Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
06/04 Ðức Tin Chân Chính
- Viết bởi Ga 8, 31-42
Ðức Tin Chân Chính.
Thứ Tư tuần 5 Mùa Chay.
"Nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi thực sự được tự do".
Lời Chúa: Ga 8, 31-42
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người Do-thái đã tin nơi Ngài rằng: "Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi". Họ thưa lại Người: "Chúng tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói "Các ngươi sẽ được tự do"?".
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi". Họ đáp lại: "Cha chúng tôi chính là Abraham!" Chúa Giêsu nói: "Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!" Họ lại nói: "Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!"
Chúa Giêsu nói: "Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Sự thật sẽ giải phóng các ông
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ)
Những dân tộc bị đô hộ nhiều năm mới hiểu được giá trị của giải phóng.
Những ai bị cầm tù, bị áp bức mới hiểu được giá trị của tự do.
Những ai đã từng bị vướng vào ma túy, cờ bạc, rượu chè,
mới hiểu nỗi sướng vui của người thoát khỏi vòng nô lệ của chúng.
Chế độ nô lệ đã cáo chung, nhưng lại thấy xuất hiện nhiều dạng nô lệ mới.
Con người trở nên nô lệ cho chính những sản phẩm tinh tế của mình,
và nhất là không thể giải phóng mình khỏi cái tôi ích kỷ.
Tự do mãi mãi là khát vọng của con người.
Con người vẫn chờ một Đấng Giải Phóng để mình được thật sự tự do.
Những người Do thái đang tranh luận gay gắt với Đức Giêsu.
Họ hãnh diện vì mình thuộc dòng dõi ông Abraham,
nên cho mình là người tự do, chưa hề làm nô lệ cho ai bao giờ (c. 33).
Đức Giêsu lại nhìn tự do theo một chiều hướng khác.
Ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội, người ấy không có tự do (c. 34).
Tự do không bắt nguồn từ việc mình thuộc dòng dõi ông Abraham.
Tự do đến từ việc tin vào lời sự thật của Đức Giêsu.
“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi…các ông sẽ biết sự thật
và sự thật sẽ cho các ông được tự do” (c. 32).
Tự do đến từ chính con người của Ngài:
“Nếu Người Con có cho các ông tự do, các ông mới thực sự tự do” (c.36).
Những người Do thái cố chấp, chỉ tìm cách giết Đức Giêsu (cc. 37, 40).
Họ không muốn nhận lời sự thật mà Ngài nghe được từ Thiên Chúa (c. 40).
Khi từ chối sự thật, họ đã trở nên nô lệ cho sự dối trá và sát nhân.
Đức Giêsu là Đấng Giải Phóng, Đấng cho người ta được tự do thực sự.
Con người bị trói buộc bởi nhiều mối dây, bởi những tính toán ích kỷ hẹp hòi
mà tự sức mình không sao thoát ra được.
Hãy đến với Giêsu, mở ra với Giêsu, ta sẽ thấy mình được thanh thoát như Ngài.
“Giả như các ông là con cái ông Abraham,
hẳn các ông phải làm điều ông Abraham đã làm” (c. 39).
Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi,
vì tôi đã phát xuất từ Thiên Chúa…” (c. 42).
Như thế những kẻ chống đối Đức Giêsu
thật ra chẳng phải là con cái thật sự của ông Abraham hay con cái Thiên Chúa.
Họ sống trong ảo tưởng về mình khi họ cương quyết loại trừ Đức Giêsu.
Trước khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, người dự tòng đã tuyên xưng
từ bỏ tội lỗi, để sống trong tự do của con cái Thiên Chúa,
từ bỏ những quyến rũ bất chính, để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi.
Mùa Chay là thời gian để chúng ta trở lại điều mình đã tuyên xưng,
để được sống đúng với ơn gọi Kitô hữu mình đã lãnh nhận.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Suy Niệm 2 : Nô lệ và tự do
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người Do thái cho rằng mình tự do. Thực sự họ sống trong nô lệ. Vì họ không sống trong sự thật. Họ bị lầm lạc.
Họ lầm tưởng mình tự do. Nhưng họ đã phạm tội. Phạm tội là nô lệ cho tội lỗi. Sống dưới ách ma quỉ. Bị dục vọng trói buộc. Chỉ có Chúa Giê-su tự do. Vì Chúa là Đấng Thánh. Chỉ khi nào người Do thái được Chúa giải phóng khỏi tội lỗi họ mới có tự do. “Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội…Vậy nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thật sự là những người tự do”.
Họ lầm tưởng mình là con cháu Áp-ra-ham. Nhưng thực sự không phải. vì Áp-ra-ham luôn lắng nghe và tuân hành ý Chúa. Còn họ thì không: “Giả như các ông là con cái ông Áp-ra-ham, hẳn các ông phải làm những việc ông Áp-ra-ham đã làm. Thế mà bây giờ các ông lại tìm giết tôi, là người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Áp-ra-ham đã không làm”.
Họ lầm tưởng họ là con Thiên Chúa. Nhưng không phải. Vì họ không yêu mến Chúa Giê-su là Đấng Cha sai đến: “Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến”.
Sống trong lầm lạc. Họ nô lệ cho sự lầm lạc. Họ ở ngoài Thiên Chúa. Cần phải có sự thật giải phóng họ mới được tự do. Chúa Giê-su chính là sự thật. Vì Người luôn ở trong Thiên Chúa.
Giống như Đa-ni-en và các bạn. Họ tự do. Vì họ luôn ở trong Thiên Chúa. Nên dù bị trói họ vẫn thảnh thơi. Có bị ném vào lò lửa, họ vẫn tự do. Đi lại ca hát chúc tụng Thiên Chúa. “Nhưng ta thấy có bốn người đang tự do đi lại trong lò lửa mà không hề hấn gì”. Họ tự do vì không chịu sống trong lầm lạc. Không chịu khuất phục trước cường quyền, Không sợ cả cái chết. Chính Na-bu-cô-đô-no-so là người bị nô lệ cho dục vọng và sự lầm lạc của mình.
Mùa Chay là mùa giải thoát. Ăn chay là để vượt thoát khỏi sự lầm lạc. Khỏi dục vọng. Khỏi ý riêng. Để ta được ở trong Thiên Chúa. Ở trong sự thật. Ta được tự do. Tâm hồn tự do khi ta trói buộc được xác thịt. Khi thả lỏng dục vọng ta sẽ bị mất tự do.
Lạy Chúa xin dùng sự thật giải phóng chúng con.
Suy Niệm 3: Ðức Tin Chân Chính
Trong bài Tin Mừng vừa đọc lại trên đây, số thính giả nghe Chúa Giêsu nói được thu gọn lại trong vòng những kẻ đã tin Người, và Chúa Giêsu đã khởi đi từ lòng tin này để mời gọi họ tiến xa hơn nữa bằng cách ở lại trong Lời của Người, nghĩa là bằng cách sống những gì Người truyền dạy để trở thành môn đệ của Người, và một khi trở thành môn đệ của Người, họ sẽ bước đi trong sự thật và được sự thật giải phóng khỏi vòng mê muội của tội lỗi. Tuy đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng những thính giả này vẫn chưa thay đổi được lối suy nghĩ chỉ dựa trên đời sống trần tục của họ. Khi nghe Chúa Giêsu nói đến việc giải phóng, họ nghĩ ngay tới tình trạng của những người nô lệ phải làm tôi mọi cho chủ, mà họ thì đang làm chủ chính mình, họ có làm tôi mọi cho ai đâu mà cần được giải phóng. Xét về mặt trần thế thì họ suy nghĩ rất đúng, nhưng Chúa Giêsu đâu muốn đề cập đến tình trạng nô lệ hay tự do về mặt xã hội. Người muốn nói với họ về sự tự do đích thực của những người thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tội lỗi.
Sứ mạng Chúa Cha trao phó cho Người là xóa bỏ quyền thống trị của sự dữ trên mặt đất này và mang lại cho loài người cuộc sống tự do, xứng với danh hiệu con cái Thiên Chúa. Họ xưng mình là con cái ông Abraham, là dòng dõi của một dân tộc được giải phóng khỏi ách nô lệ ngoại bang. Thế nhưng, cuộc sống của họ đang bị ràng buộc bởi vô số xiềng xích của ma quỉ, họ tự do bên ngoài, còn bên trong thì vẫn nô lệ cho sự dữ, cho tội lỗi. Sự thừa kế dòng dõi ông Abraham không đương nhiên biến họ thành những con người lương thiện công chính. Muốn trở nên công chính, họ cần phải làm một cuộc đổi đời, phải tẩy trừ cái ác ra khỏi lòng mình và cương quyết tiến lên trên đường trọn lành, có như thế, họ mới thực sự trở nên con cái ông Abraham và là những con người tự do đích thực.
Phần chúng ta đây, chúng ta là những người mang danh hiệu Kitô, là những người tự nhận mình là con cái Thiên Chúa. Tuy nhiên, danh xưng không làm nên thực chất, cái áo không làm nên thầy tu, chỉ có danh nghĩa bên ngoài và thậm chí ngay cả những việc đạo đức bên ngoài mà thôi, thì vẫn chưa làm nên một đời sống đức tin đích thực. Ðức tin chân chính được thể hiện qua những việc làm công chính. Người ta thường nói "xem quả biết cây", chúng ta đã suy nghĩ, nói năng, hành động như thế nào trong cuộc sống hàng ngày.
Lạy Chúa, nhiều lúc con cảm thấy yên tâm vì mình là người có đạo. Con có đạo như có một cuốn sách hay có một cái máy truyền hình, khi nào con cần hoặc khi nào con thích thì con mở ra xem, khi nào không cần thì con để yên ở đó, nhưng Chúa đâu muốn những người chỉ có đạo mà không sống đạo.
Lạy Chúa, xin giúp con can đảm lựa chọn đứng vào hàng ngũ con cái Thiên Chúa, một sự lựa chọn dứt khoát dẫn tới việc dấn thân quyết liệt cho điều mình lựa chọn. Xin cho con đừng chỉ hài lòng với danh xưng là người có đạo mà thôi, nhưng phải là một người sống đạo thực sự.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Chân Lý Sẽ Giải Thoát.
Khi thi hành nhiệm vụ khâm sứ Tòa thánh tại Bulgari, Đức cha Roncali nhận được một bức thư của một linh mục chỉ trích ngài về mọi mặt. Đọc thư xong, Đức cha Roncali không nói một lời, lòng vẫn yêu thương vị linh mục kia. Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức Hồng Y, rồi đắc cử Giáo Hoàng với danh hiệu Gioan XXIII. Nhân dịp về Rôma yết kiến vị Tân Giáo Hoàng, vị linh mục cũng ghi tên đi theo phái đoàn và được đặc ân tiếp kiến riêng Giáo Hoàng. Vị linh mục đó thuật lại như sau:
Trong lúc đứng ở phòng khách đợi phiên vào triều yết Đức Thánh Cha, đầu óc tôi cứ nghĩ đến bức thư năm xưa và thầm nghĩ mấy chục năm qua rồi, chắc giờ đây Ngài không còn nhớ nữa đây. Đang suy nghĩ miên man thì cánh cửa mở ra, cha thư ký dẫn tôi vào. Vừa thấy tôi, Đức Thánh Cha niềm nở bắt tay và mời tôi ngồi. Ngài ân cần thăm hỏi công việc mục vụ của tôi, của Giáo phận, và nhắc đến các bạn ở Bulgari. Câu chuyện vẫn diễn ra trong bầu khí thân tình. Bỗng Đức Thánh Cha đưa tay lấy cuốn Kinh Thánh và từ từ mở ra và trong đó có bức thư của tôi, ngài dịu dàng nói: “Con đừng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người có nhiều khuyết điểm. Cha để bức thư của con vào cuốn Kinh Thánh và hàng ngày đọc vào đó mà xét mình. Mỗi lần như thế, cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.
Tin Mừng hôm nay cho thấy thái độ của Chúa Giêsu đối với những người Do Thái mới tin vào Ngài. Lòng tin của họ chưa được trọn vẹn và Ngài đề nghị những biện pháp để củng cố niềm tin đó, như sống theo lời Chúa, chấp nhận được giải thoát khỏi tội lỗi, phát triển mối tương quan với Ngài. Tuy nhiên, các người Do Thái không đủ khiêm tốn để chấp nhận đề nghị của Chúa, họ tự phụ cho mình là con cái của Abraham và do đó không cần ai dạy thêm điều gì nữa, cũng chính vì thế họ không thể tiến xa hơn trên con đường đức tin.
Tác giả tập sách Đường Hy vọng khuyên: “Lòng mến Chúa phải tuyệt đối. Chúa dạy không ai có thể làm tôi hai chủ. Con làm tôi mấy chủ? Mỗi ngày dành riêng ít phút thinh lặng để sống đời nội tâm. Con chỉ có một việc quan trọng nhất, Maria đã chọn phần tốt nhất. Nếu con không sống nội tâm, nếu Chúa Giêsu không phải là linh hồn của các hành động của con, thì sẽ thế nào? Con chỉ có một của ăn là Thánh ý Thiên Chúa, nghĩa là con sống và lớn lên bằng ý Chúa. Ý Chúa như thức ăn làm con sống mạnh sống vui, ngoài ý Chúa con sẽ chết. Con chỉ có giây phút đẹp nhất, đó là giây phút hiện tại. Đời con sẽ tuyệt đẹp nếu từng giây phút con tin vào Lời Chúa và thực hiện thánh ý Ngài”.
Ý Chúa muốn cho mỗi ngừoi chúng ta trong hiện tại là trở thành những người con thảo, hãy để lời Chúa thấm nhập và hướng dẫn cuộc sống chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Thiên Chúa hay các thần tượng
Vậy Đức Giêsu nói với những người Do-thái đã tin Người:
“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ của tôi;
các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông.”
Họ đáp: “Chúng tôi là dòng dõi ông Áp-ra-ham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do?” Đức Giêsu trả lời:
“Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội”. (Ga. 8, 31-34)
Nếu quả thật lập trường của chúng ta là phục vụ chỉ một Thiên Chúa và chỉ yêu mến Ngài thôi, thì lúc đó trái tim chúng ta có còn bị chia sẻ và gắn bó với nhiều thần tượng trần thế này không? Phải thú nhận rằng, tất cả chúng ta nhiều hoặc ít vẫn còn thờ thần tượng khác, như kinh tế, tiền tài, quyền lực, danh vọng, tiện nghi, thú vui, chỉ kể ba thứ trong đó nhiều thứ khác nữa. Chắc chắn chúng chống lại Thiên Chúa và chống lại cả chúng ta, buộc chúng ta phải thú nhận rằng trong những sự kiện đó đã làm chúng ta xa phụng sự một mình Thiên Chúa rồi. Chúng ta đã là đầy tớ của nhiều thứ, song chúng ta vẫn bào chữa như người Do thái rằng: “Chúng tôi là dòng giống Áp-ra-ham không bao giờ chúng tôi là nô lệ của ai”.
Như Si-rác, Mi-sác và Áp-đê-na-gô, chúng ta có bổn phận phải từ chối phục vụ bất cứ thần tượng nào, nếu đó không phải là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô. Và này, Người là ai mà có thể dẫn dắt chúng ta ngày nay được như thế. “Vậy nếu Người Con có giải phóng các ông, các ông mới thực sự tự do”. Chỉ mình Đức Giêsu Kitô mới chống lại các thần tượng các thời đại và có thể làm cho tâm thức trở lại và khám phá thấy sự khác biệt giữa hai lối sống: tự do hay nô lệ. Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta phải biết dùng của cải Thiên Chúa đã dựng nên, chứ đừng làm nô lệ cho của cải. Nếu không, chúng ta không được giải phóng.
Chúng ta biết rằng: Không ai có thể làm tôi hai chủ. Đó là chân lý làm cho chúng ta được tự do mà mỗi người phải tự trả lời trước mặt Thiên Chúa. Chỉ khi thực hiện được điều kiện này, trái tim chúng ta mới có thể gắn bó thực sự với việc phục vụ Thiên Chúa duy nhất mà thôi.
G.F
Suy Niệm 6: Phạm tội là làm nô lệ cho tội
Tin Mừng hôm nay trình thuật cuộc đối chất giữa Đức Giêsu và người Dothái.
Trước tiên, Đức Giêsu khẳng định cho họ biết rằng: nếu họ ở trong Lời của Ngài, tức là sự thật thì họ thuộc về Ngài và trở thành môn đệ, bằng không sẽ trở thành nô lệ cho tội và bị truất phế bất cứ lúc nào!
Khi xác định như thế, Đức Giêsu cảnh báo sự kiêu ngạo tự phụ của người Dothái. Bởi vì họ luôn nghĩ rằng mình thuộc hạng người ưu tuyển, dân riêng, nên có đặc quyền đặc lợi trước mặt Thiên Chúa và không ai có quyền đụng tới họ.
Tiếp theo, Ngài đã vạch trần sự giả tạo nơi người Dothái khi họ dựa vào tổ phụ Apraham và an tâm vì được đảm bảo bởi uy tín của tổ phụ, nhưng lại hành động ngược lại với những gì Apraham đã làm khi xưa. Vì nếu Apraham xưa kia có lòng mộ mến và sẵn sàng nghe lời các tiên tri, thì dân này lại đang tìm cách loại trừ vị tiên tri vĩ đại là chính Đức Giêsu.
Cuối cùng, nếu đọc tiếp đoạn Tin Mừng này, từ câu 44 tiếp theo..., chúng ta thấy rõ Đức Giêsu tuyên bố thẳng thừng là họ không thuộc về Thiên Chúa mà thuộc về ma quỷ.
Ngày nay vẫn còn nhiều người tin một đàng, làm một nẻo. Có nhiều người tự xưng là đạo gốc, nhưng những hành vi của họ nơi chợ búa, ngoài đồng ruộng hay nơi đường phố thì ngược lại với những gì họ tự hào và tuyên xưng trong nhà thờ.
Lý do, họ không để cho Lời Chúa thấm nhập vào trong tâm hồn, mà chỉ ở trên đầu môi chóp lưỡi mà thôi.
Xin Chúa ban cho chúng ta hiểu và yêu mến cũng như siêng năng tuân giữ Lời Chúa để được thuộc trọn về Ngài. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu đến để mạc khải sự thật
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa đến để mạc khải sự thật. Ai tin và sống theo lời sự thật ấy, sẽ được giải phóng khỏi ách nô lệ tội lỗi và được tự do trong cuộc sống làm con cái Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi con đứng trước một món nợ, trước một cám dỗ, con thường bị ma lực của đồng tiền, của danh vọng và lạc thú lôi cuốn. Con không còn đủ sáng suốt và tự do để chọn lựa. Khi thỏa mãn những đam mê của con, con tưởng mình như được tự do. Nhưng lạy Chúa, chính những đam mê ấy đã ràng buộc con. Bao nhiêu lần con được ơn Chúa soi sáng để thoát khỏi ách nô lệ ấy, vậy mà con vẫn chưa thoát được. Cảnh nô lệ tội lỗi ngày càng đẩy con xuống vực sâu. Càng tự do thỏa mãn đam mê, con lại càng ích kỷ và nô lệ. Lạy Chúa, xin cứu con.
Chỉ có Chúa mới thấy rõ giá trị của từng sự vật và hoàn toàn tự do để chọn lựa từng sự vật theo giá trị đích thực của nó. Chúa đã chọn lựa ý Cha hơn là ý riêng của mình. Chúa chọn đau khổ, nhục nhã trên thập giá hơn là vinh quang trần gian… Chúa hoàn toàn tự do để chọn lựa điều tốt nhất. Và nhất là, Chúa đã chịu chết như một nô lệ để giải phóng con và trả lại tự do cho con.
Lạy Chúa, Chúa đã đến trần gian để mạc khải sự thật cho con biết chỉ có Thiên Chúa là Cha nhân hậu và mọi người là anh em với nhau. Đó là điều cao cả nhất, còn tất cả các sự vật khác chỉ có giá trị khi nó giúp con sống tốt trong tương quan với Chúa và với anh chị em con.
Vì vậy, xin Chúa giúp con đừng bao giờ lệ thuộc vào bất cứ vật nào ngoài lệ thuộc Tình yêu và Thánh Ý Chúa Cha. Con muốn nô lệ Chúa để được tự do thật sự. Xin giúp con chỉ hưởng dùng tạo vạt khi nào chúng giúp con tìm vinh quang Chúa và phần rỗi cho con và cho anh chị em con. Xin dạy con quý trọng tự do được trả giá bằng Máu Thánh Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi thực sự được tự do”.
Suy Niệm 8: Ở lại trong tình yêu của Thầy
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một sinh viên Nhật Bản đến văn phòng của một linh mục ở Boston, và nói: “Thưa Cha, con đang đi tìm một đời sống đẹp. Cha có thể chỉ cho con biết phải tìm ở đâu?”
Linh mục đáp: “Chắc anh muốn trao đổi về tôn giáo?”
“Thưa không, con không muốn trao đổi về lý thuyết. Việc đó con thấy nhan nhản rồi. Con cần thứ khác. Cha biết không, khi còn ở ký túc xá Đại học Cambridge con ở chung phòng với một anh thợ mộc, người mà con cho là anh có đời sống rất đẹp. Anh không bao giờ nghĩ về mình, mà luôn nghĩ về người khác. Sinh viên tụi con nhiều khi sống cẩu thả, chén dĩa lung tung, đồ ăn vứt bừa bãi. Thấy thế, anh không nói gì. Nhưng khi mọi người ra khỏi phòng ăn, một mình anh đi thu dọn, sắp xếp lại cho ngăn nắp”, anh sinh viên đáp.
Nghe thế, cha đưa cho anh cuốn Thánh Kinh và nói: “Hãy cầm lấy. Nếu anh muốn tìm một đời sống đẹp, anh hãy tìm trong đó”.
… Hai năm sau, người sinh viên Nhật ấy đến gặp cha cười cười nói: “Cha có nhận ra con không?”
“Hình như tôi đã gặp anh ở đâu, nhưng không nhớ rõ”, vị linh mục đáp.
Anh đưa cuốn Thánh Kinh ra và nói: “Con đã tìm thấy đời sống đẹp. Con đã tìm thấy đời sống đó nơi Đức Kitô”.
Suy Niệm
Ðức Giêsu nói: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi”. “Ở lại trong Đức Kitô”, “ở lại trong Lời Ta (Thầy)” hay “ở lại trong tình yêu của Thầy”, sự gắn bó sâu thẳm với Thầy - một thực tại thiêng liêng khi đón nhận Đức Kitô hằng sống, đón nhận Lời chân thật của Thầy, nghiền ngẫm và sống Lời đó trong tận thâm cung lòng mình. Kết hiệp mật thiết với Thầy, người môn đệ sẽ được Thầy chỉ cho biết được sự thật về Thiên Chúa và về con người, và sự thật là nguồn mạch để giải phóng:
Giải phóng khỏi sợ hãi: Vì có Chúa cùng đồng hành, chúng ta không sợ gì.
Giải phóng khỏi bản ngã vì Chúa Giêsu sẽ tái tạo ta thành con người mới, hợp với ý Ngài.
Giải phóng khỏi bận tâm thế gian: Môn đệ Chúa không bận tâm điều người ta nói, vì họ chỉ nghĩ đến thánh ý của Thiên Chúa qua Lời.
Giải phóng khỏi tội lỗi: Thân phận con người mỏng giòn khó mà không phạm tội, nhưng ơn Chúa sẽ giúp chúng ta vượt thắng tội lỗi.
Giải phóng cho chúng ta tự do… Sự tự do mà Ðức Giêsu muốn nói ở đây là sự sống trong ân sủng của Thiên Chúa. Khi chúng ta phạm tội mất ơn thánh, nghĩa là chúng ta phải sống xa Chúa là sự tự do tuyệt đối. Sự tự do ấy chỉ có lại được trong Ðức Giêsu, khi ta gắn bó lại, liên kết lại cuộc đời chúng ta với Ngài. Chúng ta chỉ có thể hạnh phúc khi sống địa vị làm con Thiên Chúa - con của tự do.
Thật thế, chính Chúa Giêsu là con đường duy nhất dẫn tới sự tự do đích thực: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6), Ngài là ánh sáng đã chiến thắng bóng tối đem lại tự do cho chúng ta bằng cái chết trên thập giá, tiêu diệt sự chết và tất cả những gì trói buộc chúng ta.
Chúng ta giục lòng tin vào Chúa bằng cách lắng nghe và đón nhận Ngài, xin Ngài giải phóng chúng ta bước đi trong tự do của Ngài, từng ngày và mọi ngày trong cuộc đời.
Ý lực sống: “Chúa là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do” (2Cr 3,17).
Suy Niệm 9: Nô lệ và tự do
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu đã nói: Ai ở lại trong Ta thì biết sự thật và sự thật sẽ giải phóng cho kẻ đó được tự do. Sự tự do mà Đức Giêsu muốn nói ở đây là sự sống trong ân sủng của Thiên Chúa. Khi chúng ta phạm tội mất ơn thánh, nghĩa là chúng ta phải sống xa Chúa là sự tự do tuyệt đối. Khi phạm tội, chúng ta bị trói buộc vào con đường của ma quỉ, của những đam mê dục vọng. Chúng ta chỉ có thể sống hạnh phúc và tự do khi sống đúng địa vị làm con Thiên Chúa. Sự tự do ấy chỉ có được trong Đức Giêsu, khi chúng ta liên kết cuộc đời chúng ta với Ngài.
2. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói cho người Do thái biết điều gì đã trói buộc họ khiến họ phả làm nô lệ, và điều gì sẽ giải thoát họ để họ được tự do. Điều giải thoát họ khỏi nô lệ và được tự do: “Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi”.
Giải phóng cho chúng ta tự do... Sự tự do mà Đức Giêsu muốn nói ở đây là sự sống trong ân sủng Thiên Chúa. Khi chúng ta phạm tội mất ơn thánh, nghĩa là chúng ta phải sống xa Chúa là sự tự do tuyệt đối. Sự tự do ấy chỉ có lại được trong Đức Giêsu, khi ta gắn bó lại, liên kết lại cuộc đời chúng ta với Ngài. Chúng ta chỉ có thể hạnh phúc khi sống địa vị làm con Thiên Chúa – con cái tự do.
3. Khi nguyên tổ Adong-Evà phạm tội lỗi nghịch cùng Chúa, ma quỉ đã đem tội lỗi vào trần gian. Và khi tội lỗi xâm nhập trần gian, con người đắm chìm trong tội, nô lệ cho mọi khuynh hướng xấu, bị giam hãm trong tội nguyên tổ, sự xuống cấp của một luân lý suy đồi “tội trần gian” và làm tôi cho ma quỉ. Tự sức mình con người không thể tự giải thoát mình, nên cần đến ơn Cứu độ. Đức Giêsu đã phải trả giá đắt để chuộc con người và đem con người trở nên con cái tự do. Đức Giêsu cũng khẳng định: “Kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi” (Ga 8,35).
4. Muốn được sống tự do, muốn giải thoát con người của mình khỏi những trói buộc của lỗi lầm và khuyết điểm, thì điều cần thiết trước tiên là phải biết sự thật về mình. Có điều, như nhà văn Shakespeare nói: “Người dại thường nghĩ rằng mình khôn, còn người khôn lại tự biết mình dại”. Như vậy, chúng ta cần phải khôn ngoan. Có nhiều người bỏ xưng tội rước lễ cả mấy chục năm nhưng khi đề nghị với họ nên xét mình xưng tội, thì họ trả lời: “Con chẳng có tội gì”!
Hồi học ở Đại chủng viện, cha giáo Phụng vụ có kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện có thật:
Một thanh niên bỏ xưng tội rước lễ nhiều năm, vào dịp Mùa Chay ngài khuyên anh ta nên dọn mình xưng tội. Anh nói:
- Con chẳng có tội gì.
Ngài hỏi anh ta có chơi gái hay không? Anh ta trả lời cách tỉnh bơ:
- Thưa cha, chuyện đó là chuyện bình thường.
Ngài nói:
- Anh có biết là tội lỗi điều răn thứ sáu không?
Anh ta cãi lại:
- Sao lại là tội được. Con trả tiền đàng hoàng mà!
5. Chúng ta là những người mang danh hiệu Kitô hữu, là những người tự nhận mình là con cái Thiên Chúa. Tuy nhiên, danh xưng ấy không làm nên thực chất, cái áo không làm nên ông thầy tu, chỉ có danh hiệu bên ngoài và thậm chí ngay cả những việc đạo đức bên ngoài mà thôi, thì vẫn chưa làm nên một đời sống đức tin đích thực. Đức tin chân chính được thể hiện qua những việc làm công chính. Người ta thường nói “xem quả biết cây”, chúng ta đã suy nghĩ, nói năng, hành động như thế nào trong cuộc sống hằng ngày, nhất là trong Mùa Chay thánh này?
6. Truyện: Muốn có đời sống đẹp.
Một sinh viên Nhật Bản đến văn phòng của một linh mục ở Boston, và nói: “Thưa cha, con đang đi tìm một đời sống đẹp, cha có thể chỉ cho con biết phải tìm ở đâu “?
Linh mục đáp: “Chắc anh muốn trao đổi về tôn giáo”?
Anh trả lời: “Thưa không, con không muốn trao đổi về lý thuyết. Việc đó con thấy nhan nhản rồi. Con cần thứ khác. Cha biết không, khi con ở ký túc xá Đại học Cambridge con ở chung phòng với một anh thợ mộc, người mà con cho là anh có đời sống rất đẹp. Anh không bao giờ nghĩ về mình, mà luôn nghĩ về người khác. Sinh viên tụi con nhiều khi sống cẩu thả, chén đĩa lung tung, đồ ăn vứt bừa bãi. Thấy thế, anh không nói gì. Nhưng khi mọi người ra khỏi phòng ăn, một mình anh đi thu dọn, sắp xếp lại cho ngăn nắp.
Nghe thế, cha đưa cho anh cuốn Thánh Kinh và nói: “Hãy cầm lấy. Nếu anh muốn tìm một đời sống đẹp, anh hãy tìm trong đó”.
... Hai năm sau, người sinh viên Nhật ấy đến gặp cha cười cười nói: “Cha có nhận ra con không”? Cha nói: “Hình như tôi đã gặp anh ở đâu, nhưng không nhớ rõ”.
Anh đưa cuốn Thánh Kinh ra và nói: “Con đã tìm thấy đời sống đẹp. Con đã tìm thấy đời sống đó nơi Đức Kitô”.
Suy Niệm 10: Giải thoát
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Lời Chúa hôm nay đặt vấn đề “giải thoát”:
1. Bài đọc 1: Ba thiếu niên Sidrach, Misach và Abdênagô bị ném vào lò lửa. Vua Nabucôđônôsor bảo họ thờ lạy các thần Babilon thì họ sẽ được giải thoát. Họ không nghe vua, nhưng lại kêu xin Thiên Chúa và Ngài đã giải thoát họ.
2. Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu nói cho người Do Thái biết điều gì trói buộc họ khiến họ làm nô lệ, và điều gì sẽ giải thoát khiến họ được tự do. Điều trói buộc họ thành nô lệ là tội, nhất là tội tự mãn mình là con cháu Abraham nhưng không làm theo gương Abraham là mở rộng cõi lòng để tin vào Thiên Chúa và Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến. Điều giải thoát cho họ được tự do là nghe lời Chúa Giêsu để biết Sự Thật, “Sự thật sẽ giải thoát con người”.
B. Suy Niệm (...nẩy mầm)
1. Bạn đang kẹt trong một tình thế rắc rối và muốn thoát ra. Có nhiều cách: dùng sức để đấu tranh, dùng mưu để đánh lừa, dùng tiền để mua chuộc…Có lẽ bạn sẽ thoát, nhưng chỉ tạm thời. Lòng bạn sẽ phập phồng lo lắng không biết lúc nào sẽ bị lôi trở lại tình thế rắc rối đó. Chỉ có một cách giải thoát bạn một cách thực sự, đó là sự thật: hãy bình tĩnh nhận định tình thế để thấy rõ sự thật của mình và của người và hai bên cùng nhau giải quyết thẳng thắn.
2a. Muốn giải thoát con người của mình khỏi những trói buộc của lỗi lầm và khuyết điểm, điều cần thiết trước tiên là phải biết sự thật về những lỗi lầm và khuyết điểm đó.
2b. Khi Đức Cha Roncalli làm khâm sứ toà thánh tại Bungari, Ngài nhận được một bức thư của một vị Linh mục chỉ trích về Ngài nhiều mặt. Đọc xong bức thư, Ngài không nói một lời, lòng vẫn yêu thương vị Linh mục kia. Thời gian trôi qua Ngài được thăng chức Hồng Y, rồi đắc cử Giáo hoàng với danh hiệu Gioan XXIII. Có lần vị Linh mục kia được Đức Giáo hoàng tiếp kiến. Vị Linh mục rất lo lắng, sợ Ngài trách về chuyện cũ. Nhưng Đức Gioan XXIII không trách mà còn nói: “Cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người có nhiều khuyết điểm. Cha để bức thư của con vào cuốn Thánh kinh và hằng ngày đọc vào đó mà xét mình. Mỗi lần như thế Cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con” (Mỗi ngày một tin vui).
3a. Không gì trói buộc con người chúng ta chặt bằng tội lỗi. Không gì giải thoát chúng ta, ban cho chúng ta tự do trọn vẹn bằng sự thật chứa đựng trong Lời Chúa.
3b. Thấy một thổ dân Phi Châu đang đọc sách, một người buôn Châu Âu hỏi xem anh đang đọc gì. Anh ta trả lời: “Đọc Thánh kinh”. Nhà buôn buồn cười nói: “Thứ đó, ở xứ tôi đã lỗi thời rồi!”. Người Phi Châu đáp: “Nếu ở đây mà Thánh kinh lỗi thời, thì ông đã bị ăn thịt từ lâu rồi!”.
Suy Niệm 11: Xin cho con biết Chúa và biết con
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Lời Chúa hôm nay nói về vấn đề "giải thoát":
Ba thiếu niên Sidrach, Misach và Abdênagô bị ném vào lò lửa, nhưng kêu xin Thiên Chúa và Người đã giải thoát các em.
Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu nói cho người Do Thái biết điều gì đã trói buộc họ khiến họ phải làm nô lệ, và điều gì sẽ giải thoát họ để họ được tự do.
Điều giải thoát họ khỏi nô lệ và được tự do là nghe Lời Chúa để biết Sự Thật, "Sự thật sẽ giải thoát anh em" (Ga 8,32).
Tạp chí kinh tế Viễn Đông mới đây có ghi lại chuyện tự nộp mình rất đáng khâm phục của một tên cướp như sau: Một đêm nọ, vì quá mỏi mệt với cuộc sống chui lủi, tên cướp khét tiếng đã ra đầu thú. Trước thái độ hồ nghi của viên công an trực, tên cướp đã chỉ vào vết sẹo để khẳng định rằng, chính mình đã từng bị lực lượng an ninh tầm nã trong mấy tháng qua. Mặc dầu làm thế nhưng viên công an vẫn tiếp tục nghi ngờ, nhất định không cho anh vào khám, còn kẻ cướp thì dứt khoát không chịu bỏ đi. Phải đợi đến sáng hôm sau, các viên chức công lực mới nhận diện được người mà họ đã truy nã trong mấy tháng qua. Tên cướp cho biết, anh đã kiệt sức vì cuộc chạy trốn. Hằng đêm anh không thể ngủ yên. Dù chỉ là tiếng chó sủa, hay ngay cả tiếng gà gáy cũng làm anh phải giật mình. Bước vào phòng giam, tên cướp nhìn vào viên công an trực của đêm hôm trước với vẻ đắc thắng.
Muốn giải thoát con người của mình khỏi những trói buộc của lỗi lầm và khuyết điểm, thì điều cần thiết trước tiên là phải biết sự thật về mình. Có điều như nhà văn Shakespeare nói: "Người dại thường nghĩ rằng mình khôn, còn người khôn lại tự biết mình dại." Như vậy, chúng ta cần phải khôn ngoan.
Có nhiều người bỏ xưng tội rước lễ cả mấy chục năm nhưng khi đề nghị với họ nên xét mình xưng tội, thì họ trả lời "Con chẳng có tội gì".
Hồi tôi học ở Đại Chủng Viện, cha giáo Phụng vụ của tôi có kể cho chúng tôi một câu chuyện có thật. Một người thanh niên bỏ xưng tội rước lễ nhiều năm, vào dịp Mùa Chay ngài khuyên anh ta nên dọn mình xưng tội. Anh ta nói:
- Con chẳng có tội gì.
Ngài hỏi có đi chơi gái hay không. Anh ta trả lời cách tỉnh bơ:
- Thưa cha, chuyện đó là chuyện bình thuờng.
Ngài nói:
- Anh có biết đó là tội lỗi điều răn thứ sáu hay không?
Anh ta cãi lại:
- Sao lại là tội được. Con trả tiền đàng hoàng mà!
Hãy tập cho mình có thói quen biết nhìn nhận những yếu đuối bất toàn của mình và biết sống khiêm nhường. Chỉ có cách đó, chúng ta mới có thể có được cuộc sống thanh thản và bình an, không bị thế gian, ma quỉ và xác thịt quậy phá.
Đời Chiến Quốc, có vua nước Sở là Chiêu Vương gặp loạn phải trốn ra nước ngoài. Lúc ấy có người hàng thịt dê tên Duyệt chạy theo.
Khi Chiêu Vương trở về lấy lại được lãnh thổ, nhà vua tưởng thưởng cho những người đi theo, trong đó có cả anh hàng thịt dê nữa.
Trong lúc ai cũng vui mừng nhận lãnh, thì anh chàng bán thịt dê lại từ chối. Anh khiêm nhường tâu với vua rằng:
- Khi đức vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt dê. Nay đức vua còn nước, tôi còn nghề bán thịt dê. Thế là đủ rồi, đâu dám mong thưởng gì hơn nữa.
Chiêu Vương cố ép, người bán hàng thịt dê lại cố từ.
- Đức vua mất nước không phải là tội tôi, nên tôi không dám liều chết. Đức vua lấy lại được nước, không phải là do công của tôi, nên tôi không dám nhận phần thưởng.
Chiêu Vương bảo:
- Vậy thì để ta sẽ đến chơi nhà ngươi.
Người hàng thịt dê nói:
- Theo phép nước, người nào có công to thì mới được trọng thưởng, vua mới đến nhà. Nay tôi tự xét mình không đủ trí mưu giữ được nước, không đủ dũng cảm để làm cho giặc phải lui. Quân giặc vào nước, tôi phải lánh nạn chạy theo vua, như vậy đâu phải chủ ý theo vua. Nay vua bỏ phép nước đến nhà tôi, tôi e thiên hạ chê cười chăng?
Chiêu Vương nghe nói, ngoảnh lại bảo quan đại phu Tư Mã Tử Kỳ:
- Anh này tuy làm nghề ti tiện mà giải bày nghĩa lý rất cao. Nhà ngươi làm thế nào mời được anh ta ra nhận chức Tam Công cho ta.
Thấy vậy người bán hàng thịt dê nói:
- Tôi biết chức Tam Công là quý, quý hơn cửa hàng thịt dê, bổng lộc lại nghìn vạn, giàu hơn tiền lãi bán thịt dê, nhưng tôi đâu dám nhận để nhà vua mang tiếng gia ơn không phải nghĩa. Vậy xin cứ cho tôi được giữ nghề cũ.
Nói xong, người bán hàng thịt dê lui ngay.
Lạy Chúa, xin cho con được biết con và biết Chúa, biết con chẳng là gì và biết Chúa là tất cả để con biết luôn sống khiêm nhường và tin tưởng nơi Chúa. Xin cho con biết tự hạ, để chỉ nghĩ đến Chúa mà thôi. Amen.
05/04 Vai Trò Của Ðấng Messia
- Viết bởi Ga 8, 21-30
Vai Trò Của Ðấng Messia.
Thứ Ba tuần 5 Mùa Chay.
"Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai".
Lời Chúa: Ga 8, 21-30
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta ra đi, các ông sẽ tìm kiếm Ta và sẽ chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi các ông không thể tới được".
Người Do-thái nói với nhau rằng: "Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói "Nơi Ta đi các ông không thể tới được"?"
Chúa Giêsu nói tiếp: "Các ông thuộc về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Các ông thuộc về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã nói: Các ông sẽ chết trong tội các ông. Vì, nếu các ông không tin Ta, các ông sẽ chết trong tội của các ông".
Vậy họ liền hỏi: "Ông là ai?" Chúa Giêsu trả lời: "Là Nguyên thuỷ đang nói với các ông đây! Ta có nhiều điều phải nói và đoán xét về các ông, nhưng Ðấng đã sai Ta là Ðấng chân thật, và điều Ta nói ra trong thế gian đây, chính là điều Ta đã nghe biết ở Ngài".
Nhưng họ không hiểu là Người nói về Chúa Cha, vì thế Chúa Giêsu nói: "Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai. Ta không tự mình làm điều gì. Ðiều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Ðấng đã sai Ta đang ở với Ta; Ngài không để Ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm điều đẹp lòng Ngài". Khi Người nói những điều ấy thì có nhiều kẻ tin vào Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Giương cao Con Người lên
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
“Khi các ông giương cao Con Người lên…” (c. 28).
Đó là cách diễn tả về cái chết của Đức Giêsu trong Tin Mừng Gioan.
Cái chết trên thập giá đúng là một sự giương cao nhục nhã, đau đớn.
Đức Giêsu bị treo lên cây gỗ như một kẻ bị Thiên Chúa nguyền rủa.
Những kẻ giương cao Ngài lên là các ông, các nhà lãnh đạo Do-thái.
Họ đã giết Đức Giêsu vì nhiều lý do.
Lý do lớn nhất là vì Ngài đã dám sống trọn vẹn cho Cha và cho con người.
Sống công chính đã khiến Ngài trở nên nạn nhân cho cái chết bất công.
Cái chết của Đức Giêsu gắn kết Ngài với muôn triệu cái chết khác
của những người vô tội trong suốt dòng lịch sử.
Nhưng cái chết của Đức Giêsu còn nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã biến cái chết ghê rợn của Con Ngài thành dấu chỉ của tình yêu.
Nhìn lên thánh giá, chúng ta thấy tình yêu của Cha tặng trao cho nhân loại.
Cha đã tặng tình yêu lớn nhất là chính Con Một của mình.
Vì thế có thể nói chính Cha đã giương cao Con mình trên thánh giá.
“Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc,
Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy” (Ga 3, 14).
Đức Giêsu được giương cao bởi chính Thiên Chúa qua cái chết của Ngài.
Như dân Do thái xưa đã nhìn lên con rắn bằng đồng để được sống,
ai nhìn lên thánh giá và tin vào tình yêu, người ấy sẽ được cứu độ.
Thập tự giá không còn là dấu hiệu của cái chết bất lực của một nạn nhân.
Nó đã trở nên thánh giá với sức mạnh phi thường.
“Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất,
tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32).
Qua việc giương cao này, sức thu hút mạnh mẽ của thánh giá được bày tỏ.
Cả nhân loại được nâng lên khỏi cái nặng nề tội lỗi của chính mình.
Đấng chịu đóng đinh vẫn lôi kéo cả vũ trụ này mãi cho đến tận thế.
Cuối cùng, có thể nói chính Đức Giêsu đã tự giương cao mình trên thánh giá.
“Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được,
nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Ga 10, 18).
Cái chết là kết quả tất yếu của một cuộc sống dám để Cha chi phối trọn vẹn.
“Tôi không tự mình làm bất cứ điều gì…
Chúa Cha dạy tôi thế nào thì tôi nói như vậy…
Tôi luôn luôn làm những điều đẹp ý Người” (cc. 28-29).
Đức Giêsu đã sống trung tín như một Người Con, người được Cha sai.
Cha lúc nào cũng ở với Ngài, nên Ngài không biết đến cô đơn (c. 29).
Mỗi Kitô hữu cũng được giương cao trên thánh giá riêng của đời mình.
Và khi tôi gắn thánh giá của tôi với thánh giá của Giêsu,
thánh giá nhỏ bé ấy sẽ có sức kéo nhiều người lên với Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha
trong mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh giá,
bao lâu tùy ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát
nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ
với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ
và lòng khát khao nóng bỏng
có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau.
Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ
của những người đã yêu mến Cha,
đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ,
tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con
nói lên lòng tin của con
vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha,
và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân,
và yêu Cha chỉ vì Cha,
chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho con,
là ánh sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau
như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy
con đang thuộc về Cha mãi mãi. Amen. (Karl Rahner)
Suy Niệm 2: Thượng giới và hạ giới
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu nói mà người Do thái không hiểu. Hôm nay Chúa cho biết lý do: Vì Chúa thuộc thượng giới còn người Do thái thuộc hạ giới.
Hạ giới thuộc về đất thấp. Thượng giới thuộc về trời cao. Hạ giới tầm nhìn hạn hẹp. Thượng giới tầm nhìn vô biên. Hạn giới kiến thức nông cạn. Thượng giới hiểu biết khôn lường. Nhất là Chúa Giêsu đã nghe Chúa Cha nói và chiêm ngưỡng những việc Chúa Cha làm. Người chỉ nói những gì nghe thấy nơi Chúa Cha.
Hạ giới sống theo xác thịt. Thượng giới sống the Thần khí. Người Do thaisống theo xác thịt. Dù được Thiên Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ, trở thành con người tự do. Nhưng trong sa mạc họ vẫn nhớ củ hành củ tỏi bên Ai cập. Họ mơ ước được miếng ăn ngon dù phải chịu nô lệ.
Họ giống như loài rắn lúc nào cũng bò sát mặt đất tầm thường. Để cảnh báo họ Chúa cho rắn lửa bò ra cắn chết họ. Ai sống theo xác thịt sẽ phải chết. Họ khóc lóc kêu xin. Chúa truyền Mô-sê làm con rắn bằng đồng treo lên. Ai nhìn lên con rắn treo trên ngọn cây sẽ được sống.
Treo con rắn lên là treo thói hư tật xấu. Treo dục vọng xác thịt lên. Để không còn sống theo dục vọng xác thịt nữa. Như thánh Phao lô nói: “Tôi cùng chịu đóng đinh vào thập giá làm một với Đức Kitô”. Đóng đinh xác thịt là không còn sống cho mình nữa. Nhưng chỉ sống cho Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá. Trần trụi chịu treo lên, Chúa Giêsu là gương mẫu dứt bỏ mọi ràng buộc của xác thịt trần gian. Người chiến thắng mọi cám dỗ về danh, lợi, thú. Người hoàn toàn tự do. Vì thế khi bị treo lên là Người chiến thắng và được tôn vinh.
Chúa mời gọi ta hãy treo mình cùng với con rắn đồng. Treo dục vọng xác thịt ta lên. Để ta không còn sống cho bản thân. Chỉ sống cho Chúa.
Khi được giương lên, Chúa muốn kéo ta lên với Chúa. Xin cho tôi biết thắng mọi cám dỗ của dục vọng xác thịt trần gian. Để tôi được kéo lên cùng Chúa. Lên trong Thần Khí. Lên thượng giới. Thuộc về Nước Trời.
Suy Niệm 3: Vai Trò Của Ðấng Messia
Bài Tin Mừng trên đây là đoạn tiếp nối cuộc tranh luận về lời chứng của Chúa Giêsu đối với bản thân Người. Trong đoạn đầu của cuộc tranh luận này, Chúa Giêsu đã nhắc đến Cha mình, nhưng những người pharisiêu không hiểu là Người nói đến Thiên Chúa Cha. Trong đoạn chúng ta nghe đọc hôm nay, Chúa Giêsu lại nói về nguồn gốc thượng giới của Người và lại nhắc đến Cha Người. Chúa Giêsu đứng trên quan điểm của Ðấng Mêssia để rao giảng sứ điệp cứu thế, trong đó Người nói lên nguồn gốc thần linh của mình và giới thiệu chương trình cứu độ mà Chúa Cha đã trao phó cho Người thực hiện ở trần gian.
Kể từ khi công khai ra đi rao giảng, tất cả những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu đều tập trung vào việc phổ biến ý định cứu thế của Thiên Chúa Cha. Từ việc kêu gọi mọi người ăn năn sám hối đến việc thi ân giáng phúc cho những người thành tâm thiện chí và cảnh cáo phê bình những kẻ lầm lạc cố chấp, Chúa Giêsu cho thấy Người luôn luôn làm theo thánh ý Chúa Cha. Những người Pharisiêu thì đứng trên quan điểm phe nhóm họ. Họ cũng nói về vai trò của Ðấng Mêssia, nhưng là một Ðấng Mêssia phù hợp với lối nghĩ lối sống đã bị tục hóa của họ. Bị chi phối mạnh mẽ bởi cách nhìn này, họ đọc nhưng không hiểu được những lời Kinh Thánh tiên báo về sự xuất hiện của Ðấng Kitô. Trong cách hiểu của họ, Ðấng Kitô có lai lịch và diện mạo khác hẳn với con người và tự xưng là Cứu Chúa này. Bởi thế, càng nghe những lời Chúa Giêsu giảng, càng thấy các việc Chúa Giêsu làm, họ càng tìm cách chống đối quyết liệt. Họ muốn chứng minh cho dân chúng thấy rằng Chúa Cha và Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu rao giảng chỉ là một trò bịp bợm mà thôi.
Khi tự xưng mình là Ðấng Hằng Hữu, Chúa Giêsu có ý nhắc cho họ nhớ lại lời Giavê Thiên Chúa đã tỏ danh tánh Ngài ra cho ông Môisen trước khi giao cho ông sứ mạng giải phóng dân Israel khỏi ách nô lệ của người Ai Cập. Kể từ đó, danh xưng Giavê Thiên Chúa là Ðấng Hiện Hữu trở thành một danh xưng tối thượng đối với người Do Thái. Nhắc đến danh xưng này là nhắc đến chính Ðấng Tối Cao. Trong lịch sử Israel chưa hề có một ngôn sứ nào dám dùng danh xưng này để nói về chính bản thân mình, vậy mà Chúa Giêsu dùng đến danh xưng tối thượng ấy, ắt hẳn Người phải có một lý do cực kỳ trọng đại. Những người pharisiêu không hiểu và cũng chẳng muốn hiểu lời Chúa Giêsu nói. Lắm lúc chúng ta cũng sống theo cách nghĩ của những người pharisiêu trên đây. Trong lúc Chúa Giêsu phục sinh đang nỗ lực tác động trên mọi lãnh vực của thế giới hôm nay để kéo con người lên cùng Thiên Chúa, Người tác động qua Giáo Hội, qua Lời Chúa, qua các bí tích, các công việc phục vụ của người Kitô. Người cũng tác động các tập thể thành tâm thiện chí của nhân loại, các hệ thống tư tưởng quảng bá chân thiện mỹ, các mối quan hệ xây dựng hòa bình và hạnh phúc cho con người, các công cuộc giúp thăng tiến đời sống đích thực và toàn diện của con người. Trong khi Chúa Giêsu làm như vậy, thì chúng ta, chúng ta lại làm theo hướng ngược lại, chúng ta dần dần phàm tục hóa đời sống của chính mình và của những người chung quanh bằng những suy nghĩ và hành động chỉ dựa trên những loài thú vật mà thôi. Con người và vũ trụ có nguồn gốc từ Thiên Chúa Hằng Hữu và sẽ trở về với cội nguồn Hằng Hữu ấy. Nhưng đôi khi chúng ta cứ muốn giữ tất cả nằm lại trong thế giới thụ tạo hữu hạn này mà thôi.
Lạy Thiên Chúa là Ðấng hằng có đời đời và là nguồn gốc của mọi sự. Xin ban cho con ơn biết cộng tác với Chúa và với anh chị em trong việc thăng tiến con người và thế giới, góp phần đưa con người và thế giới về với Chúa, về với nguyên thủy nguồn gốc của mọi loài mọi vật.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Tin Nhận Chúa.
Cụ Alexis đã viết thư cho mình 35 năm trước. Đúng ngày được 60 tuổi, cụ mở thư ra đọc: “Bạn thân mến, mừng kỷ niệm 60 năm sinh nhật của bạn, kể từ hôm nay, bạn bắt đầu bước đi trên một đoạn đường mới. 60 năm đã qua và kể như đời bạn đã xế chiều, dù bạn vẫn còn khỏe, nhưng sức dẻo dai đã kém hơn trước nhiều.
Bạn hãy bảo vệ sức khỏe để còn đóng góp sức lực vào phúc lợi chung. Bạn hãy biết ra đi, biết rút lui cách nhẹ nhàng và nhường chỗ cho đàn em có khả năng thể xác và tinh thần hơn bạn.
Nhưng không phải rút lui để tìm nhàn hạ. Bạn hãy chia sẻ kinh nghiệm của 60 năm đầy nụ cười và nước mặt của bạn cho đàn em, và bạn hãy sung sướng khi thấy họ thành công hơn bạn, vì nhờ họ Thiên Chúa được vinh danh hơn. Bạn hãy tiếp tục dấn thân cho đến hơi thở cuối cùng theo sức bạn, theo tuổi bạn.
Bạn hãy chuộc lại những thời gian bạn đã lãng phí trong suốt 60 năm qua. Hãy kiểm điểm trước mặt Chúa, hãy rút kinh nghiệm từ quá khứ, hãy cảm tạ Chúa và sám hối trước mặt Ngài.
Bạn hãy dành quãng đời còn lại để làm một việc gì cho Chúa, một việc mà giờ đây Chúa đang mời gọi bạn cộng tác. Bạn đừng quên rằng bạn đang tiến về Nhà Cha mỗi phút một gần hơn. Bạn hãy sẵn sàng thoát ly địa vị và của cải trần gian.
Hãy sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng của đời bạn. Hãy sống đẹp lòng Chúa, vui lòng gia đình và bạn bè. Hãy quyết tâm mãnh liệt, hãy thực hiện nghiêm túc, hãy kết hiệp với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Ân sủng và bình an của Chúa ở cùng bạn”.
Thành tâm thiện chí của cụ Alexis đáng chúng ta suy nghĩ. Thực hiện thánh ý Chúa từng giây phút hiện tại là gì, nếu không phải là tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, để đừng chết trong tội lỗi.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải Ngài là Đấng “Ta là”, đồng thời mạc khải mầu nhiệm Tử nạn của Ngài để lôi kéo mọi người lên cùng Thiên Chúa. Mạc khải chính mình cho con người, Chúa Giêsu cũng mạc khải mối tương quan giữa Ngài và Thiên Chúa Cha. Tin nhận Chúa Giêsu, thì cũng phải tin nhận Thiên Chúa, Đấng đã sai Con Một Ngài xuống trần, để cứu rỗi chúng ta. Đây là mầu nhiệm mà chúng ta cần phải chiêm ngắm và dâng lời cảm tạ để nhờ đó đời sống chúng ta được canh tân đổi mới.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Nếu các ông không tin
Đức Giêsu lại nói với họ:
“Tôi ra đi, các ông sẽ tìm tôi, và các ông sẽ mang tội mình mà chết.
Nơi tôi đi các ông không thể đến được.”
Người Do-thái mới nói: “Ông ấy sẽ tự tử hay sao mà lại nói: Nơi tôi đi các ông không thể đến được?
Người bảo họ: “Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới.
Các ông thuộc về thế gian này; Còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này. (Ga. 8, 21-23)
Một Tin mừng đầy nghịch lý đối với bản chất loài người như trong đoạn văn của Thánh lễ hôm nay.
Một lần nữa, Đức Kitô thử giúp những người biệt phái cố chấp cứng lòng tin hiểu về Người.
Người là ai? Người đang bị họ tìm cách loại trừ bằng bất cứ giá nào, nhưng Người sẽ ra đi theo ý Người, khi Người muốn. Người bị họ tố cáo là kẻ tội lỗi, nhưng Người không khó chịu gì về lời họ, còn họ sẽ bị chết vì lời họ. Người sẽ về trời, còn họ vẫn ở dưới đất. Người sẽ bị họ treo trên thập giá, họ tưởng thế là đã trừ diệt được Người mãi mãi, trái lại khi họ treo Người lên, Người lại vinh quang đời đời.
Đức Kitô nói: “Nếu các ông không tin, các ông sẽ chết trong tội của các ông”. Họ không tin. Họ không tin Đấng không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa Cha đã dạy Người điều gì Người nói như vậy, vì Người là Thiên Chúa như Chúa Cha.
“Nếu các ông không tin …”. Vậy chỉ cần tin vào Thiên Chúa này thì được cứu độ, dù có vẻ nghịch lý đối với các ông. Hoàn toàn là thế. Chỉ cần chúng ta biết tiếp nhận một chút ánh sáng, thì sẽ được Người soi sáng cho ta thấy tỏ tường về Người. Chỉ cần chúng ta biết tiếp nhận Người, dù không thể giải nghĩa và thực hiện được theo nhãn quan con người. Chỉ cần chúng ta đừng bỏ qua những lời yêu sách của sứ điệp Phúc âm, dù có trái nghịch với bản chất con người chúng ta. Chỉ cần chúng ta bắt lý trí con người bái phục chân lý đức tin. Chỉ cần chúng ta biết cảm nghiệm sâu xa mầu nhiệm Đức Kitô bằng con tim trong đau khổ thập giá cũng như vinh quang phục sinh.
Nói khác đi, nếu chúng ta không tin Người, thì cũng không còn tin vào Thiên Chúa. Người trở nên một hữu thể vô danh vô tích sự mà thế giới ngày nay cho rằng Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô đã chết rồi.
Nếu chúng ta không tin vào Đức Giêsu Kitô của Thiên Chúa thì chúng ta sẽ đúc ra thần tượng khác để thờ vì người ta không thể sống vô thần được, dù người ta nói mình sống không cần thần thánh nào cả. Chúng ta sẽ giống như nhiều dân tộc, qua lịch sử của loài người, chế tạo ra những thần tượng. Họ thờ nhân vật thay Thiên Chúa của mặc khải, thờ những minh tinh màn ảnh, bóng đá, ca sĩ thay Đức Giêsu Kitô. Thật quá trớn.
G.F
Suy Niệm 6: Đức tin và đời sống
Tin Mừng hôm nay, tác giả Gioan đề cập đến chuyện Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ về cùng Cha và những lời tiên tri cho những ai không tin Ngài.
Khi nói đến việc Ngài sẽ trở về cùng Cha, những kẻ chống đối Ngài không thể hiểu nổi. Ngược lại, họ nghĩ rằng Đức Giêsu tự tử. Lối nói này cho thấy họ mỉa mai Đức Giêsu, vì khi nói đến tự tử, ấy là nói đến nơi sâu thẳm, đau khổ dành cho những người khước từ sự sống bằng việc tự tử. Khi nói như thế, họ tự cho mình quyền không thể tin nổi Đức Giêsu vì Ngài sắp đi vào chỗ chết một cách bi đát!
Khi thấy họ phản ứng như vậy, Đức Giêsu đã nói cho họ biết Ngài bởi đâu mà đến và suy tưởng của họ do đâu! Đồng thời Ngài nói tiên tri về số phận của những kẻ cứng đầu do không tin, Ngài nói: "Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã nói với các ông là các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết. Thật vậy, nếu các ông không tin là tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết".
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta rút ra được những bài học sau cho đời sống đạo của mình:
Thứ nhất, hạnh phúc đích thực tùy thuộc vào chuyện chúng ta tin Chúa hay khước từ Ngài. Tin thì được sống vĩnh viễn và khước từ thì trầm luân muôn đời.
Thứ hai, chúng ta được Thiên Chúa trao ban cho nhiều cơ hội tốt, bổn phận là phải làm cho cơ hội ấy trở nên hữu ích cho phần hồn của mình và tha nhân. Nếu không biết nhạy bén để đón nhận cơ hội Chúa ban, hoặc vì coi thường và khinh dể thì sẽ bị luận tội nặng nề hơn những người không biết.
Ngày nay, chúng ta được học hành nhiều về Chúa, nhận biết có Thiên Chúa, nhưng có sống theo điều mình đã tin hay không mới là quan trọng.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tin tưởng vào Chúa và đem Lời Ngài ra thực hành trong cuộc sống thường nhật, tránh chuyện môi miệng thì cầu kinh mà lòng không yêu mến. Thật vậy, không phải cứ lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là thực hành những gì Lời Chúa dạy thì mới được vào.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một đức tin mãnh liệt và một đời sống đầy lòng mến. Xin cho đời sống và những điều chúng con tin được hòa quyện với nhau thành một. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu là Đấng Hằng Hữu
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu không thuộc thế gian này. Người là Đấng Hằng Hữu từ nơi Chúa Cha mà đến để dạy ta sự thật và cứu ta khỏi chết. Cần tín nhiệm vào Người để khỏi chết trong tội.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, biết bao tôn giáo dầy công đi tìm Thiên Chúa. Họ phải vất vả lắm mới biết được đôi điều mờ nhạt về Thiên Chúa. Trong khi ấy, Chúa đã đến giữa loài người chúng con để dạy cho chúng con biết sự thật về Thiên Chúa tình yêu. Đó là sự thật hoàn hảo và vững chắc, bởi vì Chúa là Thiên Chúa Hằng Hữu từ cung lòng Chúa Cha mà đến, để tỏ cho chúng con thấy khuôn mặt thật của Thiên Chúa: Thiên Chúa rất sống động và đầy lòng yêu thương. Con hết lòng cảm tạ tri ân Chúa.
Lạy Chúa, chỉ vì yêu thương và muốn giải phóng chúng con khỏi vòng u mê của tội lỗi nên Chúa đã tỏ mình cho con. Xin Chúa giúp con sống xứng đáng với tình thương Chúa bằng cách bước đi theo chân lý của Chúa. Chân lý của Chúa sẽ đưa con vào tận cung lòng Chúa Cha để được trọn tình yêu của Người. Chân lý của Chúa cũng sẽ giúp con bước đi giữa đời trong bình an, trong niềm vui và hy vọng. Xin Chúa đừng để con lìa xa Chúa bao giờ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa Cha luôn ở với Chúa vì Chúa luôn làm những điều đẹp Ý Cha. Ước gì con luôn biết làm những điều đẹp lòng Chúa để được Chúa ở cùng và ban tràn đầy ơn phúc.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con được mãi mãi trung thành với Tin mừng của Chúa và tìm được niềm hạnh phúc trong cuộc đời theo Chúa. Xin cho con biết mở rộng lòng để đón nhận Lời Chúa và biết quảng đại sống theo Lời Hằng Sống. Xin cho con có một tâm hồn sẵn sàng rộng mở như Samuen. “Lạy Chúa, xin hãy phán dạy vì tôi tớ Chúa đang sẵn sàng lắng nghe”. Amen.
Ghi nhớ: “Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”.
Suy Niệm 8: Tin nhận Chúa Giêsu - Tin nhận Chúa Cha
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Vào thời thập tự viễn chinh, nhằm bảo vệ thánh địa và đảm bảo an ninh cho khách hành hương, vua Philipphê của nước Pháp đã làm một cử chỉ lạ thường. Trước mỗi lần lên đường, ông tháo gỡ triều thiên đang đội trên đầu, rồi đặt nó lên một chiếc bàn và ghi dòng chữ như sau: “Dành cho người nào xứng đáng nhất”.
Sau đó, ông quy tụ tất cả tướng lĩnh, các hiệp sĩ, những người hầu cận lại trước mặt ông và yêu cầu họ hãy quên ông là vua và là người chỉ huy của họ. Ông nói với mọi người rằng chiếc vương miện được dành cho người nào tỏ ra xứng đáng nhất trong cuộc chiến đấu.
Cuộc viễn chinh đã hoàn tất một cách vẻ vang, mọi người hát khúc khải hoàn trở về quê hương. Họ tụ tập chung quanh vương triều và một tướng lĩnh tiến lại cầm lấy triều thiên đội lên đầu của Philpphê và nói: “Tâu bệ hạ, bệ hạ là người xứng đáng nhất”.
Suy Niệm
Trong cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái, Ngài mạc khải cho họ biết: Ngài là Thiên Chúa xuống thế làm người, nên giống chúng ta hoàn toàn, chịu đóng đinh và chết trên thập giá để cứu độ con người, đem sự giao hòa giữa con người với Thiên Chúa Cha.
Như vậy, Ngài mạc khải sứ mạng thiên sai của chính mình cho con người, và mạc khải mối tương quan chặt chẽ giữa Ngài và Thiên Chúa Cha: “Ta không tự mình làm điều gì. Ðiều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Ðấng đã sai Ta đang ở với Ta; Ngài không để Ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm điều đẹp lòng Ngài”.
Cho nên, người tin nhận Chúa Giêsu thì cũng phải tin nhận Thiên Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài xuống trần gian làm người và cứu độ nhân loại như Giáo hội tuyên tín từ thời các tông đồ: Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, người đã từ Trời xuống thế…
Chính niềm tin vào Ðức Giêsu Kitô - hiện thân của Thiên Chúa, Ngài đem ơn cứu độ cho nhân loại, sẽ làm cho chúng ta được biến đổi để vươn lên tới Thiên Chúa.
Sống trong Mùa Chay, chúng ta duyệt xét lại lòng mình theo lời mời gọi của Đức Giêsu: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Sám hối vì niềm tin vào Đức Kitô chưa mạnh mẽ. Một niềm xác tín mãnh liệt vào Tin Mừng, trung tâm chính là Đức Giêsu Kitô - con Thiên Chúa, Đấng đã bị “gương cao” trên thập giá, đem ơn cứu độ, cứu độ duy nhất cho chúng ta.
Ý lực sống: ”Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống đời đời” (Ga 3,14-15).
Suy Niệm 9: Tình thương và tội lỗi
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau câu chuyện về người đàn bà phạm tội ngoại tình, Đức Giêsu ở lại Đền thờ và trong khi tranh luận với người Do thái, Ngài đã báo trước cái chết và ơn cứu rỗi của Ngài.
Qua câu chuyện con rắn đồng trong Cựu ước, Đức Giêsu cho họ biết chính Ngài là Đấng mà con rắn đồng là hình ảnh tiên báo. Ngài nói với những người Do thái: “Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”. Như thế, việc Đức Giêsu chết trên thập giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.
2. Ngài là ai? Một lần nữa, Đức Kitô muốn cho những người biệt phái hẹp hòi và cứng lòng biết Ngài là ai? Và Đấng mà họ muốn loại trừ bằng mọi giá nhưng Ngài lại thong dong đi lại theo ý mình. Đấng mà họ lên án lả kẻ tội lỗi khi mà chính họ sẽ chết trong tội lỗi của mình, và Ngài không ngại gì nói cho họ biết điều ấy. Đấng sẽ lên trời, trong khi đó họ sẽ ở lại dưới đất. Đấng mà họ sẽ treo cao trên thập giá, ngỡ rằng có thể loại bỏ Ngài mãi mãi, nhưng ngược lại, họ đã nâng Ngài lên vinh quang, cho đến muôn đời.
Đức Kitô nói: “Nếu các ông không tin, các ông sẽ mang tội lỗi mà chết”. Họ không tin. Họ không tin Đấng không tự mình làm điều gì nhưng chỉ nói điều Cha đã dạy, vì Ngài là Thiên Chúa cũng như Cha Ngài.
3. “Khi các ông giương Con Người lên, bấy giờ sẽ biết Ta Hằng hữu”.
Sử dụng ngôn ngữ biểu tượng, bài Tin Mừng hôm nay là lời tiên báo của Đức Giêsu về cuộc khổ nạn của Ngài sắp chịu. Khác với ba lần nơi các Tin Mừng Nhất lãm tiên báo cái chết một cách rõ ràng là Đức Giêsu sẽ lên Giêrusalem chịu khổ nạn, thì Tin Mừng thứ IV cũng tiên báo ba lần với cách nói: “Con Người được“giương lên cao” (x.Ga 3,14; 8,28; 12,32). Con Người được giương lên cao, nghĩa là Đức Giêsu sẽ bị treo lên trên thập giá, để nhờ công ơn cứu chuộc qua khổ giá, mà Ngài nâng mọi người lên cao khỏi thế gian, nâng cao lên cõi Trời với Ngài.
Theo chiều ngang, với cách nói Tin Mừng Nhất Lãm rằng ai muốn theo Chúa thì hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo. Còn theo chiều dọc, Tin Mừng Thứ IV lại nói theo chiều đi lên, không chỉ vác mà còn phải được treo lên, nghĩa là cùng phải đóng đinh chính mình vào thập giá như Thầy. Như vậy, dù “đi theo” hay “treo lên”, thì Kitô hữu cũng chung một phương thế duy nhất là phải qua thập giá mới đạt đến ơn Cứu Độ (Theo Hiền Lâm).
4. Trong cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và những người biệt phái, Ngài mạc khải cho họ biết: Ngài là Thiên Chúa xuống thế làm người, nên giống chúng ta hoàn toàn, chịu đóng đinh và chết trên thập giá để cứu độ con người, đem lại sự giao hòa giữa con người với Thiên Chúa.
Như vậy, Ngài mạc khải sứ mạng thiên sai của chính mình, và mạc khải mối tương quan chặt chẽ giữa Ngài và Thiên Chúa Cha: “Ta không tự mình làm điều gì. Điều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Đấng đã sai Ta đang ở với Ta. Ngài không để ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm đẹp lòng Ngài”.
Cho nên, người tin nhận Đức Giêsu thì cũng phải tin nhận Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài xuống trần gian làm người và cứu chuộc nhân loại như Giáo hội tuyên tín từ thời các Tông đồ: Vì loài người chúng ta, và để cứu rỗi chúng ta, người đã từ trời xuống thế.
5. Vì thế, khi chiêm ngắm thập giá của Đức Giêsu, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về bóng tối của tội lỗi vẫn còn rình rập trong cuộc sống chúng ta. Đó là hai điều chúng ta cần suy nghĩ nhiều trong Mùa Chay và nhất là trong Tuần Thánh sắp tới.
Ngoài ra, hãy sống đạo thực thụ chứ đùng mang tên là Kitô hữu mà lại có cách sống phản lại với danh hiệu cao quí đó. Chúng ta hãy cố gắng là “chứng nhân” của Chúa trong cách sống, đừng bao giờ thảnh “phản chứng” kẻo làm ô danh Chúa và Hội thánh của Ngài.
6. Truyện: Đừng trở thành phản chứng.
Trong chương trình buổi tối của một đài truyền hình Hoa kỳ, một cô gái điếm đã được mời phát biểu ý kiến dựa theo một số câu hỏi của một phóng viên truyền hình.
Cô gái ấy trang điểm thật diêm dúa và tỏ ra không những bình tĩnh mà còn có thái độ khiêu khích trước những câu hỏi của người phóng viên.
Chợt nhìn thấy trên cổ của cô gái có đeo một dây chuyền bằng vàng với một cây Thánh giá nhỏ, người phóng viên thay đổi đề tài để hỏi cô gái.
Anh ta hỏi: “Tôi thấy cô có đeo một Thánh giá nhỏ ở trên cổ. Hẳn cô là người có tôn giáo đúng không”?
Khán giả thấy rõ sự bối rối của cô gái điếm. Có lẽ đây là một vấn đề mà cô không bao giờ nghĩ tới. Sau một chút do dự, cô ta liền trả lời: “Tôi không theo đạo nào cả”.
Người phóng viên hỏi dồn: “Thế tại sao cô lại mang Thánh giá trên người mình như dấu chỉ của người có đạo?
Cô gái điếm thinh lặng cúi nhìn xuống sàn nhà một hồi khá lâu, rồi cô trả lời với những lời lẽ thú tội: “Lúc còn nhỏ tôi có đạo. Nhưng đó là chuyện rất lâu rồi”.
Suy Niệm 10: Khi nào các ông đưa Con Người lên cao
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Bài đọc 1 kể chuyện con rắn đồng: Khi đó dân do thái đang đi trong sa mạc. Vì khổ cực và thiếu thốn, họ luôn miệng trách Môsê và còn trách cả Chúa. Chúa cho những con rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Khi đó họ kêu cầu Môsê. Chúa bảo Môsê đúc một con rắn bằng đồng treo lên cây, kẻ nào bị rắn lửa cắn mà nhìn lên con rắn đồng thì được cứu sống.
2. Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu chính là Đấng mà con rắn đồng là hình ảnh tiên báo. Ngài nói với những người do thái: “Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”. Như thế, việc Chúa Giêsu chết trên thập giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. Chính khi Chúa Giêsu “bị” giết chết trên thập giá là lúc Ngài “được” tôn vinh và là nguồn ơn cứu độ cho loài người. Khi chúng ta “bị” đau khổ nhưng biết nhìn lên thập giá Chúa Giêsu là lúc chúng ta “được” cứu độ. Nhìn ngược lại ngày xưa, khi nguyên tổ tưởng mình “được” bằng Chúa thì lại “bị” đuổi khỏi vườn địa đàng. Hãy suy nghĩ thêm về cái nghịch lý “bị” và “được” này.
2. Nhìn lên Thập giá, ta có thể thấy được rất nhiều điều:
- Thấy tội lỗi của mình
- Thấy tình thương của Chúa
- Thấy giá trị của đau khổ
- Thấy ơn cứu độ
- Thấy giải pháp cho vấn đề sự dữ v.v.
3. Một bà goá đến xin cha sở chứng nhận để bà xin trợ cấp, vì con trai bà đi lính và đang phục vụ ở nước ngoài. Cha sở chợt nhớ đến sứ điệp Thánh Kinh nên nói với bà:
- Có phải công lao của bà đáng lãnh số tiền đó?
- Không ạ. Đó là công của con trai con. Cháu muốn con được hưởng. Con chỉ việc kí tên và lãnh tiền.
- Phải, cũng như không phải công lao của bà mà bà được cứu độ, mà là công lao của Con Thiên Chúa trên núi Can vê. Ngài muốn bà hưởng công lao đó. Bà chỉ việc kí tên và lãnh nhận (Góp nhặt)
Suy Niệm 11: Biết nhìn lên Thập Giá Chúa Giêsu
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Chúa Giêsu nói với những người Do Thái: “Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Tôi là ai” (Ga 8,28). Như thế, việc Chúa Giêsu chết trên Thập Giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.
Vậy, khi chúng ta “bị” đau khổ nhưng nếu biết nhìn lên Thập Giá Chúa Giêsu thì chúng ta sẽ “được” cứu độ. Ngược lại, ngày xưa, khi nguyên tổ tưởng mình “được” bằng Chúa thì lại “bị” đuổi ra khỏi vườn Địa đàng.
Đức Cha Fulton Sheen, một diễn giả nổi tiếng trên các đài truyền thanh và truyền hình Hoa Kỳ đã tưởng tượng ra một cuộc gặp gỡ như sau:
Tôi ra khỏi nhà để hưởng chút ánh sáng mặt trời, tôi gặp một người đang quằn quại trên Thập Giá, tôi dừng lại và đề nghị:
- Xin cho phép tôi được giúp ông xuống khỏi Thập Giá
Nhưng người ấy trả lời:
- Hãy để cho tôi yên. Hãy để nguyên những cái đinh trong lòng bàn tay và bàn chân của tôi. Hãy để nguyên những gai nhọn trên đầu và lưỡi dòng trong trái tim tôi. Tôi không tự mình xuống khỏi Thập Giá, bao lâu những người anh em tản mác khắp nơi của tôi chưa hợp nhất với nhau.
Tôi liền hỏi người ấy:
- Ông muốn tôi làm gì cho ông?
Người ấy trả lời:
- Hãy đi khắp thế giới, và bắt gặp bất cứ ai hay nói với họ rằng: “Có một người đã chịu đóng đinh trên Thập Giá”.
Vâng, có một người đã chịu đóng đinh trên Thập Giá. Người đó chính là Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta.
Trong thư thứ nhất gửi cho Giáo đoàn Côrinthô, Thánh Phaolô đã nói về Thập Giá rất hay: “Thật thế, lời rao giảng về Thập Giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng tôi là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa”. (1Cr 1,18)
Thánh Phêrô cho biết thêm: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây Thập Giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương để anh em được chữa lành”. (1Pr 2,24)
2. Nhìn lên Thập Giá, ta có thể thấy rất nhiều điều:
Thấy tội lỗi của mình.
Thấy tình thương của Chúa.
Thấy giá trị của đau khổ.
Thấy ơn cứu độ.
Thấy giải pháp cho vấn đề sự dữ
Thánh Phanxicô Assisi đã nói rất hay về vấn đề này: “Không phải quỉ dữ đã đóng đinh Ngài trên Thập Giá; chính bạn cùng với chúng đã đóng đinh Ngài vào Thập Giá; và còn đang đóng đinh Ngài nữa, nếu bạn cứ thích thú ở mãi trong thói xấu và tội lỗi của bạn”. (T.Phanxicô Assisi, khuyến dụ 5,3).
Trong tuyển tập ngụ ngôn của hai anh em người Đức vào thế kỷ thứ 19, người ta đọc được câu chuyện có nội dung như sau:
Hai cha con nọ đã thỏa thuận ngầm với nhau là người con được tự do làm bất cứ điều gì nó muốn. Chỉ có điều là mỗi khi nó làm một hành động xấu thì nó phải đóng một cây đinh vào cánh cửa. Ngược lại, khi làm được một hành động tốt thì nó có quyền nhổ một cây đinh đi.
Chưa đầy một năm, cánh cửa không còn một chỗ nào trống để đóng đinh vào được nữa. Người con chợt nhận ra cuộc sống quá xuống dốc của mình. Nó mới hồi tâm và quyết định tu sửa. Không đầy một năm sau, mọi cây đinh đều lần lượt được gỡ ra khỏi cánh cửa. Ngày cây đinh cuối cùng được tháo gỡ khỏi cửa người cha sung sướng chạy đến ôm lấy đứa con của mình. Ông vui mừng đặt trên trán đứa con những nụ hôn hạnh phúc. Thế nhưng, thật là lạ lùng, không những đứa con không tỏ ra một cảm xúc vui sướng nào mà còn đẩy người cha ra và khóc òa lên. Người cha ngạc nhiên thốt lên:
- Tại sao con khóc? Tất cả mọi cây đinh đã được nhổ ra khỏi cánh cửa, con không cảm thấy hạnh phúc vì đã sống tốt đẹp hơn sao?
Đứa con thổn thức:
- Thưa cha đúng thế, nhưng cho dầu những cây đinh đã nhổ đi rồi, nhưng chúng vẫn còn để lại những cái lỗ trên đó.
Trong cuộc sống, nhiều người trong chúng ta cũng như thế. Chúng ta đã chạy đến tòa cáo giải. Chúng ta đã tin là Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Thế nhưng, nhiều khi chúng ta không thể vượt qua được những “Mặc cảm tội lỗi”. Chính những mặc cảm này nhiều khi dày vò chúng ta. Mỗi lần như thế chúng ta hãy nhớ lại tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã khiêm tốn và kiên trì
nhận lấy những thất bại trong cuộc đời
cũng như mọi đau khổ của Thập Giá,
chúng con phải gánh chịu mỗi ngày,
thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến
và trở nên giống Chúa hơn.
Xin lấy niềm vui của Người
mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ
và trở thành mối dây yêu thương,
bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)
04/04 Khủng hoảng niềm tin
- Viết bởi Ga 8, 12-20
Khủng hoảng niềm tin.
Thứ Hai tuần 5 mùa Chay năm C.
"Ta là sự sáng thế gian".
Lời Chúa: Ga 8, 12-20
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống".
Những người biệt phái nói: "Ông tự làm chứng cho mình, nên chứng của ông không xác thực".
Chúa Giêsu trả lời: "Cho dầu Ta tự làm chứng về Ta, thì chứng của Ta cũng xác thực, vì Ta biết rõ Ta từ đâu tới và đi về đâu. Còn các ông, các ông không biết Ta từ đâu tới, cũng chẳng biết Ta đi đâu. Các ông đoán xét theo xác thịt; còn Ta, Ta không đoán xét ai. Hoặc nếu Ta có đoán xét, thì sự đoán xét của Ta cũng xác thực, bởi vì không phải chỉ có mình Ta, nhưng còn có Cha Ta là Đấng đã sai Ta. Vả lại trong luật của các ông có ghi: Chứng của hai người thì xác thực. Ta tự làm chứng về Ta, và Đấng đã sai Ta, là Chúa Cha, cũng làm chứng cho Ta nữa".
Họ nói: "Cha của ông đâu?" Chúa Giêsu trả lời: "Các ông không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các ông biết Ta thì cũng sẽ biết Cha Ta".
Chúa Giêsu nói những lời trên gần nơi để Kho Tiền, khi Người giảng dạy trong đền thờ. Thế mà không ai bắt Người, vì chưa đến giờ Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tôi là ánh sáng của thế giới
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu thường dùng lối nói “Tôi-là”
để long trọng khẳng định mình.
Sau đó, đôi khi Đức Giêsu còn đưa ra một lời mời, một lời hứa.
“Tôi là Bánh ban sự sống. Ai đến với tôi sẽ không hề đói,
Ai tin vào tôi sẽ không hề khát bao giờ” (6:35).
“Tôi là Cửa. Ai qua tôi mà vào, người ấy sẽ được cứu thoát” (10, 9).
“Tôi là sự Sống lại và là sự Sống. Ai tin vào tôi thì dù có chết cũng sẽ sống;
và ai sống và tin vào tôi sẽ không chết bao giờ” (11, 25-26).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu long trọng tuyên bố:
“Tôi là Ánh sáng của thế giới. Ai theo tôi sẽ không đi trong bóng tối,
nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống” (8, 12).
Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể,
là Ánh sáng đến trong thế gian để chiếu soi mọi người (1, 9).
Ngài không phải chỉ là một ngọn đèn đứng yên một chỗ,
nhưng Ngài là nguồn sáng di động, lôi kéo nhân loại đi theo.
Đi theo Ngài là bước vào cuộc hành trình dẫn đến sự sống viên mãn.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta hãy tin vào Ngài để được biến đổi:
“Hãy tin vào ánh sáng để anh em trở thành con cái ánh sáng” (12, 36).
Những người Pharisêu không tin Đức Giêsu.
Có một tranh luận căng thẳng giữa đôi bên.
Họ bảo lời chứng của Ngài cho chính mình là vô giá trị.
Thật ra Đức Giêsu không làm chứng một mình.
“Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng cho tôi” (8, 18).
Ngài cũng không phán xét một mình,
nhưng phán xét cùng với Đấng đã sai Ngài (8, 16).
Đức Giêsu gắn bó chặt chẽ với Thiên Chúa Cha.
“Tôi biết tôi đã từ đâu đến và tôi đi đâu” (8, 14).
Ngài đến từ Cha, và Ngài sẽ trở về với Cha.
Cha vừa là khởi điểm, vừa là kết điểm của đời Đức Giêsu.
Nhưng các người Pharisêu không được biết mầu nhiệm này.
Họ không hiểu được tương quan thân thiết và độc đáo
giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa như Con đối với Cha.
“Các ông không biết tôi, cũng chẳng biết Cha tôi.
Nếu các ông biết tôi, thì hẳn cũng biết Cha tôi” (8, 19).
Chính vì thế họ coi những lời của Đức Giêsu là phạm thượng.
Khi đến giờ, họ sẽ tìm cách bắt và giết Ngài (8, 20).
Khi kính nhớ cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Chúa,
Chúng ta cảm nghiệm được mãnh lực gớm ghê của bóng tối,
và sức mạnh của những người chuộng bóng tối hơn ánh sáng (3, 19).
Nhưng cuối cùng, Ánh sáng mới là người chiến thắng.
Chuẩn bị mừng lễ Phục sinh là chọn đứng hẳn về phía Đức Kitô,
là trục xuất khỏi đời mình mọi bóng tối, và cả những bóng mờ dày đặc.
Xin Ánh sáng của Đức Kitô phục sinh bắt đầu bừng lên trong tim tôi.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ánh sáng và bóng tối thì dễ phân biệt,
còn bóng mờ thì khó nhận ra hơn.
Con đã mạnh dạn khước từ bóng tối
nhưng khi nhìn thật sâu vào lòng mình,
con vẫn thấy có nhiều bóng mờ tác động.
Con an tâm ở lại trong bóng mờ,
vì thấy đó chưa phải là một tội.
Nhưng con cũng áy náy
vì biết rằng bóng mờ là nơi
ánh sáng Chúa chưa thấm nhập trọn vẹn.
Con không muốn bóng mờ thành ánh sáng,
vì con vẫn muốn giữ lại
một điều gì đó rất quý đối với con.
Xin giải phóng con khỏi những tình cảm lệch lạc
để con được tự do yêu mến và phụng sự Chúa hơn.
Xin chinh phục những bóng mờ trong lòng con
để con được thuộc trọn về Chúa.
Xin kéo con ra khỏi thái độ lấp lửng, nước đôi,
để dứt khoát đặt Chúa trên mọi sự.
Ước gì con có đủ can đảm để dám nhìn thẳng
vào những bóng mờ trong đời con.
Và ước gì con được trở nên trong suốt
nhờ để ánh sáng Chúa
tràn ngập mọi vùng mờ tối nơi con. Amen
Suy Niệm 2: Khủng hoảng niềm tin do không hiểu Lời Chúa
(tinvuixuanloc.vn)
Tin Mừng hôm nay Thánh sử Gioan thuật lại đoạn đối thoại giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái, cụ thể hơn là giữa Chúa Giêsu và những người Pharisiêu. Cuộc đối thoại không đưa đến kết quả khả quan và cũng không giải quyết được những vấn đề còn khúc mắc; bởi vì những người Do Thái không hiểu cũng không nỗ lực tìm cách hiểu đúng được mạc khải của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu mạc khải về thiên tính của Ngài một đàng, người Do Thái hiểu và tìm kiếm Chúa Giêsu đàng khác. Cha Anthony de Mello Dòng Tên có kể lại một câu chuyện thú vị rất phù hợp với bối cảnh của đoạn Tin Mừng hôm nay như sau:
Một hôm, những người hàng xóm thấy một thanh niên đốt đèn lúi húi tìm kiếm vật gì đó ở ngoài sân. Đồng cảm với anh, những người hàng xóm tốt bụng đã phụ anh tìm kiếm chiếc chìa khóa mà anh đã đánh rơi. Sau một hồi chú tâm tìm kiếm mà không thấy, mọi người hỏi: “Anh đã làm rơi chìa khóa ở đâu?”. Người thanh niên trả lời: “Tôi làm rơi chìa khóa ở trong nhà”. Mọi người sững sờ hỏi: “Tại sao anh lại tìm ở đây?” Người thanh niên trả lời: “Tôi tìm ở ngoài sân cho dễ vì ở đây sáng hơn và không vướng các khe kẹt của bàn ghế”.
Người Do Thái cũng như anh thanh niên trong câu chuyện trên và cũng có thể là mỗi người trong chúng ta. Chúng ta khủng hoảng đức tin vì chúng ta không hiểu giáo lý của Chúa và nhiều khi chúng ta cố tìm kiếm Chúa theo ý của mình. Chúng ta tìm Chúa ở nơi không có Ngài. Chúng ta không hiểu và không cảm nghiệm được Thiên Chúa vì chúng ta không nghe cho thấu Lời Ngài.
Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu mạc khải: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống". Người Do Thái không hiểu và đáp: "Ông làm chứng cho chính mình; lời chứng của ông không thật!" Chúa Giêsu mạc khải: “…Tôi biết tôi từ đâu tới và đi đâu…”, Tôi không xét đoán ai cả, cũng không xét đoán theo kiểu người phàm mà xét đoán theo đúng sự thật… Chúa Giêsu còn mạc khải thêm về chính Ngài trong tương quan với Thiên Chúa Cha và Ngài cũng nói đến sứ mạng Thiên Sai mà Ngài phải chu toàn. Nhưng tất cả những điều ấy đều trở nên tối tăm vô nghĩa đối với những người Do Thái.
Không hiểu hết các mạc khải của Chúa Giêsu sẽ dẫn đến tình trạng không tin và không yêu mến Chúa. Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng dễ đi vào khủng hoảng mất đức tin nếu chúng ta không hiểu về Chúa Giêsu. Đối với những người chưa nhận biết Chúa họ sẽ không tin theo nếu họ không được giới thiệu về Chúa và không hiểu rõ về Ngài. Đối với những người Do Thái, một trong những lý do quan trọng khiến họ đi đến căng thẳng và muốn treo Chúa Giêsu lên thánh giá cũng vì họ không hiểu được các điều Chúa nói.
Ước gì mọi thành phần trong Hội Thánh cũng khát khao học hỏi Lời Chúa, để hiểu được điều mà Chúa muốn mạc khải. Ước gì mọi thành phần trong Hội Thánh cũng ý thức được sứ vụ phải loan giảng Lời Chúa cho muôn dân. Ước gì mỗi chúng ta cũng ý thức rằng: chúng ta sẽ được củng cố đức tin nếu chúng ta chăm chú học hỏi Lời Chúa.
Lạy Chúa,
Với khoa học hiện đại, với phương tiện mới, lăng kính mới.
Nhân loại ngày càng khám phá ra những điều kỳ diệu.
Thế nhưng, chúng con lại ít có cái nhìn mới,
với phương tiện mới mãi mãi là lời Chúa mạc khải.
Xin cho chúng con hiểu được các lời mạc khải của Chúa,
để chúng con tin yêu, phó thác và luôn sống cho Chúa.
Chúng con sẽ không ngừng khám phá những điều kỳ diệu, những giá trị cao cả,
Suy Niệm 3: Đức Giêsu ánh sáng thế gian.
(gpbuichu.org)
Chúa Giêsu tự giới thiệu mình là ánh sáng thế gian. Với tư cách là Đấng mạc khải, Ngài phá tan bóng tối tội lỗi và chiếu soi cuộc sống của con người, giúp họ hiểu biết ý nghĩa và mục đích của cuộc sống, tìm ra con đường dẫn tới Thiên Chúa nguồn sống.
Mùa Chay, chúng ta hãy xét mình, đã bao nhiêu lần Chúa đã gởi đến cho chúng ta những luồng sáng qua Giáo hội, qua bí tích, qua từng biến cố trong đời sống, vậy mà chúng ta có thật lòng khiêm tốn đón nhận ánh sáng không? Đời sống chúng ta đang toả sáng hay đang trong u tối?
Sống Lời Chúa: Mỗi người là một ánh sáng, mỗi hành động tốt là một tia sáng cho tha nhân.
Suy Niệm 4: Ánh sáng trần gian
Đức Giêsu lại nói với người Do Thái: “Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8, 12)
2. Suy Niệm:
Nói đến ánh sáng, dù nghĩa đen hay bóng, luôn đóng vai trò thiết yếu cho cuộc sống con người. Cả vạn vật, cỏ cây cũng cần có ánh sáng. Ánh sáng đem lại cho con người một cuộc sống tiện nghi, sung túc và hưởng thụ biết bao niềm vui trong cuộc sống. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Thiên Chúa muốn mọi người nhận ra ánh sáng không phải là thứ hiện hữu trên trần gian này, nhưng ánh sáng đó chính là hình ảnh Chúa Kitô, ánh sáng giúp tôi phải từ bỏ chính mình vác thập giá theo chân Chúa tới đỉnh đồi Gôgôtha vì “Ai theo Tôi sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8, 12).
Do đó, đứng trước những sa đọa, gian trá, bất công, đen tối của trần gian, nếu không có sự đấu tranh bênh vực công lý và hòa bình, hoặc làm ngơ trước những hậu quả ta gây ra thì chúng ta đã đánh mất đi chính mình, tổn thương đến lương tâm mình. Con người ngày nay vẫn bước đi trong bóng tối của những tệ nạn xã hội. Hơn thế nữa, một bộ phận không nhỏ giới trẻ bị cuốn vào vào các cuộc ăn chơi trụy lạc, sa đọa, lầm lạc trên con đường định hình nhân cách và lối sống, đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa. Việc sống đức tin chỉ là chiếu lệ và bề ngoài cho qua, như khi đi tham dự Thánh lễ thì đứng xa xa ngoài thánh đường…
Trước thực trạng đó, người Kitô hữu phải đồng hành với giới trẻ, giúp họ nhận ra ánh sáng của Đức Kitô sẽ cứu rỗi được bao người lạc bước. Và Giáo hội luôn mời gọi mỗi người Kitô hữu luôn là gương sáng, sống chứng nhân Tin Mừng giữa đời từ công sở, trường học đến nơi buôn bán, họp chợ, hay ngay cả nơi Thánh đường, người Kitô hữu luôn là gương sáng giữa đời bằng sự khiêm nhường, hy sinh, phục vụ cho đi nhưng không, tránh những hành vi như nói hành nói xấu mất đi thanh danh của tha nhân, luôn sống bằng sự hiệp nhất trong tình huynh đệ Giáo xứ và xã hội. Từ đó, gương sáng luôn là tín hiệu nhắc nhớ, hay kim chỉ nam cho mọi người biết nhìn lại mình, dừng lại đúng nơi, đúng lúc, ánh sáng trần gian cũng là phương cách cảnh giác hoặc tỉnh ngộ, để đề phòng mưu hại của sa tan nhằm cướp lấy bao linh hồn mù quáng, có thể hối tiếc đã đánh mất đi một đời người sống vô nghĩa này.
Tin Mừng theo Thánh Gioan: “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1-5). Ánh sáng là chân lý, Thiên Chúa luôn chiếu soi trong trần gian những nơi âm u tối tăm, mù lòa giúp mọi người cảnh thức biết đón nhận theo Chúa, ánh sáng vinh hiển của Đức Kitô. Mùa chay là mùa ánh sáng tuôn đồ hồng ân, ân sủng này giúp con người luôn có cơ hội ăn năn sám hối, quay trở về với Chúa trong Ánh Sáng Phục Sinh và đặt mình vào sự quan phòng của Thiên Chúa, tìm sự an bình, thánh thiện, sẽ không còn phải ngậm ngùi thương tiếc cho đời người qua đi trong lãng phí. Vậy giờ đây chúng ta có nhận ra ánh sáng lời Chúa đang thức tỉnh ta không?
3. Sống lời Chúa: Trong thư gởi Tín Hữu Ê-phê-sô có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn mê ngủ! Từ chốn tử vong, chỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5-14)
4. Cầu nguyện: Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết đem ánh sáng của Chúa đến với mọi người bằng tình thương, tình mến Chúa yêu người, chính Chúa là ánh sáng, là bánh hằng sống, bánh trường sinh bất diệt, để chúng con can đảm vượt qua cạm bẫy sa tan đang ẩn núp trong bóng tối. Xin thức tỉnh mọi người chúng con trong mùa chay Thánh này, luôn là ánh sáng chiếu soi qua máng chuyển lời Chúa chiếu tỏa trên tâm hồn mỗi người chúng con. Amen.
Suy Niệm 5: Luồng sinh khí mới
(gpcantho.com)
Đức Giê-su nói: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12-20)
Suy Niệm: Vụ án xử người phụ nữ ngoại tình là câu chuyện dẫn nhập để thánh Gio-an giúp chúng ta hiểu được lời Chúa nói hôm nay. Cái nhìn của Chúa đem lại luồng sinh khí mới: Ngài là nguồn ánh sáng đem lại sự sống. Những người tố cáo cũng được cái nhìn của Chúa soi sáng và thấy được sự thật tâm hồn mình: một con người cũng mang đầy tội lỗi như ai. Nhưng ánh sáng đó chưa kịp đem lại luồng sinh khí mới cho họ, thì họ đã vội rút lui. Còn bị cáo, người phụ nữ ngoại tình, cũng được cái nhìn đầy ánh sáng của Chúa chiếu rọi. Nhưng khác một điều, chị vẫn đứng đấy, một mình với Chúa, chấp nhận để ánh sáng Chúa soi rọi vào mọi ngõ ngách tâm hồn. Thật kỳ diệu, ánh sáng đó biến thành liều thuốc cải tử hoàn sinh. Chẳng những chị khỏi bị ném đá cho đến chết, chị còn được biến đổi thành một con người mới, con người được tha thứ tội lỗi: “Tôi cũng không kết án chị. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.”
Mời Bạn: Phải chăng biết bao lần bạn đã tránh né cái nhìn của Chúa? Từ nay, bạn đừng trốn tránh nữa. Nhưng hãy đến với Ngài trong bí tích Hoà giải để Ngài nhìn bạn và chuyển thông cho bạn sức sống mới.
Sống Lời Chúa: Mỗi ngày dành ít phút, đặt mình trước cái nhìn của Chúa để kiểm điểm đời sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, thân phận yếu đuối tội lỗi của người phụ nữ đáng thương cũng là thân phận của con. Biết bao lần con đã phạm tội. Xin giúp con biết ăn năn trở về nhận lãnh ơn tha tội và luôn nhắc nhở lòng mình: “Hãy sám hối và từ nay đừng phạm tội nữa ».
Suy Niệm 6: Ánh sáng lòng thương xót
(https://nhathothaiha.net/thu-hai-ga-812-20-anh-sang-long-thuong-xot)
"Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống."
Suy Niệm: Có đặt mình vào vị trí của người thợ mỏ bị kẹt trong hầm sâu dưới lòng đất, khi bốn bề chung quanh đều chìm trong màn tối dầy đặc, mới thấy rằng chỉ cần một tia sáng le lói loé lên ở cuối đường hầm cũng có nghĩa là được sống, được giải cứu.
Chúa Ki-tô tuyên bố Ngài là ánh sáng đó, ánh sáng phát xuất từ nguồn sáng là lòng thương xót của Chúa Cha, ánh sáng duy nhất có khả năng cứu độ con người.
Quả thật, trong Thông điệp “Thiên Chúa giàu lòng thương xót”, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viết: “Đối với nhân loại ngày nay, không còn niềm hy vọng được cứu rỗi nào khác, ngoài lòng thương xót của Thiên Chúa.”
Và cũng từ niềm xác tín mãnh liệt vào mầu nhiệm này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khai mở Năm Thánh Lòng Thương Xót (x. Tông sắc Dung nhan Lòng Thương Xót, số 11).
Mời Bạn: Giữa bến mê cuộc sống hôm nay, đâu là ánh sáng đích thực cho đời ta? Tôi có ý thức mình đang bước đi trong bóng tối không? Ai và cái gì có thể giải thoát tôi?
Bạn ơi, “việc tái chiêm ngưỡng mầu nhiệm Lòng Thương xót… là nguồn cội của niềm vui, của sự thanh thản và bình an…, cũng chính là điều kiện đối với ơn cứu độ của chúng ta” (số 02). Vậy, còn chần chừ gì nữa! Hãy để cho Chúa thương xót và cứu độ ta…!
Sống Lời Chúa: Sốt sắng tham dự các cử hành sám hối và lãnh nhận bí tích Giao hòa Trong Mùa Chay của Năm Thánh này.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin thương xót chúng con là những người tội lỗi. Chúng con tín thác vào Chúa.
Suy Niệm 7: Ánh sáng thế gian
(GKGĐ Giáo Phận Phú Cường)
Khi nghe qua lời Chúa Giêsu nói: “Ta là ánh sáng thế gian”, rất có thể nhiều người trong chúng ta sẽ chất vấn như những người Do Thái: điều này có nghĩa là gì?
Đừng nghe Lời Chúa cách qua loa, nghe cho có, nghe rồi để đó mà không suy gẫm. Nếu chúng ta nghe Lời Chúa mà lòng không cảm xúc, trí không suy tư, tim không đụng chạm đến lời, thì Lời Chúa chỉ là một bản văn tham khảo.
“Ta là Ánh sáng thế gian; Ta là Mục tử tốt lành; Ta là đường, là sự thật và là sự sống; Ta là sự sống lại và là sự sống, v.v.”.
Chúng ta có liên tưởng gì về những điều Chúa Giêsu và Tin Mừng gọi “Ta là” và “Ta là”, đó chính là mặc khải căn bản và quan trọng nhất mà từ trong Cựu ước, qua Môsê, Chúa khẳng định danh của mình. Trong triết học, người ta gọi đây là xác định hữu thể. Tôi là ai? Căn tính của chúng ta chính là cái "ta là". Thiên Chúa tự bản thể là Thiên Chúa, Ngài khẳng định bản thể của Ngài là.
Chúng ta không thể hiểu cái "là", vốn là bản thể của Chúa Giêsu là gì nếu chúng ta không ở trong Người, không hiểu biết Người.
Người là ánh sáng. Chữ ánh sáng ấy không chỉ về ánh sáng vật lý, như của bóng đèn hay của môt ngôi sao. Đó là ánh sáng khác, ánh sáng mà trong kinh Tin Kính tuyên xưng: “Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa Thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành...". Ánh sáng đó nói lên nguồn cội từ đời đời của Người, là khởi nguyên và cũng là cùng đích của nhân loại.
Chúa Giêsu là ánh sáng. Ai ở trong Người thì biết Người là Thiên Chúa. Ai biết Chúa Giêsu là biết Thiên Chúa Cha. Ai đi trong ánh sáng Người thì ở trong sự thật, và chính sự thật đó sẽ giải thoát con người, dẫn con người đến nguồn sống đích thực.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mỗi khi nghe Lời Chúa, biết đặt tâm trí vào chính lời của Chúa và không ngừng suy niệm lời của Chúa nói với chúng con. Amen.
Suy Niệm 8: Ta là sự sáng thế gian-- Ga 8:12 –20
1. Nhìn vào Chúa Giêsu:
a) Xem việc Chúa làm:
- Giữa lúc người Do Thái, nhất là các biệt phái và luật sĩ tìm bắt Đức Giêsu, vì họ gán cho Người về tội phạm thượng, tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu lại tìm mọi cơ hội, dưới mọi hình thức: đối thoại, giảng dạy … để xác định Người là Đấng Cứu Thế, đồng bản tính với Chúa Cha…
+ Suy niệm việc của Chúa trên đây, chúng ta cần ý thức: không phải nói về Chúa một là là đủ, tìm hiểu về Chúa một lần là xong, nhưng phải học hỏi tìm hiểu về Chúa luôn mãi và giảng về Chúa trong mọi nơi, mọi lúc.
+ Khi rao giảng những chân lý về Chúa, những cản trợ, những bách hại và phải nhẫn nại, kiên trì trong việc rao giảng khi thấy người nghe chưa hiểu, chưa đón nhận…
- Chúa dựa vào thực tế để giảng dạy:
+ Người nghe nại đến lề luật làm chứng thì Chúa Giêsu nại đến chứng của Chúa Cha, thì người dẫn giải cách thấy Chúa Cha là tin vào Người … Mục đích rao giảng của Chúa là để giúp cho người nghe hiểu nguồn gốc thiêng liêng của Người.
+ Noi gương Chúa, người tông đồ phải dựa vào nhu cầu và những thực tại liên hệ đến người nghe để giảng dạy, đểtruyền giáo, để làm việc tông đồ.
b) Nghe lời Chúa nói:
-"Tôi là ánh sáng thế gian"
Qua phép rửa, chúng ta trở thành ki-tô hữu, nghĩa là thuộc về Chúa Ki-tô, và như vậy chúng ta được tham dự vào ánh sáng của Chúa: Chúng con là ánh sáng thế gian, là men trong bột, là muối cho đời. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tạo cho mình có đời sống gương sáng trong môi trường và đời sống gương mẫu thánh thiện đối với tha nhân.
-"Tôi làm chứng cho chính mình đi nữa, thì lời chứng của tôi vẫn là chứng thật":
Noi gương Chúa Giê-su, người tông đồ phải tạo cho mình một đời sống xứng đáng được tin cậy và tín nhiệm để nhờ đó lời giảng của chúng ta dễ được đón nhận.
-"Các ông xét đoán theo kiểu người phàm":
Chúa khiển trách thói xét đoán của các biệt phái theo kiểu người phàm: vì họ xét đoán cách bất công, vụ hình thức, hẹp hòi, ích kỷ: lợi cho mình hại cho người. Là Ki-tô hữu. Chúng ta phải noi gương Chúa: Chúa không xét đoán ai cả, nghĩa là phải có lòng khoan dung nhân từ và tôn trọng tha nhân. Đàng khác, chúng ta không xét đoán để khỏi bị đoán xét, tha thứ để được thứ tha.
2. Nhìn vào các biệt phái:
-Vì có óc vụ luật và vụ hình thức nên đã nhận nên đã nhận xét sai lầm về Chúa Giêsu: điều này nhắc nhủ ta cần phải chú ý đến nội dung hơn là hình thức, đến bản chất của sự việc hơn là đáng vẻ bên ngoài, để nhận xét của ta được quân bình, khách quan và đúng sự thực hơn.
- "Cha ông ở đâu?": Các biệt phái muốn biết Chúa Cha cách cụ thể theo nhãn quan của con người. Nhưng Chúa Giêsu lại đòi hỏi biết Chúa Cha bằng đức tin. Thiên Chúa là Đấng vô hình, vì thế ta biết Chúa Cha bằng đức tin, nhưng đức tin được dưạ vào bằng chứng cụ thể nơi con người, lời nói và việc làm của Chúa Giêsu,vì "Nếu các ông biết tôi thì hẳn cũng biết Cha tôi"
3. Đặt bài Tin Mừng này và trong tâm tình và bầu khí Mùa Chay, phụng vụ muốn chúng ta:
Một đàng nhìn ngắm và suy niệm con đường thương khó của Chúa Giêsu để nhận ra tình thương cứu độ của Chúa.
Đàng khác phải thức tỉnh về đời sống và thánh hoá bản thân cho phù hợp với phẩm giá làm con Chúa hơn.
03/04 Ai trong các ông sạch tội?
- Viết bởi Ga 8, 1-11
Ai trong các ông sạch tội?
CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY Năm C.
"Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".
Lời Chúa: Ga 8, 1-11
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy.
Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?" Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất.
Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi". Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất.
Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó.
Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?" Nàng đáp: "Thưa Thầy, không có ai".
Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY C
Lời Chúa: Is 43,16-21; Pl 3,8-14; Ga 8,1-11
1. Đừng phạm tội nữa--‘Manna’
Bị bắt quả tang phạm tội là điều đáng xấu hổ.
Nhưng nếu tội đó là tội ngoại tình thì thật là kinh khủng.
Ta cần hình dung người phụ nữ ấy, xốc xếch, rối bù, bị lôi đi,
mắt cúi xuống tránh những cái nhìn khinh miệt.
Trời tang tảng sáng, nơi Đền Thờ Giêrusalem,
Đức Giêsu đang ngồi giảng dạy cho đám đông.
Chị ta bị đặt trước mặt Ngài, đứng ngay giữa.
Các kinh sư và pharisêu hí hửng với cái bẫy của mình.
Người phụ nữ này thật là một cơ may hiếm có
để họ có bằng chứng tố cáo Ngài.
"Luật Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng người này.
Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?".
Quả là một câu hỏi bất ngờ, lịch sự và nham hiểm.
Đức Giêsu không thể nói ngược với luật Môsê,
và cũng không thể nói ngược với trái tim của mình.
Ngài cúi xuống, lấy tay vẽ nguệch ngoạc trên đất.
Có vẻ như Ngài thờ ơ, không muốn can dự vào
hay Ngài đang suy nghĩ cho ra câu trả lời thích hợp.
Thời gian thinh lặng trôi qua, các kẻ tố cáo sốt ruột.
Họ đắc thắng gặng hỏi, tưởng Ngài bị dồn vào thế bí.
"Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi."
Ngài trả lời, rồi lại cúi xuống viết trên đất.
Câu trả lời của Ngài bất ngờ vang trong tĩnh lặng,
bắt người ta phải trở về đối diện với lòng mình.
Ai dám tự hào mình vô tội?
Có bao tội bất trung nặng chẳng kém tội ngoại tình.
Có bao tội ngoại tình thầm kín không bị bắt quả tang.
Có bao tội ngoại tình trong tư tưởng và ước muốn.
Khi tố giác người khác,
người ta thường quên tội của mình.
Không thấy cái xà ở mình
mà lại thấy cái rác nơi người khác.
Các kinh sư và pharisêu đã khiêm tốn xét mình.
Họ lần lượt rút lui, gián tiếp nhận mình có tội.
Kẻ trước người sau, người lớn tuổi đi trước.
Chúng ta trân trọng thái độ chân thành của họ.
Họ ra đi, để lại hai người mà họ tố cáo và định tố cáo.
Cuối cùng chỉ còn lại người đáng thương và chính Tình Thương.
Bầu khí trở nên nhẹ hơn, êm hơn cho cuộc đối thoại.
Đấng duy nhất có thể ném đá lại nói:
"Tôi không lên án chị đâu!
Chị về đi, từ nay đừng phạm tội nữa."
Lắm khi việc áp dụng luật lại dẫn đến bế tắc.
Ném đá quả là một hình phạt răn đe hữu hiệu,
nhưng lại không ích lợi gì cho người phạm tội.
Đức Giêsu chẳng những đã cứu một mạng người,
Ngài còn làm sống lại một đời người.
Dù con người vốn yếu đuối, dễ sa ngã,
nhưng Ngài vẫn tin tưởng, yêu mến và hy vọng vào họ.
Ngài không dung túng cái xấu,
nhưng Ngài khơi dậy cái tốt còn đang yên ngủ
nơi người phụ nữ và cả nơi các kinh sư.
Gợi Ý Chia Sẻ
Chỉ có tình thương mới biến đổi được con người. Bạn có tin điều đó không? Bạn có tin người phụ nữ ngoại tình sẽ đổi đời không?
Để sống với nhau cần có luật lệ và nguyên tắc. Có khi nào bạn thấy luật lệ bóp chết con người không? Cần phải làm gì để tránh rơi vào những nguyên tắc cứng nhắc?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa:
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con.
2. Học hỏi Phúc âm: CN 5 Mùa Chay - Ga 8,1-11--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
CÂU HỎI
1. Cho biết bối cảnh xảy ra câu chuyện ở bài Phúc âm này (ở đâu, khi nào). So sánh Ga 8,1-2 với Lc 21,37-38; 22,39. Bạn có nhận xét gì không?
2. Đọc Ga 8,1-6a. Đâu là mục đích của các kinh sư và người Pharisêu khi họ đưa chị này đến với Đức Giêsu? Đâu là cái bẫy họ đang giăng ra cho Ngài?
3. Đọc Lê-vi 20,10; Đệ nhị luật 22,22-24. Bạn biết gì về luật này?
4. Đọc Ga 8,6. Đâu là cử chỉ và thái độ của Đức Giêsu trước câu hỏi của họ: "Thầy nghĩ sao?"
5. Đọc Ga 8,7-8. Đức Giêsu có trả lời trực tiếp câu hỏi trên của họ không? Ngài đã làm gì sau đó?
6. Đức Giêsu đã cúi xuống, viết trên đất, và ngẩng lên mấy lần? Ngài đã tạo ra không khí tĩnh lặng bằng cách nào?
7. Đọc Ga 8, 10-11. Bạn nghĩ gì về cuộc trò chuyện giữa Đức Giêsu và người phụ nữ?
8. Qua cách hành xử của Đức Giêsu, bạn thấy Ngài có coi nhẹ tội ngoại tình không? Bạn thích cách hành xử này ở những điểm nào?
9. Câu chuyện đã được giải quyết cách êm đẹp không ngờ. Bạn có thấy như vậy không?
GỢI Ý SUY NIỆM: Theo bạn, khuôn mặt của Đức Giêsu trong bài Phúc âm này có vừa nhân từ, vừa oai nghi không? Bạn rút được bài học nào từ đoạn Tin Mừng này?
PHẦN TRẢ LỜI
1. Cuộc gặp gỡ giữa người phụ nữ với Đức Giêsu diễn ra vào lúc tảng sáng, ở Đền Thờ Giêrusalem (Ga 8,2). Đọc Lc 21,37-38; 22,39 ta thấy Đức Giêsu có thói quen đến núi Ô-liu (Cây Dầu) để cầu nguyện và ngủ lại đó vào ban đêm, rồi khi trời sáng, Ngài lại vào Đền Thờ để giảng dạy cho dân chúng. Gioan 8,1-2 cũng cho thấy điều đó.
2. Mục đích của các kinh sư và người Pharisêu khi đưa người phụ nữ đến với Đức Giêsu là “để thử Người, nhằm có cớ tố cáo Người” (Ga 8,6). Họ giả bộ hỏi ý kiến của Đức Giêsu về chuyện có ném đá chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình hay không (Ga 8,5). Đây là một cái bẫy. Nếu Đức Giêsu trả lời không, thì Ngài đi ngược với Luật Môse. Nếu Ngài trả lời có, thì Ngài đi ngược với lòng thương xót nơi mình.
3. Luật Môse đã truyền dạy nằm trong trong sách Lê-vi 20,10 và sách Đệ nhị luật 22,22. Theo luật này thì phải xử tử cả hai người nam nữ phạm tội ngoại tình. Tuy nhiên, luật này lại không bảo phải xử tử bằng cách ném đá. Chỉ bị ném đá nếu người phụ nữ là một trinh nữ đã đính hôn mà lại quan hệ với một người đàn ông khác ở trong thành, khi đó cả hai sẽ bị ném đá (Đnl 22,23-24). Còn trong bài Tin mừng này, chúng ta không chắc người phụ nữ này là một trinh nữ đã đính hôn, và cũng không thấy mặt người đàn ông đã phạm tội với chị.
4. Trước câu hỏi mà Đức Giêsu thừa biết là một cái bẫy, Ngài đã không trả lời. Vì đang ngồi giảng dạy đám đông (Ga 8,2) nên bây giờ Ngài “cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất” (Ga 8,6b). Đức Giêsu cứ viết và họ cứ tiếp tục hỏi cùng một câu hỏi. Chắc họ thích thú và đắc thắng vì thấy Ngài bị kẹt trong cái bẫy do họ giăng ra. Họ có thể nghĩ là Ngài muốn tránh câu hỏi này hay không biết cách trả lời.
5. Cuối cùng, Đức Giêsu đã ngẩng lên trả lời. Ngài không trả lời đúng vào câu hỏi của họ, ném đá hay không ném đá, nhưng Ngài nói: người đầu tiên được phép ném đá chị này là người nào không có tội. Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất (Ga 8,7-8). Nhiều tác giả phỏng đoán xem Ngài đã viết gì, nhưng thực ra Ngài viết gì, chúng ta không rõ. Chỉ biết Đức Giêsu viết bằng ngón tay, giống như ĐỨC CHÚA đã viết bằng ngón tay trên hai bia đá Mười Điều Răn (Xh 31,18). Hơn nữa, hai dạng động từ “viết” được dùng ở Ga 8,6b (katégraphen) và ở Ga 8,8 (égraphen) cũng là những động từ được bản LXX sử dụng khi dịch Xh 32,15. Câu này nói về việc ĐỨC CHÚA viết trên hai bia đá.
6. Đức Giêsu cúi xuống, viết trên đất và ngẩng lên hai lần (Ga 8,6b-7; 8.10). Qua hành động cúi xuống viết và không nói gì, Ngài tạo ra được khoảng lặng cần thiết để làm dịu xuống sự hung hăng của những người tố cáo, và làm họ hồi tâm để xét lại chính mình. Hậu quả là có những người cao tuổi đã bỏ đi, vì thấy mình có tội (Ga 8,9a).
7. Qua cuộc trò chuyện của Đức Giêsu với người phụ nữ ngoại tình (Ga 8,10-11), có vẻ như Ngài ngạc nhiên vì chỉ còn mình chị ấy đứng đó, và ngạc nhiên vì không ai kết án chị. Câu nói của Ngài ở Ga 8,7 đã cứu chị, dù câu ấy cho phép người ta ném đá chị với điều kiện.
8. Đức Giêsu không là quan tòa kết án chị phụ nữ ngoại tình, nhưng Ngài cũng không coi nhẹ tội này: “Từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Ngài là người duy nhất vô tội, nhưng lại không tố cáo hay kết án. Ngài đã cứu mạng sống một phụ nữ có nguy cơ bị ném đá, nhưng Ngài cũng đòi chị ấy không được phạm tội nữa.
9. Đúng là câu chuyện có một cái kết êm đẹp. Người ta dùng sức mạnh lôi người phụ nữ tới, còn Đức Giêsu cho chị về trong tự do và bình an. Người ta định giăng bẫy tố cáo Đức Giêsu (Ga 8,6a) bằng cách tố cáo chị ấy. Đức Giêsu không mắc bẫy và giải cứu chị, cả xác lẫn hồn. Hơn nữa, những đối thủ của Ngài còn học được một điều tích cực: họ nhận ra mình là tội nhân.
3. Lòng thương xót của Thiên Chúa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Càng đi sâu vào mùa Chay, ta càng đi sâu vào tình yêu của Thiên Chúa. Tuần trước ta đã được tắm gội trong tình yêu tràn trề của người cha nhân hậu. Tuần này ta lại được hưởng nếm lòng khoan dung nhân hậu của Chúa Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày một phiên toà. Bị cáo là người phụ nữ. Nguyên cáo là các Kinh sư và những người Pharisêu. Tội phạm là tội ngoại tình. Bản án là tử hình bằng cách ném đá. Thực ra họ không cần đến Chúa Giêsu làm quan toà. Họ có thể căn cứ vào luật Môsê để thi hành án. Họ đến hỏi ý kiến Chúa Giêsu không phải với thiện ý nhưng nhằm gài bẫy Người. Tha cho người phụ nữ là Người chống lại luật Môsê. Kết án người phụ nữ là Người mâu thuẫn với chính mình vì Người vẫn giảng dậy về lòng nhân từ thương xót. Cái bẫy thật hiểm độc. Đằng sau bản án của người phụ nữ chính là bản án dành cho Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu im lặng, cúi xuống viết trên đất. Người im lặng vì không đồng tình với thái độ của họ. Người im lặng để mọi người có thời gian lắng đọng tâm hồn. Người không trả lời vì câu hỏi họ đặt chưa đúng chỗ. Người không trả lời câu hỏi của họ để đưa ra cho họ một câu hỏi khác cơ bản hơn.
Người cúi xuống để người phụ nữ khỏi xấu hổ. Người cúi xuống để những Kinh sư và những người Pharisêu biết nhìn vào tâm hồn mình. Người cúi xuống buồn phiền vì sự độc ác của con người.
Vì họ cứ hỏi mãi nên Người đành ngẩng lên. Họ chờ đợi Người lên tiếng thì Người lên tiếng. Nhưng lời Người khiến họ chới với. “Ai trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Họ mời Chúa Giêsu làm quan toà xét xử người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại trở thành quan toà xét xử họ. Họ đợi chờ Chúa Giêsu kết án người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại kết án họ. Họ mang đá đến để ném vào người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại ném một hòn đá vào lương tâm họ.
Có điều, họ muốn Chúa Giêsu làm quan toà giết chết, nhưng Chúa Giêsu lại là quan toà cứu sống. Hòn đá họ mang đến với mục đích ném chết người phụ nữ. Hòn đá Chúa Giêsu ném vào lương tâm giúp lương tâm họ sống lại, bừng tỉnh khỏi mê muội, nhận biết mình tội lỗi, nên họ đã lần lượt rút lui không dám kết án người phụ nữ nữa.
Xét xử các Kinh sư và những người Pharisêu rồi, Chúa Giêsu mới xét xử người phụ nữ. Với ánh mắt dịu dàng, lời lẽ hiền từ, Người đã đưa ra lời phán xét: “Tôi không kết án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Thật là một lời phán xét lạ lùng. Lời phán xét của Chúa không tàn nhẫn độc đoán nhưng dịu dàng nhân hậu. Lời phán xét của Chúa không soi mói xét nét nhưng đại lượng bao dung. Lời phán xét của Chúa không cay đắng trách móc nhưng ân cần vỗ về. Lời phán xét của Chúa không sỉ nhục con người tội lỗi nhưng phục hồi nhân phẩm cho ta. Lời phán xét của Chúa không giam cầm tội nhân trong quá khứ, nhưng mở ra cho ta một tương lai. Chúa đã dứt bỏ và quên hết quá khứ lầm lỗi của ta. Chúa không nghi ngờ ta vốn hay phản bội. Chúa hoàn toàn tin tưởng khi trao tương lai vào tay người phụ nữ: “Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng tình yêu và sự tha thứ của Chúa là vô điều kiện. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng con đáng quý trọng không phải ở quá khứ nhưng ở tương lai, không phải ở cái họ đã là nhưng ở cái họ sẽ là. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi yên tâm đóng lại quá khứ để bắt đầu một tương lai mới, bước đi trong tình yêu thương và niềm tin tưởng của Thiên Chúa. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng lòng thương xót của Chúa là vô biên. Người không lên án người phụ nữ phạm tội, cũng không lên án những người tố cáo chị.
Lạy Chúa, con cảm tạ lòng thương xót vô biên của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Lên án và tha thứ, bạn làm điều nào nhiều hơn?
2. Mỗi khi xét người, bạn có xét mình trước không?
3. Bạn có cảm nhận được lòng thương xót của Chúa trong đời sống của bạn không?
4. Khi đã tha thứ cho ai, bạn có hoàn toàn tin tưởng vào thiện chí của người đó không?
4. Tử hình hay cứu sống—ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Trong mùa Chay không ai quên được câu: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống” (Ed. 33, 11). Câu đó tỏ rõ lòng nhân từ của Thiên Chúa, nhưng con người lại muốn kết án tử hình nhau. Bài Tin Mừng cho thấy con người xử tử hình, còn Thiên Chúa lại cứu sống. Người ta đã mở một cuộc thăm dò dư luận về án tử hình, có nên bãi bỏ không? Một số đồng ý bãi bỏ, lý do là án tử hình không răn đe hữu hiệu kẻ phạm tội ác. Đa số ủng hộ luật tử hình, lý do là án tử hình làm người ta sợ không dám phạm tội ác.
Thực tế, hầu hết các nước trên thế giới vẫn duy trì án tử hình, chỉ trừ nước Thụy Sĩ và mấy nước Bắc Âu. Tại sao người ta đã lập ra án tử hình? Có lẽ án tử hình không có sức răn đe làm người ta sợ không dám phạm tội ác, cho bằng lý do trả thù như câu châm ngôn: “ác trả ác báo”, “mắt đền mắt, răng đền răng”, để trừng trị kẻ thù, để tiêu diệt những kẻ tranh giành địa vị và quyền lợi với mình: “Được làm vua thua làm giặc”. Vua tru di tam tộc kẻ thua, phe đảng này giết phe đảng kia, bọn cướp này giết bọn cướp kia, chỉ để chiếm quyền độc tôn thống trị, lợi lộc. Sở dĩ có chiến tranh chém giết lẫn nhau cũng chỉ vì tranh giành quyền lợi. Vua Chúa cấm đạo cũng chỉ vì giữ uy quyền cho mình hay cho giáo phái, tín ngưỡng của mình. Thượng tế và kinh sư chỉ vì ghen tương trang giành quyền binh khi thấy “Toàn dân đến với Người” nên họ phải gài bẫy để đánh gục Đức Giêsu. Một trong những bẫy đó là họ dẫn đến trước mặt Người một phụ nữ ngoại tình và họ nói: “Người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Mosê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó, vậy Thầy nghĩ sao?”.
Nếu họ thành thực giữ luật Môsê, sao họ không xử đàn bà đó đi? Họ đang là hạng người có quyền thế trong xã hội Do Thái, còn Đức Giêsu lúc đó chỉ là thường dân. Họ quá ác ý nên Tin Mừng đã chú thích thêm: “Họ nói thế nhằm thử Người để có bằng chứng tố cáo Người”. Họ sẽ tố cáo Người thế nào?
Nếu Người tha cho kẻ ngoại tình, họ sẽ tố cáo Người phá luật Môsê, tức là phản đạo và thông đồng với kẻ tội lỗi, như vậy họ có quyền kết án tử hình Người.
Nếu Người kết án ném đá tội nhân, họ sẽ tố cáo Người đã phạm tội giết người với Chính quyền Đế quốc Rôma, vì luật Hoàng đế cấm người Do Thái không được xử tử ai. Như vậy, chính quyền đế quốc sẽ lên án tử hình cho Đức Giêsu. Họ còn có bằng cơ tố cáo Người đã hành động bất nhất, nghịch với đạo lý yêu thương cứu độ của Người.
Nếu Đức Giêsu mắc vào bẫy của họ, họ sẽ được lợi quá nhiều: Họ sẽ kết án Người cùng với đàn bà ngoại tình, đồng thời không còn ai tin Người là Đấng Cứu thế nữa. Thật là một nhục hình cùng cực, một âm mưu thâm độc, như sau này họ đã thành công kết án tử hình Người trên thập giá.
Trái hẳn với dã tâm gian ác của họ, Đức Giêsu đã hiền từ, lặng lẽ ngồi xuống âm thầm bãi bỏ án tử hình của loài người, với lý do Người viết trên cát câu thật chí lý: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Mắt Người đã nhìn thấu suốt tâm can của họ và vạch trần tim đen của họ như Thánh Augustinô nói: “Chúa đã viết tội từng người và họ đã từ từ rút lui”. Nếu họ dám ném đá người đàn bà ngoại tình thì họ phải ném đá mình nữa. Đúng như Người đã nói: “Họ thấy cái rác trong mắt người khác, mà không thấy cái xà trong mắt mình”. Rõ thật hạng giả hình: “Chân mình lấm láp lê thê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Đức Giêsu là người số một đã bãi bỏ án tử hình. Chỉ một mình Thiên Chúa mới hiên ngang bãi bỏ luật tai ác đó thôi. Ngài là Đấng ban sự sống, lại rất tôn trọng yêu quý sự sống của con người. Dù con người gian ác thế nào, Ngài vẫn lo cứu chuộc. Ngài tự nhận mình là thầy thuốc lo cứu chữa những bệnh nhân, Ngài đến để cho thế gian được sống và được sống dồi dào.
Sự sống dồi dào đó, Đức Giêsu đang ban cho chị phụ nữ bị kết án tử hình được tiếp tục sống: “Tôi không lên án chị đâu, thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Từ nay chị được sống dồi dào cả hồn lẫn xác vì chị vừa được tha khỏi bị ném đá và nhất là được tha tội; tâm hồn chị như “tù nhân Sion được Chúa đưa về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ, vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Đáp ca Tv. 125). Tâm trạng vui mừng của chị còn hơn các tù nhân lưu đày ở Babilon được tiên tri Isaia loan báo tin mừng sắp được giải thoát. Đức Giêsu đã mở con đường từ ái giải thoát chị, như Thiên Chúa đã mở con đường giữa đại dương giải thoát dân Israel an toàn trở về đất hứa. Đức Giêsu đã mở trong tâm hồn chị một dòng sông để tưới mát những khao khát của chị như Thiên Chúa đã khơi một giòng sông giữa sa mạc khô cằn cho dân Ngài được giải khát. Đức Giêsu đã xây dựng con người chị thành con Thiên Chúa luôn biết vui mừng ca ngợi Thiên Chúa, như Thiên Chúa đã gầy dựng dân Israel thành một dân luôn biết ngợi khen Thiên Chúa (Bài I).
Bây giờ chị có thể nói như Thánh Phaolô rằng: “Tôi coi tất cả mọi sự chẳng thiệt gì, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu, vì Người, tôi đành mất tất cả và tôi coi tất cả như đồ bỏ để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Bài II).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết tự tố cáo và lên án mình để Chúa thương xót con và con được nghe những lời từ ái dịu ngọt rằng: Cha không kết án con vì Cha đến thế gian để hiến mạng sống Cha cứu độ con và cho con được biến đổi sống lại trong ánh sáng phục sinh của Cha.
5. Làm mới con người--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Khi người Do Thái đang bị lưu đày tại Babylon, ai trong họ dám nghĩ rằng có ngày họ được trở về quê cha đất tổ? Ngay cả khi còn quyền lực và độc lập còn chưa giữ được đất nước quê hương, còn chưa bảo vệ được mình, thì làm sao một khi đã bị lưu đầy sang nơi đất khách quê người lại có thể nổi dậy và trở về quê hương, trừ phi Thiên Chúa can thiệp làm những việc kinh thiên động địa như Ngài đã làm cho dân Do Thái thời ở Aicập qua Môsê.
Sách tiên tri Isaya cho dân một niềm hy vọng. Thiên Chúa phán: “Ta sẽ cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta tuyển chọn được giải khát”. Thiên Chúa thỏa mãn khao khát của dân Ngài. Ngài đã đưa dân Do Thái đang lưu đầy ở Babylon được trở về quê cha đất tổ qua vua Kyrô, một vua người Ba Tư đã chiến thắng và đang nắm quyền trên khắp vùng. Kyrô, một vua người ngoại, nhưng đã được coi là Đấng Kitô của Thiên Chúa (Is.45, 1). Một người ngoại được coi là Đấng Kitô, là một điều người Do Thái không bao giờ ngờ tới. Như vậy, hoặc Thiên Chúa đã dùng một người ngoại để giải phóng dân của Ngài, hoặc người ngoại không phải là người ngoại trước mặt Thiên Chúa. Người ngoại vẫn là con dân của Thiên Chúa như người Do Thái, và họ đã được Thiên Chúa yêu và dùng như Ngài đã yêu thương người Do Thái vậy.
Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa còn làm những điều kỳ diệu hơn tất cả những điều Ngài đã làm từ trước tới nay. Tin mừng Chúa Nhật thứ năm mùa chay cho thấy Đức Giêsu đã làm một điều đặc biệt: Ngài cứu người phụ nữ ngoại tình thoát chết và làm cho những người biệt phái cùng kinh sư trở nên khiêm tốn và nhận biết mình có tội. Khi những người biệt phái và kinh sư bỏ đi không ném đá chị phụ nữ ngoại tình nữa, hàm chứa họ đã được ơn nhận biết chính mình. Đức Giêsu nói với chị phụ nữ: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Một cuộc đời mới đã khai mở với chị phụ nữ phạm tội ngoại tình. Chị tạ ơn Thiên Chúa đã cứu sống chị qua Đức Giêsu; chị bắt đầu một đời sống mới trong niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người. Một khi gặp gỡ được Thiên Chúa, người ta trở nên nhân hậu hơn, chấp nhận chính mình và tha nhân hơn, tha thứ cho người khác và tha thứ cho chính mình.
“Không ai có quyền tha tội trừ một Thiên Chúa” (Mc.2, 7). Thiên Chúa đã dùng Đức Giêsu để tha tội cho người bị bại liệt. Đức Giêsu đã tha tội cho chị phụ nữ ăn năn sám hối (Lc.7, 34). Đức Giêsu cũng không kết án chị phụ nữ ngoại tình (Ga.8, 11). Thiên Chúa không chỉ không kết án, mà còn tha tội cho con người qua Đức Giêsu Kitô. Không ai có thể giao hòa con người với Thiên Chúa, nếu không phải là chính Thiên Chúa muốn giao hòa với con người. Thiên Chúa đã giao hòa với con người, nhờ và qua Đức Giêsu Kitô. Tạ ơn Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu cho con người. Thiên Chúa đang làm điều mới qua Đức Giêsu Kitô.
Con người ngày nay không thể gặp gỡ Đức Giêsu vì Ngài đã lên trời, tuy nhiên nhờ đức tin con người vẫn có thể gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh. Thánh Phaolô đã được biến đổi hoàn toàn nhờ biết Đức Giêsu Phục Sinh. “Kể từ khi biết Đức Giêsu, tôi coi mọi sự như thua lỗ bất lợi trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu Phục Sinh”. Phaolô sẵn sàng mất tất cả để chỉ được Ngài mà thôi. Phaolô đã có cái nhìn khác về vạn sự vạn vật. Ngày xưa, Phaolô miệt mài đi bắt bớ các Kitô hữu, tưởng rằng như thế là làm vinh danh Thiên Chúa, nhưng biến cố trên đường Đamát đã giúp Phaolô nhận ra sự thật. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, đã làm cho Phaolô thành con người mới, thành người công chính không cậy dựa vào sức riêng mình nhằm chu toàn lề luật nhưng nhờ đức tin vào Đức Giêsu Kitô.
Với Phaolô, Thiên Chúa là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa đã làm tất cả trong Đức Giêsu: Ngài tái tạo mọi sự, đưa mọi sự tới với Thiên Chúa. Lề luật không giúp người ta tới gần Thiên Chúa nhưng chỉ giúp con người nhận biết mình là tội nhân; chính niềm tin vào Đức Giêsu mới cho con người có nhận thức đúng đắn hơn về mọi sự, mới cho con người có sức sống, mới giúp con người thực hiện được điều mình thấy đúng, mới làm con người được hạnh phúc. Nhận thức rõ Thiên Chúa làm tất cả trong Đức Giêsu Phục Sinh, Phaolô đã miệt mài rao giảng tin mừng: “khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Đức Giêsu Phục Sinh thật sự là tin mừng cho tất cả mọi người. Tin nhận Đức Giêsu Phục Sinh, là tin Thiên Chúa đang hoạt động và yêu thương con người vô cùng, là có thể phó thác trọn vẹn đời mình trong tay Thiên Chúa tình yêu, là có thể sống an bình hạnh phúc.
Tâm tình của Kitô hữu, là tạ ơn Thiên Chúa đã cho được nhận biết Đức Giêsu Phục Sinh. Tín hữu nhìn lên Đức Giêsu để dõi bước theo Ngài. Ngài đã sống thế nào, Kitô hữu được mời gọi để sống như vậy. Trong mùa chay, Kitô hữu được mời gọi để sám hối. Sám hối, là nhận biết chính mình cách thật sự, là nhận biết mình có lỗi lầm và mong ước quay về với Thiên Chúa, làm hòa với anh chị em mình. Sám hối đòi người ta phải có cái nhìn mới về Thiên Chúa, về tha nhân, về chính mình và về sự vật. Thật không dễ để thay đổi chính mình, thay đổi cái nhìn của mình, quan điểm và chọn lựa của mình; nhưng Thiên Chúa là Đấng có thể làm mọi sự. Không gì mà Thiên Chúa không làm được. Ngài đã giúp những kinh sư và biệt phái muốn ném đá chị phụ nữ ngoại tình được nhận biết họ cũng là tội nhân, để họ thay đổi không còn kết án chị phụ nữ nữa. Thiên Chúa đã làm mới những người đến với Đức Giêsu, kể cả chị phụ nữ ngoại tình lẫn những kinh sư và biệt phái.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Niềm tin vào Đức Giêsu làm Kitô hữu có cái nhìn mới về tất cả. Bạn có đồng ý không? Tại sao?
2. Mùa chay này, bạn có biết hơn về con người của bạn không? Xin chia sẻ nếu được.
6. Thiên Chúa đang làm điều mới--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Tiên tri Isaia nói với dân Do Thái: không còn cần nhìn vào qúa khứ để nhận biết Thiên Chúa nhưng có thể nhìn vào hiện tại, vì Thiên Chúa đang làm điều mới cho con người. Ngày đó Thiên Chúa đang giải phóng họ khỏi ách lưu đày ở Babylon; hôm nay, Đức Giêsu là điều mới Thiên Chúa đang làm cho con người.
Chị phụ nữ ngoại tình
Hãy nhìn chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Đây là lần đầu tiên chị phạm tội này, hay đã nhiều lần? Phải chăng người ta đã rình rập để bắt qủa tang, và họ đã thành công, để chị không còn có thể chối cãi được?
Không còn nét kênh kiệu, không còn thái độ thách thức! Chị biết mình không thể thoát cái chết bởi bao người “đạo đức”, bao người “có trách nhiệm bảo vệ cương thường” đang vây quanh chị. Sợ hãi, hối hận hiện lên gương mặt và thái độ của chị.
Không ai có thể cứu chị trừ phi có một phép lạ, trừ phi chính Thiên Chúa ra tay! Nhưng liệu Thiên Chúa có còn thương người tội lỗi như chị, có nghe tiếng van xin của chị không?
Những kinh sư và biệt phái
Những kinh sư và biệt phái nghiêm khắc. Cứ theo luật thì chị ta phải chết. Phải ném đá chị ta, để bảo vệ sự công bằng của xã hội, để bảo vệ sự trong sáng của đạo giáo, và ai cũng phải làm như vậy thôi.
Họ giải chị ta tới với Đức Giêsu, người hay giảng dạy yêu thương tha thứ, người hay nói Thiên Chúa là Thiên Chúa của những tội nhân. Xem ông ta dạy gì? Đây cũng là dịp để cho thấy con người thực và những giáo huấn của ông ta. Có thể họ cũng chẳng muốn gài bẫy Đức Giêsu, nhưng để làm “cho ra lẽ” một giáo huấn “nhân từ” hay “Thiên Chúa thương xót” không thể có chỗ đứng trong xã hội.
Hãy chờ xem.
Đức Giêsu- Đấng thương cảm và tha thứ
Đức Giêsu cảm thấy khó giải quyết. Ngài cúi xuống và bắt đầu viết. Có người nói Ngài viết tội của từng người hiện diện. Có thể, nhưng cũng có thể giải thích: đó là thái độ bối rối không biết giải quyết ra sao.
Vì người ta tiếp tục ép Ngài phải trả lời, Ngài đứng lên và nói: “ai trong các ông vô tội, hãy là người đầu tiên ném đá chị ấy đi”, rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất. Ngài không thách thức ai. Ngài trách ánh mắt thách thức họ, để có thể vì tự ái họ “làm liều”. Có thể Ngài cầu nguyện cho họ được trung thực với chính mình. Vì chính khi trung thực với chính mình, thì họ không thể ném đá chị phụ nữ.
Tạ ơn Chúa. Không có ai ném đá chị phụ nữ. Đức Giêsu đã thành công. “Không có ai kết án chị ư?” Thưa thầy: “không”! Tôi cũng không kết án chị, hãy đi và đừng phạm tội nữa. Chỉ có mỗi một người có thể ném đá chị, mà người đó lại không muốn ném đá chị. Bởi vì người đó nhân từ, cảm thương con người tội lỗi hơn là lên án họ.
Hãy đi và đừng phạm tội nữa. Có lẽ từ đó trở đi, chị ta là con người mới vì chị ta đã cảm nhận được một tình yêu. Tình yêu tha thứ và tôn trọng. Tình yêu mời gọi chị làm lại cuộc đời. Thiên Chúa làm mới chị, và cũng là một phép lạ đối với những người kinh sư và biệt phái, vì hôm nay họ trung thực với chính họ, hôm nay họ gặp gỡ Thiên Chúa qua hành vi “nhận biết chính mình”.
Phaolô trở thành con người mới nhờ biết Đức Giêsu
Với Phaolô, mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giêsu. Phaolô sẵn sàng mất tất cả, để được Đức Giêsu. Tương lai của Phaolô ở trong tay Chúa, sự công chính của Phaolô cũng tuỳ thuộc Chúa. Phaolô không cậy dựa vào sức riêng mình. Hiện tại Phaolô không cho mình là người thành toàn, nhưng Phaolô vẫn tiếp tục tiến bước trong niềm hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng đã làm và sẽ làm những điều tốt nhất cho Phaolô.
Một điều rất quan trọng với Phaolô: quên phía sau và lao mình tới trước, nhắm đích Thiên Chúa kêu gọi ngài trong Đức Giêsu. Đức Giêsu đã là tất cả cho Phaolô.
Ngài là ai đối với tôi?
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Điều gì đánh động bạn nhất trong trình thuật “chị phụ nữ ngoại tình”?
2. Theo bạn, tại sao Đức Giêsu chi phối đời Phaolô đến thế?
3. Đức Giêsu có chi phối đời bạn không? Tại sao? Đến độ nào?
7. Ơn giải thoát--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Ơn giải thoát.
"Tôi không kết án chị đâu. Thôi chị cứ về và từ nay đừng phạm tội nữa" (Ga 8,11)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay với ý thức mình là người tội lỗi. Lời Chúa trong các Chúa nhật trước an ủi chúng ta rằng Chúa vẫn yêu thương chúng ta và sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Hôm nay, Chúa lại nói với chúng ta, như đã nói với người phụ nữ ngoại tình, rằng "Ta không kết án con đâu. Hãy về và đừng phạm tội nữa".
Thiên Chúa thật là Đấng giàu lòng thương xót. Chúng ta hãy đến với Ngài trong Thánh lễ này với trọn tâm tình tin yêu phó thác.
II. Gợi ý sám hối
Mặc dù chúng ta đầy dẫy khuyết điểm, nhưng chúng ta hay bắt bẻ khuyết điểm của người khác.
Mặc dù chúng ta tội lỗi rất nhiều, nhưng chúng ta hay lên án người khác.
Chúng ta không đối xử khoan dung với người khác như Chúa đã khoan dung với chúng ta.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 43,16-21)
Đoạn này được trích trong phần II sách Isaia. Hoàn cảnh lúc đó là dân Do Thái đang bị lưu đày bên Babylon.
Trước hết Isaia nhắc họ nhớ lại chuyện xuất hành ngày xưa: Thiên Chúa là Đấng giải thoát. Để giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập, Ngài đã rẻ đôi Biển đỏ, đã nhận chìm quân đội Pharaon trong Biển cả.
Tiếp đến, ngôn sứ hứa là Thiên Chúa sẽ thực hiện việc giải phóng đó một lần nữa, tức là giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày: "Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn"
2. Đáp ca (Tv 125)
Ca tụng việc Thiên Chúa giải thoát dân khỏi cảnh lưu đày: "Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ".
3. Tin Mừng (Ga 8,1-11)
Câu chuyện về người phụ nữ này giống một bức tranh trong đó các hình ảnh đối chọi nhau nhưng lại làm nổi bật nhau lên:
Một bên là một con người tội lỗi rõ ràng vì bị bắt quả tang đang phạm tội đáng chết, bên kia là Con Thiên Chúa thánh thiện vô cùng.
Một bên là thái độ hung hăng của những người biệt phái đòi giết kẻ có tội, bên kia là thái độ nhân từ hiền hậu của Đấng cứu thế.
Bởi đó thánh Augustinô đã tóm ý nghĩa bức tranh này bằng một câu ngắn gọn rất súc tích: "Miseria et misericordia" (Sự cùng khốn và lòng thương xót).
4. Bài đọc II (Pl 3,8-14)
Thánh Phaolô đề cao sự công chính mà Chúa Giêsu ban. Đây không phải là sự công chính do Luật Môsê đem lại (như các người biệt phái trong bài Tin Mừng) mà nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô (như người phụ nữ ngoại tình).
IV. Gợi ý giảng
* 1. Tình cảm thứ tám
Người ta thường nói rằng con người chúng ta có 7 thứ tình cảm là Hỉ Nộ Ai Cụ Ái Ố Dục. Hỉ là vui, nộ là giận, ai là buồn, cụ là sợ, ái là thương, ố là ghét và dục là muốn. Tất cả gồm 7 tình cảm, "thất tình". Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết thêm một thứ tình cảm nữa, đó là Thương Xót.
Thương xót là gì? Thưa là một tâm trạng đặc biệt vừa êm đềm ngọt ngào (thương) vừa đau đớn đắng cay (xót).
Hai cảm giác mâu thuẫn vừa thương lại vừa xót ấy trổi dậy trong lòng chúng ta khi chúng ta đứng trước một người chúng ta thương nhưng người ấy vừa phạm một lỗi lầm.
Khi đó, chúng ta phải đối xử thế nào? Lên án chăng? Không được, vì làm như thế là không thương. Bỏ qua chăng? Cũng không được, vì làm như thế là dung túng cho sự xấu. Vậy làm thế nào bây giờ? Chúng ta hãy nhìn Chúa Giêsu: Ngài nói với người phụ nữ ngoại tình "Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa". Nghĩa là Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Nếu Ngài lên án thì chị này phải chết, không còn cơ hội nào nữa. Nếu Ngài bỏ qua thì chị này sẽ tiếp tục phạm tội, cũng không có cơ hội. Ngài bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Tại sao Chúa ban cơ hội cho người tội lỗi? Chúng ta cũng hãy tìm lý do trong bài Tin Mừng này. Và chúng ta tìm gặp trong câu Chúa nói với những người muốn giết người phụ nữ ngoại tình ấy: "Ai trong các ông không có tội thì hãy ném đá chị này trước đi". Vậy lý do là bởi vì ai cũng có tội. Thân phận làm người là như thế, đã là người thì có tội. Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành và thánh thiện, đúng lý ra Ngài có đầy đủ lý do để lên án loài người tội lỗi chúng ta, nhưng vì thương xót, Ngài đã ban cho chúng ta biết bao cơ hội: "Ta không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống". Trong dụ ngôn về hai con nợ, Chúa Giêsu cũng nói một câu đáng chúng ta suy nghĩ: "Sao ngươi không biết thương xót bạn ngươi như Ta đã thương xót ngươi" (Mt 18,33)
Một quyển sách tựa đề "Tình trên non cao" kể rằng có một cặp vợ chồng trẻ rất yêu thương nhau và sống với nhau trên một ngọn núi cao, rất hạnh phúc. Hạnh phúc đến nỗi nhiều lần họ hô to giữa trời lồng lộng "Chúa ơi, sao mà chúng con hạnh phúc quá!" Nhưng đâu phải chỉ sống với nhau mãi trên núi mà hạnh phúc. Người chồng thỉnh thoảng cũng phải xuống núi để làm ăn. Trong một chuyến xuống núi, người chồng đã lỡ sa ngã ngoại tình với một người đàn bà khác. Người vợ biết được, rất giận, từ đó không nói chuyện với chồng nữa. Phần người chồng thì cũng hối hận nhưng không thể nào xin lỗi được vì mỗi lần muốn nói lời xin lỗi với vợ thì vợ bỏ đi nơi khác. Một đêm kia người chồng trên đường lên núi về nhà thì gặp bão tuyết, chiếc xe ngựa bị gãy, con ngựa bị què, anh cũng bị thương nặng ở chân. Nhưng anh vẫn cố bò về tận cửa nhà. Người vợ ở trong nhà nhìn ra thấy chồng lết tới cửa, nhưng chị nhất định không mở cửa. Sáng hôm sau, người ta thấy xác người chồng đã cứng đờ ngay trước mái ấm gia đình của mình. Một mối tình rất hạnh phúc trên non cao đã kết thúc bi thảm như thế, chỉ vì người vợ không biết thương xót, không cho chồng mình một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Cuộc đời quả thật không đơn giản trắng là trắng, đen là đen, tốt là tốt xấu, là xấu. Trong một dụ ngôn, Chúa Giêsu cho chúng ta biết cuộc đời phức tạp như một mảnh ruộng có cả lúa và cỏ lùng lẫn lộn (Mt 13,36-43). Lòng người cũng thế, có khi tốt như thiên thần, có khi xấu như ác quỷ, có phần sáng có phần tối, dù lỡ phạm tội nhưng vẫn còn lương tâm. Bởi thế con người sống với nhau phải có lòng thương xót. Mà thương xót là, xin lặp lại một lần nữa, biết ban cho kẻ lỡ lầm có cơ hội làm lại cuộc đời.
Chúa đã thương xót chúng ta cho chúng ta biết bao cơ hội. Chúng ta cũng thương xót chính mình nên tự cho mình rất nhiều cơ hội. Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta thương xót anh chị em chúng ta để ban cho anh chị em chúng ta những cơ hội làm lại cuộc đời.
* 2. Tội bắt quả tang
Vua Quang Vũ nhà Đông Hán có người chị là Hồ Dương, công chúa goá chồng. Nhà vua muốn tìm cho chị người bạn trăm năm, liền đem danh sách các quan của mình ra hỏi ý kiến chị. Công chúa nói: "Tất cả bá quan trong triều đình chỉ có Tổng Hoằng là người có tư cách khác thường, những người khác không sao bì kịp. Vua Quang Vũ biết ý chị đã vừa lòng Tổng Hoằng, liền bảo chị hãy ra ngồi phía sau tấm bình phong, rồi cho đòi Tổng Hoằng đến. Nhà vua bảo:
- Ta nghe tục ngữ có câu: "Giàu đổi bạn, sang đổi vợ" có phải thế không?
Tổng Hoằng liền quì xuống tâu:
- Bạn bè giao du với nhau còn nghèo hèn không nên quên nhau, người vợ trong cảnh hàn vi không nên cho xuống ở nhà dưới.
Vua Quang Vũ biết Tổng Hoằng là người thuỷ chung, nhân nghĩa, không thể nào lay chuyển được, nên càng đem lòng yêu mến hơn. Rồi nhà vua nói với chị: "Việc hôn nhân không thành được, con người này không thể đem danh lợi và phú quí để mê hoặc".
***
Câu chuyện trên đây là một tấm gương cao đẹp về lòng chung thuỷ, khác hẳn với câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay.
Gia đình là nền tảng của xã hội, một khi vợ chồng đã đánh mất lòng chung thuỷ thì không những gia đình ấy bị đổ vỡ, mà còn băng hoại đến toàn xã hội. Vì thế, các kinh sư và nhóm Pharisêu dẫn người phụ nữ ngoại tình đến xin Chúa Giêsu xét xử là hợp lý, vì chính luật Môsê cũng truyền phải ném đá hạng người đó. Nhưng đó chỉ là cái bẫy để có bằng chứng tố cáo Người mà thôi.
Nếu Chúa Giêsu bảo đừng ném đá chị ta thì lỗi luật Môsê, nếu Người truyền phải ném đá thì Người đã làm sai lời dạy của mình là "Các con hãy yêu thương nhau". Một cái bẫy vừa tinh vi vừa nham hiểm.
Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Người đang viết tội của họ ra hay Người đang suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không ai biết nhưng có một điều chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn được Người vào chân tường, họ sốt ruột nên gặng hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời đó: "Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi" (Ga 8,7).
Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn tay cách đây ít phút nắm chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị tấn công, giờ đây đang nới lỏng các cơ bắp để các viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng trên đất.
Vâng, không ai dám tự hào mình vô tội. Có biết bao tội bất trung bất nghĩa còn xấu xa chẳng kém tội ngoại tình. Có những tội ngoại tình trong ước muốn, trong tư tưởng. Có những tột ngoại tình lén lút chẳng ai hay.
Dường như ngày nay người ta chỉ nhận mình phạm tội khi bị bắt quả tang, còn những tội phạm trong thầm kín thì kể như không có. Vì thế người ta tìm mọi cách để che đậy, giấu diếm những hành vi tội lỗi để không bị bắt quả tang. Và họ cứ an tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ hoàn toàn đánh mất cảm thức về tội lỗi.
Có một điều trớ trêu là khi người ta thấy một ai đó bị bắt quả tang phạm tội, họ không ngại ngùng vung hòn đá ra ném vào người đó. Có lẽ là để gián tiếp minh chứng mình vô tội chăng? Người ta dễ dàng bỏ qua cho mình, nhưng lại không buông tha cho kẻ khác. Tuy nhiên, Đấng duy nhất vô tội lại chẳng lên án tội nhân: "Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!" (Ga 8,11). Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân.
****
Lạy Chúa, chúng cơn rất sợ bị bắt quả tang đang phạm tội. Nhưng có tội nào chúng con phạm mà Chúa chẳng am tường. Xin cho chúng con biết cởi bỏ những mặt nạ giả dối, để luôn sống chân thật và trong sáng trước mặt Chúa và anh em.
Nếu Chúa đã không lên án chúng con, thì xin Chúa giúp chúng con đừng bao giờ xét đoán anh em của mình. Amen. (Thiên Phúc - )
3. Cái nhìn
"Tôi đứng dưới chân đồi,
Nhìn xa xa lên ngọn đồi, tôi thấy một cái bóng giống như một con vật.
Tiến lên nhìn gần hơn một chút, tôi nhận ra cái bóng ấy là một con người.
Tiến sát hơn nữa để nhìn cho thật kỹ, tôi nhận ra đó là người anh em của tôi."
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta một bài học quý giá về cách nhìn người và nhìn việc: đứng trước một người vừa mới làm một việc gì đó lầm lỗi, ta đừng nhìn bằng cái nhìn của biệt phái mà hãy bằng cái nhìn của Chúa Giêsu:
a/ Đừng nhìn họ như nhìn một con vật mà hãy nhìn như nhìn một con người, hơn nữa, như người anh em của mình.
b/ Đừng chỉ nhìn những hoàn cảnh bên ngoài, mà hãy nhìn thấu những tình tiết, tâm trạng bên trong của người anh em đó.
c/ Và cũng nhìn đến sứ mạng của mình: sứ mạng đối xử nhân bản với một người anh em, sứ mạng cứu vớt người anh em đó.
4. Chuyện minh họa
Có chuyện kể rằng người ta bắt được một tên trộm cắp đưa đến nhà vua, và nhà vua đã hạ lệnh giết hắn. Tên trộm cắp này rất khôn ngoan, nên nói với đao phủ: "Tôi có một bí mật này rất quý. Nếu tôi chết thì bí mật ấy cũng bị mang theo. Thật là uổng. Cho nên tôi muốn giao nó lại cho nhà vua". Người ta dẫn hắn tới nhà vua. Hắn nói: "Bí mật của tôi là tôi có một hạt giống kỳ diệu, đào lỗ chôn xuống đất thì nội trong một đêm nó sẽ mọc lên thành cây và trổ ra toàn những trái bằng vàng". Nhưng hắn nói thêm: "Nhưng có điều kiện này là chỉ người nào chưa từng lấy gì của người khác thì mới trồng hạt giống đó được". Sau đó hắn thú nhận: "Tôi thì là một thằng ăn cắp nên không thể trồng được rồi. Vậy trong số các quan đây, ai chưa từng lấy gì của người khác hãy trồng nó đi". Các quan lần lượt viện cớ để từ chối, giống y những người biệt phái trong bài Tin Mừng này vậy. Cuối cùng tên trộm cắp nói với nhà vua: "Chắc là Bệ Hạ có thể trồng được". Nhưng nhà vua đáp: "Nói ra thì thật xấu hổ. Hồi còn nhỏ, Ta cũng đã từng lấy của người khác vài lần". Khi đó tên trộm nói: "Bệ hạ và các quan là những người có đầy đủ mọi thứ thế mà còn lấy của người khác mà không bị hình phạt gì cả. Phần tôi thì nghèo túng thiếu thốn mọi điều, thế mà lại bị xử tử vì tội lấy của người khác". Nhà vua đành ra lệnh tha cho hắn.
5. Chuyện minh họa
a/ Lòng thương xót
Một người đàn bà đến với Vua Napoléon để cầu xin cho đứa con trai của bà khỏi bị xử tử. Nhà vua dựa vào Luật pháp và cho biết rằng theo luật thì con trai bà phải chết. Bà nói:
- Muôn tâu Bệ Hạ, tôi đến đây không phải để xin công lý mà xin lòng tho xót.
- Nhưng con bà không đáng hưởng lòng thương xót. Vua trả lời.
Nhưng bà lập luận:
- Nếu nó đáng thì đâu phải là lòng thương xót nữa.
Cuối cùng nhà vua phải chấp thuận:
- Được rồi. Ta sẽ tỏ lòng thương xót đối với nó.
Người con trai ấy đã được tha chết.
Lòng thương xót không phải là tiền công trả cho một điều gì xứng đáng, mà là một ơn ban miễn phí.
b/ Mù quáng
Từ xưa tới nay người ta vẫn coi vua Salomon là một người có tài xét xử khôn ngoan. Thế nhưng lại có một chuyện sau đây:
Vì đã xử nhiều vụ án quá nên nhà vua càng ngày càng trở nên vô cảm, vô tình. Nói cách khác, nhà vua càng ngày càng khô khan và khe khắt khi xử án.
Một hôm khi Salomon ngồi lên ngai và sắp sửa xử một vụ án, thì chiếc vương miện trên đầu vua bỗng tuột xuống che cả hai con mắt. Nhà vua lấy tay đẩy nó lên, nhưng chỉ một chút sau là nó lại sụp xuống. Sự việc tái diễn đến 8 lần như thế. Cuối cùng nhà vua bực quá nói với nó: "Tại sao mày cứ sụp xuống che mắt tao mãi như thế?" Chiếc vương miệng trả lời: "Tôi phải làm thế để nhắc cho Ngài biết rằng: khi mà quyền hành đã mất đi sự cảm thông thì người cầm quyền sẽ bị che mắt như thế". Nói cách khác, khi đó người ta sẽ thành mù quáng.
6. Mảnh suy tư
- Người nào càng thánh thiện thì càng ít xét đoán người khác.
- Thiên Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống.
- "Chị về đi, và đừng phạm tội nữa": Chúa Giêsu không phủ nhận chị này có tội, nhưng Ngài muốn cho chị này một cơ hội để sám hối và làm lại cuộc đời. Chúa Giêsu không muốn chị này chối tội, bàu chữa tại sao chị phạm tội, hay đổ tội cho người khác, những cách làm này quá dễ nhưng không ích lợi gì. Ngài muốn chị can đảm nhìn nhận sự thật, không tuyệt vọng và khuyến khích chị sửa đổi. Đó mới là ơn giải thoát.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là vị Thẩm phán công minh đầy lòng từ bi nhân hậu. Tin tưởng vào tình thương hải hà của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh luôn nhắc nhở con cái mình hãy hòa giải với Thiên Chúa và với nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / mau mắn thực hiện lời mời gọi tha thiết này.
2. Trong đời sống thường ngày / có những người lúc nào cũng thích phê bình chỉ trích / thậm chí lên án người khác cho thỏa lòng ganh ghét / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người Kitô hữu hiểu rằng / chỉ một mình Thiên Chúa là vị Thẩm phán công bằng / không bao giờ kỳ thị thiên tư.
3. Thánh Gioan Tông đồ đã quả quyết: / Ai nói rằng mình không có tội / đó là người nói dối / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết ý thức thân phận tội lỗi yếu hèn của mình.
4. Chúa Giêsu nói với người phụ nữ: / Tôi cũng vậy / tôi không lên án chị đâu / Thôi chị cứ về đi / và từ nay đừng phạm tội nữa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết lắng nghe lời Chúa dạy / và thực hiện lệnh Chúa truyền.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con: Anh em đừng xét đoán người khác, vì anh em xét đoán thiên hạ làm sao, thì Thiên Chúa sẽ xét đoán anh em làm vậy. Xin cho chúng con biết cố gắng sống lời Chúa để khỏi bị khiển trách khi ra trình diện trước tòa Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Nếu chúng ta thấy thái độ khắt khe của những người biệt phái trong bài Tin Mừng hôm nay là sai trái, chúng ta hãy sốt sắng khi đọc câu "Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con"
VII. Giải tán
Những lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài cũng muốn nói với mỗi người chúng ta: "Chúng con hãy về, và đừng phạm tội nữa".
8. Thiên Chúa giàu lòng thương xót—Lm Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Tuần trước chúng ta đã được thánh Luca kể lại câu truyện đứa con hoang đàng để nói lên lòng thương yêu tha thứ của Thiên Chúa. Tuần này chúng ta lại được thánh Gioan tông đồ kể lại câu truyện người phụ nữ bị ném đá vì phạm tội ngoại tình và thái độ của Đức Giêsu trước cảnh tượng này. Tất cả đều nói lên lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa.
Trong bài Tin mừng hôm nay, các luật sĩ và biệt phái gài bẫy Đức Giêsu để tìm cách bắt Ngài hay ít ra làm cho Ngài mất uy tín hay bớt ảnh hưởng với dân chúng, nhưng Ngài đã xử lý một cách rất khôn ngoan: Ngài không bị mắc kẹt trong việc đòi ném đá hay tha ném đá cho người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình, mà còn cho họ một bài học đích đáng: đừng xét đoán, đừng lên án ai, trái lại phải có lòng thương cảm đối với người tội lỗi.
Chúng ta thấy có một nghịch lý đáng buồn và cũng đáng trách: một đàng Thiên Chúa là Đấng thánh thiện vô cùng mà lại đầy lòng thương xót và khoan dung đối với người tội lỗi… Còn con người thì ai cũng mắc tội không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ lại hay xét đoán, phê bình chỉ trích và lên án người khác nhất là những kẻ tội lỗi. Do đó, nhiều khi đã vô tình xô đẩy thêm kẻ có tội vào vũng lầy không lối thoát.
Hôm hôm nay Chúa dạy chúng ta một bài học là phải dành quyền xét đoán cho Thiên Chúa vì chỉ ai không có tội mới có quyền xét đoán và lên án, còn chúng ta là nghững người tội lỗi phải có lòng thương cảm đối với tội nhân. Về phía mình, Chúa nhắc nhở ta phải biết hồi tâm, phải nhận ra mình là kẻ có tội, phải đi xưng tội để làm hòa với Chúa. Khi đã có một tâm tình như vậy, tự nhiên chúng ta không dám xét đoán và lên án ai.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 43,16-21.
Đoạn này được trích trong phần II sách Isaia. Hoàn cảnh lúc đó là dân Do thái đang bị lưu đầy bên Babylon. Vị tiên tri nói với dân bị lưu đầy nhằm khích lệ họ và mở ra cho họ thấy những viễn cảnh tương lai. Cuộc hồi hương sau cuộc lưu đầy sẽ còn phi thường hơn cuộc xuất hành khỏi Ai cập; cuộc xuất hành mới sẽ còn tuyệt vời hơn lần đầu.
Như vậy, bài đọc 1 chứa đựng một bức thông điệp của niềm hy vọng gửi cho người Do thái đang bị lưu đầy: sẽ có một cuộc xuất hành mới, rất vinh quang, đến nỗi nó sẽ đẩy lùi những sự việc vĩ đại của cuộc xuất hành đầu tiên vào bóng tối. Và tất cả những điều này sẽ xẩy ra, bởi vì Thiên Chúa là Đấng trung thành với dân của Ngài.
+ Bài đọc 2: Pl 3,8-14.
Ở đây thánh Phaolô cho thấy đối với ngài việc biết Đức Kitô là thế nào, một khám phá khiến mọi sự còn lại xem ra như không vậy. Biết Đức Kitô là tìm cách chiếm đoạt Ngài sau khi đã được Ngài chiếm đoạt. Là nhờ Ngài mà đạt đến quyền năng phục sinh của Ngài. Bằng cách chấp nhận thông phần vào đau khổ của Ngài.
Thánh nhân được Chúa mời gọi tiếp tục chạy bộ không ngừng trên đường xuất hành. Để được sống lại với Đức Kitô, ông phải chia sẻ với Ngài sự đau khổ và sự chết, bằng cách liên tục vượt qua chính mình và luôn luôn hy vọng.
+ Bài Tin mừng: Ga 8,1-11.
Biết Đức Giêsu thương người tội lỗi, nhóm luật sĩ và biệt phái tìm cách gài bẫy Ngài để Ngài mất uy tín với dân chúng. Họ dẫn đến trước mặt Ngài một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Theo luật Maisen, ai bắt được người phạm tội quả tang, kẻ ấy có quyền xét xử tội nhân. Trước khi ném đá người phụ nữ này, họ hỏi Đức Giêsu: “Theo luật Maisen thì người phụ nữ này phải bị ném đá, vậy theo ý Ngài thì người phụ nữ này sẽ bị xử như thế nào”?
Đức Giêsu trả lời bằng cách hỏi lại họ, làm cho họ phải thức tỉnh, không dám kết tội người khác: “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá đi” (Ga 8,7). Đúng là một gáo nước lạnh giội lên đầu họ vì không ai trong bọn họ là người vô tội. Họ lần lượt rút lui trong sự thẹn thùng.
Qua câu trả lời ấy, Đức Giêsu cho chúng ta biết chỉ mình Thiên Chúa là người vô tội, là người có quyền xét xử. Nhưng Chúa đã xét xử theo lòng từ bi thương xót. Thay vì luận phạt, Ngài đã cứu chị ta. Một người tuyệt vọng như người phụ nữ ấy, đã tìm được nguồn hy vọng. Quả thực, Thiên Chúa là Đấng chẳng làm cho ai tuyệt vọng.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Tôi không kết án chị đâu
I. BA HỒI CỦA MỘT VỞ KỊCH.
Trong Mùa Chay chúng ta hay đọc câu thánh vịnh: “Thiên Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung”. Người Do thái vẫn đọc câu thánh vịnh này, nhất là những luật sĩ và biệt phái, nhưng họ chưa hiểu được hết nội dung của nó. Lòng thương xót của Chúa quá thẳm sâu, ai hiểu thấu được. Câu truyện người phụ nữ ngoại tình trong bài Tin mừng hôm nay không phải là đề tài chính, không chủ ý nhằm nói lên tội của con người mà chỉ là cơ hội thuận lợi để nói lên lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa và khuyên bảo chị ta đừng phạm tội nữa: “Tôi cũng thế, Tôi không kết án chị đâu” (Ga 8,11).
Đọc câu truyện người phụ nữ ngoại tình trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta coi câu truyện này như một vở kịch được chia làm ba hồi. Tất cả đều nói lên lòng thương xót của Chúa.
1. Hồi nhất: Xử án người phụ nữ ngoại tình (Ga 8,1-5).
Người Do thái có nhiều lễ trong một năm. Lễ Lều Trại có lẽ là cơ hội để người ta lạm dụng, ăn ở phóng túng. Trong suốt 8 ngày sốùng ở lều, ngoài rừng, thuận tiện cho những cuộc gặp gỡ lả lướt. Những cuộc giao du nơi này qua nơi khác vẫn hay có những hội ngộ tình cờ, không hợp với luân thường đạo lý là bao. Chính sau cuộc lễ này mà xẩy ra câu truyện trong bài Tin mừng.
Sau bài giảng trong Đền thờ nhân dịp lễ Lều Trại của người Do thái, Đức Giêsu đi ra nghỉ tại núi Cây Dầu. Bao giờ có dịp về thủ đô, Ngài cũng qua nghỉ đêm tại đó. Tảng sáng hôm sau, Ngài lại vào Đền thờ và toàn dân đến cùng Ngài, nên Ngài ngồi xuống đất mà giảng.
Tình cờ người ta đem đến cho Ngài một người phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Tất nhiên tội ngoại tình bị lên án, nhưng các người tố cáo thời đó, dù họ là luật sĩ cũng không yêu sách lắm về cách áp dụng khoản luật trong sách Lêvi dạy ném đá người ngoại tình (Lv 20,10). Tuy thế, các luật sĩ và biệt phái muốn dựa vào hai đoạn văn của lề luật: ra lệnh giết chết người đàn ông và người đàn bà ngoại tình (Lv 20,10) và dạy ném đá người đàn bà ngoại tình với người tòng phạm (Đnl 22,22-24), để cố ý ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Các luật sĩ và biệt phái dựa vào cơ hội này để thử thách Đức Giêsu (Ga 8,3-6). Họ thật thâm độc, họ đặt Đức Giêsu và thế gọng kìm, tiến thoái lưỡng nan. Nếu Đức Giêsu đồng ý cho ném đá, Ngài sẽ bị kẹt vào hai điều: trước hết, vi phạm luật của chính quyền Rôma, chỉ chính quyền Rôma mới có quyềàn xử tử hình mà thôi. Thứ đến, Ngài mất uy tín, và ảnh hưởng của Ngài như một người bạn của những người tội lỗi và bậc thầy giảng dạy về tình yêu thương tha thứ. Mặt khác, nếu Ngài từ chối giữ luật Maisen, không ném đá người phụ nữ ngoại tình, tức là Ngài ủng hộ cho hành động vô luân lý, như vậy làm sao xứng danh một tiên tri, một Đấng Thiên Sai đến từ Thiên Chúa được?
2. Hồi hai: Đức Giêsu với việc xử án (Ga 8,6-9).
Đứng trước câu hỏi hóc búa này, Đức Giêsu đã có một cách giải quyết rất khôn ngoan. Ngài không trả lời mà chỉ ngồi mà vẽ xuống đất cái gì đó. Vậy Ngài viết những gì? Theo thánh Giêrônimô, Đức Giêsu viết tội những kẻ đứng tố cáo. Còn bản Tân ước tiếng Amêri dịch như sau: “Chính Ngài cúi xuống, lấy ngón tay viết trên mặt đất để tuyên bố tội lỗi họ, và họ thấy nhiều trọng tội của họ trên mặt đất”. Ý ở đây là Đức Giêsu đã viết trên mặt đất các tội lỗi của chính những kẻ đang tố cáo người phụ nữ ấy. Điều này có thể đúng, vì từ viết “Katagraphein” được dùng ở đây có nghĩa là viết (một bản cáo trạng) chống lại một người nào. Có thể Đức Giêsu buộc những kẻ đang tố cáo người khác phải đối diện với bản liệt kê các tội lỗi của chính mình.
Dầu vậy, các luật sĩ và biệt phái vẫn một mực đòi hỏi Đức Giêsu phải trả lời, và họ đã được trả lời: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ lấy đá mà ném trước đi”(Ga 8,7). Ai có thể là người vô tội? Trong thư thánh Gioan Tông đồ Ngài dạy rằng: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta”(1Ga 8,7). Người phụ nữ phạm tội ngoại tình thì quá rõ ràng. Còn những luật sĩ và biệt phái đang tố cáo người phụ nữ với hậu ý rất thâm độc và một lòng thù ghét Đức Giêsu, họ đang tìm cách giết Ngài. Tội của họ còn lớn lao hơn tội người phụ nữ! Nhưng họ lại tự lừa dối mình là những người đạo đức. Chúa đã vạch tội họ ra cho thấy rằng làm sao một người tội lỗi lại lên án một tội nhân khác được?
Cúi xuống và viết tội là Chúa nhìn thẳng vào quá khứ và cuộc đời tội lỗi của những người đang tố cáo. Chúa hỏi: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ ném đá trước đi”. Câu nói đó chắc là đã khơi động lương tâm các người tố cáo, già thì nhiều tội hơn, lại bị cắn rứt nhiều hơn nên đã tự biết mình rút lui trước, cho đến người cuối cùng.
3. Hồi ba: Tha án cho người phụ nữ (Ga 8,10-11).
Sau khi họ đã rút lui hết, chỉ còn lại có một mình Đức Giêsu và người phụ nữ, Ngài mới hỏi chị ta: “Không còn ai lên án chị sao”? Chị ta đáp: “Thưa không”. Ngài phán: “Ta cũng không lên án chị. Hãy đi làm lại cuộc đời và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11).
Khi bàn về câu truyện này, thánh Augustinô dùng hai từ bằng tiếng La tinh rất khéo là “Miseria và misericordia”: bây giờ chỉ còn lại một nỗi khổ đau tràn đầy và một tấm lòng thương xót vĩ đại, bởi vì “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”(Ga 3,17).
II. BÀI HỌC TỪ MỘT VỞ KỊCH.
1. Thiên Chúa giầu lòng thương xót và tha thứ.
Qua câu truyện này, chúng ta mới thấy rõ tâm tình của Thiên Chúa qua Đức Giêsu là lòng thương xót đối với tội nhân. Đứng trước lỗi lầm của con người, Đức Giêsu luôn có lòng thương cảm. Ngài không hề phạm tội (x. 1Pr 2,22), nhưng Ngài lại không lên án ai. Ngài đã từng chịu ma quỉ cám dỗ, nên Ngài rất am hiểu sự yếu đuối của con người. Vì thế, đứng trước người phụ nữ này, Ngài hiểu biết những tình huống đã dẫn chị ta đến cơn cám dỗ, và từ cơn cám dỗ đến những hành vi tội lỗi. Ngài hoàn toàn thông cảm với chị. Ngài ghê tởm những kẻ tuy cũng cảm thấy mình yếu đuối như chị, cũng đã từng sa ngã khi gặp cám dỗ như chị, nhưng lại muốn kết án chị. Dường như kết án chị, họ mới thỏa mãn lòng kiêu hãnh phát xuất từ một ảo tưởng rằng họ vô tội. Họ thích sống trong ảo tưởng đó, và muốn củng cố ảo tưởng đó bằng cách kết án người khác. Họ nghĩ càng kết án càng chứng tỏ mình sạch tội, vô tội.
Vì thế cần phải biết hồi tâm. Bằng chứng: chỉ vài phút trước đó, người ta hung hăng tố cáo đòi ném đá, và bây giờ người ta lại lặng lẽ rút lui. Một sự chuyển biến bất ngờ phát sinh từ lời mời gọi của Đức Giêsu: “Ai trong các ông sạch tội thì hãy ném đá trước đi”. Khi người ta đòi ném đá tha nhân, người ta tự cho mình là kẻ sạch tội và có quyền lên án kẻ có tội. Nhưng khi người ta khám phá ra mình cũng là tội nhân, người ta không dám lên án nữa vì như thế cũng là lên án chính mình. Sự khám phá có được là do cái nhìn về phía bên trong chính mình.
Chúng ta đều đã phạm tội nên đáng chịu hình phạt ném đá như người phụ nữ kia, nhưng Chúa luôn thương xót chúng ta, không nỡ đoán phạt chúng ta. Tiên tri Ôsê (2,4-25) đã so sánh dân Israel với một người vợ được Chúa yêu thương mà lại “ngoại tình” bằng những hành động “đáng điếm”. Mọi sự lìa bỏ Chúa đều là một thứ ngoại tình, vì xúc phạm đến một Thiên Chúa dễ bị tổn thương và si tình. Nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu thương một cách không mệt mỏi và tha thứ cho người vợ bất trung, là nhân loại tội lỗi. Chúng ta là dân Israel mới, cũng như người phụ nữ ngoại tình đáng bị trừng phạt nhưng Thiên Chúa luôn xót thương và tha thứ.
Truyện: Hoàng đế Napoléon và lòng thương xót.
Ngày kia, có một phụ nữ đến van xin hoàng đế Napoléon tha thiết cho con trai của bà. Anh thanh niên đó đã phạm một tội nặng. Lề luật đãõ rõ rệt. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý. Nhưng bà mẹ năn nỉ:
- Thưa bệ hạ, tôi đến van xin lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý.
Hoàng đế Napoléon trả lời:
- Nhưng hắn ta không xứng đáng được thương xót.
Bà mẹ nói:
- Thưa bệ hạ, nếu nó xứng đáng, thì không cần gọi là lòng thương xót nữa.
Hoàng đế Napoléon đáp:
- Thôi được. Ta sẽ rủ lòng thương xót nó.
Và ông sai thả người thanh niên đó ra. (Flor McCarthy, Phụng vụ Chúa nhật, năm C, tr 192)
2. Đừng xét đoán và lên án ai.
Qua câu trả lời của Đức Giêsu: “Ai trong các ông sạch tội thì hãy ném đá người phụ nữ này đi”, chúng ta tìm ra nguyên tắc của Đức Giêsu là chỉ người vô tội mới được đoán xét những lỗi lầm của người khác. Ngài đã cảnh cáo chúng ta: “Các ngươi đừng đán xét ai, để mình khỏi bị xét đoán”(Mt 7,1). Khi nhìn vào người khác chúng ta chỉ biết được cái vỏ bề ngoài, còn cái ruột người khác thì làm sao biết được. Vì thế người ta mới nói:
Dò sông dò biển dễ dò,
Nào ai lấy thước mà đo lòng người.
Một trong những lỗi lầm thông thường nhất trong đời sống là chúng ta đòi hỏi người khác đạt những tiêu chuẩn mà chính mình không hề cố gắng đạt tới; nhiều người trong chúng ta kết án người khác về những lỗi lầm mà chính mình đã mắc phải. Không thể dựa trên kiến thức để xét đoán kẻ khác, vì ai cũng có tri thức. Phải dựa trên sự thành đạt đạo đức để xét đoán, nhưng không ai trong chúng ta là người toàn thiện cả. Thực trạng của con người cho thấy chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán, lý do hết sức đơn giản là không ai lành thánh đủ để đoán xét kẻ khác.
Thích xét đoán và kết án người khác là cái chuyện trầm kha của con người. Không ai nghĩ đến cái xấu của mình mà chỉ nghĩ đến cái xấu của người khác. Chính vì thế ông bà tổ tiên chúng ta đã để lại một lời than trách nhắc nhở chúng ta đừng xét đoán người khác vì mình cũng có tội:
Chân mình thì lấm lê mê
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
Truyện: Không ai là người vô tội.
Ngày xưa, có một người đàn ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước mặt nhà vua, ngay tức khắc, nhà vua liền ra lệnh treo cổ người đó. Tuy nhiên, khi bị áp tải đến giá treo cổ, người đàn ông đó đã nói với người cai ngục rằng anh ta biết một điều bí mật, do cha của anh chỉ dạy. Anh tuyên bố rằng khi xử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên, trổ sinh hoa quả chỉ trong một đêm. Anh ta nói rằng thật đáng tiếc, nếu bí quyết này bị chôn vùi đi theo cái chết của anh, và sẵn lòng bộc lộ bí quyết này cho nhà vua.
Viên cai ngục quá bị gây ấn tượng, đến nỗi anh ta lưỡng lự trong việc thi hành án, và giải tù nhân trở lại trước mặt vua. Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói:
- Thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một người nào chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì không thuộc về người đó. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được.
Thế rồi anh ta quay sang một trong những viên quan của nhà vua và nói:
- Ngài có thể trồng hạt giống này được chứ ạ?
Nhưng vị quan này từ chối, nói rằng:
- Khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi.
Sau đó, người ăn trộm quay sang người giữ kho tàng của nhà vua và nói:
- Vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ?
Nhưng người canh giữ kho tàng cũng từ chối:
- Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Bây giờ và một lần nữa, tôi đã có thể giữ một ít tiền cho bản thân tôi.
Và cứ như thế, cuối cùng chỉ còn lại có một mình nhà vua. Quay sang nhà vua, người ăn trộm nói:
- Có lẽ bệ hạ sẽ vui lòng trồng hạt giống này?
Nhưng nhà vua nói:
- Ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta.
Sau đó, người ăn trộm nói:
- Tất cả các ngài đều vĩ đại và có quyền lực, không còn gì để mong muốn nữa. Tuy nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi đã ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ.
Nhà vua tha thứ cho anh ta. Câu chuyện này sẽ có kết thúc khác hẳn, nếu nhà vua không được chuẩn bị để lắng nghe. Thay vào đó, nhờ sự kiên nhẫn của nhà vua, và nhờ óc tưởng tượng của người đàn ông đã bị kết án, mà không phải chết, và tất cả đều học được một bài học bổ ích. (Flor McCarthy, sđd, tr 193-194)
3. Phải biết thông cảm và tha thứ.
Điều khác nhau căn bản giữa Đức Giêsu và nhóm Do thái là họ muốn kết tội, còn Đức Giêsu thì muốn tha thứ. Nếu đọc kỹ câu chuyện chúng ta thấy họ chỉ muốn ném đá người phụ nữ này cho chết, và họ cảm thấy rất thích hợp làm điều này. Họ cảm thấy vui sướng khi hành quyền kết tội, còn Đức Giêsu vui sướng khi hành quyền tha thứ. Đức Giêsu nhìn tội nhân với sự thương cảm phát xuất từ tình yêu thương, còn các luật sĩ và biệt phái nhìn tội nhân với thái độ ghê tởm, bắt nguồn từ việc coi mình là thánh thiện.
Đức Giêsu thực sự có lòng thương xót đối với tội nhân. Đây là một thứ tình cảm đặc biệt ngoài “thất tình” mà chúng ta vẫn biết: hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục. Vậy thương xót là gì?
Thưa là một tâm trạng đặc biệt vừa êm đềm ngọt ngào (thương) vừa đau đớn đắng cay (xót) Hai cảm giác mâu thuẫn vừa thương lại vừa xót ấy trổi dậy trong lòng chúng ta khi chúng ta đứng trước một người chúng ta thương nhưng người ấy vừa phạm một lỗi lầm.
Khi đó chúng ta phải đối xử thế nào? Lên án chăng? Không được, vì làm như thế là không thương. Bỏ qua chăng? Cũng không được, vì làm như thế là dung túng cho sự xấu. Vậy phải làm thế nào bây giờ? Chúng ta hãy nhìn Đức Giêsu: Ngài nói với người phụ nữ ngoại tình “Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Nghĩa là Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Nếu Ngài lên án thì chị này phải chết, không còn cơ hội nữa. Nếu Ngài bỏ qua thì chị này sẽ tiếp tục phạm tội, cũng không có cơ hội. Ngài bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời (Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm C, tập 1, tr 198).
Một khi đã thông cảm với tội lỗi người khác, thì chỉ còn biết tha thứ, bỏ qua, rồi lại tiếp tục yêu thương, tôn trọng họ, tạo điều kiện và khuyến khích họ sống tốt lành hơn.
Truyện: Tha thứ cho người vợ.
Câu truyện xẩy ra ở một hải đảo của nước Ý. Tại đây người ta qui định: Nếu một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, người ta sẽ buộc vào cổ người đàn bà này một tảng đá lớn, và quẳng xuống biển cho chết chìm.
Vào một ngày kia, một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội này. Bà đã bị kết án tử hình theo như luật định. Nhưng đến ngày xử mà người chồng vẫn còn đánh bắt cá ngoài khơi, khiến tòa án phải gia hạn thêm mấy ngày nữa. Người ta đã phải gia hạn nhều lần mà vẫn không thấy anh chồng trở về. Cuối cùng họ quyết thi hành án tử hình cho chị vợ, cho dù chồng có mặt hay không. Họ định ngày xử án dùng thuyền đưa chị ra vùng nước sâu, cột một hòn đá vào cổ chị ta, trước khi quăng chị ta xuống biển cho chết chìm.
Nhưng thật lạ lùng, ngày hôm sau mọi người đều kinh ngạc khi thấy chị ta xuất hiện ở trong làng. Thì ra, ngay từ đầu, nhờ được hai người bạn thân giúp đỡ, người chồng đã hay biết mọi sự. Cho dù bị vợ phản bội, nhưng người chồng vẫn luôn yêu thương và sẵn sàng tha thứ tội bất trung của vợ. Anh và mấy người bạn kia đã đặt ra một kế hoạch hoàn hảo để giải cứu người vợ. Do đó, thay vì sớm xuất đầu lộ diện để tham gia xét xử, anh ta đã lẩn trốn trong rừng một thời gian để làm kế hoãn binh. Đến ngày thi hành án, anh bí mật bơi lặn đến núp dưới một tảng đá ngầm, ngay tại nơi mà người chị vợ sẽ bị quăng xuống biển. Khi chị vợ bị quăng xuống, thì người chồng đã mau tiến lại gần, dùng dao cắt đứt sợi dây cột đá và bí mật đưa vợ đi đường tắt về nhà.
4. Hãy đi xưng tội.
Mọi người đã phạm tội, cần phải ăn năn sám hối và làm hòa với Chúa. Cách giao hòa với Chúa hay nhất là đi xưng tội, đặc biệt cho những người phạm tội trọng. Những người phạm tội trọng muốn được tha tội, trong những điều kiện bình thường, chỉ còn cách duy nhất là đến tòa giải tội. Những người phạm tội nhẹ, tuy không buộc phải xưng tội, có nhiều cách để được tha, nhưng việc xưng tội sẽ đem lại cho họ được nhiều lợi ích.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II gọi bí tích giải tội là con đường thanh tẩy và kết hợp với Đức Kitô. Ngài nhận định rằng bí tích Giải tội có mục đích không chỉ tha tội nhưng còn và trên hết dẫn đưa người tín hữu vào cuộc gặp gỡ sâu xa với Đức Kitô.
Khi tiếp kiến với các Linh mục và chủng sinh đang tham dự một khoa học về “internal forum” do tòa Âân giải tổ chức, ngài bầy tỏ suy tư về những phương diện chính yếu của bí tích này: “Hoa trái của việc xưng tội”không những chỉ là tha thứ tội lỗi, điều cần thiết cho bất cứ ai đã phạm tội” nhưng còn mang lại “sự phục sinh thiêng liêng” thực sự, một sự phục hồi phẩm giá và những điều thiện hảo cho sự sống của con cái Thiên Chúa, mà điều quí giá nhất là “Tình bằng hữu với Thiên Chúa”.
Do dó, “sẽ ảo tưởng cho việc nên thánh, tùy theo ơn gọi Chúa ban cho mỗi người, mà không thường xuyên và sốt sắng lãnh nhận bí tích sám hối và thánh hóa này” như Đức Giáo hoàng đã khẳng định.
Truyện: Thánh Phanxicô Salêsiô với việc xưng tội.
Ngày kia thánh Phanxicô Salêsiô cho một người xưng tội. Người này xưng rất thành thật, khiêm nhường và hết lòng ăn năn. Thánh nhân cảm động lắm. Sau khi xưng tội xong, người ấy hỏi:
- Bây giờ cha biết tất cả những sự xấu xa của con rồi. Cha nghĩ thế nào về con?
- Bây giờ cha nhìn con như một đấng thánh.
- Chắc cha phải nói ngược lại mới được.
- Không, Cha nói theo lương tâm của cha. Con bây giờ hoàn toàn khác trước rồi.
- Nhưng tội lỗi con đã phạm thì luôn luôn ở với con mà?
- Không phải thế đâu con ạ. Khi bà Mađalena đã ăn năn trở lại, Chúa xem bà như một đấng thánh. Chỉ có bọn Pharisêu giả hình cứ coi bà là kẻ tội lỗi.
- Nhưng đối với cha, con muốn biết cha nghĩ thế nào về quá khứ của con?
- Cha không nghĩ thế nào cả. Điều gì không có trước mặt Chúa thì cha không nghĩ đến. Cha chỉ biết ngợi khen Chúa và vui mừng vì con đã trở lại với Chúa. Cha muốn cùng các thánh trên trời vui mừng với con.
Nói xong, thánh nhân khóc. Người kia bỡ ngỡ hỏi:
- Cha khóc à? Chắc cha khóc vì thấy con phạm nhiều tội quá?
- Cha khóc vì thấy con đã sống lại với Chúa.
Thánh nhân biết rõ phép giải tội không phải chỉ là che giấu tội, phủ kín tội ta đã phạm, nhưng là rửa sạch hết mọi tội ta đã khiêm nhường xưng ra.
9. Tình thương tha thứ và biến đổi--Lm. Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: "Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!"
2. CÂU CHUYỆN: Về cuộc hoán cải của một tội nhân:
TA-XI-A-NA là một văn sĩ người Mỹ gốc Liên Xô. Vào năm 1980, cô đã cho ra đời tác phẩm đầu tay tựa đề là "Về Một Cuộc Đổi Đời Kỳ Diệu". Trong quyển sách đó, cô đã kể lại chi tiết cuộc đời đầy đam mê sóng gió của cô, mà cuối cùng đời cô đã được ơn biến đổi trở nên tốt hơn gấp bội! Câu chuyện của cô Ta-xi-a-na được tóm gọn như sau:
Ngay từ khi còn bé, Ta-xi-a-na đã được chịu phép Rửa tội. Nhưng khi lớn lên, cô ít đến nhà thờ dự lễ Chúa nhật vì cha mẹ của cô không mấy ngoan đạo. Do thường hay gây gỗ và cứng đầu nên cha mẹ và thầy dạy đều xếp cô vào loại trẻ em khó dạy. Ngay từ nhỏ, Ta-xi-a-na đã tỏ ra căm thù tất cả những gì gò bó, ép cô vào khuôn khổ kỷ luật, vì nó làm cho cô cảm thấy bị mất tự do và không thể làm theo ý mình. Lớn lên, nhờ có trí thông minh siêu hạng, Ta-xi-a-na đã được cấp học bổng lên đại học. Nhưng tại môi trường trí thức này, thay vì kết thân với các sinh viên cùng khóa, thì cô lại thường xuyên giao du với đám ma-cô, đầu trộm đuôi cướp, bợm nhậu, đĩ điếm và xã hội đen...! Trong khi sống buông thả như vậy, cô cũng thích nghiên cứu các môn thần bí phương Đông, đặc biệt là môn Yô-ga. Khi tập luyện Yô-ga, mỗi động tác đều đòi người ta phải đọc một câu trong một bài văn vần của môn phái. Có người biết cô là tín hữu nên đã đề nghị cô đọc Kinh Lạy Cha để thay cho bài văn vần kia. Ta-xi-a-na đã làm theo lời khuyên này. Các câu trong kinh Lạy Cha đã dần dần thấm nhập vào tâm hồn cô. Rồi một ngày kia, một tư tưởng chợt lóe lên trong đầu Ta-xi-a-na: "Tại sao ta lại không đọc thêm các bản kinh khác nữa, nhất là đọc Lời Chúa trong Thánh kinh?" Càng đọc Lời Chúa, cô càng cảm thấy thích thú về những tư tưởng cao siêu và thánh thiện của Đức Giêsu. Cuối cùng cô quyết định đến với một linh mục đạo đức để tìm hiểu thêm về giáo lý Thánh kinh. Sau đó cô đã cử hành lễ nghi tuyên tín. Cô dọn mình chịu bí tích giải tội và đã được đổi mới hoàn toàn. Từ đây cô tình nguyện hiến thân phục vụ các công việc bác ái xã hội. Về sau cô đã thuật lại phép lạ đổi mới đã xảy ra với cô trong lúc cô đang xưng tội như sau: "Bấy giờ tôi lần lượt kể lại cho vị linh mục nghe các lỗi lầm tôi đã phạm, về những cơn say thâu đêm suốt sáng, các đam mê tình dục quá độ, về những cuộc hôn nhân bất hạnh mà cô đã từng trải, những lần phải đi phá thai vì bị vỡ kế hoạch dẫn đến hậu quả tai hại là tôi mất khả năng sinh con. Cuộc sống đầy đam mê đã biến tôi trở thành một con người dửng dưng với mọi sự: Tôi chẳng còn có thể yêu ai được nữa! Sau khi thú tội xong, tôi lắng nghe vị linh mục khuyên bảo. Lời của ngài tuy đơn sơ nhưng mỗi lời đều đánh động tâm can tôi. Sau cùng tôi thật xúc động khi nhận phép giải tội. Ngay lúc ấy, tôi cảm thấy lòng thanh thản như vừa trút bỏ được một gánh nặng ngàn cân".
Sau lần xưng tội ấy, Ta-xi-a-na đã cảm nghiệm thấy cô đã gặp được chính Chúa Giêsu và được Người tha thứ mọi tội lỗi quá khứ. Ta-xi-a-na không những đã được ơn tha tội, mà còn được Chúa chạm đến phần tâm linh sâu thẳm nhất để biến cô trở nên một tạo vật hòan tòan mới của Người.
3. SUY NIỆM:
1) Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Giêsu đã bênh vực và tha thứ tội cho một phụ nữ ngoại tình. Người còn biến đổi chị nên một con người mới. Mùa Chay nhằm giúp các tín hữu chúng ta nhận biết sự yếu hèn của mình để hồi tâm sám hối nhờ gặp Chúa Giêsu trong bí tích giải tội. Chắc chắn chúng ta sẽ được Người tha thứ và còn được ơn biến đổi nên một con người mới.
2) Bí tích giải tội là bí tích do Chúa Giêsu thiết lập, để tha các tội riêng ta đã phạm từ khi lãnh nhận bí tích rửa tội về sau, cùng giao hòa ta với Chúa và Hội thánh. Bí tích giải tội còn được gọi là bí tích giao hòa, hòa giải hay bí tích sám hối. Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích này vào chiều ngày phục sinh, khi Người hiện đến với các tông đồ trong nhà tiệc ly và phán rằng: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20,22-23). Bí tích giải tội ban cho ta các ơn này: Một là tha tội để giao hòa ta với Thiên Chúa và Hội Thánh. Hai là tha hình phạt muôn đời do các tội trọng đã gây ra cho ta và tha một phần hình phạt tạm. Ba là ban sự bình an cho tâm hồn và gia tăng sức mạnh giúp ta chiến đấu chống lại các cơn cám dỗ của ma quỷ. Bí tích giải tội rất cần cho người tín hữu, vì giúp họ nhận được ơn tha thứ tội lỗi đã phạm đến Thiên Chúa, làm tổn thương phẩm giá con người và phá vỡ sự an bình thiêng liêng của Hội Thánh. Chỉ các giám mục và những linh mục có quyền giải tội mới được ban phép giải tội cho các hối nhân nhân danh Chúa Ba Ngôi. Những ai đã phạm tội trọng thì cần phải nhận lãnh bí tích giải tội; còn ai chỉ mắc tội nhẹ thì không buộc xưng tội, nhưng nếu họ có lòng ăn năn mà xưng thú tội lỗi thì sẽ nhận được nhiều ơn ích thiêng liêng. Muốn lãnh nhận bí tích giải tội ta cần làm bốn việc: Một là xét mình; Hai là ăn năn dốc lòng chừa; Ba là xưng tội; Bốn là đền tội. Ngoài việc xưng tội, Hội Thánh còn dạy các tín hữu sám hối bằng các việc khác là: ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái để chia sẻ cơm áo và khiêm nhường phục vụ những người đau khổ bất hạnh và bị bỏ rơi.
3) Ngày nay một số khá đông các tín hữu không muốn lãnh nhận bí tích giải tội dựa vào một số lý do như sau:
* Do gương xấu của một số chủ chăn: Những tín hữu này không muốn xưng tội với lý do các vị chủ chăn cũng chỉ là những con người tầm thường với nhiều tội lỗi và bất tòan.
Tuy nhiên, chính Đức Giêsu đã không nghĩ như vậy khi trao quyền tha tội cho các tông đồ vào chiều ngày phục sinh, dù các ông chỉ là những con người còn nhiều sai lỗi. Vì các ngài hành quyền "cầm buộc và tháo cởi" không với tư cách cá nhân nhưng đại diện cho Chúa Giêsu. Đàng khác, các hối nhân được ơn hóan cải hay không là do quyền năng Thánh Thần đã được chính Chúa Giêsu thổi hơi ban cho các tông đồ, như Tin mừng Gio-an đã ghi lại như sau: "Nói xong, Chúa Giêsu thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20,22-23).
* Do hiểu sai về hiệu quả của bí tích giải tội: Có người nói: "Tôi thường đi xưng tội vào mỗi đầu tháng và lần nào tôi cũng chỉ xưng thú một số tội đã xưng nhiều lần trước đó, mà không sao chừa được. Do đó xưng tội là một việc làm vô ích, thiếu hiệu quả và mất nhiều thời giờ.
Để nhìn rõ vấn đề, chúng ta hãy so sánh sức khỏe tâm linh với sức khỏe thể xác: Do di truyền, có lẽ ai trong chúng ta ít nhiều cũng mang một số bệnh khó lòng chữa khỏi như: bệnh cao huyết áp đòi người bệnh phải uống thuốc hằng ngày, bệnh dị ứng nổi mề đay, bệnh "gút" gây đau nhức luôn phải uống thuốc giảm đau... Mỗi khi căn bệnh tái phát nặng hơn, chúng ta phải đến bác sĩ chuyên khoa điều trị và phải dùng một số loại thuốc giống nhau... Nhưng đâu có ai từ chối uống thuốc với lý do sẽ tái bị lại?. Nếu ta không đi khám và không uống các thứ thuốc trị bệnh quen thuộc nói trên mới là điều sai lầm. Cũng như mỗi ngày chúng ta đều phải tắm rửa cho sạch, dù biết rằng đến mai cơ thể của mình sẽ lại bị dơ cần phải được tắm lại... Về phạm vi tâm linh cũng vậy: Ai trong chúng ta cũng có một số thói hư rất khó chừa như: Dễ nổi nóng, hay nói xấu kẻ mình không ưa, ích kỷ tự ái cao, lười biếng làm việc đạo đức, uống rượu say sỉn, thủ dâm để tìm hưởng lạc bất chính... Dù biết sau một thời gian có thể sẽ tai phạm, nhưng ta vẫn cần đi xưng tội để đón nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa.
* Do xét mình cẩu thả: Có người chữa mình rằng: "Tôi xét mình mãi mà chẳng thấy có tội gì cần phải xưng. Nhiều khi phải cố tìm một "tội trọng cũ" để có tội mà xưng.
Việc không tìm ra tội nào không chứng minh chúng ta là người thánh thiện, nhưng có thể do chúng ta đã chai lỳ về tâm linh khi cho các việc làm sai là không có tội. Thực ra mọi người chúng ta đều yếu hèn như thánh Phao-lô đã thú nhận: "Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm" (Rm 7,15). Những ai tưởng mình không có tội, thực ra là do đã xét mình cẩu thả mà thôi, như thánh Gio-an đã viết: "Nếu chúng ta nói mình không có tội, là chúng ta đã tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta" (1 Ga 1,8).
* Do xét mình thiếu sót: Kinh cáo mình có câu: "Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói việc làm và những điều thiếu sót". Tội chúng ta phạm có thể là tội cố tình vi phạm một điều luật cấm như dối trá, trộm cắp, ngọai tình, phá thai... hay tội bỏ không làm việc lẽ ra phải làm như: Bất hiếu với cha mẹ, làm ngơ trước người đau khổ cần trợ giúp...
Trong Tin mừng, Đức Giêsu đã đề cập đến tội thiếu sót này như dụ ngôn ông nhà giàu đã làm ngơ không giúp đỡ anh La-da-rô, một người nghèo khổ nằm trước cửa nhà ông ta (x Lc 16,19-31). Đến ngày tận thế, Vua Thẩm Phán Giêsu cũng sẽ phán với những kẻ bỏ qua không chịu làm việc lành như sau: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi không cho ăn; Ta khát các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ các ngươi chẳng đón tiếp; Ta mình trần các ngươi không cho đồ mặc; Ta ở tù các người đã không viếng thăm..." (Mt 25,41-45).
Những tội thiếu sót này tưởng chỉ là tội nhẹ mà thực ra cũng có thể thành tội nặng nếu nó cho thấy trong ta không có tình thương và đồng nghĩa với tội giết người như thánh Gio-an đã viết: "Kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết: Không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó" (1 Ga 3,14b-15).
4. THẢO LUẬN:
1) Trong mùa Chay này, mỗi người chúng ta cần làm gì để biểu lộ lòng tin vào tình thương bao dung của Thiên Chúa?
2) Bạn sẽ trả lời ra sao khi có người nói: "Cần chi phải đi xưng tội với ông linh mục cũng phạm nhiều tội như mình? Hoặc xưng tội làm chi để rồi chỉ sau một thời gian ngắn sẽ lại tái phạm các tội mới xưng? Sao không đợi đến lúc sắp chết sẽ xưng tội một lần cuối?"
5. NGUYỆN CẦU
- Lạy Chúa Giêsu. Con rất sợ bị bắt quả tang đang phạm một tội nghiêm trọng. Nhưng lạy Chúa, có tội nào chúng con phạm mà Chúa lại chẳng nhìn thấy và không hay biết? Xin cho chúng con biết bỏ đi những mặt nạ giả dối, những việc đạo đức hình thức bề ngòai nhằm che đậy những tội ác trong tâm hồn chúng con. Nhờ đó, chúng con sẽ luôn sống tình yêu thương và trở nên những chứng nhân của Chúa trước mặt người đời.
- Lạy Chúa. Nếu Chúa đã không lên án kẻ có tội, không chấp nhất những điều chúng con sai lỗi, thì xin cũng giúp chúng con tránh kết án tha nhân. Khi thấy anh chị em con sai lỗi, xin cho chúng con biết tự xét và tu sửa tội lỗi nơi mình trước đã, rồi mới đủ uy tín để giúp sửa lỗi của anh em con. Bấy giờ xin cho chúng con biết khôn ngoan để nói đúng lúc và đúng phương pháp hầu chu tòan bổn phận "răn bảo kẻ có tội", như kinh "Thương người" đã dạy
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
10. Chúa nhân từ không kết án--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sau khi đã đi được nửa đường với lời mời gọi "Mừng Vui Lên" của Chúa nhật IV Mùa Chay. Nay bước vào tuần thứ I của giai đoạn II, thời gian mà toàn bộ tượng trong nhà thờ được phủ khăn tím, chuẩn bị cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, nên việc cải đổi đời sống, ăn chay, cầu nguyện và tập luyện các nhân đức càng khẩn thiết hơn. Vì Trước cuộc cải tổ phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, Chúa nhật V Mùa Chay được gọi là Chúa nhật thứ I mùa Thương khó, kéo dài 2 tuần cho đến lễ Phục sinh. Sau Công đồng Vaticanô II, lịch phụng vụ chỉ còn một tuần Thương khó, trùng với Tuần thánh, và Chúa nhật thứ V Mùa Chay là giai đoạn tiếp tục các đề tài huấn giáo theo chu kỳ. Nếu các Chúa nhật Mùa Chay năm A, B trình bày Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống, là Ánh Sáng, là Sự Sống dựa theo Tin mừng thánh Gioan. Thì các Chúa nhật Mùa Chay năm C đề cao tình thương của Thiên Chúa và kêu gọi con người đáp trả.
Đoạn Tin Mừng (Ga, 8, 1-11) với câu kết thật là đẹp "Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa" (Ga 8,11). Qua lời tuyên bố ấy, Chúa Giêsu đã làm nổi bật tình thương yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống. Tha thứ là bản chất của Thiên Chúa, Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa, là Đấng hay tha thứ. Khi mạc khải cho nhân loại biết Thiên Chúa là Cha, Đấng Giầu Lòng Xót Thương, chậm bất bình vả rất mực thứ tha. Chân lý về Thiên Chúa được cụ thể hóa nơi Chúa Giêsu Kitô "Đấng đầy tình thương xót" (2Cr 1,3), Đấng ghét tội và yêu thương kẻ có tội, không dung túng tội lỗi, nhưng khoan nhân với tội nhân, vì Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn hối cải và được sống (x. Ez 33,11). Đoạn Tin Mừng (Ga 8,1-11) là bằng chứng hùng hồn về tình tha thứ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thánh Gioan kể lại việc người ta đem đến cho Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Các kinh sư và người Pha-ri-sêu để chị ta đứng ở giữa Chúa Giêsu và dân chúng (x. Ga 8, 3), nghĩa là đứng giữa lòng xót thương của Con Thiên Chúa và sự kết án của con người. Chúa Giêsu không kết án chị, nhưng cứu chị khỏi bị ném đá.
Con người thường lên án nhau, nhưng trước mặt Thiên Chúa thì tất cả chúng ta là những kẻ tội lỗi bị án phải chết. bằng chứng khi Chúa Giêsu hỏi: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7), chẳng ai dám cầm đá ném mà lần lượt bỏ đi chỉ còn lại người phụ nữ và Ðức Giêsu: sự khốn khổ và lòng thương xót đối diện với nhau. Chúa không nói với người phụ nữ: chị không có tội, nhưng nói: "Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa" (Ga 8,11). Thật vậy, chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể cứu rỗi con người, vì chính Người mang lấy tội lỗi thế nhân và cho con người cơ hội để thay đổi đời sống.
Ðoạn Tin Mừng cho thấy, sự tha thứ của Thiên Chúa không đồng nghĩa với sự dung túng thường tình, tha thứ có kèm theo điều kiện. Không có nghĩa là bỏ qua sự dữ, hay tệ hơn nữa là chối bỏ sự dữ. Thiên Chúa không tha thứ sự dữ, nhưng tha thứ cho người tội lỗi biết ăn năn, và dạy người ta biết phân biệt giữa một bên là hành động xấu đáng bị kết án, và bên kia là con người cụ thể phạm lấy lỗi lầm đó, và là người mà Chúa muốn ban cho cơ may để thay đổi đời sống, làm lại cuộc đời. Trong lúc con người có khuynh hướng đồng nhất hóa người phạm tội với tội lỗi, và như thế là đẩy người có tội vào ngõ cụt, không có lối thoát. Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, Thiên Chúa Cha lại hành động cách khác, Ngài đã sai Con Một mình xuống trần gian, để mở ra cho cả và nhân loại con đường cứu thoát. Chúa Giêsu chính là con đường này: khi chết trên thập giá, Người đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Chúa Giêsu lặp lại với con người ở mọi nơi, mọi thời đại rằng: "Ta cũng thế, Ta không kết tội. Vậy hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".
Khi nghe những lời trên trong đoạn Tin Mừng hôm nay, làm sao chúng ta không cảm nghiệm được một niềm tín thác trào dâng trong tâm hồn chúng ta? Sao không nhìn thấy nơi đó một "Tin Vui" cho cả và nhân loại ở thời đại chúng ta, những con người đang mong ước khám phá lại ý nghĩa đích thật của lòng nhân từ và sự tha thứ.
Thời đại chúng ta đang cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa, một sự tha thứ làm phát sinh niềm hy vọng và phó thác, mà không làm yếu đi cuộc chiến chống lại sự dữ. Cần trao ban và lãnh nhận sự tha thứ. Nhưng chúng ta không trở nên có khả năng tha thứ, nếu trước đó chúng ta không để cho mình được Thiên Chúa thứ tha, vừa nhìn nhận mình là đối tượng của lòng nhân từ của Thiên Chúa. Chúng ta cũng sẽ trở nên kẻ sẵn sàng tha nợ cho người khác, chỉ khi nào chúng ta ý thức về mòn nợ to lớn mà chúng ta đã được tha cho. Chúng ta hãy cố khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua bí tích Hòa Giải, và hãy tỏ ra nghiêm khắc đối với tội lỗi nhưng khoan nhượng đối với con người tội lỗi.
Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay đại diện cho tất cả chúng ta, những tội nhân. Cách nào đó, chúng ta cũng là những người ngoại tình trước mặt Thiên Chúa, là những kẻ phản bội lòng trung tín của Ngài. Kinh nghiệm của chị cũng tượng trưng cho ý định của Thiên Chúa dành cho tất cả chúng ta: Thiên Chúa không kết án chúng ta nhưng cứu độ chúng ta nhờ Ðức Giêsu. Ðức Giêsu chính là ân sủng, cứu vớt chúng ta khỏi tội lỗi và cái chết. Ngài đã lấy ngón tay viết trên đất, trên cái bụi mà từ đó con người được tạo dựng nên (x. St 2,7). Phán quyết của Thiên Chúa là: 'Ta không muốn con phải chết, nhưng muốn con được sống.' Chúa không cứ tội ta mà trách phạt, cũng chẳng đồng nhất ta với những lỗi lầm trót phạm. Chúa muốn giải thoát chúng ta. Chúa muốn ở với ta và muốn chúng ta cũng ở lại với Ngài. Chúa mong ước chúng ta đừng sử dụng tự do để làm điều xấu nhưng biết làm điều thiện. Và chúng ta có thể làm được điều ấy với ân sủng Chúa ban.
Chúng ta hãy nhìn lên Ðức Trinh Nữ Maria và khẩn cầu Mẹ là Mẹ từ bi để đến nép thân nơi lòng thương xót của Mẹ. Nơi Mẹ, tình thương nhân từ của Thiên Chúa được nhập thể, và tâm hồn vô nhiễm của Mẹ là nơi trú ẩn an toàn cho người tội lỗi. Ðược Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta hăng hái tiến bước, và nhớ lại lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình, nay Người nói với mỗi người chúng ta rằng: "Hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa" (Ga 8,11).
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là đấng chỉ bảo đàng lành, xin giúp chúng ta biết cậy trong vào lòng tư bi của Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ được thứ tha. Amen.
11. Ghét tội, chứ không ghét kẻ có tội--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sau khi Giáo hội tạm dừng để (Laetare), nghỉ ngơi và chúc mừng con cái mình đã hăng hái tiến bước được nửa Mùa Chay Thánh, nghỉ để cảm tạ và xin ơn Chúa để có thêm can đảm bước tiếp vào tuần thứ I của giai đoạn II, thời gian mà toàn bộ nhà thờ sẽ chuẩn bị cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Vì Trước cuộc cải tổ phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, Chúa nhật thứ Năm Mùa Chay được gọi là Chúa nhật thứ I mùa Thương khó, kéo dài 2 tuần lễ cho đến lễ Phục sinh. Sau Công đồng Vaticanô II, lịch phụng vụ chỉ còn một tuần Thương khó, trùng với Tuần thánh, và Chúa nhật thứ V Mùa Chay là gia đoạn tiếp tục các đề tài huấn giáo tuỳ theo chu kỳ. Nếu các Chúa nhật Mùa Chay năm A trình bày Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống, là Anh Sáng, là Sự Sống dựa theo Tin mừng thánh Gioan. Thì các Chúa nhật Mùa Chay năm C đề cao lòng thương xót của Thiên Chúa và kêu gọi con người hoán cải heo Tin mừng thánh Luca. Tuy nhiên, bài đọc của Chúa nhật thứ V trích từ Tin mừng Gioan. Trong các bản văn của các Giáo phụ, trình thuật về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ ngoại tình lúc được đặt trong Tin mừng thánh Luca lúc được đặt trong Tin mừng thánh Gioan, và mãi đến thế kỷ thứ II, tức khoảng năm 150 mới có được vị trí cố định như hiện nay.
* Lời Chúa Phụng vụ năm A
- Ez 37, 12-14: Dân đã chết sẽ được sống lại
- Tv 130, 1: Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi, và rất giầu ơn cứu độ
- Rm 8, 8-11: Đấng làm cho Đức Giêsu sống lại cũng sẽ cho anh em được sống
- Ga 11, 1-45: Lagiarô chết và sống lại
* Lời Chúa Phụng vụ năm B
- Gr 31, 31-34: Thiên Chúa ký Giao Ước mới với Dân Ngài
- Tv 51, 3: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch!
- Dt 5, 7-9: Người đã học vâng phục, và trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời
- Ga 12, 20-33: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thôi đi, thì nó sẽ sinh nhiều bông hạt
* Lời Chúa Phụng vụ năm C
- Is 43, 16-21: Đây Ta sẽ làm lại những cái mới và sẽ cho dân Ta nước uống
- Tv 126, 1: Đức Chúa đã làm những điều kỳ diệu: ta thấy mình chứa chan niềm vui
- Phil 3, 8-14: Vì Đức Kitô, tôi đành chịu thua thiệt để trở nên giống Người
- Ga 8, 1-11: Đức Giêsu và người phụ nữ ngoại tình
Bước vào Tuần Thương Khó, nhiều nhà thờ hiện nay vẫn giữ lại hình thức lấy khăn tím che đậy Thánh giá và các ảnh tượng [ trừ Đàng Thánh giá]. Nếu Thánh giá và ảnh tượng thánh được che kín, là vì Giáo hội muốn tập trung vào mầu nhiệm được cử hành: Hy Lễ Thánh đẫm máu của Chúa Giêsu Kitô. “Lạy Chúa Trời, xin xử cho con, biện hộ cho con chống lại phường bất nghĩa; Xin cứu con thoát khỏi người xảo trá gian tà, chính Ngài là Thiên Chúa bảo vệ con” (Ca nhập lễ).
Đức Giêsu luôn thể hiện Ngài là Đấng nhân từ thương xót khi mạc khải cho nhân loại biết Thiên Chúa là Cha, Đấng giầu lòng xót thương. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa, không ai đã thấy bao giờ”, Gioan đưa ra dẫn chứng đầy sức thuyết phục “Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Ngài đã thông tri.” (Ga 1,18)... Chân lý về Thiên Chúa được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu Kitô “Cha đầy tình thương xót” (2Co 1,3). Đức Giêsu ghét tội và yêu thương kẻ có tội. Ngài không dung túng tội lỗi, nhưng khoan nhân với tội nhân. Vì Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn hối cải và được sống (Ez 33,11).
Bài Tin Mừng Chúa nhật V Mùa Chay là một bằng chứng hùng hồn về lòng xót thương của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thánh Gioan kể lại việc người ta đem đến cho Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Chúa Giêsu không kết án người phụ nữ này, nhưng cứu chị khỏi bị ném đá. Chúa không nói với người phụ nữ: chị không có tội, nhưng nói: “Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Thật vậy, chỉ có một mình Chúa Giêsu Kitô mới có thể cứu rỗi con người, vì chính Ngài mang lấy tội lỗi của con người và cho con người cơ hội để thay đổi đời sống. Đoạn Tin Mừng này cho thấy rõ ràng rằng sự tha thứ của Thiên Chúa không đồng nghĩa với một sự dung túng thường tình, tha thứ có kèm theo điều kiện. Không có nghĩa là bỏ qua sự dữ, hay tệ hơn nữa, là chối bỏ sự dữ. Thiên Chúa không tha thứ sự dữ, nhưng tha thứ cho con người, và Ngài dạy người ta biết phân biệt giữa một bên là hành động xấu đáng bị kết án, và bên kia là con người cụ thể phạm lấy lỗi lầm đó, và là người mà Chúa muốn ban cho cơ may để thay đổi đời sống làm lại cuộc đời. Trong khi con người chúng ta có khuynh hướng đồng nhất hóa người phạm tội với tội lỗi, và như thế là đẩy người có tội vào ngõ cụt, không có lối thoát. Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, Thiên Chúa Cha lại hành động cách khác, Ngài đã sai Con Một mình xuống trần gian, để mở ra cho cả và nhân loại con đường cứu thoát. Chúa Kitô chính là con đường này: khi chết trên thập giá, Chúa Kitô đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Chúa Giêsu lặp lại với con người ở mọi nơi, mọi thời đại rằng: “Ta cũng thế, Ta không kết tội. Vậy hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Khi nghe những lời trên trong đoạn Tin Mừng hôm nay, làm sao mà chúng ta không cảm nghiệm một niềm tín thác trào dâng trong tâm hồn chúng ta? Làm sao mà không nhìn thấy nơi đó một "Tin Vui Mừng" cho cả và nhân loại ở thời đại chúng ta, những con người đang mong ước khám phá lại ý nghĩa đích thật của lòng nhân từ và sự tha thứ? Thời đại chúng ta đang cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa, một sự tha thứ làm phát sinh niềm hy vọng và phó thác, mà không làm yếu đi cuộc chiến chống lại sự dữ. Cần trao ban và lãnh nhận sự tha thứ. Nhưng con người chúng ta không trở nên có khả năng tha thứ, nếu trước đó chúng ta không để cho mình được Thiên Chúa thứ tha, vừa nhìn nhận mình là đối tượng của lòng nhân từ của Thiên Chúa. Chúng ta cũng sẽ trở nên kẻ sẵn sàng tha nợ cho người khác, chỉ khi nào chúng ta ý thức về mòn nợ to lớn mà chúng ta đã được tha cho. Chúng ta hãy cố khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua bí tích Hòa Giải, và hãy tỏ ra nghiêm khắc đối với tội lỗi nhưng khoan nhượng đối với con người tội lỗi.
Chúng ta hãy nhìn lên Đức Trinh Nữ Maria mà cầu khẩn Mẹ như là Mẹ của lòng từ thương xót. Nơi Mẹ, Tình thương nhân từ của Thiên Chúa được nhập thể, và tâm hồn vô nhiễm của Mẹ là nơi trú ẩn an toàn cho người tội lỗi. Được Đức Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta hăng hái tiến vào Tuần Thương Khó, và nhớ lại lời Đức Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình, nay Ngài nói với mỗi người chúng ta rằng: Hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa. (Ga 8,11). Xin Mẹ Maria giúp chúng ta tiếp nhận với niềm vui đã được canh tân, (tiếp nhận) hồng ân cứu rỗi, ngõ hầu chúng ta gặp lại được sự tin tưởng và niềm hy vọng để bước đi trên con đường mới. Amen.
12. Con đường hướng về tương lai--Lm. Nguyễn Ngọc Long
Theo suy nghĩ thông thường: tội lỗi và hình phạt đi liền với nhau. Nhưng có trường hợp lại không thể như thế được. Điều này các quan toà thường cân nhắc, tra cứu kỹ càng về nguyên do đưa đến tội lỗi trước khi tuyên bố hình phạt. Vì thế có nhiều trường hợp được ân giảm hay chỉ cảnh cáo thôi.
Tôi được nghe kể lại, ngày xưa thời cha mẹ tôi còn sinh sống trong xứ đạo làng xóm miền bắc Việt Nam, hễ ai, nhất là phụ nữ sống làm điều gì trá i với luân thường đạo lý, trái với công dung ngôn hạnh, trái với lẽ đạo, liền bị mọi người khinh khi, miệt thị dèm pha. Họ không còn cơ hội gì hội nhập với cuộc sống chung trong làng, trong xứ đạo được nữa và cả gia đình họ cũng bị lên án theo như vậy! Có những nạn nhân phải bỏ quê hương trốn đi nơi xa lạ để tìm cơ hội xây dựng cuộc sống mới.
Xã hội Do Thái ngày xưa, như trong phúc âm diễn tả lại (Ga 8,1-11), cũng cứng nhắc theo khuôn luân lý đạo đức nên đời sống con người bị khinh khi miệt thị, bị lên án ném đá cho tới chết, nếu ai làm điều gì trái với khuôn phép đạo giáo.
Chúa Giêsu đến, ngài không đối xử với con người như thế, nhưng với trái tim tình thương, với lòng nhân ái. Ngài loan truyền luật lệ khuôn phép cho đời sống, nhưng ngài không dựa hay nhân danh những luật lệ đó để kết án ai. Tội lỗi là sự xấu, ngược lại với tình yêu của Thiên Chúa, Đấng là tình yêu là thánh thiện. Tội lỗi mang lại những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội và nhất là làm tâm hồn con người mất bình an. Tội lỗi huỷ diệt đời sống làm con Thiên Chúa. Tội lỗi tạo hố ngăn cách con người với Thiên Chúa xa nhau và giữa con người với nhau. Tội lỗi vì thế cần phải bài trừ, nhưng không được bài trừ người có tội.
Chúa Giêsu đối diện với một nạn nhân của xã hội cứng nhắc theo luân lý đạo giáo, đối diện với một người làm điều tội lỗi như phúc âm thuật lại (Ga 8, 1-11). Trước hết ngài bảo cho mọi người: Các ông hãy soi gương xem mình có sạch không đã. Các ông hãy xét mình xem mình có vô tội không đã, trước khi bảo người khác là có tội và kết án họ!
Sau cùng ngài không dựa theo nguyên do để giảm án ân xá cho tội nhân, nhưng ngài mở cho chị ta con đường hướng về tương lai làm lại cuộc đời: Thầy không lên án con đâu. Chị đi về bằng an và từ nay đừng phạm tội nữa!(Ga 8, 11). Đó là con đường ăn năn sám hối trở về với tình yêu, trở về với đời sống là con cái Thiên Chúa, đấng là sự thánh thiện. Trở về để tâm hồn có lại bình an.
Vẫn biết tội lỗi trái với đạo giáo, luân lý là điều không lành mạnh, không tốt. Nhưng đâu chỉ có thể căn cứ vào đạo giáo luân lý để khinh khi coi thường, kỳ thị sự sống con người được. Đạo giáo luân lý giúp cuộc sống con người thăng tiến nhất là về mặt tinh thần, chứ không bao giờ là bước cản trở nhận chìm nhân vị con người xuống bùn đen.
Sự sống con người thể xác lẫn tâm hồn là điều cao quý hơn mọi thứ ở đời. Sự sống vì thế cần phải được kính trọng bảo vệ nâng đỡ. Đã là người ai cũng có khuyết điểm, cũng có thời gian làm điều lầm lỗi, nhưng ai cũng có khả năng ý chí lòng muốn làm điều lành, điều thánh thiện, điều tốt hợp với luân lý đạo giáo.
Thiên Chúa đã dựng nên con người với khả như thế và Chúa Giêsu đã sống làm gương: ngài không kết án hay giảm án nhưng ngài kêu gọi và mở con đường hướng về tương lai cho người phụ nữ tội lỗi làm lại cuộc đời, ăn năn trở lại với tình yêu Thiên Chúa và với đời sống con người.
13. Suy niệm chú giải Lời Chúa CN 5 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay gợi lên sự tha thứ có sức mạnh giải thoát: đoạn tuyệt với quá khứ để mà hướng đến một cuộc sống mới.
Is 43: 16-21
Qua ngôn sứ I-sai-a, Đức Chúa loan báo rằng Ngài sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh giam cầm ở Ba-by-lon: quên đi quá khứ ô nhục, nước hằng sống sẽ tuôn trào trong miền đất khô cằn.
Pl 3: 8-14
Từ kinh nghiệm cá nhân của mình, thánh Phao-lô rút ra một bài học vĩ đại: đoạn tuyệt quá khứ gắn bó với luật Mô-sê để kết hợp với chỉ một mình Đức Ki-tô.
Ga 8: 1-11
Tin Mừng thuật câu chuyện người phụ nữ ngoại tình có nguy cơ bị ném đá. Khi ban cho chị ơn tha thứ của Thiên Chúa, Đức Giê-su giải phóng chị khỏi tội lỗi và sự nhục nhã, đồng thời mở ra cho chị một cuộc sống mới.
BÀI ĐỌC I (Is 43: 16-21)
Đoạn văn này được trích từ “Sách An Ủi” của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vị ngôn sứ ở giữa những người lưu đày thời Ba-by-lon. Ông an ủi họ khi loan báo rằng họ sắp được giải phóng và hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem.
Những người lưu đày bất hạnh này nghi nan ngờ vực. Một biến cố như thế làm thế nào có thể xảy đến được? Họ đã mõi mòn ngóng trông gần suốt năm mươi năm rồi. Vị ngôn sứ cũng nhắc họ nhớ đến những việc kỳ diệu Đức Chúa đã thực hiện để giải phóng cha ông họ khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập: Đấng đã mở lối giữa sóng nước oai hùng để cho dân Do thái vượt qua Biển Đỏ và đã chôn vùi chiến mã với kỵ binh hùng mạnh của Pha-ra-ô trong lòng biển cả, lại không thể đánh bại đế quốc Ba-by-lon với binh hùng tướng mạnh sao?
Cuộc xuất hành ra khỏi Ai-cập được ghi khắc trong tâm trí của dân Ít-ra-en như biến cố tiêu biểu, bảo chứng cho những lần Thiên Chúa can thiệp trong tương lai để ra tay cứu giúp dân Ngài, đó là nền tảng đức tin và đức cậy của họ. Đó là những ý tưởng mà vị ngôn sứ gợi mở cho đồng bào của mình: Đức Chúa sẽ ra tay cứu độ họ. Không có lý do gì phải thất vọng cả.
1. Một thế giới mới:
Ngôn sứ I-sai-a kêu mời dân chúng đừng nhìn lại quá khứ như một niềm hối tiếc, nhưng hãy đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa để thấy một điều kỳ diệu Thiên Chúa sắp làm cho dân Ngài: “Đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước. Nay Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao?”. Ngôn sứ I-sai-a đặt mọi niềm hy vọng của mình vào vua Ba tư, vị vua tiến quân như vũ bảo và chắc chắn sẽ sớm đánh bại đế quốc Ba-by-lon.
Bằng những biểu tượng, vị ngôn sứ gợi lên giờ hồi hương trở về trong vinh quang, những giây phút lạ lùng đến mức sa mạc sẽ không còn vùng đất hoang vu khô cằn nữa, những loài dã thú sẽ không còn hung tợn nữa. Đó sẽ là như một cuộc tạo dựng mới.
2. Biểu tượng của nước:
Thế giới mới này sẽ sinh ra dưới dấu hiệu của nước: “Vì Ta cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta được tuyển chọn được giải khát”. Vị ngôn sứ biết rất rõ rằng trên đường hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem, một trong những khó khăn sẽ là băng qua sa mạc Xy-ri Pa-lét-tin. Chẳng sao cả, Thiên Chúa sẽ cho nước tuôn tràn. Trong Kinh Thánh, đề tài nước không chỉ gợi lên yếu tố tự nhiên đem lại sự sống cho thiên nhiên, nhưng còn là biểu tượng sức sống thần thiêng. Đề tài này chạy xuyên suốt Cựu Ước; chúng ta có thể trích dẫn biết bao ví dụ. Mối liên hệ giữa nước và thần khí được gặp thấy trong Cựu Ước (Ed 47: 9) và sẽ được lấy lại trong Tin Mừng (Ga 7: 37-39).
3. Trở về cùng Thiên Chúa:
Linh đạo mà vị ngôn sứ gợi lên ở đây là cuộc trở về cùng Thiên Chúa, Ngài sẽ tha thứ và đổ tràn muôn phúc lộc của Ngài: “Ta đã gầy dựng cho Ta dân này, chúng sẽ lên tiếng ngợi khen Ta”. Vào Chúa Nhật V Mùa Chay này, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta lắng nghe lời kêu gọi của vị ngôn sứ thời lưu đày này, và qua những hình ảnh tiên trưng, hiểu cuộc sống phong phú của các bí tích, đặc biệt bí tích Thánh Tẩy.
BÀI ĐỌC II (Pl 3: 8-14)
Đoạn thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê này được trích từ chương 3, trong đó thánh nhân cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do thái, đừng gắn bó với luật Mô-sê và tìm cách áp đặt vài đòi hỏi luật này trên những Ki-tô hữu gốc lương dân.
Từ kinh nghiệm cá nhân của mình, thánh Phao-lô trình bày cho họ biết thánh nhân đã được hướng dẫn như thế nào để đoạn tuyệt với Lề Luật. Cung giọng vừa tâm sự vừa xác tín là nét đặc trưng của thư gởi tín hữu Phi-líp-phê này, vì thánh nhân đã kinh qua những dằn vặt đau đớn mới có thể đoạn tuyệt với luật Mô-sê.
1. Đoạn tuyệt với quá khứ:
Thánh Phao-lô vừa mới kể ra tất cả những đức tính mà xưa kia thánh nhân đã tự hào tự phụ: “Tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì đúng như một người Pha-ri-sêu; nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi” (3: 5-7). Cũng vào thời kỳ này, thánh nhân viết cho tín hữu Ga-lát-ta: “Trong việc giữ đạo Do thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông” (Pl 1: 14).
Thánh nhân nhắc lại cuộc sống xưa kia của mình đã khiến đồng bào của ngài phải nể phục. Tất cả những mối lợi này cho phép thánh nhân được liệt vào hàng công chính, thì nay thánh nhân công bố với tín hữu Phi-líp-phê ngài xem như đồ bỏ đi, như đồ rác rưởi kể từ khi được biết Đức Ki-tô.
Cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh trên đường Đa-mát (thánh nhân ám chỉ một cách kín đáo) đã khiến cho niềm kiêu hãnh trước đây của thánh nhân bổng chốc tan thành mây khói. Thánh Phao-lô quả quyết rằng được như vậy, không phải do công trạng của thánh nhân trong việc tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng nhờ niềm tin vào Đức Ki-tô, đó là sự công chính nhưng không do Thiên Chúa ban. Một lời tự thú huy hoàng nhưng biết bao đớn đau.
2. Sự công chính là một thiên ân:
Ở đây, chúng ta gặp thấy đề tài cốt yếu về sự công chính do lòng tin chứ không do việc tuân giữ Lề Luật, đề tài mà thánh Phao-lô sẽ khai triển rộng lớn trong thư gởi tín hữu Rô-ma. Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê mô tả cho chúng ta nguồn gốc tâm lý và hiện sinh về đề tài này, nhờ đó tránh mọi lời giải thích sai lầm.
Đức tin mà thánh nhân đề cao là một đức tin huy động toàn thể con người. Người Ki-tô hữu được sánh ví như một lực sĩ chạy đua trên thao trường, nhất quyết dồn hết mọi sức lực của mình, lao mình về phía trước, chạy thẳng tới đích để mong chiếm lấy phần thưởng. Thay vì tuân giữ nghiêm nhặt những huấn thị nghi thức của Lề Luật, người Ki-tô hữu nhắm một điều thiện tuyệt mức: được biết Đức Ki-tô.
3. Biết Đức Ki-tô:
Thuật ngữ “biết” phải được hiểu theo nghĩa Kinh Thánh mà thánh Gioan thường hằng sử dụng: một chuyển động của cả trí tuệ lẫn tâm tình, một sự kết hợp của cả khối óc lẫn con tim, một sự hiểu biết không suy luận nhưng dẫn đến mối tâm giao: “Vấn đề là được biết Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người”. Tiến trình hiểu biết này là tiến trình mà thánh Phao-lô theo đuổi. Lộ trình thông thường của người Ki-tô hữu thì ngược lại. Thánh Phao-lô cũng định nghĩa lộ trình ngay liền: “nhờ đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết”. Vả lại, đây là điều mà thánh nhân miệt mài sống trong sứ mạng của mình, khi theo đuổi cuộc đua vẫn chưa đến đích, nhưng “đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt”.
4. Bài học:
Bài học mà thánh Phao-lô muốn rút ra từ kinh nghiệm cá nhân của ngài, gởi đến các Ki-tô hữu Phi-líp-phê gốc Do thái này nhằm khai mở cho họ hiểu vấn đề đức tin của họ: đức tin là kết hợp với Đức Ki-tô chứ không gắn bó với những hình thức bên ngoài. Nguồn mạch và nguyên lý về sự tự do của người Ki-tô là ở đó. Về sự tự do tối thượng này, thánh nhân có thể nói ở nơi khác, khi nhắc nhở rằng điều cốt yếu của Lề Luật từ nay được chứa đựng ở nơi một nguyên lý duy nhất: mến Chúa và yêu người. Về vấn đề này, lời nhận xét trong sách “Mỗi Ngày Một Tin Vui” thật thích đáng: “Ki-tô giáo thiết yếu không chỉ là một hệ thống luân lý gồm những điều phải giữ hay phải tránh. Quan niệm Ki-tô giáo như thế dễ đưa người tín hữu đến thái độ tính toán so đo, tự phụ; sống đạo dễ trở thành một thứ biểu dương bên ngoài. Chúa Giê-su đưa chúng ta vào cốt lõi của đạo: đạo thiết yếu là tình yêu nhưng không của Thiên Chúa đối với con người; sống đạo là đón nhận tình yêu ấy và đáp trả với tất cả lòng tín thác và quảng đại” (“Mùa Vọng-Giáng Sinh, Mùa Chay-Phục Sinh”, tr. 158).
TIN MỪNG (Ga 8: 1-11)
Câu chuyện “Người phụ nữ ngoại tình” này là một trong những câu chuyện rất cảm động về tấm lòng xót thương của Đức Giê-su; tuy nhiên, đề tài này là đề tài rất tâm đắc của thánh Lu-ca chứ không của thánh Gioan. Xét về phương diện văn phong, ngôn từ, câu chuyện này gần với Tin Mừng Lu-ca hơn Tin Mừng Gioan. Ngoài ra, câu chuyện này không được gặp thấy trong các bản sao chép cổ nhất của Tin Mừng Gioan. Hơn nữa, các Giáo Phụ Hy-lạp dường như đã không biết đến bản văn này, ngoại trừ thánh Giê-rô-ni-mô (thế kỷ thứ tư) biết và chú giải câu chuyện này. Trong bản dịch La-tin của thánh nhân, câu chuyện cảm động này được đưa vào vị trí của Tin Mừng Gioan như hiện nay.
1. Bối cảnh:
“Sau đó, ai nấy trở về nhà mình. Còn Đức Giê-su thì đến núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống và giảng dạy họ”. Bài trình thuật bắt đầu từ buổi chiều sau một ngày Chúa Giê-su thuyết giáo trong Đền Thờ: “ai nấy trở về nhà mình” (7: 53), còn Chúa Giê-su thì lên núi Ô-liu qua đêm một mình, và sáng sớm Ngài trở lại Đền Thờ tiếp tục giảng dạy cho dân chúng như thói quen của Người. Bối cảnh này rất phù hợp với Tin Mừng Lu-ca: “Ban ngày, Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ô-liu. Sáng sớm, toàn dân đến với Người trong Đền Thờ để nghe Người giảng dạy” (Lc 21: 37-38).
Nếu câu chuyện người phụ nữ ngoại tình này thuộc về Tin Mừng Lu-ca, nó được định vị vào những ngày cuối cùng Đức Giê-su giảng dạy ở Đền Thờ, trước cuộc Tử Nạn của Ngài, và báo cho biết những cạm bẫy mà những đối thủ của Ngài giăng ra cho Ngài: nguồn gốc về quyền bính của Ngài, nộp thuế cho Xê-da, kẻ chết sống lại (Lc 20: 1-47).
2. Tiến thoái lưỡng nan:
“Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang”. Luật Mô-sê rất nghiêm khắc đối với tội ngoại tình, được đặt vào số những hành vi gây thiệt hại đến người thân cận. Người thân cận bị thiệt hại ở đây là người chồng. Tội không chung thủy của người chồng chỉ bị trừng phạt trong trường hợp gian díu với một người phụ nữ đã lập gia đình, vì làm thiệt hại đến người chồng của người phụ nữ này. Theo Luật Mô-sê, người phụ nữ ngoại tình, cũng như người tòng phạm, bị kết án ném đá (Đnl 22: 22-23).
Cạm bẩy mà các kinh sư và người Pha-ri-sêu giăng ra cho Chúa Giê-su tương tự với vấn đề nộp thuế cho Xê-da (Lc 20: 21-25). Nếu Ngài khuyên nên khoan dung tha thứ, thì Ngài vị phạm luật Mô-sê. Nhưng nếu Ngài tán thành việc ném đá người phụ nữ ngoại tình này, thì Ngài vi phạm luật Rô-ma theo đó người Do thái không được phép thi hành án tử (Ga 18: 31). Ngoài ra, nếu Ngài chấp nhận ném đá người phụ nữ ngoại tình này, thì Ngài mâu thuẫn với chính mình: tiếp đón những người tội lỗi và rao giảng tấm lòng xót thương của Thiên Chúa. Như vậy, câu hỏi của họ“Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” đặt Chúa Giê-su vào thế “tiến thối lưỡng nan”.
3. Thái độ của Chúa Giê-su:
“Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất”. Việc Chúa Giê-su giữ thái độ thinh lặng nêu lên biết bao điều. Trước hết, xem ra Ngài không quan tâm đến vấn đề này, vì có những quan tòa ở Giê-ru-sa-lem, Ngài không phải thay thế vai trò của họ; đó không là trách nhiệm của Ngài. Tuy nhiên, lập luận này không thể đứng vững, vì trái ngược với cách hành xử thông thường của Ngài: làm thế nào Ngài có thể khoanh tay đứng nhìn để cho người ta hành động ngược lại tấm lòng xót thương của Ngài được chứ?.
Chúng ta thử nghĩ đến tình cảnh thật ê chề nhục nhã mà người phụ nữ này phải đối mặt. Người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang và bị dẫn đến vào tảng sáng; đám người đến nghe Chúa Giê-su trong lòng Đền Thờ đã đông rồi. Mọi ánh mắt chất chứa những điều đê hèn, giả tâm, nhìn chòng chọc vào người phụ nữ. Đối với người phụ nữ này, những ánh mắt kia đã là những lời xét đoán rồi, hơn những lời xét đoán, còn là những lời kết án nữa; vì thế, việc Chúa Giê-su giữ thái độ im lặng cúi xuống viết trên đất là để tránh cho người phụ nữ đáng thương này thêm một ánh mắt xét đoán nữa. Tuy nhiên, Chúa Giê-su có sứ điệp phải truyền đạt cho chị; nhưng trước tiên, Ngài phải có việc cần tính sổ với những kẻ đòi lên án chị. Cái thinh lặng của Ngài là cái thinh lặng hùng hồn của các bậc hiền nhân. Các kinh sư và những người Pha-ri-sêu đắc chí, tưởng rằng đã dồn Ngài vào thế bí nên cố nài ép Ngài trả lời.
4. Đặt mỗi người đối diện với tiếng lương tâm của mình:
Vì người ta cố nài ép, Đức Giê-su đứng dậy và đưa ra ý kiến của mình: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Câu trả của Đức Giê-su là câu trả lời bất ngờ nhất, nằm ngoài mọi dự đoán của mọi người. Chúa Giê-su không phải không thừa nhận Lề Luật; thậm chí khi phát biểu ý kiến của mình như vậy, Ngài dựa trên các bản văn của sách Đệ Nhị Luật: “Các nhân chứng phải là người đầu tiên phải tra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp theo sau” (x. Đnl 13: 10 và 17: 7). Nhưng đồng thời, Ngài đặt mỗi người đối diện với tiếng lương tâm của mình. Thái độ này hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Ngài: nội tâm hóa luật luân lý.
Đoạn, tiếp tục từ chối ánh mắt phán xét của quan tòa, Đức Giê-su lại cúi xuống viết trên đất, để cho tâm trí mình chìm sâu trong cõi xa xăm nào đó như thử chẳng quan tâm đến những gì đang diễn ra chung quanh Ngài. Ở đây nữa, Ngài không muốn đưa ánh mắt nghiêm khắc nhìn những người mà Ngài mời gọi họ hãy tự phán xét chính mình; Ngài không muốn gây áp lực trên sự tự do của bất kỳ ai.
5. Chỉ còn lại một người đáng xót thương và một Đấng đầy lòng xót thương:
Mọi người đều đã bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi nhất, những người sáng suốt nhất hay những người có tiếng lương tâm nhạy bén nhất do từng trải cuộc đời.
Thánh Âu-tinh nhận xét rất tinh tế: “Chỉ còn lại hai người: một người đáng xót thương và một Đấng đầy lòng xót thương”. Quả thật, cuộc đối thoại ngắn gọn sau cùng giữa Chúa Giê-su và tội nhân thật cảm động, không bút mực nào diễn tả được:
- “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”
- “Thưa Ngài, không có ai cả”.
- “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Chỉ mình Ngài là Đấng thanh sạch mới có thể ném đá chị; ấy vậy, Ngài đem đến cho chị lòng xót thương hay tha thứ của Thiên Chúa. Nhưng lòng xót thương hay tha thứ của Thiên Chúa không là thái độ nhu nhược mà là sự giải thoát: “Từ nay đừng phạm tội nữa”. Một cái nhìn đầy yêu thương tha thứ mở ra một khởi điểm mới. Đó là thế quân bình tế nhị giữa hai nhân đức gần như mâu thuẫn nhau: sự công bình không cho phép Chúa Giê-su dung thứ tội lỗi, nhưng lòng xót thương buộc Ngài phải tha thứ tội nhân. Tội nghịch lại Thiên Chúa và anh chị em của mình phải loại trừ, nhưng tội nhân là đối tượng lòng yêu thương của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ đánh mất niềm hy vọng vào khả năng hoán cải của bất kỳ một ai. Như vậy, Luật không bị hủy bỏ như vài người lo sợ, nhưng trở nên “nhân đạo”, mở ra con đường sống và cứu độ. Thánh Giáo Phụ I-rê-nê đã quả quyết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”.
Đây thật sự là một câu chuyện tuyệt vời để diễn tả sâu sắc chương trình và cách thức Thiên Chúa cứu độ loài người. Cả những kẻ tố cáo lẫn người phụ nữ bị tố cáo đều trải nghiệm nơi Đức Giê-su lòng thương xót hay tha thứ của Thiên Chúa. Những người tố cáo thì hiểu rằng chính họ cũng cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, nên họ không được cư xử cách tự phụ và thiếu lòng xót thương với người thân cận. Người phụ nữ đã được cứu thoát khỏi hoàn cảnh nguy hiểm và qua Đức Giê-su, đã trải nghiệm ơn tha thứ của Thiên Chúa. Hẳn là những người chứng kiến sự cố hôm ấy có thêm một lý chứng để xác tín về đạo lý cứu độ của Đức Giê-su.
14. Ai sạch tội ném đá đi--Lm. Trầm Phúc
Các sách Tin Mừng đã tường thuật ba phép lạ Chúa Giêsu cho người chết sống lại: người thanh niên con bà góa thành Na-in, Em bé con ông Giairô, và Ladarô. Nhưng việc Ladarô sống lại quan trọng hơn hết và mang nhiều ý nghĩa. Trình thuật này đặc biệt của Gioan.
Phép lạ này xảy ra trong một gia đình khá giả, gia đình của chị Matta, là một gia đình đã đón tiếp Chúa Giêsu mỗi khi Ngài giảng ở Bêtania. Theo trình thuật của thánh Gioan thì Chúa Giêsu xem các chị em của Ladarô như gia đình của mình. Cách đối xử của Ngài rất thân tình.
Ladarô lâm bệnh nặng khi Ngài đang đi giảng ở xa. Gia đình sai người cho Ngài hay, nhưng Ngài hình như không muốn can thiệp ngay lại nói một câu như không quan tâm cho lắm: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa, qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa sẽ được tôn vinh”. Như thế chứng tỏ Ngài có một chương trình rõ rệt, Ngài biết phải làm gì.
Ngài tiếp tục rao giảng. Vài ngày sau, Ngài nhắc đến với những lời mà các môn đệ cũng không thể hiểu ngay: “Ladarô, bạn chúng ta đã yên giấc rồi. Thầy đi đánh thức anh ấy đây”. Các môn đệ không hiểu, Ngài phải nói rõ: “Ladarô chết rồi”.
Chúa Giêsu làm phép lạ luôn là để chứng tỏ một khía cạnh nào đó trong sứ mệnh của Ngài. Ngài dùng một hoàn cảnh thực tế và giúp mọi người đạt đến niềm tin. Ngài đã hóa nước lã thành rượu ngon tại Cana là “để các môn đệ tin Ngài”. Ở đây, cái chết của Ladarô cũng là một dịp để Ngài tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa cho dân và để “nhiều người tin Ngài”.
Đến nơi, Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. Người Ngài gặp đầu tiên là chị Matta: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt đây thì em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”.
Chị Matta nói như thế có nghĩa là còn một niềm cậy trông nào đó, dù nó thật mong manh. Chúa Giêsu chỉ trả lời bằng một câu ngắn: “Em con sẽ sống lại”. Matta thuộc giáo lý nên trả lời: “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Chúa Giêsu khẳng định: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Tất cả câu chuyện xoay quanh câu nói lạ lùng này. Trên trần gian, chỉ có một mình Ngài mới có thể nói câu đó mà không sợ mình nói dối. Mọi người đều chết và cho đến tận thế, không ai thoát khỏi cái chết. Chỉ có Ngài là sự sống lại và là sự sống mà thôi. Điều này giúp chúng ta vững tin.
Chúa Giêsu còn hỏi chị Matta: “Con có tin thế không?” Matta tuyên xưng đức tin: “Con vẫn tin Thầy là Đấng Kitô, Đấng phải đến trong thế gian”. Chúng ta nhớ ngay đến Phêrô, ngày nào đó cũng đã tuyên xưng như thế: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”.
Chúng ta có tin như thế không?
Hôm nay Chúa muốn chúng ta nhìn lại đức tin củamình. Nếu chúng ta tin rằng Ngài là Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa Hằng Sống, thì cuộc sống chúng ta phải như thế nào?
Có lẽ bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng tất cả đều khác, không giống những người không có đức tin. Chúng ta sẽ không bồn chồn lo lắng về tương lai, không sợ sệt dù phải gặp gian nan hay sự thù hằn của kẻ vô đạo. Chúng ta luôn an vui thanh thản, bình an, vì Chúa bảo đảm tất cả, cuộc sống chúng ta nằm trong tay Ngài. Tin là cảm thấy mình không sống một mình mà luôn với Đấng đã yêu thương chúng ta và đã liều mạng cho chúng ta.
Sau khi gặp Thầy, Matta về báo tin cho em là Maria: “Kìa Thầy đến và gọi em”.
Maria đang ngồi trong nhà và đang khóc em với mấy cô bạn. Nghe Thầy đến Maria đứng phắc dậy và chạy. Ai cũng tưởng cô chạy ra mộ để khóc em.
Gặp Chúa Giêsu, cũng một lời như chị Matta: “Nếu Thầy có ở đây thì em con đâu có chết”. Một câu dường như trách móc. Cô òa lên khóc và những người chung quanh cũng khóc theo. Thánh Gioan ghi nhận: “Thấy Maria khóc và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến.”
Khi đứng trước cửa mộ, Chúa Giêsu lại rơi lệ và thổn thức trong lòng. Chúng ta có thể tự hỏi: tại sao Ngài biết sẽ cho Ladarô sống lại, tại sao Ngài lại khóc? Những người Do Thái ở đó không hiểu và ngạc nhiên: “Kìa xem ông ấy thương Ladarô biết bao!”
Chúng ta không thể hiểu chính xác, nhưng chúng ta có thể đoán rằng Ngài khóc vì thấy mấy chị em Ladarô phải đau khổ và trải qua một cơn thử thách nặng nề. Ngài khóc không phải vì Ladarô đã nặng mùi trong mồ mà vì thế gian đang tan rửa và nặng mùi trong tội ác của mình. Ngài đã từng khóc trên thành Giêrusalem, vì con người đã từ chối hồng ân của Chúa. Ngài vẫn còn khóc cho đến tận thế vì thế gian đã từ chối tình yêu của Ngài.
Chúa Giêsu không chỉ rao giảng bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống, bằng những hình ảnh gợi lên niềm tin. Cái chết của Ladarô là một sự kiện điển hình nhất.
Trong biến cố này, Ngài chứng tỏ một cách hùng hồn, Ngài là chủ của sự sống, Là Sự Sống và là Sự Sống Lại. Những lần Ngài đã cho kẻ chết sống lại: Người thanh niên con bà góa thành Na-in, em bé con ông Giairô, người ta cũng kinh ngạc nhưng không gây một ấn tượng mãnh liệt như lần này.
Ngài ra mộ và truyền cất cửa mộ ra. (Theo tục lệ của người Do Thái, khi thân nhân nào về trễ, không thể dự đám tang, trong khi chưa nặng mùi thì người ta có thể yêu cầu giở cửa mộ cho người ta nhìn mặt người chết lần cuối). Tưởng Chúa Giêsu cũng yêu cầu như thế nên chị Matta ngăn lại: “Thưa Thầy, nặng mùi lắm rồi, Thầy”. Một lần nữa Chúa Giêsu lại nhấn mạnh: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng, nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa sao? Vinh quang Thiên Chúa được nhắc lại lần thứ hai.
Cửa mộ đã mở ra, nhưng Chúa Giêsu không vội vàng, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha vì Cha đã nhậm lời con, nhưng vì dân chúng quanh đây, nên Con nói để họ tin rằng Cha đã sai con.” Qua lời cầu nguyện này, chúng ta thấy rõ ý định của Ngài là mạc khải sứ mệnh thiên sai của Ngài. Người Do Thái có thể hiểu ngay Ngài là ai.
Cầu nguyện xong Ngài kêu lớn tiếng: “Ladarô, ra khỏi mồ”. Người chết lập tức chui ra.
Nếu chúng ta có mặt ở đó, lúc bấy giờ, chúng ta nghĩ sao? Chúng ta dám tin không? Thánh Gioan ghi lại: “Trong số những người Do Thái (có mặt tại đó) đã chứng kiến việc Chúa Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người”. Đó là kết quả hiển nhiên. Chúng ta không chứng kiến những điều lạ lùng như thế, chúng ta vẫn có thể được chúc phúc: “Phúc cho những kẻ không thấy mà tin”.
Thánh Phaolô đã tin mãnh liệt vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã trở thành tất cả của ngài. Ngài đã diễn tả niềm tin của ngài nhiều lần trong các bức thư của ngài. Hôm nay, chúng ta cũng vừa nghe nhắc lại: “Tôi coi mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu Kitô. Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết và coi tất cả như rác, để được Đức Kitô”. Người là “Sự Sống lại và là Sự Sống”. Nhìn Ladarô sống lại, chúng ta có cảm thấy như thánh Phaolô đã nói: “anh em đã được chỗi dậy với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” không?
Nơi Ladarô, chúng ta nhìn thấy tương lai của chúng ta. Sự sống hôm nay mang hai chiều kích: chết cho thế gian và sống lại trong Đức Kitô. “Cái thân xác phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt và cái thân xác phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử”. Đó là hồng ân tuyệt diệu chúng ta đang nắm trong tay, đừng để nó suy tàn vì sự ham mê trần thế.
“Hãy nâng tâm hồn lên”. Giáo hội luôn nhắc chúng ta như thế. Chúa Giêsu muốn chúng ta “sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian”, và hơn nữa, chúng ta có sứ mệnh thánh hóa trần gian. Hiến chế Giáo hội trong thế giới ngày nay của Công Đồng Vatican II nhấn mạnh một cách đặc biệt đến điểm này: Kitô hữu phải thánh hóa mọi thực tại trần gian, sử dụng trần gian để xây dựng Nước Chúa. Chúng ta đang sống cho sự sống lại. Cuộc sống chúng ta chỉ có ý nghĩa khi chúng ta quy mọi sự về với Chúa. Các tạo vật sẽ “không lệ thuộc vào cảnh hư nát mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng sự tự do và vinh quang”.
Sự sống đời đời mà chúng ta đang hướng đến đang ở đây, nơi bàn thờ hiến tế này. Để giúp chúng ta sống lại với Ngài, chính Chúa Giêsu chấp nhận đến với chúng ta bằng một tấm bánh. Ngài là Bánh Hằng Sống. Ăn lấy Ngài ngay hôm nay, chúng ta đã sống trong Ngài, chờ đợi vinh quang tỏ hiện: “Chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”.
15. Thiên Chúa khoan dung
Câu chuyện về người phụ nữ ngoại tình khơi dậy trong chúng ta tâm tình sám hối trước tấm lòng khoan dung của Thiên Chúa.
Thực vậy, hôm ấy Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, thì bọn biệt phái dẫn đến trước mặt Ngài một người thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Và chiếu theo luật Maisen thì nàng sẽ bị ném đá cho chết. Chúa Giêsu xem ra không mấy chú ý tới lời tố cáo của họ. Người cúi xuống lấy tay viết trên cát. Đó là cử chỉ muốn từ chối xét đoán, muốn tránh né câu trả lời. Nhưng vì họ cứ một mực lên án, cho nên Ngài cảm thấy bắt buộc phải nói với họ đôi lời: Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi. Câu trả lời của Chúa Giêsu vừa khôn ngoan, vừa công bằng, lại vừa nhân ái. Người đã dùng các thành ngữ của lề luật, bởi vì lề luật quy định chứng nhân phải ném đá kẻ có tội đầu tiên. Như vậy, Người cho thấy lề luật còn nhân từ và công bằng hơn họ đã tưởng. Hãy tìm kiếm tinh thần của luật, sau những hàng chữ khô khan của nó. Lề luật chỉ là phương tiện để thực thi ý định tình yêu của Thiên Chúa. Người không vi phạm luật Maisen nhưng dựa vào lề luật ấy, Người kêu gọi họ hãy trả bị cáo về cho toà án lương tâm của mỗi người. Như thế, lời mời gọi ấy tóm kết tất cả giáo thuyết của Chúa Giêsu: chỉ trích hạng người chuyên kết án kẻ khác, chỉ thấy những lầm lỗi của kẻ khác mà không đếm xỉa gì đến những tội lỗi của mình.
Sống trên đời, chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ trước ngực thì đựng những sai lỗi của người khác, còn cái giỏ sau lưng thì đựng những sai lỗi của chính bản thân. Vì thế, chúng ta chỉ nhìn thấy những sai lỗi của người khác mà chẳng bao giờ nhận ra những sai lỗi của mình. Chính vì thế Chúa Giêsu đã dạy: Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt mình trước đã, để trông thấy rõ và có thể lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em. Hãy đối xử khoan dung với người khác và nghiêm khắc với chính bản thân mình, chứ đừng khoan dung với bản thân mình và nghiêm khắc với người khác.
Trước thái độ của Chúa Giêsu họ bắt đầu rút lui từng người một, từ người cao tuổi nhất. Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và người thiếu phụ. Thánh Augustinô đã nói: Chỉ còn lại tình thương và tội lỗi. Chúa Giêsu đứng trước tội lỗi. Lòng khoan dung đứng trước sự khốn cùng. Chúa Giêsu nhìn đến sự khốn cùng của tội nhân để rồi tha thứ và kiến tạo lại hình ảnh nguyên thuỷ của con người. Khi tha thứ cho người thiếu phụ, Chúa Giêsu đã không đồng hoá tội với kẻ có tội. Người ghét bỏ tội, nhưng lại khoan dung với kẻ có tội, nên Người đã phán với người thiếu phụ: Ta không kết án con. Còn chúng ta thì trái lại, nhiều khi chúng ta đã kết án kẻ khác, nhất là kẻ có tội, một cách nặng nề, vô lý và quá đáng.
16. Lòng thương xót của Chúa.
Người Do Thái là những kẻ xác tín rằng con người chỉ có thể được coi là công chính nếu tuân giữ trọn vẹn luật Maisen. Thực ra, nếu họ là những người sống công chính theo lề luật, thì điều đó tự nó không phải là một chuyện xấu, mà còn tốt nữa là đàng khác. Nhưng cái làm cho họ trở thành những kẻ xấu và thậm chí có thể là những kẻ ác, đó là vì họ vênh vang tự đắc về cái thành tích giữ luật của mình, và nhất là tự biến mình thành những “cảnh sát” của đạo, những loại chó săn, chuyên môn đi rình mò, đánh hơi để tố cáo những người phạm luật. Và họ không ngại nhân danh lề luật, nhân danh lòng nhiệt thành bảo vệ luật pháp mà lên án và ném đá những kẻ lỗi luật.
Câu chuyện người đàn bà ngoại tình hôm nay thật là tiêu biểu cho cái thái độ đạo đức giả của những tín đồ Do Thái cuồng tín và cái ác ý của họ. Thực ra ở đây họ không chỉ nhằm tố cáo những phụ nữ yếu đuối đáng thương, nhưng chủ yếu là giăng trước mặt Chúa Giêsu một cạm bẫy: Họ tố cáo người phụ nữ ngoại tình để gài bẫy bắt lỗi chính Chúa Giêsu và như vậy để có bằng chứng tố cáo Ngài.
Chúng ta biết rằng luật Maisen truyền ném đá giết chết những kẻ ngoại tình. Nhưng vào thời Chúa Giêsu, thì quyền xử tử đã bị tước khỏi người Do thái, vì chỉ có tổng trấn Rôma, đại diện hoàng đế tại Giêrusalem mới có quyền ấy. Vậy nếu Chúa Giêsu tuyên bố là phải ném đá người phụ nữ, thì họ sẽ đi tố cáo với quan tổng trấn là Ngài đã phạm pháp. Còn nếu như Ngài tuyên bố là tha bổng thì điều đó có nghĩa là Ngài không tôn trọng luật Maisen.
Chúa Giêsu đã phá vỡ cạm bẫy của họ bằng cách giăng trước mặt họ một cạm bẫy tinh vi hơn nhiều. Ngài bảo họ: Ai trong các ông vô tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. Thế là “dĩ đào vi thượng sách”, bọn biệt phái liền đánh bài chuồn. Tác giả Kinh Thánh đã hóm hỉnh ghi lại một chi tiết: Họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Sở dĩ như thế là vì câu thách thức của Chúa Giêsu khiến cho mỗi kẻ trong bọn họ phải ngó lại chính lương tri của mình và khám phá ra rằng: mình càng già thì càng lắm tội.
Lời nói của Chúa Giêsu là ánh sáng chân lý vạch trần sự đạo đức giả của họ. Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người. Như thế toà án nhân dân bỗng trở nên vắng lặng, chỉ còn lại có tội nhân được dùng như con mồi, như cái bẫy, và Chúa Giêsu mà bọn biệt phái muốn gài bẫy để đưa ra trước vành móng ngựa. Toà án chỉ còn lại một phạm nhân và một người cũng đang bị kẻ khác muốn luận tội, hay nói cách khác, đối với bọn biệt phái thì cả hai đều là những kẻ có tội đứng trước luật pháp của Maisen. Phiên toà kết thúc một cách nhẹ nhàng với lời lẽ đầy từ bi của Chúa Giêsu: Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về và từ nay đừng phạm tội nữa.
Có người nói Chúa Giêsu đã giải tội mà quên cả việc đền tội, quên cả công thức giải tội. Thái độ của Chúa Giêsu thật khoan dung độ lượng với người tội lỗi, còn chúng ta thì ssao, chúng ta đối xử như thế nào đối với những kẻ tội lỗi?
17. Chúa Nhật 5 Mùa Chay
Chúa Nhật tuần trước, trên đường đi lễ về, chắc các bà cảm thấy vui vẻ, thoả mãn lắm vì bài Phúc âm kể lại câu chuyện đứa con trai hoang đàng, chỉ có đàn ông con trai mới sinh tật, hư đốn làm khổ cha mẹ, làm khổ vợ con. Và rồi Chúa Nhật hôm nay, khi thánh Gioan tông đồ kể lại câu chuyện người phụ nữa ngoại tình, chắc các bà cảm thấy ngại lắm vì chợt hiểu ra không chỉ có đàn ông con trai mới đi hoang mà cả chị em phụ nữ của mình cũng đi hoang nữa.
Kính Thưa OBACE! Chẳng biết người phụ nữ trong bài Phúc Âm hôm nay phạm tội ở đâu, với ai nhưng theo như thánh Gioan kể lại, sáng sớm, khi Chúa Giêsu giảng dạy cho dân chúng trong đền thờ, thì các kinh sư và Pharisiêu dẫn một phụ nữ bị bắt gặp quả tang phạm tội ngoại tình. Họ làm như thế để cố ý gài bẫy Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu bảo rằng theo luật Môsê, phải ném đá chị này thì Chúa Giêsu cũng như những người bình thường khác thôi, đâu có gì đặc biệt, cũng đâu có lòng yêu thương người ta đâu. Còn nếu Chúa Giêsu bảo không ném đá thì rõ ràng Chúa đang làm trái với lề luật Do Thái. Các kinh sư nghĩ rằng, đàng nào Chúa Giêsu cũng bị mắc kẹt.
Thưa OBACE! Các kinh sư và Pharisêu đem người phụ nữ ngoại tình đến trước đám đông để Chúa Giêsu xử phạt, với ý đồ vừa muốn trừng trị người phụ nữ, vừa muốn gài bẫy kết tội Chúa Giêsu. Theo con nhận thấy, Chúa Giêsu thì khôn ngoan không thể mắc bẫy rồi, người phụ nữ ngoại tình biết lỗi đứng im lặng rất đáng thương, kẻ đáng trách tội nhất là mấy ông kinh sư và pharisêu, cả đám đàn ông lại đi ức hiếp một phụ nữ, cậy vào lề luật để muốn giết chết người ta. Cái chuyện các ông nói xấu, kết tội mấy bà giữa nhiều người, con cũng từng nghe, nhất là trong bữa nhậu: đi làm mệt, đói bụng trông tới bữa cơm mà vào bàn ăn gặp ngay nồi cơm sống, cá thì quá mặn, canh thì quá lạt; Chỉ có cái chuyện quét nhà, rửa chén, giặt đồ mà mỗi lần làm thì cằn nhằn, la con mắng cái; Xách cái giỏ đi chợ, ở nhà con khóc con la mà đi cả buổi mới chịu về; Cuối tuần, về nhà chưa hỏi anh làm có mệt không mà đã hỏi lương tuần này được bao nhiêu rồi, chỉ đưa thiếu 50, 100 ngàn mà cứ cằn nhằn hoài làm nhức cả đầu.... Dĩ nhiên các ông nói nhiều về những thiếu sót của các bà thì cũng có lý do và cũng mong muốn rằng qua bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu sẽ giúp giải quyết dùm. Và thật sự, bây giờ, Chúa Giêsu giúp các ông giải quyết nè.
Chúa Giêsu nói: "Ai trong các ông phạm tội hãy ném đá chị này đi". Chúa Giêsu muốn nói với các ông rằng, các ông là chồng, là đấng nam nhi, là bậc trượng phu, muốn Chúa giải quyết dùm vấn đề bực bội với mấy bà, dễ lắm, trước tiên, hãy chứng tỏ mình là đàn ông, hãy can đảm nhận lỗi của mình trước đi. Đã nhiều lần chính các ông cũng làm cho vợ buồn, vợ khổ mà. Nhận lỗi trước đi rồi Chúa mới giải quyết tiếp. Không dám nhận lỗi mình mà cứ nhớ lỗi của mấy bà hoài thì sẽ chẳng bao giờ nhận ra những điều tốt đẹp, tình thương của vợ dành cho mình đâu.
Có đôi vợ chồng nọ chẳng hiểu vì chuyện gì mà mấy tuần nay, chồng không hề nói với vợ tiếng nào, gặp vợ thì mặt mày cau có. Chị vợ sang khóc với mẹ chồng: " con có làm gì ảnh buồn thì ảnh chửi, ảnh đánh con cũng được, nhưng ảnh cứ làm thinh hoài như vậy con chịu không nổi mẹ ơi". Một hôm, đi lễ Chúa Nhật về, không biết được ơn soi sáng thế nào, chị lấy hết can đảm mời chồng chị ra bàn để chị có điều muốn nói. Khi hai vợ chồng ngồi đối diện nhau, chị mở lời: Anh ơi, vợ chồng mình sống với nhau cả đời chứ đâu phải vài ngày, em có gì lầm lỗi thì anh cứ nói ra để em biết mà sửa chứ anh cứ làm thinh vậy thì làm sao em sống được, anh biết em vốn là phụ nữ sống với chồng bằng trái tim mà. Anh cũng phải nghĩ rằng cũng có lúc chính anh cũng làm em buồn lắm chứ, anh cũng có lỗi mà. Em đề nghị với anh thế này, hai vợ chồng mình, mỗi người cầm một tờ giấy ghi hết lỗi của người kia ra, rồi trao lại cho nhau đọc, từ đó, chúng ta huề nhau, không ai giận hờn ai nữa. Nghe vợ nói vậy, người chồng đồng ý và nói trong bụng phen này sẽ kể hết tội của vợ ra để bả biết. Sau khi ghi xong, hai vợ chồng trở lại trao giấy viết lỗi của nhau cho người kia. Người chồng nóng vội cầm lấy tờ giấy vợ mình ghi lỗi của mình, mở ra xem trước, anh ngồi như trời tròng và rơi nước mắt khi thấy chỉ một dòng chữ trên tờ giấy: "Em yêu anh và không hề nhớ lỗi của anh bao giờ". Anh chạy lại ôm vội lấy vợ và cảm thấy chưa lần nào trong cuộc đời anh đón nhận được niềm hạnh phúc tràn trề trong nước mắt như bây giờ.
Kính thưa OBACE! Chúa Giêsu yêu người tội lỗi nên không hề nhớ lỗi, luôn tha thứ cho họ. Chúa nói với người nữ ngoại tình: "tôi không kết án chị đâu". Người vợ trong câu chuyện trên còn yêu chồng nên không hề nhớ lỗi chồng: "Em yêu anh và không hề nhớ lỗi của anh bao giờ". Tại sao trước đây khi đeo đuổi theo vợ, ông chồng hay nói cái câu: "trong chuyện này, lỗi tại anh, anh xin lỗi em", dù rằng lỗi ấy là chính nàng đã gây ra. Còn bây giờ, đụng chuyện là giận hờn, nóng giận, đỗ lỗi. Phải chăng tình yêu dành cho vợ đã không còn như ban đầu. Thưa OBACE! Mấu chốt vấn đề nằm ở đây.Rõ ràng, vợ chồng không còn tha thứ cho nhau được nữa là do họ không còn yêu nhau như ban đầu. Để tha thứ cho nhau cho gia đình thuận hoà thì phải vun đắp lại tình yêu. Cuối bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã tế nhị trao cho người phụ nữ ngoại tình một bí quyết vun đắp tình yêu: "chị hãy đi, và đừng phạm tội nữa".
Kính thưa OBACE, lát đây, dự lễ xong, OBACE ra về, Chúa Giêsu trao gởi cho mỗi người một bí quyết bảo vệ hạnh phúc gia đình: đừng phạm tội nữa. Khi hai vợ chồng mới quen nhau, cần phải có tình yêu tốc độ, tình yêu cháy bỏng qua những bông hồng, bằng những nụ hôn, cái nhìn nhau say đắm nhưng bây giờ đã sống với nhau mấy mặt con rồi thì phải làm sao để tình yêu vợ chồng có chiều sâu hơn, có giá trị hơn. Tình yêu chiều sâu đó là tình yêu tha thứ của Đức Kitô. Muốn sống với nhau bằng tình yêu của Đức Kitô, xin đề nghị với OBACE một việc thực hành cụ thể qua Lời Chúa hôm nay: ai chưa đi xưng tội Mùa Chay, hãy mau mắn nhận lãnh Bí tích Giải Tội, và đón nhận Chúa Giêsu qua Bí Tích Thánh Thể, và quyết từ nay không phạm tội nữa để Đức Kitô luôn ngự trong lòng mình. Tâm hồn ai mà Đức Kitô hiện diện sẽ yêu người khác bằng một tình yêu tha thứ.
Kính thưa tất cả OBACE! Lời Chúa hôm nay không chỉ nhắc nhở những người trong bậc vợ chồng mà còn cho tất cả chúng ta. Hãy hoán bằng cách mau đến lãnh nhận Bí tích Giải Tội trong mùa chay thánh là điều Chúa Giêsu tha thiết mời gọi. Xin Chúa cho tất cả OBACE trong họ đạo biết thực hiện lời Chúa dạy để dọn tâm hồn sốt sắng chuẩn bị đón Chúa Phục Sinh. Amen.
18. Cái nhìn yêu thương
Cái nhìn đúng đắn trước cuộc sống luôn được con người đề cao, tôn trọng. Cái nhìn đúng đắn sẽ dẫn đến hành động đúng đắn. Nếu ta có cái nhìn đúng đắn trước tội lỗi chắc hẳn tôị lỗi không phải là điều gì đáng ghê tởm như người ta thường nghĩ. Tuỳ vào cái nhìn của tôi mà số phận đời mình được biến đổi. Có cái nhìn đưa dẫn con người đến chỗ bất an, tủi hổ. Có cái nhìn đưa dẫn con người đạt đến niềm vui hạnh phúc khôn dò. Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy 3 cái nhìn khác nhau trước lầm lỗi của một người. Chính cách nhìn khác nhau đưa đến những cách sống khác nhau.
Cái nhìn kết án, khinh khi.
Các kinh sư và người Pharisêu cho mình là người công chính, có quyền kết án người khác. Họ quên rằng chỉ có Thiên Chúa là Đấng ra lề luật và xét xử. Thế nhưng tính ngạo mạn của họ dần dần đã chiếm lấy luôn quyền của Thiên Chúa. họ đã đi qua giới hạn của mình trong tư cách là người nắm giữ lề luật. Bản chất của lề luật là để hướng dẫn và bảo vệ con người. Nhưng các Kinh sự và Pharisêu đã dùng lề luật để hạ bệ người khác trước đám đông. Họ không ngần ngại đưa người thiếu phụ ra trước mặt nhiều người. Lỗi thầm kín của thiếu phụ này rất cần sự chia sẻ và cảm thông, đàng này lại bị rêu rao bêu xấu. Chưa đủ, họ còn muốn có thêm nhiều đồng minh để ủng hộ việc làm của họ. Chắc chắn nhiều người qua đường sẽ có nhiều lời đàm tiếu khinh miệt. Họ ném những cái nhìn đầy khinh chê vào thiếu phụ này. Cảnh tượng đó chắc làm cho giới Kinh sư và Pharisêu hài lòng lắm, chỉ tội cho người phụ nữ chỉ biết lặng căm, không nói được một lời.
Cái nhìn xót xa, tủi hổ.
Trước những lời tố cáo, trước những cái nhìn khinh chê, người thiếu phụ không dám nhìn lên; bà gục đầu trong tủi hổ như sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả xảy đến cho mình. Bà rất đau khổ, mong " bản án " sớm được đưa ra. Điều lam bà đau khổ nhất chính là có sự hiện diện của những người thân của bà. Những người thân yêu đang nhìn bà như bao cặp mắt khinh bỉ khác. Những đứa con bà vừa trách bà, vừa xấu hổ với người khác vì có một ngươi mẹ như thế. Rồi đến chồng bà, người trước đây rất yêu bà giờ thì lạnh nhạt và tránh xa. Người thiếu phụ như cũng gớm ghét chính bản thân mình, phút lỗi lầm đã gây ra bao hậu quả. Bà không mong tìm sự cảm thương nơi người khác, chỉ biết xót xa phận mình cho việc làm đã qua.
Cái nhìn thông cảm yêu thương.
Trong lúc mọi người đều rẫy bỏ, duy Chúa Giêsu là người hiểu rõ sự tình. Ngài thấu suốt tâm tư của bà. Ngài không theo mọi người kết án bà. Ngài phân biệt rõ ràng tội lỗi và tội nhân: tội lỗi đáng ghét nhưng tội nhân thì đáng thương. Chúa không miệt thị bà như những người khác nhưng tỏ ra rất gần gũi và quan tâm đến bà: "Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa" (Ga 8, 11b). Ta đừng vội hiểu rằng ở đây Chúa tha thứ cách quá dễ dàng như thể tội này chẳng đáng quan tâm. Chúa Giêsu không có ý nói "Đừng lo, tội này không sao đâu". Nhưng Chúa Giêsu hoãn lại việc kết án để ban cho bà cơ hội chuộc lại lỗi lầm. "Con hãy đi, và hãy chứng minh rằng con có thể sống tốt lành hơn!"
Anh chị em thân mến, tội lỗi làm cho con người xa dần Thiên Chúa. Nó làm cho khả năng sống thiện hảo nơi con người cũng dần mất đi. Đứng trước tội lỗi ta phải có cái nhìn thể nào để cuộc sống trở nên nhẹ nhàng và ích lợi?
* Ba thái độ chúng ta cần phải có:
Trông cậy vào Chúa: nhìn vào chính mình, mặc cảm tội lỗi dễ khiến ta mất trông cậy vào Chúa. Do đó ta không quá xấu hổ, tuyệt vọng khi phạm lỗi lầm. Điều cần nhất là ta phải tuyệt đối tin tưởng vào lòng thương xót của TC. Tình yêu TC vượt xa những lỗi lầm của ta. Chính tình yêu của ngài sẽ lấp đầy hố ngăn cách để ta có thể đến được với Ngài. Ta trở nên thánh thiện là nhờ sự gắn kết giữa ta với Thiên Chúa. Ta càng gần Ngài thì ta càng thì sự thánh thiện ta càng toả sáng.
Cảm thông: Cảm nhận tội lỗi của bản thân ta sẽ dễ cảm thông trước lỗi lầm người khác. Ta không nên xem thường hay khinh miệt người nào một khi họ lỗi phạm. Ta nên nhìn họ với cái nhìn của CG: Đó là sự cảm thông phát xuất từ một tình yêu chân thành
Tha thứ: Nhìn vào Chúa Giêsu ta thấy sự tha thứ của Ngài không có biên giới. Tình yêu của Ngài vượt xa lầm lỗi của con người. Ngài muốn con người đến với Ngài để được đổi mới. Ngài không chấp tội của ta. Ngài nhìn ta không phải ở chỗ ta đã sống ra sao mà là ta có thể trở nên thế nào.
Chuyện kể về hai người bạn thân đi qua sa mạc, trong cơn đói khát, lã mệt vì bão cát và nắng cháy một người kia tát người bạn này "bốp". Người bạn bị tát ngồi xuống lấy ngón tay viết lên cát "Hôm nay người bạn thân nhất của tôi đã tát tôi". Hai người tiếp tục cuộc hành trình. Khi vừa nhìn thấy một ốc đảo, người bạn này vội chạy đến và bị trượt chân, vừa lúc đó có một bàn tay chạm đến và kéo anh lại. Anh ngồi xuống và viết lên đá "Hôm nay người bạn thân nhất của tôi đã cứu tôi". Về sau có người hỏi anh bạn này. Tại sao khi người khác làm khổ anh thì anh lại viết lên cát, còn khi người ta giúp anh thì anh lại viết lên đá? Anh bình thản trả lời: "Khi người bạn làm ta đau, hãy viết lên cát để ngọn gió của sự tha thứ thổi qua và mang nó đi cùng. Còn khi điều tốt lành đến, hãy khắc nó lên đá như khắc thành kỷ niệm trong tim, không có cơn gió nào xoá đi được". Thưa anh em, đứng trước lỗi lầm của người khác, ta hãy viết nó lên cát để ngọn gió tình yêu, tha thứ của Thiên Chúa thổi qua và mang nó đi cùng!
Cái nhìn đúng đắn quả là rất cần thiết cho cuộc sống. Xin Chúa cho cái nhìn của ta được hoà nhập cái nhìn của Chúa để cái nhìn ta được biến đổi, hầu cuộc sống ta không còn biểu hiện những khinh chê hay tủi hổ, nhưng luôn dâng trào tình yêu thương và muốn gắn kết với hết mọi người. Amen.
19. Tình Thương Cứu Độ--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
Tin mừng Ga 8: 1-11: Chúng ta đang sống trong một thế giới của những kẻ ném đá. Người ta chỉ thích phê bình, chỉ trích, lên án, hạ nhục hoặc chống đối người khác.
Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể câu chuyện: Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc, không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: "Ta mang hòn đá nầy cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi".
Đi đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù.
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật: Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: Tại sao ta phải mang nặng hòn đá nầy từ bao nhiêu năm qua? Con người nầy, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ đáng thương như ta!"
Chúa Giêsu hôm nay cũng không ném đá người thiếu phụ ngoại tình. Và những người tố cáo chị ta cũng không ai dám ném hòn đá đầu tiên. Câu chuyện kể về người thiếu phụ ngoại tình như sau:
"Khi ấy, Đức Giêsu đang ngồi tại hành lang Đền Thờ Giêrusalem thì bỗng có một nhóm đàn ông điệu đến trước mặt Ngài một thiếu phụ run lẩy bẩy, mặt mày tái mét. Họ trình với Ngài rằng: họ đã bắt được quả tang người thiếu phụ nầy đang phạm tội ngoại tình. Theo lề luật, Môisê truyền phải ném đá mụ nầy. Về phần Ngài, Ngài nghĩ sao?"
Dĩ nhiên là họ muốn gài bẫy Chúa Giêsu: Nếu Ngài nói ngược lại với luật Môisê thì những người Do Thái sẽ chống lại Ngài, còn nếu Ngài khuyến khích họ ném đá người thiếu phụ, điều mà luật lệ Rôma không cho phép, thì chắc chắn Ngài sẽ gặp khó khăn với chính quyền Rôma lúc đó đang chiếm đóng. Thực sự, Đức Giêsu đã không trả lời ngay câu hỏi của họ. Tin Mừng thuật lại là: Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Chẳng ai biết Ngài viết gì. Có lẽ Ngài muốn nhắc cho chính nhóm đàn ông kia là muốn phạm tội ngoại tình thì phải có hai người, và lề luật đã qui định là cả hai đều bị phạt chịu ném đá cho đến chết. Thế mà họ chỉ điệu đến trước mặt Ngài có một mình người thiếu phụ nầy. (Còn người đàn ông kia đâu?). Vậy thì chính họ, nhóm đàn ông ấy, đã phạm tội bất công, kỳ thị nam nữ, phân biệt đối xử và phạm tội giả hình… (chứ thì phái mày râu các ông không phạm tội ngoại tình sao?)
Sau khi viết xuống đất một hồi, Đức Giêsu ngẩng đầu lên và bảo họ: "Ai trong các ông không có tội thì hãy ném viên đá đầu tiên đi!"
Rồi Ngài lại cúi xuống viết tiếp… Ngài còn đang viết thì có một sự kiện thật ngoạn mục xảy ra: nhóm đàn ông nầy bắt đầu lặng lẽ rút lui có trật tự, những người già hơn rút lui trước. Có lẽ vì họ đã phạm tội nhiều hơn những người trẻ. Cuối cùng, chỉ còn lại có hai người: Đức Giêsu và người thiếu phụ. Lúc nầy, Đức Giêsu mới ngẩng đầu lên và cùng đối thoại với người thiếu phụ. Ngài hỏi chị ta:
- Những người kia đã đi đâu cả rồi? Không có ai lên án chị sao?
- Thưa Ngài, không có ai, thiếu phụ đáp lại.
- Vậy thì Ta cũng không lên án chị đâu, chị hãy về và đừng phạm tội nữa nhé!"
Chúng ta có thể tưởng tượng: lúc đó, người thiếu phụ vui mừng như thế nào? Và chắc chắn chị không quên cảm tạ Chúa và quyết tâm làm lại cuộc đời.
Thưa anh chị em,
Chúng ta đang sống trong một thế giới của những kẻ ném đá. Người ta chỉ thích phê bình, chỉ trích, lên án, hạ nhục hoặc chống đối người khác. Chúng ta quên đi một câu nói rất có ý nghĩa của người Anh: "Những ai đang sống trong nhà bằng kính thì đừng nên ném đá" (ném đá vỡ kính hết).
Tất cả chúng ta đều đang sống trong những căn nhà bằng kính, bởi vì tất cả chúng ta đều rất mỏng dòn, dễ vỡ, đã không đáp ứng đúng mức đòi hỏi của Thiên Chúa và tất cả chúng ta đều rất cần đến sự tha thứ của Ngài.
Cũng như nhóm đàn ông kia ở Giêrusalem, chúng ta thường tự đặt mình vào hạng những người công chính. Chúng ta sáng mắt nhìn thấy điều sai trái của kẻ khác, nhưng lại quá đui mù chẳng nhìn thấy các lỗi lầm của chính mình.
Tuy nhiên, anh chị em thân mến,
Câu chuyện trên đây không chỉ đề cập đến những kẻ ném đá, những kẻ tự cho mình là kẻ công chính, những kẻ tự đặt mình vào chức vụ bảo vệ nền luân lý công cộng, những kẻ luôn nghĩ rằng tất cả những điều mình làm đều đúng, đều tốt, những kẻ vẫn tự hào rằng mình tốt lành và nhân đức hơn những người khác…
Câu chuyện còn đề cập đến chính người thiếu phụ bất hạnh ấy nữa. Đức Giêsu đã không nhắm mắt làm ngơ trước tội ngoại tình. Ngài đã không nói rằng: điều người thiếu phụ đã làm đó chỉ là một chuyện vặt, một chuyện nhỏ mọn, hoặc là một chuyện có tính cách riêng tư không dính líu gì tới ai. Ngài cũng đã không khuyên nhóm người kia hãy bỏ qua chuyện nầy, hoặc hãy chấp nhận mà sống với những yếu đuối của mình, nhưng Ngài đã khẳng định Ngài không lên án thiếu phụ nầy. Nói cách khác, Ngài đã sẵn lòng chấp nhận người thiếu phụ bất hạnh nầy trong chính tình trạng hiện nay của chị - Chị là người có tội đấy - Chị hãy chừa cải, sửa đổi nên người mới.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu, Đấng vô tội, chính Ngài đã từ chối không ném viên đá đầu tiên, hoặc viên đá cuối cùng, nhưng lời chấp nhận của Ngài đã được gắn lại với lệnh truyền: "Chị hãy về và đừng phạm tội nữa". Có nghĩa là: "Con hãy về đi và từ bỏ cuộc sống tội lỗi của con". Những kẻ tố cáo, những kẻ sẵn sàng ném đá kia thực ra đã có thể kết liễu cuộc sống của người thiếu phụ nầy, nhưng phần Đức Giêsu, Ngài, trái lại đã ban tặng cho chị ta một cuộc sống mới, một sự bắt đầu hoàn toàn mới mẻ: "Con hãy về và đừng phạm tội nữa".
Ngày nay, Ngài cũng cư xử đối với nhân loại tội lỗi và đối với mỗi người chúng ta đúng như Ngài đã đối xử với người thiếu phụ ngoại tình nầy. Trên Thánh giá, Ngài ban ơn tha thứ cho tất cả và cùng với muôn triệu người được cứu thoát, Ngài tạo nên một dân mới. Một lần nữa, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn vào lòng mình, và vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa, tự nhận ra mình là kẻ tội lỗi, để lãnh nhận ơn tha thứ và từ nay đừng tái phạm nữa.
20. Ném hay tha?--Lm. Anmai, CSsR
Chúa Giêsu từ Cha mà xuống trần gian, không phải để tố cáo, để kết án tội nhân, nhưng để cứu rỗi họ. Nhờ đời sống, sự chết, sự sống lại của Người, Người ban tặng cho những người nhất là những người tội lỗi sự sống của Thiên Chúa. Trang Tin mừng hôm nay chúng ta nghe Thánh Gioan thuật lại gợi lên hình ảnh, tấm lòng hết sức tuyệt vời của Chúa Giêsu về sự tha thứ, về sự cứu độ mà Thiên Chúa dành cho con người.
Câu chuyện xảy ra trong Tin mừng xác thực và rõ ràng. Ngoại tình là một trọng tội ít gặp. Để được tha, cần làm việc đền tội công khai, lại chỉ được tha một lần thôi. Cách cư xử của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ ngoại tình, với những con người vụ luật và khắc khe thì dễ dãi quá. Nhiều người trong số họ đã quên mất câu "Hãy về và đừng phạm tội nữa". Họ nghĩ rằng cách cư xử dễ dãi như thế của Chúa Giêsu sẽ đe dọa sự trung tín trong hôn nhân. Sau một ngày giảng dạy ở đền thờ, chiều xuống, theo thói quen, Chúa Giêsu lên núi Ôlivê. Sáng sớm hôm sau, Người lại vào Đền thờ giảng dạy dân chúng.
Các kinh sư và những người Pharisêu từ lâu đã bất bình với Chúa Giêsu. Không chỉ dừng lại ở thái độ bất bình nhưng họ đã thù nghịch nghĩ rằng giáo huấn của Chúa Giêsu làm đảo lộn tất cả. Với những lý do ấy họ quyết định tìm đủ mọi cách để trừ khử Người. Tuy nhiên, để đưa Người ra xét xử, cần phải có một chứng cứ đúng đắn.
Một cơ hội không mong đã đến. Một thiếu phụ "bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình". Rẽ đám đông, các kinh sư và những người Pharisêu dẫn chị vào "giữa" đám đông đang tụ họp và nói với Chúa Giêsu: "Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?"
Chúa Giêsu không còn cách nào thoát khỏi cạm bẫy đã giăng của đám người xấu. Không thể bào Chúa Giêsu thoát khỏi cạm bẫy này! Nếu tha, Chúa Giêsu sẽ chống lại luật Môsê. Ném đá, Người tự mâu thuẫn vì Người vẫn rao giảng lòng nhân từ của Thiên Chúa. Đằng sau án xử người thiếu phụ là chính án xử Chúa Giêsu.
Giờ đây, dây thòng lọng đang xiết dần cả người thiếu phụ, lẫn Chúa Giêsu. Quá tệ! Đây không còn là một vấn nạn, một câu hỏi bình thường của cuộc sống, nhưng là một câu hỏi sinh tử, đối với người nữ phạm tội tày đình cũng như đối với chính Chúa Giêsu.
Vẫn ngồi trong dáng điệu của một ông thầy đang giảng dạy, Chúa Giêsu "cúi xuống" và thay vì trả lời, Người dùng ngón tay vẽ vẽ trên đất.
Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh rất quan tâm tìm hiểu xem Chúa Giêsu viết gì trên đất? Thánh Giêrônimô nghĩ rằng Chúa Giêsu vạch tội những kẻ tố cáo người phụ nữ ngoại tình còn nhiều tác giả khác thì cho rằng: Người viết lại một câu trong Jêrêmia 17, l3: "tất cả những ai lìa bỏ Ngài sẽ phải hổ thẹn, những kẻ quay lưng lại với Ngài sẽ phải ghi tên mình trong lòng đất". Tốt nhất chúng ta nên trung thành với cách diễn đạt của bản văn. Chúa Giêsu vạch trên đất để kéo đài thời gian thinh lặng, làm cho lời phân xử sắp thốt ra thêm trọng lượng. Người ta như không chú ý tới điều được ghi nhận tới hai lần: Chúa Giêsu "cúi xuống", rồi "ngước lên". Sao Thánh Gioan lại nhấn mạnh đến cử chỉ ấy trong một câu chuyện ngắn ngủi như vậy, rồi trả lời. Tên núi Ôlviê được nhắc đền ở đầu câu chuyện đã đặt giai thoại này trong bối cảnh cuộc khổ nạn sắp đến. Cử chỉ của Chúa Giêsu mang một ý nghĩa Kitô học: nó nhắc đền sự hạ xuống, và đưa lên cao mà qua đó, Chúa Giêsu sẽ hòa giải nhân loại bị giam hãm trong tù ngục tội lỗi với Thiên Chúa.
Họ nài nỉ. Trước khi lại chìm trong thinh lặng, Chúa Giêsu nhắc họ lời Kinh Thánh: "Ai trong các ngươi sạch tội, thì cứ lấy đá mà nén trước đi. " Đnl 13,9-10 và 11,7: "Người làm chứng sẽ ném đá kẻ phạm tội trước. Từ lúc ấy, vụ án xử bị cáo lại trở thành vụ án xử nguyên cáo.
Các kinh sư và những người Pharisêu đinh minh mình công chính. Họ đứng đằng sau mặt chữ, đằng sau lề luật để tố cáo người phụ nữ. Ở đây, Chúa Giêsu đưa chính họ ra xét xử dưới ánh sáng của Luật. Người buộc những quan tòa phải tự xét xử chính mình, trước hết, phải trở lại với lương tâm mình, nhìn nhận mình cũng là tội nhân, cùng một thân phận như "người phụ nữ kia", người mà họ đã lôi ra giữa đám đông và giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi của mình.
Trong vòng vây của những nguyên cáo hung hăng, sự lưỡng lự biến thành cuộc lui binh như thánh sử ghi nhận cách hài hước: "Họ rút lui từng người một, bắt đầu từ người già nhất ".
Khi Chúa Giêsu ngẩng đầu lên "lần thứ hai thì chỉ còn mình Người đối diện với người phụ nữ". Thánh Augustinô chú giải: "Chỉ còn hai. Lòng thương xót và người được xót thương". Nếu trước đó, những người tố cáo gọi chị là "hạng đàn bà đó" một cách khinh bỉ, coi chị như đồ vật, thì giờ đây, chị thấy một ánh mắt khác nhìn chị, nghe một giọng khác gọi chị như gọi một con người: "Này chị ". Hơn bất cứ ai khác, Chúa Giêsu là người đo lường chính xác nhất mức nặng nhẹ của tội lỗi; và thay vì giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi như các kinh sư và những người Pharisêu đã làm, Người thúc đẩy chị bước vào con đường hối cải, và mở cho chị một tương lai một "Không ai kết án chị sao? Tôi cũng vậy. Hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa ".
Sau đó thì sao? Câu chuyện để ngỏ đó giống như dụ ngôn Chúa nhật trước bỏ ngỏ thái độ người anh. Một khi đã gặp Chúa Giêsu Đấng không lên án mà kêu gọi sống đời sống thánh thiện, người nghe thấy mình được kêu gọi để đừng khép mình vào cái khuôn dĩ vãng chết chóc nhưng là bước đi trong tự do của con cái Thiên Chúa.
Câu chuyện người đàn bà ngoại tình đã đi vào huyền thoại hơn 2000 năm rồi nhưng nhiều và nhiều câu chuyện người đàn bà ngoại tình khác vẫn còn diễn ra trước mắt mỗi người chúng ta, diễn ra mỗi ngày trong đời sống thường nhật. Và, với cái lý, cái lẽ hết sức bình thường của con người, người ta vẫn giơ tay ra và hùng hùng hổ hổ ném đá và ném thật mạnh vào người tội lỗi. Và, chắc có lẽ cái cảnh từng người bỏ đi cũng sẽ tái hiện bởi lẽ nhìn lại mình mình cũng quá nhiều tội như nhiều người ngày hôm ấy nên đã từ từ rút lui.
Thật sự ra mà nói những người rút lui hôm nay xem chừng không hay, không đạt được ý nguyện nhưng được một chuyện là lương tâm và sự thật đã thức tỉnh lòng dạ đen tối của họ. Chỉ sợ rằng vấn đề rõ ràng nơi đó mà họ còn cố tình chối tội, họ cố tình lấp liếm tấm lòng nham hiểm của họ.
Đứng trước những lầm lỗi, những khiếm khuyết của người khác, nên chăng con người cần phải khiêm tốn để nhìn nhận lại chính bản thân của mình. Nếu nhìn nhận chính bản thân mình thì con người sẽ thay đổi lối nhìn cũng như lối hành xử.
Thánh Phaolô, trong thư gửi tín hữu Philip mà chúng ta vừa nghe cho ta bài học về sự khiêm tốn. Với Ngài, tất cả Ngài coi mọi sự đều là rơm rác. Ngay cả sự công chính của Ngài, Ngài cũng nại vào ơn Thiên Chúa ban cho Ngài chứ không phải do tự bản thân của Ngài. Ngài, dẫu đã trở thành môn đệ chân chính của Chúa Giêsu nhưng Ngài vẫn còn phải chạy và Ngài không nghĩ là Ngài thành toàn. Có lẽ nhờ vào lối sống, lối suy nghĩ của Ngài nên Ngài hành xử một cách khác người đó là Ngài không bao giờ lên án ai. Ngài vẫn tự nhận mình là môn đệ rốt hết, Ngài vẫn tự nhận Ngài là con người thấp hèn để rồi Ngài không bao giờ hạ nhục người khác.
Thường, con người vẫn và vẫn tìm cách để hạ nhục người khác dẫu chưa tìm ra chứng cứ. Nếu có chứng cứ như người phụ nữ ngoại tình hôm nay thì lại thêm phần bảo đảm, phần chắc chắn cho sự kết án của họ. Thế nhưng, dù thế nào đi chăng nữa, dù có chứng cứ, dù có bằng chứng nhưng chắc gì những người đưa ra chứng cứ lại là những người vô tội.
Một lần nữa, sự kết án, sự kết tội, sự ném đá với tội nhân vẫn mở ngõ ra cho con người. Con người hoàn toàn tự do sử dụng sự tự do của Thiên Chúa ban cho họ. Hoặc là họ ném đá, hoặc là họ kết án anh chị em đồng loại.
Vấn đề đặt ra là liệu rằng khi ném đá, họ - những người kết án - có thấy mình sạch tội để ném đá, để kết án anh chị em đồng loại hay không mà thôi.
21. Cái nhìn và cách nhìn
Trong cuộc sống, chúng ta có thể công nhận rằng cái nhìn ảnh hưởng đến cuộc sống con người. Tuỳ vào cái nhìn của ta mà số phận đời mình được biến đổi. Vì thế, cái nhìn đúng đắn luôn được đề cao. Cái nhìn đúng sẽ giúp hành động đúng. Bài Phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy 3 cái nhìn khác nhau trước lầm lỗi của một người. Chính cách nhìn khác nhau đưa đến những cách sống khác nhau.
Trước tiên là cái nhìn kết án, miệt thị. Những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái mà trực tiếp là các người Pharisêu và kinh sư chú trọng đến hình thức lề luật. Đối với họ luật lệ là quan trọng. Họ càng không giống Chúa Giêsu: "luật vị nhân sinh". Vì tinh thần nệ luật nên họ coi thường con người. Từ cái nhìn đó đưa họ đến những cách ứng xử thiếu tình người, thiếu tình bác ái, không còn thể hiện tình Chúa, tình anh em gì nữa cả. Từ cái nhìn chú trọng hình thức lề luật đưa họ đến chỗ dễ dàng đưa ra những quyết định tiêu cực, gây khó khăn cho con người, tệ hơn nữa đưa con người đến chỗ bế tắc. Vì chú trọng hình thức lề luật nên họ tự cho mình có quyền kết án người khác. Họ quên rằng chỉ có Thiên Chúa là Đấng ra lề luật và xét xử. Bản chất của lề luật là hướng dẫn và bảo vệ con người nhưng các Kinh sư và Pharisêu đã dùng lề luật để hạ bệ người khác. Vì thế, họ không ngần ngại đưa người thiếu phụ ra trước mặt nhiều người. Đúng ra họ phải thông cảm và đối xử công bằng và có "tình người". Tuy nhiên trong đoạn phúc âm mà chúng ta suy gẫm (Ga 8, 1 - 11), Thánh Gioan nói cho chúng ta biết các kinh sư và pharisêu dùng nó nhằm gài bẫy Đức Giêsu. Họ muốn đặt Ngài "bị kẹt" trong trình huống khó xử này để tìm cách tố cáo Người. Thời ấy, ai vướng vào một trong 3 thứ tội: thờ hình tượng, sát nhân, ngoại tình đều phải bị án tử. Trong sách Lêvi (Lv 10, 10) viết: " Nếu người nam nào phạm tội tà dâm với vợ của người lân cận, cả hai phải bị xử tử." Đây là một giới luật rất nghiêm khắc mà người Do thái phải vâng giữ cách triệt để. Các kinh sư và người Pharisêu đưa người phụ nữ ngoại tình trước Đức Giêsu, chủ đích của họ không phải là vấn đề lề luật nhưng là dùng mưu kế để bắt bẻ Ngài. Người phụ nữ ngoại tình chỉ là con bài để phục vụ cho ác tâm của họ. Nếu Ngài đồng ý cho ném đá thì sẽ bị kẹt vào hai điều: một là vi phạm luật của chính quyền Roma vì chỉ có chính quyền Roma mới được quyền xét xử tử hình mà thôi; hai là Ngài sẽ bị mất đi uy tín và ảnh hưởng của Ngài như một người bạn của những người tội lỗi và một bậc thầy giảng dạy về tình yêu thương tha thứ. Mặt khác, nếu Ngài từ chối giữ luật Môsen, không ném đá người đàn bà ngoại tình, tức là ủng hộ cho hành động vô luân lý, như vậy làm sao xứng danh một tiên tri, một đấng Thiên Sai đến từ Thiên Chúa được? Thực ra, họ đâu cần Đức Giêsu làm quan toà. Họ muốn dùng dùng dịp này để khiêu khích, để đấu lý và có thể là để kết án Đức Giêsu. Các kinh sư và người Pharisêu đã sai lầm trong cách nhìn và đã tiếp tục sa lầy trong sai lầm khi muốn gài bẫy Đức Giêsu.
Kế đến là cái nhìn tủi hổ. Trước những lời tố cáo, người thiếu phụ không dám nhìn lên mà gục đầu trong tủi hổ như sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả xảy đến cho mình. Những ánh nhìn khinh bỉ, vừa xấu hổ vừa trách mắng của người thân yêu. Những người trước đây yêu thương giờ trở nên lạnh nhạt xa tránh chị. Có lẽ, chị như cũng gớm ghét chính bản thân mình vì lỗi lầm mình gây nên. Có thể, chị không mong tìm sự cảm thương nơi người khác, chỉ biết xót xa cho phận mình, cho việc mình làm đã qua. Chị muốn bản án được kết thúc nhanh.
Cuối cùng là cái nhìn tha thứ và yêu thương. Trong lúc mọi người rẫy bỏ, chỉ có Đức Giêsu là người hiểu rõ sự tình. Hơn ai hết Ngài hiểu rõ tâm trạng của người thiếu phụ. Ngài thấu suốt tâm tư của chị. Ngài im lặng vì không đồng tình với thái độ của những người kết án chị. Ngài phân biệt rõ ràng tội lỗi và tội nhân: tội lỗi đáng ghét nhưng tội nhân thì đáng thương. Ngài không miệt thị chị như những người khác nhưng tha thứ và yêu thương: "Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa". Cái nhìn yêu thương giúp Ngài sẵn sàng tha thứ và tạo cho người thiếu phụ một lối đi, một con đường mới để làm lại cuộc đời, làm lại cho mình cuộc hành trình trong tình thương của Thiên Chúa.
Đức Giêsu tha thứ cho người tội lỗi. Chúng ta hãy chạy đến bí tích Hoà Giải để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Thiên Chúa tha thứ cho con người tội lỗi nhưng đồng thời cũng muốn cho con người tội lỗi đừng lạm dụng lòng nhân từ của Ngài, nhưng hãy dốc quyết từ bỏ tội lỗi, canh tân đời sống: "Nhưng từ nay đừng phạm tội nữa". Chắc hẳn, mỗi người Kitô chúng ta, đều ý thức về thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, hãy sám hối và biết tha thứ cho tội nhân. Chúng ta đừng kết án tha nhân nhưng hãy tha thứ, hãy nâng đỡ giúp họ trở về với Chúa. Hơn nữa mỗi người Kitô chúng ta cần được mời gọi cầu nguyện, cầu nguyện cho người tội lỗi được ơn ăn năn trở lại.
Đức Giêsu, Đấng vô tội, chính Ngài đã từ chối không ném viên đá đầu tiên hoặc viên đá cuối cùng, nhưng lời chấp nhận của Ngài đã được gắn lại với lệnh truyền: "Con hãy về và đừng phạm tội nữa". Điều này nghĩa là: "Con hãy về đi và từ bỏ cuộc sống tội lỗi của con". Những kẻ tố cáo, những kẻ sẵn sàng ném đá kia thực ra đã có thể kết liễu cuộc sống của người thiếu phụ này, nhưng trái lại phần Đức Giêsu, Ngài đã ban tặng cho chị ta một cuộc sống mới, một sự bắt đầu hoàn toàn mới mẻ: "Con hãy về và đừng phạm tội nữa". Ngày nay, Ngài cũng cư xử đối với nhân loại tội lỗi và đối với mỗi người chúng ta đúng như Ngài đã đối xử với người thiếu phụ ngoại tình này. Trên Thánh giá, Ngài ban ơn tha thứ cho tất cả và cùng với muôn người được cứu thoát, Ngài tạo nên một dân mới. Một lần nữa, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn vào cõi lòng mình và vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa để tự nhận ra mình là kẻ tội lỗi, hầu lãnh nhận ơn tha thứ và từ nay đừng tái phạm nữa.
Người Kitô hữu Công Giáo là người tin và bước theo Chúa Kitô. Bước theo nói lên từ bỏ lối sống cũ, sống cho hành trình mới, hành tình tin yêu và hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh. Trông cậy vào Chúa chúng ta nhìn vào chính mình, nhưng không mất trông cậy vào Chúa. Tuyệt đối tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Tình yêu Ngài vượt xa những lỗi lầm của chúng ta. Chính tình yêu của Người sẽ lấp đầy hố ngăn cách để chúng ta có thể đến được với Người. Thiên Chúa lặng thinh với những sai phạm của chúng ta, không phải Ngài không nhìn thấy nhưng chờ đợi để chúng ta quay về. Chúng ta trở nên thánh thiện là nhờ sự gắn kết với tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta càng gần Thiên Chúa thì sự thánh thiện và tình yêu của chúng ta càng toả sáng.Hơn nữa, khi cảm nhận tội lỗi của bản thân, chúng ta sẽ dễ cảm thông trước lỗi lầm và khuyết điểm của người khác. Không lên án, ghét bỏ tội nhân. Ta nên nhìn họ với cái nhìn của Đức Giêsu là sự cảm thông phát xuất từ một tình yêu chân thành. Đồng thời bắt chước Đức Giêsu sống tha thứ. Tình yêu của Ngài vượt xa lầm lỗi của con người. Ngài muốn con người đến với tình yêu của Người để được đổi mới. Lời phán xét của Người không tàn nhẫn nhưng nhân hậu. Ngài không chấp tội của chúng ta. Trong hành trình đức tin, chúng ta hãy bắt chước Chúa Kitô, biết nhìn về Chúa, sống yêu thương như Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Xin chúng con biết nhìn và cư xử giống Chúa để chúng con luôn dâng trào tình yêu thương và muốn gắn kết với hết mọi người. Amen.
22. Ai sạch tội?--Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong tin mừng thánh Gioan (8,1-11), theo các nhà nghiên cứu thì có lẽ là của Luca, một tác giả đặc biệt đề cao chủ đề lòng thương xót của Chúa. Trong văn học, một chủ đề chính cũng thường được điểm tô đậm nét bằng những yếu tố “phản đề”. Có một cái nhìn cặn kẻ về sự gian ác của con người hẳn nhiên sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa.
Tội ngoại tình: Thoặt xem ra đây là một loại tội dễ lượng thứ, vì bản tính con người mỏng dòn, yếu đuối. Và người ta thường dùng cụm từ “tính xác thịt” như để bào chữa mỗi khi lỗi phạm. Nếu xét tội này theo chiều kích “sự yếu đuối” thì cũng có thể dễ thông cảm. Tuy nhiên, nếu nhìn đây là một sự bất tín, bất trung, là một hành vi phản bội, phá vỡ sự bền vững của đời sống hôn nhân-gia đình, vốn là tế bào của xã hội thì tội này thật đáng sợ.
Nhân loại chúng ta đã và đang phải lao đao vì căn bệnh được gọi là bệnh thế kỷ, bệnh HIV-AIDS. Cái nguy hiểm chết người của căn bệnh này là tế bào dần mất khả năng kháng khuẩn. Khi tế bào hỏng hư thì cả cơ thể có thể gặp hiểm nguy mọi lúc, vì bất cứ vi khuẩn gây bệnh nào, dù là bệnh thường gặp như cảm cúm…Chúng ta đều biết cái nền tảng của xã hội và cũng là của giáo hội chính là gia đình. Và nền tảng này được dệt xây trên tình yêu chung thủy và sự tín nhiệm lẫn nhau. Khi đã bất trung thì sự tín nhiệm bị ít nhiều bị đánh mất. Có thể cái tội bất trung vì yếu đuối không quá trầm trọng nhưng hậu quả của nó thì thật khó lường. Các ngôn sứ thường dùng thứ tội này: “ngoại tình”, để nói đến việc dân xưa bỏ Thiên Chúa mà đi thờ các thần ngoại bang.
Nhất tiển diệt song điêu. Một mủi tên giết hai con chim. Câu nói có thể dùng trong cả trường hợp tích cực lẫn tiêu cực, nhưng thường ám chỉ những hành vi gian ác gây hại cho nhiều đối tượng. Cái bẫy mà nhiều kinh sư và người biệt phái ngày xưa giăng ra để hãm hại Chúa Giêsu quả là hiểm độc. Đã nhiều lần, và nay thêm một lần nữa họ dồn Chúa Giêsu vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”. Để thực hiện mưu đồ này họ đã không ngần ngại sử dụng sự yếu đuối, tội lỗi của một con người. Có thể nói rằng họ đã kiếm tìm và tận dụng tội lỗi của đồng loại để phục vụ gian kế của mình. Đã là gian ác thì sẽ không chừa một thủ đoạn nào, kể cả việc lợi dụng tội lỗi, sự yếu đuối hay nỗi khổ của tha nhân để thủ lợi hoặc để thực hiện ý đồ đen tối của mình.
“Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Tin mừng minh nhiên cho ta biết rằng những người biệt phái và luật sĩ hôm ấy cố tình gài bẫy Chúa Giêsu hầu có bằng chứng tố cáo Người, Đấng đã từng tuyên bố rằng “đến không phải để hủy bỏ lề luật và lời các ngôn sứ, nhưng để kiện toàn”(x.Mt 5,17). Chắc hẳn những người cố tình gài bẫy hôm ấy nghĩ rằng phen này Chúa Giêsu không thể thoát. Nếu Người không giữ luật Môsê thì khó mà thuyết phục dân chúng. Còn nếu cứ nhất nhất hành xử theo luật truyền thì sẽ đi ngược với lời giảng dạy của Người về lòng nhân từ, tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x.Mt 18,21-22).
Nhất ngôn độ bách tính: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”(Ga 8,7). Một lệnh ban để thi hành án ư? Xét về hình thức văn tự thì đúng vậy. Nhưng ẩn sâu bên trong lệnh ban ấy, chính là lời mời gọi xét mình, tự kiểm. Ai là người vô tội? Người Do Thái vốn không xa lạ gì với khái niệm tội lỗi, nếu không muốn nói là rất bén nhạy. Cùng với tổ phụ Đavít xưa họ luôn ý thức thân phận tội lỗi của mình để rồi không ngừng cầu xin ơn tha thứ. “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lương hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Tôi lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm…(Tv 50).
Một lời tuyên phán đã cứu sống người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Lời tuyên phán ấy cũng đã giải thoát cả đám đông gian ác hôm ấy. Hành vi rút lui, bỏ đi, kẻ trước người sau, bắt đầu từ người lớn tuổi, là một lời xưng thú tội lỗi công khai, dù vô ngôn nhưng lại đủ ý. Rút lui là tự nhận mình cũng tội lỗi không kém gì người phụ nữ phạm tội ngoại tình mà có khi còn tồi tệ và xấu xa hơn. Tình yêu thật vạn năng và diệu kỳ. Tình yêu luôn chiến thắng sự hiểm độc, gian ác.
Ai thực sự vô tội? Chúng ta dễ dàng kết luận đó là Chúa Giêsu, vì chỉ còn lại một mình Người và người phụ nữ. Chỉ mình Chúa Giêsu mới có quyền kết án, thế mà Người lại phán: “Tôi không lên án chị. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Người rộng lượng tha thứ cho tội nhân, khoan dung với người phạm tội, nhưng lại cương quyết loại trừ tội lỗi. Để làm điều này thì Đấng vô tội đã cam chịu kết án cách bất công.
Một hành vi vừa nhân ái vừa dịu hiền và tinh tế: “Cúi xuống”. Khi nghe những người biệt phái và kinh sư tố cáo người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, thì Chúa Giêsu đã cúi xuống và viết cái gì đó trên đất. Sau khi người ta hỏi mãi, Người đã ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội…” Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Không biết Chúa Giêsu viết những gì nhưng hành vi cúi xuống của Người thật nhân hậu và đầy tế nhị. Nếu giả như Người cứ chăm chăm nhìn vào đám đông thì chắc gì đã có chuyện người ta can đảm nhận mình là tội nhân để rồi rút lui tuần tự. “Lạy Chúa, Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.”(Kn 11,23).
Ai trong chúng ta sạch tội? Một câu hỏi khiến chúng ta cần khiêm nhu nhìn nhận con người thật của mình. Tiên vàn hãy lấy cái đà ra khỉ mắt mình hơn là cứ chăm chăm vào cái rác trong mắt tha nhân. Ai trong chúng ta cũng là tội nhân. Mọi người đều cần ăn năn sám hối. Để có thể trở về thì ngoài tình yêu và ân sủng Chúa, chắc hẳn cũng cần sự khoan dung và thái độ ứng xử tế nhị trong sự tôn trọng phẩm giá của nhau. Chúa Kitô không chỉ cúi xuống rửa chân cho chúng ta mà con cúi xuống, làm ngơ để tạo cơ hội cho chúng ta là những tội nhân hoán cải trong danh dự. Người đã nêu gương cho chúng ta thì chúng ta cũng phải bắt chước Người để sống với nhau cho có tình trong sự tôn trọng phẩm giá của nhau.
23. Chúa Giêsu với người tội lỗi--Lm. Damien, OFM
Tiếp theo dụ ngôn người cha nhân từ trong Chúa nhật IV Mùa chay vừa rồi, hôm nay lại một câu chuyện có thật, và Chuá Giêsu đã thực thi những gì Ngài đã dạy trong dụ ngôn ấy:thái độ thinh lặng, một sự thinh lặng đầy nhân từ và tha thứ, không lên án. Cuối cùng Chúa nói lời tha thứ: "Tôi không kết tội chị, chị hãy về bình an". Một lời nói, một thái độ ngoài sự chờ đợi của người đàn bà khốn khổ kia, cũng như đối với phần đông chúng ta hôm nay.
Thái độ của Chúa Giêsu trước người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình nói với tôi rất nhiều. Là người tội lỗi, nhưng qua câu chuyện nầy thì tôi thấy Chúa vẫn thương tôi, không bỏ tôi. Đã từ lâu, Chúa đã làm thinh trước những tội lỗi của tôi, một sự thinh lặng đầy khoan dung và chờ đợi. Tôi cảm động và tạ ơn Chúa. Cũng vì Chuá cứ thinh lặng trước tội lỗi của tôi.Thế mà nhiều khi tôi cứ tưởng chẳng can gì và cứ tiếp tục sống bình an với tội lỗi đầy mình, làm như là chẳng có gì xảy ra cả. Chúa đã nhìn người đàn bà khốn khổ kia, và hôm nay Chúa cũng đang nhìn tôi với cặp mắt đầy nhân ái. Thái độ đó của Chuá còn đánh động lòng tôi hơn muôn vàn lời trách mắng hay cảnh cáo.
Ai thấy mình không có tội thì ném đá trước đi.
Thánh Luca nói rõ, biệt phái và luật sĩ dẫn người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, đến trước mặt Chúa để gài bẩy Người. Và ở đây kết cục của câu chuyện cho thấy câu thánh vịnh xưa thật đúng: "Chúng mắc bẫy chính chúng bày ra." "Thưa Thầy, người đàn bà nầy bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và cứ theo luật Môsê, hạng phụ nữ nầy phải bị ném đá, còn Thầy, Thầy dạy sao?" Chúng ta cứ tưởng tượng, sau khi hỏi Chúa như thế xong, với những nụ cười hóm hỉnh và ranh mảnh trên mọi khuôn mặt, họ thì thầm với nhau cách thích thú rằng: Lần nầy thì có mà chạy đàng trời! Thật ra nếu Chúa bảo, ừ thì cứ ném đá đi, thì đó là một lời nói sẽ xóa đi tất cả những gì Chúa đã nói trước đây: "Tôi đến để cứu vớt chứ không phải để lên án". Và những người tội lỗi và thu thuế từ trước đã chạy theo Chúa, đặt tất cả hy vọng vào Chúa, nay nghe lời lên án đó của Chúa thì họ sẽ hoàn toàn thất vọng và xa lánh. Thế là coi như Chúa đã thất bại. Nhưng nếu Chúa bảo, không được ném đá, họ càng vui hơn vì rõ ràng Chúa đã phạm một sai lầm lớn là cả dám chống lại luật Môsê. Chỉ ngần ấy thôi thì họ cũng dư bằng cớ để bắt và lên án Chúa rồi. Nhưng chúng mắc bẩy chính chúng bày ra: Sau khi nghe Chuá nói: "Ai thấy mình không có tội thì ném đá trước đi". Chúng ta cứ tưởng tượng, khi nghe xong câu nói bất ngờ đó, vẻ hí hửng trên mọi khuôn mặt bỗng chốc biến mất, thay vào đó là những khuôn mặt dài ra vì vừa bỡ ngỡ lại vừa lo lắng sợ hãi; thế là họ tìm cách rút lui có trật tự. Họ đến với vẻ tự đắc hí hửng bao nhiêu, thì nay lại rút lui im lìm bấy nhiêu.
Họ lên án người phụ nữ khốn khổ vì họ tự đắc, tưởng mình vô tội. Nhưng lời Chúa đã đưa họ về với sự thât của lòng mình. Ít ra cũng phải khen họ còn trung thực với chính mình nên tìm cách rút êm, vì nhận ra mình cũng tội lỗi.
Lời Chúa hôm nay cũng đưa con về với sự thật của lòng con. Xin cho con cũng biết trung thực với chính mình, để đừng bao giờ lên án ai, phê bình chỉ trích ai cả. Và nghĩ cho cùng, thì con đâu dám chê ngừơi biệt phái và luật sĩ xưa, vì nhiều khi con biết mình chẳng tốt lành gì hơn ai, thế mà con lại cứ nói xấu, chỉ trích và lên án kẻ khác. Chúa đã dùng dụ ngôn cái xà và cái rác trong mắt để cho con hiểu, thế mà nhiều khi con lại không muốn hiểu.
Tôi cũng không lên án chị.
Người đàn bà khốn khổ kia vừa mừng lại vừa sợ: mừng vì nhờ Chúa mà chị ta không bị người Do thái ném đá; sợ vì chị ta đang hồi hộp chờ đợi Chúa sẽ nói những gì với chị đây?! Và khi nghe Chúa nói: "Tôi cũng không lên án chị, chắc chị ta đi từ bỡ ngỡ, đến vui mầng, một lời nói ngoài sự chờ đợi của chị cũng như của những người đứng chung quanh Chúa hôm nay. Con người tội lỗi như chị mà lại không bị lên án sao? Chị cũng như mọi ngươi bỡ ngỡ khám phá ra một lòng nhân từ không thể có được nơi loài người. Và khi đó mọi người mới thấy được hết ý nghĩa của lời Chúa: "Tôi đến không phải lên án,nhưng để cứu vớt"; mới hiểu được tại sao Chúa lại thường ăn uống với những người tội lỗi. Và nhất là hôm nay tôi cũng hiểu ra rằng tại sao Chuá lại không phạt một người tội lỗi như tôi.
Lòng nhân hậu.
Hôm ấy là ngày Chúa nhật, một tai nạn xảy ra tại đường Tự Do, Sàigon. Người ta bu lại xem rất đông. Người bị tai nạn nằm chết, máu me vương vãi chung quanh. Đó là một người đàn bà nghèo đi bán chổi, khoảng 40 tuổi. Chị nằm ngửa phơi mình giữa nắng, hai mắt vẫn mở to. Chiếc xe tung chị đã bỏ chạy trốn. Xe hơi có, honda có, xe đạp có, người ta bu lại coi. Có nhiều người ăn mặc sang trọng. Cảnh sát thì chưa đến. Bổng trong đám đông, một chị bán xôi, rẽ đám đông bước tới bên nạn nhân, cởi chiếc áo ngoài và đắp lên mặt nạn nhân rồi lẳng lặng ra đi. Mọi người đều thinh lặng, nhìn theo chị. Một sự thinh lặng cảm phục và đầy hối hận.
24. Khiết tịnh và lòng nhân ái--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Tôi biết là bài Tin Mừng không nói gì về đức khiết tịnh, ngược lại là đàng khác, nó đang thuật lại câu chuyện về người đàn bà ngoại tình, tức là người lỗi phạm một điều nghịch với sự khiết tịnh ngay trong bậc vợ chồng. Các kinh sư và Pha-ri-sêu rõ ràng đang nhân danh luật Mô-sê để bắt mọi người Do Thái phải sống trung thủy. Nhân danh luật lệ khắt khẽ thì, bất cứ ai không trung thủy nhất là phụ nữ, sẽ lập tức bị lên án; và trong trường hợp bị bắt quả tang có thể lãnh án phạt nặng nề là ném đá cho tới chết. Tạo nên một xã hội lành mạnh có nền luân lý vững chắc là mục tiêu của luật Do Thái, cũng như của luật pháp mọi tôn giáo hay quốc gia. Riêng về diện này thì luật Mô-sê rõ ràng rất cao đẹp, vượt trội so với luật pháp của các dân tộc cùng thời; và đã từng là niềm kiêu hãnh của Do Thái trước các dân tộc khác (xem Đệ Nhị Luật 26:16-19). Khiết tịnh trong đời sống vợ chồng quả là một giá trị lớn cần được bảo vệ trong bất cứ xã hội lành mạnh nào!
Nhưng đối với Tin Mừng mà Đức Giêsu đến để rao giảng, và còn minh chứng bằng chính mạng sống mình, thì giá trị của sự trung thủy vợ chồng, cũng như bất kỳ một giá trị luân lý nào, đều không thể nào sánh được với lòng nhân ái và xót thương. Sự khác biệt chính (thậm chí đối đầu) giữa Đức Giêsu và các kinh sư Pha-ri-sêu, giữa Cựu Ước và Tân Ước chính là hệ tại ở việc đặt giá trị nào lên trên, lòng nhân ái hay luân lý (khiết tịnh hôn nhân trong trường hợp cụ thể này)? Các kinh sư và Pha-ri-sêu thì đã dứt khoát: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó.” Đức Giêsu cũng dứt khoát không kém: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ này đừng phạm tội nữa!”
Cựu Ước chọn giá trị luân lý và đặt nó lên hàng đầu, ngược lại Tân Ước thì đặt lòng nhân ái thương xót lên hàng đầu; sự khác biệt đối chọi như vải mới / áo cũ, rượu mới / bầu da cũ!
Đức Giêsu không hề có ý muốn phế bỏ các giá trị luân lý! Không đời nào! Người đã chẳng long trọng tuyên bố: “Thầy đến không phải là để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ… nhưng là để kiện toàn” (Mt 5:17-18) là gì? Điều duy nhất mà Người muốn loan truyền và khắc ghi vào tâm khảm các môn đệ chính là: ‘sự vĩ đại tuyệt đối của lòng nhân ái’, “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9:13). Đúng thế, sự chết và phục sinh của Người đâu có mục đích bảo vệ một giá trị luân lý nào, nhưng là tiếng nói tuyệt đối của tình yêu nhân ái của Thiên Chúa!
Như vậy chúng ta mới nghiệm ra rằng: bao lâu mình còn đặt các giá trị luân lý lên thế thượng phong thì mình vẫn cứ luẩn quẩn trong Cựu Ước. Cựu Ước tất nhiên là không xấu, rất tốt nữa là đàng khác, có điều Kitô hữu phải là Tân ước của Tin Mừng Đức Kitô Giêsu; mà đã là Tân Ước thì giá trị của lòng nhân ái phải được đặt lên hàng đầu. Trước hết là đối với Thiên Chúa: nắm giữ các giới răn Chúa truyền là điều quan trọng, nhưng còn quan trọng hơn gấp bội khám phá và đi sâu vào lòng từ bi - thương xót của Người trong Đức Giêsu Kitô. Còn trong việc mục vụ (trong tư cách linh mục), tôi dành nhiều thời giờ và sức lực cho việc giáo huấn luân lý là điều cần thiết, nhưng còn quan trọng hơn nhiều, nỗ lực ghi khắc vào tâm khảm các tín hữu (nhất là người trẻ) nhận biết lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, và cũng đối sử như thế đối với tha nhân; nếu không làm điều này, ta sẽ không phải là một Kitô hữu đích thực, một môn đệ đích thực của Đức Kitô Giêsu. Riêng Linh Mục, trong tư cách là một ‘Kitô thứ hai’ – alter Christus, chứ không phải là ‘alter Mosis’, nếu tôi không trở thành ‘dấu chỉ và người mang tình yêu Chúa đến cho mọi người’ (như Don Bosco vẫn nhắc nhở các tu sĩ Sa-lê-diêng của người như thế) thì quả là một phản bội đấy: dạy dỗ và sửa bảo luân lý là điều cần làm… nhưng tỏ lòng nhân ái là điều còn cần thiết hơn. Giai thoại về người đàn bà ngoại tình cho thấy: theo gương Đức Giêsu, điều cần làm hơn hết khi phải giáp mặt với một lỗi phạm luân lý (đặc biệt trong lãnh vực khiết tịnh) là hãy tỏ lòng thương xót, từ nhân. Chắc chắn đó không phải là thái độ xuề xòa dễ dãi cho qua, vì phải là “từ nay đừng phạm tội nữa”, nhưng còn đi xa hơn thế, là thái độ thương cảm của chính Thiên Chúa được Đức Giêsu diễn tả: “Tôi không lên án chị đâu!” Bởi vì xét cho cùng, ai trong chúng ta cũng cần được Thiên Chúa xót thương và tha thứ cả, có lẽ mình cần hơn bất cứ ai khác: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ lấy đá mà ném trước đi.”
Tất cả chúng ta đều cần tới ơn cứu độ của Thập Giá và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa!
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, xin cho con biết, mỗi khi giáp mặt với lỗi phạm nơi bản thân mình cũng như nơi tha nhân, quyết tâm không ngừng vun trồng nơi mình và nơi những người con phục vụ không những các giá trị luân lý cao đẹp, nhưng còn biết quyết liệt hơn sống lòng nhân ái và xót thương của Chúa. Xin giúp con không bao giờ kết án bất cứ ai chỉ vì các lỗi phạm của họ, nhưng luôn biết xót thương như Chúa hằng thương xót. Amen.
25. Mùa Chay - Mùa canh tân--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Tin mừng Ga 8: 1-11: Câu chuyện người đàn bà ngoại tình cho thấy Chúa Giêsu biểu lộ niềm cảm thông và lòng thương xót như thế nào đối với người tội lỗi, đồng thời cũng mạc khải sứ mạng của Người: không phải đến để lên án người tội lỗi, nhưng để giao hòa họ với Thiên Chúa và với anh em.
Các tuần trước Phụng vụ Lời Chúa mời gọi hoán cải và giao hòa với Thiên Chúa. Sự hoán cải và giao hòa chỉ có thể được thực hiện tốt đẹp khi chúng ta vui nhận cải cách chính đời sống nội tâm của mình.
"Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một quả tim mới! Đặt vào lòng chúng con thần khí mới của Ngài!" Đó phải là tiếng khẩn cầu của mỗi người. Tiếng khẩn cầu được cụ thể hóa bằng nỗ lực canh tân đời sống nội tâm để con tim có khả năng mở ra thế giới của Thiên Chúa, thế giới của tình yêu.
I. Tìm Hiểu lời Chúa
1. Bài đọc I: Is 43, 16-21
Một Cuộc Xuất Hành Tuyệt Vời
Dân Do Thái bị lưu đày ở Babylon. Thật là một bi kịch dài hàng năm trời! Isaia loan báo cuộc lưu đày đau khổ này sẽ chấm dứt, Thiên Chúa không bỏ rơi dân Người: một cuộc xuất hành mới dẫn đưa dân về Giêrusalem, một sự đồng hành kỳ diệu ngạc nhiên hơn nữa.
Tiên tri Isaia khởi đầu bằng việc gợi lại kỷ niệm về những sự can thiệp của Thiên Chúa dành cho dân Người trong thời kỳ vượt qua sa mạc thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Luôn luôn trung thành, Thiên Chúa sẽ dẫn đưa dân của Người khỏi sự cầm giữ của Babylon. Người sẽ làm hơn những gì Người đã làm trong qua khứ.
Bản văn Kinh Thánh này là một bài học về niềm hy vọng. Bị giam hãm trong tội lỗi, chúng ta sống lưu đày xa Thiên Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ không bao giờ chê bỏ chúng ta nhưng luôn dẫn đưa chúng ta về quê hương đích thực của mình, nơi đó chính là Nước Trời, Giêrusalem mới.
2. Bài đọc II: Pl 3, 8 –14
Hành Trình Chạy đến Đức Kitô
Trong đoạn thư gửi tín hữu Philipphê này, Thánh Phaolô nói với chúng ta cách ngắn gọn, Ngài đã thực hiện ra sao hành trình thiêng liêng của mình: Kể từ ngày nhận biết Đức Kitô, với Ngài tất cả đã hoàn toàn biến đổi. Biết Đức Kitô là mối lợi lớn lao hơn cả.
Dưới con mắt của Phaolô không có gì có gía trị hơn là việc nhận biết Đức Kitô. Thà chấp nhận thua thiệt tất cả để được Người chiếm hữu, để được Người hướng dẫn và để được trở nên giống Người.
Có một sự đòi hỏi phải thông phần vào cuộc thương khó và sự chết của Đức Kitô để rồi được phục sinh với Người. Thông phần cuộc thương khó là chấp nhận những thua thiệt, coi mọi sự như phân bón. Được Người chiếm hữu thì chắc chắn tương lai sẽ chiếm được phần thưởng từ trời cao trong Người.
Những lời của Thánh Phaolô hàm chứa một niềm hy vọng lớn lao, mở ra một tương lai tốt đẹp cho những ai tin vào Đức Kitô. Cuộc đời là một hành trình tin và chạy đến cùng Đức Kitô. Trên hành trình đó, hãy quên đi chặng đường quá khứ đã qua để chỉ biết nhắm tới đích điểm là Đức Kitô.
3. Tin mừng: Ga 8, 1-11
Người Đàn Bà Ngoại Tình
Câu chuyện người đàn bà ngoại tình cho thấy Chúa Giêsu biểu lộ niềm cảm thông và lòng thương xót như thế nào đối với người tội lỗi, đồng thời cũng mạc khải sứ mạng của Người: không phải đến để lên án người tội lỗi, nhưng để giao hòa họ với Thiên Chúa và với anh em. Người là Đấng Cứu Độ.
Theo luật Môsê, người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình phải bị nén đá đến chết. Chúa Giêsu bênh vực người phụ nữ này.
Trước sự gài bẫy, thái độ khiêu khích của những người Biệt phái và Luật sĩ, Chúa Giêsu bình tĩnh đưa ra phán quyết: ai vô tội thì hãy ném đá người đàn bà tội lỗi trước đi. Không một nguyên cáo nào dám cho mình là vô tội, tất cả lặng lẽ rút lui, bắt đầu là những người lớn tuổi. Không ai có quyền kết án người khác, vì tất cả mọi người đều là tội nhân. Chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền xét xử, mà án xử của Thiên Chúa là lòng khoan dung tha thứ.
"Ta không kết án chị, chị về đi và từ nay đừng phạm tội nữa." Tất nhiên khi tha thứ cho người đàn bà phạm tội bị bắt quả tang, không phải Chúa Giêsu dung thứ cho tội, để mạc cho người ta phạm tội. Chắc chắn Thiên Chúa không thỏa hiệp với tội lỗi, với ma quỉ. Người có sứ mạng đến để tiêu diệt chúng, nhưng lại cứu với người tội lỗi và mở ra cho họ một con đường mới. Con đường này đòi hỏi tội nhân phải từ bỏ con đường tội lỗi, làm lại cuộc đời để sống thánh thiện.
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Canh tân cuộc sống, một biểu hiện lòng thương xót của Thiên Chúa: Chúa Giêsu trước mặt người phụ nữ không hiện diện như một quan tòa, nhưng là một vị Thiên Chúa đầy tình yêu thương. Tình yêu đã đưa Người thoát khỏi các dục vọng bè phái, thúc đẩy Người tha thứ nhưng không cho người phụ nữ. Và với tình yêu ấy cũng chắc chắn sẽ thúc đẩy người phụ nữ hoán cải và canh tân cuọc sống mình. Thiên Chúa không kết án nhưng lại thứ tha và mở ra một vận hội mới để hối nhân có thời cơ, điều kiện làm lại cuộc đời. Như thế, canh tân cuộc sống trước hết đó chính là một cơ hội Thiên Chúa ban cho con người. Ân hụê này Thiên Chúa ban vì Ngài là tình yêu, Ngài không muốn cho bất cứ ai phải diệt vong. Canh tân cuộc sống được hiểu như một biểu hiện của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại để thấy rằng, nỗ lực canh tân không chỉ là chuyện cá nhân mà là mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Việc canh tân không chỉ là việc riêng của mỗi người mà là việc của cả Thiên Chúa lẫn con người. Do đó, sẽ thêm hy vọng, thêm niềm tin để thực thi canh tân. Cuộc sống của tôi dù có tội lỗi đến đâu đi nữa vẫn có Chúa đồng hành cùng tôi để dẫn tôi vượt qua khổ lụy tội đời tiến tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Thánh Thần Thiên Chúa chính là tác nhân canh tân của thế giới, của Giáo Hội và của mỗi người. Lời khẩn cầu xin Ngài đến canh tân bộ mặt địa cầu phải là lời tha thiết từ cõi lòng mỗi người tước hết xin Ngài canh tân chính mình. "Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một quả tim mới! Đặt vào lòng chúng con thần khí mới của Ngài!"
2. Canh tân cuộc sống, một khát vọng đổi đời: Trong xã hội chúng ta đang sống hôm nay, con người trải qua biết bao thảm cảnh khổ đau: nghèo đói, thất học, bần cùng đến chiến tranh, tệ nạn xã hội. Con người như bị chôn vùi dưới đáy vực thẳm. Ai ai cũng khao khát vươn lên, ai ai cũng mang một khát vọng đổi đời. Đấy là một ước mơ chính đáng, một khao khát đúng đắn. Thiên Chúa luôn sẵn lòng thoả mãn ước mơ đó của nhân loại. Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy nguyên nhân của thảm cảnh cuộc đời là vì con người tội lỗi và muốn giam hãm nhau trong tội lỗi, trong đau khổ. Những người Biệt Phái và Luật sĩ và cả đám đông dân chúng đều là những người tội lỗi, vậy mà họ lại không biết cảm thông tha thứ cho người phụ nữ. Đau buồn hơn họ còn lợi dụng tình trạng của chị ta để gài bẫy bắt tội Chúa Giêsu. Đối với họ không bao giờ có khát vọng đổi đời và ngay cả khát vọng của người khác họ cũng dập tắt. Họ luôn chìm ngập trong u mê, trong lầm lạc tọi lỗi của mình. Từ kinh nghiệm ấy, cho thấy rằng để có thể canh tân cuộc sống cần phải có khát vọng đổi đời. Khát vọng đổi đời chỉ đến khi biết nhận ra thảm cảnh cuộc đời của mình, của tha nhân.
3. Canh tân cuộc sống, một từ bỏ quá khứ tội lỗi để khởi sự tương lai tươi sáng: Với lời tha thứ: 'chị hãy về và đừng phạm tội nữa', Chúa Giêsu đã mở ra một tương lai mới cho người phụ nữ. Chị vẫn trở về với đời sống thường nhật của mình, nhưng không phải trong tình trạng tội lỗi cũ nữa mà đã sang trang mới, một cuộc sống mới không phạm tội. Như thế, có nghĩa là một đời sống dứt bỏ qua khứ tội lỗi và những hệ luỵ của nó, để rồi từ đây là một đời sống thánh thiện, hoàn lương chu toàn nghĩa vụ của mình đối với gia đình cách tốt đẹp. Canh tân cuộc sống đòi hỏi một điều tất yếu là phải dứt khoát từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những đam mê bất chính và xây dựng một cách sống mới phù hợp Tin mừng. Đổi mới cuộc đời, làm lại cuộc đời tất cả chỉ là ngôn từ, là khẩu hiệu môi miệng nếu ngay từ trong tâm khảm không có một nỗ lực quyết tâm từ bỏ quá khứ sai lầm. Canh tân là một hành trình dài xuyên suất cuộc đời chứ không phải là một hành vi nhất thời, một cảm xúc tự phát hay một thái độ vào hùa theo phong trào. Từ bỏ luôn luôn là một mất mát, một chọn lựa mà Kitô hữu phải thực thi cả đời. Măc lấy con người mới trong Đức Kitô sống theo Thần Khí của Người luôn là một nỗ lực không ngừng. Vì con người vốn dĩ là yếu đuối, cuộc đời vốn dĩ luôn có cạn bẫy của ma quỉ.
Với Kitô hữu cuộc sống chúng ta hôm nay như thế nào? Có thực sự khao khát đổi đời? Ước muốn canh tân hay không? Hay chỉ là sự chậm chạp ngại thay đổi thích ở lỳ trong đam mê tội lỗi của mình?
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa qua Chúa Giêsu đã yêu thương tha thứ tội lỗi và kêu gọi đồng thời ban ơn để chúng ta sống đời sống mới. Với lòng biết ơn và tin tưởng vào tình yêu của Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1. Sau Công đồng Vaticanô II, Hội Thánh không ngừng canh tân đời sống của mình. Chúng ta cùng cầu nguyện cho công cuộc canh tân của Hội Thánh ngày càng phát triển hơn trong thời đại chúng ta.
2. Xã hội và con người trong thế giới hôm nay không ngừng phát triển trên mọi lãnh vực. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia có được một tinh thần đổi mới triệt để trong cách nhìn và trong hành động để đưa dân nước mỗi ngày một đi lên hơn.
3. Canh tân cuộc sống theo ánh sáng Tin mừng luôn là một đòi hỏi của Kitô hữu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong chúng ta đây luôn đón nhận được ơn Chúa để hàng luôn đổi mới cuộc sống của mình làm cho bản thân và gia đình cũng như cộng đoàn ngày càng thấm đượm những gia trị Tin mừng và tình yêu Thiên Chúa.
* Kết Nguyện: Lạy Chúa Giêsu Kitô, vì yêu thương Chúa đã đến để cứu độ chúng con khỏi vòng tội lỗi và mở ra cho chúng con cơ hội làm lại cuộc đời. Xin Chúa thương ban ơn Thánh của Chúa xuống trên mọi người để chúng con đủ sức, đủ ý chí mà canh tân cuộc sống theo ý Chúa muốn. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
26. Đổi mới--Lm. Giuse Trần Việt Hùng.
Con người được sinh ra hiện hữu trong thời gian và không gian. Cuộc sống con người được gắn kết với môi trường xã hội, văn hóa, chính trị và tôn giáo riêng biệt. Mỗi người mang một dòng máu, một quốc tịch và định mệnh khác nhau. Tiểu sử của mỗi người liên kết với lịch sử của một bộ lạc, một dân tộc và một quốc gia. Có một mối tương quan liên đới số phận chung của con người cùng thời đại. Vận nước kéo theo vận người. Vì thế mỗi người có trách nhiệm và bổn phận chung trong xã hội, cũng như riêng tư trong đời sống cá nhân gia đình. Trong chương trình cứu độ, dân Do-thái trở thành dân tộc trung gian và máng chuyển ân lộc của Thiên Chúa. Một dân tộc được tôi luyện đã trải qua nhiều gian nan thử thách. Thiên Chúa luôn hiện diện đồng hành để khuyến khích và thức tỉnh: Người phán như sau: "Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước (Is 43, 18). Đây làmột lời khuyến khích yêu thương đổi đời. Cho dù dân từ bỏ Chúa chạy theo các thần dân ngoại và quay lưng lại với tình yêu của Thiên Chúa, Chúa vẫn giữ mối tình trung kiên.
Dân ngưỡng vọng về một tương lai tươi sáng, Thiên Chúa sẽ thực hiện những sự đổi mới và khơi nguồn những phúc lộc chan hòa. Tiên tri Isaia đã loan báo cho dân những dự phóng tương lai đầy hy vọng: Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn (Is 43, 19). Hy vọng chính là nguồn sống. Hy vọng ngày mai tươi sáng hơn, thành công hơn và sinh hoa kết qủa nhiều hơn. Mỗi ngày sống là mỗi cơ hội tốt để hoàn thành những ước mơ. Mong chờ Đấng Cứu Độ đến giải thoát khỏi vòng u mê tội lỗi và sự chết là mơ ước tuyệt đỉnh của dân người. Trong cuộc sống, chúng ta thường có những hy vọng nho nhỏ nối kết từng ngày giúp chúng ta sống vui. Sống là một cuộc lữ hành hoàn thành các ước mơ. Kết thúc dự tính này lại hy vọng ước tính khác. Đời chỉ đẹp khi còn dang dở.
Chính sự dở dang tạo nên uẩn khúc cuộc đời. Bài Phúc âm hôm nay kể truyện người phụ nữ không may bị người ta bắt gặp đang khi có những liên hệ tình dục bất chính. Một hành động trái đạo lý luân lý, không đúng lúc và không đúng nơi. Chị ta bị phát hiện khi sự kiện còn dang dở. Chị ta không thể chối cãi và chỉ biết cúi mặt xấu hổ. Một phút giây lầm lỡ đã hủy phá danh dự cả một đời. Chị biết lỗi mình. Đứng đó, không có nơi nương tựa để giấu mặt hay trốn lánh. Sự thể đã rồi, biết làm sao bây giờ. Chúng ta cũng biết chị ta đâu phạm tội gì đến danh dự của các luật sĩ, biệt phái hay ai khác. Họ tố cáo chị với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?(Ga 8, 4-5). Họ hiểu biết Luật của Môisen, nhưng vẫn muốn thử sự xét đoán của Chúa Giêsu. Đá đã cầm sẵn trong tay và chỉ chờ lời phán quyết kết tội của Chúa là họ ném đá người phụ nữ cho chết. Họ giữ luật vị luật và thiếu lòng nhân ái. Chúa đã cứu chị ta với một câu hỏi tuyệt vời: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi."(Ga 8, 7). Ai là người vô tội. Bằng một lời, Chúa Giêsu dẫn mọi người trở về với lòng mình.
Những người tố cáo chị vẫn còn chút lương tâm nhậy cảm. Họ nhận ra ý nghĩa lời chỉ dậy của Chúa Giêsu ngay. Tâm phục khẩu phục. Qua vài câu đối thoại với Chúa Giêsu, mọi người đã thức tỉnh và những cục đá thù ghét rơi xuống khỏi lòng bàn tay. Họ đã bỏ đi từ kẻ già đến người trẻ. Có lẽ tâm hồn của họ cũng cảm thấy vơi bớt nỗi hờn ghen. Cuối cùng, Chúa Giêsu đầy lòng thương xót đã lên tiếng: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa! "(Ga 8, 11). Một lời nhắn nhủ rất nhẹ nhàng và thuyết phục. Về đi. Như vậy Chúa đã tha thứ rồi. Chúa có uy quyền trên cả Luật Môisen. Chúa đã cất nỗi tủi hổ và nhục nhã cho người phụ nữ phạm tội. Chúa đã cứu sống người phụ nữ cả thân xác lẫn linh hồn.
Khi cầm đất hay đá ném người khác thì tay chúng ta đã dơ và lòng đã bẩn. Tâm chúng ta đã thuận theo để kết án người khác. Có biết bao lần chúng ta đã xét đoán và kết tội người khác, trong khi chúng ta chỉ nghe có một chiều và biết một phần rất nhỏ của câu truyện. Vấn đề này xảy ra thường ngày như cơm bữa. Chúng ta nghe truyện xấu và rồi thêm mắm thêm muối cho câu truyện thêm đậm đà ý vị. Truyện xấu giật gân lây lan nhanh chóng như một thứ vi khuẩn xâm nhập. Cục đá kết án đã nằm sẵn trong tay chỉ chờ cơ hội là ném. Ném mạnh, ném nhanh và ném cho chết, thế là hả dạ. Chúng ta chẳng muốn tìm hiểu nguyên nhân, lý do hay hoàn cảnh xung quanh ảnh hưởng thế nào. Chúng ta biết rằng ai cũng có nhiều tâm tư nỗi khổ cần được thông cảm và giãi bầy chia sẻ. Hãy học lời khuyên của Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh, ai trong anh chị em sạch tội, thì ném đá trước đi.
Chúng ta không nên nghi ngờ và đổ lỗi vội vàng. Có khi sẽ bị bé cái lầm. Truyện kể: Có người mất cái búa, ngờ cho đứa con nhà láng giềng lấy trộm. Anh ta trông dáng nó đi, rõ ra đứa ăn trộm búa. Nhìn vẻ mặt nó, rõ ra đứa ăn cắp búa. Mọi cử động của nó, tỏ rõ là tên đạo tặc. Ông bị yên trí. Sau khi ông tìm thấy búa, thì từ đó lại thấy thằng bé hiền lành, không có vẻ chi là ăn cắp, ăn trộm nữa. Ở đời không nên vội nghi ngờ, kẻo gây chia rẽ hay làm mất thanh danh người khác. Càng nghi kỵ thì càng nhen nhúm sự dữ trong lòng. Sự đời dối trá dễ lôi kéo chúng ta vào cuộc. Giống như câu truyện của chị phụ nữ, có thể chúng ta không dám ném đá người khác trước đâu. Một mình tôi thì chẳng dám ném, nhưng có vài người vào hùa, tôi sẽ hùa theo. Và cuối cùng chúng ta lại đổ lỗi cho người khác, tôi thấy người ta nói và làm như vậy. Kiểu ném đá giấu tay. Người ta là ai chứ! Dùng chữ ‘người ta’ làm hỏa mù để dấu tội mình và trốn tránh trách nhiệm. Như thế, truyện của người khác mà lại làm cho chúng ta trở nên dơ tay, bẩn lưỡi và xấu lòng. Thật là không đáng!
Thánh Phaolô đã có Chúa Kitô làm gia nghiệp. Ngài có thể hy sinh và từ bỏ tất cả vì danh Chúa. Mối lợi của ngài là chính Chúa Kitô. Đôi khi chỉ vì cái tôi kiêu ngạo và vì tự ái, nhiều người lấy danh nghĩa Chúa Kitô để kết án và loại trừ lẫn nhau. Lịch sử Giáo Hội đã minh chứng qua sự ly khai của các giáo phái và các nhóm trong lòng giáo hội. Niềm tin của chúng ta là chỉ có một Chúa, một phép rửa và niềm hy vọng. Thánh Phaolô đã xác tín: Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô(Phil 3, 8). Dù sống đạo hay hành đạo cách nào, nếu chúng ta chưa kết hợp được với Chúa Kitô, chúng ta vẫn còn lang thang chưa có đích điểm.
Sau khi gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh, Phaolô đã trở thành một con người hoàn toàn mới. Một sự đổi mới đức tin kỳ diệu: Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước (Phil 8, 13). Saulôthay đổi từ một người hăng say bắt bớ và giam tù các Kitô hữu, đã trở thành tông đồ Phaolô rao giảng tin mừng nhiệt tình cho Nước Chúa. Ngài đã cam chịu cực khổ trăm bề để làm cho danh Chúa Kitô cả sáng. Mùa Chay là cơ hội cho mỗi người chúng ta thay đổi cách sống. Học hỏi, lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Gắn bó kết hợp với Chúa qua các Bí tích và việc cử hành phụng vụ. Chúa Kitô là trung tâm của tất cả các sinh hoạt sống đạo.
Lạy Chúa, chúng con đang còn lữ hành dưới trần thế để hướng về quê thật. Xin cho chúng con biết chuẩn bị những hành trang cao quí xứng hợp với cõi thiêng. Niềm hy vọng chính là ánh sao soi đường dẫn chúng con đạt tới sự sống bên Chúa đời đời. Amen.
27. Chúa xót thương--Lm. JB Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R
Chuyện đời không thiếu việc con người kết án lẫn nhau.
Tư tưởng Thiên Chúa không như tư tưởng của người đời.
Trình thuật Tin Mừng (Ga 8, 1-11) là bằng chứng: Chúa kết án tội chứ không kết án người tội lỗi.
I. ĐÁM ĐÔNG VÀO HÙA
Một buổi sáng nọ, một đám đông các kinh sư và người Pha-ri-siêu dẫn một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình đến trước mặt Đức Giêsu. (Ga 8, 3). Họ đã chất vấn Đức Giêsu về việc xét xử bà này. "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Mô-sê truyền dạy chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà này. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" (Ga 8, 5).
Mới thoáng qua thì đàm đông này xem ra có lý lẽ, nhưng sâu xa, họ đang cố tình gài bẫy Đức Giêsu hầu có cớ bắt Người. Mặt khác, dường như họ đang toa rập với nhau, âm mưu tìm cách "giết người diệt khẩu" càng sớm càng tốt để ngầm bao che cho kẻ tòng phạm, vì theo luật thì người đàn ông tòng phạm với bà ta cũng phải bị ném đá (x Ed 16, 38-40).
Đức Giêsu biết rõ tâm địa gian manh của họ. Bằng thái độ lặng thinh viết trên đất, xem ra Người không chú ý đến những người xung quanh và dường như muốn từ chối nói chuyện với họ.
Vì sự cố chấp của đám đông "họ cứ hỏi mãi" (Ga 8, 7), Đức Giêsu đã trả lời: "Ai trong các ông không có tội thì cứ lấy đá ném chị này trước đi" (Ga 8, 7). Lời Đức Giêsu đã xoáy vào tim đen của đám đông khiến họ phải suy nghĩ và đã rút êm "lần lượt bỏ đi, bắt đầu là những người lớn tuổi" (Ga 8, 9). Hẳn những viến đá mà đám đông lăm le ném người đàn bà ngoại tình nay đã ném thẳng vào lương tâm những kẻ sống hùa và buộc họ phải suy nghĩ mà thay đổi hành vi của mình.
II. CON NGƯỜI YẾU HÈN
Phần người phụ nữ, chị đã bị bắt quả tang đang ngoại tình. Tội chứng ràng rành, không còn gì để nói nên chị ta chỉ thinh lặng và cũng không thiết nghĩ đến chuyện tố cáo kẻ tòng phạm. Chị ta chỉ còn biết phó mình cho sự định đoạt của đám đông và người ta đã buộc chị phải đứng giữa đám đông để chịu xét xử.
Lẽ tự nhiên, Thiên Chúa ban cho con người khả năng giới tính để truyền sinh. Hoạt động giới tính tự nó thật tốt đẹp và phù hợp với sự quan phòng của Thiên Chúa. Tuy nhiên một khi người ta lạm dụng hoạt động này, cụ thể là thực hiện ngoài hôn nhân và trái tự nhiên thì sẽ sinh hậu quả tai hại làm hủy hoại thuần phong mỹ tục.
Ấy vậy mà, Kinh Thánh đã từng thuật những chuyện hủ hoại: Vua Đa-vít đã từng phạm tội cướp vợ (bà Bát-sa-ve) mà còn giết luôn người chồng (tướng U-ri-a) (x. 2S 11, 2 tt); hai ông thủ lãnh cùng âm mưu hành động đồi bại với bà Su-san-na vợ của ông Giô-gia-kim nhưng âm mưu không thành (x. Đn 13, 1tt); người con hoang đàng mang tiền phung phí với bọn điếm (x. Lc 15, 30); thánh Phao-lô từng than khóc vì dân thành Cô-rin-tô sống gian dâm phóng đãng (x. 2Cr 12, 21)...
Chuyện Kinh thánh đã vậy, trong gian dân những chuyện ngoại tình cũng không ít nên ngày nay, tình trạng hôn nhân thiếu chung thủy và gia đình đổ vỡ đang ngày càng gia tăng. Thế mới biết, thân phận con người yếu hèn: điều thiện muốn thì không làm nhưng điều ác không muốn thì lại làm (x. Rm 7, 19).
Bởi thế, ý thức phận người yếu hèn, người tín hữu phải luôn trông cậy ơn Chúa giải thoát "Tôi thật là một người khốn khổ! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (Rm 7, 24).
III. THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT
Đám đông đã rút đi. Nơi xét xử chỉ còn lại hai người: Thiên Chúa xót thương và con người yếu hèn.
Trước đám đông gào thét đến cuồng loạn kết án tử người đàn bà ngoại tình, Đức Giêsu đã thinh lặng và không đồng tình với đám đông la ó đang gây thêm đau khổ cho người tội lỗi.
Khi bị chất vất gay gắt, Đức Giêsu mới lên tiếng. Người không nói: Đừng ném đá chị ta. Nếu nói thế chẳng khác nào Người đã không thi hành lề luật. Đức Giêsu cũng không nói: Cứ việc ném đá chị ta. Bởi nói thế, Người đã đánh mất con chiên lạc đang đối diện với Người. Đức Giêsu đã nói: "Ai trong các ông không có tội thì cứ lấy đá ném chị này trước đi" (Ga 8, 7). Vậy là, chỉ có người vô tội mới có quyền xét xử người đàn bà ngoại tình. Nói cách khác, ở đây chỉ có Thiên Chúa làm người Đức Giêsu Kitô mới có quyền xét xử.
Đức Giêsu đã xét xử vụ án này ra sao? Người đã không kết án mà chỉ thương xót và khuyên bảo người đàn bà bỏ đường tội lỗi: "Tôi không kết án chị đâu! Chị về đi; từ nay đừng phạm tội nữa!" (Ga 8, 11).
Nếu thế, phải chăng Đức Giêsu dung túng cho kẻ có tội?
Thực ra, Đức Giêsu chỉ kết án tội chứ không kết án người có tội. Người đã cho người đàn bà phạm tội một con đường sống với điều kiện " Chị về đi; từ nay, đừng phạm tội nữa!".
Thiên Chúa đã đoái thương người tội lỗi. Có thể nói được: Thiên Chúa ghét tội chứ không ghét người có tội.
Chúa đã đối xử bao dung. Nếu người thẳng tay như người ta thường đối xử với nhau thì không có các vị thánh: Phê-rô, Mát-thêu, Phao-lô, Au-gút-ti-nô, Ma-ri-a Mác-đa-la... Nếu Người đối xử thẳng tay với con người như họ đáng tội thì mỗi người chúng ta chắc gì còn hiện diện trên đời.
Trước tình thương của Chúa, người tín hữu được mời gọi: tin tưởng vào lòng bao dung tha thứ của Thiên Chúa; sống lòng bao dung ấy bằng cách đấm ngực mình chứ đừng đấm ngực người khác; quyết tâm sửa đổi đời sống: "Đừng phạm tội nữa!".
KẾT
Người đời dễ lâm vào tình trạng xét đoán và muốn xét xử người khác, trong khi bản thân mình tội lỗi chất đầy.
Bao lâu còn trong thân xác con người, chẳng ai dám quả quyết mình trong sạch. Thế nên người tín hữu được mời gọi cố gắng hoàn thiện bản thân và ứng xử bao dung.
Thiên Chúa thấu suốt tâm can từng gang tấc. Chỉ mình Người mới có quyền xét xử. Dầu vậy, Thiên Chúa chỉ kết án tội chứ không kết án người có tội. Người không cho kẻ dữ phải diệt vong nhưng chỉ muốn họ bỏ đường tà để được sống.
28. Khuất tất trong một vụ án "bất thường"--Jos.Vinc. Ngọc Biển
Tin mừng Ga 8: 1-11: Qua bài Tin Mừng hôm nay, sứ điệp Lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy nắm lấy tay nhau để dìu nhau đứng dậy và ra khỏi vũng lầy êm ái của tội lỗi. Chứ không phải tìm cách nhấn chìm anh chị em chúng ta xuống tận bùn đen để làm bàn đạp cho ta tiến lên.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay, trình thuật vụ án hy hữu và bất thường. Đó chính là phiên tòa xử người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Các Kinh Sư và Pharisiêu mang đến cho Đức Giêsu để xin Ngài phân sử. Nếu đọc thoáng qua, chúng ta sẽ thấy họ tôn trọng Đức Giêsu và nhờ Ngài phán quyết một vụ án di động này. Thật bất ngờ, Đức Giêsu bỗng dưng trở thành thẩm phán. Bị cáo là người phụ nữ ngoại tình. Các người tố cáo chính là Kinh Sư và Pharisiêu.
Phiên tòa bắt đầu với lời tố cáo: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Họ hỏi câu hỏi đó không phải để chờ Đức Giêsu phán làm sao, mà đúng hơn, họ đã có sẵn bản án trong tay, bởi vì họ biết rõ luật!!! Nhưng điều đáng nói ở đây chính là cái tâm đen tối của họ, họ muốn gài bẫy Đức Giêsu. Nếu Đức Giêsu lên tiếng phán: “Phải ném đá”, thì ngay lập tức, Đức Giêsu không phải là một vị Thiên Chúa từ bi nhân hậu, bao dung với người nghèo và yêu thương người tội lỗi. Tất cả những gì Đức Giêsu rao giảng đều tự mâu thuẫn nội tại với Ngài. Bởi vì Ngài đã từng nói hãy tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x.Mt 18,21-22). Hơn thế nữa, Đức Giêsu phạm vào cái tội gọi là “tội khi quân” phản loạn và chống lại triều đình.
Còn nếu Đức Giêsu nói “không được ném đá”, thì ngay lập tức Ngài lãnh nhận án tử trong tay. Bởi vì luật Môsê truyền phải ném đá hạng người phụ nữ ngoại tình này. Những ai đi ngược lại với những điều khoản trong luật của Môsê thì kể như là vi phạm và phản bội với truyền thống của tiền nhân. Mặt khác, Đấng đã từng tuyên bố rằng “đến không phải để hủy bỏ lề luật và lời các ngôn sứ, nhưng để kiện toàn” (x.Mt 5,17) không lẽ giờ này lại phá luật?.
Quả thật họ đã quá nham hiểm, họ đã dùng phương pháp: nhất tiễn diệt song điêu. Một mũi tên giết hai con chim. Bầu không khí thật ngột ngạt ngay trong khoảng không trống trải giữa trời. Họ nín lặng chờ vị thẩm phán bất đắc dĩ tuyên án. Trong thinh lặng, thay vì nói lời tuyên án, Đức Giêsu đã âm thầm, tế nhị viết trên đất, hành động này theo một số nhà chú giải cho rằng Đức Giêsu viết tội của những người tố cáo chị phụ nữ trên đó. Sau đó Đức Giêsu lên tiếng: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi". Một câu nói tưởng chừng như êm đềm, trôi vào khoảng không vô tư của những người đang hung hăng tố cáo và thực hiện dã tâm... Không! Đức Giêsu đã lật ngược ván cờ. Bị cáo lại chính là những Kinh Sư và Pharisiêu, thẩm phám không phải là một ai hay một nhóm người hiện hữu nào, mà là một vị thẩm phán vượt lên trên thời gian và không gian, một vị thẩm phán có thể thấu suốt những những điều mà chỉ có họ biết họ. Vị thẩm phán đó là “Lương Tâm”. Chính vị thẩm phán “Lương Tâm” này đã lên tiếng kết tội của họ trong thinh lặng cõi lòng, đã xoáy sâu vào tận nội căn tâm hồn để vạch trần tội ác của họ. Quá bất ngờ, họ bị chưng hửng, không dám đứng đó, nên đã lần lượt ra về, bắt đầu từ những người lớn tuổi.
Khi mọi người đã ra về, chỉ còn lại mình Đức Giêsu và chị phụ nữ. Bấy giờ, Đức Giêsu mới hỏi: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?", và, giờ đã điểm, Đức Giêsu tuyên án: “Còn tôi, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!". Lời tuyên trắng án của Đức Giêsu đã phá tan màn đen của một vụ án khuất tất và những bất thường của nó.
Đây là một trong những câu nói tuyệt đẹp và rất nhân văn. Nhưng xét về chiều sâu đức tin, thì đây còn là một lời nói được phát xuất ra từ cung lòng Thiên Chúa, thể hiện một vị Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu từ bi và hay thương xót. Sẵn sàng tha thứ cho những người tội lỗi. Một vị Thiên Chúa luôn đứng về phía người nghèo, bị bỏ rơi và thấp cổ bé họng để yêu thương, nâng đỡ và phục hồi nhân phẩm cho họ. Quả thật, Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan thật sâu xa để cho mỗi người chúng ta suy niệm: “Lạy Chúa, Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.” (Kn 11,23).
Qua bài Tin Mừng hôm nay, sứ điệp Lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy nắm lấy tay nhau để dìu nhau đứng dậy và ra khỏi vũng lầy êm ái của tội lỗi. Chứ không phải tìm cách nhấn chìm anh chị em chúng ta xuống tận bùn đen để làm bàn đạp cho ta tiến lên.
Nhưng có lẽ điều quan trọng hơn cả, đó là: Lời Chúa hôm nay muốn đi sâu vào tận nội tâm mỗi người, để mời gọi đương sự hãy tự cật vấn lương tâm của chính mình, nhằm thấy được những lỗ hổng tốt lành, thánh thiện để lấp cho đầy những bác ái, yêu thương và bình an, lo sám hối và quay trở về với Chúa và với nhau; đồng thời phải nhận ra những ứ đầy tội lỗi của tham lam, ích kỷ, ghen tỵ nơi chính mình, để có được sự cảm thông thay vì kết án, để yêu thương thay hận thù.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mặc lấy tâm tư, hành động của Chúa. Xin cho chúng con biết gớm ghét tội, nhưng không ghét những người có tội. Ước gì, trong những ngày này, mỗi người chúng con biết sám hối chân thành, biết nhìn vào trong sâu thẳm đời sống nội tâm, hầu thấy được khuôn mặt thật của mình, để trở về với Chúa và với nhau. Xin tha thứ những lỗi lầm mà thời niên thiếu chúng con vươn lên trong dại khờ. Amen.
29. Gặp gỡ Đức Kitô.
Gặp gỡ người khác trong cuộc đời là chuyện thường ngày. Tuy nhiên có những cuộc gặp gỡ đã ghi lại dấu ấn sâu xa. Chẳng hạn gặp người bạn khác phái để rồi yêu thương và cùng nhau xây dựng mái ấm gia đình. Gặp thầy gặp thuốc trong cơn bệnh nặng để tồi được chữa lành. Gặp người bạn biết an ủi khích lệ để rồi tìm thấy niềm vui mừng và hy vọng. Đó là những cuộc gặp gỡ cứu sống, biến đổi toàn bộ con người và cuộc đời chúng ta.
Còn với Đức Kitô thì sao? Cuộc gặp gỡ với Ngài có phải là cuộc gặp gỡ cứu độ như một bài hát quen thuộc: Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh… Qua Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau dừng lại để suy nghĩ về những cuộc gặp gỡ với Chúa.
Trước hết là cuộc gặp gỡ Chúa của bọn biệt phái. Họ đến gặp ngài để hỏi Ngài xem có nên ném đá người đàn bà ngoại tình, mà chiếu theo luật Maisen, sẽ bị ném đá cho chết. Thế nhưng bên trong, họ muốn gài bẫy làm hại Ngài. Bấy giờ Chúa Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Ngài thinh lặng và bình tĩnh làm như không có chuyện gì xảy ra. Ngài không giận dữ, vạch mặt chỉ tên những kẻ giả hình. Ngài kiên nhẫn chờ đợi. Một sự im lặng dành cho những kẻ đang hung hăng đòi lên án, đang mưu đồ ám hại người lành. Một sự im lặng như để mời gọi họ hãy tự xét về chính hành động của mình. Song họ đã không hiểu được ý Ngài. Vì họ cứ hỏi mãi, nên cuối cùng Ngài mới nói: Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất như chẳng có chuyện gì xảy ra cả.
Thế nhưng có chuyện đã xảy ra, bởi vì họ bắt đầu bỏ đi, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi nhất. Chúa Giêsu đã tỏ ra hiền lành và khiêm nhường, kiên nhẫn và khoan dung. Ngài luôn trân trọng đối với những bậc thầy trong dân, những người trí thức, có một tinh thần đạo đức nào đó. Không có chuyện kết án, phạt tội nhãn tiền. Trong thái độ yên lặng và kiên nhẫn, Ngài mời gọi họ hãy trở về với cõi lòng của mình, với chính cuộc sống của mình mà suy xét và hành động cho xứng hợp. Ngài mời gọi họ sống ý thức chân thật, chứ đừng hung hăng mà đánh mất chính mình. Như thế chẳng phải là Ngài đã cứu họ sao? Ngài cứu họ khỏi mưu kế giết chết hai người, là người đàn bà và chính họ nữa.
Tiếp đến là cuộc gặp gỡ của người đàn bà ngoại tình. Chị bị dẫn độ đến gặp Ngài. Chị thật xấu hổ, đứng im như tượng đá, mặt cúi xuống, sẵn sàng đón nhận hình phạt nặng nề nhất do hành vi sai phạm của mình. Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn im lặng làm ra vẻ không có chi quan trọng để phải dùng đao to búa lớn đối với con người hèn yếu này. Ngài cúi xuống và viết trên cát. Ngài hiền lành và khiêm nhường, kiên nhẫn và đợi chờ, cho đến khi chẳng còn một ai, mới ngẩng đầu lên và hỏi: Họ đâu cả rồi, không ai kết án chị sao? Phải chăng Ngài muốn mời gọi chị đích thân kiểm tra sự thay đổi tình hình đang xảy ra, một sự thay đổi do chính thái độ của Ngài gây nên. Và sau đó, Ngài mới kết luận, mới tỏ thái độ của mình: Tôi không lên án chị đâu. Chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa. Qua đó Chúa muốn nói: chị đã phạm tội và đáng bị lên án. Nhưng chị đã gặp được Ngài, là tình yêu tha thứ. Ngài tin tưởng ở chị một sự thoát xác, một sự đổi đời. Chị đã được thoát chết, thì kể từ giờ, chị hãy tỉnh ngộ và hướng dẫn đời mình theo một chiều hướng tích cực hơn.
Chúng ta không biết điều gì đã xảy ra cho bọn biệt phái và người đàn bà sau cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Nhưng qua bài đọc thứ hai, chúng ta biết được sự chuyển biến nơi thánh Phaolô sau khi gặp được Đức Kitô trên đường đi Đamas. Trước kia, Phaolô đã coi Đức Kitô như kẻ thù không đội trời chung và Phaolô đang lùng bắt những người tin theo Ngài. Cuộc gặp gỡ với biến cố ngã ngựa đã khiến cho Phaolô trở về với chính mình. Và sau một thời gian ẩn mình trong hoang địa, Phaolô đã bị Đức Kitô chinh phục và đã hoàn toàn đổi thay hướng đi cho cuộc đời mình.
Xuyên qua những cuộc gặp gỡ trên, Chúa Giêsu đều mời gọi chúng ta bước đi trên con đường cứu độ, trở lại với chính mình để rồi từ đó xác định hướng đi mới cho cuộc đời, như bài hát chúng ta thường nghe: Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh…
30. Đừng kết tội
Chuyện kể rằng, ngày kia người ta bắt được một tên trộm cắp giải tới nhà vua. Nhà vua hạ lệnh xử tử hắn. Tên trộm nói với đao phủ: "Tôi có một bí mật này rấy hay, nếu tôi chết thì bí mật này sẽ theo tôi xuống mồ. Như thế thì thật tiếc. Cho nên tôi muốn giao nó lại cho nhà vua".
Người ta liền đưa hắn tới gặp nhà vua. Hắn nói "Bí mật của tôi là tôi có một hạt giống kỳ diệu, khi được gieo xuống đất thì nội trong một đêm sẽ mọc thành cây và trổ sinh hoa trái bằng vàng". Hắn nói tiếp: "Nhưng có điều này, người gieo hạt giống này phải là người chưa từng lấy cắp của ai thứ gì, nếu không hạt giống sẽ không nẩy mầm". Sau đó hắn thú nhận: "Tôi không thể trồng được, vì trong đời, tôi là tên trộm cướp".
Nhà vua đề nghị các quan trong triều đình lo việc gieo hạt giống này. Lần lượt tất cả họ đều từ chối. Cuối cùng các quan đề nghị nhà vua gieo hạt. Nhưng không thành, tất cả mọi người đều hơn một lần đã từng lấy cắp của ai thứ gì đó. Khi hiểu rõ câu chuyện, nhà vua đã tha cho tên trộm cắp khỏi bị giết.
Qua câu chuyện này chúng ta thấy được điều gì? Thưa đó là tất cả mọi người ai cũng có tội, ai cũng có tật xấu, kẻ ít người nhiều.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ 3 nhân vật: Chúa Giêsu, người phụ nữ phạm tội ngoại tình và nhóm Pharisêu - Luật sĩ: những người Pharisêu - Luật sĩ này có ý định đen tối muốn đưa người phụ nữ này đến chỗ chết theo như luật Môsê. Và đồng thời họ còn "có ý gài bẫy Chúa Giêsu để có thể tố cáo Người". Nếu Chúa Giêsu nói theo luật mà xử tử thì Chúa tự mâu thuẫn với lời giảng dạy của mình. Nếu Chúa nói không được ném đá người đàn bà thì Chúa đã phá luật Môsê, Ngài sẽ bị án tử.
Một lần nữa Ngài cho họ trở về với chính mình, tự xét mình: "Nếu ai trong các ông thấy mình sạch tội thì ném đá chị này trước đi". Và từ người lớn tới trẻ nhỏ, tất cả họ đều rút lui. Trong giây phút này, Chúa Giêsu thể hiện lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa cho con người. Ngài khép lại quá khứ tội lỗi và mở ra một tương lai mới: "Tôi cũng thế, tôi không kết tội chị. Chị hãy đi và đừng phạm tội nữa". Tục ngữ Việt Nam cũng có câu: "Chân mình thì l?m bê bê, lại đi lấy đuốc mà rê chân người". Con người thường không thấy tội lỗi của mình, mà chỉ nhìn thấy tội của người khác rồi kết án. Hôm nay, Chúa Giêsu muốn chúng ta hãy nhìn ra tội của mình. Đừng xét đoán, đừng nghĩ xấu, đừng tố cáo người khác. Tại sao vậy? Vì dẫu chúng ta không phạm tội như người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay, nhưng chúng ta phạm vào những thứ tội khác.
Vậy mỗi người chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu. Đó là biết khoan dung tha thứ cho người khác, không kết án người khác. Và chúng ta cũng có thể học bài học của những người Pharisêu và luật sĩ, đó là biết nhìn nhận mình có tội khi được người khác nhắc nhở, sửa dạy. Đây cũng là điều mà Giáo Hội mời gọi chúng ta trong mùa chay này: Aên năn, sám hối. Sám hối là thú nhận mình có tội và kêu xin Thiên Chúa thứ tha. Trong Kinh Sám Hối đầu lễ chung ta đã đọc: "Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng lời nói việc làm và những điều thiếu xót... Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng..." Vậy thì lỗi tại tôi, chứ không phải lỗi tại ông, lỗi tại bà, lỗi tại anh hay lỗi tại chị...mọi đàng. Nghĩa là chúng ta xét mình chứ đừng xét người khác. Nhận ra tội của mình chứ đừng nhìn tội của người khác.
Nhận ra tội của mình để sám hối. Sám hối bằng việc đi xưng tội, bằng cách không nghĩ xấu cho người khác, không lên án người khác. Sám hối cũng bằng việc tha thứ cho nhau. Chúng ta nhớ lại kinh Lạy Cha. Điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ là chúng ta phải biết tha thứ cho nhau: "Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con". Chúa Giêsu không kết tội người phụ nữ ngoại tình, không phải vì Chúa chấp nhận cho chị tiếp tục phạm tội, mà vì Chúa muốn chị thành người tốt "từ nay đừng phạm tội nữa". Chúng ta hãy trở về với Chúa, Chúa không kết án chúng ta, nhưng Chúa muốn chúng ta mỗi ngày sám hối để được tốt hơn. Amen.
31. Người nữ ngoại tình--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Ga 8: 1-11: Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi những người Biệt Phái đưa người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu và hỏi ý kiến Ngài, Chúa Giêsu chỉ nói: “ai trong các ông không có tội, thì cứ lấy đá ném chị này trước đi”....
Các Kinh Sư Do Thái gài bẫy Chúa Giêsu. Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo muốn dùng trường hợp người phụ nữ ngoại tình để gài bẫy Chúa Giêsu hầu tìm ra cớ tố cáo Ngài. Nếu Ngài tuyên bố không ném đá người phụ nữ thì Ngài đã không tuân hành luật Môsê vì sách Môsê viết: «nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang ăn nằm với một người đàn bà có chồng, thì cả hai phải bị xử tử» (Đnl 22,22; x. Lv 20,10). Nếu Ngài tuyên bố phải ném đá, thì họ sẽ tố cáo với chính quyền Rôma, và Ngài sẽ bị chính quyền Rôma xét xử, vì theo luật Rôma, người dân thuộc địa không có quyền lên án giết ai cả (Ga 18,31). Nhưng cách giải quyết của Chúa Giêsu chẳng những giúp Ngài thoát cái bẫy một cách tài tình, mà còn làm bẽ mặt các nhà lãnh đạo tôn giáo, đồng thời còn cho họ và cho chúng ta một bài học để đời.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi những người Biệt Phái đưa người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu và hỏi ý kiến Ngài, Chúa Giêsu chỉ nói: “ai trong các ông không có tội, thì cứ lấy đá ném chị này trước đi”.
Sau khi trả lời, Người im lặng, cúi xuống và viết trên đất.
Chúa Giêsu đã viết gì trên đất… Chúa Giêsu chẳng viết gì cả. Xem ra, đây có thể chỉ là cách nói lên rằng Chúa Giêsu chẳng thèm để ý tới sự thách thức của họ. Ngài chuẩn bị cho họ một huấn thị quan trọng. Quả thực bản văn không nói rõ nên người ta chẳng biết Chúa Giêsu đã “viết” gì lên mặt đất, mà có cố đoán cũng chẳng được. Tốt nhất nên tập trung tìm hiểu những dữ kiện mà Lời Chúa đã hé mở, hơn là ngồi đoán mò những điều mà Chúa không mặc khải rõ ràng. Đồng thời cũng có thể hiểu đây là cách Chúa muốn tạo ra một bầu khí thinh lặng. Bởi vì chỉ trong thinh lặng, con người mới có thể trở về với cõi lòng mình. Người ta ồn ào và hung hăng bao nhiêu khi lôi người phụ nữ ngoại tình tới trước mặt Chúa, thì giờ đây trong thinh lặng do Ngài gợi lên người ta lại càng nhận ra chính bản thân tội lỗi của mình bấy nhiêu. Người ta càng mạnh bạo kết án người khác bao nhiêu, thì giờ đây người ta lại càng rụt rè xấu hổ bấy nhiêu.
Có thinh lặng con người mới đi sâu vào cõi lòng mình. Có thinh lặng con người mới nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình.
“Ai trong các ông không có tội, thì cứ lấy đá ném chị này trước đi”.
Câu trả lời của Ngài bắt mỗi người phải đối diện với lòng mình. Ai dám tự hào mình vô tội?
Có bao tội ngoại tình thầm kín không bị bắt quả tang.
Có bao tội ngoại tình trong tư tưởng và ước muốn.
Có bao tội bất trung nặng nề chẳng kém tội ngoại tình.
Các Kinh Sư và Biệt Phái đã thực sự nhìn vào cõi lòng của mình. Họ lần lượt rút lui, gián tiếp nhận mình có tội. Kẻ trước người sau, người lớn tuổi đi trước. Họ ra đi, để lại một mình Chúa Giêsu với người phụ nữ. Chúa Giêsu hỏi người phụ nữ: “này chị, không ai kết án chị sao?” Người phụ nữ đáp: “thưa ngài, không có ai cả.”
Không ai kết án chị, bởi vì mọi người đều có tội như cha McCathy có kể một câu chuyện như sau: ngày xưa, có một người bị bắt vì tội ăn trộm, và nhà vua đã ra lệnh treo cổ. Nhưng trên đường bị giải đến pháp trường, người đó đã nói với viên cai ngục rằng anh ta có một điều bí mật, do người cha truyền lại. Anh tuyên bố rằng khi sử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên trổ sinh hoa trái chỉ trong một đêm.
Viên cai ngục quá bị ấn tượng, đến nỗi ông ta lưỡng lự việc thi hành án, và giải tù nhân trả lại cho nhà vua. Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói: “thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một người mà chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được”.
Thế rồi anh ta quay sang một viên quan của nhà vua và nói “ngài có thể trồng hạt giống này được chứ”, nhưng vị quan này từ chối ngay, nói rằng “khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi”.
Sau đó, người ăn trộm quay sang người canh giữ kho tàng của nhà vua và nói “vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ?” Nhưng người canh giữ kho tàng cũng từ chối và nhiều viên quan khác cũng từ chối như thế.
Cuối cùng quay sang nhà vua, người ăn trộm nói “tâu bệ hạ, có lẽ chỉ có bệ hạ mới có thể trồng được hạt giống này”, nhưng nhà vua đáp lại ngay “ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần trong đời ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta”.
Sau đó, người ăn trộm nói “tất cả các ngài đều là những người có địa vị và có quyền thế, tuy nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi ăn cắp, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ.”
Đây cũng là điều Chúa Giêsu muốn nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay: không ai vô tội cả nên không có quyền kết án người khác. Chỉ có một người có thể kết án đó là Chúa Giêsu, nhưng Ngài lại nói: "Tôi cũng vậy, Tôi không kết án chị đâu! Chị về đi, từ nay đừng phạm tội nữa."
Chúa Giêsu chẳng những đã cứu một mạng người, Ngài còn làm sống lại một đời người.
Dù con người vốn yếu đuối, dễ sa ngã, nhưng Ngài vẫn tin tưởng, yêu mến và hy vọng vào họ. Ngài không dung túng cái xấu, nhưng Ngài khơi dậy cái tốt còn đang yên ngủ nơi người phụ nữ và cả nơi các Kinh Sư và Biệt Phái. Amen.
32. Tình thương và tội lỗi--Lm Hồng Phúc
Phụng vụ đặt bài Phúc Âm của Gioan ở đây để khơi động tinh thần sám hối Mùa Chay, trước tình thương bao la của Chúa.
Chúa Giêsu đang giảng dạy ở tiền đường Đền thờ, có dân chúng bao quanh thì nhóm Pharisêu và luật sĩ kéo sành sạch một phụ nữ đến trước mặt Chúa. Họ đứng thẳng đó và nói: “Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, theo Luật Moisê hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?”
Thật ra luật Moisê có khoản trừng phạt những người dâm phụ hoặc các kẻ đã hứa hôn như vậy, nhưng từ lâu rồi, khoản ấy không được áp dụng khắc khe nữa, nhất là người Lamã cai trị có lệnh cấm ném đá giết người. Tuy nhiên, đây là cái cớ để bắt bẻ Chúa. Câu trả lời khôn ngoan đến đâu cũng có kẽ hở, không lỗi luật Moisê thì cũng phạm đến lịnh của chính quyền.
Chúa Giêsu có vẻ không mấy chú ý đến cáo trạng và thái độ đắc thắng của nhóm Biệt phái. Ngài cúi xuống lấy tay viết trên nền đất. Thời gian trôi qua trong im lặng nặng nề, như mời gọi mọi người nhìn vào chính nội tâm của mình.
Rồi Chúa đứng thẳng lên, nhìn vào đối thủ và từ từ nói: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Và Người lại ngồi xuống và viết trên đất. Bầu khí im lặng lại càng nặng nề hơn.
Đã nhiều lần, vị Rabbi trẻ chứng minh rằng Ngài có quyền đọc tận thâm tâm, biết cả những việc thầm kín nhất. Họ biết như vậy, nên khôn ngoan hơn cả là lẫn đi-dĩ đào vi thượng sách! Giữa người thiếu phụ lỡ lầm và những người được tiếng đạo đức đó, chưa hẳn ai tội lỗi hơn ai.
Vì thế, Phúc Âm nói: “Họ rút lui từng người một, bắt đầu từ những người nhiều tuổi nhất”. Nhiều tuổi thì khôn ngoan hơn, chuồn lẹ hơn là phải.
Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và thiếu phụ. Thánh Augustinô nói: “Chỉ còn lại Tình thương và tội lỗi”.
Người thiếu phụ đứng đó, bẻn lẻn, nhưng trong lòng tràn ngập trông cậy. Chúa Giêsu nhìn bà và phán: “Ta không kết tội con”. Thật là một lời đầy an ủi. Chúng ta hay kết tội kẻ khác và nhiều khi thật nặng nề và vô lý. Nhưng chúng ta là ai mà dám kết tội kẻ khác? Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng vô tội. Ngài không kết tội. Ngài tha thứ và nâng đỡ người sa ngã bằng một câu đầy nhân hậu: “Con hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Trên đoạn Phúc Âm này, trải qua bao thế hệ, có bao nhiêu dòng nước mắt đã chảy xuống chan hòa ướt đẫm. Vì qua người thiếu phụ đó, chúng ta nhìn thấy hình ảnh chúng ta. Chúng ta là kẻ tội lỗi, nhưng rồi, trong tòa cáo giải, lời Chúa còn vang vọng lên: “Cha tha tội cho con. Con hãy đi và đừng phạm tội nữa”.
“Lạy Chúa, nguyện thương tôi theo lòng nhân hậu Chúa, xóa tội tôi theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa tôi tuyệt gốc lỗi lầm và tẩy tôi sạch lâng tội ác” (T.v 50).
33. Tội bắt quả tang – Thiên Phúc--‘Như Thầy Đã Yêu’
"Be who God meant you to be, and you will set the world on fire." - St. Catherine of Sienna.
Vua Quang Vũ nhà Đông Hán có người chị là Hồ Dương, công chúa goá chồng. Nhà vua muốn tìm cho chị người bạn trăm năm, liền đem danh sách các quan của mình ra hỏi ý kiến chị. Công chúa nói: “Tất cả bá quan trong triều đình chỉ có Tổng Hoằng là người có tư cách khác thường, những người khác không sao bì kịp, vua Quang Vũ biết ý chị đã vừa lòng Tổng Hoằng, liền bảo chị hãy ra ngồi phía sau tấm bình phong, rồi cho đòi Tổng Hoằng đến. Nhà vua bảo:
- Ta nghe tục ngữ có câu: “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ” có phải thế không? Tổng Hoằng liền quỳ xuống tâu:
- Bạn bè giao du với nhau còn nghèo hèn không nên quên nhau, người vợ trong cảnh hàn vi không nên cho xuống ở nhà dưới.
Vua Quang Vũ biết Tổng Hoằng là người thuỷ chung, nhân nghĩa, không thể nào lay chuyển được, nên càng đem lòng yêu mến hơn. Rồi nhà vua nói với chị: “Việc hôn nhân không thành được, con người này không thể đem danh lợi và phú quí để mê hoặc”.
Câu chuyện trên đây là một tấm gương cao đẹp về lòng chung thuỷ, khác hẳn với câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay.
Gia đình là nền tảng của xã hội, một khi vợ chồng đã đánh mất lòng chung thuỷ thì không những gia đình ấy bị đổ vỡ, mà còn băng hoại đến toàn xã hội. Vì thế, các kinh sư và nhóm Pharisêu dẫn người phụ nữ ngoại tình đến xin Chúa Giêsu xét xử là hợp lý, vì chính luật Môsê cũng truyền phải ném đá hạng người đó. Nhưng đó chỉ là cái bẫy để có bằng chứng tố cáo Người mà thôi.
Nếu Chúa Giêsu bảo đừng ném đá chị ta thì lỗi luật Môsê, nếu Người truyền phải ném đá thì Người đã làm sai lời dạy của mình là “Các con hãy yêu thương nhau”. Một cái bẫy vừa tinh vi vừa nham hiểm.
Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Người đang viết tội của họ ra hay Người đang suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không ai biết nhưng có một điều chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn ngược Người vào chân tường, họ sốt ruột nên gặng hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời đó: “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi”.
Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn tay cách đây ít phút nắm chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị tấn công, giờ đây đang nới lỏng các cơ bắp để các viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng trên đất.
Vâng, không ai dám tự hào mình vô tội. Có biết bao tội bất trung bất nghĩa còn xấu xa chẳng kém tội ngoại tình. Có những tội ngoại tình trong ước muốn, trong tư tưởng. Có những tội ngoại tình lén lút chẳng ai hay.
Dường như ngày nay người ta chỉ nhận mình phạm tội khi bị bắt quả tang, còn những tội phạm trong thầm kín thì kể như không có. Vì thế người ta tìm mọi cách để che đậy, giấu giếm những hành vi tội lỗi để không ai bị bắt quả tang. Và họ cứ an tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ hoàn toàn đánh mất cảm thức về tội lỗi.
Có một điều trớ trêu là khi người ta thấy một ai đó bị bắt quả tang phạm tội, họ không ngại ngùng vung hòn đá ra ném vào người đó. Có lẽ để gián tiếp minh chứng mình vô tội chăng? Người ta dễ dàng bỏ qua cho mình, nhưng lại không buông tha cho kẻ khác. Tuy nhiên, Đấng duy nhất vô tội lại chẳng lên án tội nhân: “Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!”. Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân.
Lạy Chúa, chúng con rất sợ bị bắt quả tang đang phạm tội. Nhưng có tội nào chúng con phạm mà Chúa chẳng am tường. Xin cho chúng con biết cởi bỏ những mặt nạ giả dối, để luôn sống chân thật và trong sáng trước mặt Chúa và anh em.
Nếu Chúa đã không lên án chúng con, thì xin Chúa giúp chúng con đừng bao giờ kết án anh em của mình. Amen.
34. Tình thương cứu độ--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Văn hào Ngài Léon Tolstoi có kể câu chuyện: Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc, không còn chịu nổi những lời van xin của người hành khất, thay vì lời bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: “Ta mang hòn đá nầy cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném đá trả lại ngươi”.
Đi đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù.
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật: Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều tuỵ đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: Tại sao ta phải mang nặng hòn đá nầy từ bao nhiêu năm qua? Con người nầy, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ đáng thương như ta!”
Chúa Giêsu hôm nay cũng không ném đá người thiếu phụ ngoại tình. Và những người tố cáo chị ta cũng không ai dám ném hòn đá đầu tiên. Câu chuyện kể về người thiếu phụ ngoại tình như sau:
“Khi ấy, Đức Giêsu đang ngồi tại hành lang Đền Thờ Giêrusalem thì bỗng có một nhóm đàn ông điệu đến trước mặt Ngài một thiếu phụ run lẩy bẩy, mặt mày tái mét. Họ trình với Ngài rằng: họ đã bắt được quả tang người thiếu phụ nầy đang phạm tội ngoại tình. Theo lề luật, Môisê truyền phải ném đá mụ nầy. Về phần Ngài, Ngài nghĩ sao?”.
Dĩ nhiên là họ muốn gài bẫy Chúa Giêsu: Nếu Ngài nói ngược lại với luật Môisê thì những người Do Thái sẽ chống lại Ngài, còn nếu Ngài khuyến khích họ ném đá người thiếu phụ, điều mà luật lệ Rôma không cho phép, thì chắc chắn Ngài sẽ gặp khó khăn với chính quyền Rôma lúc đó đang chiếm đóng. Thực sự, Đức Giêsu đã không trả lời ngay câu hỏi của họ. Tin Mừng thuật lại là: Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Chẳng ai biết Ngài viết gì. Có lẽ Ngài muốn nhắc cho chính nhóm đàn ông kia là muốn phạm tội ngoại tình thì phải có hai người, và Lề Luật đã quy định là cả hai đều bị phạt chịu ném đá cho đến chết. Thế mà họ chỉ điệu đến trước mặt Ngài có một mình người thiếu phụ nầy. (Còn người đàn ông kia đâu?). Vậy thì chính họ, nhóm đàn ông ấy, đã phạm tội bất công, kỳ thị nam nữ, phân biệt đối xử và phạm tội giả hình… (chứ thì phái mày râu các ông không phạm tội ngoại tình sao?)
Sau khi viết xuống đất một hồi, Đức Giêsu ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong các ông không có tội thì hãy ném viên đá đầu tiên đi!”.
Rồi Ngài lại cúi xuống viết tiếp… Ngài còn đang viết thì có một sự kiện thật ngoạn mục xảy ra: nhóm đàn ông nầy bắt đầu lặng lẽ rút lui có trật tự, những người già hơn rút lui trước. Có lẽ vì họ đã phạm tội nhiều hơn những người trẻ. Cuối cùng, chỉ còn lại có hai người: Đức Giêsu và người thiếu phụ. Lúc nầy, Đức Giêsu mới ngẩng đầu lên và cùng đối thoại với người thiếu phụ. Ngài hỏi chị ta:
- Những người kia đã đi đâu cả rồi? Không có ai lên án chị sao?
- Thưa Ngài, không có ai, thiếu phụ đáp lại.
- Vậy thì Ta cũng không lên án chị đâu, chị hãy về và đừng phạm tội nữa nhé!”
Chúng ta có thể tưởng tượng: lúc đó, người thiếu phụ vui mừng như thế nào? Và chắc chắn chị không quên cảm tạ Chúa và quyết tâm làm lại cuộc đời.
Thưa anh chị em,
Chúng ta đang sống trong một thế giới của những kẻ ném đá. Người ta chỉ thích phê bình, chỉ trích, lên án, hạ nhục hoặc chống đối người khác. Chúng ta quên đi một câu nói rất có ý nghĩa của người Anh: “Những ai đang sống trong nhà bằng kính thì đừng nên ném đá” (ném đá vỡ kính hết).
Tất cả chúng ta đều đang sống trong những căn nhà bằng kính, bởi vì tất cả chúng ta đều rất mỏng dòn, dễ vỡ, đã không đáp ứng đúng mức đòi hỏi của Thiên Chúa và tất cả chúng ta đều rất cần đến sự tha thứ của Ngài.
Cũng như nhóm đàn ông kia ở Giêrusalem, chúng ta thường tự đặt mình vào hạng những người công chính. Chúng ta sáng mắt nhìn thấy điều sai trái của kẻ khác, nhưng lại quá đui mù chẳng nhìn thấy các lỗi lầm của chính mình.
Tuy nhiên, anh chị em thân mến,
Câu chuyện trên đây không chỉ đề cập đến những kẻ ném đá, những kẻ tự cho mình là kẻ công chính, những kẻ tự đặt mình vào chức vụ bảo vệ nền luân lý công cộng, những kẻ luôn nghĩ rằng tất cả những điều mình làm đều đúng, đều tốt, những kẻ vẫn tự hào rằng mình tốt lành và nhân đức hơn những người khác… Câu chuyện còn đề cập đến chính người thiếu phụ bất hạnh ấy nữa. Đức Giêsu đã không nhắm mắt làm ngơ trước tội ngoại tình. Ngài đã không nói rằng: điều người thiếu phụ đã làm đó chỉ là một chuyện vặt, một chuyện nhỏ mọn, hoặc là một chuyện có tính cách riêng tư không dính líu gì tới ai. Ngài cũng đã không khuyên nhóm người kia hãy bỏ qua chuyện nầy, hoặc hãy chấp nhận mà sống với những yếu đuối của mình, nhưng Ngài đã khẳng định Ngài không lên án thiếu phụ nầy. Nói cách khác, Ngài đã sẵn lòng chấp nhận người thiếu phụ bất hạnh nầy trong chính tình trạng hiện nay của chị – Chị là người có tội đấy-Chị hãy chừa cải, sửa đổi nên người mới.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi chúng ta dù cho tội đó nặng đến độ phải tử hình như tội ngoại tình nơi anh em Do Thái ngày xưa. Lòng Chúa hải hà vết nhơ của tội lỗi. Thái độ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng so với thái độ của các vị luật sĩ và biệt phái cho thấy tấm lòng của Thiên Chúa mênh mông, bao la hơn tâm hồn con người thế nào, như đại dương với các ao tù nước đọng: một bên thì bình tĩnh thản nhiên, nhẹ nhàng đón nhận cục đá lớn ném xuống, còn một bên sôi nổi sùng sục và hỗn loạn trước cũng một biến cố ấy. Thiên Chúa vẫn đối xử với chúng ta như thế, không phải để ta coi thường tội lỗi, mà là để ta, một khi đối diện với lòng nhân lành của Chúa, sẽ hoán cải mà trở nên tốt hơn.
Chúa Giêsu, Đấng vô tội, chính Ngài đã từ chối không ném viên đá đầu tiên hoặc viên đá cuối cùng, nhưng lời chấp nhận của Ngài đã được gắn lại lệnh truyền: “Chị hãy về và đừng phạm tội nữa”. Có nghĩa là: “Con hãy về đi và từ bỏ cuộc sống tội lỗi của con”. Những kẻ tố cáo, những kẻ sẵn sàng ném đá kia thực ra đã có thể kết liễu cuộc sống của người thiếu phụ nầy, nhưng trái lại phần Đức Giêsu, Ngài đã ban tặng cho chị ta một cuộc sống mới, một sự bắt đầu hoàn toàn mới mẻ: “Con hãy về và đừng phạm tội nữa”.
Ngày nay, Ngài cũng cư xử đối với nhân loại tội lỗi và đối với mỗi người chúng ta đúng như Ngài đã đối xử với người thiếu phụ ngoại tình nầy. Trên thánh giá, Ngài ban ơn tha thứ cho tất cả và cùng với muôn triệu người được cứu thoát, Ngài tạo nên một dân mới. Một lần nữa, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn vào cõi lòng mình vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa để tự nhận ra mình là kẻ tội lỗi, hầu lãnh nhận ơn tha thứ và từ nay đừng tái phạm nữa.
35. Chiến thắng sự dữ và tội lỗi--R. Veritas
Người ta kể lại dưới thời các hoàng đế trị vì xưa kia. Cứ sau thánh lễ Phục sinh, bên cạnh cây nến phục sinh cháy sáng, hoàng đế cho thắp thêm một cây đèn lớn khác gọi là "Cây đèn ân xá Phục sinh". Cho tới khi nào ánh đèn còn cháy, tất cả mọi người có tội nặng đáng xử tử mà đến đặt tay trên cây đèn ấy xưng thú tội lỗi mình thì được ân xá, không phải chịu án phát. Từ một phía cửa hông nhà thờ, các tội nhân xếp hàng dài. Nào là những người cướp của giết người, ngoại tình, phá thai, gian dối, lừa đảo, làm tiền bạc giả. Sau khi đặt tay trên Cây đèn ân xá Phục sinh xưng thú lỗi lầm, công khai trước mặt hoàng đế và đông đảo tín hữu tò mò đến xem, họ sang chiếc bàn bên cạnh ghi tên tuổi và nhận chứng thư tha tội, trong đó có những lời khuyên phải cải tà qui chánh.
Người sau cùng tiến đến Cây đèn ân xá Phục sinh là một phụ nữ trong sắc phục sám hối. Trong số các tín hữu tò mò đứng xem có cả ông chồng, tay cầm tờ đơn tố cáo tội bà vợ và xin hoàng đế đừng khoan hồng đối với bà. Trong nhà thờ im lặng như tờ. Người đàn bà đưa tay lên chạm đến Cây đèn ân xá Phục sinh, bà lớn tiếng thú tội: "Tôi đã phạm tội ngoại tình với tất cả những người đàn ông nào tôi ưa thích. Tôi không xứng đáng được khoan hồng". Nói xong, bà thổi Cây đèn ân xá Phục sinh tắt ngấm. Rồi bà nhắm mắt nói về đứa con mà bà đã có với một sinh viên, sau cùng bà kết luận: "Tội tôi thì quá lớn không đáng được tha thứ". Bà mở mắt ra. Thì ô kìa! Cây đèn ân xá Phục sinh đã lại cháy sáng từ bao giờ. Chồng bà đứng gần đó đã dùng tờ đơn tố cáo bà, đốt trở lại Cây đèn ân xá Phục sinh mà chính bà đã thổi tắt. Thấy thế, hoàng đế nghiêm mặt hỏi: "Ngươi là ai mà dám tự tiện thắp Cây đèn ân xá Phục sinh?" Ông ta thưa: "Tâu hoàng đế, hạ thần là chồng của phụ nữ này. Với tờ đơn tố cáo tôi tự tay mình viết, hạ thần đốt bỏ nó trên ánh nến ân xá Phục sinh để lấy lại ánh sáng cho Cây đèn ân xá Phục sinh đã tắt". Nghe vậy hoàng đế nghiêng mình trước người chồng và nói: "Ngươi đã hành động rất đúng, theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô".
Không kết án, không vào hùa kết tội người khác, rút đơn tố cáo, bỏ hòn đá xuống đất. Mỗi người hãy nhìn sâu vào trong tâm lòng mình để nhận ra các tội lỗi, lầm lẫn thiếu sót của mình trong cuộc sống. Thống hối ăn năn và cải thiện, đó là sứ điệp mà Giáo Hội trao gởi chúng ta qua các bài đọc hôm nay.
Người đàn bà bị bắt quả tang đang lúc phạm tội ngoại tình như kể trong Phúc Âm theo thánh Gioan, là một ví dụ chứng minh cho chúng ta thấy cung cách hành xử và lòng nhan từ của Chúa Giêsu đối với những người có tội. Chiếu theo luật Do Thái, như ghi trong sách Lêvi chương 20 câu 10 và sách Đệ Nhị Luật chương 22 câu 22: "Phụ nữ có chồng bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình phải bị ném đá cho chết cùng với người đàn ông đang phạm tội ngoại tình với bà". Đây là cách thức người xưa khử trừ cuộc sống hoang dâm khỏi cộng đoàn. Theo bài Phúc Âm, các biệt phái và những luật sĩ chỉ dẫn đến cho Chúa Giêsu người đàn bà mà thôi. Trong thâm tâm, họ muốn kết tội hai người: người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và Chúa Giêsu, mà họ đang tìm mọi dịp để lên án.
Tuy nhiên, cung cách hành xử của Chúa Giêsu theo cái lôgíc của Thiên Chúa, không theo tâm địa hẹp hòi gian ác và giả hình của con người, lại cho thấy, Thiên Chúa luôn mở ra cho người tội lỗi một lối thoát, lối thoát của cuộc đời hoán cải. Qua cách hành xử của Thiên Chúa đối với người tội lỗi là còn nước còn tát, nghĩa là luôn cống hiến ơn tha thứ và ơn cứu độ cho họ. Không ai biết Chúa Giêsu đã viết trên cát điều gì hay Ngài đang cần phải qui chiếu theo một thứ luật lệ khác: luật lệ của tình yêu thương tha thứ. Chúa Giêsu không chối bỏ những cái nặng nề và những hệ lụy do cuộc ái tình trong cuộc sống con người. Nhưng Ngài muốn ném cho người phạm tội một sợi dây của lòng trông cậy. Bởi vì đối với Thiên Chúa, quá khứ tội lỗi của con người không quan trọng, điều quan trọng là nỗ lực tìm lại sự trong trắng, thơ ngây, vô tội trong tâm hồn từ giây phút này trở lên. Nói cách khác, trước mặt Thiên Chúa điều quan trọng duy nhất là ý chí hoán cải tâm lòng và cách mạng cuộc sống của chúng ta.
Kiểu cách giải quyết vấn đề của Chúa là một tiếng sét cách mạng quật ngã mọi người hiện diện. Theo sách Đệ Nhị Luật 17,7: "Những ai đã bắt được quả tang người phạm tội ngoại tình, nghĩa là đã chứng kiến tận mắt, thì hãy ném viên đá đầu tiên khai mào cuộc xử kẻ có tội". Nhưng đây Chúa Giêsu nói: "Ai không có tội, hãy ném đá trước đi", mà có ai trong gia đình nhân loại là người vô tội đâu? Bởi vì ai trong chúng ta cũng có tội cả. Và phạm tội mỗi ngày, cho nên càng nhiều tuổi thì lại càng phạm tội nhiều. Đủ thứ tội và đủ cỡ, đủ cách: tội lớn, tội nhỏ, tội kín, tội hở. Tâm lòng và thân xác chúng ta rỗ chằng rỗ chịt, và mọi thứ vi trùng tội lớp dưới đội lớp trên, lớp trên đè lớp dưới.
Say giây phút im lặng làm choáng váng mặt mày, mọi người tố cáo người đàn bà ngoại tình bắt đầu bỏ rơi viên đá xuống đất và rút lui có trật tự, già trước trẻ sau. Được phép dạy phải sửa chữa tội lỗi, nhưng mỗi một người phải bắt đầu từ chính mình trước. Nếu Chúa Giêsu đã mở ra cho người đàn bà ngoại tình con đường mới của cuộc sống hoán cải thánh thiện: "Tôi cũng không kết án chị. Hãy ra về và đừng phạm tội nữa". Thì Ngài cũng chỉ cho tất cả mọi người đã hăng hái tố cáo và đòi ném đá xử tử chị ta một con đường mới, con đường của lòng khiêm tốn, từ nay biết nhận mình là người có tội.
Hãy cảnh giác với lương tâm mình để tìm thấy cái mặt lọ lem của mình, để nhìn thấy tâm hồn đen đủi, xấu xa của mình. Hãy cầm lấy cục đá, không phải để ném người khác mà là để vạch lên ngực, lên tim của mình cho chảy máu ăn năn sám hối, rồi bỏ nó xuống đất. Phải làm điều đó một cách công khai trước mặt mọi người. Nói cách khác, lời nói và cách giải quyết vấn đề của Chúa Giêsu đã khiến cho mọi thứ mặt nạ che giấu gương mặt tâm hồn bệnh hoạn, phong cùi của mỗi người hiện diện rơi xuống đất cùng với viên đá trong tay họ. Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta biết rằng, chỉ khi nào chúng ta ý thức được tội lỗi yếu hèn của chính mình, chúng ta mới có thể bắt đầu sống trong sạch, vì không còn phải đeo mặt nạ, để đóng kịch, để bênh vực vai trò của chúng ta để khỏi mất mặt nữa. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta hãy biết có một cái nhìn mới để hiểu rằng, một tâm hồn dầu có tội lỗi và xấu xa đến đâu đi nữa, cũng vẫn còn một góc nhỏ xíu tinh tuyền, sẵn sàng rộng mở cho những người biết thương mến họ, và con đường duy nhất giúp tiến vào đó là con đường của lòng kính trọng, cảm thông, chấp nhận và yêu thương.
Đó là phương thế duy nhất giúp con người biến đổi từ bên trong, để bắt đầu một cuộc xuất hành mới ra khỏi tình trạng sống tội lỗi và tiến bước trên con đường công chính, thánh thiện. Cuộc xuất hành mới ấy cũng được tiên tri Isaia nói đến trong chương 43, tình yêu thương mà Thiên Chúa dành để cho dân Israel là tình yêu thương giải phóng khỏi kiếp nô lệ, tôi đòi, đày ải, buồn thương.
Trong lịch sử cứu độ, nước và sa mạc có ý nghĩa đặc biệt. Nước biểu hiệu cho chướng ngại cản bước xuất hành của dân Do Thái, biểu tượng cho mọi sức mạnh chống đối với Thiên Chúa và với con người. Còn sa mạc khô cằn không cây cối, không nước uống, biểu tượng cho sự chết. Nhưng cũng như xưa kia trong lần xuất hành thứ nhất khỏi Ai Cập, Thiên Chúa dùng bàn tay uy quyền của Ngài dẹp nước Biển Đỏ thế nào, thì giờ đây trong lần xuất hành thứ hai khỏi Babylon, Ngài cùng giơ tay dũng mạnh loại bỏ sa mạc như vậy. Nói cách khác, tiên tri Isaia muốn khẳng định với dân Israel rằng, các biến cố lịch sử cho thấy Thiên Chúa chiến thắng mọi chướng ngại, mọi biển sâu, mọi sa mạc mà loài người đã tạo ra với cuộc sống tội lỗi của mình. Nhưng trong lịch sử cứu rỗi, tình yêu thương nhân thứ và chương trình mà Thiên Chúa đã có đối với con người khi tạo dựng lên loài người sẽ chiến thắng sự dữ và tội lỗi.
Chương trình cứu độ đó Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời của từng người trong chúng ta, như thánh Phaolô cho thấy trong thư gởi tín hữu Philipphê, nhắc lại ơn đời đời mà Chúa Giêsu Kitô Phụcsinh đã trao ban cho thánh nhân trong cuộc gặp gỡ trên đường đến thành Đamas xưa kia. Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng: Lòng tin mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta phải giúp chúng ta sống theo một tâm thức mới, với một cái nhìn mới. Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài phải trở thành trung tâm điểm và là điểm qui chiếu duy nhất, hướng dẫn kiểu cách sống và hành xử của chúng ta. Tâm thức mới ấy phát xuất từ cuộc cách mạng mà lòng tin vào Chúa Giêsu khơi dậy trong tâm lòng chúng ta, nó giúp chúng ta đảo lộn bậc thang giá trị cuộc sống và biết đánh giá mọi sự dưới ánh sáng Tin Mừng mà thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta noi gương Ngài. Cố gắng chạy, nghĩa là sống tâm thức mới ấy trong tươi vui, không nghi ngờ tình yêu của Chúa Giêsu và lời Ngài, không hối hận vì đã từ bỏ cuộc sống và kiểu cách suy tư cũ, không chấp nhận dàn xếp lắt léo với sự dữ và đi ngược lại giáo huấn Tin Mừng của Chúa.
36. Phiên tòa của Lòng Thương xót--Lm. GB. Trần Văn Hào
Ông Nietzche, một triết gia vô thần đã từng ngạo mạn tuyên bố: “Thiên Chúa đã chết rồi”. Trong xã hội hiện nay, nhiều người ngay cả những kẻ mang danh Kitô hữu cũng đang dần khai tử Thiên Chúa bằng chính cuộc sống vô thần trong thực hành của họ. Chính lối sống mang sắc thái duy vật như thế sẽ làm mất đi cảm thức về tội lỗi. Nhiều bạn trẻ buông mình vào một lối sống hưởng thụ, sơ cứng lương tâm và đang dần đào thải Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống mình. Ông Nietzche còn khuyên lớp thanh niên: “ Các bạn đừng tin có tội lỗi, các bạn hãy mạnh dạn tống khứ ý niệm tội lỗi ra khỏi đầu óc của các bạn”.
Nhưng chúng ta hãy lắng nghe sứ điệp trọng tâm mà các bài đọc trong phụng vụ hôm nay gợi nhắc để nhớ rằng tất cả chúng ta đều là tội nhân. Hãy can đảm nhìn thẳng vào nội tâm của lòng mình để khám phá ra biết bao những bẩn thỉu và xấu xa mà chúng ta không thể nào che giấu khi đến trình diện trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta đừng vội vã kết án người này người nọ, giống như đám đông vây quanh người phụ nữ. Chúa nói với họ, đồng thời Chúa cũng đang nói với chúng ta hôm nay: “Ai trong các ông vô tội, cứ việc ném đá chị ấy đi”.
Phiên tòa thứ nhất: Xét xử người đàn bà tội lỗi.
Người phụ nữ này bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Không biết chị ta phạm tội cách cố ý hay chỉ vì hoàn cảnh bắt buộc phải bán trôn nuôi miệng. Thánh Luca không quan tâm đến điều đó. Thánh ký chỉ mô tả lại phiên tòa như một truyền thống theo tập tục Do thái. Một đám đông bao quanh người phụ nữ, trên tay mỗi người lăm lăm vài cục đá để chờ ném vào tên tội phạm cho hả dạ. Tình cờ, Chúa Giêsu cũng được mời đến tham dự. Có lẽ các đầu mục Do Thái đã mời Chúa đến để thử xem Ngài xử trí ra sao. Họ đặt ra một tình huống rất khó xử. Nếu Chúa Giêsu hành xử theo luật, thì có khác gì họ. Còn nếu không, thì Chúa lại không tôn trọng luật lệ của tiền nhân, thứ luật mà người Pharisiêu rất trọng thị và tuân giữ tỉ mẩn. Nhưng, Chúa Giêsu hoàn toàn thinh lặng. Ngài không nói một lời và lặng lẽ cúi xuống viết trên đất. Dường như động thái của Chúa nhằm nhắc nhở mọi người, hãy nhớ thân phận bụi đất và đầy tội lỗi nơi mình, đừng kết án kẻ khác. Cuối cùng, khi mọi người từ già đến trẻ tuần tự ‘biến’ một cách có trật tự, Chúa mới nhẹ nhàng nói với chị ta: “ Tôi không kết án chị đâu, hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Phiên tòa thứ 2: Tòa án của Philatô
Phiên tòa mà Thánh Luca thuật lại hôm nay khởi dẫn chúng ta đến với phiên tòa thứ 2: tòa án của Philatô. Trong phiên tòa thứ nhất, Chúa được mời thủ vai chánh án, còn nơi phiên tòa thứ 2, Chúa đứng trước vành móng ngựa như một tên tội đồ. Ở phiên tòa đầu tiên, phạm nhân bị bắt quả tang đang phạm tội với nhân chứng vật chứng rõ ràng. Còn nơi phiên tòa sau, Chúa bị điệu đến như một can phạm, cho dù Ngài hoàn toàn vô tội. Trong cả 2 phiên tòa Chúa đều im lặng tuyệt đối. Sự thinh lặng mà Chúa biểu tỏ là một loại hình ngôn ngữ phong phú nhất diễn bày lòng thương xót vô hạn đối với các tội nhân. Đồng thời, đó cũng là sự im lặng trong vâng phục sâu thẳm để Thánh ý Chúa Cha được nên trọn. “Ngài hiền lành như một con chiên bị đem đi xén lông mà không kêu ca mở miệng” (Is 53,7). Con chiên vô tội ấy gánh lấy tội lỗi của cả trần gian và đã bị phân thây, hầu khai mở kỷ nguyên ơn cứu độ. Cả 2 phiên tòa này hoàn toàn tương phản nhau, nhưng có một mẫu số chung. Đó là những phiên tòa bày tỏ lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa đối với con người tội lỗi, là chính chúng ta.
Phiên tòa thứ 3: Tòa cáo giải.
Đây là phiên tòa do chính Đức Giêsu thiết định. Ngài đã tham dự phiên tòa thứ nhất để nói với đám đông: “Ai trong các ông vô tội cứ việc ném đá đi”. Ngài đã bị xét xử cách oan ức trong phiên tòa thứ 2 để đồng phận với con người tội lỗi và mở toang một chân trời mới, đem lại ơn công chính hóa và sự giải án tuyên công cho những tội nhân. Ơn cứu độ ấy được diễn bày cách cụ thể nơi phiên tòa thứ 3 là chính tòa giải tội. Đây là phương thức tuyệt hảo để tái diễn lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong phiên tòa này, chúng ta được mời đến như những phạm nhân, còn chính Chúa Giêsu sẽ đóng vai thẩm phán để xét xử. Phán quyết cuối cùng trong phiên tòa này luôn là sự tha bổng, tha một cách tuyệt đối và vô điều kiện. Việc đền tội được đưa ra không phải là một hình thức đái tội lập công do công sức của con người, nhưng chính là tâm tình hoan vui và cảm tạ vì chúng ta đã được tha thứ. Không phải chúng ta đọc một vài kinh chiếu lệ để ‘đền tội’ theo ý niệm thông thường, nhưng đúng hơn chúng ta dâng lên Thiên Chúa những tâm tình tạ ơn vì tội lỗi chúng ta được xóa sạch do lòng yêu thương và tha thứ vô điều kiện của Ngài.
Nhiều người trong chúng ta từng tham dự các phiên tòa ngoài xã hội. Có những tội rất nặng, nhưng con người dễ luồn lách dựa vào kẽ hở của luật pháp. Hoặc có không ít các vị quan tòa bẩn thỉu đã nhận ăn hối lộ trắng trợn để giảm án hoặc tha bổng cho phạm nhân. Nhưng, cả 3 phiên tòa chúng ta vừa nêu trên không hề có những trò mánh khóe hay bịp bợm giống như vậy. Nơi các phiên tòa ấy đều có sự hiện diện của Đức Giêsu. Dung mạo của Ngài lúc nào cũng phản chiếu lòng thương xót của Chúa Cha. Điều quan trọng nhất, là chúng ta phải nhìn ra thân phận tội lỗi xấu xa nơi mình và tín thác tuyệt đối vào tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta đừng vội kết án người khác giống như đám người Do Thái đang toan tính ném đá chị phụ nữ cho đến chết. Chúng ta cũng đừng hèn hạ và nhu nhược như Philatô, đã kết án một con người hoàn toàn vô tội chỉ vì sợ đám đông. Chúng ta vẫn thường đeo nơi mình 2 cái bị, một cái phía trước đựng những lỗi lầm của người khác và cái bị phía sau chất đầy tội lỗi to đùng của chính mình. Chúng ta cứ thích bới tìm nơi cái bị trước mặt để bới móc tha nhân và ít khi chịu ngoái cổ lại phía sau để lục soát những tội lỗi tầy đình của chính chúng ta. Chúng ta nhớ lại lời nhắc nhở của Thánh Giacôbê tông đồ: “Chỉ có một Đấng ra lề luật vàxét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn bạn là ai mà dám xét đoán tha nhân (Gia 4,12).
Kết luận.
Mỗi lần tham dự thánh lễ, việc đầu tiên mà Giáo hội mời gọi mọi người là hãy biểu tỏ tâm thức sám hối. Chúng ta vẫn đấm ngực thình thịch và đọc thật to: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Nhưng, nhiều khi vừa bước chân ra khỏi nhà thờ chúng ta lại vội ‘đấm nhầm’ qua ngực người khác, bằng việc chỉ trích, nói hành nói xấu và kết án anh em. Trong mùa chay, chúng ta hãymạnh dạn lục soát lương tâm, bới tìm những rác rưởi và bẩn thỉu nơi nội tâm của cõi lòng. Có khiêm tốn tín thác tuyệt đối vào Chúa, chúng ta mới hưởng được Lòng Thương xót và ơn tha thứ nơi Ngài.
37. Chúa Nhật 5 Mùa Chay
Anh chị em thân mến.
Một lần đang đi trên đường, bỗng nhiên bầu trời không còn chút ánh nắng, mây đen kéo đến và cơn mưa đổ xuống. Tôi chạy vội vào một ngôi nhà bên đường để trú. Mừng rở vì tìm được nơi trú thân cho đở lạnh. Chủ nhà cũng lịch sự chào khách, nhưng anh ta xin lỗi vì đang bận công việc. Anh ta đang cố gắng làm cho mái nhà của mình bớt nước chảy, vì mái nhà đã quá yếu, những chiếc lá mục nát không còn che kín được mưa nắng cho những người trong nhà. Anh ta tươi cười vui vẽ nói: "Chắc cũng chịu được qua mùa mưa nầy". Cơn mưa nhẹ hạt dần rồi cũng dứt hẵn, tôi cám ơn chủ nhà và tiếp tục trên con đường của mình. Trên đường đi, tôi chợt suy nghĩ: Nếu như chủ nhà nhìn thấy mái lá mục nát, ông không chấp nhận nó mà đem vứt nó đi, thì anh ta sẽ không có gì để che cho cả gia đình trong những lúc mưa nắng thất thường như thế nầy, và tôi cũng không có nơi để trú nhờ. Nhưng anh ta đã cố gắng sữa chữa những chỗ hư, mặc dù không còn tốt lắm, nhưng nó vẫn còn có ích lợi đối với anh, vì anh đã biết cách xử dụng nó.
Chúng ta vừa chứng kiến những người muốn phá đi, không phải chỉ một ngôi nhà vô tri, nhưng một ngôi nhà có cảm giác và có cả một linh hồn bất tử do Thiên Chúa tạo dựng. Chẵng những họ muốn phá bỏ, nhưng còn dùng nó như một phương tiện để hại người khác. Họ mừng rở đem người đàn bà đến trước mặt Chúa Giêsu, họ hớn hở nói rằng: “Theo luật Môisen thì ném đá, còn Thầy, Thầy dạy sao?" Họ vui mừng, nôn nóng. Chúa Giêsu bình thản như không có gì xảy ra. Họ chờ đợi, hối thúc, nên Ngài trả lời." Ai trong các ngươi vô tội, thì lấy đá ném trước đi". Họ đã bỏ đi hết. Chúa Giêsu đã chữa lành một ngôi nhà dột nát mà bao nhiêu người muốn bỏ đi." Tôi không lên án chị đâu, chị hãy về và đừng phạm tội nữa". Ngôi nhà vẫn còn có thể hữu dụng nếu biết cách dùng nó.
Còn những người tố cáo, họ cũng còn một chút lương tâm ngay chính, cũng còn được một chút lòng thành, họ vẫn còn biết lắng nghe và nhìn thấy được chính mình, nên họ mới từ từ rút lui mà không phạm thêm sai lầm nữa.
Chúa Giêsu không bao che cho tội ác, nhưng Ngài muốn dùng Tình Yêu để hoán cải, để sữa chữa những gì còn có thể.
Con người thường muốn phá bỏ đi những gì của người khác, còn của chính mình thì không.
Thiên Chúa luôn kiên nhẫn và chờ đợi con người. Thiên Chúa lặng thinh với những sai phạm của chúng ta, không phải Ngài không nhìn thấy, nhưng chờ đợi để chúng ta quay về. Chúng ta cũng như những người Do Thái khi xưa. Mãi vội nôn nóng kết án người khác, muốn phá bỏ đi những gì chúng ta cho là không đúng, vì nó không hạp với ý muốn của mình. Đó là những lần chúng ta giận dữ vì quyền lợi bị xăm phạm. Những lần chúng ta nói xấu người khác, phê bình chỉ trích, không phải vì người ta xấu, nhưng vì họ dám nói lên sự thật, dám chỉ vào những sai lỗi của chúng ta. Cũng có những lúc chúng ta không từ một thủ đoạn nào, miễn sao chúng ta có thể hại được người mà mình không thích.
Những lúc đó, chúng ta có lắng nghe được tiếng chúa nói: "Nếu ngươi vô tội "; Chúng ta có còn được chút liêm sĩ như những người Do Thái khi xưa, nhìn thấy được tội lỗi của mình để biết rút lui khỏi sự ác, mở cho người khác một con đường sống. Hay chúng ta đã trở nên quá tệ, không còn biết lắng nghe, không còn nhìn thấy đâu là đúng, đâu là sai, thì làm sao có thể quay trở lại được. Như vậy, lương tâm của chúng ta, nó có còn nhạy bén, hay nó đã chay lì khô cứng. Nếu như thế, Thiên chúa có thể nói với chúng ta như nói với người đàn bà tội lỗi khi xưa được không? " Ta không lên án con đâu, con hãy về và đừng phạm tội nữa".
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn cho mỗi người biết lắng nghe Lời Chúa, để có được một tâm hồn quảng đại, biết yêu thương và tha thứ như Chúa đã YÊU THƯƠNG và THA THỨ cho chúng ta.
38. Thiên Chúa bênh vực người yếu đuối và phân trần sự bất công--‘Suy Niệm Lời Chúa’--Radio Veritas Asia
Theo luật người Do Thái như được trình bày trong sách Lêvi 2,10 thì bất cứ ai phạm tội ngoại tình với một người phụ nữ đã có chồng và bất cứ ai phạm tội ngoại tình với vợ của người khác, thì cả người đàn bà ngoại tình và người đàn ông đó đều bị tử hình. Tuy nhiên về sau trong chiều hướng kỳ thị phụ nữ, người ta bóp méo luật pháp và chỉ ném đá trước người đàn bà ngoại tình, còn người nam ngoại tình thì không bị hình phạt nào cả hoặc chỉ bị phạt một số tiền tượng trưng.
Cử chỉ của Chúa Giêsu trong trường hợp Phúc Âm trên đây gọi là cách mạng đối với tâm thức xã hội và luật pháp thời đó. Ngài bênh vực người yếu và phân trần sự bất công của người phụ nữ phải chịu, cũng như thái độ giả hình của những kẻ muốn trừng phạt người phụ nữ tội lỗi. Trong chiều hướng đó, đoạn Phúc Âm này vẫn giữ được tính cách đặc biệt thời sự ngày nay.
Cũng vì thế, trong Tông thư "Mullieris dignitatem" (Về phẩm giá người phụ nữ), công bố nhân dịp năm Thánh Mẫu năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã dành chương V để chú giải về đoạn Phúc Âm này. Sau khi nhắc đến thái độ kỳ thị nữ giới như một hậu quả của tội nguyên tổ, Đức Thánh Cha ghi nhận rằng, theo tường thuật Phúc Âm, Chúa Giêsu đã khơi dậy nơi tâm hồn của những kẻ muốn ném đá người phụ nữ ngoại tình, ý thức về chính tội lỗi của họ. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy Ngài muốn đánh mạnh vào lương tâm và các hành động của con người, đồng thời dường như Ngài muốn nói với những người tố cáo rằng: Phụ nữ này với tất cả tội lỗi của nàng, đã chẳng cho thấy những vi phạm của chính các ông, những bất công nam giới và những lạm dụng của các ông hay sao? Đức Thánh Cha viết: "Đây là một sự thật có giá trị cho tất cả mọi người. Câu chuyện mà Phúc Âm theo thánh Gioan đã kể lại: người đàn bị bỏ một mình, bị phơi bày trước dư luận quần chúng với tội lỗi của nàng. Nhưng sau tội lỗi của riêng nàng, còn có người đàn ông tội lỗi nữa đồng chịu trách nhiệm về tội lỗi đó. Vậy mà tội lỗi của người đàn ông thì không lôi kéo chú ý. Được trôi qua trong im lặng như thế, người đàn ông không có trách nhiệm gì về tội lỗi ngoại tình ấy. Đôi khi người đàn ông còn nhắm mắt trước tội lỗi của chính mình và đã trở thành người tố cáo người khác như Phúc Âm kể lại. Có biết bao lần người nữ đã phải trả giá cho tội lỗi mình như thế và phải đền tội một mình, mặc dầu tội cả hai người phạm chung. Biết bao nhiêu lần người phụ nữ bị bỏ rơi với bào thai trong bụng, vì người cha của thai nhi không muốn chấp nhận trách nhiệm làm cha của mình. Và bên cạnh nhiều bà mẹ độc thân trong xã hội ngày nay, chúng ta còn phải nhớ tới số phận phụ nữ bị trục xuất bào thai của mình rất nhiều, khi vì những áp lực khác nhau kể cả áp lực của người đàn ông tội lỗi tác giả bào thai đó. Dư luận quần chúng ngày nay tìm nhiều cách để xóa bỏ cách thức xấu xa của cuộc phá thai đó, nhưng nhiều khi lương tâm người phụ nữ không thể quên rằng mình đã tước đoạt sự sống của đứa con mình".
Trong phần kế tiếp, Đức Thánh Cha nhấn mạnh sự bình đẳng của nam giới và nữ giới, theo ý định nguyên thủy của Thiên Chúa, khi tạo dựng loài người và Ngài kết luận rằng: "Mọi người nam phải nhìn nhận người nữ như một người chị em của mình và không bao giờ được coi người nữ như đối tượng cho mình thỏa mãn và khai thác hoặc như đối tượng của tội ngoại tình trong tâm hồn của mình hay qua hành động bên ngoài".
39. Dốc quyết từ bỏ tội lỗi, canh tân đời sống—‘Suy Niệm Lời Chúa’--Radio Veritas Asia
Cách đây khá lâu, tình cờ tôi đã đọc được một mẩu tin từ hãng tin quốc tế AFP phổ biến một sự việc xảy ra bên Trung Quốc. Và hãng tin quốc tế này lấy tin từ tờ nhật báo Trung Quốc, nói rằng chính phủ mới ra lệnh tử hình cho một người cha vì đã can tội giết đứa con gái của mình mới ba tuổi. Và lý do, vì ông ta muốn có con trai.
Theo luật của Nhà Nước Trung Quốc được thiết lập từ năm 1978, thì mỗi gia đình chỉ được phép có một đứa con mà thôi. Vì thế người cha này là một công chức của nhà nước làm việc trong ngành lâm sản, đã giết đứa con gái của mình mới lên ba tuổi để hy vọng sau đó có thể có được một đứa con trai. Việc làm sát nhân này đã bị tòa án Nhà Nước kết án tử hình vào tháng 11 năm 1988, và hôm mùng 10 tháng 3 năm 1989 thì bản án được thi hành.
Đọc qua bản tin vừa kể, tôi không khỏi bồi hồi xúc động và thấy đây là một thảm trạng gia đình có thể xảy ra bất cứ nơi nào khác trên thế giới này. Thử hỏi ai là người có trách nhiệm trong thảm trạng này? Dĩ nhiên người cha đã vô tâm giết chết đứa con gái mới lên ba. Nhưng thử hỏi, còn ai khác có trách nhiệm khiến cho người cha đã nhẫn tâm hành động như vậy không? Những kẻ có trách nhiệm ca tụng xã hội cho phép phá thai, phải chăng họ không đáng tội chết hơn người cha đã giết đứa con gái của mình mới lên ba tuổi hay sao? Tại sao họ lên án những kẻ khác mà quên lên án chính mình? Phải chăng đây là một thái độ sống giả hình. Thái độ sống giả hình của thời đại mới chúng ta hôm nay không khác gì với thái độ giả hình của những người biệt phái vào thời Chúa Giêsu.
Phúc Âm hôm nay kể lại cho chúng ta: những người biệt phái có quyền thế trong dân Do Thái, họ là những kẻ nắm giữ luật lệ hay đặt thêm những luật lệ cho dân Do Thái, đã gắt gao lên án một người phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại tình và muốn Chúa Giêsu cũng lên án theo. Điểm trớ trêu là chính những người biệt phái này cũng là những kẻ tội lỗi, nhưng họ không kết án chính mình trước mà đi kết án kẻ khác.
Thái độ của Chúa Giêsu mở ra một viễn tượng mới đó là sự tha thứ. Thiên Chúa tha thứ cho con người tội lỗi nhưng đồng thời cũng muốn cho con người tội lỗi đừng lạm dụng lòng nhân từ của Ngài, nhưng hãy dốc quyết từ bỏ tội lỗi, canh tân đời sống: "Ta không kết án con". Đó là lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình. "Nhưng từ nay đừng phạm tội nữa". Mỗi người Kitô chúng ta, đồ đệ của Chúa Giêsu đều ý thức về thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, dốc quyết canh tân đời sống và noi gương Chúa mà tha thứ cho những lầm lỗi của anh chị em, như chính Chúa đã nêu gương. Chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình đối với anh chị em xung quanh, đừng kết án anh chị em nhưng hãy tha thứ, hãy nâng đỡ anh chị em trở về với Chúa. Hơn nữa mỗi người Kitô chúng ta cần được mời gọi cầu nguyện, cầu nguyện cho người tội lỗi được ơn ăn năn trở lại.
Các vị thánh trong mọi thời đại đã thực hiện điều này. Cầu nguyện cho chính mình và cầu nguyện cho anh chị em xung quanh được ơn ăn năn trở lại, đừng làm phiền lòng Chúa, đừng phạm tội nữa. Cầu nguyện với những hy sinh, cầu nguyện với những đánh tội, hãm mình.
Và trong bài đọc thứ hai hôm nay mà chúng ta vừa nghe qua, trích thơ của thánh Phaolô cũng đề ra cho chúng ta một bí quyết, có thể nói được là bổ túc cho những gì chúng ta mới vừa nói, đó là sống kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, và kể từ nay ngài không nhìn về quá khứ tội lỗi của ngài cũng như của những kẻ khác nhưng hãy nhìn tới tương lai. "Chính tôi chưa tin rằng tôi đã chiếm được Ngài. Nhưng tôi đinh ninh một điều là quên hẳng đằng sau, quên đi quá khứ tội lỗi của mình mà hướng về phía trước hướng về tương lai. Tôi cứ nhắm đích đuổi theo để được đoạt giải ơn kêu gọi của Thiên Chúa đã ban cho từ trời cao trong Đức Giâsu". Đó cũng là mẫu gương cho tất cả mọi người chúng ta, quên đi quá khứ tội lỗi của mình, quên đi quá khứ tội lỗi của anh chị em xung quanh. Để rồi cố gắng tiến lên mãi đạt đến lý tưởng mà Chúa đề ra cho mỗi người chúng ta và sống kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô. "Vì Chúa tôi đành chịu thua thiệt mà coi mọi sự như phân bón để được lợi Đức Kitô và được ở trong Người".
Xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng ta được luôn luôn sống kết hiệp với Chúa, và từ nay không nhìn về quá khứ của mình nữa nhưng nhìn đến tương lai, để có những dốc quyết mới canh tân đời sống của mình, từ bỏ những tội lỗi, để giữ vững niềm tin mà chúng ta đã lãnh nhận.
40. Hãy về và đừng phạm tội nữa--R. Veritas--‘Suy Niệm Lời Chúa’
"Tin Mừng sự sống". Đó là tựa đề một thông điệp của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được ký ban hành ngày 25 tháng 3 năm 1995.
Như chính Đức Thánh Cha đã giải thích, đây là một bài suy niệm của ngài về sự sống. Đứng trước nền văn hóa chết chóc đang lan tràn trên thế giới ngày nay, bên cạnh những tiến bộ vượt bực về khoa học kỹ thuật và ý thức mỗi ngày một gia tăng về nhân quyền, về bình đẳng, về liên đới huynh đệ... Nhân loại ngày nay lại đang đứng trước một đe dọa khủng khiếp nhất, đó là đe dọa của sự tự hủy. Mối đe dọa ấy có lẽ không đến từ chiến tranh, từ khoa học, vũ khí hạt nhân mà chính là từ sự đánh mất ý thức, về sự thánh thiêng của sự sống con người.
Một cách cụ thể chúng ta hãy nghĩ đến nạn phá thai và làm cho chết một cách êm dịu đang lan tràn trong thế giới ngày nay. Hai hành động giết người này đã được luật pháp của không biết bao nhiêu quốc gia nhìn nhận và hợp thức hóa. Cái mâu thuẫn lớn nhất của nhân loại ngày nay chính là, trong khi mạng sống của thú vật càng ngày càng được đề cao thì sự sống của những thai nhi và những người vô phương tự vệ lại càng ngày càng bị khinh rẻ. Điều khủng khiếp nhất chính là những hành động tội ác ấy lại được hợp thức hóa. Hành động xúc phạm đến mạng sống con người được đưa vào pháp luật. Từ nay nhân danh luật pháp do chính mình làm ra, con người tự cho mình có quyền sinh sát trên người khác. Con người dựa vào luật pháp do chính mình làm ra để chối bỏ lẫn nhau, đó là thảm trạng của nhân loại ngày nay.
"Tin Mừng sự sống". Chọn lấy đề tài này cho thông điệp của ngài, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hẳn muốn ban cho con người thời đại Tin Mừng của chính Chúa Giêsu. Tin Mừng mà Chúa Giêsu mang lại cho nhân loại là Tin Mừng của sự sống, Tin Mừng ấy được cụ thể hóa qua sự tiếp cận thiết thân của Thiên Chúa làm người, với các trẻ thơ, với những người tàn tật bệnh hoạn, với những cô gái điếm, với những người thu thuế tội lỗi, với những người bị xã hội đẩy ra bên lề. Tin Mừng mà Giáo Hội muốn cho chúng ta lắng nghe hôm nay là một trong những trang cảm động nhất của Tin Mừng sự sống ấy.
Đối với thái độ đầy sát khí của đám đông nhất là của các luật sĩ và biệt phái, Chúa Giêsu đáp lại bằng thái độ của thinh lặng, cảm thông và tha thứ. Đám đông các luật sĩ và biệt phái nhân danh luật pháp để xử lý người đàn bà bị bắt quả tang phạm tôi ngoại tình, còn Chúa Giêsu lại kêu gọi tình thương. Đám đông các luật sĩ và biệt phái đặt mình vào ghế thẩm phán để xét xử người đàn bà ngoại tình, Chúa Giêsu lại đặt chính họ vào hàng bị cáo. Đám đông các luật sĩ và biệt phái xây dựng quan hệ giữa người với người trên luật pháp, còn Chúa Giêsu thì nói với họ rằng, tương quan với tha nhân sẽ được xây dựng trên sự cảm thông, lòng tha thứ, tình yêu thương. Và để có thể xây dựng được mối quan hệ yêu thương ấy, thì trước tiên con người phải cảm nhận được chính tình yêu của Thiên Chúa.
Những giây phút thinh lặng khi Chúa Giêsu cúi mình viết trên cát là lúc để cho mỗi người trong cái đám đông hung hãn ấy nhìn sâu vào tận đáy thẳm tâm hồn của mình. Ở đó con người sẽ nhận ra thân phận tội lỗi xấu xa của mình và đồng thời cảm nhận được tình yêu tha thứ của Chúa.
Đám đông đã từ từ kéo nhau về sau khi đã nhìn sâu vào trong tâm hồn tội lỗi yếu hèn của mình. Họ ra về chắc chắn với một ý thức mới, không phải ý thức về sức mạnh của luật pháp do con người làm ra, mà về chính thân phận tội lỗi của mình. Ít nhất đó cũng là bước đầu của sự sám hối. Riêng người đàn bà cũng ra về, nhưng ra về với lời vỗ về yêu thương, tha thứ và cổ vũ của Chúa Giêsu: "Con hãy về và đừng phạm tội nữa". Đó cũng là lời vỗ về mà Chúa Giêsu đang nói với mỗi người chúng ta. Đó là Tin Mừng của sự sống.
Người đàn bà đang đứng bên bờ vực thẳm của chết chóc và thất vọng, đã được Chúa Giêsu kéo lên và ban cho một sức sống mới, một niềm hy vọng mới. "Con hãy về và đừng phạm tội nữa". Lời Tin Mừng sự sống này cần phải được chúng ta cảm nhận như một lời sai đi, cảm nhận được tình yêu tha thứ của Chúa. Chúng ta được sai đi để loan báo, làm chứng và chia sẻ tình yêu ấy với mọi người. Chúa đã ban cho chúng ta một cơ may để bắt đầu lại, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ không ngừng và mang lại một cơ may mới cho người khác. Có sống như thế, chúng ta mới thật sự góp phần vào việc kiến tạo nền văn minh của tình thương, một nền văn minh không phải chỉ dựa vào khoa học kỹ thuật hay luật pháp của con người, mà được xây dựng trên tình yêu và lòng tha thứ.
41. Bắt đầu lại cuộc sống mới trong ân sủng--‘Suy Niệm Lời Chúa’--Radio Veritas Asia
Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta hãy dứt khoát giở qua trang lịch sử đời mình, quên đi những ngày đã qua của tội lỗi, của âu sầu, của đau khổ, của bất hạnh. Bắt đầu lại cuộc sống mới trong ân sủng, trong tình yêu của Chúa, thể hiện qua đời sống vui tươi và an bình.
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia loan báo cho dân Chúa thời lưu đày ở Babylon sắp chấm dứt. Ngài nhắc lại cho họ thấy trong quá khứ, Chúa đã thương họ, đã cứu họ ra khỏi Ai Cập bằng cuộc vượt qua Biển Đỏ lạ lùng. Dầu hành động uy hùng đó đã xảy ra, nhưng Chúa phán: "Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng và đừng để ý tới việc thời xa xưa nữa. Đây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện". Những cái mới đó là mở đường trong hoang địa, đồng hoang khô cằn trở thành vùng đất phì nhiêu mầu mỡ, có đường đi lại tấp nập, có sông thấm nhuần tươi mát. Và với tư cách là tiên tri, Isaia cũng loan báo tất cả những sự cứu thoát kia vẫn chưa lạ lùng bằng sự cứu thoát khỏi làm nô lệ tội lỗi, trở thành con cái Chúa.
Vậy hãy quên đi quá khứ vì Chúa đang làm những việc mới lạ phi thường, không biến cố, không sự kiện nào so sánh được. Từ cõi lòng tội lỗi chai đá, khô khan của con người, ơn Chúa như dòng sông tươi mát tình yêu, Chúa mở lối đi vào để xâm nhập, để hoán cải. Còn gì lạ lùng bằng và bỡ ngỡ bằng những việc kỳ diệu đó của Thiên Chúa, đến nỗi con người chỉ còn biết thốt lên với thánh vịnh 125 dùng làm đáp ca: "Chúa đã đối xử đại lượng với tôi, nên tôi mừng rỡ hân hoan".
Nơi bài đọc thứ hai, thánh Phaolô tâm sự cùng các tín hữu thành Philipphê rằng: Từ khi biết được Chúa Giêsu Kitô người coi mọi sự ở đời này không còn giá trị đích thực gì cả, nhưng giá trị đích thực của đời sống chính là làm sao được ở trong Chúa Kitô và sinh lợi ích cho đời sống ân sủng. Thánh Phaolô còn dạy chân lý đó một cách thật rõ ràng và cụ thể. Đó là dầu những ngày còn sống trên trần gian chúng ta đã sống trong Chúa, nhưng không phải là đã đạt đến mục đích đuổi theo để chiếm lấy, và ngài so sánh công việc tiến đến cùng Thiên Chúa đó như một cuộc chạy đua nước rút. Đừng bao giờ nhìn lại phía sau, hãy quên đi từng khoảng đường bước chân mình đang bỏ lại, chỉ biết hướng về phía trước mắt, đăm đăm nhìn về mục đích, vận dụng cả sức lực từng bắp thịt, từng hơi thở để băng mình tiến tới, để đạt được mục đích Chúa hứa ban từ trời cao. Dưới nét họa của Phaolô, chúng ta thấy mỗi tín hữu là một lực sĩ đang tham dự cuộc chạy đua, nhưng khác ở điểm là phần thưởng không phải chỉ dành riêng cho người đến trước mà cho tất cả những người trung thành bền chí chạy theo đến cùng. Đến trước đến sau không thành vấn đề, miễn đừng bỏ, cũng đừng thất vọng ngã lòng là được, là chắc chắn rồi sẽ đến nơi. Tóm lại thánh Phaolô dặn: Có được đức tin là chúng ta dang chạy đúng đường. Muốn đến nơi đừng bận tâm đến dĩ vảng, hãy hướng mắt về tương lai nhắm đến mục đích và kiên tâm tiến bước.
Trong bài Phúc Âm, ý tưởng từ bỏ quên đi dĩ vãng đau buồn, tội lỗi bắt đầu lại cuộc sống mới được chỉ dạy thật một cách rõ ràng với câu Chúa Giêsu nói với người đàn bà phạm tội ngoại tình bị dân chúng định ném đá. "Ta không kết tội chị, vậy hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa". Thật là một sự sống lại trong đời sống thứ hai của người đàn bà tội lỗi đó. Không phải sống lại vì những người muốn ném đá bà còn có lương tri là nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi không dám cầm viên đá để ném vào đầu bà, nhưng sống lại vì sự tha thứ của Đấng Cứu Thế và lời dặn: "Từ nay đừng phạm tội nữa". Chắc chắn người đàn bà đó sẽ không phạm tội nữa, sẽ ăn năn sám hối không phải vì được tha chết, nhưng vì được chính Đấng Cứu Thế tha tội "Ta tha tội cho chị, vậy chị hãy về bình an và từ nay nhớ đừng phạm tội nữa". Dĩ vảng đau buồn tối tăm tội lỗi kia ra sao? Đừng nhìn lại nữa, đừng bận tâm nữa, đừng lo âu nữa. Từ nay hãy sống đời sống mới trong ân sủng, trong tình yêu, trong an bình, trong hạnh phúc, trong niềm vui Nước Trời. Tất cả những ân lành đó chỉ những ai dứt khoát được với dĩ vảng tội lỗi, trở về sống với Chúa mới cảm nghiệm được. Hạnh phúc thiên đàng không phải chỉ được hưởng ở đời sau nhưng ngay cả ở đời này khi con người biết sống và nếm thử. "Lạy Chúa, Chúa là ánh sáng thế gian, xin cho con bước theo Chúa để được hưởng ánh sáng ban sự sống".
Để có việc làm cụ thể trong tuần, tôi sẽ chuẩn bị tâm hồn mừng lễ Phục sinh bằng cách tưởng tượng rằng: đời tôi là một trang giấy, những ngày qua tôi đã tự tay viết đủ thứ vào đó. Hôm nay nhìn lại thấy đủ thứ lem luốc bẩn thỉu, tôi hãy giở qua trang và một trang giấy mới trắng tinh sạch sẽ đang trải ra trước mắt tôi. Tôi hãy ngước nhìn lên Chúa, xin Người cầm tay tôi, soi sáng cho tôi, chỉ dẫn cho tôi để viết lên đó những dòng vàng son tươi đẹp làm vui lòng Chúa, làm hài lòng những người cùng chung sống với tôi.
42. Thẩm phán siêu phàm--Alphonse Marie Trần Bình An
Cuối năm 1894, đại úy quân đội Pháp Alfred Dreyfus, cựu sinh viên Trường Bách Khoa Paris, một người gốc Alsace Do Thái giáo, bị buộc tội đã để lộ cho người Đức một số tài liệu bí mật, bị kết án tù khổ sai chung thân về tội phản quốc và đày đi Đảo Quỷ thuộc Guyane. Vào lúc đó, các quan điểm của giới chính trị Pháp là hoàn toàn ác cảm với Dreyfus. Một ít người không tán đồng bản án, trước hết là người anh trai Mathieu, rồi đến gia đình Dreyfus, đã cố gắng chứng minh sự vô tội của ông, sau được hưởng ứng bởi nhà báo Bernard Lazare. Đồng thời, trung tá Georges Picquart, người chỉ đạo vụ phản gián, khẳng định vào tháng 3 năm 1896 rằng kẻ phản bội thực sự phải là thiếu tá Ferdinand Walsin Esterházy. Tuy nhiên, bộ tham mưu từ chối xem xét lại quyết định của mình và thuyên chuyển Picquart tới Bắc Phi.
Để thu hút sự chú ý về sự yếu ớt trong các bằng chứng chống lại Dreyfus, tháng 7 năm 1897 gia đình ông đã liên hệ với chủ tịch danh dự của Thượng viện Auguste Scheurer-Kestner, người đã thông cáo, sau đó ba tháng, ông đã chịu thuyết phục rằng Dreyfus vô tội, và cũng đã đồng thời thuyết phục Georges Clemenceau, một cựu nghị viên và nhà báo. Cùng tháng đó, Mathieu Dreyfus khiếu nại chống Walsin-Esterházy lên Bộ Chiến tranh. Khi phạm vi những người ủng hộ Dreyfus bắt đầu mở rộng, hai sự kiện xảy ra vào tháng Giêng năm 1898 làm cho vụ việc trở nên có quy mô quốc gia: Esterházy được tha bổng, dưới sự ủng hộ của những người bảo thủ và những người dân tộc chủ nghĩa; và Émile Zola đăng bài “Tôi buộc tội…!”(J'Accuse...!) biện hộ cho phe ủng hộ Dreyfus (dreyfusard) đã lôi kéo được rất nhiều nhà trí thức. Một quá trình chia cắt nước Pháp bắt đầu, điều còn kéo dài cho đến hết thế kỷ. Các cuộc bạo độngbài Do Thái bùng phát ở trên 20 thành phố nước Pháp, và người ta ghi nhận nhiều người đã thiệt mạng ở tỉnh Alger. Nền Cộng hòa bị chấn động, một số người thậm chí tin rằng nó đang lâm nguy và nỗ lực tìm cách chấm dứt vụ Dreyfus để vãn hồi sự ổn định.
Bất chấp mưu mô của quân đội muốn làm sự việc chìm xuống, bản án kết tội Dreyfus đầu tiên bị hủy bỏ bởi Tòa Thượng thẩm sau một cuộc điều tra kỹ lưỡng và một tòa án binh mới được thành lập ở Rennes năm 1899. Trái với mọi mong đợi, Dreyfus bị kết án một lần nữa, mười năm lao động khổ sai, dù sao, với những tình tiết giảm nhẹ. Kiệt sức với đợt đi đày 4 năm trời, Dreyfus đã chấp nhận lệnh đặc xá của Tổng thống Émile Loubet.
Phải đến năm 1906 sự vô tội của ông mới được thừa nhận chính thức thông qua một án quyết không chiếu xét của Tối cao Pháp viện. Được phục hồi danh dự, đại úy Dreyfus trở lại quân ngũ với quân hàm thiếu tá và tham gia vào Thế chiến I. Ông mất năm 1935. Những hậu quả của vụ bê bối này là không kể hết và động chạm tới mọi khía cạnh trong đời sống công chúng Pháp: chính trị (nó cống hiến thắng lợi cho nền cộng hòa và trở thành một thứ huyền thoại lập quốc (mythe fondateur) khi làm sống dậy chủ nghĩa dân tộc, quân sự, tôn giáo (nó đã kéo chậm lại cuộc cải cách Công giáo ở Pháp, cũng như sự dung hợp vào nền cộng hòa của những người Công giáo), xã hội, tư pháp, truyền thông, ngoại giao và văn hóa. Chính trong thời kỳ này mà thuật ngữ giới trí thức (intellectuel) đã ra đời. Vụ việc cũng có tác động tới quốc tế với phong trào phục quốc Do Thái thông qua một trong những người sáng lập, Théodore Herzl, và bởi những cảm xúc do những cuộc biểu tình bài Do Thái gây nên trong cộng đồng người Do Thái ở Tây và Trung Âu. (Wikipedia)
Cuộc xét xử đại uý Alfred Dreyfus bị khuynh đảo bởi chính trị, dân tộc và tôn giáo, nên cán cân công lý sai lệch, thay trắng đổi đen. Đến nay vẫn còn tiếp diễn biết bao vụ án oan sai khắp nơi, vì vị thẩm phản thiếu sáng suốt, hoặc bị động do áp lực của nhà cầm quyền, hay phe phái quyền lực nào đó.
Chúa nhật V Mùa Chay hôm nay, Tin Mừng thánh Gioan giới thiệu Đức Giêsu như một thẩm phán siêu phàm. Cương trực, tự chủ, sáng suốt, Người thoát khỏi áp lực quần chúng, sức ép của lãnh đạo tôn giáo, các kinh sư và biệt phái, để xét xử công minh, chính trực và nhân ái. Mặc dù các kinh sư và biệt phái cố tình gài bẫy Người vào cuộc xét xử tiến thoái lưỡng nan, nhưng Người đã khéo léo, dễ dàng hoá giải theo đạo yêu thương của Thiên Chúa. Hơn nữa, Người vốn từ bi, nhân hậu, tràn đầy Lòng Thương Xót.
Tình thương khoan dung
Trước câu hỏi khá sỗ sàng, không cần giấu diếm dã tâm: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy,Thầy dạy sao?" Lòng Thương Xót của Đức Giêsu được dịp công khai biểu lộ. “Người cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất.” Không muốn tỏ ra bất bình, phẫn nộ khi nhìn thấy những gương mặt đểu cáng, giả hình, xảo trá, đang hoan hỉ, đắc thắng, cũng chẳng muốn biểu lộ nỗi xót xa người thiếu phụ đang lẩy bẩy, run rẩy, khiếp hãi, hổ thẹn, tủi nhục. Người trầm ngâm cúi đầu, thinh lặng, với tấm lòng rộng rãi chan chứa bao dung, âm thầm thông cảm, nâng đỡ và che chở tội nhân. Người cũng khoan dung, nhẫn nhục buông xả thái độ hằn học, khiêu khích, sinh sự của nguyên cáo.
Không cần thẩm tra thiếu phụ, cũng chẳng vội trả lời các kinh sư biệt phái, đang đốc thúc dồn Người vào cái bẫy quá ư lộ liễu. Người bình thản làm nguội đi những cái đầu cao ngạo, nôn nóng, quá khích của “bên thắng cuộc.” Người im lặng để chia sẻ nỗi đau đớn, nhục nhã, lo sợ, hối cải muộn màng của tội nhân. Người nín thinh, vì xót xa thấu hiểu lòng dạ rắn độc của các kinh sư và biệt phái, đang mượn tội nhân làm bình phong hòng đấu tố Người. Lòng bao dung vĩ đại đã hoá giải tất cả mưu mô ám muội của họ.
Tình thương thức tỉnh
Thay vì đối chất làm cho ra lẽ sự đối xử bất công, phiến diện, thành kiến với phụ nữ phạm tội, tại sao không bắt cả bị cáo nam đồng phạm, tại sao không tố giác với Hội đồng kỳ mục, với thượng tế, hay với công quyền, Người vẫn cúi đầu im lặng cho mọi người cùng noi theo, cúi đầu nhìn xuống, nhìn vào tâm can, nhìn vào tận đáy lòng hoen ố, để chân thành tự kiểm và tự vấn.
"Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi." Biết bao lần chính họ cũng đã lén lút gian dâm, hủ hoá, ngoại tình, mà còn may chưa bị lộ, cùng bao nhiêu lần ham muốn dâm tà mà chưa thành. “Ðồ giả hình, hãy liệu lấy cái xà khỏi mắt ngươi trước đã, đoạn ngươi sẽ trông rõ mà kéo cái dằm khỏi mắt anh em ngươi." (Mt 7, 5)
Đức Giêsu còn gay gắt cảnh báo, không được kết án tha nhân vì hậu quả khôn lường: “Đứng xét đoán, đề khỏi bị đoán xét. Các ngươi xét đoán cách nào thì sẽ bị đoán xét cách ấy, và các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong cho các ngươi bằng đấu ấy.” (Mt 7, 1-2)
Tình thương tha thứ
Đức Giêsu lại cúi đầu, hí hoáy vẽ dưới đất. Bỗng dưng sự lạ nhỡn tiền xảy ra. “Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó.” Các nguyên cáo mới hớn hở, hùng hổ, vênh váo, tự đắc, bất ngờ trở thành bị cáo, cúi đầu hổ thẹn, đành buông rơi hòn đá, lẳng lặng ra về. Bấy giờ Đức Giêsu mới hỏi đến tội nhân: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?" Nàng đáp: "Thưa Thầy, không có ai." Đức Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa."
Các kinh sư và biệt phái đều cực lực, đồng loạt đứng dậy kết án thiếu phụ phạm tội, thì Đức Giêsu khoan dung, ngồi xuống, thinh lặng, bỏ ngoài tai. Họ đòi ném đá chị, thì Đức Giêsu thản nhiên vẽ trên đất cát, coi như vết nhơ tội lỗi sẽ bị xoá nhoà vì tình thương thứ tha. Họ vẫn chưa buông tha chị, thì Đức Giêsu chẳng phản bác, cũng chẳng đồng tình, chỉ kêu gọi họ thức tỉnh, tự vấn lương tâm, yêu cầu ai trong sạch hãy ra tay. Vị Thẩm Phán siêu phàm xét xử công khai, nghiêm minh, đạt lý thấu tình, kết thúc phiên toà hoàn toàn bất ngờ và có hậu. Tội nhân không phải chết, nhưng được tái sinh nhờ vào Lòng Thương Xót vô biên của Chúa.
“Con đau đớn vì thấy nhiều phản bội với Chúa: tốt, nhưng chưa đủ. Phải làm như Mađelêna "được tha nhiều vì đã yêu nhiều"; phải làm như thánh Gioan: trốn bỏ Chúa trong vuờn Giêtsimani, nhưng trở lại đứng bên thánh giá, dốc quyết hằng yêu mến bằng hành động.” (Đường Hy Vọng, số 890)
Lạy Chúa Giêsu, sau bao nhiêu năm bon chen, đua đòi với đời, chúng con cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, đánh mất niềm tin, lương tâm trong sáng, tâm hồn trong sạch, trở nên chai lỳ với tội lỗi. Kính xin Chúa khoan dung thương xót, thức tỉnh chúng con ăn năn, sám hối, để được Chúa thương yêu thứ tha, được bình an và hạnh phúc trở về xum vầy trong nhà Cha Nhân Từ.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con khoan dung với mọi người, để được Chúa thương yêu. Xin Mẹ dạy chúng con biết sống khiêm nhường, để nhận thức được bản thân phàm hèn, tội lỗi, yếu đuối mỏng dòn, hầu thông cảm với tha nhân sai phạm, mà nâng đỡ, giúp nhau đổi mới, cùng trông cậy vào Lòng Thương Xót Chúa thứ tha, an ủi và chúc lành. Amen.
43. Tình Yêu tha thứ--Alphonse Marie Trần Bình An
Tại một hòn đảo thuộc nước Ý, dân làng có một quy định rất khắt khe đối với phụ nữ nào ngoại tình. Đó là: Nếu một người phụ nữ đã lập gia đình mà ngoại tình bị bắt quả tang, người ta sẽ buộc vào cổ người phụ nữ đó một tảng đá lớn và xô xuống biển cho chết chìm, dưới sự chứng kiến của người chồng.
Ngày kia có một người đàn bà bị bắt quả tang ngoại tình và sẽ bị xử tử theo quy định. Nhưng đến ngày xử tử, người chồng của bà vẫn đánh cá ngoài khơi, nên dân làng phải gia hạn thêm vài ngày nữa. Người ta đã gia hạn nhiều lần, mà vẫn không thấy người chồng trở về.
Cuối cùng, dân làng không thể chờ thêm được nữa, họ đưa người đàn bà đó đến một vùng biển sâu, cột tảng đá lớn vào cổ rồi đẩy bà xuống nước. Nhưng lạ thay, mấy hôm sau mọi người đều thấy người đàn bà đó xuất hiện ở trong làng.
Thì ra người chồng đã hay biết tất cả những gì đã xảy ra cho vợ mình, thay vì trở về để chứng kiến bản án khắc nghiệt dành cho vợ, ông ta tìm mọi cách để ở lại ngoài khơi, với hy vọng kéo dài cuộc sống cho vợ. Và khi biết được ngày xử án, ông đã đến vùng biển, núp dưới một gềnh đá lớn. Khi người ta đẩy vợ ông xuống biển, ông đã bơi đến đón lấy bà, tháo gỡ tảng đá và đưa về nhà. Người vợ, khi nhận ra tình yêu của chồng đã hết lòng trung thành và phục vụ chồng. Và gia đình họ lại sống thật hạnh phúc bên nhau. Đúng là "Tình yêu không thể nào bị đánh bại". "Có yêu thương là có tha thứ". (Tuyển Tập các Truyện Hay)
Hôm nay, Tin Mừng Thánh Gioan thuật lại vụ xử án bất đắc dĩ của Chúa Giêsu, với nguyên cáo là nhóm kinh sư và Pharisiêu và bị cáo là người đàn bà ngoại tình bị bắt quả tang. Dĩ nhiên, dân chúng háo hức kéo đến thật đông để chứng kiến quan tòa Đức Giêsu xử thế nào. Nhưng quan tòa đã làm cử tọa não nề buồn bã ra về, không còn hăng say cuồng nhiệt như khi khai tòa.
Những phút im lặng
Nhóm nguyên cáo hồ hới, hí hửng, xung khiên nộ khí, hủng hổ tố giác người đàn bà sa ngã. Không vành móng ngựa phân cách, bị cáo ủ rũ đứng trực diện với Chúa Giêsu. Người vẫn đang còn ngồi từ lúc giảng dạy. Lặng lẽ cúi xuống, Người chẳng xoi mói nhìn lên, hay hỏi han, thẩm vấn điều gì, chỉ chăm chú nguệch ngoạc vẽ trên đất. Giây phút thinh lặng tưởng chừng vô tận với cả đôi bên, lẫn công chúng, đang nín thở theo dõi phiên tòa đặc biệt.
Tất cả mọi người đều trông ngóng chờ đợi câu phán quyết. Tha hay buộc tội? Tiến thoái lưỡng nan, hành xử thế nào cũng sập mưu ma chước quỷ. Tha bổng thì lỗi luật Môsê, buộc tội thì vấp luật Roma, cấm dân Israel tự xử án tử hình, và nhất là trái ngược hoàn toàn với lòng thương xót vô biên, mà chính Người đang chuyên tâm giảng dạy.
Bên nguyên cáo còn sốt ruột trích luật Môsê, nhắc nhủ quan tòa thẳng tay áp dụng. Nhưng Chúa Giêsu vẫn thinh lặng, vẫn vẽ vời dưới đất. Người im lặng như sau này im lặng, không trả lời Thượng Hội Đồng, quan Philatô, cũng như không một lời khi chịu khổ nạn.
“Chúa Giêsu là Ngôi Lời, nhưng để thực hiện việc tông đồ theo ý Đức Chúa Cha, trong 33 năm, Ngài thinh lặng 30 năm và nhất là trong giờ tử nạn, Ngài đã thinh lặng.” (Đường Hy Vọng, 523)
Người thinh lặng, xót xa, dằn lòng cơn bất bình trước lòng lang dạ sói của những nhà lãnh đạo tinh thần. Người im lặng, đắm mình vào lời cầu nguyện, xin cùng Đức Chúa Cha xua tan đi những cám dỗ sát nhân trong họ.
Trong thinh lặng, Người mong muốn các kinh sư, các người Pharisiêu dịu cơn thịnh nộ, dịu lòng nham hiểm, thù oán, mà hồi tâm, suy xét thấu đáo. Đề lương tâm mạnh dạn lên tiếng, để tình người thức giấc kết nụ, đơm hoa. Để xóa tan đi cái tâm lý bầy đàn, hùa nhau chạy theo cái ác, mù lòa bất nhân.
Người cũng thinh lặng, mong chờ tội nhân, người đàn bà yếu đuối, xét mình, hoán cải, ăn năn, sám hối. Đó là giây phút định mệnh. Quay về nẻo ngay, đường chính, hay còn mãi tiêc nuối đam mê u tối, sa đọa. Nhục nhã ê chề, người phụ nữ thẫn thờ thất vọng, chờ nhận những viên đá sắc cạnh, kết liễu cuộc đời ngắn ngủi. Nhưng trước thái độ khoan nhân, điềm tĩnh của quan tòa Giêsu, chị cảm nhận được nỗi xót xa của Người, cảm thấy ánh mắt hiền lành từ bi ấm áp của Người.
Nguyên cáo thành bị cáo
Sau nhiều lời yêu cầu phán xử, Người ngẩng lên bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. (Ga 8, 7-8)
Lúc đầu họ hùng hổ bao nhiêu, thì bây giờ họ len lén, rón rén bỏ đi như kẻ trộm. Đang vênh váo làm nguyên cáo, bỗng chốc biến thành bị cáo, chẳng hơn gì người đàn bà ngoại tình kia. Một chi tiết rất lý thú, đó là “bắt đầu từ những người lớn tuổi.” Không gian tĩnh lặng càng giúp họ nhìn lại bản thân nhơ nhớp tội lỗi, Những người càng lớn tuổi càng xấu hổ mắc cở với người trẻ.
Người đàn bà cảm thấy được an ủi phần nào, bớt cô đơn, dù vẫn còn là bị cáo. Tâm hồn chị lóe lên tia hy vọng cứu thoát án phạt thảm khốc. “Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữa thì đứng ở giữa.” (Ga 8, 9)
Vào ngày 28/2/2013 vừa qua, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI về hưu, truyền thông thế giới đều rất quan tâm. Tin lành thì ít, tin dữ thì nhiều, báo chí quốc tế đào xới những khiếm khuyết về cơ cấu hoạt động của Vatican, cũng như phao những đồn đoán bất thân thiện với Giáo Hội. Nhà báo mặc nhiên biến thành nguyên cáo cuồng nhiệt, hùa nhau ném đá vào Vatican, không khác gì kinh sư và Pharisiêu ngày xưa. Phải chăng họ nói theo lương tri, theo sự thật, hay chỉ là lính đánh thuê cho những tập đoàn phản Kitô giấu mặt? Lúc nào đó, cảnh tỉnh họ sẽ nhận ra mình cũng đích thị chỉ là bị cáo.
Tình Yêu chiến thắng
Giờ phút này, sự im lặng không còn căng thẳng, mà rộn rã vui mừng hy vọng. “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao? Người đàn bà đáp: “Thưa ông, không có ai cả.” Đức Giêsu nói: Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8, 10-11)
Đức Giêsu đã khéo léo xua bầy kên kên dữ tợn biến đi, để cứu thoát chị khỏi cái chết ê chề nhục nhã. Chính sức mạnh Tình Yêu đã giái thoát chị. Lòng Thương Xót vô ngần của Người đã kịp thời giải cứu. Thấy chị đã chân thành ăn năn, sám hối, Người Quan Tòa, chí công, chí ái đã từ chối luận tội chị. Còn ưu ái dặn dò: “Thôi chị về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!” (Ga 8, 11)
Anh em hãy giàu lòng thương xót, như Cha anh em là Đấng giàu lòng xót thương. (Lc 11, 36)
Lậy Chúa Giêsu vô cùng nhân ái, Chúa biết con yếu đuối, xin dạy con ăn năn sám hối cho trọn, biết chạy đến Lòng Thương Xót của Chúa, qua tòa hòa giải, để con được tha thứ, và phục hồi tấm áo linh hồn tươm tất sạch sẽ.
Lạy Mẹ Maria, xin chỉ cho con nhận thấy và lãnh nhận được những ân huệ diệu kỳ, mà con không đáng nhận được từ lòng Thương Xót vô biên của Chúa. Amen.
44. Trở về với nội tâm--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Nhà hiền triết Socrates (470–399 TCN) là một triết gia Hy Lạp, có một lời khuyên vàng ngọc, được xem là châm ngôn tối thượng để giáo dục con người, đó là câu: “Hỡi người, hãy tự biết mình.” Đây là di ngôn quan trọng nhất mà Socrates để lại cho đời.
Không dễ biết mình
Tự biết mình là điều hết sức quan trọng, nhưng đây cũng là điều không dễ, bởi vì con người có đôi mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào. Người ta thường nhìn ra ngoại giới nhưng rất ít khi hướng vào nội giới, vào nội tâm mình. Một nốt ruồi nhỏ trên khuôn mặt người khác, ta thấy rõ ràng; còn vết sẹo lớn trên trán mình, ta không nhìn thấy được. Lỗi lầm nho nhỏ của người khác, ta thấy tỏ tường; còn những lầm lỗi tệ hại của mình thì lại không hay biết. Thế rồi, chúng ta dành nhiều thì giờ để phê phán, để lên án người khác mà chẳng mấy khi phê phán bản thân.
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu trong bài Tin mừng hôm nay cũng thế. Họ nhìn thấy rõ ràng tội lỗi của người phụ nữ ngoại tình, nhưng không nhìn thấy tội lỗi của họ. Họ bận tâm đến việc kết án người khác, nhưng không quan tâm đến việc sửa chữa lầm lỗi của bản thân.
Chúa Giê-su giúp ta tự biết mình
Chính vì thế, Chúa Giê-su muốn dạy cho họ một bài học tâm linh cần thiết là hãy trở về với nội tâm để nhận ra tội lỗi của mình trước, hãy trách mình trước rồi trách người khác sau như cổ nhân thường nói: "Tiên trách kỷ hậu trách nhân."
Bấy giờ, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giê-su. Họ hối thúc Chúa Giê-su đưa ra ngay một phán quyết định đoạt số phận của người đàn bà tội lỗi. Về phần mình, Chúa Giê-su muốn dẫn dắt những người tưởng mình vô tội trở về với nội tâm để nhận ra tội lỗi mình mà hoán cải trước đã.
Thế nên, đứng trước những con người đang lăm le kết án người phụ nữ và mưu toan ám hại mình, Chúa Giê-su im lặng. Ngài thinh lặng và tạo nên bầu khí tĩnh lặng để tạo cơ hội cho mọi người tự vấn lương tâm. Ngài muốn kéo dài sự thinh lặng bằng cách ngồi xuống viết trên đất.
Khi người ta cứ hỏi mãi, phá tan sự im lặng cần thiết cho sự rà soát tâm hồn, Chúa Giê-su lên tiếng kêu mời họ hãy xét lại mình: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!"
Rồi Ngài lại ngồi xuống thinh lặng, tiếp tục viết, viết trên đất để tạo bầu khí yên tĩnh cho mọi người hồi tâm.
Sau một hồi nhìn lại nội tâm mình trong yên lặng, những con người hăm hở kết tội người phụ nữ giờ đây dần dần nhận ra tội lỗi của họ, có khi còn nhiều hơn, còn nghiêm trọng hơn cả tội lỗi của người phụ nữ. Thế là những viên đá trên tay họ lộp bộp rơi xuống. Ai nấy xấu hổ lặng lẽ rút lui, để lại một mình Chúa Giê-su và người thiếu phụ. Hoá ra rốt cuộc, ai cũng nhận ra mình là người có tội, mà đã là người có tội thì sao không kết án mình trước? Sao lại đang tâm lên án người khác, có khi còn ít tội hơn mình!
Tự biết mình là điều rất cần thiết
Trở về với nội tâm để thấy được tội lỗi của mình là điều kiện tiên quyết để cải thiện bản thân.
Nếu tôi biết được mình hôi hám, tôi sẽ đi tắm ngay. Còn nếu tôi không nhận ra mùi hôi của cơ thể mình, thì mãi mãi tôi vẫn là người hôi hám.
Nếu tôi biết khuôn mặt mình dơ bẩn, tôi sẽ lau rửa tức khắc; bao lâu chưa thấy những vết dơ trên mặt, thì không hy vọng có khuôn mặt sạch sẽ hơn.
Nếu tôi thấy được sự xấu xa của nội tâm, sự bê bối của đời sống mình, tôi sẽ cải thiện ngay không trì hoãn.
Sự chuyển hóa bản thân, cải thiện cuộc sống chỉ thực sự bắt đầu lúc ta tự nhận biết tội lỗi mình. Nếu không thấy được lầm lỗi và những sai sót của mình, chúng ta sẽ không bao giờ cải thiện đời sống được.
Lạy Chúa Giê-su,
Trở về với nội tâm để rà soát chính mình, để thấy được tội mình là điều rất khó thực hiện và cũng chẳng được mấy người quan tâm. Xin Chúa thương giúp đỡ chúng con thực hiện công việc hệ trọng nầy.
Xin cho Lời Chúa trở nên tấm gương soi tâm hồn, giúp chúng con nhận ra những nết xấu làm vấy bẩn lòng trí, làm suy thoái nhân cách và giúp chúng con cải thiện kịp thời để trở nên người có phẩm chất cao đẹp đáng được Chúa và mọi người yêu mến.
45. Nhìn vào nội tâm để nhận biết tội mình--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm Ignatiô Trần Ngà
Người ta thường nhìn ra ngoại giới nhưng rất ít khi nhìn vào nội giới, nhìn vào nội tâm mình. Con người có mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào. Khuôn mặt duy nhất trên đời chúng ta không bao giờ có thể nhìn thấy trực diện, đó là khuôn mặt của chính chúng ta. Thế nên một nốt ruồi nhỏ trên mặt người khác, ta thấy rõ ràng; còn vết sẹo lớn trên trán mình, ta không thấy được. Lỗi lầm nho nhỏ của người khác thì mình thấy rõ ràng, còn lỗi lầm to lớn nặng nề của mình thì lại không hay. Thế rồi, chúng ta dành nhiều thì giờ để phê phán người khác mà chẳng bao giờ biết phê phán bản thân.
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng thế. Họ nhìn thấy rõ ràng tội lỗi của người phụ nữ phạm tội ngoại tình, nhưng không nhìn thấy tội lỗi của mình. Họ bận tâm đến việc kết án người khác, nhưng không quan tâm đến việc sửa chữa lầm lỗi của mình. Chính vì thế, Chúa Giêsu muốn nhân cơ hội để dạy cho họ một bài học tâm linh cần thiết là hãy nhận ra tội lỗi của mình trước, hãy trách phạt mình trước rồi lo trách phạt người khác sau. Cổ nhân cũng thường dạy ta như vậy: "Tiên trách kỷ hậu trách nhân."
Khi các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giêsu, họ hối thúc Chúa Giêsu ra ngay một phán quyết định đoạt số phận của người đàn bà tội lỗi. Thế nhưng Chúa Giêsu không vội phán xét ai. Trước hết, Ngài muốn cho những người tưởng mình vô tội hãy xét lại chính mình.
Thế nên, đứng trước những con người đang lăm le kết án người phụ nữ và mưu toan ám hại mình, Chúa Giêsu lặng thinh không nói một lời.
Ngài thinh lặng và tạo nên bầu khí vắng lặng để cho mọi người tự vấn lương tâm. Ngài muốn kéo dài sự thinh lặng bằng cách ngồi xuống viết, viết trên đất.
Khi người ta cứ hỏi mãi, phá tan sự im lặng cần thiết cho sự rà soát tâm hồn, Chúa Giêsu lên tiếng kêu mời họ hãy xét lại mình: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!".
Rồi Ngài ngồi xuống trong thinh lặng. Ngài cứ viết, viết trên đất để tạo bầu khí thinh lặng cho mọi người hồi tâm.
Nhìn lại nội tâm mình trong thinh lặng, những con người hăm hở kết tội người khác giờ đây dần dần nhận ra tội lỗi mình, có khi còn nhiều hơn, còn nghiêm trọng hơn cả tội lỗi của người phụ nữ. Thế là các viên đá trên tay lần lượt rơi xuống, họ xấu hổ lặng lẽ rút lui, để lại một mình Chúa Giêsu và người thiếu phụ. Hoá ra rốt cuộc ai cũng nhận ra mình là người có tội, mà đã là người có tội thì sao không kết án mình trước? Sao lại đang tâm kết án người khác cũng tội lỗi như mình!
Nhìn lại mình để thấy được tội lỗi của mình là điều hết sức quan trọng để cải thiện bản thân.
Nếu tôi biết được là mình hôi hám, tôi sẽ đi tắm ngay. Còn nếu tôi không nhận ra mùi hôi của cơ thể mình, thì mãi mãi tôi vẫn là người hôi hám.
Nếu tôi thấy được mặt mình dơ bẩn, tôi sẽ lau rửa tức khắc không chần chừ. Còn nếu không thì chẳng có gì thay đổi.
Nếu tôi thấy được sự xấu xa của nội tâm mình, sự bê bối của đời sống mình, tôi sẽ cải thiện ngay không trì hoãn.
Sự chuyển hóa bản thân, cải thiện cuộc sống chỉ thực sự bắt đầu lúc ta tự nhận biết tội lỗi mình.
Nhìn lại mình, nhìn vào mình để thấy được những tội lỗi của mình là khởi điểm, là bước đầu cho việc cải thiện đời sống. Không có bước nầy, chẳng thể có bước thứ hai, chẳng có gì được cải thiện.
Lạy Chúa Giêsu, nhìn lại mình để rà soát chính mình, để thấy được tội mình là điều rất khó mà cũng là việc không mấy ai muốn làm. Xin Chúa thương giúp đỡ chúng con.
Xin cho Lời Chúa trở nên gương soi cho chúng con, giúp chúng con nhận ra những vết nhơ trong tâm hồn chúng con, những nết xấu trong cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, xưa kia, Chúa Giêsu đã giúp đám người Do Thái nhận ra tội lỗi của họ thì nay xin Ngài cũng giúp chúng con nhận ra lầm lỗi của mình để sửa đổi ăn năn.
46. Ném đá--Lm. Anphong Trần Đức Phương
Bài Đọc I (Isaia 43:16-21) đem lại niềm hy vọng trong Mùa Chay: “Hãy quên đi những việc đã qua và đừng quan tâm đến các việc xa xưa nữa…Thiên Chúa hứa sẽ đổi mới mọi sự, khai mở đường đi và cho dân Chúa có nước uống…”
Trong Bài Đọc II (Philiphê 3:8-14) Thánh Phaolô cũng nói Ngài quên hẳn những gì ở đàng sau và chỉ hướng về phía trước “để chạy đến đích cuối cùng là phần thưởng Nước Trời, trong sự hiệp thông với sự đau khổ của Chúa Giêsu và sự Phục Sinh của Người.”
Bài Phúc Âm (Gioan 8:1-11) ghi lại một câu chuyện rất cảm động về người phụ nữ bị kết án là phạm tội ngoại tình đáng phải ném đá cho đến chết theo luật Môise (Thứ Luật 22:23-24); nhưng chẳng ai dám ném đá chị, vì Chúa bảo “ai hoàn toàn sạch tội hãy ném đá chị đó đi!” Mọi người đều sợ hãi bỏ đi, vì nhận thấy chính mình cũng đầy tội lỗi. Đứng lại ném đá, sợ Chúa Giêsu là “Đấng thấu suốt mọi sự, đã có thể làm cho người chết sống lại, người bệnh được chữa khỏi,” sẽ vạch tội họ ra chăng. Chưa kể còn có những người có đời sống xấu xa mà ai cũng biết! Chúa Giêsu đã tha thứ cho người phạm tội ngoại tình và bảo: “Cha cũng không kết án con. Con hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Trong Chúa Nhật trước, chúng ta đã có dịp đọc và suy niệm về Dụ Ngôn rất cảm động “Người Cha Nhân Hậu” (Luca 15:1-3,11-32). Chúa Giêsu kể dụ ngôn đó để trả lời những nguời Biệt Phái và Luật Sĩ cứ tự cho mình là người công chính, giữ luật đầy đủ và phàn nàn là Chúa Giêsu cứ “đón tiếp những người tội lỗi và còn ngồi ăn uống với họ…” Qua Dụ Ngôn “Người Cha Nhân Hậu” và thái độ tha thứ cho người phụ nữ ngoại tình trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa luôn yêu thương và mời gọi những người trót “sa ngã phạm tội vì yếu đuối” hãy ăn năm sám hối, chừa bỏ đời sống tội lỗi, cải thiện đời mình, để trở nên những con người mà Chúa “đã dựng nên theo hình ảnh Chúa” (Khởi Nguyên 1:27). Vì thế, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh “Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi. (Matthêu 9:13).
Thực sự, Chúa Giêsu không bao che tỗi lỗi. “Tội vẫn là tội,” vẫn đáng bị kết án (Matthêu 5:27-30); người đàn bà ngoại tình hôm nay, thực sự vẫn là một tội nhân. Nhưng Chúa Giêsu đã phải chịu khổ nhục và chết trên Thánh Gía để chuộc tội chúng ta. Ngài luôn muốn cho tội nhân có một cơ hội để “làm lại cuộc đời!” Ngay trước khi chết trên Thánh Gía Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho chính những kẻ đã lên án bất công, hành hạ và giết Ngài: “ Xin Cha tha tội cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Luca 23:34).
Tội luôn là điều xấu phải xa tránh. Nhưng trên trần gian này, ai dám tự vỗ ngực mình và tuyên bố “ Tôi hoàn toàn sạch tội” để mà lên án người khác, để mà “ném đá người khác!”
Mùa Chay là “thời gian rất thuận tiện” (2 Côrintô 6:2)) để chúng ta ăn năn sám hối lỗi lầm, chừa bỏ tội lỗi. Chúng ta hãy lo ăn năn sám hối và “đấm ngực mình, đừng lo đấm ngực người khác” để xin Chúa thứ tha tội lỗi và giúp chúng ta chừa bỏ tội lỗi.
Xin cùng cầu nguyện chung cho nhau để trong những ngày trọng đại này, chúng ta biết hy sinh dành nhiều thời giờ hơn để cầu nguyện, dự các cuộc Tĩnh Tâm Mùa Chay, hy sinh hãm mình thắng vượt những đam mê tội lỗi, thanh tẩy tâm hồn qua Bí Tích Hòa Giải (Xưng Tội) và dành dụm tiền bạc giúp người nghèo khó trên thế giới. Xin Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta được chết đi với tội lỗi, cải thiện đời sống để được cùng sống lại thật với Chúa trong đời sống trong sạch, hòa hợp yêu thương và nhiệt thành phụng sụ Chúa và mọi người trong cuộc sống hàng ngày.
47. Đừng kết án anh em--‘Cùng Nhau Suy Niệm’--Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
Nếu có lúc nào đó chúng ta sa ngã vì yếu đuối, vì lầm lỡ, chúng ta cần điều gì nơi tha nhân? Cần trừng trị cho thích đáng hay cần khoan dung tha thứ? Cần những lời kết án cay nghiệt hay cần những lời cảm thông nâng đỡ? Có lẽ ai cũng cần được khoan dung để có cơ hội làm lại cuộc đời. Có lẽ ai cũng cần sự cảm thông để tìm lại sự bình an tâm hồn. Thế nhưng, giòng đời thường không đối xử tốt với chúng ta như vậy. Người đời thường dễ kết án hơn tha thứ. Người đời thường tìm cách xa lánh kẻ phạm tội hơn gần gũi để cảm thông. Có biết bao nhiêu lý do để người ta luận tội và kết án lẫn nhau, và chắc chắn cũng có rất nhiều lý do để họ xa tránh kẻ phạm tội để khỏi lụy vào thân.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy một quang cảnh rất đời thường. Có một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Chị đã phạm phải trọng tội mà theo luật Do Thái phải chịu ném đá tử hình. Các luật sĩ và biệt phái đã dẫn người phụ nữ này đến trước mặt Chúa Giêsu. Mỗi người một hòn đá. Mỗi người một khuôn mặt mang đầy sát khí hôi tanh. Họ sẵn sàng trị tội một người để làm gương cho nhiều người. Tất cả đang sẵn sàng một án tử hình cho người phụ nữ thấp cổ bé miệng, lại cô thân cô thế. Kẻ đã từng tòng phạm với chị cũng đã được tẩu thoát. Vì phúc âm nói rằng: "người ta dẫn tới trước mặt Chúa một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình". Ngoại tình phải là hai người. Quả tang tức là bắt tại chỗ. Thế mà chỉ có một mình chị bị dẫn ra trước đám đông, còn kẻ đồng phạm với chị đâu? Có thể anh ta là người có thế lực và giầu có nên đã mua chuộc các hương chức trong làng? Có thể anh ta là loại người "vừa ăn cướp vừa la làng" chăng? Và như thế, có thể anh ta cũng cùng đứng chung với nhóm người đang chờ đợi ném đá người phụ nữ tội lỗi này. Chị cúi đầu chẳng dám nhìn ai. Chị biết tội mình đã làm nên chẳng thốt lên lời van xin. Chị đã sẵn sàng cho một cái chết dành cho một người phụ nữ lăng loàn.
Nhưng phúc đức cho chị, những kẻ chủ mưu ném đá chị lại muốn "mượn gió bẻ măng". Họ muốn dùng một mũi tên mà "bắn chết hai con nhạn". Họ đòi Chúa Giêsu làm trọng tài để nhân cơ hội này, hãm hại chính Chúa Giêsu. Nếu Chúa bảo tha, là chối bỏ luật của tiền nhân. Nếu Ngài bảo phải chết, lại vi phạm quyền xét xử của Đế quốc Rôma đang cai trị nước Do Thái.
Chúa Giêsu đã không kết án, nhưng cũng không dung túng sự xấu mà chị ta đã phạm. Ngài đã im lặng lấy tay viết trên cát. Có nhiều người cho rằng Ngài đã viết lên những tội lỗi của con người đã từng phạm. Ngài đã viết trên cát chứ không ghi khắc vào bia đá hay giấy vở. Cát sẽ bị xoá nhoà. Tội lỗi con người luôn được Chúa khoan dung tha thứ, vì "nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được, nhưng Chúa luôn rộng lượng thứ tha". Có nhiều ngừơi cũng cho rằng: Ngài muốn trì hoãn thời gian, để mỗi người tự vấn lương tâm. Có cần kết liễu một đời người mà thanh danh đã bị bôi nhọ bởi hành vi lăng loàn của mình hay không? Ngài muốn có một khoảng thời gian tĩnh lặng để những cảm xúc: hỉ, nộ, ái, ố được lắng dịu hầu có thể đối xử công bằng với nhau hơn. Cuối cùng, Ngài đã nói với đám đông rằng: "ai trong các ông trong sạch, thì hãy ném đá người này đi". Sự trong sạch không chỉ là không làm những điều xấu, mà còn đòi hỏi sự trong sạch trong tâm hồn chưa một lần ước muốn phạm tội. Sự trong sạch không chỉ là không phạm tội mà còn là không làm gương mù gương xấu cho người khác. Tất cả đều lặng lẽ bỏ cuộc. Từ người lớn tới người nhỏ, xem ra không ai là người trong sạch đủ để có thể thi hành một lề thói dã man này. Họ đã bỏ đi hết. Một quang cảnh thanh bình đã đến với chị. Chân trời mới đã mở ra với chị. Chúa Giêsu đã mở ra cho chị một con đường sống, bằng một giọng nói dịu dàng nhưng chứa đựng một nguyên tắc sống cho cả cuôc đời của chị: "Ta cũng không kết án chị phải chết đâu! chị hãy về bình an và từ nay đừng phạm tội nữa". Một làn gió của yêu thương đã xoá bỏ quá khứ tội lỗi của chị. Làn gió của yêu thương đã mang lại cho chị một niềm hy vọng những điều tốt đẹp sẽ đến trong cuộc đời của chị.
Kính thưa, quý Ông Bà Anh Chị Em, Có bao giờ chúng ta đã từng nói điều đó với anh em chúng ta chưa? Có bao giờ chúng ta đã đối xử khoan hồng với nhau chưa? Có bao giờ chúng ta đã can đảm xoá bỏ đi những thành kiến xấu về người anh em hay chưa? Nếu chưa, chúng ta hãy tập để đối xử tốt với nhau hơn. Nhiều người vẫn biết rằng "nhân vô thập toàn", thế nhưng vẫn để "bụng" và cố chấp về những lầm lỗi của anh em. Nhiều người vẫn đầy rẫy khuyết điểm nhưng lại dễ dàng la rầy, kết án anh em. Nhiều người đã quên cái đà trong mắt mình, mà lại chỉ thích tìm kiếm bới móc, bêu xấu, những cái rác của tha nhân.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: "đừng kết án để khỏi bị kết án". Hãy sống độ lượng với nhau để xây dựng một thế giới thanh bình. Và hãy nhớ rằng: "điều gì anh em không muốn người khác làm cho mình thì cũng đừng làm cho người ta như vậy". Amen.
48. Phiên toà chỉ còn lại hai--Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
Trong bộ phim của Liên Xô trước đây được mang tựa đề khá thi vị “Sân ga chỉ có hai người,” kể về chuyện trễ tàu của một ông kia và một bà nọ, xa lạ, nhưng rồi vì sân ga chỉ còn hai người, nên đi dần đến thân nhau.
Hôm nay bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe cũng có thể đặt cho cái tựa đề như thế. Sân ga chỉ có hai người – hay “Phiên toà chỉ còn lại hai”
Người có công nghĩ ra tựa đề này là thánh Augustino. Và chính thánh nhân đã chơi chữ thật kỳ diệu: Chỉ còn lại hai: Miseria và Misericordia. Dịch là “sự khốn cùng” và “lòng xót thương.” Miseria, thêm cor, cordis là trái tim, ở giữa, sẽ có misericordia. Dịch thoát ý là, chỉ còn lại hai: “người đáng thương” và “Chúa xót thương.”
Do đâu mà đưa đến phiên toà rốt cuộc chỉ còn 2 người. Và 2 người đó là ai? Ta sẽ tìm hiểu.
Do đâu mà chỉ còn hai. Ta rảo qua phiên toà.
Đức Giêsu đang giảng giữa đám đông, thì các thầy Thông giáo và Biệt phái dẫn một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, đem đến gài bẫy Chúa. Hẳn là người phụ nữ này phải run bắn lên vì vừa xấu hổ vừa sợ chết. Mà không phải sợ chết nữa mà là sẽ chết thật, vì chiếu luật Mosê Đnl 22,22 và Levi 20,10: Sẽ phải bị ném đá cho chết cả gian phu lẫn dâm phụ. Không cần xét xử gì.
Đây là cơ hội bằng vàng để gài bẫy Chúa. Và đây cũng là câu hỏi sinh tử mà Chúa gặp phải trong cuộc đời rao giảng.
Nếu không cho ném đá: Đức Giêsu sẽ bị cáo là lỗi lề luật, vi phạm luật pháp.
Nếu cứ cho ném đá: lòng nhân từ của Thiên Chúa mà Ngài rao giảng sẽ vô nghĩa. Lòng nhân ở trên mây! Ở đây ta thấy, họ vừa khiêu khích Chúa lỗi luật Môsê, vừa gián tiếp công nhận giáo lý về lòng nhân từ mà Chúa rao giảng, chứ nếu không công nhận, thì họ chẳng thử thách Chúa làm gì: Còn Thầy, Thầy dạy sao?
Chúa đã trả lời bằng một hành động và bằng một lời nói. Bằng hành động là lấy tay viết viết, vạch vạch trên đất hai lần.
Chúa viết gì? Ta không cần biết, mặc dầu đã có nhiều người đoán già đoán non Chúa viết điều này điều nọ (như thánh Jêrôme nghĩ: viết tội những người tố cáo…), nhưng cái chính là Chúa tránh trả lời, Chúa từ chối xét đoán – nghĩa Sêmít: xét đoán là lên án.
Cho đến khi họ cứ hỏi đi hỏi lại thầy nghĩ sao, thầy dạy thế nào về trường hợp này, Đức Giêsu đã trả lời một câu. Một câu mà ai cũng cảm phục là cực kỳ khôn ngoan. Vừa theo luật (công bình) vừa nhân từ (tha thứ). Luật Đnl 13,9-10; 17,7 dạy: Chính chứng nhân sẽ tra tay trước. Toàn dân sẽ ra tay sau. Vậy nếu không ai tra tay trước, không ai ném viên đá đầu tiên thì cũng sẽ chẳng có những hòn đá khác ném đi…
Vậy thì Chúa Giêsu đã dựa vào Luật Môse, chứ không lỗi luật, để trả lời họ. Ai xét mình là kẻ vô tội, thì hãy ném viên đá đầu tiên. Lời này vừa thốt ra –cũng khen là lương tâm của đám đông vẫn còn trong sáng, chưa chai lì– nên ai cũng tự xét mình và rút lui. Cảnh rút lui là một cảnh cười ra nước mắt: bởi bắt đầu là những kẻ cao niên –càng thêm tuổi càng thêm tội. Phải chăng vì kẻ cao niên thay vì càng dày tháng năm càng tăng công đức, thì ngược lại; hay là phải chăng vì kẻ cao niên thì khôn ngoan biết là không bắt bẻ được Chúa, nên lẩn đi cho sớm kẻo lại được dự một buổi lên lớp mất mặt nữa dành cho những ai tự coi mình là đạo đức, có trách nhiệm bắt người khác giữ luật: Khốn cho các ngươi, hỡi luật sĩ và biệt phái! (x. Lc 11,27-54)
Chỉ còn lại hai.
Dầu lý do nào đi nữa, thì rồi rốt cuộc sân sa chỉ còn hai người. Phiên toà chỉ còn lại hai: Kẻ đáng thương và Đấng xót thương. Miseria và Misericordia.
Thánh Augustino cũng mạnh dạn nói: Đó là tóm tắt toàn bộ Tin Mừng. Đấng xót thương đứng trước kẻ đáng thương. Lòng nhân hậu đối diện với điều khốn cùng. Ta đến để cứu người tội lỗi. Đó là tóm tắt sứ mạng của Chúa, là tóm tắt toàn bộ Phúc Âm.
Câu hỏi của Chúa giúp người phụ nữ có thể nói được ít là một câu, vì từ đầu đến giờ chị đã cúi gầm mặt, xấu hổ, lặng thinh.
Chúa không hỏi: Sao chị lại phạm tội? Sao chị dại dột thế? hay, Chị phạm tội trong hoàn cảnh nào? Nếu hỏi như vậy, chắc chị cũng lặng thinh. Và cũng không có đối đáp. Sân ga hai người mà vẫn độc thoại. Nên Chúa hỏi: Này chị, họ ở đâu cả rồi, không ai lên án chị sao?
Chị trả lời được ngay: không ai cả, thưa ông.
Không ai cả, vì không ai vô tội cả, cho nên chẳng ai dám ném viên đá đầu tiên.
Đây là một đoạn Tin Mừng nhiều người rất thích. Thích vì nó rất phù hợp trong việc ngăn cản kết án người khác. Nó làm cho tôi nguôi giận ngay mỗi khi có ai đó làm tôi bực mình muốn lên tiếng chửi bới. Gặp những trường hợp đáng bực bội đó mà kịp nghĩ đến lời Đức Giê-su: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi’, thì tôi lại cười xòa, và mọi cơn giận hay khuynh hướng muốn kết án bị giập tắt ngay. Tại sao? Vì chính tôi cảm thấy rằng mình cũng đã từng làm cho một ai đó bực mình, bị thiệt hại, buồn phiền, đã từng làm những điều hết sức ngu xuẩn...
Chẳng hạn, ngoài công lộ, một ai đó chạy xe ẩu làm tôi suýt bị té, khiến tôi bực bội đến nỗi buột miệng chửi toáng lên. Nhưng khi tôi chợt nghĩ rằng trước đây mình cũng đã từng làm cho một vài người suýt bị té y như vậy, thì tôi tan hết sự bực mình ngay. Nhiều khi con cái tôi làm tôi tức lộn ruột lên, khiến tôi muốn phạt chúng một trận nên thân, nhưng khi chợt nhận ra rằng tôi cũng đã từng làm cho cha mẹ tôi tức lộn ruột y như vậy, thì tự nhiên cơn giận tôi biến mất ngay.
Trong phiên toà thông thường, trước khi tuyên án, quan toà cho đòi nhân chứng, cho đòi nguyên cáo. Nếu nhân chứng không có mà nguyên cáo thì lại bỏ cuộc, hoặc bãi nại thì phiên toà dừng lại. Cũng có lúc bên nguyên bãi nại mà toà vẫn xử thì công tố viên đứng ra đóng vai nguyên cáo. Vai trò này trong sách Khải Huyền dành cho Satan: “Vì Satan kẻ tố cáo anh em của Ta, ngay đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nhờ máu của Con Chiên nay đã bị tống ra ngoài” (Kh 12,10). Vậy là cũng chỉ còn lại có hai. Người có tội và Đấng tha tội. Kẻ đáng thương và Đấng xót thương. Kẻ khốn khó bần cùng và lòng nhân hậu vô cùng. Khi nhìn nhận mình là kẻ có tội, tức người khốn khó đáng thương, ta sẽ gặp ngay Đấng xót thương, Đấng tha tội.
Có hai tội nhân vào sa mạc ăn chay đền tội trước khi được xét xem có đáng nhận vào tu viện hay không? Sau một năm thử thách, có khác biệt ở hai người: một kẻ ốm o buồn phiền, một người vui tươi khoẻ mạnh. Họ được dẫn tới bề trên để chờ sự phán quyết xem có được nhận vào tu không. Trả lời câu hỏi “làm gì trong năm qua,” người ốm o nói: Suốt năm tôi suy nghĩ về tội của tôi, tôi nghĩ tới hình phạt, tôi sợ hãi đến quên ăn mất ngủ.
Còn người vui tươi đáp: Suốt năm qua, tôi nghĩ đến ơn lành Chúa ban, tôi nghĩ tới lòng nhân hậu tha thứ của Chúa. Tôi ca tụng Ngài –lòng sám hối biến thành lời tụng ca. Anh được nhận vào tu viện.
Nhưng … người ốm o cũng được nhận vào cộng đoàn.
Đấng xót thương luôn thương xót kẻ đáng thương. Sân ga chỉ còn 2 người. Ai nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi đáng thương (miseria) liền gặp ngay lập tức Đấng nhân hậu xót thương (Misericordia). Dại gì mà không nhận đi! Phiên toà chỉ còn lại hai thôi.
49. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Alfonso
Tin mừng Ga 8: 1-11: Có thinh lặng chứ không phải sự ồn ào kết án của đám đông, người nữ mới có thể hồi tâm mà hoán cải tội lỗi. Có thinh lặng mới khiến từng người trong đám đông nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình.
Suy niệm:
Theo luật pháp Do Thái, người ta sẽ phải bị xử tử khi phạm vào ba tội này: thờ ngẫu tượng, sát nhân và ngoại tình. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, các Luật sĩ và Biệt phái dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Đã bắt quả tang thì phải có hai người nam nữ phạm tội. Thế nhưng, việc trọng nam khinh nữ trong xã hội lúc bấy giờ đã khiến người nữ này như một một phương tiện họ dùng để gày bẫy kết án Chúa Giêsu.
Giờ đây, Chúa Giêsu phải đối đầu với một vấn đề nan giải: nếu Người kết tội người phụ nữ này phải bị ném đá cho đến chết theo luật thì rõ ràng là những lời dạy trước nay của người sẽ bị sụp đổ: nào là đến cứu chữa kẻ tội lỗi, đồng bàn với người thu thuế và người tội lỗi để nâng đỡ họ dậy không phải là cử chỉ yêu thương và nhân từ mà chỉ là đánh bóng thương hiệu. Và việc tuyên bố tội đó đáng bị xử tử, Chúa Giêsu sẽ đối diện với việc vi phạm luật pháp La mã, vì người Do Thái không có quyền kết tội tử hình hay xử tử bất cứ một ai. Còn ngược lại, nếu Chúa Giêsu bảo tha cho người phụ nữ ấy thì Người sẽ bị tố cáo là dạy cho người ta phá bỏ luật pháp Môisen, dung túng trước tội ngoại tình. Biệt phái và Luật sĩ Do Thái dùng cái bẫy hết sức tinh vi và bằng mọi thủ đoạn để kết tội Chúa Giêsu, để có trả lời đàng nào đi nữa, Người cũng sẽ bị dân chúng chống đối và kết tội. Như vậy, sau việc xử án họ dành cho người phụ nữ là việc họ đang toan tính một cuộc xử án dành cho Chúa Giêsu, mà đã có bản án sẵn đó là tử hình Người bằng hình thức đóng đinh.
Nhưng Chúa Giêsu đáp lại bằng một phản ứng rất gây ngạc nhiên. Người cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Sau đó tuyên bố: “Ai trong các ông sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Sự thinh lặng của Chúa Giêsu là một sự tế nhị của một Đấng Phán Xét dành cho tội nhân. Từ bao thế kỷ qua, các nhà chú giải Kinh Thánh đã nhọc công nghiên cứu mà vẫn không tìm ra nội dung Chúa Giêsu viết gì trên đất. Đối với thánh Gioan, việc ghi lại biến cố này, điều quan trọng không phải là nội dung Chúa Giêsu đã viết ra mà chính là sự thinh lặng của Người. “Cử chỉ không lời” của Chúa Giêsu lại là một sứ điệp muốn nói với các biệt phái và đám đông đến nghe Ngài giảng dạy và cả với người phụ nữ. Chỉ trong thinh lặng, con người ta được mời gọi trở về với cõi lòng mới có thể nghe được tiếng Chúa trong lương tâm mình.
Có thinh lặng chứ không phải sự ồn ào kết án của đám đông, người nữ mới có thể hồi tâm mà hoán cải tội lỗi. Có thinh lặng mới khiến từng người trong đám đông nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình. Đoạn Tin mừng dùng những từ rất hay: “Họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất”. Họ rụt rè xấu hổ, và nhận ra mình cũng đáng tội như ai nên mới có thể bao dung cho người khác và âm thầm rút lui.
Chúa Giêsu không nỡ lột mặt nạ tội lỗi của từng người ở chỗ công khai, thì Chúa cũng muốn họ đừng làm như thế đối với người anh chị em mình. Chúa không đưa con người ta ra xét xử dưới ánh sáng của Luật nhưng đưa người ta về lại với lương tâm. Chỉ khi đối diện với lương tâm, đối diện với lòng mình, thì mình mới có thể thay đổi được. Vì “người ta có thể lừa dối cả thế giới nhưng không thể lừa dối được chính mình”. Có những người phạm tội hình sự, trốn chui trốn nhủi, thay tên đổi họ. Nhưng mười hay hai mươi năm sau, họ cũng bước ra đầu thú vì tiếng nói lương tâm cắn rứt. Vâng, dưới mắt Thiên Chúa, tất cả mọi người đều là tội nhân, và cần phải được tha thứ. Như có lần Chúa bảo: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha.” (Lc 6,36-38).
Khi Chúa Giêsu ngẩng đầu lên “lần thứ hai thì chỉ còn mình Người đối diện với người phụ nữ”. Thánh Augustinô chú giải: “Chỉ còn hai. Lòng thương xót và người được xót thương”. Chúa Giêsu phục hồi nhân phẩm cho người phụ nữ: “Này chị”, một lời nói nhẹ nhàng, thay vì giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi như các kinh sư và những người Pharisêu đã làm, Người thúc đẩy chị bước vào con đường hối cải, và mở cho chị một tương lai: “Không ai kết án chị sao? Tôi cũng vậy. Hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”. Quan tòa xét xử hữu hiệu không phải là để lưu đày hay loại trừ kẻ phạm tội ra khỏi xã hội lành mạnh, nhưng để khiến tội nhân trở thành người tốt. Giống như lương y không chê sự bẩn thỉu hay nhiễm trùng của bệnh nhân, nhưng là cứu giúp người bệnh bằng mọi giá.
Sách tiên tri Isaia mời gọi: “Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông”. (Is 1,16-18) Vậy trong Mùa Chay Thánh này, chúng ta hãy chạy với tòa Giải tội, thú nhận sai lỗi của mình trước mặt Chúa và quyết tâm sửa đổi. Lòng thương xót của Chúa sẽ phủ lấp muôn vàn tội lỗi của chúng ta và mời gọi ta đứng lên làm lại cuộc đời mới trong tình thương của Chúa để được hưởng hạnh phúc muôn đời. Amen.
50. Làm chứng cho lòng từ bi vô biên--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Vụ người đàn bà ngoại tình cho thấy thành kiến dễ đưa đến thái độ đê tiện phi nhân tới mức nào –mà tư tưởng và tâm hồn Đức Kitô thì quảng đại vô cùng. Người Do Thái đưa ra một thảm kịch con người để định lừa Chúa. Họ không chú trọng đến thảm trạng người phụ nữ tội lỗi bị bắt quả tang, mà chỉ cốt làm Chúa lúng túng. Họ tự phụ là hiểu luật, họ nghĩ thế nào cũng loại được một kẻ gây trở ngại. Chúa biết rõ dã tâm họ, Người đem một vụ thuộc tầm mức nhỏ nhen của họ đặt thành vấn đề lương tâm. Chúa bắt buộc mỗi người phải đối diện với Thiên Chúa, chỉ có thể bỏ chạy, hoặc ăn năn trở lại. Từ một vụ tai tiếng nhỏ đáng buồn trong đó các địch thù của Chúa, thưởng thức một sự khoái trá xấu xa, Chúa Giêsu đổi thành một “cánh hoa đơn” tuyệt vời (nói theo kiểu Phan sinh) của lòng từ bi của Chúa. Người đàn bà ngoại tình đã gặp đại lượng khoan dung và có được dịp may phục hồi nhân phẩm. Bọn người ưa bắt bẻ, thích lên án, thấy vậy rút lui. Cho hay, chỉ hạng người tội lỗi nào trốn tránh lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, hạng đó mới không được tha thứ.
Chúng ta có thể suy đoán mấy nét về tôn nhan Đức Giêsu.
1) Trước hết, sự điềm tĩnh của Chúa. Người không do dự dù trong giây phút, khi trả lời kẻ vấn nạn. Lên án người phụ nữ ngoại tình là trái với chủ thuyết của Chúa, mà tha là trái với Lề Luật. Thế mà, như theo một phản ứng tự nhiên, Đức Giêsu trả lời không lưỡng lự, để làm chứng cho lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa. Hơn nữa, Chúa cho thấy con mắt Thiên Chúa xuyên qua dáng vẻ bên ngoài, thấu tới thâm tâm người ta. Tính điềm tĩnh của Người bắt nguồn mạch từ Thiên Chúa. Người nhìn nhân loại và sự việc theo con mắt Thiên Chúa. Khi nào chúng ta nhìn theo con mắt Thiên Chúa, chúng ta chẳng cảm thấy sao, dưới một nguồn sáng mới, chúng ta điềm tĩnh lạ lùng nhờ tâm hồn được thanh thản sáng suốt?
2) Quyền tha tội của Chúa không những không buộc tội người đàn bà hư hỏng, Đức Giêsu nói thêm: Hãy đi và chớ phạm tội nữa. Hiểu theo bối cảnh tổng quát Phúc Âm, có nghĩa là Chúa ban cho người đó ơn tha thứ của Thiên Chúa. Chúa tỏ ra có quyền tha tội, an ủi, khuyến khích, phục hồi nhân phẩm cho kẻ có tội –và Chúa làm công việc ấy một cách nhân từ, vì Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Tha thứ, nhưng cương quyết bài trừ sự tội. Chúa nói: chớ phạm tội nữa. Đối xử từ bi với kẻ có tội không phải là nhân nhượng với sự dữ. Sự dữ trước sau vẫn là sự dữ, phải xua đuổi. Đức Giêsu xét xử theo đường lối Thiên Chúa, tự cho mình đặc quyền Messia cứu vớt kẻ có tội nhưng kết án sự tội. Đức Giêsu thân thiết với Chúa Cha nên biết rõ sắp tới giờ Người đổ máu ra chuộc tội cho nhân loại, để nhân loại được tha thứ. Đàng sau Lời Chúa nói với người đàn bà tội lỗi, chúng ta đoán thấy Tình yêu từ bi nhân lành nóng cháy biết chừng nào.
51. Can đảm nhìn mình, đừng lên án người--Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
Nhìn vào bản thân, để nhận ra mình tốt hay xấu. Tốt đến mức nào, và xấu ra làm sao? Can đảm tự nhận ra mình, nhận ra nội tâm của mình, đó chính là sự can đảm của nghị lực, của ý chí mà Thiên Chúa ban cho ta.
Hãy nhớ rằng, dù ta có trở về, có ý chí, có nghị lực hoán cải đời sống mình, thì tất cả những điều đó đều do ơn Chúa ban. Ta là người cộng tác với ơn Chúa bằng chính nghị lực của bản thân khi quyết tâm trở về cùng Chúa.
Hôm nay, chúng ta hãy dựa vào lời Chúa Giêsu nói với những người lên án chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình: “Trong các ngươi, ai sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”, để thấy trách nhiệm của từng người chúng ta là: Hãy can đảm nhìn vào chính bản thân mình, chứ đừng lên án người khác.
Tin Mừng kể, người ta mang đến trước Chúa một phụ nữ ngoại tình. Chiếu theo luật, họ cứ việc ném đá, không cần Chúa làm trọnh tài. Nhưng thật nham hiểm! Họ lại dẫn chị đến với Chúa không phải vì tôn trọng, kính nể, hay biết Chúa là Chúa nên nhường quyền xét xử cho Chúa, mà chỉ vì muốn thử Chúa, muốn gài bẫy Chúa, muốn xem Chúa xử lý ra sao để bắt bí Chúa. Độc ác hơn, họ muốn tìm chứng cớ, để nhân cơ hội này, hãm hại Chúa. Vì nếu Chúa tuyên bố tha thứ cho chị, Chúa sẽ bị kết tội là vi phạm lề luật, đi ngược lại, thậm chí chống lại lề luật tôn giáo. Nhưng nếu chiếu theo luật mà xét xử, Chúa sẽ phải ra lệnh ném đá chị. Như thế, Chúa chẳng hơn gì lề luật, xem ra Người cũng độc ác như những gì luật đã quy định. Cả hai trường hợp, Chúa đều rơi vào bẫy của họ.
Nhưng sự khôn ngoan của Thiên Chúa không chỉ đánh gục cái mà con người gọi là khôn ngoan của mình, mà còn đánh gục cả lòng kiêu ngạo, chất chứa toàn hận thù, ganh ghét và độc ác của con người.
“Ai sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Có ai sạch tội đâu, nên có ai dám cầm cục đá nào mà ném vào chị đâu, dù là một cục đá nhỏ nhất. Không những không dám ném mà còn bẻ mặt. Nói theo kiểu bình dân mà các bạn trẻ bây giờ hay nói: “quê độ”. Bẻ mặt, “quê độ” đến mức phải rút lui từng người một, bắt đầu từ những người, không phải trẻ, nhưng là những cụ ông, cụ bà, những người già nhất, có bề dày của thời gian phạm tội, rồi mới đến trẻ dần. Sau cùng chẳng còn ai, dù trẻ hay già. Rõ ràng, chỉ một lời nói nhẹ nhàng, Chúa Giêsu đánh gục lòng kiêu ngạo của con người.
Chính lòng đầy kiêu ngạo, những người Dothái xúm nhau kết án chị phụ nữ kia. Bởi kiêu ngạo, họ cũng chẳng thấy mình, chẳng biết nhìn vào bản thân, vì thế chẳng bao giờ nhận ra con người thật của họ. Ai biết được trong đám người hùa nhau đòi kết án chị, có bao nhiêu kẻ phạm cái tội giống như chị, có khi còn nặng hơn, nhưng khéo che đậy, không ai phát hiện, vì thế, vẫn tỉnh bơ, lên án chị, làm như mình vô tội lắm.
Còn chúng ta, anh chị em và tôi thì sao? chắc cũng không khác gì những người Dothái khi xưa. Nhiều lần mình đã xét đoán, đã lên án anh chị em xung quanh, trong khi bản thân chẳng tốt lành gì. Lắm lúc còn lỗi nặng hơn anh chị em xung quanh.
Hãy nhìn vào chính bản thân mình trước, đừng kết án anh chị em của mình. Nhìn vào chính mình để mà ăn năn hối cải, để khám phá những lỗi lầm mà chừa bỏ và trở về với Chúa.
Nhìn nhận mình tội lỗi, thấp hèn để cải hóa chính cuộc đời mình, là can đảm, là nghị lực, là ý chí của những người thành tâm trở về với Chúa. Chúng ta hãy luôn luôn đinh ninh trong lòng điều này: Hãy xé lòng, đừng xé áo. Hãy xét mình, đừng nhìn anh em!
Chúa nhật tuần sau sẽ là lễ Lá, bắt đầu tuần Thánh. Tin rằng, suốt mùa Chay, chúng ta đã cùng nhau ăn năn tội lỗi, thì tuần Thánh sẽ là cơ hội để chúng ta chấp nhận đi vào mầu nhiệm thánh giá của Chúa cách sốt sắng hơn, thấm thía hơn. Nhận ra Chúa chết cho mình, ta càng phải khẳng định rằng, tội lỗi là kẻ thù số một của cuộc đời mà ta phải cố sức từng giây phút để tránh né, để chiến đấu chống trả, để chữa trị và để không bao giờ tái phạm.
52. Khuất tất trong một vụ án "bất thường"--website của tgp Hà Nội
Bài Tin Mừng Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay, trình thuật vụ án hy hữu và bất thường. Đó chính là phiên tòa sử người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Các Kinh Sư và Pharisiêu mang đến cho Đức Giêsu để xin Ngài phân xử. Nếu đọc thoáng qua, chúng ta sẽ thấy họ tôn trọng Đức Giêsu và nhờ Ngài phán quyết một vụ án mang tính di động này. Thật bất ngờ, Đức Giêsu bỗng dưng trở thành thẩm phán. Bị cáo là người phụ nữ ngoại tình. Các người tố cáo chính là Kinh Sư và Pharisiêu.
Phiên tòa bắt đầu với lời tố cáo: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" Họ hỏi câu hỏi đó không phải để chờ Đức Giêsu phán làm sao, mà đúng hơn, họ đã có sẵn bản án trong tay, bởi vì họ biết rõ luật. Nhưng điều đáng nói ở đây chính là cái tâm đen tối của họ, họ muốn gài bẫy Đức Giêsu. Nếu Đức Giêsu lên tiếng phán: "phải ném đá" thì ngay lập tức, Đức Giêsu không phải là một vị Thiên Chúa từ bi nhân hậu, bao dung với người nghèo và yêu thương người tội lỗi. Tất cả những gì Đức Giêsu rao giảng đều tự mâu thuẫn nội tại với Ngài. Bởi vì Ngài đã từng nói hãy tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x.Mt 18,21-22). Hơn thế nữa, Đức Giêsu phạm vào cái tội gọi là "tội khi quân" phản loạn và chống lại triều đình.
Còn nếu Đức Giêsu nói "không được ném đá", thì ngay lập tức Đức Giêsu lãnh nhận án tử trong tay. Bởi vì luật Môsê truyền phải ném đá hạng người phụ nữ ngoại tình này. Những ai đi ngược lại với những điều khoản trong luật của Môsê thì kể như là vi phạm và phản bội với truyền thống của tiền nhân. Mặt khác, Đấng đã từng tuyên bố rằng "đến không phải để hủy bỏ lề luật và lời các ngôn sứ, nhưng để kiện toàn"(x.Mt 5,17) không lẽ giờ này lại phá luật?.
Quả thật họ đã quá nham hiểm, họ đã dùng phương pháp: nhất tiễn diệt song điêu. Một mũi tên giết hai con chim. Bầu không khí thật ngột ngạt ngay trong khoảng không chống trải giữa trời. Họ nín lặng chờ vị thẩm phán bất đắc dĩ tuyên án. Trong thinh lặng, thay vì nói lời tuyên án, Đức Giêsu đã âm thầm, tế nhị viết trên đất, hành động này theo một số nhà chú giải thì cho rằng Đức Giêsu viết tội của những người tố cáo chị phụ nữ trên đó. Sau đó Đức Giêsu lên tiếng: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi". Một câu nói tưởng chừng như êm đềm, trôi vào khoảng không vô tư của những người đang hung hăng tố cáo và thực hiện dã tâm...Không! Đức Giêsu đã lật ngược ván cờ. Bị cáo lại chính là những Kinh Sư và Pharisiêu, thẩm phám không phải là một ai hay một nhóm người hiện hữu nào, mà là một vị thẩm phán vượt lên trên thời gian và không gian, một vị thẩm phán có thể thấu suốt những những điều mà chỉ có họ biết họ. Vị thẩm phán đó là "Lương Tâm". Chính vị thẩm phán "Lương Tâm" này đã lên tiếng kết tội của họ trong thinh lặng cõi lòng, đã xoáy sâu vào tận nội căn tâm hồn để vạch trần tội ác của họ. Quá bất ngờ, họ bị chưng hửng, không dám đứng đó, nên đã lần lượt ra về, bắt đầu từ những người lớn tuổi.
Khi mọi người đã ra về, chỉ còn lại mình Đức Giêsu và chị phụ nữ. Bấy giờ, Đức Giêsu mới hỏi: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" và giờ đã điểm, Đức Giêsu tuyên án: "còn tôi, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!". Lời tuyên án của Đức Giêsu đã phá tan màn đen của một vụ án Khuất tất và những bất thường của nó.
Đây là một trong những câu nói tuyệt đẹp và rất nhân văn. Nhưng xét về chiều sâu đức tin, thì đây còn là một lời nói được phát xuất ra từ cung lòng Thiên Chúa, thể hiện một vị Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu từ bi và hay thương xót. Sẵn sàng tha thứ cho những người tội lỗi. Một vị Thiên Chúa luôn đứng về phía người nghèo, bị bỏ rơi và thấp cổ bé họng để yêu thương, nâng đỡ và phục hồi nhân phẩm cho họ. Quả thật, Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan thật sâu xa để cho mỗi người chúng ta suy niệm: "Lạy Chúa, Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải." (Kn 11,23).
Qua bài Tin Mừng hôm nay, sứ điệp Lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy nắm lấy tay nhau để dìu nhau đứng dậy và ra khỏi vũng lầy êm ái của tội lỗi. Chứ không phải tìm cách nhấn chìm anh chị em chúng ta xuống tận bùn đen để làm bàn đạp cho ta tiến lên.
Nhưng sâu xa hơn cả, Lời Chúa hôm nay muốn đi sâu vào tận nội tâm mỗi người, để mời gọi đương sự hãy tự cật vấn lương tâm của chính mình, nhằm thấy được những lỗ hổng tốt lành, thánh thiện để lấp cho đầy những bác ái, yêu thương và bình an, lo sám hối và quay trở về với Chúa và với nhau. Đồng thời phải nhận ra những ứ đầy tội lỗi của tham lam, ích kỷ, ghen tỵ nơi chính mình, để có được sự cảm thông thay vì kết án, để yêu thương thay hận thù.
Lạy Chúa, xin cho chúng con mặc lấy tâm tư, hành động của Chúa. Xin cho chúng con biết gớm ghét tội, nhưng không ghét những người có tội. Ước gì, trong những ngày này, mỗi người chúng con biết sám hối chân thành, biết nhìn vào trong sâu thẳm đời sống nội tâm của mình hầu thấy được khuôn mặt thật của mình, để trở về với Chúa và với nhau. Xin tha thứ những lỗi lầm mà thời niên thiếu chúng con vươn lên trong dại khờ. Amen.
53. Người phụ nữ ngoại tình--McCarthy
Suy Niệm 1. KHÔNG AI LÀ NGƯỜI VÔ TỘI
Ngày xưa, có một người đàn ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước mặt nhà vua, ngay tức khắc, nhà vua liền ra lệnh treo cổ người đó. Tuy nhiên, khi bị áp tải đến giá treo cổ, người đàn ông đó đã nói với viên cai ngục rằng anh ta biết một điều bí mật, do cha của anh ta chỉ dạy. Anh tuyên bố rằng khi sử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên trổ sinh hoa quả chỉ trong một đêm. Anh ta nói rằng thật đáng tiệc, nếu bí quyết này bị chôn vùi đi theo cái chết của anh, và sẵn lòng bộc lộ bí quyết này cho nhà vua.
Viên cai ngục quá bị gây ấn tượng, đến nỗi ông ta lưỡng lự việc thi hành án, và giải tù nhân trở lại trước mặt vua. Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói: “Thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một người nào chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì không thuộc về người đó. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được”. Thế rồi anh ta quay sang một trong những viên quan của nhà vua và nói “Ngài có thể trồng hạt giống này được chứ ạ?”.
Nhưng vị quan này từ chối, nói rằng “Khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi”. Sau đó, người ăn trộm quay sang người canh giữ kho tàng của nhà vua và nói “Vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ?”. Nhưng người canh giữ kho tàng cũng từ chối “Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Bây giờ và một lần nữa, tôi đã có thể giữ một ít tiền cho bản thân tôi”.
Và cứ thế, cuối cùng chỉ còn lại một mình nhà vua. Quay sang nhà vua, người ăn trộm nói “Có lẽ bệ hạ sẽ vui lòng trồng hạt giống này”. Nhưng nhà vua nói “Ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta”.
Sau đó, người ăn trộm nói “Tất cả các ngài đều vĩ đại và có quyền lực, và không còn gì để mong muốn nữa. Tuy nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi đã ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ”.
Nhà vua tha thứ cho anh ta. Câu chuyện này sẽ có kết thúc khác hẳn, nếu nhà vua không được chuẩn bị để lắng nghe. Thay vào đó, nhờ sự kiên nhẫn của nhà vua, và nhờ óc tưởng tượng của người đàn ông đã bị kết án, mà không ai phải chết, và tất cả đều học được một bài học bổ ích.
Bối cảnh của Tin Mừng có thể có một kết thúc rất tồi tệ. Nếu Đức Giêsu thuận theo ý của các Kinh sư và người Pharisêu, thì người phụ nữ phụ nữ ngoại tình sẽ phải chết một cách bi thảm. Ai sẽ được ích lợi từ cái chết này? Thay vào đó, nhờ sự hiểu biết và lòng thương xót mà Đức Giêsu đã bày tỏ cho người phụ nữ này, mà chị ta có thể bỏ lại tội lỗi của mình phía sau, và có một bước khởi đầu mới.
Sự kiện Đức Giêsu không kết án chị ta không có nghĩa là Người coi thường tội ngoại tình. Người nhận ra rằng chị ta đã bị kết án rồi. Điều mà bây giờ chị ta cần đến đó là lòng thương xót. Cách thức Người đối xử với người phụ nữ này đã làm cho chị ta muốn đổi mới cuộc đời của mình. Điều mà Thiên Chúa mong muốn không phải là cái chết của tội nhân, nhưng Người mong muốn rằng người đó sẽ cải tạo và được sống. Thiên Chúa thấu hiểu sự yếu đuối của chúng ta, và trong lòng thương xót của Người, Người tha thứ những tội lỗi của chúng ta. Người không chỉ giúp chúng ta bỏ lại những tội lỗi của chúng ta ở phía sau, nhưng còn rút ra được điều tốt đẹp từ các tội lỗi đó. Và điều chắc chắn là bởi vì tất cả chúng ta đều là tội nhân, vì vậy, chúng ta luôn luôn cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, điều này sẽ làm cho chúng ta biết tự kiềm chế mình, trong việc ném đá người khác.
Suy Niệm 2. ĐƯỜNG LỐI CỦA THIÊN CHÚA
Không một người nào đáng bị phê phán và kết án cho bằng kẻ tự mạo nhận là người công chính. Điều gì liên quan đến người khác, thì người đó tạo ra những tiêu chuẩn thật cao, rất hay đòi hỏi, không chấp nhận lời xin lỗi, không đặt ra trường hợp ngoại lệ, không khoan dung cho bất cứ một sai lầm nào. Nhưng đối với những gì liên quan đến bản thân, thì họ lại có thể rất mù quáng và tha thứ tất cả.
Cũng có thể xảy ra điều trái ngược lại. Không người nào có lòng thương xót và hiểu biết đối với những người lỡ bị sa ngã, cho bằng người thực sự thánh thiện. Đây là gương mẫu của các thánh, và đặc biệt là trong cuộc đời của Đức Giêsu. Chúng ta có một ví dụ tuyệt vời về điều này, trong cách thức Người đối xử với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Xét về bề mặt, chúng ta chỉ nhận thấy người phụ nữ đó phạm duy nhất một tội –tội ngoại tình. Nhưng còn có những tội khác nữa, và là tội rất nặng.
Theo các Kinh sư và người Pharisêu, thì người phụ nữ này đã phạm một tội kinh khủng. Họ phơi bày chị ta ra, với nỗi ô nhục đáng khinh bỉ nhất –nỗi ô nhục trước công chúng. Có người thà tự tử, còn hơn bị đương đầu với nỗi ô nhục trước công chúng. Họ không hề nhìn đến những cảm xúc của chị ta, cũng không hề có một chút quan tâm đến chị ta, với tư cách là một con người. Chị ta chỉ được coi như một con người nào đó, mà họ có thể sử dụng để đánh bẫy Đức Giêsu. Đối với họ, chị ta giống như một con mồi đối với người câu cá. Để bắt được Chúa, người câu cá sẵn sàng hy sinh con mồi. Việc sử dụng người khác theo cách này đúng là một thủ đoạn hèn hạ.
Thế rồi thái độ của họ đối với Đức Giêsu cũng là một tội. Ở đây, họ là những con người đang theo đuổi một ý đồ đen tối. Họ chỉ có duy nhất một mục đích –loại trừ Đức Giêsu. Nói cách khác, họ đã giết người trong tư tưởng.
Tuy nhiên, bất chấp cách thức mà cách Kinh sư và người Pharisêu muốn buộc tội và hạ nhục người phụ nữ đó, và những thái độ giết người mà họ che giấu đối với chính Người, cách thức Đức Giêsu đối xử với họ vẫn có nét gì đó ân cần và tế nhị một cách tuyệt vời. Người không hề kết án họ. Người giãi bày với họ, nhưng không tuyên bố điều đó ra trước công chúng. Thậm chí Người cũng không phê phán họ. Người kêu gọi họ tự nhận xét bản thân mình. Thay vì trả lời thẳng câu hỏi của họ. Người lại bắt đầu viết trên mặt đất. Người làm công việc này, để tạo cho họ có thì giờ xem xét lương tâm của họ.
Có sự trái ngược nhau trong cách cư xử của Đức Giêsu và người Pharisêu đối với người phụ nữ ngoại tình. Người khước từ việc kết án chị ta. Người sửa sai chị một cách rất tinh tế. Phương pháp của Người giống như của một bác sĩ phẫu thuật tài tình: có một sự kết hợp giữa sự lịch thiệp, tinh tế và nhẹ nhàng trong khi sử dụng con dao mổ. Sứ mạng của Người chuyên về lòng thương xót và ơn tha thứ, chứ không phải là chuyên phán xét và kết án. Người không đến nỗi phơi bày những đau khổ của ngài, nhưng là để chữa lành cho họ.
Trong bối cảnh tối tăm, Đức Giêsu đã chiếu toả ra tia sáng của lòng thương xót. Ở đây, có một bài học tuyệt vời cho chúng ta. Để kết án người khác thì thật là dễ dàng. Chúng ta phải học hỏi từ gương mẫu không kết án của Đức Giêsu. Chính hành động kết án người khác lôi kéo theo tội lỗi. Chắc hẳn là chúng ta vẫn có đủ thời gian để sửa lỗi cho người khác. Nhưng để làm được điều đó, là cả một nghệ thuật. Công việc này bao gồm đồng thời cả thái độ hoàn toàn tử tế lẫn chân thành. Nhưng sự chân thành chỉ vì mục đích chân thành mà thôi, thì lại có thể mang lại tác dụng xấu.
Chúng ta phải nhìn vào chính bản thân mình. Chúng ta phải sẵn lòng cởi mở tâm hồn mình cho người khác, với cùng một tấm lòng cảm thương, mà chúng ta mong muốn được đón nhận, nếu chúng ta cũng bị lâm vào hoàn cảnh tương tự như vậy. Trong cuộc đời, không có gì quan trọng hơn là bày tỏ lòng thương xót đối với người đồng loại.
“Hãy cứ để cho ai không phạm tội ném hòn đá đầu tiên. Quả thật là đáng sống để có được câu nói đó” (Oscar Wilde).
MỘT CÂU CHUYỆN KHÁC
Có một câu chuyện kể về Vua Salômôn. Từ trong Kinh Thánh, chúng ta được biết rằng ông là một thẩm phán khôn ngoan. Hết năm này sang năm kia, ông ngồi ở vị trí phán xét dân chúng. Nhưng dường như năm tháng trôi qua, dần dần ông trở nên khắc nghiệt và vô cảm. Thật vậy, ông đã trở thành một con người cực kỳ nhẫn tâm và lạnh lùng đối với thần dân. Một ngày nọ, trong khi ông đang ngồi trên ngai, trước khi bắt đầu một phiên toà xử án, thì chiếc vương miện mà ông đang đội tụt xuống tới mắt của ông. Ngay tức khắc, ông kéo nó lên, thì đồng thời nó lại tụt xuống nữa. Điều này diễn ra đến 8 lần. Cuối cùng, ông nói với chiếc vương miện “Tại sao nhà ngươi cứ rơi xuống tới mắt của ta như vậy?”. Chiếc vương miện đáp lại “Tôi phải rơi xuống thôi. Chừng nào mà quyền lực mất đi sự thương xót, thì tôi vẫn còn phải cho ngài thấy được tình trạng đó ra sao?”. Nói cách khác, đó là sự mù quáng. Vua Salômôn thấu hiểu ngay được sự thật. Và bằng lòng tin, ông liền quỳ gối cầu xin Thiên Chúa tha thứ. Ngay tức khắc, chiếc vương miện tự ở yên trên đỉnh đầu của ông.
Khi có điều gì bất ổn, trước hết, bạn hãy nhìn vào thái độ cư xử của chính mình, để xem xét có thể nguyên nhân nằm ở nơi bản thân bạn. Ngay cả sự khôn ngoan của Vua Salômôn vẫn có thể biến thành sự mù quáng.
54. Tha thứ và sửa đổi
Ngày xưa, có một người đàn ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước mặt nhà vua, ngay tức khắc, nhà vua liền ra lệnh treo cổ người đó. Tuy nhiên, khi bị áp tải đến giá treo cổ, người đàn ông đó đã nói với viên cai ngục rằng anh ta biết một điều bí mật, do cha của anh ta chỉ dạy. Anh tuyên bố rằng khi sử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên, trổ sinh hoa quả chỉ trong một đêm. Anh ta nói rằng thật đáng tiếc, nếu bí quyết này bị chôn vùi đi theo cái chết của anh ta, và sẵn lòng bộc lộ bí quyết này cho nhà vua.
Viên cai ngục quá bị gây ấn tượng, đến nỗi ông ta lưỡng lự việc thi hành án, và giải tù nhân trở lại ra trước mặt vua. Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói: Thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một người nào chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì không thuộc về người đó. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được. Thế rồi anh ta quay sang một trong những viên quan của nhà vua và nói: Ngài có thể trồng hạt giống này được chứ ạ?
Nhưng vị quan này từ chối, nói rằng: Khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi. Sau đó, người ăn trộm quay sang người canh giữ kho tàng của nhà vua và nói: Vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ? Nhưng người canh giữ kho tàng cũng từ chối. Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Bây giờ và một lần nữa, tôi đã có thể giữ một ít tiền cho bản thân tôi.
Và cứ thế, cuối cùng chỉ còn lại một mình nhà vua. Quay sang nhà vua, người ăn trộm nói: Có lẽ bệ hạ sẽ vui lòng trồng hạt giống này. Nhưng nhà vua nói "Ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta".
Sau đó, người ăn trộm nói: Tất cả các ngài đều vĩ đại và có quyền lực, và không còn gì để mong muốn nữa. Tuy nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi đã ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ.
Nhà vua tha thứ cho anh ta. Câu chuyện này sẽ có kết thúc khác hẳn, nếu nhà vua không được chuẩn bị để lắng nghe. Thay vào đó, nhờ sự kiên nhẫn của nhà vua, và nhờ óc tưởng tượng của người đàn ông đã bị kết án, mà không ai phải chết, và tất cả đều học được một bài học bổ ích.
Xem ra mọi người đều có tội ít nhiều. Thế nhưng, những kẻ có tội lại hay kết án nhau. Nhiều vụ án bất công, kẻ xử án cấu kết với kẻ có tội và xử cho tại ngoại, còn kẻ vô tội lại phải chịu tội đau đớn. Nhiều kẻ ác lợi dụng địa vị và thế lực gây khổ cho người hiền, ức hiếp người vô tội. Luật sĩ và biệt phái lợi dụng quyền hạn của mình xử án bất công. Họ bắt người thiếu phụ phạm tội ngoại tình và định ném đá còn kẻ tòng phạm thì được tại ngoại. Hơn nữa, họ còn dùng chị làm con chốt thí để gài bẫy âm mưu hại Chúa Giêsu. Họ hỏi Ngài: theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao? Nếu Ngài nói tha thì họ nói Ngài làm trái luật Môsê, nếu nói không tha thì Ngài đã làm ngược lại điều Ngài dạy: phải có lòng nhân từ, khoan dung, tha thứ. Chúa Giêsu biết rõ sự nham hiểm của họ, nhưng Ngài không kết án họ mà giúp cho họ suy nghĩ, đánh động lương tâm mọi người: Ai không có tội thì ném đá chị này trước đi. Không một ai dám cầm hòn đá nữa, họ buông tay bỏ hòn đá rơi xuống chân mình rồi lặng lẽ bỏ đi từng người một, từ người luống tuổi đến kẻ nhỏ nhất. Chỉ còn lại một người vô tội còn đứng đó nhưng không bao giờ cầm hòn đá ném vào ai. Ngài nói với chị phụ nữ: tội con đã được tha, con về bình an và đừng phạm tội nữa. Đấng tốt lành vô cùng lại không muốn kết án ai, còn những người tội lỗi lại hay muốn kết án anh em để che đậy sự nham hiểm xấu xa của mình.
Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ một điều: Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội ta phạm không có nghĩa là Người dung túng cho tội lỗi, nhưng Người muốn cho chúng ta có cơ hội đứng dậy, sửa đổi bản thân mình. Không có ai ghét tội lỗi cho bằng Thiên Chúa, nhưng Chúa không vì thế mà ghét bỏ con người tội lỗi. Ngài phân biệt rõ ràng giữa tội lỗi và con người. Tội lỗi thì đáng ghét nhưng con người thì đáng thương. Chính tội lỗi làm con người mất tự do, khổ sở, nhưng con người vì yếu đuối và thiển cận nên nhiều khi bị ma quỷ lừa gạt. Vì vậy, Chúa Giêsu đã không tiếc mạng sống mình, liều mình cứu con người khỏi vòng nô lệ tội lỗi và sự chết.
Ai lỡ phạm tội mà có lòng thống hối trong niềm trông cậy nơi Chúa Giêsu sẽ được tha thứ, được miễn cho hình phạt đời đời. Chúa Giêsu đã không kết án chị phụ nữ ngoại tình nhưng cứu chị thoát khỏi cái chết trong gang tấc, rồi Ngài tỏ lòng khoan dung: không ai kết án chị ư, tôi cũng vậy. Chị hãy về và "từ nay đừng phạm tội nữa". Từ nay đừng phạm tội nữa là điều quan trọng nhất. Có lẽ chị phụ nữ đã thấm thía hậu quả của tội lỗi mình. hậu quả của tội là cái chết nhục nhã đau đớn, không mấy ai thương tiếc, bởi vì những kẻ giết chị nhân danh luật mà làm. Thế nhưng vận mạng chị đã đổi khác nhờ vào ơn cứu chuộc của Con Một Thiên Chúa. Chị đã biết trông cậy và tin tưởng nơi lòng thương xót Chúa và được ơn giải cứu.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy, Chúa Giêsu luôn đối xử nhân từ và tỏ lòng xót thương. Ngài luôn sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi cho kẻ biết ăn năn và ban ơn cứu độ. Vậy trong mùa chay này, chúng ta hãy chạy đến Người, thú nhận tội lỗi của mình trước mặt Chúa và quyết sửa đổi. Chắc chắn Chúa sẽ không kết án nhưng nói lời tha thứ, tạo cơ hội cho chúng ta được đứng lên làm lại cuộc đời, quyết sống cuộc đời mới trong tình thương của Chúa và mai sau được hưởng hạnh phúc bên Chúa muôn đời.
55. Hãy đi, đừng phạm tội nữa--‘Tin Mừng Chúa Nhật’
Các Kinh sư và các, đạo sĩ Do Thái cố tìm một lời tố cáo để hạ uy tín của Chúa Giêsu; và đây là một sự việc mà họ nghĩ có thể lợi dụng để đưa Ngài vào ngõ bí. Động lực của họ không phải là lòng tôn thờ Thiên Chúa, tuân giữ luật ngài, hay ước muốn sống thánh thiện, nhưng chỉ muốn gài bẫy Chúa Giêsu. Khi có một vấn đề khó khăn liên hệ đến luật pháp xảy ra, theo thói quen, tự nhiên người ta tìm đến một vị thầy, một vị ra-bi để nhờ giải quyết. Xem Chúa Giêsu như một ra-bi, các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái đã đem đến Ngài một phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình.
Theo luật pháp Do Thái, ngoại tình là một trọng tội. Các ra-bi dạy: “Người Do Thái phải bị xử tử khi phạm tội thờ hình tượng, sát nhân và ngoại tình”. Ngoại tình là một trong ba tội lớn nhất và phạm nhân phải chịu chết, mặc dù cách xử tử có thể khác nhau. Kinh Mishnah, bộ luật thành văn của người Do Thái quy định một phụ nữ đã hứa hôn mà phạm tội ngoại tình thì phải bị xử tử bằng cách ném đá. Theo quan điểm thuần tuý pháp lý thì các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái hoàn toàn đúng. Người phụ nữ này đáng bị ném đá chết.
Các Kinh sư và đạo sĩ này muốn Chúa Giêsu phải đối đầu với một vấn đề nan giải: Nếu Chúa Giêsu bảo người đàn bà này phải bị ném đá cho chết sẽ có hai hậu quả: thứ nhất, Ngài không còn được nổi tiếng là người đầy yêu thương và nhân từ, sẽ chưa bao giờ còn được gọi là người đầy yêu thương và nhân từ, sẽ chưa bao giờ còn được gọi là bạn thân thiết của tội nhân. Thứ hai, nếu ra lệnh xử tử, Ngài sẽ đi ngược với luật pháp La mã, vì người Do Thái không có quyền kết tội tử hình hay xử tử bất cứ một ai. Còn nếu Ngài bảo tha cho người đàn bà ấy thì Ngài sẽ bị tố cáo là dạy người ta phá bỏ luật pháp Môsê, là chẳng những dung tha mà còn khuyến khích người ta phạm tội ngoại tình. Đó là cách mà các Kinh sư và đạo sĩ đã gài bẫy Chúa Giêsu. Nhưng Chúa đã khiến cuộc tấn công này đổ ngay lên đầu họ. Trước hết Ngài cúi xuống lấy tay viết trên đất. Tại sao Ngài làm thế? Có thể có bốn lý do:
1. Ngài muốn trì hoãn trong chốc lát để khỏi phải quyết định vội vàng. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, Ngài có thể vừa suy nghĩ, vừa trình vấn đề lên Thiên Chúa.
2. Có vài cổ bản Kinh Thánh thêm câu: “Như thể Ngài không nghe họ nói gì”. Có thể Chúa Giêsu cố tình buộc phải lập lại lời tố cáo, để trong khi nhắc lại, họ nhận thức được sự tàn ác của họ.
3. Trong quyển Ecce Homo, Seeley có một gợi ý rất hay: “Chúa cảm thấy xấu hổ vô cùng, Ngài không thể nào chịu được cái nhìn của đám đông, của những người buộc tội, và có lẽ ít hơn hết, của người đàn bà đó. Trong lúc bối rối và xấu hổ cực độ đó, Ngài cúi xuống dường như giấu mặt đi và bắt đầu viết trên đất. Rất có thể những cái liếc mắt đầy dục vọng của bọn Kinh sư và đạo sĩ Do Thái, cái nhìn trừng trợn và tàn bạo của họ, sự tò mò dâm đãng của đám đông, sự xấu hổ của người đàn bà, tất cả đã kết hợp lại giày vò tấm lòng vừa đau đớn, vừa thương hại của Chúa Giêsu, cho nên Ngài che giấu đôi mắt của Ngài”.
4. Nhưng điều gợi ý thú vị hơn hết phát xuất từ một số thủ bản sau này. Bản Tân Ước tiếng A-mê-ri dịch như sau: “Chính Ngài cúi xuống, lấy ngón tay viết trên mặt đất để tuyên bố tội lỗi họ, và họ thấy nhiều trọng tội của họ viết trên đất”. Ý ở đây là Chúa Giêsu đã viết trên mặt đất các tội lỗi của chính những kẻ đang tố cáo người phụ nữ ấy. Điều này có thể đúng, vì từ viết “Katagraphain” được dùng ở đây có nghĩa là viết (một bản cáo trạng) chống lại một người nào. Có thể Chúa Giêsu buộc những kẻ đang tố cáo người khác phải đối diện với bản liệt kê các tội lỗi của chính mình.
Dầu vậy các thầy luật sĩ và đạo sĩ vẫn một mực đòi hỏi Chúa Giêsu phải trả lời, và họ đã được trả lời. Ngài nói đại khái như sau: “Được rồi! Ném đá đi! Nhưng phải để người nào vô tội ném đá trước!”. Chữ vô tội chẳng những có một nghĩa là không có tội, mà còn có nghĩa là không có một ước muốn tội lỗi nào cả. Chúa Giêsu nói rằng: “Phải, các ông có thể ném đá bà ta, nhưng với một điều kiện là chính các ông phải chưa bao giờ muốn làm như bà này đã làm”. Mọi người đều im lặng, và những người tố cáo lần lần rút lui.
Chúa Giêsu còn lại một mình với người đàn bà. Thánh Âu tinh đã viết: “Bây giờ chỉ còn lại một nỗi đau khổ tràn đầy và một tấm lòng thương xót vĩ đại”. Chúa Giêsu nói với người phụ nữ: không còn ai buộc tội ngươi sao? Bà ta đáp: “thưa không”. Ngài phán: “Ta cũng không định tội ngươi. Hãy đi, làm lại cuộc đời và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Đoạn Kinh Thánh này cho chúng ta biết hai điều và Kinh sư và đạo sĩ Do Thái.
1. Quan niệm của họ về thẩm quyền:
Các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái là những chuyên viên về luật pháp thời đó. Các vấn đề khó khăn đều được đưa tới cho họ quyết định. Đối với họ, thẩm quyền là để phê phán, khống chế và kết tội. Họ hoàn toàn không thể thấy rằng thẩm quyền phải được xây dựng trên tình thương, thông cảm và nhằm mục đích cải hoá kẻ phạm tội. Họ quan niệm vai trò của họ là có quyền đứng trên mọi người khác, như những giám thị nghiêm khắc tìm ra từng lầm lỗi, từng hành động trái pháp luật, và thẳng tay giáng xuống những hình phạt không dung thứ. Họ chẳng bao giờ thấy họ có nhiệm vụ cứu giúp tội nhân.
Ngày nay vẫn còn nhiều người xem địa vị cầm quyền cho mình quyền kết án và nhiệm vụ trừng phạt. Họ nghĩ thẩm quyền của họ đã cho phép họ làm những người bảo vệ chân lý, được huấn luyện để trừng trị tội nhân. Nhưng thẩm quyền chân chính phải được xây dựng trên sự cảm thông. Khi thấy một tử tù đi trên đường đến nơi hành quyết George Whitefeld đã thốt ra lời bất hủ này: “Nếu không nhờ ân sủng của Chúa thì tôi cũng đi đến đó”.
Nhiệm vụ đầu tiên của người cầm quyền là cố tìm động lực thúc đẩy tội nhân phạm tội, và hoàn cảnh đưa đẩy, lôi cuốn vào tội lỗi. Không ai có quyền phê phán kẻ khác, trừ phi đã cố gắng tìm hiểu hoàn cảnh của kẻ bị phê phán. Nhiệm vụ thứ hai của người cầm quyền là phải tìm cách cải hoá người làm sai. Cầm quyền mà chỉ quan tâm tới việc trừng phạt là sai lầm; cầm quyền mà khiến kẻ làm sai tuyệt vọng hay ấm ức là thất bại. Nhiệm vụ của người cầm quyền không phải là để lưu đày hay loại trừ kẻ phạm tội ra khỏi xã hội lành mạnh, nhưng để khiến tội nhân trở thành người tốt. Người cầm quyền phải giống như lương y, chỉ có một ước ao duy nhất là cứu giúp người khác.
2. Biến cố này cho thấy cách sống động thái độ thô bạo của họ đối với dân chúng.
Họ không xem người phụ nữ này là một con người, nhưng như một đồ vật, một dụng cụ nhờ đó họ có được lý cớ để tố cáo Chúa Giêsu. Họ dùng bà như một dụng cụ để thực hiện ý đồ riêng của mình, bà chỉ như một con chốt trong một ván cờ được dùng để tìm cách diệt trừ Chúa Giêsu. Đối với họ, bà không là gì cả, ngoại trừ là một trường hợp ngoại tình trắng trợn và có thể được dùng như một dụng cụ để thoả mãn chủ đích của họ. Họ sẵn sàng sử dụng bất cứ phương tiện nào để đạt cho được mục đích họ mong muốn. Ta thấy tâm tính của con người thường biểu lộ bằng những phương tiện họ sử dụng để đạt mục đích.
Biến cố này cho chúng ta biết nhiều về Chúa Giêsu.
1. Nguyên tắc đầu tiên Chúa là chỉ người vô tội mới được quyền đoán xét lỗi lầm của kẻ khác. Chúa đã phán: “Các ngươi đừng xét đoán ai, để mình khỏi bị đoán xét” (Mt 7,1). Người đoán xét anh em mình chẳng khác gì kẻ có cả một cây đà trong mắt mình lại muốn tìm cách lấy cái rác nhỏ trong mắt người khác (x.Mt 7,3-5). Một trong những lỗi lầm thông thường nhất trong đời sống là, chúng ta đòi hỏi kẻ khác đạt những tiêu chuẩn mà chính mình không hề cố gắng đạt tới; nhiều người trong chúng ta kết án người khác về những lỗi lầm mà chính mình đã mắc phạm. Không thể dựa trên kiến thức để đoán xét người khác, vì ai cũng có tri thức. Phải dựa trên sự thành đạt đạo đức để đoán xét, nhưng không ai trong chúng ta là người toàn thiện cả. Thực trạng của con người cho thấy chỉ có một mình Thiên Chúa có quyền đoán xét, lý do hết sức giản dị là, không một ai lành đủ để đoán xét người khác.
2. Một nguyên tắc khác không kém quan trọng đối với Chúa Giêsu là khi đối diện với người lỗi lầm, trước tiên phải có lòng thương cảm. Có người bảo nhiệm vụ của một bác sĩ là “Thỉnh thoảng chữa lành, thường thường làm bớt đau đớn, và luôn luôn an ủi”. Khi một bệnh nhân được đưa đến một bác sĩ, thì một lương y chẳng bao giờ ghê tởm bệnh nhân, cho dù người ấy đang mắc phải chứng bệnh đáng ghê tởm. Thật ra, sự ghê tởm, nhờm gớm thường khó tránh được, nhưng nó bị lòng ước muốn trợ giúp, chữa trị lấn át. Khi đối diện với người phạm lỗi, trước tiên chúng ta không nên có cảm nghĩ: “Đối với hạng người như vậy mình không nên tiếp tục liên hệ” nhưng phải nói “mình có thể làm gì để giúp người ấy? Mình có thể làm gì để hoà giải những hậu quả của lỗi lầm?”. Nói cách đơn giản, ta phải dành cho người khác sự thương cảm mà chúng ta vẫn mong chờ người khác dành cho, khi chúng ta lỡ sa vào cùng một hoàn cảnh ấy.
3. Điều quan trọng chúng ta phải thấu triệt là cách Chúa Giêsu đối xử với phụ nữ này. Từ việc này, chúng ta dễ rút ra bài học hoàn toàn sai lầm là Chúa Giêsu tha thứ cách nhẹ nhàng, dễ dàng như tội này chẳng có gì đáng quan tâm. Điều Ngài nói: “Lúc này Ta cũng không định tội ngươi, hãy đi và đừng phạm tội nữa”. Trong một cách Chúa Giêsu đã không huỷ bỏ việc xét đoán và nói: “Đừng lo, không sao đâu!”. Điều Ngài làm là hoãn lại lời kết án, Ngài phán: “Bây giờ Ta chưa xét đoán ngươi. Hãy đi và chứng minh rằng ngươi có thể sống tốt lành hơn. Ngươi đã phạm tội, hãy đi và đừng tái phạm. Ta sẽ luôn giúp đỡ ngươi. Đến ngày tận thế Ta sẽ xét lại xem ngươi đã sống như thế nào.” Thái độ của Chúa Giêsu đến với tội nhân bao giờ cũng bao gồm một số điều sau đây:
a. Một dịp thuận tiện thứ hai.
Chúa ban cơ hội để sửa chữa lỗi lầm, như thể Người đến bảo người đàn bà ấy rằng: “Ta biết ngươi lộn xộn lắm, nhưng cuộc đời vẫn chưa chấm dứt. Bây giờ Ta cho ngươi thêm một cơ hội để chuộc lấy mình”. Trong Chúa Giêsu, có Tin Mừng về một dịp thứ hai, Ngài luôn tha thiết quan tâm đến một người, không những đã sống như thế nào, mà còn có thể trở nên như thế nào. Ngài không hề bảo những gì người ta đã làm là không quan trọng. Vi phạm luật pháp và làm người khác đau khổ luôn luôn là việc hệ trọng. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ mỗi người đều có một tương lai cũng như đã từng có một quá khứ.
b. Một sự thương cảm.
Điều khác nhau căn bản giữa Chúa Giêsu và nhóm Do Thái là họ muốn kết tội, còn Chúa Giêsu muốn tha thứ. Nếu đọc kỹ câu truyện chúng ta sẽ thấy họ chỉ muốn ném đá người đàn bà này cho chết, và họ cảm thấy rất thích hợp được làm điều này. Họ cảm thấy vui sướng khi hành quyền kết tội, còn Chúa Giêsu vui sướng khi hành quyền tha thứ. Chúa Giêsu nhìn tội nhân với sự cảm thương phát xuất từ tình yêu thương, còn các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái nhìn tội nhân với thái độ ghê tởm, bắt nguồn từ việc coi mình là thánh thiện.
c. Một niềm tin vào bản tính con người.
Nghĩ cho kỹ chúng ta phải bàng hoàng khi nghe Chúa Giêsu nói với người đàn bà xấu nết: “Hãy đi, đừng phạm tội nữa”. Điều lạ lùng và phấn khởi là Chúa Giêsu tin vào con người. Đối diện với một người từng làm ác, Ngài không bảo “ngươi thật là một kẻ xấu xa, chẳng còn hy vọng gì nữa”. Ngài tin rằng với sự trợ giúp của Ngài, tội nhân có thể trở thành bậc thánh. Phương pháp của Chúa Giêsu không phải là tống cho con người, ý thức, mà họ đã có, rằng họ là tội nhân khốn nạn, nhưng ban cho họ một niềm hứng khởi để khám phá một điều mà trước đây họ chưa hề trông thấy, đó là toàn năng trở thành thánh nhân.
d. Một hàm ý cảnh cáo.
Tại đây chúng ta đối diện với sự kiện vĩnh cửu, đời đời. Ngày hôm ấy Chúa Giêsu bắt người đàn bà phải lựa chọn, hoặc trở về đường lối cũ, hoặc cùng Ngài tiến trên con đường mới. Đây là câu truyện chưa kết thúc, vì mỗi đời sống chưa kết thúc cho đến khi ra đứng hầu toà trước mặt Thiên Chúa.
56. Tha thứ trong thinh lặng--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
Phiên tòa xử người đàn bà phạm tội ngoại tình diễn ra khi Chúa Giêsu bắt đầu bài giảng của Ngài. Thánh Gioan không nói rõ nội dung của bài giảng của Chúa Giêsu, nhưng khi đặt phiên tòa vào khởi đầu của bài giảng của Chúa Giêsu, thánh nhân hẳn đã muốn nêu bật một cung cách rất đặc biệt trong sự giảng dạy của Chúa Giêsu. Khi các biệt phái đưa người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu và hỏi ý kiến Ngài. Chúa Giêsu đã giữ thinh lặng. Ngài không còn nói nữa mà lại cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Từ hàng bao thế kỷ qua, các nhà chú giải Kinh Thánh đã nhọc công nghiên cứu mà vẫn không ra, đối với thánh Gioan, người ghi lại biến cố này, điều quan trọng không phải là nội dung của những lời Chúa Giêsu đã viết ra mà chính là sự thinh lặng của Ngài.
Cử chỉ không lời của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay cũng có thể được xem như một bài dụ ngôn bằng hành động mà Ngài muốn dạy cho dân chúng. Ngài muốn cho dân chúng thấy rằng những gì Ngài làm còn quan trọng hơn là những lời Ngài nói. Chúa Giêsu đã dạy bằng nhiều dụ ngôn. Có những dụ ngôn bằng lời nói nhưng cũng có những dụ ngôn bằng hành động. Khi Ngài đến ngồi đồng bàn với các tội nhân, khi Ngài quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, đó là những dụ ngôn bằng hành động, qua đó Ngài muốn nói lên tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Chỉ trong thinh lặng, con người mới có thể trở về với cõi lòng và nghe được tiếng nói của Chúa trong lương tâm. Đây là sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn nói với các biệt phái và đám đông đến nghe Ngài giảng dạy. Người ta ồn ào và hung hãn bao nhiêu khi lôi người đàn bà ngoại tình tới trước mặt Chúa, thì giờ đây trong thinh lặng do Ngài gợi lên người ta lại càng nhận ra chính bản thân tội lỗi của mình hơn. Trước đó, người ta càng mạnh bạo để kết án người khác bao nhiêu, thì giờ đây người ta lại càng rụt rè xấu hổ bấy nhiêu.
Có thinh lặng con người mới đi sâu vào cõi lòng mình. Có thinh lặng con người mới nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình. Có thinh lặng con người mới có thể tha thứ cho người khác. Có thể đó là bài học mà đám đông dân chúng đã tiếp thu được trong phiên tòa xử người đàn bà phạm tội ngoại tình ngày hôm đó.
Mọi người đều rút lui, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Họ rút lui trong thinh lặng. Có lẽ đây là lần đầu tiên đám đông dân chúng ra về trong thinh lặng. Họ đã nắm bắt được nội dung của bài giảng ngày hôm đó. Hôm ấy Chúa Giêsu không chỉ tha thứ và giải cứu cho người đàn bà ngoại tình. Ngài cũng đã loan báo chính số phận của Ngài, rồi đây Ngài cũng bị điệu ra trước tòa án để xét xử. Nhưng như Ngài đã cúi xuống và thinh lặng trong phiên tòa xử người đàn bà ngoại tình, Ngài cũng phải giữ thinh lặng trong suốt phiên tòa của Ngài. Và tuyệt đỉnh của sự thinh lặng ấy là cử chỉ tha thứ của Ngài khi bị treo trên thập giá. Ngài đã thể hiện sự tha thứ bằng thinh lặng. Không phải chỉ có ấn phẩm mới đáng kể, im lặng cũng là nói lên một cách phát biểu, đó là im lặng của cái chết, im lặng của phẩm cách, im lặng của tĩnh tâm, im lặng của quá trình tăng trưởng, im lặng của thận trọng và nhất là im lặng của tha thứ.
Ngày nay, có quá nhiều những lời nói suông. Trong nền văn minh tràn đầy những ấn phẩm và trào ứa thông tin, những thứ tiếng ồn ào phát ra từ các phương tiện truyền thông, từ lãnh vực thương mại và chính trị. Ngay cả tình yêu cũng được diễn tả bằng những lời nói suông.
Trong những ngày này, Giáo Hội mời gọi chúng ta đi vào thinh lặng của cõi lòng và lắng nghe sự thinh lặng của Chúa Giêsu trên thập giá. Từ trên thập giá Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở về với cõi lòng để nhận ra thân phận tội lỗi của chúng ta, để nghe được lời tha thứ của Ngài và nhất là để tha thứ cho người khác.
57. Lòng Chúa khoan dung
Trong kinh Tin kính, chúng ta hằng tuyên xưng: Tôi tin phép tha tội. Phải chăng đó là một sự tưởng tượng, một giấc mơ, hay một sự thật? Kinh nghiệm cho thấy: Nhân vô thập toàn, đã là người thì ai cũng có những sai lỗi và khuyết điểm của mình. Phải chăng chúng ta cứ mãi mãi vùng vẫy trong chốn bùn nhơ tội lỗi, không có cơ may trỗi dậy để được thanh tẩy?
Đoạn Tin mừng hôm nay đem lại cho chúng ta niềm xác tín: Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta vì Ngài là một người cha nhân từ và giàu lòng thương xót khoan dung. Mọi tội lỗi của chúng ta sẽ được Ngài xoá bỏ, nếu chúng ta biết trở về với Ngài.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy khi nói về sự tha thứ tội lỗi, Chúa Giêsu đã dùng những ngôn từ thật phong phú và những hình ảnh thật cảm động. Thực vậy, Ngài đã xuống trần gian để làm gì, nếu không phải là để giải phóng con người khỏi sự trói buộc của tội lỗi.
Ngài đã sánh ví mình như người mục tử nhân lành, lên đường tìm kiếm con chiên bị là mất và khi tìm thấy, liền vác nó lên vai, đem về nhà, mời bạn hữu đến chia vui với mình. Ngài không phải chỉ nhắm mắt làm ngơ trước những tội lỗi của chúng ta, mà hơn thế nữa, Ngài còn xoá bỏ và tha thứ, như lời Ngài đã xác quyết: Một kẻ tội lỗi trở lại sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn. Ngài sánh ví mình như người đàn bà đốt đèn tìm kiếm đồng bạc đã bị đánh rơi và Ngài nhấn mạnh: Không phải những người khoẻ mạnh, mà là những kẻ đau yếu mới đến thầy thuốc. Ngài không đến để kêu gọi người công chính, nhưng đến để kêu gọi kẻ tội lỗi biết đường sám hối ăn năn. Ngài sánh ví mình như người cha mòn mỏi trông chờ đứa con hang đàng, để khi cậu trở về thì liền tha thứ và mở tiệc ăn mừng.
Ngài không phải chỉ giảng dạy về lòng nhân hậu khoan dung, mà hơn thế nữa, Ngài còn biểu lộ lòng nhân hậu khoan dung ấy qua những hành động cụ thể. Ngài đã tha thứ cho Mađalêna, người đàn bà tội lỗi. Ngài đã tha thứ cho Phêrô, người môn đệ đã chối bỏ Ngài. Ngài đã tha thứ cho tên trộm lành vào những giây phút cuối cùng trên thập giá. Và hôm nay, Ngài đã tha thứ cho người thiếu phụ ngoại tình, mà chiếu theo luật Do Thái, thì sẽ bị ném đá cho chết.
Dựa vào những sự kiện trên, chúng ta có thể vui mừng tuyên xưng: Tôi tin phép tha tội. Kể từ nay, chúng ta không còn phải mang gánh nặng tội lỗi trong tâm hồn, nếu chúng ta biết chạy đến nơi toà cáo giải, bí tích của lòng nhân từ và khoan dung. Vật bí tích giải tội là gì?
Tôi xin thưa, bí tích giải tội trước hết là sự quét tước lau chùi cho sạch sẽ. Thực vậy, để dọn dẹp một căn phòng, chúng ta thường phải mở cửa, quét dọn mọi xó góc và lau sạch mọi bụi bẩn. Sau đó, chúng ta kê lại bàn ghế, sắp xếp lại mọi đồ đạc và rồi chúng ta sẽ có được một bầu khí trong lành và ấm cúng. Thánh Bernađô đã coi những giọt nước mắt của cõi lòng sám hối ăn năn là như một bí tích rửa tội. Chúng ta được rửa sạch mọi vết nhơ tội lỗi bởi những giọt nước mắt ấy. Và tôi có thể đưa ra một so sánh: Kẻ chạy trốn tiếng nói lương tâm cũng giống như một người đàn bà già. Đúng thế, thuở trước khi còn trẻ người ấy thích soi gương để chiêm ngắm nhan sắc của mình, nhưng từ khi khám phá ra những nếp nhăn trên khuôn mặt, người ấy đã đập bể tấm gương để không còn nhìn vào đó nữa. Cũng vậy, kẻ có tội không bao giờ muốn tự vấn lương tâm, không bao giờ muốn nhìn vào tận đáy tâm hồn mình vì hắn sẽ khám phá ra những vết nhơ của tội lỗi. Hắn không muốn đi xưng tội, cũng giống như người đàn bà già không muốn nhìn thấy khuôn mặt mình trong gương.
Ngoài ra, bí tích giải tội còn là một sự thức tỉnh, kéo chúng ta ra khỏi cơn mộng dữ, giải thoát chúng ta khỏi gánh nặng tội lỗi và bảo đảm cho chúng ta sự sống ơn sủng. Thực vậy, bởi một người mà tội lỗi đã đột nhập vào thế gian. Và hậu quả của tội lỗi là sự chết. Sự chết được truyền thông cho mọi người, bởi vì tất cả chúng ta đều phạm tội. Nếu tội lỗi là nguồn gốc sinh ra cái chết, thì việc tha thứ sẽ đem lại cho chúng ta sự sống ân sủng. Nếu tội lỗi sinh ra lo âu và buồn phiền, thì sự tha thứ sẽ đem lại bình an và hạnh phúc. Nếu tội lỗi là những con sâu cắn hại lá cây, thì sự tha thứ sẽ là những giọt sương mai làm cho cây cối xanh tươi.
Sa ngã, vấp phạm là chuyện thường tình của thân phận con người yếu đuối. Nhưng sám hối ăn năn mới là chuyện đáng kể do lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều có thể sa ngã vấp phạm, đó là bi kịch của đời sống con người. Nhưng tất cả chúng ta cũng đều có thể trỗi dậy, đó là niềm an ủi của đức tin Kitô giáo. Nếu biết ăn năn sám hối, chúng ta sẽ không còn phải lo sợ, vì máu Đức Kitô sẽ mạnh hơn mọi thế lực: Nếu chúng ta xưng thú tội lỗi, thì Thiên Chúa trung thành và công chính sẽ tha thứ cho chúng ta và xoá bỏ khỏi tâm hồn chúng ta những bồn chồn lo lắng. Hãy đến quì bên toà cái giải để được Chúa tha thứ. Tâm hồn chúng ta là một tấm gương phản chiếu hình ảnh Thiên Chúa, đừng làm cho nó bị lu mờ. Tâm hồn chúng ta là một chiếc bình quí giá, đừng làm cho nó bị vỡ ra thành từng mảnh. Tâm hồn chúng ta là một cây đàn, đừng làm cho nó trở thành ngang cung. Tâm hồn chúng ta là một cánh hoa tươi xinh, đừng vùi dập nó trong đống bùn nhơ. Tâm hồn chúng ta là một ngọn lửa, đừng dập tắt nó.
Đavít đã khóc thương cho tội lỗi của mình và đã được Chúa tha thứ. Mađalêna đã quỳ gối lấy tóc lau chân Chúa và đã được Chúa tha thứ. Phêrô đã đấm ngực ăn năn và đã được Chúa tha thứ. Chúng ta cũng vậy, với tâm tình sám hối, chúng ta hãy chạy đến nơi toà cáo giải để được Chúa thứ tha, bởi vì Chúa chẳng bao giờ chê bỏ những tấm lòng tan nát khiêm cung.
58. Trở về với chính mình
Mùa chay là thời điểm thuận tiện để mỗi người chúng ta làm một cuộc trở về. Trở về với Chúa, với anh em và với chính mình.
Tin mừng của Chúa nhật 4 Mùa Chay tuần qua là lời mời gọi tha thiết chúng ta trở về với Chúa và với anh em của mình qua dụ ngôn "người cha nhân hậu". Trong Tin mừng hôm nay, qua việc các kinh sư và người Pharisêu cố tình gài bẫy Chúa Giêsu trong việc xét xử người đàn bà bị bắp quả tang phạm tôi ngoại tình, Chúa Giêsu đã mời gọi mọi người hãy trở về với cõi lòng mình trước khi thực hiện hành động xét xử người khác. Nói cách khác, đó là lời mời gọi từng người chúng ta hãy trở về với chính mình. Đây là việc làm khôn ngoan, phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Trở về với chính mình là một một việc làm thật quan trọng. Nhờ biết trở về với chính mình, biết nhìn vào tận cõi lòng mình mà những Kinh sư và những người Biệt Phái lần đầu tiên nhìn nhận mình là những kẻ tội lỗi. Chúa Giêsu mời gọi họ quay trở về với chính mình cách hết sức tế nhị và độc đáo: "Ai trong các ngươi sạch tội thì hãy ném đá người này trước đi". Lời nói chân tình ấy là bảng chỉ đường tuyệt vời cho những kinh sư và Biệt Phái trở về với chính mình. Trước khi gặp Chúa Giêsu, khi chưa trở về với chính mình, các Kinh sư và Biệt Phái không hề nhìn nhận mình là kẻ có tội. Các ông luôn chọn cho mình thế đứng cao hơn mọi người "Lỗi lầm là của ai đó chứ không bao giờ phải là của tôi". Và cho đến khi gặp được Chúa Giêsu, được Ngài chỉ đường cho họ trở về với chính mình thì họ đã nhận ra mình cũng là tội nhân trước mặt Thiên Chúa, cũng cùng trong tình trạng tội lỗi như người phụ nữ kia thôi, có khác chăng là chưa bị ai "bắt gặp quả tang". Nhưng trước toàn án lương tâm, họ đã thú nhận tình trạng đích thực của mình. Chúa Giêsu nhắc nhớ họ: "Ai trong các ngươisạch tội, thì cứ việc lấy đá ném đi". Và khi nghe những lời đó, những Luật sĩ và Biệt Phái rút lui hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi nhất.
Có lẽ đây là bài giảng ngắn nhất nhưng mang lại hiệu quả nhất của Chúa Giêsu. Bởi vì trước đây, những người Biệt Phái và luật sĩ chẳng bao giờ đủ khiêm tốn để nhìn nhận mình là kẻ có tội dù là trước Thiên Chúa hay trước mặt ai khác. Từ hệ quả này, chúng ta thấy rằng: Việc kêu gọi con người trở về với chính mình, nhìn vào tận cõi lòng mình quan trọng biết là ngần nào! Một trong những chuyện nguy hiểm nhất là trong đời sống đức tin là ảo tưởng về chính mình, tưởng mình là vô tội, là thánh thiện và trong sạch hơn mọi người. Chúa Giêsu đã giúp cho những Biệt Phái và Luật sĩ nhận ra sai lầm chết người ấy để họ kịp sửa chữa lầm lạc của mình. Đó cũng là lời mời gọi và là bảng chỉ đường yêu thương cho chính chúng ta nữa: Hãy trở về với cõi lòng mình, với chính mình. Một mình mình đối diện với toà án lương tâm ngay thẳng của chính mình để thấy, để nhìn nhận thân phận đích thực của mình là gì? Là tội nhân trước mặt Thiên Chúa!
Qua cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với những luật sĩ, biệt phái và dân chúng hôm nay, chúng ta khám phá ra rằng: Chúa Giêsu chính là con đường dẫn đưa con người tới sự sống trong hạnh phúc và tình yêu. Ngài luôn luôn mở ra những con đường sống cho mọi người. Trong khi đó, con người ta rất thường hay đặt dấu chấm hết cho người khác; thích đẩy người khác đi vào ngõ cụt và coi đó như là thành công của mình! Con người thích làm quan toà xét xử người khác nhưng lại quá dễ dãi với chính mình và thường rất mù loà trước tội lỗi của mình. Người ta sánh ví như sau: "Con người ta thường đeo 2 cái túi: một cái để sau lưng và một cái đeo trước bụng. Cái để ở sau lưng thì chứa tội của mình; Cái đeo trước ngực thì chứa tội của người khác. Vì thế, chúng ta rất dễ thấy lỗi lầm của người khác mà hay quên đi thiếu sót của mình, nên thường chỉ lo kết án người khác thôi. Chúng ta đừng ảo tưởng về chính mình là người trong sạch!
Khôn ngoan là hãy để cho Chúa xét xử vì Ngài hiểu thấu tâm tư và cõi lòng của mọi người, còn nhiệm vụ và quyền lợi của chúng ta hãy biết cảm thông thật nhiều, tha thứ thật nhiều và yêu thương mọi người thật nhiều như Chúa đòi hỏi, "yêu như Thầy đã yêu". Amen.
59. Lòng thương xót
Trong cuộc đời của mình, chúng ta có khuynh hướng đưa ra một giá trị cao hơn về nhân đức tốt lành – sự tử tế rõ rệt, thông thường và diễn ra hằng ngày. Khi nhìn lại cuộc sống của mình, chúng ta cảm thấy tiếc nuối, khi nhớ đến những hành vi thiếu sự tử tế. Nhưng khi nhớ lại những hành động ân cần tận tuỵ của mình, thì đó thật là những giây phút đáng yêu. Sự tử tế chủ yếu là lẽ công bằng đích thực. Đức Giêsu đặc biệt thương cảm đối với những kẻ mà người ta đưa ra cho Người phán xét. Một ví dụ kinh điển là câu chuyện nói về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Câu chuyện này cảnh báo chúng ta chống lại thói quá vội vã trong việc đưa ra phạm vi luân lý cao. Ai trong chúng ta là người vô tội? Chúng ta phải học hỏi từ ví dụ của Đức Giêsu. Người kết án tội lỗi của người phụ nữ đó, nhưng Người từ chối không kết án bản thân chị ta. Không phải là tội lỗi đó không thành vấn đề đối với Người. Có chứ. Nhưng Người phân biệt giữa tội lỗi và tội nhân. Người kết án tội lỗi, nhưng lại tha thứ cho tội nhân.
Và động cơ quan trọng nhất trong tất cả hành động này của Người, đó chính là tấm lòng thương xót. Vấn đề không phải là hào phóng, nhưng là biết thương xót. Một người thánh thiện,, thì càng ít có khuynh hướng phán xét người khác. Trong mỗi con người, đều có khuynh hướng muốn tránh né quyền phê phán của bất cứ người nào khác.
Đức Giêsu từ chối việc phán xét người phụ nữ ngoại tình. Nhưng Người nói với chị ta “Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”. Nói cách khác, Người không hề phủ nhận tội lỗi của chị ta. Người bảo chị ta hãy thừa nhận và chịu trách nhiệm về tội lỗi của mình. Thật là dễ dàng hơn nhiều, khi người ta chối tội, biện hộ, hoặc đổ tội cho người khác. Khi người ta biết trực diện với tội lỗi và giải quyết nó, thì không còn gì để đổ tội, hối tiếc, ân hận, hoặc thất vọng nữa.
Lòng thương xót và sự tha thứ của Đức Giêsu mang lại sự sống. Người phụ nữ đó đã được tự do ra đi – tự do để thay đổi thái độ sống của mình, và lấy lại được lòng tự trọng. Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng con người có khả năng thay đổi, nếu được tạo cho cơ hội.
Sứ vụ của Giáo Hội phải là một nơi dành cho sự tha thứ, sao cho những kẻ đã bị sa ngã (tất cả chúng ta đều đã từng sa ngã, theo nhiều cách thức và mức độ khác nhau) đều cảm nghiệm được tình yêu thương và lòng thương xót của Đấng đã khước từ việc kết án. Giáo Hội phải trở thành một cộng đoàn của ân sủng, một cộng đoàn không câu nệ vào luật lệ, một cộng đoàn sẽ không kết án, nhưng sẽ yêu thương, một cộng đoàn quan tâm đến lòng thương xót, hơn là sự công bằng.
Ngày kia, có một phụ nữ đến van xin hoàng đế Napoléon tha thiết cho người con trai của bà. Anh thanh niên đó đã phạm một tội nặng. Lề luật đã rõ rệt. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý. Nhưng bà mẹ nài nỉ “Thưa bệ hạ, tôi đến van xin lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý”. Hoàng đế Napoléon trả lời “Nhưng hắn ta không xứng đáng được thương xót”.
Bà mẹ nói “Thưa bệ hạ, nếu nó xứng đáng, thì không còn gọi là lòng thương xót nữa”.
Hoàng đế Napoléon đáp “Thôi được. Ta sẽ rủ lòng thương xót nó”. Và ông sai thả người thanh niên đó ra.
Về bản thân, sự thương xót thuần tuý là một quà tặng. Đây là điều gì đó mà tất cả chúng ta đều cần đến, và do đó, chúng ta phải sẵn sàng mở lòng ra với người khác. Chúa nói “Phúc cho kẻ có lòng thương xót”.
60. Tình cảm
Người ta thường nói rằng con người chúng ta có bảy thứ tình cảm là Hỉ Nộ Ai Cụ Ái Ố Dục. Hỉ là vui, nộ là giận, ai là buồn, cụ là sợ, ái là thương, ố là ghét và dục là muốn. Tất cả gồm bảy tình cảm, “thất tình”. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết thêm một thứ tình cảm nữa, đó là thương xót.
Thương xót là gì? Thưa là một tâm trạng đặc biệt vừa êm đềm ngọt ngào (thương) vừa đau đớn đắng cay (xót).
Hai cảm giác mâu thuẫn vừa thương lại vừa xót ấy trỗi dậy trong lòng chúng ta khi chúng ta đứng trước một người chúng ta thương những người ấy vừa phạm một lỗi lầm.
Khi đó, chúng ta phải đối xử thế nào? Lên án chăng? Không được, vì làm như thế là không thương. Bỏ qua chăng? Cũng không được, vì làm như thế là dung túng cho sự xấu. Vậy làm thế nào bây giờ? Chúng ta hãy nhìn Chúa Giêsu: Ngài nói với người phụ nữ ngoại tình “Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Nghĩa là Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Nếu Ngài lên án thì chị này phải chết, không còn cơ hội nào nữa. Nếu Ngài bỏ qua thì chị này sẽ tiếp tục phạm tội, cũng không có cơ hội. Ngài bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Tại sao Chúa ban cơ hội cho người tội lỗi? Chúng ta cũng hãy tìm lý do trong bài Tin Mừng này. Và ta tìm gặp trong câu Chúa nói với những người muốn giết người phụ nữ ngoại tình ấy: “Ai trong các ông không có tội thì hãy ném đá chị này trước đi”. Vậy lý do là bởi vì ai cũng có tội. Thân phận làm người là như thế, đã là người thì có tội. Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành và thánh thiện, đúng lý ra Ngài có đầy đủ lý do để lên án loài người tội lỗi chúng ta, nhưng vì thương xót, Ngài đã ban cho chúng ta biết bao cơ hội: “Ta không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống”. Trong dụ ngôn về hai con nợ, Chúa Giêsu cũng nói một câu đáng chúng ta suy nghĩ: “Sao ngươi không biết thương xót bạn ngươi như Ta đã thương xót ngươi”.
Một quyển sách tựa đề “Tình trên non cao” kể rằng có một cặp vợ chồng trẻ rất yêu thương nhau và sống với nhau trên một ngọn núi cao, rất hạnh phúc. Hạnh phúc đến nỗi nhiều lần họ hô to giữa trời lồng lộng “Chúa ơi, sao mà chúng con hạnh phúc quá!”. Nhưng đâu phải chỉ sống với nhau mãi trên núi mà hạnh phúc. Người chồng thỉnh thoảng cũng phải xuống núi để làm ăn. Trong một chuyến xuống núi, người chồng đã lỡ sa ngã ngoại tình với một người đàn bà khác. Người vợ biết được, rất giận, từ đó không nói chuyện với chồng nữa. Phần người chồng thì cũng hối hận nhưng không thể nào xin lỗi được vì mỗi lần muốn nói lời xin lỗi với vợ thì vợ bỏ đi nơi khác. Một đêm kia người chồng trên đường lên núi về nhà thì gặp bão tuyết, chiếc xe ngựa bị gãy, con ngựa bị què, anh cũng bị thương nặng ở chân. Nhưng anh vẫn cố bò về tận cửa nhà. Người vợ ở trong nhà nhìn ra thấy chồng lết tới cửa, nhưng chị nhất định không mở cửa. Sáng hôm sau, người ta thấy xác người chồng đã cứng đờ ngay trước mái ấm gia đình của mình. Một mối tình rất hạnh phúc trên non cao đã kết thúc bi thảm như thế, chỉ vì người vợ không biết thương xót, không cho chồng mình một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Cuộc đời quả thật không đơn giản trắng là trắng, đen là đen, tốt là tốt, xấu là xấu. Trong một dụ ngôn, Chúa Giêsu cho chúng ta biết cuộc đời phức tạp như một mảnh ruộng có cả lúa và cỏ lùng lẫn lộn. Lòng người cũng thế, có khi tốt như thiên thần, có khi xấu như ác quỷ, có phần sáng có phần tối, dù lỡ phạm tội nhưng vẫn còn lương tâm. Bởi thế con người sống với nhau phải có lòng thương xót. Mà thương xót là, xin lặp lại một lần nữa, biết ban cho kẻ lỡ lầm có cơ hội làm lại cuộc đời.
Chúa đã thương xót chúng ta cho chúng ta biết bao cơ hội. Chúng ta cũng thương xót chính mình nên tự cho mình rất nhiều cơ hội. Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta thương xót anh chị em chúng ta để ban cho anh chị em chúng ta những cơ hội làm lại cuộc đời.
61. Đừng phạm tội nữa
Bắt đầu rao giảng, Đức Giêsu kêu gọi: Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần. Năm tuần mùa Chay được sắp đặt như là một tóm kết súc tích về giáo huấn của Đức Giêsu, nói rỏ về hối cải:
Tuần I Chay: Ăn chay, làm việc lành cụ thể là ăn chay, bố thí và cầu nguyện để làm chủ bản thân.
Tuần II Chay: chống lại các cám dổ để không phạm tội bị lôi cuốn theo những chuyện thế tục.
Tuần III Chay: Rỏ ràng hơn: không hối cải thì chết hết. Cây vả không sinh trái thì phải chặt đi để hại đất. Có hoản, nhờ có ơn cứu độ thì cũng chỉ một năm. Tiếp tục không sinh trái thí năm sau phải chặt. Ba năm là tuổi trời cho mỗi người, chỉ hoản được một năm thôi. Sinh trái là tích cực, làm việc lành, sinh lợi.
Tuần IV Chay: Một ngưòi tội lỗi hối cải, trên trời vui mừng. Hối cải là trở về. Đứa con là người có tự do. Tự do đi thì tự do về. Không như đồng bạc bị mất thì phải quét tước tìm cho được. Con chiên đi lạc chủ phải đi tìm rồi vác trên vai đem nó về (vì nó đâu có biết về). Chúa tìm người tội lỗi bằng cách để nó đi tới cùng đường khốn khổ để nó biết hồi tâm và quyết tâm trở về. Về thì được đón tiếp không về thì đành chịu.
Tuần V Chay: Là câu kết chung: Đừng phạm tội nữa. Không có tội, là người công chính, đạo đức mới sẳn sàng theo Đức Giêsu vào tuần Thương khó. Những người có tội thì chỉ có kết án và đóng đinh Đức Giêsu. Câu chuyện'Người phụ nữ ngoại tình' bị bắt quả tang đáng lẻ phải bị ném đá, không phải là bài học mà chỉ là ' miếng trầu làm đầu câu chuyện'. Câu 'chìa khóa' làm bài học là 'đừng phạm tội nữa'. Ý tưởng nằm ngầm trong mọi lời dạy của Đức Giêsu là mọi người đều có tội. 'Ai có tội thì ném dá trước đi' và tất cả họ rút êm. Thiên Chúa chỉ có yêu thương ' mãi mãi Chúa là Tình Yêu' và không có gì khác nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa không kết án nhưng không hối cải thì 'chết hết'. Nhưng coi chừng hiểu sai tình yêu của Thiên Chúa. Đức Giêsu làm thinh, lấy ngón tay viết trên đất. Không một lời lớn nhỏ nào. Nhưng cũng rất dịu dàng, từ tốn. Tôi cũng không kêt án chị. Thiên Chúa không kết án, nhưng không hời hợt mà lạnh lùng, sự lạnh lùng nghiêm khắc. Người không nói " tốt, tốt" về bình an. Phạm tội là không tốt chút nào. Ghét con cho ngọt cho bùi. Thiên Chúa không có ghét nên cũng không cho ngọt cho bùi để nó hư thêm và cuối cùng là..... Về đi, đừng phạm tội nữa. Lở lầm một lần thì thôi. Phạm nữa thì chết. Thiên Chúa không muốn người tội lỗi phải chết vì Thiên Chúa là tình yêu nên muốn nó hối cải mà được sống. Phạm tội là chuyện của con người, của tự do. Phải giúp nó hối cải, là đừng phạm tội nữa chứ không phải là cứ phạm tội rồi xưng tội là hềt. Cũng không phải chỉ rán đừng phạm tội mà đừng phạm tội để cùng Đức Giêsu đi vào tuần thương khó, sự thanh tẩy cuối cùng và trọn vẹn để hướng tới sự Phục Sinh Vinh quang là đích điểm của đời người. Có cùng Đức Giêsu đi qua thập giá mới tới được Phục Sinh vinh quang.
Xin Chúa giúp con cùng Chúa vào tuần thương khó, vượt qua thập giá, mừng lể Phục Sinh, nắm chắc niềm hy vọng được Phục sinh vinh quang với Chúa.
62. Giới luật yêu thương
Ông bà và anh chị em thân mến!
Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, Ngài đã đến thế gian để giữ gìn che chở và cứu thoát con người khỏi ách nô lệ, khỏi ách tội lỗi của thế gian và làm cho con người được sự sống mới trong tình yêu thương của Thiên Chúa. Bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia tường thuật lại việc Thiên Chúa đã cứu dân Ngài vượt qua biển đỏ thoát cảnh nô lệ Ai Cập. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu đã mặc cho lề luật một tinh thần mới, vì Ngài đến để kiện toàn lề luật của Thiên Chúa.
Bài Phúc Âm thánh Gioan hôm nay cho ta thấy Chúa Giêsu đã dùng trái tim nhân hậu của Thiên Chúa để cứu một tội nhân là người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Thật ra, tội ngoại tình theo lề luật trong sách Lêvi và sách Đệ Nhị Luật thì tội nhân phải bị xử tử. Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đấng giàu lòng thương xót, Ngài đến thế gian để tìm kiếm và chữa lành những tâm hồn tội lỗi biết ăn năn sám hối. Vì lý do này mà các Kinh Sư và Biệt Phái rất khó chịu và chống đối Đức Giêsu. Người đàn bà phạm tội ngoại tình mà hôm nay các ông đưa tới nhằm gây sự khó khăn cho Đức Giêsu, họ xem Ngài phán xét như thế nào trước một tội phạm rành rành như vậy. Nếu Đức Giêsu cũng kết án tử cho chị ta, thì Ngài cũng đâu có yêu thương và chữa lành cho tội nhân gì đâu! Nhưng nếu Đức Giêsu không kết án chị ta, thì Ngài đi ngược lại với luật Cựu Ước và chính Ngài cũng bị kết án vì đã vi phạm đến lề luật.
Điểm độc đáo của Chúa Giêsu là Ngài rất điềm tĩnh trước khi phán quyết một điều gì. Đức Giêsu thinh lặng vẽ nguệch ngoạc trên đất. Những người tố cáo tưởng rằng Đức Giêsu đã bí lối, nên tiếp tục gây áp lực. Chúa Giêsu đã biến tòa án dân sự sang tòa án lương tâm: "ai trong các ngươi không phạm tội thì ném đá chị ta trước đi" và Ngài tiếp tục thinh lặng. Qua lời nói này đã đánh thức lương tâm của đám đông bởi vì đã là người thì ai cũng có tội và từng người đã bỏ đi.
"Phần Tôi, Tôi cũng không kết án chị, chị hãy về và đừng phạm tội nữa!" Chúa Giêsu không bao che, không dung túng cho tội, nhưng Ngài yêu thương tội nhân và cho họ cơ hội để sửa đổi. Thật vậy, Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót, Ngài muốn tội nhân sám hối mà hoán cải đời sống. Chúa Giêsu yêu con người đến nỗi đã từ bỏ cõi trời mang phận phàm nhân mà lãnh lấy tội lỗi của thế gian, chịu khổ hình chịu chết trên thập giá. Ôi tình yêu Chúa thật cao vời còn chúng ta thì sao?
Nhìn lại đời sống đạo của chúng ta, trong tư tưởng, trong hành động ai cũng là tội nhân, nhưng Chúa đã bao lần tha thứ cho chúng ta. Tuy vậy, tâm trạng của chúng ta nhiều khi cũng giống như những Pharisêu và Biệt Phái: chỉ biết lên án, kết tội người khác mà không nhận ra tội mình. "Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới" (Lc 6.41)? Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy từ bỏ tội lỗi, hãy cải thiện đời sống mà quay về với Chúa là Đấng giàu lòng xót thương. Chúng ta cũng noi gương Đức Giêsu, biết tha thứ cho những anh chị em lỗi phạm đến mình và cho họ một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Hôm nay đã bước vào thời gian cuối cùng của mùa chay thánh, chúng ta hãy lắng đọng tâm hồn để sám hối cùng Chúa, để nhận ra những lỗi lầm của ta với Chúa, với bản thân và với những người xung quanh, bằng đời sống đức tin vững mạnh, lối sống hiền hòa, lương thiện đối với những anh chị em xung quanh. Xin ơn Chúa Thánh Thần phù trợ cho tất cả ông bà và anh chị em. Amen.
63. Làm lại cuộc đời
Cùng với Giáo hội chúng ta đang sống vào tuần lễ trước khi vào tuần cao điểm của năm Phụng vụ. Chúng ta nhớ, Mùa chay là mùa Thiên Chúa và Giáo hội tha thiết các con cái của mình trở về. Trở về nếu đã đi lầm đường lạc lối. Trở về để được sống trong tình thương ấm áp của Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót va hay tha thứ. Trở về để làm lại cuộc đời.
Tuần trước chúng ta đã suy niệm về tình thương của Thiên Chúa qua hình ảnh "Người cha nhân hậu". Người cha nhân hậu vui mừng đón nhận đứa con hư hỏng trắc nết trở về. Người cha nhân hậu này cũng kiên nhẫn đón nhận đứa con cả. Bởi vì bấy lâu nay ông không ngờ rằng nó sống với ông mà như là một người tôi tớ với ông chủ.
Cũng với đề tài ấy, hôm nay Giáo hội chọn đoạn Tin mừng thật hay và ý nghĩa theo Thánh Gioan cho chúng ta suy niệm. Người ta thường nói: "chuyện người thì sáng còn chuyện mình thì oán". Ðúng vậy, các kinh sư trong xã hội Do thái thời Chúa Giêsu sau khi đã bắt quả tang được một người phụ nữ phạm tội ngoại tình thì nhanh chóng dẫn tới Chúa Giêsu. Mục đích của họ là vừa muốn cho chị này phải chết theo luật Môsê. Hơn nữa, họ lại còn muốn hại cả Chúa Giêsu. Do đó, họ đã dẫn chị này đến với Chúa Giêsu và hỏi: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" (Ga 8, 4 - 5).
Họ đang muốn theo kiểu "một mũi tên bắn trúng hai con nhạn". Nhưng họ đã lầm, câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm cho họ từ nguyên cáo trở thành bị cáo: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi." (Ga 8, 7b) "Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Ðức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa." (Ga 8, 9).
Không biết họ đã bỏ đi đâu nhưng cứ nghĩ theo hướng tích cực là họ bỏ đi để làm lại cuộc đời. Bởi lẽ, câu nói ấy của Chúa Giêsu đã làm cho họ giật mình nhìn lại chính mình.
"Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!" (Ga 8, 11). Ðây mới là câu mấu chốt của đoạn Tin mừng hôm nay. Chúa Giêsuchính là hiện thân của Chúa Cha. Với câu nói này, Chúa Giêsu đã mở ra cho người phụ nữ này một chân trời mới. Người tạo cơ hội cho chị làm lại cuộc đời.
Là con người không ai không có lầm lỗi. Trong những ngày mùa Chay này chắn hẳn không nhiều thì ít chúng ta cũng cảm thấy mình con nhiều điều cần phải sửa đổi. Hãy tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa để cố gắng làm lại cuộc đời mỗi ngày cho tốt hơn.
64. Sáng tinh sương--Lm. Vũ Đình Tường
Ánh dương chiếu toả bắt đầu một ngày mới. Vẫn biết có người ưa thinh lặng nhưng thật thích tai khi nghe tiếng chim ríu rít chào hừng đông bên cạnh cửa sau hè. Nơi cành cây, kẽ lá còn đọng hạt sương đêm, lung lay trước gió, phảng phất đó đây, phản chiếu những tia sáng muôn màu tươi sáng như những hạt ngọc trắng toát. Ngày mới mang lại hy vọng mới. Hy vọng một ngày tươi sáng, nhiều niềm vui, không gặp ngăn trở đáng ngại trong công việc.
Phá vỡ hy vọng, niềm vui giây phút đầu ngày là điều nên tránh. Kẻ làm điều đó đáng bị quở trách bởi vì nó gây cho ta cảm xúc suốt ngày đó mang lại toàn chuyện buồn sầu, lo lắng, nhiều mệt mỏi, âu lo. Điều này không đồng nghĩa với quan niệm mở hàng buổi sáng của dân buôn bán tin là người mở hàng khởi nởi ngày đó hên, người mở hàng kì kèo, chê bai ngày đó xui vì hàng hoá ế ẩm.
Chúng ta luôn mong mỏi một buổi sáng tươi đẹp nhiều niềm vui. Mong mỏi vì không phải sáng nào cũng có nhiều niềm vui đâu vì có nhhiều trường hợp nằm ngoài tầm kiểm soát của chúng ta.
Đức Kitô cũng gặp trường hợp tương tự như trên trong câu chuyện chị phụ nữ ngoại tình hôm nay. Sáng sớm Đức Kitô thường bắt đầu ngày mới bằng việc cầu nguyện. Khi thì ngài cầu nguyện nơi thanh vắng, chốn yên tịnh, không người, khi thì ngài vào đền thờ cầu nguyện. Chúng ta không biết ngài cầu gì nhưng chắc chắn ngài muốn hiệp thông, liên kết với Chúa Cha qua hành động thánh thiện đầu ngày. Trên đường vào đền thờ thì có hai nhóm người đón chặn, với mục đích đen tối, mong gài bẫy bắt lỗi. Họ dẫn đến trước mặt ngài chị phụ nữ tuyên bố chị này bị bắt công khai tội ngoại tình. Theo luật Môisen thì phải ném đá chết, còn Thầy dậy sao. Nếu trả lời Môisen dậy sao thì cứ thế mà thực hành thì Ngài làm trái điều ngài rao giảng là kêu gọi thống hối và thứ tha. Nếu ngài trung thành với giáo huấn ngài dạy thì ngài làm trái điều luật Môisen và như thế bị ghép tội coi thường luật lệ tiền nhân. Câu trả lời nào cũng dẫn đến bế tắc trăm chiều. Đức Kitô không trả lời họ ngay nhưng cúi lưng xuống dùng ngón tay viết trên đất. Điều rõ ràng về nhân số họ nắm đa số. Tiếng nói của họ đại diện cho đám đông, đa số vì là hai nhóm Pharisiêu và Kinh Sư hợp lại bàn cách hạ độc thủ. Tiếng nói thiểu số chính là tiếng nói của Đức Kitô còn chị phụ nữ hoàn toàn không được lên tiếng vì phụ nữ thời đó không được lên tiếng hơn nữa chị lại là phạm nhân.
Chờ một lát nhóm đa số mất kiên nhẫn la lên. Đức Kitô ngẩng mặt nói với họ. Ai trong các ông tự nhận không có tội, tự nhận là người công chính thì ném đá trước đi. Họ nhìn thấy tội người mà không nhìn thấy tội mình. Họ phạm lỗi làm nhục và làm mất nhâm phẩm chị phụ nữ nơi công cộng. Họ xâm phạm đời tư người khác quá đáng. Họ cản trở cả việc Đức Kitô vào đền thờ cầu nguyện. Những điều đó cho thấy họ không thể tự nhận mình công chính. Nếu tự nhận là công chính là lừa dối họ. Vì thế họ lần lượt tự xet và ra đi, bắt đầu từ người cao niên. Cuối cùng còn sót lại mình chị phụ nữa và Đức Kitô. Chị ta vẫn yên lặng mãi cho đến khi Đức Kitô hỏi chị. Họ đâu cả rồi? Lúc đó chị mới lên tiếng. Đức Kitô nhẹ nhàng, ôn tồn nói với chị
Tôi không kết án chị đâu, ra về và đừng phạm tội nữa. Ga. 8,11
Bài dụ ngôn dậy chúng ta muốn có bình an không cần đến bạo động. Vua bình an giải quyết mọi khúc mắc trên đời bằng đường lối ôn hoà, bất bạo động.
65. Khoan dung
Những người Pharisêu và kinh sư thời Chúa Giêsu luôn cố gắng tìm mọi cách để tố cáo và hạ bệ Ngài. Ngài là một chướng ngại, một cái gai rất khó chịu trước mắt họ, vì họ thấy Ngài đối xử nhân từ với những người thu thuế, những người tội lỗi, những phụ nữ xấu nết và những người sống ngoài luật Môsê. Để đối đầu với Ngài, nhiều lần họ đã giương cao cạm bẫy, nhưng lần nào cũng vậy, họ đều thất bại và phải xấu hổ bỏ đi. Vì thế, lần này, họ nhất định ăn thua đủ với Ngài. Họ đã kinh nghiệm rồi, họ không đặt ra những vấn đề lý thuyết như việc đóng thuế cho hoàng đế Xêda hay những trường hợp giả tưởng như chuyện người đàn bà goá lấy bảy anh em làm chồng. Trái lại, lần này là một việc cụ thể, với những vai chính sống động, rõ ràng, chắc chắn.
Đó là trường hợp một phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang. Theo luật Môsê thì tội này bị kết án tử hình ném đá. Như vậy, người phụ nữ này có thể bị giết chết mà không cần một lời tố cáo nào và cũng chẳng cần cho người có dịp bào chữa, vì đã trở thành đồ bỏ rồi. Vậy tại sao họ còn đem người phụ nữ này đến để hỏi Chúa Giêsu về cách trừng phạt, vì tội bà ta đã rõ ràng và hình phạt đã được luật pháp qui định cũng rõ ràng? Thưa, họ muốn gài bẫy Chúa để loại trừ ảnh hưởng của Ngài và bêu xấu Ngài. Hoặc là Ngài phải đứng về phía luật pháp với tất cả sự gay gắt của nó, điều đó trái ngược với thái độ nhân từ Ngài thường có. Hoặc là Ngài xác định sự biệt lập của mình để trở thành kẻ bất trung và lạc giáo vì chống lại luật Môsê. Nói rõ hơn, nếu Chúa tuyên bố không ném đá, tức là Ngài chống lại luật Môsê. Còn nếu Chúa tuyên bố ném đá, thì họ sẽ tố cáo Ngài là phạm đến quyền của đế quốc Rôma, vì người Do thái lúc đó đang sống dưới sự đô hộ của Rôma, họ không có quyền xử tử ai, chỉ quan toàn quyền Rôma mới có quyền đó. Thật không dễ gì trả lời. Chống lại luật Môsê thì sẽ bị dân phản đối, chống lại quyền của đế quốc thì sẽ bị đế quốc trừng trị. Chúa Giêsu sẽ chọn đàng nào? Chúa xử trí vụ này ra sao?
Chúa không nói lời nào, Ngài im lặng và cúi xuống lấy ngón tay viết trên mặt đất. Đây là lần đầu tiên Tin Mừng ghi lại Chúa Giêsu viết nhưng không nói Ngài đã viết gì. Người ta đã tìm đủ cách để đoán xem Chúa viết gì. Có người cho rằng Chúa chỉ nguệch ngoạc, không viết rõ chữ gì để tỏ thái độ không muốn dây mình vào việc xét xử ai. Có người cho rằng Chúa viết những lời than trách của ngôn sứ Giêrêmia về tội dân Do thái phản bội Chúa còn nặng tội gấp mấy người phụ nữ này. Có người cho rằng lần nhất Chúa viết số thứ tự của mười điều răn, lần hai Ngài viết các tội nặng của những kẻ đứng ra tố cáo về ngày giờ, nơi chỗ và lý do phạm tội với ai. Nhưng tất cả chỉ là phỏng đoán mà thôi. Bản văn Tin Mừng đã cố ý không nói Chúa Giêsu viết gì. Có thể Chúa chỉ lấy tay vạch vẽ trên đất mà chẳng viết chữ gì cả. Đây chỉ là cách Chúa tạo một khoảng thinh lặng chờ đợi để cho những kẻ tố cáo người phụ nữ này kịp suy nghĩ lại.
Những người Pharisêu và kinh sư thấy thái độ của Chúa có vẻ như không quan tâm gì đến vấn đề họ đặt ra, nên họ phải nhắc đi nhắc lại câu hỏi. Và bây giờ Chúa mới đưa ra quyết định. Ngài không trả lời câu hỏi của họ, nhưng lời Ngài nói ra làm cho họ ngạc nhiên đến choáng váng. Chúng ta thấy Chúa không nói: “Đừng ném đá chị ta”, vì Ngài không muốn tỏ vẻ chống lại luật pháp. Và Ngài cũng không nói: “Hãy ném đá chị ấy”, vì Ngài đến không phải để làm mất đi những gì Ngài đã tìm lại được, nhưng là để tìm kiếm những gì đã hư mất. Vì vậy Chúa nói với họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Chúa không phủ nhận tội của người đàn bà kia, cũng không phủ nhận luật Môsê, nhưng Chúa đưa ra một quan điểm mới: hãy tự xét xử mình trước khi xét xử người khác. Họ đang dựa vào luật Môsê để xét xử người khác, thì Chúa bảo họ hãy dựa vào đó mà xét xử chính mình trước đã. Ngài yêu cầu họ hãy trở về với chính mình. Họ mưu toan bên ngoài nhưng họ lại không nhìn vào đáy lòng mình. Họ trông thấy người ta ngoại tình nhưng họ không nhìn vào chính mình, vì hễ ai chú ý xét mình, người ấy sẽ thấy mình là kẻ tội lỗi. Vậy hoặc là trả tự do cho người phụ nữ ấy, hoặc hãy cùng với bà ta chịu sự trừng phạt của lề luật đi. Nói rõ hơn, họ đang đòi xử tội người đàn bà này vì tội ngoại tình, nhưng thật sự ý đồ của họ là đang tìm cách mưu giết Chúa. Những lời của Chúa Giêsu đã đánh trúng tim đen của họ. Thế là họ lần lượt bỏ đi, vì họ nhận ra rằng chính họ cũng là những kẻ có tội.
Cuối cùng, chỉ còn lại một mình người đàn bà đứng trước mặt Chúa, chỉ còn lại hai bên: kẻ đáng thương đối diện với tình thương. Kẻ đáng thương chờ đợi tình thương xót; và tình thương xót chờ đợi kẻ đáng thương. Chúa Giêsu ngẩng đầu lên và nói với người đàn bà: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”. Chị ta thưa lại: “Thưa ông, không có ai cả”. Chúa Giêsu nói tiếp: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Đó là lời của tình thương, tôi đến để kêu gọi người tội lỗi ăn năn sám hối chứ không phải để lên án.
Tóm lại, Chúa Giêsu đến trần gian để kêu gọi người tội lỗi ăn năn sám hối chứ không phải để kết án. Câu chuyện người phụ nữ ngoại tình là một bằng chứng. Và Chúa dạy chúng ta hãy theo gương Chúa mà đối xử với nhau như thế: đừng bao giờ kết án ai hay vào hùa với ai để kết án người khác; đừng đấm ngực ai, nhưng hãy đấm ngực mình, nhìn nhận mình cũng chẳng khá hơn ai, mình cũng đầy những tội lỗi và thiếu sót, cần ăn năn sám hối để được tha thứ. Đó cũng là lời kêu gọi tha thiết cho mỗi người trong Mùa Chay này.
66. Thức tỉnh
Hôm nay Tin Mừng dẫn chúng ta tham dự vào một vụ xử án có thật xảy ra cách đây hơn 2000 năm. Vụ án “Người phụ nữ ngoại tình”. Một vụ án được xét xử thật kỳ lạ: vụ xử kết thúc mà không có một bản án. Chỉ một lời thẩm vấn của Đức Giêsu, các nguyên cáo bỏ đi hết chỉ còn lại bị cáo.
Vụ án không oan uổng đối với bị cáo với chứng cứ rõ ràng, tưởng chừng nắm chắc cái chết trong tay, nhưng bị cáo lại tìm được con đường sống.
Phải chăng mấu chốt của sự kỳ lạ ấy nằm ở con người vị thẩm phán tên Giêsu?
Từ sự kỳ lạ ấy giúp chúng ta khám phá ra sứ điệp của Tin Mừng hôm nay đó là: Đến với Thiên Chúa lương tâm ta được thức tỉnh, ta biết thật về con người mình, và ta được mời gọi sống đời sống mới.
Căn cứ trên trang Tin Mừng trước hết chúng ta thấy các nguyên cáo có vẻ hăm hở đắc thắng khi mang bị cáo đến trước Đức Giêsu, với những chứng cớ rõ ràng: “Thưa Thầy, người phụ nữ này bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Theo luật Môsê thì người đàn bà này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy xử thế nào?”. Thế nhưng sự việc đã không xảy ra như dự đoán và mong muốn của họ.
Sự thinh lặng của Đức Giêsu cùng với cử chỉ viết trên đất cho câu trả lời, đó như một sự nhắc nhở khéo léo nhẹ nhàng và tế nhị đối với những người kết tội. Một khoảng lặng để cho họ bình tĩnh nhìn lại mình. Một khoảng lặng để họ xét lại những việc họ đang làm. Thế nhưng họ như không hay biết điều đó hoặc cố tình lờ đi để rồi tiếp tục ép buộc Chúa lên tiếng.
“Ai sạch tội thì hãy ném đá người này trước đi”. Đức Giêsu trả lời. Một câu trả lời thay vì xét xử và kết tội phạm nhân thì lại là một câu thẩm vấn đánh sâu vào lương tâm các nguyên cáo để họ có thể nhận ra chân tướng của mình, con người thật của mình với đầy tội lỗi chẳng kém. Chính họ cũng đã đồng loã liên kết với nhau, dùng mưu mẹo để hại người, để loại trừ kẻ mà họ không ưa, một người đang có ảnh hưởng trong dân có vẻ như lấn át vị thế của họ. Lại một khoảng lặng nữa bắt đầu.
Và thái độ “bỏ đi hết, kẻ trước người sau bắt đầu từ những người lớn tuổi” cho thấy rõ lương tâm của các nguyên cáo đã được đánh động và thức tỉnh họ như đã dần dần nhận ra con người thật của mình.
Còn với bị cáo: Người phụ nữ ngoại tình? Tội đã rõ rành rành, chẳng cần chứng cớ, không chạy đâu được. Nếu như ta thử đặt câu hỏi: giả như chị ta không bị bắt quả tang phạm tội, thì hỏi rằng chị sẽ còn làm sự tội ấy nữa không? Điều đó sẽ cho chúng ta nghĩ rằng: có lẽ chị cho rằng chuyện tội lỗi chị làm trước đây khi chưa bị phát hiện, chẳng tội lỗi gì? Khi đến trước Đức Giêsu lương tâm của chị cũng đã được thức tỉnh bởi lời của Ngài: “Chị hãy về và đừng phạm tội nữa”. Đừng phạm tội nữa, một lời khẳng định cho chị thấy rõ chuyện chị làm là tội lỗi.
Vâng! Con người ngày hôm nay cũng đang có những cách sống và thái độ sống không khác gì các kinh sư và Pharisêu hoặc như người phụ nữ ngoại tình. Đó là thái độ dửng dưng trước tội. Làm sự tội mà không biết mình tội. Sống trong sự tội mà cho rằng mình không mắc tội. Lương tâm của họ xem ra như chai lì hoặc bị ngủ mê. Hầu như vô tư trước những tội lỗi của mình xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân.
Thật vậy có những người bỏ việc thờ phượng Thiên Chúa nhất là thánh lễ Chúa nhật với những lý do biện hộ rất đơn giản khi nại vào công việc hoặc đạo tại tâm, hoặc có tham dự cũng chỉ máy móc cho qua.
Có những người đang sống thiếu thành thật trong lời nói, thiếu ngay thẳng trong công việc làm ăn: gian lận thủ đoạn, lừa gạt… nhưng vẫn coi đó là bình thường chẳng tội lỗi gì.
Có những bạn trẻ hôm nay đang lao đầu vào những thú vui giải trí thiếu lành mạnh nhưng vẫn nghĩ rằng xã hội nhiều người làm được như thế, nên tôi làm cũng chẳng sao. Họ tự do yêu đương, tự do quan hệ, tự do luyến ái.
Có những người cho rằng rất bình thường chẳng có tội lỗi gì khi nói xấu, lên án người khác hoặc có thái độ cố chấp không cho rằng mình có lỗi khi gây ra những tổn thương cho tha nhân.
Ngay trong cuộc sống gia đình cũng vậy, chồng hoặc vợ xúc phạm đến nhau mà chẳng ai chịu nhận lỗi về mình.
Vâng, còn rất nhiều nếu đi vào từng chi tiết ngõ ngách của cuộc sống, chúng ta sẽ thấy chẳng thiếu những cung cách sống và thái độ sống thiếu ý thức về tội như vậy, đến nỗi Đức Thánh Cha trong Tông huấn “Sám hối và hoà giải” đã phải lên tiếng: “Con người ngày nay gần như mất cảm thức về tội, họ làm điều tội mà không biết là tội, họ sống trong tội mà không biết mình mắc tội”.
Trước mặt Thiên Chúa, không ai không là tội nhân. Chẳng ai có thể tự vỗ ngực nói rằng mình không có tội, như thánh Gioan nói: “Ai bảo mình không có tội là kẻ nói dối tự lừa dối mình”. Điều quan trọng tôi có ý thức mình là tội nhân không? Hãy có những khoảng lặng để gặp Chúa, để cho lời Ngài thức tỉnh chúng ta như Ngài đã thức tỉnh các kinh sư, người Pharisêu và người phụ nữ ngoại tình để chúng ta có thể nhận ra mình là tội nhân.
Thiên Chúa không chỉ thức tỉnh lương tâm chúng ta, nhưng Thiên Chúa còn mời gọi và đề nghị chúng ta sống một đời sống mới.
“Ta không kết tội chị, chị hãy về và đừng phạm tội nữa”. Một lời thức tỉnh, tha thứ nhưng cũng là một lời đề nghị.
“Hãy đi và đừng phạm tội nữa” cũng là lời đề nghị và mời gọi của Thiên Chúa đối với chúng ta hôm nay khi đã nhận ra lỗi lầm và sám hối rồi, chúng ta không chỉ dừng lại ở đó, nhưng phải tiến xa hơn, vượt lên trên bằng một sự thay đổi tận gốc rễ với một cuộc sống mới. Một lời xin lỗi xong chưa đủ, nhưng là đừng để cho điều lỗi xảy ra nữa. Đời sống mới là đời sống không còn như đời sống cũ trước đây đang sống tội nữa. Ví như trước đây tôi sống gian dối, nay tôi sống thành thật và ngay thẳng. Trước đây tôi hay vu khống kiện cáo, nay tôi sống khiêm tốn hoà nhã với tha nhân.
Mùa chay đã bước vào tuần thứ năm. Những ngày đại thánh mừng cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Kitô sắp đến gần. Thiên Chúa đang rộng mở bàn tay đón chờ và mời gọi chúng ta đến với Ngài để lãnh nhận ân phúc. An phúc trước hết đó là chúng ta được Thiên Chúa đánh động và thức tỉnh lương tâm; ân phúc được ơn giao hoà với Thiên Chúa và được mời gọi sống đời sống mới qua việc tham dự các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và Giải tội. Chúng ta hãy xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn can đảm, lòng khiêm nhường để chúng ta mạnh dạn đến gặp Chúa.
67. Chúa Nhật 5 Mùa Chay
Kính thưa quý OBACE!
Tuần trước chúng ta đã được thánh Luca kể lại dụ ngôn người con hoang đàng để nói lên lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa. Và hôm nay, chúng ta lại được nghe thánh Gioan Tông đồ kể lại thái độ của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ sắp bị ném đá vì phạm tội ngoại tình. Tất cả đều nói lên lòng bao dung và tha thứ của Thiên Chúa dành cho con người.
Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe chẳng khác gì một phiên toà. Bị cáo là người phụ nữ với tội danh ngoại tình. Nguyên cáo là nhóm Kinh sư, Biệt phái. Bản án là tử hình bằng cách ném đá. Thật ra các kinh sư và người Pharisêu có thể thi hành án dựa theo luật Môsê. Trong sách Lv 20,10 có quy định: "ném đá cho tới chết kẻ phạm tội ngoại tình."Họ đến hỏi Chúa Giêsu không phải vì thiện ý nhưng nhằm gày bẫy Người. Nếu Chúa tha cho người phụ nữ họ sẽ tố cáo Người chống lại luật Môsê. Còn nếu Chúa kết án chị ta thì những lời rao giảng về yêu thương tha thứ của Chúa sẽ không còn ai tin nữa. Một cái bẫy thật hiểm độc. Đằng sau bản án dành cho người phụ nữ, họ hy vọng sẽ có một bản án khác dành cho Chúa Giêsu.
Đứng trước cạm bẫy nham hiểm này, Chúa Giêsu đã có một cách giải quyết rất khôn ngoan. Người không trả lời họ ngay mà chỉ im lặng cúi xuống viết trên đất một điều gì đó. Nhiều người cho rằng Chúa viết ra các tội lỗi của những người tố cáo. Cũng có ý kiến cho rằng Chúa cố tình im lặng để những kẻ tố cáo có thời gian nhìn lại cõi lòng mình, để nhận thấy mình cũng là những kẻ có tội.
Họ không thể nào chịu nổi sự im lặng đó nên đã hối thúc Chúa Giêsu: "Còn Thầy, Thầy nghĩ sao". Chúa Giêsu ngước mắt lên nhìn thẳng vào họ, một cái nhìn thấu suốt tận tâm cang, và Người nói "ai trong các ông sạch tội hãy ném đá chị này trước đi". Câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm cho những hòn đá họ đang cầm trên tay để ném người phụ nữ lại ném vào chính lương tâm của họ. Và rồi không ai dám ném hòn đá đầu tiên vì ai dám nói mình là vô tội. Những hòn đá từ từ rơi khỏi tay họ. Thế là họ rút lui từng người một.
Khi họ đã đi hết chỉ còn lại mình Chúa Giêsu và người phụ nữ. Một con người đau khổ đối diện với Đấng giàu lòng thương xót. Chúa nhìn chị ta với ánh mắt nhân từ, Người nói: "tôi cũng không kết án chị đâu, thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa".
Kính thưa OBACE!
Qua câu chuyện vừa rồi chúng ta thấy có một nghịch lý trong cuộc đời: Một đàng, Thiên Chúa là Đấng thánh thiện vô cùng lại đầy lòng thương xót đối với người tội lỗi. Một đàng, con người ai cũng mắc tội, không nhiều thì ít, không tội nặng cũng tội nhẹ lại hay phê bình, chỉ trích và kết án đồng loại của mình. Thay vì chúng ta biết cảm thông với những lồi lầm của người khác thì chúng ta lại thường đóng khung số phận của họ trong quá khứ lỗi lầm, đôi khi vô tình chúng ta đẩy họ tiếp tục rơi vào con đường tội lỗi mà không có lối thoát.
Chúa Giêsu ghét tội nhưng Người yêu thương kẻ có tội. Người không dung túng cho tội lỗi của người phụ nữ nhưng Người cho chị một cơ hội làm lại cuộc đời. " chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa". Đức cố hồng y Phanxicô nguyễn Văn Thuận nói rằng: "vị thánh nào cũng có quá khứ và tội nhân nào cũng có tương lai". Nghĩa là vị thánh nào cũng đã có lần phạm tội và tội nhân nào cũng có khả năng hoán cải và làm lại cuộc đời. Cho nên, chúng ta đừng bao giờ đặt dấu chấm hết cho một con người còn sống.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy biết cảm tạ ơn Chúa, vì biết bao lần Người đã tha thứ cho những lỗi phạm của chúng ta. Chúa luôn muốn con người bắt đầu và lại bắt đầu. Đối với Chúa sự sám hối không bao giờ là muộn màng, lòng ăn năn không bao giờ Ngài từ chối.
Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp cho mỗi người chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, mỗi người chúng ta đều là tội nhân được Chúa tha thứ. Vì thế, chúng ta hãy noi gương Chúa đừng kết án anh chị em nhưng hãy tha thứ, hãy nâng đỡ và cầu nguyện cho những người tội lỗi được ơn ăn năn trở lại.
Có sống như thế, chúng ta mới thật sự góp phần vào việc kiến tạo nền văn minh của tình thương, một nền văn minh không phải chỉ dựa vào khoa học kỹ thuật hay luật pháp của con người, mà được xây dựng trên tình yêu và lòng tha thứ.
68. Chuyện người đàn bà 2000 năm trước--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Nhạc sĩ Song Ngọc viết ca khúc "Chuyện Người Đàn Bà 2000 Năm Trước" từ trang Tin Mừng hôm nay.
Chuyện người đàn bà 2000 năm trước
Áo rách tả tơi, xác thân mệt nhoài.
Chuyện người đàn bà nơi thành phố đó
Dấu tích hành thân.
Vì đâu? Vì đâu? Vì đâu,
Nên tội tình mang nhục hình.
Vì yêu, tội yêu, tội tình yêu.
Đoàn người cổ thành vây chặt khu phố
Thế giới hiền lương ánh mắt cuồng căm.
Nhìn người đàn bà đang chịu tội chết
Đống đá ngổn ngang.
Chờ ai?
Chờ tay người ném chết một người không hận thù.
Người ơi vì sao đoạ đầy nhau
Ai, ai người vô tội. Ai, ai người không tội
Hãy mạnh tay ném đá ném đá ném trước đi còn đợi gì?
Ai, người vẹn toàn, Ai người trong sạch
Còn chờ chi?
Ném chết ném chết
Ném chết tội đồ nhân gian.
Chuyện người đàn bà 2000 năm trước
Sách cổ đã ghi, đống đá còn nguyên.
Vì người vô tội hay đời giả dối,
Thế giới giả nhân chào thua
Người ơi, tình ơi.
Ai tội đồ, ai tỉnh ngộ
Người ơi, đời ơi, cũng vậy thôi....
Chuyện người đàn bà 2000 năm trước
Sách cổ đã ghi, đống đá còn nguyên.
Nhạc sĩ khéo léo dùng những chữ tương phản như "Thế giới hiền lương, ánh mắt cuồng căm" và đặt câu hỏi, có phải vì người đời giả dối, sợ phải đối mặt với tòa án lương tri với tội của chính mình nên đã lẵng lặng bỏ đi: "Vì người vô tội hay đời giả dối? Thế giới giả nhân? Chào thua! Người ơi, Tình ơi! Ai tội đồ? Ai tỉnh ngộ?...". Nhưng dù sao thì "cũng vậy thôi", ca khúc có kết thúc tốt đẹp và câu hỏi dành riêng cho lương tâm mỗi người.
Với giai điệu chậm buồn, nhạc phẩm kể về một câu chuyện thật lạ lùng, xảy ra hơn hai ngàn năm về trước tại xứ Do thái. Một phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Các kinh sư và những biệt phái dẫn người đàn bà ấy đến trước mặt Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài: "Trong sách Luật, ông Môsê truyền chúng tôi phải ném đá hạng người này, còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" Một câu hỏi bất ngờ, nham hiểm và lịch sự.
Có lẽ sau khi hỏi Chúa như thế, họ hí hửng với những nụ cười hóm hỉnh ranh mãnh. Họ thì thầm với nhau cách thích thú: lần này thì đừng hòng mà thoát. Cái bẫy đã giăng ra. Nếu Chúa bảo cứ ném đá đi thì đó là một lời nói sẽ xoá nhoà tất cả lòng nhân hậu của Chúa: tôi đến để cứu vớt chứ không phải để kết án. Những người tội lỗi,thu thuế, đặt niềm hy vọng vào Chúa, nếu nghe lời kết án chắc chắn họ sẽ thất vọng và xa lánh, thế thì chỉ có thất bại, mất uy tín. Nhưng nếu Chúa bảo, không được ném đá, họ càng vui hơn vì Chúa dám chống lại Luật Môsê, chỉ chờ thế là họ có dư bằng chứng để bắt và lên án Ngài rồi.
Thái độ Chúa Giêsu thật trầm tĩnh "cúi xuống lặng lẽ vẽ trên đất". Họ cứ hỏi mãi. Chúa ngẫng lên nói với họ một đề nghị nhỏ nhẹ ôn hòa nhưng ngầm chứa một thách thức sinh tử quyết liệt " ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi". Họ lặng lẽ rút lui, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Công bằng mà nói, những người đàn ông có mặt hôm ấy, ngoài Chúa Giêsu ra, đều là những kẻ còn có liêm sỉ và tự trọng.
Chúa Giêsu bị đẩy vào thế làm quan tòa bất đắc dĩ, buộc phải ra một bản án xét xử thật nặng, bỗng nhiên trở thành Trạng sư với một bài biện hộ vỏn vẹn có mỗi một câu rất ngắn. Chỉ một câu nói mà Chúa đã hoá giải bẫy giăng sẵn. Hoá giải, bởi lẽ Chúa mời gọi họ hãy nhìn vào bên trong tâm hồn.
Còn lại một mình Chúa với người phụ nữ. Ánh nắng buổi sáng đang lung linh nhảy múa trên bậc thềm.Với giọng nói ấm áp, Chúa hỏi: "Họ đâu hết rồi? Không ai lên án chị nữa hay sao?". Lần đầu tiên từ lúc bị lôi tới đây, người phụ nữ ngẩng mặt lên. Chị nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu, Ngài đôi mắt chứa chan tình người,long lanh ánh sáng thiên đàng, đôi mắt hiền dịu sáng lên niềm cảm thông. Chị bưng mặt, giọng nghẹn ngào: "Thưa Thầy, không còn ai nữa. Họ bỏ đi hết rồi". Bình minh chiếu sáng rạng ngời khuôn mặt, Chúa nói thật nhẹ nhàng: "Tôi không lên án chị đâu! chị về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa. Tội nhân bị luận tội trước tòa, rõ ràng nằm trong khung án tử hình, nay ngơ ngác thấy mình được tha bổng, kèm một lời dặn dò: từ nay thôi đừng phạm tội nữa! Chúa Giêsu không kết án nhưng là mở cho chị một con đường đi về phía tương lai, về phía trước.
Hai câu nói của Chúa Giêsu với hai hạng người đều nhẹ nhàng mà sâu xa thấm thía. Với các người kết án, Chúa mời họ nhìn vào phía bên trong. Với người bị kết án, Chúa mở ngõ về phía tương lai.
1. Nhìn về phía bên trong
Một phiên tòa lạ lùng, xử lưu động theo kiểu nói ngày nay. Phe công tố nhao nhao buộc tội và hằm hè chất vấn, không ngờ sau đó lại lần lượt cúi đầu lặng lẽ rút lui. Chỉ vài phút trước đó, họ hung hãn tố cáo đòi ném đá, và bây giờ họ âm thầm ra về. Một sự chuyển biến bất ngờ phát sinh từ lời mời gọi của Chúa Giêsu: "ai trong các ông sạch tội hãy ném đá người phụ nữ này đi". Khi người ta đòi ném đá tha nhân, người ta tự cho mình là kẻ sạch tội và có quyền lên án kẻ có tội. Nhưng khi người ta khám phá ra mình cũng là tội nhân, người ta không dám lên án nữa vì như thế cũng là tự lên án chính mình. Sự khám phá có được là do cái nhìn về phía bên trong chính mình. Chi tiết mà Thánh Gioan ghi nhận "bắt đầu từ những người lớn tuổi" rất ý nghĩa. Vì càng lớn tuổi càng có bề dày cuộc sống, càng dễ nhận ra bề dày tội lỗi. Càng lớn tuổi càng có cái nhìn nội tâm nhiều hơn.
Có những cái gần mình nhất mà mình lại khó thấy nhất. Đó là bản thân mình. Có những sự thật người ta tìm cách trốn chạy nhiều nhất là sự thật về chính mình. Sự thật ấy chỉ khám phá ra được khi nhìn vào phía bên trong. Nhìn vào bên trong là đi vào nội tâm để nhìn lại chính mình, soi gương tâm hồn. Nhìn lại cuộc sống, lời nói, việc làm mình đã làm, đã sống. Giáo hội luôn khuyên con cái mình xét mình mỗi ngày. Các linh mục, tu sĩ, giáo dân đều có thời gian tĩnh tâm, linh thao để biết mình mà sửa mình. Biết mình là đầu mối của sự khôn ngoan.
Nhìn vào phía bên trong là một đòi hỏi cần thiết giữa cuộc sống xô bồ, ồn ào với quá nhiều tranh đấu vất vả mưu sinh. Có khi chúng ta ngại vì sợ phải đối diện với chính mình, đối diện với sự thật về mình. Cần có thời gian tĩnh lặng để dâng lễ, cầu nguyện, viếng Chúa. Khi có thời gian nhìn lại chính mình, chúng ta có gương soi và một khoảng cách ngắm nhìn. Tấm gương tốt nhất là Chúa Giêsu. Ngài là mẫu mực. Nơi Ngài và nhờ Ngài mà chúng ta nhận ra những lỗ hổng cuộc đời, nhận ra lý tưởng cần vươn tới.
2. Nhìn về phía trước.
Người ta đòi ném đá người phụ nữ, đóng khung cuộc đời chị trong quá khứ. Quá khứ được đóng dấu bằng tội lỗi. Người ta đánh giá, phán đoán, hành động trên quá khứ đó. Chúa Giêsu không chấp nhận lối nhìn và cách đánh giá ấy. Ngài không đồng loã với tội lỗi. Ngài nhìn nhận người phụ nữ có tội. Nhưng Ngài mở ra một tương lai, gieo vào lòng chị niềm tin tưởng rằng chị có khả năng xây dựng một tương lai mới, một cuộc đời mới,một con người mới: “Chị hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa". Chúa Giêsu không kết án cũng như không giảm án, không ân xá cho tội nhân. Chúa mở cho chị một con đường hướng về tương lai, làm lại cuộc đời. Đó là con đường sám hối trở về với tình yêu, trở về với đời sống là con cái Thiên Chúa, trở về với tâm hồn bình an. Người phụ nữ ra về lòng tràn ngập niềm vui hoán cải, quyết tâm làm lại cuộc đời.
Thiên Chúa, Đấng mở ngõ cho tương lai. Ngài không khoá chặt cuộc đời một con người cũng như lịch sử nhân loại vào quá khứ, cho dẫu quá khứ ấy có bi thảm và tàn tạ đến đâu chăng nữa. Thiên Chúa luôn luôn mở ngõ và vạch lối cho tương lai.
Vẫn biết tội lỗi trái với đạo giáo, trái với luân thường đạo lý, nhưng đâu chỉ căn cứ vào đạo giáo luân lý để khinh khi, coi thường, kỳ thị sự sống con người được. Đạo giáo luân lý giúp con người sống thăng tiến về mặt tinh thần chứ không bao giờ là bước cản trở nhận chìm con người xuống bùn đen. Đã là người, ai cũng có những khuyết điểm, ai cũng có lúc làm điều lầm lỗi. Nhưng ai cũng có khả năng ý chí ước muốn làm điều lành thánh thiện tốt đẹp. Thiên Chúa dựng nên con người với khả năng như thế.
Chúa Giêsu đã sống và đã nêu gương. Ngài không kết án, không giảm án, nhưng là mở ra con đường hướng về tương lai cho con người tội lỗi làm lại cuộc đời. Lêvi, Giakêu, Mađalêna, Augustinô...và còn biết bao con người đã được Chúa mở ngõ tương lai tươi sáng. Niềm tin đó tạo nên nơi người tín hữu một lối nhìn mới. Đó là nhìn về phía trước, băng mình về phía trước như thánh Phaolô diễn tả: "Tôi chỉ chú ý tới một điều là quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước" (Pl 3,13). Đối với Phaolô quên đi chặng đường đã qua là qua khứ bắt bớ Giáo hội Chúa để lao mình về phía trước, phía tương lai mà Chúa Giêsu đã mở ra, đặt ngài làm khí cụ, làm tông đồ dân ngoại. Và Phaolô đã sống hết mình cho tương lai mới.
Trong cách nhìn về tha nhân, có khi người ta khoá chặt người khác trong quá khứ lỗi lầm của họ. Đã một thời "chủ nghĩa lý lịch" khoá chặt con người trong quá khứ, cái quá khứ đâu có do họ!!! Vì lẽ đó mà nhiều nhiều người trẻ tài năng không có cửa cho tương lai, họ bị loại trừ. Con người vốn vẫn hay nhìn phía đàng sau hơn là nhìn về phía đàng trước. Trong khi niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngõ cho tương lai lại luôn thúc bách chúng ta nhìn về phía trước
Nhìn vào phía bên trong để khám phá sự thật về chính mình. Người Hylạp đã từng gắn trên cổng Đền Thờ Deiphes câu châm ngôn " Bạn hãy biết chính mình" và coi sự biết mình như là khởi điểm của khôn ngoan.
Nhìn về phía đàng trước để luôn hy vọng và tin tưởng. Tin vào chính mình, vào con người, vào cuộc đời. Và trên hết là tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngõ cho tương lai chúng ta.
69. Tha thứ
"Anh em hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình.." (Lc 3, 24)
Tin Mừng theo Thánh Luca ghi lại lời Chúa "Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất" (Lc15,4). Rồi Chúa nói tiếp: "Vậy tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn". (Lc15,7) Qua câu chuyện này cho thấy hình ảnh vị Mục tử, người thầy, người chăn chiên cao cả và đầy lòng nhân từ. Câu chuyện bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay cũng tương tự như thế.
a. Chúng ta trở lại câu chuyện Tin Mừng chúa nhật hôm nay: Các kinh sư muốn gài bẫy Chúa Giêsu nên nhân dịp người ta bắt qủa tang một người đàn bà đang phạm tội ngoại tình, họ liền dẫn ngay đến Chúa và chất vấn. Họ nói: chị này đang ngoại tình và bị bắt quả tang. Theo luật Môisen, chị ta sẽ bị ném đá cho tới chết. Phần Thầy, Thầy sẽ xử thế nào?
Các kinh sư và biệt phái đến hỏi ý kiến Chúa Giêsu; thực ra họ chẳng nể nang gì Ngài, cũng chẳng có ý tốt lành gì đâu. Họ rất ghét Chúa, vì Người hay chỉ trích những thói hư tật xấu, giả hình của họ, mà từ lâu họ chưa tìm được chứng cớ gài bẫy, để tố cáo Chúa. Hôm nay nhân có một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, đây là một cơ hội tốt để bắt bẻ Chúa mà trả thù; vì thế họ hỏi như trên... Nếu Chúa trả lời: tha bổng cho người đàn bà, thì họ sẽ bắt bẻ Chúa làm thế là không giữ lề luật. Còn nếu Chúa kết tội chị ta thì rõ ràng Chúa rất tàn ác, và còn làm ngược lại với lời dạy của chính mình nữa là: yêu thương, tha thứ... Xem ra bề nào, Chúa cũng bị các kinh sư kết tội cả. Rốt cuộc họ không ngờ Chúa có một câu trả lời mà không ai nghĩ đến: "ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi" (Ga 8,7) Chúa Giêsu lại thắng keo nữa. Thực tế ai có thể thắng Thiên Chúa?
b. Trên đời này có một nghịch lý rất lớn và cũng rất đáng trách, đó là: Thiên Chúa là Đấng muôn ngàn lần thánh thiện thì lại đầy lòng thương xót, đầy bao dung với người tội lỗi. Trong khi con người tội lỗi đầy tràn, lại thường hay lên án kẻ khác, thích phê bình chỉ trích người ta (chính các thánh còn chưa ai dám tự nhận mình là thánh thiện). Từ chỗ phê bình chỉ trích, rất nhiều khi chúng ta vô tình đẩy kẻ tội lỗi vào vũng lầy không có lối thoát. Các kinh sư và biệt phái trong câu chuyện Phúc âm hôm nay là một ví dụ điển hình. Một câu châm ngôn Á Đông khá chí lý: "chân mình còn lấm mê mê, lại đi cầm đuốc mà rê chân người."
Lòng rộng lượng của Con Thiên Chúa (trong câu chuyện hôm nay) thật là to lớn và cũng thật đúng với những gì chúng ta biết về Thiên Chúa, vì Người sẳn sàng để 99 con chiên không lạc, mà đi tìm cho được con chiên bị lạc và Chúa: "không nở bẻ cây lao bị dập", "cũng không dập tắt tim đèn còn khói.." Những hình ảnh này rõ ràng diễn tả quá đủ lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa.
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
* với lòng nhân hậu và khôn ngoan tuyệt vời, Chúa Giêsu đã giải thoát và tha thứ cho người đàn bà tội lỗi, nhưng Chúa cũng kêu gọi chị từ nay đừng phạm tội nữa. Mùa chay cũng là mùa kêu mời mọi kitô hữu suy niệm về lòng bao dung vô bờ của Thiên Chúa, đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta thực tâm sám hối, sửa đổi đời sống và mau quay về với Chúa.
* Chúa không hề có một lời lên án người đàn bà ngoại tình: phần ta, ta có phải là hạng người hay chỉ trích kẻ khác? Nhìn lại bản thân mình đã sửa đổi như thế nào trong cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt là mùa chay này?
70. Án tử hình bị hủy bỏ--Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Người Phụ Nữ Ngoại Tình. Câu chuyện ấy đã sảy ra trong thời Chúa Giêsu, khi Ngài đang trên đường rao giảng Tin Mừng Tình Yêu. Lúc bấy giờ danh tiếng Ngài được đồn thổi khắp nơi. Nhiều người mộ mến. Nhưng cũng lắm kẻ ghét ghen. Nhất là hạng thượng tế, luật sĩ, và biệt phái. Bao cuộc tranh cãi gay go về luật lệ đã nổ ra. Người ta muốn tố cáo, truất phế Ngài khỏi tâm hồn quần chúng, nhưng chưa đủ khả năng. Đã bao lần gài bẫy và nêu các vấn đề hóc búa, đều bị Ngài hoá giải dễ dàng. Bẽ bàng. Xấu hổ. Nhưng giới chống đối vẫn ngấm ngầm tìm cách.
Cơ hội thuận tiện chợt đến. Một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Họ lập tức tóm ngay con người khốn nạn đó. Lại đang lúc Chúa Giêsu có mặt trong đền thờ Giêrusalem. Dân chúng đông đảo bao quanh Ngài. Bằng miếng mồi mới bắt được, người ta chắc mẩm chuyến này Đức Giêsu phải sa lưới. Bởi lẽ theo luật Môisen ghi lại trong sách Lêvi: “Người nào ngoại tình với đàn bà có chồng, người nào ngoại tình với vợ của tha nhân, tất phải chết. Cả gian phu lẫn dâm phụ” (Lv 20:10). Cách xử tử những kẻ phạm tội ngoại tình sẽ là “kéo ra khỏi cổng thành mà ném đá chúng cho chết đi” (Đnl 22:24).
Lâu nay, giới chống đối cứ thấy Đức Giêsu giao du với phường thu thuế, đàng điếm, tội lỗi. Nhắc chuyện thì Ngài lại phán: “Ta không đến để kêu gọi những người công chính mà là hạng tội lỗi.” Nghe nhức tai quá. Chịu không được. Trong khi đó, Ngài cũng dạy người ta về sự công minh của Thiên Chúa: Cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt xuống mà quăng vào lửa đời đời. Thành ra, hôm nay, khi giương chiếc bẫy với miếng mồi “con mụ ngoại tình”, và câu hỏi “Thầy dạy sao, có nên ném đá con dâm phụ này không?”, nhóm luật sĩ biệt phái cầm chắc ưu thế trong tay.
Họ nhủ thầm: Nếu Đức Giêsu trả lời “Ném đá hắn” thì còn gì là yêu thương nữa. Giáo lý Ngài truyền dạy bấy lâu cũng chẳng có mới lạ. Bọn thu thuế đàng điếm sẽ mở mắt ra mà thấy Giêsu cũng chẳng thương xót gì họ.
Như thế là tạo mối nghi ngờ, rạn nứt ngay từ bên trong. Hạng tội lỗi sẽ mất tin tưởng vào Đức Giêsu. Còn Ngài sẽ không đi đi lại lại với chúng được nữa. Đó là chưa nói đến việc chính quyền đô hộ Rôma sẽ trừng phạt gắt gao người Do thái nào dám lên án tử cho kẻ khác.
Song nếu câu trả lời là “Đừng ném đá” thì lập tức Đức Giêsu sẽ lãnh viên đá đầu tiên, vì Ngài đã công khai chống lại luật Môisen, và dám dung túng, bao che cho phường ngoại tình, tội lỗi. Lúc này, nếu có trốn thoát được cái chết của “mưa đá” thì Đức Giêsu cũng bị khai tử nơi tâm hồn người ta. Ngài sẽ không còn mặt mũi nào để gặp gỡ dân chúng nữa.
Thật thâm độc! Miếng mồi không thể trốn chạy mà con mồi cũng chẳng thể chạy trốn. Chuyến này, có lẽ bất cứ lời nói nào của Đức Giêsu cũng sẽ trở thành bản án cho chính Ngài. Chiếc lưới đã giương lên chỉ còn chờ giờ sụp xuống.
Nhưng kìa, tại sao Ngài không nói gì cả? Câu hỏi dồn dập đổ xuống, ấy thế mà Ngài vẫn lặng im? Trước đây khi nêu vấn đề nộp thuế cho hoàng đế, Chúa Giêsu đã trả lời tức khắc, và nhanh chóng khoá miệng đối phương. Nhưng sao hôm nay Ngài lại thinh lặng? Có phải vì đây là vấn đề của lương tâm nên cần thời gian suy xét? Hay sự thinh lặng của Ngài thúc giục người ta nhìn lại chính mình? Nhìn lại để thấy sự giả dối núp bóng chân lý, lòng nham hiểm ẩn mình dưới lọng dù công chính. Tố cáo người phụ nữ ngoại tình nhưng lại nhằm lên án Chúa Giêsu. Hỏi “Thầy dạy sao?” nhưng vẫn cứ muốn ý gian của mình được thực thi.
Nhìn lại chính mình phải là thái độ tôi cần có trong mọi hành xử với tha nhân. Nhìn lại chính mình để biết cảm thông và tha thứ. Bởi lẽ, khi thinh lặng nhìn sâu vào cõi lòng, người ta sẽ không thể không khám phá ra sự thật này: Không có ơn Chúa thì đời tôi cũng chẳng hơn gì đời người; e rằng có khi còn tệ hơn. Khám phá được như thế chắc chắn người ta sẽ không hà khắc và tàn bạo với tha nhân.
“Ai trong các ông vô tội?” Lời mời gọi nhìn lại chính mình đó đã đưa đến quả: không còn ai lên án hay kết tội nữa, nhưng “kẻ trước người sau họ rút lui hết” (Gn 8:9). Thế mới hay khi con người biết thinh lặng xét mình, sự sống sẽ tồn tại. Những gì là độc ác, máu me, chết chóc, hận thù, la lối phải rút lui, nhường chỗ cho tình thương bộc phát và tràn lan.
Ở đâu có tình thương, ở đó có sự sống. Ở đâu có thứ tha ở đó có an bình. “Ta cũng không kết tội ngươi đâu. Đi đi. Và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8:11). Tình thương không kết án, nhưng luôn mở ngỏ cho sự sống mới được lớn lên.
Từ lâu lắm, tại một làng bên nước Ý, người ta có thông lệ ném từ đỉnh núi cao xuống cho tan xác những người đàn bà phạm tội ngoại tình.
Một hôm, có người phụ nữ không may bị bắt quả tang phạm tội khi chồng vắng nhà. Dân làng chuẩn bị hành quyết người đàn bà trước sự chứng kiến của người chồng. Thế nhưng, ngay hôm trước ngày xử tử, người chồng bỗng biến mất. Giờ hành quyết đã đến mà ông chồng vẫn biệt tăm. Mọi người chờ đợi. Đợi chờ.
Cuối cùng, dân làng cũng đưa người đàn bà lên núi. Và sau vài tiếng trống đưa hồn, bà ta bị đẩy xuống vực sâu.
Mấy hôm sau, dân làng vô cùng bỡ ngỡ khi thấy người đàn bà đó lại đang ra vào ngôi nhà của bà ta. Ai nấy lo sợ vì tưởng rằng hồn ma quay về phá phách. Nhưng rõ ràng họ thấy người chứ đâu phải ma. Mãi sau người ta mới khám phá ra. Số là, vì biết không thể nào phá bỏ được tục lệ để cứu vợ, nên trước ngày xử án, người chồng âm thầm vào rừng tìm những sợi dây mây nhỏ, bền, và đan thành một tấm lưới. Sau đó anh đem giăng dưới chân núi nơi thân xác người vợ sẽ bị xô xuống. Nhờ vậy mà nàng còn sống để trở về mái nhà xưa. Anh đã làm thế vì muốn tha thứ và cứu vợ mình khỏi án chết.
Trước tình yêu và hành vi tha thứ cao cả, dân làng đã nhất trí huỷ bỏ thông lệ tử hình vốn đã kéo dài bao trăm năm.
“Ta không kết tội ngươi đâu. Đi đi. Và từ nay đừng phạm tội nữa.” Noi gương Đức Giêsu, bạn và tôi cũng hãy mở đường cho hy vọng, thứ tha, và sự sống vươn lên. Nhưng trước hết chúng ta hãy cùng khởi đi từ gia đình và cộng đoàn của mình.
71. Một câu truyện phổ biến
Một câu chuyện cổ tích Do thái kể rằng có một thầy Rabbi nổi tiếng thường hay vắng mặt tại hội đường vào mỗi ngày Sabbath vài tiếng đồng hồ. Sự vắng mặt này làm cho các học sinh của ông thắc mắc. Nhiều học sinh cho rằng thầy Rabbi của mình đã tìm được một chỗ mà ông có thể gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng toàn năng. Sau cùng, bọn học sinh đã đồng ý cử ra một người đi theo thầy Rabbi của mình để xem ông làm gì. Anh ngạc nhiên thấy thầy mình mặc một bộ áo cũ kỹ của một người ăn xin và đi ra một ngõ hẻm rồi đi vô một căn nhà hoang. Qua khe cửa sổ, người học sinh nhìn thấy thầy mình cặm cụi dọn dẹp, và chuẩn bị bữa ăn cho một cụ già bị tàn tật. Sau đó, người học sinh đã chạy về, và bạn bè của anh đã hấp tấp hỏi anh, "Sao, ông ấy có bay về trời không?" Người học sinh trả lời, "Có, không còn chỗ nào cao hơn nữa!" Chứng kiến việc làm nhân đạo của thầy mình mà người học sinh đã vô tình khám phá ra ánh sáng của trời cao.
Phúc âm kể lại nhiều truyện Chúa Giêsu lên án những kẻ đạo đức giả. Họ hay đi nhà thờ mà không bao giờ biết tỏ lòng nhân hậu và nhạy cảm với người khác. Trong Phúc Âm Thánh Marcô, có một đoạn gây chú ý, tả lại cảnh Chúa Giêsu tức tối với loại người như thế. Chúa Giêsu "nhìn quanh họ một lượt vừa thịnh nộ vừa buồn phiền vì lòng chai đá của họ" (Mc 3,5). Đáng tiếc thay, vấn đề vẫn còn ở trong chúng ta.
Bài Phúc Âm hôm nay tả lại cảnh Chúa Giêsu đương đầu với những thầy thông luật và Pharisiêu, những người đáng kính trong tôn giáo, nhưng có "lòng chai đá." Họ đem đến trước mặt Chúa Giêsu một người đàn bà và hỏi, "Thưa Thầy, phụ nữ ngoại tình này bị bắt tại trận. Theo Luật, Maisen truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà như thế. Vậy, Thầy dạy sao?" (Ga 8,4-5). Phúc Âm đã kể lại cho chúng ta rằng những người đã định tâm để gài bẫy Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu không đồng ý với họ để ném đá, thì họ có quyền tố cáo Ngài là không tôn trọng lề luật. Tuy nhiên, nếu Ngài nói là ném đá, thì họ sẽ nói là Ngài mâu thuẫn với luật yêu thương Ngài dạy. Câu trả lời của Chúa Giêsu đã làm cho họ phải ngạc nhiên, "Trong các ông, ai vô tội thì hãy ném đá trước đi" (Gn 8:7). "Nghe thế rồi, kẻ trước người sau, họ rút lui hết, các kẻ cao niên dẫn đầu mà để lại một mình Ngài, và phụ nữ kia. Ngẩng lên, Chúa Giêsu nói với người ấy, "Bà kia, họ đâu rồi? Không ai xử tội bà sao? Người ấy đáp, Thưa Ngài, không ai cả! Đức Giêsu lại nói, "Ta cũng không xử tội bà! Đi đi! Và từ nay đừng phạm tội nữa! (Gn 8:10-11).
Vấn đề của chúng ta là ở chỗ chúng ta nghĩ mình là những người tốt, đáng kính, thường hay đi lễ, nhưng đồng thời chúng ta cũng thường có chiều hướng nghĩ rằng lời Chúa Giêsu nói về tội lỗi và sự dữ là để cảnh cáo người khác. Qua bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu coi việc ngoại tình là một tội lỗi. Người đàn bà ngoại tình đó cần phải được tha thứ, và chúng ta hiểu điều đó. Bà còn cần phải thống hối, chúng ta cũng hiểu điều đó. Sau cùng, khi Chúa Giêsu cho bà đi, Ngài còn dặn, "Đừng phạm tội nữa", chúng ta cũng biết điều đó. Tuy nhiên, chúng ta có hiểu rằng Chúa Giêsu cũng nhìn sự thiếu lòng nhân ái và thương xót của những thầy thông luật và bọn Pharisiêu như là một tội lỗi không? Chúng ta có biết rằng những thầy thông luật và bọn Pharisiêu cũng cần phải được tha thứ không? Chúng ta có biết rằng những người mà tự xưng là công chính cũng cần phải thống hối không?
Qua cách đối xử của các thầy thông luật và bọn Pharisiêu, nó nhắc nhở cho chúng ta một điều, đó là nếu chúng ta tự cho mình là công chính thì chúng ta sẽ huỷ diệt lòng trắc ẩn của mình. Cái lúc mà chúng ta bắt đầu áp dụng luật luân lý của bản thân mình trên người khác, là chính lúc chúng ta bắt đầu bị mất đi khả năng để có thể cảm nghiệm và thông cảm cho người đó. Sự tự cho mình là đúng đắn không phải là một ảo tưởng, mà là một sự huỷ diệt tình yêu.
Chúa Giêsu đến thế gian không phải là để đem con người lên thiên đàng, nhưng là đem thiên đàng đến với con người. Qua lòng nhân ái đối với người phụ nữ ngoại tình, Chúa Giêsu đã cho chị ấy thấy được một tia sáng của thiên đàng. Cũng giống như thế, Chúa Giêsu đến không phải là để cứu con người ra khỏi hoả ngục, nhưng là để xoá bỏ hoả ngục ra khỏi loài người. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn nhắc cho những thầy thông luật và Pharisiêu một chút ánh nhìn về hoả ngục mà họ đang đâm đầu xuống chỉ vì sự tự cho mình là đúng, là đạo đức, rồi phán xét kẻ khác một cách độc ác, đối với những người khác. Khi nào chúng ta cho phép cá nhân của mình xa cách Thiên Chúa, chúng ta sẽ để cho hoả ngục đi vào cuộc sống của chúng ta. Cách đi ra khỏi cái hoả ngục này là, "Hãy nhân ái như Cha các con trên trời là Đấng nhân ái."
Chúng ta không đến nhà thờ để qua đó chúng ta muốn chứng minh cho người khác sự đạo đức của mình. Chúng ta tụ họp nơi đây bởi vì ở đây chúng ta tìm thấy Chúa Giêsu ở giữa chúng ta và Ngài ban cho chúng ta một chút ánh nhìn về sự sống đời đời với Thiên Chúa.
72. Mở đường cho cuộc đời mới
Một đứa con trong gia đình nọ, sau một lần được cha mẹ giao trông chừng nhà đã vì quá ham chơi nên đã để cho ăn trộm vô lấy một số tài sản quý giá. Khi phát hiện được, đứa con đã rất run sợ nên đã không dám ở nhà mà đã chạy qua nhà hàng xóm trốn. Trở về thấy vậy, cha mẹ nó rất buồn giận. Họ định đi tìm con về đánh cho một trận hả giận. Tuy nhiên, họ suy nghĩ tài sản ấy có thể lấy lại được. Còn đứa con nếu không khéo đối xử, nó sẽ trở thành một người xấu chăng. Thế là họ quyết định đón con về. Với tấm lòng nhân hậu và bao dung họ đã tha thứ cho con mình. Đặc biệt, họ đã nói với con: "Cha mẹ tin là con đã biết lỗi của mình. Cha mẹ cũng tin là con sẽ biết sửa đổi...". Quả thật, khi lớn lên đứa con này đã trở thành người tốt. Không những thế anh còn là một người rất cẩn thận trong mọi việc. Nhờ đó, công việc làm ăn của anh luôn được trôi chảy. Kết quả là anh đã sắm lại tất cả những gì đã bị mất trước kia cho gia đình và còn hơn thế nữa.
Như thế, nếu như người cha người mẹ trên vì quá tiếc của nên đã đối xử không khéo với con thì không biết sau này nó sẽ như thế nào. Nhờ họ đã biết dằn lại cơn nóng giận đúng lúc và nhất là họ đã biết giáo dục con đúng cách. Họ đã biết tin vào khả năng phục thiện của con mình. Họ đã biết mở cho con con đường mới.
Cũng thế, Tin mừng Chúa nhật hôm nay Chúa Giêsu đã nói với chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình: " Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa! ". Một câu nói hết sức trân trọng và đầy lòng thương xót cũng như tin tưởng mà Chúa Giêsu dành cho chị. Phải công nhận tội ngoại tình là một tội khó có thể chấp nhận và tha thứ được. Bởi lẽ, đây là tội đi ngược lại với luân thường đạo lý. Thế nhưng, đâu phải vì thế mà ai muốn xử sao thì xử.
"Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi ". Đây là câu nói nghe êm tai nhưng rất nặng cả ngàn cân. Câu nói ấy đã bắn trúng vào tim đen của những Kinh sư và Pharisêu. Kết quả là sau câu nói này thì: " Họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi ". Công bằng mà nói tội ngoại tình thì cũng như bao tội lỗi khác thôi.
Có lẽ thái độ của các Kinh sư và Pharisêu cũng là thái độ của mỗi người chúng ta. Ông bà ta thường nói: " Tiên trách kỷ hậu trách nhân " (Hãy tự trách mình trước rồi hãy trách người) hay " Chuyện người thì sáng còn chuyện mình oán ". Chúa Giêsu cũng đã một lần nhắc nhở: " Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? " (Mt 7, 3). Mùa chay là thời gian thuận tiện để chúng ta quay lại với chính mình. Thiên Chúa luôn biết ta yếu đuối. Tội lỗi của ta tuy có lớn nhưng tình thương của Ngài lại con lớn hơn nhiều. Người sẵn sàng tin tưởng và sẽ cho cơ hội để ta làm lại cuộc đời mỗi khi trót phạm tội.
Mỗi khi lãnh Bí tích Hoà giải, Thiên Chúa qua vị Linh mục luôn nói: " Cha tha tội cho con. Hãy đi bình an ". Đây là không chỉ là lời tha thứ mà còn là một lời an ủi khích lệ. Đồng thời, đây cũng là một lời nhắn nhủ đầy tin tưởng: " Hãy đi và đừng phạm tội nữa ". Hãy xin Chúa Giêsu cho ta xác tín điều ấy luôn. Để rồi khi xác tín được điều ấy, ta sẽ biết phải làm gì để không phụ lòng tin tưởng mà Thiên Chúa dành cho ta.
73. Người đàn bà ngoại tình được tha--Lm Trần Bình Trọng
Làm thế nào để trả lời một câu hỏi hóc búa, nhất là khi người hỏi có ý bắt bẻ? Chúa Giêsu trong Phúc âm hôm nay đã phải đối chất với một câu hỏi như thế. Những người Biệt phái và Luật sĩ trình lên Chúa một vụ về người đàn bà mà họ cho rằng họ đã bắt được quả tang phạm tội ngoại tình. Thực ra thì bắt được người đang phạm tội ngoại tình cũng khó, chứ đâu phải chuyện dễ, trừ khi cái tò mò tính len lỏi vào. Mà tò mò trong trường hợp này có thể là phạm tội bằng mắt. Tuy nhiên xem ra họ không quan tâm đến người đàn bà ngoại tình cho bằng việc muốn gài bẫy để đưa Chúa vào tròng và làm khó cho Chúa trước chính quyền La mã và giáo quyền Do thái giáo.
Theo luật Mô-sê, khi người đàn bà bị bắt được phạm tội ngoại tình, thì sẽ bị ném đá. Như vậy nếu Chúa Giêsu trả lời không phải ném đá, thì Người chống lại luật Môsê. Đàng khác luật La mã áp dụng cho cả người Do thái thời bấy giờ cấm ném đá một người cho đến chết. Vậy nếu Chúa Giêsu đồng ý cho ném đá người đàn bà ngoại tình, tức là Người chống lại luật La mã. Như vậy vâng luật Do thái, thì lại lỗi luật La mã, và ngược lại, vâng luật La mã thì lại lỗi luật Do thái. Đàng khác nếu Chúa bằng lòng cho ném đá, thì Người lại mâu thuẫn với đường lối yêu thương, nhân từ và tha thứ mà Người vẫn thường giảng dạy. Như vậy thì Chúa phải trả lời thế nào? Thật nan giải.
Phúc âm kể lại Chúa cúi xuống vạch vài nét trên đất. Chúa vẽ gì, Phúc âm không kể lại. Có lẽ Chúa chỉ vạch vài đường lả lướt chơi vậy cho đỡ buồn để tỏ ra Chúa không quan tâm đến câu hỏi của họ. Và rồi Chúa bảo họ ai không có tội thì hãy ném đá người đàn bà trước đi. Nhưng không ai trong nhóm họ đã dám làm. Đọc Phúc âm, ta thấy người Biệt phái và Luật sĩ thường bị Chúa quở trách nhiều nhất vì họ là những người hay bới lông tìm vết, hay phê bình chỉ trích, hay nói mà không làm. Chúa bảo họ là những người kiêu căng, tự phụ và giả hình vì họ giữ đạo theo hình thức bên ngoài, mà lòng họ xa Chúa.
Mục đích của việc Chúa quở trách là để dạy họ về đường lối Phúc âm của Người, và qua việc dạy họ, Chúa cũng dạy bảo ta nữa vì mỗi người chúng ta đều có những lúc giống người Biệt phái và Luật sĩ. Nếu có lời giảng dạy nào của Chúa và của người thừa hành mà làm ta suy nghĩ, thì đó là cái bước khởi đầu cho việc hối cải. Nếu Chúa khắt khe với người Luật sĩ và Biệt phái thì Chúa lại nhân từ với người chân thành khiêm tốn và thương xót người tội lỗi mà có lòng ăn năn sám hối. Vì tội lỗi của họ có thể là do hoàn cảnh xã hội hay nghèo túng gây ra như chuyện Thuý Kiều bán mình chuộc cha. Do đó cái hiện tượng đói ăn vụng, túng làm liều có thể được khoan hồng và ân xá. Vì thế áp dụng vào hoàn cảnh mỗi người, khi đi xưng tội ta phải xét cái cội rễ của tội hơn là quan sát và cắt cái ngọn. Cắt cái ngọn thì cây sẽ mọc lại, nhưng nếu nhổ cả rễ thì nó hết mọc. Cũng vậy, triệt cái cội rễ của tội mới hi vọng tránh phạm tội.
Trong Phúc âm hôm nay, Chúa kêu gọi người đàn bà bắt đầu cuộc sống mới, chấp nhận lòng nhân từ hay tha thứ của Chúa. Cái đề tài bắt đầu mới lại cũng được tìm thấy trong hai bài đọc Thánh kinh hôm nay. Tiên tri Isaia hôm nay nghĩ về cái cuộc xuất hành, cái cuộc giải thoát mới cho dân Chúa, không phải giải thoát khỏi ách nô lệ bên Ai cập, nhưng là giải thoát khỏi tội lỗi và nết xấu. Bài trích thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Philípphê cũng chứa đựng cái gì mới. Thánh Phaolô rao giảng việc bắt đầu mới trong đời sống mới, đời sống ân sủng với Chúa. Đọc Phúc âm ta thấy Chúa Giêsu ghét tội, nhưng Chúa lại nhân từ với người có tội. Chúa tỏ lòng từ bi, ban ơn tha thứ cho chị đàn bà tội lỗi để chị ta xa tránh tội. Trước hết Chúa ban cho chị lời trấn an: Không ai kết án con sao? (Ga 8:11). Theo sau là lời tha thứ: Ta cũng không kết án con (Ga 8:11).. Sau cùng là lời khuyên răn chỉ đạo: Con hãy đi và đừng phạm tội nữa (Ga 8:11).
74. Luật yêu thương đòi hỏi thông cảm và tha thứ--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Luật Môsê - cũng là luật của Thiên Chúa - buộc phải xử tử những kẻ ngoại tình bị bắt quả tang. Đức Giêsu có tuân theo luật ấy không? Tại sao?
2. Luật mới của Đức Giêsu - luật yêu thương - đòi hỏi những gì? Nếu không biết thông cảm và tha thứ, mà chỉ thích phán xử và kết án, ta có phải là kẻ giữ luật mới của Ngài không?
Suy tư gợi ý:
1. Các kinh sư Do Thái gài bẫy Đức Giêsu
Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo muốn dùng trường hợp người phụ nữ ngoại tình này để gài bẫy Đức Giêsu hầu tìm ra cớ tố cáo Ngài. Nếu Ngài tuyên bố không nên ném đá phụ nữ này, thì Ngài đã không tuân luật Môsê. Môsê viết: “Nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với một người đàn bà có chồng, thì cả hai phải bị xử tử” (Đnl 22,22; x. Lv 20,10). Mà Ngài đã không tuân luật Môsê, thì họ sẽ tố cáo Ngài trước dân chúng, và dân chúng buộc phải tẩy chay Ngài. Vì giữa luật Môsê và Ngài, thì dân chúng phải tin vào luật Môsê hơn. - Nếu Ngài tuyên bố phải ném đá, thì họ sẽ tố cáo Ngài với chính quyền Rôma, và Ngài sẽ bị chính quyền Rôma xét xử, vì Ngài đã vi phạm luật Rôma. Theo luật Rôma, người dân thuộc địa không có quyền lên án giết ai cả (x. Ga 18,31). Nhưng cách giải quyết của Ngài chẳng những giúp Ngài thoát cái bẫy này một cách tài tình, mà còn làm ê mặt các nhà lãnh đạo tôn giáo, đồng thời còn cho họ và cho chúng ta một bài học để đời.
2. Tại sao Đức Giêsu không tuân theo luật Môsê?
Luật Môsê là luật của Thiên Chúa (x.2Mcb 7,11; Tv 1,2; Lc 2,23-24). Thời Cựu ước, dân Do Thái ai nấy đều tin rằng đã là luật của Thiên Chúa thì sẽ là luật muôn đời không bao giờ thay đổi. Trong Kinh Thánh, có rất nhiều câu xác định luật này là luật vĩnh viễn cho con người (x. Xh 12,17.24; 27,21; 30,21; Lv 6,11.15; 7,34; Br 4,1; v.v…), là luật chung cho cả địa cầu (x.1Sb 16,14; 2Sm 7,19; Tv 105,7). Và con người phải tuân giữ luật, vì có như thế mới là tôn kính và yêu mến Thiên Chúa (Đnl 17,19; Gs 22,5; Hc 2,16; 15,1). Ai tuân giữ luật thì được hạnh phúc, được sống đời đời (Tv 119,1.165; Cn 29,18; Kn 6,18). Ai không giữ luật thì chính mình và cả con cháu ba bốn đời sẽ Thiên Chúa bị nguyền rủa, trừng phạt (x.1Sb 15,13; Xh 34,7; Er 7,26; Gr 19,15).
Vậy, luật Môsê buộc phải xử tử hình những kẻ phạm tội ngoại tình, tại sao Đức Giêsu không tuân theo luật ấy mà lại tìm cách tha cho người phụ nữ này? Đức Giêsu không giữ luật? Có phải vì Ngài không muốn vi phạm luật Rôma nên đành vi phạm luật Môsê? Hay Ngài chỉ muốn tìm cách nào thoát khỏi cái bẫy này? Hay Ngài là một nhà làm luật mới?
3. Đức Giêsu đến lập luật mới là luật yêu thương và tha thứ
Nhiều người tưởng rằng hễ đã là luật của Thiên Chúa thì sẽ là thứ luật muôn đời không thay đổi theo không gian và thời gian, nghĩa là luật của Ngài phải được áp dụng cho mọi dân tộc trong mọi thời đại. Nhưng không phải như vậy! Thiên Chúa lập luật cho con người chứ không phải cho Ngài. Luật đó vì con người, nên phải phù hợp với con người. Mà con người thì luôn luôn thay đổi: trình độ tâm linh và sự hiểu biết của con người luôn luôn tiến triển. Nên để phù hợp với con người, luật Chúa cũng phải thay đổi. Thật vậy, lịch sử cứu độ cho thấy luật cũ của Môsê đã được thay thế bằng luật mới của Đức Giêsu: “Ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Môsê” (Rm 3,21; x. Ep 2,15; Dt 7,18). Các tông đồ đã chính thức tuyên bố bãi bỏ luật Môsê (x. Cv 15,28-29).
Con người thời Cựu ước giống như nhân loại còn là trẻ con. Khi ta còn là trẻ con, cha mẹ ta ra luật cho ta, và bắt ta giữ. Nếu ta không giữ thì bị đòn, nếu ta giữ thì được khen thưởng. Động cơ giữ luật của ta là sợ phạt và ham thưởng. Nhưng khi lớn lên, ta không còn giữ những luật đơn sơ ngày xưa nữa, không giữ luật một cách nô lệ nữa. Động cơ khiến ta giữ luật không còn là sợ hãi hay ham thưởng nữa, mà là tình yêu (đối với Thiên Chúa, với chân, thiện, mỹ, với cha mẹ, với mọi người). Khi trưởng thành, ta biết điều nào là đúng, là hợp lý, là phù hợp với tình yêu, và ta biết ta phải hành động thế nào.
Thời Đức Giêsu, nhân loại đã trưởng thành về tâm linh hơn thời Môsê, nên Ngài đã khai mạc một kỷ nguyên mới, với luật mới của Ngài. Luật của Ngài chỉ có một khoản duy nhất: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Vì thế, Ngài cũng như chúng ta, những kẻ theo Ngài, không còn hành xử theo luật Môsê nữa, mà hành xử theo sự thúc đẩy của tình yêu.
4. Luật yêu thương đòi hỏi sự thông cảm và tha thứ
Tình yêu đòi hỏi phải thông cảm và tha thứ… Thông cảm vì bản thân ta cũng như mọi người khác đều rất yếu đuối và bị lệ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh. Kết cuộc, con người “ai cũng phạm tội” (Rm 5,12): “Không ai là người công chính, dẫu một người cũng không” (Rm 3,10; x.1Ga 1,10). Nếu mình cũng phạm tội, mà mình lại kết án người khác, thì quả thật có chút gì “vô liêm sỉ” ở trong đó.
Đức Giêsu tuy không hề phạm tội (x.1Pr 2,22), nhưng Ngài lại không lên án ai. Ngài đã từng chịu ma quỉ cám dỗ, nên Ngài rất am hiểu sự yếu đuối của con người. Vì thế, đứng trước người phụ nữ này, Ngài hiểu hết những tình huống đã dẫn chị ta đến với cơn cám dỗ, và từ cơn cám dỗ đến những hành vi tội lỗi. Ngài hoàn toàn thông cảm với chị. Ngài ghê tởm những kẻ tuy cũng cảm thấy mình yếu đuối như chị, cũng đã từng sa ngã khi gặp cám dỗ như chị, nhưng lại vẫn muốn kết án chị. Dường như kết án chị, họ mới thoả mãn niềm kiêu hãnh phát xuất từ một ảo tưởng rằng họ vô tội. Họ thích sống trong ảo tưởng đó, và muốn củng cố ảo tưởng đó bằng cách kết án người khác. Họ nghĩ càng kết án thì càng chứng tỏ mình trong sạch, vô tội.
Đức Giêsu thấy ác tâm của họ, Ngài kêu gọi lương tâm họ, đánh thức tính liêm sỉ trong lòng họ. Ngài bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Ngài biết đã là con người yếu đuối, nếu không có ơn siêu nhiên giúp, họ không thể nào tránh được tội lỗi. Lời nói của Ngài buộc họ phải tự xét lại chính mình. Và một khi đã tự xét mình một cách thành thật, chắc chắn ai cũng thấy ít nhiều tội lỗi của mình. Ngài đã cho họ một kinh nghiệm tâm linh: hãy thông cảm với tội lỗi của kẻ khác, vì chính bản thân mình cũng có tội.
Một khi đã thông cảm với tội lỗi người khác, thì chỉ còn biết tha thứ, bỏ qua, rồi lại tiếp tục yêu thương, tôn trọng họ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm thấy mình rất yếu đuối. Nhiều khi con đã phạm tội, và con đã từng phải xấu hổ vì tội của con. Nhưng lạ thay, khi thấy tha nhân chung quanh con phạm tội, nhiều khi con lại mạnh mẽ lên tiếng kết án họ. Khi con phạm tội, con muốn Cha và tha nhân thông cảm và tha thứ cho con. Nhưng khi người khác phạm tội, con lại không muốn thông cảm và tha thứ cho họ. Tại sao con lại mâu thuẫn như vậy? Con là như vậy sao? Trái tim con quả là bằng đá. Xin Cha hãy sửa dạy con. Cho con một trái tim bằng thịt thật sự, biết yêu thương, thông cảm với những yếu đuối của mọi người, và sẵn sàng tha thứ tất cả.
75. Suy niệm của John Nguyễn
HÃY CẢM THÔNG VỚI NHỮNG YẾU ĐUỐI CỦA THA NHÂN
1. "Ai sạch tội, hãy ném đá trước đi!"
Đây là một đoạn Tin Mừng mà tôi rất thích, vì nó rất hữu hiệu trong việc ngăn cản tôi kết án người khác, nó làm cho tôi nguôi giận ngay mỗi khi có ai đó làm tôi bực mình muốn lên tiếng chửi bới, v.v... Gặp những trường hợp đáng bực bội đó mà kịp nghĩ đến lời Đức Giêsu: " Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi", thì tôi lại cười xòa, và mọi cơn giận hay khuynh hướng muốn kết án bị giập tắt ngay. Tại sao? Vì chính tôi cảm thấy rằng mình cũng đã từng làm một ai đó bực mình, bị thiệt hại, buồn phiền, đã từng làm những điều hết sức ngu xuẩn, v.v... y như người vừa mới làm phiền tôi, hay vừa làm một điều ngu xuẩn nào đó.
Chẳng hạn, ngoài công lộ, một ai đó chạy xe ẩu làm tôi suýt bị té, khiến tôi bực bội đến nỗi buột miệng chửi toáng lên. Nhưng khi tôi chợt nghĩ rằng trước đây mình cũng đã từng làm cho một vài người suýt bị té y như vậy, thì tôi hết bực mình ngay. Nhiều khi con cái tôi làm tôi tức lộn ruột lên, khiến tôi muốn phạt chúng một trận nên thân, nhưng khi chợt nhận ra rằng tôi cũng đã từng làm cho cha mẹ tôi tức lộn ruột y như vậy, thì tự nhiên cơn giận tôi biến mất ngay.
Làm sao tôi có thể kết án người khác, khi chính tôi cũng đã từng phạm một lỗi như họ? Đọc bài Tin Mừng hôm nay, tôi khá bất bình với những người giả bộ đạo đức đem người phụ nữ ngoại tình đến với Chúa để Ngài kết án. Nhưng khi nghe thấy họ từ từ rút đi hết sau khi nghe Đức Giêsu nói: " Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi", thì tôi cảm phục họ. Ít ra là họ cũng còn liêm sỉ khi thành thật nhận ra mình cũng chẳng tốt lành gì, để rồi lặng lẽ rút lui.
Nhưng có lẽ cũng có khá nhiều người Kitô hữu không đủ liêm sỉ bằng những kinh sư và những người Pharisiêu trong bài Tin Mừng này. Họ sẵn sàng kết án người khác, nuôi lòng hận thù với người khác, và rất khó tha thứ, đang khi chính họ cũng đã từng làm những hành vi tội lỗi tương tự như thế, hoặc còn hơn thế nữa.
2. Tội hồng phúc, những khiếm khuyết hồng phúc
Tôi nhận thấy tội lỗi hay khiếm khuyết cũng có mặt tích cực của nó. Nhờ tôi đã từng phạm một số lầm lỗi, sai lạc, yếu đuối, hay ít ra bị cám dỗ nặng nề về một số tội nào đó, mà tôi trở nên bao dung, dễ tha thứ và sẵn sàng thông cảm với những yếu đuối hay lầm lỗi của người khác hơn. Tôi cảm thấy nếu tôi chưa từng phạm những lầm lỗi, những điều đáng trách ấy, thì có thể tôi đã không dễ dàng thông cảm với những yếu đuối của tha nhân.
Trong hai trường hợp sau đây, nếu phải chọn một, thì bạn chọn trường hợp nào?
- một là không hề phạm một lỗi nào cả nên khó thông cảm tha thứ cho những yếu đuối của người khác,
- hai là đã từng yếu đuối, sa ngã, lầm lỡ, nên trở nên độ lượng, bao dung, dễ cảm thông với những yếu đuối lầm lỡ của người khác.
Riêng tôi, tôi sẽ nghĩ đến trường hợp thứ ba là tuy không phạm lỗi bao giờ nhưng lại rất thông cảm với những lầm lỗi người khác, và tôi cho trường hợp này là tuyệt vời nhất. Tuy nhiên, có lẽ trường hợp này khá hiếm. Nhưng nếu chỉ có hai trường hợp trên, thì tôi thích trường hợp thứ hai hơn. Loại người thứ hai chắc chắn được nhiều người thương mến hơn loại người thứ nhất. Và chắc chắn Chúa cũng thích như thế.
Nói thế không có nghĩa là tôi khuyến khích người ta phạm tội để họ có được sự thông cảm với những người tội lỗi. Tuy nhiên, nếu chúng ta đã từng yếu đuối, lỡ sa ngã phạm tội, thì hãy nhìn ra khía cạnh tích cực của tội lỗi. Nhận ra tội lỗi hay sự yếu đuối của mình sẽ giúp ta khiêm nhường, thông cảm, nhờ đó dễ tha thứ cho người khác. Đức khiêm nhường mà ta có được do nhìn nhận tội lỗi mình thì còn quí giá hơn là trong sạch mà kiêu căng, muốn tự hào và cho rằng mình hơn người vì sự trong sạch đó.
3. Thái độ thông cảm của Đức Giêsu đối với người tội lỗi
Đức Giêsu rất thánh thiện, không hề sai phạm một lầm lỗi nào, thế mà Ngài vẫn luôn luôn thông cảm được với sự yếu đuối của người tội lỗi, Ngài không kết án mà sẵn sàng tha thứ. Còn chúng ta, chúng ta cũng yếu đuối như tất cả mọi người, thế mà ta lại khó thông cảm với những yếu đuối của người khác, nhất là khi họ làm thiệt hại đến ta, đến quyền lợi, danh tiếng, hay cản trở ý muốn của ta. Có thể ta dễ dàng kết án người khác, làm như thể ta hoàn toàn vô tội, không hề phạm những sai lỗi như thế bao giờ. Kết án người khác dễ dàng, điều đó chứng tỏ ta không liêm sỉ bằng những người tự động rút lui sau câu nói của Đức Giêsu: " Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi".
Trong cuộc đời, nhiều khi ta khó chịu với những kẻ lên mặt đạo đức hay kết án hơn là với những kẻ phạm nhiều lầm lỗi. Chắc hẳn Thiên Chúa cũng không ưa những kẻ hay kết án cho dù họ đời sống của họ có tốt đẹp đến đâu. Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ cho kẻ có tội nếu họ biết ăn năn hối lỗi, nhưng Ngài khó tha thứ cho những kẻ hay kết án. Ngài đã từng nói: " Anh em đừng kết án để khỏi bị kết án". Điều đó có nghĩa: kết án người khác chính là cách chắc chắn nhất để Thiên Chúa quay ngược lại kết án chúng ta! Vậy thì ta đừng bao giờ dại dột kết án người khác.
Tôi vẫn nghĩ rằng cách tốt nhất để Thiên Chúa khỏi kết án ta là ta đừng bao giờ kết án người khác. Nếu chúng ta luôn luôn tha thứ cho người khác một cách vô điều kiện, chắc chắn Thiên Chúa cũng không thua kém lòng quảng đại của chúng ta, Ngài cũng sẽ tha thứ cho chúng ta như vậy. Trong kinh Lạy Cha, chúng ta vẫn xin Chúa tha nợ chúng ta, giống như hay theo kiểu chúng ta tha nợ cho những kẻ nợ chúng ta. Ta tha thứ cho người khác kiểu nào, Thiên Chúa cũng tha thứ cho ta kiểu ấy. Ta chấp tội người khác thế nào, Thiên Chúa cũng chấp tội ta thể ấy. Vậy, một cách nào đó, chính ta quyết định việc ta có được Chúa tha thứ hay không.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, xin cho con ý thức được thân phận yếu đuối và tội lỗi của mình, để con thông cảm dễ dàng với những yếu đuối của anh chị em chung quanh con. Xin đừng để con kết án ai bao giờ, nhưng luôn luôn tìm ra những lý lẽ để thông cảm cho những lỗi lầm của họ. Xin cho con đủ bao dung quảng đại để sẵn sàng tha thứ một cách vô điều kiện cho bất kỳ ai xúc phạm đến con. Và con nghĩ đó là cách khôn ngoan nhất để con được Chúa tha thứ cho con một cách vô điều kiện.
76. Chúa đối xử bằng tình thương--Jos. Hồng Ân
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Gioan thuật lại cho ta thấy, Chúa Giêsu có một thói quen, mỗi khi giảng dạy dân chúng xong, mọi người ai nấy trở về nhà mình còn Chúa Giêsu thì lên núi để cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. Thánh Gioan nói rõ: “Đức Giêsu thì lên núi Ô-liu” (Ga 8, 1), Ngài lên núi để cầu nguyện, gặp gỡ Thiên Chúa suốt đêm, nên “vừa tảng sáng Người trở lại đền thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc ấy các Kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt đang phạm tội ngoại tình” (Ga 8, 2). Một phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang, chị bị điệu đi bêu xấu, xỉ nhục dọc đường và theo luật Môsê bị ném đá cho đến chết. Nhưng có một số người Pha-ri-sêu và các Kinh sư sẵn có ác ý với Chúa Giêsu, họ mưu toan tìm cách hại Người, nên họ đã nghĩ ra kế sách thâm độc. Họ đã dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến gần Chúa Giêsu hỏi thử Người, để làm một cái bẫy, đưa Ngài vào chòng, rồi họ sẽ kết án luôn cả Chúa Giêsu, như vậy “một mũi tên sẽ trúng hai đích”.
Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư nghĩ rằng phen này họ sẽ thắng và chắc chắn Chúa Giêsu cũng sẽ bị kết án. Họ hỏi thử người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Môsê đã truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8, 4-5). Nếu Chúa Giêsu trả lời tha cho người phụ nữ phạm tội, thì họ sẽ kết án Chúa vi phạm luật Môsê và ủng hộ tội lỗi, làm phá hoại nền tảng gia đình và xã hội. Còn Chúa trả lời lên án tử người phụ nữ đó, thì họ sẽ làm cho Ngài một phen bẽ mặt, vì giáo huấn Chúa dạy là phải yêu thương (x. Mc 12, 28-31), nhân từ (x. Mt 11, 29) và tha thứ (Lc 6, 37). Hơn nữa họ còn tố cáo là Ngài đã chống lại Rôma và vượt quyền xét xử của nhà lãnh đạo Lamã. Vì thời Chúa Giêsu Dothái bị đế quốc Lamã đô hộ, nhà cầm quyền Dothái không được lên án tử hình, mà phải đên trình lên Rôma xét duyệt. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ ác ý của họ, nên Người không trả lời mà “cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất” (Ga 8, 6). Kinh Thánh không nói Ngài viết chữ gì, nhiều ý kiến thì cho rằng: “có lẽ Ngài viết tội trạng của những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư”. Đây quả là một vụ án vô cùng khó xử.
Chúa Giêsu đã im lặng, cúi xuống viết trên đất, đó là khoảng thời gian vô cùng hồi hộp của người phụ nữ, chờ đợi phán quyết cuối cùng của Ngài. Là khoảng thời gian những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư nóng lòng chờ đợi Ngài đưa ra phán quyết để có cơ hội tố cáo Ngài. Chúa Giêsu cứ viết mãi, viết mãi, làm cho những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư phải khó chịu nên họ thúc dục Người: “Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng đầu lên và bảo họ: Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7). Rồi Chúa lại cúi xuống tiếp tục viết. Chúa Giêsu không nói là ném đá hay không ném đá, kết án hay không kết án, Ngài cũng không nói tới việc áp dụng luật, Ngài muốn thức tỉnh lương tâm của những kẻ tự cho mình là công chính, giữ luật cách máy móc, đến nỗi không còn phân biệt tốt xấu.
Chuyện kể rằng: Một người Dothái qua đời. Sau khi khám nghiện tử thi, các bác sĩ xác nhận người đó thực sự đã chết và cấp giấy chứng nhận để chôn cất. Trong lúc đang chuẩn bị hạ huyệt, mọi người bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên khi thấy người chết đã sống lại. Thế nhưng vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng, rồi nói với người trong quan tài rằng: “chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay đã chết, nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, quả thực ông đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của bác sĩ”. Nói xong ông truyền cho ban tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục cử hành nghi thức tang lễ và hoàn tất thủ tục chôn cất.
Có lẽ tác giả của câu chuyện trên muốn lên án, chế diễu tính cứng nhắc và máy móc của con người khi tuân các lề luật, cũng như khi cư xử với người đồng loại, với người đồng đạo, với những người thân cận.
Thời Chúa Giêsu, những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư họ cũng có thái độ như thế đối với lề luật. Họ tuân giữ luật lệ cách máy móc, làm cho luật trở nên nặng nề, họ trung thành với luật lệ đến nỗi không còn tình người, đến hy sinh tính mạng, giết chết người đồng loại, chôn sống cả người đồng hương.
Chúa Giêsu muốn nêu bật cái cốt lõi của lề luật, tinh thần đích thực của lề luật là tình thương. Chúa đánh đổ quan niệm ấy bằng cách chữa bệnh ngày Sabát, đón tiếp, ăn uống với những người tội lỗi và người thu thuế. Qua việc làm đó, Ngài muốn bày tỏ cho con người thấy được bộ mặt yêu thương, nhân từ hay tha thứ của Thiên Chúa, vượt qua mọi luật lệ của con người.
Lời nói của Chúa Giêsu: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”, đã làm cho những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư bừng tỉnh, nhận ra chính họ cũng là tội nhân trước mặt Chúa, nên đã lần lượt rút lui. Khi Chúa ngẩng lên thì không còn ai ở đó nữa, lúc đó Chúa mới đưa ra lời phán quyết. Chúa không xét xử như con người, cũng không dùng lề luật mà xét xử. Ngài dùng tình thương mà xét xử: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 11). Chúa đã để cho người tội lỗi có cơ hội ăn năn sám hối, chừa bỏ tội lỗi, trở về với Chúa và sống công chính để được hưởng ơn cứu độ của Ngài. Chúa phân biệt tội và người có tội, đối với tội thì Chúa triệt để lên án, không khoan nhượng, không dung thứ, cũng như ánh sáng không ở chung với bóng tối. Chúa lên án tội lỗi, dạy con người tránh xa tội lỗi. Suốt đời Chúa hằng đấu tranh với tội lỗi, đấu tranh đến giọt máu cuối cùng trên Thập giá để diệt trừ tội lỗi. Còn người có tội thì Chúa lại khoan dung tha thứ.
Trên đời, nhiều khi chúng ta cũng mang bộ mặt của Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư sống vụ luật, hình thức, giữ luật một cách máy móc, giữ giờ giấc đầy đủ, bề ngoài có vẻ như rất đạo đức nhưng lại hay soi mói, xét nét, lên án người khác từ những chuyệt rất nhỏ mà quên rằng: trước mặt Chúa chính ta cũng là kẻ tội lỗi, chúng ta mang nơi mình bản tính của con người là yếu đuối hay sa ngã phạm tội. Vậy mỗi khi định xét đoán người nào, hay lên án ai. Chúng ta hãy đặt mình trước mặt Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, không hề mang vết nhơ tội lỗi. Và ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán. Vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy. Và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em” (Mt 7, 1-3). Chúng ta không xét đoán tha nhân, thì Thiên Chúa cũng sẽ không xét đoán chúng ta như chúng ta đáng tội. Chúng ta dùng đấu tình thương mà đong cho tha nhân, thì Thiên Chúa sẽ dùng đấu tình thương ấy mà đong lại cho chúng ta. Mỗi người chúng ta biết yêu thương và tha thứ cho anh em khi họ xúc phạm đến ta, khi họ làm điều sai trái, thì Thiên Chúa cũng sẽ lấy thương mà đối xử nhân từ, khoan dung và tha thứ cho chúng ta.
Lạy Chúa, chúng con cũng là những con người tội lỗi, nhưng chúng con lại hay chỉ trích, lên án và loại trừ người khác. Xin Chúa thức tỉnh lương tâm chúng con, để chúng con nhận biết chính chúng con cũng là những con người tội lỗi, để chúng con đối xử khoan dung và tha thứ cho anh em con. Xin Chúa cũng dùng tình thương mà đối xử với chúng con, như Chúa đã đối xử nhân từ với người tội lỗi trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.
77. Lòng khoan dung của Thiên Chúa--PM. Cao Huy Hoàng
Các em thiếu nhi trong Giáo xứ thường xem trước bài Tin Mừng Chúa Nhật, đọc và tìm hiểu. Hôm nay, Bé Hữu đọc to đoạn tin mừng Ga 8, 1-11. Mẹ hỏi: “con hiểu thế nào?” Bé trả lời “Chúa Giêsu cứu một mạng người” “cứu ai” “Cứu bà kia”? “Ai định giết?” “Mấy ông luật sĩ định ném đá cho chết luôn” “Sao không ném?” “Ai cũng có tội mà ném gì, Mẹ? Họ rút êm hết rồi”
Còn Chúa thì sao? “Chúa bảo bà ấy về đi, đừng phạm tội nữa. Thế là bà ấy thoát chết”
"Thưa Thầy, phụ nữ ngoại tình này bị bắt tại trận. Theo Luật, Môise truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà như thế. Vậy, Thầy dạy sao?" (Gn 8:4-5)
Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội tình được đề cập trong bài Tin Mừng hôm nay đang đau khổ vì xét theo luật, phải bị công khai ném đá cho đến chết. Thực ra, chị không phải là nhân vật chính trong vụ xét xử theo yêu cầu của các luật sĩ. Nhưng chính là Chúa Giêsu. Họ đang muốn xử Chúa Giêsu. Và họ sẽ xử Chúa Giêsu nếu Ngài không xử người phụ nữ này đúng theo luật của Môise đã định. (Lv 20:10).
Thật tội nghiệp cho thân phận thiệt thòi của người phụ nữ. Không thấy người đàn ông tòng phạm bị ném đá!
Chúa Giêsu biết họ đang thử thách Ngài về lòng bác ái và việc thi hành lề luật. Ngài đã thinh lặng đến độ khó hiểu. Và khi Ngài lên tiếng, thì họ mới hiểu ra là Chúa Giêsu đứng về phía tội nhân. Ngài không bảo đừng ném đá, nhưng Ngài bảo ai đó cứ ném đi nếu tự thấy mình vô tội. “Trong các ông, ai vô tội thì hãy ném đá trước đi" (Gn 8:7).Ngài không bào chữa cho tội nhân, nhưng Ngài tha thứ và với ơn tha thứ Ngài khuyên người phụ nữ đừng phạm tội nữa. "Ta cũng không xử tội bà! Đi đi! Và từ nay đừng phạm tội nữa! (Gn 8:10-11).
Tin mừng đưa ra hình ảnh người đàn bà ngoại tình không có ý làm giảm nhẹ giá trị phụ nữ thời xưa hay thời nay, nhưng có ý nhắc đến “người phụ nữ là Dân Riêng Thiên Chúa” mà Thiên Chúa đã kết ước như một cuộc hôn phối diệu kỳ giữa Thiên Chúa như người chồng, và dân riêng như người vợ: “Vì ngươi sẽ được ĐỨC CHÚA đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể”.(x. Is 62, 4- 5). Và Ngôn sứ Hôsê: “Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu. Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương. Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết ĐỨC CHÚA. (Hôsê 2,21-22)
Còn trong Tân Ước, Chúa Giêsu Kitô là chàng rể và Giáo Hội chính là hiền thê của Ngài. “Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người” (Mt 25, 6). Cũng vậy, trong Giáo Hội mỗi thành phần đều là những người yêu quí của Chúa Kitô, thuộc về Chúa Kitô, trong ý nghĩa đã được hôn phối đời đời với Ngài.
Như vậy hình ảnh người vợ ngoại tình có ý nói đến việc dân riêng Thiên Chúa bỏ Thiên Chúa mà lang chạ với ngẫu thần ngẫu tượng, việc mỗi người chúng ta cắt đứt tình nghĩa với Thiên Chúa khi để lòng chúng ta yêu chuộng các sự thế gian hơn yêu mến Thiên Chúa, khi sống trong tình trạng tội lỗi.
Đâu chỉ có các bà!
Dân Chúa hôm nay có trong đó có tôi, có chị, có nam có nữ, có ông già bà già và cả con nít..thảy đều phạm tội ngoại tình.. xét theo nghĩa, ngoại tình là không chung thủy lời hứa hôn phối với Thiên Chúa qua bí tích rửa tội, qua lời hứa từ bỏ ma quỉ và các việc của nó…
Có người ngoại tình chạy theo lời dụ ngọt của lợi nhuận vật chất, của sự bảo bọc bao che cho những sai trái của mình mà phải làm tay sai cho một thế lực chống lại Thiên Chúa.
Có ông ngoại tình hết mình lo tiền bạc là vì xem tiền bạc là cứu Chúa đời mình mà quên việc phục vụ tha nhân.
Có ông vì run sợ trước họng súng để vào tai, trước lưỡi dao kề bên cổ, trước những đe dọa bắt bớ bỏ tù mà đành phản bội với Chúa Kitô và Thập giá của Ngài.
Có người muốn kết duyên với “chức trọng quyền cao” mà không chu toàn bổn phận đầy gian nan khổ ải, đòi hỏi những hiến thân phục vụ cho chân lý.
Cũng có những người ngoại tình vì những khát vọng khoái lạc chóng qua mà bỏ rơi Thiên Chúa muôn đời hằng hữu.
Có ông ngoại tình “bắt cá hai tay” không mất chuyện trong đạo mà được cả chuyện ngoài đời, trong ngoài đều có lợi……
Ma quỷ khôn ranh tạo ra muôn hình vạn trạng cách phạm tội ngoại tình đối với lời thề hứa chung thủy với Thiên Chúa và còn đưa dẫn chúng ta cách tài tình đến chỗ phải làm thân nô lệ cho tội lỗi.
Không ai vô tội. “Trong các ông, ai vô tội thì hãy ném đá trước đi".
Lời Chúa xoáy vào tâm can mỗi người. Từng người rút êm. Không ai dám cầm viên đá mà quăng vào người phụ nữ.
Cách đây không lâu, chỉ vài chục năm thôi, tôi còn nhớ như in hình ảnh những cô “ăn cơm trước kẻng”, những bà có chồng công khai chung sống với người khác, đứng trước cộng đoàn đọc bản tự thú để được tha vạ mà xưng tội rước lễ. Tôi cũng thấy có các cô thôi, không thấy các anh, các ông. Các cô, các bà ấy bị những biện pháp chế tài vì là tội nhân công khai -có lẽ công khai vì cái bầu - Có nơi còn phải bị nộp phạt cho giáo xứ nữa.
Những dịp ấy, có nhiều tiếng xì xào trong nhà thờ. Ra khỏi nhà thờ, cả cô và bà đều cúi gầm mặt xuống mà đi vì xấu hổ trước mặt mọi người. Rồi, nếu có lễ cưới, thì Bí Tích Hôn Phối bị gọi là Phép Giao, cử hành trong phòng thánh mấy phút là xong.
Tưởng là khủng khiếp cho một não trạng phân biệt đối xử như thế, nhưng ít nhiều cũng đã bảo đảm được cho lớp trẻ một thời biết gìn giữ đức khiết tịnh tiền hôn nhân, lớp già biết gìn giữ đặc tính đơn hôn trong hôn nhân công giáo.
Xin một chút tản mạn ngoài lề… Còn thời nay… “Mẹ lạy con đừng phá cái thai ấy. Đã lỡ phạm tội, lỡ có bầu rồi, con đừng phạm thêm cái tội giết người nữa con ơi! Phá thai là giết người không có sức kháng cự, không có khả năng tự bảo vệ, là giết chính con mình… Tội tày trời. Mẹ năn nỉ con…”
Còn thời nay…. người trẻ chưa sống đời vợ chồng, đòi sống thử đã đành, người già cũng sanh tật tìm hoa thơm cỏ lạ, thành ra tội lỗi khắp nơi khắp chốn, tội lỗi đủ mọi lớp tuổi, mọi thành phần. Sống thử, ngoại tình, phá thai, ly dị… trở thành đại dịch để lại những hậu quả khủng khiếp về đời sống luân lý cho không chỉ một thế hệ, và chắc chắn cũng là hậu quả vô cùng tệ hại đối với sự tồn vong của một dân tộc ….
Nhưng xin đừng kết án. Xin đừng ném đá. Chúa Giêsu bảo: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy" (Lc 6,36-38).
Thực tế, lòng người quá hẹp hòi ích kỷ, như bà De Girardin đã nói: “ đàn bà chỉ tha thứ sau khi đã trừng phạt”, hoặc như Tennyson: “đàn bà rất cay nghiệt với đàn bà”. Vâng tính đàn bà ấy lại ngự trị ngay trong lòng những người đàn ông tưởng như là độ lượng. Ngược lại, không thiếu những phụ nữ còn độ lượng hơn cả đàn ông.
Đối với Chúa Giêsu, tha thứ tuyệt đối là điều kiện tiên quyết để phục hồi tình trạng nguyên tuyền của hôn ước thánh thiện giữa Thiên Chúa và con người, giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Chúa Giêsu là tấm lòng bao dung của Thiên Chúa. Lòng bao dung của Thiên Chúa được nhắc đến trong bài đọc 1, Is 43, 18-19: "Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước. Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn”.
Vâng, Thiên Chúa không nhắc lại chuyện xưa, không dằn xé đay nghiến, không trừng phạt tức khắc, nhưng chỉ biết khoan dung kiên nhẫn chờ đợi và thứ tha vô lượng. Ngài còn mở ra một con đường của bình an hy vọng: “Đừng phạm tội nữa”.
Và để có một hướng định quyết liệt cho việc không tái phạm tội, thánh Phaolô chỉ dẫn: “Thưa anh em, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô…….
Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. (Pl 3,8-14)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là lòng khoan dung của Thiên Chúa, xin cho chúng con giữ lòng chung thủy với Chúa, và khi lỡ lầm, xin cho chúng con biết vững tin vào lòng tha thứ vô lượng của Chúa, mà quyết tâm nối lại duyên tình hạnh phúc vô biên với Chúa, và dứt khoát nói “không” với tội lỗi. Amen.
78. Lòng thương xót của Thiên Chúa--Lm. Anthony Trung Thành
Chúng ta đang sống trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Tuần trước chúng ta được cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa qua dụ ngôn người cha nhân hậu (x. Lc 15,11-32).
Tuần này chúng ta lại được cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa, qua lời nói và thái độ của Chúa Giêsu trong câu chuyện người phụ nữ phạm tội ngoại tình (x. Ga 8, 11-32).
1. Tha thứ sẽ cứu sống, kết án sẽ giết chết
Tội thì đáng phạt và hình phạt nặng nhất là phải chết. Nhưng Thiên Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải chết, trái lại Ngài muốn nó ăn năn sám hối và được sống(x. Ed 18,23). Vì vậy, Chúa Giêsu thường lui tới với người tội lỗi không phải tìm cách kết án nhưng tìm cách để tha thứ. Tha thứ để cứu sống họ. Ngài đã từng tha thứ cho Mathêu, cho Mađalêna, cho Phêrô, cho kẻ trộm lành và cho những kẻ đóng đinh Ngài. Ngài cũng dạy Phêrô tha thứ cho anh em không phải bảy lần mà bảy mươi lần bảy (x. Mt 18,22). Biết được tinh thần tha thứ của Chúa Giêsu như vậy, nên những người luật sĩ và biệt phái mới giăng bẫy để làm hại Ngài. Họ dẫn đến với Ngài một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, để nhờ Ngài xét xử. Cái bẫy họ giăng ra, nhằm mục đích làm cho Chúa phải tiến thoái lưỡng nan. Nếu Chúa Giêsu kết tội người phụ nữ, thì dĩ nhiên Ngài đi ngược lại với tình thương tha thứ mà lâu nay Ngài rao giảng. Mặt khác, Ngài sẽ vi phạm quyền xét xử của Đế quốc Rôma đang cai trị nước Do Thái lúc bấy giờ. Còn nếu Chúa Giêsu tha cho người phụ nữ, thì Ngài lại đi ngược lại với Luật của tiền nhân. Vì theo luật Do thái, người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình sẽ bị ném đá cho đến chết (x. Lv 20,10; Đnl 22,22). Nhưng, khi có lòng thương xót thì luôn tìm kiếm cách thế để cứu thoát. Cách thế của Chúa Giêsu lúc này là gì? Tin Mừng kể lại, sau khi nghe người Do Thái tố cáo, Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Có lẽ Ngài muốn làm thế là để giúp họ có thời gian xem xét lương tâm của mình. Đó cũng là thời gian để Ngài tìm cách giải cứu phạm nhân. Thánh Giêrônimô thì cho rằng Chúa Giêsu đang viết tội của họ. Nhưng vì họ cứ hỏi mãi, nên Chúa Giêsu đứng lên và bảo họ: “Ai trong các ngươi sạch tội thì hãy ném đá chị này trước đi”(Ga 8,7). Nhưng rồi, không thấy ai ném đá, tức là không ai trong bọn họ sạch tội. Lạ lùng hơn nữa, họ im lặng và “Rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất”(Ga 8,9). Như vậy, Lòng thương xót của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Khi chỉ còn Ngài và người phụ nữ, Ngài nói: “Tôi cũng không kết án chị đâu”(x. Ga 8,11). Không kết án, đó là bản chất của Lòng Thương Xót. Như vậy, bài học mà Chúa muốn dạy chúng ta đã rõ ràng: Nếu có Lòng Thương Xót thì sẽ tìm ra cách thế để giải quyết, cho dù sự việc có bế tắc đến đâu. Bởi vì, tình thương tha thứ bao giờ cũng cứu sống, còn kết án thì sẽ giết chết.
2. Cần sửa mình trước khi sửa anh em
Đối nghịch với Chúa Giêsu, là hạng người biệt phái và luật sĩ. Họ luôn tìm cách để kết án. Kết án có nguy cơ giết chết. Họ bắt được một người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Theo luật Môsê, họ có quyền ném đá người phụ nữ này cho đến chết. Nhưng, họ muốn bắn một mũi tên mà trúng hai đích. Đối với họ, đây là một cơ may để họ gài bẩy Chúa Giêsu. Cho nên, với thái độ đầy sát khí, họ lôi kéo người phụ nữ đến với Chúa Giêsu để gài bẩy người. Chúa Giêsu nói với họ: “Ai trong các ngươi sách tội thì hãy ném đá chị này trước đi” (Ga 8,7). Lời mời gọi xem ra nhẹ nhàng nhưng đã xoáy vào lương tâm của họ. Bởi vì, đã là con người thì ai cũng phạm tội: Không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ. Tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Thông thường, càng nhiều tuổi thì lại càng nhiều tội. Chính câu chuyện Tin mừng này thôi cũng cho ta thấy những người Do Thái đã mắc hai thứ tội rất nặng: Tội thứ nhất là “Bêu xấu người phụ nữ”; tội thứ hai là “Gài bẩy” để âm mưu giết chết Chúa Giêsu. Vì vậy, Thánh Luca kể: “Họ im lặng và rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất” (Ga 8,9). Hành động rút lui của họ, chứng tỏ họ biết nhận ra tội lỗi của mình. Đó là bước đầu của sự sám hối. Hy vọng, sau đó họ sám hối thực sự để trở về với Thiên Chúa tình thương.
Bản chất của con người thường hay che dấu tội mình, nhưng lại thích khuếch trương tội người khác. Tội của mình thì bỏ vào túi đeo sau lưng, còn tội người khác thì đeo vào chiếc túi trước ngực. Người xưa nói không sai: “Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Bài học chúng ta rút ra cho bản thân là: Phải sửa mình trước khi sửa người khác với nguyên tắc người xưa rằng: “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”.
3. Từ nay đừng phạm tội nữa
Chúa Giêsu đã từng nói với người thanh niên, muốn được hưởng sự sống đời đời thì một trong những tội cần phải tránh là tội ngoại tình (x. Mt 19,18). Tội ngoại tình cũng là một trong những thứ tội phạm đến điều răn thứ 9 trong 10 điều răn của Chúa. Tội ngoại tình gây ra những hậu quả hết sức nặng nề trong đời sống gia đình, đặc biệt là trong mối quan hệ vợ chồng. Người ngoại tình sẽ đánh mất niềm tin và sự kính trọng của người phối ngẫu, dẫn đến việc đánh ghen, cãi vã, đuổi ra khỏi nhà và ly dị. Có lẽ vì lý do đó mà theo luật Do Thái, ngoại tình là một trong ba tội lớn nhất và bắt buộc phạm nhân phải chết. Hình thức xử tội ngoại tình là ném đá cho đến chết. Tại Việt Nam chúng ta, ngoại tình dẫn đến ly hôn bị phạt tù 1 năm là nội dung được quy định tại Điều 182 Bộ luật hình sự 2015 (Có hiệu lực từ ngày 01/7/2016).
Việc Chúa Giêsu tha cho người phụ nữ, không có nghĩa là Ngài coi thường tội ngoại tình, nhưng để chị ta khi đối diện với “Lòng Thương Xót” mà hoán cải đổi mới cuộc đời. Vì vậy, Ngài nói với người phụ nữ: “Ta không kết án chị đâu. Chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”(Ga 8,11). Chúng ta không biết sau đó cuộc sống của người phụ nữ này như thế nào. Nhưng ai cũng hy vọng chị sẽ đổi mới cuộc đời của mình giống như Mathêu, Giakêu, Mađalêna sau khi gặp Chúa Giêsu. Tức là cái mới thay thế cho cái cũ, đời sống tốt lành sẽ thay thế cho đời sống tội lỗi, như lời mời gọi của Bài đọc thứ nhất: “Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Ðây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện”(x. Is 43, 18-19). Chính Thánh Phaolô đã thực hiện triệt để lời mời gọi này. Sau cú ngã ngựa trên đường Đamát, Ngài đã quên đi quá khứ tội lỗi của mình và hướng tới tương lai để sống trọn ơn kêu gọi của Thiên Chúa. Ngài nói: “Tôi đinh ninh một điều là quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước, tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Ðức Giêsu Kitô”(Pl 3,13-14). Ước gì mỗi người chúng ta cũng luôn biết quên đi quá khứ tội lỗi để hướng tới tương lai, với một lòng dốc quyết mạnh mẽ “Từ nay tôi sẽ không phạm tội nữa”.
Lạy Chúa Giêsu, vì lòng thương xót, Chúa đã tìm cách để cứu người phụ nữ ngoại tình trước cái bẩy mà người Do Thái giăng ra. Xin cho mỗi chúng con có được lòng thương xót của Chúa, luôn biết nghĩ cách để cứu anh em mình hơn là kết án họ. Xin cho chúng con biết nhận ra tội lỗi của mình để thống hối ăn năn xưng tội và quyết tâm từ nay không còn phạm tội nữa. Amen.
79. Đức Giêsu và người phụ nữ ngoại tình--Lm. PX. Vũ Phan Long
Nếu chúng ta có được sự thẳng thắn để nhìn nhận rằng chúng ta cũng là những kẻ bị mất, bị đau ốm, chúng ta sẽ biết mở lòng ra đón tiếp Đức Giêsu.
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này nằm trong Phần I của TM IV ("Sách các Dấu lạ của Đức Giêsu", tức ch. 2–12), nhưng được coi như một bản văn không thuộc về bản gốc TM IV. Lý do: bản văn này không có trong những thủ bản Hy Lạp quan trọng phát xuất từ Đông phương (chẳng hạn bản Papyrus Bodmer II = P66, năm 200); các tác giả Hy Lạp viết về TM Ga thuộc thiên niên kỷ I không hề bình luận bản văn này; nó chỉ xuất hiện vào khoảng năm 900 trong bản văn Hy Lạp chuẩn. Ngoài ra, còn có những tiêu chuẩn văn chương: bản văn có từ vựng và văn phong của các TMNL, đặc biệt của TM Lc; nó có vẻ không ở đúng chỗ, dù là tại chỗ hiện nay (giữa Ga 7,52 và Ga 8,12), hay ở trong ngữ cảnh tổng quát là TM IV.
Giai thoại này được đặt ở đây có lẽ để minh họa lời khẳng định của Đức Giêsu ở Ga 8,15: "Phần tôi, tôi không xét đoán ai cả". Chúng ta thấy như thế trong một số thủ bản chữ hoa Hy Lạp, nhất là bản D (Codex Bèze), trong các thủ bản La-tinh cổ và tốt, và dĩ nhiên trong bản Phổ thông.
Bản văn này chứa một truyền thống Tin Mừng về cuộc sống công khai của Đức Giêsu: cách thức xử sự của các người tố cáo được các đoạn khác của TM làm chứng; thái độ quen thuộc của Đức Giêsu khi đối diện với Luật Môsê, và sự tha thứ Người ban cho những kẻ tội lỗi. Do đó, ta không thể hoài nghi về sử tính của bản văn. Đàng khác, từ vựng cũng như xu hướng thần học khiến ta nghĩ rằng đây là công trình của tác giả Luca. Chính vì thế, có một loạt thủ bản chép đoạn văn này vào sau Lc 21,38.
Người ta cũng đoán lý do khiến bản văn này không thuộc về các TM ngay từ đầu: rất có thể lý do mạnh nhất, đó là khó mà dung hòa sự tha thứ quá trọn vẹn Đức Giêsu ban cho người phụ nữ với việc đền tội nghiêm khắc mà Hội Thánh sơ khai quy định cho tội ngoại tình.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Khung cảnh (8,1-2);
2) Vụ "Người phụ nữ ngoại tình" (8,3-11):
a) Các kinh sư/Pharisêu – Người phụ nữ "đứng ở giữa" – [Đức Giêsu] (c. 3),
b) Các kinh sư/Pharisêu – Đức Giêsu – [Người phụ nữ] (cc. 4-6),
c) Đức Giêsu và các kinh sư/Pharisêu: câu nói tạo khúc quanh (cc. 7-8),
b') Đức Giêsu – Các kinh sư/Pharisêu – [Người phụ nữ] (c. 9a),
a') Đức Giêsu – Người phụ nữ "đứng ở giữa" – [Các kinh sư/Pharisêu] (cc. 9b-11).
3.- Vài điểm chú giải
- vừa tảng sáng (2): Ngoại trừ chỗ này trong TM IV, từ orthros, "bình minh" (orthrou, "lúc bình minh, lúc tảng sáng") chỉ xuất hiện trong TM Lc và Cv thôi (x. Lc 24,1; Cv 5,21). Riêng Lc 21,38 dùng động từ orthrizô, "dậy sớm".
- các kinh sư và người Pharisêu (2): Đây là một công thức quen thuộc của các TMNL, còn TM Ga thì chuộng kiểu nói "các thượng tế và người Pharisêu" (x. 7,32.45; 11,45.57); ngoài đoạn văn này, TM Ga không bao giờ nói đến các kinh sư.
- bị bắt gặp đang ngoại tình (3): Câu 4 sẽ xác định rõ hơn: "bị bắt quả tang đang ngoại tình". Theo Đnl 19,15, phải có ít ra hai người làm chứng rằng đã thấy sự việc, không kể người chồng. Không chỗ nào nói đến anh tình nhân, có lẽ anh này đã trốn mất. Có thể so sánh truyện này với truyện bà Susanna (Đn 13,36-40 Vg).
- Thưa Thầy (4): Danh xưng didaskalos ở hô-cách[1] này rất quen thuộc với truyền thống Nhất Lãm; còn trong Ga, tác giả thường dùng từ Rabbi để thưa với Đức Giêsu (Ga 1,38).
- trong sách Luật, ông Môsê truyền (5): Các kinh sư và người Pharisêu đang quy chiếu về Lv 20,10 và Đnl 22,22-24 để lý luận.
- Họ nói thế nhằm thử Người (6): Câu này hầu như cũng là câu Ga 6,6 trong tiếng Hy Lạp.
- để có cớ tố cáo Người (6): Câu này hầu như cũng là câu Lc 6,7 trong tiếng Hy Lạp.
- viết trên đất (6): Có nhiều gợi ý về điểm này.
1) Thánh Giêrônimô cho rằng Đức Giêsu đã viết tội của những người tố cáo người phụ nữ. Ngài nghĩ như thế vì dựa trên Gr 17,13;
2) Theo J.D.M. Derrett, người chồng đã lập mưu với các người chứng để bắt quả tang vợ phạm tội; do đó dựa theo c. 6, Đức Giêsu đã viết lên đất câu Xh 23,1b: "(để làm chứng gian)", và dựa theo c. 8, Người đã viết Xh 23,7a. Với lại sách Đn đã quy chiếu về câu Xh này trong truyện bà Susanna (Đn 13,53);
3) T.W. Manson lưu ý rằng trong cách thực hành của Luật Rôma, trước tiên vị thẩm phán viết bản án ra, rồi mới đọc to lên. Như thế, hẳn là c. 6 cho thấy Đức Giêsu đã viết bản án ra, rồi công bố ở c. 7; rồi ở c. 8, Người lại viết những gì sẽ công bố ở c. 11.
Cách giải thích hợp lý nhất, đó là Đức Giêsu chỉ vạch các đường nét trên mặt đất trong khi Người suy nghĩ, hoặc muốn tỏ ra không nao núng hay Người đang kềm hãm các cảm giác chán ngán về sự hăng hái đầy gian ác của những người tố cáo. E. Power ghi lại nhiều trường hợp từ nền văn chương Ả-rập cho thấy thói quen Sê-mít vẽ trên đất khi không muốn can thiệp vào vụ việc nào đó. Dù sao, chúng ta có cảm tưởng là nếu là chuyện quan trọng hơn, thì nội dung của những nét vẽ đó đã được kể lại.
- Ai trong các ông sạch tội,... ném trước... (7): Đức Giêsu cũng trích dẫn Đnl 13,9-10 và ch. 17. Đnl 17,7 nhìn nhận rằng người làm chứng chống lại bị cáo có một trách nhiệm đặc biệt đối với cái chết của kẻ ấy.
- họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao? (10): Đức Giêsu hỏi vì ngạc nhiên hay là có ý châm biếm? Có lẽ phải nói lời này vừa có ý minh giải hoàn cảnh vừa tạo sự yên tâm cho người phụ nữ, và như thế tương đương với câu: "Như vậy, họ đã bỏ rơi vụ này rồi". Vì những người chứng và những người tố cáo đã bỏ đi, vụ việc đã hỏng rồi. Động từ "lên án" ở đây là động từ chuyên môn katakrinein; ở những chỗ khác, khi nói về sự phê phán, phán đoán, tác giả Ga luôn luôn sử dụng động từ trung lập hơn, đó là krinein (Ga 3,17.18; 5,22.30; 8,15.16...).
4.- Ý nghĩa của bản văn
Cách thức Đức Giêsu đối xử với những người tội lỗi lâu nay chắc chắn không được các đối thủ của Người chấp nhận. Người đã ăn uống đồng bàn với những người tội lỗi, đã loan báo cho họ biết Thiên Chúa từ bi thương xót, sẵn sàng tha thứ cho họ. Trong khi đó, các đối thủ của Người tỏ một thái độ khinh bỉ, giữ khoảng cách với những người tội lỗi, không muốn bị họ làm cho ra "nhơ uế". Họ phản đối cách thức xử sự của Đức Giêsu và muốn chứng tỏ cho Người thấy rằng chỉ lối sống của họ mới tương ứng với Lề Luật, nghĩa là với ý muốn của Thiên Chúa đã được mạc khải.
Hôm nay, lại có một sự cố xảy ra để cho thấy những điểm này.
* Khung cảnh (1-2)
Đức Giêsu đang giảng dạy tại Đền Thờ trong tuần lễ cuối cùng của đời Người. Nhiều chi tiết cho biết như thế: Núi Ôliu, Đền Thờ, giảng dạy có uy quyền chung quanh Đền Thờ. Dân chúng vây quanh, lắng nghe Người. Tác giả nói "toàn dân" để cho hiểu là lời rao giảng của Đức Giêsu gây một ảnh hưởng lớn trên người Do Thái.
* Vụ "người phụ nữ ngoại tình" (3-11)
Lần này, các kẻ thù của Người tưởng là cuối cùng họ đã có thể đưa Người vào bẫy để tiêu diệt Người. Họ không tranh luận với Người nữa, mà họ điệu đến cho Người một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Vụ việc đã quá rõ: bà này có tội. Để xác định tội trạng, thì đã có những người có uy tín nhất trong xã hội, những người biết giải thích Luật. Ở đây chúng ta thấy có các kinh sư và người Pharisêu: các kinh sư là những chuyên viên về Luật; còn các Pharisêu là những người ra sức bảo vệ việc áp dụng Luật theo mặt chữ. Họ trích Luật liên hệ đến trường hợp này. Lề Luật tuyên bố minh nhiên: "Khi người đàn ông nào ngoại tình với đàn bà có chồng, ngoại tình với vợ người đồng loại, thì cả đàn ông ngoại tình lẫn đàn bà ngoại tình phải bị xử tử" (Lv 20,10; x. thêm Đnl 13,7-10; 17,2tt). Trường hợp ở đây thì quá rõ, vì đây là ca bắt quả tang.
Các đối thủ của Đức Giêsu tận dụng tình thế này để gây khó khăn cho Người. Họ đưa người đàn bà ngoại tình đến và xin Người cho ý kiến: "Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" Đức Giêsu còn có thể làm gì nếu không phải là đồng thuận đi theo cách thực hành của các đối thủ, tức là yêu cầu ném đá người đàn bà tức khắc? Hoặc là Người ưng theo cách thực hành của họ, hoặc là Người chứng tỏ Người khinh thường Lề Luật. Tất cả mọi chuyện này xảy ra nơi thanh thiên bạch nhật, trước sự chứng kiến của dân chúng đang nghe Đức Giêsu. Nếu Người đồng thuận với các xử sự của các đối thủ, Người cũng đồng thuận với lập trường của họ đối với những người tội lỗi, Người sẽ bị buộc phải phủ nhận cách xử sự của Người và thế là Người sẽ bị lật mặt nạ ra như là vị thầy giả hiệu. Ngược lại, nếu Người không chấp nhận lối xử sự của họ, Người sẽ phủ nhận một khoản luật rất rõ ràng và cũng sẽ bị toàn dân coi là kẻ vị phạm Lề Luật. Đức Giêsu sẽ ứng xử thế nào trong hoàn cảnh có vẻ không ngõ thoát này?
Hết sức bình thản, Đức Giêsu cúi xuống viết, hoặc vẽ những dấu trên mặt đất. Người chẳng hề liếc nhìn họ hay trả lời họ gì cả. Dường như Người hoàn toàn chỉ lo làm công việc là dùng ngón tay vẽ trên đất. Mọi người cứ chờ một lời nói của Người: các đối thủ thì rất tự tin, người phụ nữ thì cam chịu, dân chúng thì căng thẳng. Người vẽ như thế để làm gì? Người muốn làm cho các đối thủ phải mệt mỏi hoặc bực bội chăng? Đây là một cử chỉ biểu tượng chăng? Ở Gr 17,13, chúng ta đọc được: "Ai tráo trở với Người sẽ có tên viết mặt đất, vì chúng đã bỏ Yavê, mạch nước hằng sống" (Bd NTT). Phải chăng Đức Giêsu muốn nhắc cho họ nhớ rằng họ đã thất trung với Thiên Chúa, nên tên họ đáng bị viết trên mặt đất để rồi xóa đi? Dù sao, họ cũng nôn nóng, thúc bách Người cho câu trả lời.
Từ đầu đến giờ Đức Giêsu chưa nói lời nào. Đến đây câu chuyện chuyển sang hướng khác, do lời đầu tiên Người nói với các kinh sư và người Pharisêu. Bấy giờ Đức Giêsu mới ngẩng lên và bảo họ: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi" (8,7). Họ đã chỉ nhìn đến Lề Luật và tội lỗi của người đàn bà; họ tự tin, họ ngạo nghễ dương dương tự đắc. Ngược lại, Đức Giêsu lại nhắc họ nhớ đến tội lỗi của họ: họ không thể đề mình ra như những kẻ vô phương trách cứ và không có tội; chính họ cũng cần chạy đến xin Thiên Chúa kiên nhẫn với họ và thương xót họ. Làm sao mà họ có thể vội vã yêu cầu xử tử người đàn bà này như thế, mà không hề nghĩ lại? Họ đã chỉ muốn xử người phụ nữ chỉ như một "ca" đơn thuần, cách lạnh lùng, y như một bài toán thôi. Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho câu hỏi của họ; trái lại, Người kéo họ chú ý đến một sự kiện họ đã quên mất, đó là tình trạng thật của họ trước mắt Thiên Chúa: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi" (c. 7). Đức Giêsu bắt họ phải đưa bản thân ra mà xét đoán. Và Người cho họ có thì giờ: Người lại cúi xuống, và viết nữa. Thế là xảy ra một kết quả: các đối thủ của Đức Giêsu đủ lương thiện để chấp nhận lời Đức Giêsu trong lòng. Không một ai dám khẳng định là mình không có tội; không một ai dám cầm đá mà ném trước cả. Tất cả đã bỏ đi.
Khi Đức Giêsu ngẩng lên lần nữa, thì chỉ còn lại người phụ nữ đứng đó. Cho tới đây, Người chỉ quan tâm đến các kẻ tố cáo người phụ nữ; bây giờ Người ngỏ lời với bà. Hai câu hỏi của Người đã làm sáng tỏ hoàn cảnh mới này: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" (c. 10). Tất cả mọi kẻ tố cáo đã bỏ đi, không ai kết án bà phải chịu ném đá. Đến đây Đức Giêsu mới lấy lập trường: chính Người cũng không kết án bà phải chịu ném đá, nhưng Người khuyến cáo: "Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa" (c. 11). Đức Giêsu không hề chuẩn nhận cho lối sống của người phụ nữ này hoặc giảm thiểu mức độ của lối sống đó. Những gì bà đã làm là tội lỗi, là những điều đi ngược lại thánh ý Thiên Chúa. Đức Giêsu mạnh mẽ khuyến khích bà tránh đi lối sống đó. Người tha thứ cho bà và chỉ cho bà thấy trách nhiệm mới của bà.
+ Kết luận
Một giai thoại thật tuyệt vời để diễn tả sâu sắc chương trình và cách thức Thiên Chúa cứu độ loài người. Cả những kẻ tố cáo cũng như người phụ nữ bị tố cáo đều trải nghiệm nơi Đức Giêsu lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Những người tố cáo thì hiểu rằng chính họ cũng cần đến lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa, nên họ không được cư xử cách tự phụ và thiếu lòng từ bi với người thân cận. Người phụ nữ đã được Đức Giêsu cứu thoát khi bà rơi vào hoàn cảnh nguy hiểm và qua Đức Giêsu, đã trải nghiệm được ơn tha thứ từ bi của Thiên Chúa. Hẳn là những người chứng kiến sự cố hôm ấy có thêm một lý chứng để xác tín về giáo lý cứu độ của Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Qua vụ việc này, chúng ta thấy rằng các kinh sư và người Pharisêu thiếu lòng từ bi thương xót: họ nằng nặc tố cáo người phụ nữ; họ nôn nóng đưa Đức Giêsu vào bẫy. Khi mục đích là tiêu diệt kẻ khác, thì mọi sự việc, kể cả con người, đều có thể trở thành phương tiện cho người ta thực hiện ý đồ gian ác. Luật lệ có thể trở thành phương thế để gây áp lực; con người có thể trở thành cái bẫy để ám hại kẻ khác. Các kinh sư và người Pharisêu coi người phụ nữ ngoại tình như một "ca" đơn thuần, cách lạnh lùng, y như thể là một bài toán phải tìm ra đáp án. Đức Giêsu mời gọi chúng ta: khi hành động, cần phải xem ý hướng chúng ta thế nào. Ở đây, chúng ta gặp lại các giáo huấn của Đức Giêsu trong Bài Giảng trên núi (Mt 7,1-5).
2. Bài Tin Mừng này cũng cho thấy rằng Đức Giêsu đã đưa mạc khải về lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa trong Cựu Ước đến chỗ hoàn tất. Là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu đã đến để làm chứng về tình thương này; là Đấng Cứu Thế, Người đã đến để cứu những gì đã mất; là thầy thuốc, Người đã đến để chữa các bệnh nhân. Nếu chúng ta có được sự thẳng thắn để nhìn nhận rằng chúng ta cũng là những kẻ bị mất, bị đau ốm, chúng ta sẽ biết mở lòng ra đón tiếp Người.
3. Là những con người cũng mắc vô số thiếu sót và lầm lỗi, chúng ta cũng cần chạy đến với lòng kiên nhẫn và từ bi thương xót của Thiên Chúa. Thế thì vì sao chúng ta lại có thể vội vàng và không hề áy náy xin kết án kẻ khác? Chúng ta có chia sẻ thao thức của Đức Giêsu là cứu chữa, hay chúng ta có một niềm vui thiếu lành mạnh trong lòng khi kết án kẻ khác, vì lúc đó chúng ta có cảm tưởng mình không có tội (x. 1 Cr 13,6)? Chúng ta khó chịu với các kinh sư vì họ định ném đá người phụ nữ, nhưng chúng ta lại không giống họ sao? Chúng ta lại không nói với người ta những điều y như ném đá vào họ đó sao? Chúng ta cần ý thức rằng ơn gọi của chúng ta vừa là ra đi đưa lại ơn cứu chữa như Đức Giêsu đã làm xưa kia, vừa là làm chứng về ơn cứu chữa mà chính chúng ta liên tục đón nhận.
4. Đã có những lần chúng ta được Đức Giêsu tha thứ. Điều đó không có nghĩa là Người chuẩn nhận cho cách sống chúng ta vẫn theo lâu nay. Ơn tha thứ cũng kèm theo một khuyến khích mãnh liệt, thậm chí một đòi hỏi, hãy thay đổi đời sống. Nếu hôm nay, chúng ta vẫn còn thấy nơi mình một xu hướng mãnh liệt kết án người khác, thì cách chữa trị xu hướng bệnh tất đó hay nhất là xem chúng ta đã đi xưng tội bao nhiêu lần, đã bao nhiêu lần nhận được ơn tha thứ, và rồi đã sống theo lời khuyến cáo của Đức Giêsu đến đâu: "Hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa". Tại sao lại có khá nhiều Kitô hữu có vẻ thích thú khi tìm ra và công khai hóa các lỗi lầm của người khác?
5. Tội là điều nghiêm trọng, vì nó làm cho chúng ta không hạnh phúc và phá hỏng cuộc đời chúng ta. Đức Giêsu không bảo người phụ nữ: "Chị cứ đi bình an, chị có lý khi phản bội chồng chị, cứ tiếp tục đi!", nhưng dường như muốn bảo: "Chị hãy ngưng gây hại cho chính chị, đừng phá hỏng đời sống chị nữa chỉ vì một ít khoảnh khắc lạc thú". Không ai ghét tội cho bằng Đức Giêsu, bởi vì không ai yêu thương chúng ta cho bằng Đức Giêsu. Thế nhưng Người không kết án những kẻ phạm lỗi, cũng không góp thêm phần tàn phá vào những gì kẻ tội lỗi đã làm nơi chính họ. Người bảo: "Từ nay đừng phạm tội nữa!"
-------------------------
[1] Vocative: một sự thay đổi về ngữ pháp trong danh từ để diễn tả việc xưng hô.
80. Chú giải của Noel Quesson
Còn Đức Giêsu thì đến núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ
Ngài có thói quen, nhất là trong tuần lễ cuối cùng, đến vườn Ghếtsêmani và trải qua đêm tại đó, để tìm sự yên tĩnh và cầu nguyện.
Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình.
Vừa tảng sáng, Đức Giêsu đã ngồi trong sân Đền thờ, có đám dân vây quanh Ngài. Tự nhiên, ở đằng kia ồn ào nổi lên. Một nhôm người Pharisêu cố kéo một phụ nữ đang vùng vẫy. Đám đông giãn ra và làm thành vòng tròn. "Người ta đã bắt gặp người phụ nữ này nơi nhà một người đàn ông… Chị ta phản bội chồng mình... Chị ta đáng chết... luật lệ đã rõ ràng" (Đnl 22,22-24; Lv 20, 10). Làm sao họ chỉ dẫn đến có một người đàn bà? Trong bất cứ một vụ ngoại tình nào, cũng có đàn ông nữa chứ và luật lệ cũng lên án đàn ông rõ ràng, như đàn bà vậy! Nhưng chúng ta biết rằng, các Thánh sử (nhất là Luca, vì theo thủ bản cổ nhất, có lẽ ông là tác giả trang Tin Mừng này hơn là Gioan). Không ngừng nhấn mạnh về thái độ mới lạ của Đức Giêsu trước quan niệm đương thời về phụ nữ. Trong khi phụ nữ bị xã hội khinh bỉ và gạt bỏ ra ngoài, thì Đức Giêsu lại làm tảng giá trị và luôn phục hồi danh dự cho họ.
Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó
Quả thực, ngoại tình là một lỗi nặng, mà mọi nền văn minh đều lên án cách nghiêm khắc. Một xã hội không thể coi thường lâu đài vấn đề này mà không tự huỷ diệt. Có cần bao dung cho sự dữ và bất công mà một người phối ngẫu phải chịu không? Trong một bối cảnh quá phóng túng và lệch lạc về dục tính như thế, nếu gia đình, con cái có thể phát triển mà không gặp thương tổn sao?
Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?
Mọi người đều biết rằng, Đức Giêsu tái biểu dương tính bất khả phân ly của hôn phối để cứu tình yêu khỏi những tình trạng bất trung (Mt 5,31-32). Đức Giêsu đã dứt khoát và mạnh mẽ lên án việc ngoại tình bằng cách khẳng định, dù chỉ ưng thuận trong lòng đối với ý muốn xấu xa đó thì đã có tội rồi: "Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,28). Lòng nhân lành của Đức Giêsu không có nghĩa là Ngài chấp nhận tình trạng phóng đãng.
Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người
Những người pharisêu và kinh sư biết rằng, Đức Giêsu thương yêu các tội nhân và họ cũng yêu thương Người. Họ vì giao du với người tội lỗi. "Ông ấy ăn uống với người tội lỗi". Thực sự, vụ xét xử người đàn bà ngoại tình chỉ là cớ để họ lên án Đức Giêsu, để họ gài bẫy Người. Nếu người lên án tử hình người đàn bà này, Ngài sẽ xoá bỏ hình ảnh xót thương mà Người đã để lại trong tâm trí kẻ tội lỗi: Nhờ đó, Người được quần chúng mến phục, vì tình yêu, vì sự tốt lành của Người. Nếu người tha bổng người đàn bà tội lỗi này, Người sẽ vi phạm luật Chúa, và cổ thể bị tử hình vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng đã cấm phạm tội này. Như vậy, đây là "vụ xử án của Đức Giêsu” đang diễn ra sau vụ xử án người đàn bà này.
Vụ án biểu tượng:
Bị cáo: Một người phụ nữ.
Người tố cáo: Kinh sư và những người pharisêu
Tội phạm: Ngoại tình, bị phạt theo luật Môsê.
Bản án: Tử hình
Vụ án thực sự:
Bị cáo: Đức Giêsu
Người tố cáo: Cũng nhóm kinh sư và Pharisêu
Tội phạm: Phạm thượng
Bản án: Tử hình
Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất
Sư im lặng này khởi đầu cho sự im lặng quan trọng của Đức Giêsu trong vụ xử án chính Người.
Nhưng ở đây, phản ứng trên rất gây ngạc nhiên. Người không làm gì cả. Người không trả lời gì hết. Người đang vẽ Như thể một người muốn lờ đi không gì chung quanh mình. Đó không phải là một thứ tế nhị sao? Người không ngước mắt lên nhìn người đàn bà, vì Người biết chị ta xấu hổ. Nhưng cũng nhận ra việc Đức Giêsu khước từ phán quyết các biến cố dựa trên những phân tích của con người. Chẳng hạn, Người đã có thể điều tra, đặt câu hỏi, tìm xem những trách nhiệm? Liệu có những trường hợp giảm khinh hay không? Quá khứ của người đàn bà này có giải thích được thái độ của chị ta không? Chồng chị đối xử với chị như thế nào? Có nên phân biệt trường hợp ngoại tình trơ trẽn, công khai và lâu dài thường xúc phạm, làm nhục người phối ngẫu, làm con cái đau khổ...Với trường hợp ngoại tình kín đáo, tuy cũng có tội nhưng do yếu đuối chóng qua, chỉ gây nhục nhã trong tâm hồn? Luật lên án tử hình một tội như vậy có quá đáng chăng? Người ta có nên mở một chiến dịch để xin bãi bỏ luật này không? Những câu hỏi như thế, con người và xã hội vẫn thường đặt ra. Nhưng Đức Giêsu tự ý đặt mình trên một bình diện khác. Hình như Người không quan tâm gì. Người đang viết trên cát. Đó có phải là một thái độ thoái thác không? Hẳn là không. Vì Đức Giêsu sắp đề cập đến "lãnh vực khác".
Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ
Chính họ cứ vẫn hỏi mãi. Lạy Chúa, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lúc này, con đang hình dung ra Chúa đưa mắt nhìn từng người trong bọn họ. Con ngắm nhìn đôi mắt đang di động, khi Chúa ngửa mặt lên. Trước tiên, Chúa nhìn người đàn bà đáng thương, rồi những người tố cáo, rồi tới đám đông…
Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi
Chúa đòi hỏi họ phải trở về với lương tâm của mình. Cũng ngày nọ, người ta tìm thủ phạm trong cuộc “Philatô tàn sát những người Galilê" hay trong tai hoạ do “tháp Silôa” đổ xuống.
Đức Giêsu đặt cuộc tranh luận trên một bình diện khác: Dưới mắt Thiên Chúa, tất cả mọi người đều là tội nhân, và cần phải được tha thứ? anh em hãy có lòng nhân từ, như cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy" (Lc 6,36-38). Vâng, lạy Chúa, con đang cần lòng nhân hậu thương xót của Chúa và của kẻ khác. Vậy xin Chúa hãy ban cho con, một trái tim biết thương xót.
Ngôn sứ Hôsê (2,4-25) đã so sánh dân ít-ra-en với một người vợ được Chúa yêu thương mà lại “ngoại tình" bằng những hành động "điếm đàng". Mọi sự lìa bỏ Thiên Chúa đều là một thứ ngoại tình, vì xúc phạm đến một Thiên Chúa dễ bị tổn thương và si tình. Nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu thương một cách không mệt mỏi và tha thứ cho người vợ bất trung, là nhân loại tội lỗi. Đó là điều khác hẳn với những cuộc tranh cãi nới toà án, dù những cuộc tranh cãi đó hữu ích đến đâu cũng thế. Tội lỗi của tôi đã gây tổn thương cho Chúa, cho Đấng yêu mến tôi. Chính Đức Giêsu đã nói điều đó. Ngài đã đến để mạc khải như thế!
Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi
Lạy Chúa Giêsu, lần thứ hai này, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lạy Chúa, thực sự Chúa chứng tỏ lòng thương xót với những người Pharisêu nữa. Chúa cũng không nỡ ném đá họ. Sau này, trên thập giá Chúa sẽ cầu xin: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23,34). ôi! Sâu thẳm thay lòng Chúa. Thay vì lột mặt nạ họ ở chỗ công khai, Chúa đã cho phép họ "lần lượt" âm thầm rút lui, nhờ thái độ im lặng của Chúa.
Trong một lúc lâu im lặng, người đàn bà cũng có thời giờ suy nghĩ vì tội lỗi của mình. Nhiều điều đang diễn ra trong đầu óc của Chị. Có thể chị đã không bao giờ thực sự nhận ra tính nặng nề của tội chị phạm? Nhưng tình yêu xót thương của Thiên Chúa, "không lên án" chị, sẽ phút chốc mạc khải cho chị biết thế nào là tình yêu thực sự. Giờ chị đang nhìn Đức Giêsu. Ngài là một con người nhân hậu. Có lẽ chị ta đang khóc... Chị ta đã thoát chết... Chị không còn là người “ngoại tình" nữa. Chị ta đã được thanh tẩy.
Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa
Sự “khốn khổ” đối với "lòng xót thương", Thánh Âutinh đã bình luận như vậy. Đó là một hình tượng mà con muốn chiêm ngắm lâu giờ. Lạy Chúa Giêsu, xin tạ ơn Chúa.
Người ngẩng lên và nói: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" Người đàn bà đáp: "Thưa ông, không có ai cả." Đức Giêsu nói: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!"
Tất cả những người tội lỗi khác, các kinh sư và người pharisêu đều không hiểu gì nổi Đức Giêsu, không hiểu gì nơi Thiên Chúa cả! Nếu họ ở lại với Đức Giêsu hẳn là họ cũng được tha thứ như người đàn bà này. Vì Đức Giêsu vẫn thường nói: "Phần tôi, tôi không xét đoán ai cả" (Ga 8,l5). "Tôi đến để tìm và cứu những gì đã mất" (Lc 19,10). Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ " (Ga 3,17).
Lạy Chúa, con cũng vậy, lúc này con đang cầu xin Chúa, con cần được cứu độ. Con ở lại với Chúa. Trong cuối Mùa Chay này, con sẽ lãnh nhận dấu chỉ nhạy cảm và hữu hiệu, đó là bí tích tình yêu thương xót của Chúa. Con muốn nghe từ nơi vị đại diện của Chúa, như thể chính Chúa, những lời sau đây: "Tôi không lên án anh chị, cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thầy và là người Anh của chúng con, Chúa tốt lành và hài hoà tế nhị biết bao! Chúa vô cùng thông cảm và đối xử nhân hậu với chúng con, là những người tội lỗi. Xin tạ ơn Chúa! Chúa tuyệt đối không thoả hiệp với tội lỗi và sự ác.
“Đừng phạm tội nữa". Tạ ơn Chúa! Chúa là Đấng không bao giờ giam hãm chúng con trong quá khứ. Đứng tước người này người nọ mà chúng con thường nói tới. “Không thể làm gì cho hắn được nữa… Tôi đã thử hết cách rồi…Đành chịu thôi... " Thì chắc Chúa sẽ dừng lại trước con người đó với lòng tin cậy, Chúa sẽ thương yêu người đó với thái độ trìu mến, Chúa sẽ nhìn họ với một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ, đến nỗi có thể làm phát sinh trong họ một trái tim mới. Vậy Chúa là ai mà yêu thương chúng con như thế? Là Đấng vô cùng cao cả, là Đấng rất dễ bị tổn thương, là Đấng hết sức nghèo nàn ư? Chúa là tình yêu vô biên. Chúa là tình Yêu!
81. Chú giải của Fiches Dominicales
Đức Giêsu mở ra một con đường hướng về tương lai cho người phụ nữ phạm tội ngoại tình; trong khi những kẻ tố cáo lại muốn giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Trước bẫy giăng của đối thủ
Câu chuyện quí giá này tự nó có thể là một Tin Mừng nhỏ mà cốt lõi là: Đức Giêsu từ nơi Thiên chúa đến, không phải để tố cáo tội nhân, nhưng để cứu rỗi họ, và nhờ đời sống, sự chết, sự sống lại của Người, Người dâng tặng họ chính sự sống của Thiên Chúa. Một văn bảo, nhưng sự có mặt của nó trong các bản văn Tin Mừng bị nghi ngờ. Các thủ bản đầu tiên của thánh Gioan không có. Với những lý do tương cận về văn thể và từ ngữ, các thủ bản của thánh Luca lại đặt câu chuyện sau Lc 21, 38.
Tại sao có sự do dự này? A. Marchadour giải thích: "Câu chuyện thì xác thực nhưng, các vị lãnh đạo Giáo Hội sơ khai ngại sự phóng túng. Ngoại tình bị coi như một trọng tội ít gặp. Để được tha, cần làm việc đền tội công khai, lại chỉ được tha một lần thôi. Cách cư xử của Đức Giêsu đối với người phụ nữ ngoại tình, một số vị chức trách cho là quá dễ dãi quá. (Họ quên mất câu “Hãy về và đừng phạm tội nữa"). Dễ dãi thế đe doạ sự trung tín trong hôn nhân" ("L'Eavngile de Jean", Centurion 1992. trg 121).
Sau một ngày giảng dạy ở đền thờ, chiều xuống, theo thói quen, Đức Giêsu lên núi Ôliu. Sáng sớm hôm sau, Người lại vào Đền thờ giảng dạy dân chúng.
"Các kinh sư và những người Pharisêu thù nghịch nghĩ rằng giáo huấn của Đức Giêsu làm đảo lộn tất cả, nên họ quyết định trừ khử Người. Tuy nhiên, để đưa người ra xét xử, cần phải có một chứng cứ đúng đắn.
Một cơ hội không mong đã đến. Một thiếu phụ "bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình". Rẽ đám đông, các kinh sư và những người Pharisêu dẫn chị vào "giữa" đám đông đang tụ họp và nói với Đức Giêsu: "Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?"
Bẫy đã giăng, thoát thế nào được! Tha, Đức Giêsu sẽ chống lại luật Môsê. Ném đá, Người tự mâu thuẫn vì Người vẫn rao giảng lòng nhân từ của Thiên Chúa. Đằng sau án xử người thiếu phụ là chính án xử Đức Giêsu.
Giờ đây, dây thòng lọng đang xiết dần cả người thiếu phụ, lẫn Đức Giêsu. Tệ thật! Đây không còn là một vấn nạn nơi lớp học, nhưng là một câu hỏi sinh tử, đối với người thiếu phụ cũng như đối với chính Đức Giêsu.
Vẫn ngồi trong dáng điệu của một ông thầy đang giảng dạy, Đức Giêsu "cúi xuống" và thay vì trả lời, Người dùng ngón tay vẽ vẽ trên đất.
Các nhà chú giải rất quan tâm tìm hiểu xem Đức Giêsu viết gì trên đất? Thánh Hiêrônimô nghĩ: Người vạch tội những kẻ tố cáo. Nhiều tác giả khác thì cho rằng: Người viết lại một câu trong Jêrêmia (17,l3): "tất cả những ai lìa bỏ Ngài sẽ phải hổ thẹn, những kẻ quay lưng lại với Ngài sẽ phải ghi tên mình trong lòng đất ". A. Marchadour cho rằng: "Tốt nhất nên trung thành với sự mơ hồ của bản văn. Đức Giêsu vạch trên đất để kéo dài thời gian thinh lặng, làm cho lời phân xử sắp thốt ra thêm trọng lượng". (sđd; trg 124).
Người ta như không chú ý tới điều được ghi nhận tới hai lần: Đức Giêsu "cúi xuống", rồi "ngước lên". X. Léon-Dufour thắc mắc: "Sao lại nhấn mạnh đến cử chỉ ấy trong một câu chuyện ngắn ngủi như vậy?" Rồi trả lời: "Tên núi Ôliu được nhắc đến ở đầu câu chuyện đã đặt giai thoại này trong bối cảnh cuộc khổ nạn sắp đến. Cử chỉ của Đức Giêsu mang một ý nghĩa Kitô học: nó nhắc đến sự hạ xuống, và đưa lên cao mà qua đó, Đức Giêsu sẽ hoà giải nhân loại bị giam hãm trong tù ngục tội lỗi với Thiên Chúa" ("Lecture de l'evangile selon Jean", Cerf, tập 2, trg 313).
2. Trước hết, câu trả lời của Đức Giêsu là sự thinh lặng.
Họ nài nỉ. Trước khi lại chìm trong thinh lặng, Đức Giêsu nhắc họ lời Kinh Thánh: "Ai trong các ngươi sạch tội, thì cứ lấy đá mà nén trước đi". (Dnl 13,9-10 và 11,7: "Người làm chứng sẽ ném đá kẻ phạm tội trước). Từ lúc ấy, vụ án xử bị cáo lại trở thành vụ án xử nguyên cáo.
Các kinh sư và những người Pharisêu đinh ninh mình công chính, nấp sau luật để tố cáo người phụ nữ. Ở đây, Đức Giêsu đưa chính họ ra xét xử dưới ánh sáng của Luật. Người buộc những quan toà phải tự xét xử chính mình, trước hết, phải trở lại với lương tâm mình, nhìn nhận mình cũng là tội nhân, cùng một thân phận như "người phụ nữ kia", người mà họ đã lôi ra giữa đám đông và giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi của mình.
Trong vòng vây của những nguyên cáo hung hăng, sự lưỡng lự biến thành cuộc lui binh như thánh sử ghi nhận cách hài hước: "Họ rút lui từng người một, bắt đầu từ người già nhất".
3. Rồi lời giải thoát đến:
Khi Đức Giêsu ngẩng đầu lên "lần thứ hai thì chỉ còn mình Người đối diện với người phụ nữ". Thánh Augustinô chú giải: "Chỉ còn hai. Lòng thương xót và người được xót thương”.
Nếu trước đó, những người tố cáo gọi chị là "hạng đàn bà đó” một cách khinh bỉ, coi chị như đồ vật, thì giờ đây, chị thấy một ánh mắt khác nhìn chị, nghe một giọng khác gọi chị như gọi một con người: "Này chị". Hơn bất cứ ai khác, Đức Giêsu là người đo lường chính xác nhất mức nặng nhẹ của tội lỗi; và thay vì giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi như các kinh sư và những người Pharisêu đã làm, Người thúc đẩy chị bước vào con đường hối cải, và mở cho chị một tương lai một "Không ai kết án chị sao? Tôi cũng vậy. Hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa ".
Sau đó thì sao? Câu chuyện để ngỏ đó giống như dụ ngôn Chúa nhật trước bỏ ngỏ thái độ người anh. Một khi đã gặp Đức Giêsu Đấng không lên án mà kêu gọi sống đời sống thánh thiện "độc giả cũng thấy mình được kêu gọi để đừng khép mình vào cái khuôn dĩ vãng chết chóc, nhưng là bước đi trong tự do của con cái Thiên Chúa" (x. Léon-Dufour, Sđd, trg 332).
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một mạc khải sâu xa về bản chất của tội lỗi
Câu chuyện là hạt ngọc quí của Tin Mừng. Chúa Giêsu rời núi ôliu, trở lại đền thờ để cứu vớt một phụ nữ ngoại tình, một kẻ tội lỗi. Đừng hạ thấp giá trị của trang Tin Mừng tuyệt vời này khi cho nó chỉ là bài học về sự khoan dung đối với những yếu đuối nhân loại, sự khoan dung mà các bậc hiền triết thời nào cũng mến chuộng.
Thật ra, trang Tin Mừng hôm nay là một mạc khải rất sâu xa về bản chất của tội lỗi, và bản chất của sự tha thứ... theo cái nhìn của Thiên Chúa.
Tội lỗi, trước tiên là một thực tại loài người, rồi là một thực tại của lòng tin. Khi nghiên cứu cách cư xử của con người, các nhà xã hội học khám phá ra sự phạm pháp: Xã hội bao gồm nam, nữ, gia đình, cộng đồng... không thể vận hành nếu như không có một số luật lệ, cấm đoán. Không trộm cắp. Không nói dối. Tôn trọng đời sống lứa đôi. Không ngoại tình. Đừng hiểu ý nghĩa của trang Tin Mừng này cách trái ngược: Đức Giêsu kết án tội ngoại tình là điều rất rõ. " Đừng phạm tội nữa".
- Ý niệm về lỗi phạm... Nếu trẻ em thường sai lỗi trong những điều cấm -đáng tin cũng có cả một số người lớn còn ấu trĩ như vậy-, thanh thiếu niên chưa trưởng thành trong nhận thức về điều cấm, điều được phép. Họ khám phá ra rằng: những điều người ta cấm họ tác hại đến cá nhân họ: khi tôi nói dối, trộm cướp, ngoại tình, tôi huỷ hoại một điều gì đó về nhân tính nơi tôi. Lỗi phạm như một con sâu gặm nhấm một trái cây, một thiếu sót nơi bản thân, nơi ý chí tôi. Ý niệm về tội lỗi: ở một mức cao hơn, theo nghĩa đúng nhất, tội lỗi làm gián đoạn "mối tương quan với Thiên Chúa". Chúa nhật trước, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu gợi ý, tội lỗi chính là sự đứt đoạn tình yêu với Cha: người ta cắt đứt mối tương quan và bỏ đi xa. Hôm nay, Tin Mừng nêu lên một quan hệ khác: toàn bộ Kinh Thánh ví tội của Israel như hành vi ngoại tình, phản bội giao ước giữa Chúa và dân yêu dấu của Ngài. Các ngôn sứ thì ví loài người như một người vợ bất trung đối với chồng. Cắt đứt giao ước tình thương. Xúc phạm một ngươi luôn yêu mình. Đó là mạc khải xác thực và sâu xa về tội lỗi.
Như vậy, đối với Đức Giêsu, người ta chỉ hiểu ý nghĩa của tội lỗi, khi hiểu ý nghĩa về Thiên Chúa. Rốt cục, các thánh là những người sáng suốt nhất, vì các ngài nhận ra hành vi phạm pháp và lỗi lầm làm tổn thương tình yêu của Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta và yêu thương ta vô cùng. Chính chúng ta làm tổn thương "khuôn mặt" của Người... nơi chúng ta, chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Ngài.
2. Một lời nói và một ánh mắt giải phóng và cứu độ.
Những người Pharisêu tốt lành và trung thành có một cơ hội tuyệt vời để tố cáo Đức Giêsu. Người bị dồn vào chân tường. Hy sinh người phụ nữ để giữ Lề Luật hay hy sinh Lề Luật để cứu người phụ nữ. Người bị kẹt giữa cả hai phía. Kết án người phụ nữ tội lỗi này thì mâu thuẫn với những lời giảng về lòng thương xót và ơn tha thứ. Tha cho chị thì phạm pháp vì bất tuân luật Môsê. Bị cáo sẽ chính là Đức Giêsu.
Sẽ không có sự kết án, cũng không có viên đá nào được ném ra (hình phạt ném đá đến chết). Bẫy sẽ sập xuống trên chính những kẻ gài nó. Chỉ vài lời thôi, Đức Giêsu đã hoán đổi vị trí, nguyên cáo biến thành bị cáo. Chị ta đã phạm tội. Đúng vậy. Còn các ông? Chị không đến nỗi hư hỏng và tội lỗi như các ông nghĩ và các ông cũng không công chính và trung tín như các ông tự phụ.
Một bài học thật là nặng nề, khó chịu nhưng cũng tuyệt vời Đó là bài học về chân lý, về cách Chúa dạy dỗ, về sự công chính theo Tin Mừng và về lòng thương xót rất phù hợp với truyền thống mà các ngôn sứ bênh đỡ và duy trì trước những trận gió và cơn sóng khắc nghiệt xuất phát từ lòng hẹp hòi của con người. "Đừng nghĩ tới chuyện xa xưa nữa. Hãy quên đi quá khứ. Này ta đang tạo lập một thế giới mới: Nó đang hình thành. Các ngươi có thấy không? "
Phán quyết của Chúa là lời tha thứ. Sự tha thứ không giam cầm người khác trong lỗi lầm và trong quá khứ. Anh mắt và lời nói của Đức Giêsu giải thoát và cứu rỗi. Khác hẳn với những cái răng sắc nhọn, những lời nói như đá ném vào mặt, những cái nhìn kết án như viên đạn xuyên tim. Cơn giận giả dối của “những người công chính" cho rằng mình chẳng có điều chi đáng phiền trách nhưng lại luôn sẵn sàng trừng phạt tội người khác.
3. Một vết nứt trên các hệ thống khép kín của chúng ta.
(“Célébrer", tạp chí của Trung tâm quốc gia về Mục vụ Phụng vụ số 217, trg 26).
Ai cũng khát vọng một thế giới mới. Ai cũng nói về đổi đời Đồng thời, đều cảm thấy bị giam hãm trong những cơ chế gò bó (trong Xã hội cũng như Giáo Hội). Làm sao thoát ra? Theo các bài đọc hôm nay, gặp gỡ Đức Kitô và Tin Mừng của Người sẽ phá tung ngục tù của thất vọng (bài đọc I), làm tan vỡ khối rắn chắc của một lương tâm sơ cứng vì lợi lộc tư riêng (bài đọc 2), bẻ gầy gọng kìm bạo lực của những lời kết án (Tin Mừng).
Trong hoang mạc của chủ nghĩa pháp chế khô cằn, lời kêu gọi biết dùng tự do có trách nhiệm vọt lên như một dòng suối trong mát. Ngay đối với những người Pharisêu khô cằn về luân lý, Chúa Giêsu vẫn có thể cấy trồng sự sống khi làm cho họ hết phương chống đỡ, khi làm cho họ nhận ra rằng họ liên đới với nhau cả trong sự dữ, qua đó, cho thấy có hy vọng vào một lối thoát ra khỏi mọi hệ thống độc đoán và hay kết tội người khác.
Người mở trước mắt ta cái nhìn nhận ái đích thực về mọi lời: cái nhìn không đóng kín chúng ta vào thất bại và tuyệt vọng của quá khứ, cái nhìn tái tạo cuộc sống khi mời gọi chúng ta tiến bước. Tóm lại, đó là một tình yêu loan báo tương lai.
Vết nứt trên các hệ thống khép kín của chúng ta cùng cái nhìn tái tạo này không phải là điều chúng ta cảm nhận và " sống trong bí tích hoà giải đó sao? Không phải là cơ hội cảm nghiệm quyền năng của sự phục sinh đó sao. Bàn tiệc Thánh Thể loan báo thế giới mới. Dân được cứu rỗi hát mừng những kỳ công của Đấng mở lối vào tương lai.
02/04 Dư luận về Chúa Giêsu
- Viết bởi Ga 7, 40-53
Dư luận về Chúa Giêsu.
Thứ Bảy tuần 4 Mùa Chay.
"Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao?"
Lời Chúa: Ga 7, 40-53
Khi ấy, sau khi nghe Chúa Giêsu giảng, có nhiều người trong đám dân chúng nói rằng: "Ông này thật là tiên tri". Kẻ khác nói: "Ông này thật là Ðấng Kitô". Người khác nữa lại nói: "Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao? Nào Kinh Thánh chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân bởi dòng dõi Ðavit, và từ làng Bêlem, quê hương của Ðavit?"
Vì thế, dân chúng bất đồng ý kiến với nhau về Người. Trong số đó, có một ít kẻ định bắt Người, nhưng không ai dám ra tay bắt Người.
Vậy khi những người thừa hành đến với thượng tế và biệt phái, các ông này hỏi họ rằng: "Tại sao các ngươi không điệu nó tới?" Các người thừa hành thưa rằng: "Chẳng hề có ai nói như người ấy". Các người biệt phái trả lời rằng: "Chớ thì các ngươi cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong các vị thủ lãnh và các người biệt phái, có ai tin nó đâu? Chỉ có lũ khốn nạn đó nó không biết gì lề luật".
Nicôđêmô là người đã tới gặp Chúa Giêsu ban đêm, cũng là người trong nhóm họ, nói với họ rằng: "Chớ thì luật của chúng ta có lên án cho ai mà không nghe họ, hoặc không biết rõ họ làm gì không?" Nhưng họ trả lời rằng: "Hay ông cũng là người Galilêa? Hãy đọc kỹ Kinh Thánh, ông sẽ thấy rằng không có tiên tri nào phát xuất từ Galilêa". Sau đó ai về nhà nấy.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ông này là Đấng Kitô
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bài Tin Mừng hôm qua cho thấy người Do Thái không tin Đức Giêsu là Kitô
vì đối với họ, Đấng Kitô phải là người mà họ không biết xuất thân từ đâu.
Còn Đức Giêsu thì họ tự hào đã quá biết gốc gác của Ngài (Ga 7, 27).
Bài Tin Mừng hôm nay lại tiếp tục cuộc tranh luận về căn tính của Đức Giêsu.
Đức Giêsu gây ra một sự chia rẽ trong dân chúng
đang nghe Ngài giảng tại Đền thờ Giêrusalem (cc. 40-45).
Có những người tin Ngài là Vị Ngôn sứ được ông Môsê tiên báo (Đnl 18, 15).
Có người lại cho Ngài là Đấng Kitô (c.41).
Có người không đồng ý như thế, vì Đức Giêsu xuất thân từ Galilê,
còn Đấng Kitô thì phải xuất thân từ Bêlem, quê của vua Đavít (c.42).
Thật ra chuyện gốc Đức Giêsu ở đâu, chẳng quan trọng mấy.
Chuyện quan trọng là Đức Giêsu Nazareth ấy xuất thân từ Thiên Chúa.
Đức Giêsu còn gây ra sự chia rẽ trong giới lãnh đạo.
Các thượng tế và người Pharisêu đã sai các vệ binh đi bắt Đức Giêsu (c.32).
Nhưng họ đã không tuân lệnh các nhà lãnh đạo ấy,
chỉ vì họ bị ngây ngất trước lời giảng dạy đầy quyền uy của Đức Giêsu.
“Xưa nay chưa hề có ai nói năng như người ấy” (c. 46).
Nhận xét của họ còn đúng mãi đến tận thế.
Trước chuyện bất phục tùng của các vệ binh, người Pharisêu cảm thấy bực bội.
Họ không thể hiểu được tại sao các vệ binh lại có thể bị lừa dối dễ đến thế.
Vì khinh bỉ những người tin vào Đức Giêsu,
Họ gọi những người này là bọn dân đen, dốt nát không biết Lề Luật.
Ai không biết Lề Luật thì cũng chẳng thể giữ Lề Luật,
nên đây đúng là những người bị Thiên Chúa nguyền rủa (c. 49).
Thật ra không phải là không có thủ lãnh nào trong dân tin vào Đức Giêsu.
Ông Nicôđêmô là một thủ lãnh (Ga 3,1) đã đến gặp Đức Giêsu ban đêm.
Ngay bây giờ ta sẽ thấy ông dám lên tiếng để bênh vực cho Ngài (c. 50).
Ông đòi Đức Giêsu phải có tiếng nói trước khi bị kết tội (x. Đnl 1, 16-17).
Khi kết án Ngài cách vội vã, Thượng Hội Đồng Do Thái đã phạm luật.
Nhưng tiếng nói của ông Nicôđêmô đã không được nghe nghiêm túc.
Bất chấp vai vế của ông, ông cũng bị chế nhạo:
“Cả ông nữa, ông cũng là người Galilê sao?” (c.52).
Người Galilê là hạng người bị coi khinh vì ít giữ Luật so với người Giuđê.
Nhưng đừng quên từ Galilê cũng có ngôn sứ Giôna, con ông Amíttai (2V 14, 25).
Thái độ của những thượng tế và người Pharisêu thật đáng ta suy nghĩ.
Họ khép lại trong thành kiến với Đức Giêsu.
Họ vùi dập bất cứ ai có cái nhìn ngược với họ, dù là vệ binh hay Nicôđêmô.
Họ không ngại châm biếm hay khinh miệt những người khác quan điểm.
Xin Chúa cho ta hồn nhiên như các vệ binh,
và can đảm nói sự thật như ông Nicôđêmô.
Cầu nguyện:
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. Amen. (R. Tagore)
Suy Niệm 2: Tôi chọn Giê-su
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Lời Chúa hôm nay trình bày một thế giới chia rẽ vì Chúa Giê-su. Kẻ tin người không. Kẻ theo người chống. Với những đặc tính sau.
Những kẻ chống Chúa có nhiều quyền lợi trên trần gian. Đó là những nhà lãnh đạo xã hội và tôn giáo. Họ điều khiển người khác. Sai vệ binh đi bắt Chúa. Còn những kẻ tin Chúa lại là những người dân nghèo. Bị lớp người trên nguyền rủa là “dân đen”, là “đáng nguyền rủa”.
Những kẻ chống Chúa có nhiều kiến thức. Họ thông hiểu Lề Luật và Thánh Kinh. Họ tự bảo: “Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và từ Bê-lem, làng của vua Đa-vít sao”? Trái lại những người tin Chúa lại là những người bình dân ít học. Những người bị khinh miệt là “thứ người không biết Lề Luật”.
Những kẻ chống Chúa dựa trên lý thuyết. Căn cứ vào sách vở. Còn những người tin Chúa là do trực tiếp tiếp xúc với Chúa. Xem Chúa làm. Nghe Chúa nói. “Trong dân chúng, có những người nghe các lời của Đức Giê-su thì nói: “Ông này thật là vị ngôn sứ”. Kẻ khác rằng: “Ông này là Đấng Ki-tô”... “Các vệ binh trả lời: “Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy”.
Những kẻ chống Chúa thì dữ tợn. Đòi bắt và giết Chúa. Như Giê-rê-mi-a đã loan báo từ xưa: “Chúng bảo nhau: “Cây đương sức, nào ta chặt nó đi, loại nó ra khỏi đất dành cho kẻ sống”. Còn những người tin Chúa thì hiền lành. “Phần con, con khác nào con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt”.
Mùa Chay đòi tôi phải tiến đến một chọn lựa quyết liệt. Chọn Chúa hay trần gian. Chắc chắn tôi muốn chọn Chúa. Chọn Chúa tôi chấp nhận bị thế gian khinh miệt. Bị coi thường. Bị coi là thiếu hiểu biết. Chọn Chúa tôi phải tránh xa quyền lực. Và đừng quá lý thuyết. Chúa Giê-su không phải là một lý thuyết. Chúa Giê-su là một ngôi vị sống động. Phải đến trực tiếp gặp Người. Như Ni-cô-đê-mô. Như lính vệ binh. Như dân nghèo. Phải xem việc Người làm. Phải nghe lời Người nói. Đừng lý sự. Hãy quỳ xuống cầu nguyện. Rồi đức tin sẽ đến. Rồi tình yêu sẽ bừng lên. Và tôi sẽ được sức sống mới.
Suy Niệm 3: Dư luận về Chúa Giêsu.
Blondin là một trong những tên tuổi của ngành xiếc tại Mỹ. Một trong những kỳ công đáng ghi nhớ nhất của anh ta là đã có thể đi trên một sợi dây qua thác Nirgara là thác dài nhất và cao nhất thế giới. Trong một dịp biểu diễn, anh quay sang hỏi một cậu bé gần đó: “Em có tin là tôi có thể mang một người trên vai và đi xuyên qua dòng thác không? Giữa tiếng thác đổ ầm ầm, cậu bé thét lên: “Vâng, cháu tin là chú có thể làm được điều đó”. Thế nhưng khi anh đề nghị mang cậu bé trên vai, thì em đã lắc đầu từ chối, vì không đủ tin tưởng vào sự đảm bảo của người biểu diễn.
Cậu bé trên đây có thể là hình ảnh của rất nhiều người trong chúng ta khi phải trả lời cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Phần các con, các con bảo Ta là ai?”. Cũng như Phêrô khi đại diện cho các Tông đồ, chúng ta cũng sẽ trả lời: “Thày là Con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng trong thực tế, thái độ sống của chúng ta có lẽ còn tương phản với lời tuyên xưng ấy. Chúng ta chưa là những kitô hữu thực sự, nghĩa là chưa tin tưởng và sống theo lời mời gọi của Chúa. Thái độ của chúng ta có lẽ cũng giống như của những người Do Thái trong Tin Mừng hôm nay: người thì xem Ngài như một tiên tri, kẻ nhận Ngài là Chúa Kitô, đa số thì dựa vào những hiểu biết trong Kinh Thánh để lý giải về thân thế của Ngài.
Sự hiểu biết mà Chúa Giêsu muốn chúng ta có về Ngài không phải là một hiểu biết trên lý thuyết hoặc chỉ là lời tuyên xưng trên môi miệng, mà phải là vác Thánh giá mỗi ngày và đi theo Ngài. Liền sau khi Phêrô tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã loan báo về cuộc Tử nạn của Ngài và Ngài đề ra như một mệnh lệnh: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thập giá và đi theo Ta”. Danh hiệu Kitô gắn liền với Thập giá. Không thể tuyên xưng Chúa Kitô mà lại chối bỏ Thập giá của Ngài, không thể tự cho mình biết Chúa Kitô mà không liên kết với Ngài trong cuộc tử nạn. Thánh Phaolô đã nói lên kinh nghiệm của ngài: “Phần tôi, tôi chỉ biết có một Đức Kitô chịu đóng đinh”. Biết theo nghĩa Kinh Thánh là môt sự kết hợp thâm sâu. Biết do đó phải là một cam kết. Biết Đức Kitô như thánh Phaolô diễn tả chính là nên một với Chúa Kitô trong mầu nhiệm tử nạn. Biết Đức Kitô chịu đóng đinh chính là bổ túc nơi mình những gì còn thiếu trong cuộc Tử nạn của Ngài.
Mùa chay là mùa thanh luyện, chúng ta được mời gọi để sống một cách ý thức hơn bản sắc đích thực của người kitô hữu, đó là để Đức Kitô chiếm hữu và sống bằng chính sức sống của Ngài. Điều đó cũng có nghĩa là người kitô hữu không chỉ mang danh hiệu của Đức Kitô, lời tuyên xưng của họ không chỉ đọng lại trên môi miệng, mà phải là một cuộc sống kết hiệp với Ngài, với những cố gắng không ngừng của từ bỏ, quảng đại, yêu thương và phó thác.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Ðón nhận sự thật
Những người chống đối Chúa Giêsu kiên quyết bảo vệ lập trường sai lầm của mình. Họ tự hào rằng mình am hiểu Kinh Thánh, rằng mình thông thạo lề luật, và họ khư khư căn cứ vào sự hiểu biết của họ để mô tả hình ảnh của một Chúa Kitô theo trí tưởng tượng của họ và kết quả là họ đã không gặp được Ngài.
Nhóm người tán thành Chúa Giêsu thì ứng xử theo lối khác. Họ lắng nghe những lời Chúa Giêsu nói, quan sát những việc Chúa Giêsu làm. Họ thấy cả những lời nói và việc làm này có một sự thật, một tình thương, một sức giải phóng tâm hồn. Thế là họ tin vào Người, họ không lý luận bằng chữ nghĩa, họ chỉ nghe ngóng với con tim. Lời lẽ của họ thật là đơn sơ: "Ông này là vị ngôn sứ. Ông này là Ðấng Kitô". Người ta có thể nói rằng hãy nhắm mắt lại để thấy, hãy bịt tai lại để nghe. Quả thật, có nhiều điều chúng ta chỉ có thể thấy được, nghe được, hiểu được bằng cách vượt lên khỏi lối nhìn, lối nghe và lối hiểu thông thường dựa vào hình tướng bên ngoài.
Lạy Chúa, lắm lúc con cũng thường đánh giá mọi chuyện dựa theo cái vỏ bên ngoài của chúng và giải thích chúng dựa theo những kiến thức tôn giáo xã hội mà mình thụ đắc được, những lúc đó, con tưởng mình đã nắm gọn chân lý trên tay và con lớn tiếng phê phán chỉ trích đủ điều, con không ngờ rằng nhiều lúc mình chỉ như gã mù xem voi. Mù vì thiên kiến hẹp hòi, mù vì kiêu căng tự mãn, mù vì những ghen ghét giận hờn. Làm nô lệ cho những tật xấu, những tội lỗi, những mù quáng tinh thần này, con không thể nào gặp được Chúa. Xin Chúa cho con biết đón nhận sự thật với tâm hồn đơn sơ và một con tim đổi mới, cởi mở. Xin ban cho con Thánh Thần Chúa, thanh tẩy con với mọi tội lỗi, giúp con thoát khỏi mọi sự mù quáng để nhận ra Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Họ chia rẽ vì Người
Trong dân chúng, có những người nghe các lời ấy thì nói: “Ông này thật là vị ngôn sứ.” Kẻ khác rằng: “Ông này là Đấng Kitô.” Nhưng có kẻ lại nói: “Đấng Kitô mà lại xuất thân từ Ga-li-lê sao? nào kinh thánh đã chẳng nói: Đấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và từ Bê-lem, làng của vua Đa-vít sao?” Vậy, vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ. (Ga. 7, 40-43)
Không phải hôm qua họ đã chia rẽ vì Đức Giêsu. Tin mừng hôm nay còn cho chúng ta thấy họ chia rẽ nhau. Họ đã chia rẽ ở thời Đức Giêsu, họ vẫn còn chia rẽ nhau cho đến ngày nay. Một ngày nào đó, chỉ cần đến Đền thờ Mộ Thánh ở Giê-ru-sa-lem, thì thấy rõ sự chia rẽ đó. Tất cả đều nói về Đức Kitô, nhưng lại tranh luận xem những phần nền nhà này, bến đậu kia là đất thuộc về tôn giáo nào! Xin Người mau chóng lập lại trật tự đi.
Hẳn đó không phải là điều Đức Kitô đến dạy chúng ta. Nhưng đó là sự kiện thật như Đức Kitô đã nói: “Tôi mang gươm giáo đến, ai thuận với Tôi và ai chống lại Tôi”. Không có chuyện nửa vời. Thuận với Người thì phải từ bỏ những lý lẽ của lý trí, ít ai chịu bỏ. Muốn nhận biết Người cần phải trở nên bé nhỏ và khiêm nhường mới hợp với giáo lý và những đòi hỏi của sứ điệp Đức Giêsu và đi sâu hơn vào mầu nhiệm của Người.
Bản văn thánh Gio-an cho chúng ta thấy những ý kiến khác nhau xoay quanh vấn đề Đức Giêsu, còn xa mới đi tới nhất trí.
Kết cục, chính các vệ binh có nhiệm vụ giữ an ninh trật tự công cộng, tuy ít học, nhưng đã có những suy nghĩ rất chính xác và rất rõ nét: “Xưa nay chưa hề có ai nói năng như người ấy”. Câu nói ngây ngô trước những ông biệt phái, đã xúc phạm nặng nề đến các ông nhưng nhận xét của những kẻ mà các ông coi là dân đen lại thật sáng suốt và có lương tri rất tốt.
Các ông trách họ tàn tệ: “Cả các anh nữa, các anh cũng bị mê hoặc rồi sao? Trong hàng thủ lãnh và giới trí thức biệt phái có ai tin vào tên ấy đâu? Chỉ có bọn hạ lưu cặn bã như các anh mới phạm sai lầm xét đoán như thế thôi”. Các ông biệt phái luôn luôn có thái độ kiêu ngạo, khinh bỉ quá khích đối với những người đã khâm phục sự khôn ngoan của Đức Giêsu.
Đức Kitô sẽ không bao giờ đạt tới kết quả là quy tụ được tất cả loài người. Xin đừng ngạc nhiên vì Người đã tiên báo về chính Người: “Tôi sẽ là dấu chỉ gây ra sự mâu thuẫn”.
Nếu chúng ta có đức tin, chúng ta sẽ hiểu dấu chỉ đó, chúng ta sẽ chịu đau khổ vì thế, nhưng chúng ta sẽ sẵn sàng chấp nhận: “Cùng chịu hấp hối với Người cho đến tận thế”. Câu nói tuyệt vời của Pascal.
G.F.
Suy Niệm 6: Tại sao lại vấp ngã
Đã có lần Đức Giêsu nói Ngài đến không phải để đem bình an, nhưng là đem chia rẽ: cha chống lại con trai, và ngược lại. Con dâu chống lại mẹ chồng và mẹ chồng chống lại nàng dâu. Anh em chống đối nhau...
Hôm nay, sự xuất hiện và lời giảng dạy của Ngài cũng làm cho dân chúng trong mọi tầng lớp chia rẽ.
Họ chia rẽ bởi vì có những nhận định về Đức Giêsu khác nhau. Kẻ thì cho rằng Ngài là vị ngôn sứ; người khác lại khẳng định Ngài là Đấng Kitô, nhưng lại có nhóm phủ nhận tính Kitô nơi Ngài vì cho rằng Ngài không xuất thân từ dòng dõi vua Đavít và từ Bêlem, làng của vua Đavít mà lại từ Galilê!
Rồi đến những nhận định về tài giảng dạy của Ngài, trong đó phải kể đến nhóm vệ binh, họ nói: "Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!" Nicôđêmô, một người trong nhóm Pharisêu thì đứng lên bênh vực Ngài nhưng không mạnh mẽ, mà chỉ khơi khơi...
Trước những phản ứng đó, các thượng tế và người Pharisêu không tin vào dân chúng và tỏ ra tức tối khi dân này ca ngợi Đức Giêsu...
Lý do họ không tin vào đám dân này là vì họ gọi những người ấy là lũ dân xứ này. Với họ, những người dân này chỉ như là hạng bọt bèo, hạ đẳng, không đáng để họ khinh miệt chứ đừng nói gì đến chuyện tin hay không! Họ còn khinh bỉ những người thường dân này đến độ coi họ không có chút học thức hay đạo đức gì, bởi vì nếu có thì không thể tin vào Đức Giêsu được, chỉ những người ngu xuẩn mới tin vào Đức Giêsu mà thôi!
Trong thời đại hôm nay, vẫn còn có nhiều người như Pharisêu và Thượng Tế, họ vẫn tự hào là người học cao hiểu rộng, có một số vốn kiến thức đây đó, rồi từ đó sinh ra tự tôn, kiêu ngạo, để rồi Đức Giêsu là Đấng chỉ để họ bàn tán, còn tin và yêu mến cũng như thực hành những điều Ngài dạy thì không có. Hay có những người cho mình là đạo đức, sống đạo tại tâm, không cần đi lễ, nhà thờ hay cầu kinh sớm tối, cho rằng những chuyện đó là dư thừa, phù phiếm...
Nghĩ như thế, ấy là lúc chúng ta tách đạo ra khỏi đời sống, mà đạo của chúng ta là đạo sống, tức là gắn liền với mọi chiều kích cũng như các mối tương quan trong xã hội, chứ không phải là một mớ ý niệm, định nghĩa...
Trong khi đó, nhiều người bình dân học vụ thì họ lại nhận ra Thiên Chúa cách rõ nét ngang qua tình thương của Ngài ban cho họ trên cuộc sống.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết đứng về phía sự thật và can đảm làm chứng bằng cả cuộc sống. Mặt khác, Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy khiêm tốn để được ơn cứu độ từ Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trong Mùa Chay này biết ý thức rằng: “Đức tin mà không có hành động thì đức tin chết”. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Theo Chúa với lập trường dứt khoát vững vàng
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Sự xuất hiện của Chúa Giêsu tạo ra một cuộc tranh chấp quyết liệt giữa những người tin và những kẻ chống đối. Hãy theo Chúa với một lập trường dứt khoát vững vàng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cuộc sống luôn là một sự chọn lựa, và đức tin lại càng đòi hỏi phải chọn lựa quyết liệt hơn. Con tin vào Chúa là con tin vào tình yêu vô biên của Chúa, và đồng thời đức tin đòi con phải chấp nhận dấn thân trọn vẹn, chấp nhận một sự đổi đời. Chúa ban đức tin cho con không phải để ru ngủ con trong yêu thương, trái lại con biết Chúa đòi con chọn lựa một cách quyết liệt để đi theo Chúa, để sống cho Chúa và anh em. Chúa đến bằng con đường thập tự, và đòi buộc con cũng phải dứt khoát theo Chúa.
Lạy Chúa, theo Chúa như vậy thực sự là khó. Cuộc sống ở đời có bao nhiêu cám dỗ ngọt ngào, bao nhiêu thử thách cam go. Và vì thế con thường theo Chúa nửa vời lấp lửng, con muốn vừa được Chúa vừa được thế gian, vừa theo Chúa vừa sợ hy sinh gian khổ. Rốt cuộc con chỉ chuốc lấy đau khổ vào thân. Cũng chính vì con không dứt khoát chọn đứng về phía Chúa mà sau bao nhiêu năm theo Chúa, con vẫn ì ạch ở nửa đường. Xin Chúa thương tha thứ và nâng đỡ con.
Lạy Chúa, trong đời sống có những lúc con sẽ phải công khai đứng về phía Chúa và tuyên xưng lòng tin một cách chân thành như các vệ binh hay ít nữa là bênh vực Chúa như ông Nicôđêmô. Con sợ không làm đuợc vì con thường sợ bị liên lụy thiệt thòi. Xin Chúa giúp con can đam giữ vững lập trường đã chọn. Chỉ có Chúa là Chúa, là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của con. Xin giữ gìn con trọn đời trung thành với Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ðấng Kitô xuất thân từ Galilêa sao?”
Suy Niệm 8: Chúa hiện diện mỗi ngày nơi người nhỏ bé
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một hoàng đế nọ mở đại tiệc và nhiều người được mời. Đến giờ ăn, một cơn bão dữ dội ập tới và chẳng ai đến được. Tức giận với “thần bão”, hoàng đế ra lệnh cho lính bắn lên trời để trả thù.
Những mũi tên rơi trở lại và gây thương tích cho rất nhiều lính, còn thần mặt trời Jupiter không bị phương hại gì. Những lời than trách của chúng ta cũng giống như những mũi tên bắn lên Chúa. Chúng sẽ quay lại và làm ta thêm đau khổ..
Suy Niệm
Sau khi lắng nghe và nhìn thấy những việc Đức Giêsu làm, giữa những người Do Thái, có người nhận Ngài là Ðấng Tiên Tri, người khác nhận là Ðức Kitô - Đấng Thiên Sai… Vì thế, Ngài trở nên nguyên nhân chia rẽ trong dân Do Thái…
Nhưng giới lãnh đạo Do Thái là các thượng tế và biệt phái vì Đức Giêsu lên án sự cố chấp, giả hình của họ, nên muốn bắt Người. Họ cắt nghĩa Thánh Kinh lệch lạc để không muốn nhìn nhận Ngài là Ðấng Kitô, và kết án Ngài kiêu ngạo tự nhận là Con Thiên Chúa, họ tìm cớ để lên án tử cho Ngài.
Căn tính của Ðức Giêsu vừa là Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến cứu chuộc trần gian: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16) và Ngài cũng là người thật như khởi đầu Tin Mừng thứ tư xác định: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).
Thiên Chúa qua Người Con nhập thể trở thành con người ở giữa chúng ta - thân phận bất toàn hữu hạn, nhưng là “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Ngài hoàn toàn chấp nhận kiếp con người, hòa nhất với chúng ta, để Ngài dẫn chúng ta về với Thiên Chúa qua sự chết và phục sinh của Ngài.
Xin cho chúng con biết nhận ra tiếng Chúa vẫn nói với chúng con trong đời thường: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37)
Và với con mắt đức tin trong sáng, chúng con nhìn thấy Chúa hiện diện nơi những anh em nhỏ bé nhất trong cuộc sống hằng ngày.
Ý lực sống: “Tình yêu của Thiên Chúa đã được biểu lộ bằng sự dâng hiến của chính Con Một Ngài để cho nhân loại sống” (Thánh Hilaire de Poitiers).
Suy Niệm 9: Dư luận chia rẽ về Đức Giêsu
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Khi nghe Đức Giêsu giảng trong Đền thờ, dân chúng đã dị nghị về Ngài. Và khi nghe bài giảng xong, dư luận càng chia rẽ về nguồn gốc của Ngài. Bài Tin Mừng cho biết dân chúng trước đây cách chung ủng hộ Ngài nay hoang mang, kẻ thì nói Ngài là Đấng Kitô, kẻ khác không còn tin nữa, vì theo những kẻ này Đức Kitô không xuất thân từ Galilê mà phải xuất thân từ Belem thành của Đavít. Các thượng tế và biệt phái thì nóng lòng muốn bắt Ngài. Nicôđêmô lên tiếng bênh vực Ngài thì bị chụp mũ là đồng bọn Galilê với Ngài.
2. Đức Giêsu là ai? Đứng trước Đức Giêsu, kẻ thì nhìn nhận Ngài là Con Thiên Chúa làm người, kẻ thì nghĩ Ngài là một vĩ nhân, một tiên tri có sứ mệnh đặc biệt nào đó, kẻ khác nữa thì cho là một người phàm như mọi người. Thế là người ta hoang mang chia rẽ nhau. Đó cũng là thái độ của người Do thái thời Đức Giêsu như được thuật lại trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta sẽ lần lượt nói đến những hạng người đó.
3. Thứ nhất: đây là những con người bình thường ngay lành có lương tâm trong sáng, không bị dư luận xấu chi phối. Họ thuộc giới bình dân. Họ đã nghe lời Chúa giảng, hoặc đã được hưởng việc lạ Chúa làm, và tuyên xưng Chúa là Đấng đến giải phóng cho muôn người, như tiên tri Isaia đã báo trước: “Ngài làm cho người mù được thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ câm nói được, kẻ què đi được, kẻ chết sống lại và tuyên bố năm hồng ân của Thiên Chúa”. Như vậy, những người này đã nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, là Đấng Kitô.
4. Thứ hai: Những nhà lãnh đạo tôn giáo như thượng tế, biệt phái và luật sĩ chối bỏ tất cả, họ không công nhận Ngài là một tiên tri, cũng không phải là Đấng Thiên Sai hay Đấng Kitô, vì không hội đủ những điều kiện về địa dư và dòng tộc, họ coi Ngài chỉ là người tầm thường như mọi người, một người như thế không thể là Đấng Kitô được, thế mà tự nhận cho mình địa vị và vai trò đó. Cho nên họ tức giận và ra lệnh cho binh lính tìm bắt Ngài.
5. Thứ ba: Những người lính được các thượng tế sai đi bắt Chúa giải về cho họ xử. Những người này không dám bắt Ngài vì một phần còn sợ dân, nhất là khi nghe Ngài giảng như Đấng có uy quyền. Họ trở về trình diện các thượng tế với dáng vẻ sợ sệt mà trình bầy với họ bằng những lời: “Chúng tôi chưa từng gặp một người nào nói năng như ông ấy”. Như vậy, mặc nhiên họ đã công nhận Chúa là một người khác biệt, một siêu nhân.
6. Thứ tư: Ông Nicôđêmô, là một người trong nhóm biệt phái, một người có thế giá, một thành viên hội đồng lập pháp, đã bênh vực Đức Giêsu khi ông nói: “Luật pháp của chúng ta có cho phép kết án ai trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không”? Như vậy ông đề nghị trước khi kết án Đức Giêsu thì phải điều tra cho cẩn thận; nhung đề nghị của ông không được họ chấp nhận, đúng là họ theo luật rừng.
7. Đức Giêsu đã trở nên một dấu hỏi lớn. Mỗi người phải tìm một câu trả lời cho câu hỏi: “Đức Giêsu là ai?”. Thật ra điều kiện chính yếu để có thể nhận biết Thiên Chúa, đó là thái độ khiêm tốn, vô tư, trung thực, gạt bỏ tự cao tự đại, thay đổi quan điểm, thành kiến, hy sinh quyền lợi riêng tư để theo sự chỉ dẫn của Thiên Chúa. Người Do thái xưa đã không tin nhận Đức Giêsu là vì họ thiếu những điều kiện kể trên.
Đối với chúng ta ngày nay, chúng ta đã tin nhận Đức Giêsu, nhưng chúng ta có thực hiện Lời Chúa dạy bảo không? Đức tin không việc làm là đức tin chết.
Mùa Chay là ăn năn sám hối và sửa đổi đời sống, chúng ta hãy nghe Lời Chúa kêu gọi: “Hôm nay nếu anh em nghe Lời Chúa, thì đừng cứng lòng nữa”.
8. Truyện: Đức tin phải có việc làm.
Blodin là một trong những tên tuổi của ngành xiếc tại Mỹ. Một trong những kỳ công đáng ghi nhớ nhất của anh là đã có thể đi trên một sợi dây qua thác Niagara là thác dài nhất và cao nhất thế giới. Trong một dịp biểu diễn, anh quay sang hỏi một cậu bé đứng gần đó: “Em có tin là tôi có thể mang một người trên vai và đi xuyên qua dòng thác không”? Giữa tiếng thác đổ âm ầm, cậu bé thét lên: “Vâng, cháu tin là chú có thể làm được điều đó”. Thế nhưng khi anh đề nghị mang cậu bé trên vai thì em lắc đầu từ chối, vì không đủ tin tưởng vào sự đảm bảo của người biểu diễn.
Cậu bé trên đây có thể là hình ảnh của rất nhiều người trong chúng ta khi phải trả lời cho câu hỏi của Đức Giêsu: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?”. Cũng như Phêrô khi đại diện cho các Tông đồ, chúng ta sẽ trả lời: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng trong thực tế, thái độ sống của chúng ta có lẽ còn tương phản với lời tuyên xưng ấy. Chúng ta chưa là những Kitô hữu thực sự, nghĩa là chưa tin tưởng và sống theo lời mời gọi của Chúa” (Mỗi ngày một tin vui).
Suy Niệm 10: ,,,
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Bài đọc 1: Hôm qua chúng ta đã nghe một đoạn sách khôn ngoan nói về việc người công chính bị kẻ gian ác bách hại. Hôm nay, ngôn sứ Giêrêmia cũng lập lại ý tưởng đó. Người công chính thường bị bách hại, đó là một chủ đề lớn của Cựu ước. Chúa Giêsu cũng không được miễn khỏi định luật khắt khe đó.
2. Bài Tin Mừng: Càng ngày, Chúa Giêsu càng tiến đến gần lúc nguy hiểm. Dân chúng trước đây cách chung ủng hộ Ngài thì nay hoang mang, kẻ thì nói Ngài là Đức Kitô, kẻ khác không còn tin nữa, vì theo những kẻ này, Đức Kitô không xuất thân từ Galilê mà phải xuất thân từ Bêlem là thành của vua Đavít. Các thượng tế và biệt phái thì nóng lòng muốn bắt Ngài. Gamaliên lên tiếng bênh vực Ngài thì bị chụp mũ là đồng bọn Galilê với Ngài.
B. Nẩy mầm…
1. Chúa Giêsu đã trở nên một dấu hỏi lớn. Mỗi người phải tìm một câu trả lời cho câu hỏi “Giêsu là ai?”. Câu trả lời của tôi thế nào: đối với tôi, Giêsu là Đấng để tôi chạy tới xin ơn? Là Đấng nhân từ luôn thông cảm tha thứ? Là người rắc rối hay đặt vấn đề cho lương tâm tôi? Là đấng mà tôi phải trung thành đi theo, cho dù phải theo trên con đường Thập giá?
2. Trong khi nhiều người chống đối Chúa Giêsu, nhiều người khác hoang mang không xác định rõ lập trường, thì Gamaliên đã can đảm lên tiếng bênh vực Ngài. Chung quanh chúng ta ngày nay cũng có nhiều người chống đối hay chưa hiểu Chúa Giêsu. Tôi có can đảm như Gamaliên không?
3. “Blondin là một trong những tên tuổi của ngành xiếc tại Mỹ. Một trong những kỳ công đáng ghi nhớ nhất của anh là đã có thể đi trên một sợi dây qua thác Niagara là thác dài nhất và cao nhất thế giới. Trong một dịp biểu diễn, anh quay sang hỏi một cậu bé đứng gần đó: “Em có tin là tôi có thể mang một người trên vai và đi xuyên qua dòng thác không?”. Giữa tiếng thác đổ ầm ầm, câu bé thét lên “Vâng, cháu tin là chú có thể làm được điều đó”. Thế nhưng khi anh đề nghị mang cậu bé trên vai thì em đã lắc đầu từ chối, vì không đủ tin tưởng vào sự bảo đảm của người biểu diễn.
Cậu bé trên đây có thể là hình ảnh của rất nhiều người trong chúng ta khi phải trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu “Phần các con, các con bảo Ta là ai?”. Cũng như Phêrô khi đại diện cho các tông đồ, chúng ta sẽ trả lời “Thầy là con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng trong thực tế, thái độ của chúng ta có lẽ còn tương phản với lời tuyên xưng ấy. Chúng ta chưa là những Kitô hữu thực sự, nghĩa là chưa tin tưởng và sống theo lời mời gọi của Chúa.” (“Mỗi ngày một tin vui”).
Suy Niệm 11: Trả lời cho câu hỏi “Giêsu là ai?”
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Càng ngày, Chúa Giêsu càng phải đối đầu với những nguy hiểm xem ra càng lúc càng mạnh hơn. Dân chúng trước đây cách chung ủng hộ Ngài nhưng nay thì hoang mang. Các thượng tế và Pharisêu thì nóng lòng muốn giết Chúa. Nicôđêmô lên tiếng bênh vực Ngài thì bị chụp mũ là đồng bọn Galilê với Chúa.
Chúa Giêsu đã trở nên một dấu hỏi lớn. Mỗi người phải tìm một câu trả lời cho câu hỏi “Giêsu là ai?”.
Có lẽ bằng lời nói, không ai trong chúng ta mà không tuyên xưng và nhận Chúa Giêsu là Chúa của mình, nhưng trong thực tế của cuộc sống thì hình như giữa lời tuyên xưng và cách sống hằng ngày của chúng ta vẫn còn một khoảng cách rất khó lấp đầy.
Blondin là một trong những tên tuổi lừng danh trong ngành xiếc tại Mỹ. Một trong những kỳ công đáng ghi nhớ nhất của anh là đã có lần anh đi trên một sợi dây cáp bắc qua thác Niagara, là thác dài nhất và sâu nhất thế giới. Một lần nọ, khi vừa bước lên dây cáp để chuẩn bị đi qua bờ bên kia, nhìn xuống anh thấy có một cậu bé đứng gần đang há hốc miệng nhìn lên anh, anh nhìn thẳng vào mắt cậu bé và hỏi:
- Em có tin là chú có thể mang một người trên vai chú và đi qua bên kia không?
Giữa tiếng thác đổ ầm ầm, câu bé thét lên:
- Vâng, cháu tin là chú có thể làm được điều đó.
Thế nhưng, khi anh đề nghị mang cậu bé trên vai thì em đã lắc đầu từ chối, vì không đủ tin tưởng vào sự bảo đảm của người biểu diễn.
Cậu bé trên đây có thể là hình ảnh của rất nhiều người trong chúng ta khi phải trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu: “Phần các con, các con bảo Ta là ai?”. Cũng như Phêrô khi đại diện cho các tông đồ, chúng ta sẽ trả lời: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhưng trong thực tế, thái độ của chúng ta có lẽ còn tương phản với lời tuyên xưng ấy. Chúng ta chưa là những Kitô hữu thực sự, nghĩa là chưa dám tin tưởng và sống theo lời mời gọi của Chúa”. (Mỗi ngày một tin vui)
2. Nhân chứng
Trong khi nhiều người chống đối Chúa Giêsu, nhiều người khác hoang mang không xác định rõ lập trường, thì Nicôđêmô đã can đảm lên tiếng bênh vực Ngài. Chung quanh chúng ta ngày nay, cũng có nhiều người chống đối hay chưa hiểu Chúa Giêsu. Tôi có can đảm như Nicôđêmô không? Dám can đảm làm nhân chứng cho Chúa đó là dấu chỉ của một con người có niềm tin và là một người nhận Chúa làm Chúa của cuộc đời mình.
Một hôm, bên Châu Mỹ Latinh, một linh mục cử hành thánh lễ trong vùng “ổ chuột”. Bài giảng hôm ấy được thực hiện dưới dạng đối thoại với anh chị em tín hữu, nhắm tới sự giao hòa. Thế là một cậu bé đã tuyên bố:
- Thưa các nhà thừa sai, chúng con cảm ơn các ngài, vì các ngài đã dạy chúng con yêu thương kẻ thù. Cách đây một tuần, con đã sắm sẵn một con dao để giết một thằng bạn mà con vẫn căm ghét. Nhưng sau khi nghe cha giải thích cho chúng con nghe bài Tin Mừng, con đã đi mua một chiếc bánh kem để tặng cho kẻ thù của con.
Một chủng sinh trẻ người Liban đã bị giết cách đây vài năm, trên con đường đi về nhà để mừng lễ Giáng Sinh. Đó là nạn nhân của cuộc chiến tranh, huynh đệ tương tàn đang xảy ra tại quê hương anh. Người ta đọc được những lời sau đây trong di chúc của anh: “Tôi thấy rồi, mình sẽ bị bắt cóc và sẽ bị giết trên đường để tới làng tôi. Tôi nói với mẹ và các chị em tôi: Xin mẹ và chị em đừng buồn. Chúng ta sẽ gặp lại nhau, chắc chắn mà, trong nơi vĩnh cửu trên trời. Con xin mẹ và các chị em một điều: Xin hãy tha thứ hết lòng cho những kẻ đã giết con. Ước gì máu con được đổ ra để chuộc được tội cho Liban. Ước gì cái chết của con dạy cho con người sống bác ái. Xin hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện và yêu thương các kẻ thù”.
Tại vùng Chouf (một miền thuộc xứ Liban, ở miền Nam Beyrouth), vào lúc cuối năm 1983, em Maria Khoury đã bị một kẻ cuồng tín bắt, hắn chĩa súng vào gáy em:
- Hãy chối Giêsu Kitô đi, rồi mày sẽ được sống.
Em trả lời:
- Tôi sẽ không chối Giêsu Kitô, Chúa của tôi. Tôi muốn trung thành với các lời hứa khi nhận phép rửa tội. Anh cứ việc bắn, nếu anh muốn.
Hắn đã nổ súng. Nghĩ rằng em đã chết, hắn bỏ em nằm đó trên vũng máu. Được cứu, nhưng bị mù và què quặt, em đã nói:
- Em tha thứ cho người bắn em, như em đã tha thứ cho người giết mẹ em và cho người đã giết cha em.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em. Amen.
01/04 Nguồn gốc của Chúa
- Viết bởi Ga 7, 1-2. 10. 25-30
Nguồn gốc của Chúa.
Thứ Sáu tuần 4 Mùa Chay.
"Chúng tìm cách bắt Người, nhưng chưa tới giờ Người".
Lời Chúa: Ga 7, 1-2. 10. 25-30
Khi ấy, Chúa Giêsu đi lại trong xứ Galilêa; Người không muốn đi lại trong xứ Giuđêa, vì người Do-thái đang tìm giết Người. Lúc đó gần đến lễ Trại của người Do-thái. Nhưng khi anh em của Người lên dự lễ rồi, thì Người cũng đi, nhưng không đi cách công khai, mà lại đi cách kín đáo.
Có một số người ở Giêrusalem nói: "Ðây không phải là người họ đang tìm giết sao? Kìa ông ta đang nói công khai mà không ai nói gì cả. Phải chăng các nhà chức trách đã nhận ra ông ta là Ðấng Kitô? Tuy nhiên, ông này thì chúng ta biết rõ đã xuất thân từ đâu. Còn khi Ðấng Kitô tới, thì chẳng có ai biết Người bởi đâu".
Vậy lúc bấy giờ Chúa Giêsu đang giảng dạy trong đền thờ, Người lớn tiếng nói rằng: "Phải, các ngươi biết Ta, và biết Ta xuất thân từ đâu; Ta không tự Ta mà đến, nhưng thực ra, có Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta". Bởi thế họ tìm cách bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai đụng tới Người, vì chưa tới giờ Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Giờ của Người chưa đến
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Lễ Lều là một đại lễ hàng năm qui tụ đông đảo dân chúng lên Đền thờ.
Đây là một lễ rất vui, kéo dài cả tuần (Lv 23, 34-36).
Mục đích chính là để tạ ơn Chúa vì hoa trái mùa màng Ngài ban,
và còn để nhớ lại tình thương Chúa trong thời gian 40 năm đi trong hoang địa.
Lễ Lều là một lễ hội tưng bừng và long trọng bậc nhất.
Những người tham dự cắm trại trong các lều làm bằng cành lá,
được dựng trên mái nhà, gần nhà hay ngoài đồng.
Mỗi buổi sáng có lễ rước nước từ hồ Silôam để rưới lên bàn thờ.
Mỗi tối, tiền đình phụ nữ nơi Đền thờ rực rỡ ánh nến và vang tiếng múa hát.
Đức Giêsu đã không muốn bỏ qua lễ hội này,
dù lên Đền thờ Giêrusalem bây giờ thật là nguy hiểm đến tính mạng,
vì người Do thái, nghĩa là giới lãnh đạo Do thái giáo, đang tìm cách giết Ngài.
Đức Giêsu đã chọn giải pháp lên Đền thờ một cách kín đáo (c.10).
Nhưng vào giữa kỳ lễ, Ngài đã giảng dạy công khai, không chút sợ hãi (c. 14).
Đức Giêsu dám đối mặt với thế lực đang đe dọa Ngài.
Ngài bình tĩnh giảng ngay nơi Đền thờ,
trước những thượng tế, những người Pharisêu, và dân cư ngụ ở Giêrusalem.
Họ chẳng dám làm gì Ngài, vì giờ của ngài chưa đến (c. 30).
Xảy ra cuộc tranh luận giữa Ngài với dân cư ngụ ở Giêrusalem.
Chẳng có chút thiện cảm nào với Ngài, họ chỉ muốn làm hại Ngài.
Họ tin vào điều này một cách vững chắc:
“Khi Đấng Kitô đến, chẳng ai biết Người đến từ đâu” (c. 27).
Nguồn gốc của Đấng Kitô, đối với họ, phải là một điều bí ẩn.
Họ không tin Đức Giêsu là Kitô, bởi lẽ họ “biết ông này đến từ đâu.”
Chắc họ đã nghĩ Đức Giêsu là dân vùng Nazareth,
làm nghề thợ mộc, sống với cha mẹ là Giuse và Maria.
Tự hào về cái biết đúng nhưng không đủ ấy của họ,
đã khiến họ ngừng lại nơi nguồn gốc trần thế của Đức Giêsu.
Đức Giêsu thật là Đấng Kitô.
Và đúng như dân Giêrusalem đã tin, nguồn gốc của Ngài thật không dễ biết.
Đức Giêsu biết nguồn gốc của mình.
Ngoài gốc nhân loại, Ngài còn gốc thần linh, gốc từ trời.
Ngài không tự mình mà đến, nhưng từ Thiên Chúa chân thật mà đến.
Ngài xuất thân từ Thiên Chúa và được Thiên Chúa sai đi (cc. 28-29).
Dân Giêrusalem không thấy được trọn vẹn con người Đức Giêsu.
Họ đã giết Đấng Kitô đang ở gần bên họ, vì họ mơ một Đấng Kitô bí ẩn khác.
Làm sao tôi có thể nhận ra Đức Kitô cao cả
đang ở bên những người tầm thường tôi gặp mỗi ngày?
Cầu nguyện:
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ cõi chết đến sự sống,
từ lầm lạc đến chân lý.
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ thất vọng đến hy vọng,
từ sợ hãi đến tín thác.
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ ghen ghét đến yêu thương,
từ chiến tranh đến hòa bình.
Xin hãy đổ đầy bình an
trong trái tim chúng con,
trong thế giới chúng con,
trong vũ trụ chúng con. Amen. (Thánh Têrêxa Calcutta)
Suy Niệm 2: Âm mưu giết Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ma quỉ luôn muốn thống trị thế giới. Nó khuất phục kẻ ác để tăng thêm quân số. Và tiêu diệt người lành để giảm bớt chướng ngại.
Thiên Chúa là nguồn mạch sự lành. Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế được Chúa Cha sai đến để giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của thần dữ. Nên một cuộc đối đầu là không thể tránh khỏi. Cuộc chiến càng quyết liệt. Vì thần dữ cảm thấy bị lâm nguy nên càng gia tăng sự độc ác. Âm mưu giết Chúa. Sách Khôn ngoan cho thấy những lý do khiến kẻ ác muốn giết kẻ lành.
Lý do đầu tiên là kẻ lành cản trở kẻ dữ làm điều ác: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo”.
Lý do thứ hai là vì đời sống của kẻ lành phê phán lối sống của kẻ dữ: “Nó như kẻ luôn chê trách tâm tưởng của ta,…lối cư xử của nó hoàn toàn lập dị. Nó coi ta như bọn lọc lừa, tránh đường ta đi như tránh đồ dơ bẩn”.
Lý do thứ ba là vì người lành thuộc về Thiên Chúa. Còn kẻ ác thuộc về ma quỉ. “Nó huênh hoang vì có Thiên Chúa là Cha. Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào”.
Lý do thứ tư là vì muốn thử thách xem người lành có thật hiền lành không. “Ta hãy hạ nhục và tra tấn no, để biết nó hiền hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào”.
Nhiều phe nhóm toa rập với nhau để giết chết Chúa Giê-su. Tuy nhiên đó lại là ý định của Thiên Chúa. Chúa Giê-su tự nộp mình chịu chết để chuộc tội nhân loại. Vào âm phủ để chiến thắng tử thần. Chết đi để tiêu diệt cái chết. Vì là do ý định của Thiên Chúa. Nên dù kẻ ác mạnh thế. Và muốn giết Chúa. Nhưng bao lâu Chúa chưa cho phép. Chưa đến giờ thì họ chưa làm gì được. “Bấy giờ, họ tìm cách bắt Người; nhưng chẳng có ai tra tay bắt, vì giờ của Người chưa đến”.
Màu Chay là mùa chiến đấu chống lại cái ác. Tôi phải chống lại thế lực sự dữ ngay trong lòng tôi. Không có phương thế nào hiệu nghiệm hơn đi vào con đường của Chúa Giê-su. Chịu khổ để làm theo ý Chúa. Từ bỏ chính mình để thoát ảnh hưởng của thần dữ. Chịu chết cho bản thân. Để tiêu diệt sự chết.
Suy Niệm 3: Xuất thân của Chúa
Không ai trong chúng ta đã chọn lựa được sinh ra; không ai trong chúng ta đã chọn lựa chủng tộc, cha mẹ, dân tộc để sinh ra. Nếu được chọn lựa để sinh ra một lần nữa, có lẽ đa số chúng ta sẽ chọn lựa cho mình một cuộc sống khác.
Thế nhưng, với Chúa Giêsu thì không như thế. Ngài là người duy nhất trên trần gian đã chọn lựa cho mình tất cả để sinh làm người. Ngài đã chọn một người mẹ, một nơi sinh và những hoàn cảnh trong đó Ngài sẽ trưởng thành. Nếu phải chọn lại một lần nữa, có lẽ Chúa Giêsu cũng sẽ không thay đổi cuộc sống ấy, một cuộc nghèo khổ, tăm tối. Dĩ nhiên, chúng ta không thể hiểu được hoàn toàn tại sao Chúa Giêsu đã chọn lựa một cuộc sống như thế.
Cuộc sống nào cũng là một mầu nhiệm. Cuộc sống của Con Thiên Chúa làm người lại càng là một mầu nhiệm đối với chúng ta hơn. Vào thời Chúa Giêsu, đa số những người Do Thái đều có một suy nghĩ giống nhau về thân thế của Chúa Giêsu. Họ biết rõ Ngài là con bác thợ mộc Yuse, và Mẹ Ngài là bà Maria. Họ cũng biết rõ từ Nazaret không bao giờ có thể xuất phát một nhân vật tài ba nào cho dân tộc. Họ biết quá rõ về Ngài, nhưng chỉ biết theo sự hiểu biết và phán đoán của con người mà thôi.
Qua các thời đại, nhiều người đã tốn hao bút mực để viết về cuộc đời Chúa Giêsu. Đối với nhiều người, Ngài có thể là một vĩ nhân, một con người ý thức mình có sứ mệnh đặc biệt. Nhưng Ngài cũng chỉ là một người như mọi người, nghĩa là cũng sinh ra, sống một thời gian rồi cũng qua đi như mọi người. Trong khi đó, đối với kitô hữu, Chúa Giêsu chính là Con Một Thiên Chúa. Họ tin ở lời Chúa như được ghi trong Tin Mừng hôm nay: “Ta không tự mình mà đến, nhưng có Đấng sai Ta mà các ngươi không biết Ngài. Riêng Ta, Ta biết Ngài và Ta bởi Ngài và chính Ngài đã sai Ta”. Tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người chính là biết nhìn xuyên qua cuộc sống lam lũ tăm tối của Ngài để nhận ra quyền năng Thiên Chúa của Ngài. Tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa cũng chính là nhận ra giá trị của cuộc sống âm thầm ấy như một thể hiện của tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
Chọn lựa cuộc sống nghèo hèn ấy và sau này tiếp tục sống thiết thân với những người cùng khổ bất hạnh, Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho chúng ta thấy phẩm giá cao cả của con người. Dù nghèo hèn đến đâu, mỗi người sinh ra trên đời cũng đều có giá trị cao cả bất khả nhượng. Chọn lựa cuộc sống nghèo hèn và chấp nhận cái chết thê thảm nhất, Chúa Giêsu cũng muốn nêu bật giá trị và ý nghĩa của cuộc sống con người. Cái nghèo hèn trở nên sự giầu sang, cái mất mát trở thành lợi lộc, cái yếu đuối trở thành sức mạnh mang lại sự sống.
Mùa chay, mùa của hoán cải, chúng ta được mời gọi thay đổi trước tiên cái nhìn của chúng ta. Tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa có nghĩa là đón nhận Ngài, là đi vào cái nhìn của Ngài. Mùa chay là mùa quay trở lại với anh em. Ước gì cái nhìn của chúng ta đối với anh em không dừng lại theo những tiêu chuẩn thông thường của người đời, nhưng được mặc lấy ánh mắt tôn trọng, cảm thông, bao dung, tha thứ của Chúa. Ước gì cái nhìn của chúng ta về cuộc sống không đóng khung trong những phán đoán thông thường của người đời, nhưng được hướng dẫn bởi những tâm tình tin tưởng, phó thác, lạc quan của chính Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Tin nhận Chúa Giêsu
Sự cứng lòng của những người Do Thái không tin đã nhốt kín họ trong những định kiến mê muội đối với những hành động khẳng khái của Chúa Giêsu. Thay vì khách quan đặt lại vấn đề để tìm ra nguyên do nào đã thúc đẩy Chúa hành động bất chấp nguy hiểm như thế, họ chỉ một mực bưng tai bịt mắt khư khư giữ lấy lập trường riêng của mình. Họ đem lòng dạ quanh co xấu xa của họ ra xét đoán tha nhân và những sự việc xảy ra chung quanh. Họ không nhận ra được sự thật mà Chúa Giêsu đã mang đến; cũng không nhìn thấy hình ảnh của Ðấng Thiên Sai nơi Chúa Giêsu. Thật ra, đó chỉ là những hình ảnh thô thiển do cái nhìn chủ quan của họ tạo ra. Còn Ðấng Cứu Thế đích thực đang đứng trước mặt họ thì họ lại khước từ.
Lạy Chúa Giêsu, xin giải thoát con khỏi sự mù quáng tinh thần, nhất là đừng để con vì những lợi lộc ích kỷ mà xa Chúa, hay tệ hại hơn chống đối và từ bỏ Chúa. Xin thương mở rộng tâm hồn và đôi mắt con cho con được nhìn ra Chúa. Xin Chúa thay đổi cái nhìn của con để con biết tôn trọng và lắng nghe tiếng Chúa nơi tất cả mọi người con gặp hàng ngày.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Các ông biết Tôi ư?
Lúc giảng dạy trong đền thờ, Đức Giêsu nói lớn tiếng rằng:
“Các ông biết tôi ư?
các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư?
Tôi đâu có tự mình mà đến.
Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật.
Các ông, các ông không biết Người.
Phần tôi, tôi biết Người,
Bởi vì tôi từ nơi Người mà đến
Và chính Người đã sai tôi,”(Ga. 7, 28-29)
Đây là một trong những điều chúng ta khó tin Đức Kitô: Chúng ta biết Người. Chúng ta biết lý lịch của Người theo khía cạnh nhân loại. Chúng ta biết chỗ sinh ra, cha mẹ và những nơi Người đã sống. Đấy là cái khó mà những người đồng thời của Chúa gặp phải: “Ông này chúng ta biết xuất thân từ đâu rồi. Còn Đấng Kitô khi Ngài đến thì chẳng ai biết Ngài xuất thân từ đâu cả”. Trước sự phản đối này, Đức Kitô đáp: “Tôi không tự mình mà đến: Đấng đã sai Tôi là Đấng chân thật. Các ông không biết Ngài!”.
Và Đức Kitô đòi chúng ta phải tin vào Người. Người có quyền đòi chúng ta tin vì Người thuộc phạm vi Thiên Chúa mà chúng ta không biết, nếu không có đức tin, không có lời Người.
Tính cách lưỡng diện này của Đức Kitô: vừa là loài người, vừa là Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta biết thế, nhưng cái gì ngăn cản chúng ta tin vào Người, cậy trông Người?
Nếu dừng lại một lát, chúng ta sẽ nhận ra rằng: Chúng ta biết rất ít về Đức Kitô, dù sau khi đã được Phúc âm mặc khải cho chúng ta. Điều chúng ta biết về Người là giáo huấn Người để lại cho chúng ta. Và giáo huấn đó thì quá giản dị, quá trong sáng, quá là là mặt đất đến nỗi làm chúng ta hơi thất vọng, nếu chúng ta đòi Người làm những điều phi thường! Những điều mà như chúng ta nghĩ sẽ có thể thành công dễ dàng nếu có một chút can thiệp siêu việt, siêu phàm của Thiên Chúa. Đây chính là phạm vi Đức Kitô đòi hỏi chúng ta phải sống để khám phá và phát triển trong tâm hồn chúng ta, nhưng chúng ta lại từ chối.
Đức Kitô nhắc nhở chúng ta không phải chỉ biết Người theo phạm vi loài người mà chính là theo phạm vi Thiên Chúa, như chúng ta, không phải chỉ sống theo khía cạnh là người này phải làm lụng vất vả để kiếm bánh ăn mỗi ngày: bánh cho xác, bánh cho con tim, cho trí óc mà còn cần thứ khác siêu việt hơn. Thứ khác đó thuộc phạm vi đức tin mà chúng ta phải khám phá. Thứ khác đó chính là Đức Kitô, Người đang sống trong chúng ta. Chính là ơn thánh, chân lý mầu nhiệm mà chúng ta biết Người ở trong chúng ta, Người an ủi chúng ta, không vượt xa mà hoàn toàn ở trong chính chúng ta.
J.M
Suy Niệm 6: Có đức, có tài và có hạnh
Hôm nay, Đức Giêsu trở lại Galilê vào một dịp Lễ Lều của người Do Thái.
Lễ Lều là một trong những lễ mà người Do Thái coi trọng, vì thế nó đã trở thành luật buộc đối với họ. Mục đích của Lễ Lều là tạ ơn Chúa sau vụ mùa, nhất là sau mùa hái nho. Tạ ơn Chúa vì Chúa cho vụ mùa bội thu. Hai là dịp nhắc cho con cháu nhớ lại những năm tháng ngược xuôi dòng rã trong sa mạc trước khi vào đất hứa. Họ thường mang những hoa màu ruộng đất do công khó của mình làm nên để tạ ơn và cầu xin cho vụ mùa tiếp theo được mưa thuận gió hòa.
Nhân dịp này, Đức Giêsu xuất hiện, và chẳng mấy chốc, Ngài đã lên tiếng giảng dạy trong đền thờ. Sự kiện Ngài xuất hiện đã làm cho dân chúng không khỏi ngạc nhiên và bàn tán xôn sao vì đã trở thành cái gai trong mắt những nhà lãnh đạo.
Tại sao biết bao nhiêu lời chứng mà Đức Giêsu đã trưng dẫn cho họ về Ngài mà họ cũng không tin? Nào là Gioan tiền hô; Thiên Chúa Cha; Kinh Thánh... Rồi đến ngay cả những việc Ngài làm minh định điều đó mà họ vẫn không tin.
Thưa! Đơn giản vì cái tôi của họ quá lớn. Họ tự tôn là thành phần đặc quyền đặc lợi, ưu tuyển, nên không thể chấp nhận được giáo huấn cũng như bản tính thần linh của Đức Giêsu. Ngược lại, họ đã kết tội Đức Giêsu, cái tội mà chắc chắn sẽ chết, đó là nói lộng ngôn, phạm thượng. Là kẻ phản loạn, không giữ luật ngày Sabát... Chính vì tâm trí họ ra mù quáng mà sự hiện diện và lời dạy của Đức Giêsu không hề thức tỉnh lương tâm của họ.
Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng thấy không ít người có tâm tưởng như những người Do Thái, Họ học hỏi Kinh Thánh, giáo lý không phải vì lòng yêu mến và mong muốn được biến đổi cho bằng học để biết rồi sinh ra chê bai, trách móc và tự kiêu... hoặc đôi khi học để rồi tìm cách bách hại lại những người tin Chúa!
Những não trạng mù quáng ấy đôi khi lại là lựa chọn của mỗi chúng ta khi chúng ta tách rời hiểu biết ra khỏi cuộc sống.
Như thế, chúng ta hãy cẩn trọng vì: “Có học mà không hạnh là kẻ ác”; “Có hạnh có đức mà không có học là đần”.
Mong sao, chúng ta “có tài, có đức, có hạnh” trong việc giữ đạo và sống đạo trong thế giới hôm nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Ta bởi Ngài, chính Ngài sai Ta
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Năm 1958, sau khi Đức Giáo hoàng Piô XII qua đời, các báo chí mô tả ngài như một ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc, hấp thụ một nền văn học uyên thâm và đã để lại bao nhiêu công trình lớn lao cho hậu thế, và cho Giáo hội.
Cơ Mật Viện đã bầu Đức Giáo hoàng Gioan XXIII lên kế vị. Giáo hoàng này xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, với hình dáng mập mạp, quê mùa, chất phác. Người ta bảo, đây chỉ là vị Giáo hoàng chuyển tiếp cho một vị Giáo hoàng khác có tầm cỡ như vị tiền nhiệm của ngài. Nhưng có ngờ đâu con người khiêm tốn, bình dân, giản dị và vui tươi ấy đã thu hút mọi người. Và nhất là với Công đồng Vaticanô II mà ngài đã triệu tập, Giáo hoàng Gioan XXIII đã trở thành một “siêu sao” của thời đại, vượt trội hơn các vị tiền nhiệm của mình.
Suy Niệm
Người Do Thái chỉ biết lý lịch trần thế của Ðức Giêsu: Con bác thợ mộc Giuse và bà Maria, xuất thân từ làng Nadarét miền Galilêa. Nhưng căn tính của Ngài không chỉ thuộc về Nadarét, Ngài là Đức Kitô đến từ Thiên Chúa Cha. Người Do Thái không biết Chúa Cha như Chúa Giêsu nhận định: “Ðấng đã sai Ta mà các ngươi không biết Ngài”. Cho nên, họ không tin nhận Đức Giêsu Kitô. Ngài đến từ Thiên Chúa Cha nên biết Cha, và Ngài là Ðấng Thiên Sai của Cha: “Ta biết Ngài, vì Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta”.
Biết Thiên Chúa Cha và biết Con Cha cùng Ngài sống trong Thiên Chúa, là đích điểm cuộc đời mỗi người Kitô hữu sống trên trần gian là cuộc lữ hành trở về với Ngài. Ðể biết Thiên Chúa, chúng ta phải chuyên cần tìm hiểu, gặp gỡ lắng nghe Ðức Giêsu trong Thánh Kinh, Ngài là Đấng trung gian với Cha, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần: “Xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa” (Thánh Augustinô).
Ý lực sống: “Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa…” (Thánh Augustinô).
Suy Niệm 8: Nguồn gốc của Đấng Messia
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại: Đức Giêsu trở lại Galilê vào dịp Lễ Lều của người Do thái, đây là một trong những lễ lớn nhất và vui nhất của họ. Người ta mừng lễ này cả một tuần lễ, từ ngày 15 đến ngày 21 tháng Bảy.
Nhân dịp này người Do thái tranh luận về nguồn gốc của Đức Giêsu. Họ cho rằng Đấng Messia phải có nguồn gốc lai lịch rõ ràng, còn Đức Giêsu thì họ không biết xuất thân từ đâu. Nhân đó Đức Giêsu nói cho họ biết lai lịch và nguồn gốc của Ngài là Chúa Cha: “Ta bởi Ngài, và chính Ngài đã sai Ta”. Nhưng nói như thế càng khiến họ muốn giết Ngài hơn. Tuy nhiên hiện giờ “họ chưa làm gì Ngài được vì chưa tới giờ Ngài”.
2. Sự kiện xẩy ra tại Giêrusalem vào dịp Lễ Lều và lễ tạ ơn sau ngày mùa, Đức Giêsu vào Đền thờ và giảng một cánh công khai, làm cho những người biệt phái tức giận vì họ không thể nào chấp nhận được những điều Ngài nói về bản tính thần linh của Ngài. Họ biết nguồn gốc lai lịch của Ngài: con bà Maria, con ông thợ mộc Giuse, quê ở làng Nazarẹth bé nhỏ, nghèo hèn, bản thân Ngài cũng chỉ là một anh thợ mộc, thế mà Ngài lại tự nhận mình là Con Thiên Chúa, từ Thiên Chúa Cha mà đến và ngang hàng với Chúa Cha. Họ cho là Ngài lộng ngôn phạm thượng, họ nhất định không tin Ngài, dù bao nhiêu chứng cớ Ngài đưa ra cũng không đánh động được lòng dạ chai đá của họ, họ nhất quyết từ chối, đó là quyền tự do của họ.
3. Họ thắc mắc với câu hỏi: Ông Giêsu là ai? Họ thắc mắc và bàn tán theo quan niệm sai lầm của họ: “Ông này chẳng phải là Giêsu, con bác thợ mộc Giuse đó sao”?
Nhưng Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Các ông biết tôi ư? Các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư? Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật”. Đó là tiếng kêu của một người không được người khác nhận biết đúng thực về mình, bởi vì Đức Giêsu không chỉ là người phàm như họ lầm tưởng, mà là Con Thiên Chúa, là Đấng được Chúa Cha sai đến cứu độ con người. Ngài chấp nhận sống nghèo hèn để đem lại giầu sang cho con người, Ngài chấp nhận đau khổ để đem lại hạnh phúc cho con người, một con người hiến thân để đem lại sự sống cho muôn người, thế mà không ai chịu tin theo Ngài.
4. Cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và những người biệt phái kéo dài rất dai dẳng, nhưng Ngài cũng chẳng làm cho họ tin Ngài được, trái lại càng ngày họ càng muốn giết Ngài. Cái gì đã khiến họ khó tin vào Đức Giêsu như thế? Thưa chính là vì họ tưởng họ biết quá rõ về Thiên Chúa và về Đấng Messia của Thiên Chúa: họ tưởng họ biết Thiên Chúa là ai, Đấng Messia từ đâu đến, biết rành Thánh Kinh, biết rõ luật Maisen... Tất cả những gì ở ngoài cái khung hiểu biết ấy của họ thì họ đều coi là sai lạc, là từ Satan...
Tôi có nghĩ rằng tôi đã biết tất cả về Chúa và về ơn cứu độ không? Tôi có sẵn sàng và ngoan ngoãn để Chúa dạy tôi những điều bất ngờ không?
5. Lý do sau cùng khiến họ không tin Ngài và tìm cách hại Ngài, không phải vì Ngài lỗi luật sabat, đó chỉ là cái cớ bên ngoài mà thôi, mà đúng ra Ngài là cái gai trước mắt họ, làm họ khó chịu: vì Ngài nguy hại cho họ, họ mất hết uy thế, mất miếng ăn. Họ ra tay bắt Ngài, nhưng họ không làm gì được Ngài vì giờ của Ngài chưa đến.
6. Truyện: Aristide người công chính.
Aristide là một tướng lãnh và chính trị gia nổi tiếng thanh liêm tại Hy Lạp vào thế kỷ V trước công nguyên.
Ông thanh liêm đến nỗi cả nước đã tặng cho ông một danh hiệu cao quí là “Aristide người công chính”. Nhưng ông càng được nhiều người ca tụng thì lại càng bị nhiều người ganh tị chống đối. Ông bị tướng Ténistoles âm mưu muốn triệt hạ ông. Người ta muốn cho Aristide bị kết án và bị lưu đầy trong vòng 10 năm. Bản án đã được thi hành bằng một trò chơi dân chủ quái ác.
Theo thể thức biểu quyết thông thường của người Hy Lạp thời cổ, mỗi một người công dân được phát cho một vỏ sò trên đó họ sẽ viết lên ý kiến của mình. Trong trường hợp của tướng Aristide, ai đồng ý cho ông bị lưu đầy, thì viết tên ông lên vỏ sò, và người ta sẽ đem nộp vỏ sò ấy tại một nơi công cộng giữa phố chợ.
Có một thị dân nọ không biết viết, thấy Aristide đang đứng ở một góc phố và chưa một lần biết mặt ông là ai. Thấy ông, người thị dân này đến nhờ ông viết tên của người bị kết án lên vỏ sò. Aristide viết tên của mình lên vỏ sò theo yêu cầu của người lạ mặt. Ông trao vỏ sò lại cho thị dân và hỏi ông ta:
- Tại sao ông lại bỏ phiếu ủng hộ việc lưu đầy Aristide?
Người đàn ông mới trả lời như sau:
- Tại sao tôi bỏ phiếu ủng hộ việc lưu đầy ông ta ư? Bởi vì tôi không chịu nổi sự kiện ai cũng gọi ông ta là Người Công Chính, thế thôi!
Suy Niệm 9: Hiểu biết về Chúa thế nào?
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (hạt giống...)
1. Bài đọc 1 trích sách khôn ngoan nói lên một sự thật phũ phàng là kẻ gian ác không thích người công chính và bách hại người công chính. Bởi vì sự hiện diện và việc làm của người công chính càng lộ rõ sự gian ác của chúng, cũng như ánh sáng soi rõ những chỗ xấu xa trong các xó kẹt tối tăm.
2. Phúc Âm: Chúa Giêsu chính là người công chính bị quân gian ác bách hại. Để khỏi mang tội giết Đấng Messia, họ lý luận rằng Đấng Messia phải có nguồn ngốc lai lịch rõ ràng, còn Chúa Giêsu thì không biết xuất phát từ đâu. Nhân đó Chúa Giêsu nói cho họ biết nguồn gốc lai lịch của Ngài là Chúa Cha “Ta bởi Ngài và chính Ngài đã sai Ta”. Nhưng nói như thế càng khiến họ muốn giết Ngài hơn. Tuy nhiên hiện giờ “họ chưa làm gì được Ngài vì chưa tới giờ Ngài”.
B. Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Người công chính thường bị kẻ gian ác bách hại. Tôi có thể áp dụng cho mình câu này cả về hai vế:
- Hãy tự hỏi tôi có phải là kẻ gian ác đang bách hại những anh chị em tôi vì họ công chính hơn tôi không?
- Tôi có sẵn sàng chấp nhận những sự bách hại của kẻ khác để kiên trì sống theo lý tưởng công chính không?
2. Cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái kéo dài rất dai dẳng nhưng Ngài chẳng làm cho họ tin được, trái lại càng ngày họ càng muốn giết Ngài. Cái gì đã khiến họ khó tin vào Chúa Giêsu như thế? Thưa chính là vì họ tưởng họ biết quá rõ về Thiên Chúa và Đấng Messia của Thiên Chúa: họ tưởng họ biết Thiên Chúa là ai, Đấng Messia từ đâu đến, biết rành Thánh Kinh, biết rõ luật Môisê… Tất cả những gì ở ngoài cái khung hiểu biết đó thì họ đều coi là sai lạc, là từ Xatan… Tôi có nghĩ rằng tôi đã biết tất cả về Chúa và về ơn cứu rỗi không? Tôi có sẵn sàng ngoan ngoãn để Chúa dạy tôi những điều bất ngờ không?
3. Một lý do nữa khiên các thượng tế, luật sĩ và biệt phái tìm giết Chúa Giêsu là vì Ngài là một cái gai làm họ khó chịu. Phải chăng tôi không bị cám dỗ bởi ý muốn dẹp bỏ những người làm tôi khó chịu, vì họ không giống tôi, vì họ dám nói ra những chỗ yếu kém của tôi, hay chỉ vì họ khá hơn tôi khiến sự hiện diện của họ làm tôi bị lu mờ đi…?
Suy Niệm 10: Khó tin vào Chúa Giêsu, vì sao?
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những người Pharisêu đã kéo dài rất dai dẳng nhưng vẫn chưa có hồi kết thúc và xem chừng sự đối kháng càng ngày càng quyết liệt hơn. Lý do nào đã khiến họ khó tin vào Chúa Giêsu như thế? Thưa, chính là vì họ tưởng họ biết quá rõ về Thiên Chúa và Đấng Messia của Người. Họ tưởng họ biết rành Thánh Kinh, biết luật Môisen là đã biết tất cả. Những gì ở ngoài cái khung hiểu biết đó thì họ đều coi là sai lạc, là từ Satan.
Một lý do khác nữa khiến các Thượng tế, luật sĩ và Pharisêu muốn tìm cách "hạ" Chúa Giêsu là vì Ngài là một cái gai, là chứng nhân cho sự thật làm cho họ khó chịu. Nhiều lần Chúa đã công khai vạch trần những sai trái và những việc làm giả đạo đức của họ trước mặt dân chúng. Vì sợ uy tín của mình vì thế mà bị giảm sút nên họ quyết tâm "thanh toán" Chúa.
2. Những người Do Thái ngày xưa là như vậy. Ngày nay, nhiều người cũng chẳng khác gì. Họ cũng muốn dẹp bỏ những người làm họ khó chịu. Lý do là vì những người này không giống họ, dám nói ra những chỗ yếu kém của họ, có một đời sống tốt hơn họ: Sự hiện diện của những người này làm họ bị lu mờ! Cái thói ghen ghét ở đời thì thời nào cũng có. Và cũng vì thói ích kỷ đó mà cuộc sống của con người trên trái đất này gặp không biết bao nhiêu là khổ đau.
Sáng ngày 19 tháng 3 năm 1994, tại phòng thánh nhà thờ xứ Casandi Pinsepê, gần thành Napoli miền trung nước Italia, cha Giuse Daiana đã bị sát hại bởi hai phát súng do bọn bất lương Camara bắn thẳng vào mặt đang lúc ngài sửa soạn cử hành thánh lễ kính thánh Giuse bổn mạng.
Cha Daiana là một linh mục trẻ mới ba mươi sáu tuổi. Tuy bị các băng đảng bất lương đe dọa, cha vẫn hăng say với sứ mệnh tông đồ của cha. Vào dịp lễ Giáng Sinh năm 1991, cùng với các cha xứ khác trong vùng Casatano cha đã ký tên gia nhập vào hội quyết tâm chống lại mọi hình thức tội phạm bất lương, nhất là bọn Camara, những kẻ dã man đang gây tang tóc khắp miền đó.
Trước cái chết của cha Daiana, trong bài giảng lễ an táng, Đức Cha Lorenso Chiaradinali - Giám mục giáo phận Avesa đã tóm tắt sứ mệnh tông đồ của Cha như sau: "Đau khổ và tin tưởng. Một cái nhìn xuống đất nơi thân xác đẫm máu của cha an nghỉ và một cái nhìn hướng thẳng lên cao nơi có Đấng đã chết trên Thập Giá, nhưng đã chiến thắng hận thù và sự chết. Môi trường tông đồ của cha đầy khó khăn vì những hình thức vô luân đồi bại, những tổ chức bất lương và những sức mạnh dã man nấp sau bóng tối. Sứ mệnh tông đồ của cha là sứ mệnh bẻ gẫy xiềng xích của tội ác để xây dựng công bằng và tình thương. Hoạt động tông đồ của cha bắt đầu từ công tác giáo dục đức tin, nỗ lực sống chứng tá Kitô, bảo vệ quyền lợi của người tha hương, nâng đỡ tinh thần, an ủi các bệnh nhân, và nhất là huấn luyện tuổi trẻ qua các sinh hoạt hướng đạo".
Tinh thần hăng say và lòng quả cảm của cha Daiana đã cống hiến cho giới trẻ một lý tưởng cao thượng. Ngài đã biết gieo niềm vui và hy vọng nơi tâm hồn các bệnh nhân, biết chinh phục thiện cảm của giới trẻ bằng nụ cười dễ mến. Ngài cũng có tài hướng dẫn tinh thần, làm thay đổi các tâm hồn tận thâm sâu.
Với cái chết thảm thương của cha Daiana, bạo lực đã chạm tới bàn thánh. Bàn thờ của người tín hữu được dựng lên để tưởng nhớ cái chết của Chúa Kitô, Đấng đã chấp nhận chết vì tình yêu nhân loại. Cái chết của một linh mục cũng tương tự như thế. Đức Thánh Cha Gioan - Phaolô II đã nói về cái chết của cha Daiana như sau: "Như người công chính bị ngã gục, như tiếng kêu hùng hồn của lời tố cáo tội ác đã bị im bặt, như ngọn đèn sáng đã tắt lịm đi".
Cha Daiana đã chết nhưng cái chết của cha đã không vô ích hay uổng phí. Ngài đã ngã xuống và được chôn vùi trong lòng đất. Thân xác của ngài chẳng khác gì hạt giống được mục nát đi để đem lại một mùa gặt phong phú hơn, mùa gặt của công lý, của an bình và của tình thương. Thật vậy, mấy hôm trước khi bị ám sát, khi trả lời cho một hướng đạo sinh đến để bày tỏ cho ngài biết về nguyện vọng muốn được theo đuổi ơn gọi linh mục, cha Daiana đã nói với anh: "Nếu thực sự con muốn trở thành linh mục, con phải luôn nhớ rằng, con sẽ phải trả giá rất đắt, nếu không thì con nên gột bỏ ước nguyện đó đi"
Và sau đó, khi đứng trước thi hài cha Daiana, cậu hướng đạo sinh ấy đã thành thật nói: "Nếu trước kia tôi còn do dự nghi ngờ thì giờ đây trước sự việc vừa xảy ra hôm nay và trước cái chết của cha Daiana tôi đã có một xác tín mới: Tôi phải trở thành linh mục".
Lạy Chúa, xin cho con trở nên chứng nhân cho Chúa. Amen.
31/03 Chứng của Chúa Cha
- Viết bởi Ga 5, 31-47
Chứng của Chúa Cha.
Thứ Năm tuần 4 Mùa Chay.
"Có người tố cáo các ngươi, đó là Môsê, người mà các ngươi vẫn tin tưởng".
Lời Chúa: Ga 5, 31-47
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân Do-thái rằng: "Nếu chính Ta làm chứng về Mình, thì chứng của Ta sẽ không xác thực. Có một Ðấng khác làm chứng về Ta, và Ta biết chứng Người làm về Ta thì xác thực. Các ngươi đã sai người đi hỏi Gioan, và Gioan đã làm chứng cho sự thật.
Phần Ta, Ta không cần chứng của loài người, nhưng Ta nói những điều này để các ngươi được cứu thoát. Gioan là cây đèn cháy sáng. Các ngươi cũng muốn vui hưởng ánh sáng đó một thời gian.
Nhưng Ta có một bằng chứng hơn chứng của Gioan: vì công việc Chúa Cha đã giao cho Ta hoàn thành, là chính công việc Ta đang làm. Các việc đó làm chứng về Ta rằng Chúa Cha đã sai Ta. Và Chúa Cha, Ðấng đã sai Ta, chính Người cũng làm chứng về Ta. Nhưng chưa bao giờ các ngươi được nghe tiếng Người, chưa bao giờ nhìn thấy mặt Người, và lời Người, các ngươi cũng chẳng giữ lại được, vì các ngươi không tin Ðấng Người đã sai đến. Các ngươi tra cứu Sách Thánh, vì tưởng rằng trong đó các ngươi sẽ tìm thấy sự sống muôn đời; chính Sách Thánh lại làm chứng về Ta, vậy mà các ngươi vẫn không chịu đến với Ta để được sống.
Ta không tìm vinh quang nơi loài người. Nhưng Ta biết các ngươi không có lòng yêu mến Thiên Chúa. Ta đến nhân danh Chúa Cha, nhưng các ngươi không chịu đón nhận. Nếu có một người nào khác nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ đón nhận nó. Các ngươi là những người nhận vinh quang lẫn nhau mà không tìm vinh quang do một Thiên Chúa, thì làm sao các ngươi có thể tin được? Các ngươi đừng tưởng rằng Ta sẽ tố cáo các ngươi với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các ngươi là Môsê, tức là người mà các ngươi vẫn tin tưởng. Vì nếu các ngươi tin Môsê, thì có lẽ các ngươi cũng đã tin Ta, bởi vì chính Môsê đã viết về Ta. Nhưng mà nếu các ngươi không tin điều Môsê đã viết, thì làm sao các ngươi tin lời Ta được?"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chúa Cha làm chứng cho tôi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Để hiểu được bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cần đọc từ đầu chương năm.
Đức Giêsu chữa anh bất toại bên hồ nước gần Đền thờ Giêrusalem (cc. 1-9).
Anh được khỏi và vác chõng đi vào ngày sabát theo lệnh Đức Giêsu.
Chuyện đó dẫn đến việc người Do thái chống đối Ngài (c. 16).
Khi nghe Ngài nói: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”
họ tìm cách giết Ngài, vì cho rằng Ngài mắc tội phạm thượng,
dám gọi Thiên Chúa là Cha và coi mình ngang hàng với Thiên Chúa (c. 18).
Không chút sợ hãi, Đức Giêsu khẳng định quyền mình đã nhận được từ Cha:
quyền làm cho kẻ chết sống lại và quyền phán xét trong ngày sau hết (cc. 19-30).
Dù có quyền, lúc nào Ngài cũng là Con làm theo ý Cha, Đấng sai Ngài.
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu như người bị đứng trước tòa, bị kết án tử.
Vì không được tự làm chứng cho chính mình,
nên Ngài phải tìm những lời chứng để biện hộ cho lời nói, việc làm của Ngài.
Trước hết là lời chứng của Gioan Tẩy giả (cc. 33-35).
Ông là ngọn đèn làm chứng về ánh sáng, về Đức Giêsu (Ga 1, 8-9).
Nhưng người ta đã không đón nhận lời chứng ấy.
Kế đến là những công việc Cha giao mà Ngài đã hoàn thành (c. 36).
Lẽ ra chúng phải là lời chứng thuyết phục cho thấy Ngài được Cha sai.
Cuối cùng là lời chứng của Chúa Cha (cc. 37-40).
Cha làm chứng bằng những lời của Cha trong Kinh Thánh (c. 39).
Nhưng họ không giữ lời Cha ở lại trong lòng,
nên chẳng tin, cũng chẳng muốn đến với Đấng được Cha sai (c. 38. 40).
Những lời chứng trên đây trở nên vô ích
đối với những ai không có lòng yêu mến Thiên Chúa (c. 42),
không tìm vinh quang Thiên Chúa mà chỉ tôn vinh lẫn nhau (c.44).
Đức Giêsu đã phải chấp nhận sự từ khước này
mà Ngài biết cuối cùng sẽ dẫn đến cái chết.
Làm sao ta có thể ra khỏi những thành kiến để đón lấy sự thật,
ra khỏi những tư lợi ích kỷ để dám tin vào tình yêu,
ra khỏi cái tôi chật hẹp để dám sống cho người khác.
Hãy tin vào Giêsu, Đấng được Cha sai (c. 38).
Hãy đến với Giêsu để được sống (40).
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen.
R. Tagore (Đỗ Khánh Hoan dịch)
Suy Niệm 2: Cứng đầu, cứng cổ, cứng lòng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Dân Do Thái thời Mô-sê bị Chúa trách mắng vì cứng đầu, cứng cổ. Người thời Chúa Giê-su thì cứng lòng. Họ đã thấy những dấu lạ lẫy lừng. Mười tai ương cho người Ai-cập. Vượt qua Biển Đỏ khô chân. Thấy vinh quang Thiên Chúa hiển hiện trên đỉnh núi. Sấm chớp ầm ầm. Khói lửa nghi ngút. Tiếng Chúa phán ầm ầm như tiếng sấm động. Chúa Giê-su cũng làm biết bao phép lạ. Nói những lời khôn ngoan. Nhưng họ vẫn không tin.
Ngoài ra Chúa Giê-su có biết bao chứng nhân. Khi gần qua đời, Mô-sê đã tiên báo: “Từ giữa anh (em), trong số các anh em của anh (em), ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh (em); anh (em) hãy nghe vị ấy…Kẻ nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính ta sẽ hạch tội nó”( Đnl 18,15.19). Thánh Gio-an là chứng nhân trổi vượt. Đã công khai giới thiệu Chúa Giê-su: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Chúa Giê-su cho biết chính Thánh Kinh làm chứng về Người: “Hôm nay lời các ngươi vừa nghe đã ứng nghiệm”. Vậy tại sao người Do Thái từ xưa đến nay vẫn không tin?
Vì tuy họ thấy những điềm thiêng dấu lạ. Nghe những lời khôn ngoan. Nhưng họ chưa tiến vào mối tương giao thân tình với Thiên Chúa. Chưa có đời sống tôn giáo đích thực. Họ còn bề ngoài. Cư xử theo thói đời. Dừng lại ở ngưỡng cửa phàm tục. Chưa tiến vào thâm cung nhiệm mầu của tôn giáo thực sự để gặp gỡ và sống với Thiên Chúa.
Chúa Giê-su xuống thế làm người để dậy cho ta biết sống đạo đích thực. Là đi vào mối tương giao thân tình với Thiên Chúa. Là tin và yêu. Tin là phó thác trọn cuộc đời cho Thiên Chúa. Mô-sê đã nêu gương. Suốt đời chỉ sống cho Thiên Chúa. Yêu thương dân chúng đến dám chết vì dân. Chúa Giê-su là Mô-sê mới. Trổi vượt hơn. HIến toàn thân cho Chúa Cha. Chỉ làm công việc của Chúa Cha. Không màng đến vinh danh và sự chấp nhận của người đời. Chỉ cần làm đẹp lòng Thiên Chúa. Người đã tiến đến mối tương giao thật thân thiết với Chúa Cha. Nên một với Chúa Cha. Sẵn sàng chết vì vâng phục thánh ý Chúa Cha. Đó là sống đạo đích thực.
Mùa Chay là mùa cao điểm để ta noi gương Chúa Giê-su. Sống đức tin và tình yêu với Thiên Chúa. Không tìm thành công nơi trần gian. Không trông cậy vào những thế lực trần gian. Hoàn toàn hiến mình cho Chúa. Hoàn toàn quên mình. Chỉ tìm thi hành thánh ý Thiên Chúa. Chỉ tìm vinh danh nơi Thiên Chúa. Đó là ăn chay đích thực.
Suy Niệm 3: Chứng Của Chúa Cha.
Sau khi bị những người Do Thái chỉ trích Ngài vi phạm luật ngày Hưu lễ vì đã chữa bệnh cho một người bị liệt đã 38 năm, Chúa Giêsu đã chứng minh Ngài có quyền hành động như thế, bởi vì Ngài là cộng tác viên của Thiên Chúa. Và giờ đây Ngài nại đến một chứng từ mà người Do Thái không thể phủ nhận, đó là chứng từ của Thiên Chúa Cha được bày tỏ qua các phép lạ Ngài làm cũng như qua Lề Luật Môsê. Quả vậy, các phép lạ Chúa Giêsu làm chứng thực rằng chính Thiên Chúa đã sai Ngài đến, chính Thiên Chúa đã hành động với Ngài và trong Ngài. Do đó, đây là chứng từ không những do Chúa Cha mang đến, mà còn do ngay của Chúa Giêsu nữa, vì “cứ xem quả thì biết cây”.
Tiếp đến, chính qua Kinh Thánh, Chúa Cha cũng làm chứng cho Chúa Con một cách đặc biệt. Đây là một chứng từ có tính cách trực tiếp và có giá trị đối với người Do Thái, vì mọi người Do Thái đều công nhận Kinh Thánh là lời của Thiên Chúa.
Trong khi toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước đều loan báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu thế, nhưng vì thiếu đức tin và lòng đạo đức chân thành, các người Do Thái đã không thực sự nhìn thấy Thiên Chúa và lắng nghe lời Ngài qua khuôn mặt và lời nói của Chúa Giêsu và do đó không đón nhận Ngài như Đấng được Thiên Chúa sai đến. Và không phải Chúa Giêsu là người sẽ tố cáo họ về tội bất trung này, nhưng là chính Môsê. Bởi vì qua Lề Luật, Môsê đã nói về Đấng Mêsia tức là về Chúa Giêsu, vậy mà về điểm căn bản này, họ cũng đã từ chối không chịu tin theo lời dạy bảo của ông.
Như vậy, điều cốt yếu để được cứu độ là tin vào Chúa Giêsu, nhận ra hình ảnh và lời nói của Chúa Cha nơi Ngài. Có tin vào Chúa Giêsu, lời Thiên Chúa mới ở trong chúng ta. Trong Mùa chay này, chúng ta hãy để cho Lời Chúa lưu lại trong chúng ta bằng cách năng suy gẫm Lời Chúa, để giữa cuộc sống của chúng ta và Lời Chúa biểu lộ được khuôn mặt, tinh thần và tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta một tình yêu nồng nàn để có thể nhận ra và lắng nghe được tiếng nói của Chúa và luôn sống trong đường lối của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Tôi biết rõ các ông
Chúa Cha, Đấng đã sai tôi,
Chính Người cũng đã làm chứng cho tôi.
Các ông đã không bao giờ nghe tiếng Người,
Cũng chẳng bao giờ thấy tôn nhan Người.
Các ông không giữ lời Người ở lại trong lòng,
Bởi vì chính các ông không tin
Vào Đấng Người đã sai đến
Các ông nghiên cứu kinh thánh,
Vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được
Sự sống đời đời
Mà chính kinh thánh lại làm chứng về tôi!. (Ga. 5, 37-39)
Một lần nữa, Chúa còn làm cho chúng ta ý thức về sự thật tỏ tường mà chúng ta đã từ chối. Nếu chúng ta liệng bỏ đời sống do Thiên Chúa ban, thì chính chúng ta lên án chính mình. Đức Kitô sẵn lòng hiện diện và luôn hoạt động, dù Người không cần gì phải bảo vệ.
Tất cả sứ điệp của Đức Kitô tóm lại trong hai thái độ nền tảng và bất khả phân ly này là: đức tin và tình yêu. Hoặc là chúng ta đón nhận cả hai hoặc là không. Đó là điều căn bản. Đừng lấy làm lạ khi người ta thấy khó theo Đức Kitô. Thật đáng buồn khi bị Ngài từ chối do những thái độ sống nửa vời, sống khô khan, hòa hoãn bủn xỉn, hẹp hòi.
Đức tin đặt nền tảng trên sự thật vào Đấng chúng ta tin, vào Đức Kitô của Chúa Cha: “Lời Ngài làm chứng về Tôi là lời chứng thật”.
Đức tin đặt nền tảng trên công việc mà Đức Kitô đã hoàn tất nhân danh Chúa Cha: “Chính những việc Tôi làm đó làm chứng cho Tôi rằng Chúa Cha đã sai Tôi”.
Đức tin đặt nền tảng trên Kinh thánh, chúng ta biết rằng Thánh kinh đã được linh ứng bởi Thiên Chúa: “Chính Kinh thánh lại làm chứng về Tôi”.
Chúng ta có đức tin không? Làm sao chúng ta có thể nói: “Tôi tin”, nếu chúng ta không sống theo Đức Kitô, mà giáo huấn của Người từ Chúa Cha đến với chúng ta? Chúng ta không tin Thiên Chúa nếu không tin Đức Giêsu Kitô. Tóm lại, Đức Giêsu đã nói với chúng ta rằng: “Các ông không tin Chúa Cha vì các ông không tin Đấng Chúa Cha sai đến”.
Chúng ta nghe lời cảnh cáo của Đức Kitô, lời bày tỏ một lòng thương xót lớn lao đối với những người là anh em bạn hữu của Người. Và những lời này chắc chắn cũng nói với các bạn và tôi nữa. Chúng ta hãy nghe lời Đức Kitô sắp kêu lên một lời than thở dường như thất vọng: “Quả thật, Tôi biết rõ các anh, tình yêu Thiên Chúa không ở trong các anh”.
Và Người nói tiếp: “Không, các anh không tin Tôi, nhưng lại tin kẻ lường gạt đến đầu tiên”. Có phải Người đã chết vì điều đó chăng? Đức Kitô đã nói với chúng ta rằng: “Phải, Tôi chết vì những trò dại dột của các bạn, vì những mê tín dị đoan của các bạn, để các bạn có ánh sáng. Thật khó khăn tin vào Tôi, Tôi rõ ràng hiển nhiên như thế đó. Tôi chết đi để cho các bạn có thể được gặp Cha chúng ta, ước mong các bạn là tín hữu trung thành”.
J.M
Suy Niệm 5: Chứng bởi Gioan Tiền Hô
Mạng sống của Đức Giêsu ngày càng bị đe dọa cách quyết liệt! Lòng căm tức và chủ tâm loại trừ Đức Giêsu ra khỏi xã hội ngày càng leo thang! Đức Giêsu biết rõ điều đó, nhưng không vì thế mà Ngài im hơi lặng tiếng để yên thân! Không! ngược lại, Đức Giêsu luôn tìm dịp thuận tiện để đưa họ vào một thực tại vô cùng quan trọng.
Thực tại đó là: biết Ngài là Thiên Chúa; Thiên Chúa Cha với Ngài là một và Ngài có quyền như Thiên Chúa.
Khi mặc khải như thế, nỗi tức giận của những người Dothái nổi lên. Nhưng Đức Giêsu đã gợi lại cho họ về hình ảnh, vai trò và sứ vụ của Môisê, để họ thêm cơ sở nhằm xác tín về Ngài, nhưng lòng trai dạ đá đã làm cho họ lu mờ và cố chấp, nên Đức Giêsu đã khẳng định số phận của họ và kết án họ ngay tại chỗ đứng của họ. Ngài nói: “Kẻ tố cáo các ông chính là ông Môsê, người mà các ông tin cậy. Vì nếu các ông tin ông Môsê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi. Nhưng nếu điều ông ấy viết mà các ông không tin, thì làm sao tin được lời tôi nói?".
Những người Dothái trong bài Tin Mừng hôm nay họ đã buộc Thiên Chúa vào chính những ý niệm của họ về Người, chứ không phải lòng mến của họ nơi Thiên Chúa. Họ thường xuyên dùng chính Kinh Thánh để bảo vệ lập trường của họ chứ không nhìn Kinh Thánh như là lời hướng dẫn họ phải làm!
Như vậy, dân Dothái được ân huệ lớn lao nhất là từ nơi ấy, Đức Giêsu, Con Thiên Chúa xuất hiện, hơn nữa, họ được hưởng sự hiểu biết từ bao đời về Đức Giêsu, lẽ ra họ phải tin và trung thành với Giáo huấn của Ngài, đằng này họ lại bị lĩnh án gay gắt vì sự cứng lòng.
Ôi sự cứng lòng đã làm cho tâm hồn người ta ra mê muội, ù lỳ và cố chấp! Con người là thế! Không ai muốn người khác hơn mình!
Trong thực tế hôm nay vẫn thường xuyên xảy ra như vậy! Chính định kiến cá nhân, phe phái mà không ngừng xảy ra chiến tranh, bạo lực, đàn áp, bóc lột... Những người đó đã giết chết anh chị em mình, bóp chết sự thật để cho sự ích kỷ, bạo tàn hoành hành khắp nơi.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa ban cho mình, đó là được trở nên con cái Thiên Chúa, được Đức Giêsu đổ máu để cứu chuộc, thì chúng ta phải sống sao cho xứng đáng đặc ân cao quý này.
Đừng bao giờ đọc Kinh Thánh với thái độ khép kín hay biến Kinh Thánh để làm luận cứ để hậu thuẫn cho những lập trường bảo thủ của mình thay vì lòng yêu mến và mong được biến đổi nhờ Lời Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa là chân lý, là lời hằng sống. Xin cho chúng con biết tin tưởng, yêu mến và thực hành Lời Chúa dạy để được sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Để chứng minh mình là con cái Thiên Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Để chứng minh mình là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã luôn thi hành Thánh Ý Cha. Đối với người Kitô hữu cũng vậy, thực thi Thánh Ý Chúa là cách thế biểu lộ chúng ta là con cái Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa được mọi người khen Chúa nói hay. Lúc Chúa làm phép lạ, mọi người trầm trồ thán phục Chúa. Nhưng dù nói gì, Chúa không bao giờ nói theo ý riêng mình, mà chỉ nói lời Tin Mừng phục vụ Ý Cha. Làm gì, Chúa cũng làm để tôn vinh Danh Cha. Ý Chúa Cha là kim chỉ nam cho cuộc đời của Chúa trên trần gian này. Xin Chúa cho con luôn biết nói sao cho phù hợp với Ý Chúa, làm gì cũng làm sao cho vừa lòng Chúa.
Chính nhờ sự tận hiến ý riêng để thi hành Ý Cha mà cuộc đời Chúa trở nên một hiến tế đẹp lòng Cha, có sức cứu độ toàn thế giới, trong đó có mỗi người chúng con. Chính nhờ cuộc đời tận hiến đó, tận hiến đến chết trên Thánh giá, mà Chúa được Cha siêu thăng phục sinh và cho vinh hiển bên Cha. Nhờ thấy vậy, các Tông đồ nhận ra Chúa thật là Chúa và họ đã dám sống chết theo Chúa.
Lạy Chúa, con biết mỗi Kitô hữu chúng con dù có nói hay, dù có làm giỏi, mà không nói và làm vì Danh Chúa và theo Ý Chúa, thì cũng tựa thùng rỗng kêu to, phèng la inh ỏi. Khi đó, đời con chẳng có giá trị gì trước mặt Chúa cũng như chẳng đủ sức thuyết phục đươc ai tin theo Chúa.
Xin Chúa cho con luôn biết nhìn lên Thanh giá Chúa, nơi Chúa biểu lộ tột đỉnh lòng vâng phục Ý Cha, để nhờ đó con thêm can đảm vâng theo Ý Chúa trong cuộc sống thường ngày. Xin cho con luôn nhớ tới sự phục sinh của Chúa để thêm dứt khoát và tin tưởng chọn lựa Ý Chúa hơn chọn ý riêng mình. Amen.
Ghi nhớ: “Có người tố cáo các ngươi, đó là Môsê, người mà các ngươi vẫn tin tưởng”.
Suy Niệm 7: Tin vào Con của Người
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Vị thẩm phán đến thi hành nhiệm vụ tại một thị trấn nọ, ông thường bị một luật sư kiêu căng ở đó chế nhạo, khích bác. Tại một bữa ăn tối, có người hỏi vị thẩm phán sao không có biện pháp mạnh đối với viên luật sư kia. Vị thẩm phán bèn dừng bữa, một tay chống cằm, một tay để trên bàn, kể chuyện: “Chỗ tôi ở có một bà góa nuôi một con chó. Con chó thật xinh, nhưng có tật là hễ thấy ánh trăng là nó tru lên. Có khi suốt cả đêm”. Kể tới đó, ông ngừng lại và ăn tiếp. Tò mò, một người hỏi: “Này ông thẩm phán, rồi con chó và mặt trăng ra sao?”. “Con chó cứ tru và mặt trăng cứ tiếp tục tỏa sáng”.
Suy Niệm
Chúa Giêsu chữa lành cho một người bại liệt vào ngày Sabát, đối với người Do Thái, Ngài đã phá bỏ truyền thống, vi phạm Lề Luật nên họ nghi ngờ sứ mạng Thiên Sai và con người của Ngài. Cho nên, người Do Thái không tin vào Ðức Giêsu, cũng chối từ Thiên Chúa và chỉ cầu vinh nơi người đời. Ðức Giêsu quở trách thái độ cố chấp của họ. Vì Ngài được chính Chúa Cha làm chứng, Ngài nói tới ba cách Thiên Chúa làm chứng về Người:
Lời chứng thứ nhất: Từ Ngài qua những phép lạ và những việc phi thường mà Người đã thực hiện.
Lời chứng của Chúa Cha mà ông Gioan Tẩy giả đã lãnh nhận khi Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,34). Gioan làm chứng ánh sáng như Tin mừng thứ tư xác nhận: “Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1,8) và ánh sáng chính là Ngài như tuyên bố: “Ta là sự sáng trần gian” (Ga 8,12).
Lời chứng qua chính Kinh Thánh Cựu ước, như Chúa Giêsu đã nói, ông Môisê đã viết về Người khi ông nói về vị ngôn sứ đang tới (Đnl 18,15). Tuy nhiên, không phải chỉ có mình Môisê viết về Chúa Giêsu, mà còn nhiều lời tiên tri trong Cựu ước loan báo về Đấng Mêssia là chính Ngài được Thiên Chúa sai đến.
Không chỉ quở trách người Do Thái cố chấp không tin, hôm nay Chúa cũng đang chất vấn và quở trách chúng ta về cách sống “thực dụng” của mình mang những dấu ấn không tin một cách thực tiễn khi chúng ta khước từ Thiên Chúa để chạy theo vật chất, những danh vọng những đam mê trần thế làm chúng ta càng xa dần Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc đích thực.
Xin tha thứ cho chúng con và giúp chúng con thoát khỏi những ràng buộc của đam mê, tội lỗi của bóng tối thế gian. Ðể chúng con luôn đặt trọn niềm tin yêu vào Chúa.
Ý lực sống: “Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Suy Niệm 8: Những chứng từ về Chúa Con
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Khi chữa bệnh cho người bất toại ở bờ hồ Betsaiđa vào ngày sabat, người ta hạch hỏi Đức Giêsu đã lấy quyền nào mà làm như vậy. Đức Giêsu trả lời cho họ biết: Ngài noi gương Thiên Chúa là Cha của Ngài mà làm như vậy. Họ không tin. Đức Giêsu lại nói: chính Thánh Kinh và Maisen (phải hiểu là Cựu Ước) làm chứng rằng Ngài chính là Messia, Con Thiên Chúa. Nếu họ tin Maisen thì họ phải tin lời chứng của Maisen.
2. “Trong toàn bộ Thánh Kinh Cựu Ước đều loan báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế, nhưng vì thiếu đức tin và lòng đạo đức chân thành, các người Do thái đã không thực sự nhìn thấy Thiên Chúa, và do đó không đón nhận Ngài như Đấng được Thiên Chúa sai đến” (Mỗi ngày một tin vui).
Tại sao có thảm kịch này? Vì người Do thái nuôi sẵn một hình ảnh về Đấng Messia, hợp với sở thích của họ. Cái hình ảnh ấy che mất hình ảnh đích thực của Đấng Messia. Ta thấy đó, người ta có thể đọc Sách Thánh mà không tìm thấy Thiên Chúa nhưng chỉ thấy chính mình.
3. Người ta thường nói: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nắm được thiên cơ – thiên thời – là yếu tố quan trọng hạng đầu của sự thành công. Thực tế cho thấy, nhiều người, vì không biết tận dụng thời cơ, nên đã rơi vào thất bại đáng tiếc, dù họ có rất nhiều điều kiện thuận lợi.
Mọi người đều khao khát gặp Đấng Cứu Độ để được sự sống đời đời. Qua Kinh Thánh, người Do thái được Thiên Chúa ưu ái cho biết Đấng Cứu Thế sẽ xuất hiện trong dân tộc của họ. Vì thế, họ đã kiên nhẫn chờ đợi Người suốt cả hàng ngàn năm. Tuy nhiên, chỉ vì thành kiến sai lầm và cố chấp không chịu tin, nên khi Đức Giêsu, Đấng Cúu Độ đích thực đến, họ không nhận ra, nên đã bỏ lỡ cơ hội để gặp gỡ và yêu mến Người.
4. Mặc dù Đức Giêsu đã làm đủ cách để minh chứng Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Chúa Cha sai đến, nhưng người Do thái vẫn không chịu tin để được sống, để khỏi bị xét xử và bị luận phẹt. Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Đức Giêsu phải nại đến ba nhân chứng có uy tín để làm chứng cho Ngài, đó là Chúa Cha, Gioan Tẩy Giả và Thánh Kinh, bởi vì theo luật thời đó, phải có hai ba nhân chứng thì mới được chấp nhận.
5. Trước hết, chính Thiên Chúa Cha làm chứng cho Đức Giêsu. Chúng ta thấy có hai lần Chúa Cha tuyên bố: “Đây là Con Ta rất yếu dấu”, một lần khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giorđan, và một lần khi Đức Giêsu biến hình trên núi Taborê. Đó là bằng chứng hùng hồn cho thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và Chúa Cha muốn mọi người tin Đức Giêsu thật là Con Ngài.
6. Thứ đến, Gioan Tiền Hô làm chứng cho Chúa. Tin Mừng nói: “Có một người, tên là Gioan, ông đến để làm chứng, để chứng thật về ánh sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà tin”. Chính Gioan đã làm chứng cho Đức Giêsu bằng sự tự khiêm tự hạ: “Tôi không đáng cởi dây giầy cho Đấng đến sau, nhưng đã có trước tôi”. Rồi khi Đức Giêsu đến, Gioan đã chỉ vào Chúa và nói cho các môn đệ: “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Sau hết, Gioan đã làm chứng cho Chúa bằng sự nhỏ đi, bằng cái chết của mình.
7. Sau cùng, Kinh Thánh chép về Đức Giêsu và chính Đức Giêsu đã thực hiện như lời Kinh Thánh chép về mình. Đáng lẽ Kinh Thánh là chứng từ có giá trị nhất để người Do thái tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, vì họ vẫn công nhận Kinh Thánh là lời hứa của Thiên Chúa; nhưng rất tiếc họ đã đọc Kinh Thánh hằng ngày, đã nghiền ngẫm Kinh Thánh mà không nhận ra rằng Đức Kitô đã được Chúa Cha sai đến để cứu họ.
8. Tóm lại, mặc dầu Đức Giêsu đã đưa ra những bằng chứng xác thực để minh chứng Ngài là Đấng Cứu Thế, nhưng người Do thái vẫn không nhìn nhận Ngài. Tại sao vậy? Thưa vì họ thiếu ý hướng ngay lành khi đi tìm Lời Chúa, rồi họ lại tự cao tự mãn, làm cho họ thành những người cố chấp không tin.
Không chỉ quở trách người Do thái cố chấp không tin, hôm nay Chúa cũng đang chất vấn và quở trách chúng ta về cách sống “thực dụng” của mình mang những dấu ấn không tin một cách thực tiễn, khi chúng ta khước từ Thiên Chúa để chạy theo vật chất, những danh vọng, những đam mê trên thế gian làm chúng ta xa dần Thiên Chúa – hạnh phúc đích thực.
9. Truyện: Chó cứ sủa, trăng vẫn sáng.
Vị thẩm phán đến thi hành nhiệm vụ tại một thị trấn nọ, ông thường bị một luật sư kiêu căng ở đó chế nhạo, khích bác.
Tại một bữa ăn tối, có người hỏi vị thẩm phán sao không có biện pháp mạnh đối với viên luật sư kia. Vị thẩm phán bèn dừng bữa, một tay chống cằm, một tay để trên bàn, kể chuyện:
- Chỗ tôi ở có một bà góa nuôi một con chó. Con chó thật xinh, nhưng có tật là hễ thấy ánh trăng là nó tru lên. Có khi suốt cả đêm.
Kể tới đó, ông ngừng lại và ăn tiếp. Tò mò, một người hỏi:
- Này ông thẩm phán, rồi con chó và mặt trăng ra sao?
- Con chó cứ tru và mặt trăng cứ tiếp tục tỏa sáng.
Suy Niệm 9: Noi gương Thiên Chúa là Cha
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Bài đọc 1: mô tả ông Môisê là một người rất có uy tín đối với Chúa. Khi dân Israel đúc tượng con bê vàng, Thiên Chúa đã nổi cơn thịnh nộ muốn tiêu diệt họ. Nhưng nhờ Môisê cầu xin, Thiên Chúa đã nguôi giận và không phạt họ nữa.
2. Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu tiếp tục tranh luận với những người biệt phái sau khi việc Ngài chữa một người bất toại vào ngày sabát. Ngài đã nói với họ rằng sở dĩ Ngài làm việc trong ngày sabát vì Ngài noi gương Thiên Chúa là Cha của Ngài (Bài Tin Mừng hôm thứ tư). Họ không tin, Chúa Giêsu lại nói: chính Thánh kinh và Môisê (phải hiểu trong Cựu ước) làm chứng rằng chính Ngài là Đấng Messia, Con Thiên Chúa. Nếu họ tin Môisê thì họ phải tin lời chứng của Môisê.
B. Nẩy mầm…
1a. “Trong khi toàn bộ Thánh kinh Cựu ước đều loan báo về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế, nhưng vì thiếu đức tin và lòng đạo đức chân thành, các người Do Thái đã không thực sự nhìn thấy Thiên Chúa và lắng nghe lời Ngài qua khuôn mặt và lời nói của Chúa Giêsu, và do đó không nhận đón Ngài như Đấng được Thiên Chúa sai đến” (“Mỗi ngày một tin vui”). Tại sao có thảm kịch này? Vì người Do Thái luôn sẵn một hình ảnh về Đấng Messia, hợp với sở thích của họ. Cái hình ảnh ấy che mất hình ảnh đích thực của Đấng Messia. Ta thấy đó, người ta có thể đọc Sách Thánh mà không tìm thấy Thiên Chúa nhưng chỉ tìm thấy chính mình.
1b. Một thợ săn lạc trong rừng nhiều lần. Một người bạn mua cho anh ta một la bàn. Dù vậy anh thợ săn trẻ vẫn bị lạc. Khi tìm thấy, người bạn hỏi xem anh ta có mang theo la bàn không. Anh bảo có.
-Tại sao anh không dùng nó?
-Tôi không dám. Tôi muốn đi về hướng Nam và cố giữ cho kim chỉ hướng Nam. Nhưng không được. Nó luôn lắc qua và chỉ hướng Bắc.
Nhiều người mong Thánh kinh chỉ hướng họ muốn đi, hơn là hướng Thánh kinh muốn họ đi. (Góp nhặt).
1c. Có lần nhà văn Mart Twain nói: “Nhiều người lấy làm buồn phiền vì không hiểu một đoạn Thánh kinh nào đó. Phần tôi, tôi thấy rằng những đoạn Thánh kinh làm tôi bối rối nhất là những đoạn mà tôi cho là mình đã hiểu”.
2. Muốn đọc Sách thánh mà thấy được Chúa, ta phải bỏ đi hết mọi thành kiến có sẵn, phải khiêm tốn để cho Lời Chúa tra vấn mình, phải can đảm từ bỏ những gì Chúa đòi hỏi, và phải kiên trì thực hiện những điều Chúa dạy.
Suy Niệm 10: Lắng nghe tiếng Chúa
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Bài Tin Mừng vừa nghe cho chúng ta thấy, giữa Chúa Giêsu và những người Do Thái đang có những hiểu lầm về nhau. Những người Do Thái trước đó đã có thật nhiều cảm tình với Chúa, nhưng bây giờ họ đã bắt đầu lạnh nhạt. Tuy đã đồng tình với Chúa về nhiều vấn đề, nhưng khi Chúa đề cập đến vấn đề nguồn gốc thần linh của Ngài thì lập tức, họ đã phản đối chống lại một cách quyết liệt.
Tại sao lại có thảm kịch này? Thưa, vì người Do Thái chỉ muốn có một Đấng Cứu Thế hợp với sự hiểu biết của họ. Như vậy, vấn đề ở đây là, dù có Kinh Thánh nhưng nếu đọc Kinh Thánh theo ý của ta thì chẳng bao giờ ta có thể thấy và hiểu được Thiên Chúa. Ngược lại, nếu ta đọc Kinh Thánh dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần thì mới có thể được Chúa giúp để nhận ra Người.
Tại một làng thuộc vùng Lorraine, miền Đông Bắc nước Pháp, có một nông dân không có niềm tin, một hôm gặp ông thầy giáo làng đang đi dạo mát, ông ta tiến lại trước mặt ông thầy này và gây sự bằng một giọng đầy khiêu khích:
- Hôm qua, thầy đã dạy cho bọn trẻ trong làng những điều hay quá: “Nếu ai đánh ngươi má bên mặt, thì hãy chìa luôn cả má trái cho nó”(Mt 5,39).
- Lời đó đâu phải là do tôi - Thầy giáo đáp - đó là điều Chúa nói trong Tin Mừng chứ!
Thầy giáo vừa dứt lời thì người nông dân kia bất ngờ tát cho thầy hai cái, vì từ lâu anh đã có nhiều điều tức khí với thầy giáo làng.
Cách đó không xa, ông chủ tịch xã đang đi với nhân viên, nhìn thấy cảnh đó, liền nói với một anh nhân viên:
- Joseph, anh lại đó xem, hai người đang tranh chấp với nhau chuyện gì vậy?
Lúc Joseph vừa đến gần hai người, thì cũng chính là lúc thầy giáo làng giơ tay giáng trả hai cái tát nẩy lửa vào mặt người nông dân, kèm theo lời trích dẫn của Kinh Thánh:
“Cũng có lời chép: Ngươi lấy đấu nào mà đong cho anh em, thì cũng sẽ được đong lại bằng đấu ấy. Một đấu được lắc, được dằn sẽ đổ xuống trên lưng ngươi”. (Lc 6,38).
Joseph vội vàng trở lại báo cho ông chủ tịch:
- Thưa ông, chẳng có chuyện gì đáng kể. Họ đang tranh nhau chú giải Kinh Thánh!
Vâng, nếu chúng ta đọc Kinh Thánh với một tà ý thì Kinh Thánh sẽ chẳng mang lại ích lợi gì cho chúng ta. Ngược lại, nếu chúng ta đọc với một sự thành tâm thì Lời Chúa sẽ trở thành luơng thực, thành ánh sáng cho cuộc đời của ta.
2. Như vậy, muốn đọc Sách Thánh để hiểu được Chúa, ta phải bỏ đi hết mọi thành kiến có sẵn, phải khiêm tốn để cho Lời Chúa tra vấn mình, phải can đảm từ bỏ những gì Chúa đòi hỏi, và phải kiên trì thực hiện những điều Chúa dạy.
Ngày nọ, có một nhóm người nghĩ là “Thiên Chúa đã chết” nên họ muốn cử hành lễ nghi an táng cho Người.
Họ nhờ bác phu già trông coi nghĩa trang đào sẵn cho họ một cái huyệt. Hiện diện trong buổi lễ, ngoài bác phu già, còn tất cả đều là những vị thuộc giai cấp tri thức trong xã hội: triết gia, giáo sư, văn sĩ, kỹ sư v.v…
Khi người chủ trì cất tiếng khai mạc lễ nghi an táng thì bác phu già kêu lên:
- Không thể được, vì quan tài chưa đến.
- Thiên Chúa vô hình thì cần gì đến quan tài để tẩm liệm.
Một vài người chạy lại kéo ông ra xa, nhưng vừa vùng vẫy ông vừa la lớn:
- Không, Thiên Chúa không chết! Thỉnh thoảng khi không ngủ được tôi vẫn hay ra đây ngồi và nghe tiếng tim Ngài đập. Nếu không tin, tối nay quí vị hãy tụ họp lại đây, quí vị sẽ thấy.
Động tính hiếu kỳ, họ bỏ dở buổi lễ và hẹn nhau ban tối sẽ quay trở lại. Tối hôm ấy, tiếng ồn ào bên ngoài vọng lại khiến cho họ không thể phân biệt đâu là tiếng đập của quả tim Thiên Chúa đâu là tiếng của những thứ khác. Sau đó họ dời điểm tụ họp đến một vùng quê. Thế nhưng, vắng tiếng động của thành phố thì lại có tiếng của côn trùng. Sau cùng, họ quyết định gặp lại nhau một đêm khác trong sa mạc. Giữa bầu khí tĩnh mịch của sa mạc về đêm, mọi người đều cảm thấy mình được cất khỏi những gánh nặng lo toan, cũng không bị chi phối bởi một tiếng động nào.
Trở về với cõi lòng, họ chăm chú lắng nghe. Tâm hồn họ như hòa nhập với không trung bát ngát. Ngồi thinh lặng nhưng họ cảm thấy gần nhau. Bỗng một người la to:
-Tôi đã nghe thấy!
Và, nhiều người khác phụ họa:
- Có, tôi cũng đã nghe.
Một người khác nữa phân tích:
- Âm thanh của nó giống như âm thanh của mỗi lần tôi cố gắng trở nên hoàn thiện.
Họ đã tin lời nói của bác phu già, và nhất là đã tìm lại được niềm tin nơi Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên thật đơn sơ bé nhỏ,
để có thể nghe được tiếng Chúa nói,
và thấy được hiện diện của Chúa trong suốt đời con. Amen.
30/03 Công Việc Của Cha.
- Viết bởi Ga 5, 17-30
Công Việc Của Cha.
Thứ Tư tuần 4 Mùa Chay.
"Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Người làm cho ai sống là tuỳ ý Người".
Lời Chúa: Ga 5, 17-30
Khi ấy, Chúa Giêsu trả lời dân Do-thái rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy". Bởi thế, người Do-thái càng tìm cách giết Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày Sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng:
"Quả thật, quả thật, Ta nói cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì nếu không thấy Chúa Cha làm. Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu Chúa Con và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục.
Bởi vì, cũng như Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Ngài làm cho ai sống là tuỳ ý Ngài. Vì hơn nữa, Chúa Cha không xét xử ai cả, mà trao cho Chúa Con trọn quyền xét xử, để cho mọi người tôn trọng Chúa Con cũng như tôn trọng Chúa Cha: ai không tôn trọng Chúa Con thì không tôn trọng Chúa Cha, Ðấng đã sai Ngài.
Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta, thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống.
Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi, vì đến giờ và ngay bây giờ, kẻ chết nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai đã nghe thì sẽ được sống. Cũng như Chúa Cha có sự sống nơi chính mình thế nào, thì Người cũng cho Chúa Con có sự sống nơi mình như vậy, và Người đã ban cho Chúa Con quyền xét xử, vì Ngài là Con Người. Các ngươi đừng ngạc nhiên về điều này, vì đến giờ mọi kẻ trong mồ sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa và ra khỏi mồ; kẻ đã làm việc lành thì sống lại để được sống, còn kẻ đã làm việc dữ thì sống lại để bị xét xử.
Ta không thể tự mình làm điều gì. Nghe sao, Ta xét xử vậy.
Và án Ta xử thì công minh, vì Ta không tìm ý riêng Ta, mà tìm ý Ðấng đã sai Ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Không thể làm gì tự mình
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Văn Cao chẳng những là một nhạc sĩ tài hoa,
mà còn là một họa sĩ, một văn sĩ, một thi sĩ.
Có một bài thơ rất ngắn ông làm năm 1967, mang tựa đề là Không Đề.
Con thuyền đi qua
để lại sóng
đoàn tàu đi qua
để lại tiếng
đoàn người đi qua
để lại bóng
tôi không đi qua tôi
để lại gì?
Theo Văn Cao, chỉ ai đi qua mình, dám vượt qua cái tôi của mình,
người ấy mới có gì để lại cho hậu thế.
Đức Giêsu đã sống mầu nhiệm vượt qua suốt đời.
Ngài không sống cho mình, nhưng cho Thiên Chúa Cha.
Giới lãnh đạo Do Thái giáo coi Đức Giêsu là kẻ phạm thượng
vì Ngài đã dám nói: “Cha tôi vẫn làm việc, và tôi cũng làm việc” (c. 17).
Thật ra Đức Giêsu chẳng bao giờ phạm thượng đến Cha.
Ngài không hề tự coi mình là Thiên Chúa (c. 18).
Đơn giản Ngài là Con, vâng phục Cha.
Đơn giản Ngài là người được Cha sai, chẳng hề làm theo ý riêng.
Sống tùy thuộc trọn vẹn vào Thiên Chúa Cha,
đó là nét nổi bật nơi con người của Đức Giêsu.
Con không thể làm hay nói bất cứ điều gì tự mình.
Con chỉ làm điều mình thấy Cha làm (c. 19).
Con chỉ nói điều mình nghe Cha nói (Ga 8, 26).
Người ta tưởng Con bị vong thân,
nhưng chính khi lệ thuộc vào Cha mà Con được tự do trọn vẹn.
Con thật là mình khi sống đúng bản chất của Con là quy hướng về Cha.
Mà bản chất của Cha là trao cho Con tất cả những gì Cha có.
Cha chẳng giữ cho riêng mình những gì có thể trao được.
Đơn giản vì Cha yêu Con (c. 20).
Cha cho Con được quyền tùy ý ban sự sống như Cha (c. 21).
Cha cho Con được như Cha, nghĩa là có sự sống nơi chính mình (c. 26).
Cha cho Con có toàn quyền xét xử (cc. 22. 27),
và có quyền gọi kẻ chết ra khỏi mồ để chịu phán xét (c. 28).
Cha muốn mọi người phải tôn kính Con như tôn kính Cha (c. 23).
Con được quyền năng như Cha là vì Con đã nhận tất cả từ Cha.
Tuy được chia sẻ mọi giàu sang của Cha,
nhưng Con chẳng quên Cha là nguồn cội, là cùng đích.
Mùa Chay, ta hãy đến với Giêsu, người Con yêu dấu, người được Cha sai.
Hãy sống lệ thuộc vào Thiên Chúa để được tự do hoàn toàn như Giêsu.
Tôi không đi qua tôi, để lại gì?
Ta sẽ để lại được nhiều điều cho đời, nhờ biết vượt qua mình như Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự:
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao. Amen.
Suy Niệm 2: Như người mẹ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Từ thời lưu đầy, I-sai-a đã loan báo ngày Thiên Chúa phục hồi dân Người. Giải thoát khỏi ách nô lệ. Con người được chăm sóc bồi bổ. “Như bầy chiên, chúng sẽ được nuôi ăn trên các nẻo đường, sẽ gặp được đồng cỏ trên mọi đồi hoang”. Đất nước được tái thiết. Đến sa mạc cũng trở nên thành thị. “Mọi núi non của Ta, Ta sẽ biến thành đường sá, những con lộ của Ta, Ta sẽ đắp cao”. Vì Thiên Chúa cũng có một trái tim để cảm thương dân Người. Sẽ đến phục hồi dân. “Vì Đức Chúa ủi an dân Người đã chọn và chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ của Người”. Và còn hơn nữa, đó là trái tim của người mẹ. Hiền dịu bao dung. “Xi-on từng nói: ‘Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa Thượng tôi đã quên tôi rồi!’ Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ”.
Tất cả đã ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su. Chúa Giê-su làm người. Đầy quyền năng. Nhưng lại mang trái tim nhân loại. Trái tim người mẹ.
Trong Chúa Giê-su Thiên Chúa yêu thương. Yêu thương trước hết bằng hành động. Làm việc không ngừng. “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc”. Làm những việc tốt lành. Chữa lành bệnh tật. An ủi con người. Xua trừ ma quỉ. Chính vì chữa bệnh trong ngày sa-bát mà Chúa bị chống đối.
Trong Chúa Giê-su Thiên Chúa phục hồi con người. Đặc biệt là ban sự sống. “Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự sống cho ai tuỳ ý”. Sự sống phần xác chỉ là hình bóng của sự sống linh hồn. sự sống linh hồn bị tổn thương vì tội lỗi. Chúa đến xét xử tội lỗi. Nhưng không lên án. Mà để phục hồi.
Điều kiện để có sự sống là phải tin vào Chúa Giê-su: “Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống”. Tin là sống như Chúa. Không làm theo ý riêng. Nhưng luôn theo ý Chúa: “Tôi không làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi”.
Mùa Chay là mùa thanh luyện đức tin. Ăn chay là làm theo ý Chúa. Chúa sẽ phục hồi chúng ta.
Suy Niệm 3: Công Việc Của Cha.
Một họa sĩ chuyên vẽ chân dung nọ di chuyển đến một thành phố nhỏ với hy vọng tìm được nhiều khách hàng. Vừa đến trước cửa thành, ông gặp ngay một người say rượu. Hai bên trao đổi với nhau và người say rượu đồng ý cho người họa sĩ vẽ chân dung của mình. Dù say túy lúy, gương mặt hốc hác, quần áo xốc xếch, người say rượu vẫn còn có thể ngồi yên để nhà họa sĩ làm việc. So với những khách hàng khác, thì đây là bức chân dung mà nhà họa sĩ phải tốn nhiều thời giờ nhất để vẽ. Đứng ngắm tác phẩm vừa được hoàn thành, người say rượu không thể cầm được sự ngạc nhiên: thay cho gương mặt chán đời của mình, anh thấy trong vức chân dung một nụ cười tươi tỉnh lạc quan; thay cho cách ăn mặc cẩu thả của mình, anh thấy mình được khoác lên một bộ quần áo lộng lẫy. Nhìn vào bức chân dung một lúc, anh lắc đầu và nói: “Người trong hình không phải là tôi”. Nhà nghệ sĩ trả lời một cách khéo léo vì đã biết nhìn xuyên qua bề ngoài để thấy vẻ đẹp nội tâm: “Thưa ông, đây là con người mà ông phải đạt đến”.
Mùa chay là mùa của thanh luyện, của hoán cải. Giáo Hội mời gọi chúng ta trở về: trở về với Chúa, với anh em, với bản thân. Tựu trung tội lỗi là một chối bỏ Thiên Chúa, khước từ anh em, đánh mất bản thân. Qua những việc làm của Mùa chay, như cầu nguyện, sám hối, hãm mình, thực thi bác ái. Giáo Hội muốn chúng ta tìm lại được chính bản thân như Thiên Chúa mong muốn. Bản thân ấy chúng ta chỉ có thể nhận ra khi nhìn ngắm Chúa Giêsu.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của Chúa Giêsu, Đấng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa: “Ta đến không phải để làm theo ý Ta, nhưng là làm theo ý Đấng đã sai Ta”. Nên một với Thiên Chúa, thể hiện sự nên một ấy đến cùng, đó là con đường mà Chúa Giêsu đã chọn lựa và đi cho đến cùng. Thực thế, cái chết của Chúa Giêsu gắn liền với mầu nhiệm Ba Ngôi. Người Do Thái kết án Ngài không những vì Ngài không tuân giữ ngày hưu lễ, mà còn vì Ngài tự cho mình ngang hàng với Chúa Cha. Cái chết của Chúa Giêsu là một mạc khải về Chúa Cha. Cái chết của Chúa Giêsu nói lên tiếng xin vâng trọn vẹn với Chúa Cha. Qua cái chết ấy, quyền năng và tình yêu của Chúa Cha được tỏ bày.
Mùa chay thường gợi lại một thực hành có tính truyền thống trong Giáo Hội, đó là hãm dẹp thân xác, tức là tham dự vào cái chết của Chúa Giêsu từng ngày qua những hy sinh, quên mình, để cũng được chia phần vinh quang Phục Sinh của Ngài, nghĩa là mỗi ngày một biến đổi để trở thành con người mới cho đến khi đạt được tầm mức viên mãn của Ngài. Đó là bức chân dung mà mỗi Kitô hữu đều mang trong mình và mỗi ngày họ cố gắng họa lại bằng cả cuộc sống của họ. Cùng với Chúa Kitô, Đấng đã nên một với Chúa Cha trong tất cả mọi sự cho đến chết, xin cho từng giây phút cuộc sống chúng ta luôn là một thể hiện thánh ý của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Không ngừng yêu thương
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã trả lời cho những người biệt phái cách Ngài chữa lành cho người đang làm việc gần bên giếng nước rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy". Thiên Chúa Cha nhân từ luôn luôn trao ban điều tốt cho con người mà Ngài đã tạo dựng giống hình ảnh Ngài. Giờ đây đến phiên mình xuống trần để chu toàn thánh ý Chúa Cha, Chúa Giêsu cũng muốn liên lỉ làm việc, làm điều tốt cho con người, bất luận đó là ngày Sabát hay không. Ngày Sabát là cho con người chứ không phải con người cho ngày Sabát.
Cũng trong dịp này Chúa Giêsu mạc khải cho những kẻ chống đối Ngài mối tương quan giữa Thiên Chúa Cha và Chúa Con, tình yêu thương đó được thể hiện bằng những hành động nhân từ mà Chúa Con thực hiện cho con người, cho mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đã mạc khải chân tính tình yêu đời đời đó và mời gọi con người hãy đáp trả, hãy cộng tác với chương trình yêu thương này để được sống đời đời: "Ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta thì được sống đời đời, khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống".
Hãy nhìn mọi sự với đôi mắt của Thiên Chúa, ta sẽ thấy giá trị khác, kích thước khác: "Cha Ta làm việc liên lỉ và Ta cũng làm việc như vậy". Chúa Giêsu đã không bao giờ ngừng yêu thương con người, cả khi con người chống đối Ngài.
Lạy Chúa, xin cho con luôn hướng mắt nhìn lên Chúa, đặt đời con vào trong viễn tượng cuộc sống đời đời để con được luôn can đảm, kiên trì chu toàn thánh ý Chúa trong mọi hoàn cảnh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Lời Hằng Sống
Thật, tôi bảo thật các ông:
Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi,
Thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử,
Nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống
Thật, tôi bảo thật các ông:
Giờ đã đến- và chính là lúc này đây-
Giờ các kẻ chết nghe tiến Con Thiên Chúa
Ai nghe thì sẽ được sống. (Ga. 5, 24-25)
Người Do thái không tha thứ cho Đức Giêsu về sự vi phạm ngày Sa-bát khi Người chữa kẻ tê liệt. Người còn nói cho họ nghe Người làm như Cha Người hằng làm việc. Nên Người cũng không nghỉ làm việc dù là ngày Sa-bát.
Lời quả quyết đó càng làm họ tức giận hơn. Làm sao Đức Giêsu dám tự cho mình là Thiên Chúa nếu như Thiên Chúa không phải là Cha mình. Họ càng không ngớt nổi giận vì Đức Kitô nói thêm rằng: “Cha Tôi và Tôi cũng nhất tâm làm tất cả, và ai không tôn vinh Con thì không tôn vinh Cha”. Người còn chủ trương rằng lời Người có sức mạnh ban sự sống đời đời cho những ai nghe theo, như thế là tột bậc rồi.
Thật là một chủ trương đầy phấn khởi và hào hùng! Tuy nhiên, lời Đức Giêsu không chỉ là lời Thiên Chúa, mà còn là lời nhập thể hoàn toàn. Lời Người nói với chúng ta như anh em, như bạn tri kỷ, như sư phụ hoàn toàn biết rõ thân phận con người xác thịt của chúng ta. Người còn phối hiệp toàn diện với xác thân này ngay từ khi xuống thế. Do đó lời Người nắm bắt được mọi tâm tư nguyện vọng của chúng ta và thấy được tiếng lòng rung động kỳ diệu của con tim, khối óc của những ai nghe lời Người. Người cũng biết rõ những hoàn cảnh của mọi người nam nữ chúng ta trở lại với cái gì.
Lời hằng sống đã được công bố trong bài giảng trên núi chứa đựng toàn bộ kế hoạch của Phúc âm về sự gắn bó của chúng ta vào Đức Kitô và được làm thành bản hiến chương nước Thiên Chúa. Lời hằng sống đầy thương xót tha thứ làm sáng lên niềm hy vọng và tình yêu cho mọi người và được thốt ra từ miệng lưỡi của Đức Giêsu trước người đàn bà ngoại tình làm cho Ma-đa-lê-na thống hối, phụ nữ Sa-ma-ri bị chinh phục, ông Gia-kêu thấp bé hoán cải và người trộm lành ăn năn trở về. Cũng như Phê-rô khóc lóc vì chối Thầy. Lời hằng sống chứa đựng trong những dụ ngôn đầy hình ảnh tiêu biểu giáo huấn soi sáng, dẫn dắt chúng ta đến với Thiên Chúa.
Lời hằng sống loan báo những đau khổ để chuẩn bị các môn đệ và mọi người biết can đảm mạnh mẽ theo Đức Kitô qua mọi thời đại, sẵn sàng chịu vác thập giá khổ nạn như là nguồn hy vọng được sống lại vinh quang. Lời hằng sống nhất là đã trở thành lời hứa hấp dẫn của tế lễ Thánh Thể đưa lại sự hiện diện và tình yêu của Đức Kitô tồn tại mãi mãi.
G.F
Suy Niệm 6: “Tin và giữ lời Ta thì được sống đời đời”
Tin Mừng hôm qua cho chúng ta thấy Đức Giêsu chữa người bệnh bại liệt ba mươi tám năm. Sau khi chữa anh được khỏi, Đức Giêsu truyền cho anh vác chõng mà về. Điều đáng chú ý là khi trên đường về, những người không ưa Đức Giêsu đã chặn anh lại và hỏi nguyên cớ làm sao mà anh được khỏi bệnh, ai là người đã chữa anh?
Hỏi như thế, không phải để chia vui với anh, cũng không phải cùng anh tạ ơn Chúa! Nhưng hỏi như vậy là để tìm cho rõ xem ai dám cả gan chữa bệnh ngày Sabát?
Tin Mừng hôm nay cho thấy giữa Đức Giêsu và người Dothái trở nên gây cấn hơn khi Ngài tuyên bố: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". Nói như thế, Ngài minh định rằng: Thiên Chúa không nghỉ ngày Sabát thì Ngài không có lý do gì nghỉ và không làm việc thiện trong ngày này cả! Nhưng điều quan trọng hơn là Ngài mặc khải cho biết: Ngài đến để thực thi thánh ý của Cha Ngài. Cuối cùng, điều làm cho người Dothái chói tai, khiếm họ không chịu nổi, khi nghe Đức Giêsu nói: “Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết hướng tới sự sống đời đời. Khi hướng về sự sống đời đời, mọi việc chúng ta làm hay nói đều được tình yêu chi phối chứ không chỉ vì luật mà làm cho chúng ta xa rời tình yêu!
Xin Chúa ban cho chúng ta biết khiêm tốn để tin tưởng vào Đức Giêsu, yêu mến và trung thành với Ngài. Hãy biết ăn năn sám hối để được tha thứ và đáng hưởng sự sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu đến để xét xử và ban sự sống đời đời
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Cha sai Chúa Giêsu đến để xét xử và ban cho ta sự sống sung mãn đời đời. Chính Chúa Giêsu cứu ta khỏi chết về mặt thiêng liêng ngay từ đời này và khỏi chết về mặt thể xác trong ngày tận thế.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hôm qua con chiêm ngắm Chúa chữa bệnh cho người bại liệt. Anh ấy đi rồi, con tưởng thế là xong. Nhưng không, người Do thái lại chất vấn Chúa về việc Chúa chữa bệnh trong ngày Sa-bát. Họ không hiểu được sứ mệnh của Chúa là được Chúa Cha sai đến để đem lại sự sống và ban ơn cứu độ cho họ và cho muôn người. Họ cứ cậy dựa vào lề luật hình thức và những tập tục cổ truyền để ngăn cản bước chân của Chúa, để chống đối Chúa.
Chính con cũng không hiểu gì về sứ mạng của Chúa. Con vẫn thường tạo ra những chướng ngại vật để ngăn cản hoạt động của Chúa trong đời con. Tuy rằng nơi thâm tâm, con vẫn ước ao đi tìm hạnh phúc, đi tìm sự sống, nhưng đôi chân con lại cứ bước vào nơi đau khổ, bước vào cõi diệt vong. Con vẫn đi trong tội lỗi và không còn lối thoát. Con vẫn cản lối không cho Chúa đi vào đời con.
Lạy Chúa, hôm nay Chúa nói với con: ai nghe Lời Chúa và tin vào Chúa Cha thì được sống. Xin cho con biết lắng nghe Lời Chúa mỗi ngày. Xin cho biết đặt trọn tin tưởng vào Chúa. Chỉ có Chúa mới cứu sống và giải thoát đời con. Xin Chúa đưa tay giải thoát con khỏi chết và đưa vào sự sống đời đời. Xin cho con được thông chia sự sống của Chúa, của Chúa Cha, và của Chúa Thánh Thần, để sự sống của Chúa trở thành sự sống nơi con. Con sẽ loại bỏ mọi trở ngại, nhất là tội lỗi và sự cứng lòng, để sự sống của Chúa được dồi dào và viên mãn nơi con, trong linh hồn và trong thân xác, trong cuộc đời này và trong cuộc sống đời sau. Amen.
Ghi nhớ: “Chúa Cha cho người chết sống lại và làm cho họ sống thế nào, thì Chúa Con cũng vậy, Người làm cho ai sống là tùy ý Người”.
Suy Niệm 8: Diễn từ về công việc của Chúa Con
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay tiếp theo đoạn hôm qua: vì Đức Giêsu chữa bệnh cho người bất toại vào ngày sabat nên một số người Do thái trách Ngài đã làm việc trong một ngày lẽ ra phải nghỉ việc. Trả lời cho họ, Đức Giêsu nói: “Cha Ta làm việc liên lỉ. Ta cũng làm như vậy... Điều gì Chúa Cha làm thì Chúa Con cũng làm y như vậy”. Như vậy Đức Giêsu cho là mình ngang hàng với Thiên Chúa vì Ngài là Con. Vì thế ngưới ta tìm cách giết Ngài.
2. Bài đọc 1 trích sách tiên tri Isaia có thể giúp ta hiểu công việc mà Chúa Cha và Chúa Con vẫn liên lỉ làm là gì: đó là việc xót thương, cứu giúp loài người, nhất là những người cùng khổ. Giống như một người mẹ không bao giờ ngưng thương con cái mình: “Nào người mẹ có thể quên con mình được chăng? Cho dù người mẹ đó có quên, nhưng ta không quên ngươi đâu”.
3. Hôm qua Đức Giêsu chữa cho người bất toại ở bờ hồ Betsaiđa đã 38 năm. Người biệt phái đã trách Ngài tại sao dám chữa bệnh vào ngày sabat? Đức Giêsu đã trả lời: “Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy”. Ngài làm việc theo thánh ý của Thiên Chúa Cha: Tình yêu, nên Đức Giêsu luôn làm điều tốt cho con người, dù đó là ngày sabat vì Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn làm điều tốt lành cho con cái mà Ngài đã tạo dựng giống hình ảnh Ngài.
4. Bây giờ Đức Giêsu chứng minh cho người Do thái biết Ngài là Con Thiên Chúa nên Ngài làm những việc mà Cha Ngài đã làm: Ngài xuống trần gian để chu toàn ý Thiên Chúa là Cha – Đấng “yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian” (Ga 3,16), Ngài là Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta (x. Ga 1). Đức Giêsu mạc khải sự liên hệ mật thiết giữa Ngài với Chúa Cha luôn khăng khít “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (Ga 14,10), gắn bó đến nỗi như Đức Giêsu tỏ lộ: “Ta và Cha Ta là một” (Ga 10,30), và “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9). Cha có gì thì ban tât cả cho Con, nên Đức Giêsu đã khẳng định: “Tất cả những gì của Cha đều là của Con” (Ga 16,15).
Ngài nhấn mạnh: “Ta không thể làm điều gì tự mình Ta... Ta không tìm ý của Ta mà là ý của Đấng đã sai Ta”. Ngài đã hạ mình, vâng lời Chúa Cha thực hiện chương trình cứu độ: “Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá” (Pl 2,8) để nhân loại được thứ tha tội lỗi và được ơn cứu độ.
5. Đức Giêsu mạc khải chương trình yêu thương đời đời của Thiên Chúa được thể hiện bằng những hành động nhân từ mà Ngài thực hiện cho con người, và mời gọi con người cộng tác vào chương trình yêu thương đó để được sống đời đời.
Một lần kia, thánh Gioan Boscô hỏi các học sinh của ngài đang chơi đùa: “Nếu ngay bây giờ các con biết mình sắp chết, các con sẽ làm gì”? Một số trả lời sẽ đi vào nhà thờ cầu nguyện, một số khác cho biết sẽ đi xưng tội để dọn mình chết lành.
Riêng thánh Đaminh Saviô điềm nhiên trả lời: “Nếu trong giây lát con sẽ chết, con vẫn tiếp tục cuộc chơi”.
Sở dĩ như vậy là vì Đaminh Saviô luôn nhận ra thánh ý Chúa trong từng giây phút và đánh giá mọi sự dưới khía cạnh đời đời.
Đó cũng là thái độ để nêu gương cho các môn đệ: “Này con xin đến để thực thi ý Chúa”.
6. Tác giả sách Đường Hy Vọng đã khuyến khích những người con tinh thần của mình như sau: “Hãy nhìn mọi sự với con mắt của Thiên Chúa, con sẽ thấy giá trị khác, kích thước khác. Sự điên dại trước mặt loài người là sự khôn ngoan trước mặt Thiên Chúa. Khó nghèo, vâng phục, hãm mình, nhịn nhục, bác ái, tha thứ, khiêm tốn, là khờ dại trước mặt người đời nhưng lại cao trọng trước mặt Thiên Chúa. Thế gian cho là xui, Chúa cho là phúc thật. Thành công con cám ơn Chúa, thất bại con cũng cám ơn Chúa. Hãy vui tươi vì chính khi thất bại là lúc Chúa muốn thử xem con làm vì Chúa hay vì ý riêng. Vui vẻ can đảm lúc thất bại khó khăn hơn là lúc may mắn, hạng anh hùng này con đếm được trên đầu ngón tay”.
7. Truyện: Tin tưởng phó thác.
Có một gia đình nọ sống giũa đồng không mông quạnh. Vào một đêm kia, căn nhà bốc cháy dữ dội. Cha mẹ, con cái vội vã chạy ra ngoài sân và đứng bất lực nhìn ngọn lửa thiêu rụi tổ ấm gia đình họ.
Bỗng mọi người chợt nhận ra còn thiếu đứa bé nhất. Thì ra cậu bé cũng chạy ra với mọi người, nhưng chưa tới cửa, thấy lửa cháy dữ quá nên lại chảy trở lên lầu. Trong lúc cả gia đình hốt hoảng không biết phải làm sao để cứu cậu bé năm tuổi, vì lửa bao vây tứ phía, bỗng cửa sổ trên lầu mở toang, và cậu bé kêu khóc inh ỏi. Cha cậu bé gọi lớn tên con, rồi nói:
- Con nhảy xuống đây!
Cậu bé nhìn xuống dưới chỉ thấy khói mù và lửa cháy, nhưng nghe tiếng cha kêu, liền trả lời:
- Ba ơi, con không trông thấy ba đâu hết!
Người cha trả lời giọng cương quyết:
- Cứ nhảy đi, có ba trông thấy con là đủ rồi.
Và cậu bé leo lên cửa sổ, liều nhảy xuống, rơi vào vòng tay yêu thương vạm vỡ của cha mình một cách an toàn.
Suy Niệm 9: Làm việc liên lỉ, xót thương, cứu giúp loài người
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
1. Đoạn Tin Mừng hôn nay tiếp theo đoạn Tin Mừng hôm qua: vì Chúa Giêsu chữa bệnh cho người bất toại vào ngày sabát nên một số người Do Thái trách Ngài đã làm việc vào ngày đáng nhẽ ra phải nghỉ việc. Trả lời cho họ, Chúa Giêsu nói “Cha Ta làm việc liên lỉ. Ta cũng làm việc như vậy… Điều gì Chúa Cha làm thì Chúa Con cũng làm y như vậy”.
2. Bài đọc 1: (trích sách Isaia) có thể giúp ta hiểu công việc mà Chúa Cha và Chúa Con vẫn làm liên lỉ là gì: đó là việc xót thương, cứu giúp loài người, nhất là những người cùng khổ. Giống như một người mẹ không bao giờ ngưng thương con cái mình: “Nào người mẹ có thể quên con mình được chăng? Cho dù người mẹ có quên, nhưng ta không quên được đâu”.
B. Nẩy mầm…
1. Trái tim không bao giờ ngừng đập, tình thương không bao giờ nghỉ ngơi. Thiên Chúa và Chúa Giêsu vẫn luôn liên lỉ làm những việc tình thương. Nhưng phần con người thì lại có câu “Tình thương mệt mỏi!”.
2. Trong ngày sabát hay trong ngày Chúa nhật bây giờ, chúng ta nghỉ bớt những việc khác, để có thể làm nhiều việc bác aí hơn. Nói cách khác, trong ngày đó, ta nghỉ làm những việc cho mình, để làm những việc cho người khác.
3a. Chúa Giêsu tỏ ra là một người rất tự do vì Ngài không bị ràng buộc vào những tập tục ngày sabát. Nhưng sự tự do này xuất phát tự một sự lệ thuộc: “Ta không thể tự mình làm điều gì…vì ta không tìm ý riêng Ta mà tìm ý Đấng đã sai Ta”. Như thế bài Tin Mừng hôm nay là một sự nghịch lý: Tự do nhờ lệ thuộc ý Thiên Chúa. Khi con người lệ thuộc hoàn toàn vào ý Thiên Chúa thì con người sẽ tự do, ngược lại khi con người không theo ý Thiên Chúa thì con người sẽ thành nô lệ cho rất nhiều thứ khác. Ta hãy suy nghĩ thêm về cái nghịch lý này.
3b. Một thiếu niên đi xem đấu bóng với Cha sở, nói với Cha rằng anh không thích vâng phục. Anh nói: “Thưa Cha, con rất ghét ai bảo thế này, thế nọ. Không có tự do trong việc này”.
Cha sở không nói một lới. Liền sau đó, họ gặp một biển chỉ đường hướng đi đến sân chơi. Cha sở làm như không thấy, cậu bé la lên:
“Chúng ta đi sai đường! Thưa Cha, Cha không thấy dấu đàng kia à!”.
Cha sở bình tĩnh trả lời: “Cha thấy chứ, nhưng Cha nghĩ đường này xem ra tốt hơn, và Cha ghét bị ai chỉ bảo đi đường này, đường kia bởi một biển chỉ đường cũ kĩ. Nó không cho Cha tự do hành động”.
Cậu bé nhận ra bài học, và họ vòng trở lại đi vào hướng sân chơi (Góp nhặt).
Suy Niệm 10: Thiên Chúa luôn làm việc vì yêu thương
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Chúng ta vừa nghe những lời rất thẳng thắn, rõ ràng, không úp mở của Chúa Giêsu: “Cho đến nay, Cha Tôi vẫn làm việc, thì Tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).
1.Vâng! Thiên Chúa luôn làm việc vì yêu thương.
Vâng! Nếu trái tim không bao giờ ngừng đập, thì tình thương cũng không bao giờ nghỉ ngơi. Thiên Chúa luôn làm việc.
Ngoài công việc sáng tạo, Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục làm việc qua sự quan phòng an bài kỳ diệu của Người nơi vạn vật.
Philô nói: “Thiên Chúa chẳng bao giờ ngưng làm việc, vì như đặc tính của lửa là cháy, đặc tính của tuyết là lạnh, thì đặc tính của Thiên Chúa là làm việc”.
Sách Giáo Lý chung nói: “Con Thiên Chúa đã làm việc với đôi tay con người, suy nghĩ bằng trí óc con người, hành động theo một ý chí con người, yêu mến bằng quả tim con người”. (GS 22,2).
Sách Gương phúc nói: “Bạn sinh ra để làm việc, sao bạn lại tìm an nghỉ? Người ta hỏi họa sĩ Zeuxis tại sao ông ta vẽ những nét rất tỉ mỉ trên những bức họa của ông, ông trả lời: “Vì tôi làm việc để lại cho trường cửu”. Vậy hỡi bạn, bạn cũng phải làm việc cho trường cửu. Một công việc như thế chẳng lẽ không được trả bằng một giá rất đắt sao?”
2. Thiên Chúa làm việc để sáng tạo và cứu rỗi.
Theo truyện tích về công việc sáng tạo trời đất thì quả thật Thiên Chúa có nghỉ ngày thứ bảy, nhưng nghỉ làm công việc sáng tạo không có nghĩa là nghỉ những công việc khác nhất là những công việc vì yêu thương.
Chúng ta cũng phải làm việc thì mới giống Chúa. Vì làm việc là góp phần vào việc kiện toàn những công việc còn đang dang dở trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Một hoàng đế nọ cỡi ngựa vào rừng săn bắn. Khi đi ngang qua ngọn đồi gần bìa rừng, ông trông thấy một cụ già râu tóc bạc phơ đang cặm cụi đào lỗ trồng cây, Hoàng đế liền thắng ngựa và lớn tiếng bảo cụ già:
- Chắc hẳn là ngươi không mong đợi được ăn trái của cây ngươi đang trồng hôm nay chứ!
Cụ già thản nhiên đáp:
- Hạ thần không bao giờ thất vọng về điều đó; bao lâu hạ thần còn được Thượng Đế ban cho sinh lực, bấy lâu vẫn tiếp tục hy vọng và chu toàn bổn phận của hạ thần.
Hoàng đế tò mò hỏi thêm:
-Thế ngươi năm nay bao nhiêu tuổi?
Cụ già đáp:
-Tâu Hoàng Thượng, năm nay hạ thần vừa tròn một trăm tuổi, biết đâu Thượng Đế còn cho hạ thần sống thêm một ít năm nữa để hưởng dùng trái cây này. Dù sao, mỗi khi trồng cây, hạ thần không làm gì hơn là tiếp tục công trình sáng tạo của Thượng Đế, Đấng đã truyền cho trái đất trổ sinh hoa trái phong phú.
Thán phục lòng tin của cụ già chất phác đơn thành, hoàng đế nói tiếp:
- Nếu ngươi còn thọ tới ngày cây vả này trổ hoa kết trái, ngươi hãy cho ta biết.
Ít năm sau, quả thực cây vả đã bắt đầu nở hoa, rồi kết trái đầy cành. Đợi tới ngày trái vả chín ngọt, cụ già hái đầy một giỏ, rồi lên đường tới đền vua. Tới cổng, lính canh từ chối không cho cụ già nghèo hèn vào chầu, nhưng cụ già nài nỉ phân trần đầu đuôi câu chuyện, và rồi vì kính nể tuổi già tóc bạc, sau cùng mấy anh lính tháp tùng cụ già vào triều yết vua. Cụ già khiêm tốn cúi mình trước ngai vua và nói:
- Tâu Hoàng Thượng, hạ thần là ông già khom lưng trồng cây bên bìa rừng mà Hoàng Thượng đã gặp mấy năm trước đây. Hôm nay, hạ thần xin kính dâng Hoàng Thượng những trái chín ngọt đầu mùa của cây vả mà hạ thần đã trồng hồi năm ấy.
Nhà vua vui mừng nhận ra cụ già và rất hài lòng với món quà cụ kính dâng, nhất là với lòng trung tín và sự cần cù của cụ. Ngài vui vẻ đổi lại cho cụ già cái giỏ đầy những đồng tiền vàng và nói:
- Hỡi người trung tín và đáng kính phục, hãy trở về nhà bình an và tiếp tục cộng tác với Thượng Đế toàn năng trong cuộc sáng tạo của Người.
Lạy Chúa Giêsu,
con thường thấy mình không có thì giờ,
nhưng đồng thời cũng thấy mình lãng phí bao thời gian quý báu.
Nhiều khi con tự hỏi mình thực sự làm việc bao nhiêu giờ mỗi ngày.
Xin cho con biết quý trọng từng giây phút
đang trôi qua mà con không sao giữ lại được.
Chúa đã trao cho con nén bạc thời gian, để con sinh lợi tối đa theo ý Chúa.
Xin cho con luôn làm việc như Chúa: hăng say, tận tụy và vui tươi,
vâng phục, có phương pháp và đầy sáng tạo.
Vì quá khứ thì đã qua, và tương lai thì chưa đến,
nên xin dạy con biết trân trọng giây phút hiện tại.
Xin cho con thấy Chúa lúc này đang ở đây bên con,
và đang mời gọi con đáp lại tiếng của Ngài
bằng những hành động cụ thể.
Con xin hiến dâng Chúa giây phút này như một hy lễ,
với tất cả những bất ngờ, đớn đau, thách đố.
Ước gì con dám sống hết mình giây phút hiện tại
để hiện tại đưa con vào vĩnh cửu của Chúa. Amen.
29/03 Chữa người bất toại 38 năm.
- Viết bởi Ga 5, 1-3a. 5-16
Chữa người bất toại 38 năm.
Thứ Ba tuần 4 Mùa Chay.
"Tức khắc người ấy được lành bệnh".
Lời Chúa: Ga 5, 1-3a. 5-16
Hôm đó là ngày lễ của người Do-thái, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Tại Giêrusalem, gần cửa "Chiên", có một cái hồ, tiếng Do-thái gọi là Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này, có rất nhiều người đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt. Trong số đó, có một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm.
Khi Chúa Giêsu thấy người ấy nằm đó và biết anh đã đau từ lâu, liền hỏi: "Anh muốn được lành bệnh không?" Người đó thưa: "Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết tới, thì có người xuống trước tôi rồi". Chúa Giêsu nói: "Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về". Tức khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi. Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat, nên người Do-thái bảo người vừa được khỏi bệnh rằng: "Hôm nay là ngày Sabbat, anh không được phép vác chõng". Anh ta trả lời: "Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: "Vác chõng mà đi". Họ hỏi: "Ai là người đã bảo anh "Vác chõng mà đi?" Nhưng kẻ đã được chữa lành không biết Người là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó.
Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: "Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước". Anh ta đi nói cho người Do-thái biết chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh.
Vì thế người Do-thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong ngày Sabbat.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Muốn trở nên lành mạnh
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Các Tin Mừng Nhất lãm chẳng khi nào nói đến chuyện
Đức Giêsu chữa bệnh cho ai ở vùng Giêrusalem.
Riêng Tin Mừng Gioan nói đến chuyện Ngài chữa bệnh cho một anh bất toại
tại một cái hồ, gần Cửa Chiên dẫn vào khuôn viên Đền thờ Giêrusalem.
Hồ Bếtdatha này khá lớn, có hình chữ nhật, được ngăn làm hai phần.
Chính vì thế có đến năm hành lang, nơi đây người bệnh nằm la liệt.
Họ mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền khác nhau,
nhưng ai đến đây cũng nuôi hy vọng khỏi bệnh.
Giữa bao người ốm đau tàn tật đó, dường như Đức Giêsu chỉ thấy một mình anh.
Ngài biết anh mắc bệnh đã lâu, nằm trên chõng một thời gian dài.
Ba mươi tám năm, thời gian bằng một nửa đời người.
Chính Đức Giêsu là người đến với anh và mở lời bằng một câu hỏi:
“Anh có muốn trở nên lành mạnh không?” (c. 6).
Câu hỏi có vẻ thừa này thật ra lại chạm đến nỗi khát khao sâu thẳm của anh.
Nó đụng đến chờ đợi mòn mỏi của anh từ nhiều năm qua.
Anh bất toại không trả lời câu hỏi của Đức Giêsu, người với anh vẫn còn xa lạ.
Nhưng anh lại muốn trải lòng cho người lạ này thấy cái ngõ cụt của mình,
những lý do khiến mình phải nằm ở đây lâu đến vậy.
“Tôi không có người đem tôi xuống hồ, khi nước động”: đó là lý do thứ nhất.
Tôi không có được sự trợ giúp từ phía bạn bè thân thuộc.
Tôi cô đơn, trơ trọi một mình.
Giá mà tôi có ai đó giúp tôi lúc cơ may đến…
“Lúc tôi tới đó, thì người khác đã xuống trước tôi rồi”: đó là lý do thứ hai.
Khi phải lê đi bằng chính sức của mình, thì tôi bao giờ cũng là người đến sau.
Tôi đã cố gắng nhiều lần, nhưng luôn phải cam chịu thất bại.
Bây giờ tôi còn dám tin vào mình nữa không?
Anh bất toại mong có một người bạn đem anh xuống nước đầu tiên.
Anh mơ thấy ngày trồi lên từ hồ nước, ướt sũng, nhưng đi lại bình thường.
Anh chẳng tin rằng ngày ấy là hôm nay.
Người bạn anh mong đang ở gần, kéo anh ra khỏi nỗi cô đơn.
Anh sẽ được khỏi bệnh mà người vẫn khô ráo.
“Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi!”: đây là lời mời hay mệnh lệnh?
Bất ngờ, nhanh chóng và dễ dàng, anh đã đứng lên và đi được.
Cái chõng đã vác anh, bây giờ anh vác nó.
Hãy nhìn những bước đi đầu tiên của người ba mươi tám năm bất toại.
Anh đã trở nên lành mạnh, dù anh không xin hay bày tỏ lòng tin nào (cc. 6, 9,14).
Giêsu đến với anh như một người bạn làm anh trở nên lành mạnh (cc. 11,15).
Vì chữa bệnh cho anh này vào ngày sabát, Ngài đã bắt đầu bị chống đối (c.16).
Hôm nay Đức Giêsu cũng hỏi tôi: Con có muốn trở nên lành mạnh không?
Con có muốn ra khỏi sự bất toại kinh niên của mình không?
Ngài mời tôi đứng lên và mạnh dạn bước đi, bỏ lại quá khứ tội lỗi.
Sau khi được chữa lành, ngài dặn tôi đừng phạm tội nữa (c. 14).
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con. Amen.
Suy Niệm 2: Hãy chỗi dậy
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Dòng nước Ê-dê-ki-en thấy chảy ra từ bên phải đền thờ chính là dòng nước chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Giê-su. Đó là nước ơn thánh, nước rửa tội, tha thứ tội khiên và chữa lành tật nguyền. Tuy nhiên để lãnh nhận ơn tha tội và chữa lành, tự sức con người không thể được. Phải có ơn Chúa trợ giúp.
Anh bệnh nhân đã nằm bên bờ hồ Beth-da-tha 38 năm, muốn xuống nước để được chữa lành, nhưng tự sức anh không đến được. Anh không vượt qua được giới hạn của mình. Anh không vượt qua được chính mình. Nhưng anh thật may mắn, vì hôm nay Chúa đến cứu giúp anh. Chúa uy quyền toàn năng có thể tháo gỡ hết những khó khăn, trắc trở của con người. Cho con người đứng thẳng hiên ngang, có thể chu toàn được hết những nhiệm vụ của mình. Chúa truyền 4 mệnh lệnh.
Mệnh lệnh thứ nhất: “Hãy chỗi dậy”. Chỗi dậy là ý chí muốn thoát khỏi vũng lầy tội lỗi. Chỗi dậy là ý chí muốn vươn lên, vượt thoát, tự do, không còn bị trói buộc, đè nén nữa. Như đứa con hoang đàng, thấy mình bị hạ xuống ngang hàng súc vật, muốn trở lại làm người, nên đã tự nhủ: “Vâng, tôi quyết chỗi dậy”.
Mệnh lệnh thứ hai: “Hãy vác chõng”. Vác lấy những mệt mỏi, những yếu đuối. Hãy vác thánh giá Chúa gửi đến. Thánh giá bản thân yếu hèn. Thánh giá trách nhiệm nặng nề. Thánh giá số phận trớ trêu. Thánh giá cám dỗ thử thách.
Mệnh lệnh thứ ba: “Hãy bước đi”. Hãy tiến tới. Hãy dứt lìa quá khứ. Hãy lên đường. Đừng ngủ mê. Đừng tê liệt nữa. Đừng ngần ngại. Thiên Chúa luôn chờ ta ở phía trước. Hãy đi theo ơn của Thánh Thần thúc đẩy.
Mệnh lệnh thứ tư: “Đừng phạm tội nữa”. Đừng quay lại sau lưng. Đừng trở lại con đường xưa cũ. Hãy sống thành con người mới. Hãy vượt qua.
Đó chính là một cuộc vượt qua. Vượt qua của người được rửa tội. Người từ bỏ cuộc sống an nhàn hưởng thụ theo thói thế gian. Để đi theo tiếng gọi và ơn thúc đẩy của Chúa Thánh Linh. Đi về phía trước. Chấp nhận những khó khăn thử thách. Không quay về chiếc chõng hưởng thụ an nghỉ. Nhưng đứng thẳng người lên. Gánh vác lấy trách nhiệm phục vụ. Tiến tới dù phía trước đầy gian nan thử thách.
Suy Niệm 3: Chữa Người Bất Toại
Cuốn phim Mỹ với tựa đề: “Cái chết của một thiên thần” mang một ý nghĩa sâu sắc. Tại một vùng quê hẻo lánh bên Nam Mỹ, nơi mà lòng đạo đức bình dân thường pha trộn những mê tín dị đoan, một thanh niên nọ đã ngụy tạo ra một phép lạ thu hút được rất nhiều người. Anh lén rạch da lấy máu mình và cho vào tượng Thánh giá mà chỉ anh mới biết cách tháo ráp. Mỗi lần anh ôm Thánh giá vào lòng thì máu từ mão gai của tượng chảy ra. Dân chúng từ khắp nơi, nhất là những kẻ tàn tật, mù lòa đổ vào để chứng kiến phép lạ. Đoàn người làm thành một đám rước Thánh giá lên trên một ngọn đồi, tại đó người thanh niên quỳ cầu nguyện bên cạnh Thánh giá và máu lại chảy ra từ mão gai trên đầu Chúa.
Trong khi phép lạ ngụy tạo này diễn ra mỗi ngày, thì một đám người bất lương muốn lợi dụng cơ hội để làm tiền. Họ biết chắc đây chỉ là một sự lừa bịp, nhưng họ chưa khám phá được bí quyết của người thanh niên. Sau một thời gian theo dõi, họ đã bắt giữ người thanh niên và tra khảo anh khai ra bí mật ấy. Không chịu nổi cuộc tra tấn, người thanh niên đành thú nhận sự thật và đó cũng là lúc khởi đầu của những hình ảnh đẹp nhất trong cuộc đời anh. Trước đám đông đang chuẩn bị cuộc rước, người thanh niên tháo gỡ tượng Chúa Giêsu khỏi Thánh giá và cho mọi người thấy sự lường gạt của anh từ bao năm qua. Với tất cả thành tâm thống hối, anh vác Thánh giá tiến lên đồi. Đám người bất lương bắn xối xả vào người anh, anh ngã gục, nhưng đoàn người lại tiếp tục vác Thánh giá lên đồi, nhiều người tàn tật, mù lòa bỗng cảm thấy được chữa lành.
Câu chuyện trên đây có thể giúp chúng ta nhận ra phần nào sứ điệp mà Mẹ Giáo Hội muốn gửi đến chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay. Đám đông trong câu chuyện trên chờ đợi những dấu lạ từ pho tượng của Chúa Giêsu, nhưng dấu lạ lại chỉ xảy đến chính lúc họ biết khước từ những hiện tượng bên ngoài ấy để nhận ra khuôn mặt đích thực của Chúa Giêsu trên Thánh giá và thông hiệp vào chính cuộc khổ nạn của Ngài.
Phép lạ xảy ra cho người bất toại trong Tin Mừng hôm nay có thể là hình ảnh của lòng tin cần được thanh luyện. Từ 38 năm qua, con người tàn tật này chờ một phép lạ, nhưng một phép lạ gắn liền với một hiện tượng bên ngoài là nước hồ lay động đã không bao giờ xảy đến. Chỉ khi người tàn tật này gặp gỡ Chúa Giêsu, xưng thú nỗi bất lực của mình, và tin tưởng ở lời Ngài, thì lúc đó phép lạ mới thực sự được thực hiện.
Ngày nay, để cảm nhận được phép lạ của Thiên Chúa, chúng ta cũng cần vượt qua não trạng chỉ chờ đợi những hiện tượng khác lạ trong thiên nhiên. Người ta thích đổ xô tới nơi có hiện tượng lạ thường. Dĩ nhiên, trong một số trường hợp. Thiên Chúa đã thực hiện điều đó. Thế nhưng điều quan trọng cho đức tin chúng ta không phải là những hiện tượng khác thường ấy, mà là chính sự gặp gỡ thân tình với Chúa Giêsu. Gặp gỡ Ngài, tin ở lời Ngài, kết hiệp với Ngài nhất là trong mầu nhiệm khổ nạn, con người mới cảm nhận được tác động của Ngài.
Mùa chay là mùa của thanh luyện. Giáo Hội mời gọi tín hữu kết hiệp với Đức Kitô Tử nạn bằng cách sống tâm tình tin tưởng phó thác của Ngài, nhờ đó niềm tin của họ được thanh luyện và họ sẽ cảm nhận được tình yêu của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Ðừng phạm tội nữa
Việc Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát là một trong những nguyên nhân khiến cho người Do Thái tức tối. Họ chống đối Chúa ra mặt. Thậm chí còn muốn trừ khử Ngài cho rảnh mắt.
Trong bài Tin Mừng trên đây, chúng ta thấy có ba tuyến nhân vật: một là Chúa Giêsu, hai là người mắc bệnh nan y, và ba là những người Do Thái.
Hôm nay chúng ta đặc biệt lưu ý đến thái độ của người Do Thái và thái độ của Chúa Giêsu. Nhìn vào thái độ của người Do Thái, chúng ta hãy xét mình xem chúng ta có quá cứng nhắc trong các nguyên tắc, các luật lệ, đến độ vô cảm trước những nhu cầu bức thiết của anh chị em chung quanh hay không, chúng ta có lên án những người vì phục vụ lợi ích của anh chị em đồng loại mà làm những việc có vẻ như bất chấp luật lệ hay không. Phản ứng nông cạn của những người Do Thái trong bài đọc trên đây là một lời nhắc nhở để chúng ta nhớ lại cung cách sống của mình trong các tương quan với kẻ khác. Chúng ta đừng để mình rơi vào trường hợp đáng buồn như những người Do Thái.
Nhìn vào Chúa Giêsu, chúng ta cũng có thể xét mình theo thái độ của mình đối với anh chị em. Chung quanh chúng ta không bao giờ thiếu những người bất hạnh. Họ đau khổ trước nỗi bất hạnh của mình và chờ mong một ai đó chia sẻ nỗi khổ với họ. Con tim chúng ta có đủ can đảm để nhận ra tình cảnh khốn khổ của anh chị em mình hay không? Lời và việc làm của chúng ta có mang theo đủ tình thương để xoa dịu nỗi đau khổ của họ hay không? Chúng ta có đủ can đảm và quảng đại vượt qua những trở ngại bên ngoài để giúp đỡ người ấy ra khỏi tình cảnh khốn khó của họ hay không? Hình ảnh Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta can đảm dấn thân chia sẻ nỗi đau khổ với anh chị em chung quanh.
Lạy Chúa, xin cho con học được những bài học thiết thực khi Suy Niệm bài Tin Mừng của ngày hôm nay. Xin cho con biết kiên trì hy vọng lúc gặp đau khổ, biết lưu tâm chia sẻ những nỗi đau khổ của những người khác và biết uyển chuyển linh động khi đáp ứng những nhu cầu bức thiết của anh chị em chung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Người hay chữa bệnh ngày sa-bát
Đức Giêsu bảo: “Anh hãy chỗi dậy, vác chõng và bước đi!” Người ấy liền được khỏi bệnh, vác chõng và bước đi.
Hôm đó lại là ngày sa-bát. Người Do-thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh: “Hôm nay là ngày sa-bát, anh không được phép vác chõng!” (Ga. 5, 8-10)
Một lần nữa chứng tỏ một điều chắc chắn này: Xưa kia luật lệ con người rất khó thay đổi, và hầu như không cải tiến được, vì nó ăn sâu vào bản tính nhân loại. Ngay cả ngày nay cũng vậy, người ta gắn bó với nhiều luật lệ từng chi tiết và trở thành một thứ hình thức cực đoan, đến nỗi bị tiêu diệt vì luật lệ. Chúng ta có dám phản đối lối giữ luật nô lệ đó không? Chừng nào chúng ta mới được soi sáng, chừng nào chúng ta mới sống theo tinh thần của luật và không theo lối từ chương lệ cổ, ước chi lòng thành tâm làm cho chúng ta phải sống thế nào cho cân xứng. Sự gắn bó với những điều phụ thuộc làm cho chúng ta mù quáng về những điều cốt yếu. Những người Do thái giữ ngày Sa-bát thời Đức Kitô cũng vậy.
Đây trong một ngày Sa-bát, họ thấy người vác chõng. Mọi người đều biết anh là kẻ bị tê liệt lâu năm nằm ở hành lang hồ Bết-đa-tha. Người ta không biết ngạc nhiên, trong chốc lát, anh đã đi được. Sự lạ lùng nào đã xảy ra cho anh, sao anh đã được khỏi? Nhưng người ta chỉ chú ý đến việc anh vác chõng xúc phạm đến luật nghỉ lễ ngày Sa-bát: một gương mù quá tệ, bất trung chừng nào, ai dám xúc phạm lề luật? Chính ông Giêsu đó, loại người Na-gia-rét chẳng có gì tốt cả, nhưng dám làm nổ tung luật lệ, dám cho mình là Con Thiên Chúa, cho mình bằng Thiên Chúa, còn gọi Thiên Chúa là Cha riêng của mình.
Người Do thái không quan tâm tìm hiểu chân lý đó, mặc kệ chân lý! Họ chỉ biết có luật và mù quáng trung thành giữ luật thôi.
Kêu gọi chúng ta đừng bỏ ngày Chúa nhật để đi tìm thú vui bỉ ổi, chúng ta phải thấy rõ sự cần thiết làm vinh danh Chúa. Còn một cách giữ ngày Sa-bát nữa là yêu thương người lân cận, tuy luật không nói tới, nhưng tình yêu tha nhân là bằng chứng lòng yêu mến Thiên Chúa, đức thờ phượng và lời cầu nguyện của chúng ta.
Đoạn Tin mừng này kêu gọi chúng ta về trách nhiệm đối với anh em mình, họ đang cần chúng ta. Thường người ta tự hỏi sao ngày Chúa nhật không được sống thoải mái! Nhưng ta lại không tự hỏi: Tại sao không dùng ngày Chúa nhật để thực hiện tình bác ái, giúp đỡ bệnh nhân và kẻ nghèo khó, đi dâng lễ. Đó là những cách nhỏ bé chúng ta có thể để tôn vinh Thiên Chúa trong ngày của Ngài.
J.M
Suy Niệm 6: “Đừng phạm tội nữa”
Nếu nói đạo là con đường, thì đạo Công Giáo là con đường dẫn đến sự thật. Sự thật đó là tình yêu. Vắng tình yêu, đạo Công Giáo không còn là con đường và đương nhiên không phải là đạo đúng nghĩa!
Khi đến trần gian, Đức Giêsu đã đề cao tinh thần sống đạo hơn là việc giữ đạo. Việc bề ngoài chỉ có ý nghĩa khi nó được tình yêu từ bên trong tâm hồn thúc bách. Bằng không, nó chỉ là một sự phù phiếm, mê tín mà thôi.
Hôm nay, Đức Giêsu đã vì tình yêu, mà Ngài vượt lên trên lề luật để cứu chữa một người ốm đã ba mươi tám năm.
Tuy nhiên, chính trong hành động yêu thương này mà Đức Giêsu bị những người Dothái không ưa chống đối. Họ cho rằng Đức Giêsu đã không tuân giữ lề luật và thường xuyên vi phạm ngày Sabát.
Đối với Đức Giêsu, luật vì con người chứ không phải con người vì luật. Hơn nữa, khi Đức Giêsu chữa anh này khỏi bệnh thì đồng thời Ngài cũng chữa anh khỏi những hệ lụy của nó mà người ta thường gán cho là tội. Không dừng lại ở đó, Ngài còn nhắc cho anh biết là hãy vác chõng mà về và đừng phạm tội nữa.
Vác chõng là việc anh phải làm để chu toàn bổn phận của chính mình. Đừng phạm tội là lời nhắc cho anh về việc từ nay anh đã được giải thoát khỏi tội và anh đã được thuộc về Chúa. Ngài đã tẩy rửa tâm hồn và thân xác anh sạch thì anh phải lo giữ nó, kẻo trở thành khốn khổ khi bệnh tình tái phát. Tội ở đây có ý muốn nói đến ảnh hưởng của sự dữ, thuộc về Ma Quỷ.
Mùa Chay là cơ hội để chúng ta quay trở về với Chúa và xin Ngài tha thứ, đồng thời cũng là dịp thuận tiện để ta hối cải, từ bỏ con đường cũ để làm lại cuộc đời.
Chúa không chấp nhận chúng ta ù lỳ trong tội, nhưng Ngài mời gọi chúng ta: “Hãy đứng dậy vác chõng mà ra đi”, đó là dứt khoát với con đường tội lỗi của mình, nếu không, chúng ta có thể sẽ khốn khổ hơn khi phạm tội.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm để sống điều mình quyết tâm trong Mùa Chay thánh này. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Chúa chữa trị tận căn tội lỗi và đau khổ, bệnh tật
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu là Đấng chữa lành mọi bệnh tật, là Đấng ban phát và phục hồi sự sống thân xác cũng như linh hồn. Chúng ta hãy chạy đến với Chúa để được chữa trị tận căn mọi tội lỗi và mọi đau khổ, bệnh tật.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con cảm động khi nhìn thấy hình ảnh Chúa ở bên hồ Bết-đa-tha. Ở đó có bao nhiêu người bệnh tật đau khổ đang chờ đợi một sự giúp đỡ, chờ đợi một cơ may. Thật hạnh phúc cho người lâm bệnh đã ba mươi tám năm, vì Chúa cảm thông với nỗi đau khổ của anh. Hạnh phúc cho anh vì được Chúa đến hỏi thăm và cứu giúp.
Vâng, Chúa thực sự chia sẻ nỗi đau khổ của con. Chúa được Chúa Cha sai đến để chữa trị bệnh tật cho chúng con, phần xác cũng như phần hồn. Con mang trong thân xác bao nỗi đớn đau bệnh tật. Cho dù thân xác con không bại liệt, nhưng linh hồn con đã bao năm tê cứng trong tội lỗi. Bao nhiêu năm sống ở trần gian, là bấy nhiêu năm linh hồn con thoi thóp. Những ngày con sống đẹp lòng Chúa thật là ít, còn những ngày vô độ thì rất nhiều.
Lạy Chúa Giêsu, nếu Chúa hỏi con có muốn khỏi bệnh không, thì con cũng trả lời như người bại liệt: không có ai giúp con. Vâng, không có ai giúp đỡ con ra khỏi tội lỗi, và cũng không ai có thể giúp con được. Chỉ có mình Chúa mà thôi. Chỉ có Chúa mới có thể chữa trị tận căn mọi tội lỗi đời con. Chỉ có Chúa mới ban phát và phục hồi lại sự sống nơi linh hồn con. Xin cho con biết chạy đến với Chúa để được chữa lành chứng tê liệt của linh hồn. Xin dạy con biết chạy đến với Lời Chúa, nơi bàn thờ Chúa, nơi Thánh Thể để được bồi dưỡng sinh lực. Xin nâng con chỗi dậy và đứng thẳng lên để làm lại cuộc đời. Qua Bí tích Rửa tội và Giải tội, Chúa đã cho con được đứng lên, thế nhưng con vẫn qụy ngã mãi. Xin Chúa đừng bỏ con. Xin Chúa ở lại trong đời con cũng như Chúa đã ở bên cạnh người bại liệt ngày xưa. Amen.
Ghi nhớ: “Tức khắc người ấy được lành bệnh”.
Suy Niệm 8: Được lành bệnh, đừng phạm tội nữa
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Thầy Andrew - một nhà truyền giáo Hà Lan, được mệnh danh là “tên buôn lậu của Thiên Chúa”, vì thầy buôn lậu Kinh Thánh vào những nước cấm phổ biến Thánh Kinh.
Ngày kia, thầy mua được một con khỉ. Không bao lâu, thầy nhận thấy chú khỉ rất khó chịu khi chú bị chạm vào phần thắt lưng. Sau khi xem xét thật kỹ, thầy khám phá ra một vết sưng vòng quanh hông chú khỉ. Hóa ra là khi còn bé, chú khỉ đã bị người ta dùng một sợi dây kẽm buộc quanh hông, và cho tới nay sợi dây này vẫn còn nằm trong thân xác chú. Càng lớn lên thì sợi thép đó lặn sâu vào da thịt chú.
Chiều hôm ấy, thầy Andrew cẩn thận tháo sợi dây kẽm đó ra bằng cách: thầy cào sạch vùng lông chung quanh sợi dây, rồi cẩn thận cắt sợi dây và kéo ra khỏi da thịt con vật. Suốt thời gian này, chú khỉ kiên nhẫn nằm yên chịu đau, mắt chú nhắm nghiền lại. Ngay khi sợi dây kẽm được lấy ra, chú khỉ mừng rỡ nhảy lui nhảy tới rồi ôm chặt vai thầy Andrew. Thế là chú khỉ được tự do thoải mái, không còn bực bội khó chịu như trước nữa. Không thể diễn tả nổi chú khỉ hạnh phúc biết bao.
Người bại liệt trong Tin Mừng cũng vui mừng khi được Đức Giêsu tha tội và chữa khỏi bệnh bại liệt. Anh không còn bị tội lỗi và bệnh hoạn trói buộc nữa (Lm. Đinh Lập Liễm).
Suy Niệm
Tại đền thờ Giêrusalem, gần cửa “Chiên” có người bại liệt đã ba mươi tám năm. Anh mòn mỏi trông mong được chữa lành. Chúa Giêsu thực sự thấy nỗi đau khổ của anh và đặt vấn đề “lành mạnh” với anh, tức thì thân xác bại liệt của anh và cả tinh thần cũng lành mạnh khi Chúa nói với anh: “Hãy đứng dậy vác chõng mà về”. Cử chỉ “đứng dậy vác chõng mà về” nói lên sự lành mạnh thể lý và sức khỏe đủ để chu toàn bổn phận của một con người.
Chúa Giêsu cho anh bại liệt lành bệnh và bước đi trong an vui trong ngày Sabát – ngày của niềm vui. Trong lúc người biệt phái ngăn cản anh vác chõng lại hạch hỏi anh thật độc ác chỉ vì ngày Sabát, ngày nghỉ với họ cũng có nghĩa là không được vác chõng, họ không thông cảm với anh khi anh bị khổ suốt ba mươi tám năm dài họ vẫn cứ muốn trói buộc anh trong căn bệnh bại liệt chỉ vì câu nệ Lề Luật. Họ mang hình ảnh của nhân loại không biết cảm thông nỗi khổ của nhau, đối xử với nhau từ ích kỷ đến tàn ác chỉ biết bắt bẻ và kết án.
Hơn nữa, mỗi người chúng ta trong kinh nghiệm cá nhân, đã từng mang ít nhiều những bệnh tật thể xác, và mang những bất toại của tâm hồn trong thân phận của sự yếu đuối, tội lỗi, đó là sự bại liệt tâm linh của con người. Như anh bại liệt, chúng ta hãy bày tỏ sự mong muốn được chữa lành qua bí tích hòa giải, chính trong bí tích tình yêu này Chúa nói với chúng ta như đã nói với anh bại liệt: “Anh đã được lành bệnh”.
Ý lực sống: “Anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước” (Ga 5,14).
Suy Niệm 9: Chúa chữa người bất toại
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu chữa người bất toại ở bờ hồ Betsaiđa. Nếu chúng ta đặt mình vào vai bệnh nhân 38 năm, chúng ta mới thấy những người hạch hỏi anh thật độc ác. Tại sao họ không cảm thông với anh khi anh bị khổ suốt 38 năm trong tình trạng khốn nạn. Đáng lý ra họ cùng phải với anh tôn vinh, tạ ơn Vị đã cứu giúp anh mới phải. Tại sao họ lại bắt bẻ Ngài? Ngài và họ, ai là người thương yêu đích thực? Ngài và họ, ai là người đi trong đường lối của Thiên Chúa?
2. Tin Mừng cho biết khi Đức Giêsu đến bờ hồ Betsaiđa, thì đã có rất nhiều bệnh nhân nằm la liệt cùng với thân nhân của họ chờ chực sẵn bên hồ. Giữa đám đông bệnh nhân ấy, Chúa nhận ra một người đau khổ cô độc nhất, anh bị tàn tật, bất toại hay tê liệt như lời anh thưa với Chúa: “Không có ai khiêng tôi xuống nước cả”. Anh đã nằm ở đây 38 năm rồi, thời gian quá dài. Bao nhiêu người đã đi qua, kể cả những vị lãnh đạo dân Do thái, không ai màng tới.
Nhưng Đức Giêsu đã nhìn thấy, động lòng thương và đã chữa lành anh. Không những Chúa chữa bệnh nơi thân xác mà Ngài còn muốn tiến xa hơn khi kêu gọi người được chữa lành hãy nghĩ đến phần hồn của anh với lời nhắn nhủ: “Anh đừng phạm tội nữa”.
3. Đức Giêsu cho anh bại liệt lành bệnh và bước đi trong an vui trong ngày sabat – ngày của niềm vui. Trong lúc người biệt phái ngăn cản anh vác chõng lại hạch hỏi anh thật độc ác chỉ vì ngày sabat, ngày nghỉ với họ cũng có nghĩa là không được vác chõng. Họ không thông cảm với anh khi anh bị khổ suốt 38 năm dài, họ vẫn cứ muốn trói buộc anh trong căn bệnh bại liệt chỉ vì câu nệ lề luật. Họ mang hình ảnh nhân loại không biết cảm thông nỗi khổ của nhau, đối xử với nhau từ ích kỷ đến tàn ác chỉ biết bắt bẻ và kết án.
4. Đức Giêsu đã thực hiện một dấu lạ để mời gọi con người mở mắt nhìn Ngài là Đấng Cứu Thế. Thế nhưng, không ai đã nhận ra sự hiện diện của Ngài. Riêng những người Do thái, những vị lãnh đạo tôn giáo Do thái đang có mặt ở đó lại dựa vào đó để bắt bẻ Chúa đã lỗi ngày hưu lễ. Đối với Chúa, Ngài đến làm ơn cho người ta, mạng sống con người quí trọng hơn hết.
Tu hội Nữ tử Bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta chuyên phục vụ những người nghèo khổ, bệnh tật, đặc biệt là những người đang hấp hối nằm trên các hè phố. Trước đây có một vị sư Phật giáo nói với Mẹ Têrêsa: “Tôi biết và yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi ghét Giáo hội của Ngài. Nếu các chị làm điều các chị nói, có lẽ các chị sẽ trở nên nơi hội ngộ để chúng tôi có thể gặp gỡ Giáo hội của Đức Kitô”. Nhưng sau một năm làm việc cùng với Mẹ Têrêsa, vị sư đó đã chứng thực việc làm của Mẹ và sẵn sàng dành cho Mẹ một ngôi nhà trong khuôn viên chùa để làm bệnh xá miễn phí.
5. Tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã lưu ý những người con tinh thần của mình như sau: “Những người chung quanh con, cả nhân loại đang đau thương, khập khiễng trên đường mịt mù. Đời con sẽ phải hiến dâng để bắc nhịp cầu đưa họ đến với Chúa là cùng đích, là tình yêu, là tất cả. Bên Chúa, không ai còn xa lạ, nhưng tất cả đều là anh em. Món quà tuyệt hảo mà con có thể tặng người giúp việc con không phải là chiếc áo đẹp, đôi giầy tốt, mà là tình người, tình anh em mà con âm thầm tặng họ qua những cử chỉ nhỏ nhặt suốt ngày”.
6. Mỗi người chúng ta trong kinh nghiệm cá nhân, đã từng mang ít nhiều những bệnh tật thể xác, và mang những bất toại của tâm hồn trong thân phận của sự yếu đuối, tội lỗi, đó là sự bại liệt tâm linh của con người. Như anh bại liệt, chúng ta hãy bày tỏ sự mong muốn được chữa lành qua Bí tích Hòa giải, chính trong bí tích tình yêu này Chúa nói với chúng ta như đã nói với anh bại liệt: “Anh đã được lành bệnh”.
7. Truyện: Nỗi mừng vui khi khỏi bệnh.
Thầy Andrew – một nhà truyền giáo Hà Lan, được mệnh danh là “tên buôn lậu của Thiên Chúa”, vì thầy buôn lậu Kinh Thánh vào những nước cấm phổ biến Thánh Kinh.
Ngày kia, thầy mua được một con khỉ. Không bao lâu, thầy nhận thấy con khỉ rất khó chịu khi chú bị chạm vào phần thắt lưng. Sau khi xem xét thật kỹ, thầy khám phá ra một vết sưng vòng quanh hông chú khỉ. Hóa ra là khi còn bé, chú khỉ đã bị người ta dùng một sợi dây kẽm buộc quanh hông, và cho tới nay sợi dây này vẫn còn nằm trong thân xác chú. Càng lớn lên thì sợi thép đó lặn sâu vào da thịt chú.
Chiều hôm ấy, thầy Andrew cẩn thận tháo sợi dây kẽm đó ra bằng cách: thầy cào sạch vùng lông chung quanh sợi dây, rồi cẩn thận cắt sợi dây và kéo ra khỏi da thịt con vật. Suốt thời gian này, chú khỉ kiên nhẫn nằm yên chịu đau, mắt chú nhắm nghiền lại. Ngay khi sợi kẽm được lấy ra, chú khỉ mừng rỡ nhảy lui nhảy tới rồi ôm chặt vai thầy Andrew. Thế là chú khỉ được tự do thoải mái, không còn bực bội khó chịu như trước nữa. Không thể diễn tả nổi chú khỉ hạnh phúc biết bao.
Người bại liệt trong Tin Mừng cũng vui mừng khi được Đức Giêsu tha tội và chữa khỏi bệnh bại liệt. Anh không còn bị tội lỗi và bệnh hoạn trói buộc nữa.
Suy Niệm 10: Nguồn nước cứu rỗi
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc 1: Sách bài đọc Phụng vụ đã tóm thị kiến của ngôn sứ Eđêkien lại thành một câu: “Tôi đã thấy nước từ bên phải Đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến những ai thì tất cả đều được cứu rỗi”.
2. Bài Tin Mừng: Chúa Giêsu chính là nguồn nước cứu rỗi ấy. Người bất toại nằm chờ bên bờ hồ Bécsaiđa đã 38 năm nhưng chưa có cơ hội xuống hồ để được khỏi bệnh. Chúa Giêsu chỉ cần nói một câu “Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về” thì tức khắc anh khỏi bệnh.
B. Suy Niệm (...nẩy mầm)
1. Chúa Giêsu thường “la cà” ở những nơi có những người khốn khổ, để chia sẻ với họ, an ủi họ, giúp đỡ họ và nếu họ tin thì cứu chữa họ.
2. “Phép lạ xảy ra cho người bất toại trong Tin Mừng hôm nay có thể là hình ảnh của lòng tin cần được thanh luyện. Từ 38 năm qua, con người tàn tật này chờ đợi một phép lạ, nhưng một phép lạ gắn liền với một hiện tượng bên ngoài là nước hồ lay động đã không bao giờ xảy đến. Chỉ khi người tàn tật này gặp gỡ Chúa Giêsu, xưng thú nỗi bất lực của mình và tin ở lời Ngài thì lúc đó phép lạ mới thực sự được thực hiện” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
Lạy Chúa, con đã tin rồi!
Tạp chí Tiếng Vang Lộ-Đức (Écho de Lourdes) thuật lại một câu chuyện có thật như sau:
Một người vô thần nọ có đứa con gái yêu quý bị bệnh bại liệt mà các bác sĩ đều đã bó tay, không tài nào cứu chữa được nữa. Ông nghe những người quen biết đồn rằng, Đức Mẹ ở Lộ-Đức nước Pháp, có thể chữa lành cho cô bé.
Cuối cùng, thì ông cũng đã chấp nhận đưa con gái đến Lộ-Đức, nhưng không quên tuyên bố với những người bạn cả Công giáo lẫn vô thần rằng: “Nếu tôi thấy con gái tôi được chữa khỏi, nếu tôi thấy tỏ tường nó chỗi dậy và đi lại được, tôi sẽ tin rằng, Thiên Chúa hiện hữu”.
Khi đến Lộ-Đức, ông chen vào giữa đám đông những bệnh nhân đang vây quanh chiếc giếng mà Đức Mẹ thường làm phép lạ và đưa con gái lại gần đó. Khi gặp được cha Bailly, một Linh Mục thường trực phụ trách tại địa điểm hành hương ở đây, ông đã nói với cha về tất cả những nỗi niềm còn bán tín bán nghi của ông và những gì mà người ta đồn đại về phép lạ.
Rồi đúng lúc em bé được đưa xuống chiếc giếng cạn để nhúng ướt toàn thân trong nước, cha Bailly đã lớn tiếng nói với mọi người đang có mặt:
- Có ai trong các vị hiện diện ở đây bằng lòng tận hiến chính mình làm hy tế cho Thiên Chúa nhân lành để cầu nguyện cho một người vô thần không ? Có ai không ? Chỉ cần một người thôi, bằng lòng cam chịu cơn bệnh nan y cho tới chết để cho cô bé này được lành và để cho người cha vô thần này được trở lại đạo. Có ai không ?
Mọi người yên lặng... Mấy phút trôi qua... Chợt có một nữ bệnh nhân trung niên chống nạng hai bên nách, khó nhọc lắm mới bước ra khỏi được đám đông rồi nói nhỏ nhẹ thật khiêm tốn:
- Vâng, có con, con xin tự nguyện!
Ngay lúc ấy, cô bé bệnh tật liền được khỏi và tự mình bước ra khỏi miệng giếng. Người cha vô thần vội quỳ xụp xuống và bằng một giọng thổn thức đầy cảm xúc ông đã thốt lên:
- Lạy Chúa, xin Chúa tha tội cho con, con tin rồi!
Một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào Thiên Đàng, một đức tin lớn sẽ đưa Thiên Đàng vào linh hồn bạn (H.Spurgeon).
Suy Niệm 11: Cần có niềm tin và thiện chí
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Chúa Giêsu thường “la cà” ở những nơi có những người khốn khổ, để chia sẻ, an ủi, giúp đỡ và nếu họ tin thì cứu chữa họ. Bởi vì Ngài chính là sự cứu rỗi.
Người bất toại nằm chờ bên bờ hồ Bethsaiđa đã 38 năm nhưng chẳng tìm được cơ hội nào xuống hồ để được khỏi bệnh. Vậy mà Chúa Giêsu chỉ cần nói một câu: “Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về” (Ga 5,8). Anh tin Lời Chúa đứng dậy..... tức khắc anh khỏi bệnh.
Như vậy, chúng ta thấy, khi con người có niềm tin và có thiện chí thì Chúa sẽ giúp đỡ.
Las Dasir là một thanh niên rất tốt. Thế nhưng, anh thấy mình quá yếu đuối trước những cơn cám dỗ. Mặc dầu đã hết sức cố gắng nhưng anh vẫn sa ngã. Anh đã dốc lòng chừa cũng cả trăm lần rồi thế mà anh vẫn cảm thấy như bất lực. Nhiều lúc anh cảm thấy như hoàn toàn tuyệt vọng. Để chứng tỏ cho mọi người biết anh là một người có thiện chí, anh đã tự quyết định ra hình phạt cho mình: cứ mỗi lần phạm tội, anh sẽ nhổ đi mười sợi tóc trên đầu. Và chừng nào trên đầu không còn tóc nữa, thì hình phạt cuối cùng sẽ là tự kết thúc cuộc đời. Chỉ một tháng sau, đầu của Dasir đã gần như bị trọc, và anh tự hứa với mình sẽ nhất quyết thi hành hình phạt, rồi sau một tháng nữa thì đầu của anh hoàn toàn bị trọc không còn một sợi tóc nào nữa.
Nhìn vào gương, thấy không còn sợi tóc nào trên đầu, Dasir tuyệt vọng nói thầm: “Ngày kết thúc cuộc đời tôi đã đến, tôi không còn cách nào hơn để giữ mình cho khỏi sa ngã phạm tội. Tốt hơn là phải tự kết liễu cuộc đời của tôi”. Nói là làm. Anh đưa tay vào ngăn kéo rút khẩu súng lục đã để sẵn trong đó ra để chuẩn bị kết thúc cuộc đời của mình. Thế nhưng, khi vừa đưa súng lên, kê nòng vào đúng thái dương và định bóp cò thì thình lình anh thấy một thiên thần hiện ra. Sự xuất hiện của thiên thần làm cho anh phải bỏ súng xuống. Thiên thần trao cho anh một gói quà và nói:
- Las Dasir này, đừng kết liễu đời mình như vậy. Thiên Chúa sai tôi đến đem cho anh món quà này. Anh hãy mở ra xem đi.
Anh cầm lấy, mở ra và vô cùng ngạc nhiên khi nhìn vào những gì đặt ở trong chiếc hộp: đó là một bộ tóc giả. Nhìn bộ tóc giả đó anh đã hiểu ngay được ý của Thiên Chúa muốn cho anh phải làm gì.
2. Vâng! Có những lúc con người tưởng chừng như cuộc đời của mình là con đường cụt không tìm được lối ra. Điều quan trọng là con người còn có lòng tin hay không. Nếu còn có đức tin thì mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp. Còn không có đức tin thì lúc đó mới đúng là ngõ cụt.
Tạp chí Tiếng Vang Lộ-Đức (Écho de Lourdes) thuật lại một câu chuyện có thật như sau:
Một người vô thần nọ có đứa con gái yêu quý bị bệnh bại liệt mà các bác sĩ đều đã bó tay, không tài nào cứu chữa được nữa. Ông nghe những người quen biết đồn rằng, Đức Mẹ ở Lộ-Đức nước Pháp, có thể chữa lành cho cô bé.
Cuối cùng, thì ông cũng đã chấp nhận đưa con gái đến Lộ-Đức, nhưng không quên tuyên bố với những người bạn cả Công giáo lẫn vô thần rằng: “Nếu tôi thấy con gái tôi được chữa khỏi, nếu tôi thấy tỏ tường nó chỗi dậy và đi lại được, tôi sẽ tin rằng, Thiên Chúa hiện hữu”.
Khi đến Lộ-Đức, ông chen vào giữa đám đông những bệnh nhân đang vây quanh chiếc giếng mà Đức Mẹ thường làm phép lạ và đưa con gái lại gần đó. Khi gặp được cha Bailly, một Linh Mục thường trực phụ trách tại địa điểm hành hương ở đây, ông đã nói với cha về tất cả những nỗi niềm còn bán tín bán nghi của ông và những gì mà người ta đồn đại về phép lạ.
Rồi đúng lúc em bé được đưa xuống chiếc giếng cạn để nhúng ướt toàn thân trong nước, cha Bailly đã lớn tiếng nói với mọi người đang có mặt:
- Có ai trong các vị hiện diện ở đây bằng lòng tận hiến chính mình làm hy tế cho Thiên Chúa nhân lành để cầu nguyện cho một người vô thần không ? Có ai không ? Chỉ cần một người thôi, bằng lòng cam chịu cơn bệnh nan y cho tới chết để cho cô bé này được lành và để cho người cha vô thần này được trở lại đạo. Có ai không ?
Mọi người yên lặng... Mấy phút trôi qua... Chợt có một nữ bệnh nhân trung niên chống nạng hai bên nách, khó nhọc lắm mới bước ra khỏi được đám đông rồi nói nhỏ nhẹ thật khiêm tốn:
- Vâng, có con, con xin tự nguyện!
Ngay lúc ấy, cô bé bệnh tật liền được khỏi và tự mình bước ra khỏi miệng giếng. Người cha vô thần vội quỳ xụp xuống và bằng một giọng thổn thức đầy cảm xúc ông đã thốt lên:
- Lạy Chúa, xin Chúa tha tội cho con, con tin rồi!
Một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào Thiên Đàng, một đức tin lớn sẽ đưa Thiên Đàng vào linh hồn bạn (H.Spurgeon).
28/03 Chữa lành con trai một quan chức
- Viết bởi Ga 4, 43-54
Chữa lành con trai một quan chức.
Thứ Hai tuần 4 Mùa Chay.
"Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi".
Lời Chúa: Ga 4, 43-54
Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: "Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình". Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ.
Người trở lại Cana xứ Galilêa, nơi Người đã biến nước thành rượu. Bấy giờ có một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt. Ðược tin Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa đến Galilêa, ông đến tìm Người và xin Người xuống chữa con ông sắp chết. Chúa Giêsu bảo ông: "Nếu các ông không thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin". Viên quan chức trình lại Người: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống trước khi con tôi chết". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi". Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về.
Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: "Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt".
Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: "Con ông mạnh rồi", nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin.
Ðó là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Con ông sống
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong các sách Tin Mừng, chúng ta thường gặp nỗi sợ hãi, lo lắng
của những bậc cha mẹ trước căn bệnh hiểm nghèo của con mình.
Ông trưởng hội đường Giairô khẩn khoản nài xin Đức Giêsu
“Con bé nhà tôi gần chết. Xin Thầy đến và đặt tay trên nó” (Mc 5, 23).
Bà dân ngoại gốc Canaan kêu lên: “Xin thương xót tôi,
vì con gái của tôi bị quỷ ám trầm trọng lắm” (Mt 15, 22).
Người cha có đứa con bị động kinh cũng nài van Đức Giêsu:
“Xin Thầy chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi” (Mc 9, 22).
Trong bài Tin Mừng hôm nay viên sĩ quan, có lẽ của vua Hêrôđê, cũng năn nỉ:
“Xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất!” (c. 49).
Bệnh tật và cái chết đang đe dọa đứa con khiến cha mẹ khổ đau và bối rối.
Họ không muốn mất đứa con đã trở nên một phần của đời họ.
Họ vội vã đến với Đức Giêsu như đến với một nơi có thể cấp cứu kịp thời.
Họ tin vào sự hiện diện của Ngài, vào sự chữa lành mà Ngài đem lại.
Lòng tin của viên sĩ quan đã lớn lên từ từ.
Ông tin nhờ nghe người ta nói về những gì Đức Giê su đã làm ở vùng Giuđê.
Ông gặp Ngài vì tin Ngài có thể chữa đứa con trai đang nguy tử của ông
bằng cách đi với ông về nhà ở Caphácnaum (c. 49).
Nhưng sau đó ông tin vào uy quyền của lời Đức Giêsu:
“Ông cứ về đi, con ông sống!”
nên ông vâng lời đi về nhà một mình (c.50).
Chẳng cần sự hiện diện, chỉ cần lời của Ngài nói từ xa cũng đủ con ông khỏi bệnh.
Lòng tin của ông được vững vàng hơn khi ông kiểm chứng và biết rõ
chính vào giờ Ngài nói thì con mình được chữa lành (c. 53).
Bây giờ hẳn ông đã tin trọn vẹn vào chính con người Đức Giêsu.
Lòng tin ấy lôi cuốn cả gia đình ông tin theo.
Sau khi dấu lạ xảy ra, không thấy nói gì về thái độ ngạc nhiên của gia quyến.
Kết quả tuyệt vời của dấu lạ là chính lòng tin của mọi người trong nhà.
Họ sẽ được ông kể cho nghe từng chi tiết câu chuyện gặp gỡ.
Trong tiệc cưới ở Cana, lòng tin của Đức Maria đã dẫn đến dấu lạ đầu tiên.
Dấu lạ này đã khiến các môn đệ Đức Giêsu tin vào Ngài (Ga 2, 11).
Trong dấu lạ thứ hai này ở Cana, lòng tin của viên sĩ quan, của một người cha,
đã dẫn đến lòng tin của những người thân thuộc.
Lòng tin thật sự bao giờ cũng có khả năng thu hút, lôi kéo, lan rộng.
Ngay trước đoạn Tin Mừng này,
chuyện người phụ nữ Samari cũng cho ta thấy điều đó.
Từ lời chứng của chị, dân thành Xykha đã tin vào Đức Giêsu (Ga 4,39).
Đời chúng ta cũng có những lúc tưởng như tuyệt vọng,
khi ta thấy tuột khỏi tay mình những gì rất quý mà mình muốn ôm giữ.
Hãy nhìn lên thánh giá để khỏi mất lòng tin.
Hãy chấp nhận đi vào những nẻo đường lạ lẫm mà Chúa đang mời gọi.
Như viên sĩ quan, ta sẽ gặp tin vui ngay trên đường về nhà.
Cầu nguyện:
Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.
Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.
Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.
Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.
Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.
Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.
Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.
Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.
Suy Niệm 2: Đức tin là lẽ sống
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người ta thật mâu thuẫn. Cứ bám víu vào những gì không vững chắc để rồi lo âu buồn phiền. Thân phận con người vốn mong manh. Sinh, lão, bệnh, tử là số phận. Cứ bám víu vào nó chỉ gây phiền não. Năng lực của loài người là giới hạn. Cậy trông vào những năng lực đó sẽ đi đến thất vọng chán chường. Đó chính là sự yếu đuối của con người. Tin tưởng vào những gì thấy được. Cậy trông vào người đời. Tìm giải pháp bằng những phương tiện của con người.
Lời Chúa hôm nay cho ta thấy, chỉ Thiên Chúa mới giải quyết được những vấn đề của ta. I-sai-a cho biết chính Thiên Chúa mới đem lại niềm vui tươi phấn khởi cho cuộc sống. Có Chúa ta sẽ không còn khóc lóc u sầu. Có Chúa ta sẽ không còn cảnh chết chóc tang tóc. Có Chúa những việc ta làm mới có kết quả và không mai một với thời gian. “Người ta sẽ xây nhà và được ở, sẽ trồng nho và được ăn trái”.
Thánh Gio-an cho biết để được như vậy, ta cần có một đức tin vững vàng. Chúa Giêsu sẵn sàng chữa bệnh cho đứa con viên sĩ quan, miễn là ông tin. Chúa đòi hỏi một đức tin tuyệt đối. Tin chỉ vì tin chứ không phải vì thấy những dấu lạ điềm thiêng. Viên sĩ quan này có đức tin. Nên ông tin ngay lời Chúa. Khi Chúa nói: “Ông cứ về đi, con ông sống. Ông tin vào lời Chúa nói với mình và ra về”. Chưa nhìn thấy, chưa kiểm chứng, ông tin tưởng và ra về. Vì thế ông đã nhận được điều ông xin.
Đức tin đó là điều Chúa mong đợi. Đức tin làm nên vương quốc mới Chúa thiết lập. Tin vào Chúa. Vượt qua khỏi gắn bó và tin tưởng vào thế lực thế gian, vào những giá trị đời này. Để chỉ tin tưởng phó thác cho Chúa tất cả. Tin tuyệt đối. Tin không điều kiện, không kiểm chứng, không đòi bảo đảm nào.
Tin như thế là một cuộc vượt qua. Vượt qua những bám víu vào vật chất, thế lực đời này, để chỉ tin tưởng vào một mình Thiên Chúa. Đó là điều không dễ. Khi sống đức tin như thế, ta chiếu sáng đức tin giữa đời. Ta làm chứng về Chúa. Làm chứng về vương quốc Nước Trời. Nơi không còn khổ đau khóc lóc, không còn chết chóc, tang tóc. Chỉ có niềm hoan hỉ phấn khởi. Nơi mọi việc ta làm đều tồn tại và ta được hưởng thành quả do sức lao động làm ra.
Khi sông đức tin như thế, ta làm cho vương quốc Nước Trời lớn mạnh. Và kế hoạch của Chúa mau hoàn thành.
Suy Niệm 3: Chữa con một quan chức
Một thiếu nữ có giọng hát thiên phú, cô luyện giọng với một giáo sư âm nhạc tài ba, cô đã hát được những giai điệu tuyệt hảo. Thế nhưng khi trình diễn, cô vẫn thấy giọng hát của cô chưa được truyền cảm. Vị giáo sư âm nhạc giải thích cho cô: “Tôi đã dạy cô tất cả những gì tôi biết, nhưng cô còn thiếu một điều mà tôi không thể cung cấp cho cô được, điều đó đến từ cuộc sống: chỉ có kinh nghiệm của cuộc sống, chỉ có những điều làm tan vỡ cõi lòng mới làm cô hát với tất cả cảm xúc”.
Bước vào tuần 4 mùa chay, Giáo Hội mỗi lúc một tha thiết mời gọi chúng ta tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu để được xứng đáng chung phần vinh quang Phục Sinh của Ngài. Cuộc sống với những khổ đau mà chúng ta đang trải qua quả là một cuộc tử nạn dai dẳng. Là người kitô hữu, chúng ta được mời gọi sống lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống ấy. Sống lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu không có nghĩa là tự đày đọa mình vào cuộc sống khổ lụy. Đau khổ tự nó không phải là một giá trị để tìm kiếm. Sống lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu chính là mặc lấy tinh thần tin yêu phó thác của Ngài. Thất vọng, buông xuôi, nổi loạn, trách móc là cơn cám dỗ chung của mọi người. Chúa Giêsu có lẽ cũng không thoát khỏi những giờ phút thử thách ấy. Thế nhưng ý hướng duy nhất của Ngài lúc đó là niềm tín thác và tha thứ. Chỉ có thái độ như thế mới đem lại giá trị cho đau khổ và biến cuộc tử nạn của Ngài thành của lễ đẹp lòng Thiên Chúa.
Đó cũng chính là tâm tình mà Giáo Hội mời gọi chúng ta mặc lấy khi cho chúng ta nghe và Suy Niệm về lòng tin của viên bách quản Caphanaum. Dù chỉ là một người ngoại giáo, dù chưa một lần chứng kiến phép lạ nào của Chúa Giêsu, nhưng ông đã tìm đến để xin Ngài chữa lành cho đứa con của ông, hay đúng hơn là để xoa dịu nỗi đau khổ của người cha phải chứng kiến con mình quằn quại trong đau khổ.
Đau khổ là lửa thử niềm tin con người, đau khổ có thể đưa con người đến thất vọng, chối bỏ, và lộng ngôn, nhưng đau khổ cũng có thể là khởi điểm của tin yêu phó thác. Nguyện xin Đấng là đường, là sự thật và là sự sống củng cố niềm tin chúng ta giữa những đau khổ đè nặng trên thân xác và tâm hồn chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Ðức tin đưa tới phép lạ
Chúa Giêsu chữa lành con trai người quan chức tại Caphacnaum khi Ngài ở Giuđa về Galilê và thánh sử Gioan ghi rõ đây là phép lạ thứ hai Ngài thực hiện tại Cana. Phép lạ thứ nhất là hóa nước thành rượu vào giai đoạn đầu đời rao giảng công khai. Hóa nước thành rượu theo lời đề nghị của Ðức Maria, mẹ Ngài, để cứu vãn danh dự cho gia chủ tiệc cưới. Chữa lành người con một quan chức nhà vua, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đến vì mọi người và ở mọi tầng lớp xã hội. Ngài đã ra tay để mang lại hạnh phúc cho mọi người không cần biết họ là ai và điều kiện đón nhận phép lạ là đức tin. Ðức tin của con người cộng với ơn của Thiên Chúa tạo nên phép lạ.
Mỗi ngày sống hôm nay của chúng ta là sự lạ lùng Thiên Chúa thực hiện. Không nhận ra được sự lạ lùng ấy là vì chúng ta không có đức tin. Không có thì không phải Thiên Chúa không ban ơn đức tin cho chúng ta đâu mà là do chúng ta không muốn lãnh nhận ơn ấy vì sợ sệt, sợ phải sống theo Tin Mừng, sợ nên thánh, sợ phải sống tốt hơn. Chẳng hạn như sự kiện cha sở đề nghị chia sẻ Lời Chúa thì rút lui, tránh né. Nhưng quả thật là họ dự lễ chứ chưa dâng lễ. Ðã từ lâu họ quen cảnh linh mục chủ tế, công bố Tin Mừng và giảng trong khi họ mơ mơ màng màng với giấc ngủ chưa dứt, những suy nghĩ viễn vông. Nay phải tiếp cận Lời Chúa và để cho Lời Chúa soi dọi trong mọi ngõ ngách trong lòng họ, nhắc họ ra khỏi tình trạng ươn lười và khoán việc cho người khác thì họ thấy sợ. Không lạ lùng gì họ không thể và không bao giờ có thể chứng kiến được những kỳ diệu Thiên Chúa làm trong đời sống họ mỗi ngày.
Lời loan báo Tin Mừng cũng trở nên vô nghĩa ngay trong nhà thờ đông nghẹt người đến dự lễ chứ không dâng lễ. "Ông hãy về đi, con ông sống rồi", viên quan chức tin không đòi hỏi gì hơn. Vào trường hợp chúng ta, có lẽ chúng ta chần chờ để xin thêm một vài dấu chỉ nào đó chứng minh lời Chúa thật sự có kết quả. Ông về nghe tin con đã khỏe, ông hỏi giờ và nhận ra giờ đó Chúa đã chữa lành cho con ông. Có lẽ gia nhân không biết gì. Chuá vẫn thế, Ngài có những thực hiện kỳ diệu một cách rất bình thường, một câu nói đơn giản, quyền lực vượt không gian và thời gian để mang lại kết quả mong muốn miễn là chúng ta tin.
Lạy Chúa, chúng con có đạo nhưng hổ thẹn: Có người chỉ một lần nghe, gặp Chúa và tin ngay. Họ thấy được tình yêu thương họ, nhận ra được những hành động vì tình yêu thương Chúa. Còn chúng con tuần nào cũng gặp gỡ Chúa, mà chúng con đến với Chúa như cái xác không hồn của chúng con. Nguyện xin Ðấng là đường, là sự thật và là sự sống củng cố niềm tin chúng con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Giờ của Đức Giêsu
Đức Giêsu bảo: “Ông cứ về đi, con ông sống.” Ông tin vào lời Đức Giêsu nói với mình, và ra về. Ông còn đang đi xuống, thì gia nhân đã đón gặp và nói là con ông sống rồi. Ông hỏi họ con ông đã bắt đầu khá hơn vào giờ nào. Họ đáp: “Hôm qua, vào lúc một giờ trưa thì cậu hết sốt.” (Ga. 4, 50-52)
Một quan chức nhà vua có đứa con đau nặng, ông nghe tin Đức Giêsu đang ở trong miền gần đó. Ông tự nhủ: “Đây là lúc Người có thể chữa con mình”. Ông chỉ nghe theo niềm cậy trông của ông và ông tìm đến Người. Ông gặp Người, và khẩn khoản nài xin Người. Đức Giêsu kêu trách ông như mọi người chỉ muốn xin điềm lạ và những điều phi thường. Nhưng sự hất hủi đó không làm ông tủi hờn chút nào. Ông càng khẩn xin như không nghe thấy gì: “Lạy Ngài, xin xuống trước khi con tôi chết”. Đức Kitô cảm động và nói với ông: “Được rồi, ông cứ về đi, con ông sống đấy”.
Mừng như điên, lập tức ông tin lời Đức Giêsu, ông về như bay, và giữa đường ông gặp đầy tớ báo tin con ông đã khỏi. Ông hỏi: “Nó khỏi giờ nào?”. Họ đáp: “Lúc bảy giờ hôm qua”. Ông tự nhủ: “Đúng vào giờ Đức Giêsu nói với mình”. Đó là cú đánh ân huệ. Giờ ban ơn cứu chữa ông và cả gia đình ông. Giờ của Đức Giêsu. Giờ ban ơn trở lại. Giờ cứu độ.
Đối với người được đức tin, chính là giờ của Đức Giêsu. Người đến để cải tạo và làm cho họ trở thành dụng cụ bác ái đối với người lân cận. Biết đón nhận thánh ý Thiên Chúa và những đường lối quan phòng của Ngài trong mọi thứ thử thách như trong bệnh tật, đau khổ về gia đình như xé nát tâm can, trong xao xuyến lo âu về tương lai yêu quý, trong bấp bênh về đời sống kinh tế, đó là sống cái giờ của Đức Giêsu, và như Đức Giêsu đã chấp nhận với bao nỗi sầu khổ của thân phận làm người và chỉ mình Người mới có thể làm cho chúng ta cảm nghiệm sâu xa được mầu nhiệm khổ nạn khi vâng theo thánh ý Thiên Chúa như Người đã cảm nghiệm được suốt cuộc đời Người và nhất là lúc bị đóng đinh trên thập giá.
Giờ của Đức Giêsu, cũng chính là những cơ hội cho chúng ta được dịp an ủi, nâng đỡ, khuyến khích, soi sáng và đem bình an cho người khác. Vì mỗi lần chúng ta cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, kẻ đói rách ăn mặc, thăm hỏi kẻ tù đầy, an ủi kẻ tuyệt vọng, thì đó là chúng ta đã làm cho chính Chúa, Người đã nói trong Tin mừng như vậy.
G.F
Suy Niệm 6: Tin đến cùng
Trong toàn bộ Tin Mừng, chúng ta thấy những người có địa vị cao trong xã hội và tôn giáo đa số đều mắc phải thói tự kiêu, vì tự cho mình là người biết hết mọi chuyện, nên thường coi khinh anh em đồng loại! Nếu không bị chứng bệnh tự phụ trên thì cũng rơi vào tình trạng nghi ngờ về những chuyện phi thường...
Tuy nhiên, hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật một viên sĩ quan cao cấp của triều đình đã lặn lội cả mấy chục kilômét để đến gặp Đức Giêsu và xin Ngài chữa cho con ông được lành bệnh. Ông là một phó vương nơi cung triều, còn Đức Giêsu thì chỉ là người bình dân. Một hình ảnh trái ngược với giới lãnh đạo và thượng lưu thời bấy giờ!
Qua hành động của viên sĩ quan, chúng ta thấy được hai điều:
Trước hết, thái độ của ông quan này là khiêm tốn. Ông đã không để ý đến địa vị chức quyền, không nghĩ đến giai tầng trong xã hội, nhưng chỉ một lòng tin tưởng và phó thác nơi Đức Giêsu và sống trong niềm hy vọng được nhận lời.
Thứ hai, vị quan này rất kiên trì. Ông không thối trí nhụt lòng khi nghe thấy câu trách móc nặng nề của Đức Giêsu: "Các ông mà không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ chẳng tin đâu!". Nếu vị quan này mà kiêu ngạo, cố chấp hay tự trọng thái quá, có lẽ đã bỏ mà đi, đằng này, ông lại càng khẩn thiết hơn: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất!". Câu nói này thể hiện sự thành khẩn và niềm tin chân thành của viên sĩ quan.
Thế nên, từ xa, Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa cho con ông khi tuyên bố: “Con ông sống”. Thấy mọi sự diễn ra đúng thời gian mà Đức Giêsu tuyên bố con ông không chết, viên sĩ quan và cả gia đình ông đã tin vào Đức Giêsu.
Như vậy, câu chuyện Tin Mừng hôm nay nhắm vào niềm tin của viên sĩ quan.
Lúc đầu là một niềm tin và hy vọng về nhu cầu của mình. Dần dần biến thành tình yêu và kính phục khi nhu cầu được giải quyết cách nhiệm mầu. Cuối cùng, tình yêu đã hoàn toàn làm chủ và quy phục trong đức tin.
Đây cũng mẫu gương và là tiến trình trong đời sống của mỗi Kitô hữu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy vượt qua những tự hào thái quá để khiêm tốn như viên sĩ quan. Cần có một thái độ tin tưởng tuyệt đối nhưng chân thành và niềm hy vọng đầy tin yêu nơi Thiên Chúa như viên sĩ quan.
Lạy Chúa Giêsu, chỉ có đức tin trong lòng mến mới có thể giúp cho chúng con đến gần Chúa và tin tưởng vào Ngài mà thôi. Vì thế, xin Chúa ban cho chúng con có được đức tin chân thành để được hưởng ơn cứu độ của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Sĩ quan lương dân tin Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Những người đồng hương của Chúa chối bỏ và khinh bỉ Chúa, nhưng viên sĩ quan người lương dân đã tin Chúa. Chúa chờ ta đón nhận Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã không chọn cảnh giàu sang nơi cung vàng điện ngọc, Chúa đã không khư khư dành cho mình quyền uy của Đấng Tối Cao. Nhưng Chúa đã chọn sinh ra trong cung lòng của Đức Maria, cô thôn nữ quê mùa của làng Nazarét, và người cha nuôi của Chúa chỉ là bác thợ mộc bình thuờng. Chính vì thế, những người đồng hương của Chúa đã từ khước và xua đuổi Chúa, chối bỏ những lời hứa của Chúa Cha, đến nỗi Chúa đã từ bỏ quê hương để tìm đến miền Galilê của người lương dân để rao giảng Tin Mừng và trao ban hồng ân cứu độ. Và ở đó Chúa đã gặp được những người có lòng tin mạnh mẽ và chân thành.
Lạy Chúa, ngày nay con có cả kho khôn ngoan của Lời Chúa, có cả một kho tàng ân sủng các Bí tích để giúp con tiếp xúc và kết hiệp mật thiết với Chúa, có cả một lịch sử Giáo hội tông truyền, có cả một hàng giáo phẩm luôn hiện diện bên con để dạy dỗ bảo ban giúp con trung thành với Chúa. Nhưng con cũng không hơn gì người Nazarét, con vẫn chối bỏ Chúa bằng những dễ dãi trong cuộc sống, những đam mê vui thú lệch lạc, những lừa lọc trong giao tiếp thường ngày, những ghen tương ích kỷ. Như thế là con đã chối bỏ Chúa.
Lạy Chúa, xin thức tỉnh tâm hồn con, xin làm cho con biết đón nhận Chúa và hồng ân cứu độ của Chúa. Xin dạy con biết tìm gặp gỡ Chúa nơi Lời Hằng Sống, nơi các Bí Tích, nơi Giáo Hội. Xin giúp con nhìn thấy Chúa trong mọi người, qua mọi biến cố trong cuộc sống, để con dấn thân và cộng tác vào công trình cứu chuộc của Chúa. Xin Chúa ở lại với con mọi ngày cho đến khi Chúa lại đến. Amen.
Ghi nhớ: “Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi”.
Suy Niệm 8: Lòng tin vào Chúa Giêsu
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tàu đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà chẳng biết tàu nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ vé ra hỏi một người đứng kế bên:
- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?
- Phải đó bà.
Nhưng bà chưa an tâm. Biết đâu người ấy cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi:
- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?
- Phải đó bà.
Nhưng bà vẫn chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hỏa xa, bà hỏi:
- Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không?
- Phải, thưa bà.
Thế là bà an tâm bước lên tàu. Bà đã tin người đáng tin. Đức tin là thế!.
Suy Niệm
Một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt. Ông đã từ Capharnaum lên tận Galilêa để gặp Ðức Giêsu và xin Ngài thương chữa lành con ông. Ðức Giêsu chữa cho con một viên quan chức khỏi chết, vì ông đã tin vào Ngài. Sứ mạng của Ngài được sai đến để giải thoát con người khỏi khổ đau bệnh tật, chết chóc và tội lỗi. Nhưng với một điều kiện duy nhất đòi hỏi nơi chúng ta là lòng tin.
Ngoài việc chữa con viên quan do lòng tin của Tin Mừng đã thuật lại việc vĩ đại thành sự nơi đức tin: Khi người đàn bà bị băng huyết đến sờ vào gấu áo Chúa với niềm tin Chúa chữa lành, Chúa nói: “Này bà, cứ an tâm, đức tin của bà đã cứu chữa bà” (Mt 9,22). Ông trưởng hội đường có đứa con gái ốm nặng sắp chết, ông tin vào Chúa nhưng sau đó hơi chút hồ nghi vì gia nhân bảo con ông đã chết, Chúa nói: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), ông vững tin, và Người đã làm cho em bé gái sống lại. Khi những người mang đứa con trai bị bệnh kinh phong tới Chúa Giêsu và nói: “Thầy có thể làm được gì thì xin thương cứu giúp chúng tôi”, Ngài đáp: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Đối với một người tin, điều gì cũng có thể”... (Mc 9,23), và Chúa Giêsu cầm tay đứa bé, chữa lành. Tin rằng thầy Giêsu có thể chữa lành cho người anh em bất toại, nhưng không thể mang bệnh nhân vào trong nhà qua cửa được vì quá đông người, người ta phải dỡ mái nhà rồi thả bệnh nhân xuống trước mặt Chúa Giêsu. Nhìn vào thái độ và hành động của họ, Tin Mừng Luca nói: Thấy họ có lòng tin như thế, Chúa Giêsu bảo “Này anh, anh đã được tha tội rồi” (Lc 5,20) và chữa lành cho anh. Người đàn bà thành Canaan xin Chúa chữa con bà khỏi bị quỷ ám (Mt 15,21-28), chính đức tin sống động, mãnh liệt này đã làm cho Chúa phải thốt lên: “Này bà, đức tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì được vậy” (Mt 15,28). Viên sĩ quan xin Chúa chữa người đầy tớ của ông khi tuyên xưng niềm tin mạnh mẽ vào Ngài (Mt 8,5-13). Và Đức Kitô đã khen: “Ta chưa hề thấy ai trong Israel có được đức tin mạnh như thế” (Mt 8,10), ông được toại nguyện. Đức tin của Matta mà Chúa đã thấy rõ nơi cô, Ngài đã thực hiện một phép lạ lớn lao: cho Ladarô sống lại (Ga 11,26-27).
Xin củng cố niềm tin của chúng con, để khi đã được chữa lành, được Chúa tái sinh, cuộc đời chúng con trở nên dấu chỉ sống động cho tình thương và sự hiện diện của Chúa.
Ý lực sống: “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1)
Suy Niệm 9: Chữa người con của một sĩ quan
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau khi tự mạc khải là Đấng Cứu Thế cho người phụ nữ Samaria ở giếng Giacóp, Đức Giêsu đi đến Galilê. Ở đây Ngài bắt đầu thực hiện điều mà Isaia tiên báo. Ngay cả một người ngoại như viên sĩ quan triều đình cũng được hưởng hạnh phúc ấy: con trai ông sắp chết nhưng được Chúa cho sống lại. Lý do là vì ông đã tin, một đức tin mạnh đến nỗi ông tin lời Chúa ra về trước khi thấy Ngài chữa bệnh cho con ông. Ông tin chỉ vỉ nghe mặc dù chưa thấy.
2. Tin Mừng theo thánh Gioan trình bầy hai cấp độ tin: tin vì thấy và tin chỉ vì nghe. Đức Giêsu muốn người ta tin ở mức độ thứ hai. Chính các Tông đồ mãi tới lúc Đức Giêsu sống lại mới đạt tới đức tin như thế khi Tôma tuyên xưng đức tin mà không còn đòi xỏ ngón tay vào các vết thương của Chúa nữa. Khi đó Chúa nói: “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”. Trong bài Tin Mừng này, lúc đầu Chúa cũng nói “Nếu các ông không trông thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin. Phần chúng ta, đức tin của chúng ta đang ở cấp độ nào? Chúng ta có tin nhiều điều Chúa nói nhưng chúng ta chưa thấy hoặc chưa có dịp kiểm chứng không, chẳng hạn: Chúa rất thương ta, Chúa đang sống bên cạnh ta, Chúa sẽ nâng đỡ ta trong những lúc gian truân, hãy hoàn toàn phó thác vào Ngài vì Ngài sẽ che chở ta...?
3. Viên sĩ quan này làm việc tại triều đình vua Hêrôđê và gia đình ngụ tại Capharnaum. Chắc chắn những công việc Đức Giêsu làm đã đồn thổi đến tai ông nên ông đích thân đến xin Chúa chữa cho con ông đang thập tử nhất sinh.
Rất có thể ông đi mời Chúa như đi mời một thầy lang, một bác sĩ, nhưng dù sao thì cũng chứng tỏ ông đã tin vào quyền phép của Chúa, vì nếu không tin thì ông đến gặp Chúa để làm gì. Như vậy, chúng ta có thể chắc chắn viên sĩ quan này đã tin Chúa có thể chữa bệnh nhưng chưa tin Chúa có thể làm phép lạ từ xa, nên ông năn nỉ cho bằng được Chúa đến nhà ông.
Nhưng khi nghe Chúa bảo: “Ông cứ về đi, con ông sống”. Ông tin vào lời Đức Giêsu nói với mình. Ông ra về. Nhưng trên đường về người nhà báo cho ông biết con ông đã khỏe rồi. Do đó ông và cả nhà đều tin vào Chúa.
4. Một niềm tin đích thực không cần nhìn thấy tỏ tường, vì như thế không còn là tin nữa, mà là bất đắc dĩ chấp nhận một chuyện đã xẩy ra rồi. Đức Giêsu đã khẳng định điều đó sau lời cầu xin của vị sĩ quan đến xin Ngài chữa lành cho con trai mình.
Xét về thế giá và địa vị, viên sĩ quan này có quyền lực về mặt chính trị, ông có quyền bắt, trục xuất hoặc ngăn cấm Đức Giêsu truyền đạo, ông sẽ tin tưởng vào quyền lợi vật chất và khoa học hơn là niềm tin. Thế nhưng, ông nhận ra con người Đức Giêsu không đơn thuần là một thầy dạy như các luật sĩ, mà là một vị tiên tri của Thiên Chúa, ông đã hạ mình đến cầu xin Ngài. Lại nữa, vì tấm lòng của một người cha thương con bệnh tật, ông không ngại vượt qua rào cản của ý thức hệ và chính trị, để chạy đến với Đức Giêsu.
Nhưng hơn hết, ông tin vì nghe lời Chúa bảo: “Ông về đi, con ông sống”, chứ ông không đòi dấu lạ rõ ràng, nên niềm tin đó đã chữa lành cho con ông (theo Hiền Lâm).
5. Bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta: ông sĩ quan đến xin Đức Giêsu chữa bệnh cho con ông như đến xin một lòng tin. Việc đứa con ông được Chúa chữa khỏi bệnh từ xa đã tăng thêm lòng tin cho ông và lòng tin đã lan ra cả gia đình ông.
Chúng ta cũng vậy, chúng ta phải làm sao cho đức tin của chúng ta được thêm vững mạnh hơn sau một biến cố nào đó, không nhất thiết là phải được ơn, được phép lạ như ông sĩ quan hôm nay, nhưng ngay cả những lúc gặp gian nan thử thách, chúng ta càng tin tưởng vào Chúa hơn và làm cho những người chung quanh, nhất là những người trong gia đình, tăng thêm lòng tin vào Chúa.
6. Truyện: Cần tin người đáng tin.
Một bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tầu đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà chẳng biết tầu nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ vé ra hỏi một người đứng kề bên:
- Tôi định đi Bay City, có phải đi tầu này không?
- Phải đó bà.
Nhưng bà chưa an tâm. Biết đâu người ấy cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng hỏi:
- Tôi định di Bay City, có phải đi tầu này không?
- Phải đó bà.
Nhưng bà vẫn chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hỏa xa, bà hỏi:
- Tôi định đi Bay City, có phải đi tầu này không?
- Phải, thưa bà.
Thế là bà an tâm bước lên tầu. Bà đã tin người đáng tin.
Đức tin là thế!
Suy Niệm 10: Đức tin mạnh mẽ
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc: Tiên Tri Isaia phác họa một bức tranh hạnh phúc thời Messia: “Này Ta tái tạo trời mới đất mới… Từ đây người ta sẽ không còn nghe tiếng khóc và than vãn nữa … sẽ không còn trẻ nhỏ chết yểu, không còn người già chết sớm nữa…”. Dĩ nhiên ta không nên hiểu những hình ảnh này theo nghĩa đen. Chúng chỉ đến hạnh phúc được tham gia sự sống thần linh của Thiên Chúa.
2. Phúc Âm: Chúa Giêsu bắt đầu thực hiện điều mà Tiên Tri Isaia tiên báo. Ngay cả người ngoại đạo như viên sĩ quan triều đình cũng được hưởng hạnh phúc ấy: con trai ông sắp chết nhưng được Chúa cho sống lại. Lý do là vì ông đã tin, một đức tin mạnh đến nổi ông vâng lời Chúa ra về trước khi thấy Ngài chữa bệnh cho con ông. Ông chỉ tin vì nghe mặc dù chưa thấy.
B- Suy gẫm (... Nẩy mầm)
1. Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan hôm nay trình bày hai cấp độ tin: tin vì thấy và tin vì nghe. Chúa Giêsu muốn người ta tin ở mức độ thứ hai. Chính các tông đồ mãi tới khi Chúa Giêsu sống lại mới đạt tới đức tin như thế khi Tôma tuyên xưng đức tin mà không còn đòi xỏ ngón tay vào các vết thương của Chúa nữa. Khi đó Chúa nói: ”Phúc cho kẻ không thấy mà tin”. Trong bài Phúc Âm này, lúc đầu Chúa Giêsu cũng nói ”Nếu các ông không thấy các phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin”. Phần tôi, đức tin của tôi đang ở cấp độ nào? Tôi có tin nhiều điều Chúa nói nhưng tôi chưa thấy hay chưa có dịp kiểm chứng, chẳng hạn: Chúa rất thương tôi, Chúa đang sống bên cạnh tôi, Chúa sẽ nâng đỡ tôi trong những lúc gian truân, hãy hoàn toàn phó thác vào Ngài vì Ngài sẽ che chở tôi …?
2. Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhung may thay ông bám được một cánh cây nằn chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: ”Lạy Chúa”. Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: ”Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa”. Sau một hồi lặng thinh, bỗng người vô thần nghe thấy một tiếng vang dây cả vực thẳm và núi cao: ”Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế”. ”Không, Lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con bắt đầu tin từ khi nghe thấy tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất”. Tiếng ấy trả lời: ”Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy ngươi tin thì hãy buông tay ra”. Người vô thần thất vọng hô lên: ”Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao?” (Trích ”Món quà Giáng Sinh”).
3. Một câu thường được lặp đi lặp lại trong Phúc Âm Gioan, đó là “tin để sống”. Chúa Giêsu thường kêu gọi người ta tin, bởi vì Ngài muốn cho người ta sống. Ngài đến để cho người ta sống và sống dồi dào. Tin vào lời Ngài chính là lời ban sự sống ấy.
4. Trong vườn, một gốc nho héo úa giữa bao cây xanh tươi mơn mởn. Tưới bao nhiêu phân cũng chẳng thấy khá hơn. Cuối cùng, người chủ đào gốc lên xem, thì thấy có miếng gỗ nằn chắn ngang gốc nho.
Có lẽ đời ta cũng vậy. Nếu không đâm rễ sâu vào lòng đất là Lời Chúa, đời ta cũng sẽ uá tàn.
5. Sự sống thần linh quan trọng hơn sự sống thân xác. tôi có quan tâm sự sống thần linh ấy trong tôi không? Ta múc lấy sự sống thần linh ấy khi đến với Chúa, khi cầu nguyện, khi rước lễ…
6. Một bà đạo đức áy náy vì một vài tật xấu bà đã cố gắng hết sức mà vẫn không chừa được. Bèn đến than thở với Cha linh hướng. Ngài nói: ”Con có để ý thấy không, vào mùa đông, lá sồi rụng nhiều, nhưng vẫn còn vài chiếc. Gió đông thổi mạnh nhưng vẫn không làm chúng rụng xuống. Nhưng khi mùa xuân đến, chúng tự động rụng, nhường chỗ cho những lá non nảy lộc. Vậy cái gì làm cho chúng rơi rụng? Thưa đó là sự sống mới lưu chuyển trong thân cây. Với chúng ta cũng vậy. Khi sự sống mới của Đức Kitô nảy nở trong đời sống, ta sẽ mau thăng tiến trên con đường đạo đức”. (Góp nhặt).
Suy Niệm 11: Tin vì nghe
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Theo Thánh Gioan, trong Tin Mừng của Ngài thì tin có hai cấp độ: tin vì thấy và tin vì nghe. Chúa Giêsu muốn người ta tin ở mức độ thứ hai.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, lúc đầu Chúa cũng nói “Nếu các ông không thấy các phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin” (Ga 4,48).
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao mình không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là ông ta lấy hết sức lực la thật lớn: - Lạy Chúa.
Tuy nhiên, bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn:
- Lạy Chúa, nếu quả thật có Chúa, xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa nữa.
Sau một hồi lặng thinh, bỗng người vô thần nghe thấy một tiếng vang, vang dậy cả vực thẳm và núi cao:
- Gặp hoạn nạn thì ai mà chẳng cầu xin như thế.
- Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con bắt đầu tin từ khi nghe thấy tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất.
Tiếng ấy trả lời:
- Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra đi.
Người vô thần thất vọng hô lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao?” (Trích “Món Quà Giáng Sinh”).
2. Một câu thường được lập đi lập lại trong Tin Mừng Gioan, đó là “tin để sống”. Chúa Giêsu thường kêu gọi người ta tin, bởi vì Ngài muốn cho người ta sống. Ngài đến để cho người ta sống và sống dồi dào.
Một vị Linh mục được mời đến bên giường của một cụ già đang hấp hối.
Khi vị linh mục sắp sửa ngồi xuống trên chiếc ghế bành đặt cạnh giường của cụ, thì cụ già ngăn cản lại: - Xin cha vui lòng đừng ngồi vào đó!
Vị linh mục bèn lấy một cái ghế đẩu, ngồi xuống cho kẻ liệt xưng tội và nhận của ăn đàng.
Sau đó cụ già cố gắng lấy lại một chút hơi hụt sức tàn và nói:
- Hãy để con kể lại lịch sử chiếc ghế bành này cho cha nghe. Cách đây 50 năm, khi con còn là một thanh niên, vị linh mục quản xứ của con có lần hỏi con có thuộc các kinh để cầu nguyện không. Con đáp: “Không, nếu con hét to đến nỗi có thể bể cả buồng phổi thì một kẻ đứng ở tầng lầu 3 cũng không nghe con được, vậy thì làm sao Thiên Chúa có thể nghe con từ Trời được?”
Cha trả lời cách nhẹ nhàng:
- Con đừng thử cố gắng cầu nguyện. Mỗi sáng con hãy ngồi tự nhiên trên một cái ghế bành và hãy tưởng tượng như Đức Giêsu Kitô đang ngồi đối diện với con trên một cái ghế bành khác như Ngài đã từng ngồi trong bao căn nhà ở Palestine… lúc đó con sẽ nói gì với Ngài?
Con trả lời:
- Con sẽ nói thẳng rằng, con không tin Ngài.
- Được, vị linh mục già trả lời, ắt là điều đó đã nói lên một cái gì đang có thật trong trí của con rồi. Con có thể đi xa hơn nữa và thách thức nhiều hơn nữa! Nếu Ngài hiện hữu thì tại sao lại không minh chứng điều đó cho con? Hoặc là nếu con không thích cách Thiên Chúa quản trị thế giới, tại sao con không nói với Ngài điều này? Con không phải là người đầu tiên than trách Ngài đâu. Vua Đavid và ông Gióp đã có lần nói với Chúa là Ngài bất công rồi. Có thể con ao ước cái gì? Con cứ nói lên điều đó. Nếu Ngài ban cho con, con cám ơn Ngài. Tất cả những trao đổi này là đối tượng của lời cầu nguyện. Con đừng đọc thuộc lòng một cách máy móc những câu kinh như nhiều người vẫn làm! Hãy nói những gì thực sự của lòng con.
Cụ già hấp hối nói tiếp:
- Lúc đó, quả thực con không tin vào Đức Kitô, nhưng con tin vào vị linh mục già kia. Để làm hài lòng ngài, con đã ngồi trên một cái ghế bành này và làm như thấy Đức Kitô đang ngồi đối diện với con. Trong vài ngày đầu, điều đó có vẻ như trò chơi. Nhưng dần dần con cảm thấy Ngài ở đó. Con nói với Ngài về những chuyện hiện thực. Con xin Ngài một lời khuyên và con nhận được. Cầu nguyện đã trở thành đối thoại. 50 năm trôi qua và mỗi ngày con nói chuyện với Đức Kitô ngồi trong chiếc ghế bành này!
Vị linh mục còn ở đó cho đến khi cụ già này thở hơi cuối cùng, và cử chỉ sau hết của cụ là đưa bàn tay hướng người bạn vô hình đang ngồi trên chiếc ghế bành trước mặt.
Vâng, tin là như thế! Phúc cho những ai không thấy mà tin. Không thấy nhưng vẫn tin. Đó mới là đức tin Chúa mong muốn nơi mỗi người chúng ta.
- 27/03 Người Cha nhân hậu
- 26/03 Cầu nguyện trong sám hối
- 25/03 Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai
- 24/03 hận ra sự hiện diện và tác động của Chúa
- 23/03 Chu toàn lề luật
- 22/03 Tha thứ bắt chước Thiên Chúa Cha
- 21/03 Đời sống đức tin thật
- 20/03 Nếu không ăn năn hối cải
- 18/03 Dụ Ngôn Tá Điền Vườn Nho.
- 17/03 Người giầu có và Ladarô