Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
27/03 Người Cha nhân hậu
- Viết bởi Lc 15, 1-3. 11-32
Người Cha nhân hậu.
CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY Năm C.
"Em con đã chết nay sống lại".
Lời Chúa: Lc 15, 1-3. 11-32
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người thu thuế và những kẻ tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng; thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng".
Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Người kia có hai con trai. Đứa em thưa với cha rằng: "Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con". Người cha liền chia gia tài cho các con.
Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó, và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó hồi tâm lại và tự nhủ: "Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói. Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha". Vậy nó ra đi và trở về với cha nó.
Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu... Người con trai lúc đó thưa rằng: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa". Nhưng người cha bảo đầy tớ: "Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy". Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.
"Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: "Đó là em cậu đã trở về, và cha cậu đã giết bê béo, vì thấy cậu ấy về mạnh khoẻ". Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà.
Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: "Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó". Nhưng người cha bảo: "Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY C
Lời Chúa: Gs 5,9a.10-12; 2Cr 5,17-21; Lc 15,1-3.11-32
1. Trở về--‘Manna’
Người cha không đi tìm đứa con út như tìm chiên lạc.
Nó đã dùng tự do để quyết định ra đi,
và người cha tôn trọng quyết định đó.
Nhưng ông vẫn ngong ngóng chờ con.
Niềm hy vọng vẫn không ngừng nhen nhúm.
Người cha thấy con trước khi nó kịp thấy cha.
Con ốm yếu, hôi hám, bội bạc, chẳng làm cha xa tránh.
Tình thương trào dâng khiến bước chân cha vội vã.
Vòng tay cha lớn quá, nụ hôn cha nồng nàn.
Áo đẹp, dép mới, nhẫn đeo tay, ca nhạc, tiệc tùng, múa nhảy:
tất cả chỉ để thông báo cho mọi người biết rằng đây là con tôi,
vẫn là con vì chưa bao giờ không là con.
Nhưng người cha không chỉ thương con út.
Con cả mới là đích nhắm của câu chuyện này.
Anh quá hiếu thảo, quá vâng phục cha từng li từng tí.
Anh không đi hoang, không ăn chơi, chỉ chăm lo đồng áng.
Ai cũng thấy anh là người con mẫu mực.
Nhưng biến cố đứa em trở về đã làm lộ con người thật của anh.
Tuy luôn ở trong nhà cha, nhưng anh lại ở ngoài tim cha.
Anh không hiểu được tại sao cha lại nhu nhược đến thế,
bao dung đến độ bất công với anh.
Đãi tiệc với thịt bê béo để mừng đứa con hoang đàng,
còn anh, một con dê để lai rai với bạn bè cũng không có.
Anh không thể vui với cha, càng không thể vui với em.
Anh tức giận vì thấy quyền lợi mình bị xâm phạm.
Rốt cuộc anh không chịu vào nhà!
Hoá ra cả hai người con vừa khác, lại vừa rất giống nhau.
Cả hai đều ở ngoài nhà cha, chấp nhận chịu đói.
Con út không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi.
Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào.
Sám hối là trở về với tình cha.
Cả hai người con đều cần trở về, trở vào.
Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui, sự sống.
Nhưng trở về chẳng phải là chuyện dễ dàng.
Chẳng ai muốn nhận là mình đã đi lầm đường.
Người anh cả cần dẹp bỏ tự ái để vui vẻ vào nhà.
Người em út cần khiêm tốn
mới gặp cha và gia nhân trong tình trạng thân tàn ma dại.
Để trở về cần đứng lên hay bỏ chỗ mình đang đứng.
Từ bỏ thì đớn đau nhưng hạnh phúc thật tuyệt vời.
Hạnh phúc lớn nhất không phải là tài sản vật chất,
mà là khám phá ra mình có chỗ trong trái tim cha.
Cha yêu mình dù mình hư hỏng, bất trung.
Cha yêu mình không phải vì mình ngoan ngoãn, được việc.
Cha yêu mình chỉ vì mình là con.
Cha không muốn mất một đứa con nào.
Trở về với Cha đòi ta giang tay đón lấy người em.
Đó không phải là "thằng con của cha", nhưng là "em của con".
Trở về với Cha, với tha nhân cũng là trở về với mình.
Tôi chợt nhận ra mình quá ư giàu có.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những lý do khiến người con út trở về? Bạn thường sám hối trở về vì lý do nào?
Bạn có sợ đi xưng tội không? Bạn nghĩ gì về bí tích Giải Tội? Bí tích này có giống với việc đứa con út trở về và được cha tha thứ không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ,
khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con.
Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay của Cha;
nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo.
Như người con thứ, chúng con bỗng thấy mình tay trắng,
rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe doạ.
Lạy Cha đầy lòng bao dung,
xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày,
giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc.
Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui
vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên,
thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ,
chúng con lại thấy mình hiền hoà hơn với tha nhân.
2. Ăn mừng--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Dụ ngôn người cha nhân hậu là một dụ ngôn nổi tiếng,
qua đó Đức Giêsu cho thấy
tại sao Ngài đón tiếp và ăn uống với tội nhân.
Đơn giản chỉ vì ngài giống Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.
Người cha nhân hậu là người tôn trọng tự do của đứa con thứ,
người đã chia một phần ba gia sản cho nó
ngay khi ông còn sống.
Ông đã không tìm con,
như người ta tìm chiên lạc hay tìm đồng bạc bị mất.
Ông tin và hy vọng sớm muộn nó sẽ về,
nên ông kiên nhẫn chờ.
Vì chờ, nên ông là người đầu tiên trông thấy con trở về tiều tụy.
Không cầm lòng được vì thương,
ông chạy ra, ôm lấy cổ con mà hôn.
Người con của ông đã chết nay sống lại,
đã mất nay lại tìm thấy.
Khi con thứ sám hối, ông đã trả lại cho cậu
tất cả vinh dự của người con.
Việc duy nhất phải làm ngay
là mở tiệc ăn mừng (cc. 23, 24. 29, 32).
Khi con cả giận dỗi,
không chịu vào nhà chung vui với cha và em,
một lần nữa người cha lại đi ra và năn nỉ (c. 28).
Ông chấp nhận ở thế yếu
vì ông không muốn mất một đứa con nào.
Ông không thể yên tâm ở trong nhà
khi còn một đứa con ngoài cổng.
Hoán cải bao giờ cũng khó.
Con thứ phải can đảm lắm mới dám trở về nhà cha.
Làm sao lường được phản ứng của cha, anh, của gia nhân, hàng xóm?
Làm sao dám về nhà trong tình trạng thân tàn ma dại?
Nhưng con cả cũng không dễ vào nhà chút nào,
vì vào nhà là phải bắt tay thằng em đã phung phí hết của cải,
vào nhà là phải chấp nhận
sự thiên vị khó hiểu của người cha (cc. 29-30).
Cả hai người con đều cần hoán cải.
Người con cả cũng hỗn hào với cha
không kém gì đứa em (c. 30).
Em bỏ nhà ra đi nên đói,
còn anh không chịu vào nhà nên cũng có thể bị đói.
Anh phục vụ cha rất tốt
nhưng lại mong cha trả công như người thợ (c. 29).
Anh ở gần cha, nhưng thực sự trái tim lại xa cha.
Khi cha vui vì em trở về thì anh lại buồn giận.
Mùa Chay là thời gian trở về với Cha, trở lại với anh em.
Người con thứ đã đứng lên trở về nhà cha
và tìm được hạnh phúc.
Không rõ người con cả có vào nhà cha
và ôm lấy em mình không?
Cầu nguyện:
Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ,
khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con.
Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay Cha,
nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo.
Như người con thứ,chúng con bỗng thấy mình tay trắng,
rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.
Lạy Cha đầy lòng bao dung,
xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày,
giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc.
Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui
vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên,
thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ,
chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân.
3. Học hỏi Phúc Âm: CN 4 Mùa Chay--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Lc 15,1-3.11-32
1. Nhân vật chính của dụ ngôn này là ai? Trong hai đứa con, đứa con nào là nhân vật mà ta cần để ý hơn? Đọc Lc 15,1-3.
2. Đâu là những hành vi bất hiếu của người con thứ? Tội bất hiếu bị xử như thế nào? Đọc Đnl 21,18-21. Người con thứ được chia mấy phần sản nghiệp của người cha? Đọc Đnl 21,15-17.
3. Đâu là tình cảnh khốn cùng nhục nhã ê chề của người con thứ sau khi bỏ nhà ra đi? Người Do-thái coi heo là con vật như thế nào? Đọc Lêvi 11,7; 1 Mcb 1,47-49.
4. Đọc Lc 15,17-20a. Bạn có tin người con thứ ăn năn thật sự không, hay anh ta trở về chỉ vì bụng đói?
5. Đọc Lc 15,17-21. Bạn có thấy những bước chính của Bí Tích Giải Tội (Hòa Giải) ở đây không?
6. Người con thứ trở về nhà cha có dễ không? Đâu là những điều anh có thể phải hứng chịu?
7. Đọc Lc 15,25-30. Đâu là tội của người con cả?
8. Người con cả chấp nhận vào nhà cha có dễ không? Để vào nhà, anh phải thay đổi điều gì?
9. Đọc cả bài Phúc âm, cho biết đâu là những hành vi thương xót, tha thứ của ông đối với người con thứ và người con cả?
CÂU HỎI SUY NIỆM:
Bạn nghĩ gì về người cha trong dụ ngôn này? Ông có phải là người nhu nhược, nuông chiều các con? Hãy đặt một tựa đề cho bài Phúc âm này.
PHẦN TRẢ LỜI
1. Nhân vật chính trong dụ ngôn này là Người Cha. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu cho thấy tấm lòng bao dung của Người Cha đối với cả hai đứa con. Trước đây dụ ngôn này thường được gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng,” như thế tập trung vào đứa con thứ hơn. Thật ra trong dụ ngôn này, người con cả mới là điểm nhấn. Đức Giêsu nói ba dụ ngôn trong chương 15 của Tin Mừng Luca nhắm vào các người Pharisêu và kinh sư đang xầm xì chống đối Ngài, vì thấy Ngài gần gũi những người thu thuế và tội lỗi (Lc 15, 1-3). Nơi người con cả, ta nhận ra hình ảnh các ông Pharisêu và kinh sư.
2. Tội bất hiếu của người con thứ: anh đòi cha chia gia sản cho mình ngay khi cha còn sống (thường chỉ chia sau khi cha qua đời); anh đã bỏ nhà ra đi, lãng quên nhiệm vụ làm con; anh làm gia đình mất uy tín và thể diện; cuối cùng anh đã phung phí toàn bộ tài sản đó vào chuyện ăn chơi đàng điếm. Một đứa con bất hiếu có thể bị ném đá cho chết (Đnl 21,18-21).
Theo sách Đệ nhị luật 21,15-17, người con cả được hưởng hai phần ba tài sản của người cha, như thế người con thứ được một phần ba.
3. Sau khi bỏ nhà cha ra đi, người con thứ đã tiêu hết sạch tài sản. Rồi khi một nạn đói kinh khủng ập tới, anh phải đi chăn heo cho một người dân ngoại, dù heo là con vật bị người Do-thái coi là hết sức ô uế (Lêvi 11,7; 1 Mcb 1,47-49). Nhưng nghề chăn heo không giải quyết được cơn đói cồn cào, anh vẫn thèm đồ ăn của heo mà không ai cho. Cuối cùng, anh thấy mình có thể chết đói (Lc 15,14-17).
4. Đọc Lc 15,17-20a ta thấy người con thứ có lòng ăn năn thật sự. Anh muốn đứng lên và đi về cùng cha (câu 18), và anh đã làm như thế (câu 20). Anh ý thức về tội mình phạm đến Trời và đến cha (câu 18). Anh thấy sự nặng nề của tội mình đã phạm, nên anh không mong mình được cha nhận lại làm con, chỉ mong được làm công cho cha thôi (câu 19). Tuy nhiên, lòng ăn năn của anh cũng pha yếu tố tự nhiên: anh muốn trở về với cha để có đủ đồ ăn, tránh khỏi bị chết đói. Có thể nói đây là một kiểu ăn năn tội cách chẳng trọn.
5. Đọc Lc 15,17-21 ta có thể thấy một số nét của bí tích Hòa giải ở đây, với những bước như sau. Câu 17: hồi tâm và xét mình, nhận ra tình trạng tồi tệ hiện nay của mình. Câu 18 và 19: quyết tâm trở về với cha và xưng tội với cha. Lòng thống hối và dốc lòng chừa được biểu lộ qua việc chỉ xin làm công cho cha thôi, thay vì làm con. Câu 20: thực hành điều đã quyết định, đi xưng tội. Câu 21: xưng tội, thấy tội nặng nề, thấy mình bất xứng.
6. Cuộc trở về với cha của người con thứ không hề dễ dàng. Anh phải can đảm mới dám trở về, bởi lẽ anh có thể bị cha từ chối và xua đuổi, có thể bị người anh không chấp nhận (và điều đó đã thực sự xảy ra!), có thể bị làng xóm cười chê, có thể bị những người làm công coi thường. Anh phải dám chịu nhục khi trở về trong tình trạng thân tàn ma dại, khác hẳn với lúc ra đi.
7. Người con cả tự hào là người “bao nhiêu năm hầu hạ cha, chẳng bao giờ trái lệnh” (câu 29). Anh ở gần cha, anh không bỏ nhà ra đi như đứa em, nhưng lòng anh lại xa cha. Khi cha vui vì con thứ trở về, thì anh lại buồn giận. Anh ghen tỵ và thấy cha không công bằng khi một đứa con có hiếu như anh lại chưa hề được cha cho một con dê nhỏ, còn thằng em bất hiếu lại được cha giết bê béo ăn mừng khi nó trở về (câu 29-30). Đứa em đã bỏ nhà ra đi, còn anh bây giờ “không chịu vào nhà” (câu 28). Anh không muốn tham dự bữa tiệc vui do cha tết đãi. Anh không muốn chia sẻ niềm vui của người em. Anh đã hỗn với cha khi gọi em mình là “thằng con của cha đó” (câu 30). Người con thứ đã phạm tội bỏ nhà ra đi, còn người con cả đã phạm tội không chịu vào nhà. Cả hai đều bị đói nếu cứ đứng ở ngoài nhà cha.
8. Để vào nhà dự tiệc mừng đứa em, người con cả cần có trái tim bao dung của người cha, cần vui với niềm vui của cha. Anh phải coi đứa em thật là em của mình, chứ không phải là kẻ trở về để chiếm thêm tài sản. Đi từ giận dữ từ khước đến chấp nhận yêu thương là một con đường dài…
9. Người cha thấy con thứ từ đàng xa, chạnh lòng thương, chạy lại, ôm hôn (câu 20). Dù con tội lỗi, người cha vẫn nhìn nhận đứa con thứ là con của mình và cho anh mọi sự trong tư cách là con (câu 22-23). Mở tiệc ăn mừng là quyết định của người cha (các câu 23,24,29 và 32). Người cha còn hạ mình đi ra để năn nỉ người con cả vào nhà (câu 28). Trước cơn giận dữ và sự hỗn hào của con cả (câu 29-30), người cha vẫn ôn tồn giải thích lý do khiến mình cư xử như thế (câu 31-32).
4. Người Cha nhân hậu--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Ta thường gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng”. Cách gọi này không được chính xác. Trước hết vì sự trở về của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho ta. Hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu, khi kể dụ ngôn này, có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của người cha.
Bối cảnh: Nhóm Pharisêu và các Kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì Người ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời họ, Chúa Giêsu kể một chuỗi 3 dụ ngôn: Con chiên đi lạc, Đồng bạc bị mất và Người cha nhân hậu.
Nội dung: Có thể coi đây là một vở kịch 2 màn.
NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON ÚT.
Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài, ở nhà chung mà chỉ nghĩ đến vun quén riêng. Không đóng góp mà chỉ muốn rút tỉa. Không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ. Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng kinh tởm khi nó dám mở miệng xin chia gia tài. Theo truyền thống phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cha mẹ mau chết đi!
Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí. Cách ăn tiêu nói lên tính ích kỷ của đứa con. Nó tiêu tiền mà không nghĩ gì đến mồ hôi nước mắt của cha mẹ. Nó tiêu tiền chỉ để thoả mãn dục vọng. Nó dùng tiền bạc để cung phụng bản thân. Khi có tiền nó chẳng nghĩ đến ai, nên khi hết tiền, chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp nó qua cơn túng thiếu. Túng cùng quá mới phải trở về.
Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về. Nó không hề nghĩ đến cha mẹ. Nó không hề nghĩ đến tình thương. Nó chỉ nghĩ đến cái bụng. Về nhà để được ăn no. Chỉ có thế.
Người cha hoàn toàn quên mình vì con.
Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán, không hạch sách khó khăn. Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ mong sao con cái được vui lòng.
Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng chờ. Thật tội nghiệp, con ra đi chẳng nhớ nhung gì đến cha mà cha không phút giây nào ngừng thương nhớ con. Con chỉ biết tìm vui cho bản thân trong khi cha mỏi mòn trông đợi. Con chỉ biết đến tiền bạc, còn cha chẳng quan tâm gì đến tiền của, nhưng chỉ cần có con.
Cảm động nhất và cũng chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp gỡ. Một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương của cha. “Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy”. Khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy con. Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ đã nhoà dòng lệ vì thương nhớ chứ. Thế mà cha đã nhìn thấy con trước. Vì cha không nhìn bằng mắt nhưng nhìn bằng trái tim. Trái tim yêu thương có đôi mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu. Trái tim con không còn yêu thương nên nhìn chẳng thấy cha. Trái tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng mà chẳng khác mù loà. Trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã loà rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa.
“Ông chạnh lòng thương”. Trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm lỗi của đứa con. Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương. Yêu quá nên người cha chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tuỵ rách rưới. Yêu quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ của con. Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn ràng xúc động.
“Chạy lại ôm cổ con”. Lại một cử chỉ lạ lùng. Cha không chờ con tới theo đúng lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con. Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người cha không chần chờ được nữa. Bất chấp thân phận cao quý của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà. Bất chấp tuổi tác của mình, ông nhanh nhẹn như một thanh niên sung sức. Đứa con tuổi còn trẻ mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già? Vì trong tim nó thiếu tình yêu. Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống. Ông già mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân. Ông chạy bằng trái tim. Ông bay bằng tình yêu. Tình yêu chắp cánh cho ông.
“Hôn lấy hôn để”. Chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi gặp lại đứa con. Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào ông dành cho nó. Ông ôm chặt như để giữ không cho nó ra đi nữa.
Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí. Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho! Nói tóm lại ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương? Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.
MÀN 2: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON CẢ
Đứa con cả đi hoang trong tâm hồn.
Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có thân xác ở nhà, còn tâm hồn nó đã đi hoang từ lâu. Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không thuộc về gia đình. Nó làm việc không phải với tâm tình của một người con hiếu thảo coi “mọi sự của cha là của con”. Nó muốn vun quén riêng tư. Nó làm việc với tinh thần nô lệ, mong được trả công, chỉ nghĩ đến con “bê nhỏ”, đến “bạn bè” riêng của nó.
Sống bên cha mà tâm hồn nó xa tâm hồn cha biết bao. Nó không sao chia sẻ được những tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha. Cha là tình thương nhưng con chỉ là ích kỷ. Cha là bao dung nhưng con chỉ là hẹp hòi. Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm hồn con khép kín bấy nhiêu. Cha chỉ biết tha thứ trong khi con chỉ biết kết án. Thật là khác biệt ngàn trùng.
Cha đi tìm con
Một lần nữa, người cha lại phải bỏ nhà ra đi, bỏ dở bữa ăn để tìm đứa con đi hoang trong tâm hồn. Vẫn với cử chỉ dịu dàng cố hữu; vẫn với những lời lẽ ôn tồn; vẫn với ánh mắt chan chứa cả một trời bao dung, cha cố gắng thuyết phục đứa con cả trở về.
Nếu đứa con út cần một cuộc trở về thì đứa con cả cần tới hai cuộc trở về: về với cha và về với em. Đi hoang trong tâm hồn xa xôi diệu vợi thế!
Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù tôi là con út hay con cả, tôi vẫn cần trở về. Vì nếu tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành động của tôi khác hẳn với đường lối của Thiên Chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp nhận anh em tôi.
Nhưng dụ ngôn cũng cho tôi an tâm trở về. Hình ảnh người cha hiền đứng đợi mời gọi tôi mau bước. Chúa là người Cha yêu thương tôi trước khi tôi yêu Người, đi tìm tôi trước khi tôi đi tìm Người, tha thứ cho tôi trước khi tôi xin lỗi Người.
Lạy Chúa là Cha nhân từ, con cảm tạ tình yêu thương vô vàn của Cha.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Xét mình, bạn thấy mình giống ai trong hai người con trong bài Tin Mừng?
2. Bạn có thấy tình yêu thương của người cha không?
3. Bạn có cảm nghĩ gì sau khi đọc dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” này?
4. Bạn có cần sám hối để trở về với Chúa là Cha không?
5. Niềm vui, nước mắt của niềm vui--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật IV Mùa Chay (Laetare), Phụng Vụ của Giáo Hội sử dụng mùa như Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng (Gaudete) là màu hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay Giáo hội tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm vui (Giáng Sinh và Phục Sinh), nghỉ để cảm tạ những gì ta đã làm, lấy thêm can đảm để bước tiếp những chặng cuối. Ca nhập lễ tuần này chỉ nói về niềm vui và niềm an ủi. Toàn thể Giáo hội chúc mừng con cái mình, vì đã hăng hái tiến bước được nửa Mùa Chay Thánh. "Niềm vui, niềm vui, niềm vui, nước mắt của niềm vui" (Lễ Vượt Qua) đứng trước đau khổ nghĩ tới sự toàn thắng trong vinh quang. Lời ca nhập lễ: ("Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan. Tv. Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào..."). Làm sao chúng ta không thể không vui được, khi có Thiên Chúa là Cha, Đấng giầu lòng thương xót, Ngài rất mực yêu thương chúng ta, đến hy sinh chính Con Một vì chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân.
Thánh Luca đã làm nổi bật chủ đề của Chúa nhật IV Mùa Chay, Chúa nhật của niềm vui (Laetare), khi cả đoạn Tin Mừng (Lc 15, 1-32), niềm vui dâng trào thể hiện qua các dụ ngôn, cụ thể như dụ ngôn "Con chiên lạc": Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng... kêu bạn hữu... mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi...: "Trên trời sẽ vui mừng...". Hay dụ ngôn "Đồng bạc đánh mất": "Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em...đến mà rằng: "Chị em hãy vui mừng với tôi... ". Cũng vậy...: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng...". Nhưng cụ thể hơn cả vẫn là dụ ngôn "Tình phụ tử ": Người cha bảo:... phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Nếu như hai dụ ngôn trước nói về sự vui mừng hay chung vui, thì dụ ngôn "Tình phụ tử là phải ăn tiệc và vui mừng". Thiên Chúa là Cha mở khao tiệc ăn mừng con người tội lỗi chúng ta trở về với Chúa. Sao chúng ta không thể không vui, sao chúng ta không thể không mừng. Chúng ta đặt mình vào cương vị của người con thứ và tự sự, để khám phá ra tình yên của Thiên Chúa yêu mỗi người chúng ta biết chứng nào, để rồi vui mừng mà đáp trả.
"Từ bỏ cha tôi là người hết mực thương tôi, tôi thật đã làm điều sai trái; tôi đã phung phí hết tiền của vào cuộc đời trác táng, thân tôi tan nát và dơ bẩn, làm thế nào cha tôi có thể nhận ra tôi là con trai mình? Tôi sẽ sấp mình xuống dưới chân cha tôi, lấy nước mắt lau chân cha tôi và khẩn xin cha tôi coi tôi như người làm công của cha"... Người cha, từ ngày con bỏ nhà ra đi, ông đã khóc suốt, và ngày ngày ra ngóng bóng con trở về, nên khi ông thấy nó từ đàng xa, ông quên cả tuổi già và quên luôn cuộc sống phóng đãng của con trai ông, ông chạy tới ôm choàng lấy cổ nó và hôn lấy lấy hôn để. Thằng con trai ông hết sức kinh ngạc về tình yêu mà cha nó dành cho nó, nó kêu lên...: " Con không còn xứng đáng được gọi là con cha nữa, xin cha coi con như người làm cồng của cha. Không, không, con trai của cha, người cha nó kêu lên..., tiếng kêu đã xóa sạch tất cả lỗi lầm của con, và tình cha tuôn trào xuống người con bằng hành động: " phải ăn tiệc và vui mừng "(Lc 15, 32). Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy " (Lc 15, 22-24).
Khi quan sát hình ảnh người cha ôm người con, nghe người cha nói với người con và liên tưởng tới Vì Thiên Chúa là Cha xử với chúng ta là tội nhân như thế, thánh Gioan Maria Vianney cha sở họ Ars đã thốt lên rằng: Đây hình ảnh tuyệt đẹp về sự vĩ đại của lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân khốn khổ nhất!... Ôi Thiên Chúa của con, rằng tội lỗi là một cái gì đó thật khủng khiếp! Làm thế nào chúng con có thể phạm tội được? Nhưng tất cả chúng con là những kẻ khốn nạn, ngay khi chúng con còn là tội nhân, thì Thiên Chúa đã yêu thương chúng con trước.
Lòng thương xót của Thiên Chúa cộng với lòng trắc ẩn. Tình yêu của Đấng Cứu Thế thật bất ngờ bởi ân sủng của Ngài trước các tội nhân, Ngài ôm hôn tội nhân, trao ban cho họ sự an ủi tuyệt vời...Ôi khoảnh khắc tuyệt với! Chúng ta mà hiểu được thì chúng ta sẽ rất hạnh phúc! Nhưng than ôi, chúng ta không phù hợp với ơn thánh, nên những khoảnh khắc hạnh phúc tuyệt vời ấy biến mất. Chúa Giêsu Kitô nói với người tội nhân qua miệng của các thừa tác viên của Ngài: "Vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, thì đã được mặc lấy Đức Kitô "(x. Gal 3:27). Đó là điều Thiên Chúa đối xử với chúng ta, khi chúng ta bỏ đàng tội lỗi để đi theo Ngài, chúng ta sẽ hạnh phúc. Chao ôi, đâu là điều mà tội nhân tin tưởng, cho dù tội lỗi đến đâu đi chăng nữa, thì hãy biết và tin rằng lòng thương xót của Thiên Chúa là vô cùng vô hạn! (Trích bài giảng thứ Chúa nhật III Mùa Chay của thánh Gioan Maria Vianney).
Người cha mất con, nên ngày ngày ngóng chờ con trở về là hình ảnh của Thiên Chúa là Cha luôn cháy lửa tình yêu đối với nhân loại, cha ôm con vào lòng, không đơn giản chỉ là tội nhân, nhưng là kẻ có tội biết ăn năn, đó là một con người biết đọc lại các biến cố của đời mình, hiểu được những gì đã xảy đến với mình để sửa chữa, tái lập trật tự trong đời sống và quyết tâm: "Tôi sẽ trỗi dậy và trở về với cha tôi ", những thực tế, ai trỗi dậy và ai trở về với cha mình. Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa người cha và người con, khơi dậy sự trở về trong ân sủng của người con, đơn giản không chỉ là ơn tha tội nhưng không do Thiên Chúa ban, và không có gì thay đổi nơi lòng của người con. Đây là cuộc gặp gỡ của niềm tin mà người con tội lỗi đã đặt để vào lòng thương xót của người cha đầy lòng thương xót ấy, cuộc gặp gỡ này mang dấu ấn của vòng tay cha và con tìm thấy được tình cảm trìu mến. Vâng, Đức Giêsu đồng bàn với quân tội lỗi, nhưng Ngài không đến để hợp thức hóa tội lỗi, làm cho những kẻ lầm lỗi cứng lòng, hay ngày càng tội tề hơn. Ngài đến để loan báo rằng họ có thể sống khác để chứng tỏ rằng tình yêu của Thiên Chúa không nản vì sự thờ ơ, hay khác biệt của những con người, và mở ra một cuộc sống mới như thánh Phaolô nói với chúng ta: "Một thế giới mới đã đến".
Cuộc hòa mà Giáo hội có sứ mạng là trung gian, là hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau, một vài tuần trước lễ Phục Sinh. Đây là cơ hội để hân hoan vui mừng, vì con người trở về với Thiên Chúa với lòng thống hối ăn năn, cậy nhờ vào lòng thương xót của Thiên Chúa là Cha, Đấng giầu lòng thương xót, dẫn dắt con người tới bàn tiệc như người cha đã chuẩn bị cho con mình. Đúng như thế, tội nhân được tha thứ là con người của niềm vui và tác động của ân sủng. Vâng, ai trở về thì được tham dự vào niềm vui muôn đời của Thiên Chúa, kẻ mất nay lại tìm thấy trở nên thành viên dự tiệc vui muôn đời của Thiên Chúa, chứng nhân của niềm vui là chính Chúa
Vì vậy, khi Giáo hội mời gọi chúng ta chuẩn bị lễ Phục Sinh, trở về với Chúa, thừa nhận những lỗi lầm và những khuyết điểm trong đời sống chúng ta, chúng ta đứng dậy, trở về với Chúa là Cha. Lễ Phục Sinh không mời gọi chúng ta bước vào con được sầu khổ, trái lại, cứu chuộc chúng ta khỏi đắng cay buồn phiền, nghèo đói và chết chóc, lễ Phục Sinh mang lại cho chúng ta niềm vui ngày Đại lễ. Hòa giải được với Thiên Chúa và hòa giải với nhau, chúng ta sẽ cảm nhận được niềm vui thiêng thánh. Amen.
6. Hồi tâm, đứng dậy, quyết trở về--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
"Mừng vui lên … - Lætare”: là chủ đề của Chúa nhật IV Mùa Chay. Từ phụng vụ lễ ca cho đến màu sắc phụng vụ, tím chuyển sang hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay Giáo hội tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm Phục Sinh. Nghỉ để cảm tạ Chúa vì những gì ta đã làm, xin Chúa ban thêm nghị lực để bước tiếp những chặng cuối.
Lời ca nhập lễ: ("Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành!... Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa") (Tv 121,1). Niềm vui dâng trào thể hiện qua các dụ ngôn: "Con chiên lạc" (x. Lc 15, 4-7); "Đồng bạc đánh mất" (x. Lc 15, 8-10). Nhưng cụ thể hơn cả vẫn là dụ ngôn "Tình phụ tử " (x. Lc 15, 11-32). Nếu như hai dụ ngôn trước nói về sự vui mừng hay chung vui, thì dụ ngôn "Tình phụ tử là phải ăn tiệc và vui mừng". Vì đồng bạc vô tình bị đánh mất, con chiên lạc có thế cố gắng tìm thấy đàn của mình, và người ta cũng có thể tìm lại được chiên lạc, nhưng không một trường hợp nào hồi tâm trở về với chính mình. Nên người con thứ sau thời gian bỏ đi nay trở về được cha mở cỗ mừng vui, là hình ảnh người tội lỗi trở về, Chúa Cha mở khao tiệc ăn mừng. Chúng ta không thể vui mừng sao được, khi có Thiên Chúa là Cha, Đấng Giầu Lòng Thương Xót, rất mực yêu thương chúng ta như thế.
Cả thiên đang vui mừng khi ta tội lỗi trở về với Chúa. Người cha mất con, ngày ngày ngóng chờ con trở về là hình ảnh của Thiên Chúa là Cha luôn cháy lửa tình yêu đối với nhân loại, cha ôm con vào lòng, không đơn giản chỉ là tội nhân, nhưng là kẻ có tội biết ăn năn: "Tôi sẽ trỗi dậy và trở về với cha tôi" (Lc 15,18). Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa người cha và người con, khơi dậy sự trở về trong ân sủng của người con, cuộc gặp gỡ này mang dấu ấn của vòng tay cha và sự hoán cải của người con tìm thấy được tình yêu trìu mến của cha.
Chúng ta nhớ lại Logo của Năm Thánh Lòng Thương Xót do Cha Marko I. Rupknik S.I họa vẽ Chúa Giêsu đang vác con người lầm lạc trên vai, là một minh hoạ tuyệt vời về lòng thương xót Chúa.
Lòng Thương Xót đã trở nên người, mặt Chúa và mặt người giống hệt nhau. Khi vác con người trên vai, Thiên Chúa và con người hướng về nhau, đến nỗi có chung một con mắt. Như thế, Thiên Chúa nhìn con người bằng chính mắt con người, để cảm thông, yêu thương và hoán cải con người. Từ nay con người nhìn vũ trụ vạn vật bằng đôi mắt của Thiên Chúa, mà hiểu được Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa, để sống trong vũ trụ theo chương trình ban đầu của Thiên Chúa là đem lại hạnh phúc cho con người.
Con người bỏ Chúa ra đi, lầm đường lạc lối, đi vào ngõ cụt, bị thương tích. Thiên Chúa vẫn yêu thương mang về. Logo diễn tả, Chúa tay chân vẫn còn mang thương tích vì bị con người đóng đinh. Nhưng Chúa không quan tâm đến vết thương đau đớn của chính mình, vẫn vội vã, chân thấp chân cao đi tìm con người. Tìm được rồi, Chúa không lên án lỗi lầm, Chúa vác con người trên vai mang về mở tiệc ăn mừng. Đó là tình yêu thương vô biên, yêu thương đến tha thứ những phản bội, yêu thương đến quên mình, dám chết vì người mình yêu. Tình thương của Chúa thật cao cả, không ai hiểu thấu, không lý luận nào có thể cắt nghĩa.
Chúa Giêsu đồng bàn với người tội lỗi, nhưng Người không đến để hợp thức hóa tội lỗi, làm cho những kẻ lầm lỗi cứng lòng, hay ngày càng tệ hơn. Người đến để loan báo rằng họ có thể sống khác để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa không mệt mỏi khi tha thứ, không nản vì sự thờ ơ, hay khác biệt của những con người.
Người cha là hình ảnh của Thiên Chúa Giầu Lòng Thương Xót, người con thứ là thân phận bi đát của con người tội lỗi, cần phải trở về với Chúa. Hình ảnh người con trở về cho chúng ta thấy bản chất xấu xa của tội lỗi, và thái độ cần phải có để ra khỏi tình trạng tội lỗi là sám hối, nhận mình là kẻ tội lỗi, quyết tâm trở về với Chúa như đứa con thứ đã làm.
Có người nghi ngờ về lòng thương xót ấy mới nói: Tôi tội lỗi lắm, vào xưng tội, sợ cha mắng, và cho dù cha có tha, thi không biết Chúa có tha cho tôi không?
Xin thưa: Để lãnh ơn tha thứ, cần phải có tội, và cho dù tội có đỏ như son Chúa vẫn tha thứ, vì Chúa là Đấng tha thứ không biết mệt mỏi. Thứ tha là việc của Chúa, lỗi lầm là của con người chúng ta. Con người tha cho nhau còn nhớ lại. Thiên Chúa tha thứ là xóa sạch tội khiên. Nếu xưng tội xong lại phạm, hãy đến tòa giải tội để lĩnh ơn tha thứ. Con nếu sợ cha mắng, xin bật mí là các cha luôn giữ ấn tín tòa giải tội, nghe xong quên luôn là việc các cha phải làm.
Có người còn hỏi: Khi ta phạm tội, ta xin Chúa tha thứ, Ngài thứ tha, vậy cần gì phải đến xưng tội với cha cho mất thời gian và thêm phiền toái?
Quả thật, sau khi phạm tội chúng ta thật lòng hối cải ăn năn cách trọn thì đã được Thiên Chúa tha thứ rồi, nhưng nếu ta không đến tòa giải tội ta không lĩnh nhận được cách trực tiếp ơn tha thứ ấy. Cũng như anh chàng con thứ bỏ nhà ra đi, cha anh ở nhà đã sắm cho anh nhẫn vàng, áo đẹp và giầy sang, những thứ đó là của anh, nhưng nếu anh không về thì anh chưa nhận được trực tiếp.
Mùa chay còn mời gọi chúng ta trở về với chính mình, trở về với tha nhân. Người con trưởng tuy ở hằng ở cùng cha, nhưng anh đã đánh mất chính mình, tự nhận mình là kẻ làm tôi "con đã làm tôi cha ", đánh mất em, em mình mà anh gọi là "thằng con của cha kia". Đạo của chúng ta không phải là đạo ghen tị, được thua mà là đạo của tình thương. Chúng ta buồn vì anh em thành công, được ưu đãi hơn mình, tìm cách hạ bệ, thậm trí đối xử với đồng loại, cả đồng đạo, tệ hơn nữa là coi cha mẹ, anh em ruột thịt mình như kẻ thù, không bằng người dưng nước lã. Nếu ai trong chúng ta đang ở trong tình trạng ấy thì sám hối trở về là cần thiết, để tìm lại mình là con với Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh là em với ta, chứ không phải người xa lạ.
Vậy, hãy trở về với Chúa bằng lòng thống hối ăn năn, lao mình vào vòng tay của Chúa, để cho tình thương lân tuất của Chúa làm ta hồi sinh.
Lạy Mẹ Maria, người mẹ khoan nhân, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp đỡ chúng con. Amen.
7. Vui mừng vì được Chúa xót thương--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
("Mừng vui lên … - Lætare) là chủ đề của Chúa nhật IV Mùa Chay. Từ phụng vụ lễ ca cho đến màu sắc phụng vụ, tím chuyển sang hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay Giáo hội tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm Phục Sinh. Nghỉ để cảm tạ Chúa vì những gì ta đã làm, xin Chúa ban thêm nghị lực để bước tiếp những chặng cuối.
Lời ca nhập lễ: ("Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành!... Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. ") (Tv 121,1). Niềm vui dâng trào thể hiện qua các dụ ngôn: "Con chiên lạc": Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng … kêu bạn hữu …mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi …: "Trên trời sẽ vui mừng …" (x. Lc 15, 4-7). Hay dụ ngôn " Đồng bạc đánh mất": "Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em …đến mà rằng: "Chị em hãy vui mừng với tôi … ". Cũng vậy…: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng …"(x. Lc 15, 8-10). Nhưng cụ thể hơn cả vẫn là dụ ngôn "Tình phụ tử ": Người cha bảo: … phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy" (x. Lc 15, 11-32). Nếu như hai dụ ngôn trước nói về sự vui mừng hay chung vui, thì dụ ngôn "Tình phụ tử là phải ăn tiệc và vui mừng". Thiên Chúa là Cha mở khao tiệc ăn mừng con người tội lỗi chúng ta trở về với Chúa. Chúng ta không thể vui mừng sao được, khi có Thiên Chúa là Cha, Đấng Giầu Lòng Thương Xót, rất mực yêu thương chúng ta, đến hy sinh chính Con Một vì chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân. Chúng ta đặt mình vào cương vị của người con thứ và tự sự, để khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa yêu mỗi người chúng ta biết chừng nào, vui mừng mà đáp trả.
"Từ bỏ cha tôi là người hết mực thương tôi, tôi thật đã làm điều sai trái; tôi đã phung phí hết tiền của vào cuộc đời trác táng, thân tôi tan nát và dơ bẩn, làm thế nào cha tôi có thể nhận ra tôi là con trai mình? Tôi sẽ sấp mình xuống dưới chân cha tôi, lấy nước mắt lau chân cha tôi và khẩn xin cha tôi coi tôi như người làm công của cha"... Người cha, từ ngày con bỏ nhà ra đi, ông thương con, ngày ngày ra ngóng con trở về, nên khi ông thấy nó từ đàng xa, ông quên cả tuổi già và quên luôn cuộc sống phóng đãng của con trai ông, ông chạy tới ôm choàng lấy cổ nó và hôn lấy lấy hôn để. Thằng con trai ông hết sức kinh ngạc về tình yêu mà cha nó dành cho nó, nó kêu lên…: "Con không còn xứng đáng được gọi là con cha nữa, xin cha coi con như người làm công của cha"(Lc 15,). Không, không, con trai của cha, người cha nó kêu lên…, tiếng kêu xóa sạch lỗi lầm của con, và tình cha tuôn trào xuống người con bằng hành động: "phải ăn tiệc và vui mừng "(Lc 15, 32). "Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy" (Lc 15, 22-24).
Khi quan sát hình ảnh người cha ôm người con, nghe người cha nói với người con và liên tưởng tới Vì Thiên Chúa là Cha xử với chúng ta là tội nhân như thế. Thánh Gioan Maria Vianney cha sở họ Ars đã thốt lên rằng: Đây hình ảnh tuyệt đẹp về sự vĩ đại của lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân khốn khổ nhất!... Ôi Thiên Chúa của con, rằng tội lỗi là một cái gì đó thật khủng khiếp! Làm thế nào chúng con có thể phạm tội được? Nhưng tất cả chúng con là những kẻ khốn nạn, ngay khi chúng con còn là tội nhân, thì Thiên Chúa đã yêu thương chúng con trước. Lòng thương xót của Thiên Chúa cộng với lòng trắc ẩn. Tình yêu của Đấng Cứu Thế thật bất ngờ bởi ân sủng của Ngài trước các tội nhân, Ngài ôm hôn tội nhân, trao ban cho họ sự an ủi tuyệt vời…Ôi khoảnh khắc tuyệt với! Chúng ta mà hiểu được thì chúng ta sẽ rất hạnh phúc! Nhưng than ôi, chúng ta không phù hợp với ơn thánh, nên những khoảnh khắc hạnh phúc tuyệt vời ấy biến mất…Chao ôi, đâu là điều mà tội nhân tin tưởng, cho dù tội lỗi đến đâu đi chăng nữa, thì hãy biết và tin rằng lòng thương xót của Thiên Chúa là vô cùng vô hạn! (Trích bài giảng thứ Chúa nhật III Mùa Chay của thánh Gioan Maria Vianney).
Người cha mất con, ngày ngày ngóng chờ con trở về là hình ảnh của Thiên Chúa là Cha luôn cháy lửa tình yêu đối với nhân loại, cha ôm con vào lòng, không đơn giản chỉ là tội nhân, nhưng là kẻ có tội biết ăn năn, đó là một con người biết đọc lại các biến cố đời mình, hiểu được những gì đã xảy đến với mình để sửa chữa, tái lập trật tự trong đời sống và quyết tâm: "Tôi sẽ trỗi dậy và trở về với cha tôi" (Lc 15,18), nhưng thực tế, ai trỗi dậy và ai trở về với cha mình. Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa người cha và người con, khơi dậy sự trở về trong ân sủng của người con, đơn giản không chỉ là ơn tha tội nhưng không do Thiên Chúa ban. Đây là cuộc gặp gỡ của niềm tin mà người con tội lỗi đã đặt để vào lòng thương xót của người cha ấy, cuộc gặp gỡ này mang dấu ấn của vòng tay cha và con tìm thấy được tình yêu trìu mến.
Chúa Giêsu đồng bàn với quân tội lỗi, nhưng Người không đến để hợp thức hóa tội lỗi, làm cho những kẻ lầm lỗi cứng lòng, hay ngày càng tội tề hơn. Người đến để loan báo rằng họ có thể sống khác để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa không mệt mỏi khi tha thứ, không nản vì sự thờ ơ, hay khác biệt của những con người.
Vậy, hãy trở về với Chúa bằng lòng thống hối ăn năn, cậy nhờ vào lòng thương xót của Chúa, Đấng Giầu Lòng Thương Xót, dẫn dắt con người tới bàn tiệc như người cha đã chuẩn bị cho con mình. Đúng như thế, tội nhân được tha thứ là con người của niềm vui và tác động của ân sủng.
Lễ Phục Sinh không mời gọi chúng ta bước vào con đường sầu khổ. Trái lại, cứu chuộc chúng ta khỏi đắng cay buồn phiền, nghèo đói và chết chóc, lễ Phục Sinh mang lại cho chúng ta niềm vui ngày Đại lễ. Hòa giải được với Thiên Chúa và hòa giải với nhau, chúng ta sẽ cảm nhận được niềm vui thiêng thánh.
Giờ đây chúng ta hãy ngước nhìn về Chúa và ngẫm nghĩ về tấm lòng của Thiên Chúa và lao mình vào vòng tay của Chúa, để cho tình thương lân tuất của Cha làm ta hồi sinh.
Lạy Mẹ Maria, người mẹ khoan nhân, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp đỡ chúng con. Amen.
8. Thiên Chúa nhân từ tha thứ--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Đa số người đều nhận biết có một Đấng Tuyệt Đối, nhờ Ngài mà vạn sự vạn vật hiện hữu. Ngài vượt trên mọi sự mọi loài, không ai với tới Ngài được, Ngài ở trên trời. “Ông Trời” trong ngôn ngữ Việt Nam cũng chỉ một thực tại siêu vượt, rất gần và rất xa con người. Một số người tức giận khi thấy cảnh bất công mà không thấy Ông Trời can thiệp, nên họ châm biếm “Ông Trời không có mắt”; họ đòi Ông Trời phải can thiệp bênh đỡ người cô thế cô thân bị áp bức bóc lột. Nhiều người hiểu và diễn tả Tuyệt Đối như một người, và đòi Ngài phải hành xử như họ suy nghĩ. Thực ra, con người hữu hạn nên không thể hiểu và diễn tả trọn vẹn về Tuyệt Đối được; hơn nữa, đường lối của Tuyệt Đối không giống như con người: “như trời cao hơn đất bao nhiêu, tư tưởng của Ta cũng vượt quá tư tưởng của các ngươi”.
Với dân Do Thái, Thiên Chúa là Đấng đã đưa dân ra khỏi Aicập, đã giải phóng dân khỏi kiếp nô lệ bên Aicập. Thiên Chúa là Đấng đã tuyển chọn tổ phụ của họ là Abraham, Isaac, và Yacóp, là Đấng đã can thiệp vào lịch sử của họ qua Môsê, Yôsua, và các tiên tri, là Đấng đã để các nước lân bang thống trị và thậm chí còn bị lưu đầy sang Babylon nhưng cuối cùng Ngài vẫn cứu thoát họ. Thiên Chúa là Đấng rất gần gũi dân, Thiên Chúa là Thiên Chúa của dân Israel, và Israel là dân riêng của Thiên Chúa. Niềm hy vọng của dân Do Thái là Thiên Chúa. Chính vì vậy, khi bị sống trong cảnh đô hộ bị áp bức, dân Do Thái luôn trông chờ Đấng được xức dầu (Kitô), Đấng Thiên Chúa sai đến để giải phóng họ khỏi cảnh áp bức.
Thiên Chúa trong Cựu Ước được trình bày như một vị Thiên Chúa công bằng, có chỗ nhấn mạnh như thể Thiên Chúa trừng phạt con người tội lỗi đến ba bốn đời: “cha ăn nho xanh, đời con ghê răng”. Hôm nay trong tin mừng theo thánh Luca, Đức Giêsu dùng dụ ngôn người cha nhân hậu luôn sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho người con, để diễn tả tình yêu tha thứ của Thiên Chúa đối với con người.
Thiên Chúa yêu thương và tôn trọng con người, như người cha yêu thương và tôn trọng con mình trong dụ ngôn Lc.15, 11-32. Người con thứ đòi người cha chia gia tài; người cha chia gia tài cho anh ta cho dù người con không có quyền đòi hỏi như vậy, dù biết rằng người con đó chẳng chóng thì chầy sẽ bỏ nhà ra đi. Người cha biết con mình một khi bỏ nhà đi sẽ khổ, sẽ mất hết tài sản, nhưng người cha vẫn tôn trọng người con. Người cha rất đau lòng nhưng ông vẫn làm như người con muốn. Thiên Chúa ban tự do cho con người, Ngài luôn tôn trọng tự do của con người cho dù con người có lạm dụng tự do đó để phản bội Ngài.
Khi người con thứ bỏ nhà ra đi, người cha sống trong niềm hy vọng và chờ đợi. Người cha chờ đợi người con trở về. Chẳng vậy, khi người con thứ còn ở đằng xa, với quần áo xốc xếch và dáng đi rụt rè e ngại, người cha đã chẳng nhận ra con mình. Ông chạy ra ôm người con hoang trở về và hôn lấy hôn để. Người cha vẫn luôn mong đợi người con trở lại, cho dù người con đã xúc phạm đến mình, cho dù người con đã hoang phí biết bao của cải mà người cha đã tốn bao sức lực, với bao vất vả gian lao mới có thể có được. Tất cả những điều đó không quan trọng đối với người cha; điều quan trọng đối với ông, là người con và sự an nguy của anh ta. Thiên Chúa là Đấng hy vọng và chờ đợi tôi hơn bất cứ ai. Với Thiên Chúa, mỗi người là tuyệt đối quan trọng.
Người cha hy vọng mong chờ người con trở về, và rồi sẵn sàng tha thứ cho dù người con chưa nói lên lời xin lỗi. Thiên Chúa mong chờ người tội lỗi trở về, mong chờ họ ăn năn sám hối, để họ được an bình và hạnh phúc. Như người cha năn nỉ người con trưởng vào nhà, Thiên Chúa cũng năn nỉ con người tội lỗi trở lại với Ngài. Hình ảnh Thiên Chúa trong dụ ngôn người cha nhân hậu, thật là dịu dàng, nhẫn nại, bao dung, tha thứ. Người ta thấy Thiên Chúa như thể rất mềm yếu. Thực vậy, chính vì yêu mà Thiên Chúa kiên nhẫn và nhân từ vô cùng đối với con người.
Nhờ Đức Giêsu Kitô, người ta nhận ra dung mạo của Thiên Chúa thật đặc biệt: Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Một khi nhận ra Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể, con người nhận ra tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với con người. Khi phạm tội xúc phạm đến Thiên Chúa và anh em mình, tương quan giữa con người với Thiên Chúa bị phá hủy, con người không thể tin tưởng nhau được nữa. Qua Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa vẫn yêu thương con người vô cùng. Tương tự như người con hoang đàng trở về vẫn được người cha yêu thương và nhận làm con, con người biết Thiên Chúa vẫn luôn nhân từ tha thứ mọi lỗi lầm của con người. Trước khi được tha thứ, người con hoang đàng không biết số phận của mình như thế nào, vì ao ước của anh ta có thể bị từ chối. Tuy nhiên, khi thấy thái độ của người cha, anh ta nhận ra cha anh là người rất tuyệt vời.
Hôm nay vẫn cần những trung gian để trình bày cho con người thấy dung mạo tuyệt vời của Thiên Chúa: Đấng yêu thương con người vô cùng. Thánh Phaolô đã nói với những người Ngài rao giảng: Thiên Chúa là Đấng nhân từ và mong ước con người trở lại. “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa cùng Thiên Chúa đi” (2Co.5, 20). Thiên Chúa yêu thương con người, và điều này có thể được thấy qua việc Thiên Chúa mong con người, cần con người trở lại với Ngài. Yêu ai thì cần người đó. Thiên Chúa yêu tôi nên Ngài cần tôi, Ngài cần tôi vì Ngài yêu tôi. Tự bản chất, Thiên Chúa không cần ai cả, Ngài hạnh phúc với chính Ngài; không cần ai làm gì để Ngài hạnh phúc; Ngài là hữu thể tròn đầy, không ai làm Ngài mất hạnh phúc được. Tuy nhiên, Thiên Chúa được tôn vinh hơn khi tôi triển nở và hạnh phúc; Ngài hạnh phúc khi tôi hạnh phúc. Chính vì yêu mà Ngài cần con người. Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người đến độ không thể hiểu được: Ngài dám ban Con Một của Ngài cho con người, Ngài sẵn sàng làm tất cả để được con người, để giúp con người nhận ra tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Với bạn, từ ngữ hay hình ảnh nào diễn tả tuyệt nhất về Thiên Chúa?
2. Bạn được gì khi tin rằng Thiên Chúa yêu thương bạn?
9. Thiên Chúa- Đấng vô cùng nhân từ--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Thiên Chúa luôn làm những điều kỳ diệu cho người Do Thái và cho tất cả mọi người. Với Đức Giêsu, người ta biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương và vô cùng nhân từ.
Thiên Chúa đã đưa dân vào đất hứa
Thiên Chúa đã đưa dân Do Thái khỏi Ai-cập, nuôi họ bằng manna, dẫn họ vào đất Ngài đã hứa với cha ông họ. So sánh dân Do Thái và các dân tộc khác, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa rất ưu đãi dân riêng của Ngài.
Tại sao Ngài lại ưu đãi dân Do Thái mà đánh phạt dân Ai-cập? Tại sao Thiên Chúa lại giết các con đầu lòng của người Ai-cập? Tại sao Thiên Chúa lại để những con trai của người Do Thái bị thả trôi sông chết khi Ngài nói Ngài yêu thương họ? Tại sao Thiên Chúa mới nhập thể đã gây cớ để những hài nhi ở Bêlem bị Hêrôđê giết? Hành vi đánh phạt dân Ai-cập, cũng nhằm để dân Ai-cập biết về Thiên Chúa hơn. Những người bị tru diệt nơi biển đỏ, bởi tội ngoan cố của Pharaô không chịu để dân Do Thái ra đi khi Thiên Chúa đã dùng Môsê và Aaron bày tỏ quyền năng và ý muốn của Thiên Chúa. Các hài nhi ở Bêlem được vinh dự làm chứng cho Ngôi Lời nhập thể. Tất cả đều là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang can thiệp trong dòng lịch sử.
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, kể cả người trong cuộc “bị nạn”. Nếu biết nhìn, người ta có thể nhận ra tình yêu Thiên Chúa hiện diện trong mọi hoàn cảnh.
Con người mới trong Đức Kitô
Thiên Chúa đã làm mới tất cả nhờ Đức Giêsu, Con của Ngài. Thiên Chúa làm mới con người liên tục, đặc biệt qua hành vi tha thứ và ban ơn thánh hóa cho con người, khi tội nhân trở lại với Ngài.
Ơn thánh hóa, làm con người giao hòa với Thiên Chúa, trở nên nghĩa thiết với Thiên Chúa, cũng ảnh hưởng trên cả thân xác người, khiến con người có cái nhìn và hành xử độ lượng như Thiên Chúa.
Thiên Chúa như người cha nhân từ
Người con thứ có tội với Cha và với anh mình, vì đã phung phí tài sản do công lao khó nhọc của người Cha. Người con thứ cũng đã xúc phạm Cha mình khi coi việc ở bên Cha là bất hạnh. Việc ra đi gây buồn phiền đau khổ cho người Cha. Tội của người con trưởng nặng không kém, vì đã từ khước không muốn nhận em mình khi người em thống hối trở về. Có lẽ người con trưởng đã coi tiền của trọng hơn em mình. Người con trưởng ở lại bên Cha, chưa chắc đã vì yêu Cha cho bằng sợ một cái gì đó mà không dám ra đi. Người con trưởng sống bên người Cha, mà không có thái độ của một người con nhưng của một người làm công.
Thiên Chúa như người Cha nhân từ, luôn tựa cửa chờ con người trở lại với Ngài. Ngài cũng đối xử với con người, như người Cha năn nỉ người con trưởng hãy chấp nhận em mình, và xin người con trưởng hãy sống trong tâm tình của người con “những gì của Cha đều là của con”.
Thái độ của người con thứ và con trưởng cũng như hình ảnh của người cha trong dụ ngôn, giúp con người hiểu biết về chính mình và về Thiên Chúa hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Lời Chúa hôm nay cho bạn thấy Thiên Chúa là ai?
2. Nếu Ngôi Lời Thiên Chúa không nhập thể, theo bạn, con người hiểu Thiên Chúa là ai? (Các tôn giáo khác hiểu gì về Thiên Chúa?)
3. Theo bạn, tại sao Thiên Chúa lại tôn trọng tự do con người đến độ như vậy? (Con người có thể không vâng phục, chống lại Thiên Chúa).
4. Những người bị tai nạn nguyền rủa Thiên Chúa, theo bạn, họ có đáng trách không? Tại sao?
10. Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện đứa con hoang đàng hối hận trở về và được Cha mở rộng vòng tay tha thứ. Chúng ta là những đứa con hoang đàng và Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót luôn chờ đón chúng ta trở về để tha thứ và phục hồi tư cách làm con. Thánh lễ hôm nay là một dịp tốt để chúng ta trở về.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta hãy mượn lời đứa con hoang đàng để bày tỏ với Chúa tâm tình sám hối chân thành:
Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã rời bỏ nhà Cha để chạy theo những cám dỗ của thế gian.
Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã không yêu thương anh chị em của con.
Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã nuông chìu xác thịt mà làm mất lòng Cha.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Gs 5,9-12)
Giai đoạn thứ ba của lịch sử cứu độ: Thiên Chúa cho dân Do Thái được vào chiếm hữu đất hứa.
Việc đầu tiên khi vừa vào Đất Hứa là cử hành Lễ Vượt Qua. Lễ này được ấn định sẽ cử hành hàng năm từ đó về sau vào ngày 14 tháng Nisan, nhằm giúp dân Do Thái luôn nhớ đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với họ.
Sau khi dân đã vào Đất hứa rồi thì manna không còn rơi xuống nữa, vì từ nay họ sẽ sống bằng hoa màu của đất đai mà Thiên Chúa ban cho họ.
2. Đáp ca (Tv 33)
Ca tụng lòng thương xót của Thiên Chúa.
3. Tin Mừng (Lc 15,1-3.11-32)
Dụ ngôn người cha nhân từ: Hình ảnh người Cha trong bài Tin Mừng minh họa rất sống động tấm lòng nhân từ bao la đến độ không thể ngờ của Thiên Chúa.
+ 11-12 - "Xin cha ban cho con phần gia tài thuộc về con": Thông thường cha chỉ chia gia tài cho các con khi gần chết. Tuy thực tế có những trường hợp cha chia gia tài cho con ngay lúc ông còn mạnh khoẻ (x Tb 8,21), nhưng đó là tự ý người cha chứ không do đòi hỏi của con. Hơn nữa sách Huấn ca, 1 quyển sưu tập những lời dạy khôn ngoan, đã khuyên đừng bao giờ làm như thế bởi vì "nắm tiền là nắm quyền", khi đã chia gia tài cho con rồi thì không còn điều khiển chúng nỗi nữa, trái lại có thể còn bị chúng ngược đãi (Hc 33,20-24). Người cha trong dụ ngôn này đã không khôn ngoan tính kỹ như vậy, vì ông quá thương con.
Người cha này là hình ảnh của Thiên Chúa. Nhiều người trách Thiên Chúa sao quá hiền lành không trừng phạt "nhãn tiền" những người tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương loài người nên khi dựng nên loài người thì đã ban cho họ Tự Do. Mà tự do nghĩa là có thể vâng lời hoặc không vâng lời Thiên Chúa. Vậy không nên trách Thiên Chúa mà chỉ nên cám ơn Thiên Chúa đã quá yêu thương loài người. Có trách là trách loài người đã xử dụng sai quyền tự do của mình.
+ 13-20a Sau khi lãnh gia tài, đứa con thứ liền ra đi sống bê tha phung phí hết của cải và rơi vào tình trạng khốn khổ.
"Chăn heo": người Do Thái coi heo là đồ ghê tởm. Thịt heo họ còn không ăn. Thế mà đứa con này phải đi chăn heo. Tệ hơn nữa là muốn ăn thức ăn của heo mà còn không được. Nghĩa là tình trạng xuống dốc đến tột cùng.
Trong lúc xuống dốc tột cùng như thế, nó muốn quay trở về với cha. Đây cũng là tâm lý của kẻ tội lỗi: khi sung sướng thì quên Chúa, quên đạo lý. Lúc khổ sở mới biết hối hận.
Trước lúc quay về, nó soạn sẵn 1 bài tự thú. Ta hãy chú ý là bài tự thú này khá dài (2 câu 18-19)
+ 20b Câu này chứa nhiều chi tiết chứng tỏ tình thương vô bờ bến của người cha nhân lành:
"Khi cậu còn ở đàng xa, Cha cậu trông thấy": Một người cha bình thường khi con bỏ nhà ra đi thì tức giận và có thể còn từ con luôn. Nhưng người cha này không như vậy. Chi tiết ông trông thấy con từ xa có nghĩa là sau khi nó ra đi ông rất thương tiếc nó, thường xuyên đứng trước ngõ trông chờ nó, nhờ đó mới thấy bóng dáng nó từ đàng xa. Ý nghĩa: khi con người đi đàng tội lỗi, TC không từ bỏ con người nhưng luôn trông chờ con người hối hận quay về.
"Liền động lòng thương": Đối với những người cha bình thường, cho dù độ lương bao nhiêu đi nữa với đứa con ngỗ nghịch bỏ nhà ra đi, khi thấy nó về thì phản ứng đầu tiên là chửi mắng, hoặc ít ra là lạnh nhạt. Người cha này không thế, phản ứng đầu tiên của ông là "liền động lòng thương".
"Chạy lại": Ta nên hiểu chi tiết này theo tâm lý người phương đông. Những người phương đông (trong đó có Do Thái) giỏi kềm chế cảm xúc của mình, nhất là những người đàn ông. Đàn ông càng lớn tuổi càng phải đi đứng chửng chạc. Nhưng người cha phương đông trong dụ ngôn này chẳng những không kềm chế tình cảm mà còn "chạy"! Vì tình cảm thương con quá lớn, ông không kềm chế nỗi nữa rồi.
"Ôm vào lòng hôn con tha thiết": cử chỉ này không chỉ là biểu lộ một tình thương mãnh liệt mà còn có ý nghĩa tha thứ. Ôm hôn là biểu lôï sự tha thứ (xem chuyện Đavít ôm hôn tha thứ cho Absalom ở 2Sm 14,33). Đáng chú ý là khi đó đứa con chưa mở lời xin lỗi.
+ 21-24 - Khi đó đứa con bắt đầu đọc bài tự thú mà nó đã học thuộc lòng. Nên lưu ý là nó đọc chưa xong thì người cha đã không nghe nữa. Ông không cần lời lẽ của nó, nguyên việc nó quay về với ông đã đủ. Ông còn bận tổ chức tiệc mừng.
"Mau mau đi": tha thứ nhanh chóng, nôn nóng mở tiệc mừng.
"Đem áo dài tốt nhất mặc cho cậu": Áo chỉ thân phận của người mặc áo. Đứa con này đã đánh mất chiếc áo làm con để thay vào chiếc áo chăn heo. Nay nó được cho mặc "áo dài tốt nhất" tức là nó được trả lại quyền làm con. Chú ý là nó đã tự thú "Con không đáng cha nhận làm con cha nữa. Xin cha cứ coi con như đứa làm thuê".
"Đeo nhẫn vào tay": nhẫn là món chỉ có những người quý phái mới mang.
"Xỏ giầy vào chân cậu": theo tục lệ Do Thái, đầy tớ không mang giầy (mà chỉ xách giầy cho chủ).
"Bắt con bò tơ chúng ta đã nuôi cho béo": không phải bất cứ con bò béo nào, mà con bò "chúng ta đã nuôi cho béo". Nghĩa là người cha đã dự trù sẵn bữa tiệc mừng này nên đã chỉ định một con bò phải nuôi cho béo. Một chi tiết nữa cho ta thấy người cha lúc nào cũng trông con quay về.
+ c.29 Phần thứ hai của dụ ngôn nói về người anh
"Bao nhiêu năm trời tôi phục vụ ông": biệt phái và thông giáo cũng nghĩ rằng họ "phục vụ" Thiên Chúa hết lòng bằng cách tuân giữ mọi lề luật không sai phạm chút nào.
+ c.30 "Thằng con của ông đó": người con trưởng không coi người con thứ là em mình.
+ c.32 "Em con đây": người cha sửa lại lời lẽ sai lầm của người con trưởng.
Thật là 1 dụ ngôn cảm động. Những nét mô tả tình cảm của người cha trong dụ ngôn này khó mà có được nơi một người cha bình thường trong thế gian này mà chỉ có thể áp dụng vào Thiên Chúa nhân lành vô cùng.
4. Bài đọc II (2 Cr 5,17-21)
Chúa Giêsu Kitô đã hòa giải loài người tội lỗi lại với Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Giáo Hội có sứ mạng làm cho những ơn ích của sự hòa giải ấy được đến với mọi người.
IV. Gợi ý giảng
1. Thiên Chúa giàu lòng thương xót
Gandhi kể rằng khi ông 15 tuổi, ông đã ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó ông rất áy náy nên quyết định thú tội với cha mình. Ông viết lên một tờ giấy những gì mình đã làm, sau đó xin cha tha thứ, và cuối cùng hứa sẽ không tái phạm nữa. Khi ấy cha ông đang bệnh phải nằm trên giường. Gandhi đến đưa tờ giấy cho cha và hồi hộp chờ cha xét xử. Người cha ngồi dậy, cầm tờ giấy, trong khi ông đọc thì hai dòng lệ từ đôi mắt ông chảy xuống. Gandhi cũng không cần được nước mắt mình. Cuối cùng khi đã đọc xong, người cha không hề nổi giận và cũng chẳng trách móc Gandhi lời nào. Ông ôm chầm lấy con và sung sướng vì con mình đã biết hối hận.
Cảm nghiệm được yêu thương ngay khi mình còn tội lỗi là một cảm nghiệm vô cùng sâu sắc đối với Gandhi. Sau này ông nói: "Chỉ có người nào đã trải qua cảm nghiệm về loại tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó thôi".
Đó cũng là cảm nghiệm của đứa con hoang đàng trong bài Tin Mừng hôm nay. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn giúp chúng ta hiểu được lòng thương xót bao là của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta phạm tội thì Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Ngài không những không bớt thương mà còn thương nhiều hơn nữa. Không phải đợi chúng ta trở nên hoàn hảo thì Thiên Chúa mới thương, mà Ngài yêu thương chúng ta chính vì chúng ta tội lỗi, yêu thương ngay khi chúng ta còn trong tội lỗi.
Tất cả chúng ta, dù nhiều hay ít, đều là những người tội lỗi. Nhưng chính trong tội lỗi và qua tội lỗi mà chúng ta cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu chúng ta không bao giờ phạm tội thì chúng ta cũng không bao giờ cảm nhận được niềm vui được tha thứ. Nói thế không có nghĩa là chúng ta cứ tha hồ phạm tội. Nói như thế là để chúng ta càng hiểu được tấm lòng của Thiên Chúa. (FM)
2. Những con tim
Dụ ngôn này là một câu chuyện về những con tim:
- Con tim ích kỷ và con tim quảng đại.
- Con tim hẹp hòi và con tim rộng mở.
- Con tim lạnh lùng và con tim nồng ấm.
- Con tim tan vỡ và con tim vui mừng.
- Con tim sám hối và con tim không sám hối.
- Con tim biết tha thứ và con tim không thứ tha.
- Con tim oán giận và con tim biết ơn. (Theo FM)
3. Người con gái hoang đàng
Dụ ngôn người con trai hoang đàng đã khiến Anon liên tưởng tới hoàn cảnh của những người con gái hoang đàng. Anon có những dòng mà đại ý như sau:
Biết bao thi sĩ đã viết nên những bài thơ đẹp nói về tình thương tha thứ của người cha và hạnh phúc của người con trai hoang đàng khi nó trở về. Nhưng đối với những người con gái hoàng đàng thì sao?
Người con gái hoang đàng cũng có thể quay về ngôi nhà mình đã bỏ đi. Nhưng không có gì còn giống như trước: Áng mây mờ vẫn còn nấn ná trên nét mặt những người thân; lại còn những lời chế diễu dèm pha của bà con lối xóm.
Có lẽ vì thế mà khi người con gái hoang đàng còn đang bơ vơ trên những nẻo đường lưu lạc, chỉ cần nghĩ đến những môi miệng cong cớn đó là không còn chút can đảm nào để trở về.
Vậy, hãy mở rộng cửa để đón người con trai hoang đàng trở về; hãy giết bò, hãy mở tiệc ăn mừng.
Nhưng xin đừng đóng sập cánh cửa trước mặt người con con gái hoang đàng trở về, bởi vì, hãy nhớ đừng quên, nàng cũng có một linh hồn.
4. Trừng phạt và tha thứ
Người con hoang đàng biết mình xứng đáng bị trừng phạt và sẵn sàng chờ đợi bị trừng phạt.
Thế nhưng người cha không trừng phạt, mà tha thứ.
Trừng phạt giống như dội một thùng nước lên que củi sắp tàn. Kết quả là ngọn lửa tắt ngúm.
Tha thứ giống như thổi hơi vào tàn lửa sắp tắt, giúp cho ngọn lửa lại bùng lên. (FM)
5. Trong đôi mắt cha (Lc 15,1-3. 11-32)
Một cô bé đang ngồi trên gối mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy lòng mẹ không?
Bà mẹ đáp:
- Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem có thấy gì trong đó?
Cô bé nhướng mắt nhìn chăm chú vào đôi mắt người mẹ, rồi sung sướng kêu lên:
- Mẹ ơi! Con nhìn thấy lòng mẹ rồi, ở đó có một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ?
***
Trong đôi mắt của cha mẹ, con cái là tất cả. Trong đôi mắt Thiên Chúa chỉ có con người, nhất là những con người tội lỗi đáng thương. Vua Đavít đã cầu nguyện cùng Chúa: "Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở" (Tv 17,8).
Vâng, tấm lòng yêu thương khôn tả của Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu bày tỏ trong dụ ngôn "Người cha nhân hậu". Một người cha rất đỗi hiền từ, luôn tôn trọng tự do của con cái, sẵn sàng trao phần gia tài cho người con thứ. Sau khi anh ta đã "sống phóng đãng, phung phí hết tài sản" trở về, người cha ấy cũng không trách mắng, nghiêm phạt, từ con. Trái lại, khi thấy bóng dáng cậu từ xa, ông đã vội vã chạy đến ôm chầm lấy cậu hôn hít vui mừng đến chảy nước mắt.
Lòng nhân hậu, yêu thương, tha thứ đã khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang đàng, mà chỉ còn thấy trước mặt ông, trong vòng tay âu yếm, là đứa con ông hằng mòn mỏi đợi trông. Đứa con mà ông tưởng đã mất vĩnh viễn nay lại tìm thấy được. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng người con trở về. Một cuộc đón tiếp quá sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của đứa con.
Người anh đi làm về, chẳng những đã không vui mừng mà con nổi giận, trách móc cha già, khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà chung vui với ông và gặp lại đứa em "đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Ông khẳng định với cậu rằng: "Tất cả những gì của cha đều là của con" (Lc 13,31).
Đó là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu thương, quảng đại, và hay tha thứ. Một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt nhưng luôn tỏ lòng khoan dung. Một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. "Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (Tv 135).
Chỉ tiếc một điều là người anh cả đã không chịu vào nhà. Anh không chịu vào vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào vì anh không hiểu được tấm lòng quá nhân hậu bao dung của người cha.
Hoá ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài: Anh không trái lệnh cha chỉ để tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là "em tôi" mà là "đứa con của cha kia". Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con.
Anh chỉ nghĩ về mình, quyền lợi của mình, hạnh phúc của mình. Anh là người đại tiện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.
Vậy cả hai người con đều phải quay trở về vôi cha, cả hai đều phải bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái tim cha: Nhân hậu, bao dung, tha thứ và tròn đầy yêu thương.
Trở về với cha là giang tay ôm lấy người em lầm lỡ.
Trở về với cha cũng là về với anh em, con cùng một cha.
Trở về với cha để thấy mình là tất cả, trong đôi mắt cha.
***
Lạy Chúa. tình Chúa lớn hơn tội lỗi chúng con bội phần. Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha cũng biết rộng lượng tha thứ cho nhau, để mỗi ngày chúng con càng nên xứng đáng với Chúa. Amen. (Thiên Phúc)
6. Mảnh suy tư
- "Lúc đứa con hoang đàng quỳ gối xuống và khóc là lúc nó biến những khoảng thời gian phung phí cuộc đời với bọn đĩ điếm, với việc chăn heo, với việc ăn cháo heo cho đỡ đói thành những khoảng thời gian đẹp nhất và thánh thiện nhất trong đời nó. Dễ có mấy ai ý thức được như vậy. Tôi dám nói rằng cần phải vào tù mới hiểu được điều đó. Và nếu thế thì có vào tù cũng đáng lắm chứ" (Oscar Wilde)
- Chẳng có gì khó khi trở về nhà như một vị anh hùng với những chiến công hiển hách. Nhưng trở về nhà với vóc dáng tả tơi, hai bàn tay trắng và một con tim tan nát vì mặc cảm tội lỗi là một điều khó vô cùng.
- Đứa con hoang đàng biết mình đáng bị trừng phạt. Do đó nếu người cha trừng phạt thì nó cũng sẵn sàng chịu đựng. Lòng nó nhẹ đi. Nhưng nó không vui. Chính sự tha thứ của người cha mới đem lại cho nó niềm vui thực sự.
- Các vị thánh làm chứng về ân sủng và lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn những người tội lỗi thì làm chứng về tình thương và lòng thương xót của Ngài.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là một người Cha giàu lòng thương xót. Người không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó sám hối ăn năn để được sống. Tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh là một người mẹ hiền luôn thương yêu con cái của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn thể hiện tình thương trong cung cách xử sự thường ngày.
2. Hiện nay / tình trạng thanh thiếu niên bỏ nhà ra đi bụi đời rất đáng báo động / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bậc cha mẹ / luôn sống hòa thuận yêu thương nhau / và nhất là quan tâm giáo dục con cái của mình.
3. Phải từ bỏ nếp sống tội lỗi mà quay về với Chúa / là điều mà người Kitô hữu cần thực hiện trong mùa Chay thánh này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu biết đoạn tuyệt với tội lỗi / để xứng đáng đón mừng đại lễ Phục sinh.
4. Ganh tỵ và ghen ghét gây ra biết bao đau khổ cho con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống bác ái yêu thương như Chúa dạy / nhờ đó dẹp bỏ được những tật xấu đáng ghét này.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con có thể sống trọn vẹn lời Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta thật hạnh phúc vì được làm con của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Vậy chúng ta hãy dâng lên Ngài những tâm tình kính mến chân thành của chúng ta.
VII. Giải tán
Hôm nay chúng ta đã cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Bây giờ chúng ta hãy là những sứ giả loan báo cho mọi người về lòng nhân từ thương xót bao la ấy. Chúc anh chị em luôn bình an.
11. Dụ ngôn người con hoang đàng—Lm Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Thiên Chúa dựng nên con người có hồn có xác. Ngài còn ban cho họ lý trí và tự do để sống theo thánh ý Ngài. Tự do là tặng phẩm vô giá Thiên Chúa đã tặng ban cho con người để họ tự do trung thành với Chúa hay phản bội Ngài. Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Vì thế, tự do là con dao hai lưỡi, nếu biết dùng nó cho đúng thì sống, mà dùng sai thì chết.
Chính vì con người có quyền tự do nên họ đã phạm tội chống lại Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, Ngài vẫn yêu thương con người khi họ còn ở trong vòng tội lỗi, Ngài kiên nhẫn chờ đợi, kêu mời và tạo mọi điều kiện để họ trở về sống trong ân tình của Ngài. Dụ ngôn đứa con hoang đàng hôm nay nói lên chân lý đó.
Thánh Luca đặc biệt nói về lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa qua ba dụ ngôn, mà dụ ngôn người con hoang đàng là sâu sắc hơn cả. Con người yếu đuối và hay sa ngã.. Nguyên tổ Adong Evà đã sử dụng sai tự do của mình, đã sa ngã, nhưng Chúa vẫn thứ tha. Rồi đến lượt con cháu ông bà cũng đi vào vết xe cũ đó, nhưng Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi, kêu gọi họ trở về để được ơn tha thứ. Đavít, Madalena, Phaolô, Augustinô, Charles de Foucauld… đã đi vào con đường tăm tối và đã được giải thoát sang vùng ánh sáng tự do.
Có lẽ mỗi người đều sẽ phải nếm nỗi chua xót vì đã sử dụng tự do sai trái! Tất cả đã đúc thành cái giá cắt cổ mà Con Thiên Chúa phải trả thay bằng chính mạng sống mình. Bài học sâu sắc của đứa con hoang đàng đã trở thành tiêu biểu cho những người dám chân thành và cam đảm làm cuộc trở về với Người Cha Nhân Hậu.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Gs 5,9-12.
Trong 40 năm trên đường về Đất Hứa, Thiên Chúa đã nuôi dưỡng dân Do thái bằng manna, ai muốn ăn bao nhiêu thì ăn, không bị hạn chế, nhưng khi đã đặt chân lên Đất Hứa rồi, mannna thôi rơi, và dân bắt đầu ăn thổ sản trong xứ.
Cuộc xuất hành về Đất Hứa đã kết thúc, họ mừng lễ Vượt Qua đầu tiên để tạ ơn Chúa đã thực thi lời hứa trong giai đoạn quyết định vừa qua. Từ nay, lễ Vượt qua được ấn định vào ngày 14 tháng Nisan hàng năm giúp dân Do thái luôn nhớ đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với họ.
Trong cuộc hành trình về quê trời, Mình Thánh Chúa là manna được Thiên Chúa ban cho loài người, một thứ thần lương nhiệm mầu nuôi sống linh hồn chúng ta và đem chúng ta đến sự sống đời đời.
+ Bài đọc 2: 2Cr 5, 17-21.
Thiên Chúa là Đấng trung thành và thương xót, đã dùng Đức Kitô mà giao hòa chúng ta với Người, đã gánh tội của chúng ta và làm cho chúng ta được thông phần sự sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho chúng ta được tái sinh nhờ Bí tích rửa tội để sống một đời sống mới.
Nhưng điều đã được thực hiện dứt khoát một lần trong Đức Kitô còn phải được thực hiện nơi từng người: đó là tầm quan trọng của sứ mạng hòa giải được giao phó cho các vị Tông đồ. Do đó, Giáo hội có sứ mạng làm cho những ơn ích của sự hòa giải ấy được đến với mọi người.
+ Bài Tin mừng: Lc 15,1-3.11-32.
Thiên Chúa luôn giầu lòng thương xót và tha thứ đối với tất cả mọi người. Thánh Luca đã diễn tả lòng thương xót đó qua 3 dụ ngôn:
- Dụ ngôn con chiên lạc (Lc 15,4-7).
- Dụ ngôn đồng tiền bị mất (Lc 15,8-10).
- Dụ ngôn đứa con hoang đàng (Lc 15,1-3.11-33).
Trong dụ ngôn người con hoang đàng này, ta thấy người cha có hai đặc điểm: tôn trọng tự do của con, sẵn sàng chia gia tài cho con, và nhất là sẵn sàng tha thứ, luôn mong đợi con trở về ngay khi nó chưa hối lỗi. Người con thứ không phải là mẫu mực một kẻ tội lỗi hồi tâm: anh ta không có vẻ ăn năn thống hối thực sự, anh ta chỉ đi theo hướng có lợi, nghĩa là trở về cho khỏi bị chết đói.
Tuy thế, Thiên Chúa là người Cha tốt lành và nhẫn nại, Ngài tìm mọi cách để cứu chúng ta. Ngài đợi chờ chúng ta qua nhiều năm tháng dài. Ngài vui sướng đón nhận chúng ta vào cánh tay Ngài vì chúng ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Tình thương dạt dào, đó là lời mời gọi của Cha trên trời dành cho hết mọi người con của Ngài, dù họ biết bao lỗi lầm, dù họ chưa sẵn sàng trở về với Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Trở về với Cha nhân hậu
I. BA MÀN CỦA MỘT VỞ KỊCH.
Theo giáo thuyết của các giáo sĩ Do thái thì những người thu thuế và tội lỗi bị tách ra khỏi cộng đồng tôn giáo và xã hội Do thái. Nhưng ở đây những người này lại đến gần Đức Giêsu để nghe Ngài giảng và họ còn mời Ngài đến dùng bữa tại nhà mình.
Thấy thái độ Đức Giêsu đón tiếp những người thu thuế và tội lỗi trái với giáo thuyết của Do thái, nên biệt phái và luật sĩ là những người chủ trương giữ luật rất khắt khe đã kêu trách Đức Giêsu. Họ kêu trách Ngài về hai điểm:
a) “Ông này đón tiếp những người tội lỗi”: Người Do thái hành động theo châm ngôn sau: Thiên Chúa yêu thương những người công chính và gớm ghét những người tội lỗi. Bởi vì Thiên Chúa gớm ghét người tội lỗi nên người Do thái cũng phải làm như thế. Nhưng ở đây Đức Giêsu làm ngược lại: Ngài đón tiếp các tội nhân.
b) “Và cùng ăn với chúng”: Không những tiếp đón những người tội lỗi mà Đức Giêsu còn đi xa hơn: là cùng ăn với họ. Thông thường bữa ăn diễn tả thân hữu liên đới giữa con người với nhau. Vì thế, ở đây với hai thái độ “Cùng ăn với họ” Đức Giêsu cho thấy Ngài muốn hiệp thông với chính những người tội lỗi. Ngài muốn cứu giúp những người tội lỗi và chính Ngài là nơi nương tựa cho những kẻ bị bỏ rơi.
Trong chương 15, ta thấy Đức Giêsu đã kể ra 3 dụ ngôn có ý nhằm vào luật sĩ và biệt phái vì họ tự cho mình là công chính mà khinh khi những người tội lỗi và những người bị loại trừ.. Ba dụ ngôn ấy là:
- Con chiên lạc (Lc 15,4-7).
- Đồng tiền bị mất (Lc 15,8-10).
- Đứa con hoang đàng (Lc 15,11-32).
Ba dụ ngôn này được ngắt nhịp bằng một điệp khúc ca tụng tình thương Thiên Chúa được bầy tỏ nơi Đức Giêsu; tình thương ấy dành cho những người không được yêu thương và không đáng yêu, những người một cách gián tiếp lên án sự nghiệt ngã và nghiêm khắc mà những kẻ tự phụ là công chính dành cho họ. Phụng vụ hôm nay không ghi lại hai dụ ngôn trên mà chỉ ghi lại dụ ngôn thứ ba là dụ ngôn đứa con hoang đàng, tức là dụ ngôn về tình phụ tử. Dụ ngôn này thật quí báu, do được một mình Luca kể lại, vì nó đặc biệt phù hợp với tinh thần của sách Tin mừng này.
Trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, những nhân vật được nêu ra ở đây có tính cách ám chỉ:
- Người kia tức là người cha: ám chỉ Thiên Chúa.
- Người con cả: ám chỉ dân Do thái, cách riêng các luật sĩ và biệt phái.
- Người con thứ: ám chỉ người có tội.
1. Màn thứ nhất: Người cha chia gia tài.
Theo luật của người Do thái, người cha không được tự do phân chia gia tài mình tùy ý thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con thứ một phần ba (Đnl 21,1). Theo phong tục của nhiều dân tộc, người con chỉ được phép chia gia tài khi người cha đã chết. Cha còn sống mà đòi chia gia tài, chẳng khác nào muốn nguyền rủa cho cha chết sớm! Nhưng đứa con thứ bất hiếu trong dụ ngôn này đã đòi cha chia gia tài sớm. Nó làm thế như có ý nói: “Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để tôi đi ra khỏi nhà này”.
Người cha không tranh luận gì, ông muốn tôn trọng sự tự do của nó. Ôâng cũng hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã chia gia tài cho nó. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi.
2. Màn thứ hai: Đứa con thứ ra đi và trở về.
Nhận được phần gia tài rồi, hắn lên đường đi đến một phương xa, chơi bời trác táng, giao du với những quân du côn, với những cô gái đĩ điếm. Tiêu xài như thế thì đến núi cũng phải lở. Chẳng bao lâu hắn đã tiêu xài hết tiền của, đồng thời nạn đói cũng xẩy ra tại miền ấy. Hắn phải đi kiếm việc làm cho qua ngày, nhưng tìm được việc làm đâu có dễ, hắn chỉ xin được chăn heo, mà đối với người Do thái chăn heo là một điều xấu hổ, mất phẩm giá, vì heo là một con vật ô uế (Đnl 14,8).
Sống trong cảnh nhục nhãø và túng thiếu đến cùng cực, hắn mới hồi tâm lại: ở nhà cha tôi thiếu gì của ăn, đến đứa đầy tớ cũng còn thừa cơm bánh, còn tôi ở đây thì phải cùng cực, muốn ăn cám heo người ta cũng không cho ăn. Ở trong hoàn cảnh này thì vô phương giải quyết, chỉ còn cách trở về kiếm miếng cơm cho khỏi chết. Hắn nghĩ thế này: tôi sẽ trở về xin lỗi cha và chỉ dám xin cho ở nhà cha với phận mọn là đứa tôi tớ thôi, đâu dám nghĩ đến chuyện được nhận lại làm con. Nhưng làm một tên nô lệ mạt trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha, theo một nghĩa, thì nô lệ là một phần tử trong gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào.
Sau khi đã suy nghĩ rất hung, hắn lên đường trở về, và mọi điều dự đoán của hắn đều sai hết. Thánh Luca đã mô tả: “Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ôâng chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng đáng gọi là con cha nữa…” Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con tay đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và họ bắt đầu ăn mừng.
3. Màn thứ ba: Người anh cả giận dữ.
Đáng buồn thay, khi về đến nhà thấy người ta đang liên hoan ăn mừng người con thứ đã trở về, người anh cả giận điên lên không chịu vào nhà. Anh không chịu vào nhà vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào nhà vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào nhà vì anh không thể hiểu được tấm lòng nhân hậu của người cha.
Hóa ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài: anh không trái lệnh cha chỉ để làm tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là “em tôi” mà là “thằng con của cha kia”. Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con. Anh ta là người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi thối càng ngã sâu hơn nữa.
II. BA MÀN KỊCH ĐỐI VỚI CHÚNG TA.
1. Thiên Chúa giầu lòng thương xót.
Thiên Chúa là người cha giầu lòng thương xót, chỉ biết thi ân giáng phúc muôn vàn cho con người một cách quảng đại và bao dung tha thứ, và rất tôn trọng con người hơn những người cha tôn trọng tự do con cái. Ngài không thẳng tay trừng phạt, chỉ biết nhẫn nại chờ đợi đứa con trở về. Vừa khi thấy nó trở về, Ngài chạy lại ôm chằm, hôn nó một hồi lâu, không cần nghe nó xin lỗi, vì nó trở về chỉ vì thống khổ, không sống được nữa, nó chỉ mong về được ăn cho no, thoát khổ, thoát chết.
Thái độ của người cha thật tuyệt vời, ông không để cho nó kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tượng trưng cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như ủy quyền cho người đó thay thế mình. Đôi giầy là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giầy, còn nô lệ thì không. Và một yến tiệc được bầy ra để mọi người ăn mừng đứa con đi hoang nay đã trở về nhà cha.
Ta thường gọi dụ ngôn này là dụ ngôn “đứa con hoang đàng”, nhưng có lẽ phải gọi là dụ ngôn “Người cha nhân hậu” mới đúng, vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
Người cha hẳn đã mỏi mắt trông chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy con từ đàng xa. Khi con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có sự tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội người ấy vẫn còn giữ đó.Hôm nay đứa con đi hoang biết mình đáng bị trừng phạt. Do đó, nếu người cha trừng phạt thì nó cũng sẵn sàng chịu đựng. Lòng nó nhẹ đi. Nhưng nó không vui. Chính sự tha thứ của người cha mới đem lại cho nó niềm vui thực sự.
Truyện: Tổng thống Abraham Lincoln.
Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xử thế nào với quân phiến loạn miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa kỳ? Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời: “Tôi sẽ đối xử với họ dường như chưa bao giờ họ ly khai với chúng tôi”.
Đây là một dụ ngôn có tầm vóc thần học. Dụ ngôn của ân huệ Chúa ban cho con người. Dụ ngôn về tình yêu nhưng không Cha ban cho mọi người, dầu tội lỗi mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm vui, muốn mời gọi họ khám phá ra tình huynh đệ chân chính. Làm sao không nhìn ra qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn trao tặng cho chúng ta bí mật trong cách cư xử và đời sống của Ngài? Ngài là người Con được Cha sai đến loan báo sự hòa giải cho các tội nhân. Đó là những người mà Đức Giêsu khắc họa hình ảnh nơi người em và đó cũng là những người được mời gọi nhận ra chính mình nơi hình ảnh của người anh (Fiches dominicales).
Truyện: Đứa con hoang đàng của Phật giáo.
Trong giáo lý nhà Phật cũng có câu chuyện gọi là “Dụ ngôn người con hoang đàng”. Câu chuyện kể về một người con bỏ cha, lên đường đi đến một nơi xa xôi sinh sống theo sự tự do phóng khoáng của mình. Vì ăn chơi thái quá anh trở nên nghèo khổ. Người cha ở nhà, sau bao năm tháng chờ đợi không thấy con trở về, đành lên đường đi tìm con. Sau nhiều năm tìm kiếm, hỏi han, người cha đã tìm ra được tung tích của người con mình. Nhưng người con lại không thể nào nhận ra được cha nó, một ông già đầy quyền lực và cao sang. Người con vẫn tiếp tục từ chối và lẩn trốn. Người cha rất đau lòng để con mình lẩn trốn như vậy, nhưng ông ra lệnh cho gia nhân theo dõi cậu, mướn cậu vào nhà làm việc cho ông. Sau đó, người cha vứt bỏ quần áo sang trọng, ngọc ngà của mình đi, đóng vai một người đầy tớ để có cơ hội gần gũi và chinh phục người con. Qua nhiều năm thân thiết người cha đã chinh phục được trọn vẹn tình cảm của cậu. Sau cùng vào cuối đời, người cha mới tiết lộ cho biết anh là con của ông và được quyền thừa kế tất cả gia tài của cha để lại. (Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 128)
Câu chuyện này không khác gì lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người. Thiên Chúa luôn yêu thương tìm kiếm con người. Còn con người cứ lẩn trốn, để rồi sau cùng, Thiên Chúa phải sai Con Một xuống thế, làm người đầy tớ đau khổ (Is 53,10-12), dùng cái chết của mình để thuyết phục và nói cho con người biết chức vị làm con cái Thiên Chúa của mình với quyền thừa kế hạnh phúc đời đời trên Nước Trời (Ga 3,16-17).
2. Người con di hoang đã mất nay lại tìm thấy.
Người con thứ được xác định là một tay ăn chơi trác táng… Nhưng khi đã hết nhẵn tiền thì anh mới cảm thấy hối tiếc cho bản thân mình. Nỗi đau của bản thân khiến anh nhận ra được nỗi đau mà anh đã gây ra cho người cha của anh. Do đó, anh tự nhủ “Tôi sẽ trở về với cha tôi, và xin lỗi người”. Đây là một quyết định can đảm vì đã thất bại và còn vác mặt về mà xin lỗi thì thật là xấu hổ.
Đúng thế, thậât dễ dàng trở về nhà, khi bạn là một người anh hùng, với chiến công và vinh quang. Nhưng đứa con hoang đàng không có một chiến công nào để đem về cho anh, anh không hề có thành quả nào, để nhờ đó, anh xứng đáng được khen ngợi, đón tiếp và yêu thương. Anh đang trở về nhà, với đôi bàn tay trống rỗng. Tệ hơn nữa, anh đang trở về nhà, lòng nặng trĩu xấu hổ và nhục nhã.
Nhưng thật ngạc nhiên, khi người cha nhìn thấy anh trở về đang tiến lại với ông, ông liền chạnh lòng thương, và một phút sau đó, cha con đã ôm chầm lấy nhau. Người cha đã không chỉ chấp nhận cho anh trở về, mà còn đón tiếp anh nữa. Tất cả tội lỗi của anh đều được tha thứ.
Phát hiện vĩ đại nhất mà người con hoang đàng đã nhận ra đó là anh vẫn được yêu thương, trong tình trạng tội lỗi của anh. Người cha không bao giờ ngừng yêu thương anh. Trong tấm lòng nhân hậu của người cha, anh luôn đuợc yêu thương, đó không những là một điều tốt, nhưng khi vẫn được yêu thương ngay trong tình trạng tội lỗi, thì quả là một cảm nghiệm tuyệt vời.
Sự tha thứ của Thiên Chúa không phải là sự tha thứ lạnh lùng, nửa vời, nhưng là sự tha thứ nồng ấm và quảng đại. Thiên Chúa không chỉ tha thứ cho chúng ta, mà Ngài còn yêu thương chúng ta, và để cho chúng ta nhận biết được tình yêu thương đó (McCarthy).
“Giây phút người con hoang đàng quỳ gối và khóc lóc, anh ta đã biến cảnh lãng phí tài sản của mình bên những cô gái điếm, cảnh chăn heo và thèm khát những thức ăn của heo, trở thành những giây phút đẹp đẽ và thánh thiện trong cuộc đời của mình. Hầu hết mọi người khó mà thấu hiểu được ý tưởng đó. Tôi dám nói rằng người ta phải chịu cảnh tù tội, thì mới thấu hiểu được điều đó. Nếu như vậy, thì có thể thời gian sống trong tù thật đáng giá”(Oscar Wilde).
Truyện: Chúa quên hết tội rồi.
Một bà già thường đến gõ phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo: “Lần sau nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài “Cha xứ con có tội gì nặng nhất? sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của Ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
- Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.
- Thế bà có hỏi Ngài không?
- Thưa có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp:
- Bà hỏi thế nào?
- Thì con hỏi y như Cha đã bảo: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất”?
Cha xứ càng hồi hộp thêm:
- Vậy Chúa có trả lời không?
- Có chứ.
Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:
- Chúa nói sao?
- Chúa nói: “Ta đã quên hết rồi.
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm. (Kể theo ĐHY PX Nguyễn văn Thuận)
3. Người anh cả bất hợp tác.
Người anh cả trở về nhà và anh thực sự buồn rầu vì em của anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho các giáo sĩ Do thái tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Anh ta trách em về những lầm lạc của nó. Đây là một dấu chỉ cho thấy anh ta không hiểu lòng tốt của cha. Bao lâu anh này còn quá tự tín vào bản thân và những công trạng của mình, ganh ghét và khinh bỉ, đầy chua xót và giận dữ, không hoán cải và giao hòa với cha và với em mình, thì bàn tiệc chưa thể hoàn toàn là bữa tiệc liên hoan mừng cuộc gặp gỡ và tái ngộ.
Thái độ của người anh cả đối với người em trai phản ảnh lại thái độ của người biệt phái đối với tội nhân. Mặc dù là những người rất đạo đức, nhưng họ vẫn cho rằng tội lỗi xứng đáng bị kết án hơn là cứu độ. Nhưng lòng đạo đức có công dụng gì, nếu nó không làm cho người ta trở nên thương cảm hơn đối với những kẻ bị sa ngã? Nếu chúng ta tự nhận thấy mình thông cảm với người anh cả, thì điều này càng chứng tỏ rằng tính cách người biệt phái đó đang ở trong chúng ta. Người anh cả này ghen tức chỉ muốn ông bố giết quách đứa em đi cho bõ ghét, không thể tha thứ được.
Truyện: Người cha giết con.
Nhà truyền giáo T.R. Stevenson ở Thượng hải kể: một thương gia giầu có ở Quảng đông có hai con trai. Người con lớn thường kết bè tụ đảng với bọn bất lương phá phách xóm làng. Một lần, quá túng, hắn dẫn cả một băng về cướp ngay tại nhà mình. Khi tội hắn bị lộ, người cha cho người đến nói với hắn: nếu biết đường cải tà qui chính thì sẽ được tha. Người nhắn còn bảo đây là lần gia ân cuối cùng của ông chủ. Hắn chầm chậm đứng lên và quay về nhà cha. Một bữa tiệc đón tiếp xem ra cũng vui vẻ, nhưng trong đĩa thức ăn của hắn có bỏ thuốc độc. Hắn chết ngay đêm đó, nhưng người cha không bị ra tòa vì theo luật Trung hoa, cha có quyền giết con.
Từ câu chuyện này, các nhà truyền giáo thường đem đối chiếu với đoạn 15 Tin mừng theo thánh Luca mà chúng ta đọc hôm nay.
Suy nghĩ về dụ ngôn này, chúng ta dễ cảm thông với người con hoang đàng và dễ lên án thái độ cố chấp của người anh cả. Nhưng rồi sự suy nghĩ ấy lại đưa chúng ta đến một suy nghĩ khác:
Nói người phải nghĩ đến ta
Suy đi nghĩ lại hóa ra chính mình.
Người cha có hai người con: người con đây là ai? Và đứa con hoang đàng chỉ ai? Các nhà chú giải không đồng ý kiến.
Các nhà chú giải thời xưa cho rằng: người con cả chỉ người Do thái, con hoang đàng chỉ dân ngoại.
Ngày nay quan niệm đó hầu như bị bỏ, mà còn hai ý kiến sau đây:
- Một ý kiến cho rằng: con cả chỉ người biệt phái, con hoang đàng chỉ tội nhân. Người biệt phái lẩm bẩm kêu trách Chúa vì thái độ đối với tội nhân.
- Ý kiến thứ hai cho rằng: con cả chỉ người lành, con hoang đàng chỉ tội nhân. Kẻ lành không hiểu được thái độ Chúa đối với tội nhân trở lại.
Xem chừng người ta nghiêng về ý kiến thứ nhất.
Chúng ta là hạng người nào? Dầu là anh cả, dầu là đứa con hoang đàng, tất cả đều phải sám hối, đều phải trở về, đừng cứng lòng trước ơn Chúa. Trong cuốn Au Gré de Sa Grâce, linh mục André Louf có đề cập đến không những kẻ tội lỗi cứng lòng (pécheurs endurcis) mà còn những người ngay chính (justes endurcis) cũng cứng lòng nữa. Người con hoang đàng là hình ảnh của những người tội lỗi, còn người anh cả có thể là hình ảnh của những người ngay chính cứng lòng. Người tự coi mình công chính, đạo đức mà cứng lòng và tự mãn thì thật khó mà sám hối, trở về.
Có lẽ thái độ của người anh tự coi mình công chính và ganh tị là hình ảnh gợi cho tất cả chúng ta, những người cảm thấy mình làm mọi sự đều đúng, đều tốt đẹp và đạo đức. Chúng ta biết mình là người tốt nên dễ dàng phê phán những người khác. Chúng ta đã mang trong mình tự mãn vì nghĩ rằng Thiên Chúa đang ngự trị trong đời sống của mình.
Chúng ta đã ở vào giữa Mùa Chay, chỉ còn một thời gian nữa là đến lễ Phục sinh. Mùa Chay là mùa được kêu mời trở lại, chúng ta hãy can đảm nhận khuyết điểm, sai phạm của mình, để mạnh dạn trở về cùng Chúa, cùng Giáo hội của Ngài. Thiên Chúa nhân từ trong vai người cha nhân hậu và yêu thương hôm nay, bảo đảm cho sự lầm lỗi của con người yếu đuối, sẽ được tha thứ. Ngài là Cha của tất cả mọi người, Ngài đang chờ đợi từng người một trở về. Đừng nghĩ rằng tội lỗi mình quá nặng, nên không thể giao hòa với Chúa. Cũng đừng cho rằng ân sủng của Chúa không đủ để phục hồi tội lỗi của mình. Hãy thống hối, hãy trở về, sẽ được thứ tha hết mọi lỗi lầm lớn nhỏ. Hãy tạ ơn Chúa, vì tạ ơn là có khả năng ý thức mình là kẻ có tội, và từ đó tập chú vào lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.
12. Ăn mừng vì con ta sống lại--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Cha Boscô thường xuyên vào thăm trại tù thiếu nhi phạm pháp. Một hôm ngài xin ban giám thị cho ngài dẫn các tù nhân đó đi cắm trại ở khu rừng mát mẻ ngoài thành phố Tôrinô. Mọi người ngạc nhiên chưa thấy ai dám cho tù nhân tự do ra ngoài. Ban Giám thị sợ tù nhân trốn hết, họ phải tù thay. Cha Boscô cam đoan nếu có trẻ nào trốn, ngài sẽ tù thế, buộc lòng họ phải chấp thuận và cho một đội lính đi canh. Nhưng ngài khăng khăng không cần lính, chỉ mình ngài lo thôi. Thế là nhà tù mở cửa, các em ào ào ra và xếp thành hàng đôi đi ra rừng cắm trại. Chúng thi đua nhau các trò chơi, ca hát, chạy nhảy, làm trò đủ kiểu em nào cũng hăng say hoạt động vui chơi thỏa thích vô cùng. Em nào cũng răm rắp theo lệnh Cha. Chiều về, ngài dẫn một đoàn thiếu nhi ngoan ngoãn vui vẻ trở vào tù. Ban quản tù điểm danh không thiếu một tên. Họ sửng sốt như thấy phép lạ. Thánh Boscô đã chinh phục được những con ngựa bất kham nhỏ bé nhờ tình yêu tha thiết đối với các thiếu nhi phạm pháp đó.
Tình yêu của thánh nhân làm cho những tâm hồn đã chết được sống lại. Còn hơn nữa, tình yêu của Đức Giêsu làm cho những người thu thuế và tội lỗi đã chết được sống lại, như Tin Mừng kể: “Các người thu thuế và tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu mà nghe Người giảng, thấy vậy, những người thuộc phái Pharisiêu và các kinh sư xì xầm với nhau: Ông này niềm nở đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng. Đức Giêsu mới nói với họ 3 dụ ngôn: Chiên lạc, đồng tiền lạc mất và tình phụ tử”.Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy tình phụ tử của Thiên Chúa thương yêu tội nhân thế nào qua câu chuyện một người cha có hai đứa con.
Đứa con thứ bắt cha phải chia gia tài cho nó, được của rồi nó không thèm nói một lời cám ơn, không thèm báo cáo cho cha biết nó làm gì, nó đi đâu, nó ra đi không một lời từ biệt, không hề ngoảnh mặt lại nhìn cha. Nó tự coi mình là tuyệt đối, không còn biết có cha, không còn ai hơn nó. Đứa con thứ là điển hình của những kẻ hoàn toàn bất hiếu với Thiên Chúa, chối bỏ Thiên Chúa, tự cho mình là chủ tất cả của cải trong trời đất, dầu họ không làm ra được một hạt thóc mà còn phá hoại những kho tàng vô tận của trời cho. Thời đại ngày nay, con người đã quá phá sản vào chi phí chế tạo vũ khí giết người hàng loạt, chi phí những thứ ăn chơi ma túy, rượu chè, si mê đàng điếm gây ra những bệnh tật. Họ còn phá hủy những rừng cây dưới đất, đến tầng khí quyển trên trời, làm đảo lộn sinh thái, ô nhiễm môi trường, gây ra những bão lụt, nóng bức, giá lạnh kinh khủng. Nhận ra những thảm họa khốn cùng đó, con người đang ăn năn sám hối, sửa chữa lỗi lầm như đứa con đi hoang trở về thú tội: “Lạy Chúa, con thật đắc tội với trời và với Cha…”.
Thiên Chúa như người cha giàu lòng thương xót, chỉ biết thi ân giáng phúc muôn vàn cho con người một cách quảng đại và bao dung tha thứ và rất tôn trọng con người hơn những người cha tôn trọng tự do con cái. Ngài không thẳng tay trừng phạt, chỉ biết nhẫn nại chờ đợi đứa con trở về. Vừa khi thấy nó trở về, Ngài chạy lại ôm chầm, hôn nó hồi lâu, không cần nghe nó xin lỗi, dầu nó trở về chỉ vì thấy khổ, không sống được nữa, nó chỉ mong về được ăn cho no, cho thoát khổ, thoát chết. Còn cha nó chỉ thấy nó rách rưới, tiều tụy, đói khổ, nên đã sai đầy tớ mau mau lấy áo mới đẹp nhất, xỏ nhẫn quý nhất cho nó để nó xứng đáng là cậu ấm, cục cưng của cha và mở tiệc giết bê mập ăn mừng: “Vì con ta đã chết, nay đã sống, đã mất, nay tìm thấy”.
Thực ra, thật khó kiếm được người cha trần gian nào như thế! Chỉ có Cha trên trời mới thương yêu con người đến thế thôi, vì Ngài: “Đã dựng nên mặt trời soi sáng cho kẻ công chính cũng như bất lương, làm mưa xuống cho kẻ lành cũng như người dữ… Ngài còn yêu thương vô cùng hơn nữa. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống”.
Dù con người bất trung đến đâu, Thiên Chúa vẫn yêu thương, như tiên tri Ôsê ví Thiên Chúa như một người chồng vẫn yêu thương người vợ bất trung bất nghĩa (Ôsê 3, 1; 11, 1-9). Thiên Chúa cũng thương yêu loài người như Giavê đã thương yêu dân Israel: Bất cứ giá nào Ngài cũng giải thoát dân khỏi cảnh nô lệ khốn cùng của Ai Cập. Bất cứ giá nào, bội bạc, phản loạn đến đâu, Ngài vẫn cho manna từ trời rơi xuống và mạch nước từ tảng đá chảy ra nuôi sống họ suốt 40 năm vượt qua sa mạc để về đất hứa, hân hoan vui sướng mừng đại lễ Vượt qua trong đất chảy sữa và mật (Bài I).
Trong niềm vui dự đại tiệc lễ mừng đó, Thánh Phaolô trong Bài đọc II còn nhắc nhở chúng ta đến một niềm vui vô cùng lớn lao hơn nữa là được trở nên tạo vật mới, được kết hợp với Đức Kitô sống công chính trước mặt Thiên Chúa. Tình phụ tử của Thiên Chúa thương yêu con người đến tột độ, nhưng con người lại ghen tương, oán ghét nhau như đứa con cả đối với em, như Pharisiêu và kinh sư đối với thu thuế và tội lỗi, không muốn tha thứ, không muốn chúng trở về cùng Cha, chỉ muốn chúng bị nguyền rủa, mất đi, chết đi để độc quyền hưởng lợi lộc chiếm đoạt gia tài. Họ như lính cai tù chỉ biết bắt nhốt trừng phạt những kẻ bé mọn phạm pháp.
Lạy Chúa, con cũng là đứa con đi hoang tù tội, xin Chúa thường xuyên đến viếng thăm, nâng đỡ ủi an và giải thoát khỏi tù đày tội lỗi để con được sống lại, được đứng dậy trở về dự đại tiệc thánh và luôn luôn ở bên Chúa. Lạy Chúa, tâm trạng con còn giống như đứa con cả, như lính cai tù, xin Chúa can ngăn, dạy dỗ con biết tha thiết thương yêu anh em mình như Chúa thương yêu con. Amen.
13. Đáp lại Lòng Thương Xót của Thiên Chúa--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay gồm đoạn mở đầu (c 1-3) cho biết hòan cảnh của dụ ngôn. Tiếp theo là chính dụ ngôn trình bày về lòng từ bi nhân hậu của một người cha (c 11-32) có thể chia ra hai phần chính như sau:
- Thái độ bao dung của người cha đối với đứa con thứ: thể hiện qua các hành động sẵn sàng chia gia tài theo yêu cầu của đứa con ngay khi ông còn sống, nôn nóng chờ mong đứa con đi hoang trở về, chạnh lòng xót thương khi vừa thấy con từ xa và sẵn sàng tha thứ trước khi nó kịp thú tội, lập tức trả lại địa vị làm con, tổ chức bữa tiệc mừng con hoang trở về.
- Thái độ hẹp hòi của con trưởng: Sau khi biết em đã trở về nhà và được cha không những không trừng phạt mà còn mở tiệc ăn mừng, thì anh con trưởng đã tỏ ra có thái độ hẹp hòi và ganh tị: Không thèm vào nhà, trách cha thiên vị đứa em bất hiếu, và đối xử bất công với anh là đứa con hiếu thảo. Cuối cùng người cha đã phải ra gặp và giải tỏa những lời trách móc của người con cả. Ông khuyên anh hãy noi gương ông để tỏ ra bao dung với đứa em tội lỗi vì: “Em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Những người thu thuế: Chỉ trong Tin mừng Nhất lãm (Mátthêu, Máccô, Luca) mới đề cập đến hạng người thu thuế này (x. Mt 9,9; Mc 2,14; Lc 5,27). Họ bị coi là tay sai của chính quyền Rôma và bị tố cáo đã lạm thu thuế để hưởng lời bất chính (x. Lc 19,8b). Dân Do thái liệt họ vào hạng người tội lỗi xấu xa, ngang hàng với bọn trộm cắp đĩ điếm (x. Mt 21,31-32). + Những người tội lỗi đến nghe Đức Giêsu giảng: Đây là các tội nhân đã phạm tội công khai như: Gái điếm (x. Lc 7,37), người phụ nữ Samaria có cuộc hôn nhân bất chính (x. Ga 4,18), người đàn bà ngoại tình (x. Ga 8,3), kẻ bị quỷ ám (x. Lc 8,2) kẻ chơi bời trác táng (x. Lc 15,13.30), hay tên gian phi (x. Lc 23,39). + Những người thuộc phái Pharisêu và các Kinh sư: Pharisêu (hay Biệt phái) là những người Do thái đạo đức, sống tách biệt khỏi quần chúng. Kinh sư (hay Luật sĩ) là những nhà trí thức, xuất thân từ trường Kinh thánh. Họ có quyền giải thích Kinh thánh trong các hội đường Do thái vào các ngày Sabát. Họ được dân chúng kính trọng gọi là “Rápbi”, nghĩa là “Thầy” (x. Mt 23,7). + Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng: Người Pharisêu và Kinh sư trách Đức Giêsu vì đã thu nhận Lêvi là người thu thuế làm môn đệ, rồi lại còn đến nhà đồng bàn ăn uống với bọn người thu thuế bạn bè của Lêvi (x. Lc 5,27-32).
- C 11-13: + Một người kia có hai con trai: Đây là dụ ngôn chỉ có trong Tin mừng Luca, nói lên lòng bao dung của một người cha ám chỉ Thiên Chúa, đối với đứa con hoang đàng bất hiếu, ám chỉ các người thu thuế tội lỗi.
- C 14-16: + Đi ở cho một người dân trong vùng: Đứa con thứ này đã rơi vào hòan cảnh túng cực: tự bán mình làm nô lệ cho người dân ngoại và bị người này sai đi chăn heo. Heo là con vật bị Luật Môsê coi là nhơ uế, vì được dân ngọai dùng làm lễ vật cúng tế cho thần minh của họ (x. Đnl 14,8). + Ước ao lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho: Thân phận của anh ta giờ đây không bằng loài heo nhơ bẩn!
- C 17-20a: + Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ...: Hòan cảnh đói khổ làm cho đứa con thứ phải xét lại hành động sai trái của mình. + Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha: Anh trở về không phải do thương nhớ cha, mà chỉ là một hành động có tính tóan và đầy vụ lợi! Dụ ngôn đã không nhấn mạnh đến sự ăn năn sám hối của người con thứ mà chỉ muốn đề cao tình thương bao dung của người cha.
- C 20b-24: + Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để: Động từ “chạnh lòng thương” là lý do giải thích các hành động sau đó. Động từ nầy tìm thấy trong trình thuật bà góa thành Naim (7,3) và câu chuyện người Samaritanô nhân lành (10:33). Trong cả ba trường hợp này, “chạnh lòng thương” nên đã cứu sống người sắp chết hoặc tái sinh người đã chết. Cái hôn biểu lộ tình thương tha thứ. Tình thương này được diễn tả qua sự kiện: Ngay khi đứa con còn ở đàng xa, ông đã trông thấy và chủ động chạy ra ôm hôn con để biểu lộ sự tha thứ vô điều kiện, tha ngay trước khi nó kịp nói lời thú tội. + Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây...: Người cha không muốn nghe đứa con nói hết câu xin lỗi, đã sẵn sàng ban cho nó quá điều nó dám mong ước. Ý nghĩa của việc xỏ “nhẫn”, mặc “áo”mới (x. St 41:42) cho thấy người cha đã trả lại địa vị làm con dù anh chỉ xin là người làm công cho cha. “Giết bò béo” (St 18:7; 1 Sam 28:24) cho thấy niềm vui tột đỉnh của người cha muốn chia sẻ niềm vui với người khác. + Chân đi dép: ám chỉ là một người tự do, khác với các nô lệ phải đi chân đất. Vậy, người cha đã đón nhận lại đứa con tội lỗi trong niềm vui lớn lao; đồng thời phục hồi lại cho nó quyền làm con, vì có người cha nào lại không xót thương con cái mình (x. Tv 103:13).
- C 25-28: + Người con cả: Tượng trưng cho các đầu mục dân Do thái. + nổi giận và không chịu vào nhà: Anh nổi giận vì nghĩ rằng cha đã cư xử bất công với anh. Anh từ chối vào nhà để tỏ thái độ phản đối cách cư xử bao dung của cha, khi ông không những đón nhận thằng con bất hiếu mà còn mở tiệc để ăn mừng nó trở về.
- C 29-30: + Còn thằng con của cha đó: Người con cả không coi người kia là em mình nên dùng cách nói khinh dể, giống như người Pharisêu đã khinh dể người thu thuế trong dụ ngôn “hai người lên Đền thờ cầu nguyện” (x. Lc 18,11).
- C 31-32: + Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con: Người cha nhắc cho anh con cả ý thức về tình yêu bao la của ông mà anh ta vẫn luôn được hưởng. + Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ: Người cha mời gọi anh con cả hãy bước vào ngôi nhà tình thương của cha, cùng chia sẻ niềm vui với cha khi đứa em tội lỗi của anh ta hồi tâm trở về. + “Em con đây”: Ong chỉnh lại lối xưng hô khinh miệt của người anh: “Thằng con của cha đó” bằng từ yêu thương “Em con đây”. + “Đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”: Câu này gián tiếp trả lời những tiếng xầm xì của người Pharisêu và mời họ chia sẻ tâm tình của Thiên Chúa đối với những kẻ tội lỗi.
CÂU HỎI:
Hỏi: 1) Ưu và khuyết điểm của các người pharisêu và kinh sư là gì?
Đáp:
* Về ưu điểm: Các người Pharisêu và Kinh sư được đánh giá là những người có lòng đạo đức, thể hiện qua việc siêng năng ăn chay cầu nguyện và làm phúc bố thí (x. Mt 6,2.5.16). Họ am tường và tuân giữ Luật Môsê trong từng chi tiết, nhất là luật về ngày Hưu lễ (nghỉ việc ngày Sabát), luật Thanh tẩy (rửa tay, rửa bình, rửa các đồ đồng, tắm rửa...). Về giáo lý họ cũng tin như Đức Giêsu: tin có thiên thần (x. Cv 23,6-8), tin linh hồn bất tử và thân xác lòai người sau này sẽ sống lại.
* Về khuyết điểm: Đức Giêsu đã nhiều lần lên tiếng sửa dạy và thậm chí còn nặng lời quở trách họ về thói đạo đức giả (x. Mt 23). Chẳng hạn: Chỉ tuân giữ Luật theo hình thức bề ngoài; Tranh nhau ngồi chỗ nhất trong các đám tiệc và ghế đầu trong hội đường; Ăn mặc lụng thụng để được người ta kính trọng (x. Mt 23,5-6); Tự hào vì đã tuân giữ Lề luật; Tự mãn về sự hiểu biết Luật và khinh thường dân chúng dốt nát; Dẫn đường mù quáng và có thái độ cố chấp khi đề cao truyền thống và luật truyền khẩu, mà quên đi các điều chính yếu của Luật (x. Mt 23,23); Bắt dân chúng tuân giữ các điều khỏan Lề Luật từng chi tiết đang khi chính mình lại không hề tuân giữ (x. Mc 12,38-40).
Hỏi: 2) Thái độ của các Pharisêu và kinh sư đối với Đức Giêsu thế nào?
Đáp: Vì không nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai (x. Mc 11,27-33), nên họ thường dò xét, gài bẫy để thử thách và tìm bắt lỗi Người. Họ đòi Người phải làm phép lạ để chứng minh sứ vụ Thiên Sai (x. Mc 8,11). Họ xuyên tạc các phép lạ Người làm để dân chúng đừng tin theo Người và không gia nhập vào Nước Trời do Người thiết lập (x. Mc 3,23-30). Cuối cùng họ liên kết với đảng Hê-rô-đê, và Thượng Hội Đồng Do thái ở Giêrusalem để bắt bớ Đức Giêsu và đã kết án tử hình cho Người một cách bất công (x. Lc 22,47-53; 23,1-7.18-25). Họ tiếp tục chế giễu Người khi treo Người trên cây thập giá (x. Lc 23,35). Tuy nhiên, trong số các Pharisêu cũng có một số người tin Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai và sau này trở thành môn đệ của Người như: Ông Nicôđêmô (x. Ga 3,1), Gamalien (x. Cv 5,34-39) và nhất là tông đồ Phaolô (x. Cv 22,3; 26,5).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15,20b).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Lòng cha bao dung:
RISỚT PINĐEO (Richard Pindell) có viết một câu chuyện ngắn về một cậu bé tên là ĐEVÍT (David). Cậu ta đã nghe theo chúng bạn lén về nhà ăn cắp một số tiền lớn rồi bỏ đi bụi đời. Mấy tháng sau, vì không chịu nổi hoàn cảnh đói khát khổ cực, cậu đã viết một lá thư gửi về cho mẹ. Trong thư, cậu tỏ ra hối lỗi và nhờ mẹ thuyết phục ông bố vốn rất khiêm khắc, để xin ông tha tội và cho cậu được về nhà sum họp với cha mẹ như trước. Nội dung lá thư ấy như sau: “Mẹ kính yêu, trong một vài ngày nữa con sẽ đáp chuyến xe lửa ngang qua nhà mình. Vậy nhờ mẹ xin lỗi bố cho con. Nếu bố bằng lòng tha thứ và chấp nhận cho con về nhà, thì xin mẹ yêu cầu bố hãy cột một miếng vải trắng trên cây táo hồng ở cạnh nhà mình mẹ nhé!”.
Vài ngày sau, Đevít lên xe lửa để trở về nhà. Khi xe lửa đang di chuyển đến gần nhà thì hai hình ảnh cứ liên tục hiện ra trong tâm trí cậu bé Đevít: Lúc thì trên cây táo có cột một miếng vải trắng, lúc lại chẳng thấy có miếng vải nào cả. Khi sắp đi ngang qua nhà, trái tim Đevít đập nhanh hơn. Cậu quay sang người ngồi cạnh và ấp úng nói: “Thưa ông, ông có thể giúp cháu việc này không ạ?” Được ông đồng ý, cậu nói: “Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây táo. Vậy phiền ông nhìn vào cây táo ấy và cho cháu biết trên cành cây có cột một miếng vải trắng nào không nhé?”. Khi xe lửa ầm ầm lướt nhanh qua nhà, Đevít nhắm mắt lại rồi run giọng hỏi: “Thưa ông, có miếng vải trắng nào treo trên cành cây táo cạnh nhà cháu không ạ?” Ông ta sửng sốt trả lời rằng: “Ô, này cậu bé, không phải chỉ một mà cành cây nào ta cũng thấy có cột vải trắng cả!” Thì ra sợ con trai không nhìn thấy giải vải trắng, ông bố của cậu bé đã treo thật nhiều vải trắng để chắc chắn cậu sẽ nhìn thấy dấu hiệu tình thương tha thứ để cậu yên tâm trở về.
2) Lòng mẹ thương con thể hiện ra sao?
Một cô bé 5 tuổi đang ngồi trong lòng mẹ, chợt lên tiếng hỏi: “Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy được lòng mẹ không?”. Bà mẹ đáp: “Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem con thấy gì trong đó?” Cô bé nhướng mắt chăm chú nhìn vào đôi mắt của mẹ, rồi em sung sướng kêu lên: “Mẹ ơi! Con đã nhìn thấy lòng mẹ thương con rồi. Trong đó chỉ có duy nhất một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ”!
3) Cảm nghiệm được tình thương của cha giúp con dễ dàng hoán cải:
Gandhi kể rằng khi ông được 15 tuổi, ông đã phạm tội ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó ông cảm thấy áy náy nên quyết định đến thú tội với cha mình. Ông lấy ra một tờ giấy, viết lên đó tội ăn cắp mình đã làm và xin cha tha thứ. Cuối thư cậu cũng hứa sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Khi ấy cha ông đang bị bệnh phải nằm trên giường. Gandhi tiến lại đưa tờ giấy thứ tội cho cha và hồi hộp chờ cha xét xử. Người cha đã ngồi dậy, cầm tờ giấy đọc, trong lúc ông đang đọc thì Gandhi thấy hai dòng lệ từ đôi mắt cha chảy xuống. Gandhi cũng không cần được nước mắt. Cuối cùng khi đã đọc xong, người Cha đã không hề nổi giận và cũng chẳng nói lời trách móc. Ông ôm chầm lấy con và thấy sung sướng vì con mình đã biết hối hận.
Cảm nghiệm được tình yêu thương tha thứ của cha là một cảm nghiệm rất sâu sắc. Sau này Gandhi viết: "Chỉ có người nào đã trải qua cảm nghiệm về thứ tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó mà thôi".
4) Tha thứ là quên mọi tội kẻ khác đã xúc phạm đến mình:
Một bà già thường đến gõ phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo: “Lần sau nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài “Cha xứ con có tội gì nặng nhất? sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của Ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
- Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.
- Thế bà có hỏi Ngài không?
- Thưa có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp:
- Bà hỏi thế nào?
- Thì con hỏi y như Cha đã bảo: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất”?
Cha xứ càng hồi hộp thêm:
- Vậy Chúa có trả lời không?
- Có chứ.
Bây giờ thì cha xứ đã lo lắng thật sự:
- Chúa nói sao?
- Chúa nói: “Ta đã quên hết rồi.
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm.
(Kể theo ĐHY PX Nguyễn văn Thuận)
3. THẢO LUẬN: 1) Trong bốn việc phải làm khi đi xưng tội như: xét mình, ăn năn dốc lòng chừa, xưng tội và đền tội, thì điều nào là quan trọng nhất để nhận được ơn giao hòa với Chúa? Tại sao? 2) Trong Mùa Chay này, mỗi người chúng ta sẽ ăn năn sám hối tội nào cụ thể nhất và sám hối bằng cách nào?
4. SUY NIỆM:
Tin mừng CN 4 Mùa Chay hôm nay cho thấy tình thương bao dung của Thiên Chúa đối với tội nhân (15,1-32): Thiên Chúa như một người Cha từ bi nhân hậu luôn “chạnh lòng thương” và sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho con cái lòai người như Thánh vịnh 135 đã ca tụng tình thương của Chúa như sau: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương“. Dụ ngôn hôm nay cho thấy thái độ của ba nhân vật chính trong dụ ngôn để từ đó nhận biết mình phải làm gì:
1) Thái độ sám hối quyết tâm trở về của đứa con thứ tội lỗi (15,12-19): Tội của đứa con thứ là tội bất hiếu khi đòi cha chia gia tài cho anh ngay khi ông còn đang sống. Sau đó anh ta đã bỏ nhà đi hoang và ăn chơi phóng đãng tiêu tán hết số tiền của cha. Đến khi anh lâm cảnh đói rách phải đi làm thuê làm mướn và bị người chủ thuộc dân ngoại khinh dể đối xử còn tệ hơn một con heo. Chính sự cùng khổ đã khiến anh phải hồi tâm suy nghĩ và giúp anh quyết tâm đứng dậy quay về nhà xin lỗi cha, với ước mong được cha đối xử như một người làm công thôi. Câu“Đứng lên, đi về cùng cha” cho thấy thái độ dứt khoát với quá khứ tội lỗi để về với người cha thân yêu.
2) Thái độ bao dung của người cha nhân hậu (15,20-24): Về phần người cha, sau khi đứa con thứ ra đi, ông buồn sầu nhớ thương, ngày ngày ngóng nhìn ra cổng chờ mong nó mau quay về nhà. Khi thấy bóng con từ xa, ông đã nhận ra và “chạnh lòng thương”: Ông không nỡ trách mắng hay trừng phạt con, mà chạy ngay tới ôm chầm lấy cổ con và hôn lấy hôn để, rồi mau mắn trả lại địa vị làm con cho nó khi thay áo mới cho nó, đeo nhẫn vào ngón tay, xỏ giầy vào chân và còn soạn bữa tiệc đãi các bạn bè hàng xóm và mời bạn bè hàng xóm đến ăn mừng đứa con, với lý do: “Tưởng nó đã chết mà nay sống lại, tưởng đã mất nó mà nay lại tìm thấy”. Đây là sự đón tiếp nồng hậu ngoài sự tưởng tượng của đứa con hoang đàng.
3) Thái độ hẹp hòi của người con trưởng (15,25-32): Người anh trưởng từ ngoài đồng trở về nhà, nghe tiếng đàn ca, hỏi ra mới biết thằng em đi hoang mới trở về và đã được cha không những tha tội mà còn mở tiệc ăn mừng. Anh ta tỏ thái độ giận dỗi người cha bằng cách không thèm vào nhà. Khi gặp được cha, anh đã chỉ trích lối hành xử của cha là bất công và không thể chấp nhận được (15,29). Thái độ giận dỗi của anh khiến người cha phải xuống nước năn nỉ và cố gắng giải thích cho con hiểu và cảm thông với mình: ”Tất cả những gì của cha đều là của con “ (Lc 13,31). Dụ ngôn kết thúc bằng lời của người cha khuyên con hãy có lòng bao dung với đứa em lầm lỗi: “Vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Chính lòng nhân hậu, yêu thương và không chấp nhất tội lỗi của đứa con đi hoang đã khiến ông quên đi mọi lỗi lầm của đứa con hoang đàng đã gây ra, mà chỉ còn thấy trước mặt ông là đứa con yêu mà ông hằng mong đợi nó mau trở về, đứa con mà ông tưởng đã mất mà nay lại tìm thấy. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng đứa con trở về.
Còn thái độ của người anh cả khi đi làm về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát ăn mừng đứa em mới về, chẳng những anh không vui mà còn tỏ thái độ hỗn láo trách móc cha, khiến ông phải chịu ra phân trần, năn nỉ và mời anh ta vào nhà với ông và gặp lại đứa em "đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Ông khẳng định với cậu con cả rằng: "Tất cả những gì của cha đều là của con" (Lc 13,31).
Qua câu chuyện về tình thương tha thứ của người cha, ta thấy tình thương của Thiên Chúa Cha thật quảng đại, “chậm bất bình và hết sức khoan dung”, một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt nhưng luôn tha thứ. Tình thương bao la của Thiên Chúa đã được Thánh thi diễn tả: "Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (Tv 135).
4) Làm gì để đáp lại Lòng Chúa Thương Xót?:
+ Dụ ngôn người cha bao dung và đứa con hoang đàng nói lên lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Chúa đã yêu thương chúng ta với tình yêu bao la như một người cha nhân hậu, sẵn sàng tha thứ tội lỗi chúng ta là con cái của Người: Người tha thứ không mệt mỏi, tha vô điều kiện và tha luôn mãi!
+ Chúa phán: “Tội các ngươi dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết. có thắm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông” (Is 1,18): Dù tội của chúng ta có nặng tới đâu, thì tình thương của Chúa còn nặng hơn gấp bội. Dù tội lỗi chúng ta có nhiều tới mức nào, thì Chúa cũng vẫn hằng chờ đợi để tha thứ, miễn là chúng ta thực lòng sám hối và quyết tâm trở về với Người.
+ Thiên Chúa tôn trọng sự tự do ra đi và chờ đợi sự tự do trở về của chúng ta: Trong những ngày Mùa Chay này mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể để đáp lại tình thương bao dung của Thiên Chúa? Cần cấp thời sám hối ăn năn quay về làm hòa với Chúa và lãnh ơn giao hòa trong phép Giải tội; Hãy đáp lại lòng thương xót của Thiên Chúa bằng việc thương xót người đau khổ và quảng đại tha thứ lỗi lầm cho tha nhân; Hãy quan tâm giúp người thân trong gia đình và bạn bè đang lạc xa Chúa để họ cũng nhận được ơn sám hối và mau hồi tâm trở về với Người.
5. NGUYỆN CẦU
- Lạy Thiên Chúa Là Cha Của Con. Con xin cảm tạ Cha đầy lòng từ bi nhân ái. Con cảm tạ Cha vì Cha đã sai Con Một Cha là Chúa Giêsu đến thế gian để dạy loài người chúng con nhận biết Cha là Thiên Chúa giàu lòng từ bi nhân hậu. Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng con hiểu được Cha đang mời gọi các tội nhân trong đó có chúng con mau quay về giao hòa với Cha.
- Lạy Cha, thật đáng tiếc khi có những người cha trong gia đình và trong cộng đoàn... chưa thể hiện được tình thương bao dung của Cha, nên trình bày Cha như một “ông chủ” chỉ muốn trừng phạt để họ sợ mà phải hồi tâm sám hối. Có những người cha trong gia đình, hay trong cộng đoàn đã dùng bạo lực sửa dạy đe nẹt con cái khi chúng phạm tội... Xin Cha cho các người cha biết yêu thương con cái giống như Cha. Nhờ đó các tội nhân sẽ cảm nghiệm được tình thương của cha và sớm sám hối quay về giao hòa với Cha trong Mùa Chay thánh này.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
14. Con ta đây đã chết mà nay sống lại--Lm. Trầm Phúc
Sứ mệnh trần thế của Chúa Giêsu là “cứu vớt những gì đã hư mất”. Ngài không ngại hòa mình với hạng người tội lỗi và ăn nhậu với họ, làm xốn mắt những ông Pharisêu. Các ông này tự xem mình như người công chính và khinh miệt những người tội lỗi. Vì thế, Chúa Giêsu cho họ biết rằng, Ngài không như họ. Ngài dùng nhiều dụ ngôn để chứng minh rằng
Thiên Chúa vẫn thương những người tội lỗi và muốn cứu vớt họ.
Thánh Luca đã gom lại trong một chương những dụ ngôn về lòng thương bao dung của Thiên Chúa. Ở đây, chúng ta chỉ chú trọng đến dụ ngôn người cha nhân hậu mà thôi.
Ai trong chúng ta cũng quá quen thuộc với dụ ngôn này, vì thế chúng ta có cảm tưởng là đã biết rồi. Nhiều người còn cho là nhàm chán. Nhưng lời Chúa vẫn luôn mới đối với tâm hồn muốn tìm Chúa. Cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta đi sâu vào Lời Chúa và tìm thấy những gì cần thiết cho cuộc sống hôm nay.
Dụ ngôn chứa đựng rất nhiều bài học “sống” cho chúng ta.
Gia đình của chàng thanh niên phung phá này là một gia đình khá giả, chỉ có ba cha con. Không thấy nói đến bà mẹ. Người phụ nữ Do Thái nắm một vai trò rất khiêm tốn. Tất cả đều do quyết định của người chủ gia đình. Hay là bà mẹ đã qua đời. Hai đứa con trai lớn lên, thiếu tình mẹ. Vì thế đứa con trai út đã trở thành “ngông”, không muốn ở nhà với cha, ra sống giữa đời tự do hơn và vui hơn.
Theo tục lệ Do Thái, khi con đã trưởng thành, đủ mười tám tuổi, có quyền xin chia gia tài. (Ở Việt Nam không có quuyền đó). Người cha, dù có thương con, chắc không muốn cho con mình rời xa mái gia đình, cũng phải chiều theo ý con thôi.
Đứa con út, khi đã nắm tiền trong tay, tha hồ tung hoành.
Khi sa cơ thất thế, mới biết mình “ngông”, nhưng không còn cách nào, phải đi làm thuê để sống. Chúa Giêsu đã chú ý đến từng chi tiết.
Nó không thể làm thuê cho người Do Thái vì nạn đói đang hoành hành, không ai mướn. Anh phải xin làm thuê cho một người giàu trong vùng, không phải là người Do Thái. Đó là một sự nhục nhã đối với một người Do Thái.
Nó làm việc gì?
Chăn heo. Đây lại là một điều nhục nhã lớn lao hơn, vì đối với người Do Thái, con heo là một con vật ô uế hơn bất cứ con vật nào. Chạm tới con heo là nhiễm uế, thế mà nó phải chăn heo, dọn chuồng heo… Tình cảnh của chàng thanh niên này thật đốn mạt! Như thế là tận cùng! Đốn mạt hơn nữa, là anh muốn ăn của heo ăn mà không ai cho.
Xưa kia, cậu là một chàng thanh niên giàu có, một công tử, hôm nay là một tên đầy tớ chăn heo. Không có cái nhục nào bằng!
Trong cảnh nghèo nàn cơ cực như thế, anh mới hồi tưởng lại cảnh gia đình, đến cuộc sống ấm no ở gia đình. Anh quyết định trở về nhà.
Quyết định của anh không trong sạch cho lắm vì nó bị thúc đẩy bởi cơn đói và sự nhục nhã khôn cùng chứ không do tình yêu.
Điều này càng làm nổi bật lòng nhân hậu và tình thương của người cha. Ông không cần biết điều gì khác, ông chỉ vui mừng vì con ông đã trở về. Tình thương của ông là vô điều kiện.
Chính người cha đi đến với con trước. Ông chạnh lòng thương, ông chạy ra, ôm lấy con, hôn lấy hôn để. Chúa Giêsu muốn nói đến từng chi tiết để chúng ta thấy được tình thương của Cha chúng ta. Cha trên trời thương chúng ta như thế đấy, chúng ta có nghĩ đến tình thương đó không? Chắc cũng có nhưng nhiều lúc chỉ nhớ qua loa, không chú ý bao nhiêu.
Biết và chú ý là hai điều khác nhau. Vì thế mà chúng ta không cảm thấy hạnh phúc và không hiểu được hạnh phúc của mình. Đôi khi, trong những lúc yên lặng, chúng ta nên nhìn lại khuôn mặt đáng yêu của Cha trên trời. Chúng ta sẽ thấy êm đềm và an ủi. Trầm lắng để chìm sâu vào tình yêu của Cha, đó là một niềm hạnh phúc lớn cho chúng ta.
Cuộc hội ngộ cảm động làm sao!
“Mau đem áo đẹp nhất cho con ta” vì con ta không còn là một tên đầy tớ nghèo mạt tả tơi nữa. “Hãy xỏ nhẫn vào ngón tay cho cậu”. Tại sao lại chú ý đến chiếc nhẫn? (Theo tục lệ Do Thái, những gia đình quyền quí luôn làm một chiếc nhẫn cho con cái, trên đó có khắc tên của gia đình. Mất chiếc nhẫn đó là mất quyền làm con, không được bước chân vô nhà). Người cha để ý đến chiếc nhẫn, không thấy trên tay cậu. Nó đã bán đi mất rồi. Nó không còn quyền làm con nữa, vì thế, ông trao cho con chiếc nhẫn khác tức là trả lại cho đứa con sa đọa của ông quyền làm con trong gia đình.
Ông mở tiệc ăn mừng. Sự trở về của đứa con phung phá đã trở thành niềm vui cho gia đình, và hàng xóm được mời đến chia vui. Đúng như Chúa Giêsu nói: “Cả thiên đàng vui mừng khi một người tội lỗi trở về”.
Niềm vui này là niềm vui của tình yêu. Vì nhờ tình yêu mới giúp ta tìm lại được niềm vui. Chúng ta có biết, khi chúng ta trở về, Cha trên trời vui như thế nào không? Nếu chúng ta không thuộc về hạng đứa con phung phá, chúng ta hãy tìm hết cách để kêu gọi những người anh em, những người đang sống “đối nghịch với thập giá” trở về với Cha. Hay chúng ta giống như người con cả, thấy Cha mừng vì em mình trở về lại tức giận? Đó là thái độ của Pharisêu, tự cho mình là công chính và chà đạp người tội lỗi “thằng con khốn nạn kia của cha”.
Chúa Giêsu muốn cho mấy ông Pharisêu thấy rằng người tội lỗi không là đồ bỏ đi mà là đối tượng của tình yêu luôn cứu vớt của Cha trên trời.
Đứng trước thái độ cự tuyệt của người con cả, người cha lại ra năn nỉ anh, mời gọi anh vào niềm vui của sự tha thứ. Ông cho thấy rằng của cải không là cái gì quan trọng “mọi sự của cha là của con”, con đâu mất mát gì đâu! Nhưng đối với cha, đứa con của cha mới đáng giá. Chúng ta có thấy giá trị của chúng ta trước mặt Cha trên trời không?
Chúng ta chỉ là tro bụi, hơn nữa, chúng ta tội lỗi xấu xa, thế nhưng Cha trên trời luôn năn nỉ chúng ta.
Sự độ lượng và lòng nhẫn nại của người cha đã đem lại một nguồn vui mới là hai anh em được hòa thuận với nhau. Ở trần gian này có được bao nhiêu người cha độ lượng như thế? Hơn thế nữa, Ngài dám ban cho chúng ta Người Con Một của Ngài để hòa giải những đứa con ngỗ nghịch với Ngài, để chúng ta được hoàn toàn hạnh phúc với Ngài.
Làm sao tạ ơn Cha cho hết được!
Và đền đáp lại tình thương vô bờ bến của Cha, chúng ta “hãy trở nên trọn lành như Cha trên trời, để mọi người nhìn thấy những việc làm của chúng ta mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời”.
Niềm vui của chúng ta là được đoàn tụ quanh Cha để tạ ơn Cha cùng với Chúa Giêsu. Người Cha kia đã giết con bê béo để ăn mừng, Cha trên trời cho chúng ta ăn chính Con Một của Ngài để chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài và tận hưởng niềm vui bất tận trong nhà Cha muôn đời: “Ta đến để niềm vui của anh em được trọn vẹn”.
15. Lòng nhân từ
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về thái độ của chàng trai đi hoang.
Trước hết anh là người có những kinh nghiệm sâu sắc về Tin Mừng cứu độ. Thực vậy, đối với anh, Tin Mừng cứu độ không phải là một mớ lý thuyết rút ra từ những bài học Kinh Thánh, mà là những sự kiện có thực, xảy đến cho chính bản thân anh. Anh đã nhận biết tiếng gọi âm thầm của cha mình trong các biến cố của quãng đời đi hoang. Các biến cố ấy là những tín hiệu mang ý nghĩa gởi về anh. Tất cả như muốn nói với anh: Hãy chỗi dậy và trở về với cha.
Tiếp đến, anh là người đã trở về với thái độ khiêm tốn. Anh nhìn nhận mình đã lầm lỗi, không còn xứng đáng được gọi là con của cha. Anh chỉ dám mơ ước một chỗ hèn hạ nhất trong nhà cha. Nếu được là người rốt hết trong các đầy tớ của cha, thì anh đã cảm thấy thoả mãn lắm rồi. Anh hy vọng và tin tưởng sẽ được như thế. Hy vọng ấy, tin tưởng ấy chính là một Tin Mừng lớn, cứu anh khỏi rơi xuống vực thẳm thất vọng.
Sau cùng anh là người đã thay đổi, đã chuyển biến trước tình thương của cha. Thực vậy, sự việc xảy đến với anh một cách hết sức lạ lùng, ngoài mọi tưởng tượng, ngoài mọi mơ ước. Đó là khi anh được cha chạy lại ôm lấy và anh cảm thấy bản thân mình biến đổi hẳn. Thực vậy, có một cái gì rất mới, rất lạ và rất đẹp, đã thay đổi toàn thể con người anh. Anh cảm thấy có một sự sống mới, những luồng gió mát, như những dòng nước trong tràn vào tâm hồn anh, tẩy rửa những nhơ nhớp của anh. Anh thấy cha nhân từ hơn anh tưởng. Anh thấy lòng cha bao la hơn anh tưởng. Anh thấy cha gần gũi xót thương kẻ tội lỗi hơn anh tưởng. Anh có một cái nhìn rất mới về cha. Cái nhìn ấy mở ra trong anh một nguồn tình mến dạt dào. Anh cảm thấy gắn bó vớ cha, cảm thương cha vô vàn. Đúng là kẻ được tha nhiều thì yêu mến nhiều. Trong niềm vui được tha thứ, anh như nhìn thấy một trời mới đất mới. Anh nhìn đời với tầm nhìn xa hơn. Anh nhìn người khác với tâm hồn mở rộng hơn. Anh nhìn lại những bất trung của anh với một khám phá mới. Anh cảm thấy ngay cả những lúc xa cha, thì cha vẫn lặng lẽ đi theo anh, để đưa anh trở về. Anh đã bỏ cha, nhưng không bao giờ cha bỏ anh. Tất cả những biến đổi nội tâm trên đây chính là một Tin Mừng đối với anh.
Và sau cùng, lòng thương xót của Chúa, mà dụ ngôn vừa mới diễn tả đã được thể hiện một cách trọn vẹn nơi Đức Kitô, Người là Tin Mừng giải thoát, là Đấng cứu độ loài người. Địa chỉ mà Người được sai đến là những kẻ tội lỗi, Người đã tỏ ra nhân từ, thương xót và tha thứ cho các tội nhân, Người không dập tắt ngọn đèn còn khói, và không bẻ gãy cây sậy đã giập. Và hơn thế nữa Người đã hy sinh chính mạng sống Ngài để cứu chúng ta khỏi vòng tội luỵ. Bởi vì như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Chúa đã yêu thương tôi và đã nạp mình chịu chết vì tôi.
16. Tấm lòng người cha.
Dụ ngôn đứa con phung phá hay nói đúng hơn là câu chuyện về tấm lòng của một người cha, là câu trả lời trực tiếp cho những bàn tán của bọn biệt phái trước việc Chúa Giêsu thường đi lại và ăn uống với phường thu thuế và tội lỗi.
Dụ ngôn này, câu chuyện này được chia làm hai phần. Phần thứ nhất nói đến lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa qua hình ảnh người cha mòn mỏi trông chờ đứa con trở về. Và khi cậu trở về thì đã mở tiệc ăn mừng, và trao lại cho cậy đầy đủ quyền làm con như khi trước.
Phần thứ hai có tính cách biện hộ khi diễn tả sự phản đối với cách cư xử của người cha lúc đứa em tội lỗi trở về. Đó cũng chính là tình trạng cụ thể mà Chúa Giêsu gặp phải trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng cứu độ của Ngài.
Câu chuyện được kể lại bằng những chi tiết rất sống động. Thực vậy, tội của đứa con hoang đàng quả là rất lớn. Nó đã sử dụng tiền của làm ra với bao công lao khó nhọc vào cuộc truy hoan trác táng, để rồi kết thúc trong nghèo đói và túng quẫn. Đối với người Do Thái heo hay lợn là một con vật nhơ bẩn. Chăn heo hay chăn lợn là một việc làm nhờm tởm. Tình cảnh khốn quẫn đã đưa đứa con đến tột cùng của sự thảm hại, bị loại ra khỏi cộng đồng dân Chúa đã đành, mà còn bị loại ra khỏi cộng đồng con người, bởi vì trong cơn đói khát, nó đã thầm ước được ăn chút cám bã dành cho súc vật mà cũng chẳng được.
Tuy nhiên, điều làm cho chúng ta xúc động vẫn là thái độ của người cha. Câu chuyện kể lại rằng: Ông đã thấy đứa con từ đàng xa. Chi tiết này chứng tỏ ông hằng trông mong và đợi chờ. Và khi đã nhận ra con, ông vội chạy đến ôm chầm lấy con, hôn con một cách nồng nhiệt, đặt đứa con hối cải vào đúng vị trí của nó trong gia đình, rồi mở tiệc ăn mừng.
Thái độ của người con cả cũng được trình bày một cách sống động. Anh là người con chí thú làm ăn, nhưng xem ra quan hệ với người cha không được đằm thắm cho lắm. Tuy ở nhà với cha, nhưng lòng anh vẫn xa cách. Kết quả là anh đã không hiểu nổi cách xử sự của người cha đối với đứa em vừa trở về. Do đó, thay vì nhập tiệc chia vui với người cha và với đứa em, thì anh đã dừng lại ở cửa, tự mình đứng ở cái thế tách biệt với gia đình sum họp.
Đoạn Phúc Âm hôm nay quả là một tin mừng cho người trở lại, nhưng đồng thời cũng là một lời cảnh cáo đối với những người ở trong nhà. Thực vậy, câu chuyện cho thấy người cần phải trở lại hơn hết lại chính là người con cả, người con vẫn ở nhà với cha, nhưng cõi lòng thì không ở cùng cha.
17. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Trong giáo lý nhà Phật cũng có câu chuyện gọi là "Dụ ngôn người con hoang đàng". Câu chuyện kể về một người con bỏ cha, lên đường đi đến một nơi xa xôi sinh sống theo sự tự do phóng khoáng của mình. Vì ăn chơi thái quá anh trở nên nghèo khổ. Người cha ở nhà, sau bao năm tháng chờ đợi không thấy con trở về, đành lên đường đi tìm con. Sau nhiều năm tìm kiếm, hỏi han, người cha đã tìm ra được tung tích của người con mình. Nhưng người con lại không thể nào nhận ra được cha nó, một ông già đầy quyền lực và cao sang. Người con vẫn tiếp tục từ chối và lẩn trốn. Người cha rất đau lòng để con mình lẩn trốn như vậy, nhưng ông ra lệnh cho gia nhân theo dõi cậu, mướn cậu vào nhà làm việc cho ông. Sau đó, người cha vứt bỏ quần áo sang trọng, ngọc ngà của mình đi, đóng vai một người đầy tớ để có cơ hội gần gũi và chinh phục người con. Qua nhiều năm thân thiết người cha đã chinh phục được trọn vẹn tình cảm của cậu. Sau cùng vào cuối đời, người cha mới tiết lộ cho biết anh là con của ông và được quyền thừa kế tất cả gia tài của cha để lại.
Câu chuyện này không khác gì lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người. Thiên Chúa luôn yêu thương tìm kiếm con người. Còn con người cứ lẩn trốn, để rồi sau cùng, Thiên Chúa phải sai Con Một xuống thế, làm người đầy tớ đau khổ (Is 53,10-12), dùng cái chết của mình để thuyết phục và nói cho con người biết chức vị làm con cái Thiên Chúa của mình với quyền thừa kế hạnh phúc đời đời trên Nước Trời (Ga 3,16-17).
Ta thường gọi dụ ngôn này là dụ ngôn "đứa con hoang đàng", nhưng có lẽ phải gọi là dụ ngôn "Người cha nhân hậu" mới đúng, vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
Bài dụ ngôn chúng ta vừa nghe đó là một trong những bài dụ ngôn đẹp nhất trong Tin mừng, nó diễn tả tình thương của Thiên Chúa dành cho con người qua hình ảnh của người cha trong gia đình. Có lẽ người cha trong dụ ngôn có phần kém mai mắn, mặc dù ông rất giàu có nhưng có hai đứa con không có hiếu với mình. Người con thứ thì đã quá rõ, Khi lớn khôn thay vì anh phải phụng dưỡng cha già thì anh lại đòi chia gia tài, một hành động thất khó chấp nhận theo quan niệm của người Do thái. Vì người con chỉ được phép đòi chia gia tài khi cha chết hoặc người cha tự ý chia cho các con khi thấy mình già yếu. Hành động của người con thứ khác nào nguyền rủa cho cha mình mau chết. Người con cả xem ra có hiếu hơn, biết nghe lời cha hơn. Nhưng đáng buồn thay, bấy lau nay anh sống với cha chỉ là la\àm vì bổn phận hơn là vì yêu mến cha. Anh luôn nhìn cha mình bằng thái độ sợ sệt giống như người làm công hơn là con. Điều làm cho người cha đau lòng chính là thái độ của anh đối với em. Anh không muốn coi mình có người em này, anh không gọi nó là "em con" nhưng là "cái thằng con của cha kia". Anh không hề thông cảm và tỏ ra tha thứ cho những lầm lỗi của em, cũng không hề thấu hiểu cho nỗi đau của cha khi phải mất con. Chúa Giêsu muốn dùng hình ảnh của người con cả để cảnh tỉnh thái độ của những người Biệt phái và luật sĩ. Họ luôn coi mình là thành phần ưu tuyển của Chúa vì mình luôn chu toàn lề luật. Họ trách Chúa Giêsu vì đã đi lại với những người thu thế tội lỗi và lại còn ngôì ăn chung với họ nữa. Phải chăng đay cũng là hình ảnh gợi ý cho mỗi người chúng ta. Thay vì thấy mình tốt, mình được sống trong ơn nghĩa Chúa lẽ ra mình phải có bổn phận nâng đỡ những người lầm lỗi, biết vui mừng khi thấy họ ăn năn trở lại, biết yêu thương và nâng đỡ họ vượt qua mặc cảm để bắt đầu lại thì chúng ta lại thường tỏ vẻ khinh thường chỉ trích. Làm như thế khác nào chúng ta lại đẩy họ đi xa hơn.
Cách hành xử của Thiên Chúa khác xa con người. Bằng chứng sau khi người con thứ phun phí hết tài sản của mình, bước vào con đường nghèo đói, nghèo đến độ muốn ăn đồ ăn của heo mà cũng không được. Khi anh lâm vào con đường cùng thì anh mới nhớ đến cha, nhớ những ngày mình được sống sung túc trong nhà cha mà không phải lo nghĩ gì. Hành động quay về của anh có thể chỉ xuất phát từ sự cùng cực của mình, muốn trở về để tìm cái ăn mà sống, chứ chưa thật sự vì yêu mến cha. Anh chỉ muốn cha anh coi anh như là một người làm công thôi, chứ không dám nghĩ tới địa vị làm con của mình. Anh đau biết rằng ngày anh ra đi cũng là lúc mà hằng ngày người cha vẫn luôn trông ngóng mong anh trở về. Anh còn ở đằng xa thì cha đã thấy anh, chạy ra ôm lấy con mình. Ơng không đợi cho người con nói hết lời xin lỗi mà ngay lập tức đã sai đầy tớ mang áo, mang nhẫn ra đeo cho anh để phục hồi địa vị làm con cho anh. Dụ ngôn không kể cho chúng ta biết tâm trạng của người con thứ lúc đó như thế nào, chắc chắn đó sẽ là những giọt nước vì hạnh phúc vì được yêu thương và tha thứ của cha. Mahadma Gandhi nói "chỉ có người nào trải qua cảm nghiệm được yêu thương khi mình còn là tội lỗi mới cảm nhận được thế nào là tình yêu tha thứ". Đó cũng là cảm nghiệm của người con hoang đàng trong Tin Mừng hôm nay. Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng: nếu chúng ta phạm tội Ngài vẫn yêu thương chúng ta, vẫn tìm kiếm và trông chờ chúng ta trở về. Điều mà ngài mong muốn nơi chúng ta là phải biết đứng lên và can đảm và trở về. Biết bỏ đời đi hoang để trở về sống hiếu thảo với Cha. Tình thương va lòng tha thứ của Thiên Chúa không bao giờ thiếu, quan trọng là chúng ta có biết đưa tay đón nhận hay không. Bên ngoài trời đang mưa nhưng chúng ta vẫn có thể chết khá nếu không biết dùng thau để hứng nước. Chúa không thể cứu con người nếu con người không chạy đến với Ngài. Bởi vì Ngài luôn trọng tự do của con người, đó là một tặng phẩm vô giá mà Thiên Chúa ban tặng cho con người, tự do để yêu mến Thiên Chúa nhưng con người cũng có thể dùng nó để khước từ Thiên Chúa thậm chí chống lại Ngài.
Thiên Chúa dựng nên con người và đặ để mỗi người trong hoàn cảnh khác nhau. có những người giữ đạo sốt sắng, luôn chu toàn bổn phận với Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì ân huệ đó. Đồng thời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy biết tha thứ và đón nhận những người lầm lỗi, yếu đuối. Bời vì họ là những con người đáng thương. Họ cũng là anh em với chúng ta là con cùng một Cha trên trời. Họ cũng đã được Chúa Giêsu đổ máu ra để cứu chuộc.
Chúng ta đã đi được chặng đường hơn nữa mùa chay, và đang chuẩn bị bước vào Cuộc khổ nạn và Phục sinh của Đức Kitô. Lời Chúa trong mùa chay luôn là lời mời gọi hoán cải và đổi mới để trở về làm hoà với Chúa. Chúng ta hãy can đảm nhận ra những khuyết điểm và tội lỗi của mình không phải để mặc cảm tự ti nhưng là để mạnh dạn trở về cùng Chúa, Đấng luôn yêu thương và chờ đợi chúng ta. Đừng nghĩ rằng tôi tội quá nặng lỗi quá nhiều nên Chúa không thể tha. Chúng ta hãy nhìn lên thánh giá, Chúa Giêsu đã chết trên thập giá cũng là vì tội lỗi của chúng ta.
18. Trở về trong tình thương--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
Hôm nay tôi xin đề nghị: Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài.
Có một chàng thanh niên chán sống nơi thôn dã, đã bỏ nhà trốn lên thành thị. Ở đó, chàng đã ăn chơi, trác táng… Kiếp sống sa đọa đã đưa chàng đến chỗ thân tàn ma dại. Trong nỗi cùng cực, chàng bắt đầu hồi tâm và nhớ lại nếp sống ấm êm trong gia đình.
Chàng quyết định trở về. Nhưng trên đường về, nghĩ mình quá bất xứng, không biết cha mẹ có tha thứ không, nên chàng đã rẽ lối đi nơi khác. Ở đó, chàng viết thư về cho cha mẹ và thú nhận tội lỗi. Chàng cũng ngỏ ý: nếu cha mẹ bằng lòng thì hãy lấy chiếc áo bông treo trước cửa nhà.
Mẹ chàng đã làm gì? Bà không những treo một cái áo bông mà lấy tất cả các áo trong nhà ra treo kín cả bờ dậu trước ngõ như một rừng cờ đón rước con trở về.
Thưa anh chị em, Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Ngài thi ân cho chúng ta hơn cả sự mong đợi và cầu xin của chúng ta. Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh, và sai mở tiệc ăn mừng.
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Chính lòng thương xót của Ngài đã cứu người con. Người con ôm gia tài của cha ra đi mang theo bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ: tự do, tình yêu, hạnh phúc … Nhưng rồi tất cả chỉ là ảo tưởng. Ước mơ hạnh phúc không thành. Cuối cùng chỉ còn là bụng đói, xác xơ, đau khổ và tủi nhục.
Điều gì đã đưa chàng thanh niên đến quyết định trở về?
Phải chăng đau khổ, thất bại, vỡ mộng, bế tắc? – Không, nếu chỉ có vậy thôi, có lẽ không đủ lý do để anh dám mang mặt trở về. Bởi đã có biết bao người rơi vào tình cảnh túng quẫn như anh, đã không dám trở về. Họ đã buông xuôi, tuyệt vọng và đã giải quyết bằng cách tự tử. Phải có một cái gì khác làm động lực thúc đẩy anh trở về. Cái gì khác đó chính là tình yêu của người cha. Phải, nếu không tin vào tình yêu của người cha, chắc chắn anh sẽ không dám quay đầu trở về. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào lòng yêu thương tha thứ của cha anh. Chính niềm tin vào lòng yêu thương của người cha đã đem lại tia sáng hy vọng, đã nâng anh đứng dậy, đã mở đường tạo lối thoát cho anh.
Tội lỗi đưa đến chỗ bế tắc, đường cùng. Con người tự tách mình khỏi tình yêu của Thiên Chúa là đi vào chỗ chết, là "mất đi". Tình yêu Thiên Chúa đã mở ra lối thoát, đã cảm hóa con người tội lỗi. Không có tình yêu, không có ý thức tội lỗi, chỉ có mặc cảm tội lỗi mà thôi. Không phải nước mắt đổi mới tâm hồn con người. Tình yêu của Thiên Chúa đổi mới tâm hồn con người sám hối. Nếu không có tình yêu của Thiên Chúa, nếu không tin mình được Thiên Chúa yêu thương, con người sẽ không tìm được con đường trở về. Phải tin mình luôn được Thiên Chúa yêu thương, tin rằng mình luôn có một chỗ trong Trái Tim Chúa, dù có bỏ ra đi, chỗ ấy vẫn không mất, chỗ ấy vẫn còn để trống.
Tấm lòng của người cha thật nhân hậu, tốt lành. Người con chỉ mong có được một chỗ ngủ, một bát cơm ăn, một tấm áo mặc. Nhưng cha anh đã quảng đại vô biên, đã đón nhận người con với niềm vui rộn rã: mặc áo mới cho con, mang giầy dép cho con, rồi mở tiệc ăn mừng.
Tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt quá mọi mơ ước của chúng ta: "Nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự" (Rm 5,20)
Trở về là gặp lại niềm vui xum họp. Trở về là "tìm lại được", là "sống lại". Tìm lại được sự sống, đó là ý nghĩa sâu xa của việc hoán cải và cũng là lý do của niềm vui sâu xa nơi người cha. Người cha vui mừng mở tiệc không phải vì từ nay đứa con trở về sẽ giúp ông việc nầy việc nọ, mà chỉ vì từ nay anh sẽ được sống và được sống hạnh phúc. Một niềm vui hoàn toàn vị tha và rộng mở.
Trong khi người cha tràn đầy niềm vui đón nhận sự trở về của người con với tất cả sự bao dung rộng mở: "em con đã chết, nay lại sống" thì lòng người anh lại đầy tị hiềm và từ chối chia sẻ niềm vui của người cha: "thằng con của cha kia…"
Con của cha chứ không phải em của con. Anh tự loại mình ra khỏi gia đình. Anh kể công với cha anh như một người làm thuê, như một người tôi tớ, chớ không phải như một người con hiếu thảo: "Bao nhiêu năm qua con đã hầu hạ cha, chẳng hề trái lệnh cha, thế mà…" Dù không bỏ cha, bỏ nhà ra đi như người em, nhưng rõ ràng anh không phải là đứa con sống hạnh phúc bên cạnh cha mình. Anh vẫn gần mặt mà chẳng gần lòng.
Thưa anh chị em,
Chúng ta là những người con bướng bỉnh, những người con bụi đời, những người con ích kỷ của người cha nhân hậu. Người cha ấy đã đón nhận chúng ta trở về, không phải một lần, dăm ba lần, mà rất nhiều lần. Thiên Chúa là người cha luôn tha thứ cho chúng ta và đem chúng ta về với Ngài. Làm sao người con của Cha lại cứ muốn trốn khỏi người Cha đầy lòng khoan dung, nhân hậu? Làm sao chúng ta cứ muốn tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trở về để tha thứ, vui mừng, tiếp đón? Lòng nhân hậu Chúa vô biên, chúng ta đừng bao giờ quên điều ấy. Nếu chúng ta nhớ Thiên Chúa nhân lành vô cùng, chúng ta sẽ không chống đối Ngài, chúng ta sẽ cố gắng làm vui lòng Ngài.
Hôm nay tôi xin đề nghị: Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài. Hãy cầu nguyện cho mình và cho anh chị em khám phá ra tình yêu của Chúa ngay giữa cuộc sống. Bắt gặp được tình yêu Thiên Chúa như Phêrô bắt gặp tia mắt của Chúa Giêsu khi chúng ta sa ngã. Chính tình yêu của Chúa mới cứu được chúng ta.
Thánh lễ thực hiện điều đó: ngay tại đây, trong lúc nầy, chúng ta, những người con đang gặp lại người Cha đầy lòng yêu thương tha thứ. Hãy tạo cho Ngài niềm vui xum họp và cùng chung vui với Ngài và với anh em một nhà.
19. Người Cha nhân hậu--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’--Radio Veritas Asia
Ta thường gọi dụ ngôn này là dụ ngôn Người Con Hoang Đàng. Cách gọi này không được chính xác. Trước hết, vì sự trở về của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho ta, hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu khi kể dụ ngôn này có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của người cha, đối lại với cảnh nhóm pharisiêu và các kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì đã ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời cho họ, Chúa Giêsu kể một chuỗi ba dụ ngôn: Con chiên bị mất; Đồng bạc bị mất; và Người cha nhân hậu. Nội dung của dụ ngôn này có thể được chia ra làm hai màn.
Màn thứ nhất: Người cha và đứa con út. Màn thứ nhất này cho thấy sự tương phản sâu xa giữa lối suy nghĩ và hành động của đứa con với suy nghĩ và hành động của người cha. Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân. Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài. Ở nhà chung mà chỉ nghĩ đến việc vun quén riêng, không đóng góp mà chỉ muốn rút tỉa, không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ. Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng kinh tởm, khi nó dám mở miệng xin chia gia tài. Theo truyền thống phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cho cha mẹ mau chết đi. Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí. Cách ăn tiêu nói lên tính ích kỷ của đứa con, nó tiêu tiền mà không nghĩ đến mồ hôi nước mắt của cha mẹ, nó tiêu tiền chỉ để thỏa mãn dục vọng, nó dùng tiền bạc để cung phụng bản thân, khi có tiền nó chẳng nghĩ gỉ đến ai nên khi hết tiền chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp qua cơn túng thiếu. Túng cùng quá mới phải trở về. Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về. Nó không hề nghĩ đến cha mẹ, không hề nghĩ đến tình thương, nó chỉ nghĩ đến cái bụng, về nhà để ăn cho no, chỉ có thế. Nó còn một chút lương tri để hiểu rằng nó không xứng đáng làm con nữa. Tuy nhiên, nó không tha thiết đến quyền làm con, chỉ mong sao có ăn no bụng là được, thật là ích kỷ đến tận xương tủy.
Nếu đứa con út ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân, thì trái lại người cha hoàn toàn quên mình vì con. Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán, không hạch sách khó khăn. Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ mong sao con cái được vui lòng. Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng chờ. Thật tội nghiệp. Nhưng con ra đi chẳng hề nhớ nhung gì đến cha mà cha thì chẳng phút giây nào ngừng thương nhớ con. Con chỉ biết tìm vui cho bản thân trong khi Cha mỏi mòn trông đợi. Con chỉ biết đến tiền bạc còn cha chẳng quan tâm gì đến tiền của mà chỉ cần có con. Cảm động nhất và cũng là chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp gỡ, một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương của cha, "anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy", khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy con. Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ già nhòa dòng lệ vì thương nhớ, thế mà cha đã nhìn thấy con trước. Vì cha không nhìn bằng mắt mà nhìn bằng trái tim, trái tim yêu thương có đôi mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu. Trái tim con chẳng còn yêu thương nên nhìn mà chẳng thấy cha, trái tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng mà chẳng khác mù lòa, trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã lòa rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa. Ông chạnh lòng thương, trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm lỗi của đứa con. Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương. Yêu quá nên người cha chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tụy rách rưới, yêu quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ của con. Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn ràng xúc động. Chạy lại ôm cổ con, lại một cử chỉ lạ lùng, cha không chờ con tới cho đúng lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con. Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người cha không chần chờ được nữa. Bất chấp thân phận cao quí của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà. Bất chấp tuổi tác của mình, ông chạy đi như một thanh niên sung sức. Đứa con tuổi còn trẻ mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già, vì trong tim nó thiếu tình yêu. Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống. Ông già mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân nhưng lại bằng trái tim, ông bay bằng tình yêu, tình yêu chấp cánh cho ông. Hôn lấy hôn để, chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi gặp lại đứa con. Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào của ông dành cho nó, ông ôm chặt như để giữ cho nó không ra đi nữa. Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì cha đã có bốn động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện bốn động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí, ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về, ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dàng, ông đã phung phí khi đem áo mới, giày mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc có cả đàn hát múa may nhảy nhót để đón đứa con trở về. Làm thế, chẳng sợ hàng xóm cười cho. Nói tóm lại, ông đã phung phí tình yêu thương, yêu thương quá độ, yêu thương đến vô lý. Có lẽ nào giải nghĩa được yêu thương, chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.
Đó là người cha nhân hậu.
20. Chúa nhân hậu--Lm. JB. Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R
Trình thuật Tin mừng (Lc 15, 1-3. 11-32), được mang nhiều tên gọi: Người con hoang đàng - Người Cha nhân hậu - Chuyện người Cha và hai người con...
Hẳn trình thuật này tên gọi thì nhiều nhưng ý nghĩa quan trọng của trình trình thuật vẫn là: Lòng Chúa nhân hậu.
I. KIÊN NHẪN
Chuyện kể rằng, người cha có hai người con trai. Để chuẩn bị cho tương lai tốt đẹp cho con cái, ông đã gầy dựng cơ nghiệp cho hai con với tâm nguyện "của cha là của con" (Lc 15, 31).
Vậy mà, một ngày kia, sóng gió gia đình nổi lên khi người con thứ đòi chia gia tài và muốn tự giải quyết cuộc đời mình bằng cách bỏ nhà trẩy đi phương xa để sống riêng. Theo quan niệm người Do Thái lúc bấy giờ, trong một gia đình, chỉ khi nào người cha mất đi thì các con mới chia nhau gia tài. Cách ứng xử của người con thứ chẳng khác nào anh mong cho cha mình mau chết.
Lòng người cha đau đớn nhưng vì tôn trọng tự do của người con thứ nên ông đã chấp nhận chia gia tài để anh sống riêng. Thế là, ngay từ lúc người con thứ bước chân ra khỏi nhà cũng là lúc người cha sống những ngày mòn mỏi đợi chờ anh ta sám hối quay về với mái ấm gia đình.
Hình ảnh người cha gợi lên hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng muôn điều tốt đẹp cho con người và ban cho họ làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo với vinh quanh danh dự chẳng thua kém thần mình là mấy. Vậy mà, con người đã lạm dụng quyền tự do của mình để tự định đoạt cuộc đời. Thế nên, họ đã lâm vào cảnh hư ảo và phải mang án chết. Dẫu vậy, Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn đợi chờ con người quay về với Chúa.
II. TỰ HẠ
Chuyện tiếp theo, người con thứ sau khi đã phung phí tài sản của cha vào những cuộc ăn chơi đàng điếm, anh đã phải đi làm công cho một ông chủ với công việc chăn heo.
Đối với người Do Thái thời ấy, heo là con vật ô uế, nên họ không bao giờ nuôi heo mà chỉ có người dân ngoại mới nuôi heo. Vậy là, người con thứ đã tử bỏ người cha, từ bỏ gia đình để đi làm công cho người ngoại và hàng ngày tiếp xúc với con vật ô uế. Tất nhiên, anh ta luôn ở trong tình trạng ô uế. Tệ hơn thế, khi cơn đói dày vò, anh ta muốn ăn thức ăn dành cho heo những vẫn không được ăn. Anh đã thua cả heo, con vật ô uế. Anh lao xuống tận đáy sâu của vực thẳm tội lỗi.Thật là bi đát!
May thay, trong cơn cùng khốn, một chút lương tâm trong anh đã trỗi dậy và khai sáng cho anh nhớ về gia đình: trong gia đình anh, biết bao người đầy tớ được cha anh đối xử nhân ái và được sống sống tốt đẹp; vậy mà giờ đây phận là con của người cha giàu có và nhân hậu mà anh lại phải sống trong tình trạng nhầy nhụa bi thảm. Để giải cứu cơn đói, anh đã quyết định "đứng lên" quay về nhà mình và chỉ giám mong được cha đối xử với anh như người làm công. Anh đã chuẩn bị cho ngày về bằng một bài diễn văn: "Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chăng đáng còn gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công vậy" (Lc 15, 18-19).
Người cha đã hằng mong mỏi ngóng chờ người con quay về. Vừa trông thấy con còn ở đàng xa, ông đã vội chạy ra đón anh, "ôm cổ anh ta và hôn lấy, hôn để" (Lc 15, 20) và không để anh đọc hết bài diễn văn. Ông đã không thể hiện tư thế của một người cha uy nghi quyền thế khiến mọi kẻ phải lạy lục xin ông ban phát ân huệ. Trái lại, ông đã tự hạ mình, nhanh chân chạy đến đỡ lấy người con tội lỗi quay về. Tình thương của người cha đã làm cho người con tội lỗi nghẹn ngào không nói được hết lời xin lỗi.
Hình ảnh người cha gợi lên hình ảnh của Thiên Chúa. Dù bao phen con người lầm lỗi phản nghịch Chúa, bỏ Người chạy theo thần của dân ngoại, nhưng Thiên Chúa không bỏ mặc con người sống ngụp lặn trong tội lỗi. Biết bao lần, Người dùng các ngôn sứ, các thủ lãnh để hướng dẫn dân Chúa trở về với nẻo chính đường ngay và sau cùng Thiên Chúa còn tự hạ mình mang thân phận con người để cứu độ con người cách toàn diện.
III. CỨU ĐỘ
Người cha vui sướng xiết bao khi người con hoang đàng trở về với mái ấm gia đình. Ông tuyên bố: "Con ta đây chết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay đã tìm thấy" (Lc 15, 24) và chỉ thị cho gia nhân: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dẹp vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!" (Lc 15, 22, 23).
Người cha ban áo đẹp nhất cho người con để từ nay anh phải rũ đi chiếc áo quá khứ cũ rách của nếp sống tội lỗi để mặc lấy chiếc áo lễ hội tràn đầy niềm vui và hạnh phúc; ban nhẫn cho người con là biểu hiện ban quyền bính, uy thế danh dự của gia đình vương giả; ban dép cho người con là biểu hiện phục hồi lại quyền tự do (người nô lệ không đi dép); ban dê đã "vỗ béo" chứ không ban dê gầy hay dê nào cũng được là biểu hiện người cha đã cho "vỗ béo" dê để sẵn sàng mở tiệc khi người con hoang trở về.
Hình ảnh người cha gợi lên hình ảnh Thiên Chúa cứu độ con người cách toàn diện. Thiên Chúa đã dọn sẵn hạnh phúc thiên đàng và chờ đợi người tội lỗi ăn năn thống hối quay về, Người "không muốn cho kẻ dữ phải diệt vong nhưng muốn họ bỏ đường tà để được sống" (Ed 18, 23). Ai trở về cùng Thiên Chúa sẽ được cải tử hoàn sinh "chết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay đã tìm thấy" (Lc 15, 24).
Tiệc vui đoàn tụ đã khai mở, mọi người "bắt đầu ăn mừng" (Lc 15, 24) nhưng sóng gió gia đình lại tiếp tục nổi lên. Người con trưởng xuất hiện. Sau một ngày vất vả nơi đồng áng, về đến nhà trông thấy cảnh tượng cha mừng người em trở về, anh đã không thể chấp nhận nổi; anh không những không vào nhà mà còn buông lời xúc phạm người cha: "Còn thằng con của cha đó..." (Lc 15, 30). Thế mới lộ ra, bấy lâu nay, tuy sống gần bên cha gia nhưng người con trưởng chỉ sống tương quan với cha mình người chủ với tớ...
Lúc này, người cha lại phải xuống nước với anh: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất của những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ vì em con đây đã hết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy" (Lc 15, 31-32).Vậy là, người cha lại phải kiên nhẫn và hạ mình trước người con trưởng để mong anh quảng đại như cha sẵn sàng đón nhận em.
Một lần nữa, Thiên Chúa lại tiếp tục kiên nhẫn, hạ mình và chờ đợi để cứu độ muôn người.
KẾT
Lòng nhân hậu của Thiên Chúa Chúa được Đức Giê-su diễn tả qua một dụ ngôn về một gia đình người cha và hai người con.
Câu chuyện gia đình ba cha con đã khép lại nhưng chưa có hồi kết (không biết người con trưởng sẽ ra sao). Hẳn hồi kết ấy sẽ do mỗi người tín hữu phải góp phần mình để hoàn thành bằng sự quyết tâm đứng lên sau những lần vấp ngã để trở về cùng Thiên Chúa là cha nhân hậu, đồng thời quảng đại với mọi người.
21. Phục hồi phẩm chất cao đẹp--Lm. Ignatiô Trần Ngà
* Chỉ có tội lỗi là nguyên nhân duy nhất tàn phá phẩm chất cao đẹp của con người.
Cho dù lũ lụt có thể cuốn trôi tất cả nhà cửa ruộng vườn, biến người ta thành người tay trắng, nhưng không thể cuốn trôi phẩm giá người ta.
Cho dù hoả hoạn có thiêu rụi nhiều phố xá làng mạc, cướp đi tất cả tài sản của người dân, nhưng cũng không thể thiêu rụi phẩm giá con người.
Dù tai ương hoạn nạn có cướp đi một vài chi thể của con người, khiến người ta trở nên tàn phế, nhưng cũng không thể cướp đi phẩm chất cao đẹp của người ấy.
Không gì từ bên ngoài có thể làm mất phẩm chất, mất giá trị con người, nhưng chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể huỷ diệt phẩm giá cao đẹp của họ. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định điều nầy: "Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế." (Mác cô 7, 21-23)
Câu chuyện người con thứ trong Tin Mừng hôm nay minh hoạ cho thấy tội lỗi làm băng hoại phẩm giá con người đến mức nào.
Sau khi đòi chia gia tài và phung phí tài sản của mình với bọn đàng điếm, người con thứ lâm vào cảnh đói khát cùng cực và phải xin làm nghề chăn heo là nghề ô nhục nhất đối với người Do-Thái.
Không có hình ảnh nào diễn tả tình trạng xuống cấp và suy đồi phẩm giá cho bằng hình ảnh một con người đói rách thảm hại, chen chúc với đàn heo bẩn thỉu hầu mong được ăn thực phẩm của heo nhưng chẳng ai cho.
Chính tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể làm cho giá trị con người bị suy sụp cách thảm hại như thế.
Nhưng cũng qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta một chân trời hy vọng: những con người bị tội lỗi làm mất giá trị có thể được phục hồi nhân phẩm cách tuyệt vời.
* Phục hồi lại phẩm chất cao đẹp của mình nhờ quay về với Chúa.
Một người giàu có bị phá sản, còn rất lâu mới có cơ may xây dựng cơ đồ, phục hồi sự nghiệp.
Một người bị mất chức, mất việc... khó lòng kiếm lại được chức, được việc ngon lành như trước.
Nhưng thật vô cùng may mắn và hạnh phúc cho chúng ta là những người tội lỗi, một khi lỡ sa ngã phạm tội, đánh mất hết phẩm chất cao đẹp của mình... thì chỉ cần cố gắng, kiên quyết hoán cải là có thể phục hồi lại được phẩm chất cao đẹp như trước.
Sau khi người con thứ lâm vào tình trạng đói khát, anh ta hồi tâm lại và quyết chí trở về nhà cha, để xin làm một người tôi tớ.
Khi thấy con từ đằng xa, người cha mừng rỡ chạy lại ôm lấy đứa con hoang và hôn nó hồi lâu.
Không để cho đứa con hư nói hết lời hối lỗi, ông truyền sai tôi tớ mau mau đem áo đẹp nhất ra mặc cho cậu, xỏ nhẫn quý vào tay cậu, mang giày sang quý vào chân cậu và hãy hạ bò tơ để ăn mừng...
Thế là từ một con người thân tàn ma dại, một thằng chăn heo hèn hạ đói khát, người con hoang đàng đã trở thành chàng công tử thượng lưu với bao nhiêu tôi tớ hầu hạ. Thay vì tấm áo rách hôi hám, cậu được mặc vào người tấm áo đẹp nhất. Thay vì đi chân đất bần cùng, cậu được mang giày dép sang trọng rồi được đeo nhẫn quý vào tay như những người quyền quý. Thay vì trước đây khao khát được ăn chung máng với đàn heo, ăn giữa đàn heo, cậu được ngồi ăn với cha, với họ hàng, với những bậc tai mắt trong làng xóm, có kẻ hầu người hạ. Thay vì những đồ cặn bã của heo, nay cậu được ăn thịt bê đã vỗ béo ngon lành. Thật khác ngày hôm qua một trời một vực. Thật là một sự thay đổi tuyệt vời, nằm mơ không thấy.
* * *
Chỗi dậy trở về cùng Chúa là từ bỏ tội lỗi và tính hư tật xấu, là kết hợp với Đức Ki-tô để trở nên con người mới, thụ tạo mới như lời thánh Phao lô dạy trong thư gửi tín hữu Cô-rinh- tô hôm nay: "Phàm ai kết hợp với Đức Ki-tô, đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có đây rồi." (2C 5,17)
Cơ hội trở về luôn luôn sẵn có. Lời Chúa và Hội Thánh vẫn liên tục kêu mời. Điều còn lại hoàn toàn tuỳ thuộc ở nơi ta. Điều quan trọng là chúng ta có quyết tâm làm lại cuộc đời, sửa đổi và nâng cấp đời sống hay không.
22. Người con trở về nhà cha--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Lc 15: 1-3.11-32: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha thôi.”
1. Một tín hiệu không vui
Từ ngoài đồng về, người con cả nổi giận, không chịu vào nhà, và người cha đã phải ra tận nơi để năn nỉ cậu. Hai tình huống được đặt ra ở đây:
- Người con cả có vào nhà không?
- Vào hay không vào, đàng nào tốt hơn?
1.1.Tình huống một: không vào nhà, để rồi lại bỏ nhà ra đi
Có người cho rằng anh không chịu vào nhà. Anh không chịu vào, vì anh không thể tha thứ cho người em. Anh không chịu vào, vì sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm, bị chia sẻ. Anh không chịu vào, vì anh không hiểu được tấm lòng của người cha.
Hơn nữa, anh còn kết án người cha. Anh kết án cha bất công và keo kiệt. Kết án cha bất công khi anh nói: cha coi, thằng con của cha đó, một thằng ăn chơi đàng điếm trở về thì cha lại ăn mừng. Kết án cha keo kiệt khi anh phàn nàn: cha chẳng cho con lấy một con dê con để vui với bạn bè, còn giờ đây cha lại cho giết cả một con bê béo để mừng thằng con bất hiếu trở về. Như vậy đủ lý do để chúng ta kết luận: người con cả bỏ nhà ra đi.
Người con cả bỏ nhà ra đi, nói lên “niềm vui của Thiên Chúa, hình như không có lúc nào được trọn vẹn khi ở giữa Dân Người”. Một kết thúc làm cho chúng ta suy nghĩ: Thiên Chúa là như thế đó, nỗi khỗ tâm của Thiên Chúa là như thế đó.
1.2.Tình huống hai: người con cả vào nhà và ở lại với người cha.
Một kết luận xem ra có hậu, nhưng thực sự có hậu không?
Chúng ta trở lại với người con thứ, người con hoang đàng trong dụ ngôn. Từ khi người con hoang đàng trở về, mọi sự đều thay đổi. Những người làm công yêu cậu chủ, yêu cậu chủ rồi yêu luôn cả công việc cậu chủ giao phó. Vì yêu cậu chủ, nên yêu luôn cả ông chủ, vì khám phá ra lòng nhân hậu của ông chủ mà suốt cả bao năm dưới quyền người con cả, họ không thấy được điều đó. Từ đây, những người làm công có một cái nhìn so sánh giữa người con thứ và người con cả. Họ càng thương người con thứ bao nhiêu thì lại càng hận người con cả bấy nhiêu.
Đứng trước tình cảnh đó, người con cả sẽ phản ứng ra rao? Liệu anh có thể kiềm chế được tính ghen tương đã nằm sâu trong lòng cậu không?
Thật vô cùng khó! Vì lúc đầu, chỉ có người cha vui mừng vì cậu em trở về mà anh đã tức điên lên rồi, phương chi, giờ đây người cha vui mừng không những vì cậu em trở về, mà cả những người làm công cũng trở thành những người con trong nhà, được hưởng những quyền lợi như một người con trong gia đình.
Như vậy, chắc chắn sự ghen tương sẽ bùng nổ và chúng ta biết hậu quả của ghen tương sẽ dẫn tới đâu. Chuyện xảy ra vào thế kỷ 16 tại Ấn Độ: trong triều đình có hai viên quan, mỗi người một tính xấu. Một người thì ganh tị, một người thì tham lam. Ngày kia, nhà vua có một sáng kiến để sửa đổi những tính xấu đó. Nhà vua cho triệu hai viên quan vào triều đình, cho biết sẽ trọng thưởng họ vì đã phục vụ lâu năm. Hai ông có thể xin gì tùy thích,
nhưng người đầu tiên mở miệng xin, chỉ được những gì mình muốn. Còn người thứ hai sẽ được gấp đôi. Những giây phút nặng nề trôi nhưng không ai mở miệng trước. Người tham lam nghĩ trong lòng rằng nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tị lý luận: thà tôi không được gì còn hơn mở miệng nói trước, để người kia được gấp đôi.
Vì thế không ai muốn lên tiếng trước.
Cuối cùng, nhà vua phải đề nghị người ganh tị nói trước. Người ganh tị lẩm nhẩm: thà không được gì còn hơn để tên tham lam được gấp đôi, nên ông tâu với vua: tôi xin chặt đứt một cánh tay. Ông ta sung sướng với ý nghĩ: người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
Thật là ngớ ngẩn! Hại ai không hại, lại hại chính thân mình. Kẻ ganh tỵ là như thế đó!
2. Điểm dừng của dụ ngôn “người con hoang đàng” trong Tin Mừng
Sau buổi tiệc hôm đó, cuộc sống của người con thứ sẽ ra sao?
Phải chăng lại âm thầm tiếp tục như những ngày tháng trước khi bỏ nhà ra đi? Phải chăng câu chuyện dừng lại ở đây?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy đọc lại quyết tâm của cậu ta: “thôi ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha thôi.”
Một lời cầu xin ân huệ và cũng là một quyết tâm: “xin coi con như một người làm công cho cha thôi”. Trở về và được phục vụ cha như một người làm công, được như thế cũng là mãn nguyện rồi. Thế là từ nay các quyền lợi, các ưu đãi dành cho một người con trong nhà, anh không dám nghĩ tới nữa. Giờ đây chỉ còn một việc phải làm là phục vụ và phục vụ hết mình. Quyết tâm này không những làm người cha xúc động, mà nó còn mang một ý nghĩa vô cùng lớn đối với những người làm công.
Với bao chua cay đau xót, với bao tủi hổ ê chề, khi phải đi chăn heo cho người ngoại bang, nhờ đó mà giờ đây anh có một cái nhìn khác về cuộc sống. Nơi nhà cha cậu, cậu luôn sát cánh bên cạnh những người làm công. Cậu ân cần thăm hỏi từng người một. Cậu đồng cảm với những hành vi, mỗi cái nhìn, cũng như những phản ứng của những người làm công. Nhất là cậu giúp những người làm công tìm được một ý nghĩa, một niềm vui trong cuộc sống.
Cuối năm đó tính sổ lại, người cha vô cùng ngạc nhiên, tại sao cũng một thời gian như nhau, với số người làm công như nhau, mà hoa lợi lại tăng nhiều như vậy. Người cha khám phá ra rằng: chính là do cậu chủ. Cậu chủ thương mến những người làm công, và những người làm công thương mến cậu chủ. Trước đây, khi làm việc, những người làm công chỉ mong cho mau hết ngày để tính công, nhưng giờ đây, họ cố làm cho hết việc chớ không phải hết giờ. Và với số hoa lợi bỗng nhiên dư ra như vậy, ông chủ lại chia sẻ cho những người làm công. Được quan tâm, được nâng đỡ, những người làm công lại mến chủ hơn. Càng mến chủ, họ lại càng làm việc tích cực hơn, và cứ như thế, ông chủ càng ngày càng vui hơn. Ông chủ vui hơn không phải vì tài sản càng ngày càng lớn hơn, nhưng vui hơn, vì giờ đây, nhờ chính đứa con đi hoang trở về, anh đã cảm hóa, anh đã biến đổi những người làm công trở thành những người con thực sự trong gia đình của người cha. Đây mới là điểm dừng của dụ ngôn “người con hoang đàng”. Amen.
23. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Chúng ta đang sống trong những ngày của mùa chay thánh, Lời Chúa trong các chúa nhật mùa chay luôn mời gọi chúng ta hãy trở về với Chúa bằng con đường sám hối. Bài Phúc âm chúng ta vừa nghe cũng là một lời mời gọi sám hối trở về với Chúa để đón nhận ơn tha thứ của Chúa.
Dụ ngôn chúng ta vừa nghe đó là một trong những bài dụ ngôn đẹp nhất trong Tin mừng, nó diễn tả tình thương của Thiên Chúa dành cho con người qua hình ảnh của người cha trong gia đình. Các bạn có thể đặt tên cho bài dụ ngôn này là gì? Ta thường gọi dụ ngôn này là dụ ngôn "đứa con hoang đàng", nhưng có lẽ phải gọi là dụ ngôn "Người cha nhân hậu" mới đúng, vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
Có mấy nhân vật chính trong dụ ngôn?
Người cha trong dụ ngôn có 2 người con. Có lẽ người ơng có phần kém mai mắn, mặc dù ông rất giàu có nhưng có hai đứa con không có hiếu với mình. Người con thứ thì đã quá rõ. Lẽ ra khi lớn khôn thay vì anh phải phụng dưỡng cha già(thì anh lại lm gì n).anh lại đòi chia gia tài, một hành động thất khó chấp nhận theo quan niệm của người Do thái. Vì người con chỉ được phép đòi chia gia tài khi cha chết hoặc người cha tự ý chia cho các con khi thấy mình già yếu. Hành động của người con thứ khác nào nguyền rủa cho cha mình mau chết. Người con cả xem ra có hiếu hơn, biết nghe lời cha hơn. Anh đang từ ngồi đồng trở về, anh cĩ thi độ thế no khi biết em mình đ trở về? anh cĩ vui? Những lời của anh nĩi cho thấy tấm lịng của anh, bấy lu nay anh sống với cha chỉ là làm vì bổn phận hơn là vì yêu mến cha. Anh luôn nhìn cha mình bằng thái độ sợ sệt giống như người làm công hơn là con. Điều làm cho người cha đau lòng chính là thái độ của anh đối với em. Anh không muốn coi mình có người em này, anh không gọi nó là "em con" nhưng là "cái thằng con của cha kia". Anh không hề thông cảm và tỏ ra tha thứ cho những lầm lỗi của em, cũng không hề thấu hiểu cho nỗi đau của cha khi phải mất con.
Thái độ của anh cả như thế cịn thi độ của người cha như thế no? Ơng trch mắn quở phạt anh ta, ơng khơng muốn nhận lại con?. Chng ta nghe tiếp cu chuyện. Sau khi người con thứ phun phí hết tài sản của mình, bước vào con đường nghèo đói, nghèo đến độ muốn ăn đồ ăn của heo mà cũng không được. Khi anh lâm vào con đường cùng thì anh mới nhớ đến cha, nhớ những ngày mình được sống sung túc trong nhà cha mà không phải lo nghĩ gì. Hành động quay về của anh có thể chỉ xuất phát từ sự cùng cực của mình, muốn trở về để tìm cái ăn mà sống, chứ chưa thật sự vì yêu mến cha. Anh chỉ muốn cha anh coi anh như là một người làm công thôi, chứ không dám nghĩ tới địa vị làm con của mình. Anh đau biết rằng ngày anh ra đi cũng là lúc mà hằng ngày người cha vẫn luôn trông ngóng mong anh trở về. Anh còn ở đằng xa thì cha đã thấy anh, chạy ra ôm lấy con mình. Ơng không đợi cho người con nói hết lời xin lỗi mà ngay lập tức đã sai đầy tớ mang áo, mang nhẫn ra đeo cho anh để phục hồi địa vị làm con cho anh. Dụ ngôn không kể cho chúng ta biết tâm trạng của người con thứ lúc đó như thế nào, chắc chắn đó sẽ là những giọt nước vì hạnh phúc vì được yêu thương và tha thứ của cha.
Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến ai qua 3 nhân vật trong dụ ngôn?
Người cha? Ám chỉ Thiên Chúa
Người con thứ? Ám chỉ những người có tội biết ăn năn
Người con cả? Ám chỉ những người Biêt phái và những ai tự coi mình tốt và không biết tha thứ
Qua bài dụ ngôn hôm nay, Chúa muốn nói với chúng ta rằng: nếu chúng ta phạm tội Ngài vẫn yêu thương chúng ta, vẫn tìm kiếm và trông chờ chúng ta trở về. Điều mà Ngài mong muốn nơi chúng ta là phải biết đứng lên và can đảm và trở về. Biết bỏ đời đi hoang để trở về sống hiếu thảo với Cha. Tình thương va lòng tha thứ của Thiên Chúa không bao giờ thiếu, quan trọng là chúng ta có biết đưa tay đón nhận hay không. Mỗi khi chúng ta phạm tội, là chúng ta đang trở thành người con hoang đàng, là chúng ta đang bỏ Chúa đó. Vậy mỗi khi chúng ta phạm tội với Chúa thì chúng ta trở về với Chúa bằng cách nào? (qua bí tich giải tội- Chúa rất vui khi chúng ta đi xưng tội). Mỗi khi chúng ta phạm lỗi với anh chị em chúng ta phải làm gì? (xin lỗi- quyết tâm không làm điều đó nữa). Mỗi khi chúng ta phạm lỗi, chúng ta không được tuyệt vọng, và không được nghĩ rằng lỗi của tôi nặng quá không biết Chúa có tha hay không, Chúa luôn luôn tha cho chúng ta chỉ cần chúng ta biết chạy đến với Chúa. Chúa luôn mở rộng đôi tay đón chúng ta trở về
Một bài học khác chúng ta có thể thấy được qua bài dụ ngôn này đó là mình phải biết tha thứ cho người khác. Chúa tha thứ cho chúng ta khi chúng ta có lỗi, và Chúa còn thương chúng ta nhiều hơn vậy thì chúng ta cũng phải biết tha thứ cho những lỗi lầm của người khác. Mỗi khi chúng ta tha thứ cho người khác đó là chúng ta đang trở nên giống Chúa. Các bạn thấy khi mình làm ai giận, hay làm điều gì lỗi với người khác khi được ban mình bỏ qua không giận nữa, tiếp tục chơi với mình, mình có vui không nè?
Mùa chay luôn mời gọi chúng ta biết trở về với Chúa bằng cách từ bỏ con người tội lỗi của mình. Sám hối và trở về với Chúa bằng những việc làm cụ thể, chẳng hạn tôi quyết tâm bỏ bớt đi tật hay nói dối, hay chửi thề nói tục, hay cãi lại cha mẹ. Và sống con người mới là người con của Chúa biết yêu thương người khác, biết tha thứ cho anh chị em, và mau mắn chạy đến với Chúa qua bí tích giải tội khi chúng ta lầm lỗi. Khi làm như thế đó là chúng ta đang sống trong tâm tình là người con của Chúa.
24. Ba cha con.
Câu chuyện về đứa con phung phá, còn có thể được gọi là câu chuyện về tấm lòng của một người cha, hay nói đúng hơn là câu chuyện về ba cha con.
Thực vậy người con thứ chỉ là một tay giang hồ hèn nhát. Phải chi nếu vì thương cha nhớ mẹ mà anh ta trở về thì còn khá, đằng này chỉ vì đói khát, thèm ăn cả cám heo mà cũng chẳng được, thôi thì đành trở về. Mà đã trở về thì cũng phải ca mấy câu cho xong chuyện với ông già.
Nhưng người cha là một nhân vật tuyệt vời. Ông đã món mỏi chờ đợi kẻ đi hoang. Ông nuôi một con bê và ngày ngày ra tận ngoài đường trông ngóng. Bằng chứng là khi đứa con rách nát trở về thì ông đã nhận ra nó tự đàng xa và chạy lại ôm choàng lấy nó mà hôn. Ông đã tha thứ cho nó từ lâu rồi, nên đâu có để ý đến sáu câu nó vội ca lên khi gặp ông. Ông truyền mặc áo đẹp cho nó, xỏ nhẫn và xỏ giày cho nó. Đây là những biểu tượng của người con trong gia đình. Nó chỉ muốn làm đầy tớ để được ăn no, nhưng ông đã trả lại cho nó địa vị người con để được hưởng mọi quyền lợi. Rồi ông lại truyền giết con bê nuôi sẵn để thiết tiệc mừng đứa con như đã chết mà nay sống lại.
Nhân vật thứ ba của câu chuyện là người con cả. Anh ta là một người siêng năng, cần cù, hết mình tận tuỵ với cha, nhưng lại tự ti và ích kỷ: Là con trưởng nhưng lại chỉ biết sống như một người đầy tớ, như một kẻ nô lệ, không ý thức rằng hễ đã là con thì cũng có quyền thừa kế, nghĩa là được làm chủ gia tài của cha. Trái lại, anh ta chỉ biết làm công để được nuôi trong nhà mình như một kẻ xa lạ. Vì không ý thức địa vị là con, là chủ của mình, nên anh ta chẳng tình nghĩa gì với cậu em trai, đã không biết chia sẻ niềm vui của cha thì chớ, anh ta lại còn trách móc hằn học ghen tương.
Bọn biệt phái khi nghe câu chuyện này thì đã hiểu ngay cái ý nghĩa Chúa Giêsu muốn nhắm tới. Người cha là Thiên Chúa hay cũng có thể nói là chính Ngài. Đứa em giang hồ là những quân thu thuế và kẻ tội lỗi, mà Ngài thường ưu ái. Còn cậu cả chính là họ. Bởi vì họ thường lấy làm chướng tai gai mắt khi thấy Ngài đi lại và ăn uống với phường tội lỗi. Điều Chúa Giêsu khiển trách, đó là họ tuy đạo đức, chẳng hạn như đọc kinh nhiều, ăn chay lắm, nhưng lại thiếu lòng nhân ái, thiếu tình thương người, và như vậy là thiếu chính cái mà Thiên Chúa đòi hỏi vì Thiên Chúa đã phán: Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải của lễ.
Ngày nay, khi nghe đọc dụ ngôn này, không hiểu chúng ta, những người vốn tự hào là những con chiên ngoan, có dám can đảm nhận ra nơi mình hình ảnh cậu cả hay không. Bằng chứng là vẫn thấy nhiều người sẵn sàng lên án, ném đá những người ngoại tình, những kẻ tội lỗi. Không thiếu những người được coi là đạo đức thánh thiện, lại rất khắt khe với kẻ tội lỗi. Tệ hơn nữa, người ta còn nhân danh sự thánh thiện của Thiên Chúa mà đòi xử phạt kẻ có tội.
Những thái độ trên hoàn toàn đi ngược lại tinh thần của Chúa Giêsu, Đấng đã đến để tỏ lộ lòng nhân từ khoan dung của Cha chí ái. Qua đó, Chúa Giêsu nhắm thẳng vào những kẻ thiếu tình huynh đệ, cõi lòng của họ chai đá, không biết cảm thông nỗi đau khổ của người khác và cũng chẳng biết chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa, là được đón nhận những đứa con hư hỏng biết tìm đường trở về.
Để kết luận, là những kẻ tội lỗi chúng ta hãy can đảm trỗi dậy trở về cùng Chúa, đồng thời cũng hãy có thái độ khoan dung độ lượng với những kẻ tội lỗi, như thái độ của Chúa Giêsu trong câu chuyện chúng ta vừa nghe.
25. Ơn Cha--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Khi nói về tình yêu và sự hy sinh của một người cha, người ta thường ví von như biển cả bao la, như cây cao bóng cả, như núi cao vời vợi. Một tình yêu không vồn vã nhưng trầm lắng và rộng lớn bao la. Một tình yêu không cần diễn tả bằng lời, không cần biểu lộ bằng những cử chỉ trìu mến thân thương, đôi khi tỏ ra cương quyết nhưng lại là chỗ dựa vững chắc nhất cho con cái vào đời.
Tình thương và tấm lòng người cha như thế, đã được ca sĩ Ngọc Sơn diễn tả qua bài hát "Ơn Cha" như sau:
Ơn Cha như Thái Sơn cao bao tầng
Ngoài tuy cương quyết mà lòng thương mến
Ơn Cha như đuốc soi cao trên đường
Đuốc soi tâm hồn dắt con tìm hướng
Ơn cha như bóng cây xanh trên ngàn
Tình Cha tha thiết, lòng cha âu yếm
Ơn Cha như mái hiên che năm trường
Gió mưa xa gần, nắng mưa không sờn.
Vâng, chính tình thương mênh mông biển cả của người cha luôn phủ lấp cuộc đời của những người con, là hành trang theo con vào đời, là kỷ niệm luôn ghi khắc trong tim của những người con, đến nỗi có nhiều người vẫn thầm hát với cha rằng:
"Mai con lớn lên rồi
Ra đi tung cánh trong đời
Dù xa vô bờ vẫn nhờ đến tình mẹ cha".
Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cùng chiêm ngưỡng tình yêu của Thiên Chúa tựa như tình của một người cha trong gia đình. Một người cha có hai con. Hai đứa con hai cách sống. Hai đứa con hai mối bận tâm của cha. Mỗi đứa mỗi tính. Vì cha mẹ sinh con trời sinh tính. Cha yêu thương cả hai. Nhưng cả hai xem ra đều phụ lòng cha. Người con cả chăm chỉ, cần cù nhưng lại tham quyền, tham lợi. Con người anh còn thiếu lòng độ lượng biểu lộ qua việc hay ganh tỵ và đòi hỏi quyền lợi. Anh đã từng thốt lên rằng: "Cha coi, đã bao năm nay con hầu hạ Cha, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy một con bê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con cha kia, sau khi nuốt hết của cải của cha với bọn đĩ điếm, nay trở về, cha lại cho con bê béo ăn mừng".
Người con thứ thuộc loại "bán trời không văn tự". Anh đã hoang phí cả gia sản lẫn cuộc đời đến bạc nhược tinh thần và thể xác. Cuộc đời anh chỉ tìm kiếm những thoả mãn xác thịt tầm thường. Thích ăn ngon, mặc đẹp và vui thú bên những cô gái chốn lầu xanh. Cuộc sống thác loạn đã làm cho anh tan gia bại sản, thân xác tiều tụy, anh chỉ còn biết chăn heo để sống qua ngày.
Cha vẫn im lặng. Sự im lặng này không đồng nghĩa với việc đồng ý cách sống của hai con. Cha im lặng vì tôn trọng tự do của hai con. Tự do để chọn lựa. Tự do chọn lựa là nét đẹp cao qúy của con người mà không một loài nào có được ân huệ đó. Có chọn lựa nên vẫn có sai lầm. Có chọn lựa nên vẫn có nuối tiếc. Nuối tiếc vì chọn sai, vì lầm lạc. Cha không kết án ai. Cha không muốn mất đi bất kỳ người con nào. Khi người con thứ ra đi. Cha hằng ngày mong ngóng chờ con trở vể. Chỉ cần nó trở về là cha đã quên hết quá khứ tội lỗi của nó rồi. Khi người con cả bộc lộ bản tính thật của mình. Coi con bê béo hơn cả tình cảm cha con và tình nghĩa anh em. Cha vẫn từ tốn, dịu ngọt với anh. Cha muốn anh hãy vui với phận mình, và nhất là hãy vui vì luôn được sống trong tình thương của cha.
Hai người con trong phúc âm dường như vẫn lúc ẩn lúc hiện trong con ngừơi chúng ta. Chúa cho chúng ta được tự do thừa hưởng một gia sản rất qúy báu và phong phú đó chính là sự sống làm người. Thế nhưng, có những lúc chúng ta đã hoang phí cuộc đời trong những đam mê lầm lạc, trong những vui thú mau qua. Có những lúc chúng ta thường hay xét nét, ganh tỵ và đòi hỏi Chúa trả công cho chúng ta. Có những lúc chúng ta thất vọng chán chường vì yếu đuối lầm lỗi. Có những lúc chúng ta vì những con bê béo là danh lợi thú mà quên cả tình nghĩa cha con. Chúa vẫn không chấp nhất tội chúng ta. Chúa không kết án chúng ta. Chúa vẫn im lặng. Chúa mong chúng ta sớm nhận ra tình thương của Chúa để hồi tâm trở về cùng Chúa. Sự chờ đợi của Chúa là vô tận. Tình thương của Chúa là vô biên. Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi và rộng lòng tha thứ hết mọi lỗi lầm của chúng ta.
Mùa chay mời gọi chúng ta hãy chọn lựa lại cách sống sao phù hợp với đạo lý làm con cái của Chúa. Hãy tập sống trong sự quan phòng, xếp đặt của Chúa. Hãy tin tưởng phó thác cậy trông vào Chúa để chúng ta luôn vui với phận mình. Nhất là hãy biết noi gương Chúa để xót thương kẻ cơ hàn và lấy lòng nhân hậu mà đối xử tốt với nhau. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu lòng thương xót và từ bi luôn gìn giữ chúng ta trong hồng ân của Chúa và giúp chúng ta luôn sống theo tinh thần của phúc âm: mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Amen.
26. Trở về với tình Cha
Bài Phúc âm mà chúng ta vừa nghe, là một câu chuyện tuyệt vời trong Tin Mừng Luca. Qua đoạn phúc âm ngắn này, Luca cho thấy lòng bao dung nhân từ của Thiên Chúa đối với người tội lỗi qua hình ảnh người cha nhân hậu. Đức Giêsu dùng dụ ngôn này để trả lời cho những tiếng xì xầm, bàn tán của người Pharisêu và các kinh sư về việc Người hay tiếp đón những người thu thuế và những kẻ tội lỗi.
Người Pharisêu và các kinh sư tự hào về sự công chính của mình, họ cho rằng mình là người đạo đức vì họ tuân giữ các lề luật một cách nghiêm khắt, giữ các tập tục của họ đưa ra và buộc Thiên Chúa trả ơn cho họ. Vì thế, đôi khi họ tuân giữ hơn những gì mà luật đòi buộc. Họ thường khinh chê, xa lánh và kết án những người bị coi là "tội lỗi". Qua câu chuyện dụ ngôn, Đức Giêsu không những muốn người thu thuế và người tội lỗi ăn năn sám hối mà chính các người biệt phái và các kinh sư cũng cần phải sám hối để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Thật thế, sau khi tội nguyên tổ xâm nhập, tội lỗi lan tràn vào thế gian. Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Người xót thương và tìm cách cứu thoát con người. Ngài hứa ban Đấng Cứu Chuộc để giải thoát con người, giao hoà con người với Thiên Chúa, với vũ trụ vạn vật và với chính họ - chính bản thân chính con người mình. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa của tình thương và lòng nhân ái. Ngài xót thương và thi ân. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Ngài thi ân cho chúng ta hơn cả sự mong đợi và cầu xin của chúng ta. Người con hoang đàng trong Phúc âm chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Tấm lòng của người cha thật nhân hậu, tốt lành. Người con chỉ mong có được một chỗ ngủ, có cơm ăn, có áo mặc. Nhưng cha anh đã quảng đại vô biên, đã đón nhận người con với niềm vui rộn rã: xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho con, mang giầy dép cho con, rồi mở tiệc ăn mừng (Lc 15, 22).
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Chính lòng thương xót của Ngài đã cứu người con. Người con ôm gia tài của cha ra đi mang theo bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ: tự do, tình yêu, hạnh phúc... Nhưng rồi tất cả chỉ là ảo tưởng. Ước mơ hạnh phúc không thành. Cuối cùng chỉ còn là bụng đói, xác xơ, đau khổ và tủi nhục.
Điều gì đã đưa chàng thanh niên đến quyết định trở về? Phải chăng đau khổ, thất bại, vỡ mộng, bế tắc? Thưa, không phải vậy đâu. Nếu chỉ có vậy thôi, có lẽ không đủ lý do để anh dám trở về. Bởi có biết bao người rơi vào tình cảnh túng quẫn như anh đã không dám trở về. Họ đã buông xuôi, tuyệt vọng và đã giải quyết bằng cách tự tử. Phải có một cái gì khác trở thành động lực thúc đẩy anh trở về. Đó chính là tình yêu của người cha, chắc chắn anh sẽ không dám quay đầu trở về. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào lòng yêu thương và tha thứ của cha anh. Chính niềm tin vào lòng yêu thương của người cha đã đem lại tia sáng hy vọng, đã nâng anh đứng dậy, đã mở đường tạo lối thoát cho anh để trở về cùng cha.
Tội lỗi đưa đến chỗ bế tắc, đường cùng. Con người tự tách mình khỏi tình yêu của Thiên Chúa là đi vào chỗ chết, là "mất đi". Tình yêu Thiên Chúa đã mở ra lối thoát, đã cảm hóa con người tội lỗi. Nếu không có tình yêu, không có ý thức tội lỗi, thì chỉ có mặc cảm tội lỗi mà thôi. Không phải nước mắt đổi mới tâm hồn con người mà chính là tình yêu của Thiên Chúa đổi mới tâm hồn con người sám hối. Nếu không có tình yêu của Thiên Chúa, nếu không tin mình được Thiên Chúa yêu thương, con người sẽ không tìm được con đường trở về. Phải tin mình luôn được Thiên Chúa yêu thương, phải tin rằng mình luôn có một chỗ đặc biệt trong trái tim Chúa, dù có bỏ ra đi, chỗ ấy vẫn không mất, chỗ ấy vẫn còn để trống, để chỉ dành riêng cho ta.
Tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt quá mọi mơ ước của chúng ta: "Nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự" (Rm 5,25).
Trở về là gặp lại niềm vui xum họp. Trở về là "tìm lại được", là "sống lại". Tìm lại được sự sống, đó là ý nghĩa đích thực của việc hoán cải và cũng là lý do của niềm vui sâu xa nơi người cha. Người cha vui mừng mở tiệc không phải vì từ nay đứa con trở về sẽ giúp cho công việc này sẽ làm cho ông việc nọ, mà chỉ vì từ nay anh sẽ được sống và được sống hạnh phúc dồi dào. Thật là một niềm vui hoàn toàn vị tha và rộng mở của người cha bao dung, nhân hậu,
Trong khi người cha tràn đầy niềm vui đón nhận sự trở về của người con với tất cả sự bao dung rộng mở: "Em con đã chết, nay lại sống" thì lòng người anh lại đầy tị hiềm và từ chối chia sẻ niềm vui của người cha: "cái thằng con của cha kìa...".
Rất có thể, chúng ta là những người con bướng bỉnh, những người con bụi đời, những người con ích kỷ của người cha nhân hậu. Người cha ấy đã đón nhận chúng ta trở về, không phải một lần, nhưng nhiều lần. Thiên Chúa là người cha luôn tha thứ cho chúng ta và đem chúng ta về với Ngài. Thế nhưng, tại sao chúng ta lại cứ muốn trốn khỏi người Cha đầy lòng khoan dung nhân hậu? Sao chúng ta cứ muốn tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trở về để tha thứ, để vui mừng, tiếp đón? Lòng nhân hậu Chúa vô biên, chúng ta đừng bao giờ quên điều ấy. Nếu chúng ta nhớ Thiên Chúa nhân lành vô cùng, chúng ta sẽ không chống đối Ngài, chúng ta sẽ cố gắng làm vui lòng Ngài. Vì thế, chúng ta hãy lắng nghe lời từ tốn nhân từ dịu dàng của người cha: con à! Lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha điều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. (Lc 15, 31 - 32). Mỗi lần sống ích kỷ cho riêng mình là chúng ta đã bỏ rơi người cha. Mỗi lần chúng ta xét đoàn, lên án hay không tha thứ cho anh em mình là mỗi lần chúng ta xa rời tình yêu Thiên Chúa. Mỗi khi chúng ta lỗi phạm đến Chúa chúng ta luôn xin Chúa tha thứ lỗi lầm cho chúng ta; Thiên Chúa luôn tiếp nhận chúng ta, ngay cả những lúc chúng ta có nhiều lỗi lầm nhất. Vậy tại sao chúng ta không đối xử nhân từ với những thiếu xót và lỗi lầm của anh em mình. Chúng ta không đồng tình với tỗi nhưng chúng ta cảm thông với những người tội lỗi. Chúng ta phải mừng khi một người anh chị em nào đó trong cộng đoàn chúng ta đã phạm tội nhưng nay trở về. Hay một người nào còn sống trong tình trạng tội lỗi, chúng ta cần phải cầu nguyện nhiều hơn nữa. Nhất là chúng ta cần cảm thông nâng đỡ để người ấy có cơ hội quay về, đặc biệt trong mùa chay này. Mỗi lần làm như thế, chúng ta đón nhận được lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa, đồng thời chúng ta cũng muốn thể hiện lòng nhân từ ấy cho tha nhân.
Hôm nay, chúng ta cần nhìn lại bản thân mình. Chúng ta là những người đang sống tốt, sống đạo đức nhưng bấy lâu nay chúng ta có thật sự yêu mến Thiên Chúa hết lòng và bác ái đối với tha nhân chưa? Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài. Hãy cầu nguyện cho mình và cho anh chị em khám phá ra tình yêu Thiên Chúa như Phê rô bắt gặp tia mắt của Chúa Giêsu khi chúng ta sa ngã. Chính tình yêu của Chúa mới cứu được chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận ra tình thương của Thiên Chúa và biết trở về với tình Cha. Đồng thời xin cho chúng con sống yêu thương tha nhân và đối xử với họ như anh em mình. Amen.
27. Niềm vui giao hòa--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Giao hòa là trở về đời sống tự do của con cái Chúa để rồi vững tin cho mình và vững tin cho anh chị em, cho dù tất cả đều sống trong tội lỗi nhưng tình yêu Thiên Chúa dư đủ để cứu độ tất cả.
Tuần trước Phụng vụ lời Chúa là mời gọi cấp thiết phải hoán cải cuộc sống thì tuần này phụng vụ Lời Chúa lại là lời mời gọi phải giao hòa với Thiên Chúa. Thiên Chúa là người Cha nhân lành luôn sẵn sàng chờ đón người con hoang đàng trở về. Luôn tha thứ và phục hồi mọi phẩm gía và quyền lợi cho đứa con hư trở về. Trở về giao hòa với Thiên Chúa là trở về trong vòng tay ấu yếm của Người để nghe được Người nói với chúng ta: Đây là con của Ta.
I. Tìm hiểu Lời Chúa
1. Bài đọc I: Gs 5, 9-12
Lễ Vượt Qua Đầu Tiên Tại Đất Thánh
Những Người Do Thái đã đến được miền Đất Hứa. Thời gian dài qua sa mạc đã kết thúc. Lần đầu tiên họ cử hành lễ Vượt Qua trong niềm vui sướng hoan hỉ.
Dưới sự hướng dẫn của Giôsuê, người kế vị Môsê, dân Do Thái đã vượt qua Giođan và tiến vào Canaan, tên cũ của Palestina.
Dân chúng mừng lễ vượt qua để tạ ơn Thiên Chúa đã giải phóng họ khỏi kiếp nô lệ Ai Cập và dẫn đưa họ vào miền đất phì nhiêu. Cuộc sống của họ giờ đây đã được bảo đảm và có hòa bình.
Với Kitô hữu, lễ Vượt Qua hay Phục Sinh luôn mang tính hiện tại. Đây không phải là chuyện đã qua bây giờ ngồi nhớ lại, nhưng với ân sủng bí tích Thánh Tẩy đã lãnh nhận, Kitô hữu thực sự đã được giải phóng khỏi kiếp nô lệ tội lỗi và đi vào Nước Trời, miền Đất Hứa trong tư cách con cái Chúa, để từ đây luôn sống trong hoan lạc và hạnh phúc.
2. Bài đọc II: 2 Cr 5, 17-21
Giao Hoà Với Thiên Chúa
Trong đoạn trích thư thứ hai gửi Tín hữu Corintô này, Thánh Phaolô minh chứng sự tốt lành khôn cùng của Thiên Chúa đã muốn giao hòa nhân loại với Người bằng việc hiến dâng chính người Con Một của mình. Đây là sứ điệp của niềm vui, nhân loại được Chúa yêu thương giao hòa, tha thứ và quên đi mọi tội lỗi.
Đúng ra Thiên Chúa không phải giao hòa với thế gian, chính thế gian, chính con người mới phải giao hòa với Thiên Chúa vì con người bội phản lại Ngài. Nhưng với lòng thương xót vô bờ bến, Thiên Chúa đã chấp nhận chủ động giao hòa với nhân loại.
Để thực hiện việc giao hòa này Thiên Chúa đã cho Con Một của Ngài là Đức Giêsu, Đấng không hề biết tội đến liên đới với tội lỗi nhân loại bằng việc hiến dâng chính mình trên thập giá để cứu chuộc và đền thay tội lỗi nhân loại, làm cho con người được nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
Sứ mạng giao hòa này, Đức Giêsu Kitô đã trao phó cho Giáo Hội của Người, cho các vị lãnh đạo, các linh mục, nhưng cũng cho tất cả mọi Kitô hữu. Chúng ta những Kitô hữu hôm nay phải biết quan tâm lo lắng làm sao để anh chị em chung quang cũng được ôm ấp trong lòng thương xót của Thiên Chúa, cùng với mình được giao hòa với Thiên Chúa.
3. Tin mừng: Lc 15, 1-32
Dụ Ngôn Người Cha Nhân Hậu
Trong dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn chứng tỏ cho chúng ta thấy ngay trong sự khốn khổ của kẻ tội nhân xuất hiện khuân mặt từ ái của Thiên Chúa: Ngài là một Người Cha giàu lòng thương xót, chỉ biết đón nhận và tha thứ.
Trả lời cho những định kiến sai lầm của những người Biệt phái, Chúa Giêsu trình bày một dụ ngôn nổi tiếng về lòng thương xót, đặc biệt lòng thương xót của người cha dành cho đứa con hoang đàng.
Vượt trên sự phản bội và vô ý thức của người tội lỗi, Thiên Chúa cho thấy lòng thương xót đáng kinh ngạc của Người. Luôn luôn sẵn lòng tha thứ tất cả và còn hơn nữa làm cho tọi nhân có cơ hội quay trở lại và nên công chính.
Lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn ưu ái dành cho mỗi người chúng ta. Kitô hữu có biết đón nhận lòng thương xót của Chúa để trở về khi lỗi lầm hay không? Và đồng thời có biết hiệp thông với Chúa với Giáo Hội trong niềm vui khi một người anh em biết quay trở về với bàn tiệc gia đình Thiên Chúa không? Mỗi người có biết tha thứ và trở nên những thừa tác viên của sứ mạng giao hòa không?
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Giao hòa là chân nhận Thiên Chúa là Cha nhân lành: Không biết khi đòi chia gia tài người con thứ ngoài việc thấy cha mình là người giàu có, thương con chiều con có nhận thấy cha mình là người cha thực sự nhân hậu, giàu lòng tha thứ hay không? Nhưng khi anh hết tiền, bị đói thì anh nhớ đến cha, đến sự đối đãi tử tế mà cha anh dành cho những người đầy tớ. Nên anh quyết định về nhà, anh không dám mơ đến việc cha anh sẽ tha thứ cho anh, mà chỉ mong sao được làm đấy tớ trong nhà thôi vì như thế sẽ không còn bị đói nữa. Nhưng chuyện kỳ diệu đã đến với anh! Người cha vẫn luôn mong ngóng anh trở về, không chỉ tha thứ mà còn phục hồi lại phẩm ghía người con cho anh. Với người cha anh như đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Tình yêu thương, lòng tha thứ đã bật lên thành niềm vui sướng nơi người cha. Ông là một người cha đầy lòng nhân hậu. Qua dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn cho mọi người nhận biết được Thiên Chúa là Người Cha Nhân Lành. Thiên Chúa là Cha Nhân Lành khi chủ động giao hòa cùng con cái tội lỗi; Người là Cha Nhân Lành khi sẵn lòng tha thứ và làm cho con cái nên công chính hơn. Giao hòa không dừng lại ở việc xin lỗi, sợ bị Thiên Chúa giáng phạt mà giao hòa là phải nhận ra Thiên Chúa quả thực là người Cha Nhân lành hay tha thứ, chậm bất bình và giàu lòng khoan dung.
2. Giao hòa là biết đón nhận anh chị em: Trong khi người cha vui sướng vì người con hoang đàng trở về thì người anh lại tỏ ra bất bình giận dữ trước niềm vui của cha. Anh không chấp nhận tha thứ và vui đón người em trở về. Anh trở nên so bì với người em, ganh tức với em và oán trách cả cha mình. Quả thật theo tâm lý thường tình thì đa số mọi người sẽ có phản ứng như người anh cả. Tâm lý này thường tình đến độ tất cả đều cho phản ứng ấy là đúng. Có tội thì bị phạt, làm sai thì bị mắng, phung phá thì bị cúp viện trợ là lẽ tất nhiên. Không ai chê trách gì người anh và cũng chẳng ai oán trách người cha nếu như ông từ chối đón nhận đứa con hoang đàng. Thận chí sẽ có người chê ông xử sự như vậy là ngu dại, là làm cớ cho con cái coi thường. Ở đây mới thấy đựơc tình Chúa bao la biết bao. Dụ ngôn này đã giúp khám phá chân dung tình yêu của Thiên Chúa là Cha. Và tình yêu ấy cũng đòi buộc mọi người phải biết yêu như Ngài. Ngài đã chủ động giao hòa để mọi người chúng ta cũng chủ động giao hòa với những anh chị em xúc phạm đến chúng ta. Không thể coi người anh là người thảo hiếu nếu chỉ biết răm rắp tuân hành ý cha mình mà không biết chia sẻ tình yêu với cha, không biết thương mến tha thứ cho em mình.
Dụ ngôn nhắc nhở Kitô hữu rằng giao hòa không phải chỉ là thái độ của chúng ta đối với Thiên Chúa mà còn là việc cùng với Ngài giao hòa với anh em của mình nhất là khi họ là những tội nhân. Làm sao là con cái Chúa là Cha Nhân Lành khi mà chúng ta khinh thường anh chị em mình, tránh xa những người đang ngụp lặn trong tội lỗi. Nói như Thánh phaolô, chính Kitô hữu được Thiên Chúa trao phó sứ mạng giao hòa; được Thiên Chúa đặt trên môi miệng lời giao hòa. Vì thế, giao hòa là phải biết đón nhận anh chị em mình.
3. Giao hòa là trở về đời sống tự do của con cái Chúa: Dụ ngôn người cha nhân hậu cho chúng ta khám phá ra tình yêu thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại, đặc biệt là người tội lỗi. Dù muốn hay không thì tình trạng tội lỗi luôn đẩy con người vào trong thảm trạng của kiếp nô lệ, nô lệ cho dục vọng tội lỗi, nô lệ cho ma quỉ và kết cục là phải chết. Nhưng tình yêu của Thiên Chúa thậtt lớn lao biết bao khi Ngài đã sai Đức Giêsu Kitô đến để cứu độ, để giải phóng. Tình yêu của Thiên Chúa đựơc thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Người đã hết lòng chăm lo cho tội nhân, tìm kiếm và mới gọi người tội lỗi trở về. Hơn tất cả Người đã hy sinh mạng sống Người để đền thay tội lỗi nhân loại. Khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa làm cho chúng ta tràn đầy tin tưởng để rồi quyết tâm quay trở về giao hòa với Thiên Chúa. Chúng ta biết rõ thân phậntội lỗi của mình, biết rõ tình trạng nô lệ của bản thân và khao khát đựơc tự do như thế nào. Nhưng chúng ta không bi quan thất vọng vì Thiên Chúa không chê bỏ chúng ta nhưng trái lại còn yêu thương hơn bao giờ hết. Tình yêu ấy thúc bách chúng ta trở về với Ngài, tình yêu ấy giải phóng chúng ta và đưa vào tình trạng tự do của con cái Chúa. Người con hoang đàng trở về chỉ mong được làm gia nhân cho cha để có cái ăn, nghĩa là cách nào đó vẫn thiếu tự do, nhưng người cha đã tha thứ tất cả, đã phục hồi tư cách phẩm giá người con cho anh. Mỗi tội nhân chúng ta cũng vậy đựơc Chúa Cha yêu thương tha thứ qua sự hy sinh của Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cũng thực sự trở nên con cái dấu yêu của Chúa Cha, đồng thừa tự với Người.
Giao hòa là trở về đời sống tự do của con cái Chúa để rồi vững tin cho mình và vững tin cho anh chị em, cho dù tất cả đều sống trong tội lỗi nhưng tình yêu Thiên Chúa dư đủ để cứu độ tất cả.
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha nhân hậu luôn yêu thương tha thứ và đón nhận con cái lầm lạc trở về với mình. Tin tưởng vào lòng thương xót của Ngài chúng ta cùng dầng lời cầu nguyện.
1. Giáo Hội qua các vị chủ chăn được Chúa Giêsu Kitô uỷ thác sứ mạng giao hòa nhân loại với Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, Các Đức Giám mục và các linh mục của chúng ta luôn mang lấy tình yêu mục tử của Chúa Giêsu Kitô để chu toàn sứ mạng hoà giải tội nhân của mình.
2. Trên thế giới ngày nay vẫn còn biết bao đau thương, di họa của chiến tranh và lòng hận thù. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các dân tộc, các Quốc gia đang trong tình trạng chiến tranh biết ngồi lại với nhau, hoà giải với nhau để mọi người được vui hưởng nền hòa bình thực sự.
3. Mỗi người chúng ta cách này cách khác đều là những tội nhân, những người con hoang đàng trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết yêu mến bí tích Giao hòa, để thành tâm sám hối trở về với Chúa.
* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha Nhận hậu, chúng con cảm tạ Chúa đã luôn yêu thương tha thứ và chờ đợi chúng con từ bỏ tội lỗi và con đường lầm lạc để trở về với Chúa. Xin gia tăng đức tin, lòng cậy trông và lòng mến Chúa nơi chúng con để chúng con thực sự biết hồi tâm quay trở về nên những người con chí ái của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
28. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Kính thưa ông bà anh chị em! Mùa chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta sám hối trở về. Hôm nay, qua bài Tin Mừng mà thánh sử Luca tường thuật, Chúa Giêsu cho ông bà anh chị em hiểu trở về để được ích lợi gì?
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, người con thứ sau khi xài hết tiền, phải đi làm mướn để sống nhưng vẫn đói. Anh nhận ra tình trạng khốn khổ của mình và quyết tâm trở về với cha. Ích lợi mà anh hướng đến là xin làm đầy tớ để được ăn no, một mong muốn hoàn toàn vật chất. Nhưng thực tế, khi trở về, anh nhận được điều gì? Phúc Âm cho ta thấy, anh nhận ra cha chờ anh từ xa, chạy lại ôm cổ anh, hôn anh hồi lâu. Nhưng trong lúc đang hôn hồi lâu ấy, anh hiểu ra chuyện đói no đối với mình không còn quan trọng nữa, không cần phải xin nữa vì anh đã nhận được thứ quý giá gấp trăm ngàn lần, đó là niềm hạnh phúc lớn lao khi đón nhận tình thương quá sức tưởng trong vòng tay của cha mình.
Kính thưa ông bà anh chị em! Trở về với Chúa không phải để được Chúa ban làm ăn khắm khá, thăng quan tiến chức, được khỏi bệnh, thoát cảnh nghèo, hết cảnh khổ nhưng để được sống một cuộc đời Kitô hữu có Chúa thật sự sống trong vòng tay yêu thương, sống trong Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Đó là đủ, tất cả những thứ khác không cần thiết, không quan trọng nữa. Con nói như vậy, chắc có một số trong ông bà anh chị em thắc mắc, mình nghèo, mình khổ thấy mồ, muốn trở về với Chúa để thay đổi hoàn cảnh mà lại bảo Chúa thương là đủ, làm sao người ta chấp nhận được? Bây giờ, chúng ta cùng quay về với Lời Chúa hôm nay để tìm câu trả lời.
Đứa con thứ trở về được cha ôm vào lòng, lập tức cha sai đầy tớ mặc cái áo đẹp cho cậu, đeo nhẫn vào tay cậu, mang giày vào chân câu. Theo quan niệm người Do Thái lúc bấy giờ, cái áo tượng trưng sự tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng sự thay thế quyền bính, mang giày nói lên dấu hiệu một đứa con. Như vậy, những thứ đồ đạc cần thiết của một đứa con, người cha đã trao lại cho người con thứ, cũng đồng nghĩa với tha thứ và sẵn sàng đón con vào nhà. Trong đời sống đạo của ông bà anh chị em cũng vậy, một khi chúng ta hối cải trở về với Chúa và nhận ra mình đang sống trong vòng tay, trong lòng thương xót Chúa thì Thiên Chúa cũng sẽ trả lại cương vị đứa con thừa tự Nước Trời cho chúng ta vốn bị đánh mất do tội, hạnh phúc thiên đàng Chúa sẽ trao ban. Khi đó, mục đích sống đạo của mình đã đạt được, đã thành công. Như vậy, ở trong vòng tay yêu thương của Chúa không phải là đầy đủ lắm sao thưa ông bà anh chị em?
Vậy thì đến với Chúa, phần thưởng thiên đàng được ban mà cuộc sống hiện tại vẫn khổ hoài thì tính làm sao? Ông bà anh chị em đừng quá lo lắng vì khi người con thứ được trao lại cương vị làm con thì cái nó muốn là ăn no dĩ nhiên cũng được đáp ứng, làm con thì muốn ăn thứ gì không được. Do vậy, chúng ta hãy can đảm trở về bên Chúa và trình bày với Chúa hoàn cảnh của mình, con tin rằng Chúa cũng sẽ sớm nâng đỡ ông bà anh chị em, vì Chúa cũng từng hứa: "hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước, các thứ khác Chúa sẽ ban cho".
Nhưng bây giờ, ông bà anh chị em phải trở về bằng cách nào đây? Cách thì có nhiều lắm: mau mắn đi xưng tội trong mùa chay này, đi lễ Chúa Nhật cho đầy đủ, đọc kinh sáng tối trong gia đình, nhớ tới Chúa trong ngày sống của mình. Vấn đề quan trọng không phải là cách trở về nhưng là với hoàn cảnh sống hiện tại nhiều trở ngại, ông bà anh chị em có muốn trở về và có dám can đảm trở về hay không?
Trong khi ông bà anh chị em đang trên đường trở về với Chúa trong mùa chay này, xin được nhắc lại với ông bà anh chị em một ích lợi lớn lao chúng ta sẽ đạt được, đó là phần thưởng thiên đàng đó thưa ông bà anh chị em.
29. Người Cha tuyệt hảo--AM Trần Bình An
Sau tiếng gọi cửa nhà ông Mạc Văn Mỹ, sinh sống cạnh nhà thờ Xóm Chiếu, một chàng trai cao lớn ra đón chúng tôi bằng nụ cười hiền hậu và một cách giao tiếp chào hỏi khá nhanh nhẹn. Ít ai có thể nghĩ rằng đây là chàng trai Mặc Đăng Mừng đã từng bị bệnh down từ khi mới chào đời. Tuy nhiên, qua những năm phấn đấu không ngừng cùng với sự đồng hành của người cha, hiện nay chàng trai này đã biết chơi đàn Organ, bơi lội, đai nâu võ Aikido và đặc biệt anh vừa nhận chứng chỉ nghề tại trường ĐH Văn Lang với chuyên ngành đồ họa.
Tiếp chúng tôi trong căn nhà nhỏ luôn rộn rã tiếng cười, ông Mạc Văn Mỹ (bố của Mừng, 66 tuổi) vui mừng đem khoe cuốn album hình ảnh của con trai trong lớp học đàn, học võ và những tấm huy chương Mừng đạt được trong các kì thi thể dục thể thao. Bắt đầu câu chuyện về cuộc đời và nghị lực của cậu con trai mình, ông Mạc Văn Mỹ cho hay, ông và vợ mình là bà Đặng Thị An (66 tuổi) cưới nhau vào năm 1970, sinh được Mừng năm 1988. Từ khi biết Mừng mắc bệnh down, ông Mỹ như mất đi tất cả, nhiều lần ông định đầu hàng nghịch cảnh, nhưng ông nghĩ lại vì thương cho số phận chẳng may của con trai mình. Ông Mỹ đã đưa Mừng đi nhiều nơi chữa trị nhưng không có kết quả. Không muốn con chấp nhận số phận, ông Mỹ đã tự tìm hiểu nhiều phương pháp tự dạy cho con học và tập cho con vượt qua căn bệnh để hòa nhập cùng cộng đồng. Ông Mỹ bồi hồi nhớ lại: “Không muốn con bị người khác chê cười, nên tôi đã tìm phương pháp để dạy cho con biết học Anh văn, học nghề và học nhiều thứ khác để cháu được phát triển tư duy một cách bình thường". Những ngày đầu tiên cho con đi học ông Mỹ muốn con mình được học đàn, để kích thích các dây thần kinh lên não. Nhiều lần ông Mỹ tìm đến các nơi dạy đàn để đăng kí cho con học, nhưng đều bị từ chối. Không bỏ cuộc, nhiều tháng liền ông tìm đến phòng dạy đàn ở nhà thờ để học lỏm cách đánh đàn, rồi về bàn với vợ gom góp tiền mua đàn về dạy cho con tập đánh đàn. Ngoài việc dạy con đánh đàn, ông Mỹ còn dành thời gian mỗi buổi chiều để tập cho Mừng đi trên những viên đá xanh, giúp kích thích các dây thần kinh từ lòng bàn chân lên não, khiến việc tiếp thu của Mừng nhạy bén hơn.
“Khi đó tôi gõ cửa nơi bán đàn để xin cho con vào học, nhưng thầy bảo con tôi bị bệnh thế thì học được gì. Lúc đó buồn lắm nhưng tôi bảo với họ, là nếu con tôi biết đánh đàn, thì phải nhận dạy cho cháu, thế là họ cho đánh thử, khi con đánh được một đoạn nhạc, thì họ tỏ ra rất ngạc nhiên và sau đó nhận dạy cháu đến bây giờ”, ông Mừng tâm sự. Đến năm Mừng theo học ở trường Võ Thị Sáu, ông Mỹ phải đưa đón con đi học, rồi ngồi lại trường để đợi đón con về. Những ngày nghỉ, ông dạy cho con trai học thêm Anh văn. Thấy việc học phổ thông quá khó đối với con, ông quyết định cho Mừng nghỉ học lớp 9 và tìm trường dạy nghề đồ họa cho Mừng theo học. Với những môn học có tính sáng tạo, Mừng tỏ ra rất thích thú. Những ngày con đến học môn đồ họa ở trường đại học Văn Lang, ông Mỹ xin thầy dạy cho phép được vào học cùng con, những ghi chú của thầy cô dặn dò ông tỉ mỉ ghi chép lại, để về nhà giảng lại cho con. Cứ như thế sau 5 tháng Mừng đã hoàn thành khóa học chứng chỉ nghề kĩ thuật viên đồ họa. Ngoài khóa học trên, ông Mỹ còn cho con mình tham gia rất nhiều khóa học khác như: kỹ năng sống, võ thuật, Anh văn… để Mừng có điều kiện phát triển tốt và tăng tính tư duy hơn. (Hành trình 27 năm của người cha biến đứa con bị bệnh Down thành người bình thường, Tri Thức Trẻ)
Người cha kể trên chứa chan tình phụ tử, mới kiên nhẫn suốt 27 năm dạy dỗ, huấn luyện đứa con bệnh hoạn nên người hữu dụng, thật đáng khâm phục. Nhưng còn có một Người Cha tuyệt vời hơn thế nữa, luôn thương yêu, thương nhớ, thương xót con cái ngay từ khi lọt lòng mẹ đến trọn cả cuộc đời. Đó chính là Người Cha Tuyệt Hảo ở dụ ngôn trong Tin Mừng Luca hôm nay.
Đức Giêsu chuẩn bị rất chu đáo trước khi bắt đầu thuật dụ ngôn này. Người cẩn thận giáo đầu bằng hai dụ ngôn con chiên đi lạc và đồng tiền bị đánh mất, tha thiết mời gọi lòng ăn năn, sám hối. Vào nội dung chính, Đức Giêsu phác hoạ chân dung Người Cha Tuyệt Hảo, tràn trề tình yêu dành cho hai người con, mặc dù cả hai người đều không cảm nghiệm thấu đáo tình phụ tử vĩ đại đó.
Thương yêu
Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”. Và người cha đã chia của cải cho hai con. Không hề can ngăn, thắc mắc, khó dễ, lưỡng lự, Người Cha yêu thương con quá đỗi, sẵn sàng chiều theo ý con, mặc dầu Người Cha nhìn thấy tương lai đen tối, mịt mù của con. Người Cha thương yêu ban cho con đầy đủ tài sản, hình hài, tâm trí, lẫn linh hồn. Hơn thế nữa, Người còn ưu ái trao thêm sức mạnh, tài năng, nghị lực, ý chí, chẳng thiếu thốn chi cả. Chàng trai thứ hăm hở vào đời chinh phục lợi danh, chinh phục địa vị, chinh phục cả những bóng hồng. Thế nhưng, chẳng bao lâu, chính chàng lại bị thế gian khắc phục, bị chế ngự bởi tiền tài, chức tước, lợi lộc, đam mê, hưởng thụ. Chàng trở nên nô lệ cho thân xác, vật chất, thế gian.
Tuy Đức Giêsu đã khẳng nhận: “Ai phạm tội thì thành nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, (chỉ) người con mới được ở luôn mãi.” (Ga, 8, 34-35), nhưng tình phụ tử cao cả vẫn tìm cách cứu vãn con người khỏi thân phận nô lệ: “Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự tự do.” (Ga 8, 36) Vì thương yêu, Thiên Chúa Cha ban chính Con mình, là Đức Giêsu nhập thể làm người, chịu khổ nạn, chịu chết để cứu chuộc, nhân loại mới thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi, trở lại làm con Chúa.
Thương nhớ
Mặc dù thương con vô ngần, Người Cha đành gạt nước mắt, thổn thức nhìn con ra đi, trái tim Cha rướm máu đào, cũng đành nín thinh, cam chịu. Khi con đi xa rồi, Người Cha thương nhớ con da diết, ngày ngày đều ra đầu ngõ lóng ngóng, mong tin con, chờ đón con về. Chàng trai thứ trở về thật, vì sa cơ thất thế, vì chẳng còn chốn nương thân, cũng chẳng có gì có thể làm dịu cơn đói khát dai dẳng bao tháng ngày. Chỉ còn con đường sống duy nhất là trở về với Người Cha thân thương.
Có lẽ chàng trai nghe được lời mời gọi thương nhớ của Cha: "Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. (Mt 11, 28) Chàng dứt khoát trở về nhà Cha.
Anh ta còn ở đằng xa, thì Người Cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Ôi giây phút trùng phùng hội ngộ, những giọt nước mắt nóng bỏng, vui sướng, lăn trên gò má nhăn nheo, dãi dầu mưa nắng mòn mỏi đợi chờ.
Thương xót
Nhìn thấy con thảm hại, rách rưới, gầy gò, ốm yếu, xanh xao, Người Cha chạnh lòng thương xót, không kịp để con nói hết lời tạ tội, đã chủ động chạy đến ôm hôn con, vội sai gia nhân mang áo mới, nhẫn ngọc, giầy da cho chàng. Giải thoát chàng khỏi kiếp vong thân, nô lệ, phục hồi lập tức phận làm con cho chàng. Rồi Người hân hoan mở tiệc, mời hàng xóm láng giềng đến chung vui, bởi “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Làm sao diễn tả nổi niềm vui tưng bừng trên Thiên Quốc, khi có người hoán cải hồi hương. “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng, vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.” (Lc 15, 10)
Nhưng cuộc vui chưa được trọn vẹn, khi người anh cả cố chấp, đố kỵ, hẹp hòi, không thèm nhận lại người em hoang đàng trở về. Anh giận dỗi không chịu vào nhà dự tiệc. Như vậy, tuy ở nhà với Cha, nhưng người anh cả gần mặt cách lòng, tâm hồn đi hoang từ lâu. Làm sao hiểu nổi Lòng Thương Xót vô ngần của Người Cha.
Vậy người anh cả có vâng lời Cha, đón tiếp em mình, hay người em có thật lòng yêu thương và trở lại mãi với Người Cha và anh? Dụ ngôn vẫn còn bỏ ngỏ cái kết hoàn toàn có hậu, thiếu vĩ thanh. Bởi vì Đức Giêsu muốn mời gọi từng Kitô hữu, sẵn sàng nhập vai vào hai người con, cùng diễn tả cuộc đoàn tụ, hiệp nhất, yêu thương, bình an và hạnh phúc trong nhà Người Cha Tuyệt Hảo.
Mới đây, ĐGH Phanxicô giới thiệu về Người Cha với mười lăm trẻ em từ khắp thế giới, trong buổi gặp gỡ chiều thứ hai, 22-02-2016, tại thính phòng Phaolô VI: “Đừng sợ nếu con lỡ phạm tội. Tình yêu của Chúa Giêsu lớn hơn hết mọi sự, cứ đến với Chúa và để Chúa ôm con.”(JB Thái Hoà, Andrea Tornielli, Vatican Insider)
“Hạnh phúc của một người không căn cứ ở của cải, chức vụ, nhưng ở tình yêu, mà người ấy tập yêu suốt đời.” ( Đường Hy Vọng, số 462)
Lạy Chúa Giêsu chí ái, xin dủ lòng thương xót chúng con, vốn như hai người anh em trong dụ ngôn, người bỏ nhà ra đi hoang, người ở nhà mà xa cách Cha. Xin Chúa đánh động tâm hồn chúng con biết quy hướng về sự thiện, tốt lành, thánh đức, để chúng con can đảm từ bỏ cám dỗ, thế gian, xác thịt, mà ăn năm sám hối trở về tình yêu của Người Cha Nhân lành, để chúng con biết khoan dung hầu được tha thứ, biết cho đi hầu được lãnh nhận, biết yêu thương để được hưởng Lòng Thương Xót.
Lạy Mẹ Maria, xưa Mẹ luôn gần gũi, đồng hành với Con Mẹ, xin Mẹ đừng để chúng con xa rời Chúa, đừng nghe theo đam mê, dục vọng, tiền bạc, danh vọng mà bỏ nhà Cha Nhân Lành. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con luôn biết sám hối trở về, biết yêu thương tha thứ cho nhau, để luôn được sống trong tình yêu Chúa. Amen.
30. Đường của con người và đường của Thiên Chúa--Lm. Nguyễn Hữu Thy
Dụ ngôn “ Người cha nhân hậu” trong bài Tin Mừng hôm nay đã nêu rõ những con đường khác nhau: Con đường của người con thứ, con đường đã dẫn đưa cậu đi đến một miền đất xa lạ, cách xa khỏi cha cậu. Con đường của người cha ra đón cậu con thứ
Con đường của người con cả.
Và con đường người cha đi gặp người con cả.
Ðó là những con đường khác nhau, và chúng sẽ: hoặc dẫn tới đích, hoặc chúng chỉ là những ngõ cụt hay là những con đường mất hút trong rừng sâu và không tìm được lối ra.
Thứ nhất: Con đường đi tìm lại sự tự do.
Với số gia tài trong tay, người con thứ đã bỏ nhà cha mình và trẩy đi đến một miền xa lạ. Cậu muốn tận hưởng hạnh phúc và sự tự do riêng của mình theo ý muốn. Người cha đành phải để cho cậu ra đi. Giờ đây mọi sự chỉ còn tùy thuộc vào thái độ của cậu trước các thách đố của đời và liệu cậu có đứng vững được hay không! Vâng, vấn đề có tính cách quyết định là ở chỗ: Tâm tình cậu con vẫn còn luôn tưởng nhớ đến cha cậu và luôn gắn bó với ông, cũng như cậu biết xử dụng phần gia tài được chia cho cậu, đúng với ý cha cậu; hay: Cậu đã cắt đứt mọi liên hệ với cha mình và tổ chức một cuộc sống riêng không dính dáng gì với cha nữa, nếu không nói là một cuộc sống phản lại cha! Sự tự do với cha hay một sự tự do không có cha! Chúng ta đọc thấy trong câu chuyện dụ ngôn. Người con thứ đã tìm cách sống sự tự do của mình không có cha!
Nhưng chúng ta cũng thấy được rằng con đường của người con thứ - với sự tự do không có cha - đã đưa dẫn cậu tới sự bất hạnh, tới một tình trạng bất tự do.
Thật vậy, những ai không còn muốn liên hệ gắn bó với cha mình, thì sẽ ràng buộc mình với nhiều thứ khác: tiền bạc, các đòi hỏi tự nhiên, các thú vui lệch lạc rẻ tiền, v.v... Người ta sẽ trở thành nô lệ cho những thứ đó và tự đánh mất các phẩm chất, tư cách và chính bản ngã của mình. Người ta sẽ trở thành một con người thiếu nội tâm. Ðó chính là sự đánh mất bản sắc riêng!
Câu chuyện dụ ngôn đã nói lên tình trạng buồn thảm đó khi tường thuật: con đường của cậu con thứ đã kết thúc nơi những con heo. Nói cách khác: Người con thứ đã không đứng vững được trước các cám dỗ và thử thách của đời. Cậu đã thất bại trong mọi lãnh vực: tài chánh, luân lý, đạo đức, nhân bản. Cậu thực sự hoàn toàn kiệt quệ và phá sản! Cậu đã đánh mất tất cả. Trong thực tế, cậu quả là một người con hoang đàng dại dột!
Tuy nhiên, trong trái tim cậu, sự khao khát mong muốn sự tự do quá mãnh liệt, khiến cậu ngay giữa cảnh mất mát thất bại đã can đảm đứng lên và bước theo con đường dẫn về cùng cha cậu. Ðó chính là con đường dẫn tới sự tự do chân thật, một sự tự do cậu chỉ có được qua sự gắn bó mật thiệt với cha!
Thứ hai: con đường của người con cả - một con đường rừng!
Người con cả trong dụ ngôn tuy luôn có mặt bên cạnh với cha cậu, nhưng lòng cậu lại cách xa cha. Con đường của cậu xem vẻ bên ngoài không đi xa khỏi cha như con đường của đứa con thứ. Nhưng người con cả cũng không đi chung với cha cậu trên cùng một con đường, khi ông đi ra đón người con thứ của mình đang quay gót trở về cùng ông.
Ai không liên kết gắn bó với cha, thì cũng không tìm ra con đường dẫn tới người anh em của mình. Người con cả nói với cha cậu: “ Thằng con của cha đó đã ăn chơi trác táng và phung phá tiền bạc của cha với bọn đĩ điếm...!” Người cha liền nhân từ và đầy thông cảm cắt nghĩa cho cậu hiểu: “ Em con đã quay trở lại nhà, nó đã chết nay sống lại, nó đã mất nay lại tìm thấy...!” Ai không đi trên con đường dẫn tới người anh em của mình, người đó cũng lỡ bước trên con đường dẫn về cùng cha.
Thứ ba: Con đường của người cha!
Con đường của người cha trong dụ ngôn là hình ảnh tượng trưng cho con đường của Thiên Chúa. Con đường đó dẫn tới nhân loại. Người cha chạy ra đón tiếp đứa con hư hỏng trở về. Ông vui mừng ôm con vào lòng, chứ không hề trách móc la mắng con, như thể: Lỗi lầm của mi thật quá nặng nề. Cái dại của mi thật không sao nói hết... Nhưng tao tha cho lần này là lần chót...! Không. Ông không hề nói gì cả, ông chỉ vui mừng ôm lấy con! Ðó không phải là “ chiến thuật” sư phạm, nhưng là dấu chỉ của tình thương và lòng nhân hậu chân thành của một người cha: Con tôi đã mất và nay lại trở về với tôi! Ðứa con hoang đàng hư hỏng nay lại trở về trong nhà cha cậu và được nhận lại quyền làm con của mình.
Ðúng vậy, tình yêu đích thực không bới mói tội lỗi, nhưng là trao ban sự tha thứ và niềm vui mừng. Tuy nhiên người cha cũng đi ra gặp cậu con cả và cắt nghĩa cho cậu hiểu để cậu cùng mừng với ông. Vì ông rất biết là một bữa tiệc chỉ trọn vẹn khi mọi người cùng vui vẻ với nhau!
Nói tóm lại, qua dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu muốn nói cho chúng ta những điều này:
1. Thiên Chúa là một Thiên Chúa đi tìm kiếm con người, một Thiên Chúa mời gọi con người đến dự tiệc với mình, một Thiên Chúa vẫn giữ vững lời mời, cả khi chúng ta tỏ ra thất trung và đi theo con đường của mình tự chọn lấy, chứ không bước đi trên con đường của Người đã chỉ cho.
2. Thiên Chúa thương yêu chúng ta vô cùng, đến nỗi một kẻ dù đã sa ngã và lâm vào vòng tội lỗi, vẫn có thể trở thành một người tốt lành được. Người không bao giờ loại trừ ai, vì trong tình yêu của Người, Thiên Chúa không hề thất tín. Tình yêu của Người vô cùng bao la, đến nỗi Người vẫn luôn kiên tâm chờ đợi mong mỏi cả những kẻ đã bỏ Người đi xa muôn dặm. Người đi gặp gỡ họ và đón tiếp họ, như thể không hề có gì đã xảy ra, tương tự như người cha đón tiếp người con hư hỏng trong dụ ngôn.
3. Thiên Chúa là một Thiên Chúa của tình yêu thương, của niềm hoan lạc vui mừng, Ðấng hằng muốn cùng chung vui với con cái loài người chúng ta.
Chớ gì tất cả những mặc khải đó mang lại cho tất cả chúng ta sự can đảm và sức mạnh, để tìm ra được con đường sám hối, con đường dẫn chúng ta tới cùng Thiên Chúa và tới cùng những người anh em đồng loại của chúng ta. Amen.
31. Lòng Cha trời cao biển rộng--AM. Trần Bình An
Có trường hợp sau khi bỏ nhà đi hoang trở về, các cậu ấm cô chiêu cảm thấy tởn tới già, như trường hợp của K. ở huyện Phụng Hiệp (Hậu Giang). Sau khi liên tục chứng kiến cảnh cha mẹ mình cứ xung đột, lại thường xuyên bỏ bê con cái, để lo chuyện làm ăn, nên K. đã bỏ nhà lên TP.HCM đi hoang với một bạn “chat” có cùng cảnh ngộ.
Được chừng 10 ngày, K. cảm thấy nhớ nhà, nhưng không biết làm cách nào trở về, vì trong túi không còn một xu. May thay, nhờ một phụ nữ người Hoa tốt bụng cho 50.000 đồng, K. đã đón xe tốc hành về nhà. Kể từ ngày đó, cha mẹ của K. cũng giảm bớt sự căng thẳng với nhau và chăm sóc anh em K. rất chu đáo.
Tuy vậy, khi tiếp xúc với mọi người, K. cảm thấy xấu hổ vô cùng. Vì theo K.: “Ở nhà có cha mẹ, có chăn êm nệm ấm tội gì không ở, đi hoang chi cho... muỗi cắn và bị mọi người dòm ngó bằng cặp mắt lúc nào cũng đề phòng.” (Người Lao Động)
Câu chuyện trên cũng như dụ ngôn người con hoang đàng trở về hôm nay, (Lc 15, 11- 32) vẫn còn là một đề tài nhức nhối và nóng bỏng trong xã hội hiện đại.
Đi hoang trở về
Người con thứ đi hoang đã sám hối trở về. "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.” (Lc 15, 18-19)
Người cha già cả, dẫu tuổi cao sức yếu, vô cùng hân hoan mừng rỡ, thấy con từ đàng xa, đã lật đật, bước thấp bước cao, chạy đến ôm hôn. Cuộc trở về trở nên sự kiện long trọng, nổi đình đám của một gia đình đang ưu uất, buồn bã, phân ly bấy lâu nay.
Khi vào bước đường cùng, người con thứ mới chạnh lòng nhớ đến Cha già xa xăm. Chàng mới nhận ra tấm lòng nhân hậu của Cha, khiến cho đôi chân lãng tử quay trở về.
Người Cha lâu nay bị lãng quên, nay kịp thời lóe sáng như ngọn hải đăng, dẫn dắt và cứu thoát chàng khỏi chốn tối tăm, vô vọng. Trong cảnh khốn cùng, tất cả đều qua đi, chỉ còn lại tình yêu, ta có thể sở hữu tình yêu mãi mãi, trong khi những thứ khác thì qua đi. (1Cr 13,8b-10).
Mỗi khi tôi sa cơ thất thế, hoạn nạn hay khốn khổ, sao tôi không nhớ ra, vẫn có Người Cha Nhân Lành, đang mòn mỏi chở đợi tôi tha phương, trở về nương tựa? Việc gì tôi cứ mãi lo âu buồn bã, thất vọng với cõi đời u ám, lọc lừa, bất nhân?
Đi hoang ở nhà
Người anh trái lại, tuy ở nhà mang tiếng là phụng dưỡng cha, nhưng lòng dạ đen tối, chất chứa đố kỵ, ghen tuông, hằn học, khi thấy “thằng con của cha đó” trở về. Anh không thèm nhìn mặt đứa em, đã cải tà quy chánh. Nghe biết chuyện, anh còn nổi giận, không thèm bước vào căn nhà, đang rộn rã niềm vui tái ngộ.
Lòng dạ cố chấp, tánh tình hẹp hòi, nhỏ mọn, đã cản bước chân anh hội nhập vào cuộc chung vui và tha thứ. Tuy anh ở với cha già, nhưng chỉ có thân xác hiện diện, còn tấm lòng, tinh thần anh đã đi hoang từ hồi nào! Hóa ra, anh cũng chỉ thèm thuồng của cải, vật chất, tầm thường, phù vân, như chú em ngày xưa. Anh chỉ mong được một “con dê con,” để tưng bừng liên hoan đánh chén, bù khú với chúng bạn.
Thực ra, anh kiêu căng, tự phụ là đứa con hiếu thảo, ngoan ngoãn, biết vâng nghe người cha. Cho nên, anh mới không hề ngượng mồm, vanh vách kể công: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà…” Anh nào cảm nhận, thán phục, kính trọng, và ca ngợi tấm lòng Người Cha Nhân Lành vô bờ, chứa chan yêu thương, tựa như trời cao biển rộng!
Giọng lưỡi anh chẳng khác chi lời cầu nguyện của người Pharisiêu, huênh hoang, lớn giọng, kể lể công trạng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam bất chính ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,11-12).
Tôi cũng hay coi thường, khinh miệt người khác sống theo thế gian, chộp giật, mánh mung, cơ hội, háo của, háo danh, tham quyền cố vị… Nào khác chi người anh trong dụ ngôn này, cũng kể lể, so sánh, dèm pha, chê bôi, để tôn mình, khoe khoang lòng đạo đức, tốt lành. Thiệt là quá đáng! Làm sao vui lòng Người Cha Nhân Lành được?
Người Cha Nhân Lành
Các nhà chú giải Kinh Thánh đều tỏ ra bất đồng tình về cái tựa Người Con Hoang Đàng, đặt cho dụ ngôn này, vì làm sai lệch ý nghĩa. Có lẽ lấy tựa là Người Cha Nhân Lành thì phù hợp hơn.
Người Cha nhẫn nhục, chia tài sản cho con thứ, dù biết chàng sẽ phung phí ăn chơi sa đọa. Người vẫn tôn trọng sự tự do của chàng. Rồi sau này lại nhẫn nhục, năn nỉ người con cả, nguôi cơn giận hờn vào nhà chung vui.
Người Cha còn quảng đại nhân từ, quên sạch mọi tội lỗi, mọi lỗi lầm, bất hiếu, không để con thứ kịp nói hết lời ăn năn, sám hối, mà hoan hỉ, vội sai ngay gia nhân hầu hạ, phục dịch chàng. "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết, mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy." (Lc 15, 22-24)
Người Cha nói chẳng khác chi ông chủ tìm lại được con chiên lạc: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc.” (Lc 15, 6) Hoặc như bà góa hớn hở tìm được đồng tiền rơi mất: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.” (Lc 15, 9)
Tôi khá nhiều khi thất vọng, không nhớ đến Người Cha Nhân Lành, đang mòn mỏi trông mong tôi trở về mái nhà ấm cúng, bình an. Có lẽ vì tôi chủ quan, cho mình đã ngoan đạo, mà thực ra, chỉ giữ đạo hình thức theo luật buộc, theo chân Pharisiêu, mà tâm hồn cứ mãi đi hoang, đi bụi, mãi thèm “con dê con”, mải mê ham vui, mải mê đố kỵ, ganh ghét,…
May thay, bí tích hòa giải đã giúp tôi hoán cải trở về với Người Cha Nhân Lành. Người hằng mong tôi sám hối trở về với tình thương vô bến bờ. Lúc đó, Người mặc cho tôi tấm áo linh hồn mới tinh tuyền, đeo vào tay nhẫn vàng vương quyền, ban cho tôi đôi dép của người tự do, thoát ách nô lệ tội lỗi. Người tưởng thưởng tôi Bữa Tiệc Thánh Thể với chư Thánh Thiên quốc, trong tiếng đàn ca, múa hát tưng bừng của các Thiên Thần hoan hỉ chào đón. Người Cha Nhân Lành chẳng hề tiếc gì, để mừng con trở về vòng tay yêu thương.
Người lạc đường, thất vọng; người không biết đích, vô vọng, người tiến về đích, hy vọng; ở đó con sẽ gặp Thiên Chúa, Cha Nhân Từ đợi chờ con, con sẽ toại vọng. (Đường Hy Vọng, 664)
Lạy Chúa Giêsu nhân lành, xin cho con luôn biết hồi tâm, nhận ra sự dại dột và tệ bạc của mình trước tình yêu vô bờ bến của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin nhắc nhủ con luôn biết trông cậy vào lòng Người Cha Nhân Lành, để ăn năn, sám hối trở về với Ngài.
32. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Lm. Alfonso
Tin mừng Lc 15: 1-3.11-32: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha thôi.”
Suy niệm:
Theo truyền thống phụng vụ của Giáo hội Công Giáo, Chúa Nhật IV Mùa Chay là Chúa Nhật của niềm vui, hay còn gọi là Chúa Nhật Letare. Letare là chữ đầu của bài Ca Nhập Lễ trích từ sách ngôn sứ Isaia 66,10-11: “Vui lên nào Giêrusalem hỡi…”. Niềm vui của Chúa Nhật IV Mùa Chay là đã đi được nửa chặng đường của việc giữ Mùa Chay Thánh…
Bài đọc I mời gọi hãy vui lên vì Thiên Chúa đã cho Dân Người tiến vào đất mà Thiên Chúa đã hứa. Một kỷ nguyên mới bắt đầu đối với dân Do Thái. Niềm vui ấy được tiến triển trong Tân ước. Bài đọc II cho chúng ta thấy, nhờ Chúa Kitô mà con người được hòa giải với Thiên Chúa Cha.
Thực ra, người cha người mẹ nào cũng mong muốn con cái thành người, sống đúng với Đạo Trời. Đó là niềm hạnh phúc lớn nhất của cha mẹ chứ chưa nghĩ về việc con cái có thể phụng dưỡng được mình hay không. Câu chuyện Tin mừng hôm nay cho chúng ta hình ảnh về một gia đình người cha nhân hậu đối xử với hai đứa con trai đáng cho chúng ta liên hệ về chính mình.
Theo truyền thống văn hóa Á Châu, con cái chỉ đề cập đến việc chia gia tài khi cha mẹ đã qua đời, hoặc nếu khi cha mẹ còn sống thì chính người cha người mẹ muốn chia gia sản cho con cái mới là lẽ thường. Còn việc con cái đề nghị cha mẹ chia gia tài ngay lúc các ngài còn sống thì chẳng khác gì trù cho cha mẹ chết, và sẽ bị xem là nghịch tử. Dầu vậy, người cha trong đoạn Tin mừng vẫn rất mực thương con, sẵn sàng chấp nhận đề nghị của con, ông chia cho cả hai đứa con.
Nhận được gia tài, thay vì phụng dưỡng cha, người con thứ để mặc người cha già lủi thủi ở nhà. Nó trẩy đi phương xa ăn chơi trác táng. Đến khi hết tiền hết bạc, nó phải chăn heo, loại động vật mà văn hóa Do Thái xem là dơ bẩn và họ không chăn heo và cũng không ăn thịt heo bao giờ. Người con thứ lâm vào cảnh cùng khốn của mình, không chỉ về phương diện vật chất mà còn cả về phương diện phẩm giá: “Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho.” Hậu quả của việc phung phí gia sản đã dẫn người con đến sự cùng tận của kiếp người, sống không ra người.
Người con thứ dự tính trở về mái nhà của cha không phải vì thương cha mà là vì miếng ăn: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!” Lúc gặp khốn cùng, con người mới nghĩ về Thiên Chúa, chạy đến với Ngài. Nhưng lắm khi những điều con người ta suy tính trong lòng chỉ là vụ lợi, việc cất bước trở về chẳng có gì là cao thượng. Dẫu vậy, Thiên Chúa chấp nhận một cuộc trở về không hoàn hảo, vì Ngài có thể vẽ đường thẳng từ những đường cong.
Lẽ thường của một người cha hẳn là rất giận đứa con, có thể không nhìn mặt, hay ít ra cũng chửi cho nó một trận. Nhưng người cha trong câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta cảm nghiệm về một Thiên Chúa nhân từ đến tột cùng. “Anh ta còn ở đằng xa, cha anh chợt trông thấy, liền động lòng thương” Từ khi đứa con ra đi khỏi nhà cha, hằng ngày người cha tựa cửa mong ngóng đứa con trở về, và còn ra cả góc phố đi đi lại lại trông đợi con và hy vọng con sẽ quay về. Vì thế, khi thấy bóng dáng của người con còn thấp thoáng từ xa, ông đã trông thấy. Đoạn Tin mừng mô tả người cha “chạy ra ôm cổ con và hôn lấy hôn để”. Đâu rồi một người cha theo văn hóa Đông Phương với định kiến “kính nhi viễn chi”, nào là phải có vẻ mặt cương quyết, khuôn phép uy nghiêm, cử chỉ từ tốn. Nhưng không, người cha chạy tới ôm con như một đứa trẻ chờ mẹ đi chợ về, tiếng nói của con tim khiến ông bỏ qua mọi khuôn phép vốn có.
Người con thứ dự định một bài diễn văn thật dài gồm hai phần: phần thứ nhất là “con đáng tội với trời và với cha, con không đáng được gọi là con cha nữa”, và phần thứ hai là “xin cha đối xử với con như một người làm công của cha”. Quả thật, tục ngữ có câu: “Áo mặc sao qua khỏi đầu”, “Con cãi cha mẹ trăm đường con hư”. Nhưng dầu người con cái trong gia đình có như thế nào thì đối với cha mẹ, con vẫn là con, vẫn là đứa trẻ non nớt mà mình phải bao bọc. Chính vì thế mà người cha đã cắt ngang, không cho anh nói phần thứ hai để tránh cho anh sự nhục nhã, và cũng để cho thấy lòng tha thứ vô điều kiện của ông đối với con mình. Còn tế nhị hơn nữa, ông phục hồi lại địa vị làm con của người con thứ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!” Việc người con trở về đáng để vui mừng: “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Ông sẵn sang thứ tha để mở cánh cửa cho con mình trở thành một con người mới, có một khởi đầu lại.
Liệu người cha có thiên vị tình thương dành cho người con thứ không? Người con cả nghĩ như thế, nên anh căm phẩn trách cứ cha. Hẳn là chúng ta cũng đồng cảm với người anh. Nhưng cùng nghe kỹ lại xem: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho con lấy được một con dê để con ăn mừng với bạn bè”. Những lời trách cứ này là những lời đạo mạo của người Pharisêu tự kiêu xem mình tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, coi mình tốt lành và sẵn sàng lên án tội lỗi của người khác một cách không thương tiếc. Người con cả sống với cha nhưng anh đâu coi ông là cha của mình mà như tương quan ông chủ với đầy tớ, vâng lời cha mà như là thi hành lệnh của chủ, sống với cha mà đếm từng năm tháng, và kể công trách móc cha.
Tệ hơn nữa, anh dùng từ “còn thằng con của cha kia”, vì tính ghen tỵ nhỏ nhen, anh sẵn sàng cắt đứt tình anh em với người em mình khi nó hoạn nạn, điều này cũng đồng nghĩa với việc anh cắt đứt tình cha con. Anh đang ở nhà đó, nhưng lòng anh đã ra đi, vì thế anh cũng cần phải sám hối và quay về.
Cách xử sự của người cha dành cho người con thứ đi hoang thế nào thì ông cũng xử sự bao dung với đứa con cả ganh tỵ như thế. Với giọng nhất mực trìu mến, người cha nói với con đầy tâm tình: “Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con”. Đây là một lời đầy tế nhị để nhắc khéo cho cậu rằng ông cần “tình cha con” chứ không phải là “nghĩa chủ tớ”. Ông yêu thương, chẳng tiếc gì với con thứ, thì cũng vậy, những gì của ông cũng là của con cả.
Xét mình trong mùa Chay Thánh này, chúng ta nhận thấy dáng vấp của chúng ta trong hình ảnh của người con thứ. Được sống trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa qua gia đình, xóm làng, đồng nghiệp, giáo xứ, nhưng chúng ta vẫn cố tình “đi hoang” khi chúng ta làm biếng cầu nguyện, đọc kinh, dự lễ, lại phạm tội trọng mất lòng Chúa. Có khi chúng ta thấy dáng vấp của chúng ta nơi người con cả kiêu ngạo, ích kỷ, xét đoán, nói xấu, ghen ghét anh chị em mình. Nhiều lúc chúng ta cũng tưởng rằng mình đang giữ đạo rất tốt, tham dự Thánh lễ Chúa nhật đều đặn, giữ Mười Điều Răn chỉ vì sợ Chúa phạt… Chúng ta cần nhìn lại thái độ sống của mình với Chúa trong tương quan cha-con hơn là nghĩ đến việc xét xử, bằng không chúng ta chỉ sống giữ luật vì sợ sệt hơn là yêu mến.
Người cha năn nỉ người con cả bước vào tham dự niềm vui đoàn tụ. Vậy chúng ta hãy tự trả lời cho câu hỏi: Người con cả có chịu bước vào nhà không? Mùa Chay là mùa hoán cải, mùa trở về. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta mạnh dạn đứng dậy và quyết tâm trở về với Chúa, làm hòa với anh chị em, nối lại sự nguội lạnh trong đời sống gia đình giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, giữa tình anh chị em với nhau. Amen.
33. Người con cả là chúng ta--Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
Đã nhiều lần chúng ta nghe về người con hoang đàng, về người cha nhân từ. Hôm nay chúng ta để mắt tới người con cả trong dụ ngôn nổi tiếng của Chúa Giêsu mà chỉ một mình thánh Luca ghi lại, với 2 câu hỏi: (1) Tại sao lại để mắt tới người con cả? (2) Làm thế nào để ta tránh khỏi ý nghĩ, thái độ như người con cả này?
1. Tại sao lại để mắt tới người con cả?
- Vì mỗi người chúng ta có dáng dấp giống anh ta. Anh ta đi làm về, nghe trong nhà đàn ca múa hát. Anh khoát tay dò hỏi một đứa ở, nó cho biết cha của anh đang bày tiệc mừng đứa con đi hoang mới về. Anh nổi giận, không thèm vào nhà. Người cha phải ra tận nơi để dỗ dành anh ta. Anh phân phô hơn thiệt –rất có lý- khiến người cha đứng nghe từ đầu đến cuối (khác người con thứ không cho nói…): “Đã bao năm, con ở với cha, chẳng trái lệnh cha điều nào. Thế mà có bao giờ cha thí cho con một con dê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn đâu? Vậy mà khi cái thằng con của cha kia đã ngốn hết gia tài của cha cùng với gái làng chơi, thì nay trở về cha lại làm thịt bò tơ béo để ăn mừng nó!” Lập luận lý lẽ của người con cả này không xa lạ gì với chúng ta lắm đâu –nếu một ngày nào chúng ta nhận ra rằng Chúa cũng cứu, cũng cho vào thiên đàng những người chưa theo đạo, hoặc những người theo đạo mà chẳng lễ lạy gì, hay tệ hơn nữa, như lời Chúa nói: “Tôi nói thật cho các ông: những người thu thuế, tội lỗi, đĩ điếm, sẽ vào Nước Trời trước các ông”.
Chúng ta, những người đạo gốc –đi lễ hàng ngày, hoặc ít ra cũng giữ lễ Chúa nhật, giữ trọn 10 điều luật của Chúa– chịu thương chịu khó dậy sớm đi lễ, tối đến đọc kinh, theo Chúa trọn đạo, vậy mà Chúa thình thoảng cũng cư xử dửng dưng, thử thách này nọ; còn một số kẻ khác ăn no ngủ kỹ, hoặc 10 điều răn thì lỗi cả chục…, tự do phóng túng…, ấy vậy mà cuối cùng Chúa lại cư xử với họ thật nồng hậu. Cái ấm ức làm sao không có được (ở đây tôi không nói họ phải có điều kiện như thế nào thì Chúa mới đoái thương, nhưng mình nghĩ cho dù họ hội đủ điều kiện, thì cùng lắm tha thứ, cho qua là xong – chứ đây lại là tiếp đãi linh đình ra như thể khuyến khích đi hoang!).
Hoạ sĩ thiên tài Rembrandt đã hiểu thật hay ý hướng sâu sắc của bài dụ ngôn hôm nay, nên vẽ bức tranh này như sau: “Người con thứ ở trong bóng tối, đang quì, quay lưng với khán giả, khuôn mặt vùi giấu trong lòng người cha… Còn người cha là một cụ già đáng kính, toả sáng, tuy cặp mắt đã loà vì khóc nhiều. Hai bàn tay run rẩy vẫn đặt tì trên vai chàng trai như để giữ anh ta lại. Một nhân vật khác –con cả– đứng đó, người nghiêng một bên, nhắm một mắt, tất cả thái độ của anh ta như toát ra lời trách móc người cha yếu đuối, nhu nhược. Mái tóc của anh làm nổi rõ vầng trán hẹp, cặp lông mày nhướng lên, đôi môi mím lại, chẳng đẹp gì… và hai bàn tay co quắp như diễn tả sự nhờm tởm của toàn thân trước cảnh cha già bạc nhược! Còn từ trong bóng tối, Rembrandt vẽ hai người đầy tớ, những nhân vật phụ nhưng dáng vẻ láu cá như đang cố rình xem chuyện gì sẽ xảy ra giữa cha con họ.
Đó, thái độ của chúng ta, -tôi không vơ đũa cẳ nắm-, nhưng hầu như phần đông chúng ta, trong đó có tôi, đều dễ có thái độ như người con cả: khó chịu, tức tối khi Chúa đối xử nhân từ với những người xem ra tội lỗi.
2. Làm thế nào để ta tránh khỏi ý nghĩ và thái độ như người con cả này?
Ngoài câu trả lời căn bản là đừng ganh tị với lòng nhân lành của Chúa -như câu ông chủ trả lời trong dụ ngôn những người thợ làm vườn nho, sau một ngày làm công, ai nấy đều được 1 đồng, khiến người làm từ sáng sớm ghen tức với kẻ chỉ làm được mỗi một giờ! Người chủ nói: “Hay là anh ghen tị với tôi vì tôi xử nhân từ với họ?” Ngoài câu trả lời này, thì dựa theo đoạn thoại của hai cha con trong dụ ngôn này: người con cả nói: “Thằng con của cha” (ra điều như chẳng liên hệ gì đến mình) – đáp lại, người cha nói: “Đứa em của con” (ừ, thì dẫu sao nó cũng là em của con) khác với “con của cha”. Làm anh (làm chị) thì phải quảng đại, có đại ca, đại huynh nào mà không rộng lượng với đàn em không? Vậy thì trong mức độ nào đó, chúng ta, những người đạo gốc là đàn anh đàn chị trong đức tin đối với người khác (người chưa Đạo)… hoặc nếu cùng một đức tin, thì ta cũng là đàn anh trong sự trung tín vì ta không đi hoang, ở nhà với cha. Hãy coi họ như là em (đứa em của con) để dễ có quảng đại mừng vui vì đàn em trở về.
Truyện 1001 đêm của Ba Tư có kể lại câu chuyện này: Có hai anh em nhà kia bắt trói được thủ phạm giết chết người cha của mình. Ra toà, thủ phạm thú nhận tội lỗi, nên luật "mắt đền mắt, mạng đền mạng" được áp dụng. Nhưng trước khi xử, hắn ta xin ân huệ cuối cùng là được trở về nhà trong 3 ngày để giải quyết một vấn đề liên hệ tới người cháu đã được giao phó cho hắn chăm sóc từ nhỏ. Hắn hứa sau 3 ngày sẽ trở lại để chịu tử hình. Quan toà và dân xem chừng không tin. Thì giữa đám đông có một bàn tay giơ lên: “Tôi xin bảo đảm lời cam kết của tử tội, nếu 3 ngày sau hắn không trở lại thì cứ xử tử tôi thay hắn!” Tên tử tội được tự do 3 ngày để giải quyết việc gia đình. Hết hạn, y… trở lại để chịu tử hình. Trước khi bị hành quyết, y nói lớn: “Tôi đã giải quyết xong việc riêng, giờ đây tôi trở lại chịu tội, tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi, để người ta không nói được rằng chữ trung tín không còn trên mặt đất này nữa.”
Sau lời phát biểu của tử tội, người đàn ông bảo lãnh cũng đứng ra tuyên bố: “Tôi đứng ra bảo lãnh vì tôi không muốn người ta nói rằng lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa.” Nghe hai lời tuyên bố trên, cả đám đông thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi thể hiện những gì là cao quí trong lòng người. Bỗng từ giữa đám đông, hai người con trai của người cha đã bị giết tiến ra thưa với quan toà: “Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta không còn nói được rằng: Lòng khoan dung tha thứ không còn có trên mặt đất này nữa.”
Toàn câu chuyện không liên hệ gì lắm tới bài Tin Mừng, nhưng 3 lời tuyên bố của 3 người trong câu chuyện lại gắn chặt với điều chúng ta rút ra từ Tin Mừng. Người con cả (là chúng ta đây) đã có ít ra được chữ “trung tín” (vì ở mãi với cha), nay nếu thêm lòng “quảng đại” nữa, thì sẽ dễ dàng vui mừng đón nhận sự “khoan dung tha thứ” của Người Cha đối với đứa em.
Xin Chúa giúp chúng ta giàu lòng quảng đại để vững tin vào một Thiên Chúa không những toàn năng, mà nhân từ nữa. Kinh Tin Kính mà chúng ta sắp tuyên xưng –một Thiên Chúa là CHA toàn năng, tuy không nói nhân từ, nhưng chữ CHA đã bao gồm lòng nhân từ trong đó mà suốt cả chiều dài kinh Tin Kính chúng ta tiếp tục tuyên xưng lòng nhân của Chúa đối với con người hèn yếu chúng ta. Amen.
34. Trở về với Thiên Chúa--Lm. Jos Nguyễn Minh Chánh
Dụ ngôn người cha nhân hậu trong trang Tin mừng chúa nhật hôm nay cho thấy sự cần thiết của việc trở về cùng Thiên Chúa.
Người con thứ sau khi đã phung phí hết tài sản, đã đi vào đường cùng của sa đoạ, đã đánh mất đi phẩm giá của một con người qua việc thèm khát những thức ăn của bầy heo. Nay anh đã hồi tâm, ước mong thay đổi thái độ sống, muốn quay trở về với người cha nhân hậu của mình.
Và thực sự, anh ấy đã thực hiện thật nghiêm túc với điều mà mình mong muốn. Khi trở về với người cha, người con thứ đã bộc lộ sự khiêm tốn xuất phát từ chuỗi ngày quá khứ đen tối mà anh đã kịp nhìn nhận, khi anh thưa cùng người cha: “ Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, con chẳng đáng được gọi là con cha nữa..."(Lc 15,21)
Trước thái độ hối cải của người con, chúng ta hình dung như thế nào về tâm trạng của người cha trong lúc này? Đó là sự đón tiếp mừng rỡ hơn xua đuổi, đồng thời niềm vui sướng của người cha trong lúc này đã làm cho ông quên đi gánh nặng đau khổ mà hôm nay chính đứa con này đã gây ra cho ông. Nói chung tâm trạng của người cha trong lúc này chỉ có một điều là vui mừng. Vui mừng khi thấy con trở về, vui mừng khi phục hồi phẩm giá lại cho con qua việc truyền cho đầy tớ phải mặc áo đẹp nhất cho con, xỏ nhẫn vào tay và xỏ dép vào chân cho con trai của mình. Và niềm vui mừng của người cha còn được thể hiện qua bữa tiệc rất ngon lành với con bê béo và rượu ngon. Thế nhưng bao nhiêu cử chỉ ấy cũng chưa đủ nói lên niềm vui nơi người cha nhân hậu mà chúng ta bắt gặp trong bài dụ ngôn thật độc đáo của chúa nhật hôm nay. Vì nguyên nhân sâu thẳm để người cha có được niềm vui thật sự là khi thấy người con tội lỗi không thất vọng về tình thương và ơn tha thứ của mình. Chắc hẳn thái độ hy vọng vào lòng thương xót của người con đối với cha, còn quý hơn sự hiện diện của anh ấy trước ánh mắt nhân từ người cha.
Thực ra thái độ không thất vọng vào tình thương của Thiên Chúa, không phải chỉ có trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã kể đâu. Nhưng trong thực tế đã có rất nhiều những mẫu gương nhờ lòng cậy trông và ơn tha thứ của Thiên Chúa mà họ đã trở nên thánh. Ta thấy Phêrô đã chối Chúa ba lần, nhưng nhờ hy vọng vào ơn tha thứ của Chúa, ông đã sám hối và được ơn biến đổi. Sau này vẫn được Chúa chọn làm trưởng Tông đồ đoàn. Phaolô trước khi trở thành tông đồ của dân ngoại thì ông đã bắt bớ và giết các tín hữu không nương tay. Nhưng nhờ hy vọng vào ơn tha thứ Phaolô vẫn được Chúa chọn làm tông đồ để thi hành sứ mạng loan báo Tin mừng cho dân ngoại. Augustinô sau thời gian dài ăn chơi buông thả, nhưng nhờ tin vào ơn tha thứ của Chúa, nhờ những dòng lệ thành tâm hối hận, Augustinô đã được Chúa chọn làm Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh. Và còn biết bao nhiêu chứng nhân hy vọng khác nữa...
Đã là người thì ai cũng có tội. Đó là thân phận chung của con người. Nhưng chúng ta còn có lối thoát để được bình an với lương tâm và hạnh phúc trong nước Thiên Chúa. Lối thóat đó Chúa đã vẽ ra cho chúng ta, và Chúa đang chờ chúng ta ở cuối lối mòn này. Lối thoát ấy chính là đường hy vọng vào tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa. Khi ta đánh mất đi niềm hy vọng vào ơn tha thứ và tình thương hải hà của Thiên Chúa, thì kể như đời ta đã bế tắc, đi vào đường cùng của sự diệt vong, sự sống tương lai sẽ không còn hy vọng.
Vì thế, Cha Charles De Foucauld có để lại mấy dòng sau: "dù con xấu xa, dù con tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được lên trời. Chúa cấm con thất vọng điều đó... Chúa cấm con ngã lòng trước sự khốn nan của con. Chúa không cho con nói: Tôi không thể đi tới được đường lên trời, khó khăn quá tôi phải thụt lùi và trở xuống chỗ thấp... Vậy Chúa muốn con phải cậy trông luôn, vì Chúa ra lệnh và vì con phải tin ở tình thương và quyền năng của Chúa".
Như vậy thật may mắn cho chúng ta, vì bao nhiêu lần gục ngã do tội lỗi, chúng ta vẫn có quyền hướng về hạnh phúc tương lai đang chờ ta. Hạnh phúc đó lệ thuộc vào ta, khi trên hết mỗi người đừng đánh mất trước lòng thương xót của Thiên Chúa, đừng đánh mất trước sự quảng đại ban ơn tha thứ của Ngài. Thiên Chúa không bao giờ từ chối chúng ta khi chúng ta đặt hết niềm tin vào Ngài. Vì Thiên Chúa không nỡ lòng bẻ gẫy cây sậy đã dập và cũng không nhẫn tâm dập tắt tim đèn còn khói.
Hạnh phúc là điều ai cũng mong muốn. Thế nhưng hạnh phúc Thiên đàng thì con người lại càng khao khát và mong muốn hơn, và Thiên Chúa rất mong chúng ta có được hạnh phúc đích thực này.
Chúng ta sẽ có hạnh phúc khi chúng ta biết trở về cùng Thiên Chúa biết đặt tất cả lòng cậy trông vào ơn tha thứ vô tư của Thiên Chúa. Nói chung ta không được phép thất vọng về lòng thương xót và ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Hãy nhớ rằng Chúa chỉ dựng lên chúng ta một lần, nhưng ơn tha thứ cho những người trông cậy nơi Chúa thì Ngài vẫn tha thứ mãi, tha thứ vô điều kiện. Như vậy đón nhận ơn tha thứ của Chúa thường xuyên nơi Bí tích giải tội, hay trong những ngày còn lại của mùa chay thánh này, sẽ là lời minh chứng để nói lên tâm hồn chúng ta còn co hy vọng và tin tưởng nơi ơn tha thứ của Chúa hay không?.
35. Hãy mau trở về cùng Chúa--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Vì xích mích với gia đình hàng xóm, anh Năm bị một tên côn đồ, thuộc diện xã hội đen do người hàng xóm thuê mướn, xông đến gây sự và chặt đứt cánh tay. Nhìn máu từ cánh tay bị chặt phun ra cuồn cuộn, nhìn cánh tay bị đứt lìa nằm bất động dưới đất, anh Năm hết sức kinh hoàng, vô cùng đau đớn và tiếc nuối. Sau vài phút, anh ngã xuống trên vũng máu và ngất đi. Thế là từ đây, anh bị mất đi một phần thân thể quan trọng, từ đây anh trở thành người cụt tay, một người tàn phế…
Ngày 13/4/2007, đài BBC đưa tin: Ông Chang Po – yu, một bác sĩ thú y làm việc tại vườn thú Shoushan, thành phố Cao Hùng, Đài Loan, bắn thuốc mê vào một cá sấu thuộc giống hung dữ, nặng đến 200 kg, để chữa bệnh cho nó. Yên trí cá sấu đã bị mê vì thuốc, ông thò tay rút ống tiêm ra. Thình lình, con cá sấu quay đầu và ngoạm luôn cánh tay của ông.
Nhìn cánh tay của mình nằm gọn trong miệng cá sấu, ông Chang lâm vào tình trạng tuyệt vọng, vô cùng tiếc nuối và đau đớn khôn cùng. Đây là nỗi đau thương mất mát khủng khiếp nhất đời.
Thiên Chúa rất đau lòng khi ta phạm tội
Nỗi đau thương của anh Năm, người bị cắt đứt mất cánh tay trong vụ xung đột trên đây, nói lên phần nào nỗi đau thương khôn nguôi của Thiên Chúa khi Người đánh mất chúng ta là một chi thể rất yêu quý của Người.
Từ ngày lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được tháp nhập vào Thân Thể Chúa Giêsu và trở nên một chi thể của Người. (giáo lý công giáo số 1267)
Thánh Phao-lô cũng nhắc nhở chúng ta nhìn nhận sự thật quan trọng nầy: "Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao?" (I Cr 6, 15)
Thế nhưng tội trọng như một nhát dao ác nghiệt cắt lìa chúng ta khỏi thân mình Chúa, gây ra một hậu quả kép rất đau thương: Về phía mình, chúng ta trở nên như cành nho lìa cành, như bàn tay đứt lìa cơ thể; về phần Chúa, Người trở thành “khuyết tật” vì mất một phần cơ thể rất thân thương!
Như bàn tay lìa thân thì phải hư thối và phải chết thế nào thì Người tội lỗi tách lìa Thiên Chúa cũng gánh lấy hậu quả tương tự: họ trở nên hư hỏng, mất đi phẩm chất cao đẹp và đánh mất sự sống thiêng liêng được Thiên Chúa thông ban từ ngày lãnh bí tích Thánh Tẩy.
Hậu quả nầy được Chúa Giêsu minh họa bằng hình ảnh đứa con út hoang đàng trong tình trạng đói rách thảm hại, ngày ngày sống giữa đàn heo bẩn thỉu và cầu mong được ăn bớt phần của heo nhưng chẳng ai cho. (Lc 15, 14-16)
Như bàn tay bị cắt lìa thân không thể hoạt động và không mang lại lợi ích gì cho thân thể thì người tội lỗi cũng không thể lập được công đức gì, cho dù có làm được những việc to tát lớn lao. Theo thánh Phao-lô thì khi ở trong tình trạng tội lỗi, dù có nói được các thứ tiếng của loài người và thiên thần, có nói tiên tri và biết nhiều điều bí nhiệm, có chuyển núi dời non hay đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí hoặc nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt… thì cũng chẳng đạt được ơn phúc gì. (Cr 13, 1-3)
Thiên Chúa rất mừng vui khi người tội lỗi trở lại với Người
Trở lại phần cuối câu chuyện anh Năm bị cắt đứt lìa cánh tay trên đây.
Khi phát hiện ra anh Năm nằm bất tỉnh bên cạnh cánh tay đứt lìa, những người hàng xóm tốt bụng vội chạy đến cứu anh. Người ta cầm máu vết thương đang rỉ máu, lau rửa thật sạch và khử trùng vết chém; người khác nhặt cánh tay anh lên, lau rửa sạch sẽ rồi cho vào thùng đá ướp lạnh. Người khác nữa vội gọi xe cấp cứu đến và giục xe phóng nhanh vào bệnh viện chuyên khoa tận Sài gòn hòng cứu chữa anh, với hy vọng là đến kịp bệnh viện trong vòng 7 tiếng đồng hồ thì các bác sĩ có thể ráp nối lại cánh tay cho anh được.
May thay, anh đã được cứu chữa kịp thời. Các bác sĩ giỏi đã ráp nối lại cánh tay cho anh, ghép lại xương, nối lại mạch máu và chăm sóc chu đáo.
Sau hai tháng điều trị, anh xuất viện và cánh tay anh có thể hoạt động bình thường. Bấy giờ anh Năm cảm thấy rằng chẳng có niềm vui nào trong đời lớn hơn niềm vui có lại cánh tay tưởng như đã mất.
Niềm vui có lại được cánh tay của anh Năm cũng diễn tả đúng niềm vui của Thiên Chúa khi có người tội lỗi ăn năn hối cải trở lại với Người.
Niềm vui đó được Chúa Giêsu diễn tả qua Tin Mừng hôm nay như sau: Người cha sai bảo các tôi tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng.”
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa vô cùng đau đớn khi chúng con phạm tội trọng xa lìa Chúa và Chúa quá đỗi mừng vui một khi chúng con sám hối, ăn năn trở lại với Ngài.
Khi phạm tội xa lìa Chúa, xin giúp chúng con mau mau quay lại với Ngài như cánh tay đứt lìa phải được cấp tốc tháp nối lại với thân mình để Chúa khỏi đau buồn tiếc nuối vì mất đi một chi thể thân thương và để chúng con không trở thành “cánh tay chết” vì phải xa lìa Chúa là nguồn ban sự sống thiêng liêng cho chúng con.
36. Tình cha
"Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con nữa. Xin cha coi con như một người làm công cho cha vậy" (Lc 15,19).
Lewis Copeland có kể một câu chuyện như sau:
Một người cha muốn răn bảo đứa con có tật xấu đi chơi khuya, ngủ dậy trễ. Ông nói:
- Con sẽ chẳng làm được trò trống gì, nếu không biết sửa đổi. Hãy nhớ rằng con chim dậy sớm mới bắt được sâu.
- Nhưng con sâu ấy thì sao hả bố? Chẳng phải là ngu ngốc khi dậy quá sớm sao?
Bố nghiêm giọng bảo:
- Bởi con sâu ấy cả đêm không ngủ, mà nó đang trên đường trên đường về nhà.
Thằng nhỏ xem ra thông minh. Nhưng người cha thì khôn ngoan hơn. Ông thật nhạy bén ứng phó khiến thằng con phải tâm phục khẩu phục. Ông dạy con rất khéo, nhẹ nhàng mà hiệu quả.
Nói đến câu chuyện "Người cha nhân hậu" của Chúa Nhật IV mùa chay này chắc là không ai trong chúng ta không biết. Người cha ấy không ai khác hơn là chính Thiên Chúa. "Con sâu cả đêm không ngủ" đang lần mò quay về trong cái tấm thân tàn ma dạy, trong cái nỗi lòng hối hận như kim đâm muối sát ấy, là người con thứ và cũng là chính chúng ta.
Tôi nhận thấy người cha trong câu chuyện này đánh một ván bài quá đậm. Ông dạy con bằng cách chia cho nó cả một tài sản lớn, cho nó tự do tung cánh thế nào tuỳ ý, chơi bời thế nào mặc tình. Con làm như thế cha đau lòng lắm. Nhưng vì tôn trọng tự do của con mà người cha phải chấp nhận để điều không tốt xảy ra. Để rồi sau cái kinh nghiệm vấp ngã đau thương, người con sẽ hiểu được thế nào là tình yêu, thế nào là tội lỗi. Nhưng có điều tôi hơi tiếc là tại sao người con thứ lại không nhận ra được tình yêu của cha dành cho anh cả trước, trong, và sau khi anh phạm lỗi? "Điều gì của cha là của con". Anh không cần đòi chia gia sản làm gì. Nó vẫn thuộc về anh. Cha anh vốn vĩ chỉ có hai người con thôi, và ông cũng không phải là người nghèo khó. Anh đương nhiên được thừa kế khối gia tài thuộc phần mình. Rồi sau khi anh ra đi, nếu anh biết được rằng cha anh thương anh, mỏi mòn chờ anh thì anh đã sớm quay về. Tại sao phải bơ vất dưỡng nơi đầu đường xoá chợ, làm thuê cuốc mướn, sống còn không bằng một con heo thì mới nhớ đến cha? mới nghĩ đến chuyện quay về? Và khi đã về đến nhà. Đành là anh khiêm tốn thấy tội mình quá lớn, chỉ đáng là đứa đầy tớ trong nhà. Nhưng tại sao phải là đứa đầy tớ? Anh là con kia mà. Tình yêu của cha không đủ để phục hồi quyền lợi của con sao? Hùm dữ không ăn thịt con, sao cha có thể xoá bỏ thâm tình cha con một cách dễ dàng như vậy. Quá khứ, hiện tại, tương lai, con vẫn là con, mãi mãi con vẫn là con cho dù con có hư đốn thế nào. Tất cả việc làm của cha đã nói lên điều đó. Cha biết con sẽ quay về nên cha đã chuẩn bị mọi thứ cho ngày ấy. Nào là may áo mới, giày mới, làm nhẫn mới, vỗ béo bê bò. Có lẽ ngày nào ông cũng ra ngoài đường đón con nên ông là người đầu tiên phát hiện con quay về. Và cũng không cần anh phải nói lời nào, ông đã chạy ra ôm chầm lấy con. Lập tức sai gia nhân làm tiệc mừng. Thật xúc động không sao kể hết.
Thiên Chúa là thế, tình yêu của Ngài để sẵn cho con người. Con người không cần phải lên tiếng van xin tình yêu ấy cho mình. Tình yêu ấy luôn luôn tồn tại ngay cả lúc con người tắc trách, phản bội, bất trung, hờ hững. Nếu tôi không nói là Thiên Chúa van xin con người "hồi tâm" để dành một tình thương cho Ngài. Vì chúng ta yêu nhiều thứ nhưng trong đó không hề có Thiên Chúa. Còn một điều khác cũng rất quan trọng là chúng ta không nghĩ mình là con, trong khi Chúa đã cho mình gọi Ngài là cha. Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm nghĩa tử từ xưa lắm rồi. "Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định co ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Kitô" (Ep 1,5).
Và hôm nay vẫn còn chưa muộn để "hồi tâm" quay về. Hãy trở về, trở về với Cha nhân lành. Trở về để sớm hồi sinh. Trở về để mãi mãi sống trong ân tình.
đối với người tội lỗi cũng như đối với anh. Người cha muốn anh hãy mặc lấy tâm tình nhân hậu của cha, để xứng đáng là con thảo, đẹp lòng cha mình thật sự.
Trong mùa chay này, chúng ta hãy cùng nhau xét mình, xem chúng ta đã nhận ra tình thương của Chúa đối với mình hay chưa. Chúng ta có khi nào cố tình phạm tội trọng và muốn thoát ly khỏi Chúa như người con hoang để người ta khinh khi, ma quỷ đắc thắng vì có người lầm lạc theo đàng trái. Hay chúng ta như người con cả, ở trong nhà thờ với Chúa cho có hình thức mà chưa có cảm nghiệm yêu mến Chúa đã chết vì yêu thương chúng ta. Chúng ta cũng hãy học lấy lòng nhân hậu của Chúa khi đối xử với anh em đồng loại để xứng đáng là con Chúa và luôn cảm thấy vui mừng với Chúa khi đối xử với anh em đồng loại hầu xứng đáng là con cái Chúa và đáng được phần thưởng nước trời mai sau.
37. Lý lẽ của con tim
Pascal đã nói một câu rất nổi tiếng: "Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không hề biết đến". Kinh nghiệm cuộc sống cũng nhiều lần chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều đó.. Và nhất là trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta vô cùng ngạc nhiên khi thấy cách ứng xử xem ra "không hợp lý" của người cha.
Thật tình chúng ta không thể hiểu nổi những gì mà người cha đã làm cho hai người con của mình, nhất là đối với người con thứ. Từ khi người con thứ đòi chia gia tài, rồi thu gom tất cả những gì được chia, anh ta đã ra đi thật xa để tiêu sài cho thoả tình dục vọng của mình, thì người cha của anh ở nhà đã tính đến chuyện anh sẽ trở về. Vì thế, ông đã may áo mới mua giày mới, sắm nhẫn để dành cho cậu. Ông còn sai người vỗ béo con bê để chuẩn bị cho cái ngày con ông trở về! Theo thói thường thì người làm cha mẹ cũng chuẩn bị chu đáo và hoành tráng như thế để mừng đứa con sắp thành tài, sắp thăng quan tiến chức; chứ ai lại mừng cho một thằng nghịch tử; một đứa con bất hiếu, bất tài bao giờ! Vinh dự gì mà ăn mừng chứ!? Lý trí không hiểu được rồi! Người con lớn không thể hiểu, người con hoang đàng kia cũng không nghĩ đến cái vinh dự mà anh có được trong giây phút hội ngộ ấy. Có thể chính chúng ta cũng không bao giờ chọn cách làm như người cha trong bài Tin mừng hôm nay. Không có ai theo lý trí tự nhiên mà có thể ngờ hay có thể hiểu được suy nghĩ và hành động của người ch này. Chỉ có con tim với lý lẽ riêng của nó mới có thể hiểu được thôi!
Với suy nghĩ hẹp hòi của mình, người anh cả khăng khăng trong đầu là đứa em tệ bạc kia sẽ không bao giờ còn chỗ trong tâm trí của người cha của anh nữa. Anh nghĩ rằng cha của anh đã khai trừ người con trai đó từ lâu rồi. Chính anh cũng không còn coi đứa em kia là em của mình nữa. Điều đó được biểu hiện rõ rệt qua cách nói của anh với cha mình: "Còn thằng con của cha kia"! Theo lẽ công bằng, theo thói thường thì người anh cả không thể hiểu tại sao cha của mình lại hành xử lạ lùng như thế. Đối với anh, đó là chuyện quá bất công! Người cha của anh hành xử như thế là coi thường anh, sỉ nhục anh và làm cho anh quá đau khổ. Quả thật, anh ở gần cha mà hoá ra tấm lòng của anh còn quá xa cha. Anh nghĩ rằng chỉ có anh mới xứng đáng được gọi là con, chỉ có anh mới có đủ tư cách để được cha anh khen tặng và thưởng công vì anh chưa bao giờ làm sai lệnh cha anh, chưa bao giờ anh phí phạm tài sản của cha anh... Cái sai lầm trong suy nghĩ của anh là làm việc để được thưởng công, để được trả công theo sự công bằng. Anh ở trong nhà cha mà lại coi mình như là tên đầy tớ không hơn không kém: "đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều chi, thế mà cha chưa bao giờ cho con..." Và theo anh, người cha hành động như thế là bất công rồi! Kẻ "có công" mà không được thưởng, không được khen! Còn kẻ đáng bị phạt thì lại được tiếp nhận huy hoàng, được ân "thưởng". Và như thế là anh đã kết án luôn cha của anh nữa!
Chúng ta hãy xét mình lại xem, hình ảnh của người anh cả có trong lòng chúng ta hay không? Có bao giờ mình nghĩ rằng: "Tôi giữ đạo sốt sắng; tôi đi xem lễ, đọc kinh lần hạt mỗi ngày nhiều chuỗi; tôi làm việc tông đồ hơn ai hết, tôi xông xáo trong mọi sinh hoạt của xứ đạo... và như thế là Chúa phải thưởng công cho tôi. Đó là chuyện công bằng. Chỉ mình tôi mới xứng đáng được thưởng công Nước Trời! Và vì suy nghĩ như thế mà ta thấy rất khó chịu, thậm chỉ "nổi giận" với Chúa khi thấy người này người kia mới vào đạo hay mới trở lại đạo mà được ơn này, ơn nọ, được mọi người chăm lo cho cái nọ cái khia... Đừng bắt Chúa làm theo ý ta. Chúa đã nói: "Cũng như trời cao hơn đất bấy nhiêu thì tư tưởng của Ta cũng trỗi vượt hơn tư tưởng các ngươi như thế" (Is 55,9). Chúng ta cũng đừng coi mình là đấy tớ trong Giáo hội, làm việc để mong hưởng Chúa trả công xứng đáng! Nếu chúng ta đòi hỏi như thế thì chúng ta là kẻ đáng thương hơn ai hết! Khôn ngoan là hãy coi mình là con cái trong nhà. "Mọi sự của cha đều là của con", còn gì bằng! Người con thì khi thấy cái gì phải làm và cần thiết thì hãy làm, vì mình là con. Nhất là phải biết ý Cha mình, hiểu Cha của mình cho thật nhiều và quyết tâm trở nên giống Cha ngày một hơn!
Đến mình, người con "hoang đàng" cũng hoàn toàn bỡ ngỡ trước cách hành xử "lạ lùng" của Cha. Anh đã chuẩn bị sẵn tâm lý rồi: sẵn sàng chịu mắng một trận tơi tả, thậm chí có thể bị đuổi đi và không cho vào nhà nữa. Anh ta đã chuẩn bị sẵn một "bài diễn văn" dài lắm, hay lắm, xúc động lắm... để khi gặp cha là tâu liền. Nhưng anh không ngờ và cũng không hiểu nổi tại sao người cha lại đối xử quá tốt với mình như thế! Cha anh không cần nghe hết những gì anh đã chuẩn bị để nói. Hình như trong ông chỉ còn là khao khát được gặp lại con, ông "thèm" được ôm con vào lòng và vui sướng phục hồi lại cho con mình những gì nó đã tự đánh mất (mất tình nghĩa với cha, mất tư cách làm con, mất phẩm giá làm người...). Chúng ta cũng cần ở vào vai của người con thứ trong Tin mừng hôm nay để cảm nghiệm được tình thương mà Chúa Cha dành cho chúng ta thế nào!
Người cha trong Tin mừng chính là Thiên Chúa. Ngài cũng là người cha đầy lòng nhân hậu với và rất yêu thương của chúng ta. Ngài yêu chúng ta bằng một thứ tình yêu lạ lùng, mà theo lý trí chúng ta không tài nào hiểu được. Chúng ta chỉ có thể hiểu được Thiên Chúa phần nào khi chúng ta biết đến với Ngài bằng tình yêu. Ta hãy chọn cho mình một tư thế trước mặt Thiên Chúa: làm con hay làm đầy tớ? Dĩ nhiên, ai trong chúng ta cũng muốn làm con của Chúa rồi. Vậy chúng ta đừng nhìn và đừng suy nghĩ về Chúa như ông chủ nữa, nhưng là người cha rất nhân hậu và yêu thương chúng ta. Chúng ta cũng rất cần có một tấm lòng, một cái nhìn giống như Thiên Chúa: yêu thương, tha thứ và sẵn sàng đón nhận mọi anh chị em của mình như Thiên Chúa đã từng yêu thương, tha thứ và đón nhận chúng ta trong những ngày tháng chúng ta lầm đường, lạc lối và đi hoang! Chúa Giêsu vẫn đang mời gọi chúng ta: "Hãy nên hoàn thiện như Cha các ngươi trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5, 48).
38. Bóng Thái sơn--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Một người phú hộ giàu có nọ, khi đến tuổi già yếu, biết mình đã gần đất xa trời, ông liền gọi những người mắc nợ đến để yêu cầu thanh toán nợ nần.
Ông phán bảo những con nợ rằng: nếu các ngươi không thể trả nợ cho ta ở đời này thì các ngươi phải cam kết thề hứa một cách trọng thể là sẽ hoàn trả các món nợ của các ngươi ở kiếp sau, ta sẽ đốt hết các tờ khế ước mà các ngươi đã ký kết với ta. Nghe vậy, người thứ nhất mắc nợ ông 10 lượng vàng đến qùy gối thưa:
- Thưa ông, trong kiếp sau con hứa trả nợ cho ông bằng cách làm con ngựa để ông cưỡi lên và con sẽ đưa ông đi bất cứ nơi nào ông muốn.
Người thứ hai mắc nợ ông 100 lượng vàng cũng đến qùy gối và thưa:
- Thưa ông, trong kiếp sau con xin chấp nhận làm trâu kéo cày, kéo xe chở đồ cho ông để hoàn trả món nợ đời này.
Người phú hộ ưng nhận lời hứa của hai người này và bằng lòng đốt tờ khế ước xóa nợ cho họ.
Sau cùng, người thứ ba với món nợ cũng rất khổng lồ là 1000 lượng vàng cũng đến qùy gối trước mặt ông và thưa:
- Thưa ông, để hoàn trả món nợ khổng lồ của con với ông từ trước đến nay, kiếp sau con sẽ làm cha của ông.
Nghe vậy, người phú hộ tức giận, ông truyền đem roi sắt đến đánh cho một trận nhừ tử vì tội vô lễ và bất kính, nhưng người này bình tĩnh giơ tay ngăn cản người phú hộ và xin được phân trần sự việc. Ông nói:
- Thưa ông, con vốn biết món nợ của con lớn lao lắm, cho dù kiếp sau con có làm thân trâu ngựa cũng không đủ trả nợ cho ông, nhưng con sẵn sàng làm cha của ông, vì chắc hẳn ông cũng quá rõ trách nhiệm nặng nề của cha mẹ đối với con cái mình. Con sẽ làm việc ngày đêm để lo cơm ăn áo mặc cho ông. Con sẽ che chở cho ông như cha mẹ che chở đứa con thơ và chăm sóc ông những khi ông đau ốm cho tới tuổi già, con sẽ không ngại bao gian khó hy sinh nào, cho dù có phải hy sinh tính mạng để ông được no ấm và không thiếu thốn gì, và khi chết, con sẽ để lại cho ông tất cả gia tài mà con đã thu tích được với sức lao động và mồ hôi nước mắt của con. Ông thử nghĩ xem đó có phải là cách đẹp nhất để con trả món nợ khổng lồ kia cho ông sao?
Người giàu có lim dim đôi mắt trầm tư lắng nghe. Một lúc sau ông gật gù mỉm cười rồi đứng dậy đốt bỏ khế ước, tha món nợ khổng lồ của hắn như đã tha cho hai người trước.
Câu chuyện trên đây phản ánh phần nào về tình yêu và trách nhiệm của người cha trong gia đình. Khi con còn thơ “cha là con ngựa con cỡi con chơi”, và khi con đã khôn lớn cha là chỗ dựa vững chắc cho con niềm tin, nghị lực dấn thân vào đời. Tình cha thật ấm áp, thật thân thương trìu mến. Tình cha là một tình yêu không thể thiếu cho con cái sự tự tin, tính ngay thẳng để bước đi trong cuộc đời như lời bài hát “Tình cha” đã diễn tả:
Tình Cha ấm áp như vầng Thái Dương
Ngọt ngào như giòng nước tuôn đầu nguồn
Suốt đời vì con gian nan,
Ân tình đậm sâu bao nhiêu, Cha hỡi Cha già dấu yêu
Và con nhớ mãi những ngày tháng qua
Kỷ niệm năm nào khó phai trong lòng
Nhớ hoài tuổi thơ bên Cha, gian khổ ngày đêm chăm lo
Mong muốn con được lớn khôn
Còn nhớ những ngày ấy, những đêm trường giá lạnh
Và Cha nằm ôm con sưởi ấm những canh dài
Nhè nhẹ hôn con và Cha khẽ nói: Này con yêu ơi...
Con hãy nhớ.. hãy nhớ... lời Cha sống cho nên người
và con hãy chớ bao giờ dối gian
Nghèo thì cho sạch rách sao cho thơm!
Những lời của Cha năm xưa
Con nguyện ghi sâu trong tim
Cha hỡi Cha già dấu yêu...
Vâng, chấp nhận trở nên người cha, người mẹ của ai là như tự gánh lấy cho mình một món nợ khổng lồ mà chỉ có thể hoàn trả đầy đủ bằng tình thương mà thôi. Thật vậy, tình thương của người cha là tình thương không tiền bạc nào có thể mua được. Nó là thứ tình thương chân thật và sâu xa, là phản ánh tình thương bao la của Thiên Chúa với nhân loại. Cho đi cách nhưng không và không mong được đền ơn báo đáp. Nó là thứ tình thương nhân hậu và kiên trung luôn yêu con và tha thứ cho con khi con quay đầu trở về.
Tình thương đó được Chúa Giêsu diễn tả qua dụ ngôn: “Người cha nhân từ”. Một người cha quá đau khổ vì có đứa con thứ phung phá, trụy lạc. Một người con phản loạn đã đòi Cha chia gia tài để ăn chơi trác táng. Nó rời khỏi ngôi nhà thân thương. Nó trẩy đi miền xa, mang theo nỗi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là gần gũi quê nhà.
Anh đã bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo, quyết sống thoát ra khỏi sự ràng buộc của gia đình. Anh ra đi không phải để học hành, tìm việc làm mà là ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản, sức khoẻ, bất kể đó là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau chóng suy sụp. Anh sa cơ thất thế. Anh ta trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và thèm ăn thức ăn của heo.
Khi trở về chẳng còn gì: tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng... mọi thứ đã bị tiêu xài hoang phí. Anh ta chỉ còn lại một điều duy nhất là “đứa con nhỏ của cha nó”.
Động lực nào đã khiến anh trở về? Thánh Lu-ca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho Cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi, đứng lên, tôi sẽ về cùng Cha tôi”. Như vậy động lực anh trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn anh không bao giờ nhớ đến Cha, không bao giờ sám hối vì bỏ Cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có Cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của Cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, anh mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của anh là làm sao để được ăn. Anh dự tính nói với Cha là trót phạm lỗi nghịch với trời, không còn đáng gọi là con, chỉ xin được đối xử như người làm công.
Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời: “Cha ơi... con không đáng gọi là con Cha nữa”.
Nhưng, người cha dường như đã bỏ ngoài tai những lời người con. Ông chỉ thấy vui mừng vì con trở về. Ông quên hết lầm lỗi xưa. Ông thiết đãi tiệc vui vì con đã chết nay sống lại...
Thiên Chúa cũng luôn yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vô bờ bến như thế. Tình yêu Chúa không chấp tội chúng ta. Vì nếu Chúa chấp tội thì nào ai đứng vững. Thiên Chúa luôn bao dung và tạo điều kiện cho chúng ta làm lại cuộc đời. Điều này được thể hiện qua bí tích hòa giải. Nơi đây biết bao tội nhân tìm lại được bình an tâm hồn. Có những người đã bỏ Chúa 10 năm, 20 năm. Có những người đã hoang phí tuổi trẻ trong đam mê tứ đổ tường, nhưng dường như cuộc đời đã xô đẩy khiến họ luôn cảm thấy chán chường, bất an khi xa Chúa. Chỉ có khi nào mạnh dạn đứng lên quay đầu trở về lúc đó mới tìm thấy niềm vui và bình an tâm hồn.
Xin cho chúng ta luôn nhận ra tình thương của Chúa để quay đầu trở về. Cuộc trở về không bao giờ là muộn và tình thương Chúa vẫn mãi mãi dành cho chúng ta một chỗ trong lòng thương xót của Chúa. Amen.
39. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Anh chị em thân mến.
Trong trận chiến thế giới lần thứ hai 1939 - 1945 đã làm cho biết bao người rơi vào cảnh lầm than. Cũng vì con người không chấp nhận được nhau, không chấp nhận người khác cùng ngang hàng với mình, cùng chung sống với mình, và cùng tồn tại với mình. Trải qua hơn nữa thế kỷ, bài học đau thương của lịch sử ngày nay vẫn còn đang tiếp diễn: cuộc chiến ở Nam Tư, Châu Phi, hiện tại cuộc chiến làm cho cả thế giới phải đau đầu, đó là cuộc chiến của những quốc gia vùng trung đông châu A, họ cũng không thể chấp nhận nhau, không thể sống chung với nhau và cũng có thể không muốn cùng tồn tại. Họ quá tự tôn, chủ nghĩa cá nhân quá mạnh, họ chỉ đặt cá nhân và dân tộc mình trên hết, còn những người khác, dân tộc khác họ không coi ra gì, nên họ khinh dể và không chấp nhận.
Người cha nhân từ, ông thương yêu từng người con. Nhưng những người con luôn gây phiền cho cha mình.
Người con thứ chỉ nghỉ đến mình, chỉ biết lo hưởng thụ, tìm thú vui cho mình, sống theo những gì mình muốn, để rồi phải rơi vào cảnh khốn cùng. Anh đã làm ô danh cha mình qua con người của anh.
Người con cả luôn sống kề cận bên cha, chịu cực chịu khổ, nghe lời cha, không dám trái lệnh cha. Mặc dù không dám nói, nhưng anh cũng đang muốn sống theo ý riêng mình, anh cũng đang mong cha trả công cho mình, anh cũng đang muốn có chút lợi lộc riêng tư, nhưng không dám nói. Anh cũng chỉ là một cái máy sống bên người cha, một cái máy để làm việc chứ không phải là một người con đối với cha. Anh đành thốt lên một câu dường như xác nhận anh không phải là người con: “ Còn thằng con của cha kia..." Anh không muốn chấp nhận người em của mình, anh cũng không muốn vào nhà cha của mình. Anh bực tức, nỗi nóng vì ý muốn riêng tư không thực hiện được: nào là không có con dê để ăn mừng với những bạn bè riêng tư, nào là không nhìn thấy cha trả ơn vì những công lao anh đã làm cho cha. Giờ đây anh kể công với cha mình để không chấp nhận người em.
Người cha ôn tồn xác nhận: "Chúng ta phải vui mừng vì em con..."
Người cha cũng ôn tồn bảo những người con của ngày hôm nay như thế. " Con luôn sống bên cha, mọi sự của cha đều là của con. Chúng ta phải vui mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy".
Mỗi người trong chúng ta, nhìn lại chính mình, cách ứng xử hằng ngày, những tâm tư nguyện vọng trong cuộc sống, chúng ta sẽ thấy mình là người con đã ngã vào lòng cha, để được cha tha thứ. Cũng có thể chúng ta là người con ngoan cố, tưởng rằng những việc làm của mình có giá trị to lớn, khiến cho cha phải trả công, để rồi chúng ta đòi hỏi và làm khó dể cha mình, nên không thể nhận ra được tình thương yêu của cha.
Chúng ta là những người luôn sống kề cận bên cha, luôn tuân phục và làm việc theo ý cha. Nhưng chúng ta là một cái máy làm việc hay là một người con. Chúng ta tuân giữ kỷ luật, đọc kinh, dự lễ, có thể còn có những việc đạo đức khác. Vậy mà trong đời sống hằng ngày, chúng ta lại khó chịu với những người bên cạnh mình, khi thấy họ được ưu đãi cách này hay cách khác. Chúng ta tìm cách loại trừ họ bằng những lời nói xa gần, bằng những cử chỉ, những hành động có thể được. Chúng ta chỉ nhìn thấy được những sai phạm của người khác, còn chính chúng ta, thì tự cho mình là tốt đẹp, là ngay chính. Nhưng nếu chúng ta chịu để tâm chút thì coi chừng, chúng ta chỉ là một cái máy làm việc, vì con tim chúng ta nó đã chết từ lâu. Người cha nhân hậu của chúng ta, đã nhiều lần đến cạnh bên, nài nỉ chúng ta vào nhà, nài nỉ chúng ta vui mừng với Ngài vì những người anh em bên cạnh. Nhưng chúng ta vẫn bực tức khó chịu, vẫn có những lời chua cay, vẫn có ý muốn loại trừ để chiếm phần lợi về mình.. Như vậy tâm trạng của người con cả không ở đâu xa, mà ở ngay trong con người yếu hèn của chúng ta. Như vậy chiến tranh không phải ở đâu trên thế giới, cũng không phải ở trung đông, ở Nam tư hay ở Châu Phi mà ở ngay trong chính bản thân của mình. Vì chúng ta chưa biết chấp nhận người anh em trong cuộc sống, người anh em ở ngay bên cạnh và trước mắt chúng ta.
Xin Chúa ban cho chúng ta có được con tim quảng đại, để biết yêu như Chúa yêu thương chúng ta.
40. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Có một bà mẹ ngoại giáo đến gặp tôi và trình bày về hoàn cảnh của gia đình bà rằng: Vợ chồng tôi sinh được một thằng con trai. Lúc nhỏ, nó rất ngoan ngoãn, dễ thương. Chúng tôi nuôi dạy và cố gắng cho nó học hành tử tế.
Tốt nghiệp đại học xong, nó lấy vợ. Nhưng hai đứa ở với nhau chẳng được bao lâu thì chia tay. Từ đó, nó theo bạn bè xấu, sa vào các tệ nạn xã hội: Nghiện ma tuý, cờ bạc, rượu chè, trai gái. Dịp tết vừa qua, nó đi uống rượu về, đập nát các đồ dùng trong gia đình chúng tôi. Vợ chồng chúng tôi khuyên bảo, nhưng nó chẳng nghe. Thậm chí, nó còn chửi lại, đòi đánh cả vợ chồng chúng tôi. Chúng tôi rất thương nó, mong muốn nó hiểu được tình thương của cha mẹ để biết trở về làm người lương thiện. Nhiều người khuyên bàn chúng tôi nên báo với công an để đưa nó đi cai nghiện, nhưng chúng tôi không dám làm vậy, vì thương nó. Không còn cách nào khác, tôi đến đây xin Cha thương giúp cầu xin ơn trên phù hộ cho nó.
Câu chuyện trên đây phản ánh phần nào câu chuyện chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng hôm nay. Mặc dù Thánh Luca không kể lại khoảng thời gian từ lúc sinh ra cho tới khi đứa con hoang đàng xin chia gia tài, nhưng kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta biết: Đây là thời gian cực khổ nhất của cha mẹ. Cha mẹ nào cũng mong muốn cho thời gian này qua đi mong chóng để khi con cái trưởng thành mà nhờ vả. Đặc biệt khi cha mẹ về già, được nó phụng dưỡng. Nhưng không ai biết trước chữ ngờ. Thay vì phụng dưỡng cha, nó lại xin chia gia tài. Nó nhẫn tâm để mặc cha già lủi thủi một mình ở nhà. Theo thói quen của người Do thái, muốn được chia gia tài phải chờ đến lúc cha mẹ qua đời. Nếu xin chia gia tài khi cha mẹ còn sống thì chẳng khác gì muốn cha mẹ chết đi. Dầu vậy, người cha vẫn sẵn sàng chấp nhận chia gia tài cho nó. Nhận được gia tài từ người cha, nó trẩy đi phương xa ăn chơi trác táng với bọn điếm. Hết tiền, hết bạc, nó phải chăn heo và mong muốn ăn cả những thứ heo ăn mà không được. Khi thiếu thốn đủ điều, nó mới nghĩ đến người cha. Nghĩ đến cha không phải vì thương cha nhưng vì miếng ăn: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!” (Lc 15,17). Vì miếng ăn nên nó mới quyết tâm trở về.
Nếu chúng ta là người cha trong câu chuyện trên đây, chúng ta có dễ dàng đón nhận người con bất hiếu như thế hay không, hay chúng ta cũng cư xử giống như người anh cả: Không thể chấp nhận một đứa con sau khi phung phí hết tài sản với bọn điếm, nay trở về với hai bàn tay trắng. Nếu có chấp nhận thì cũng phải dạy cho nó một bài học để đời.
Nhưng suy nghĩ của chúng ta khác hẳn với những gì xảy ra trong câu chuyện. Từ khi đứa con ra đi, người cha luôn trông ngóng đợi chờ và mong muốn con trai của mình trở về. Vì vậy, khi trông thấy nó từ xa, Thánh Luca diễn tả nỗi vui mừng của người cha bằng các cụm từ: Động lòng thương, chạy, ôm choàng lấy cổ, hôn nó hồi lâu. Khi đã đưa nó vào nhà, ông sai các đầy tớ: Mặc áo đẹp, đeo nhẫn, xỏ dầy…Cuối cùng, ông sai người nhà mổ bê béo để ăn mừng. Như vậy, chúng ta thấy người cha đã tìm mọi cách để phục hồi nhân phẩm và địa vị cho đứa con đã một thời đi hoang.
Thế nhưng, hành động của người cha nhân từ bao nhiêu thì người con cả lại tỏ thái độ khó chịu, ghen tỵ bấy nhiêu. Anh ta không chấp nhận thái độ của cha mình đối xử khoan dung đối với đứa con thứ như vậy. Vì thế, “anh nổi giận và quyết định không vào nhà”(x. Lc 15,28). Anh nói: "Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó"(Lc 15,29-30).
Người cha trong câu chuyện trên đây là hình ảnh của Thiên Chúa nhân hậu, Ngài luôn luôn yêu thương con cái, không quản ngại gì, không so đo tính toán, không cậu nệ, không sợ người ta trách móc.
Người con thứ là hình ảnh của những người thu thuế, tội lỗi đến nghe lời Chúa Giêsu rao giảng và quyết tâm ăn năn thống hối trở về làm người lương thiện.
Người con cả là hình ảnh của những người biệt phái, luật sĩ luôn tự cho mình là đạo đức, thánh thiện, không chịu hiểu về tình thương của Chúa Giêsu, thậm chí khi thấy Ngài quan tâm đến người tội lỗi và thấy họ ăn uống với Chúa thì ghen tức, lên án cả chính Chúa nữa.
Xét mình lại, có khi chúng ta thấy dáng dấp của chúng ta trong hình ảnh của người con thứ. Chúng ta được sống trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa qua Cha mẹ, Giáo xứ, Giáo Hội, nhưng chúng ta vẫn cố tình “đi hoang” khi chúng ta bỏ cầu nguyện, đọc kinh, xem lễ…Đặc biệt, nhiều khi chúng ta cả lòng phạm tội trọng mất lòng Chúa. Cũng có khi chúng ta thấy dáng dấp của chúng ta nơi người con cả. Đó là khi chúng ta có thái độ kiêu ngạo, ích kỷ không muốn cho người anh em của chúng ta trở về để hưởng tình thương của Thiên Chúa.
Mùa chay là mùa hoán cải, mùa trở về. Chúng ta hãy mạnh dạn đứng dậy và quyết tâm trở về với Chúa. Một người cha phải quyết tâm từ bỏ một cuộc sống bê tha trong rượu chè, bài bạc, trác táng để trở về với mái ấm gia đình. Một người mẹ phải từ bỏ những thói hư tật xấu để chu toàn nhiệm vụ làm mẹ, làm vợ. Những cặp vợ chồng cơm không lành, canh không ngọt, đang sống bên bờ của đổ vỡ, biết suy nghĩ lại, để sống trọn vẹn ý nghĩa vợ chồng. Những người con hoang đàng biết thống hối trở về cùng cha. Những gia đình luôn lục đục vì những giận hờn nhỏ nhen biết dẹp bỏ tự ái, vượt qua những sóng gió để đưa gia đình đến hạnh phúc. Đó chính là những hình thức thống hối ăn năn, giao hòa để trở về với Thiên Chúa. Khi thực sự có lòng thống hối ăn năn quyết tâm trở về thì dầu “Tội có đỏ như son cũng sẽ nên trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều cũng nên trắng như bông” (x. Is 1, 18).
Một nhà truyền giáo trong vùng Thái Bình Dương có kể lại sự kiện như sau: Ngày nọ có một người đàn bà bước vào lều của ngài với đôi bàn tay nắm chặt cát ướt. Bà hỏi ngài: Cha có biết cái gì trong tay con không?
Vị linh mục đáp: Hình như chị đang cầm cát trong tay thì phải?
Người đàn bà lại hỏi tiếp: Cha có biết tại sao con mang cát ấy đến đây không?
Nhà truyền giáo lắc đầu. Người đàn bà liền giải thích: Thưa cha, đây là tội lỗi của con, tội của con nhiều như cát biển, làm sao con có thể được tha thứ?
Lúc bấy giờ vị linh mục mới an ủi: Có phải chị lấy cát từ bờ biển không, vậy chị hãy quay trở lại bờ biển và giống như các em bé vẫn thường làm, chị hãy xây lên một núi cát, rồi chị ngồi đó và ngắm những đợt sóng biển, sóng biển sẽ vỗ vào bờ và cuốn đi ngọn núi cát của chị. Ơn tha thứ của Chúa cũng giống như thế, lòng nhân từ của Ngài bao la như đại dương, chị hãy thành tâm thống hối và Chúa sẽ tha thứ cho chị.
Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con đừng bỏ đi hoang như người con thứ, đừng kiêu ngạo, ích kỷ như người con cả. Xin cho chúng con luôn tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa để biết đứng dậy trở về mỗi khi sa ngã. Xin cho chúng con có lòng nhân hậu tha thứ như tấm lòng của Chúa. Amen.
41. Thiên Chúa giàu lòng thương xót--Lm. An Phong, OP
Tin mừng Luca chương 15 là 3 dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa: dụ ngôn về con chiên lạc trong số một trăm con chiên (1/100); dụ ngôn về đồng bạc bị đánh mất (1/10) và dụ ngôn "người con hoang đàng" (1/2). Tin mừng chúa nhật thứ tư mùa Chay năm C là dụ ngôn thứ ba này. Đây thực là "một tin mừng (nhỏ) trong một Tin mừng (lớn)". Thực ra, gọi là dụ ngôn "người con hoang đàng" thì không đúng lắm, có lẽ gọi là "Người Cha Hoang Phí" thì đúng hơn, bởi lẽ người cha đã hoang phí tình yêu của mình cho các con của ông. Dung mạo người cha mới là điểm chính yếu. Người cha đã đồng ý chia gia tài cho người con thứ (đây là điều không hợp luật), vì theo quan niệm Trung Đông, người con không có quyền đòi chia gia tài khi người cha vẫn còn khỏe mạnh. Người cha chính là hình ảnh của Thiên Chúa, một vị Thiên Chúa "hoang phí" tình yêu cho nhân loại, dù Người biết nhân loại vẫn tội lỗi, ích kỷ, muốn sống độc lập với Người, thậm chí muốn loại trừ Người. Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của nhân loại.
Tình yêu của người cha đã đón nhận người con thứ trở về sau những ngày ăn chơi phung phí. Tình yêu của người cha đã mời người con trưởng chung vui vì người em trở về. Thiên Chúa cũng vậy: qua Đức Giêsu, Người vui mừng đón nhận những tội nhân thống hối và mời gọi tất cả mọi người cùng vui mừng và chia sẻ với Người.
Người con thứ xin Cha chia gia tài để trẩy đi phương xa. Người Cha sẵn sàng chia gia tài. Cha hắn để cho hắn tự do, không cấm cản gì. Hắn không vi phạm một điều luật nào hết. Thực ra, hắn tưởng mình có thể định đoạt tất cả. Hắn ra đi không phải vì ý muốn sa đọa thúc đẩy đâu, nhưng vì khao khát sống mạnh, sống ngoài vòng kiểm soát của Cha, vì háo hức khao khát kinh nghiệm, vì muốn biết cái mới lạ, nhưng lại không có bản lãnh, hung hăng quá trớn, thiếu ý chí. Khi ra đi là hắn xúc phạm đến cha. Mối giây ràng buộc với cha lớn gấp nhiều lần mối giây ràng buộc với lề luật.
Sau những ngày ăn chơi phung phá, hắn trắng tay. Hắn cảm thấy trống vắng, thiếu thốn tất cả. Hắn quyết định trở vê nhà Cha. Khi quyết định như thế,hắn đã nhận ra chính mình, giới hạn của mình. Chân lý bắt đầu khi con người nhận ra chính mình. Hắn hạnh phúc vì đã dám thú nhận: thưa cha, con đã xúc phạm đến trời và đến Cha. Hắn hạnh phúc vì đã dám tin vào tấm lòng của cha, sự tha thứ của cha. Hắn hạnh phúc vì đã trở về. Không phải vô lý đâu, khi Đức Giêsu đã có lần nói: Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước trời trước hết. Thế nhưng, không thiếu những người tưởng rằng mình thánh thiện, ngoan đạo, tự cấp cho mình quyền đòi hỏi bất cứ gì. Và cũng không thiếu những người tự hài lòng với việc chu toàn đầy đủ lề luật. Đó là hình ảnh của người anh cả. Người anh cả tưởng mình là người công chính, vì chu toàn hết mọi lề luật. Điều cần có anh đã không có, đó là tấm lòng thông cảm, chia sẻ, nhất là chia sẻ những tội lỗi, những giới hạn của người khác. Anh là hình ảnh của những kẻ tự cho mình quyền xét đoán người khác".
Đức Giêsu chính là người cha đó. Người không màng chi đến quá khứ của người tội lỗi. Tình cha còn lớn hơn quá khứ đó, còn lớn hơn sự hối hận, dày vò của người con. Thiên Chúa tha thứ tất cả.Chúng ta là người con cả hay người con thứ trong bài Tin Mừng hôm nay?
Lạy Chúa,
Con xin dâng Ngài, lời thú tội của đứa con hoang:
Trước mặt Chúa, con đã phạm tội,
con đã hoang phí kho tàng ân sủng Chúa trao cho con,
xin nhận lòng sám hối của con.
Lạy đấng Cứu thế, xin cứu chuộc con.
Như người con bỏ nhà đi hoang, lạy Chúa,
con nay trở về sau khi đã phí phạm đời con,
lòng xa cách Chúa.
Lạy Cha, con đã hoang phí của cải Chúa ban cho con. Xin nhận lòng sám hối của con và xót thương con. Con đã thẳng tay phung phí tài sản của Cha, con sống cô đơn, cùng cực trên mảnh đất của những người trụy lạc. Lòng con hối hận, con xin trở về với Cha, lạy Cha nhân ái, xin nghe lời con van nài: "Thưa Cha, con thật đắc tội với Trời và với Cha, con chẳng đáng là gọi là con Cha nữa, xin coi con như một người làm công cho Cha vậy, và xin thương xót con".
(Phụng vụ Byzantin)
42. Trở về với Cha
1. Tình cảm cha mẹ đối với con cái là một tình cảm vô cùng đặt biệt, vì thế dân gian ta có câu: "Không gì ngon bằng cơm với cá, không gì cho bằng má với con". Nhạc sĩ Y Vân cũng đã cảm nghiệm được tình yêu nầy, nên đã từng thốt lên: "Lòng mẹ bao la như biển Thái bình dạt dào ". Thế nhưng chúng ta còn có Thiên Chúa là Cha, Đấng yêu thương hết mọi người, dù ta xấu tốt như thế nào, vì thế tiên tri Isaia từ xưa có ghi: "Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ" (Is 49,15). Tấm lòng yêu thương khôn tả của Thiên Chúa dành cho con người đã được Đức Giêsu trình bày rõ nét trong dụ ngôn "Người cha nhân hậu" mà chúng ta vừa nghe, dù cho con người có bội bạc như người con thứ, hay kiêu căng tự phụ như người con cả. Trong tâm tình của mùa chay, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu sơ lược qua 3 nhân vật chính yếu trong dụ ngôn này để rút ra những bài học, suy nghĩ cho đời sống thiêng liêng.
2. Trước hết, hình ảnh người cha trong dụ ngôn là người quá thương con cái mình. Ông tôn trọng tự do của con, sẵn sàng trao phần gia tài cho con. Thường thì cha mẹ chỉ chia gia tài khi mình sắp qua đời bởi "ai cầm tiền người đó có quyền" (x. Huấn Ca 33,20-24). Hoặc chỉ chia khi biết chắc con mình đã đủ chính chắn để gìn giữ được gia tài. Còn người cha này vì quá thương con, nên khi người con thứ đề nghị chia gia tài, không cần suy tính, ông bằng lòng chia ngay cho nó. Sau khi nhận được phần gia tài, anh ta sống phóng đãng, phung phí hết tiền của, rồi trở về.
Có điều lạ là người cha nầy không trách mắng, nghiêm phạt, từ con. Trái lại, qua bản văn cho thấy ông trông ngóng, mong chờ nó, vì vậy ngay từ đàng xa ông đã thấy nó rồi và ông chạy ra choàng lấy cổ ôm hôn lấy hôn để. Khi nó định xin lỗi thì ông chẳng thèm để ý tới mà bảo gia nhân đem áo quần đẹp nhất để mặc cho nó. Rồi ông sai đầy tớ mở tiệc liên hoan. Chúng ta lưu ý rằng ông bảo gia nhân đi bắt "con bê đã vỗ béo" làm thịt, nghĩa là không phải đi bắt bất cứ con bê béo nào, mà để sẵn riêng một con, chuẩn bị cho sự trở về của người con đi hoang.
Còn đối với người con cả thì người cha làm sao? Anh đi làm về, khi biết cha mở tiệc ăn mừng vì người em trở về, anh chẳng những đã không vui mà còn nổi giận, trách móc cha già. Khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà để chung vui với ông và gặp lại đứa em. Ông khẳng định với cậu rằng: "tất cả những gì của cha đều là của con " (Lc 13,31).
Qua hình ảnh người cha này, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ Thiên Chúa là Đấng đầy lòng yêu thương, quảng đại và hay tha thứ, "Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính" (Mt 5,45). Cho dù lòng con người có đổi thay, nhưng Thiên Chúa một mực thương yêu con người: "Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương " (Tv 135).
3. Kế đến, hình ảnh người con thứ không phải xa lạ gì đối với chúng ta. Thật vậy, biết bao lần chúng ta đã lợi dụng lòng tốt của Thiên Chúa, chúng ta đã dùng cách sai lạc tự do của mình, giống như người con thứ này. Muốn thoát khỏi tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa là Cha, muốn tìm cho mình một nơi nương tựa khác, muốn chọn cho mình một ngẫu tượng khác. Đó có thể là danh vọng, tiền bạc, lợi lộc, thú vui trần tục... ngay cả trong sự thoả hiệp với sự xấu, sự dữ để đạt được điều đó, mà quên mất tình yêu thương của Thiên Chúa, mà quên mất tình nghĩa anh em.
Và phải chăng, ngay khi chúng ta quay trở về với Thiên Chúa, không hẳn vì lòng yêu mến Ngài. Mà có lẽ giống như tâm trạng của người con thứ này, trở về vì lợi ích của mình chứ không vì lòng yêu mến cha, nghĩa là chúng ta trở về với Thiên Chúa vì sợ người ta chê cuời, sợ hình phạt luyện ngục, hỏa ngục. Nhưng, vì lòng nhân từ, Thiên Chúa chấp nhận mọi lý do để ta trở về, miễn làm sao Ngài muốn cho ta được sống trong vòng tay của Ngài, thế là đủ.
4. Cuối cùng, hình ảnh người con cả không xa lạ gì đối với nhiều người trong chúng ta. Anh ở trong nhà cha, nhưng lại rất xa cách cha. Bởi tính ích kỷ, kiêu căng và tự phụ đã làm mờ tâm trí của anh, nó đã bóp nghẹt con tim của anh. Anh ở bên cha, làm việc trong nhà cha, nhưng chẳng hiểu cha, chẳng nhận ra tình thương của cha dành cho mình. Cũng chẳng nhận ra tình thương của cha dành cho đứa em ruột mình. Cũng chẳng biết yêu thương em mình, nên không tỏ chút vui mừng khi người em của mình trở về! Không chừng, lại còn muốn nó đừng trở về vì có thể cha lại chia gia tài cho nó lần nữa! Quên hết tình ruột thịt, đến nổi người cha phải nhắc: “...phải vui vẻ, vì em con đây...", vâng em con, chứ không phải người dưng, nước lã!
Đó là thái độ của không ít Kitô hữu chỉ giữ đạo cho mình, chỉ lo phần phúc cho mình, mà không biết quan tâm đến ý muốn cứu độ mà Thiên Chúa muốn dành cho mọi người. Không biết quan tâm đến những nỗi ưu tư của Giáo hội, của cộng đoàn Họ đạo, cũng chẳng thiết tha gì đến hạnh phúc của tha nhân "sống chết mặc bay". Đôi khi còn có thái độ ghen ghét với những ai tích cực xây dựng cộng đoàn vì sợ họ nổi nang hơn mình, không thích những người thành đạt hơn mình, không muốn đón tiếp những người lỡ bước trở về vì mang tâm trạng mình là người công chính, còn họ là người tội lỗi...!
5. Trước tấm lòng của Thiên Chúa hay thương xót, được thể hiện qua người cha trong dụ ngôn nầy, cả người em lẫn người anh đều phải quay trở về với cha. Cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, cách nghĩ xưa để trở về mái ấm của cha. Vậy, như người em, tức những ai đang sống trong lầm lạc, tội lỗi hãy bỏ con đường cũ mà trở về sống trong tình yêu thương của Thiên Chúa; như người anh, tức những ai sống thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu sự liên hệ mật thiết với Thiên Chúa, thiếu yêu thương, quan tâm giúp đỡ tha nhân cũng hãy bỏ nếp sống cũ mà trở về sống trong tình nghĩa của Thiên Chúa là Cha và anh chị em với nhau.
43. Cha Già đầy tình tha thứ--Lm Hồng Phúc
Đề tài Chúa nhật hôm nay: Thiên Chúa là Đấng Cứu độ và hay tha thứ. Lòng Quảng đại và tha thứ, ngày xưa, đã được tỏ hiện cho dân ngài tuyển chọn. Chúa đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, đi qua biển đỏ, vượt sa mạc, đi về đất hứa “miền đất chảy tràn trề sữa và mật ong”. Lễ Vượt Qua đầu tiên, do bài đọc I gợi ý, chính là sự hoàn tất của lời hứa do lòng thương xót của Chúa ban. Nhưng lòng thương xót và tha thứ của Chúa đạt đến tột tỉnh nhờ Chúa Giêsu. Đấng đến trong thế gian để giao hoà ta lại với Thiên Chúa. Thánh Phaolô, trong bài đọc II, nói: “Ngài là Đấng không biết đến tội lỗi, nhưng vì ta, Thiên Chúa đã làm cho Người nên phận tôi đòi, để chúng ta được trở nên Công Chính”.
Để diễn tả lòng từ bi và hay tha thứ trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mô tả một người con đi hoang, trở về với người Cha già. Người con trai bần cùng rách rưới là hình bóng một tâm hồn tội lỗi. Bằng 4 câu cụ thể, Chúa phác họa con đường xuống dốc sa đọa của nó: nó bỏ nhà ra đi, lánh xa ông bố già hay cho bài luân lý; nó ăn chơi đàng điếm, phung phí sức lực và tiền của, mất cả áo quần giày dép; chỉ còn một thân tàn ma dại, phải đi làm mướn chăn heo; nó nghĩ lại và quyết định trở về.
Nếu chúng ta quen gọi dụ ngôn này là dụ ngôn người con trai hoang đàng thì chúng ta cũng có thể gọi là dụ ngôn người Cha già đầy tình tha thứ. Ông mong con trở về, tiếp đón con nồng hậu. Người con xin được đối xử như tôi tớ thì ông lại biệt đãi như quí tử.
Dụ ngôn nói lên một cách sống động Tình Yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là kẻ tội lỗi. Những người làm cha mẹ có thể hiểu được hơn ai cả, khi trong gia đình rủi có một người con bỏ nhà ra đi, làm cho cha mẹ đau khổ. Tuy vậy, cha mẹ vẫn chờ đợi, vẫn tha thứ, vẫn mở rộng vòng tay đón nó trở về.
Tình yêu của cha mẹ là một tia sáng phản ảnh Tình Yêu Thiên Chúa.
Cha ơi, nay con đã về,
Tội đầy cùng Trời với Cha.
Bao nhiêu tháng năm hoang đàng,
Một lần xin dấu ăn năn.
Con xin làm người tôi hầu,
Trọn đời bên Cha dấu yêu.
Rồi mai, những khi âu sầu,
Con được tình Cha xót thương nhiều.
(Nguyễn Quang Hiển)
44. Sống trong tình trạng ơn thánh--Radio Veritas Asia--‘Suy Niệm Lời Chúa’
Leonard da Vinci là một họa sĩ tài ba, nhưng khi vẽ bức tranh Bửa Tiệc Ly trong nhà cơm của tu viện Đức Mẹ Ban Ơn tại thành phố Bắc Italia, ông phải mất nhiều năm mới hoàn thành bức tranh vì không tìm ra những người mẫu thích hợp. Một hôm nọ, ông gặp trong công viên Castellô một thanh niên tên là Francisco, gương mặt bầu dục tuyệt đẹp với phần trán an hòa và quý phái, đôi mắt suông và trong suốt, tóc vàng hoe có dợn sóng. Leonard liền mời chàng trai tuấn tú ấy đến ngồi làm mẫu để ông vẽ Chúa Giêsu.
Vài năm sau bức họa vẫn chưa xong. Ông ngày đêm gãi đầu bứt tai vì không sao tìm ra được một người có gương mặt dữ dằn làm mẫu, để ông vẽ hình Giuđa, kẻ đã phản bội bán nộp Chúa Giêsu. Tình cờ một buổi chiều, ông thấy một người đàn ông có gương mặt xấu xa dữ dằn đang nhìn các người khác đánh cá ngựa, hắn chửi thề luôn miệng. Leonard vui mừng vì đã tìm thấy mẫu người ông đang cần. Ông gọi hắn ra một góc và đề nghị với hắn nhận làm người mẫu cho ông vẽ thì sẽ được thưởng nhiều tiền. Gã đàn ông nhận lời và cùng họa sĩ vào tu viện Đức Bà Ban Ơn. Trong lúc họa sĩ đang chăm chú nhìn gương mặt gã với vầng trán buồn, đôi mắt dữ tợn, tai dựng đứng và dường như đang nhớ đến một kỷ niệm nào đó, thì ông nghe một tiếng nghẹn ngào. Ông hỏi hắn: Có chuyện gì vậy? Bác cảm thấy người không khỏe hay sao? Gã đàn ông trả lời: Thưa thầy, chắc thầy còn nhớ cách đây ba năm, tôi cũng ngồi trên chiếc ghế này làm mẫu cho thầy vẽ hình Chúa Giêsu. Gã đàn ông nhìn bức tranh gần hoàn thành trên tường và thở dài nói: Tôi thật là một tên khốn nạn, đam mê và tội lỗi đã biến tôi ra thân tàn ma dại như thế này.
Mẩu chuyện liên quan tới cuộc đời Francisco kể trên, giúp chúng ta cảm nhận thấm thía ý nghĩa dụ ngôn người con hoang đàng của Chúa nhật hôm nay. Dụ ngôn người con hoang đàng trong Phúc Âm thánh Luca là một trong các dụ ngôn hay và cảm động nhất, chứng minh cho thấy tài giảng dạy của Chúa Giêsu. Có ba nhân tố giúp chúng ta hiểu dụ ngôn một cách sâu đậm hơn:
Thứ nhất là động từ "lẩm bẩm". Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh, nó là động từ diễn tả thái độ của dân Do Thái phản đối ơn Chúa và khước từ kiểu cách cứu độ của Ngài. Nó là động từ mà chúng ta thường gặp trong các sách Xuất Hành, Dân Số, và Đệ Nhị luật đề cập đến 40 năm dân Israel lang thang trong sa mạc, và thường xuyên nổi loạn chống lại Thiên Chúa và phản đối các ơn của Ngài. "Lẩm bẩm" cũng là động từ diễn tả thái độ người tội lỗi bé nhỏ, tối tăm ngu muội, nhưng lại yêu sách muốn chỉ vẽ cho Thiên Chúa biết phải hành xử như thế nào để cứu rỗi nhân loại. Đây cũng là thái độ mà người Biệt phái và luật sĩ có đối với Chúa Giêsu. Cũng giống như cha ông họ ngày xưa, họ lẩm bẩm chỉ trích Chúa Giêsu giao du nói chuyện và ăn uống với người tội lỗi, bọn thu thuế, đĩ điếm. Khi kể cho họ nghe dụ ngôn người con hoang đàng, Chúa Giêsu muốn dạy cho họ biết rằng Thiên Chúa không suy tư và hành động như vậy. Trước lời phản kháng của người con cả, muốn cho cha mình đập thằng em hư đốn một trận nhừ tử nên thân, rồi tống cổ nó ra khỏi nhà, nhưng người cha hiền từ trả lời: "Em con hư mất và nay lại tìm thấy".
Động từ "hư mất" là nhân tố thứ hai giúp chúng ta hiểu rõ sứ điệp của dụ ngôn trong Phúc Âm. Từ "hư mất" không có nghĩa luân lý như chúng ta thường hiểu trong ngôn ngữ ngày nay. "Hư mất" ở đây có nghĩa là hoàn toàn thất bại trong ơn nghĩa làm người và làm con cái Chúa của mình. Nó ám chỉ thái độ khước từ trở về trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa tạo hóa, trở về trong lòng bàn tay đã nhào nặn nên con người như Thiên Chúa. Đấng đã sáng tạo nên con người, cho con người được sống tràn đầy hạnh phúc, đã có thể ngồi yên để nhìn sự thất bại hoàn toàn đó của con người, và đây là một lý do khác khiến cho Chúa Giêsu kể cho mọi người nghe dụ ngôn người con hoang đàng. Nói cách khác Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho con người là một sự kiện, là một thực tại cụ thể, con người tiếp nhận ơn cứu độ khi trở về trong vòng tay yêu thương ấp ủ, nhân từ của Thiên Chúa.
Và nhân tố thứ ba giúp chúng ta hiểu dụ ngôn một cách sâu xa, đó là sự hiện diện của người anh cả trong câu chuyện. Kiểu cách suy tư và hành xử của người anh cả diễn tả kiểu sống của tất cả mọi người không hiểu và không chấp nhận thái độ hành xử của Thiên Chúa đối với con người. Người anh cả nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ có nhiệm vụ thưởng người có công và phạt kẻ có tội thế thôi, mà không hiểu rằng Thiên Chúa không thể đứng yên nhìn cảnh con người do chính Ngài tạo dựng nên, và giữ gìn yêu thương quý mến, nâng niu trong lòng bàn tay vô hình của Ngài phải hư mất, phải thất bại trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa của mình. Và chính để cứu rỗi loài người khỏi hư mất, khỏi thất bại trong ơn gọi cao cả ấy mà Thiên Chúa đã nhập thể làm người, làm anh, làm cha, làm mẹ để đem con người trở về với vòng tay yêu thương của Ngài. Khi rộng mở vòng tay ôm đứa con hoang đàng vào lòng, là Thiên Chúa canh tân niềm vui tạo dựng, khi nâng niu con người trong lòng bàn tay thánh thiện, quyền năng của Ngài trong thời sáng tạo. Con người xinh đẹp vẹn toàn ấy đã hư mất mà nay lại trở về với Chúa. Chính vì thế nên phải mở tiệc mừng.
Chúng ta không biết câu chuyện kết thúc ra sao. Không hiểu sau khi tha thứ và phục hồi phẩm giá cho người con đã hư mất ấy, người cha già có thành công trong việc thuyết phục người con cả để vui vẻ vào nhà dự tiệc mừng em sống lại hay không? Nhưng chúng ta biết một điều chắc chắn, đó là đa số trong chúng ta đều có cùng một tâm thức và cung cách hành xử như người con cả. Chúng ta không bỏ Chúa đi hoang, nhưng chúng ta không ở trong nhà Chúa, không sống với Chúa, không có tâm tình và kiểu cách hành xử phản ánh Tin Mừng của Chúa. Nghĩa là chúng ta cũng rất xa Chúa và như thế có khác nào chúng ta cũng hư mất, cũng giống như người con cả trong dụ ngôn. Cho đến nay, chúng ta chưa quyết định bỏ Chúa nhưng chúng ta cũng chưa bao giờ nhất quyết bước vào nhà sống với Chúa thật sự. "Con ơi, mọi sự của Cha là của con". Chính lời nói đó của người cha già khiến anh cả sợ hãi. Anh sợ hãi vì có một con tim, như con tim dịu hiền quảng đại vô bờ của cha. Anh sợ hãi phải có cái nhìn yêu thương đại đồng, tâm tình bao dung của cha. Anh sợ hãi phải sống mà không hề nuôi các tâm tình thù ghét, báo oán, gian ác trong lòng.
Cũng như anh con cả của dụ ngôn, chúng ta sợ hãi phải trở nên giống Chúa, hoàn toàn phải chia sẻ mọi sự với Chúa và nên thánh như Chúa. Do đó chúng ta giữ đạo nhưng không sống đạo. Có thể chúng ta thường xuyên đi xem lễ mỗi ngày Chúa nhật hay cả ngày thường nữa, thường xuyên lãnh nhận các bí tích nhưng đạo không thấm vào lòng chúng ta. Ra khỏi nhà thờ, chúng ta ăn nói chua ngoa và hành xử gian dối như những người không hề biết Tin Mừng của Chúa. Và đạo đó, quả thật là đạo nhà thờ, như người ta thường gọi. Nếu sống như thế là chúng ta khước từ chấp nhận mầu nhiệm nhập thể của Chúa và như thế cũng là đi hoang rồi.
Trong thư thứ hai gởi tín hữu Côrintô 5,17-21, thánh Phaolô kêu gọi mọi người sống tình trạng ơn thánh mà Chúa Kitô đã trao ban cho mọi người qua cái chết và sự phục sinh của Ngài. Nghĩa là sống như một thụ tạo mới, với một con tim mới và một tinh thần mới, như tiên tri Giêrêmia đã khẳng định trong chương 31 và tiên tri Êdêkiel loan báo trong chương 36. Ơn hòa giải mà Thiên Chúa trao ban cho con người qua cái chết của Chúa Giêsu, cũng có nghĩa là ơn tha thứ và ơn cứu độ. Cuộc sống mới ấy trao ban trả lại cho con người các liên hệ quân bình với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính mình. Chương 5 sách Giosuê nhắc cho dân Do Thái biết lời hứa cứu độ hiện thực qua biến cố Thiên Chúa giải phóng họ khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai Cập, đã dẫn đưa họ trở về Đất Hứa. Cuộc sống khổ nhục buồn thương không tự do, không phẩm giá xưa kia không còn nữa, giờ đây dân Do Thái bước vào đất Hứa và bắt đầu cuộc sống mới với các buổi lễ vui, với công việc phụng tự, và các cơ cấu đánh dấu một khúc rẽ mới trong lịch sử của họ. Lịch sử của một dân tộc luôn được Thiên Chúa yêu thương che chở và mời gọi bước theo Ngài.
45. Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm con người--‘Suy Niệm Lời Chúa’--Radio Veritas Asia
Có một người đàn ông nọ khao khát đi tìm gặp gỡ Chúa. Ông đi khắp nơi để thọ giáo những bậc thánh hiền, ông cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm nhưng vẫn không tìm được Chúa. Ngày nọ, ông đến ngồi thơ thẩn bên một dòng sông nhìn dòng nước trôi lững lờ, ông nhìn thấy một con vịt mẹ và một đàn con đang bơi lội. Đàn vịt con tinh nghịch muốn rời mẹ để ra đi kiếm ăn riêng. Để tìm con này đến con nọ, vịt mẹ phải lặn lội đi tìm đàn con mà không hề tỏ dấu giận dữ hay thất vọng. Nhìn thấy cảnh vịt mẹ cứ mãi đi tìm con như thế, người đàn ông mỉm cười và đứng dậy trở về quê hương. Ông chợt khám phá ra một chân lý và ông thốt lên: Tôi đã đi tìm Chúa và cuối cùng tôi đã khám phá ra rằng chính Thiên Chúa đang đi tìm tôi.
Con vịt mẹ không ngừng đi tìm kiếm con của mình, đó là hình ảnh nói lên chính tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng đi tìm kiếm con người. Qua bài dụ ngôn "người con hoang đàng" quen thuộc mà chúng ta có dịp lắng nghe trong Mùa Chay này, Chúa Giêsu cũng mạc khải cho chúng ta tình yêu cao vời ấy của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng cho chúng ta có tự do. Thiên Chúa muốn đối xử với chúng ta như một con người trưởng thành. Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói lên qua hình ảnh một người cha không muốn khăng khăng giữ lấy đứa con, mà trái lại chia gia tài cho nó, để nó được tự do sử dụng tất cả những gì thuộc về nó. Mà dẫu cho người con có lên đường đi tạo lập một cuộc sống riêng tư, người cha vẫn không ngừng ngóng trông, theo dõi và chờ đợi đứa con. Ông khắc khoải từng giây từng phút. Ngày ngày ông ra trước ngõ để ngóng trông. Và khi người con vừa xuất hiện từ đằng xa, người cha đã chạy đến ôm chầm lấy con và hôn lấy hôn để, rồi ông lại sai gia nhân mặc áo đẹp cho cậu con, xỏ nhẫn, đeo giày cho cậu và mở tiệc ăn mừng. Có lẽ trong văn chương nhân loại từ cổ chí kim chưa có một áng văn nào đẹp cho bằng hình ảnh trên đây. Thiên Chúa yêu thương đến độ tìm kiếm, ngóng trông con người từng giây từng phút, Thiên Chúa yêu thương đến độ sẵn sàng tha thứ tất cả lỗi phạm của con người, để phục hồi nó hoàn toàn trong thân phận cao quý của một con người.
Đó là tất cả Tin Mừng của Kitô giáo. Thánh Gioan đã tóm tắt tất cả chân lý ấy bằng câu nói: "Thiên Chúa là tình yêu". Thiên Chúa không mong gì hơn nơi con người, là con người nhận biết được tình yêu ấy. Không gì xúc phạm đến Thiên Chúa cho bằng khi con người khước từ tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn về người con hoang đàng trở về, nhưng điểm nhắm của Người lại là người con cả, hiện thân của những người biệt phái. Đây là hạng người tự cho mình là những kẻ yêu mến Chúa, tuân giữ các giới răn của Ngài, nhưng kỳ thực họ lại tỏ ra lời phát biểu của người anh cả trong bài dụ ngôn. Anh ta nói: "Đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, vậy mà không bao giờ cha cho con riêng một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó". Quả thật, những người biệt phái tuân giữ không sai chạy tất cả mọi luật lệ của Chúa, nhưng họ chỉ tuân giữ lề luật trong tinh thần sợ sệt cứng ngắt và giả hình, bởi vì họ không cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Và bởi vì không cảm nhận được tha nhân là người anh em ruột thịt của mình. Khước từ Thiên Chúa, con người cũng khước từ anh em của mình. Không cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, con người cũng không muốn san sẻ tình yêu với người anh em. Tin Mừng hôm nay quả thực là một quảng diễn về hai giới răn cơ bản trong đạo của chúng ta đó là: Mến Chúa Yêu Người. Người ta không thể mến Chúa mà không yêu tha nhân.
Mùa Chay qua bí tích hòa giải, Giáo Hội mời gọi chúng ta cảm nhận một cách sâu sắc tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn dang rộng cánh tay để ôm ấp, để vỗ về và tha thứ cho chúng ta. Và tình yêu vô bờ của Người Cha ấy chờ đợi gì nơi chúng ta hơn là chúng ta biết nhìn ra nơi tha nhân, người anh em của chúng ta, để chúng ta cũng yêu mến và tha thứ không ngừng.
Nguyện xin Đấng đã chết để mạc khải cho chúng ta bộ mặt tình yêu của Chúa, giúp chúng ta biết đón nhận tình yêu ấy trong từng giây phút của cuộc sống và san sẻ tình yêu ấy với mọi người anh em chúng ta.
46. Trở thành thụ tạo mới--Radio Veritas Asia--‘Suy Niệm Lời Chúa’
Ngày nay báo chí và các hãng du lịch ở Tây phương thường đăng quảng cáo, không những các danh lam thắng cảnh nhưng cả những chương trình hồi phục sức khỏe, giảm trọng lượng cơ thể, thể dục, tắm hơi nóng, tập Yoga, hoặc theo các phương pháp đông phương. Các bài quảng cáo đó nói rằng: Sau một vài tuần, các tham dự viên sẽ trở thành con người mới ăn ngon, ngủ kỹ hơn, hạnh phúc và trẻ đẹp hơn, họ tìm lại được an bình nội tâm. Những địa điểm hoặc chương trình phục hồi sức khỏe có lẽ là một điều tốt đối với một số người, cũng có thể là đắt đỏ. Nhưng cũng có thể là làm cho người tham dự được trở thành một con người mới, ít nhất là trong một thời gian.
Điều mà những địa điểm và chương trình phục hồi sức khỏe đó có thể làm cho tâm lý và thể lý của con người như vừa nói, cũng có thể tương ứng phần nào với điều mà Chúa có thể làm cho chúng ta, để trong việc thiêng liêng, như thánh Phaolô đã nói với các tín hữu thành Côrintô trong đoạn sau đây: "Anh em thân mến, nếu ai ở trong Đức Kitô thì người đó sẽ là một thụ tạo mới. Những gì là cũ đã qua đi, nay đây tất cả mọi sự đã trở thành mới". Câu nói này của thánh Phaolô có hai ý nghĩa.
Một đàng thánh Phaolô nói về trật tự cũ của nhân loại bắt đầu từ tổ phụ Adong, đó là tội lỗi và xa lìa Thiên Chúa. Trật tự này đã qua đi và được thay thế bằng trật tự mới, bắt đầu với Adong thứ hai là Chúa Giêsu Kitô. Đây là trật tự của ơn thánh và hòa giải với Thiên Chúa, nhưng nay nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, nhân loại được hòa giải với Thiên Chúa và sống trong ơn nghĩa của Chúa.
Ý nghĩa thứ hai trong câu nói của thánh Phaolô là ngài nói về trật tự cũ và Do Thái giáo theo Cựu Ước, trật tự này cũng qua đi và được thay thế bằng trật tự của niềm tin đối với Chúa Giêsu Kitô. Trong lịch sử Giáo Hội không thiếu những cuộc trở lại ngoạn mục của nhiều người, từ tình trạng tội lỗi ngập tràn trở thành thánh nhân như Augustinô. Tuy nhiên tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi trở thành thụ tạo mới hằng ngày trong Chúa Kitô dưới nhiều hình thức. Trở thành thụ tạo mới có thể là biết tự chủ mình, không để cho sự đam mê hướng dẫn hành động. Thụ tạo mới cũng có nghĩa là có một cái nhìn mới về cuộc sống lạc quan hơn, ít than thân trách phận và bớt phê bình chỉ trích hơn, can đảm sống liêm chính mặc dù những người xung quanh rơi vào cám dỗ muốn làm giàu một cách dễ dàng bằng mọi phương thế, kể cả những phương thế không hợp với luật Chúa, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cảnh giác các giáo hữu thuộc tổng giáo phận Turinô (Nước Ý), trong cuộc viếng thăm mục vụ ngày lễ thánh Giuse 19/03/1992. Trở thành thụ tạo mới trong Chúa Kitô có thể là kiến tạo những mối quan hệ mới mẻ với tha nhân, thay thế xu hướng ích kỷ bằng sự quan tâm đến những người khác và những nhu cầu của họ. Mùa Chay là mùa đổi mới con người, là mùa xuân, trong đó Giáo Hội mời gọi các tín hữu ra khỏi mùa đông của tâm hồn, để can đảm bắt đầu cuộc sống mới với chương trình sống cầu nguyện, tiết độ và chia sẻ với tha nhân. Chương trình này sẽ đưa tới lễ Phục sinh để họ có thể hát lên Alleluia.
47. Về với tình yêu Chúa--PM. Cao Huy Hoàng
Tôi vẫn thường thấy tội lỗi của người khác một cách dễ dàng hơn là nhìn thấy tội lỗi của tôi. Tôi vẫn thường đóng vai quan tòa để kết án người khác theo như tội trạng của họ. Tôi vẫn nghĩ rằng người khác tội lỗi hơn tôi- hoặc nghĩ là tôi thánh thiện-và tôi loại trừ họ, không giao du, không tiếp xúc với họ. Tôi vẫn đấm ngực người khác, trước khi đấm ngực tôi: "lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại người ta một phần". Như có một lần, tôi đến thăm một Linh Mục, bạn cùng lớp tôi, hỏi thăm về Giáo xứ, Ngài nói: "Ở đây mình ngán nhất là việc giải tội, vì họ xưng tội của người khác nhiều hơn xưng tội của chính mình"...Não trạng của những Biệt phái, những người Phariseu, thời Chúa Giêsu, vẫn còn hiện thực trong tim óc và cách sống của tôi, tín hữu thời nay. Và còn hơn thế nữa, những cảm thức về tội của thời nay còn biến thay muôn hình vạn trạng:
- Không thấy mình có tội hoặc tự tha tội cho mình tự chước giảm mức nặng của tội.
- Tội phong trào: người ta phạm được mình phạm được
- Sự cần thiết của Bí tích Hòa Giải để trở về với Thiên Chúa cũng giảm nhẹ, nếu không nói là không còn, đối với một số người.
Thì ra, ở đâu và thời nào, sức bành trướng của thế lực thù nghịch Thiên Chúa luôn lôi kéo con người ra chỗ càng xa Thiên Chúa càng tốt- như các người biệt phái xưa, thấy những người thu thuế, tội lỗi tìm đến Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu tiếp đón họ ân cần, thì lòng họ khinh bỉ luôn cả Chúa Giêsu là không có tư cách cứu thế.
LÒNG NHÂN TỪ CỦA CHÚA
Chúa Giêsu đưa ra một loạt ba ví dụ về lòng nhân từ của Thiên Chúa(Lc 15): Con chiên lạc, đồng bạc đánh mất, và nhất là ví dụ về tình phụ tử trong Tin Mừng hôm nay-nhằm nói với họ rằng: Chúa Giêsu đến với người tội lỗi, cứu người biết mình tội lỗi có ý hướng quay về.
Suy gẩm ví dụ "Tình Phụ Tử" cho tôi thấy trong ấy hàm chứa nhiều thông điệp quan trọng với đời sống tín hữu của tôi:
- Thiên Chúa để cho con người tự do dùng các ơn của Chúa: người con thứ đòi chia gia tài, người Cha tôn trọng và đáp ứng yêu cầu của con
- Lòng Cha yêu con, buồn phiền, không yên lòng, khi con rời xa Cha, luôn mong con trở về với mái ấm tình thương gia đình
- Sự sám hối chân thành của người con thứ: nhận ra mình đã lỗi phạm đến tình thương của Cha, quyết tâm đứng lên, mạnh dạn trở về thú tội và xây dựng một tương quan mới: tương quan của một lòng yêu thật.
- Cử chỉ, thái độ và kế hoạch đón tiếp của Cha, đầy tình thương yêu, cảm thông và tha thứ.
- Không nên có thái độ của người con cả với những ý niệm sai lầm về tương quan Cha Con, như tương quan của chủ tớ, sống trong tình thương của Cha, mà không nhận ra tình thương ấy.
BÍ TÍCH HÒA GIẢI
Một phần suy niệm các thông điệp, tôi muốn dùng Lời Chúa hôm nay, "Tình Phụ tử", liên hệ đến đời sống Bí Tích Hòa Giải
Điều đáng vui mừng là ở khắp các Giáo xứ tại Việt Nam, việc ban và lãnh nhận Bí tích Hòa giải vẫn còn đang sinh động lắm. Nhưng điều đáng nói là: cần bổ sung vào việc đạo đức ấy một tâm tình thánh thiện chân thành của người con hoang đàng như trong ví dụ "Tình Phụ Tử".
- Cảm thấy xấu hổ vì tội: làm cho mất nhân phẩm tự nhiên và nhất là mất nhân phẩm Ki tô hữu, "con cái Thiên Chúa". Cảm nghiệm được sự bất hạnh khi sống trong tình trạng xa cách Thiên Chúa và nhất là "giác ngộ" được chân lý "sẽ phải chết đời đời"
- Cảm thấy đói: không chỉ giữ luật xưng tội một năm ít là một lần, nhưng phải có tâm tình "cảm thấy đói". Ấy là "Đói" Chúa Giêsu Thánh Thể, khao khát được kết hợp lại với Chúa Giêsu và Thiên Chúa qua việc rước lễ, để được "sống lại và sống đời đời" trong tình thương yêu của Chúa.
- Quyết tâm trở về: "Tôi sẽ đứng lên sẽ trở về cùng Cha..." đồng nghĩa với việc quyết tâm chừa tội và mạnh dạn tìm đến Bí tích Hòa giải cách sớm nhất.
-Thú tội: "Thưa Cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến Cha..": xưng thú tất cả các tội đã phạm với lòng tin tưởng vào lòng Chúa nhân hậu luôn sẵn sàng tha thứ; chân thành nhận hoàn toàn sự sai trái thuộc về mình, do sự lạm dụng tự do của mình, không đổ thừa đổ lỗi cho ai, cho hoàn cảnh...
- Dự tiệc: dự tiệc Thánh Thể với tâm tình Tạ Ơn lòng Chúa nhân hậu.
Tưởng cũng nên nhắc lại đây, một vài vấn nạn thường gặp của tôi, của các tín hữu khi đề cập đến Bí tích Hòa Giải.
- Không xét mình hằng ngày, dần dần mất cảm thức về tội, mất lòng thống hối
- Không thường xuyên tham dự Thánh Lễ, mất lòng khao khát kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể, do đó, việc xưng tội trở nên không cần thiết.
- Không tin tưởng đủ vào lòng Chúa thương xót, mất niềm trông cậy
- Các Linh Mục, thừa tác viên Bí tích giải tội, trung gian của ơn thứ tha hòa giải, đóng một vai trò quan trọng vô cùng trong việc trở về của các hối nhân. Các tín hữu vẫn mong thấy được lòng nhân từ của "Chúa thương xót" thể hiện nơi cách tiếp đón và thi hành mục vụ Bí tích cách nhân bản, tế nhị và đạo đức nhất.
Vì những vấn nạn trên, nên đã hình thành những tâm trạng như: có tội xét mình dễ, có tội khó; có tội dễ xưng, có tội khó nói; có tội xưng dễ, chừa khó; có Cha ngồi tòa đông hối nhân tìm đến, có Cha chẳng có ai; có việc đền tội làm được, có việc không...
TÌNH YÊU
Không phải mười điều răn Đức Chúa Trời và sáu luật điều Hội Thánh dạy cho tôi có cảm thức về tội, nhưng chính "lòng yêu" của tôi, lòng biết ơn của tôi dành cho Thiên Chúa, như dành cho "người Cha nhân hậu" mới cho tôi nhận ra tôi đã xúc phạm tới Thiên Chúa và tha nhân đến mức nào. Chính vì 'hiểu được Cha tôi ở nhà thương tôi, lo cho tôi từng bữa cơm, từng tấm áo, từng giấc ngủ'; nên tôi mới nhận ra sự bất hạnh của tôi khi phải sống xa Cha, sống bụi bờ, đói khát và mất nhân phẩm; và tôi quyết tâm trở về vì tôi yêu Cha tôi.
Phàm ai trên đời cũng có tội, tôi cũng không ngoại lệ. Tội, không chỉ dựa theo mười điều răn Đức Chúa Trời và sáu luật điều Hội Thánh-mà còn là Tội: mỗi khi tôi đặt "lòng yêu" của tôi trọn vẹn vào một thực tại hư hèn, hoặc một thực tại không phải là Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con lòng yêu mến Chúa nồng nàn, để con kịp nhận ra những gì là không phù hợp với Thánh Ý và Tình Yêu Chúa; để con kịp nói với Chúa lời xin lỗi vì những xúc phạm, để con kịp tìm đến Bí tích Hòa Giải mà trở về với Chúa, trong vòng tay ôm yêu thương của Chúa, Người Cha nhân hậu. Amen.
48. Hai người con, hai cuộc trở về--Radio Veritas Asia--‘Suy Niệm Lời Chúa’
Hôm nay chúng ta đang ở vào thời điểm gần kề lễ Phục sinh. Giáo Hội muốn cho con cái mình tìm thấy được niềm vui sống, được kinh nghiệm hạnh phúc của một người được ơn tha thứ. Trên thực tế trong đời sống hằng ngày, có bao giờ chúng ta sống được niềm vui, niềm hạnh phúc của một người vừa thoát một hoạn nạn, một đau buồn, một cơn ác mộng và hiện đang sống trong một thực tế an toàn và thanh thản chưa? Tôi biết có một người tưởng mình mắc bệnh nan y ung thư đến thời trầm trọng chỉ còn chờ chết mà thôi. Đương sự buồn và người thân cũng rất buồn, nhưng sau khi giải phẫu cầu may, bác sĩ lại bảo là không phải ung thư, sẽ khỏi hẳn. Ai tả được sự vui mừng và hạnh phúc của người đó cũng như của thân nhân họ? Riêng cá nhân tôi, tôi cũng có kinh nghiệm của những giờ phút đó. Tôi xin được chia sẻ.
Đó là trong những năm vừa qua, thường trong giấc ngủ tôi hay có những cơn ác mộng, là thấy mình sống trong một hoàn cảnh bị đủ mọi thứ kìm kẹp hãi hùng, đến chừng giật mình hoàn hồn lại, nhận ra mình đang ở một thời đại tiên tiến. Như thế thì phải hiểu sự thoải mái, khoan khoái nhẹ nhàng đó còn lớn lao biết chừng nào. Khi con người thoát khỏi sự nguy hiểm đời đời là tội lỗi để trở thành con cái Thiên Chúa, khi con người được từ bờ diệt vong đời đời trở về sống trong ân sủng và tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa. Hôm nay gần đến lễ Phục sinh, phụng vụ mời gọi mọi người chúng ta trên con đường trở về cùng Chúa, hãy có một kinh nghiệm của niềm vui đó, sự thanh thản đó, cùng chung bối cảnh đó.
Bài đọc thứ nhất hôm nay cho chúng ta thấy sự vui mừng hạnh phúc của dân Chúa, sau khi thoát khỏi nô lệ Ai Cập và nhất là được đặt chân trên miền Đất Hứa. Không còn nữa những ngày nô lệ cực nhọc, nhục nhã, hãi hùng. Không còn nữa những ngày lang thang trong sa mạc gian lao, nguy hiểm. Thánh Phaolô, nơi bài đọc thứ hai cũng nhắc nhở chúng ta, những người có đức tin hãy ý thức và hãy sống được cái kinh nghiệm thoát khỏi hãi hùng đến bến bờ cứu độ bình an đó. Ngài nhắc nhở rằng: "Anh chị em thân mến, nếu ai ở trong Đức Kitô thì người đó là một thụ tạo mới, những gì cũ đã qua đi rồi". Nói chung, tất cả Lời Chúa hôm nay đều mời gọi chúng ta đổi mới, trở về nhà Chúa để sống niềm vui gia đình và hạnh phúc trong tình cha con, anh chị em với nhau. Rõ ràng nhất, cảm động nhất phải là lời mời gọi của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm. Và chúng ta phải thấy rằng, muốn thực hiện cuộc trở về thật sự để sống trong niềm vui trọn vẹn, hạnh phúc hoàn toàn, mỗi người phải thi hành hai khía cạnh của một cuộc trở về. Đó là trở về cùng Chúa và trở về cùng anh chị em của mình, cùng những người chung sống với mình.
Hai người con trong bài Phúc Âm là hình ảnh của hai cuộc trở về đó. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn rõ hơn vào dụ ngôn nổi tiếng và tuyệt vời này của Chúa Giêsu, để thấy chính tình yêu, sự tha thứ, sự tìm về lại với nhau tạo niềm vui hạnh phúc cho con người. Trước tiên là tình yêu, tình yêu của người cha đối với cả hai người con bao la vô tận. Với người con phung phá trở về ông bảo: "Con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Với người con phân bì ghen ghét kia ông bảo: "Hỡi con, con luôn ở với cha, mọi sự của cha đều là của con". Như thế trước sự phung phá hư thân của đứa em, cũng như trước sự ganh tỵ bướng bỉnh của người anh, người cha không rầy la trách móc chi cả, ông chỉ biết yêu thương, tha thứ để tạo lại niềm vui gia đình.
Kế đó, sự trở về của đứa con phung phá hoang đàng là động lực chính tạo ra niềm vui. Biết rằng dẫu anh trở về không vì thương cha, nhưng vì không còn chịu đựng được nữa cảnh nghèo đói túng thiếu, anh lại nhớ đến sự no đủ thoải mái ở nhà cha và nhất định đứng dậy trở về. Nhưng đối với lòng cha bao nhiêu đó đủ rồi. Người cha không cần chi nữa, miễn con mình đầy đủ, hạnh phúc vui tươi là được. Và niềm vui sum họp đó chỉ được trọn vẹn khi người con cả biết sẵn sàng tha thứ. Thật ra, người con cả ở nhà với cha nhưng cũng chẳng yêu thương gì cha anh. Nếu thương cha, anh phải cảm thấy lòng anh cùng một nhịp đập với cha vui mừng đón em về, đừng để cha phải chạy ra năn nỉ. Có lẽ chúng ta thắc mắc tại sao trong dụ ngôn, Chúa Giêsu không nói người con cả có chịu vào nhà sum họp không, để người nghe thấy được niềm vui trong gia đình có trọn vẹn hay không? Thật ra, giải đáp cuối cùng đó Chúa để cho những người biệt phái và luật sĩ trả lời. Họ phàn nàn vì Chúa Giêsu tiếp đón những kẻ tội lỗi và không bao giờ chịu vào ngồi chung bàn. Vậy tùy họ kết luận. Nếu họ tha thứ và vào, đó là người con cả vào nhà; nếu họ cứ tiếp tục phàn nàn: "Ông này tiếp đón kẻ tội lỗi" tức là anh ta vẫn ganh tỵ và bướng bỉnh, nhất định đứng ngoài cuộc.
Trong Mùa Chay, để chuẩn bị sống lại với Chúa và hưởng hạnh phúc niềm vui mà phụng vụ hôm nay mong muốn chúng ta phải có được, mỗi người chúng ta phải trở về nhà cha. Muốn được một đời sống sung túc, chúng ta phải cày sâu cuốc bẩm, vất vả suốt ngày mới có; thì đời sống thiêng liêng vô cùng quí giá, không thể ngồi không mong hưởng được. Dầu đồng hóa mình với người con thứ nhất hay người con thứ hai, tất cả chúng ta hãy cùng bước chân vào nhà để chúc tụng lòng thương xót muôn đời của Chúa, và tận hưởng niềm vui, sự an bình, quên đi những ngày buồn sầu đói khổ, nguy hiểm, hận thù, ganh ghét đã qua.
49. Biết dứt khoát đứng dậy và trở về--‘Suy Niệm Lời Chúa’--Radio Veritas Asia
Chúa nhật IV Mùa Chay mời gọi chúng ta cảm nhận được và nhất là sống được trong niềm vui, niềm hạnh phúc của một người vừa thoát một hoạn nạn, một đau buồn, một cơn ác mộng và đang sống trong một thực tế an toàn và thanh thản. Có bao giờ chúng ta cảm được kinh nghiệm đó chưa? Đó là kinh nghiệm của một người tưởng mình mắc bệnh nan y đang chờ chết, nhưng sau khi đi khám bác sĩ bảo không có gì đáng ngại, sẽ khỏi. Đó là kinh nghiệm của hai vợ chồng cắn đắng nhau, gây gỗ nhau tưởng đã đi đến chỗ đỗ vỡ, nhưng sau đó tìm lại được sự tha thứ, sự giải hòa và ôm nhau trong nước mắt. Đó là kinh nghiệm của người vừa an toàn thoát khỏi một tai nạn kinh hoàng, trong những trường hợp đó, chúng ta sẽ thấy thấm thía khi hát lên thánh vịnh 124: "Hồn tôi như cánh chim đã vượt thoát bẫy của người đánh chim, bẫy đã tan tành muôn mảnh, còn chúng tôi, chúng tôi đã thoát".
Bài đọc thứ nhất trích từ sách Giosuê kể lại sự vui mừng hạnh phúc của dân Do Thái sau khi thoát khỏi nô lệ Ai Cập và nhất là sau khi đặt chân đến miền Đất Hứa. Không còn nữa những ngày lang thang sa mạc gian lao, nguy hiểm. Dân Chúa đã về đến quê hương Chúa đã hứa ban cho Abraham làm gia nghiệp, nơi đó tổ tiên của họ là Abraham, Isaác, Giacóp đã sống. Họ đã xây dựng lại, đã khai khẩn đất đai làm mùa và nhất là đã bắt đầu tiêu dùng những thổ sản quê hương, từ ruộng đất và lao công của họ. Vui hưởng ân lành của Chúa cảm thấy hạnh phúc tràn trề. Trong tình yêu thương săn sóc của Chúa, họ đã hát lên thánh vịnh 33 dùng làm đáp ca "Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi và các bạn khỏi hổ ngươi bẻ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn".
Nơi bài đọc thứ hai thánh Phaolô đã nhắc cho tín hữu thành Côrintô một hạnh phúc to lớn, không hạnh phúc, không niềm vui nào có thể so sánh được. Đó là hạnh phúc của con người trở thành tạo vật mới, trở thành con Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Công cuộc trở thành tạo vật mới đó được thực hiện nhờ sự giao hòa lại cùng Thiên Chúa. Tội lỗi làm cho con người sống xa Chúa, cắt đứt mọi liên lạc cùng Chúa, cuộc đời bị mất hướng, đời sống trở thành vô nghĩa, nhất là nguy hiểm diệt vong đang chờ đón. Nhưng may mắn cho nhân loại, cho chúng ta, thánh Phaolô bảo: "Vì Chúa Kitô, chúng tôi van nài anh chị em hãy giao hòa lại với Thiên Chúa, Đấng không hề biết tội thì Thiên Chúa làm cho nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên công chính trước Thiên Chúa".
Không còn niềm vui nào bằng, từ tội lỗi trở thành công chính, từ nô lệ sự dữ trở thành con Thiên Chúa, từ đứng bên bờ diệt vong trở thành sống đời đời, trong ân sủng và tình thương. Niềm vui được cứu thoát nô lệ Ai Cập về Đất Hứa của dân Do Thái trong sách Giosuê, nơi bài đọc thứ nhất không thể nào so sánh được với niềm vui to lớn của con người từ nô lệ tội lỗi trở về làm con cái Thiên Chúa.
Đến bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra một thí dụ tuyệt vời, rõ ràng dễ hiểu và nổi tiếng, ai cũng biết cả. Để an ủi để khích lệ người tội lỗi hãy biết suy nghĩ, hãy biết dứt khoát đứng dậy và mạnh dạn tuyên bố: "Tôi muốn ra đi trở về với Cha tôi", Chúa Giêsu đưa ra hai người con tiêu biểu cho hai cuộc trở về. Người con phung phá trở về trong tình yêu của cha mình, của mái ấm gia đình. Người con cả cần phải trở về trong tình anh em, phải biết tha thứ cho em mình, phải biết hòa nhập vào niềm vui của gia đình. Sự trở về trong tình anh em này cũng có một tầm quan trọng giống như sự trở về cùng tình cha con. Người con cả dầu tự hào là luôn sống trung thành với Cha, nhưng nếu khước từ tình anh em, thì anh vẫn là người ngoài cuộc không vào nhà và không cùng chung hưởng hạnh phúc niềm vui của gia đình. Nếu anh không vào chính là tự ý anh không vào. Người cha vẫn luôn mở rộng cửa nhà, mở rộng vòng tay, mở rộng cõi lòng năn nỉ anh.
Vậy niềm vui thật của cuộc trở về trong tình yêu thương của Chúa phải có hai chiều kích, trở về cùng Thiên Chúa là Cha và trở về cùng anh chị em của mình, chính là tha thứ, làm hòa lại với nhau, giải tỏa những hận thù và sống trong tình yêu thương. Đó là niềm vui thật, niềm vui mà ca nhập lễ kêu mời "Mừng vui lên hỡi Giêrusalem, tề tựu cả về đây hỡi những ai hằng mến yêu thành. Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng hân hoan tận hưởng niềm an ủi chứa chan".
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi noi gương người em trong gia đình nơi bài dụ ngôn của Chúa Giêsu. Tôi phải làm một hành động chứng tỏ tôi nhất định đứng dậy lên đường trở về nhà cha tôi, để sống lại trong hạnh phúc của tình yêu thương nồng thắm của Người. Hành động đó có thể là một sự dốc lòng từ bỏ một tật xấu đã từng làm tôi đau buồn, đã kéo ghì tôi trong tội lỗi hay đã làm cho những người thân yêu trong gia đình tôi phải khổ. Và kế đó học lấy bài học của người anh: Tôi không đứng để cho Cha tôi phải năn nỉ. Tôi hãy biết tha thứ cho người khác, hãy hòa mình vào niềm vui của gia đình, nhất là chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa là Cha tôi khi một người anh chị em tôi trở về nhà Cha.
50. Người Cha nhân từ--Lm. Damien OFM
Người cha nhân từ.
Trong bài tin Mừng của Chúa nhật III Mùa chay vừa qua, Chúa Giêsu thúc dục chúng ta lo ăn năn thống hối. Tin Mừng Chúa nhật IV Mùa chay hôm nay nói đến lý do của lời thúc dục trên là vì Chúa là người cha nhân từ.
Lòng nhân từ của Chúa.
Khi đọc xong bài Tin Mừng nầy, có một người cha phản ứng ngay: "Sao kỳ vậy! Biết nó lấy của ra đi ăn chơi phung phí đến hư thân mà lại để cho nó ra đi, không ngăn cản, la rầy một lời nào cả?"
Lòng nhân từ của người cha được biểu lộ không những trong thái độ tha thứ, chờ đợi để tha thứ mà cả trong thái độ tôn trọng sự tự do của con cái.
Thật vậy, khi đứa con xin chia gia tài và ra đi, người cha dư biết nó sẽ hư; nhưng lạ lùng thay, người cha nầy lại không một lời la rầy trách mắng như các người cha khác thường làm, cũng không một lời can ngăn hay khuyên bảo. Lòng khoan dung của người cha được biểu lộ trước tiên qua sự tôn trọng tự do của con cái, không áp đặt, dù biết can ngăn hay la rầy lúc nầy là điều tốt cho con cái. Thiên Chúa đối với con người, như với những đứa con trưởng thành, và chỉ biết kiên nhẫn chờ đợi. Thái độ của Thiên Chúa có thể làm cho các bậc cha mẹ ngạc nhiên và khó chịu, và họ có thể cho đó là nuông chiều con cái. Con cưng là con hư mà!
Trong lúc đó, những người tội lỗi và thu thuế đang nghe Chuá nói chắc cảm động lắm. Họ dư biết Chúa Giêsu đang nói đến lòng khoan dung của Thiên Chúa đối với họ. Còn những người khác không nhận ra mình là người tội lỗi như Biệt phái và luật sĩ hôm qua và hôm nay, thì dụ ngôn kia chỉ là một câu chuyện nằm trong loạt các câu chuyện người tốt việc tốt, một người cha đáng khen, chỉ thế thôi. Có chăng thì nó có thể là đầu đề của một bài thơ hay một bài nhạc, nhưng ít khi là đầu đề của cuộc sống.
"Anh em hãy sống nhân từ như Cha anh em ở trên trời là Đấng nhân từ". Thường lòng nhân từ mới có sức hấp dẫn, và đổi mới được con người, chứ không phải là những lời chỉ trích phê bình hay lên án.
Có đạo mà không có đức.
Thái độ của người anh cả là thái độ tiêu biểu của biệt phái và luật sĩ hôm qua và hôm nay.
"Con không hề trái lệnh cha một điều nào": Anh tự cho mình giữ đúng luật lệ của đạo hiếu và cũng vì thế mà tự cho mình có quyền giận dữ trước thái độ nhân từ của người cha và quyền lên án người em: "Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đĩ điếm..." Ngày nay cũng thế, có nhiều người đọc kính xem lễ đều đặn, giữ một số việc đạo đức hết chỗ chê, nhưng lại sống thiếu lòng khoan dung. Họ tự hào về đời sống của mình và tự cho mình quyền phê bình, lên án, hay khinh khi những ai không giữ luật bề ngoài được như họ. Một thái độ chẳng Phúc Âm chút nào. Người ta thường nói về họ cũng như về những biệt phái và luật sĩ xưa: đó là những người có đạo mà không có đức, vì thiếu lòng khoan dung. Và chính sự thiếu lòng khoan dung nầy nhiều khi là nguyên nhân chính của những cảnh cơm không lành canh không mặn trong các gia đình, các cộng đoàn, với hàng xóm cũng như trong Giáo Hội và xã hội.
Dụ ngôn người cha nhân từ vừa làm cho ta cảm động trước lòng khoan dung của Thiên Chúa, vừa thúc dục chúng sống khoan dung với kẻ khác, vừa là một bài học về cách huấn luyện cho các bậc làm cha làm mẹ và những người có trách nhiệm đào tạo giới trẻ hôm nay. Nhiều khi sự thinh lặng khoan dung có sức thuyết phục hơn muôn vàn lời nói. Lòng khoan dung đi đôi với lòng kính trọng con người, là đường lối huấn luyện của Chúa Giêsu đối với các Tông Đồ cũng như đối với những người yếu đuối và tội lỗi hôm qua và hôm nay, như bạn với tôi hôm nay vậy.
Bổn phận tôi là cho mượn.
Chuyện xảy ra ở một thôn bản người dân tộc thiểu số.
Có gia đình kia nghèo nhưng đạo đức. Hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn, nên trong nhà không thiếu ăn. Mấy người hàng xóm thiếu, cứ đến vay mượn hoài, và hứa sang mùa tới sẽ trả. Nhưng sự thật thì có một vài người hết mùa nầy sang mùa nọ, chẳng bao giờ trả được. Bà mẹ già trong gia đình không bằng lòng và trách con gái:
- Sao mầy ngu vậy? Bạ ai hỏi cũng cho mượn hết, người ta không trả cho mầy thì mầy lấy gì mà ăn?
Chị mỉm cười và ôn tồn đáp lại:
- Mẹ nầy, không sao đâu! Mình nghe lời Chúa dạy: cho mượn là việc của mình phải làm, còn trả hay không là việc của người ta mà!...
51. Cha nhân lành vòng tay rộng mở--Achille Degeest
Trả lời những câu nói xa nói gần ác ý của những người Biệt phái, Đức Giêsu nêu ra những dụ ngôn đẹp lạ lùng về lòng từ ái, nhất là dụ ngôn đứa con phá gia. Biệt phái và Ký lục là những kẻ có “môn bài” giải thích Lề Luật, tự cho quyền xét đoán kẻ khác về phạm vi Lề Luật. Họ rất bất bình thấy Chúa nói chuyện, hơn nữa, tỏ ra thân mật với những kẻ tội lỗi. Chúa công khai ghét sự tội vô cùng, lên án sự tội dù nó mai phục trong những chốn hiểm hóc nhất là tâm và trí con người. Vậy mà Chúa lại dễ tính để người ta gọi Người là bạn của những kẻ thu thuế và những kẻ tội lỗi. Thật ra Chúa có làm bạn với hạng người ấy, vì bản thân Chúa hoàn toàn trong sạch cho nên Chúa có thể thương yêu trong sự thật hạng người tội lỗi. Bài dụ ngôn được thánh chép sử thuật lại theo một mạch lạc trong sáng, chẳng cần giải thích thêm. Chúng ta nhặt ra mấy đoạn có giá trị gợi cảm.
1) Hồi tâm lại, nó tự nhủ…
Anh thanh niên khinh bạc và ích kỷ nhận ra hơi muộn, nhưng không quá muộn, là những hành vi của anh đưa đến những hệ luỵ. Trước đây anh không muốn nghĩ đến điều đó, nhưng bây giờ những hệ luỵ tai hại xiết chặt lấy anh. Anh nhận thấy, hưởng thụ bằng cách chỉ vung tiền mà không lao động tiết kiệm tất đưa đến khốn khổ. Tuy nhiên còn có điểm đáng khen là anh không tuyệt vọng về cha anh. Nguyên tắc hồi tâm trở lại là không được tuyệt vọng về Thiên Chúa. Hơn nữa trong thâm tâm phải nhìn nhận mình bất xứng và chỉ trông cậy vào tình yêu của Cha.
2) Người con cả liền nổi giận và không thèm vào nhà…
Trên bình diện con người, phản ứng như người anh cả rất dễ hiểu. Nhưng Đức Giêsu dạy rằng trong Nước Trời, phản ứng như vậy không được. Những kẻ lành ăn ở ngay thẳng là đúng bổn phận, phải quyết chí trung kiên trong kinh nguyện và cố gắng đạo đức. Tuy nhiên họ không có quyền đặt một giới hạn cho lòng từ bi của Thiên Chúa. Hơn nữa, phải độ lượng theo lượng cả khoan dung của Người. Giả sử Thiên Chúa vui mừng thấy một đứa con hư trở về nhà Cha, thì những kẻ xưa nay vẫn hiếu thảo được mời gọi chung vui đón mừng kẻ sám hối.
3) Truyền thống Kitô giáo từ xưa đã cảm thấy điểm trung tâm của dụ ngôn này là lòng độ lượng của Cha.
Tất nhiên, điều cần thiết tuyệt đối phải có, là kẻ tội lỗi phải ăn năn hối hận. Dẫu sao, thực tại trước hết là Thiên Chúa dành cho kẻ có tội một sự quan tâm âu yếm thương xót. Đứa con hư khỏi mất công gõ cửa vì cửa mở sẵn chờ ý. Người cha chạy vội ra xa đón chờ con. Tới đây chúng ta thấy Thiên Chúa nhân lành không biết đến những hạn chế con người đặt cho sự tử tế của mình, những hạn chế có tên là tự ái, tự trọng, công bằng, v.v… Điều chắc là Thiên Chúa cầm cân nảy mực, duy trì trật tự trong mọi sự mọi việc, và chẳng thấy chỗ nào trong Phúc Âm nói rằng đứa con lãng tử khỏi phải tạ tội, khỏi phải làm điều gì để hàn gắn thiệt hại y đã gây ra cho gia đình –nhưng một vòng tay rộng mở chờ y.
52. Trở về trong tình thương.
Có một chàng thanh niên chán sống nơi thôn dã, đã bỏ nhà trốn lên thành thị. Ở đó, chàng đã ăn chơi, trác táng… Kiếp sống sa đoạ đã đưa chàng đến chỗ thân tàn ma dại. Trong nỗi cùng cực, chàng bắt đầu hồi tâm và nhớ lại nếp sống ấm êm trong gia đình.
Chàng quyết định trở về. Nhưng trên đường về, nghĩ mình quá bất xứng, không biết cha mẹ có tha thứ không, nên chàng đã rẽ lối đi nơi khác. Ở đó, chàng viết thư về cho cha mẹ và thú nhận tội lỗi. Chàng cũng ngỏ ý: nếu cha mẹ bằng lòng thì hãy lấy chiếc áo bông treo trước cửa nhà.
Mẹ chàng đã làm gì? Bà không những treo một cái áo bông mà lấy tất cả các áo trong nhà ra treo kín cả bờ dậu trước ngõ như một rừng cờ đón rước con trở về.
Thưa anh chị em, Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Ngài thi ân cho chúng ta hơn cả sự mong đợi và cầu xin của chúng ta. Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh, và sai đầy tớ mở tiệc ăn mừng.
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Chính lòng thương xót của Ngài đã cứu người con. Người con ôm gia tài của cha ra đi mang theo bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ: tự do, tình yêu, hạnh phúc… Nhưng rồi tất cả chỉ là ảo tưởng. Ước mơ hạnh phúc không thành. Cuối cùng chỉ còn là bụng đói, xác xơ, đau khổ và tủi nhục.
Điều gì đã đưa chàng thanh niên đến quyết định trở về? Phải chăng đau khổ, thất bại, vỡ mộng, bế tắc? – Không, nếu chỉ có vậy thôi, có lẽ không đủ lý do để anh dám mang mặt trở về. Bởi đã có biết bao người rơi vào tình cảnh túng quẫn như anh, đã không dám trở về. Họ đã buông xuôi, tuyệt vọng và đã giải quyết bằng cách tự tử. Phải có một cái gì khác trở thành động lực thúc đẩy anh trở về. Cái gì khác đó chính là tình yêu của người cha. Phải, nếu không tin vào tình yêu của người cha, chắc chắn anh sẽ không dám quay đầu trở về. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào lòng yêu thương tha thứ của cha anh. Chính niềm tin vào lòng yêu thương của người cha đã đem lại tia sáng hy vọng, đã nâng anh đứng dậy, đã mở đường tạo lối thoát cho anh để trở về cùng cha.
Tội lỗi đưa đến chỗ bế tắc, đường cùng. Con người tự tách mình khỏi tình yêu của Thiên Chúa là đi vào chỗ chế, là “mất đi”. Tình yêu Thiên Chúa đã mở lối thoát, đã cảm hoá con người tội lỗi. Nếu không có tình yêu, không có ý thức tội lỗi, thì chỉ có mặc cảm tội lỗi mà thôi. Không phải nước mắt đổi mới tâm hồn con người mà chính là tình yêu của Thiên Chúa đổi mới tâm hồn con người sám hối. Nếu không có tình yêu của Thiên Chúa, nếu không tin mình được Thiên Chúa yêu thương, con người sẽ không tìm được con đường trở về. Phải tin mình luôn được Thiên Chúa yêu thương, phải tin rằng mình luôn có một chỗ rất đặc biệt trong trái tim Chúa, dù có bỏ ra đi, chỗ ấy vẫn không mất, chỗ ấy vẫn còn để trống, để chỉ dành riêng cho ta.
Tấm lòng của người cha thật nhân hậu, tốt lành. Người con chỉ mong có được một chỗ ngủ, một bát cơm ăn, một tấm áo mặc. Nhưng cha anh đã quảng đại vô biên, đã đón nhận người con với niềm vui rộn rã: mặc áo mới cho con, mang giầy dép cho con, rồi mở tiệc ăn mừng.
Tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt quá mơ ước của chúng ta: “Nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (Rm 5,20).
Trở về là gặp lại niềm vui xum họp. Trở về là “tìm lại được”, là “sống lại”. Tìm lại được sự sống, đó là ý nghĩa đích thực của việc hoán cải và cũng là lý do của niềm vui sâu xa nơi người cha. Người cha vui mừng mở tiệc không phải vì từ nay đứa con trở về sẽ giúp cho ông việc nầy sẽ làm cho ông việc nọ, mà chỉ vì từ nay anh sẽ được sống và được sống hạnh phúc dồi dào. Thật là một niềm vui hoàn toàn vị tha và rộng mở của người cha bao dung, nhân hậu.
Trong khi người cha tràn đầy niềm vui đón nhận sự trở về của người con với tất cả sự bao dung rộng mở: “Em con đã chết, nay lại sống” thì lòng người anh lại đầy tị hiềm và từ chối chia sẻ niềm vui của người cha: “cái thằng con của cha kia…”
Con của cha chứ không phải em của con. Anh tự loại mình ra khỏi gia đình. Anh kể công với cha anh như một người làm thuê, như một người tôi tớ, chớ không phải như một người con hiếu thảo: “Bao nhiêu năm qua con đã hầu hạ cha, chẳng hề trái lệnh cha, thế mà…”. Dù không bỏ cha, cũng chẳng bỏ nhà ra đi như người em, nhưng rõ ràng anh không phải là đứa con sống hạnh phúc bên cạnh cha mình. Anh vẫn gần mặt mà chẳng gần lòng.
Thưa anh chị em, chúng ta là những người con bướng bỉnh, những người con bụi đời, những người con ích kỷ của người cha nhân hậu. Người cha ấy đã đón nhận chúng ta trở về, không phải một lần, dăm ba lần, mà rất nhiều lần. Thiên Chúa là người cha luôn tha thứ cho chúng ta và đem chúng ta về với Ngài. Thế nhưng tại sao chúng ta lại cứ muốn trốn khỏi người Cha đầy lòng khoan dung, nhân hậu? Sao chúng ta cứ muốn tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trở về để tha thứ, để vui mừng, tiếp đón? Lòng nhân hậu Chúa vô biên, chúng ta đừng bao giờ quên điều ấy. Nếu chúng ta nhớ Thiên Chúa nhân lành vô cùng,chúng ta sẽ không chống đối Ngài, chúng ta sẽ cố gắng làm vui lòng Ngài.
Hôm nay tôi xin đề nghị: Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài. Hãy cầu nguyện cho mình và anh chị em khám phá ra tình yêu của Chúa ngay giữa cuộc sống. Bắt gặp được tình yêu Thiên Chúa như Phêrô bắt gặp tia mắt của Chúa Giêsu khi chúng ta sa ngã. Chính tình yêu của Chúa mới cứu được chúng ta.
Thánh lễ thực hiện điều đó: ngay tại đây, trong lúc này, chúng ta, những người con đang gặp lại người Cha đầy lòng yêu thương tha thứ. Hãy tạo cho Ngài niềm vui xum họp và cùng chung vui với Ngài và với anh em một nhà.
53. Cha ơi, con đã về--Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Nếu nói mùa Vọng là mùa con người trông chờ Chúa đến thì mùa Chay hẳn là thời gian Chúa đợi mong người ta trở về. Trông đợi nào cũng là tác động của nhớ thương. Bởi lẽ có thương mới nhớ. Có nhớ mới tha thiết trông mong, đợi chờ. Nhưng dường như trong sự trông đợi của con người vẫn phảng phất một nỗi nhớ nhung chưa trọn vẹn. Có thể vì con người còn thương mình hơn thương Chúa. Trong khi đó, nỗi đợi chờ của Chúa lại chất chứa cả một bầu trời yêu thương bao la, vời vợi.
Đọc câu chuyện “Tình Cha” tôi nhận ra điều đó. Người con thứ khát vọng một chuyến ngao du cho thoả chí tang bồng. Anh bỏ rơi cha già, ra đi theo tiếng gọi xa xăm. Người cha âm thầm chấp nhận. Ông không nuối tiếc vì phải chia bớt một số gia sản, nhưng đau khổ vì mất đi người con dấu yêu bồng bột. Nỗi khổ còn nhân thêm khi đời mình đang bị kết liễu ngay trong tâm trí của đứa con. Thường thì cha mẹ chỉ chia gia tài lúc biết mình sắp chết. Và con cái sẽ nhận phần khi bố mẹ đã qua đời. Nhưng đứa con đó lại đòi chia tài sản và thu gom tất cả, ra đi khi người cha còn khoẻ mạnh. Bản án tử hình được công bố. Người cha xót xa nhìn bóng con xa mờ.
Không phải chỉ có tội bất hiếu khi đày đoạ lòng cha, người con còn làm bại hoại gia phong khi giao du với quân đàng điếm. Có cha mẹ nào lại không muốn con khôn lớn, nên người đức hạnh, ăn học thành tài, mang lại thanh danh cho gia đình dòng họ. Thế nhưng, thay vì danh thơm tiếng tốt, đây chỉ là nỗi tủi nhục cay đắng vì đứa con mất nết hư thân.
Đã vậy, nó còn làm nhơ uế cả thuần phong mỹ tục. Với một truyền thống thanh sạch khởi đi từ bao đời, với những mẫu gương anh hùng của tiền nhân: thà chết còn hơn ăn thịt heo, như cụ già Êlêasar hay “Người Mẹ với Bảy Đứa Con” trong sách Macabê. Ấy thế mà giờ đây, phẩm giá của hắn còn thua cả giống heo. Muốn ăn đồ ăn của loài súc sinh bẩn thỉu mà cũng không ai cho. Thê thảm thay!
Thế rồi khi cơn đói giày xéo đến cực độ, người con bắt đầu sực tỉnh. Nó băn khoăn tự nhủ: những người làm công cho cha mình đâu có bị đối xử tàn tệ như thế này. Họ được ăn uống dư dật, còn mình lại bị chết đói nơi đây. Nó ước mong trở về. Nhưng động lực của mong ước đó không phải vì thương nhà, nhớ cha, song vì đói quá. Sự bồn chồn khát khao thúc đẩy bước chân người con trở về không phải vì lương tâm cắn rứt, nhưng vì bao tử cào cấu quá mạnh. Dẫu sao thì cũng đã có một động cơ thúc đẩy người con trở về, dù rằng không đẹp lắm.
Nhưng động cơ thúc đẩy nơi đứa con càng tiêu cực thì lại càng làm nổi bật tình thương vô cùng nơi người cha. Đọc lại đoạn văn tả cảnh “cha con đoàn tụ” thì mới thấm thía được tình Chúa bao la làm sao!
Luca, người chép chuyện, không nói rõ đứa con bỏ nhà đi từ bao lâu. Chỉ biết khi đi nó mang theo nhiều tiền. Chắc phải tiêu sài một thời gian mới hết. Sau đó còn phải đi chăn heo, túng thiếu, đói khát, tiều tụy lắm. Tức là vừa có thời gian dài của xa nhà vừa có sự thay đổi của hình hài thân xác. Ấy thế mà khi “nó còn ở đằng xa, thì cha nó đã thấy nó” (Lc 15:20). Nhận ra dáng con từ đằng xa bằng đôi mắt già lão của mình hẳn phải nhờ tác động của tình thương. Có biết bao cha mẹ có con trong tầm tay với mà không nhận ra hay cũng chẳng muốn nhìn nhận. Phải chăng vì họ thật tình không thấy, hay con mắt yêu thương đã bị nhạt nhoà mù tối: mù tối bởi những hưởng thụ bất chính và ích kỷ đam mê?
Khi thấy con, người cha đã “chạnh lòng thương.” Không hiểu tại sao ông ta lại chạnh lòng thương? Nguyên do nào lại quặn lòng đau xót trước thân hình tiều tụy của một kẻ hư thân bất hiếu, làm tán gia bại sản, gây ố nhơ cả thuần phong mỹ tục? Tại sao không đợi nó dẫn xác vô nhà mà giáng cho một trận nên thân, hay dạy cho một bài học nhớ đời, trái lại, ông đã chạy ra với nó? Phải chăng vì tình thương của ông quá lớn, ấp ủ bao tháng ngày đợi trông, nay bị vỡ tung qua hành động chạy đến với con.
Thế ra, tình yêu chân chính và tuyệt hảo không chờ đối tượng được yêu tìm đến với mình, nhưng luôn đẩy mình đến với người được yêu. Chính tình yêu chân chính và tuyệt hảo đã đẩy Thiên Chúa đến với con người.
Thế rồi, khi gặp con, “ông bá lấy cổ nó mà hôn lấy hôn để”. Đây không phải là nụ hôn phản trắc, lạnh lùng, bán đứng người được hôn như của Giuđa. Song là cái hôn cuống cuồng nhớ thương, sau bao khao khát mong chờ.
Trước thái độ và hành động chan chứa ân tình của cha, người con chỉ biết thốt lên: “Con đã trót phạm tội nghịch với Trời và trước mặt cha, con không đáng gọi là con cha nữa” (Lc 15:21). Người con muốn nói thêm. Nó tính nói lên cái ước vọng được trở thành người làm công cho cha, hầu có được miếng ăn. Như một người đi xin việc, nó muốn trình bày một chút quá khứ và khẩn cầu một chút ân huệ. Quá khứ đó khiến nó “không đáng được gọi là con cha nữa”. Cuộc đời từ nay chỉ cầu sao được “làm công cho cha thôi” cũng là mãn nguyện lắm rồi.
Nhưng người cha đã nói át điều hắn sắp sẵn. Quá khứ của hắn, ông không màng. Ước nguyện đơn sơ của hắn, ông đáp ứng còn nhiều hơn điều hắn có thể tưởng tượng ra. Ông gọi đầy tớ cấp tớ cấp tốc đem áo choàng thượng hạng thay cho bộ áo tả tơi rách nát của hắn, lấy nhẫn vàng đeo vào ngón tay khẳng khiu vì đói, lại còn mang giày vào đôi chân vương lắm bụi đời của hắn nữa. Ôi, toàn là những thứ biểu trưng cho hạnh phúc giàu sang: áo choàng cho danh dự, nhẫn vàng cho quyền lực, và đôi giày cho hạng người tự do! Phải chăng chỉ có tình thương mới phục hồi nhân phẩm con người cách trọn vẹn nhất? Phải chăng tình thương của Thiên Chúa mới xoá hẳn quá khứ tội lỗi xấu xa, và hoàn lại cho đời ta phẩm giá cao đẹp nhất của người con Nước Trời?
Cảm nhận được tình Chúa, cuộc trở về của tôi mới thật chân thành. Nếu đi xưng tội trong mùa Chay vì sợ sa hoả ngục, hay hãm mình trong mùa Chay vì sợ sa hoa ngục, hay hãm mình trong tuần thánh chỉ muốn lên thiên đàng, không chút cảm nhận tình yêu của Cha trên trời, thì tôi vẫn còn thiếu sót lắm.
Thế nhưng, lạy Chúa, dù sợ hoả ngục hay ước mơ thiên đàng thì con vẫn muốn đứng lên trở về. Dù động cơ thúc đẩy con về là miếng ăn hay cơn đói, con vẫn biết tình thương của Chúa sẽ làm đẹp tương lai đời con. Con tin rằng cứ lên đường trở về là thoát cảnh “chăn heo”. Sà vào lòng Cha là tìm được nguồn ơn tha thứ. Ở bên Cha sẽ không phải đói khát bao giờ. Cha ơi, nay con đã về!
54. Làm hòa--Lm. Anmai, CSsR
Đại Lễ Vượt Qua đã đến gần và niềm vui của ngày Đại Lễ ấy sắp đến. Tâm trạng của chúng ta như thế nào trong trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe. Trang Tin mừng này hết sức quen thuộc, hết sức gần gụi với mỗi người chúng ta. Trang Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện hết sức đời thường trong gia đình. Gia đình ấy được kể ra với hình ảnh của người cha và hai người con, không hề nhắc đến người mẹ và mỗi người chúng ta được mời gọi vào vai của cả ba người. Ta có thể là người cha giàu lòng thương xót bao dung, ta có thể là người con út ngỗ nghịch và ta cũng có thể là người anh cả trong gia đình ấy.
Như dân Do Thái ngày xưa trong cái hành trình vượt qua sa mạc để về Đất Hứa, cũng đã đôi lần ta ngỗ nghịch như người con út, ta ganh tỵ như người con cả và ta cũng bao dung như một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Qua hồi tâm, qua hối hận, qua ăn năn, qua thanh luyện, qua tái tạo, qua tha thứ, qua cử chỉ làm hoà với Chúa, với anh chị em đồng loại ta sẽ được trở thành con người mới tốt hơn như lòng Chúa mong muốn.
Làm hoà với anh em chính là bước đầu tiên để có thể đến hòa giải với Thiên Chúa. Trong mỗi Thánh Lễ chúng ta cử hành, trước khi để tiến dân Thánh Lễ cho xứng đáng, chúng ta xin ơn tha thứ của Chúa, của anh chị em đồng loại.
Trong các từ ngữ chỉ đức tin Kitô giáo, thì ngôn từ tha thứ, làm hoà đóng một vị trí hết sức quan trọng. Không phải tình cờ mà nó nằm trong kinh Lạy Cha nhưng nó có ý giúp con người chạy đến với Thiên Chúa là Cha nhân lành tha thứ cho mình những yếu đuối của phận người. Điều quan trọng để đón nhận ơn tha thứ, ơn làm hoà với Thiên Chúa là con người phải biết tha thứ, làm hoà với anh chị em đồng loại đã xúc phạm đến mình.
Con chiên lạc, người con đi hoang, người phụ nữ ngoại tình, Dakêu trên cây sung, người bại liệt được ròng xuống từ trên mái nhà... Chúa Giêsu đã gặp tất cả nhưng người này. Họ là những người tội lỗi, lầm lạc, hư mất. Nhưng, Thiên Chúa tha thứ cho họ trong Chúa Giêsu mà không cần một điều kiện tiên quyết nào. Người không đòi hỏi gì. Chúa Giêsu không bảo: "Làm cái này rồi tôi tha thứ cho". Không? Người tha thứ rồi mới nói: "Hãy về và đừng phạm tội nữa ".
Người ta có thể chất vấn: tại sao tha thứ lại là một điều thần thiêng như vậy? Tại sao tha thứ lại đưa người ta đến gần Thiên Chúa thế?
Câu trả lời có lẽ nằm trong chính từ ngữ: tha thứ vì tha thứ là một ân huệ ở trên cao, siêu việt.
Ơn huệ thứ nhất ta được là hiện hữu của ta như một tạo vật. May mắn là chúng ta vẫn là vậy. Nhưng cách cư xử, phong tục, lỗi lầm của chúng la có thể phá hủy ơn huệ đầu tiên này nơi ta, làm chúng ta bị "tha hóa "
Chính lúc đó ơn tha thứ đến, một loại ơn tái tạo. Chúng ta đã chết mà nay sống lại. Chúng ta không còn phải chịu đựng lẫn nhau nữ, chúng ta lại chấp nhận lẫn nhau và lại thương yêu nhau. Đó là một cuộc tái sinh, một sự Phục Sinh, một bước dẫn vào đời sống mới.
Thật tối đẹp nếu như chúng ta được tha thứ. Tuy nhiên, thẳng thắn mà nói, liệu chính chúng ta có thể tha thứ được không? Tha thứ đây không phải là quên, cũng không phải là chối bỏ những xác tín của chúng ta, mà là tìm đến với kẻ xúc phạm ta. Và không cần để mất một chút gì về chân lý, hoặc về lương tri phân biệt tốt xấu, để nói với kẻ phạm lỗi: bạn là anh, là chị tôi. Và có thể thêm một lời phi thường này: chính bạn hãy tha cho tôi, vì bạn đã không xúc phạm đến tôi nếu trước đó tôi đã không xúc phạm đến bạn.
Trang tin mừng hôm nay hết sức hấp dẫn, dụ ngôn hôm nay chúng ta nghe không phải là lần đầu mà nghe đi nghe lại quá nhiều lần. Dụ ngôn về người cha và hai người con vẫn để ngỏ! không ai xác định được câu chuyện sẽ kết thúc thế nào.
Chúng ta bắt đầu vào vai. Cả hai người con cùng hiện diện trong ta. Chúng ta có thể nhận ra mình trong những ảo tưởng của họ. Cả hai cùng hiểu lầm về bản chất của mối tương quan giữa họ với cha và không biết tình yêu của cha mình. Hãy theo dõi tâm tính của người con khi trở về. Anh đã sống lại nhờ người cha hân hoan loan báo sự tha thứ. Nhưng cũng có thể chúng ta cũng là người anh, xơ cứng trong kiêu căng vì đã trung thành với cha. Anh sẽ cải mở là chọn một chỗ ngồi trong bàn tiệc tập thể vì những kẻ mời đến, những kẻ từ xa trở về. Còn đối với chúng ta, ai sẽ là "những người khác" mà cộng đoàn chúng ta phải mở rộng cửa đón tiếp?
Khuôn mặt của người con thứ khá cường điệu được vẽ nên trong cảnh một của dụ ngôn này. Anh ta đòi cha chia gia tài ngay khi cha anh còn sống để anh ta được sống tự do hoàn toàn. Với cuộc sống buông thả và phóng đãng thì chẳng chóng thì chầy, tiền núi cũng phải hết. Tiền hết thì anh ta rơi vào tình cảnh hết sức bi đát. Chẳng đặng đừng nên anh ta phải làm công cho một người ngoại giáo ở đất khách quê người, và miễn cưỡng phải "chăn heo " cho chủ - đối với một người Do Thái, đây là công việc hèn hạ - vì heo là một con vật dơ nhớp đối với Do thái giáo. Bị dằn vặt bởi ý nghĩ: ở nhà cha thì đồ ăn dư thừa, người làm công ăn không hết, thế mà ở đây anh đói khát, chỉ mong được "tống đầy bụng những thứ heo ăn" mà không được.
Anh đã ân hận, sau khi suy nghĩ hết sức cẩn thận anh quyết định trở về nhà sau khi cảm thấu được sự đói khát, thiếu thốn. Để chuẩn bị cho cuộc trở về, anh ta đã vẽ lên trong đầu anh ta những lời thống thiết nhất để xoa dịu cơn giận của người cha: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đón trời và đến cha, con thật không xứng đáng được gọi là con cha nữa. Hãy coi con như một người làm công trong nhà thôi". Khác với những gì anh nghĩ trong đầu, khi trở về, chưa kịp thốt lên một lời, người cha đã giang rộng vòng tay xiết chặt lấy anh. Cho tới bây giờ, anh chưa một lần nghi ngờ tình yêu vô bờ bến của cha anh. Con tim anh rộn ràng những nhịp đập thổn thức. Không phải đứa làm thuê? Con ta chứ! Hãy mặc áo đẹp ngày đại lễ. Đeo nhẫn vào tay, biểu hiệu quyền uy. Xỏ giầy vào chân, biểu hiệu người tự do. Hãy ngồi vào bàn tiệc. Mọi thành phần gia đình đang quây quần bên bàn ăn cùng chia sẻ niềm vui của người cha.
Chúng ta chuyển sang vai diển của người anh. Đại tiệc đang diễn tiếng thì người anh "từ ngoài đồng" về đến nhà. Nghe trong nhà có nhạc vui, anh hỏi xem có chuyện gì? Hiểu ra, tâm trạng anh chuyển từ ngạc nhiên sang "giận dữ". Lại có thể cư xử như vậy với thằng con hư đốn ư? Như phản ánh thái độ của các kinh sư và những người Pharisêu luôn chỉ nghĩ đến phụng sự Chúa không sai một lời, nên, anh cằn nhằn với cha mình: "Đã bao năm con phụng dưỡng cha, không bao giờ bất tuân hay trái lệnh, mà chẳng bao giờ cha cho con một con dê để vui với bạn bè". Để ở lại nhà cha, anh đã cư xử thật không khác một người làm công, cần mẫn, nhưng vô tình, xa lạ. Anh không thể hiểu được ngôn ngữ của Giao ước mà cha anh nói với anh: "Con ơi! Con luôn ở bên cha, mọi sự của cha là của con mà". Anh chỉ nói bằng ngôn ngữ của quyền lợi và nghĩa vụ, của mệnh lệnh và phần thưởng. Như các kinh sư và những người Pharisêu đối với tội nhân, anh cũng giữ khoảng cách với đứa em mới trở về mà mọi người đang ăn mừng. "Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo để ăn mừng".
Nếu chỉ để tâm coi hình ảnh của hai đứa con mà không nhìn đến hình ảnh người bố trong nhà này quả là điều thiếu sót thật lớn. Chúng ta bước sang một bên để nhìn đến chân dung người cha. Người Cha trong dụ ngôn này chính là nhân vật trung tâm, nhân vật chính. Ông là một người cha sống nặng tình cảm hơn lý trí, ông là một người cha mà tình yêu luôn thôi thúc ông hướng về các con. Ông không chỉ ngồi chờ. Phải "chạy ra" coi, và ông phải chạy ra đến hai lần. Ông chạy ra. hấp tấp, một thái độ đặc biệt đối với người Đông phương. Ôm lấy cổ đứa con hoang đàng. Hôn nó tới tấp Nâng nó lên, ngắt quãng những lởi nó định nói, đưa nó vào nhà. Nhà của nó mà. "Mau lên!" ông nói với các đầy tớ không chần chừ một giây. Phải mặc cho cậu chiếc áo đẹp nhất đúng với cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay cậu, mang giầy vào chân cậu. Giết bê béo. Dọn tiệc ăn mừng. "Mau lên!" vì một niềm vui đang trào ngập lòng ông: "Con ta đây đã chết nay sống lại đã mất nay lại tìm thấy". Ông lại chạy ra để nài người anh vào nhà, để người anh nhìn nhận đứa em mà anh ta đã miệt thị, để dự tiệc chung vui với mọi người.
Dụ ngôn người con hoang đàng mà chúng ta vừa nghe mang đậm chất thần học. Dụ ngôn của ân huệ Chúa ban tặng con người. Dụ ngôn này diễn tả tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, tình yêu nhưng không không Cha ban cho mọi người, dầu tội lỗi mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm vui, muốn mời họ khám phá ra: anh huynh đệ chân chính. Làm sao không nhìn ra qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn trao cho chúng ta bí mật trong cách cư xử và đời sống của Ngài? Ngài là Người Con được Cha sai đến loan báo sự hòa giải cho các tội nhân. Đó là những người mà Chúa Giêsu khắc họa hình ảnh nơi người em và đó cũng là những người được mời gọi nhận ra chính mình nơi hình, ảnh của người anh!
Thật ra, dụ ngôn còn để ngỏ đó. người anh cả có thuận theo lời khuyên dụ của cha anh không? Anh có bằng lòng vào chung vui không? Anh có ưng thuận chung bàn với người em đã trở nên "dơ" không? Hay anh vẫn giận dữ... Tường thuật của Tin Mừng không trả lời... Có lẽ mục đích của Tin Mừng là để chúng ta tự phác họa cách chúng ta sẽ đối xử với anh em mình.
Chúng ta hãy đặt mình vào vị trí của người anh: chính tôi sẽ ưng thuận lời thỉnh cầu của người cha hay không. Thuận thì không dễ đâu, có khi khổ nữa. Dụ ngôn cho thật sự đáp ứng ý cha không tự đến cách dễ dãi. kết thúc của dụ ngôn đặt chúng ta vào vị thế người anh. Phụng vụ Mùa Chay như chẳng hoan hỉ đặt chúng ta vào vị thế này mà trái lại, như muốn chúng ta thấy mình trong tâm trạng người em. Thánh Luca thì chắc chắn nhấn mạnh hơn đến thái độ người anh. Dẫu sao, qua suốt câu chuyện, chúng ta vẫn thấy nổi bật lên tình yêu là lòng cảm thương của người cha đối với từng người. Chính nhờ tình thương này mà tội nhân hối cải, là chúng ta vui vì họ trở về dù đôi khi rất khó mà vui được."
Thánh Phaolô vừa nhắc nhở chúng ta: "Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải. Thật vậy, trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Ki-tô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người."
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, chậm bất bình và đầy tình thương, chúng ta hãy chạy đến với Ngài như đứa con thứ ngày hôm nay trong Tin mừng để xin Cha tha thứ, xin Cha bỏ qua những lầm lỗi của ta trót phạm đến Cha và chúng ta cũng xin cũng hãy bớt đi một chút sự xét đoán, hơn thua của người anh để tha thứ cho những đứa em ngỗ nghịch trong đời ta. Chúng ta hãy chạy đến Chúa, chạy đến và xin Chúa tha thứ tất cả để ta được làm hoà cùng Chúa và anh chị em đồng loại.
Ôi Thần Linh Thánh Ái, xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí: Ơn An Bình. Xin Chúa thương tha thứ những lầm lỗi ta đã xúc phạm đến Chúa cũng như anh chị em để chúng ta có được sự bình an thật trong tâm hồn để chờ đón ngày Chúa lại đến trong Vinh Quang của Ngài.
55. Bài học về lòng xót thương--Lm. Anmai
Có người nói rằng, xếp quyển Thánh Kinh lại, chỉ để lại trang Luca chương 15 mà hôm nay chúng ta được nghe trong Chúa nhật tuần 4 Mùa Chay.
Chương 15 của Luca là một trong những chương sách đẹp nhất của toàn bộ Thánh Kinh Tân ước. Cả chương sách bừng lên niềm vui chan chứa, niềm vui của tình yêu mà những ai sống trong quỹ đạo của ích kỷ không cảm nếm được. Bối cảnh là những người thu thuế và tội lỗi đến với Chúa Giêsu để nghe Người giảng, làm cho người Pharisêu và các kinh sư khó chịu. Bối cảnh đó làm nổi bật lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân và là lời cảnh giác cho những kẻ tự hào mình là người công chính.
Trang Tin Mừng Tin Mừng Lc 15,1-3.11-32 đã từng được gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng. Với sự quyến định trở về của mình, người con này được đề cao hơn cả cuộc đời hoang đàng của anh ta. Ngày nay, người ta lại chuyển hướng và nhìn vào hình ảnh từ bi đại hải của người cha. Nhìn như thế để như là trách khứ tấm lòng không bao dung, không nhân hậu và miệt thị của người anh cả.
Dẫu sao đi nữa, dụ ngôn ngôn trên đây có ý nghĩa rất phong phú liên quan đến cách sống và cách xử sự của cả ba nhân vật: Người cha và hai người con. Dường như nhân vật nổi bật của dụ ngôn là người anh cả. Bởi vì trong câu chuyện, những nhân vật đang nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn có cách sống và cách xử sự giống như người con cả.
Nét độc đáo nổi bật trong chân dung của Luca về Chúa Giêsu đó là lòng thương xót. Trong sách Tin Mừng thứ ba, Chúa Giêsu thường xuyên quan tâm đến người nghèo, các tội nhân, những người bị gạt ra bên lề xã hội. Không phải các đạo sĩ nhưng chính những người chăn chiên mới là người đến máng cỏ đầu tiên (2,8-18); Chúa đón tiếp người phụ nữ tội lỗi nhưng có lòng thống hối (7,36-50); Chúa nói những điều tốt lành về người Samaria (10,30-37); Chúa đến thăm người thu thuế (19,1-10); Chúa kể những dụ ngôn tuyệt vời về lòng thương xót (chương 15). Các phụ nữ cũng chiếm vị trí đặc biệt trong Tin Mừng Luca. Vào thời đó, phụ nữ chỉ là công dân hạng hai và bị coi thường, nhưng Chúa Giêsu lại trân trọng họ (10,38-42), đón nhận sự giúp đỡ của họ (8,1-3), và cho thấy đức tin kiên cường của các bà trong những giai đoạn thử thách nhất (23,49; 24,1; Cv 1,14).
Tin Mừng Lu-ca chương 15 được gọi là các dụ ngôn về lòng thương xót, chương này gồm một lời mở đầu và ba dụ ngôn. Lời mở đầu có tầm quan trọng đặc biệt, vì đó là chìa khoá để hiểu Đức Giêsu nói dụ ngôn trong bối cảnh nào, có ẩn ý gì và nói cho ai. Người thuật chuyện cho biết bối cảnh và lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn ở Lc 15,1-3: “1Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. 2Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.’ 3Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:…”
Lc 15,1-3 cho biết nhiều chi tiết liên quan đến lý do Đức Giêsu kể các dụ ngôn. Trước hết là những người thu thuế và những người tội lỗi đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Tiếp đến là lời xầm xì của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Lời xầm xì này cho biết thêm hai yếu tố mới. Không chỉ là việc những người thu thuế và tội lỗi đến với Đức Giêsu và nghe Người giảng, mà chính Đức Giêsu tiếp đón họ và ăn uống với họ. Nghĩa là sự đón nhận đến từ hai phía. Về phía Đức Giêsu, Người tiếp đón và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi. Về phía họ, họ đến với Đức Giêsu để nghe Người giảng.
Dụ ngôn “Tìm chiên lạc” (câu 4-7) mô tả Thiên Chúa như người mục tử bỏ 99 con chiên lại để đi tìm chiên lạc, và niềm vui tràn bờ khi Ngài tìm lại được con chiên lạc, đến nỗi vác nó lên vai đem về, và mời mọi người đến chung vui vì đã tìm lại được con chiên bị mất. Trong mắt của Chúa, mỗi một con người, bất kể yếu đuối và tội lỗi đến đâu, đều là một nhân vị độc đáo và không thể thay thế. Vì thế, Ngài chăm sóc từng con chiên và đau đáu đi tìm khi nó lạc bầy. Chính vì thế, không ai có quyền thất vọng về tình thương của Chúa vì tình thương ấy dứt khoát lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Điều duy nhất cần thiết là sám hối ăn năn, nghĩa là thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cách sống của mình.
Trong chùm dụ ngôn về lòng thương xót, dụ ngôn “Người con hoang đàng” vẫn là dụ ngôn nổi tiếng nhất, cả về văn chương lẫn nội dung (15,11-32). Không phải vô lý mà có tác giả đã đề nghị đặt tên cho dụ ngôn này là “Người cha phung phí” thay vì “Đứa con hoang đàng”. Bởi lẽ trọng tâm của dụ ngôn không phải là sự phung phí của cải vật chất của đứa con thứ, mà chính là lòng thương xót của người cha dành cho cả hai đứa con, lòng thương xót vô bờ đến độ không thể hiểu nổi… cho nên được gọi là ‘phung phí’ tình yêu.
Con đầu lòng được hưởng gấp đôi phần gia sản theo luật lệ của người Do thái (Đnl 21,17). Và bởi thế, người con út trong dụ ngôn được chia một phần ba sản nghiệp. Việc phân chia tài sản phải đợi đến khi người cha qua đời theo lẽ thường của sự đời. Nếu như việc chia gia tài tiến hành trước thời gian thì có những khoản về hình phạt đi theo đó. Tuy nhiên điều quan trọng của luật ở khía cạnh tinh thần chứ không nằm ở khía cạnh lề luật. Người con út đã đoạn tuyệt với gia đình, không thương tiếc cha mình, anh mình sau khi có tài sản trong tay. Bất chấp tất cả, anh ta đòi hỏi chia gia tài rồi bỏ nhà đi,. Với quyết định như thế, anh ta đem mọi sự theo mình và không có hi vọng gì sẽ trở lại. Dĩ nhiên đây là sự mất mát lớn đối với gia đình, cách riêng với người cha.
Phải chăn heo, đó là kết cục bi tham cho cuộc sống phóng đãng và phung phí dẫn người con út. Chăn heo, với người Do thái, gợi lên ý tưởng ô uế, “lạc đạo” và như thế, người con út đã đánh mất tư cách là thành viên trong gia đình cũng như trong Dân Chúa. Trong dụ ngôn, người con út thậm chí còn tệ hơn cả heo, vì “ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng nhưng chẳng ai cho”.
Người con út hồi tâm khi đối diện với nỗi cơ cực đến tột cùng. Được trở về nhà trong tư cách kẻ làm thuê, đó là ước muốn của anh ta. Để cuộc trở về được thành công theo ước muốn, anh chuẩn bị kỹ lưỡng những gì phải thưa thốt với cha mình, và lường trước sẽ bị mọi người tiếp nhận bằng cái nhìn soi mói và nghi ngờ. Chuyện đặc biệt là dù thế nào đi chăng nữa nhưng cha anh vẫn thương anh. Ông vẫn ngày đêm trông ngóng, và khi thấy con ở đàng xa, “ông chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (câu 20) đến độ người con không kịp nói hết bài diễn văn đã soạn sẵn! Cuộc đoàn tụ này rất giống với cuộc đoàn tụ của Esau và Giacóp (St 33,4). Giacóp nhớ đến tội ác mình đã phạm chống lại anh, nhưng giống như người cha trong dụ ngôn này, Esau chỉ nghĩ đến hoà giải. Người cha ra lệnh cho gia nhân chăm sóc mọi sự cho đứa con của mình, nào là áo, nào là nhẫn, nào là bê béo… tất cả diễn tả sự nhìn nhận đây là đứa con của chủ nhà chứ không phải tôi tớ. Không có chuyện hỏi tội, không có chuyện tra khảo, cũng không có chuyện bàn bạc xem thằng con hư hỏng này có xứng đáng được tha tội không… chỉ có điều quan trọng duy nhất là: “con ta đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (câu 24).
Câu chuyện đẹp tưởng chừng đã hạ màn với cảnh đẹp tuyệt vời như thế, không ngờ lại thêm cảnh khác xen vào. Người con cả đã nổi đóa lên. Anh đã cố gắng, đã tự nhủ rằng anh đã cố gắng sống công chính đến thế: “Đã bao năm con hầu hạ cha và chẳng khi nào trái lệnh” (câu 29), thế mà “chưa bao giờ cha cho lấy một con dê con để ăn mừng với chúng bạn”. Và nhân danh sự công chính đó, anh khước từ việc chia sẻ niềm vui với gia đình khi “thằng con của cha” (chứ không phải đứa em của tôi) trở về. Lại một lần nữa, tình yêu và lòng thương xót của người cha bừng sáng và xua tan mọi hận thù ghen ghét. Ông đã bước ra đón đứa con hoang đàng thì ông cũng bước ra đón người con cả, vì ông mong muốn cả hai đứa con đều được hạnh phúc. Anh con cả chỉ nhìn thấy gia tài và nỗ lực làm việc của bản thân anh. Người cha không từ chối điều đó, nhưng những điều đó đều không quan trọng bằng điều này là: một đứa con và một người anh em đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Vì thế, mọi chuyện khác đều phải dẹp sang một bên để “chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ” (câu 32). Lại một lần nữa, tâm trí ta nhớ đến câu chuyện Giacóp. Giống như Esau, đến giai đoạn cuối đời, Giacóp khám phá ý nghĩa và tầm quan trọng của đoàn tụ, nên khi nghe tin Giuse vẫn còn sống, ông quên hết những tội ác mà chính những anh em trong nhà đã gây ra cho Giuse, và chỉ nhớ một điều: “Thế là đủ. Giuse con ta vẫn còn sống” (St 45,28).
Thiên Chúa, là Cha giàu lòng thương xót, Ngài mãi mãi xót thương chúng ta. Chúng ta, có quay về với Chúa như người em và chúng ta có bao dung cho em chúng ta khi em chúng ta lầm lỗi hay không, vẫn là lời mời gọi lòng bao dung thương xót của mỗi người chúng ta.
56. Người con hoang đàng--McCarthy
Suy Niệm 1. THIÊN CHÚA ĐỐI VỚI NGƯỜI HỐI CẢI
Gandhi kể lại lúc lên 15 tuổi, ông đã lấy cắp vài đồng tiền vàng từ người anh của ông. Tuy nhiên, ông cảm thấy hành động đó thật xấu xa, đến nỗi ông quyết định tự thú với cha của ông. Ông viết tội của mình lên một tờ giấy, cầu xin được tha thứ và chịu bị phạt, và hứa sẽ không bao giờ tái phạm nữa.
Lúc cha ông còn nằm liệt giường, Gandhi đưa tận tay cho ông cụ tờ giấy đó, rồi ngồi ở bên cạnh giường chờ đợi bị xét xử. Cha ông nằm ở trên giường, và bắt đầu đọc tờ thú tội. Trong khi đọc, những giọt nước mắt cứ chảy xuống chan hoà từ đôi mắt ông. Gandhi cũng khóc. Thay vì tức giận và trừng phạt ông, người cha đã ôm lấy đứa con trai đã biết hối cải.
Cảm nghiệm rằng mình vẫn được yêu thương trong khi đang có tội đã có tác dụng sâu xa đối với Gandhi. Sau này, ông nói: “Chỉ người nào đã trải qua kinh nghiệm về tình yêu này, mới có thể nhận biết được tình yêu là gì”.
Đây là loại tình yêu mà người con thứ đã cảm nhận được, khi anh trở về nhà. Không có gì thắc mắc về việc anh ta đã cư xử tồi tệ. Tuy nhiên, khi anh quay trở về, thì điều gì đã xảy ra? Cha anh không chỉ chấp nhận cho anh trở về, mà còn đón tiếp anh nữa. Và đó không phải là sự đón tiếp hằn học hoặc nửa vời, mà là sự đón tiếp nồng ấm, với tất cả tâm tình, và đầy sự rộng lượng.
Trong sự tiếp đón mà người con thứ đã nhận được, Đức Giêsu cho chúng ta thấy thái độ của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Nếu chúng ta là tội nhân –và ai trong chúng ta không phải là tội nhân?- thì Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, không phải là ít đi, mà càng yêu thương nhiều hơn nữa. Điều này không làm cho chúng ta sống tốt đẹp hơn, để được yêu thương vì mình là người hoàn hảo. Chúng ta cần được đón nhận và yêu thương thực sự, ngay khi chúng ta còn là tội nhân.
Thái độ của người anh cả đối với người em trai phản ánh lại thái độ của người Pharisêu đối với các tội nhân. Mặc dù là những người rất đạo đức, nhưng họ vẫn cho rằng người tội lỗi xứng đáng bị kết án hơn là cứu độ. Nhưng lòng đạo đức có công dụng gì, nếu nó không làm cho người ta trở nên thương cảm hơn đối với những kẻ bị sa ngã? Nếu chúng ta tự nhận thấy mình thông cảm với người anh cả, thì điều này càng chứng tỏ rằng tính cách người Pharisêu đang ở trong chúng ta.
Theo phạm vi rộng lớn hơn hoặc hạn hẹp hơn tất cả chúng ta chưa đáng xách giầy cho người con thứ. Bởi ai trong chúng ta có thể nói rằng mình luôn luôn trung thành? Phải chăng tất cả chúng ta đều đã từng lãng phí và sử dụng ân sủng của Thiên Chúa? Ai trong chúng ta thích được Thiên Chúa đối xử theo lẽ công bằng nghiêm khắc? Phải chăng tất cả chúng ta đều cần đến lòng thương xót hơn là lẽ công bằng?
Chính ở trong và thông qua tội lỗi của mình, mà chúng ta cảm nhận được lòng từ ái và tình thương xót của Đức Kitô. Nếu không bao giờ phạm tội, thì chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được ơn tha thứ của Người. Đây không phải là lời biện hộ cho tội lỗi. Nhưng thật là điều tốt đẹp, khi chúng ta nhận biết được cách Thiên Chúa đón nhận các tội nhân. Các thánh là chứng nhân cho ân sủng và sự trung tín của Thiên Chúa. Các tội nhân là chứng nhân cho tình yêu thương và lòng thương xót của Người.
“Khi một người cha cứ than thở rằng con trai của ông đã đi theo con đường xấu xa, thì ông nên làm gì? Hãy yêu thương anh ta nhiều hơn nữa” (Baal Shem Tov)
Suy Niệm 2. SỰ BỘC LỘ TÂM HỒN
Chúng ta hãy nhìn vào dụ ngôn của Đức Giêsu từ quan điểm của tâm hồn.
Một người cha có hai người con trai. Mặc dù người con cả vâng phục và chu toàn bổn phận, nhưng anh lại khá nguyên tắc và xa cách. Anh ta là một con người lạnh lùng. Trái lại, người con thứ nồng nàn và nhiều tình cảm. Tuy nhiên, trong con người anh ta, lại có tính cách hoang đàng và vô trách nhiệm. Anh ta cứ nhất quyết làm theo ý riêng của mình, bất chấp người nào khác có thể suy nghĩ ra sao. Một ngày kia, anh ta đã ích kỷ đòi được chia phần gia tài thừa kế, và sau khi đã nhận được, anh ta liền bỏ đi phương xa.
Tại đó, anh ta đã sống buông thả một cách ngu xuẩn và bất chấp mọi sự, cho những thú tính thấp hèn nhất nơi con người của anh. Nhưng khi tiền bạc đã cạn kiệt, anh mới tự nhận thấy mình không còn bạn bè hoặc người nào giúp đỡ.
Đột nhiên, anh cảm thấy trống rỗng trong tâm hồn. Thế rồi sau khi đã nhận ra những việc mình làm, lòng anh tràn ngập nỗi cay đắng và căm ghét bản thân mình. Tuy nhiên, nỗi đau của bản thân đã giúp cho anh nhận ra được nỗi đau mà anh gây ra cho những người khác. Anh đã làm tan nát cõi lòng của cha mẹ anh.
Thế là anh quyết định quay trở về nhà. Anh ra đi với đôi bàn tay trống rỗng. Thứ duy nhất anh có được, đó là một trái tim khiêm tốn và hối lỗi. Và cha của anh vẫn đang chờ đợi anh. Vì quá lo âu, người cha không bao giờ rời khỏi nhà, bởi vì ông cứ mãi bận tâm đến người con trai hoang đàng của mình. Vì thế, ngay khi nhìn thấy anh trở về, ông mới hoàn hồn. Và cuối cùng, hai cha con đã ôm chầm lấy nhau.
Nhưng sau đó, một điều đáng ngạc nhiên đã xảy ra. Khi đến gặp anh cả, người em chỉ phát hiện ra rằng người anh cả của anh không muốn nhận biết anh. Không hề có chỗ nào cho anh trong tâm hồn người anh cả. Thay vì vui mừng khi thấy người em trai của mình trở về an toàn, thì tâm hồn của người anh cả lại tràn đầy nỗi cay đắng và hằn học. Anh ta đã tìm cách chiếm được tình cảm của người cha thông qua bổn phận hơn là thông qua tình yêu. Thật đáng buồn, dường như thể anh ta chưa bao giờ đi vào tâm hồn người của người cha, bởi vì nếu đã đi vào đó được rồi, thì tâm hồn của anh ta sẽ được mở rộng ra. Nhưng thay vì được như vậy, thì tâm hồn của anh ta lại vẫn cứ nhỏ bé, hẹp hòi, lạnh lẽo và không muốn đón tiếp ai.
Câu chuyện về đứa con hoang đàng là một câu chuyện về tâm hồn: tâm hồn ích kỷ và tâm hồn quảng đại, tâm hồn khép kín và tâm hồn cởi mở, tâm hồn lạnh lùng và tâm hồn nồng nạn, tâm hồn tan nát và tâm hồn vui mừng. Tâm hồn không biết hối cải và tâm hồn biết ăn năn, tâm hồn không biết tha thứ và tâm hồn hay tha thứ, tâm hồn miễn cưỡng và tâm hồn biết ơn.
Câu chuyện này mặc khải cho chúng ta quá nhiều về tính cách thất thường của tâm hồn con người. Khi đã nói và làm xong tất cả mọi sự rồi, thì chính tâm hồn mới là đáng kể. Nhưng người ta có thể tóm tắt điều gì về tâm hồn? Tâm hồn là cái gì sâu thẳm nơi bản thân mình. Đó chính là con người thật của tôi. Cảnh tối tăm của tâm hồn là đêm đen tối nhất so với tất cả. Sự trống rỗng của tâm hồn là sự nghèo nàn nhất so với tất cả. Một tâm hồn nặng trĩu là gánh nặng chán chường nhất. Một tâm hồn tan nát chính là vết thương sâu xa nhất.
Nhưng dụ ngôn trên bộc lộ tính cách kiên định nơi tâm hồn của Thiên Chúa nhiều đến thế nào. Tâm hồn của Thiên Chúa không toả ra sức nóng và hơi lạnh. Thiên Chúa không bao giờ khép lòng lại với bất cứ người con nào của Người. Bất chấp họ có thể rời bỏ mái nhà để đi xa đến đâu, bất chấp họ làm gì, nếu họ quay trở về, điều duy nhất mà họ có thể tin chắc, đó là sự đón nhận nồng ấm và rộng lượng.
57. Người con trai đi hoang
Dụ ngôn “Người con trai đi hoang” này thật quý báu, chỉ được một mình Luca ghi lại, vì nó đặc biệt phù hợp với mục đích và tinh thần của sách Tin Mừng này. Không phải là không có lý do khi người ta gọi truyện này là truyện ngắn vĩ đại nhất thế giới, vì trong đó thể hiện tất cả những gì như văn chương hoa mỹ, nhân tính sâu đậm, cảm tình rộng lớn, bức tranh toàn bích về ân điển và tình yêu của Thiên Chúa.
Theo luật của người Do Thái, người cho không được tự do phân chia tài sản mình tuỳ ý thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con thứ một phần ba (Đnl 21,1). Không phải là việc lạ khi một ông cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông ta muốn được nghỉ ngơi khỏi hoạt động kinh doanh. Nhưng có một sự vô tâm tráo trở nơi đứa con thứ khi nó đề xuất việc chia gia tài này. Thực ra nói đã nói “cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã cho nó như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi…
Hắn nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc cấm kỵ đối với người Do Thái vì luật pháp nói: “Đáng nguyền rủa kẻ nào chăn heo”. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khen lớn nhất chưa từng có: “Khi nó trở về với chính mình (tỉnh ngộ). Chúa Giêsu tin là bao lâu con người còn xa cách và chống nghịch Thiên Chúa, thì con người không thực sự là con người. Con người chỉ thực sự là chính mình khi con người đang đi con đường về nhà. Có một điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu là Ngài không tin rằng con người hư hỏng hoàn toàn. Ngài không bao giờ tin rằng ai đó có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phỉ báng con người. Ngài tin rằng con người không bao giờ được thực sự là mình cho đến khi nào con người trở về nhà với Thiên Chúa. Cho nên đứa con đã nhất định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng tên đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con đã về nhà, cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tượng trưng cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như uỷ quyền cho người đó thay thế mình; đôi giày là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giày, còn nô lệ thì không. Và một yến tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con đi hoang trở về nhà.
Chúng ta dừng lại đây để thử nhìn xem chân lý trong dụ ngôn này:
1. Một hình ảnh đầy đủ về tính chất và hậu quả của tội lỗi.
Tội lỗi thường do sự lựa chọn tự ý và do lòng muốn hưởng lạc của con người. Kết quả là tội nhân thấy ảo ảnh của nó: nỗi khổ, ách nô lệ, niềm thất vọng; về phương diện hậu quả ta không thể thêm gì vào cái cảnh người con trai ở xứ xa, sau khi tiêu xài nhẵn túi, nạn đói kém đến, chàng ta bán thân đi giữ heo, phải ăn cả những món khó nuốt dùng cho heo ăn mà cũng chẳng được no.
2. Nhưng dụ ngôn này phải gọi là dụ ngôn Người Cha Nhân Lành mới đúng, vì nó cho ta biết vê tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
Người cha hẳn đã mỏi mắt trông chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy con từ đàng xa. Khi con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có sự tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội kẻ ấy vẫn còn giữ đó. Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xứ thế nào với quân phiến loạn miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa Kỳ. Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời: “Tôi sẽ đối xử với họ như chưa bao giờ họ ly khai với chúng ta”.
“Khi được yêu bằng thứ tình yêu này, thì kẻ là đối tượng của lòng nhân từ sẽ không cảm thấy bị hạ nhục, nhưng như thể được tìm thấy lại và “thêm giá trị”. Trước hết người cha tỏ bày cho đứa con niềm vui của ông vì nó đã được “tìm thấy lại” và “sống lại”. Niềm vui này cho thấy rằng một sự thiện vẫn được giữ gìn nguyên vẹn: một đứa con, dù đi hoang, vẫn thực sự là con của cha nó. Hơn nữa niềm vui này là dấu chỉ của một sự thiện đã tìm thấy lại, trong trường hợp của đứa con hoang đàng, đây là việc trở lại với sự thật của chính nó”. (ĐTC Gioan Phaolô II, DM6).
Nhưng câu truyện đến đây vẫn chưa chấm dứt. Người anh cả bước về và anh thực sự buồn rầu vì em của anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho các đạo sĩ Do Thái tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Có mấy điều nổi bật nơi người anh cả.
1. Tất cả thái độ của anh chứng tỏ rằng bao nhiêu năm anh vâng lời cha chẳng qua chỉ là bổn phận buồn rầu, chứ không phải là công việc của tình yêu.
2. Thái độ của anh là thái độ thiếu hẳn sự cảm thông. Anh nói về người em nhưng không dùng tiếng “em tôi” mà dùng chữ “thằng con của cha”. Chàng là thứ người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi thối càng ngã sâu hơn nữa.
3. Tâm địa của chàng rất dơ bẩn. Câu truyện không nói tới gái điếm cho đến khi chính miệng chàng nói ra. Hẳn chàng đã nghi ngờ, tố cáo em chàng về thứ tội chính chàng rất muốn làm. Dụ ngôn này trình bày khuôn mặt người anh cả từ chối dự tiệc. Anh ta trách em và những lầm lạc của nó, và trách cha mình về việc đón tiếp mà ông dành cho nó. Đây là một dấu chỉ cho thấy anh ta không hiểu lòng tốt của cha. Bao lâu người anh này còn quá tự tín vào bản thân và những công trạng của mình, ganh ghét và khinh bỉ, đầy chua xót và giận dữ, không hoán cải và giao hoà với cha và với em mình, thì bữa tiệc chưa thể hoàn toàn là bữa tiệc liên hoan mừng cuộc gặp gỡ và tái ngộ.
Sự mô tả chính xác tâm trạng của đứa con hoang đàng giúp ta hiểu một cách đúng đắn thế nào là lòng nhân từ của Thiên Chúa. Không thể nghi ngờ được rằng, trong hình ảnh đơn sơ và sâu sắc này, gương mặt của người cha gia đình mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như là Cha. Lối ứng xử của người cha trong dụ ngôn, cách hành động của ông biểu lộ thái độ nội tâm ông. Người cha của đứa con đi hoang luôn trung thành với phụ tính của ông, trung thành với tình yêu lai láng mà ông vẫn có đối với con ông. Sự trung thành của người cha đối với chính bản thân mình được diễn tả đặc biệt, khi nhìn thấy đứa con trở về ông chạy ra ôm cổ hôn lấy hôn để. Tuy nhiên lý do của niềm xúc động này phải được tiến triển sâu xa hơn nữa: người cha ý thức rằng sự thiện cảm lo âu đã được cứu, đó là tính người của con ông. Mặc dù nó đã phung phí tài sản, nhưng tính người của nó vẫn còn nguyên vẹn. Hơn nữa, nó như được tìm thấy lại: “Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ vì em con đây đã chết nay sống lại đã mất mà nay lại tìm thấy” (DM 6)
Ở đây một lần nữa, chúng ta lại gặp một chân lý kỳ diệu là ăn năn, xưng tội với Thiên Chúa dễ hơn xưng tội với loài người. Thiên Chúa đoán xét nhân từ hơn những người ngoan đạo, tình yêu của Thiên Chúa rộng lớn hơn tình yêu của loài người, Chúa có thể tha thứ khi loài người không muốn tha thứ. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không trân trọng kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn.
58. “Tôi muốn trở về với cha tôi”--Lm. Vũ Xuân Hạnh
Ngày xưa người ta thích gọi dụ ngôn này là dụ ngôn Người con hoang đàng. Nhưng bây giờ, nhiều người không đồng ý như thế. Họ thích gọi dụ ngôn là dụ ngôn Người Cha nhân hậu. Có lẽ cách gọi sau hay hơn cách gọi trước vì, rõ ràng, dụng ý của thánh Luca khi viết dụ ngôn này, đã cho thấy vai trò của Người Cha chủ động trong tình yêu của ông, một tình yêu lớn không thể tưởng, không thể hiểu nổi bởi nó vượt quá sức những gì ta có thể tưởng nghĩ, có thể hiểu được: một tình yêu vĩ đại không gì sánh bằng.
Người cha đó không ai khác hơn là chính Thiên Chúa. Người là Thiên Chúa của tình yêu. Hơn thế, Người là chính tình yêu. Bởi vậy, dù loài người có thể đánh mất, hoặc đã tự mình đánh mất tư cách làm con Thiên Chúa, tự mình vong thân và vuột khỏi tình yêu Thiên Chúa, thì Thiên Chúa vẫn một mực đón nhận loài người. Thiên Chúa vẫn trung thành trong tình yêu của mình. Thiên Chúa chẳng thôi làm cha bao giờ cả. Ngược lại, vẫn mãi mãi là một người Cha cần mẫn, bao dung, tha thứ, từ bi hãi hà…
Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Dù tội lỗi chúng ta có nặng nề tới đâu, thì tình thương của Chúa vẫn cứ sâu nặng, vẫn cứ cao ngất, vẫn cứ mạnh mẽ, không có bất cứ một chướng ngại nào có thể cản trở.
Dù chúng ta có tự tách mình đi xa tình yêu Thiên Chúa tới mức độ nào, Thiên Chúa vẫn không ngừng kiên nhẫn chờ đợi để tha thứ và thông chia cho ta chính sự sống của Người, miễn là ta biết nhìn nhận tội lỗi và thành tâm sám hối quay trở về với Người.
Trở về với Chúa là nhìn nhận mình tội lỗi và quyết tâm chừa tội, quyết tâm thay đổi đời sống. Đứa con hoang đàng, sau khi đã nếm đủ mọi mùi vị đắng cay, đói khổ, cả đến nhục nhã: thấp hơn loài heo, bởi chỉ “muốn ăn đồ heo ăn mà cũng chẳng ai cho”, đã tự nhủ: "Tôi muốn trở về với cha tôi". Sau cùng, anh ta đã đứng lên, trở về thật, dù sự trở về của anh không hề vì tình yêu của cha, mà chỉ vì mình, chỉ vì bụng đói. Vậy mà người cha bất kể anh trở về với ông vì lý do gì, miễn là anh trở về, và đứng trước mặt ông là đủ để ông tha thứ tất cả, quên tất cả lỗi lầm của con ông. Lòng nhân từ của ông không thể có bất cứ điều gì sánh ví được.
Chúng ta cũng vậy. Hãy trở về với Chúa để đón nhận lòng nhân từ vô biên của Người. Thiên Chúa chờ đợi chúng ta, đón tiếp chúng ta, quên tất cả, và quên một cách hết sức nhanh chóng tất cả những gì trong quá khứ chúng ta lỗi phạm. Người tha thứ cho chúng ta vô điều kiện. Tình yêu thương, lòng tha thứ đại lượng của Thiên Chúa, đó là những điểm then chốt của bí tích hòa giải, bí tích mà Hội Thánh tha thiết kêu nài chúng ta hãy lãnh nhận trong Mùa Chay này.
Trong mùa Chay, Hội Thánh mời gọi ta trở về với Chúa và trở nên giống Thiên Chúa. Hội Thánh dạy ta hãy để cho tình yêu của Chúa ngự trị trên cuộc đời mình, và hãy tin tưởng ngã vào tình yêu của Người. Bởi đó, dụ ngôn trên được gọi là dụ ngôn Người Cha nhân hậu lại càng ý nghĩa hơn, có sức mời gọi ta mạnh hơn, tích cực hơn, giúp ta hiểu rằng, khi ta trở về với Chúa, trước hết, là do tình yêu của Chúa, nại vào tình Chúa yêu ta, chứ không phải tự bản thân ta. Bởi nếu ta có cố gắng vươn lên, thì đó cũng chỉ là nỗ lực cộng tác của ta vào tình yêu của Chúa mà thôi. Chính Chúa là Đấng đoái nhìn đến ta, chủ động yêu thương và tha thứ cho ta. Ước gì mỗi người chúng ta biết hồi tâm sám hối, biết lãnh nhận niềm vui được tha thứ, được Chúa ôm ấp trong cánh tay nhân từ của Người, bởi Người là tình yêu, là suối nguồn bình an muôn đời của loài người chúng ta. Tất cả chúng ta hãy sống và luôn luôn tâm niệm lời của người con hoang đàng: “Tôi muốn trở về với cha tôi”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tin tưởng phó thác tuyệt đối vào tình yêu của Chúa. Chúng con biết, nhiều lần, chúng con cũng giống như người con hoang đàng bỏ Chúa mà ra đi theo thế gian, theo tiếng gọi của cám dỗ. Xin tha thứ cho chúng con. Xin uốn nắn lòng chúng con, để từ đây, nhất là trong mùa Chay thánh này, chúng con làm lại những gì đã đánh mất và xứng đáng hơn với tình yêu vô bờ của Chúa. Chúa là Cha nhân từ. Chúng con muốn trở về với Cha chúng con. Amen.
59. Người con hoang đàng--R. Gutzwiller
Xét theo tâm lý, phải là bậc thầy mới hoạ nổi dụ ngôn đứa con hoang đàng. Thế nhưng đây lại chẳng nhấn mạnh về đứa con hoang đàng, về những nỗi khốn nạn và sự trở về của chàng ta. Mà lại nhấn mạnh nhiều đến người cha.
Tất cả những đoạn văn Thánh Luca nói về vấn đề hư mất đã kết thúc một cách ý nghĩa khi đưa chúng ta về Thiên Chúa, Đấng cứu thoát những gì đã hư hại và bù đắp dư dật.
1. Người cha để cho đứa con hư hỏng.
Trong dụ ngôn, người cha có thể, hoặc tạm thời từ chối không chia cho người con phần gia tài của anh ta, hoặc là nói cho thấy hơn thiệt. Bản văn lại chẳng đả động đến chi tiết. Người cha đã chia gia tài cho anh, và để anh ra đi. Đối với đứa con, chẳng phải vì xung khắc hay vì sự sa đoạ nào đó thúc đẩy anh ra đi, nhưng là vì anh khát khao được sống ngoài vòng kềm toả, vì háo hức khao khát kinh nghiệm, vì muốn biết cái mới lạ, vì chưa có bản lãnh, vì tính hung hăng và bản năng thích phiêu lưu mạo hiểm.
Thiên Chúa cũng để cho con người hành động. Người có thể gìn giữ con người khỏi tội lỗi bằng những đường lối quan phòng của Người hoặc bằng áp lực của ân sủng mà con người không thể nào cưỡng lại được. Thế nhưng, Người vẫn tôn trọng tự do của con người: điều này làm chúng ta ngạc nhiên và khó hiểu.
Nhưng thể theo Thánh ý của Người, sau khi con người đã được tạo dựng một cách tự do và được ban cho quyền tự do, Thiên Chúa đã thực sự để cho con người làm chủ những quyết định của mình, lại còn ban cho con người sự trợ giúp tự nhiên để thực hiện những quyết định đó nữa. Bởi chưng mọi chuyện con người thực hiện –cả khi con người làm điều ác nữa- con người cần phải có sự trợ lực của Thiên Chúa, nếu không con người hoàn toàn bất lực.
Trong dụ ngôn, đứa con lầm lạc dần dần sa sút, trước tiên là một sự phung phí dại dột, rồi hắn phung phí gia tài cho bọn đĩ điếm cho đến lúc hắn hoàn toàn chìm đắm trong tình cảnh khốn nạn và phải đi chăn heo (ta chớ quên thái độ xa lánh của người Do thái đối với loại thú vật này) rồi suýt chết đói.
Thiên Chúa cũng thế, Ngài để mặc con người tự do theo con đường đã chọn lựa, để họ xuống dốc theo ý muốn và ao ước của họ. Ai tưởng mình có thể định đoạt giá trị sự vật thì Chúa sẽ để họ theo ý riêng mình, cho đến khi họ hiểu rằng ý muốn tự quyết của họ chỉ là sự sụp đổ bất lực.
Thiên Chúa thường thông cảm với việc con người yếu đuối sa ngã giữa lúc làm bạn với bầy heo và cơn đói ám ảnh. Tuy nhiên –sẽ có một hiện tượng kỳ dị- bao lâu mọi sự tốt đẹp thì con người ít nghĩ đến Thiên Chúa. Họ muốn quán xuyến tất cả và tự mình quyết định. Nhưng khi có trục trặc vì lỗi của họ, họ vội vàng quy trách cho Thiên Chúa.
2. Người cha đón nhận đứa con hư hỏng
Trong dụ ngôn, người con đã trở về với chính mình. Bị lâm vào cảnh phiền muộn, nó mới biết đến kinh vực sâu, thú nhận lỗi lầm của mình và dọn sẵn lời thú tội: ‘Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha’. Nó ý thức mình không còn quyền lợi nữa và chỉ còn trông cậy vào lòng nhân hậu để được coi như một kẻ hèn hạ nhất trong đám thợ làm công.
Khi con người có kinh nghiệm sâu sắc và chua cay về thất bại bản thân, họ dễ ý thức giá trị của ân sủng. Lúc ấy, họ biết không thể tự sức mình mà được việc, nên phải phó thác vào ân sủng của Thiên Chúa. Tội lỗi đã làm cho con người mất địa vị làm con Thiên Chúa, cho nên, làm tôi tớ đối với nó là một đặc ân. Con người không còn đến trước Thiên Chúa Cha với tư cách một người con quấy rầy, nhưng như một kẻ van xin đầy lòng hối hận đứng trước chủ nhân. Và Thiên Chúa chấp nhận họ.
Trong dụ ngôn, người cha đã chờ đợi rồi ông đã chạy ra đón đứa con hư, tỏ lòng tha thứ mà không cần đứa con giãi bày lời thú tội. Ông đã dọn một bàn tiệc, tổ chức một buổi lễ… Đối với tội nhân hối cải, Thiên Chúa cũng có một thái độ tương tự. Ngài đến gặp họ. Phán quyết trong nội tâm và lòng hối cải đã là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa. Kẻ lầm lạc khi tự phán quyết rồi lại quyết định trở về với Thiên Chúa, đó cũng là ân sủng.
Thiên Chúa cầu mong lại đón nhận họ. Đó là do lòng nhân hậu của Ngài. Và, nói một cách sát chữ, Ngài đem lòng yêu thương dạt dào người tội lỗi đã hối cải, quên đi quá khứ, xoá bỏ ác quả và tội vạ, và hơn nữa, cho họ được những đặc ân không ngờ, đây là mầu nhiệm khôn dò của ân sủng Người.
Bữa tiệc sẽ minh chứng là Thiên Chúa yêu thương. Người anh khó tính với cảm nghĩ tầm thường lấy vẻ liêm chính che đậy đầu óc thiển cận, tâm hồn hẹp hòi của mình. Trái lại, qua hành vi quảng đại của người cha, dụ ngôn cho chúng ta thấy bản tính thâm sâu của Thiên Chúa, tầm mức vô biên của tình yêu, nhịp điệu và hài hoà, âm vang trong Thiên Chúa.
Lầm lạc không còn là điều đáng quan tâm. Tăm tối đã biến đi. Ánh sáng chói chan khắp nơi, mọi sự thấy đẹp hơn bao giờ hết. Tội hồng phúc!... Tội lỗi là dịp vô cùng hữu ích để chúng ta nhận ra sự cao cả của Thiên Chúa đến nỗi chính các lỗi lầm của con người lại dẫn đến ơn cứu độ và vinh quang của Thiên Chúa.
60. Người con phung phí--Lm. Phêrô Thiên
Ba câu mở đầu bài Tin Mừng là lời dẫn nhập cho "ba dụ ngôn về lòng thương xót": con chiên lạc tìm được, đồng tiền đánh mất tìm được, đứa con đi hoang tìm được. Như thế, ba câu chuyện này đã được Đức Giêsu kể để tự biện hộ về những quan hệ chướng tai gai mắt (đối với phái Pharisêu) mà Người có với những "kẻ tội lỗi".
"Một người kia có hai con trai..." Ta thường có thói quen xấu là chỉ nghe nửa đầu của dụ ngôn, phần nói về đứa con thứ. Thế nhưng, ông cha mới là người hùng của câu chuyện. Chúng ta sắp nghe không phải dụ ngôn "Người con phung phá" song là "Người cha phung phí", một vở kịch hai màn: cuộc "tranh chấp" giữa một người cha với 2 đứa con, cả hai đều được yêu mến như nhau, yêu mến điên cuồng, mặc dầu chẳng có đứa nào xứng đáng với tình yêu đó cả! Một câu chuyện tình cảm động nhất (Charles Dickens), một hình ảnh đẹp nhất của Cha trên trời!
1- Thái độ của người cha đối với đứa con thứ
Đứa con này chỉ là một tên trục lợi: nó đòi tiền bạc, rất nhiều tiền bạc. Nó chỉ nghĩ tới mình. Nó nhận tất cả từ cha, nhưng chẳng hề biết ơn cha, mà chỉ nghĩ một chuyện: đòi hỏi, yêu sách... Phần người cha thì hoàn toàn trái ngược. Ông chỉ là cho không, chia sẻ vô vị lợi, tôn trọng tự do người khác, tóm lại chỉ là tình yêu! Hình ảnh Thiên Chúa!
Đứa con thứ chính là hình ảnh Biệt phái vẫn thường vẽ lên về tội nhân: a/ Là đứa con nổi loạn, đòi độc lập tự chủ, y quả tượng trưng chủ nghĩa vô thần của mọi thời: hưởng dùng các "ân huệ" của Thiên Chúa nhưng chẳng thừa nhận Thiên Chúa, còn sống xa Người, muốn làm mọi chuyện mà chẳng bị ai kiểm soát cả: "không Chúa không chủ". Điều đó đặc biệt đúng với hôm nay! b/ Hơn nữa, đối với Biệt phái, đứa con Israel này đã xuống tới đáy ti tiện đê hèn. Nó đã bán thân làm nô lệ cho một người ngoại, thành thử chẳng còn giữ ngày sabát cũng như các tập tục về thanh sạch: nó chăn heo, con vật nhơ bẩn, ghê tởm, bị cấm đoán. c/ Hơn nữa, dẫu chỉ xét về mặt con người, sống như thế cũng không hợp luân lý: đây là một tên phóng đãng, một loại người hạ đẳng, biến chất, trở lùi lại thú tính. Nó sống như một loài heo: kiếm tiền, ăn nhậu, làm tình... chỉ biết đến cái tôi, thuần mơ chuyện hưởng thụ...
Ta quả là tô vẽ nó khi ca ngợi sự hoán cải của nó. Không, đứa con thứ vẫn chẳng có thần nào khác ngoài tư lợi ích kỷ: đổ cho đầy bụng! Việc nó trở lại nhà chỉ là một tính toán đê tiện nhằm tìm lại chỗ trú và bàn ăn. Câu nói hoa mỹ, nghe rất lâm ly bi đát, chỉ là một màn kịch soạn sẵn nhằm làm mủi lòng người cha mà nó nghĩ là sẽ la rầy, trừng phạt nó đích đáng và... chính đáng. Có đứa con nào đi xa nay trở về thăm cha mẹ mà lại chuẩn bị trước những câu nói vốn sẽ tự nhiên trào ra tận đáy lòng một khi trông thấy quê nhà dấu yêu? Đứa con thứ xót bụng hơn đau lòng! Nó đúng là một tên khốn khiếp, nạn nhân của các bản năng, của lũ bạn bè quý hóa: nó đã đánh mất tập quán yêu thương, chỉ còn biết nghĩ tới chính mình. Lạy Chúa, đó là hình ảnh của con. Con thường sống như vậy!
Thằng con trở về với ý đồ đê tiện. Nhưng khi "nó còn ở đằng xa", còn chưa mở miệng thì người cha đã làm tất cả. Bốn cử chỉ: "ông đã trông thấy nó", "ông chạnh lòng thương...", "ông bổ nhào ra...", "ông ôm cổ nó và hôn lấy hôn để". Cử chỉ chạy bổ nhào ra có lẽ là cử chỉ mạnh nhất của toàn thể dụ ngôn. Trong tập quán của mọi thời, không có chuyện một người trên chạy tới với một người dưới, nhất là khi kẻ dưới này có một thái độ đáng trách. Đây lại là một ông già đông phương đường bệ, lúc nào cũng ăn nói và đi đứng khoan thai từ tốn.
Vâng, ta bóp méo hoàn toàn dụ ngôn của Đức Giêsu khi trình bày cuộc trở về của đứa con này như mẫu gương "hoán cải". Nếu Đức Giêsu chỉ mô tả sự "thống hối" của một tội nhân, giáo huấn này đã chẳng gây khó chịu cho người Biệt phái. Tại Israel, người ta đã biết từ lâu, toàn thể Kinh Thánh làm chứng, là Thiên Chúa tha thứ cho tội nhân hoán cải. Nhưng thái độ của người cha ở đây còn đi xa hơn nhiều: ông không mảy may lưu ý xem thằng con biểu lộ một lòng thống hối đích thực hay giả tạo. Ngay khi nó còn ở đằng xa, ông đã chạy ra gặp nó. Đức Giêsu không nhấn mạnh đến thái độ của đứa con hoang đàng, trên những cử chỉ thống hối đền tội của nó, nhưng trên tình yêu vô vị lợi của người cha... một người cha đã tha thứ vô điều kiện, trước khi đứa con thú lỗi! Đức Giêsu nói cho ta biết "làm con" là gì: trước hết đó không phải là có thái độ thế này thế kia với cha hay mẹ... nhưng là được cha và mẹ thương yêu, cho dù mình xứng hay bất xứng! Đó đã là mạc khải của ngôn sứ Hôsê: Thiên Chúa tiếp tục yêu thương cô vợ bất trung bất tín của Người (Hs 3,1; 11,1-9; 14,5-9). Hỡi những ai tự nhận là vô thần, những ai sống như kẻ vô thần, những ai đã xa lìa Thiên Chúa vì tội lỗi, Đức Giêsu nói với quý vị: "Cho dẫu bạn không tin Thiên Chúa lẫn yêu mến Người, Người cũng chẳng bao giờ ngừng tin và yêu bạn!". Ta hiểu vì sao những kẻ tội lỗi đã chạy đến cùng Đức Giêsu.
Trong vòng tay cha, thằng con bắt đầu tụng lên câu nói đã dọn sẵn, nhưng ông không để nó kết thúc. Ông chẳng cần biết nó dối trá hay chân thành. Ông chỉ biết nó là con ông và ông là cha nó. Trái tim tràn tình yêu của ông khiến ông đổ đầy nó bằng tặng phẩm! Đây quả thực là một lễ cưới: áo, nhẫn, giày, tiệc, ca nhạc, quả thực là nghi lễ phục hồi chức vị làm con. Ông lăng xăng chạy từ nhà trên xuống nhà dưới, từ đầu sân đến cuối sân, hối thúc gia nhân dọn tiệc. Niềm vui ông thật vỡ bờ. Nếu có hình dung sự hoán cải của thằng con đểu giả thì chính là lúc này đây, khi nó đứng giữa sân như trời trồng rồi khóc lên sung sướng vì nhận thấy tất cả tình thương bao la vĩ đại của cha. Nhưng đó không phải là điều tác giả dụ ngôn muốn đề cập.
Tình thương của người cha được cô đọng trong câu: "Con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã thất lạc mà nay lại tìm thấy". Đây là điệp khúc chấm dứt màn nhất của vở kịch. Lát nữa ta sẽ gặp lại nó cuối màn hai với vài từ thay đổi. Chết-sống... Thất lạc-tìm lại... Cái chết nào đối với Đức Giêsu đây? Mạc khải nào Người muốn đưa ra cho nhân loại đây? Thưa rằng: xa Thiên Chúa, đó là chết, đó là đánh mất chính mình! Con người chỉ hiện hữu thật sự trong mối tương quan với Thiên Chúa thôi. Người ta có thể tưởng mình sống, thế mà đã chết trong thực tế.
Nhưng khi phàm nhân trở về, thì "cuộc liên hoan" của Thiên Chúa bắt đầu, "niềm vui" của Thiên Chúa nở rộ! Hoán cải, đó đơn giản là đi vào niềm vui của Thiên Chúa. Đấy chính là chuyện mà anh con cả sắp khước từ.
2- Thái độ của người cha đối với đứa con cả.
Đối với đứa con cả, người cha cũng biểu lộ một lòng tốt như thế: "ông ra gặp chàng trước...", "ông năn nỉ chàng...". Kinh Thánh thường trở đi trở lại trên chủ đề này, chủ đề về tính nhưng không tuyệt đối của các hồng ân Thiên Chúa, qua hình ảnh con thứ thay thế con cả (St 27,36; 2Mcb 4,26; Cn 30,23; Hs 12,4), hình ảnh "những người thợ giờ cuối cùng" cũng được trả công bằng "những người thợ giờ thứ nhất" (Mt 20,8), hình ảnh "những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu" (Lc 13,30), hình ảnh "lương dân" sẽ thay thế "tuyển dân" (Rm 9,30). Tất cả đều nói lên tự do cao vời và tính cách nhưng không của tình yêu Thiên Chúa.
Đối với đứa con thứ, người cha đã không muốn nghe gì hết. Nay đối với anh con cả, ông để cho chàng mặc sức trút lên đầu ông bầu tâm sự đầy cay đắng, phẫn nộ. Có lẽ anh cũng có lý của mình. Anh ta chính là chân dung của người Biệt phái mà Đức Giêsu muốn khắc vẽ. Câu quả quyết của anh: "Ông coi, đã bao năm trời tôi làm tôi ông, cũng chưa hề lướt lịnh ông" quả là đúng với sự thật, làm nổi bật hình ảnh phái Pharisêu tự hào vì đã giữ trọn luật (x. Lc 18,9). Thái độ của anh không kể gì đến tương quan anh em nữa ("thằng con của ông") và nói về em một cách khinh bỉ đúng là thái độ của phái Pharisêu đối với hạng mà họ gọi là tội nhân. Bản dịch Anh ngữ câu nói của người con cả này còn cho ta một chi tiết lý thú: "thì ông lại giết con bê chúng ta đã cùng vỗ béo" (you kill the calf we had been fattening). Đúng là chua chát và ghen tức đến cực điểm! Riêng đối với cha, anh đã biến mình thành tôi tớ, biến tình thương thành nô dịch.
Như thế, người con cả cho ta thấy chính trọng tâm của dụ ngôn: anh ta đã không nhận rõ tất cả tình yêu đang bao phủ anh: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, mọi sự của cha đều là của con hết thảy. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây..." Người cha sửa lại lối nói của người anh một cách tế nhị ("em con đây" đối lại "con ông đó"). Qua dụ ngôn hai màn này, thành thử chúng ta được mời đi vào trong tình yêu của Thiên Chúa, trong niềm vui của Người được gặp lại các tội nhân. Đây là lời loan báo sự hoán cải của lương dân sẽ đi vào trong "dân mới của Thiên Chúa" hàng loạt. Một ngày kia, Luca sẽ đặt trên miệng Phêrô câu nói này khi nhận ra ân sủng ban cho viên bách quản ngoại đạo: "Vậy nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa" (Cv 11,17). Không, không có ưu đãi: hết thảy đều được Cha trên trời mến yêu.
Và dụ ngôn "đứa con thất lạc tìm thấy" (hay đúng hơn "người cha phung phí", phung phí tình yêu) kết thúc với cùng một điệp khúc vui tươi như hai dụ ngôn trước (xin xem Chúa nhật 24 thường niên năm C). Màn hai của dụ ngôn lấy lại câu kết luận của màn đầu, với việc đổi từ "con ông" bằng "em con" như đã ghi nhận. Thiên Chúa là Cha, điều đó chắc chắn: Người yêu hết thảy con cái của mình. Nhưng nhân loại có là anh em với nhau không? Phải chăng anh con cả sẽ để mình bị thuyết phục và "đi vào chung hưởng niềm vui với cha"? Chúng ta không biết. Dụ ngôn vẫn bỏ ngỏ. Vì chính người Biệt phái, chính chúng ta phải cho nó một kết luận: đi vào cuộc liên hoan với Thiên Chúa, cuộc liên hoan mừng kẻ tội lỗi trở về.
(Viết theo Nil Guillemette SJ, Parables for today)
61. Đứa con hoang đàng
Dụ ngôn về đứa con hoang đàng hay nói đúng hơn câu chuyện về tấm lòng của một người cha, là một hình ảnh thật cảm động cho chúng ta thấy được tình thương bao la của Thiên Chúa đối với những kẻ tội lỗi.
Đúng thế, chàng thanh niên, không chịu được sự trói buộc và gò bó của gia đình, đã đòi người cha chia gia tài cho mình, rồi lên đường đi bụi đời. Ở một thành phố nào đó, chàng đã phung phí hết số tiền, được dành dụm chắt chiu từ biết bao nhiêu giọt mồ hôi và nước mắt.
Lâm vào cảnh túng đói, chàng mới hối hận vì đã hành động sai quấy. Thế là chàng dứt khoát, chỗi dậy, lên đường trở về nhà cha để van xin sự tha thứ.
Có lẽ chúng ta nên dừng lại ở hình ảnh người cha. Đúng thế, ngày ngày ông đều ngồi ở cửa, đưa cặp mắt nhìn về chốn xa xôi. Ông mòn mỏi trông chờ, ông hy vọng rằng một ngày kia cậu sẽ trở về. Bởi vì ông biết rất rõ, tự bản chất, cậu không phải là một con người xấu, nhưng vì tuổi trẻ bồng bột, lại nghe theo những lời xúi bẩy của bè bạn, cho nên mới ra nông nỗi ấy.
Ông tin rằng: trường đời sẽ mở mắt cho cậu, để cậu nhận ra rằng: không ai yêu thương cậu một cách chân thành cho bằng người cha. Cậu sẽ không tìm thấy ở đâu một sự nâng đỡ cảm thông cho bằng chính gia đình của mình. Rồi từ đó, sẽ có được một động lực thúc đẩy cậu quay gót trở về.
Phải, cậu đã trở về, kéo lê những bước chân nặng nhọc, áo quần thì rách rưới, thân xác thì mệt mỏi, tâm hồn thì khao khát được tha thứ.
Từ đằng xa, cha cậu đã nhận ra cậu. Ông bồi hồi xúc động, vội chạy đến với cậu và hôn cậu hồi lâu. Còn cậu thì cúi mặt xuống, xấu hổ và ăn năn vì lỗi phạm. Cặp mắt long lanh những giọt lệ sám hối và cậu đã thú nhận:
- Thưa cha, con đã phạm tội nghịch với trời và lỗi với cha, con không xứng đáng được gọi là con cha nữa.
Cha cậu ôm chặt cậu vào lòng. Sự thú nhận lúc này cũng bằng thừa, nhưng điều quan trọng đó là cậu đã chết mà nay được sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào cuộc sống riêng tư của mỗi người chúng ta. Đúng thế, mỗi khi phạm tội chúng ta cũng trở nên là những đứa con hoang đàng. Tội lỗi đem lại cho chúng ta sự nghèo nàn và bất hạnh. Tâm hồn mất đi vẻ đẹp của ơn thánh, nhất là sẽ bị đoạ đày và chết chóc. Thế nhưng chúng ta đừng bao giờ quên rằng: Thiên Chúa là người Cha nhân từ và giàu lòng thương xót, Ngài luôn mong mỏi chờ đợi chúng ta trở về để được tha thứ như lời Ngài đã phán:
- Một kẻ tội lỗi ăn năn sám hối sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn.
Có một chàng trai cũng bỏ nhà ra đi và lâm vào cảnh túng thiếu. Chàng hối hận và muốn tìm về mái ấm gia đình. Chàng phân vân không biết bố mẹ có sẵn sàng tha thứ cho chàng hay không? Chàng viết thư cho bố mẹ và nói:
- Nếu như bố mẹ sẵn sàng tha thứ cho con, thì đến ngày ấy tháng ấy cứ treo một chiếc áo trên cửa sổ, làm dấu để con trở về, bằng không thì con chẳng dám làm phiền bố mẹ nữa.
Đến ngày ấy tháng ấy, bà mẹ không chỉ treo có một chiếc áo, mà trong nhà có bao nhiêu quần áo, bà đều đem treo khắp các khung cửa, để chàng được yên tâm trở về.
Tuy nhiên, điều quan trọng đối với chúng ta đó là, hãy ăn năn sám hối, hãy can đảm chỗi dậy và lên đường, rồi tình thương của Chúa sẽ đem lại cho chúng ta ơn tha thứ, bởi vì Chúa sẽ không thể cứu chữa chúng ta, nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn.
62. Mọi sự
Câu chuyện được kể lại trong bài Tin mừng hôm nay theo thánh Luca có thể coi là tấm thảm kịch vẫn xảy ra trong mối tương quan giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau. Có một lúc nào đó trong tiến trình trưởng thành và tự lập, đứa con chợt thấy mình cần đòi lấy quyền tự do để quyết tách ra khỏi sự giám hộ của cha mẹ. Con người cũng đã từng muốn được bộc lộ tư thế độc lập tự chủ như vậy trong tương quan với Thiên Chúa. Con người đã xây dựng tháp Babel, biểu tượng của tiến bộ khoa học kỹ thuật để khẳng định với Đấng tạo dựng của mình. Con người gần như nắm trọn quyền kiểm soát sử dụng mọi tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu đời sống của mình: “Thưa cha, xin chia cho con phần gia tài con được hưởng”.
Đối với người cha, lời cầu xin của con là chính đáng, vì những gì ông đã gầy dựng nên như nhà cửa, ruộng vườn và tất cả tài sản vật chất, tinh thần cốt là chỉ dành cho con. Không thể có cách đáp ứng nào khác hơn đối với người cha tốt lành yêu thương con cái đã vui lòng trao cho con tất cả gia sản của mình. Và đây cũng chính là cách hành xử của Thiên Chúa khi Người đáp ứng vô cùng rộng lượng hào phóng quá sức muôn đời của con người. Mọi diễn tiến có lẽ đã êm xuôi tốt đẹp, đã như không có một chi tiết tai hại xảy ra. Ít ngày sau khi con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa, ở đó anh ta sống phóng đãng phung phí tài sản của mình.
Vậy, một khi đã rời khỏi nhà cha, rời khỏi tình thương của cha, khỏi sự che chở hướng dẫn của cha thì đứa con dẫu đã lớn khôn, song một mặt nào đó vẫn còn là con, vẫn có mối thương tình phụ tử ràng buộc “sinh tử bất khả phân ly” tất sẽ phải đương đầu với bao hậu quả không lường được. Tấm thảm kịch bắt đầu ở đây, ở chỗ con người tách ra khỏi quyền năng yêu thương quan phòng của Thiên Chúa, ở chỗ con người làm ngơ hoặc phủ nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời như nguồn mạch và sự cảm hứng của con người, ở chỗ con người gạt bỏ mọi dấu ấn của luật pháp Thiên Chúa trong bản chất, trong lương tri con người. Chính lúc đó con người phung phí hết mọi gia sản, phung phí tài năng, sức lực, phung phí luôn cả phẩm giá của mình là con người được tác tạo giống dấu ấn của Thiên Chúa.
Tách rời Thiên Chúa, phủ nhận Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa rút cuộc sẽ đẩy con người xuống tận đáy của mọi thảm hoạ, xuống ngang tầm với cầm thú. Anh ta ao ước lấy được những đồ cho heo ăn mà nhét cho đầy bụng. Sự giác ngộ sám hối của con người có vẻ muộn màng, nhưng lại là điều Thiên Chúa chờ đợi và luôn đưa ra sáng kiến để đón nhận tội nhân cải tà qui chánh. Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy, ông chạnh lòng thương chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Có thể có hoán cải làm lại cuộc đời, nếu như không có chờ đợi những ngày mở đường sinh phúc, mở rộng vòng tay tha thứ đón nhận. Đây chính là cốt lõi của ơn trở về. Nền tảng cảm hứng và sức mạnh của ơn này chính là tình thương và quyền năng Thiên Chúa, Đấng muốn cứu vớt tất cả phàm nhân, một khi Người đã tặng ban cho nhân loại chính Thánh Tử Chí ái của Người.
Tuy nhiên, hệ luỵ của hành vi con người tách rời và phủ nhận quyền năng quan phòng của Thiên Chúa không phải là không gây tác hại nghiêm trọng trong mối tương quan giữa con người với nhau, nhưng đã có một sự rạn nứt đổ vỡ trong tình thương huynh đệ, trong nỗ lực chung sức phục vụ công trình của Thiên Chúa là Cha với tấm lòng hiếu kính vô vị lợi.
Trái lại, người con thứ sau khi đã nuốt hết của cải của người cha nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng. Thậm chí đáng buồn hơn nữa còn thương mại hoá mối tương quan giữa Thiên Chúa, lấy lợi vụ vật chất, lấy công trạng phục dịch dễ dàng trong nhà cha làm chuẩn mực cho tình nghĩa phụ tử: “Bao nhiêu năm trời con phục vụ cha thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con bê để con ăn mừng với bè bạn”. Ơn hoán cải thực sự và toàn diện không thể thực hiện, nếu chỉ có nỗ lực đơn phương của một nhân loại đã bị thương tật tội lỗi và không ngừng bị ảnh hưởng của ác thần khống chế. Nhưng ơn hối cải ấy chỉ có thể xuất phát từ Thiên Chúa, từ cội nguồn trắc ẩn, từ lòng yêu thương nhân từ luôn rộng mở chờ đón sự trở về của con người tội lỗi.
63. Nhân lành
Những người Pharisêu và kinh sư vốn khinh miệt những người mà họ coi là “phường tội lỗi”, và coi sự tiếp xúc với lớp người ấy là một việc làm cho mình ra dơ bẩn. Họ phê bình, bắt bẻ, hạch sách Chúa Giêsu vì thấy Ngài tiếp nhận những người tội lỗi và ngồi ăn uống với lớp người này. Để trả lời cho họ, Chúa Giêsu kể những dụ ngôn trình bày thái độ của Thiên Chúa đối với người tội lỗi.
Thánh Luca đã thâu góp trong chương 15 ba dụ ngôn con chiên lạc mất lại tìm thấy, đồng bạc rơi mất lại tìm thấy, và đứa con hoang đàng trở về. Thái độ của người tìm thấy con chiên lạc, thái độ của người tìm thấy đồng bạc mất và thái độ của người cha gặp lại đứa con đi hoang… đều nhằm diễn tả niềm vui của Thiên Chúa khi người tội lỗi ăn năn sám hối. Chúa Giêsu đến để mạc khải cho loài người lòng nhân từ của Thiên Chúa, không phải chỉ bằng lời nói nhưng bằng chính cách cư xử của Ngài đối với người tội lỗi. Thái độ của Ngài đối với người tội lỗi chính là thái độ của Chúa Cha.
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng quen được gọi là dụ ngôn “Đứa con hoang đàng”. Nhưng cái tựa đề đó không phản ánh đúng nội dung và chủ đích của Chúa Giêsu, vì nó thường làm chúng ta chú ý tới đứa con hoang đàng mà quên đi hay ít quan tâm tới vai trò của người cha và người con cả. Nói rõ hơn, cả ba nhân vật trong dụ ngôn đều đáng chú ý. Chính vì thế mà dụ ngôn trở thành phong phú cho chúng ta, vì nó cho chúng ta nhìn ngắm hình ảnh lòng nhân lành của Thiên Chúa, thân phận bi đát của con người tội lỗi, con đường giải thoát là về với Cha. Đòi hỏi của Thiên Chúa là muốn làm con của Ngài thì cũng phải nhận những đứa con khác của Ngài là anh em của mình, phải học với Ngài mà sống thái độ nhân lành.
Chủ đích của Chúa Giêsu khi giảng dạy dụ ngôn này là mời gọi mọi người Do thái nói chung, nhất là giới lãnh đạo thay đổi quan niệm và thái độ của họ về Thiên Chúa, về người tội lỗi và về chính họ.
Trong khi mời gọi chúng ta thực hiện việc ăn năn sám hối, Giáo hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng này để mời gọi mỗi người chúng ta nhìn mình trong câu chuyện ấy. Mỗi người đều có thể đặt mình trước lòng nhân lành của Thiên Chúa để nhìn mình và nhìn anh em. Người ta chỉ dám nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi khi đứng trước mặt Thiên Chúa nhân lành sẵn sàng tha thứ. Bởi vì nhìn nhận mình tội lỗi tức là nhìn nhận mình thua kém, mình không xứng đáng là mình, nên nếu chỉ nhận ra mình là kẻ tội lỗi mà không có sự tha thứ nào để nâng mình chỗi dậy thì người ta sẽ tuyệt vọng. Bao nhiêu người hoá điên vì đã phạm tội ác rồi nhận ra mình là kẻ có tội mà không thấy ai có thể tha thứ cho mình.
Hình ảnh đứa con hoang đàng cho chúng ta thấy bản chất của tội lỗi, hậu quả bi đát của tội lỗi và thái độ phải có để có thể thoát ra khỏi tội lỗi. Lòng sám hối chính là nhận ra mình là kẻ tội lỗi, quyết tâm ra khỏi tội lỗi để quay về với cha và sống làm con người mới. Mỗi người đều có thể nhận ra mình trong hình ảnh đứa con hoang đàng. Vậy thì Chúa cũng mời gọi chúng ta cùng với đứa con hoang đàng chỗi dậy đi về nhà cha, cha đang chờ, tức là đến với Chúa, Chúa đang chờ để tha thứ cho chúng ta.
Hình ảnh người con cả cũng giúp chúng ta kiểm điểm thái độ của mình đối với anh em. Ai trong chúng ta cũng có một chút máu Pharisêu trong mình: muốn tự coi là công chính, khinh chê người khác, muốn loại người khác ra khỏi gia đình của Thiên Chúa. Nhưng Chúa Giêsu khẳng định rằng: muốn làm con của Cha trên trời thì phải nhìn nhận những người khác là anh em và quan tâm tới phần rỗi của anh em. Phải từ bỏ thái độ Pharisêu.
Tóm lại, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn ngắm hình ảnh lòng nhân lành của Thiên Chúa, thân phận tội lỗi của mình, và con đường giải thoát là về với Cha. Đòi hỏi của Thiên Chúa là: muốn làm con của Ngài thì cũng phải nhận những đứa con khác của Ngài là anh em của mình, phải học với Ngài mà sống thái độ nhân lành.
64. Chúa Nhật 4 Mùa Chay
Hôm nay là Chúa Nhật 4 Mùa Chay, còn gọi là Chúa Nhật của niềm vui, vui vì có một người cha già đang gấp rút tổ chức một bữa tiệc bê béo để ăn mừng đứa con hư đốn của ông nay đã trở về.
Tại sao người con hư này lại trở về? Theo như thánh sử Luca tuần thuật, người con thứ sau khi đòi cha chia gia tài, anh gom góp tất cả đem đi ăn chơi phun phí nơi xa. Đến khi tiền bạc đã hết, anh lâm vào tình cảnh đói khổ, đi làm mướn để kiếm sống nhưng vẫn đói. Anh hối hận vô cùng và quyết tâm trở về với cha Kính thưa OBACE! Cùng với người con thứ, xin mỗi người trong OBACE dành chút thời giờ để kiểm tra lại tình trạng tâm hồn của mình, tình trạng sống đạo hiện giờ của con cái mình, của những người Kitô hữu xung quanh mình. Nếu ai đang trong tình trạng đi hoang, hãy mau chóng trở về. Nếu người thân mình đi hoang, anh em bên cạnh mình đi hoang, bằng mọi cách, hãy nhanh chóng giúp họ quay về. Có người cho rằng từ từ rồi trở về với Chúa chứ gấp gáp gì. Xin thưa với OBACE, cần phải gấp chứ vì con nghe cha con kể lại một thái độ từ từ và cuối cùng cả gia đình phải hối hận.
Anh út bỏ mùa Phục Sinh lâu lắm rồi. Nhiều lần hàng xóm khuyên, anh nói để từ từ, gấp gáp gì. Nhiều lần cha sở đến nhà thăm, anh trốn trong buồn không chịu gặp. Một hôm, cha sở mặc áo dòng đi thăm giáo dân, tình cờ gặp anh giữa đường. Thấy cha từ xa, anh nhảy qua mấy cái mương chạy mất tiêu. Cha sở chạy theo kêu, út ơi, cha gặp thăm con chút chứ có làm gì con đâu mà con chạy dữ vậy? Đùng một cái, anh ngã bệnh nặng, hấp hối, người nhà rước cha xức dầu. Cha đến, anh quay vào vách không chịu lãnh Bí tích xức dầu và tắt thở trong sự đau xót của gia đình. Cha sở ngồi trên giường anh khóc tại chỗ, vì không biết nên đưa tiễn một linh hồn đã vội vã ra đi hay níu kéo lại để tìm cách cứu vớt.
Kính thưa OBACE! Tình trạng sống đạo trễ nải, nguội lạnh của giáo dân là nỗi khổ tâm lớn nhất của cha sở, vì con cái mình đi hoang mà không báo trước ngày giờ trở lại. Người con thứ trong bài Phúc âm trở về làm cha nó mừng lắm. Con ước mong, vào những ngày cuối của mùa chay thánh này, OBACE đem niềm vui mừng đến cho cha sở mình, và trên hết là cho chính Thiên Chúa là cha. Để trở thành đứa con hiếu thảo đem niềm vui cho cha mình, xin được mời gọi OBACE làm những việc thực hành sau: Thứ nhất, những OBACE nào thấy tâm hồn mình đang trong tình trạng tội lỗi, hãy mau mắn đi xưng tội mùa chay để trở về với Chúa. Thứ hai, kiểm tra tình hình sống đạo của con cháu mình, đứa nào đang sống đạo trễ nãi, nguội lạnh, hãy hối thúc nó sớm đi xưng tội để trở về với Chúa, nó không chịu đi, cầu nguyện nhiều cho nó, tìm mọi cách giúp nó vì đó là trách nhiệm của các bậc làm cha, làm mẹ. Thứ ba: OBACE để ý xem trong họ đạo mình, những người chúng quanh mình, ai nguội lạnh, hãy cầu nguyện nhiều cho họ. Đây là việc làm bác ái mùa chay đẹp lòng Thiên Chúa nhất đó thưa OBACE.
Thay cho lời kết, nguyện xin Chúa ban ơn sám hối cho mỗi người trong họ đạo, để mùa chay năm nay, có nhiều người nguội lãnh, trễ nảy quay về với Chúa qua Bí tích hoà giải. Và rồi ngày đại lễ mừng Chúa Phục sinh năm nay là ngày chính Thiên Chúa dọn tiệc bê béo và mở rộng vòng tay yêu thương đón lấy từng người con trong giáo xứ, trong họ đạo chúng ta. Amen.
65. Trở về được đón nhận
Chúng ta đã cùng với Giáo hội đi được hơn nửa chặng đường của Mùa chay năm nay. Mùa chay còn được gọi là mùa trở về. Thiên Chúa qua Giáo hội kêu gọi mọi người tín hữu nếu lỡ đi lạc đường hãy quay trở về với tình thương của Người. Vấn đề là họ có thật lòng muốn trở về hay không? Và khi đã được đón nhận họ có biết noi gương Chúa mà đón nhận nhau không?
Đoạn Tin mừng mà Giáo hội cho chúng ta đọc trong Chúa nhật hôm nay, phải nói được là kiệt tác trong Tin mừng Luca. Có lẽ là kitô hữu, ai trong chúng ta cũng thuộc nằm lòng dụ ngôn này. Dụ ngôn mà chúng ta quen gọi là "Dụ ngôn người con trai hoang đàng ". Nhưng đúng ra chúng ta phải gọi là "Dụ ngôn Người Cha nhân hậu".
Khi người con thứ ý thức được tội lỗi tày trời của mình, anh đã quyết định quay trở về. Anh chỉ mong được cha đón nhận như người làm công thôi. Bởi lẽ anh tự biết, mình đã đánh mất tư cách làm con của mình. Mặc dù người cha còn sống sờ sờ đó, nhưng anh đã dám cả gan xem ông như người đã chết. Đó là anh đã yêu cầu cha chia gia tài cho mình. Thật là một tội bất hiếu không thể tha thứ được. Phải chi với gia tài ấy, anh ra đi làm ăn sinh lợi thì cũng còn có thể chấp nhận được. Ở đây, anh đã đem tất cả gia tài ấy đi phung phí một cách không thương tiếc đến nỗi không còn một đồng xu dính túi. Như vậy, theo cái nhìn của con người, người con này coi như "hết thuốc chữa ". Chắc chắn anh cũng đã nhận ra điều đó.
"Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha,chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy ". Một câu nói phát xuất tự đáy lòng cùng với sự trở về của anh đã làm cho cuộc đời anh mở sang trang mới.
Điều đáng nói ở đây, sở dĩ cuộc đời anh được sang trang mới là do chính sự đón nhận quá sức tưởng tượng của người cha. Sự đón nhận đến nỗi làm cho người anh phải ghen tức. Trông thấy anh từ đàng xa, người cha đã chạy ra "ôm anh và hôn lấy hôn để ". Ông đã vội vàng khôi phục lại địa vị làm con cho anh. Bằng chứng là ông đã kêu gia nhân " mau đem áo đẹp nhất ra mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu và mau bắt một con bê đã vỗ béo chờ sẵn để làm thịt ăn mừng... ". Quả thật, đây là một người cha có tấm lòng nhân hậu và bao dung. Tội lỗi của người con quá lớn nhưng tình thương của ông lại còn lớn hơn nữa.
Thái độ của người cha ấy chính là thái độ của chính Thiên Chúa khi ta biết thực sự trở về sau mỗi lần lầm lỡ. Thiên Chúa không bao giờ chấp nhất tội ta. Như lời thánh vịnh "Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?" (Tv 129, 3). Khi ta biết trở về, Thiên Chúa sẽ đón nhận ta như một báu vật. Đồng thời, Người sẽ sẵn sàng cho ta cơ hội để làm lại cuộc đời. Chúng ta hãy tin và luôn xin Người cho ta xác tín điều ấy mãi trong cuộc đời.
Bên cạnh đó, Thiên Chúa còn muốn chúng ta cũng hãy biết noi gương Người mà đón nhận nhau mỗi khi có sự hiểu lầm hay xúc phạm nhau. Thật ra, trước mặt Chúa tất cả chúng ta đều là những tội nhân đáng thương. Hãy luôn ghi khắc điều đó để ta dễ dàng thông cảm và tha thứ cho nhau. Một ai đó đã nói: "Các cánh cửa nhà tù sẽ mãi mãi đóng lại, khi có thật nhiều người có tấm lòng bao dung, nhân hậu đón nhận những tội nhân trở về sau những lần lầm lỡ"
Do đó: Người chồng và người vợ hãy biết đón nhận và tha thứ nhau khi bạn mình lầm lỡ. Cha mẹ hãy biết đón nhận và tha thứ cho con cái khi chúng lầm lỡ. Và bạn bè cũng hãy biết đón nhận và tha thứ nhau khi bạn mình lầm lỡ.
66. Đường thành công--Lm. Vũ Đình Tường
Nhiều người chọn con đường dẫn đến thất bại ê chề nhưng lại luôn nghĩ là mình khôn ngoan chọn con đường dẫn đến thành công rực rỡ. Thực ra lằn ranh giữa thành công và thất bại khó phán đoán chính xác nên rất khó tranh biện ai đúng ai sai. Thực tế cho thấy có người chọn con đường tưởng dẫn đến thất bại ê chề nhưng lại thành công rực rỡ. Đây là một cám dỗ lớn cho các bạn trẻ muốn li khai, thoát khỏi gia đình. Nhất là những bạn mà sống trong gia đình nhưng luôn cảm thấy ra đi thì tốt hơn. Gia đình không còn là tổ ấm mà là chỗ đầy ải với bao bất mãn, khó chịu vì luật lệ gia đình chồng chéo nhau. Trong hoàn cảnh đó họ chỉ mong có cơ hội thuận tiện là sẽ thoát li, tìm một cuộc sống thảnh thơi hơn, tự do hơn.
Họ tin tưởng là cuộc sống mới đầy hứa hẹn sẽ cho họ những ngày tươi sáng. Họ tin tưởng làm được điều đó vì họ ít nhiều cũng có một số kiến thức, kinh nghiệm sống cộng với tài lanh lẹ, linh hoạt đủ để họ vào đời. Họ đâu biết cuộc đời muôn mặt, với kiến thức học vấn và kinh nghiệm gia đình là cần thiết nhưng chưa đủ để tiến thân, dấn thân trên đường đời. Những ngày đầu mới li khai gia đình họ thực sự hưởng cảm giác thoải mái, thảnh thơi. Cảm giác thoải mái thảnh thơi này chỉ tồn tại một thời gian ngắn vì thực tế cuộc sống sẽ ập đến khiến họ quay cuồng đến tối mặt mày. Đây chính là kinh nghiệm trong dụ ngôn Người Con Hoang Đàng vấp phải. Anh ta không cảm thấy vui trong khi sống trong gia đình với cha anh. Anh muốn li khai gia đình, tự chọn cuộc sống riêng cho mình. Người cha dù đau lòng cũng cắn răng, bóp bụng chia gia tài cho anh. Cha đau lòng không phải tiếc của, nhưng vì biết con sẽ gặp điều không may, gặp hoạn nạn nhưng không sao cản được.
Có tiền trong tay, tương lai mở rộng, anh ra đi bước những bước dài thênh thang, theo đuổi đìều mong ước. Những ngày đầu anh được mãn nguyện, thoả lòng ước mong. Chẳng bao lâu sau, hầu bao của anh cạn sạch lúc đó anh mới nghĩ tới vấn đề kiếm tiền để sống. Đây chính là lúc anh chạm phải thực tế cuộc sống. Bấy lâu nay sống trong nhà cha anh luôn sống trong thế giới của mơ mộng, Anh tin là ngoài kia có biết bao nhiêu điều vui thú đang đón chờ, khi được tự do, thoải mái tự lập anh sẽ hưởng tất cả những thú ăn chơi đang chờ đợi, mời gọi.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi li khai gia đình thế giới mộng mơ của anh sập tan tanh. Một thế giới mới đang đón chờ anh. Mới đây là mới với anh vì từ trước tới nay sống trong gia đình mọi sự đều được chu cấp thoả đáng, trách nhiệm cha anh gánh thay, bổn phận đã có người làm giúp. Cuộc sống li khai, tự lập giờ chính anh phải tự gánh vác. Anh nghĩ mình đã chuẩn bị đủ cho tương lai đầy hứa hẹn nhưng bây giờ anh mới biết còn nhiều vấn đề thực tế anh chưa bao giờ nghĩ tới nói chi đến chuẩn bị cho thoả đáng.
Thế giới thực làm anh thức tỉnh. Xin làm công bị từ chối. Xin ăn bị xua đuổi. May mắn có người nhận nuôi heo. Lương không đủ sống anh vẫn đói nên tự hạ ăn chung với heo. Đang từ người thành tệ hơn vượn, đời cầm thú. Vì sao? Vì anh từ chối tình thương của cha. Vì anh muốn tự lập, theo í riêng. Vì anh muốn tự mình làm chủ đời mình.
Chọn li khai, ra đi anh mất tất cả, mất sự bảo bọc của cha, từ chối thương của cha, từ chối cả quyền thừa kế gia tài và quan trọng hơn cả là cắt đứt tình cha con.
Đại hạn, mất mùa, đói khổ và xua đuổi mở mắt anh nhìn thấy tình thương của cha. Tin tưởng vào tình thương và lòng bác ái cha anh dành cho người làm công, anh mạnh dạn tiến về nhà cha. Anh không dám xin ơn làm con như xưa nhưng xin làm người làm công để được hưởng tình người, để được sống cho ra con người. Một lần nữa anh phạm sai lầm. Nhận xét và phán đoán sai về lòng nhân từ của cha anh. Nhìn thấy con, người cha chạy ra ôm con vào lòng, tha lỗi lầm và trao lại cho anh tình cha con, tình nghĩa tử rồi sau đó mở tiệc mừng. Mừng vì mối giây tình nghĩa cha con đã bị cắt nay được nối lại. Mối tình cha con đã chết nay phục sinh.
Thế giới mộng mơ của người Kitô hữu chính là thế giới chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa. Là thế giới chối bỏ tình Chúa dành cho ta. Là chọn sống theo í riêng, tin vào khả năng, kiến thức của con người. Là thự nhận mình là chúa. Dụ ngôn Người Con Hoang, từ bỏ cha mình vì đói khổ tự nguyện sống chung với heo. Từ chối sự hiện hữu và tình thương của Chúa để tự nguyện nhận mình có nguồn gốc từ muông thú.
Người cha nhân hậu kiên nhẫn chờ, đón con trở về ban làm con, làm người thừa kế nước trời.
67. Lòng thương xót
Gandhi kể rằng khi ông 15 tuổi, ông đã ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó ông rất áy náy nên quyết định thú tội với cha mình. Ông viết lên một tờ giấy những gì mình đã làm, sau đó xin cha tha thứ, và cuối cùng hứa sẽ không tái phạm nữa. Khi ấy cha ông đang bệnh phải nằm trên giường. Gandhi đến đưa tờ giấy cho cha và hồi hộp chờ Cha xét xử. Người Cha ngồi dậy, cầm tờ giấy, trong khi ông đọc thì hai dòng lệ từ đôi mắt ông chảy xuống. Gandhi cũng không cầm được nước mắt mình. Cuối cùng khi đã đọc xong, người Cha không hề nổi giận và cũng chẳng trách móc Gandhi lời nào. Ông ôm chầm lấy con và sung sướng vì con mình đã biết hối hận.
Cảm nghiệm được yêu thương ngay khi mình còn tội lỗi là một cảm nghiệm vô cùng sâu sắc đối với Gandhi. Sau này ông nói: “Chỉ có người nào đã trải qua cảm nghiệm về loại tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó thôi”.
Đó cũng là cảm nghiệm của đứa con hoang đàng trong bài Tin Mừng hôm nay. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn giúp chúng ta hiểu được lòng thương xót bao la của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta phạm tội thì Thiên Chúa vẫn yêu thương Chúng ta. Ngài không những không bớt thương mà còn thương nhiều hơn nữa. Không phải đợi chúng ta trở nên hoàn hảo thì Thiên Chúa mới thương, mà yêu thương ngay khi chúng ta còn trong tội lỗi.
Tất cả chúng ta, dù nhiều hay ít, đều là những người tội lỗi. Nhưng chính trong tội lội và qua tội lỗi mà chúng ta cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu chúng ta không bao giờ phạm tội thì chúng ta cũng không bao giờ cảm nhận được niềm vui được tha thứ. Nói thế không có nghĩa là chúng ta cứ tha hồ phạm tội. Nói như thế là để chúng ta càng hiểu được tấm lòng của Thiên Chúa.
68. Người Cha nhân hậu
Thiên Chúa luôn đối xử nhân hậu với loài người. Từ thuở ban đầu, Ngài đã tạo dựng và thông ban cho con người sự sống thần linh. Sau khi con người sa ngã, Ngài hứa ban Đấng Cứu Thế để phục hồi tình trạng nguyên thủy. Trong chương trình cứu chuộc đó, Ngài đã lập dân riêng là Israel, ban truyền lề luật yêu thương và cứu dân Israel khỏi cảnh nô lệ Ai Cập mà đưa về Đất Hứa... Nhất là Ngài đã cho Con Một mình xuống thế chuộc lại lỗi lầm cho loài người. Mặc dù loài người hay ương ngạnh nhưng Chúa lại sẵn sàng nhận làm con và đối xử hết sức quãng đại với chúng ta. Dụ ngôn người cha nhân hậu là một minh họa cho tình thương vô bờ đó.
Người cha có hai đứa con. Đứa con thứ thì bỏ nhà, bỏ cha đi xa, ăn chơi phung phí hết tiền của, trở thành kẻ làm mướn, kẻ nô lệ, thiếu ăn thiếu mặc, hèn mạc đến độ muốn được ăn đồ của heo cho đầy bụng mà người ta cũng không cho. Lúc đó, anh mới nhận ra là mình sai lầm và tự nhủ: những người làm công nhà cha mình còn được đối xử rất tử tế, còn bản thân anh bị người ta coi như đồ bỏ đi, không quý bằng heo cúi của họ. Và anh đã trở về với 1 câu nói chuẩn bị sẵn: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy". Xem ra anh trở về vì lý do cái ăn cái mặc, hơn là vì nhận ra tình thương của cha. Và anh sợ rằng cha sẽ không chấp nhận việc anh trở lại làm con, nên anh chỉ mong làm đầy tớ. Thế nhưng, khi anh trở về thì thật quá sức tưởng tượng của anh. Người cha lúc nào cũng nhớ thương anh, mong chờ anh, sẵn sàng đón nhận anh. Có lẽ người cha hằng nhắc anh trước mặt mọi người và chuẩn bị quần áo, giày, nhẫn, bê béo... để khi anh về thì có sẵn những thứ đó.
Với tình thương vô điều kiện của người cha, đứa con đi hoang đã thật sự cảm động và cảm thấy thương mến cha mình thật sự. Nhờ tình thương vô biên của cha, anh đã được cảm hoá và nhận biết tình cha đối với mình. Mặc dù anh là người tội lỗi nhưng từ lúc đó anh đã hoàn toàn biến đổi, anh cảm thấy hạnh phúc vô vàn trước tấm lòng của người cha và tình yêu xoá tan mọi lỗi lầm.
Tuy nhiên, hậu quả của việc bỏ nhà đi hoang phung phí tiền của đã là nguyên cớ gây sứt mẻ tình anh em. Khi anh trở về thì người anh cả không chấp nhận được, nhất là khi thấy cha hậu đãi em mình. Anh cảm thấy ganh tỵ và có phần bực tức: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!". Điều này cho thấy, hoá ra, bao năm qua anh ở nhà, gần gũi cha, nhưng lại không cảm nghiệm được tình cha yêu thương mình. Vì vậy, anh không thấy hạnh phúc.
Người con cả đại diện cho luật sĩ và biệt phái, kẻ xưng mình là đạo đức. Đối với anh thì điều anh cậy dựa vào là việc giữ luật nghiêm ngặt, và công cán chứ không phải cậy vào tình thương của cha, nên lúc nào anh cũng cảm thấy bực tức với em, bất bình với lòng quãng đại nhân từ của cha. Chính lúc đó, anh lấy mình làm chuẩn mực phán xét, kết án kẻ khác và xét đoán cả Thiên Chúa là cha. Anh cũng lỗi phạm đến tình thương của cha. Nhưng cha luôn kêu mời và như năn nỉ anh hãy nghĩ lại và nhận ra tình thương của cha.
69. Đôi mắt cha
Một cô bé đang ngồi trên gối mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy lòng mẹ không?
Bà mẹ đáp:
- Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem có thấy gì trong đó?
Cô bé nhướng mắt nhìn chăm chú vào đôi mắt người mẹ, rồi sung sướng kêu lên:
- Mẹ ơi! Con nhìn thấy lòng mẹ rồi, ở đó có một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ?
Trong đôi mắt của cha mẹ, con cái là tất cả. Trong đôi mắt Thiên Chúa chỉ có con người, nhất là những con người tội lỗi đáng thương. Vua Đavít đã cầu nguyện cùng Chúa: “Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở”.
Vâng, tấm lòng yêu thương khôn tả của Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu bày tỏ trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu”. Một người cha rất đỗi hiền từ, luôn tôn trọng tự do của con cái, sẵn sàng trao phần gia tài cho người con thứ. Sau khi anh ta đã “Sống phóng đãng, phung phí hết tài sản” trở về, người cha ấy cũng không trách mắng nghiêm phạt, từ con. Trái lại, khi thấy bóng dáng cậu từ xa, ông đã vội vã chạy đến ôm chầm lấy cậu hôn hít vui mừng đến chảy nước mắt.
Lòng nhân hậu, yêu thương, tha thứ đã khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang đàng, mà chỉ còn thấy trước mặt ông, trong vòng tay âu yếm, là đứa con ông hằng mòn mỏi đợi trông. Đứa con mà ông tưởng đã mất vĩnh viễn nay lại tìm thấy được. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng người con trở về. Một cuộc đón tiếp quá sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của đứa con.
Người anh đi làm về, chẳng những đã không vui mừng mà con nổi giận, trách móc cha già, khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà chung vui với ông và gặp lại đứa em “đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Ông khẳng định với cậu rằng: “Tất cả những gì của cha đều là của con”.
Đó là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu thương, quảng đại, và hay tha thứ. Một Thiên Chúa thích dùng hình phạt nhưng luôn tỏ lòng khoan dung. Một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. “Muôn ngàn đời Chúa vẫn còn tình thương”.
Chỉ tiếc một điều là người anh cả đã không chịu vào nhà. Anh không chịu vào vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào vì anh không hiểu được tấm lòng quá nhân hậu bao dung của người cha.
Hoá ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài: Anh không trái lệnh cha chỉ để tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là “em tôi” mà là “đứa con của cha kia”. Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con.
Anh chỉ nghĩ về mình, quyền lợi của mình, hạnh phúc của mình. Anh là người đại tiện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.
Vậy cả hai người con đều phải quay trở về với cha, cả hai đều phải bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái tim cha: Nhân hậu, bao dung, tha thứ và tràn đầy yêu thương.
Trở về với cha là giang tay ôm lấy người em lầm lỡ.
Trở về với cha cũng là về với anh em, con cùng một cha.
Trở về với cha để thấy mình là tất cả, trong đôi mắt cha.
70. Được yêu
Chắc hẳn dụ ngôn đứa con hoang đàng là nổi tiếng nhất và được yêu thích nhất trong các dụ ngôn của Đức Giêsu. Tuy nhiên, một số người vẫn cứ cho rằng đó là một câu chuyện bất công. Họ cảm thấy tiếc cho người con cả, họ nhận thấy là anh ta đã bị cư xử bất công, họ tin rằng người con thứ ra đi vì đã phạm tội giết người, vì thế, anh ta cần phải bị trừng phạt, nên dạy cho anh ta một bài học. Chúng ta hãy nhận xét xem thái độ đó có đúng đắn hay không.
Người con thứ đã được xác định là một tay ăn chơi trác táng. Anh ta đã đi đến một thành phố, mà anh ta có thể thoả mãn tất cả mọi lạc thú tại đó. Nhưng khi đã hết nhẵn tiền, những ánh đèn sáng trưng đều lu mờ, và tất cả những cánh cửa đều đóng lại không cho anh vào, thì anh mới cảm thấy hối tiếc cho bản thân mình. Nỗi đau của bản thân khiến anh nhận ra được nỗi đau mà anh đã gây ra cho người cha của anh. Do đó, anh tự nhủ “Tôi sẽ trở về với cha tôi, và xin lỗi người”. Đây là một quyết định can đảm, và cần phải có nhiều can đảm để thực hiện quyết định này. Thật không dễ dàng nói lời “xin lỗi”, ngay cả đối với một vấn đề tầm thường.
Cuộc hành trình trở về thật buồn bã, cô độc và đáng sợ. Thật dễ dàng trở về nhà, khi bạn là một anh hùng, với đầy chiến công và vinh quang. Nhưng đứa con hoang đàng không hề có một chiến công nào để đem về cho cha anh, không hề có thành quả nào, để nhờ đó, anh xứng đáng được khen ngợi, đón tiếp và yêu thương. Anh đang trở về nhà, với đôi bàn tay trống rỗng. Tệ hơn nữa, anh đang trở về nhà, lòng trĩu nặng xấu hổ và nhục nhã.
Tất cả mọi sự đều ở ngoài tầm tay của anh. Giả thử cha anh không chấp nhận cho anh trở về. Vậy thì anh sẽ làm gì đây? Anh xứng đáng bị trừng phạt:
- Anh vẫn biết điều đó, và thậm chí anh còn yêu cầu điều đó nữa. Tuy nhiên, sự trừng phạt là điều cuối cùng mà anh cần đến. Trong bất cứ trường hợp nào, anh đã từng bị trừng phạt rồi. Anh không hề có lúc nào vui vẻ. Có lẽ anh đã có lạc thú, nhưng chắc chắn anh không hề có niềm vui. Anh đã đau khổ rất nhiều.
- Đói khát, cô độc, xuống tinh thần, nỗi đau đớn vì hối hận, cảm giác bị phản bội. Mỗi tội lỗi của anh đều mang theo nó thứ hình phạt mau lẹ, chắc chắn. Phạm tội là đau khổ. Anh không cần phải chịu đựng thêm hình phạt nào nữa.
Anh cũng không cần phải được dạy cho một bài học. Anh đã được học hỏi một bài học:
- Một điều gì đó còn quan trọng hơn nhiều. Anh đã học hỏi một số sự thật đau lòng về bản thân mình, về những người khác, và về cuộc đời. Anh đã ăn một thứ trái cấm, và thay vì được thoả mãn, trái cấm đó đã để lại cho anh một hương vị cay đắng trong miệng. Nếu anh bị khước từ, thì thái độ này sẽ huỷ hoại anh.
Điều gì đã xảy ra? Khi người cha nhìn thấy người con đã bị mất đi của ông đang đang tiến về phía ông, ông liền chạnh lòng thương, và một phút sau đó, cha con đã ôm chầm lấy nhau. Người cha đã không chỉ chấp nhận cho anh trở về, mà ông còn đón tiếp anh nữa. Tất cả tội lỗi của anh đều được tha thứ.
Phát hiện vĩ đại nhất mà người con thứ đã nhận ra, đó là anh vẫn được yêu thương, trong tình trạng tội lỗi của anh. Người cha không bao giờ ngừng yêu thương anh. Trong tấm lòng nhân hậu của người cha, anh luôn được yêu thương, đó không những là một điều tốt đẹp, nhưng khi vẫn được yêu thương ngay trong tình trạng tội lội, thì quả thật đó là một cảm nghiệm tuyệt vời. Loại tình yêu như vậy giống như một làn gió mát thổi vào ngọn lửa gây chết chóc, hoặc cơn mưa đổ xuống vùng đất nứt nẻ. Đây chính là ân sủng. những ai đã từng cảm nghiệm được loại tình yêu này, sẽ nhận biết được nét gì đó về tấm lòng của Thiên Chúa.
Sự tha thứ của Thiên Chúa không phải là sự tha thứ lạnh lùng, nửa vời, nhưng là sự tha thứ nồng ấm và quảng đại. Thiên Chúa không chỉ tha thứ cho chúng ta; mà Người còn yêu thương chúng ta, và để cho chúng ta nhận biết được tình yêu đó. Câu chuyện này không phải là cho phép chúng ta cứ phạm tội, nhưng chứng tỏ rằng do bản tính yếu đuối và gian ác của con người, chúng ta đã phạm tội, nhưng sau đó, chúng ta có thể vượt qua quá khứ của mình, vẫn có thể làm lại từ đầu. Đây là bài học vĩ đại của dụ ngôn này.
“Giấy phút người còn hoang đàng quỳ gối và khóc lóc, anh ta đã biến cảnh lãng phí tài sản của mình bên những cô gái điếm, cảnh chăn heo và thèm khát những thức ăn của heo, trở thành những giây phút đẹp đẽ và thánh thiện trong cuộc đời của mình. Hầu hết mọi người khó mà thấu hiểu được ý tưởng đó. Tôi đáng nói rằng người ta phải chịu cảnh tù tội, thì mới thấu hiểu được điều đó. Nếu như vậy,thì có thể thời gian sống trong tù thật đáng giá”.
71. Trở về
Lời Chúa mà thánh Luca trình bày cho chúng ta đó là câu chuyện người con trai hoang đàng trở về, được người cha nhân hậu tha thứ và đón nhận cách ân cần trong tình yêu thương.Tình yêu thương của người cha được diễn tả qua việc chấp nhận đề nghị của người con về việc chia gia tài. Và khi anh ta trở thành trắng tay, đánh mất danh dự và nhân phẩm của con người, đánh mất địa vị của một người con... Khi anh ta quay về với "thân tàn ma dại", chính người cha đã ân cần đón tiếp anh."Ông chạy ra", hành động này cho thấy người cha luôn chờ đợi, mong ngóng ngày con trở về. Nhất là khi người cha biết rằng con mình sống trong cảnh đói kém, không có nơi cư ngụ, người cha nghẹn ngào xót xa. Ông không muốn chờ đợi giây phút người con vào tới nhà gặp cha để nói lời xin lỗi. Ông vừa thấy con từ đàng xa, ông chạy tới mà ôm hôn con mình.
Người cha ôm lấy con mình như muốn ôm hết tất cả vết thương nỗi niềm đau xót và cả sự hối hận của người con vào lòng mình, điều hay là ông không hề nói một lời trách móc nào, nhưng trong cánh tay ôm choàng này, chắc chắn người con sẽ cảm nhận tất cả niềm hạnh phúc và tình yêu thương của cha đã dành cho anh. Chính lúc này đây tình yêu thương to lớn của người cha thoả lấp bao lỗi lầm của người con. Tôi tin chắc rằng cử chỉ của người cha này đánh động vào tâm hồn mỗi người chúng ta.
Tình thương đó được cụ thể hơn nữa qua hành động trao ban. Người cha đó đã cởi bỏ chiếc áo cũ của kiếp chăn heo, để mặc cho anh ta chiếc áo mới, chiếc áo con của ông chủ. Người cha đã phục hồi tư cách làm con khi trao cho anh ta chiếc nhẫn, dấu chỉ của người quý phái. Khi ông ta xỏ giày vào chân người con, như muốn khẳng định rằng, đây đích thực là con ông chủ và cũng là người trên, vì chỉ có chủ mới được mang giày mà thôi. Và sau cùng ông cho giết bê béo ăn mừng...
Hình ảnh người cha trên đây chính là phát hoạ hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha luôn yêu thương con cái, tình thương đó luôn diễn tả qua hành động tha thứ cho chúng ta. Nhiều lần trong đời sống chúng ta cũng đi hoang bằng cách chúng ta phạm tội chống lại Thiên Chúa, xúc phạm đến tha nhân, và nhất là chúng ta tự làm những điều xấu huỷ hoại chính nhân phẩm của mình... Nhưng Thiên Chúa luôn yêu thương và chờ đợi chúng ta từng giây phút trở về với Ngài. Chúa không hề yêu thích tội lỗi của chúng ta, nhưng Ngài luôn yêu thương những người tội lỗi. Để như người cha trong Tin Mừng, Chúa muốn ôm choàng lấy chúng ta, và muốn chúng ta cảm nếm được tình yêu và lòng thương xót của Chúa trao ban.Tình thương đó ngày nay Thiên Chúa thể hiện cách đặc biệt qua Bí Tích Hoà Giải. Bí Tích Thiên Chúa dùng để thể hiện tình yêu và sự tha thứ cho con người. Nơi Bí Tích Hoà Giải, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa là người Cha giàu lòng thương xót.
Chính lúc chúng ta đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, đó là lúc chúng ta được mời gọi sống tốt hơn. Mùa chay là dịp thuận tiện để mỗi người chúng ta nhìn lại chính đời sống của mình để trở về với Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Nếu chúng ta ý thức và mau mắn trở về với Thiên Chúa qua Bí Tích Hoà Giải thì mùa chay năm nay sẽ không qua đi một cách vô vị, nhưng sẽ mang lại cho chúng ta rất nhiều ơn lành từ Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Amen.
72. Bộc lộ
Chúng ta hãy nhìn vào dụ ngôn của Đức Giêsu từ quan điểm của tâm hồn.
Một người cha có hai người con trai. Mặc dù người con cả vâng phục và chu toàn bổn phận, nhưng anh lại khá nguyên tắc và xa cách. Anh ta là một con người lạnh lùng. Trái ngược, người con thứ nồng nàn và nhiều tình cảm. Tuy nhiên, trong con người của anh ta, lại có tính cách hoang đàng và vô trách nhiệm. Anh ta cứ nhất quyết làm theo ý riêng của mình, bất chấp người nào khác có thể suy nghĩ ra sao. Một ngày kia, anh ta đã ích kỷ đòi được chia phần gia tài thừa kế, và sau khi đã nhận được, anh ta liền bỏ đi phương xa.
Tại đó, anh ta đã sống buông thả một cách ngu xuẩn và bất chấp mọi sự, cho những thú tính thấp hèn nhất nơi con người của anh. Nhưng khi tiền bạc đã cạn kiệt, anh mới tự nhận thấy mình không còn bạn bè hoặc người nào giúp đỡ.
Đột nhiên, anh cảm thấy trống rỗng trong tâm hồn. Thế rồi sau khi đã nhận ra những việc mình làm, lòng anh tràn ngập nỗi cay đắng và căm ghét bản thân mình. Tuy nhiên. Nỗi đau của bản thân đã giúp cho anh nhận ra được nỗi đau mà anh đã gây ra cho những người khác. Anh đã làm tan nát cõi lòng của cha mẹ anh.
Thế là anh quyết định quay trở về nhà. Anh ra đi với đôi bàn tay trống rỗng. Thứ duy nhất mà anh có được, đó là một trái tim khiêm tốn và hối lỗi. Và cha của anh vẫn đang chờ đợi anh. Vì quá lo âu, người cha không bao giờ rời khỏi nhà, bởi vì ông cứ mãi bận tâm đến người con trai hoang đàng của mình. Vì thế, ngay khi nhìn thấy anh trở về, ông mới hoàn hồn. Và cuối cùng, hai cha con đã ôm chầm lấy nhau.
Nhưng sau đó, một điều đáng ngạc nhiên đã xảy ra. Khi đến gặp anh cả, người em chỉ phát hiện ra rằng người anh cả của anh không muốn nhận biết anh. Không hề có chỗ nào cho anh trong tâm hồn của người anh cả. Thay vì vui mừng khi thấy người em trai của mình trở về an toàn, thì tâm hồn của người anh cả lại tràn đầy nỗi cay đắng và hằn học. Anh ta đã tìm cách chiếm được tình cảm của người cha thông qua bổn phận hơn là thông qua tình yêu. Thật đáng buồn, dường như thể anh ta chưa bao giờ đi vào tâm hồn của người cha, bởi vì nếu đã đi vào đó được rồi, thì tâm hồn của anh ta sẽ được mở rộng ra. Nhưng thay vì được như vậy, thì tâm hồn của anh ta lại vẫn cứ nhỏ bé, hẹp hòi, lạnh lẽo và không muốn đón tiếp ai.
Câu chuyện về đứa con hoang đàng là một câu chuyện về tâm hồn: tâm hồn ích kỷ và tâm hồn quảng đại, tâm hồn khép kín và tâm hồn cởi mở, tâm hồn lạnh lùng và tâm hồn nồng nàn, tâm hồn tan nát và tâm hồn vui mừng, tâm hồn không biết hối cải và tâm hồn biết ăn năn, tâm hồn không biết tha thứ và tâm hồn hay tha thứ, tâm hồn miễn cưỡng và tâm hồn biết ơn.
Câu chuyện này mặc khải cho chúng ta quá nhiều về tính cách thất thường của tâm hồn con người. Khi đã nói và làm xong tất cả mọi sự rồi, thì chính tâm hồn mới là đáng kể. Nhưng người ta có thể tóm tắt điều gì về tâm hồn? Tâm hồn là cái gì sâu thẳm nơi bản thân mình. Đó chính là con người thật của tôi. Cảnh tối tăm của tâm hồn là đêm đen tối nhất so với tất cả. Một tâm hồn nặng trĩu là gánh nặng chán chường nhất. Một tâm hồn tan nát chính là vết thương sâu xa nhất.
Nhưng dụ ngôn trên bộc lộ tính cách kiên định nơi tâm hồn của Thiên Chúa nhiều đến thế nào. Tâm hồn của Thiên Chúa không toả ra sức nóng và hơi lạnh. Thiên Chúa không bao giờ khép lòng lại với bất cứ người con nào của Người. Bất chấp họ có thể rời bỏ mái nhà để đi xa đến đâu, bất chấp họ làm gì, nếu họ quay trở về, điều duy nhất mà họ có thể tin chắc, đó là sự đón nhận nồng ấm và rộng lượng.
73. Trở về
"Chúng ta phải ăn mừng em con, vì nó đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy..." (Lc 15, 32)
Người ta gọi Phúc âm thánh Luca, là Phúc âm của Lòng Thương xót; điều này đúng lắm vì chủ đề của quyển sách chính là trình bày Tình thương và Lòng Thương xót vô biên của Thiên Chúa. Dụ ngôn người con trai hoang đàng được đọc trong chúa nhật hôm nay, chỉ một mình thánh Luca ghi lại, là một dụ ngôn ghi lại hình ảnh đẹp nhất về lòng Thương xót này...
* Xin mời anh chị em cùng suy niệm.
a. người con hoang đàng: anh này là đứa con bất hiếu, bất kính, tội lỗi, ích kỷ; bất hiếu vì cha còn sống mà dám đòi chia gia tài; bất kính vì dám lìa bỏ gia đình, quê cha đất tổ linh thiêng, dám chà đạp lên giá trị đạo đức của gia tộc; tội lỗi vì lúc đói quá, dám ăn cả thịt heo, con vật ô uế, người Do thái không dám nói tới, chỉ có dân ngoại ăn mà thôi; ích kỷ vì chỉ nghĩ đến tiền của, khoái lạc, bản thân mình; chỉ khi đói mới nghĩ đến chuyện trở về...
Người con cả: được coi là mẫu mực, đạo đức, thực chất chỉ là con người giả hình. Anh tự cho là mình ngay chính, không nhận ra lòng yêu thương nhân từ của cha đối với người em. Em của anh ta là hình ảnh người tội lỗi, nhưng anh lại là hình ảnh người ngay chính cứng lòng, tự mãn. Nếu đã nói anh là người cứng lòng, thì việc trở về của anh xem ra rất khó khăn....
Người cha nhân hậu: hình ảnh hai người con tội lỗi, xấu xa bao nhiêu, hình ảnh của người cha ở đây lại đầy bao dung, yêu thương bấy nhiêu. Tình yêu của người cha bao dung nhân hậu, dành cho hai con hư hỏng trong hai cách thức khác nhau. Tình yêu này đã không làm họ cảm thấy nhục nhã khi phạm tội; trái lại còn giúp họ hoán cải và tìm lại được giá trị nhân phẩm của mình. Đây là một mạc khải rất đặc biệt của Chúa Giêsu về Chúa Cha...
b. Hai điểm suy niệm về "Tự do":
1. Tự do là tặng phẩm vô giá Thiên Chúa ban cho con người, nhưng nó lại là con dao hai lưỡi, có thể đem lại hạnh phúc cho, đồng thời nó cũng đủ khả năng giết chết con người, nếu dùng nó sai mục đích. Nguyên tổ loài người trong vườn địa đàng đã dùng sai tự do, nên họ và con cháu phải chết và bị phạt đời đời. Thánh Phêrô, thánh Phaolô, Maria Magdala, Augustinô, Charles de Foucault, dù họ có tội, nhưng họ đã biết ăn năn, nên họ đã thoát khỏi tối tăm, trở về vùng tự do, ánh sáng: chính họ cuối cùng đã sử dụng đúng tự do của mình. Người con trai hoang đàng trong dụ ngôn hôm nay, dù anh có tội, cuối cùng anh cũng biết dùng đúng tự do của anh, để trở về trong vòng tay nhân ái của người cha...
2. lòng nhân hậu vô bờ của người cha: dụ ngôn này còm được gọi dụ ngôn Người Cha nhân hậu. Chúng ta thử nghĩ: nếu người con hoang khi trở về, gặp người cha có tính hẹp hòi như con cả, chắc kể như anh ta "đi đứt", vì thế dụ ngôn này vừa nói lòng khoan dung vô bờ của Thiên Chúa trước sai lầm và tội lỗi của con người, đồng thời cũng nói lên sự hẹp hòi, ích kỷ của một số người Kitô hữu tự cho mình là đạo đức và đầy đủ bổn phận; trong khi thực chất họ chẳng hiểu và cũng chẳng sống cho Thiên Chúa.
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
* nhận ra tội lỗi mình, người con thứ thấy chỉ còn con đường quay trở về nhà, về với cha, cầu mong ơn tha thứ. Anh đã đúng sự tự do của mình. Là kitô hữu, có khi nào ta thấy mình cần quay trở về với Chúa như người con thứ này?
* Lòng tự mãn của người con cả làm cho anh ta ra hẹp hòi, ích kỹ, quá khác xa với lòng quảng đại vô bờ của người cha. Tội của anh không phải là nhẹ: đó là tội của người công chính tự mãn, cứng lòng. Còn ta, ta là hạng nào đây?
74. Trở về trong tình yêu
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa không có ngôn từ nào có thể diễn tả. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người. Ngài yêu thương từng con người như thể trên đời chỉ có duy nhất một người vậy. Tình yêu ấy thể hiện cách rõ nhất khi người lỗi phạm thì Ngài luôn sẵn sàng thứ tha. Đứa con lánh xa thì Ngài luôn trông ngóng nó quay về. Dụ ngôn người cha nhân hậu hôm nay đã khắc hoạ hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Nhìn vào sự hư hỏng, phóng đãng của những đứa con thứ trong dụ ngôn, hình ảnh người cha nhân hậu càng đáng làm ta nể phục. Với tuổi trẻ ham chơi, người con thứ sớm muốn được sở hữu một tài sản cho riêng mình. Nó đã tự ý đề nghị người cha chia gia tài cho nó. Theo tập tục dân Israel, người cha không được chia gia tài theo ý thích của mình nhưng luật có những quy định rõ ràng. Người trưởng nam được hưởng 2 phần sản nghiệp, nghĩa là gấp đôi phần được chia cho những người con khác. Ơ đây chỉ có 2 người con nên người anh cả được hưởng 2/3 còn người con thứ là 1/3.
Việc người cha chia gia tài khi ông còn sống không có gì lạ, bởi người cha có thể chia gia tài cho các con khi ông không muốn hoạt động kinh doanh nữa. Tuy nhiên taì sản các con chỉ được hưởng khi người cha qua đời. Điều đáng nói ở đây là chính đứa con thứ đã lên tiếng đề nghị trước. Lời anh đề nghị với cha có ý nói rằng: Cha hãy cho tôi gia tài ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được hưởng. Tin Mừng không nói người cha trả lời ra sao thì đứa con thứ đã tự lấy phần của mình rồi ra đi. Người cha không nói tiếng nào, chỉ biết bằng lòng trong đau khổ vì biết răng con mình rồi sẽ hư thân.
Thế nhưng trong dụ ngôn, Thiên Chúa vẫn luôn đặt hy vọng nơi con người tội lỗi. Một lời khen tặng duy nhất và lớn nhất của Chúa Giêsu dành cho đứa con thứ khi Ngài nói: " Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhũ: Thôi ta đứng lên đi về cùng cha tôi ". Đây là sự tỉnh ngộ của một người khi biết trở về với chính mình. Điều này rất quan trọng, vì chính sự trở về này mà số phận người tội lỗi được thay đổi. Con người còn chống nghịch Thiên Chúa thì con người không thực sự là chính mình. Con người thật sự là chính mình khi con người đang trên đường trở về nhà Cha.
Một điều hết sức lạ kỳ nơi Chúa Giêsu và cũng là sự an ủi cho chúng ta là Thiên Chúa không bao giờ nghĩ rằng con người là hư hỏng hoàn toàn. Ngài luôn đặt tin tưởng nơi con người một sự trở về. Đó cũng là tâm trạng của người Cha trong dụ ngôn. Ngày ngày người cha cứ đứng chờ đứa con nơi đầu ngõ. Chờ để đón nhận, chờ để tha thứ cho con. Sự tha thứ của người cha này không một điều kiện, không một lời trách móc, ngăm đe.
Người con thứ trở về là niềm vui lớn cho người cha. Dù Kinh thánh không đề cập đến nỗi đau của người cha, song chúng ta hiểu ông ây rất đau khổ lắm. Kinh thánh cũng không nói thời gian đứa con xa nhà là bao lâu, nhưng ta hiểu người cha phải nhiều phút giây trăn trở lo lắng cho người con. Khi con trở về niềm vui đã khoả lấp mọi đau buồn, chỉ biết chạy ra ôm chầm lấy con.
Người con cả, bao năm sống trong nhà cha mà anh sống như người ở ngoài vậy. Anh là đứa con cứng nhắc và hẹp hòi. Anh đã nổi giận với cha, không chịu ăn mừng khi người em trở về sau những ngày phóng đảng. Thế mới hiểu ra, trước giờ anh hầu hạ cha không mang tâm tình của người con nhưng mang tâm tình của người giúp việc mong được trả lương. Cách " hầu hạ " cha như thế anh đã đánh mất diễm phúc đích thực là hằng ngày được sống bên cạnh cha và được thừa hưởng tất cả những gì là của cha. Anh chỉ biết vâng nghe người cha làm việc trong bổn phận mà quên đi điều mình phải làm tất cả trong yêu thương. Anh đã sống gần cha mà không nhận ra tình thương của cha. Thiết nghĩ anh là đứa con tuy không đi xa nhưng cần phải trở về.
Đời sống của mỗi người có lẽ nhiều lần đã bỏ Chuá quá xa đến nỗi không còn biết đâu là lối để quay về. Những lún chìm quá nặng nề trong tội lỗi, những nghi ngờ trước tình Chúa yêu thương khiến ta không dám quay bước trở về. Ta nên vững tin rằng, Thiên Chúa ngày ngày luôn đợi chờ ta và sẵn sàng đón nhận, ăn mừng khi ta biết quay trở về.
75. Người anh cả
Dụ ngôn người con hoang đàng hay còn được gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu là một trong những trang Phúc âm lôi cuốn nhất được thánh sử Luca ghi lại cách sinh động. Mặc dù dụ ngôn nêu bật lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân biết sám hối trở về. Nhưng có một nhân vật làm cho chúng ta lưu ý, đó là người anh cả. Người anh cả trong dụ ngôn Chúa Giêsu ám chỉ đến ai đây? Đồng thời, cũng qua người anh cả, phải chăng Chúa Giêsu muốn cảnh tỉnh thái độ sống của người Kitô hữu chúng ta hôm nay?
Khi được biết người em trở về và cha anh đã giết bê béo ăn mừng anh liền nổi giận và không vào nhà. Người cha đã mời anh vào chung vui với ông thì anh ta kêu trách và lên án người em: “Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó”.
Trước hết, người anh cả nói về bản thân mình, anh chứng tỏ lòng trung thành đối với cha: siêng năng, cần mẫn, chăm chỉ làm việc. Anh tự cho mình là người hiếu thảo, vâng phục cha không hề trái lệnh, không ăn chơi, không bỏ nhà đi hoang. Nhưng những lời anh dùng kể công với cha là những lời đầy ghen tức biện hộ cho chính mình. Anh tức giận vì thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm. Người cha bao dung đến độ bất công đối với anh khi đón nhận và vui mừng khi người em trở về. Những lời than phiền đó làm lộ rõ khoảng cách giữa anh đối với cha và người em. Anh đã sống gần cha mà tâm hồn lại khác hẳn người cha. Anh thiếu tâm tình của một người con và một người anh: từ chối em mình và không muốn chia sẻ niềm vui của cha. Vì đâu mà anh sống thiếu tình thương coi vật chất trọng hơn tình nghĩa? Thưa, chỉ vì anh không hiểu được tình cha, không biết sống như một người con. Anh chỉ biết những bổn phận lạnh lùng nên anh so đo tính toán. Anh tự biến mình thành một kẻ làm thuê, nghĩ mình phải được trả công, biến mình thành nô lệ đối với ông chủ – không còn tình nghĩa cha con, không còn tương quan huynh đệ. Từ đó, anh nhìn cả hai người như xa lạ với mình. Một cái nhìn khinh bỉ người em tội lỗi và nhìn người cha như một ông chủ bất công. Anh trở thành người xa lạ chính căn nhà của mình. Sự hiệp thông trong gia đình đã biến mất.
Đã đành người con thứ khước từ tổ ấm gia đình ra đi tìm hạnh phúc nơi vùng đất lạ bị hư hỏng. Nhưng ngược lại, người anh cả ở nhà cũng ra hư hỏng luôn. Vì bên ngoài thì anh làm mọi chuyện mà một người con tốt phải làm, nhưng bên trong anh thật sự xa cách người cha. Tuy nhiên việc hư hỏng của người anh cả khó nhận ra hơn. Dù sao anh luôn trung thành vâng phục, làm việc khổ nhọc, mọi người xem anh như là người con gương mẫu không lỗi lầm. Nhưng khi đối diện với niềm vui của cha, thấy người em trở về và được cha vui mừng đón tiếp thì con người thật của anh đã để lộ chân tướng của một người kiêu ngạo, ích kỷ, ganh ghét… Những điều mà lâu nay được che đậy.
Chúa Giêsu kể dụ ngôn người con hoang đàng trở về nhưng điểm nhắm của Ngài là người con cả, hiện thân của những người Biệt phái và Luật sĩ. Những người kêu trách Chúa Giêsu về thái độ của Ngài đối với những người thu thuế và tội lỗi. Ngài chẳng những đón tiếp mà còn cùng ngồi ăn uống với họ. Điều này đã làm cho những người Biệt phái tỏ vẻ bất mãn khó chịu. Một vị tiên tri như Ngài mà lại tiếp đón những hạng người thu thuế tội lỗi như vậy là điều không thể chấp nhận được. Đối với họ, hành động của Chúa Giêsu đi ngược lại luật lệ Do thái.
Những người Biệt phái và Luật sĩ luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, tuân giữ tỉ mỉ, nghiêm ngặt lề luật của Thiên Chúa, như vậy họ thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa xem ra mắc nợ họ và họ nghĩ rằng mình có quyền đòi hỏi. Dưới con mắt của họ, những người thu thuế là những nhân viên làm việc cho đế quốc Rôma, làm tay sai cho ngoại bang đó là hạng người đáng ghét. Còn những người tội lỗi là phường đáng khinh bỉ, họ không muốn liên hệ vì sợ dơ bẩn ô uế.
Vì mang hình thức vụ luật nghĩa là giữ luật vì luật, với tinh thần cứng nhắc và giả hình, họ không cảm nhận được tình yêu, lòng thương xót của Thiên Chúa nên họ cũng không nhận ra được tha nhân là anh em mình. Ngược lại với thái độ kỳ thị phân biệt đối xử của Biệt phái, Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông và xót thương những người thu thuế và tội lỗi, rộng tay đón tiếp và đồng bàn với họ. Ngài mời gọi họ sám hối và tha thứ tội lỗi cho họ. Quả thực, Đức Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa, Ngài đến trần gian để đem ơn cứu độ cho tất cả mọi người không trừ một ai, nhất là những người bị kỳ thị bỏ rơi, những người bị xã hội Do thái đương thời loại ra khước từ.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn trả lời cho những người Biệt phái và Luật sĩ thấy rằng: Thiên Chúa yêu thương hết mọi người và đồng thời mời gọi họ chung niềm vui với Thiên Chúa và hãy có một tâm hồn quảng đại bao dung như Thiên Chúa trong việc tiếp đón các tội nhân ăn năn trở lại.
Quả thực, dụ ngôn nhằm trả lời cho người Biệt phái và Luật sĩ nhưng cũng không phải là không liên hệ đến người Kitô hữu chúng ta. Dụ ngôn nhắc người Kitô hữu nhớ rằng: người ta không thể phục vụ Thiên Chúa đúng ý Ngài nếu không yêu mến Ngài và không thông hiệp vào tình yêu của Ngài đối với anh chị em, cho dù những người này là tội nhân. Vì thế, làm sao chúng ta có thể xưng mình là môn đệ Đức Kitô nếu chúng ta khinh bỉ, xa lánh những người đang gặp cơn hoạn nạn do tội lỗi?
Cũng như những người Biệt phái và Luật sĩ thời Chúa Giêsu, nhiều lúc chúng ta thường tự cho mình là những người ngay chính nên ta dễ dàng phê bình, chỉ trích, khinh bỉ và lên án những ai sa ngã, tội lỗi, nhất là những người mang những lỗi lầm công khai như: những người mắc bệnh Sida, nghiện ngập ma tuý, rượu chè, trộm cắp, ngoại tình, những người sa cơ lỡ bước… Vì thế để hoá giải và sửa chữa những thành kiến, những thái độ trên chắc hẳn chúng ta cần có cái nhìn cảm thông, những lời nói an ủi khích lệ, những bàn tay đỡ nâng để giúp họ vượt lên khỏi vũng bùn tội lỗi, để họ can đảm trỗi dậy trở về đón nhận hồng ân tha thứ của Thiên Chúa.
Dụ ngôn người con hoang đàng làm nổi bật trái tim của người cha: một trái tim nhân hậu, bao dung tha thứ và tràn đầy yêu thương. Nhưng đồng thời cũng đưa ra lời cảnh tỉnh về thái độ sống của những người Kitô hữu chúng ta.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta dù là con thứ hay con cả cũng cần trở về với cha để nhận được ơn tha thứ, để thực sự là con của cha. Trở về với cha là dang rộng tay đón lấy người em lầm lỡ. Không còn là thằng con của cha nữa mà là em của con. Trở về với cha là chia sẻ niềm vui với cha, nối kết tình huynh đệ, yêu thương anh em một nhà.
Ước gì khi tham dự bàn tiệc Thánh Thể, khi ăn cùng một tấm bánh và uống cùng một chén, chúng ta được hiệp nhất nên một trong yêu thương của những người anh em một cha trên trời.
76. Thiên Chúa, Đấng vô cùng nhân từ
Thiên Chúa luôn làm những điều kỳ diệu cho người Do Thái và cho tất cả mọi người. Với Đức Giêsu, người ta biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương và vô cùng nhân từ.
Thiên Chúa đã đưa dân vào đất hứa
Thiên Chúa đã đưa dân Do Thái khỏi Ai-cập, nuôi họ bằng manna, dẫn họ vào đất Ngài đã hứa với cha ông họ. So sánh dân Do Thái và các dân tộc khác, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa rất ưu đãi dân riêng của Ngài.
Tại sao Ngài lại ưu đãi dân Do Thái mà đánh phạt dân Ai-cập? Tại sao Thiên Chúa lại giết các con đầu lòng của người Ai-cập? Tại sao Thiên Chúa lại để những con trai của người Do Thái bị thả trôi sông chết khi Ngài nói Ngài yêu thương họ? Tại sao Thiên Chúa mới nhập thể đã gây cớ để những hài nhi ở Bêlem bị Hêrôđê giết? Hành vi đánh phạt dân Ai-cập, cũng nhằm để dân Ai-cập biết về Thiên Chúa hơn. Những người bị tru diệt nơi biển đỏ, bởi tội ngoan cố của Pharaô không chịu để dân Do Thái ra đi khi Thiên Chúa đã dùng Môsê và Aaron bày tỏ quyền năng và ý muốn của Thiên Chúa. Các hài nhi ở Bêlem được vinh dự làm chứng cho Ngôi Lời nhập thể. Tất cả đều là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang can thiệp trong dòng lịch sử.
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, kể cả người trong cuộc “bị nạn”. Nếu biết nhìn, người ta có thể nhận ra tình yêu Thiên Chúa hiện diện trong mọi hoàn cảnh.
Con người mới trong Đức Kitô
Thiên Chúa đã làm mới tất cả nhờ Đức Giêsu, Con của Ngài. Thiên Chúa làm mới con người liên tục, đặc biệt qua hành vi tha thứ và ban ơn thánh hoá cho con người, khi tội nhân trở lại với Ngài.
Ơn thánh hoá, làm con người giao hoà với Thiên Chúa, trở nên nghĩa thiết với Thiên Chúa, cũng ảnh hưởng trên cả thân xác người, khiến con người có cái nhìn và hành xử độ lượng như Thiên Chúa.
Thiên Chúa như người cha nhân từ
Người con thứ có tội với Cha và với anh mình, vì đã phung phí tài sản do công lao khó nhọc của người Cha. Người con thứ cũng đã xúc phạm Cha mình khi coi việc ở bên Cha là bất hạnh. Việc ra đi gây buồn phiền đau khổ cho người Cha. Tội của người con trưởng nặng không kém, vì đã từ khước không muốn nhận em mình khi người em thống hối trở về. Có lẽ người con trưởng đã coi tiền của trọng hơn em mình. Người con trưởng ở lại bên Cha, chưa chắc đã vì yêu Cha cho bằng sợ một cái gì đó mà không dám ra đi. Người con trưởng sống bên người Cha, mà không có thái độ của một người con nhưng của một người làm công.
Thiên Chúa như người Cha nhân từ, luôn tựa cửa chờ con người trở lại với Ngài. Ngài cũng đối xử với con người, như người Cha năn nỉ người con trưởng hãy chấp nhận em mình, và xin người con trưởng hãy sống trong tâm tình của người con “những gì của Cha đều là của con”.
Thái độ của người con thứ và con trưởng cũng như hình ảnh của người cha trong dụ ngôn, giúp con người hiểu biết về chính mình và về Thiên Chúa hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Lời Chúa hôm nay cho bạn thấy Thiên Chúa là ai?
2. Nếu Ngôi Lời Thiên Chúa không nhập thể, theo bạn, con người hiểu Thiên Chúa là ai? (Các tôn giáo khác hiểu gì về Thiên Chúa?)
3. Theo bạn, tại sao Thiên Chúa lại tôn trọng tự do con người đến độ như vậy? (Con người có thể không vâng phục, chống lại Thiên Chúa).
4. Những người bị tai nạn nguyền rủa Thiên Chúa, theo bạn, họ có đáng trách không? Tại sao?
77. Sám hối là trở về--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu thường quan tâm, chăm sóc, gần gũi những người tội lỗi. Nhóm Pharisiêu và Kinh sư trách móc, xầm xì, phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi lẽ những kẻ tội lỗi là hạng vất đi. Nhưng đối với Chúa, người tội lỗi là người cần được yêu thương nâng đỡ hơn. Chúa đã dùng những dụ ngôn để trả lời những thắc mắc của họ.
Ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng bạc mất, người cha nhân hậu, trình bày đề tài: Thiên Chúa tình yêu luôn tìm kiếm người tội lỗi. Một con chiên quý giá vô ngần đối với mục tử. Một đồng xu rất quý giá đối với người phụ nữ. Một người con quá quý giá đối với người cha nhân từ. Cũng vậy, một người tội lỗi cũng đáng giá như thế ấy đối với Thiên Chúa.
Ba dụ ngôn đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó, Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Thiên Chúa rất đỗi vui mừng.
Tin Mừng hôm nay kể về dụ ngôn thứ ba: “Người cha nhân hậu”. Nội dung câu chuyện đều hướng đến tình cha “ấm áp như vầng thái dương”, cao vời vợi và thật xúc động ân tình của cha.
Đại văn hào người Anh, Charles Dickens, xem dụ ngôn “Người cha nhân hậu” là câu chuyện hay nhất, là hạt ngọc đẹp nhất của Tin mừng.
Tình thương của cha đối với hai con, nổi bật nơi người con thứ.
1. Người con thứ, biểu tượng người tội lỗi
Người con thứ đòi cha chia gia tài rồi bỏ đi vô tình. Rời quê nhà, nơi sinh trưởng, nơi nó được nuôi dưỡng và lớn lên. Trẩy đi miền xa, người trai trẻ mang nổi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là ở quê nhà.
Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo. Nó ra đi không phải để học hành, tìm kiếm việc làm. Nó đi ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản và sức khoẻ, bất kể đó là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau chóng suy sụp. Nó trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Heo là con vật người Do thái ghê tởm.
Khi trở về nó chẳng còn gì cả, tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị nó tiêu xài hoang phí. Nó chỉ còn lại một điều duy nhất là “đứa con nhỏ của cha nó”.
Động lực nào đã khiến nó trở về? Thánh Luca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi, đứng lên, tôi sẽ về cùng cha tôi”. Như vậy động lực nó trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến cha, không bao giờ sám hối vì bỏ cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với cha là nó “trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như người làm công”.
Đó phải chăng là một cuộc trở về trọn vẹn? Đó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao? Sự thống hối của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót thôi.
Nếu người con thứ thành công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình cha. Vì nếm mùi thất bại chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người ăn xin. Nó không đủ liều mạng để đi trộm cướp. Nó không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu. Nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, sống bằng sức lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này, nó mới hiểu được mặt trái cuộc đời. Đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy, chỉ còn một con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho cha để có cơm ăn áo mặc.
Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời “Cha ơi... con không đáng gọi là con Cha nữa”.
Giuđa đã phản bội Chúa, Phêrô đã chối Chúa. Cả hai đều đánh mất tình con cái. Giuđa không còn tiếp tục tin tưởng mình vẫn là con Chúa, không tin vào lòng tha thứ của Chúa nên đã đi thắt cổ tự vẫn.Còn Phêrô khi ở giữ sự tuyệt vọng đã muốn nối lại tình Cha con với những giòng nước mắt thống hối. Giuđa chọn cái chết. Phêrô chọn sự sống.
Đọc câu chuyện, thấy sự trở về của người con thứ chẳng phải là mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về của lòng sám hối với tình yêu tha thiết. Nhưng trong thực tế cuộc sống, nhiều khi ban Bí tích Hòa giải, tôi đã gặp nhiều hối nhân, sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở về cùng Chúa. Mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời, những gian truân vất vả, những thất bại chua chát… đã cho họ rút kinh nghiệm là cần trở về với Chúa để tìm lại bình an nội tâm, đón nhận niềm vui và hạnh phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống. Gặp gỡ nhiều hối nhân như thế, tôi cảm thông với người con thứ.
2. Người con cả, biểu tượng người biệt phái
Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Anh là con người mẫu mực. Thế nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh.Tuy ở trong nhà cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu, còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có? Anh tức giận vì thấy quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Tôi chẳng thích chút nào về người con cả với ý thức trách nhiệm cao, chăm chỉ làm việc, trung thành với gia đình nhưng lại chẳng học được lòng nhân hậu của cha.
Hoá ra, cả hai người con vừa khác, lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu tha thứ cho em. Thái độ của người con cả là thái độ tiêu biểu của người biệt phái, luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho quyền lợi riêng mình. Tự mãn về cách giữ luật “con không hề trái lệnh cha một điều nào”, tự hào về cách sống đạo “không như thằng con của cha”. Tự hào tự phụ tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, kiêu hãnh mình là người công chính mà khinh chê lên án những người khác. Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không được cứu thoát mà phải chết.
Lúc sự giận dữ bùng nổ đến cực điểm, người anh cả gặp lại tình cha. Cha đi ra năn nỉ, anh chẳng chịu nghe. Cha bộc bạch tâm tình với anh: “con ơi, mọi sự của cha đều là của con, chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Lời cha làm anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích kỷ làm anh tẩy chay sự trở về của đứa em. Cái nhỏ mọn làm anh xua tan lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong anh.
Hình ảnh người con cả thật gần với chúng ta. Phụng dưỡng cha mẹ với trách nhiệm, chứ chưa phải là tình thương. Không chia sẻ nổi buồn, nổi khổ tâm, nổi âu lo của cha mẹ. Chỉ biết than trách và đòi quyền lợi cho mình thật nhiều. Ghen tị, chỉ trích phê bình, đặt mình là tiêu chuẩn cho mọi việc đạo đức. Thiếu lòng bao dung, không chịu tha thứ. Hình ảnh đó thật giống tinh thần biệt phái, có đạo mà không có đức.
Cả hai người con cần phải trở về. Sám hối chính là trở về với tình cha, trở lại với anh em.
3. Người cha, hình ảnh Thiên Chúa
Khi chia gia tài cho con, lòng cha đau đớn vô cùng. Vì tôn trọng tự do của con chứ không vì cha nhu nhược. Ngày nhìn con ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống trải quá, muộn phiền quá vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc cho bà con lối xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng. Thật lạ lùng!
Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện thất bại của con cái. Cha mẹ mắc cở không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch, ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha.
Người cha đã tha thứ cho con thứ trước khi con tự thú. Cha vui “vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy”.
Người cha cũng nói với người con cả bằng cung giọng thật trìu mến: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha.Tất cả những gì của cha đều là của con…Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Người cha muốn giúp con trai khám phá chiều kích tha thứ của tình yêu. Tình cha là lời mời gọi vượt qua thái độ duy luật để mở rộng tấm lòng trước tình thương yêu.
Dung mạo người cha đó, chính là Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người.
Cha yêu con dù con hư hỏng, bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc. Cha yêu con chỉ vì con là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.
Hành trình thiêng liêng của cuộc đời, cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt rồi nên hoang đàng, hoang phí, gặp thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình đạo đức nên lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Sám hối là trở về với tình Chúa, với tình anh em. Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui và sự sống.
78. Hoan nghênh!
Bài Phúc Âm hôm nay nói về dụ ngôn người con hoang đàng và người cha nhân hậu đã hoan nghênh sự trở về của cậu. Một người cha có hai người con. Người con trẻ hơn, đã không thể kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi cha mình qua đi để chia gia tài. Anh nói, "Bố ơi, con muốn nhận phần gia tài của con, và đi khỏi cái vùng quê này." Người cha đã chia phần sản nghiệp cho con theo lời cậu yêu cầu. Theo lời Phúc Âm kể lại thì người con trẻ đã thu hết tất cả những gì thuộc về mình và trẩy đi nơi xa và ở đó ăn chơi.
Sau cùng, cái ngày tàn khốc đã đến với anh. Anh đã xài hết tiền và trở nên tồi tàn. Anh đã cố gắng để tìm một công việc là chăn heo, và bởi vì đói quá nên đã có lúc anh muốn ăn những đồ của heo. Không một ai giúp đỡ cho anh một cái gì hết. Sau đó, Phúc Âm kể lại cho chúng ta rằng anh đã được đánh động từ trong nội tâm việc anh phải làm. Anh suy nghĩ: "Tôi phải rời bỏ chỗ này, và trở về với cha tôi, và thưa với người rằng con đã phạm tội với trời và với cha. Con không đáng được gọi là con cha nữa." Và sau đó, anh đã bỏ chốn tồi tàn đó và trở về với cha mình.
Khi anh về gần đến nhà, người cha đã chạy ra và hoan nghênh đón tiếp anh, "Ông chạy đến, ôm chầm lấy và hôn anh" (Lc 15:20).
Chú ý là không có chỗ nào ghi lại là người cha đắn đo, và không một sự hối hận nào ở trong trái tim của người cha, cho dù là người con đã phá tài sản của mình. Người cha đã quyết định không để cho một chút sự nghi ngờ gì về người con ở trong tâm trí của mình, tất cả đều được tha thứ.
Chúa Giêsu đã cô đơn trong bốn mươi ngày chay tịnh ở trong sa mạc trước khi Ngài bắt đầu sứ mệnh của Ngài. Chúa Giêsu đã cô đơn trong vườn Giếtsimani buổi tối trước khi đi chịu chết. Ngài đã không ngừng van xin, "Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn" (Mc 14:36). Chúa Giêsu đã cô đơn khi Ngài đang bị treo trên cây thánh giá, "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" (Mc 15:34). Cho dù là đi vào trong một cái chết cô đơn, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục ước muốn mạnh mẽ sự hiện diện của Chúa Cha cùng sánh vai cứu chuộc nhân loại.
Ước muốn sánh bước với Chúa có lẽ là điều mà chúng ta ít khi để ở trong thời khoá biểu ngày sống của mình. Ước muốn có sự hiện diện của Thiên Chúa là con đường dẫn đến sự sống, bởi vì sự khao khát đó sẽ giải hoà ta với con người và rồi dẫn chúng ta đến gần Thiên Chúa!
Một vị linh mục có tài năng về âm nhạc chia sẻ về một lần ngài đi viếng viện dưỡng lão như sau. Sau khi chơi đàn guitar và hát cho những người già nghe, ngài đã đến và bắt tay từng người. Một người đàn bà già đã bắt tay ngài và nói với ngài hãy trở lại trong vòng hai tuần lễ vào cũng giờ này. "Tại sao vậy?" vị linh mục hỏi. "Đó là bởi vì hôm đó là birthday thứ 100 của tôi," bà trả lời. Vị linh mục đó bị cảm kích hỏi lại, "Điều gì đã được ban tặng trong suốt cuộc đời lâu dài của bà?" "À, thì tôi đã cưới được một người chồng tốt, ông ấy đã ra đi, và tôi còn có những người con ngoan thảo, họ cũng đã ra đi. Đó là cuộc sống hạnh phúc mà tôi đã có. Bây giờ tôi có một cuộc sống như thế này." Sau đó, bà ấy đã mở rộng cánh tay ra như muốn ôm lấy tất cả mọi người. Bây giờ, mỗi khi tôi gặp trắc trở khó khăn, hoặc cô đơn lặng lẽ, tôi đều mở rộng cánh tay và đón nhận những điều mình đang có."
Cho dù chúng ta có ở trong một chỗ tạm trú cho những người vô gia cư hoặc ở trong viện dưỡng lão, hoặc ở một nơi thờ phượng, hoặc là một dịp gia đình tụ họp, bất kỳ ở chỗ nào, chúng ta cũng hãy mở rộng cánh tay hân hoan nghênh đón những gì mình có và ôm lấy nó. Điều chúng ta phải làm hôm nay không phải là tách xa, nhưng là giải hoà.
Bạn hãy luôn luôn là người tha thứ trước. Đừng chờ đợi để người khác đến xin lỗi bạn. Bởi vì, do sự tha thứ, bạn sẽ trở thành sư phụ của định mệnh, một người trang điểm cho cuộc sống, một người làm phép lạ.
79. Em con đã chết nay sống lại--Lm. Nguyễn Văn Tài
Đức Hồng Y Suhart, Giám Mục Paris là một vị chủ chăn lỗi lạc. Điều này chẳng một ai dám phủ nhận. Đặc biệt về đường hướng đạo đức thâm sâu mà Ngài đã vạch ra trong các thư luân lưu danh tiếng như: "Giáo hội tiến hay lùi" (Mùa Chay năm 1948); hoặc "Linh Mục giữa xã hội" (Mùa Chay năm 1948).
Đức Thánh Cha Piô XII rất lấy làm cảm phục khi đọc qua các thư luân lưu ấy. Trong dịp Đức Hồng Y đến Vaticano, Đức Thánh Cha đã tươi cười hỏi đùa: "Năm nay Đức Hồng Y có ra thông điệp nào mới không?"
Giữa những bận rộn của giáo phận với mấy triệu giáo dân, 10 Giám mục phụ tá, 1,500 linh mục và hàng trăm ngàn tu sĩ nam nữ, một hôm, một linh mục bí thư trình lên Đức Hồng Y một tập sách mới viết định xuất bản, do một linh mục trẻ trong giáo phận soạn ra. Linh mục ấy thiết tha xin Đức Hồng Y xem qua cuốn sách và chuẩn y trước khi ấn hành. Đức Hồng Y vui vẻ nhận lời: "Tốt lắm! Cha cứ để đấy, lúc nào rỗi tôi sẽ xem".
Một tháng trôi qua, cuốn sách chẳng được đụng đến, vị linh mục nôn nóng chờ đợi, thời gian dài như cả thế kỷ. Thế nhưng, chẳng biết làm sao hơn, vì Đức Hồng Y quá bận việc. Phải đợi đến một buổi chiều mùa đông giá lạnh, khi Toà Giám Mục hoàn toàn vắng khách, trong bầu khí thân mật, cha bí thư rụt rè trình bày: "Thưa Đức Hồng Y, xin Đức Hồng Y xem qua tập sách cho ông cha trẻ kia được phấn khởi. Ông ta cứ hỏi con hoài à! Có thể hôm nay vắng khách, xin Đức Hồng Y xem qua tí thôi, cũng như đọc sách báo giải trí vậy". Đúng! Tôi bận quá vậy nên chậm trễ mất, đưa quyển sách cho tôi, tôi bắt đầu đọc ngay bây giờ. Cha bí thư vui mừng phấn khởi, trao ngay cuốn sách và nhẹ nhàng rút lui. Thế rồi Đức Hồng Y mải mê đọc sách, giờ cơm tối Ngài vắng mặt, 12 giờ khuya đèn phòng Ngài vẫn còn bật sáng và 3 giờ sáng vẫn còn đèn. Ngài đã đọc suốt đêm, quên cả ăn lẫn ngủ.
Sáng hôm sau, vừa dùng điểm tâm xong, Đức Hồng Y vội gọi ngay cha bí thư vào và bảo mời các các Giám Mục phụ tá, các Tổng Đại Diện và ban cố vấn đến dự phiên họp đặc biệt. Khi tất cả tề tựu đông đảo, Đức Hồng Y lên tiếng: Lý do của buổi họp mặt đặc biệt hôm nay là vì tập sách của cha Henry Kobel mang tựa đề: "Nước Pháp, một xứ truyền giáo". Tập sách được cha bí thư trao cho tôi chiều hôm qua và tôi đã đọc hết cuốn sách, quên cả ăn, cả ngủ. Bấy lâu nay tôi cứ ngờ rằng, tôi đã biết rõ thành phố Paris, giáo phận của tôi. Nhưng bây giờ đọc trong đó, tôi thấy có nhiều sự kiện rất mới lạ khiến cho tôi phải bồn chồn thao thức. Tôi tự kiểm điểm lại: Thật tôi chưa biết rõ giáo phận của tôi. Tôi rất cảm phục cuốn sách này. Vì những tư tưởng trong cuốn sách cứ ám ảnh tôi, khiến tôi trằn trọc suốt đêm, mong sao đến sáng để gặp các vị cố vấn và tức khắc đi vào vấn đề.
Cám ơn cha Henry Kobel đã trao sách ấy cho tôi đọc. Và kết quả của công việc kiểm điểm này là Ngài đã lập ra "Hội Truyền Giáo Thừa Sai Paris" vào năm 1944, đồng thời Ngài ra hai bức thư luân lưu nổi tiếng nói trên.
Anh chị em thân mến!
Khởi đầu của cuộc canh tân hay sự trở về bao giờ cũng được đánh dấu bằng những giây phút "Tự Kiểm Điểm" hay "Cảnh Tỉnh".
Bài Tin Mừng của thánh Luca hôm nay cũng gợi cho chúng ta sự đổi mới trở về của người con đi hoang sau những giây phút chạnh lòng và tự kiểm điểm. Thật thế, có lẽ trong chúng ta chẳng ai xa lạ gì với hai chữ "Kiểm Điểm", không những không xa lạ mà lắm khi còn kinh hãi khi nhắc đến hai chữ này. Nhưng dù sao đi nữa "Kiểm Điểm" vẫn luôn là yếu tố căn bản để đổi mới con người. Tu đức học Kitô giáo đã dùng nó như là phương pháp hoàn thiện con người.
Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Đường Hy Vọng" cũng đã khuyên: "Trên đường hy vọng, thỉnh thoảng con phải dừng chân nơi bóng mát để kiểm điểm lại những bước lệch lạc, rút kinh nghiệm để bước tiến, chuẩn bị thêm hành trang. Hãy kiểm điểm mỗi tối, kiểm điểm mỗi tuần, kiểm điểm mỗi lần xưng tội, kiểm điểm mỗi lần tĩnh tâm.
Xe tốt cũng làm máy lại. Sức khoẻ tốt cũng khám tổng quát, nếu muốn tránh sự sụp đổ bất ngờ không thể cứu vớt được. Bay lồng lộng giữa không gian thế nào, sửa tay lái liên lỉ và triệt để nghe lời chỉ bảo từ quả đất, vì lệch lạc là không đến đích.
Con người đã sợ hãi, xa lánh từ "Kiểm Điểm". Vì mỗi lần tự kiểm điểm là mỗi lần nhận chịu hình phạt. Một dịp tự kiểm điểm là thêm một cơ hội chịu hạ nhục, bêu xấu đánh mất đi phẩm giá con người của mình.
Trong Đức Giêsu Kitô, kiểm điểm không còn mang dáng dấp đe doạ ấy. Người con đi hoang đã thưa cùng cha: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa. Xin cha đối xử với con như một người làm công của cha mà thôi". Đáp lại lời tự hối này không phải là lời trách phạt đoạ đầy, nhưng là một việc xác nhận địa vị làm con và một bữa tiệc linh đình với những gì ngon béo nhất để mừng con trở về.
Chúng con cũng có thể gọi "lịch sử cứu độ" là một chuỗi những bản tự kiểm điểm, những lời tự hối được nhận lời và được ban thêm giá trị: Ngôi báu của Đavít tồn tại đến muôn đời; người phụ nữ tội lỗi trở thành rường cột Giáo hội. Tuy nhiên, lời Kinh Thánh, lòng sám hối chỉ có giá trị khi xuất phát từ cặp môi miệng chân thành với tin yêu hy vọng kèm theo một sự chỗi dậy, quyết tâm trở về với hết lòng thành của tâm hồn.
Lạy Chúa, xin cho con biết nhìn lại mình, để quyết tâm đứng dậy trở về cùng Cha. Mỗi một thất bại, mỗi một đau khổ vẫn luôn là một tiếng chuông gọi mời, cảnh tỉnh, nếu con biết tự kiểm điểm rút tỉa kinh nghiệm. Chúng sẽ là cơ hội quí báu cho con cảm nghiệm được tình yêu bao la của người Cha trên trời. Amen.
80. "Không sinh quả, thì..."--Nguyễn Văn Nội
Dụ ngôn người cha nhân hậu có một thông điệp chung gửi đến hết mọi người?
Dụ ngôn người cha nhân hậu mang một thông điệp mà Đức Giêsu muốn gửi đến hết mọi người. Thông điệp đó là: Thiên Chúa vì yêu thương con người, sẵn sàng thứ tha mọi tội lỗi, xúc phạm của những người con bội bạc, bất hiếu, nhưng sám hối ăn năn quay về với Chúa. Mỗi lần một tội nhân quay trở về, thì Triều đình Thiên quốc hoan hỉ vui mừng không sao kể xiết. Ngôi Hai Thiên Chúa sinh ra làm người cũng chỉ nhằm cứu vớt những người hư hỏng, tội lỗi mà Thiên Chúa Cha hết mực yêu thương, quí trọng, giống như người mục tử bỏ 99 con chiên mà đi tìm con chiên lạc. Vậy thì, dù tội lỗi, yếu đuối đến đâu, con người cũng không có lý do gì phải thất vọng, vì Lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa thì lớn lao và hữu hiện hơn tội lỗi của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải biết quay về và cậy trông vào lòng thương xót ấy, chứ không được ỷ vào tình thương của Người mà tiếp tục sống trong tội lỗi và phản bội.
Dụ ngôn người cha nhân hậu có một thông điệp riêng gửi đến những người Pharisêu thời xưa và thời nay?
(a) Với những người Pharisêu trong Phúc âm tức những người sống cùng thời với Đức Giêsu thì ngoài thông điệp chung vừa được trình bày ở trên, dụ ngôn người cha nhân hậu còn muốn nói với họ điều này: Họ không có quyền giới hạn cách cư xử và yêu thương của Thiên Chúa. Họ cũng không có quyền coi mình là những người đạo đức thánh thiện hơn những người thu thuế và tội lỗi. Họ lại càng không có quyền coi khinh coi thường những người kia. Trái lại họ phải biết khám phá ra tấm lòng của Thiên Chúa đối với những người yếu đuối, tội lỗi mà bắt chước Người trong cách sống của mình. Họ được vinh dự là người con cả, vì họ là thành phần của dân riêng, dân được tuyển chọn, và được diễm phúc lớn lao là luôn được sống trong nhà của cha, nhưng họ hãy coi chừng: vì rất có thể họ làm việc và cư xử với cha như những người làm công, tính toán thiệt hơn và thiếu tình thiếu nghĩa hoặc hẹp hòi, so bì với hạng em út.
(b) Còn những người Pharisêu thời nay, họ là ai? Phải chăng đó là những người đạo gốc mà chỉ giữ đạo hình thức, nặng luật lệ? Phải chăng đó là những người tham gia ba bốn hội đoàn trong giáo xứ, giữ những chức vụ quan trọng trong hội đoàn? Phải chăng đó là những người có nhiều quen biết với các giám mục, linh mục và tu sĩ? hay trong gia đình có người đi tu làm giám mục, linh mục hay tu sĩ? Phải chăng đó là những người giầu có, trí thức, có địa vị xã hội? Với những người Pharisêu thời nay dụ ngôn người cha nhân hậu nhắn nhủ họ rằng: các anh các chị hãy coi chừng: đừng vì giầu sang, địa vị hay đạo gốc của mình mà kiêu ngạo và coi thường coi khinh người khác. Biết đâu những người không công giáo, biết đâu những người nghèo khổ, ít học lại gần gũi Thiên Chúa hơn chúng ta vì họ yêu mến và thực hành Lời Chúa hơn chúng ta!
CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Chúa Tể Trời Đất, chúng con cảm tạ Chúa đã bộc lộ cho chúng con biết tấm lòng yêu thương cao cả của Chúa là một Người Cha. Thiếu sót và tội lỗi của chúng con chẳng có thể làm gì được Cha mà chỉ làm giảm và mất giá trị của chính chúng con mà thôi. Và để phục hồi giá trị nguyên thuỷ mà Cha muốn ban cho chúng con, Cha đã không ngại hy sinh Con Một Cha để chúng con được ơn làm hoà cùng Cha. Lạy Thiên Chúa là Cha nhân hậu, chúng con cảm tạ Cha về hồng ân thứ tha mà Cha đã ban cho chúng con và tiếp tục ban cho chúng con.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu đóng đinh thập giá để đem ơn thứ tha cho chúng con. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Chúng con quyết tâm sống phó thác vào Tình Thương của Chúa và học với Chúa để biết yêu thương, cứu vớt anh em là những người cũng cần được thứ tha tội lỗi như chúng con.
81. Dứt khoát--Trầm Thiên Thu
Muốn bỏ một điều gì xấu thì người ta phải can đảm. Có can đảm mới có thể tin tưởng, có tin tưởng mới có thể dứt khoát "đứng dậy" và "trở về". Người con hoang đàng phải can đảm và dứt khoát để trở về với người cha, chính người cha cũng phải can đảm và dứt khoát mới có thể nhận đứa con hư là người con yêu như trước.
Đức Chúa phán với ông Giô-suê: "Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập" (Gs 5:9). Vì thế, người ta đã gọi tên nơi ấy là Ghin-gan cho đến ngày nay. Con cái Ít-ra-en đóng trại ở Ghin-gan và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô. Đó là hồng ân Thiên Chúa đã trao ban cho dân Ít-ra-en, cả người tốt lẫn người chưa tốt, cũng như mưa xuống cho mọi người mà chẳng phân biệt ai.
Cuộc sống của dân Ít-ra-en giản dị, nhờ hồng ân nhưng vẫn phải hợp tác bằng sức lao động hằng ngày: "Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó. Hôm sau, không còn man-na nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ; thế là con cái Ít-ra-en không còn có man-na nữa. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của đất Ca-na-an" (Gs 5:11-12). Làm việc để biết giá trị của lao động và ý nghĩa của cực khổ. Hưởng dùng những gì do mình làm ra mới biết trân quý sự nỗ lực của bản thân, nếu cứ an nhàn thì người ta dễ ảo tưởng, ỷ lại và kiêu ngạo.
Hồng Ân Chúa luôn tuôn tràn. Cảm nhận được vậy nên tác giả Thánh vịnh xác định: "Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi" (Tv 34:2). Tại sao? Tác giả Thánh vịnh nói rõ lý do: "Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa", thế nên "xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên" (Tv 34:3).
Không chỉ vậy, người nào cảm nhận được tình yêu bao la của Thiên Chúa không thể thụ động, thế nên tích cực kêu gọi: "Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi" (Tv 34:4-6). Tác giả Thánh vịnh khiêm nhường và chân thành tâm sự: "Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn" (Tv 34:7).
Thánh Phaolô xác định: "Ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi" (2 Cr 5:17). Đó là canh tân, là càng ngày càng mới hơn. Nhưng không phải do công sức của chúng ta, mà "mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải" (2 Cr 5:18). Thánh nhân giải thích: "Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa" (2 Cr 5:19-20).
Thánh Phaolô là một học giả, chữ nghĩa đầy mình, nhưng ông không văn hoa bóng bẩy mà lại viết rất rõ ràng và thực tế: "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người" (2 Cr 5:21). Tình yêu Thiên Chúa quá kỳ lạ, quá cao siêu, chúng ta không thể nào lý giải được, mà chỉ có thể cúi đầu kính tin và cảm tạ!
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Thấy thế, những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng" (Lc 15:2). Tình trạng này rất thường thấy trong chúng ta: Xét người hơn xét mình. Đó là một dạng kiêu ngạo được che đậy khá tinh vi dưới nhiều dạng thức, không khác gì người Pharisêu chê trách người thu thuế ngay khi cầu nguyện (x. Lc 18:9-14). Thế nhưng người ta sai mười mươi mà vẫn cho mình là đúng, là "ngon".
Biết họ đang nghĩ gì, Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn "Người Cha Nhân Hậu" – cũng gọi là dụ ngôn "Đứa Con Hoang Đàng": Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: "Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng" (Lc 15:12). Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.
Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, không may trong vùng ấy lại xảy ra một nạn đói khủng khiếp. Anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Trong cơn đói khổ, anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy" (Lc 15:18-19). Sau khi giằng co trong tư tưởng, anh ta đã dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, rồi can đảm đứng lên đi về nhà cha.
Thái độ dứt khoát rất quan trọng. Đó là "chết" cho tội lỗi, "chết" cho chính mình. Đau khổ, thất bại, thua cuộc, lâm bước đường cùng,... là những lúc tiếng Chúa đang nói thẳng với chúng ta. Tài sản cá nhân của chúng ta không là tiền bạc, của cải, vàng bạc,... mà là tính tự phụ, tính ích kỷ, thói kiêu căng, thói lọc lừa,... Và rồi một lúc nào đó, chúng ta cũng "trắng tay" và không dám "đứng thẳng" mà ngước nhìn đời. Bị "triệt buộc", tiến thoái lưỡng nan, nhưng nếu can đảm dứt khoát với quá khứ thì thật phúc thay, vì Thiên Chúa nhân từ vẫn chan hòa Lòng Thương Xót.
Về đến nhà, biết thân biết phận mình khốn nạn, người con nói: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa" (Lc 15:21). Người cha chỉ chờ giây phút đứa con hối cải. Và người cha liền bảo các đầy tớ: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy" (Lc 15:22-24). Và họ bắt đầu ăn mừng. Ôi, Lòng Thương Xót của Chúa quá bao la!
Khi tiệc mừng rôm rả, người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: "Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ" (Lc 15:27). Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Người cha ra năn nỉ, nhưng anh ta so đo: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!" (Lc 15:29-30). Chúng ta chỉ là những đứa con bất hiếu, thế nhưng chúng ta vẫn thường so đo và tính toán nhưng người con cả trong dụ ngôn này. Tính kiêu ngạo luôn chờ cơ hội, từ manh nha biến thành manh động chỉ trong tích tắc!
Nhưng người cha vẫn ôn tồn và điềm đạm nói với anh ta: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy" (Lc 15:31-32). Người cha lý luận tuyệt vời quá!
Quả thật, Thiên Chúa đã chấp nhận bỏ 99 người đạo đức để đi tìm chỉ một người lầm đường lạc lối, vì Ngài "không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất" (Mt 18:14). Thiên Chúa "ngược đời" quá mà cũng kỳ diệu quá! Nếu Ngài không "khác người" như vậy thì chúng ta hết đường "về nhà". Và vì thế, chúng ta phải dứt khoát bỏ ngay thói kiêu căng của người con cả!
Lạy Thiên Chúa, chúng con khốn nạn quá, thế mà chúng con vẫn tự cho mình là "chiên ngoan". Xin Chúa đổi mới chúng con theo đúng Tôn Ý Ngài, xin dập tắt tính kiêu căng nơi chúng con, xin giúp chúng con nhận biết mình lầm lạc để có thể đoạn tuyệt với quá khứ đen tối mà mau quay gót trở về nương náu nơi Lòng Chúa Thương Xót. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
82. Lòng nhân từ hay thương xót của Chúa--Lm Trần Bình Trọng
Lòng nhân từ hay thương xót của Chúa là một thực tại hiện hữu có ghi lại trong Thánh kinh. Trải qua suốt dòng lịch sử cứu độ, biết bao lần dân Chúa đã lỗi lời giao ước. Họ chối bỏ Chúa để đi thờ các thần ngoại lai. Họ đúc bò vàng để thờ. Và mỗi khi họ đi lạc đường lỡ bước thì Chúa lại sai các tiên tri đến để cảnh giác họ. Và mỗi lần họ ăn năn thống hối, thì Chúa lại giang tay đón nhận họ trở về với lòng tha thứ. Cuối cùng Chúa sai chính Con một Người đến để thi hành luật bác ái. Luật công bình đòi răng đền răng, mắt đền mắt. Còn Chúa Giêsu đến dạy: Nếu ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa (Mt 5:39).
Trong Phúc âm hôm nay Chúa kể một dụ ngôn về người con hoang đường và phung phá. Chúa kể dụ ngôn này để chỉ cho ta thấy Thiên Chúa muốn người tội lỗi được cứu rỗi. Sự thực thì dụ ngôn này nhắm vào người cha hơn là người con và có lẽ đúng hơn thì nên gọi là dụ ngôn người cha nhân từ hay tha thứ, thay vì người con phung phá. Theo dụ ngôn này thì cả hai người con đều có lỗi. Người con thứ đã phạm tội ích kỉ, tham lam và đàng điếm. Còn người con trưởng lỗi phạm tội ghen tuông và không tha thứ. Đến đây ta tự hỏi ta thuộc loại người con nào? Ta hành động như người con thứ khi ta lạm dụng những ân huệ, phung phá những của cải và tài năng Chúa ban, khi ta ích kỷ và lười biếng. Ta hành động như người con trưởng khi ta ghen tuông với người khác, với người được may mắn và được nhiều ân huệ, với người giàu có và tài năng hơn ta. Ta còn hận Chúa vì gặp phải số phận không may. Người con trưởng được sống giữa tài sản và của cải của cha mình. Đáng lẽ anh ta phải cảm thấy tất cả những của cải mà người cha có cũng là của anh ta vì anh ta sẽ được thừa tự. Tuy nhiên anh ta không nhận định được cái ân huệ người cha đã dành cho mình. Anh ta đóng cửa lòng lại, nhất định không chịu tha thứ cho người em biết sám hối trở về. Ta có thể có kinh nghiệm khi ta đóng cửa lòng lại, không chịu tha thứ, ta cảm thấy tâm can héo hắt. Cái tâm trạng đó có thể hiện trên nét mặt làm ta khó chịu. Chắc là cái nét mặt của người anh trưởng khi thấy người em thứ trở về và được cha đón tiếp cũng rất là khó chịu mà dùng tiếng bình dân gọi là nét mặt hãm tài.
Cái bối cảnh của dụ ngôn hôm nay là các người luật sĩ và biệt phái bất bình với Chúa Giêsu vì Người đón tiếp những người tội lỗi. Họ cho rằng Chúa Giêsu coi nhẹ tội và họ muốn đặt cái giới hạn cho lòng nhân từ của Chúa. Câu chuyện trong dụ ngôn hôm nay không gợi cho ta một kinh nghiệm nào trong cuộc sống hàng ngày. Bởi vì theo kinh nghiệm loài người, ta không thấy cái thực tại của một người cha nào tốt lành đến nỗi, hối hả chạy ra đón đứa con hoang đàng trở về trước khi đứa con có dịp xin lỗi và kể lể. Và đó là cái điểm khác biệt giữa việc tha thứ của loài người và việc Chúa thứ tha. Việc tha thứ của loài người chỉ có giới hạn. Còn việc Chúa thứ tha không có giới hạn. Chúa bảo ta phải tha thứ bảy mươi lần bảy.
Nhận thức được cái tình trạng khốn khổ của mình, người con thứ đã quyết định trở về. Đó là cái bước đầu của ơn tha thứ và ơn cứu độ. Cái khó khăn là khi ta quên lãng lòng nhân từ của Chúa. Vậy điều ta cần là lòng tin tưởng cậy trông vào lòng nhân từ của Chúa. Chúa vẫn chờ đợi ta tỏ dấu ta muốn trở về làm hoà với Chúa và thay đổi cách sống để được sống trong bình an và ơn nghĩa với Chúa.
83. Lòng thương xót của Thiên Chúa--Lm PX. Vũ Phan Long
THIÊN CHÚA THƯƠNG TẤT CẢ MỌI NGƯỜI VÀ MUỐN CHO MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐƯỢC CỨU ĐỘ.
1.- Ngữ cảnh
Đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm trong phân đoạn độc đáo nhất của TM Lc (9,51–19,27): cuộc hành trình lên Giêrusalem. Trong cuộc hành trình này, có đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu.
Sau khi đã giáo huấn đám đông về những điều kiện để làm môn đệ Người (14,25-35), bây giờ Đức Giêsu dùng một số dụ ngôn mà ngỏ lời với các người Pharisêu và các kinh sư, vì họ đã lẩm bẩm trách móc Người khi Người tiếp đón những người thu thuế và tội lỗi, và cùng ăn uống với những người ấy.
Ba dụ ngôn của chương 15 (con chiên bị lạc mất [cc. 4-7], đồng bạc bị đánh mất [cc. 8-10], người con hư mất [cc. 11-32]) đã được gọi là "trái tim của Tin Mừng III" (Romaroson), vì được kết cấu rất nghệ thuật để nêu bật được đề tài duy nhất là tình yêu của Thiên Chúa và lòng thương xót đối với những kẻ tội lỗi qua lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải.
Hai dụ ngôn đầu nói về việc tìm được cái đã mất, dụ ngôn thứ ba cũng triển khai cùng một đề tài, nhưng như một tổng hợp với những hình ảnh được vận dụng rất tài tình. Trước đây dụ ngôn này vẫn được gọi là "Dụ ngôn đứa con hoang đàng", nhưng gọi là "Dụ ngôn người cha nhân hậu" thì hợp lý hơn, bởi vì dung mạo trung tâm của truyện chính là người cha. Hoặc để tương ứng với hai đầu đề của hai dụ ngôn trước, thì có thể gọi là "Dụ ngôn người con hư mất", nhưng nhớ rằng nhân vật chính là người cha, cũng như trong hai dụ ngôn trước, nhân vật chính là người mục tử và người phụ nữ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Một dẫn nhập (15,1-3);
2) Dụ ngôn "Người cha nhân hậu" (15,11-32):
a) Người con thứ (cc. 11-24; truyện kết thúc với điệp khúc c. 24),
b) Người con cả (cc. 25-32; truyện kết thúc với điệp khúc c. 32).
3.- Vài điểm chú giải
- Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi (1): Đây là những người ở bên lề xã hội Do-thái, những kẻ vô đạo, sống vô luân. Họ đến nghe Đức Giêsu như đã từng đến nghe Gioan Tẩy Giả (3,12-13). Tác giả Luca đã nói quá khi dùng từ ngữ "tất cả", nhưng mục đích là cho thấy chiều hướng căn bản của sứ điệp và cách xử sự của Đức Giêsu: Người đến để tìm và cứu những gì đã mất, nghĩa là tất cả.
- lẩm bẩm (2): Cũng như ở 5,30 và sau này ở 19,7, thì imperfect cho hiểu đây là thái độ thường xuyên của người Pharisêu và các kinh sư.
- ông này (2): Đại từ chỉ định houtos có nghĩa xấu: "tên này".
- Một người kia có hai con trai (11): Có thể giả thiết đây là một ông chủ trang trại giàu có xứ Paléttina.
- phần tài sản con được hưởng (12): Theo tập tục xứ Paléttina, một người cha có thể định đoạt về của cải của ông hoặc bằng một di chúc (HL. diathêkê) được thi hành sau khi ông qua đời (Ds 36,7-9; 27,8-11) hoặc bằng một tặng-dữ ban cho các con trong khi ông còn sống (HL. dôrêma; x. Hc 33,19-23). Trưởng nam được hưởng "hai phần sản nghiệp", nghĩa là gấp đôi phần được ban cho mỗi người con khác (Đnl 21,17). Ở đây, vì chỉ có hai đứa con, người con cả được nhận hai phần ba và người con thứ nhận một phần ba. Khi đó, người con có quyền sở hữu, nhưng quyền thu hoa lợi vẫn thuộc về người cha cho đến khi ông qua đời. Nếu người con bán phần gia sản của mình, người mua chỉ được nhận lấy sau khi người cha chết. Khi làm như thế, người con sẽ không còn có quyền đòi hỏi gì về của cải, cả về vốn lẫn lãi.
- sống phóng đãng (13): Trạng từ asôtôs có nghĩa là "một cách không lành mạnh". Chúng ta không biết là "không lành mạnh" cụ thể là thế nào; ở c. 30, người anh cả mô tả là "nuốt hết của cải với bọn điếm", nhưng phải chăng anh đã phóng đại?
- chăn heo (15): Theo Lv 11,7 (x. Đnl 14,8), con heo, tuy có chân chẻ làm hai móng, nhưng không là loài nhai lại, nên bị coi là "ô uế" đối với người Do-thái. Chi tiết này cho thấy sự sa sút của chàng trai.
- nhưng chẳng ai cho (16): Thế thì anh ta lấy thức ăn ở đâu, tác giả không nói, bởi vì điều này không quan trọng.
- chạy ra (20): Chi tiết này diễn tả sáng kiến của người cha, tình yêu bền bỉ của ông đối với đứa con đã bỏ đi.
- và hôn lấy hôn để (20): Không phải chỉ là để chào đón, nhưng là bày tỏ sự tha thứ (x. 2 Sm 14,33).
- Thưa cha... con (21): Người con lặp lại lời thú lỗi đã soạn trước (cc. 18-19), nhưng trước khi anh ta kịp nói ra lời thỉnh cầu, người cha đã can thiệp rồi.
- áo đẹp nhất (22): dịch sát là "chiếc áo thứ nhất", tức là áo hạng nhất. Như thế, người cha không xử với người con như anh ta yêu cầu ("như người làm công"), nhưng như một người khách được tôn kính.
- xỏ nhẫn... xỏ dép (22): Nhẫn là dấu chỉ quyền bính (St 41,42; Et 3,10; 8,2); dép là dấu chỉ một con người tự do.
- đã mất mà nay lại tìm thấy (24): Đây là cụm từ móc nối liên kết dụ ngôn này với hai dụ ngôn trước.
- con hầu hạ cha (29): Người con cả dùng động từ douleuein, "phục vụ", "hầu hạ", hàm ý là anh ta không chỉ tự liệt mình vào hạng người làm công (misthios), nhưng là hạng nô lệ (doulos): "hầu hạ cha trung thành như một tên nô lệ".
- chẳng khi nào trái lệnh (29): Anh ta ý thức về sự trung thành của anh, anh nhấn mạnh đến lòng trung thành này, tức nêu bật điều nghịch lý ở đây là nhân đức lại được ban thưởng tồi tệ hơn là tât xấu!
- một con dê con (29): Chi tiết này cho thấy người con cả không tin tưởng vào cha, anh tính toán, kể công.
- thằng con của cha đó (30): Người con cả diễn tả mức khinh bỉ cao độ; anh ta không thể chấp nhận nói về người con thứ như là "em con". Ở đây thêm một lần nữa, tính từ houtos được dùng với nghĩa xấu.
- lúc nào con cũng ở với cha (31): Người cha không trách móc, than thở, không nói rằng người con cả sai; ông cũng chẳng phê phán thái độ cao ngạo hoặc bình phẩm gì cả. Ông coi mọi chuyện đó là đúng như thế. Nhưng ông chỉ nhấn mạnh trên sự liên kết thâm sâu giữa cha con: "Lúc nào con cũng ở với cha" (= con chưa bao giờ chết; con chưa bao giờ mất).
- tất cả những gì của cha đều là của con (31): nghĩa là tất cả của cải (x. c. 12), những gì còn lại sau khi người con thứ đã lấy đi phần của anh ta; tất cả những thứ này sẽ thuộc về người con cả, sau khi cha chết.
- em con (32): Câu trả lời của người cha làm vọng lại công thức của người anh, và là một cách sửa chữa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Một dẫn nhập (1-3)
Các câu mở đầu (cc. 1-3) đưa chúng ta trở lại với lời các kinh sư nhắc nhở: "Đừng có một ai đi với những kẻ gian ác, cho dù để tìm cách thuyết phục họ đi theo lề luật của Thiên Chúa". Những người thu thuế và tội lỗi không được thuộc về cộng đoàn, vì Thiên Chúa đã ngoảnh mặt đi tránh họ; do đó, Israel cũng phải làm như thế. Như thế, cấm không được nhận lời mời đến ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi. Vậy mà Đức Giêsu lại đón tiếp họ! Đã thế, Người lại còn ăn uống với họ, tức là làm một việc đáng trách hơn nữa, vì ăn uống với ai là kết giao, chia sẻ tình bạn, tình liên đới với người ấy. Cách xử sự này khiến người Pharisêu và các kinh sư rất khó chịu. Họ không chống Đức Giêsu bởi vì Người thương xót kẻ tội lỗi, nhưng bởi vì Người ăn uống với kẻ tội lỗi.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã đến để cứu tất cả mọi người; những người thu thuế và tội lỗi phải đến với Người bởi vì họ không gặp được ở nơi nào khác lời đưa lại niềm hy vọng và sự tiếp đón ân cần nhưng-không.
Dẫn nhập này đưa lại cho [các] dụ ngôn một đặc tính là biện hộ, là bào chữa cho cách xử sự của Đức Giêsu đối với người tội lỗi. Người giải thích không phải là cho những kẻ tội lỗi, nhưng cho những người "công chính" đã vấp phạm vì Người. Qua cách xử sự này, Đức Giêsu cho thấy là sự hoán cải không là điều kiện tiên quyết người ta phải có để được Thiên Chúa đón tiếp; trái lại Thiên Chúa đã thực hiện "sự hoán cải" trước, để người ta có thể lại đi vào quan hệ an bình với Ngài.
* Dụ ngôn "Người cha nhân hậu" (11-32)
Cả hai người con được nói tới chỉ là để cho người cha có cơ hội diễn tả các tâm tình của ông ra.
a) Người con thứ:
Sau khi đã nhận đủ phần gia tài, người con thứ đi đến một xứ xa xôi, hẳn là một miền đất dân ngoại. Tại đó, anh đã xài hết tiền của. Rơi vào tình trạng khốn đốn, anh phải chăn heo: đây là sự sa cơ thất thế cùng cực! Anh ta suy nghĩ. Nhưng không phải là hối hận về lối sống, không phải là tiếc nuối vì đã làm cho cha đau buồn. Anh ta chỉ tự trách là ngu ngốc chịu đói chịu khát ở đây trong khi các tôi tớ ở nhà có ăn dư thừa. Thế là để có thể trở về và được nhạn vào nhà như người làm công, anh chuẩn bị một bài "diễn từ cảm đông" để mong cha nguôi giạn: các lời lẽ hối tiếc không đi đôi với các tâm tình của anh.
Quả thật hình ảnh này không tôn vinh kẻ tội lỗi chút nào. Đây đúng là chân dung mà người Pharisêu chờ đợi.
b) Người con cả:
Lúc người con thứ trở về, người con cả đang làm việc ngoài đồng. Khi trở về, anh nhận ra trong nhà có chuyện lạ. Sau khi hỏi một người đầy tớ, anh ta hiểu chuyện; anh không thể chấp nhận được, anh nổi giận. Ta thông cảm với anh. Vì anh không chịu vào nhà, người cha đã ra gặp. Thế là anh cho tuôn ra hết những gì vẫn chất chứa tận đáy lòng: anh nói với giọng chua cay, nhưng kể ra đúng các sự việc. Theo anh, đúng là người cha đã xử sự bất công! Những người Pharisêu và các kinh sư cũng nghĩ rằng họ có lý khi tỏ ra khó chịu với Đức Giêsu.
Trước tiên người con cả nói về chính mình: "Bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh". Chắc chắn đấy cũng là lý tưởng của người Pharisêu và các kinh sư: "phục vụ" Thiên Chúa bền bỉ, và rất chú ý để không bao giờ vi phạm một điều răn nào.
Sau đó, người con cả nói về em với giọng hết sức khinh bỉ. Anh không gọi là "em con", nhưng nói là "thằng con của cha đó". Điều này cũng giống như người Pharisêu trong dụ ngôn Lc 18,10-14 nói đến "tên thu thuế kia" với giọng miệt thị.
Như thế, Đức Giêsu đã ngỏ lời với những người vẫn nghĩ rằng mình là những tôi tớ tốt lành, luôn quan tâm để không bao giờ thiếu sót một điều răn nhỏ. Khi đó, họ nghĩ họ có nhiều quyền; họ tỏ ra khó chịu, không phải đối với người tội lỗi, nhưng đối với chính Thiên Chúa vì Ngài đã đối xử với kẻ tội lỗi như vậy: Nếu như thế, sống đạo đức còn ích lợi gì? Nếu như thế, sống trung thành và vâng phục Thiên Chúa còn có ý nghĩa gì nữa?
c) Người cha:
Người cha tôn trọng tự do của các con, ông đã chia gia tài cho các con và để chúng tự do định liệu. Ông không ép người con thứ ở lại nhà. Ông cũng không tìm cách kéo nó trở về. Ông chỉ trông mong người con từng ngày, nên ngay khi anh còn ở đàng xa, ông đã trông thấy. Ông vội vã chạy ra đón con, ông cuống quýt thúc đầy tớ chuẩn bị lễ mừng. Ông chẳng màng đến bài diễn từ bần tiện của anh ta. Ở nhà có con bê béo, ông quyết định cho giết ngay để ăn mừng. Rõ ràng trong lòng ông, niềm vui đang bùng nổ. Ông chưa bao giờ thôi thương yêu con. Nó đi xa, nó đã mất; nay nó lại được tìm thấy. Quá khứ không còn gì đáng kể, Điều quan trọng là nó đã trở về!
Đã không muốn nghe lời hối lỗi của con thứ, nay người cha lại để cho người con cả tha hồ nói lên những tâm tình chua chát. Sau đó, ông đã trả lời với giọng dịu dàng âu yếm. Qua lời ông nói, người con cả chẳng còn lý do gì mà nói rằng cha xử bất công với mình nữa. Nhưng ông tế nhị điều chỉnh: "vì em con đây...". Nếu cha đã sung sướng đến thế khi gặp lại con, lẽ nào người anh lại không vui sướng khi gặp lại em?
Chúng ta không bao giờ biết được phản ứng sau đó của người con cả (nghe theo đề nghị của cha? Đi vào nhà và chào em? Đi vào ăn tiệc chung vui?). Chúng ta cũng không biết người con thứ được sống theo chế độ nào, anh ta sẽ đáp lại thế nào. Dù sao, toàn chương 15 giống như một bài ca chan hòa niềm vui được tấu lên để mừng niềm hạnh phúc của người đã tìm lại được điều mà họ đã mất.
+ Kết luận
Bản văn giới thiệu người cha như một biểu tượng về chính Thiên Chúa. Tình thương vô điều kiện và lòng thương xót của Ngài được tỏ ra không những đối với người tội lỗi hoán cải mà cả đối với kẻ chỉ trích vì không hiểu biết và thiếu thông cảm. Thiên Chúa mời gọi mọi người hoan hỷ khi người tội lỗi trở lại. Bởi vì lời mời gọi này được Đức Giêsu truyền đạt, và chính Người đã đón tiếp những người tội lỗi, ta hiểu là Người mời gọi mọi người hoan hỷ với Người. Nếu dụ ngôn nói với chúng ta về niềm vui của Thiên Chúa, thì lại chính là Đức Giêsu phác ra trong dụ ngôn đó cách thức hành động của chính Người. Có một sự đồng hóa ngầm giữa hành vi của Thiên Chúa và của Đức Giêsu. Trong khi thi hành sứ vụ, Đức Giêsu chính là Đấng đã diễn tả niềm vui và lòng thương xót của Thiên Chúa ra cho loài người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Thiên Chúa thương tất cả mọi người và muốn cho mọi người đều được cứu độ. Nhưng "tất cả" không có nghĩa là một khối người tương đối đông, mà là "từng người". "Tất cả" là "từng người" trong thế giới, không bỏ sót một ai. Thiên Chúa chiếu cố đến từng con người y như chỉ có một mình người ấy trên đời.
2. Chúng ta có thể thấy mình như người con thứ: không phải là tên ăn cắp, chỉ lấy đúng phần mình; chúng ta cũng còn biết nói "thưa cha!", nhưng không hề vui thích được ở với cha, mà chỉ muốn ra đi "ăn chơi" cho thỏa thích. Và mỗi khi gặp khó khăn, thì chỉ dâng lên Thiên Chúa một lời cầu nguyện đầy vụ lợi, tính toán. Người con thứ không biết nghĩ rằng xin làm một "người làm công", thì sỉ nhục cha quá nặng nề, bởi vì cha vẫn chỉ mong đón mình về để làm "con". Nay được cha đón vào nhà rồi, anh có biết đáp lại tình cha không? Phần này, chính chúng ta sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.
3. Chúng ta cũng có thể thấy mình như người con cả, không bao giờ trái lệnh cha, nhưng cũng chẳng thích ở với cha; trái lại chỉ tính toán, mong có ngay "thoát ly" để đi vui chơi với bạn bè. Đã thế, chúng ta lại tỏ ra khinh bỉ, miệt thị những kẻ bị coi là "tội lỗi". Nay đã được cha ra gặp để tâm sự rồi, anh có vào nhà để chung vui không? Phần này, chính chúng ta cũng sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.
4. Vì không hiểu tình yêu của cha, cả hai người con, đặc biệt anh cả, không hiểu tiếng gọi kèm theo sự hiểu biết đó: anh chỉ thực sự là con của cha, khi yêu thương anh em mình. Ta không thể phục vụ Thiên Chúa như Ngài muốn nếu không yêu mến Ngài và thông chia tình yêu của Ngài cho anh chị em mình, cho dù họ thế nào. Làm sao có thể tự nhận là môn đệ của Đức Giêsu, khi khinh bỉ quay mặt tránh người anh em đang ở trong tình trạng bần khốn nhất, do tội lỗi gây nên?
84. Chú giải của Noel Quesson
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này
Những câu này dẫn nhập cho "ba dụ ngôn về lòng thương xót". Con chiên lạc được tìm thấy, đồng tiền mất lại tìm được, đứa con mất được gặp lại. Như thế, ba câu chuyện này đã được Đức Giêsu kể ra để biện hộ. Vậy tôi bắt đầu nhìn ngắm Đức Giêsu giữa các người tội lỗi, đang đồng bàn với họ - ôi! Chiếc "bàn" kỳ diệu biết bao.
Những người tội lỗi đang ngồi ở đó với Đức Giêsu. Lạy Chúa, Chúa đã nói gì với họ, để lôi cuốn họ, khiến những kẻ khác phải lẩm bẩm?
Một người kia có hai con trai
Chúng ta có tập quán không hay chỉ nghe phần đầu của dụ ngôn, phần nói về người con trai thứ nhất, đứa con hoang đàng. Nhưng người cha mới là nhân vật chính: "Một người kia có hai đứa con trai". Đó là dụ ngôn "người cha hoang phí” mà ta sắp nghe. Dụ ngôn là một bi kịch, gồm hai hồi: Cuộc xung đột giữa một người cha và hai đứa con của ông thương yêu đồng đều và nồng nàn nhất. Đó là một câu chuyện thường được sống lại trong nhiều gia đình. Hỡi các người cha và các bà mẹ trên thế gian, đó chính là bi kịch của Thiên Chúa mà các ông bà đang sống. Vậy các ông bà hãy lắng nghe câu chuyện tình yêu đẹp nhất hình ảnh đẹp nhất của Thiên Chúa!
1. Hồi thứ nhất: Thái độ của người cha với người “con út”.
Người con thứ nói với cha rằng: ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.' Và người cha đã chia của cải cho hai con
Người con này chỉ là một kẻ hưởng thụ: Anh ta đòi hỏi tiền, yêu sách thật nhiều tiền. Anh ta chỉ nghĩ đến mình. Anh ta nhận được tất cả từ cha mình, nhưng không biết điều đó. Anh ta chỉ biết làm có một việc: đòi hỏi, yêu sách, áp lực - khiếu nại.
Người cha có thái độ hoàn toàn ngược lại với anh ta. Ông chỉ cho không, luôn chia sẻ, cho cách vô vị lợi, tôn trọng tự đo kẻ khác. Ông là chính tình yêu! Qua hình ảnh người cha này, Đức Giêsu nói với ta về Thiên Chúa. Chúng ta có hình dung Thiên Chúa như thế không?
Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. "Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: ‘Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.' Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
Người con út này là hình ảnh của người tội lỗi, mà người Pharisêu thường hình dung ra.
a) Đó là người con nổi loạn, đòi độc lập, tượng trưng cho khuynh hướng vô thần thuộc mọi thời đại: thụ hưởng “của cải" của Thiên Chúa mà không nhìn nhận Người, lìa xa Thiên Chúa, muốn gì làm đó mà không cần kiểm soát: “'Đâu biết đến Thiên Chúa, đâu biết đến chủ tể nào". Thái độ này không phải ngày nay mới có.
b) Hơn nữa với người Pharisêu, người con Israel này đã sa xuống vực thẳm của đê tiện. Anh ta tự bán mình làm nô lệ cho một người dân ngoại, như vậy anh không còn tôn trọng ngày Sabát nữa, đâu còn giữ nghi thức ăn uống theo luật nữa: Anh ta chăn heo loại thú dơ bẩn, bị cấm và đầy ghê tởm.
c) Ngoài ra chỉ nhìn theo quan điểm thuần tuý con người, thì sống như vậy cũng không có luân lý: Đó là một con người hư hỏng, không còn bản chất người, bị xuống cấp tụt xuống hạng thú. Chính anh ta cũng sống như một thứ heo: tiền bạc, ăn uống, dục tính, chỉ biết cái tôi và cái tôi.
Người ta tăng cường sự trang điểm cho anh, vì cảm phục anh trở về. Nhưng anh ta vẫn lấy lợi ích riêng của mình làm chúa tể: "Nhét cho đầy bụng". Sự trở về nhà của anh ta, dù có nói hay thế nào đi nữa cũng chỉ là một sự tinh toán bủn xỉn để tìm được chỗ ăn chỗ ở. Anh ta đau bụng hơn đau lòng. Đó là đứa con thật tội nghiệp, nạn nhân của bản năng mình, của bạn bè mình: Nó đã mất thói quen thương yêu. Nó chỉ còn biết nghĩ đến mình.
Lạy Chúa đó cũng là hình ảnh của con! Than ôi, con vẫn thường sống như thế đó:
Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để
Chúng ta cần ghi nhận, không cần người con mở miệng thưa gởi, thì người cha đã làm tất cả rồi. Ông thể hiện bốn cử chỉ: “ông thấy anh ta đằng xa", “ông chạnh lòng thương", "ông chay đến, ông ôm hôn". Có lẽ việc "chạy đến" là cử chỉ mạnh nhất trong dụ ngôn này. Thông thường không khi nào một bề trên lại chay tới một bề dưới, nhất là khi kẻ dưới lại có một thái độ bất bình với họ.
Vâng, người ta làm sai hoàn toàn ý nghĩa dụ ngôn của Đức Giêsu khi trình bày cuộc trở về của người con này, như một gương "hoán cải". Nếu Đức Giêsu chỉ mô tả thái độ "ăn năn" của một người tội lỗi, thì giáo huấn đó có thể đã không làm cho người Pharisêu bất bình. Vì từ lâu tại Israel, như toàn bộ Kinh Thánh minh chứng, người ta đều biết rằng, Chúa luôn tha thứ cho người tội lỗi biết ăn năn. Nhưng ở đây, cách đối xử của người cha này đi quá xa. Ông không cần biết đến con ông có biểu lộ chút ăn năn thực sự nào không. Vừa thấy con từ đằng xa, ông đã chay đến gặp nó. Đức Giêsu không muốn nhấn mạnh đến thái độ của đứa con hoang đàng, những việc làm sám hối đền tội của nó; nhưng Người chỉ muốn nhấn mạnh về tình yêu nhưng không của người cha, một người cha đã tha thứ trước khi con ông thú tội, không đặt một điều kiện nào hết! Đức Giêsu nói với chúng ta làm con là như thế nào: Trước tiên đó không phải là cần có một thái độ nào đối với cha mẹ mình, nhưng là được cha mẹ mình thương yêu, dù xứng đáng hay bất xứng. Đó là điều đã được mạc khải trong ngôn sứ Hôsê: "Chúa vẫn trung thành tiếp tục thương yêu người bất trung". Lạy Chúa, Chúa thương yêu chúng con với một tình yêu vô bờ.
Các bạn tự cho mình là vô thần, hay thực tế sống như những người vô thần, các bạn là những người tội lỗi, đang xa cách Thiên Chúa, đang né tránh người, Đức Giêsu muốn nói với các bạn: "Dù các bạn không tin nơi Chúa, không yêu Chúa, thì Chúa không bao giờ ngừng tin các bạn và thương yêu các bạn!" Như vậy, chúng ta mới hiểu những người tội lỗi đã chay theo Đức Giêsu!
Bấy giờ người con nói rằng: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...’ Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: ‘Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!
Người cha không để cho người con nói hết câu mà anh ta đã chuẩn bị trước. Ông ban cho con mình quá sự mong muốn. Đó là một lễ cưới thực sự: áo đẹp, nhẫn đeo, giày dép, bữa tiệc, âm nhạc.
Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.' Và họ bắt đầu ăn mừng
Đây là điệp khúc kết thúc hồi thứ nhất của bi kịch. Trong chốc lát, chúng ta sẽ thấy điệp khúc này có hai từ thay đổi: “con ta" thành "em con". Chết - sống lại -bắt tìm thấy. Đối với Đức Giêsu, đây là cái chết như thế nào?
Ôi đây là mạc khải bi thảm mà Đức Giêsu muốn rọi chiếu vào vùng vô thức của ta: Xa cách Chúa, là phải chết. Con thực sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa. Chỉ có đức tin mới cho ta thấy thực tại đích thực. Ta có thể tưởng mình đang sống mà thực ra đã chết.
“Tiệc mừng" của Thiên Chúa! "Niềm vui, của Người! Hoán cải, đó chỉ là bước vào niềm vui của Thiên Chúa. Thế mà rõ ràng, đó là điều mà người anh cả sắp từ chối.
2. Hồi thứ hai: Thái độ của người cha đối với người “con cả”.
Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: ‘Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.' Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ
Đối với người con cả, người cha này cũng biểu lộ cùng một tấm lòng nhân hậu: "Ông bước ra năn nỉ". Kinh Thánh thường trở lại đề tài: Những hồng ân Thiên Chúa được ban tặng cách tuyệt đối nhưng không, qua đề tài người con út giành chỗ người con cả (St 2,36,2; Mcb 4,26; Cn 30,23; Hs 12,4). Như vậy, người Pharisêu có thể nhớ tới trường hợp Giacóp đã chiếm chỗ của Esau, nhận gia tài mà đúng ra ông không được hưởng. Cũng vậy, "những người thợ giờ chót" sẽ thay chỗ những người đầu tiên "làm vườn nho" (Mt 20,18). Cũng như thế, "người hàng chót sẽ lên hàng đầu (Lc 13,30,1; Cr 15,18). Y như vậy "dân ngoại sẽ thay thế cho dân được tuyển chọn: Đó là quyền tuyệt đối và tình yêu nhưng không của Thiên Chúa (Rn 9,30). Trước thái độ của Thiên Chúa như thế, không thể nói bất công được! Chúa thương yêu tất cả mọi người. "Chẳng lẽ vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức sao?" (Mt 20,15). Lạy Chúa Cha, con sẽ tạ ơn Chúa không biết mỏi mệt vì phổ quát của Chúa. Con thường tự hỏi xem, con yêu Chúa thực sự không, nhưng con vẫn biết thương yêu con.
Cậu trả lời cha: ‘Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!
Như vậy, người con cả cho chúng ta thấy chính mũi nhọn của dụ ngôn này: Anh ta không nhận thấy trọn vẹn Tình yêu mà anh ta đang thừa hưởng.
Nhưng người cha nói với anh ta: ‘Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.
Qua dụ ngôn hai hồi này, chúng ta được mời gọi bước vào trong Tình yêu của Thiên Chúa, vào trong niềm vui của Người, khi thấy kẻ tội lỗi trở lại. Đó là lời loan báo cuộc trở lại của các dân ngoại, dân mới của Thiên Chúa. Một ngày kia, Luca sẽ đặt vào môi miệng Phêrô những lời sau đây, khi Phêrô nhận thấy ân sủng được ban cho viên đại đội trưởng ngoại giáo Conêliô: "Vậy Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu - Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa" (Cv 11,17). "Không dành đặc ân, cho ai cả". Mọi người đều được thương yêu.
85. Ba dụ ngôn về lòng thương xót--Giáo Hoàng Học Viện Pio X
1. Nhập đề của ba dụ ngôn đã phóng đại rằng: tất cả những kẻ thu thuế và những người tội lỗi thường lui tới bên Chúa Giêsu để nghe Ngài. Việc thêm thắt chữ “tất cả” vào trong nhập đề này có ý chỉ phương thức căn bản của sứ mệnh và thái độ của Chúa Giêsu: Ngài đến để kiếm tìm và cứu vớt những gì đã hư đi (x.L 19,10), nghĩa là tất cả. Điều này, do đó, cũng có giá trị cho hai hạng người thu thuế và tội lỗi nữa. Họ cần phải đến với Ngài và nghe lời Ngài, bởi vì họ không thể tìm được nơi nào khác lời hy vọng và sự tiếp đón nhưng không đó. Điều đó đã làm cho các biệt phái và ký lục phàn nàn kêu trách: “Ông này tiếp đón những người tội lỗi và cùng ngồi ăn với họ” (c.2). Lời kêu trách này cũng giống như giai thoại ông Lêvi và đối đáp với các ký lục Biệt phái nơi phúc âm Mc (2,12-17). Nơi Lc, lời kêu trách nhắm hai điểm: Ngài tiếp đón những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn với họ. Điểm trách cứ thứ nhất cho thấy rằng những người thu thuế và tội lỗi không phải là thành phần của cộng đoàn tôn giáo và xã hội Israel; ít ra theo giáo thuyết các giáo sĩ Do thái; giáo thuyết này đã có câu châm ngôn như sau: TC yêu thương những người công chính và gớm ghét người tội lỗi. Bởi vì TC gớm ghét người tội lỗi nên Israel cũng phải làm như thế. Nhưng Chúa Giêsu làm ngược lại. Ngài tiếp đón các tội nhân.
Điểm kêu trách thứ hai còn nặng nề hơn: “Ông ta cùng ngồi ăn với chúng”. Tiếp đón những người tội lỗi chưa đủ, Chúa Giêsu còn đi xa hơn: cùng ngồi ăn với họ. Trong cổ thời, bữa ăn có nghĩa là liên minh, thân hữu, liên đới giữa con người với nhau và giữa con người với TC. không cần nói, mà chỉ bằng thái độ, Chúa Giêsu cho thấy rằng TC rõ ràng muốn hiệp thông với kính những người tội lỗi.
Nhập đề này gán cho những dụ ngôn tiếp theo một tính cách biện hộ, bênh vực thái độ của Chúa Giêsu đối với những người tội lỗi. Nhưng trong câu cho thấy, thái độ của Chúa Giêsu đối với những người tội lỗi chắc chắn không có nghĩa là họ được công chính hóa vì là tội nhân. Tội nhân cũng cần tự mình hoán cải. Nhưng điểm mới mẻ là ở chỗ: sự cải hóa của họ không phải là điều kiện tiên quyết để được TC ân cần tiếp đó (như thần học các giáo sĩ Do thái chủ trương): ngược lại, sự hoán cải này trước tiên được TC thực hiện. Chính người mục tử lên đường tìm kiếm con chiên lạc, ông không ngồi đợi con chiên trở về. Điều phải làm trước tiên là chứng tỏ tình yêu đối với người khác; chính nơi TC mà ta tìm thấy khởi điểm của việc con người trở về.
2. Đâu là điểm chính yếu của chương này. Ta hãy thử tóm tắt: ở đây, không có sự từ chối hoàn toàn giáo thuyết biệt phái, nhưng là một thái độ rất hòa hoãn trước lời tố cáo của địch thủ Chúa Giêsu, một lời mời gọi thực sự nói qua dụ ngôn, mời gọi bắt chước cách thế hành động của chính TC. TC đã kinh nghiệm được một niềm vui khôn tả khi một tội nhân đi vào nước trời; hơn nữa Ngài đã kêu mời mọi người chung vui với Ngài vì tội nhân trở lại; tội nhân ngày xưa đã lạc mất và hiện tìm thấy, trước đây đã chết và nay sống lại. Suốt cả chương mời gọi ấy cứ vang mãi cho đến lúc bừng lên ở đoạn cuối. Chính Người mục tử mời gọi bạn bè và láng giềng đến chia vui với ông; chính người đàn bà đã làm như vậy, và chính người cha cũng mời gọi tôi trai tớ gái của ông đến chung ly rượu vui mừng. Đặc biệt nhất là lời mời gọi khẩn thiết, van nài vối với người con cả. Niềm vui tột đỉnh của TC là không loại trừ một người nào. Ngài mong ước cho chúng ta được niềm hân hoan phát sinh từ sự thay đổi sâu xa tận đáy tâm hồn.
Ngay cả từ ngữ cũng hướng ta về ý nghĩa ấy: các diễn tả niềm vui dầy đặc cả trong văn bản. Trước hết có thể kể chữ “tiếp đón” (prosdechetai), như nhiều tác giả đã nghĩ; rồi chắc chắn là chữ “mừng rỡ” (c.5), “chia vui” (c.6), “vui mừng” (c.7), “chia vui” (c.9), “vui mừng” (c.10), “ta hãy ăn khao” (c.23), “đàn ca múa hát” (c.25), “phải ăn khao mà mừng chớ” (c.32). Đó là niềm vui phải cùng chung với những người khác: người mục tử và người đàn bà với bạn bè (xin xem các động từ kép sugkalsin, sugchairein), TC với các thiên thần, người cha với tôi tớ và nhất là với con cả. Ta còn có thể kể thêm ý tưởng “tìm lại được”, một tiếng diễn tả niềm vui vỡ bờ của kẻ đã từng kinh nghiệm điều đó.
Nhưng trong văn mạch, lời mời gọi chung vui này mang một khía cạnh Kitô học rất đặc biệt: đó là một lời mời gọi khó lòng đón nhận nếu không có một thay đổi não trạng tận gốc, chính Chúa Giêsu đã phát biểu như vậy; chính thái độ của Ngài đã phản ảnh tinh thần và niềm vui của TC khi Ngài tiếp đón tội nhân; chính Ngài đã muốn rằng mọi người phải chung vui với Ngài. Kẻ nhìn thấy Chúa Giêsu cũng nhìn thấy TC và không chê bai lối hành động của Ngài. Con người của Chúa Giêsu không phải là một cái gì được thêm vào cho sứ điệp tin mừng và cho lời rao giảng Nước Trời. Ngược lại Ngài chính là sự mới mẻ chủ yếu của sứ điệp đó. Các dụ ngôn đây hoàn toàn không phải là một sự lặp đi lặp lại cách vô ích ơn tha thứ mà TC dành cho người tội lỗi như trong lời rao giảng của các ngôn sứ đâu. Nếu các dụ ngôn nói cho chúng ta về niềm vui của TC, thì Chúa Giêsu đã miêu tả cho chúng ta thấy phương thế hành động riêng của Ngài. Điều đó có thể được vì giữa hành động của TC và hành động của Chúa Giêsu có một sự đồng hóa âm thầm nhưng thực sự. Trong phúc âm của thánh Lc, Chúa Giêsu mời gọi ta bắt chước TC: “Hãy biết xót thương như Cha các ngươi là Đấng thương xót” (6,36). Nhưng ở đây còn hơn nữa: trong sứ mạng của Người, Chúa Giêsu là Đấng qua đó TC bày tỏ cho chúng ta niềm vui và sự thương xót của Ngài. Bởi thế, phàn nàn chống đối Chúa Giêsu, cuối cùng là phàn nàn chống đối TC, vì Chúa Giêsu lôi kéo tội nhân về với TC. Hầu như có thể giải thích cách thần học câu: “họ lui tới bên Ngài” thế này: Chúa Giêsu là người đầu tiên mời gọi chúng ta đến với nguồn vui ấy, nguồn vui ơn cứu rỗi ta.
3. Có một điều khiến các nhà chú giải phải lưu tâm ngay là: trong cặp dụ ngôn người mục tử, là có phúc âm thánh Mt (18,12-24); hai bản văn thuật lại dụ ngôn này dầu song song, vẫn khác biệt nhau: nơi Mt, hoàn cảnh không phải là sự tiếp đón các tội nhân, nhưng là sự săn sóc mà cộng đoàn phải chu toàn đối với những “kẻ bé nhất”; vì thế, kết luận cũng hoàn toàn khác biệt trong hình thức (phủ định nơi Mt) cũng như trong nội dung. Có thể tóm lược những dị biệt này như sau: Mt nhấn mạnh việc tìm kiếm, Lc nhấn mạnh niềm vui tìm gặp; trong Mt, Chúa Giêsu mời gọi những kẻ mạnh hay các mục tử hãy dẫn dắt kẻ yếu đuối về, trong khi Lc làm nổi bật niềm vui tha thứ của TC; Mt nhấn mạnh đến bổn phận phải chu toàn, Lc lại đi sâu vào con tim TC; Mt cho các tông đồ một qui luật, Lc lại mô tả sự nhân lành của Đấng cứu thế đối với tội nhân.
4. Trong hai dụ ngôn đầu của chương 15 này, người ta thấy có sự đồng nhất cơ cấu đặc biệt đến nỗi có thể gọi chúng là hai dụ ngôn “sinh đôi”
(người đàn ông)
Ai trong các ông
giả sử có một trăm con chiên
và lạc mất một con
há người ấy lại không bỏ
cho đến khi tìm ra con chiên lạc đó ư?
Tìm được rồi…
lại không gọi bạn bè hàng xóm
và phân phố với họ thế này sao:
“bà con hãy chia vui với tôi”
tôi đã may mắn tìm thấy con chiên lạc của tôi
Cũng vậy, tôi bảo các ông,
… sẽ vui mừng
vì một người tội lỗi hối cải
hơn là vì 99 người công chính… (người đàn bà)
Bà nào
có mười đồng bạc
nếu rủi mất một đồng
há bà ấy lại không chong đèn…
cho đến khi tìm được đồng bạc đó ư?
Tìm được rồi…
lại không gọi bạn bè hàng xóm
và phân phố thế này sao:
“bà con hãy chia vui với tôi”
tôi đã tìm thấy đồng bạc tôi đánh mất
Cũng vậy, tôi bảo các ông,
… vui mừng
vì một người tội lỗi hối cải
hơn là những kẻ không cần ăn năn.
Sự song đối thật quá hiển nhiên: câu hỏi ban đầu, hình thức lời nói, từ ngữ, ý tưởng… Với phương cách đặc biệt, vịêc lặp đi lặp lại các ý niệm và các từ ngữ đều gợi lên niềm vui và mời gọi chúng ta đến chia sẻ.
Bố cục theo một lược đồ đồng nhất, hai dụ ngôn này vì thế đề ra cùng một giáo huấn. Rất là thanh nhã, Chúa Giêsu lần lượt đưa vào một người đàn ông và một người đàn bà, một mục tử mất chiên và một nội trợ mất tiền. Các con số ở đây không quan trọng lắm. Có chặng là chính đơn vị bị mất mát, được tìm kiếm, và gây nên nỗi vui mừng cúc tìm thấy: một con chiên (trong cả đàn chiên), một đồng bạc (tiền công của một ngày làm việc) trong cả chút gia sản nhỏ bé, và (trong áp dụng) một tội nhân ăn năn, một linh hồn được cứu; điều đó đáng làm người ta chú ý.
a. Hình ảnh người mục tử tìm được con chiên mình (cc.3-6):
Nhận thấy thiếu mất một con chiên trong đàn, người mục tử để 99 con chiên ngoan ngoãn gặm cỏ nơi hoang vắng (phải hiểu là để lại trong an toàn, nơi đồng cỏ vùng cao), để đi tìm con chiên lạc. Kể từ đây, trình thuật tập trung vào việc làm sáng tỏ thái độ của mục tử đối với con chiên duy nhất này. Ông đi tìm, ông gặp được nó, ông vui mừng, nỗi vui mừng phát biểu qua hai cách: ông vác con chiên lên vai như một giải khăn quàng sống động để cảm thấy nó thật gần gũi với mình; ông kêu mời bạn bè hàng xóm đến chia sẻ hạnh phúc của ông: niềm vui của ông tỏa rộng và lây sang người khác.
Hình ảnh này có lẽ hơi phóng đại (nhất là trong cách biểu lộ sự vui mừng) vì muốn ghi khắc bài học vào tâm trí. Nhưng nếu xét thực tế một chút, người ta thấy cử tọa dễ dàng và tự nhiên đồng ý với người thuật truyện và đi vào trong: “Ai trong các ông lại không làm như thế” (c.4). Được vuốt nhẹ một chút, thính giả chấp nhận ngay liền.
b. Hình ảnh bà nội trợ tìm lại được đồng bạc (cc.8-9)
Đây là cảnh xảy ra bên trong nhà người dân Palestine: một căn phòng bằng đất nện, với vài chiếc chiếu, hay một ít đồ đạc lỉnh kỉnh. Ánh sáng không có bao nhiêu và chỉ đi lọt qua cửa chính vì nếu mở cửa sổ, nóng sẽ hắt vào. Ngay giữa ban ngày, cũng cần một ngọn đèn nhỏ để soi các xó góc. Câu chuyện được diễn tả chỉ trong vài tiếng: đồng tiền bị mất, người đàn bà gia công tìm kiếm (soi đèn và quét tước khắp nơi) tìm được rồi lòng ngập mừng vui. Đồng tiền thế nào cũng được cất lại một nơi chắc chắn, và niềm vui nói mãi không cùng với bạn bè hàng xóm, những người được réo gọi và chạy sang với một sự hiếu kỳ đầy thiện cảm.
c. Giáo huấn của hai dụ ngôn cc. 7 và 10)
Chúa Giêsu không bắt chúng ta khám phá giáo huấn đó. Ngài đã cắt nghĩa rõ ràng: đó là niềm vui của TC: “Trên trời sẽ vui mừng” (c.7), “vui mừng ắt vang lên giữa các thiên thần của TC” (c.10); hình thức chuyển từ kiểu Do thái này là để tránh đề cập trực tiếp đến TC. Nhưng toàn văn mạch chỉ rằng niềm vui đó là niềm vui của Ngài và của triều thần thiên quốc), niềm vui được mô tả một cách như nhân để những thực tại của TC dễ thấu đạt chúng ta.
Đối tượng của niềm vui vỡ bờ này là sự thu hồi tội nhân: một sự thu hồi do TC, một kết quả của lòng người lo lắng cho kẻ đã lạc mất (xem các chi tiết của hai dụ ngôn); sự thu hồi đó giả thiết tội nhân đã để TC bắt lấy (như con chiên và đồng bạc) cho nên sự hối lỗi, sự trở lại của anh ta không gì khác hơn là sự đáp ứng lại những bước đầu tìm kiếm của Ngài.
Nhưng cần nhắc lại rằng hai dụ ngôn không phải là lời mời gọi hoán cải. Chúng trực tiếp diễn tả niềm vui của TC. Đấng đã sung sướng trong sự chiến thắng của tình thương xót Ngài, sau khi đã động viên toàn lực để dẫn đưa kẻ lầm lạc trở về.
5. Dụ ngôn người cha của đứa con hoang đàng hẳn là một trong những trang phúc âm lôi cuốn nhất. Không cần mất thì giờ dừng lại trên những phân tích tâm lý tinh vi, trên nghệ thuật trình bày tài tình. Nhưng phải giới hạn lại, và ở đây tốt hơn, nên chú ý nhiều đến giáo huấn tôn giáo mà dụ ngôn muốn ghi khắc vào tâm trí.
Có một tương quan chặt chẽ nối kết dụ ngôn này với hai dụ ngôn trước trong chương 15 của phúc âm Lc. Trước hết ai cũng nhận thấy các kết luận đều giống nhau trong suốt cả chương âm vang như một điệp khúc: “hãy vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên lạc” (c.6), “Hãy vui mừng với tôi vì tôi đã tìm được đồng tiền đánh rơi: (c.9), “Ta hãy ăn mừng vì con Ta đây đã chết mà nay được sống, đã lạc mất mà nay lại tìm thấy” (c.32). Toàn chương như một bài ca tán tụng hạnh phúc của người tìm lại được cái mình đã mất đi.
Tính cách duy nhất đó được biện minh cho cách thức Lc dẫn nhập vào dụ ngôn bằng hai câu ông đã đặt ở đầu chương. Kẻ tỉ mỉ sẽ nhận xét rằng nhập đề này chỉ liên hệ trực tiếp đến dụ ngôn đầu mà thôi. Thật ra nó liên hệ đến cả hai dụ ngôn kia nữa vì cả ba ăn khớp với nhau. Và lại ta sẽ thấy rằng, nhập đề ấy hoàn toàn phù hợp với nội dung của dụ ngôn sau cùng: Chúa Giêsu sở dĩ đưa ra dụ ngôn này là vì các người biệt phái và ký lục đã công phẫn trước thái độ ân cần chiếu cố của Ngài đối với những người tội lỗi.
Dụ ngôn rõ ràng chia làm hai phần, phân ra nhờ điệp khúc ngắn rõ ràng của câu 24. Phần đầu diễn tả thái độ của người cha đối với đứa con hoang đàng, phần sau nói lên khó khăn của ông đối với người con cả. Hai đứa con hiện diện ở đó là để ông cha có cơ hội biểu lộ tình cảm của mình (cho nên vị anh hùng đích thực của dụ ngôn không phải là thằng con hoang đàng, song là cha của y). Nhưng những chi tiết về hai người con cũng soi cho ta thấy đâu là hoàn cảnh của dụ ngôn, đâu là vấn đề chính yếu khiến Chúa Giêsu muốn ban ra một giáo huấn. Giáo huấn này chắc chắn nằm trong những lời nói của người cha. Do đó, thay vì lần lượt xem xét hai phần của trình thuật, có lẽ nên xác định đâu là hoàn ảnh của dụ ngôn bằng cách trước hết chú ý chân dung của hai người con. Chân dung của người con cả đơn giản hơn hết, nên ta sẽ bắt đầu nói về anh trước sau đó đến người con thứ, rồi người cha và cuối cùng đề cập đến giáo huấn mà Chúa Giêsu muốn đưa ra qua trung gian ông già này.
1. Người con cả
Khi đứa con thứ trở về, anh ta đang làm việc ngoài đồng. Chiều đến, sau một ngày lam lũ trở về nhà, không hay biết gì hết. Trong nhà cuộc vui đã tới hồi náo nhiệt với ca nhạc và nhảy múa. Anh con cả kêu người giúp việc, hỏi về chuyện đang xảy ra. Câu trả lời thật khó nghe: “Ấy, em cậu vừa về, nên cha cậu đã cho hạ bò tơ béo, bởi vì cụ đã được lại con an lành mạnh khỏe” c.27). Nghe vậy, anh ta giận dữ vô cùng. Cách thức nhận tin cho thấy phản ứng của anh. nhưng phải biết rằng: bản văn không muốn tô vẻ người con đầu lố bịch. Bản văn chỉ cho thấy anh ta đang giận dữ, Và giận dữ không phải không có lý do.
Vì anh từ chối vào nhà, nên ông cha phải đích thân ra van nài anh vào. Sẵn cơn tức giận, người con cả trút hết nỗi uất ức chất chứa trong lòng bấy lâu: “Này biết bao năm trời, tôi làm tôi ông cùng chưa hề cãi lệnh ông, thế mà có bao giờ ông cho tôi được một con dê để ăn mừng với chúng bạn. Còn khi thằng con của ông kia đã ngốn xong cả sản nghiệp của ông với đàn đĩ mà về, thì ông lại hạ bò tơ béo mừng nó” (cc.29-30)
Anh ta đã thốt lên một cách cứng cỏi, nếu không nói là thô lỗ; nhưng xét cho cùng, thực đúng như vậy. Anh ta nghĩ rằng cha mình đã xử sự không đúng, và phải công nhận anh có lý. Lời kêu trách của anh nhắc ta nhớ lại lời kêu trách của những người thợ giờ thứ nhất khi họ phản đối thái độ của ông chủ vườn nho: “hạng cuối hết này (những người thợ tới làm việc lúc 11 giờ) đã chỉ làm một giờ thôi, thế mà ông lại kể ngang hàng với chúng tôi, là những kẻ đã vác nặng cả một ngày trường với nắng nôi thiêu cháy” (Mt 20,12). Qua những lời kêu trách của người con cả và những người thợ thứ nhất, có thể nhận ra được cảm nghĩ của những người mà Chúa Giêsu đã hướng dụ ngôn tới. Dẫu bằng cách khác, họ cũng nghĩ rằng, quyền lợi của họ đã bị thiệt thòi. Một cái gì đó đã xảy ra khiến họ phải bảo: “Như thế là không công bình”.
Trước khi trả lời họ, Chúa Giêsu cho thấy những thông cảm với những khó khăn của họ. Bản trình thuật đã khéo sắp xếp để cho đối tượng của dụ ngôn nhận ra mình trong người con cả và thấy anh ta là phát ngôn cho mình.
Người con cả trước hết nói về chính bản thân anh: “Này đã biết bao năm trời tôi làm tôi ông, cùng chưa hề trái lệnh ông. Các từ ngữ anh ta xử dụng để diễn tả lòng trung thành của mình đối với Cha chính là từ ngữ đã xác định lý tưởng tôn giáo của các ký lục và biệt phái: bền tâm làm tôi TC, ra sức lo lắng để đừng bao giờ “trái lệnh” của Ngài.
Sau đó, người con cả còn nói với người con thứ bằng một giọng vô cùng khinh bỉ. Anh ta tránh gọi là “em con” nhưng nói “thằng con của ông kia”. Thật đúng như người biệt phái của dụ ngôn Lc 18,10-14 đã gọi “tên thu thuế kia” vậy. Cũng thái độ khinh miệt ấy tỏ lộ qua những từ ngữ khiếm nhã lên án hạnh kiểm của đứa con hoang đàng.
Như thế đã đủ để cho ta thấy rõ hạng người mà dụ ngôn muốn nhắm đến. Chúa Giêsu ngỏ lời với những kẻ tự cho mình là tôi trung của TC, những kẻ đã cố giữ để đừng bao giờ vi phạm giới răn Ngài. Họ nghĩ rằng một lòng đạo đức như thế cho họ được quyền, và họ phẫn uất trước những gì xem ra bất công đối với họ. Không pgải là họ phẫn uất trước kẻ tội lỗi, những người này chỉ làm cho họ khinh bỉ. Sự phẫn uất, khó chịu của họ, chúng ta đã thấy rồi là do thái độ của TC đối với các tội nhân: nếu TC cũng nhân lành với kẻ tội lỗi như thế, thì người công chính nào có hơn gì không? Lòng thương xót của TC đối với người tôi lỗi há không làm lung lay nền tảng của một tôn giáo chủ trương trung thành vâng lời TC sao? Nếu các kẻ tội lỗi là những người được TC ưu đãi, thì cần gì phải mất công giữ giới răn của Ngài?
2. Người con thứ
Ta đã thấy dụ ngôn cố sức làm nổi bật sự bắt bẻ của người con cả, nhưng không nhận chìm nhân vật mà qua đó, các đối tượng phải nhận ra chính mình. Bây giờ là chân dung của người con thứ; anh ta không được tô điểm chút nào và phù hợp với hình ảnh mà người biệt phái có thể có về một người tội lỗi chính danh.
Sau khi đã thu được phần gia tài, đứa con thứ trẩy đi xa (dĩ nhiên là vùng lương dân) ở đó anh ta phung phí của cải bằng một đời sống phóng đãng (mà chỉ bọn ngoại giáo mới sống). Cuối chặng đường phiêu lưu đó, anh chàng làm nghề chăn heo. Đối với người Do thái, đấy là tồi tệ hết chỗ nói. Ta có thể đoán được khi nghe đến đây, người biệt phái ắt bỉu môi, kinh tởm.
Sau cùng, đã đến lúc suy nghĩ lại. Nhưng hãy xem anh chàng ăn chơi suy nghĩ gì nào? Hối tiếc thái độ của mình? Hối hận vì đã gây buồn khổ cho cha? Không có đâu, anh ta đã tự trách đã dại dột để mình chết đói đang khi gia nhân của cha có bánh ăn no đầy. Tại sao không lợi dụng điều đó và đi về xin làm gia nhân của cha? Để hoàn thành kế hoạch, anh ta dọn trước một câu thật hay: “Thưa cha, con đã trót phạm tội nghịch với trời, và trước mặt cha, con không đáng gọi là con cha nữa, xin xử với con như một người làm công của cha thôi” (cc-19). Câu này thật hay, nhưng anh quá biết đấy là một mánh khóe hết sức tầm thường. Cái làm cho thằng con lo lắng là không có gì mà “tống cho đầy bụng” (c.16). Hắn trở về nhà là để được ăn thả cửa. Những lời lẽ hối hận của hắn không phù hợp với cảm nghĩ đích thật của hắn. Những lời đó chỉ có mục đích làm động lòng người cha đang tức giận một cách chính đáng, hắn chỉ cần khêu gợi lòng thương cảm của cha với hy vọng ông sẽ không tìm cách soi thấu lòng dạ của của hắn mà thôi.
Không! Trình thuật này không có lý tưởng hóa tội nhân. Chân dung vẽ ra là đúng như lòng mong đợi của biệt phái mà Chúa Giêsu đang ngỏ lời. Khi muốn sửa chữa chân dung đó để biến đứa con hoang đàng thành mẫu gương thống hối, ta sẽ bỏ qua giáo huấn mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho thính giả Ngài. Từ lâu trong Israel, người ta biết rõ là TC thích tha thứ cho những kẻ tội lỗi ăn năn trở về. Nếu Chúa Giêsu chỉ muốn nói thế, thì người biệt phái không có lý do gì để phẫn nộ cả.
3. Người cha
a. Người cha và đứa con thứ: phải đọc lại đoạn mô tả xúc động về thái độ của người cha khi đứa con hoang trở về ở câu 20-24. Làm thế nào để chú giải một đoạn văn như vậy mà không làm mất đi tính cách sống động của nó? Ta thấy người cha xúc động khi nhận ra con mình từ đàng xa. Động từ có nghĩa là: người cha bồi hồi cảm xúc và chạnh lòng thương xót. Mối xúc động bên trong này tức khắc biểu lộ ra bằng những cử chỉ cuồng nhiệt: người ta ngạc nhiên thấy ông già đương phương đường bệ này chạy bổ vào đứa con, thằng con bắt đầu tụng lên câu dọn sẵn, nhưng nó không đọc hết được, vì cha nó đã hối hả kêu gia nhân: “Mau mau. Đem áo thượng hạng mà mặc cho nó, hãy xỏ nhẫn vào tay nó, và giày vào chân nó, rồi đem con bò tơ béo mà hạ đi, ta phải ăn khao mới được. Mau lên.
Tất cả sự náo nhiệt này được hiểu như là một sự bùng vỡ niềm vui. Nỗi sung sướng của người cha thật tràn trề đến nỗi ông chạy lăng xăng khắp nhà. Câu 24 kết thúc đoản văn bằng cách đưa ra lý do sâu xa của niềm vui này: “Vì con ta đây: nó đã chết mà lại hoàn sinh, đã mất đi mà lại tìm thấy được”. Dù tội lỗi đến đâu, tên hoang đàng vẫn là đứa con của cha nó. Đối với ông cha, chỉ điều ấy là đáng kể. Ông đã không bao giờ ngừng yêu mến con ông. Đã một thời đi xa, đứa con như mất đi, bây giờ tìm lại được nó. Kể chi đến quá khứ, chỉ biết bây giờ nó đã trở về. Người cha dào dạt niềm vui, bởi vì ông đã yêu con như bất cứ người cha nào.
b. Người cha và đứa con cả: người cha đã không muốn nghe hết lời thú tội của thằng con thứ, nay tránh cắt ngang lời trách móc của đứa con cả. Ông lắng nghe hết câu than vãn đó. Và lúc ấy, ông mới trả lời, bằng một giọng âu yếm trái hẳn với giọng điệu hằn học của đứa con.
Trước hết, người con cả nói về mình, về hạnh kiểm gương mẫu của mình mà anh ta nghĩ rằng đã bị cha đối xử bất công. Người cha bắt đầu trả lời những trách cứ của anh: “này con, con hằng ở luôn với cha thì tất cả của cải của cha đều là của con” (c.31). Chúng ta không cần nghe nói đến con dê bị khước từ nữa: “Tất cả những gì là của cha đều là của con”. Thật thế, người con cả không thể phàn nàn rằng anh ta đã bị xử bất công.
Câu trả lời này nhắc ta nhớ lại rằng mình đang đứng trước một dụ ngôn. Cho nên không có vấn đề đi tìm một ý nghĩa mầu nhiệm nào đó trong các từ ngữ được xử dụng. Ta sẽ lạc đề hoàn toàn chẳng hạn như muốn áp dụng những từ ngữ của câu trả lời về liên hệ giữa người cha và người con này vào mối liên hệ giữa TC và những người biệt phái. Điều đúng trên phương diệm là TC không bất công đối với người biệt phái cũng như người cha đã không bất công với đứa con cả vậy.
Phần thứ nhất của câu trả lời bác lại một bắt bẻ, phần thứ hai đi xa hơn và đưa ra một giáo huấn tích cực. Dĩ nhiên nơi đó mới là điểm quan trọng. Câu trả lời lấy lại điệp khúc đã kết thúc phần thứ nhất của trình thuật (c.24), nhưng biến đổi rất có ý nghĩa. Thay vì nói “con ta đây, nó đã chết…” để đổi lại từ ngữ đứa con cả dùng: “thằng con của ông kia đã về sau khi đã ngốn xong sản nghiệp của ông” người cha đã sửa lại một cách tế nhị: “Em con đó”, “phải ăn khao mà mừng chớ, vì em con đó nó đã chết mà lại sống, đã mất mà lại tìm thấy được” (c.32). Nếu người cha đã vô cùng hạnh phúc khi tìm lại được đứa con, thì người anh sao lại không hoan hỉ lúc tái ngộ em mình?
Trình thuật chấm dứt với lời kêu gọi của người cha. Cuối phần nhất, điệp khúc được tiếp liền bằng một câu kết vắn tắt: “Và người ta mở tiệc ăn mừng” (c.24). Ta có thể tưởng tượng một câu kết luận như thế cho cả trình thuật để bảo rằng đứa con cả đã hoàn toàn được thuyết phục. Nhưng trình thuật vẫn cố ý bỏ ngõ, vì chính thính giả phải tự nói là họ có đáp trả lời kêu gọi này của dụ ngôn hay không. Kết luận của trình thuật tùy thuộc vào thái độ của họ. Họ chịu để thuyết phục không? Họ có chấp nhận chia sẻ không? Họ có chấp nhận chia sẻ niềm vui của TC khi một tội nhân trở về không? Họ có đủ sức thông hiệp vào tình yêu mà TC không ngừng mang lại cho những người anh em tội lỗi không? Chỉ có họ mới trả lời được.
c. Mạc khải về lòng thương xót của TC: trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu vạch trần cạm bẫy mà trong đó thường rơi vào những kẻ đạo đức xét theo lề luật và những kẻ thỏa mãn với sự công chính riêng của mình, họ đòi hỏi TC phải công nhận vì họ “công chính” sờ sờ ra đó. Nhưng sự công chính này, mà họ tưởng có thể dựa vào, lại lôi họ đến chỗ tiêu diệt. Họ bị hiểm nguy vì họ quên rằng họ là những người con và vẫn là con ngay cả trong sự trầm luân. Quả thực, TC Cha đã đến gặp họ trước khi họ lên đường tìm về với Ngài.
Ngay trước khi đứa con hoang đàng xưng thú tội lỗi mình, người cha đã ôm nó vào lòng mà hôn. Cái hôn trên má dành thường dành cho người ngang hàng. Chúa Giêsu diễn tả sự phục hồi tư cách, địa vị làm con của đứa em bằng cách nói: người ta đem lại cho gã cái áo đẹp nhất, xỏ nhẫn vào tay và mang giày vào chân gã. Việc mặc áo ngày lễ chúng tỏ: người cha không những tha thứ hết mọi tội lỗi thằng con mà còn ngầm báo nó đừng sợ, cha không phạt đâu. Tuy nhiên việc chú giải dụ ngôn còn cho một kết luận khác nữa: việc TC tha thứ không phải chỉ là cất hình phạt, song còn là một hành động sáng tạo. Nếu tội lỗi của con người là dấu hiệu khuất phục sự chết, thì sự tha thứ nhân danh Chúa Giêsu và nhân danh TC không phải chỉ là chết đi tội lỗi, nhưng còn băn khoăn một thực thể mới, thay đổi con người toàn diện.
KẾT LUẬN
Hai dụ ngôn của chương này kết thúc một cách vui vẻ, nhưng dụ ngôn thứ ba thì được “bỏ ngỏ”: người con trưởng có chấp nhận lời mời không? Đó không phải là câu hỏi để kết thúc. Sau khi đã hiểu được niềm vui khôn tả của TC, câu hỏi đích thực liên hệ đến chúng ta: chúng ta có thực lòng chung vui với TC và Chúa Kitô, khi thấy người anh em tội lỗi vào nước trời? Nếu thực lòng chung vui, chúng ta đang đi vào tâm tình của Chúa Kitô, và nhờ người, được liên kết với Chúa Cha, là đấng yêu thương hết thảy mọi người.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. TC muốn cứu độ mọi người (1Tim 2,4), không phải chỉ cách tổng quát và tập thể, nhưng còn là một cách cá biệt. Ngài không muốn một số kẻ được chọn nào đó, Ngài muốn cứu vớt tất cả. Cho dù chỉ có một linh hồn cần được đưa về với Ngài (một con chiên trong số 100 con) Ngài cũng lo liệu tìm mọi cách để đưa kẻ ấy trở về.
2. Chúa Kitô là mục tử tốt lành, biết tên từng con chiên một (Ga 10,3). Sứ mệnh của Ngài là đưa những con chiên lạc nhà Israel trở về đàn (Mt 15,24). Cũng như Chúa Kitô, Kitô hữu không được bỏ rơi kẻ nào trong những tương giao nhân loại hay tôn giáo của mình, nhưng phải sẵn sàng tiếp nhận mọi thiện chí, sẵn sàng tiếp xúc một cách chân thành hữu ích. Không phải môi trường rộng lớn mới là quan trọng. Thánh Francois de Sales có nói: “Một linh hồn đã là một địa phận khá lớn cho một giám mục rồi”
3. Cho dù tội lỗi đến đâu, chúng ta đừng bao giờ thất vọng. Tình yêu của TC và của Chúa Kitô luôn đeo đuổi chúng ta (Rm 8,37-39). TC rình chờ chúng ta, để vác chúng ta lên đôi vai khi cần (Is 40,11) và đưa chúng ta về lại ràng. Chúng ta hãy tin tưởng vào sự âu yếm của TC chúng ta. Hãy thưa với Ngài rằng chúng ta là con chiên lạc lối và hãy xin Ngài đến tìm kiếm ta cho mau (Tv 119,176) để từ đây săn sóc ta như con chiên thân thuộc (Tv 95,7) trong tình yêu thắm thiết của Ngài.
4. Hôm nay, ngày Chúa Nhật, TC vui mừng biết bao được tụ họp đoàn dân Ngài trong giáo hội để nhờ Chúa Kitô dâng lên hy lễ thờ phượng. Trong đoàn dân này, Ngài nhận ra những con chiên trung thành của Ngài và có lẽ cũng nhận ra một vài tâm hồn Ngài đã dùng ân sủng đánh động riêng, đã trở về cuộc sống thờ phượng: đó là những con chiên tìm thấy những đồng bạc thu hồi, những tâm hồn đã được đưa về để tôn thờ TC đích thật hầu được cứu rỗi.
5. Chúng ta tìm thấy được dụ ngôn người cha của đứa con hoang đàng một mạc khải về sự âu yếm khôn lường của TC đối với những người tội lỗi. Tình âu yếm đó đã được Chúa Giêsu tỏ ra cho loài người trong việc Ngài chăm lo cho các tội nhân suốt sứ vụ tại thế, và nhất là trong viêc hy sinh mạng sống Ngài để chuộc tội cho họ. Việc khám phá ra một tình yêu như vậy không thể làm cho ta tràn đầy tin tưởng vào Đấng đã yêu thương chúng ta. Chúng ta quá biết mình là những tội nhân; nhưng chúng ta từ nay không được quên rằng thân phận khốn nạn đó không làm TC ghét bỏ chúng ta, trái lại càng khiến Ngài yêu chúng ta hơn. Vì vậy chúng ta vững tin cho chính mình, và cũng vững tin cho những kẻ khác. Chúng ta cũng đang sống giữa những người tội lỗi. Khi thấy các anh em ấy gặp khốn khó hay lầm lạc, chúng ta hãy nhớ lại rằng họ vẫn được TC yêu, và tình yêu đó đủ mạnh để cứu rỗi họ.
6. Không thể thật sự khám phá ra tình yêu của TC mà không thấy sự đòi buộc của tình yêu đó đối với chúng ta. Người con cả của dụ ngôn, vì không hiểu tình yêu của Cha, cũng không hiểu được lời mời gọi phát xuất từ tình yêu đó: anh ta chỉ thực sự là người con hiếu thảo của cha khi biết chia sẻ tình yêu của cha, biết thương mến đứa em. Việc đề phòng mà dụ ngôn muốn nhắc nhở cho người người biệt phái không phải là không liên hệ đến Kitô hữu. Dụ ngôn nhắc cho họ nhớ rằng người ta không thể phục vụ TC đúng ý Ngài nếu không yêu Ngài và không thông hiệp vào tình yêu của Ngài đối với anh em, cho dù những người này là tội nhân. Thái độ của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với con tim lạnh lùng kiêu căng của người biệt phái, kẻ tưởng mình đang sống an toàn vì đã thi hành tỉ mỉ những giới luật. Làm sao có thể xưng mình là môn đệ của Chúa Giêsu nếu ta khinh bỉ xa tránh những kẻ đang gặp hoạn nạn khó khăn do tội lỗi. Tình yêu TC kêu mời chúng ta yêu mến anh em. “Anh em thân mến, nếu TC đã yêu mến ta như thế, thì ta cũng phải yêu mến nhau” (1Ga 4,11)
86. Chú giải của Fiches Dominicales
DỤ NGÔN NGƯỜI CHA NHÂN HẬU
CÂU TRẢ LỜI CHO NHỮNG NGƯỜI PHARISÊU VÀ CÁC KINH SƯ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một dụ ngôn nhắm vào đám đông bị xúc phạm.
Tình hình ngày càng trở nên căng thẳng từ khi Đức Giêsu “lên Giêrusalem". Qua dụ ngôn cánh cửa đã đóng lại, Đức Giêsu tuyên bố: thuộc về dân Do Thái, không có nghĩa là tự động được dự tiệc cứu rỗi. Người kết luận: "Anh em sẽ khóc lóc nghiến răng khi thấy Ápraham, Ixaác và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được trong Nước Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Bấy giờ, thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa" (13,28-30). Những người Pharisêu và các kinh sư suýt nghẹt thở mà chết khi ngay trong ngôi nhà của một vị thủ lãnh Pharisêu đã mời người, Đức Giêsu không những chỉ chữa một người bệnh thuỷ thủng ngày Sabát, mà còn kể cho họ nghe dụ ngôn tiệc cưới: những khách được mời đã từ chối, thế là chủ tiệc cho mời "những người nghèo khó, què quặt, đui mù" gom nhặt "ngoài công trường, trên phố xá, đường đi, lối ngõ" (14,l5-24). Và rồi, họ cảm thấy như bị xúc phạm, khi Chúa Giêsu hành động theo những gì đã nói, Người: "Tiếp đón những người tội lỗi". Điều này còn tệ hại hơn nữa, vì theo phong tục Đông phương, ý nghĩa biểu tượng của việc nhận biết và đón tiếp qua bữa ăn có tầm quan trọng đặc biệt -Người "ăn uống với họ!" Bởi vậy, những người Pharisêu và các kinh sư "kêu trách Người" như ngày xưa, khi vượt qua sa mạc, tổ tiên họ đã kêu trách Chúa.
Chương 15 có giá trị thực sự là nhờ ba dụ ngôn Đức Giêsu kể cố ý nhắm vào các kinh sư và những người Pharisêu vì họ tự cho mình là công chính, mà khinh khi những người tội lỗi, và những người bị loại trừ.
Ba dụ ngôn này, được ngắt nhịp bằng một điệp khúc, ca ngợi tình thương Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Giêsu; tình thương ấy dành cho những người không được thương yêu và không đáng yêu; những người, một cách gián tiếp, lên án sự nghiệt ngã và nghiêm khắc mà nhưng kẻ tự phụ là công chính dành cho họ: dụ ngôn con chiên lạc "mất rồi lại tìm thấy", dụ ngôn đồng bạc "mất rồi lại tìm thấy", dụ ngôn cậu con thứ "mất rồi lai tìm thấy".
Chỉ dụ ngôn thứ ba này được đọc trong Chúa nhật thứ 4 Mùa Chay năm C này. Dụ ngôn gồm hai cảnh liên kết với nhau. Cảnh thứ nhất: vai diễn là người con thứ. Cảnh thứ hai: vai diễn là người con cả; trong cả hai cảnh ấy, người cha đóng vai quan trọng có tính quyết định.
2. Trong dụ ngôn ấy, người con thứ đã “mất rồi lại tìm thấy”.
Khuôn mặt của người con thứ được diễn tả hơi cường điệu trong cảnh thứ nhất của dụ ngôn tuyệt diệu này. Không đợi tới khi người cha qua đời, anh đòi chia gia tài ngay. Rồi ra đi để sống tự do. Mau chóng khánh kiệt vì cuộc sống phóng đãng. Anh phải làm công cho một người ngoại giáo ở đất khách quê người, và miễn cưỡng phải "chăn heo" cho chủ - đối với một người Do Thái, đây là công việc hèn hạ - vì heo là một con vật dơ nhớp đối với Do thái giáo. Bị dằn vặt bởi ý nghĩ: ở nhà cha thì đồ ăn dư thừa, người làm công ăn không hết, thế mà ở đây anh đói khát, chỉ mong được "tống đầy bụng những thứ heo ăn" mà không được.
Vừa đói khát, thiếu thốn vừa ân hận, một ngày kia, anh quyết định trở về. Anh phác hoạ trong đầu những lời thống thiết nhất để xoa dịu cơn giận của người cha: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đón trời và đến cha, con thật không xứng đáng được gọi là con cha nữa. Hãy coi con như một người làm công trong nhà thôi".
Nhưng, chưa kịp thốt lên một lời, người cha đã giang rộng vòng tay xiết chặt lấy anh. Cho tới bây giờ, anh chưa một lần nghi ngờ tình yêu vô bờ bến của cha anh. Con tim anh rộn ràng những nhịp đập thổn thức. Không phải đứa làm thuê? Con ta chứ! Hãy mặc áo đẹp ngày đại lễ. Đeo nhẫn vào tay, biểu hiệu quyền uy. Xỏ giầy vào chân, biểu hiệu người tự do. Hãy ngồi vào bàn tiệc. Mọii thành phần gia đình đang quây quần bên bàn ăn cùng chia sẻ niềm vui của người cha.
3. Còn người anh trong tâm trạng giận dữ
Người anh "từ ngoài đồng" về đến nhà thì cuộc vui đang diễn tiến. Nghe trong nhà có nhạc vui, anh hỏi xem có chuyện gì? Hiểu ra, tâm trạng anh chuyển từ ngạc nhiên sang "giận dữ". Lại có thể cư xử như vậy với thằng con hư đốn ư? Như phản ánh thái độ của các kinh sư và những người Pharisêu luôn chỉ nghĩ đến phụng sự Chúa không sai một lời, nên, anh cằn nhằn với cha mình: "Đã bao năm con phụng dưỡng cha, không bao giờ bất tuân hay trái lệnh, mà chẳng bao giờ cha cho con một con dê để vui với bạn bè". Để ở lại nhà cha, anh đã cư xử thật không khác một người làm công, cần mẫn, nhưng vô tình, xa lạ. Anh không thể hiểu được ngôn ngữ của Giao ước mà cha anh nói với anh: "Con ơi! Con luôn ở bên cha, mọi sự của cha là của con mà". Anh chỉ nói bằng ngôn ngữ của quyền lợi và nghĩa vụ, của mệnh lệnh và phần thưởng. Như các kinh sư và những người Pharisêu đối với tội nhân, anh cũng giữ khoảng cách với đứa em mới trở về mà mọi người đang ăn mừng. "Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo để ăn mừng".
4. Lòng quảng đại phi thường của người cha
Nếu phải coi chừng để đừng quên người con cả, thì chúng ta càng không được quên chân dung người cha mà từ đầu đến cuối dụ ngôn luôn là một nhân vật trung tâm, một người cha mà tình yêu luôn thôi thúc ông hướng về các con. Ông không chỉ ngồi chờ. Phải "chạy ra" coi, và ông phải chạy ra đến hai lần.
Ông chạy ra. hấp tấp, một thái độ đặc biệt đối với người Đông phương. Ôm lấy cổ đứa con hoang đàng. Hôn nó tới tấp Nâng nó lên, ngắt quãng những lời nó định nói, đưa nó vào nhà. Nhà của nó mà. "Mau lên!" ông nói với các đầy tớ không chần chừ một giây. Phải mặc cho cậu chiếc áo đẹp nhất đúng với cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay cậu, mang giầy vào chân cậu. Giết bê béo. Dọn tiệc ăn mừng. "Mau lên!" vì một niềm vui đang trào ngập lòng ông: "Con ta đây đã chết nay sống lại đã mất nay lại tìm thấy”.
Ông lại chạy ra để nài người anh vào nhà, để người anh nhìn nhận đứa em mà anh ta đã miệt thị, để dự tiệc chung vui với mọi người.
Đây đúng là một dụ ngôn có tầm vóc thần học. Dụ ngôn của ân huệ Chúa ban tặng con người. Dụ ngôn về tình yêu nhưng không Cha ban cho mọi người, dầu tội lỗi mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm vui, muốn mời họ khám phá ra: anh huynh đệ chân chính. Làm sao không nhìn ra qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn trao cho chúng ta bí mật trong cách cư xử và đời sống của Người? Người là Người Con được Cha sai đến loan báo sự hoà giải cho các tội nhân. Đó là những người mà Đức Giêsu khắc hoạ hình ảnh nơi người em và đó cũng là những người được mời gọi nhận ra chính mình nơi hình, ảnh của người anh!
5. Một dụ ngôn đặt chúng ta trong tình trạng người anh.
Thật ra, dụ ngôn còn để ngỏ đó. Người anh cả có thuận theo lời khuyên dụ của cha anh không? Anh có bằng lòng vào chung vui không? Anh có ưng thuận chung bàn với người em đã trở nên "dơ" không? Hay anh vẫn giận dữ. Tường thuật của Tin Mừng không trả lời. Có lẽ mục đích của Tin Mừng là để chúng ta tự phác hoạ cách chúng ta sẽ đối xử với anh em mình.
Huguses Cousin kết luận: "Thính giả là độc giả hãy đặt mình vào vị trí của người anh: chính tôi sẽ ưng thuận lời thỉnh cầu của người cha hay không. Thuận thì không dễ đâu, có khi khổ nữa. Dụ ngôn cho thật sự đáp ứng ý cha không tự đến cách dễ dãi. kết thúc của dụ ngôn đặt chúng ta vào vị thế người anh. Phụng vụ Mùa Chay như chẳng hoan hỉ đặt chúng ta vào vị thế này mà trái lại, như muốn chúng ta thấy mình trong tâm trạng người em. Thánh Luca thì chắc chắn nhấn mạnh hơn đến thái độ người anh. Dẫu sao, qua suốt câu chuyện, chúng ta vẫn thấy nổi bật lên tình yêu là lòng cảm thương của người cha đối với từng người. Chính nhờ tình thương này mà tội nhân hối cải, là chúng ta vui vì họ trở về dù đôi khi rất khó mà vui được".
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Cả hai người con của dụ ngôn cùng hiện hữu trong ta
Niềm vui Phục sinh đã gần. Chúng ta có ưng thuận chia sẻ niềm vui của người cha và đón nhận lời mời gọi dự lễ?
Như dân Israel vào đất Hứa, chúng ta cũng phải sống kinh nghiệm vượt qua, đó là cuộc vượt qua của sự hoà giải, cuộc vượt qua này sẽ tái tạo chúng ta trong một hiện hữu mới.
Dụ ngôn về người cha và hai người con vẫn để ngỏ! không ai xác định được câu chuyện sẽ kết thúc thế nào.
Chúng ta hãy nhập vai. Cả hai người con cùng hiện diện trong ta. Chúng ta có thể nhận ra mình trong những ảo tưởng của họ. Cả hai cùng hiểu lầm về bản chất của mối tương quan giữa họ với cha và không biết tình yêu của cha mình. Hãy theo sát những toan tính của người con khi trở về. Anh đã sống lại nhờ người cha hân hoan loan báo sự tha thứ. Nhưng chúng ta cũng là người anh, xơ cứng trong kiêu căng vì đã trung thành với cha. Anh sẽ cải mở là chọn một chỗ ngồi trong bàn tiệc tập thể vì những kẻ mời đến, những kẻ từ xa trở về. Còn đối với chúng ta, ai sẽ là "những người khác" mà cộng đoàn chúng ta phải mở rộng cửa đón tiếp?
Nhận biết anh em là điều kiện để Cha nhận biết ta. Hoà giải với anh em là cửa ngõ để hoà giải với Thiên Chúa. Đó là chân lý trong Thánh lễ tạ ơn (eucharistie) mà chúng ta cử hành.
2. Tha thứ: từ ngữ đúng nhất của đức tin Kitô giáo.
(H. Denis, trong “100 từ ngữ diễn tả đức tin”, DDB, trg 17- 18).
Trong các từ ngữ chỉ đức tin Kitô giáo, thì chắc chắn tha thứ là ưu việt hơn cả. Không phải tình cờ mà nó nằm trong kinh Lạy Cha.
Con chiên lạc, người con đi hoang, người phụ nữ ngoại tình. Dakêu trên cây sung, người bại liệt được ròng xuống từ trên mái nhà. Đức Giêsu đã gặp tất cả nhưng người này. Họ là những người tội lỗi, lầm lạc, hư mất. Nhưng, Thiên Chúa tha thứ cho họ trong Đức Giêsu mà không cần một điều kiện tiên quyết nào. Người không đòi hỏi gì. Đức Giêsu không bảo: "Làm cái này rồi tôi tha thứ cho". Không? Người tha thứ rồi mới nói: "Hãy về và đừng phạm tội nữa".
Người ta có thể chất vấn: tại sao tha thứ lại là một điều thần thiêng như vậy? Tại sao tha thứ lại đưa người ta đến gần Thiên Chúa thế?
Câu trả lời có lẽ nằm trong chính từ ngữ: tha thứ vì tha thứ là một ân huệ ở trên cao, siêu việt.
Ơn huệ thứ nhất ta được là hiện hữu của ta như một tạo vật. May mắn là chúng ta vẫn là vậy. Nhưng cách cư xử, phong tục, lỗi lầm của chúng la có thể phá huỷ ơn huệ đầu tiên này nơi ta, làm chúng ta bị "tha hoá"
Chính lúc đó ơn tha thứ đến, một loại ơn tái tạo. Chúng ta đã chết mà nay sống lại. Chúng ta không còn phải chịu đựng lẫn nhau nửa, chúng ta lại chấp nhận lẫn nhau và lại thương yêu nhau. Đó là một cuộc tái sinh, một sự Phục Sinh, một bước đi vào đời sống mới.
Như vậy thật là tốt đẹp khi chúng ta được tha thứ. Tuy nhiên, thẳng thắn mà nói, liệu chính chúng ta có thể tha thứ được không? Tha thứ đây không phải là quên, cũng không phải là chối bỏ những xác tín của chúng ta, mà là tìm đến với kẻ xúc phạm ta. Và không cần để mất một chút gì về chân lý, hoặc về lương tri phân biệt tốt xấu, để nói với kẻ phạm lỗi: bạn là anh, là chị tôi.
Và có thể thêm một lời phi thường này: chính bạn hãy tha cho tôi, vì bạn đã không xúc phạm đến tôi nếu trước đó tôi đã không xúc phạm đến bạn.
87. Chú giải của William Barclay
CÂU CHUYỆN VỀ NGƯỜI CHA NHÂN LÀNH
Không phải là không có lý do khi người ta gọi chuyện này là chuyện ngắn vĩ đại nhất thế giới. Theo luật Do Thái, người cha không được tự do phân chia gia tài mình tuỳ ý thích, đứa con cả đương nhiên được 2/3, đứa con thứ 1/3 gia tài (Đnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi hoạt động kinh doanh. Nhưng có một sự vô tâm trơ tráo nơi đứa con thứ khi nó đề xuất việc chia gia tài này. Thực ra nó đã nói “Cha hãy cho con ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì con cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để con ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã cho như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi.
Hắn nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc cấm kỵ đối với người Do Thái, vì luật nói: “đáng rủa xả kẻ nào chăn heo”. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khuyên chưa từng có “Khi nó trở về với chính mình (nó tỉnh ngộ)”. Chúa Giêsu tin là bao lâu con người còn xa cách và chống nghịch với Thiên Chúa thì con người không thực sự là con người, con người chỉ thực sự là chính mình khi con người đang trên đường trở về nhà. Có một điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu là Ngài không tin rằng con người hư hỏng hoàn toàn. Ngài không bao giờ tin rằng ai đó có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phỉ báng con người, Ngài tin rằng con người không bao giờ được thực sự là mình cho đến khi nào con người trở về nhà với Chúa. Cho nên đứa con đã nhất định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con đã về nhà –theo bản Hy văn tốt nhất- cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tiêu biểu sự tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như uỷ quyền cho người đó thay thế mình; đôi giày là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giày, còn nô lệ thì không được. (Ước mong của người nô lệ trong bài ca của người da đen là mau đến thời kỳ mà “mọi con cái Chúa được mang giày” vì đi giày là dấu hiệu sự tự do). Và một bữa tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con hoang đàng trở về. Chúng ta dừng lại ở đây, thử nhìn xem chân lý trong dụ ngôn này.
1. Không nên gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về người con hoang đàng vì đứa con không phải là nhân vật chính, phải gọi là dụ ngôn về Người Cha Nhân Lành, bởi vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
2. Dụ ngôn này nói nhiều về sự tha thứ của Thiên Chúa. Người cha hẳn đã chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy từ đằng xa. Đứa con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội vẫn còn để đó. Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xử thế nào với quân phiến loạn Miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa Kỳ. Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời “Tôi sẽ đối xử với họ như họ chưa bao giờ ly khai với chúng ta”. Thật lạ lùng tình yêu của Chúa khi Ngài tha thứ chúng ta y như vậy.
Nhưng câu chuyện đến đây chưa chấm dứt. Người anh cả đi về, anh thực sự buồn rầu vì em anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho Pharisêu tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Có mấy điều nổi bật nơi người anh cả.
1. Tất cả thái độ của anh chứng tỏ rằng bao nhiêu năm anh vâng lời cha chẳng qua chỉ là một bổn phận buồn rầu, chứ không phải là công việc của tình yêu.
2. Thái độ của anh là thái độ thiếu hẳn sự cảm thông. Anh nói về người em nhưng không dùng tiếng “em tôi” nhưng dùng chữ “con của cha”. Chàng là thứ người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi hám càng ngã sâu hơn nữa.
3. Tâm địa chàng rất dơ bẩn. Câu chuyện không nói tới gái điếm. Chính miệng chàng nói ra. Hẳn chàng đã nghi ngờ, tố cáo em chàng về thứ tội chính chàng muốn.
Một lần nữa chúng ta lại gặp một chân lý diệu kỳ là hoán cải, xưng tội với Chúa dễ hơn xưng tội với loài người. Thiên Chúa xét xử nhân từ hơn những người ngoại đạo. Tình yêu Chúa rộng lớn hơn tình yêu của loài người. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không chìm sâu trong kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn.
88. Thiên Chúa của chúng ta là thế đó!--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Tin mừng Lc 15: 1-3.11-32: “Hãy thương xót như Cha các con là Đấng đầy lòng thương xót”. Đây là: “Luật căn bản được đặt vào trái tim của những ai biết dùng đôi mắt chân thành để nhìn vào người anh em gặp thấy trên đường đời.
Có một câu chuyện kể lại như sau: một bà già thường đến gõ phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng: đêm qua Chúa mới hiện ra với bà.
Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, cha xứ bảo: “Lần sau nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Người ‘Cha xứ con có tội gì nặng nhất?’ Sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
- “Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con”.
- “Thế bà có hỏi Ngài không?”
- “Thưa có chứ”.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp:
- “Bà hỏi thế nào?”
- “Thì con hỏi y như Cha đã bảo: ‘Cha xứ con có tội gì nặng nhất?’”
Cha xứ càng hồi hộp thêm:
- “Vậy Chúa có trả lời không?”
- “Có chứ”.
Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:
- “Chúa nói sao?”
- “Chúa nói: ‘Ta đã quên hết rồi’”.
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm!!! (Kể theo ĐHY. Fx. Nguyễn Văn Thuận).
Vâng! Thiên Chúa của chúng ta là như vậy. Ngài yêu thương và sẵn lòng tha thứ mọi lỗi lầm cho chúng ta. Tình yêu của Người là một tình yêu luôn đi bước trước và hướng tha. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Đức Giêsu kể các dụ ngôn hôm nay.
1. Thiên Chúa là Đấng Thương Xót
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu nhiều lần và nhiều cách Ngài mạc khải về lòng thương xót của Thiên Chúa cho các Tông đồ và dân chúng. Rõ nét nhất chính là nơi ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng xu đánh mất và người cha nhân hậu (x. Lc 15,1-32).
“Nơi các dụ ngôn này, chúng ta thấy toát lên một điều rõ rệt, đó là Thiên Chúa luôn sung sướng, vui mừng hân hoan khi thực hiện được một hành vi tha thứ, đây là điểm cốt lõi của Tin Mừng và của đức tin, vì lòng thương xót tỏ hiện như một sức mạnh vượt thắng tất cả, đong đầy trái tim bằng tình yêu thương và mang lại an ủi bằng ơn tha thứ” (x. Tông Sắc LTX., số 9).
Căn tính này thật rõ nét nơi hình ảnh người cha nhân hậu. Nơi người cha này, ông đã không màng chi đến tội lỗi của đứa con hư thân mất nết, ông cũng chẳng mong anh ta phải nói lên lời xin lỗi sau những tháng ngày sa đọa... Nhưng, với ông, ông chỉ canh cánh một điều là: mong sao nó trở về để tha thứ và yêu thương. Thế nên, khi thấy đứa con tội lỗi trở về trong thân hình tiều tụy thê lương, ngay lập tức, một loạt cử chỉ phi thường của tình yêu đã được ông hành động như: chạy ra, ôm hôn, truyền mang áo đẹp mặc cho cậu, xỏ vào tay, mang dép vào chân và mở tiệc ăn mừng (x. Lc 15, 20-23). Niềm vui tha thứ này diễn tả niềm vui Nước Trời, bởi lẽ, Thiên Chúa “muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (x. Mt. 9, 12-13), nên: "Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" (Lc. 15, 10). Đây cũng là biểu hiện của sự thành công và quyền năng của Thiên Chúa khi lòng thương xót của Người đến được với đối tượng cần ơn tha thứ, vì: “Thực thi lòng thương xót là đặc điểm riêng của Thiên Chúa, và đó là cách thức đặc biệt để Ngài bày tỏ sự toàn năng của Ngài” (Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, II-II, q. 30, a. 4).
Chính vì lẽ đó, nên khi Đức Giêsu đến trần gian, Ngài đã sống và mạc khải cụ thể cách trung thành về lòng thương xót của Thiên Chúa cho nhân loại qua chính cuộc đời, hành động, lời rao giảng và nhất là nơi cái chết trên thập giá, để qua đó, nhân loại hiểu được rằng: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
2. Sứ điệp cho Giáo Hội
Phụng vụ hôm nay, Đức Giêsu muốn mặc khải cho Giáo Hội là hiền thê của Ngài biết rằng: “Lòng thương xót là bản chất của Thiên Chúa. Chính lòng thương xót này đã nuôi dưỡng, chống đỡ và trở thành mục đích của Người”.
Điều này đã được Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc đến trong Tông Sắc về Lòng Thương Xót. Ngài viết: “Trụ cột nâng đỡ đời sống Giáo Hội chính là lòng thương xót. Tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo Hội cần phải được thấm đẫm sự dịu dàng; không một sứ điệp và chứng từ nào của Giáo Hội trước thế giới lại có thể vắng bóng lòng thương xót. Tình yêu, thương xót và thông cảm chính là phương thế để củng cố tính cách đáng tin của Giáo Hội”. Và ngài cảnh tỉnh: “Có lẽ từ lâu chúng ta đã quên trình bày và sống theo lối đi của lòng thương xót. [...] Thật đáng buồn khi nhận ra trải nghiệm về tha thứ ngày càng trở nên hiếm thấy trong nền văn hóa ngày nay. Kể cả đôi khi từ ngữ này dường như cũng đang dần biến mất! Tuy nhiên, không có chứng từ của sự tha thứ, thì đời sống sẽ cằn cỗi không sinh hoa trái, như bị cô lập trong vùng hoang mạc trống vắng!”. Và ngài mời gọi: “Đã đến lúc Giáo Hội phải thực thi phận vụ hân hoan loan báo sự tha thứ. Đã đến lúc trở về với điều căn bản là mang lấy những yếu hèn và khó khăn của anh chị em chúng ta. Sự tha thứ là động lực làm bừng lên sức sống mới và truyền thêm can đảm để giữ vững niềm hy vọng cho tương lai” (x. Tông Sắc LTX., số 10).
Lời mời gọi thực thi lòng thương xót dành cho Giáo Hội là hiền thê của Đức Giêsu, thì cũng là lời kêu mời dành riêng cho mỗi chúng ta.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
“Hãy thương xót như Cha các con là Đấng đầy lòng thương xót” (Lc 6,36). Đây là: “Luật căn bản được đặt vào trái tim của những ai biết dùng đôi mắt chân thành để nhìn vào người anh em gặp thấy trên đường đời. Lòng thương xót là con đường nối kết Thiên Chúa với con người, hướng lòng chúng ta về niềm hy vọng sẽ được yêu thương luôn mãi, bất chấp tội lỗi của chúng ta” (x. Tông Sắc LTX., số 2).
Qua các dụ ngôn hôm nay, là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi mặc lấy tâm tình của Thiên Chúa, đó là quảng đại, tha thứ, nhẫn nại và yêu thương.
Vì: “Nếu Chúa đã chà đạp và ném mọi tội lỗi chúng ta xuống lòng biển sâu” (x. Mk 7,18-19), thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng phải vứt bỏ tội lỗi của anh chị em mình sang một bên, để chỉ còn tình yêu và lòng tha thứ ngự trị nơi hành động, lời nói và tâm tưởng của ta.
Muốn làm được điều đó, chúng ta phải cảm nghiệm được sự vĩ đại của tình yêu mà Thiên Chúa đang dành cho mình, bởi lẽ: nhiều lúc, chúng ta cũng hoang đàng như người con thứ, cũng phung phí tiền bạc, thời giờ, sức khỏe và Ơn Thánh cách vô bổ; hay nhiều khi chúng ta cũng kiêu ngạo, tự phụ, để rồi khinh bỉ, rũ bỏ và loại trừ những người tội lỗi, không cho họ có cơ hội để trở về với lòng thương xót của Thiên Chúa như người con cả... ấy thế mà Chúa vẫn thương. Đây là mầu nhiệm vĩ đại, vì Thiên Chúa của chúng ta là như thế. Ngài luôn quên hết mọi lỗi lầm của ta và chỉ mong một điều, đó là ơn tha thứ được đến với ta mãi mãi.
Mong sao, ngay trong giây phút này, mỗi người chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của người con thứ để thưa lên với Đấng Giàu Lòng Thương Xót rằng: “Lạy Chúa xin tha thứ cho con vì con là kẻ có tội”; đồng thời tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa vì Ngài đã phán: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1, 18), và hãy biết tha thứ như Thiên Chúa là Đấng hay Thương Xót để chúng ta cũng được Thiên Chúa xót thương. Amen.
89. Lòng Thương Xót cho tất cả chúng ta--Dã Quỳ
Giữa màu tím của Mùa Chay Thánh, hôm nay Giáo Hội dành Chúa Nhật thứ IV gọi là Chúa Nhật hồng. Màu hồng ấy nói lên niềm vui mừng vì được yêu thương, được đón nhận và tha thứ. Cho dù con người có lỗi lầm và ở trong tình trạng nào đi nữa, nhưng..."Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hơn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi."(Tv 33,6) Bởi vì Chúa nhân hậu và tốt lành biết mấy. Vì thế, chúng ta hãy chiêm ngắm tình yêu không biên giới của người cha khi đón nhận vô điều kiện đứa con thứ tội lỗi trở về và nhẫn nại xót thương với người con cả - là một mạc khải cốt yếu về Thiên Chúa mà chính Chúa Giêsu muốn vén mở cho chúng ta. Thiên Chúa, như người cha không bao giờ thất vọng về những đứa con của mình.
Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn về người cha nhân hậu, một câu chuyện sống động, bởi vì những người lãnh đạo tôn giáo thời ấy đã tức giận về việc Người ăn uống với những người tội lỗi và thu thuế. Thế nên, trong dụ ngôn này không phải là người con thứ mà người cha mới là trung tâm của dụ ngôn.
Người cha đã yêu thương, tôn trọng tự do và quyền tự trị của các con mình. Ông đau khổ chấp nhận để con ra đi. Nhưng ông hy vọng rằng sẽ có một ngày khi con trưởng thành, nó sẽ hiểu được tình yêu của cha nó.
Với ý nghĩ nổi loạn và không muốn phục tùng cha, người con thứ đã muốn được nắm quyền tài sản của anh "Xin cho con phần tài sản con được hưởng."(Lc 15,12) Anh ta nghĩ sẽ được tự do khi rời khỏi cha và sẽ có cuộc sống hạnh phúc hơn mà không cần cha. Đây phải chăng cũng là tư tưởng của nhiều người trong thời đại chúng ta: Chống đối, bất tuân phục và từ chối Thiên Chúa!
Rời xa cha và mái nhà... anh ta tự do, tự lập và bắt đầu sống phung phí. Với một cuộc sống ăn chơi sa đọa, dẫn đến tiêu tán hết tài sản là lẽ dĩ nhiên. "Khát vọng tự do" nghe có vẻ nhẹ nhàng và dễ thương. Thế nhưng, ma quỉ luôn có trăm phương ngàn kế lôi kéo và hấp dẫn chúng ta đi theo và đi đến nguy cơ suy tàn, hư mất.
Phúc thay anh ta nhận ra sự khốn cùng của mình và quyết tâm trở về "Anh ta đứng lên và đi về cùng cha...Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha." (Lc 15, 20a.21) Đây là một bước can đảm và quan trọng. Có trở về, anh mới được phục hồi địa vị là con, mặc dù anh chỉ ước ao được là đầy tớ. Chỉ trờ về, anh mới nhận ra lòng tha thứ và tình yêu vô bờ của cha.
Và đây là những gì cha của anh thực hiện để đón đứa con ngỗ nghịch trở về "Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh và hôn lấy hôn để." (Lc 15,20) Người cha già nhiều năm tháng mòn mỏi chờ con thì sức cạn, mắt mờ...! Thế mà, từ đằng xa ông đã nhận ra bóng dáng con mình và ông chạy. Chạy để rút ngắn thời gian dù chỉ là vài phút để được sớm gặp con vì ông đã trông ngóng từng giây. Sức mạnh của tình yêu khiến chân ông khỏe và mắt ông sáng hơn. Ông hôn lấy hôn để con, đúng ra là chỗ dành cho hình phạt vì tội nó. Choàng tay ôm con để che phủ hết tội lỗi của con. Tình yêu bao dung đã giữ ông không tính tội con mà thay vào đó là chăm sóc những vết thương của con để nó không còn một vết sẹo hay sự xấu hổ, ngại ngùng nào. Ông đã sinh lại con một lần nữa.
Chẳng cần nghe con thú lỗi, ông chỉ còn yêu thương và vui mừng. Bây giờ tất cả việc phải làm là "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân và...mở tiệc ăn mừng."(Lc 15,22-23) Ân phúc anh nhận được từ cha hơn cả những gì anh mơ ước. Tấm áo mới nói lên tình thương cha vẫn dành cho con và tất cả y phục ấy anh mang nói lên rằng "Con vẫn là con cha như thuở nào." Vì tội lỗi và vì cuộc sống xa gia đình, nay con đã trở về, đón nhận tình tha thứ của Cha và hiểu sâu hơn tình yêu cha dành cho con và bây giờ con được yêu thương biết bao. Thế nhưng, còn anh cả của con, người vẫn ở trong gia đình thì sao?
Chúng ta thường nghĩ câu chuyện này là chuyện nói về người con thứ. Thế nhưng, như Chúa Giêsu đã nói với những người Pharisiêu và vấn đề là về người con cả hơn là người con thứ. Hãy chú ý đến sự tức giận vì ganh tị của anh cả, người không đón nhận niềm vui dạt dào của cha anh ta và tự tách khỏi những người trong nhà của mình. Thay vì phục vụ cha với tình con thảo, anh chỉ có tư tưởng là phải hầu hạ. Là con nhưng anh luôn sống với tinh thần là đầy tớ. Dù ở trong nhà, ngay bên cha nhưng lòng anh lại xa cha mình biết bao! Thiếu tình yêu với cha nên anh cũng chẳng thể yêu thương em mình. Anh ta đã không hiểu một điều lớn lao đó là tình yêu của cha dành cho anh!
Mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy tự vấn để biết mình đang ở trong vai của nhân vật nào trong dụ ngôn: Chúng ta đã tha thứ cách quảng đại như người cha đã tha cho đứa con thứ của mình và nhẫn nại yêu thương con cả? Tất cả chúng ta đều có lỗi lầm, lúc này hay lúc khác. Hãy nhận ra sự thật về mình và can đảm đứng lên, trở về với anh em, cha mẹ và nhất là Cha trên Trời để cảm nhận, đón nhận tình yêu tha thứ mà Cha luôn dành cho ta. Chúng ta cũng đã cảm thấy ganh tị và từ chối những ai được ưu ái và thương yêu hơn chúng ta.
Là con thứ hay con cả, chúng ta cũng hãy tin tưởng vào Lòng Xót Thương của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Đấng tha thứ không cùng và đón tiếp vô hạn những người con lầm lỗi, thương tích. Nhưng không chỉ tha thứ, mà Cha còn vui mở tiệc mừng con trở về như chính Chúa Giêsu đã nói "Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối..."(Lc 15,7) và dành cho con tất cả gia sản của Cha "Con à, tất cả những gì của cha đều là của con."(Lc 15,31) Vậy không thể chần chừ hay chậm trễ nữa. Hãy trở về với Cha.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng can đảm và sáng suốt để nhận biết những điều xấu, những lỗi tội của chúng con và quyết tâm trở về thực sự với Chúa trong Mùa Chay Thánh này. Amen.
90. Hỏng hết! Hỏng hết--Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Cứ mỗi lần chia sẻ hay giảng giải về đoạn tin mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay C (Lc 15,1-3;11-32) tôi thường bị cám dỗ phân tích tỉ mỉ từng chi tiết hình ảnh người con thứ, tạm gọi là đứa con hoang đàng. Phân tích tỉ mỉ theo kiểu chú giải Thánh Kinh cũng có, theo cái nhìn tu đức cũng có, rồi sau đó áp dụng cho hoàn cảnh hiện nay. Và không thể bỏ qua, nói đúng hơn là luôn nhấn mạnh đến hình ảnh người cha nhân hậu. Còn hình ảnh người con cả, tuy có phân tích, nhưng chỉ như vai phụ.
Khi người con thứ xin cha chia gia tài là lúc nó muốn cha nó chết quách cho rồi, vì theo luật bấy giờ người con chỉ được nhận gia tài khi cha đã qua đời. Nhiều người, đặc biệt kể từ thế kỷ Ánh sáng đến nay đã bị cám dỗ muốn "Thiên Chúa biến đi" để mình được tự do và thực sự là mình, mà nói theo ngôn ngữ triết học là để mình khỏi bị vong thân. "Con không cha như nhà không nóc". Một người con khi đã muốn giết cha thì bất cứ sự xấu xa nào cũng có thể làm. Ăn chơi đàn đúm là chuyện tất yếu kéo theo, nhiều khi chỉ là chuyện nhỏ. Hậu quả nhãn tiền của chuyện ác giả ác báo vẫn thường xảy ra đây đó. Sau thoáng lên mây thì xuống kiếp đọa đày là điều vẫn thường thấy. Mang kiếp đốn mạt, thua cả heo vốn là sự không thể tưởng theo quan niệm của người Do Thái lúc bấy giờ, thế mà đó là thực trạng của đứa con bất hiếu, hoang đàng. Quay đầu là bờ ư? Anh này chỉ biết nghỉ đến cái bụng mình thôi. Kẻ gian vốn thường làm ra vẻ ngoan. Môi dẻo, lưỡi cũng lắt léo với câu thú tội đã nhẩm đi nhẩm lại để khỏi vấp.
Bóng càng đen thì ảnh càng rực sáng. Không ngại ngần ẩn mình hay chết đi, không chỉ với đứa kêu xin, mà với cả đứa còn lại. Người cha đã chia gia tài cho cả hai. Có nhiều kiểu nói không thành lời nhưng luôn đầy ý. Người con cả tuy ở trong nhà, nhưng anh ta không thực sống phận con thì người cha vẫn không tồn tại trong tâm khảm của anh. Dù con không nhìn hay chẳng nhận thì cha vẫn mãi là cha: "mọi sự của cha cũng là của con." Từng ngày, từng giờ, ông còn mỏi mòn ngóng trông đứa con xa nhà. Ô kìa nó đây! Ông vội chạy đến ôm con hôn lấy hôn để, bất kể mùi uế tạp lẫn bụi đường khắp cả mình con. Không cần nghe trọn lời xưng thú, cũng chẳng cần tra khảo thứ loại tội hay số lần nó đã phạm: Phạm tội gì? Phạm ra sao? Phạm mấy lần?..."Mau đem áo đẹp ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào tay cậu, xỏ giày vào chân cậu!" Tình yêu cha đủ làm con sạch hơn mọi thứ nước của trần gian. ông lại còn sai bắt con bê đã vỗ béo để mở tiệc ăn mừng. Quả là một sự chuẩn bị trong niềm hy vọng sắt son. Tình yêu là thế: Không bao giờ chịu bó tay vì chẳng hề thất vọng bao giờ.
Không cần biết lý do, cũng chẳng cần xem xét quá khứ của nó, chỉ biết là nó đang ở đây, nghĩa là con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Từ câu chuyện kể đến cảnh hiện thực trên đồi sọ năm xưa: "Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 26-3,43).
Hỏng! Hỏng hết Chúa ơi! Thương yêu kiểu này thật là vô lý. Chỉ tổ vẽ đường cho hươu chạy hay bắc cầu cho chuột leo mà thôi. Xin đừng làm cớ cho người ta ỉ lại! Thế là hỏng, hỏng hết! Chúa yêu thương kiểu này thì người ta tha hồ ăn chơi sa đọa mà chỉ cần một chút sám hối là dư lời cả Nước Trời. Lại có người chẳng cần đến các bí tích, lễ lạc, chẳng cần vào tòa xưng thú tội lỗi, chắc họ sẽ theo anh em Tin lành mất thôi. Dứt khoát không thể được. Xin Chúa hãy mau sửa lại câu chuyện này, kẻo nhân loại hư hết, hỏng hết mà thôi.
Dù trời đất có qua đi, nhưng lời của Chúa sẽ không hề thay đổi (x.Mt 5,18). Có thể chúng ta đã lầm. Chuyện kể của Chúa Giêsu sở dĩ có ra là vì nhiều người biệt phái và luật sĩ năm xưa đã thấy khó chịu, khi nhiều người thu thuế và tội lỗi năng lui tới với Người. Họ đã lẩm bẩm, xầm xì trong ganh tị và cả tức tối. Vì họ không chấp nhận những người ấy là huynh đệ của mình. Chính Chúa Giêsu đã từng minh định rằng Người đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng là người tội lỗi. Thầy thuốc không cần cho người mạnh khỏe mà là tội nhân. Như thế chuyện Chúa Giêsu kể không cố ý nhấn mạnh đến người con thứ bỏ nhà ra đi, nhưng là người con cả đang ở trong nhà. Chính khi anh ta loại bỏ người em là lúc anh ta tự loại mình ra khỏi tình cha.
Tình Chúa mãi luôn bao la. Người muốn tất cả mọi người đều được hưởng ân tình của Người. Tình yêu thì không cần hội đủ điều kiện. Dù chỉ một cơ hội nhỏ nhoi thôi cũng đủ để cho tình yêu lên ngôi. Tình Chúa vượt quá mọi tình cha thế trần. Người chính là nguồn của mọi tình phụ tử. Là người cha thì lắm khi không cần con cái trực tiếp báo hiếu hay đáp đền công đức. Chỉ cần chúng nó yêu thương, đùm bọc lẫn nhau trong nghĩa tình huynh đệ. Thế là đã đủ.
Đọc Tin mừng chúng ta sẽ càng xác tín chân lý này. Chúa sẽ xử với chúng ta không theo những gì chúng ta đã làm cho Người mà theo những gì chúng ta đã làm cho nhau. Không xét đoán tha nhân thì Chúa sẽ không xét đoán chúng ta. Nếu ta tha thứ cho tha nhân thì Chúa sẽ thứ tha cho chúng ta. Khi ta làm một điều thiện bé nhỏ cho một trong những người bé mọn thì Thiên Chúa không chỉ lấy đấu đã dằn, đã lắc mà đong đổ sự thiện hảo cho chúng ta mà Người còn tặng ban hạnh phúc Nước Trời cho chúng ta (x.Lc 6,36-38; Mt 25,31-46)
Lạy Cha chúng con ở trên trời... Xin Cha tha nợ cho chúng con... (Mt 6,9-13) Chưa xin thì Chúa cũng đã ban ơn tha thứ, vì Chúa Kitô đã chết cho chúng ta khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Chưa xin thì Chúa cũng đã nhận chúng ta làm con, vì Người đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một...(Ga 3,16)
Chúa yêu thương, ban ơn tha thứ cho loài người chúng ta thật quá dễ dàng và nhiều khi ta lầm tưởng như là quá hoang phí. Quả đúng vậy. Dường như là một quy luật: Đã thương thì không hề tiếc, đã yêu thì chẳng bao giờ tính toán, so đo. Tuy nhiên để nhận được tình yêu, thì cần phải có điều kiện nào đó. Và cái điều kiện không thể thiếu để có thể đón nhận tình yêu của Cha trên trời, đó là chúng ta phải đón nhận nhau là anh chị em. Điều kiện nay xem ra không dễ. Nếu một ai đó, một người bé mọn hay một kẻ gian ác không có tí chỗ nào trong trái tim chúng ta, thì khi ấy mới thực sự là hỏng hết, hỏng hết.
Để có thể đặt những người không dễ thương mà lại còn đáng ghét vào một chỗ nhỏ trong trái tim chúng ta thì Thánh Lễ, các bí tích, việc cầu nguyện... luôn cần thiết, vì không có ơn Chúa chúng ta không thể làm được sự gì (x. Ga 15,5).
91. Tình Cha hậu hỉ--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Dưới góc nhìn tình yêu thì người ta có thể nói rằng đoạn tin mừng của thánh sử Luca tường thuật câu chuyện kể của Chúa Giêsu về "người con hoang đàng" là đỉnh cao của chữ tình. Người ta còn nói rằng nếu chọn một chương tiêu biểu trong tin mừng thánh sử Luca thì chương 15 phải được ưu tiên. Và trong chương ấy nếu chọn một vài câu thì bài trích Tin Mừng trong Chúa Nhật IV mùa Chay C đáng phải được chọn làm tiêu biểu.
Nói về chữ tình thì cái tựa đề cũ "người con hoang đàng" hay "đứa con phung phá" không thể lột tả hết. Hẳn nhiên điều này được minh chứng qua động cơ trở về của anh ta là chỉ muốn được no cái bụng. Ngày nay người ta đổi tựa đề câu chuyện kể của Chúa Cứu Thế thành "người cha nhân hậu". Theo thiển ý cái tựa đề này diễn tả nội dung câu chuyện khá hoàn hảo. Tuy nhiên xin được mạo muội góp một cái nhìn khi thêm một tựa đề đó là "tình cha hậu hỉ".
Hai từ hậu hỉ gợi mở cho chúng ta cảm nhận sự dư tràn vượt quá mong ước. Quả thật câu chuyện kể của Chúa Giêsu đã khiến người đương thời và cả chúng ta hôm nay chưng hững vì nhiều điều. "Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: "Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng". Và người cha đã chia của cải cho hai con". Theo luật bấy giờ, người con chỉ được nhận gia tài khi cha đã khuất. Đang sống sờ sờ thế mà một đứa con muốn mình như đã chết. Không sao. Đã khuất trước một đứa con thì sẵn sàng khuất bóng trước cả đứa còn lại. Nước từ trên chảy xuống. Miễn sao con cái được sống thì sự sống của mình vẫn tồn tại. Đã có đó nhiều người cha, người mẹ thanh thản nhắm mắt lìa đời khi thấy con cái đã thành gia thất.
Dù khuất bóng nhưng lòng người cha vẫn mãi dõi theo bước chân con cái mình. Đứa con như vô đạo, bất hiếu có ngờ đâu cha anh vẫn ngóng trông anh từng giờ, từng ngày, trong khi anh đang mãi mê ăn chơi sa đọa. Cái gì đến rồi sẽ đến. Chuyện gieo gió, gặt bão là lẽ như tất nhiên. Lá rụng về cội là điều thường có. Trong thân phận của kẻ hèn kém hơn cả loài heo, người con đi hoang mới chợt bừng tỉnh. "Biết bao người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha..." Chẳng biết anh ta có chút tình nào với người cha già, nhưng sự vị kỷ là có đó: về với cha chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cái bụng. Kẻ gian thường tỏ vẻ ngoan. Để che giấu sự vị kỷ của mình, người con hoang đàng đã nhẩm đi nhẩm lại cho thuộc lòng câu thưa thoặt nghe dễ mủi lòng: "Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy".
Không sao cả, miễn là con ta đi xa nay trở về, đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Dù là tấm thân gầy gò đầy bụi bẩn, lẫn mùi phân hôi của loài nhơ uế, nhưng chính là con của ta. Người cha đã vội chạy đến ôm cổ đứa con, hôn lấy hôn để. Vòng tay âu yếm, những nụ hôn yêu thương đã xóa đi mọi cách ngăn sạch nhơ, sang hèn. Có nhiều điều dường như là không thể với khả năng con người, nhưng đều là có thể khi tình yêu hiện diện. Tình yêu mạnh hơn cả sự chết!
Chẳng đợi con dứt câu xưng thú, chẳng cần biết quá khứ của con như thế nào, hôm nay, giờ này, con hiện diện ở đây là đủ. "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng". Tình người cha, một mối tình bao la đủ làm cho người con nên thanh sạch hơn mọi thứ nước tự nhiên. Cái tình ấy đã được chuẩn bị từ lâu qua con chiên được vỗ béo mà hẳn các gia nhân vốn thừa hiểu.
"Con ta đây đã chết mà nay sống lại." Có con rồi mới có cha. Có cháu rồi mới có ông, có bà. Sự sống chết của người cha như lệ thuộc vào sự sống chết của đứa con. Đến đây chúng ta mới hiểu sự sâu xa lời của một giáo phụ: "Vinh quang của Thiên Chúa là sự sống của con người". Thế gian này là chi? loài người là gì? Thảy đều là loài thọ tạo. Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn làm hình ảnh của chính Người (x.St 1,27). Và Người đã yêu thương nó đến độ đã ban chính Con Một để cho nó được sống và sống dồi dào. (x.Ga 3,16). Vậy ta có thể nói rằng Thiên Chúa không thể bỏ con người, không thể bỏ bất cứ một ai, nếu Người thực sự là Thiên Chúa.
Thánh sử Luca cho chúng ta hay chính vì những lời xầm xì của nhiều người Pharisiêu và luật sĩ khi thấy những người thu thuế và người tội lỗi lui tới với Chúa Giêsu mà Người đã kể câu chuyện này. Họ cảm thấy khó chịu vì tình Chúa quá hậu hỉ. Họ ganh tị vì thấy tình Chúa như không công bằng. Bọn thu thuế và mấy người tội lỗi kia không đáng được yêu. Và cách mặc nhiên họ cho rằng chỉ mình họ mới xứng đáng. Đằng sau lòng ganh tương đố kỵ luôn có bóng dáng của thần dữ.
Chúa Giêsu đã cảnh giác những tâm hồn đố kỵ ganh tương bằng hình ảnh người con cả trong câu chuyện. Dù đang ở trong nhà nhưng anh ta hành xử như là kẻ làm tôi. Anh còn tự loại mình ra khỏi tình cha, khi không nhìn nhận người em của mình. "Còn thằng con của cha kia...". Loại bỏ tha nhân, không nhận nhau là anh em một nhà, thì vô tình chúng ta tự loại mình ra khỏi tình Cha trên trời, Đấng từ bi nhân hậu, cho mưa rơi đều trên người công chính lẫn bẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi sáng người thánh thiện và người tội lỗi, Đấng không bao giờ muốn cho kẻ gian ác phải chết nhưng tìm mọi cách để họ ăn năn sám hối và được sống.
Tình Chúa thật bao la hay tình cha luôn hậu hỉ. Trong tình Chúa, không có sự gì là không thể. Bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể hưởng nhận tình Cha trên trời, nếu chúng ta biết ngửa tay đón nhận. Chỉ một lời khẩn xin: "Thưa Ngài, khi nào về nước Ngài, xin hãy nhớ đến tôi", thì hạnh phúc Nước Trời đã được ban cho người gian phi bị treo bên phải Chúa Giêsu năm xưa ngay ngày hôm ấy (x.Lc 23,29-43). Nhưng cũng xin đừng quên chân lý này: không ai hưởng hạnh phúc Nước Trời một mình. Rất có thể chính ta tự đóng đinh số phận của mình, nếu ta loại bỏ tha nhân ra khỏi nghĩa tình huynh đệ.
92. Trong đôi mắt cha--Thiên Phúc--‘Như Thầy Đã Yêu’
Một cô bé đang ngồi trên gối mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ:
- Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy lòng mẹ không?
Bà mẹ đáp:
- Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem có thấy gì trong đó?
Cô bé nhướng mắt nhìn chăm chú vào đôi mắt người mẹ, rồi sung sướng kêu lên:
- Mẹ ơi! Con nhìn thấy lòng mẹ rồi, ở đó có một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ?
***
Trong đôi mắt của cha mẹ, con cái là tất cả. Trong đôi mắt Thiên Chúa chỉ có con người, nhất là những con người tội lỗi đáng thương. Vua Đavít đã cầu nguyện cùng Chúa: "Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở" (Tv 17,8).
Vâng, tấm lòng yêu thương khôn tả của Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu bày tỏ trong dụ ngôn "Người cha nhân hậu". Một người cha rất đỗi hiền từ, luôn tôn trọng tự do của con cái, sẵn sàng trao phần gia tài cho người con thứ. Sau khi anh ta đã "sống phóng đãng, phung phí hết tài sản" trở về, người cha ấy cũng không trách mắng, nghiêm phạt, từ con. Trái lại, khi thấy bóng dáng cậu từ xa, ông đã vội vã chạy đến ôm chầm lấy cậu hôn hít vui mừng đến chảy nước mắt.
Lòng nhân hậu, yêu thương, tha thứ đã khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang đàng, mà chỉ còn thấy trước mặt ông, trong vòng tay âu yếm, là đứa con ông hằng mòn mỏi đợi trông. Đứa con mà ông tưởng đã mất vĩnh viễn nay lại tìm thấy được. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng người con trở về. Một cuộc đón tiếp quá sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của đứa con.
Người anh đi làm về, chẳng những đã không vui mừng mà con nổi giận, trách móc cha già, khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà chung vui với ông và gặp lại đứa em "đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Ông khẳng định với cậu rằng: "Tất cả những gì của cha đều là của con" (Lc 13,31).
Đó là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu thương, quảng đại, và hay tha thứ. Một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt nhưng luôn tỏ lòng khoan dung. Một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. "Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (Tv 135).
Chỉ tiếc một điều là người anh cả đã không chịu vào nhà. Anh không chịu vào vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào vì anh không hiểu được tấm lòng quá nhân hậu bao dung của người cha.
Hoá ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài: Anh không trái lệnh cha chỉ để tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là "em tôi" mà là "đứa con của cha kia". Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con.
Anh chỉ nghĩ về mình, quyền lợi của mình, hạnh phúc của mình. Anh là người đại tiện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.
Vậy cả hai người con đều phải quay trở về vôi cha, cả hai đều phải bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái tim cha: Nhân hậu, bao dung, tha thứ và tròn đầy yêu thương.
Trở về với cha là giang tay ôm lấy người em lầm lỡ.
Trở về với cha cũng là về với anh em, con cùng một cha.
Trở về với cha để thấy mình là tất cả, trong đôi mắt cha.
***
Lạy Chúa, tình Chúa lớn hơn tội lỗi chúng con bội phần. Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha cũng biết rộng lượng tha thứ cho nhau, để mỗi ngày chúng con càng nên xứng đáng với Chúa. Amen.
93. Hãy nhanh khi nghe, chậm khi nói--Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Người Việt Nam thường có câu: hãy “nhanh khi nghe – chậm khi nói”. Nghe để đấy, nghe để biết chuyện, suy nghĩ bàn hỏi mới là người khôn ngoan. Còn kẻ dại khờ thì dễ tin, dễ bị khích động và dễ kết án hùa theo đám đông.
Có rất nhiều trường hợp thương tâm đã xảy ra chỉ vì nhanh nghe, nhanh nói, dễ tin vào lời người khác để hành động điên cuồng gây nên những đau khổ do hiểu lầm, nhẹ dạ mang lại. Có rất nhiều lần chính chúng ta cũng vì quá tin người mà hành động thiếu suy nghĩ khi ném đá anh em. Cũng có rất nhiều lần chính chúng ta cũng khổ sở, chẳng biết phân bua thế nào vì bị người khác hiểu lầm, dựng chuyện làm hại chúng ta.
Có một câu chuyện thương tâm kể rằng:
Tạnh mưa, bọn trẻ bưng cơm đứng ăn trước cửa. Tý khoe:
- Nhà Tý ăn thịt gà.
Đêm đó, bà Tám chửi:
- Mả cha nó, nghèo mạt kiếp tiền đâu ăn gà, nó ăn gà bà, nó chết bất đắc cho mà xem.
Ông giáo buồn lắm, ngã bệnh, qua đời. Thương tình, hàng xóm lo ma chay.
Tý hớn hở vì nhà nó đông vui.
Trời đổ mưa.
Thằng Tý la lớn:
- Con gà vô nhà, dậy bắt làm thịt ba ơi.
Mọi người nhìn theo. Thì ra, một con cóc dưới kẹt tủ đang giương mắt nhìn lên quan tài ông giáo.
Hóa ra, nhà ông giáo ăn thịt cóc nhưng lại nói thịt gà để cho con trẻ khỏi thèm thịt gà! Thật là oan gia. Chỉ vì một lời kết án vu vơ đã làm mất đi một mạng người thật là đáng tiếc!
Thế nên, ở đời đừng vội kết tội cho người khác. Hãy bao dung độ lượng và tha thứ. Có những chuyện thấy vậy mà không phải vậy, nên cần cẩn trọng lời nói. Có những sự thật cũng cần được cảm thông hơn là kết án, vì có khi chính chúng ta cũng trải qua những lần lầm lỗi như thế.
Lời Chúa hôm nay cho ta thấy thái độ của Chúa Giêsu thật từ tâm. Ngài không hùa theo đám đông để kết án người đàn bà tội lỗi. Dù rằng tội người này theo lời của người Do Thái là “rõ mười mươi”. Dù rằng là tội quả tang nhưng cũng cần cảm thông và tha thứ. Ngài đã đi bước trước trong sự tha thứ khi Ngài nói: “Tôi không kết án chị đâu”. Ngài cũng nhắc nhở những người chung quanh đừng dễ dàng kết án người khác, đừng dễ dàng chửi bởi anh em, bởi vì: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá ném trước đi”. Ngài còn tạo cơ hội cho người phụ nữ chuộc lại lỗi lầm: “Chị hãy về và từ này đừng phạm tội nữa”.
Đức Giêsu là Thiên Chúa rất thánh thiện vô cùng. Ngài không hề sai phạm một lầm lỗi nào, thế mà Ngài vẫn luôn luôn thông cảm được với sự yếu đuối của người tội lỗi. Ngài không kết án mà sẵn sàng tha thứ. Còn chúng ta, chúng ta cũng yếu đuối như tất cả mọi người, thế mà ta lại khó thông cảm với những yếu đuối của người khác, nhất là khi họ làm thiệt hại đến ta, đến quyền lợi, danh tiếng, hay cản trở ý muốn của ta.
Ở đời: “Ai nên khôn mà không dại một lần”, thế nên, làm người cần có sự khiêm nhu để nhìn lại mình và để cảm thông với anh em. Có thể ta dễ dàng kết án người khác. Có thể chúng ta không muốn gương xấu trong môi trường chúng ta. Nhưng liệu chúng ta làm ầm ĩ lên, hoặc mạnh tay ném đá kẻ có tội chúng ta sẽ được gì khi mất anh em, mất bạn bè vì sự nóng giận của chúng ta?
Mùa chay là mùa giúp chúng ta nhận ra thân phận yếu đuối của mình để sám hối và cũng để cảm thông với lỗi lầm của anh em. Đừng kết án anh em. Đừng đẩy anh em vào đường cùng. Đừng lên án xử anh em, nhưng hãy bao dung và tha thứ cho nhau. Hãy nhớ lời Chúa dạy: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá ném trước đi”.
Xin cho chúng ta học nơi Chúa bài học của bao dung và tha thứ để chúng ta luôn lấy lòng từ bi, nhân hậu mà đối xử với nhau. Xin cho chúng ta cũng nhận ra mình là con nợ đã từng được Chúa tha thứ để đừng bao giờ hà khắc, kết án anh em. Xin Chúa giúp chúng ta học nơi Chúa luôn “chậm bất bình và rất mực khoan nhân” để đối xử với nhau trong bác ái yêu thương. Amen.
94. Thành tâm xét mình--Lm Nguyễn Nguyên
Suốt đời vô tội, cứ lẽ thường, thì không thể. Kinh nghiệm bản thân mỗi người đã cho chúng ta thấy rõ điều ấy.
Đã là người thì ai cũng có những xu hướng xấu, chỉ có điều khác lọai, và khác mức độ mà thôi, chẳng hạn có người ham thú xác thịt, người khác tham lam của cải, hoặc ích kỷ nhỏ nhen, ghen tương đố kỵ, nói hành nói xấu… Với ý thức đó, lẽ ra nó phải dẫn con người tới sự khiêm nhường và thông cảm với những tật xấu nơi người khác, thế nhưng rất nhiều khi con người lại muốn mình trở nên quan tòa để luận tội, kết án anh em mình. Những kinh sư và người Phariseu trong tin mừng chúng ta vừa nghe là một bằng chứng điển hình cho ta thấy rõ điều đó.
Những kinh sư và biệt phái họ luôn tự cho mình là những tín đồ mộ đạo, họ tự đặt mình trên tòa cao, tự ban cho mình quyền kết án và loại trừ những người mà họ cho là tội lỗi. Hôm nay, họ xúm nhau kết án chị phụ nữ ngoại tình. Mỗi người một hòn đá. Mỗi người một khuôn mặt mang đầy sát khí hôi tanh. Họ sẵn sàng trị tội một người để làm gương cho nhiều người. Tất cả đang sẵn sàng một án tử hình cho người phụ nữ thấp cổ bé miệng, lại cô thân cô thế. Thế nhưng, số phận của chị ta thật may mắn bởi vì: Chị đã được chính Chúa Giêsu, vị quan án kiêm luật sư, một vị cực kỳ khôn ngoan và nhân ái bào chữa và cứu chị thoát khỏi cái án tử đang treo lơ lửng trên đầu: “Tôi không kết án chị đâu - Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Một câu nói mở ra con đường sống cho kẻ bị kết án. Các biệt phái và kinh sư muốn Chúa làm quan toà giết chết, nhưng Ngài lại là vị quan toà cứu sống. Chỉ vài phút trước đó, người ta hung hăng tố cáo, mời Chúa xét xử người phụ nữ, không ngờ Ngài lại xét xử họ. Người ta đợi chờ Chúa kết án người phụ nữ, không ngờ Ngài lại kết án họ. Người ta mang đá ném vào người phụ nữ đáng thương, không ngờ Chúa lại ném đá vào chính lương tâm của họ.
Nhìn lại và đối chiếu hai thái độ: một bên là Chúa Giêsu, bên kia là những kẻ lên án người khác, mỗi người chúng ta thấy gì? Chúng ta có nhận ra một mâu thuẫn lớn, lớn lắm, lớn vô cùng hay không, đó là: Chỉ có mỗi một mình Thiên Chúa là Đấng vô tội, và Chúa Giêsu chẳng biết phạm tội là gì, lại tha thứ một cách quá dễ dàng. Chỉ có mỗi một mình Thiên Chúa mới có quyền kết án tội nhân, thì Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa lại tha thứ một cách quá nhanh chóng, tha thứ vô điều kiện. Còn con người với nhau, đầy khiếm khuyết, vô vàn lỗi lầm, cũng chẳng bao giờ được quyền xét đoán ai, chẳng bao giờ được quyền kết án ai, lại cứ tìm cái xấu của người khác để mà kết án, trị tội nhau. Cuộc sống hôm nay vẫn có đó những viên đá ác nghiệt, những viên đá của vô tâm, hững hờ, của nghi ngờ ganh ghét, những viên đá ném vào người anh em từ những tâm hồn hẹp hòi, u ám, những con tim chai lì của ác độc tự kiêu. Vâng! Con người ngày hôm nay cũng đang có những cách sống và thái độ sống không khác gì các kinh sư và Pharisêu. Đó là thái độ dửng dưng trước tội. Làm sự tội mà không biết mình tội.
Sống trong sự tội mà cho rằng mình không mắc tội. Đang ngoại tình mà cứ tưởng mình trong sạch cứ kết án người khác.
Thật vậy, tội ngoại tình đa dạng và nhiều kiểu lắm chứ không phải đơn thuần chỉ là chuyện ăn nằm với người khác mà thôi đâu. Khi người ta bỏ Chúa đi thờ ngẫu tượng và các thần xa lạ khác thì lúc đó người ta đang phạm tội ngoại tình đấy. Khi đi cầu cơ, đi coi bói, chơi bùa, chơi ngải, cúng vái các tượng thần để xin chữa bịnh, xin cho làm ăn phát tài …
Khi cúi gập mình xuống để tôn thờ thần sex, làm nô lệ cho thần khoái lạc, suốt ngày chỉ tôn thờ những thú vui trụy lạc, lao đầu vào những thú vui giải trí thiếu lành mạnh nhưng vẫn nghĩ rằng xã hội nhiều người làm như thế, nên tôi làm cũng chẳng sao. Rồi tự do yêu đương, tự do quan hệ, tự do luyến ái theo kiểu “tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em cũng chẳng hề hối tiếc”.
Khi quỳ xuống bái lạy Thần Tài, và cắm đầu cắm cổ làm nô lệ cho nó, bỏ cả nhà thờ nhà thánh, bỏ lễ, bỏ đọc kinh và bỏ luôn không lãnh nhận các phép bí tích …
Khi đã chịu phép Rửa Tội đàng hoàng nhưng lại đi chùa, đi thắp hương, đi cúng vái ông này bà nọ…… Là khi ấy, con người đang phạm tội ngoại tình, đang ngấp nghé bỏ nhà để đi… kiếm bò lạc đấy.
Ước gì, qua lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta nhận ra rằng: Trước mặt Thiên Chúa, ai cũng là tội nhân, nên hãy đứng trước tấm gương của lương tâm mình để nhìn thấy cái lọ lem của mình, để nhìn thấy tâm hồn đen đủi xấu xa của mình. Hãy cầm lấy viên đá không phải để ném người khác, mà là để vạch lên ngực, lên tim của mình cho chảy máu và ăn năn sám hối rồi hãy bỏ nó xuống đất. Và theo gương Chúa mà đối xử với nhau: đừng bao giờ kết án ai hay vào hùa với ai để kết án người khác; đừng đấm ngực ai, nhưng hãy đấm ngực mình, nhìn nhận mình cũng chẳng khá hơn ai, mình cũng đầy những tội lỗi và thiếu sót, cần ăn năn sám hối để được tha thứ. Đó cũng là lời kêu gọi tha thiết cho mỗi người trong tuần cuối cùng của Mùa Chay này. Amen.
95. Ai là người vô tội?--Lm Trịnh Ngọc Danh
Hôm ấy, vừa tảng sáng, Chúa Giêsu trở lại đền thờ. Toàn dân đến với Ngài. Ngài ngồi giảng dạy họ.
Từ đàng xa, một đám đông đang hớn hở như bắt được một tin vui. Đám đông xô đẩy, lôi kéo một phụ nữ quần áo xốc xếch, tóc rối bù, mặt mày tái mét. Có tiếng quát tháo: “ Đi, đi tới đây! Đồ nhơ nhớp!”
Lại cũng những người kinh sư và Pharisiêu! Chuyện gì nữa đây?
Họ dẫn đến trước mặt Ngài một người phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị đứng ở giữa, rồi nói với Ngài: “ Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật ông Môi sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”.
Chúa Giêsu không trả lời, Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất.
Một câu chuyện xưa kể rằng: Một người bị bắt vì tội ăn trộm. Anh bị giải đến trước mặt vua. Nhà vua ra lệnh treo cổ phạm nhân. Trên đường đi đến giá treo cổ, phạm nhân tiết lộ cho viên cai ngục:
- Tôi có một điều bí mật do cha tôi truyền lại, nhưng rất tiếc tôi phải chết, nên đành phải chôn vuì bí mật ấy theo cái chết của tôi.
Viên cai ngục tò mò:
- Bí mật gì, nói mau!
Tên trộm lưỡng lự một lúc rồi nói:
- Tôi có bí quyết có thể gieo một hạt lựu, và làm cho nó mọc lên và trổ sinh hoa trái chỉ trong một đêm.
Nghe lạ, viên cai ngục áp giải phạm nhân trở lại với vua. Vua ra lệnh cho anh làm thử. Anh đào một lỗ nhỏ dưới đất, cầm hạt lựu lên và nói:
- Thưa bệ hạ, để thực hiện được bí quyết này, hạt giống này phải do tay một người chưa bao giờ lấy cắp của ai bất cứ thứ gì không phải của mình. Tôi đây là một tên trộm nên không thể trồng nó được.
Vua quay sang một viên quan rồi bảo:
- Ngài có thể gieo hạt giống này chứ?
Viên quan nọ từ chối:
- Khi còn trẻ, tôi có giữ một vài thứ không phải của tôi.
Anh ăn rộm quay sang người giữ kho của triều đình và bảo:
- Vậy ngài có thể trồng được không?
Người giữ kho cũng từ chối:
- Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Hiện giờ tôi cũng đã giữ một ít tiền cho bản thân tôi.
Cuối cùng chỉ còn lại nhà vua, tên trộm quay sang vua và tâu:
- Có lẽ bệ hạ trồng được hạt giống này!
Nhưng nhà vua vội nói:
- Ta xấu hổ mà phải nói rằng có một lần ta đã lấy chiếc đồng hồ của cha ta.
Tên trộm kết luận:
- Tất cả các ngài đều là những người sang giàu, có uyền lực, và không còn thiếu gì nữa. Thế mà chẳng ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này; trong khi đó, tôi chỉ vì đói mà ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, một túi gạo mà lại bị kết án treo cổ.
Và nhà vua đã tha chết cho anh.
Đó là câu chuyện của thế gian. Trở lại câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình:
Người phụ nữ ấy đang đứng trước mặt Chúa Giêsu. Những kinh sư và người Pharisiêu phấn kích như tìm được một chiến lợi phẩm, vừa tỏ ra mình có công trạng vừa thầm gài bẩy Ngài xem Ngài đối xử thế nào để có bằng cứ tố cáo Ngài. Chúa Giêsu không trả lời, Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Họ thầm nghĩ: Phen này thì ông ta bí rồi, và họ cứ thế hỏi mãi, nên Chúa Giêsu ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ nhìn nhau, rồi bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ người lớn tuổi.
Mục đích của các kinh sư và người Pharisiêu là gài bẩy Chúa Giêsu: Ném đá hay không ném đá? Nếu Ngài bảo đừng ném đá, thì họ sẽ kết án Ngài là người khuyến khích người ta chống lại luật Môisê; nếu Ngài bảo hãy ném đá, thì họ sẽ quy kết cho Ngài là người không nhân hậu. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời liền cho họ, nhưng để cho họ có thời gian tự vấn lương tâm để nhìn vào chính bản thân mình đã đáng lên án, kết tội người khác chưa.
Sự thinh lặng thức tỉnh lòng người: Chúa Giêsu thinh lặng, phớt lờ những lời tố giác của họ có lẽ cũng vì Ngài muốn cho họ biết rằng: Không ai là người không có sai phạm. Ai cũng là những người có tội, có ai trong sạch hơn ai đâu, bêu xấu, kết án người khác để làm gì, có ích lợi gì đâu? Và qua đó, Ngài cũng tỏ thái độ chán ghét bọn giả hình cho mình là người đạo đức thánh thiện. Thái độ phớt lờ chuyện người phụ nữ phạm tội là cách thức Ngài đánh động lương tri của con người. Ngài chẳng buồn trả lời; nhưng hỏi mãi, Ngài đành phải lên tiếng: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Đó là một câu nói thức tỉnh lương tri những người giả dối, đạo đức giả.
Nghe nói thế, họ chột dạ và lẳng lặng rút lui, trước tiên là những người lớn tuổi. Và có lẽ, trên đường rút lui, có những người đã xầm xì với nhau: Ngoại tình! sao không bắt cả hai mà chỉ buộc tội có một mình người phụ nữ kia nhỉ?
Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và người phụ nữ. Ngài ngẩng nhìn lên và hỏi: “ Này chị, họ đâu cả rồi? Họ không lên án chị sao?” Người đàn bà đáp: “ Thưa ông, không có ai cả”. Chúa Giêsu nói với chị ta: “ Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Ít ra trong đám người Pharisiêu, luật sĩ hôm ấy và ngay cả chúng ta hôm nay còn có chút lương tri đã không giả hình vô tội để ném đá người phụ nữ kia, và đã có cơ hội để nhìn lại chính bản thân mình: Không ai là người vô tội. Người lên án cũng chẳng phải là người tốt. Nếu phải ném đá, thì mọi người đều phải chung số phận!
Lên án người khác, nhìn thấy lỗi lầm của người khác thì dễ hơn là lên án và nhìn ra lỗi lầm của chính mình. Người đáng phê phán và kết án lại là người tự cho mình là công chính. Không ai là công chính và cũng không ai là vô tội. Sám hối và tin vào Tin Mừng là con đường dẫn chúng ta đến lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là con đường chúng ta phải nổ lực vươn tới như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philliphê đã xác nhận: “ Không phải do sự công chính của tôi dựa vào lề Luật, nhưng do sự công chính bởi tin Đức Giêsu Kitô…Không phải là tôi đã đạt đến cùng đích, hoặc đã trở nên hoàn hảo, nhưng tôi đang theo đuổi để chiếm lấy…” (Phil. 3: 13-14)
Thiên Tình yêu của Thiên Chúa không phân biệt đối xử. Tình yêu của Thiên Chúa muốn cứu vớt hết mọi người.
Thiên Chúa lên án tội lỗi, nhưng Ngài không kết án tội nhân. Bản thân tội lỗi không cần lòng thương xót, nhưng bản thân tội nhân thì cần. Điều Thiên Chúa cần là lòng sám hối, ăn năn và hoà giải với Ngài nhờ Đức Giêsu Kitô.
Chúa Giêsu xuống trần gian để giao hoà những người chưa giao hoà với Thiên Chúa; thánh Phaolô trong thư thứ 2 gửi tín hữu Côrintô đã viết: “ Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được giao hòa với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hòa giải” (2 Cor. 5: 19).
Lòng thương xót của Thiên Chúa không chấp tội chúng ta, không lên án quá khứ lỗi lầm của chúng ta. Qua Đức Kitô, lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ mở đường trong hoang địa, sẽ khơi dòng sông nơi vùng đất khô cằn như lời Người đã phán trong sách tiên tri Isaia: “ Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Đây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện, như các ngươi sẽ biết; Ta sẽ mở đường trong hoang địa và khơi sông nơi đất khô…(Is. 43: 18-19)
Lời nói âu yếm dịu dàng của Chúa Giêsu với người phụ nữ cũng là lời nói âu yếm ngọt ngào đối với tất cả chúng ta là những tội nhân: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
96. Chúa Nhật 4 Mùa Chay--Công Tạo
Cùng Đọc Với Dân Ítraen
Tv theo mẫu tự, mỗi câu mở đầu bằng một mẫu tự Do Thái. Tv nói về ai? Ai là người được mời chúc tụng Chúa? Những người nghèo, "xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên".Vâng, kẻ bần cùng, người khiêm cung, những tấm lòng tan vỡ được gọi là những người hạnh phúc, trong khi kẻ giàu sang phải bần cùng đói khổ.
Cùng Đọc với Đức Giêsu
Phúc cho kẻ nghèo vì Nước Trời là của họ. Qua những lời Tv như Tv này, chúng ta mới thấy rõ Đức Giêsu đã thấm nhuần lời kinh nguyện của dân tộc Ngài như thế nào... cũng như Mẹ Maria với lời kinh Magnificat. Chúc tụng là tâm hồn của Đức Giêsu. Mỗi một lời kinh nguyện của Ngài đều mang sắc thái của Tv này: Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. (Lc 10,21).
Thánh sử Gioan đã trích dẫn Tv này khi muốn giải thích sự kiện Đức Giêsu bị đâm thủng cạnh sườn thay vì bị đánh bể ống chân: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh dập (Ga 29,36) để lời kinh thánh được ứng nghiệm. Đức Giêsu người nghèo nhất, mời ta lắng nghe lời tạ ơn của Ngài vì Chúa Cha gìn giữ xương cốt Ngài dầu một khúc cũng không dập gãy. Một lần nữa ta thấy Thánh Kinh mời ta đọc một cách sâu xa. Lời hứa hạnh phúc tràn đầy trong Tv không thể được hiểu như thực hiện ngay tức khắc, mang tính vật chất. Nên nghĩ đến Đức Giêsu khi ta nghe tác giả Tv nói: Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi. Xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn dầu một khúc cũng không dập gãy. Chỉ sự phục sinh mới hoàn thành lời hứa này.
Cùng Đọc với người thời nay.
Người khốn khổ kêu cầu: Chúa đã nghe. Xã hội hiện nay quan tâm đến người nghèo. Con người muốn có sự bình đẳng trong các tầng lớp xã hội, người ta đề ra nhiều phương án để giúp đỡ những lớp người cùng khổ, các trẻ em không được đến lớp...Cho dù chưa có hiệu quả cao, nhưng cũng là một dấu chỉ của thời đại. Những ai không muốn lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, tự đặt mình bên ngoài chương trình của Thiên Chúa. Kẻ nghèo kêu lên và Chúa đã nhận lời. Nói lên câu này, lắm lúc ta lại bị tố cáo là "làm chính trị". Nghĩ thế là hoàn toàn không biết gì về mạc khải trong Thánh kinh. Kẻ không đứng về phía những người nghèo, chống lại những bất công, bất bình đẳng, không thể được gọi là người đạo đức. Một thế đứng trên thế giới làm cho người ta buộc theo một lựa chọn nhất định nào đó và tìm mọi phương cách thực hiện cho bằng được mục đích ấy. Đừng quên rằng những vấn đề xã hội nóng bỏng thuộc thế kỷ 20 không nằm bên trong những những hệ thống của các nước phương Tây, nhưng là nơi mọi xã hội kỹ nghệ hoá (đã chiến thắng nạn đói) và nơi những nước thuộc thế giới thứ ba (đang kêu cứu vì đói). Hãy đọc lai Tv 33 trong viễn cảnh ấy. Và bạn sẽ có được một sức mạnh lạ lùng để cầu nguyện giữa lòng thế giới.
Lời mời gọi hành động để giải phóng, để cứu thoát, để hủy diệt cái khổ. Làm thế nào khỏi phải giả hình khi ta đọc câu "xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên" nếu không phải là dấn thân với tất cả khả năng của mình để cho người nghèo được bớt nghèo hơn?
Lời hứa hạnh phúc. Ai muốn hạnh phúc phải lánh xa sự dữ, làm lành, kính sợ Thiên Chúa, tìm kiếm Ngài. Quá ngây thơ, một số người nghĩ thế! Nhưng sự thật lại đúng như thế! Những người hạnh phúc thật chính là những người mà Tv nhắc đến. Ban hãy thử sống để cảm nghiệm.
97. Gặp được lòng thương xót của Thiên Chúa--Lm. Augustine SJ
Cướp Ngân Hàng
Ngày 25 tháng 2 năm 1954 xảy ra một vụ cướp ngân hàng tại thủ đô Paris của nước Pháp. Một chàng trai tên Phan Đăng Lê (Jacques Flesh) dùng súng trước hết bắn trọng thương một nhân viên ngân hàng, sau đó bắn chết một nhân viên cảnh sát, đồng thời làm một số người qua đường bị thương. May mà nhân viên công lực đã sớm tóm cổ được hắn.
Tại phiên toà, phạm nhân không hề hối hận về tội đã phạm mà còn ngạo nghễ muốn khiêu khích mọi người có mặt. Ban đầu đã có người nghi hắn mắc bệnh tâm thần. Nhưng trắc nghiệm tâm lý cho thấy tên Phan Đăng Lê này chỉ là một đứa con được cưng chiều quá hoá ra mất dạy, chỉ biết ăn chơi đàng điếm. Hắn trơ trẽn và bình thản chấp nhận án tử một cách vô liêm sỉ. Khi bị lên án tử hình, han lớn tiếng nói với mình rằng: "Cho mày đáng đời! Mày phải bước lên máy chém thì hãy tỏ ra là một con người can đảm!"
Quả thật Phan Đăng Lê là con một ông chủ ngân hàng giầu sụ nước Bỉ. Cho tới tuổi 24, cậu muốn gì được nấy, không hề thiếu thốn sự gì. Cậu đã phung phí tuổi xuân xanh trong ăn chơi, lười biếng và ương ngạnh. Học trường nào cũng chỉ được vài ngày hoặc một tuần là bị đuổi. Cậu con nhà giàu này quả thật đã trở nên kẻ vô dụng và cuối cùng trở nên kẻ sát nhân.
Đầu năm 1954 chàng nổi hứng đòi bố mẹ cho tiền để mua một chiếc thuyền buồm hiệu Phi-li-mốt-ka dài 10m, trị giá tới 2 triệu quan Pháp. Chính vì bị bố mẹ từ chối mà chàng đã vác súng đi cướp ngân hàng và bị sa lưới pháp luật.
Gặp Được Lòng Thương Xót Của Thiên Chúa
Nhưng chuyện chàng thanh niên con nhà giàu Phan Đăng Lê được đề cập trong tờ chia sẻ tuần này không phải vì trở nên kẻ sát nhân cho bằng nhờ ơn Chúa đã trở nên hối nhân. Số là trong ba năm ngồi tù đợi ngày lên máy chém, anh đã say mê đọc Kinh Thánh và đã gặp được lòng thương xót của Thiên Chúa.
Trong mỗi lá thư Phan Đăng Lê viết về cho người vợ trẻ, người ta đều đọc được bề sâu của một tâm hồn đã được đổi mới nhờ gặp gỡ Thiên Chúa. Chàng ý thức rất rõ về tình trạng tội lỗi của mình trước mặt Thiên Chúa và xã hội nên rất sung sướng đón nhận cuộc đổi mới đang diễn ra nơi con người chàng. Do đó ba năm chờ chết nơi nhà tù chính là ba năm tràn đầy niềm vui và ơn bình an đối với chàng.
Trong một lá thư viết cho người vợ trẻ, chàng tâm sự: "Em à, trước kia anh chỉ là một cái xác động đậy mà thôi, nay anh thâm tín rằng đây là lần đầu tiên trong đời, anh thực sự sống."
Ánh Sáng Trên Đoạn Đầu Đài
Các thư mà Phan Đăng Lê viết cho vợ được in thành sách dưới nhan đề: "Ánh Sáng Trên Đoạn Đầu Đài". Một ngày trước khi bước lên máy chém, Phan Đăng Lê viết trong thư vĩnh biệt vợ như sau: "Cuộc hành quyết sẽ xảy ra vào ngày mai, lúc 4 giờ sáng. Xin cho ý Chúa được trọn vẹn! Em yêu, trong 5 tiếng đồng hồ nữa anh sẽ được gặp gỡ Chúa Giêsu."
Ngày 2 tháng 10 năm 1957, sau khi chịu Mình Thánh Chúa từ tay linh mục tuyên úy nhà tù, Phan Đăng Lê đã hiên ngang bước đi trong hành lang đưa anh tới máy chém. Năm đó anh vừa tròn 27 tuổi. Bước đường nào đã đưa anh từ con người sát nhân ngang tàng nên hối nhân thánh thiện? Cuộc đời của anh nơi nhà tù đã làm chấn động giới luật sư, trí thức và tôn giáo. Theo nhật báo Rạng Đông của Paris, ngay đội lính canh trước đoạn đầu đài sáng thứ năm hôm đó cũng cho biết: họ chưa từng thấy một tội nhân nào bước lên máy chém với lòng dũng cảm can trường như Phan Đăng Lê.
Điều hết sức đặc biệt là chính Đức Hồng Y Lustiger, tổng giám mục Paris đã cho lập hồ sơ và ký đơn xin phong chân phước cho anh Phan Đăng Lê. Quả thật, nếu mọi sự xuôi chảy anh có thể trở nên "người trộm lành hiện đại" làm cho ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay trở nên sống động đối với người thời nay.
Nhưng bài Tin Mừng hôm nay vẫn còn đó như là một thách đố lớn cho mọi người thuộc mọi thời đại, bởi lẽ ai là người cũng cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, không riêng gì những con người ngang tàng như anh Phan Đăng Lê.
Tình Thương Của Người Cha Đối Với Cả Hai Con
Các nhà bình giải Kinh Thánh đều cho thấy ý chính mà bài Tin Mừng hôm nay nhắm tới là tình thương của người cha đối với cả hai người con, tuy tình thương ấy nổi bật đối với người con thứ. Theo luật Do Thái (Đnl 21,17), gia tài của người bố chia làm ba thì con cả được hưởng hai phần, con thứ được hưởng một phần.
Bình thường gia tài chỉ được phân phát cho con cái sau khi người bố đã qua đời. Luật pháp còn dự trù hình phạt dành cho kẻ rút phần gia tài của mình ra trước thời gian qui định. Dù sao đứa con thứ trong dụ ngôn đã rút hết phần gia tài thuộc về nó. Điều đó cho thấy nó thực sự đã cắt đứt mọi ràng buộc với gia đình. Việc nó rút đi một phần ba gia sản tất nhiên ảnh hưởng tới toàn bộ lợi tức của gia đình và trực tiếp đụng chạm tới quyền lợi của người anh cả; ta có thể hiểu phần nào về lý do tại sao người anh cả không chịu làm hòa với em: đứa em này trở về nhà rồi, nhưng việc phá hoại của nó cứ còn tiếp tục khiến người anh cả bị thiệt thòi!
Dụ ngôn người cha nhân hậu đã trở nên câu chuyện quá quen thuộc với các Kitô hữu chúng ta nên ai cũng có thể sử dụng trí tưởng tượng để khai thác những điều mình lấy làm tâm đắc, nhất là về bước đường suy sụp của người con thứ. Cái cảnh phung phá tiền của, bất kể tới mồ hôi nước mắt của người bố và tiếng tốt của gia đình, điều đó chẳng ai mà chấp nhận. Nhưng với người Do Thái điều ghê tởm hơn cả là cái cảnh đứa con thứ phải đi chăn heo. Chỉ có "quân ngoại đạo" mới làm công việc đáng khinh bỉ đó. Hơn nữa, nó ước ao được ăn thứ đồ heo ăn mà cũng chẳng có mà ăn. Như vậy người con thứ không những bị suy sụp mà còn xuống cấp vì trở nên hèn hạ hơn loài heo là con vật mà ai là người Do Thái cũng ghê tởm!
Chính trong cảnh túng quẫn đó, người con thứ nhớ lại bầu khí êm ấm của gia đình mình. Nó ước ao trở về nhà như người làm công mà thôi. Nhưng cha nó đã đối xử một cách vượt ngoài điều nó có thể tưởng tượng. Chính cha nó đã chạy tới ôm hôn nó khi nó trở về. Người cha nào có để ý gì đến lời xưng thú của nó. Ông chỉ quan tâm tới việc hồi phục lại toàn bộ những đồ ông dành cho người con kể như đã mất mà nay tìm được, đã chết mà nay sống lại!
Muốn Cả Hai Con Được Hạnh Phúc
Câu chuyện như đã tới hồi kết thúc thì lại xảy ra vấn đề mới là người con cả giận dỗi không chịu tham gia bữa tiệc mừng em hoang đàng trở về. Người cha lại phải chạy ra năn nỉ để có sự hoà giải vì ông muốn cho cả hai người con đều được hạnh phúc. Điều làm người con cả bị vướng mắc là thái độ tự mãn mà anh khăng khăng duy trì. Người cha không tranh luận về mọi điều tốt mà người con cả lấy làm tự hào nhưng chỉ năn nỉ xin anh vào để "ăn mừng và hoan hỉ, vì em con đây đã chết, nay lại sống, đã mất nay lại tìm thấy" (c.32)
26/03 Cầu nguyện trong sám hối
- Viết bởi Lc 18, 9-14
Cầu nguyện trong sám hối.
Thứ Bảy tuần 3 Mùa Chay.
"Người thu thuế ra về được khỏi tội".
Lời Chúa: Lc 18, 9-14
Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những người hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác:
"Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi".
Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà nguyện rằng: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội".
Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống; và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tự hào và khinh người
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Tự hào về sự đạo đức của mình và khinh người khác,
Đó chẳng phải chuyện của các ông Pharisêu ngày xưa.
Đó là chuyện của con người mọi thời, của chính các môn đệ hôm nay.
Chúng ta nghe Đức Giêsu kể dụ ngôn này cho mình trong Mùa Chay thánh.
Hai nhân vật đối lập nhau, được đặt bên nhau trong dụ ngôn.
Họ ở trong cùng một đền thờ, cùng đứng cầu nguyện trước nhan Chúa.
Họ là một ông Pharisêu thánh thiện và một người thu thuế tội lỗi.
Nghe lời cầu nguyện của họ, chúng ta biết được lòng họ.
Người Pharisêu không xin gì cho mình, ông chỉ tạ ơn Thiên Chúa.
Ông kể ra những điều xấu mà ông không làm như bao kẻ khác,
hay như tên thu thuế mà ông thoáng thấy đứng cuối đền thờ (c. 11).
Ông còn kể những việc đạo đức tự nguyện về ăn chay và dâng cúng
mà ông đã làm vượt quá những gì Luật đòi buộc.
Lời cầu nguyện của ông khiến nhiều người Do Thái tử tế phải thèm.
Còn người thu thuế thì đứng xa, cúi đầu, đấm ngực, cầu xin cách đơn sơ:
“Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (c. 13).
Anh thấy mình bất xứng, bất lực, chỉ biết cậy dựa vào tình thương tha thứ.
Kết luận của Đức Giêsu hẳn đã làm nhiều người chưng hửng.
Người thu thuế được Thiên Chúa làm cho nên công chính,
còn người Pharisêu thì không (c. 14).
Thiên Chúa có bất công không? Chúng ta có cần sống tử tế nữa không?
Thật ra, ông Pharisêu không được gì vì ông đã không xin gì.
Ông không xin vì ông thấy mình quá ư giàu có về mặt đạo đức.
Ông ra trước Thiên Chúa với một kho công trạng của mình.
Có bao nhiêu chữ con đầy tự hào trong lời nguyện của ông.
Chúng ta tưởng ông mở ra khi nói “con tạ ơn Thiên Chúa”
nhưng thực tế ông đã khép lại, quay vào mình, ngắm nghía vẻ đẹp của mình.
Rốt cuộc Thiên Chúa là người thừa, cùng lắm chỉ là người ông đến đòi nợ.
Ngược lại, anh thu thuế tuy có nhiều tiền, nhưng thấy mình tay trắng, lỗi tội.
Chính điều đó khiến anh hết sức cần đến Thiên Chúa.
Ngài đã nghe tiếng kêu của anh từ xa, từ cuối đền thờ.
Không cần Thiên Chúa và coi thường tha nhân, vẫn là cám dỗ muôn thuở.
Nên thánh không phải là chuyện “tôi làm”
mà là chuyện để Thiên Chúa tự do làm nơi đời tôi.
Chỉ ai nhìn nhận sự yếu đuối của mình,
lời cầu nguyện của người đó mới đánh động được trái tim Thiên Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Suy Niệm 2: Được nên công chính
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nhìn bề ngoài thì ai cũng thấy người Pha-ri-sêu được đánh giá cao hơn. Ông thuộc tầng lớp đạo đức, được mọi người kính trọng. Làm nhiều việc lành hơn cả luật đòi hỏi.
Người thu thuế bị mọi người khinh miệt. Bị coi là người tội lỗi công khai. Bị coi là người phản quốc, vì tiếp tay với ngoại bang để hà hiếp dân chúng. Bị coi là gian dối, vì thu thuế đồng nghĩa với tham nhũng hối lộ.
Thái độ trong nhà thờ khi cầu nguyện tiếp nối cách sống ở ngoài đời. Người Pha-ri-sêu đứng thẳng người trên cung thánh và lớn tiếng cầu nguyện. Còn người thu thuế quì sụp xuống đất ở cuối nhà thờ, chỉ nài xin Chúa tha tội. Nhưng kết quả trái ngược hẳn với những gì ta thấy bên ngồi. Tại sao?
Người Pha-ri-sêu kiêu ngạo. Thực ra ông không cầu nguyện, ông chỉ khoe khoang và tự đánh giá mình cao hơn người thu thuế. Còn người thu thuế khiêm nhường. Ông cầu nguyện thầm thĩ, đấm ngực ăn năn, và xin tha thứ.
Người thu thuế được nên công chính, người Pha-ri-sêu thì không. Có 3 lý do:
Chúa kết luận: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Chẳng ai có quyền tự hào. Tất cả là của Chúa. Tất cả phải trả về cho Chúa. Đó là điều phải làm. Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng mà thôi.
“Ta muốn tình yêu chứ không cần hi lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu”. Thiên Chúa là tình yêu và giầu có vô cùng. Người chỉ cần tình yêu chứ không muốn gì khác. Người thu thuế đến với Chúa bằng tấm lòng yêu mến và nghèo công phúc. Nên được công chính.
Thư Rôma 3, 27: “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy”. Người Biệt phái làm điều luật dạy, nên tự hào. Người thu thuế chẳng dám tự hào, chỉ tin vào lòng thương xót của Chúa. Nên ông được công chính.
Mùa Chay là lúc ta nhận biết mình tội lỗi, yếu hèn và không thể tự mình đạt được ơn cứu độ. Ta hãy noi gương người thu thuế nhận thức tội lỗi của mình. Nài xin ơn tha thứ. Cậy trông vào lòng thương xót của Chúa, để ta được công chính, được ơn cứu độ.
Suy Niệm 3: Chìa Khoá Của Tự Do
Người Hồi giáo nói về sự cầu nguyện bằng câu chuyện sau:
Có một người thợ kim hoàn nghèo nhưng thanh liêm bị giam tù vì một tội ông không bao giờ phạm. Vài tháng sau khi người chồng bị giam giữ, người vợ đến gặp ban giám đốc và xin cho chồng một ân huệ. Bà nói chồng bà là một tín hữu trung thành với các buổi cầu nguyện, bà xin được gửi cho chồng một tấm thảm nhỏ để quì cầu nguyện năm lần một ngày theo qui định của Hồi giáo. Lời thỉnh cầu được chấp nhận dễ dàng… Ngày nọ, người thợ kim hoàn đến trình bày với các quản giáo: “Tôi là thợ kim hoàn, nếu các người cho tôi một ít kim loại, tôi có thể vừa qua được thời giờ nhàn rỗi, vừa làm được cho các người những nữ trang có thể dùng được”. Các quản giáo không thấy trở ngại nào về điều đó. Một ngày nọ, các canh tù bỗng phát giác ra cánh cửa nhà tù bị mở toang và người thợ kim hoàn đã tẩu thoát. Cùng lúc đó người ta cũng bắt giữ được thủ phạm đích thực mà họ đã qui lầm cho người thợ kim hoàn. Bấy giờ người thợ kim hoàn mới ra mặt và tiết lộ việc trốn thoát cuả ông. Sau khi ông bị bắt oan, vợ ông liên lạc với kiến trúc sư đã vẽ hoạ đồ nhà tù. Ông này cho phép bà in nguyên hoạ đồ chi tiết cuả nhà tù lên tấm thảm. Mỗi ngày năm lần dù phủ phục trên tấm thảm để cầu nguyện, người thợ đã thuộc lòng đường ra lối vào của nhà tù, thêm vào đó nhờ những mảnh kim loại các quản giáo cung cấp, người thợ đã có thể mài dũa những chìa khoá để mở các cánh cửa nhà tù, đó là bí quyết đã giúp ông trốn được khỏi nhà tù.
Cầu nguyện là chìa khoá của tự do. Một tâm hồn khao khát tự do đích thực là một tâm hồn biết cầu nguyện. Chúa Giêsu như muốn minh hoạ cho chân lý ấy qua dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện: một người Biệt phái lên giữa đền thờ đứng thẳng người để kể về những thành tích của mình, trong khi đó người thu thuế tội lỗi đứng trong góc đền thờ, không dám ngước mặt lên, nhưng cúi mình đấm ngực nói lên nỗi khốn cùng tội lỗi của mình. Chúa Giêsu tuyên bố người thu thuế ra về được tha tội, còn người Biệt phái vẫn tiếp tục ù lì trong sự tự phụ của mình. Phải chăng Chúa Giêsu không muốn nói với chúng ta rằng câu chuyện đích thực chính là nỗi khao khát được thoát khỏi những thứ nô lệ đang trói buộc tâm hồn con người.
Mùa Chay là trường dạy cầu nguyện. Giáo hội mời gọi chúng ta gia tăng cầu nguyện, điều đó có nghĩa là chẳng những dành nhiều thời giờ cho cầu nguyện, mà nhất là thanh luyện thái độ chúng ta trong khi cầu nguyện, lời cầu nguyện đích thực trong mùa chay phải là thái độ sám hối. Khởi đầu của cầu nguyện ấy là mọi nhận thức sâu xa về thân phận, tội lỗi của chúng ta và từ đó nói lên tất cả tín thác của chúng ta vào tình yêu tha thứ của Chúa. Lòng tín thác ấy sẽ xoá tan mọi tội lỗi và mang lại cho chúng ta tự do đích thực của con cái Chúa.
Như người con hoang đàng mong được trở về với cha, như người thu thuế nép mình nơi lòng tha thứ của Chúa, xin cho chúng ta luôn được sống trong tâm tình sám hối thực sự và cảm nhận được tình thương khoan dung vô bờ của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Hoán cải và cậy trông
Vào thời Chúa Giêsu, các kinh sư và những người pharisiêu thường bị Chúa quở trách nặng lời về tính tự cao tự đại của họ.
Trong dụ ngôn vừa đọc lại trên đây, Chúa Giêsu dùng hình ảnh một người pharisiêu khoe khoang công trạng mình trước mặt Thiên Chúa. Ông đáng trách không phải vì những việc tốt ông đã làm, như việc ăn chay mỗi tuần hai lần và đóng thuế thập phân cho đền thờ. Nhưng ông đáng trách vì đã xem những công việc đạo đức này như là một chiếc vé để mang lại sự công chính cho ông. Qua lời cầu nguyện của ông, chúng ta thấy rõ ông làm những việc này cốt để tự biến mình trở nên người công chính chứ không phải để thờ phượng Thiên Chúa và phục vụ anh chị em. Ông giữ mình khỏi vướng mắc vào các thói hư tật xấu cốt để cho người khác thấy ông đạo đức tốt lành, chứ không như những người hư đốn đồi bại khác. Mỗi khi ra đường, chắc hẳn ông đã kiêu hãnh ngẩng đầu lên với khuôn mặt nghiêm trang, dáng đi chững chạc uy nghi, các hộp kinh thật lớn thắt trên người, các tua áo thật dài thả tung bay, ông nhìn thấy mình thật xứng đáng để cho thiên hạ kính nể. Bước vào đền thờ, ông đứng riêng ra, chọn cho mình một chỗ xứng đáng và ông bắt đầu khoe với Chúa những công trạng của mình. Nhìn thấy người thu thuế đang cúi đầu khẩn nguyện, ông thưa với Chúa cách tự phụ: "Ðấy, Chúa thấy người thu thuế tội lỗi kia không, con đâu như hắn ta, con tốt hơn hắn nhiều, hắn tham lam tiền bạc, gian lận thuế má, chèn ép lận lường. Con cám ơn Chúa vì con đâu giống như hắn". Nhưng ông pharisiêu đâu biết rằng Thiên Chúa chẳng cần đếm xỉa gì đến những lời khoe khoang tự cao tự đại của ông, Người cần tấm lòng chứ không cần hy lễ, Người cần con tim yêu thương chứ không cần trí óc tự phụ. Tâm hồn khiêm cung tự hối của người thu thuế mà ông coi chẳng ra gì kia lại làm đẹp lòng Chúa còn hơn là ông nghĩ đến.
Thử hỏi, chúng ta nhìn thấy mình trong hình ảnh người nào trong dụ ngôn trên đây: người pharisiêu hay là người thu thuế? Nếu đã lỡ là người pharisiêu, chúng ta đừng ngã lòng nhưng hãy thành thật hoán cải và cậy trông vào tình thương của Thiên Chúa, Người có thể biến sự dữ trong chúng ta nên sự lành. Nếu chúng ta thành tâm thiện chí, Thiên Chúa sẽ đập tan tính kiêu hãnh của chúng ta và thay vào đó một tâm tình mới, Người sẽ dạy chúng ta biết sống sao cho đẹp lòng Chúa. Còn nếu chúng ta đã là người thu thuế, thì chúng ta cũng hãy cương quyết làm lại cuộc đời, Thiên Chúa đã yêu thương tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta, Người đã đón nhận tấm lòng tan nát khiêm cung của chúng ta, chúng ta hãy tin tưởng làm lại từ đầu.
Với ân sủng của Thiên Chúa, không có sự gì là không thể thực hiện được, chỉ cần chúng ta vững tin và phó thác vào Người rồi Người sẽ dẫn dắt chúng ta bước đi trên đường ngay nẻo chính. Mùa Chay là mùa thuận tiện để canh tân đời sống. Chúng ta hãy cộng tác với ơn Chúa để đổi mới tâm hồn mình nên công chính như Chúa vẫn mong chờ.
Lạy Chúa, xin gìn giữ con, đừng để con rơi vào thái độ tự phụ kiêu ngạo. Xin cho con biết sống khiêm nhường tự hạ trước tôn nhan Thiên Chúa và trước mặt anh chị em. Và xin giúp con được canh tân đời sống trở về với Chúa, đừng bao giờ thất vọng vì những tội lỗi của con đã phạm, nhưng luôn trông cậy vào tình thương tha thứ của Chúa.
(Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày – R. Veritas)
Suy Niệm 5: Đừng bắn người biệt phái
Đức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia là người thu thuế…” (Lc. 18, 9-10)
Người biệt phái này không đến nỗi xấu, ông ăn chay hai ngày một tuần, ông dâng cúng một phần mười hoa lợi kiếm được … Thật là một viên ngọc quý mà chẳng có ai trong giáo xứ có thể làm được như vậy. Đừng khiển trách ông đứng cầu nguyện, đó là thói quen của người Do thái. Ông khoe khoang không ai bằng, đáng nực cười. Ông chẳng có chút gì là nhân đức, ông cảm ơn Chúa đã sống như thế.
Đến lượt người thu thuế, ông không dám bốc thơm mình. Đáng lẽ ra, ông vừa đứng xa xa sấp mình xuống đất run rẩy cầu nguyện, ông vừa lo trả tiền của lại cho những người nghèo đã bị ông bóc lột thì tốt hơn. Nhưng người thu thuế đã mang tiếng là hạng làm giàu bằng cách lạm thu.
Chúng ta cũng hèn nhát chê người biệt phái: “Tôi không giả hình như hạng cuồng tín đó. Tôi có nhiều lỗi, tôi khô khan cứng cỏi với người khác, tôi lười biếng … Nhưng tôi không mắc nợ ai”. Đó cũng là cách nói như hạng biệt phái, chẳng có gì tốt cả. Bài học lịch sử này không phải là so sánh hai hạng người, làm thế là đáng ghét, nhưng chính là để nhắc nhở chúng ta đến lời thánh Phao-lô dạy chúng ta: “Chính nhờ đức tin làm cho chúng ta nên công chính, không có đức tin, chúng ta không đáng gì trước mặt Thiên Chúa”.
Đặc biệt, trường hợp người thu thuế làm sáng lên trong chúng ta một niềm hy vọng tuyệt vời, là những kẻ tội lỗi đừng bao giờ thất vọng và phải luôn hy vọng vào lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Đức Giêsu luôn ban ơn cho những người thấy mình vô tài bất lực, thấy mình chẳng đáng công gì, chẳng có thể đền bù được tội lỗi mình, vì Đức Giêsu đã nói: “Tôi đến không phải cứu chữa những người khỏe mạnh, nhưng cứu chữa những người bệnh tật”. Đừng bao giờ thấy mình hơn người khác, kẻo đi vào vết chân biệt phái.
J.G
Suy Niệm 6: Khiêm tốn thật thì mới được tha thứ
Có một câu chuyện kể rằng: một ông giáo dân nọ nổi tiếng là đạo đức với những câu chuyện về lòng quảng đại, giúp đỡ của ông cho người nghèo. Ông được nhiều người ca tụng là người tốt lành, thánh thiện, nhất là khiêm tốn khi quảng đại giúp đỡ người cùng khốn mà không cần đến danh vọng...
Chính bản thân ông cũng nghĩ mình như thế! Tuy nhiên, đến lúc về già, ông đến gặp cha xứ và tâm tình với ngài rằng: “Cả cuộc đời con đã hy sinh cho Chúa, Giáo Hội và mọi người, con không hề tính toán thiệt hơn, bởi xác tín rằng: mọi sự con có là bởi Chúa”. Nhưng ngay sau đó, ông xin cha xứ một đặc ân, đó là: khi ông chết, cho ông được chôn ở gầm bàn thờ!
Câu chuyện mang tính ngụ ngôn, nhưng thực tế, trong cuộc sống hôm nay, vẫn còn đó rất nhiều người có tư tưởng khiêm tốn như ông lão trong câu chuyện trên. Thiết nghĩ, một lần khiêm tốn kiểu đó phải chăng bằng bốn lần kiêu ngạo! Nó thật giống với người Pharisêu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Dụ ngôn kể về việc hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một Pharisêu và một thu thuế. Hai người này là điển hình của hai thành phần cực đoan, thái quá trong dân Dothái thời bấy giờ.
Với nhóm Pharisêu thì bảo thủ, kiêu ngạo, tự coi mình là người thành toàn, nắm toàn bộ lề luật và trở thành kiểu mẫu cho mọi người. Điều này được chứng minh qua lời cầu nguyện của ông với Thiên Chúa. Ông kể lể: “Con không gian tham, không bất công, không ngoại tình, không như người thu thuế đằng sau”; “một tuần ăn chay hai lần và dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.
Còn người thứ hai, bác thu thuế. Người thu thuế thì ai cũng biết, biết về tội ác của ông là phản bội và cấu kết với đế quốc La mã để hà hiếp, bóc lột, vơ vét của cải nhân dân. Vì thế, họ bị dân chúng khinh bỉ vì tội công khai của họ. Chính vì lý do đó, nên chúng ta dễ hiểu là tại sao ông thu thuế này lại đứng đằng xa, không dám ngẩng đầu lên, vừa đấm ngực vừa cầu nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”.
Kết cục, hai người ra về và người thu thuế thì được Chúa nhận lời, còn người Pharisêu thì không những không được Chúa nhận lời mà lại còn phạm thêm tội vì coi khinh người khác ngay khi cầu nguyện.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: đừng bao giờ coi khinh người khác khi cầu nguyện. Không được phán xét anh chị em của ta, trong khi mình cũng là kẻ có tội. Cầu nguyện là hướng tâm hồn lên với Chúa chứ không phải quy về mình.
Hãy khiêm tốn thật lòng như người thu thuế, Chúa cần những tâm hồn trung thực và thật tâm như vậy, bởi vì tình thương của Thiên Chúa lớn lao hơn tội lỗi của con người, chỉ cần con người thống hối ăn năn thì dù tội có đỏ như son thì Chúa cũng làm cho trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều, Chúa cũng làm cho trắng như bông.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết “xé lòng chứ đừng xé áo” để đáng được Chúa tha thứ mọi tội lỗi. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Khiêm tốn, cậy trông lòng thương xót bao la của Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tất cả mọi nỗ lực cố gắng, tất cả mọi thành tích công trạng của con người đều không xứng đáng được Chúa ban ơn. Trước mặt Thiên Chúa, con người chỉ là số không. Khiêm tốn nhìn nhận đúng thân phận của mình ta sẽ được Chúa ban ơn lành.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, bắt đầu phút cầu nguyện, trước hết con dâng lên Chúa tâm tình khiêm tốn. Trước mặt Chúa Toàn Năng, con chẳng đáng là gì. Lời cầu nguyện khiêm tốn của con không phải chỉ để xin ơn, nhưng là để nhận biết những ơn lành Chúa ban, để dâng lời cảm tạ Chúa, lời cầu nguyện khiêm hạ không làm con trở nên yếu đuối, nhưng thúc đẩy con trở nên can đảm chấp nhận mọi sự thật về mình. Con nhận biết khuyết điểm hạn chế của con để sẵn sàng đón nhận ân sủng Chúa ban.
Chúa đã tuyên dương thái độ của người thu thuế, vì ông khiêm tốn thống hối ăn năn và chờ đợi ân sủng cứu độ từ lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa cho con đừng chỉ dừng lại nơi việc thống hối bên ngoài, nhưng biết đi sâu vào nội tâm và thể hiện trong cuộc sống: biết đến với Chúa trong tâm tình tin tưởng phó thác và biết đối xử với anh em trong tình huynh đệ cảm thông.
Lạy Chúa Giêsu, hình ảnh tuyệt đẹp trong cuộc sống là lúc Chúa liên kết với Chúa Cha trong lời cầu nguyện. Xin Chúa dẫn đưa con đến với Cha trong tâm tình yêu mến.
Lạy Chúa, hằng ngày con vẫn cầu nguyện trong giờ kinh lễ, và ngay lúc này con đang cầu nguyện với Chúa. Xin Chúa giúp con khiêm tốn, không tự mãn, nhưng biết mở lòng hướng nhìn về Chúa và cậy trông vào lòng thương xót bao la của Chúa. Lạy Chúa, con chỉ là đầy tớ vô dụng, con chỉ làm công việc con phải làm. Amen.
Ghi nhớ: “Người thu thuế ra về được khỏi tội”.
Suy Niệm 8: Hãy nghe Người
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Khi nghe thiên hạ kháo láo và gọi mình là thánh, thì thánh Phanxicô Salê nói rằng: “Thiên hạ gọi tôi là thánh, vì họ thấy tôi làm việc thánh; nhưng chắc cha linh hướng của tôi không nghĩ như họ đâu”.
Phanxicô nghe nói ông De Belley phê bình và bảo ngài thiếu trí phán đoán. Khi gặp ông, ngài liền ôm lấy, và tỏ vẻ vui sướng và biết ơn.
Suy Niệm
Người biệt phái: Tuân giữ luật Môisê một cách nghiêm ngặt và người thu thuế, bị dân chúng khinh miệt và xa lánh như tránh xa người phong hủi, người tội lỗi. Người biệt phái với bước đi hãnh diện tiến vào đền thờ trước những con mắt ngưỡng mộ. Người thu thuế, vào đền thờ với bước đi nhẹ nhàng như kẻ trộm trốn tránh cái nhìn của người đời…
Người biệt phái bên cung thánh cất lời vang vang “con không như kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc, như tên thu thuế kia”(Lc 18,11). Lời cầu nguyện đầy hãnh diện. Anh khoe sự đạo đức cho mọi người thấy mình thánh thiện và đấm ngực người thu thuế quân tội lỗi. Đạo đức là một điều tốt, nhưng tự hào về đạo đức của mình lại là một nguy cơ: Vì cho rằng sự thánh thiện của mình làm nên sự công chính. Coi sự cố gắng của mình trên cả ân sủng. Chính sự thánh thiện của mình che lấp sự thánh tuôn trào hồng ân của Thiên Chúa. Anh tự hào, cái tự hào tự mãn làm anh cảm thấy không cần nhu cầu ơn thánh và tình thương của Thiên Chúa, không cần cậy dựa vào Ngài. Tin tưởng tự mình có thể công chính hóa cho mình. Chính lúc tự hào, đóng kín với ân sủng, người biệt phái đã mất ơn Chúa và không còn công chính nữa. Hơn nữa sai lầm lớn nhất khi anh dám so sánh mình “thánh” với “tội” của người khác, Chúa Giêsu đã nói: “Sao ngươi dòm thấy cái rác trong mắt anh em ngươi, mà chẳng thấy cái đà trong mắt mình?” (Mt 7,3). Là con người bất toàn, ai cũng có lỗi, nhưng anh chỉ thấy cái thánh thiện để khỏa lấp bao che cho chính tội lỗi của mình. Qua hình ảnh của người biệt phái, hôm nay chúng ta nghiệm thấy tinh thần của Chúa Giêsu muốn giáo huấn chúng ta: Bản thân con người không thể làm cho mình nên thánh thiện, nếu chỉ nhờ thi hành những việc đạo đức, nhưng luôn cần ân sủng và nương nhờ vào tình thương vô biên của Thiên Chúa.
Người thu thuế thì không dám ngẩng đầu, không tiến về cung thánh nhưng ẩn khuất cuối đền thánh, anh cúi đầu thú tội: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13). Anh ý thức mình là một tội nhân, kẻ ngang hàng với bọn đĩ điếm (x. Mt 21,31-32). Anh đấm ngực xin Thiên Chúa thứ tha, tẩy rửa tâm hồn. Anh làm thức dậy tâm tình sách Khôn ngoan: “Lời cầu nguyện khiêm nhu xuyên qua những đám mây, nó không nghỉ ngơi cho đến khi nó đạt được mục đích”.
Thật thế, Thiên Chúa đã cúi xuống với người thu thuế và đáp lại lời nài xin của anh, vì anh chỉ biết dựa vào lòng thương xót đầy tình yêu của Ngài. Sự trở lại và canh tân của anh trong ân sủng. Hình ảnh đó làm chúng ta cảm nghiệm lời chia sẻ của thánh Phaolô tông đồ trong thư gửi giáo đoàn Rôma: “Ở đâu tội lỗi ngập tràn, thì ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20).
Chúng ta mang tâm tình khiêm cung trước Thiên Chúa, đấm ngực sám hối và mở lòng xin Ngài tiếp tục làm điều kỳ diệu trong chính mình: Tâm hồn luôn đổi mới ngập tràn tình yêu.
Chúa thứ tha, Chúa ban ơn
Từ nay con sống tâm tình an vui.
Ý lực sống: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
Suy Niệm 9: Thái độ khi cầu nguyện
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca đưa ra hình ảnh hai người lên Đền thờ cầu nguyện. Người biệt phái đứng riêng một mình, tách khỏi người thu thuế mà ông khinh chê. Thật sự ông đã chu toàn các phận sự mà luật buộc và ông cho rằng đó là những điều bảo đảm cho ông được công chính. Ông không cần điều gì nơi Thiên Chúa. Nhưng thật ra, sự công chính cũng là một ân huệ Chúa ban. Chính vì tự kiêu, nên lời cầu nguyện của ông không được Thiên Chúa chấp nhận.
Còn ngươi thu thuế cũng đứng đàng xa, cũng tách khỏi cộng đoàn. Vì thấy mình bất xứng, tội lỗi, ông chẳng dám ngước mắt lên trời. Nhờ sự khiêm tốn mà ông đến được với Thiên Chúa và được ân sủng của Người.
2. Đối với xã hội Do thái, có hai hạng người đối nghịch nhau, đó là những luật sĩ, biệt phái và người thu thuế. Người biệt phái thì tuân giữ luật Maisen cách nghiệm ngặt, họ là mẫu gương cho mọi người và được mọi người kính trọng; còn người thu thuế bị dân chúng khinh miệt và xa lánh như tránh xa những người phung hủi, tội lỗi. Người biệt phái với bước đi hãnh diện tiến vào Đền thờ trước những con mắt ngưỡng mộ. Người thu thuế, vào Đền thờ với bước đi nhẹ nhàng như kẻ trộm lành trốn tránh cái nhìn của người đời.
3. Người biệt phái cầu nguyện: Ông bước vào cung thánh đứng thẳng người, cất tiếng ca vang: “Con không như kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc như tên thu thuế kia”. Lời cầu nguyện của ông đầy hãnh diện. Anh khoe sự đạo đức cho mọi người thấy mình thánh thiện và đấm ngực người thu thuế quân tội lỗi.
Đạo đức là một điều tốt, nhưng tự hào về đạo đức của mình lại là một nguy cơ. Vì cho rằng sự thánh thiện của mình làm nên sự công chính. Coi sự cố gắng của mình trên cả ân sủng. Chính sự thánh thiện của mình che lấp sự thánh tuôn trào hồng ân của Thiên Chúa. Ông tự hào, cái tự hào tự mãn làm cho ông cảm thấy không cần nhu cầu ân thánh và tình thương của Thiên Chúa, không cần cậy dựa vào Ngài. Tin tưởng tự mình có thể công chính hóa cho mình. Chính lúc tự hào, đóng kín với ân sủng, ông biệt phái đã mất ơn Chúa và không còn công chính nữa.
4. Người thu thuế cầu nguyện: anh này không dám ngẩng đầu lên, không tiến về cung thánh nhưng ẩn khuất cuối Đền thờ, anh cúi đầu thú tội: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội”. Anh ý thức mình là một tội nhân, kẻ ngang hàng với bọn đĩ điếm. Anh đấm ngực xin Thiên Chúa thứ tha, tẩy rửa tâm hồn. Anh làm thức dậy tâm tình sách Khôn ngoan: “Lời cầu nguyện khiêm nhu xuyên qua những đám mây, nó không nghỉ ngơi cho đến khi nó đạt tới mục đích”. Thật thế, Thiên Chúa đã cúi xuống với người thu thuế và đáp lại lời nài xin của anh, vì anh chỉ biết dựa vào lòng thương xót đầy tình yêu của Ngài.
5. “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống...”
Sinh vào đời ai cũng có một cái tôi thật đơn sơ và dễ thương. Thế nhưng nó dễ bị biến tướng trở thành cái tôi đáng ghét như Blaise Pascal đã nói: “Le moi est haissable”: cái tôi đáng ghét.
Cha Lê Quang Uy đã “đánh vần” cái tôi biến tướng đó thành một bài hát dí dỏm và thật ý nghĩa:
Khi kiêu căng tôi sắc sảo,
tôi thành tôi sắc tối.
Huênh hoang tôi huyền hoặc.
tôi thành tôi huyền tồi.
Tự ái tôi nặng nề,
tôi thành tôi nặng tội.
Khiêm tốn tôi thật thà,
Tôi thành tơ-ôi-tôi.
Cũng vậy, ông biệt phái đã huênh hoang, tự cao tự đại, “khoe” thành tích cái tôi của ông với Chúa. Do đó, những việc ông làm – dù rằng rất tốt – thay vì trở nên công phúc thì lại biến thành bọt bèo cái tôi tồi tệ và tội lỗi của ông. Ngược lại, với lòng khiêm hạ, người thu thuế nhìn thấy sự yếu đuối của mình và cần đến lòng thương xót của Chúa. Chính vì vậy, ông hoán cải và được Chúa kể là người công chính (5 phút Lời Chúa)
6. Truyện: Quỉ không khiêm nhường sám hối.
Một hôm có một tên quỉ kia chạy đến trước mặt Thiên Chúa mà thưa rằng:
- Tôi thấy Chúa xử không công minh chút nào!
Chúa liền hỏi nó rằng:
- Tại sao ngươi dám bảo Ta đối xử không công bằng?
Bấy giờ tên quỉ mới đáp:
- Chúa thấy đó, loài người phạm rất nhiều tội to lớn, và mỗi tội chúng đều phạm đi phạm lại nhiều lần. Thế mà lần nào Chúa cũng tha thứ cho chúng và còn ban hạnh phúc Thiên đàng đời đời cho chúng nữa. Còn chúng tôi chỉ phạm tội có một lần duy nhât, thế mà Chúa không khi nào tha thứ, mà còn phạt chúng tôi phải xuống hỏa ngục muôn đời. Như vậy chẳng phải là Chúa đối xử thiên vị và bất công lắm hay sao?
Bấy giờ Chúa mới ôn tồn nói:
- Loài người có phạm tội với Ta thật, và vì yếu đuối mà chúng đã phạm đi phạm lại nhiều lần thật. Nhưng sau mỗi lần phạm tội, chúng đều biết hồi tâm sám hối và xin Ta tha tội. Còn các ngươi, có sám hối và xin Ta tha tội cho chưa?
Nghe thấy sám hối và xin tha tội, tên quỉ liền thét lên rằng:
- Ma quỉ chúng tôi không đời nào chấp nhận thái độ hèn hạ là sám hối và xin ai tha tội cho cả.
Nói thế rồi quỉ liền cong đuôi chạy mất.
Suy Niệm 10: Tình yêu và lòng sám hối chân thật
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc 1: Ngôn sứ Hôsê đã để lại cho hậu thế một câu nói lừng danh: “Ta muốn tình yêu chứ không muốn hy lễ”.
2. Bài Phúc Âm: Hai người lên đền thờ cầu nguyện là hai hình ảnh minh họa cho câu nói trên của Hôsê:
‑ Người biệt phái: anh có rất nhiều lễ vật dâng lên Chúa nhưng thiếu tình yêu. Thứ nhất là anh không yêu người khác (“tôi không như các người khác, hay là như tên thu thuế kia”); thứ hai là anh cũng không yêu Chúa: anh giữ luật và làm nhiều việc lành chỉ để chứng tỏ cho Chúa biết anh là người đàng hoàng và do đó Chúa phải yêu thương anh, ban thưởng anh.
- Người thu thuế: anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Tình yêu của anh không nồng nàn thắm thiết mà chỉ là một tình yêu muộn màng của đứa con tội lỗi quay về với một tấm lòng tan nát, một trái tim đang kêu gọi tình thương xót của Chúa (“Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội”)
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
Lời Chúa hôm nay rất dịu dàng, kêu gọi chúng ta tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, kêu mời chúng ta dâng lên Ngài những tội lỗi và yếu đuối của chúng ta:
1. Một đêm giáng sinh nọ, Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ để Suy Niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người thì bỗng Chúa Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói loà. Ngài hỏi thánh nhân:
- Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không ?
- Lạy Chúa Hài Đồng, thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con.
- Được lắm, nhưng còn gì khác nữa không ?
- Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể.
- Con còn điều gì khác nữa không ?
- Con có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu. Thánh nhân khẩn khoản thưa.
Chúa Hài Đồng bảo:
- Này Giêrônimô, hãy dâng cho ta cả những tội lỗi của con nữa.
- Ô lạy Chúa, Thánh nhân hốt hoảng hỏi lại, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được ?
- Được chứ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi.
Nghe thế, thánh nhân bật khóc vì sung sướng. (Trích “Món quà giáng sinh”)
2. Người Hồi giáo có chuyện sau đây: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm nang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn”.
Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp 4 phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chìu theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu. (Trích “Món quà Giáng sinh”)
Suy Niệm 11: tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Lời Chúa hôm nay rất dịu dàng, kêu gọi chúng ta tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, kêu mời chúng ta dâng lên Ngài những tội lỗi và yếu đuối của chúng ta:
Đây là lời của một bản thánh ca: con chẳng có gì dâng Chúa hôm nay.
Một đêm Giáng Sinh nọ, Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ để Suy Niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, thì bỗng Chúa Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói loà. Ngài hỏi thánh nhân:
- Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không ?
- Lạy Chúa Hài Đồng, thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con.
- Được lắm, nhưng còn gì khác nữa không ?
- Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể.
- Con còn điều gì khác nữa không ?
- Nào con còn có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu! Thánh nhân khẩn khoản thưa.
Chúa Hài Đồng bảo:
- Này Giêrônimô, hãy dâng cho ta cả những tội lỗi của con nữa.
- Ôi lạy Chúa, thánh nhân hốt hoảng hỏi lại, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được ?
- Được chứ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi.
Nghe thế, thánh nhân bật khóc vì sung sướng. (Trích “Món quà giáng sinh”)
2. Lời Chúa hôm nay cũng muốn nhắc nhớ chúng ta về sự cầu nguyện. Qua dụ ngôn này, chúng ta thấy được một số gợi ý cho chúng ta:
a. Người kiêu ngạo không thể cầu nguyện. Cửa lên trời rất thấp nên chỉ ai biết quì gối xuống mới vào được. Có một bài cầu nguyện của một Rabbit Do Thái mà người ta ghi lại được. Bài cầu nguyện đó như sau:
“Lạy Giavê là Thiên Chúa của tôi, tôi cảm tạ Ngài vì Ngài đã đặt tôi dự phần với những viện sĩ trong Hàn lâm viện chứ không phải ngồi chung với những kẻ đầu đường xó chợ. Vì tôi dậy sớm thì chúng cũng dậy sớm, tôi dậy sớm để học luật pháp Chúa, còn chúng dậy sớm vì những sự hư không. Tôi làm việc, chúng cũng làm việc. Tôi làm việc và lãnh phần thưởng, còn chúng làm việc và không được lãnh phần thưởng. Tôi chạy và chúng cũng chạy, tôi chạy tới sự sống của đời sau, còn chúng chạy tới hố diệt vong”.
Người ta nói, Rabbit Simon ben Gacai đã có lần nói: “Nếu chỉ có hai người công chính trên thế gian thì đó là tôi và con trai tôi; nếu chỉ có một người công chính thì người đó là tôi”. Người Pharisêu này thực ra không đến Đền thờ để cầu nguyện. Ông ta đến để nói cho Thiên Chúa biết ông ta tốt như thế nào.
b. Người nào khinh dể anh em mình cũng không có thể cầu nguyện. Trong khi cầu nguyện, chúng ta không được nâng mình lên trên kẻ khác. Cần nhớ rằng, chúng tôi là một phần nhân loại đang phạm tội, đang đau khổ, đang âu sầu, tất cả đang quì gối trước ngai xót thương của Thiên Chúa.
c. Chỉ có sự cầu nguyện thật khi chúng ta biết đặt đời sống mình bên cạnh sự sống của Thiên Chúa. Chúng ta không hồ nghi điều mà người Pharisêu trong Tin Mừng hôm nay đã nói. Tất cả đều đúng. Ông ta đã ăn chay và đã kỹ lưỡng dâng 1/10, ông ta đã không giống người khác, lại càng không giống người thâu thuế bên cạnh ông. Nhưng vấn đề không phải là “Tôi có tốt như kẻ khác chăng ?” nhưng là “Tôi có tốt như Chúa không ?”
Trong cuốn “Tâm Hồn Nhật Ký”, Đức Gioan XXIII đã ghi lại tất cả cuộc sống thiêng liêng của ngài, trong đó phần quan trọng nhất là phần ghi lại những lần tĩnh tâm từ lúc còn ở chủng viện (1898) cho đến những năm trên ngôi Giáo Hoàng (1963). Đối với ngài, mỗi lần tĩnh tâm là mỗi lần kiểm điểm lại cuộc đời và có quyết định mới. Đặc biệt là lúc đã ngoài 80 tuổi, gần từ giã dương thế, mặc dù ở trên ngôi Giáo Hoàng bận rộn muôn vàn công việc đại sự, ngài vẫn thường xuyên tự kiểm điểm. Ngài luôn quyết tâm sống xứng đáng là một tâm hồn cao cả, muốn sửa đổi mình liên lỉ để sống đẹp lòng Chúa cho đến giây phút cuối cùng, sống thế nào đó cho được giống như Người.
Như vậy, tất cả là tùy ở chỗ chúng ta so sánh mình với đối tượng nào. Khi chúng ta đặt đời sống mình bên cạnh đời sống kỳ diệu của Chúa Giêsu, bên cạnh sự thánh thiện của Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ có thể nói “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi khốn nạn”.
Mẹ Têrêsa phụ hoạ thêm:
Cầu nguyện sẽ mở rộng hơn tấm lòng của bạn, mãi tới mức lòng bạn lớn đủ, để chứa cả món quà tặng là chính Thiên Chúa.
Cầu nguyện không đòi chúng ta bỏ dở công việc nhưng đòi chúng ta tiếp tục làm việc vì làm việc cũng là cầu nguyện.
Cầu nguyện dẫn tới đức tin, đức tin dẫn tới tình yêu, tình yêu đưa tới phục vụ vì lợi ích người nghèo.
Lạy Chúa, xin làm con nên dụng cụ phục vụ mọi người trên thế giới với tình yêu thương như Chúa. Amen.
25/03 Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai
- Viết bởi Lc 1,26-38
Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai.
Thứ Sáu tuần 3 Mùa Chay – Lễ TRUYỀN TIN. Lễ Trọng.
“Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai”.
* Chín tháng trước lễ Giáng Sinh, chúng ta mừng ngày Con Thiên Chúa nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria. Biến cố này được thánh Luca tường thuật lại trong phần đầu sách Tin Mừng của người.
Phụng vụ ngày hôm nay được soi sáng nhờ lời của tác giả Thánh Vịnh 39. Lời này đã được tác giả thư Do Thái đặt lên miệng Chúa Kitô khi Người bước vào trần gian: “Lạy Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài”.
Lời Chúa: Lc 1, 26-38
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ”. Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận”.
Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”
Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”.
Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt Bà.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Tôi là nữ tỳ của Chúa--Lm Nguyễn Cao Siêu SJ
Suy niệm:
Chín tháng trước khi mừng lễ Giáng Sinh, Giáo hội mừng lễ Truyền Tin.
Lễ Truyền Tin là lễ trọng, lễ Con Thiên Chúa xuống thế giới này làm người.
Mầu nhiệm Nhập Thể là mầu nhiệm lớn, đã bắt đầu từ giây phút này đây.
Nhưng sự trọng thể và lớn lao ấy lại diễn ra rất đỗi bình thường và bé nhỏ.
Galilê là vùng đất của dân ngoại, Nadarét chỉ là một tỉnh nhỏ ít danh tiếng.
Đây là nơi sinh sống của Chị Maria, một thiếu nữ đã đính hôn với ông Giuse.
Sứ thần Gáprien được Thiên Chúa sai đến với người trinh nữ Do thái ấy
vào lúc Chị đang sống đời sống thường nhật như các cô gái khác.
Chị sống bên cha mẹ, chờ ngày về nhà chồng.
Chị có biết đời mình sắp bước vào một khúc quanh mới không?
Thiên Chúa cần Chị Maria cho công trình cứu độ thế giới của Ngài.
Lễ Truyền Tin là lễ Thiên Chúa hỏi ý một thụ tạo, một thiếu nữ nhỏ bé.
Ngài tôn trọng tự do mà Ngài đã ban cho Chị, Ngài cần sự ưng thuận của Chị.
Qua trung gian sứ thần Gáprien, Thiên Chúa muốn Chị làm Mẹ của Con Ngài.
Người Con ấy là Vua thuộc dòng Đavít, là Đấng Mêsia, là Con Thiên Chúa.
Chị Maria đã hết sức bối rối trước lời chào của sứ thần.
Lời chào ấy khiến Chị phải suy nghĩ và sợ hãi (c. 29, 30).
Và khi được báo tin mình sẽ thụ thai,
Chị đã hỏi lại: “Việc ấy sẽ xảy ra như thế nào?”
vì cho đến nay Chị vẫn còn là trinh nữ, chưa về chung sống với Giuse (c. 34).
Trước khi nói tiếng Xin Vâng, Chị Maria đã suy nghĩ cầu nguyện nhiều.
Chị biết mình được Thiên Chúa mời gọi bước vào cuộc phiêu lưu.
Cuộc hôn nhân với Giuse, người mà Chị yêu mến, hẳn sẽ không như cũ.
Điều gì sẽ xảy ra nếu Chị mang thai bây giờ? Giuse sẽ nghĩ sao?
Ai sẽ tin chuyện Chị được thụ thai bởi Thánh Thần (c. 35)?
Maria đã nói tiếng Xin Vâng không phải vì thấy rõ con đường Chúa muốn.
Xin Vâng là mềm mại, buông mình để Chúa dẫn đi giữa đêm đen,
yên tâm không phải vì mình làm chủ được tương lai,
nhưng vì tin nó nằm trong tay Chúa.
Xin Vâng là để cho những dự tính và ước mơ của mình bị tan vỡ.
Chị Maria đã dám chấp nhận mọi hậu quả khi nói tiếng Xin Vâng.
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa.” (c. 38).
Tiếng Xin Vâng của Chị Maria đã cho Con Thiên Chúa có chỗ trong thế giới.
Nhờ những tiếng Xin Vâng của tôi, Đức Giêsu đi vào được thế giới hôm nay.
Tôi có kiên nhẫn cưu mang Ngài trong đời tôi, để cho Ngài lớn lên cứng cáp,
trước khi sinh ra Ngài cho môi trường tôi đang sống không?
Cầu nguyện:
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,
dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại,
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn,
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những kẻ vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải
lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành
khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
2. Khiêm nhường đón nhận—TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Ðọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: "Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta". Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: "Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta". Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: "Thằng bé này dạy được đây". Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Ðọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Ðức Mẹ. Thời Ðức Mẹ, ai cũng mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Ðức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Ðức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Ðức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Ðức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo. Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh. Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa. Ðức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử. Trước mặt thiên sứ Gáp-ri-en, Ðức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa. Sau đó, Ðức Mẹ đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét. Vừa nghe Ðức Mẹ chào, bà Ê-li-sa-bét đã ngợi khen Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Ðáp lại, Ðức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ. Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.
Vì khiêm nhường nên Ðức Mẹ hoàn toàn vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa. Ðức Mẹ đã có chương trình riêng. Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết. Ðó là một chương trình tốt đẹp. Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Ðức Mẹ theo chương trình của Chúa, Ðức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Ðức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh Ý Thiên Chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.
Vì khiêm nhường nên Ðức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa. Khi thưa "Xin vâng", Ðức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do-thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Ðức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên Chúa mãnh liệt đến thế nào.
Vì đã thưa "xin vâng", nên Ðức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh Ý Thiên Chúa. Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn? Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn? Tại sao Ðấng Cứu Thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân? Hoàn toàn không hiểu, nhưng Ðức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác. Vì thế Ðức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giê-su trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân Thập Giá.
Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Ðức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương. Nước chảy xuống chỗ trũng. Ân huệ Thiên Chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường. Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc. Ðức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Ðức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên Chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.
Mùa chay là Mùa đặc biệt nhắc nhở và giúp chúng ta "trở lại”đúng địa vị của con người được tạo dựng theo hoạ hình của Thiên Chúa, đúng địa vị trong mọi tương hệ với Thiên Chúa là Cha, với mọi người là anh chị em, với vũ trụ tạo thành là người quản lý. Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn. Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa. Ta hãy noi gương Ðức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vận mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người. Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.
Lạy Ðức Mẹ Ma-ri-a, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.
3. Lời”Xin Vâng”trong l ễ Truyền Tin--GM G.B Bùi Tuần
Trong ngày lễ Truyền Tin, Hội Thánh kính nhớ một biến cố quan trọng. Thiên thần báo tin cho Đức Mẹ rằng: Thiên Chúa muốn chọn Đức Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Tin đó quá bất ngờ, vượt mọi suy nghĩ, mọi tưởng tượng, mọi đợi chờ. Phản ứng của Đức Mẹ bắt đầu là bỡ ngỡ bàng hoàng lo sợ, nhưng tiếp đó là xin vâng (Lc 1, 38). Xin vâng là xin tuân phục ý Chúa. Xin vâng là xin cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, với sự từ bỏ mình, với sự tuyệt đối phó thác đời mình trong tay Chúa. Lập tức sau lời "xin vâng”của Đức Mẹ, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế nhập thể trong lòng Đức Mẹ. Tất cả đều diễn tiến một cách âm thầm, khiêm tốn. Từ đó "xin vâng”đã được coi như một giao ước mới, một bài ca mới, một con đường mới, của con người mới.
Khi nói xin vâng được coi như một giao ước mới, tôi nhớ lại việc Đức Mẹ vội vã lên đường đi thăm viếng bà Ê-li-da-bét (Lc 1, 39 – 45). Đi thăm để chia sẻ, để phục vụ, để nâng đỡ khích lệ bà Ê-li-da-bét. Theo Đức Mẹ, thì mình được Chúa thương, là để mình biết thương người khác. Mình được Chúa chọn cộng tác với Chúa trong việc cứu độ, thì mình phải quyết tâm dấn thân góp phần cứu độ người khác. Mình nhận ơn Chúa ban, thì mình sẽ cố gắng chia sẻ ơn đó cho người khác.
Thiết tưởng đó là một giao ước mới về bác ái liên đới phát sinh từ lời xin vâng.
Khi nói xin vâng được coi như một bài ca mới, tôi nhớ lại tâm tình Đức Mẹ trong kinh Tạ Ơn "Linh hồn tôi tung hô Chúa” (Lc 1, 46 – 55). Tâm tình Đức Mẹ là lời nói chân thành của người con bé nhỏ, đầy khiêm tốn, ngỡ ngàng biết ơn và phó thác đối với Chúa. Tâm tình Đức Mẹ là khát vọng cứu độ tỏa ra sức nóng của tình yêu thương xót, nhưng lại khiêm nhường tế nhị đối với đồng bào, nhân loại. Tâm tình Đức Mẹ là cái nhìn tiên tri sâu sắc của trái tim khiêm nhường về tương lai dành cho những kẻ khiêm tốn.
Thiết tưởng đó là một bài ca mới về khiêm tốn khởi đi từ lời xin vâng.
Khi nói xin vâng được coi là một con đường mới, tôi nhớ lại biến cố Đức Mẹ sinh Chúa Giê-su tại hang đá Bê-lem (Lc 2, 1 – 7). Đang khi hầu hết mọi người đều coi giàu sang chức quyền danh vọng là những bậc thang giới thiệu gía trị con người, thì Đức Mẹ đã không nghĩ như vậy, đã không vận động chút nào để được như vậy. Trái lại, Đức Mẹ đã lặng lẽ đi vào con đường khó nghèo. Con đường đó đã khởi đi từ hang đá Bê-lem và kéo dài từng ngày, từng tháng, từng năm, suốt cả cuộc đời Đức Mẹ. Trên con đường đó, Đức Mẹ đã cầu nguyện, đã suy gẫm trong lòng, đã lắng nghe Chúa, đã thông hiệp với sự sống Chúa.
Thiết tưởng đó là một con đường mới về sự nghèo khó được vạch ra từ lời xin vâng. Con đường mới đó, bài ca mới đó, giao ước mới đó đều nói lên Đức Mẹ là con người mới. Mới về nhiều phương diện, nhưng nhất là về phương diện Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Mẹ, để đổi mới con người của Mẹ (Lc 1, 35).
Qua việc Ngôi Hai xuống thai trong lòng Đức Mẹ, Chúa Thánh Thần đã đưa tình yêu thương xót của Thiên Chúa vào nhân loại, đã mạc khải Thiên Chúa là tình yêu, đã khai mở một nguồn mạch ơn thánh cứu độ vô cùng phong phú cho mọi người thiện chí.
Do đó, Đức Mẹ là con người mới, là tác phẩm tuyệt vời của Chúa Thánh Linh. Với đặc điểm là Đức Mẹ có một trái tim giống trái tim Chúa Giêsu, trong sạch, hiền lành, khiêm nhường, cháy rực lửa tình yêu thương xót.
Những chia sẻ vắn tắt trên đây có thể giúp chúng ta phần nào, để chuẩn bị mừng Lễ Truyền Tin một cách sống động sát với thời sự.
Thời sự hiện nay, nếu nhìn về góc độ xin vâng ý Chúa, thì đó là cả một vấn đề đáng phải lo ngại. Bởi vì có những người coi trọng ý Chúa và xin vâng ý Chúa. Cũng có những người coi thường ý Chúa và chống lại ý Chúa. Có những người hiểu sai ý Chúa, vô tình hoặc cố tình. Có những người gán cho ý Chúa những ý riêng của mình. Có những người muốn ý Chúa hợp theo ý riêng mình, cho dù ý riêng mình là quái gở. Thời sự hôm nay là Ít-ra-en, quê hương của Đức Mẹ, đang là mảnh đất diễn ra vòng xoáy hận thù và đổ máu. Vòng xoáy kinh hoàng này càng ngày càng mở rộng trên đất, đồng thời càng xoáy sâu vào lòng dân. Từ mảnh đất này hằng ngày truyền đi khắp năm châu những tin đau đớn, gây nên băn khoăn nặng nề cho hoà bình thế giới. Thời sự này làm cho rất nhiều người phải khóc, phương chi Đức Mẹ.
Nhưng theo tôi, thời sự hiện nay quan trọng nhất chính là chuyện của bản thân ta. Ta có lắng nghe ý Chúa không? Và ta có xin vâng ý Chúa thực không? Đoạn Phúc Âm sau đây sẽ gợi ý cho ta thấy rõ ý Chúa về ta trong thời sự hôm nay:
"Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giê-su đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác, bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy". "Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-e đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy” (Lc 13, 1 – 5).
Suy gẫm đoạn Phúc Âm trên, tôi có cảm tưởng là Chúa muốn báo tin cho từng người chúng ta biết rõ ý Chúa. Đó là đừng quá bận tâm xét đoán người khác, nhưng hãy ưu tiên lo phần rỗi của mình. Lo bằng cách sám hối ăn năn, đổi mới chính mình. Cách đó là cách tốt nhất để góp phần vào việc cứu độ người khác.
Chúa báo tin cho chúng ta ý Chúa là như thế đó. Rất rõ ràng. Ở Fatima Đức Mẹ cũng báo cho chúng ta tin đó. Cũng rất rõ ràng. Chúng ta hãy đáp lại bằng lời xin vâng.
Xin vâng của chúng ta là một hành trình dài đi về với Chúa. Hãy bước đi với những bước nhỏ. Như hằng ngày cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng và chuỗi Mai Khôi. Như hằng ngày đến bên trái tim Đức Mẹ, để xin trái tim Đức Mẹ chia sẻ cho ta bầu khí thinh lặng, chiêm niệm, lửa bác ái nồng nàn và sức mạnh lạ lùng của khiêm nhường nghèo khó. Như hằng ngày thực hiện đôi ba việc bác ái, thương cảm liên đới với những người nghèo, bệnh tật, xa Tin Mừng, bị xã hội loại trừ. Như hằng ngày tập nói và làm những gì mang tính cách phục vụ hoà bình hiệp nhất trong yêu thương và tế nhị. Như hằng ngày dùng lòng tin mến biến những mệt mỏi khổ đau của mình thành của lễ đền tội tạ ơn, và xin ơn an bình cho gia đình quê hương và thế giới.
Nếu lời xin vâng của chúng ta được hiệp thông sâu sắc với lời xin vâng của Đức Mẹ, thì đây sẽ là một hy vọng mới cho tương lai bản thân ta, cho Hội Thánh ta, cho quê hương Việt Nam chúng ta, và cho tất cả nhân loại.
4. Xin Vâng, sự hợp tác của con người--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Nhờ lời ưng thuận của Đức Maria, Con Thiên Chúa đã nhập thể trong cung lòng người Mẹ đồng trinh. Thiên Chúa là Đấng khởi xướng mọi hoạt động cứu độ, nhưng Ngài cần sự hợp tác của con người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con thờ lạy Chúa là Con của Chúa Cha, Chúa đã nhập thể, đã trở thành người trong lòng Đức Mẹ đồng trinh. Với tâm hồn thánh thiện đầy ân sủng và thân xác tinh tuyền, Mẹ đã được Chúa chọn làm cung thánh để từ đó Chúa đi vào lịch sử loài người. Mẹ đã cưu mang Chúa trong tâm hồn trước khi cưu mang Chúa trong thân xác. Tâm hồn Mẹ tràn đầy Chúa nên thân xác Mẹ cũng được Chúa cư ngụ, để rồi Mẹ ban tặng Chúa cho chúng con. Mẹ đã khiêm tốn ưng thuận để Chúa đi vào cuộc đời Mẹ và làm chủ cuộc đời Mẹ, nhờ vậy Chúa đã đi qua cuộc đời Mẹ để đến với chúng con.
Lạy Chúa, hôm nay, Chúa đang muốn đi qua cuộc đời con để đến với thế giới, Chúa cũng đang muốn hiến mình cho con, để qua con, Chúa hiến mình cho nhân loại hôm nay. Xin Chúa giúp con biết khiêm tốn đón nhận Chúa và ưng thuận Lời Chúa mời gọi. Con không thể đem Chúa đến cho anh em nếu con chẳng có Chúa trong lòng. Hằng ngày, nhờ thánh lễ, Chúa lại muốn nhập thể trong con. Xin cho con biết đón nhận Chúa vào cuộc đời mình. Nhờ đức tin và tình yêu mến, nhờ tâm hồn trong sạch và khao khát Chúa, con sẽ được cưu mang Chúa trong tâm hồn. Nhờ việc rước lễ, con sẽ được cưu mang Chúa trong cả thân xác nữa. Xin Chúa ở với con luôn mãi. Con xin dâng hiến đời con cho Chúa, để Chúa dùng con như khí cụ của tình thương cứu độ của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai”.
5. Sẵn sàng để Chúa hoạt động trong ta --Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
A- Phân tích (Hạt giống...)
Vai chính trong tường thuật này là Đức Mẹ Maria, được Thánh Luca mô tả với những nét như sau:
- Một thiếu nữ bề ngoài bình thường như mọi thiếu nữ khác (câu 27)
- Nhưng đặc biệt hơn mọi thiếu nữ vì”đầy ơn phước”và được”Thiên Chúa ở cùng” (câu 28)
- Được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Messia Con Thiên Chúa (cc 30-33)
- Dù không hiểu rõ (câu 34), Maria cũng sẵn sàng cho Chúa dùng mình để làm công việc của Chúa (câu 38: Fiat =“Tôi xin vâng”...).
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Đức Mẹ Maria hỏi”Việc đó xảy đến thế nào được, vì”.... Thiên Thần đáp”không có việc gì mà Chúa không làm được” (câu 37). Rất nhiều điều con người tưởng không thể nào làm được thế mà Thiên Chúa vẫn làm được: Ngài đã làm cho Êlisabét son sẻ được có con, đã làm cho Đức Mẹ Maria đồng trinh sinh ra Đấng Cứu Thế. Thiên Chúa cũng có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động trong chúng ta.
2. Mặc dù”không có việc gì mà Chúa không làm được”, nhưng thường Thiên Chúa không làm một mình, Ngài thích có sự hợp tác của con người. Để cho Đấng Cứu Thế nhập thể, Thiên Chúa đã nhờ Đức Trinh Nữ Maria hợp tác. Và Đức Trinh Nữ Maria đã hợp tác bằng cách ngoan ngoãn để cho ơn Chúa hành động trong mình và qua mình: “Tôi xin vâng”.…
3. Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:
- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.
- Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.
Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến. (Góp nhặt)
4.”Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ” (Lc 1,28-29)
Đứng trước một biến cố trọng đại, bất ngờ, Mẹ đã bối rối. Sự bối rối ấy không đến từ sự hoang mang nghi ngờ như trường hợp ông Dacaria, nhưng đến từ sự băn khoăn muốn tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa.
Phần tôi, đứng trước những khó khăn xảy đến trong cuộc sống thì hầu như chỉ biết than vãn, kêu trách Chúa mà không thử tìm xem Chúa muốn nói gì với tôi qua những biến cố ấy. Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi nhưng tôi đã không gặp được Ngài. Chúa đứng ngoài và gõ cửa nhà tôi nhưng tôi đã không nghe được tiếng Ngài. Lòng tôi vẫn khép kín.
Lạy Chúa. Xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố của cuộc sống, và biết xin vâng như Mẹ. (Epphata)
6. Lễ Truyền tin cho Đức Mẹ--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Hỡi Sứ thần Thiên Chúa Gabriel,
Khi người xuống truyền tin cho Thánh nữ,
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú,
Người có nghe náo động cả muôn trời? (Hàn Mạc Tử)
Đức Mẹ có hai nhân đức rất quan trọng này: lòng kính sợ Thiên Chúa và sự khiêm nhường
Lòng kính sợ Thiên Chúa
Sách thánh vịnh nói: "Lòng kính sợ Thiên Chúa là đầu mối của mọi sự khôn ngoan” (Tv 111,10). Lòng kính sợ Thiên Chúa nơi Đức Mẹ được biểu lộ ra trong nhiều trường hợp nhưng đặc biệt được biểu lộ ra một cách rõ rệt trong hai trường hợp này.
+ Trước hết vì lòng kính sợ Thiên Chúa cho nên Đức Mẹ không dám làm những gì mất lòng Chúa. Thí dụ như trong biến cố truyền tin hôm nay, Đức Mẹ chỉ chấp nhận lời đề nghị của sứ thần Gabriel khi biết chắc việc thụ thai là do quyền lực của Chúa Thánh Thần.
+ Thứ đến là Đức Mẹ luôn sẵn sàng thi hành mọi mệnh lệnh của Thiên Chúa.
- Trong việc đưa Hài nhi Giêsu trốn qua Ai cập
- Trong việc đưa Chúa Giêsu trở về
- Nhất là theo Chúa Giêsu lên đến đỉnh đồi Golgôtha.
Lòng khiêm nhường
Các nhà tu đức học đều coi "Khiêm nhường là đức nền tảng của mọi nhân đức". Sự khiêm nhường của Đức Mẹ được biểu lộ rất rõ nét qua hai sự việc này:
- Đức Mẹ đã biết nhìn nhận thật rõ về con người của mình. Khác hẳn với Eva thuở xưa trong vườn địa đàng, tuy chỉ là con người mà cứ tưởng mình ngang tầm với Thiên Chúa. Đức Mẹ là Eva mới dù được Thiên Chúa đặc biệt ưu ái tuyển chọn lên bậc "quân vương”làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu thế, nhưng Đức Mẹ vẫn chỉ xưng mình là một tôi tớ không hơn không kém…
- Đức Mẹ nhìn nhận tất cả những gì mình có được đều là do Thiên Chúa.
"Người đã đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn” (Lc 1,48)
"Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49)
"Thiên Chúa đã hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường - Thiên Chúa đã ban đầy dư cho những kẻ nghèo, còn người giàu có thì Người đuổi về tay không” (Lc 1,48).
Phải có một lòng khiêm nhường thật thẳm sâu thì mới có thể thấy hết được những sự thật đó. Thái độ của Đức Mẹ khác hẳn với thái độ của Eva thuở xưa. Eva thuở xưa mới có được một chút quyền hành Thiên Chúa ban cho trong công việc canh giữ và làm chủ vườn địa đàng đã tưởng mình là quan trọng, thậm chí có lúc còn tưởng là Thiên Chúa như muốn ghen tương với mình. Thật là kiêu ngạo.
7. Một đời Xin Vâng--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
I. NGÀY LỄ TRUYỀN TIN
1. Việc chọn ngày lễ
Lễ Truyền Tin được kính vào ngày 25 tháng 3, tức là 9 tháng trước lễ Giáng Sinh, là khoảng thời gian Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu.
Lễ này trước kia được mừng kính ở Giáo hội Đông phương với tước hiệu lễ "Ngôi Lời nhập thể”từ khoảng năm 550. Giáo hội Rôma mãi đến thế kỷ thứ 7 mới chấp nhận thánh lễ này.
Ngày nay, Lịch Phụng vụ Rôma lấy lại danh xưng "Lễ Truyền Tin”vì có lý do chính đáng, nhưng trước sau vẫn là lễ chung của Đức Kitô và Đức Trinh Nữ: Lễ của Ngôi Lời làm "con Đức Trinh nữ”và lễ Đức trinh nữ là "Mẹ Thiên Chúa".
Ngay từ đời đời, Thiên Chúa đã có ý định tái lập tất cả những gì đã hư mất bởi tội lỗi, và phác họa một công trình cứu chuộc mà Chúa Kitô là trung tâm, với sự cộng tác cần thiết của một người nữ thánh thiện. Cả hai sẽ là Adong và Evà mới thay thế cho Adong và Evà cũ đã phạm tội.
Người nữ ấy không ai khác hơn là Mẹ Maria, Đấng đầy ân phúc, trổi vượt hơn mọi phụ nữ. Mẹ đã được tiên báo qua lời hứa tại vườn Địa đàng xưa: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người nữ. Người sẽ đạp nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn gót chân Người” (St 3,15). Mẹ đã được chọn làm Evà mới thực hiện lời hứa xưa kia tại vườn Địa Đàng.
2. Quang cảnh Truyền tin
Trong toàn bộ Thánh Kinh, chỉ có Tin mừng theo thánh Luca (1,26-38) ghi lại biến cố truyền tin. Sứ thần Gabriel đến với một thiếu nữ đã đính hôn tên là Maria tại làng Nazareth để loan báo tin vui về việc hạ sinh Đấng Được Xức Dầu được đợi trông từng bao đời. Sứ thần loan tin cho thiếu nữ: "Này đây, bà sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, và bà sẽ đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao".
Tin báo này làm Đức Maria ngỡ ngàng, vì Ngài đã quyết chí giữ đức khiết tịnh. Sứ thần đã giải thích về cách thức Thiên Chúa sẽ làm cho sự kiện mang thai lạ lùng xẩy ra: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể".
Mặc dù đã có lời trấn an của sứ thần, nhưng chắc chắn Đức Maria cũng hoảng hốt vì Ngài không biết đến việc vợ chồng. Tuy nhiên, Maria đã can đảm và suy phục thánh ý Chúa nên đã thưa với sứ thần: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền".
Sau câu trả lời dứt khoát của Maria, Ngôi Lời đã nhập thể làm người và Maria đã trở thành Mẹ Thiên Chúa.
Truyện: Thị kiến của thánh Catarina Emmerrich
Một hôm, Chúa cho bà thánh Catarina Emmerrich được xem thấy quang cảnh ngày lễ Truyền Tin.
Theo bà thuật lại: Ngày 23 tháng 3, tôi thấy Đức Mẹ quỳ ngay ở chỗ phòng tôi, đầu và mặt phủ một khăn trắng mỏng, hai tay búp măng chắp trước ngực, đôi mắt đăm đăm nhìn về phía góc trời, rồi tôi thấy một luồng ánh sáng đổ xuống bên tay hữu Đức Mẹ; và trong luồng sáng trong tốt đó, tôi thấy Thiên thần Gabriel, y phục trắng toát, tóc hoe hoe và phất phới. Đoạn một tiếng chào của Thiên thần làm tan làn không khí im lặng.
Nghe tiếng chào mình, Đức Mẹ có vẻ sợ sệt, hơi nghiêng về phía tả, song con mắt vẫn đăm đăm nhìn về góc trời, chứ không quay hẳn về phía tiếng chào, và cầm trí nghe lời thiên thần - mỗi lời thiên thần nói như nhả ra từng dòng chữ lửa.
Sau khi đã hiểu ý câu truyện, Đức Mẹ xoay mình lại, mở hé khăn trùm, khiêm tốn trả lời rằng: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền".
Quang cảnh tới đây hạ màn.
II. VÀI SUY TƯ TỪ LỄ TRUYỀN TIN
1. Thiên Chúa là Đấng toàn năng.
Trước việc sinh con mà vẫn còn đồng trinh, Maria thắc mắc và hỏi lại sứ thần: “Việc ấy xẩy ra cách nào được, vì..."? Sứ thần liền đáp: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể” (Lc 1,37).
Câu trả lời của sứ thần nói lên quyền năng của Thiên Chúa, Ngài sáng tạo muôn vật từ hư vô, quyền năng Ngài không giới hạn. Quyền năng của Thiên Chúa cũng đồng nghĩa với yêu thương, nên trong lịch sử cứu độ, Ngài luôn đi bước trước trong sáng kiến yêu thương con người. Chỉ với bài Tin mừng hôm nay thôi cũng đủ thấy sáng kiến táo bạo của Ngài.
Thiên Chúa lại muốn trở thành một con người, đó là sang kiến táo bạo thứ nhất. Hơn thế nữa, không muốn đột nhiên xuất hiện cách phi thường mà lại muốn làm người con bình thường sinh ra bởi một người nữ như bao nhiêu người khác. Đây chẳng phải là sáng kiến táo bạo thứ hai sao?
Táo bạo và kỳ diệu hơn nữa đã làm phát sinh sáng kiến thứ ba thật tuyệt vời và mầu nhiệm, đó là: người phụ nữ ấy lại đồng trinh trước và sau khi sinh con. Thực ra, không có gì Thiên Chúa không làm được. Một Vị Thiên Chúa mà còn làm con người được, thì chuyện bảo vệ sự đdồng trinh cho Đức Maria trước và sau khi sinh thì có nghĩa lý gì đâu?
Cũng vậy, nếu sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra cho các Tông đồ trong lúc cửa vẫn đóng kín, thì việc Ngài hạ sinh mà tấm lòng băng trinh của Mẹ Maria vẫn còn nguyên vẹn lại không được chấp nhận sao? Quả thật, không có gì Thiên Chúa không làm được. Điều đó mời gọi chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa.
Thiên Chúa cũng có thể có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động nơi chúng ta.
2. Thiên Chúa cần con người cộng tác
Nhưng có một điều mà "Thiên Chúa không làm được", đó là "Thiên Chúa không thể cứu độ con người nếu con người không cộng tác với Ngài". Lời quả quyết này có vẻ nghịch thường, nhưng nội dung bài Tin mừng hôm nay là như thế. Thiên Chúa không làm được không phải vì quyền năng Ngài bị giới hạn, nhưng vì yêu thương, tôn trọng tự do của con người nên Ngài không làm được những điều mà con người không cộng tác.
Mặc dù Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do, nhưng Thiên Chúa vẫn có thể ép buộc Maria phải làm theo ý định của Ngài vì Ngài có khả năng làm như vậy. Tuy nhiên, Thiên Chúa không muốn. Điều Ngài muốn là thấy Maria tự nguyện đáp lại ý muốn của Ngài vì Thiên Chúa yêu thích những ai cho một cách vui lòng.
Ôi! Thiên Chúa nhân từ dườg nào! Một Thiên Chúa quyền năng tuyệt đối mà lại phải đi hỏi ý kiến của một thiếu nữ nhỏ bé, quê mùa, và lo lắng chờ đợi trước quyết định của cô, dù nó là một đặc ân cao cả, mà nếu chấp nhận thì sẽ có lợi cho toàn thể nhân loại và riêng cho thiếu nữ nữa.
Truyện: Chiếc đồng hồ báo thức
Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm một chỗ ở xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:
- Chiếc đồng hố ấy hoàn toàn vô dụng đối với con.
- Nó vô dụng là vì con không dùng nó. Mẹ anh đáp.
Qua câu truyện trên, chúng ta thấy rằng trong cuộc đời chúng ta, Thiên Chúa ban cho chúng ta muôn vàn ơn, nếu chúng ta không biết sử dụng thì nó cũng trở nên vô dụng đối với chúng ta.
3. Lời Fiat của Đức Maria
Bấy giờ bà Maria nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói".
Bình luận về câu trả lời trên, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong bài giảng tại Vương cung Thánh đường Mexicô City đã nói: “Virgo fidelis: Đức Nữ trung tín thật thà. Đức trung tín của của Maria nghĩa là gì? Trung tín bao gồm chiều kích gì?
- Chiều kích thứ nhất là tìm kiếm. Trước hết, Maria tỏ ra trung tín khi Ngài bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của chương trình Thiên Chúa nơi mình và cho thế giới. Quomodo fiet? Sự việc xẩy ra như thế nào? Ngài hỏi sứ thần Truyên Tin (...).
- Chiều kích thứ hai của trung tín gọi là tiếp nhận, chấp nhận. Lời Quomodo fiet? trên môi Maria chuyển thành một lời fiat: Xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền, tôi sẵn sàng, tôi chấp nhận. Đây là giờ phút hệ trọng của đức trung tín, giờ phút mà con người cảm thấy mình sẽ không bao giờ hiểu thấu được từ "như thế nào"; trong kế hoạch của Thiên Chúa có các khu vực mang tính nhiệm mầu nhiều hơn là tính sáng sủa rõ ràng; cho dù có ra sức phấn đấu đến đâu chăng nữa thì cũng chẳng tài nào lĩnh hội đầy đủ sự việc (...)
- Chiều kích thứ ba của đức trung tín là sự kiên định, kiên trì sống theo nhừng điều mình tin tưởng, sẵn sàng điều chỉnh cuộc đời mình cho phù hợp với mục tiêu mình theo đuổi. Sẵn sàng chấp nhận bị hiểu lầm, bắt bớ còn hơn là ngôn hành bất nhất, tin một đàng mà làm thì một nẻo, điều này gọi là tính kiên định.
- Tuy nhiên mọi sự trung tín đều phải trải qua cuộc thử thách khốc liệt nhất: sự thử thách của thời gian. Do đó, chiều kích thứ tư là tính thủy chung như nhất. Kiên trì ngày một ngày hai thì dễ. Kiên trì trong suốt cuộc đời thì khó và đây mới là điều quan trong. Kiên trì đang khi hào hứng, hồ hởi phấn khởi thì dễ, còn vẫn giữ được sự kiên trì trong cơn thử thách khốn quẫn mới khó. Và chỉ có sự kiên trì kéo dài cho đến suốt đời mới là tín trung.. Lời thưa "Fiat": xin vâng của Đức Maria trong buổi truyền tin trở nên viên mãn trong tiếng fiat xin vâng âm thầm mà Mẹ lặp lại dưới chân Thập giá (Đức Gioan Phaolô II, Bài giảng tại Vương cung Thánh đường Mexico City, 26 tháng 01 năm 1979).
Đức Maria đã tận hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho thân thế và sự nghiệp của Con Ngài, và nhờ ân sủng của Thiên Chúa toàn năng, phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc dưới quyền và cùng với Con Ngài. Bởi vậy, các thánh Giáo phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại.
Truyện: Tờ giấy và cây viết
Nhắc đến ông Leonard de Vinci, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những bức họa tuyệt diệu của ông. Nhưng để giải trí, ông còn sưu tầm những truyện cổ tích, hay đặt ra những truyện mới, như câu truyện sau đây về cuộc đối đáp tưởng tượng của tờ giấy trắng và cây viết.
Có tờ giấy trắng nọ nằm ù lì trên bàn viết với bao đồng bạn khác từ nhiều năm tháng qua. Nhưng rồi một hôm nó được chọn đem ra trước bàn chịu cảnh cây viết với mực đen vẽ lên nó không biết bao nhiêu là những dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Tờ giấy phàn nàn với cây viết như sau: "Tại sao anh lại làm thế, anh vẽ trên mình tôi những dấu làm tôi mất đi sự trắng sạch ban đầu, anh làm nhục tôi thế này sao? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi".
Nhưng cây viết trả lời: “Không, anh giấy hiểu lầm tôi rồi, tôi không làm dơ anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, những dòng chữ và kể từ nay, anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, mà mang trên mình một sứ điệp, anh trở thành kẻ cộng tác với con người lưu giữ những tư tưởng cao siêu của con ngưởi, và vì thế sẽ được con người nâng niu bảo vệ; anh được sống mãi để trợ giúp con người".
Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết, thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay con người quơ lấy những tờ giấy trắng đồng bạn của nó mà nay đã trở thành vàng đục, già cỗi và đầy bụi bặm mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Bấy giờ tờ giấy trắng đầy chữ viết mới hiểu được hành động vừa rồi của cây viết và lấy làm sung sương vì được trở thành kẻ cộng tác và lưu giữ kho tàng trí khôn của con người.
Cuộc đời mỗi người chúng ta có thể được so sánh như tờ giấy trắng kia, nếu không chấp nhận để cho bàn tay Thiên Chúa viết vào đó những dòng chữ, những chương trình hành động, thì sẽ không được hạnh phúc trở thành người cộng tác với Thiên Chúa, trở thành kẻ lưu truyền sự khôn ngoan của Thiên Chúa, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tờ giấy không hiểu được những hành động của cây viết vẽ những dấu lạ trên mình nó, con người cũng chắc chắn không thể nào hiểu được ý định của Thiên Chúa là ý định khôn ngoan, hợp lý nhất để đưa con người đến hnạh phúc.
Thật vậy, Đức Maria đã tự nguyện trở thành tôi tớ của Thiên Chúa để cộng tác vào chương trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã trở nên một dụng cụ tuyệt vời của Thiên Chúa, hoàn toàn đặt mình dưới quyền sử dụng của Thiên Chúa như như một tờ giấy trắng trước cây viết.
Thánh Irênê nói: “Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại". Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria. Điều mà Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Đức Maria đã tháo ra nhờ lòng tin; và so sánh với Evà, các ngài gọi Đức Maria là "Mẹ kẻ sống", và thường quả quyết rằng: “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống” (Lumen gentium, số 56).
8. Lòng kính sợ và sự khiêm nhường--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng kính một trong những biến cố quan trọng nhất trong lịch sử ơn cứu độ. Biến cố sứ thần của Thiên Chúa truyền tin cho Đức Maria, Mẹ của chúng ta.
1- Lễ Truyền tin như anh chị em vẫn thấy luôn được cử hành lồng vào trong khung cảnh của Mùa Chay và Mùa Phục sinh. Và nếu anh chị em để ý một chút thì chúng ta thấy cách đây một tuần Giáo Hội cho chúng ta mừng kính lễ thánh Giuse. Tại sao Giáo Hội lại cho mừng hai lễ này trong khung cảnh của Mùa Chay và Mùa Phục sinh như thế? Chắc phải có lý do của nó. Giáo Hội là người mẹ rất khôn ngoan. Giáo Hội muốn đưa ra những tấm gương cụ thể để cho con cái của mình biết phải sống như thế nào trong Mùa Chay và Mùa Phục sinh. Cũng như trong Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh, hai hình ảnh đặc biệt được Giáo Hội coi như mẫu mực là Thánh Gioan Tẩy Giả và Đức Mẹ Maria, thì trong mùa Chay và Mùa Phục sinh Giáo Hội cũng đưa ra hai khuôn mặt mẫu mực như thế. Thay vì Thánh Gioan Tẩy Giả thì là Thánh Giuse và vai trò của Đức Mẹ thì chắc là không bao giờ có thể thiếu. Chính vì vậy mà hôm nay chúng ta có dịp để suy gẫm về Người.
2- Nói về Đức Mẹ như lời thánh Bênađô thì”chẳng bao giờ cho đủ”. Mỗi lần nói về vai trò của Đức Mẹ trong công trình cứu chuộc của Chúa thì chúng ta thường hay nghĩ đến cách thức Chúa thực hiện những việc lạ lùng nơi con người của Đức Mẹ hơn là nghĩ đến những yếu tố đặc biệt khiến Đức Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn. Thậm chí chúng ta còn thấy nhiều nhà tu đức còn cho là Thiên Chúa luôn có quyền làm theo ý muốn của mình. Họ cho rằng việc Thiên Chúa chọn một người phụ nữ quê mùa, nghèo khó để làm Mẹ Thiên Chúa là cốt ý để làm bẽ mặt những kẻ quyền thế, giàu có sang trọng ở trong thế gian.
Tôi không phủ nhận ý kiến đó. Thế nhưng đối với tôi nếu chỉ nghĩ về Thiên Chúa như thế thì chưa đủ. Không phải lúc nào Thiên Chúa cũng hành động khác thường. Có những lúc Ngài cũng hành động theo những qui luật bình thường. Khi nói thế, tôi muốn nói tới những lý do khiến Chúa đã đặc biệt để ý đến Đức Mẹ và tuyển chọn Ngài vào một công tác rất quan trọng trong chương trình cứu độ của Người.
Thế thì Đức Mẹ đã có những yếu tố nào để Thiên Chúa làm như vậy? Tôi thấy nơi Đức Mẹ có hai nhân đức rất quan trọng này:
Trước hết đó là lòng kính sợ Thiên Chúa.
Thứ đến là sự khiêm nhường.
a- Lòng kính sợ Thiên Chúa.
Sách Thánh vịnh nói: “Lòng kính sợ Thiên Chúa là đầu mối của mọi sự khôn ngoan” (Tv 111,10). Lòng kính sợ Thiên Chúa nơi Đức Mẹ được biểu lộ ra trong nhiều trường hợp nhưng đặc biệt được biểu lộ ra một cách rõ rệt trong hai trường hợp này.
+ Trước hết vì lòng kính sợ Thiên Chúa cho nên Đức Mẹ không dám làm những gì mất lòng Chúa. Thí dụ như trong biến cố truyền tin hôm nay, Đức Mẹ chỉ chấp nhận lời đề nghị của sứ thần Grabriel khi biết chắc việc thụ thai là do quyền lực của Chúa Thánh Thần.
+ Thứ đến là Đức Mẹ luôn sẵn sàng thi hành mọi mệnh lệnh của Thiên Chúa.
– Trong việc đưa Hài nhi Giêsu trốn qua Ai cập
– Trong việc đưa Chúa Giêsu trở về
– Nhất là theo Chúa Giêsu lên đến đỉnh đồi Golgôtha.
b- Đức tính đặc biết thứ hai của Đức Mẹ đó là lòng khiêm nhường.
Các nhà tu đức học đều coi”Khiêm nhường là đức nền tảng của mọi nhân đức”. Sự khiêm nhường của Đức Mẹ được biểu lộ rất rõ nét qua hai sự việc này:
– Đức Mẹ đã biết nhìn nhận thật rõ về con người của mình. Khác hẳn với Eva thuở xưa trong vườn địa đàng, tuy chỉ là con người mà cứ tưởng mình ngang tầm với Thiên Chúa. Đức Mẹ là Eva mới dù được Thiên Chúa đặc biệt ưu ái tuyển chọn lên bậc”quân vương”làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu thế nhưng Đức Mẹ vẫn chỉ xưng mình là một tôi tớ không hơn không kém…
– Đức Mẹ nhìn nhận tất cả những gì mình có được đều là do Thiên Chúa.
“Người đã đoái thương nhìn tới phận nữ tì hèn mọn” (Lc 1,48)
“Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49)
Vâng tất cả là bởi Thiên Chúa.
“Thiên Chúa đã hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường – Thiên Chúa đã ban đầy dư cho những kẻ nghèo, còn người giàu có thì Người đuổi về tay không” (Lc 1,48).
Phải có một lòng khiêm nhường thật thẩm sâu thì mới có thể thấy hết được những sự thật đó. Thái độ của Đức Mẹ khác hẳn với thái độ của Eva thuở xưa. Eva thuở xưa mới có được một chút quyền hành Thiên Chúa ban cho trong công việc canh giữ và làm chủ vườn điạ đàng đã tưởng mình là quan trọng, thậm chí có lúc còn tưởng là Thiên Chúa như muốn ghen tương với mình. Thật là kiêu ngạo.
Trong thi tập: “Người Làm Vườn”. Thi hào Tagore của Ấn Độ đã ca ngợi người đàn bà như sau:
Hỡi người đàn bà!
Người không chỉ là tuyệt tác của Thượng Đế.
Người còn là công trình của con người.
Chính con người vẫn mãi mãi tiếp tục tô điểm cho người bằng tâm tình của họ.
Các thi sĩ dệt cho người một mạng lưới của những vần thơ óng ả.
Các hoạ sĩ mặc cho người một chiếc áo choàng bất tử.
Biển khơi dâng hiến cho người ngọc ngà châu báu.
Người thợ mỏ mang vàng đến cho người.
Người làm vườn ôm ấp vỗ về người bằng muôn hoa cỏ đồng nội.
Khát vọng của lòng người đã trải dài vinh quang của họ trên tuổi xuân của người.
Hỡi người đàn bà!
Người một nữa là đàn bà, một nữa là mộng mơ.
Anh chị em thân mến.
Những vần thơ trên đây đáng được dành riêng để ca tụng Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Nhưng có lẽ trên trần gian này không có lời nào có thể làm hài lòng Mẹ cho bằng chính lời của Chúa Giêsu, Con Mẹ. Mẹ Maria tuyệt mỹ, bởi vì Mẹ giống Chúa Con. Mẹ giống Chúa Con là bởi vì cả cuộc sống lúc nào Mẹ cũng tuân theo thánh ý Chúa. Trước khi được liên kết với Chúa Giêsu bằng máu mủ ruột thịt, Mẹ đã được liên kết với Ngài bằng hai chữ”xin vâng”.
Lạy Mẹ, chúng con được gọi Mẹ bằng chính âm thanh của Chúa Giêsu đã từng gọi trong suốt cuộc đời của Ngài. Mẹ được Chúa Giêsu gọi bằng mẹ không những vì đã sinh ra Ngài mà còn bởi vì đã sống vâng phục như chính Ngài.
Xin mẹ hãy phù giúp chúng con biết nhìn ngắm Mẹ và nhờ đó mỗi ngày một trở nên giống Con Mẹ hơn. Amen.
9. Lễ Truyền Tin Thiên Chúa Nhập Thể?--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Truyền Tin là cơ hội để chúng ta nhìn vào Nagiaret hầu cảm nhận được sự hiện diện của một trinh nữ mà muôn đời khen là có phúc (x. Lc 1, 48). Thánh Augustinô viết: “Ngài đã chọn một người mẹ mà Ngài đã tạo dựng, Ngài đã tạo dựng người mẹ mà Ngài đã chọn “ (x. Bài giảng 69, 3, 4).
Hôm nay, chúng ta cử hành mầu nhiệm cao cả tuyệt vời đã hoàn tất cách đây hơn hai ngàn năm. Sự kiện ấy diễn ra trong không gian và thời gian: “Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đa-vít, Trinh nữ ấy tên là Maria “ (Lc 1, 26-27). Tuy nhiên, để hiểu được những gì đã xảy ra tại Nagiaret hơn ngàn năm về trước, chúng ta lần dở lại Thư gửi tín hữu Do thái. Bản văn này thuật lại cuộc trò chuyện giữa Chúa Cha và Chúa Con về kế hoạch đời đời của Thiên Chúa.”Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội ". Nên tôi nói: “Lạy Chúa, này tôi đến để thi hành thánh ý Chúa” (Dt 10, 5-7). Như thế, vì vâng ý Chúa Cha, Ngôi Lời đến đã đến cư ngụ giữa chúng ta, dâng chính thân mình làm của lễ hy sinh vượt trên mọi hy lễ đã dâng trong Cựu Ước. Lễ hy sinh của Chúa Giêsu là lễ vĩnh viễn và hoàn hảo cứu chuộc thế gian.
Kế hoạch của Thiên Chúa dần dần được thể hiện trong Cựu Ước, lời tiên tri Isaia là bằng chứng: “Vì thế chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu, này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Immanuel” (Is 7, 14). Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi thời gian tới hồi viên mãn như đã báo trước, những lời trên được thực hiện, ngày hôm nay chúng ta cử hành với hạnh phúc và niềm vui.
Từ Abraham đến Đức Maria
Hành trình truyền tin khởi đi từ Abraham "cha chúng ta trong đức tin” (x. Rm 11, 12). Đưa chúng ta về Nagiaret, gặp Đức Maria nữ tử Sion thuộc dòng dõi Abraham. Hơn ai hết, Đức Maria là người có thể dạy cho chúng ta sống đức tin với”Cha chúng ta."
Abraham và Đức Maria, cả hai đều nhận được từ Thiên Chúa lời hứa tuyệt hảo. Abraham sẽ trở thành cha một cậu con trai, sinh ra một quốc gia vĩ đại. Đức Maria sẽ trở thành Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng Được Xức Dầu của Chúa. Sứ thần Gabriel nói, "Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai [...] Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người [...] và triều đại Người sẽ vô tận” (Lc 1, 31-33).
Lời hứa của Thiên Chúa đến với Abraham và Đức Maria thật bất ngờ, làm thay đổi cuộc sống hàng ngày và đảo lộn những trật tự bình thường của hai đấng. Lời hứa ấy là hoàn toàn khổng thể đối với Abraham và Đức Maria. Sara vợ của Abraham đã lão, Maria còn trinh nữ nên đã thưa với Thiên Thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1, 34).
Lời "xin vâng”của Abraham và Đức Maria
Cả Abraham và Đức Maria đều được yêu cầu trả lời "xin vâng”cho một điều mà từ trước tới nay chưa từng thấy thế bao giờ. Sara, người đàn bà son sẻ đầu tiên trong Kinh Thánh thụ thai bởi ân sủng quyền năng của Thiên Chúa, giống như người phụ nữ sau cùng là bà Elizabeth. Thiên Thần Gabriel nói về Elizabeth để trấn an Đức Maria: "Này Isave, chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già” (Lc 1, 36).
Như Abraham, Đức Maria cũng phải bước đi trong đêm tối, tin tưởng vào Đấng đã kêu gọi Maria. Tuy nhiên, câu hỏi”việc đó xảy ra thế nào được?”chứng tỏ Đức Maria đã sẵn sàng thưa”xin vâng”bất chấp mọi hoàn cảnh. Maria không đặt câu hỏi liệu lời hứa có được thực hiện hay không, nhưng chỉ hỏi việc đó xảy ra thế nào và đã thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc 1, 38). Với những lời trên, Đức Maria chứng tỏ mình là nữ tử thuộc dòng dõi Abraham đã trở thành Mẹ Chúa Kitô và Mẹ của tất cả các những người tin.
Để hiểu rõ hơn mầu nhiệm này, chúng ta nhìn lại hành trình của Abraham khi đón ba vị khách lạ vào nhà mình (x. St 18, 1-5) ông đã nhận được lời hứa. Cuộc gặp gỡ nhiệm mầu ấy báo trước buổi Truyền Tin cho Đức Maria. Sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần lôi kéo Mẹ. Nhờ lời thưa "xin vâng”của Đức Maria tại Nagiaret mà mầu nhiệm Nhập Thể hoàn tất cuộc gặp gỡ của Abraham với Thiên Chúa. Hôm nay chúng ta hát mừng người nữ "đem vầng hồng rực rỡ xuống trần gian” (Hymne Ave Regina Caelorum).
Chúng ta xin gì cùng Mẹ Thiên Chúa?
Chúng ta cầu xin cho mọi người trong Năm Phúc Âm Hóa Gia Đình này được đối mới về đức tin, không chỉ chung chung, nhưng là một đức tin có ý thức và can đảm tuyên xưng như vẫn đọc trong Kinh Tin Kính: "Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người ".
Tại Nagiaret, Chúa Giêsu”đã ngày càng tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta” (Lc 2, 52). Chúng ta xin Thánh Gia để bảo vệ tất cả các gia đình khỏi các mối đe dọa hiện nay đang đè nặng trên các gia đình. Chúng ta phó thác cho Thánh Gia tất cả những ai đang nỗ lực bảo vệ sự sống và cổ võ việc tôn trọng phẩm giá con người. Chúng ta phó dâng cách riêng các gia đình trên thế giới cho Mẹ Maria.
Tại Nagiaret, nơi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai, chúng ta xin Đức Maria giúp Hội Thánh rao giảng "Tin Mừng”khắp mọi nơi. Trong "Năm Phúc Âm Hóa Gia Đình", chúng ta xin xin Mẹ dạy chúng ta con đường khiêm tốn, vâng phục và niềm vui Phúc Âm để phục vụ anh chị em.
Ước gì trên hành trình dương thế, có Mẹ Maria đồng hành, nhờ lời”xin vâng”của Mẹ lúc Truyền Tin, cánh cửa ơn cứu rỗi đã mở ra cho nhân loại. Chúng ta có thể thư”xin vâng”với Chúa Kitô, ngõ hầu toàn thể nhân loại "giao hòa với Thiên Chúa.”Amen.
10. Mẹ thưa xin vâng khi thi hành thánh ý Chúa-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Truyền Tin là cơ hội để chúng ta theo Sứ Thần Gabriel đến Nagiarét gặp một trinh nữ mà thiên hạ muôn đời khen là có phúc (x. Lc 1, 48). Thánh Augustinô viết: “Thiên Chúa đã chọn một người mẹ mà Ngài đã tạo dựng, Ngài đã tạo dựng người mẹ mà Ngài đã chọn” (x. Bài giảng 69, 3, 4).
Hôm nay, chúng ta cử hành mầu nhiệm cao cả tuyệt vời đã hoàn tất cách đây hơn hai ngàn năm. Một sự kiện diễn ra trong không gian và thời gian: “Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đa-vít, Trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1, 26-27 ). Tuy nhiên, để hiểu được những gì đã xảy ra tại Nagiarét hơn ngàn năm về trước, chúng ta lần dở lại Thư gửi tín hữu Do thái. Bản văn này thuật lại cuộc trò chuyện giữa Chúa Cha và Chúa Con về kế hoạch đời đời của Thiên Chúa.”Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội”. Nên tôi nói: ”Lạy Chúa, này tôi đến để thi hành thánh ý Chúa” (Dt 10, 5-7). Như thế, vì vâng ý Chúa Cha, Ngôi Lời đến đã đến cư ngụ giữa chúng ta, dâng chính thân mình làm của lễ hy sinh vượt trên mọi hy lễ đã dâng trong Cựu Ước. Lễ hy sinh của Chúa Giêsu là lễ vĩnh viễn và hoàn hảo nhất để cứu chuộc thế gian.
Kế hoạch của Thiên Chúa được thể hiện từng bước trong Cựu Ước, lời tiên tri Isaia là bằng chứng: ”Vì thế chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu, này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Immanuel” (Is 7, 14). Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi thời gian tới hồi viên mãn như đã báo trước, những lời trên được thực hiện, ngày hôm nay chúng ta cử hành với hạnh phúc và niềm vui.
Từ Abraham đến Đức Maria
Hành trình truyền tin khởi đi từ Abraham”cha chúng ta trong đức tin” (x. Rm 11, 12 ). Dẫn chúng ta về Nagiarét, gặp Đức Maria nữ tử Sion thuộc dòng dõi Abraham. Hơn ai hết, Đức Maria là người có thể dạy cho chúng ta sống đức tin với”Cha chúng ta.”
Abraham và Đức Maria, cả hai đều nhận được từ Thiên Chúa lời hứa tuyệt hảo. Abraham sẽ trở thành cha một cậu con trai, sinh ra một dân tộc vĩ đại. Đức Maria sẽ trở thành Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng được Chúa xức dầu. Sứ thần Gabriel nói,”Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai […] Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người […] và triều đại Người sẽ vô tận” (Lc 1, 31-33).
Lời hứa của Thiên Chúa đến với Abraham và Đức Maria thật bất ngờ, làm thay đổi cuộc sống hàng ngày và đảo lộn những trật tự bình thường của hai đấng. Lời hứa ấy là hoàn toàn khổng thể đối với Abraham và Đức Maria. Sara vợ của Abraham đã lão, Maria còn trinh nữ nên đã thưa với Thiên Thần: “Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam” (Lc 1, 34).
Lời ”xin vâng” của Abraham và Đức Maria
Cả Abraham và Đức Maria đều được yêu cầu trả lời”xin vâng”cho một điều mà từ trước tới nay chưa từng thấy thế bao giờ. Sara, người đàn bà son sẻ đầu tiên trong Kinh Thánh thụ thai bởi ân sủng quyền năng của Thiên Chúa, giống như người phụ nữ sau cùng là bà Isave. Thiên Thần Gabriel nói về Isave để trấn an Đức Maria: “Này Isave, chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già” (Lc 1, 36).
Như Abraham, Đức Maria cũng phải bước đi trong đêm tối, tin tưởng vào Đấng đã kêu gọi Maria. Tuy nhiên, câu hỏi”việc đó xảy ra thế nào được?”chứng tỏ Đức Maria đã sẵn sàng thưa”xin vâng”bất chấp mọi hoàn cảnh. Maria không đặt câu hỏi liệu lời hứa có được thực hiện hay không, nhưng chỉ hỏi việc đó xảy ra thế nào và đã thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc 1, 38). Với những lời trên, Đức Maria chứng tỏ mình là nữ tử thuộc dòng dõi Abraham đã trở thành Mẹ Chúa Kitô và Mẹ của tất cả các những người tin.
Để hiểu rõ hơn mầu nhiệm này, chúng ta nhìn lại hành trình của Abraham khi đón ba vị khách lạ vào nhà mình (x. St 18, 1-5) ông đã nhận được lời hứa. Cuộc gặp gỡ nhiệm mầu ấy báo trước buổi Truyền Tin cho Đức Maria. Sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần lôi kéo Mẹ. Nhờ lời thưa”xin vâng”của Đức Maria tại Nagiarét mà mầu nhiệm Nhập Thể hoàn tất cuộc gặp gỡ của Abraham với Thiên Chúa. Hôm nay chúng ta hát mừng người nữ”đem vầng hồng rực rỡ xuống trần gian” (Hymne Ave Regina Caelorum).
Chúng ta xin gì cùng Mẹ Thiên Chúa?
Chúng ta cầu xin cho những người sống đời thánh hiến, để họ biết đón nhận Lời Chúa, cưu mang Lời Chúa, suy ngẫm Lời Chúa như Mẹ Maria, nhất là sống theo Chúa Kitô, khiết tịnh, thanh bần và vâng phục là một sự chú giải sống động về Lời Chúa. Xin cho họ được luôn thưa”xin vâng”với trọn bản thân và tất cả lòng chân thành, hoàn toàn sẵn sàng đối với thánh ý Chúa và lượng từ bi của Ngài.
Trong năm Phúc Âm Hóa Giáo xứ, xin cho mọi người biết quan tâm đến nhau, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, quảng đại giúp đỡ tha nhân. Vì Giáo hội luôn ý thức rằng: “Nếu một chi thể đau, thì tất cả các chi thể khác cũng đau” (1 Cr 12,26), nên Đức khẳng định: “Mỗi cộng đoàn Kitô được kêu gọi hãy vượt qua ngưỡng cửa nối kết họ với xã hội xung quanh, với những người nghèo và những người xa xăm. Giáo Hội tự bản chất là thừa sai, không co cụm vào mình, nhưng được sai tới tất cả mọi người. Sứ mạng của Giáo Hội là kiên nhẫn làm chứng về Ðấng muốn mang tất cả thực tại và mỗi người về cùng Chúa Cha… Tôi ước mong sao ở đâu Giáo hội hiện diện, đặc biệt là các giáo xứ và cộng đoàn của chúng ta, ở đó trở thành những honf đảo từ bi giữa lòng biển cả dửng dưng!” (Sứ điệp Mùa Chay năm 2015)
Ước gì trên hành trình dương thế, có Mẹ Maria đồng hành, chúng ta có thể thưa: Lạy Chúa, này con đây, xin Chúa thực hiện nơi con những gì Chúa muốn trong mọi hoàn cảnh của đời con. Amen.
11. Ơn cứu chuộc ngang qua sự vâng phục--Vinhsơn Ngọc Biển SSP
(Is 6, 10-14; Dt 10, 4-10; Lc 1, 26-38)
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng trọng thể lễ Truyền Tin Thiên Chúa nhập thể. Nói cách khác, hôm nay, chúng ta long trọng mừng biến cố Thiên Chúa chính thức thực hiện lời hứa cứu độ với nhân loại khi trao ban Con của Người xuống thế và nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria.
Qua biến cố vĩ đại này, tinh thần phụng vụ hướng chúng ta về hai mẫu gương vâng phục của Đức Giêsu và Mẹ Maria, đồng thời cũng mời gọi mỗi người chúng ta noi gương Đức Giêsu và Mẹ Maria để sống sự vâng phục trong cuộc sống đạo hôm nay.
1. Vâng phục để cứu độ
Khi nói đến sự vâng phục, chúng ta nhớ ngay đến đoạn Kinh Thánh mà thánh Phaolô đã viết trong thư gửi tín hữu Philípphê, ngài viết: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” ( Pl 2, 6-7).
Sự vâng phục này là khởi đầu của nguồn ơn cứu độ, vì nếu Đức Giêsu không vâng phục Thiên Chúa để trở thành Đấng Emmanuen, nhằm cứu chuộc nhân loại tội lỗi, thì chắc chắn Thiên Chúa sẽ phải chọn con đường khác. Tuy nhiên, con đường tự hủy mà Đức Giêsu đã chọn là con đường tuyệt vời nhất, bởi vì nó diễn tả trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa. Điều này đã được thánh Gioan nhắc đến, ngài nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Sự vâng lời của Đức Giêsu hoàn toàn được diễn ra trong tự do và tự nguyện, vì thế, Ngài đã nói: “Lạy Chúa, này con xin đến để thi hành thánh ý Chúa”Tv 39, 8a – 9a); hay: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34 ). Chính nhờ sự vâng phục tuyệt đối trong tự do này, mà Đức Giêsu trở thành nguồn ơn cứu độ đến muôn ngàn đời. Tại sao vậy? Thưa! Bởi vì Ngài đã vâng lời và vâng lời cho đến chết, chết trên cây thập tự và đã chấp nhận đổ máu mình ra nhằm cứu chuộc con người.
Chính vì sự vâng phục này, mà nhân loại đón nhận được ơn cứu chuộc của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu, Đấng vừa là Thiên Chúa thật, vừa là người thật.
2. Vâng phục để đồng công cứu chuộc
Khi nói đến sự vâng phục của Đức Giêsu, chúng ta không thể không nói đến sự vâng phục của Đức Maria. Mặc dù phụng vụ canh tân ngày nay không còn tập trung nơi Đức Maria như trước kia vào thời Trung Cổ. Tuy nhiên, khi nói đến ơn cứu chuộc của Đức Giêsu nhờ sự vâng phục mà có, thì Giáo Hội cũng luôn đề cao sự cộng tác của Mẹ Maria trong công cuộc ấy cũng bằng chính sự vâng phục nơi Mẹ.
Sự vâng phục của Mẹ Maria được đánh giá rất cao trọng, bởi vì khi Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa, kế hoạch riêng tư của Mẹ hoàn toàn sang trang và chuyển hướng khác, để nhường cho chương trình và ý định của Thiên Chúa trên toàn thể nhân loại.
Nói như thế, là vì Đức Mẹ ngay từ khi còn nhỏ đã khấn giữ mình đồng trinh để thuộc trọn về Chúa và phụng sự Người. Tuy nhiên, Thiên Chúa lại có chương trình riêng cho người thiếu nữ Sion này, đó là muốn Mẹ nhận lời và cưu mang Con Thiên Chúa làm người để cứu chuộc nhân loại.
Biết được ý định ngàn đời của Thiên Chúa, nên sau khi đã nghe lời giải thích của sứ thần: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà,và quyền năng Đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà,vì thế,Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35 ), Mẹ Maria đã mau mắn trong tự do để thưa lên với Thiên Chúa ngang qua sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38 ). Nhờ hai tiếng xin vâng của Mẹ, nhân loại tràn đầy niềm hân hoan, vì từ nay, Con Thiên Chúa đã đến và ở với loài người.
Khi chọn Mẹ Maria, người thiếu nữ Sion để cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc, Thiên Chúa đã khai mở một kỷ nguyên mới, thiết lập một dân tộc mới thay thế cho dân cũ đã bị cái chết bao phủ do tội bất tuân của Evà. Từ nay, muôn đời sẽ khen Mẹ diễm phúc, vì từ cung lòng Mẹ đã cưu mang Đấng là Nguồn Ơn Cứu Độ, Nguồn Mạch Sự Sống.
Cũng chính lời xin vâng này, mà cuộc đời của Mẹ đã kết hiệp mật thiết với Đức Giêsu trọn vẹn. Mẹ đã trở thành Đấng đồng công cứu chuộc với Con Chí Ái của mình.
3. Người Kitô hữu sống tinh thần vâng phục
Sứ điệp Lời Chúa và tinh thần phụng vụ ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hướng về Đức Giêsu và Mẹ Maria như là mẫu gương tuyệt hảo cho sự vâng phục trong đời sống đức tin hằng ngày của mỗi người.
Nếu trước kia, nơi Đức Giêsu, Ngài đã tự nguyện trút bỏ vinh quang để vâng phục Thiên Chúa Cha qua việc đến trần gian trong thân phận là một con người nhằm cứu chuộc nhân loại; và nếu Mẹ Maria khi vâng lời Thiên Chúa và sẵn sàng để cho thánh ý của Người được thực hiện, thì đến lượt chúng ta, nếu muốn trở nên người môn đệ đích thực của Chúa trong lòng Giáo Hội hôm nay, thiết nghĩ con đường tự khiêm tự hạ và vâng phục trong lòng mến của Đức Giêsu và Mẹ Maria chính là lựa chọn của chúng ta.
Tuy nhiên, với sự yếu đuối của con người và với những trào lưu hiện sinh của nhân loại ngày nay, chúng ta rất khó có thể vâng phục, nhất là sự vâng phục của đức tin!
Nhiều khi chúng ta biện hộ cho việc bất tuân của mình bằng những chuyện như: vâng phục là mất tự do; vâng phục làm cho con người bị lệ thuộc. Hiểu theo nghĩa tâm lý hay triết học thì thật đúng như vậy. Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa đức tin dưới ánh sang Lời Chúa thì không phải vậy, bởi vì: “Tự do đạt tới mức hoàn hảo khi quy hướng về Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Chỉ có tự do đích thực khi con người phục vụ cho điều thiện và công bằng. Khi bất tuân ý Chúa và chọn điều ác, con người lạm dụng tự do và trở nên”nô lệ tội lỗi” (SGLHTCG. Số 1733).
Thực tế cho thấy, những ai trung thành với Chúa, người đó đạt tới đích trong sự viên mãn. Những ai biết gắn bó cuộc đời của mình với Thiên Chúa trong sự vâng phục, cuộc sống của người ấy vui tươi bình an và hạnh phúc.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con tạ ơn Cha đã ban cho chúng con chính người Con Một duy nhất của Cha đến trần gian qua cung lòng Mẹ Maria, để chúng con được hưởng dồi dào ơn cứu chuộc của Đấng vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Xin Cha ban cho chúng con biết noi gương Con Một Cha và Đức Trinh Nữ Maria để sẵn sàng hiến dâng cuộc đời của mình trong sự vâng phục nhằm cộng tác vào công trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đang thực hiện trong thế giới hôm nay. Amen.
12. Khiêm Nhường Để Đón Nhận Ý Chúa--Vinhsơn Ngọc Biển SSP
(Is 7, 10-14. 8,10; Dt 10, 4-10; Lc 1, 26-38)
Trong cuộc sống, chúng ta thấy nhiều ông chủ thường chọn cho mình một trợ lý để hỗ trợ mình trong công việc. Tiêu chuẩn để được trở thành trợ lý xứng đáng, đó chính là sự khiêm nhường. Nếu khiêm nhường thì sẽ dễ dàng đón nhận ý chủ và thi hành cách trung thực. Ngược lại, nếu tự kiêu tự đại, người trợ lý rất khó chấp nhận ý chủ và sẵn sàng đưa ý mình thay ý chủ. Như vậy, công việc của ông chủ sẽ bị người trợ lý phá hoại nếu hắn không tuân thủ mệnh lệnh trong sự khiêm tốn, và lẽ tất yếu, rất khó trung thành!
Hôm nay, Lễ Truyền Tin Thiên Chúa nhập thể, chúng ta thấy toát lên hai nhân vật chính: một là sứ thần, hai là Mẹ Maria. Sứ Thần là người truyền tải sứ điệp của Thiên Chúa cho Mẹ Maria, còn Mẹ Maria là người đón nhận sứ điệp của Thiên Chúa qua sứ thần.
Khiêm nhường để đón nhận Ý Chúa
Nội dung sứ điệp rất đặc biệt. Người đón nhận đóng vai trò rất quan trọng. Bởi vì khi đón nhận, ngay tức khắc, Mẹ Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa khi sẵn sàng để Con Thiên Chúa là Đức Giêsu xuống thế và nhập thế nơi cung lòng mình.
Đây là một tin vừa gây shock, vừa hãnh diện nơi Mẹ. Shock là vì Mẹ đã khấn giữ mình đồng trinh, ấy vậy mà giờ Thiên Chúa lại thách đố Mẹ khi truyền cho mình phải mang thai, cưu mang và hạ sinh Con Thiên Chúa. Hãnh diện vì trong muôn ngàn phụ nữ, Thiên Chúa đã chọn mình. Tuy nhiên, dù shock hay hãnh diện, Mẹ đã khiêm tốn để xin vâng trong lòng mến.
Từ thái độ khiêm nhường để đón nhận lời xin vâng, kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được thành hiện thực. Cũng kể từ khi lời xin vâng đầy xác tín và khiêm nhường ấy, mà: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người” (Ga 1, 14). Đức Maria vâng lời Chúa qua trung gian của thiên thần, đây là giây phút Mẹ biểu lộ nhân đức khiêm nhường tuyệt vời mà Mẹ đã được hấp thụ bởi cha mẹ của mình.
Vâng phục Chúa, qua lời thiên thần truyền, Mẹ nhận mình là một người tôi tớ. Rõ ràng trong sự vâng phục, qua tiếng xin vâng của Mẹ, Mẹ đã tin tưởng, phó thác cả đời sống cho Đấng đã tuyển chọn mình.
Cũng chính lời xin vâng của Mẹ như thế, mà từ nay, Mẹ trở thành Evà mới thay thế cho Evà cũ đã bất tuân. Từ nay mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa và Mẹ nhân loại.
Trở thành Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đóng vai trò Nữ Hoàng và cũng là Nữ Tỳ của Thiên Chúa. Trở thành Mẹ nhân loại, Mẹ đóng vai trò Từ Mẫu và là Đấng Bầu Chữa cho con cái của mình. Nhưng dù trong vai trò nào, Mẹ luôn luôn chuyển cầu lòng thương xót của Thiên Chúa xuống cho nhân loại. Đây là niềm vui và tự hào nơi Mẹ. Chính trong tâm tình này mà Mẹ đã cất cao lời ngợi khen Đấng Giàu Lòng Xót Thương đã đoái nhìn đến thân phận hèn yếu nơi Mẹ. Vì thế, mẹ đã mượn lời của bài ca Manifiat mà trong lịch sử cứu độ, những người hèn mọn đã cất lên để ca ngợi kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện cho mình và dòng tộc mình..
Qua lời kinh này, đức khiêm nhường lại càng đậm nét hơn nơi Mẹ, vì thế, Mẹ đã dâng lại cho Chúa tất cả vinh dự mà Người ban tặng cho Mẹ.
2. Sứ điệp Ngày Lễ
Mỗi khi mừng lễ Thiên Chúa Nhập Thể, hay còn gọi là lễ Truyền Tin, Giáo Hội mong muốn con cái của mình khám phá ra sứ điệp nền tảng của ngày lễ:
Trước tiên, đó chính là noi gương Thiên Chúa. Người đã yêu thương thế gian và Người yêu đến cùng, bằng việc trao ban chính Con Một của mình để biểu lộ lòng xót thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Thứ đến, việc nhập thế của Đức Giêsu lộ hiện rõ đức khiêm nhường. Thật thế, Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã chấp nhận từ bỏ vinh quang, mang lấy kiếp phàm nhân, sống như người trần thế để cứu chuộc con người.
Cuối cùng, học nơi Mẹ Maria bài học vâng phục thẳm sâu. Sự vâng phục nơi Mẹ được khởi đi từ đức khiên nhường, nên khi được sứ thần giải thích, Mẹ đã sẵn sàng đón nhận trong sự tín thác.
Có thể nói: nhân đức khiêm nhường chính là điểm nổi bật nơi Mẹ Maria. Vì khiêm nhường, nên Mẹ Maria mới sẵn sàng vâng lời tuyệt đối để trở thành nữ tỳ của Thiên Chúa. Cũng chính nhờ nhân đức này mà Mẹ được thuộc trọn về Chúa là Đấng hằng yêu quý những tâm hồn khiêm tốn.
3. Sống sứ điệp ngày lễ
Ngày hôm nay, sống đức khiêm nhường quả là một thách đố đối với mọi thành phần. Chúng ta nói về đức khiêm nhường thì rất hay và “kêu”, nhưng khi đòi hỏi phải sống đặc tính của đức khiêm nhường thì lại là một “miếng xương” khó nuốt.
Thật vậy, nhiều người vẫn xin Chúa ban cho mình ơn khiêm nhường, nhưng khi Chúa gửi thử thách đến, nhất là những thử thách đụng đến lòng tự trọng, danh dự, thế là ta sẵn sàng nổi khùng và phàn nàn, trách móc nếu không muốn nói là khẳng khái khước từ!
Cũng vẫn có nhiều người sẵn sàng từ bỏ nhiều thứ như: tiền, tình, quyền… để đi theo Chúa, nhưng cái tôi thì không chấp nhận bỏ. Những người đó, họ đâu biết rằng: bỏ mọi sự, nhưng cái tôi không bỏ thì kể như chưa bỏ gì cả!
Mừng lễ Truyền Tin Thiên Chúa Nhập Thể, xin cho chúng ta biết noi gương Thiên Chúa để xót thương mọi người như Chúa đã xót thương đến nhân loại tội lỗi. Biết noi gương Đức Giêsu, Ngài là Thiên Chúa – người, chấp nhận tất cả để cho người khác được hạnh phục và được cứu độ. Noi gương Mẹ Maria, sẵn sàng khiêm nhường và phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa, để thánh ý Thiên Chúa được nên trọn.
Chúng ta cần hiểu rằng: đức khiêm nhường là nhân đức nền tảng, từ đó mới có thể xây dựng lâu đài các nhân đức khác. Khi có được nhân đức này, chúng ta mới hy vọng thuộc về Chúa cách trọn vẹn nhờ loại bỏ được những thói xấu như: ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ…
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con.
Chúng con tạ ơn Chúa đã mạc khải cho chúng con
về tình thương cao vời của Thiên Chúa
ngang qua biến cố Nhập Thể của Đức Giêsu.
Xin Chúa ban cho chúng con học được bài học khiêm nhường thẳm sâu nơi Mẹ Maria.
Ước gì qua sự khiêm nhường của mỗi người chúng con,
kế hoạch và thánh ý của Thiên Chúa
được thực hiện trong cuộc đời mỗi chúng con. Amen.
13. Nữ tỳ của Chúa
Đức Maria vừa được sứ thần Chúa đến báo tin là được chọn làm Mẹ Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Và sau khi đã nghe sứ thần giải đáp những điều còn thắc mắc, Mẹ chỉ vắn tắt thưa cùng sứ thần: Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.
Là Mẹ của con Thiên Chúa, tức là Mẹ của Thiên Chúa, nhưng Đức Maria vẫn chỉ coi mình là nữ tỳ. Cũng như Đức Kitô, là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, nhưng cũng khẳng định là mình đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhiều người. Nói cách khác, tuy thực sự là Thầy và là Chúa, nhưng Đức Kitô muốn sống giữa anh em nhân loại của mình như một người tôi tớ chứ không như một ông chủ. Và Ngài cũng muốn cho cộng đoàn Dân Chúa, mà Ngài lập ra, phải luôn tôn trọng nguyên tắc Ngài đã ấn định: Vua Chúa các dân thì lấy quyền mà thống trị và những ai cầm quyền thì tự xưng mình là ân nhân. Anh em thì không như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em thì phải nên người nhỏ nhất và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ.
Trong xã hội phong kiến ngày xưa, vua quan được coi như cha mẹ của dân: dân chi phụ mẫu. Ngày nay, tuy phần lớn các quốc gia đã trở thành dân chủ và nhiều người lãnh đạo chính quyền vẫn tự xưng mình là "công bộc", là "đầy tớ”của nhân dân. Nhưng trong thực tế, thì chỉ thấy người ta đón tiếp, chào hỏi long trọng và hết lòng phục vụ các người đầy tớ ấy, mà chẳng ai đón tiếp, chào hỏi người dân, nhất là những người nghèo và những kẻ làm tôi thực sự.
Còn Đức Maria và Chúa Giêsu thì vẫn trước sau như một. Chỉ biết sống vì mọi người và cho mọi người, hay nói cách khác, lấy sự phục vụ mọi người làm phương châm. Chúa Giêsu thì chủ tâm thực hiện sứ vụ người tôi tớ của Thiên Chúa mà tiên tri Isaia đã phác hoạ, còn Mẹ Maria thì chỉ thích sống như một người nữ tỳ của Chúa.
Giáo Hội, một mặt là nhiệm thể Đức Kitô, một mặt cũng là hình ảnh nối tiếp của Đức Maria, nên cũng phải thể hiện vai trò làm tôi tớ và nữ tỳ của Thiên Chúa. Trong kinh nghiệm sống hằng ngày, người mẹ nào cũng trước hết làm mẹ, làm tôi tớ rồi mới làm thầy dạy con cái mình. Con càng nhỏ dại, mẹ càng phải vất vả hầu hạ và nhất là con càng đau yếu, thì mẹ càng pảhi chăm sóc tận tình. Giữa chức vụ làm mẹ và làm thầy thì có bổn phận làm tôi tớ. Người ta phải yêu mến cha mẹ, phải sống trọn chữ hiếu. Người ta phải tôn kính thầy mình. Nhưng không ai có bổn phận phải biết ơn tôi tớ. Trái lại kẻ làm tôi thường bị khinh rẻ và cư xử bất công. Người ta đã bất công như thế nào đối với Chúa Giêsu chỉ vì Ngài đã không dùng quyền năng để áp đặt trên họ một quyền thống trị, mà lại chỉ muốn hầu huyện mọi người như tôi tớ. Vậy nếu ngày hôm nay Giáo Hội có bị coi thường, bị ngược đãi, thậm chí có bị bách hại, thì âu cũng là lẽ thường, bởi chính Đức Kitô cũng đã từng bị ngược đãi và bị giết. Cũng chính Người đã báo trước cho các môn đệ biết trước số phận đang chờ đón họ. Thà chúng ta tự coi mình như những đầy tớ vô dụng, làm tất cả những gì Chúa dạy phải làm, rồi sau đó có bị quên ơn, ngược đãi, còn hơn là tự tôn mình làm thầy, làm chúa thiên hạ, rồi sau bị người ta nguyền rủa và lên án: Vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Chính vì chỉ muốn làm nữ ty của Chúa, nên Đức Maria đã được chọn làm Mẹ Thiên Chúa và được mọi đời khen ngợi là người diễm phúc.
14. Lễ Truyền Tin--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’--Đài Phát Thanh Chân Lý Á Châu
Mỗi khi đọc kinh Kính Mừng, chúng ta lặp lại lời sứ thần Gabriel chào Ðức Maria khi mở đầu cuộc truyền tin: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Ðức Chúa Trời ở cùng Bà. Mừng vui lên hỡi Ðấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà”. Ðây chính là lời chúc phúc có ý nghĩa nhất và cũng là lời chúc phúc có giá trị nhất của con người.
Quả thế, không có mối phúc nào lớn hơn mối phúc của người được Thiên Chúa ở cùng, của người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Thiên Chúa. Theo sau lời chúc phúc cũng là lời loan báo cho Ðức Maria biết tình trạng ân sủng tuyệt vời của Mẹ. Sứ thần cho Mẹ biết là Mẹ sẽ thụ thai Con Thiên Chúa. Ðây quả là một tin hết sức trọng đại khiến Mẹ phải bối rối. Hơn nữa, Mẹ sẽ thụ thai thế nào đây khi mà Mẹ chưa hề chung chăn gối với ai. Thắc mắc của Ðức Maria được sứ thần giải đáp bằng một câu trả lời đầy thuyết phục, một cách tuyệt đối nhân danh quyền năng của Ðấng Tối Cao, kèm theo là một chứng cớ cụ thể đang xảy ra cho người chị họ của Mẹ. Ðối chiếu với các câu Thiên Chúa trả lời cho tổ phụ Abraham, cho ông Môsê hay cho thánh Giuse, chúng ta thấy Thiên Chúa rất tế nhị khi giao tiếp với từng đối tượng để giải đáp thắc mắc của người thiếu nữ. Người đã chọn cách trả lời giản dị mà có hiệu quả nhất. Câu trả lời này mang lại cho Ðức Maria sự bình an sâu thẳm. Mẹ đã sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa trao phó cho Mẹ. Mẹ đã tiếp nhận được điều chính yếu trong sứ điệp Truyền Tin, Mẹ đã tin tưởng tuyệt đối vào sứ điệp đó và Mẹ sẽ cống hiến hết mình cho điều mình xác tín.
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa gởi sứ điệp có liên quan đến công cuộc cứu độ của Người. Trong cái đại dương thông tin mênh mông đang ùa tới với chúng ta mỗi ngày, Thiên Chúa vẫn không ngừng nói với chúng ta bằng tiếng nói của con người hôm nay, cung cách giao tiếp của Thiên Chúa vẫn luôn tế nhị, thích ứng với từng đối tượng mà Người muốn ngỏ lời. Nếu chịu khó lắng nghe, chúng ta sẽ thấy sứ điệp mà Thiên Chúa gửi đến cho mình cũng có những nét tương tự như sứ điệp Truyền Tin cho Ðức Maria.
Thay cho lời chào của sứ thần, chúng ta có thể cảm thấy có một cái gì đó lay động linh hồn chúng ta và tạo cho chúng ta một cảm giác thiêng liêng huyền nhiệm. Trước cảm giác linh thiêng này, có thể chúng ta sẽ bối rối xao xuyến vì không biết chuyện gì đang xảy ra cho tâm hồn mình, chúng ta có thể lờ đi không lưu tâm đến nó nữa. Và trong trường hợp này, chúng ta sẽ không nhận được phần tiếp theo của sứ điệp. Nhưng nếu chúng ta để ý lắng nghe, chúng ta sẽ nhận được những sứ mạng mà Thiên Chúa muốn trao cho chúng ta. Ða số các sứ mạng này là những công việc bình lặng trong cuộc sống thường ngày với mục đích đem ơn cứu độ đến cho những người khác. Nhưng cũng có lúc đó là những công việc có tầm ảnh hưởng lớn hơn, khó thực hiện hơn và đôi khi vượt quá khả năng của chúng ta. Những lúc ấy, chúng ta sẽ cảm thấy e ngại vì không biết mình sẽ làm sao để thực hiện lời Thiên Chúa gợi ý. Nhưng nếu chúng ta tin tưởng và tiếp tục đối thoại với Thiên Chúa, thì Người sẽ đưa ra cho chúng ta lời giải đáp, và có thể Người sẽ đưa ra cho chúng ta một vài bằng chứng cụ thể để củng cố lòng tin của chúng ta. Ðến đây, Thiên Chúa chờ đợi lời thưa”Xin Vâng”của chúng ta như Người đã chờ đợi lời thưa”Xin Vâng”của Mẹ Maria ngày xưa.
Lạy Mẹ Maria, có những lúc con đã nghe được tiếng Chúa gọi gợi ý cho biết những công việc phải làm, nhưng khi nhìn lại bản thân, con thấy mình chỉ là một con người bé nhỏ, bình thường như bao nhiêu người khác, vì thế, con ngần ngại không dám tiến thân. Hôm nay, khi về biến cố Truyền Tin, con hiểu ra rằng đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được, cũng không có gì là bé nhỏ tầm thường vô giá trị. Xin Mẹ giúp con từ nay biết lắng nghe và thực hiện ý Chúa với tâm tình đơn sơ phó thác như Mẹ ngày xưa.
15. Xin vâng--L.P
Người ta không ngớt hỏi về tiểu sử của cô thiếu nữ Do Thái, cô đã biết nắm giữ những điều chính xác của Chúa, và trong đám chị em cô. Cô đã được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Có phải có một phụ nữ độc nhất đã được ghi tên trong lịch sử không? có phải có một phụ nữ độc nhất đã là đối tượng của tình yêu trinh trong của nhiều quân tử không? có phải có một bà độc nhất đã nhận bao nhiêu lời cầu khẩn của nhiều ông trong cơn quẫn bách đã chạy đến cùng bà và nhận được an ủi không?
Không, người ta không ngừng chiêm ngắm mầu nhiệm lạ lùng này, đã hoàn toàn đặt vào thiện tâm thiện chí của một phụ nữ trẻ, vào lời đáp ngắn gọn: “Fiat Voluntas tua”. Xin vâng ý Ngài. Và đồng thời những vui mừng được làm người mẹ, đặc biệt cùng với thảm kịch bi đát nhất trong suốt lịch sử: Sinh hạ Con Thiên Chúa, và cái chết trên thánh giá.
Cần phải có một đức tin sâu xa để tin nhận những biến cố như thế và đừng thử giải nghĩa theo lý trí loài người. Một đức tin sâu thẳm như đức tin của Ma-ri-a để thư xin vâng.
Và nếu người ta nghĩ ra rằng Thiên Chúa đợi chúng ta đáp cùng lời như thế, thì sao? Nếu Thánh Thần chỉ đợi chúng ta xin vâng để Ngài ngự đến và biến đổi đời sống chúng ta, thì sao? Nếu Thánh thần chỉ đợi chúng ta hết lòng xin vâng để làm cho chúng ta tiến tới trong đường lối của Ngài, thì chúng ta nghĩ sao?
Xin vâng đôi khi dễ dàng vì nó gợi lên những niềm vui sâu xa như niềm vui mà Thánh Phaolô ở trong tù viết thư cầu chúc cho giáo đoàn Philip.
Xin vâng khó hơn đối với một cuộc đời đầy những giờ phút khó khăn, đôi lúc được hạnh phúc an ủi.
Xin vâng khó nhất, lúc đứng dưới chân thập giá, lúc tất cả hình như mất hết. Sự xin vâng của thiếu nữ Ma-ri-a kéo dài không ngừng trong đời sống đau khổ làm Mẹ như thế.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống xin vâng như vậy.
16. Hai cuộc truyền tin
Hôm nay lễ Mẹ truyền tin. Lời Chúa dẫn đưa chúng ta đến một khung cảnh thật bình dị, ấm cúng nơi mái nhà nhỏ bé miền quê Nagiaret. Nơi đó đã diễn ra một cuộc đối thoại lịch sử giữa sứ thần Chúa và cô thôn nữ Maria. Sứ thần Chúa đã viếng thăm đột ngột. Ðột ngột quá nên chẳng có gì chuẩn bị từ tinh thần đến vật chất đối với cô Maria. Sứ thần thì chủ động - Maria thì bối rối. Lời sứ thần nói như đã được chuẩn bị chu đáo. Còn Maria thì phân vân, đắn đo từng lời. Sứ thần Chúa đã mang đến cho cô một thông điệp thật bất ngờ và quá cao vời. Cao vời đến nỗi cô không dám nghĩ mình được phước đức như vậy? Vì có bao giờ cô nghĩ rằng mình sẽ là Mẹ Ðấng Cứu Thế? Có bao giờ phận nữ nhi thường tình như cô lại được giao trọng trách cao quý như vậy? Cô đã không dám tin điều đó. Vì cô cảm thấy mình bất xứng và bất tài. Thế nhưng, sứ thần Chúa đã trấn an cô. Cô được chọn không vì tài năng hay sắc đẹp. Cô được chọn vì cô hằng sống đẹp lòng Thiên Chúa. Từ trời cao Chúa đã nhìn thấy tấm lòng cô. Một tấm lòng thanh khiết vẹn tuyền. Một tấm lòng bao dung độ lượng. Một tấm lòng bác ái yêu thương. Nhưng tất cả những phẩm chất đó vẫn không thể giúp cô hoàn thành chương trình của Thiên Chúa. Cô phân vân và do dự. Vì phận nữ nhi yếu đuối, vì việc phu thê cô chưa bước tới. Sứ thần Chúa đã trấn an cô: "Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên cô, và quyền năng Chúa sẽ rợp bóng trên cô". Maria với tấm lòng quảng đại và niềm tín thác sắt son đã thưa vâng để chương trình Thiên Chúa được thực hiện.
Ngược lại, trước đó sáu tháng. Cuộc đối thoại giữa sứ thần và Giacaria cũng diễn ra trong âm thầm, ấm cúng. Sứ thần Chúa cũng đề nghị với Giacaria về việc Thiên Chúa sắp làm nơi ông. Nhưng ông đòi dấu lạ. Lòng tin của ông đòi bằng chứng. Sứ thần Chúa đã để ông câm lặng, như dấu chỉ về những điều mà Thiên Chúa sắp làm cho gia đình ông.
Có thể thấy hai cuộc truyền tin nhưng hai thái độ khác nhau. Maria thì tin vào quyền năng Chúa có thể thực hiện được mọi sự. Giacaria thì hoang mang lo lắng. Maria để Chúa thực hiện theo ý định của Chúa. Giacaria đòi dấu lạ để kiểm chứng. Chính hai thái độ đón nhận sứ điệp khác nhau nên kết quả cũng khác nhau. Maria thì hết lời ngợi khen Chúa. Giacaria thì câm nín. Nhưng dầu trong cách đón nhận nào, thì Thiên Chúa vẫn thực hiện chương trình của mình trong sự cộng tác của con người.
Ðiểm chung của Maria và Giacaria chính là đời sống hằng đẹp lòng Thiên Chúa. Dầu ở hoàn cảnh cô thôn nữ nhà quê hay một tư tế đền thờ. Các ngài đã làm tất cả chỉ để đẹp lòng Chúa. Các ngài đã sống hết mình với bổn phận bằng tình yêu nồng nàn với Chúa và tha nhân. Cuộc sống của các ngài luôn rạng ngời biết bao hy sinh làm nên nhân đức. Các ngài đã sống đẹp giữa dòng đời đến nỗi từ trời cao Thiên Chúa luôn hài lòng về các ngài.
Phải chăng đó cũng là cách sống chung của những người con cái Chúa? Là người ky-tô hữu chúng ta phải lan tỏa hương thơm bác ái cho anh em. Là người ky-tô hữu chúng ta phải sống sao cho người khác nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa bằng chính đời sống yêu thương và phục vụ. Khi chúng ta sống hết mình vì Chúa, Chúa sẽ làm tất cả những điều tốt đẹp xuống trên cuộc đời chúng ta, như chính Ngài đã nói: "Các con hãy lo tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn các sự khác Ngài sẽ ban cho sau". Ðiều đó Chúa đã thực hiện trên cuộc đời của Maria, của Giacaria. Khi các ngài sống hết mình phụng thờ Chúa, thì Chúa lại làm biết bao điều cao siêu trên cuộc đời các ngài.
Nguyện xin Mẹ Maria là Ðấng hằng đẹp lòng Thiên Chúa, xin cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta biết thể hiện nhân cách làm con cái Chúa qua đời sống bác ái yêu thương, qua đời sống thanh khiết vẹn toàn như Mẹ. Amen.
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Tạ duy Tuyền)
17. Yêu cuộc đời, yêu con người--Lm Nguyễn Hữu An
Jacques Duquesne là một văn hào hiện đại của nước Pháp có kể rằng: Trong một cuộc tranh luận ở thư viện ngoại ô Paris, với thành phần tham dự đủ mọi loại người, thuộc nhiều tầng lớp xã hội và tuổi tác khác nhau, đề tài được bàn đến là Ðức Giê-su. Ðang khi mọi người tranh luận, một thiếu niên Ả-rập giơ tay nói với Duquesne: thưa ông, một con người không thể là Thiên Chúa, một Thiên Chúa không thể là người.
Quả thật đây là vấn đề được đặt ra từ lâu. Không chỉ người thiếu niên Hồi Giáo đặt ra mà suốt hơn 20 thế kỷ qua nhân loại vẫn luôn thao thức. Tin vào một Thiên Chúa thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều làm như vậy. Nhưng tin vào một Thiên Chúa làm người, chấp nhận thân phận con người, không loại trừ bất cứ điều gì chỉ trừ tội lỗi là một điều vượt quá lý trí nhân loại. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường, thậm chí không xứng đáng với bản tính thần linh của Ngài như là được cưu mang, được sinh hạ, phải ăn uống ngũ nghỉ, mệt mỏi, vui buồn?
Vậy mà Giáo Hội Ki-tô Giáo hơn 20 thế kỷ qua vẫn kiên trì bảo vệ niềm tin vững chắc của mình vào một Ðức Giê-su vừa là Thiên Chúa thật vừa là người thật. Trong Phụng Vụ Lễ Giáng Sinh khi đọc đến câu Tin Mừng Ga 1,14: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”thì mọi người đều quì gối. Trong Lễ Truyền Tin, lúc đọc Kinh Tin Kính, mọi người đều quì gối khi đọc câu "Người đã nhập thể trong lòng Trinh nữ Ma-ri-a và đã làm người"
Ðức Giê-su, Thiên Chúa thật, người thật, là một mầu nhiệm thâm sâu. Ðức Hồng Y Henri De Lubac bảo rằng: Mầu nhiệm Nhập thể là nghịch lý của mọi nghịch lý. Văn hào Tertuliano đã xác tín: Tôi tin vì nó phi lý. Thiên Chúa làm người, điều phi lý đối với lý trí nhưng ông đã tin vì Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa làm người là một nghịch lý, một điều không thể tin được, bởi lẽ, đã là Thiên Chúa thì phải là Ðấng cao cả, tuyệt đối, hằng hữu, bất tử. Ðối với triết lý Hy-lạp, các thần linh thuộc về một thế giới siêu phàm hoàn toàn khác biệt với thế giới phàm nhân. Các thần linh đều bất di bất dịch, bất động vô cảm đối với thế giới vật chất. Còn vật chất là một thực tại xấu xa. Thân xác con người là tù ngục nhốt kín linh hồn và linh hồn tìm cách thoát khỏi tù ngục thân xác để trở về thượng giới. Do đó họ không thể tin nổi một Thiên Chúa yêu thương con người tới mức làm người, sống với con người cách đơn sơ bé nhỏ. Vậy mà niềm tin Ki-tô Giáo lại khẳng định: Ðiều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận được, dân ngoại cho là điên rồ (1Cr 1,23) thì lại là Niềm Tin căn bản nhất trong giáo lý Giáo Hội: Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta.
Giáo Hội chọn đọc đoạn Tin Mừng Lc 1, 26-38: Truyền tin cho Ðức Ma-ri-a để nói cho chúng ta về việc nhập thể lạ lùng của Con Thiên Chúa trong cung lòng một trinh nữ. Một trinh nữ thụ thai, sinh con, đồng trinh trọn đời, một giáo lý độc đáo nhất chỉ có trong Ki-tô Giáo. Ðoạn Tin Mừng này được đọc trong các Lễ Ðức Ma-ri-a, nói lên sự thánh hiến tuyển chọn của Thiên Chúa đối với một thụ tạo được đặc ân vĩ đại nhất. Trang Tin Mừng được công bố trong ngày hôm nay muốn hướng chúng ta đến Mầu Nhiệm Nhập Thể Làm Người của Con Thiên Chúa.
Trong cuộc đối thoại giữa sứ thần Gáp-ri-en và Ðức Ma-ri-a, chính sứ thần đã nói: "Quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế con bà sinh ra sẽ là Ðấng Thánh, là Con Thiên Chúa". Từ ngữ quan trọng ở đây là "bao trùm lên". Trong Cựu Ước, sách Xuất Hành kể lại: Một đám mây mầu nhiệm bao trùm lên Lều Tạm, nơi dân Do-thái để Hòm Bia Giao Ước; Một giao ước được Thiên Chúa ký kết với Mô-sê trên núi Xi-nai. Hòm Bia, nơi chứa đựng Thập Giới; Xh 40, 34 nói rằng: Bao lâu đám mây còn bao phủ Lều Tạm thì Lều Tạm có Thiên Chúa hiện diện.
Thánh Lu-ca dùng từ "bao trùm lên”không phải là ngẫu nhiên mà là có ý nghĩa thâm sâu. Lu-ca so sánh thân thể Ðức Ma-ri-a với Lều Tạm, nơi đặt Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa. Cung lòng Ðức Ma-ri-a, nơi Ðức Giê-su cư ngụ; Hòm Bia Giao Ước, nơi đặt hai phiến đá ghi 10 Giới Răn của Thiên Chúa, trung tâm Cựu Ước. Vậy khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Ðức Ma-ri-a thì có Thiên Chúa hiện diện trong Ngài. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong cung lòng Ðức Ma-ri-a thì vô cùng phong phú hơn làsự hiện của Thiên Chúa trong Nhà Tạm, vì nơi đó Ðức Giê-su bằng xương bằng thịt hiện diện. Quyền năng Chúa Thánh Thần bao phủ và máu thịt Ðức Ma-ri-a tạo nên hình hài Ðức Giê-su. Ðức Giê-su mặc lấy thân xác con người nhờ máu thịt Ðức Ma-ri-a và Người vẫn là Thiên Chúa được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở. Cả hai bài đọc giúp chúng ta hiểu thêm về mầu nhiệm ấy.
Qua lời "Xin Vâng”của Ðức Ma-ri-a, Thiên Chúa đã nhập thể làm người. Nói như Thư Do thái, Ngài đã muốn nên giống anh em mình về mọi phương diện, phải trải qua thử thách và đau khổ, phải nếm sự chết. Ðau thương, thử thách, gian khổ, chết, đó làthân phận con người. Hữu sinh hữu tử. Ðức Giê-su đã chấp nhận sinh làm con một người phụ nữ và sống dưới lề luật như Lời Thánh Phao-lô trong Thư Gl 4,4 thì Người cũng chịu nạn đời quan Phong-xi-ô Phi-la-tô, chịu đóng đinh trên cây thập giá và táng xác như chúng ta đã tuyên xưng trong kinh tin kính. Ðó là niềm tin vững chắc của người Ki-tô hữu hơn 20 thế kỷ qua.
Ðức Giê-su đã sinh ra và đã đi vào lịch sử. Thiên Chúa của chúng ta không phải là vị Chúa Tể xa cách uy nghi ngự chín tầng mây, mà qua, Ðức Giê-su, Người đã trở thành Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ mà là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn dân. Chính Người đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và tuyên bố với các học trò mình "Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ vì tôi tớ không biết việc chủ làm, nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu vì tất cả những gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy thì Thầy sẽ cho anh em biết” (Ga 15, 15).
Con Thiên Chúa làm người cũng lớn lên như hàng tỉ con người khác, cũng cần chín tháng mười ngày trong lòng mẹ để khóc chào đời mong manh yếu đuối. Người cũng đã đi hết hành trình cuộc đời với tất cả buốn vui, âu lo trăn trở. Như thế, Con Thiên Chúa làm người dạy cho mỗi người chúng ta yêu mến cuộc đời, yêu mảnh đời bé nhỏ âm thầm đơn sơ của mình. Cuộc đời Ðức Giê-su không chỉ toàn màu hồng. Ngài đã phải long đong với phận nghèo, cũng ê chề vì thất bại chống đối khinh khi, bị tước đoạt đến tột cùng trên thập giá. Nhưng Ngài vững tin đến cùng vào tình yêu Chúa Cha ngay giữa lúc tối tăm nhất.
Con Thiên Chúa làm người dạy chúng ta yêu mến mọi người. Từ khi Ðức Giê-su mang lấy khuôn mặt con người thì mọi người đều mang khuôn mặt Thiên Chúa. Mọi người đều là anh em trong Ðức Giê-su. Yêu cuộc đời và yêu mọi người là thắp lên ngọn lửa Ðức Tin để sưởi ấm cho xã hội đang mất dần niềm tin vào Thiên Chúa vào con người.
Chính Ðức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 trong Thông Ðiệp Ðấng Cứu Chuộc Con Người đã mạnh mẽ nói rằng: Con người là con đường của Giáo Hội. Con người là đối tượng phục vụ của Giáo Hội.
Xin Mẹ Maria giúp chúng con yêu mến con người và yêu mến cuộc đời.
18. Được truyền tin để truyền tin
(www.tonggiaophanhanoi.org)
Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.” (Lc 1,26-27)
Suy niệm: "Tin” mà thiên sứ Gáprien "truyền” cho đức trinh nữ Maria chính là chương trình của Thiên Chúa để cứu độ con người. "Tin” ấy Thiên Chúa "đã nhiều lần nhiều cách”truyền dạy qua các ngôn sứ (x. Dt 1,1) mà giờ đây được hiện thân qua chính Người Con nhập thể trong lòng trinh nữ Maria. Đức Maria đã cộng tác bằng việc đón nhận "tin”này với niềm vâng phục của đức tin (x. GLHTCG, 148).
"Được truyền tin”rồi, Mẹ lại tiếp tục "truyền tin”mà Mẹ đã nhận bằng cách ban tặng Đức Giêsu Đấng Cứu Thế cho nhân loại chúng ta, như Mẹ đã nói: "Người bảo gì, anh em cứ làm theo” (Ga 2,5).
Mời Bạn: Xã hội hôm nay tràn ngập thông tin: tin lành, tin dữ, tin vui không vui, tin thật, tin giả.... Muốn hay không, chúng ta đều "bị”nghe hoặc "được”nghe". Để khỏi là nạn nhân của sự bùng nổ thông tin ấy, chúng ta phải: - biết sàng lọc thông tin và phân định để nhận ra tin lành đến từ Thiên Chúa; - và trở thành tác nhân truyền tin lành của Ngài đến với tha nhân.
Chia sẻ: Bạn đã dùng các phương tiện truyền thông hiện đại để loan truyền Tin Mừng cho tha nhân chưa?
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày bạn thực hiện sứ mạng "truyền tin”bằng một lời nói hoặc hành động để chuyển thông tin lành của Chúa đến cho tha nhân.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con luôn nhận ra mình "được truyền tin”để biết sống "truyền tin”như Đức Maria. Amen.
19. Chúng ta có để cho Thiên Chúa "truyền tin”cho mình không?--Lm Lê Quang Uy, Cssr
Trước tiên, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy cô thiếu nữ Ma-ri-a không hề ngu ngơ khờ dại, nhắm mắt vâng lời một cách thiếu suy xét. Cô đã có một phản ứng tức thì khi nghe thiên sứ báo tin cô sẽ thụ thai, cô ngỡ ngàng thắc mắc: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!"
Xin lưu ý là: cô Ma-ri-a đã phản ứng ngỡ ngàng, chứ không phải là phản đối, phản kháng. Cô chỉ băn khoăn thắc mắc rằng: bằng cách nào mà Ngôi Hai Thiên Chúa sẽ nhập thể làm người, sẽ đầu thai để trở thành một bé trai sinh ra từ cung lòng mình? Lý do thắc mắc ngỡ ngàng của cô thật quá rõ ràng: cô chỉ mới đính hôn với ông Giu-se cơ mà?
Thiên sứ liền trấn an cô: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà". Thiên sứ còn quả quyết: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được".
Đến đây thì cô Ma-ri-a đã vui mừng và mạnh dạn thốt lên lời Xin Vâng tuyệt vời: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói".
Trong phút chốc, cô Ma-ri-a trở thành Mẹ của Đức Giê-su Ngôi Hai Thiên Chúa. Tất cả chỉ nhờ một lời ngắn gọn, một thái độ vâng phục chan chứa lòng Tin Cậy Mến. Có thể nói, Mẹ đã để cho Thiên Chúa hoàn toàn quyết định hướng đi cuộc đời Mẹ, hầu Mẹ được cộng tác với Thiên Chúa trong kế hoạ
Lời Xin Vâng của Mẹ trở thành một mẫu mực tuân phục Thiên Chúa cho chúng ta noi theo. Nói mạnh hơn, lời Xin Vâng ấy là một lời chất vấn, một thách đố hùng hồn trước thảm kịch bất tuân phục Thiên Chúa của con người trong thời đại của chúng ta.
Tự do ly dị, phá thai vô tội vạ, cướp bóc bạo lực, đua xe bạt mạng, nghiện ngập xì-ke ma túy, buôn gian bán lận, ăn chơi trác táng, cha mẹ độc đoán hoặc ghẻ lạnh với con cái, con cái nhục mạ hoặc thờ ơ bỏ rơi cha mẹ, học trò đánh đập thầy cô, vợ chồng xô sát với nhau và chiến tranh khủng bố bạo tàn khắp nơi trên thế giới... Hình như con người quá kiêu hãnh về mình, muốn gạt bỏ Ý Thiên Chúa để tự quyết lấy đời mình! Phần chúng ta thì sao? Chúng ta được gọi là Ki-tô hữu, tức là chúng ta thuộc về Đức Ki-tô, là môn đệ của Thầy Giê-su chí thánh, đã và luôn tin cậy phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Vậy chúng ta có mở ngỏ cuộc đời mình cho ý định yêu thương của Thiên Chúa không?
Chúng ta có bao giờ nghĩ rằng chính mình cũng đang được mời gọi: Hãy để cho Thiên Chúa "truyền tin”cho mình ngay giữa cái thế giới hôm nay đang bùng nổ về thông tin. Và Thiên Chúa sẽ gửi đến cho chúng ta một bản tin như thế nào? Phải chăng đó chính là "Tin Mừng", "Tin Vui", "Tin Lành", "Tin Tốt Đẹp", "Tin Bình An", "Tin Hy Vọng”cho mảnh đời đã có quá nhiều "tin buồn, quá nhiều "tin... tức”của chúng ta? Và một khi nhận được một "Tin Mừng”như thế, chúng ta có sẵn sàng mau mắn thưa Xin Vâng trước mọi biến cố, nhất là những nghịch cảnh trong cuộc sống hôm nay được lồng vào trong, được ẩn dấu trong một nội dung Tin Mừng kỳ diệu của Sự Sống Yêu Thương chăng?
Chúng ta hãy bắt chước Đức Ma-ri-a để luôn tìm đọc Lời Chúa, để nhẫn nại cầu nguyện trong niềm xác tín rằng: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được".
Có một thiếu nữ người Pháp mà tôi đã lỡ quên mất tên sau khi đọc được câu truyện sau đây trên báo Echo de Lourdes cách đây khoảng 25 năm. Cô ấy bị mắc phải căn bệnh nhũn tủy làm cho bị liệt đôi chân. Cô đã hy vọng rất nhiều khi người ta đề nghị đưa cô tới Lộ-đức để xin ơn Mẹ làm phép lạ. Khi ra về, ai cũng lắc đầu thất vọng vì thấy cô gái không được lành bệnh. Thế nhưng, chính cô thì lại hân hoan tâm sự: "Tôi không hề được Mẹ chữa lành căn bệnh thể xác, chắc là Chúa Giê-su muốn tôi được chia nỗi đau đớn thân xác với Ngài, và tôi đã thưa Xin Vâng như Mẹ... Thế nhưng, Mẹ lại đã chữa lành căn bệnh tuyệt vọng bi quan của tâm hồn tôi... Từ nay, tôi xin được làm Tông Đồ của Chúa Giê-su, Con yêu dấu của Mẹ..."
Và quả thật, cô gái đã trở thành một Tông Đồ nằm trên giường bệnh của những người cũng đang đau khổ bất hạnh như cô đã từng đau khổ bất hạnh. Cô đã viết thư gửi đi để khích lệ niềm hy vọng của những em bé mồ côi, của những người già cô đơn trong Viện Dưỡng Lão, của những thiếu nữ lỡ lầm đang định phá thai, của những người khuyết tật khốn khổ...
Cho đến khi bị liệt cả hai tay, cô đọc người ta viết. Khi không nói được nữa, người ta soạn các lá thư rồi đọc lên cho cô nghe và gật đầu hoặc chớp mắt đồng ý. Và sau khi cô chết, người ta lấy những lá thư đã sao chép và lưu trữ để in thành hàng vạn lá thư khác...
Mới đây, khi tôi được đến giúp Tĩnh Tâm 3 ngày Mùa Chay cho Giáo Xứ Tử-đình ở Gò-vấp, tôi lại gặp được một bạn trẻ cũng bị căn bệnh Nhũn Tủy giống như cô gái nói trên. Đó là bạn sinh viên năm thứ hai Đại Học khoa Tin Học tên là Phạm Ngọc Quỳnh. Tôi đã mời cả gia đình Quỳnh cùng tôi cầu nguyện ngay bên giường bệnh của bạn ấy...
Và tôi đã nhìn vào đôi mắt bừng sáng đầy nghị lực quả cảm của bạn ấy. Và tôi đang cầu nguyện thật lòng xin Thánh Ý Thiên Chúa tỏ bày, để một hôm nào đó tôi sẽ mạnh dạn ngỏ lời đề nghị với bạn Quỳnh cũng chọn công việc Tông Đồ khiêm tốn mà hiệu quả tuyệt vời như cô gái người Pháp đã làm.
Nếu được, xin các bạn trẻ, đặc biệt là các bạn sinh viên hãy đến thăm bạn Quỳnh ở số nhà 2/16 đường Thống Nhất, tổ 75, phường 15, quận Gò-vấp, hoặc điện thoại số 9.961.554. Tôi hy vọng, cả tôi lẫn các bạn có thể sẽ là những "sứ giả", những "thiên thần”được Thiên Chúa gửi đến cho Quỳnh và cho biết bao nhiêu bạn trẻ khác, cho biết bao nhiêu con người khốn khổ bất hạnh khác đang sống quanh chúng ta, ngay bên cạnh chúng ta...
Thế đấy, mỗi ngày, mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời chúng ta đều như văng vẳng một lời "Truyền Tin”của Thiên Chúa thông qua một "sứ giả", một "thiên thần”nào đó ngay bên chúng ta. Có thể đó sẽ là một lời mời gọi chúng ta hãy cộng tác với một chương trình mầu nhiệm hoặc một kế hoạch kỳ diệu nào đó của Thiên Chúa như đã từng xảy đến cho Đức Ma-ri-a. Chúng ta chỉ cần khiêm tốn thưa Xin Vâng với Thiên Chúa. Còn mọi sự sau đó, hãy cứ tin rằng: "Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được".
Được như vậy, thật sự chúng ta sẽ là những người có phúc, xứng đáng được chào bằng lời chào ngày xưa thiên thần đã kính chào đức Ma-ri-a: "Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà".
20. Xin Vâng--Logos năm B
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, khi được tấn phong giám mục, lúc bấy giờ còn mang tên là Roncalli, ngài đã lấy khẩu hiệu: “Vâng Phục và Bình An”.
Ngài kể lại sở dĩ ngài chọn khẩu hiệu đó vì khi còn là học sinh, chiều nào ngài cũng thấy Hồng Y Daronius già cả đi qua công trường thánh Phêrô. Mỗi lần như thế, vị hồng y ấy đều lấy một ít tiền tặng cho những người nghèo đang ở đó. Sau đó, ngài vào đền thờ thánh Phêrô, đến ngay trước tượng thánh Phêrô và hôn chân ngài, rồi đọc lớn tiếng: “Vâng Phục và Bình An”. Đọc xong, vị Hồng Y khả kính đến quỳ gối cầu nguyện trước mồ thánh Phêrô, tỏ lòng cung kính, vâng phục và trung thành với Hội Thánh rồi ra về.
Hình ảnh cao đẹp và lời nói đanh thép ấy đã in sâu vào lòng Đức Roncalli, nên ngài đã chọn câu ấy làm tâm niệm và đã thực hiện trong suốt cuộc đời.
Khi chọn”Vâng Phục và Bình An”là tâm niệm của cuộc đời một vị giám mục, một vị giáo hoàng, các ngài đã noi theo lời tâm niệm”xin vâng”của Mẹ và hơn thế nữa, là con đường sống của Mẹ Maria. Lời”Xin vâng”là một lời quyết định để Mẹ Maria được cất nhắc lên một địa vị cao sang: Mẹ Thiên Chúa. Lời”xin vâng”đã làm thay đổi tất cả cuộc đời Mẹ và là yếu tố quyết định của chương trình cứu độ.
Hôm nay, trong bài Tin Mừng theo thánh Luca, sứ thần Gabriel đã được sai đến để báo tin vui cho Mẹ Maria: Mẹ sẽ trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Đứng trước một biến cố quá bất ngờ, một sứ mệnh quá lớn lao, Mẹ Maria bối rối và xao xuyến trong lòng. Sứ thần Gabriel đã giải thích để Mẹ Maria thấu hiểu chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Sau khi nghe sứ thần giải thích, Mẹ Maria đã thưa lời xin vâng: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền”.
Lời”xin vâng”của Mẹ Maria
Lời xin vâng của Mẹ Maria chính là khởi đầu cho Mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc. Thật vậy, Chúa Giêsu không đến trần gian như một thiên thần, hay như một vị thần siêu việt. Và Chúa cũng không muốn cứu chuộc trần gian mà không đổ một giọt máu nào. Trái lại, Chúa đã xuống thế làm người để cứu chuộc loài người. Chúa thực sự là người như mọi người chúng ta. Chúa đã tiếp nhận bản tính nhân loại nơi cung lòng Mẹ Maria.
Lời”xin vâng”của Mẹ Maria cũng là khởi đầu cho địa vị cao cả của Mẹ: đó là được trở thành Mẹ Thiên Chúa. Lời”xin vâng”cũng gắn liền với những ân huệ khác của Mẹ: trọn đời đồng trinh, vô nhiễm nguyên tội, hồn xác về trời.
Như thế, nhờ lời”xin vâng”, Mẹ Maria thực sự”có phúc hơn mọi người nữ”. Lời”xin vâng”đã mang đến một”Tin Mừng”lớn lao cho toàn thể nhân loại. Và đặc biệt là cho mỗi người chúng ta: qua lời”xin vâng”, không những Mẹ Maria trở thành Mẹ Thiên Chúa, mà Mẹ còn là Mẹ của Giáo Hội, Mẹ của mọi người chúng ta. Chính lời”xin vâng”đã làm nên tình mẫu tử thiêng liêng giữa Mẹ Maria và nhân loại. Lời”xin vâng”như nhịp cầu đưa chúng ta bước vào cung lòng hiền mẫu của Mẹ Maria.
Lời”xin vâng”của người tín hữu hôm nay
Mẹ Maria đã cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Sau lời”xin vâng”, Mẹ Maria đã phó thác tất cả đời mình trong bàn tay từ ái của Thiên Chúa, để Người toàn quyền định đoạt số phận của mình. Mẹ Maria chỉ còn biết vâng theo ý Chúa hoàn toàn.
Mẹ Maria cũng là người như chúng ta. Mẹ cũng có những ước vọng riêng mong đạt tới. Mẹ cũng có những chương trình cá nhân cần hoàn thành. Nhưng đứng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, Mẹ đã từ bỏ chính mình để đáp lại bằng lời”xin vâng”. Mẹ đã sẵn sàng từ bỏ con đường riêng của mình để đi vào con đường Thiên Chúa sắp đặt. Đó chính là nét đẹp tuyệt vời của hai chữ”xin vâng”.
Hôm nay, Chúa vẫn đang cần những lời”xin vâng”của chúng ta, đang cần sự cộng tác của chúng ta để tiếp tục những gì Ngài làm còn dang dở. Ngài muốn dùng chúng ta như những khí cụ trong bàn tay Ngài. Chúa vẫn muốn nhìn bằng đôi mắt của ta, yêu thương bằng trái tim của ta, làm việc bằng đôi tay của ta và bước đi bằng đôi chân của ta.
Trong ngày lễ Truyền Tin, hơn bao giờ hết, chúng ta hãy nhìn lên Thánh Giá Chúa Giêsu để chiêm ngưỡng lời”xin vâng”tuyệt hảo của Ngài. Là một vị Thiên Chúa cao cả, nhưng Ngài đã không đòi cho được ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Ngài đã hủy bỏ mình ra không, đã hạ mình vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá (Phil 2, 6-8).
Bài đọc II, trích thư gửi tín hữu Do Thái, cũng nhắc đến sự vâng phục của Chúa Giêsu trước thánh ý Chúa Cha. Cũng thế, cả cuộc đời Chúa Giêsu chính là một lời”xin vâng”kéo dài: từ hang đá Bêlem đến đỉnh Núi Sọ, Chúa Giêsu luôn thi hành thánh ý Cha trong mọi giây phút của cuộc đời. Ngài chấp nhận uống chén đắng hơn là khước từ ý Cha.
Chớ gì lời”xin vâng”của Mẹ Maria sẽ dẫn đưa chúng ta đến lời”xin vâng”của Chúa Giêsu, và từ đó giúp ta cũng bắt chước các Ngài để luôn thưa lời”xin vâng”trong cuộc sống hằng ngày, thay cho những lần chúng ta”nói không”trước Thiên Chúa và anh em mình.
Ngày 08/7/1903, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII từ trần. Đức Hồng Y Sartô phải đi vay tiền mua vé xe lửa về Rôma họp mật nghị bầu Giáo Hoàng. Kết quả cuộc bầu cử: Đức Hồng Y Sartô đắc cử Giáo Hoàng. Đức Hồng Y niên trưởng đến trước mặt Hồng Y Sartô hỏi:
– Nhân danh Thiên Chúa, chúng tôi tiến cử ngài làm Giáo Hoàng, ngài có chấp nhận không?
Sau giây phút yên lặng với giòng nước mắt tuôn trào, Đức Hồng Y Sartô nghẹn ngào trả lời:
– Ước gì con không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.
Thấy câu trả lời chưa rõ, Đức Hồng Y niên trưởng hỏi lại lần nữa. Lúc bấy giờ ngài đã trả lời:
– Con xin nhận như một thánh giá Chúa trao phó.
Qua lời”xin vâng”đầy nước mắt ấy, Đức Giáo Hoàng Piô X chính thức nhận sứ vụ Thánh Phêrô và đã trở thành một vị thánh Giáo Hoàng, đem đến cho Giáo Hội biết bao sự đổi mới, canh tân.
Mỗi ngày, khi đọc kinh Truyền Tin, chúng ta lặp lại lời”xin vâng”của Mẹ Maria. Chính lời kinh ấy luôn nhắc nhở chúng ta cũng hãy noi theo Mẹ Maria để luôn vâng theo ý Chúa trong mọi trạng huống cuộc đời. Con đường”xin vâng”là con đường ngắn nhất giúp ta đạt tới sự trọn lành và nhờ vậy, đạt được hạnh phúc Nước Trời mai sau.
21. Xin Vâng--Lm. Phêrô Trần Thanh Sơn
Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta họp nhau nơi đây để cử hành trọng thể lễ Truyền Tin. Trước đây, vào thời Trung cổ và Cận đại, vì lòng yêu mến Đức Maria, người ta nhấn mạnh đến việc Truyền Tin cho Đức Maria, và cho rằng lễ này là lễ trọng về Đức Maria. Đây là một sự lầm lẫn làm biến dạng ý nghĩa ban đầu của ngày lễ. Chính vì thế, phụng vụ canh tân sau Công đồng Vatican 2 đã quay trở lại ý nghĩa nguyên thuỷ của ngày lễ, đó là ngày lễ được Giáo Hội lập ra để kính nhớ một trong ba mầu nhiệm chính trong đạo Công giáo chúng ta, mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa như câu xướng trước Phúc Âm nói rõ: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể và Người đã cư ngụ giữa chúng ta”.
Nếu như mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi dạy cho chúng ta bài học về sự hiệp nhất trong tình yêu, và mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô ghi khắc vào tâm trí chúng ta hình ảnh sống động về một tình yêu tự hiến, thì mầu nhiệm Nhập Thể hôm nay là một mẫu gương cho chúng ta về sự vâng phục.
Sự vâng phục của Đức Kitô:
Trước hết, đó là sự vâng phục của Đức Kitô. Đây là một sự vâng phục căn bản và nền tảng để nhờ đó công trình cứu độ được khởi đầu. Sự vâng phục này đã được thánh Phaolô tóm tắt rất hay trong một ca vãn gởi tín hữu thành Philip: “Ngài, phận là phận của một vì Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không nghĩ phải giằng cho được chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa… Ngài đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết, và là cái chết thập giá!” (Pl 2, 6-8). Như thế, người con mà Đức Maria sắp sinh ra không những là con của Mẹ trong tư cách là một con người, nhưng còn là Con Thiên Chúa như lời thiên sứ truyền tin: “Đấng Bà sẽ sinh ra là Đấng Thánh và được gọi là Con Đấng Tối Cao”. Hay nói theo cách nói của phụng vụ qua các lời nguyện trong Thánh lễ hôm nay, thì người con đó vừa là”Thiên Chúa thật và là người thật”. Như thế, việc Nhập Thể của Ngôi Hai là kết quả một sự vâng phục hoàn toàn của Chúa Con đối với Thánh ý Chúa Cha.
Đây không phải là một sự vâng phục miễn cưỡng nhưng là một sự vâng phục hoàn toàn trong tự do như lời tác giả thư Do thái chúng ta vừa nghe: “Khi đến trong thế gian, Chúa Giêsu phán: “Lạy Chúa, này tôi đến để thi hành thánh ý Chúa”. Chính Chúa Giêsu trong cuộc đối thoại với các môn đệ tại bờ giếng Giacóp cũng đã tuyên bố: “Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta” (Ga 4, 34). Và tác giả thư Do thái còn khẳng định: chính nhờ sự vâng phục này, Đức Kitô trở thành một của lễ có giá trị tuyệt đối đến muôn đời trước mặt Thiên Chúa, tác giả viết: “nhờ việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ”. Vâng, Đức Kitô chỉ hiến dâng thân mình một lần là đủ đem lại ơn cứu độ cho muôn người thuộc mọi thời đại, bởi lẽ”của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiệu và của lễ đền tội, Chúa không muốn, cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật”.
Sự vâng phục của Đức Maria:
Kế đến là sự vâng phục của Đức Maria. Thật vậy, dù trọng tâm của ngày lễ hôm nay là việc Nhập Thể của Ngôi Hai, chúng ta cũng không thể không nói đến sự cộng tác tích cực của Đức Maria. Mẹ chính là”thiếu nữ Sion”, là”người trinh nữ”, người được Thiên Chúa tuyển chọn từ muôn thuở để làm Mẹ Con Thiên Chúa. Điều này được thánh sử Luca diễn tả cách khéo léo qua lời chào của sứ thần: ‘Kính chào Bà đầy ơn phước”. Bởi vì, theo bình thường, đúng ra sứ thần phải chào: “Kính chào bà Maria”, nhưng ở đây, tên Maria đã được thay bằng”đầy ơn phước”. Như thế, Mẹ đã được đổi tên, mà việc đổi tên trong Thánh Kinh là dấu chỉ cho thấy một người được Thiên Chúa tuyển chọn cách đặc biệt để làm công việc của Ngài. Hơn nữa ở đây, sứ thần còn thêm: “Thiên Chúa ở cùng Bà”. Mẹ được đầy ơn phước, vì luôn có Chúa ở cùng. Mẹ là”thiếu nữ Sion”được Thiên Chúa tuyển chọn thay thế cho dân cũ là Israel để sinh ra Đấng Messia, khởi đầu cho một dân mới là Giáo Hội.
Mặc dù được Thiên Chúa ưu ái tuyển chọn từ đời đời, nhưng qua việc gởi sứ thần đến báo tin, cho thấy Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của Mẹ. Ngài chờ đợi nơi Mẹ một lời đáp trả trong tự do. Và Thiên Chúa đã không uổng công chờ đợi. Sau khi nghe lời giải thích của sứ thần: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Đấng Bà sinh ra, sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa”, mặc dù chưa hiểu hết Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, nhưng trong niềm tin, Mẹ đã cất lời thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần Chúa truyền”. Mẹ đã thưa hai tiếng”Xin vâng”trong tư cách của một con người tự do. Và với lời thưa”xin vâng”này, Mẹ Maria đã gắn chặt cuộc đời mình với Con Thiên Chúa qua việc thụ thai. Mẹ xứng đáng với tước hiệu là”Đấng hiệp công cứu chuộc”.
Tóm lại, nhờ sự vâng phục của Ngôi Hai Thiên Chúa và Mẹ Maria, việc Nhập Thể đã được thực hiện. Con Thiên Chúa đã mặc lấy bản tính nhân loại, ở cùng nhân loại, để nhờ đó, con người được thông phần vào bản tính Thiên Chúa như lời chúng ta kêu xin trong lời nguyện nhập lễ: “Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho Ngôi Lời của Chúa mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Trinh Nữ Maria để cứu độ loài người… Xin cho chúng con cũng được thông phần bản tính Thiên Chúa của Người”. Như thế, với mầu nhiệm Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn tất lời hứa cách đó hơn 700 năm mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc một được trích từ sách ngôn sứ Isaia: “Này một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Và chúng ta hôm nay:
Lắng nghe lời Chúa trong ngày mừng kính mầu nhiệm Nhập Thể hôm nay, mời gọi từng người chúng ta cũng biết sống tinh thần vâng phục như Đức Giêsu và Mẹ Maria đã sống khi xưa. Hai chữ”Xin vâng”mới nghe qua thật dễ, nhưng thực hiện lại không dễ chút nào. Nó đòi hỏi từng người chúng ta phải bỏ ý riêng, nghĩa là, từ bỏ chính con người mình,để thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Mặt khác, con người thời nay cũng thường bị dị ứng khi nói đến hai chữ”vâng phục”. Bởi lẽ, chúng ta thường nghĩ rằng, vâng phục làm mất tự do. Nhưng thực ra, chính khi vượt thắng những đam mê tội lỗi, và những dục vọng của bản thân, để sống vâng phục theo Thánh Ý Chúa, chúng ta mới thực sự là người tự do. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo số 1731, 1733 khẳng định: “Tự do đạt tới mức hoàn hảo khi quy hướng về Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc của chúng ta. Chỉ có tự do đích thực khi con người phục vụ cho điều thiện và công bằng. Khi bất tuân ý Chúa và chọn điều ác, con người lạm dụng tự do và trở nên”nô lệ tội lỗi”“ (SGL. 1733) (x. Ga 8, 34).
Đối tượng đầu tiên chúng ta cần vâng phục đó là Thiên Chúa. Chúng ta hãy can đảm tuân giữ các giới răn của Người, nhất là giới răn bác ái. Chúng ta hãy tuân giữ các giới răn không phải như một người nô lệ, nhưng như một phương thế để biểu lộ tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa. Kế đó, chúng ta hãy vâng phục cha mẹ, và những người hướng dẫn mình trong chân lý, để làm được việc đó, mỗi người chúng ta cần bỏ đi những tự ái, kiêu căng và cả những mặc cảm tự ti. Nhờ đó, tâm hồn chúng ta xứng đáng đón Con Thiên Chúa trong bí tích Thánh Thể nhờ việc hiệp lễ. Rồi khi trở về nhà, chúng ta hãy can đảm sống những gì Chúa đã dạy bằng cách sống yêu thương nhau như Chúa đã yêu. Sống được như vậy, chúng ta đã cùng với Mẹ Maria góp phần làm cho mầu nhiệm Nhập Thể được tiếp tục kéo dài và trở nên hiện thực trong đời sống hàng ngày. Amen.
22. Đức tin bé nhỏ đặt vào Thiên Chúa lớn lao--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
Câu chuyện
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa đó ít dặm, nghe nói thế thì tìm đến, và hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm, hạnh phúc. Bà hỏi: “Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?”.”Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao”.
Câu hỏi của người phụ nữ giống như lời của bà Êlisabéth ca tụng Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
Suy niệm
Theo Kinh Thánh, trinh nữ Maria đã đính hôn cùng thánh Giuse và hai người đã quyết tâm sống tận hiến cho Thiên Chúa. Cùng hòa chung với toàn dân, Maria cũng luôn khao khát và hằng trông đợi Đấng Cứu Thế đến với Dân Người.
Bỗng nhiên, Maria đón một vị khách lạ đến, vị khách đó chính là Sứ thần Gabriel mang một sứ điệp từ trời cao làm thay đổi cả cuộc đời Maria: Nàng được Thiên Chúa chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế. Giữa những bối rối của bản thân: Quyết tâm tận hiến cho Thiên Chúa như ước mơ cuộc đời hay trở nên một người mẹ theo thánh ý của Thiên Chúa? Maria đã đặt đời mình trong niềm tin và vâng phục hoàn toàn vào Thiên Chúa.
Dù chưa sáng tỏ sự việc nhưng Maria vẫn tín thác xin vâng: “…tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Sự vâng phục trọn vẹn trong đức tin của Maria là một thái độ sẵn sàng chờ đợi Đấng Cứu Thế. Sự vâng phục như tỏ lộ ý chí của Maria: “Điều gì Chúa nói, tôi tin và tôi luôn xin vâng”. Tin và tuân theo thánh ý của Thiên Chúa, Maria học biết trước tinh thần của Đức Cứu Thế muốn nơi dương gian mà Ngài đã thực hiện”Xin ý Cha được thực hiện” (Mt 26,39).
Chính thái độ hoàn toàn vâng phục trong đức tin là tâm tình chờ đón Chúa đến mà Maria đã biểu lộ trong suốt cuộc đời của một người trinh nữ tận hiến gặp gỡ thiên ý và trở nên người Mẹ Đấng Cứu Thế luôn tin và vâng phục.
Tâm tình và thái độ khiêm nhu trước Thiên Chúa của Mẹ, đốt lên ngọn nến để chờ đợi sẵn sàng đón Chúa. Ngọn nến soi tỏ chúng ta sống tâm tình tin và vâng phục: Bản ngã và cuộc sống của mình tan hoàn toàn trong thánh ý Thiên Chúa.
Sống tâm tình chờ đợi là sống trong ánh sáng của niềm tin. Tin làm cho cuộc đời có ý nghĩa. Không có niềm tin cuộc đời như một đêm tối không ánh sao. Tin sẽ mang đến niềm vui. Tin là sức mạnh cho cuộc đời tinh thần hăng hái và niềm hy vọng như Maria vui tươi hy vọng vào Thiên Chúa biểu lộ qua bài ca Magnificat và tinh thần phục vụ (x. Lc 1,39-56).
Ý lực sống: ‘‘Này con xin đến để thực thi ý Chúa”.(Dt 10,7)
23. Sự khiêm nhường của Thiên Chúa--PM Cao Huy Hoàng
Thiên Chúa không chấp nhận Satan, và Satan luôn chống lại Thiên Chúa, vì Satan cực kỳ kiêu căng, còn Thiên Chúa tuyệt đối khiêm nhường.
Tình yêu và đức khiêm nhường là sự thánh thiện hằng hữu của Thiên Chúa toàn năng, toàn ái, giàu có, chí thánh.
Biến cố Truyền Tin cho thấy tình yêu và lòng khiêm nhường vô cùng sâu thẳm của Thiên Chúa.
Thiên Chúa Cha, Đấng toàn năng dựng nên trời đất muôn vật, mà bằng lòng cúi mình xuống để”hỏi ý kiến”của một cô thôn nữ về việc có chấp nhận cưu mang Con Thiên Chúa làm người không. Với quyền năng của Ngài, chỉ cần Ngài phán một lời là xong đấy chứ! Nhưng không, Ngài trung thành giữ nguyên ý định ban đầu khi tạo dựng con người: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (STK 1,26). Thiên Chúa tự do, và con người giống hình ảnh Ngài cũng được Ngài tôn trọng tự do đúng mức. Thiên Chúa quyền năng có thể sai Con của Ngài xuống thế không qua lòng dạ một con người, hoặc Ngài có thể đặt ngay Con của Ngài vào cung lòng Trinh Nữ Maria, nhưng Ngài đã không làm như thế. Việc”thỉnh ý một người phàm”vẫn luôn là quan trọng đối với Ngài, vì đó là bản tính khiêm tốn và là chương trình tình yêu của Ngài.
Thánh Luca trình bày rõ: “Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a” (Lc 1, 26).
Qua lời chào của Sứ Thần Thiên Chúa – có thể nói là tiếng nói chính thức của Thiên Chúa với một cô thôn nữ quê mùa – cho thấy, Thiên Chúa còn khiêm tốn hơn nữa..”Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” (Lc 1, 28). Thiên Chúa đã khen tặng Đức Maria là người đầy ơn phúc, mặc dầu Ngài biết, ơn phúc ấy của chính Ngài thương ban, ơn phúc ấy chính là”Thiên Chúa luôn ở cùng Bà”. Việc khen tặng, chúc tụng của Thiên Chúa dành cho Đức Maria, chắc chắn phát xuất từ chương trình và lòng yêu thương chân thành của Ngài. Lời chúc tụng của Thiên Chúa chân thật, không thể nói là đầu môi chót lưỡi giả dối như những lời khen tặng của loài người. Sự chân thật ấy minh chứng cho sự khiêm tốn của Thiên Chúa. Một Thiên Chúa đáng chúc tụng, đáng tôn thờ trong khắp cả và thiên hạ lại chúc tụng một tạo vật của mình mang thân phận tơ liễu mong manh!
Cuộc hội đàm thiên địa trở nên ý vị hơn nữa, khi Thiên Chúa lắng nghe ý kiến của Đức Maria và khiêm tốn chịu khó giải thích ý định của Ngài với minh họa rõ nét, đầy sức thuyết phục:
-“Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su.32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”
-“Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”
-“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Đúng là”đối với Thiên Chúa thì không có gì là không thể làm được”. Và bằng cách khiêm tốn tự hạ rất thẳm sâu, Ngài đã làm được điều Ngài muốn nơi Mẹ Maria, là sự đồng ý để cho Con Thiên Chúa Nhập Thể.”Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.”
Mẹ Maria xin vâng để Chúa Thánh Thần thành sự ý định của Thiên Chúa. Lời xin vâng có tính trọn hảo, vì có thể nói, Mẹ Maria tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Mẹ không thể biết, và cũng không nhất thiết phải biết chuyện gì sẽ xảy đến với người con mà mình sẽ sinh ra. Một lời xin vâng khiêm tốn vì chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa, để Thiên Chúa thực hiện chương trình Ngài, xin vâng không đặt điều kiện.
Từ ấy, Chúa Con xin vâng để nhập thể theo lệnh của Chúa Cha. Lòng khiêm tốn của Thiên Chúa Cha được thực hiện nơi Chúa Con – làm thai nhi con người thật trong lòng một người nữ. Là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, nhưng phải theo kế hoạch của Cha là”làm con người thật, con người sinh bởi lòng mẹ thế gian”.
Mừng lễ Mẹ Truyền Tin, chúng ta chiêm ngắm vinh quang của Thiên Chúa. Vinh quang ấy là tình yêu và đức khiêm tốn luôn hằng hữu nơi Ngài. Sáng kiến của tình yêu cứu chuộc nơi Thiên Chúa là không kể đến sĩ diện, là từ bỏ ngôi vị, là tự hạ thẳm sâu. Tình yêu đáp lại tình yêu nơi Mẹ Maria là xin vâng tuyệt đối, là phó thác hoàn toàn.
Đức khiêm nhường của Trời và Đất gặp gỡ nhau trong ngày Truyền Tin, làm thành một cuộc hạnh ngộ cứu chuộc, khai sinh sức mạnh chiến thắng lòng kiêu căng của satan và tội lỗi.
Thiên Chúa vẫn trung thành kế hoạch cứu chuộc của Ngài. Ngài đang hỏi ý kiến bạn, hỏi ý kiến tôi về việc có bằng lòng để cho ơn cứu chuộc nhập thể. Ngài tôn trọng tự do của bạn, của tôi, nhưng vì yêu, Ngài đã khiêm tốn giải thích cặn kẻ bằng Lời Tin Mừng, bằng Lời đã hóa thành nhục thể, bằng Lời đã tự hạ thẳm sâu cho đến chết và chết trên thập giá. Ngài muốn cứu chuộc bạn, cứu chuộc tôi. Ngài vẫn kiên trì hỏi ý kiến, giải thích…
Lạy Mẹ Maria, xin nguyện giúp cho chúng con ơn khiêm nhường sâu thẳm, để chúng con nhận ra rằng: chúng con cần ơn cứu chuộc, cần Chúa Giêsu Nhập Thể trong lòng. Xin cho chúng con lòng tin yêu phó thác để có thể thưa lời Xin Vâng như Mẹ: “Nầy tôi là tôi tá Chúa. Xin hãy thành sự trong tôi, như lời Sứ Thần truyền”.
24. Đức Mẹ, mẫu gương đức tin--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thiên Chúa Nhập Thể làm người là một mầu nhiệm vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Ngôi Hai làm người để cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời. Công trình cứu độ đựơc khởi đầu cách âm thầm, giản dị tại một làng quê nghèo, với một thôn nữ bình thường chẳng mấy người biết tới.
Sứ Thần đến Nazareth và cung kính thưa với người nữ ấy rằng: “Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!" (Lc 1,28). "Ðấng đầy ơn phước" là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Ðấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu, "tình thương nhập thể của Thiên Chúa" (Thông điệp: Thiên Chúa là tình yêu, số 12).
Sau khi đã tuyển chọn và trang điểm cho người nữ ấy với muôn vẻ đẹp và ơn phước, Thiên Chúa đã sai Sứ thần Gabriel đến báo tin và thỉnh ý ngài tại làng quê Nazareth.
Sứ thần cung kính bái chào vì thấy Đức Mẹ cao trọng và trong sạch hơn các thiên thần. Tước hiệu “Bà đầy ơn phước”xác nhận lòng Đức Mẹ không có chổ dành cho tội lỗi vì luôn được đầy tràn ơn phước của Thiên Chúa. “Thiên Chúa ở cùng Bà”: Ở đâu có Thiên Chúa, ở đó bóng tối của tội lỗi không thể có mặt. Mẹ luôn sống trong ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. “Bà có phúc hơn mọi người phụ nữ”,vì Mẹ là người duy nhất không vướng mắc tội tổ tông.
Đức Mẹ được Thiên Chúa tuyển chọn, ngài đáp tiếng “xin vâng” cách tự do và từ đó Đức Mẹ trở nên thầy dạy tuyệt vời cho nhân loại.
1/ Đức Mẹ đựơc Thiên Chúa tuyển chọn.
Nếu tôi có quyền chọn người mẹ sinh ra tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn một người nữ hết sức xinh đẹp và thánh đức. Xinh đẹp đến nổi làm cho tất cả các phụ nữ khác đều phải ghen tuông sửng sốt. Thánh đức đến nổi làm cho mọi người đều phải cảm phục, ngợi khen. Ai cũng ước mong như thế.
Trong một lớp giáo lý, cô giáo hỏi các em học sinh: Em mơ ước điều gì cho mẹ của các em? Các em đua nhau trả lời:
• Em muốn cho mẹ em là người đẹp nhất trên thế giới nầy.
• Em mơ ước mẹ em có một sức khoẻ thật dồi dào.
• Em cầu mong cho mẹ em giàu sang, có thật nhiều tiền bạc.
• Em chỉ ước mong cho mẹ em là một bà mẹ hiền lành, đạo đức và nhân hậu.
Chỉ là ước mơ vì không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn. Ngài đã sinh ra bởi một người nữ được tuyển chọn. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người. Đức Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa”.
Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc mà thôi. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ân huệ nhưng không của Chúa, và cũng bởi Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Nhờ lòng khiêm nhường nên Đức Mẹ đựơc quyền năng Thiên Chúa bao phủ.
Sứ thần nói với Đức Mẹ: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế Đấng Thánh con của bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu (Xh 40,34) nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”.
Thánh Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” có ý nghĩa thâm sâu. Thánh sử so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt Hòm Giao Ước của Thiên Chúa. Luca so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với Hòm Giao Ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria, thì có “Thiên Chúa hiện diện” trong Mẹ. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt.Quyền năng Chúa Thánh Thần bao trùm, cùng với máu thịt của mình, Đức Maria đã tạo nên hình hài Đức Giêsu.Ngôi Hai mặc lấy thân xác con người nhờ máu thịt Mẹ và Ngài vẫn là Thiên Chúa được Chúa Cha sinh ra từ muôn thuở. Cả hai bài đọc giúp chúng ta hiểu thêm về mầu nhiệm ấy.
Thiên Chúa từ chối ngôi đền vật chất mà Đavit muốn xây cho Ngài; nhưng trái lại Thiên Chúa hứa cho Đavit một ngôi nhà thiên thu là dòng dõi Đavit (2 Sm 7,1-16). Lời hứa này được thực hiện nơi Đức Maria, Đấng trở nên Hòm Bia Thiên Chúa,nơi đây Con Thiên Chúa đến với loài người. Đó chính là mạc khải của mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở nay được bày tỏ ra mà Thánh Phaolô đề cập đến trong (Rm 16,25-27).
2/ Đức Mẹ đã tự do đáp tiếng “Xin vâng”.
Thiên Chúa không chọn lựa cách độc đoán. Ngài tôn trọng tự do của người đựơc chọn. Ngài sai Sứ Thần đến và muốn Đức Mẹ hoàn toàn ưng thuận theo suy nghĩ và sự tự do của mình. Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nổi muốn trở thành một con người giữa nhân loại. Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria là để Ngài sai Con Một đến giữa nhân loại, thực hiện chương trình cứu độ. Giây phút Đức Mẹ tự do đáp lời “Xin vâng” là khởi đầu bình mình ơn cứu độ cho thế nhân.
Nếu như Nguyên Tổ bị con rắn cám dỗ bằng lờinghi nan, lừa lọc dối trá, gây cuộc nổi loạn, và Adam và Evà đã sa ngã, đau khổ sự chết tràn vào thế gian; thì Sứ thần Gabriel đề nghị một sự tự do ưng thuận. Đức Maria thưa “Xin vâng”, lời ấy đã làm cho Ngôi Hai làm người. Từ đây, nhờ Đức Maria, tin tưởng và vâng phục, nhân loại được liên kết trở lại với Thiên Chúa.
Thái độ “Xin vâng” của Mẹ hoàn toàn khác với Ađam Evà trong câu chuyện vườn địa đàng. Sau khi ăn quả cấm trái lệnh Chúa, Ađam đã đổ lỗi cho Evà, Evà đổ lỗi cho con rắn. Và đó chính là thảm kịch của con người: không ai nhận lỗi, không ai chịu trách nhiệm, không ai có thiện chí nên xã hội mãi chậm tiến, nên hạnh phúc trở thành khó khăn xa vời. Mẹ Maria đã đáp “Xin vâng” không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong đời. Mẹ luôn đảm nhận trách nhiệm và chu toàn thánh ý Thiên Chúa. Mẹ Maria mãi mãi là tấm gương cho chúng ta soi trong cuộc đối thoại lắng nghe Lời Chúa và đáp trả Lời Chúa. Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể để trở nên điều có thể. Vì “cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9,23).
3/ Đức Mẹ là nhà giáo dục tài giỏi.
Thư chung HĐGM Việt Nam năm 2008, với chủ đề "Giáo dục Kitô giáo"có viết: “Thánh Cả Giuse và Đức Maria là những bậc cha mẹ gương mẫu, luôn biết đón nhận thánh ý Chúa và đem ra thực hành. Trong gia đình Nazareth mọi thành viên đều tôn trọng nhau, mong muốn cho nhau điều tốt và cùng nhau thực hiện ý của Cha trên trời. Thánh Giuse và Đức Maria là những nhà giáo dục tài giỏi đã chu toàn sứ mạng được trao phó trong sự khôn ngoan và trung tín”.(Thư HĐGMVN 2008, số 20).
Thiên Chúa đã tín nhiệm Mẹ khi để Con Một là Chúa Giêsu sinh ra và lớn lên trong gia đình Nazareth dưới sự dìu dắt và dạy dỗ của Mẹ. Như thế chúng ta có thể nói rằng Đức Maria là nhà giáo dục tài giỏi và trở thành gương mẫu cho tất cả mọi nhà giáo dục.
“Giáo Hội ước mong mỗi gia đình Kitô giáo phải là trường học đầu tiên để thông truyền, dạy dỗ và bảo dưỡng cho con cái về đời sống đức tin, đức ái, đời sống cầu nguyện, tình liên đới, vị tha, hài hòa, quảng đại, những đức tính nhân bản như khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ. Các môi trường khác như giáo xứ hay học đường chỉ tiếp tay với gia đình chứ không thể thay thế gia đình trong vấn đề giáo dục đức tin, đức ái. Cha mẹ phải là những nhà giáo dục tuyệt đối cần thiết cho sự phát triển hài hoà và bền vững của đời sống đạo đức cho mọi người trong gia đình.Gương sáng của cha mẹ và những bậc cha anh đóng vai trò quan trọng để giáo dục lương tâm cho những thế hệ nối tiếp”. (Thư HĐGMVN 2008); “Trong suốt lịch sử mấy trăm năm của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, gia đình vẫn là cái nôi thông truyền đức tin cho con cái, là trường dạy giáo lý đầu tiên cho thế hệ trẻ, là nơi đào tạo những Kitô hữu vững mạnh trong đức tin và gương mẫu trong đời sống đạo đức. Ngày nay, dù phải đối diện với nhiều lo toan trong cuộc sống, xin anh chị em cố gắng duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp này của gia đình công giáo. Hãy xây dựng gia đình mình thành ngôi nhà thờ phượng Chúa, trường dạy đức tin, và mái ấm tình thương. Đây là phương thế cụ thể và hữu hiệu nhất để anh chị em góp phần vào công cuộc Tân Phúc Âm hoá mà Chúa Giêsu đã trao phó cho Giáo Hội và từng người chúng ta”. (Thư Mục Vụ Năm Đức Tin HĐGMVN).
Thư Mục Vụ Năm Đức Tin mời gọi Dân Chúa hướng lòng về Đức Mẹ như mẫu gương Đức Tin: “Mẹ có phúc hơn mọi người nữ vì đã tin rằng Lời Chúa phán cùng Mẹ sẽ được thực hiện (x. Lc 1,42). Trong ngày Truyền Tin, Mẹ dạy chúng ta sống đức tin khiêm tốn và vâng phục: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa. Xin Chúa thực hiện nơi tôi điều thiên sứ truyền” (Lc 1,38). Bằng những bước chân vội vã lên đường thăm viếng bà Elisabeth, Mẹ thúc đẩy chúng ta sống đức tin dấn thân loan báo Tin Mừng, đem niềm vui cứu độ đến cho mọi người. Dưới chân thập giá, Mẹ nêu gương cho chúng ta về đức tin chứa chan hy vọng”.
Đức Mẹ chính là thầy dạy đức tin và lòng yêu mến. Tin và yêu giống như đôi cánh giúp cho Mẹ bay lên rất cao lên tới Thiên Chúa.Tin và yêu giống như chiếc chìa khóa có thể mở được cánh cửa khó mở nhất. Mở được cả cánh cửa Nước Trời.
Đức Maria đã hiện diện trên núi Calvariô vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh (Ga19,25) và trong nhà Tiệc Ly vào dịp lễ Ngũ Tuần (Cv1,14), chắc hẳn Mẹ cũng là một chứng nhân ưu tuyển của Chúa Kitô Phục sinh; như vậy là hoàn tất việc tham dự vào hết các giai đoạn chính yếu của mầu nhiệm Vượt qua. Ngoài ra, khi đón tiếp Đức Kitô Phục sinh, Đức Maria là dấu hiệu và điểm chỉ tiên báo cho một nhân loại đang hy vọng vào sự hoàn thành sung mãn của mình với việc kẻ chết được sống lại.
Trong mùa Phục sinh, cộng đoàn Kitô hữu khi hướng về Thân mẫu của Thiên Chúa, đã mời Người hãy vui mừng: “Lạy Nữ Vương Thiên đàng, hãy vui mừng, alleluia!”. Họ nhắc lại niềm vui của Đức Maria vì cuộc Phục sinh của Đức Giêsu, kéo dài qua lời mời gọi của thiên sứ vào lúc Truyền tin “hãy vui lên”, ngõ hầu Mẹ trở thành “nguyên nhân vui mừng” cho toàn thể nhân loại.
Hãy lắng nghe những lời giáo huấn của Đức Mẹ và hãy noi gương giáo dục của Đức Mẹ để sống tốt lành và thánh thiện hơn.
25. Đối thoại Truyền Tin-- Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thiên Sứ Gabriel truyền tin cho Đức Maria là một cuộc đối thoại. Các nhà chú giải đã chia ra ba sườn chính về thể văn mà thánh Luca sử dụng trong cuộc đối thoại của khung cảnh Truyền Tin.
– Thể văn báo tin việc sinh hạ: *Thiên sứ hiện ra – Phản ứng của người được thị kiến là sợ hãi – Lời loan báo về việc thụ thai và sinh hạ, đặt tên cho con trẻ, tương lai của con trẻ – Chất vấn: làm thế nào được? – Thiên sứ khẳng định điều loan báo với một dấu hiệu. *Ví dụ: báo tin về sự sinh ra của Isaac (St 17), Samson (Tl 13, 1-23), Samuel (1Sm 1), Gioan Tẩy Giả (Lc 1, 5-25). *Nội dung sứ điệp là loan báo về việc Thiên Chúa can thiệp lạ thường nơi một phụ nữ sinh ra một người con làm vị cứu tinh dân tộc.
– Thể văn kêu gọi vào một sứ mạng: *Thiên sứ hiện ra – Ơn gọi sứ mạng – Giải thích và dấu hiệu – Kết luận. *Ví dụ: Maisen (Xh 3, 1-12), Geđeon (Tl 6, 11-23) *Thiên sứ hiện ra trực tiếp cho người được Chúa gọi.
– Thể văn giao ước, hay lập lại giao ước Một người trung gian như Ngôn Sứ, Vua, Tư Tế trình bày ý định của Thiên Chúa và toàn dân đáp lại “Chúng tôi sẽ thực hành điều Ngài dạy” (Xh 19, 7; 24, 3-7; Er 10, 12; Nkm 5, 12).
Cả ba thể văn bổ túc cho nhau diễn tả sắc thái độc đáo có một không hai trong lịch sử qua biến cố Truyền Tin. Để thấy được sự trang trọng, độc đáo của cuộc đối thoại Truyền Tin, cần so sánh khung cảnh truyền tin của Thiên sứ Gabriel cho ông Zacaria và cho Đức Maria.
– Về địa điểm: Thiên sứ hiện ra với Zacaria ở đền thờ Giêrusalem, trung tâm tôn giáo của Israel, giữa làn khói hương nghi ngút. Với Đức Maria, Thiên sứ đến gặp Mẹ tại Nazareth, một thôn làng chẳng mấy ai biết đến (Ga1,46; 7,41). Nazareth thuộc miền đất Galilê, gần vùng dân ngoại (Is 8, 23; Mt 4,14).
– Về nhân vật: Zacaria là tư tế thuộc giòng Abia, Isave thuộc giòng Aaron. Cả hai ông bà thuộc thành phần có địa vị xã hội. Hai ông bà tuân giữ lề luật chu đáo (Lc 1, 6). Họ tượng trưng cho người công chính theo Cựu ước. Còn Maria chỉ là một thôn nữ tầm thường, một người nghèo của Giavê.
– Đi vào nội dung đối thoại thì hoàn toàn đảo ngược. Thái độ của Thiên sứ: * Với Zacaria: Thiên sứ coi mình như chủ nhà. Giọng nói Thiên sứ như ra lệnh, thị oai. Thiên sứ phạt Zacaria khi ông tỏ dấu nghi ngờ. * Với Maria: Thiên sứ là khách, đi đến nhà của Maria, một làng quê hẻo lánh. Thiên sứ tỏ vẻ kính cẩn vì nhìn thấy nơi thôn nữ mộc mạc dáng vẻ oai nghi của “Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng “
– Công trạng và ân huệ * Với Zacaria: Thiên sứ bảo rằng: Lời cầu nguyện của ông đã được Chúa chấp nhận, vợ ông sẽ thụ thai (Lc 1, 13). Như vậy tất cả đều dựa trên công trạng phúc đức của con người, đúng theo tinh thần Cựu ước. * Với Đức Maria: Tất cả đều là Ân huệ của Chúa. Thiên sứ chào Maria là “người được Thiên Chúa yêu thương chiếu cố” (Lc 1,28). Mọi sự đều là ân huệ và tình thương của Chúa.
– Kết quả: Zacaria bị quở trách vì “không chịu tin vào Lời Chúa” (Lc 1, 20). Maria được ca ngợi vì “đã tin rằng Lời Chúa sẽ thực hiện” (Lc 1, 45. 38). Isave được cưu mang Gioan “sẽ làm lớn trước mặt Chúa ” (Lc 1, 15). Maria cưu mang “Con Đấng Tối Cao ” (Lc 1, 32), “Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35).
Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Đức Maria, ta thấy rằng: công cuộc vĩ đại của Thiên Chúa là cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời được bắt đầu một cách rất âm thầm. Một cuộc đối thoại Truyền Tin tại một làng quê, giữa Thiên Sứ với một thôn nữ chẳng mấy người biết. Chúa Giêsu đã diễn tả sự khởi đầu bé nhỏ nhưng thành quả lại lớn lao qua dụ ngôn hạt cải: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (Mc 4, 31-32). Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé. Như thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ đại: “Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh “ ( 1Cr 1, 27). Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Thiên Chúa chọn những ai sống đẹp lòng Ngài. Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9, 12. 16), và cũng vì Maria đẹp lòng Thiên Chúa. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ân huệ nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận. Thiên sứ nói với Đức Maria: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế Đấng Thánh con của bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc. 1, 35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu Xh 40, 34 nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”. Việc Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” có ý nghĩa thâm sâu. Luca so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt Hòm Giao Ước của Thiên Chúa. Luca so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với Hòm Giao Ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria thì có “Thiên Chúa hiện diện ” trong Mẹ. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt. Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Đức Maria đã tự do đáp tiếng “Xin vâng “. Trong Hiến Chế Lumen Gentium số 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria: “Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để Ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại “. Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân phục của bà Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria; điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin”. Và so sánh với Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh ” và thường quả quyết rằng: “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống “. Trong Sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Lần Thứ 18 năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ rằng: Trong biến cố Truyền Tin, Đức Maria trao ban bản tính nhân loại cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là tôi tớ Chúa”. Dưới chân Thánh Giá, nơi thánh Gioan, Đức Maria đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn mình: “Hỡi bà, này là con bà”. Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể, Mẹ đã trở thành Mẹ loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, Con Mẹ. Cuộc đối thoại Truyền Tin là khoảnh khắc Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi muốn trở thành một con người giữa nhân loại. Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria là để Ngài sai Con Một đến giữa chúng ta, thực hiện chương trình cứu độ của Ngài đối với trần gian. Giây phút Mẹ tự do đáp lời “Xin vâng” là khởi đầu bình mình ơn cứu độ cho thế nhân. Mẹ Maria đã đáp “Xin vâng” không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong đời. Mẹ Maria mãi mãi là tấm gương cho chúng ta soi trong cuộc đối thoại lắng nghe Lời Chúa và đáp trả Lời Chúa. Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể để trở nên điều có thể. Vì “cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9, 23).
Ngắm thứ nhất Mùa Vui: Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai. Lời kinh mỗi người chúng ta dâng lên từ mầu nhiệm này là xin cho mình được sống khiêm nhường. Đức Maria vâng lời Chúa qua trung gian của Thiên thần. Mẹ biểu lộ nhân đức khiêm nhường tuyệt vời. Vâng phục Chúa, qua “xin vâng” như lời Thiên thần truyền. Mẹ nhận mình là một người tôi tá. Rõ ràng, trong sự vâng phục, trong tiếng xin vâng của Mẹ là một niềm trông cậy. Mẹ tin tưởng phó thác cả đời sống cho Đấng đã tuyển chọn mình.
Đức khiêm nhường là nhân đức nền tảng, từ đó mới có thể xây dựng lâu đài các nhân đức khác. Giữa lòng Mùa Chay Thánh, mừng lễ Truyền Tin, học nơi Mẹ nhân đức khiêm nhường. Mùa Chay là mùa sám hối để canh tân. Mùa Chay là mùa đổi đời, trút bỏ đi những gì là cồng kềnh, những gì là cũ kỹ, những gì là tăm tối, những gì là tội lỗi để khoác vào đời sống của mình một tấm áo mới trong niềm tin yêu Chúa. Lòng khiêm tốn, sự vâng phục của Đức Trinh Nữ Marialà mẫu gương cho chúng ta noi theo. Luôn thưa xin vâng với Chúa trong khiêm nhường của người tôi tớ, để cảm nghiệm mình được hân hạnh cộng tác với Chúa và thấy Chúa đang làm biến chuyển tâm hồn sẵn sàng cưu mang Chúa trong tâm hồn mình. Đó là niềm vui muôn thưở của người Kitô hữu hôm nay.
26. Này tôi là nữ tỳ của Chúa--Lm. G.B. Trần Văn Hào, SDB
Khi suy niệm kinh mân côi ngắm thứ nhất mùa vui, Thiên thần truyền tin cho Đức Maria, chúng ta chiêm ngắm hình ảnh người nữ tỳ của Thiên Chúa nơiMẹvà xin cho được ‘Ở khiêm nhường’. Nhưng, sự khiêm nhường nơi Đức Maria đã được Kinh thánh diễn bày như thế nào?
Maria, người được Thiên Chúa tuyển chọn.
Tin mừng Luca thuật lại biến cố truyền tin mà hôm nay Giáo hội mừng kính. Thần sứ Gabriel đến gặp Đức Maria và trao lời cầu ngỏ. Đức Maria chỉ là một cô gái quê, cư dân thành Nazareth, không học thức cao sang, không danh giá quyền quý và chẳng có một nét ưu việt nào dưới con mắt người đời. Nhưng trong chương trình của Thiên Chúa, Mẹ được tuyển chọn để trở nên Thân mẫu Đấng Cứu Thế. Điều Thiên Chúa muốn luôn khác xa với sự toan tính của con người. Các ngôn sứ thời cựu ước đã từng loan báo về việc Đấng Messia sẽ được sinh ra do một trinh nữ. Bài đọc 1 trong phụng vụ hôm nay nhắc lạicho chúng ta lời tiên báo ấy qua miệng ngôn sứ Isaia. Như vậy, Đức Maria đã được tuyển chọn không phải do tình cờ, nhưng kế hoạch ấy đã có trong chương trình của Thiên Chúa ngay từ đời đời. Mẹ được chọn không phải vì Mẹ đã đắc thủ cho mình những nhân đức trổi trang hơn hẳn các phụ nữ khác, hay do một yếu tố lịch sử nào đó tác động từ bên ngoài. Thiên Chúa đã chọn Mẹ, chỉ vì Chúa muốn như vậy, thế thôi. Ơn gọi luôn là một mầu nhiệm rất khó hiểu và dường như không thể hiểu nổi đối với đầu óc suy lý của con người. Chúa đã chọn Mẹ hoàn toàn do ý định của Ngài, và như một hệ quả tất yếu, Chúa cũng phú mặc cho mẹ những phẩm tính cao trọng, tương xứng với thiên chức ‘Mẹ Thiên Chúa’ hay ‘Mẹ Đấng Cứu thế’. Tâm hồn Mẹ được gìn giữ không bị lây nhiễm bất cứ ô nhơ nào, ngay cả tội nguyên tổ. Cung lòng của Mẹ đã trở nên như ngôi đền thờ tuyệt mỹ để Ngôi Hai Thiên Chúa đến ẩn ngự.
Sự đáp trả tự do.
Trước lời cầu ngỏ của thần sứ, Mẹ đã thưa: “Xin vâng - Fiat”. “Xin hãy thực hiện nơi tôi những điều Chúa muốn”. Mẹ hoàn toàn tự do để lựa chọn giữa việc chấp thuận hay chối từ nhưng sự từ chối đã không xảy ra. Lời thưa xin vâng của mẹ có một ý nghĩa sâu xa mà Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn vào đó như một quy chuẩn căn bản để thực hiện sự khiêm tốn nội tâm. Khiêm nhường ở đây không phải chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản như trong xã hội hiện nay người ta vẫn hay đề cao. Nền tảng của sự khiêm tốn nơi mẹ chính là sự tự hư vô hóa chính mình để cho Thiên Chúa hoàn toàn chiếm ngự. Mẹ thuộc trọn về Chúa, không còn giữ lại chút gì cho mình và đãhoàn toàn để cho Thiên Chúa điều hướng. Cha Tennyson, một nhà tu đức đã nói: “Khiêm nhường là căn rễ của mọi nhân đức, là cửa ngõ đưa dẫn đến sự hoàn thiện”. Thánh Phêrô trong thư thứ nhất của Ngài cũng đã dạy chúng ta: “Anh em hãy trang điểm mình bằng sự khiêm nhường, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo nhưng ban ơn cho ai sống khiêm nhường” (1P5,5).
Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng, Thiên Chúa đã an bài và quyết định sẵn, nên tình thế không thể đổi thay. Qủa thật, từ đời đời Thiên Chúa đã tiên liệu, nhưng nơi Mẹ, sự đáp trả vẫn được thực hiện trong tự do hoàn toàn. Thiên Chúa luôn tôn trọng sự chọn lựa tự do nơi mỗi người chúng ta. Thánh Augustinô đã từng cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con không cần có con, nhưng để cứu rỗi con, Chúa cần có con cộng tác” (Trích trong sách ‘Confessio’). Mẹ đã hoàn toàn tự nguyện cộng tác vào trong chương trình của Thiên Chúa để kế hoạch cứu chuộc được thực hiện. Vì thế, lời đáp trả của Mẹ có một giá trị tuyệt đối, vì đã khai mở chân trời ơn cứu độ, khi Mẹ bắt đầu cưu mang Đấng Messia trong cung lòng của mình. Đây là điểm nhấn của sự khiêm tốn nơi Đức Maria để mỗi khi suy niệm kinh mân côi ngắm thứ nhất mùa vui, chúng ta đi sâu vào ý nghĩa của mầu nhiệm này.
Thầy dạy đức tin.
Bà Elizabeth đã nói về Mẹ: “Phúc cho bà là người đã tin” (Lc 1,45). Mẹ đã tin như lời sứ thần nói, là không có gì màThiên Chúa không thể làm được (Lc1, 37).Khi Thần sứ cầu ngỏ,Đức Maria đã ngơ ngác hỏi lại với lýluận rất đơn sơ: “Việc đó xảy ra thế nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng”. Mẹ đặt câu hỏi vì Mẹkhông phải là một ‘Siêu Thiên Chúa’,nhưng Mẹ cũng chỉ là một thụ tạogiống chúng ta. Tuy nhiên, Mẹlà thụ tạo toàn hảovì đã đặtniềm tin trọn vẹn vào Thiên Chúa.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan 23 đã gọi Giáo hội là Mẹ và là Thầy(xem Tông thư Mater et Magistra). Những gì nói về Giáo hội cũng ám thị về Đức Maria. Mẹ đã trở nên Mẹ của Ngôi Hai và cũng là Thầy dạy đức tin cho chúng ta khi mẹ đón nhận Chúa Giêsu được tượngthai trong cung lòng mình. Lời thưa xin vâng trong biến cố truyền tin là khởi điểm của cuộc hành trình đức tin, và cuộc hành trình này đạt đến đỉnh điểm khi Mẹ đứng dưới chân Thập giá,hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu trong hy tế cứu độ. Từ khuôn mẫu nội tâm này, mẹ đã trở nên Thầy dạy đức tin cho tất cả mọitín hữu.
Học nơi Mẹ để sống hoàn thiện ơn gọi.
Sống sung mãn ơn gọi của mình là con đường duy nhất dẫn đưa chúng ta đến sự hoàn thiện. Phát nguồn từ Thiên Chúa,chúng ta được tạo thành và đi vào hiện hữu. Đồng thời, cũng chỉ duy nhất một mình Thiên Chúalà cùng đích tối hậu mà chúng ta phải vươn đạt tới. Để sống mầu nhiệm ơn gọi, trước hết chúng ta cần phải nhận ra tiếng Chúa đang mời gọi, tức là phải khám phá ra ước mơ của Thiên Chúa nơi mình. Ngài muốn tôilà ai, chứ không phải muốn tôilàm gì. Chúa đã muốn Đức Mariatrở nên Mẹ Đấng Cứu thế, còn phương cách thực hiện như thế nào, Chúa sẽ sắp xếp, chứ không phải do Mẹquyết định. Nơi chúng ta cũng vậy. Muốn khámphá và đi vào lộ trình ơn gọi, không có mẫu gương nào hoàn hảo cho bằng chính Đức Maria để chúng ta quy chiếuvào. Mẹ đã để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình và Mẹ đã hoàn toàn quy thuận thánh ý Chúa. Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, tác giả thơ Do Thái cũng gợi lại hình ảnh Đức Giêsu khi vào trần gian: “Này con đây, này con đến để thi hành thánh ý của Cha”. Đức Giêsu đã khiêm tốn vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá (Phil 2, 8). Đó cũng là sự khiêm nhường mà Đức Maria đã sao chép lại để trở nên gương mẫu cho chúng ta.
Kết luận
Thế gian như một quán trọ, và chúng ta là những lữ khách. Đường đời muôn nẻo mắcgiăng với biết bao cạm bẫy. Chỉ khi nào chúng ta biết trải lòng mình ra, khiêm tốn tìm kiếm và thực hiệnnhững gì Thiên Chúa muốn, chúng ta mới đi đúng đường và sống hoàn thiện ơn gọi của mình. Đứng trước mọi biến cố hay mọi chọn lựa, chúng ta hãy họclấy tư thế nội tâm giống như Mẹ đểluôn thưa lên: “Tôi chỉ là tôi tớ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi những gì Chúa muốn”.
27. Truyền Tin--Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp
Không biết – về tốc độ đẩy tin tức đi nhanh nhất có thể – thì – ở thời điểm này – khoa học về truyền thông đã đụng trần rồi hay chưa…
Ai nghĩ sao và có thêm những cố gắng gì hơn nữa…thì không biết, nhưng bản thân người viết…thì nghĩ như thế đấy: về mặt tốc độ tin tức…thì khó có thể nhanh hơn được nữa…Những mặt khác và những tiện dụng khác…thì không dám nói, nhưng về mặt tốc độ…thì … là như thế…
Tuy nhiên “nhanh” … chưa hẳn là “tốt”…và nhanh không có nghĩa là thoát khỏi tình trạng “vấp phải đá” và “quàng phải giây” …
Đi đâu mà vội mà vàng
Mà vấp phải đá, mà quàng phải giây (Ca dao)
Thú thật mỗi buổi sáng, cái khoái của tuổi hưu là còn có thể lướt mạng, lang thang vùng này vùng khác với trăm ngàn những mẩu chuyện vui buồn ở mọi nơi và trong mọi lúc: những việc người ta làm, những điều người ta nói, những góc khuất ở đây đó…Cả đống rác rến truyền thông được quăng lên… Người viết may mắn lắm mới vớ được đôi ba mẩu chuyện đời đáng kể để làm vốn cho những bài viết của mình… Còn lại là những thứ để mà “xóa”…thế thôi…Nhưng vẫn phải lướt…vì không có gì buồn cho bằng tuổi hưu mà không có việc chi đó để mà làm…
Đừng nói đến cầu nguyện…Không ai cầu nguyện suốt cả ngày chứ đừng nói chi đến tuần, đến tháng, đến năm…
Đừng nói đến “đọc sách”…vì cũng chẳng can đảm lắm để mà đọc ngày này qua ngày khác: nào là bệnh mắt, nào là bệnh cột sống, nào là bệnh đau đầu…
Khoái trá vẫn là chuyện lướt mạng…và khoái trá hơn nữa vẫn là chuyện còn đủ đầu óc để mà sàng, mà lọc hầu có thể gom lượm được đôi ba điều hay, điều tốt – hữu ích cho mình và có thể chia sẻ với người…
Cho nên – dù sao thì vẫn tạ ơn Thiên Chúa đã cho thế giới con người những bộ óc tìm tòi và cám ơn những sáng kiến cải thiện đời sống con người nơi những bộ óc đặc biệt – quý vị có thể là không muốn nghĩ đến Thiên Chúa, Đấng chi tiết và tỷ mỷ với hàng vạn, hàng ngàn những giây nhợ li ti trong não bộ của quý vị… để quý vị suy nghĩ, thử nghiệm…và chào hàng…Bản thân người viết…thì…vẫn hết sức khâm phục sự siêu việt của Thiên Chúa qua những công trình của con người…
Thế nhưng những người sử dụng thành quả của những bộ óc kiệt suất…thì lại quá tệ…
Cả những người có đầu óc…lẫn những cô cậu trẻ người non dạ…
Người ta nói đến thứ quyền lực thứ 4: quyền lực của truyền thông…Và khi đề cập đến quyền lực của truyền thông…thì người ta nghĩ ngay đến những “mặt trái” của thứ quyền lực này: lèo lái quần chúng cứng hay mềm theo ý mình muốn và mang lại lợi ích cho mình hay cho những người thuê mướn mình – nghĩa là ngòi bút bị bẻ cong…Bút viết thì hết thời rồi, nhưng bàn phím cũng là một thứ bút, bởi vì cũng hình thành những giòng chữ…
Lớp trẻ “tự sướng”…thì ưng chi nói nấy, nói bằng thứ ngôn ngữ mà những người ở tuổi của người viết phải mất cả giờ đoán già đoán non mới mò hết một hàng chữ viết của chúng…Và bản thân lớp trẻ “tự sướng” này cũng chẳng hiều chi về những kiểu nói, những cụm từ của thế hệ người lớn tuổi…Đã đôi ba lần người viết được yêu cầu giải thích “gấp” về những cụm từ như Hội Nhập Văn Hóa, Phúc Âm Hóa, Tân Phúc Âm Hóa, Tái Phúc Âm Hóa…để kịp đi làm bài thi…Cho thấy không mấy người trẻ hiểu gì, và không hiểu – dĩ nhiên – cũng không sống…Mong rằng các đấng bậc có trách nhiệm quan tâm hơn về phương diện này: khi người ta không hiểu được ý nghĩa của các cụm từ thì người ta cũng sẽ mù tịt về sứ điệp mà cụm từ muốn trình bày…Mà mỗi cụm từ chuyên biệt như trên – muôn rõ ràng – thì chí ít cũng ba bốn tiết học…chứ “gấp” chỉ là giải pháp vá đắp…
Đi đâu mà vội mà vàng
Mà vấp phải đá, mà quàng phải giây
Thật vậy, Thiên Chúa không bao giờ vội vàng trong công việc của Người, vì Người trân trọng con người…
Giáo Hội mừng Lễ Truyền Tin và giới thiệu với con người mô-típ truyền tin của Thiên Chúa thực hiện với con người vì ơn cứu rỗi và hạnh phúc của con người…Chúng ta thấy được gì qua sự kiện Truyền Tin này?
Thứ nhất: Thiên Chúa cực kỳ kiên nhẫn khi chuẩn bị một tin quan trọng vào bậc nhất cho con người chúng ta – một sự kiên nhẫn trải dài suốt lịc sử của Cựu Ước, không phải vì Thiên Chúa, nhưng là vì con người và để cho con người được chuẩn bị đủ hầu có thể đón nhận tin vui ấy…Đây cũng là bài học cho những người làm công việc truyền tin: không phải cho mình và vì mình, nhưng là cho người và vì người…nên phải cẩn trọng, phải kiên nhẫn…
Thứ hai: Thiên Chúa tuyệt vời trong thái độ trân trọng đối tượng được chọn để loan tin…Trong sự kiện là Đức Maria và – qua Đức Maria – là toàn thể nhân loại…Một cô bé chỉ khoảng độ trên dưới 16 tuổi, vô danh tiểu tốt trong một làng quê cũng chẳng có danh tiếng gì…Nhưng Thiên Chúa nhìn thấy con người ấy, Thiên Chúa nhận ra khuôn mặt của nhân loại nơi con người ấy: một khuôn mặt đẹp và đáng để được làm cho rạng rỡ hơn nữa…Thiên Chúa cũng muốn những người làm công tác truyền thông biết trân trọng đối tác mình nhắm tới và đưa ra những gì làm cho khuôn mặt nhân loại ngày càng rạng rỡ hơn…Bởi vì mỗi một con người là một tuyệt tác phẩm có một không hai của Tạo Hóa…Làm hư hoại đi thì quả thực là…không biết nói sao!!!
Thứ ba: người đưa tin là một “nhân vật” có uy tín và đáng tin cậy: trong sự kiện là sứ thần Ga-bri-el…Truyền tin thời @ là mạng…và trên mạng là những tin tức: thượng vàng hạ cám, thậm chí dẫy đầy những thứ bẩn thỉu trong ngôn ngữ cũng như hình ảnh, bẩn thỉu cả trong lãnh vực thông thường lẫn địa chính trị của phe nhóm, của chủ thuyết…Ông bạn lão thành “trà dư tửu hậu” với người viết một nhận định về những trùm quyền lực thế giới: bọn họ là những tay nghiện games không thua gì bọn trẻ!!! Nghĩa là cuộc thế sự được coi như một thứ “Game Show”… Không lạ gì mà chỉ thấy lửa khói và chém giết khắp mặt đất dễ thương này…Buồn da diết ở chỗ phần đa số con người bị coi như những “đối tượng” phải tiêu diệt…để có được bàn thắng!!!
Thứ tư: Thiên Chúa tuyệt đối trân trọng chọn lựa của con người đứng trước đề nghị của Người…Không có chuyện áp đặt…Không có chuyện cưỡng bức…Thông tin của con người khi được quăng lên một phương tiện truyền thông nào đó thì – nhiều hay ít – cũng có những “ý đồ” nhằm khuynh loát đám đông…Đấy không phải là đường lối của Thiên Chúa và không là cách “ truyền thông” của Người…Dĩ nhiên không có thứ truyền thông nào trong thế giới con người mà không nhắm một mục đính, nhưng truyền thông có lương tâm buộc chúng ta cố gắng khách quan tối đa để trân trọng “đối tượng” của mình…Không phải mèo khen mèo dài đuôi, nhưng phải nói thẳng là những người tin Chúa làm truyền thông tương đối có nhân văn…Phải chăng cũng là nhờ Tin Mừng Chúa…
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô – trong Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội làn thứ 50 – ngày 24/10/2016 – có nói:
“Email, tin nhắn, mạng xã hội và trò chuyện cũng có thể là những hình thức truyền thông đầy tính nhân văn. Không phải là công nghệ xác định truyền thông có xác thực hay không, mà là trái tim con người và khả năng của con người biết sử dụng một cách khôn ngoan các phương tiện sẵn có. Các mạng xã hội có thể giúp cho những mối tương quan được dễ dàng và thúc đẩy thiện ích của xã hội, nhưng chúng cũng có thể làm gia tăng sự phân cực và chia rẽ giữa các cá nhân và các nhóm. Thế giới kỹ thuật số là một quảng trường, là nơi gặp gỡ mà ở đó người ta có thể yêu thương hay gây đau thương, tham gia một cuộc thảo luận bổ ích hay ném đá nhau tàn nhẫn. Tôi cầu xin cho Năm Thánh này, khi được sống với lòng thương xót, “ giúp chúng ta cởi mở hơn trong đối thoại, để có thể hiểu biết và cảm thông nhau nhiều hơn…Mong sao Năm Thánh sẽ giải tỏa mọi thái độ khép kín và thiếu tôn trọng, cũng như loại bỏ mọi hình thức bạo lực và kỳ thị” ( Misericordiae Vultus, 23). Internet có thể giúp chúng ta trở nên những công dân tốt hơn. Việc tham gia các mạng kỹ thuật số đòi hỏi chúng ta phải có trách nhiệm đối với người thân cận của mình – dù chúng ta không nhìn thấy họ nhưng họ vẫn có thật và có một phẩm giá phải được tôn trọng…Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để sẻ chia.”
Và Ngài kết luận:
“Truyền thông – dù ở đâu và bằng cách nào – cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đấy là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao. Tôi muốn dùng từ “sự gần gũi” để nói về sức mạnh của truyền thông này. Cuộc gặp gỡ giữa truyền thông và lòng thương xót sẽ mang lại hoa trái vì nó tạo nên được sự gần gũi để chăm sóc, an ủi, chữa lành, đồng hành và chung vui với nhau. Trong một thế giới vụn vỡ, phân mảnh và phân cực, truyền thông với lòng thương xót…có nghĩa là giúp kiến tạo sự gần gũi lành mạnh, tự do và huynh đệ giữa con cái Thiên Chúa và mọi người anh chị em của chúng ta trong một gia đình nhân loại duy nhất.”
Nhân ngày lể kính sự kiện thiên sứ Ga-bri-el vâng lới Thiên Chúa đến gặp gỡ Đức Maria để thông báo và xin ý kiến Đức Maria về việc việc Thiên Chúa muốn chọn Ngài cộng tác với Thiên Chúa hầu phục hồi tình trạng nguyên tuyền cho con người qua tạo dựng mới nơi Đức Ky-tô Thương Khó – Tử Nạn – Phục Sinh, xin được chia sẻ một đôi suy nghĩ về Truyền Thông.
28. Đấng đầy ơn phúc--P. Trần Đình Phan Tiến
“Kính chào bà, đấng đầy ân phúc, Đức Chúa ở cùng bà!”. Nghe lời ấy, Đức Mẹ thật bối rối, vì trong lúc cầu nguyện, sứ thần hiện đến cùng Mẹ và thưa cùng. Thật vậy, lời chào ấy là một lời chào” trần đầy ân phúc”, bởi vì chưa có một thụ tạo nào cao quý, trọng vọng như Mẹ. Có thể nói từ cổ chí kim, vô tiền khoáng hậu, chưa có nhân vật nào được diễm phúc nhận lời chúc mừng của sứ thần như Mẹ. Vâng, chính Mẹ cũng lấy làm bối rối.Tại sao vậy, thưa quý vị? Thưa, bởi vì, “ … Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”. Nhưng, Đức Mẹ càng ngạc nhiên hơn, vì: “ tôi không biết đến việc vợ chồng”. Vâng, chúng ta thấy sự đối đáp giữa sứ thần Gapriel và Đức Maria là một sự đối đáp rất “tự nhiên “ và chân thành. Vì, không biết đến việc vợ chồng thì làm sao sinh con?! vâng, một sự đối đáp rất hiển nhiên, không một chút do dự. Nhưng, sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (c 35).
Vâng, sự đối đáp giữa sứ Thần và Đức Trinh Nữ Maria đến đây được kết thúc, vì không còn gì để trao đổi nữa, sau khi sứ thần nói tiếp: “Kìa người chị họ của Trinh Nữ, người mà thiên hạ vẫn chê cười vì không có con, mà nay đã mang thai được sáu tháng. Vì, không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được.(c 36 -37)
Vâng, bởi đâu, Đức Trinh Nữ Maria đạt được điều diễm phúc như vậy? Vâng, chúng ta suy tư về Mẹ nhé!
Thứ nhất: Đặc tính khiêm nhường thẳm sâu.
Bởi vì, Mẹ là một kiệt tác như được uốn nắn, gọt giũa, tô điểm, và trân quý nhất trong bàn tay Thiên Chúa, một thụ tạo thấp hèn, nhưng chiếm được “Thánh Ý “, nói cách khác là đẹp lòng Thiên Chúa. Đến đây chúng ta có thể hiểu được Mẹ HOÀN TOÀN không tỳ vết cả thể xác lẫm tâm hồn, Mẹ thánh khiết vẹn tuyền, mà các thánh ví như “bình pha lê” dưới ánh sáng mặt trời. tiếp đến Mẹ được Chúa Thánh Thần ban tràn ân sủng, và Ngôi Hai ngự xuống. Như vậy, cung lòng vẹn sạch không tỳ ố trước và sau khi nhận “TRUYỀN TIN “ của Mẹ thật là một “diễm phúc”, và như vậy, Giáo Hội tuyên tín Mẹ là ” ĐẤNG VÔ NHIỄM NGUYÊN TÔI” là như vậy.
Thứ Hai: Mau mắn tín trung vào Mầu Nhiệm Truyền Tin.
Do nhận được một đăc ân trọng đại là sự khiêm nhường thẳm sâu, Đức Trinh Nữ Maria như ngập tràn ân sủng bởi Trời cao. Linh hồn và thể xác của Mẹ hoàn toàn thánh thiện như pha lê trong suốt, vì vậy, Sự thánh thiện nầy, ngày nay, như người Kitô được sạch tội trọng và được rước Chúa Giêsu Thánh Thể vậy. Và từ tận sâu thẳm tâm hồn Mẹ, Mẹ đã cất lên bài ca Ngợi Khen ( Magnificat) tuyệt vời vô song.
Thứ ba: Đáp lại và cộng tác vào công trình Cứu Chuộc nhân loại của Thiên Chúa.
Vâng, Mẹ đã gánh vác trọng trách là Mẹ Đấng Cứu Chuộc, có nghĩa là Mẹ cưu mang và ôm trọn mầu nhiệm làm Người, đau khổ, Tử nạn và Phục Sinh của Con của Mẹ, đồng thời là Ngôi Hai Thiên Chúa, vì vậy, Mẹ đã được kêu mời để trở nên một “thụ tạo” tuyệt hảo, tham dự vào công cuộc “khổ hình sinh ơn cứu độ” của Đức Kitô.
Như vậy, Mẹ mang lấy cuộc đời Chúa Cứu Thế không những phần nhân tính mà còn phần siêu nhiên của Chúa Giêsu, nếu không mầu nhiệm cứu độ không hoàn tất được. Và, những nỗi khổ đau cảu Mẹ, gọi là ”sầu bi” là những đau thương bởi cuộc đời Chúa Cứu Thế, và như thế, Mẹ được gọi là: “Người Nữ Thánh Thể”.
Vâng, Mẹ được diễm phúc vì Mẹ được đi trọn cuộc hành trình cứu độ tại thế trần của Ngôi Hai Thiên Chúa. Rõ ràng, từ giây phút nhập thể, là ngày Mẹ nhận ơn truyền tin, đến hành trình Nhập Thế, và kết thúc ngày Chúa Phục Sinh. Có thể nói, mầu nhiệm Mẹ nhận được ơn Truyền Tin, mà sứ thần gọi Mẹ là “Đấng đầy ơn phúc “ không phải hiểu như thế gian, mà là đước gắn liền với mầu nhiệm Làm Người, rao giảng, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô.
Theo đó, hành trinh thiêng liêng của Đức Mẹ, ngày mà Mẹ nhận sứ vụ cưu mnag, sinh hạ Đấng Cứu Thế, ngày mà Mẹ được gọi là diễm phúc, không phải là ngày bắt đầu hưởng “ vinh hoa phú quý”., mà ngày mang lấy “trọng trách” Thập giá, và quả thật, Mầu Nhiệm thập giá nơi Mẹ thật “ âm thầm” nhưng không kém phần đau thương. Nỗi đau của một người Mẹ có một Người Con đền thay tội lỗi nhân gian là một nỗi đau “ khôn tả”, nhưng “TRÀN ĐẦY DIỄM PHÚC”.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, Cha đã ban cho loài người ơn cứu chuộc, nhưng Cha đã kêu mời những con người cách riêng như Đức Trinh Nữ Maria, thánh Cả Giuse là người cộng tác vào mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô. Xin Cha thương ban cho những ai tiếp bước Người được nhờ lời chuyển cầu của Ba Đấng mà ban ơn cứu độ cho chúng con, và cho chúng con xứng đáng bước theo Người./. Amen.
29. Đức tuân phục--Trầm Thiên Thu
Tuân phục là một nhân đức quan trọng,quý hơn cả lễ vật(1 Sm 15:22; Tv 50:8-9), và có liên quan đức tin: có tin tưởng thì mới vâng lời. Đức Mẹ là người tuyệt đối tín thác vào Thiên Chúa nên cũng tuyệt đối tuân phục Ngài. Lễ Truyền Tin nói lên điều đó. Đức tuân phụclà một trong ba lời khấn của các tu sĩ, nhân đức này phải được dựa trên nền tảng kiên cố là đức khiêm nhường.
Mùa Chay đầy gai nhọn và đinh sắc, phủ màu tím khổ đau của Đức Kitô, nhưng lại có niềm vui khởi đầu Ơn Cứu Độ: Chúa Cha trao ban Con Một cho nhân loại. Lễ Truyền Tin là Đại Hỉ Tínkhông chỉ riêng cho Đức Maria mà còn cho cả nhân loại. Nhờ sự kiện truyền tin và nhờ lời “xin vâng” của Đức Maria mà chúng ta có Đấng Em-ma-nu-en, là vị Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Mầu nhiệm thứ nhất Mùa Vui: Sứ thần truyền tin cho Đức Maria, Giáo Hội dạy chúng ta cầu xin biếtSỐNG KHIÊM NHƯỜNG.
Thật tuyệt vời, chỉ trong vòng nửa năm mà tin vui được nhân đôi: Mới trước đó là tin vui cho vợ chồng ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-da-bét (còn gọi là I-sa-ve) với tin thụ thai ngôn sứ Gioan Tẩy Giả, và nay là tin vui cho Đức Maria với tin thụ thai Đấng Cứu Thế. Tin vui lớn dần, tin vui sau lớn hơn tin vui trước. Quả thật, niềm vui ấy lan tỏa mau chóng, bao phủ khắp nơi, đầy ắp lòng người. Niềm vui như vỡ òa!
Đối với hỉ tín thứ nhất, chúng ta có Thánh ca “Chúc Tụng” (Benedictus) của ông Da-ca-ri-a (Lc 1:68-79). Đối với hỉ tín thứ nhì (nhưng lớn hơn), chúng ta có Thánh ca “Ngợi Khen” (Magnificat) của Đức Maria.
Chắc hẳn chẳng có bút sách hoặc văn lực nào có thể nói đầy đủ về Đức Maria – một Nữ Tỳ Vĩ Đại, một Kiệt Tác của Thiên Chúa, một loại kỳ hoa dị thảo đặc biệt nhất. Trí óc phàm nhân không thể nào hiểu nổi chuyện “thụ thai mà còn đồng trinh”, có so sánh như “ánh nắng chiếu qua tấm kiếng” thì cũng chỉ để hiểu được phần nào thôi. Và càng khó hiểu hơn về một thụ tạo mà lại trở thành Mẹ của Thiên Chúa, điều mà người chị họ Ê-li-da-bét đã xác nhận và reo vui: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:43). Quá đỗi nhiệm mầu và vô cùng kỳ diệu!
Từ ngàn xưa, Đức Chúa đãnóivới vua A-khát: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh” (Is 7:11). Thiên Chúa cho phép xin, nhưng ông không dám xin: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa” (Is 7:12). Đó là cách sống đức tin và khiêm nhường, tấm gương sáng ngời để mỗi chúng ta cần phải thường xuyên “soi” mình xem dung nhan linh hồn thế nào rồi.
Ngôn sứ I-sai-a đã nghiêm túc cảnh báo: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is 7:13-14).
Chắc hẳn đây cũng là lời cảnh báo với chúng ta, vì chúng ta vẫn có “máu nổi loạn” là làm phiền Thiên Chúa, khoái sự lạ, tính tò mò lớn hơn niềm tin. Đơn giản như khi đi đường, thấy có gì “khác thường” là người ta xúm lại xem rồi bàn tán rôm rả, thậm chí còn thêm đủ thứ “gia vị”. Biết bao người đã và đang là “nạn nhân” của những “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Tương tự, người ta chỉ mong được thấy “sự lạ” ở nơi này hoặc nơi kia, rỉ tai nhau rồi ùn ùn kéo nhau đi. Xong rồi thôi, chính cuộc sống của những người đó chẳng thấy có gì thay đổi tích cực về tâm linh. Như thế cũng chỉ là vô ích. Thậm chí có người còn nói thấy Chúa, thấy Mẹ, hoặc thấy “người lạ” nào đó, muốn người khác biết mình là “thị nhân” đấy!
Thế nhưng các “dấu lạ” nhãn tiền hằng ngày lại không mấy ai thực sự để ý, hoặc chúng ta cố ý làm ngơ. Có thật vậy sao? Đúng như thế!Các “dấu lạ” minh nhiên về KHÔNG KHÍ để chúng ta hít thở từng giây để có thể sống, về ÁNH SÁNG, và đặc biệt là phép lạ THÁNH THỂ hằng ngày tái diễn trên bàn thờ, chính Chúa Giêsu vẫn hiện diện sống động thực sựở giữa chúng ta, cụ thể là nơi Nhà Tạm.
Đức vâng lời là nhân đức thể hiện sự khiêm nhường. Vâng lời là lời khấn thứ nhất của các tu sĩ, sau đó mới là sống nghèo khó và khiết tịnh (có dòng còn thêm một hoặc hai lời khấn khác). Tác giả Thánh Vịnh nói: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi, con liền thưa: ‘Này con xin đến!’. Trong sách có lời chép về con rằng: con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:7-9). Điều này được thể hiện rõ nét nơi Đức Mẹ, vì Đức Mẹ cũng là người ít nói, biết được gì thì cũng “hằng ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19).Quả thật, im lặng là vàng!
Với niềm vui trong lòng, tác giả Thánh Vịnh bộc bạch: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh. Đức công chính của Ngài, con chẳng giữ riêng lòng mình biết; nhưng con đã nói lên đức trung tín và ơn cứu độ của Ngài, chẳng giấu giếm chi cùng đại hội rằng Ngài thành tín và yêu thương” (Tv 40:11). Đây cũng phải là quyết định của mỗi Kitô hữu. Hành động như vậy là hợp tác với Thiên Chúa, là loan báo Tin Mừng, là truyền bá lòng sùng kính Thánh Tâm, là truyền bá Lòng Chúa Thương Xót, là cố gắng hoàn thiện,là đem Chúa đến với người khác để họ khả dĩ nhận biết Ngài và cũng được Ngài cứu độ.
Tuy nhiên, Thánh Phaolô cũng nói: “Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10:4-7). Vì vâng lời, cậu bé Sa-mu-en đã biết chân thành thân thưa: “Người là Đức Chúa. Xin Người cứ làm điều Người cho là tốt” (1 Sm 3:18). Ước gì mỗi chúng ta cũng biết tuân phục mà cầu nguyện như vậy hằng ngày!
Đức tuân phục cứ được lặp đi lặp lại. Thánh Phaolô dẫn chứng: “Trước hết, Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10:8-10). Với tinh thần tuân phục tuyệt đối, Đức Mẹ đã mau mắn nói lời “xin vâng”, vì ý Chúa chứ không vì ý riêng. Và chính Đức Kitô cũng hoàn toàn tuân phục, dù Ngài cũng có sự giằng co của nhân tính trước khi nhận “chén đắng”.
Qua trình thuật Lc 1:26-38,Thánh sử Luca cho biết: Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”.Nghe lời ấy, Thôn nữ Mariarất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền trấn an: “Thưa Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chị đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.
E ngại là bản tính nhân loại, thế nên Đức Maria nhẹ nhàng thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Thế nhưng sứ thần quả quyết: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Chị, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Chị, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa Cô Ê-li-sa-bét, người họ hàng với Chị, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Cô ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, KHÔNG CÓ GÌ LÀ KHÔNG THỂ LÀM ĐƯỢC”.
Ôi, thật tuyệt vời! Và thế là không còn nghi ngờ vàcũng chẳng ngần ngại chi ráo trọi, Đức Maria nói ngay: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38).Một câu nói đầy ắp sự can đảm với tầm nhìn tương lại rộng lớn.Quả thật, không dễ gì mà có thể quyết định mau mắn với đại sự như vậy. Đây là động thái quan trọng, vì nhờ Đức Mẹ vui lòng “xin vâng” mà Ngôi Hai nhập thể để bắt đầu Chương Trình Cứu Độ.
Sau khi hoàn thành sứ vụ, Tổng thần Gáp-ri-en từ biệt ra đi. Và Đức Maria bắt đầu trang đời mới với trọng trách mới và đầy gian khó.Xin hết lòng tạ ơn Thiên Chúa và tạ ơn Đức Trinh Nữ Maria. Đức Mẹ là Nhà Tạm đầu tiên bởi vì Đức Mẹ là Người-mang-Thiên-Chúa (Theotókos).Thật diễm phúc cho phàm nhân chúng ta, vì mỗi khi đón nhận Thánh Thể, chúng ta cũng trở nên Nhà Tạm của Thiên Chúa Ngôi Hai. Thật vậy, Thánh Phaolô xác nhận rằng “chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống” (2 Cr 6:16).
Lạy Thiên Chúatoàn năng,xin Ngài cứ thực hiện những gì Ngài thấy tốt cho cuộc sống của con trên trần gian này, mặc dù có thể trái ý con, xin giúp con luôn biết xin vâng tuyệt đối và mau mắn. Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa, xin hướng dẫn và nâng đỡ để con vững bước theo bước Mẹ đã đi. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
30. Cám ơn Mẹ đã sinh con ra--Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Sinh ra trong cuộc đời có nhiều điều chúng ta cần phải cám ơn. Cám ơn Thượng Đế đã cho ta làm người. Cám ơn mẹ cha đã đón nhận chúng ta. Cám ơn cuộc đời đã cho ta niềm vui. Nhưng, xem ra chúng ta ít cám ơn về món quà sự sống mà Thượng Đế và mẹ cha đã ban tặng cho chúng ta. Có mấy ai đã một lần cám ơn mẹ cha đã sinh ra chúng ta?
Có một người con gọi về cho mẹ:
– Alô, Mẹ đó ạ?
– Ừ, C đó hả?
– Dạ…
– Có chuyện gì không con?
– …Dạ, không Mẹ…hôm nay sinh nhật con…
– Ờ nhỉ, Mẹ quên mất! Già rồi nên chẳng nhớ nổi ngày sinh của mấy đứa con.
– Không sao đâu Mẹ ạ. Con…con chỉ muốn nói với Mẹ rằng…hôm nay sinh nhật con, con muốn cám ơn Mẹ đã sinh ra con. Món quà sinh nhật quý giá nhất Mẹ đã tặng cho con.
Hóa ra món quà quý nhất cho ngày sinh nhật của chúng ta là tình yêu của mẹ. Mẹ đã cho chúng ta một ngày sinh nhật thật tuyệt vời bên lòng mẹ, với tiếng khóc chào đời trong niềm vui của mọi người. Mẹ đã tặng chúng ta sự sống, tình yêu, lòng quảng đại đón nhận chúng ta làm con của mẹ. Có biết bao đứa trẻ bất hạnh đã bị mẹ từ chối cho sinh ra. Có biết bao đứa trẻ ao ước được mừng một lần sinh nhật trong cuộc đời mà không có. Thế nên, ta được sinh ra, được mừng sinh nhật đầu đời là hạnh phúc to lớn mà chính mẹ tặng ban cho chúng ta.
Thế mà, chúng ta dường như chưa bao giờ cám ơn món quà của mẹ. Chúng ta cám ơn ai đó tặng ta con búp bê, cái khăn tay, cái móc khóa mà quên cám ơn mẹ đã tặng ta cả cuộc đời. Đôi khi còn đòi hỏi nơi mẹ điều này điều kia, vì tưởng rằng đó chỉ là bổn phận của mẹ phải làm cho con, mà quên rằng có biết bao bà mẹ đã từ chối đón nhận con, từ chối hy sinh cho con.
Hôm nay lễ Mẹ Maria được sứ thần truyền tin. Phúc âm ghi lại hành trình làm mẹ của Mẹ Maria thật cao cả, tuyệt vời. Mẹ đón nhận làm Mẹ của Con Chúa Trời trong sự đơn sơ khiêm tốn. Mẹ đón nhận thiên chức làm mẹ trong cái nhìn của đức tin để vượt qua mọi sợ hãi mà sinh Con Chúa Trời làm người. Nếu không có lòng quảng đại Mẹ đã khước từ gánh nặng của bóng thập giá ngay từ lúc truyền tin. Nếu không có đức tin Mẹ sẽ không đủ can đảm đón nhận thiên chức làm Mẹ vượt qua trí hiểu của con người. Mẹ Maria đã đón nhận mang trong mình một mầm sống trong niềm tín thác xin vâng.
Mẹ xin vâng dầu Mẹ chưa hiểu hết. Mẹ xin vâng dầu phải đối diện với nguy nan, vì sinh con mà không qua người đàn ông, chắc chắn theo luật Do Thái Mẹ phải chết... Thế nhưng, Mẹ vẫn tin vào quyền năng của Chúa sẽ bao phủ trên cuộc đời của Mẹ. Mẹ đón nhận tất cả với niềm tín thác nơi sự quan phòng của Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, chúng con cám ơn Mẹ đã quảng đại đảm nhận vai trò làm Mẹ với Con Chúa Trời. Chúng con cũng cám ơn Mẹ đã quảng đại tiếp tục đón nhận chúng con làm con của Mẹ. Chúng con xin dâng hồn xác chúng con trong sự che chở, gìn giữ của Mẹ. Xin Mẹ xưa đã cưu mang, gìn giữ, nuôi nấng Con Chúa Trời thì xin Mẹ cũng che chở nâng đỡ từng cuộc đời chúng con. Và xin cho các bà mẹ trên thế gian biết vượt qua nỗi sợ hãi để sinh con ra trong cuộc đời. Xin đừng vì một chút sợ hãi của đói nghèo, của bệnh tật, của danh dự mà cướp đi sự sống của các thai nhi. Xin cho các bà mẹ luôn giầu lòng quảng đại để chấp nhận mọi đứa con theo thánh ý Chúa. Amen
31. Sứ điệp vĩ đại--Trầm Thiên Thu
Sứ điệp đa dạng và nhiều mức độ. Sứ điệp có thể vui hay buồn, bình thường hoặc quan trọng, cũng có thể là sứ mệnh, trọng trách. Lễ Truyền Tin là Sứ Điệp từ Thiên Chúa trao cho Đức Maria, là tin mừng, là hỷ tín, nhưng cũng là trách nhiệm nặng nề.
Dù sợ, nhưng khi hiểu ra vấn đề, Đức Maria đã mau mắn vui vẻ chấp nhận, không so đo, không tính toán. Từ đó, Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa bắt đầu trở nên hiện thực. Và rồi Thánh sử Gioan xác nhận: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, vàNgười đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người” (Ga 1:14ab).
Trình thuật Is 7:10-14 ngắn gọn nhưng chứa một sứ điệp tuyệt vời. Ngày xưa, vua A-khát được Thiên Chúa cho phép: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”. Nhưng ông e ngại với lòng khiêm nhường, và ông trả lời: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa”. Sứ điệp này cảnh báo chúng ta “đừng đùa với lửa”, vì có những lần chúng ta đã từng thử thách Thiên Chúa mà chúng ta không biết hoặc tìm cách biện hộ cho mình.
Ông I-sai-a đưa ra một sứ điệp cho dân chúng với lối “hỏi–đáp” đơn giản: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”. Đó là lời tiên báo về Đức Maria, một thôn nữ miền Na-da-rét, được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa.
Là thục nữ và được giáo dục đạo đức của Cha Mẹ – ông Gioakim và bà Anna, nên Cô Gái Trẻ Maria không chỉ thánh thiện mà còn khiêm nhường – nhân đức nền tảng của mọi nhân đức. Thiên Chúa ưa thích tính khiêm nhường chứ không cần thứ gì khác, như Thánh Vịnh xác nhận: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đãmở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi” (Tv 40:7). Cô Gái Trẻ Maria cũng luôn “xin vâng” trong mọi sự, theo cách mà Kinh Thánh đã đề cập: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con!” (Tv 40:8-9). Cả cuộc đời Đức Maria đã sống vuông tròn theo Thánh Ý Chúa, và cuộc đời Mẹ là “lời nói” vang ngân mãi mọi thời đại: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh” (Tv 40:10).
Vì khiêm nhường mà người ta mới có thể vâng lời. Hai nhân đức này là nhân đức đối nhân, không là nhân đức đối thần, nhưng vẫn có tầm quan trọng lắm, và luôn có hệ lụy với nhau theo tính liên đới. Thánh Phaolô chứng minh và đề cập đức vâng lời: “Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10:4-7).
Thánh Phaolô tiếp tục dẫn chứng về ý muốn của Thiên Chúa Cha và đức tuân phục của Thiên Chúa Con: “Trước hết, Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễxá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới.
Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10:8-10). Tương tự, phàm nhân cũng luôn yêu quý những người biết tự nguyện, chứ không miễn cưỡng.
Chúa Giêsu là Chiên Hiến Tế Thánh, vô giá, dâng một lần nhưng có hiệu lực từ hồng hoang tới tận thế. Chúng ta chỉ là phàm nhân tội lỗi, bất xứng, nhưng nếu biết khiêm nhường thì vẫn có giá trị đối với Thiên Chúa, nhưng chúng ta phải dâng lễ tế nhiều lần, dâng lễ đền tội cho chính mình và cho người khác.
Thánh sử Luca cho biết về việc Sứ thần truyền tin cho Đức Maria. Sự kiện này chỉ được ghi lại trong Tin Mừng theo Thánh Luca (Lc 1:26-38), ba Tin Mừng kia không có. Thánh Luca cho biết: “Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, Thiên Chúa sai sứthần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria”. Rất rõ ràng các chi tiết!
Cuộc đối thoại siêu nhiên nhưng có vẻ rất tự nhiên, như một đoạn video clip, rất sống động, rất đời thường.
Sứ thần vào nhà và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Chị”. Nghe lời ấy, Đức Maria rất bối rối vì “kỳ thí mồ” đi, chả hiểu ất giáp chi ráo trọi. Lạ thế nhỉ! Nhưng Sứ thần liền nói một hơi dài: “Này Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chịđẹp lòng Thiên Chúa. Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Đức Maria vẫn thấy chưa ổn, vẫn ngại lắm, nên thưa với Sứ thần: “Mèn ơi, việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”.
Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽrợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Và để chắc cú, Sứ thần dẫn chứng cụ thể: “Này nhé, Cô Êlisabét, người họ hàng với Chị đấy, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Cô ấy vẫn bịmang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Lạy Chúa tôi, nhẹ cả mình! Hai năm rõ mười, thế là an tâm, chả lo sợ chi nữa. Bấy giờ Đức Maria liền nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳcủa Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Lời “xin vâng” này là điều quyết định rất quan trọng để rồi “chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng ta”.
Xin vâng là tuân phục Thánh Ý Chúa, dù biết rằng “vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9), nhưng chắc chắn không là điều dễ thực hiện, mà phải nỗ lực rất nhiều và phải cậy nhờ ơn Chúa.
Xin tạ ơn Thiên Chúa, vì thương xót nhân loại mà Ngài lập Kế Hoạch Cứu Độ rất kỳ diệu. Xin cảm ơn Đức Maria, nhờ lời xin vâng của Mẹ mà chúng con diễm phúc được Chúa Giêsu đến ở cùng và chia sẻ vui buồn với chúng con, đồng thời chúng con cũng được làm con cái Mẹ.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin Ngài hành động nơi chúng con theo Thánh ÝNgài, xin giúp chúng con luôn can đảm “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong lúc gian nan khốn khó. Xin Đức Mẹ nguyện giúp cầu thay và đồng hành với chúng con, giúp chúng con kiên cường sống trọn ba đức đối thần suốt cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.
32. Hai cuộc truyền tin-- Lm. Giuse Tạ duy Tuyền
Hôm nay lễ Mẹ truyền tin. Lời Chúa dẫn đưa chúng ta đến một khung cảnh thật bình dị, ấm cúng nơi mái nhà nhỏ bé miền quê Nagiaret. Nơi đó đã diễn ra một cuộc đối thoại lịch sử giữa sứ thần Chúa và cô thôn nữ Maria. Sứ thần Chúa đã viếng thăm đột ngột. Đột ngột quá nên chẳng có gì chuẩn bị từ tinh thần đến vật chất đối với cô Maria. Sứ thần thì chủ động – Maria thì bối rối. Lời sứ thần nói như đã được chuẩn bị chu đáo. Còn Maria thì phân vân, đắn đo từng lời. Sứ thần Chúa đã mang đến cho cô một thông điệp thật bất ngờ và quá cao vời. Cao vời đến nỗi cô không dám nghĩ mình được phước đức như vậy? Vì có bao giờ cô nghĩ rằng mình sẽ là Mẹ Đấng Cứu Thế? Có bao giờ phận nữ nhi thường tình như cô lại được giao trọng trách cao quý như vậy? Cô đã không dám tin điều đó. Vì cô cảm thấy mình bất xứng và bất tài. Thế nhưng, sứ thần Chúa đã trấn an cô. Cô được chọn không vì tài năng hay sắc đẹp. Cô được chọn vì cô hằng sống đẹp lòng Thiên Chúa. Từ trời cao Chúa đã nhìn thấy tấm lòng cô. Một tấm lòng thanh khiết vẹn tuyền. Một tấm lòng bao dung độ lượng. Một tấm lòng bác ái yêu thương. Nhưng tất cả những phẩm chất đó vẫn không thể giúp cô hoàn thành chương trình của Thiên Chúa. Cô phân vân và do dự. Vì phận nữ nhi yếu đuối, vì việc phu thê cô chưa bước tới. Sứ thần Chúa đã trấn an cô: “Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên cô, và quyền năng Chúa sẽ rợp bóng trên cô”. Maria với tấm lòng quảng đại và niềm tín thác sắt son đã thưa vâng để chương trình Thiên Chúa được thực hiện.
Ngược lại, trước đó sáu tháng. Cuộc đối thoại giữa sứ thần và Giacaria cũng diễn ra trong âm thầm, ấm cúng. Sứ thần Chúa cũng đề nghị với Giacaria về việc Thiên Chúa sắp làm nơi ông. Nhưng ông đòi dấu lạ. Lòng tin của ông đòi bằng chứng. Sứ thần Chúa đã để ông câm lặng, như dấu chỉ về những điều mà Thiên Chúa sắp làm cho gia đình ông.
Có thể thấy hai cuộc truyền tin nhưng hai thái độ khác nhau. Maria thì tin vào quyền năng Chúa có thể thực hiện được mọi sự. Giacaria thì hoang mang lo lắng. Maria để Chúa thực hiện theo ý định của Chúa. Giacaria đòi dấu lạ để kiểm chứng. Chính hai thái độ đón nhận sứ điệp khác nhau nên kết quả cũng khác nhau. Maria thì hết lời ngợi khen Chúa. Giacaria thì câm nín. Nhưng dầu trong cách đón nhận nào, thì Thiên Chúa vẫn thực hiện chương trình của mình trong sự cộng tác của con người.
Điểm chung của Maria và Giacaria chính là đời sống hằng đẹp lòng Thiên Chúa. Dầu ở hoàn cảnh cô thôn nữ nhà quê hay một tư tế đền thờ. Các ngài đã làm tất cả chỉ để đẹp lòng Chúa. Các ngài đã sống hết mình với bổn phận bằng tình yêu nồng nàn với Chúa và tha nhân. Cuộc sống của các ngài luôn rạng ngời biết bao hy sinh làm nên nhân đức. Các ngài đã sống đẹp giữa dòng đời đến nỗi từ trời cao Thiên Chúa luôn hài lòng về các ngài.
Phải chăng đó cũng là cách sống chung của những người con cái Chúa? Là người ky-tô hữu chúng ta phải lan tỏa hương thơm bác ái cho anh em. Là người ky-tô hữu chúng ta phải sống sao cho người khác nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa bằng chính đời sống yêu thương và phục vụ. Khi chúng ta sống hết mình vì Chúa, Chúa sẽ làm tất cả những điều tốt đẹp xuống trên cuộc đời chúng ta, như chính Ngài đã nói: “Các con hãy lo tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn các sự khác Ngài sẽ ban cho sau”. Điều đó Chúa đã thực hiện trên cuộc đời của Maria, của Giacaria. Khi các ngài sống hết mình phụng thờ Chúa, thì Chúa lại làm biết bao điều cao siêu trên cuộc đời các ngài.
Nguyện xin Mẹ Maria là Đấng hằng đẹp lòng Thiên Chúa, xin cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta biết thể hiện nhân cách làm con cái Chúa qua đời sống bác ái yêu thương, qua đời sống thanh khiết vẹn toàn như Mẹ. Amen
33. Xin vâng như Mẹ Maria--J.B Lê Đình Nam
Đối với một người phụ nữ, khoảnh khắc làm mẹ thật cao cả và thiêng liêng. Hạnh phúc biết bao trong giây phút đầu tiên cưu mang trong cung lòng đứa con của mình. Tuy nhiên hoàn cảnh làm mẹ đến với Mẹ Maria theo cách rất đặc biệt. Hành trình làm mẹ của Mẹ Maria đến trong một khung cảnh vừa kỳ lạ nhưng cũng thật đơn sơ, vừa bất ngờ nhưng lại rất thánh thiêng và sâu sắc.
Lời Chúa trong ngày lễ Truyền tin đưa chúng ta đến một viễn cảnh thật thiêng liêng trong giây phút làm mẹ của Đức Maria. Đó là một hành trình thật cao cả và tuyệt vời. Mẹ đón nhận Con Thiên Chúa trong sự khiêm hạ đơn hèn. Mẹ đón nhận thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa trong cái nhìn của đức tin để vượt qua những gian nan thử thách. Mẹ đã xin vâng trong sự tín thác để đồng hành cùng con mình đến tận hơi thở cuối cùng.
Nếu không có lòng quảng đại thì Mẹ đã khước từ đau khổ của bóng thập giá ngay từ giây phút truyền tin.
Nếu không có một đức tin mạnh mẽ thì Mẹ không thể đủ can đảm để đón nhận thiên chức làm Mẹ vượt trên hiểu biết của con người.
Nếu không tín thác trọn vẹn cuộc đời mình trong tay Thiên Chúa thì Mẹ đã không đáp lời xin vâng trước biến cố quá lớn lao ấy.
Mẹ xin vâng cho dẫu Mẹ chưa hiểu. Mẹ xin vâng cho dẫu phải đối diện với nguy nan. Lời xin vâng khiêm hạ nhưng chứa chất một sự cậy trông lớn lao. Mẹ tin tưởng phó thác cả cuộc đời mình cho Đấng đã tuyển chọn Mẹ. Lời thưa xin vâng ấy đã đưa Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Trên đường đời nhiều sóng gió hôm nay, Mẹ Maria sẽ là điểm tựa vững chắc cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Trải nghiệm của Mẹ sẽ thấu hiểu những khó khăn mà chúng ta đang đối diện. Niềm cậy trông của Mẹ sẽ là gương mẫu cho chúng ta trên hành trình đức tin. Mẹ sẽ là điểm tựa cho mọi NỖI ĐAU của con cái Mẹ nơi trần gian này.
Mẹ sẽ là nguồn an ủi cho những ai đang đau đớn thân xác vì ốm đau bệnh tật, vì những nặng nề của thể xác dằn vặt.
Mẹ là sẽ nguồn bình an cho những ai đang đau thương tinh thần vì thử thách chông gai, bị đối xử tệ bạc, hay bị đẩy ra bên lề của xã hội.
Mẹ sẽ là nguồn cậy trông cho những ai đang đau buồn vì sự chia ly trong tình yêu, vì những đổ vỡ hạnh phúc gia đình.
Mẹ sẽ là nguồn hy vọng cho những ai đau khổ vì sự yếu đuối vấp ngã, khó khăn thất bại, hay mất mát trong đời.
Một lòng cậy trông nơi Mẹ sẽ giúp chúng ta đáp lời xin vâng trước mọi biến cố trong cuộc đời, chiến thắng mọi sợ hãi trong cuộc sống và can đảm làm chứng cho sự thật, cho tình thương nơi trần thế. Có Mẹ chúng ta sẽ vượt qua được mọi thăng trầm của trên dòng đời lắm nổi trôi hôm nay, để một ngày không xa chúng ta sẽ cùng Mẹ chung hưởng vinh phúc trên Nước Trời.
34. Lễ Truyền Tin--Lm. Anthony Trung Thành
Vì yêu thương, Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài. Vì yêu thương nên Ngài đã đặt con người sống trong vườn Địa Đàng với biết bao ân huệ. Thế nhưng, con người nghe theo lời xúi giục của ma quỷ đã sa ngã phạm tội, nên bị Thiên Chúa tước mất mọi ân sủng, đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng.
Dầu vậy, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi con người. Ngài đã nói với con rắn: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mày và người nữ, Người Nữ sẽ đạp giập đầu mày” (St 3,15).
Khi tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Thiên Thần đến gặp Đức Mẹ và loan báo ý định của Ngài. Sau khi nghe Thiên Thần loan báo, Đức Mẹ bối rối vì không hiểu lời Thiên Thần, hay nói đúng hơn, Đức Mẹ phân vân giữa chức vụ làm mẹ Thiên Chúa và việc giữ mình đồng trinh, nên Mẹ thưa với Thiên Thần rằng: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” (Lc 1,34). Thiên Thần đã giải thích cho mẹ biết, việc Mẹ thụ thai và sinh con là do Chúa Thánh Thần. Để thuyết phục Đức Mẹ, Thiên Thần còn đưa ra dẫn chứng về việc thụ thai trong tuổi già của bà Êlizabet cách đây 6 tháng. Cuối cùng Thiên Thần kết luận: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
Sau khi nghe Thiên Thần giải thích, Đức Mẹ đã thưa xin vâng: “Này tôi là tôi tới Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc 1,38). Nhờ tiếng thưa “Xin Vâng” của Mẹ, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thể Làm Người, lịch sử Cứu Độ đã bắt đầu sang trang và biến Mẹ từ một thiếu nữ Do thái trở thành Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Khi nói về tầm quan trọng hai tiếng xin vâng của Mẹ, công đồng Vatican II đã lặp lại lời của các Giáo Phụ xưa rằng: Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria. Điều mà Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Đức Maria đã tháo ra nhờ lòng tin; và so sánh với Evà, các ngài gọi Đức Maria là “Mẹ kẻ sống”, và thường quả quyết rằng: “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống” (x. Lumen gentium, số 56). Thánh Bênađô thì kêu lên rằng: “Ôi trinh nữ, Adam đang khóc lóc cầu khẩn Mẹ trả lời, Đavit cũng khẩn cầu, các tổ phụ cũng không ngớt nài xin. Câu trả lời ấy cả thế giới này đang phủ phục dưới chân Mẹ và chờ đợi nó. Bởi việc giải thoát cho những ai đang đau khổ, chuộc lại kẻ giam cầm, trả tự do cho người bị kết án và sau cùng là phần rỗi của mọi con cái Adam, của toàn thể dòng dõi Mẹ đều tùy thuộc vào lời thưa của Mẹ”.
Đối với Mẹ, để thưa xin vâng, Mẹ phải chấp nhận hy sinh, hy sinh vì lòng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương nhân loại. Lời thưa xin vâng của Mẹ, thể hiện sự phó thác tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Bởi vì, lời thưa xin vâng không chỉ thực hiện trong biến cố truyền tin mà còn kéo dài trong suốt cuộc sống của Mẹ. Sau biến cố truyền tin là cả hành trình dài đầy gian nan đau khổ. Từ việc bị Thánh Giuse hiểu nhầm, đến việc sinh con trong hang đá nghèo hèn, lạnh lẽo. Việc bà Anna loan báo về sự đau khổ của Hài Nhi khi Mẹ đưa Chúa Giêsu dâng trong đền thờ. Việc đưa con trốn sang Ai cập khỏi Hêrôđê lùng bắt. Suốt ba mươi năm tại làng quê Nazaret, Mẹ sống âm thầm cùng với Thánh Giuse nuôi Chúa Giêsu khôn lớn. Sau đó, Mẹ đã đồng hành với con suốt ba năm trên mọi nẻo đường rao giảng Tin mừng. Đặc biệt, khi Mẹ chứng kiến cuộc khổ nạn và cái chết của con mình trên thập giá… Qua những biến cố đau thương như vậy, để thưa xin vâng, Mẹ phải có một niềm phó thác và một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Chính bà Êlizabeth đã xác nhận điều đó khi nói với Mẹ rằng: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Như vậy, để cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu rỗi nhân loại, Mẹ Maria đã thực hiện lời xin vâng một cách trọn vẹn bằng cả cuộc sống.
Đối với chúng ta hôm nay, sự vâng lời luôn luôn cần thiết: Người dưới vâng lời người trên, con cái vâng lời cha mẹ, học sinh vâng lời thầy cô, vợ chồng lắng nghe nhau… Đó không chỉ là nét đẹp của cuộc sống hằng ngày và để gia đình, xã hội có tôn ti trật tự mà còn là điều kiện để gia đình hạnh phúc và xã hội bình yên. Chúng ta thử hình dung: Nếu trong một gia đình mà con cái không vâng lời cha mẹ, vợ chồng không biết lắng nghe nhau; ở nhà trường, học sinh không vâng lời thầy cô; xã hội không có trên dưới… thì gia đình, nhà trường, xã hội đó sẽ như thế nào? Thực tế cho chúng ta thấy, vì không biết vâng lời cho nên con cái hư hỏng, trò đánh thầy, hỗn loạn nhiều nơi trong xã hội chúng ta đang sống.
Trong lĩnh vực tôn giáo, “Đức Vâng Lời” lại còn quan trọng hơn gấp bội phần. Đức vâng lời được thể hiện qua việc lắng nghe tiếng Chúa. Tiếng Chúa qua Lời Chúa và các giới răn. Thực hành lời Chúa và tuân giữ các giới răn của Chúa một cách trọn vẹn là chúng ta đang giữ nhân đức vâng lời.
Đức vâng lời còn được thể hiện qua việc vâng nghe sự dạy bảo của các vị bề trên coi sóc linh hồn chúng ta. Đó có thể là Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục, linh mục hay cha mẹ anh chị của chúng ta. Đối với các cộng đoàn dòng tu, vâng lời các vị bề trên không chỉ là nhân đức mà còn thực hiện một trong ba lời khấn.
Việc tuân giữ đức vâng lời không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhất là khi không hiểu ý bề trên (như trường hợp của Đức Mẹ) hay khi sự vâng lời đó đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận hy sinh, thậm chí là phải đổ máu (như trường hợp các thánh tử đạo). Vì vậy, chúng ta cần phải cố gắng luôn và trong mọi hoàn cảnh hãy thưa với Thiên Chúa như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
Nhờ tiếng xin vâng của Mẹ Maria, nhân loại đã bước sang một trang sử mới là trang sử Cứu Thế. Ngày hôm nay, để viết lên những trang sử đẹp, rất cần nhiều tiếng thưa xin vâng trong gia đình, Giáo Hội và xã hội. Xin Chúa giúp mọi người chúng ta biết noi gương Mẹ, chấp nhận hy sinh để luôn thưa xin vâng trong những điều đẹp ý Chúa. Amen.
35. Lễ Truyền Tin--Mỗi ngày một tin vui
Mỗi khi đọc kinh Kính Mừng, chúng ta lặp lại lời sứ thần Gabriel chào Ðức Maria khi mở đầu cuộc truyền tin: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Ðức Chúa Trời ở cùng Bà. Mừng vui lên hỡi Ðấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà". Ðây chính là lời chúc phúc có ý nghĩa nhất và cũng là lời chúc phúc có giá trị nhất của con người.
Quả thế, không có mối phúc nào lớn hơn mối phúc của người được Thiên Chúa ở cùng, của người được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Con Thiên Chúa. Theo sau lời chúc phúc cũng là lời loan báo cho Ðức Maria biết tình trạng ân sủng tuyệt vời của Mẹ. Sứ thần cho Mẹ biết là Mẹ sẽ thụ thai Con Thiên Chúa. Ðây quả là một tin hết sức trọng đại khiến Mẹ phải bối rối. Hơn nữa, Mẹ sẽ thụ thai thế nào đây khi mà Mẹ chưa hề chung chăn gối với ai. Thắc mắc của Ðức Maria được sứ thần giải đáp bằng một câu trả lời đầy thuyết phục một cách tuyệt đối nhân danh quyền năng của Ðấng Tối Cao, kèm theo là một chứng cớ cụ thể đang xảy ra cho người chị họ của Mẹ. Ðối chiếu với các câu Thiên Chúa trả lời cho tổ phụ Abraham, cho ông Môisen hay cho thánh Giuse, chúng ta thấy Thiên Chúa rất tế nhị khi giao tiếp với từng đối tượng để giải đáp thắc mắc của người thiếu nữ. Người đã chọn cách trả lời giản dị mà có hiệu quả nhất. Câu trả lời này mang lại cho Ðức Maria sự bình an sâu thẳm. Mẹ đã sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa trao phó cho Mẹ. Mẹ đã tiếp nhận được điều chính yếu trong sứ điệp Truyền Tin, Mẹ đã tin tưởng tuyệt đối vào sứ điệp đó và Mẹ sẽ cống hiến hết mình cho điều mình xác tín.
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa gởi sứ điệp có liên quan đến công cuộc cứu độ của Người. Trong cái đại dương thông tin mênh mông đang ùa tới với chúng ta mỗi ngày, Thiên Chúa vẫn không ngừng nói với chúng ta bằng tiếng nói của con người hôm nay, cung cách giao tiếp của Thiên Chúa vẫn luôn tế nhị, thích ứng với từng đối tượng mà Người muốn ngỏ lời. Nếu chịu khó lắng nghe, chúng ta sẽ thấy sứ điệp mà Thiên Chúa gửi đến cho mình cũng có những nét tương tự như sứ điệp Truyền Tin cho Ðức Maria.
Thay cho lời chào của sứ thần, chúng ta có thể cảm thấy có một cái gì đó lay động linh hồn chúng ta và tạo cho chúng ta một cảm giác thiêng liêng huyền nhiệm. Trước cảm giác linh thiêng này, có thể chúng ta sẽ bối rối xao xuyến vì không biết chuyện gì đang xảy ra cho tâm hồn mình, chúng ta có thể lờ đi không lưu tâm đến nó nữa. Và trong trường hợp này, chúng ta sẽ không nhận được phần tiếp theo của sứ điệp. Nhưng nếu chúng ta để ý lắng nghe, chúng ta sẽ nhận được những sứ mạng mà Thiên Chúa muốn trao cho chúng ta. Ða số các sứ mạng này là những công việc bình lặng trong cuộc sống thường ngày với mục đích đem ơn cứu độ đến cho những người khác. Nhưng cũng có lúc đó là những công việc có tầm ảnh hưởng lớn hơn, khó thực hiện hơn và đôi khi vượt quá khả năng của chúng ta. Những lúc ấy, chúng ta sẽ cảm thấy e ngại vì không biết mình sẽ làm sao để thực hiện lời Thiên Chúa gợi ý. Nhưng nếu chúng ta tin tưởng và tiếp tục đối thoại với Thiên Chúa, thì Người sẽ đưa ra cho chúng ta lời giải đáp, và có thể Người sẽ đưa ra cho chúng ta một vài bằng chứng cụ thể để củng cố lòng tin của chúng ta. Ðến đây, Thiên Chúa chờ đợi lời thưa "Xin Vâng" của chúng ta như Người đã chờ đợi lời thưa "Xin Vâng" của Mẹ Maria ngày xưa.
Lạy Mẹ Maria, có những lúc con đã nghe được tiếng Chúa gọi gợi ý cho biết những công việc phải làm, nhưng khi nhìn lại bản thân, con thấy mình chỉ là một con người bé nhỏ, bình thường như bao nhiêu người khác, vì thế, con ngần ngại không dám tiến thân. Hôm nay, khi suy niệm về biến cố Truyền Tin, con hiểu ra rằng đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được, cũng không có gì là bé nhỏ tầm thường vô giá trị. Xin Mẹ giúp con từ nay biết lắng nghe và thực hiện ý Chúa với tâm tình đơn sơ phó thác như Mẹ ngày xưa.
36. Từ lúc Mẹ nói lời ’’Xin Vâng’’--Huệ Minh
Lễ Truyền Tin được kính vào ngày 25 tháng 3, tức là 9 tháng trước lễ Giáng Sinh, là khoảng thời gian Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu.
Lễ này trước kia được mừng kính ở Giáo hội Đông phương với tước hiệu lễ “Ngôi Lời nhập thể” từ khoảng năm 550. Giáo hội Rôma mãi đến thế kỷ thứ 7 mới chấp nhận thánh lễ này.
Ngày nay, Lịch Phụng vụ Rôma lấy lại danh xưng “Lễ Truyền Tin” vì có lý do chính đáng, nhưng trước sau vẫn là lễ chung của Đức Kitô và Đức Trinh Nữ: Lễ của Ngôi Lời làm “con Đức Trinh nữ” và lễ Đức trinh nữ là “Mẹ Thiên Chúa”.
Từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã có ý định tái lập tất cả những gì đã hư mất bởi tội lỗi, và phác họa một công trình cứu chuộc mà Chúa Kitô là trung tâm, với sự cộng tác cần thiết của một người nữ thánh thiện. Cả hai sẽ là Adong và Evà mới thay thế cho Adong và Evà cũ đã phạm tội.
Người nữ ấy không ai khác hơn là Mẹ Maria, Đấng đầy ân phúc, trổi vượt hơn mọi phụ nữ. Mẹ đã được tiên báo qua lời hứa tại vườn Địa đàng xưa: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người nữ. Người sẽ đạp nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn gót chân Người” (St 3,15). Mẹ đã được chọn làm Evà mới thực hiện lời hứa xưa kia tại vườn Địa Đàng.
Tin mừng theo thánh Luca (1,26-38) ghi lại biến cố truyền tin. Sứ thần Gabriel đến với một thiếu nữ đã đính hôn tên là Maria tại làng Nazareth để loan báo tin vui về việc hạ sinh Đấng Được Xức Dầu được đợi trông từng bao đời. Sứ thần loan tin cho thiếu nữ: “Này đây, bà sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, và bà sẽ đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”.
Trong ngày lễ Truyền Tin, Hội Thánh kính nhớ một biến cố quan trọng. Thiên thần báo tin cho Đức Mẹ rằng: Thiên Chúa muốn chọn Đức Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Tin đó quá bất ngờ, vượt mọi suy nghĩ, mọi tưởng tượng, mọi đợi chờ. Phản ứng của Đức Mẹ bắt đầu là bỡ ngỡ bàng hoàng lo sợ, nhưng tiếp đó là xin vâng (Lc 1, 38). Xin vâng là xin tuân phục ý Chúa. Xin vâng là xin cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, với sự từ bỏ mình, với sự tuyệt đối phó thác đời mình trong tay Chúa. Lập tức sau lời “xin vâng” của Đức Mẹ, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế nhập thể trong lòng Đức Mẹ. Tất cả đều diễn tiến một cách âm thầm, khiêm tốn. Từ đó “xin vâng” đã được coi như một giao ước mới, một bài ca mới, một con đường mới, của con người mới.
Tin báo này làm Đức Maria ngỡ ngàng, vì Ngài đã quyết chí giữ đức khiết tịnh. Sứ thần đã giải thích về cách thức Thiên Chúa sẽ làm cho sự kiện mang thai lạ lùng xẩy ra: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể”.
Mặc dù đã có lời trấn an của sứ thần, nhưng chắc chắn Đức Maria cũng hoảng hốt vì Ngài không biết đến việc vợ chồng. Tuy nhiên, Maria đã can đảm và suy phục thánh ý Chúa nên đã thưa với sứ thần: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền”.
Khi nói xin vâng được coi là một con đường mới, tôi nhớ lại biến cố Đức Mẹ sinh Chúa Giê-su tại hang đá Bê-lem (Lc 2, 1 – 7). Đang khi hầu hết mọi người đều coi giàu sang chức quyền danh vọng là những bậc thang giới thiệu gía trị con người, thì Đức Mẹ đã không nghĩ như vậy, đã không vận động chút nào để được như vậy. Trái lại, Đức Mẹ đã lặng lẽ đi vào con đường khó nghèo. Con đường đó đã khởi đi từ hang đá Bê-lem và kéo dài từng ngày, từng tháng, từng năm, suốt cả cuộc đời Đức Mẹ. Trên con đường đó, Đức Mẹ đã cầu nguyện, đã suy gẫm trong lòng, đã lắng nghe Chúa, đã thông hiệp với sự sống Chúa.
Lời xin vâng của Đức Mẹ, thoạt nghe, chẳng có gì đặc biệt đáng chúng ta phải chú ý. Nhưng nếu để tâm suy nghĩ và cầu nguyện, chúng ta sẽ thấy được tinh thần hy sinh, lòng bác ái, và đức tin sống động của Mẹ được gói gọn trong hai tiếng xin vâng đó.
Qua lời xin vâng, Mẹ Maria sẵn sàng gạt bỏ đi tất cả những gì Mẹ hằng ôm ấp cho riêng mình là sống đời đồng trinh, để chấp nhận cộng tác với Chúa trong việc sinh ra cho nhân loại Đấng Cứu Thế mà ai cũng trông chờ.
Chính vì điểm này mà Chúa đã ban cho Mẹ được cả hai, tức là vừa đồng trinh vừa làm Mẹ Thiên Chúa. Khi thưa lên tiếng xin vâng, Mẹ Maria hiểu được nhiệm vụ chính yếu của Mẹ là hiến mình làm dụng cụ đem Chúa đến cho nhân loại. Vì vậy, khi Ngôi Hai Thiên Chúa vừa đầu thai trong cung lòng Mẹ, Mẹ đã “vội vã” lên đường thăm viếng bà Isave. Không cần phải dài dòng, ai cũng hiểu được mục đích của cuộc viếng thăm này không phải là để Mẹ ca bài Magnificat cho bà Isave và cũng chẳng phải để nghe bà Isave tán tụng Mẹ là người có đức tin mạnh mẽ. Lý do chính yếu của cuộc viếng thăm này là để Mẹ đem Chúa đến cho gia đình ông Giacaria, đặc biệt là thánh Gioan Tiền Hô, khiến ngài phải nhảy mừng trong lòng bà Isave.
Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm cho Con Thiên Chúa trở nên con của Mẹ và Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Lời Xin Vâng của Mẹ là sự đáp trả sự từ khước Thánh ý Thiên Chúa của Adong Evà ngày xưa.
Lời Xin Vâng của Mẹ chấm dứt vai trò của Cựu Ước và mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn của Tân Ước. Lời Xin Vâng của Mẹ là tiếng nói đầy thảo hiếu của một người con. Chương trình cứu độ chỉ có thể được thực hiện với hai tình yêu: tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu của nhân loại. Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài, còn nhân loại thì mở rộng cõi lòng để đón nhận Người Con ấy.
Ngày xưa ma quỷ đã dùng phương tiện nào thì hôm nay Thiên Chúa cũng dùng phương tiện ấy. Đúng thế, ngày xưa ma quỷ đã dùng một người phụ nữ để làm cho nhân loại bị hư đi thì hôm nay Thiên Chúa cũng dùng một người phụ nữ để lật ngược thế cờ, mà làm cho nhân loại trở nên tốt lành. Ngày xưa Evà đã làm cho nhân loại phải chết thì hôm nay Maria sẽ làm cho nhân loại được sống. Ngày xưa Evà đã kiêu căng thì hôm nay Maria đã khiêm nhường. Ngày xưa Evà đã tin vào lời dụ dỗ của ma quỷ thì hôm nay Maria tin vào lời của sứ thần Thiên Chúa. Đó là những sự tương phản giữa cũ và mới, giữa ngày xưa và hôm nay, giữa Evà và Maria, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô: “Ngày xưa bởi một người mà nhân loại phải chết thì hôm nay cũng bởi một người mà nhân loại được sống”.
Sau câu trả lời dứt khoát của Maria, Ngôi Lời đã nhập thể làm người và Maria đã trở thành Mẹ Thiên Chúa.
Thiên Chúa chờ đợi lời thưa “Xin Vâng” của chúng ta như Người đã chờ đợi lời thưa “Xin Vâng” của Mẹ Maria ngày xưa.
37. Xin Vâng--Lm. Giuse Nguyễn Văn Chín, SVD
Ngày hôm nay Hội Thánh kính nhớ một biến cố quan trọng, làm biến đổi toàn thể nhân loại và mở ra một chương mới trong lịch sử cứu độ, đó là biến cốthiên thần báo tin cho Đức Mẹ. Tin Mừng kể lại: sự kiện truyền tin xảy ra tại làng Nadarét, thuộc miền Galilê, nước Do Thái. Sứ Thần Gáprien được Thiên Chúa sai đi, đem mệnh lệnh Thiên Chúa đến cho một thiếu nữ tên là Maria. Lúc đó, Đức Maria đã đính hôn với thánh Giuse, nhưng chưa chung sống.
Sứ thần báo cho Đức Maria biết một tin vui rất trọng đại: Thiên Chúa muốn Đức Maria làm mẹ Đấng Cứu Thế. Sau phút giây do dự, suy nghĩ và tìm hiểu, Đức Maria tin rằng đây là thánh ý Thiên Chúa, nên Mẹ an tâm mà thưa tiếng “xin vâng”: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ Thần nói”(Lc 1,38).
Truyền tin mầu nhiệm nhập thể
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật lại sự kiện sứ thần Gáprien truyền tin cho Đức Maria. Tiếng “xin vâng” của Mẹ đã đưa Mẹ đi vào mầu nhiệm Thiên Chúa làm người. Thánh Luca tường thuật một cách nhẹ nhàng, gây một niềm vui khôn tả: và đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả và được gọi là con Đấng Tối Cao.
Sự kiện trọng đại này đã được tóm tắt thành Kinh Truyền Tinmà các Kitô hữu đạo đức vẫn đọc lên hàng ngày: “Đức Chúa Trời sai Thánh Thiên Thần truyền tin cho rất thánh Đức Bà Maria, và rất thánh Đức Bà chịu thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần…Này tôi là tôi tá Đức Chúa Trời. Tôi xin vâng như lời Thánh Thiên Thần truyền”. Lời kinh ngắn gọn, nhưng gói gém toàn bộ chân lý đức tin của Kitô giáo. Vì thế, khi chúng ta đọc Kinh Truyền Tin, chúng ta không những chiêm ngắm mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô mà còn nguyện xin ơn được thông hiệp vào mầu nhiệm ấy nữa.
Qua biến cố truyền tin, Thiên Chúa đi vào lịch sử loài người và ở cùng chúng ta, để cứu độ chúng ta. Vì thế, trong Kinh Tin Kính, Giáo Hội tuyên xưng niềm tin về biến cố này như sau: “Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã xuống thế làm người…”. Để có thể cứu độ con người, Thiên Chúa sẵn sàng đón nhận thân phận thấp hèn của con người, để từ đó nâng phẩm giá con người lên.
Đức Maria đón nhận mầu nhiệm
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Mẹ đã lắng nghe Thiên Thần đưa tin, rồi tìm hiểu trước khi đón nhận một cách khiêm tốn. Thật vậy, Mẹ đã chất vấn sứ thần Gáprien: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1,34). Sau khi được sứ thần giải thích, Mẹ đã chấp nhận với một tâm hồn cởi mở, tin tưởng và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Mẹ quả thật là người biết lắng nghe lời Chúa và cất giữ những lời ấy để suy đi nghĩ lại trong lòng. Đồng thời, Mẹ đã nói lên tiếng thưa “xin vâng” trong niềm tín thác, biểu lộ một đức tin và lòng tuân phục chân thành.
Vì thế, đối với Đức Maria, chức làm mẹ thuần túy chưa phải là niềm vinh dự lớn lao nhất, mà là niềm tín thác mẹ đặt nơi Chúa, như lời thánh Augustinô đã dạy:“Đức Maria có đức tin vào Đức Kitô hơn là vì Mẹ cưu mang nhục thể Đức Kitô… mối quan hệ mẫu tử của Mẹ có thể chẳng ích lợi gì đối với Mẹ nếu Mẹ chẳng vui sướng cưu mang Đức Giêsu trong trái tim hơn là trong dạ Mẹ. Mẹ đã thụ thai Đức Kitô trong đức tin trước khi Mẹ thụ thai Ngài trong dạ…Chính qua đức tin, Mẹ đã sinh hạ Ngài”.
Chính vì vậy, Công đồng Vaticanô II, trong hiến chế về Giáo Hội gọi Đức Maria là mẫu gương phi phàm cho Giáo Hội trong đức tin và đức mến. Di sản ngàn đời của Mẹ để lại cho chúng ta là đức tin và đức mến. Đức tin phải có một địa chỉ đi về đó là đức ái. Mà đức ái là việc lắng nghe và tuân giữ lời Chúa.
Đến lượt chúng ta
Những chia sẻ vắn tắt trên đây có thể giúp chúng ta phần nào cảm nghiệm được hai tiếng xin vâng của Đức Mẹ. Nhờ việc sùng kính Đức Mẹ cách sốt sắng, đặc biệt noi gương Mẹ nói tiếng “xin vâng” để chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong cuộc sống mỗi ngày, chúng ta sẽ đón nhận nhiều ơn lành qua tay Đức Mẹ. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng toàn năng, toàn thiện, chúng ta là con người yếu đuối và tội lỗi, nênchúng ta không xứng đáng đón nhận nguồn ân sủng nơi Ngài. Vậy nên chúng ta cần có Mẹ như là chiếc cầu nối để chuyển thông ân sủng cho chúng ta. Như thánh Bênađô đã nói: “Tội nhân ạ, chính vì bạn không xứng nhận ơn Chúa, mà Chúa đã ban mọi ơn cho Mẹ, để bạn đến nhận lấy từ tay Mẹ”.
Chuyện kể rằng: một hôm có hai mẹ con được vào diện kiến nhà Vua. Nhà Vua đã bảo người hầu đưa ra rất nhiều kẹo. Rồi nhà vua bảo đứa bé ngửa bàn tay ra và nói: “Bây giờ trẫm chỉ cho con vừa đủ trong hai bàn tay thôi”. Khi đó, đứa bé rất khôn ngoan đã nói rằng: “Thưa Đức Vua, vậy thì con sẽ nhờ mẹ của con lấy dùm, vì bàn tay của mẹ to hơn”. Nhà vua đã khen đứa bé khôn ngoan và đã thưởng cho nhiều kẹo và những phần thưởng có giá trị khác.
Trong cuộc sống đức tin của chúng ta hôm nay cũng thế, nếu chúng ta biết tin tưởng, sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, thì Đức Mẹ sẽ che chở, cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, và chúng ta sẽ nhận được rất nhiều ơn lành từ Thiên Chúa. Chúng ta có rất nhiều hy vọng vì Đức Mẹ rất thương yêu và sẵn sàng nâng đỡ chúng ta. Thánh Bênađô đã nói: “Xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời”. Với niềm hy vọng đó, những khi gặp khó khăn thử thách, đau khổ, chúng ta hãy đến với mẹ và cùng với Đức Mẹ hát lên bài ca xin vâng: Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó, xin Mẹ dạy con hai tiếng “Xin Vâng”.
38. Đón nhận quà tặng của Thiên Chúa--Lm. Đỗ Đức Trí
Vào các dịp sinh nhật hoặc các dịp đặc biệt chúng ta thường có thói quen tặng người thân những món quà và đồng thời cũng đã từng nhận được những món quà dễ thương. Tặng quà là thể hiện tấm lòng yêu thương quý mến của người tặng dành cho người nhận, qua món quà người trao như muốn trao tặng tình cảm và cả con người mình cho người nhận. Còn người nhận khi đón nhận món quà thường rất vui không phải vì giá trị của món quà, mà vì thấy rằng mình có một vị trí đặc biệt trong trái tim của người tặng. Tuy nhiên ngày nay với thời buổi con người đáng giá tình cảm của nhau trên thang giá trị vật chất, và lối suy nghĩ thực dụng đã khiến việc trao tặng và nhận quà bị mất đi vẻ đẹp và ý nghĩa ban đầu, nhiều người đã đánh giá tình cảm của nhau theo giá trị của món quà hơn là tấm lòng và tình yêu thương của người trao.
Hôm nay mừng lễ Đức Mariia được truyền tin, chúng ta nhận ra tấm lòng của Thiên Chúa khi trao tặng cho nhân loại một món qua vô giá là Đức Giêsu Con của Ngài, và Trinh nữ Maria là người đại diện đã đón nhận với một sự trân trọng cung kính và khiêm tốn.
Bài đọc một cho thấy vợ chồng vua Akhat đã từ chối đón nhận món quà của Thiên Chúa. Lúc đó nhà vua không có con trai nối dòng, vua và hoàng hậu lại sa đà vào lối sống của dân ngoại, chay theo việc cúng bái thần Baal. Nhà vua đã lập đàn cúng bái để xin có con nối dõi, trước việc làm sai trái và gây gương xấu này, tiên tri Isai đã cảnh cáo nhà vua và nói với nhà vua: Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi ban cho một dấu dưới âm phủ hoặc trên chốn trời cao. Nhưng vua Akhat đã nhất mực không xin Chúa, ông lấy lý do là không dám thử thách Thiên Chúa.
Trước sự cứng đầu của vua Akhat, tiên tri Isai đã nói, dù vua không xin thì Thiên Chúa cũng sẽ cho một dấu: Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai và người ta sẽ gọi tên Người là Emanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Lời tiên báo này thật lạ lùng: Một trinh nữ sẽ mang thai. Điều này vượt quá sức tưởng tượng của con người, tuy nhiên đó không phải lá điều khó khăn đối với Thiên Chúa.
Đến thời đã định, Thiên Chúa đã thực hiện lời tiên báo này và cô trinh nữ được tuyển chọn để đón nhận lời hứa, đón nhận món quà đặc biệt này chính là Đức trinh nữ Maria. Câu chuyện trong Tin Mừng cho thấy, với sự tôn trọng sự tự do của con người, Thiên Chúa đã cho sứ thần Gabriel đến để hỏi ý kiến Đức Maria. Thiên thần vào nhà Đức maria và chào rằng kính chào bà đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng bà. Lời chào hết sức trân trọng và lạ lùng khiến cho Đức Maria bối rối vì không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng thiên thần đã trấn an và giải thích: Maria Đừng sợ, này đây nàng sẽ mang thai và sinh hạ một con trai… Con Trẻ sẽ được gọi là con Đấng tối Cao. Một món quà hết sực bất ngời và hết sức lớn lao, Maria cảm thấy mình nhỏ bé thấp kém trước quyền năng của Thiên Chúa. Maria cũng chẳng hiểu thế nào là: Quyền năng của Thiên Chúa sẽ bao trùm trên bà .. Đấng thánh bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Mặc dù không thể hình dung điều gì sắp xãy ra cho mình, nhưng với lòng khiêm tốn và biết ơn, Maria đã thưa: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền.
Khác với sự kiêu ngạo của Eva ngày xưa, và khác với sự cứng lòng của vợ chồng vua Akhát, Đức Maria đã trở thành người phụ nữ đại diện cho cả nhân loại ngoan ngoãn, khiêm tốn cúi đầu, để đón nhận món quà tình yêu của Thiên Chúa, Mẹ thưa tiếng xin vâng để trao phó trọn cuộc đời mình cho chương trình lớn lao của Thiên Chúa, đo là chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa và đã chuẩn bị từ ngàn xưa.
Với lời Thưa vâng này, Đức Maria đã mở rộng tâm hồn để cho Ngôi Hai Con Thiên Chúa đi vào cuộc đời của mình, và qua Mẹ Ngài bước vào thế giới này và Mẹ trở thành một cộng tác viên nhiệt thành, trung tín của Người trong chương trình mà Thiên Chúa Cha đã thực hiện. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một của Người, và Đức Giêsu chính là món quà của Thiên Chúa được ban tặng cho nhân loại. Ngài vốn là một vị Thiên Chúa, ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã chấp nhật trút bỏ vinh quang, để mang lấy thân phận con người trở nên giống phàm nhân để cứu chuộc nhân loại chúng ta.
Chúa Giêsu đã không đến trần gian bằng một cách thức nào khác, mà đã đến trong thân phận của con người, đầu thai trong cung lòng của một người trinh nữ. Là Đấng tạo dựng muôn loài, giờ đây, Đức Giêsu lại chấp nhận mang thân phận của tạo vật và còn làm con của con người. Với sự hạ mình thẳm sâu và vâng phục hoàn toàn như thế, Đức Giêsu đã trở thành một người con hiếu thảo của Chúa Cha. Điều mà mọi người cha mong đợi đó là sự ngoan ngoãn vâng lời của con cái, thì cũng vậy Thiên Chúa vui lòng đón nhận sư ngoan ngoãn vâng lời của Đức Giêsu con của Ngài, chấp nhận mang thân phận thụ tạo, và còn vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.
Mừng lễ Đức Maria được truyền tin hôm nay, chúng ta cảm tạ và khâm phục tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Một Thiên Chúa trung thành với lời đã hứa, trung thành với tình yêu dành cho con người. Con người có là chi, vũ trụ này có là gì trước mặt Thiên Chúa, thế mà Ngài chấp nhận đánh đổi con của Ngài, trao tặng người con ấy cho trần gian.
Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa vì Chúa đã thương cho Đức Maria được cộng tác vào trong chương trình lớn lao này của Thiên Chúa. Thiên Chúa có thể cứu con người bằng nhiều cách, nhưng Thiên Chúa vẫn để cho con người cộng tác vào công việc của Ngài, và Đức Maria đã cộng tác hết mình với công việc lớn lao này. Thiên Chúa đã vô cùng quảng đại đã trả lại cho Mẹ bằng nhiều đặc ân vô cùng cao trọng mà không ai trong nhân loại có được những đặc ân ấy.
Cùng với tiếng xin vâng của Đức Maria, mỗi chúng ta cũng được mời gọi để mở rộng tâm hồn cho Thiên Chúa đi vào cuộc đời chúng ta, sử dụng chúng ta cho chương trình cứu chuộc của Ngài. Sẵn sàng dâng trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa, vâng phục Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh. Thiên Chúa đang muốn chúng ta cộng tác với Ngài để đem Đức Giêsu đến trong gia đình trong xóm ngõ và mọi môi trường sống của chúng ta. Amen.
25/03/2022 – THỨ SÁU TUẦN 3 MC
Lễ Truyền Tin
Lc 1,26-38
LÀ CỘNG TÁC VIÊN CỦA CHÚA
Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giu-se, thuộc nhà Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a. (Lc 1,26-27)
Suy niệm: Truyền thuyết Việt Nam có kể chuyện thánh Gióng, một cậu bé làng Phù Đổng, đáp lại lời sứ giả nhà vua, cậu vươn vai hoá thành người khổng lồ, đánh đuổi giặc Ân, đem lại an bình cho đất nước. Tin Mừng hôm nay cũng kể với ta rằng Thiên Chúa sai sứ giả của Ngài đến trần gian để cầu người hiền cộng tác vào chương trình cứu độ nhân loại. Thật ra, khác với vua Hùng, một mình Thiên Chúa có thể thực hiện công cuộc này. Thế nhưng, Thiên Chúa của chúng ta thật lạ, Ngài thích có sự cộng tác của con người, Ngài trân trọng từng người, tạo vật do Ngài tạo dựng. Và cũng khác với thánh Gióng, Đức Ma-ri-a lại nhỏ bé đi để chương trình của Thiên Chúa được thực hiện nơi người.
Mời Bạn: Noi gương Đức Ma-ri-a xin vâng theo lời Chúa mời gọi, để là một cộng tác viên nhiệt thành, đóng góp chút công sức nhỏ bé trong chương trình cứu độ to lớn của Thiên Chúa.
Chia sẻ: Tôi sẽ làm gì để xứng đáng là cộng tác viên của Chúa?
Sống Lời Chúa: Ý thức được Chúa mời gọi, tôi sẽ cố gắng tích cực tham gia một hội đoàn tông đồ trong giáo xứ; hoặc, ít ra mỗi ngày, mỗi tuần tôi sẽ làm một việc thiện nguyện với ý hướng tông đồ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu mà không ngại thương tích, biết làm việc mà không tìm an nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào ngoài việc biết rằng đã chu toàn Thánh Ý Chúa.
24/03 hận ra sự hiện diện và tác động của Chúa
- Viết bởi Lc 11, 14-23
Nhận ra sự hiện diện và tác động của Chúa.
Thứ Năm tuần 3 mùa Chay.
“Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta”.
Lời Chúa: Lc 11, 14-23
Khi ấy, Chúa Giêsu trừ một quỷ câm. Khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được và dân chúng đều bỡ ngỡ. Nhưng có mấy người trong bọn họ nói rằng: “Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ”. Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống. Nhưng Người biết ý của họ, liền phán:
“Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
“Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Người mạnh hơn
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Đức Giêsu vừa mới trục xuất được một quỷ câm.
Khi quỷ xuất ra thì người câm nói ngay được (c. 14).
Cùng với sự ngạc nhiên thích thú của đám đông,
còn có sự vu khống xuyên tạc của một số người khác.
Họ cho rằng chẳng qua Đức Giêsu chỉ là kẻ dựa dẫm Bêendêbun.
Bêendêbun là tên của một vị thần ở vùng Canaan.
Người Do thái vẫn coi các thần dân ngoại là ma quỷ (1Cr 10, 19-20).
Ở đây, Bêendêbun chính là quỷ vương, là Xatan (c. 18).
Như thế Đức Giêsu bị tố cáo là người cùng phe với quỷ,
dùng tay tướng quỷ để trừ các quỷ nhỏ.
Đức Giêsu cho thấy sự sai lầm của lập luận này.
Ngài nhắc đến nước của Xatan, một nước hiện vẫn còn đứng vững (c. 18).
Nước ấy chưa sụp đổ vì không có sự chia rẽ giữa các quỷ với nhau,
nên không thể bảo là Ngài dùng quỷ vương để trừ quỷ nhỏ.
Vả lại, có những người Do thái khác cũng trừ quỷ như Ngài.
Có ai dám bảo là họ thông đồng với quỷ vương không? (c. 19).
Đức Giêsu vén mở cho thấy ý nghĩa của việc Ngài trừ quỷ.
“Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ,
thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (c. 20).
Nước Thiên Chúa đến qua việc Đức Giêsu giải phóng.
Ngài giải phóng con người khỏi bệnh tật thân xác.
Ngài trả lại cho con người khả năng nghe, nói, nhìn.
Ngài kéo người bất toại đứng lên, đi được, đưa tay ra.
Ngài trả người phong về với cộng đoàn, đưa người chết ra khỏi mộ.
Trên hết, Ngài giải phóng con người khỏi sự chật hẹp của lòng mình.
Ngài mở con người ra trước nỗi đau và cô đơn của anh em.
Ngài nâng con người lên tới tầm cao của trái tim Thiên Chúa.
Như thế là con người được thật sự tự do.
Chỗ nào có tự do thật sự, chỗ đó có Nước Thiên Chúa.
Chỗ nào có Nước Thiên Chúa, chỗ đó nước của Xatan phải lui đi.
Cuộc chiến giữa Nước Thiên Chúa và nước Xatan vẫn tiếp diễn,
nhưng Nước Thiên Chúa đã đến rồi, ngón tay Thiên Chúa ở đây.
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục trừ quỷ và mời chúng ta cộng tác.
Làm sao để con người hôm nay không còn bị ám bởi bất cứ thụ tạo nào,
không sụp lạy trước bao ngẫu tượng mới của thời đại?
Quỷ vẫn là kẻ mạnh, được vũ trang đầy đủ, đứng canh nhà của nó (c. 21).
Nhưng Thiên Chúa và Chúa Giêsu lại là người mạnh hơn (c. 22).
Người mạnh hơn tấn công, tước vũ khí và phân chia chiến lợi phẩm.
Trong cuộc chiến này, chúng ta không có quyền mập mờ, hàng hai.
Mùa Chay mời chúng ta đứng hẳn về phía Giêsu,
vì ai không ở với Giêsu là chống lại Ngài,
ai không thu góp với Giêsu là phân tán (c. 23).
Hãy quyết định dứt khoát để cùng với Giêsu chiến đấu cho Nước Cha.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự:
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao. Amen.
Suy Niệm 2: Nghe và nói
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người là một sinh vật xã hội. Không thể sống một mình. Xã hội tính phát triển nhờ thông giao. Thông giao biểu hiện bằng nghe và nói. Nghe để tiếp nhận. Nói để thông tri. Nghe để hiều về người khác. Nói để người khác hiểu về mình. Nghe để cảm thông chia sẻ. Nói cũng để cảm thông chia sẻ. Như thế thông giao làm phong phú con người. Vì thế câm điếc là khuyết tật. Mất khả năng thông giao khiến con người không phát triển. Thông thường câm là do điếc. Vì không nghe nên không nói được.
Người Do thái cho khuyết tật đó là do ma quỉ. Ma quỉ trói buộc con người trong ích kỷ cá nhân. Để tàn lụi. Chúa Giêsu chữa lành người câm điếc khi trục xuất quỉ câm. Nhưng Chúa lại không thể chữa người mắc bệnh câm điếc thiêng liêng. Người câm điếc thiêng liêng là người tự ý không nghe không nói.
Giê-rê-mi-a cho biết những người Do thái thời ông là những người câm điếc. Vì họ không chịu nghe lời Thiên Chúa. Chỉ cần mở lòng ra nghe lời Thiên Chúa họ sẽ trở thành Dân Thiên Chúa, sẽ được hạnh phúc. Nhưng gọi không trả lời. Nói không nghe. Vì thế họ không phát triển. Chúa nói họ đi thụt lùi. Và còn tệ hơn nữa khi cố tình giả điếc thì họ không có sự thật: “sự chân thật đã tiêu tan và biến khỏi miệng nó”.
Đó chính là tình trạng của những người chống đối Chúa hôm nay. Khép kín tâm hồn nên không nghe được Thiên Chúa. Dù phép lạ rành rành không thể chối cãi. Vì không nghe nên miệng họ nói lời gian dối. Bóp méo sự thật. Xuyên tạc cho rằng Chúa dùng quyền tướng quỷ mà trừ quỷ. Đó chính là tác động của ma quỉ. Thứ quỉ ám này còn nặng hơn quỉ gây nên câm điếc thể lý.
Thế giới đang hỗn loạn vì người ta không lắng nghe. Không nghe Chúa. Không nghe nhau. Không nghe lịch sử. Không nghe vũ trụ. Không nghe thiên nhiên. Và vì thế người ta nói theo ý riêng. Nói sai sự thật.
Mùa Chay Chúa mời gọi ta trở về sự thánh thiện nguyên thủy. Biết mở lòng, mở tai lòng lắng nghe. Biết mở miệng nói lời chân lý, lời xây dựng, lời yêu thương. Biết tái lập khả năng thông giao. Ta sẽ trở nên phong phú. Thế giới sẽ sống trong hòa bình.
Suy Niệm 3: Nhận ra sự hiện diện và tác động của Chúa
Một nhà truyền giáo nọ kể lại sự kiện sau: một hôm tôi đang giảng dạy cho một nhóm người tại Nagasaki. Sau bài giảng một người đứng lên hỏi tôi ba điều: “Tôi có tin Đức Mẹ đồng trinh không? Tôi có vâng lời và hiệp thông với Đức thánh cha không? Tôi có giữ mình trinh khiết và sống độc thân không?”. - Tôi xác nhận cả ba điều trên và hỏi lại: “Tại sao ông lại đặt ra ba câu hỏi vừa rồi?”
Người đó trả lời: “Vì ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ chúng con rằng sau này có ai đến giảng đạo, chúng con phải lấy ba tiêu chuẩn ấy để đánh giá xem đó có phải là vị thừa sai chân chính không. Nay chúng con vui mừng vì cha đích thực là người được Hội thánh sai đến, chúng con sẽ nghe lời cha và giữ vững đức tin tổ tiên chúng con truyền lại”.
Những giáo dân Nhật Bản đã dùng ba tiêu chuẩn để thẩm định đâu là nhà truyền giáo đích thực. Ngược dòng thời gian trở về thời Chúa Giêsu, chúng ta cũng được chứng kiến một biến cố tương tự. Các tiên tri đã báo trước cho Dân Chúa là khi Đấng Cứu Thế đến, Ngài sẽ thực hiện những dấu lạ: cho kẻ câm được nói, kẻ què được đi, người bị quỉ ám được chữa lành. Chúa Giêsu đã thực hiện lời tiên tri đó trước mặt nhiều thành phần trong dân để chứng minh Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng muôn dân mong đợi. Tuy nhiên có những người không nhìn nhận sự hiện diện và tác động của Chúa, họ cố tình giải thích sự lệch lạc để khỏi phải tin và làm cho người khác đừng tin, như được trình thuật trong Tin mừng hôm nay.
Quả thật, đứng trước Chúa Giêsu, con người phải có thái độ hoặc tin nhận hoặc chối từ. Đó cũng là thái độ mà người Kitô hữu chúng ta phải có đối với Chúa Giêsu. Ngài đến với con người qua Giáo Hội, qua những sứ giả được tuyển chọn và sai đi làm chứng cho Ngài nhưng liệu chúng ta có thành tâm và can đảm cộng tác với ơn soi sáng của Thánh Thần để tin nhận Ngài không? Tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã chia sẻ kinh nghiệm như sau:
“Chúa hiện diện không phải là lý thuyết. Ngài là Cha ở bên con với tất cả quyền năng và tình thương. Ngài là tất cả của con, là cùng đích trong ý hướng, là lý do các quyết định, là động lực các tình cảm, là gương mẫu các hành động của con. Hãy sống bên Chúa, con sẽ nên thánh. Thiên đàng không gì khác hơn là Thiên Chúa hiện diện”.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Đuổi quỷ
Rồi Đức Giê-su trừ một tên quỉ, và nó là quỉ câm. Khi quỉ xuất rồi, thì người câm nói được. Đám đông lấy làm ngạc nhiên. Nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: “Ông ấy dựa thế quỉ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỉ.” (Lc. 11, 14-15)
Theo một số ý kiến chú giải thời nay thì những người quỷ ám trong Tin mừng là bệnh nhân của cảm cúm. Sự đuổi quỷ của Đức Giê-su được giải thích khéo léo hóa thành vô nghĩa. Những người bị quỷ ám, hầu hết được họ giải thích là những người mắc bệnh động kinh, bệnh thần kinh hay bị ám ảnh bởi hình ảnh quỷ ma trong họ, người bị quỷ câm trong Tin mừng hôm nay đơn giản chỉ là bệnh câm thôi, không bị quỷ ám nào hết.
Theo ý kiến số đông thời đại đó, một nửa bị quỷ thần ám hại cần phải cải cách và Tin mừng đã đến thanh tẩy những thần thoại chồng chất trong đời sống dân Ít-ra-en.
Cách giải thích đó có thật hữu ích không? Tin mừng có thanh tẩy phong tục tin tưởng vào quỷ thần không?
Thứ nhất, giải thích của một số người quá ngang ngược với cách trừ quỷ rõ ràng của Chúa, biến Chúa thành nạn nhân của hạng trí thức dổm. Thực ra, thời đại của Đức Giê-su đã có nhiều người khá thông minh để nhận định về thế giới quỷ thần.
Thứ đến, họ muốn kéo nhân loại ra khỏi những sức mạnh siêu nhiên để khỏi nỗi lo sợ bị phán xét về tội con người.
Theo ý số đông trên mặt đất này, có đầy những sự xấu xa, nếu chỉ gán tội cho loài người thôi thì thật bất công, phải tin rằng còn có ma quỷ ném đá dấu tay đã gây ra tội lỗi nữa. Sự hỗn độn của nhân loại được chia thành nhiều loại: loại người ăn nhậu nhồi nhét quá lẽ một bên, loại đói ăn túng cực một bên. Đó không phải do Thiên Chúa Cha dựng nên, cũng không phải hoàn toàn do con người tổ chức thiết kế những thứ ô nhục đó. Cần phải nhìn nhận rằng có hàng triệu người thiện chí hoạt động, tổ chức lấy lại quân bình phân chia của cải vũ trụ, tuy có vô ích.
Thật bất công tin rằng tính dã man do lòng dạ con người bình thường sinh ra, khi thấy nhiều người sống trên hành tinh này ném hàng tấn bom lân tinh xuống dân lành mà lương tâm lầm lạc của họ vẫn bình an. Nhận có tội lỗi, chính là tin có một Thiên Chúa có thể giải thoát chúng ta khỏi thế lực quỷ dữ mà con người không thể tự giải thoát được. Đức tin đòi chúng ta liên tục cầu nguyện xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tay quỷ dữ. Không có Thiên Chúa, chúng ta liều mình bị quỷ dữ ám hại đời đời.
J.G
Suy Niệm 5: Đừng “chụp mũ” nhau như thế
Có một tu sĩ đảm trách công việc mục vụ bệnh nhân Sida. Tuy nhiên, do sơ xuất, ngài đã bị nhiễm căn bệnh thế kỷ này qua người bệnh trong khi chăm sóc họ. Nhưng thật trớ trêu, thay vì được mọi người nâng nỡ, khích lệ, thì họ lại bàn tán, gán ghép những chuyện không mấy tốt đẹp cho vị tu sĩ nhiệt tình vì sứ vụ này!
Đây cũng chính là căn bệnh truyền kiếp ở mọi thời, đó là, người ta không thích ai, hay ai đó uy tín hơn mình, thì họ sẵn sàng dùng đến biện pháp nói hành, hay chụp mũ để hạ gục đối phương!
Hôm nay, Đức Giêsu cũng rơi vào tình trạng trên khi bị dân chúng chụp cho Ngài thứ mũ hết sức đê hèn như:
Ngài trừ được quỷ là do liên minh với quỷ khi nhân danh tướng quỷ để trừ quỷ!
Tại sao họ lại vu khống và nói hành Đức Giêsu như vậy?
Thưa chỉ vì một chuyện rất đơn giản, ấy là: Đức Giêsu ngày càng uy tín trước mặt dân chúng vì những việc tốt đẹp và lời dạy khôn ngoan của Ngài, khiến dân chúng tôn vinh Ngài là một tiên tri vĩ đại. Vì thế, những Luật Sĩ và Phairisêu bối rối, hoang mang và sinh lòng ghen tuông, tức tối đối với Ngài.
Họ đã dùng đến trò thâm hiểm nhất để bêu rếu và mục đích nhằm hạ gục Đức Giêsu khi nói là Ngài “nhờ tướng quỷ để mà trừ quỷ”.
Khi gán cho Đức Giêsu như thế, họ muốn nói với dân rằng: Đức Giêsu là người thuộc về thế giới của ma quỷ. Khi Ngài đã thuộc về ma quỷ, thì lẽ đương nhiên không nên tin vào con người này cũng như những lời dạy dỗ của Đức Giêsu.
Đây là một phương pháp triệt hạ đối phương bằng cách đánh vào uy tín.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã đặt ngược lại vấn nạn với hai câu hỏi để lật tẩy trò đê hèn của chúng, Ngài hỏi: “Nếu Xatan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?”; và: “Nếu tôi dựa thế Bêendêbun mà trừ quỷ, thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ?”!
Khi hỏi như thế, Đức Giêsu một mặt cho thấy lý chứng của những Luật Sĩ và Pharisêu tự mâu thuẫn, khập khiễng, không ăn khớp với nhau, bởi vì cứ theo lập luận của họ, thì phải chăng một nước mạnh lại dùng chính kẻ mạnh để tiêu diệt kẻ yếu cùng đồng minh với mình hay sao? Hay nếu Quỷ Vương cho mượn quyền lực của hắn để tiêu diệt tay chân của hắn thì nước đó đã đến thời mạt vận?
Trong đời sống của chúng ta hôm nay nhiều khi rơi vào tình trạng của những Luật Sĩ và Pharisêu khi sử dụng những chiêu thức bỉ ổi là nói hành, nói xấu để bôi nhọ thanh danh tiếng tốt của anh chị em mình.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đứng về phía sự thật để trả lại cho anh chị em mình những giá trị đích thực, khi họ vì lòng yêu mến Chúa mà thi hành những bổn phận của họ để loan báo tình thương của Thiên Chúa cho mọi người. Đồng thời chúng ta biết cộng tác với nhau để làm cho triều đại của Thiên Chúa mau đến.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con trong Mùa Chay thánh này, luôn biết yêu thương, nâng đỡ nhau để cùng nhau loan truyền và làm chứng cho Chúa bằng đời sống bác ái, yêu thương. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Hãy nhìn nhau bằng đôi mắt của Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Để nhận ra triều đại của Thiên Chúa, phải thành tâm và có ý ngay lành. Hãy nhìn nhau bằng đôi mắt của Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, ngày xưa Chúa đã trở thành nạn nhân của lòng đố kỵ. Trước phép lạ trừ quỷ câm, Chúa được dân chúng ngưỡng mộ. Nhưng khi thấy Chúa thành công, một số người tỏ ra bực tức ghen tị. Sự ghen tị làm lòng người ra hẹp hòi, trí óc ra mù quáng và họ giải thích cách ngu xuẩn: “Ông ấy dựa vào quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ”.
Ngày hôm nay, nhân loại chúng con đang thoái hóa về tinh thần vì không biết nhìn nhau bằng tinh thần của Chúa. Tình thân ái nơi loài người đang đổ vỡ vì chúng con nhìn nhau bằng cặp mắt của Xa-tan, con mắt ích kỷ tị hiềm.
Xin Chúa dạy con biết cảm thông với anh chị em con: biết vui với người vui và nhất là biết buồn với người buồn. Xin đừng để con vui khi thấy anh chị em khổ, đừng để con mừng khi thấy anh chị em khốn khó. Đừng để con khó chịu khi thấy anh chị em thành công. Ngược lại, xin Chúa dạy con biết coi nỗi khổ của anh chị em là nỗi khổ của chính mình để con mau mắn giúp đỡ gỡ khó cho họ.
Lạy Chúa, xin dạy con biết nhìn nhau bằng ánh mắt của Chúa: luôn tôn trọng người khác, không khinh thị bất cứ ai, kể cả những người tội lỗi. Cái nhìn của Chúa đã biến đổi ông Giakêu thành người thực thi công bình bác ái. Cái nhìn của Chúa biến đổi Thánh Matthêu thành tông đồ cho Chúa. Cái nhìn của Chúa cũng biến đổi Thánh Phêrô từ kẻ chối Chúa thành người nâng đỡ đức tin cho anh em. Xin dạy con lối nhìn của Chúa để con biết nâng dậy những anh em vì hoàn cảnh đã đi xa đường lối Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta”.
Suy Niệm 7: Đức Giêsu trừ quỷ câm
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Việc Đức Giêsu trừ quỷ câm là nguyên cớ sinh ra cuộc tranh luận giữa phe chống đối gồm các luật sĩ, biệt phái với Đức Giêsu. Qua phép lạ trừ quỉ, Đức Giêsu chứng tỏ Ngài là Đấng Cứu Thế đến giải thoát dân khỏi ách thống trị của Satan. Từ sự kiện này, đáng lẽ người Do thái nhận ra ánh sáng của Thiên Chúa, nhận ra uy quyền nơi Đức Giêsu, nhưng họ lại cắt nghĩa phép lạ theo một ý lệch lạc. Họ nói Đức Giêsu dùng quỉ vương mà trừ quỉ con, chỉ vì ghen tương và cố chấp. Họ không nhận ra vương quyền của Đức Giêsu. Chính do thái độ cố chấp ấy, họ sẽ phải chịu trách nhiệm và chịu xét xử.
2. Đức Giêsu đã rao giảng và đã thực hiện những dấu lạ khắp nẻo đường Palestin: Ngài đã chữa người bại liệt để chứng minh Ngài có quyền tha tội. Hôm nay Đức Giêsu lại chữa người bị câm do quỉ ám... Tất cả chứng tỏ quyền năng thánh linh của Ngài. Nhưng một số người đã nghe Chúa giảng, đã thấy phép lạ tỏ tường không tin nhận Chúa lại còn cho rằng Ngài dùng quyền năng của tướng quỉ mà trừ quỉ con. Nhưng Đức Giêsu đã khẳng định: Ngài lấy quyền từ Thiên Chúa. Ngài mạc khải rõ sứ mạng của Ngài khi Ngài dùng quyền năng Thiên Chúa mà trừ quỉ, bảo vệ bênh vực con người, cứu chúng ta khỏi ách thống trị của ma quỉ và tội lỗi.
3. Thật vậy, Đức Giêsu là Thiên Chúa, Ngài đã dùng quyền năng mà trừ quỉ câm, dân chúng thấy vậy thì hết sức khâm phục Ngài; còn những kẻ cứng lòng tin lại cho rằng Ngài lấy quyền đầu mục quỉ mà trừ quỉ, họ không hiểu rằng nếu quỉ mà trừ quỉ thì chúng đã chia rẽ nhau và như thế sẽ phải tiêu vong, bởi vì “chia rẽ là chết”. Như vậy, nếu Đức Giêsu dùng quyền năng cao cả của mình để khử trừ ma quỉ, thì tức là Ngài mạnh hơn quỉ, chiến thắng ma quỉ, do đó ai tin theo Ngài sẽ được cứu thoát khỏi mọi sự dữ; ai tin theo Ngài sẽ cùng Ngài cộng tác để tiêu diệt các mưu mô độc hại của ma quỉ, của thế gian, của xác thịt, và đem nhiều linh hồn về cho Nước Chúa. Còn ai không tin theo Ngài tức là chống đối Ngài, là tự phân tán và như thế dẫn tới cái chết.
4. Tội ngoan cố là thế nào?
Tội ngoan cố là khi thấy rõ con đường Chúa chỉ dạy nhưng vẫn cố tình không đi theo, tuy thấy rõ sai lầm của mình nhưng vẫn cố tình không chịu sửa. Người ngoan cố kể như “hết thuốc chữa”.
Bởi vậy Đức Giêsu nói đó là tội chống Chúa Thánh Thần và là tội duy nhất Thiên Chúa không tha. Chúa sẵn sàng tha nếu ta yếu đuối, Chúa sẵn sàng tha nếu ta sai lầm. Nhưng Chúa không tha nếu ta ngoan cố.
4. “Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta”.
Đứng trước Đức Giêsu, con người phải có thái độ hoặc tin nhận hoặc từ chối. Đó cũng là thái độ mà người Kitô hữu chúng ta phải có đối với Đức Giêsu.
Đây là một sự lựa chọn dứt khoát cho chúng ta, là Kitô hữu, chúng ta không thể cứ sống cách nửa vời. Việc sống đức tin là có hoặc không? Chọn Chúa hay theo Satan; sống theo giáo lý và lề luật đạo, hay thỏa hiệp với thế gian xác thịt..? Chứ không thể bắt cá hai tay, đạo nào cũng muốn mà đời cũng muốn.
- Không thiếu những người, đạo cũng muốn giữ mà cứ để mình sống trong tình trạng hôn nhân bất hợp pháp.
- Làm người tu cũng muốn mà tình lứa đôi cũng không dứt bỏ dứt khát, khấn nghèo khó mà lại sống trưởng giả.
- Có những người đạo cũng muốn giữ mà vẫn thề thốt để được “kết nạp” và giữ được những cái nọ cái kia...
5. Bài Tin Mừng hôm nay thúc giục chúng ta vững tin vào uy quyền của Thiên Chúa. Thế lực của ma quỉ tuy mạnh mẽ nhưng quyền năng của Thiên Chúa còn mạnh mẽ hơn. Đức Kitô đã dùng cái chết và sự sống lại của Ngài để chiến thắng Satan, Ngài đã trở thành lá cờ đầu để chúng ta đi theo. Hãy gia nhập vào cộng đoàn những kẻ theo Ngài, và hãy vững tin rằng nếu chúng ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài.
6. Truyện: Mưu mô ma quỉ.
Ngày xưa có một con qủi hiện về báo cho người đàn ông biết là gã sắp chết. Nhưng nó lại bảo gã rằng nó có thể cứu gã nếu gã chịu làm một trong ba điều sau: một là giết tên đầy tớ của gã, hai là gã đánh đập vợ, ba là gã hãy uống rượu.
Gã kia nghĩ: Ta không thể giết tên đầy tớ trung thành, đánh vợ thì vô lý quá, vậy ta uống rượu. Rồi gã lấy rượu uống. Đến chừng say quá, gã đánh vợ, tên đầy tớ nhào vô can bị gã cho một dao chết tươi (Trích “Phúc”).
Suy Niệm 8: Ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc Cựu Ước nói đến sự cứng đầu cứng cổ của dân Israel: Thiên Chúa dẫn đường chỉ lối cho dân để họ được hạnh phúc. Thế nhưng họ đã chẳng nghe theo. Thiên Chúa lại sai các ngôn sứ đến nhắc nhở họ. Nhưng họ vẫn không nghe.
2. Thời Chúa Giêsu, thái độ ngoan cố ấy vẫn tiếp tục: khi Chúa Giêsu làm phép lạ trục xuất quỷ câm khỏi người bị nó ám, lẽ ra người ta phải hiểu đó là dấu chỉ rằng Nước Thiên Chúa đã đến. Nhưng những người biệt phái lại không muốn hiểu như vậy, họ còn cố tình xuyên tạc rằng Ngài đã dùng thế lực của quỷ vương để trừ quỷ nhỏ. Tin Mừng Mát-thêu (Mt 12, 22-32) coi đây là tội chống Thánh Thần và là tội duy nhất không được tha. Bởi vì nếu do yếu đuối hay sai lầm mà phạm tội thì dù tội có nặng hay nhiều đến đâu đi nữa Thiên Chúa vẫn rộng lượng tha thứ. Còn kẻ ngoan cố đã thấy sự thật nhưng cố tình không nhìn nhận, lại còn xuyên tạc cho nên họ không được tha. Nói đúng ra, họ không được tha vì họ không muốn được tha.
B. Suy Niệm (...nẩy mầm)
1. Tội ngoan cố là tuy thấy rõ con đường Chúa chỉ dạy nhưng vẫn cố tình không đi theo, tuy thấy rõ sai lầm của mình nhưng vẫn cố tình không chịu sửa. Người ngoan cố kể như “hết thuốc chữa”. Bởi vậy Chúa Giêsu nói đó là tội chống Thánh Thần và là tội duy nhất Thiên Chúa không tha. Chúa sẵn sàng tha nếu ta yếu duối, Chúa sẵn sàng tha nếu ta sai lầm. Nhưng Chúa không tha nếu ta ngoan cố.
2. Ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần rất hữu ích và quan trọng. Nhưng có lẽ quan trọng hơn nữa là con người có nghe theo ơn soi sáng đó hay không. Hằng ngày, Chúa Thánh Thần ban cho ta biết bao ơn soi sáng, nhưng ta nghe theo được mấy lần ?
3. Nguỵ biện là thấy rõ sự thật nhưng cố ý giải thích sai đi cho hợp với sở thích. Người nguỵ biện tưởng rằng nhờ ngụy biện mình sẽ được sống thoải mái, nhưng thực ra họ tự hại chính mình. Chúa Giêsu đã nói “Sự thật mới giải thoát”.
4. Một cô gái biện hộ cho việc mình đến những nơi giải trí khả nghi: “Tôi nghĩ một người công giáo có thể đi bất cứ đâu”. Bạn cô đáp: “Tất nhiên, nhưng lời bạn làm tôi nhớ một chuyện: lần đó, tôi và một số người đến thăm một mỏ than. Một cô gái mặc bộ đồ trắng đẹp. Cô hỏi người hướng dẫn: - Tôi có thể mặc đồ trắng xuống hầm mỏ không ? - Được, không có gì ngăn cản cô mặc áo trắng xuống đó, nhưng điều đáng ngại là khi trở lại, áo cô không còn trắng nữa (Góp nhặt).
Suy Niệm 9: Kitô-hữu đích thực phải giống Chúa Giêsu
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Qua bài Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy sự cố chấp của những người luật sĩ và Pharisêu đã lên tới mức độ thật cao. Trước một sự thật ai cũng thấy: Chúa vừa chữa lành một người bị quỉ câm ám hại, mọi người đều thấy phấn khởi…, vậy mà những người luật sĩ và Pharisêu lại cố tình muốn bẻ cong sự thật… Đây là tội ngoan cố. Tội ngoan cố là tội tuy thấy rõ con đường Chúa chỉ dạy nhưng vẫn cố tình không đi theo, tuy thấy rõ sai lầm của mình nhưng vẫn cố tình không chịu sửa. Tội ngoan cố là tội kể như “hết thuốc chữa”. Bởi vậy, đã có lần Chúa gọi tội đây là tội chống lại Chúa Thánh Thần và là tội duy nhất Thiên Chúa không tha. Chúa sẵn sàng tha nếu ta yếu đuối, Chúa sẵn sàng tha nếu ta sai lầm. Nhưng Chúa không thể tha nếu ta ngoan cố.
Thánh Macariô tu hành ở Ai-Cập, lần kia gặp một chiếc đầu lâu của người chết, ngài mới hỏi:
- Cái sọ này của ai ?
Cái sọ trả lời: - Thưa cha, cái sọ này là của một ngoại giáo.
Thánh Macariô hỏi thêm: - Linh hồn mày hiện giờ ở đâu ?
Cái sọ trả lời:
- Thưa cha, linh hồn tôi ở dưới hỏa ngục, vì khi còn sống, thấy giữ đạo phải hy sinh nhiều quá, nên tôi không chịu trở lại.
Thánh Macariô lại hỏi:
- Hỏa ngục có sâu lắm không ?
Cái sọ trả lời: - Thưa cha, hỏa ngục sâu lắm, sâu bằng khoảng cách giữa trời và đất.
Thánh Macariô hỏi tiếp:
- Dưới hỏa ngục, có ai khổ hơn mày nữa không ?
Cái sọ trả lời: - Có các người Do Thái, đã cố chấp không chịu tin Chúa mặc dầu đã xem thấy bao nhiêu phép lạ Chúa làm.
Thánh Macariô lại hỏi thêm:
- Dưới hỏa ngục, còn ai khổ hơn người Do Thái không ?
Cái sọ trả lời:
- Có những người Công giáo xấu, đã giày đạp lên lòng thương xót Chúa đã đổ máu ra cứu chuộc họ. Rồi cái sọ nói thêm: “Còn phần cha, cha hãy lợi dụng lòng thương xót Chúa nghĩa là hãy sử dụng ơn Chúa cũng như hãy lợi dụng thời giờ Chúa ban mà lập công phúc, để khỏi phải khổ cực dưới hỏa ngục, nhưng được vinh hiển trên Trời”
Vâng, chúng ta hãy biết lợi dụng lòng thương xót của Chúa để lập thêm công phước, phải lợi dụng lòng thương xót của Chúa để xin ơn tha thứ như vậy.
2. Chúa nói: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán” (Lc 11, 23).
Đi với Chúa là chọn Chúa, là đứng về phía của Chúa. Nhưng làm cách nào biết rằng, chúng ta đã thực sự chọn Chúa và đứng về phía Chúa.
Chúng ta hãy nghe lời giải thích của Mirjana, cô gái được chính Đức Mẹ hiện ra dạy bảo tại Mễ Du. Khi người ta hỏi cô:
- Bằng cách nào chúng ta chọn Chúa Giêsu ?
Cô trả lời:
- Đức Mẹ nói rằng: muốn chọn Chúa Giêsu, ta phải nên giống Chúa. Nhiều người cho mình là tín hữu nhưng lại sống như người ngoại đạo. Kitô hữu chân chính phải là người được Kitô-hóa. Một người Kitô-hữu đích thực phải giống Chúa Giêsu.
Và khi được hỏi:
- Nên giống Chúa Giêsu như thế nào ?
Cô nhắc lại lời Đức Mẹ dạy:
- Chúa Giêsu là đường đi, là sự thật và là ánh sáng cho cuộc sống chúng ta. Đường đi thì đã được vạch rõ trong Kinh Thánh. Còn sự thật thì nằm ở cả trong Kinh Thánh và trong Giáo Hội. Ánh sáng thì từ Thiên Chúa mà đến cho những ai trung tín.
Mẹ luôn xin các con cái của Mẹ hãy đọc Sách Thánh, có như vậy ta mới biết về Thiên Chúa. Vì thế, Đức Mẹ xin những ai nói mình là tín hữu hãy sống cuộc sống của Chúa Giêsu như khi Chúa sống ở trần gian. Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta con đường về Thiên Đàng. Cuộc đời của Ngài là mẫu mực cho các tín hữu noi theo. Nếu tín hữu sống theo mẫu mực đó, họ sẽ là những môn đệ trung thành của Tin Mừng. Đời sống của họ sẽ nêu gương cho thấy có một vị Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chăm sóc dưỡng nuôi ta, đỡ nâng ta trong hết mọi sự. Nhưng Mẹ cũng không quên nhắc: “ngày nay, có nhiều người đã quên, nhiều người đã chọn lựa những điều phù phiếm mau qua, nhiều kẻ không hề quan tâm tới chân lý, chỉ biết say mê những lạc thú trần gian, trí khôn đâm mù tối và sống co rút lại trong ích kỷ”.
Cha Gioan Maria Vianney nói: “Chẳng có gì làm cho chúng ta nên giống Chúa bằng cách vác lấy Thánh Giá của Người. Đẹp thay bao linh hồn biết kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu qua việc yêu mến Thánh Giá của Ngài! Cha thật không tài nào hiểu được một Kitô-hữu mà không yêu mến và chạy trốn Thánh Giá! Như vậy, chẳng phải chúng ta đang chạy trốn Chúa Giêsu, Đấng đã hạ mình xuống ôm chặt lấy Thánh Giá, và chịu chết cho chúng ta sao ?
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Ước gì khi sống như thế, con giống Chúa hơn. Amen.
23/03 Chu toàn lề luật
- Viết bởi Mt 5, 17-19
Chu toàn lề luật.
Thứ Tư tuần 3 Mùa Chay.
“Ai giữ và dạy người ta giữ, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời”.
Lời Chúa: Mt 5, 17-19
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng tưởng Ta đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành.
Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Kiện toàn
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Vào thời Tin Mừng Mátthêu được viết, các người Do thái thuộc Hội Đường
thường chỉ trích các người Do thái đã tin vào Đức Giêsu Kitô,
coi họ như những người đã bỏ Luật Môsê, bỏ cái cốt lõi của Do thái giáo.
Đức Giêsu của Mátthêu đã bác bỏ lối hiểu sai này.
“Thầy không đến để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn” (c. 17).
Kiện toàn là đưa Luật Môsê đến chỗ thành tựu, hoàn hảo,
bởi lẽ nó có những hạn chế, bất toàn,
do Thiên Chúa phải nương theo trình độ lúc đó của Dân Ngài.
Kiện toàn là giải thích lại Luật Môsê theo đúng ý Thiên Chúa.
Chẳng ai biết Ý Thiên Chúa Cha bằng Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Hơn ai hết, Đức Giêsu có quyền nói lên ý nghĩa mới mẻ của Lề Luật.
Có một dòng chảy liên tục trong khoa sư phạm của Thiên Chúa.
Ngài huấn luyện Dân Ngài qua Môsê và các ngôn sứ trong lịch sử.
Đỉnh cao nhất là Đức Giêsu, Đấng vén mở trọn vẹn ý định của Thiên Chúa.
Đức Giêsu không phá những công trình đi trước, ngài kiện toàn.
Lời giáo huấn của Ngài vừa liên tục với,
vừa vượt qua Giao Ước thứ nhất còn khiếm khuyết.
Vượt qua về chiều rộng,
khi Ngài mời ta đi xa hơn chuyện không được giết người,
mà còn không được có hành vi, lời nói giận ghét anh em (Mt 5, 22).
Vượt qua về chiều sâu,
khi Ngài đòi ta không được giữ Luật kiểu giả hình bên ngoài,
nhưng phải khởi đi từ trái tim, từ cái tâm bên trong (cc. 27-28),
khi Ngài đưa ra những đòi hỏi tận căn trước đây chưa hề có
về việc chẳng những không được trả thù mà còn yêu kẻ thù (cc. 38-48).
Mọi lề luật đều qui về điều răn chính yếu là yêu thương.
Phải yêu như Cha trên trời mới trở thành con cái Cha (c. 45).
Đức Giêsu mời chúng ta nghiêm túc giữ Luật Môsê đã được Ngài kiện toàn.
Luật ấy là lời giáo huấn của Ngài mà các môn đệ đã nghe.
Con người thời nay thích tự do nên dị ứng với luật lệ.
Nhưng giữ luật không phải là chuyện của nô lệ hay trẻ con.
Khi tránh được thói nệ luật, cứng nhắc bám vào mặt chữ,
ta có thể giữ luật như cách biểu lộ hồn nhiên tình yêu với Chúa và tha nhân.
Trung tín với những đòi hỏi nhỏ bé của các điều răn chỉ vì yêu,
và “dạy người ta mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 20),
đó là con đường dẫn đến hạnh phúc mai sau cho người môn đệ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự:
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao. Amen.
Suy Niệm 2: Hoàn thiện lề luật
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu cư xử như một người tự do, phóng khoáng với lề luật. Người ta nghĩ rằng Chúa Giêsu đến phá hủy lề luật. Nhưng Người tuyên bố rõ ràng: “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” lề luật.
Người kiện toàn bằng xác định thứ tự cho lề luật. Luật Do thái nhiều vô kể. Nhưng điều răn lớn nhất là mến Chúa và yêu người. “Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 28-31).
Một trật tự khác: Luật Thiên Chúa phải trọng hơn luật của loài người. (x. Matthêu 15, 1-9). Không được “dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa”.
Người kiện toàn bằng đưa lề luật vào nội tâm. Phải rửa bên trong để bên ngoài cũng được sạch (Mt 23, 25-26). Ăn chay cầu nguyện và bố thí phải làm cách kín đáo (x. Mt 6, 1-6.16-18). Ý hướng là quan trọng. Vì thế, chưa giết người, nhưng giận ghét đã là có tội; chưa ngoại tình, nhưng trong lòng ham muốn thì đã là phạm tội (x.Mt 5, 21-30).
Người kiện toàn lề luật bằng đề cao con người. Điển hình là luật nghỉ ngày Sabat. Chúa đã đưa ra định hướng cho luật này: “Ngày Sabat vì con người chứ không phải con người vì ngày sabat” (Mc 2, 27). Vì thế, ngày sabat để cứu sống con người, để giải thoát con người, để làm điều tốt cho con người. (Mc 3, 1-6)
Người kiện toàn bằng hướng lề luật đến tình yêu. Người Do thái giữ luật vì sợ bị phạt. Chúa Giêsu dạy ta hãy giữ luật vì tình yêu mến. Và tóm tắt mọi luật lệ vào luật mới là yêu thương: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Tình bác ái quan trọng vì Chúa hóa thân làm người nghèo. Và trong ngày tận thế chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu.
Kiện toàn lề luật, Chúa Giêsu đổi mới cách sống đạo. Sống đạo không còn là hình thức, nhưng là tâm tình bên trong. Tâm tình đó hướng về Thiên Chúa trong tình yêu mến. Vì yêu mến nên giữ lề luật. Và cũng vì yêu mến Thiên Chúa, nên yêu mến con người. Việc giữ đạo như thế trở nên nhẹ nhàng, tự do, tự nguyện, nhưng lại đưa việc giữ lề luật đến mức hoàn hảo.
Suy Niệm 3: Chu toàn lề luật
Vào một ngày thứ sáu buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá, nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh gọi những món cá mà anh biết chủ quán sẽ trả lời là không có. Rồi anh tự nhủ: “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có, thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy”. Cầu nguyện xong, anh thi hành liền. Anh đã tự tạo ra những lý do, những hoàn cảnh để có thể khỏi lỗi luật Chúa.
Nếu không có lòng yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ dễ tạo ra những cách để tự an ủi và chuẩn miễn khỏi phải tuân giữ luật Chúa, hoặc giải thích lời Chúa theo sở thích riêng.
Bài Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta về việc tuân giữ luật Chúa. Những lãnh đạo tôn giáo Do thái thời Chúa Giêsu hơn ai hết là những người bảo tồn luật Chúa trong lời dạy của Môsê và các tiên tri. Nhưng những đổi thay lịch sử đặt ra những vấn nạn mới và thôi thúc họ giải thích và áp dụng luật Chúa vào hoàn cảnh mới. Tinh thần vụ hình thức đã làm cho họ lạc đường đến nỗi đã bị Chúa Giêsu trách là giả hình.
Chúa Giêsu đến không phải để huỷ bỏ nhưng để kiện toàn lề luật và các tiên tri. Ngài kêu gọi các môn đệ tuân giữ luật Chúa với một tinh thần mới, với một dấn thân để sống trọn vẹn sứ điệp của Ngài. Tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã nhắn nhủ:
“Ngôi Lời đã nhập thể và Chúa Cha đã phán: “Đây là Con Ta yêu dấu và đẹp lòng Ta, hãy nghe lời Ngài”. Ngài là sự sống, con chỉ sống bằng tinh thần của Ngài. Ngài là sự thật, con chỉ tin lời dạy của Ngài. Ngài là Đường, con chỉ theo bước chân Ngài. Có thứ Công giáo vụ lợi, có thứ Công giáo lý lịch, có thứ Công giáo xu thời, có thứ Công giáo giải nhiệt, Chúa chỉ chấp nhận hạng Công giáo 100% đã bỏ mọi sự mà theo Ngài. Hội thánh có nhiều khuyết điểm và gương xấu, nhưng Hội thánh có lời hứa của Chúa. Hội thánh là một phép lạ liên lỉ. Nhưng đừng vì thế mà phơi bày khuyết điểm và gương xấu cho mọi người. Hãy làm thế nào để tư tưởng lời nói hành động của con khiến người ta phản ứng: con người này đã say mê cuốn sách Phúc âm, đã bị lôi cuốn bởi lý tưởng cuộc đời Chúa Giêsu.”
Trong những ngày canh tân đời sống này, xin Chúa cho chúng ta một ý chí mạnh mẽ, một xác tín sâu xa, nhất là thật nhiều ơn Chúa để trung thành với ơn gọi của mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Trung tín giữ điều nhỏ nhất
“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. (Mt. 5, 17-18)
Ý Thiên Chúa và sách thánh đã viết ra đều phải được kiện toàn. Cho nên Đức Giê-su nói: “Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn”. Điều mới Đức Giê-su thực hiện, không hoàn toàn khác biệt, mà là kiện toàn luật đã có. Lề luật và lời các tiên tri viết về mặc khải của Thiên Chúa, không phải đã hoàn tất. Ý Thiên Chúa tỏ ra qua lề luật và lời tiên tri được bày tỏ dần dần cho đến thời Đức Giê-su ngự đến.
Lề luật và lời các tiên tri có một ý nghĩa mới nhờ mặc khải của Đức Giê-su Ki-tô. Chính Đức Giê-su đã tuyên bố chắc chắn về những mặc khải cuối cùng của Thiên Chúa, Người đã kiện toàn mặc khải cho chúng ta từ nay cho tới mãi mãi. Sự kiện toàn này của Đức Giê-su không cho phép quay lại quá khứ do loài người đặt ra như Mô-sê cho phép rẫy vợ, như cấm chữa bệnh trong ngày Sa-bát. Sự kiện toàn này của Đức Giê-su không cho phép chỉ làm những điều luật đã viết trước đó.
Luật tiếp tục tồn tại, nhưng được kiện toàn những gì luật còn thiếu sót cho đến khi Đức Giê-su kiện toàn lần chót. Sự kiện toàn bắt đầu mặc khải từ khi Chúa Giê-su giảng dạy vì Người là lời Thiên Chúa. Đức Giê-su không phải chỉ kiện toàn lề luật bằng lời dạy, mà còn bằng chính bản thân Người, bằng chính đời sống Người, bằng chính sự nhập thể và cuộc đời tại thế của Người.
Chúng ta phải giữ những điều răn nhỏ mọn nhất với quyết tâm cam kết toàn diện con người chúng ta, với tình yêu mến hảo hạng. Như vậy mới giải thoát chúng ta khỏi mọi kiêu căng của lòng trí, khỏi thứ trí thức tôn giáo hay khỏi cái lối thuần túy giữ “đạo tại tâm”, bỏ lơ, trễ nải với lối sống giữ đạo khiêm tốn hiện tại thường ngày.
Chúng ta biết quan tâm giữ cặn kẽ những điều nhỏ mọn, thì chúng ta được đánh giá để xếp hạng trong nước trời, không phải chúng ta được đánh giá theo ý tưởng, hay theo khuynh hướng bản thân, theo tính tình mỗi người … mà theo toàn bộ, toàn bộ trao phó cho chúng ta tất cả những điều nhỏ nhất, tất cả đều quan trọng đối với nước trời.
J.M
Suy Niệm 5: “Ta đến không phải để phá hủy, nhưng để kiện toàn
Thánh Gioan Bosco nói với các môn sinh của ngài rằng: “Hãy trung thành giữ luật, luật sẽ gìn giữ con”.
Thật vậy, lề luật nó như cái bản lề để giúp cho cánh cửa cuộc đời được đứng vững.
Chính Đức Giêsu đã trung thành giữ luật cách yêu mến và trung thành. Chỉ khi nào luật không làm cho con người ta tốt hơn, mà ngược lại, nó đè bẹp con người, thì lúc đó Ngài lên tiếng chống đối.
Hai lối hiểu và hai cách giữ luật khác nhau, nên những nhà lãnh đạo Dothái và Đức Giêsu có sự đối kháng kích liệt. Họ cho rằng Đức Giêsu đến để bãi bỏ lề luật, còn Đức Giêsu thì khẳng định: “Các người đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ các lề luật hay các tiên tri. Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn”.
Nói cách khác, Đức Giêsu vẫn rất tôn trọng luật Cựu Ước, mà cụ thể là trong Ngũ Kinh, vì ở đó chứa đựng ý muốn và lệnh truyền của chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhiều lúc, vì họ đã giữ luật theo kiểu mặt chữ, nên không còn tình thương, lòng mến, và luật đã trở thành phương tiện cho người ta hà hiếp, bóc lột và kết án nhau.
Khi phản đối lối gán ghép tội của các Luật Sĩ và Pharisêu gây ra cho mình, Đức Giêsu khẳng định không những không phá bỏ, mà còn kiện toàn và làm cho luật trở nên nhân nghĩa hơn.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta rằng: hãy biết giữ luật trong lòng mến. Trung thành yêu mến luật vì nơi đó Thiên Chúa tỏ bày thánh ý của Ngài. Tuy nhiên, giữa việc giữ luật và đời sống phải đi đôi với nhau. Không thể sống theo kiểu “ngôn hành bất nhất” như Luật Sĩ và Pharisêu, vì họ dùng luật của Chúa để triệt hạ nhau khi luật của Chúa đã bị bóp méo.
Lạy Chúa Giêsu, luật của Chúa là luật vì con người và hạnh phúc của nhân loại. Xin Chúa ban cho chúng con biết yêu mến và thi hành luật ấy cách trung thành trong lòng mến Chúa và yêu người. Xin cho chúng con đừng vì luật mà cứng ngắc với anh chị em mình khi chúng con rơi vào tình trạng giả hình, chỉ câu nệ vào những hình thức bên ngoài mà quên đi những cái chính yếu bên trong. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Tuân hành Thánh Ý Thiên Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thánh Ý Thiên Chúa là điều quan trọng, không gì nhỏ bé tầm thường. Chúa Giêsu đến chính là để được thực hiện Thánh Ý Thiên Chúa và các lời Thiên Chúa hứa trong Cựu ước. Ta cũng cần coi trọng và tuân hành Thánh Ý Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, đôi lúc con có cảm tưởng Chúa thường phản ứng chống lại lề luật. Chúa phê bình việc giải thích và cách giữ luật của người biệt phái. Chúa lên án lối sống hình thức của họ. Nhưng càng nhìn ngắm Chúa và suy gẫm Phúc âm, con càng thấy rõ Chúa không chống đối lề luật, không bãi bỏ lề luật, mà Chúa đến để chu toàn lề luật và làm cho lề luật được kiện toàn, vì luật của Môi-sê cũng chính là luật của Thiên Chúa. Chúa phục tùng luật Môi-sê vì Chúa muốn phục tùng Ý Chúa Cha.
Lạy Chúa, xin cho con biết noi gương Chúa mà tôn trọng luật Thiên Chúa và luật Giáo Hội. Qua lề luật, xin cho con biết nhận ra ý Chúa muốn con làm gì. Đời sống của Chúa là cuộc đời thánh thiện vì Chúa luôn chu toàn ý muốn của Chúa Cha. Xin Chúa cũng giúp con nên thánh bằng cách hy sinh ý riêng để tuân theo Ý Chúa, trung thành vâng giữ luật Chúa.
Lạy Chúa, vì xu hướng tự nhiên, con vẫn thích phá bỏ lề luật để sống tự do buông thả. Nhưng trong đức tin, con cảm tạ Chúa đã ban lề luật cho con, vì nếu không có lề luật như những tấm bảng chỉ đường, chắc chắn con sẽ lạc hướng và rơi xuống vực sâu. Xin Chúa thương gìn giữ con.
Con cũng xin Chúa giúp con biết tín nhiệm vào Chúa đang dẫn dắt Hội Thánh, để con khiêm tốn vâng theo sự chỉ dạy của Hội Thánh. Có những điều con không hiểu, có những điều con thấy lỗi thời, bảo thủ, khe khắt, nhưng xin Chúa giúp con biết đón nhận trong đức tin, ngay cả trong những điều nhỏ bé nhất. Và xin Chúa giúp tất cả chúng con động viên nhắc bảo nhau trung thành với luật Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ai giữ và dạy người ta giữ, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời”.
Suy Niệm 7: Hãy nghe Người
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Ngay từ thời xa xưa Thiên Chúa đã ban cho con người luật pháp. Nó phát triển và hoàn thiện dần trong lịch sử cứu độ. Công trình hoàn thiện luật theo một tiến trình phát triển được Chúa mạc khải sơ khởi phông nền với các tổ phụ, đặc biệt là Môisê qua 10 điều răn, được các ngôn sứ phát triển và chính Con Thiên Chúa - Đức Giêsu hoàn thiện bằng luật Kitô giáo: Tân ước. Tân ước là một chồi non làm sinh hoa kết trái nhưng được nuôi từ gốc và bằng nhựa của cây ô liu cũ tức “Cựu ước”, để làm cho cây sinh ra nhiều quả (x. Rm 11,17-24). Chính Đức Giêsu đã được loan báo và chuẩn bị cả ngàn năm mong đợi của dân Do Thái khi chờ đón Đấng Cứu Thế, Đấng đến cứu họ được tự do và để kiện toàn luật và lời các ngôn sứ đã loan báo trước làm hoàn thành toàn bộ Kinh Thánh với hai phần rõ rệt: Tân ước và Cựu ước.
Luật cũ cho ta ý niệm là dân được tuyển chọn phải sống qua mười điều răn, là những hướng dẫn con người cách thức mến Chúa và yêu Người bằng cách chỉ rõ thánh ý Chúa đối với thái độ và hành động trong đời sống thường nhật. Các kinh sư và biệt phái giữ luật rất đúng, nhưng giữ “luật vì luật” và kiên định tới mức trở thành câu nệ hình thức cứng nhắc, khắt khe: Luật là cứu cánh. Cách sống của họ trong tư cách bậc thầy và mô phạm làm cho mọi người nghĩ rằng đức công chính chỉ gói gọn trong việc chu toàn Lề Luật: Tất cả vì luật. Chúa Giêsu lên án cách giữ luật hình thức, vì thế biệt phái và luật sĩ đã liệt Ngài vào hạng tội lỗi, khi cho rằng Ngài có thái độ coi thường, bất tuân luật thánh, cụ thể trong việc giữ ngày Sabát (x. Lc 6,8-11; 13,14; 14,1-6; 6,1-2…), và các nghi thức thanh tẩy trước khi ăn (x. Lc 11,38). Họ cho rằng: Ngài muốn phá bỏ Lề Luật, nhưng Chúa Giêsu tuyên bố: “…đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môisê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17).
Chúa Giêsu kiện toàn thái độ và áp dụng tinh thần của luật là dẫn đến tình thương, cho nên luật của Đức Kitô hoàn thiện và “trội hơn” luật cũ. Khi Đức Giêsu đề nghị không chỉ sống theo luật mà còn sống theo luật với ân sủng và tình yêu cho nên luật vì con người. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta không dừng ở những việc làm vụ hình thức mà phải “công chính hơn” tới mức hoàn thiện: “Như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48): Luật pháp mà vượt qua luật, đi tới Tin Mừng (Phúc Âm) đem hạnh phúc tình thương cho con người. Bài giảng bát phúc trình bày tính vĩnh cửu của luật pháp mà Ngài hoàn thiện.
Xin Chúa thổi tình yêu vào cuộc sống chúng ta, để khi tuân giữ mọi giới răn đạo Chúa, mọi giáo huấn của Giáo hội, chúng ta giữ luật không chỉ vì sợ và tỏ lòng kính tôn, mà còn thực thi với tinh thần của Tình yêu.
Ý lực sống: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10).
Suy Niệm 8: Chúa đến kiện toàn Lề luật
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu chính là Đấng Kitô phải đến mà dân Israel đang mong chờ. Ngài đến để hoàn tất mọi lời Thiên Chúa hứa, và để kiện toàn Lề Luật. Ngài đến để đưa Lề Luật tới ý nghĩa trọn hảo. Kiểu nói: “Một chấm, một phết trong Luật cũng không thể qua đi” diễn tả tầm quan trong của Luật: đó là ý muốn của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã muốn dùng Lề Luật để giáo dục con người thì không có Luật gì là nhỏ bé tầm thường. Vì vậy, chúng ta chỉ đạt được sự sống đời đời khi trung thành tuân giữ luật Chúa và Lời Chúa. Chúng ta giữ luật không vì sợ tội, nhưng vì tình yêu. Trong tình yêu, càng cần sự tế nhị từ những điều nhỏ mọn.
2. Bất cứ quốc gia hay tổ chức lớn nhỏ nào trong xã hội loài người đề cần có luật, để giữ kỷ cương phép tắc, giữ trật tự an ninh và đảm bảo sự công bằng xã hội.
Ngay từ thời xa xưa, Thiên Chúa đã ban cho con người luật pháp. Nó phát triển và hoàn thiện dần trong lịch sử cứu độ. Luật cũ cho ta ý niệm là dân được tuyển chọn phải sống qua mười điều răn, lời các tiên tri, là những hướng dẫn con người cách thức mến Chúa và yêu người bằng cách chỉ rõ thánh ý Chúa đối với thái độ và hành động trong đời sống thường nhật.
Các luật sĩ và biệt phái giữ luật rất đúng, nhưng giữ “luật vì luật” và kiên định tới mức trở thành câu nệ hình thức cứng nhắc, khắt khe: Luật là cứu cánh. Cách sống của họ trong tư cách bậc thầy và mô phạm làm cho mọi người nghĩ rằng đức công chính chỉ gói gọn trong việc chu toàn lề luật: Tất cả vì luật.
Đức Giêsu lên án cách giữ luật hình thức, vì thế biệt phái và luật sĩ đã liệt Ngài vào hàng tội lỗi, khi cho rằng Ngài có thái độ coi thường, bất tuân luật thánh...
3. Thầy đến không phải là để bãi bỏ...”
Những lời Đức Giêsu nói về luật Cựu ước thực sự gây sốc nhất là đối với những người thượng tôn Lề Luật Maisen... Quả thật những lời Đức Giêsu dạy xem ra khó nghe và có vẻ như trái nghịch với luật cũ khiến một số người phản đối; nhưng xét cho cùng, đó không phải là Ngài phá đổ hay phế bỏ Lề Luật mà là Ngài kiện toàn nó.
Ngài đào sâu tận nguyên lý của Lề Luật và áp dụng vào hoàn cảnh mới của Tân Ước để thực hành đúng tinh thần của Lề Luật chứ không chỉ theo hình thức bên ngoài. Ta có thể dẫn chứng trường hợp ăn chay chẳng hạn: nhịn đói ít hôm, cúng dường... rồi sau đó bóc lột, ức hiếp ngươi nghèo khổ, thì hành vi ấy còn có nghĩa gì, nó lố bịch và chuốc thêm tội vào mình thôi... Như thế, Đức Giêsu chính là Maisen mới vì Ngài đến kiện toàn Luật Maisen và lời các tiên tri (5 phút Lời Chúa).
4. Việc kiện toàn ít nhất mang hai ý nghĩa.
Đức Giêsu đã đến kiện toàn Lề Lật và lời các tiên tri. Như vậy:
- Đối với Do thái, lề luật và tiên tri liên kết với nhau, nên việc kiện toàn của Đức Giêsu có nghĩa là Ngài thực hiện và đưa đến mức độ viên mãn những gì Thiên Chúa đã hứa trong Sách Thánh. Ngài là điểm đến và ứng nghiệm những gì chép trong Cựu Ước. Luật không bị mất hiệu lực một chấm một phẩy nào, nhưng đạt tới sự viên mãn nơi Đức Kitô và nhờ Đức Kitô.
- Từ nay trong Đức Giêsu, luật được tuân giữ với tinh thần tự do và yêu mến Chúa, chứ không phải là một sự bó buộc phải làm hay phải giữ. Từ nay luật mang lấy một diện mạo mới là luật vì sự sống con người chứ không phải kềm hãm con người theo mặt chữ.
Tóm lại, kiện toàn lề luật mà Đức Giêsu dạy chúng ta là không bãi bỏ luật nhưng mặc cho luật một tinh thần mới, nghĩa là vượt qua sự giữ luật cách tiêu cực để thi hành cách tích cực trong Đức Kitô: giữ luật không vì sự bó buộc phải làm mà là với cả sự tự do muốn làm vì lòng mến Chúa và tha nhân, biến luật từ việc kìm hãm bản thân thành sự thanh thoát thánh hóa bản thân, giữ luật không dừng lại ở sự thể hiện ở ngoài mà là cả một tâm hồn ngay thẳng và trong sạch.
5. Lề luật giúp cho con người nên thánh và trung thành với Chúa.
Lề luật giống như đường rầy giữ cho xe lửa chạy an toàn, hoặc như sợi dây cương giữ cho con ngựa chạy đúng hướng. Bị buộc sống và làm trong khung khổ của lề luật thì hơi khó chịu đấy. Nhưng ta hãy nghĩ đến lý do và mục đích của luật thì sẽ dễ vâng theo hơn. Hơn nữa, ai biết giữ luật vì tình yêu thì tất cả sẽ trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô chia sẻ một kinh nghiệm quí giá: “Ubi amatur, non laboratur: khi ta yêu thì ta không cảm thấy nhọc nhằn.
6. Truyện vui: Giữ luật hình thức.
Vào ngày thứ sáu buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá, nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh ta gọi những món cá mà anh ta biết chắc chắn chủ quán sẽ trả lời là không có.
Rồi anh tự nhủ: “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có, thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy”.
Cầu nguyện xong, anh thi hành liền. Anh đã tự tạo ra những lý do, những hoàn cảnh để có thể khỏi bị lỗi luật Chúa.
Suy Niệm 9: Tuân giữ lề luật theo tinh thần mới của Phúc Âm
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc Cựu Ước: Trước khi dân Israel vào Đất hứa, Môsê đọc cho dân nghe các lề luật Chúa. Ông căn dặn dân phải nhớ tuân giữ những điều luật ấy “để được sống và được vào chiếm hữu phần đất (mà Thiên Chúa đã hứa ban)”.
2. Bài trích Phúc Âm: Mặc dù Chúa Giêsu đến để thiết lập Luật mới, nhưng Ngài không huỷ bỏ luật cũ: “Ta không đến để huỷ bỏ (luật Môsê), mà để kiện toàn”.
3. Như thế, sứ điệp Lời Chúa hôm nay là bảo chúng ta hãy tuân giữ lề luật, theo tinh thần mới của Phúc Âm.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Lề luật giống như đường rầy giữ cho xe lửa chạy an toàn, hoặc như sợi dây cương giữ cho con ngựa chạy đúng hướng. Bị buộc phải sống và làm trong khuôn khổ của lề luật thì hơi khó chịu đấy. Nhưng ta hãy nghĩ đến lý do và mục đích của luật thì sẽ dễ vâng theo hơn. Hơn nữa ai biết giữ luật vì tình yêu thì tất cả sẽ trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô chia sẻ một kinh nghiệm quý giá “Ubi amatur, non laboratur” (khi ta yêu thì ta không cảm thấy nhọc nhằn).
2. Một điều nữa cần làm ngay trong mùa Chay là xét lại cách mình giữ luật: luật Chúa, luật Hội Thánh, luật của cộng đoàn v.v...
3. Về việc giữ luật, ta cũng có thể liên tưởng tới một lời dạy khác của Chúa Giêsu “Ai trung tín trong việc nhỏ thì sẽ trung tín trong việc lớn”. (Lc 161,10)
4. “Vào một ngày thứ Sáu buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh gọi những món cá mà anh biết chủ quán sẽ trả lời là không có. Rồi anh tự nhủ “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có. Thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy”... Nếu không có lòng yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ dễ tạo ra những cách để tự an ủi và chuẩn miễn khỏi phải tuân giữ luật Chúa, hoặc giải thích Lời Chúa theo sở thích riêng”. (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu mặc cho lề luật một tinh thần mới
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay bảo chúng ta hãy tuân giữ lề luật theo tinh thần mới của Tin Mừng.
1. Lề luật giống như đường ray giữ cho xe lửa chạy an toàn, hoặc như sợi dây cương giữ cho con ngựa chạy đúng hướng. Bị buộc phải sống và làm trong khuôn khổ của lề luật thì hơi khó chịu đấy. Nhưng ta hãy nghĩ đến lý do và mục đích của luật thì sẽ dễ vâng theo hơn. Hơn nữa ai biết giữ luật vì tình yêu thì tất cả sẽ trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô chia sẻ một kinh nghiệm quý giá “Ubi amatur, non laboratur” (khi ta yêu thì ta không cảm thấy nhọc nhằn).
Cách đây ít lâu, có một báo cáo về một trường hợp một thủy thủ thuộc hải quân hoàng gia Anh, bị phạt rất nặng vì vi phạm kỷ luật. Hình phạt nặng đến độ dư luận bên ngành dân chính cho rằng, quá khắt khe.
Nhưng một người từng phục vụ nhiều năm trong hải quân đã trả lời rằng, theo quan điểm ông ta, đó không phải là hình phạt quá nặng. Ông cho rằng, kỷ luật là một biện pháp tối cần thiết, vì mục đích của kỷ luật là khiến con người tự động vâng lệnh không thắc mắc và sự sống tùy thuộc vào sự vâng lệnh này.
Ông kể lại một kinh nghiệm riêng, trong một hải vụ, tàu của ông phải cẩu một chiếc tàu rất nặng đang khi biển động. Chiếc tàu hư được cột vào chiếc tàu ông bằng một sợi cáp. Thình lình, giữa cơn gió bão có lệnh của thuyền trưởng: “Xuống!”, tức khắc toàn thể thủy thủ phóng xuống hầm tàu. Ngay lúc đó, sợi dây cáp cột tàu bị đứt, quất xuống như một con rắn thép điên cuồng, trúng người nào thì người đó chắc chết ngay tại chỗ. Nhưng vì thủy thủ đoàn đã tuân lệnh, nên tất cả đều được thoát hiểm và an toàn. Nếu có ai dừng lại để tranh luận hay hỏi lý do, chắc người ấy đã chết. Sự vâng lời cứu mạng người. (WB).
Chúa Giêsu không hề chủ trương vô kỷ cương. Ngài đã từng tuyên bố: “Ta đến không phải để huỷ bỏ lề luật và các lời tiên tri, nhưng Ta đến để kiện toàn lề luật” (Mt 5,17). Ngài tuân giữ lề luật của Do Thái giáo. Nhưng, trong khi các luật sĩ, Pharisêu chỉ biết bám vào hình thức, thì Chúa Giêsu mặc cho lề luật một tinh thần mới. Ngài giữ chay và kêu gọi con người xé lòng chứ đừng xé áo. Ngài giữ ngày hưu lễ và kêu gọi con người thực thi bác ái. Ngài cảnh cáo những Pharisêu và luật sĩ khi họ cố tình bóp nghẹt tinh thần của lề luật. Ngài không ngần ngại lên án thái độ giả hình bên ngoài của họ bằng những lời rất nặng. Ngài ví họ như những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng bẩy nhưng bên trong thì thối tha.
2. Về việc giữ luật, ta cũng có thể liên tưởng tới một lời dạy khác của Chúa Giêsu: “Ai trung tín trong việc nhỏ thì sẽ trung tín trong việc lớn” (Lc 16,10).
Vào một ngày thứ sáu tuần thánh buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh gọi những món cá mà anh biết chủ quán sẽ trả lời là không có. Rồi anh tự nhủ: “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có. Thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy..”.
Nếu không có lòng yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ dễ tạo ra muôn ngàn cách để tự an ủi và miễn thứ cho mình khỏi phải tuân giữ luật Chúa, hoặc giải thích Lời Chúa theo sở thích riêng. (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
Chúng ta hãy nhìn lại một ít bài học trong Đạo để thấy rằng, có những con người rất can đảm. Họ thà chết còn hơn là lỗi luật Chúa.
* Xưa kia, Giuse con Giacob “thà chết” còn hơn là nghe theo lời đường mật, rồi sau đó là những lời đe dọa mà ngả vào vòng tay của người đàn bà xấu nết, là vợ quan Putipha.
* Bà Suzanna, cũng thà chết còn hơn là phạm luật Chúa trước những lời hăm dọa của hai lão mê dâm.
* Ông lão Aliazarô thà bỏ mạng sống còn hơn là nghe theo lệnh truyền của hoàng đế Antiocô mà ăn thịt trái luật Chúa.
* Ba thánh trẻ kia, sẵn sàng chịu thiêu trong đống củi chứ không chịu sấp mình trước tượng Nabucodonosor.
* Đaniel cũng thà chết còn hơn là bỏ việc thờ phượng Chúa dù việc đó làm cho Đaniel bị bỏ vào hang sư tử.
* Bảy anh em tử vì đạo đời Antiôcô cũng vì sợ mất lòng Chúa nên thà chết chẳng thà bỏ đạo.
* Tại Việt Nam ta ngày trước, nhiều tín hữu bị nhốt vào tù. Quan dạy đi ra hai cửa: sinh môn và tử môn. Ai qua “sinh môn” thì phải đạp ảnh. Những người bị giam đều qua “tử môn” có quân lính trực sẵn, hễ ai bước qua thì chém đầu.
* Trên đồi Dã Viên, đời cấm đạo, giáo hữu phải giam trong cũi, nhịn khát mấy ngày bên bờ sông Hương. Ai đạp ảnh mới được uống nước. Các đấng thà chết khát...
Người Công giáo thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa, bỏ nghĩa vụ.
22/03 Tha thứ bắt chước Thiên Chúa Cha
- Viết bởi Mt 18, 21-35
Tha thứ bắt chước Thiên Chúa Cha.
Thứ Ba tuần 3 Mùa Chay.
“Nếu mỗi người trong chúng con không tha thứ cho anh em, thì Chúa Cha cũng không tha thứ cho chúng con”.
Lời Chúa: Mt 18, 21-35
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?”
Chúa Giêsu đáp: “Ta không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy. Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ.
Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả”. Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.
Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc. Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: “Hãy trả nợ cho ta”. Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh”. Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện.
Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?” Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.
Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hết lòng tha thứ
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
“Tôi viết cho anh, người bạn vào giây phút cuối của đời tôi…
Vâng, tôi cũng xin nói với bạn tiếng Cám ơn và lời Vĩnh biệt này…
Ước gì chúng ta, những người trộm lành hạnh phúc,
được thấy nhau trên Thiên đàng, nếu Thiên Chúa muốn,
Người là Cha của hai chúng ta.”
Đây là những câu cuối trong di chúc của cha Christian de Chergé,
tu viện trưởng của một đan viện khổ tu ở Tibhirine, nước Algérie, châu Phi.
Cha viết những câu này vào cuối năm 1993 cho một người nào đó sẽ giết mình.
Ngày 21-5-1996, cha đã bị nhóm Hồi giáo vũ trang chặt đầu
cùng với sáu tu sĩ khác trong đan viện.
Cha Christian gọi kẻ sẽ giết mình là bạn, chứ không phải là kẻ thù hay sát nhân.
Cha coi mình cũng là tên trộm lành chẳng khác gì anh ta, cũng cần được tha thứ.
Cha chỉ mong gặp lại anh ta trên Thiên đàng,
vì cả hai đều là con, cùng được tha vì được yêu bởi Thiên Chúa.
Dụ ngôn hôm nay hẳn đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của cha Christian.
Có hai người mắc nợ, cả hai đều là đầy tớ của cùng một ông chủ.
Một người mắc nợ ông chủ một món nợ cực lớn, mười ngàn yến vàng.
Một người mắc nợ đồng bạn mình một món nợ nhỏ, một trăm quan tiền,
mà người đồng bạn ấy lại chính là người đang mắc nợ ông chủ.
Cả hai đều không trả nổi và năn nỉ xin hoãn.
Ông chủ chạnh lòng thương tha luôn món nợ cho người thứ nhất.
Nhưng người này lại dứt khoát không chịu hoãn lại cho người thứ hai.
Anh ta đã tống bạn mình vào ngục.
“Đến lượt ngươi, ngươi lại không phải thương xót người đầy tớ đồng bạn
như chính ta đã thương xót ngươi sao?” (c. 33).
Lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa như dòng suối chảy vào đời tôi.
Thương xót tha thứ chính là để cho dòng suối ấy chảy đi,
chảy đến với người xúc phạm đến tôi nhiều lần trong ngày.
Tôi tha bằng chính sự tha thứ mà tôi đã nhận được từ Thiên Chúa.
Không tha là giữ dòng suối đó lại, và biến nó thành ao tù.
Không tha là đánh mất cả những gì mình đã nhận được.
Người mắc nợ ông chủ nhiều, đã được tha một cách quảng đại bất ngờ,
nhưng sự tha thứ đó đã bị rút lại.
Chỉ ai biết cho đi sự tha thứ mới giữ lại được nó cho mình.
Chúng ta đều là người mắc nợ và đều là đầy tớ của Thiên Chúa.
Tôi nợ Chúa nhiều hơn anh em tôi nợ tôi gấp bội.
Sống với nhau tránh sao khỏi có lúc thấy mình bị xúc phạm.
Chỉ tha thứ mới làm cho tôi đi vào được trái tim của Thiên Chúa nhân hậu.
Chỉ tha thứ mới làm tôi được nhẹ lòng, và người kia được giải thoát.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen.
R. Tagore (Đỗ Khánh Hoan dịch)
Suy Niệm 2: Tha thứ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người vốn yếu hèn. Lầm lỗi là con người. Biết sống là biết tha thứ.
Tha thứ là biết Chúa. Thiên Chúa nhân hậu, nhẫn nại, giầu lòng xót thương và luôn tha thứ. Ta tội lỗi ngập tràn. Nhưng Chúa luôn tha thứ. Dụ ngôn hôm nay cho thấy sự tha thứ của Chúa là không giới hạn. Nợ 10 ngàn yến vàng là nợ quá lớn không ai có thể trả nổi. Vậy mà chỉ cần một lời van xin, Thiên Chúa tha ngay. Người tha thứ dễ dàng, tức khắc, không điều kiện, và vĩnh viễn. Nhận biết Thiên Chúa rộng lượng, giầu lòng thương xót, luôn luôn tha thứ sẽ dẫn ta đến biết mình.
Tha thứ là biết mình. Khi biết mình yếu đuối, ta dễ thông cảm với người khác. Nếu người khác chấp nhất tội lỗi của ta, ta sẽ không sống nổi. Vì ta cũng đã lỗi phạm đến người khác nhiều lần. Biết mình cần được tha thứ, ta sẽ dễ tha thứ cho người khác. Nhưng trên hết khi tha thứ ta nhận được ơn tha thứ của Chúa. Chúa tha thứ cho ta nhưng với điều kiện ta cũng phải tha thứ cho anh em. Cho người khác 100 quan tiền để nhận được 10 ngàn yến vàng. Ta được lợi lớn.
Tha thứ như thế là biết sống. Đời sống thành công là đời sống an vui hạnh phúc. Ta an vui khi mọi người chung quanh cùng an vui. An vui chỉ có được với những tâm hồn quảng đại, tha thứ. Chúa là yêu thương, là tha thứ. Không yêu thương tha thứ, ta không thể phù hợp với Thiên Chúa, không thể lãnh nhận được hạnh phúc. Con người là bất toàn. Muốn sống chung cần tha thứ và được tha thứ. Đó là biết sống, tạo hạnh phúc cho chính mình.
Tóm lại, tha thứ là biết yêu. Xét cho cùng tha thứ chính là tình yêu. Đây là cốt lõi của vấn đề. Tha thứ chỉ có được khi có tình yêu. Chúa tha thứ cho ta vì yêu thương ta. Và Chúa dạy ta phải tha thứ cho tha nhân. Vì tha nhân không phải người xa lạ, mà là anh em ta. Phê-rô nhận điều này khi hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần?” Người khác là anh em ta trong gia đình Thiên Chúa. Anh em phải có tình yêu thương. Đó chính là giới răn của Chúa. Tình yêu là không giới hạn nên phải tha thứ mãi mãi. Còn tha thứ là còn yêu thương. Còn yêu thương là còn thuộc về Chúa, còn là con cái trong nhà Cha, còn là công dân Nước Trời. Hết tha thứ là hết yêu thương, không còn là con Cha yêu thương, không còn là công dân trong Vương quốc tình yêu.
Suy Niệm 3: Tha thứ
Tha thứ đến 7 lần, đó là tha thứ theo đúng công bằng của lề luật, của lý luận con người. Nhưng Chúa Giêsu còn đi xa hơn bằng cách nói: tha thứ cho đến 70 lần bẩy.
Trong dụ ngôn người đầy tớ mắc nợ, người này xin chủ chờ thêm thời gian nữa anh sẽ trả hết, nhưng chủ đã tha luôn cả số nợ. Thế mà anh đã không hành xử như vậy đối với người bạn chỉ mắc nợ anh một trăm bạc. Chúa Giêsu đã đưa ra bài học từ dụ ngôn này: “Cha Ta trên trời sẽ xử với các người như thế nếu mỗi người trong các ngươi thật lòng tha thứ cho anh em mình”.
Chúng ta hãy kiểm điểm xem chúng ta đã sống thế nào về điều chúng ta thường cầu nguyện: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Về vấn đề này tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã chia sẻ như sau:
“Tính phê bình chỉ trích là một trở ngại lớn cho đời sống siêu nhiên. Chỉ tiêu cực phàn nàn kẻ khác, con quấy rầy họ, và muôn đắng cay trong lòng con. Va chạm người khác là sự thường. Sống trong một xã hội không va chạm nhau chỉ có thể là Thiên đàng. Một hòn đá nhờ va chạm mà bóng láng hơn, sạch đẹp hơn. Phàn nàn là bệnh dịch hay lây, triệu chứng là bi quan, mất bình an, nghi ngờ, mất nhuệ khí kết hiệp với Chúa. Bác ái không chỉ có yêu thương và tha thứ. Bác ái là cả một hành động để tạo bầu khí mới giữa cộng đồng xã hội, quốc gia và quốc tế, biến thế giới của thú vật nên thế giới của con người, biến thế giới của con người nên thế giới của con Chúa. Chỉ giây phút hiện tại là quan trọng. Đừng nhớ ngày hôm qua của anh em để chỉ trích. Đừng nhớ ngày hôm nay của con để khóc lóc, nó đã vào dĩ vãng. Đừng nhìn ngày mai của con để bi quan, nó còn trong tương lai. Giao quá khứ cho lòng nhân từ của Thiên Chúa, giao tương lai cho sự quan phòng của Ngài và giao tất cả cho tình yêu Chúa”.
Xin Chúa hướng dẫn chúng ta trên con đường canh tân cuộc sống đức tin và đức ái. Xin Chúa ban cho chúng ta mỗi ngày được nên giống Chúa hơn để xây dựng hoà bình và hoà hợp trong môi trường chúng ta sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Tha thứ vô bờ
Bấy giờ ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải đến bảy lần không?” Đức Giê-su đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.” (Mt. 18, 21-22)
Khi Phê-rô hỏi: “Nếu anh em cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha thứ mấy lần? Có phải bảy lần không”. Thế là ông tốt lắm rồi. Ông đã vượt mức luật cũ: “Mắt đền mắt, răng đền răng”. Còn chúng ta, có ai đã tha thứ đến bảy lần chưa?
Những trường phái Rabbi đã định mức tha thứ thế nào? Tha cho vợ mấy lần, cho con cái, cho anh chị em mấy lần? Họ cãi nhau xem phải ấn định mấy lần, phải tha thứ, luật của trường phái nào mới đúng?
Nhưng Đức Giê-su không đứng đầu trường phái nào, với Người, không có mức nào hết, vì Người không tự đóng khuôn vào khu vực số lượng nhiều hay ít. Chúng ta muốn được Thiên Chúa tha thứ vô cùng thì chúng ta phải biết tha thứ không tính toán.
Khi bạn tha thứ, bạn đừng nhìn vào sức nặng của xúc phạm, nhưng hãy nhìn vào Thiên Chúa và nhìn lại cuốn sổ ghi lỗi của bạn. Chỉ có kẻ vô tội mới được phép luận tội và tha thứ thôi. Tất cả chúng ta đều là kẻ có tội và được thương xót tha thứ, cho nên chúng ta đo lòng thương xót của mình đối với kẻ có nợ chúng ta là tự phụ. Chúng ta cần nhớ bài học này: Theo đức tin, trước nhất chúng ta phải luôn luôn nhìn lên Chúa trước khi xét đoán anh em mình, và lúc đó chúng ta sẽ được đầy lòng nhân hậu khoan dung êm ái và yêu thương.
Lời của Đức Giê-su ban đầu có vẻ kỳ dị, nhưng nhìn kỹ, thì thấy khôn ngoan biết bao … Trong thế giới pháp chế trói buộc nặng nề này, không còn quan tâm đến con tim, thì tốt lành biết bao khi được nghe những bài diễn văn về lòng thương yêu tha thứ.
J.G
Suy Niệm 5: Hãy biết “yêu” như Chúa
Có một anh bạn hỏi một người Công Giáo rằng: “Nếu để nói một câu ngắn gọn nhất nhằm tóm gọn toàn bộ giáo lý về đạo Công Giáo thì bạn sẽ nói câu nào?”; bạn trẻ Công Giáo trả lời, đó là chữ: “Yêu”.
Thật vậy, chữ “yêu” là chữ cốt lõi của đạo Công Giáo. Vì yêu, Thiên Chúa dựng nên trời đất và con người. Vì yêu, Ngài đã cứu thoát họ khỏi Ai Cập, đưa về Đất Hứa. Vì yêu Thiên Chúa đã gửi các ngôn sứ đến để dạy dỗ dân. Vì yêu, Thiên Chúa đã ban Con Một của mình đến để cứu chuộc nhân loại. Đấng ấy là Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã dạy dỗ, yêu thương, tha thứ cho kẻ thù và cuối cùng, vì yêu nên Đức Giêsu đã chết cho người mình yêu.
Hôm nay, Tin Mừng một lần nữa xác định căn cốt đó khi trình thuật cuộc nói chuyện giữa Đức Giêsu và Phêrô. Khởi đi từ câu hỏi của Phêrô: "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?" Đức Giêsu đáp: "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy".
Tha như thế là tha mãi, tha không giới hạn, không điểm dừng, không so đo tính toán thiệt hơn. Tha như thế là đi vào mối tương quan với Thiên Chúa là tình yêu, và làm toát lên đạo mới, “đạo yêu thương”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tha thứ và tha thứ không ngừng nghỉ!
Tha thứ như thế thì mới được Thiên Chúa tha thứ cho mình.
Tha thứ là một điều rất khó, nhưng nó là tuyệt đỉnh và cao quí nhất mà Đức Giêsu đã cống hiến cho con người.
Tha thứ còn là của lễ đẹp lòng Thiên Chúa nhất, bởi vì nhờ tha thứ, con người trở nên giống Thiên Chúa vì Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải cho loài người là Thiên Chúa của tha thứ không ngừng. Vì thế, chỉ có một mình Thiên Chúa tha thứ không ngừng ấy, mới có thể đòi hỏi con người: “Ta không bảo con phải tha đền bẩy lần, nhưng là đến bẩy mươi lần bẩy”, tức là tha không ngừng.
Nếu có khó khăn trong việc tha thứ, ấy là chúng ta vẫn nhìn vào sức nặng của sự xúc phạm mà đối phương đã gây ra cho ta, trong khi đó, lẽ ra chúng ta phải nhìn vào tình thương của Thiên Chúa đối với mình khi Ngài tha thứ tội lỗi cho ta.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa dạy chúng con hôm nay thật tuyệt vời, vì nếu chúng con không tha thứ thì làm sao chúng con được Chúa thứ tha trong khi chúng con là kẻ có tội? Xin Chúa ban cho chúng con có lòng nhân hậu như Chúa là Đấng Nhân Hậu. Biết yêu tha thiết để sẵn sàng tha thứ không ngừng nghỉ như Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Tha thứ cho nhau, vì được Chúa tha thứ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Hãy tha thứ cho nhau, vì ta đã được Thiên Chúa tha thứ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa thật quảng đại vô cùng. Không những Chúa đã tác tạo nên con, ban ơn để con được sống, mà ngay cả khi con xúc phạm đến Chúa, Chúa cũng tha thứ cho con. Cuộc đời con là những chuỗi ngày tội lỗi và phản bội tình yêu của Chúa. Nhưng Chúa đã tha thứ cho con từ khi con chưa có mặt trên đời này. Từ ngày con chưa sinh ra, tình yêu của Chúa đã lấp đầy trên con. Rồi từng ngày trong cuộc sống, tình yêu Chúa hằng ấp ủ con. Tấm lòng Chúa thật bao la vô bờ bến.
Hôm nay đây, khi đứng trước tấm lòng bao la ấy, đứng trước một tình yêu ngất trời như vậy, con chợt thấy lòng mình hẹp hòi nhỏ nhoi làm sao! Con hẹp hòi nhỏ nhoi với Chúa và với anh em con. Chúa đã tha thứ cho con tất cả. Vậy mà chúng con vẫn chưa biết tha thứ cho nhau, vẫn chấp nhất nhau trong từng lời nói, và từng việc làm nhỏ bé. Bao nhiêu cuộc chiến tranh khốc liệt, bao nhiêu sự đổ vỡ không hàn gắn được, tất cả đều xuất phát từ tấm lòng nhỏ nhen ích kỷ của chúng con. Xin Chúa tha thứ cho chúng con và giúp chúng con biết tha thứ cho nhau.
Chúa dạy con làm việc bác ái, con có thể làm được. Nhưng Chúa dạy con tha thứ cho anh em thì lạy Chúa, con thấy thật khó. Bởi vì khi cho đi tiền bạc của cải, con cho những cái ở ngoài con. Còn khi cho đi sự tha thứ, con phải lấy chính lòng con để trao tặng cho người khác. Có nghĩa là con chấp nhận để người khác cào cấu vào tim con. Xin Chúa ban ơn giúp sức để con biết tha thứ cho anh em con. Con tha thứ không những để được Chúa tha thứ, mà con muốn tha thứ, vì trước hết chính Chúa đã tha thứ cho con hết rồi. Xin cho con biết sống xứng đáng với lòng quảng đại của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu mỗi người trong chúng con không tha thứ cho anh em, thì Chúa Cha cũng không tha thứ cho chúng con”.
Suy Niệm 7: Tha đến đến bảy mươi lần bảy
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Văn hào Ernest Hemingway đã kể câu chuyện về một người cha và cậu con trai đang ở lứa tuổi thiếu niên. Mối quan hệ cha con của họ không được tốt đẹp và luôn căng thẳng. Cuối cùng, sau một trận cãi vã kịch liệt, cậu bé đùng đùng bỏ nhà ra đi.
Tuy giận dữ và đau lòng, nhưng người cha biết rằng con mình rất cần sự uốn nắn và dạy dỗ để trưởng thành. Vậy nên, ông đã bôn ba khắp nơi để tìm kiếm đứa con nổi loạn. Cuối cùng, khi tới Madrid, trong nỗ lực cuối cùng của mình, ông cho đăng một thông cáo trên báo: “Paco thương yêu, hãy đến gặp cha chiều mai trước cửa tòa soạn. Mọi tội lỗi đều được tha thứ. Cha yêu con. Cha của con”.
Chiều hôm đó, người cha đến tòa soạn thật sớm vì ông không muốn trễ giây phút nào để gặp đứa con thân yêu của mình. Và điều bất ngờ là, tới đó, ông đã gặp… 800 cậu bé tên Paco. Cả 800 cậu bé này đều đã bỏ nhà ra đi và đều đang mong đợi sẽ gặp được người cha rộng lượng của mình ở đó với vòng tay dang rộng yêu thương.
Suy Niệm
Sự khoan dung tha thứ là đỉnh cao của đức ái Kitô giáo mà Kinh Thánh đã dạy: Yêu thương tha thứ trước lỗi lầm của anh em: Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần. Có phải đến bảy lần không?”. Chúa Giêsu đáp: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy. Không phải một màlà bảy mươi lần bảy (x. Mt 18,21-22; Lc 23,34), nghĩa là luôn tha thứ. Chính Chúa Giêsu đã làm gương sống động của lòng thứ tha khi trên thập giá Ngài tha thứ cho những kẻ giết hại mình (x. Lc 23,34).
Trước lỗi lầm của anh em mà họ đã chân thành nhận lỗi. Như Chúa Giêsu dạy người môn đệ phải có lòng vị tha, tha thứ không chỉ quên đi những điều không phải nhưng sẵn sàng tái lập lại sự giao hảo giữa hai người.
Hơn nữa, sống tha thứ con giải thoát chính chúng ta khỏi những xiềng xích của cảm xúc giận hờn đè nặng, làm cho cuộc sống được thư thái tự do, sức khỏe, thăng tiến. Thiếu tha thứ, đời sống con người bị ảnh hưởng từ cá nhân đến đời sống cộng đồng. Vị tha để sự bình an tâm hồn và thân xác mỗi cá nhân được đơm hoa kết trái và chính hoa trái đó làm nên hạt giống gieo hòa bình cho quốc gia và thế giới.
Trong bình diện tâm linh, tương quan ơn cứu độ, sách Huấn Ca dạy: “Ngươi hãy tha thứ cho kẻ làm hại ngươi, thì khi ngươi cầu nguyện, ngươi sẽ được tha” (Hc 28,2). Chúa Giêsu qua kinh Lạy Cha cũng dạy: “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” (Mt 6,12; Lc 11,4). Tha nợ do đòi hỏi bó buộc của Thiên Chúa, Ngài tha nợ cho chúng ta như chúng ta biết đã tha thứ cho anh em. Đây không chỉ là một điều kiện mà còn là một thái độ chuẩn bị: Khi tha thứ cho anh em, chúng ta cũng ao ước được Chúa tha thứ rộng rãi cho mình. Người có tha thứ mới thật lòng muốn được tha thứ và mới đáng nhận được ơn tha thứ.
Lạy Chúa, con khẩn thiết xin ơn tha thứ, hãy cho con có sức mạnh, can đảm để con tha thứ cho anh em và chính con cũng được ơn thứ tha.
Ý lực sống: “Vì nhân ái nên lòng khoan dung độ lượng thứ tha là của bậc quân tử. Quân tử không tưởng, không nhớ lỗi lầm của người khác, mà chú trọng giáo hóa người lầm lỗi biết hối cải và nên người - quân tử vị tiểu nhân tức là người lầm lỗi là “quân tử chưa thành và sẽ thành” (Khổng Tử).
Suy Niệm 8: Hãy tha thứ cho nhau
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Hôm nay Đức Gêsu dạy ta về sự tha thứ. Dụ ngôn về sự tha thứ nhắm tới đời sống cộng đoàn. Quả vậy, trong đời sống chúng ta, vì tính tình xung khắc, nên đã gây ra nhiều điều phiền toái, chia rẽ, đố kỵ, thù oán... Nhưng nhờ sự tha thứ, đời sống chung lấy lại được hòa khí, bình an và hiệp nhất. Nhưng Đức Giêsu lưu ý chúng ta vài khía cạnh quan trọng:
-Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho chúng ta cho dù tội chúng ta xúc phạm đến Ngài rất nhiều. Ta không thể đền tội cho đủ nhưng Chúa vẫn tha vì Ngài “động lòng thương”.
- Nhưng chúng ta củng phải rộng lòng tha thứ cho anh chị em chúng ta. Nếu không thì Chúa sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài đối với chúng ta.
- Ngoài ra hãy khôn ngoan tha lỗi nhỏ cho anh em để Chúa sẽ tha thứ những lỗi lầm lớn của chúng ta đối với Chúa.
2. Tha thứ xem ra không phải là điều tự nhiên đối với con người. Phải trải qua một thời gian lâu dài, nhân loại mới nhận ra được ý nghĩa và sự cần thiết của tha thứ. Xã hội nguyên thủy không dung tha cho tội phạm của cá nhân.
Sách Khởi nguyên nói đến sự trừng phạt mạnh hơn 70 lần 7 lỗi phạm của con người. Sang đến sách Xuất hành, người ta thấy có một tiến bộ quan trọng khi luật Maisen đã ra luật “mắt đền mắt, răng đền răng”, ít ra ở đây hình phạt cũng tương xứng với lỗi phạm. Sách Lêvi đi xa hơn, tuy không bắt buộc phải tha thứ, nhưng sách này nói đến tình liên đới giữa anh em với nhau và cấm không được nại đến việc tố tụng để giải quyết những tranh chấp giữa anh em với nhau. Như vậy, ít ra sự tha thứ cũng đã manh nha trong quan hệ ruột thịt (Mỗi ngày một tin vui).
3. Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng vĩ đại. Cốt lõi giáo huấn của Ngài là tình yêu, mà cao điểm là sự tha thứ. Chính Ngài đã tha thứ cho những kẻ giết Ngài. Vậy tha thứ bao nhiêu lần là tối đa, hay tha thứ bao nhiêu lần là không thể tha thứ được nữa? Xưa kia ông Phêrô cũng đã băn khoăn như thế và ông cho rằng chỉ tha thứ đến 7 lần là tối đa, vì như thế là đã vượt quá sự khuyến cáo của các luật sĩ đến bốn lần rồi: “Quá tam ba bận”. Nhưng Đức Giêsu bảo ông: Tha thứ thì không có giới hạn, không phải ba lần, bảy lần mà là bảy mươi lần bảy. Chúa không có ý bảo là 490 lần mà có nghĩa là phải tha thứ luôn luôn, phải tha thứ mãi mãi, bao lâu người ta còn xúc phạm đến mình thì còn phải tha thứ.
4. Chính Đức Giêsu đã làm gương sống động của lòng tha thứ khi trên Thập giá Ngài tha thứ cho nhưng kẻ giết hại mình. Vì vậy Đức Giêsu dạy môn đệ phải có lòng vị tha, tha thứ không chỉ quên đi những điều không phải nhưng sẵn sàng tái lập sự giao hòa giữ hai người.
Hơn nữa, sống tha thứ còn giải thoát chính chúng ta khỏi những xiềng xích của cảm xúc giận hờn đè nặng, làm cho cuộc sống được thư thái tự do, sức khỏe thăng tiến. Thiếu tha thứ, đời sống con người bị ảnh hưởng từ cá nhân đến đời sống cộng đồng. Vị tha để sự bình an tâm hồn và thân xác mỗi cá nhân được đơm hoa kết trái và chính hoa trái đó làm nên hạt giống gieo hòa bình cho quốc gia và thế giới.
5. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết: Nợ nần của chúng ta đối với Chúa hết sức lớn lao, đó là tội lỗi chúng ta xúc phạm đến Chúa rất kinh khủng, và tự sức mình chúng ta không thể nào thanh toán nổi. Trong khi đó món nợ của anh em mắc với chúng ta chỉ là những lỗi lầm không đáng kể, thế mà chúng ta lại khắt khe với anh em: xin không tha, trả không nhận, rồi bực tức ngày đêm, để lòng hờn giận, tìm dịp báo thù, thật là quá tệ. Kết quả là chúng ta chẳng được Thiên Chúa tha thứ, vì chính chúng ta đã tự lên án mình, khi chúng ta không tha thứ cho người khác. Chúa cũng chẳng tha cho chúng ta.
6. Truyện: Gương Bà Coritanbun tha thứ.
Liền sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình Bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, đã đi khắp Âu châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.
Thế nhưng vào một Chúa nhật nọ, sau khi kêu gọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài Bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc. Đó là dung mạo của người lính đã hành hạ Bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí Bà.
Lúc đó người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt tay bà vừa nói: “Thưa Bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của Bà kêu gọi sự tha thứ. Xin Bà tha thứ cho tôi”. Bà Coritanbun như chết điếng người, vì trước đây Bà đã cầu nguyện và quyết tha thứ thật sự, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng im lặng, tay không thể nào bắt tay người đến xin Bà tha thứ.
Sau này vào năm 1971 khi kể lại biến cố ấy trong tập sách “Nơi ẩn trốn”, Bà đã cho biết “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó Bà đã hiểu rằng con người chỉ có thể tha thư cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và sự tha thứ của Chúa. (Món quà ngày Giáng Sinh).
Suy Niệm 9: Sự tha thứ của Thiên Chúa
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc Cựu Ước trích lời cầu xin của Adaria. Khi đó dân Do Thái đang bị lưu đày bên Babylon. Họ biết họ đang khổ sở là vì tội họ đã phạm trước kia. Adaria xin Chúa tha tội cho dân. Nhưng hiện nay trong hoàn cảnh bị lưu đày, dân chẳng có lễ vật dâng lên Chúa để đền tội như luật định, cho nên Adaria chỉ biết kêu xin đến tình thương của Chúa: “Lạy Chúa, vì lòng từ bi sung mãn của Chúa, xin làm những việc lạ lùng mà cứu thoát chúng tôi”.
2. Dụ ngôn trong bài trích Phúc Âm cũng nói đến sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng lưu ý vài khía cạnh quan trọng:
- Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ chúng ta cho dù tội chúng ta xúc phạm đến Ngài rất nhiều (như ông quan thiếu nợ ông vua một ngàn nén bạc). Ta không thể nào đền tội cho đủ (ông quan không có gì để trả chỉ biết nài xin. Và ông vua tha chỉ vì “động lòng thương”).
- Nhưng chúng ta cũng phải rộng lòng tha thứ cho anh chị em chúng ta. Nếu không thì Chúa sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài đối với chúng ta.
- Dụ ngôn còn khuyên ta chớ ngu dại vì không chịu tha cho anh chị em một trăm đồng bạc để không được Chúa tha cho ta mười ngàn nén bạc và còn phải “trao cho lý hình hành hạ cho đến khi trả hết nợ”.
B. Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Muốn tha thứ thì chỉ nên nghĩ đến tình chứ không nghĩ đến lý, cũng không tính theo lẽ công bằng. Để cầu xin ơn tha thứ cho dân, Adaria không dám kể đến những lễ vật dâng cho Chúa, mà chỉ dám nói ”Xin hãy đối xử với chúng con theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa”. Ông vua trong dụ ngôn mà bài trích Phúc Âm hôm nay nói đến, tha thứ cũng chỉ vì ”động lòng thương”.
2. Sau khi nói đến ông vua phạt người đầy tớ không chịu tha cho bạn mình, Chúa Giêsu kết luận ”Cha trên trời cũng sẽ đối xử với các con đúng như thế nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Ta đừng coi đây chỉ là một lời hăm dọa suông, mà hãy coi đây là một sự thật.
3. Một trong những việc cần làm ngay trong Mùa Chay là hãy duyệt lại những mối tương giao của mình với người khác. Nếu thấy có bất hoà, xung khắc hoặc nghịch với ai thì phải lo giải quyết cho xong.
4. Liền sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình Bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, đã đi khắp Âu châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.
Thế nhưng vào một Chúa Nhật nọ, sau khi kêu gọi mọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài Bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc. Đó là dung mạo của người lính đã hành hạ bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí Bà.
Lúc đó người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt tay bà vừa nói: “Thưa Bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của Bà kêu gọi sự tha thứ. Xin Bà tha thứ cho tôi”. Bà Coritanbun như chết điếng người, vì trước đây bà đã cầu nguyện và quyết tha thứ thật sự, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng lặng im, tay không thể nào bắt tay người đến xin bà tha thứ.
Sau này vào năm 1971 khi kể lại biến cố ấy trong tập sách “Nơi ẩn trốn”, bà đã cho biết “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó Bà đã hiểu rằng con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và sự tha thứ của Thiên Chúa. (Trích “Món quà giáng sinh”)
Suy Niệm 10: Chúa tha thứ, và chúng ta tha thứ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Các bản văn Phụng vụ hôm nay nói đến sự tha thứ của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ miễn là chúng ta cũng phải rộng lòng tha thứ cho anh chị em chúng ta. Nếu không thì Chúa sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài.
Vâng, muốn tha thứ thì chỉ nên nghĩ đến tình chứ không nên nghĩ đến lý, cũng không được tính theo lẽ công bằng. Để cầu xin ơn tha thứ cho dân, Adaria không dám kể đến những lễ vật dâng cho Chúa, mà chỉ dám nói: “Xin hãy đối xử với chúng con theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa”. Ông vua trong dụ ngôn Tin Mừng tha thứ cũng chỉ vì “động lòng thương”.
Sau khi nói đến việc ông vua phạt người đầy tớ không chịu tha cho bạn mình, Chúa Giêsu kết luận: “Cha trên trời cũng sẽ đối xử với các con đúng như thế nếu các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình” (Mt 18,35). Ta đừng coi đây chỉ là một lời hăm dọa suông, mà hãy coi đây là một sự thật.
Như vậy, một trong những việc cần làm ngay trong Mùa Chay là hãy duyệt lại những mối tương giao của mình với người khác. Nếu thấy có bất hoà, xung khắc hoặc nghịch với ai thì phải lo giải quyết cho xong.
Đây là chứng từ của một tù nhân Đức Quốc Xã trong thời Đệ Nhị Thế Chiến.
Tác giả của câu chuyện tên là bà Anne Furish, người Tiệp Khắc. Vì bà đã lén lút săn sóc các thương binh, nên đã bị quân Đức Quốc Xã bắt giữ. Đây là chứng từ bà kể lại:
“Mỗi ngày, những người lính canh chỉ cho chúng tôi một mẩu bánh mì nhỏ có dính cả mạt cưa, cho nên nhiều người trong chúng tôi ăn vào đã mắc bệnh. Những khi nhận được bánh mì đã khô cứng không còn ăn được, thì chúng tôi vò lại để làm thành những hạt chuỗi. Ở đó, có một tên quản giáo đặc biệt hung ác. Nếu mỗi tuần hắn không giết được hai tù nhân thì hắn ta không ăn ngủ được. Tôi đã bị hắn đánh đập nhiều lần. Nhưng tôi vẫn hằng cầu xin Chúa cho tôi biết tha thứ cho hắn, bởi vì tôi biết rằng, nếu tôi không tha thứ, thì thù oán có thể đục khoét và trở thành độc dược phá hủy tâm hồn tôi. Tôi cầu xin Chúa cho tôi có thể nói với hắn thế này: “Tôi tha thứ cho anh và tôi thương yêu anh, bởi vì Đức Kitô đã chết cho tôi và anh trên cây Thập Giá”. Lần cuối cùng, khi hắn đánh đập tôi, tôi tưởng mình chết đến nơi, thế nhưng, Chúa đã dùng trận đòn ấy để nhận lời tôi.
Sau trận đòn, tên quản giáo đưa tôi về trại giam. Và lạ lùng thay, từ đó, hắn đến thăm tôi mỗi ngày. Hắn còn mang cả sữa tới và nhờ các tù binh khác dùng muỗng đút cho tôi uống nữa. Tôi bị hôn mê nhiều ngày và khi tỉnh dậy, tôi đã ngạc nhiên hết sức khi thấy tên quản giáo đang ngồi bên cạnh tôi. Lính tráng như họ vì sợ lây bệnh cho nên ít có khi nào họ đến trại giam. Hắn nói với tôi:
- Cô hãy nói cho tôi biết ai là bạn trai của cô ?
Tôi hỏi lại hắn:
- Ông muốn nói gì ?
Hắn giải thích:
- Người bạn trai tên là Giêsu của cô đó! Tôi muốn được nghe cô nói cho tôi biết về người đó!
Tôi hiểu rằng, Chúa đã cho tâm hồn sắt đá này trở nên dịu dàng. Tôi bắt đầu khóc vì sung sướng. Và từ lúc đó, tên quản giáo không bao giờ đánh đập tôi nữa. Mỗi ngày hắn đến thăm tôi và nghe tôi nói về Đức Giêsu, từ lúc Ngài sinh ra cho đến khi Ngài chết trên cây Thập Giá.
Một ngày nọ, tên quản giáo lại hỏi tôi:
- Cô có nghĩ rằng, Chúa của cô cũng yêu thương cả tôi nữa không ? Cô có nghĩ rằng, Chúa đã tha thứ cho những gì tôi đã làm không ?
Tôi nói với hắn ta:
- Dĩ nhiên Chúa yêu thương anh, cũng như chính Ngài đã ban ơn để anh đến hỏi tôi về điều đó.
Năm 1946, vào một đêm kia, người quản giáo ấy đến đánh thức tôi dậy. Ông ra hiệu cho tôi thinh lặng và đưa tôi lên một chiếc xe tải đậu gần đấy. Sau này tôi mới được biết là đúng lý ra, một người đàn bà khác đã được chọn để di chuyển trong chuyến xe đó, nhưng rồi bà ta lại qua đời trong chính đêm ấy, nên người quản giáo đã tráo tên tôi vào tên của người quá cố. Tôi đã được cứu sống trên chuyến đi này. Và cũng kể từ đó, tôi đã không gặp lại người quản giáo ấy nữa. Qua sự tha thứ, tôi cảm thấy mình được tự do để yêu mến người khác. Thêm vào đó, tôi còn cảm thấy mình dễ dàng thông cảm với thân phận con người hơn! Phải, nhờ sự tha thứ mà tôi đã trưởng thành hơn nhiều!
Biết đâu trong chúng ta đã có lần cưu mang trong mình những kỷ niệm oán thù. Xin Chúa tha thứ và ban cho chúng ta được tham dự vào sự sống Thần Linh, sự sống tuôn trào niềm yêu thương và sự cảm thông tha thứ của Ngài.
21/03 Đời sống đức tin thật
- Viết bởi Lc 4, 24-30
Đời sống đức tin thật.
Thứ Hai tuần 3 Mùa Chay.
“Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi đâu”.
Lời Chúa: Lc 4, 24-30
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội đường rằng): “Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria”.
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Băng qua giữa họ mà đi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong Mùa Chay Giáo Hội cho chúng ta nghe
về kết cục khá bất ngờ và đau đớn của Đức Giêsu
khi Ngài trở về với hội đường của làng Nazareth thân quen.
Nơi đây Ngài gặp lại những người đồng hương.
Họ ngỡ ngàng trước những lời Ngài giảng.
Họ muốn Ngài làm những điều Ngài đã làm ở Caphácnaum (Lc 4, 23).
Nhưng Đức Giêsu đã đáp lại bằng câu tục ngữ:
“Không một ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê nhà của mình” (c. 24).
Đức Giêsu tự nhận mình là một ngôn sứ.
Như những ngôn sứ khác trong lịch sử Israel,
Ngài cũng không được đón nhận và tin tưởng bởi những người cùng quê.
Họ nghĩ mình đã quá biết Ngài, biết gia tộc, biết nghề nghiệp,
biết quá khứ từ ấu thơ đến lúc trưởng thành.
Chính cái biết ấy, đúng nhưng không đủ,
lại trở thành một chướng ngại cho việc họ nhận ra Ngài thật sự là ai.
“Ông này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4, 22).
Đúng Ngài là con ông Giuse, một người thợ mộc.
Đúng ngài là ông thợ mộc độc thân người làng Nazareth.
Giêsu Nazareth là tên được ghi trên thập tự,
Nazareth sẽ mãi mãi đi với tên Ngài để phân biệt ngài với những Giêsu khác.
Đức Giêsu chẳng bao giờ coi thường Nazareth, quê nhà của mình.
Ngài quen biết những khuôn mặt trong hội đường này và yêu mến họ.
Nhưng sứ mạng của Ngài trải rộng hơn Nazareth nhiều.
Ngài cho thấy mình không bị trói buộc bởi mối dây làng xã,
cũng không bị giữ chân bởi những người đồng bào cùng tôn giáo.
Để biện minh cho thái độ rộng mở của mình,
Đức Giêsu đã nhắc đến hành động của hai vị ngôn sứ thời Cựu Ước.
Êlia, vị ngôn sứ đầy quyền năng, được Thiên Chúa sai đến với một bà góa.
Bà này là một người dân ngoại sống ở Siđôn vùng dân ngoại.
Êlisa, vị ngôn sứ học trò của Êlia, đã chữa bệnh phong cho Naaman.
Ông này là người dân ngoại, chỉ huy đạo quân của Syria.
Như thế các vị ngôn sứ nổi tiếng đã không bị bó hẹp trong dân Do thái.
Họ đã mở ra với dân ngoại.
Đức Giêsu cũng chẳng bị giới hạn bởi bất cứ biên cương nào.
Ngài chẳng dành cho quê nhà Nazareth một ưu tiên nào.
Phải chăng vì thế mà Ngài làm họ phẫn nộ đến độ muốn xô Ngài xuống vực?
Nỗi đe dọa lại đến từ chính những người đồng hương.
Làm sao chúng ta nhận ra và chấp nhận những ngôn sứ bề ngoài rất bình thường
đang sống trong cộng đoàn chúng ta hôm nay?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
Suy Niệm 2: Đức tin trong đời thường
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đức tin là ánh sáng giúp ta nhìn thấy những gì mắt thường không thấy hay khó thấy.
Mắt thường chỉ nhìn những gì lớn lao. Mắt đức tin nhìn những gì bé nhỏ. Chúa Giêsu dạy ta hãy biết nhìn những gì bé nhỏ. Như cánh chim sẻ trên bầu trời. Như bông hoa huệ ngoài đồng. Bé nhỏ nhưng lại tuyệt vời nói lên sự quan phong của Chúa Cha.
Mắt thường chỉ nhìn những gì may mắn. Mắt đức tin mới biết nhìn những gì thiệt thòi. Bá góa Sa-rép-ta đã tin nên dám chấp nhận thiệt thòi. Vì tin tiên tri Ê-li-a nên bà đã dám làm bánh cho vị tiên tri ăn trước. Đây là việc làm nhỏ nhoi nhưng đức tin thật lớn. Dám đánh cuộc cả mạng sống mình.
Mắt thường chỉ nhìn những gì lạ lùng. Mắt đức tin biết nhìn những gì quen thuộc bình thường trong đời sống. Người ta dễ thần tượng những người xa lạ. Người có đức tin thật sẽ biết thấy Chúa trong những gì quen thuộc bình thường trong đời sống hằng ngày. Dân làng Na-za-reth không tin Chúa Giê-su vì biết rõ gốc gác tầm thường của Người.
Tướng Na-a-man đã có đức tin. Dám tin người giúp việc cho mình. Đức tin hành động cụ thể. Nên ông không ngại đường xa, mang theo cả lễ vật lớn lao để ra mắt vị tiên tri. Và nhất là ông đã chấp nhận những việc tầm thường. Đó là tắm dưới sông 7 lần.
Mắt thường không thấy Chúa đâu. Mắt đức tin thấy Chúa trong mọi sự. Ga-ga-rin, khi lên mặt trăng, đã tuyên bố: “Tôi không thấy Thiên Chúa đâu cả”. Trái lại Amstrong, người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng, đã đọc kinh Lạy Cha để cảm tạ Chúa. Newton, nhà thiên văn học lừng lẫy, khi quan sát bầu trời đầy sao đã thốt lên: Tôi thấy Chúa đi qua viễn vọng kính của tôi.
Có lẽ chúng ta từng kỳ vọng được có đức tin lớn lao như dám chịu tử đạo, đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi… Nhưng hôm nay Lời Chúa mời gọi tôi hãy có đức tin trong đời thường để nhìn thấy Chúa trong mọi sự và trong mọi người, trong những sự bé nhỏ, những con người tầm thường, trong những khó khăn thử thách ta gặp phải, những thất bại cay chua, những thiệt thòi đau xót. Đó mới là đức tin thật.
Suy Niệm 3: Đời sống đức tin thật.
Trong cuốn phim Mỹ do tài tử Marcel Marso thủ diễn có kể câu chuyện sau:
Một thanh niên đang lim dim đôi mắt tận hưởng ánh nắng tuyệt vời vào một ngày đẹp trời. Nhưng bỗng nhiên niềm vui của anh bị quấy rầy do tiếng ồn ào của đám trẻ, tiếng chó sủa, tiếng chim hót, tiếng người qua lại. Mỗi tiếng động đều có nguyên do và niềm vui riêng của nó, nhưng đối với chàng, tất cả đều trở thành cực hình. Để chống lại sự phiền nhiễu ấy, anh xây quanh mình một bức tường ngăn cách âm thanh. Mỗi tiếng động vọng tới là mỗi lần anh gắng sức xây. Cứ như thế bức tường lớn cao dần, cho đến lúc ngăn cản được hết mọi tiếng động, thì bức tường cũng che mất ánh nắng tuyệt vời, bức tường trở thành chiếc mộ khổng lồ giam hãm anh trong đó.
Dân Do Thái cũng đã được tắm gội ánh sáng. Đó là niềm tin được trao ban từ Tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn, ích kỷ, họ đã hành động chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Không chịu mở lòng đón nhận khiến niềm tin của họ trở nên khô cằn mất sức sống. Xây lên bức tường để bảo vệ mình hoá ra lại tự hại chính mình.
Chúa Giêsu đã chỉ trích thái độ đó trong bài Tin mừng hôm nay. Người Do Thái trong Hội đường Nazaret đã tìm cách hãm hại Chúa Giêsu khi Ngài lên tiếng chê trách niềm tin của họ. Có lẽ ai trong chúng ta cũng bất bình về việc làm của nhóm người này, nhưng kỳ thực nhiều khi trong cuộc sống chúng ta đã sao chép nguyên bản việc làm ấy. Tự hào là Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin nhưng niềm tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất nhựa sống chờ ngày gẫy đổ. Đó là thứ niềm tin mà tác giả cuốn sách “Đường Hy Vọng” đã nhắc nhở: “Nhiều người nói tôi có đức tin, tôi còn đức tin, có lẽ đức tin của giấy khai sinh, không phải đức tin của đời sống. Ít người sống theo đức tin. Đừng bao giờ mãn nguyện với một đức tin lý thuyết, hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thực, thiết ái, trung thành”.
Tự mãn với chính mình mà không chịu mở lòng đón nhận khiến người Do Thái đã mất đi Chúa Giêsu –nền tảng của niềm tin. Cũng vậy, nếu Kitô hữu chỉ đóng khung trong một nghi thức, luật lệ, thì sớm muộn gì họ cũng xa cội nguồn sự sống, vì sống là gì nếu không phải là một luân lưu trao đổi. Con người sẽ chết khi hệ tuần hoà không lưu chuyển, hệ thần kinh không vận động. Đời sống đức tin cũng đòi hỏi một sự luân lưu trao đổi với Thiên Chúa và với anh em.
Đối với người Kitô hữu, tin trước hết là chấp nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương, Chúa không phải là Đấng bắt con người ta phải kính mến, nói đúng hơn Thiên Chúa là Đấng mà con người phải để cho Ngài yêu thương vô hạn. Tin là chấp nhận Đức Kitô và quyết tâm sống chết cho Ngài.
Trong Mùa Chay này, xin cho chúng ta biết trở về, trở về trước hết trên căn bản của một đức tin không co cụm trong lý thuyết, trong nghi lễ, nhưng là biết mở rộng lòng đón nhận để tìm được ý nghĩa đích thực của đời sống đức tin.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Không một tiên tri nào
Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. (Lc. 4, 24)
Lại thêm một lần đòi dấu lạ. Con người nổi dậy chống Thiên Chúa, họ đòi Ngài phải chứng tỏ sứ vụ tiên tri của Ngài bằng cách làm hài lòng và thỏa mãn họ. Nhưng Thiên Chúa phải cúi phục trước con người sao? Thiên Chúa ban ơn cứu độ, nhưng Ngài chỉ ban cho kẻ tin kính vâng lời Ngài, cho kẻ trông chờ trong kiên nhẫn âm thầm. Ngài đòi có đức tin, vâng lời nhận lãnh biết ơn đối với tất cả tâm tình của họ.
Dân làng Na-gia-rét không nhận biết Đức Giê-su, vì họ phán đoán hoàn toàn theo sở thích loài người. Đức Giê-su là ngôn sứ, Người hành động theo sứ mạng Thiên Chúa.
Không phải những đòi hỏi của người trần ấn định cho hành động của các ngôn sứ, của Đức Ki-tô, các ngài không hành động vì lợi riêng cho mình. Các ngài chỉ hành động theo ý Thiên Chúa. Ngôn sứ không được hành động theo quyết định bản thân mình, nhưng luôn luôn theo quyết định của Thiên Chúa, Đấng đã sai mình.
Thiên Chúa quyết định cho hai ngôn sứ: Ê-li-a và Ê-li-sê đến làm phép lạ cứu giúp những người lương dân, chứ không cứu người đồng hương. Đức Giê-su không hoàn toàn đến thực hiện ơn cứu độ cao cả cho quê hương mình, Người phải đi cứu độ những người dân xa lạ. Thiên Chúa dành cho mình có quyền tự do phân phát ơn cứu độ.
Không ai có thể đòi quyền được ơn cứu độ. Quả thật như vậy, không ai được phép đòi có quyền đó, phải tin ơn cứu độ mình được là nhưng không. Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su rao giảng và thực hiện ơn cứu độ cho những người Thiên Chúa yêu thương. Ơn cứu độ là một ân huệ chứ không do công lao mình làm. Nhưng đó là ân huệ chúng ta được quyền hưởng vì Đức Giê-su đã chết cho chúng ta, và chúng ta phải sống hoàn toàn theo ý Cha của Người, đó là điều kiện căn bản, còn chúng ta vẫn có tự do đón nhận hay từ chối ơn cứu độ.
Nhờ Đức Giê-su, Thiên Chúa đến viếng thăm dân Ngài và ban các ân huệ dồi dào, xưa kia Ngài cũng ban cho dân như vậy qua các ngôn sứ, số phận các ngôn sứ thế nào thì số phận Đức Giê-su cũng vậy.
J.M
Suy Niệm 5: Không chừng sẽ mất ơn cứu độ vì kiêu ngạo
Quê hương đã trở nên máu thịt cho mỗi người. Nó chẳng khác gì tâm tư của nhà thơ Chế Lan Viên: “Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở, khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.
Với nhà thơ Đỗ Trung Quân thì: “Quê hương là chùm khế ngọt, nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”. Vì thế, trong dân gian, người ta không ngớt khen ngợi quê hương và tự hào: “Không nơi đâu đẹp bằng quê hương mình”; hay để nói về tình nghĩa quê hương, người ta cũng thường nhắc nhở nhau: “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.
Những tâm tình ấy cho chúng ta thấy một điều là: nơi mà mình đã từng chôn nhau cắt rốn sẽ theo ta suốt cuộc đời, và dù có đi muôn phương ngàn lối, nhưng ai cũng chỉ có một chốn để về, đó là quê hương.
Có lẽ mang trong mình tâm tình ấy, nên Đức Giêsu cũng đã trở về quê hương của Ngài, nhưng điều oái oăm thay, dân làng đã không đón nhận Ngài, ngược lại, họ tìm cách để hãm hại Ngài. Vì thế, Đức Giêsu đã nói một câu bất hủ mang tính tiên tri: “Không tiên tri nào được sùng mộ nơi quê hương”.
Thật thế, người đương thời với Đức Giêsu, họ không thể chấp nhận một con người bình dân học vụ như thế mà lại là Đấng Cứu Thế! Dưới mắt họ, Ngài chỉ là con của ông thợ mộc Giuse và bà Maria, bản thân Ngài không hơn không kém một thanh niên như mọi thanh niên khác trong làng.
Chính sự coi thường, khinh khi, nên lòng họ ra chai cứng, không còn khiêm nhường, nhạy bén để nhận ra Đấng Uy Quyền, là Chúa Tể trời đất đang ở giữa họ, vì thế, họ đã khước từ chân tính đích thực của Đức Giêsu. Thấy vậy, Đức Giêsu mặc khải cho họ biết: họ sẽ không được bằng dân ngoại, và ơn cứu độ lẽ ra đến với họ trước tiên và phong phú, nhưng khi đã từ chối thì ơn đó sẽ đến với dân ngoại.
Xuyên suốt câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta thấy, người Dothái "thích sự thật khi sự thật tán tụng họ, nhưng họ căm ghét sự thật khi sự thật lên án họ" (thánh Augutstinô).
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết khiêm tốn nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến ơn cứu độ. Cần tránh thói hư là: “Gần Chùa gọi Bụt bằng anh”; hay “bụt nhà không thiêng”. Hãy biết tôn trọng anh chị em mình trong sự thật, đừng vì ghen ghét, hiềm khích hay sợ người anh em trổi trang hơn mình mà ra tay làm hại hay nói năng những lời nguy hại đến thanh danh tiếng tốt của họ! Làm như thế, ấy là chúng ta đang đi vào vết xe đổ của những người đồng hương với Đức Giêsu, và như một lẽ tất yếu, chúng ta sẽ mất ơn cứu độ vì không thuộc về Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết tôn trọng và yêu mến mọi người. Nhất là những người cùng sống và làm việc trên quê hương với chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Đồng hương Nadarét không đón nhận Chúa Giêsu
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã gặp chống đối ngay tại quê hương, nơi những người thân không chấp nhận đường lối và cách thức Chúa thể hiện sứ mạng cứu độ. Chúng ta đừng bao giờ khước từ hoặc chống lại Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chỉ người nào có đức tin mới hiểu được đường lối của Chúa. Và chỉ kẻ nào có lòng yêu mến mới đón nhận được tình thương của Chúa. Chúa ơi, chắc chắn Chúa rất đau lòng khi đứng trước thái độ của người đồng hương. Họ không đón nhận, không nghe những lời Chúa giảng dạy, không muốn sự có mặt của Chúa. Họ đã đuổi Chúa ra khỏi hội đường, ra khỏi thành, nhẫn tâm đưa Chúa lên triền núi để xô xuống vực thẳm.
Lạy Chúa, con thấy hình ảnh đó vẫn diễn ra hằng ngày trong bối cảnh thế giới hôm nay, trong tầng lớp Kitô hữu là những người thân thuộc của Chúa. Chúa đang bị từ chối nơi biết bao người nghèo hèn, nơi những kẻ bị bỏ rơi, nơi những quốc gia đang bị kỳ thị chủng tộc, phân biệt giàu nghèo, hận thù dai dẳng.
Chính con cũng bao lần từ chối Chúa khi con từ chối giúp đỡ anh em. Con đã đẩy Chúa ra khỏi tâm hồn khi con ngụp lặn trong đam mê tội lỗi, khi con không chịu hồi tâm, không chịu ăn năn sám hối để trở về với Chúa. Con cũng đã không đón nhận Chúa khi con không chấp nhận Ý Chúa mà chỉ muốn Chúa đáp ứng lời con cầu nguyện theo ý con.
Lạy Chúa, xin tha thứ những lỗi lầm của con và xin cho con luôn mở rộng tâm hồn để đón tiếp Chúa. Xin ban cho con một trái tim yêu thương biết đón nhận Chúa nơi anh em, để trong từng giây từng phút của ngày sống, trong từng công việc dù nhỏ bé, mọn hèn, con đều có Chúa hiện diện bên con. Amen.
Ghi nhớ: “Như Elia và Elisêô, Chúa Giêsu không phải chỉ được sai đến người Do-thái mà thôi đâu”.
Suy Niệm 7: Vượt thẳng định kiến, để sống yêu thương
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một du khách mới đi Trung Hoa về báo cáo rằng giới trí thức Trung Hoa tuyên bố: “Không, việc truyền giáo của quý vị không bám rễ vào đất nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyền giáo của quý vị mới đến chưa hiểu gì đã tuyên bố đạo của chúng tôi là sai lạc”. Và một người Á đông khác cũng nói: “Các ông muốn chúng tôi bỏ những gì mà chúng tôi tin và chấp nhận những gì mà các ông tin”. Đi truyền giáo mà có định kiến thì thà ở nhà còn hơn.
Suy Niệm
Dân làng Nadarét đã nghe về những điều Chúa Giêsu đã giảng và làm cho toàn dân, nay trực tiếp nghe những lời giảng dạy của Ngài, dân làng Nadarét ngưỡng mộ nhưng lòng mang nặng định kiến trong ghen tị như thánh Giêrônimô nhận định: “Sự đố kỵ ghen tỵ là phổ biến giữa các cư dân cùng một quê hương. Họ nhớ lại thời thơ ấu của Người mà họ xử sự ngay cả khi họ không có kinh nghiệm cho chính họ khi bằng tuổi này”.
Dân làng Nadarét, theo cắt nghĩa của thánh Phêrô Kim Khẩu: “Ngưỡng mộ trí tuệ sự khôn ngoan, những việc làm và lời gỉảng dạy của Đức Giêsu, nhưng họ biết cha mẹ của Ngài, và sự gần gũi này ngăn cản họ nhìn nhận thiên tính của Ngài. Một đám mây dày trước mặt trời, đêm đen không mang lại nhiều đêm tối trên bầu trời bằng sự đố kị ghen ghét trong tâm hồn”.
Chúa Giêsu đã trả lời thái độ của họ: “Không có ngôn sứ nào được chấp nhận nơi quê hương mình” Những kẻ quá quen thuộc với những bậc vĩ nhân thường không thể nhận biết được sự vĩ đại của vĩ nhân vì “quen quá hóa lờn” như thành ngữ có câu: “ Bụt nhà không thiêng”.
Chúa Giêsu qua hai sự kiện trong Cựu ước nói đến thái độ không tin cố chấp của người đồng hương. Họ biết rõ về Ngài hơn hết, vì định kiến ganh ghét nên họ không tin vào Ngài, cho nên chính họ không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi dành cho tất cả những người tin và đón nhận dù là người ngoại bang. Ngài tự so sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp bà góa Sarépta thuộc xứ Siđôn dân ngoại (1V 17,10-15), vì bà đã tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu và chống đối ông. Rồi Naaman người Syria vì tin, đến với tiên tri Êlisê và được chữa lành khỏi bệnh cùi (2V 5,1-19), còn những người đồng quê với tiên tri lại cứng lòng tin.
Dân làng Nadarét dù đã được cảnh báo, nhưng tâm trí của họ vẫn không thức tỉnh, không thoát khỏi định kiến “đồng hương” mà trái lại cao trào định kiến bằng giận dữ dẫn tới toan tính loại trừ Ngài khi đưa Ngài lên núi cao mà xô xuống vực thẳm. Và cuộc sống của mọi người chúng ta cũng đã từng ít nhiều mang định kiến dẫn đến sự loại trừ nhau... mang con tim hận thù.
Giải phóng mọi định kiến trong ghen ghét để được tự do trong suy nghĩ và phán đoán, để thoát khỏi bị những hành động loại trừ nhau như một thứ nô lệ hiện hữu trong tim. Hình ảnh Chúa Giêsu băng qua giữa họ mà đi (x. Lc 4,30), là hình ảnh gợi trong tâm trí của chúng ta cố gắng vượt thẳng mọi định kiến, loại bỏ mọi sự loại trừ để đi trong yêu thương.
Ý lực sống: “Bác ái thì kiên tâm, nhân hậu. Bác ái không đố kỵ, không khoác lác, không kiêu hãnh, không ích kỷ, không nổi giận, không suy tưởng điều xấu”... (1Cr 13,4-5).
Suy Niệm 8: Chúa bị quê hương từ chối
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu trở về quê hương, vào hội đường Nagarét ngày thứ bảy. Người ta trao cho Ngài sách tiên tri, để Ngài đọc và giải thích. Lúc đầu họ cảm phục tài hùng biện và dáng vẻ thuyết phục của Ngài. Nhưng sau, họ bực tức, vì thấy Ngài ưa thích Capharnaum, nơi dân ngoại nhiều hơn quê mình. Trước thái độ đó, Đức Giêsu tỏ bày cho dân làng biết sứ vụ thiên sai của Ngài.
Đồng thời Chúa cũng cho họ biết rằng Ngài không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng nhận ơn Ngài.
2. “Tôi bảo thật các ông...”
Đức Giêsu dựa vào câu ngạn ngữ này để diễn tả thân phận của Ngài tại quê hương:
- Gần chùa gọi bụt bằng anh.
- Bụt nhà không thiêng
- Quen quá hoa nhàm.
Thật vậy, những người đồng hương trong làng Nagiarét tưởng rằng, họ đã biết rõ Ngài: gốc gác, lý lịch; người đã từng chung sống, đọc kinh cầu nguyện chung từ tấm bé. Nên họ chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài, mà không thấy được Thiên tính của Ngài để tin vào Ngài.
3. “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay...”
Để dẫn chứng cho ý nghĩa cho câu ngạn ngữ trên đây, Đức Giêsu đã trưng ra hai sự kiện có tính lịch sử, để hiểu:
- Tiên tri Êlia đã không được sai đến để cứu đói cho bà góa nào trong dân Israel, ngược lại, cứu đói cho bà góa thành Sarepta miền Siđon là dân ngoại.
- Tiên tri Êlisê cũng không được sai đến chữa lành bệnh phong cho người nào trong dân Israel, nhưng lại được sai đến chữa trị cho Naaman, người Syria, cũng là dân ngoại.
Hai sự kiện trên muốn nêu lên rằng: các tiên tri tuy thuộc dân Israel, nhưng không được dân mình thiện cảm, lại được thiện cảm nơi dân ngoại, vì thế, dân ngoại được hưởng nhờ. Cũng vậy, Đức Giêsu không được thiện cảm nơi người đồng hương, vì họ đòi hỏi hơn là đón nhận Người. Còn dân ngoại ở Capharnaum tin nhận Ngài, nên được hưởng nhờ ân sủng qua các phép lạ Ngài làm.
4. “Ơn cứu độ được dành cho mọi người”.
Qua sự kiện của tiên tri Êlia và Êlisê, chúng ta nhận ra rằng: Điều kiện để được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa, là đức tin và ý hướng tốt lành. Vì vậy, dù là Israel hay dân ngoại, nếu biết tin nhận vào Đức Giêsu, và có ý hướng tốt lành thì đều được hưởng ơn cứu độ.
Qua hai sự kiện trong Cựu ước, Đức Giêsu nói đến thái độ không tin cố chấp của người đồng hương. Họ biết rõ về Ngài hơn hết, vì định kiến ganh ghét nên họ không tin vào Ngài, cho nên chính họ không xứng đáng hưởng ơn cứu rỗi dành cho tất cả những người tin và đón nhận dù là người ngoại bang. Ngài tự so sánh mình với Êlia và Êlisê. Êlia đã bỏ những người đồng hương của ông để đi cứu giúp bà góa Sarépta thuộc xứ Siđon dân ngoại, vì bà tiếp đón ông đang khi những người đồng hương lại không hiểu và chống đối ông. Rồi Naaman người Syria vì tin, đến với tiên tri Êlisê và được chữa lành khỏi bệnh cùi, còn những người đồng quê với tiên tri lại càng cứng lóng tin.
5. Hãy tránh thành kiến cố hữu.
Dân làng Nazareth dù đã được cảnh báo, nhưng tâm trí của họ vẫn không thức tỉnh, không thoát khỏi định kiến “đồng hương” và trái lại cao trào định kiến bằng giận dữ dẫn tới toan tính loại trừ Ngài khi đưa Ngài lên núi cao mà xô vào vực thẳm. Và cuộc sống của mọi người chúng ta cũng đã từng ít nhiều mang định kiến dẫn đến sự loại trừ nhau... mang con tim hận thù.
Như chúng ta đã biết, Thành kiến hay định kiến là ý kiến đã có lâu không thể thay đổi được. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của con người không ai thoát khỏi: “Bụt nhà không thiêng”. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bên ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm do người này thì có giá trị, do người kia thì lại vô duyên, do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở vô cùng.
6. Truyện: Sư huynh hỗn xược.
Ở Canađa, trong tỉnh Québec, một sư huynh dòng Thiện giáo (Frères de l’Enseignement chrétien) giáo viên trường trung học Alma, vừa xuất bản một cuốn sách bàn về đường lối giáo dục, nhan đề “Những sự hỗn xược của một sư huynh” (Les Insolences du Frère Un Tel). Tác giả đã khéo áp dụng một lối văn châm biếm, trào phúng nhí nhảnh, làm cho quyển sách được đệ nhất ăn khách trong năm. Chỉ trong vòng một tháng trời thôi, sách đã bán ra được một số kỷ lục là 30.000 cuốn.
Một hôm trường đại học Công giáo Montréal bỗng nhộn nhịp hẳn lên như đàn ong vỡ tổ: Sư huynh Pierre Jérome, tác giả cuốn sách “Những sự hỗn xược” nói trên, sắp đến viếng trường. Toàn thể nhà trường náo động lên. Từ viện trưởng, các giáo sư, các sinh viên, cho đến anh gác cổng, đều hăng say phấn khởi tổ chức cuộc tiếp rước.
Đức thượng khách đã từ từ tiến vào khung cảnh văn vật của trường đại học, giữa một cuộc khải hoàn trọng thể vĩ đại. Sau đó, Sư huynh đã lộng lẫy ung dung bước lên diễn đàn ngỏ lời cùng 650 giáo sư và sinh viên.
Diễn giả đã thao thao bất tuyệt một thôi, lả lướt như rồng bay phượng múa, như hoa nở suối reo. Những tràng pháo tay nổ vang lên liên tiếp, liên tiếp, chứng tỏ các thính giả được kích thích đến tột độ. Cả trường đại học Montréal hôm đó như rượu nếp lên men. Trong lịch sử trường đã bao giờ có sự phấn khởi nô nức như lần này chưa? Tác giả “Những sự hỗn xược” sao mà huy hoàng trác tuyệt đến thế?
... Nhưng sáng ngày hôm sau, họ đã phải một phen hú vía, tưởng chừng hồn lìa khỏi xác. Có người đến tiết lộ rằng sư huynh Pierre Jérome hôm qua chỉ là một sư huynh... thứ giả! Chàng là một sinh viên quèn của trường Kịch nghệ, cải trang trong bộ áo dòng và cổ trắng của các Sư huynh... để thực tập một phen!
Cả trường uất lên, tưởng ai nấy hộc máu chết tươi tại chỗ trước “sự hỗn xược của một Sư huynh” chưa từng thấy này.
Thế mới hay sức ám thị của những người có tên tuổi mảnh liệt đến chừng nào (Vũ Minh Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 337-339).
Suy Niệm 9: Chúa không thiên vị nhưng yêu thương tất cả mọi người
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc I kể chuyện ngôn sứ Êlisê chữa bệnh cùi cho Naaman một người ngoại đạo.
2. Bài Tin Mừng cũng nhắc lại câu chuyện trên và còn nhắc thêm chuyện ngôn sứ Êlia giúp cho một bà góa - cũng ngoại đạo- ở xứ Sarépta khỏi đói trong thời kỳ hạn hán.
3. Như thế, Lời Chúa hôm nay muốn nói rằng Chúa không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng lãnh nhận ơn Ngài.
B. Suy Niệm (...nẩy mầm)
1. Vì kiêu căng, ban đầu, tướng Naaman không chịu đến với một ngôn sứ xứ Israel nhỏ bé. Cũng vì kiêu căng, ông không chịu đi tắm ở sông Giođan nhỏ bé. Nhưng sau đó, nhờ khiêm tốn nghe theo lời khuyên của những người đầy tớ nên ông đã chịu đến với Êlisê và đã được khỏi bệnh cùi. Câu chuyện này cho thấy nét tương phản rõ rệt và hậu quả khác nhau giữa kiêu căng và khiêm tốn.
2. Đối với những người đồng hương ở Nadarét, Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị. Ưu ái và thiên vị khác nhau. Vì ưu ái họ nên Chúa chọn Nadarét làm nơi Ngài công bố chương trình cứu độ của Ngài, vì ưu ái họ nên Chúa muốn ban cho họ ơn lớn nhất là đức tin. Nhưng Chúa không thiên vị: nếu họ không tin thì Ngài không làm phép lạ cho họ.
3. Có lẽ mãi đến thời nay nhiều người vẫn còn nghĩ cách hẹp hòi là Thiên Chúa chỉ thương những người “có đạo”, còn “kẻ ngoại” thì bị bỏ ra rìa. Thực ra Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Ngày nay vẫn có những người như bà góa xứ Sarépta và tướng quân Naaman được Chúa thương đến. Còn những người có đạo cũng có thể giống như dân làng Nadarét, bị “Chúa tiến qua giữa họ mà bỏ đi”.
4. Kết thúc không đẹp của câu chuyện Tin Mừng hôm nay là do những người làng Nadarét có thái độ chỉ muốn thu vào mà không biết mở ra. Nói rõ hơn: họ chỉ chờ được ban ơn, không biết mở rộng cõi lòng để tin Chúa Giêsu, cũng không nghĩ đến dân ngoại đàng cần ơn cứu độ.
Suy Niệm 10: Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Bài đọc I kể chuyện tiên tri Êlisê chữa bệnh cùi cho ông Naaman, một người ngoại đạo.
Bài Tin Mừng cũng nhắc lại câu chuyện trên và còn nhắc thêm chuyện tiên tri Êlia giúp cho một bà góa - cũng ngoại đạo - ở xứ Sarepta khỏi đói trong thời kỳ hạn hán.
Như thế, Lời Chúa hôm nay muốn nói rằng, Chúa không thiên vị ai. Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù là người ngoại nhưng nếu họ tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng lại không tin thật thì không đáng lãnh nhận ơn Ngài.
Chúng ta thấy ban đầu vì kiêu căng, tướng Naaman đã không chịu đến với một tiên tri xứ Israel nhỏ bé. Cũng vì kiêu căng, ông đã không chịu đi tắm ở sông Giodan mà ông cho là quá nhỏ và thua kém xa những con sông trong nước của ông. Thế nhưng, sau đó, nhờ khiêm tốn nghe theo lời khuyên của những người đầy tớ nên ông đã chịu đến với Êlisê, làm theo lời chỉ dạy của Êlisê mà ông đã được khỏi bệnh cùi. Câu chuyện này cho thấy những nét tương phản rõ rệt và hậu quả khác nhau giữa kiêu căng và khiêm tốn.
Đối với những người đồng hương ở Nazareth, Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị. Ưu ái và thiên vị khác nhau. Vì ưu ái họ nên Chúa đã chọn Nazareth làm nơi Ngài công bố chương trình cứu độ của Ngài, vì ưu ái họ nên Chúa muốn ban cho họ ơn lớn nhất là ơn đức tin. Nhưng Chúa không thiên vị: vì họ không tin nên Ngài không làm phép lạ cho họ.
2. Có lẽ ngày nay nhiều người cũng vẫn còn nghĩ một cách hẹp hòi là Thiên Chúa chỉ thương những người “có đạo”, còn “kẻ ngoại đạo” thì bị bỏ ra rìa. Thực ra, Thiên Chúa là Chúa của tất cả mọi người. Ngày nay, chẳng thiếu gì những người như bà góa xứ Sarepta và tướng quân Naaman được Chúa thương. Còn những người có đạo tự hào mình là người có đạo, coi chừng lại bị “Chúa tiến qua giữa họ mà bỏ đi” (Lc 4,30) giống như ở làng Nazareth thuở xưa.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay kết thúc không có hậu, không phải vì Chúa muốn như thế, nhưng là do thái độ của những người làng Nazareth chỉ muốn thu vào mà không biết mở ra. Nói rõ hơn: họ chỉ muốn được ban ơn, mà không biết mở rộng cõi lòng ra để tin Chúa Giêsu, cũng không nghĩ đến dân ngoại đang cần ơn cứu độ bên cạnh mình.
Trong một cuốn phim Mỹ do tài tử Marcel Marso thủ diễn, có diễn lại câu chuyện sau: một thanh niên đang lim dim đôi mắt để tận hưởng những ánh nắng tuyệt vời vào một ngày đẹp trời. Bỗng nhiên niềm vui của anh bị quấy rầy do những tiếng ồn ào của đám trẻ. Tiếng chó sủa, tiếng chim hót, tiếng người qua lại, mỗi tiếng động đều có nguyên do và niềm vui riêng của nó, nhưng đối với chàng, tất cả đều trở thành cực hình. Để chống lại sự phiền nhiễu ấy, anh xây quanh mình một bức tường cách âm để ngăn chặn các âm thanh. Mỗi tiếng động vọng tới là mỗi lần anh gắng sức xây. Cứ như thế bức tường lớn dần, cao dần, cho đến lúc ngăn cản được hết mọi tiếng động lúc đó anh mới bằng lòng. Thế nhưng, anh có ngờ đâu rằng, khi ngăn chặn được hết các âm thanh thì lúc đó bức tường cũng che mất hết ánh nắng tuyệt vời. Bức tường đã trở thành chiếc mộ khổng lồ giam hãm anh trong đó.
Dân Do Thái cũng đã được tắm gội trong ánh sáng. Đó là niềm tin được trao ban từ tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn, ích kỷ, họ đã hành động chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Họ tưởng đã xây lên được bức tường để bảo vệ niềm tin của mình nhưng hóa ra lại tự hại chính mình.
Nhiều khi chúng ta tự hào là Kitô hữu, là người nắm giữ niềm tin, nhưng rồi với một mớ lễ nghi hình thức, niềm tin trong chúng ta chỉ còn là ngọn đèn leo lét, chỉ là thân cây mất hết nhựa sống chờ ngày gãy đổ. Đó là thứ niềm tin được chứng minh bằng tấm giấy rửa tội, chứ không phải đức tin của đời sống.
Nếu chỉ đóng khung trong một số nghi thức, luật lệ, thì sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ xa rời cội nguồn sự sống, vì sống là gì nếu không phải là một luân lưu trao đổi. Con người sẽ chết khi hệ tuần hoàn không lưu chuyển, hệ thần kinh không vận động. Đời sống đức tin cũng đòi hỏi một sự luân lưu trao đổi với Thiên Chúa và với anh em như vậy.
Trong Mùa Chay này, xin cho chúng ta biết trở về, trở về trước hết trên căn bản của một đức tin không co cụm trong lý thuyết, trong nghi lễ, nhưng là biết mở rộng lòng để đón nhận được ý nghĩa đích thực của đời sống đức tin.
Lạy Chúa,
Xin cho con một quả tim quảng đại như Chúa
vượt lên mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con một quả tim đủ lớn
để yêu những người con không ưa.
và đôi tay rộng mở
để có thể ôm cả những kẻ thù. Amen.
20/03 Nếu không ăn năn hối cải
- Viết bởi Lc 13, 1-9
Nếu không ăn năn hối cải, …
CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY Năm C.
"Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".
Lời Chúa: Lc 13, 1-9
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh.
Ngài lên tiếng bảo: "Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy.
Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".
Ngài nói với họ dụ ngôn này: "Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: "Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!"
Nhưng anh ta đáp rằng: "Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY C
Lời Chúa: Xh 3,1-8a.13-15; 1Cr 10,1-6.10-12; Lc 13,1-9
1. Hại đất--‘Manna’
Điều làm chúng ta khó sám hối
đó là cảm thấy mình ở trong tình trạng an toàn.
Đức Giêsu nói về hai biến cố nóng hổi tính thời sự,
một do sự tàn ác của Philatô, một do tai nạn lao động.
Cả hai đều dẫn đến cái chết thảm khốc:
những người Galilê bị đổ máu ngay lúc dâng lễ ở Đền Thờ,
mười tám người chết vì bị tháp Silôa đè bẹp.
Vào thời Đức Giêsu, họ bị coi là kẻ có tội, bị Chúa phạt.
Những người khác dễ nghĩ mình vô tội,
vì còn được bình yên.
Điều này đưa đến sự tự hào và an toàn giả tạo.
"Đừng tưởng...": Đức Giêsu đưa ta ra khỏi ảo tưởng về mình.
Ngài nhắc mọi người sám hối vì biết ai nặng tội hơn ai.
Lúc còn được sống yên lành là lúc cần hoán cải.
Có thể đây là cơ hội cuối cùng, trước khi cái chết ập xuống.
Cây vả trong dụ ngôn cũng ở trong tình trạng an toàn.
Nó không cho trái độc, không làm hại nho, không phá cảnh quan.
Nó chỉ phạm một tội thôi: tội làm hại đất,
tội sử dụng đất màu mỡ mà không sinh trái.
Chúng ta có thể cảm thấy an toàn như cây vả cằn cỗi.
Tự hào vì mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai,
nhưng lại quên rằng mình đã phạm tội không làm điều tốt,
những điều tốt có thể làm được và phải làm.
Có bao nén bạc Chúa giao không được đầu tư (Mt 25,18),
bao người túng thiếu mà ta không giúp đỡ (Mt 25,42).
Khi không làm điều tốt cho đời, cho người,
ta tiếp thêm sức mạnh cho sự dữ tung hoành.
Sống đạo không phải chỉ là lo tránh tội,
mà còn là tích cực gieo rắc phát huy cái tốt.
Một Kitô hữu sống an phận, cằn cỗi là một phản chứng.
Thế giới cần những Kitô hữu dấn thân biết bao!
Dụ ngôn cây vả cho ta thấy khuôn mặt Thiên Chúa.
Chúa Cha là người chủ vườn kiên nhẫn: "Đã ba năm nay..."
Ngài đã nuôi bao hy vọng: "Tôi ra tìm trái mà không thấy".
Quyết định chặt cây chỉ đến sau những lần hụt hẫng.
Ngài chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay động tim ta.
Chúa Giêsu là người làm vườn kiên nhẫn không kém:
"Xin ông cứ để nó lại năm nay nữa".
Ngài không ngừng ấp ủ chút hy vọng mong manh:
"Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái".
Nhưng đừng quên lời đe doạ cuối cùng:
"Nếu không ông chủ cứ chặt nó đi".
Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng cương quyết đòi hỏi:
đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Đức Giêsu vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải,
vừa chấp nhận cho ta có thời gian trì hoãn.
Hoán cải là đón lấy những săn sóc tế nhị của Chúa,
là đừng để thui chột những ơn lành Ngài ban.
Mùa Chay không phải chỉ là để thú tội,
mà còn thú cả sự cằn cỗi, ì ạch của mình.
Ước gì cây đời của ta có nhiều trái hơn và ngọt hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Tội thiếu sót việc bổn phận, tội sống vô trách nhiệm, tội không làm điều lẽ ra phải làm: có khi nào bạn phạm những tội này không? Bạn có thấy xã hội xấu đi vì nhiều người thản nhiên phạm thứ tội này không?
Bạn nghĩ gì về cây vả của đời bạn? Tình trạng này hiện nay của nó ra sao? Làm sao để có thêm nhiều trái ngọt?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin dẫn con vào nhà của con,
căn nhà của trái tim, căn nhà vừa quen vừa lạ.
Xin hãy cho con thấy những phức tạp, rắc rối,
những che đậy, giằng co, những mâu thuẫn và vô lý nơi con.
Xin hãy cho con thấy những nhỏ mọn, ích kỷ,
những yếu đuối, khô khan, những cứng cỏi và tự ái nơi con.
Xin cho con ý thức những lo âu, sợ hãi
đang đè nặng làm con ngột ngạt,
những nỗi đau thầm kín khiến đời con mất vui,
những vết thương không biết bao giờ lành,
những đổ vỡ khiến lòng con khép lại.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con.
Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn,
hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người,
bằng trái tim bao dung của Chúa.
Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình,
trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn
để yêu mến mọi người. Amen.
2. Học hỏi Phúc âm: CN 3 Mùa Chay--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu S.J.
CÂU HỎI
1. Đọc Lc 13, Chuyện gì đã xảy ra với một số người Galilê? xảy ra ở đâu?
2. Đọc Lc 13,2-3. Đức Giêsu nhắc nhở điều gì đối với những người kể lại chuyện đó?
3. Đọc Lc 13,4-5. Chuyện gì đã xảy ra cho mười tám người? Ở đâu? Lời nhắc nhở của Đức Giêsu có gì mới không?
4. Trồng cây vả trong vườn nho có phải là chuyện lạ không? Xem sách ngôn sứ Mi-kha 4,4; 1 Vua 5,5; Dacaria 3,10. Ở vườn địa đàng có trồng cây vả không?
5. "Ông ra tìm trái trên cây mà không thấy" (Lc 13,6): có mấy động từ trong câu này? Câu này được nhắc lại mấy lần trong bài Tin Mừng này? Đọc Lc 13,6-7 bạn thấy ông chủ mong đợi gì nơi cây vả?
6. Ông chủ vườn nho có phải là người nóng tính và tàn ác không khi ông đòi chặt cây vả? Đọc Lc 3,8-9.
7. Anh làm vườn xin gì với ông chủ? Anh ta có niềm hy vọng không? Anh ta có quá bao dung không?
8. Theo bạn, cuối cùng ông chủ có chấp nhận lời yêu cầu của anh làm vườn không? Cuối cùng cây vả có ra trái không?
9. Sau khi đọc dụ ngôn cây vả, bạn hãy cho một định nghĩa về hối cải?
CÂU HỎI SUY NIỆM: Bạn có thấy mình cũng là một cây vả được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc không? Hãy nhớ lại những hy vọng Chúa đặt nơi bạn và những thất vọng bạn đã có lần gây ra. Bạn nghĩ gì về trái của cây vả đời bạn, có nhiều không, có ngon không?
PHẦN TRẢ LỜI
1. Có những người đến gặp Đức Giêsu để kể cho Ngài chuyện quan Philatô trộn máu của một số người Galilê với máu của các lễ vật họ dâng. Hành vi độc ác này rất có thể là hình phạt của Philatô đối với những người Galilê muốn nổi loạn chống lại đế quốc Rôma đang đô hộ Ítraen. Họ có thể bị giết ngay trong Đền thờ lúc họ đang dâng lễ vật, hay bị giết lúc họ đang đến Đền thờ để dâng lễ vật (Lc 13,1).
2. Đức Giêsu đã không kết án Philatô tàn ác, cũng không hô hào mọi người đứng lên khởi nghĩa chống lại đế quốc Rôma. Ngài cũng không bảo những người Galilê bị giết là những kẻ có tội nặng nhất nên mới phải chịu hình phạt kinh khủng như vậy (Lc 13,2). Đức Giêsu coi biến cố đau thương này như một lời cảnh báo mạnh mẽ gửi đến mọi người, kêu gọi dân Ítraen mau hối cải để khỏi chịu chung số phận (Lc 13,3).
3. Trong Lc 13,4-5, chính Đức Giêsu lại kể cho những người đến gặp mình một câu chuyện khác về tai nạn đã xảy ra cho 18 người, khi tháp ở Siloam gần Giêrusalem bất ngờ đổ xuống trên họ. Một lần nữa, Ngài lại khẳng định những người này không phải là những người tội lỗi nhất ở Giêrusalem. Rồi Ngài lại đưa ra lời cảnh báo tương tự, kêu gọi mọi người mau hối cải để khỏi chịu chung số phận như những nạn nhân đó.
Nói chung, qua hai biến cố đau lòng xảy ra, Đức Giêsu chỉ muốn nhắc nhở những người đang nghe Ngài đừng tự mãn là mình thánh thiện nên không bị Chúa phạt, nhưng hãy nhớ: tất cả đều là tội nhân, tất cả đều cần hối cải.
4. Cây nho và cây vả là hai loại cây ăn trái quen thuộc đối với dân Ítraen. Hai loại cây này trở nên biểu tượng cho cảnh thanh bình, thịnh vượng, an cư lạc nghiệp. Được ở hay được ngồi “dưới bóng cây nho, cây vả của mình” là điều ai cũng mơ ước (1 Vua 5,5; Mi-kha 4,4). Bởi đó chuyện trồng cây vả trong vườn nho là chuyện có thể xảy ra. Trong vườn địa đàng cũng có cây vả (Sáng thế 3,7).
5. Có ba động từ trong câu Lc 13,6: ra ( = đến), tìm, và thấy. Câu này được nhắc lại ở Lc 13,7. Đọc Lc 13,6-7 ta thấy ông chủ có một cây vả trồng trong vườn nho của ông. Ông trồng nó để lấy trái. Trái là điều ông mong muốn khi trồng cây vả này. Ta không rõ ông đã trồng nó từ khi nào, chỉ biết lẽ ra nó phải có trái từ ba năm qua, nhưng lại không có. Ba năm liền, ông đều đến cây vả và tìm trái của nó, nhưng không thấy trái nào.
6. Sau khi kiên nhẫn chờ đợi trong ba năm, ông chủ thất vọng. Ông chia sẻ nỗi thất vọng ấy với anh làm vườn và ra lệnh cho anh chặt cây vả, để nó làm gì cho hại đất (Lc 13, 7). Như thế ông chủ không hề nóng tính hay tàn ác khi đưa ra quyết định này. Ông đã chịu đựng ba năm, đã hy vọng, đã chờ đợi trái của nó, và cây vả chẳng làm ông mãn nguyện. Ông không vui gì khi quyết định chặt cây vả mà ông đã trồng, nhưng ông muốn dành đất để làm việc khác.
7. Anh làm vườn còn chút hy vọng nơi cây vả và muốn cho nó một cơ hội cuối. Anh sẽ chăm bón cho nó cẩn thận, và chờ thêm một năm nữa, chỉ một năm thôi. Nếu nó sinh trái thì tốt quá, còn không thì anh sẽ chặt theo ý ông chủ (Lc 13, 8-9).
8. Bài Tin Mừng không cho ta biết ông chủ có chấp nhận lời anh làm vườn không. Ta cũng không biết rốt cục cây vả có ra trái như ông chủ mong đợi không. Nếu cây vả là tôi, thì chỉ tôi mới biết cây vả có ra trái hay không.
9. Hối cải là sinh trái (Lc 3,8-9). Sinh trái nhiều (Ga 15,2.5.8) và bền vững Ga 15,16).
3. Cái nhìn nội tâm--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mùa Chay là mùa sám hối. Sám hối là đổi mới tâm hồn. Muốn đổi mới tâm hồn, phải đổi mới cách nhìn về con người và cuộc đời, về bản thân và tha nhân. Hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta những cách nhìn thời cuộc và biến cố theo tinh thần của Người.
Thông thường, trước một biến cố, ta dễ có cái nhìn chính trị. Hôm nay, người ta thuật lại việc Philatô giết những người Do Thái trong Đền Thờ. Thời ấy, đế quốc Rôma đang thống trị nước Do Thái. Philatô là viên tổng trấn của Rôma. Tường thuật biến cố đau thương này, người ta mong Chúa Giêsu có cái nhìn chính trị, dấn thân vào chính trị. Người ta mong Chúa Giêsu kết án Philatô. Không bàn chính trị, không làm chính trị, cho dù sau này Chúa Giêsu vẫn bị kết án vì một tội chính trị. Không kết án Philatô, dù sau này chính Người bị viên tổng trấn này kết án.
Trước mọi biến cố, Chúa Giêsu muốn ta có một cái nhìn tôn giáo, vượt lên trên lĩnh vực chính trị. Từ một câu hỏi thuộc bình diện chính trị, Chúa Giêsu đã đưa ra một giải đáp thuộc bình diện tôn giáo. Từ một biến cố gây xôn xao dư luận, Chúa Giêsu mời gọi ta hãy ăn năn sám hối. Từ cái chết của thể xác, Chúa Giêsu hướng suy nghĩ ta tới cái chết của linh hồn: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó bị như vậy là vì họ tội lỗi hơn những người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”.
Đối với người khác, ta dễ có cái nhìn kết án. Khi gặp một người mù từ thuở mới sinh, người ta hỏi Chúa Giêsu: “Đây là do tội nó hay tội của cha mẹ nó?”. Gặp người phụ nữ phạm tội ngoại tình, người ta muốn kết án chị. Nga có thói quen cho rằng thành công là một ân huệ Chúa thưởng cho người đạo đức, còn tai hoạ là hình phạt Chúa dành cho kẻ tội lỗi. Hôm nay, chứng kiến những nạn nhân bị thiệt mạng, những người tường thuật đều nghĩ rằng những nạn nhân ấy chết vì họ tội lỗi, còn tôi vô sự, điều đó chứng tỏ tôi vô tội. Chúa Giêsu lên tiếng cảnh báo họ: Các ông cũng là kẻ tội lỗi. Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết thảm khốc hơn những nạn nhân kia nữa. Chúa Giêsu dạy ta có cái nhìn bao dung. Nếu có phải xét đoán, hãy xét mình trước khi xét người. Nếu có phải lên án, hãy lên án chính bản thân mình trước khi lên án người khác: “Hãy lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em”. “Ai trong các ông vô tội hãy ném đá chị này trước đi”.
Sau cùng, ta thường có cái nhìn ảo tưởng. Ta xây dựng những chương trình to lớn, những tham vọng đổi mới xã hội. Chúa Giêsu dạy ta hãy có cái nhìn thực tế: Đừng ảo tưởng với những chương trình to tát, lấp biển vá trời. Hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ bé. Đừng có ảo tưởng đổi mới xã hội, cải tạo thế giới. Trước hết, hãy đổi mới chính mình, cải tạo bản thân mình. Tục ngữ Trung quốc có câu: Nếu mỗi người trông hoa trước cửa nhà mình, cả thế giới sẽ biến thành một vườn hoa đẹp. Đổi mới chính mình đó là góp phần vào đổi mới thế giới.
Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng ánh mắt ta lên cao, vượt thoát lĩnh vực tự nhiên để vươn tới lĩnh vực siêu nhiên. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta xuyên qua những lớp bì phủ bên ngoài để soi chiếu vào chiều sâu nội tâm. Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta ra khỏi những ảo tưởng, đối diện với thực tế bản thân để trước mỗi biến cố ta tự xét và đổi mới chính mình.
Lạy Chúa, xin đổi mới trái tim con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Trong các biến cố, bạn có tìm thấy ý Chúa không?
2. Bạn có nghĩ rằng hễ ai gặp may thì đó là người đạo đức, ai gặp tai nạn thì đó là người tội lỗi không?
3. Muốn đổi mới gia đình, xã hội, phải đổi mới bản thân trước. Bạn nghĩ sao về điều này?
4. Hãy trở nên người tốt--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Có lần, một sinh viên nói với nhà khoa học và triết học Blaise Pascal: “Nếu em được tài giỏi như thày, em sẽ trở thành một người tốt hơn”. Pascal trả lời: “Điều đầu tiên là em hãy trở thành một người tốt hơn, rồi em sẽ được tài giỏi như thày”.
Theo ông Pascal, điều đầu tiên cần phải làm là hãy là một người tốt, rồi sau đó mới có hy vọng và khả năng trở thành người tài giỏi. Cậu học trò trong câu chuyện trên lại có quan điểm ngược lại, chờ khi nào mình tài giỏi thì mới trở thành người tốt. Như thế, điều kiện đặt ra phải là người giỏi, xem ra rất xa vời và ảo tưởng. Con đường đạt tới thành công xem ra chỉ là những mơ ước hão huyền.
Chúng ta thường có khuynh hướng giống như cậu học trò kia, muốn đưa ra những điều kiện ngược đời, trong khi đó, việc mà mỗi người đều có thể làm được, đó là trở nên người tốt, thì lại bị lãng quên hoặc coi nhẹ. Trở nên người tốt, đó là điều kiện đầu tiên để thành đạt trong cuộc sống.
Một nhóm người đến thuật lại cho Chúa Giêsu nghe những sự kiện vừa xảy ra. Khi thuật lại những sự kiện này, không phải vì họ thương xót các nạn nhân mà ngược lại, họ muốn kết án họ như những người tội lỗi. Khi nhận định và phê phán người khác, họ tự coi mình là những chuẩn mực về luân lý. Chúa Giêsu đã điều chỉnh quan niệm của họ. Theo giáo huấn của Chúa, bất cứ ai cũng cần phải sám hối. Bởi lẽ những hình phạt dành cho người cứng lòng, kiêu ngạo có thể xảy đến bất kỳ lúc nào, giống như cây tháp Si-lô-ê đổ xuống hoặc như cuộc chém giết đẫm máu của Phi-la-tô. Sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn gửi đến cho các thính giả đương thời cũng như cho các độc giả hôm nay đã rất rõ ràng: hãy sửa soạn tâm hồn, hãy sẵn sàng và khiêm tốn nhận mình là tội nhân. Chính nhờ sự khiêm tốn đó mà họ có thể đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa là Cha bao dung nhân hậu.
Lòng nhân hậu của Thiên Chúa đã được diễn tả qua câu chuyện bụi gai trong sa mạc. Ông Môi-sen đã được gặp gỡ Chúa tỏ mình qua bụi gai đang cháy bừng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại Chúa tỏ cho con người biết danh xưng của Ngài. Danh xưng ấy gắn liền với các tổ phụ của dân tộc Israen. “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp” (Bài đọc I). Nói đến Thiên Chúa của tổ phụ là nói đến biết bao điều lạ lùng Chúa đã thực hiện vì yêu thương dân riêng của Ngài. Những gì được kể nối tiếp trong sách Xuất hành đã cho ta thấy rõ Thiên Chúa là Đấng nhân hậu. Ngài đã cứu dân Do Thái ra khỏi Ai-cập để dẫn đưa họ về tới bến bờ tự do là Đất Hứa.
Mùa Chay là thời điểm để chúng ta suy tư về lịch sử cứu độ cũng như lịch sử cuộc đời cá nhân mỗi người. Thiên Chúa luôn ghi dấu ấn tình yêu của Ngài nơi cuộc sống chúng ta. Có điều chúng ta ít nhận ra những dấu ấn ấy. Hình ảnh cây vả đã ba năm liền không sinh trái là tượng trưng của một cuộc sống khô cằn, thiếu tình Chúa, vắng tình người, khép kín trước tha nhân. Dù con người mang nhiều tội lỗi, Chúa vẫn luôn bao dung và kiên nhẫn. Ngài giống như người làm vườn gia hạn chờ đợi thêm một năm nữa rồi mới quyết định số phận của cây vả. Thiên Chúa luôn kiên nhẫn mời gọi và chờ đợi chúng ta trở về. Hãy sinh hoa trái để không bị đốn ngã và tiêu diệt. Đó là điều Chúa muốn nhắn gửi chúng ta.
Trở lại câu chuyện mở đầu trên đây, Lời Chúa cũng mang nội dung tương tự, tức là mời gọi chúng ta hãy trở nên con người tốt, để rồi nhờ đó chúng ta mới có hy vọng thành đạt trong xã hội. Hạnh phúc siêu nhiên đời này cũng như đời sau là kết quả của những cố gắng nỗ lực sống tốt với anh chị em xung quanh mình.
“Ôn cố nhi tri tân”, học chuyện đã qua để biết thêm điều mới mẻ. Thánh Phao-lô mời gọi giáo dân Cô-rinh-tô hãy nhìn lại lịch sử Cựu ước để “làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta” (Bài đọc II).
Ước chi mỗi chúng ta được biến đổi nhờ những thực hành của Mùa Chay, để chúng ta trở nên những người loan báo lòng nhân hậu của Chúa trong một xã hội đang nhạt phai tình người. Amen.
5. Tai họa và sám hối – ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Phải có cái nhìn thấu suốt của Đức Giêsu mới thấy sức nặng của câu nói: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng phải chết hết như vậy”
1/ Tai họa: Khi mấy người kể lại cho Đức Giêsu về 2 tai họa chết người ở Giêrusalem, thì Đức Giêsu đã nhấn mạnh câu nói trên hai lần:
Tai họa thứ nhất: Quan Philatô ra lệnh treo hình Hoàng đế La mã từ dinh Hêrôđê đến đền thánh Giêrusalem. Quan muốn thay thế thờ Thiên Chúa bằng thờ Hoàng đế. Người Do Thái thấy đó là một xúc phạm ghê gớm, nó làm ô uế đền thờ thánh thiêng bằng hình tượng ngoại giáo. Họ đã nổi xung biểu tình cuồng nhiệt, bạo động chống lại đế quốc. Philatô cho lính mặc giả dạng Do Thái, giấu võ khí trong áo choàng, len lỏi trà trộn vào đám biểu tình để đánh đập tàn sát dã man. Một số người Galilê đã bị chết khiến máu họ đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng.
Thảm họa thứ hai: Tháp Silôê, một lô cốt xây cao như cây tháp để canh ngoại biên dân cư Silôê, nơi đó có một hồ nước từ suối Silôê chảy tới. Đột nhiên cây tháp bị đổ đè chết 18 người.
2/ Nguyên nhân: Trước những tai họa như thế, người ta thường đổ lỗi cho những nguyên nhân vu vơ, người Việt Nam thường nói là tại số, tại trời định, người Công giáo cũng gán cho Chúa định, người Do Thái lại kết tội những kẻ bị tai họa đó là do tội họ, họ có tội nên bị phạt.
Kết án như thế là đổ dầu vào lửa, kẻ bị tai nạn đã bị đau khổ, lại bị đau khổ thêm. Kẻ đổ lỗi tại số, tại trời, tại Chúa, đó là những kẻ kém lòng tin vào lòng thương yêu của Thiên Chúa.
a) Nguyên nhân sâu xa làm cho những người chết trong tai họa là sự xung đột giữa ý thức hệ tôn giáo và ý thức hệ chính trị. Quân Rôma tôn thờ Hoàng đế của họ như một vị thần trên hết và bắt các dân trong Đế quốc phải tôn thờ Hoàng đế để thống trị chư dân. Do Thái quá cuồng tín, họ độc quyền chiếm hữu Thiên Chúa, dân ngoại không được phép đến gần Thiên Chúa, ai vào đền thờ là làm ô uế đền thờ, sẽ bị dân Do Thái đánh chết, như trường hợp Thánh Phaolô dẫn mấy người Ephesô vào đền thờ để tẩy uế. Thế mà “tất cả thành sôi động, dân chúng đổ xô chạy đến, họ túm lấy Phaolô, lôi ông ra khỏi đền thờ, đóng của lại và tìm cách giết ông thì quân lính nghe tin loạn lớn khắp cả Giêrusalem, lập tức họ kéo đến xông vào đám dân. Dân chúng thấy viên đại úy đến thì thôi đánh đập Phaolô, bấy giờ lính bắt Phaolô…” (Cv. 21, 30-36)
Như vậy, chính sự cuồng tín tôn giáo và chính trị của xã hội loài người đã xúi giục những người Galilê nổi loạn và bị thảm sát, đó là tội chung của người thời đại đó.
b) Nguyên nhân gây ra tai nạn tháp Silôê đổ xuống đè chết 18 người cũng do các tệ đoan con người, từ những người sản xuất vật liệu kém chất lượng đến những con buôn giả dối, từ người xây cất đến những kẻ đốc công vô lương tâm. Đạo lý suy đồi đó là lý do khiến cho bao nhiêu công trình sụp đổ, chết người, chứ không phải là tại tội các nạn nhân.
3/ Sám hối và được cứu thoát: Đức Giêsu không vạch lá tìm sâu, không tìm những nguyên nhân tôn giáo, chính trị, kỹ thuật, càng không được kết tội ai. Nhưng trước những tai họa đó, Đức Giêsu nhấn mạnh cho chúng ta phải lo nhất là đến cái chết đời đời.
Điều quan trọng phải lo là xét tội mình, phải đấm ngực mình để sám hối, để cải thiện chính mình. Ai cũng lo sám hối và cải thiện nên người tốt thì việc mới tốt, xã hội tốt, tôn giáo tốt, chính trị tốt và mọi thứ văn hóa, kỹ thuật khoa học đều tốt, sẽ không còn nổi loạn bắt bớ, tranh đấu, chiến tranh chém giết nữa. Không lạ gì Phật giáo lấy diệt dục con người là nền tảng tự giác, Nho giáo lấy tu thân vi bổn để tề gia, trị quốc bình thiên hạ.
Bài đọc I cho thấy Thiên Chúa kiên nhẫn làm cho Maisen sám hối, bỏ tính nhát sợ chạy trốn vâng lời Thiên Chúa nhận lấy trách nhiệm đi thương lượng với vua Pharaon, còn Pharaon trước bao nhiêu tai họa vẫn cứng lòng. Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi Pharaon sám hối, rút cuộc ông đã sám hối, mềm lòng ưng thuận cho dân Israel ra khỏi Ai Cập.
Thiên Chúa còn kiên nhẫn hơn nữa đối với dân Israel, mỗi khi họ gặp sức ép của Pharaon, họ đã kêu rên, than trách Maisen và cả Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã cho Pharaon càng tăng sức ép thì dân càng mong sớm được giải phóng trở về quê hương. Khi dân biết nghe lời Maisen ra khỏi Ai Cập thì Thiên Chúa càng thương yêu cứu chữa họ và ban cho bao nhiêu đặc biệt như: đi dưới ánh sáng soi đường ban đêm, đám mây che mát ban ngày, vượt qua biển đỏ bình an, ăn thức ăn linh thiêng, uống nước linh thiêng chảy từ tảng đá. Thế mà phần đông họ đã không biết ơn Thiên Chúa, lại còn chống đối, phản loạn, không cần Thiên Chúa. Thiên Chúa đã bỏ mặc họ và họ đã chết, xác họ ngổn ngang trong sa mạc. Thánh Phaolô đã lấy bài học đó để răn dạy giáo đoàn Corintô và chúng ta. Chúng ta phải lo sám hối đừng tưởng mình vô tội, đừng tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo sa ngã (Bài đọc II). Sa ngã và chết đời đời là vấn đề nguy khốn nhất. Lời Đức Giêsu kêu gọi chúng ta hôm nay: “Nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng phải chết hết y như vậy”, không phải chỉ chết đời này mà còn chết đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã bị Philatô kết án tử hình, không phải vì tội Chúa mà chính vì thương yêu con, đền tội con và cứu con. Xin cho con biết thành tâm nghe tiếng Chúa kêu gọi con: Hãy ăn năn sám hối để trở về với Chúa và được sống vinh phúc đời đời.
6. Lời mời gọi sám hối--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi người sám hối, vì Thiên Chúa là Đấng luôn nhân từ hay thương xót, Ngài luôn động lòng trước nỗi thống khổ của con người, Ngài luôn thương và cứu giúp con người.
Thiên Chúa giải phóng dân Người
Dân Do Thái bị bóc lột, bị đàn áp và bị tiêu diệt từng ngày. Trong cùng quẫn, họ đã kêu lên Thiên Chúa, và Ngài đã giải phóng họ bằng việc sai gởi Môsê tới lãnh đạo dân, thương lượng với vua Pharaô, đưa dân ra khỏi Ai-cập.
Thiên Chúa động lòng trước nỗi khổ của dân Do Thái, trước nỗi khổ của Môsê lang bạt trong hoang địa khi trốn chạy Pharaô. Thiên Chúa đã hiện ra cho Môsê qua bụi gai bốc cháy mà không tàn, để sai Môsê đi giải phóng dân. Môsê lãnh đạo giải phóng dân, nhưng không phải Môsê lãnh đạo giải phóng dân, mà chính là Thiên Chúa giải phóng dân. Đây chính là điều dân Do Thái cần ghi nhớ để dạy lại cho con cháu.
Thiên Chúa, Đấng tự hữu, luôn yêu thương và cứu trợ dân người.
Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người
Người đời cho rằng những người bị tai họa là những người tội lỗi, nên bị Chúa phạt. Nhưng Đức Giêsu lại không cho rằng những người bị Philatô sát hại cũng như những người bị thác Siloê đổ đè chết, là những người tội lỗi hơn những người còn đang sống. Đức Giêsu nói: “Không đâu! Nhưng nếu các người không sám hối, các người sẽ bị như vậy”. Những người bị nạn đó, trở thành tấm gương, là bài học để con người hôm nay nhìn vào, hầu thay đổi cách sống. Thiên Chúa vì yêu thương những người còn đang sống, hôm nay vẫn dùng bao biến cố, như những tấm gương, để răn dạy con người.
Dụ ngôn cây vả không sinh trái, và người làm vườn đã xin ông chủ khoan nhượng để bón phân tưới nước, hy vọng cây vả sẽ ra trái vào năm sau, bằng không thì sẽ chặt nó sau, cũng là dụ ngôn cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nhân từ và kiên nhẫn đối với con người tội lỗi.
Xin cho con người hôm nay, cụ thể là mỗi người chúng ta, được cảm nhận lòng yêu thương nhân từ kiên nhẫn của Thiên Chúa, để mỗi người chúng ta trở về với Ngài, và sinh hoa kết trái trong đời sống.
Dân Do Thái là bài học cho mọi người mọi dân tộc
Dân Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa, được Thiên Chúa thương yêu với bao đặc ân. Nhưng Thiên Chúa cũng thương mọi dân tộc như thương dân Do Thái. Họ được chọn để trở thành “tấm gương tầy liếp” (tấm gương to), cho tất cả mọi người, mọi dân tộc nhìn vào để soi, để thấy tình yêu của Thiên Chúa với dân Do Thái, và qua dân Do Thái đối với các dân tộc khác, với mọi người trên trần gian.
Dân Do Thái được Thiên Chúa đưa ra khỏi Ai-cập, được Ngài nuôi ăn bằng manna, được uống nước từ tảng đá. Nhưng tất cả những điều đó, cũng là dấu chỉ, là hình bóng, cho thấy Thiên Chúa vẫn luôn nuôi sống con người qua cơm bánh họ có từng ngày. Hơn nữa, con người hôm nay còn được nuôi sống bằng mình máu Đức Giêsu nơi bí tích Thánh Thể.
Cả lịch sử dân tộc Do Thái thành bài học cho con người của mọi thời đại sau này. Xin cho mỗi người cũng như mỗi dân tộc biết nhìn lịch sử dân Do Thái để nhận ra tiếng Chúa nói với mình, nhận ra tình yêu Thiên Chúa dành cho mình.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Qua các thiên tai cũng như những sự dữ con người gây ra, nhiều người cho rằng Thiên Chúa độc ác, với tư cách là người Kitô hữu bạn giải thích hay trả lời họ thế nào?
2. Bạn có cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa đối với bạn và những người thân của bạn qua những biến cố bao giờ chưa? Nếu được xin chia sẻ.
3. Sám hối, trở lại với Thiên Chúa, theo bạn, chủ yếu hệ tại đâu?
7. Trở về với Đấng Yêu Thương--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Thiên Chúa đã biết nỗi khổ cực của dân Do Thái bên Aicập, Ngài đã nghe tiếng họ kêu than (Xh.3, 7), và Ngài muốn giải phóng họ khỏi cảnh khổ cực để đưa họ về nơi hạnh phúc. Thiên Chúa không ở xa con người, Ngài ở gần con người, Ngài nghe tiếng con người cầu khẩn Ngài, Ngài rung động trước nỗi khổ cực của con người. “Lạy Cha chúng con ở trên trời” là câu muốn diễn tả Thiên Chúa là Đấng siêu việt, chứ không muốn nói Thiên Chúa ở trên khoảng không trên trời xa thẳm và không nghe được tiếng con người cầu xin. Thiên Chúa luôn ở với con người (Ga.14, 23.16), Ngài làm con người thành đền thờ của Ngài (1Cor.3, 16-17). Thiên Chúa ở gần tôi, Thiên Chúa biết tôi hơn cả chính tôi, Ngài quan tâm đến tôi hơn cả chính tôi (Tv.139, 1-6). Thiên Chúa luôn yêu thương tôi.
Thiên Chúa gọi Môsê và sai ông đi giải phóng dân Do Thái khỏi Aicập. Môsê là người rất đặc biệt. Ông đã gắn bó với dân tộc mình, cho dù ông đang sống trong hoàng cung với những điều kiện thuận lợi để có một đời sống vật chất êm ấm nhưng ông đã bênh người Do Thái mà giết một người Aicập. Việc bại lộ nên ông phải bỏ hoàng cung để trốn chạy ra ẩn cư nơi hoang địa. Giờ đây Thiên Chúa gọi ông, Ngài chọn ông và sai ông trở lại Aicập để đưa dân Do Thái ra khỏi đó. Môsê được gọi vì dân tộc Do Thái. Không thể chối cãi rằng Thiên Chúa yêu thương Môsê, Ngài đã can thiệp vào đời Môsê để cứu ông khỏi chết trên giòng sông Nil, Ngài đã giải thoát ông khỏi tay Pharaô trong biến cố ông giết người Aicập, và bây giờ Ngài ưu ái chọn ông làm người thực hiện ý định của Ngài; tuy nhiên người ta cũng thấy rõ, chính vì dân tộc Do Thái, để giải phóng dân Do Thái mà Môsê đã được gọi. Sứ mạng được trao cho cá nhân, để phục vụ cộng đoàn, để phục vụ con người.
Thiên Chúa yêu thương dân như vậy, nhưng dân Do Thái đã nổi loạn không tuân phục Thiên Chúa. Bao nhiêu điềm thiêng dấu lạ Thiên Chúa đã làm cho dân như mười tai ương bên Aicập, đi qua biển đỏ ráo chân, đập đá lấy nước cho dân uống, chim cút cho dân ăn, manna hằng ngày cho dân, nhưng họ vẫn không tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Họ đã không được vào đất hứa vì thái độ phản loạn của họ. Thánh Phaolô cho rằng con người ngày nay có lịch sử dân Do Thái để làm gương, để biết sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa (1Cor.10, 6.10-12). Không phải con người ngày nay khá hơn con người ngày xưa, nhưng điều đã xảy ra cho dân tộc Do Thái ngày xưa hôm nay vẫn được lập lại cho mỗi con người. Con người hôm nay cũng phải sống thuận thảo với Thiên Chúa, phải tin tưởng và phó thác nơi Ngài. Hạnh phúc đích thực mà con người mọi thời đại phải cố thực hiện, là hạnh phúc mỗi ngày và từng ngày, từng giây phút. Hạnh phúc thực tùy thuộc thái độ và chọn lựa của mỗi con người.
Đức Giêsu cũng nói với con người thời đại của Ngài khi thấy những tai họa xảy tới cho người thời đó. Những thiên tai hay tai họa cũng có thể là những sứ điệp Thiên Chúa gởi tới cho con người. Đừng tưởng rằng những người bị tai họa vì họ tội lỗi hơn người đang sống không bị tai họa, “nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy”. Đức Giêsu khi khởi đầu sứ mạng, Ngài đã loan báo: “hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc.1, 14). Sám hối là điều rất cần thiết, nên Đức Giêsu đã lập đi lập lại nhiều lần.
Sám hối, là thái độ trở lại với Thiên Chúa và với con người khi đã nhận biết sự thật về chính mình, khi thấy mình đã không đi đúng đường, khi nhận ra mình đã lỗi lầm phạm tội. Tôi là ai, tôi đã làm gì, tôi có sống theo lời mời gọi của Thiên Chúa đối với tôi không, tôi có cố gắng vươn lên thành người thành toàn như Thiên Chúa muốn không, hay tôi đã xúc phạm đến tha nhân và Thiên Chúa? Không có sự nhận thức đúng đắn về chính mình, không thể có sám hối thật sự.
Tôi có biết Thiên Chúa yêu thương tôi vô cùng không? Tôi có đáp trả tình yêu của Ngài không? Tình yêu đáp trả tình yêu. Nếu tôi không đáp trả tình yêu của Ngài, tôi đáng tội chết! Tuy nhiên Thiên Chúa không xử tôi chết, nhưng nếu tôi không ở trong tình yêu của Ngài, tôi sẽ chết khô như cây mà rễ nó không hút nước và chất bổ dưỡng để nuôi cây. Tôi không tựa vào Thiên Chúa và không ở trong Ngài thì tôi tự hủy hoại tôi, tôi không thể sống hạnh phúc được.
Tôi có cố gắng phát triển tài năng và trưởng thành đến độ như Thiên Chúa ao ước về tôi không? Thiên Chúa kỳ vọng nơi tôi, tôi có làm Ngài thất vọng không? Tôi có sống hạnh phúc như Thiên Chúa muốn không? Tôi có tin rằng Ngài thương tôi, và sẵn sàng làm tất cả cho tôi không? Nén vàng nén bạc tài năng Thiên Chúa ban, tôi có sinh lợi không? Thiên Chúa đã gọi Môsê và đã chờ đợi ông đáp trả, chắc chắn Thiên Chúa cũng có chương trình về tôi, Ngài cũng kỳ vọng nơi tôi, và Ngài mong ước tôi sẽ đáp trả chương trình của Ngài có nơi tôi. Tôi có phát triển con người của tôi, để có thể thực hiện sứ mạng Thiên Chúa trao cho tôi không?
Thái độ của tôi như thế nào đối với bạc tiền danh vọng tình duyên? Người đời cho rằng tiền bạc giải quyết tất cả, “có tiền mua tiên cũng được”, và người ta tìm mọi cách để kiếm cho được thật nhiều tiền, ngay cả đến độ xúc phạm con người, bỏ cả người thân là cha mẹ, vợ chồng, con cái. Tiền bạc chi phối tất cả đời sống của những người này, đóng lòng họ, ngăn cản họ đến với người khác. Tôi có cách cư xử giống như những người đó không? Thiên Chúa và tha nhân có chỗ đứng nào nơi tôi? Thiên Chúa có chỗ đứng tuyệt đối nơi đời sống và chọn lựa của tôi không?
Thiên Chúa vẫn đang chờ mong tôi trở lại với Ngài, như người cha tựa cửa mong người con hoang trở về, Thiên Chúa cũng đang chờ đợi tôi sám hối quay về với Ngài. Ngài vẫn đang ban Thánh Thần cho tôi, vẫn đang thúc giục tôi trở về với Ngài. Hãy trở về với Thiên Chúa, để được hạnh phúc với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Xin Thiên Chúa giúp con trở về với Thiên Chúa là Cha nhân từ.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, ơn gọi là gì? Ơn gọi của Môsê là gì? Ơn gọi của bạn là gì?
2. Như thế nào là người trưởng thành? Đâu là những khía cạnh mà con người cần lưu ý để trở thành người phát triển toàn diện?
8. Hãy sám hối--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
"May ra sang năm nó sẽ có trái. Nếu không thì ông sẽ chặt đi" (Lc 13,9)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay rất khẩn thiết: "Nếu các ngươi không sám hối, các ngươi sẽ phải chết". Phụng vụ dành cho chúng ta một thời gian dài 40 ngày của Mùa Chay để chúng ta nhận thức tình trạng tội lỗi của mình mà ăn năn sám hối. Đây đúng là lúc thuận tiện, đây đúng là thời cứu độ. Chúng ta đừng phí phạm cơ hội Chúa ban, đừng làm ngơ trước lời kêu gọi của Chúa.
II. Gợi ý sám hối
Chúng con thiếu sót rất nhiều trong bổn phận kính mến và thờ phượng Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
Chúng con lỗi phạm rất nhiều trong tương quan với tha nhân. Xin Chúa thương xót chúng con.
Chúng con còn làm nô lệ cho tiền bạc, của cải, tiện nghi. Xin Chúa thương xót chúng con.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Xh 3,1-15)
Tuần vừa qua, chúng ta được kể về chặng thứ nhất trong Lịch sử cứu độ: Thiên Chúa chọn Abraham để thành lập một dân mới. Tuần này chúng ta được nghe kể tiếp chặng thứ hai: Thiên Chúa chọn Ông Môsê để giải phóng dân ấy khỏi ách nô lệ Ai cập.
Lúc bấy giờ Môsê đang trốn trong sa mạc vì sợ Pharao lùng bắt. Ông làm nghề chăn chiên. Một hôm đang khi Môsê chăn chiên thì Thiên Chúa hiện ra với ông.
Thiên Chúa hiện ra trong một bụi gai rực lửa nhưng bụi gai ấy không bị cháy rụi: Thiên Chúa là Đấng rất hùng mạnh, nhưng sức mạnh của Ngài không phải dể tiêu diệt mà để giải thoát.
Thiên Chúa gọi đích danh Môsê: Ngài biết rõ từng người.
Thiên Chúa nói với Môsê "Ta đã thấy rõ cảnh khổ của dân Ta... Ta xuống giải thoát chúng...": Thiên Chúa là Đấng giải thoát.
Khi Môsê hỏi Tên Thiên Chúa thì Ngài đáp bằng một câu nói bí ẩn "Ta là điều Ta là". Có nhiều lối giải thích kiểu nói này: (1) Thiên Chúa từ chối không nói tên mình, bởi vì không ai có thể hiểu được Thiên Chúa; (2) Ta là thế nào thì các ngươi sẽ hiểu khi thấy các việc Ta sẽ làm (sau này khi thấy Thiên Chúa giải thoát dân Do Thái: người ta sẽ hiểu Ngài là Đấng giải thoát); (3) Câu nói đó có thể dịch là "Ta là Đấng hằng hữu"; (4) Cũng có thể dịch là "Ta là Đấng là": ngược với các thần Ai cập chỉ là hư vô giả trả, chỉ có một mình Thiên Chúa là có thật.
Điều quan trọng nhất của tường thuật này là Thiên Chúa thương dân Ngài và muốn giải thoát họ khỏi cảnh khổ.
2. Đáp ca (Tv 102)
Thánh vịnh 102 triển khai ý chính của bài đọc I: ca tụng những công trình giải thoát của Thiên Chúa.
3. Tin Mừng (Lc 13,1-9)
Ý chính của đoạn Tin Mừng này là kêu gọi sám hối:
+ cc 1-5: người Do Thái thời Chúa Giêsu quen nghĩ "ác giả ác báo". Trước hai tai nạn đột ngột làm chết nhiều người, họ kết luận ngay rằng những nạn nhân ấy là "ác giả" cho nên bị "ác báo". Chúa Giêsu khuyên đừng hồ đồ suy đoán về người khác những mỗi người hãy coi các tai nạn đó là tiếng nhắc nhở hãy xét lại lương tâm mình để lo sám hối.
+ cc 6-9: Qua dụ ngôn cây vả không sinh trái, Chúa Giêsu bảo mỗi người hãy tận dùng thời gian gia hạn mà Thiên Chúa đã ban cho mình để sớm lo sám hối.
4. Bài đọc II (1 Cr 10,1-6.10-12)
Thánh Phaolô giải thích ý nghĩa các biến cố trong cuộc Xuất hành:
Việc vượt qua Biển Đỏ là tượng trưng cho Phép Rửa.
Tảng đá đã phun ra nước cho dân Do Thái uống tượng trưng cho Chúa Giêsu.
Kitô hữu chúng ta cũng xuất hành như dân Do Thái xưa. Nhưng đừng bắt chước họ chìu theo dục vọng xấu xa, đừng kêu ca trách móc, trái lại ngoan ngoãn hành trình theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Hãy ăn năn sám hối
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy ăn năn sám hối. Lời kêu gọi này không chỉ nhắm đến những kẻ tội lỗi mà nhắm đến mọi người không trừ ai. Thế nhưng có người sẽ thắc mắc: người tốt cũng cần phải sám hối sao?
Trong trường hợp những người được gọi là tốt, họ vẫn phải sám hối vì những việc tốt lẽ ra họ có thể làm mà lại không làm. Họ giống như cây vả trong bài Tin Mừng này. Ông chủ muốn đốn nó không phải vì nó đã sinh ra những trái xấu, mà vì nó không sinh ra những trái vả như nó phải sinh ra. Một cây vả mà không sinh trai vả thì đâu còn là cây vả nữa.
Các kitô hữu ít khi tự đặt cho mình câu hỏi này: Điều gì lẽ ra tôi phải làm mà lại không làm? Tiếng gọi sám hối không chỉ kêu gọi ta thôi đừng làm điều xấu nữa, mà còn kêu gọi ta hãy "sinh trái" bằng những việc tốt. Chính vì thế mà lời kêu gọi này nhắm đến mọi người. (FM)
* 2. Cơ hội thứ hai
Có một câu chuyện về một cây vĩ cầm như sau:
Cây vĩ cầm bị rạn nứt, người ta dán lại và đem ra bán đấu giá. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút nó làm gì. Nhưng ông vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán:
- Thưa quí vị ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây?
Một đồng, rồi hai đồng. Chỉ có hai đồng thôi sao? Ai sẽ trả nó ba đồng đây. Vâng, một người trả ba đồng. Không ai trả hơn sao?
Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau sạch bụi chiếc đàn cũ kỹ, rồi lên dây lại. Sau đó, ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, du dương như bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rãi, hỏi:
- Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm này đây?
Đoạn ông vừa cầm đàn lên vừa nói:
- Một ngàn đồng, và ai sẽ tăng lên hai ngàn? Hai ngàn rồi, có ai chịu tăng lên ba ngàn không? Một người chịu giá ba ngàn, còn nữa không?
Đám đông hồ hởi reo vui, nhưng có vài người trong họ la lên:
- Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm đó?
Lập tức có tiếng đáp lại:
- Chính nhờ đôi tay người nghệ sĩ chạm vào đấy!
***
Đứng trước những biến cố đem lại tai hoạ và chết chóc cho con người, Chúa Giêsu không bình luận theo quan điểm của người Do Thái thời đó: Tin Mừng hôm nay kể lại việc quan tổng trấn Philalô tàn sát mấy người Galilê và việc tháp Siloê đổ xuống đè chết 18 nạn nhân. Người Do Thái cho rằng những người bị tai hoạ đó là do tội lỗi của chính họ, nên bị Thiên Chúa giáng phạt. Còn những người khác thấy vẫn bình yên vô sự, thì cho rằng mình vô tội, nên dễ tự hào về sự thánh thiện của mình. Chúa Giêsu không nghĩ thế, Người không cho rằng những người bị nạn đó tội lỗi hơn đồng hương của họ. Người muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân, đều bị Thiên Chúa phán xét, đều đáng chịu án phạt của Người, nên cần phải ăn năn sám hối, để tránh hình phạt của Thiên Chúa.
Tính cấp bách phải sám hối ăn năn được Chúa Giêsu nói rõ trong dụ ngôn cây vả: Thiên Chúa là người trồng cây, Chúa Giêsu là người làm vườn, và dân Ítraen là cây vả không sinh trái. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Ítraen làm dân riêng của Người, và ban cho nhiều đặc ân, nhưng họ lại không sinh hoa kết trái, là trung thành với lề luật, sống công chính, và phụng thờ một mình Người.
Thiên Chúa đã chấp thuận đề nghị của Chúa Giêsu, là cho họ một cơ hội thứ hai, một thời gian để chăm bón thêm, với các lời giảng dạy của Chúa Giêsu và các phép lạ kèm theo. Nhưng họ vẫn cố chấp, không hoán cải để sinh hoa trái. Vì thế, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ: Điều đó đã được chứng thực vào năm 7O sau Công Nguyên khi đền thánh Giêrusalem bị tàn phá.
Thiên Chúa cũng đã tuyển chọn chúng ta trong kế hoạch nhiệm mầu của Người và yêu thương chăm sóc chúng ta cách đặc biệt. Người chờ mong chúng ta sinh ra hoa trái tốt tươi. Nhưng nếu chúng ta chưa thực hiện được những mơ ước của Người, thì cũng như cây đàn vĩ cầm rạn nứt trong câu chuyện trên đây, Người cũng cho chúng ta một cơ hội, là đôi tay kỳ diệu của người nghệ sĩ đã chạm vào cây đàn, chính là Đức Glêsu, để chúng ta tấu lên những khúc nhạc du dương, là bài ca của những tâm hồn biết ăn năn, là hoa trái của những tấm lòng sám hối.
Chúng ta hãy cảm tạ tri ân Chúa Giêsu đã cho chúng ta cơ hội thứ hai này, và tận dụng tối đa cơ may ấy để sinh nhiều hoa trái trong mùa Chay thánh.
***
Lạy Chúa, mỗi một biến cố đau buồn là một lời nhắc nhở chúng con hãy sẵn sàng tỉnh thức. Mỗi một ngày mới là một cơ hội Chúa khoan giãn để chúng con có thời gian sám hối ăn năn.
Xin đừng để chúng con khất lần kẻo cũng bị số phận như cây vả không trái, nhưng xin cho chúng con biết dùng ơn Chúa để nên thánh thiện sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn. Nhất là biết chuẩn bị giờ chết ngay từ bây giờ bằng việc ăn năn sám hối. Amen. (Thiên Phúc)
* 3. Kiên nhẫn
Cây vả được trồng 3 năm thì tới lúc có trái. Nếu đến khi đó mà nó vẫn chưa có trái thì hầu như sẽ chẳng bao giờ có trái nữa. Đây là trường hợp của cây vả trong bài Tin Mừng hôm nay. Bởi vậy ông chủ ra lệnh đốn bỏ nó, để khỏi chật đất, để khỏi tốn công chăm sóc, để danh chỗ trồng cây khác hữu ích hơn. Nhưng người làm vườn vẫn chưa nản lòng. Người này vẫn còn hy vọng nơi cây vả, nên xin ông chủ cho thêm thời hạn một năm nữa. Trong thời gian này ông sẽ tích cực bồi dưỡng và chăm sóc cho nó. Sau đó nếu nó vẫn không trái thì mới bị chặt đi.
Dụ ngôn không cho ta biết kết quả cuối cùng thế nào. Nhưng bấy nhiêu cũng đủ nói lên điều Chúa Giêsu muốn nói: cũng như người làm vườn kiên nhẫn chờ đợi cây vả ra trái, Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ tội lỗi ăn năn sám hối.
Lịch sử đầy dẫy những thí dụ về những người nhờ được người khác kiên nhẫn cho thêm cơ hội nên về sau trở thành những vĩ nhân. (1) Ngay trong bài đọc I hôm nay đã có một tấm gương: Môsê khi còn trẻ đã phạm tội giết người. Chúa không phạt ông, mà còn sử dụng tính khí nhiệt tình của ông để giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai cập. (2) Einstein mãi đến hai tuổi mới bắt đầu biết nói bập bẹ. Khi Einstein đến trường, các giáo viên cũng ngã lòng vì sự chậm chạp của ông. Vậy mà Einstein đã trở thành nhà bác học được đánh giá là nổi bật nhất của thế kỷ.
Có nhiều người phát triển rất chậm và muộn màng, nhưng lại là những nhân tài. Những người như thế cần có ai đó tin tưởng họ, kiên nhẫn chờ đợi họ và tạo cơ hội cho họ. Nếu không thì kho tàng tài năng của họ sẽ bị vùi dập và mai một đi.
Chúng ta biết cho chính bản thân mình thêm cơ hội. Tại sao chúng ta không làm như thế đối với người khác? (FM)
* 4. Đất thánh
Chúa phán với Môsê: "Nơi ngươi đang đứng là đất thánh".
Mọi nơi trên mặt đất này mà Chúa ban cho ta đều là đất thánh và đáng được chúng ta kính trọng. Nhưng mảnh đất thánh thiện nhất nằm ngay trong chúng ta.
Trước hết, thân xác chúng ta là thánh. Thân xác là thánh vì nó là công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Thánh Phaolô còn đưa ra lý do thứ hai: "Thân xác anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần". Vậy chúng ta phải tôn trọng và chăm sóc thân xác chúng ta.
Tâm trí chúng ta cũng là thánh. Nhiều người hằng ngày cứ nhồi vào tâm trí mình đủ thứ điều xấu xa từ tivi, radio, sách báo v.v. Chúng ta hãy nghe lời Thánh Phaolô: "Anh em hãy đong đầy tâm trí những gì chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt những gì là đức hạnh đáng khen" (Pl 4,8)
Nhưng thánh nhất là tâm hồn chúng ta. Ngày nay người ta rất quan tâm đến sự sạch sẽ bên ngoài nhưng lại quên đi sự sạch sẽ bên trong, tức là sự sạch sẽ của tâm hồn. Từ tâm hồn sinh ra tư tưởng, lời nói, việc làm như dòng nước phát sinh từ mạch nước. Nếu mạch nước mà sạch thì nước chảy ra cũng sạch. Vậy chúng ta hãy giữ cho tâm hồn trong sạch và tinh tuyền. Chúa Giêsu nói "Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Chúa". (FM)
* 5. Tản mạn suy tư
a/ Trong bài đọc I kể chuyện Chúa hiện ra với Môsê, điều đáng ngạc nhiên là Chúa không hiện ra cho ông trong Đền thờ mà là trong sa mạc; và Chúa hiện ra không phải khi Môsê đang cầu nguyện mà trong lúc ông chăn cừu. Chúa hiện ra cho Môsê ở một nơi phàm trần và trong một sinh hoạt phàm trần.
Ngày nay thế giới đã trở thành một nơi phàm trần. Thật khó mà giữ được một ý thức thiêng thánh trong một thế giới như thế. Tuy nhiên, nếu không có thiêng thánh và ý thức hướng thượng, thì cuộc đời sẽ nghèo nàn và thấp hèn biết bao.
Trong cuộc gặp gỡ giữa Môsê với Thiên Chúa, cảm xúc lấn át nhất xem ra là sợ hãi. Nhưng thực ra không phải thế. Khi Thánh Kinh nói về sự sợ đối với Thiên Chúa thì không phải là sợ hãi mà là kính sợ. Sợ hãi là một cảm xúc tiêu cực, nó khiến ta co rúm lại và muốn chạy trốn; còn kính sợ là một cảm xúc tích cực, nó khuyến khích ta tiến đến gần đối tượng đang tác động lên mình, ta không cảm thấy bị hạ xuống, mà được nâng lên.
Tín ngưỡng bắt đầu bằng cảm xúc kính sợ, kính sợ vì nhận biết sự cao cả của Thiên Chúa và giới hạn thấp hèn của con người. Kính sợ đi trước, và đức tin đến sau.
Mà kính sợ thì bắt đầu bằng sự ngỡ ngàng. Môsê đã ngỡ ngàng khi thấy bụi gai cháy rực mà không rụi tàn.
b/ Tuy nhiên rất dễ ngỡ ngàng trước một sự kiện bất thường như thế. Ngay cả người khùng cũng biết ngỡ ngàng trước sự bất thường. Còn người khôn thì biết ngỡ ngàng trước những sự bình thường. Đây mới là vấn đề. Chúng ta ước ao được ngỡ ngàng trước một phép lạ, nhưng chúng ta không ngỡ ngàng khi ngắm cảnh hoàng hôn. Hầu hết chúng ta cảm thấy khó mà nhận ra nét cao cả và đáng ngỡ ngàng nơi những sự việc bình thường trong cuộc sống; chúng ta không nhận ra những "phép lạ" vẫn diễn ra hằng ngày chung quanh chúng ta.
Tâm tình tôn thờ bắt nguồn từ ý thức về những phép lạ như thế. Kính sợ và ngỡ ngàng có thể được khơi lên bởi những sự việc rất nhỏ bé, chẳng hạn một hạt cát, một chiếc lá hay một giọt mưa.
Một đức tin cần được củng cố bằng phép lạ là một đức tin nghèo nàn. Những ai đã gắn bó với Chúa thì không cần phép lạ nữa, vì họ đã ý thức mình đang sống trong một thế giới được quyền năng Chúa bao bọc, họ nhìn đâu cũng thấy Chúa.
Người nào có khả năng nuôi dưỡng đức tin của mình bằng những phép lạ đời thường thì giống như người đang ngồi nơi bàn tiệc.
c/ Dù Môsê đang đứng tại một nơi phàm trần giữa hoang địa, nhưng Chúa bảo ông rằng đó là nơi thánh. Điều gì đã khiến nơi đó thành nơi thánh? Thưa chính là sự hiện diện của Chúa. Nếu thế thì nhà thờ cũng là nơi thánh, vì có Chúa hiện diện trong nhà thờ. (FM)
* 6. Tại sao Chúa chọn Môsê?
Trích đoạn của bài đọc I không cho ta biết tại sao Chúa chọn Môsê. Nhưng trước trích đoạn này có ba đoạn khác có thể giúp chúng ta trả lời được câu hỏi này.
Một lần kia Môsê thấy một người Ai cập hà hiếp một người Do Thái, ông chịu không được nên đã ra tay can thiệp.
Một lần khác ông thấy hai người Do Thái đánh nhau, ông chịu không nổi nên cũng ra tay can thiệp.
Và một lần nữa, ông thấy những người chăn chiên xứ Mađian ngăn cản không cho các con gái của Ông Yêthro múc nước, ông không chịu nổi nên lại ra tay can thiệp.
Cả ba chuyện trên đều cho thấy Môsê là người không thể khoanh tay đứng nhìn trước cảnh bất công. Bởi thế khi Thiên Chúa "thấy cảnh khổ cực của dân Ta... Ta xuống giải thoát chúng..." thì Ngài chọn Môsê.
* 7. Chuyện minh họa
a/ Ăn năn
Satan phàn nàn với Chúa: "Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời. "Chúa nói: "Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa?".
b/ Cơ hội cuối cùng
Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ông ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ: "Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu". Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy: Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng: không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn. (Tonne).
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, con người cần phải thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi vết nhơ tội lỗi. Với tâm tình sám hối và quyết tâm đổi mới đời sống, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh luôn mời gọi người Kitô hữu thành tâm sám hối vì những lỗi lầm đã phạm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / biết tích cực sống tinh thần cầu nguyện và sám hối của Mùa Chay.
2. Trong đời sống thường ngày / vẫn còn biết bao người đói khổ vì quá nghèo túng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người giàu có / biết rộng rãi chia sẻ cơm áo cho những ai khó nghèo.
3. Hãy thay đổi đời sống / vì Nước Trời đã tới gần bên / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết nỗ lực hoán cải con tim / thay đổi tính hạnh / để ngày càng nên giống Chúa Giêsu hơn.
4. Sám hối trước tiên là lãnh nhận bí tích Hòa Giải / rồi thực hành bác ái yêu thương / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chân thành xưng thú tội lỗi / và yêu thương hết thảy mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa, biết bao lần chúng con đã sám hối tội lỗi và quyết tâm đổi mới đời sống cho đẹp lòng Chúa, nhưng chúng con chưa thực hiện được những gì muốn quyết tâm sửa đổi vì yếu đuối. Vậy xin Chúa ban thêm sức mạnh cho chúng con. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Trong tâm tình sám hối, khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt đọc cách rất thức lời nguyện "và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con"
VII. Giải tán
Như người làm vườn kiên nhẫn chờ đợi cho cây vả sinh ra, Thiên Chúa cũng đang kiên nhẫn chờ đợi chúng ta sám hối và sinh ra hoa trái những việc lành. Chúng ta đừng làm cho Chúa phải thất vọng.
8b. Hãy sám hối—Lm Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Hai tuần I và II Mùa Chay cho ta hiểu ý nghĩa về thử thách, cám dỗ và sau cám dỗ là vinh quang của Đức Kitô. Với Chúa nhật III này, các bài đọc của Lời Chúa chú trọng vào một trọng tâm là phải ăn năn sám hối và sinh hoa kết quả bằng những việc làm cụ thể trong cuộc sống hằng ngày của Kitô hữu.
Chúng ta đã khởi đầu Mùa Chay bằng nghi thức xức tro trên đầu, một nghi thức thật cụ thể để diễn tả một trong những mục tiêu của Mùa Chay, đó là sám hối và trở về. Trong tâm tình đó, hôm nay vào giữa Mùa Chay, một lần nữa, Mẹ Giáo hội mời gọi chúng ta tin tưởng vào lòng nhân từ hay tha thứ của Thiên Chúa để can đảm đứng dậy, sám hối về tất cả những yếu đuối lỡ lầm của chúng ta trong cuộc sống.
Trong bài Tin mừng hôm nay, khi dùng hai biến cố gây ra chết người làm bối cảnh cho giáo huấn của Ngài – Trước hết Đức Giêsu đã đánh đổ quan niệm cũ sai lầm trong Do thái giáo, coi những người chết vì bệnh tật, tai nạn, bị đàn áp… là những người tội lỗi – Rồi Ngài khẳng định rằng nếu không sám hối và sinh hoa kết quả – mà cứ chai lì ra, thì sẽ chịu hậu quả khốc liệt hơn những người chết trong hai biến cố trên – vì họ sẽ bị chính ÔNG CHỦ LOẠI BỎ VĨNH VIỄN. Ông chủ đây là ai ngoài Thiên Chúa và cây vả là ai ngoài Kitô hữu, những người mà Đức Kitô đã tái sinh và vun trồng bằng chính Thịt Máu Ngài.
Mùa Chay là cơ may Chúa ban cho để chúng ta hối cải như thánh Phaolô đã nói với tín hữu Côrintô: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”(2Cr 6,2b). Ngay cả cuộc sống của chúng ta cũng chỉ là thời gian gia hạn Chúa ban do lòng thương xót của Ngài. Sau khi cánh cửa thời gian khép lại, chúng ta sẽ không còn cơ hội để hối cải và sinh hoa kết quả nữa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Xh 3,1-15.
Dân Do thái là mối quan tâm đặc biệt của Thiên Chúa. Tuần vừa qua, qua bài đọc 1, chúng ta được biết Thiên Chúa muốn chọn ông Abraham để thành lập một dân mới, dân riêng của Ngài. Tuần này, chúng ta được biết Thiên Chúa muốn nhờ ông Maisen để cứu dân ấy ra khỏi ách nô lệ của Ai cập và đưa họ vào Đất Hứa.
Khi ấy, Ông Maisen đang trốn trong sa mạc vì sợ vua Pharaon lùng bắt. Ông trông thấy bụi gai đang cháy bừng bừng mà không bị cháy rụi. Ông đến gần xem sao. Thiên Chúa hiện ra và gọi rõ tên ông và trao cho ông sứ mạng đưa dân ra khỏi Ai cập. Ông muốn hỏi tên Ngài, nhưng Thiên Chúa chỉ trả lời cho ông: “Ta là Đấng Hằng Hữu”.
Thiên Chúa là Đấng Hằng Hữu. Có nhiều lối giải thích kiểu nói này:
- Thiên Chúa từ chối không nói tên mình, bởi vì không ai có thể hiểu được Thiên Chúa.
- Ta là thế nào thì các ngươi sẽ hiểu, khi thấy các việc Ta sẽ làm (sau này khi thấy Thiên Chúa giải thoát dân Do thái: người ta sẽ hiểu Ngài là Đấng Giải thoát)
- Câu nói đó có thể dịch là “Ta là Đấng Hằng Hữu”.
- Cũng có thể dịch là “Ta là Đấng là”: ngược lại với các thần Ai cập chỉ là hư vô giả trá, chỉ có một mình Thiên Chúa là có thật (Carôlô).
+ Bài đọc 2: 1Cr 10,1-6.10-12.
Tín hữu Côrintô đã được rửa tội và thông hiệp Bí tích Thánh Thể, nên tưởng rằng mình đã được giải thoát khỏi mọi cám dỗ. Phải luôn đề phòng kẻo bị sa ngã. Thánh Phaolô so sánh cuộc xuất hành về trời của tín hữu ngày nay với cuộc xuất hành về Đất Hứa của dân Do thái ngày xưa: mặc dầu được Chúa che chở, nhiều người đã gục ngã trước những thử thách ở sa mạc. Kitô hữu chúng ta cũng xuất hành như dân Do thái xưa, nhưng đừng bắt chước họ chiều theo dục vọng xấu xa, đừng kêu ca trách móc, trái lại, hãy tin tưởng phó thác cho Chúa và ngoan ngoãn theo sự hướng dẫn của Ngài.
+ Bài Tin mừng: Lc 13,1-9.
Người ta báo cho Đức Giêsu biết nguồn tin sốt dẻo: quan tổng trấn Philatô giết một số người Galilê đang khi họ dâng lễ trong đền thờ. Đức Giêsu không muốn bày tỏ ý kiến về luân lý, chính trị hay xã hội, mà nhân cơ hội này nhắc nhở cho mọi người: đứng trước những biến cố lớn nhỏ của cuộc sống, hãy nhìn ra những tín hiệu nhắc nhở hãy sám hối để được sống.
Trong dụ ngôn cây vả không sinh trái, Đức Giêsu nhấn mạnh đến những tai vạ sẽ đè lên trên dân tộc bất trung (Mc 11,13). Vậy là Chúa mời gọi mọi người hãy sinh hoa trái của lòng sám hối. Phải biết rằng cuộc sống của chúng ta chỉ là một thời gian được gia hạn nên phải lợi dụng thời gian này mà sám hối.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Sám hối để được sống
I. HAI SỰ KIỆN, MỘT Ý NGHĨA.
1. Hai sự kiện:
Đang lúc Đức Giêsu khuyên giục các thính giả ăn năn sám hối, thì có người thuật lại với Đức Giêsu câu chuyện rùng rợn về vụ quan tổng trấn Philatô giết hại những người Galilê đang khi họ dâng lề trong đền thờ. Có lẽ đây là một cuộc biểu tình của nhóm người quá khích đang cố dấy lên một phong trào nổi dậy để cứu dân, chống lại chính quyền Rôma đang chiếm đóng. Giữa lúc đang cử hành phụng vụ, đang dâng lễ vật cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, họ đã bị cảnh sát của tổng trấn Philatô tàn sát.
Đưa ra tin sốt dẻo này, chắc người ta tưởng Đức Giêsu sẽ đồng tình truyên bố số phận của những người bị tàn sát và bị tháp đè bẹp ấy là đúng lắm và Ngài cũng rơi vào lối ngụy biện thường tình, là người nào bị hành hạ nhiều chứng tỏ họ đã phạm tội nặng. Nhưng Đức Giêsu trả lời cho họ rằng người ta tạm thời chưa bị đau khổ là dấu ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa.
2. Một ý nghĩa.
Người Do thái thường cho rằng những thử thách xẩy đến cho một người là như một sự trừng phạt kẻ đó. Nói cách khác, đau khổ là hình phạt của tội. Đối với Đức Giêsu, không có sự liên hệ nào giữa tai họa và tội lỗi. Trong phép lạ chữa cho người mù từ mới sinh, người ta hỏi Đức Giêsu: anh mù ấy do tội của anh hay của cha mẹ anh, thì Đức Giêsu trả lời rằng: “Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xẩy ra là để các việc Thiên Chúa tỏ hiện nơi anh”.
Nhân cơ hội này, Đức Giêsu nhắc lại một sự kiện khác: 18 người bị tháp Siloe đổ xuống đè chết. Ngài khẳng định rằng đau khổ không phải do Thiên Chúa gửi đến. Sự thử thách không phải là một sự trừng phạt. Sự dữ xẩy đến cho ta thường chỉ là hậu quả tự nhiên của qui luật vạn vật… Thay vì buộc tội Chúa là “nguyên nhân đệ nhất” như các triết gia thường nói, chúng ta phải để ý đến những “nguyên nhân đệ nhị”, mà chúng ta có toàn quyền trên chúng. Đức Giêsu đã chiến đấu chống lại sự dữ. Ngài yêu cầu chúng ta đến lượt mình cũng phải chiến đấu, nhưng trước tiên trong chính bản thân chúng ta.
Như vậy là Đức Giêsu không muốn trả lời thẳng vào câu hỏi mà họ muốn đặt ra: những người bị giết và bị đè chết là do tội mà ra. Nhân dịp này Đức Giêsu muốn dạy cho họ một bài học không phải thuộc lãnh vực luân lý, chính trị hay xã hội mà là thuộc lãnh vực tôn giáo. Đức Giêsu phán: “Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy”. Lời nói của Ngài có tính cách răn đe: nếu các ông không thay đổi cách sống. Ngài không có ý nói đến cái chết thể lý mà chúng ta thấy hằng ngày chung quanh mình, mà là cái chết khác có tính cách mầu nhiệm do tội lỗi gây ra: một sự hư mất đời đời. Như vậy, qua sự kiện một số người Galilê bị giết Đức Giêsu muốn nhắc nhở cho người Do thái và chúng ta là phải sám hối kẻo phải hư mất đời đời.
II. DỤ NGÔN CÂY VẢ.
1. Cây vả tại Palestine.
Đức Giêsu dùng hình ảnh cây vả để khích lệ người Do thái ăn năn hối cải. Quả vả là thức ăn quen thuộc đối với người Do thái. Ở Palestine, người ta thường thấy cây vả, cây gai và cây táo trong những vườn nho. Đất mỏng và cằn cỗi đến nỗi bất kỳ ở đâu có đất, người ta cũng trồng cây. Nhưng thực tế là cây vả này được đặc ân hơn, nhưng nó lại tỏ ra không xứng đáng với đặc ân đó. Đức Giêsu đã nhiều lần trực tiếp hay gián tiếp nhắc nhở dân chúng rằng họ sẽ bị xét đoán tùy theo những cơ hội may mắn mà họ đã có. Trong dụ ngôn cây vả chúng ta thấy có những ẩn dụ:
- Người trồng cây vả là Thiên Chúa.
- Cây vả là dân Do thái.
- Người làm vườn là Đức Giêsu.
2. Cây vả không sinh trái.
Thế giới này phải đi trên con đường tiến hóa, tất cả cuộc tiến hóa nhằm sản sinh ra những cái gì có ích lợi, điều gì có ích sẽ cứ mạnh mẽ phát triển trên đường tiến hóa, trong khi những gì vô ích sẽ bị tiêu diệt. Cây vả kia cứ rút lấy sức lực của đất mà không sản sinh ra gì cả thì để làm gì cho nó ăn hại đất?
Cũng thế, cây vả Israel phải sinh hoa kết quả, nếu không sẽ bị chặt đi. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Israel, trong quá khứ dân đã nhận được nhiều ơn. Chúa trông đợi nơi họ sinh nhiều hoa trái, tức là sự trung thành với lề luật, sự phụng thờ sốt sắng và trong sạch… Kết quả không như Chúa mong muốn. Chúa có quyền bỏ dân Chúa đã kén chọn.
Nhưng Thiên Chúa chấp nhận đề nghị của Đức Giêsu cho khoan giãn một thời gian, để Đức Giêsu sẽ chăm bón thêm bằng cách ban thêm nhiều ơn nhờ việc giáo huấn và các phép lạ… Nhưng Israel vẫn cố chấp không hoán cải để sinh hoa trái. Vì vậy, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ. Chính việc tàn phá Giêrusalem năm 70 là sự việc chứng thực điều đó.
3. Cơ may cuối cùng.
Một cây vả thường phải 3 năm mới trưởng thành, nếu lúc đó nó không sinh trái, chắc không bao giờ sinh trái nữa. Nhưng cây vả này được ban cho một cơ may nữa để sinh hoa quả nếu không sẽ bị chặt đi.
Dụ ngôn này muốn diễn tả Thiên Chúa chờ đợi dân Ngài những hoa quả của lòng thống hối. Họ phải khẩn trương lợi dụng những lời mời gọi ăn năn sám hối của Đức Giêsu, Đấng trung gian giầu lòng thương xót, nhưng nếu họ cứ cố chấp mà khoan giãn không chịu sám ghối, thì họ sẽ bị số phận như cây vả không trái.
Như vậy, đối với chúng ta, nếu chúng ta từ chối hết cơ may này đến cơ may khác, nếu tiếng kêu mời của Thiên Chúa cứ trở đi trở lại với chúng ta cách vô ích thì đến một ngày, không phải Thiên Chúa đóng cửa lại, nhưng chính chúng ta tự ý đóng cửa lòng mình với Thiên Chúa.
III. CHÚNG TA PHẢI KHẨN TRƯƠNG SÁM HỐI.
1. Mọi người phải sám hối.
Lời Chúa hôm nay kêu gọi mọi người phải sám hối, không trừ ai. Đối tượng của lời kêu gọi sám hối không phải chỉ là những người tội lỗi, người thu thuế, gái điếm, trộm cắp, nhưng trong dụ ngôn cây vả trong bài Tin mừng hôm nay (Lc 13,1-9), lại là những người được coi là đạo đức, ngay chính, được mọi người kính trọng: những người biệt phái.
Vậy người tốt cũng phải sám hối sao? Trong trường hợp những người được gọi là tốt, họ vẫn phải sám hối vì những việc tốt lẽ ra họ có thể làm mà lại không làm. Họ giống như cây vả trong bài Tin mừng này. Ông chủ muốn đốn nó không phải vì nó đã sinh ra những trái xấu, mà vì nó không sinh ra những trái vả như nó phải sinh ra. Một cây vả mà không sinh trái vả thì đâu còn là cây vả nữa, nó hoàn toàn trở nên vô ích.
Các Kitô hữu ít khi đặt cho mình câu hỏi sau đây: Điều gì lẽ ra tôi phải làm mà lại không làm? Tiếng gọi sám hối không chỉ kêu gọi ta thôi đừng làm điều xấu nữa, mà còn kêu gọi ta hãy “sinh trái” bằng những việc tốt. Chính vì thế mà lời kêu gọi này nhăm đến mọi người (McCarthy).
2. Khác biệt giữa thánh thiện và tội lỗi.
Người ta thường nói: “Nhân vô thập toàn”, không ai là con người hoàn hảo đến nỗi không còn điều gì phải sửa đổi. Đức Khổng Tử đã đưa ra một chương trình tổng quát để đào tạo con người, biến con người thành những hiền nhân quân tử và cao nhất là bậc thánh nhân, đó là TU THÂN.
Tu thân có nghĩa là sửa mình. Phải sửa mình cho nên tốt hơn theo phương châm của vua Thành Thang:Nhật nhật tân, hựu nhật tân”: ngày ngày mới, lại ngày mới hơn. Muốn sửa mình, cần phải xét mình để biết rõ con người mình.
Ông Trình Tử đã thực hiện việc xét mình hằng ngày khi ông nói: “Nhất nhật tam tỉnh ngô thân”: mỗi ngày ta phải xét mình ba lần.
Thánh Phaolô cũng nhắc nhở cho tín hữu Côrintô là phải lột bỏ con người cũ mà mặc lấy con người mới. Con người mới đây là con người đã được tu thân, đã qua một quá trình biến đổi cho nên tốt hơn.
Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận có lần đã nói: “Vị thánh nào cũng có một quá khứ, và người tội lỗi nào cũng có một tương lai. Quá khứ là dĩ vãng yếu đuối. Tương lai là ngày mai tốt hơn, thánh thiện. Nhưng sự khác biệt giữa thánh nhân và người tội lỗi chính là sự sám hối, lòng ăn năn”.
Truyện: Hối cải hay không.
Chuyện cổ dân gian kể về hai người anh em nọ sống trong một ngôi làng miền Trung Âu đã bị bắt quả tang ăn trộm cừu của dân làng. Hình phạt cho họ là bị khắc hai chữ “ST” trên trán. “ST” có nghĩa là Sheep Thief! Ăên trộm cừu! Dấu khắc này là dấu sẹo trên trán phải mang suốt đời.
Đối với người em hình phạt này là tiêu hủy cuộc đời còn lại của chú. Chú càng phạm thêm nhiều tội ác hơn. Và cuối cùng chú đã bị chết trong tù! Trái lại, người anh đã ăn năn hối cải và hoàn toàn thay đổi cuộc sống, từ tên tội phạm đã trở nên người hoàn lương, và sau cùng trở nên thánh thiện. Anh giúp đỡ mọi người, trong làng ai cũng thương mến. Năm tháng trôi qua, những người lớn tuổi thuộc thế hệ của anh chết gần hết. Một ngày nọ những người du khách vào làng nhìn thấy chữ “ST” trên trán ông lão bèn thắc mắc. Họ hỏi những người trẻ trong làng, nhưng chẳng ai biết thực sự nó có nghĩa là gì. Ai cũng trả lời rằng: “Điều đó đã xẩy ra bao nhiêu năm về trước rồi! Nhưng theo họ nghĩ, chữ “ST” trên trán ông lão là một chữ viết tắt của chữ “Saint” = “Thánh”.
3. Tiêu cực và tích cực.
Lời kêu gọi sám hối của Đức Giêsu hôm nay không phải chỉ là lời kêu gọi trở về từ tội lỗi, nhưng là một lời kêu gọi phải làm điều lành, điều tốt như bổn phận. Kitô giáo không phải là một tôn giáo chỉ cấm những điều xấu như không được giết hại người khác. Giáo lý của Chúa Kitô còn đòi buộc cả những điều tích cực: phải giúp đỡ tha nhân, yêu thương người nghèo khó. Thánh Giacôbê đã nói: “Kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội”(Gc 4,17).
Sám hối hay hối cải không chỉ là từ bỏ con đường xấu xa tội lỗi, trái lại sám hối cũng còn có nghĩa là không được như cũ mà phải tốt hơn, tấn tới hơn, nhân đức hơn và sinh nhiều hoa trái thiêng liêng hơn. Do đó, một người sống cứ lừng khừng, tầm thường cũng đáng bị lên án như kẻ có tội vậy. Trái lại, một kẻ được gọi là sám hối thực sự không những xa lánh tội lỗi mà còn là con người có ích, trưởng thành.
Khi đọc dụ ngôn cây vả không sinh trái, chúng ta phải luôn theo nghĩa tích cực, nghĩa là không phải điều xấu điều ác đã không làm, nhưng là điều tốt, việc thiện đã bỏ qua. Người chủ vườn thất vọng không phải vì cây vả đã cho trái xấu xí hay độc hại, nhưng vì nó đã không sinh sản. Nó đã bị xét xử vì nó không sinh hoa trái. Bởi vậy, người sám hối là người phải đổi mới để mỗi ngày một nên tốt hơn: “Phải tiến bước trên con đường sám hối và của đổi mới, và phải qua cửa hẹp của thập giá, để thông ban hoa trái của ơn cứu độ cho người ta” (GLCG số 853; Lumen gentium đoạn 8).
4. Hãy tìm đến với Chúa.
Thiên Chúa đã dựng nên vũ trụ vạn vật, trong đó có loài người chúng ta (x. St 2,4-8). Ngài là chủ của vũ trụ. Đã là chủ, Thiên Chúa có toàn quyền kiểm điểm mọi vật từ vô tri vô giác cho đến giống có sự sống như loài người, loài vật hay cây cối. Giống vật nào không vừa ý Ngài, hay đi sai đường hướng Ngài đã chỉ định, thì Ngài sẽ hủy bỏ đi. Phải tìm đến với Ngài để Ngài chỉ bảo cho biết phải sống như thế nào mới đẹp lòng Ngài. Ngài ở gần chúng ta chứ không xa xôi gì, Ngài ở sát cạnh chúng ta, luôn hiện diện bên chúng ta. Tiên sinh Chư Cát Võ Hầu viết:
Thiên tính tuyệt vô âm,
Thương thương hà xứ tầm,
Phi cao diệc phi viễn,
Đó chi tại nhân tâm
Thiên Chúa vô hình vô tượng,
Ngự trời xanh mà chẳng thể tìm ra.
Tuy cao mà vẫn không xa,
Tìm Ngài không gặp đó là tại tâm.
Chúa đã trồng chúng ta là cây vả trong lòng Giáo hội, Ngài luôn săn sóc cây vả này, Ngài mong cho nó sinh hoa kết quả. Vì vậy, sám hối là một việc khẩn trương, chúng ta phải làm ngay, không được chần chừ hay chậm trễ. Chúng ta đừng bao giờ có ý nghĩ “đâm lao theo lao”, lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội rồi, cho lỡ luôn, cứ kéo lê cuộc sống lầm lỡ đó. Hoặc chúng ta lại ru ngủ mình bằng ý tưởng “Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn năn đền tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi là mình”!!!
Nhưng cuộc đời chúng ta kéo dài được bao nhiêu? Người ta thường nói:Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”, chết bất cứ lúc nào, ai biết được. Cái chết luôn gần kề, phải chuẩn bị cho kịp. Thiết tưởng dụ ngôn cây vả không sinh trái trong bài Tin mừng là một lời cảnh cáo cho tất cả Kitô hữu ngày nay. Thiên Chúa đang chờ đợi thêm một thời gian nữa trước khi ra tay trừng phạt chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta sinh hoa trái yêu thương, nhưng cho đến nay, phải nói rằng người Kitô hữu chúng ta đã sống với nhau thiếu tình thương một cách trầm trọng. Chúng ta không ý thức được tình trạng nguy hiểm đang chờ chúng ta: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả đều bị chặt đi và quăng vào lửa”(Mt 3,10; Lc 3,9).
Truyện: Cơ may cuối cùng.
Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ông ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ: “Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết. Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu.
Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy. Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng: không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn (GM Arthur Tonne).
Nếu có người đặt câu hỏi: Hiện nay trong Giáo hội còn nhiều người tội lỗi mà Chúa không diệït hết đi? Để giải đáp thắc mắc này, chúng ta cần nhớ đến lời người làm vườn thưa với ông chủ: “Thưa ông, xin để thêm một năm nữa, nếu nó không sinh trái, chúng ta sẽ chặt đi”. Vẫn biết trong Giáo hội có nhiều người tội lỗi, nhưng Chúa nhân lành vô cùng còn đợi chờ và hy vọng, họ sẽ ăn năn hối cải như người coi vườn cố để cây nọ cây kia một thời gian nữa với hy vọng nó sẽ sinh trái để bõ công trồng.
Đối với người thực tình sám hối thì không có gì là quá muộn. Chúa sẽ tạo điều kiện cho họ. Một cây vả sau 3 năm mà không sinh trái thì hầu như chẳng bao giờ sinh trái nữõa. Nhưng cây vả này được ban cho một cơ may nữa. Thiên Chúa bao giờ cũng ban cho người ta hết những cơ may này đến cơ may khác. Phêrô, Marcô, Phaolô hoan hỉ làm chứng về điều đó. Thiên Chúa vô cùng nhân từ với kẻ sa ngã chỗi dậy. Thiên Chúa chỉ cần con người có thiện chí muốn hối cải tùy theo sức của mình, còn bao nhiêu chúng ta trao trọn cho Chúa để Ngài cải hóa và hoàn thiện con người chúng ta để cho con người chúng ta sẽ trở nên có giá trị gấp trăm ngàn lần.
Để kết thúc, tôi xin mượn lời và câu chuyện cha Mark Link để diễn tả tư tưởng ấy trong những dòng sau đây: Có một bài thơ nói về một chiếc vĩ cầm cũ kỹ. Giống như chúng ta, nó cũng có một cơ may thứ hai. Hơn nữa, nó còn là hình ảnh câu chuyện của bạn, của tôi và của tình yêu Chúa dành cho chúng ta nữa. Hy vọng bài thơ ấy sẽ tác tác động đến tâm hồn các bạn và sẽ thôi thúc các bạn tham dự thánh lễ hôm nay với niềm tri ân và lòng yêu mến nhiều hơn thường lệ.
Truyện: cây vĩ cầm đáng giá.
Cây vĩ cầm bị nứt bể rồi lại được dán lại. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút cho nó làm gì. Nhưng ông ta vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán:
- Nào, thưa quí vị, ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây? Một đồng, một đồng, rồi tới hai đồng, chỉ có hai đồng thôi sao? Ai sẽ trả nó ba đồng đây? À, một người trả ba đồng, rồi hai người trả ba đồng, không còn ai nữa sao?
Bỗng nhiên từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau bụi chiếc đàn cũ kỹ rồi siết lại những sợi dây lỏng. Sau đó ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, y như những bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rải nói:
-Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm cũ kỹ này đây?
Đoạn ông vừa cầm cây đàn lên vừa nói:
- Một ngàn đồng, và ai sẽ tăng lên 2000? Hai ngàn rồi! Có ai chịu tăng lên ba ngàn không? Một người chịu giá 3000, hai người chịu giá 3000, và còn nữa!!!
Đám đông hồ hởi reo vui nhưng có vài người trong họ la lên:
- Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm ấy!
Lập tức có tiếng đáp lại:
- Chính nhờ đôi tay ông nhạc sĩ chạm vào đấy.
Quả thế nhiều người trong chúng ta đừng đi sai đường lạc lối, bị bầm dập vì tội lỗi và bị đám đông vô tâm rẻ rúng, khác nào cây vĩ cầm cũ mèm kia. Chỉ một tô cháo, một ly rượu, một cuộc chơi là đã đưa chúng ta sa chân hết lần này đến lần khác, và cuối cùng chúng ta hầu như bị hư hoại luôn. Nhưng vị Minh Sư đã đến, và lũ dân chúng khờ khạo hoàn toàn không thể hiểu nổi giá trị của linh hồn và sự đổi thay của nó, sau khi linh hồn đã được đôi tay của vị Minh Sư chạm đến (Tác giả vô danh) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm C, tr 75-76).
9. Hãy hoán cải vì Chúa giầu lòng xót thương--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ hai Chúa nhật đầu Mùa Chay cả ba năm A, B, C đều trùng hợp nhau ở đề tài sự lựa chọn của Chúa Giêsu trước tên cám dỗ, và Chúa biến hình. Bước vào Chúa nhật thứ III Mùa Chay năm C, bài Tin mừng chú trọng đến đề tài "hoán cải" với lời kêu gọi cảnh tỉnh. Ca nhập lễ nhắc nhớ chúng ta lời cầu nguyện nổi tiếng của các Giáo phụ trong sa mạc: "Lạy Chúa Giêsu, xin thương con, vì con là kẻ có tội!". Sau hai tuần sám hối tội lỗi, chúng ta nên lấy những lời trên làm của mình, và can đảm nhiệt thành cùng với Chúa Giêsu bước vào trong sa mạc của Mùa Chay, ý thức mình là những kẻ tội lỗi nghèo hèn, nhưng chúng ta, "hướng cặp mắt" lên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, Ngài sẽ cứu chúng ta khỏi Vực thẳm âm ty, và thưa: "Mắt tôi hướng nhìn Chúa không biết mỏi, vì chính Người sẽ gỡ chân tôi khỏi dò lưới. Lạy Chúa, xin đoái nhìn và xót thương con, vì thân này bơ vơ cùng khổ" (Ca nhập lễ).
Tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa không phải là dễ, vì khi có biết bao chuyện buồn đẫm lệ trước mắt chúng ta như bão tố, lũ lụt, động đất sóng thần cướp đi bao sinh mạng con người, và gần đây nhất, vụ sập nhà thờ Ngọc Lâm làm 3 người chết, hơn 59 người bị thương. Chúng ta vẫn hát với niềm tin rằng: "Chúa nhân từ và thương xót." Có người hỏi, lòng nhân từ và tình thương xót của Chúa ở đâu, khi trái tim con người bị tan nát bởi những cái chết đau thương của người thân, của anh em đồng loại... thật là khó để chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương nhân loại và muốn tốt cho nhân loại.
Vấn nạn giả thiết rằng sự bất hạnh xảy đến với con người là đáng. Vì vậy, khi chúng ta thấy những người bị bệnh hoặc bị cuốn đi, bởi một cái chết đột ngột, người đời nói về họ: "Như thế nào, họ đã làm gì sai?". Như là có sự trừng phạt tức khắc giữa trách nhiệm đạo đức và đau khổ mà chúng ta hứng chịu. Đó không phải là điều Chúa Kitô nói trong Tin Mừng khi người ta mang đến và hỏi Chúa: "Ai phạm tội? Anh mù này hay cha mẹ của anh ta? (Ga 9, 2) Chúa Giêsu trả lời: "Không phải anh cũng không phải cha mẹ" (Ga 9, 3) thực tế, anh đã mù bẩm sinh không phải là sự trừng phạt do lỗi của bất cứ ai.
Vì vậy, làm thế nào chúng ta có thể chấp nhận và sống sự khác biệt giữa lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất hạnh của con người? Chúng ta còn nhớ việc Thiên Chúa giải thoát dân Ngài ra khỏi Ai Cập và làm cho dân chúng đi qua Biển Đỏ ráo chân không? Liệu có nhớ Thiên Chúa dẫn dắt dân Ngài qua sa mạc, nuôi dân bằng bánh bởi trời, và uống nước từ tảng đá vọt lên để dân đi đến tận Đất Hứa? Chỉ cần nhớ lại những hành động Thiên Chúa trợ giúp con người, Như thư I Côrintô, Thánh Phaolô tiên báo trước đời sống Kitô hữu mà chúng ta đang sống, giống như Môi-se dân qua Biển Đỏ, những người đã được rửa tội trong Chúa Kitô là Đá tảng tuôn trào mạch nước sự sống và nuôi dưỡng bằng bánh của trời. Nhưng làm thế nào để chúng ta tin vào lòng trung thành của Thiên Chúa và giúp chúng ta tin vào tình yêu của Thiên Chúa khi bất hạnh tấn công con người?
Thánh Luca kể lại cho chúng ta bình luận của Chúa Giêsu về hai biến cố thời sự lúc đó. Biến cố thời sự thứ nhất là cuộc nổi loạn của vài người Galilê bị quan Philatô đàn áp giết chết; biến cố thứ hai là việc một ngọn tháp tại Giêrusalem bị sập ngã làm cho 18 người thiệt mạng; hai biến cố bi thảm này khác nhau, một do con người tạo ra, và một do tai nạn. Người đương thời Chúa Giêsu thường có tâm thức nghĩ rằng tai nạn đã đổ xuống trên các nạn nhân, bởi vì họ đã phạm lỗi trầm trọng. Nhưng Chúa Giêsu ngược lại đã nói như sau: "Các người cho rằng những nạn nhân người Galilêa kia là những kẻ tội lỗi hơn tất cả mọi người Galilêa ư?... Hoặc 18 nạn nhân kia là những kẻ lỗi phạm hơn tất cả mọi người dân Giêrusalem chăng? (Luca 13,2.4). Thay vì kết luận đơn giản coi sự dữ như là hình phạt của Thiên Chúa, đức Giêsu hồi phục lại hình ảnh chân thực của Thiên Chúa là Đấng tốt lành và không thể nào muốn sự dữ; Người còn yêu cầu đừng coi những tai hoạ đó như là kết quả trực tiếp của tội lỗi cá nhân. Người nói: "Các ông tưởng rằng những người Galilê ấy là những kẻ tội lỗi nhất ở xứ Galilê cho nên mới đáng hình phạt như vậy ư? Và Chúa Giêsu đã kết luận cho cả hai trường hợp như sau: "Không phải thế. Tôi nói cho các người biết, nếu các người không ăn năn hối cải, các người cũng sẽ phải chết như vậy." (Luca 13,3.5). Vậy, Chúa Giêsu muốn dẫn những kẻ lắng nghe Ngài đến kết luận về sự cần thiết phải ăn năn trở lại.
Khi cái chết tấn công chúng ta, đức tin không cho chúng ta những lời giải thích hoặc an ủi chúng ta yên tâm, nhưng đức tin hỏi chúng ta: chúng ta đã làm gì trong cuộc đời khi chúng ta đang phải đối diện với cái chết vây quanh ta, bất hạnh và đau khổ tấn công và chạm đến ta.
Để làm rõ lời kêu gọi hoán cải, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả. Đã ba năm nay, cây không sinh quả. Như chúng ta, những người đã được hưởng lợi quá lâu từ ân sủng của Thiên Chúa mà không đáp trả cách hào phóng? Chủ vườn đòi hỏi chúng ta rằng điều này đã quá đủ. Và bây giờ người làm vườn chưa ưng nhận sự phán xét của Thầy nên trả lời: "Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi " (Lc 13: 9), đúng là năm án treo, một năm hồng ân. Trong hội đường Nazareth, chính Chúa Giêsu hiện diện với sứ mạng được ủy thác ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia. Ngài được sai đến để công bố một năm hồng ân, một năm ân xá. Mỗi năm chúng ta sống là một năm mà chúng ta được tự do.
Sự chết không tấn công một cách mù quáng, nhưng là lời mời gọi chúng ta hoán cải đời sống. Đây là lý do tại sao phụng vụ cung cấp cho chúng ta bài suy niệm này ở trung tâm của Mùa Chay, khi chúng ta tiếp tục cuộc hành trình 40 để hướng tới việc cử hành lễ Vượt Qua, và chúng ta được mời đi tiếp Chủ Nhật tới để canh tân phép rửa của chúng tôi, nguồn nước hằng sống trào dâng từ trái tim của Chúa Kitô.
Vâng, lạy Chúa, khi con nhìn thấy những gì xảy ra trên thế giới, các tệ nạn gây đau đớn cho nhân loại và đau khổ đến anh em của con, con nghe thấy giọng nói của Chúa nói với con: "Hãy sám hối ngay ngày hôm nay. Tận dụng năm ân sủng, năm ân xá này, năm nay Ta vẫn chăm sóc con để con có thể sinh trái. "Amen.
10. Sám hối bằng các việc lành--Lm. Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: "Nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết như vậy" (Lc 13,3).
2. CÂU CHUYỆN: Điều gì làm tăng giá trị của cây vĩ cầm?
Trong một buổi bán đấu giá, người điều khiển chương trình cầm một cây vĩ cầm xấu xí nứt nẻ. Ông ta nghĩ chẳng cần phí thời giờ sửa sọan cho cây đàn này làm chi. Ông giơ cây vĩ cầm lên và rao bán như sau: "Thưa quý vị, ai sẽ bắt đầu trả giá cho cây đàn này đây? Một đồng, hai đồng... Ai sẽ trả giá 3 đồng? À, một người đã trả ba đồng, rồi hai người trả ba đồng. Không còn ai nữa ư?". Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm từ từ bước tới gần bục và cầm lấy cây đàn đang rao bán. Ông ta lau sơ bụi bặm bám trên chiếc đàn cũ kỹ rồi siết lại các sợi dây đã bị lỏng. Sau đó, ông tấu lên một khúc nhạc du dương êm dịu. Tiếng đàn nghe thánh thót giống như bài ca của các thiên thần trên trời. Sau khi ngưng đàn, mọi người hiện diện đều nồng nhiệt vỗ tay tán thưởng. Sau đó, người bán đấu giá tiếp tục hỏi: "Bây giờ tôi phải định giá lại cây vĩ cầm có âm thanh rất tuyệt này bao nhiêu tiền cho xứng đây? Một ngàn... hai ngàn... Có ai chịu tăng lên ba ngàn không? À, một người chịu giá ba ngàn rồi. Hai người chịu giá ba ngàn. Và còn ai nữa không? Thôi dứt giá cây đàn là ba ngàn đô-la! Lúc đó một bé gái ghé sát bên tai mẹ và hỏi: "Sao lạ vậy hả mẹ? Tại sao cây đàn kia đột nhiên lại tăng giá lên gấp cả ngàn lần như thế hả mẹ?" Bấy giờ bà mẹ đã giải thích cho con gái cưng như sau: "Chính nhờ đôi tay tài hoa của vị nhạc sĩ kia mà cây đàn đã tăng giá trị lên gấp ngàn lần đấy con ạ!".
3. SUY NIỆM:
1. Phạm tội sẽ bị phạt và sám hối sẽ được tha: Ngôn sứ Gio-na được Đức Chúa sai đến với dân Ni-ni-vê, một thành phố giàu có và cực kỳ rộng lớn để công bố lệnh trừng phạt vì tội lỗi của họ: "Còn bốn mươi ngày nữa Ni-ni-vê sẽ bị phá hủy". Nghe tin ấy, vua thành Ni-ni-vê đã lập tức ra sắc chỉ như sau: "Truyền cho người và súc vật, bò bê và chiên dê không được ăn uống, phải mặc quần áo vải thô, phải từ bỏ lối sống gian ác và những hành vi hung bạo... để nài xin Đức Chúa nguôi cơn thịnh nộ và bỏ ý định giáng phạt hầu chúng ta khỏi phải chết". Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà quay trở lại. Người đã không giáng phạt họ nữa. Ngôn sứ Giô-na đã tức giận trước tình thương tha thứ của Đức Chúa. Ông xin Chúa cất mạng sống của ông, vì ông thà chết còn hơn sống khi thấy lời tuyên sấm của mình không ứng nghiệm. Chúa muốn cho Gio-na thấy lý do tình thương của Người nên khi Gio-na ra ngòai thành dựng một cái lều để chờ xem sự thể diễn tiến ra sao. Đức Chúa cho một cây thầu dầu mọc nhanh làm bóng che mát khiến ông rất vui. Nhưng sáng hôm sau Chúa lại khiến một con sâu cắn cây thầu dầu bị khô héo khiến Gio-na bị nắng chíếu nổi giận xin được chết đi cho xong. Đức Chúa đã hỏi Gio-na: "Ngươi thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã không vất vả vì nó, và không làm cho nó lớn lên. Trong một đêm nó đã sinh ra, rồi trong một đêm lại chết đi. Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương dân Ni-ni-vê, một thành phố lớn trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái, và lại có rất nhiều thú vật vô tội hay sao?" (Gn 3,1-4,11).
2. Không sám hối sẽ bị chết: Trong Tin Mừng hôm nay, nhân dịp mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng, Người liền nói với họ rằng: "Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết: "Không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy". Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-a đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy"
3) Chỉ có thể sám hối nhờ ơn Chúa: Con người chúng ta thường dễ hướng chiều về đàng tội: Chỉ cần một ly rượu mạnh, một tép Hê-rô-in, một số tiền bất chính... cũng đủ làm cho nhiều người sa ngã và ngày càng lún sâu vào vũng bùn tội lỗi, tự đánh mất phẩm giá cao quý của mình. Tuy nhiên nếu chúng ta biết tin cậy vào lòng từ bi thương xót của Đức Giê-su, biết chạy đến với Người và xin Người ban ơn tha thứ thì chắc chúng ta sẽ được Người ban ơn biến đổi nên con người mới của Thiên Chúa, xứng đáng được hưởng gia nghiệp là hạnh phúc Nước Trời đời đời.
4) Về dụ ngôn "cây vả không sinh trái": Đức Giê-su kể dụ ngôn về một cây vả không sinh hoa trái. Tuy không cho trái quả độc, cũng không gây thiệt hại cho chủ vườn... Nhưng tội của cây vả không trái là đã không sinh lợi cho chủ vườn lẽ ra phải có. Cũng vậy, nhiều người tuy không phạm tội cướp của giết người, không tà dâm ngoại tình, không dối trá lừa gạt tha nhân... Nhưng đã làm ngơ không giúp đỡ tha nhân gặp nạn... Họ đã được trao cho một nén bạc, thay vì phải làm lợi gấp đôi cho chủ, lại đem chôn giấu đi (x. Mt 25,18), thể hiện qua thái độ không quan tâm thăm viếng và chia sẻ cơm áo cho những người đói khát bệnh tật (x. Mt 25,42), để mặc cho sự gian ác hoành hành trong xã hội... Người tín hữu sống đạo hôm nay là phải tránh thái độ thờ ơ giống như cây vả không sinh trái, qua thái độ không dấn thân phục vụ những người nghèo khổ tàn tật bệnh họan...
5) "Gieo gió gặt bão.- Phạm tội sẽ bị phạt: Đây là quy luật muôn đời của nhân lọai. Nhưng có người thắc mắc: Tại sao nhiều kẻ gian ác phạm nhiều tội ác mà vẫn ngày càng giàu có sung túc mà không hề bị trừng phạt? Lời Chúa hôm nay trả lời cho vấn nạn ấy: Chính là nhờ có Chúa Giê-su, giống như người làm vườn trong bài dụ ngôn, đã đứng ra cầu thay nguyện giúp cho các tội nhân có thêm thời gian hồi tâm sám hối. Mùa Chay chính là thời gian để chúng ta tĩnh tâm cầu nguyện và quyết tâm đổi mới bằng việc thực thi công bình bác ái. Nếu chúng ta tiếp tục trì hõan thì chắc chắn sẽ bị án phạt vào giờ chết của mỗi người hay trong ngày tận thế chung tòan nhân lọai sẽ đến bất ngờ.
4. THẢO LUẬN:
1) Hãy cho biết: Tội "những điều thiếu sót" trong kinh "Tôi thú nhận" cụ thể là những tội gì?
2) Hiện nay bạn có trong tình trạng khô khan biểu lộ qua thái độ lười biếng đọc kinh dự lễ và bỏ qua các việc thăm viếng chia sẻ cơm áo giúp đỡ những người đau khổ bệnh tật thể xác tinh thần như cây vả không ra trái trong Tin Mừng hôm nay hay không?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Con thuờng hay đổ lỗi cho Thiên Chúa khi gặp phải thất bại đau khổ: Khi bị mất mùa, con đổ lỗi tại Trời không ban mưa thuận gió hòa. Khi thấy một người gặp tai ương hoạn nạn, con nghĩ họ đã bị Chúa phạt xứng với tội lỗi đã phạm!... Nhưng hôm nay nhờ Lời Chúa soi dẫn, con sẽ không còn hiểu sai lạc một chiều như vậy. Vì trong thực tế, có nhiều người tốt và đạo đức mà vẫn gặp phải rủi ro. Ngay chính Chúa vốn là Con Thiên Chúa thánh thiện và vô tội, mà cũng từng chịu bao đau thương và cuối cùng còn chịu chết nhục nhã bất công trên cây thập giá.
- Lạy Chúa. Xin cho con luôn nhận ra tình thương của Chúa trong mọi biến cố vui buồn của cuộc đời con. Con biết rằng: Sở dĩ Chúa để con phải đau khổ là để con có dịp sám hối và lập công đền tội, hầu mỗi ngày biến đổi nên tốt hơn. Xin cho con dù gặp những điều trái ý, vẫn luôn nhẫn nại chịu đựng để được cộng tác với Chúa đền tội cho con và nhiều người. Xin cho con luôn phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng, vì biết rằng: Tất cả những điều may lành hay rủi ro xảy đến cho con, đều không ngoài thánh ý Chúa quan phòng và giúp con ngày một nên hòan thiện hơn.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
11. Lời Chúa CN 3 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Tin Mừng hôm nay đề cập đến hai đề tài định hướng cho sự chọn lựa của Bài Đọc I và Bài Đọc II. Đề tài thứ nhất về việc “Thiên Chúa ân cần chăm sóc dân Ngài” (bản văn của sách Xuất Hành và dụ ngôn của Tin Mừng Lu-ca); đề tài thứ hai về “những ai tự phụ là mình công chính” (lời khuyên của thánh Phao-lô và lời cảnh giác của Chúa Giê-su).
Xh 3: 1-8a, 13-15
Thiên Chúa siêu việt mặc khải Danh Ngài, Ngài là Hữu Thể tuyệt đối, đồng thời cũng là Đấng động lòng trắc ẩn trước cảnh cùng khốn của dân Ngài và sai ông Mô-sê ra đi giải phóng dân Ngài khỏi cảnh đời nô lệ.
1Cr 10: 1-6, 10-12
Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Cô-rin-tô về đức khiêm tốn. Thâm chí những ai được ban cho những ơn trợ lực dồi dào hơn những người khác, như dân Do thái trong hoang địa và những Ki-tô hữu nhờ các bí tích, hãy coi chừng đừng để mình sa vào tội lỗi.
Lc 13: 1-9
Tin Mừng Lu-ca thuật lại hai sự cố nghiêm trọng: cuộc thảm sát của những người Ga-li-lê và một tai nạn thảm khóc gây nên cái chết của mười tám người Giu-đê. Từ đó, Chúa Giê-su rút ra một bài học: Ngài tách biệt tai họa và tội lỗi, nhưng đối với những ai tin mình công chính, Ngài nhắc nhở cho họ biết rằng họ là những tội nhân, vì thế cái chết cũng đe dọa họ; tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn ra công vun xới trước khi quyết định chặt cây nào không đơm bông kết trái.
BÀI ĐỌC I (Xh 3: 1-8a, 13-15)
Sách Xuất Hành được gọi là “Tin Mừng Cựu Ước”. “Tin Mừng” mà sách thuật là Tin Mừng về việc Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của dân Ngài để giải phóng dân khỏi miền đất nô lệ và dẫn đưa dân vào một xứ sở tốt đẹp hơn, tiên trưng một cuộc giải phóng khác và cuộc xuất hành khác về Nước Trời. Như vậy, sách Xuất Hành không chỉ là câu chuyện về “cuộc xuất hành” ra khỏi đất Ai-cập, nhưng còn câu chuyện về lộ trình tâm linh. Những móc điểm đầu tiên của lộ trình này là kêu gọi ông Mô-sê và mặc khải mầu nhiệm Thiên Chúa.
1. Hoàn cảnh của ông Mô-sê:
Khi ông Mô-sê nhận được tiếng gọi của Thiên Chúa, thì ông đã rời bỏ đất Ai-cập từ nhiều năm rồi. Sau khi đã lớn lên trong cung đình Pha-ra-on và đã nhận được một nền giáo dục ưu việt, ông đã ý thức về những điều kiện sống cơ cực mà đồng bào ông phải chịu. Một ngày kia thấy một người Ai-cập đánh đập một người Do thái, ông Mô-sê đã xông vào người Ai-cập, giết chết và vùi thây người ấy trong cát. Sự việc đã bị bại lộ, ông Mô-sê sợ bị trả thù nên chạy trốn và lánh nạn tại dân Ma-đi-an, dân du mục và sống nghề chăn nuôi. Ở đó ông đã cưới một trong bảy cô con gái của thầy tư tế Ma-đi-an, tên là Git-rô.
Như vậy, ông Mô-sê đã sống lại cuộc sống du mục của các tổ phụ. Đối với ông Mô-sê, thời gian tha phương này là thời chuẩn bị tâm lý cho cuộc gặp gỡ của ông với vị Thiên Chúa của cha ông mình. Bấy giờ, ông đang chăn đàn gia súc cho bố vợ mình. Khi mùa hè tới, ông đi tìm những đồng cỏ miền núi xanh tươi hơn. Vì thế, ông dẫn đàn vật qua bên kia sa mạc, đến “núi của Thiên Chúa”. Chính ở nơi đó mà Thiên Chúa sẽ yêu cầu ông trở thành vị mục tử của dân Ngài.
2. Ơn gọi của ông Mô-sê:
Thiên Chúa tỏ mình ra trong cảnh trí “cây cao bóng cả” là một nét đặc trưng rất kinh điển ở miền Cận Đông, ở Ấn Độ, cũng như ở Hy-lạp cổ xưa. Vì cây cối đâm chồi nẩy lộc, thay cành đổi lá theo mùa là biểu tượng sự sống, nhưng nhất là, cây cao bóng cả tạo nên bầu khí uy nghiêm, linh thánh. Thánh ký đã loại bỏ hình tượng này nhờ đến ngọn lửa. Thiên Chúa Ít-ra-en là Đấng siêu việt không nhận bất kỳ hình tượng vật chất nào, nhưng chỉ chấp nhận tỏ mình ra qua ánh sáng (đám mây chiếu sáng) hay ngọn lửa, như trong câu chuyện này ngọn lửa cháy bừng nhưng không thiêu hủy bụi cây diễn tả tính siêu việt của Thiên Chúa.
Hoạt cảnh tiếp theo nêu bật hai nét đặc trưng bất khả phân của Thiên Chúa Ít-ra-en: Đấng rất gần gũi với con người: Ngài chuyện trò rất thân tình với ông Mô-sê, nhưng đồng thời cũng là Đấng siêu việt: có một khoảng cách bất khả vượt qua giữa Thiên Chúa và con người: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh”. Thiên Chúa lại còn thổ lộ tấm lòng từ bi nhân ái của Ngài: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta… Ta đã nghe tiếng rên siết của chúng… Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu…”. Vì thế, Thiên Chúa trao gởi cho ông Mô-sê sứ mạng giải phóng dân Ngài.
3. Mặc khải Danh Thiên Chúa:
Thiên Chúa nói trực tiếp với ông Mô-sê: Ngài tự giới thiệu mình. Ngài không là một vị thần xa lạ: “Ta là Thiên Chúa của tổ tiên ngươi, Thiên của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp. Giờ đây, tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en đã thấu tới Ta… Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập”.
Ông Mô-sê chấp nhận sứ mạng được giao phó cho ông, nhưng nài xin Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông để ông có thể tiện bề ăn nói với dân chúng. Lúc đó, Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê. Theo văn hóa Do thái, tên chính là người ấy. Danh Thiên Chúa này được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo cấu trúc của ngôn ngữ Híp-ri, Danh Thiên Chúa được dịch theo sát từ, hoặc ở thì hiện tại: “Ta là Đấng Ta là”, hay ở thì tương lai: “Ta là Đấng Ta sẽ là”. Dù được hiểu ở hiện tại hay tương lai, điều cốt yếu ở nơi Danh Thiên Chúa chính là động từ “là”, như câu tiếp theo chứng thực điều đó: “Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: ‘Đấng là sai tôi đến với anh em”: “Đấng là” đóng chức năng chủ từ của câu.
Chính vì thế, thánh Tô-ma A-qui-nô đã giải thích Danh Thiên Chúa này theo nghĩa Hữu Thể của triết gia Hy lạp, Aristos, “Ta là Hữu Thể”, nghĩa là, Thiên Chúa là Đấng thường hằng, bất biến. Trong các bản dịch Kinh Thánh Việt Nam, mỗi dịch giả đề nghị hiểu và dịch theo cách riêng của mình, như cha Nguyễn Thế Thuấn: “Ta có sao Ta có vậy!”, hay bản dịch của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh: “Ta là Đấng Hiện Hữu”, hay Bản Dịch dùng trong Phụng Vụ: “Ta là Đấng Hằng Hữu”. Dù những cách dịch khác nhau này, chúng ta vẫn gặp thấy âm hưởng của cách hiểu tên Thiên Chúa theo Hữu Thể của thánh Tô-ma A-qui-nô. Việc hiểu Danh Thiên Chúa theo triết học Hy lạp này đem đến một sự hiểu biết phong phú về Danh Thiên Chúa. Tuy nhiên, các nhà chú giải hiện đại bác bỏ cách giải thích này vì hai lý do: Trước hết, động từ “là” ở thể “chưa hoàn thành” nên không diễn tả một hành động hoàn thành, nhưng một hành động đang tiếp diễn, chưa chấm dứt. Thứ nữa, tính chất niềm tin của dân Ít-ra-en thì thực tiển, tích cực và năng động. Vì thế, quan niệm siêu hình về một Hữu Thể tuyệt đối, bất biến, tự hữu thì hoàn toàn xa lạ với niềm tin của dân Ít-ra-en. Từ những nhận xét trên, các nhà chú giải hiện đại đề nghị hiểu Danh Thiên Chúa theo hai cách như sau:
A- Danh Thiên Chúa bất khả tiết lộ:
Lời mặc khải “Ta là Đấng Ta là” hay “Ta là Đấng Ta sẽ là” thì bí ẩn đủ để người ta có thể kết luận rằng Thiên Chúa không thật sự muốn trao ban Danh của Ngài, vì theo tư tưởng sê-mít, biết tên của một vị thần linh nào đó, chính là có quyền làm chủ vị thần ấy, có quyền điều khiển sai khiến vị thần ấy, như việc gọi tên của vị thần linh trong các câu thần chú, như vậy, câu thần chú mới hiệu nghiệm.
Vì thế, trong câu chuyện của chúng ta, Thiên Chúa không thể trao ban Danh Ngài vào tay của con người để con người có quyền điều khiển sai khiến Ngài; hơn nữa, Ngài là một Mầu Nhiệm vô phương dò thấu, không ai có thể hiểu được bản chất của Thiên Chúa. Cách giải thích này được ủng hộ bởi các chuyện tích Kinh Thánh, như chuyện tổ phụ Gia-cóp nài xin Thiên Chúa: “Xin cho tôi biết tên Ngài” (St 32: 30), nhưng bị từ chối; hay như chuyện ông Ma-nô-ác nài xin cho biết tên vị sứ giả của Thiên Chúa, thì được trả lời: “Sao ông lại hỏi tên tôi? Đó là một điều bí nhiệm” (Tl 13: 17-18). Vì thế, theo văn mạch của câu chuyện chúng ta, khi Thiên Chúa nói: “Ta là Đấng Ta là”, có nghĩa, “Thiên Chúa là Thiên Chúa”, qua đó Thiên Chúa muốn nói rằng: “chuyện ấy có liên quan gì đến ngươi” hay “đó không phải nỗi bận lòng của ngươi”.
B- Danh Thiên Chúa là một Mặc Khải tiệm tiến:
Tuy nhiên, cách giải thích trên gặp phải một sự khó khăn. Theo văn mạch, rõ ràng Thiên Chúa chấp nhận mặc khải Danh Ngài. Việc Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài trong một nền văn hóa theo đó tên đồng nghĩa với người mang tên ấy, thì không thể cho rằng Thiên Chúa chủ ý thoái thác không cho biết tên mình, như nhận định của A. B. Davidson: “Mặc khải mà Thiên Chúa ban cho về chính mình là mặc khải về chính Ngài như Ngài thật sự là như vậy, dù Ngài không thể mặc khải chính mình cho con người một cách tròn đầy được” (God in the OT; in: Dictionary of the Bible, vol. 2, 197). Hơn nữa, ở cuối câu chuyện, Thiên Chúa còn căn dặn: “Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia”.
Vì thế, Davidson mời gọi chúng ta chú ý đến hai đặc tính của động từ “là” liên quan đến tên Thiên Chúa được ban cho trong câu chuyện bụi gai cháy đỏ này. Trước hết, động từ này không có nghĩa “là” về phương diện hữu thể, nhưng về phương diện “hiện diện”. Thứ nữa, hình thức chưa hoàn thành của động từ này không có nghĩa ở thì hiện tại nhưng ở thì tương lai. Từ nhận xét này, ông giải thích ý nghĩa của tên Thiên Chúa như sau: “Xem ra rõ ràng trong quan điểm của người viết, ‘Ta sẽ là’ và ‘Đấng sẽ là’ thì như nhau: ‘Ta sẽ là’ khi Thiên Chúa nói về chính mình, và ‘Đấng sẽ là’ khi Thiên Chúa được những người khác nói về Ngài. Điều Ngài sẽ là để lại không được diễn tả - Ngài sẽ ở (“là”) với dân Ngài như Đấng Trợ Giúp, Đấng Quyền Năng và Đấng Giải Thoát” (God in the OT, 199).
Như vậy, khi Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê, Ngài nói về chính mình: “Ta là Đấng Ta sẽ là”; nhưng khi Ngài bảo ông Mô-sê nói cho dân Ít-ra-en về Ngài, Ngài nói ở ngôi thứ ba: “Đấng sẽ là”. Đối với ông Mô-sê, người mà Thiên Chúa trực tiếp mặc khải Danh Ngài, tên này có nghĩa: “Ta sẽ ở với ngươi” (3: 12). Còn đối với dân Ít-ra-en, mà ông Mô-sê có sứ mạng truyền đạt mặc khải này, tên Ngài có nghĩa “Đấng sẽ ở với họ”. Trong cả hai trường hợp, động từ “là” hay “ở” nhấn mạnh không trên “sự hiện hữu” nhưng trên “sự hiện diện” của Thiên Chúa với ông Mô-sê và với dân Ít-ra-en. Lúc đó, “Ta là Đấng Ta sẽ là” là một lời khẳng định về sự hiện diện của Thiên Chúa: “Ta thật sự là Đấng hiện diện”, nghĩa là “Ta thật sự là Đấng ở cùng”.
Đồng thời, Danh Thiên Chúa “Ta là Đấng Ta sẽ là” được hiểu như “điều chưa xác định”. Điều chưa xác định này chứa đựng những khả thể vô hạn tùy theo hoàn cảnh. Danh Thiên Chúa được mặc khải trong câu chuyện này đã không thể được bất kỳ thế hệ nào của Ít-ra-en hiểu trọn vẹn, vì thế Thiên Chúa vẫn cứ tiếp tục bày tỏ tất cả những gì Ngài sẽ là đối với dân Ngài: “Thiên Chúa sẽ là điều mà Ngài sẽ chứng tỏ Ngài là cho thế hệ này đến thế hệ khác; mỗi một thời đại sẽ khám phá những phẩm tính mới về Sự Hiện Diện của Ngài” (C. Westminster, The book of Exodus, London: 1908, 22). Chúng ta gặp thấy Danh Thiên Chúa như một sự hiện diện ở nơi lời giải thích mang tính hiện sinh của Is 52: 6: “Vì vậy, trong ngày ấy, dân Ta sẽ nhận biết danh Ta, nhận biết rằng: chính Ta là Đấng đã phán: ‘Này Ta đây!’”.
Nói tóm lại, Danh Thiên Chúa thật sự được mặc khải nhưng đồng thời được phủ che. Hai chiều kích của việc mặc khải Danh Thiên Chúa chỉ cho thấy một chuyển động tích cực và năng động không chỉ về phía Thiên Chúa, nhưng cả về phía dân của Ngài. Về phần mình, Thiên Chúa sẽ vẫn tiếp tục chứng tỏ cho thấy Ngài hiện diện cùng với dân Ngài bằng những hành động: Đấng Giải Thoát ở bên Ai-cập, Đấng Bảo Vệ trong hoang địa… Còn về phía dân Ngài, “kinh nghiệm từng trải của dân Ít-ra-en với Thiên Chúa trong lịch sử của mình sẽ khẳng định ý nghĩa của Danh Thiên Chúa này. Dân Ít-ra-en hiểu lịch sử của mình từ Danh Thiên Chúa này, cũng như hiểu Danh Thiên Chúa từ lịch sử của mình” (W. Johnstone, Exodus, Old Testament Guide, 104).
Trong Tin Mừng Gioan, khi công bố: “Tôi là”, Đức Giê-su ngầm quy chiếu đến câu chuyện mặc khải Danh Thiên Chúa và áp dụng Danh Thiên Chúa vào chính mình: “Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Áp-ra-ham, thì tôi, Tôi Là” (Ga 8: 58), hay “Nếu các ông không tin là Tôi Là, các ông sẽ mang tội mình mà chết” (Ga 8: 24). Trong Tin Mừng Mát-thêu, ngay từ đầu Tin Mừng, Hài Nhi Giê-su sẽ được gọi là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, và cuối Tin Mừng: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
BÀI ĐỌC II (1Cr 10: 1-6, 10-12)
Thánh Phao-lô viết thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô từ Ê-phê-xô có lẽ vào mùa xuân năm 55, vào dịp những xáo trộn và chia rẽ làm rối loạn Giáo Đoàn non trẻ này (được thiết lập vào năm 50-52). Mặt khác, các tín hữu Cô-rin-tô đã nêu lên cho thánh nhân một loạt câu hỏi tinh tế, thuộc lãnh vực luân lý hay có liên quan đến cuộc sống thường ngày giữa môi trường ngoại giáo.
1. Bối cảnh:
Thánh nhân vừa mới trả lời một trong những câu hỏi mà họ nêu lên cho ngài. Những tín hữu này đã ăn thịt cúng tại nhà bà con thân thuộc ngoại giáo hay tại nhà mình khi mua thịt cúng bán ngoài chợ về. Thánh Phao-lô đã gợi lên sự tự do của người Ki-tô hữu: người Ki-tô hữu có quyền ăn bất kỳ đồ cúng nào, vì mọi vật đều được Thiên Chúa tạo dựng và ban cho con người hưởng dùng; hơn nữa, các thần linh chỉ là ngẫu tượng. Tuy nhiên, sự tự do này bị hạn chế do bởi việc tôn trọng tha nhân và đức ái huynh đệ. Như vậy, “những người mạnh” phải tránh cách hành xử có thể làm thương tổn hay gây gương xấu cho “những kẻ yếu”.
Đối với “những người mạnh”, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng cuộc sống Ki-tô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng; ngay cả những người mạnh nhất khó tránh khỏi những yếu nhược. Lịch sử cứu độ minh chứng điều này.
2. Ôn cố:
Xưa kia dân Do thái trong hoang địa đã được hưởng những trợ giúp linh thiêng tuyệt vời khôn sánh, tiên trưng các bí tích của Ki-tô giáo; ấy vậy họ đã không đương đầu nổi trước những thử thách thờ ngẫu tượng và ham muốn của cải trần thế. Họ đã phải vùi thây trong hoang địa mà không được vào Đất Hứa (x. Ds 14: 22). Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học răn dạy chúng ta.
Thánh Phao-lô sánh ví cuộc vượt qua Biển Đỏ, dưới cột mây che chở, với phép rửa Ki-tô giáo. Ông Mô-sê tiên trưng Đức Ki-tô. Toàn dân Do thái “cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Mô-sê”, như dân Ki-tô giáo cùng được chịu phép rửa trong nước và Thánh Thần, để theo Đức Ki-tô.
Tiếp đó, thánh nhân đồng hóa bánh man-na, dù thánh nhân không nêu đích danh, với thần lương, tiên trưng bàn tiệc Thánh Thể, dù được gợi lên nhưng cũng không được nêu tên. Vả lại, bánh man-na đã được truyền thống Do thái lý tưởng hóa rồi. Sách Xuất Hành nói rằng Đức Chúa cho bánh từ trời mưa xuống (Xh 16: 4). Thánh Vịnh 78 gợi lên bánh man-na là “bánh kẻ mạnh” (Tv 78: 25) mà Bản Vulgata đã có chủ ý dịch “bánh thiên thần”, vân vân.
Một đặc quyền khác mà dân Do thái đã được hưởng: “Tất cả cùng uống một thức uống thần thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Ki-tô”. Thánh Phao-lô ám chỉ đến một giai thoại nổi tiếng theo đó tảng đá, từ tảng đá đó ông Mô-sê đã làm cho nước hằng sống (“nước hằng sống” là diễn ngữ Kinh Thánh để chỉ nước mát trong chảy ra tận nguồn) phun trào, đã đồng hành với dân Do thái trong suốt cuộc hành trình băng qua hoang địa.
Nước hằng sống phun trào từ tảng đá này không gì khác hơn là dấu chỉ về Đức Ki-tô tiền hữu, hiện diện ở giữa dân Ngài. Việc đối chiếu bạo dạn này chắc chắn được gợi hứng từ hình tượng truyền thống, đặc biệt được các Thánh Vịnh chuyển tải, theo đó Đức Chúa thường được công bố là “tảng đá của Ít-ra-en”.
3. Tri tân:
Thánh Phao-lô rút ra từ những hình ảnh tiên trưng này một lời cảnh báo nghiêm khắc lên án tính tự hào tự phụ. Các Ki-tô hữu có những nguồn trợ lực còn cao cả hơn những nguồn trợ lực mà dân Do thái đã được hưởng. “Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này”, những người đang tiến gần đến Đất Hứa đích thật. Nếu muốn được vào trong Đất Hứa, thì hãy cảnh giác, những ai cứ tưởng mình đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã.
TIN MỪNG (Lc 13: 1-9)
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ một phân đoạn dài được gọi là “cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Chúa Giê-su” (9: 51-18: 14). Phân đoạn này được đặt trong bối cảnh Chúa Giê-su đang trên đường tiến đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài; lời dạy của Ngài càng trở nên nghiêm trọng và khẩn thiết hơn. Giờ đã đến để biết đọc “các dấu chỉ thời đại” (12: 54-56), hãy mau ăn năn sám hối kẻo không còn kịp nữa (12: 57-58). Những sự kiện mang tính thời sự tự chúng có thể dâng hiến một cơ hội thuận lợi để mà trầm tư nghĩ ngợi.
1. Chúa Giê-su bác bỏ mối liên hệ trực tiếp giữa tai họa và tội lỗi:
Vài người đến thuật lại cho Chúa Giê-su một sự cố bi thảm: những người Ga-li-lê đến dâng hy lễ ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đã bị thảm sát theo lệnh tổng trấn Phi-la-tô.
Sự kiện này không được thuật lại ở nơi khác, nhưng phù hợp với những gì mà sử gia Do thái, F. Josephus, nói về nhiều vụ trả thù đẩm máu theo lệnh quan tổng trấn Rô-ma này (Antiquités juives, 18, 3, 2 và 4: 1). Như chúng ta biết, người Ga-li-lê rất dễ hưởng ứng những cuộc bạo động chính trị, bởi vì họ là dân dễ bị kích động. Nhưng chúng ta cũng có thể nghĩ ngay đến nhóm Nhiệt Thành, một đảng phái tôn giáo có xu hướng chính trị, họ giải thích trào lưu Mê-si-a theo ý nghĩa chính trị và sẵn sàng giành lại nền độc lập cho dân tộc mình, ngay cả bằng bạo động. Nhóm này tự ý chiêu mộ thành viên của mình ở Ga-li-lê nên thường được gọi là “những người Ga-li-lê”. Sự hiện diện của họ ở Giê-ru-sa-lem khích động thái độ bài chính quyền chiếm đóng. Những người thuật lại cho Chúa Giê-su sự cố này, chắc chắn muốn được nghe từ miệng Ngài sự công phẩn chống lại chính quyền chiếm đóng. Nhưng Chúa Giê-su tức khắc đặt mình trên lãnh vực khác.
Theo quan niệm phổ biến vào thời đó, tai họa hay bệnh tật là những án phạt của tội lỗi (x. Ga 9: 2). Vì thế, những ai thoát khỏi cuộc thảm sát này xác tín rằng mình vô tội, là “công chính”. Chúa Giê-su cực lực tố cáo thái độ này. Chắc chắn những người bị thảm sát không phải là không có tội, nhưng đừng nghĩ rằng họ tội lỗi hơn những người Ga-li-lê khác. Đối với những người đối thoại này, Ngài tuyên bố rằng họ có tội như những người Ga-li-lê xấu số kia; đoạn trong một kết luận xem ra có vẻ mâu thuẫn, Ngài nói: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông sẽ chết hết như vậy”.
Để khuyến khích ăn năn sám hối, Chúa Giê-su đưa ra thêm một ví dụ khác nữa, lần này liên quan đến những người Giu-đê. Mười tám người Giu-đê bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết. Biến cố này chắc hẳn vừa mới xảy ra đây. Chúa Giê-su quả quyết không phải những người Giu-đê xấu số này tội lỗi hơn những người Giu-đê tội lỗi khác, vì thế Ngài lập lại lời kêu gọi: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông sẽ chết y hệt như vậy”.
2. Chúa Giê-su mời gọi ăn năn sám hối:
Làm thế nào giải thích rằng Chúa Giê-su vừa mới từ chối ý tưởng theo đó có những mối liên hệ trực tiếp giữa tai họa và tội lỗi, lại ngay tức khắc đe dọa thính giả của Ngài về tội lỗi? Viễn cảnh chung của các chương 12 và 13 này là viễn cảnh của ngày chung thẩm: phải sám hối nếu muốn thoát khỏi án phạt. Thế nên, người ta nghĩ rằng cái chết thảm hại mà Chúa Giê-su cảnh giác những người đối thoại của Ngài, thì thuộc trật tự tinh thần: mất sự sống trong Nước Trời.
Tuy nhiên, trong suốt cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su nhiều lần nghĩ đến dân của Ngài, đa số trong họ đã không thể nhận ra Ngài; Ngài than trách thành thánh Giê-ru-sa-lem vì “đã giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến với họ” (Lc 13: 34). Trong lời kêu gọi khẩn thiết hãy sám hối trước khi đã quá muộn, không phải chúng ta cũng được mời gọi gẫm suy lời cảnh báo của Chúa Giê-su về sự sụp đổ thành thánh Giê-ru-sa-lem vào năm 70 sao? “Nếu các ngươi không chịu hối cải, tất cả các ngươi sẽ bị chết y như vậy”.
3. Lòng nhẫn nại của Thiên Chúa:
Thánh Lu-ca là thánh ký về lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Ngay sau những lời nghiêm khắc của Chúa Giê-su, thánh ký đặt dụ ngôn cây vả không sinh trái, dụ ngôn này khác với dụ ngôn cây vả bị nguyền rủa khô héo mà thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu tường thuật, theo đó, dân Ít-ra-en đã không sinh hoa kết trái như lòng Chúa mong ước; vì thế dân này chẳng còn gì hơn là cây vả chết khô (Mc 11: 12-14, 20-25; Mt 21: 18-22). Trái lại, dụ ngôn cây vả không sinh trái của thánh Lu-ca gợi lên lòng nhẫn nại của Thiên Chúa. Chắc chắn dân Ít-ra-en vẫn còn ẩn hiện ở nơi dụ ngôn này. Cựu Ước đã thường sánh ví dân Chúa với một cây ăn trái mà Chúa chọn và ân cần chăm sóc.
Nông dân miền Pa-lét-tin thường trồng dặm những cây ăn trái trong vườn nho của mình, nhất là những cây vả, vì đất trồng nho rất thích hợp với loại cây này. Trong dụ ngôn của thánh Lu-ca, ông chủ vườn nói với người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?”. Người làm vườn xin một thời hạn cuối cùng để mình có thể ra công vun xới và bón phân cho nó. May ra sang năm nó sẽ sinh hoa kết trái, nếu không thì chặt nó đi cũng không muộn.
Ai cũng thấy ở nơi việc kể ra “ba năm không sinh trái” này một ám chỉ đến ba năm thi hành sứ vụ của Đức Giê-su mà lòng dân Ít-ra-en vẫn trơ như đá. Nhưng tất cả những người tội lỗi không liên quan đến dụ ngôn này sao? Bên kia dân Ít-ra-en cứng tin, chắc chắn thánh ký nghĩ đến dân mới của Chúa Ki-tô, dân mà Chúa Con là Đấng Trung Gian, Ngài không ngớt cầu bầu cho dân mình bên cạnh Chúa Cha, Ngài phân phát muôn vàn ân sủng, Ngài làm hết sức mình để dẫn đưa tội nhân đến ơn cứu độ.
12. Nếu không chịu sám hối, các ông cũng sẽ chết y như vậy--Lm. Trầm Phúc
Kinh Thánh là một tiếng gọi liên lỉ, gọi con người trở về với Chúa vì đã lìa xa Ngài. Thiên Chúa luôn giàu lòng thương xót và không thể bỏ con người hư mất trong tội, vì Ngài đã tạo nên và yêu thương họ. Dù họ có phản bội, Ngài vẫn không bỏ rơi họ. Thiên Chúa vẫn trung thành dù con người thất tín.
Mùa Chay Thánh là thời thuận tiện, mời gọi chúng ta trở về với Chúa là hạnh phúc duy nhất của chúng ta. “Nhân danh Đức Giêsu Kitô, tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người”.
Thiên Chúa phải sai Con Một của Người đến trần gian để cứu chúng ta, chứng tỏ tình yêu vô bờ của Người, Nhưng Người không thể cứu chúng ta mà không có chúng ta. Người đã dùng mọi phương tiện để kêu mời chúng ta trở về với Ngài, đến nỗi ban Người Con Một cho chúng ta. Như thế, chúng ta có thấy được lòng thương xót của Ngài đối với chúng ta không?
Dân Do Thái được xem như một dân cứng đầu cứng cổ nhưng Thiên Chúa vẫn nhẫn nại chờ đợi, kêu mời chúng trở về. Qua bao nhiêu thế kỷ, dân Do Thái vẫn luôn sa đi ngã lại trong tội ác, Người sai các tiên tri đến. Trước hết là Môsê. Chính Chúa bảo ông nói với dân: “Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Abraham, của Isaac, của Giacób sai tôi đến với anh em…” Chính Thiên Chúa chứ không ai khác đã sai Môsê đến cứu dân khỏi ách nô lệ Ai Cập. Sáng kiến bắt nguồn từ Thiên Chúa. Các tiên tri khác như Amốt, Hôsê, Isaia hay Giêrêmia đều kêu gọi mọi người trở về.
Cũng trong Kinh Thánh, chúng ta thấy được bao nhiêu gương lành của những người tội lỗi ăn năn sám hối và thật tình trở về với Chúa. Dân thành Ninivê nghe lời tiên tri Giôna đã ăn chay và trở về với Chúa. Vua Đavít, sau khi đã nặng nề lỗi phạm, đã nghe theo lời tiên tri Nathan đã thật lòng sám hối và được thứ tha.
Chúa Giêsu khi bắt đầu cuộc rao giảng công khai đã kêu gọi: “Hãy ăn năn sám hối vì Nước trời đã gần đến”. Sứ mệnh của Ngài là cứu vớt những kẻ tội lỗi. Suốt mấy năm rao giảng Tin Mừng, Ngài không mỏi mệt kêu gọi họ.
Hôm nay, Giáo hội nhắc lại lời mời gọi ấy khẩn thiết hơn: “Nếu anh em không ăn năn sám hối, anh em sẽ chết hết”. Ngài cho thấy: những người bị giết chết hay những người chết vì tai nạn, không phải vì họ tội lỗi, nhưng những người cứng lòng không ăn năn sám hối mới đáng chết. Đây không chỉ là một lời kêu gọi mà một khẳng định cứng rắn cho chúng ta.
Chúa Giêsu không những kêu gọi mà chính Ngài đã đến kết thân với những kẻ tội lỗi để giúp họ trở về, Ngài đã bị đám Pharisêu khinh miệt vì đã lân la với hạng tội lỗi, ăn nhậu với chúng. Chúng ta có thể thấy kết quả của những cố gắng đó. Chúng ta quá quen với những khuôn mặt: Mađalêna, Giakêu, Matthêu, Phêrô, Phaolô.
Những người đó là ai? Là những người đầu tiên đã lỡ lầm, yếu đuối, nhưng họ đã trở về. Họ đã có can đảm dứt khoát với đời sống tội lỗi và đã nên thánh.
Trong lịch sử Giáo hội đã có một danh sách dài những đấng thánh từ xa trở về mà chúng ta cũng có quen biết một số: thánh Âu-Tinh, chân phước Charles de Foucauld, người sáng lập dòng tiểu đệ và biết bao nhiêu người khác… những người danh tiếng thế giới đã buông bỏ thế gian để trở về trong chuồng chiên của Chúa.
Còn chúng ta? Chúng ta có cần phải ăn năn sám hối không? Câu hỏi này xem ra thừa thãi nhưng rất quan trọng, vì trong chúng ta, nhiều người tưởng rằng mình không cần ăn năn sám hối vì không có tội gì quan trọng. Quan niệm như thế chứng tỏ họ không hiểu biết gì về cuộc sống tâm hồn, họ thuộc về hạng người không tốt cũng không xấu, không nóng cũng không lạnh, ươn ươn hâm hẩm… Và Chúa nói trong Sách Khải Huyền “Hạng người đó Ta sẽ mửa họ ra…”
Không ai trong chúng ta trọn lành cả, và những người tưởng mình không có tội gì lại là những người chất chứa nhiều tội mà không hay. Chúng tôi xin đan cử một ví dụ dễ hiểu: Có lẽ chúng ta đã sống kề cận những người xem ra đạo đức, nhưng chỉ có một điều không thích hợp đó là tính kiêu căng. Những người đó không bao giờ biết mình kiêu căng. Và chính những người này không bao giờ cảm thấy cần phải ăn năn sám hối. Và như thế họ càng lún sâu vào tính xấu của mình mà không hay biết.
Ai trong chúng ta không cần trở về với Chúa? Vì không nhiều thì ít, chúng ta vẫn còn những tật xấu, lắm khi là những tật xấu làm hại cả những người chung quanh mà không hay biết.
Ai là những người cảm thấy mình tội lỗi nhiều nhất? Chính là các thánh. Khi chúng ta mặc một chiếc áo trắng tinh, thì chỉ cần một vết mực nhỏ chúng ta cũng thấy. Một người mặc một chiếc áo bẩn thì dù có bôi thêm những vết bùn to cũng không thấy bẩn thêm. Nhưng thánh Phaolô cảnh báo chúng ta: “Ai thấy mình đứng vững hãy coi chừng kẻo ngã”.
Tại sao Giuđa sống với Chúa một thời gian khá dài, ít nữa là ba năm, nghe Ngài giảng dạy hằng ngày, nhìn thấy nếp sống thánh thiện của Ngài mà lại ham tiền đến nỗi bán Thầy? Vì ông không bao giờ cảm thấy cần ăn năn sám hối. Lời cảnh báo thật mạnh mẽ ngày hôm nay chúng ta đã nghe: “Nếu anh em không ăn năn sám hối, anh em sẽ chết hết” có làm cho chúng ta suy nghĩ không?
Ăn năn sám hối để làm gì?
Để khỏi chết thôi sao? Hay để được thứ tha mà thôi? Ăn năn sám hối để trở nên con người mới, được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Chúng ta phải nên thánh, nên người hoàn thiện để khi Chúa đến, Chúa thấy chúng ta không gì đáng trách, tinh tuyền và thánh thiện.
Mùa chay chính là lúc chúng ta bắt đầu lại một giai đoạn mới trong cuộc sống. Chúng ta phải tự giải thoát khỏi mọi xiềng xích tội lỗi để sống như con cái Thiên Chúa. Điều Chúa đang mong chờ nơi chúng ta.
Chúa Giêsu không để chúng ta đi một mình trên con đường về Nước Trời. Ngài vẫn ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Ngài biết chúng ta được dựng nên bằng gì và thân phận tro bụi của chúng ta không thể tự mình vươn lên đỉnh cao thánh thiện, vì thế, Ngài vẫn trung thành trong mối tình của Ngài. Ngài vẫn nuôi chúng ta bằng chính Thịt Máu thần linh của Ngài. Chúng ta cần thứ của ăn thần linh này để sống, để đi nốt quãng đời còn lại của chúng ta giữa muôn vàn gian khó. Chúng ta hãy vững tin vào tình yêu viên mãn của Ngài và cứ tiếp tục bước tới.
13. Sám hối
Dân Do Thái đã có lịch sử huy hoàng với những vị vua sáng chói như Đavít, như Salomôn. Tuy nhiên vào thời Chúa Giêsu, tình thế đã đảo ngược. Họ phải cúi đầu chấp nhận ách thống trị của đế quốc Lamã. Pháo đài Antonia được dựng lên ở Giêrusalem; bịnh đội Lamã coi thường người Do Thái và những quyền lợi của họ. Viên toàn quyền của hoàng đế César xen vào nội bộ tôn giáo bằng cách chọn lựa và công nhận những thầy cả thượng phẩm. Miền bắc là xứ Galilêa, mặc dù do vua Hêrôđê cai trị. Nhưng Hêrôđê cũng chỉ là một tên hề múa rối, quyền hành nằm cả trong tay Philatô. Chính vì thế một sự oán ghét thù hận âm ỉ trong lòng người Do Thái. Bề ngoài thì hoà hoãn nhưng bề trong thì sôi sục như một cục than hồng dưới lớp tro tàn. Họ mong đợi Đấng cứu thế đến để giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ lầm than.
Bấy giờ Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống công khai, Ngài lên tiếng rao giảng về Tin Mừng Phúc Âm. Người ta kể lại cho Ngài nghe việc một số người Galilêa có lẽ đã xách động dân chúng chống lại binh đội Lamã. Thế là theo lệnh của Philatô binh đội Lamã xông vào đền thờ, tàn sát họ khiến máu họ hoà lẫn với máu của lễ vật. Những người kể lại sự việc này hy vọng Chúa Giêsu sẽ đứng lên giải phóng dân tộc và họ sẽ theo Người cho dù có phải chết. Nhưng cái nhìn của Chúa Giêsu thì khác. Người đến không phải để gieo rắc hận thù, nhưng đến để rao giảng Nước Thiên Chúa, kêu gọi mọi người ăn năn để được cứu độ. Người nói: Nếu các ngươi không hối cải các ngươi cũng sẽ phải chết như vậy.
Rồi một sự kiện khác nữa đó là ngọn tháp Siloe bất thần sụp đổ và đè chết 18 người. Thiên hạ cho rằng họ là những kẻ tội lỗi nên bị Thiên Chúa trừng phạt. Nhưng quan điểm của Chúa Giêsu thì khác, Người muốn coi đó như một tiếng chuông cảnh tỉnh: Nếu các ngươi không hối cải các ngươi cũng sẽ phải chết như thế. Với chúng ta cũng vậy, những tiếng chuông cảnh tỉnh không ngừng vang lên, những tín hiệu báo động không ngừng xuất hiện. Nếu chúng ta biết thực thi Lời Chúa, nghĩa là biến sám hối ăn năn, thì những tai ương hoạn nạn sẽ là một cái gì tốt lành, vì nó sẽ đem lại cho chúng ta ơn cứu độ.
Một người bà con lối xóm, Bị trúng gió và chết liền tức thời. Phải chăng người ấy là một kẻ tội lỗi. Không phải là như thế, nhưng nếu chúng ta không hối cải, chúng ta cũng sẽ chết như vậy. Hai chuyến xe lửa đầy ắp người đụng phải nhau khiến cho hàng trăm người bị chết. Một thành phố bị động đất khiến cho hàng ngàn người bị chôn vùi dưới đống gạch vụn. Phải chăng họ là những kẻ tội lỗi, không phải như thế, nhưng nếu chúng ta không hối cải, chúng ta cũng sẽ chết như vậy. Rồi hằng ngày báo chí, truyền thanh truyền hình đã tường thuật cho chúng ta biết bao nhiêu tai ương hoạn nạn: nào là đói khát, nào là chiến tranh, nào là bạo động... Phải chăng những nạn nhân đều là những kẻ tội lỗi. Không phải là như vậy, nhưng nếu chúng ta không biết hối cải, chúng ta cũng sẽ chết như vậy. Hằng ngày Chúa vẫn gởi đến với mỗi người chúng ta những tiếng chuông cảnh tỉnh và những tín hiệu báo động, có khi chợt loé lên như một tia chớp, có khi âm vang như một hồi còi dài. Thế nhưng điều quan trọng đó là chúng ta phải biết lắng nghe, phải biết nhìn xem, để nhận ra được tiếng Chúa hầu giục lòng ăn năn sám hối và cải thiện đời sống, vì tất cả đều là hồng ân của Chúa.
14. Sám hối.
Đứng trước cái chết thê thảm, đầy máu và nước mắt của những người bị Philatô giết, cũng như những người bị tháp Siloe đè bẹp, có những kẻ đã nghĩ xấu khi cho rằng sở dĩ những người này phải chết vì họ là những kẻ tội lỗi. Ý nghĩa độc ác đó, giống như một con dao đâm vào các nạn nhân đã chết. Và như thế, những người đã chết lại bị chết thêm một lần nữa.
Trước sự bất công và bất nhân ấy, Chúa Giêsu đã xác định không phải là như thế, đồng thời khuyên nhủ mỗi người hãy ăn năn hối cải, kẻo rồi sẽ bị Chúa huỷ diệt như vậy. Với những suy nghĩ trên, Ngài vừa minh oan cho các nạn nhân, vừa công bố cách Ngài sẽ xét xử sau này, đó là ai xét đoán ác nghiệt cho kẻ khác, thì cũng sẽ bị xét đoán ác nghiệt như vậy. Kẻ cho rằng các nạn nhân bị chết thê thảm là vì họ có tội, thì chính họ, nếu không sửa mình, cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy, vì họ đâu có vô tội hơn ai.
Từ đó chúng ta đi tới một kết luận thực hành, đó là đừng mất giờ lo chuyện suy diễn xấu cho người khác, kẻo gây khổ thêm cho họ và cho những người thuộc về họ, đồng thời cũng gây thêm tội và thêm hậu quả xấu cho chính bản thân mình. Điều Chúa muốn chúng ta quan tâm, đó là hãy lo chuyện mình bằng cách ăn năn sám hối và cải thiện đời sống của mình.
Đổi mới bản thân, cải thiện đời sống đó là điều chúng ta thường xuyên mong muốn. Chúng ta đã cố gắng, thế nhưng càng cố gắng chúng ta lại càng khám phá ra rằng: Tự sức riêng, chúng ta không thể ăn năn sám hối và cải thiện đời sống mình, trái lại phải cậy nhờ vào ơn Chúa giúp.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta hay biết về kinh nghiệm ấy. Chúa là người trồng cây, còn chúng ta là những cây vả không có trái. Ngài muốn chúng ta cải thiện nên đã trồng chúng ta vào vườn nho Hội Thánh. Rồi cũng chính Ngài đã chăm sóc chúng ta như người trồng cây đối với cây vả của mình. Nhưng chúng ta lại là những cây vả có trí khôn, có tự do, chúng ta có thể đón nhận hay không đón nhận ơn lành của Chúa. Chúng ta có thể sinh những hoa trái tốt, nhưng cũng có thể chẳng có hoa trái nào cả. Nguyên do là bởi chúng ta có biết đón nhận ơn Chúa hay không? Nghĩ tới đây hẳn chúng ta sẽ cảm thấy lo lắng cho số phận của chúng ta, bởi vì có những lúc chúng ta đã dửng dưng với ơn Chúa, đã từ chối ơn Chúa. Ý thức về thân phận yếu đuối, để rồi phó thác cho tình thương của Chúa, là chúng ta đã khởi đầu sự ăn năn. Tuy nhiên, tâm tình sám hối không chỉ dừng lại ở đó, mà còn phải tiến tới ba việc làm khác nữa, đó là cầu nguyện, hãm mình và làm việc bác ái, đặc biệt là bố thí giúp đỡ người nghèo.
Và như thế, chúng ta thấy tâm tình sám hối của chúng ta còn rất hời hợt. Điều Chúa mong đợi nơi chúng ta không phải chỉ là không còn phạm tội nữa, mà còn phải tích cực làm việc lành. Vì việc lành mới là những hoa trái thiêng liêng mà Chúa muốn có. Thế nhưng, bản thân chúng ta đã có được những hoa trái thiêng liêng ấy chưa, hay là đến giờ này, chúng ta vẫn chỉ là những cây vả không có trái?
15. Hãy trở về với tình thương của Thiên Chúa
Hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta: "Hãy sám hối, nếu không chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt như những nạn nhân của biến cố tháp Silôê đổ, hay như những người bị thảm sát dưới thời Tổng trấn Philatô" (Lc 13, 3).
Người ta đến và kể cho Đức Giêsu nghe câu chuyện thương tâm mới xảy ra tại Giêrusalem: quan tổng trấn Philatô ra lệnh tàn sát một nhóm người ngay tại Giêrusalem, khiến máu của họ hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Thuật lại biến cố này, họ muốn Đức Giêsu vì tình đồng hương mà đồng tình với họ để phản đối tổng trấn Philatô và đế quốc Rôma. Đồng thời, người Do Thái cũng cho thấy những người bị giết kia là những người tội lỗi nên bị Thiên Chúa trừng phạt. Còn họ được bình an vô sự là vì họ công chính tốt lành trước mặc Giavê. Chúa đã chỉnh đốn lại quan niệm sai lạc đó. Người mời gọi họ thay đổi cái nhìn. Đừng nghĩ những người bị giết kia là người tội lỗi nhất nhưng trước những biến cố xảy ra hãy nghĩ về bản thân mình trước. Vì trước mặt Chúa, mọi người đều là người tội lỗi. Do đó cần phải nhận ra tội lỗi, thiếu sót của mình và sám hối.
Phải chăng chúng ta dễ có cái nhìn kết án người khác giống như những người Do Thái hôm nay, khi chúng ta nghĩ rằng: ta giàu sang là do Chúa thưởng cho người công chính, đạo đức còn những người nghèo khổ là hình phạt Chúa dành cho kẻ tội lỗi. Lắm khi chúng ta nghe người khác nói: Chúa phạt nó hay ông Trời có mắt mà...Trước mọi biến cố của cuộc đời, Chúa muốn chúng ta phải có thái độ đúng đắn hơn. Cần có cái nhìn đức tin và lòng khiêm nhường trước những sự kiện để có thể nhận ra thánh ý Thiên Chúa dành cho mình. Đức tin luôn mời gọi chúng ta nhìn vào những thất bại đổ vỡ cho một khởi đầu mới. Đức tin mang lại cho chúng ta đôi mắt để nhìn xuyên qua tăm tối và thấy được ánh sáng của niềm hy vọng. Ngay những trang đầu của sách thánh, Thiên Chúa đã dẫn đưa chúng ta vào cái nhìn hy vọng ấy. Sự sa ngã của ông bà nguyên tổ đã không phá vỡ chương trình của Thiên Chúa, trái lại đã trở thành khởi đầu của một công cuộc đổi mới kỳ diệu hơn. Giáo hội đã không ngừng cảm tạ Chúa vì không những Ngài đã tác tạo con người một cách diệu kỳ mà còn tái tạo con người một cách diệu kỳ hơn. Toàn bộ lịch sử cứu rỗi là một chuỗi những vấp ngã và chỗi dậy của con người đan xen với nhau. Tuyệt đỉnh của cuộc tái tạo không ngừng ấy chính là cái chết của Đức Giêsu trên thập giá.
Ta dễ dàng xét đoán anh em và lên án người khác là vì ta không biết nhìn vào bản thân. Có nhìn lại chính mình, ta mới nhận ra lỗi lầm của mình, và thay đổi cái nhìn. Một trong những sứ điệp nền tảng của Kitô giáo được chứa đựng trong lời kêu gọi của Đức Giêsu: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Sám hối là chiều kích nền tảng của đời sống đức tin. Có nhìn nhận thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người mới nhận được ơn cứu độ và tình thương của Chúa. Có biết mình hay vấp ngã, con người mới dễ cảm thông với anh em. Như vậy, mến Chúa yêu người chỉ có thể được xây dựng trên nền tảng của sám hối mà thôi.
Lòng sám hối càng sâu sắc và tinh thần khiêm tốn càng cao độ, thì lòng mến đối với Thiên Chúa mới chân thành và tình yêu đối với tha nhân mới thiết thực. Viên đá kiến cố nhất cho một tòa nhà kiến trúc là viên đá đặt thấp nhất dưới chân nền. Đức Giêsu lên án gắt gao thái độ của những người biệt phái. Họ có tất cả mọi nhân đức, nhưng chính vì thiếu lòng khiêm nhường sám hối mà toà nhà đạo đức của họ đối với Chúa là giả tạo và họ cũng không hề biết thế nào là cảm thông, tha thứ và yêu thương. Người tín hữu Kitô được mời gọi nhìn lại bản thân hàng ngày, nhất là trong mỗi thánh lễ, để từ đó mở rộng tâm hồn đón nhận tình yêu của Chúa, và cảm thông tha thứ cho anh em.
Mùa Chay là mùa sám hối, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho chúng ta một kỳ hạn nũa. Hãy khẩn trương sám hối kịp thời. "Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay". Tục ngữ Pháp có câu: "Nếu trẻ mà hiểu ra, nếu già mà làm được" (Lúc trẻ thì không hiểu để làm, đến lúc già muốn làm thì không còn sức để làm nữa). Bao lâu còn sống, là như cây còn xanh tươi. Hoán cải, đổi mới, không bao giờ là quá trễ.
Hãy tin tưởng, bắt đầu ngay hôm nay, kẻo không còn kịp nữa. Hằng ngày, báo chí, truyền hình, radio, đưa tin trong cũng như ngoài nước, bao nhiêu tai nạn chết người: xe đụng, động đất, hỏa hoạn,...Tại sao những người kia gặp nạn, chứ chưa phải là tôi? Đừng dựa vào những may mắn trong cuộc sống, để yên trí rằng mình không sống trong sạch, tốt lành; để tạo cho mình mối an tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác; để không lo hoán cải, đổi mới.
Mỗi người chúng ta đều là kẻ tội lỗi, đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: đây có thể là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối...trước khi ra trước mặt Đấng phán xét. Lời Chúa hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Đàng khác, có phải bấy lâu nay, chúng ta sống mà ít nhìn lại bản thân mình. Chúng ta đã trải qua biết bao nhiêu mùa chay với lối suy nghĩ như người ta phạm tội nên cần ăn năn sám hối còn tôi, tôi tuân giữ hết mọi điều, sống tốt lành, thánh thiện, đạo đức thì cần chi đến sám hối, cần chi đến ăn năn. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình mà sám hối cho thật, cho mau kẻo hối hận cũng không còn kịp nữa. Có thể chúng ta nghĩ rằng: mình là người tín hữu đạo đức, sốt sắng, mình đi dự lễ, rước lễ đều đặn, mình cũng làm việc bác ái, cũng đi xưng tội, vì thế lời kêu gọi sám hối không có liên hệ gì đến mình. Chính những người nghĩ như thế mới là người cần phải sám hối. Thánh Phaolô hôm nay đã nói: "Ai tưởng mình đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã". Nếu thực sự chúng ta đang sống trong lối suy nghĩ như thế hãy để tâm suy nghĩ dụ ngôn cây vả của Đức Giêsu. Hình ảnh cây vả cũng là hình ảnh của mỗi người Kitô hữu chúng ta. Cuộc đời chúng ta không ngừng được chủ vườn là Cha trên trời săn sóc với biết bao ân huệ của Người. Chúng ta lãnh nhận một cách nhưng không những ân huệ ấy thì đòi chúng ta cũng phải sinh hoa trái bằng cách cho đi cách nhưng không như vậy. Vì thế, phải coi chừng kẻo chúng ta đang là những cây vả không sinh hoa trái như cây vả của dụ ngôn. Những ân huệ của Thiên Chúa ở trong chúng ta cần phải sinh hoa quả là lòng biết ơn, yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, trung thành với việc bổn phận mà Thiên Chúa giao phó cho mình. Hãy sinh hoa lợi với nén bạc mà Chúa trao cho mình. Hãy nghe lời Chúa dạy hôm nay mà ăn năn sám hối. Người luôn luôn chờ chúng ta. Người cho chúng ta có thời giờ hoán cải và làm phát sinh hoa trái. Nhưng thời hạn ấy rất cấp bách. Chúng ta cần phải hoán cải ngay hôm nay khi Chúa còn gia hạn cho chúng ta.
Mùa chay là mùa thuận tiện nhất để thay đổi đời sống chúng ta. Lời kêu gọi sám hối không chỉ dành cho những người tội lỗi nhưng dành cho tất cả mọi người. Lời kêu gọi sám hối hôm nay, không phải chỉ là lời kêu gọi trở về từ tội lỗi, từ điều xấu nhưng là một lời kêu gọi phải làm điều lành, điều tốt như một bổn phận. Phải trở nên tốt hơn mỗi ngày vì kẻ nào biết làm điều tốt mà không làm thì mắc tội! Hãy biết sám hối về những thiếu sót vì chúng ta đã không làm những điều tốt lành đẹp lòng Thiên Chúa.
Mùa Chay mời gọi chúng ta sám hối. Tuy nhiên, sám hối không chỉ đòi ta nỗ lực diệt trừ tội lỗi, nhưng điều quan trọng là trở về cùng Thiên Chúa, để nhận ra tình yêu thương vô biên của Ngài trên cuộc đời mình, từ đó, ta định hướng lại toàn bộ cuộc sống, chỉnh đốn lại những hướng sai lạc đang làm lệch lạc cuộc sống tâm hồn và ơn gọi của mình. Sám hối còn là ơn Chúa ban cho những tâm hồn mong mỏi được giải phóng khỏi tội lỗi để đón nhận ơn cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con nhìn nhận mình đều là những tội nhân đáng thương, đang cần lòng Chúa thương xót, tha thứ và ban ân sủng để chúng con can đảm sám hối, can đảm nhìn nhận sự thật về mình để sống tinh thần mới trong tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Amen.
16. Mùa Chay - Mùa Đổi Mới--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
Tin mừng Lc 13: 1-9: Mùa Chay là mùa sám hối, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho chúng ta một kỳ hạn nữa. Hãy khẩn trương sám hối kịp thời. "Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay".
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời đi qua của mình như sau:
- Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng, một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày, nhứt là gia đình con, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con mãn nguyện rồi.
Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận thức rằng, tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ nầy, tôi chỉ biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con được ơn thay đổi chính bản thân con.
Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.
Người xưa đã có lý khi dạy chúng ta: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ… Theo trật tự của cuộc cách mạng, thì cách mạng bản thân - tu thân - là điều tiên quyết.
Một nhà cách mạng nào đó đã nói: Chỉ cần mười người như thánh Phanxicô thành Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi. Cuộc cách mạng đầu tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự, đó là cách mạng bản thân.
Chúa Giêsu đã chuẩn bị ba năm sống công khai bằng 30 năm âm thầm, 40 đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Và lời kêu gọi đầu tiên của Ngài là: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Hôm nay, Ngài lại kêu gọi chúng ta: "Hãy sám hối, nếu không chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt như những nạn nhân của biến cố tháp Silôê đổ, hay như những người bị thảm sát dưới thời Tổng trấn Philatô".
Mùa Chay là mùa sám hối, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho chúng ta một kỳ hạn nữa. Hãy khẩn trương sám hối kịp thời. "Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay".
Tục ngữ Pháp có câu: "Nếu trẻ mà hiểu ra, nếu già mà làm được" (Lúc trẻ thì không hiểu để làm, đến lúc già muốn làm thì không còn sức để làm nữa). Việt Nam chúng ta cũng có câu: "Lão lai tài tận" (Đến tuổi già thì tài năng cũng hết). Thế là bị rơi vào luật đào thải, như cây cằn cỗi, không sinh trái đã lâu, phải chặt đi thôi. Bao lâu còn sống, là như cây còn xanh tươi. Hoán cải, đổi mới, không bao giờ là quá trễ. Hãy tin tưởng, bắt đầu ngay hôm nay, kẻo không còn kịp nữa. Hằng ngày, báo chí, đài, đưa tin trong cũng như ngoài nước, bao nhiêu tai nạn chết người: xe đụng, tàu chìm, phi cơ rớt, động đất, hỏa hoạn…
Tại sao những người kia gặp nạn, chứ chưa phải là tôi? Đừng dựa vào những may mắn trong cuộc sống, để yên trí rằng mình sống trong sạch, tốt lành, để tạo cho mình mối an tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác, để không hoán cải, đổi mới.
Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng thấy rõ hơn nỗi cô đơn trước những giới hạn của mình… nhất là nỗi sợ hãi trước cái chết, thân phận bi đát nhất của kiếp người. Khát vọng được sống và sống đời đời không ngừng đòi hỏi con người đổi mới để khỏi phải thấy sức sống tắt lịm trong tay của mình. Vì vậy, hoán cải vẫn là vấn đề thức thời và cấp bách.
Mỗi người chúng ta đều là kẻ tội lỗi, đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: có thể là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối… trước khi ra trước mặt Đấng Phán xét. Lời Chúa hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình mà sám hối cho thật, cho mau kẻo trễ.
Có thể chúng ta nghĩ rằng: mình là người tín hữu đạo đức, sốt sắng, mình đi dự lễ, rước lễ đều đặn, mình cũng làm việc bác ái, cũng đi xưng tội, nên lời kêu gọi sám hối không có liên hệ gì đến mình. Chính những người nghĩ như thế mới là người cần phải sám hối. Thánh Phaolô hôm nay đã nói: "Ai tưởng mình đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã". Việc sám hối trở lại không bao giờ chỉ làm một lần là xong.
Quả thực, lời kêu gọi hoán cải sám hối trong Tin Mừng hôm nay liên hệ đến tất cả mọi người: bởi vì mỗi người chúng ta đều phải sống cuộc sống mới và vượt lên trên tất cả những gì cản trở chúng ta sống cuộc sống mới nầy, một cuộc sống hữu ích cho gia đình, cho xã hội và cho nhân loại.
Hành trình Mùa Chay không chỉ nhằm dẫn chúng ta quay trở lại quá khứ để ăn năn khóc lóc tội lỗi mình hay đến tòa giải tội xưng thú tội lỗi mình… nhưng còn muốn dẫn chúng ta đến cuộc sống mới dồi dào hơn. Mùa Chay phải trở thành mùa đổi mới con người và xã hội. Mùa nở hoa kết trái tình thương, mùa thực thi việc lành phúc đức… nếu không, chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt y như vậy hoặc "năm tới sẽ bị chặt đi".
"Đổi mới hay là chết". Có một thời người ta đã hô lớn khẩu hiệu nầy. Và đây cũng là đòi hỏi của Lời Chúa hôm nay. Xin cho Thánh Lễ nầy kết hiệp chúng ta mật thiết với Chúa Giêsu, để giúp chúng ta tiêu diệt dần dần đời sống cũ kỹ nhem nhuốc của mình, đồng thời chúng ta cũng dần dần trở nên thánh thiện phong phú hơn trong Chúa Giêsu. Mệnh lệnh hoán cải cấp bách sẽ được chúng ta thực hiện ngay bây giờ và kéo dài trong suốt đời ta.
17. Hối cải--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Hành trình đức tin của tổ phụ Abraham là mẫu gương sáng ngời soi chung cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi thời. Dòng dõi con cái cháu chắt nhiều đời của ông tổ đã trở nên một dân tộc đông đúc sinh sống ở Ai-cập. Trong chương trình cứu độ, từng bước Thiên Chúa đã hướng dẫn lịch sử của dân đã được chọn này. Thiên Chúa mạc khải cho ông Môisen về ý định cứu dân ra khỏi vùng đất bị làm tôi đòi nô lệ để đi vào miền Đất Hứa. Ông Môisen đã chứng kiến: Thiên sứ của Thiên Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi (Xh 3,2). Ông Môisen nhìn thấy sự lạ là bụi gai cháy, nhưng không bị thiêu rụi. Đây là dấu hiệu của trời cao loan báo một sứ điệp. Ông đã tiến lại gần để ngắm nhìn và lắng nghe: Thiên Chúa phán: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng (Xh 3, 7). Lời hứa năm xưa với ông Abraham, hơn bốn trăm năm sau, nay mới bắt đầu khai mở.
Thiên Chúa mạc khải chính mình: Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Ta là Đấng Hiện Hữu." Người phán: "Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: "Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em."(Xh 3, 14). Dân chúng sống tạm nhờ trong miền đất Ai-cập đã qúa lâu, nhiều cháu chắt không còn nhớ đến các tổ phụ cha ông. Trong suốt thời gian lưu lạc ở đất Ai-cập, sách sử không ghi lại những chứng tích biến cố vĩ đại nào. Sau khi tể tướng Giuse, con của ông tổ phụ Giacob qua đời, dân chúng sống trong âm thầm và sinh xôi nẩy nở rất đông. Thiên Chúa luôn ghé mắt đoái nhìn đến đoàn con dân của Người. Khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa chọn và gọi ông Môisen thi hành sứ mệnh giải thoát dân. Chúng ta nghe biết câu truyện của Môisen được cứu vớt lên khỏi nước và trở thành thủ lãnh đưa dân ra khỏi nước Ai-cập. Thiên Chúa đã ban cho ông uy quyền biến đổi và thực hiện các sư lạ trước mặt vua quan Ai-cập để minh chứng bàn tay uy quyền Thiên Chúa.
Hành trình đi về đất hứa đầy gian nan và thử thách. Khi gặp những sự khó khăn mà không thỏa mãn nhu cầu vật chất về cái ăn cái uống, dân chúng đã nổi loạn và kêu trách ông Môisen. Chúa phạt rồi Chúa lại tha. Ông Môisen như người trung gian cũng đối diện với khó khăn tư bề. Thiên Chúa hướng dẫn dân đi theo đường chính nẻo ngay, trong khi dân chúng bị ảnh hưởng cuộc sống thế tục và đa thần giáo, nên nhiều lúc họ đã bỏ Chúa chạy theo các thần dân ngoại. Môisen phải cùng phấn đấu với các thử thách để vượt qua những sự yếu đuối của kiếp người. Chúng ta biết ông Môisen cũng chỉ là một con người mỏng dòn và giới hạn mọi điều. Khi dân hối lỗi, Chúa lại tha thứ. Suốt 40 năm lang thang trong hoang địa, Môisen đã dẫn đoàn dân tới bờ miền Đất Hứa. Ông đã chu toàn sứ mệnh thanh luyện niềm tin của Dân vào Thiên Chúa duy nhất.
Mùa sám hối, xin kể câu truyện: Ngày kia một giáo sư già đi chơi qua khu rừng, bên cạnh có cậu học trò cùng đi. Thình lình ông dừng chân chỉ vào bốn cây gần đó. Cây thứ nhất mới ló lên khỏi mặt đất, cây thứ hai khá hơn, cây thứ ba lớn hơn và cây thứ bốn đã khá to rồi. Thầy nói: Trò hãy nhổ cây thứ nhất. Chỉ với hai ngón tay, cậu đã nhổ dễ dàng. Thầy tiếp: Bây giờ con hãy nhổ cây thứ hai. Cậu phải dùng cả hai tay. Nhổ tiếp cây thứ ba, cậu phải dùng hết sức lực hai cánh tay mãi mới nhổ được. Thầy nói: Bây giờ hãy cố gắng nhổ cây thứ tư. Hai cánh tay ôm lấy thân cây, cậu cố sức lay nhưng lá nó cũng chẳng rung rinh. Thầy nhẹ nhàng bảo: Đó con thấy không. Về các tính hư và tật xấu của ta cũng vậy. Khi mới nhiễm thì dễ khử trừ, nhưng nếu để chúng đâm rễ sâu trong tâm khảm và trong thân xác, con sẽ khó mà trừ khử.
Chúng ta biết các thói hư tật xấu giống cỏ dại, nơi đâu cũng có thể mọc lên mà không cần vun tưới. Cỏ dại nơi lòng người cũng cứ tự nhiên phát triển. Điều tốt mình muốn nhưng lại không làm. Bản năng con người có cảm tình với các tật xấu, tội lỗi và hướng chiều về sự dữ. Tội lỗi có một ma lực kéo lôi và quyến rũ. Nếu chúng ta không cẩn thận ngăn ngừa và cắt bứng ngay. Khi hạt giống sự dữ được gieo vào lòng thì lớn lên nhanh. Thói quen xấu lâu ngày trở thành tật bệnh. Sự sám hối là nhận biết chính mình để phục hồi sự tốt lành thánh thiện. Bài phúc âm nhắc nhớ câu truyện của mấy người Galilêa bị ngược đãi, bị ghép tội và bị giết. Chúa Giêsu nhắn nhủ mọi người: Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy (Lc 13, 3). Chưa chắc những người này là những người tội lỗi. Mùa chay, mỗi người chúng ta hãy tự xét chính mình trước mặt Chúa.
Có đôi khi biết thân và biết ý xấu nhưng chúng ta lại tiếc thân ý xấu, không muốn dứt bỏ. Rất tiếc khi bỏ đi những ý tưởng xấu, lời nói hành, bịa truyện gian dối, cờ bạc, rượu chè và gian dâm. Ai nghiện hút thuốc cũng biết, bên ngoài bao thuốc có chữ ‘hút thuốc có hại cho sức khỏe’ hay ‘hút thuốc có thể gây bệnh ung thư phổi’. Biết có hại đó, cám ơn lời nhắc nhở, nhưng lại tiếc thân nghiện và không dám dứt bỏ. Tất cả các thói hư tật xấu mà chúng ta mắc phải cũng đã được nuôi dưỡng từng ngày. Chúng ta biết rằng sự xấu, sự dữ là tội, là sai trái và là sự hư đốn, nhưng lại tiếc như tiếc của, chẳng muốn rời xa. Đôi khi chúng ta bị lún sâu và ngụp lặn trong những cơn mê lầm này. Vì tội kéo theo tội. Nói dối điều này, kéo theo điều khác để biện minh. Chúng ta không thể tưởng tượng rằng đã có nhiều vụ án ghê gớm xảy ra cũng chỉ vì tội nhân dấu diếm một lỗi phạm nhỏ ban đầu. Người ta tìm cách phi tang dấu vết và dùng thủ đoàn để che dấu lỗi lầm, nên đã dẫn đến những hậu qủa khó lường như trả thù đánh đập, gia đình tan vỡ, phá thai hay giết người. Khởi đầu là những nguyên nhân và sự cố rất nhỏ, vì sợ bị phát hiện nên dấu bớt sự thật, dần dần sự dối trá sinh ra nhiều oan trái và báo thù khủng khiếp.
Tại sao nhiều người thích nói dối? Nói dối vì muốn dấu diếm sự thật không tốt và không muốn bị rầy la quở trách. Nói dối loanh quanh sẽ không có điểm dừng, nói dối này kéo theo dối trá khác. Vì nói thật thì mất lòng. Nói thật thì mất lợi lộc. Nói thật có thể bị mất danh hờ. Nói thật thì mất nhiều thứ khoái và nói thật thì bẽ bàng. Chúng ta biết chỉ có sự thật mới giải thoát. Sự thật thì đơn giản và vắn gọn. Sống đạo là sống trong sự thật. Hạt giống đức tin của tình yêu và sự thật cần được vun trồng tưới gội để phát triển. Đừng để niềm tin bị bóp nghẹt giữa đám cỏ dại của sự gian dối. Biết rằng chúng ta không thể tránh được mọi thói hư tật xấu ở đời, nhưng vẫn có thể khắc phục nó bằng cách tu tâm luyện tính mỗi ngày. Xa tránh và dám dứt bỏ các dịp tội và đừng níu kéo nó. Vun xới cho các đức tính tốt có cơ hội phát triển hơn mỗi ngày. Vì nếu sống đời Kitô hữu mà không sinh hoa trái tốt, cuộc sống sẽ trở nên vô dụng. Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây vả để cảnh báo: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?(Lc 13, 7). Nhân đức không phát triển giống như cây không sinh trái, sẽ bị chặt đi.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu thành Corintô nhắc nhớ câu truyện của những người Do-thái ương ngạnh và sống bê tha đã bị phạt trong cuộc lữ hành về Đất Hứa: Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc (1Cor 10, 5). Phaolô kêu gọi mọi người hãy xem gương đó mà ăn năn sám hối. Không ai trong chúng ta có thể hãnh diện khoe mình là người đạo đức và thánh thiện. Cuộc lữ hành còn dài, chúng ta còn gặp nhiều chông gai và thử thách. Hãy luôn ý thức thân phận yếu hèn và tội lỗi để cảnh tỉnh và hối cải: Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã (1Cor 10, 12).
Lạy Chúa, chúng con đã lãnh nhận muôn hồng ân phúc lộc của Chúa, xin cho chúng con biết dùng thời giờ, của cải và khả năng để sinh lợi cho đời sống thiêng liêng của chúng con và anh chị em. Chúng con dâng lời tạ ơn Chúa tới muôn ngàn đời.
18. Hãy sám hối--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Lc 13: 1-9: Nếu các ngươi không chịu ăn năn sám hối, thì các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy.
Người Hồi Giáo thường kể rằng: ngày kia Đức Allah truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời.
Sứ thần đáp ngay xuống một chiến trường máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Allah, nhưng xem ra Đức Allah không hài lòng mấy. Ngài bảo: “máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều qúi giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giầu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc lóc vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm và mang về trời. Lần này Đức Allah mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt, nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: “dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian, nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn nữa”.
Lại một lần nữa, sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường Ngài bỗng thấy một người đàn ông đang khóc sướt mướt. Trước câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người đàn ông giải thích: “tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội, giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Allah chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật, dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu”.
Dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, đây cũng là điều mà Chúa Giêsu muốn nói trong bài Tin Mừng hôm nay.
Qua bài Tin Mừng chúng ta thấy thái độ của người Do Thái: đứng trước cái chết bi thương và đẫm máu của những người bị Philatô giết chết, cũng như mười tám người khác bị tháp Siloe đổ xuống đè bẹp, dân Do Thái đã mau mắn đi tới kết luận: "sở dĩ họ bị như vậy vì họ là những kẻ tội lỗi, đáng bị Thiên Chúa trừng phạt." Thế nhưng, quan điểm của Chúa Giêsu thì khác. Ngài xác định họ không phải là những kẻ tội lỗi, đồng thời Ngài muốn dùng những biến cố ấy, những sự kiện ấy như tiếng chuông cảnh tỉnh chính bản thân mỗi người như Chúa Giêsu đã kết luận: nếu các ngươi không chịu ăn năn sám hối, thì các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy.
Sám hối là một cuộc đổi mới, từ bỏ tội lỗi và từ bỏ thái độ dửng dưng với Đức Kitô cũng như ơn cứu độ của Người. Ai không chịu sám hối đều sẽ bị kết án. Vấn đề không hệ tại ở chỗ người đó đạo đức nhất hay tội lỗi nhất, nhưng ai không trở lại với Đức Kitô thì chắc chắn kẻ đó sẽ phải hư mất đời đời.
Và rồi sự kiện tháp Siloe, do ngẫu nhiên và cũng có thể là do mục nát, cây tháp đó đã đổ xuống và đè chết 18 người. Người ta có thể bị sát hại bởi một sự sắp đặt có chủ ý như trường hợp những người Galilê, hay chết vì tai nạn rủi ro như trường hợp các nạn nhân trong vụ tháp đổ. Không trường hợp nào trong hai trường hợp vừa nói cho phép kết luận những nạn nhân đó tội lỗi hơn những người khác. Bài học rút ra từ hai ví dụ minh hoạ trên là, hãy sám hối và đó là một việc bắt buộc. Không nên lãng phí thời giờ để bới lông tìm vết về những người ra như đang gặp cảnh khốn đốn, ra như đang bị Thiên Chúa trừng phạt. Thay vào đó, mỗi người cần phải sám hối, từ bỏ tội lỗi và trở về với Đức Kitô.
Tóm lại, có hai thái độ cần tránh: trước tiên là thái độ chìm đắm trong những giải thích về nguyên nhân của sự ác và tìm những câu trả lời gán trách nhiệm cho “những người khác”, nói họ còn tội lỗi hơn nữa, tại hoạ họ còn phải chịu còn lớn lao hơn nữa. Thái độ thứ hai cũng cần phải tránh, đó là những người tiêu cực quá ý thức về những giới hạn của con người, nên họ thất vọng hoàn toàn và không phấn đấu cố gắng và tiếp tục tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa toàn năng và từ nhân. Bên cạnh đó, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy để mắt nhìn vào hoàn cảnh của người tội lỗi, và đừng quên rằng mỗi người chúng ta cũng là người tội lỗi, và nhớ rằng chúng ta luôn có thời gian để tiếp nhận tin vui từ tình yêu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết nhìn nhận mình đều là những tội nhân đáng thương, đang cần lòng Chúa thương xót. Xin thương ban ơn thánh Chúa, giúp thanh luyện chúng con trở thành những con người mới, luôn biết sám hối như Chúa đã kêu mời chúng con trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.
19. Tai họa và tội lỗi--Lm. Hồng Phúc
Tất cả chúng ta, ai cũng thích nghe tin tức. Ngày nào không đọc báo, không xem tin tức, truyền hình, chúng ta cảm thấy như thiếu một cái gì. Có những tin tức làm xúc động dư luận quần chúng và người ta bàn tán, có khi còn đặt câu hỏi: Vì sao Chúa để xảy ra như vậy?
Hôm nay, trong bài Phúc Âm, có hai bản tin sốt dẻo, hai tai nạn làm xao động dư luận và người ta đem kể lại với Chúa với thâm ý xin Ngài vạch công tội.
Một là tin vị Tổng trấn Lamã, ông Philatô, vốn nổi tiếng có bàn tay sắt, vừa ra lệnh hạ sát một nhóm người Galilê nổi loạn, tại chính trong Đền thờ và lấy máu của họ hòa lẫn với vật tế sinh. Hai là mẩu tin ngọn tháp Siloê đổ, chôn sống 18 người. Họ đem kể lại với dụng ý xin Chúa vạch rõ ai là người có tội.
Dân chúng, xưa cũng như nay, vẫn có quan niệm rằng họa đâu thì tội đó. Và khi nói đến tội, người ta nghĩ đến tội kẻ khác hơn là tội của mình. Và khi không đổ cho kẻ khác được thì lại đổ vào…Thiên Chúa. “Vì sao Chúa để như vậy?” Hôm nay, quần chúng qui tội cho nạn nhân và những người liên hệ. “Tội của chúng nó hay của cha ông chúng nó?”
Chúa Giêsu dùng diệp này để nói với họ và qua họ, với chúng ta rằng: “Nếu chúng ta không ăn năn trở lại thì chúng ta cũng sẽ chết tất cả”.
Đây là lời kêu gọi sám hối. Đây là tất cả Tin Mừng rao giảng: Hãy ăn năn trở lại, hãy từ bỏ tội lỗi, quay về với Thiên Chúa.
Việc “trở lại” là vấn đề quan trọng sinh tử của mỗi người, nên Chúa còn nhấn mạnh sau đó trong dụ Ngôn Cây Vả. Có thể trước mặt thính giả gió chiều đang đong đưa cành lá một cây vả xanh tươi. Nhưng đã ba năm rồi, nó không sinh quả. Chủ nhân đang muốn chặt nó đi, để nó khỏi chiếm đất và quăng vào lửa. Nhưng có người ngăn can xin để thêm một năm nữa…may ra.
Dụ ngôn trực tiếp ám chỉ dân Do-Thái, dân được tuyển chọn nhưng lại giả điếc làm ngơ, tìm cách giết hại Chúa. Nhưng dụ ngôn cũng hướng về chúng ta… Chúa cũng cho chúng ta sống thêm chuỗi ngày năm tháng… may ra… Nếu chúng ta không ăn năn trở lại thì chúng ta cũng bị đốn ngã và đem ném vào lửa đời đời. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô cũng tha thiết kêu gọi sự ăn năn trở lại và sống gương mẫu. “Ai tưởng mình đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã”.
Lạy Chúa, lời kêu gọi ấy, chúng con xin đón nhận.
Mùa Chay là mùa sám hối, xin Chúa giúp chúng con sống tinh thần chay tịnh: MISERERE MEI – Xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. Amen.
20. Ai là tốt, ai là xấu?--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Đoạn Tin Mừng đề cập tới hai ‘tai nạn’ rất thời sự nhưng chỉ mang tính tượng trưng: một hoàn toàn ngẫu nhiên là ngọn tháp đổ, và một vì chủ đích chính trị là cuộc tàn sát trong đền thờ; những biến cố tương tự như thế sẽ xảy ra hàng ngày như cơm bữa trong đời sống bất cứ ai. Thế nhưng nhiều người lại thích đặt điều: tại sao người này bị, kẻ khác lại không? Phải chăng vì người này tội lỗi còn kẻ kia tốt lành, người này xui xẻo còn kẻ kia may mắn...? âu đó cũng là thái độ rất thường tình của nhân tình thế thái qua mọi thời đại.
Thế còn thái độ của Kitô hữu sống theo tinh thần Tin Mừng thì sao; họ có lối suy nghĩ nào khác không nhỉ? Đức Giêsu cho thấy là các môn đệ Người phải nghĩ khác: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu”.
Người tốt / kẻ xấu, đó là phân biệt thường tình, nhưng liệt kê xếp loại người ta vào thứ hạng nào thì lại là điều cấm kị đối với Kitô hữu, nhất là khi chỉ dựa trên những sự kiện xảy ra được người đời coi là ‘quả báo’! Đức Giêsu đã chẳng thẳng thừng ngăn chận lối suy nghĩ này: “Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa đoán xét” (Mt 7:1-5); tại sao thế?
Thường thì trong cuộc sống, ‘quả báo’ được coi là một định luật hiển nhiên: ác giả thì ác báo, ở hiền thì gặp lành. Và luật quả báo chứa đựng một sức mạnh vạn năng trong lãnh vực luân lý: nó buộc người ta phải làm lành lánh dữ. Khó có thể tưởng tượng nổi: nếu không có quả báo thì làm sao có thể duy trì được nền luân lý cao đẹp trên thế giới này, và bảo đảm được trật tự xã hội…? Và thế là người ta có khuynh hướng giải thích nguyên nhân mọi biến cố xảy ra chung quanh theo định luật quả báo. Cứ xem những gì xảy ra cho một người là biết được người đó tốt hay xấu: ‘nếu người không phạt thì đã có trời phạt…’! Câu chuyện ông Gióp trong Cựu Ước cho thấy: dứt ra khỏi lối suy nghĩ cố hữu này không phải là chuyện đơn giản.
Đức Giêsu cho biết một điều căn bản: nếu so sánh con người với nhau trước các lề luật, thì tất nhiên có người tốt kẻ xấu; nhưng đứng trước mặt Thiên Chúa tình yêu, thì mọi người không trừ một ai, đều cần tới ơn cứu độ và lòng xót thương. Các tai họa, rất thường xảy ra quanh ta hay trực tiếp liên quan đến ta, chính là dịp đưa ta đến gần với lòng trắc ẩn xót thương các nạn nhận, sẽ luôn là dịp để một tín hữu giáp mặt với Thiên Chúa, và rộng mở cõi lòng đón nhận lòng thương xót của Người. Việc sám hối mà Đức Giêsu kêu gọi, không chỉ mang tính luân lý là phải cải tà qui chính, mà trước hết là trở về với Thiên Chúa, với nguồn mạch của lòng thương xót và nhân ái. Chính vì thế mà mỗi tai họa lớn nhỏ xảy ra trong đời, đối với mọi tín hữu của Đức Kitô, đều phải trở thành một lời mời gọi để sám hối và trở về với lòng xót thương thần linh.
Về phía con người, sẽ không bao giờ có ai xứng đáng với lòng thương xót đó. Nó luôn luôn được trao ban cách nhưng không, qua một trung gian duy nhất là Đức Kitô Giêsu. Không có lòng thương xót đó, con người, dầu có lương thiện tốt lành tới mấy đi chăng nữa, thì cũng tựa như cây cối tốt tươi, cành lá xum xuê trồng trong vườn mà chủ vườn là Thiên Chúa không tìm thấy trái ăn. Người làm vườn (là Đức Kitô Giêsu) can thiệp để được tiếp tục tưới bón bằng sự tự hiến cứu chuộc của Người. Kitô hữu là những cây vả đã được Kitô Giêsu tưới bón bằng ơn cứu chuộc của Người, không phải chỉ để tiếp tục tốt tươi xum xuê với sự tốt lành thánh thiện của mình, nhưng là để có được trái ngon ngọt của nhận biết và sống tình Chúa yêu thương. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, và là Đấng giầu lòng từ bi và hay thương xót, thì Ông Chủ này cũng chỉ mong tìm thấy nơi các Kitô hữu một nhìn nhận Người là như thế, chấp nhận Người, và tiếp thu lòng xót thương vô biên; đồng thời tìm cách biểu lộ lòng thương xót đó trong cuộc sống hàng ngày. Mùa chay chính là thời gian tưới bón, “vun xới và bón phân cho nó”, là thời gian hướng cặp mắt các tín hữu tới Thập Giá Đức Kitô Giêsu, biểu hiện vĩ đại nhất của một Thiên Chúa xót thương và cứu độ, để mong “sang năm nó có trái”. Như thế Mùa Chay mới quả thực là thời gian đâm bông kết trái cho đời sống đức tin của người tín hữu, là thời gian của hồng ân sự sống đích thực.
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã lại cho con được hưởng một Mùa Chay thánh nữa, đã lại cho con được ‘vun xới và tưới bón’ bằng hồng ân cứu độ. Xin cho con mở rộng tâm hồn đón nhận tình Chúa xót thương qua việc chiêm ngắm cuộc khổ hình và cái chết Thập giá của Đức Kitô Giêsu, Cứu Chúa của con. Con ước mong rằng, qua Mùa Chay thánh năm nay (cũng rất có thể là mùa cuối cùng của đời con?), Chúa sẽ tìm thấy được nơi niềm tin của con, trái thơm ngon mà Chúa hằng mong đợi. Xin cho con nhận biết và được biến đổi trong tình thương xót hải hà của Chúa. Amen.
21. Sống mùa chay
Ngày 27. 02. 2010, trận động đất ở Chilê đã làm hơn 700 người thiệt mạng và gây ra rất nhiều thiệt hại vật chất. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nạn nhân và các gia đình gặp khó khăn do thiên tai ở Chi lê. Chúng ta biết, từ khi con người chống lại Thiên Chúa và chối bỏ Ngài thì thiên nhiên không còn lệ thuộc con người nữa, nhưng nó đi theo qui luật bảo tồn của riêng nó. Và chúng ta phải lo đi tìm hiểu về qui luật của tự nhiên, vũ trụ để tránh thiên tai chứ thiên tai không tự tránh con người. Ngày nay, các nhà khoa học biết tự làm ra những máy móc tối tân để dự báo kịp thời các chấn động trên trái đất, vũ trụ. Thế nhưng, có đôi lúc con người không ghi nhận chính xác dấu chỉ của thiên nhiên và chưa ứng phó đúng mức trước các báo động thiên tai khiến nhiều người thiệt mạng.
Âu cũng là một lời cảnh báo cho chúng ta rằng: giờ Chúa đến như kẻ trộm.
Vì vậy, con người phải lo chuẩn bị sẵn sàng, để khi Chúa đến, Ngài sẽ ban thưởng cho chúng ta. Chúng ta hãy thờ phượng Chúa và lo cho tha nhân vì Chúa, rồi Chúa sẽ bù đắp cho chúng ta. Còn ai làm điều ác, ức hiếp đồng loại sẽ có phần phạt tương xứng là đời đời đau khổ!
Ðiều gì là tội hay phúc ai cũng biết. Ðời sau ai cũng có nghe nói tới rồi. Lương tâm mỗi người cũng nói cho chúng ta biết phải làm lành lánh dữ.
Nếu ai còn chưa sám hối thì hãy mau hoán cải quay về với Chúa trong chay tịnh, khiêm nhường, bác ái. Chúa sẽ không chê bỏ những ai có lòng sám hối. Thời gian có hạn. Chúng ta hãy nhớ dụ ngôn cây vả trong vườn nho. Mỗi người chúng ta cũng như cây vả trong vườn nho vậy. Cây vả Do thái cũng giống như cây sung ở Việt nam, không đem lợi nhuận gì cho chủ, nhưng chủ thương vẫn để cho nó chiếm 1 chỗ trong vườn nho. Ðiều đáng buồn là nó choán đất 3 năm rồi mà không sinh quả. Lẽ ra là đẵn nó đi phứt cho rồi nhưng Chúa lại tiếp tục kiên nhẫn, ưu đãi đặc biệt để giúp nó sinh trái.
Tuy nhiên, nếu chúng ta không thay đổi đời sống, không lo sinh lợi, không lo chu toàn bổn phận của mình đối với Chúa và anh em mình thì chúng ta phải trả lẽ trước mặt Chúa.
Mùa chay là mùa ăn năn thống hối. Ðộng đất, sóng thần cũng là những dấu chỉ nhắc nhở chúng ta lo thay đổi cuộc sống. Mỗi người chúng ta lo hãy xét mình xem, tôi còn những tính xấu nào chưa sửa, còn những tội nào chưa dốc quyết từ bỏ. Nếu tôi còn hay nóng giận, ghen ghét thì từ nay tập tính hiền từ, yêu thương; tôi còn đam mê rượu chè cờ bạc thì từ nay tôi quyết tâm bỏ, không bén mảng tới những nơi đó để khỏi bị cám dỗ. Nếu tôi còn chưa nhận ra tình thương của Chúa đối với mình và giữ đạo lơ là thì trong mùa chay này, tôi sẽ năng đi lễ, cầu nguyện với Chúa nhiều hơn để Chúa ban ơn cho tôi cảm nhận được tình thương của Ngài.
Có một câu ngạn ngữ nói rằng: việc hôm nay chớ để ngày mai. Vậy, ngay hôm nay, chúng ta hãy đề ra cho mình một chương trình sống mùa chay. Hãy cố gắng sao cho hôm nay chúng ta sống đẹp lòng Chúa hơn hôm qua, tuần này khá hơn tuần trước, để đến tuần Phục sinh, linh hồn chúng ta thực sự sáng đẹp giống Chúa Giêsu Phục sinh.
22. Đổi mới cái nhìn--Thu Băng, CMR
Các ông tưởng mấy người Galilê bị giết, khiến máu đổ hòa lẫn với tế vật đang dâng vì tội lỗi họ ư? Không phải thế. Nếu các ông không sám hối thì cũng xẩy ra như thế. Cũng như 18 người bị tháp Siloác đổ xuống đè chết là đáng tội ư? Không phải thế, nếu các ông không sám hối thì cũng chết như vậy (Lc.13:01-09).
Một nhà thiên văn mới sáng chế ra một chiếc kính viễn vọng. ông để trên sàn gác để đêm đêm nhìn ngắm tinh tú trên bầu trời. Một đêm kia ông khám phá ra một con rồng xanh trên mặt trăng. Ông báo cho bạn bè biết, thế là người ta ùn ùn kéo đến thưởng lãm và tán thưởng. Thế nhưng có một ông bác học già tuổi đến xem qua rồi ông lắc đầu. Ông xem rất kỹ, cuối cùng ông khám phá ra sợi chỉ xanh mắc vào ống kính. Ông nói với bạn:
- Hãy quan sát lại bộ kính của anh xem có gì trục trặc không.
Ống viễn vọng kính là hình ảnh cái nhìn của chúng ta. Chỉ vướng mắc một vật nhỏ vào là làm cho mắt chúng ta nhìn cảnh vật ra khác. Con mắt thiển cận nhìn cảnh vật ra đen tối, mờ ảo, con mắt sáng quác nhìn cảnh vật ra vĩ đại, quan trọng. Vì thế Chúa nhắc khéo: “Muốn nhìn cái đà trong con mắt anh em thì hãy lấy cái rác ra khỏi mắt mình trước đã”. Đừng “suy bụng ta ra bụng người”, nhìn mặt trăng và sợi chỉ hóa ra con rồng xanh, lấy lòng mình mà nhìn lòng người khác dễ bị lệch lạc lắm.
Quan niệm của Chúa thì khác, Ngài xác định họ không phải là kẻ tội lỗi, Ngài dùng những biến cố khác nhau như tiếng chuông mà cảnh tỉnh cho chính bản thân mỗi người. Thay vì kết án người khác, chúng ta phải kết án chính bản thân mình, để rồi từ đó ăn năn sám hối mà quay trở về cùng Chúa. “Nếu các ngươi không ăn năn thì cũng sẽ bị chết thê thảm như thế”. Hãy biết đấm ngực mình mà ăn năn: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”.
Có như thế, những biến cố xẩy đến trong đời mới đem lại lợi ích cho chúng ta, mới cảnh tỉnh mình khỏi tình trạng tội lỗi. Chính những biến cố ấy là lời Chúa mời gọi chúng ta trở nên trọn lành thánh thiện.
Lạy Chúa, cây vả không sinh hoa trái sẽ bị chặt đi, xin cho mỗi người chúng con biết nhìn kỹ, nghĩ kỹ, đến việc nở sinh hoa trái dồi dào, để không bị Chúa loại trừ.
23. Con đường sống
Chúa phán: "Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống" (Ed 18,23) là câu lời Chúa mà tôi vẫn thích nghe và thích đọc đi đọc lại nhiều lần trong suốt Mùa Chay. Thiên Chúa của chúng ta là Đấng ban sự sống, là Thiên Chúa của kẻ sống. Vì thế, Ngài luôn mở ra những con đường sống cho con người, nhất là những người tội lỗi, những tâm hồn dập nát đau thương, những tâm hồn cần đến lòng thương xót Chúa.
Muốn có được cuộc sống hạnh phúc, con người phải làm một sự chọn lựa cho mình ngay từ giây phút này. Đây là một công việc không dễ làm chút nào. Bởi lẽ, suy nghĩ của con người chúng ta rất hạn hẹp và hay phạm nhiều sai lầm. Cụ thể, trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy những người Do thái có suy nghĩ rất lệch lạc. Họ nghĩ rằng: những người bị quan Philatô giết hay những người bị tháp Silôê đè chết là những con người tội lỗi, đáng phải chết. Còn họ - những người còn đang sống thì không có lỗi! Chúa Giêsu nói cho họ biết: suy nghĩ đó là lệch lạc và nguy hiểm vô cùng. Chúa tuyên bố rõ ràng rằng: "Ta nói cho các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".
Khi nói lên điều đó, Chúa Giêsu muốn chỉ ra cho mọi người một con đường sống. Đó là con đường "ăn năn, hối cải". Đây là con đường khôn ngoan dành cho những ai muốn tìm đến sự sống vĩnh cửu. Nhưng ai là kẻ cần phải ăn năm sám hối? Có phải hết mọi người đều cần như thế không? Những người tốt lành thì sao?
Trước hết, sự ăn năn sám hối là thật sự cần thiết và rất cấp bách cho những người tội lỗi, những người sa ngã vì yếu đuối, những người nguội lạnh trong đời sống đức tin. Khi phạm phải sai lầm, con người thường cảm thấy mình bị Thiên Chúa loại trừ và bỏ rơi. Nhưng sự thật thì lại hoàn toàn khác như thế. Ngài vẫn luôn chờ đợi ta quay trở về để đón nhận ơn tha thứ. Tha thứ là niềm vui của Thiên Chúa, Đấng là Cha của chúng ta. Chúng ta đọc được những lời rất cảm động ấy trong sách tiên tri Isaia: Đức Chúa phán: "Hãy đến đây, ta cùng nhau giàn xếp! Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông." (Is 1,18). Điều lạ lùng nơi Thiên Chúa là Ngài không chấp tội con người khi họ biết hồi tâm sám hối. Bởi vì nơi Thiên Chúa chỉ có hiện tại. Trong bài đọc I hôm nay có nhắc đến một nhân vật quan trọng là Môsê. Môsê được Chúa tuyển chọn làm người chăn dắt dân Israel ra khỏi đất Ai Cập dù trong quá khứ ông đã phạm tội giết chết một người Ai cập. Trên thập giá, tên trộm cướp chịu đóng đinh bên hữu của Chúa chỉ nói có một lời sám hối ăn năn thôi mà Chúa đã tha thứ hết mọi tội lỗi cho anh và anh trở thành người đầu tiên được hưởng hạnh phúc Thiên đàng: "Ta bảo thật ngươi, ngay hôm nay ngươi sẽ được ở trên thiên đàng với ta" (Lc 23,43). Cho nên, trước mặt Thiên Chúa, tội nhân nào cũng còn tương lai. Thánh nhân của Chúa hầu hết đều là những tội nhân biết sám hối mà thôi.
Có một câu chuyện kể rằng: "Tại một vùng nông thôn nước Mỹ, có hai anh em nhà kia vì quá đói kém đã rủ nhau đi ăn cắp cừu của nông dân trong vùng. Không may hai anh em bị bắt. Dân trong làng đưa ra một hình phạt là khắc lên trán tội nhân hai mẫu tự "ST", có nghĩa là quân trộm cắp (viết tắt từ chữ stealer). Không chịu nổi sự nhục nhã này, người anh đã trốn sang một vùng khác sinh sống hòng chôn chặt dĩ vãng. Thế nhưng anh chẳng bao giờ quên được nỗi nhục nhã mỗi khi ai đó hỏi anh về ý nghĩa hai chữ "ST" đáng nguyền rủa này. Còn người em, anh tự nói với bản thân mình: "Tôi không thể từ bỏ sự tin cẩn của những người xung quanh và của chính tôi". Thế là anh tiếp tục ở lại xứ sở của mình. Chẳng mấy chốc anh đã xây dựng cho mình một sự nghiệp cũng như tiếng thơm là một người nhân hậu. Anh sẵn sàng giúp đỡ người khác với tất cả những gì mình có thể. Tuy nhiên, cho dẫu thời gian có qua đi, hai mẫu tự "ST" vẫn còn in dấu trên vầng trán anh. Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong làng về ý nghĩa hai mẫu tự này. Cụ già suy nghĩ một hồi rồi trả lời: "Tôi không biết rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của anh ta, tôi đoán hai chữ đó có nghĩa là người thánh thiện (saint)". Và Chúa cũng đang nghĩ về chúng ta như thế nếu chúng ta biết hoán cải cuộc sống của mình.
Sự sám hối cũng cần thiết cho cả những con người được coi là tốt lành trong cuộc sống. Tại sao vậy? Câu chuyện được Chúa Giêsu nói đến trong Tin mừng hôm nay là một minh chứng cho chúng ta rồi đó. Ông chủ muốn đốn Cây Vả không phải vì nó đã sinh ra những trái xấu, mà vì nó không sinh ra những trái vả như nó phải sinh ra. Một cây vả mà không sinh trai vả thì đâu còn là cây vả nữa. Cũng vậy, người Kitô hữu phải sinh ra những hoa quả tốt lành xứng với phẩm vị của mình như: bác ái, công bình, yêu thương, tha thứ, hy sinh... Có lẽ, chúng ta ít khi nào tự đặt cho mình câu hỏi này: Điều gì lẽ ra tôi phải làm mà tôi lại chưa làm hoặc không làm?
Tiếng gọi sám hối không chỉ kêu gọi ta thôi đừng làm điều xấu nữa, mà tiếng gọi ấy còn kêu gọi ta hãy "sinh trái" bằng những việc tốt. Chính vì thế mà lời kêu gọi này nhắm đến mọi hạng người. Hãy chọn lựa cho mình con đường sống theo tiếng gọi của Tin mừng hôm nay là: ĂN NĂN VÀ SÁM HỐI để sinh hoa trái thánh thiện như ý Chúa muốn.
24. Sám hối và canh tân--Lm. GB. Trần Văn Hào
Ý thức về tội lỗi
Con người chúng ta ai cũng có tội. Nhưng nhắc đến những tội đã phạm, ai ai cũng khó chịu, thà đừng nói tới thì hơn. Khi bị người khác bới lại những vết đen trong quá khứ, chúng ta cảm thấy nhức nhối, đôi khi còn muốn lồng lộn lên để phản kháng, mặc dầu có những chứng cớ sờ sờ trước mắt.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa không muốn để chúng ta an phận cách giả tạo. Chúng ta đừng nghĩ rằng tôi có tội, nhưng các tội tôi phạm chẳng đến nỗi nào, vì thiếu gì những người tội lỗi còn nhiều hơn tôi gấp bội. Đây là một tâm lý bình an giả hiệu, tự ru ngủ mình trong một pháo đài ngụy tạo để cố thủ và chẳng thích người khác bới móc cuộc sống tư riêng nơi mình. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhân cái chết của những người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, và Chúa còn mượn cả tiếng thét gào ai oán của những thường dân vô tội bị Philatô sát hại để cảnh tỉnh chúng ta. Sứ điệp mà Đức Giêsu công bố rất nghiêm khắc và mạnh mẽ: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13,5).
Sự an phận giả tạo
Triết gia Lavator đã nói: “Trong các sinh vật trên mặt đất, khuôn mặt đẹp đẽ nhất chính là nét mặt con người. Nhưng khuôn mặt xấu xa bỉ ổi nhất cũng chính là bộ mặt nơi mỗi người chúng ta”. Con người vốn rất xinh đẹp vì được dựng nên giống họa ảnh của Thiên Chúa là Đấng Chân, Thiện, Mỹ, nhưng chân dung thánh thiện tuyệt vời ấy lại bị méo mó và hoen ố do tội lỗi gây ra. Ý niệm về tội đang bị con người ngày hôm nay dần dần đào thải. Là những Kitô hữu, chúng ta rất dễ rơi vào thái độ an phận một cách giả tạo và tưởng rằng dù tôi có tội nhưng chẳng đến mức bị Thiên Chúa đầy xuống hỏa ngục đâu. Vả lại, chúng ta được nghe nói rất nhiều về lòng thương xót của Thiên Chúa, vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại quá độc ác và tàn nhẫn trừng phạt chúng ta. Quả thật, lòng thương xót của Chúa thì vô bờ, nhưng khi con người cố chấp và không mở lòng đón nhận sự tha thứ, thì Thiên Chúa cũng đành chịu thua. Thánh Augustinô đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con không cần có con, nhưng Chúa muốn cứu rỗi con, lại cần có con cộng tác”. Nỗi sỉ nhục lớn nhất đối với Thiên Chúa là chúng ta đóng khép lòng mình lại, và chối từ lòng thương xót của Ngài. Chúa Giêsu đã từng nói: “Mọi tội lỗi đều được tha thứ, nhưng tội phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng bao giờ được tha” (Mc 3,29). Tội phạm đến Thánh Thần chính là sự cố chấp và chai lỳ trong tội lỗi và đó là tình trạng sống an phận cách giả tạo. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa muốn dùng tiếng thét ai oán của những người lâm nạn để thức tỉnh lương tâm chúng ta. Ngài còn dùng cả tiếng búa rìu chát chúa chặt vào gốc cây để lay động lương tâm mỗi người. Đừng bao giờ ngủ quên trên sự an phận giả dối nơi lòng mình.
Thinh lặng để lục soát lương tâm
Một đạo sỹ nọ quy tụ những học trò của ông trong một cái sân rộng trước nhà để chỉ giáo. Giữa sân ông để một thau nước. Ông khuấy cho thau nước sóng sánh và nói các đệ tử hãy nhìn vào. Từng đứa học trò ngoan ngoãn làm theo. Sau đó, ông hỏi xem họ đã nhìn thấy gì. Các học trò đáp: “Thưa thầy, chúng con chỉ thấy lờ mờ gương mặt của chúng con”. Mười lăm phút sau, khi thau nước trở nên phẳng lặng, ông nói họ hãy nhìn lại một lần nữa và cũng hỏi lại câu hỏi trên. Các học trò trả lời: “Bây giờ chúng con đã thấy thật rõ khuôn mặt của chính chúng con”. Bấy giờ vị đạo sỹ mới giải thích rằng, chỉ khi nào biết trở về trong tĩnh lặng nội tâm, chúng con mới có thể nhìn rõ con người mình. Đúng vậy, Giáo hội vẫn thường tổ chức những cuộc tĩnh tâm để giúp chúng ta đi vào sự thinh lặng, đặt mình trước mặt Chúa hầu có thể nhìn lại bản thân. Chúng ta không thể nào lục soát lương tâm cách thấu đáo, nếu tâm hồn chúng ta bị nhiễu sóng bởi những tiếng đông ồn ào bên ngoài. Đó là những tiếng xào xạc của tiền bạc. Đó cũng là những cuốn hút ầm ĩ của một lối sống hưởng thụ, khiến đôi tai nơi cõi lòng của chúng ta bị bịt kín, không thể nghe được tiếng nói của Chúa đang ngỏ trao. Khi tâm hồn chúng ta đầy những chộn rộn và vướng bận của cơm áo gạo tiền, hoặc đầy ắp nhưng so đo tính toán để lo làm giầu, chúng ta không thể nào nhìn rõ được chính mình.
Sám hối và canh tân
Có một câu chuyện dí dỏm đăng trên một tuần báo. Một anh chàng thanh niên kia rất bặm trợn, lảng vảng đến khu vực nhà xứ để phá phách. Cha xứ gặp anh ta và cũng chào hỏi thân tình. Chàng thanh niên chỉ chuyên đi nghịch ngợm, còn việc đạo đức thì khá lơ là, mỗi tuần chỉ vác xác đến nhà thờ một lần cho có lệ. Anh chàng chào Cha xứ và nói: “Thưa Cha, đêm hôm qua con có một giấc mơ tuyệt vời, vì con thấy cả con và Cha cùng được đưa về Thiên đàng”. Cha xứ kiên nhẫn và lắng tai nghe tiếp xem anh ta muốn nói gì. Anh nói tiếp:”Thưa Cha, đúng như vậy, cả Cha và con mỗi người trèo lên một cái thang bắc tới trời. Trên cái thang đó, các thiên thần ghi lại những tội đã phạm, thang của Cha ghi tội của Cha, thang của con ghi tội của con. Thiên thần phát cho mỗi người một hộp phấn, dùng để xóa đi những vết tích tội lỗi ghi trên 2 chiếc thang. Con đã trèo lên khá cao, sau khi đã lấy phấn bôi xóa gần hết những tội của con. Một lát sau, Cha vẫn còn lẹt đẹt tít phía dưới và gọi với lên: “Con còn phấn không, cho Cha xin đỡ mấy cục, hộp phấn của Cha hết sạch rồi”. Kể xong câu chuyện, chàng thanh niên chuồn thẳng, còn Cha xứ đứng đó tủm tỉm cười.
Tất cả mọi người chúng ta đều là tội nhân, từ các anh em linh mục, tu sĩ hay giáo dân. Có nhiều linh mục đã sống rất thánh thiện và gương mẫu, nhưng hỏa ngục không phải là nơi vắng bóng các Cha đâu.
Sống hoàn thiện ơn gọi nên thánh của tất cả mọi người chúng ta luôn khởi đầu với việc ý thức sâu xa thân phận tội lỗi nơi mình.
Kết luận
Trong năm thánh Lòng Thương Xót Chúa, chúng ta bày tỏ sự tín thác tuyệt đối nơi Ngài. Chúng ta hãy học lấy thái độ của người đầu tiên được Chúa Giêsu trực tiếp tuyên thánh khi Ngài bị treo trên Thập giá. Đó là một tên trộm, suốt cả một đời ngập đầy tội ác. Người trộm này đã nhận ra lầm lỗi của mình khi anh ta thốt lên: “Phần chúng ta bị như thế này thật thích đáng”, và anh ta đã đăm đăm nhìn vào ánh mắt đầy yêu thương của Chúa. Vâng, khởi đầu của việc nên thánh là khi chúng ta biết nhận ra những vết đen trong quá khứ và đặt niềm tin tuyệt đối vào lòng Thương xót của Đấng đã chết vì chúng ta.
25. Sám hối để cứu lấy mình--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Có người nghĩ cách đơn sơ rằng khi phạm tội thì đi xưng tội là xong, sau đó, về phạm tội lại, rồi xưng tiếp... Thế là cuộc sống của họ cứ đong đưa qua lại như người đu dây: phạm tội – rồi xưng tội, xưng tội – rồi phạm tội… Và cảnh đu dây kiểu này cứ tiếp diễn mãi suốt cả cuộc đời. Những người như thế chẳng biết sám hối là gì và họ cảm thấy không cần sám hối.
Không sám hối thì sẽ bị hủy diệt
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su lên án lối sống đạo theo kiểu đu dây đó. Ngài dạy rằng nếu ai không dứt khoát với tội lỗi, không thực lòng ăn năn sám hối thì sẽ bị hủy diệt, nghĩa là phải trầm luân đời đời trong hỏa ngục. Ngài mạnh mẽ lên án những người không sám hối, xuyên qua hai trường hợp sau đây.
Thứ nhất, “Khi có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng”, Chúa Giê-su liền nói: “Nếu các ngươi không sám hối, thì các ngươi cũng sẽ phải chết thảm như vậy!”
Thứ hai, nhân sự kiện có mười tám người bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết cách oan ức, Chúa Giê-su cảnh báo: “Nếu các ngươi không chịu sám hối, thì các ngươi cũng sẽ chết thảm như vậy!”
Từ đó, Chúa Giê-su dạy chúng ta biết rằng nếu ai không dứt khoát từ bỏ tội lỗi và ăn năn sám hối thì sẽ phải trầm luân trong hỏa ngục muôn đời.
Sám hối để cứu lấy mình
Nếu tôi biết mình có khối u ác tính đang trong giai đoạn đầu và có thể chuyển thành ung thư kết liễu đời tôi, tôi phải làm gì? Chắc chắn là tôi phải diệt khối u đó ngay, càng sớm càng tốt, không để nó hủy hoại đời mình.
Tội lỗi cũng là khối u ác tính có sức lây lan nhanh chóng và tàn phá dữ dội; sám hối là cắt bỏ khối u tội lỗi đó để cứu mình khỏi chết, như lời cảnh báo của Chúa Giê-su: "Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt."
Nếu tôi là tài xế lái tàu nam bắc và dư biết rằng nếu mình lái tàu chạy trật đường rầy thì phải gánh lấy hậu quả vô cùng tai hại; thử hỏi: Tôi có điên rồ chạy trật đường rầy không? Hay là chăm chú lái tàu đi đúng đường để bảo toàn sinh mạng của mình và của bao người khác?
Phạm tội là đi trệch đường Chúa như tàu chạy trật đường rầy nên phải lao xuống vực; sám hối là quay về chính lộ để khỏi sa vào chỗ chết, như Chúa nhắn bảo hôm nay: "Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt."
Nếu tôi làm ăn phi pháp, buôn bán hê-rô-in khối lượng lớn và biết rằng thế nào cũng bị phát hiện và phải chịu tử hình, thì tôi có tiếp tục làm điều phi pháp đưa mình đến chỗ chết, hay dứt khoát từ bỏ để tự cứu lấy mạng sống mình?
Phạm tội mà không chịu sám hối và dứt khoát từ bỏ tội lỗi… thì cũng giống như người tiếp tục buôn bán hê-rô-in mà không chịu bỏ nghề, mai đây ắt phải mang lấy án phạt đời đời như lời Chúa dạy: "Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt."
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa như người làm vườn nhân hậu đã nài xin Chúa Cha hoãn lại cho chúng con thêm một thời gian nữa để tạo cơ hội cho chúng con sám hối và sửa mình. Xin đừng để chúng con làm cho Chúa thất vọng vì không sinh trái mà lại sinh toàn gai góc… để rồi bị hủy diệt muôn đời.
Xin cho chúng con biết tận dụng thời giờ còn lại như cơ hội cuối cùng, để nhổ sạch tội lỗi, lập thêm công đức và sinh nhiều hoa trái tốt… Nhờ đó cuộc đời chúng con thêm tươi đẹp và chúng con sẽ làm vinh danh Chúa bằng đời sống cao đẹp của mình.
26. Trổ sinh hoa trái thiêng liêng--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Sáng hôm ấy, Thầy giáo cho các em học sinh một trò chơi. Thầy chia học sinh trong lớp thành hai nhóm. Mỗi nhóm phải lần lượt đưa ra đáp án cho câu hỏi của thầy. Nhóm nào thắng sẽ được một gói quà, nhóm nào thua phải quét lớp.
Câu hỏi được ghi lên bảng như sau: Em hãy cho biết công dụng của viên gạch.
Hai nhóm lần lượt đưa ra các câu đáp như sau: Gạch được dùng để xây nhà – lót đường đi, lót sân – kê chân bàn, chân tủ – chặn cửa – chận bánh xe – chặn giấy - kê thành bếp nấu ăn (khi đi trại) – làm gối kê đầu khi dã ngoại - giã lương thực (giã gạo) thay cho chày – dùng thay búa để đập – tự vệ trước đối thủ - tấn công đối thủ, ném chó – làm thớt – vân vân…
Không ngờ viên gạch xem ra quá đỗi tầm thường mà có thể mang lại nhiều công dụng như thế.
Tiếp đến, Thầy giáo đề nghị nêu lên công dụng của cây xương rồng bà, loại cây nầy có nhiều gai tua tủa trên hai mặt lá, thân cao từ một đến hai mét, mọc dày trên những đồi núi khô cằn.
Hai nhóm lại lần lượt nêu lên những công dụng sau: trồng làm hàng rào bảo vệ nương rẫy - thức ăn cho dê cừu (sau khi dùng rơm rạ đốt cho cháy xém) - che chắn gió - phủ xanh đồi trọc - chống xói mòn - cung cấp trái cho chim chóc - ủ làm phân xanh, vân vân…
Cũng không ai ngờ cái thứ xương rồng đầy gai góc, tưởng là vô tích sự đáng chặt bỏ kia lại cống hiến cho đời nhiều công dụng tốt lành như thế.
Sau cùng, Thầy giáo nêu lên câu hỏi thứ ba: Em hãy cho biết lợi ích mà những kẻ lười biếng chẳng làm việc gì, có thể mang lại cho xã hội.
Đến đây, nhiều khuôn mặt hồn nhiên trở nên đăm chiêu tư lự, một số em vò đầu, nhiều em cắn bút suy nghĩ hồi lâu mà không ai tìm được bất kỳ một cống hiến nào của nhóm người nầy cho nhân quần xã hội.
Qua Tin Mừng Luca (13, 6-9), Chúa Giêsu đề cập đến một cây vả vô tích sự, chẳng mang lại lợi ích gì, còn thua cả viên gạch hay cây bàn chải trong câu chuyện trên đây. Người nói: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?” Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.” (Lc 13, 6-9)
Qua đoạn Tin Mừng nầy, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người hãy sám hối và một trong những lý do khiến người ta phải sám hối là vì đã không dùng thời giờ và năng lực Chúa ban để sinh nhiều “hoa trái” vật chất hay tinh thần.
Trổ sinh những loại hoa trái nào đây?
Mỗi người chúng ta là một thứ cây rất quý được Thiên Chúa đem trồng trong vườn nho của Chúa.
Mỗi con người là một tạo vật rất tuyệt vời do Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Người và được Thiên Chúa bồi bổ cho bằng Lời hằng sống và bằng vô vàn ân huệ cao quý. Thế nên, nếu chúng ta không trổ sinh được hoa trái thì, theo lời Chúa nói, đáng bị hủy diệt.
Nâng cao phẩm chất của mình, làm gương sáng, làm tròn bổn phận đối với Chúa, đối với cha mẹ, vợ chồng, anh chị em trong gia đình, tham gia xây dựng phúc lợi cộng đồng, chăm lo phục vụ những người gặp khó khăn, bệnh tật, túng thiếu… đang sống chung quanh ta là những hoa trái tốt lành mà mọi người có thể cống hiến cho Chúa và cho đời. Trái lại, nếu ta không cống hiến được gì cho Thiên Chúa và xã hội, thì thực đáng buồn và có thể phải chung số phận với cây vả không trái trên đây.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa như người làm vườn nhân hậu đã nài xin Chúa Cha ban cho chúng con thêm một cơ hội chót để hoặc là trổ sinh hoa trái tốt lành hay là chết.
Xin cho chúng con biết tận dụng thời giờ còn lại để lập thêm công đức, để sinh nhiều hoa trái tốt, hoa trái vật chất cũng như hoa trái thiêng liêng, nhờ đó cuộc đời chúng con tăng thêm giá trị và chúng con sẽ làm vinh danh Chúa bằng đời sống cao đẹp của mình.
27. Sám hối
Khi nói đến hai từ "sám hối" chắc chắn có nhiều người tự hỏi: Sám hối là gì? Tôi là người đạo đức, siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ, không ăn trộm ăn cắp... vậy tại sao tôi phải sám hối? Thật ra, Sám hối là thay đổi hướng đi, là phản tỉnh lại mình, thay đổi cái nhìn, cách nghĩ, là ý thức thân phận mỏng giòn của mình, để đổi mới đời sống cho phù hợp với Tin Mừng. Để làm được điều này, tôi thiết tưởng mỗi người phải nhận thấy được "thông điệp" mà Thiên Chúa muốn gởi đến chúng ta qua:
1. Tha nhân
Theo quan niệm nhân quả, người ta thường gán ghép cho những người khi gặp các biến cố: vui buồn, bệnh tật, chết chóc hay là những nghịch cảnh xảy đến trong cuộc sống là do nghiệp chướng họ làm. Cũng tương tự thế, Có biết bao lần chúng ta đã nói hay đã nghe những cách giải thích như: Trời phạt, Chúa phạt hay là ông trời có mắt. Từ đó làm chúng ta có cái nhìn không đúng về người khác, đồng thời chúng ta tự tạo một mối an tâm cho chúng ta là được Chúa ưu đãi mình hơn kẻ khác. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã sửa lại quan niệm sai lầm ấy. Theo Ngài, tất cả mọi người đều là tội nhân trước mặt Thiên Chúa, đều cần phải nhìn ra tội lỗi của mình và sám hối. Vì "Không ai là người công chính, dẫu một người cũng không; chẳng ai có lương tri, chẳng ai tìm kiếm Thiên Chúa" (Tv 14,1-3). Do đó, trước mặt Chúa, đừng ai tự hào mình công chính hơn người khác "vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (Lc 18,14b). Đồng thời không nên phán đoán về giá trị đạo đức của người khác, nhất là không bao giờ kết án người khác, vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán mà thôi. "Đừng xét đoán để khỏi bị kết án" (Mt 7,1).
Thật ra, có biết bao người hiền lành, thánh thiện bị Chúa thử thách và thánh hóa bằng nghịch cảnh, bằng những tai ương dồn dập. Vì "Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân". Thật vậy, Chúa thương ai nhiều thì thường thử thách người đó nhiều bằng đau khổ. Do đó, không thể cứ thấy ai gặp hoạn nạn là ta nghĩ họ vì tội lỗi nên bị Chúa phạt. Đó là một quan niệm sai lầm. Nhưng quan niệm này vẫn còn ăn sâu vào mỗi người chúng ta. Thật vậy, khi đứng trước những tai ương sự dữ, chết chóc, chúng ta dễ có khuynh hướng xét đoán họ, dễ có cái nhìn soi mói, thiếu cảm thông.
Đứng trước quan niệm sai lầm của dân Do thái, và đôi khi là của mỗi ngừơi chúng ta hôm nay, Chúa Giêsu đã bác bỏ quan niệm này. Ngài chỉ cho ta thấy rằng: hết thảy chúng ta đều là tội nhân, đều phải chịu sự phán xét của thiên Chúa, cho nên phải mau mau sám hối, để cải thiện đời sống: "Nếu các ngươi không ăn năn sám hối, thì các ngươi sẽ chết như vậy" (Lc 13,5).
2. Bản thân
Trong các thông điệp mùa chay hàng năm, Đức Thánh Cha luôn mời gọi chúng ta hãy thay đổi cách suy nghĩ, và nhìn nhận thân phận yếu hèn của mình, để canh tân đời sống. Bởi vì, nhân loại hôm nay như đang mất đi cảm thức về tội, họ làm tội, nhưng không còn ý thức về tội. Đó là một điều nguy hại và làm cho con người ngày càng cách xa Thiên Chúa, mà chỉ sống trong ảo tưởng. Vì thế, họ cho mình là thánh thiện, và tự đề cao chính mình.
Như A. Adler đã nói: "Sự cao cả của con người bắt đầu khi con người biết nhìn nhận mình đúng như thực trạng của mình". Hơn nữa, để thực thi lời mời gọi hoán cải của Chúa và Hội thánh, chúng ta cần phải kiểm điểm lại chính mình, khiêm tốn nhìn nhận mình là tội nhân và cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa.
Ngài muốn chúng ta tự xét mình và nhận ra lỗi của bản thân mình hơn là xét lỗi và thấy lỗi của người khác. Thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi mình chỉ khiến ta phát sinh lòng kiêu ngạo, tự mãn, khinh người. Còn nhận ra tội lỗi hay yếu đuối của mình, sẽ giúp ta khiêm nhường, nhất là cảm thông được những yếu đuối và tội lỗi của người khác. Nếu vì những yếu đuối hay vì một số tội lỗi ta đã phạm mà ta trở nên khiêm nhường và thông cảm với người khác hơn, thì những yếu đuối hay tội lỗi ấy đúng là những tội lỗi hồng phúc. Như thánh nữ Catarina thành Sienna đã nói "Phạm tội là con người, nhưng ngoan cố trong tội là ma quỷ" Vậy, nhìn mình , biết mình để mà ăn năn sám hối thật là điều cần kiếp mà mỗi người phải làm trong mùa chay này.
3. Biến cố & thời gian
Sám hối là lời đầu tiên mà Gioan đã rao giảng cho dân Do Thái, sám hối cũng được Chúa Giêsu rao giảng đầu tiên khi Ngài bắt đầu sứ mệnh của mình: "Anh em hãy sám hối vì nước trời đã gần đến". Ngày nay, Giáo hội cũng rao giảng sự sám hối cho dân của Thiên Chúa. Hôm nay, để quảng diễn cho sự cần kíp phải ăn năn sám hối, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn cây vả để nói lên điều này. Hình ảnh cây vả trong bài Tin mừng hôm nay, giúp tôi liên tưởng đến bản thân mỗi người chúng ta.
Cây vả được người chủ vườn trồng, những ước mong nó sẽ sinh nhiều trái ngọt. Tuy nhiên, đã nhiều năm, ông chủ chờ đợi nó mà nó vẫn cứ trơ trơ, chẳng chịu sinh một trái nào. Vì thế, ông chủ buồn lắm, và quyết định chặt nó đi cho đỡ tốn đất, thế nhưng, người làm vườn đã nài xin cho cây vả một án treo! Thử xem nay mai, nếu không ra trái, thì hãy tính sổ nó.
Cuộc sống của mỗi người còn quý hơn cây vả. Thiên Chúa đã tuyển chọn chúng ta trong kế hoạch nhiệm mầu của Ngài. Ngài cho ta được làm con của Chúa, và được chăm sóc trong vườn ươm của Giáo hội. Và cũng vì tình yêu, Ngài đã lấy chính thịt máu Ngài làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Nhằm cho chúng ta trổ sinh hoa trái thơm lành như lòng mong đợi. Thế nhưng mỗi người chúng ta đã làm gì để đáp lại niềm mong đợi của Chúa?
Mùa chay là dịp thuận tiện giúp chúng ta ăn năn sám hối, mà sám hối luôn là vấn đề của thời gian, con người cần thời gian để mà hoán cải và Thiên Chúa cũng cần thời gian để chờ đợi, Ngài không bỏ cuộc, Ngài khoan hồng, bao dung với con người. Thiên Chúa chờ đợi chúng ta như ông chủ chờ đợi cây vả, ông ta chờ nó cho ra trái thế nào thì Thiên Chúa cũng chờ đợi chúng ta quay về với tình yêu của Ngài như vậy.
Lạy Chúa, xin cho con biết nhìn anh em xung quanh bằng một con tim biết cảm thông và chia sẻ, Ngoài ra con còn nhận ra được những thiếu sót nơi bản thân để biết sám hối và hoàn thiện mình mỗi ngày. Amen.
28. Lời kêu gọi hoán cải--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Tin mừng Lc 13: 1-9: Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật III mùa chay này giáo huấn Kitô hữu về việc thay đổi cuộc sống, 'hoán cải cuộc đời'. Chúa Giêsu mời gọi hoán cải là bước ra khỏi tội lỗi, can đảm chống lại những khuynh hướng xấu của bản thân và dấn thân theo những đòi hỏi của Tin mừng.
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật III mùa chay này giáo huấn Kitô hữu về việc thay đổi cuộc sống, 'hoán cải cuộc đời'. Chúa Giêsu mời gọi hoán cải là bước ra khỏi tội lỗi, can đảm chống lại những khuynh hướng xấu của bản thân và dấn thân theo những đòi hỏi của Tin mừng. Mùa chay là thời điều chỉnh, lập lại trật tự nội tâm và nghiêm túc khám phá những giá trị làm cho con người thăng tiến. Cần phải xác tín, lên đường không chần chờ với tất cả nỗ lực để hoán cải, canh tân cuộc sống.
I. Tìm Hiểu Lời Chúa
1. Bài đọc I: Ex 3, 1-15
Bụi Gai Bốc Cháy
Thiên Chúa đã thấy cảnh khốn quẩn của dân Ngài bị phó mặc trên đất Ai Cập cho sự ức hiếp, và cái chết. Sau khi tỏ mình cho Môsê trên núi Sinai, Thiên Chúa trao phó cho ông sứ mạng giải phóng Israel.
Sợ bị quân của Pharaon vây bắt, Môsê trốn trong sa mạc Madian, chăn cừu cho cha vợ. Ông đã được thấy một thị kiến nhiệm màu: Bụi gai bốc cháy nhưng không bị thiêu rụi.
Thiên Chúa đã tỏ mình ra với ông: Ngài là Đấng Tự Hữu. Ngài trao phó ông sứ mạng giải phóng dân Ngài khỏi kiếp nô lệ Ai Cập và dẫn đưa dân về miền Đất Hứa.
Với mỗi Kitô hữu, hình ảnh bụi gai bốc cháythắp sáng lên trong cuộc sống mỗi người niền tin tưởng, niềm hy vọng: Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Ngài ở cùng chúng ta, Ngài giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi biến chúng ta trở nên người tự do đích thực.
2. Bài đọc II: 1 Cr 10, 1-6. 10-12
Phải Cảnh Giác
Thánh Phaolô cảnh tỉnh những người tự mãn, tự phụ cho mình có sức mạnh không bị sa ngã trước những cám dỗ. Gợi nhớ lại những sự bất trung của dân Do Thái không đếm xỉa gì đến sự tốt lành của Thiên Chúa, Thánh Phaolô cho thấy cần phải thận trọng trong cuộc sống đừng ỷ lại, đừng tự phụ.
Trong số những người tín hữu tại Corintô, có một số người tự kiêu về bí tích thanh tẩy của mình, về việc tham dự vào Tiệc Mình Máu Chúa, để rồi tự cho mình có khả năng tránh được tất cả nguy hiểm sa ngã.
Thánh Phaolô khuyên bảo họ hãy dè chừng, hãy coi gương của những người Do thái ngày xưa tuy cùng được sống trong ân nghĩa của Thiên Chúa nhưng nhiều kẻ đã phải chết, đã sống không đẹp lòng Chúa và phải chịu cảnh khốn khổ.
Mỗi Kitô hữu ngày nay, cần phải nhận ra sự yếu đuối của mình để đặt niền tin vào Thiên Chúa, vào ân sủng của các bí tích. Tránh xa sự tự mãn, chỉ biết cậy dựa vào sức mạnh cá nhân.
3. Tin mừng: Lc 13, 1-9
Sự Khẩn Thiết Của Việc Hoán Cải
Chúa Giêsu cảnh báo nghiêm khắc với các môn đệ và với mọi người về sự khẩn thiết của việc hoán cải và tính cần thiết của việc cảnh giác trước những nguy cơ sa ngã.
Dựa vào hai biến cố thảm thương: những người bị Philatô giết hại và những người bị tháp Silôê đè chết, Chúa Giêsu thúc giục người nghe hãy hoán cải, hãy sợ hãi những sự trừng phạt của Thiên Chúa giáng xuống trên con người.
Hoán cải luôn là điều khẩn thiết. Không thể dựa vào lòng khoan giãn nhân từ của Thiên Chúa để rồi từ chối hoán cải. Cây vả đã không sinh trái được thì sớm muộn gì cũng sẽ bị đốn bỏ.
Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng nhớ đừng quên rằng sự kiên nhẫn của Ngài là sự kiên nhẫn của một tình yêu có yêu cầu cao, đòi phải nỗ lực hoán cải, không ngừng canh tân cuộc sống, không được trì hoãn bất cứ gía nào, phải sinh hoa kết quả trong việc thay đổi lối sống.
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Hoán cải, một cách nhìn mới về thực tại nhân sinh: Trước những biến cố đau thương của người khác, người ta dễ bị cám dỗ giải thích một cách thiếu bác ái. Như trường hợp những người bị Philatô giết chết, thì mọi người dễ dàng qui kết do bởi họ có tội nên bị án phạt như thế. Hay như trường hợp của anh mù bẩm sinh được Chúa Giêsu chữa sáng mắt cũng vậy, người ta cho rằng đó là hậu quả tội lỗi của anh hoặc của cha mẹ anh. Trong thực tế ngày nay cũng không hiếm những kiểu qui kết, giải thích như vậy. Chúng ta thường được nghe những lối giải thích: 'Trời phạt, trời có mắt'; ' Đáng đời'. Khi nhìn thấy những sự đau khổ, thất bại, bi thương của người khác, người ta thường nhìn theo khía cạnh tiêu cực hơn là tích cực. Còn khi chính mình gặp hoạn nạn thì lại than trách 'Trời không có mắt; Thiên Chúa bỏ rơi tôi'; 'tôi có tội tình gì đâu sao Trời lại phạt tôi?'… Cần phải hết sức thận trọng khi giải thích những biến cố sảy ra trong đời sống quanh ta. Một biến cố có thể giải thích bằng nhiều cách khác nhau tuỳ theo tâm lý, tính tình, trình độ của mỗi người. Khôn ngoan nhất chính là biến theo lời dạy của Chúa Giêsu: biết dựa vào các biến cố sảy ra để mà hoán cải không ngừng. " Đừng tưởng những người đó tội lỗi hơn các người khác. Không phải thế đâu. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải thì tất cả cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy." Quả vậy, nhìn người mà ngẫm đến ta, người ta bị như thế tôi không bị phải chăng là hồng ân Chúa dành cho tôi? Người ta bị như thế có ý nghĩa gì và nhất là mang lại bài học gì cho tôi? Để rồi chân nhận rằng tôi chẳng tốt lành hơn ai. Chính tôi phải hoán cải, phải thay đổi nếu không thì còn tệ hại hơn ai hết.
Như thế, hoán cải giúp mở ra một cái nhìn mới về những thực tại nhân sinh để thông cảm hơn, quảng đại hơn với tha nhân và nghiêm khắc sửa đổi bản thân mình hơn.
2. Hoán cải, một cách nhìn của hy vọng: Sau lời mời gọi phải hoán cải nếu không sẽ bị huỷ diệt, Chúa Giêsu trình bày dụ ngôn về cây vả không trái ông chủ muiốn chặt nhưng người ta điền xin cho thời gian để chăm sóc tốt hơn hy vọng sẽ có trái. Qua dụ ngôn này cho thấy lòng nhân từ của Thiên Chúa, một mặt kêu gọi phải hoán cải mặt khác lại tạo điều kiện để con người có cơ hội hoán cải. Chính Thiên Chúa đã thấy sự khốn cùng của con người trong thảm cảnh của tội lỗi, sa đọa và sự chết, nên Ngài đã chủ động để Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến giải phóng và đưa con người vào trong sự tự do của con cái Chúa. Bài đọc I cho thấy tình yêu thương đó của Thiên Chúa khi Ngài trao phó cho Môsê sứ mạng giải phóng dân Israel ra khỏi kiếp nô lệ Ai Cập. Cũng tình thương hải hà ấy, Thiên Chúa đã trao phó sứ mạng giải phóng con người cho Đức Giêsu Kitô Con Một của Ngài. Như vậy, về phía Thiên Chúa thì Ngài luôn yêu thương mở ngỏ con đường yêu thương để đón nhận mọi người quay trở về vời Ngài. Vấn đề là từ phái con người có đáp trả tình yêu thương của Thiên Chúa hay không để mà sám hối quay trở về. Thiên Chúa không kết án, Thiên Chúa chỉ mời gọi hoán cải, nên hoán cải luôn là một niềm hy vọng. Vì nhờ hoán cải con người được sống và sống tốt hơn trong tình yêu Thiên Chúa.
Hoán cải không chỉ là đau buồn sám hối vì tội lỗi của mình, nhưng còn là một niềm hy vọng được sống, được làm lại cuộc đời. Hoán cải là một cách nhìn của hy vọng. Vậy nên, còn chần chờ gì nữa mà không hoán cải? Sai lầm ư, tội lỗi ư? Đừng lo âu buồn chán, that vọng! Hãy mau quay về Thiên Chúa đang chờ đợi, đang chăm sóc để chúng ta sinh hoa kết trái trong đời sống nhân đức.
3. Hoán cải, một cách nhìn thăng tiến: Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô đã khuyến cáo đừng ỷ lại, đừng tự phụ hãy ý tứ kẻo sa ngã. Lời nhắc nhở của Thánh Tông Đồ hàm ý nhắc nhở phải nhận ra sự yếu đuối, mỏng dòn của bản thân để nỗ lực cậy trông, bám vào ơn Chúa mà tiến tới. Và từ đó cũng giúp hiểu thêm một cách nhìm mới về sự hoán cải. Thánh Nhân khuyên nhủ đừng chiều theo dục vọng, đừng than trách mà bị diệt vong, nhưng hãy biến đổi. Không chiều theo dục vọng để tâm hồn thanh thoát vươn lên theo đường lối thánh ý Chúa. Không lẩm bẩm than trách để biết nhận ra tình thương của Thiên Chúa, để biết được những yếu đuối của bản thân ngỏ hầu toàn tâm, toàn ý sửa đổi cuộc sống theo những giá trị của Tin mừng. Không đi theo con người xác thịt mà đi theo tinh thần mới trong Đức Giêsu Kitô nghĩa là phải sống một đời sống mới trong ân sủng của Thiên Chúa. Từ bỏ hay không chiều theo xác thịt để sống đời sống mới trong Đức Kitô đó chính là hoán cải, là đổi đời, đúng hơn là 'lên đời'. Như thế, hoán cải là một sự thăng tiến đời sống.
Hoán cải phải đi đến kết quả là sinh hoa trái tốt tươi trong đời sống, nghĩa là thăng tiến được bản thân trên mọi khía cạnh nhân bản cũng như tâm linh. Còn nếu không biến đổi, không tốt hơn thì không phải là hoán cải mà chỉ là sự dậm chân tại chỗ.
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa luôn yêu thương chờ đợi chúng ta là những tội nhân sám hối quay trở về với Ngài. Trong niềm tin tưởng vào tình yêu khoan dung của Thiên Chúa chúng ta cùng dâng lên Ngài những lời cầu xin.
1. Giáo Hội là nơi Chúa Giêsu Kitô bày tỏ tình yêu tha thứ cho con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo Hội nhất là các vị chủ chăn luôn mang lấy tấm lòng từ bi hay thương xót của Chúa Giêsu Kitô.
2. Ngày nay nhiều người lầm đường lạc lối sa chân vào trong nhiều tệ nạn của xã hội. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những dự án, những chương trình của chính phủ về việc giải quyết những tệ nạn xã hội được phát triển tốt đẹp và những anh chị em lầm đường lạc lối sớm hoàn lương trở về với đời sống đúng phẩm giá làm người.
3. Hoán cải phải sinh hoa trái trong đời sống đạo đức. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết nỗ lực hoán cải cuộc sống theo thánh ý Chúa bằng việc từ bỏ những đam mê tật xấu và hang say sống theo những đòi hỏi của Tin mừng.
* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha nhân lành, chúng con thật vui sướng đựơc làm con cái Chúa. Xin cho chúng con luôn đựơc Thánh Thần Chúa hướng dẫn để mau mắn sám hối khi lỗi lầm và không ngừng hoán cải thăng tiến cuộc sống theo Chúa Giêsu Kitô. Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
29. Hãy sinh hoa trái--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Cuộc sống con người luôn có những hối tiếc do lầm lần của quá khứ. Hối tiếc vì mình đã sống như thế! Hối tiếc vì việc tốt mà mình đã bỏ qua. Hối tiếc vì việc mình làm đã gây nên đau khổ cho tha nhân. Và dường như, ai trong chúng ta cũng từng hối tiếc về một việc làm nào đó.
Nhà Bác học Einstein, "cha đẻ của nguyên tử lực”, là một người Đức gốc Dothái. Ông đã chạy trốn khỏi nước Đức và định cư tại Mỹ năm 1933 vì sự truy sát của Hittle. Năm 1939, Einsten đã trình lên Tổng thống Mỹ Roosevet dự án chế tạo bom nguyên tử để đề phòng sự bành trướng của nước Đức. Dự án đã được Tổng thống phê duyệt. Năm 1941, bom nguyên tử đã ra đời và đã thử nghiệm thành công. Thế nhưng, tới năm 1945, sau khi hai quả bom nguyên tử nổ tại Hyrosima và Nagasaky, khiến hàng trăm ngàn người chết oan uổng, Einstein đã hối tiếc và nói: “Nếu tôi có thể làm lại cuộc đời, thì tôi sẽ làm một anh thợ hàn còn hơn làm một nhà khoa học.”
Đôi khi nhìn lại mình, chúng ta vẫn thấy mình là tội nhân. Có biết bao lời nói như những mũi tên chúng ta đâm thấu trái tim bao người. Có biết bao lời nói, việc làm chúng ta đã gieo vãi những đau khổ vào cho nhân thế. Có rất nhiều lần chúng ta cũng từng nuối tiếc như Einstein: Nếu có thể làm lại, chúng ta sẽ không làm như thế!
Người Việt Nam có câu "ai nên khôn mà không dại một lần". Lầm lỗi, yếu đuối, thiếu sót là lẽ thường tình của thân phận con người. Điều quan yếu không phải chỉ nhìn nhận tội mình rồi than khóc tội mà là canh tân, khắc phục hậu quả việc mình đã gây ra. Nhất là biết đứng dậy sau những lần vấp ngã. Cuộc đời có vấp ngã, có lầm lỗi mới có kinh nghiệm để chiến thắng, để vượt qua những cám dỗ trong cuộc đời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối khi thời gian còn thuận tiện. Đừng thử thách Thiên Chúa nhưng hãy thật lòng ăn năn trở về cùng Chúa. Sự trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn về tội đã phạm mà còn phải sống theo lời mời gọi của Chúa: “Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống hối”. Hoa trái của sự thánh thiện. Hoa trái của việc lành phúc đức. Hoa trái của đời sống công bằng bác ái. Hoa trái của đời sống yêu thương và phục vụ mọi người. Xem ra đường trở về là không khó. Cái khó là ở việc sinh hoa kết trái. Làm sao chúng ta có thể sống thanh sạch đang khi còn sống giữa thế gian mà sự dâm ô, tục tĩu, lăng loàn đang có mặt mọi nơi và mọi chốn? Làm sao làm việc lành phúc đức đang khi phải cố gắng bươn chải với kế sinh nhau, với miếng cơm manh áo từng ngày? Làm sao giữ được công bằng bác ái đang khi sống giữa thế gian đầy bất công và hận thù? Làm sao sống yêu thương và phục vụ đang khi nhu cầu của bản thân vẫn thiếu thốn tư bề?
Sinh hoa kết trái là khó nhưng đó là quy luật của sự tồn tại. Cây không sinh hoa kết trái là tự huỷ diệt mình. Cây có sinh trái, trái mới cho hạt, và hạt mới nẩy mần, phát triển thành cây để đơm hoa kết trái. Quy luật tuần hoàn là thế. Cuộc sống con người cũng vậy. Con người chỉ nhận được niềm vui của sự an bình và hạnh phúc, khi biết gieo yêu thương vào đời. Con người chỉ tồn tại khi biết xoá bó những trái đắng của bất công và hận thù. Thế nhưng, biết bao người vì lòng tham đã tự giết đời mình trong những đam mê của danh lợi thú. Biết bao người vì những tham sân si đã trở thành trái cay, trái đắng cho đời những phiền luỵ đắng cay. Làm người phải biết sống yêu thương. Tình yêu thương không cho phép chúng ta sống lỗi công bình bác ái với tha nhân, và càng không cho phép chúng ta dửng dưng trước sự bất hạnh của anh em. Lòng yêu thương đòi buộc chúng ta phải yêu tha nhân như chính mình. Mỗi người hãy biết sống vì người khác. Ai cũng cầu cho mình được bình an hãy biết kiến tạo bình an cho tha nhân. Ai cũng mong muốn được sống hạnh phúc, vậy hãy gieo niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Ai cũng muốn được quan tâm chăm sóc, vậy hãy biết cho đi để được nhận lại. Đó cũng là điều mà Chúa từng mời gọi chúng ta: “Điều gì anh em muốn người khác làm cho mình thì hãy làm cho anh em như vậy.”
Hơn nữa, gieo yêu thương sẽ không bao giờ thua lỗ. Gieo yêu thương sẽ gặt hái được biết bao hoa trái của tình yêu. Càng gieo yêu thương càng được đón nhận nhiều nghĩa cử yêu thương. Khi gieo yêu thương thì hận thù sẽ tan biến; bác ái sẽ nở hoa, công lý và hoà bình sẽ đơm bông kết trái. Người gieo yêu thương sẽ gặt hái được cây sự sống mang lại hạnh phúc trường sinh.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Biết sống cho đi để được nhận lại. Biết chết đi những đam mê, ích kỷ của mình để trở nên khí cụ mang tin yêu và hạnh phúc gieo vào nhân thế hôm nay. Amen.
30. Lòng kiên nhẫn đầy xót thương--Dã Quỳ
Trong xã hội có người tốt lẫn kẻ xấu, người lương thiện cũng như kẻ bất lương. Người tốt kẻ xấu đều có chung một khuôn mặt người và chỉ khác nhau ở bản chất, ở tấm lòng và cái tâm. Qua cuộc đối thoại và dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay, Chúa cho chúng ta nhận ra lòng kiên nhẫn đầy xót thương của Thiên Chúa đối với con người và lòng hạn hẹp ích kỷ chỉ lo kết án của con người đối với nhau.
Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta theo hình ảnh của Ngài và giống Ngài. Chúa ở bên chúng ta và giúp chúng ta sống tốt lành. Nhưng nhiều khi chúng ta đã bị lôi kéo theo chiều hướng xấu. Thế nên, trong cuộc sống khi nhìn vào những biến cố hay tai nạn..., ta tiêu cực chỉ nhìn và phán đoán những nạn nhân ấy "ở ác nên gặp điều dữ..." Bởi trong ta thiếu tình yêu và lòng xót thương. Sự kiêu ngạo ngự trị trong ta nên mắt ta nhìn người chỉ thấy tội lỗi. Thế nhưng, Thiên Chúa, Đấng thánh thiện lại nhìn mọi sự việc và con người với cái nhìn vượt qua dáng vẻ bề ngoài.
Bản tính "Nhẫn nại và xót thương" đã xâm chiếm toàn bộ ánh nhìn và hành động của Thiên Chúa. Người chỉ khoan dung, tha thứ và cảm thông với ngàn yếu đuối lỗi lầm của con người. Trong suốt dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa nhân từ luôn nhẫn nại với dân của Ngài. Vì "Thiên Chúa là Đấng nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu ân nghĩa và thành tín."(Xh 34,6) Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác chết, nhưng một lòng muốn nó ăn năn sám hối để được cứu sống nên Ngài kiên nhẫn và nhân từ với tất cả tội nhân. Chính vì thế khi đến trần gian, Chúa Giêsu đã nói: "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi." (Mt 9,13b)
Ghét tội chứ không ghét người có tội. Đó là điều Thiên Chúa muốn chúng ta sống. Chúa không muốn ta khinh ghét người tội lỗi nhưng là cảm thông và yêu thương. Bởi tất cả mọi người đều cần đến ơn tha thứ của Chúa, vì không ai là kẻ vô tội. Chúa đã luôn đi bước trước, kiên nhẫn chờ đợi và xót thương tha thứ cho ta mãi mãi. Vậy những gì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta theo lòng nhân hậu của Người, ta cũng hãy trao lại cho những ai mắc lỗi với chúng ta. Ước gì mỗi người luôn biết rõ rằng chính mình là kẻ tội lỗi để biết sám hối và trở về với Chúa. Như vậy, khi ta đọc Kinh Lạy Cha "... Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" chúng ta sẽ không ngại ngùng và nghi ngờ, vì chúng ta đã đón nhận được lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta hãy ý thức để tránh xét đoán và lên án tha nhân. Nhưng biết mình và biết khiêm nhường như lời Thánh Phaolô muốn nói với ta: "...Bởi vậy ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã."(1Cr 10,10-12) Vậy, hãy nhận biết những yếu đuối của chúng ta và cầu xin Chúa giúp ta cố gắng sửa đổi lối sống. Như vậy, những sự bất lực của chúng ta cũng có thể dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa và gắn bó với Người hơn. Thật khó để ta có thể đứng vững trong tình trạng cố định, nhưng phúc cho ta là có Thiên Chúa luôn trợ giúp nên ta không sợ hãi bước đi trên hành trình mà Ngài muốn dẫn chúng ta tới cuộc sống tràn đầy hạnh phúc. Vậy hãy tin tưởng vào Ngài. Và nếu chúng ta có làm được điều gì tốt như hoa trái của đức ái, thì đó là chính Thiên Chúa ở trong ta, Người ban ơn, hướng dẫn giúp ta làm mọi sự với lòng thương xót của Người, như lời thánh Phaolô khẳng định "Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?" (1Cr 4,7) Chúng ta chỉ là những dụng cụ nhỏ bé yếu hèn trong bàn tay Chúa và qua Chúa, nhờ Chúa mà ta sinh hoa kết trái.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa về tấm lòng bao dung, nhẫn nại đầy xót thương mà Chúa dành cho chúng con. Không có Chúa, chúng con không thể sống và làm gì được. Xin cho chúng con luôn biết sám hối trở về với Chúa, đón nhận được lòng xót thương tha thứ và những ơn phúc từ Chúa để cuộc sống chúng con trổ sinh nhiều hoa trái. Amen.
31. Chúa Nhật 3 Mùa Chay
Anh chị em thân mến.
Có một lần đang đi trên một chiếc xe, bỗng nhiên chiếc xe từ từ chậm lại rồi dừng hẳn. Mọi người đều ngạc nhiên, không hiểu chuyện gì xảy ra. Tài xế xuống xe, anh tìm chiếc bánh xe dự trù, nhưng anh đành thất vọng, vì nó không còn chút hơi nào trong đó. Anh đành xin lỗi mọi người và xin chờ đợi để anh tìm cách đem chiếc bánh xe đi vá lại, đem về ráp vào thì chiếc xe mới hoạt động tiếp tục được. Anh còn nói thêm: đã nhiều năm nay, chiếc xe nầy chạy rất tốt, không bao giờ bị như thế nầy. Tôi cũng xuống xe chờ đợi và nhìn thấy: những bánh xe, nó đã tới thời kỳ phải được xem lại, nếu không thì nó cũng sẽ lập lại tình trạng như thế nầy nữa.
Tôi chợt suy nghĩ: chiếc xe phải rơi vào tình trạng như thế nầy, vì nó luôn an tâm, tự hào và ngủ quên trong sự an toàn của nó. Chính vì nó tự mãn nên không bao giờ được kiểm tra tận tình, nên nó mới bị nằm giữa đường. Nếu nó còn tiếp tục tự hào nữa mà không lo sữa chữa thì nó cũng sẽ lại rơi vào tình trạng như thế nữa.
Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì các ngươi sẽ như thế.
Chúa Giêsu dùng một sự kiện thực tế để nhắc nhở cho mọi người. Ngài không kết án, nhưng kêu gọi mọi người nhìn sự kiện thực tế, để xem lại chính mình. Nhìn người để biết chuẩn bị mình cho chu đáo. Nhìn người để biết sữa đỗi con người của mình cho tốt đẹp. "Đã ba năm nay tôi đến tìm quả, nhưng không thấy, vậy anh cón để nó làm gì cho hại đất".
Thiên Chúa đã đến tìm quả nơi những cây Ngài đã trồng nơi mãnh đất trần gian. Ngài đã tìm được những quả tốt đẹp nơi vườn cây. Nhưng có những cây, Ngài đang chờ đợi với tất cả sự kiên nhẫn. Nếu nó cứ vô dụng mãi mà còn làm hại cho mãnh đất màu mở của Ngài, thì số phận nó đã được an bài.
Con người thời nay thường an tâm với vỏ bọc bên ngoài, tìm cách che đậy những lầm lỗi của mình bằng cách kết án người khác khi có thể. Chúng ta thường nghe những câu nói: đáng đời, Chúa phạt, Trời hại... chính bản thân chúng ta nhiều khi cũng thốt lên những câu như thế. Chúng ta vẫn an tâm với cách sống của mình. Dường như chưa bao giờ chúng ta dám đặt mình vào hoàn cảnh như thế để tìm một chút suy tư cho cuộc sống.
Hôm nay Chúa Giêsu cũng nói với từng người trong chúng ta: "Nếu các ngươi không ăn năn sám hối..."
Chúng ta cùng nhau để ra ít phút suy tư về cuộc sống của mình. Chúng ta không thấy mình có lỗi gì hết, không làm hại ai, không cướp của giết người, chúng ta vẫn thường đọc kinh, dự lễ, thỉnh thoảng cũng bố thí giúp người nghèo khó. Với những việc làm như thế, chúng ta an tâm về đời sống của chính mình, chúng ta tự cho mình là đạo đức thánh thiện, không cần phải thay đỗi cách sống, không cần phải nhìn lại hay sữa đỗi điều gì. Cũng chính vì sự tự mãn đó, mà chúng ta sẵn sàng kết án người khác, cho họ là không đạo đức, không thánh thiện, là người tội lỗi, kẻ xấu không đáng nói chuyện hay tiếp xúc với chúng ta. Khi bất chợt họ gặp rủi ro bất trắc trong cuộc sống, chúng ta vui mừng cho như thế là quả báo, vì chúng ta luôn muốn cho họ như thế. Nếu họ gặp những điều may mắn tốt lành, chắc chúng ta không được vui. Với đời sống như thế, chúng ta có giống như cây vả mà hôm nay Thiên Chúa đến tìm quả, Ngài vui mừng vì tìm được những quả ngon, hay Ngài phải tức giận mà nói với người làm vườn: "Đã ba năm nay tôi tìm quả nhưng không không thấy, vậy anh hãy chặt nó đi, còn để nó làm gì cho hại đất". Cây con người của chúng ta, không phải chỉ có cành lá sum suê là đủ, nhưng còn phải có kết quả, cây phải cho trái. Cho dù cây không làm hại ai, nhưng nó đã choáng cả một vùng đất rộng, vươn cành lá che mất đi ánh sáng của những cây khác, mà không có ích lợi, nó không thể tồn tại mãi như thế được.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết trổ sinh những quả tốt đẹp trong đời sống, để dâng lên Chúa.
32. Cởi dép ra--Dã Quỳ
Suy Niệm Bài Đọc I (Xh 3, 1-8.13-15)
Hôm nay bước vào vùng đất thánh, Gia-vê đã ra lệnh cho Mô-sê "cởi dép ra". Cả một vùng núi chỉ có chỗ Mô-sê đứng là đất thánh hay sao? Mô-sê trốn thoát khỏi triều đình Pha-ra-ô bên đất Ai-cập, nơi ông đã ra tay giết chết một người Ai-cập và vùi xác xuống cát. Ông đang sống lưu vong, đang cậy dựa và nhờ vả vào sự che chở của nhạc phụ (x.Xh 2,11-3,6). Cuộc sống của ông đang tạm yên ổn. Ông có vợ, có gia đình, có tài sản và những gì cần thiết cho cuộc sống của một con người bình thường. Tất cả những thứ đó là Đôi Dép ông đang mang. Nó che chở, bảo bọc và giúp ông đi đến tương lai trong sự an toàn. Cởi dép ra! Đó là một mệnh lệnh. Đó là một điều kiện mà Gia-vê muốn nơi người mà Ngài sẽ chọn. Cởi dép là cởi bỏ tất cả những cái "an toàn tạm bợ" để tiếp xúc với một hoàn cảnh thực tế, trần trụi và đau thương, tê tái: "Ta thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi khổ của chúng."(Xh 3,7) Mô-sê sống hạnh phúc bên gia đình tại Mađian. Ông không nghe thấy tiếng kêu ai oán, thống thiết; không nhìn thấy những cảnh tượng tang thương của những thân phận đồng bào. Ông sinh ra trong sự bảo bọc và lớn lên trong hoàng cung. Ông đâu hiểu hết những đoạn trường mà dân tộc của ông đã và đang trải qua. Tại sao vậy? Vì Chân Ông Đi Dép.
Cởi dép là chấp nhận bước vào những khó khăn mới, những nẻo đường khác đầy cam go và thử thách, Cởi dép là chấp nhận đồng hóa với nỗi đau của dân tộc mình. Khi bỏ đôi dép, người ta sẽ có những cảm giác rất khác nhau trên cùng một con đường. Ta sẽ có cảm giác mát rười rượi khi bước trên những đoạn đường lót gạch bông. Ta sẽ cảm nhận được sự thô nhám của nền xi măng. Cảm giác mịn như nhung khi giẫm chân lên bờ cát mịn. Từng bước chân ta tạo ra âm thanh lạo xạo vui tai. Khi giẫm chân lên cỏ, ta có cảm giác êm êm. Nhưng ta sẽ có cảm giác nhói đau khi bước chân lên những con đường đầy đá sỏi lởm chởm. Khi bước chân không vào bãi rác, ta sẽ cẩn thận lần đi từng bước một và cảm nhận dờn dợn chạy khắp thân mình. Mỗi địa hình sẽ cho chúng ta những cảm nhận khác nhau với bước chân trần của mình. Cởi dép ra để mình sống thực với những cảm nhận của cuộc sống mà khi đi dép, chúng ta không có cơ hội nếm trải.
"Cởi dép ở chân ngươi ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh." Đôi dép ấy là của nhạc phụ cho tôi. Bộ áo quần này do hiền thê tôi may sắm. Những thứ đó là đồ dùng cho việc chăn chiên dê. Những thứ đó không thể dùng vào sứ vụ mới. Tất cả những gì là của con người hãy trả lại cho con người. Ta gọi ngươi để ngươi bước vào một sứ mệnh và một ơn gọi mới "Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Israel ra khỏi Ai-cập."(Xh 3, 10) Ta sẽ trao cho ngươi những phương tiện mới. Phương tiện ấy không chỉ là đôi dép, chiếc áo choàng hay cây gậy. Điều mà Gia-vê trao cho ông là tất cả những gì cần thiết trong sứ vụ "Phần Ta, Ta sẽ ở với ngươi." (Xh 3,12)
Mô-sê đã cởi dép, bỏ lại tất cả để mặc lấy niềm tin, tâm tình phó thác và lòng trông cậy vào Gia-vê Thiên Chúa là "Đấng Hiện Hữu", là "Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông" của ông. Ngài sẽ trở thành khiên che thuẫn đỡ cho ông trong suốt hành trình sứ mệnh. Còn tôi, hãy nhìn vào Đôi Dép tôi đang mang và hãy nhìn lại đời sống của mình để biết tôi đang sống nhờ vào sự che chở và bảo bọc của cái gì? và của ai?
33. Dấu chỉ thời đại.
Ngày xưa, cha ông chúng ta không cần tới những phương tiện hiện đại để biết được thời tiết, trái lại, họ chỉ dựa vào những hiện tượng trong thiên nhiên, mà cũng biết được nắng mưa, như tục ngữ đã diễn tả:
- Gió đàng nam vừa làm vừa chơi.
Đôi khi chỉ việc quan sát những phản ứng của thú vật, họ cũng biết được thời tiết. Chẳng hạn:
- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa,
Bay cao thì nắng bay vừa thì râm.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng khuyến khích chúng ta hãy nhìn vào những sự kiện, những biến cố xảy ra chung quanh, để nhờ đó mà biết được thánh ý Thiên Chúa. Ngài đã đưa ra hai trường hợp điển hình.
Trường hợp thứ nhất đó là những người Galilêa bị Philatô giết và trường hợp thứ hai đó là mười tám người khác bị tháp Silôê đổ xuống đè chết. Dân Do Thái thì cho rằng sở dĩ những người bị chết là những kẻ tội lỗi cho nên bị Chúa trừng phạt.
Thế nhưng, quan niệm của Chúa Giêsu thì khác, Ngài coi những biến cố đau thương và đẫm máu ấy là như một tiếng chuông cảnh tỉnh được gởi đến với họ, để họ ăn năn sám hối, làm lại cuộc đời và quay trở về cùng Chúa, nếu không thì họ cũng sẽ phải chết một cách thảm khốc như vậy.
Còn với chúng ta ngày hôm nay thì sao? Hằng ngày qua báo chí, truyền thanh và truyền hình, chúng ta đón nhận biết bao nhiêu sự kiện, biết bao nhiêu biến cố đau buồn xảy ra khắp nơi trên trái đất. Chỗ này có những người chết vì bom đạn chiến tranh, chỗ kia có những người chết vì thiên tai bão lụt, động đất và sóng thần. Nơi khác lại có những người chết vì bệnh tật và nghèo đói.
Trước những biến cố đau thương ấy, nhiều lúc chúng ta cũng đã có một thái độ lạnh lùng và nghiêm khắc như người Do Thái: Sở dĩ họ bị như vậy vì họ là những kẻ tội lỗi. Thế rồi chúng ta yên tâm với cung cách mũ ni che tai, cháy nhà hàng xóm bình chân như vại. Trong khi đó, Chúa đòi hỏi nơi chúng ta một thái độ tích cực, đó là phải biết tìm hiểu thánh ý Ngài được gói ghém qua những biến cố, qua những sự kiện ấy.
Cũng như nơi dân Do Thái, những biến cố, những sự kiện ấy là như những tiếng chuông cảnh tỉnh Chúa gởi đến để kéo chúng ta ra khỏi cuộc sống tầm thường và tội lỗi. Vấn đề được đặt ra đó là Chúa muốn nói gì với tôi qua những sự việc, qua những biến cố ấy? Rồi từ đó, tôi sẽ phải uốn nắn, sửa đổi lại những sai lỗi và khuyết điểm, để cuộc đời tôi sẽ đem lại những hoa trái, và những hoa trái ấy luôn làm cho Chúa được hài lòng.
34. May quá, mính thoát nạn! Hay mình xứng đáng--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Có thể nói một trong những đặc tính của thời đại hôm nay đó là tính thời sự. Nhờ phương tiện thông tin ngày càng hiện đại nên tin tức đó đây tức thời được cập nhật qua các phương tiện nghe nhìn. Chỉ ngồi trước màn ảnh truyền hình một lát thì ta có thể biết khá tường tận nhiều sự việc vừa xảy ra trên thế giới. Chịu khó thống kê một chút, thì chúng ta có thể kết luận rằng nhóm "hung tin" hình như đang chiếm thế thượng phong về tần suất được tường thuật, chẳng hạn như: chiến tranh, dịch bệnh, động đất, sống thần, lũ lụt, khủng bố, hỏa hoạn, bão tuyết...
Trước những tai ương hoạn nạn thì có những phản ứng khác nhau. Có người thì điềm nhiên như sự xảy ra là ở đâu đâu, không liên hệ gì đến mình. Cũng có thể thoặt đầu vẫn có cảm xúc ít nhiều nhưng rồi dần dà nghe thấy quá nhiều tai ương hoạn nạn, nên hóa thành vô cảm. Vô cảm trước hoạn nạn mà tha nhân đang gánh chịu là một thái độ đáng lên án. Thái độ này dễ nhận biết cách nào đó và chẳng ai muốn bị kết án là hạng người vô cảm, vì chính bản thân người vô cảm cũng ít nhiều nhận thấy cái sai trái của mình. Tuy nhiên có một phản ứng thoạt xem ra không đáng trách nhưng thật tai hại. Có thể gọi phản ứng này với câu nói ngoài miệng hay lời thầm trong lòng những người thuộc hạng này: "Hú hồn, may quá, mình vẫn bình yên, mình may mắn hơn! Hay mình đang xứng đáng?".
"Mình may mắn hơn". Một câu nói, đúng hơn là một phản ứng rất có thể có nơi nhiều người không bị tai ương hoạn nạn. Trước các biến cố cuộc đời, người vốn quen kết luận theo quy luật nhân quả "ở hiền thì gặp lành; làm ác thì chuốc dữ". Chính vì thế khi một tai ương hay hoạn nạn xảy đến cho người này, người kia, thì người ta dễ quy kết nguyên nhân là do tội, do lỗi của các nạn nhân hay của mẹ cha, ông bà họ trước đây. Chính các tông đồ cũng đã từng hỏi Chúa Giêsu về nguyên nhân khiến cho một người bị mù từ lúc mới sinh mà tin mừng Gioan tường thuật: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến cho người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?"(Ga 9,2).
Cũng vì thói quen nhìn các sự kiện theo mối liên hệ nhân quả nên khi những tai ương hoạn nạn không ảnh hưởng gì đến chúng ta thì chúng ta rất có thể không chỉ nghĩ rằng may quá, mình không vương nạn mà còn có thể tự hào rằng mình đang còn tốt lành, còn đang xứng đáng. Đây quả là một thái độ ít nhiều vừa tắc trách lại vừa đáng trách.
Một tai ương, hoạn nạn xảy ra, có thể là do sự vận động của giới tự nhiên theo quy luật của nó như chuyện hết mưa thì trời lại nắng.., cũng có thể là do tác động của con người như chuyện biến đổi khí hậu bất thường do hiệu ứng nhà kính..., cũng có thể là do lỗi hay tội của người này, tập thể kia gây ra cho chính bản thân họ hay cho tha nhân, chẳng hạn như chiến tranh hoặc nhiều tai nạn giao thông...Là Kitô hữu, chúng ta vốn tin nhận rằng mọi người đều là anh chị em với nhau, có cùng một Cha trên trời thì không thể nào có thái độ vừa tắc trách vừa đáng trách trước các hoạn nạn, tai ương mà tha nhân đáng gánh chịu đó đây. Trái lại, chúng ta cần phải tích cực liên đới với họ và đồng thời phải biết cảnh tỉnh bản thân để hoán cải, đổi thay ngay hôm nay.
Sống tình liên đới: Thiên Chúa chúng ta tôn thờ không phải là một ông chủ vô tình hay một vị thần bàng quan với con dân. Khi mạc khải cho Môsê biết mình là "Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaác, Thiên Chúa của Giacóp", thì Người muốn khẳng định rằng Người mãi đồng hành thiết thân với dân Người tuyển chọn và Người không bao giờ bỏ rơi dân Người. "Đức Chúa phán: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập..."(Xh 3,). Sự liên đới của Thiên Chúa đã nên phổ quát và trọn hảo khi trao ban chính Người Con Một vì nhân loại chúng ta. "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời..." (Ga 3, 16-17).
Sống tình liên đới với tha nhân, đặc biệt trong những hoàn cảnh hoạn nạn, tai ương mà tha nhân đang gánh chịu, thì trước hết cần ý thức rằng có thể do sự thiếu sót hay do tội lỗi của chính chúng ta đã làm cho tha nhân phải gánh chịu các cảnh bỉ cực ấy. Thứ đến, nếu giả như chúng ta "vô can" trong các hoạn nạn, tai ương ấy thì chuyện "máu chảy, ruột mềm" hay chuyện "một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ" là chuyện tự nhiên, đương nhiên phải có trong nghĩa tình anh em một nhà, cùng một Cha trên trời. Hơn nữa, trong niềm tin, chính tội lỗi mới là tai ương, hoạn nạn đáng sợ nhất. Noi gương Chúa Kitô, vâng lênh Chúa Kitô, chúng ta "phải làm việc này mà nhớ đến Người": đó là dùng chính con người của mình, xác thân mình, máu huyết, sự sống của mình để gánh tội của nhau, để làm cho nhau nên thanh sạch, được sống và sống dồi dào (x.1Cr 11,23-25).
Biết cảnh giác và tỉnh thức để hoán cải: Thánh Tông đồ dân ngoại lưu ý: "Ai tưởng mình đứng vững, thì hãy coi chừng, kéo ngã" (1Cr 10,12). Trước chuyện một số người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu họ đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng hoặc chuyện mười tám người bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, Chúa Giêsu đã cảnh báo người đương thời rằng chớ vội quy kết rằng họ có tội hoặc cho rằng mình vô tội hay đang xứng đáng, nhưng phải biết tỉnh thức mà sám hối ăn năn.
"Chưa tận thế đâu". Một câu nói rất có thể có ích khi nhắc nhớ chúng ta chớ hấp tấp, nóng vội mà quên đi quy luật của thời gian. Tuy nhiên câu nói trên cũng có thể tố cáo sự thiếu cảnh giác và tỉnh thức của chúng ta. Nhiều tổ chức, nhiều chương trình, kế hoạch hay công việc đòi hỏi có thời gian tính. "Dục tốc bất đạt" vốn là kinh nghiệm có từ ngàn xưa. Thế nhưng, trong chuyện sửa sai, nhiều khi không thể để đến ngày mai, vì sẽ không còn có cơ hội hoặc vì hậu quả xấu đã ra trầm trọng, thành tình trạng di căn, khó có thể khắc phục. Đặc biệt trong việc hoán cải tâm hồn thì luôn cần phải làm ngay trong hôm nay, giờ phút này. Xin đừng quên rằng không phải một ngày, không phải một giờ, nhưng có thể chỉ một phút, một giây sẽ quyết định số phận, quyết định hạnh phúc đời đời của bạn, của chính tôi.
Một trong những thái độ sống cần thay đổi đó là sự bàng quang, vô cảm, an phận trước cảnh bỉ cực của tha nhân hoặc tự nhủ: may quá, mình không vương nạn, mình đang xứng đáng.
35. Tôi thú nhận--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Ăn năn sám hối là một trong những chủ đề được nói đến nhiều trong mùa chay. Người Kitô hữu vốn rất nhạy bén với đề tài này. Một lẽ thường tình đó là vì tội lỗi luôn mang tình hiện sinh. Người ta dễ cảm nhận nơi chính bản thân mình sự bất toàn, yếu đuối. Hơn nữa, hầu như các tôn giáo, cách riêng Kitô giáo thường xuyên nói về sự tội. Khởi đầu những cuộc cử hành Phụng Vụ chẳng hạn như Phụng Vụ Thánh Thể thì luôn có phần sám hối ăn năn. Xin được thú nhận công khai vài lỗi lầm của mình. Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót.
Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng: Ở đây, bản thân không dám xưng thú những tội về điều răn thứ sáu hay thứ chín. Xưng thú công khai những tư tưởng đen tối, ô uế thì kỳ quá. Lắm khi lại gây cớ vấp phạm, làm mất lòng khiết tịnh cho lớp hậu sinh non dạ, trẻ đời. Mình là hàng có thánh chức thì cũng phải ý tứ một chút chứ. Tốt thì khoe mà xấu thì cần phải che đi vậy. Xưng thú tội ham muốn công danh, chẳng hạn muốn được làm quản hạt, làm Tổng đại diện hay thậm chí được đội mũ, cầm gậy thì cũng có thể châm chước đôi phần. Dẫu sao cái tham muốn ấy cũng phảng phất chút nào đó sự thánh thiêng. Còn chuyện tham lam của tiền thì không xưng người ta cũng nhận ra. Ông cha nào tham lam, keo kiệt thì khó lòng qua mắt được đoàn tín hữu.
Xin công khai thú nhận tội trong tư tưởng đó là lười suy nghĩ về cách "sống đạo hôm nay" theo lời dạy của Hôi Đồng Giám Mục Việt Nam năm nay. Việt Nam đã vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO). Nước ta đang chuẩn bị bầu cử Quốc Hội. Thế mà tôi lại thờ ơ với vận mệnh quốc gia dân tộc. Tôi đã lười suy nghĩ về một cơ quan quyền lực cao nhất. Tôi đã phạm tội vì không trăn trở làm sao để có một Quốc Hội thực sự là đại diện cho nhân dân. Tôi đã phạm tội vì không chịu suy nghĩ làm sao để cuộc bầu cử quốc Hội sắp tới thực sự là công bằng, dân chủ...
Tôi đã phạm tội trong lời nói: Nói sai, phát biểu xằng bậy, gây bất hòa, chia rẽ thì đáng phải xưng thú. Giảng dạy những điều lầm lạc, chủ quan, duy ý chí thì cũng rất cần xưng thú. Và cả những điều sai lầm khác từ môi miệng tôi phát ra gây hại cho tha nhân, cho xã hội, cho Hội Thánh.
Tuy nhiên điièu tôi muốn xưng thú ở đây về tội trong lời nói đó là tôi đã không nói những gì cần phải nói. Tiên tri Êgiêkien đã nói thay Giavê rằng: Nếu ngươi không chịu nói cho kẻ gian ác bỏ đường gian ác mà trở về nẻo chính đường ngay, để kẻ gian ác chết trong tội ác của nó thì ta sẽ đòi nợ máu nó nơi ngươi. (x.Giê 33,8). Tôi thú nhận rằng tôi có thấy chuyện cơ cấu trong việc bầu cử Quốc Hội là đi trái với sự công bằng và dân chủ. Số đảng viên Cộng sản hiện nay khoảng ba triệu người. Dân số nước ta hiện nay khoảng 80 triệu người. Thế mà người ta lại cơ cấu cho người ngoài đảng được vào Quốc Hội chỉ 10 %. Tôi nhận ra sự thiếu công bằng. Không biết vì sợ hãi, vì chút lợi lộc hay vì một nguyên nhân nào đó mà tôi đã không nói. Tôi thành thật thú nhận mình đã tự biện minh rằng đợi Hội Đồng Giám Mục lên tiếng trước đã, đợi Giám Mục giáo phận lên tiếng trước đã. Mình chỉ là ông cha xứ vùng quê, vùng xa. Không nên cầm đèn chạy trước ô tô. Vì thế tôi đã không nói, không dám nói điều phải nói, điều cần nói.
Một cuộc bầu cử trong công bằng và dân chủ thì mội sự đều là có thể. Một vị dù là cấp cao hay quyền lớn đều có thể trúng cử hay không trúng cử. Khi đã cơ cấu số người ở cấp này, cấp kia; số người chuyên trách ở tỉnh này, vùng nọ thì chắc chắn sẽ có
rất nhiều người không thể nào không trúng cử, nghĩa là chưa bầu mà chắc chắn trúng cử vì phải trúng cử thì không còn chuyện công bình ở đây. Tôi biết chuyện này mà tôi đã phạm tội vì không dám nói. Có thể mình viết bài không ai chịu đăng, nhưng mình có thể nói trong phạm vi, quyền hạn của mình. Sao lại không?
Còn lắm chuyện của hôm nay như chuyện các ngôi nhà đồ sộ, ngất ngưỡng ở Thủ Đô... Người ta đã đã lý luận rằng đó là xây nhà không phép, sai phép nhưng không trái phép. Đúng là quá xem thường người dân. Đang có quyền chức thì muốn nói sao cũng được kiểu miệng nhà quan có gang có thép chăng? Vừa qua Mặt Trận Tổ Quốc đưa ra 6 tiêu chí để xét duyệt những người ứng cử vào Quốc Hội, trong đó có tiêu chí là: "không có tham vọng cá nhân". Quả thật nếu dựa vào tiêu chí này thì đốt đuốc cả ban ngày cũng không tìm ra một ai, chỉ trừ những trẻ em chưa có trí khôn hay những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần. Cũng có thể tìm ra, nhưng đó là những thánh nhân mà đã qua đời! Tôi thú nhận mình biết và hiểu những chuyện này nhưng đã không lên tiếng. Quả thật tôi đã phạm tội nhiều trong việc dùng lời nói. Tôi đã ngại ngần nói lên sự thật. Tôi đã hèn nhát không dám bảo vệ sự công bằng. Tôi đang thờ ơ với việc việc sống đạo hôm nay. Tôi chưa nỗ lực xây dựng nước nhà phát triển trong công bình, dân chủ và văn minh.
Tôi đã phạm tội trong việc làm và những điều thiếu sót: Làm nhiều, sai nhiều; làm ít, sai ít. Một thực tế hiển nhiên ít ai chối cãi. Thế nhưng không làm, không chịu làm việc phải làm trong khả năng và hoàn cảnh là một sai lầm trầm trọng.
Lại biện minh cho mình. Là linh mục, là mục tử, mình chỉ giảng dạy thôi chứ. Còn làm là chuyện của tín hữu giáo dân. Biện minh thế nào đi nữa thì tôi cũng thấy hổ thẹn với người Samaritanô nhân hậu mà Chúa Giêsu đã kể chuyện trong Tin Mừng (x. Lc 10,29-37). "Ông hãy đi và làm như vậy" (c. 37). Tôi biết điều này chứ thế mà tôi vẫn khoanh tay đứng nhìn. Thú thực rằng tôi đâu có vô tâm. Tôi đã cầu nguyện nhiều lắm. Nhưng phải thú nhận rằng tôi đã lợi dụng sự cầu nguyện để khỏa lấp các thứ tội trong việc làm. Đó là không chịu nỗ lực công tác với ơn Chúa. Đây cũng là một trong những cách thế phạm đến tội: " những điều thiếu sót ".
Tôi thú nhận... Chúa có hài lòng về sự thống hối của tôi không? Sám hối, ăn năn là để sửa đổi, để bắt đầu làm lại, bắt đầu lại sống đạo hôm nay. Tội của tôi sẽ mãi còn đó nếu tôi chỉ biết thú nhận mà không sửa đổi.
36. Ăn năn sám hối – R. Veritas--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
Khi một người có vẻ gian ác gặp tai ương hoạn nạn, chúng ta vẫn thường đưa ra nhận xét: ác giả ác báo, đúng là hắn bị trời phạt. Đây là cách suy nghĩ thông thường của người đời. Cách đây đã hơn hai ngàn năm, những người đồng thời với Chúa Giêsu cũng suy nghĩ cách thường tình như thế khi họ đến kể cho Người nghe câu chuyện của người Galiê đang dâng lễ vật thì bị quan Philatô giết chết. Khi kể câu chuyện này, họ ngầm ý nói rằng những người Galiê đó chắc phải ăn ở thất đức mới bị giết đang khi dâng lễ như vậy. Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu sửa sai cách suy nghĩ thông thường đó và kêu gọi dân chúng sám hối để thoát cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.
Khi nghe thuật lại biến cố tàn sát những người Galiê tại nơi tế đàn, Chúa Giêsu không đồng tình với các suy nghĩ thông thường của những người kể chuyện. Người đưa ra một cái nhìn mới, trong đó điểm quan trọng là mỗi người hãy tự xét lấy cách ăn thói ở của mình thay vì xét đoán cách ăn thói ở và số phận của kẻ khác.
Phê bình, xét đoán người khác là một việc làm thường gây thích thú cho chúng ta, bởi chúng tạo cho chúng ta cảm giác mình là người tốt, hoặc ít nữa, cũng không phải là người tồi tệ, đốn mạt. Người xưa có khuyên kẻ quân tử hãy tự kiểm mỗi ngày ba lần để sửa mình. Trong dụ ngôn trên đây, Chúa Giêsu cũng không ngừng nhắc nhở dân chúng sám hối. Người đưa ra hình ảnh cây vả trồng trong vườn nho là hình ảnh rất quen thuộc trong Kinh Thánh khi nói về người Israel và dân Israel. Cây vả ở đây là một cây vả đã ba năm rồi mà không hề sinh hoa kết quả. Ba năm Chúa Giêsu ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho dân chúng, thế mà có mấy ai thu lượm được hoa trái. Đúng ra, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã giáng xuống trên những con người ù lì ương ngạnh kia như lời Gioan Tẩy Giả đã loan báo: “Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Tuy nhiên, Thiên Chúa là Cha nhân ái và giàu lòng thương xót, Người vẫn độ lượng và gia hạn cho họ thêm một thời gian để ăn năn hoán cải. Vì yêu thương, Người đã dằn cơn giận và cho họ thêm một cơ hội nữa: Hãy sám hối khi vẫn còn thời cơ. Chúng ta thường mải miết lo toan cho cuộc sống vật chất mà lơ là với cuộc sống tâm linh, đã biết bao năm rồi, chúng ta như cây vả được trồng trong vườn nho của Thiên Chúa, chúng ta đã mọc lên ra sao, chúng ta xanh tươi cành lá hay chúng ta quắt queo cằn cỗi, chúng ta đâm bông kết trái hay chẳng có quả nào, chúng ta có tìm hiểu tại sao mình ở trong tình trạng hiện nay hay không, chúng ta có kế hoạch cụ thể nào để phát huy những điểm tốt và khắc phục những điểm xấu của mình hay chưa, ngày hôm nay của chúng ta có khác hơn ngày hôm qua không, chúng ta có quyết tâm làm cho ngày mai của chúng ta khá hơn ngày hôm nay hay không?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói rằng: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở trong Thầy, Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được”. Xin cho con luôn kết hiệp chặt chẽ với Chúa trong mọi giây phút của đời mình để cuộc sống của con được sinh nhiều hoa trái tốt lành làm tôn vinh Thiên Chúa và mưu ích cho anh chị em.
37. Chúa đợi ta
Cùng với Giáo hội ta đã đi gần nửa chặng đường của Mùa Chay năm nay. Xin được phép dừng lại đôi chút để mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại tâm tình của mình. Ta đã sống và nhất là đang có tâm tình nào trong Mùa Chay năm nay? Điểm trọng yếu của Mùa Chay là Giáo hội muốn mọi thành phần dân Chúa ý thức thân phận của mình. Ý thức về sự yếu đuối của mình để rồi ta biết phó thác vào tình yêu của Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Thiên Chúa của ta là Thiên Chúa tình yêu. Thiên Chúa của ta là Thiên Chúa trung thành. Thiên Chúa của ta là Thiên Chúa kiên nhẫn. Và Thiên Chúa của ta là Thiên Chúa khoan dung. Chắc chắn là không ai trong chúng ta dám cho mình là kẻ vô tội hay là người công chính trước mặt Chúa. Không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ ai trong chúng ta đều là kẻ có tội trước mặt Chúa. Dù vậy, nhiều khi ta lại có thái độ " Chuyện người thì sáng còn chuyện mình thì oán " hay " Chỉ thấy cái rác trong mắt anh em còn cái xà trong mắt mình thì lại không thấy " (Mt 7, 3) như những người Do thái trong Tin mừng hôm nay.
Có lẽ, họ hãnh diện lắm khi kể lại cho Chúa Giêsu chuyện một số người bị tổng trấn Philatô giết. Họ nghĩ rằng vì mình công chính hơn nên đã không bị giết như những người kia. Thật là một sai lầm lớn. Mỗi người chúng ta được sinh ra làm người, được sống và được mọi ân huệ của Thiên Chúa không bao giờ là do công trạng của mình. Tất cả chỉ là hồng ân nhưng không mà Thiên Chúa ban cho.
Những gì Thiên Chúa ban cho, Người chỉ mong rằng ta biết dùng nó mà sinh ích lợi cho mình và cho mọi người. Thiên Chúa đang chờ đợi đời sống ta sinh hoa kết trái. Muốn được sinh hoa kết trái ta hãy để cho Người vun xới. Khi ta đến với Người qua việc lãnh nhận các Bí tích, khi ta đến với Người trong các giờ kinh nguyện...là ta đang để cho Người vun xới.
Đồng thời Người cũng kêu gọi ta cộng tác vun xới với Người. Ta cộng tác với Người bằng cách đem niềm vui và hạnh phúc đến cho những người anh chị em xung quanh. Ta cộng tác với Người bằng việc xây dựng tình đoàn kết và yêu thương nhau trong gia đình hay cộng đoàn ta đang sống.
Tóm lại, Thiên Chúa không nỡ "chặt" ta dù rằng có khi ta làm phiền lòng Người hay đời sống ta không sinh hoa kết quả. Thiên Chúa luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để ta sinh hoa kết trái đem lại lợi ích cho ta và cho mọi người. Hãy biết luôn tận dụng những cơ hội tốt đó.
38. Mua thời gian--Lm. Vũ Đình Tường
Câu nói có tiền mua gì cũng có rất đúng cho chủ thuyết duy vật chất, như nhà cửa quần áo, đồ dùng. Chủ nghĩa trọng tinh thần cho thấy người dù có nhiều tiền cũng không mua được trí thông minh, tính khiêm nhường hay lòng bác ái như thế sức mạnh đồng tiền, dù có quĩ tiền tệ quốc tế bảo chứng, cũng có giới hạn riêng của nó. Về phương diện tâm linh, nhất là khi phải đối diện giữa sống và chết thì tiền hầu như trở thành bất lực. Đồng í có người may mắn nhờ nhiều tiền cơ hội chữa lành bệnh cao hơn. Điều này không có nghĩa người giầu, kẻ uy quyền sẽ không bao giờ chết. Ngày nào đó họ cũng phải ra đi. Khi sống tiền của, chức tuớc họ có là kẻ đồng hành như bóng với hình nhưng khi chết họ ra đi trong cô đơn, độc hành vì tiền bạc họ có lìa xa họ. Trái lại kẻ tin vào Đức Kitô suốt đời họ luôn cùng đồng hành với Ngài và cùng đồng hành trên đường về thiên quốc.
Ai cũng biết của cải vật chất cần cho sự sống và làm cho cuộc sống thoải mái hơn. Của cải vật chất ít nhiều cũng đóng vai trò giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa nhưng của cải vật chất tự nó không có khả năng dẫn ta đến với Đức Kitô. Thực ra của cải vật chất một mặt mang lại cơm no, áo ấm mặt khác lại tạo nên sức ép, đè nén, mà không ai có thể chối bỏ được thực tế dồn ép này của cuộc sống. Sức dồn ép được coi là gánh nặng cuộc đời của mỗi người. Khi sức ép trở thành gánh nặng quá mức chịu đựng, tinh thần người đó bị suy sụp, trở thành nạn nhân của gánh nặng cuộc đời. Để gánh nặng trở nên nhẹ nhàng hơn Đức Kitô vạch ra cho những ai tin vào Ngài một con đường, giúp người đó học cách trút bỏ gánh nặng cuộc đời.
Cách học trút bỏ gánh nặng cuộc đời chính là rộng mở tâm hồn đón nhận ơn Chúa và thực hành giáo luật yêu thương. Đặt niềm tin vào Đức kitô là chọn đúng con đường dẫn đến hạnh phúc thật và sự sống trường sinh vì chính Ngài xác nhận Ngài là đường là sự thật và là sự sống. Chọn theo Đức Kitô là chọn đúng đường dẫn đến hạnh phúc thật. Chọn dẫn đến sự thật mà sự thật có sức mạnh giải thoát con người khỏi gánh nặng cuộc đời. Chọn sự sống Đức Kitô ban chính là sự sống vĩnh cửu chỉ mình Đức Kitô có và ban cho những ai mong mỏi kiếm tìm sự sống đó.
Đôi khi chúng ta thất bại trong việc tin theo Đức Kitô. Trong trường hợp đó Ngài không bỏ rơi chúng ta nhưng ban cho chúng ta một giải pháp khác giúp ta trở về với Ngài. Giải pháp đó được coi như là cách mua thời gian. Làm sao để mua được thời gian đó. Thưa câu giải đáp tìm thấy trong cuộc đối thoại giữa chủ nhân và người làm vườn trong bài đọc hôm nay.
Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. vậy anh chặt nó đi để làm gì cho hại đất? Nhưng người làm vườn đáp. Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa, tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu khôn thì ông sẽ chặt nó đi Lc 13,7-9
Xin cho thêm một thời gian nữa, một cơ hội nữa là điều người làm vườn xin lòng từ bi, hỉ xả, bác ái từ ông chủ. Xin cho một cơ hội để thay đổi, hoán cải, từ bỏ lối cũ quay về lối mới. Lòng thương xót của ông chủ phát sinh từ tình yêu bao la và chính tình yêu bao la khiến ông chủ ban thêm một cơ hội. Chỉ một cơ hội thôi sao? Thưa không, hàng năm Giáo Hội luôn tạo thêm một cơ hội, tuỳ theo mùa phụng vụ và mỗi mùa phụng vụ lại tạo thêm một cơ hội giúp con người hồi tâm quay về với Thiên Chúa. Tình yêu Chúa thể hiện qua Giáo Hội trong việc kiên trì chờ đón con người thống hối trở về, không phải một năm mà hàng năm. hết năm này sang năm khác, Giáo Hội luôn mở rộng vòng tay đón nhận ta quay về cùng tình yêu Chúa để gánh nặng cuộc đời giảm nhẹ, hưởng hạnh phúc thật và sự sống thật.
39. Cơ hội cuối cùng--Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Nếu hôm nay có người đến nói với bạn: “Anh chỉ còn đúng một năm nữa để sống thôi”, bạn sẽ làm gì trong năm cuối cùng đó của cuộc đời? Bạn sẽ tự nhủ: “Ồ, ta cứ sống đi đã. Lúc nào chết tính sau”, hay bạn sẽ tính toán: “Dẫu sao thì cũng còn 365 ngày nữa. Tới ngày thứ 300, ta bắt đầu chuẩn bị cũng còn kịp chán.”
Nếu đó là thái độ sống của bạn thì e rằng bạn đang sa lưới của Satan rồi. Một tinh thần lề mề và một thái độ trì hoãn sẽ mang lại biết bao tai hoạ. Để đến ngày mai những gì nên làm hôm nay là tự đánh mất tương lai của chính mình. Không có cám dỗ nào nguy hiểm cho bằng tư tưởng: “đời còn dài, ngày mai còn kịp”.
Một dụ ngôn kể lại việc ba quỷ con đến chào tướng quỷ là Satan trước khi lên trần gian tập sự. Chúng trình bày cho Satan những mưu đồ của mình trong việc phá huỷ hạnh phúc con người.
Quỷ con thứ nhất đến trình rằng: “Em sẽ bảo với người ta là không có Thiên Chúa đâu. Thế nên đừng lo phải đi nhà thờ nhà thánh gì cả.” Satan trả lời: “Như thế thì chẳng lừa được mấy người đâu, vì họ dư biết là có một Thượng đế, Đấng Tối cao trên muôn loài muôn vật.”
Quỷ con thứ hai vội tiến lên trình bày sách lược của mình: “Em sẽ rỉ tai người ta là không có hoả ngục đâu. Thiên Chúa là Đấng yêu thương nên làm gì có chuyện Ngài dựng nên hoả ngục để hành hạ con người.” Nghe thế Satan trầm tư một chút rồi nói: “Nhưng cách này cũng chỉ lừa được một ít người thôi, vì người ta cũng dư biết Thiên Chúa là Đấng Công minh. Ngài sẽ thưởng phạt theo công phúc của họ. Thế nên mấy ai lại không hiểu là phải có hoả ngục để làm nơi chứa tội.”
Quỷ con thứ ba lại gần và tâu với thủ lãnh: “Em sẽ nói với loài người rằng không có gì phải vội vã cả, còn lâu Chúa mới trở lại.” Satan suy nghĩ, đoạn gật gù và nói: “Hay lắm, bằng cách đó ngươi sẽ tiêu diệt được hàng vạn linh hồn.”
Thế ra, không có sự lừa dối nào tai hại cho người ta bằng ý tưởng “thời gian còn nhiều”, để rồi cứ mãi đắm chìm trong đam mê tội lỗi, rối vợ rối chồng, hững hờ niềm tin, tôn thờ vật chất, sa lầy hưởng thụ. Và cuối cùng, như cây vả không sinh trái, bị chặt xuống và quăng vào lửa đời đời.
Thánh Anphongsô từng viết: “Ai cũng biết rằng mình sẽ chết, nhưng khốn thay! Nhiều người nghĩ rằng sự chết còn rất xa. Họ cho rằng những người già cả, ốm yếu mà còn sống được ba bốn năm nữa, huống chi là mình. Nhưng con hãy biết, đã có biết bao nhiêu người chết một cách bất ưng, khi họ đang ngồi, đang đi, đang ngủ… Có ai trong họ nghĩ rằng mình sẽ chết” (xem sách Chân Lý Đời Đời của Thánh Anphongsô).
Vị tông đồ dân ngoại từng nhắc nhở các cộng đoàn tiên khởi: “Khi người ta nói: Bình an và chắc chắn! Thì bấy giờ là lúc tiêu diệt thình lình ập xuống trên họ” (1 Tx 5:3). Thế nên hãy biết tỉnh thức, sám hối, và canh tân. Chính Chúa Giêsu cũng đã phán: “Nếu các ngươi không ăn năn sám hối, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt” (Lc 13:3).
Sám hối không chỉ là công việc dừng chân trên con đường tội lỗi, nhưng còn là một ý thức về thời điểm hồng ân: “đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”. Sám hối là nhận rõ thời điểm của yêu thương tràn đầy. Tình thương dạt dào đến nỗi Thiên Chúa còn tạo thêm cơ hội và kiên nhẫn đợi chờ: “Xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân, may ra nó có quả chăng” (Lc 13-8-9a).
Có cảm nhận được tình Chúa yêu thương và nỗi mong chờ tha thiết của Ngài, con người sẽ có một cuộc sám hối đích thực. Sám hối là trở về trong yêu thương của Thiên Chúa, một tình yêu tự hiến và vị tha. Cảm nhận được tình yêu như thế sẽ làm phát sinh hoa trái là bao việc lành phúc đức.
“Dụ Ngôn Cây Vả” không những lên án thứ cây “ăn hại và làm choáng đất”, nhưng còn nói rõ yếu tố kết thành bản án. Đó là thứ cây “không sinh trái”. Thế nên sám hối không chỉ là việc thôi không phạm tội nữa, song còn là việc tô điểm tâm hồn bằng những hoa trái thiêng liêng. Thiên Chúa không đến để nhìn một cây vả trơn tru, không gai góc, nhưng Ngài đến là để tìm hoa quả nơi cành của nó.
“Xin để một năm nay nữa. Bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi”. Thiên Chúa luôn cho tôi cơ hội làm lại cuộc đời. Ngài luôn mở lòng yêu thương mời gọi những ai sa ngã chỗi dậy. Thế nhưng cơ hội thì có hạn. Sẽ đến ngày chỉ còn một cơ hội cuối cùng. Nếu đời tôi còn một năm, hay một tháng, hoặc một ngày nữa thôi thì sao. Thật bất hạnh vô cùng khi tôi đánh mất cơ hội cuối cùng đó.
Vì không biết đâu là cơ hội cuối, nên tôi phải xem ngày hôm nay như là “lúc thuận tiện” để nhận ơn cứu độ đời mình. Nếu ngày mai Chúa còn cho sống, thì ngày mai vẫn là một cơ hội không nên đánh mất.
Thông thường, mỗi tối trước khi lên giường nghỉ đêm, chúng tôi hay đọc Kinh “Cầu Ơn Chết Lành”, xin được ghi lại dưới đây như một chia sẻ chân thành:
“Lạy Chúa con, con biết thật con sẽ chết. Có khi con chỉ còn sống được ít phút nữa mà thôi. Có khi đêm nay con vào giường nghỉ mà sáng mai chẳng còn chỗi dậy nữa. Cho nên Chúa dặn bảo con: dọn mình vào giường ngủ như là vào mồ chết vậy.
Lạy Chúa con, con biết thật đến giờ lâm chung, con sẽ ước ao chớ gì khi sống, con chẳng có phạm tội, lại hết lòng kính mến Chúa luôn. Lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy. Con ước ao sống và chết trong sự kính sợ Chúa.
Ôi Chúa con, con xin phó dâng linh hồn con cho Chúa, vì Chúa đã mua nó giá rất cao. Xin chớ để nó ra vô phước mà chẳng nhờ đặng Máu Thánh Chúa đã đổ ra mà cứu chuộc nó.
Lạy Mẹ Hằng Cứu Giúp. Lạy Thánh Thiên thần hộ thủ. Lạy Thánh Bổn mạng con. Lạy các Thánh Nam Nữ trên Nước Thiên đàng. Xin hãy chuyển cầu cho con được sống trong sự kính sợ Chúa, chết trong sự yêu mến Chúa, và làm tôi Chúa ở đời này, hầu ngày sau được hưởng cùng Chúa và Đức Mẹ trên Thiên đàng. Amen.
Giêsu, Maria, Giuse. Con xin dâng lòng con, trí khôn con, và sự sống con trong tay ba Đấng.
Giêsu, Maria, Giuse. Xin cho con được chết bằng an trong tay ba Đấng.”
Thiết tưởng, nếu mỗi tối, khi màn đêm buông xuống, trong không gian tĩnh mịch, với tâm tình cầu nguyện chân thành như trên, đời ta sẽ không thể không sinh hoa trái yêu thương. Và đương nhiên, hoa trái đó sẽ tồn tại cho đến muôn đời.
40. Có sám hối, có sự sống--Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ.
Bối cảnh sơ lược
Bài Tin Mừng này nằm trong bối cảnh ĐỨC GIÊSU LÊN GIÊ-RU-SA-LEM (Lc 9,51 – 19,27). Đây là cuộc hành trình Chúa Giêsu hướng về con đường khổ nạn và sự chết, để rồi Ngài sẽ phục sinh.
Cụ thể hơn, trước đó trong chương 12 Chúa Giêsu đã giảng lời những bài giúp ích cho mọi người, như lời động viên các môn đệ hãy nói công khai và đừng sợ (Lc 12,1-12); lời huấn giáo cho đám đông đừng thu tích của cải cho mình (Lc 12,13-21); tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng (Lc 12,22-32), bán của cải đi mà bố thí (Lc 12,33-34). Sau đó Chúa Giêsu cũng nói lên thái độ của Chúa trước cuộc thương khó (Lc 12,49-50).
Sau bài Tin Mừng nhắc nhớ về sự sám hối mà chúng ta tìm hiểu và suy niệm, Luca kể cho chúng ta nghe về việc Chúa chữa một phụ nữ còng lưng ngày Sa-bát và sau đó là một số dụ ngôn.
Ngoài ra, hai phần này bắt đầu chương 13 của Luca và các tác giả phúc âm khác không có ghi lại. Trước tiên Luca về hai biến cố bi thảm xảy ra trong thực tế mà nhiều người đương thời với Chúa Giêsu biết. Sau đó, Chúa Giêsu kêu gọi trực tiếp về việc hoán cải. Chúa Giêsu thêm vào dụ ngôn cây vả mà người chủ muốn chặt bỏ bởi vì nó không sinh trái; ở đây cũng là lời kêu gọi khẩn thiết thay đổi cuộc sống.
Cấu trúc đoạn Tin Mừng
Đoạn Tin Mừng có thể chia làm hai phần rõ rệt:
1. Lời mời gọi sám hối: Nếu không sám hối, thì sẽ chết hết (câu 1-5)
2. Dụ ngôn cây vả không ra trái (câu 6-9).
Tìm hiểu và suy niệm
1. Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. 2. Đức Giêsu đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao?3 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy
Trước tiên Luca về hai biến cố bi thảm xảy ra trong thực tế mà nhiều người đương thời với Chúa Giêsu biết. Biến cố đầu tiên là chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Như thế, những người Ga-li-lê ở đây là khách hành hương về Giê-ru-sa-lem để dự lễ. Nhưng lễ đó là lễ nào? Các nhà chú giải giả thiết là có thể dịp dâng chiên Vượt Qua. Tuy nhiên, biến cố đó chính xác là biến cố nào, các nhà chú giải không biết, dù cho với người Do-thái thì Phi-la-tô trong thời gian làm tổng trấn xứ Giu-đê, ông là người tàn ác và không nhượng bộ, và ông được biết tới với những vụ đàn áp đẫm máu.
Theo cha Piere Cardon, mặc dù chúng ta không có những nguồn khác nói về sự kiện này, nhưng một biến cố thuộc loại này không phải là khó tin trong tình hình cai trị tàn ác của Phi-la-tô thời đó. Đàng khác, người Ga-li-lê có xu hướng nổi dậy và tấn công, nhất là trong trường hợp những người Zelote mà đảng của phát triển tại Ga-li-lê và mục đích là dùng bạo lực để thay đổi chính trị. Những cuộc hành hương mừng lễ vượt qua mang lại cho họ một dịp để gây lộn xộn trong thành Giê-ru-sa-lem. Phi-la-tô là một người tàn ác và khắt khe. Hành vi đàn áp này càng ghê tởm hơn, khi ông trộn máu của những người đang dâng lễ với máu của những con chiên mà họ đang dâng hiến…Sự kiện được kể lại chắc đã có một tiếng vang lớn. Mọi người tỏ ra tức tối khi thấy máu người đổ ra trong đền thờ, thấy sự xúc phạm đến các lễ vật, và nhận thấy rằng người La-mã thậm chí không ngại xúc phạm những gì được hiến dâng cho Thiên Chúa.
Ngoài ra, Piere Cardon còn đưa ra một giả thiết, là nếu người ta dựa vào “cái nhìn chính trị” và kể cho Chúa Giêsu nghe biến cố đó để cố ý gài bẫy Chúa, thì Chúa trả lời sao đây. Nếu Chúa nói: “Những vụ tàn sát này rõ ràng là bất công, đàn áp, thì họ có thể tố cáo Ngài với chính quyền La-mã”. Nhưng Chúa Giêsu không rơi vào bẫy, Ngài từ chối tham gia lãnh vực chính trị trần tục, Ngài không bao giờ chọn lựa bạo lực làm phương tiện để mang lại hoà bình. Và nếu quan sát kỹ, chúng ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ tỏ quan điểm trong những cuộc xung đột đối kháng và chia rẽ này. Cho nên Ngài đến để quy tụ và hợp nhất các con cái của Thiên Chúa bị phân tán (x.Ga 11,52). Điều này cũng giải thích việc từ chối dấn thân chính trị rõ ràng về phía những người mà Chúa Giêsu phái đi loan báo Phúc Âm cho khắp thế giới. Như thế, thay vì đi vào vết chân “chính trị”, Chúa Giêsu kêu gọi họ ăn năn hối cải theo tinh thần tôn giáo.
Luca diễn tả Chúa đã mở lời nói với họ: “Đức Giêsu đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. Trước hết chúng ta dừng ở câu đầu tiên của Chúa Giêsu Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao? Câu này lột tẩy một thói quen là người ta dễ dàng nhìn đến tội lỗi và lẫm lỡ của người khác, còn bản thân mình thì không ý thức để sám hối ăn năn. Điều thứ hai mà qua câu này chúng ta thấy được, đó là thói quen suy nghĩ của người Do-thái, là sẽ không có hình phạt nếu không có tội. Như thế, họ tin rằng các tai hoạ xảy đến là hậu quả tội lỗi mà họ đã phạm trước đó. Sách Gióp có viết rằng:
“Điều tôi thấy rành rành
là những người vun trồng tội ác và gieo tai rắc hoạ
cuối cùng chỉ gặt lấy hoạ tai” (4,8) &
“Con cái anh mà đắc tội với Người,
Người bắt chúng phải gánh
những hậu quả do tội ác chính mình đã phạm” (8,4).
Chúa Giêsu không theo cái nhìn này của người Do-thái. Với Ngài điều quan trọng là tinh thần sám hối và ăn năn. Vì thế, Chúa đã dựa vào điều người Do-thái thường nghĩ, để dạy dỗ họ tinh thần sống của Tin Mừng. Đó là Chúa mời gọi họ quan tâm đến sự hoán cải riêng thay vì quan tâm tới những lầm lỗi của người khác. Chúng ta nghe Chúa nói với các phụ nữ trên đàng Thánh Giá: “Hỡi chị em thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23,28).
Về tinh thần mời gọi sám hối, cụ thể hơn, Chúa Giêsu đã nhắc đến biến cố thứ hai mà người Do-thái biết tới.
4 Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao?5 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.”
Tháp Si-lô-ác được nhắc đến ở đây là tháp nào? Theo cha Pierre Cardon, Ở phía nam Giê-ru-sa-lem, bức tường thành chạy tới tận giếng Si-lô-ác. Có thể ở đây có một cái tháp trên tường thành; người ta giả thiết rằng tháp này ngã khi Phi-la-tô cho làm công trình dẫn nước. Các thính giả của Chúa Giêsu nhớ lại tai hoạ làm 18 cư dân thành Giê-ru-sa-lem bị chết. Tai nạn này là một thảm kịch mà con người không trực tiếp gây ra – ít ra là do sự cẩu thả của những thợ xây tháp.
Sau khi Chúa Giêsu đã nhắc đến biến cố đó, lần thứ hai Ngài kêu gọi sám hối: nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.
Chữ hết trong câu 5 này cũng đã được nhắc đến trong câu 3 trước đó và ở trong cùng một ý nghĩa: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. Điều này không chỉ nói lên sự liên hệ chặt chẽ giữa hai câu và hai biến cố, mà còn qua đó còn nhấn mạnh đến sứ điệp chính yếu là “sám hối hoặc là chết”, “có sám hối có sự sống”. Hơn nữa, còn ám chỉ đến cái chết không chỉ đến với một cá nhân, mà tất cả những ai không sám hối thì sẽ lãnh nhận hậu quả đau thương đó.
Ngoài ra, Pierre Cardon một lần nữa nhấn mạnh rằng, đối với Chúa Giêsu không có mối liên hệ giữa tai hoạ và tội lỗi. Việc tìm kiếm thủ phạm thì quá dễ để không hối hận gì. Lầm lỗi thuộc về ai? Chính những người khác phải chịu trách nhiệm…! Đối với Chúa Giêsu đây không phải chuyện nói về “những người khác”. Ngài đưa người ta về với lương tâm của chính mình: “các ông tham dự vào bạo lực”. Chính tâm lòng con người, hơn là các cơ cấu, phải thay đổi. Nơi chốn duy nhất mà tôi có quyền lực thực sự, chính là hạnh kiểm của cuộc đời tôi, của sự hoán cải của tôi. Trốn tránh trách nhiệm của mình bằng cách tố cáo những người khác là điều vô ích. Các thảm hoạ đặc biệt không chỉ ra trách nhiệm của cá nhân, nhưng chúng có thể được xem như là những cảnh báo về sự phán xét của Chúa. Tất cả đều là người tội lỗi, tất cả đều phải đương đầu với cái chết, tất cả đều được đặt dưới sự phán xét của Chúa. Dó đó tất cả mọi người đều cần hoán cải nếu muốn khỏi bị phán xét và lên án.
Mỗi dịp mùa Chay, Ki-tô hữu lại có cơ hội để suy tư và sống tinh thần sám hối thực sự. Tro xức trên đầu ngày thứ Tư lễ tro với câu nói: “Hãy trở về và tin vào Tin Mừng” hoặc “Hãy nhớ mình là bụi tro” đều mang một sứ điệp rõ ràng và mạnh mẽ: “sám hối”, và khi sám hối thì dẹp qua mọi thói kiêu căng, thói đạo đức giả… Và chúng ta sám hối, một đàng chúng ta ý thức thân phận mỏng dòn và yếu đuối của bản thân, một đàng khác chúng ta tin vào Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót.
Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ chúng ta trong sứ điệp mùa Chay năm 2016, năm Thánh Lòng Thương Xót: “Lòng thương xót ‘diễn tả cách thức Thiên Chúa đến với tội nhân, trao cho họ một cơ hội mới để nhìn lại chính mình, để hoán cải và tin vào Thiên Chúa’ (Misericordiae Vultus, 21), và nhờ đó, có thể phục hồi lại mối tương quan với Người. Trong Chúa Giêsu chịu đóng đinh, Thiên Chúa đã bày tỏ khát khao của Ngài được đến gần với các tội nhân, dù họ có lạc xa Ngài đến thế nào đi nữa. Bằng cách này, Người hy vọng làm cho trái tim chai cứng của Tân Nương được mềm mại hơn” (số 2) và “chúng ta đừng lãng phí mùa Chay này, vì đây là thời gian thuận tiện cho việc hoán cải! Chúng ta cầu xin điều này nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đã gặp được lòng thương xót lớn lao đã tuôn đổ dồi dào trên Mẹ, là người đầu tiên thừa nhận sự thấp hèn của mình (Lc 1, 48) và gọi mình là nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa (x. Lc 1, 38)” (phần kết).
Ngoài ra, một suy tư khá hay của cha Pierre Cardon, là khi quan sát Chúa Giêsu và cách hành xử của Ngài, chúng ta thấy đứng trước sự ác, Chúa Giêsu đưa ra những lời kêu gọi. Cụ thể, kế bên tinh thần sám hối là căn bản và nền tảng, có hai thái độ cần tránh đi. Trước tiên là thái độ chìm đắm trong những giải thích về nguyên nhân của sự ác và tìm những câu trả lời gán trách nhiệm cho “những người khác”, nói họ còn tội lỗi hơn nữa, tại hoạ họ phải chịu còn lớn lao hơn nữa. Thái độ thứ hai cũng cần phải tránh, đó là những người tiêu cực quá ý thức về những giới hạn của con người, nên họ thất vọng hoàn toàn và không phấn đấu cố gắng và tiếp tục tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa toàn năng và từ nhân.
Kế bên đó, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy mắt nhìn vào hoàn cảnh của người tội lỗi, và đừng quên rằng mỗi người chúng ta cũng là người tội lỗi, và vào thời gian luôn luôn thuận lợi, để tiếp nhận tin vui tình yêu của Thiên Chúa.
6 Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy,7 nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?8 Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó.9 May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.”
Sau phần đối thoại trực tiếp với đám đông, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn cho họ nghe. Ở đây, chúng ta hỏi dụ ngôn là gì? Frère Théophile Penndu giải thích như sau: “Dụ ngôn: Nguyên ngữ Hy Lạp là: Para Ballein: ném qua một bên, phóng chiếu, gợi chú ý để đi xa hơn… từ đó mà có từ Antenne Paraboles để trên mái nhà, bắt sóng và hình ảnh để chiếu to lên trên màn hình. Dụ ngôn là gì? Là một kiểu nói rất phổ biến trong thế giới Do-thái. Nó thường là một sự so sánh, một ẩn dụ, một hình ảnh được kể lại dưới hình thức một câu chuyện cụ thể và lôi cuốn mượn từ cuộc sống hằng ngày, với mục đích khiến cho người nghe suy nghĩ không phải về những ý tưởng trừu tượng mà về những thái độ sống”.
Ngoài ra, dụ ngôn có lợi gì? Frère Théophile Penndu giải thích tiếp: “Dụ ngôn là phương pháp sư phạm rất hiệu quả. Nó bắt người nghe phải có thái độ, có lập trường chứ không trung dung được…dụ ngôn khiến người nghe phải có lập trường, phải dấn thân vào một tình huống cụ thể. Nhưng câu chuyện kể khéo đến độ người nghe không biết là nói về mình. Một cách nào đó, các nhân vật trong dụ ngôn dấu mặt tới cuối mới lộ ra”.
Còn với Chúa Giêsu, Ngài dùng dụ ngôn nhứ thế nào? Theo Frère Théophile Penndu “Là nhà sư phạm lão luyện và tâm lý gia đại tài, Chúa Giêsu biết rằng thính giả của mình có những quan niệm rất sai về Thiên Chúa và về cách thế đi theo Người. Song Ngài không muốn chặn đầu họ ngay: ‘Ông lầm rồi, ông không hiểu gì cả…’ Ngài thích giúp họ dần dà khám phá ra sự thực về chính mình một cách bất ngờ khởi đi từ việc quan sát những sự kiện trong đời thường. Như vậy, Chúa Giêsu giúp họ nắm bắt được những thực tại thiêng liêng và đề cao những giá trị phổ quát về con người”.
Giờ đây, chúng ta đi vào dụ ngôn cây vả không trái mà Chúa Giêsu chỉ nói trong phúc âm của Luca (13,6-9).
Trong dụ ngôn này, chúng ta thấy có hai nhân vật. Người chủ vườn và người làm vườn. Hình ảnh được nói tới là một cây vả được trong vườn nhỏ của chủ vườn. Pierre Cardon giải thích rằng, trong những vườn nho ở Palestine, người ta tự ý trồng cam quýt hoặc cây ăn trái khác, nhất là cây vả. Các vườn nho được xem là những mảnh đất rất thuận tiện để trồng cây vả. thậm chí cây vả cũng phát triển tốt tại những thửa đất khá bạc màu; vườn nho là mảnh đất rất tốt. Việc chăm sóc cây vả cũng như các cây nho được ông chủ giao phó cho người làm vườn.
Giờ đây, đi vào diễn tiến của dụ ngôn, chúng ta đọc thấy: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?” Như thế người chủ ra cây vả tìm trái, nhưng ông ta không tìm thấy trái nào cả. Đó là tình trạng của cây vả. Tình trạng này đã đưa lại tâm trạng thất vọng của ông chủ vườn. Lý do ông thất vọng là gì? Ông đã nhẫn nại đợi cây vả này trong vòng 03 năm và mong ngóng nó ra trái, nhưng cuối cùng ông đã thất vọng.
Về con số 03 năm, Pierre Cardon giải thích rất có lý, người ta đồng ý để ra ba năm cho cây phát triển. Trong ba năm này, không được thu hoạch trái. Ở đây, chúng ta đọc trong sách Lêvi 19,23-25: “23 Khi các ngươi đã vào đất và trồng bất cứ cây ăn trái nào, thì các ngươi sẽ kể trái nó là chưa cắt bì; trong ba năm các ngươi phải coi trái nó là chưa cắt bì, không được ăn.24 Năm thứ tư, mọi trái nó sẽ được thánh hiến trong một buổi lễ mừng ĐỨC CHÚA.25 Năm thứ năm, các ngươi được ăn trái nó; như thế hoa trái nó sẽ tăng thêm cho các ngươi. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi”.
Như thế, ba năm cây vả lớn lên dù có trái thì người trồng vườn cũng không chú ý tới. Rồi tới năm thứ 4, tất cả các trái của cây vả được dâng lên cho Thiên Chúa. Nghĩa là từ năm thứ năm trở đi người chồng vườn mới chú ý đến hoa trái của cây vả. Theo sự giải thích này, thì cây vả đã trồng được 07 rồi, nghĩa là 04 năm đầu ông chủ không chú ý đến việc cây vả ra trái cộng với 03 năm liên tiếp ông chủ chú ý xem cây vả ra trái thế nào, thì đều không tìm thấy trái. 07 năm rồi mà không ra trái, thì tình hình có vẻ không hy vọng gì nữa. Nếu việc xác định biểu tượng trong dụ ngôn là đúng, thì có thể nói đã đủ thời gian để cây vả sinh hoa kết trái. Ông chủ đã đợi một cách kiên nhẫn; hơn cả thời gian bình thường để cây ra trái. Kết luận về điều này được nói lên trong phần kế tiếp, khi ông chủ vườn ra quyết định dứt khoát và nói với người làm vườn anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? Quyết định này của ông chủ, một cách nào đó có lý, vì cái cây xấu này không chỉ không sinh trái, mà còn choán chỗ những cây khác và làm đất bạc màu là thứ thể được dùng cho các cây khác. Cây vả hấp thụ nhiều yếu tố dinh dưỡng trong đất, cũng bằng các cây nho chung quanh nó hấp thụ. Có những cây vả không sinh trái, chẳng hạn phát sinh từ những hạt bị thoái hoá. Cho chặt cây vả là một hành động khôn ngoan. Cho nên tốt hơn là trồng một cây khác có khả năng sinh trái. Trước quyết định của ông chủ, người làm vườn phản ứng ra sao?
“Nhưng người làm vườn đáp: Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. Kiểu nói, “người làm vườn đáp” mà Luca sử dụng ở đây làm cho đối thoại trong dụ ngôn sống động hơn, nghĩa là Luca sử dụng chất liệu được một người chứng kiến Chúa Giêsu giảng nói lại với Người.
Trong Tân Ước từ ngữ “phân” chỉ được tìm thấy ở đây. Theo Pierre Cardon, đây không phải từ ngữ thường dùng trong minh hoạ tôn giáo. Người làm vườn có thể đề nghị xới đất chung quanh cây hoặc tưới nước cho cây, hoặc chăm sóc, tỉa cành lại cho cây. Ngoài ra, cây vả là cây cần chăm sóc rất ít. Do đó đây là một cách thức khác thường người thợ làm vườn muốn thực hiện như một cố gắng cuối cùng.
Nhưng chúng ta có bao giờ nghe rằng bằng cách bón phân cho một cái cây không sinh trái chúng ta có thể làm cho nó sinh trái hay không? Nếu cái cây đã “vô sinh”, thì nó không bao giờ ra hoa kết trái. Dù sao người làm vườn cũng mất công thử làm điều không thể xảy ra! Đây thực sự là một việc đối xử ân huệ dành cho cái cây không sinh trái. Trái với mọi hy vọng, người làm vườn vẫn còn hy vọng.
Như thế, trong dụ ngôn cây vả đây, lòng thương xót và sự phán xét được diễn tả thật sống động. Các lời này được nhân cách hoá bởi ông chủ và người làm vườn là những người tranh luận về cái cây không sinh trái. Sự căng thẳng này nằm trong thẳm sâu con tim của Thiên Chúa. Ở đây, chúng ta có thể đọc lời của tiên tri Hô-sê:
“8 Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi!
Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành!
Làm sao Ta xử với ngươi như với Át-ma,
để ngươi nên giống như Xơ-vô-gim được?
Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi.
9 Ta sẽ không hành động theo cơn nóng giận,
sẽ không tiêu diệt Ép-ra-im nữa,
vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm.
Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh,
và Ta sẽ không đến trong cơn thịnh nộ” (11,8-9).
Trở về với dụ ngôn, chúng ta thấy thái độ đặc biệt người thợ làm vườn cho thấy Chúa Giêsu đưa ra một thái độ vượt lên trên trật tự loài người, thái độ của Thiên Chúa là Đấng không gì mà Ngài không làm được (x.Lc 18,27). Và Chúa Giêsu là trung gian. Sứ vụ của Chúa Giêsu là dấu chỉ đầy hiểu quả của sự lo lắng không mỏi mệt và lòng thương xót của Chúa Cha. Thiên Chúa không đành trừng phạt mà không thử hết mọi cách nhằm làm trái tim dân Ngài cảm động. Ngài muốn cứu thoát tất cả. Ngài chậm bất bình và đầy tình thương. Đây là niềm hy vọng của chúng ta.
Như thế, chúng ta được Chúa ban cho sứ điệp cao quý về lòng thương xót của Thiên Chúa, và sứ điệp là chúng ta cần chú trọng đến sự cấp bách của hoán cải và ăn năn.
Câu cuối cùng của người làm vườn “may ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”. Cách nói trong tiếng Hy-lạp “eis to mellon” được dịch là sang năm (cha Nguyễn Thế Thuấn dịch là sau này). Nhưng chính xác có nghĩa là “trong tương lai”. Cho nên tiếng nói của bản văn càng nêu bật lời kêu cầu lòng thương xót và ân huệ của Thiên Chúa. Người làm vườn cầu xin lòng thương xót cho cây vả. Các yếu tố này được củng cố nếu người ta không xác định thời gian rõ rệt cho việc chặt cây. Thời gian phán xét trong tương lai vẫn không được xác định. Ngoài ra, chúng ta cũng thấy từ ngữ “nếu không” cũng không được xác định. Theo Pierre Cardon, ý nghĩa rất rõ ràng; sau các “hành vi cứu độ” và sau thời gian đủ để đổi mới, cây vả phải đáp ứng. Nếu nó không có gì cả, sự chọn lựa duy nhất là phán xét.
Cuối cùng, dụ ngôn kết thúc với một sự bỏ ngỏ, cũng giống như một số dụ ngôn khác. Ông chủ có chấp nhận một kỳ hạn mới hay không? Cây vả sẽ sinh trái hay không? Chúng ta không biết.
Cuối cùng, yếu tố thời gian của giây phút hiện tại đóng vai trò quan trọng trong dụ ngôn này. Chúng ta ở vào giới hạn cuối cùng của khúc quanh quyết định xác định số phận của mỗi người; nếu chúng ta chậm trễ thay đổi cách sống và hoán cải, thì chúng ta sẽ chết mà không gì có thể cứu chữa được. Hạnh phúc thay những người mà ông chủ thấy sẵn sàng (x.Lc 12,37.38.40.43). Nhưng khốn thay những người khác vào thời hạn cuối cùng mà không sám hối. Thật vậy, có sám hối có sự sống không chỉ ở đời này và cả đời sau.
Câu hỏi gợi ý
1. Cây vả không trái có thể là mỗi người. Chúng ta hãy nhớ lại lời Đức Giêsu. Tất cả những gì anh em muốn người khác làm cho mình, thì anh em hãy làm cho họ (x.Mt 7,12). Đó là khuôn vàng thước ngọc của tình yêu. Bạn hãy nhìn lại cây vả đời bạn, xem cây vả đang ra trái nhiều không, hay là đang cằn cỗi và không có trái? Để cây vả đời bạn có trái, bạn nên có thái độ tích cực nào?
2. Chúng ta không nên lạm dụng sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Và dù vậy, cho tới nay chúng ta đã bỏ lỡ dịp tốt. Thiên Chúa đã kiên nhẫn với con người, không mất hy vọng và mặc dù các dấu hiệu không sinh hoa kết trái của họ. Vì thế, chúng ta nên ý thức đừng phí phạm thời gian nữa: bây giờ chính là thời cứu độ. Có bao giờ bạn cảm thấy mình lạm dụng sự kiên nhẫn của Chúa không? Tại sao? Đừng phí phạm thời gian nữa. Ngày hôm qua không bao giờ trở lại.
3. “Có sám hối, có sự sống không chỉ ở đời này và cả đời sau”. Bạn có đồng ý với tư tưởng này không? Với bạn sám hối nghĩa là gì? Bạn đã và đang có hành động và cách sống sám hối như thế nào? Thánh Augustinô nói rằng, để dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Chúa cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài. Sự cộng tác của chúng ta là yếu tố quan trọng để Chúa thương tha tội chúng ta và ban ơn cứu độ cho chúng ta. Sự cộng tác đó, là sự ăn năn sám hối thật tình của chúng ta.
4. Trong Thánh Kinh có nhiều câu chuyện sám hối, như người phụ nữ tội lỗi sám hối và khóc bên chân Chúa (Lc 7), dụ ngôn người cha nhân hậu và người con hoang đàng (Lc 15), Da-kêu sám hối (Lc 19), như hình ảnh của Phê-rô khóc lóc sám hối (Lc 22) và như người trộm lành sám hối (Lc 23)…Bạn thích câu chuyện sám hối nào nhất trong Thánh Kinh? Bạn hãy lấy câu chuyện đó, cầu nguyện, suy niệm và tâm tình với Chúa.
Tham khảo
- Pierre Cardon de Lichtbuer SJ, Các dụ ngôn về nước Trời, (cuốn 2),Tôn Giáo, t.819-863.
- ĐTC. Phanxico, sứ điệp mùa Chay 2016.
- Frere Théophile Penndu, Chúa Giêsu nói bằng dụ ngôn, Lm. Nguyễn Văn Diễm chuyển ngữ, phần giới thiệu tổng quát và dụ ngôn cây vả không trái (Lc 13,6-9).
Chuyện minh họa
1. Ăn năn
Satan phàn nàn với Chúa: “Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời. “Chúa nói: “Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa?”.
2. Cơ hội cuối cùng
Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ông ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ: “Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu”. Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy: Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng: không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn. (GM Arthur Tonne).
3. Hối cải hay không.
Chuyện cổ dân gian kể về hai người anh em nọ sống trong một ngôi làng miền Trung Âu đã bị bắt quả tang ăn trộm cừu của dân làng. Hình phạt cho họ là bị khắc hai chữ “ST” trên trán. “ST” có nghĩa là Sheep Thief! Ăn trộm cừu! Dấu khắc này là dấu sẹo trên trán phải mang suốt đời.
Đối với người em hình phạt này là tiêu hủy cuộc đời còn lại của chú. Chú càng phạm thêm nhiều tội ác hơn. Và cuối cùng chú đã bị chết trong tù! Trái lại, người anh đã ăn năn hối cải và hoàn toàn thay đổi cuộc sống, từ tên tội phạm đã trở nên người hoàn lương, và sau cùng trở nên thánh thiện. Anh giúp đỡ mọi người, trong làng ai cũng thương mến. Năm tháng trôi qua, những người lớn tuổi thuộc thế hệ của anh chết gần hết. Một ngày nọ những người du khách vào làng nhìn thấy chữ “ST” trên trán ông lão bèn thắc mắc. Họ hỏi những người trẻ trong làng, nhưng chẳng ai biết thực sự nó có nghĩa là gì. Ai cũng trả lời rằng:”Điều đó đã xẩy ra bao nhiêu năm về trước rồi! Nhưng theo họ nghĩ, chữ “ST” trên trán ông lão là một chữ viết tắt của chữ “Saint” = “Thánh”.
4. Cây vĩ cầm đáng giá.
Cây vĩ cầm bị nứt bể rồi lại được dán lại. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút cho nó làm gì. Nhưng ông ta vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán:
- Nào, thưa quí vị, ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây? Một đồng, một đồng, rồi tới hai đồng, chỉ có hai đồng thôi sao? Ai sẽ trả nó ba đồng đây? À, một người trả ba đồng, rồi hai người trả ba đồng, không còn ai nữa sao?
Bỗng nhiên từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau bụi chiếc đàn cũ kỹ rồi siết lại những sợi dây lỏng. Sau đó ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, y như những bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rải nói:
- Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm cũ kỹ này đây?
Đoạn ông vừa cầm cây đàn lên vừa nói:
- Một ngàn đồng, và ai sẽ tăng lên 2000? Hai ngàn rồi! Có ai chịu tăng lên ba ngàn không? Một người chịu giá 3000, hai người chịu giá 3000, và còn nữa!!!
Đám đông hồ hởi reo vui nhưng có vài người trong họ la lên:
- Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm ấy!
Lập tức có tiếng đáp lại:
- Chính nhờ đôi tay ông nhạc sĩ chạm vào đấy.
Quả thế nhiều người trong chúng ta đừng đi sai đường lạc lối, bị bầm dập vì tội lỗi và bị đám đông vô tâm rẻ rúng, khác nào cây vĩ cầm cũ mèm kia. Chỉ một tô cháo, một ly rượu, một cuộc chơi là đã đưa chúng ta sa chân hết lần này đến lần khác, và cuối cùng chúng ta hầu như bị hư hoại luôn. Nhưng vị Minh Sư đã đến, và lũ dân chúng khờ khạo hoàn toàn không thể hiểu nổi giá trị của linh hồn và sự đổi thay của nó, sau khi linh hồn đã được đôi tay của vị Minh Sư chạm đến (Tác giả vô danh) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật , năm C, tr 75-76).
5. Làm một anh thợ hàn còn hơn làm một nhà Khoa học
Nhà bác học Einstein: « Cha đẻ của nguyên tử lực” là một người Đức gốc Do thái. Ông đã chạy trốn khỏi nước Đức và định cư tại Mỹ năm 1933 vì sự truy sát của Hitte. Năm 1939, Einsten đã trình lên Tổng thống Mỹ Roosevet, dự án chế tạo bom nguyên tử để đề phòng sự bành trướng của nước Đức. Dự án đã được Tổng thống phê duyệt. Năm 1941 bom nguyên tử đã ra đời và đã thử nghiệm thành công. Thế nhưng, tới năm 1945, sau khi hai quả bom nguyên tử nổ tại Hyrosima và Nagasaky, khiến hàng trăm ngàn người chết oan uổng, Einstein đã hối tiếc và nói rằng: “Nếu tôi có thể làm lại cuộc đời, thì tôi sẽ làm một anh thợ hàn còn hơn làm một nhà Khoa học.”
41. Ăn năn sám hối
"Có người kể cho Chúa Giêsu nghe mấy người Galilê bị Philatô giết tại nơi họ tế lễ; máu họ hòa với máu tế vật. Chúa nói:....nếu anh em không lo sám hối, anh em cũng sẽ phải chết y như vậy." (Lc 13, 2)
Có một chị nọ theo đạo chồng, đạo hạnh không tốt lắm, nên cũng lôi thôi việc đi nhà thờ. Sau đó hai vợ chồng ly dị nhau; người vợ từ đó làm ăn lên lắm và người vợ cũng xem ra muốn bỏ đạo luôn. Người chồng có vợ khác, và người vợ có bồ khác dù không ở chính thức. Người vợ mới hơn bốn mươi tuổi, một hôm, bất ngờ trong khi đi xe Honda, đã té ngã ra bất tỉnh, một lát sau thì chết luôn, chưa kịp đưa vào nhà thương chi cả. Một cái chết bất ngờ, không chờ đợi, khiến mọi người xung quanh hoảng sợ. Mấy câu chuyện được thuật lại trong bài Phúc âm chúa nhật hôm nay, cũng tương tự như thế; dù vậy cái nhìn của Chúa Giêsu, xem ra khác hẳn với cái nhìn của người đời, nhất là trong thời Chúa Giêsu.
* Kính mời anh chị em cùng suy niệm:
a. Chúng ta hãy xem lại câu chuyện của bài Tin Mừng: Có mấy người đến kể cho Chúa Giêsu nghe: có mấy người Galilê đang tế lễ, họ đã bị Philatô giết. Máu của họ đổ ra hòa với máu tế vật họ đang dâng. Đây là một vụ nổi loạn của một số người Do thái; Philatô đã cho lính đến đàn áp thẳng tay. Sử gia Do thái là Joseph Flavius đã ghi lại khá rõ ràng...
Câu chuyện thứ hai: tháp Silôê ngã xuống đè chết 18 người. Đây là cây tháp được xây dựng trên bờ kinh đào trong thánh Giêrusalem, phía Tây Nam , không rõ vì lý do gì bỗng nhiên đổ sập xuống đè chết 18 người. Câu chuyện thứ ba, một dụ ngôn: Thấy cây vả trong vườn không sinh trái, ông chủ đòi đốn bỏ; nhưng người đầy tớ xin để lại vài năm, hi vọng sau khi chăm sóc bón phân cho nó, nó sẽ cho trái, bằng không sau đó sẽ chặt bỏ đi không muộn màng...
b. Hai chúa nhật tuần trước, phụng vụ Lời Chúa cho ta hiểu ý nghĩa của mùa chay là chịu thử thách, cám dỗ và sau cám dỗ là vinh quang của Đức Kitô. Hôm nay Lời Chúa kêu mời chúng ta hãy sám hối chân thành bằng những việc làm cụ thể. Đưa ra hai biến cố chết người thê thảm, với hình ảnh cây vả không sinh trái, Chúa Giêsu kêu mời phải thành tâm sám hối, để có thể sinh hoa kết quả, nếu không sẽ bị chặt đi...
Chúa phán: Nếu anh em không lo ăn năn sám hối, anh em sẽ phải chết y như vậy...Từ thời Chúa Giêsu trở về Cựu Ước, người ta cho những người bị chết thê chết thảm, chết vì tai nạn bất ngờ... là do tội lỗi của họ. Điều này gần giống với quan điểm của Á Đông chúng ta: "Ác giả ác báo". Qua bài Phúc âm hôm nay, ta thấy Chúa Giêsu có cái nhìn hoàn toàn khác. Người nói: họ chết như thế, không hẳn vì tội lỗi của họ. Phần anh em, nếu không lo hối cải, anh em sẽ chết y như vậy.
Khi dùng hai biến cố chết người thảm thương này làm bối cảnh cho lời giảng dạy, Chúa muốn đánh đổ quan niệm củ, sai lầm của người Do thái, coi cái chết bất ngờ vì tai nạn, bệnh tật... là do tội lỗi mà ra. Rồi Chúa khẳng định: nếu không sám hối ăn năn, sinh hoa kết quả, thì sẽ chịu hậu quả khốc liệt hơn những kẻ đó. Họ sẽ bị Ông Chủ loại bỏ vĩnh viễn. Ông Chủ đây là ai ngoài Thiên Chúa, và cây vả là ai ngoài người Kitô hữu, những người mà Chúa Kitô đã tái sinh và vun trồng bằng chính Thịt Máu Người?
c. Gợi ý sống và chia sẻ: * Là người kitô hữu, ta hiểu rõ Thiên Chúa đầy lòng bao dung, sẵn sàng chờ đợi ta thống hối ăn năn, luôn gia hạn cho ta thêm cơ hội để ăn năn, như ông chủ chờ đợi cây vả sinh hoa trái trong bài Phúc âm này. Là người kitô hữu, chúng ta nghĩ sao đây? Ta có mau mắn lo chớp cơ hội, ăn năn sám hối tội lỗi của mình không?
42. Chúa Nhật 3 Mùa Chay--Lm. Alfonso
Tin mừng Lc 13: 1-9: Dụ ngôn cây vả cho ta thấy một Thiên Chúa ưu ái dành cho con người thấp hèn yếu đuối.
Suy Niệm
Chúng ta vừa nghe trình thuật Bài đọc I kể về một Thiên Chúa rất mực thương dân, Ngài đã chọn Môisen với kế hoạch giải phóng dân khỏi ách nô lệ Ai Cập. Lúc bấy giờ, vì sợ Pharaô lùng bắt, Môisen trốn trong sa mạc và làm nghề chăn chiên. Đang khi chăn chiên, một hôm bỗng Môisen được diện kiến Thiên Chúa. Ngài hiện ra với hình ảnh một bụi gai rực lửa nhưng không bị cháy rụi. Ngài gọi đích danh Môisen và nói: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ của dân Ta… Ta xuống giải thoát chúng…”
Thiên Chúa dùng Môisen đưa dân vượt qua Biển Đỏ an toàn. Ngài là Đấng quan phòng, yêu thương đồng hành và dẫn dắt dân dưới hình cột mây ban ngày, cột lửa ban đêm. Nhưng Bài đọc II cho chúng ta biết dân chúng lại sống không đẹp lòng Thiên Chúa. Họ đã quỵ ngã trong sa mạc vì chiều theo những dục vọng xấu xa. Tuy nhiên, Chúa không buông bỏ dân mà tiếp tục kêu mời dân hoán cải.
Và rồi trong cuộc sống, mỗi khi nhận thấy có một tai ương, ôn dịch, chiến tranh, hoạn nạn hay một biến cố xảy ra với ai đó, người ta dễ bị cám dỗ giải thích các biến cố cách thiếu bác ái như “Trời phạt nó”. Chẳng hạn, thời Chúa Giêsu, dân Do Thái bị đế quốc Rôma đô hộ. Nhiều người nổi dậy dùng vũ lực chống lại chính quyền Rôma và đã bị tổng trấn Philatô ra lệnh giết chết. Theo quan điểm của họ, những người này chết là đáng tội. Còn mười tám người Do Thái bị tai nạn lao động, tháp Silôác đổ xuống đè chết đang khi được thuê đào đường dẫn nước cho quân Rôma đế quốc áp bức, nên cũng là đáng tội.
Thực ra, khi một biến cố xảy ra có thể là do hấp lực trái đất, sự mỏng giòn của kiếp người, những sai lầm không tránh được. Nên tai nạn xảy đến với ai thì không nhất thiết do họ có tội hơn những người khác; trong khi những người khác dễ nghĩ mình sạch tội nên vẫn còn bình yên. Không khéo điều này đưa người ta đến sự tự cao và an toàn giả tạo. Chúng ta đừng gán ghép bất hạnh, nghèo nàn với tội lỗi, hay thành công và giàu sang là được ban thưởng.
Chúa Giêsu coi biến cố đau thương của một sự việc tai nạn mất mát như một sứ điệp, một lời cảnh báo mạnh mẽ gửi đến mọi người, kêu gọi mau hối cải để khỏi chịu chung số phận: “Nếu các ngươi không hối cải, hết thảy cũng sẽ bị tiêu diệt như thế”. Vì biết đâu chừng đây có thể là cơ hội cuối cùng, trước khi cái chết ập xuống trên chúng ta. Vậy chúng ta cần hoán cải thế nào?
Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây vả được trồng trong vườn nho để ví về mỗi chúng ta. Một cây vả không có lợi về kinh tế lắm và cũng không có giá trị bằng cây nho, thế nhưng nó vẫn được trồng trong vườn nho. Dụ ngôn cây vả cho ta thấy một Thiên Chúa ưu ái dành cho con người thấp hèn yếu đuối. Ngài còn là người chủ vườn kiên nhẫn chờ đợi một năm, hai năm, rồi ba năm… Cây vả được đặc ân hơn, nhưng nó lại không tỏ ra xứng đáng được đặc ân đó.
“Nhất quá tam”, hay “quá tam ba bận” diễn tả sự kiên nhẫn chịu đựng của một người. Sau khi kiên nhẫn chờ đợi trong ba năm, ông chủ thất vọng vì cây vả không sinh trái nên ra lệnh cho chặt cây vả, để nó làm gì cho hại đất. Ông chủ không hề bốc đồng hay tàn ác khi đưa ra quyết định này. Ông đã chịu đựng ba năm, đã hy vọng, đã chờ đợi trái của nó, và cây vả chẳng làm ông mãn nguyện. Ông không vui gì khi quyết định chặt cây vả mà ông đã trồng, nhưng ông không muốn đầu tư cho một sự vô ích.
Anh làm vườn xin chủ gia hạn thêm một năm nữa thôi, vì anh còn chút hy vọng và muốn cho nó một cơ hội cuối. Anh sẽ chăm bón cẩn thận, và chờ đến mùa này năm sau. Anh kiên nhẫn, hy vọng nhưng cũng đòi hỏi cương quyết: nếu nó sinh trái thì tốt quá, còn không thì anh sẽ chặt theo ý ông chủ. Đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Ngài vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải, vừa chấp nhận cho ta có thời gian trì hoãn.
Cây vả ấy muốn nói về mỗi chúng ta, tự bản thân chúng ta mới biết kết cuộc của cây vả. Vì thế mà đoạn Tin Mừng để mở ngõ cho mỗi người chúng ta viết lên phần sau đó: liệu cây vả ấy có ra trái như ông chủ mong đợi không là phần quyết định của mỗi chúng ta.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn được an phận. Vì thế mà một người được xem là tốt lành có thể bị rơi vào tình trạng tự mãn, sống ích kỷ mà không hay biết. Rất nhiều người cảm thấy bằng lòng với chính mình khi đi lễ mỗi tuần, rước lễ hàng ngày, xưng tội hàng tháng, tham gia công tác giáo xứ và đóng góp vào nhà thờ thường xuyên nên không cần sám hối… Giây phút này đây, chúng ta cần tỉnh thức với câu nói của thánh Phaolô: “Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10,12); Coi chừng, tới ngày phán xét, rất có thể họ sẽ bật ngửa khi nghe Chúa nói: “Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác” (Mt 7,23).
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy ăn năn sám hối. Lời kêu gọi này không chỉ nhắm đến những kẻ tội lỗi mà nhắm đến mọi người không trừ một ai. Sám hối và thay đổi đời sống cũ không chỉ là lời nhắc nhở xa tránh sự dữ nhưng còn là lời mời gọi làm việc lành, sinh hoa trái tốt. Đây là lời kêu gọi nhắm đến mọi người. Người chủ muốn đốn cây vả không phải vì nó đã sinh ra những trái xấu, mà vì nó không sinh ra những trái vả như lý ra nó phải sinh. Một Kitô hữu mà sống không có Chúa Kitô thì không phải là Kitô hữu. Sống đạo không phải chỉ lo tránh tội, mà còn thực thi cái tốt, điều thiện. Kitô giáo không phải là một tôn giáo chỉ cấm những điều xấu không được làm, mà Giáo lý Hội thánh Công Giáo còn đòi buộc cả những điều tích cực “Điều gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì hãy làm cho người ta”.
Câu chuyện vào một đêm bão tuyết rơi lạnh lẽo, bỗng dưng có tiếng gõ cửa. Ông chủ khó chịu vì bị quấy rầy giữa đên khuya. Khi cánh cửa vừa mở, một người thanh niên dáng bụi đời đang run rẫy với một bàn tay xoè ra van xin, một bàn tay đỡ cây gậy trên vai treo ít đồ đạc cá nhân. Thấy đáng thương, ông chủ đưa tay với lấy ít bánh mì, vài đồng bạc lẽ trao cho hành khách. Nhận được của bố thí xong, người thanh niên quay gót. Khi đó chợt một ý tưởng đến trong đầu là có nên mời người đó vào nghỉ đỡ một đêm, nhà vẫn còn phòng khách trống. Tuy nhiên ông lại nghĩ nếu người này ở lại thì căn nhà sạch sẽ của mình sẽ bị dơ bẩn. Thế rồi ông vội vàng đóng kín cửa. Hai ngày sau, có người thợ đem đến một cây gậy làm bằng gỗ quý. Khi đã thương lượng giá cả, người bán gậy cho biết, anh là người thợ chuyên đào mộ ở nghĩa trang. Anh vừa chôn một người thanh niên vô gia cư mới qua đời. Tài sản anh ta chỉ là cây gậy, người thanh niên chết vì bị lạnh cóng, máu đông lại khi ngũ trên tuyết. Nghe đến đây, ông chủ tiệm cảm thấy xấu hổ. Ông hối hận vì điều tốt ông có thể làm cho người thanh niên nhưng ông đã không làm khiến cho anh phải chết rét. Ông chủ tiệm kết thúc câu chuyện với nổi thao thức: điều tôi ao ước là những sự dữ chúng ta làm có lẽ Thiên Chúa sẽ tha thứ. Nhưng những gì tốt chúng ta đã không làm, sẽ mãi mãi không được tha thứ.
Chúng ta được thôi thúc phải hoán cải ngay lúc này, khi đang còn thời giờ mới kịp. Mùa Chay là mùa thuận tiện nhất để thay đổi đời sống chúng ta, để trở về với Chúa và xin Ngài tha thứ. Đừng để mùa Chay năm nay trôi qua vô ích.
43. Hai bài học từ hai bài đọc--Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
Hôm nay ta sẽ rút ra hai bài học từ hai bài đọc. Bài học một từ bài đọc một. Bài học hai từ bài đọc ba, tức bài Tin Mừng.
1. Bài học một.
Bài đọc I trong 5 Chúa nhật Mùa Chay cứ tuần tự thuật lại 5 giai đoạn trong lịch sử cứu độ, hay còn được hiểu là 5 giai đoạn trong cuộc hành trình loài người tìm gặp Chúa (1). Hôm nay tới giai đoạn của Môsê. Bài đọc I kể chuyện Chúa hiện ra với Môsê, điều đáng để ý là Chúa không hiện ra với ông trong Đền thờ mà là trong sa mạc (thật ra thời dân ở Ai Cập làm gì có đền thờ, nhưng chí ít cũng chọn một nơi “ngon” hơn một chút); và hay ho hơn nữa, Chúa hiện ra không phải khi Môsê đang cầu nguyện mà trong lúc ông đang chăn cừu. Vậy là, Chúa hiện ra cho Môsê ở một nơi “phàm trần” và trong một sinh hoạt “phàm trần.”
Chúng ta có biết đặc điểm của người giáo dân được CĐ Vatican 2 kể ra là gì không? Hãy mở Hiến chế tín lý về Giáo Hội, chương 4, bàn về giáo dân, số 31, thấy ngay: “tính cách phàm trần (trần thế) là tính cách riêng biệt và đặc thù của người giáo dân” mà người giáo dân chiếm 99,99% Dân Chúa.
Vậy là, Chúa không bắt người giáo dân phải vào đền thờ mới gặp được Chúa. Sẽ có lúc Chúa đòi như thế, như hôm nay Chúa nhật ta đến Nhà Thờ (nhưng đó không phải là bài học ta rút từ bài đọc 1 hôm nay). Chúa cũng không đòi chúng ta phải ngưng công việc thường ngày, rồi quỳ đọc kinh cầu nguyện, bấy giờ Chúa mới hiện ra. Không. Ngài đã gặp Môse đang khi ông chăn cừu, trong sa mạc đất phàm.
Khi ở Chicago, ghé thăm văn phòng của một bà giáo dân làm việc cho giáo xứ, tôi ngạc nhiên thấy trong phòng bà lúc nào cũng có ngọn nến. Bà tới nơi làm việc, việc đầu tiên là đốt ngọn nến. Hỏi bà lý do, bà có sẵn ngay: nơi làm việc là nơi thánh.
Ta thử đọc lại câu chuyện Mô-sê: Hãy cởi dép ra vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh. Dù Môsê đang đứng tại một nơi phàm trần giữa hoang địa, nhưng Chúa bảo ông rằng đó là nơi thánh. Điều gì đã khiến nơi đó thành nơi thánh? Thưa chính là sự hiện diện của Chúa. Mà Chúa chẳng ngại gì hiện diện giữa nơi phàm trần, nơi mà người giáo dân sống và làm việc. Ta nghe thêm Công Đồng nói: “Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội; tất cả dệt thành đời sống của họ. Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ, (…) để họ thánh hoá thế giới bằng việc thi hành những nhiệm vụ của mình: tỏ lộ Chúa Kitô cho kẻ khác.”
Không cần thắp lên ngọn nến bằng sáp như bà kia khi đến nơi làm việc, nhưng cứ buôn bán lương thiện, chạy xe (ôm, xích lô, taxi, tải…) không ép giá, thi cử không quay cóp, dạy học theo lương tâm, làm các nghề sự nghiệp hành chánh công minh chính trực, chu toàn bổn phận cha mẹ, vợ chồng con cái trong gia đình…, ắt sẽ là những ngọn nến có khi còn sáng hơn ngọn nến sáp kia nhiều, vì được đốt bằng tim gan, xương máu của ta. Làm việc tận tuỵ sao không tiêu hao xương máu được !
Vậy là bài học một rút từ bài đọc một là ta hãy biến nơi phàm trần ta ở, chốn trần thế ta làm việc trở thành nơi thánh bằng cách để Chúa đến ở với ta.
2. Bài học hai
Bài học hai rút ra từ bài Tin Mừng. Bài Tin Mừng nhắc đến 2 biến cố đẫm máu, tuy thua xa các vụ bắn chết 50 người tại hai đền Hồi giáo bên New Zealand mới đây, hay không kêu to như vụ nổ ở thành phố cảng Thiên Tân Trung Quốc năm nào (12-8-2015), cũng không dã man như vụ giết 6 người tại Bình Phước 4 năm trước đây (7-7-2015), nhưng cũng gây kinh hãi: “Khi ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng.” Vậy là họ bị giết ngay trong khu vực đền thờ, mới có máu chiên bò sát sinh hoà lẫn với máu của người bị giết. Đó là chuyện người ta kể cho Chúa nghe.
Đáp lại, Chúa kể cho họ nghe chuyện mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết. Nhà thờ Ngọc Lâm, tỉnh Thái Nguyên sáng 17-1-13 sập mái, chết mấy người, bị thương trên 5 chục. Cũng ghê ! Ta thử theo chân các nhà lịch sử Kinh Thánh để hiểu hơn một chút hai cuộc chết chóc mà Tin Mừng nhắc đến. (2)
Lúc đó Phi-la-tô, tên rất quen thuộc, vì ta có nhắc đến tên ông quan này trong kinh Tin Kính, Philatô có một quyết định rất tốt rằng Giê-ru-sa-lem cần có một hệ thống dẫn nước mới và tân tiến hơn. Ông quyết định xây cất hệ thống đó, và để đài thọ cho việc này, ông đề nghị dùng một phần tiền của Đền Thờ. Nghe đến ý tưởng sử dụng tiền của Đền Thờ vào việc không phải đền thờ (trần thế) cũng đủ khiến dân Do-thái cầm vũ khí chống lại. Khi dân chúng tụ tập lại thì Phi-la-tô cho lính của ông cải trang trà trộn với họ. Lính được lệnh mang gậy thay vì gươm. Đến lúc được báo hiệu, lính xông vào dân chúng và phân tán họ. Việc đó đã diễn ra đúng nhưng vì bọn lính đã hành động rất hung dữ, đi quá lệnh trên, gây thiệt mạng cho một số thường dân người Galilê.
Còn về phần mười tám người bị tháp Si-lô-ê đổ xuống đè chết, cho đến nay vẫn còn là một sự kiện bí mật. Nhưng có người cho rằng họ đã lãnh việc xây ống dẫn nước của Phi-la-tô, một công việc mà dân chúng ghét. Vì số tiền công họ lãnh đều là tiền của Chúa và đáng lẽ họ phải tình nguyện trả lại vì tiền đó từ đền thờ, tức là một cách lấy trộm của Chúa. Khi tháp Si-lô-ê đổ xuống trên họ thì dân chúng cho rằng vì họ đã bằng lòng làm công việc đó, cho nên Chúa phạt nhãn tiền. Người Do-thái đã nghiêm khắc kết buộc “đau khổ” và “tội lỗi” với nhau. Trước đó rất lâu, Êlipha đã nói với Gióp rằng: "Có ai vô tội mà bị tiêu diệt đâu?" (G 4,7) Đây là một giáo lý độc ác, cay nghiệt như Gióp đã biết rõ. Chúa Giê-su đã bác bỏ thuyết đó đối với một số trường hợp cá nhân. Như người mù thủa mới sinh: “chẳng phải lỗi nó, chẳng phải tội cha mẹ nó.”
Mà thường những thánh nhân là những người chịu đau khổ nhiều nhất. Thánh vịnh nói: «Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân». Các Ki-tô hữu thời sơ khai, các thánh tử đạo, thường là những người hiền đức nhưng cuộc đời của họ nhiều khi gặp toàn nghịch cảnh, và có khi phải chết một cách thảm thiết. Chẳng hạn rất nhiều Ki-tô hữu bị Nê-rô cho sư tử xé xác và bị thiêu sống tập thể. Chính thánh Tê-rê-xa A-vi-la cũng gặp rất nhiều thử thách, đến nỗi bà phải than với Chúa: «Bây giờ con mới hiểu tại sao Chúa lại quá ít bạn như thế, vì Chúa thường đối xử với bạn thân thiết của Chúa như thế này đây!».
Cho nên khi nói về hai cuộc chết chóc trên, Chúa Giêsu muốn nói ngay, chẳng phải họ có tội mà họ chết đâu. Chúa Giê-su còn đi xa hơn nữa và nói rằng nếu các thính giả của Ngài không chịu nhìn vào chết chóc đó mà ăn năn thì họ cũng sẽ bị tiêu diệt.
Trong thời Chúa Giêsu cũng như thời chúng ta, chúng ta dễ bị cám dỗ giải thích các biến cố cách thiếu bác ái đối với người khác. Biết bao lần người ta đã nghe những lối giải thích bộc phát như sau: Trời phạt nó. Đó là án phạt của Chúa, hoặc chúng ta dễ lạm dụng kiểu nói “trời có mắt” để biện minh cho ý của chúng ta, để tạo cho mình mối quan tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác.
Và rồi chúng ta cũng dễ có cám dỗ ngược lại và gán ép cho Chúa những biến cố bất lợi xảy đến cho chính chúng ta: Trời bỏ tôi. Chúa làm ngơ giả điếc. Ngài trả thù mà... Đôi khi những biến cố đó chỉ là do những nguyên nhân thiên nhiên vô hồn (thời tiết, bệnh truyền nhiễm, tai biến tự nhiên...). Cần phải hết sức thận trọng khi giải thích những gì xảy đến cho ta.
Người khôn ngoan nhất là người -như Chúa Giêsu dạy- biết lợi dụng tất cả những gì xảy đến để hoán cải không ngừng, để tạ ơn Chúa khi gặp những biến cố may mắn, để xin cho tâm hồn vững mạnh và biết tùng phục ý Chúa khi gặp các biến cố xui xẻo. Như thế lời Kinh thánh sau đây sẽ nên trọn cho chúng ta: “Mọi sự đều góp phần sinh ích lợi cho những ai yêu mến Thiên Chúa ” (Rm 8,28). Amen.
--------------------------------------------------
(1) Bài đọc I các Chúa nhật Mùa Chay có một bố trí đặc biệt, không liên quan tới bài Tin Mừng, như các CN Thường Niên. Nó diễn đạt lại 5 giai đoạn của lịch sử cứu độ, CN I: Thời nguyên thủy; CN II: Thời Abraham; CN III: Thời Mô-sê; CN IV: Thời Đất Hứa ; CN V: Thời các ngôn sứ.
(2) theo giải thích trong bài chia sẻ của cha Hàm
44. Dấu chỉ cảnh báo--AM Trần Bình An
Động đất và sóng thần Tōhoku 2011 là một trận động đất mạnh 9,0 Mw ngoài khơi Nhật Bản, xảy ra lúc 05:46 UTC (14:46 giờ địa phương) vào ngày 11 tháng 3 năm 2011. Trận động đất có vị trí tâm chấn nằm cách ngoài khơi bờ biển phía Đông bán đảo Oshika, Tohoku 72 kilômét (45 mi) tại độ sâu 32 kilômét (20 dặm). Cơ quan Khí tượng Nhật Bản ghi nhận cường độ mạnh nhất của thảm họa ở mức 7 tại miền Bắc tỉnh Miyagi, mức 6 tại các tỉnh khác và mức 5 tại Tokyo.
Trận động đất đã gây ra sóng thần lan dọc bờ biển Thái Bình Dương của Nhật Bản và ít nhất 20 quốc gia, bao gồm cả bờ biển phía Tây của Bắc và Nam Mỹ. Sóng thần cao đến 38,9 m đã đánh vào Nhật Bản chỉ vài phút sau động đất, tại một vài nơi sóng thần tiến vào đất liền 10 km (6 mi).
Cơ quan Cảnh sát Quốc gia Nhật Bản đã chính thức xác nhận có 15.893 người thiệt mạng, 6.152 người bị thương và 2.572 người mất tích tại 18 tỉnh của Nhật Bản và hơn 125.000 công trình nhà ở bị hư hại hoặc phá hủy hoàn toàn. Trận động đất và sóng thần đã gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng tại quốc gia này, bao gồm những hư hỏng nặng nề về đường bộ và đường sắt, cũng như gây cháy nổ tại nhiều khu vực, kèm theo một con đập bị vỡ. Khoảng 4,4 triệu hộ gia đình rơi vào tình trạng mất điện và 1,5 triệu hộ bị mất nước. Nhiều nhà máy phát điện đã ngưng hoạt động và ít nhất 3 vụ nổ lò phản ứng do rò rỉ khí hydro đã xảy ra tại nhà chứa các lò phản ứng, khi hệ thống làm mát bị hỏng hoàn toàn. Ngày 18 tháng 3, ông Yukiya Amano, người đứng đầu Cơ quan Nguyên tử Quốc tế đã cho biết cuộc khủng hoảng này "cực kì nghiêm trọng". Mọi cư dân trong phạm vi bán kính 20 km (12 mi) từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima I và 10 km (6 mi) từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima II đã phải sơ tán. Ngoài ra, chính quyền Hoa Kỳ khuyến cáo công dân của họ phải di tản cách các nhà máy điện 80 km (50 mi).
Theo các ghi chép về cường độ động đất, đây là trận động đất mạnh nhất từng xảy ra ở Nhật Bản và là một trong năm trận động đất mạnh nhất thế giới, từ khi các thiết bị ghi nhận được sử dụng từ năm 1900. Đây được cho là sự va đập kiến tạo lớn nhất giữa Bắc Mỹ và Thái Bình Dương trong 1.200 năm. Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan tuyên bố: "Trong vòng 65 năm từ sau Thế chiến thứ II, đây là cuộc khủng hoảng khó khăn và gay go nhất mà Nhật Bản phải đối mặt." Trận động đất đã di chuyển đảo Honshu 2,4 m về phía Đông và làm lệch trục Trái Đất khoảng 10 cm.
Ước tính thiệt hại lúc đầu tại những nơi bị ảnh hưởng của Nhật Bản vào khoảng từ 14,5 đến 34,6 tỉ USD. Ngày 14 tháng 3, Ngân hàng Nhật Bản đã rót 15.000 tỉ ¥ (183 tỉ USD) vào hệ thống ngân hàng, để giảm thiểu ảnh hưởng thị trường tài chính. Ngày 21 tháng 3, Ngân hàng Thế giới ước tính thiệt hại lên vào khoảng 122 đến 235 tỉ USD. Chính phủ Nhật Bản cho biết tổn thất do động đất và sóng thần tàn phá miền Đông Bắc có thể lên đến 309 tỉ USD. Đây là kỉ lục thế giới về thiệt hại do thiên tai gây ra. (Động đất và sóng thần Tōhoku 2011, Wikipedia)
Thảm hoạ sóng thần Tōhoku bất ngờ đổ ập xuống phía Đông Nhật Bản gây kinh hoàng cho nhân loại, nhắc nhở mọi người đang sống trong thế giới đầy bất trắc, luôn tiềm ẩn thiên tai, hay nhân tai do chính con người tham lam, hám lợi, khai thác, phá huỷ môi trường, hoặc do thù địch gây nên chiến tranh. Vì vậy, cuộc sống vốn mỏng dòn, lại càng thêm yếu đuối, mỏng manh, càng bất lực hơn trước sức mạnh sự dữ tung hoành. Nếu ai không sẵn sàng chuẩn bị đón nhận cái chết, thì thật thiếu khôn ngoan.
Bước vào Tuần 3 Mùa Chay Thánh, Tin Mừng thánh Luca hôm nay phát đi thông điệp cấp bách, cảnh báo con người phải canh tân nếp sống, qua những dấu chỉ rất cụ thể, công khai diễn ra ngay trước mắt mọi người. Nếu ai cứ tiếp tục bảo thủ, cố chấp, ngang bướng, không chịu đổi mới, sẽ phải chịu án phạt nặng nề.
Dấu chỉ
Hai sự kiện nóng hổi xảy ra công khai. Mấy người Galilê bị quan Tổng trấn Philatô giết và mười tám người bị tháp Silôê đè chết, đều là những dấu chỉ quan trọng cho tất cả những ai đang sống. Đừng kiêu căng mạo nhận là quan toà, để kết án những người tử vong, mà hãy tỉnh táo xét mình, sám hối, ăn năn, cải hoá, kẻo chẳng còn thì giờ hay cơ hội như những người xấu số kia. Hai lần liên tiếp, Đức Giêsu đều tha thiết cảnh tỉnh: “Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy.”
Cũng đừng tự phụ, kiêu hãnh con nhà đạo gốc, thành phần ưu tuyển, kinh kệ, lễ lạc sáng chiều, ăn chay làm phước, hãm mình hy sinh, mà cố tình phớt lờ, coi thường, bỏ qua Lời Chúa mời gọi sám hối. Ông Gioan Tẩy Giả đã nghiêm khắc cảnh báo những kẻ giả hình, khôn ranh, ma mãnh, mưu mô, xảo quyệt như rắn độc: “Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: "Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham." Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Ápraham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. (Mt 3, 9-10)
Hả hê thấy người khác gặp sự khó, xôn xao, hào hứng tám chuyện không may xảy đến bạn bè, hàng xóm, láng giềng, người Kitô hữu vô tình hay hữu ý, bỗng dưng trở nên những vị quan toà nghiêm minh, sắc sảo, sáng suốt, cầm cân nảy mực, tha hồ ném đá thiên hạ. Đó chính là giết người nhẹ nhàng và tinh tế không bằng gươm đao, giáo mác, mà bằng chính cái lưỡi lắt léo, không xương, tự cao tự đại, hợm hĩnh, kiêu căng, đạo đức giả. Hãy giữ chay mắt, chay tai, chay miệng lưỡi và giữ chay tâm hồn.
Hoa Trái
“Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có.” Nếu cây tươi tốt, xum xuê xanh lá, mà không thể sinh nụ, đơm bông, kết trái, thì cây thành vô dụng, chỉ đáng chặt bỏ làm củi. Người Kitô hữu cũng vậy, nếu chỉ biết chăm lo, o bế thân xác, vinh thân phì gia, thì cũng khác chi cây cối khô cằn. Vì thế, ngôn sứ Gioan Tiến Hô đã hết lời mời gọi: “Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối.” (Lc 3, 8) Dốc lòng ăn năn cách trọn là chân thành trở về với Chúa, trung thực thi hành Lời Chúa dạy.”Như vậy, anh em sẽ sống được như Chúa đòi hỏi, và làm đẹp lòng Người về mọi phương diện, sẽ sinh hoa trái là mọi thứ việc lành, và mỗi ngày một hiểu biết Thiên Chúa hơn.” (Cl 1, 10)
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Êphêsô: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4, 22-24)
Cụ thể như, đừng gian dối, hãy nói sự thật, đừng nổi nóng, oán giận, đừng trộm cắp, hãy làm ăn lương thiện, đừng chửi thề, nói lời độc địa, hãy nói những lời tốt đẹp xây dựng và làm ích cho tha nhân, nhất là đừng làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc… Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô. (Ep 4, 25-32)
Lòng Thương Xót
Lời can gián, van xin của Người Làm Vườn Giêsu biểu lộ Lòng Thương Xót vô cùng:”Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi." Người ra sức che chở, bênh vực, gìn giữ cây xanh của Người. Hơn nữa, Người còn van xin Chủ Vườn tạo điều kiện cho Người chăm sóc kỹ lưỡng hơn, bón phân tốt hơn, cũng như xin gia hạn thêm thời gian để cây kịp sinh hoa trái. Bởi vì “Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn.” (Tv 103, 8-11.13).
Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt, mở lòng chúng con nhìn thấy, hiểu thấu những điều Chúa muốn ngỏ lời qua những dấu chỉ thời đại, qua những biến cố, sự kiện trong đời, qua những thảm hoạ, tai ương hoạn nạn của tha nhân, hay của chính chúng con. Xin giúp chúng con sớm giác ngộ, mà quyết tâm sám hối, ăn năn, canh tân, trở về với Chúa cực nhân, cực ái, tràn đầy lòng thương xót.
Kính xin Mẹ Maria, giàu tình mẫu tử, luôn thương yêu nhắc nhủ chúng con trong từng phút giây, dốc tâm trở về với Lòng Thương Xót vô biên của Chúa, để chúng con có thể sinh hoa thơm trái ngọt, quên mình, yêu thương phục vụ tha nhân. Amen.
45. Sám hối
1. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, có hai câu chuyện mang tính thời sự thời Đức Giêsu. Câu chuyện thứ nhất do những người Do thái kể cho Đức Giêsu nghe về một số người Galilê bị quan Philatô giết chết, có lẽ vì nổi loạn chống lại Roma; câu chuyện thứ hai, do chính Đức Giêsu kể đó là mười tám người bị tháp Silôê sụp đổ đè chết. Trước cảnh đau thương đó, người Do thái thời Đức Giêsu, có thể ngay cả chúng ta nữa, thường nghĩ rằng"ác giả, ác báo", ai làm điều ác thì ắt sẽ gặp điều ác. Đức Giêsu khuyên họ đừng vội vàng suy đoán trước những đau khổ của người khác, nhưng tốt hơn, đây là dịp tốt để mỗi người hãy xem xét lại lương tâm mình để lo sám hối, lo thay đổi đời sống của mình hơn là đoán xét người khác.
Sau đó Đức Giêsu kể thêm dụ ngôn cây vả để trình bày rõ hơn chủ đích sám hối của Người. Qua dụ ngôn này Người nhấn mạnh thêm hai chi tiết nữa: phải khẩn trương sám hối trong lúc thời giờ còn có thể được, giống như cây vả được người làm vườn gia hạn thêm một năm nữa; đồng thời, sám hối phải được biểu hiện bằng những việc làm tốt đẹp cụ thể, giống như cây vả phải sinh hoa trái.
2. Trước hết, lời mời gọi sám hối không nhằm riêng ai, mọi người chúng ta đều được mời gọi phải sám hối. Ai trong chúng ta dám nói mình là vô tội: "Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội,
nào có ai đứng vững được chăng?" (Tv 130,3), hay như Thánh Phaolô nói: "Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm" (Rm 7,15). Khuynh hướng con người là như thế, không muốn đi đường ngay nẻo chính. Sám hối nguyên ngữ Hylạp là Metanoia, nghĩa là quay ngược lại, là nhận mình đã đi lạc hướng và cố gắng quay trở về đường ngay nẻo chính. Một cách dễ hiểu hơn, sám hối đó là thấy mình làm điều sai quấy với lương tâm, với luật Chúa, luật Hội Thánh thì mau mắn sửa đổi. Ngay cả dù không "đi lạc", nhưng đó là thiếu sót trong việc bổn phận hằng ngày hay lẽ ra ta có thể thực hiện một điều lành tốt hơn mà lại không cố gắng!
Hãy nhìn lại xem, trong cuộc sống của chúng ta biết bao lần chúng ta đã xúc phạm đến Chúa và anh em khi vô tình lúc hữu ý, khi tỏ tường lúc thầm kín... Thế nhưng thực tế trong cuộc sống chúng ta cũng dễ giống như những người Do thái xưa cho mình là người công chính. Dễ bực bội, dễ thấy lỗi lầm thiếu sót của người khác, còn chính lỗi mình thì không. Thích tìm tòi, chỉ trích thiếu sót của người khác, ngược lại không muốn ai nhắc tới khuyết điểm của mình. Chính vì vậy ca dao ta có câu: "chân mình những lấm mê mê, lại đi lấy đuốc mà rê chân người". Vậy Lời Chúa hôm nay nhắc mỗi chúng ta hãy nhìn lại đời sống của mình mà sám hối, hoán cải.
3. Kế đến, phải khẩn trương sám hối. Trong dụ ngôn chúng ta vừa nghe, người làm vườn xin ông chủ gia hạn thêm một năm nữa. Một năm nữa nếu không sinh hoa kết trái thì kết thúc cuộc đời cây vả. Điều nay cho chúng ta suy nghĩ: lúc ta còn sống là lúc ta còn có thể hoán cải, khi ta kết thúc cuộc đời thì không còn làm gì được nữa, cho nên hãy biết dùng thời giờ Chúa còn cho ta sống ở trần gian nầy mà lo sám hối.
Những người Galilê bị Philatô giết như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, họ không nghĩ đây là lần cuối cùng họ lên Giêrusalem mà không bao giờ còn sống trở về quê hương của họ. Mười tám người trong câu chuyện tháp Silôe, chắc chắn họ cũng không nghĩ họ bị đè chết oan uổng như vậy. Hằng ngày qua thực tế cuộc sống, hay qua các phương tiện truyền thông chính chúng ta chứng kiến, hay được nghe, thấy lại những cái chết thật bất ngờ do nhiều lý do. Hẳn chúng ta còn nhớ thảm hoạ tại Tòa Tháp Đôi Trung tâm thương mại thế giới ở New York , Mỹ ngày 11/09/2001 , đã giết hại gần 3.000 người, có ai trong họ ngờ rằng ngày đó là ngày cuối cùng trong cuộc đời của mình!
Hơn thế nữa, ta phải sám hối luôn vì nhớ lại tình thương của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta, người con hiếu thảo là người con luôn làm vui lòng cha mẹ mình. Sám hối, trở về với Thiên Chúa là phương thức tốt nhất đẹp lòng Ngài. Vậy hãy mau mau trở về với Đấng là Cha giàu lòng thương xót.
4. Cuối cùng, sám hối cần được thể hiện bằng những việc làm cụ thể, giống như cây vả phải sinh trái. Việc sám hối không chỉ là nói suông mà cần phải thể hiện bằng việc làm cụ thể. Biết bỏ lễ Chúa Nhật khi không có lý do chính đáng là lỗi Luật Chúa, thì phải quyết tâm đi lễ. Biết mình hay chưởi thề nói tục, thì phải quyết tâm nói những lời hay. Biết trộm cắp là không tốt, thì phải quyết tâm giữ phép công bằng... đó là những việc làm nói lên sự sám hối của ta.
Thế nhưng cũng có người nghĩ rằng mình đã là người giữ đạo đàng hoàng, bởi tuân giữ luật Chúa, luật Hội Thánh, đâu cần gì phải sửa đổi đời sống. Hãy nhớ trong dụ ngôn cây vả tuy cành lá xum xuê không bị sâu bọ gì, nhưng lại không trái, làm ta có thể nghĩ đến đời sống thiếu tích cực của người Kitô hữu, đó là thiếu tinh thần trách nhiệm trong công việc, thiếu chu toàn việc bổn phận cách tốt nhất hay bỏ qua việc lành phải làm. Vậy trong cuộc sống hằng ngày mỗi chúng ta hãy ý thức hơn, nhất là trong mùa chay nầy, không những quyết tâm không làm điều xấu, mà còn phải cố gắng hết sức để chu toàn nhiệm vụ, cố gắng thực hiện việc lành việc tốt, đó là hoa trái của sám hối.
5. Hôm nay đã là chúa nhật thứ 3 mùa chay, đã gần nữa đoạn đường của mùa chay năm nay. Bầu khí mùa chay rất thuận lợi cho việc sám hối của mỗi chúng ta. Hãy thành tâm nhìn lại sự giới hạn của mình, hãy nhắc nhau, hãy cầu nguyện cho nhau để đáp lại lời mời gọi sám hối của Đức Kitô, hầu chúng ta được bình an, hạnh phúc ngay ở đời nầy và nhất là hạnh phúc mãi mãi với Người mai sau.
46. Phúc và họa--AM Trần Bình An
Theo dữ liệu mới được cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) thu thập, về vụ nổ thiên thạch xảy ra sáng 15/2/2013 tại Nga, kích thước ước tính của vật thể trước khi rơi vào bầu khí quyển Trái đất là 17 m (thay vì 15 m như tính toán trước đó), với khối lượng 10.000 tấn.
Năng lượng phát ra trong vụ này tăng từ 30 kiloton (theo ước tính ban đầu) lên gần 500 kiloton, tương đương với 30 quả bom nguyên tử đã rơi xuống Hiroshima năm 1945. Rất may là hầu hết năng lượng của vụ nổ đã bị hấp thụ bởi bầu khí quyển. Thiên thạch đã lao vào khí quyển với vận tốc 64.000 km/giờ và phát nổ ở độ cao 19-24 km so với mặt đất, gây ra đám mưa thiên thạch trên bầu trời các tỉnh Chelyabin, Tyumen, Kyrgan và Sverdlovsk cũng như nhiều địa phương ven dãy núi Urals của Nga.
Hơn 1.200 người dân ở các địa phương bị thương, trong đó có 50 người phải nhập viện. Tỉnh trưởng Chelyabin, ông Mikhail Yurevich cho biết tại tỉnh này có 100.000 nhà ở, bệnh viện và trường học bị vỡ kính cửa sổ hoặc hỏng mái với tổng thiệt hại ước tính lên hơn hơn 33 triệu USD.
Các chuyên gia cho rằng các khối thiên thạch nhỏ rơi xuống Trái đất từ 5 - 10 lần mỗi năm. Nhưng khả năng xảy ra nổ thiên thạch lớn trên diện rộng khiến 1.200 người bị thương ở Nga mới đây chỉ xảy ra một lần trong ít nhất 100 năm. (Internet)
Thiên tai vừa xảy ra khiến người tín hữu Kitô hôm nay liên tưởng ngay đến vụ tháp Silôác đổ xuống, khiến 18 người tử vong. Điều Chúa Giêsu muốn nói đến nhân sự kiện này, là sự phán xét, lòng sám hối và lòng thương xót. (Lc 13, 1-9)
Xét mình thay xét người
Khi nghe thuật lại vụ một số người Galilê bị quan Tổng trấn Philatô sát hại, Chúa Giêsu không rơi vào cái bẫy bộc lộ quan điểm chính trị, không phán xét những nạn nhân đáng thương hay xấu số. Mà Người lại kêu gọi chính những người kể chuyện, hãy xét lại chính mình.
Nhân tiện, Chúa Giêsu thuật lại sự kiện 18 nạn nhân bị tháp Silôác đổ, Người cũng kêu gọi người nghe hãy coi lại bản thân.
Thay vì dễ dãi làm quan tòa, quen thói xét xử người khác, thì khiêm tốn làm tội nhân, để biết ăn năn, thống hối tội lỗi của chính mình. Khi phán xét người khác thì mặc nhiên tự coi mình làm kẻ cả, có thẩm quyền xét xử công tội người khác, một biến tướng của tánh kiêu ngạo, chính là tiếm quyền tối thượng của Thiên Chúa.
Ồ! tôi vô tội, tôi đâu trộm cắp, đâu gian tham, ức hiếp, hại ai? Tôi đạo đức lễ lạy hằng ngày, kinh sách hằng đêm. Nhưng tôi hay ra cái điều hiểu biết, trí thức, khôn ngoan, sắc sảo nhận định, nhạy bén phê phán, xét đoán, thâm thúy phẩm bình thiên hạ, tôi còn phạm những điều thiếu sót nữa. Vậy tôi phỏng sẽ được phúc trường sinh, hay họa sa hỏa ngục?
Sám hối
Sau hai biến cố và tai họa vừa nhắc đến, Chúa Giêsu rút ra một bài học, một kết luận chung duy nhất: “Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy!” (Lc 13, 3&5)
Từ cái chết thể xác, Chúa nhắc đến cái chết linh hồn, cái án phạt muôn đời. Từ cái thuyết nhân quả đời này, Chúa áp dụng thuyết nhân quả vào đời sau.
Có thành tâm xét mình, tôi mới biết tội lỗi đã vấp phạm đến tha nhân và đến Chúa như thề nào. Tôi ân hận đã xúc phạm đến anh em, bè bạn, vợ con, hàng xóm, đồng nghiệp, và nhất là xúc phạm đến Chúa. Tôi đã phạm tội và đã thiếu sót, vô cảm, vô trách nhiệm, thiếu đức Ái, thiếu đức Trong sạch, lỗi phép Công bằng… Lúc này, tôi đang gặp họa, hay sắp có phúc?
Lòng Thương Xót
Lòng nhân từ của Chúa Giêsu không dừng lại nơi đây, mà mở ra một niềm hy vọng tươi sáng. Với dụ ngôn cây vả không trái sau ba năm vun trồng, ám chỉ sau ba năm nghe rao giảng, mà con người vẫn cứng lòng, không chịu nghe theo Tin Mừng, Chúa Giêsu chân thành biểu lộ Lòng Thương Xót vô ngần.
“Thưa ông, ông cứ để nó lại năm nay nữa, tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.” (Lc 13, 8-9)
Như thế, khi nghe người làm vườn nài nỉ, van xin chủ vườn khoan chặt cây vả không sinh hoa kết trái, tôi có nhận ra Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa chăng? Vì Thiên Chúa “là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung.”(Tv 103, 8) Ngài còn cho tôi cơ hội và thời gian, để hoán cải, để đơm bông kết trái, tất nhiên tôi phải chịu nhiều thách đố, chịu lột xác đau khổ, tỉa cành, chặt rễ, khấc thân, vô phân. Vậy tôi còn phúc nào hơn nữa?
Ngay sau vụ mưa sao băng ở Nga vào ngày thứ sáu 15/2/2013, thiên thể 2012 DA14 lớn bằng bể bơi Olympic, có bề ngang tới 50 mét với sức mạnh có thể xóa sổ một thành phố cỡ như London, đã bay sượt qua trái đất ở khoảng cách gần 28 000km, khoảng cách bằng 1/10 khoảng cách giữa trái đất và mặt trăng, và không gây hại gì, (BBC)
May mắn, chưa có mảnh thiên thạch nào đó rơi ngay xuống vùng tôi cư ngụ, chắc chắn vì lòng Thương Xót vô biên của Chúa. Đó chính là hồng phúc của Người Cha Nhân Từ.
“Con đau đớn vì thấy nhiều phản bội với Chúa: tốt, nhưng chưa đủ. Phải làm như Mađalêna “được tha nhiều vì đã yêu nhiều.” Phải làm như Gioan, trốn bỏ Chúa trong vườn Giệtsimani, nhưng trở lại đứng bên thánh giá, dốc quyết hằng yêu mến bằng hành động.” (Đường Hy Vọng, số 890)
Lạy Chúa Giêsu, chưa bao giờ nhân loại gặp nhiều thiên tai, hoạn nạn như hiện nay, xin Chúa thức tỉnh lòng trí con, để chân thành ăn năn sám hối, hầu xứng đáng được hưởng lòng từ bi thương xót của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, đã bao lần Mẹ hiện ra, nhắc nhủ, khuyên lơn mọi người, hãy ăn năn sám hối, xin Mẹ gúp con biết hoán cải trở về với Chúa, đừng tiếp tục thách thức lòng vị tha nhân hậu của Chúa nữa. Amen.
47. Hoán cải tâm hồn--‘Suy Niệm Lời Chúa’--Radio Veritas Asia
Người ta kể lại rằng vào thế kỷ đầu của Kitô giáo, trong thành phố Alexandria, có một vị ẩn sĩ rất nổi danh tên là Hôrôniô. Ông đã bỏ cuộc sống xa hoa của kinh hoàng tráng lệ để vào ẩn tu trong sa mạc. Các nhân đức thánh thiện của ông được dân chúng đất nước Ai Cập biết đến, cũng như người ta biết đến cuộc sống trác táng của cô công chúa nổi tiếng thành Alexandria. Tức giận vì thấy ai cũng nhắc đến Hôrôniô, nàng công chúa nhất quyết vào tận sa mạc để cám dỗ ông phạm tội. Thế là nàng sửa soạn và ăn mặc rất khiêu gợi, lộng lẫy, đến vùng vị ẩn tu đang sống.
Vừa thấy bóng nàng, ông Hôrôniô đã lớn tiếng giảng: Hãy ăn năn hoán cải tâm lòng để khỏi phải chết đời đời. Hãy cải thiện nếp sống để có hạnh phúc đích thật. Các thú vui đời này như hoa kia sớm nở tối tàn, phù du và mau qua như giấc mộng. Hãy từ bỏ tội lỗi và tiến bước theo Chúa để được niềm vui vĩnh cửu.
Nàng công chúa vừa uốn éo, cười giỡn và nhìn sâu vào đôi mắt của vị ẩn sĩ như con rắn thôi miên con mồi. Trong khi đó Hôrôniô không ngừng giảng thuyết về cuộc đời hoán cải và gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa. Những lời ông nói như gươm đâm thấu lòng nàng. Và sau cùng, công chúa quyết tâm hoán cải. Nàng từ bỏ kinh tnành Alexandria tráng lệ, các tình nhân, tình yêu, cả cuộc đời trác táng, và vào ẩn tu trong sa mạc để kiếm tìm Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc thật. Trái lại, ẩn sĩ Hôrôniô miệng lo giảng giải, mà tấm lòng ông bị mê hoặc bởi sắc đẹp, mùi hương thơm xuất ra từ thân mình kiều diễm khiêu gợi của công chúa. Ông tự nhủ trong lòng: Tôi sẽ từ bỏ hang tối lạnh lẽo buồn bã này để thử nếm các vui thú của trần gian. Thế là sau bao năm tu luyện, ẩn sĩ trở lại kinh thành tráng lệ để lao đầu vào cuộc sống ăn chơi hưởng thụ và chết trong cảnh thân tàn ma dại. Còn nàng công chúa, sau những năm trác táng mệt nhọc đã hoán cải tâm lòng, tiến vào sa mạc, sống cuộc đời chay tịnh cầu nguyện và chết vì hao mòn khổ hạnh bên Chúa Giêsu tình yêu là kho tàng duy nhất của nàng.
Hoán cải tâm lòng để gặp gỡ Thiên Chúa, được hạnh phúc đích thực và được ơn cứu độ. Đó cũng là lời Chúa Giêsu kêu mời chúng ta trong Chúa nhật hôm nay, là thời gian Giáo Hội khuyến khích chúng ta tìm thời gian gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa.
Trong Phúc Âm của thánh Luca hôm nay ghi lại một vài biến cố thời sự Chúa Giêsu dạy các môn đệ và dân chúng biết học hỏi ý nghĩa các dấu chỉ của một biến cố trong đời, các tai ương như quan Philatô sát hại người Do Thái và biến cố tháp Siloe sập đè chết nhiều người, vì có các lý do nội tại và ngoại tại của chúng nó. Có gì lạ khi tháp xây lâu ngày nứt nẻ, đến nổi không còn đứng vững được nữa sập đè chết người. Có gì lạ khi một chính quyền đô hộ nghi ngờ mọi cuộc hội họp là mưu toan chống đối phản loạn, và ra lệnh giết mà không cần biết thực hư ra sao. Tháp sập theo luật vật lý, người ta hội họp bị sát hại vì đường lối và chính trị của con người tàn ác. Các nạn nhân là những người chẳng may gặp những hoàn cảnh đó, chớ không phải vì họ bị tháp đè chết hay bị sát hại, mà có thể giải thích hay kết luận là họ tội lỗi hơn những người khác nên Chúa phạt. Hay nói cách khác, không phải vì người gian ác tội lỗi không gặp các tai ương mà có thể kết luận họ là những người thánh thiện.
Các tai ương, các biến cố khổ đau, tội lỗi và bất công đó sẽ trở thành dấu chỉ. Đó là sấm sét báo động kêu mời mỗi con người hoán cải tâm lòng, thay đổi cuộc sống và canh tân phù hợp với cuộc sống tốt lành thánh thiện hơn, để đừng gây ra chết chóc và khổ đau cho người khác, để khỏi phải chết đời này và nhất là khỏi phải chết đời sau.
Kêu gọi loài người trở lại sống với Chúa, bởi vì ác giả ác báo, gieo gió thì gặt bão. Mỗi người sẽ gặp những gì mình đã gieo vào trong cuộc đời trên trần gian. Chính con người tự phạt mình qua kiểu cách sống tội lỗi gian tham đó. Vì Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, điều duy nhất Thiên Chúa muốn là họ hoán cải tâm lòng để hình ảnh Ngài trở nên trong sáng tinh tuyền. Đó là cuộc giải phóng vĩ đại nhất mà Thiên Chúa không ngừng tiếp tục trong lịch sử loài người. Cuộc giải phóng con người khỏi kiếp sống nô lệ tội lỗi, sự dữ và cái chết. Cuộc giải phóng đó là một cuộc giải phóng cụ thể toàn diện, liên hệ đến mọi bình diện cuộc sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và tôn giáo.
Để thực hiện nó, Thiên Chúa luôn luôn định mức trước và từ đó hiện ra cho con người như được kể trong sách Xuất Hành. Tường thuật của gặp gỡ giữa Môisê với Thiên Chúa trong sa mạc là một bằng chứng. Đối với các dân tộc Trung Đông, tên gọi của một người diễn tả bản chất của người đó. Giavê, tên của Thiên Chúa xuất phát từ động từ Hawah trong tiếng Do Thái, trong nghĩa thụ động nó diễn tả "sự hiện hữu", nhưng trong nghĩa chủ động, nó có nghĩa "trở thành, xảy ra, hoạt động dấn thân, can thiệp vào hay sống với".
Tên gọi mà Thiên Chúa mạc khải cho Môisê đây, chứa đựng một Tin Mừng vĩ đại. Thiên Chúa là Đấng sống với con người, luôn luôn hiện diện bên con người, luôn luôn dấn thân hoạt động và ra tay can thiệp để trợ giúp, giải thoát và cứu vớt con người. Cho dầu có sự việc gì xảy ra đi nữa, Thiên Chúa là Đấng giải thoát Israel, muốn và sẽ cứu độ loại người.
Tên gọi Thiên Chúa: "Lửa, khói, bão táp, v.v..." một thứ ngôn ngữ, kiểu cách mà Cựu Tân Ước quen dùng để diễn tả quyền năng siêu việt của Thiên Chúa. Cũng thế "bàn tay, cánh tay phải, v.v..." diễn tả sự chở che bênh đỡ của Ngài, đối với những người bé mọn, yếu đuối.
Đứng trước Giavê Thiên Chúa, Đấng hằng giải phóng và cứu độ con người, thái độ đúng đắn duy nhất mà tín hữu phải có là thái độ ký thác trọn vẹn. Mọi nghi ngờ, mọi than trách lẩm bẩm, phản kháng và chống đối, không diễn tả bươc tiến của niềm tin trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Và thường khi, đó là thái độ của những người không có lòng tin.
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô chương 10, thánh Phaolô nhắn nhủ mọi người đừng lặp lại tội lỗi của cha ông họ ngày xưa đã từng lẩm bẩm than trách Thiên Chúa, vì không có khả năng nhận ra sự hiện diện giấu ẩn, nhưng sống động quyền năng và hữu hiệu của Ngài trong cuộc đời họ và trong lòng lịch sử thế gian.
48. Hoán cải
Thế giới vũ trụ đã được Thiên Chúa dựng nên cách lạ lùng và trật tự. Thiên Chúa đã đặt để nơi vũ trụ những quy luật tự nhiên có giá trị ngàn đời. Quy luật nơi vũ trụ rất cân bằng và sự cân bằng này không thể bị phá vỡ. Một trong những quy luật ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của con người chính là quy luật nhân quả. Quy luật này chi phối cả trên những giá trị đạo đức của con người. Một tư tưởng tốt hay xấu, một lời nói, hành động đúng hay sai của chúng ta đều mang lại một kết quả xấu hay tốt tương ứng. Quan niệm của những người Do thái thời Chúa Giêsu cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều của tư tưởng này. Những người sống tốt thì được giàu sang, gặp toàn điều lành. Còn những người tội lỗi ắt sẽ nghèo khổ và gặp hoạn nạn, tai ương.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho ta cái nhìn đúng đắn hơn về số phận của những người tội lỗi hay công chính. Qua đó mọi người phải nhận ra và hoán cải trước những biến cố xảy ra trong cuộc đời. Luca trình bày cho ta thấy có 2 phần rõ rệt. Phần đầu là lời mời gọi hoán cải nhân các biến cố chính trị và xã hội đã xảy ra. Phần thứ hai là lời mời gọi hoàn cải qua dụ ngôn về cây vả không sinh trái.
Hai biến cố chết người thê thảm đã gây ấn tượng cho nhiều người Do thái thời ấy phải suy nghĩ. Thật ra việc người Galilê bị giết không ai biết đích xác Luca muốn ám chỉ đến biến cố nào, bởi thời đó Philatô đã thực hiện nhiều cuộc sát hại. Theo sử gia F. Gioseph, đã có một cuộc tàn sát người Samari gần Garidim, ở đây không nhắc đến máu hoà lẫn với tế vật gì cả. Một trận nổi loạn khác là khi ông Philatô đưa hình tượng của hoàng đế Lamã vào khiến người Giêrusalem ái quốc đã nổi loạn. Cũng có sự bất đồng xảy ra khi Philatô lấy tiền quỷ của Đến thờ để xây đường ống dẫn nước vào Giêrusalem đã khiến người do thái nổi loạn. Thực ra, khi Chúa Giêsu trưng dẫn 2 sự kiện này Ngài không có ý cho ta tìm hiểu lại lịch sử các biến cố thời đó. Điều quan trọng là Chúa Giêsu đã vận dụng các biến ấy để kêu gọi mọi người hoán cải. Cái chết của những người Galilê, cũng như của 18 người bị tháp Silôê đè rõ ràng là một thách thức cho những người còn sống phải canh tân đời sống. Cái chết có thể đến bất cứ ai cách chớp nhoáng như những người xấu số trên.
Qua đến dụ ngôn cây vả không sinh trái, dụ ngôn này là một sự gợi nhắc cho mỗi người về nỗi nguy kịch của cuộc sống: Lúc này đây là thời gian cuối cùng, thời gian "gia hạn" đã gần kết thúc rồi. Những người không đón nhận lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải sẽ chết vì không hoạt động và không sinh trái. Cái chết do sự ươn lười thì trầm trọng, đáng trách hơn cái chết vì sự ác độc của người khác hay do tai nạn bất ngờ gây ra. Một biến cố xảy đến, người ta có thể giải thích bằng nhiều cách khác nhau. Người khôn ngoan nhất là người biết lợi dụng những gì xảy đến thay đổi cuộc đời, để tạ ơn Chúa khi gặp may mắn, để xin cho tâm hồn được vững mạnh khi gặp biến cố đau buồn và để vâng theo ý Chúa khi những điều xảy đến hoàn toàn trái ý.
Một đời sống vô ích sẽ đưa đến thảm hại vô cùng. Cây vả cứ múc lấy dưỡng chất từ đất mà không sinh trái, đó là tội của nó. Về phía chúng ta, hết thảy chúng ta đều mắc nợ cuộc sống. Chúng ta đã múc lấy từ cuốc sống quá nhiều điều. Chúng ta vào đời trong sự nguy hiểm tính mạng của người khác. Chúng ta sẽ không còn sống đến nay nếu không có sự săn sóc của những người yêu thương chúng ta. Chúng ta được thừa hưởng một nền văn mình, một sự tự do, một niềm tin kitô giáo mà không bởi công sức chúng ta tạo ra. Vì thế, chúng ta có trách nhiệm làm cho mọi sự trở nên tốt đẹp hơn.
Sự hoán cải không chỉ nhắm đến những kẻ tội lỗi nhưng nhằm đến tất cả mọi người. Có người sẽ thắc mắc: Người tốt cũng phải hoán cải sao? Thưa, họ vẫn phải hoán cải. Cây vả bị đốn đi không phải vì nó sinh trái xấu, nhưng vì nó không sinh những trái vả như nó phải sinh ra. Tiếng gọi hoán cải không chỉ kêu gọi là thôi đừng làm những điều xấu nữa mà còn kêu gọi hãy sinh trái bằng những việc tốt lành.
Mọi kitô hữu như cây vả được Thiên Chúa đặc biệt ươm trồng trong vườn nho. Ta đã được hưởng vô vàn những ân ban, được Thiên Chúa Cha yêu thươn, được sống thân tình với Chúa Kitô, được Chúa Thánh Thần luôn luôn hướng dẫn. Vì thế, coi chừng số phận của chúng ta cũng giống như cây vả không sinh trái trong dụ ngôn. Những ân huệ của Thiên Chúa ban cho chúng ta cần phải được sinh hoa trái, đó là: lòng yêu mến Thiên Chúa, bác ái với tha nhân, trung thành với bổn phận, phát triển những năng khiếu tự nhiên để phục vụ cho người, làm đẹp cho đời. Ta không có tham vọng thay đổi người khác, thay đổi cộng đoàn hay thay đổi cả thế giới. Ta chỉ cần làm một điều quan trọng và rất cần thiết là thay đổi chính mình.
Một triết gia Ấn Độ khi nhìn lại của người đã đi qua, ông đã tự nói với lòng mình trong sự hối tiếc. Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thiên Chúa là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi mới nhân thấy rằng, một nửa đời tôi đã qua đi mà thưa thay đổi được một người nào. Lúc đó tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con được biến đổi tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con. và như vậy là đủ cho con rồi.
Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận thức rằng, tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ này, tôi chỉ chỉ biết cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho con được ơn thay đổi chính bản thân con. Lời cuối cùng của vị triét gia là một sự nuối tiếc: Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.
Thay đôỉ là một điều kiện bắt buộc để con người tồn tại và phát triển. Như triết gia Henri Bergson đã nói: " Sống là để thay đổi, thay đổi để trưởng thành, trưởng thành để tiếp tục phát triển bản thân ". Trong đời sống thiêng liêng cũng thế, mỗi kitô hữu đều có khát vọng được sống và sống đời đời. Do đó đòi hỏi mỗi kitô hữu phải hoán cải đời mình để khỏi nhìn thấy sự sống phải tắt lịm trong tầm tay của mình. Hoán cải vẫn là vấn đề thức thời và cấp bách.
Mùa chay là mùa hoán cải, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho ta một kỳ hạn nữa. Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay. Bao lâu còn sống, ta như cây còn xanh tươi. Thiên Chúa luôn mong chờ cuộc sống mỗi tín hữu luôn trĩu nặng hoa trái Tin Mừng. Hãy tin tưởng bắt đầu ngay hôm nay. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình và hãy thay đổi chính mình.
49. Thay đổi bộ mặt thế giới--Radio Veritas Asia--‘Suy niệm Lời Chúa’
Đời sống con người là một cuộc chiến đấu liên lỉ không ngừng. Không tìm đâu ra nơi nào mà không khỏi chiến đấu.
Một phần lớn dân Chúa đã phải bị chết trong sa mạc và không được vào đất Chúa hứa vì không chiến đấu. Qua tấm gương đó, thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu thành Côrintô: bao nhiêu hồng ân của Thiên Chúa đừng đổ vào vết xe cũ, đừng tụ phụ mà quên chiến đấu. Vì ai tưởng mình đứng vững hãy coi chừng kẻo ngã. Sứ điệp của thánh Phaolô trong đoạn thánh thư trên đây thật rõ ràng. Các tín hữu Kitô cần phải thận trọng và đừng coi việc lãnh nhận phép Rửa tội và những việc đạo đức như một bảo hiểm chắc chắn sẽ được cứu rỗi, để rồi trở nên bất cẩn và quên chiến đấu với những yếu đuối, những cám dỗ của ma quỉ và những đam mê dục vọng của mình. trong bối cảnh của Mùa Chay, đoạn thư thánh Phaolô gởi tín hữu Côrintô cũng là một lời mời gọi các tín hữu Kitô tiến lên mừng lễ Phục sinh trong tinh thần khiêm tốn, với ý thức mình là người tội lỗi và luôn tỉnh thức để chiến đấu, bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới của Chúa Kitô Phục sinh.
Với Chúa nhật hôm nay, chúng ta đã tiến vào tuần III của Mùa Chay, chúng ta đã làm gì để đáp lại lời Giáo Hội kêu mời: Hãy ăn năn thống hối và tin vào Tin Mừng.
Là những người tự xưng là tín hữu Kitô, là những người tin, những người sống niềm tin của mình vào Đức Giêsu Kitô, nhưng thành thật với lòng, chúng ta phải thú nhận đức tin của chúng ta vẫn còn yếu kém, cuộc sống đức tin của chúng ta chưa nở hoa kết quả bằng những việc cụ thể để nối dài đời sống của Đức Giêsu như Ngài chờ đợi, như hình ảnh cây vả trong vườn nho được đề cập đến trong bài Phúc Âm hôm nay. Vì thế một trong những phương pháp để củng cố đức tin, một đức tin có việc làm đi kèm là nhìn ngắm và dõi theo mẫu gương của những kẻ có đức tin vững mạnh.
Bài đọc thứ nhất chúng ta vừa nghe đọc nhắc lại mẫu gương đức tin của ông Môisê. Khởi đầu cuộc hành ttrình đức tin của ngài có thể gom lược vào những diễn tiến sau đây: Trong lúc chăn dê trên núi, Môisê thấy dấu lạ, ngài đi để nhìn xem việc gì xảy ra, và đang lúc đi xem, ngài nghe tiếng Thiên Chúa gọi dẫn dắt dân tộc Do Thái qua khỏi cảnh nô lệ lầm than bên Ai Cập. Thấy bụi gai bốc lửa cháy mà không bị thiêu hủy, đi đến gần để nhìn cho rõ và nghe tiếng Chúa gọi. Đó là ba bước tiến xem ra đơn sơ nhưng diễn tả những giai đoạn xác thực của lịch sử ơn gọi của nhiều người có đức tin vững mạnh.
Những người như ông Môisê trước đó có tổ phụ Abraham và gần đây có những nhân vật lừng danh như mục sư Martin, như Đức Gioan XXIII, hay Mẹ Têrêxa Calcutta. Mỗi người trong họ đều khám phá giữa môi trường họ đang sống, có một cái gì đó lẽ ra không nên xảy ra: một dấu lạ, một câu hỏi khó giải quyết, một vấn đề nóng bỏng.
Abraham gặp vấn đề không có đồng cỏ cho đàn gia súc ngày một sanh sôi, và ngược lại không có con để nối dòng.
Môisê chạm trán với vấn đề bất công, bóc lột và đàn áp mà dân Do Thái phải gánh chịu trong cảnh sống ăn nhờ ở trên đất Ai Cập.
Đối với mục sư Martin, bụi gai cháy với một giọt nước cuối cùng đã nhỏ giọt trên cái ly đầy nước, làm phát động phong trào đấu tranh cho sự bình đẳng của người da đen trong xã hội Mỹ, là cảnh một phụ nữ da đen bị bắt giam khi trên một chuyến xe bus vì tự trọng, bà đã không đứng dậy để nhường chỗ cho một hành khách da trắng.
Còn Đức Gioan XXIII thấy Giáo Hội này có bổn phận dẫn dắt, cần phải được canh tân, một đàng để trở về nguồn Phúc Âm và đàng khác để đáp ứng với những vấn đề và những hoàn cảnh của cuộc sống tiên tiến của những thập niên của thế kỷ XX.
Trong khi đó thì Mẹ Têrêxa Calcutta khi đã thấy, Mẹ cảm nghiệm được tiếng gọi Mẹ phải làm một cái gì đó cho những người nghèo đói, bệnh tật kiệt sức đến đổi chỉ còn biết nằm chờ chết ở các vỉa hè của thành phố Calcutta, những người mà Mẹ Têrêxa thông cảm sâu xa, vì trong suốt cuộc đời họ chưa bao giờ kinh nghiệm được một nụ cười yêu thương, hay một tia hy vọng.
Tất cả những nhân vật kể trên và nhiều người khác nữa không chạy trốn khỏi những kẻ thương tâm, những vấn đề nóng bỏng. Ngược lại họ đã nhìn thẳng vào những vấn đề ấy, cố gắng tìm những biện pháp để giải quyết.
Như ông Môisê họ đã tự nói với mình: "Ta hãy lại xem cảnh tượng kỳ lạ này" Để rồi sau đó, họ càng xác tín là những hoàn cảnh thương tâm ấy cần phải thay đổi tận gốc rễ. Trong những tiếng kêu gào đòi phải có những biện pháp để thay đổi, họ nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Họ cảm nghiệm được mệnh lệnh không thể cưỡng lại được, một mệnh lệnh không cho phép họ chạy trốn trách nhiệm. họ cảm thấy như một con đường đã được vạch ra giữa những hoàn cảnh khó khăn, kêu gọi họ phải theo đó mà hành động. Abraham đã bỏ quê cha đất tổ để lên đường đi tìm một quê hương Thiên Chúa sẽ chỉ cho ông. Môisê đã tìm Pharaôn để tranh đấu cho cuộc xuất hành khỏi ách nô lệ lầm than của dân Do Thái. Martin đã đi phát động phong trào giải phóng người da màu ở Hoa Kỳ. Đức Gioan XXIII triệu tập Công đồng chung Vatican II và nữ tu Têrêxa đã trở thành bà Mẹ của những người nghèo.
Lắng tai nghe tiếng gọi vang lên từ những hoàn cảnh, chạm trán với cuộc sống hằng ngày, những nhân vật trên đây và nhiều người khác đã cảm thấy họ có trách nhiệm để sửa đổi. Vâng lời, cậy trông và nhất là đầy lòng tin và can đảm, họ đã lên đường khởi đầu một cuộc hành trình, một cuộc hành trình không thiếu những khó khăn vất vả, và nguy hiểm. Nhưng càng tiến bước họ càng nghe rõ tiếng gọi của Chúa. Họ càng khám phá Thiên Chúa không phải là Đấng ngự trên chín từng trời cao thẳm, nhưng Thiên Chúa là Đấng luôn quan tâm và thiết tha đến vận mạng của nhân loại và của từng cá nhân.
Thiên Chúa là Đấng tuyên bố với ông Môisê: "Ta đã thấy dân chịu cơ cực ở Ai Cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than bởi kẻ bất công áp bức. Ta biết nỗi đau khổ của chúng". Và Thiên Chúa là Đấng đã quyết định giáng tai họa xuống trên người Ai Cập để cứu dân Do Thái và đưa chúng ra khỏi đất ấy, đến miền đất tốt tươi, đất tràn trề sữa và mật ong.
Ngay trong những hoàn cảnh xã hội chúng ta đang sống, chúng ta có thể khám phá ra những điều khác lạ với điều bị lửa cháy mà không thiêu hủy. Những vấn đề nóng bỏng chưa được giải quyết, những trạng huống kêu gào sự sửa đổi, những hoàn cảnh thương tâm kêu gọi những bàn tay băng bó những vết thương, những vấn đề khó khăn xảy ra cả trong chính gia đình hay ngoài thôn xóm.
Để sống niềm tin Kitô của chúng ta, chúng ta không thể bưng tai giả điếc, ngoảnh mặt làm ngơ. Chúng ta càng không có quyền chạy trốn thực tại, nhưng chúng ta hãy noi gương ông Môisê và những người có đức tin vững mạnh khác để đến gần xem cho rõ và nghe tiếng Chúa kêu gọi, hầu chung tay sửa đổi, chung sức tìm cách giải quyết những vấn đề nóng bỏng hay tỏ tình liên đới và rộng tay chia sẻ những gì mình có cho những kẻ không có gì. Và ít ra là trao tặng cho những người đang gặp những hoàn cảnh thương tâm một câu nói khích lệ, một nụ cười thông cảm. Đây có thể là tiếng Thiên Chúa gọi chúng ta. Để đặc biệt làm trong Mùa Chay, chúng ta tham gia vào quá trình thay đổi mới bộ mặt xã hội chúng ta đang sống. Nhưng thiết nghĩ, trong bầu khí ăn năn thống hối và trong trung tâm cuộc sống của Mùa Chay, chúng ta không nên quên câu châm ngôn: "Hãy thay đổi bộ mặt thế giới, nhưng hãy bắt đầu bằng cuộc sống thay đổi chính mình".
50. Sự kiên nhẫn chờ đợi--Radio Veritas Asia--‘Suy Niệm Lời Chúa’
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta thấy rằng: Thiên Chúa là Đấng nhân từ đầy lòng thương xót, Người luôn cảm thông trước những nỗi khổ của con người và trước những nếp sống tội lỗi bất trung, Người luôn mong chờ sự hối hận ăn năn, từ bỏ tội lỗi trở về sống trong ân sủng và tình thương của Người.
Nơi bài đọc thứ nhất, những lời Chúa nói cùng Môisê chắc chắn vẫn còn vang dội đến ngày hôm nay: "Ta đã thấy dân Ta phải khổ cực ở Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than. Ta đã biết nỗi đau khổ của chúng và Ta đến cứu chúng". Khoảng 3,000 năm trước, Thiên Chúa đã nói với Môisê những lời đó, thì ngày nay, chắc chắn cũng chính Thiên Chúa duy nhất không bao giờ thay đổi đó cũng thấy, cũng nghe, cũng biết những nỗi đau khổ của con người thời đại. Chúng ta đừng tìm đâu xa, hãy nhìn vào chính bản thân mình, gia đình mình, xung quanh mình thôi, chúng ta đã nhận thấy biết bao đau khổ. Khổ vật chất do túng thiếu, bệnh tật, bất công. Khổ tinh thần như buồn phiền, thương nhớ, sợ sệt, lo âu... Trước tất cả những nỗi thống khổ đó Chúa đã nói: "Ta đã thấy, đã nghe và đã biết và này Ta đến để cứu chúng".
Trong lịch sử Chúa đã cứu dân Do Thái thế nào? Người không cứu họ như phù thủy quăng chiếc đũa thần trong nháy mắt biến buồn ra vui, đổi đau khổ thành hạnh phúc và con người mất cả tính người trở nên như một cái máy chỉ còn biết bị bắt buộc hướng về một chiều mà thôi. Không, Chúa đã cứu dân Người bằng một thời gian tôi luyện 40 năm trong sa mạc, trong cuộc hành trình về đất Hứa, đất tràn trề sửa và mật ong. Và để được cứu thoát, con người phải trung thành với Chúa, tin tưởng nơi Chúa. Dầu qua gian nan, qua thử thách, con người phải luôn nhớ như thánh vịnh 102 nhắc là: "Chúa là Đấng thương xót và nhân ái". Hãy tin tưởng nơi Chúa và rồi chỉ khi nào nhìn lại, chúng ta mới cảm thấy thấm thía những lời của thánh vịnh trên. "Hồn tôi ơi hãy chúc tụng Chúa và toàn thể thân tôi hãy chúc tụng danh Người. Hồn tôi ơi hãy chúc tụng Chúa và đừng bao giờ quên các ân huệ của Người".
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô áp dụng vào Tân Ước hình ảnh trong Cựu Ước. Môisê dắt dân Chúa qua biển Đỏ, nuôi dân chúng bằng Manna trong sa mạc, giải khát dân chúng bằng nước từ tảng đá chảy ra. Trong Tân Ước, chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa dắt chúng ta vào đời sống mới qua bí tích Thánh Tẩy, nuôi dưỡng chúng ta bằng của ăn cực thánh là Bí Tích Thánh Thể và uống nước từ tảng đá mà thánh Phaolô nói rõ, tảng đá ấy chính là Chúa Kitô. Và thánh nhân cũng nhắc nhở rằng cuộc thanh tẩy 40 năm ở Cựu Ước đã được ghi chép để răn bảo chúng ta, là những người đang sống trong thời đại cuối cùng đã được thanh tẩy tôi luyện, thì những ai bất xứng, những ai cố chấp chắc chắn là tự mình tạo lấy sự hủy diệt cho mình. Và chỉ những ai trung thành sống theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa mới được vào đất Hứa. Vì thế, kết luận bài đọc thứ hai, thánh Phaolô nhắc nhở phải bền đổ đến cùng. Ngài nói rõ: "Ai tưởng mình đang đứng vững hãy ý tứ kẻo ngã".
Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng thương xót và nhân ái. Trước tiên, Người dạy chúng ta đừng kết án ai, cũng đừng trách móc Chúa theo sự kiện xảy ra. Biết bao nhiêu người khi thấy một điều bất hạnh xảy đến cho mình hay cho những người mình yêu mến thì hay phàn nàn: Thật là bất công, tôi đã làm chi mà Chúa để cho tôi phải chịu như thế này? Trái lại, khi điều bất hạnh xảy đến cho những người mà họ không ưa thì câu nói ở cửa miệng thường là: Thật trời có mắt hay Chúa công bình vô cùng. Con người hay gán cho Thiên Chúa những gì họ nghĩ trong lòng họ. Thiên Chúa công bình vô cùng, nhưng suốt đời sống con người ở trần gian, Thiên Chúa vẫn là Cha nhân từ vô cùng. Người không thất vọng nhưng luôn chờ đợi những hoa quả tốt tươi trong đời sống con người. Chúa luôn ban ơn săn sóc và mong cho cuộc đời chúng ta đơm hoa kết trái.
Nghe qua dụ ngôn trong Phúc Âm về sự kiên nhẫn chờ đợi, mong mỏi những gì tốt đẹp xứng với sự chăm nom của chủ vườn, chúng ta hãy thấy được tình yêu thương, lòng nhân từ, sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với con người và cố gắng trở về cùng Chúa nhất là trong Mùa Chay này. Vì "đây là lúc thuận tiện, đây là thời cứu độ".
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi hãy đặt câu hỏi: Phải bắt đầu từ đâu để cải tạo thế giới? Và tôi sẽ nghe được tiếng trả lời: Hãy bắt đầu từ chính bản thân tôi. Cải tạo thế giới, công việc quá to lớn vĩ đại, nhưng mỗi người hãy bắt đầu từ bản thân mình và rồi thế giới sẽ tươi đẹp. Vậy tôi hãy cố gắng sửa chữa một nết xấu tôi biết là quan trọng của tôi trong Mùa Chay này và ngay ngày hôm nay. Xin Chúa nhận lấy lòng thành của tôi và giúp đỡ tôi.
51. Sự sám hối, một điều kiện tất yếu--Lm. Nguyễn Hữu Thy
“Nếu các ông không ăn năn sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy!” Ðó là những lời nói đầy khẩn cấp của Chúa. Chúng ta phản ứng thế nào trước sự cảnh cáo của Chúa?
Sau đây tôi xin được giới thiệu ba phản ứng tượng trưng:
“Sám hối? Tôi cảm thấy điều đó chẳng có liên quan gì đến hoàn cảnh của tôi cả”. Vâng, sẽ có người phát biểu như thế: “Nếu so sánh cuộc sống của tôi với cuộc sống nhiều người khác, thì tôi cũng không đến nỗi! Nếu không hơn ai, thì cũng không thua kém ai. Con cái tôi đều học hành đàng hoàng, cũng có công ăn việc làm đâu vào đấy. Tôi đi nhà thờ đọc kinh xem lễ thường xuyên. Với bà con láng giềng mọi sự đều vui vẻ hài hòa. Vậy tôi đâu có làm gì sai quấy cả, tại sao tôi còn cần phải sám hối?”
“Sám hối? Ðó là một lời quá nghiêm khắc đối với tôi”, đó là ý kiến của một người khác. “Sám hối! Vâng, đó là cả một vấn đề! Chắc chắn rằng nhiều khi tôi cảm thấy có điều gì đó trong cuộc sống mình không được thuận thảo và xuôi chảy. Ðôi lúc tôi cũng tự bảo mình là tôi có thể hoàn toàn sống khác với hiện tại! Ðã có biết bao nhiêu dịp may bị bỏ lỡ, bao nhiêu trường hợp tốt đã không lợi dụng được! Nhưng cuộc sống con người là thế! Từ sáng tinh sương cho tới chiều tối: hết trách nhiệm này đến bổn phận nọ! Nào lo lắng cho gia đình, cho con cái, cho nghề nghiệp, cho công ăn việc làm, cho tiền bạc! Vâng, nhiều khi tôi đã muốn chạy thoát mọi sự và bắt tay lại từ đầu! Nhưng tôi cần phải bắt đầu lại ở chỗ nào và tôi phải dừng lại ở chỗ nào? Không thể được. Sám hối? Ðó là một lời nói quá nghiêm khắc đối với tôi. Tôi chẳng biết phải làm thế nào nữa. Và tôi nghĩ rằng, có lẽ tôi cứ tiếp tục sống như từ xưa tới nay!”
“Sám hối? Vâng, đó là dịp may và thuận lợi cho tôi!” một người thứ ba lại phát biểu như thế: “Sám hối? Tôi sực nhớ lại tất cả: vâng, trước kia tôi thường chỉ sống một cách hời hợt bên ngoài, và cứ thế từ ngày này sang ngày nọ! Nhưng rồi sau đó, có một chuyện không hay đã xảy ra và làm thay đổi toàn bộ cuộc sống của tôi. Tôi đã xích mích và đụng độ công khai với một vài người. Tôi đâm ra chán nãn. Tôi luôn trốn tránh, không tiếp xúc với cộng đồng giáo xứ nữa. Nhưng rồi tôi lại hối hận và đã tìm cách hàn gắn lại những đổ vỡ. Tuy nhiên, tôi nhận thấy sự việc thật phức tạp, vướng mắc đủ thứ “dây mơ rễ má” này nọ nữa, chứ không dễ dàng. Và biến cố đó đã ám ảnh tôi mãi, cả đến hôm nay nữa. Tôi bổng thấy mình hoàn toàn khác hẳn. Một cách chân thành, tôi thấy mình còn quá thiếu sót trong cuộc sống, tôi thấy đời mình không thể cứ tiếp tục mãi như thế được. Vì thế tôi đã bắt đầu suy tư, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện. Bài giảng Tám Mối Phúc Thật của Ðức Giêsu là kim chỉ nam, là đèn soi, là động lực cho mọi định hướng của tôi. Tôi đã cảm nhận được rằng, mọi sự không thể một sớm một chiều lại được giải tỏa và trở lại bình thường, nhưng đối với tôi, sự sám hối và cải thiện cuộc sống là dịp tốt, là cơ may duy nhất để tiếp tục sống một cách có ý nghĩa và nhân bản hơn.”
Trên đây là ba phản ứng hay ba quan niệm trước việc “sám hối”! Còn chúng ta, chúng ta phản ứng ra sao? Phải chăng chúng ta cũng đồng ý với một trong ba phản ứng trên: Sám hối, chẳng có gì kiên quan đến hoàn cảnh của tôi; hoặc: sám hối, một tiếng quá nghiêm khắc đối với tôi; hoặc: sám hối, một dịp tốt duy nhất đối với tôi, để sống có nhân bản hơn?
Trước khi mỗi người trong chúng ta phải tự trả lời câu hỏi đó, chúng ta còn cần có những suy nghĩ đúng đắn! Ðể có thể tìm thấy nơi sự sám hối ý nghĩa đầy đủ của nó, người ta cần phải có những cảm nghiệm nào đó. Vâng, người ta cần phải có những cảm nghiệm cá nhân: Cuộc sống của mình sẽ đi về đâu? Tại sao người ta phải thay đổi quan niệm sống của mình và thay đổi thế nào? Nếu không? v.v... Một người chỉ có thể sống và nói được như thế, nếu người đó có được một cảm nghiệm khác, cảm nghiệm về ý nghĩa bài Giảng Trên Núi của Ðức Giêsu và cảm nghiệm về Thiên Chúa, Ðấng hằng đứng sau tất cả những gì Ðức Giêsu nói và hành động. Thiên Chúa của Ðức Giêsu đòi hỏi và tạo điều kiện cho con người sống trong một cách thức nhất định nào đó - vừa cụ thể vừa khác biệt - theo như người ta lựa chọn. Trong sự cảm nghiệm đó, chính Thiên Chúa sẽ trở nên chương trình sống, và khi đối mặt với chương trình sống đó, chỉ còn lại một cách duy nhất để có thể đứng vững được là không ngừng nỗ lực dấn thân vào trong chương trình đó với tất cả lòng tin tưởng. Con người cần phải thiết kế cuộc sống mình với Thiên Chúa và luôn nỗ lực thực thi thánh ý của Người; Con người cần phải bắt đầu một cuộc sống mới, một cuộc sống làm chứng giữa lòng đời cho lòng nhân hậu, sự công bằng và tình thân thiện của Thiên Chúa đối với nhân loại, trong phạm vi tư riêng cũng như trong phạm vi rộng lớn. Con người cần phải bắt đầu một cuộc sống mới, một cuộc sống còn nhắm tới những mục đích cao cả khác, chứ không chỉ giới hạn trong những tư lợi và hạnh phúc riêng của mình, v.v...Nói đúng hơn, đó chính là sự sám hối, nghĩa là sống trong tương quan thân tình với Thiên Chúa, để cho Thánh Thần của Người soi sáng, hướng dẫn và biến đổi cuộc sống của mình. Như vậy, sự sám hối ở đây trở thành điều kiện cần thiết cho một cuộc sống theo đúng với kế hoạch của Thiên Chúa. Trong ý nghĩa đó người ta có thể hiểu cuộc sống như một vận may để mang lại hoa trái.
Ðó chính là điều bài Tin Mừng hôm nay muốn đề cập tới, khi coi sự sám hối là một điều cần thiết, và sống có nghĩa là chấp nhận cái vận may đó, mà Thiên Chúa đã ban cho tất cả chúng ta.
Vậy, chúng ta hãy chấp nhận lấy vận may đang trong tầm tay chúng ta. Chúng ta hãy loại bỏ thái độ thờ ơ và tính ươn lười dễ chịu, bởi vì chúng sẽ dẫn chúng ta vào trong ngõ cụt cuộc đời. Trong những điều kiện và hoàn cảnh sống của mình, mỗi người hãy tìm cho cuộc sống riêng của mình một lối thoát thích hợp và đúng đắn. Như thế, cuộc sống chúng ta sẽ trở nên có giá trị, là một niềm vui và là một ơn lành của Thiên Chúa. Amen.
52. Cơ hội thứ hai – Thiên Phúc—‘Như Thầy Đã Yêu’
Có một câu chuyện về một cây vĩ cầm như sau: Cây vĩ cầm bị rạn nứt, người ta dán lại và đem ra bán đấu giá. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút nó làm gì. Nhưng ông vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán:
- Thưa quí vị ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây?
Một đồng, rồi hai đồng. Chỉ có hai đồng thôi sao? Ai sẽ trả nó ba đồng đây. Vâng, một người trả ba đồng. Không ai trả hơn sao?
Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau sạch bụi chiếc đàn cũ kỹ, rồi lên dây lại. Sau đó, ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, du dương như bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rãi, hỏi:
- Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm này đây?
Đoạn ông vừa cầm đàn lên vừa nói:
- Một ngàn đồng, và ai tăng lên hai ngàn? Hai ngàn rồi, có ai chịu tăng lên ba ngàn không? Một người chịu giá ba ngàn, còn nữa không?
Đám đông hồ hởi reo vui, nhưng có vài người trong họ la lên:
- Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm đó?
Lập tức có tiếng đáp lại:
- Chính nhờ đôi tay người nghệ sĩ chạm vào đấy!
Đứng trước những biến cố đem lại tai hoạ và chết chóc cho con người, Chúa Giêsu không bình luận theo quan điểm của người Do Thái thời đó; Tin Mừng hôm nay kể lại việc quan tổng trấn Philalô tàn sát mấy người Galilê và việc tháp Siluê đổ xuống đè chết 18 nạn nhân. Người Do Thái cho rằng những người bị tai hoạ đó là do tội lỗi của chính họ, nên bị Thiên Chúa giáng phạt. Còn những người khác thấy vẫn bình yên vô sự, thì cho rằng mình vô tội, nên dễ tự hào về sự thánh thiện của mình. Chúa Giêsu không nghĩ thế, Người không cho rằng những người bị nạn đó tội lỗi hơn đồng hương của họ. Người muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân, đều bị Thiên Chúa phán xét, đều đáng chịu án phạt của Người, nên cần phải ăn năn sám hối, để tránh hình phạt của Thiên Chúa.
Tính cấp bách phải sám hối ăn năn được Chúa Giêsu nói rõ trong dụ ngôn cây vả: Thiên Chúa là người trồng cây, Chúa Giêsu là người làm vườn, và dân Itraen là cây vả không sinh trái. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Itraen làm dân riêng của Người, và ban cho nhiều đặc ân, nhưng họ lại không sinh hoa kết trái, là trung thành với lề luật, sống công chính, và phụng thờ một mình Người.
Thiên Chúa đã chấp thuận lời đề nghị của Chúa Giêsu, là cho họ một cơ hội thứ hai, một thời gian để chăm bón thêm, với các lời giảng dạy của Chúa Giêsu và các phép lạ kèm theo. Nhưng họ vẫn cố chấp, không hoán cải để sinh hoa trái. Vì thế, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ: Điều đó đã được chứng thực vào năm 70 sau Công Nguyên khi đền thánh Giêrusalem bị tàn phá.
Thiên Chúa cũng đã tuyển chọn chúng ta trong kế hoạch nhiệm mầu của người và yêu thương chăm sóc chúng ta cách đặc biệt. Người chờ mong chúng ta sinh ra hoa trái tốt tươi. Nhưng nếu chúng ta chưa thực hiện được những mơ ước của Người, thì cũng như cây đàn vĩ cầm rạn nứt trong câu chuyện trên đây, Người cũng cho chúng ta một cơ hội, là đôi tay kỳ diệu của người nghệ sĩ đã chạm vào cây đàn, chính là Đức Giêsu, để chúng ta tấu lên những khúc nhạc du dương, là bài ca của những tâm hồn biết ăn năn, là hoa trái của những tấm lòng sám hối.
Chúng ta hãy cảm nhận tri ân Chúa Giêsu đã cho chúng ta cơ hội thứ hai này, và tận dụng tối đa cơ may ấy đế sinh nhiều hoa trái trong mùa Chay thánh.
Lạy Chúa, mỗi một biến cố đau buồn là một lời nhắc nhở chúng con hãy sẵn sàng tỉnh thức. Mỗi một ngày mới là một cơ hội Chúa khoan giãn để chúng con có thời gian sám hối ăn năn.
Xin đừng để chúng con khất lần kẻo cũng bị số phận như cây vả không trái, nhưng xin cho chúng con biết dùng ơn Chúa để nên thánh thiện, sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn. Nhất là biết chuẩn bị giờ chết ngay từ bây giờ bằng việc ăn năn sám hối. Amen.
53. Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân--‘Suy Niệm Lời Chúa’--Radio Veritas Asia
Trong cùng một thời gian, dân chúng tại Phi Luật Tân đã xúc động mãnh liệt vì hai vụ án:
- Vụ án thứ nhất diễn ra tại Phi Luật Tân. Một tòa án địa phương gần Manila đã tuyên án phạt bảy lần chung thân một viên thị trưởng và sáu đồng bọn vì tội hãm hiếp và giết người. Đa số người dân Phi đều biểu lộ sự hài lòng vì công lý đã được thực thi. Một số người khác thì lại tỏ ra bất mãn vì cho rằng hình phạt tương xứng với tội nhân này lẽ ra là phải tử hình.
- Vụ án thứ hai diễn ra tại Singapore. Một phụ nữ Phi Luật Tân vốn làm nghề "giúp việc nhà" tại Singapore đã bị toà án tại nước này xử tử hình vì tội giết người. Tối thứ Năm, tại Manila cũng như nhiều nơi khác tại Phi Luật Tân, nhiều tín hữu công giáo Phi đã canh thức suốt đêm để cầu nguyện cho việc thực hiện bản án được hoãn lại. Và vụ án cần phải được xét lại bởi vì theo nhiều người Phi, người phụ nữ này vô tội. Tuy nhiên, mặc cho phản đối của người dân Phi, và mặc cho lời cầu cứu của Tổng Thống Phi Luật Tân, sáng thứ Sáu, chính phủ Singapore đã ra lệnh treo cổ người phụ nữ Phi theo đúng qui định của hình luật nước này.
Phản ứng của người dân Phi Luật Tân qua hai vụ án trên đây xem ra cũng là phản ứng thông thường của con người. Dù bất cứ nơi nào và thời đại nào, có tội thì phải bị trừng trị và kẻ vô tội thì phải được giải oan. Thời Chúa Giêsu xem ra người Do Thái cũng có một quan niệm tương tự. Cho dẫu được lồng vào trong cái nhìn tôn giáo, khi tổng trấn Philatô ra lệnh hành quyết một số người Galilê nổi loạn, thì nhiều người Do Thái cho rằng những người này lãnh một hình phạt tương xứng với tội lỗi của họ. Họ là những con người có tội cho nên cần phải bị trừng trị. Số phận của 18 người bị tháp Silôê đổ xuống đè chết cũng được nhiều phán quyết tương tự: họ bị Chúa trừng phạt vì họ là người tội lỗi.
Cùng với tự do hạnh phúc và những giá trị cơ bản khác, công lý là điều mà con người không ngừng khao khát và tìm kiếm. Tuy nhiên cái khái niệm công lý nơi con người thì hạn hẹp và sự thực thi công lý lại càng bất toàn hơn. Trong những chế độ độc tài, có biết bao nhiêu người bị giam giữ vì bất đồng chính kiến, có biết bao nhiêu người chết rũ tù mà không hề được xét xử. Còn nay trong những chế độ thật sự có tự do, vẫn có biết bao nhiêu người bị hàm oan, còn bao nhiêu kẻ gian ác thì vẫn không hề sa lưới pháp luật. Nơi đây, người ta đòi lập bản án tử hình. Nơi kia người ta tranh đấu để bãi bỏ. Quả thật trên trần gian này khát vọng về công lý của con người không bao giờ được thỏa mãn hoàn toàn. Chính vì thế mà khi nhận định về số phận của những người bị Philatô sát hại, cũng như những nạn nhân của vụ tháp Silôê đổ xuống đè chết, Chúa Giêsu đã mời những người Do Thái của thời đại này hãy vượt qua cái quan niệm thông thường về công lý của con người: "mắt đền mắt, răng đền răng", "có vay có trả", "tôi cho bạn là để bạn cho tôi lại". Đó là cái quan niệm thông thường của con người về công lý. Tuy nhiên, khi đưa ra thí dụ về cây vả, Chúa Giêsu lại đưa con người vào trong một cái nhìn mới. Đó là cái nhìn của kiên nhẫn, của khoan dung và tha thứ. Đó là cách thế Thiên Chúa đối xử với con người. Theo công lý của loài người, thì cây vả không sinh trái phải bị chặt quăng đi tức khắc. Thế nhưng, cái nhìn của Thiên Chúa là cái nhìn của "Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân" như chúng ta vừa đọc trong bài đáp ca.
"Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng", lời kêu gọi sám hối của Chúa Giêsu luôn gắn liền với Tin Mừng của tình yêu, của sự tha thứ, của lòng khoan dung vô bờ của Thiên Chúa. Sám hối không chỉ là nhìn nhận thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, mà thiết yếu là tin vào tình yêu của Thiên Chúa. Nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình và tin vào tình yêu của Thiên Chúa, đây cũng chính là chìa khóa của sự hài hòa trong cuộc sống xã hội.
Sau khi Đavít phạm tội ngoại tình và giết người, ông vẫn ung dung tự tại như không hề có gì xảy ra. Thế rồi, tiên tri Nathan được Chúa sai đến gặp ông và kể về chuyện bất công của một người hàng xóm nọ. Đavít nổi giận, ông đòi trừng trị tức khắc kẻ bất nhân. Lúc bấy giờ Nathan mới nói: "Con người bất nhân đó chính là ông". Lúc bấy giờ Đavít mới chợt bừng tỉnh, ông nhận ra cái thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Chúng ta vốn mù quáng về mình nhưng lại nhạy cảm trước sự yếu đuối của người khác, đó là mầm móng của thái độ bất khoan dung. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sám hối nghĩa là nhận ra thân phận tội lỗi của mình, nhưng thiết yếu là phải tin tưởng vào lượng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa. Cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa, chúng ta được mời gọi để thể hiện chính sự tha thứ và khoan dung với tha nhân. Quan hệ giữa người với người lúc đó sẽ không còn là "mắt đền mắt, răng đền răng" nữa, mà sẽ là thông cảm tha thứ. Cuộc sống xã hội sẽ không chỉ được điều khiển bởi thứ công bình có vay có trả, mà cần phải được xây dựng trên sự tha thứ, lòng quảng đại vô vị lợi.
Thánh lễ chính là sự thể hiện của ơn tha thứ của Chúa. Chúng ta đến đây để đón nhận ơn tha thứ một cách nhưng không, chúng ta cũng được mời gọi để thể hiện sự tha thứ một cách nhưng không. Chỉ có điều kiện đó, chúng ta mới xứng đáng cầu nguyện: "Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" trước khi chúng ta rước Mình và Máu Chúa Kitô.
54. Sám hối chân thành—PM Cao Huy Hoàng
Thời nào và ở đâu cũng có những oan sai. Oan sai có thể do luật sai tự bản chất, cũng có thể do người thi hành luật và cũng có thể do phía tố tụng có tính cách áp chế. Vì thế, oan sai luôn là một bất công đáng tiếc dẫn đến những tai họa khôn lường. Cái chết của những người Galilee do quyết định của Tổng Trấn Philato có thể là một oan sai, mà "tiếng dân kêu chẳng thấu trời". Những cái chết thật bi thương. Và khi mấy người đến kể cho Chúa Giêsu nghe câu chuyện ấy, những tưởng Đức Giêsu đồng quan niệm với họ rằng những người ấy bị án tử vì phạm pháp, không ngờ Chúa Giêsu lại nói " Các ông tưởng mấy người Galilee đó bị như vậy, là vì họ tội lỗi hơn mấy người Galilee khác sao?" (Luc 13,2). Tôi muốn hiểu từ "tội lỗi" ở đây đồng nghĩa với từ "phạm pháp", phần đời. Như vậy, theo ý của Chúa Giêsu, thì không chắc là những người nầy đã bị án tử vì phạm pháp. Trong suốt mùa chay, bất kỳ một đoạn Kinh Thánh nào mà phụng vụ đã chọn, có nhắc tới "sự chết", đều làm tôi liên tưởng đến cái chết của Đức Giêsu. Tôi thiết tưởng, Ngài cũng muốn nói đến cái chết của Ngài, một cái chết do oan sai, một cái chết của người vô tội, chết thay cho người có tội. Vì thế Ngài nói tiếp " Nếu các ông không sám hối, thì hết thảy các ông cũng chết như vậy" (Luc 13,3).
Ngài còn dẫn chứng và giải thích cái chết bất ngờ của 18 người do tháp Siloa ngã đè, "không phải vì họ có tội nặng hơn những người ở thành Giêrusalem, nhưng nếu các ông không sám hối, thì hết thảy các ông cũng chết như vậy" (Luc 13,5). Tôi lại liên tưởng đến cái chết của Chúa Giêsu, không phải là là sự trừng phạt của Thiên Chúa Cha, mà là Thánh Ý Nhiệm mầu mặc cho cái chết ấy một ý nghĩa cứu chuộc- Chết là một điều kiện tất yếu để có sự Phục Sinh. Như vậy, cái chết phần xác của 18 người bị tháp đè, cũng không phải là sự trừng phạt hay trả thù của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Ngay đến cái chết đời đời của linh hồn con người -sự chia lìa, không được phúc chung hưởng vinh quang Thiên Chúa - Chúa Giêsu cũng không muốn, mà ngược lại Ngài gọi mời sám hối trở về để được sống đời đời.
Chúa Giêsu lại đưa ra ví dụ cây vả, để giải thích thiết thực bài học, lời khuyên, lời cảnh tỉnh "sám hối" mà Ngài đã nói với mấy người Galilee, và với chúng ta. Sám hối không chỉ là nhận ra sự tiêu cực, ích kỷ, lười lĩnh của mình trong cuộc sống, mà còn là phải canh tân đổi mới để cuộc sống tích cực hơn, sinh động hơn, nhiệt tình hơn, sinh hoa kết trái nhiều hơn, xum xuê, đầy cành. Sinh hoa kết trái chính là sự cho đi, sự hiến dâng cho cuộc đời, làm cho cuộc đời có một sức sống mới bắt nguồn từ hoa trái ấy. Cây Vả Giêsu mà Thiên Chúa đem trồng nơi trần gian đã sinh hoa kết trái cho nhân loại. Đó là Tình Yêu của Thiên Chúa Cha đã biểu lộ nơi Người Con Chí Ái, khi Người Con, chính là Đức Giêsu Ki tô, đã cống hiến trọn vẹn sự sống mình cho nhân loại, cho nhân loại được sống và sống dồi dào.Tôi nhớ đến "Bài Ca Đức Mến" (1 Cor 13), một tuyệt phẩm của Thánh Phao-lô, một bức họa cuộc đời Chúa Giêsu Cứu Thế, và tôi vẫn nghĩ đây là tiêu chuẩn hoa trái của lòng sám hối chân thành đối với mỗi tín hữu chúng ta hôm nay, không chỉ trong mùa Chay nầy, mà suốt cả đời người.
"Lòng mến thì khoan dung, nhân hậu,
lòng mến không ghen tuông,
lòng mến không ba hoa, không tự mãn,
không khiếm nhã, không ích kỷ
không cáu kỉnh, không chấp nhất sự dữ
không mừng trước sự bất công,
nhưng biết chia vui cùng lòng chân thật
Trong muôn sự, lòng mến hết lòng bao dung,
lòng mến hết lòng kính tin, hết lòng trông cậy.
lòng mến không hề tàn tạ..." (1Cr 13, 4-8)
Với ví dụ cây vả, tôi lại nhớ đến cây vả của tôi và những cây vả thời nay- thời thịnh vượng của chủ nghĩa cá nhân và hưởng thụ-và bỗng trăn trở không ít khi tôi đặt mình trước yêu cầu sám hối là "sinh hoa kết trái" của Chúa Giêsu. Điều rất đáng tiếc: không chỉ là những cây vả sợ hy sinh cống hiến, mà còn là những cây vả chê bai chế nhạo những cây vả khác là dại dột, vì đã, đang nhiệt tình cống hiến những hoa trái cho đời: Người tham lam lo tích lũy vào kho tàng của mình thì chê người liêm chính là dại dột- nghỉ chơi. Người ươn lười không lo mở rộng nước Chúa thì chê bai chế nhạo người nhiệt tình là điên rồ, không hợp thời. Người không làm việc bác ái thì cho rằng người bác ái là lãng phí, cầu danh. Người không tha thiết với việc cầu nguyện thì lên án người cầu nguyện là đạo đức giả. Hoặc một thái độ khác của cây vả thời nay: Người dối trá nhất bao giờ cũng bắt người khác phải thành thật. Người phạm pháp nhiều nhất vẫn yêu cầu người khác thi hành luật nghiêm túc... Cây vả của tôi ơi, đã đến lúc phải sinh hoa kết trái, vì Đức Giêsu, "người làm vườn" của Ông Chủ Vườn, là Thiên Chúa Cha, đang khẩn thiết van xin " Ông Chủ Vườn" gia hạn, để cây vả sinh hoa kết trái.
Anh em Phan sinh, trong những buổi họp, thường hát: "Một người không biết yêu ai, là người chưa biết yêu mình. Một người không biết cho ai, là người nghèo trắng đôi tay. Một người không chung phận người là người chưa sống trong cuộc đời. Chỉ một người biết Sống, Yêu, Cho người, người ấy thực là người. Lạy Chúa! nếu không sống để yêu thì đời con như đã chết. Nếu không biết cho đi thì làm sao mong sẽ được gì. Nếu không có bác ái thì đời con như cây bộng, như thùng rỗng, như tiếng thanh la, tan trong hư không... Một người không biết yêu ai, mà nguyện cầu Thiên Chúa yêu mình. Một người không biết cho ai, mà nguyện cầu lạy Chúa ban ơn. Một người không chung phận người mà đòi ai nấy chia phận mình....". Những ngày trước, tôi thờ ơ lắm. Hôm nay, nhớ lại, bỗng giật mình, vì thông điệp bài hát nhắc nhớ tôi canh tân bao điều...
Nối kết những suy tư từ Lời Chúa hôm nay, tôi ơi hãy nhớ cho rằng: Đức Ki Tô Cứu Thế đang bị tôi tiếp tục xử oan, vì Ngài vô tội. Nhưng Ngài vẫn thương yêu chấp nhận cái chết- để Phục Sinh. Ngài vẫn chờ đợi tôi nhận ra cái con người ích kỷ của tôi, để kịp sám hối là hiến dâng đời tôi nên hoa trái phần rỗi cho tôi và cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, cây vả của con không chấp nhận sinh trái, vì sinh trái là phải cho đi. Xin tha thứ cho lòng ích kỷ vô học của con, và xin mở lòng con ra, để con biết rằng "khi hiến thân là khi được nhận lãnh... lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân... chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời...". Amen. (Thánh Phanxicô Assisi)
55. Sám hối để tự cứu mình--Lm Ignatio Trần Ngà
Dụ ngôn cây vả được trồng trong vườn nho, được chăm sóc chu đáo mà không mang lại hoa trái, khiến người chủ vườn thất vọng và muốn chặt bỏ đi, vẫn được tái diễn hằng ngày, như trường hợp điển hình sau đây:
Một sinh viên được cha mẹ cho đi học ở thành phố. Cha mẹ ở miền quê một nắng hai sương, cực nhọc đêm ngày, cắm đầu cắm cổ làm việc hùng hục như trâu, cần cù như kiến, nhịn ăn nhịn tiêu để đầu tư tất cả cho con học hành với hy vọng con trai mình có ngày đổ đạt kỹ sư, có công ăn việc làm, có đồng lương cao để báo đáp công ơn cha mẹ.
Nào ngờ, đứa con không dùng tiền cha mẹ đầu tư cho mình để học hành cho thành đạt, lại đổ tiền vào việc ăn chơi đàng điếm, rồi dần hồi trở thành người nghiện ma tuý, nhiễm HIV, và trở nên một tên côn đồ.
Bao nhiêu đồng tiền xương máu cha mẹ dồn cho anh ta như muối bỏ biển. Đã mất tiền, lại mất con, cha mẹ vô cùng thất vọng và đau khổ vì con.
Đây cũng là một thứ cây vả không sinh trái khiến người chủ vườn thất vọng nên muốn chặt bỏ đi.
Như người cha người mẹ tốt lành, Thiên Chúa cũng đầu tư cho chúng ta rất nhiều, chăm sóc chúng ta rất chu đáo. Ngài đem trồng chúng ta vào vườn nho Hội Thánh của Ngài. Ngài đã dùng lời Ngài để uốn nắn chúng ta, dùng lời dạy của Hội Thánh để hướng dẫn chúng ta, dùng máu Ngài đổ ra trên thập giá để cứu chuộc chúng ta khỏi chết, dùng Mình Thánh Ngài để thông ban sự sống đời đời cho chúng ta. Nói tóm lại, chẳng có gì Ngài có thể làm mà lại không làm để nâng đỡ cứu vớt chúng ta, để giúp chúng ta nên người hoàn thiện. Thế nhưng thay vì sử dụng ân huệ của Ngài để cải thiện đời sống và nâng cao phẩm chất cho xứng với tầm vóc người con cái Chúa, chúng ta đã sử dụng ân huệ dồi dào Chúa ban để làm điều bất xứng, làm suy giảm nhân cách, làm ô danh Chúa, làm đau lòng cho Ngài.
Nếu chúng ta cứ tiếp tục hành động như thế mà không sửa mình, thì như lời Chúa Giêsu cảnh báo hôm nay, số phận của chúng ta sẽ y như số phận của cây vả đã được chăm bón đầy đủ nhưng không sinh trái, là bị chặt bỏ đi, bị huỷ diệt đời đời trong đau khổ như các nạn nhân được đề cập trong Tin Mừng hôm nay.
Vậy muốn sống còn và được hưởng phúc đời đời với Chúa, chúng ta phải dùng thời giờ và ân huệ Chúa ban để ăn năn sám hối.
Tội lỗi là khối u ác tính; sám hối là cắt bỏ khối u để cứu toàn thân, vì nếu không, thì toàn thân phải chết: "nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt"
Phạm tội là đi trệch đường Chúa như tàu đi trật đường rầy; sám hối là quay về chính lộ để khỏi sa vào chỗ chết: "nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt".
Con người vướng mắc tội lỗi cũng y như ngôi nhà bị bén lửa, lửa sẽ lan nhanh và thiêu rụi ngôi nhà; sám hối là dập tắt ngọn lửa kịp thời để cứu toàn bộ ngôi nhà khỏi cháy. "Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt".
Lạy Chúa Giêsu, Chúa như người làm vườn nhân hậu đã nài xin Chúa Cha hoãn lại cho chúng con thêm một thời gian nữa để chăm sóc cho chúng con, hầu mong chúng con sinh hoa trái tốt;
Xin đừng để chúng con làm cho Chúa thất vọng vì không sinh trái mà lại sinh toàn gai góc.
Xin cho chúng con biết tận dụng thời giờ còn lại để lập thêm công đức, để sinh nhiều hoa trái tốt, hoa trái vật chất cũng như hoa trái thiêng liêng, nhờ đó cuộc đời chúng con thêm tươi đẹp và chúng con sẽ làm vinh danh Chúa bằng đời sống cao đẹp của mình.
56. Người giết người--Lm. Anphong Trần Đức Phương
Trong cuộc động đất (01/12/2010) tại Haiti, số người chết đã lên đến con số kỷ lục 230 ngàn người, nhiều nhà cửa đã bị phá hủy hoàn toàn, những người còn sống sót không còn ngôi nhà thân yêu để trở về.
Hàng ngày vẫn có những thiên tai xảy ra trên thế giới như động đất, bão tố, đất chuồi, sóng thần... giết hại nhiều người, phá hủy nhiều nhà cửa!
Tuy nhiên, so sánh với các tai ương chính con người gây ra cho con người, thì còn khủng khiếp hơn nhiều. Hai cuộc Thế Chiến trong thề kỷ 20 vừa qua đã phá hủy bao nhiêu công trình kiến trúc của nhân loại, và số tử vong trong quân đội cũng như dân sự đã lên tới hàng triệu người. Bao nhiêu con người sống sót không còn một mái nhà để trở về.
Những nhà độc tài trong chế độ cộng sản như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot... đã giết không phải hàng nghìn, hàng trăm nghìn, nhưng hàng triệu những người dân vô tội; chưa kể đến nhà độc tài Hitler đã giết hơn 6 triệu người Do Thái, và bao nhiêu người khác bị giết thảm thương trong cuộc chiến tranh do ông ta gây ra trong Thế Chiến II.
Những thiên tai thật khủng khiếp; nhưng "Người Giết Người" còn thảm thương biết bao!
Nguyên nhân "Người Giết Người" là vì có những con người đã lìa xa tình yêu của Thiên Chúa, đã phủ nhận tình yêu của Thiên Chúa là Cha, là Đấng tạo thành mình. Họ đã trở nên những kẻ "Vô Thần" và "Vô Luân". Bám chặt vào những ý thức hệ vô thần, họ đã biến "con người trở nên như thù địch của con người!" Do đó, nhân loại không còn là một gia đình của tình yêu Thiên Chúa, nhưng là nơi đấu tranh và thù hận, chỉ rình mò để hãm hại lẫn nhau.
Bài Phúc Âm hôm nay (Luca 13: 1-9) nói đến tai nạn khủng khiếp do tháp Siloe đổ xuống làm chết 18 người và việc Philatô đã tàn ác giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hòa với máu các vật họ tế sinh. Theo nhà Sử Học Flavius Joseph (Josephus, 37-100), thì Philatô còn gây ra nhiều cuộc đổ máu khác, chưa kể đến vụ ông đã kết án bất công Chúa Giêsu và trao phó Người cho dân Do Thái hành hạ rồi đem đi giết.
Chúa Giêsu đã rút ra hai bài học do hai biến cố bi thảm trên đây để dạy chúng ta biết "những nạn nhân trong hai biến cố thê thảm đó, không phải là do "Họ tội lỗi hơn người khác!" Đồng thời, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người chúng ta hãy luôn biết nhìn nhận tội lỗi của mình để ăn năn sám hối, cải thiện đời sống, trở về với Chúa là Cha, trở về với chính mình, và với anh em mình trong mái nhà thân thương của gia đình nhân loại. Chúa là Cha nhân từ vẫn luôn gia hạn để chờ đợi người tội lỗi ăn năn trở về để khỏi bị "tiêu diệt!" giống như người làm vườn đã xin Ông chủ gia hạn đừng chặt cây vả, để chờ một năm nữa xem sao! (xem Bài Phúc Âm).
Thánh Phaolô trong Bài Đọc II (1Corintô 10: 1-6, 10-12) nhắc đến biến cố Xuất hành đã được ghi lại trong Bài Đọc I (Xuất Hành 3: 1-8, 13-15). Dân Do Thái xưa đã đứng lên, quyết từ bỏ đời sống nô lệ lâu dài ở Ai-Cập, lên đường, chấp nhận mọi gian nan thử thách trong sa mạc trong 40 năm dài, để trở về quê hương thật của mình, trở về vùng "Đất Hứa" yêu thương.
Trở về quê hương mình, trở về mái nhà mình vẫn là niềm vui và hứng thú của mọi người chúng ta, vì không đâu bằng ngôi nhà của mình (No Place Like Home! Home Sweet Home!)
Mỗi người chúng ta cũng cần đứng lên, quyết tâm từ bỏ đời sống nô lệ tội lỗi, vượt qua các cám dỗ níu kéo của con người tầm thường, để trở về ngôi nhà Giáo Hội thân thương, và được hưởng tình yêu thương của Chúa và của anh em mình trong gia đình nhân loại.
Chủ điểm của Mùa Chay là ăn năn, sám hối lỗi lầm và trở về với Chúa là Cha, trở về với chính mình, với mọi người như anh chị em trong gia đình nhân loại. Thay vì chống lại Thiên Chúa và chém giết lẫn nhau như thù địch, chúng ta sẽ nhìn nhận nhau như anh em trong một gia đình có Chúa là Cha yêu thương của mọi người. Lúc đó, chúng ta mới có thể sống thuận hòa với nhau và tình yêu thương sẽ tràn ngập để bảo đảm một nền hòa bình đích thực.
Xin Chúa chúc lành cho mọi người chúng ta, đặc biệt trong Mùa Chay này. Qua việc "Ăn Chay, Hãm Mình, và làm việc Từ Thiện" giúp người nghèo khó, chúng ta sẽ sống thực Phúc Âm tình thương của Chúa và được sống lại thật với Chúa trong tình yêu Chúa, và trong tình yêu thương anh em với nhau. Chúng ta cũng cầu nguyện cách riêng cho Phong trào "Trở Về" (Catholics Come Home) đang được phát động mạnh mẽ trong Giáo Hội Hoa Kỳ, và đã giúp cho nhiều ngàn người tìm lại được Đức Tin và vui mừng trở về ngôi Nhà Giáo Hội của Chúa.
57. Hãy sinh hoa kết trái--Lm Jos. Tạ Duy Tuyền.
Có ai đó đã nói rằng: "lầm lỗi là của con người, tha thứ là của Thiên Chúa". Có lẽ đúng. Vì nhân vô thập toàn. Vì con người bị giới hạn bởi tri thức, bởi văn hoá, bởi sự giáo dục... Tất cả những điều đó làm cho con người không sao tránh khỏi những lầm lỗi và thiếu sót. Nhìn vào những gì đang diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, cho chúng ta thấy: có những người vì sự hiểu biết nông cạn, cộng thêm sự kiêu căng ngạo mạn nên hành động thiếu chín chắn và hồ đồ gây nên biết bao đau khổ cho anh em. Nhất là những người lãnh đạo nếu không khiêm tốn nhìn nhận sự khiếm khuyết của mình sẽ là mối hiểm họa cho tập thể mình đang sống. Có những người bởi thiếu văn hoá nên nói năng bừa bãi, thiếu lễ độ và bất lịch sự khiến người nghe cảm thấy bị xúc phạm. Có những người vì môi trường giáo dục thiếu lành mạnh nên sống buông thả và lười biếng gây nên biết bao tệ nạn xấu cho xã hội. Đáng tiếc thay nhiều người đã hành động đến mất ý thức về chân thiện mỹ. Họ đã tiếp tay với ma qủy để gieo sự dữ vào thế gian. Họ là người nhưng lại hành động thiếu lý trí, thiếu tự chủ của ý chí. Cuộc sống sai lệch của họ đã gây nên biết boa hệ lụy đắng cay cho bản thân và gia đình. Dầu vậy, tình yêu của Thiên Chúa còn lớn hơn tội lỗi con người. Chúa đã không đối xử với chúng ta theo như chúng ta đáng tội, nhưng Ngài luôn lấy lòng từ bi để yêu thương và tha thứ cho những lầm lỗi của chúng ta.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối khi thời gian còn thuận tiện. Đừng thử thách Thiên Chúa nhưng hãy thật lòng ăn năn trở về cùng Chúa. Sự trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn về tội đã phạm mà còn phải sống theo lời mời gọi của Chúa: "Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống hối". Hoa trái của sự thánh thiện. Hoa trái của việc lành phúc đức. Hoa trái của đời sống công bằng bác ái. Hoa trái của đời sống yêu thương và phục vụ mọi người. Xem ra đường trở về là không khó. Cái khó là ở việc sinh hoa kết trái. Làm sao chúng ta có thể sống thanh sạch, đang khi còn sống giữa thế gian mà sự dâm ô, tục tĩu, lăng loàn đang có mặt mọi nơi và mọi chốn? Làm sao làm việc lành phúc đức, đang khi phải cố gắng bươn chải với kế sinh nhau, với miếng cơm manh áo từng ngày? Làm sao giữ được công bằng bác ái, đang khi sống giữa thế gian đầy bất công và hận thù? Làm sao sống yêu thương và phục vụ đang khi nhu cầu của bản thân vẫn thiếu thốn tư bề?
Sinh hoa kết trái là khó nhưng đó là quy luật của sự tồn tại. Cây không sinh hoa kết trái là tự hủy diệt mình. Cây có sinh trái. Trái mới cho hạt. Hạt mới nẩy sinh cây để đơm hoa kết trái. Quy luật tuần hoàn là thế. Cuộc sống con người cũng vậy. Con người chỉ nhận được niềm vui của sự an bình và hạnh phúc, khi biết gieo yêu thương vào đời. Con người chỉ tồn tại khi biết xoá bó những trái đắng của bất công và hận thù. Thế nhưng, biết bao người vì lòng tham đã tự giết đời mình trong những đam mê của danh lợi thú. Biết bao người vì những tham sân si đã trở thành trái cay, trái đắng cho đời những phiền lụy đắng cay. Làm người phải biết sống yêu thương. Tình yêu thương không cho phép chúng ta sống lỗi công bình bác ái với tha nhân, và càng không cho phép chúng ta dửng dưng trước sự bất hạnh của anh em. Lòng yêu thương đòi buộc chúng ta phải yêu tha nhân như chính mình. Mỗi người hãy biết sống vì người khác. Ai cũng cầu cho mình được bình an hãy biết kiến tạo bình an cho tha nhân. Ai cũng mong muốn được sống hạnh phúc hãy gieo niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Ai cũng muốn được quan tâm chăm sóc, hãy biết cho đi để được nhận lại. Đó cũng là điều mà Chúa từng mời gọi chúng ta: "Điều gì anh em muốn người khác làm cho mình thì hãy làm cho anh em như vậy".
Hơn nữa, gieo yêu thương sẽ không bao giờ thua lỗ. Gieo yêu thương sẽ gặt hái được biết bao hoa trái của tình yêu. Càng gieo yêu thương càng được đón nhận nhiều những nghĩa cử yêu thương. Khi gieo yêu thương thì hận thù tan biến; bác ái sẽ nở hoa, công lý và hoà bình sẽ đơm bông kết trái. Người gieo yêu thương sẽ gặt hái được cây sự sống mang lại hạnh phúc trường sinh.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Biết sống cho đi để được nhận lại. Biết chết đi những đam mê ích kỷ của mình để trở nên khí cụ mang tin yêu và hạnh phúc gieo vào nhân thế hôm nay. Amen.
58. Tất cả mọi người cần phải hoán cải--Lm. Giuse Nguyễn Trung Điểm
Trước những hoạn nạn hoặc tai họa xảy ra, người bàng quang thường bàn tán. Với người họ cho là tốt, họ nhận định: "Ông bà nầy xem ra ăn ở phúc hậu, sao lại bị trời phạt như thế nầy!". Với người họ không thích, họ phê: "Ăn ở thất đức, trời phạt là phải". Quan niệm cho là người tội lỗi, ăn ở bất chính thì gặp phải bệnh tật, hoạn nạn, tai họa, là quan niệm rất phổ biến trong dân gian, nhất là thời xưa. Ở Do Thái thời của Đức Giêsu cũng thế. Nghe tin tổng trấn Phi-la-tô giết những người Galilê một cách tàn nhẫn trong đền thờ, hoặc những người bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, dân chúng kết luận: họ là người xấu, mắc tội nặng, cho nên mới bị chết một cách khủng khiếp như vậy. Họ xem tai họa là hậu quả của tội lỗi. Ai không bị tai họa thì có thể an tâm cho mình là người tốt.
Chúa Giêsu đã sửa quan niệm coi tai họa là hậu quả của tội lỗi và bảo: "Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy." Hoán cải và tin vào Tin Mừng của Chúa Giêsu chính là con đường dẫn vào Nước Thiên Chúa. Vì vậy, suy nghĩ về cuộc sống và chỉnh hướng cuộc sống theo Tin Mừng phải là thái độ sống liên lỉ của tất cả mọi kitô hữu.
Khi nghe đến từ sám hối, chúng ta nghĩ ngay đến việc ăn chay, hãm mình, đánh tội và bao việc lành chúng ta phải làm, để không bị Chúa đoán phạt. Thực ra, sám hối không tiêu cực như thế. Lời đầu tiên Đức Giêsu rao giảng là: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1,15). Triều Đại Thiên Chúa chính là sự sung mãn Thiên Chúa ban cho loài người, là ý nghĩa cuộc đời, là tương lai và hạnh phúc bất diệt của con người. Và Ngài ban tặng món quà đó qua chính con Ngài là Đức Kitô. Qua cuộc sống, các hoạt động, cuộc thương khó, cái chết và sự sống lại, Đức Kitô đã bộc lộ cho chúng ta biết Thiên Chúa là ai: Người là Tình yêu vô tận. Và Thiên Chúa ao ước cho chúng ta thực tâm đón nhận Tình yêu ấy và từ bỏ những gì cản trở chúng ta trên con đường đến cùng Người. Thiên Chúa không muốn chúng ta làm những việc đạo đức cách miễn cưỡng, sám hối sửa minh bề ngoài, nhưng yêu thương phải được đáp trả bằng yêu thương. Sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta, đó mới là hoán cải thật lòng, là sám hối cụ thể trong đời thường, thể hiện trong tình thương tha nhân, quan tâm đến người khác, tinh thần trách nhiệm, tình liên đới và giúp đỡ cụ thể. Sám hối thực lòng bắt đầu ở con tim và thể hiện ra hành động cụ thể. Và để sống trọn vẹn tình thương ấy, đôi khi chúng ta phải sửa đổi cách sống, nhất là tính ích kỷ và lòng ham muốn hưởng thụ.
Trong ý nghĩa đó, không thể hoán cải một lần là đủ, nhưng con người cần phải làm mãi trong cuộc đời. Không thể nói: tôi đã tốt đủ rồi, không cần phải sửa đổi nữa. Cũng không thể phàn nàn với Chúa: con còn phải làm gì nữa, để Chúa được vui lòng. Nhưng hãy tự hỏi: tôi còn có cách thế nào để bộc lộ lòng tri ân của tôi đối với Chúa, để làm chứng tá hơn nữa cho tình thương lớn lao Chúa dành cho tôi.
Mùa Chay thiết tưởng là thời gian thuận tiện để chúng ta suy tư về cuộc sống của chúng ta trước mặt Chúa, để khám phá những dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa trong cuộc đời và trong cuộc sống thường ngày, để nhận định được những gì chúng ta còn có thể sửa đổi, để con đường chúng ta đi được đúng hướng. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu không nhằm hăm dọa con người, nhưng là sứ điệp về lòng nhân hậu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Cảm nghiệm được tình thương của Người, chúng ta sẽ hoán cải, để đạt được niềm tin sâu xa hơn và cuộc sống bác ái cụ thể hơn.
59. Kiên nhẫn của tình yêu--Achille Degeest
Người ta nghĩ rằng những người Galilê nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay là những nạn nhân bị đàn áp trong một cuộc nổi dậy chống quân La mã, có lẽ xảy ra trong khuôn viên Đền Thờ Giêrusalem. Người ta cho rằng tháp Silôam ở gần giếng Silôam phía đông nam thành. Nhân hai vụ bi thảm này, Chúa Giêsu đánh đổ một thành kiến và Người đưa cuộc tranh luận lên một tầm cao hơn. Não trạng Do Thái thời đó coi bất đắc kỳ tử là hình phạt Thượng đế áp dụng cho kẻ tội lỗi. Nhân hai vị chết người tập thể này. Chúa phán rằng những hình phạt thật sự về sự dữ nằm ở chỗ khác. Trước hết, dường như cách kín đáo Chúa nói, nếu dân thành Giêrusalem không trở lại với Thiên Chúa bằng niềm tin hôm nay vào Đấng Messia, toàn thành sẽ bị tiêu diệt. Phải chăng Chúa ám chỉ cuộc tàn phá thủ đô sẽ xảy ra năm 70? Tiếp đó, Chúa đặt cuộc tranh luận vào bối cảnh toàn bộ giảng thuyết của Người: Nếu không ăn năn trở lại, dân chúng sẽ bị Thiên Chúa xét phạt nghiêm khắc. Dụ ngôn cây vả cho chúng ta hiểu Thiên Chúa vừa kiên nhẫn, vừa quyết thi hành công lý của Người.
Chúng ta tự đặt hai câu hỏi:
1) Sự trở lại là gì?
Trở lại là thay đổi nội tâm, thay vì hướng về bản thân, con người hướng về Thiên Chúa. Khởi đầu, người ta nhận mình là kẻ tội lỗi, cách khiêm nhượng người ta ý thức về sự xa cách một trời một vực giữa sự thánh thiện của Thiên Chúa và nỗi khổ cực trong tâm hồn mình. Mình có một trách nhiệm nào đó về khổ cực bên trong ấy. Vì thế người ta hối hận về tội mình, người ta trở lại với Thiên Chúa, vì Người luôn luôn tiếp đón những kẻ khiêm nhường sám hối. Sự trở lại không chỉ một lần là xong, trái lại mỗi ngày phải thực hiện một sự trở lại mới.
2) Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa là gì?
Đó là sự kiên nhẫn của tình yêu, trước hết là của tình yêu giáo hoá. Thiên Chúa không đòi hỏi con người nhất đán trở nên hoàn toàn thánh thiện. Thiên Chúa cho con người có đủ thời gian làm công việc cải thiện tâm hồn. Nhưng con người phải sử dụng tốt thời gian ân huệ ấy, đúng ra nó ngắn ngủi lắm. Mỗi ngày trong đời sống của một Kitô hữu đều mang đến một ân sủng để giúp tiến bộ trong niềm trung tín với Thiên Chúa. Mỗi ngày người tín hữu phải tự chất vấn: Kinh nguyện của tôi, sự thờ phụng của tôi, cung cách tôi phục vụ tha nhân có đủ tốt để đẹp lòng Thiên Chúa không? Như một nhà giáo dục kiên nhẫn, Thiên Chúa giúp đỡ người tín hữu tìm được câu trả lời bằng cách Người can thiệp ban cho những ân sủng bên trong, bằng những giáo huấn của Giáo Hội, bằng những biến cố, v.v… Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa cũng là niềm thương yêu kiên nhẫn nhưng đòi hỏi gắt gao. Thiên Chúa thông cảm vô cùng đối với những ai thành tâm thiện chí, nhưng chung cục Người sẽ tỏ ra nghiêm khắc đối với những kẻ ngoan cố thờ ơ.
60. Mùa chay, mùa đổi mới--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời đi qua của mình như sau:
- Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng, một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình còn, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con rồi.
Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận ra rằng, tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ nầy, tôi chỉ biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con được ơn thay đổi chính bản thân con.
Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.
Người xưa đã có lý khi dạy chúng ta: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ… Theo trật tự của cuộc cách mạng, thì cách mạng bản thân – tu thân – là điều tiên quyết.
Một nhà cách mạng nào đó đã nói: Chỉ cần mười người như thánh Phanxicô thành Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi. Cuộc cách mạng đầu tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự, đó là cách mạng bản thân.
Chúa Giêsu đã chuẩn bị ba năm sống công khai bằng 30 năm âm thầm, 40 đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Và lời kêu gọi đầu tiên của Ngài là: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Hôm nay, Ngài lại kêu gọi chúng ta: “Hãy ám hối, nếu không chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt như những nạn nhân của biến cố tháp Silôê đổ, hay như những người bị thảm sát dưới thời Tổng trấn Philatô”.
Đến bây giờ vẫn còn không ít người quan niệm “ác giả ác báo” theo lối suy luận từ hậu quả đến nguyên nhân. Lời Chúa hôm nay dạy ta không được suy nghĩ như thế, phần vì ta không có quyền xét đoán tha nhân, phần vì thường chúng ta xét đoán theo chủ quan và phiến diện nên dễ sai lầm.
Mùa Chay là mùa sám hối, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho chúng ta một kỳ hạn nữa. Hãy khẩn trương sám hối kịp thời. “Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay”.
Tục ngữ Pháp có câu: “Nếu trẻ mà hiểu ra, nếu già mà làm được” (Lúc trẻ thì không hiểu để làm, đến lúc già muốn làm thì không còn sức để làm nữa). Việt Nam chúng ta cũng có câu: “Lão lai tài tận” (Đến tuổi già thì tài năng cũng hết). Thế là bị rơi vào luật đào thải, như cây cằn cỗi, không sinh trái đã lâu, phải chặt đi thôi. Bao lâu còn sống, là như cây còn xanh tươi. Hoán cải, đổi mới, không bao giờ là quá trễ. Hãy tin tưởng, bắt đầu ngay hôm nay, kẻo không kịp nữa. Hằng ngày, báo chí, truyền hình, radio, đưa tin trong cũng như ngoài nước, bao nhiêu tai nạn chết người: xe đụng, tàu chìm, phi cơ rớt, động đất, hoả hoạn, đó là chưa kể đến nạn khủng bố đe doạ biết bao người trên thế giới…
Tại sao những người kia gặp nạn, chứ chưa phải là tôi? Đừng dựa vào những may mắn trong cuộc sống, để yên trí rằng mình sống trong sạch, tốt lành; để tạo cho mình mối an tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác; để không lo hoán cải, đổi mới.
Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng thấy rõ hơn nỗi cô đơn trước những giới hạn của mình… nhất là nỗi sợ hãi trước cái chết, thân phận bi đát nhất của kiếp người. Khát vọng được sống và sống đời đời không ngừng đòi hỏi con người đổi mới để khỏi phải thấy sức sống tắt lịm trong tay của mình. Vì vậy, hoán cải là vấn đề tức thời và cấp bách.
Mỗi người chúng ta đều là kẻ tội lỗi, đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: đây có thể là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối… trước khi ra mắt Đấng phán xét. Lời Chúa hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình mà sám hối cho thật, cho mau kẻo hối hận cũng không còn kịp nữa.
Có thể chúng ta nghĩ rằng: mình là người tín hữu đạo đức, sốt sắng, mình đi dự lễ, rước lễ đều đặn, mình cũng làm việc bác ái, cũng đi xưng tội, vì thế lời kêu gọi sám hối không có liên hệ gì đến mình. Chính những người nghĩ như thế mới là người cần phải sám hối. Thánh Phaolô hôm nay đã nói: “Ai tưởng mình đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã”. Việc sám hối trở lại không bao giờ chỉ làm một lần là xong.
Quả thực, lời kêu gọi hoán cải sám hối trong Tin Mừng hôm nay liên hệ đến tất cả mọi người: bởi vì mỗi người chúng ta đều phải sống cuộc sống mới và vượt lên trên tất cả những gì cản trở chúng ta sống cuộc sống mới nầy, một cuộc sống hữu ích cho gia đình, cho xã hội và cho nhân loại.
Hành trình Mùa Chay không chỉ nhằm dẫn chúng ta quay trở lại quá khứ để ăn năn khóc lóc tội lỗi mình hay đến toà giải tội xưng thú tội lỗi mình… nhưng còn muốn dẫn chúng ta đến cuộc sống mới dồi dào hơn. Mùa Chay phải trở thành mùa đổi mới con người và xã hội, mùa nở hoa kết trái tình thương, mùa thực thi việc lành phúc đức… nếu không, chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt y như vậy hoặc có thể “năm tới sẽ bị chặt đi”.
“Đổi mới hay là chết”. Có một thời người ta đã hô lớn khẩu hiệu này. Và đây cũng là đòi hỏi của Lời Chúa hôm nay. Xin cho thánh lễ nầy kết hiệp chúng ta mật thiết với Chúa Giêsu, để giúp chúng ta tiêu diệt dần dần đời sống cũ kỹ nhem nhuốc của mình, đồng thời chúng ta cũng dần dần trở nên thánh thiện phong phú hơn trong Chúa Giêsu. Ước gì mệnh lệnh hoán cải cấp bách sẽ được chúng ta thực hiện không chỉ ngay bây giờ mà còn kéo dài trong từng phút sống của cuộc đời ta.
61. Trừ phi các ngươi hối cải--McCarthy
(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. MỘT CƠ HỘI THỨ HAI
Người Pharisêu không có thì giờ dành cho người tội lỗi. Họ tin rằng những người đó chỉ là đồ bỏ đi. Đức Giêsu không đồng ý, và kể lại cho họ nghe một câu chuyện:
Vườn nho là một nơi rất đặc biệt, thường chỉ dành ra để trồng nho mà thôi. Tuy nhiên, trong dụ ngôn của mình, Đức Giêsu lại nói về một cây vả được trồng trong một vườn nho. Vào thời kỳ đó, điều này không phải là bất thường. Đất đai quá khan hiếm, đến nỗi người ta phải trồng cây ở bất cứ chỗ nào có thể được. Vậy chúng ta đang có một cây được trồng ở một nơi rất đặc biệt.
Thông thường, một cây vả phải mất ba năm mới trưởng thành. Nếu đến lúc đó, mà nó vẫn không trổ sinh hoa quả, thì chắc chắn nó sẽ không thể nào đơm hoa kết trái được. Đây là trường hợp thân cây mà Đức Giêsu đang nói đến. Sau ba năm, người chủ vườn đến xem, và nhận thấy thân cây này vẫn cứ cằn cỗi. Ông ta đã kết luận rằng đó là một thân cây vô dụng. Nó đã rút chất bổ dưỡng từ lòng đất, mà không hề trả lại gì cả, phải chặt nó đi thôi, vì nó chiếm mất khoảng không gian có giá trị. Thế là ông bảo người làm vườn chặt bỏ thân cây này.
Nhưng vốn là một người có nhiều hiểu biết về cây vả, và là một người rất kiên nhẫn, nên người làm vườn đã đáp lại: “Thưa ông xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm, nó có trái, nếu không, thì chúng ta sẽ chặt nó đi”.
Người chủ vườn đồng ý. Chúng ta không được nghe kể thêm điều gì sẽ xảy ra cho cây vả đó, nhưng không thành vấn đề. Đức Giêsu đã cho thấy quan điểm của Người: Tương tự như người làm vườn kiên nhẫn với cây vả, cũng vậy, Thiên Chúa rất kiên nhẫn với các tội nhân.
Bài Tin Mừng này gợi lên bài Tin Mừng về cơ hội thứ hai. Thiên Chúa rất kiên nhẫn. Lịch sử Giáo Hội đầy rẫy các ví dụ về những cây vả cằn cỗi, nhưng cuối cùng cũng đã trổ sinh hoa quả; nói cách khác, đó là các tội nhân đã hối cải và nên thánh.
Môsê, nhân vật trung tâm của Bài đọc 1, là một gương mẫu tốt đẹp. Khi còn trẻ, ông đã giết chết một người khác. Tuy nhiên Thiên Chúa không hề loại bỏ ông. Thật vậy, ông có tính tình nóng nảy. Nhưng nơi ông vẫn có điểm tốt. Ông là một ngài hiếm có –loại người không thể chấp nhận đứng yên, khi nhìn thấy xảy ra điều bất công hoặc tội ác. Chính nhờ tính cách này, mà Thiên Chúa đã chọn ông trong việc dẫn dắt dân của Người từ tình trạng nô lệ đến với tự do.
Người ta có thể cho rằng Einstein là người có trí tuệ vĩ đại nhất thế kỷ 20. Tuy nhiên, đến năm lên 2 tuổi, ông vẫn chưa biết nói. Cha mẹ của ông rất lo lắng cho ông, đến nỗi họ đã đưa ông đi khám bác sĩ. Sau này, một trong những giáo viên của ông rất thất vọng về ông, đến nỗi đã nói rằng “Anh sẽ không bao giờ đáng giá một chút gì cả”, bởi vì chưa hề có dấu hiệu nào về sự vĩ đại của ông trong tương lai. Nhưng cha mẹ và thầy giáo của ông đã phán đoán về ông quá sớm. Một số người phát triển một cách từ từ và chậm trễ, nhưng điều đó lại càng tốt hơn.
Nhưng loại người này cần có một người nào đó tin tưởng nơi họ, một người nào đó kiên nhẫn đối với họ, nếu không, nhiều tài năng sẽ bị mai một dần. Chúng ta có khuynh hướng hay khắt khe với người khác, cho đến khi chính bản thân chúng ta cần có một cơ hội thứ hai. Chúng ta phải cởi mở tâm hồn với người khác, bằng tấm lòng nhẫn nại và khoan dung, mà chúng ta mong muốn cho bản thân mình.
Nhưng dụ ngôn này cũng cho thấy rõ ràng đây như một cơ hội cuối cùng. Nếu người ta khước từ hết cơ hội này đến cơ hội khác, thì khi ngày cuối cùng đến, không phải là Thiên Chúa không cho họ vào, nhưng là họ cố tình chọn loại trừ bản thân. Nhưng ai trong chúng ta muốn cho mình trở nên cằn cỗi, trong khi chúng ta có thể trổ sinh hoa quả?
Suy Niệm 2. LỜI KÊU GỌI THỐNG HỐI.
Cây vả trong câu chuyện của Đức Giêsu là một thân cây rất đặc biệt, bởi vì nó được trồng trong một vùng đất đặc biệt -vườn nho. Mặc dù được như vậy, nhưng thân cây này lại cằn cỗi. Tuy nhiên, nó vẫn được tạo cho một cơ hội khác. Cây vả tượng trưng cho dân Israel được trồng trong vườn nho của Chúa. Tình trạng cằn cỗi của nó tượng trưng cho tình trạng cằn cỗi của dân Israel trước mặt Thiên Chúa.
Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ của Người bằng lời kêu gọi thống hối: “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến”. Ngày nay, thông qua tiếng nói của Giáo Hội, chúng ta cũng được kêu gọi cùng một lời kêu gọi đó. Lời kêu gọi sám hối ở ngay trung tâm của Tin Mừng. Đức Giêsu nói ra lời kêu gọi này, không chỉ cho những người tội lỗi, nhưng là cho những người tốt lành. Thật vậy, Người nói với tất cả mọi người, không có ngoại lệ. Nhưng bạn có thể hỏi rằng: Điều này có thể diễn ra như thế nào –người tốt lành cần phải thống hối sao?
Trong trường hợp những người tốt lành, đối với họ, sự sa ngã hệ tại ở việc tốt lành mà họ đã không thực hiện. Đây là sự công kích chính yếu của dụ ngôn nói về cây vả cằn cỗi. Cây vả này bị coi như không đạt yêu cầu, không phải vì nó tạo ra những quả vả có chất độc, nhưng bởi vì nó không hề trổ sinh bất cứ hoa quả nào. Nếu nó không sinh quả, thì cây vả đó còn để làm gì?
Hiếm khi người Kitô hữu tự hỏi mình câu hỏi: Tôi đã thiếu sót không làm gì? Lời kêu gọi thống hối không chỉ là lời kêu gọi tránh xa sự dữ, mà còn là lời kêu gọi “trổ sinh hoa quả” của lối sống tốt đẹp. Đó là nguyên nhân tại sao lời kêu gọi này phù hợp cho tất cả mọi người.
Lời kêu gọi thống hối của Đức Giêsu làm cho chúng ta bối rối, mà chúng ta thì không thích bị gây rắc rối. Chúng ta muốn cho cuộc sống của mình được yên ổn, một cuộc sống có thể chứa đựng nhiều sự ích kỷ. Có thể chúng ta không phạm phải một tội trọng nào, tuy nhiên, chúng ta có thể rất ích kỷ, rất hay đòi hỏi, rất thiếu sự quan tâm. Nhưng chúng ta lại không muốn hay biết, ít nhiều chúng ta đã làm bất cứ điều gì, theo bản chất này của chúng ta. Chúng ta được kêu gọi ra khỏi thói ích kỷ, để trở nên người biết quan tâm đến kẻ khác, và tập trung vào Thiên Chúa.
Chắc hẳn là hầu hết chúng ta đều không có bất cứ giây phút chuyển biến vĩ đại nào, giống như Môsê đã có. Hôm trước, ông mời đi chăn giữ đàn cừu của ông, ngày hôm sau, ông lại dẫn dắt một dân tộc bị áp bức đi tới tự do. Nhưng sự biến đổi là một điều thú vị. Đây là một tin vui, là một lời kêu gọi thoát khỏi tình trạng nô lệ của thói ích kỷ và tội lỗi, để đến với cuộc sống của tự do và ân sủng. Đây còn là một lời kêu gọi thoát khỏi cuộc sống cằn cỗi để đến với một cuộc sống mang lại kết quả. Đây chính là lời kêu gọi đi vào trong niềm vui của Nước Trời. Tuy nhiên, đây không phải là điều gì đó mà chúng ta có thể đạt được một lần cho tất cả, nhưng lôi kéo theo cả một quá trình lớn lên và phát triển. Cuộc sống Kitô hữu là một quá trình liên tục hoán cải.
Dụ ngôn của Đức Giêsu chứa đựng một lời cảnh báo và đe doạ. Mục đích của dụ ngôn này là để chỉ ra cho chúng ta rằng có thể chúng ta đang bỏ lỡ, hoặc thiếu sót, hầu cho chúng ta có được một cuộc sống sâu xa, phong phú và chính đáng hơn. Chúng ta hãy để cho những kẻ suy nghĩ rằng họ đang an toàn, biết sống có ý thức, để khỏi bị sa ngã. Không ai bị sa ngã nhiều cho bằng người cho rằng mình không thể được cứu độ.
NHỮNG CÁCH TIẾP CẬN KHÁC.
1. Điều mà chúng ta nhận thấy được trong sự kiện bụi gai đang bốc cháy, đó là sự quan tâm của Thiên Chúa đối với dân Người.
Thiên Chúa đã nghe được tiếng kêu cứu của dân Người đang bị nô lệ, và Người đã sai Môsê đi giải phóng cho họ. Ngọn lửa là biểu tượng của tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa không hề bị suy giảm khi cho đi.
Điều gì nơi Môsê làm cho Thiên Chúa nhận thấy rằng ông đúng là người để dẫn dắt dân của Người từ tình trạng nô lệ đến với sự tự do? Kinh Thánh không nói nhiều với chúng ta về tính cách của người thanh niên Môsê. Kinh Thánh không nói rằng ông là người tốt lành hoặc sốt sắng. Nhưng Kinh Thánh kể lại cho chúng ta về ba giai đoạn trong cuộc đời của ông, trước khi có sự mặc khải trong bụi gai đang bốc cháy. Khi nhìn thấy một người Ai Cập đang tấn công một người Israel, ông đã can ngăn. Ông nhìn thấy những người chăn cứu dân Midianite ngăn cản các cô con gái của Jethro không được cho đàn gia súc uống nước, đã can thiệp.
Tất cả những sự kiện này đưa dẫn chúng ta đến cùng một kết luận. Chúng chỉ ra cho chúng ta rằng ông là loại người không thể chấp nhận đứng yên, khi nhìn thấy một điều bất công hoặc tội ác đang xảy ra. Vậy chúng ta có thể hiểu được tại sao Thiên Chúa lại chọn ông, để dẫn dắt dân của Người từ tình trạng nô lệ đến với tự do.
Nhưng cảm nghiệm riêng tư về Thiên Chúa có thể làm cho người ta ích kỷ. Nhưng đây không phải là trường hợp của Môsê. Cảm nghiệm của ông về Thiên Chúa càng lôi kéo ông vào sứ vụ giải thoát dân tộc của ông.
2. “Vùng đất mà ngươi đang đứng là vùng đất thánh”.
Tất cả trái đất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta đều là vùng đất thánh thiện, và xứng đáng được đối xử bằng sự kính trọng. Nhưng vùng đất thánh thiện nhất vượt lên trên tất cả thì lại ở trong tâm hồn chúng ta.
Trước hết, cơ thể con người mang tính cách thánh thiện. Cơ thể chúng ta là công trình của Thiên Chúa. Điều đó đủ lý do để kính trọng và săn sóc cơ thể. Nhưng Thánh Phaolô đưa ra cho chúng ta một lý do sâu xa hơn, để kính trọng cơ thể. Ngài nói: “Thân thể anh em là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần”.
Tâm trí con người là thánh thiện. Nhiều người mỗi ngày đầu lấp đầy tâm trí họ bằng đủ mọi thứ rác rưởi từ T.V. radio, báo chí v.v… Theo lời của Thoreau “Người ta sẵn sàng chất chứa tâm trí mình bằng những thứ rác rưởi –họ cho phép những tin đồn vô căn cứ và những sự kiện tạp nham xâm nhập vào tâm trí mình, mà đáng lẽ nên dành để cho những suy nghĩ thánh thiện. Liệu tâm trí con người sẽ là một phạm vi công cộng, hoặc tự thân nó sẽ là một nơi thuộc về thiên đường?”. Chúng ta nên phấn đấu đi theo lời khuyên của Thánh Phaolô: “Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Plm 4,8).
Nhưng nơi thánh thiện nhất chính là tâm hồn con người. Trong thời đại của chúng ta, người ta bận tâm quá nhiều với vẻ sạch sẽ bề ngoài, và có nguy cơ coi thường sự thanh sạch bên trong, hoặc là sự thanh sạch của tâm hồn. Chính từ trong tâm hồn, mà tất cả những suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta tuôn chảy, tựa như dòng nước đổ ra từ một con suối. Nếu con suối đó sạch sẽ, thì tất cả dòng nước chảy từ đó ra sẽ trong sạch. Như vậy, chúng ta phải cố gắng giữ sao cho tâm hồn mình luôn được thanh sạch và tinh tuyền. Đặc biệt là chúng ta sẽ được nhìn thấy và gặp gỡ Thiên Chúa ngay tại nơi thánh thiện này. Theo lời của Đức Giêsu: “Phúc cho những kẻ có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”.
62. Cơ hội ân điển cho người ta ăn năn--‘Tin Mừng Chúa Nhật’
Đang khi Chúa Giêsu khuyên giục các thính giả ăn năn, thì có người thuật với Chúa Giêsu chuyện rùng rợn về vụ Philatô giết hại những người Galilê. Chắc người ta tưởng Chúa sẽ đồng tình để tuyên bố rằng số phận của những người bị tàn sát ấy là đúng lắm, và ngài cũng rơi vào lối nguỵ biện thường tình, là người nào bị hành hạ nhiều chứng tỏ họ đã phạm tội năng. Nhưng Chúa Giêsu trả lời rằng người ta tạm thời chưa bị đau đớn là dấu hiệu ân huệ đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những kẻ không ăn năn chắc chắn sẽ phải chịu đau đớn và xứng đáng với sự đau đớn ấy. Nếu sự phán xét chưa đến thì sự trì hoãn ấy là cơ hội ân điển cho người ta ăn năn.
Chúa Giêsu nhấn mạnh chân lý ấy bằng cách nói thêm một tai hoạ về mười tám người bị tháp đổ đè chết, không nên xem số phận của họ như là dấu hiệu họ đã phạm trọng tội, mà như là lời cảnh cáo kẻ khác nếu không ăn năn thì cũng phải chịu một số phận như vậy. Trong trí Chúa Giêsu hiện ra hình ảnh của nước Israel, Ngài lại nhấn mạnh lời kêu gọi ăn năn bằng hình ảnh cây vả không sinh trái. Đó là biểu hiệu thật của quốc gia này và cũng tượng trưng cho mọi linh hồn không ăn năn. Chúng ta cần tìm hiểu chi tiết hơn. Ở đây chúng ta được nghe nói đến hai tai hoạ mà chúng ta chưa có thông tin nên chỉ có thể phỏng đoán thôi. Trước hết là những người Galilê bị Philatô giết đang lúc dâng lễ tế. Như chúng ta đã biết, người Galilê rất dễ hưởng ứng những cuộc bạo động chính trị, bởi vì họ là dân dễ bị kích động, lúc đó Philatô đang ở trong một cơn khủng hoảng nghiêm trọng. Ông đã có một quyết định rất tốt rằng Giêrusalem cần có một hệ thống dẫn nước mới và tân tiến hơn. Ông chủ trương xây cất hệ thống đó, và để đài thọ cho việc này, ông đề nghị dùng một số tiền của Đền Thờ. Đó là mục tiêu đáng khen và sự chi phí đó có lý do chính đáng. Nhưng chỉ tư tưởng sử dụng tiền của Đền Thờ cũng đủ khiến dân Do Thái cầm vũ khí chống lại. Khi dân chúng tụ tập lại thì Philatô cho lính của ông cải trang trà trộn với họ. Chúng được lệnh mang gậy thay vì gươm. Đến lúc được báo hiệu, chúng xông vào dân chúng và phân tán họ. Việc đó đã diễn ra đúng nhưng bọn lính đã hành động rất hung dữ, đi quá lệnh trên, gây thiệt mạng cho một số thường dân. Điều gần như chắc chắn là người Galilê có tham gia trong cuộc nổi loạn này. Chúng ta biết rằng Philatô và Hêrôđê thù địch nhau, rất có thể chính vì vụ lộn xộn kể trên mà mối thù đó đã bắt Chúa Giêsu. Họ chỉ hoà thuận với nhau khi Philatô gởi Chúa Giêsu đến cho Hêrôđê xét xử (Lc 23,6-12).
Còn về phần mười tám người bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, cho đến nay vẫn còn là một sự kiện bí mật. Có bản văn dịch họ là tội nhân, nhưng dịch họ là những kẻ mắc nợ thì đúng hơn. Chúng ta có chút tia sáng ở đây. Có người cho rằng họ đã lãnh việc xây ống dẫn nước của Philatô, một công việc mà dân chúng ghét. Vì vậy, số tiền công họ lãnh đều là tiền của Chúa và đáng lẽ họ phải tình nguyện trả lại vì tiền đó đã lấy trộm của Ngài. Khi tháp Silôê đổ xuống trên họ thì dân chúng cho rằng vì họ đã bằng lòng làm công việc đó.
Nhưng đoạn Kinh Thánh này còn đi xa hơn vấn đề lịch sử nữa. Người Do Thái đã nghiêm khắc kết buộc đau khổ và tội lỗi với nhau. Trước đó rất lâu, Êlipha đã nói với Gióp rằng: “Có ai vô tội mà bị tiêu diệt đâu?” (G 4,7). Đây là một giáo lý độc ác, cay nghiệt như Gióp đã biết rõ. Chúa Giêsu đã bác bỏ thuyết đó đối với một số trường hợp cá nhân. Như chúng ta biết rõ, thường những thánh nhân là những người chịu đau khổ nhiều nhất. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa và nói rằng nếu các thính giả của Ngài không chịu ăn năn thì họ cũng sẽ bị tiêu diệt, Chúa Giêsu ngụ ý gì ở đây? Một điều thật rõ ràng. Chúa Giêsu thấy trước và nói trước về sự tàn phá thành Giêrusalem là việc xảy ra sau đó vào năm 70 SC (x. Lc 19,21-24). Chúa Giêsu biết rõ nếu người Do Thái cứ tiếp tục âm mưu bạo động và những tham vọng chính trị thì họ chỉ đưa quốc gia đến chỗ tự sát mà thôi. Ngài biết rõ cuối cùng quân La mã sẽ đến và tiêu diệt quốc gia này, việc đã xảy ra đúng như vậy. Cho nên, Chúa Giêsu muốn cảnh cáo rằng, nếu họ cứ tiếp tục tìm kiếm một vương quốc trần gian và chối bỏ Nước Thiên Chúa thì họ chỉ đi vào chỗ chết mà thôi.
Đặt vấn đề như vậy thoạt nghe có vẻ đầy mâu thuẫn. Điểm đó có nghĩa là chúng ta không thể nói rằng đau khổ cá nhân và tội lỗi tất phải theo nhau, nhưng có thể nói rằng tội lỗi của quốc gia và đau khổ của quốc gia thì liên quan chặt chẽ với nhau. Quốc gia nào lựa chọn con đường xấu để đi thì cuối cùng sẽ bị khổ vì đó. Nhưng trong trường hợp cá nhân thì khác. Cá nhân không phải là một đơn vị lẻ loi, song được liên kết vào trong một khối của cuộc đời. Điều thường thấy là cá nhân có thể phản đối, và phản đối mãnh liệt đường lối mà quốc gia đang theo đuổi, nhưng khi hậu quả do đường lối đó đem lại xảy ra thì người ấy cũng bị chìm lẫn trong hoàn cảnh mà mình đã không tạo nên, sự đau khổ của y không hẳn là lỗi của y. Nhưng quốc gia là một đơn vị và tuỳ theo đường lối nó lựa chọn mà gặt lấy hậu quả. Quy đau khổ của một người cho tội lỗi của người đó trong cuộc sống trên trần thì bao giờ cũng là một ý kiến nguy hiểm, nhưng bảo rằng quốc gia nào chống lại Thiên Chúa sẽ bị diệt vong thì đó là một phát biểu đúng đắn.
Chúa Giêsu minh hoạ ý tưởng trên bằng dụ ngôn cây vả không sinh trái, đây là câu chuyện vừa chứa đầy ân sủng vừa mang nhiều cảnh cáo đáng sợ.
1. Cây vả chiếm được một chỗ đất tốt hơn các cây khác.
Ở xứ Palestine, người ta thường thấy cây vả, cây gai và cây táo trong những vườn nho. Đất mỏng và cằn cỗi đến nỗi bất kỳ ở đâu có đất, người ta cũng trồng cây. Nhưng thực tế là cây vả này được đặc ân hơn, nhưng nó lại tỏ ra không xứng đáng với đặc ân đó. Chúa Giêsu đã nhiều lần trực tiếp hoặc gián tiếp nhắc nhở dân chúng rằng họ sẽ bị đoán xét tuỳ theo những cơ hội may mắn mà họ đã có. Có người đã nói về thế hệ chúng ta rằng: “Chúng ta được ban cho nhiều sức lực, nhưng chúng ta đã sử dụng như những học trò vô trách nhiệm”. Không hề có một thế hệ nào được hưởng dùng quá nhiều như thế hệ chúng ta, và vì chưa hề có một thế hệ nào mang nặng trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa như vậy.
2. Rõ ràng là dụ ngôn dạy chúng ta rằng một đời sống vô ích sẽ đưa tới thảm bại.
Thế giới này phải đi trên con đường tiến hoá, tất cả cuộc tiến hoá nhằm sản sinh những gì có ích lợi, điều gì có ích cứ mạnh mẽ phát triển trên con đường tiến hoá, trong khi những gì vô ích sẽ bị tiêu diệt. Câu hỏi khúc mắc nhất dành cho mỗi người chúng ta là: “Chúng ta sống trên thế gian này để làm gì?”.
3. Hơn nữa, dụ ngôn cũng dạy rằng những gì chỉ biết tiêu thụ thôi thì không thể tồn tại được.
Cây vả kia cứ rút lấy sức lực của đất mà không sản sinh gì cả. Đó chính là tội của nó, xét cho cùng có hai hạng người trên thế giới: những người “cầu” nhiều hơn “cung” và những người “cung” nhiều hơn “cầu”. Theo một phương diện, chúng ta đều mắc nợ cuộc sống. Chúng ta vào đời trong sự nguy hiểm tính mạng của người khác, chúng ta hẳn đã không còn sống đến nay nếu không có sự săn sóc của của những người thương yêu chúng ta. Chúng ta đã thừa hưởng một nền văn minh mà không bởi công sức của chúng ta tạo ra. Chúng ta có trách nhiệm phải làm cho mọi sự trở nên tốt hơn lúc chúng mới tiếp cận chúng ta. Abraham Lincoln đã nói: “Tôi chết lúc nào cũng được, nhưng tôi muốn người ta nói về tôi rằng: tôi đã nhổ một cây cỏ và trồng một cây hoa ở nơi nào tôi nghĩ cây hoa có thể mọc”. Có một học trò được quan sát vi trùng dưới kính hiển vi. Cậu được thấy rõ một thế hệ những con vật li ti đó sinh ra, chết đi, thế hệ khác sinh ra thế nào… Trước đó, cậu chưa hề được thấy thế hệ này tiếp nối thế hệ trước như thế nào. Cậu nói: “Theo như điều tôi đã xem thấy, tôi tự hứa mình sẽ không bao giờ làm một vòng nối yếu đuối”. Nếu chúng ta cũng biết tự hứa như vậy thì ta sẽ làm tròn trách nhiệm, là đem vào đời sống ít ra cũng bằng phần chúng ta lấy đi.
4. Dụ ngôn này dạy chúng ta về phúc ân của cơ may thứ hai.
Một cây vả thường phải ba năm mới trưởng thành, nếu lúc đó nó không sinh trái, chắc không bao giờ sinh trái nữa. Nhưng cây vả này được ban cho một cơ may nữa. Chúa Giêsu bao giờ cũng ban cho người ta hết những cơ may này đến cơ may khác. Phêrô, Marcô, Phaolô rất hoan hỉ làm chứng về điều đó. Thiên Chúa vô cùng nhân từ với kẻ nào sa ngã rồi trỗi dậy.
5. Nhưng dụ ngôn này cũng quả quyết về việc có một cơ may cuối cùng.
Nếu chúng ta từ chối hết cơ may này tới cơ may khác, nếu tiếng kêu mời của Thiên Chúa cứ trở đi trở lại với chúng ta cách vô ích thì đến một ngày, không phải Thiên Chúa đóng cửa lại, nhưng chính chúng ta tự ý đóng cửa lòng mình với Thiên Chúa. Nguyện Chúa cứu chúng ta khỏi điều đó. “Hôm nay là ngày thuận tiện, hôm nay là ngày cứu độ”.
63. Thống hối--R. Gutzwiller
Những lời này của Đức Giêsu trong đoạn Tin mừng này có tầm quan trọng và sự khẩn khoản thiết tha. Tâm tình đó, yêu sách đó còn tăng thêm và đưa đến cụ thể là lời kêu gọi hoán cải sâu xa và thống hối thực tình.
Đức Kitô dựa vào một vài biến cố để đưa ra lời kêu gọi đó và soi sáng bằng một dụ ngôn.
1. Bài học của các biến cố
Trong một cuộc tế lễ tại đền thờ, Philatô sai quân tàn sát một nhóm người Galilê, người ta đã tố cáo với quan người họ mưu tâm phản loạn. Tại Galilê, các cuộc bạo động lại liên tiếp xẩy ra.
Hơn thế, gần hồ Siloê, một cái tháp sụp đổ chôn sống mười tám mạng. Dân chúng tin rằng những biến cố đó là hình phạt Thiên Chúa ra để trừng trị tội lỗi của các nạn nhân.
Nhưng Đức Giêsu bài bác lập luận đó. Những người vong mạng đó không xấu xa hơn những kẻ còn đang sống. Tai nạn không đồng nghĩa với hình phạt mà là những lời cảnh cáo: ‘Nếu các các anh các chị không ăn năn hối cải, thì các anh các chị cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy’. Lời quả quyết nghiêm khắc ấy được nhắc đi nhắc lại hai lần. Lời đó nhắc đến ngày suy tàn của Giêrusalem đang gần đến.
Đối với người đương thời vừa nhằm vào ngày thế mạt, một sự kiện mà mọi thời đều mong đợi, và trước hết nhắm tới vận mạng sau cùng của mỗi thụ tạo. Tất cả các tai hoạ (theo Đức Giêsu và sách Khải huyền) đều là những dấu cảnh cáo của Thiên Chúa.
Con người không thể sống quá an tâm trên đường đời và sống thản nhiên hết ngày này qua ngày khác. Họ phải biết nguy cơ nào đang đe doạ mình và nhận mình sẽ không hề biết giây phút cuối đời của mình là lúc nào. Cho nên lợi dụng thời giờ còn lại để hồi tâm và thống hối.
Con người sẽ được cứu thoát miễn là biết phó thác vào ân sủng vào tình thương của Thiên Chúa và vì là tội nhân họ phải nại đến ân sủng của Ngài. Khẩn nài Thiên Chúa đó là tín hiệu cấp cứu của con người trong cơn nguy biến. Lúc đó, thống hối giống như chiếc tầu an toàn của Noe trong cơn hồng thuỷ của cuộc sống. Con người luôn luôn thấy có những tai hoạ; cho nên họ ít quan tâm đến tầm quan trọng của các dấu hiệu cảnh cáo đó. Tuy nhiên, mỗi người không thể biết nếu chưa gặp phải. Những lời bình luận của Chúa được trình bày một cách mập mờ và phải biết lắng nghe mới có thể lãnh hội được.
2. Dụ ngôn
Đức Giêsu minh giải vai trò khẩn thiết của thống hối qua dụ ngôn cây vả cằn cỗi. Người ta để nó sống một thời gian nữa. Nếu nó không có ích, người ta sẽ chặt đi
Dụ ngôn này hợp với tình trạng của Israel. Thiên Chúa đã ưu ái họ, đã chăm sóc họ như chưa từng thấy. Ngài ban cho họ luật pháp, tiên tri, giao ước, đền thờ và ngày nay còn cho họ có cơ may cuối cùng để định đoạt. Con Thiên Chúa làm người đã đến với họ. Nếu họ không hối cải ngay, số phận của họ sẽ bị định đoạt.
Dụ ngôn đó cũng am hợp với chúng ta. Chúng ta có Giáo Hội, các bí tích, giao ước mới, sách Tin mừng, nhất là có Chúa hiện diện ngày đêm. Vì thế không ai có thể phàn nàn điều gì. Mỗi người đã được chăm lo cách quá ư trọng hậu…
Nhưng con người cũng phải đóng góp về phía mình. Con người không thể ỷ lại vào Giáo Hội và các bí tích, hay tệ hơn dựa vào đám quần chúng để sống tầm thường như họ. Phải có suy nghĩ, hồi tâm và lấy lòng thống hối chân thành để hoán cải tình trạng của mình. Chỉ trong trường hợp đó, họ mới được ơn trợ giúp.
Kitô giáo không phải là bảo hiểm sinh mạng, cũng không phải là bảo vệ an ninh. Trái lại, nó đe doạ sự an toàn giả tạo và tha thiết kêu gọi thống hối. Càng tránh né vấn đề người ta càng đi vào con đường suy vong.
64. Đổi mới cách nhìn
Có một nhà thiên văn vừa mới hoàn chỉnh được chiếc viễn vọng kính của mình. Ông đặt chiếc viễn vọng kính ấy lên sân thượng, và đêm đêm, ông nhìn các vì tinh tú trên bầu trời.
Một buổi tối kia, ông bỗng khám phá ra một con rồng xanh trên mặt trăng. Ông báo cho bè bạn hay, thế là người ta ùn ùn kéo đến để được nhìn thấy con vật lạ. Ai cũng tấm tắc khen ngợi nhà thiên văn. Thế nhưng, có một nhà bác học già cũng đến để được nhìn xem con rồng. Sau khi đã xem qua, ông lắc đầu và tiếp tục quan sát thật kỹ ống kính. Cuối cùng, ông khám phá ra một sợi chỉ xanh vướng vào đầu ống kính, ông liền nói với nhà thiên văn:
- Này anh bạn, trước khi quan sát các vì tinh tú, anh hãy coi lại cái ống kính của mình, xem có trục trặc chi không?
Cái ống kính viễn vọng trong câu chuyện vừa nghe là một hình ảnh tượng trưng cho cách chúng ta nhìn đời và nhìn người.
Thực vậy, nhiều khi cái ống kính ấy có vướng mắc những sợi chỉ mong manh, có nghĩa là lắm lúc chúng ta đã nhìn đời và nhìn người bằng cặp mắt thiển cận. Chúng ta muốn suy bụng ta ra bụng người, chúng ta muốn lấy lòng mình làm thước đo người khác. Chúng ta muốn cư xử rộng rãi với bản thân mà lại nghiêm khắc với người khác. Chúng ta muốn lấy cái rơm trong mắt người khác mà không chịu lấy cái xà ra khỏi mắt mình.
Đây cũng là trường hợp đã xảy ra cho hai biến cố mà Chúa Giêsu đã nhắm đến. Đứng trước cái chết bi thương và đẫm máu của những người bị Philatô giết chết, cũng như mười tám người khác bị tháp Siloe đổ xuống đè bẹp, dân Do thái đã mau mắn đi tới kết luận:
- Sở dĩ họ bị như vậy vì họ là những kẻ tội lỗi, đáng bị Thiên Chúa trừng phạt.
Thế nhưng, quan điểm của Chúa Giêsu thì khác. Ngài xác định họ không phải là những kẻ tội lỗi, đồng thời Ngài muốn dùng những biến cố ấy, những sự kiện ấy như tiếng chuông cảnh tỉnh cho chính bản thân mỗi người.
Đúng thế, thay vì đánh giá người khác, chúng ta phải đánh giá chính bản thân chúng ta. Thay vì kết án người khác, chúng ta phải kết án chính bản thân chúng ta, để rồi từ đó ăn năn sám hối mà quay trở về cùng Chúa như lời Ngài đã phán:
- Nếu các ngươi không chịu ăn năn, thì các ngươi cũng sẽ chết thê thảm như vậy.
Từ đó chúng ta nhận thấy rằng: điều cần thiết là phải thay đổi cách nhìn, thay đổi cách đánh giá. Hãy nhìn vào bản thân mình, chứ đừng nhìn vào người khác. Hãy nghiêm khắc với bản thân mình chứ đừng nghiêm khắc với người khác. Hãy biết đấm ngực mình mà rằng:
- Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.
Chứ đừng đấm ngực người khác mà rằng:
- Lỗi tại anh, tại chị, tại ông, tại bà mọi đàng.
Có như thế, những biến cố xảy đến trong cuộc đời mới thực sự đem lại lợi ích, bởi vì những biến cố ấy chính là tiếng chuông cảnh tỉnh thúc đẩy chúng ta thoát ra khỏi tình trạng tội lỗi. Những biến cố ấy chính là lời Chúa mời gọi chúng ta vươn lên, thăng tiến bản thân và đổi mới cuộc đời, để trở nên tốt lành và thánh thiện hơn.
65. Sám hối
Bài đọc 2 của Chúa nhật III Mùa chay năm C trích thơ thánh Phaolô tông đồ gởi giáo đoàn Côrintô:
“Tất cả cha ông chúng ta đã được ở dưới áng mây khi đi ngang qua biển đỏ và tất cả nhờ Môisê mà được thanh tẩy dưới áng mây và trong lòng biển. Tất cả đã cùng ăn một thức ăn thiêng liêng; tất cả đã cùng uống một thức uống thiêng liêng. Thật vậy, tất cả đã uống nước phát xuất từ tảng đá thiêng liêng, tảng đá ấy chính là Đức Kitô. Tuy nhiên, không phải phần đông trong họ đã sống đẹp lòng Thiên Chúa, vì họ đã bị ngã gục trong hoang địa. Bao nhiêu sự kiện đó nêu gương cho chúng ta, để chúng ta đừng chiều theo dục vọng xấu xa như những người đã chiều theo nó. Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách như một số người trong bọn họ đã làm và đã vong mạng bởi một tay sứ thần huỷ diệt”.
Thánh Phaolô giải thích Kinh thánh Cựu ước cho rõ nghĩa và đồng thời áp dụng vào đời sống cho giáo đoàn tại Côrintô. Phaolô đã áp dụng điều gì cho giáo đoàn Côrintô? Chúng ta lần lượt nhận ra điều đó trong những dòng sau đây: Đọc trong toàn thể thư gửi giáo đoàn Côrintô, bài sách Thánh này nằm trong phần bàn về những liên hệ đức tin của người tín hữu. Đức tin này đòi hỏi một thái độ dứt khoát với những thói tục xấu, với việc tôn thờ không đúng trong quá khứ. Việc từ khước một số tự do vì Tin Mừng và tính cách cố gắng liên tục để chiếm đoạt trọn vẹn Tin Mừng cũng như để khỏi bị sa ngã. Thánh Phaolô viết: Cha ông chúng ta đã được ở dưới đám mây, băng ngang qua biển và tất cả đã nhờ Môisê mà được thanh tẩy dưới áng mây và trong lòng biển. Tổ phụ, áng mây, lòng biển, Môisê đưa người tín hữu Côrintô trở về quá khứ cách đó hơn 13 thế kỷ.
Việc dân Israel bỏ Ai Cập lên đường về đất hứa, các biến cố này Môisê dẫn đầu với sự trợ giúp của Thiên Chúa. Sự trợ giúp này được biểu dương bằng áng mây ban ngày và cột lửa ban đêm, bằng việc vượt qua biển đỏ an toàn. Sự trợ giúp này có tính cách thường xuyên, vì suốt cả cuộc hành trình của dân Israel, Thiên Chúa đã cho đám mây và cột lửa ngang đầu giúp cho dân. Sự trợ giúp này còn có tính cách bất thường trong những hoàn cảnh đặc biệt, vì Thiên Chúa đã cứu họ khi họ bị dồn vào thế cùng đường cũng như khi họ không còn của ăn và nước uống.
Như vậy, hai biểu hiệu “áng mây” và “biển” đã nói lên ơn bảo trợ của Thiên Chúa liên tục và trọn vẹn. Sự trợ giúp này còn nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Ngài. Mây là biểu hiệu của sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngày xưa sự hiện đó được biểu hiện qua đám mây, nhưng trong thời Tân ước, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài qua chính Con Một của Ngài nhập thể là Chúa Giêsu Kitô.
Điều này thánh Phaolô nói lên trong đoạn văn tảng đá thiêng liêng là chính Chúa Kitô. Thiên Chúa đã ban cho dân Israel nhiều ân huệ trong thời gian lưu lạc trong sa mạc, nhưng dù vậy có người trong bọn họ đã sa ngã, đã phạm tội và do đó họ là đối tượng của hình phạt của Thiên Chúa.
Các ân huệ không là thứ bảo đảm an toàn cho họ, nếu họ không biết sống đẹp lòng Chúa, và đây cũng chính là điều mà thánh Phaolô muốn dạy bảo các tín hữu Côrintô. Các ơn Thiên Chúa ban cho Giáo hội, cho tín hữu thật là dồi dào, nhưng chúng ta không được phép tự hào về các ơn này để rồi sống buông thả, thiếu cố gắng và sau cùng sẽ bị tai hoạ cho đời mình.
Như vậy, Cựu ước là biểu tượng của Tân ước, Phaolô dùng nó để dạy dỗ giáo đoàn và nhắc mỗi người chúng ta hãy tỉnh thức và hãy làm trổ sinh những hoa trái tốt. Đừng an phận với những ân huệ Thiên Chúa ban cho mỗi người, nhưng chúng ta phải cộng tác với ân huệ này và làm cho nó sinh hoa trái trong cuộc đời. Hãy làm cho đời sống chúng ta triển nở thêm phong phú. Đây cũng là điều được nhắc nhớ chúng ta qua bài Phúc âm của Chúa nhật III Mùa chay mà mỗi người chúng ta cần phải lãnh nhận và áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người Kitô hữu.
66. Ăn năn sám hối
Bài Tin Mừng kể lại hai câu chuyện thời sự và một dụ ngôn. Chúa Giêsu đã dùng hai mẩu thời sự này để dạy một bài học về việc phải ăn năn sám hối. Rồi Chúa kể dụ ngôn “cây vả” để nhấn mạnh thêm yếu tố: phải khẩn trương ăn năn sám hối.
Câu chuyện thời sự thứ nhất do dân chúng kể cho Chúa, đó là một sự kiện mới xảy ra tại Giêrusalem: một nhóm người xứ Galilê đến tế lễ, đã bị tổng trấn Philatô ra lệnh tàn sát. Có lẽ đây là một nhóm người quá khích tranh đấu cho một nước Do thái độc lập, thoát ách ngoại bang Rôma, bằng phong trào “cứu thế” chống đế quốc ngay tại đền thờ Giêrusalem. Tổng trấn Philatô vì có trách nhiệm với Rôma, nên đã thẳng tay tiêu diệt nhóm phản loạn. Ông ra lệnh sát hại họ và lấy máu của họ hoà trộn với máu của con vật được dùng làm của lễ rồi đem tế thần.
Nghe câu chuyện này, Chúa Giêsu nhắc tới một sự kiện khác, đó là vụ 18 người bị tháp Silôac đổ xuống đè chết. Chúng ta thấy: sau khi nghe người ta kể câu chuyện trên cũng như sau khi chính Chúa Giêsu kể câu chuyện sau, Ngài đều kết luận giống y như nhau: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ bị giết chết y như vậy”. Do đó, chúng ta thấy rõ ràng điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh là ăn năn sám hối.
Sau đó, Chúa Giêsu kể dụ ngôn “cây vả” để củng cố thêm cho chủ đích của Ngài và nhấn mạnh một chi tiết nữa: không những phải sám hối mà còn phải khẩn trương sám hối nữa. Chúa dùng hình ảnh cây vả để khích lệ người Do thái ăn năn sám hối. Người Do thái được ví như cây vả lâu ngày không sinh trái, nên chủ vườn là Thiên Chúa định chặt đi, nhưng người làm vườn là Chúa Giêsu xin khất một hạn kỳ: nếu sau đó mà vẫn không sinh hoa trái thì sẽ bị đốn bỏ. Cây vả được gia hạn kia chính là hình ảnh người Do thái: nếu các ông không chịu sám hối, thì chính các ông cũng sẽ chết y như những người Galilê bị Philatô giết, hoặc như những người bị tháp Silôac đè chết. Hiện thời các ông còn đứng đó chưa chết, là các ông đang ở trong tư thế cây vả được gia hạn. Nếu cây vả vẫn không sinh trái, nó sẽ bị chặt đi. Nếu các ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ bị huỷ diệt.
Bài học đã quá rõ ràng, nhắc nhở chúng ta hai điều: phải ăn năn sám hối và phải khẩn trương chứ đừng chần chừ, chậm trễ. Chúng ta có thấy bài học này cần thiết cho mình không? Trước hết, chúng ta cần phải ăn năn sám hối, vì tất cả chúng ta đều là những kẻ có tội. Điều này thật rõ ràng. Có ai dám cho mình không có tội không? Chắc chắn là không, vì chúng ta đều là con cháu Adong Evà: ai cũng sinh ra trong tội. Rồi mỗi người đã phạm thêm những tội cá nhân nữa. Có phải chúng ta càng thêm tuổi lại càng thêm tội không? Do đó, việc ăn năn sám hối chúng ta phải làm mà còn phải làm thường xuyên nữa.
Tiếp đến, việc ăn năn sám hối là việc khẩn trương, chúng ta phải làm ngay, không được chần chừ hay chậm trễ. Chúng ta đừng bao giờ có ý nghĩ “đâm lao theo lao”. Lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội, rồi cho lỡ luôn, cứ kéo lê cuộc sống trong lầm lỡ đó. Hoặc là chúng ta cũng đừng ru ngủ mình bằng ý tưởng: “Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn chay đền tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi mình”. Chúng ta có chắc mình sống tới già không? có chắc tuổi già cô đơn, bệnh tật cho phép chúng ta dễ dàng ăn năn không? Hay là “Trẻ đi đàng nào, già đi đàng đó”, “Cây ngả chiều nào sẽ đổ chiều ấy”. Thời gian gần đây, không hiểu tại sao người ta chết bất ưng, chết bất đắc kỳ tử, chết không kịp ngáp… nhiều quá. Quả thực, không ai biết mình sẽ sống bao lâu, và cũng không ai biết được khi nào mình hết sống. Mỗi người đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: có thể đó là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối đối với tôi chăng?
Vì thế, lời Chúa hôm nay là lời thức tỉnh chúng ta: đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình và sám hối cho thật, cho mau kẻo trễ: trông người mà nghĩ đến ta, phận mình tội lỗi liệu mà ăn năn.
67. Sám hối
Trước khi đi vào bài Tin Mừng hôm nay, thầy có mấy câu để hỏi các em, nếu ai biết xin giơ tay nhé.
. Trong các em, ai đã nhìn thấy tội của mình? Và ai đã nhìn thấy tội nơi người khác? – Vâng, đa số trong các em nhìn thấy tội của người khác hơn là thấy tội của mình. Chính cái nhìn hạn hẹp này mà Chúa Giêsu nhắc nhở những người Do thái ngày xưa, và Ngài cũng nhắc nhở chúng ta ngày nay rằng: “Nếu các con không sám hối, thì các con cũng sẽ chết”.
Vậy để giúp nhau sống lời Chúa hôm nay, thầy cùng các em tìm hiểu ba điểm sau đây:
. Sám hối để được tha thứ.
. Sám hối để được sống.
. Sống tinh thần sám hối.
Sám hối để được tha thứ. Các em có biết:
. Trong thánh lễ, sau khi làm dấu, chúng ta thường đọc kinh gì? Đọc kinh cáo mình và kinh thương xót.
. Qua những kinh đó chúng ta thú nhận tội lỗi và xin Chúa thứ tha tội lỗi chúng ta.
. Tại sao ta phải sám hối trước thánh lễ? Vì chúng ta muốn có một tâm hồn trong sạch để xứng đáng tham dự bàn tiệc thánh.
. Giáo hội cho chúng ta bốn mươi ngày trong mùa chay. trong bốn mươi ngày này Giáo hội kêu gọi mỗi người Kitô hữu hãy sám hối lỗi lầm để trở về với Thiên Chúa.
. Do đó, sám hối là một điều rất cần thiết cho mỗi người Kitô hữu, vì nếu muốn được tha thứ thì phải sám hối!
. Vậy để luôn biết mình và để luôn được sống thân tình với Thiên Chúa, chúng ta phải hướng về Thiên Chúa và ý thức mình là kẻ có tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa.
Sám hối để được sống.
Để thấy kết quả của việc ý thức tội lỗi và quyết tâm trở về với Thiên Chúa như thế nào, giờ đây thầy kể cho các em nghe một câu chuyện.
Ngày xưa, Thiên Chúa sai tiên tri Giona đến một thành rất tội lỗi tên là Ninivê để khuyên bảo dân thành này. Giona không vâng lời Thiên Chúa, xuống tàu đi sang nơi khác, nên Chúa đã cho con cá nuốt ông trong bụng hết ba ngày ba đêm để cảnh cáo ông. Sau đó, cá nhả Giona lên bãi biển. Ông không dám cãi lệnh Thiên Chúa nữa. Ông đến thành Ninivê, rảo khắp thành phố trong ba ngày và rao giảng rằng: còn 40 ngày nữa Ninivê sẽ bị tàn phá, nếu anh em không chịu ăn năn sám hối để trở về với Chúa thì sẽ bị phạt.
Nghe lời kêu gọi đó, thì từ nhà vua cho đến dân và súc vật trong thành đều tỏ lòng kính sợ Thiên Chúa. Nhà vua cởi áo cẩm bào, mặc áo nhặm, ngồi trên đống tro cùng dân trong thành ăn năn khóc lóc tội lỗi và hết lòng thống hối, trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa thấy họ thật lòng từ bỏ cách ăn thói ở gian ác tội lỗi của họ, nên Ngài không phạt nữa.
Qua câu chuyện thầy vừa kể, các em có biết:
. Nhờ đâu mà dân thành Ninivê được Chúa tha thứ không? Nhờ lòng ăn năn sám hối của họ.
Cũng vậy, để được Thiên Chúa tha thứ như dân thành Ninivê, chúng ta phải biết sám hối những lỗi lầm của mình và quyết tâm trở về với Thiên Chúa.
. Nhìn lại bài Tin Mừng, các em thấy những người Do thái nghĩ gì về những người đã chết do Philatô giết và tháp Silôê đè là những người có tội, bị Thiên Chúa phạt. Còn họ nghĩ họ là những người tốt, không có tội nên không bị Chúa phạt. Những người Do thái này không chịu nhìn tội lỗi của mình và họ chỉ nhìn tội lỗi của người khác.
Thấy những người Do thái này cứng đầu, lì lợm, không chịu nhìn nhận là mình có tội, nên Chúa Giêsu đã nhắc nhở họ rằng: “Cả các ngươi nữa, nếu các ngươi không sám hối, thì các ngươi cũng sẽ phải chết như vậy”.
Tội lỗi đã làm cho chúng ta xa cách Thiên Chúa, làm chúng ta phản bội Chúa, chống lại tình yêu của Chúa và nhất là làm chúng ta đánh mất sự sống với Ngài.
Nhưng Thiên Chúa rất yêu thương chúng ta, Ngài đã ban chính Con Một của Ngài là Chúa Giêsu cho chúng ta. Qua cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã gánh lấy hết mọi tội lổi và chịu chết thay cho chúng ta. Như vậy, Chúa Giêsu đã xoá đi tội lỗi của chúng ta và biến đổi chúng ta từ nô lệ tội lỗi trở thành con cái của Thiên Chúa.
Vì thế, chúng ta hãy sám hối, trở về với Thiên Chúa để đón nhận ơn cứu chuộc của Chúa như tiên tri Isaia đã loan báo: “Ta đã xoá tội của các ngươi… Hãy trở về với Ta vì Ta đã cứu chuộc các ngươi”.
Sau khi thấy được kết quả của việc sám hối, giờ đây chúng ta quyết tâm sống tinh thần sám hối.
Sống tinh thần sám hối.
Một hôm, đi học về. Tuyền chạy ngay vào bếp rồi nũng nịu với mẹ rằng:
- Mẹ ơi, con đói bụng quá.
Mẹ ôn tồn:
- Chờ mẹ một chút, có cơm ăn liền. Hôm nay mẹ đi làm về trễ…
- Tuyền vùng vằng khó chịu rồi bỏ đi lên nhà. Cho đến khi mẹ lên gọi ăn cơm Tuyền mới chịu xuống.
An cơm xong mẹ mới ôn tồn bảo Tuyền:
- Con lớn rồi. Đi học về, thấy mẹ làm cơm chưa xong thì phải biết phụ mẹ lặt rau, hay dọn chén đũa chứ. Con không nên có thái độ như vậy.
Tuyền nhận ra mình đã làm cho mẹ buồn, tỏ ra hối hận và thưa mẹ rằng:
- Thưa mẹ, con xin lỗi mẹ. Từ nay con sẽ cố gắng không làm mẹ buồn nữa. Thế là mẹ ôm Tuyền vào lòng và nói: con rất ngoan, mẹ không buồn con nữa đâu.
Câu chuyện cho chúng ta thấy, bạn Tuyền là người biết sám hối, biết nhận ra lỗi của mình và mau mắn xin lỗi.
Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng làm cho ông bà, cha mẹ, thầy cô,… buồn lòng về những tật xấu của ta như: không vâng lời, hay đánh nhau, chửi thề, nói dối…
Chúng ta hãy học nơi bạn Tuyền can đảm nhận ra lỗi của mình, rồi mau mắn xin lỗi ông bà, cha mẹ, thầy cô… Và quyết tâm sửa đổi những tính hư tật xấu.
Cũng vậy, để được Chúa tha thứ và để được sống với Chúa. Chúng ta hãy sám hối tội lỗi của mình và quyết tâm từ bỏ những tính hư tật xấu để trở về với Chúa bằng cách: mỗi ngày xét mình, ăn năn dốc lòng chừa và năng lãnh nhận bí tích Giải tội.
Trong tuần này, thầy và các em cùng nhau mỗi ngày lặp lại nhiều lần với lời nguyện tắt sau đây nhé:
“Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót con, vì con là kẻ có tội”.
68. Kiên nhẫn
Cây vả được trồng ba năm thì tới lúc có trái. Nếu đến khi đó mà nó vẫn chưa có trái thì hầu như sẽ chẳng bao giờ có trái nữa. Đây là trường hợp của cây vả trong bài Tin Mừng hôm nay. Bởi vậy ông chủ ra lệnh đốn bỏ nó, để khỏi chật đất, để khỏi tốn công chăm sóc, để dành chỗ trồng cây khác hữu ích hơn. Nhưng người làm vườn vẫn chưa nản lòng. Người này vẫn con hy vọng nơi cây vả, nên xin ông chủ cho thêm thời hạn một năm nữa. Trong thời gian này ông sẽ tích cực bồi dưỡng và chăm sóc cho nó. Sau đó nếu nó vẫn không có trái thì mới bị chặt đi.
Dụ ngôn không cho ta biết kết quả cuối cùng thế nào. Nhưng bấy nhiêu cũng đủ nói lên điều Chúa Giêsu muốn nói: cũng như người làm vườn kiên nhẫn chờ đợi cây vả ra trái, Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ tội lỗi ăn năn sám hối.
Lịch sử đầy dẫy những thí dụ về những người nhờ được người khác kiên nhẫn cho thêm cơ hội nên về sau trở thành những vĩ nhân. Ngay trong bài đọc 1 hôm nay đã có một tấm gương: Môsê khi còn trẻ đã phạm tội giết người. Chúa không phạt ông, mà còn sử dụng tính khí nhiệt tình của ông để giải phóng dân Do thái khỏi ách nô lệ Ai Cập. Einstein mãi đến hai tuổi mới bắt đầu biết nói bập bẹ. Khi Einstein đến trường, các giáo viên cũng ngã lòng vì sự chậm chạp của ông. Vậy mà Einstein đã trở thành nhà bác học được đánh giá là nổi bật nhất của thế kỷ.
Có nhiều người phát triển rất chậm và muộn màng, nhưng lại là những nhân tài. Những người như thế cần có ai đó tin tưởng họ, kiên nhẫn chờ đợi họ và tạo cơ hội cho họ. Nếu không thì kho tàng tài năng của họ sẽ bị vùi dập và mai một đi.
Chúng ta biết cho chính bản thân mình thêm cơ hội. Tại sao chúng ta không làm như thế đối với người khác?
69. Thay đổi cái nhìn
Cùng một biến cố, nhưng người ta có thể nhìn dưới nhiều góc cạnh khác nhau. Bệnh AIDS (SIDA) chẳng hạn, các nhà Y học coi đó như một thách đố cho việc tìm tòi, một số kỹ nghệ gia coi đó là dịp để tung ra các sản phẩm phòng ngừa, các nhà đạo đức thì coi đó như là chiếc roi của Thiên Chúa trừng phạt nhân loại, còn người có đức tin thực sự lại nhận ra ở đó khởi điểm của tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Chúa Giêsu đã nhắc đến phản ứng rất thông thường của người Do thái và có lẽ cũng là của nhiều Kitô hữu, đó là qui trách cho Thiên Chúa mọi sự trừng phạt. Khi Philatô ra lệnh xử tử một số người Galilê nổi loạn, thì người Do thái cho rằng những người này đáng bị trừng phạt vì là những kẻ tội lỗi. Khi tháp Silôê đổ xuống làm một số người chết, người ta cũng bảo là họ bị Chúa phạt.
"Chúa phạt", đó có thể là phản ứng của chúng ta khi đứng trước một tai họa cho người khác. Chúng ta vừa gán cho Chúa một hình ảnh không mấy đúng đắn về công bình, vừa vô tình kết án người khác mà quên đi thân phận yếu hèn của mình.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn vào các biến cố với niềm tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa. Dù con người tội lỗi đến đâu, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương, tha thứ cho họ. Ý thức về tình yêu ấy, con người cũng được mời gọi hoán cải. Càng nhận ra tình yêu Thiên Chúa, càng ý thức về thân phận yếu hèn của mình và càng phải cảm thông và yêu thương người khác nhiều hơn. Sám hối trước tiên phải là sám hối trong cái nhìn về Thiên Chúa nhân từ, đồng thời thay đổi cái nhìn đối với người khác.
Ước gì hoa trái của yêu thương, phó thác, tha thứ trổ bông trong tâm hồn và tràn ngập trong ánh mắt chúng ta.
70. Dấu chỉ của thời đại
Trong bài Phúc Âm Lc 12,54-59 chúng ta đã nghe Chúa Giêsu dạy về việc phải biết nhìn xem những dấu chỉ của thời đại, biết phân định những biến cố xảy ra theo ánh sáng của Lời Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy một thí dụ cụ thể là Chúa Giêsu đã đọc dấu chỉ của thời đại, tức là hai biến cố đau thương vừa xảy ra: quan tổng trấn Philatô đã giết chết một số người Galilê nơi đền thờ; và tháp Silôê sập đè chết mười tám người. Chúa Giêsu đã thuật lại hai biến cố này trước: "Các ông tưởng mấy người Galilê đó tội lỗi hơn hết những người Galilê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy".
Tai họa là điều tiêu cực xảy ra, không phải là hình phạt của một vị Thiên Chúa muốn trả thù vì tội lỗi của con người và những anh chị em nạn nhân, không phải là những kẻ xấu tệ, đáng khinh. Những biến cố xảy ra là những dịp kêu gọi con người trở lại cùng Thiên Chúa. Dụ ngôn về cây vả không có trái cũng vậy.
Dụ ngôn mời gọi người nghe hãy ăn năn hối cải và thực hiện đền bù trổ sinh hoa trái tốt và thôi không lạm dụng lòng nhân từ của Thiên Chúa nữa. Mỗi tín hữu đều được mời gọi sống đức tin bằng những việc tốt lành của đức bác ái, một đức tin sống động mới xác tín cá nhân để thực hiện những công việc làm của kẻ yêu mến Thiên Chúa và anh chị em.
Trước nhan Thiên Chúa không có những phân biệt đối xử, những kỳ thị cho người này cao trọng hơn người kia. Chúng ta tự nhiên thường hay có thái độ khinh thị anh chị em và kiêu ngạo cho mình tốt lành hơn cả. Chúng ta cần thay đổi tâm thức để mặc lấy những tâm tình của Chúa, hành xử như Chúa đã nêu gương. Chúng ta hãy biến đổi con tim mình để nó đừng ích kỷ, đừng khinh dễ anh chị em, đừng xét đoán hạ thấp anh chị em, nhưng ngược lại biết mở rộng trong sự vị tha, tình huynh đệ, sự hòa hợp, tình thương, lòng nhân từ, niềm vui, sự bình an, lòng quảng đại và hy vọng. Thay đổi chính tâm hồn mình là một điều khó, một tiến trình liên lỉ, dài hạn, đòi hỏi hy sinh và can đảm cộng tác với ơn Chúa. Đừng an ủi mình, đừng trấn an lương tâm mình bằng việc phân tích phê bình những sơ sót của anh chị em, dường như thể chúng ta tốt lành hơn: "Nếu các con không sám hối, thì các con cũng sẽ chết giống như vậy".
Lạy Chúa.
Chúng con cảm tạ Chúa vì đã luôn thức tỉnh chúng con, mời gọi chúng con sám hối, canh tân. Chúng con muốn vượt ra khỏi những vòng nô lệ của tật xấu và tội lỗi. Xin thương ban ơn thánh Chúa, thanh luyện giúp chúng con trở thành những con người mới, sống theo mẫu gương của Chúa, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong mọi hoàn cảnh.
71. Tản mạn
Trong bài đọc 1 kể chuyện Chúa hiện ra với Môsê, điều đáng ngạc nhiên là Chúa không hiện ra cho ông trong đền thờ mà là trong sa mạc; và Chúa hiện ra không phải khi Môsê đang cầu nguyện mà trong lúc ông chăn cừu. Chúa hiện ra cho Môsê ở một nơi phàm trần và trong một sinh hoạt phàm trần.
Ngày nay thế giới đã trở thành một nơi phàm trần. Thật khó mà giữ được một ý thức thiêng thánh trong một thế giới như thế. Tuy nhiên, nếu không có thiêng thánh và ý thức hướng thượng, thì cuộc đời sẽ nghèo nàn và thấp hèn biết bao.
Trong cuộc gặp gỡ giữa Môsê với Thiên Chúa, cảm xúc lấn át nhất xem ra là sợ hãi. Nhưng thực ra không phải thế. Khi Thánh Kinh nói về sự sợ đối với Thiên Chúa thì không phải là sợ hãi mà là kính sợ. Sợ hãi là một cảm xúc tiêu cực, nó khiến ta co rúm lại và muốn chạy trốn; còn kính sợ là một cảm xúc tích cực, nó khuyến khích ta tiến đến gần đối tượng đang tác động lên mình, ta không cảm thấy bị hạ xuống, mà được nâng lên.
Tín ngưỡng bắt đầu bằng cảm xúc kính sợ, kính sợ vì nhận biết sự cao cả của Thiên Chúa và giới hạn thấp hèn của con người. Kính sợ đi trước, và đức tin đến sau.
Mà kính sợ thì bắt đầu bằng sự ngỡ ngàng. Môsê đã ngỡ ngàng khi thấy bụi gai cháy rực mà không rụi tàn.
Tuy nhiên rất dễ ngỡ ngàng trước một sự kiện bất thường như thế. Ngay cả người khùng cũng biết ngỡ ngàng trước sự bất thường. Còn người khôn thì biết ngỡ ngàng trước những sự bình thường. Đây mới là vấn đề. Chúng ta ước ao được ngỡ ngàng trước một phép lạ, nhưng chúng ta không ngỡ ngàng khi ngắm cảnh hoàng hôn. Hầu hết chúng ta cảm thấy khó mà nhận ra nét cao cả và đáng ngỡ ngàng nơi những sự việc bình thường trong cuộc sống; chúng ta không nhận ra những “phép lạ” vẫn diễn ra hàng ngày chung quanh chúng ta.
Tâm tình tôn thờ bắt nguồn từ ý thức về những phép lạ như thế. Kính sợ và ngỡ ngàng có thể được khơi lên bởi những sự việc rất nhỏ bé, chẳng hạn một hạt cát, một chiếc lá hay một giọt mưa.
Một đức tin cần được củng cố bằng phép lạ là một đức tin nghèo nàn. Những ai đã gắn bó với Chúa thì không cần phép lạ nữa, vì họ đã ý thức mình đang sống trong một thế giới được quyền năng Chúa bao bọc, họ nhìn đâu cũng thấy Chúa.
Người nào có khả năng nuôi dưỡng đức tin của mình bằng những phép lạ đời thường thì giống như người đang ngồi nơi bàn tiệc.
Dù Môsê đang đứng tại một nơi phàm trần giữa hoang địa, nhưng Chúa bảo ông rằng đó là nơi thánh. Điều gì đã khiến nơi đó thành nơi thánh? Thưa chính là sự hiện diện của Chúa. Nếu thế thì nhà thờ cũng là nơi thánh, vì có Chúa hiện diện trong nhà thờ.
72. Kiên nhẫn--Trầm Thiên Thu
Kiên nhẫn (nhẫn nại) là trạng thái chịu đựng trong hoàn cảnh khó khăn – tinh thần và vật chất, nghĩa là can đảm và kiên trì đối mặt với điều trái ý mà không tỏ vẻ khó chịu, bồn chồn hoặc thất vọng. Kiên nhẫn là một đức tính giúp đạt sự thành công ở đời, đồng thời cũng là nhân đức trong đời sống tâm linh.
Kiên nhẫn không phải là thụ động, mà là chủ động. Đó là sức mạnh tập trung của con người. Kiên nhẫn rất cần, nhưng phải khổ luyện mới khả dĩ đạt được, như Hellen Keller nhận định: "Chúng ta không bao giờ có thể học được sự can đảm và kiên nhẫn nếu chỉ có niềm vui trên thế gian này". Nghĩa là chúng ta phải có mục đích nào đó vượt trên những gì trần tục của những người bình thường.
Ngày xưa, ông Môsê chăn chiên cho bố vợ là Gítrô, tư tế Mađian. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khôrếp. Bỗng nhiên Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Môsê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng mà không bị thiêu rụi. Thấy lạ, ông tự nhủ: "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi?" (Xh 3:3). Đức Chúa thấy ông lại xem, tiếng Thiên Chúa phát ra từ giữa bụi cây: "Môsê! Môsê!". Ông thưa: "Dạ, tôi đây!" (Xh 3:4). Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là Đất Thánh" (Xh 3:5). Nơi nào có Thiên Chúa thì nơi đó là Đất Thánh, vì Thiên Chúa là Đấng Thánh.
Thiên Chúa lại phán: "Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Gia-cóp" (Xh 3:6). Ông Môsê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa. Tại sao? Không phải Thiên Chúa dữ tợn hoặc dị dạng khó coi, mà Thiên Chúa là Đấng Thánh. Mắt phàm nhân không thể nhìn thẳng vào mặt trời thì làm sao nhìn Thiên Chúa là Nguồn Sáng? Biết vậy, Đức Chúa liền trấn an ông Môsê: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Canaan, Khết, Emôri, Pơrítdi, Khivi và Giơvút" (Xh 3:7-8). Thiên Chúa biết rõ mọi điều từ trong suy nghĩ của con người, Người chỉ muốn chúng ta thật lòng và kiên trì kêu xin thì sẽ được toại nguyện.
Ông Môsê thưa với Thiên Chúa: "Bây giờ, con đến gặp con cái Ítraen và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?" (Xh 3:13). Thiên Chúa xác nhận với ông Môsê: "Ta là Đấng Hiện Hữu. Ngươi nói với con cái Ítraen thế này: Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em" (Xh 3:14). Không vòng vo. Chính xác. Rõ ràng. Thiên Chúa lại phán với ông Môsê: "Ngươi sẽ nói với con cái Ítraen thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia" (Xh 3:15).
Đọc đoạn Kinh thánh này và biết Thiên Chúa mà chúng ta đang tin kính và tôn thờ là ĐẤNG HIỆN HỮU, chắc chắn chúng ta thực sự hạnh phúc vì chúng ta đang có đức tin chính thống và sự tôn thờ đúng đắn. Quả thật, XƯA NAY CHƯA MỘT THẦN LINH NÀO DÁM TỰ XƯNG NHƯ VẬY. Nhưng Thiên Chúa của chúng ta xác định rõ ràng: TA LÀ ĐẤNG HIỆN HỮU. Và Ngài cũng là ĐẤNG TỰ HỮU. Hãy tạ ơn Chúa đã soi sáng cho chúng ta đi đúng Đường Chân Lý của Thiên Chúa Thật!
Chắc hẳn vì vậy mà tác giả Thánh vịnh luôn tự nhủ: "Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người" (Tv 103:1-2). Thế mà con người vẫn quá hèn yếu, luôn xin và muốn được toại nguyện, nhưng ít người còn biết nhớ ơn. Phúc Âm nói tới ví dụ điển hình: Mười người được ơn, nhưng chỉ có một người trở lại tạ ơn Chúa, mà người biết ơn đó lại là người ngoại đạo (x. Lc 17:11-18), chắc chắn chín người vô ơn bạc nghĩa là người có đạo – dù người đó ở cấp bậc nào, nói chung là những người mệnh danh là Kitô hữu, đừng tưởng người địa vị cao thì "ngon" hơn người ở địa vị thấp! Chúa Giêsu đặt vấn đề: "Thế thì chín người kia đâu?". Rất rõ ràng. Rất nghiêm túc. Rất thực tế. Rất nhẹ nhàng mà lại rất đau – nhức buốt tận tủy xương!
Rồi khi gặp trắc trở, con người mới "giật mình" và lại hối cải: "Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà" (Tv 103:3-4). Thiên Chúa luôn thông cảm nên luôn nhân hậu và xót thương, Ngài "phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải cho Môsê biết đường lối của Người, cho con cái nhà Ít-ra-en thấy những kỳ công Người thực hiện" (Tv 103:6-7), bởi vì "Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương" (Tv 103:8). Nhân loại không thể hiểu thấu kiểu yêu thương kỳ lạ như vậy: "Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao" (Tv 103:11). Nếu không có lòng thương xót kỳ lạ như vậy của Thiên Chúa thì chúng ta cùng đường, hết đường sống – thời nay gọi là "tận cùng bảng số".
Từ một người Pharisêu và "chuyên gia" về việc bách hại đạo, Saolê bỗng biến thành Phaolô nhiệt thành rao giảng về Người mà chính ông đã tìm mọi cách để triệt hạ. Và rồi Thánh Phaolô không thể im lặng: "Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô" (1 Cr 10:1-4). Chữ "tất cả" và chữ "một" khác nhau hoàn toàn, thế nhưng lại không hề khác chút nào. Dù "thuận" hay "nghịch" cũng vẫn trong một tổng thể hài hòa.
Thánh Phaolô nói thêm: "Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc. Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta" (1 Cr 10:5-6). Cuộc đời chúng ta cũng vậy, thất bại và đau khổ là bài học quý giá. Đó là tiếng Chúa cảnh tỉnh chúng ta, vì Ngài luôn hiện hữu trong mọi biến cố của cuộc đời. Chắc hẳn cố nhạc sư Hùng Lân đã cảm nghiệm điều đó nên ông viết trong bài thánh ca "Chúa Có Mặt Trong Lịch Sử Loài Người" với ca từ đậm chất Đức Tin trong phần điệp khúc: "Chúa có mặt trong lịch sử cuộc đời, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi. Từ thời hồng hoang tuổi đá, khi nhân loại như thú rừng, dần dà ngự trị thiên nhiên, không gian thời gian mấy trùng. Từ lúc bước vô trần gian cùng tiếng khóc oa oa, đời con Chúa đã an bài trong thiết tha".
Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn, đến nỗi người ta cho rằng "không hề có Thiên Chúa", dù chúng ta không ngừng tái phạm. Thánh Phaolô đã cảm nhận được lòng thương xót của Chúa nên đã khuyên nhủ: "Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này" (1 Cr 10:10-11). Bởi vậy, không ai dám mạo nhận điều gì, vì "ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã" (1 Cr 10:12). Không ảo tưởng và luôn tỉnh thức, đó là biết sống kiên nhẫn.
Một ngày nọ, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giêsu hỏi lại: "Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao?" (Lc 13:2). Tình trạng "tưởng mình hơn người" rất thường xảy ra trong ý nghĩ của chúng ta. Điều này gợi nhớ tới dụ ngôn hai người cùng lên Đền Thờ để cầu nguyện (x. Lc 18:9-14). Chúng ta quên (hoặc không muốn nhớ) rằng chính Chúa Giêsu đã minh định: "Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa" (Lc 18:19).
Chúa Giêsu cảnh báo: "Nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy" (Lc 13:3-5). Chúa Giêsu cảnh báo quá nhiều mà người ta vẫn không muốn lắng nghe, phải chăng người ta nghĩ rằng Ngài là người-thích-đùa chăng? Không, hoàn toàn Ngài không đùa, Ngài đang kiên nhẫn chịu đựng!
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?" (Lc 13:7). Nhưng người làm vườn đáp: "Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi" (Lc 13:8-9). Ai xin chủ nhân trì hoãn việc đốn cây? Đó là Chúa Giêsu. Chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa, đã chịu đau khổ và chịu chết để minh chứng Tình Yêu, nhưng hầu như vô hiệu. Rồi Ngài lại mặc khải Thánh Tâm, và ngày nay là Lòng Thương Xót. Quả thật, Thiên Chúa quá đỗi kiên nhẫn vì những thụ tạo khốn nạn là chính mỗi chúng ta!
Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa, xin biến đổi trái tim xơ cứng của chúng con để chúng con không phụ lòng kiên nhẫn và nhân từ của Ngài, đồng thời có thể phần nao đáp lại Tình Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
73. Sám hối để được cứu chuộc--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Tin mừng Lc 13: 1-9: Lời Chúa hôm nay cho ta thấy rất rõ: đối tượng của lời kêu gọi sám hối không phải chỉ là những người tội lỗi, gái điếm, trộm cắp..., nhưng cả những người được coi là đạo đức, ngay chính, nhiều người kính trọng, hết thảy, ai ai cũng đều phải sám hối.
Nếu Chúa Nhật I Mùa Chay nói về chủ đề cám dỗ, Chúa Nhật II nói về vinh quang, thì Chúa Nhật thứ III Mùa Chay hôm nay nói về chủ đề sám hối.
Tại sao chủ đề sám hối lại được đặt vào trọng tâm của Mùa Chay? Thưa vì khi sám hối, con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, đồng thời cũng nhận ra sự bất toàn của chính mình. Từ đó, chúng ta đón nhận được ơn tha thứ, khởi đầu lại hành trình đức tin và tiếp tục đi trong đường lối yêu thương của Người.
Hôm nay, vào giữa Mùa Chay, Giáo Hội lại một lần nữa kêu gọi con cái mình sám hối, vì: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”(2 Cr 6,2b).
1. Lý do cần phải sám hối
Khởi đi từ bài đọc I, tác giả sách Xuất Hành cho thấy: Thiên Chúa là Đấng yêu thương con cái của Người cách đặc biệt, nên ngay từ xa xưa, Thiên Chúa đã tuyển chọn ông Abraham, qua đó, Người thiết lập một dân riêng, để từ đây, Thiên Chúa mạc khải tình thương của Người cho nhân loại qua việc yêu thương, chăm sóc và giữ gìn.
Tình thương ấy được tỏ hiện cụ thể qua việc Thiên Chúa tiếp tục chọn và gọi Môsê để trao phó cho ông sứ mạng giải thoát dân Người ra khỏi ách nô lệ bên Aicập.
Đến bài đọc II, thánh Phaolô gợi lại sự chăm lo của Thiên Chúa cách đặc biệt trên cộng đoàn. Tuy nhiên, Ngài thấu hiểu được tâm lý con người, nên đã cảnh báo họ về những cám dỗ. Để chứng minh, Ngài đã nhắc lại cuộc xuất hành của dân từ Aicập vượt qua Biển Đỏ, rồi trong suốt hành trình nơi Samạc, họ đã được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt, ấy thế mà, dân Israel đã bội nghĩa vong ân, đã thay trắng đổi đen, và đã vướng vào những cạm bẫy của ma quỷ, để rồi kiêu ngạo, thách thức Thiên Chúa. Vì thế, nhiều người đã phải chết trong sự ngu dốt do tính kiêu ngạo của mình.
Từ đó, thánh nhân mời gọi tín hữu Côrintô hãy sám hối, tin tưởng, phó thác vào tình thương của Thiên Chúa và trung thành với sự hướng dẫn đầy tình nhân ái của Người.
2. Nếu không sám hối, sẽ phải chết
Sang bài Tin Mừng, thánh sử Luca trình thuật việc dân chúng báo tin cho Đức Giêsu về hai sự kiện, một là: quan tổng trấn Philatô giết một số người Galilê đang khi họ dâng lễ vật trong đền thờ, và biến cố 18 người bị tháp Siloe đổ xuống đè chết, sau đó, họ kết luận: những người đó phạm tội nên mới bị chết cách đau đớn như vậy!!!
Khi nghe thấy tin ấy, Đức Giêsu đã không nhìn sự kiện dưới khía cạnh luân lý, kinh tế hay chính trị, mà Ngài nhìn dưới gọc độ tôn giáo. Vì thế, Ngài đã đánh đổi quan niệm cũ sai lầm mà người Dothái thường gán cho những người ốm đau, bệnh tật, tai nạn là do phạm tội nên bị Thiên Chúa phạt bằng câu nói đầy tính tiên tri: “Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy”. Điều này đã được chính Đức Giêsu chứng minh qua phép lạ chữa cho người mù từ lúc mới sinh, Ngài nói: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3).
Mặt khác, Ngài cũng muốn nhắc cho dân chúng ở đó rằng: chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán và kết án mà thôi, nên: “Đừng xét đoán để khỏi bị kết án” (Mt 7,1).
Như vậy, qua bài Tin Mừng này, chúng ta thấy ý chính, trọng tâm của sứ điệp chính là: “Hãy sám hối để được ơn tha thứ và cứu chuộc”.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Lời mời gọi ấy ngày nay vẫn con nguyên giá trị. Nhưng đáng tiếc thay, nhiều người vẫn dửng dưng và cho rằng: “Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn năn đền tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi là mình!”; hay nghĩ rằng: “Đâm lao theo lao”, lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội rồi, cho lỡ luôn! Thực ra, chỉ những ai dại dột hay kiêu ngạo thì mới cả gan nghĩ như vậy, bởi lẽ trong thực tế đã chứng minh cách nhãn tiền rằng: “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”, vì: cái chết nó đến với chúng ta cách bất ngờ đến độ như kẻ trộm lúc đêm khua hay như chiếc lưới bất thần chụp xuống trên đầu chúng ta...
Vì thế, ngay giây phút này, mỗi người hãy tâm niệm câu nói của thánh Phaolô: “Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10,12); và câu nói của thánh Phêrô: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo và ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5). Vì ngài: luôn đánh giá rất cao người tội lỗi trở về hơn là người đạo đức mà kiêu ngạo.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay cho ta thấy rất rõ: đối tượng của lời kêu gọi sám hối không phải chỉ là những người tội lỗi, gái điếm, trộm cắp..., nhưng cả những người được coi là đạo đức, ngay chính, nhiều người kính trọng, hết thảy, ai ai cũng đều phải sám hối.
Bởi vì nếu lời mời gọi sám hối dành cho những người tội lỗi là: từ bỏ con đường bất chính, gian dâm, trộm cướp, hối lộ, bóc lột..., thì lời mời gọi sám hối dành cho những người đạo đức, công chính..., đó là: làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa, biết cảm thông cho những thân phận xấu số, cảm thương với người nghèo và rộng tay làm phúc bố thí cho họ, nhất là nâng đỡ những người tội lỗi, giúp họ làm lại cuộc đời...
Tại sao vậy, Thưa! Kitô giáo không phải là một tôn giáo chỉ cấm những điều xấu không được làm, mà Giáo lý của Đức Giêsu còn đòi buộc cả những điều tích cực như: khi thấy điều tốt mà không làm thì cũng mắc tội. Điều này cũng được chính thánh Giacôbê nhắc đến trong thư của ngài: “Kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội” (Gc 4,17).
Vì thế, nếu tỏ lòng sám hối là điều cần làm ngay lúc này, thì lời mời gọi sinh hoa quả tốt là các nhân đức cũng là điều cấp thiết. Bởi vì: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả đều bị chặt đi và quăng vào lửa”(x. Mt 3,10; Lc 3,9).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rõ rằng: biết sám hối là một lựa chọn khôn ngoan. Biết đổi mới đời sống theo thánh ý Chúa là người có phúc. Amen.
74. Đừng đoán xét người khác, hãy tự xét chính mình--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao có người cho rằng những người bị giết hay bị chết trong bài Tin Mừng là những kẻ tội lỗi? Đức Giêsu có quan niệm như thế không? Ngài có đồng ý với việc xét đoán người khác kiểu đó không? Lập trường Ngài thế nào?
2. Áp dụng dụ ngôn cây vả vào đời sống người Kitô hữu hôm nay, thì hoa trái mà Thiên Chúa mong muốn nơi chúng ta là gì? Là việc tham dự những nghi thức tôn giáo cho đầy đủ, hay là tình thương phải có đối với nhau?
Suy tư gợi ý:
1. Đừng xét lỗi kẻ khác, hãy xét lỗi chính mình
Thời Đức Giêsu, dân Do Thái bị đế quốc Rôma đô hộ. Nhiều người nổi dậy chống lại chính quyền Rôma và đã bị giết. Một số nhà giải kinh cho rằng những người bị Philatô giết ở đây cũng vì lý do ấy. Mặc dù không ủng hộ chính quyền Rôma, người Pharisêu phản đối việc dùng vũ lực chống lại chính quyền. Vì thế, theo quan điểm của họ, những người bị giết này là đáng tội chết. Còn nhóm Dêlốt, một đảng chính trị chuyên khủng bố người Rôma, chủ trương bất hợp tác với chính quyền đế quốc. Vì thế, khi thấy 18 người Do Thái đào đường dẫn nước thuê cho người Rôma và bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, họ cũng kết án những nạn nhân này là đáng tội chết.
Thấy họ thích xét đoán và kết án người khác như vậy, Đức Giêsu lên tiếng phản đối. Theo Ngài, khi ta kết án người khác, thì chính ta lại là kẻ đáng bị kết án hơn cả: «Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán» (Mt 7,1; x. Lc 6,37). Ngài muốn đừng ai xét đoán ai, mà mỗi người hãy tự xét về lầm lỗi của chính mình, đồng thời sám hối và sửa đổi mình trước đã. Vì thói đời thường «thấy cái rác trong mắt người khác, còn cái xà trong mắt mình thì lại không thấy» (Mt 7,3). Vả lại, mỗi người một hoàn cảnh, mình không phải là Thiên Chúa nên không thể biết rõ hoàn cảnh phạm lỗi của người khác để có thể kết án họ. Càng kết án người khác, ta càng bị Thiên Chúa kết án: «Anh em xét đoán (người khác) thế nào, Thiên Chúa cũng sẽ xét đoán anh em như vậy. Anh em đong (cho người khác) bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ dùng chính đấu ấy để đong lại cho anh em» (Mt 7,2). Vậy, ta đừng dại gì mà xét đoán người khác?
Khi người ta dẫn một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến để tố cáo với Đức Giêsu, thì thái độ của Ngài là không kết án chị ta, mà mời gọi mọi người hãy xét tội lỗi của bản thân mình trước đã: «Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá ném trước đi!» (Ga 8,7). Khi được mời gọi xét lại chính mình, những kẻ tố cáo người phụ nữ ngoại tình ấy đã từ từ «bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi» (Ga 8,9). Tại sao vậy? Vì họ vẫn còn liêm sỉ để nhận ra chính mình cũng chẳng phải vô tội! Nếu ta có thái độ «tiên trách kỷ, hậu trách nhân», hay «tiên xét kỷ, hậu xét nhân», thì ta sẽ không bao giờ dám kết tội ai. Vì khi xét mình, ta sẽ luôn luôn nhận ra mình cũng có lỗi. Do đó, kẻ hay kết án người khác chỉ tự chứng tỏ rằng mình rất ít khi xét lỗi của mình. Vì một khi đã xét lỗi mình thì ta sẽ không dám kết án ai.
Rất nhiều lần khi thấy con cái mình phạm một lỗi nặng, tôi muốn nổi trận lôi đình với chúng, dự định la mắng chúng một trận nên thân. Nhưng khi bỗng nhận ra mình ngày xưa cũng phạm những lỗi y hệt chúng ngày nay, thì tôi hết giận ngay. Và tôi chỉ trách mắng chúng một cách nhẹ nhàng; nhờ vậy, việc giáo dục chúng có kết quả hơn. Nhiều lần ra đường bị một ai đó chạy ẩu làm tôi bị té hoặc bị thương, tôi giận muốn điên lên. Nhưng khi nhận ra chính mình cũng đã từng làm cho người khác khốn khổ y như vậy, tôi bèn mỉm cười và cơn giận lập tức tiêu tan.
2. Hãy tự xét lỗi mình và cải thiện theo đúng đường lối Chúa
Ta chỉ có trách nhiệm xét lỗi của ta, chứ không có trách nhiệm xét lỗi người khác: «Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn anh là ai mà dám xét đoán người thân cận?» (Gc 4,12). Nếu thấy mình có lỗi thì ta phải sám hối và tự sửa chữa, nếu không, e rằng ta sẽ bị Thiên Chúa trừng phạt: «Nếu các ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ chết hết y như vậy».
Rất nhiều người cảm thấy mình vô tội, không cần sám hối, vì thấy rằng mình chẳng bao giờ làm điều ác cho ai. Mình vẫn được mọi người cho là ngoan đạo: vẫn đi lễ, rước lễ hàng ngày, xưng tội hàng tháng, vẫn đóng góp vào nhà thờ… Nhưng tới ngày phán xét, rất có thể họ sẽ bật ngửa khi nghe Chúa nói: «Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác» (Mt 7,23). Lúc ấy họ sẽ phân bua: «Lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?» (Mt 7,22). Chúa sẽ nói lại: «Quân bị nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống…» (Mt 25,41-44).
Quả thật, rất nhiều Kitô hữu không biết được cốt tuỷ của tinh thần Kitô giáo nằm ở đâu. Họ tưởng nằm ở trong các nghi thức tôn giáo, trong việc lễ lạy, rước sách. Nhưng Đức Giêsu đã nói thật rõ ràng: «Ta muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế» (Mt 9,13; 12,7), và «điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng thành thật» (Mt 23,23) chứ không phải mấy chuyện «nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng» cho đền thờ, thậm chí cả việc dâng lễ vật lên Thiên Chúa nữa. Thật vậy, thánh Phaolô nói: «Những lễ vật và hy lễ dâng tiến Thiên Chúa không thể làm cho lương tâm người cử hành việc phụng tự trở nên hoàn thiện» (Dt 9,9). Điều làm cho con người nên hoàn thiện và nên giống Thiên Chúa là tình thương, vì tình thương chính là bản chất của Thiên Chúa (x. 1Ga 4,8.16).
Nhiều người không hiểu cốt tuỷ của tinh thần Kitô giáo nằm ở đâu, nên họ hay lên án những ai không giữ những luật lệ giống như họ. Họ hành xử không khác gì những người Pharisêu xưa lên án Đức Giêsu và các tông đồ: nào là vi phạm ngày sabát (chữa bệnh, bứt bông lúa mì…), nào là không giữ luật lệ tiền nhân (ăn không rửa tay, nhậu nhẹt với phường tội lỗi…). Nhưng Đức Giêsu trả lời họ: «Nếu các ông hiểu được ý nghĩa của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô tội» (Mt 12,7). Trước mặt Đức Giêsu, những người Pharisêu này mới chính là kẻ có tội. Nhưng tiếc thay cho họ: tội mình thì không thấy, mà lại thấy tội của những kẻ vô tội! Thời nay, nhiều Kitô hữu trách cứ những người khác là khô khan, nguội lạnh chỉ vì những người này không sốt sắng giữ đạo theo kiểu của họ, đang khi những người bị trách cứ này lại giữ luật yêu thương của Đức Giêsu gấp nhiều lần họ. Thiết tưởng câu của thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay đáng cho họ suy nghĩ: «Ai tưởng mình đang đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã» (1Cr 10,12). 3. Thiên Chúa kiên nhẫn chờ con người hối cải
Điều Thiên Chúa mong đợi nơi con người là sự hối cải. Hối cải là quay trở về với Ngài: quan niệm giống như Ngài, nói và hành động theo gương Ngài. Theo quan niệm của Ngài, yêu thương là điều quan trọng nhất, cốt yếu nhất, nền tảng nhất. Nhưng rất nhiều Kitô hữu lại quan niệm khác với Ngài, họ coi chuyện yêu thương là thứ yếu, mà coi những nghi thức tôn giáo mới là quan trọng. Họ đã đi vào đúng vết xe đã đổ của các kinh sư, của giới lãnh đạo Do Thái giáo xưa.
Đức Giêsu đến trần gian đã 2000 năm nay để chỉnh đốn lại quan niệm sai lầm xưa. Nhưng cho đến hôm nay, biết bao kẻ mang danh theo Đức Giêsu vẫn coi thường việc chỉnh đốn đó, vẫn tiếp tục đi theo con đường Ngài đã đả phá từ thời đó. Ngài thì đặt nặng quan hệ yêu thương giữa con người với con người, còn họ vẫn tiếp tục coi trọng những nghi thức tôn giáo hơn quan hệ đó. Ngài nói: «Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình» (Mt 5,23-24). Hãy xem Ngài quan trọng hoá quan hệ yêu thương giữa con người với con người hơn các nghi thức tế tự như thế nào! Nhưng rất nhiều Kitô hữu, kể cả những người có trách nhiệm dạy dỗ Kitô hữu, đã quan trọng hoá theo chiều ngược hẳn lại với Ngài!
Thiết tưởng dụ ngôn cây vả không ra trái trong bài Tin Mừng là một lời cảnh tỉnh cho tất cả mọi Kitô hữu ngày nay. Thiên Chúa đang chờ đợi thêm một thời gian nữa trước khi ra tay trừng phạt chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta sinh hoa kết trái yêu thương, nhưng cho đến nay, phải nói rằng người Kitô hữu chúng ta đã sống với nhau thiếu tình thương một cách trầm trọng. Chúng ta không ý thức được tình trạng nguy hiểm đang chờ chúng ta: «Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa» (Mt 3,10; Lc 3,9). Các Kitô hữu quan niệm không đúng một phần khá quan trọng là do những người có trách nhiệm giáo dục họ đã không chỉ dạy họ cho đúng, hoặc đã không nhấn mạnh đủ điều nào là điều Đức Giêsu đã nhấn mạnh trên tất cả những điều khác.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Đức Giêsu kêu gọi sám hối, nếu không sẽ bị trừng phạt tất cả. Nhưng chúng con phải sám hối điều gì đây? Chúng con phải thay đổi điều gì trước tiên? Hoa trái mà Cha mong mỏi nơi chúng con là gì? Đọc kỹ Tin Mừng, chúng con thấy hoa trái mà Cha mong đợi nơi chúng con chính là tình thương. Nhưng chúng con lại quan trọng hoá chuyện khác. Chúng con lại đi đúng vào vết xe đã đổ của người Pharisêu xưa, là quan trọng hoá các nghi thức tôn giáo mà coi thường luật yêu thương của Cha. Xin giúp chúng con sửa đổi lại quan niệm cho đúng.
75. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Người Hồi giáo thường kể rằng: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời.
Sứ thần đáp ngay xuống một chiến trường máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy.
Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều qúi giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giầu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc lóc vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm và mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn”.
Lại một lần nữa, sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường Ngài bỗng thấy một người đàn ông đang khóc sướt mướt. Trước câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người đàn ông giải thích: “Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”.
Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật, dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối. Bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu”. (D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 304)
Câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc thống hối. Không có gì tốt đẹp bằng lòng thống hối. Thống hối có sức canh tân cuộc đời. Thống hối là điều kiện để được tha tội khi lãnh nhận Bí tích Giao Hoà. Vì vậy, chúng ta thấy thống hối là chủ đề xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh. Thời cựu ước, các ngôn sứ luôn kêu gọi dân chúng thống hối. Đáp lại lời mời gọi đó, rất nhiều cá nhân cũng như tập thể đã thống hối từ bỏ tội lỗi của mình. Trổi vượt hơn cả là gương thống hối của vua Đavít; sự thống hối của dân thành Ninivê. Thánh Gioan Tẩy Giả không những rao giảng về sự thống hối, mà còn làm phép rửa thống hối và dân chúng đã tuôn đến với Ngài rất đông. Khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã kêu mời sự thống hối: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”(Mc 1,15).
Con người cần phải thống hối vì bản tính con người là bất toàn, tội lỗi. Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận có lần đã nói: « Vị thánh nào cũng có một quá khứ, và người tội lỗi nào cũng có một tương lai. Quá khứ là dĩ vãng yếu đuối. Tương lai là ngày mai tốt hơn, thánh thiện. Nhưng sự khác biệt giữa thánh nhân và người tội lỗi chính là sự sám hối, lòng ăn năn”.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy, sau khi kể cho dân chúng và các môn đệ nghe hai câu chuyện tai nạn xảy ra: Câu chuyện thứ nhất về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh; câu chuyện thứ hai về việc mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết. Chúa Giêsu nói rõ ràng rằng: "Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế”(Lc 13,2). Rồi Ngài kết luận: "Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy"(Lc 13,5).
Như vậy, điều quan trọng mà Chúa Giêsu mong muốn chúng ta thực hiện chính là phải có lòng thống hối. Nếu chúng ta không có lòng thống hối thì cũng sẽ bị tiêu diệt như những người trong hai câu chuyện trên đây. Thống hối về những tội nào? Chúng ta phải thống hối về các tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và cả những tội thiếu sót. Trong Kinh thú nhận chúng ta thường đọc: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”. Thông thường, chúng ta chỉ xét mình và xưng những tội trong tư tưởng, lời nói và việc làm, ít khi chúng ta xét mình và xưng các tội thiếu sót. Thiếu sót về bổn phận: Bổn phận đối với Chúa, đối với Giáo hội, đối với tha nhân. Thiếu sót vì không làm điều tốt khi có thể làm được. Thánh Giacôbê đã nói: “Kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội”(Gc 4,17).
Chúng ta không vi phạm luật, không làm điều xấu vẫn chưa đủ mà còn cần phải làm điều tốt. Bổn phận của cây vả là sinh trái tốt. Bổn phận của kitô hữu là sinh hoa trái việc lành. Cây vả không sinh trái sẽ bị chặt đi. Người kitô hữu không sinh hoa trái việc lành cũng sẽ chung số phận như vậy.
Trong dụ ngôn người Phú hộ và ông Lazarô cho chúng ta thấy: Nhà Phú hộ bị phạt trong Hoả ngục không phải vì giàu có, nhưng vì có cơ hội làm việc lành mà không làm. Đó cũng là lý do mà Chúa Giêsu nói với những người bên tả của Ngài trong ngày phán xét:”Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng”(Mt 25, 42-43).
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta có tinh thần thống hối. Thống hối về tội lỗi trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Thống hối về những tội thiếu sót. Đồng thời, xin Chúa cho chúng ta luôn tránh xa tội lỗi và cố gắng “sinh hoa trái” là những việc lành phúc đức. Amen.
76. Sám hối vì chưa làm điều tốt--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tin mừng Chúa nhật hôm nay kể hai sự kiện:
Sự kiện vụ án Philatô giết người vô tội, Chúa Giêsu không ủng hộ những người quá khích trong cuộc đấu tranh của họ chống lại Roma. Sứ điệp của Người luôn rõ ràng và rất tập trung: “Thời giờ đã hoàn tất, nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy ăn năm sám hối và tin vào Phúc Âm” (Mc 1,15). Chúa Giêsu cảnh tỉnh: nếu các ngươi không sám hối thì cũng bị chết như vậy (Lc 13,3.5).
Sự kiện tháp Silôa đổ xuống đè chết mười tám người ở Giêrusalem. Cũng như trong trình thuật người mù bẩm sinh (x. 9, 2–3), Chúa Giêsu giải thích: “không phải vì anh ta,không phải vì cha mẹ anh ta đã phạm tội, mà anh ta sinh ra đã bị mù loà”. Người khẳng định nơi đây rằng, không ai trong bọn họ là nạn nhân của trừng phạt. Thiên Chúa không tìm trừng phạt mà là nâng dậy. Tuy nhiên, mỗi người chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
Người đời thường nghĩ rằng: những kẻ bị tật nguyền, những ai bị tai hoạ là bởi tội của họ hoặc do tiền nhân để lại. Họ đã đau khổ lại càng đau khổ hơn bởi quan niệm sai lầm này. Trong thực tế mọi người phải chấp nhận giới hạn của mình và hậu quả do mình gây nên hay vì sự liên đới nào đó do người khác mang lại. Chẳng hạn, hai tai nạn Chúa Giêsu đưa ra trong trong đoạn Tin mừng đều có nguyên nhân của nó. Philatô cần có tiền để xây dựng hệ thống dẫn nước đem lại lợi ích cho toàn dân. Vì thiếu tiền nên đã vào đền thờ quyên góp. Nhóm cực hữu cho hành động này là xúc phạm sự thánh nên trang bị khí giới để chống đối và bảo vệ đền thờ. Thấy thế, Philatô ra lệnh giết chết họ trong đền thờ. Hành động của họ dù với mục đích tốt nhưng lại thiếu khôn ngoan nên họ đã bị thiệt mạng. Vụ án mạng tháp Silôa sập đè chết 18 người vì lý do thiếu kỷ thuật trong việc xây cất. Cũng như vụ việc đau lòng, Nhà thờ giáo họ Ngọc Lâm thuộc giáo xứ Thái Nguyên, Giáo phận Bắc Ninh, đang xây bị sập mái nên có 3 người tử nạn, 48 người bị thương vào sáng ngày 17/01/2013; đang thi công, mái nhà thờ bất ngờ bị đổ sập vào lúc 9g50. Theo cha xứ Fx Nguyễn Đức Đại và một số bà con giáo dân đang cùng làm việc, nguyên nhân công trình bị sập là do trời mưa, ở phần gác đàn, nước đọng và chảy xuống chân một số cột dàn giáo khu vực đó làm xói đất nên sập dàn kéo theo toàn bộ phần mái bị sập.
Những tai hoạ đều có nguyên nhân của nó, hoặc là do mình, hoặc là do người khác. Những người Do thái nghĩ là do có tội nên Thiên Chúa phạt họ, còn mình vô tội thì được bình yên. Điều này đưa đến sự an toàn giả tạo. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân nên cần phải sám hối ăn năn. Rồi Chúa kể dụ ngôn “cây vả” nhấn mạnh đến tính cấp bách của sám hối. Người Do thái được ví như cây vả lâu ngày không sinh trái, nên chủ vườn là Thiên Chúa định chặt đi, nhưng người làm vườn là Chúa Giêsu xin khất một hạn kỳ, nếu sau đó nó vẫn không sinh hoa trái thì sẽ bị chặt bỏ. Cây vả được gia hạn là hình ảnh người Do thái, nếu các ông không chịu sám hối, thì chính các ông cũng sẽ chết y như những người Galilê bị Philatô giết, hoặc như những người bị tháp Silôac đè chết. Hiện thời các ông còn đứng đó chưa chết, là các ông đang ở trong tư thế cây vả được gia hạn. Nếu cây vả vẫn không sinh trái, nó sẽ bị chặt đi. Nếu các ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ bị huỷ diệt. Chúa Giêsu mời gọi họ trở lại với lương tâm để tự vấn.
Thái độ quyết liệt của Chúa Giêsu biểu lộ một tình yêu Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Cây vả không cho trái độc, không làm hại cây khác, không phá cảnh quang. Nó chỉ có tội làm hại đất, sử dụng đất màu mỡ mà không cho trái.
Nhiều người cũng cảm thấy an toàn như cây vả. Tự hào vì mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai. Thế nhưng họ lại quên rằng, mình đã phạm tội không làm điều tốt, những điều tốt có thể làm được và phải làm. Nhiều người thường tự hỏi: tại sao người tốt cần phải hối cải? Tôi là người thường đọc kinh dự lễ rước lễ, không làm điều xấu hại ai, tại sao tôi phải ăn năn sám hối?
Sống đạo không phải chỉ lo tránh tội, mà còn là gieo trồng cái tốt, cái thiện.
Có câu chuyện kể của ông chủ tiệm đồ cổ. Vào một đêm đông, trời đã khuya, bão tuyết rơi lạnh lẽo, gió thổi mạnh rít từng cơn. Bỗng dưng có tiếng gõ cửa. Ông chủ cảm thấy khó chịu vì bị quấy rầy giữa đên khuya. Khi cánh cửa vừa mở, một người thanh niên dáng bụi đời đang run rẫy với một bàn tay xoè ra van xin, một bàn tay đỡ cây gậy trên vai treo ít đồ đạc cá nhân. Thấy hoàn cảnh đáng thương, ông chủ đưa tay với lấy ít bánh mì, vài đồng bạc lẽ trao cho hành khách. Nhận được của bố thí, người thanh niên quay gót trở đi không nói lời cám ơn giã từ. Khi đó chợt một ý tưởng đến trong đầu ông chủ nhà là nên mời người đó vào nghĩ đỡ một đêm, nhà vẫn còn phòng khách trống, còn chăn nệm ấm êm. Tuy nhiên ông lại nghĩ nếu để cho người này ở lại thì căn nhà sạch sẽ của mình sẽ bị ẩm ướt, bị dơ bẩn. Thế rồi ông vội vàng đóng kín cửa. Hai ngày sau, có người thợ đem đến một cây gậy làm bằng gỗ quý. Khi đã thương lượng giá cả, người bán gậy cho biết, anh ta là người thợ chuyên đào mộ ở nghĩa trang. Anh vừa chôn một người thanh niên mới chết, người thanh niên này vô gia cư, không tiền bạc, không người thân. Tài sản anh ta chỉ là cây gậy, người thanh niên chết vì bị lạnh cóng, máu đông lại khi ngũ trên tuyết. Nghe đến đây, ông chủ tiệm cảm thấy hối hận và xấu hổ. Ông hối hận không phải vì đã làm điều xấu mà vì điều tốt ông có thể làm cho người thanh niên nhưng ông đã không làm khiến cho anh phải chết rét.Ông chủ tiệm kết thúc câu chuyện với nổi thao thức: điều tôi ao ước là những sự dữ chúng ta làm, có lẽ Thiên Chúa sẽ tha thứ. Nhưng những gì tốt chúng ta đã không làm, sẽ mãi mãi không được tha thứ.
Mục đích cây vả là sinh trái. Người chủ vườn thất vọng không phải là cây vả sinh trái xấu, trái độc, trái chua mà là cây vả không sinh trái tốt. Cứ để thêm một năm chăm bón vun xới may ra cây vả sinh hoa trái.
Cần phải sám hối hoán cải. Sám hối không chỉ là lời nhắc nhở xa tránh sự dữ nhưng còn là lời mời gọi làm việc lành, sinh hoa trái tốt. Sám hối liên hệ ràng buộc mọi người. Ai cũng phải làm lành lánh dữ. Lánh dữ, không làm điều xấu chưa đủ, từ bỏ tội lỗi chưa đủ nhưng còn phải tích cực thực hành những điều tốt lành nữa.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn được yên thân, an phận, không muốn làm phiền ai và cũng không muốn ai gây phiền hà cho mình. Vì thế một người ngoan đạo có thể bị rơi vào tình trạng tự mãn, sống ích kỷ mà không hay biết.
Dụ ngôn cây vả còn cho thấy sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. "Đã ba năm nay...". Ngài đã nuôi bao hy vọng: "Tôi ra tìm trái mà không thấy". Quyết định chặt cây chỉ đến sau những lần hụt hẫng. Ngài chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay động tim ta. Chúa Giêsu là người làm vườn kiên nhẫn không kém: "Xin ông cứ để nó lại năm nay nữa". Ngài không ngừng ấp ủ chút hy vọng mong manh:"Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái". Nhưng đừng quên lời đe dọa cuối cùng: "Nếu không ông chủ cứ chặt nó đi". Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng cương quyết đòi hỏi, đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Chúa Giêsu vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải, vừa chấp nhận cho chúng ta có thời gian trì hoãn để sám hối canh tân.
Mùa chay là mùa ân sủng. Người chủ vườn nhẫn nại và quảng đại cho cây vả thêm một năm nữa để hy vọng nó có thể sinh hoa trái. Mỗi Mùa Chay,Thiên Chúa cho chúng ta thêm cơ hội để đổi mới con người, làm nhiều việc lành bác ái phúc đức. Mùa Chay là thời gian thuận tiện để mỗi người kiểm điểm về cây vả đời mình.Thêm một cơ hội, thêm một kỳ hạn nữa. Điều quan trọng là mỗi người đã làm gì với cơ hội và với kỳ hạn đó?
Lạy Chúa, xin cho con biết dùng ơn Chúa để nên thánh thiện, sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn. Ước gì cây đời của con có nhiều trái ngon ngọt hơn. Amen.
77. Chúa mời gọi ăn năn hối cải--Lm. Nguyễn Hưng Lợi
Càng đi gần tuần thánh, phụng vụ càng hối thúc con người ăn năn sám hối tội lỗi để lãnh nhận sự tha thứ của Chúa. Phụng vụ Chúa nhật thứ III mùa chay kêu gọi con người quay về với Chúa với lòng thống hối thật tình để đón nhận lòng thương của Chúa Giêsu.
BIẾN CỐ 18 NGƯỜI CHẾT, CHÚA DÙNG ĐỂ ĐÁNH THỨC CON NGƯỜI:
Thánh Luca trong trích đoạn Tin mừng đọc Chúa nhật 3 Mùa Chay, năm C đã kể lại rằng:” Lúc ấy có mấy người đến thuật lại cho Chúa Giêsu về việc tổng trấn Philatô giết một số người ở Galilêa”. Chúa Giêsu trả lời với họ ngay:” Các ngươi tưởng những người bị giết là những người tội lỗi hơn những người ở Galilêa hay sao? Không đâu, nếu các ngươi không hối cải các ngươi cũng bị giết như những người ở Galilêa”. Chúa Giêsu còn đưa vụ 18 người bị tháp Siloe đè chết. Việc này làm xôn xao dư luận dân chúng ở Giêrusalem. Tuy nhiên, Chúa Giêsu nói ngay: có chắc rằng 18 người bị tháp đè là những người tội lỗi hơn những người ở Giêrusalem không?
Trong thời Chúa Giêsu và ngay trong thời đại chúng ta đang sống, chúng ta dễ cắt nghĩa những biến cố, những vụ việc, những sự kiện theo cảm nghĩ chúng ta, những lối giải thích thiếu bác ái, thiếu lòng thương xót đối với người khác hoặc chúng ta cho đó là Trời phạt, Trời có mắt, còn sự việc nào có liên quan tới ta, ta cắt nghĩa nhẹ đi, hay ém nhẹm cả đi. Qua những phản ứng của chính Chúa Giêsu khi dân chúng thuật lại vụ việc Philatô giết một số người ở Galilêa và 18 người bị tháp Siloe đè chết. Chúng ta có thể thấy nơi Chúa Giêsu một số quan niệm sống. Đối với Ngài không có chuyện những người bị tai hoạ là những người tội lỗi hơn những người khác. Mọi người đều là tội nhân trước mặt Thiên Chúa và con người tất cả đều phải hối cải, ăn năn, trở về với Thiên Chúa. Để giải thích cho con người hiểu hơn về tấm lòng của Thiên Chúa chờ đợi con người hối cải, không thể chần chờ, ù lì mãi trong tội lỗi, Chúa Giêsu đã đưa ra ví dụ cây vả. "Cây vả đã ba năm không có trái, ông chủ muốn chặt, nhưng người làm vườn đến xin ông chủ khoan nhượng cho thêm một năm nữa để anh cuốc xới, bón phân, tưới nước, xem thế nào không chừng nó sẽ sinh quả, bằng không sẽ chặt nó đi “. Ông chủ luôn tỏ ra kiên nhẫn đợi chờ.
CHÚA MỜI GỌI CON NGƯỜI HOÁN CẢI, ĂN NĂN:
Mọi Kitô hữu đều giống như cây ăn quả Thiên Chúa trồng: con người từ nhỏ đã được lãnh nhận bí tích rửa tội, làm con Thiên Chúa và làm con của Giáo Hội, Chúa đã vun xới, chăm con người qua những lời giáo huấn, Kinh Thánh, Phụng vụ, con người đã lãnh nhận biết bao ơn huệ Thiên Chúa trao ban, được Chúa Thánh Thần luôn thúc đẩy, hướng dẫn…Do đó, con người đừng để cho mình trở thành những cây vả không sinh hoa trái như cây vả trong dụ ngôn hôm nay. Chúa đã trao cho con người tuỳ khả năng: người một nén, người hai nén, người ba, bốn nén và người năm nén. Tất cả phải làm lợi ra cho Chúa tuỳ khả năng của mình. Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi con người miễn là con người biết hối cải, ăn năn và quay trở về với Thiên Chúa. Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi tội nhân thống hối để lãnh nhận lòng thương xót của Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa thật lạ lùng kỳ diệu. Không những Thiên Chúa không bắt tội con người mà còn sai chính Con Một của Ngài đến trần gian để yêu thương, tha thứ và hoán cải tội lỗi con người không ngừng. Mùa chay là mùa thuận tiện nhất để con người ăn năn, hối cải, trở về với Chúa để xin Ngài tha thứ cho. Mùa chay cũng giúp con người đổi mới suy nghĩ, thái độ và cử chỉ đối với người khác. Sự hoán cải của con người là cử chỉ tốt đẹp để con người đáp trả lại lòng Chúa thương yêu, muốn cứu vớt con người.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết dùng thời giờ Chúa ban để sám hối, ăn năn và trở về với Thiên Chúa hầu lãnh nhận ơn cứu rỗi của Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Tại sao con người phải ăn năn sám hối?
2. Con người thường nghĩ gì khi người khác bị tai hoạ?
3. Tại sao Chúa lại kiên nhẫn với con người?
78. Chúa yêu thương kẻ tội lỗi--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Người ta thường hay bình luận và thầm thì kết án người khác khi họ gặp tai họa nào đó trong cuộc đời.Thời Chúa Giêsu cũng vậy những người Do Thái hay lên án, kết án người khác khị họ gặp tai nạn, thử thách, hiểm họa trong cuộc đời.Chẳng hạn, Chúa nhật III Mùa chay hôm nay, hai tai nạn: một Philatô tàn sát mấy người Galilê và việc tháp Siloe đổ, đè chết 18 người. Người Do Thái liền cho rằng những người này có tội, nên bị Chúa phạt. Người khác bình yên vô sự lại cho rằng họ vô tội, nên Chúa thương không giáng phạt vv...Còn đối với Chúa Giêsu thì sao?
Đối với Chúa Giêsu, Ngài có suy nghĩ, có cái nhìn hoàn toàn khác so với những người Do Thái. Bởi vì, Chúa Giêsu có cái nhìn hoàn toàn xót thương. Chúa không coi những nạn nhân qua hai vụ việc có tội hơn những người đồng hương. Qua hai sự cố đáng thương này, Chúa nhấn mạnh mọi người đều là tội nhân, mọi người đều là kẻ đáng bị phán xét và nhận án phạt của Chúa, nên tất cả đều phải ăn năn sám hối, quay về với Thiên Chúa để tránh hình phạt của Thiên Chúa. Quả thực, Chúa Giêsu đã làm đảo lộn tất cả. Ngài không dựa trên những sự việc, những sự cố con người gặp phải ở trần gian này để kết án, lên án người khác. Ngài luôn động viên, khuyến khích và thúc bách mọi người phải thống hối, hoán cải để Chúa thương không giáng phạt và thi ân giáng phúc. Do đó, Chúa Giêsu đã nói lên tính cấp bách phải ăn năn trở lại như trong dụ ngôn cây vả: Thiên Chúa là người trồng cây, Đức Giêsu là người làm vườn, dân Israen là cây vả không sinh hoa trái. Đọc Kinh Thánh chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa đã chọn dân Israen làm dân riêng của Ngài. Chính vì thế, Ngài đã ban cho họ muôn vàn hồng ân cao quí, nhưng dân lại bất trung với Ngài, không trung thành với Lề Luật của Ngài và không thờ phượng một mình Thiên Chúa.Nói một cách khác họ không sinh hoa kết trái tươi tốt.
Đức Giêsu Kitô đã khẩn thiết xin Thiên Chúa Cha cho họ một thời gian, một cơ hội để họ có thế hoán cải tốt, nhưng cuối cùng họ vẫn chứng nào tật nấy, không ăn năn, không hối cải, không sửa đổi. Nên, Thiên Chúa đã loại bỏ họ và điều này đã được minh chứng khi thành thánh Giêrusalem bị tàn phá không còn hòn đá nào trên hòn đá nào.
Thực tế, Thiên Chúa đã yêu thương và luôn muốn dân Israen biết điều, biết sám hối, ăn năn tuân theo Lề Luật và trung thành với mình Thiên Chúa như giới luật thứ nhất:" Ngươi chỉ thờ lạy và tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất ". Thiên Chúa đã cho Israen rất nhiều cơ hội để làm lại cuộc đời, nhưng họ vẫn nhắm mắt làm ngơ...Thiên Chúa cũng chọn lựa chúng ta làm con của Ngài và luôn yêu thương săn sóc, gìn giữ chúng ta. Thiên Chúa luôn mong đợi và ước muốn chúng ta sinh hoa kết trái tươi tốt. Tuy nhiên, nếu chúng ta lỡ lầm sa ngã phạm tội, Thiên Chúa luôn cho chúng ta những cơ hội, những dịp thuận lợi để chúng ta biết quay về, biết ăn năn hối cải để tiếp tục sinh hoa kết trái đến nỗi có chùm được 30, có chùm được 60 và có chùm được 100.
Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta hãy sống theo Lời của Ngài và có lòng quảng đại, đặc biệt biết quan tâm đến dân nghèo, đến những người cơ nhỡ, neo đơn, những con người thấp cổ bé họng vv...Ngài mời chúng ta phải sinh hoa kết trái, nghĩa là làm cho cuộc sống đẹp hơn, tốt hơn, phong phú hơn, con người và xã hội thăng tiến, nhân đạo hơn.
Mùa chay không chỉ đưa chúng ta trở về quá khứ để than khóc tội lỗi, khiếm khuyết bất toàn của mình, nhưng Mùa chay nhằm dẫn đưa chúng ta đến cuộc sống mới, cuộc sống tràn đầy ân sủng của. Mùa chay phải là mùa đổi mới con người, đổi mới cuộc đời, mùa hoa tình thương, mùa thực hành việc lành phúc đức vv...
Chúng ta dựa vào lời của P. Benoit Gschwind để kết thúc bài suy niệm này: "...Nếu phải có kiên trì và thời gian để cây ra trái, thì để đạt tới sự thánh thiện, có lẽ còn cần kiên trì và thời gian nhiều hơn.Như người trồng nho chăm sóc cây vả, thì chính Thiên Chúa chăm sóc chúng ta để chúng ta có thể lớn lên.Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Người tha thứ cho chúng ta, nâng chúng ta dậy và an ủi chúng ta. Không bao giờ Người hết hy vọng vào chúng ta. Nhưng chúng ta có muốn đáp trả tình yêu Chúa, bằng cuộc đời chúng ta không? Thời gian chạy theo tiến trình của nó. Phục Sinh đang nẩy mầm trong sa mạc. Hôm nay, thời đã đến để khẩn cấp nghe tiếng gọi hoán cải và quan tâm kiên trì với chính mình, như Thiên Chúa kiên trì với mỗi người chúng ta".
79. Đâu là họa, đâu là tội?--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT
Chúa có cái nhìn của Chúa, con người có cái nhìn của con người. Vì thế, trước một sự cố đem lại tai họa và chết chóc cho con người, Chúa Giêsu không luận bàn hay bình luận theo góc độ, theo quan niệm của người Do Thái thời đó. Hai mẫu chuyện, hai mẩu thời sự nóng lúc đó là quan tổng trấn Philatô tàn sát mấy người Galilêa nổi loạn, ngay chính trong đền thờ và máu của họ hòa lẫn với vật tế sinh và việc tháp Siloê đổ xuống đè bẹp 18 nạn nhân. Người Do Thái kể lại cho Chúa Giêsu với dụng ý xin Chúa vạch rõ ai là người có tội. Chúa Giêsu không nghĩ ai là người có tội hay những người bị nạn là tội lỗi hơn những người đồng hương của người Do Thái. Người muốn nhấn mạnh rằng ai cũng là tội nhân, ai cũng có tội, ai cũng đáng chịu án phạt của Người, do đó, cần phải ăn năn sám hối, để tránh hình phạt của Thiên Chúa.
Quan niệm xưa cũng như nay, vẫn cho rằng họa đâu thì tội đó. Và khi nói đến tội, người ta thường nghĩ tới tội của người khác hơn là tội của chính mình. Và khi không đổ tội cho kẻ khác được, họ lại đổ cho Thiên Chúa:" Tại sao Chúa lại để cho bị thế này, thế nọ?". Trong Tin Mừng Lc 13, 1-9, dân chúng qui lỗi cho những nạn nhân và những người có liên quan:" Tội của chúng nó hay của cha ông chúng nó".Chúa Giêsu nhân cơ hội này nói với họ và qua họ, nói với tất cả nhân loại:" Nếu chúng ta không ăn năn sám hối thì chúng ta cũng sẽ chết tất cả". Vâng, con người thường có quan niệm đổ lỗi cho người khác. Ai cũng tưởng mình là đạo đức, thánh thiện. Ai cũng tự kiêu cho mình là hơn người khác. Người ta làm lỗi chứ tôi không phạm tội. Thái độ này là thái độ tự mãn của" người Pharisiêu " trong đền thờ cầu nguyện. Trong ta phải chăng cũng có con người tự mãn hay người Pharisiêu tự mãn? Thái độ kiêu ngạo là thái độ bị Chúa khinh chê và lên án. Quan niệm của con người vẫn thường cho những người bị nạn, bị thử thách, bị đau ốm là những người có tội. Họ cho rằng hoạ đâu, tội đó.
Thiên Chúa đã chọn lựa dân tộc Israen làm dân riêng và ban cho họ nhiều ân huệ đặc biệt. Chúng ta thấy rõ lập trường của Chúa trong dụ ngôn cây vả. Thiên Chúa là người trồng cây, Chúa Giêsu là người làm vườn, dân Israen là cây vả không sinh trái. Dân Israen luôn bất trung với Thiên Chúa, họ không sinh hoa kết trái, không trung thành với lề luật, không sống chính trực, và không thờ phượng một mình Thiên Chúa. Chúa đã cho họ một cơ hội mới để họ ăn năn sám hối, đổi mới cuộc đời với những lời giảng dậy của Chúa Giêsu và các phép lạ Người làm. Tuy nhiên, dân Do Thái vẫn ngoan cố, vẫn cố chấp. Chính vì thế, họ đã bị Thiên Chúa loại trừ bằng biến cố Giêrusalem bị tàn phá bình địa vào năm 70 sau Công Nguyên.
Do đó, sám hối là điều cấp bách mọi người phải làm. Đây là tất cả Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng vì Nước Trời đã gần đến".
Thiên Chúa cũng kêu mời chúng ta và tuyển lựa chúng ta làm con của Người qua Bí Tích Thanh Tẩy. Người yêu thương chúng ta, chăm sóc chúng ta qua bàn tay yêu thương của Người, và Người chờ mong chúng ta sinh hoa kết quả tươi tốt. Vì thế, nếu chúng ta chưa thực hiện được những ước mơ của Người, thì Người cũng cho chúng ta một cơ hội, một dịp thuận tiện để chúng ta cải hoá tự tân, đổi mới cuộc đời hầu chúng ta có thể sinh hoa kết trái tươi tốt. Thánh Phaolô hôm nay cũng nhắc nhở mọi người: "Ai tưởng mình đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã".
Mùa chay là cơ hội tốt và vận may cho chúng ta trở về với Chúa, chúng ta hãy vận dụng tốt nhất cơ hội này để sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. Amen.
80. Hoa trái thiêng liêng--Lm Trần Bình Trọng
Thường khi đọc thánh kinh, ta có khuynh hướng chọn những lời êm ái dịu dàng, những lời có sức làm dịu mát tâm hồn và làm phấn khởi tâm can. Tuy nhiên Chúa cũng dùng những lời khắt khe để cảnh giác dân Người. Trong Phúc âm hôm nay Chúa cảnh tỉnh dân chúng là: Nếu các ông không ăn năn sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy (Lc 13: 3). Chúa Giêsu muốn nói đến những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết không phải vì họ tội lỗi hơn những người Galilê khác, hay mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, không phải vì họ tội nặng hơn những người khác trong thành Giêrusalem. Còn Thánh Phao-lô nhắc nhở cho tín hữu Cô-rin-tô: Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã (1Cr 10:12). Thánh Phao-lô xác nhận rằng Chúa ban nhiều đặc ân cho dân được chọn trong cuộc giải thoát khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Trong sa mạc, Người đã nuôi dưỡng họ cách kỳ diệu. Họ biết rằng họ là dòng dõi được lựa chọn. Tuy nhiên trong sa mạc, họ đã xúc phạm đến Chúa. Họ rơi vào cái tình trạng tự mãn. Họ nghĩ rằng tất cả mọi sự trong đời sống họ đều tốt đẹp, và họ nghĩ rằng Chúa sẽ săn sóc họ, bất kể việc họ làm. Họ cho rằng họ trổi vượt hơn các dân tộc khác. Từ những cảm nghĩ kiêu căng tự phụ đó, họ đánh mất ơn nghĩa với Chúa, vì phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc (1Cr 10:5).
Nhờ bí tích rửa tội, ta cũng được giải thoát khỏi cuộc lưu đầy trong tội lỗi và trở thành dân tộc mới được chọn. Do đó ta cũng có thể có thái độ tự mãn. Thực ra thì Chúa nhẫn nại chờ đợi ta. Chúa ban cho ta nhiều cơ hội để sửa đổi cuộc sống. Chúa ban cho ta thời giờ để cắt tỉa, vun xới và tưới bón, khả dĩ có thể mang lại hoa trái thiêng liêng trong đời sống. Và đó là ý nghĩa về dụ ngôn cây vả trong phúc âm hôm nay. Chúa kêu gọi ta phải sinh hoa kết quả thiêng liêng. Nhưng làm sao ta có thể sinh hoa trái trong miền đất khô chồi cằn cỗi của tâm hồn. Để có thể sinh hoa kết quả trong đời sống, ta phải cắt tỉa, phải vun xới và tưới bón. Vậy thề nào là cắt tỉa trong đời sống thiêng liêng? Ta phải cắt bỏ tội lỗi và nết xấu, và còn cắt bỏ dịp tội. Rồi ta phải vun xới cho đời sống thiêng liêng bằng việc dự lễ, đọc kinh, cầu nguyện, ăn chay hãm mình và làm việc từ thiện bác ái. Ta còn phải tưới bón cho tâm hồn bằng của ăn thiêng liêng là lời Chúa và Mình thánh Chúa.
Giáo hội dùng mùa chay như là phương thế để giúp ta ăn năn sám hối và trở về với Chúa. Thường ta dễ thấy lỗi lầm của người khác, nhưng lại khó chấp nhận những lầm lỗi của mình. Khi có xích mích với người khác, ta luôn cho mình là phải và đúng. Khi nói về tội, ta cũng thường chỉ nghĩ về tội trong hành động, mà không mấy khi nghĩ về tội trong tư tưởng. Chúa phán: Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu (Mk 7:22). Tâm lý học cũng xác định là hành động là do tư tưởng mà ra. Nếu ta cho rằng ta vô tội và đạo đức, thì đâu là những hoa quả thiêng liêng trong đời sống? Có phải mỗi tuần ta đến nhà thờ lẩm bẩm vài câu kinh một cách máy móc theo thói quen hình thức? Hay là ta đã sống tâm tình cầu nguyện, hướng lòng về Chúa và kết hợp với Chúa. Đâu là gương sáng của ta cho con cái? Đâu là những gương hi sinh, vị tha, bác ái? Thiết tưởng hôm nay và trong mùa chay này, ta cần tự xét và kiểm điểm xem đâu là hoa quả của đời sống thiêng liêng?
81. Chú giải của Fiches Dominicales
HÃY HOÁN CẢI VÀ ĐI THEO CON ĐƯỜNG TỰ DO
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Hoán cải là khẩn cấp.
Sau cuộc hiển dung trên núi, Đức Giêsu quả quyết lên đường đi Giêrusalem, nơi sẽ diễn ra cuộc "xuất hành", cuộc "ra đi" của Người. Người khuyên đám đông hãy biết phân định những dấu chỉ của Nước Trời và hãy đón nhận Tin Mừng đừng chậm trễ.
Một sự kiện được các thính giả trình lên: Philatô tàn sát mấy người xứ Galilê tại Đền thờ các sử gia xác nhận ông đã dùng những cực hình tàn bạo - và lấy máu của họ hoà vào máu các lễ vật của họ. Phải chăng họ là "những người tội lỗi hơn những người Galilê khác?”.
Thay vì trả lời trực tiếp vào câu hỏi, Đức Giêsu dẫn sang một sự kiện khác đã diễn ra tại Giêrusalem: tháp Siloê đổ đè chết 18 người. người kết luận bằng cách nhắc lại lời cảnh báo nghiêm trọng: “Ta bảo cho các ngươi biết: nếu các ngươi không hoán cải, các ngươi cũng sẽ chết như họ".
Đứng trước những bất hạnh của người khác, ta tự nhiên tìm xem đâu là lỗi lầm của nạn nhân. Họ đã chết như thế, có lẽ đó là hình phạt do tội lỗi của họ. Và ta tự cho mình là công chính vì ta đã không bị nạn.
Đức Giêsu khuyên họ đừng nên tìm giải thích những cái chết tức tưởi tốt hơn hãy năng nhận biết mình tội lỗi và mau mắn hối cải.
H. Cousin chú giải: "Hai kiểu chết khốc liệt nói trên phải là lời cảnh báo cho những ai không mau mắn thay đổi đời sống, lượng xét lại ý kiến và những hoài vọng lầm lạc của họ. Cũng như từ đầu đã nói, hai thảm kịch kia diễn ra không có nghĩa là các nạn nhân đã phạm phải một tội nặng nề nào, thì việc không gặp hoạn nạn cũng không phải là dấu chỉ về sự vô tội của những “người sống sót". Mọi người đều là tội nhân là cần hoán cải trước khi bị Thiên Chúa phán xét. Trước khi gặp tai nạn, khi cuộc đời xem ra tươi sáng, đã cần phải sám hối và đón nhận Lời cứu độ của Thiên Chúa do Đức Giêsu loan báo. Để sau, e rằng quá muộn." (Tin Mừng theo thánh Luca", Ccnturion, trg 91).
2.... Và sinh hoa kết quả như Chúa mong muốn.
Tiếp liền theo sau là dụ ngôn cây vả không trái. Dụ ngôn này làm dịu lại những lời lẽ nghiêm khắc của Đức Giêsu.
Người thợ làm vườn mà dụ ngôn trình bày cho ta luôn hy vọng rằng cây vả của ông, dù vẫn chưa ra trái, sẽ có ngày sinh hoa kết quả. Ông thuyết phục người chủ vườn hãy hoãn lại quyết định đốn cái cây ăn hại đất một cách vô ích ấy; và ông đã nhận được một án treo: " Xin hãy để nó sống thêm năm nay nữa... Biết đâu nó sẽ ra trái? nếu không, lúc ấy ông hãy đốn nó đi".
Thiên Chúa là như thế. Tha thiết mong người ta hoán cải đừng chậm trễ và hãy đem tình yêu đáp lại tình yêu đi bước trước của Người. Thiên Chúa của Đức Giêsu nhẫn nại vô biên đối với người tội lỗi. Người chấp thuận cho họ một sự trì hoãn ân huệ. Người không tuyệt vọng vì bất kỳ ai. Ta vẫn thường hát rằng: " Với Chúa chẳng có ai là quá xa,... Với Chúa chẳng có gì hư mất... Vì Chúa chẳng có gì chấm dứt " (phiếu L.82, chẳng có đứa con hoang đàng nào mà không được tha thứ").
H. Cousin kết luận: "Nếu giờ phán vét chưa đến ngay, đó là vì Thiên Chúa ban cho ta một ân huệ sau cùng để ta hoán cải chứ không phải là Người đã chấp thuận các hành vi của ta… cây vả không trái chưa bị nhổ ngay là do lòng nhân hậu khôn tả, tuy nhiên nó vẫn còn bị đe doạ phải chết nếu năm sau vẫn không ra trái... Lời khiển trách cây vả vì không ra trái - là lời cảnh báo cho thính giả của Đức Giêsu: họ không được trì hoãn việc chính yếu đến ngày mai là phải quyết định sinh hoa kết quả cho Chúa ngay" (Sđd, trg 192).
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một tình yêu vừa nhẫn nại vừa đòi hỏi
(F. Deleclos trong hãy cầm lấy Lời Chúa mà ăn", Centurion-Duculot, trg 196).
Không báo, không đài, chẳng có ti vi, mà biến cố vẫn nhanh chóng loan truyền khắp xứ sở. Lợi dụng lúc dân tụ tập trong đền thờ, bộ hạ của Philatô đã vét được một mẻ lưới vừa gọn ghẽ vừa dễ dàng, rồi họ mau chóng biến thành một cuộc thảm sát. Nạn nhân là những ai? Những người Galilê vốn có tiếng là có tinh thần dân tộc mạnh mẽ và bị chính quyền thống trị Rôma coi như những hạt nhân cách mạng. Nhưng họ đã làm gì xúc phạm đến Thiên Chúa đến nỗi phải chịu một tai hoạ như thế?
Câu hỏi gây lúng túng, nhưng đó là câu hỏi cần đặt ra cho vị tiên tri mới mà giáo lý mới lạ của Người đã lôi cuốn biết bao đám đông. Mỗi người đều có câu trả lời sẵn phù hợp với truyền thống xưa cũ. Thiên Chúa chúc lành và thưởng công những người công chính. Vì Người trừng phạt kẻ tội lỗi. Thành công là giàu sang là những dấu chỉ rõ ràng của sự ưu ái của Thiên Chúa. Thất bại vì nghèo khổ đúng là phần thưởng cho những kẻ tội lỗi.
Đức Giêsu đã trả lời cho những kẻ đến hỏi người: Còn anh em, anh em nghĩ rằng anh em là thánh, là những người được Chúa Quan phòng sủng ái vì anh em không bị nạn ư? Tất cả anh em đều đáng bị kết án vì có tội. Đừng lừa dối mình về ý nghĩa của các biến cố và nội dung của các dấu chỉ'? Thiên Chúa không phải là một "ông chủ " khắc nghiệt và nóng vội trừng phạt tức khắc là từ chối khoan giãn. Hình phạt và phần thưởng, sẽ có, nhưng không phải theo cái lối mau chóng tức thời ấy.
Đừng gán ghép bất hạnh với tội lỗi, thành công với Chúa quan phòng. Những kẻ thoát nạn không phải là những người được khen thưởng, cũng không phải là những người khốn khổ vì có tội. Chẳng có ai vô tội. Tất cả mọi người đều được mời gọi hoán cải và sinh hoa kết quả. Đó mới là chính vấn đề.
Thiên Chúa là người thợ làm vườn nho đã bài bác lý lẽ của người chủ vườn và đã đề nghị một khoan giãn ân huệ mới cho cây vả. Thật là một Thiên Chúa nhẫn nại.
Nhẫn nại nhưng lại rất đòi hỏi, phối kết hài hoà sức mạnh và sự dịu dàng, công lý và xót thương, tình yêu con người và cương quyết chống lại điều ác.
2. Tính chất nghiêm trọng của những chọn lựa của ta
(“Cử hành", Tạp chí của Trung tâm quốc gia về Mục vụ Phụng vụ số 17. trg 18).
"Nếu các ngươi không hoán cải, tất cả các ngươi sẽ phải chết”. Ta những muốn xoá đi những câu Tin Mừng như thế. Nhưng làm sao thoát khỏi lời loan báo về cuộc "phán xét ": những chọn lựa của ta tự nó mang một yếu tố quyết định, đó là vấn đề sinh tử "Sa ngã.. bị loại trừ... chết").
Tin Mừng giúp ta ý thức về tính chất nghiêm trọng của những lựa chọn và do đó của tự do của ta.
Chọn được sống tức là trở nên hình ảnh của Thiên Chúa trong cuộc Xuất hành, Đấng tự xưng: "Ta là". Chọn sự sống hơn là những lối sống dẫn đến sự chết, là bước theo Đức Giêsu trên con đường Phục sinh. Hoán cải là chọn sự sống. Nhưng chẳng phải một lần mà xong. Đó là một hành trình kiên trì với Đức Kitô, có Thánh Thể nuôi dưỡng.
3. Ngày mai sẽ là quá trễ.
(Mgr. Daloz, trong Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” DDB, trg 1 09).
Đoạn văn ta đang đọc khai mở cho các môn đệ và cho đám đông vây quanh Đức Giêsu ý nghĩa của thời gian hiện tại: Đây là thời khẩn cấp phải hoán cải. Luca luôn nhấn mạnh đến tính chất cấp thiết này: một thời gian trì hoãn đã ban cho ta, đừng để nó trôi qua mất. Đây là lúc ta phải phân định những dấu hiệu tiên báo về một tương lai gần đến, vì ta có thể đoán được ngày mai thời tiết ra sao: " Thời gian hiện tại, làm sao ngươi không nhận biết? ". Đó là sắp xếp trước khi ra hầu toà, lúc ta còn có thể thay đổi đời sống trước khi chịu số phận như những người Galilê mà Philatô đã tàn sát.
Đây là năm trì hoãn mà người làm vườn ban cho cây vả, để nó mang lại những hoa trái mà ông chủ đang mong chờ... đừng trì hoãn việc hoán cải đến ngày mai. Thời giờ ngắn ngủi lắm, đây là lần gia hạn cuối cùng. Ngày mai sẽ là quá trễ. Ta có cơ may được nghe những lời cảnh báo này. Ngày hôm nay là một ngày hồng ân của Thiên Chúa, ta không được bỏ lỡ. Đức Giêsu mời gọi ta hãy phân định: ta qui hướng về một tương lai mà ta có thể linh cảm thấy. Tin là bước đi trong đêm tối, nhưng đức tin hướng ánh mắt ta về một thế giới tương lai là hé lộ cho ta thấy tính cách khẩn cấp của việc hoán cải.
82. Chú giải của Noel Quesson
Có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng.
Đức Giêsu không sống trong một thời đại yên tĩnh về mặt chính trị. Những sự đụng độ thời bấy giờ còn đẫm máu hơn ngày nay: Biến cố mà người ta vừa loan báo cho Đức Giêsu, là sự kiện thường xảy ra. Có lẽ đó là một cuộc biểu tình của nhóm quá khích đang cố ngoi lên một phong trào nổi dậy để cứu dân, chống lại chính quyền Rôma đang chiếm đóng. Giữa lúc đang cử hành phụng vụ, đang dâng lễ vật cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, họ đã bị cảnh sát của tổng trấn Philatô tàn sát. Ta có thể thấy thái độ phán quyết lập tức của mọi người Do Thái chân thành, đối với việc đàn áp đẫm máu này.
Người ta kể lại sự kiện này cho Đức Giêsu để xem Người có một lập trường, một thái độ như thế nào? Người sẽ lên án Philatô hay cảnh sát của ông này chăng? Người sẽ lên án những kẻ khuấy động vô trách nhiệm, đưa đám đông dân chúng vào những cuộc phiêu lưu không lối thoát chăng? Một lần nữa, chúng ta nhận thấy Đức Giêsu khước từ bày tỏ lập trường về mặt chính trị, về lãnh vực trần gian. Ngài sẽ thản nhiên bình luận biến cố này trong tôn giáo tránh né bày tỏ thái độ đối với trách vụ Philatô, hay đối với các nạn nhân, Ngài chỉ nói về tội lỗi và thái độ hối cải. Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống những biến cố xảy đến cho chúng con, với mức độ suy tư và tinh thần đức tin cao nhất.
Đức Giêsu đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.
Đức Giêsu đang cố phá đổ một thành kiến. Ngài đưa cuộc bàn cãi lên cao. Tâm lý thông thường cho rằng, những thử thách xảy đến cho một người, là như một sự trừng phạt cho kẻ đó. Ngày nay cách xét đoán như thế vẫn còn ở trong tâm trí chúng ta, thí dụ khi ta nói: "Thật là bất công, anh ấy đâu đáng phải chết trẻ như thế" hay là "chúng ta đã làm gì phật lòng Chúa, để Người gởi đến cho chúng ta một thử thách như thế này?".
Đối với Đức Giêsu, không có sự liên lạc nào giữa tai hoạ và tội lỗi. "Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc Thiên Chúa được bảy tỏ hiện nơi anh". Chính Đức Giêsu sẽ dễ dàng để ta tự gán cho mình một lương tâm tốt hay tự đặt mình vào số những người công chính. Chúng ta thường nghĩ rằng hoàn toàn chịu trách nhiệm: hoặc chính quyền, hoặc thể chế, hay xã hội!
Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.
Họ đã đến để đưa vụ Philatô và các nạn nhân ra xét xử. Nhưng bây giờ chính họ lại bị tố giác. "Các ông tưởng rằng, những người Galilê tội lỗi hơn các ông sao? Vấn đề là không phải bàn về "những người khác". Đức Giêsu đưa họ trở lại với lương tâm của họ. "Các ông phải sám hối. Các ông dễ dàng lên án sự hung bạo của Philatô. Nhưng hãy nhìn xem, chính các ông lại không góp phần vào sự hung bạo đó sao? Cùng với Đức Giêsu, chúng ta phải dám nói lên điều đó, vì lịch sử không ngớt chứng minh: Thay đổi cơ cấu xã hội không đủ. (Vì hỡi ôi! bất công và bạo lực vẫn tồn tại trong mọi chế độ) nhưng chính là tấm lòng con người cần phải thay đổi, phải hoán cải, để cho cơ cấu xã hội được cải thiện.
Vâng, lạy Chúa, con biết điều đó trong đáy lòng con. Con không có quyền lực trên mọi hành động hung bạo đang đè nặng trên một xứ sở xa xôi nào, cũng không có quyền gì trên những trào lưu đang ảnh hưởng môi trường xã hội, trường học, nghề nghiệp và Giáo hội của chúng con. Nơi duy nhất mà con có thực quyền, đó là sự hướng dẫn công cuộc "hoán cải”, của chính con.
Lạy Chúa, xin giúp con đừng trốn tránh trách nhiệm của mình, bằng cách tố giác kẻ khác.
Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.
Chính Đức Giêsu nhân cơ hội này, đã nhắc lại một sứ mệnh khác. Trong một vùng ngoại ô thủ đô, một toà nhà đã đổ xuống đè chết nhiều gia đình. Ngày nay, trước một tai nạn như thế người ta củng cố tìm ra thủ phạm: những kiến trúc sư bất tài, chỉ lo tới lợi nhuận, mà không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn... Hay những người bất cẩn đã trở thành nạn nhân đã bị "trừng phạt" bởi một định mệnh vô danh nào đó, nếu không phải chính Chúa là Đấng chịu trách nhiệm: “Nếu có một Thiên Chúa, thì đâu có xảy ra tai hoạ như thế".
Đức Giêsu trở lại vấn đề này như một điệp khúc: Không, đau khổ không phải do Thiên Chúa gởi đến! Sự thử thách không phải là một sự trừng phạt. Sự dữ xảy đến cho ta thường chỉ là hậu quả tự nhiên của quy luật tạo vật: Hấp lực trái đất, sự dòn mỏng, những sai lầm không tránh được. Thay vì buộc tội Chúa, là "Nguyên nhân đệ nhất” như' các triết gia thường nói, chúng ta phải để ý đến những “nguyên nhân đệ nhị", mà chúng ta có toàn quyền trên chúng. Đức Giêsu đã chiến đấu chống sự dữ. Ngài yêu cầu chúng ta đến lượt mình cũng phải chiến đấu, nhưng trước tiên trong chính bản thân chúng ta.
Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.
Cũng như mọi ngôn sứ trong Kinh Thánh, Đức Giêsu trước tiên là một nhà giảng đạo, không phải là người dạy luân lý dưới hình thức những bài học xã hội. Kiểu nói của Đức Giêsu, mang tính ngăn đe đáng sợ: "Các ông sẽ chết hết, nếu các ông không thay đổi". Đức Giêsu chấp nhận tâm lý chung sao? (đau khổ là sự trừng phạt) mà Người vừa mới phủ nhận? Chắc không phải như vậy? Rõ ràng Đức Giêsu không nói về cái chết thể lý mà những người biểu tình bị tàn sát hay những nạn nhân do tháp đổ đã chết. Đức Gíêsu không không điên hay ngây ngô. Người quá biết người công chính cương: phải chết, Chính Người cũng phải lên thành Giêrusalem, để bị Philatô giết hại. Nhưng Đức Giêsu, khi có ý đặt mình trên một bình diện khác với bình diện con người: Bình diện chính trị, luân lý hay xã hội, Người muốn mạc khải một chân- lý tôn giáo. Người khẳng định có một cái chết khác, một sự hư mất đời đời, mà không ai nghĩ đến và Người không ngừng nhắc đến. "Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết hết": Không phải cái chết sinh lý mà các bạn nhận thấy hằng ngày chung quanh mình, mà là cái chết khác có tính nhiệm mầu do tội lỗi gây ra. Đức Giêsu không mời gọi chúng ta “khám phá": Thực sự chúng ta không có cách nào để kiểm chứng theo lý trí, với mức độ phân tách của con người, những điều Chúa nói. Đó thật là một "mạc khải", một vấn đề đức tin.
Đức Giêsu mạc khải cho ta biết mọi người đều có tội, và được ban cho cơ hội hoán cải.
Vâng, Đức Giêsu mời gọi mỗi người trở về với lương tâm của mình, Philatô chắc hẳn rồi? Nhưng cả những người Galilê nữa! Những thợ xây kém cỏi, hay các kiến trúc sư, và tất cả những người khác tưởng rằng mình đứng ngoài cuộc phán quyết. Còn tôi thì sao? Chắc hẳn tôi đang đặt tránh ra ngoài sự đe doạ mà Chúa đã nói, để tránh khỏi phải hoán cải...
Bao giờ thì chúng ta mới thức tỉnh ra khỏi tình trạng vô ý thức bi thảm của mình? Các nhà chú giải về Kinh Thánh nhấn mạnh về cách nói "triệt' để" của Luca "Các ông sẽ chết hết". Nhưng ta cũng cần lưu ý, kiểu nói mãnh liệt của Đức Giêsu luôn điều kiện. Nó mời gọi ta trở về với chính mình, với việc hoán cải bản thân. Thiên Chúa không lên án. Chính con người tự kết án mình phải chết đời đời: “Nếu các ông không ăn năn hối cải". Thái độ mãnh liệt của Đức Giêsu, đó là sự mãnh liệt của một tình yêu Thiên Chúa đầy xót thương, không thể chịu đựng để thấy con người đi đến chỗ hư mất. Chúa đau khổ khi thấy loài người phải chết! Chúng ta hãy nhớ rằng Đức Giêsu đang trao ban một sứ điệp tôn giáo, nghĩa là nói về Thiên Chúa. Điều này không có nghĩa là Người có thái độ trung lập trước những vấn đề nan giải của con người. Nhưng Người tự đặt mình trên một bình diện "mạc khải": Người tố giác sự dữ đích thực của con người là gì? Trong mọi trường hợp, Người đều nhắc chúng ta rằng, không thể có sự thoả hiệp giữa Thiên Chúa và tội lỗi: Nếu ta ở trong tội ác, đó là tự lên án mình phải nhận cái chết nặng hơn là cái chết do gươm đao của binh lính Philatô, hay do những tảng đá của Giêrusalem đổ xuống.
Lạy Chúa, chúng. con biết lắng nghe lời Chúa hay không? Chúng con có tin Chúa hay không? Lạy Chúa Giêsu, do Chúa Cha gởi đến để chúc lành và cứu rối mọi người, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết hoán cải trong Mùa Chay này.
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: `Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?
Chúng ta đang bàn về cùng một đề tài "Cuộc phán xét! Hành vi của con người không thể lãnh đạm, trung lập, không xấu không tốt. Chúng là "một quả". Quan điểm hiện đại cố làm cho chúng ta tin vào một sự xoá bỏ mọi mặc cảm tội lỗi: không có gì tội lỗi nữa, con người đâu có trách nhiệm gì trước Chúa, không còn kiêng kỵ, ngăn cấm, lỗi lầm gì cả... Bạn cứ làm bất cứ điều gì mình thích ". Trái lại, Đức Giêsu nói: "Hãy chặt cây vô sinh không cho trái đó đi!" Người không những lên án "trái thối" mà còn lên án cả tình trạng "không sinh trái".
Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”.
Người "làm vườn" đầy tình thương với "cây nho" của mình, đó chính là Đức Giêsu mà chúng ta yêu mến. Người đã đến không phải vì những nguội công chính, mà vì các tội nhân. Người đã kể tất cả những dụ ngôn về lòng thương xót, đặc biệt được ghi lại đầy dấy trong Tin Mừng Luca (Lc 15). Do đó, những lời đe doạ khi này chỉ có một mục đích thức tỉnh chúng ta. Thiên Chúa thương yêu những người tội lỗi. Ngài yêu tôi! Không thể đối nghịch lòng thương xót với thái độ đòi hỏi: Vì chính tình yêu luôn mang tính đòi hỏi. Ta không lên bỏ câu cuối này: "Nếu không ông sẽ chặt nó”. Mùa Chay thật là thời gian thuận tiện cho một đòi hỏi triệt để nào đó của Tin Mừng.
83. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚA MỜI GỌI ĂN NĂN HỐI CẢI,
DỤ NGÔN CÂY VẢ KHÔNG SINH HOA TRÁI
1. Chỉ có Luca ghi lại việc người ta báo tin cho Chúa Giêsu biết vụ Philatô giết một số người Galilea. Thật là phù hợp với những điều chúng ta biết về lịch sử Do thái thời ấy. Những niềm hy vọng thiên sai kích thích tâm trí, gây ra những cuộc nổi loạn chống lại đế quốc La mã và trong dân Do thái, người Galilê được xem như là nhóm người thích đấu tranh nhất. Philâtô, khi đó là tổng trấn đại diện chính quyền La mã đã thẳng tay đàn áp mọi âm mưu phản loạn. Ông không sợ gây đổ máu đám dân mà ông hằng khinh bỉ (x. F. Josèph, Antiquités juives, XVLLL 3,2,4,1).
Những người Galilê nói ở đây là những người đến Giêrusalem dâng lễ tế, chắc họ đã gây ra một vài hỗn loạn trong khuôn viên đền thờ, do đó đội binh La mã ở trong đồn Antonia đã ra tay can thiệp và tàn sát tại chỗ những người dính líu đến vụ phản loạn đó.
Khi hay tin, Chúa Giêsu hỏi: “Các ngươi tưởng những người Galile ấy là hạng tội lỗi hơn mọi người Galile khác vì đã phải khốn như thế này sao? Thật ra, đây là một định kiến chung cho rằng những ai gặp phải một tai ương nặng nề là đáng tội hơn những người thoát khỏi (như ý các bạn của Giop, Giop 4,7; x. Ga 9,2-3). Theo Chúa Giêsu quan niệm về sự quan phòng như thế là sai lầm. Tai ương, ôn dịch, chiến tranh, đói kém, động đất không nhất thiết giáng trên những người Galile bị Philatô tàn sát, Chúa Giêsu quả quyết họ không phải là những người có tội hơn những người Galile khác. Thay vì an tâm nghĩ rằng những người đáng tội nhất đã làm thoả mãn phép công bình của Thiên Chúa, toàn dân hãy lo mà sám hối: “Vì nếu các ngươi không hối cải, các ngươi hết thảy cũng sẽ bị tiêu diệt như thế”. Quốc gia Do thái bị đe doạ tiêu diệt, nếu không lo hối cải.
Vậy Chúa Giêsu là sáng tỏ biến cố mà người ta vừa mới thuật lại cho Ngài bằng lời loan báo về ý nghĩa của thời gian mà Ngài đã khai mạc lúc bắt đầu khai giảng. Ngài không chối từ mối tương quan giữa tội lỗi và hình phạt, nhưng chỉ phủ nhận điều này là: biến cố mới xảy ra chứng tỏ người Galile bị tàn sát xấu xa hơn đồng hương của họ. Mọi người đều là tội nhân, mọi người đều chịu phán xét của Thiên Chúa và chịu án phạt của Ngài. Vì vậy mọi người phải lo ăn năn sám hối, nếu muốn thoát khỏi cơn thịnh nộ và án phạt của ngày chung thẩm.
2. Và Chúa Giêsu xác nhận lời cảnh cáo nghiêm trọng của Ngài bằng một ví dụ khác. Trong khi các nạn nhân thảm cảnh trước là người Galile, bây giờ nạn nhân là những người ở Giêrusalem. Tháp Silôê nằm trên bờ kinh đào và bể nước Silôê ở phía tây nam Giêrusalem. Khi sập xuống, tháp đó đè chết 18 người. Có phải họ là những người có tội hơn những người khác cư ngụ ở Giêrusalem không? Thật là một câu hỏi vô ích làm quên mất vấn đề chính yếu: là mọi người dẫn Israel có bổn phận sám hối để quốc gia tránh khỏi những hình phạt đang đe doạ.
Chúa Giêsu đưa ra một lối giải thích có tính cách tôn giáo chứ không có tính cách triết học, chính trị hay thể lý về các biến cố. Thiên Chúa nói với chúng ta qua những biến cố lịch sử. Chúa Giêsu thâm tín rằng thời sau hết đã bắt đầu và Ngài phán đoán thời gian hiện tại trong viễn tượng ấy. Điều xảy ra trong thời gian này chỉ là một nhắc nhở đến thời sau hết. Các tai ương xảy ra trong lãnh vực chính trị hay thiên nhiên đều là những dấu chỉ cho những tai ương của ngày sau hết. Ngày cánh chung buộc mọi người phải có thái độ, phải ăn năn sám hối. Tất cả mọi tai biến xảy ra trong thời gian có mục đích làm cho chúng ta suy nghĩ, có mục đích loan báo cho chúng ta biết cần phải quay về với Thiên Chúa. Nếu con người không nghe là vì họ cứng lòng: “còn những người khác, những kẻ không bị giết trong tai hoạ ấy, vẫn không hối cải bỏ các việc tay họ đã làm: vẫn thôi không thờ lạy ma quỉ và thần tượng, vàng, bạc, đá, gỗ, những đồ vô phương nhìn thấy, ngóng nghe, đi đứng. Họ không hối cải bỏ tội sát nhân, phù phép, dâm bôn, trộm cắp của họ (Kh 9,20-21).
Ở vài nơi trong Cựu Ước, cây vả tượng trưng cho Israel (x. Ge 1,7) và trong Gierêmia 8,3 cây vả tượng trưng một Israel không sinh hoa trái. Từ hình ảnh Cựu Ước này, có thể kết luận cách chắc chắn rằng cây vả trong dụ ngôn của câu 6-9 cũng tượng trưng dân được chọn. Cũng như trong các đoạn Cựu Ước mới trích dẫn trên, chủ nhân của cây vả là Giavê. Vậy Giâvê cũng được trình bày trong dụ ngôn qua hình ảnh chủ nhân cây vả. Từ hai nét ẩn dụ được chứng thực cách chắc chắn này, người ta có thể rút ra từ văn mạch một nét ẩn dụ thứ ba: Chúa Giêsu được tượng trưng qua những người làm vườn nho can thiệp xin cho cây vả yêu quí được gia hạn ân xá sau cùng. Ẩn dụ chỉ có từng ấy. Còn những chi tiết khác của dụ ngôn phải được giải thích như những kiểu so sánh đơn sơ, không phải từng nét một, nhưng cách nói chung: vườn nho trong đó người ta trồng cây vả, thời gian ba năm chờ đợi, việc phân bón, những săn sóc này nọ cho cây vả đau yếu.
Việc phân tích vắn tắt những yếu tố ẩn dụ này của dụ ngôn giúp ta nắm được bài học Chúa Giêsu muốn dạy trong văn mạch của đoạn này. Thiên Chúa chờ đợi nơi dân Ngài những hoa quả của lòng thống hối. Họ phải khẩn trương lợi dụng những lời mời gọi ăn năn sám hối sau cùng mà Chúa Giêsu, Đấng trung gian giàu lòng thương xót gởi đến cho họ. Lát nữa thì sẽ quá muộn, và dân Israel sẽ chịu số phận như cây vả không sinh hoa trái.
Dụ ngôn trực tiếp nhắm đến dân do thái. Nhưng cũng có thể áp dụng cho các tội nhân bỏ qua những dịp ăn năn sám hối và khất lần việc hoán cải. Xét theo khía cạnh này, dụ ngôn thật là một bài học luôn luôn thích thời.
KẾT LUẬN
Tất cả những gì xảy ra vào thời Chúa Giêsu đã được minh giải nhờ biến cố cứu rỗi hiện thân trong Chúa Giêsu, dù đó là những sự kiện chính trị, những tai biến lịch sử hay những hành động của chính Chúa Giêsu. Đó là thời sau cùng. Đó là lời Thiên Chúa mời gọi ta có một quyết định dứt khoát: ăn năn sám hối trở về. Cũng như Gioan tẩy giả, Chúa Giêsu tuyên bố rằng cần phải ăn năn sám hối không được trì hoãn với bất cứ giá nào, phải sinh hoa kết quả trong việc thay đổi lối sống và trong hành động. Nhưng Chúa Giêsu còn vượt quá Gioan tẩy giả. Ngài biết ngày phán xét sắp đến và việc tiêu huỷ đền thờ Giêrusalem không thể tránh khỏi, tuy nhiên Ngài đã bào chữa cho dân Ngài. Ngài hiến dâng tình yêu, hy lễ, chính cả mạng sống cho Israel để dân này được cứu rỗi.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Trong thời Chúa Giêsu cũng như thời chúng ta, chúng ta dễ bị cám dỗ giải thích các biến cố cách thiếu bác ái đối với người khác. Biết bao lần người ta đã nghe những lối giải thích bộc phát như sau: Trời phạt nó. Đó là án phạt của Chúa, hoặc chúng ta dẽ lạm dụng kiểu nói “trời có mắt” để biện minh cho chướng tính của chúng ta, để tạo cho mình mối quan tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác. Nhưng chúng ta cũng dễ có cám dỗ ngược lại và gán ép cho Chúa những biến cố bất lợi xảy đến cho chúng ta: Trời bỏ tôi. Chúa làm ngơ giả điếc. Ngài trả thù mà... Đôi khi những biến cố đó chỉ là do những nguyên nhân thiên nhiên mù quáng (thời tiết, bệnh truyền nhiễm, tai biến tự nhiên...) Cần phải hết sức thận trọng khi giải thích những gì xảy đến cho ta. Một biến cố có thể được giải thích bằng ngàn cách khác nhau, tuỳ theo tính khí tự nhiên (lạc quan hay bi quan), tuỳ trạng thái tâm hồn lúc ấy (nặng nề hay phấn khởi), tuỳ những phán đoán giá trị của môi trường sống, tuỳ nền giáo dục... Người khôn ngoan nhất là người - như Chúa Giêsu dạy - biết lợi dụng tất cả những gì xảy đến để hoán cải không ngừng, để tạ ơn Chúa khi gặp những biến cố may mắn, để xin cho tâm hồn vững mạnh và biết tùng phục ý Chúa khi gặp các biến cố xui xẻo. Như thế lời Kinh thánh sau đây sẽ nên trọn cho chúng ta: “Mọi sự đều góp phần sinh ích lợi cho những ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8,28)
2. Mọi tín hữu đều giống như cây ăn trái Thiên Chúa đã trồng. Từ thời thơ ấu, từ khi lãnh bí tích rửa tội, chúng ta đã không ngừng được chủ vườn trên trời săn sóc: được giáo dục theo Kitô giáo, được vô số ân sủng ban sức mạnh và ánh sáng trong các nhiệm tích, được sống thân mật với Thiên Chúa, được ân huệ tự nhiên đủ loại, được Chúa Thánh Thần luôn thúc đẩy, hướng dẫn... Và vì đó, phải coi chừng kẻo chúng ta trở thành những cây vả không sinh hoa trái như cây vả của dụ ngôn: những ân huệ của Thiên Chúa ở trong chúng ta cần phải sinh hoa quả là lòng yêu mến biết ơn Thiên Chúa, bác ái luôn luôn với tha nhân, trung thành với bổn phận đặc biệt mà Thiên Chúa đã giao phó, giản dị chúng ta cách dùng của cải Thiên Chúa ban, phát triển những năng khiếu tự nhiên, có lòng thẳng thắn và vui vẻ, phục vụ, trong sạch, khiêm tốn, phục thiện... Nếu cho đến lúc này chúng ta vẫn là những cây vả không sinh hoa trái thì cũng còn thì giờ để hoán cải và làm phát sinh kết quả với thời hạn mà Chúa còn dành cho chúng ta trước khi đưa chúng ta ra trình diện trước mặt Ngài. Nhưng những lời khuyến cáo của Chúa Giêsu thật cấp bách: chúng ta phải hoán cải ngay bây giờ chúng ta khi thời giờ còn kịp. Mùa chay là mùa thuận tiện nhất để thay đổi đời sống chúng ta, để trở về với Chúa và xin Ngài tha thứ cho. Nếu chúng ta biết lợi dụng thời gian này cách khôn ngoan thì Thiên Chúa sẽ yêu thương đón nhận chúng ta và sẽ khiến chúng ta hát lên được bài ca Alleluia bình an và vui mừng của mùa phục sinh.
84. Chú giải của William Barclay
ĐAU KHỔ VÀ TỘI LỖI (13,1-5)
Chúng ta được nghe nói đến tai hoạ. Trước hết là những người Galilê đã bị Philatô giết đang lúc họ dâng lễ vật. Như chúng ta biết, người Galilê rất dễ hưởng ứng những cuộc bạo động chính trị, bởi vì họ là dân dễ kích động. Lúc đó Philatô đang ở trong một cơn khủng hoảng nghiêm trọng. Ông đã có một quyết định rất tốt rằng Giêrusalem cần có một hệ thống nước mới và tân tiến hơn. Ông chủ trương xây cất hệ thống đó, và để đài thọ cho việc này, ông đề nghị dùng một số tiền của Đền Thờ. Đó là mục tiêu đáng khen và chi phí đó có lý do chính đáng. Nhưng chỉ tư tưởng sử dụng tiền của Đền Thờ như vậy cũng đủ khiến dân Do Thái cầm vũ khí chống lại. Khi dân chúng tụ tập lại thì Philatô cho lính của ông cải trang trà trộn giữa họ. Chúng được lệnh mang gậy thay vì gươm. Đến lúc được báo hiệu, chúng xông vào giữa dân chúng và phân tán họ. Việc đó đã diễn ra đúng nhưng vì bọn lính đã hành động rất hung dữ, đi quá lệnh trên, gây thiệt mạng cho một số thường dân. Điều gần như chắc chắn là người Galilê có tham gia trong cuộc nổi loạn này. Chúng ta biết rằng Philatô và Hêrôđê có tham gia trong cuộc nổi loạn này. Chúng ta biết rằng Philatô và Hêrôđê thù địch nhau, rất có thể chính vì vụ lộn xộn kể trên mà mối thù địch đó đã bắt ngòi. Họ chỉ hoà thuận với nhau khi Philatô gởi Chúa Giêsu đến cho Hêrôđê xét xử (Lc 23,6-12).
Còn về phần 18 người bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, cho đến nay, vẫn còn là một sự kiện bí mật. Bản King James cũng gọi họ là tội nhân, nhưng dịch là những kẻ mắc nợ thì đúng hơn. Chúng ta có chút tia sáng ở đây. Có người cho rằng họ đã lãnh việc xây ống dẫn nước cho Philatô, một công việc mà dân chúng ghét. Vì vậy, số tiền công họ lãnh đều là của Chúa và đáng lẽ họ phải tình nguyện trả lại vì tiền đó đã lấy trộm của Ngài. Khi tháp Silôác đổ xuống trên họ thì dân chúng cho rằng vì họ đã bằng lòng làm công việc đó.
Nhưng đoạn Kinh Thánh này còn đi xa hơn vấn đề lịch sử nữa. Người Do Thái đã nghiêm khắc kết buộc đau khổ và tội lỗi với nhau. Trước đó rất lâu, Êlipha đã nói với Gióp rằng: “Có ai vô tội mà bị tiêu diệt đâu?” (G 4,7). Đây là một giáo lý độc ác, cay nghiệt như Gióp đã biết rõ. Chúa Giêsu đã bác bỏ thuyết đó đối với một số trường hợp cá nhân. Như chúng ta biết rõ, thường những thánh nhân là những người chịu đau khổ nhiều nhất. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa và nói rằng nếu dân của Ngài không chịu hoán cải thì họ cũng sẽ bị tiêu diệt. Chúa Giêsu ngụ ý gì ở đây? Một điều thật rõ ràng –Chúa Giêsu thấy trước và nói trước về sự tàn phá thành Giêrusalem là việc xảy ra sau đó vào năm 70 SCN (Lc 19,21-13). Chúa Giêsu biết rõ nếu người Do Thái cứ tiếp tục âm mưu bạo động và có những tham vọng chính trị thì họ chỉ đưa quốc gia đến chỗ tai hại mà thôi. Ngài biết rõ cuối cùng quân Rôma sẽ đến và tiêu diệt quốc gia này, việc đã xảy ra đúng như vậy. Cho nên, Chúa Giêsu muốn cảnh cáo rằng, nếu họ cứ tiếp tục tìm kiếm một vương quốc trần gian và chối bỏ Nước Thiên Chúa thì họ chỉ đi vào chỗ chết mà thôi.
Đặt vấn đề như vậy thoạt nghe có vẻ đầy mâu thuẫn. Điều đó có nghĩa là chúng ta không thể nói rằng đau khổ cá nhân và tội lỗi tất yếu phải theo nhau, nhưng có thể nói rằng tội lỗi của quốc gia và đau khổ của quốc gia thì liên quan chặt chẽ với nhau. Quốc gia nào lựa chọn con đường xấu để đi thì cuối cùng sẽ phải đau khổ vì đó. Nhưng trong trường hợp cá nhân thì khác. Cá nhân không phải là một đơn vị lẻ loi, song được liên kết vào trong một khối của cuộc đời. Điều thường thấy là cá nhân có thể phản đối, và phản đối mãnh liệt đường lối mà quốc gia đang theo đuổi, nhưng khi hậu quả do đường lối đó đem lại xảy ra thì người ấy cũng không thể nào tránh thoát được. Cá nhân thường bị chìm lẫn trong hoàn cảnh mà mình đã không tạo nên, sự đau khổ của y không hẳn là tội lỗi của y, nhưng quốc gia là một đơn vị và tuỳ theo đường lối nó lựa chọn mà gặt lấy hậu quả. Quy đau khổ của một người cho tội lỗi của người đó thì bao giờ cũng là một ý kiến nguy hiểm, nhưng bảo rằng quốc gia nào chống lại Thiên Chúa sẽ bị diệt vong thì đó là phát biểu đúng đắn.
CƠ HỘI CUỐI CÙNG (13,6-9)
Đây là một dụ ngôn vừa chứa đầy ân sủng vừa mang nhiều cảnh báo đáng sợ.
Cây vả chiếm được một chỗ đất tốt hơn các cây khác. Ở xứ Palestine, người ta thường thấy cây vả, cây gai và cây táo trong những vườn nho. Đất mỏng và cằn cỗi đến nỗi bất kỳ ở đâu có đất, người ta cũng trồng cây. Thực tế là cây vả này được đặc ân hơn, nhưng nó lại không tỏ ra xứng đáng được đặc ân đó. Chúa Giêsu đã nhiều lần, trực tiếp hoặc gián tiếp nhắc nhở dân chúng rằng họ sẽ bị đoán xét tuỳ theo những cơ hội may mắn mà họ đã có. C.E.M. Joad đã nói về thế hệ của chúng ta “Chúng ta được ban cho nhiều sức lực, nhưng chúng ta đã sử dụng chúng như những học trò vô trách nhiệm”. Không hề có một thế hệ nào được uỷ thác quá nhiều như chúng ta, và vì thế chưa thể có một thế hệ nào mang nặng trách nhiệm trước mặt Chúa như vậy.
Rõ ràng là dụ ngôn dạy chúng ta một đời sống vô ích sẽ đưa tới thảm bại. Người ta chủ trương rằng tất cả cuộc tiến hoá trên thế giới này là nhằm sản sinh những gì có ích lợi, điều gì có ích sẽ cứ mạnh mẽ phát triển trên đường tiến hoá, trong khi những gì vô ích chắc chắn sẽ bị tiêu diệt. Câu hỏi khúc mắc nhất dành cho chúng ta là “Chúng ta sống trên thế gian này để làm gì?.
Hơn nữa, dụ ngôn này cũng dạy rằng những gì chỉ biết tiêu thụ thôi thì không thể tồn tại được. Cây vả kia cứ rút lấy dinh dưỡng của đất, không biết sản sinh gì cả. Đó chính là tội của nó. Xét cho cùng, có hai hàng người trên thế giới: những người “cầu” nhiều hơn “cung” và những người “cung” nhiều hơn “cầu”. Theo một phương diện, hết thảy chúng ta đều mắc nợ cuộc sống. Chúng ta hẳn đã không còn sống đến nay nếu không có sự chăm sóc của những người yêu thương chúng ta. Ta đã thừa hưởng một nền văn minh Kitô giáo và tự do mà không bởi công sức chúng ta tạo ra. Chúng ta có trách nhiệm phải làm cho mọi sự trở nên tốt hơn lúc chúng mới tiếp cận với ta. Ápraham Lincoln đã nói: “Tôi chết lúc nào cũng được, nhưng tôi muốn người ta nói về tôi rằng, tôi đã nhổ một cây cỏ và trồng một cây hoa ở nơi nào tôi nghĩ rằng cây hoa có thể mọc”. Có một cậu học trò được quan sát vi trùng dưới kính hiển vi. Cậu được thấy rõ một thế hệ những con vật li ti đó sinh ra, chết đi, thế hệ khác sinh ra… Trước đó, cậu chưa hề được thấy thế hệ này tiếp nối thế hệ khác như thế nào. Cậu nói: “Theo một điều tôi đã xem thấy, tôi tự hứa mình sẽ không bao giờ làm một vòng nối yếu đuối”. Nếu chúng ta cũng tự biết tự hứa như vậy thì ta sẽ làm trọn trách nhiệm, là đem vào đời sống ít ra cũng bằng phần chúng ta lấy đi.
Dụ ngôn này dạy chúng ta về Phúc Âm của cơ may thứ hai. Một cây vả thường ba năm mới ra trái, nếu lúc đó nó không ra trái, chắc không bao giờ ra trái nữa. Những cây vả này được ban cho một cơ may nữa. Chúa Giêsu bao giờ cũng ban cho người ta hết cơ may này đến cơ may khác. Phêrô, Máccô, Phaolô cũng rất hoan hỉ làm chứng về điều đó. Thiên Chúa vô cùng nhân từ với kẻ nào sa ngã và trỗi dậy.
Nhưng dụ ngôn này cũng quả quyết về việc có một cơ may cuối cùng. Nếu chúng ta từ chối hết cơ may này đến cơ may khác, nếu tiếng mời gọi khuyên nhủ của Chúa cứ trở đi trở lại với chúng ta một cách vô ích, thì đến một ngày, không phải Chúa đóng cửa lại, nhưng chính chúng ta tự ý đóng cửa lòng mình. Nguyện Chúa cứu chúng ta khỏi điều đó.
18/03 Dụ Ngôn Tá Điền Vườn Nho.
- Viết bởi Mt 21, 33-43. 45-46
Dụ Ngôn Tá Điền Vườn Nho.
Thứ Sáu tuần 2 Mùa Chay.
"Ðứa con thừa tự kia rồi, nào anh em, chúng ta hãy giết nó".
Lời Chúa:
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ôngMt 21, 33-43. 45-46 hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh; đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa.
Ðến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi. Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: "Ðứa con thừa tự kia rồi: Nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó". Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết. Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào?
Các ông trả lời: "Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi". Chúa Giêsu phán: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh sao:
"Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc; đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta?" Bởi vậy, Ta bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái".
Các Thượng tế và biệt phái nghe dụ ngôn đó, thì hiểu Người ám chỉ về mình. Họ liền tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì thiên hạ đều tôn Người là Tiên tri.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Sinh hoa lợi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong Mùa Chay, Giáo Hội cho chúng ta nghe dụ ngôn những tá điền.
Những tá điền này được chủ nhà cho canh tác vườn nho của mình,
để đến mùa hái nho họ giao lại cho ông hoa lợi.
Đây là một vườn nho được ông chủ quan tâm săn sóc.
Ông đã trồng, đã rào giậu, khoét bồn đạp nho và xây tháp canh.
Tiếc thay, khi ông chủ sai các đầy tớ đến để thu hoa lợi
các tá điền chẳng những không nộp, mà còn hành hạ họ và giết đi (c. 35).
Nhóm đầy tớ thứ hai cũng chịu chung số phận (c. 36).
Nhưng ông chủ vẫn không thất vọng trước sự độc ác của các tá điền.
Sau cùng, ông đã sai chính con trai mình đến với họ.
Đứa con thừa tự cũng chẳng được nể vì, bị lôi ra khỏi vườn nho và giết đi.
Khi kể dụ ngôn này Đức Giêsu muốn nói mình chính là người con ấy,
người Con của ông chủ vườn nho là Thiên Chúa.
Ngài tiên báo về cái chết sắp đến của mình
bởi tay những tá điền sát nhân là các nhà lãnh đạo Do thái giáo đương thời.
Cái chết của Đức Giêsu nằm trong chuỗi những cái chết của các ngôn sứ
là các đầy tớ đã được Thiên Chúa sai đến với dân Ítraen trong dòng lịch sử.
Tuy nhiên, cái chết ấy đặc biệt cao quý vì là cái chết của chính Người Con.
Hơn thế nữa, cái chết ấy không phải là một dấu chấm hết.
Nó là cánh cửa mở ra một trang mới của lịch sử,
không phải chỉ là lịch sử của dân tộc Ítraen, mà còn của cả nhân loại.
“Viên đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên viên đá đầu góc.
Đó là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (c. 42).
Giáo Hội sơ khai thích dùng trích dẫn trên đây của thánh vịnh 118, 22
để nói về việc Đức Giêsu bị loại trừ và được tôn vinh (x. Cv 4,11; 1Pr 2,7).
Bị loại bỏ là việc độc ác của con người,
còn trở nên viên đá góc là việc làm kỳ diệu của Thiên Chúa.
“Thu hoa lợi”, “nộp hoa lợi”, “sinh hoa lợi” (cc. 34, 41, 43).
Hoa lợi là điều mà ông chủ nhắm tới khi ông đầu tư cho vườn nho.
Ông đã không thu được hoa lợi gì từ những tá điền độc ác,
bởi đó ông đã lấy vườn nho lại, cho người khác làm để lấy hoa lợi.
Vườn nho bây giờ được hiểu là Nước Thiên Chúa.
Nước này không còn nằm trong tay giới lãnh đạo dân Do thái nữa,
nhưng được trao cho một dân biết sinh hoa lợi (c. 43).
Dân mới ấy chính là Giáo Hội phổ quát,
trong đó gồm cả dân ngoại và những người Do thái tin Đức Giêsu.
Chúng ta thuộc về Giáo Hội, thuộc về đoàn dân mới.
Chúng ta hãnh diện vì được trao phó vườn nho là Nước Thiên Chúa,
và lo lắng trước trách nhiệm phải sinh hoa lợi cho xứng ở đời này.
Làm thế nào để Giáo Hội nộp hoa lợi đúng mùa cho Chủ?
Làm thế nào để chúng ta không rơi vào tội của các tá điền đi trước?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con thường thấy mình không có thì giờ,
nhưng đồng thời cũng thấy mình
lãng phí bao thời gian quý báu.
Nhiều khi con tự hỏi
mình thực sự làm việc bao nhiêu giờ mỗi ngày.
Xin cho con biết quý trọng từng giây phút
đang trôi qua mà con không sao giữ lại được.
Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian,
để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa.
Xin cho con luôn làm việc như Chúa:
hăng say, tận tụy và vui tươi,
vâng phục, có phương pháp và đầy sáng tạo.
Vì quá khứ thì đã qua,
và tương lai thì chưa đến,
nên xin dạy con biết trân trọng giây phút hiện tại.
Xin cho con thấy Chúa
lúc này đang ở đây bên con,
và đang mời gọi con đáp lại tiếng của Ngài
bằng những hành động cụ thể.
Con xin hiến dâng Chúa giây phút này
như một hy lễ,
với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố.
Ước gì con dám sống hết mình giây phút hiện tại
để hiện tại đưa con vào vinh cửu của Chúa. Amen.
Suy Niệm 2: Đá góc tường
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đất sét chẳng thể chống lại thợ gốm. Đất tốt là ngoan ngoãn để thợ gốm đúc nặn nên hình tượng. Những người thợ làm vườn nho bất nhân và anh em tổ phụ Giu-se là những viên đá muốn tự đặt mình lên cao. Thoát khỏi tay thợ xây. Chiếm đoạt quyền Thiên Chúa. Anh em nhà Gia-cob bán Giu-se sang Ai cập. Thợ làm vườn bất nhân giết chết người con thừa tự. Họ muốn có quyền thế. Có danh vọng. Có tiền tài. Nhưng họ trở thành xấu xa đáng ghê tởm trước mặt Thiên Chúa.
Tổ phụ Giu-se và Chúa Giê-su là những viên đá bị người đời chê bỏ, giết chết. Nhưng các ngài luôn sống theo thánh ý Thiên Chúa. Tuân phục Thiên Chúa. Không oán hận những kẻ làm hại mình. Vì biết mình thuộc về Thiên Chúa. Nên các ngài đã trở thành đá góc tường.
Chúa Giê-su chịu chết để đem lại sự sống cho nhân loại. Trở thành ơn cứu độ cho nhân loại. Ban sự sống cho nhân loại. Cho nhân loại được trở lại hạnh phúc làm con Thiên Chúa. Người làm cho thế giới được cứu rỗi, được hạnh phúc, được sống.
Tổ phụ Giu-se bị bán làm nô lệ, bị giam cầm bất công. Nhưng ở đâu ngài cũng vui vẻ chấp nhận số phận. Nên Thiên Chúa đặt ngài lên địa vị cao trọng. Cứu sống mọi người.
Chúng ta là ai? Có lẽ chúng ta giống anh em tổ phụ Giu-se và giống đám thợ làm vườn nho bất nhân. Thiên Chúa ban cho ta sự sống, thời giờ, trí tuệ, sức khỏe và linh hồn. Để ta sinh lợi cho Thiên Chúa. Nhưng ta chiếm đoạt tất cả để sử dụng theo ý riêng. Có khi còn dùng ơn Chúa ban để phạm tội chống lại Chúa.
Mùa Chay ta hãy biết ăn năn sám hối. Dành hết cuộc đời sống theo ý Chúa. Dành hết khả năng phục vụ Chúa và tha nhân. Ta sẽ bị cười chê trước mặt người đời. Nhưng ta sẽ được Thiên Chúa yêu thương. Chính những con người biết từ bỏ ý riêng làm theo ý Chúa mới trở thành những người xây dựng sự sống. Sự sống sung mãn vĩnh cửu.
Suy Niệm 3: Dụ Ngôn Tá Điền Vườn Nho
Qua dụ ngôn người làm vườn nho sát nhân, không những Chúa Giêsu ám chỉ đến cái chết dã man mà các Thượng tế và Biệt phái sẽ gây ra cho Ngài, nhưng Ngài còn loan báo về sự phục sinh mà Thiên Chúa quyền năng sẽ thực hiện cho Ngài. Với sự phục sinh âý, Thiên Chúa như tuyên bố rằng tình yêu mạnh hơn sự chết, yếu đuối đã trở thành sức mạnh, thất bại biến thành khơi nguồn của ân ban. Chúa Giêsu đã gói ghém tất cả các mạc khải ấy trong câu trích từ Tv 118: “Chính viên đá thợ xây loại bỏ, đã trở nên viên đá góc tường”. Cái bị loại bỏ đã trở thành chuẩn mực, cái yếu đuối đã trở thành sức mạnh, cái điên dại đã trở thành lẽ khôn ngoan, cái chết đã trở thành cửa ngõ và khởi đầu nguồn sống mới.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tin tưởng phó thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa. Màu tím của Mùa Chay có lẽ không nên phủ lên khuôn mặt chúng ta lớp khăn tang của buồn sầu, thiểu não; trái lại, việc Suy Niệm cuộc Tử nạn của Chúa Giêsu, việc chay tịnh trong thể xác và tâm hồn phải hướng chúng ta đến sự phục sinh của Chúa Kitô. Cuộc Tử nạn của Ngài không phải là con đường hầm không có lối thoát, nhưng ở cuối con đường ấy là nguồn sáng chan hoà của phục sinh. Đó cũng phải là ánh sáng chiếu dọi vào những Suy Niệm của chúng ta.
Cũng như thánh Phaolô, chúng ta cũng có thể góp phần bổ túc những gì còn thiếu trong cuộc Tử nạn của Chúa Kitô. Những mất mát, thua thiệt, những thất bại khổ đau trong cuộc sống đều là những đóng góp của chúng ta với điều kiện chúng ta biết đón nhận chúng với tinh thần phó thác của Chúa Giêsu, biết nhìn vào đó như những viên đá để Thiên Chúa biến thành viên đá góc xây dựng Giáo hội Chúa Kitô.
Suy tôn Thánh giá Chúa Kitô trong Mùa Chay, xin cho chúng ta biết nhìn lên ánh sáng Phục sinh, để từ đó nhận ra được ý nghĩa và giá trị của đau khổ trong cuộc sống chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Thay Ðổi Hướng Ði
Ðối với người Israel, vườn nho là một hình ảnh rất quen thuộc. Các ngôn sứ Isaia, Giêrêmia, Edêkiel thường dùng hình ảnh này để ám chỉ dân Israel được Thiên Chúa tuyển chọn và chăm sóc để trở thành dân riêng của Người. Chúa Giêsu cố ý đưa hình ảnh quen thuộc ấy vào trong phần mở đầu của dụ ngôn trên đây. Cách diễn tả của Chúa Giêsu chắc chắn làm cho người nghe nhớ đến lời ngôn sứ Isaia nói về sự bất trung của dân Israel. Cách mở đầu bài giảng như thế khiến cho các thượng tế và kỳ mục phải ở trong tư thế chuẩn bị đối phó, bởi vì họ đang là những nhà lãnh đạo của dân Israel, đang quản lý vườn nho của Thiên Chúa. Và sau phần mở đầu, Chúa Giêsu tấn công ngay vào vị thế đó của họ. Chúa gọi họ là những tá điền, mà lại là những tá điền bất nhân bất nghĩa. Người nói thẳng với họ: "Tôi nói cho các ông hay, Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa mà ban cho một dân khác với mục đích làm cho Nước ấy sinh hoa lợi."
Thoạt nghe dụ ngôn trên đây, chúng ta có thể nói nó chẳng ăn nhập gì đến mình cả. Chúa Giêsu hiện trước các thượng tế và các kỳ mục Do Thái thời xưa chứ Ngài đâu khiển trách chúng ta. Chúng ta đâu có dính dự gì vào chuyện của họ. Chúng ta đâu có giết các ngôn sứ của Thiên Chúa, chúng ta đâu có xử tử Chúa Giêsu. Thế nhưng, nếu chịu khó xét cho kỹ thì chúng ta phải giật mình vì chúng ta đã có những phản ứng chẳng khác gì họ, có khác chăng là trong một bối cảnh khác và với hành động như vậy, chúng ta không giết các ngôn sứ, nhưng chúng ta bỏ ngoài tai những lời giảng dạy của các vị, chúng ta không kết án tử Chúa Giêsu, nhưng chúng ta đẩy Người ra ngoài lề cuộc sống chúng ta. Nếu chịu khó xét mình, không khéo chúng ta lại tìm thấy hình ảnh của các thượng tế và kỳ mục của Israel nơi bản thân chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, nhiều lần chúng con trách cứ dân Do Thái ngày xưa đã cứng đầu không nhận ra Chúa, không nghe lời Chúa mà còn giết Chúa nữa, nhưng chúng con cũng đang bước theo lối mòn ấy của họ. Xin Chúa tha thứ cho con và giúp con sửa đổi đời mình để được Nước Trời làm gia nghiệp mãi mãi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Giết con thừa tự
Các ông hãy nghe một dụ ngôn khác: “Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác và trẩy đi xa. Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền và thu hoa lợi. Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” (Mt. 21, 33-34, 38)
Dụ ngôn những tá điền sát nhân loan báo rõ ràng về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu. Sau khi gửi nhiều ngôn sứ đến dân Ít-ra-en, Thiên Chúa gửi chính con mình, nhưng cũng không được đón nhận, chẳng hơn gì số phận những ngôn sứ xưa.
Dụ ngôn này nói lên sự tàn bạo kinh khủng, nó phản ảnh sự dã man ghê sợ của loài người đến cùng cực, khó có thể tưởng tượng nổi. Nhưng đừng để cho những xúc động ghê sợ đó trở nên cạm bẫy che lấp sứ điệp chân chính mà Đức Giêsu truyền dạy chúng ta. Sứ điệp chân chính đó là vườn nho được trao cho những người lương thiện canh tác.
Vườn nho đã được trao cho những tá điền biết làm sinh hoa kết quả. Thực sự những trái nho ở đây là những hoa trái nước trời. Dân tộc được tuyển chọn trước đã thất bại. Một dân khác đã lãnh nhận vườn nho và sẽ không làm ông chủ thất vọng.
Bức tranh này, tuy có thể tối tăm, nhưng sau cùng lại chứa đầy hy vọng. Người ta thấy ở đây chương trình của Thiên Chúa, Ngài muốn nhân loại sinh nhiều hoa trái, không bao giờ được thất vọng do những quản lý xấu. Thiên Chúa không bao giờ chịu thất bại do sự quản lý đồi tệ của con người. Ngài tái lập lại rất dễ dàng và trao lại cho những người khác công việc đã bị hư hại.
Những kẻ bất trung đã làm hỏng việc, nhưng nước Thiên Chúa thì vẫn bất diệt, vì tất nhiên Ngài sẽ thực hiện lại, và phúc cho ai được Ngài dùng để thực hiện lại công việc của nước trời.
Người ta thường nghe rằng thế hệ chúng ta có những người đang phá hủy Hội thánh của Đức Kitô. Người ta nói Đức Kitô đã bị đóng đinh rồi, Thiên Chúa đã chết rồi.
Hội thánh được hứa bảo đảm bất tử. Nhưng những kẻ bất xứng đã phung phá vườn nho của Chúa sẽ bị xô xuống vực thẳm, để cho những người khác đến và ơn cứu độ lại được loan báo cho tới khi Chúa lại đến. Chúng ta sẽ qua đi. Chúa vẫn tồn tại.
J.G.
Suy Niệm 6: Sám hối để được cứu độ
Trong Kinh Thánh Cựu Ước có kể câu chuyện của vua thánh Đavít như sau: khi vua Đavít đã thỏa mãn nhục dục với Bathsêba, vợ của vị tướng Uria. Không dừng lại ở đó, ông đã tìm cách để phủ lấp chuyện đồi bại của mình bằng cách đẩy Uria ra mặt trận ác liệt, ở đó, vị tướng này chắc chắn sẽ tử trận, và sự việc đúng như kế hoạch thâm độc mà nhà vua đã hoạch định.
Khi nghe biết sự tàn ác của vua Đavít như thế, tiên tri Nathan đến kể cho vua một câu chuyện nhằm cảnh báo nhà vua, ngài kể: một anh nhà giàu kia có rất nhiều chiên, nhưng khi có khách, thì lại truyền lệnh cho quân lính sang nhà hàng xóm bắt con dê của họ để làm thịt ăn mừng. Điều đáng nói là người hàng xóm này chỉ có duy nhất một con dê là tài sản của anh ta. Nghe đến đây, Vua Đavít tức giận và tuyên bố một câu xanh rờn: thằng đó phải chết! Nghe thấy thế, tiên tri Nathanel chỉ thẳng vào mặt vua và nói: “Thằng đó chính là vua!” Đến đây, nhà vua mới giật mình nhận ra tội lỗi của ông và ăn năn sám hối.
Câu chuyện trên đây thật trùng khớp với câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay.
Đức Giêsu biết rõ những nhà lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ có một cái tôi rất lớn được xây dựng bằng thành trì của sự kiêu ngạo, tự phụ, tự tôn, luôn coi mình là đạo đức hơn người. Thế nên, bản thân họ rất khó nhận ra con người thực chất của chính mình để sám hối. Vì thế, Đức Giêsu đã kể cho họ nghe dụ ngôn: “Những tá điền sát nhân”.
Ngài kể về những người làm công ác nhân, thất đức khi đối xử bất nhân với những người nhà của chủ được sai đến, không những thế, sự bất nhân của họ còn được sử dụng ngay với chính con của ông chủ, nên họ đã giết luôn cả đứa con thừa tự và cướp luôn vườn nho.
Sau đó, Đức Giêsu hỏi những người đang nghe: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?" Nghe đến đây, các Thượng Tế và Kỳ Mục lên tiếng khí thế, họ nói: "Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông”.
Cũng như Đavít, họ vui vẻ và khẳng khái kết án cái ác, đúng lúc ấy, trong câu 43, Đức Giêsu tuyên án với họ: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi, không cho các ông nữa, mà ban cho dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”.
Đến đây, Đức Giêsu đã làm cho các Thượng Tế và Kỳ Mục nhận ra con người gian dối của họ khi dùng ngón đòn: “Gậy ông đập lưng ông”, khi chính họ tuyên án cho thảm án nặng nề nơi mình.
Trong cuộc sống hôm nay, nhiều khi chúng ta không nhận ra tội của mình mà cứ đi lôi tội của người khác một cách không thương tiếc. Vì thế, có lúc chúng ta không khác gì những nhà lãnh đạo tôn giáo thời Đức Giêsu, hay như Vua Đavít trong câu chuyện trên!
Tuy nhiên, Vua Đavít thì sám hối, còn những Thượng Tế và Kỳ Mục thì không, nên họ vẫn tiếp tục sa lầy vào con đường tội lỗi...
Mùa Chay là mùa Chúa mời gọi chúng ta hãy sám hối để được cứu độ, ngược lại, nếu không sám hối sẽ đời đời diệt vong.
Sám hối sẽ được ban nhiều hồng ân, mà hông ân lớn lao nhất chính là ơn cứu độ. Nếu không, ngay cả cái đang có cũng sẽ bị lấy đi và trao cho người khác.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết nhận ra con người thật của mình để biết sám hối, ăn năn. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Lịch sử cứu độ: Thiên Chúa tình yêu-tha thứ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Lịch sử cứu độ là lịch sử của Thiên Chúa trung thành với tình yêu cứu độ, còn loài người thì bất trung và từ chối tình yêu ấy. Tuy nhiên, kế hoạch cứu độ của tình yêu Thiên Chúa vẫn thành công.
Cầu nguyện: Lạy Cha, Chúa Giêsu cho con hiểu được tình yêu vô bờ của Cha, hiểu được ý nghĩa của lịch sử cứu độ Cha thực hiện cho loài người chúng con. Tình yêu Cha quá cao cả, Cha không ngừng sai các sứ giả đến mời gọi chúng con bước theo chân lý của Cha. Cha không ngừng đi tìm chúng con trở về, nhưng chúng con lại từ chối và quay lưng lại với Cha. Tuy nhiên dù chúng con phản bội, bất trung, Cha vẫn một lòng trung thành yêu thương chúng con và còn yêu thương hơn nữa. Tình yêu Cha vẫn tuôn trào, vẫn luôn đầy sáng kiến để thực hiện những kỳ công, để rồi cuối cùng ban tặng Con Một Cha cho chúng con. Cha chạy đua với tội lỗi chúng con. Tội lỗi càng dâng cao, tình yêu và ân sủng Cha lại càng chan chứa.
Lạy Cha, con biết nói sao cho hết tâm tình tạ ơn. Con biết Cha không cần con phải làm điều gì vĩ đại cho bằng biết mở lòng đón nhận tình yêu của Cha. Xin đừng để con cứng lòng và bịt tai nhắm mắt mãi. Chắc chắn trong đời có nhiều lúc con đã từ chối và phản bội Cha, nhiều lúc đã giết Con Cha. Nhưng con biết Cha vẫn một lòng thương yêu con. Xin Cha giúp con trở về với tình yêu Cha, không ngừng hoán cải để nối lại dây tình yêu đã bị con cắt đứt. Chẳng những Cha không bao giờ thất vọng về con mà lại còn tìm muôn vàn phương thế để lay động trái tim con. Xin Cha giúp con vững lòng trông cậy, không bao giờ thất vọng, cho con biết chỗi dậy mỗi ngày, biết làm lại từ đầu. Xin Cha cho con dù có bao lần vấp ngã, nhưng suốt cuộc đời vẫn trung thành với tình yêu ban đầu. Con tin tình yêu Cha sẽ chiến thắng trái tim con. Amen.
Ghi nhớ: “Ðứa con thừa tự kia rồi, nào anh em, chúng ta hãy giết nó”.
Suy Niệm 8: Những tá điền bất lương và vườn nho
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Có người chủ vườn nho “ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho” (Is 5,2a). Anh rất quý vườn nho đến nỗi anh có thể làm tất cả cho sự trù phú của nho: “Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?” (Is 5,4). Với sự chăm sóc ân cần cho vườn nho, anh mong những cây nho thân yêu của mình sinh ra những trái nho ngon ngọt. Đó là hình ảnh vườn nho được chăm sóc, mà ngôn sứ Isaia đã phác họa để làm nổi bật Thiên Chúa đã yêu thương, chăm sóc dân “tuyển chọn”- Israel rất ân cần chu đáo.
Tuy nhiên dân Israel được chăm sóc ân cần vẫn bạc tình bạc nghĩa, như một vườn nho chỉ sinh trái dại… Ngôn sứ Isaia đã chỉ rõ ràng: “Vườn nho đó chính là nhà Israel; Cây nho Chúa mến yêu quý chuộng, chính là người xứ Giuđa. Người những mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than” (Is 5,7), Thiên Chúa thất vọng về vườn nho của mình…
Suy Niệm
Với dụ ngôn “Những tá điền bất lương và vườn nho”, Đức Giêsu chỉ đích danh các thượng tế và kỳ lão. Họ là những người được Thiên Chúa trao phó trách nhiệm chăm sóc vườn nho. Nhưng thay vì mang hoa lợi về cho chủ là Thiên Chúa, họ lại muốn chiếm đoạt hoa lợi ấy cho mình. Vì thế, những sứ giả được Thiên Chúa sai đến là các ngôn sứ đều bị họ giết chết. Ngay người con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu cũng bị họ đóng đinh và treo Người trên cây thập giá.
Vườn nho mà Thiên Chúa trao cho dân Israel, được trao lại cho mọi dân tộc, và từ nay Thiên Chúa chăm sóc cho tất cả mọi dân nước: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho nước ấy sinh hoa lợi”. Trong Tân ước, mọi người, mọi dân tộc đều được mời gọi đi làm và ở trong vườn nho (x. Mt 20,1-16a). Dân nước này sẽ được làm thành bởi mọi kẻ sẽ sinh hoa trái của nước Trời, nghĩa là những kẻ, khi tiếp nhận Người Con, sẽ tụ họp quanh Người để làm nên dân mới của Thiên Chúa (x. Rm 9,25; 1Pr 2,10).
Dụ ngôn “Những tá điền bất lương và vườn nho” có tính cách lịch sử: Nghĩa là diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do Thái, và thái độ của dân Do Thái đối với những ngôn sứ Chúa sai đến với họ, thái độ của họ với chính Chúa. Dụ ngôn cũng mang tính cách tiên tri: Nơi con người thời đại đang và sẽ đến đối xử với Thiên Chúa, và những tá điền vườn nho là hình ảnh của các giới lãnh đạo Do Thái nhưng cũng chỉ trực diện mỗi chúng ta ngày hôm nay, những người trong giao ước mới, được mời gọi đi làm vườn nho. Chúng ta là những tá điền được Chúa trao phó trách nhiệm trông coi vườn nho và làm phát sinh hoa lợi. Những gì ta đang có chính là hoa lợi từ vườn nho.
Tự tước lấy hoa trái của Thiên Chúa, muốn mình định đoạt tất cả, loại Thiên Chúa trong cuộc đời mình, chính là hình ảnh những tá điền bất lương của ngày hôm nay, con người vẫn đang đi vào vết xe đổ của lịch sử: Khi chúng ta chọn lựa cho mình một cách sống tự mình là chủ định đoạt “vườn nho” mà không cần biết Đấng làm chủ vườn nho, chúng ta muốn tước đoạt của “thừa tự” của Đấng làm Con Thiên Chúa. Chúng ta đang phác họa lại hình ảnh nguyên tổ trong Vườn Địa Đàng xưa: Muốn lấy cái “biết” của Thiên Chúa qua hành động hái và ăn trái “hiểu biết” theo ý đồ của Satan, để có vinh quang bằng Đấng Tạo Hóa. Nhưng, sự “biết” không thấy, lại bị tước đoạt Vườn Địa Đàng được trao phó. Những tá điền vườn nho cũng vậy, khi giết con thừa tự, vườn nho không những không được hưởng, mà còn bị chủ vườn nho lấy lại giao cho các tá điền khác.
Hôm nay, tôi và bạn là người tá điền làm vườn nho được Thiên Chúa ký thác. Ước chi chúng ta luôn ý thức trách nhiệm mình là tá điền chuyên chăm trong vườn nho của Chúa. Tá điền biết cộng tác xây dựng công trình vườn nho cho vinh quang Thiên Chúa...
Ý lực sống: “Hãy đi vào vườn nho của tôi... Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25,21-23).
Suy Niệm 9: Dụ ngôn những tá điền sát nhân
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Qua dụ ngôn này ta thấy Thiên Chúa đã yêu thương tuyển chọn và chăm sóc dân Người. Nhưng những con người bất tín, điển hình là các nhà lãnh đạo Do thái đã đưa dân vào con đường bất nghĩa. Người đã sai các tiên tri đến với họ, và đã bị đối xử tàn tệ. Cuối cùng Thiên Chúa đã sai chính Con Một của Người đến. Ngài đã bị họ sỉ nhục, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Nhưng chính nhờ Ngài, ơn cứu độ đã được thực hiện cho muôn người. Qua cái chết của Đức Giêsu, một dân tộc mới được hình thành. Giáo hội được khai sinh.
2. Ý nghĩa của dụ ngôn: Chủ vườn nho là Thiên Chúa, vườn nho là dân Do thái, những tá điền làm vườn nho là các tư tế, biệt phái và luật sĩ, các đầy tớ được sai đến bị bắt, bị đánh đập và bị giết chết là các tiên tri, hoa lợi là kết quả của những việc lành, con trai duy nhất của ông chủ là Đức Giêsu, bị lôi ra khỏi vườn tức là bị đem ra khỏi thành Giêrusalem mà giết. Cuối cùng, ông chủ sẽ tru diệt bọn hung ác đó, tức là Thiên Chúa sẽ trừng phạt dân Do thái.
3. Dụ ngôn này có tính cách lịch sử: Nghĩa là một đàng diễn tả những biến cố có thực, là những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử dân Do thái, và thái độ của dân Do thái đối với những tiên tri Chúa sai đến với họ, thái độ của họ đối với chính Chúa.
Dụ ngôn cũng mang tính cách tiên tri: Nơi con người thời đại đang và sẽ đến đối xử với Thiên Chúa, và những tá điền vườn nho là hình ảnh các giới lãnh đạo Do thái nhưng cũng chỉ trực diện mỗi chúng ta ngày hôm nay, những người trong giao ước mới, được mời gọi đi làm vườn nho. Chúng ta là những tá điền được Chúa trao phó trách nhiệm trông coi vườn nho và làm phát sinh hoa lợi. Những gì ta đang có là hoa lợi từ vườn nho.
4. Mình muốn tước lấy hoa trái của Thiên Chúa, muốn mình định đoạt tất cả, loại Thiên Chúa trong cuộc đời mình, chính là hình ảnh của những tá điền bất lương của ngày hôm nay, con người vẫn đang đi vào vết xe đổ của lịch sử: Khi chúng ta chọn lựa cho mình một cách sống tự mình là chủ định đoạt “vườn nho” mà không cần biết Đấng làm chủ vườn nho, chúng ta muốn tước đoạt của “thừa tự” của Đấng làm Con Thiên Chúa. Chúng ta đang phác họa lại hình ảnh Nguyên tổ trong Vườn Địa đàng xưa: Muốn lấy cái “biết” của Thiên Chúa qua hành động hái và ăn trái “hiểu biết” theo ý đồ của Satan, để có vinh quang bằng Đấng Tạo Hóa. Nhưng, sự “biết” không thấy, lại bị tước đoạt vườn Địa đàng được trao phó. Những tá điền vườn nho cũng vậy, khi giết con thừa tự, vườn nho không những không được hưởng, mà lại còn bị chủ vườn nho lấy lại giao cho tá điền khác (Vinh Sơn, Suối nguồn tình yêu, I, tr 198).
5. Ngày nay, chúng ta cũng được coi là vườn nho của Thiên Chúa. Tất cả những gì Chúa ân cần săn sóc ban cho đều là hồng ân của Chúa. Chúng ta được tự do hành động, sắp xếp công việc theo ý ta, nhưng ta phải chịu trách nhiệm về những việc làm ấy. Bổn phận của chúng ta là phải cố gắng làm việc cho tốt đẹp để đáp lại tình thương của Chúa đối với chúng ta.
Sách có chữ rằng: “Tiền xa ký phúc, hậu xa khả giới”: xe trước đổ, xe sau phải coi chừng. Dân Do thái ngày xưa đã bất trung nên đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ. Ngày nay chúng ta là dân Do thái mới được Thiên Chúa săn sóc giữ gìn, chúng ta phải tránh xa vết xe cũ kẻo phải hư đi, nhưng phải trung thành với hồng ân Chúa ban, bằng cách làm cho ơn Chúa được sinh hoa kết quả dồi dào trong đời sống; đồng thời cũng phải biết chia sẻ cho người khác nữa.
6. Truyện: Không biết chia sẻ của Chúa ban.
Một người nghèo nọ được thần tài gõ cửa, nên không mấy chốc căn nhà của anh bỗng rộn lên tiếng cười của vợ con, họ hàng và láng giềng. Một cuộc sống xứng với nhân phẩm hơn đó là điều mà con người may mắn này đã cảm nhận được.
Tuy nhiên, may mắn nào cũng kéo theo những đòi hỏi, mà đòi hỏi thách thức nhất của người nghèo bỗng trở thành giầu có là: hãy chia sẻ với người khác. Không mấy chốc, bà con họ hàng từ các nơi đổ xô về căn nhà nghèo nàn của anh để xin giúp đỡ, trước là nhận họ sau là nhận hàng, đó là thói thường của người đời.
Kẻ trúng số hiểu được các tâm lý thông thường ấy, lúc đầu được thúc đẩy bởi lòng quảng đại, ông không ngần ngại chia sớt cho mọi người. Nhưng dần dà con số người đến xin giúp đỡ ngày càng gia tăng, cho đến một lúc cuộc sống riêng tư và êm ấm của gia đình hầu như bị xáo trộn triền miên. Người đàn ông không còn đủ kiên nhẫn nữa.
Một hôm, ông đề nghị với vợ:
- Hay là ta dọn đi một nơi khác.
Người vợ lắc đầu bảo:
- Mình có đi đâu thì thiên hạ cũng tìm tới.
Nhưng người chồng giải thích:
- Mình sẽ đi đến một chỗ không ai biết, mình sẽ đổi tên đổi họ, cũng không cho ai biết mình đi đâu, và sẽ cố gắng sống một cách đơn giản để không ai để ý đến mình nữa, ngay cả mấy đứa nhỏ cũng không cho biết mình đã trúng số.
Người vợ thắc mắc:
- Còn tiền bạc thì mình để đâu?
Chồng trả lời dứt khoát:
- Mình sẽ đem chôn giấu, mình sẽ sống như thể không hề trung số, chỉ đem ra dùng khi nào cần thiết mà thôi.
Thế là cả gia đình dọn đến một nơi khác như dự kiến: họ lén lút ra đi không ai biết, tiền bạc đem chôn cất, con cái còn quá nhỏ nên không biết việc gì đã xẩy ra, họ sống nghèo nàn trong một khu ổ chuột. Ngày qua ngày, chính họ cũng quên rằng mình đã có lần trúng số, và khi họ chết thì tất cả mọi tài sản đều mất hết. Họ quên cả việc viết chúc thư cho con cái để trao lại tài sản cho chúng.
Suy Niệm 10: Giuse mới, Đấng cứu rỗi muôn dân
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ.
1. Bài đọc Cựu Ước kể chuyện tổ phụ Giuse bị các anh ganh ghét nên bán đi cho các lái buôn. Giuse trở thành nô lệ (Phần sau của chuyện Giuse kể tiếp là sau này Giuse lên chức tể tướng nước Ai cập và đã cứu cả gia đình mình khỏi nạn đói).
2. Qua dụ ngôn những thợ vườn nho ác ôn, Chúa Giêsu nói Ngài chính là Giuse mới, bị dân mình giết chết, nhưng lại là Đấng cứu rỗi muôn dân. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc”.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Lòng ganh ghét đã khiến các con Giacóp coi đứa em ruột của mình là kẻ thù. Lòng ganh ghét cũng khiến các thượng tế và kỳ lão Do Thái giết chết Đấng Messia mà toàn dân mong đợi bấy lâu nay. Dù chiếc xe đã ngã, nhưng vết xe cũ vẫn luôn có người theo. Tôi có như vậy không ?
2. Giuse đã lấy ơn để trả oán. Chúa Giêsu đã lấy cái chết để cứu chuộc cả những người hành hạ Ngài. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc”. Xin Chúa giúp ta cách “báo thù” tuyệt vời ấy.
3. Một hoàng đế Trung Hoa muốn chiếm đất của kẻ thù và tiêu diệt họ. Nhưng ít lâu sau, thần dân thấy nhà vua đi lại, ăn uống với kẻ thù trước kia.
- Chẳng phải ngài đã từng nói là sẽ tiêu diệt hết kẻ thù ?
- Đúng, ta đã tiêu diệt hết kẻ thù, vì ta đã biến họ thành bạn bè của ta.
4. Cái nhìn của Chúa khác cái nhìn của loài người. Khả năng của Chúa cũng tuyệt vời hơn khả năng loài người. Viên đá mà “những người thợ xây” - tức loài người chúng ta - coi là đồ bỏ đi, thì Thiên Chúa có thể biến thành tảng đá góc tường. Thí dụ viên đá Phêrô đã 3 lần chối Chúa, viên đá Phaolô và biến cố trên đường Đamát, viên đá Augustinô... Nhiều anh chị em tôi cũng có thể là những viên đá như thế, vậy tôi hãy khoan dung... Ngay cả tôi cũng có thể là như thế, nên tôi hãy trông cậy.
Suy Niệm 11: Giuse mới lấy cái chết, cứu chuộc người hành hạ mình
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta nhìn vào Chúa Giêsu như một Giuse mới. Giuse cũ trong Cựu Ước đã lấy ơn để trả oán. Chúa Giêsu - Giuse mới trong Tân Ước còn hay hơn: Không phải chỉ lấy ơn trả oán mà còn lấy cái chết để cứu chuộc cả những người hành hạ mình nữa. Việc làm của Chúa quả là một việc lạ thường, con người khó mà hiểu nổi.
“Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc” (Mt 21,42).
Viên đá mà “những người thợ xây” - tức loài người chúng ta - coi là đồ bỏ, thì Thiên Chúa đã biến thành tảng đá góc tường. Xin mở một dấu ngoặc: Vào thời Chúa Giêsu, khi phải xây ngôi nhà có mái vòm lớn trên nóc, người ta phải có một viên đá đặt ở trên chóp đỉnh để chịu lực. Viên đá đó có một vai trò rất đặc biệt. Nó giữ cho những viên ngói trên mái vòm được liên kết với nhau nhờ thế mà cả mái vòm được đứng vững. Khi ví mình như một viên đá góc, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta rằng: Hãy nhìn mọi sự trong tinh thần lạc quan, không được phép thất vọng hay buồn phiền, nhất là khi phải đối diện với những bất công khổ đau trong cuộc sống.
Ở Mỹ có một tảng đá rất nổi tiếng. Đó là tảng đá Balebon tại tiểu bang California.
Ngày nọ, có một người dân làm đơn khiếu nại sở Kiều lộ. Người này báo động rằng vì nạn đất chùi, tảng đá này có thể đổ xuống làm hư nhà cửa của họ; và thế là với hai chiếc trực thăng yểm trợ cho hai xe cẩu loại lớn, người ta đã đưa tảng đá lên xa lộ.
Theo dõi câu chuyện trên đài truyền hình, một người Úc nọ đã đến xin mua tảng đá ấy. Sở Kiều lộ của thành phố đã bán tảng đá này với giá 100 Mỹ kim. Những người có trách nhiệm của thành phố đã mừng thầm vì cảm thấy ít ra cũng có người giúp họ di chuyển cái “của nợ” ấy đi. Sau đó, người Úc kia đã bỏ ra 20.000 Mỹ kim nữa để thuê xe chuyên chở tảng đá ấy về nhà, và sau bốn tháng miệt mài làm việc, anh đã tạc được chân dung của một tài tử nổi tiếng chuyên đóng phim cao bồi. Đó là món quà quí nhất mà người này dành cho tài tử yêu quí trước khi nhắm mắt lìa đời. Không bao lâu sau đó, tác phẩm ấy đã được bán cho một người chuyên sưu tầm tượng ảnh với giá một triệu Mỹ kim.
Tảng đá Balebon trên đây đã bị nhiều người xem là một “của nợ”, nhưng một người Úc đã nhìn ra những giá trị tiềm ẩn trong đó. Nó đã trở thành một thách đố để thực hiện một công trình vĩ đại. Và cuối cùng, công trình đã được hoàn thành. Từ một tảng đá đáng bỏ đi nó đã trở thành một tác phẩm nghệ thuật và giá trị của nó không thể ngờ được.
Trước Công nghị Do Thái, thánh Phêrô đã giải thích về cái chết của Chúa Giêsu, với câu nói thời danh: “Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ đã trở thành viên đá góc tường” (Cv 4,11).
2. Hãy nhìn vào tấm gương đó để chúng ta bắt chước.
Thời Xuân Thu chiến Quốc, nước Sở và nước Lương có chung biên giới và dân cư của hai nước sống ở gần biên giới đều trồng dưa. Người bên nước Lương, vì chịu khó vun xới chăm bón cho nên dưa tốt, quả nhiều. Còn người bên nước Sở thì vừa lười vừa làm biếng, chẳng chịu chăm sóc tưới bón nên dưa xấu, quả ít. Quan huyện sở tại bên nước Sở thấy vậy thì tức giận lắm. Những người trồng dưa bên Sở thấy vậy cũng đem lòng ghen ghét, nên cứ tối tối, lẻn sang nhổ cây, bứt lá làm cho dưa bên nước Lương đang tốt tươi bỗng trở nên héo hon, xơ xác.
Những người trồng dưa bên nước Lương rình biết, bèn trình báo lên quan sở tại của mình và cũng định rắp tâm sang phá dưa bên nước Sở để trả thù. Nhưng quan sở tại của nước Lương là người thâm trầm, mưu cao liền can ngăn và bảo:
- Nếu lấy ác mà xử ác thì chỉ gây thù chuốc oán, gieo mầm loạn lạc binh đao. Thay vì trả thù, ta cứ lẳng lặng sang tưới dưa cho họ, đó mới là thiện chí.
Nói là làm. Một thời gian sau, dưa bên nước Sở xanh tốt, quả nhiều. Dân nước Sở lấy làm lạ, cũng để ý rình rập, sau mới hay người bên nước Lương sang tưới dưa cho mình. Quan bản địa bên nước Sở thấy vậy lấy làm hổ thẹn. Sự việc đến tai vua nước Sở. Vua nước Sở cũng lấy làm xấu hổ và nghĩ rằng, ngoài cái tội phá dưa của người ta ra, còn thêm một tội khác nữa là gây ra thù oán. Vua nước Sở bèn xuống chiếu trách cứ quan huyện, khuyến cáo dân chúng nước Sở, rồi viết thư sai sứ giả sang nước Lương xin lỗi, tỏ lòng hiếu hòa bang giao.
Thế là hai nước giữ được sự yên bình lâu dài và dân cư thái bình.
Giá mà mỗi người chúng ta cũng biết sống như quan huyện nước Lương thì cuộc sống của mọi người sẽ đẹp biết bao!
17/03 Người giầu có và Ladarô
- Viết bởi Lc 16, 19-31
Người giầu có và Ladarô.
Thứ Năm tuần 2 Mùa Chay.
“Con đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ”.
Lời Chúa: Lc 16, 19-31
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái rằng: “Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy.
Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các thiên thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đằng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng: “Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này. Abraham nói lại: “Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn tự đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ đó qua đây được”.
Người đó lại nói: “Ðã vậy, tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này”. Abraham đáp rằng: “Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các Ngài”. Người đó thưa: “Không đâu, lạy Cha Abraham! Nhưng nếu có ai trong kẻ chết về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải”. Nhưng Abraham bảo người ấy: “Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Có một vực thẳm
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới
còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển.
Bill Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất.
Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu
cho giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh
cho cả thế giới trong một thời gian dài.
Khi nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô,
chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới.
Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị,
giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.
Có 800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực.
Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc.
Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày,
vì không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi xuống.
Ông nhà giàu trong dụ ngôn có thấy, có biết Ladarô,
nhưng thấy mà như không thấy có Ladarô trên đời.
Tiện nghi vật chất đã thành bức tường kín.
Ông sống an toàn mãn nguyện trong khoảng không gian riêng.
Chính ông đã tạo ra một vực thẳm ngăn cách.
Không cần Chúa, cũng chẳng cần biết đến anh em.
Có thể nói vực thẳm đó lớn dần và kéo dài mãi đến đời sau.
Hỏa ngục là sự tự cô lập mình không thể đảo ngược được.
Chẳng ai có thể cho tôi một giọt nước.
Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau
là do chính con người đã tạo ra từ đời này.
Ông nhà giàu bị phạt, không phải vì ông đã bóc lột ai,
nhưng vì ông không bị sốc chút nào
trước sự chênh lệch ghê gớm giữa ông và Ladarô.
Từ sốc mới nẩy sinh thức tỉnh, và dẫn đến hoán cải.
Nhiều nước giàu vẫn trợ giúp các nước nghèo,
nhưng không muốn loại bỏ sự bất bình đẳng.
Các nước nghèo vẫn bị bóc lột về tài nguyên, nhân công,
và bị nô lệ cho những món nợ không sao trả hết.
Ông nhà giàu bị phạt không phải vì ông đã nhận nhiều,
nhưng vì ông đã không san sẻ những gì mình nhận.
Giàu không phải là một tội, của cải tự nó không xấu.
Có bao người giàu tốt như Dakêu, Nicôđêmô, Giuse Arimathia.
Nhưng giàu sang có thể dẫn đến cám dỗ nguy hiểm:
Tích trữ, tham lam, hà tiện, khép kín, tự mãn, hưởng thụ,
bị ám ảnh bởi đồng tiền, bị mê hoặc bởi lợi nhuận.
Chúng ta có thể nghèo của cải, nhưng giàu có về các mặt khác:
giàu kiến thức chuyên môn, giàu thế lực ảnh hưởng,
giàu sức khỏe, giàu tình bạn tình yêu, giàu niềm vui, ơn Chúa.
Hãy tập nhìn xuống để thấy bao người dưới mình.
Chia sẻ là lấp vực thẳm, nâng người khác lên bằng mình.
Ước gì chúng ta để cho Lời Chúa hoán cải,
để thấy trách nhiệm của mình trước những Ladarô
nằm ngay nơi cửa, trong khu xóm...
Chỉ cần bớt chút dư thừa, xa xỉ của chúng ta
cũng đủ làm nhiều người no nê hạnh phúc.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Suy Niệm 2: Giàu và nghèo
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ai giầu ai nghèo? Tùy cách nhìn và tầm nhìn. Giê-rê-mi-a có một cách nhìn và một tầm nhìn xa rộng khi cho biết ai tin ở người đời sẽ nghèo nàn và mau tàn lụi. Như bụi cây trong hoang địa khô cằn tàn tạ. Chỉ người tin tưởng ở Thiên Chúa mới trường tồn và phong phú. Như cây trồng bên dòng nước xanh tươi không ngừng trổ sinh hoa trái. Giầu nghèo đời này và đời sau thật khác biệt.
Chỉ say mê của cải đời này thì thật nghèo nàn. Vì cơm áo gạo tiền không phải là tất cả. Tài nguyên của vũ trụ còn mênh mông không thể đo lường. Ông phú hộ khi bước vào đời sau mới thấy mình trắng tay. La-za-rô nghèo ở đời này nên chỉ trông cậy kho tàng thiêng liêng. Nhưng khi bước vào đời sau ông thật giầu có. Kho tàng thiêng liêng vô tận. Quí giá nhất là được hạnh phúc với Chúa.
Chỉ đóng kín vào bản thân thì thật chật hẹp. Con người là tương giao. Càng mở rộng càng phong phú. Ông phú hộ chỉ nhìn vào bản thân, chỉ nghĩ đến bản thân, chỉ chăm chút cho bản thân. Khi chết mới thấy mình cô đơn. La-za-rô không có gì nên biết mở lòng ra. Nên khi chết ông được nằm trong lòng thương mến của mọi người, của Chúa và các thánh. Ông phong phú biết bao.
Chỉ tin vào người đời thì thật dại dột. Vì người đời giới hạn. Dù thành tâm nhưng cũng chẳng hiểu biết mọi lẽ của vũ trụ. Người đời cũng yếu ớt mong manh, mau tàn. Cậy dựa vào người đời khác nào tựa vào thân cây mục nát. Gẫy đổ sẽ kéo theo con người rơi xuống vực thẳm. Ông phú hộ rơi xuống vực sâu vô tận không có thể thoát ra. La-za-rô không tìm gì được ở nơi người đời. Ông chỉ tin vào Thiên Chúa. Nên ông có chỗ dựa vững chắc. Đời đời.
Chỉ nhìn vào mặt đất thì thật thiển cận. Còn trời cao. Còn Thiên Chúa. Còn đời sau. Ông phú hộ khi chết rồi mới biết ngước nhìn lên. Nhưng đã muộn. Chỉ còn hối tiếc. La-za-rô không mong gì dưới đất. Lòng trí ông hướng lên trời. Tầm nhìn ông mở rộng. Vì thế khi chết ông vươn cao bay xa. Ông đạt đến viên mãn.
Mùa Chay hãy biết xác định lại các bậc thang giá trị để chọn lựa đúng đắn. Chọn lựa đúng đắn theo Chúa giúp ta được phong phú, được giầu sang, được vững chắc và viên mãn trong hạnh phúc.
Suy Niệm 3: Người giầu có và Ladarô.
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại rằng một lần nọ đặt chân đến Ethiopi, Mẹ đã ngỏ ý với một vị Bộ trưởng để xin một khu đất xây bệnh viện cho những người cùng khốn nhất. Ông Bộ trưởng trả lời: “Thưa bà, việc săn sóc bệnh nhân và người nghèo là trách nhiệm của chính phủ, không một cá nhân hay đoàn thể nào có thể gánh được công việc này”. Mẹ liền nói: “Nhưng tôi thấy chính phủ các ông đã không chu toàn được trách nhiệm ấy; vả, việc săn sóc người nghèo khổ là trách nhiệm của mỗi người”. Và ông Bộ trưởng đã phải chấp nhận đề nghị của Mẹ.
Câu trả lời và việc làm của Mẹ Têrêxa là một minh hoạ cho giáo huấn của Chúa Giêsu về người giầu có và Ladarô nghèo khổ. Quan tâm đến người anh em, nhất là những người cùng khổ là một bổn phận, một bổn phận mà Chúa Giêsu cũng khẳng định trong diễn từ về ngày chung thẩm. Nhiều người ngỡ ngàng khi nhận ra rằng số phận mai hậu của họ gắn liền với một bát nước lã, một chén cơm họ chia sẻ cho một kẻ vô danh.
Dửng dưng trước khổ đau của người khác là một tội. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nêu bật qua hình ảnh người giầu có trong Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsu không nói đến nguồn gốc của sự giầu có mà người phú hộ đang hưởng. Ngài cũng không nói đến một hành động gian ác nào của ông. Thế nhưng, sự dửng dưng đến độ mù loà của ông trước một người hành khất lê lết trước cửa nhà ông, một thái độ như thế cũng là một tội ác rồi. Mỗi người đều có trách nhiệm về người anh em, nhất là người nghèo khổ trong xã hội. Giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay có lẽ cũng gợi lại câu hỏi Thiên Chúa đặt ra cho Cain sau khi Cain giết Abel em mình: “Cain, em ngươi đâu?”. Cain trả lời: “Tôi có phải là người giữ em tôi đâu”. Câu trả lời ấy có lẽ cũng là thái độ của chúng ta khi đứng trước nỗi khổ đau của người khác. Thiên Chúa đã tạo dựng nhân loại như một gia đình, trong đó tất cả chúng ta đều có bổn phận và trách nhiệm đối với nhau.
Mùa Chay, mùa trở về với Chúa và cũng là mùa trở về với anh em. Nhận ra mỗi người, nhất là người cùng khổ như người anh em con cùng một cha, đó là lời mời gọi mà Cha trên trời luôn ngỏ với chúng ta, và đó cũng là thông hành để chúng ta về gặp gỡ Cha trên trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Hãy thật lòng hoán cải
Chúa Giêsu đã dùng một câu chuyện dài để minh họa mối tương quan đảo ngược giữa cuộc sống đời này với cuộc sống đời sau, nhằm mục đích kêu gọi người Do Thái sống theo lời của tổ phụ và các ngôn sứ được ghi lại trong sách Thánh để được hưởng hạnh phúc mai sau. Khi nghe phần đầu của câu chuyện về ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó trên đây, chắc chắn người Do Thái sẽ nhớ đến lời Chúa Giêsu dạy trong bài giảng về các Mối Phúc Thật, cụ thể là những mối phúc dành cho kẻ nghèo khó, đói khát và khóc lóc. Từ hình ảnh của ông nhà giàu trong âm phủ và anh Ladarô trong lòng tổ phụ Abraham, Chúa Giêsu đưa các thính giả trở về với cuộc sống thực tại ấy. Mượn lời ông Abraham, Chúa Giêsu trách cứ lối sống ương ngạnh của của họ, vì họ không chịu tin vào giáo huấn của ông Môsê và các tiên tri. Họ cứng đầu như thế, thì cho dù người chết sống lại thuyết phục họ, họ cũng sẽ bỏ ngoài tai.
Hạnh phúc đời sau thì ai cũng muốn được hưởng, nhưng gian khổ đời này thì chẳng ai muốn trải qua. Bởi thế, chúng ta thường tìm giải pháp có lợi cho chúng ta hơn hết, chúng ta tìm cách sống như thế nào để được cả đôi đàng, chúng ta trở thành người quá khôn ngoan và cũng quá tham lam, muốn được hưởng hạnh phúc tạm bợ đời này lẫn hạnh phúc đời sau. Lối sống bắt cá hai tay như thế dần dần dẫn chúng ta tới chỗ nhượng bộ hoặc thỏa hiệp với các nhu cầu vật chất của mình, mà coi nhẹ các nhu cầu tâm tình sâu thẳm, đáng ra phải được đáp ứng trước tiên. Cuộc sống thiêng liêng của chúng ta vì thế mà nghèo nàn đi khi đời sống vật chất của chúng ta có thể dư dật ra. Các giá trị Tin Mừng dần dà bị chúng ta coi nhẹ trong khi những giá trị trần tục lại được chúng ta càng lúc càng tôn vinh. Cán cân các giá trị cứ thế mà lệch dần đi. Chúng ta trở nên như người giàu có trong dụ ngôn trên đây, chúng ta yên tâm với những gì mình tích góp được, những gì mình sở hữu trong tay. Mãi lo lắng cho mình, lòng chúng ta đông đặc lại, chúng ta không còn quan tâm đến người chung quanh, chúng ta tự thỏa mãn với thế giới khép kín của mình. Thế rồi, có những lúc nào đó, khi lâm bịnh tật, khi gặp tai ương, chúng ta hốt hoảng nhận ra rằng cuộc đời trần thế chỉ là phù vân, chúng ta hối hận ăn năn, chúng ta hứa với Chúa là nếu Chúa giúp chúng ta ra khỏi nguy nan, chúng ta sẽ làm lại tất cả. Thế nhưng ai trong chúng ta đã giữ trọn lời hứa với Chúa? Hết tai ương hoạn nạn, chúng ta có thể quay về với nếp sống cũ. Qua cơn khốn đốn, chúng ta lại chễm chệ leo lên chiếc ghế trang trọng của mình.
Lạy Chúa Giêsu, con thật cứng đầu chẳng kém gì những người Do Thái thời xưa, có lẽ con còn đáng trách hơn họ nữa, vì con chẳng những không chịu tin lời Môsê và các ngôn sứ, mà ngay cả Lời Chúa dạy bảo con cũng chẳng chịu nghe theo cho tới nơi tới chốn. Trong mùa Chay này, xin Chúa giúp con thật lòng hoán cải và sống trong lòng Tin Mừng để khỏi rơi vào tình trạng bất hạnh như ông nhà giàu trong dụ ngôn được nhắc lại trong đoạn Phúc Âm hôm nay.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Cần có Thiên Chúa
“Có một ông nhà giầu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giầu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng Áp-ra-ham. Ông nhà giầu cũng chết và được đem đi chôn.” (Lc. 16, 19-22)
1) Câu chuyện Tin mừng đã đạt tới tuyệt đỉnh, nó trình bày cho ta thấy một cảnh bi thảm sống động về những kẻ giàu có ích kỷ bị chúc dữ ghê sợ, những kẻ giàu sang này ăn chơi thỏa thích, dưới những lời van xin thảm thiết của những kẻ bần cùng đói khổ than khóc. Đây là bản văn nghiêm khắc cảnh cáo những kẻ giàu và an ủi người nghèo khổ.
La-gia-rô có nghĩa là người nghèo khổ được Thiên Chúa cứu giúp. Anh là một trong những kẻ nghèo khổ biết nhẫn nại chịu đựng cảnh khốn cùng và đầy lòng tin tưởng vào Thiên Chúa. Họ chỉ có thể kiên nhẫn chịu đựng cuộc sống tối tăm của họ nhờ họ cậy trông vào Thiên Chúa. La-gia-rô là một trong số họ được lời hứa của Thiên Chúa an ủi như lời Thánh vịnh và các ngôn sứ nói, là một trong những người được Tám Mối Phúc Thật chúc mừng.
Người phú hộ sống không màng chi đến Thiên Chúa. Ông có tất cả rồi, còn cần chi đến Thiên Chúa? Ông không thấy Thiên Chúa, ông không thấy kẻ khốn khổ. Ông hoàn toàn giàu có và sống dư đầy, ông không chống lại Thiên Chúa, ông không đàn áp kẻ nghèo. Ông chỉ mù thôi, mù đối với Thiên Chúa và những người nghèo khổ, mù đối với Mô-sê và những ngôn sứ.
2) Câu chuyện nhấn mạnh đến đời sau cái chết. Cả hai đều chết, cả người nghèo lẫn người giàu hoàn toàn chết như nhau. Nhưng có khác nhau: Người giàu được đưa chôn long trọng xôm trò. Người nghèo không thấy nói được an táng chi cả, phải chăng nó không đáng được nói tới. Nhưng người nghèo lại được các thiên thần đón rước.
Người giàu phải ở chốn cực hình. La-gia-rô được ngồi bàn tiệc nước trời, trong lòng Áp-ra-ham, nơi hạnh phúc vinh quang.
3) Nội dung Kinh thánh là chính Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và sống lại. Ai biết nghe và sống theo lời Đức Giê-su, sẽ không bị số phận như kẻ phú hộ đã bị phạt. Hình phạt được nói rõ trong bản văn Tin mừng này, cho biết chắc có sự chết và sống lại, có hình phạt và phần thưởng đời sau.
J.M
Suy Niệm 6: Dửng dưng vô cảm là tội ác
Mẹ Têrêxa Calcutta kể lại một câu chuyện thật ấn tượng rằng: có hai bạn trẻ nghe biết các sơ trong dòng của mẹ hàng ngày nấu ăn cho 7 ngàn người, và cung cấp thực phẩm cho khoảng 9 ngàn người. Vì thế, họ đã tặng cho mẹ một số tiền lớn để giúp người nghèo. Khi được hỏi về nguồn gốc số tiền lớn mà các em dâng tặng, các em trả lời:
“Chúng con vừa cưới nhau được hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã suy nghĩ nhiều. Sau cùng, chúng con quyết định không may đồ cưới, cũng không tổ chức yến tiệc linh đình, và chúng con muốn dùng khoản tiền chi phí cho đám cưới và mua tặng phẩm để cho những người không được may mắn như chúng con". Khi thấy thế, mẹ phân vân! Hai bạn nói tiếp:
“Vì chúng con yêu nhau, chúng con muốn có cái gì đặc biệt, đẹp đẽ cho nhau. Vì thế, chúng con muốn tặng cho nhau một món quà cưới thật đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống của mình bằng một hy sinh mà cả hai đều dự phần vào”.
Ôi một nghĩa cử anh hùng! Vì ở bên Ấn Độ, đám cưới mà không có quần áo cưới cũng như tiệc cưới là một điều nhục nhã và gây tủi hổ cho cả hai gia đình, đàng trai cũng như đàng gái.
Câu chuyện trên đây ngược hẳn với câu chuyện của nhà phú hộ giàu có và Lazarô nghèo khổ!
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy: giàu không phải là tội, nhưng nó chỉ là cạm bẫy nguy hiểm dễ dẫn đến tội nếu không có lòng bác ái. Ông nhà giàu trong bài Tin Mừng hôm nay đã rơi vào tình trạng tội khi ông vô cảm với người nghèo ngay ở cổng nhà ông. Vì thế, ông đáng phải sa hỏa ngục vì tiền bạc và sự sung túc đã làm cho mắt ông mù lòa, trái tim se thắt, tấm lòng trai cứng và sự dửng dưng đã trở thành tội ác và mất hạnh phúc đời đời...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có trách nhiệm liên đới với nhau, nhất là với người nghèo, người cô thế, cô thân, không nơi nương tựa... Không bao giờ chúng ta được để cho chủ trương: “Sống chết mặc bay” thường trực trong tâm hồn của mình.
Có thế, chúng ta mới xứng đáng được gọi là con Thiên Chúa và đáng được Người cứu chuộc.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết yêu thương những người nghèo khổ hơn chúng con bằng tình yêu vô vị lợi như Chúa. Xin cho chúng con đừng bao giờ để cho tư tưởng phân biệt giàu nghèo, giai cấp, địa vị ngự trị trong tâm hồn chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Tiêu chuẩn là sống bác ái với anh chị em
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tiêu chuẩn để được vào Quê Trời không phải ở chỗ giàu hay nghèo, nhưng hệ tại việc sống bác ái với anh chị em.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con tin Chúa là Cha yêu thương, Chúa chẳng loại bỏ ai ra khỏi nhà Cha. Nhà Cha luôn rộng mở đón mọi thành phần, mọi giới. Nhưng quyết định số phận chung cuộc của đời con tùy thuộc tự do của con. Xin cho con biết đi trên đường yêu thương, yêu Chúa và thương mọi người, để con tới được bến bờ yêu thương là Quê Trời, nơi Chúa là tình yêu ngự trị. Xin đừng để con đi trên đường bất công hận thù, kẻo con phải đi tới bến bờ thù hận mà người ta thường gọi là hỏa ngục. Chúa cho con thấy ông La-da-rô được hưởng nơi lòng Tổ Phụ Áp-ra-ham, nơi vĩnh cửu, không phải vì ông nghèo cho bằng vì ông nghèo mà vẫn không oán hận ai, nghèo mà vẫn giữ được lòng ngay thẳng: chỉ xin chứ không gian tham.
Nhà phú hộ kia bị trầm luân không phải do giàu có. Giàu có đâu phải là tội. Số phận đời đời của ông là kết quả của một đời ích kỷ. Sống trong nhung lụa dư thừa mà không nhìn thấy người anh em thiếu thốn quanh mình, đó là trọng tội của ông.
Lạy Chúa, nếu con gặp cảnh nghèo, xin cho con đừng vì nghèo mà gian tham, cáu kỉnh với mọi người. Xin giữ đôi tay con luôn trung thực, xin giữ môi miệng con đừng nói lời gian dối. Xin cho con luôn vui tươi dù giữa nghịch cảnh trong cuộc sống. Xin cho con luôn quảng đại cả khi con nghèo túng như bà góa thành Xarépta quảng đại với tiên tri Êlia trong Cựu ước.
Và Lạy Chúa, nếu con được đủ ăn đủ mặc, xin cho con đừng ích kỷ mà quên bao anh chị em đang khổ cực quanh con. Xin mở to mắt con, mở rộng tay con, mở toang lòng con, để con biết chia sẻ. Xin đừng để con vì giàu mà tự mãn xa cách, cao ngạo với mọi người. Xin cho con biết tạ ơn, khiêm tốn và quảng đại. Amen.
Ghi nhớ: “Con đã được sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ”.
Suy Niệm 8: Ông nhà giàu vô cảm và Ladarô
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Vào buổi sáng ngày 10.8.2012, tại ngã tư đường Tân Hoa giao với đường Tây Hoài Hải ở thành phố Thượng Hải, một cụ ông được phát hiện nằm ngất xỉu trên đường, đầu chảy nhiều máu do va đập sau cú ngã. Một vài người chứng kiến đầu tiên bấm số 120 để gọi xe cấp cứu… rồi thôi. Khi chưa có xe đến kịp để đưa ông cụ đi, người qua lại trên đường chỉ dửng dưng nhìn rồi bỏ mặc hoặc dừng lại chỉ trỏ. Họ tuyệt nhiên không có một động tác sơ cứu nào, thậm chí đến đỡ ông cụ dậy.
Một người phụ nữ nước ngoài đi ngang thấy sự việc trên. Ngạc nhiên trước thái độ vô cảm của những người chứng kiến, cô chạy đến nâng đầu ông cụ lên đặt trên một tấm khăn mềm, vừa khóc vừa khẩn nài mọi người xung quanh mau gọi xe cứu thương đến. Sự việc chỉ kết thúc khi cô này đưa tiền và thúc họ gọi xe cứu thương lần nữa. Nửa tiếng sau, ông cụ mới được đưa đến bệnh viện gần đó.
…Ông cụ bị nạn họ Tiền, 87 tuổi, được bệnh viện chẩn đoán thuyên tắc mạch máu não đột ngột khiến ông chóng mặt và ngã khuỵu trên đường. May mắn được cấp cứu kịp nên ông đã phục hồi… (Theo Tuổi trẻ Mobile)
Suy Niệm
Người phú hộ giàu có sung túc với vật chất sống bên cạnh người anh em Ladarô nghèo khổ, bệnh tật nằm đói lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy, nhưng người phú hộ vẫn dửng dưng coi như không có gì. Hai người ở gần nhau, chỉ cách nhau một cái cổng, nhưng cánh cổng vẫn thường khép kín, khiến hai người tuy rất gần nhưng lại rất xa nhau. Chúa Giêsu nhấn mạnh: Người phú hộ bị hình phạt vì ông vô cảm không để ý và quan tâm tới người anh em khốn khổ Ladarô đang nằm trước cổng nhà ông chờ đợi từng mẩu bánh từ bàn ông ăn rơi xuống.
Cánh cửa đóng kín của nhà phú hộ tượng trưng cho tấm lòng của con người luôn đóng kín trước đau khổ của anh chị em chung quanh. Sự giàu có cộng với vô cảm khiến cho con người khép kín lòng mình với Thiên Chúa là nguồn suối hướng về anh chị em, họ bằng lòng và khép kín hưởng thụ những của cải vật chất và những lạc thú trần gian mà quên đi Thiên Chúa với đời sống vĩnh cửu. Trong tương quan với tha nhân, sự giàu có và vô cảm làm khép kín lòng mình với những người anh em: Người ta không nhìn thấy người nghèo, người khổ ngay cổng nhà mình.
Đức Giêsu khẳng định nguy cơ của người giàu và quan tâm “đặc quyền của những người nghèo” qua lời của tổ phụ Abraham so sánh về Ladarô và người phú hộ: “Suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi, còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ” (Lc 16, 25). Bài ca Ngợi khen (Magnificat) nói rất rõ: “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,52-53).
Trước những Ladarô của thời đại hôm nay là những con người đói khổ, tuyệt vọng ở khắp mọi nơi, chúng ta sống theo lời giáo huấn của Giáo hội: “Mỗi người phải coi người đồng loại - không trừ ai như “cái tôi thứ hai”, cho nên trước hết phải quan tâm đến sự sống của họ và quan tâm đến những phương tiện cần thiết giúp họ sống một đời sống xứng đáng, chứ đừng bắt chước người giàu có kia đã không săn sóc tới Ladarô bất hạnh” (Hiến chế Mục vụ, số 27).
Mong rằng trái tim của tôi, của bạn, không đóng kín, và trở nên vô cảm trước nhu cầu và sự khốn khổ của anh em, mà luôn rộng mở lòng nhân ái chia sẻ.
Ý lực sống: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15).
Suy Niệm 9: Người giầu có và người nghèo khó
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Hôm nay Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn người phù hộ và Lazarô nghèo khó. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu cho chúng ta biết số phận con người sẽ được hạnh phúc viên mãn hay bị luận phạt muôn đời tùy theo họ biết yêu thương tha nhân hay không. Ngài vạch ra cho chúng ta con đường dẫn tới ơn cứu độ: biết nghe theo lời hướng dẫn của Maisen, các tiên tri, đặc biệt là Lời Chúa để sám hối, hoán cải và yêu thương mọi người, nhất là những anh chị em đau khổ. Thiên đàng không dành cho một mình chúng ta, chúng ta chỉ có thể tiến vào cùng với anh chị em trong tình yêu thương.
2. Mở đầu dụ ngôn, chúng ta thấy hai con người với hai hoàn cảnh hoàn toàn trái ngược xuất hiện. Một bên đại diện cho phú quí giầu sang, ngày ngày yến tiệc linh đình, còn bên kia là nghèo khổ, bệnh hoạn, dơ dáy bẩn thỉu. Một bên là thế giới của “lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình” và một bên là thế giới bệnh hoạn nghèo túng đến thảm thương, thế giới của “mụn nhọt ghẻ lở đầy mình” và là thế giới của những ước ao rất ư bình dị đáng thương “thèm được những thứ trên bàn ăn rơi xuống ăn cho no”. Cả hai thế giới ấy đều được khép lại với cái cửa là sự chết, nhưng cũng đồng thời mở ra một thế giới mới với hai số phận, hai cảnh đời hoàn toàn trái ngược nhau.
3. Người phú hộ trong dụ ngôn không làm điều gì gian ác, không lỗi đức công bằng, không ức hiếp ai, không phạm gì đến Lazarô cả, vậy tại sao ông ta lại bị sa vào hỏa ngục? Tội ông ở chỗ nào? Thực ra, ông không phạm một tội ác nào mà chỉ có tội “hững hờ, dửng dưng” trước đau khổ của người khác. Ông không phạm tội một cách tích cực mà phạm tội một cách tiêu cực, đó là “tội thiếu sót” như chúng ta đọc trong kinh Cáo mình. Ông chỉ biết hưởng thụ, yến tiệc linh đình, ca hát suốt ngày đêm mà không màng gì đến người nghèo khó Lazarô nằm ngay cổng nhà ông, muốn ăn những hạt cơm rơi trên bàn ăn của ông mà cũng không được.
4. Người ta thường nói: “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”: lành dữ đều có thưởng phạt, cao bay xa chạy cũng không thể thoát được. Cái chết đã phân chia hai người thành hai thế giới đối nghịch. Người phú hộ bị phạt, Lazarô được thưởng. Bài học Chúa dạy ta hôm nay là phải biết quản lý tài sản của Chúa “cho nên” vì chúng ta không phải là chủ mà chỉ là quản lý những gì Chúa đã thương ban. Phải có tinh thần liên đới và bác ái, phải biết chia sẻ với người đau khổ hầu kiếm được nhiều bạn hữu để “họ sẽ đón rước các con vào an nghỉ đời đời” Lc 16,9).
5. Chắc chắn cảnh giầu nghèo là điều không thể tránh được. Nhưng trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy chúng ta cách giải quyết: người giầu luôn sẵn có kẻ nghèo bên cạnh để có dịp thực hành giới răn trọng nhất hầu được phần thưởng Chúa ban. Tiền của dư thừa là một nguy hiểm cho những ai không có lòng mến Chúa, nhưng người có lòng mến Chúa thật thì sẽ biết sử dụng tiền của Chúa ban để làm ích cho mình và cho người khác nữa. Chúng ta dễ hiểu tại sao người giầu bị Chúa phạt khổ cực, còn người nghèo lại được Chúa thương. Bởi vì tuy nghèo khổ, nhưng người nghèo vẫn một lòng tin tưởng phó thác nơi Chúa, trong khi đó người giầu có lại khép kín tâm hồn, không biết liên đới chia sẻ với người khác. Như thế, chúng ta thấy thái độ lãnh đạm dửng dưng trước đau khổ của người khác cũng là một trọng tội (Mỗi ngày một tin vui).
6. Tác giả tập sách Đường Hy vọng đã lưu ý những người con tinh thần của mình như sau:
“Của cải chôn vùi con, nếu con đội nó lên đầu. Của cải làm bệ chân con nếu con đứng trên nó. Không có của mà tham vẫn chưa phải là nghèo khó. Có của mà không dính bén vẫn có thể có lòng khó nghèo thật sự. Dùng của cải cách quảng đại, trọng của cải cách tế nhị, xa của cải cách anh hùng. Không phải là của con, nhưng là của Chúa trao cho con sử dụng. Để có tinh thần nghèo khó và nhất là sống tinh thần nghèo khó, cần có tràn đầy tình yêu Chúa. Con hãy về bán tất cả những gì con có, bố thí cho người nghèo, rồi đến đây theo Chúa. Chàng thanh niên giầu có không thể đáp lại lời mời gọi sống khó nghèo trên bước đường theo Chúa, nên đã buồn sầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của mà không có nhiều tình yêu Chúa”.
7. Truyện: Chúa đến thăm bà lão.
Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: “Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì”. Bà đuổi anh và đóng cửa lại.
Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ ông”. Rồi bà đóng sầm cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và ngủ qua đêm. “Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh”. Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói: “Hôm nay ta đến với con 3 lần và cả ba lần con đều đuổi Ta” (Góp nhặt).
Suy Niệm 10: Chỗ dựa vững chắc
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài trích sách Giêrêmia nói đến hai hạng người: hạng tin tưởng cậy dựa vào những giá trị đời này, và hạng đặt niềm cậy trông nơi Thiên Chúa. Giêrêmia nói khốn cho hạng thứ nhất và phục cho hạng thứ hai.
2. Trong bài trích Phúc Âm, người phú hộ thuộc hạng thứ nhất. Khi ông chết thì những chỗ ông cậy dựa cũng tiêu tan luôn cho nên ông rơi vào cảnh rất khốn khổ. Ladarô là đại biểu của hạng thứ hai nên sau khi chết đã được hưởng hạnh phúc trong vòng tay Thiên Chúa (qua hình ảnh tổ phụ Abraham).
Dụ ngôn này còn muốn gởi một lời nhắn nhủ đến hạng thứ nhất: họ nên sớm thấy sai lầm của họ khi đặt niềm cậy trông vào những giá trị trần thế, để kịp thời quay về trông cậy vào Chúa. Đừng chờ đến khi chết, thấy rõ đâu là chỗ dựa vững chắc rồi mới sám hối, vì tới lúc đó, mọi việc đều không thể đảo ngược được.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Đã biết tiền bạc, của cải và nói chung những giá trị thế gian là không bền, thế nhưng nhiều người vẫn cứ cậy dựa vào chúng. Đó chính là cái ngu dại của con người. Nếu nói theo từ ngữ của ngôn sứ Giêrêmia trong bài đọc 1, đó chính là cái “khốn nạn” của con người.
2. “Abraham nói lại: giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm”...: Thiên Chúa không tạo dựng thẳm ngăn cách Ngài với con người. Nhưng chính con người tự đào vực thẳm ấy, bằng nhiều cách:
- Bằng ích kỷ không giúp đỡ một người anh em đang cần giúp trong khi chúng ta có thể giúp (như ông nhà giàu đối với Ladarô).
- Bằng thái độ bỏ Chúa đề hoàn toàn cậy dựa vào những giá trị trần gian.
3. Lạy Thiên Chúa của Abraham, con đã hiểu rằng lòng thương xót kẻ khốn khổ sẽ đặt con bên cạnh Ladarô trong lòng Chúa, trái lại sự ích kỷ sẽ đẩy con xuống vực thẳm chung với người phú hộ. Chúa biết con muốn chọn phía nào rồi, nhưng xin giúp con.
4. “Dửng dưng trước đau khổ của người khác là một tội. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nêu bật qua hình ảnh người giàu có trong bài Phúc Âm hôm nay”. (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
5. Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: “Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì”. Bà đuổi anh và đóng cửa lại.
Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì ? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông”. Rồi bà đóng sầm cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. ”Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh”. Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói: ”Hôm nay Ta đã đến với con 3 lần và cả 3 lần con đều đuổi Ta”. (Góp nhặt).
Suy Niệm 11: Biết quan tâm tới mọi người
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Đã biết tiền bạc, của cải nói chung là những giá trị không bền, thế nhưng, nhiều người vẫn cứ cậy dựa vào chúng. Đó chính là cái ngu dại của con người.
Một ngày nọ, vua Salomon bỗng nảy ra ý muốn, muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình trước mặt mọi người. Vua nói:
- Này Benaiah, trong vòng 6 tháng, ta muốn khanh mang về cho ta một chiếc vòng để đeo trong ngày lễ hội.
Benaiah trả lời:
- Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, thì thưa đức vua, thần sẽ tìm thấy nó và mang về cho ngài nhưng chắc là chiếc vòng ấy phải có gì đặc biệt ?
Nhà vua bảo:
- Nó phải có sức mạnh kỳ diệu. Nếu kẻ nào đang vui nhìn vào nó sẽ thấy buồn. Và nếu ai đang buồn, nhìn vào nó sẽ thấy vui.
Vua Salomon thừa biết sẽ chẳng đời nào có một chiếc vòng như thế tồn tại trên thế gian này, nhưng ông muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bàng.
Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn không thể tìm ra được một chiếc vòng nào như thế. Rồi chính vào đêm trước ngày lễ hội, ông lang thang đến một nơi nghèo nhất của Jêrusalem. Ông đi ngang qua chỗ người bán hàng lạc xoong với những món hàng đang được bày trên một tấm bạt tồi tàn. Benaiah dừng chân hỏi:
- Có bao giờ ông nghe nói về một chiếc vòng kỳ diệu làm cho người hạnh phúc đeo nó vào thì quên đi niềm vui sướng, và người đau khổ đeo nó vào thì quên đi nỗi buồn không ?
Người bán hàng lấy từ trên tấm bạt cũ lên một chiếc vòng giản dị có khắc một dòng chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ, khuôn mặt ông rạng rỡ lên một nụ cười. Đêm đó toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mừng lễ hội. Vua hỏi:
- Nào ông bạn của ta, ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa ?
Tất cả cận thần có mặt đều cười lớn và chính vua Salomon cũng cười. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc vòng ra và nói:
- Dạ nó đây, thưa đức vua!
Khi vua Salomon đọc xong dòng chữ, người ta thấy khuôn mặt của nhà vua biến sắc. Trên chiếc vòng đó người ta khắc dòng chữ này: “Mọi sự rốt cuộc rồi cũng qua đi”.
Chính giây phút ấy, vua Salomon nhận ra rằng: tất cả những sự khôn ngoan, vương giả, quyền uy và giàu có của ông rồi sẽ qua đi. Cả ông cũng thế. Ông cũng chỉ là một thứ phù du bởi vì một ngày nào đó, ông cũng sẽ phải trở về với cát bụi.
2. Tội của người nhà giàu ở chỗ ông thấy những đau khổ túng cực của người khác mà không một chút mảy may thương xót quan tâm.
Mẹ Têrêsa nói: “Người nào luôn sống lệ thuộc vào đồng tiền, lúc nào cũng cũng băn khoăn lo lắng về của cải của mình, thì người đó là người thực sự nghèo khó. Ngược lại, những người biết trao ban của cải để giúp đỡ người khác, người đó mới là người thực sự giàu có thực sự. Lòng tốt làm biến đổi con người nhiều hơn là những nghiên cứu khoa học và tài hùng biện. Một khi đã nhìn thấy hình ảnh của những người anh em trong nhau, bạn nghĩ rằng chúng ta có còn cần đến xe tăng và tướng lĩnh nữa không ?”
Chúng ta hãy tập cho mình có thói quen biết quan tâm tới mọi người. Đó là con đường làm cho chúng ta được dễ trở nên giống Chúa Giêsu hơn.
Ở London, thủ đô nước Anh có một ngôi thánh đường rất nổi tiếng. Đó là nhà thờ Saint Paul. Nhà thờ này có một lối kiến trúc rất độc đáo làm cho những âm thanh vang đi rất xa. Nếu áp tai vào tường, người ta có thể nghe được một người nói từ phía bên kia mái vòm tròn, dầu chỉ là giọng nói thì thầm tâm sự.
Có một đôi thanh niên nam nữ đã mượn nơi nhà thờ này làm điểm hẹn hò: Chàng trai vốn là một người làm nghề thợ đóng giày than thở với người yêu rằng:
- Anh chưa thể tiến hành hôn lễ vì đang thất nghiệp, không có tiền để mua da và các vật liệu làm giày, thì đào đâu ra tiền để làm lễ cưới ?
Nghe tin chẳng lành ấy, cô gái chỉ biết sụt sùi khóc và cầu nguyện:
- Lạy Chúa, xin giúp chúng con có tiền để làm lễ thành hôn!
Tình cờ, một người đi ngang qua hành lang phía bên kia nghe được câu chuyện và lời cầu nguyện của họ, ông ta quyết định giúp đỡ đôi thanh niên nam nữ này. Vì thế khi họ thất thểu ra về, ông khách cũng âm thầm theo sau để dò cho biết nhà chàng trai ở đâu, rồi lập tức ông cho người mang tặng anh ấy một số da và vật liệu để làm giày. Nhờ được giúp đỡ như vậy, nên người thanh niên bắt tay ngay vào việc và chẳng bao lâu anh trở nên phái đạt và anh sung sướng cử hành hôn lễ.
Mãi mấy năm sau, hai vợ chồng này mới biết được vị ân nhân của mình là ai khi ông trở thành vị thủ tướng nổi tiếng của nước Anh. Người đó chính là ngài William Ewart Gladstone (1809-1998).