được trình bày như là bảng tóm lược tư tưởng thánh kinh: lề luật và các tiên tri (Mt 5,12 và 22,40).
4. "Và nếu các con yêu mến những kẻ yêu mến các con, thì còn ân nghĩa gì?" (c.32). Các môn đệ CGS phải chu toàn ý muốn TC trong một mức độ toàn vẹn và triệt để hơn các người khác. Họ không thể sống như các người tội lỗi. Họ là muối đất, là ánh sáng, là thành xây trên núi (Mt 5,13tt). Chính vì thế họ phải yêu thương mà không cần đáp trả, tình yêu của họ không đặt nền tảng trên tính cách hỗ tương. Nếu chỉ yêu thương những kẻ yêu thương họ, thì họ không hơn gì người tội lỗi. Họ phải yêu thương ngay cả những kẻ mà họ không thể mong chờ đáp trả hay thưởng công. Phải yêu thương như vậy bởi vì đó là ý muốn của TC, bởi TC cũng hành động như thế. "Khi con bố thí, thì tay trái đừng biết việc tay phải làm, hầu việc con bố thí được giữ kín; và Cha là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sẽ hoàn trả lại cho các con" (Mt 6,3tt).
Tình yêu biểu lộ qua việc thiện ta làm, qua việc cho vay mà không hy vọng lấy lại (c.34). Kẻ biết yêu thương đều có mặt ở những nơi khốn khổ. Tình yêu mà Chúa Kitô muốn nói là một tình yêu sinh động. "Hỡi các con nhỏ, chúng ta đừng yêu thương bằng lời nói, bằng đầu lưỡi, nhưng bằng việc làm và chân lý" (1Gio 3,18). Vậy CGS có thể đòi buộc yêu thương, bởi vì đó là một tình yêu, biểu lộ qua hành động. Tình yêu đó có thể tỏ hiện trong người sẵn sàng cởi mở và cảm thông những nỗi cùng cực của tha nhân. Kẻ nào thực sự quan tâm đến tha nhân thì có năng lực yêu thương thật sự.
CGS hứa ban thưởng cho kẻ biết yêu thương như thế. Thì còn ân với nghĩa gì? TC biết rõ những hành động của con người. Ngài thi ân giáng phúc và ân cần săn sóc cho những ai hành động đẹp lòng Người.
5. "Không trông báo đền" (c.35), đó là dấu chỉ tình yêu nơi các môn đệ. Không được người ta biết ơn, tán tụng, đền đáp. Yêu thì không tính toán. Tình yêu phát xuất từ thâm sâu con người và lan rộng. Ngay cả khi cho vay, người môn đệ cũng đừng trông mong được bồi hoàn nhưng cho vay chỉ vì muốn giúp đỡ kẻ khác. Vì khi yêu thương kẻ thù phải loại bỏ hy vọng được yêu lại; chính vì thế yêu kẻ thù là tình yêu đích thực nhất của các môn đệ CGS. Điều thúc đẩy các môn đệ yêu thương chính là ý muốn của TC, quyền năng của Ngài, gương mẫu của CGS thày chúng ta, và lời Ngài.
Người môn đệ chu toàn giới luật yêu thương kẻ thù này sẽ được thưởng lớn, người đó sẽ được gọi là con Đấng tối cao. Đây chính là danh từ được gán cho CGS trong cảnh truyền tin: "người này sẽ được nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối cao; TC sẽ ban cho người ngôi báu Đavit, tổ phụ Ngài" (1,31). Kẻ nào chu toàn giới luật yêu thương kẻ thù, sẽ được quyền làm con TC và như thế sẽ được tham dự vào quyền cai trị của chính CGS.
Làm con TC không chỉ là một thực thể đáng mong ước và chỉ xảy ra vào thời thế mạt; con người đã được làm con TC ngay từ lúc thực sự biết yêu thương kẻ thù. Do tình yêu không vụ lợi không đòi đáp trả người môn đệ trở nên giống TC; bởi TC cũng hoàn toàn tốt lành đối với kẻ vô ơn và ác đức. Người môn đệ trở nên con của Đấng tối cao, của Đấng tốt lành vượt trên mọi hành động của con người.
6. Người "xót thương" là người biết cảm xúc trước nỗi cùng cực của con người, biết mở lòng cảm thông nỗi khắc khoải và cùng cực của tha nhân, biết cứu giúp tất cã những ai thống khổ.
CGS công bố TC là một người Cha đầy thương xót. Nước TC được khởi đầu bằng việc loan báo ơn giải thoát cho kẻ bị giam cầm, bằng việc giải chiếu ánh sáng cho người mù tối, giải phóng những kẻ bị áp bức. CGS được sai phái đến thế gian để loan báo thời cứu độ đã đến và mang ơn cứu độ đến. Ngài đã rảo khắp xứ để thực thi việc thiện. Ngài tha tội lo lắng cho tội nhân, nói đến niềm vui của Chúa Cha trên trời khi có tội nhân trở về với Ngài trong thời kỳ ân sủng này (5,11-32). Sứ mệnh của CGS được diễn tả một cách chủ yếu trong lời Ngài kêu mời vào giao tế với các tội nhân (Lc 15,4-10; 7,36-47; 18,10-14; 19,1-10).
Lòng thương xót của Chúa Cha dạy cho các môn đệ biết điều chính họ phải làm. CGS đòi hỏi người ta phải thực hiện điều mà người Do thái gọi là "bắt chước TC". Cũng như TC đã cho con người trần truồng áo mặc. Cũng như TC đã viếng thăm những kẻ bịnh hoạn (Stk 18,1), ngươi cũng hãy thăm viếng bệnh nhân... Cũng như TC được gọi là Đấng đầy xót thương và tốt lành, ngươi cũng hãy cố gắng sống để được gọi là người biết xót thương và tốt lành, ngươi hãy bố thí mà không chờ phần thưởng... Cũng như TC được gọi là tốt lành... Cũng thế ngươi hãy sống tốt lành.
Vậy tình yêu có hai qui tắc nhờ đó con người có thể đo lường và cảm nghiệm được lối cư xử cụ thể của mình. Đó là ước muốn của chính tâm hồn mình: yêu tha nhân như chính mình - và lòng xót thương của Cha trên trời. Hai qui tắc đó trong thực tế chỉ là một; vì người môn đệ là con của Đấng tối cao, là hình ảnh của TC. CGS tái tạo hình ảnh của TC trong con người bởi vì Ngài đến loan báo quyền thống trị của Đấng tối cao, là Cha đầy thương xót của chúng ta.
7. Thương xót và yêu thương con người trước tiên là không xét đoán họ: "Đừng xét đoán..." (c.37). Kẻ nào tìm hiểu xem tha nhân có đáng được xót thương và yêu mến không, người đó đã vi phạm giới luật yêu thương; vì tình yêu là nhưng không, do lòng xót thương trước nỗi cùng cực của tha nhân. Xét đoán chỉ có hai giai đoạn: lượng giá và kết án. CGS không muốn lượng giá và xét đoán ai. Hẳn nhiên, ở đây không có vấn đề xử dụng quyền tư pháp như trong một xã hội nào đó (CGS đã không bao giờ lên án việc xử dụng quyền tư pháp trong các dụ ngôn của Ngài hay ở những nơi khác). Ở đây chỉ có những phán đoán được thể hiện qua tư tưởng hay lời nói. Những lời phán đoán đó không bỏ lượng giá luân lý về hành động, nhưng cấm tuyên bố người hành động như thế là có tội.
CGS đã đòi buộc phải yêu thương kẻ thù và phải có lòng thương xót: "Hãy yêu thương kẻ thù - hãy biết xót thương". Chỉ có TC là Đấng xét đoán mới có thể đòi hỏi con người trả lẽ vào thời của Ngài. Kẻ nào đặt mình là người xét xử tha nhân, thì TC sẽ xét đoán người ấy. Cách thức tôi đối xử với tha nhân sẽ định rõ cách thức TC đối xử với tôi.
8. Tội phạm và lầm lỗi mà tha nhân đã có thể gây ra cho tôi, rất có thể ngăn cản tôi xót thương và yêu mến họ. CGS chỉ cho ta hai con đường để vượt qua trở ngại đó: là biết tha thứ và ban tặng chính mình. Nhờ tha thứ, hàng rào ngăn cách giữa tôi và tha nhân không còn nữa; nhờ trao ban chính mình, tôi được nối kết với tha nhân.
Đòi buộc phải tha thứ cũng như đừng kết án lại được đặt vào trong viễn tượng Ngày Thẩm phán cuối cùng đang đe dọa con người. "Các con sẽ được tha thứ" và "các con sẽ được người ta cho lại", hai câu này qui chiếu về ngày thẩm phán sau hết. Bấy giờ, TC sẽ xét đoán chúng ta theo lối cư xử của chúng ta. Một cách nào đó, lời phán xét chung thẩm đang ở trong tầm tay ta. "Xin tha tội chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" (11,4).
Ngày thưởng công sẽ đến. Đó là một ngày thu hoạch rất phong phú cho những ai đã biết ban phát. TC giống như một nông gia trả lương rất hậu cho công nhân của Ngài (đồng lương ở đây được diễn tả qua hạt lúa). Một nông gia hà tiện đổ đầy đấy lúa, rồi gạt cho sát, hầu khỏi phải cho quá số lượng cần thiết. Một nông gia đại độ sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn đã lắc, hầu có thể ban phát nhiều hơn số lượng cần thiết, ông đổ đầy, tràn đấu lúa. TC giống như nông gia đại độ ấy. Ngài rất đại lượng trong việc thưởng công. Đồng lương Ngài ban phát cho không phải là đồng lương người ta đáng được, nhưng là một món quà tặng do lòng rộng rãi của Ngài, Ước gì ý niệm thưởng công, trả lương, không làm cho chúng ta thu hẹp lối diễn tả tình yêu vô biên của TC nơi chúng ta. Điều mà TC ban, luôn là vô hạn nhiều hơn điều chúng ta đã phân phát. "các con hãy vui mừng và hoan lạc vì phần thưởng các con trên trời rất lớn lao".
Dầu vậy, dù TC không hẹp hòi khi ban ân huệ, Ngài cũng chỉ ban phát cho những ai đã biết trao ban.
Diễn từ về lòng thương yêu kẻ thù được loan báo trong viễn tượng ngày chung thẩm cuối cùng. Nhưng nó không kết thúc sau lời đoán xét và án phạt của TC, mà lại kết thúc với lời mô tả lòng tốt vô biên của Ngài. Lối hành văn của các câu trước có một nhịp điệu như nhau, nhưng đến câu nói của lời Chúa ban ân huệ: "Và các con cũng sẽ được ban cho" lại có cung điệu trang trọng hơn. Như thế trọng tâm của vấn đề được dời từ sự nghiêm khắc qua lòng tốt của TC, từ xét đoán qua hạnh phúc, từ lời đe dọa qua lời hứa, từ sợ hãi qua hy vọng.
Phần kết luận (c.38b) là một lời canh chừng: đong đấu nào, trả đấu ấy. Kẻ nào cho ít, sẽ nhận được ít. Kẻ nào cho dư đầy - hình ảnh về TC đại độ hiểu ngầm dưới đây - sẽ nhận được dư đầy. Tuy nhiên lòng thương xót vượt quá mọi giới hạn, mọi điều công bình mà TC sẽ chứng tỏ trong ngày Ngài thẩm phán không phải là không có điều kiện. Kẻ nào biết trao ban và tha thứ cho con người, sẽ nhận được dư đầy ân huệ và được TC tha thứ. Kẻ nào không biết trao ban và tha thứ thì đừng có hy vọng được TC ban và tha thứ.
KẾT LUẬN
Điều CGS muốn dạy qua những câu nói thẳng thừng này, với một cung giọng đông phương và rất gần với não trạng của thính giả là: trong các tương giao xã hội của con cái TC, dù đối xử với nhau, dù đối xử với kẻ khác hay ngay cả với kẻ thù, thì họ phải dùng một thứ lề luật khác vì lề luật báo thù hay luật công bình giao hoán mà con người thời cổ thường dùng. Bởi thế, các mối tương giao ấy nhất thiết phải là có tính cách huynh đệ: chúng ta tất cả là con cùng một cha trên trời. Qui luật tối thượng trong các tương quan giữa con người không phải là công bình nhưng là tình yêu.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Kẻ thù mà đoạn sách phúc âm này nói đến là kẻ thù ở trong nhóm, hay trong quốc gia đang sống. Vấn đề không phải là thay đổi các tâm tình sâu xa đối với kẻ thù, vì những tâm tình này độc lập với ý muốn chúng ta cho con. Nhưng vấn đề được đặt ra lúc có dịp cụ thể chúng ta phải có những hành động cụ thể giúp đỡ kẻ thù: cho kẻ thù đói khát ăn, săn sóc nếu họ bị thương, chôn cất một tử thi... Điều này đôi lúc đòi ta phải anh hùng can đảm, không những chỉ để vượt lên trên mối ghê tởm tự nhiên đối với họ, nhưng để tỏ ra mình cũng có "thiện cảm" với kẻ thù dân tộc. Hẳn nhiên, ở đây không có vấn đề giúp đỡ về quân sự (vì như thế là chống lại huấn lệnh về tình yêu, bởi chưng giúp đỡ về quân sự chính là trở lại chống đối người thân cận mình). Nhưng vấn đề ở đây là khi có thể trả thù kẻ thù bị ta bắt giam, ta hãy đối xử cách nhân bản và theo đức ái Kitô giáo.
2. "Kẻ thù" mà chúng ta thường gặp trong cuộc sống hàng ngày là tất cả những ai lân cận hay quen biết chúng ta mà lại phỉnh gạt chúng ta dưới bất cứ hình thức nào, là tất cả những ai tự nhiên có ác cảm với chúng ta, tất cả những ai luôn chống đối lại chúng ta khi chúng ta lên tiếng. Tất cả những ai lợi dụng sự cộng tác của chúng ta, tất cả những ai không tôn trọng chúng ta, tất cả những ai nói xấu sau lưng chúng ta, tất cả những ai bóc lột, chà đạp, vô ơn với chúng ta... Những kẻ thù ấy luôn đi sát ta. Chính CGS đòi chúng ta phải yêu thương giúp đỡ họ khi gặp cơ hội thuận tiện, phải tha thứ họ tận đáy lòng. Hẳn nhiên một thái độ như thế không có gì là "tự nhiên" hay tự phát cả. Trong một vài trường hợp chúng ta có lẽ muốn chết đi hơn là làm hòa với một ai đó sống cạnh chúng ta mà đã phỉnh gạt chúng ta. Và đó chính là điều mà CGS đòi buộc nếu chúng ta muốn trở nên môn đệ Ngài: chết đi cho những cảm tình tự nhiên để mặc lấy một lần thay cho tất cả tâm hồn quảng đại của Đức Kitô, Đấng đã tha thứ cho kẻ thù khi hấp hối trên thập giá. Điều CGS đòi buộc chúng ta không thể thực hiện được nếu chúng ta chỉ cậy dựa vào bản tính con người. Nhưng TC sẽ ban ân sủng, sức lực siêu nhiên để giúp chúng ta vượt lên trên sự đối kháng nội tâm, và thực sự trở nên những con người mới phát sinh từ Chúa Thánh Thần, những con người đích thực của Đấng tối cao (c.35). Không thể trở nên môn đệ đích thực của CGS khi chưa chịu chết đi cho chính mình. Nhưng nếu bằng lòng chết đi cho chính mình, bấy giờ chúng ta sẽ khám phá ra một cuộc sống mới trong Chúa Kitô, vì chính Chúa Kitô sẽ biến đổi tâm hồn chúng ta và ban cho chúng ta tâm tình yêu thương tất cả mọi người như anh em. Bấy giờ, trong vui mừng và hoan lạc, chúng ta có thể nói với thánh Gioan: "Chúng tôi biết chúng tôi đã đi từ cõi chết đến sự sống bởi vì chúng tôi đã yêu mến anh em mình" (1Gio 3,14).
68. Cách sống của môn đệ
A. HÌNH THỨC
Xét về hình thức (cách dùng chữ, dùng hình ảnh...) bản văn Luca có những đặc điểm sau đây:
1) Lv 19,18 cũng có lời dạy yêu thương "Hãy yêu thương tha nhân như chính bản thân mình". Lc đã thay chữ "tha nhân" (prochain) bằng chữ "kẻ thù". Câu 27 "Hãy yêu thương kẻ thù".
Người thời Cựu ước cũng biết mở rộng tình thương ra khỏi phạm vi hạn hẹp của gia đình, nhưng chỉ mở rộng tới "tha nhân" (hiểu là những kẻ ở ngoài gia đình mà được mình thích). Đức Giêsu mở rộng tới chỗ không ai ngờ. Đó là: "kẻ thù".
2) Mt 5,40: "Ai muốn kiện con để đoạt áo trong..."
Lc 6,29: "Ai đoạt con áo choàng..." Rộng hơn: không nhẹ nhàng trong một vụ kiện, mà mạnh mẽ vì là một sự tấn công.
3) Mt 5,42 ghi: "À qui te demande, donne".
Lc 6,30 ghi: "À quiconque te demande, donne...": rộng hơn.
4) c.31: "Các con muốn người ta làm chi cho mình thì hãy làm cho người ta như thế". So với một số câu khác thì câu này tích cực hơn:
- Sách Nho: Kỷ sở bất dục - Vật thi ư nhân.
- Tb 4,15: Điều mà con không thích thì đừng làm cho người khác.
- Ông Hillel: Điều con không thích thì đừng làm cho tha nhân.
- Trường phái Hy Lạp Stoiciens: Điều ngươi không muốn người ta làm cho bạn thì bạn đừng làm cho người ta.
Chẳng những tích cực, câu này còn biểu lộ sự quãng đại có sáng kiến trước (không đợi cho có kinh nghiệm về sự khó chịu người khác gây cho mình rồi mới dựa vào đó để đừng gây cho người ta).
5) c.33: "Nếu các con làm ơn..." so với Mt 5,47 "Nếu các con chào hỏi..." Ta thấy Lc sửa lại cho hợp với thính giả người lương ("chào hỏi" là thói quen của thính giả Do Thái và Phương Đông).
"... thì có gì là ơn với nghĩa": so với Mt 5,46 "... thì còn đáng thưởng công chi nữa": bớt đi tính vụ lợi, nhấn mạnh đến tính miễn phí vì lợi ích vì gợi tới ơn Chúa.
6) c.35: "... các con... sẽ được gọi là Con Đấng Chí tôn": đây chính là tước hiệu của Đức Giêsu (Lc 1,32): kẻ nào yêu thương kẻ thù thì được mang cùng tước hiệu với Đức Giêsu.
7) c.36: "Như Cha các con là Đấng xót thương" so với Mt 5,48: "Như Cha là Đấng trọn lành". Lc không nói mơ hồ, mà diễn tả sự trọn lành bằng một đức tính cụ thể là xót thương.
8) cc 37.38: "Sẽ không bị xét đoán... không bị lên án... sẽ được cho...": đây là những passif divin hiểu ngầm tác nhân của những động từ ấy là Thiên Chúa.
B. NỘI DUNG
Đoạn Tin mừng này đề cập đến ba điều: Yêu thương kẻ thù - Đừng xét đoán (lòng thương xót) và Hãy cho đi (lòng tốt).
I - YÊU THƯƠNG KẺ THÙ (CC 27-36)
27-28 Cựu ước cũng có giới luật yêu thương: Lv 19,18 "Ngươi hãy yêu thương cận nhân" (ton prochain). Đức Giêsu chú giải chữ "cận nhân" ấy một cách rộng rãi hơn: Cận nhân là bất cứ ai, không giới hạn, kể cả kẻ thù. Thực ra trong số những cận nhân, kẻ thù là đối tượng khó thương nhất. Nên khi Đức Giêsu cụ thể hóa tình thương cận nhân vào đối tượng này thì tình thương trở thành vừa cụ thể nhất vừa cao nhất.
Thế nhưng làm sao có thể ép tình thương được? Nói đúng ra yêu thương xét theo nó là một tình cảm thì không thể ép được. Điều Đức Giêsu dạy ở đây là: làm ơn - chúc phúc - cầu nguyện. Nếu có được tình cảm thì càng tốt, còn nếu chưa có thì hãy làm những việc ấy, dần dần chúng có thể đưa đến tình cảm thật.
Đặc biệt, khi cầu nguyện cho kẻ thù thì người môn đệ kéo Chúa vào cuộc theo: họ xin Chúa làm cho kẻ thù điều mà bản thân họ chưa làm nỗi.
29-30 Khuynh hướng tự nhiên là muốn trả đủa, lấy ác báo ác. Đức Giêsu dạy ta đừng trả đủa, đừng lấy ác báo ác.
Khi trả đủa, người ta tưởng rằng có thể lấy sự ác để chiến thắng sự ác. Thực ra như thế là rất sai. Sự ác chỉ có thể bị chiến thắng bởi sự thiện mà thôi.
Vả má, đoạt áo, xin và đoạt của đều là những thí dụ Đức Giêsu dùng để diễn tả thái độ lấy thiện báo ác trên. Những thí dụ này ta không nhất thiết phải theo đúng (vả lại chúng được diễn tả cách cường điệu). Phải luôn nhớ điều quan trọng là "lấy thiện báo ác" và mỗi người cố gắng thể hiện ra bằng những thí dụ hợp với hoàn cảnh mình.
c.31: "Các con muốn người ta làm chi cho mình thì hãy làm như thế cho người ta". So với lời dạy của nhiều người khác (xem phần A) thì lời này của Đức Giêsu tích cực hơn và rộng rãi hơn.
32-34 Tình thương của người môn đệ không được dựa trên những tính toán có qua có lại. Họ yêu thương chỉ vì đó là cách hành động của Thiên Chúa yêu thương mọi người mà không mong được đáp đền.
c.35 Ai yêu thương như thế thì được gọi là "Con Đấng Tối cao". Đây chính là tước hiệu được đặt cho chính Đức Giêsu (xem Lc 1,32).
c.36: Như thế tình thương của người môn đệ có hai nguyên tắc hướng dẫn: Một là như chính mình. Hai là như Cha. Thực ra hai nguyên tắc này cũng thành một bởi vì người môn đệ chính là "Con Đấng Tối cao".
II - ĐỪNG XÉT ĐOÁN: (CC.37)
Đã yêu thương thật thì sẽ không xét đoán, bởi vì nếu xét đoán xem đối tượng có đáng được ta yêu hay không, tức là đã giới hạn cho tình thương rồi.
Thế nhưng phải chăng ta cũng không được có cảm nghĩ này nọ về một người nào đó? Ở đây phải phân biệt: có thể đánh giá về một hành động của người ta (xấu hay tốt), nhưng không được từ đó mà đưa ra kết luận tốt xấu về con người của người đó được.
III - CHO ĐI: C.38
Đức Giêsu dùng hình ảnh ông chủ ruộng đối xử với thợ mình: người chủ keo kiệt thì đong lúa thật kỹ (để chỉ vừa đủ thôi, thí dụ đong nhanh, lấy cây để gạt miệng đấu) người chủ rộng lượng thì có ý đong sao cho thật đầy (dằn, lắc, đổ vun lên vv...) nếu ta cư xử với người khác thế nào (keo kiệt hay rộng lượng) thì Thiên Chúa cũng cư xử với ta như thế đó.
KẾT LUẬN
Tương quan giữa người môn đệ với kẻ khác không còn phải dựa trên luật trả đủa của Cựu ước, cũng không dựa trên luật công bình phân phối của người đời, mà phải dựa trên tình thương huynh đệ: Mọi người đều là anh em vì có cùng một Cha trên Trời.
19/02 Chúa biến hình trên núi cao
- Viết bởi Mc 9, 2-12
Chúa biến hình trên núi cao.
Thứ Bảy tuần 6 thường niên.
"Người biến hình trước mặt các ông".
Lời Chúa: Mc 9, 2-12
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia cùng Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu.
Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông.
Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?" Và các ông hỏi Người: "Tại sao các biệt phái và luật sĩ lại nói Êlia phải đến trước đã?" Người đáp: "Êlia phải đến trước để sửa lại mọi sự, và như có lời chép về Con Người rằng 'Người phải chịu nhiều đau khổ và khinh bỉ'. Vậy Thầy bảo cho các con hay: Êlia đã đến rồi và chúng xử với người mặc ý chúng, như đã chép về người".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hãy nghe Người
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong Tin Mừng Máccô, Đức Giêsu được tuyên bố là Con Thiên Chúa ba lần:
lúc chịu phép rửa (1, 11), lúc được biến hình (9, 7), và sau khi tắt thở (15, 39).
Trong cả ba lần này, Đức Giêsu đều ở trong thái độ vâng phục tự hạ.
Lần thứ nhất, khi Ngài đứng chung với những tội nhân chịu phép rửa (1, 9).
Lần thứ hai, sau khi Ngài tiên báo và chấp nhận cuộc Thương Khó (8, 31).
Lần thứ ba, sau khi Ngài bị đóng đinh và chết trên thập giá (15, 39).
Như thế khi Đức Giêsu đi xuống đến cùng của phận người tội lụy
thì Ngài lại được tôn vinh là Con Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu lên một ngọn núi cao.
Ngài chỉ đem theo ba môn đệ thân tín, Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Ba ông này đã được thấy Ngài hồi sinh con gái ông Giairô (5, 37),
và sẽ được ở bên Ngài trong vườn Dầu sau này (14,33).
Đức Giêsu được biến hình trước mắt các ông, y phục Ngài trắng tinh rực rỡ.
Cha đã muốn cho ba môn đệ thấy sự cao trọng thánh thiêng của Đức Giêsu,
vốn được ẩn giấu che khuất bởi bề ngoài rất đỗi bình thường.
Đức Giêsu biến hình không phải là đổi qua một hình khác,
mà là vén mở trong một thời gian ngắn
để cho ta thấy tư cách thần linh vẫn luôn luôn có nơi Ngài.
Phêrô và các bạn ngây ngất trước cảnh tượng chưa từng thấy.
Hơn nữa, họ còn thấy ông Êlia và ông Môsê hiện ra trò chuyện với Đức Giêsu.
Hai ông này đã từng đàm đạo với Thiên Chúa trên núi (Xh 33,11; 1V 19, 8-18).
Bây giờ họ cũng đàm đạo với Đức Giêsu trên núi cao.
Phêrô chỉ muốn kéo dài giây phút tuyệt vời này mãi.
Ông đề nghị căng ba lều để ba vị ở lại đây luôn.
Có lẽ ông quên là Thầy Giêsu còn cả một con đường nhọc nhằn phải đi.
“Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe ngài” (c. 7).
Câu duy nhất của Chúa Cha nói với chúng ta trong Tin Mừng Máccô.
Cha giới thiệu cho ta Con của Cha, Cha mời gọi ta vâng nghe Ngài.
Ba môn đệ chẳng thể ngờ rằng trên ngọn núi này
họ sẽ được bao phủ bằng sự hiện diện gần gũi của Thiên Chúa qua đám mây,
và tai họ được nghe thấy lời của chính Thiên Chúa nói.
Rồi đến lúc Thầy và các trò phải xuống núi.
Con người Thầy Giêsu trở lại như thường, y phục trở lại bình thường.
Thầy xuống núi này để chuẩn bị lên một ngọn núi khác.
Nhưng những gì diễn ra ở ngọn núi này thật là không thể quên.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa thường hay lên núi cầu nguyện.
Thỉnh thoảng xin dẫn con lên một ngọn núi cao
để con sống tình bạn với Chúa.
Xin cho con ngỡ ngàng khi chiêm ngắm khuôn mặt của Chúa,
khuôn mặt mà con tưởng mình đã quen biết từ lâu.
Chúa cho con thấy những nét đơn sơ để lòng con trở nên giản dị.
Chúa cho con thấy những nét hiền hậu để con biết thứ tha.
Chúa cho con gặp những nét sáng tươi
để con nở một nụ cười với cuộc sống.
Lạy Chúa, xin hãy cho con có kinh nghiệm lên núi với Chúa,
yêu thích sự cô tịch và thanh thoát, trầm lặng để lắng nghe.
Ước gì khoảng trời bao la trên đỉnh núi
nâng con lên khỏi những nhỏ mọn hằng ngày.
Và ước gì khi xuống núi,
con thấy mình mạnh mẽ hơn để đón lấy những gai góc của đời con. Amen.
Suy Niệm 2: Đức tin hi vọng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thư Do thái khẳng định: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy”. Ta tin tưởng vì Lời Chúa hoàn toàn chân thực và quyền năng.
Ta hi vọng tin tưởng, vì Lời Chúa sáng tạo vũ trụ. Vì thế Thiên Chúa là Chúa Tể Càn Khôn. Nơi Người tràn đầy sức sống, tình yêu và hạnh phúc. Đó chính là điều nhiều vị thánh đã được chứng nghiệm. Mô-sê trên đỉnh Xi-nai khói lửa mịt mù. I-sa-i-a trong thánh điện rực rỡ vinh quang. Hôm nay các môn đệ trên đỉnh núi Ta-bo. “Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy”. Đó chỉ là cố gắng diễn tả. Ngôn ngữ trần gian không tài nào tả hết cảnh huy hoàng lộng lẫy của thiên đình. Càng không thể diễn tả hết niềm hạnh phúc tâm hồn cảm thấy. Phê-rô mê mẩn thưa rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay!”..Thật ra ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng”. Không thể diễn tả. Nhưng thật đáng mơ ước. Kinh hoàng vì vượt quá sức loài người. Nhưng hạnh phúc vì đạt tới niềm vui khôn tả. Đó là niềm hi vọng có thật. Hoàn toàn vững chắc. Bảo chứng muôn đời.
Ta hi vọng tin tưởng, vì Lời Chúa dẫn đường chỉ lối cho ta đạt tới hạnh phúc Chúa hứa: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Các tổ phụ đã có đức tin lớn lao nên đã vâng nghe Lời Chúa. Và đạt tới lời Chúa hứa. “Nhờ tin…, ông A-ban đã được chứng nhận là người công chính…Ông Kha-nốc..khỏi chết…vì đã làm đẹp lòng Thiên Chúa. Mà không có đức tin, thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa…Nhờ đức tin, ông Nô-ê …cứu được gia đình ông. Tin như thế là ông đã lên án thế gian, và được phần gia nghiệp là sự công chính nhờ đức tin” (năm lẻ).
Ta hi vọng tin tưởng, vì Lời Chúa chân thật xứng đáng cho ta tin cậy. Lời thế gian thường gian dối. Nó phát xuất từ cái lưỡi “làm cho toàn thân bị ô nhiễm, đốt cháy bánh xe cuộc đời, vì chính nó bị lửa hoả ngục đốt cháy….Cái lưỡi thì không ai chế ngự được: nó là sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết người”. Vì thế thánh Gia-cô-bê khuyên nhủ ta hãy biết dùng lời mà nói những lời thánh thiện và chân thật. Đó là phải “dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta”. Đã tin vào Lời Chúa, ta phải luôn nói lời chân thật “Ai không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo” (năm chẵn).
Suy Niệm 3: Biến hình với Chúa
Lịch sử cứu độ được dệt bằng những cuộc ra đi. Dường như Thiên Chúa không muốn cho người dậm chân tại chỗ: Ngài kêu gọi Abraham từ bỏ quê hương xứ sở để đi đến một nơi mà ông không biết; Ngài thúc đẩy Môsê rời bỏ cung điện nguy nga để tìm đến nơi hoang vắng, Ngài ra lệnh cho ông phải đưa dân Israel ra khỏi Ai Cập; Ngài kêu gọi Êlia hãy lên ngọn núi cao để nhận ra sứ điệp của Ngài. Chính Chúa Giêsu cũng đã làm một cuộc ra đi: Ngài rời bỏ ngôi nhà của Cha để đến cư ngụ giữa loài người.
Tin Mừng hôm nay hé mở cho chúng ta thấy vinh quang mà Con Thiên Chúa đã có trước khi đến trần gian. Vinh quang mà Chúa Giêsu hé mở cho các Tông đồ thân tín được thể hiện sáu ngày sau khi Ngài loan báo về cuộc khổ nạn và cái chết mà Ngài sắp trải qua. Qua cuộc biến hình này, Ngài muốn củng cố niềm tin của các Tông đồ vào sứ mệnh của Ngài: Ngài phải chịu chết rồi mới sống lại vinh hiển, Ngài phải trẩy đi từ sự sống qua sự chết và đạt tới sự Phục sinh vinh hiển. Và đó cũng là con đường tất yếu của những ai muốn đi theo Ngài; con đường Chúa Giêsu sẽ đi qua cũng sẽ là con đường mà các môn đệ Ngài phải đi qua.
Cuộc biến hình nào cũng là một cuộc trẩy đi, một cuộc đổi đời. Cuộc sống của người Kitô hữu là một chuỗi những ra đi, những cái chết từng giây từng phút. Ðó là điều Chúa Giêsu đòi hỏi nơi chúng ta: "Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sai, thì không xứng đáng là môn đệ Ta".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nghiêm chỉnh tự đặt cho mình câu hỏi: Tôi có thực sự muốn được biến hình không? Tôi có thực sự muốn sống sự sống thần linh của Chúa không? Tôi có thực sự muốn làm môn đệ của Chúa không? Ðức tin của tôi có đủ mạnh để biến đổi cuộc sống của tôi không? Mỗi quyết định của tôi trong cuộc sống có là một bước tiến để đưa tôi đến gần cuộc sống vĩnh cửu không?
Ước gì Lời Chúa hôm nay soi sáng cuộc sống hiện tại của chúng ta. Những vất vả khổ đau mà chúng ta đang trải qua trong cuộc sống này phải được sống và được nhìn với niềm hy vọng vào cuộc biến hình vinh hiển đang chờ đón chúng ta. Từng bước một, xin Chúa Kitô Phục Sinh thêm sức để chúng ta vững tin tiến tới.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Không được phép dựng lều
Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. (Mc. 9, 2-3)
Trèo lên núi cao, có nghĩa là ra khỏi quê hương hay nơi cư trú của mình, là nâng mình lên cao khỏi những lo lắng thường ngày, là cắt nhịp sống tầm thường để tiến tới cuộc sống phi thường. Thánh Phêrô đã thấy rõ khía cạnh này khi đi lên núi cùng với Chúa Giêsu, Giacôbê và Gioan. Ông cảm thấy khoan khoái khi được ở trên ngọn núi này. Vì thế ông đề nghị dựng lều cho Chúa Giêsu ở đây. Chúa Giêsu từ chối lời đề nghi này của Phêrô, bởi lẽ đối với Chúa không có vấn đề du lịch, cũng không phải ra khỏi xứ. Việc lên núi này tham dự vào sứ mạng của Người. Thực vậy, biến cố Chúa hiển dung trước tiên là vì các môn đệ, và củng cố niềm tin của các ông đối với Chúa Giêsu. Chúa biến đổi hình dạng sáng láng, y phục Người trở nên rực rỡ trắng tinh có nghĩa là Người được bao trùm vinh quang của Thiên Chúa. Hơn nữa, cuộc đàm đạo của Chúa với những nhân vật có thế giá của Cựu ước là Elia và Mô-sê cũng là cách nói cho các môn đệ hiểu rằng Đức Giêsu được nhập vào hàng ngũ và đang đi theo đường lối của hai vị đại ngôn sứ này. Thánh Luca nói đến đề tài của cuộc đàm đạo này: “Các ngài nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem.” Cả hai vị Môi-sê và Elia đều là những người từng trải về xuất hành: vị thứ nhất đã đưa dân Do thái ra khỏi Ai cập; còn vị thư hai đã đi khỏi trần gian này một cách huyền bí vào lúc cuối đời. Bằng cái chết và sự phục sinh của Người, Chúa Giêsu phải thực hiện một cuộc xuất hành mới sẽ cho phép những kẻ thuộc về Người tiến đến cùng Thiên Chúa làm một với Người
Tiếng Chúa Cha phán
Trong chương chín, thánh Maccô đã trình bày cho ta thấy các tông đồ đã gặp ngày xui: các ông chậm hiểu, và Phêrô lại còn bị Chúa quở trách. Tình trạng đó hẳn làm cho các tông đồ mất tinh thần và khiến các ông phải tự hỏi liệu Người có phải đúng vị kinh sư mà mình đã chọn để đi theo không. Vì thế việc Chúa biến đổi hình dạng sáng láng đến đúng lúc. Phêrô đã trả lời nói lên căn tính của Đức Giêsu: “Thầy là Đấng Kitô”. Đúng, nhưng chưa đủ. Ở đây, Thiên Chúa Cha cho câu trả lời đầy đủ: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Chứng từ này của Chúa Cha làm cho vẻ tăm tối ảm đạm nơi định mệnh của Chúa Giêsu là chân chính, xác thực. Đó là “những tư tưởng của Thiên Chúa “và các tông đồ chỉ có chọn lựa để chấp nhận: “Hãy vâng lời Người!” Dừng lồng khuôn Chúa Giêsu theo hình ảnh đấng thiên sai của các ông, đừng gán cho Người sứ mạng của một Đấng Kitô mang tính cách chính trị phải chiến thắng và phục thù. Các ông phải đón nhận Đấng-Thiên-Chúa-sai như Thiên Chúa sai đến: một Đấng thiên sai phải chịu đau khổ rồi mới vinh quang. Phải có điều này vì điều kia.
Suy Niệm 5: Một cuộc biến đổi
Cuộc biến hình hôm nay được diễn ra sau sáu ngày Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của Ngài cho các môn đệ.
Giờ đã đến, Đức Giêsu hé mở vinh quang của Ngài trong tư cách là Đấng Thiên Sai - Con Thiên Chúa. Qua cuộc biến hình của Ngài với Êlia và Môsê, Đức Giêsu muốn dạy cho các ông bài học rằng: chính Ngài phải chịu đau khổ rồi mới đến vinh quang; phải trải qua cái chết rồi mới phục sinh. Đây cũng là con đường dẫn đến hạnh phúc dành cho người môn đệ nếu muốn chung phần với Thầy của mình.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta vững tin vào Chúa. Luôn biết quy chiếu cuộc đời chúng ta trong niềm hy vọng phục sinh. Biết đón nhận thử thách và đau khổ trong cuộc đời với lòng yêu mến Chúa, để nhờ đó, chúng ta được hạnh phúc như Chúa đã mặc khải cho các môn đệ khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng yêu mến Chúa tha thiết. Biết trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh, để mai sau được phục sinh với Ngài. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Đức Giêsu biến hình
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Tin Mừng hôm nay hé mở cho ta thấy vinh quang mà Con Thiên Chúa đã có trước khi đến trần gian. Vinh quang mà Đức Giêsu hé mở cho các Tông đồ thân tín được thể hiện sáu ngày khi Ngài loan báo về cuộc khổ nạn và cái chết mà Ngài sắp trải qua. Qua cuộc biến hình này, Ngài muốn củng cố niềm tin của các Tông đồ vào sứ mệnh của Ngài: Ngài phải chịu chết rồi mới sống lại vinh hiển, Ngài phải trải đi từ sự sống qua sự chết rồi mới đạt tới sự Phục sinh vinh hiển. Và đó cũng là con đường tất yếu của những ai muốn đi theo Ngài. Con đường Đức Giêsu sẽ đi qua cũng sẽ là con đường mà các môn đệ Ngài phải đi qua.
2. Mục đích việc biến hình của Chúa.
Chắc chắn tâm tư các môn đệ vẫn còn xót xa, hoang mang bởi lời quả quyết của Đức Giêsu khi Ngài tiết lộ cho các ông: Ngài phải tới Giêrusalem, để chịu nhục hình, bị đối xử như tên tội phạm, chịu đau đớn, chịu đóng đinh vào thập giá và chết. Trước mắt họ, tương lai toàn là mầu đen nhục nhã. Nhưng toàn cảnh núi Biến hình là vinh quang. Mặt Đức Giêsu sáng rỡ ràng như mặt trời, áo Ngài rực rỡ chói lòa như ánh sáng...
Chắc chắn cảnh tượng đó làm cho các ông phấn khởi, họ đã thấy vinh quang bên kia cảnh nhục nhã, khải hoàn bên kia cảnh đau khổ, vương miện bên kia thập giá. Ngay lúc ấy, họ cũng chưa phải là đã hiểu trọn vẹn, nhưng chắc chắn họ đã lờ mờ ý thức được rằng thập giá là hoàn toàn khổ nhục, nhưng nó đi liền với vinh quang, là nét chính của cuộc xuất hành đến Giêrusalem và đến cái chết.
3. Các ông cần được củng cố, nâng đỡ.
Các môn đệ cần được nâng đỡ qua biến cố biến hình này, vì sẽ đến một ngày và ở trên một ngọn đồi kia, lúc đó bầu trời sẽ trở nên tối tăm, khuôn mặt Đức Giêsu sẽ đầm đìa mồ hôi và máu, quần áo của Ngài sẽ không còn chói sáng nữa, mà sẽ bị lột khỏi thân mình Ngài. Sẽ không có tiếng nói phát xuất từ trời nữa, nhưng chỉ có những giọng nói chế diễu và nhạo báng mà thôi. Các môn đệ sẽ bị tản mác, và không muốn tham dự vào những sự việc đang xẩy ra.
Biến cố biến hình còn cho các môn đệ niềm hy vọng là: con đường đau khổ sẽ dẫn đến hạnh phúc, cái chết tủi nhục sẽ dẫn đến ngày Phục sinh hân hoan. Tựa như học sinh kiên nhẫn và miệt mài hy vọng một mùa thi tốt đẹp, người nông phu dầm mưa dãi nắng cấy cầy vì hy vọng vào mùa gặt bội thu.
4. Các ông muốn hưởng những phút huy hoàng.
Qua cuộc biến hình nhiều người đã có cảm nghiệm như thánh Phêrô: ông muốn làm ba lều cho Đức Giêsu, cho Maisen và cho Êlia. Ông muốn kéo dài giây phút huy hoàng ấy. Ông không muốn trở về với công việc thường ngày, ông muốn ở lại mãi mãi với vinh quang rực rỡ. Ai đã từng trải qua những giây phút thân mật, trong sáng, bình an, gần gũi với Chúa cũng đều muốn kéo dài những giây phút ấy, như có người đã diễn tả: “Núi Biến hình bao giờ cũng thích thú hơn là công tác phục vụ hằng ngày hay con đường thập giá”.
Nhưng núi Biến hình được ban cho ta chỉ để cho ta có sức mạnh làm công tác phục vụ. Giờ phút vinh quang không xuất hiện vì chính nó, nó xuất hiện là để khoác vẻ đẹp lóng lánh, rực rỡ cho những công việc bình thường mà trước kia chúng ta chẳng hề có.
5. Nhưng các ông cần phải xuống núi.
Cũng như Phêrô và các môn đệ, mỗi người chúng ta ai cũng muốn được ở trên đỉnh vinh quang, nhưng lại không muốn đối diện với thực tế của cuộc đời, và muốn trốn tránh kiếp lữ hành trần thế, muốn trốn tránh thập giá là con đường duy nhất đưa đến sự phục sinh. Đức Giêsu hôm nay vừa tỏ cho chúng ta thấy viễn cảnh Phục Sinh để nâng đỡ niềm tin cho chúng ta và cho chúng ta một niềm hy vọng chắc chắn về đời sống vĩnh hằng, nhưng Ngài mời gọi chúng ta phải xuống núi: xuống núi vừa để giúp những người khác thêm niềm tin và hy vọng, xuống núi để tiếp tục cuộc lữ hành trần thế tiến về quê Trời.
6. Truyện: Thưa, chính Chúa đấy ạ.
Cha John Diamond một nhà giảng thuyết nổi tiếng ở Mỹ có kể lại câu chuyện này:
“Hôm đó có một linh hồn vì chán ngấy cuộc sống ở thế gian cho nên linh hồn đi lên trước cửa Thiên đàng. Tới nơi linh hồn gõ cửa. Ở trong có tiếng nói vọng ra: “Ai đó”? Linh hồn trả lời: “Con đấy ạ”.
Cửa vẫn đóng.
Sau đó linh hồn trở về với đời sống ở trần thế tìm thầy học đạo. Sau một thời gian thấy mình đã tiến bộ, linh hồn lại lên gõ cửa Thiên Đàng một lần nữa. Lại một tiếng hỏi từ bên trong như lần trước và linh hồn trả lời một cách quả quyết hơn: “Dạ chính con đây”.
Cửa vẫn đóng.
Linh hồn lại phải trở về trần thế... mở sách Tin Mừng để xem Chúa muốn gì. Quả thực khi mở Tin Mừng ra linh hồn mới thấy con đưởng của mình phải đi là con đường nào. Đó là con đường tự hủy. Chúa nói thật rõ về con đường phải làm chết cái tôi ích kỷ, hay khoe khoang, phô trương, hay tự mãn, hay ghen ghét. Phải làm chết đi cái tôi đầy hận thù, nhiều kiêu ngạo và đầy dẫy những ham muốn bất chính để làm cho con người của mình dần dần được giống Thiên Chúa Cha trên trời.
Sau một thời gian thấy mình quả thực đã không còn là mình nữa thì linh hồn lại lên trời... lại gõ cửa... lại có tiếng từ bên trong hỏi vọng ra: “Ai đó”?
Vừa nghe xong câu hỏi linh hồn đáp lại ngay: “Dạ, thưa chính Chúa đấy ạ”.
Vừa trả lời xong thì linh hồn thấy cửa Thiên đàng được mở ra và cả một đạo binh các thiên thần long trọng đón linh hồn vào Thiên đàng. Thật vui biết bao!
Suy Niệm 7: Con đường thập giá của Chúa Giêsu
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Việc Chúa Giêsu biến hình xảy ra sau khi Chúa Giêsu báo tin Ngài sẽ chịu nạn chịu chết và bảo các môn đệ của Ngài cũng hãy đi theo con đường thập giá của Ngài. Như vậy, việc biến hình nhằm an ủi các môn đệ sau thập giá là phục sinh, sau đau khổ sẽ tới vinh quang.
B.... nẩy mầm.
1. Phêrô muốn dựng lều cho Môsê, Êlia và Chúa Giêsu, nghĩa là ông thích hưởng cảnh vinh quang sáng láng. Nhưng cảnh đó chỉ diễn ra trong thoáng mắt, sau đó mọi sự trở lại như trước, Chúa Giêsu dẫn các ông xuống núi. Ai mà không thích thiên đàng, nhưng muốn lên thiên đàng thì trước đó phải vác thập giá theo Chúa.
2. Chúa Giêsu biến hình để trở lại hình ảnh vinh quang vốn có của Ngài trước đây. Chúng ta cũng thường biến hình, nhưng biến từ hình ảnh Thiên Chúa lúc mới được tạo dựng thành hình ảnh méo mó xấu xí vì tội lỗi. Vì thế chúng ta phải thường cố gắng biến trở lại hình ảnh ban đầu.
3. "Hãy vâng nghe lời Ngài" các môn đệ Đức Giêsu – và cả chúng ta – rất sung sướng được ở trong vinh quang của Chúa. Họ khó chịu khi nghe Ngài nói tới con đường thập giá. Thậm chí Phêrô còn cản ngăn Ngài. Nhưng Chúa Cha bảo "Hãy vâng nghe lời Ngài", nghĩa là phải chấp nhận đi theo Ngài trên con đường thập giá trước rồi mới được tới vinh quang. Nhưng thực ra, nghe lời một Đức Giêsu vinh quang thì dễ hơn nghe lời một Đức Giêsu thập giá nhiều!
4. "Từ trong đám mây có tiếng phán rằng Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người" (Mc 9,7b)
Tối hôm đó, sau khi đã từ giã bà con thân thuộc và những ân nhân, bạn hữu đến thăm, chỉ còn lại hai mẹ con trong nhà, bà Magarita âu yếm nhìn con và nói "Gioan của mẹ, hôm nay con đã là Linh mục của Chúa và con được diễm phúc cử hành Thánh lễ. Từ nay con đừng lo gì cho mẹ hết, nhưng hãy lo một điều duy nhất là cứu rỗi các linh hồn". Những lời của mẹ, Gioan Boscô đã ghi lòng tạc dạ và đã nên thánh. Lời của một người mẹ còn có sức mạnh như thế, huống hồ là lời Chúa. Lời Chúa có sức mạnh ngàn lần. Vậy mà tôi lại xem thường, không để tâm thực hành trong cuộc sống.
Lạy Cha, xin giúp con làm những gì Chúa Giêsu đã làm, là hướng về Cha trong tâm tình cầu nguyện. Ước gì con cũng được nghe Cha nói với con "Con là con yêu dấu của Cha" (Epphata).
5. "Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy" (Mc 9,3)
Để tổng kết cuối năm, các Công ty tính toán sổ sách và nhìn lại một năm qua đã tiến hay lùi thế nào.
Tôi cũng dành lại thời gian để hồi tâm về quá khứ, tổng kết các công việc của tôi. Trước mắt tôi là "cuốn sổ ghi cuộc đời". Những kế hoạch, dự định đặt ra vào đầu năm, tôi vẫn cứ loay hoay ở bước khởi đầu; mọi vốn liếng về kiến thức, nhân đức, ơn Chúa như đang bị thâm thủng, nói chi đến lãi lời. Tôi đang chùn bước hay đang tiến? Và nếu có tiến thì tiến ở tốc độ nào? Biết bao nhiêu câu hỏi đặt ra cho tôi vào tối nay. Tôi quyết tâm như thế nào đây?
Lạy Chúa, nhìn lại thì không thiếu, nhìn tới thì không thừa. Xin cho con nhận ra ý Chúa ngay trong hiện tại. (Epphata)
- 18/02 Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình
- 17/02 Tuyên xưng của Phêrô.
- 16/02 Người mù Bếtsaiđa.
- 15/02 Phó thác cho tình yêu Thiên Chúa
- 14/02 Xin điềm lạ
- 13/02 Phúc thay – Khốn thay
- 12/02 Phép lạ Bánh hóa nhiều lần 2
- 11/02 Chúa Giêsu và người điếc
- 10/02 Chúa Giêsu và bà mẹ ngoại giáo
- 08/02 Điều chính yếu của Tin Mừng